BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
LƯƠNG TÌNH
NGHIÊN CỨU CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUYẾT ĐỊNH ÁP DỤNG TIÊU CHUẨN VIETGAP TRONG SẢN XUẤT RAU CỦA NÔNG HỘ TẠI HAI ĐỊA PHƯƠNG QUẢNG NAM VÀ ĐÀ NẴNG
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
ĐÀ NẴNG – 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
LƯƠNG TÌNH
NGHIÊN CỨU CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUYẾT ĐỊNH ÁP DỤNG TIÊU CHUẨN VIETGAP TRONG SẢN XUẤT RAU CỦA NÔNG HỘ TẠI HAI ĐỊA PHƯƠNG QUẢNG NAM VÀ ĐÀ NẴNG
Chuyên ngành: Kinh tế phát triển
Mã Số: 62.31.01.05
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học:
1. TS. Đoàn Gia Dũng
2. PGS.TS. Bùi Quang Bình
ĐÀ NẴNG – 2018
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Kết quả trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu nào.
Đà Nẵng ngày 30 tháng 10 năm 2018
Tác giả
Lương Tình
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ....................................................................................................... i
MỤC LỤC .................................................................................................................. ii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT .................................................................................... v
DANH MỤC CÁC BẢNG ....................................................................................... vi
DANH MỤC CÁC HÌNH ....................................................................................... vii
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Lý do lựa chọn đề tài ...................................................................................... 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ..................................................................... 3
3. Mục tiêu nghiên cứu ....................................................................................... 6
4. Câu hỏi nghiên cứu ......................................................................................... 6
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................. 7
6. Phương pháp nghiên cứu: ............................................................................... 8
7. Những đóng góp mới của luận án ................................................................... 9
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYẾT ĐỊNH ÁP DỤNG ĐỔI MỚI
CÔNG NGHỆ TRONG NÔNG NGHIỆP CỦA NÔNG HỘ .............................. 11
1.1. Một số khái niệm liên quan ........................................................................ 11
1.1.1. Công nghệ .......................................................................................... 11
1.1.2. Đổi mới công nghệ ............................................................................ 11
1.1.3. VietGAP ............................................................................................. 13
1.1.4. Nông hộ ............................................................................................. 14
1.1.5. Nông dân ........................................................................................... 15
1.1.6. Quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP .......................................... 15
1.1.7. Vai trò của sản xuất rau theo tiêu chuẩn VietGAP ........................... 16
1.2. Các lý thuyết nền tảng cho nghiên cứu quyết định áp dụng đổi mới
công nghệ trong nông nghiệp của nông dân ..................................................... 17
1.2.1. Thuyết lợi ích kỳ vọng (Expected Utility Theory - EUT) ................. 17
1.2.2. Thuyết hành động hợp lý ( Theory of Reasoned Aciton - TRA) ...... 18
iii
1.2.3. Thuyết hành vi dự định (Theory of Planned Behavior - TPB) ......... 19
1.2.4. Thuyết khuếch tán đổi mới (Innovation Diffusion theorey -
IDT) 21
1.3. Khung phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định áp dụng đổi
mới công nghệ trong nông nghiệp của nông dân .............................................. 23
1.4. Mô hình đề xuất nghiên cứu ....................................................................... 35
CHƯƠNG 2: THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU ............................................................ 40
2.1. Giới thiệu địa bàn nghiên cứu .................................................................... 40
2.2. Tình hình sản xuất rau theo tiêu chuẩn VietGAP của nông hộ tại
thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam ........................................................... 42
2.2.1. Tình hình sản xuất rau theo tiêu chuẩn VietGAP trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam .................................................... 42
2.2.2. Tình hình áp dụng các tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau
của nông hộ tại thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam ............................ 47
2.3. Thiết kế nghiên cứu .................................................................................... 50
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ PHÂN TÍCH VÀ THẢO LUẬN ................................. 75
3.1. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định áp dụng tiêu chuẩn
VietGAP trong sản xuất rau của nông hộ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam và
thành phố Đà Nẵng thông qua phỏng vấn sâu .................................................. 75
3.1.1. Thống kê mô tả .................................................................................. 75
3.1.2. Kết quả nghiên cứu thông qua phỏng vấn sâu .................................. 75
3.2. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định áp dụng tiêu chuẩn
VietGAP trong sản xuất rau của nông hộ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam và
thành phố Đà Nẵng qua nghiên cứu định lượng ............................................... 87
3.2.1. Thống kê mô tả .................................................................................. 87
3.2.2. Kết quả nghiên cứu định lượng ......................................................... 89
3.2.2.1. Kiểm định Cronbach’s Alpha ......................................................... 89
3.2.2.2. Phân tích nhân tố khám phá (EFA) ........................................... 93
iv
3.2.2.3. Kiểm định thang đo bằng phương pháp phân tích nhân tố
khẳng định (CFA) .................................................................................. 96
3.2.2.4. Kiểm định mô hình nghiên cứu bằng phương pháp cấu trúc
tuyến tính (SEM) .................................................................................... 99
3.2.2.5. Phân tích cấu trúc đa nhóm ..................................................... 104
3.2.2.6. Bàn luận kết quả hồi quy ......................................................... 107
CHƯƠNG 4: MỘT SỐ HÀM Ý CHÍNH SÁCH ................................................ 112
4.1. Một số hàm ý đối với các hộ nông dân .................................................... 112
4.2. Một số chính sách đối với các cơ quan hữu quan ................................... 113
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 118
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
v
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ASEAN : Association of South East Asian Nations
CFA : Confirmatory Factor Analysis
EUT : Expected Utility Theory
: Exploratory Factor Analysis EFA
: Innovation Diffusion theorey IDT
SEM : Structural Equation Analysis
: Theory of Planned Behaviour TPB
: Thoery of Reasoned Action TRA
VietGAP : Vietnamese Good Agricultural Practices
vi
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Diện tích sản xuất của các vùng rau an toàn trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng tính đến năm 2016 ........................................................................... 43
Bảng 2.2. Các vùng đạt yêu cầu và tiêu chí để phát triển rau theo hướng
VietGAP tại tỉnh Quảng Nam ................................................................... 44
Bảng 2.3. Tổng hợp khái niệm và cách thức đo lường ............................................. 68
Bảng 3.1. Cronbach’s Alpha của các khái niệm nghiên cứu .................................... 90
Bảng 3.2. Kết quả phân tích EFA các thang đo các khái niệm nghiên cứu .............. 95
Bảng 3.3. Kết quả kiểm định độ tin cậy của các thang đo ........................................ 99
Bảng 3.4 Kết quả kiểm định mối quan hệ nhân quả giữa các khái niệm trong
mô hình lý thuyết chính thức .................................................................. 100
Bảng 3.5. Kết quả kiểm định mối quan hệ nhân quả giữa các khái niệm trong
mô hình lý thuyết chính thức (sau khi đã loại biến DM)........................ 102
Bảng 3.6. Kết quả ước lượng bootstrap so với ước lượng ML ............................... 103
Bảng 3.7. Kiểm định giả thuyết phụ về sự khác biệt theo địa điểm ....................... 104
Bảng 3.8. Kiểm định giả thuyết phụ về sự khác biệt theo giới tính ........................ 105
Bảng 3.9. Kiểm định giả thuyết phụ về sự khác biệt theo tuổi ............................... 107
vii
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1. Mô hình lý thuyết hành động hợp lý (TRA) ......................................................... 19
Hình 1.2. Mô hình thuyết hành vi dự định (TPB) ................................................................. 21
Hình 1.3. Mô hình tuyến tính thể hiện sự khuếch tán ........................................................... 22
Hình 1.4. Mô hình phi tuyến về sự lĩnh hội các sáng kiến trong nông nghiệp ............................ 22
Hình 1.5. Mô hình đề xuất nghiên cứu ................................................................................. 38
Hình 2.1. Dụng cụ sản xuất của hộ dân ở Hưng Mỹ ............................................................ 41
Hình 2.2. Máy cày của hộ dân ở vùng rau La Hường ........................................................... 42
Hình 2.3: Quy trình nghiên cứu ............................................................................................ 50
Hình 2.4. Mô hình đề xuất nghiên cứu ................................................................................. 51
Hình 2.5: Nhập dữ liệu bên trong (phỏng vấn) vào dự án Nvivo 8.0 ................................... 57
Hình 2.6: Nhập dữ liệu bên ngoài vào dự án Nvivo 8.0 ....................................................... 58
Hình 2.7: Đặt tên cho các nodes ........................................................................................... 59
Hình 2.8: Truy vấn dữ liệu .................................................................................................... 60
Hình 3.1: Mô hình lý thuyết các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định áp dụng tiêu chuẩn
VietGAP trong sản xuất rau của nông hộ tại hai địa phương Quảng Nam và
Đà Nẵng ................................................................................................................ 87
Hình 3.2. CFA lần 1 .............................................................................................................. 97
Hình 3.3. CFA đã móc các phần dư ...................................................................................... 98
Hình 3.4. Kết quả SEM mô hình lý thuyết ......................................................................... 100
Hình 3.5. Kết quả SEM loại bỏ DM ................................................................................... 101
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Nghiên cứu về quyết định áp dụng đổi mới công nghệ trong nông nghiệp đã
nhận được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học từ các chuyên ngành khác nhau.
Khởi đầu cho nghiên cứu về chủ đề này là thuyết lợi ích kỳ vọng được khởi xướng
bởi Bernoulli (1738) dựa trên nền tảng so sánh lợi ích và rủi ro của người nông dân
khi quyết định áp dụng đổi mới, tiếp đến là các thuyết tiếp cận dưới góc độ tâm lý,
hành vi của người nông dân như thuyết khuếch tán đổi mới của Roger (1962),
thuyết hành vi dự định của Ajzen (1991). Chưa dừng lại ở góc độ lý thuyết, chuỗi
các bằng chứng thực nghiệm sau đó đã chứng minh khả năng ứng dụng các lý
thuyết này trong thực tiễn. Có những nghiên cứu tiếp cận dưới góc độ tâm lý chỉ ra
rằng thái độ, các quy phạm xã hội và nhận thức kiểm soát hành vi là các yếu tố quan
trọng nhất tác động đến quyết định áp dụng đổi mới công nghệ của nông dân
(Läpple và Kelley, 2013); (Wauters và cộng sự, 2013). Trong khi đó, các nghiên
cứu sử dụng thuyết lợi ích kỳ vọng cho rằng nhận thức của người nông dân về lợi
ích và rủi ro của đổi mới ảnh hưởng đến việc quyết định áp dụng và các rủi ro về
kinh tế đóng vai trò quan trọng (Ghadim và cộng sự, 2005). Tuy nhiên, việc quyết
định áp dụng đổi mới công nghệ trong nông nghiệp không chỉ chịu tác động từ các
yếu tố tâm lý mà cả các yếu tố kinh tế, xã hội và văn hóa. Bergevoet và cộng sự
(2004) cho rằng những mô hình kinh tế là chưa đủ để giải thích được toàn bộ sự
phức tạp trong các quyết định của người nông dân, vốn thường bị chi phối bởi cả
hai mục tiêu kinh tế và phi kinh tế. Chính vì thế, hầu hết các mô hình lý thuyết và
thực nghiệm lâu nay có khuynh hướng trình bày lí giải các quyết định áp dụng đổi
mới công nghệ qua cách nhìn của riêng một ngành nào đó kể trên (Pannell và cộng
sự, 2006). Vì vậy, việc nghiên cứu để nhằm kiểm chứng các lý thuyết về quyết định
áp dụng đổi mới công nghệ trong nông nghiệp của nông dân cho một nước nông
nghiệp đang phát triển như Việt Nam là một chủ đề mang tính cấp thiết.
2
Rau là một thành phần không thể thiếu trong bữa ăn gia đình và rau an toàn
đang là một nhu cầu bức thiết hiện nay. Để đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng
năm 2006, ASEAN đã công bố quy trình GAP cho các nước thành viên. Quy trình
VietGAP được bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cùng Bộ Khoa học và
Công nghệ ban hành theo quyết định số 379/QĐ-BNN-KHCN ngày 28 tháng 01
năm 2008 là một công nghệ trong nông nghiệp gồm các quy tắc, phương pháp, quy
trình thực hành nông nghiệp tốt cho rau, quả. Mặc dù, mới được triển khai áp dụng
quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP nhưng ở một số địa phương như Tiền
Giang, Long An, Bà Rịa Vũng Tàu, Binh Thuận, Thừa Thiên Huế bước đầu đã
mang lại hiệu quả kinh tế cao (Hà và Phụng, 2017). Trong đó hai địa phương Quảng
Nam và Đà Nẵng đã có những động thái đi đầu trong việc triển khai áp dụng quy
trình VietGAP, nhiều quyết định đã được phê duyệt, nhiều chương trình hội thảo
được tổ chức điển hình như: “Diễn đàn đầu tư Quảng Nam hướng tới tăng trưởng
xanh”, được tổ chức tại Hội An tháng 6/2013; Hội Thảo “Tăng trưởng xanh khu vực
miền Trung Tây Nguyên: Thực tiễn và những vấn đề đặt ra”, được tổ chức tại Viện
khọc xã hội vùng Trung Bộ tháng 11/2014. Trên thực tế mô hình VietGAP đã giúp
thay đổi nhận thức của nhiều hộ nông dân về hướng sản xuất sản phẩm sạch, an
toàn đảm bảo sức khỏe cho cả người tiêu dùng và người sản xuất như: sản xuất dưa
hấu VietGAP tại huyện Phú Ninh, nuôi cá VietGAP tại xã Đại Chánh huyện Đại
Lộc và sản xuất rau an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP tại huyện Duy Xuyên; Thăng
Bình; Hòa Vang và Cẩm Lệ. Tuy vậy, sản xuất rau an toàn theo tiêu chuẩn
VietGAP những năm gần đây chưa được nhân rộng. Bởi nhận thức còn hạn chế của
hộ nông dân về VietGAP; Thiếu nhu cầu thị trường cho sản phẩm rau được chứng
nhận VietGAP, hay những rủi ro liên quan đến việc phá vỡ hợp đồng không chính
thức giữa người buôn với nông dân (Hoang, 2018); đất sản xuất phân tán, manh
mún; thiếu quy hoạch và định hướng của chính quyền địa phương để hình thành các
vùng sản xuất chuyên canh rau VietGAP với quy mô lớn (Thuận, 2010); (Vũ và
cộng sự, 2016) .
3
Những nghiên cứu trên đây đã góp phần nâng cao nhận thức của nhà hoạch
định, cộng đồng doanh nghiệp, các nông hộ về phát triển rau theo tiêu chuẩn
VietGAP. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có nghiên cứu nào đi sâu tiếp cận từ góc độ
động cơ, tâm lý, nhận thức ảnh hưởng đến quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP
của nông dân. Hơn nữa, đa số các nghiên cứu trước đây sử dụng phương pháp định
tính và mới chỉ dừng lại ở việc phỏng vấn chuyên gia để xây dựng, đề xuất thang
đo. Tác giả tin rằng việc thực hiện nghiên cứu để tìm kiếm các nhân tố ảnh hưởng
đến quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của nông dân bằng
việc sử dụng bộ số liệu điều tra và ứng dụng các phương pháp ước lượng mới sẽ bổ
sung thêm bằng chứng khoa học thực nghiệm về quyết định áp dụng đổi mới công
nghệ trong nông nghiệp của nông dân.
Chính vì vậy, việc lựa chọn đề tài: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến
quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của nông hộ tại hai
địa phương Quảng Nam và Đà Nẵng” là thật sự cấp thiết trên cả phương diện lý
thuyết và thực tiễn.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Quyết định áp dụng đổi mới công nghệ trong nông nghiệp đã nhận được sự
quan tâm của nhiều nhà khoa học từ nhiều chuyên ngành khác nhau cả mặt lý thuyết
lẫn thực nghiệm. Tuy nhiên, chưa có sự thống nhất giữa các nghiên cứu. Nhìn
chung, có thể nhóm các công trình học thuật này theo các hướng sau:
Cách tiếp cận dựa trên thuyết lợi ích kỳ vọng - Expected Utility Theory (EUT)
được khởi xướng bởi Bernoulli (1738) cho rằng nông dân so sánh công nghệ mới
với công nghệ truyền thống và áp dụng nếu độ thỏa dụng kì vọng của công nghệ
mới cao hơn độ thỏa dụng kì vọng của công nghệ truyền thống. Đại diện cho cách
tiếp cận này có các nghiên cứu của Batz và cộng sự (1999), Baidu-Forson (1999),
Ghadim và cộng sự (2005) …Tuy nhiên, các nghiên cứu về việc quyết định áp dụng
đổi mới của nông dân dựa trên thuyết EUT chỉ xem xét tác động bởi việc nhận thức
tối đa hóa lợi ích kì vọng, mà không xem xét vai trò của các yếu tố động cơ, thái độ,
các tiêu chuẩn của cá nhân người nông dân khi quyết định áp dụng đổi mới.
4
Cách tiếp cận dựa trên các thuyết tâm lí xã như thuyết Hành động hợp lý,
hành vi dự định đều cho rằng thái độ, chuẩn mực xã hội, kiểm soát hành vi là các
nhân tố quan trọng trong việc lý giải các quyết định của nông dân. Một số nghiên
cứu điển hình theo trường phái này có: Bergevoet và cộng sự (2004); Läpple, D., và
Kelley (2013); Wauters và Mathij (2013); Bijttebier và cộng sự (2014). Tuy nhiên,
các nghiên cứu sử dụng thuyết hành vi dự định lại không xem xét vai trò của giao
tiếp đến từ bạn bè, truyền hình hay cán bộ khuyến nông. Trong khi đó, các nghiên
cứu sử dụng thuyết khuếch tán đổi mới lại đi sâu tìm hiểu tác động của việc giao
tiếp đối với quyết định áp dụng đổi mới của nông dân, như Makokha và cộng sự
(1999) đã sử dụng thuyết khuếch tán đổi mới của Roger xác nhận rằng các đặc tính
của người nông dân như: mức độ tham gia và hoạt động trong các dịp tranh luận tập
thể, mức độ tham dự tập huấn, giao lưu tại các hội thảo chuyên đề và vai trò của
lãnh đạo có ảnh hưởng nhưng không đáng kể đến nhận thức cũng như quyết định
tiếp thu sáng kiến của người nông dân. Tần suất tiếp xúc giữa người nông dân và
bên khuyến nông có ảnh hưởng tích cực đến quyết định áp dụng các giống ngô,
giống mỳ mới của nông dân ở vùng Tigray, Ethiopia được tìm thấy bởi
Gebremariam (2001). Tuy nhiên, các nghiên cứu áp dụng thuyết khuếch tán đổi
mới để xem xét quyết định áp dụng của nông dân lại không đề cập đến yếu tố động
cơ, giá trị, thái độ. Khắc phục nhược điểm này, Jackson và cộng sự (2006) đã kết
hợp ba lý thuyết khuếch tán đổi mới; thuyết hành động lý luận và thuyết hành vi dự
định, tiết lộ rằng động cơ, giá trị và thái độ là những yếu tố cốt lõi trong quá trình
đưa ra quyết định của nông dân. Tuy nhiên, việc quá chú trọng đến động cơ và giá
trị để đánh giá quyết định của nông dân dẫn đến chưa thể chỉ ra được nhận thức về
nguy cơ, rủi ro của công nghệ mới giải thích cho quyết định áp dụng của nông dân.
Cách tiếp cận theo hướng tích hợp các thuyết tâm lý xã hội và thuyết lợi ích kỳ
vọng chú trọng đến các các nhân tố: niềm tin; nhận thức về đặc điểm của cải tiến; ý
định, thái độ; chuẩn mực chủ quan và nhận thức kiểm soát hành vi; mục đích và
mục tiêu của nông dân; các yếu tố nền bao gồm các đặc điểm nông dân, hộ gia đình,
nông trại, bối cảnh canh tác và tiếp nhận thông tin hoặc quá trình học hỏi để giải
5
thích các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định áp dụng đổi mới công nghệ của nông
dân. Nghiên cứu tiêu biểu cho cách tiếp cận này mới chỉ có Borges và cộng sự
(2015).
Tuy vậy, vẫn còn khá ít các nghiên cứu thực nghiệm về quyết định áp dụng
đổi mới công nghệ trong nông nghiệp của nông dân tại Việt Nam, như Hà Vũ Sơn
và Dương Ngọc Thành (2014); Trần Thanh Sơn (2011); Trương Thị Ngọc Chi và
cộng sự (2002) và hầu hết các nghiên cứu trên chỉ quan tâm xem xét đến các yếu tố
khách quan như chính sách hỗ trợ của nhà nước, diện tích, trình độ học vấn, thị
trường và cơ sở hạ tầng…Trong khi đó đa số các nghiên cứu liên quan đến áp dụng
VietGAP như: Hoàng Mạnh Dũng (2010), Nguyễn Thị Hồng Trang (2016) Ngô Thị
Thuận (2010), Nguyễn Anh Minh (2018) lại xem VietGAP như một chương trình,
một chính sách để chuyển đổi, phát triển nông nghiệp truyền thống sang nền nông
nghiệp hiện đại mà không phải một công nghệ mới trong nông nghiệp. Chính vì
vậy, các nghiên cứu này chỉ mới dừng lại ở việc đánh giá, phân tích thực trạng từ đó
đề xuất các giải pháp nhằm phát triển rau củ quả theo hướng VietGAP.
Tóm lại, cho đến nay chưa có nghiên cứu học thuật nào đi sâu tiếp cận từ góc
độ động cơ, tâm lý, nhận thức để xem xét quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP
trong sản xuất rau của người nông dân.
Qua tổng quan tình hình nghiên cứu có thể rút ra một số khoảng trống:
Thứ nhất, mặc dù các nghiên cứu trước đã chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng đến
quyết định áp dụng đổi mới công nghệ trong nông nghiệp như: tiếp xúc với cán bộ
khuyến nông, thái độ, ảnh hưởng xã hội, kiểm soát hành vi. Tuy nhiên, các nghiên
cứu trên chưa xem xét đến các quan sát như: nhận thức rủi ro về thương hiệu, cũng
như nhận thức về sức khỏe của người sản xuất có ảnh hưởng đến quyết định của họ.
Thứ hai, nghiên cứu mối quan hệ giữa các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định
áp dụng đổi mới công nghệ trong nông nghiệp cho một địa phương hay một quốc
gia đang phát triển như Việt Nam là chưa được thực hiện.
Thứ ba, đa số các nghiên cứu kết hợp giữa phương pháp định tính và định
lượng, tuy nhiên, các nghiên cứu định tính chỉ dừng lại ở việc phỏng vấn chuyên
gia. Vì vậy, luận án này sử dụng phương pháp định tính với bộ công cụ là quan sát
6
và phỏng vấn sâu người nông dân (với phần mềm hỗ trợ Nvivo 8.0) nhằm điều
chỉnh và phát triển các thang đo cho phù hợp với dữ liệu thực tế, đồng thời áp dụng
phương pháp định lượng (SEM) để kiểm định giả thuyết có lẽ là chưa từng có ở các
nghiên cứu trước đây.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở những nền tảng lý luận về quyết định áp dụng đổi mới công nghệ
trong nông nghiệp, luận án hướng đến việc xác định và giải thích các nhân tố ảnh
hưởng dự định lựa chọn kỹ thuật sản xuất của nông dân Việt Nam, cụ thể là ý định
áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của nông hộ trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam và Đà Nẵng cho các mùa vụ tiếp theo, từ đó đề xuất các hàm ý, chính
sách phù hợp đối với các chủ thể liên quan.
Mục tiêu cụ thể:
Điều chỉnh và phát triển thang đo các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định áp
dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của nông hộ tại Quảng Nam và Đà
Nẵng.
Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP
trong sản xuất rau của nông hộ tại Quảng Nam và Đà Nẵng cho các mùa vụ tiếp
theo.
Đề xuất một số hàm ý với các cơ quan hữu quan và nông hộ.
Để đạt được mục tiêu đề ra, nghiên cứu này thực hiện một số nhiệm vụ
sau:
Thứ nhất, hệ thống hóa và tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến
quyết định áp dụng đổi mới công nghệ trong nông nghiệp của nông dân.
Thứ hai, lựa chọn phương pháp nghiên cứu.
Thứ ba, đề xuất mô hình nghiên cứu.
4. Câu hỏi nghiên cứu
Xác định và lượng hóa các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định áp dụng tiêu
chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của nông hộ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam và
thành phố Đà Nẵng cho các mùa vụ tiếp theo?
7
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: luận án “Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến
quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của nông hộ tại hai địa
phương Quảng Nam và Đà Nẵng” tập trung tìm hiểu động cơ, nhận thức, thái độ
của nông dân khi quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau.
Khách thể nghiên cứu: là các nông hộ đang sản xuất rau theo tiêu chuẩn
VietGAP trên địa bàn tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng. Việc lựa chọn này là
do hiện nay việc sản xuất rau theo tiêu chuẩn VietGAP chủ yếu là các nông hộ, mà
chưa có sự tham gia của các doanh nghiệp trong lĩnh vực này.
Đối tượng khảo sát: người lao động chính trong hộ sản xuất rau VietGAP.
Phạm vi:
Nội dung: Quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP của nông dân chịu tác
động bởi cả hai nhóm nhân tố khách quan lẫn chủ quan. Tuy nhiên, nghiên cứu này
tiếp cận từ góc độ động cơ, nhận thức, tâm lý của người nông dân. Chính vì vậy,
mà các yếu tố khách quan không được đề cập trong nghiên cứu này.
Không gian: nghiên cứu này chỉ khảo sát tại 6 khu vực sản xuất gồm: Hưng
Mỹ, Lang Châu Bắc, Bàu Tròn tỉnh Quảng Nam; La Hường, Yến Nê, Túy Loan
thuộc thành phố Đà Nẵng, đây là những khu vực có số hộ tham gia sản xuất rau
VietGAP nhiều nhất và có thể đại diện cho cả 2 địa phương trên. Nghiên cứu này
chọn 2 địa phương trên vì một số lý do sau: i) thứ nhất, mặc dù Quảng Nam và Đà
Nẵng là 2 địa phương khác nhau về mặt hành chính kể từ sau ngày 1/1/1997, nhưng
các chính sách về hỗ trợ áp dụng sản xuất rau VietGAP của hai địa phương còn rất
hạn chế để tạo ra sự khác nhau về mức độ tham gia VietGAP của nông hộ. Hơn
nữa, ở đây nghiên cứu tiếp cận từ góc độ tâm lý của người nông dân chịu tác động
từ nhận thức lợi ích, môi trường, quy chuẩn xã hội… Bên cạnh đó, các điều kiện
canh tác, thời tiết, phong tục tập quán sản xuất của 2 địa phương này có những nét
tương đồng. ii) thứ hai, việc lựa chọn 2 địa phương cũng nhằm làm gia tăng kích cỡ
mẫu nghiên cứu, từ đó sử dụng các hàm thống kê cho việc kiểm định phân tích, rút
ra hàm ý. Ngoài ra, nghiên cứu này sử dụng phương pháp đa nhóm để xem xét sự
8
khác nhau giữa hai địa phương, giới tính và độ tuổi có thể khắc phục được một số
hạn chế khi xem xét 2 địa phương trên.
Thời gian: nghiên cứu được tiến hành theo dạng lát cắt ngang (nghiên cứu
đồng đại) giai đoạn năm 2016-2017 để tìm hiểu về các hoạt động kinh tế của cộng
đồng cư dân trong chu kỳ một năm. Do cách tiếp cận theo trường hợp 2 địa phương
Quảng Nam và Đà Nẵng nên kết quả nghiên cứu chỉ có giá trị cho 2 khu vực khảo
sát trên mà không có giá trị suy rộng cho toàn bộ nông dân ở Việt Nam. Tuy nhiên,
việc lựa chọn 2 địa phương trên vẫn có những nét tương đồng trong hoạt động sản
xuất nông nghiệp của nông dân ở cả nước. Vì vậy mà kết quả nghiên cứu này vẫn
có giá trị tham khảo hữu ích về động cơ, giá trị, nhận thức nói chung của nông dân.
6. Phương pháp nghiên cứu:
Luận án này kết hợp cả hai phương pháp định tính và định lượng. Việc quyết
định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của nông hộ nhìn chung là quá
trình phức tạp và đa dạng, trong khi đó chưa có nghiên cứu khám phá nào được tiến
hành tại Việt Nam nói chung và 2 địa phương Quảng Nam và Đà Nẵng nói riêng.
Hơn nữa, các nghiên cứu về quyết định áp dụng đổi mới công nghệ trong nông
nghiệp của nông dân đã được kiểm nghiệm tại các quốc gia nhưng mức độ phức tạp
trong nhận thức, thái độ cũng như các điều kiện kinh tế xã hội của các quốc gia đó
cũng rất khác so với Việt Nam nói chung và 2 địa phương Quảng Nam và Đà Nẵng
nói riêng. Chính vì thế, việc sử dụng phương pháp định tính là phù hợp cho việc mô
tả, tìm hiểu nhận thức và quyết định của nông dân. Trong nghiên cứu này, hai công
cụ được sử dụng để thu thập thông tin chính là 1) quan sát, ở đây nghiên cứu chỉ
quan sát để nhận biết về thực trạng, hoàn cảnh, địa bàn nghiên cứu, 2) phỏng vấn
sâu, bởi vì, nghiên cứu này tập trung vào tìm hiểu nhận thức, ý định của cá nhân
người lao động tham gia sản xuất rau VietGAP. Với các loại dữ liệu định tính này,
nghiên cứu sử dụng phần mềm Nvivo 8.0 để hỗ trợ trong việc quản lý, tổng hợp và
phân tích dữ liệu.
Kế tiếp, nghiên cứu sử dụng phương pháp định lượng nhằm kiểm định và đo
lường các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản
xuất rau của nông dân trên địa bàn tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng. Nghiên
9
cứu này sử dụng phương pháp lấy mẫu thuận tiện với kích thích mẫu là 320. Đối
tượng được điều tra là lao động nông nghiệp chính trong gia đình ở các làng sản
xuất rau VietGAP như Hưng Mỹ, Lang Châu Bắc, Bàu Tròn, La Hường, Yến Nê,
Túy Loan. Dữ liệu thu thập được làm sạch và tiếp tục thông qua thủ tục: (1) đánh
giá độ tin cậy bằng phân hệ số Cronbach’s alpha; (2) phân tích khám phá nhân tố
EFA); (3) CFA và (4) SEM.
7. Những đóng góp mới của luận án
Sau khi hoàn thiện luận án dự kiến sẽ mang lại những đóng góp về mặt lý
luận cũng như thực tiễn, cụ thể như sau:
Thứ nhất, luận án sẽ góp phần gia tăng bề dày khoa học về tác động của các
nhân tố đến quyết định áp dụng đổi mới công nghệ trong nông nghiệp của nông dân,
khi áp dụng kết hợp cả phương pháp nghiên cứu định tính để khai phá dữ liệu bằng
việc phỏng vấn sâu các đối tượng là lao động chính trong sản xuất rau VietGAP với
phương pháp định lượng (SEM) nhằm kiểm định các giả thuyết được đề xuất.
Thứ hai, luận án chọn 2 địa phương Quảng Nam và Đà Nẵng thuộc một nước
nông nghiệp đang phát triển để phân tích sẽ góp phần gia tăng bằng chứng thực
nghiệm về các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định áp dụng đổi mới công nghệ trong
nông nghiệp của nông dân đã được đúc kết thành những nền tảng lý thuyết vững
chắc.
Thứ ba, nhận thức về rủi ro liên quan đến thương hiệu và nhận thức lợi ích
về sức khỏe người sản xuất có tác động đáng kể trong quyết định áp dụng tiêu
chuẩn VietGAP của nông dân.
Thứ tư, kết quả nghiên cứu sẽ là tài liệu tham khảo quan trọng giúp cho các
nhà hoạch định chính sách và các nông hộ có cái nhìn sâu rộng hơn về vai trò của
các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất
rau của nông dân. Hơn nữa, kết quả của luận án sẽ là tiền đề để khuyến khích hình
thành nên những công trình nghiên cứu tiếp theo về chủ đề này.
8. Nội dung của luận án
Chương 1: Cơ sở lý luận về quyết định áp dụng đổi mới công nghệ trong
nông nghiệp của nông hộ
10
Trong chương này luận án trình bày khung lý thuyết giải thích quyết định áp
dụng đổi mới công nghệ trong nông nghiệp của nông dân gồm thuyết lợi ích kỳ
vọng, hành vi dự định, khuếch tán đổi mới. Bên cạnh đó, luận án cũng tổng quan
các công trình nghiên cứu thực nghiệm trước đây để xác định các biến số, từ đó xây
dựng mô hình thực nghiệm về các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định áp dụng tiêu
chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của nông hộ tại hai địa phương Quảng Nam và
Đà Nẵng là nội dung cuối của chương 1.
Chương 2: Thiết kế nghiên cứu
Khi nghiên cứu tại cộng đồng, hay khu vực nào cũng cần giới thiệu về đặc
điểm tự nhiên, điều kiện cơ sở hạ tầng của địa bàn nghiên cứu. Do vậy, đây chính là
nội dung đầu tiên trong chương này. Kế tiếp, nghiên cứu phân tích và mô tả bức
tranh toàn cảnh về thực trạng sản xuất rau VietGAP trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
và thành phố Đà Nẵng. Điểm nổi bật của chương này là trình bày chi tiết các bước
tiến hành nhằm tìm kiếm bằng chứng cho các mục tiêu đề ra.
Chương 3: Kết quả phân tích và thảo luận
Dựa vào mô hình thực nghiệm và dữ liệu thu thập từ 294 nông hộ, nghiên
cứu sử dụng công cụ phần mềm spss 16.0 và Amos 16.0 để thực hiện các kiểm định
và ước lượng các hệ số hồi quy. Các kết quả nghiên cứu thực nghiệm này sẽ được
tiến hành thảo luận dựa trên nền tảng lý thuyết đã được đúc kết trong chương 1 và
đối chiếu với các nghiên cứu trước đây nhằm luận giải một cách thuyết phục các kết
quả nghiên cứu đạt được.
Chương 4: Một số hàm ý chính sách
Dựa trên các kết quả nghiên cứu từ đó, đề xuất một số hàm ý và chính sách
giúp cho các nhà hoạch định, nhà quản lý và các nông hộ có cái nhìn sâu rộng hơn
về vai trò của các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP
trong sản xuất rau là nội dung duy nhất của chương này.
11
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYẾT ĐỊNH ÁP DỤNG ĐỔI MỚI
CÔNG NGHỆ TRONG NÔNG NGHIỆP CỦA NÔNG HỘ
1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1. Công nghệ
Công nghệ là hoạt động thực hành có mục đích, bao gồm tác động qua lại
giữa con người với kiến thức của họ và công cụ, máy móc – gọi là phần cứng
(Wilson và cộng sự, 1997). Trong khi đó, Roger (1983) cho rằng công nghệ là thiết
kế cho hoạt động có sử dụng công cụ sản xuất làm giảm tính không chắc chắn của
quan hệ nhân quả để đạt kết quả mong muốn. Công nghệ gồm hai phần: phần cứng
gồm công cụ trong công nghệ như là vật liệu dụng cụ sản xuất, còn phần mềm là cơ
sở thông tin về công cụ đó. Bên cạnh đó, Đinh Phi Hổ (2003) cũng chỉ ra rằng công
nghệ là tập hợp các phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết, công cụ và phương
tiện để biến đổi các nguồn lực thành các sản phẩm hay dịch vụ phục vụ cho sản xuất
và đời sống. Công nghệ được coi là sự kết hợp giữa phần cứng và phần mềm. Phần
cứng là máy móc, nhà xưởng, thiết bị. Phần mềm bao gồm 3 thành phần: con người
(kiến thức, kỹ năng, tay nghề, kinh nghiệm), thông tin (bí quyết, quy trình, phương
pháp) và tổ chức (sắp xếp, điều phối, quản lý).
Ngoài ra, để phân biệt giữa kỹ thuật và công nghệ thì Inglod (2002) xác định
như sau: kỹ thuật liên quan kỹ năng, là khả năng chuyên biệt của từng người; công
nghệ là tập hợp kiến thức khách quan, tổng quát, cho đến mức độ khả năng áp dụng
thực hành, và cũng cần phân biệt chúng với công cụ, là vật dụng dùng để giúp con
người tăng khả năng hoạt động trong điều kiện định sẵn.
1.1.2. Đổi mới công nghệ
Đổi mới công nghệ được định nghĩa như là phương pháp mới, tập quán và
công cụ dùng để thực hiện công việc (Sunding và cộng sự, 2001). Trong khi đó,
Ngô Đức Cát và Vũ Đình Thắng (2001) tiết lộ rằng đổi mới công nghệ là sự đổi mới
12
các kỹ thuật có sẵn hoặc trình độ kiến thức về mối quan hệ giữa các yếu tố đầu vào
và sản lượng, nhờ đó sản xuất ra nhiều sản phẩm hơn với nhập lượng như cũ hoặc
có thể làm ra sản lượng như cũ nhưng với nhập lượng ít. Ngoài ra, đổi mới công
nghệ cũng còn được xác định như là một quá trình trong đó, cá nhân hay đơn vị đi
từ kiến thức đầu tiên của công nghệ mới đến hình thành thái độ đối với công nghệ
mới, đến quyết định chấp nhân hay bác bỏ, đến áp dụng ý tưởng mới, và đến xác
nhận quyết định đó (Roger, 1983).
Đổi mới công nghệ là một trong những yếu tố quan trọng góp phần gia tăng
năng suất, nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế. Đặc biệt trong ngành nông
nghiệp, đổi mới công nghệ sẽ giúp sản xuất ra nhiều thực phẩm giàu dinh dưỡng
hơn, đa dạng và phong phú hơn, giải quyết những thay đổi trong chế độ dinh dưỡng
và còn cung cấp nguyên liệu thô cho sử dụng phi thực phẩm. Ví dụ cuộc cách mạng
xanh đóng góp tích cực cho quá trình tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo. Nó cũng
mang đến những lợi ích cho những nông hộ nhỏ, tăng thu nhập nông thôn, giảm giá
lương thực và gia tăng giá trị sản xuất nông nghiệp. Trong ngành nông nghiệp của
Việt Nam đổi mới công nghệ đã đóng góp trên 35% tăng trưởng của ngành trong
thời gian qua trong khi các yếu tố thúc đẩy tăng trưởng khác như lao động, vốn và
quỹ đất có xu hướng giảm đi (Hiền, 2016). Hơn nữa, đổi mới công nghệ có tác động
tích cực đối với việc nâng cao chất lượng bảo vệ môi trường sinh thái thông qua
việc áp dụng công nghệ sinh học, hóa học để biến đổi các chất thải thành phân bón
cho cây trồng. Chính vì vậy, ngày nay vấn đề đổi mới công nghệ không chỉ nhằm
mục đích tối đa hóa lợi nhuận, tăng trưởng kinh tế mà còn tính đến cả các yếu tố xã
hội, bảo vệ môi trường, an ninh lương thực và những lợi ích về sức khỏe. Để tiến bộ
công nghệ phát huy một cách hiệu quả đối với sản xuất, người sản xuất phải có
nhận thức đầy đủ về vai trò, tác dụng của đổi mới công nghệ mang lại. Muốn vậy
phải nâng cao kiến thức, quy trình công nghệ.
Người nông dân không sẵn lòng áp dụng đổi mới công nghệ được Đinh Phi
Hổ (2003) dẫn từ Wharton C (1971) có 6 nguyên nhân chính như sau:
13
(1) Không biết hoặc không hiểu về kỹ thuật mới: Mặc dù cán bộ khuyến
nông có nỗ lực truyền bá nhưng có một bộ phận nông dân không biết thông tin về
kỹ thuật đó, hoặc nông dân có biết tới kỹ thuật đó thông qua cán bộ khuyến nông
nhưng lại không hiểu vì có thể do phương pháp khuyến nông không thích hợp.
(2) Không có đủ năng lực để thực hiện: mặc dù nông dân đã biết kỹ thuật
mới, tuy nhiên để thực hiện kỹ thuật mới đó nó đòi hỏi kiến thức và kỹ năng mới
nhưng nông dân lại không có những điều kiện này
(3) Không được chấp nhận về mặt tâm lý, văn hóa và xã hội;
(i) Về mặt tâm lý: nông dân đã quen với phương thức sản xuất nông nghiệp
truyền thống, cách tính toán không phải là trên giấy mà bằng kinh nghiệm và suy
nghĩ riêng của họ.
(ii) Về mặt văn hóa – xã hội: Cộng đồng dân cư trên những vùng địa lý khác
nhau có tập quán, tôn giáo khác nhau, nếu kỹ thuật mới không phù hợp với tập quán
– tôn giáo mà họ có thì họ sẽ không chấp nhận ứng dụng kỹ thuật đó.
(4) Không được thích nghi: Kỹ thuật mới chưa được thử nghiệm tại địa
phương mà nông dân cư trú. Một sự hồ nghi sẽ xuất hiện vì không biết điều kiện tự
nhiên ở địa phương có thích hợp không.
(5) Không khả thi về kinh tế: Khi kỹ thuật mới áp dụng, thường chi phí sản
xuất tăng đồng thời sản lượng cũng tăng. Nhưng chắc chắn rằng nông dân sẽ không
chấp nhận khả năng sinh lợi thấp hơn so với việc áp dụng cách truyền thống của họ.
(6) Không sẵn có điều kiện để áp dụng: áp dụng kỹ thuật mới đòi hỏi phải sử
dụng một loại giống mới nào đó, hoặc một loại phân nào đó, nhưng các loại này lại
không có sẵn trên thị trường của địa phương.
1.1.3. VietGAP
GAP (Good Agriculture Practice) là bộ quy tắc thực hành nông nghiệp tốt
được khởi xướng bởi các nhà bán lẻ Châu Âu vào năm 1997 nhằm giải quyết mối
quan hệ bình đẳng và trách nhiệm giữa người sản xuất sản phẩm nông nghiệp với
khách hàng của họ. Theo đó, GAP là những nguyên tắc được thiết lập nhằm đảm
bảo một môi trường sản xuất an toàn sạch sẽ, thực phẩm phải đảm bảo không chứa
14
các tác nhân gây bệnh như chất độc sinh học và hóa chất, đồng thời sản phẩm phải
đảm bảo an toàn từ ngoài đồng ruộng đến khi sử dụng.
Các nước thành viên khối ASEAN với cam kết gia tăng chất lượng, giá trị
của sản phẩm rau và quả đã thống nhất những quy định chung cho khu vực ASEAN
được gọi là ASEANGAP. Mục tiêu của ASEANGAP là bảo vệ môi trường, kỹ thuật
canh tác, an toàn thực phẩm cho xã hội, hài hòa và phù hợp với các nước thành viên
đến năm 2020.
VietGAP (Vietnamese Good Agricultural Practices) là bộ quy tắc thực hành
nông nghiệp tốt cho rau, quả an toàn áp dụng cho thị trường Việt Nam, được ban
hành theo quyết định số 379/QĐ-BNN-KHCN ngày 28 tháng 01 năm 2008 của Bộ
trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Chúng được xem như công nghệ
trong nông nghiệp gồm cả phần cứng như vật tư nông nghiệp, công cụ, nhà xưởng
và phần mềm là quy trình kỹ thuật được áp dụng, tạo ra sản phẩm có năng suất cao.
1.1.4. Nông hộ
Khái niệm nông hộ được nhiều nhà khoa học quốc tế và trong nước quan tâm
nghiên cứu và chúng được khởi xướng bởi Ellis (1988) “Hộ nông dân là các hộ gia
đình làm nông nghiệp, tự kiếm kế sinh nhai trên những mảnh đất của mình, sử dụng
chủ yếu sức lao động của gia đình để sản xuất, thường nằm trong hệ thống kinh tế
lớn hơn, nhưng chủ yếu đặc trưng bởi sự tham gia cục bộ vào các thị trường và có
xu hướng hoạt động với mức độ không hoàn hảo cao” (dẫn theo Lê Đình Thắng).
Trong khi đó, tại Việt Nam, một số nhà nghiên cứu cũng đưa ra định nghĩa về nông
hộ. Theo Lê Đình Thắng (1993) “Nông hộ là tế bào kinh tế xã hội, là hình thức kinh
tế cơ sở trong nông nghiệp và nông thôn”. Bên cạnh đó, Đào Thế Tuấn (1997) xác
định “Hộ nông dân là những hộ chủ yếu hoạt động nông nghiệp theo nghĩa rộng,
bao gồm cả nghề rừng, nghề cá và hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn”. Ngoài
ra, Tạ Tuyết Thái (2016) quan niệm “Hộ nông dân là một đơn vị kinh tế cơ bản, tiến
hành sản xuất kinh doanh dựa trên nguồn lực sẵn có của gia đình nhằm tạo ra thu
nhập theo nhiều hình thức khác nhau, chịu sự tác động của quy luật khách quan
trong quá trình tồn tại và phát triển”.
15
Tuy có nhiều quan điểm khác nhau liên quan đến nông hộ, nhưng nhìn chung
nông hộ được xác định là hộ gia đình tại nông thôn tham gia hoạt động sản xuất
trong lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp bằng việc sử dụng các nguồn lực sẵn có của
hộ và tham gia một phần hay hoàn toàn vào sản xuất thị trường.
1.1.5. Nông dân
Theo wikipedia nông dân là những người lao động cư trú ở nông thôn, tham
gia sản xuất nông nghiệp. Nông dân sống chủ yếu bằng ruộng vườn, sau đó đến các
ngành nghề mà tư liệu sản xuất chính là đất đai. Tùy từng quốc gia, từng thời kì lịch
sử, người nông dân có quyền sở hữu khác nhau về ruộng đất. Họ hình thành
nên giai cấp nông dân, có vị trí, vai trò nhất định trong xã hội.
Theo Eric Wolf (1955) nông dân được định nghĩa là những người trồng trọt
ở nông thôn và họ không phải là nông gia (chủ các nông trại) (dẫn theo Bùi Quang
Dũng, 2012).
Trong bối cảnh nghiên cứu về hành vi kinh tế của nông dân, nghiên cứu này
cũng đồng tình với định nghĩa của Ngô Thị Phương Lan (2011) cho rằng nông dân
là những người kiếm sống chủ yếu bằng hình thức canh tác nông nghiệp, có sự tham
gia trực tiếp của lao động gia đình trong quá trình sản xuất, và tham gia một phần
hay hoàn toàn vào sản xuất thị trường.
1.1.6. Quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP
Theo nghiên cứu này Quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất
rau đề cập đến những ý định/dự định áp dụng các phương pháp, quy trình, tiêu
chuẩn VietGAP của người nông dân trong các mùa vụ tiếp theo. Điều này bởi vì
người nông dân có thể tiếp tục đầu tư thời gian và vật tư để áp dụng theo quy trình
này hoặc quay trở lại với phương pháp, quy trình truyền thống. Hơn nữa, các đối
tượng nông dân khác nhau thường có thời điểm quyết định áp dụng quy trình
VietGAP khác nhau và thường chênh lệch nhau tới 1-2 năm, như các hộ nông dân ở
Hưng Mỹ áp dụng tiêu chuẩn VietGAP từ năm 2011, các hộ nông dân ở Lang Châu
Bắc, Duy Phước áp dụng từ năm 2012, trong khi đó các hộ ở Bàu Tròn, xã Đại An,
16
La Hường, quận Cẩm Lệ từ năm 2013. Do đó, việc yêu cầu người nông dân nhớ lại
thái độ, niềm tin và các nhân tố khác lúc họ mới tiếp nhận là không khả thi.
Theo Ajzen (1991) Ý định hành vi bao gồm các yếu tố động cơ có thể có ảnh
hưởng đến hành vi của mỗi cá nhân. Các yếu tố này cho thấy mức độ sẵn sàng hoặc
nỗ lực mà mỗi cá nhân sẽ bỏ ra để thực hiện hành vi.
Như vậy, dựa trên phạm vi về mặt nội dung đã được đề cập trong phần trên
thì quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau cho biết mức độ sẵn
sàng hoặc nỗ lực của người nông dân bỏ ra để áp dụng quy trình VietGAP trong các
mùa vụ tiếp theo. Quyết định này có thể bị ảnh hưởng bởi hàng loạt các yếu tố bao
gồm các yếu tố nhận thức (lợi ích, rủi ro), định mức chủ quan, khả năng kiểm soát
hành vi và mức độ giao tiếp chia sẻ thông tin của người nông dân.
1.1.7. Vai trò của sản xuất rau theo tiêu chuẩn VietGAP
Về sức khỏe con người: sản xuất và sử dụng rau an toàn có tác dụng tốt đến
sức khẻo con người, giúp con người hấp thu đầy đủ các Vitamin và dưỡng chất
trong rau mà không phải lo lắng về vấn đề ngộ độc thực phẩm hay những ảnh
hưởng không tốt đến sức khỏe. Trong ăn uống hàng ngày, rau tươi có vai trò đặc
biệt quan trọng. Tuy lượng protid và lipid trong rau tươi không đáng kể, nhưng
chúng cung cấp cho cơ thể nhiều chất hoạt tính sinh học, đặc biệt là các muối
khoáng có tính kiềm, các vitamin, các chất pectin và axit hữu cơ. Ngoài ra, trong
rau tươi còn có loại đường tan trong nước và chất xenluloza (Tuyết, 2014). Hơn thế
nữa, một vai trò khác của sản xuất rau an toàn là góp phần bảo vệ sức khỏe người
sản xuất do giảm thiểu việc tiếp xúc với hóa chất độc hại. Các loại rau tươi của
nước ta rất phong phú. Nhìn chung, rau tươi được chia thành nhiều nhóm: nhóm rau
xanh như rau cải, rau muống, rau xà lách, rau cần...; nhóm rễ củ như cà rốt, củ cải,
su hào, củ đậu...; nhóm cho quả như cà chua, cà bát, cà pháo, dưa chuột...; nhóm
hành gồm các loại hành, tỏi,.v.v...
Về môi trường: thông qua việc áp dụng những biện pháp canh tác đảm bảo
cho cây rau hấp thu tốt nhất chất dinh dưỡng, nước mà không để lại tồn dư trong
17
sản phẩm, sản xuất rau an toàn đã làm giảm nguy cơ ô nhiễm môi trường và thực sự
trở nên thân thiện với môi trường góp phần xây dựng một nền sinh thái bền vững.
Về kinh tế: với việc áp dụng công nghệ hiện đại vào trong sản xuất rau an
toàn cũng như các loại giống đảm bảo chất lượng nên năng suất dự kiến của
VietGAP vượt trội so với phương pháp truyền thống nên trồng rau an toàn theo tiêu
chuẩn VietGAP kỳ vọng cho hiệu quả kinh tế cao hơn so với trồng rau theo phương
pháp truyền thống.
Về hiệu quả xã hội: khác với trồng lúa hay một số cây trồng khác, buộc
người trồng trọt phải am hiểu nhiều kỹ thuật liên quan, trồng rau nói chung hay rau
an toàn VietGAP nói riêng không yêu cầu quá cao cho các yếu tố kỹ thuật và vì thế,
mọi thành viên trong gia đình đều có thể tham gia sản xuất một cách hiệu quả. Điều
này góp phần đáng kể trong việc giải quyết nguồn lao động không qua đào tạo bài
bản ở nông thôn. Mặt khác, do có hiệu quả kinh tế cao, trồng rau an toàn làm tăng
thu nhập qua đó góp phần cải thiện cuộc sống cho nông dân.
1.2. Các lý thuyết nền tảng cho nghiên cứu quyết định áp dụng đổi mới
công nghệ trong nông nghiệp của nông dân
1.2.1. Thuyết lợi ích kỳ vọng (Expected Utility Theory - EUT)
Dựa trên thuyết EUT được khởi xướng bởi Bernoulli (1738), Batz và cộng sự
(1999) cho rằng nền tảng của thuyết EUT là nông dân so sánh công nghệ cải tiến
với công nghệ truyền thống và áp dụng nếu độ thỏa dụng kì vọng của công nghệ cải
tiến cao hơn độ thỏa dụng kì vọng của công nghệ truyền thống. Hơn nữa, khi nghiên
cứu nhu cầu của người tiêu dùng, các nhà kinh tế học đã chỉ ra rằng sự ưa thích chủ
quan của người tiêu dùng về đặc điểm của sản phẩm có tác động đến nhu cầu của họ
về sản phẩm đó. Trong khi đó, những nghiên cứu về sự ưa thích của người nông dân
trong quyết định áp dụng cải tiến lại không nhận được sự quan tâm của các nhà kinh
tế học (Adesina và cộng sự, 1995). Ngoài ra, thuyết này còn bổ sung rằng nhận thức
chủ quan của người nông dân về lợi ích và rủi ro của cải tiến ảnh hưởng đến việc
quyết định áp dụng cải tiến Trong đó, các rủi ro kinh tế đóng vai trò quan trọng
trong quá trình đưa ra quyết định (Ghadim và Pannel, 1999).
18
Khi người nông dân nhận thức được những lợi ích về kinh tế cũng như mối
quan tâm của họ về thực phẩm an toàn, về môi trường xung quanh sẽ giúp họ nâng
cao khả năng áp dụng quy trình VietGAP trong sản xuất. Tuy nhiên, trong sản xuất
nông nghiệp nói chung và sản xuất rau nói riêng người nông dân luôn phải chịu những
rui ro tìm ẩn như rủi ro thời tiết, rủi ro sâu bệnh, rủi ro giá cả, rủi ro thương hiệu.
Cách tiếp cận dựa trên giá trị, động cơ của thuyết lợi ích kỳ vọng đã cung cấp
một khuôn khổ để phân tích quyết định áp dụng đổi mới công nghệ trong nông nghiệp
của nông dân. Tuy nhiên, lý thuyết này chỉ mới xem xét nhận thức tối đa hóa lợi ích kì
vọng, mà không xem xét vai trò của các yếu tố tâm lý xã hội cũng như áp lực xã hội
lên người nông dân khi quyết định áp dụng đổi mới. Bergevoet và cộng sự (2004)
cho rằng những mô hình kinh tế là chưa đủ để giải thích được toàn bộ sự phức tạp
trong các quyết định của người nông dân, vốn thường bị chi phối bởi cả hai mục
tiêu kinh tế và phi kinh tế.
1.2.2. Thuyết hành động hợp lý ( Theory of Reasoned Aciton - TRA)
TRA được dùng để tìm hiểu sâu xa hơn làm thế nào mà thái độ và niềm tin
có thể liên quan đến ý định trong hành động của mỗi cá nhân (Fishbein & Ajzen,
1975). Thuyết này tương đối có ích trong việc tiên đoán dự định của cá nhân khi
muốn tiếp thu hoặc sử dụng một sáng chế mới. Giả thiết cho rằng con người là sinh
vật thường có tính duy lý và biết tận dụng có hệ thống các nguồn thông tin có sẵn
đồng thời xem xét trước hậu quả hành động của mình trước khi quyết định có tham
gia vào một hành vi nhất định hay không.
TRA đề xuất ý kiến rằng chủ đích của việc thực hiện (hoặc không thực hiện)
một hành vi được cho là yếu tố duy nhất và trực tiếp có ảnh hưởng đến hành vi của
cá nhân đó (Akudugu và cộng sự 2012). Đồng thời, chủ đích của cá nhân cũng được
quyết định bởi hai yếu tố: nền tảng thái độ đối với hành vi và định mức chủ quan.
Thái độ đối với hành vi có thể được coi như là một dự báo mang tính chủ quan của
cá thể về tính tích cực hay tiêu cực họ sẽ cảm thấy khi thực hiện các hành vi đó,
trong khi định mức chủ quan lại là quan điểm của một người về việc các quy chuẩn
xã hội sẽ ảnh hưởng đến bản thân họ như thế nào khi thực hiện hoặc không thực
19
hiện hành vi đó (Ajzen và Fishbein, 1975). Hơn nữa, thái độ của cá nhân đối với
việc thực hiện hành vi mục tiêu còn được xác định bởi chính niềm tin của họ về hậu
quả mà hành vi đó có thể mang lại, cũng như từ việc đánh giá các hậu quả đó.
Tương tự như vậy, định mức chủ quan của một cá nhân cũng là một sản phẩm phụ
từ niềm tin quy chuẩn và động lực thực hiện của người đó.
Niềm tin và sự Thái độ ảnh
đánh giá hưởng hành vi
Ý định hành vi Hành vi sử dụng
Niềm tin quy chuẩn
và động cơ Quy chuẩn chủ quan
Hình 1.1. Mô hình lý thuyết hành động hợp lý (TRA)
Nguồn: Fishbein and Ajzen, 1975
1.2.3. Thuyết hành vi dự định (Theory of Planned Behavior - TPB)
TPB là một mô hình được mở rộng dựa trên TRA và chúng giải thích rằng
chỉ dùng thái độ thì không đủ để dự đoán hành vi mà còn có các yếu tố quan trọng
không kém khác như áp lực xã hội hay độ khó của việc thực hiện hành động đó
(Jackson và cộng sự 2006),. Như có thể thấy trong hình 1.2 'Ý định' vẫn là yếu tố
trung tâm của lý thuyết này, ngoài ra còn có sự xuất hiện của yếu tố 'Quan niệm
kiểm soát hành vi'. Điều này cho phép xem xét mức độ mà một cá nhân tin rằng kết
quả của hành vi vẫn có thể được kiểm soát (Burton, 2004). Sự khác biệt này giúp
TPB nhận ra rằng không phải tất cả hành vi đều chịu sự kiểm soát của lý trí, mà
hành vi có thể trải dài trên nhiều mức độ khác nhau từ kiểm soát hoàn toàn cho đến
mất kiểm soát hoàn toàn (Ajzen, 1991).
Theo Beedell và Rehman (2000), thái độ là mức độ tích cực hay tiêu cực mà
cá nhân đánh giá về việc thực hiện hành vi, quy chuẩn chủ quan đề cập tới cảm
nhận của cá nhân trước các áp lực xã hội chi phối họ phải hoặc không được thực
20
hiện hành vi nào đó, còn mức kiểm soát hành vi nhận thức là khả năng mà người
nông dân tự ước lượng là có thể thực hiện hành vi đó thành công.
Trong cả hai mô hình TRA và TPB đều chỉ ra thái độ ảnh hưởng đến quyết
định áp dụng đổi mới công nghệ. Tuy nhiên, trong thực tế quyết định áp dụng một
công nghệ mới như quy trình VietGAP trong sản xuất rau của nông dân đòi hỏi họ
phải có những nhận thức rõ ràng về quy trình này. Khi người nông dân có nhận thức
tốt về quy trình công nghệ mang lại năng suất cũng như những lợi ích do áp dụng
các tiến bộ công nghệ thì người nông dân có khả năng áp dụng nó. Tuy nhiên, khi
có nhận thức tốt về quy trình công nghệ chưa hẳn là áp dụng do các điều kiện cũng
như sự đồng tình ủng hộ của xã hội thì rất khó có khả năng áp dụng, ví dụ do những
tác động không mong muốn mà công nghệ biến đổi gen vẫn chưa được xã hội chấp
nhận. Nếu một công nghệ được người nông dân chấp nhận và cả xã hội cũng đồng
thuận thì khả năng áp dụng công nghệ mới trong nông nghiệp sẽ có khả năng cao.
Thường khi đứng trước một quyết định nào đó, con người thường tham khảo ý kiến
của những người chung quanh, bởi họ muốn chia sẻ giá trị trong gia đình như vợ
chồng, con cái, phần nữa họ muốn tìm cách khai thác những chuyên môn và kiến
thức từ các tổ chức, cán bộ khuyến nông, các lãnh đạo hợp tác xã, và vai trò trưởng
thôn nên xu hướng quyết định sản xuất rau theo tiêu chuẩn VietGAP của người
nông dân cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi những ý kiến đó. Nếu nhận thức được các lợi
ích và sự đồng thuận của những người chung quanh nhưng khả năng kiểm soát hành
vi đó không cho phép thì cũng không thể áp dụng công nghệ mới.
Nhìn chung, TPB đã được áp dụng thành công trong việc giải thích hành vi
của nông dân và quan trọng hơn cả là có thể xác định những nhân tố thúc đẩy ảnh
hưởng đến quá trình đưa ra quyết định của người nông dân Läpple và Kelley
(2013), Lynne và cộng sự (1995), Bergevoet và cộng sự (2004) Wauters và cộng sự
(2017), Borges và cộng sự (2014).
21
Thái độ
Ý định hành vi Hành vi sử dụng Quy chuẩn
Hành vi kiểm soa soát Hình 1.2. Mô hình thuyết hành vi dự định (TPB)
Nguồn: Ajzen, 1991
1.2.4. Thuyết khuếch tán đổi mới (Innovation Diffusion theorey - IDT)
Việc nghiên cứu quá trình áp dụng sáng kiến mới đã được tiến hành trong
nhiều năm, và IDT là một trong những mô hình khuếch tán nhất. Theo đó, mỗi cá
nhân phải bước qua năm giai đoạn để có thể lĩnh hội một phương pháp hoặc hành vi
mới. Các giai đoạn này gồm: i) thứ nhất, một người tiếp thu được những kiến thức
và chi tiết đầu tiên về cách vận hành của sáng chế mới; ii) thứ hai, giai đoạn thuyết
phục là khi một người hình thành thái độ tích cực hay tiêu cực về một sáng kiến sau
khi đã tìm hiểu về nó; iii) thứ ba, cá thể sẽ thực hiện các hoạt động dẫn đến quyết
định lựa chọn sẽ tiếp thu hay từ chối sáng kiến; iv) thứ tư, thực hiện - cá thể đưa
sáng kiến vào áp dụng; v) thứ năm, xác nhận, khi đó cá thể sẽ đánh giá kết quả của
quyết định - lĩnh hội đã thực hiện và quan điểm của các cá thể khác để củng cố
quyết định của mình. Ngoài ra, năm thuộc tính đổi mới cũng được chỉ ra là (1) lợi
ích liên quan, (2) khả năng thích ứng, (3) tính dễ tiếp cận, (4) tính dễ thử nghiệm và
(5) tính dễ quan sát (Rogers, 2003). Cũng theo Roger (1995), sự khuếch tán được
định nghĩa là “quá trình một cải tiến được phát tán qua những kênh nhất định trong
một khoảng thời gian giữa những cá thể trong một hệ thống xã hội”. Chi tiết hơn,
Sonka và Nelson (2000) giải thích rằng sự khuếch tán khác với sự tiếp nhận ở chỗ
sự khuếch tán là một quá trình các thành tựu công nghệ được lan truyền trong giới
tiêu dùng trong khi sự tiếp nhận là quyết định bên trong của từng cá nhân.
22
Trong lĩnh vực nông nghiệp Rogers (2003) đưa ra một mô hình của quá trình
khuếch tán như sau:
Hình 1.3. Mô hình tuyến tính thể hiện sự khuếch tán
Nguồn: Everett M. Rogers (2003).
Tuy nhiên, với sự hỗ trợ từ Feder và Umali (1993), Fliegel (1993) đã minh
họa một phương pháp phù hợp hơn cho sự lĩnh hội các sáng kiến nông nghiệp, lập
luận rằng cách tiếp cận tuyến tính có xu hướng hạn chế quá trình khuếch tán thành
một quá trình lên kế hoạch hợp lý dựa trên sự phát triển của các tổ chức như cơ
quan chính phủ, thay vì xem người nông dân như là một cá thể bị động chịu phản
ứng bởi các tác động ngẫu nhiên và có sự tham gia của xã hội và giao tiếp.
Mức độ tham gia xã hội: - Là thành viên trong các tổ
chức nông nghiệp.
- Mức độ tham gia các tổ
chức cộng đồng.
Nông dân quyết định tiếp thu
Cấu trúc xã hội: - Tuổi tác - Giáo dục - Quy mô trang trại - Mức thu nhập - Tình trạng lao động
Giao tiếp: - Tiếp xúc thường xuyên - Tiếp xúc với sách báo - Tiếp xúc với phát thanh
Hình 1.4. Mô hình phi tuyến về sự lĩnh hội các sáng kiến trong nông nghiệp
Nguồn: Jackson và cộng sự (2006)
Trong đó, giao tiếp là một trong những nhân tố ảnh hưởng quan trọng đến
quyết định áp dụng đổi mới cải tiến của nông dân và nó là một trong những chủ đề
xuất hiện liên tục trong mô tả của Rogers (1995) bởi vì đặc điểm của giao tiếp là tạo
dựng và chia sẽ thông tin với nhau để hiểu biết được nhau. Trong nghiên cứu này,
việc áp dụng quy trình VietGAP chịu tác động bởi tần suất tiếp xúc giữa nông dân,
cán bộ khuyến nông và thông qua phương tiện nghe nhìn như tivi, đài phát thanh.
23
1.3. Khung phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định áp dụng đổi
mới công nghệ trong nông nghiệp của nông dân
Quyết định áp dụng đổi mới công nghệ trong nông nghiệp đã được các nhà
khoa học ở nhiều chuyên ngành quan tâm nghiên cứu với nhiều cách tiếp cận khác
nhau. Ở Việt Nam, vấn đề này thực sự nổi lên trong những năm gần đây. Mặc dù có
rất nhiều tài liệu xung quanh vấn đề này, NCS chỉ chú trọng đến các bài báo, luận
án, công trình mang tính khoa học cao có liên quan trực tiếp về mặc nội dung,
phương pháp và cách tiếp cận. Tựu chung lại có các hướng tiếp cận như sau:
Hướng thứ nhất dựa hoàn toàn trên các mô hình kinh tế mà thuyết EUT
đóng vai trò trung tâm, nền tảng của thuyết EUT là nông dân sẽ so sánh công nghệ
cải tiến với công nghệ truyền thống và sẽ áp dụng nếu độ thỏa dụng kì vọng của
công nghệ cải tiến cao hơn độ thỏa dụng kì vọng của công nghệ truyền thống (Batz
và cộng sự, 1999).
Các nhà kinh tế học khi nghiên cứu về nhu cầu của người tiêu dùng đã chỉ ra
sự ưa thích chủ quan của người tiêu dùng về đặc điểm của sản phẩm có tác động
đến nhu cầu của họ về sản phẩm đó. Tuy nhiên, những nghiên cứu về sự ưa thích
của người nông dân trong quyết định áp dụng kỹ thuật mới lại không nhận được sự
quan tâm của các nhà kinh tế học. Do đó, để kiểm tra giả thuyết nhận thức của
người nông dân về các đặc điểm của kỹ thuật có tác động ý nghĩa đến quyết định áp
dụng kỹ thuật Adesina và cộng sự (1995) sử dụng các mô hình Tobit để quan tâm
đến các trường hợp kỹ thuật hiện đại trong việc canh tác cây lúa miến và going lúa
mới ở Burkina Faso và Guinea. Kết quả nghiên cứu cho thấy giả thuyết trên của
nhóm tác giả là đúng và nghiên cứu này cũng mở ra định hướng cho các nghiên cứu
trong tương lai đó là mở rộng tập hợp biến cần nghiên cứu từ các nhân tố kinh tế -
xã hội, nhân khẩu học, thể chế đến nhận thức chủ quan của người nông dân về đặc
điểm của những kỹ thuật nông nghiệp mới. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu chưa đề
cập đến những lợi ích thu nhập, sản lượng, môi trường mà việc áp dụng công nghệ
mới mang lại, cũng như chưa chỉ ra những nhận thức về mặt môi trường cũng như
24
nhận thức về rủi ro của kỹ thuật mới có tác động đến quyết định áp dụng kỹ thuật
của nông dân.
Cũng đi sâu tìm hiểu về các rủi ro của kỹ thuật tác động đến quyết định áp
dụng các công nghệ tại quận Meru, Kenya. Batz và cộng sự (1999) thực hiện cuộc
khảo sát với 112 nông dân một cách ngẫu nhiên bằng phương pháp cho điểm. Kết
quả nghiên cứu cho thấy rằng sự phức tạp, rủi ro tương đối của kỹ thuật có tác động
ý nghĩa đến việc quyết định sử dụng và hiệu ứng lan tỏa đối với tốc độ áp dụng
công nghệ. Nông dân tại Meru có trình độ học vấn thấp và đối mặt với tình trạng
thiếu hụt nguồn nhân lực đó là lý do khiến họ lưỡng lự trong việc quyết định áp
dụng công nghệ mới. Từ kết quả này, nhóm tác giả đề xuất rằng những nhà nghiên
cứu khoa học và khuyến nông nên phát triển những công nghệ giảm thiểu rủi ro.
Mặc dù đã đề cập đến những nhận thức về rủi ro của kỹ thuật tác động đến việc
quyết định áp dụng công nghệ mới, nhưng nhóm nghiên cứu chưa đề cập đến các
rủi ro về thị trường như giá cả, thương hiệu hay các rủi ro thời tiết.
Wubeneh (2006) sử dụng mô hình Tobit để ước lượng với kích thước mẫu là
90 đã chỉ ra được rằng việc tiếp cận với thông tin, loại đất, và nhận thức của người
nông dân về các đặc điểm của công nghệ và rủi ro do mưa gây ra là những nhân tố
có liên quan đến việc quyết định sử dụng giống cây lúa miến (loại kê sống ở các
vùng có khí hậu ấm) của người nông dân tại Tigray, Ethiopia. Mặc dù đã đề cập đến
rủi ro do thời tiết, thiên tai, sâu bệnh ảnh hưởng đến quyết định áp dụng giống cây
bobo, nhưng nghiên cứu chưa đề cập đến rủi ro về kinh tế, đây có thể coi là rủi ro
quan trọng tác động đến quyết định áp dụng của nông dân. Hơn nữa, nghiên cứu
cũng chưa chỉ ra những lợi ích mà việc quyết định sử dụng giống cây lúa miến
mang lại. Theo Ghadim và cộng sự (2005) hai yếu tố liên quan đến rủi ro có tác
động mạnh nhất đến quyết định áp dụng là sự không ưa thích rủi ro và rủi ro tương
đối của cải tiến. Sự không ưa thích rủi ro có xu hướng ngăn cản việc áp dụng và quá
trình này diễn ra mạnh mẽ hơn khi mức độ rủi ro tương đối và quy mô tăng lên.
Nguyễn Quốc Nghi và cộng sự (2014) sử dụng phân tích hồi quy đa biến với
dữ liệu thu thập từ 503 nông hộ ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Khám phá
25
mới cho thấy hầu hết các nông hộ sản xuất nông nghiệp đều chịu ảnh hưởng bởi rủi
ro thị trường đến hiệu quả sản xuất. Trong đó, rủi ro về giá cả đầu ra của nông sản
luôn là mối lo ngại hàng đầu của nông hộ. Từ phân tích này, nhóm nghiên cứu đưa
ra các đề xuất i) với ngành nông nghiệp cần quan tâm đẩy mạnh công tác khuyến
nông, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi
cũng như thường xuyên mở các lớp tập huấn kỹ thuật, hội thảo đầu bờ giúp nông
dân trao đổi kinh nghiệm, nâng cao khả năng tự vệ trước những rủi ro thị trường
luôn tiềm ẩn; ii) với người nông dân thì cần chủ động trong việc cập nhật thông tin
thị trường về tình hình nguồn cung, giá cả của các yếu tố đầu vào, tình hình tiêu thụ
và giá bán để có kế hoạch sản xuất thích hợp. Tuy nhiên, những rủi ro về thương
hiệu cũng như các rủi ro về thời tiết và sâu bệnh ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất
của nông hộ chưa được xem xét đến.
Nhận thức việc áp dụng thực hành nông nghiệp hữu cơ sẽ cải thiện thu nhập
và việc người nông dân thường xuyên tiếp cận với cán bộ khuyến nông có tác động
không nhỏ đến quyết định áp dụng thực hành nông nghiệp hữu cơ của nông hộ ở
Bangladesh đó là kết quả của Sarker và cộng sự (2009) thông qua việc sử dụng mô
hình hồi quy Probit với bộ dữ liệu được thu thập từ 195 nông dân.
Gần đây, Dill và cộng sự (2015) đã xem việc quyết định áp dụng phương
thức quản lý kinh tế trong chăn nuôi bò ở Brazil được giả định là một cách để tối đa
hóa các tiện ích dự kiến, nghĩa là phân bổ các nguồn lực hiệu quả hơn trong các hệ
thống sản xuất để tối đa hóa lợi nhuận và cuối cùng là giảm thiểu rủi ro dự kiến. Kết
quả nghiên cứu chỉ ra rằng, những nông dân sở hữu diện tích đất rộng và đa dạng
hoạt động sản xuất thì ít có xu hướng quyết định áp dụng các quy tắc quản lý kinh
tế này. Trong khi đó, việc tiếp cận với internet, tham gia vào các tổ chức nông dân,
tiếp nhận hỗ trợ về mặt kỹ thuật có ý nghĩa đến xác suất sử dụng các quy tắc quản lý
kỹ thuật trong chăn nuôi bò. Tuy nhiên, các nhân tố như trao đổi thông tin với bạn
bè, những người nông dân chung quanh có tác động đến quyết định áp dụng các
phương thức quản lý kinh tế kỹ thuật chăn nuôi bò thì chưa được quan tâm.
26
Nhìn chung, các nghiên cứu về việc quyết định áp dụng đổi mới cải tiến của
nông dân dựa trên thuyết EUT chỉ bị tác động bởi việc nhận thức tối đa hóa lợi ích
kì vọng, mà không xem xét vai trò của các yếu tố tâm lý xã hội cũng như áp lực xã
hội lên người nông dân khi quyết định áp dụng cải tiến.
Hướng thứ hai dựa trên các thuyết tâm lí xã hội trong đó, các yếu tố nhận
thức, thái độ, chuẩn mực xã hội, kiểm soát hành vi giải thích hành vi quyết định áp
dụng đổi mới của nông dân như thuyết TRA, TPB và IDT. Điển hình trong hướng
tiếp cận này có các tác giả: Bergevoet và cộng sự (2004); Läpple và Kelley (2013);
Wauters và Mathij (2013); Bijttebier và cộng sự (2014): Rezaei (2018).
Bergevoet và cộng sự (2004) cho rằng những mô hình kinh tế là chưa đủ để
giải thích được toàn bộ sự phức tạp trong các quyết định của người nông dân, vốn
thường bị chi phối bởi cả hai mục tiêu kinh tế và phi kinh tế. Hơn thế nữa, những
người nông dân có nhận thức về môi trường, thể hiện một mối quan tâm nhiều hơn
đến môi trường thì có quyết định áp dụng phương pháp canh tác hữu cơ. Ngoài ra,
công trình này còn đề cập đến tác động đáng kể của định mức chủ quan là bằng
chứng mạnh mẽ về sự tồn tại của rào cản xã hội. Cuối cùng, kết luận được đưa ra là
các chính sách ưu đãi về hỗ trợ tài chính chưa đủ để mở rộng cơ cấu của nông
nghiệp hữu cơ do còn tồn tại rào cản xã hội và kỹ thuật. Tuy nhiên, một khi những
trở ngại này đã được khắc phục, thì việc thúc đẩy kinh tế sẽ trở nên quan trọng hơn.
Läpple và Kelley (2013) đã tiến hành xem xét việc quyết định áp dụng phương pháp
canh tác hữu cơ và đã nhận thấy rằng cần phải tính đến niềm tin của nông dân khi
tiến hành giải thích quyết định của họ. Điều này cũng tương tự như các kết luận của
Lynne và cộng sự (1995).
Wauters và Mathij (2013) đánh giá các nhân tố tâm lý – xã hội ảnh hưởng
đến quyết định áp dụng các quy trình bảo tồn của người nông dân dựa trên thuyết
hành vi dự định. Nhóm tác giả tiến hành khảo sát định tính (với kích thước mẫu là
24) và khảo sát định lượng (với kích thước mẫu là 138). Kết quả ước lượng cho thấy
những người không thực hiện hành động một cách hợp lý dựa trên quan điểm của
họ về những kết quả tiềm năng của việc áp dụng các phương pháp bảo tồn. Bên
27
cạnh đó, đa số những người nông dân đều chịu những tác động xã hội từ các tổ chức
mà không liên quan đến việc thúc đẩy thực hiện các phương pháp bảo tồn. Từ đó,
nhóm tác giả đề xuất rằng các chính sách cần phải nhắm vào những vấn đề rộng lớn
hơn và bao gồm vai trò của chính phủ và chính quyền địa phương.
Kiên định với thuyết hành vi dự định, Wauters và cộng sự (2014) xem xét
quyết định áp dụng các quy trình bảo vệ đa dạng sinh học của người công dân dưới
khía cạnh tâm lý học. Kết quả nghiên cứu có được từ cuộc khảo sát với kích thức
mẫu là 106 và phương pháp phân tích nhân tố, cấu trúc tuyến tính đã gợi ý rằng thái
độ, các phạm trù xã hội và sự kiểm soát các hành vi nhận thức tác động gián tiếp
đến việc quyết định áp dụng quy trình bảo vệ đa dạng sinh học thông qua các phạm
trù đạo đức và tự nhận thức. Vì vậy, để thúc đẩy người dân áp dụng quy trình, chính
phủ cần thực hiện những thay đổi có liên quan đến các phạm trù xã hội và ý thức
của cộng đồng nông dân.
Có cùng kết luận của Wauters và cộng sự (2014), Läpple và Kelley (2013).
Borges và cộng sự (2014) sử dụng thuyết hành vi dự định để xác định các nhân tố
tác động đến việc sử dụng đồng cỏ tự nhiên cải tiến. Với dữ liệu khảo sát được thu
thập thông qua phỏng vấn 214 hộ chăn nuôi tại Brazil, kết quả cho thấy rằng quyết
định của người nông dân chịu ảnh hưởng theo cả hai hướng trực tiếp và gián tiếp
bởi thái độ, định mức chủ quan, và mức kiểm soát hành vi nhận thức. Ngoài ra, bảy
nhân tố điều khiển định mức chủ quan được xác định gồm có: gia đình, bạn bè,
nông hộ láng giềng, người bán gia súc, công nhân làm việc ở nơi mua vật tư, các
trung tâm khuyến nông và chính quyền. Những cá thể quan trọng này có thể hoạt
động như các kênh phổ biến thông tin về mô hình, đặc biệt là những người gắn bó
với nông dân, chẳng hạn như gia đình. Ba yếu tố chính của mức kiểm soát hành vi
nhận thức gồm: có đủ kiến thức, đủ kỹ năng, và tính khả dụng việc có hỗ trợ kỹ
thuật. Sự có mặt của những yếu tố này sẽ tạo thuận lợi cho việc áp dụng và sử dụng
đồng cỏ tự nhiên cải tiến.
Bijttebier và cộng sự (2014) xác định và so sánh các rào cản và yếu tố tác
động đối với việc quyết định áp dụng các phương pháp bảo tồn đất ở 8 quốc gia
28
Châu âu. Các cuộc phỏng vấn định tính bán cấu trúc được thực hiện nhằm xác định
những rào cản và yếu tố tác động có thể có và dựa trên những kết quả này một cuộc
khảo sát định lượng với quy mô lớn hơn được thực hiện 25 loại nông trại chính và
tất cả các cuộc khảo sát ở mỗi địa phương đều mang tính đặc trung về đất, khí hậu,
quy định và các vấn đề kinh tế - xã hội. Kết quả cho thấy rằng nhận thức của người
nông dân về nhược điểm của các phương pháp bảo vệ đất (tạo điều kiện cho cỏ dại
sinh trưởng, sản lượng thấp), sự thiếu hụt các loại máy móc cần thiết và thói quen
sự dụng máy cày trên đồng ruộng là những rào cản đối với việc áp dụng các phương
pháp bảo tồn đất. Kết quả cho biết thêm những góc nhìn có giá trị về công tác
khuyến nông.
Một bài viết gần đây nhất của Rezaei và cộng sự (2018) áp dụng mô hình
TPB mở rộng được đề xuất với mục đích dự đoán quyết định của nông dân tham gia
vào thực hành an toàn thực phẩm trong nông trại ở Iran. Dữ liệu được tiến hành thu
thập ở bốn quận khác nhau của tỉnh Alborz nằm ở phía bắc Iran, với tổng số 230
quan sát được chọn ngẫu nhiên từ các quận này. Nghiên cứu sử dụng mô hình cấu
trúc tuyến tính (SEM) đã chỉ ra rằng ba thành phần của mô hình TPB ban đầu gồm:
thái độ, nhận thức kiểm soát hành vi và các chuẩn mực xã hội có ý nghĩa thống kê
với quyết định tham gia của nông dân trong thực hành an toàn thực phẩm trong
nông trại (giải thích 41%). Hơn nữa, kết quả còn cho thấy hai thành phần mở rộng
cho mô hình TPB là chuẩn mực đạo đức và kiến thức đã góp phần gia tăng đáng kể
mức độ giải thích quyết định của nông dân (đã tăng lên 16,4%). Trên cơ sở phát
hiện trên, nghiên cứu đề xuất cần phải xem xét một số biện pháp can thiệp hiệu quả
như các vấn đề sau: cung cấp quy mô lớn chương trình đào tạo và nhận thức cộng
đồng cho nông dân, đặc biệt với sự giúp đỡ của các phương tiện thông tin đại chúng
như radio và truyền hình; tiến hành các cuộc họp và các khóa học mở rộng giáo dục
liên quan đến an toàn thực phẩm và khuyến khích nông dân tham gia các khóa học
này; và phù hợp hoạch định chính sách trong lĩnh vực an toàn thực phẩm, đặc biệt
hỗ trợ nông dân để thực hiện các hoạt động liên quan đến GAP. Mặc dù nghiên cứu
này đã bổ sung thêm các thành phần giải thích về quyết định của nông dân tham gia
29
vào các hoạt động thực hành an toàn thực phẩm trong nông trại, tuy nhiên, việc đề
xuất thêm 2 nhân tố (chuẩn mực đạo đức và kiến thức) chỉ thông qua việc tổng hợp,
phân tích từ các bài viết học thuật đi trước mà chưa chưa có những điều tra phỏng
vấn từ nông hộ để nhằm điều chỉnh và phát triển thang đo cho phù hợp với địa bàn
khảo sát, bên cạnh đó còn thiếu vắng các quan sát về nhận thức sức khỏe và nhận
thức các rủi ro liên quan đến thương hiệu của sản phẩm nông nghiệp là một trong
những khoảng trống cần có cho các nghiên cứu tiếp theo về chủ đề này.
Nhìn chung, các nghiên cứu đều đồng thuận rằng thuyết TPB hay TPB mở
rộng chứng minh được tính hữu ích trong việc lý giải các quyết định của nông dân
thông qua việc xác định các nhân tố chủ chốt. Tuy nhiên, thuyết TPB lại không xem
xét vai trò của thông tin đến từ bạn bè, truyền thông hay cán bộ khuyến nông.
Trong khi đó, các nghiên cứu sử dụng thuyết khuếch tán đổi mới lại đi sâu
tìm hiểu tác động của việc giao tiếp đối với quyết định áp dụng đổi mới của nông
dân. Cụ thể như Makokha và cộng sự (1999) đã sử dụng thuyết khuếch tán đổi mới
của Roger (1995) xác nhận rằng các đặc tính của người nông dân như: mức độ tham
gia và hoạt động trong các dịp tranh luận tập thể, mức độ tham dự tập huấn, giao
lưu tại các hội thảo chuyên đề và vai trò của lãnh đạo có ảnh hưởng không đáng kể
đến nhận thức cũng như quyết định tiếp thu sáng kiến của người nông dân. Tần suất
tiếp xúc giữa người nông dân và bên khuyến nông có ảnh hưởng tích cực đến quyết
định áp dụng các giống ngô, giống mỳ mới của nông dân ở vùng Tigray, Ethiopia.
Công trình của Tutkun và cộng sự (2006) kết hợp thuyết hành vi dự dịnh và
thuyết khuếch tán đổi mới để giải thích hành vi của người nông dân ở Thụy Sĩ. Kết
quả đạt được tính khả thi cao khi 7 trong 8 mối quan hệ được thử nghiệm trong mô
hình kết hợp được kiểm tra có chỉ số p < 0.001 và yếu tố giao tiếp trong mô hình
khuếch tán đổi mới cũng đã giải thích được 76% trong sự biến đổi trong hành vi
tiếp nhận.
Tuy nhiên, các công trình trên đều quan tâm đến các yếu tố kinh tế - xã hội
mà không đề cập đến yếu tố động cơ, giá trị, thái độ. Khắc phục nhược điểm này,
Jackson và cộng sự (2006) đã kết hợp ba lý thuyết khuếch tán đổi mới; thuyết hành
30
động lý luận và thuyết hành vi dự định, tiết lộ động cơ, giá trị và thái độ là những
yếu tố cốt lõi trong quá trình đưa ra quyết định của nông dân. Ngoài ra, có thể kết
hợp các điểm mạnh của mỗi lý thuyết hành vi nêu trên để thiết lập khung lí thuyết
phù hợp và đáng tin cậy mới cũng được đề xuất. Tuy nhiên, việc chú trọng đến
động cơ và giá trị để đánh giá quyết định của nông dân mà chưa chỉ ra được nhận
thức về nguy cơ, rủi ro của cải tiến giải thích cho quyết định áp dụng của nông dân.
Hướng thứ ba dựa vào sự tích hợp của thuyết lợi ích kỳ vọng và thuyết tâm
lý xã hội để nghiên cứu các quyết định áp dụng đổi mới công nghệ của nông dân.
Đây cũng là hướng mà luận án tiếp cận để giải quyết vấn đề đặt ra. Tuy nhiên, cho
đến nay, mới chỉ có Borges và cộng sự (2015) sử dụng phương pháp định tính bằng
cách tổng hợp các bài báo có nội dung về quyết định áp dụng đổi mới công nghệ
trong nông nghiệp. Kết quả đi sâu tìm hiểu đã phân loại được các biến và theo các
nhóm sau: niềm tin; nhận thức về đặc điểm của cải tiến; ý định, thái độ; chuẩn mực
chủ quan và nhận thức kiểm soát hành vi; mục đích và mục tiêu của nông dân; các
yếu tố nền bao gồm các đặc điểm nông dân, hộ gia đình, nông trại, bối cảnh canh
tác và tiếp nhận thông tin hoặc quá trình học. Tuy nhiên, công trình này lại không
đề cập đến vai trò của việc lan truyền, phổ biến thông tin, mà theo Roger (1995)
việc phổ biến thông tin là giai đoạn đầu tiên của quá trình áp dụng đổi mới và hơn
nữa mới chỉ dừng lại ở việc sử dụng phương pháp định tính để tổng hợp đề xuất mô
hình, khung lý thuyết cho việc quyết định áp dụng đổi mới của nông hộ. Vì vậy,
cũng cần có thêm nhiều bằng chứng thực nghiệm kết hợp cả định tính bằng cách
điều tra phỏng vấn sâu và định lượng để khẳng định và bổ sung mô hình lý thuyết
trên.
Ngoài ba hướng nghiên cứu trên, còn có một số bài viết tập trung vào các
đặc điểm kinh tế - xã hội như trình độ học vấn, tuổi tác, quy mô trang trại, sở hữu
đất đai, tiếp cận tín dụng…. để nghiên cứu quyết định áp dụng đổi mới công nghệ
trong nông nghiệp của nông dân. Ví dụ như: Doss và Morris (2000), Weir và John
Knight (2000); Fadare và cộng sự (2013).
31
Doss và Morris (2000) đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng công
nghệ ngô lai ở Ghana, cho thấy có tác dụng không đáng kể của giới trong việc quyết
định áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ.
Giáo dục được cho sẽ giúp các hộ nông dân tăng cường khả năng tiếp cận
các nguồn thông tin. Từ đó sẽ tạo cho họ thái độ tích cực đối với việc quyết định áp
dụng các sáng kiến trong nông nghiệp. Cụ thể, Fadare và cộng sự (2013) sử dụng
mô hình Probit với kích thước mẫu là 5000 hộ trên 6 vùng nông nghiệp tại Nigeria
đã chỉ ra rằng trình độ học vấn của người nông dân có tác động tích cực đến việc
thực hiện (quyết định áp dụng) các quy trình trồng ngô tiên tiến. Tiếp cận sâu hơn
về vai trò của giáo dục đối với việc quyết định áp dụng các sáng kiến nông nghiệp,
Weir và Knight (2000) chỉ ra rằng tác động của giáo dục có ý nghĩa tích cực, tuy
nhiên những nông dân được giáo dục tại gia đình ít có xu hướng tiếp nhận và thực
hiện các sáng kiến nông nghiệp hơn so với các nông dân được đào tạo chính quy.
Với hướng nghiên cứu này, nghiên cứu sinh cũng đồng tình với nhận định
của Abadi-Ghadim và Pannel (1999), khi cho rằng các nhân tố xã hội và nhân khẩu
như tuổi tác và kinh nghiệm, giới tính, trình độ học vấn ảnh hưởng đến quyết định
áp dụng cải tiến bằng cách gây ảnh hưởng lên nhận thức chủ quan, hay thái độ của
nông dân. Tuy nhiên chúng được dự đoán có ảnh hưởng gián tiếp lên nhận thức và
niềm tin của nông dân.
Trong khi đó đa số các nghiên cứu trong nước đều xem VietGAP như một
chương trình, một chính sách để chuyển đổi, phát triển nông nghiệp truyền thống
sang nền nông nghiệp hiện đại (Hoàng, 2018). Chẳng hạn như Hoàng Mạnh Dũng
(2010), Nguyễn Thị Hồng Trang (2016) Ngô Thị Thuận (2010), Nguyễn Anh Minh
(2018). Chính vì vậy mà các kết quả này chỉ mới dừng lại ở việc đánh giá, phân tích
thực trạng từ đó đề xuất các giải pháp nhằm phát triển VietGAP.
Hoàng Mạnh Dũng (2010) đưa ra 5 lý do đề thiết lập mô hình phát triển nông
nghiệp Việt nam thông qua áp dụng tiêu chuẩn GAP trong bối cảnh hiện nay đó là
thứ nhất, để đối phó với biến đổi khí hậu; thứ hai, sự chuyển dịch của cơ cấu ngành
kinh tế; thứ ba, dân số gia tăng cùng với thu hẹp diện tích nông nghiệp; thứ tư, yêu
32
cầu khắt khe về tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa nông nghiệp; thứ năm, giảm dần sự
cách biệt giữa thành thị và nông thôn. Từ đó, để thúc đẩy quá trình áp dụng GAP tại
Việt Nam cần tập trung vào: thứ nhất, Khẳng định chiến lược phát triển nông thôn
Việt Nam theo hướng đa chức năng vào thời kỳ hiện nay; thứ hai, hình thành các
khu chuyên canh dựa vào sản phẩm khác biệt và xây dựng các hợp tác xã nông
nghiệp kiểu mới theo mô hình công ty cổ phần; thứ ba, tăng cường vai trò của các
trung tâm khuyến nông địa phương nhằm thúc đẩy thực hiện có hiệu quả về GAP;
thứ tư, Chính phủ tiếp tục khuyến khích doanh nghiệp đầu tư phát triển nông
nghiệp; thứ năm, xây dựng thương hiệu hàng hóa nông sản Việt Nam đặc biệt chú
trọng đến sản phẩm áp dụng thành công GAP trong sản xuất nông nghiệp.
Ngô Thị Thuận (2010), sử dụng bộ dữ liệu khảo sát từ 120 hộ trồng rau theo
tiêu chuẩn VietGAP của 4 xã thuộc huyện Gia Lâm và Đông Anh, Hà Nội. Bằng
phương pháp thống kê mô tả và phương pháp phân tích xã hội học, kết quả cho rằng
chương trình sản xuất rau theo tiêu chuẩn VietGAP ở Hà Nội mới được thí điểm ở
một số mô hình với diện tích và sản lượng không lớn. Hầu hết các khâu của quá
trình sản xuất người dân mới chỉ tiếp cận chứ chưa thực hiện tốt theo quy trình, mà
nguyên nhân do cả người sản xuất và các yếu tố bên ngoài xã hội. Từ kết quả phân
tích trên, để việc sản xuất rau theo tiêu chuẩn VietGAP được nhân rộng cần i) đầu
tư hoàn thiện hệ thống hạ tầng kỹ thuật phục vụ sản xuất; ii) khuyến khích dồn điền
đổi thửa nhằm hình thành các vùng sản xuất rau an toàn có quy mô lớn; iii) hỗ trợ
để quản lý chất lượng nội bộ; iv) tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến đối với
cả người sản xuất và tiêu dùng.
Áp dụng mô hình logit nhị phân để xác định các nhân tố ảnh hưởng đến mức
độ áp dụng VietGAP cho ngành vải thiều ở Bắc Giang, Việt Nam. Kết quả chỉ ra
rằng các yếu tố ảnh hưởng đáng kể đến mức độ áp dụng VietGAP trong ngành vải
thiều là quy mô trang trại, lợi nhuận ròng trong mùa vụ trước, khả năng tiếp cận
thông tin và thành viên của nhóm nông dân trồng vải. Từ những phân tích này, để
khuyến khích nông dân trồng vải áp dụng các thực hành VietGAP một cách đầy đủ,
nghiên cứu khuyến cáo: 1) cải thiện việc thực hiện chương trình VietGAP; 2) đào
33
tạo thêm cho nông dân và cán bộ khuyến nông, hỗ trợ chế biến, tiếp cận vốn nhiều
hơn, thiết bị và công cụ tốt hơn cho sản xuất vải thiều; 3) và khuyến khích tư cách
thành viên cho nhóm nông dân trồng vải (Loan và cộng sự, 2016).
Nguyễn Thị Hồng Trang (2016) tiếp cận từ góc độ kinh tế đã làm rõ hơn các
nhân tố ảnh hưởng tới việc áp dụng GAP của các cơ sở sản xuất rau bao gồm các
doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác và hộ cá thể ở Việt Nam theo ba nhóm nhân tố:
(1) Các nhân tố thuộc về cơ sở sản xuất rau; (2) các nhân tố thuộc về khách hàng;
(3) các nhân tố thuộc về nhà nước. Để duy trì và nhân rộng việc áp dụng GAP trong
sản xuất rau của các cơ sở ở Việt Nam, nghiên cứu đề xuất một số giải pháp thuộc
về nhà nước trong hoạch định chính sách quản lý và hỗ trợ, tổ chức thực hiện và
kiểm soát hoạt động sản xuất và tiêu thụ rau GAP. Một số giải pháp đối với cơ sở
sản xuất và khách hàng. Tuy nhiên, các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác và hộ
cá thể sẽ có những đặc điểm riêng, vì thế mà các nhân tố tác động đến các chủ thể
này là có khác nhau trong thực tế. Từ đó, các kết quả và các hàm ý chính sách sẽ
khác nhau đối với từng cơ sở sản xuất. Ví dụ: doanh nghiệp thì tiềm lực kinh tế
cũng như khách hàng sẽ khác với hộ cá thể.
Nguyễn Anh Minh (2018) sử dụng các phương pháp thống kê mô tả đã đánh
giá được thực trạng đồng thời chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển sản xuất
rau theo hướng VietGAP ở tỉnh Hòa Bình gồm các nhân tố: điều kiện tự nhiên, thị
trường, cơ sở hạ tầng, tiến bộ kỹ thuật, chính sách khuyến khích phát triển rau
VietGAP, công tác chỉ đạo kiểm tra, giám sát, năng lực tiếp cận của chủ thể sản
xuất và tiêu thụ, điều kiện các nguồn lực của chủ thể sản xuất và tiêu thụ. Từ kết
quả phân tích trên, luận án đề xuất 5 nhóm giải pháp phát triển sản xuất rau theo
hướng VietGAP ở tỉnh Hòa Bình: (i) nhóm giải pháp về quy hoạch, (ii) nhóm giải
pháp về tổ chức sản xuất, (iii) nhóm giải pháp về nâng cao năng lực, (iv) nhóm giải
pháp về thị trường, (v) nhóm giải pháp về quản lý nhà nước. Tuy nhiên, công trình
này mới chỉ dừng lại ở việc sử dụng các phương pháp thống kê mô tả, phương pháp
so sánh để chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng đến việc phát triển rau theo hướng
VietGAP mà chưa có những dữ liệu điều tra để thông qua đó sử dụng các mô hình
34
định lượng nhằm xác định và lượng hóa các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển rau
theo hướng VietGAP. Bên cạnh đó, các yếu tố động cơ, giá trị, thái độ và nhận thức
của nông dân hoặc doanh nghiệp khi tham gia sản xuất rau theo hướng VietGAP
trên địa bàn tỉnh Hòa Bình cũng chưa được quan tâm xem xét.
Đào Quyết Thắng (2018) cho rằng đầu tư sản xuất theo GAP của nông hộ đòi
hỏi phải đầu tư một cách đồng bộ cho tất cả các yếu tố của quá trình sản xuất bao
gồm đầu tư cho nguồn lực con người, đầu tư cho cơ sở hạ tầng, đầu tư vật tư nông
nghiệp và đầu tư ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ trên cả ba nội dung là quyết
định đầu tư, quy mô đầu tư và hiệu quả của đầu tư. Từ đó, sử dụng mô hình hồi quy
OLS để lượng hóa các nhân tố ảnh hưởng đến quy mô vốn đầu tư của các hộ sản
xuất GAP và mô hình hồi quy logistics để lượng hóa các nhân tố ảnh hưởng đến
quyết định đầu tư theo GAP của nông hộ. Kết quả phân tích cho thấy có 5 nhóm
nhân tố: điều kiện sản xuất, đặc điểm nông hộ, thị trường, đầu tư doanh nghiệp và
hỗ trợ của nhà nước ảnh hưởng đến đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp của nông
hộ theo GAP trên cả ba nội dung là quyết định đầu tư, quy mô đầu tư và hiệu quả
của đầu tư. Tuy nhiên, cũng như các bài viết học thuật trước đều xem VietGAP là
một chương trình, một chính sách mà qua đó chính phủ, nhà khoa học, doanh
nghiệp và nông hộ đầu tư vào để thay đổi đưa đến một nền nông nghiệp bền vững
hơn mà không xem VietGAP như một công nghệ mới trong nông nghiệp. Chính vì
vậy, nghiên cứu này chưa đi sâu tìm hiểu động cơ, nhận thức của nông hộ ảnh
hưởng đến quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP, mà nền tảng của các lý thuyết
này chính là thuyết lợi ích kỳ vọng (Bernoulli,1738), thuyết hành vi dự định (Ajzen,
1975) thuyết khuếch tán đổi mới (Roger,1995).
Đi sâu phân tích phản ứng của nông dân khi áp dụng VietGAP trong sản xuất
rau ở tỉnh Thừa Thiên Huế bằng phương pháp định tính. (Hoàng, 2018) đã áp dụng
các lý thuyết hệ thống đổi mới, lý thuyết chuỗi giá trị và thuyết chuyển tiếp công
nghệ. Kết quả cho thấy rằng, nhiều nông dân không áp dụng VietGAP vì thiếu nhu
cầu thị trường cho sản phẩm rau được chứng nhận VietGAP, những rủi ro liên quan
đến việc phá vỡ hợp đồng không chính thức giữa người buôn và nông dân hay thiếu
35
khả năng trong các thành viên chủ chốt của chuỗi. Trong khi đó, một số ít nông dân
áp dụng VietGAP vì họ nhận được sự hỗ trợ từ phía chính quyền địa phương hay
lòng trung thành của họ với chính quyền. VietGAP ở đây được xem như một cơ chế
chính sách mà chính phủ sử dụng tác động đến người nông dân nhằm thay đổi một
hệ thống lương thực nông nghiệp truyền thống sang hiện đại chứ không phải một
công nghệ mới. Chính vì vậy, mà các yếu tố động cơ, giá trị, thái độ và nhận thức
của nông dân có ảnh hưởng đến quyết định áp dụng VietGAP cho các mùa vụ tiếp
theo như thế nào chưa được quan tâm.
Nhìn chung, cho đến nay chưa có nghiên cứu học thuật nào đi sâu tiếp cận từ
góc độ động cơ, tâm lý, nhận thức để xem xét quyết định áp dụng tiêu chuẩn
VietGAP trong sản xuất rau của người nông dân.
1.4. Mô hình đề xuất nghiên cứu
Trên cơ sở tiếp cận có chọn lọc những ưu điểm của các mô hình như
TRA,TPB, EUT, IDT và một số các nghiên cứu thực nghiệm của các tác giả trên thế
giới như Borges và cộng sự (2015); Läpple và Kelley,(2010); Wauters và Mathij
(2013); Bijttebier và cộng sự (2014) để đề xuất mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến
quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của nông dân tại hai địa
phương Quảng Nam và Đà Nẵng. Mô hình này tập trung phân tích các yếu tố: (1)
giao tiếp; (2) nhận thức lợi ích; (3) nhận thức rủi ro; (4) nhận thức môi trường (5)
Định mực chủ quan; (6) Kiểm soát hành vi.
Giao tiếp
Trong thời đại như ngày nay, giao tiếp là một trong những nhân tố ảnh hưởng
quan trọng đến quyết định áp dụng đổi mới công nghệ của nông dân. Theo Rogers
(1995) đặc điểm của giao tiếp là tạo dựng và chia sẽ thông tin với nhau để hiểu biết
được nhau. Tuy nhiên, ông lại xem người nông dân như một cá thể bị động bởi các
kế hoạch của cơ quan nhà nước. Fliegel (1993) đã minh họa một phương pháp phù
hợp hơn cho sự lĩnh hội các sáng kiến nông nghiệp, lập luận rằng cách tiếp cận
tuyến tính có xu hướng hạn chế quá trình khuếch tán thành một quá trình lên kế
hoạch hợp lý dựa trên sự phát triển của các tổ chức như cơ quan chính phủ, thay vì
36
xem người nông dân như là một cá thể bị động chịu phản ứng bởi các tác động ngẫu
nhiên và có sự tham gia của xã hội và giao tiếp. Gebremariam, (2001) đã chứng
minh rằng tần suất tiếp xúc giữa người nông dân và bên khuyến nông có ảnh hưởng
tích cực đến quyết định áp dụng các giống ngô, giống mỳ mới của nông dân ở vùng
Tigray, Ethiopia. Để kiểm định lại sự tác động của việc giao tiếp tới quyết định áp
dụng tiêu chuẩn VietGAP, nghiên cứu đề xuất đưa nhân tố này vào mô hình.
Nhân tố lợi ích
Nhận thức về lợi ích từ việc áp dụng đổi mới công nghệ trong nông nghiệp là
mối quan tâm hàng đầu của người nông dân. Người nông dân sẽ so sánh lợi ích từ
việc áp dụng công nghệ mới so với công nghệ truyền thống qua đó thúc đẩy quyết
định áp dụng và cuối cùng đi đến quyết định áp dụng công nghệ mới. Nhiều bài viết
đã đưa nhân tố này vào kiểm định sự ảnh hưởng của nó tới quyết định áp dụng đổi
mới công nghệ trong nông nghiệp (Batz và cộng sự, 1999), Sarker và cộng, 2009),
Dill và cộng sự (2015). Do vậy, để kiểm định lại sự tác động của nhân tố này tới
quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau, nhân tố nhận thức về lợi
ích được đề xuất trong mô hình.
Nhận thức về môi trường
Trong các kết quả trước đây, nhân tố nhận thức về môi trường của nông dân
rất ít được quan tâm. Nhân tố này chỉ suất hiện trong nghiên cứu của Bergevoet và
cộng sự (2004) khi cho rằng những mô hình kinh tế là chưa đủ để giải thích được
toàn bộ sự phức tạp trong các quyết định của người nông dân, vốn thường bị chi
phối bởi cả hai mục tiêu kinh tế và phi kinh tế. Ngoài ra, những người nông dân có
nhận thức về môi trường, thể hiện một mối quan tâm nhiều hơn đến môi trường thì
có quyết định áp dụng phương pháp canh tác hữu cơ. Sarker và cộng sự (2009) cho
rằng việc nhận thức được tác động của việc áp dụng đổi mới công nghệ mang lại
sản phẩm an toàn cho người tiêu dùng và cải thiện môi trường xung quanh. Tuy
nhiên, nhận thức về sức khỏe đối với bản thân người nông dân khi áp dụng đổi mới
công nghệ chưa được chỉ ra trong các bài viết trên. Nhận thấy đây là một thành tố
mới, một quan sát mới có thể đóng góp cho khung khổ lý thuyết cần phải được kiểm
37
chứng. Với ý nghĩa như trên, nhân tố nhận thức môi trường được đưa vào mô hình
đề xuất.
Nhận thức về rủi ro
Nhận thức về rủi ro ảnh hưởng đến quyết định áp dụng đổi mới công nghệ
trong nông nghiệp của nông dân được quan tâm bởi Abadi Ghadim và Pannel
(1999); Abadi Ghadim và cộng sự (2005); Wubeneh (2006). Cụ thể, Wubeneh
(2006) Wubeneh (2006) đã đề cập đến những nhận thức về rủi ro của kỹ thuật và
các rủi ro do thời tiết, thiên tai, sâu bệnh ảnh hưởng đến quyết định áp dụng giống
cây lúa miến, nhưng chưa đề cập đến rủi ro về thương hiệu, là những rủi ro kinh tế,
đây được xem là các rủi ro quan trọng nhất trong quá trình đưa ra quyết định áp dụng
đổi mới (Abadi Ghadim và cộng sự, 2005). Nhận thấy đây có thể là một quan sát mới
trong nghiên cứu quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau. Vì
vậy, nhân tố nhận thức rủi ro được đề xuất trong mô hình nghiên cứu.
Định mức chủ quan
Hầu hết các nhà nghiên cứu đều đồng thuận rằng thuyết hành vi dự định TPB
của Ajzen (1991) hữu ích trong việc lý giải các quyết định áp dụng đổi mới công
nghệ thông qua các nhân tố như thái độ, định mức chủ quan và nhận thức kiểm soát
hành vi. Định mức chủ quan là quan điểm của một người về việc các quy chuẩn xã
hội sẽ ảnh hưởng đến bản thân họ như thế nào khi thực hiện hoặc không thực hiện
hành vi đó (Ajzen và Fishbein, 1975). Trong một cộng đồng mà tính thuần nông
như Quảng Nam; Đà Nẵng thì người nông dân sẽ có quyết định và sẽ thực hiện
hành vi theo cách mà những người thân như bạn bè, bà con mong muốn. Chính vì
vậy, để khẳng định sự tác động của nhân tố định mức chủ quan tới quyết định áp
dụng tiêu chuẩn VietGAP của nông dân tại hai địa phương Quảng Nam và Đà
Nẵng, nhân tố này được đưa vào mô hình.
Nhận thức kiểm soát hành vi
Trong thuyết hành vi dự định (Ajzen, 1991) cho rằng không phải tất cả hành
vi đều chịu sự kiểm soát của lý trí, mà hành vi có thể trải dài trên nhiều mức độ
khác nhau từ kiểm soát hoàn toàn cho đến mất kiểm soát hoàn toàn. Nhiều nghiên
cứu trước đây cũng đã kiểm định ảnh hưởng của nhân tố nhận thức kiểm soát hành
38
vi đến quyết định áp dụng đổi mới của nông dân (Wauters và cộng sự, 2014);
(Läpple, D., & Kelley, 2013). Borges và cộng sự (2014) cho rằng ý định của người
nông dân chịu ảnh hưởng theo cả hai hướng trực tiếp và gián tiếp bởi thái độ, định
mức chủ quan, và mức độ nhận thức kiểm soát hành vi đến việc sử dụng đồng cỏ tự
nhiên cải tiến. Trong thực tế khi mà người nông dân nhận thức được các nguồn lực
và cơ hội sẽ có quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP. Chính vì vậy, mô hình này
tiếp tục đề xuất nhân tố nhận thức kiểm soát hành vi.
Trong mô hình đề xuất các biến điều tiết như độ tuổi, kinh nghiệm, giới tính,
có ảnh hưởng đến quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau bằng
cách gây ảnh hưởng lên nhận thức chủ quan, hay thái độ của nông dân. Tuy nhiên
chúng được dự đoán có ảnh hưởng gián tiếp lên nhận thức và niềm tin của nông dân
(Abadi-Ghadim và Pannel, 1999). Vì vậy, mô hình nghiên cứu này loại bỏ các biến
điều tiết như trên.
Với những lý do trên, mô hình đề xuất xem xét mối quan hệ giữa các yếu tố
(1) giao tiếp; (2) nhận thức lợi ích; (3) nhận thức rủi ro; (4) nhận thức môi trường
(5) Định mực chủ quan; (6) Kiểm soát hành vi ảnh hưởng đến quyết định áp dụng
tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của nông dân tại hai địa phương Quảng Nam
Giao tiếp
Nhận thức lợi ích
Nhận thức môi trường
Quyết định áp
dụng
Nhận thức rủi ro
Định mức chủ quan
Kiểm soát hành vi
và Đà Nẵng như sau:
Hình 1.5. Mô hình đề xuất nghiên cứu
39
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Với mục đích hệ thống hóa cơ sở lý thuyết và hình thành mô hình quyết định
áp dụng đổi mới công nghệ trong nông nghiệp của nông hộ, chương này đã đạt được
những kết quả sau:
Thứ nhất, hệ thống hóa một cách khoa học các vấn đề liên quan đến công
nghệ và đổi mới công nghệ trong nông nghiệp, theo đó, quy trình sản xuất rau theo
tiêu chuẩn VietGAP trong nông nghiệp được liên bộ Nông nghiệp và phát triển
nông thôn và Khoa học công nghệ ban hành theo quyết định số 379 ngày 28/1/2008
được coi là đổi mới công nghệ trong nông nghiệp.
Thứ hai, quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau ý muốn
nói đến các phương pháp, quy trình mà người nông dân thực hiện trong các mùa vụ
tiếp theo.
Thứ ba, tổng kết các lý thuyết về quyết định áp dụng đổi mới công nghệ
trong nông nghiệp, kết quả cho thấy có 2 nhóm lý thuyết, nhóm thứ nhất dựa trên
góc độ kinh tế có thuyết lợi ích kỳ vọng, nhóm thứ hai dựa trên cách tiếp cận từ góc
độ hành vi, tâm lý xã hội có các thuyết như thuyết hành động hợp lý, thuyết hành vi
dự định và thuyết khuếch tán đổi mới.
Thứ tư, đã chỉ ra được mô hình lý thuyết các nhân tố ảnh hưởng đến quyết
định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của nông dân tại hai địa
phương Quảng Nam và Đà Nẵng.
40
CHƯƠNG 2
THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU
2.1. Giới thiệu địa bàn nghiên cứu
Khi nghiên cứu về cộng đồng, hay khu vực nào cũng cần giới thiệu về đặc
điểm tự nhiên, xã hội, điều kiện cơ sở hạ tầng, bởi vì, đó chính là một trong những
yếu tố tác động đến đời sống sinh hoạt và sản xuất của người dân. Đặc biệt, nghiên
cứu này lựa chọn 6 khu vực sản xuất thuộc hai địa phương tỉnh Quảng Nam và
thành phố Đà Nẵng mà trước đây (1/1/1997) là một tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng, vì
vậy mà có những nét tương đồng và khác biệt nhau.
Đà Nẵng trải dài từ 15°15' đến 16°40' Bắc và từ 107°17' đến 108°20' Đông.
Phía bắc giáp tỉnh Thừa Thiên-Huế, phía tây và nam giáp tỉnh Quảng Nam, phía
đông giáp biển Đông, có diện tích đất tự nhiên là 1.255,53 km². Trong đó, đất lâm
nghiệp chiếm 512,21 km²; đất nông nghiệp là 117,22 km²; đất chuyên dùng là
385,69 km²; đất ở 30,79 km² và đất chưa sử dụng 207,62 km². Đất ở Đà nẵng có các
loại: cồn cát và đất cát ven biển, đất mặn, đất phèn, đất phù sa, đất xám bạc màu và
đất xám, đất đen, đất đỏ vàng, đất mùn đỏ vàng (dẫn theo vi.wikipedia.org).
Đà Nẵng nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa điển hình, nhiệt độ cao
và ít biến động. Mỗi năm có 2 mùa rõ rệt: mùa mưa kéo dài từ tháng 8 đến tháng 12
và mùa khô từ tháng 1 đến tháng 7, thỉnh thoảng có những đợt rét mùa đông nhưng
không đậm và không kéo dài. Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 25,9 °C; cao
nhất vào các tháng 6, 7, 8, trung bình 28-30 °C; thấp nhất vào các tháng 12, 1, 2,
trung bình 18-23 °C. Độ ẩm không khí trung bình là 83,4%; cao nhất vào các tháng
10, 11, trung bình 85,67-87,67%; thấp nhất vào các tháng 6, 7, trung bình 76,67-
77,33%. Lượng mưa trung bình hàng năm là 2.504,57 mm; lượng mưa cao nhất vào
các tháng 10, 11, trung bình 550-1.000 mm/tháng; thấp nhất vào các tháng 1, 2, 3, 4,
trung bình 23-40 mm/tháng (dẫn theo vi.wikipedia.org).
Trong khi đó, Phía bắc Quảng Nam giáp thành phố Đà Nẵng và tỉnh Thừa
Thiên - Huế, phía nam giáp tỉnh Quảng Ngãi và tỉnh Kon Tum, phía đông giáp biển
Đông, phía tây giáp tỉnh SêKông của nước Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào, có
diện tích tự nhiên 10.438,37 km2, diện tích đất nông nghiệp 846.453 ha chiếm
41
81,09%: trong đó diện tích đất sản xuất nông nghiệp là 115.542 ha (chiếm 11,07%
đất tự nhiên). Quảng Nam có nhiệt độ và độ ẩm tương tự như Đà Nẵng do cùng nằm
trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa (dẫn theo vi.wikipedia.org).
Cụ thể hơn tại 6 khu vực sản xuất này còn có sự khác nhau về giao thông nội
đồng cũng như giao thông liên xã của Hưng Mỹ, Lang Châu Bắc và Bàu Tròn nhìn
chung đã bê tông hóa, nhưng con đường còn nhỏ. Ngược lại thì khu vực La Hường
được sự hỗ trợ của dự án nâng cao chất lượng, an toàn sản phẩm nông nghiệp của
Sở NN&PTNT thành phố đầu tư nên giao thông nội đồng cũng như các hạng mục
từ hỗ trợ kỹ thuật khá khang trang.
Hình 2.1. Dụng cụ sản xuất của hộ dân ở Hưng Mỹ
Nguồn: Dữ liệu khảo sát
Về điện sản xuất: các hộ sản xuất ở Hưng Mỹ đều kéo điện sinh hoạt từ nhà
ra nơi sản xuất, đường dây điện khá cũ kỹ, được bắt tạm bợ ở các cột điện bằng tre
hay vắt ngang cây dương liễu. Việc phải kéo điện từ nhà ra khu sản xuất hàng trăm
met là tình trạng chung của các hộ. Trong khi đường dây điện lại nằm ngay ở khu
vực sản xuất nhưng các hộ không thể kéo xuống để dùng. Đây là một thực tế mà
trong mấy năm vừa qua hợp tác xã (HTX) Mỹ Hưng cũng như các hộ dân đã nhiều
lần kiến nghị với UBND huyện đề nghị công ty điện lực Thăng Bình bắt công tơ
điện phục vụ sản xuất. Ngược lại, điện sản xuất của 3 vùng rau La Hường; Lang
Châu Bắc và Bàu Tròn thì rất ổn định, đường đây điện đảm bảo an toàn, mỗi nhà
đều có công tơ riêng.
42
Về đất đai thổ nhưỡng: ngoại trừ khu vực sản xuất Hưng Mỹ có địa chất
chủ yếu là đất cát trắng, thì 3 khu vực sản xuất còn lại đều có điều kiện địa chất chủ
yếu là đất cát pha và mạch nước ngầm ổn định tạo điều kiện thuận lợi cho việc canh
tác các loại rau, củ quả.
Về diện tích sản xuất: các nông hộ ở Hưng Mỹ tuy nhiều nhưng lại rải rác,
trong khi ở Lang Châu Bắc, Bàu Tròn và La Hường thì diện tích tập trung, chỉ có 1
thửa, rất tiện cho việc che chắn, chăm sóc và đầu tư trang thiết bị sản xuất.
Về sản phẩm bao bì: hiện tại chỉ có 2 khu vực sản xuất La Hường và Hưng
Mỹ có sản phẩm bao bì, do còn được tổ chức Jaka và Sở NN&PTNT thành phố Đà
Nẵng hỗ trợ chứng nhận tiêu chuẩn VietGAP, còn lại 2 khu vực Lang Châu Bắc và
Bàu Tròn đã hết được chứng nhận do không có kinh phí. Tuy vậy, khi nói đến rau
Bàu Tròn và Lang Châu Bắc, người tiêu dùng đều biết đến chất lượng sản xuất theo
tiêu chuẩn VietGAP.
Hình 2.2. Máy cày của hộ dân ở vùng rau La Hường
Nguồn: Dữ liệu khảo sát
2.2. Tình hình sản xuất rau theo tiêu chuẩn VietGAP của nông hộ tại
thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam
2.2.1. Tình hình sản xuất rau theo tiêu chuẩn VietGAP trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam
Theo Quyết định số 4113/QĐ-UB ngày 7/7/2003 của UBND thành phố Đà
Nẵng về việc triển khai dự án đầu tư sản xuất, chế biến và tiêu thụ rau an toàn. Từ
43
năm 2003, thành phố đã triển khai đầu tư các vùng chuyên canh rau an toàn tập
trung tại 04 quận, huyện. Tính đến năm 2016, diện tích sản xuất tại các vùng rau an
toàn tại thành phố là 114,6 ha phân bổ tại 8 vùng sản xuất được quy hoạch, đầu tư
cơ sở hạ tầng.
Bảng 2.1. Diện tích sản xuất của các vùng rau an toàn trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng tính đến năm 2016
STT Vùng rau Diện tích (ha)
Vùng rau an toàn được quy hoạch, đầu tư cơ sở hạ tầng 14,5 9 10,5 10,0 7,4
15,70
Túy Loan Tây – Hòa Phong Thạch Nham Tây - Hòa Nhơn Phú Sơn 2,3 - Hòa Khương Phú Sơn Nam - Hòa Khương Vùng rau cánh đồng 19/8 – Hòa Khương Yến Nê - Hòa Tiến Cẩm Nê - Hòa Tiến La Hường – Hòa Thọ Đông 12 1 2 3 4 5 6 7 8
Vùng rau an toàn sản xuất tập trung khác
1 Mỹ An 2 3 4 5 6 7 Sơn Thủy A20 - Hòa Hải Hòa Hiệp Nam Hòa Khánh Nam Phước Hưng – Hòa Nhơn Ninh An – Hòa Nhơn
11 8 5 7 1 1 2.5 114,6 TỔNG CỘNG
Nguồn: Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ Thực vật Đà Nẵng, 2016 Những con số trên cho thấy diện tích canh tác rau an toàn vẫn nhỏ hơn nhiều
lần so với diện tích trồng rau của toàn thành phố. Bên cạnh đó, diện tích vùng sản
xuất đạt tiêu chuẩn VietGAP của thành phố vẫn còn rất khiêm tốn như: La Hường-
Cẩm Lệ 6 ha; và Túy Loan 5 ha; Yến Nê 1,2ha; Cẩm Nê 7 ha; (Báo cáo của Chi
cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật Đà Nẵng, 2016).
44
Trong khi đó, đến nay trên toàn tỉnh Quảng Nam có 20 vùng quy hoạch đạt
yêu cầu và tiêu chí để phát triển rau theo hướng VietGAP với tổng diện tích là
262,59 ha, chiếm 2,17% diện tích trồng rau trên toàn tỉnh. Tuy nhiên, hiện trong số
20 vùng được quy hoạch hiện chỉ có 04 vùng đang sản xuất rau VietGAP là Bình
Triều với gần 24 ha, 24 ha tại Bàu Tròn xã Đại An; 4 ha tại xã Đại Phong thuộc
huyện Đại Lộc, 6 ha tại Lang Châu Bắc, huyện Duy Xuyên (Báo cáo của Chi cục
Bảo vệ thực vật Quảng Nam, 2016). Trong đó, có 2 vùng còn chứng nhận của
Trung tâm vùng 2 về VietGAP, 2 vùng còn lại do không có kinh phí để đánh giá
giám sát định kỳ.
Bảng 2.2. Các vùng đạt yêu cầu và tiêu chí để phát triển rau theo hướng
VietGAP tại tỉnh Quảng Nam
TT Địa phương Vùng quy hoạch
Số địa điểm 01
01 Thị xã Hội An 02 Huyện Điện Bàn
03
03 Huyện Đại Lộc 02
Duy
04 Huyện Xuyên 03
01
05 Huyện Quế Sơn Thăng 06 Huyện
Bình 04
07 Thành phố Tam
Kỳ 03
Núi
08 Huyện Thành 03
- Đồng Trà Quế - Cẩm Hà - Thôn Tây An - Điện Phong - Thôn Khúc Lũy - Điện Minh - Thôn 8B - Điện Nam Trung - Đồng Bàu Tròn - Đại An - Đồng Thuận Mỹ - Đại Phong - Đồng Lệ Sơn - Duy Nghĩa - Đồng Bà Thụ (LCB) - Duy Phước - Đồng Minh Khánh - Duy Trung - Thôn 2 A - Quế Phú - Thôn Hưng Mỹ - Bình Triều - Thôn Châu Khê - Bình Sa - Thôn 2B - Bình Giang - Qúy Hương - Bình Quý - Khối phố 2 - Trường Xuân - Thôn Đồng Hành - Tam Ngọc - Khối phố Hương Sơn-Hoà Hương - Đồng Đế - Tam Anh Nam - Đồng Xuân - Tam Giang - Thôn Phú Bình - Tam Xuân I Diện tích (ha) 20 10 8.50 7.10 34.50 7. 4.60 10.30 35.50 25.90 23.96 7.5 9.3 12. 6.63 5. 4.8 10 10 10 262.59 20
Tổng Nguồn: Khảo sát của Chi cục Bảo vệ thực vật tỉnh Quảng Nam, 2016
45
Các loại cây trồng được chứng nhận gồm rau ăn quả và rau ăn lá: rau muống,
mồng tơi, cải xanh, dền, ngò, bí đao, bí đỏ, mướp, bầu, cải ngọt, măng tây, đậu đũa,
ớt, rau quế, rau húng, rau ngót, khổ qua, cà tím, diếp cá, hành lá, dưa leo, xà lách.
Thời vụ sản xuất của rau VietGAP và rau thông thường nhìn chung là như
nhau. Qua thực tiễn sản xuất ở các vùng chuyên canh rau tập trung cũng như các mô
hình sản xuất rau an toàn trên địa bàn, có thể nói đối với các loại rau ở đây được
trồng quanh năm. Tuy nhiên, vụ trồng chính vẫn là vụ Đông Xuân; đây là vụ trồng
được nhiều loại rau từ rau ăn lá đến rau ăn quả. Tuy nhiên, giá bán rau trong vụ
Đông Xuân thường thấp hơn các vụ khác, thường chỉ bằng 50-60% giá so với vụ Hè
Thu. Thời vụ trồng rau được phân làm hai vụ chính:
- Vụ Đông Xuân: Từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau, các loại rau được trồng
thường là: (i) Nhóm rau ăn lá: Cải các loại, xà lách, tần ô, các loại đậu cô ve, đậu
đũa…; (ii) Nhóm rau ăn quả: Bí xanh, bí đỏ, khổ qua, cà chua, bầu, ớt, dưa chuột…;
(iii) Nhóm rau gia vị: Hành, ngò…
- Vụ Hè Thu: Từ tháng 4 đến tháng 9. Các loại rau được trồng thường là: (i)
Nhóm rau ăn lá: Cải các loại, muống, tần ô, dền…; (ii) Nhóm rau ăn quả: Dưa các
loại, mướp, khổ qua, bí xanh,…; (iii) Nhóm rau gia vị: Hành, các nhóm rau thơm.
Ngoài ra, còn có vụ Đông diễn ra từ tháng 10 đến tháng 12. Tuy nhiên, thời
gian này trùng với mùa mưa lụt. Do sản xuất rau bị hư hỏng nên việc trồng rau ở vụ
này không đáng kể, đến nay chưa phổ cập được kỹ thuật sản xuất rau trong mùa mưa.
Năng suất của các sản phẩm rau củ quả trên địa bàn khảo sát không đồng đều
và phụ thuộc vào sự chuyên canh của từng vùng. Các vùng chuyên sản xuất củ như
Bàu Tròn – Đại An, Tây An – Đại Phong, có năng suất tương đối cao, khoảng 240
tấn/ha. Trong khi đó những vùng chuyên sản xuất rau như La Hường, Yến Nê,
Hưng Mỹ thì có năng suất từ 140 – 160 tấn/ha. Bên cạnh đó, những năm qua, cả hai
địa phương Quảng Nam và Đà Nẵng không ngừng mở các lớp tập huấn giúp bà con
nông dân nắm được những kiến thức về kỹ thuật trồng rau VietGAP. Giai đoạn từ
2011 – 2016, Sở NN&PTNT thành phố Đà Nẵng đã tổ chức 110 lớp tập huấn với
3.725 lượt người tham dự là các cán bộ hợp tác xã và nông dân trực tiếp sản xuất
rau VietGAP tại địa phương (Báo cáo của Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật Đà
46
Nẵng, 2016). Cùng thời gian này, Quảng Nam cũng đã đào tạo nguồn giảng viên về
chương trình VietGAP cho 20 cán bộ khuyến nông viên cơ sở (trình độ Đại học trở
lên), đây là lực lượng nòng cốt thường xuyên tham gia chuyển giao tiến bộ kỹ thuật
cho người sản xuất. Chi cục cũng đã tổ chức lớp tập huấn nâng cao năng lực cung
ứng dịch vụ đầu vào cho 40 học viên là đại diện của các đại lý kinh doanh vật tư
nông nghiệp trên địa bàn và mở 98 lớp tập huấn kỹ thuật sản xuất rau an toàn theo
hướng VietGAP cho nông dân trực tiếp sản xuất rau với hơn 3.920 lượt người tham
dự từ hướng dẫn sản xuất rau an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP từ khâu làm đất,
chọn thời vụ, bón phân, tưới nước, chăm sóc, kỹ thuật trồng luân canh, bố trí cây
trồng hợp lý và phòng trừ sâu bệnh hại một cách khoa học và hiệu quả đến việc ghi
chép… Với những nông dân lần đầu tiên tham gia sản xuất rau theo hướng chuyên
canh, đặc biệt sản xuất trong nhà lưới cải tiến còn nhiều bỡ ngỡ, nhưng dưới sự
hướng dẫn tận tình của cán bộ kỹ thuật, người dân đã nắm được kỹ thuật từ khâu
làm đất, ươm giống, gieo hạt, chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh... Các lớp tập huấn
được tổ chức theo hình thức học lý thuyết tại chỗ và hướng dẫn thực hành tại đồng
ruộng nhằm giúp bà con nắm rõ kiến thức thực tế để tự xử lý những tình huống phát
sinh trong quá trình sản xuất (Báo cáo của Chi cục Bảo vệ thực vật Quảng Nam,
2016).
Tuy nhiên, sản lượng và năng suất trên chưa đạt yêu cầu một phần là do điều
kiện thời tiết khắc nghiệt trong vài năm qua, một phần là do khả năng tiêu thụ rau
an toàn trên địa bàn còn khá hạn chế, chỉ có 10% số rau theo tiêu chuẩn VietGAP
trên địa bàn Đà Nẵng được các hợp tác xã sản xuất rau an toàn kết nối cung cấp cho
các cửa hàng, trường học và đến 90% được bán cho tiểu thương chợ đầu mối và số
còn lại do nông dân tự bán (Phương Anh, 2017). Trong khi đó, việc tiêu thụ rau
VietGAP tại Quảng Nam cũng không mấy khả quan. Trong giai đoạn từ 2012 đến
năm 2014, Công ty TNHH Việt Thiên Ngân một mặt đưa kỹ thuật viên trực tiếp
hướng dẫn, hỗ trợ bà con tại cánh đồng, cung ứng giống, phân bón mặt khác còn
đứng ra bao tiêu sản phẩm. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà hiện
công ty này đã ngừng ký hợp đồng với nông dân, dẫn đến đầu ra của rau VietGAP
bấp bênh, nông dân không còn mặn mà.
47
Nhìn chung, có thể nói việc phát triển sản xuất rau theo tiêu chuẩn VietGAP
được triển khai ở hai địa phương Quảng Nam và Đà Nẵng bước đầu có những thành
công. Tuy nhiên, không tránh khỏi một số khó khăn hạn chế. Nghiên cứu này chắt
lọc một số nguyên nhân quan trọng đã được đăng tải trên một số trang web như sau:
Nguyên nhân đó trước hết đến từ tập quán sản xuất nhỏ lẻ của chính người sản
xuất. Khi có doanh nghiệp như công ty Việt Thiên Ngân đứng ra bao tiêu sản phẩm
thì người nông dân thường phá vỡ hợp đồng chỉ vì chút lợi nhuận ban đầu để bán ra
cho thương lái. Hơn nữa, chính bản thân người nông dân cũng ngại liên kết với
nhau trong việc sản xuất và cung ứng đầu ra.
Nguyên nhân thứ hai đến từ chính quyền địa phương, cơ quan hữu quan chưa
kịp thời quy hoạch vùng sản xuất rau an toàn. Có thể nói đây là nguyên nhân quan
trọng cản trở sự phát triển rau an toàn nói chung và rau VietGAP nói riêng.
Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền và hậu kiểm không thường xuyên. Điều
này đã dẫn đến tình trạng người sản xuất thì không tuân thủ đúng quy trình, còn
thương lái thì trà trộn rau không an toàn để tiêu thụ.
Ngoài ra, người tiêu dùng chưa thể phân biệt được đâu là rau áp dụng quy
trình VietGAP đâu là rau không an toàn, chỉ có thể phân biệt qua sản phẩm có
thương hiệu như Hưng Mỹ, Bàu Tròn còn lại một số vùng rau như Lang Châu Bắc,
Túy Loan ... hầu hết chưa có thương hiệu. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến
người tiêu dùng mất lòng tin vào rau VietGAP.
Và nguyên nhân nữa cũng xuất phát từ người tiêu dùng là có xu hướng thích
mua sản phẩm rẻ, mà rau VietGAP phải qua nhiều công đoạn như xử lý, đóng gói
nên thường cao hơn giá rau không an toàn. Đây cũng chính là một trong những
nguyên nhân khiến việc tiêu thụ và phát triển rau VietGAP trở nên khó khăn hơn.
2.2.2. Tình hình áp dụng các tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của
nông hộ tại thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam
Qua khảo sát thực tế tại địa bàn nghiên cứu cho thấy, khu vực sản xuất cách
xa khu vực có chất thải công nghiệp nặng, bệnh viện và xa nghĩa trang. Như vậy
vùng sản xuất đảm bảo yêu cầu sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP.
48
Chất lượng cây con giống có ý nghĩa rất quan trọng đối với hiệu quả sản
xuất. Theo tiêu chuẩn VietGAP, đối với hộ mua giống phải có giấy chứng nhận, còn
đối với hộ tự để giống phải có hồ sơ ghi chép các biện pháp xử lý hạt giống, cây con
giống. Kết quả khảo sát cho thấy, có đến 176 hộ (chiếm 60%) phải đi mua giống tại
các quầy thuốc BTVT được hợp tác xã hay Trung tâm khuyến nông chỉ định, 100%
trong số đó đều có giấy chứng nhận khi mua. Các loại cây giống thường phải mua
như: cải mầm, rau muống, bí đao, bí đỏ, mướp, dưa leo, đậu đũa, ớt, mồng tơi. Còn
118 hộ (chiếm 40%) tự để giống, tuy nhiên, các hộ này lại hoàn toàn không áp dụng
việc ghi chép các biện pháp xử lý hạt giống, cây con giống. Các loại giống cây tự để
giống chủ yếu là cải bằng, ngò, đậu bắp, xà lách, cải bẹ trắng, khổ qua. Theo kết
quả khảo sát, 60% hộ đi mua giống có nguồn gốc rõ ràng, cơ bản đáp ứng được tiêu
chí về cây giống theo tiêu chuẩn VietGAP.
Đất để trồng rau theo tiêu chuẩn VietGAP phải là đất cao, thoát nước tốt,
thích hợp với quá trình sinh trưởng, phát triển của cây rau. Đất có chứa hàm lượng
nhỏ kim loại nhưng không được tồn dư hóa chất độc hại. Kết quả khảo sát cũng cho
thấy, hầu hết các hộ có đất sản xuất thoát nước tốt, đất ở các khu vực này chủ yếu là
đất cát hoặc đất cát pha, hơn nữa khu vực sản xuất đều xa nghĩa trang, bệnh viện và
xa các khu công nghiệp nên đất canh tác ở đây rất phù hợp cho phát triển rau theo
tiêu chuẩn VietGAP và được Trung tâm Kiểm định chất lượng vùng II kiểm định
đạt yêu cầu.
Theo tiêu chuẩn VietGAP, nước tưới cho rau phải là nước lấy từ nguồn nước
sạch, không bị ô nhiễm hay chứa hóa chất độc hại cho đất, rau và không gây ảnh
hưởng đến sức khỏe con người. Qua khảo sát cho thấy, nguồn nước chính sử dụng
cho việc tưới tiêu là giếng khoan. 100% các nguồn nước đều đảm bảo cho việc tưới
tiêu và nước rửa dụng cụ sản xuất không chảy qua vùng sản xuất. Tuy nhiên, 100%
các hộ trong diện khảo sát đã xả thải trực tiếp ra môi trường, điều này ảnh hưởng
đến chất lượng cây rau và cuộc sống người dân.
Việc sử dụng hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) ngày càng quan trọng
đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp. Theo kết quả khảo sát cho thấy, trước khi
chọn nguồn thuốc thì người nông dân có tham khảo ý kiến của người có chuyên
49
môn, các hộ thỉnh thoảng mới hỏi ý kiến trước khi áp dụng chỉ có 15%. Các nội
dung như: sau mỗi lần phun thuốc, dụng cụ phải được vệ sinh sạch sẽ và thường
xuyên bảo dưỡng. Các hỗn hợp hóa chất và thuốc BVTV dùng không hết được xử
lý đảm bảo không gây ô nhiễm môi trường, thời gian cách ly phải đảm bảo theo
đúng hướng dẫn sử dụng thuốc BVTV ghi trên bao bì, sử dụng hóa chất theo đúng
sự hướng dẫn ghi trên nhãn hoặc hướng dẫn của cơ quan nhà nước có thẩm quyền,
sử dụng thuốc trong danh mục được phép sử dụng cho từng loại rau, quả tại Việt
Nam, thì 100% các hộ được hỏi trả lời hoàn toàn áp dụng. Tuy nhiên, lưu giữ hồ sơ
các hóa chất khi mua và khi sử dụng; ghi chép các hóa chất đã sử dụng cho từng vụ
như: tên hóa chất, lý do, số lượng, thời gian, liều lượng, phương pháp, thời gian
cách ly, tên người sử dụng thì đa số các hộ hoàn toàn không áp dụng. Điều đó cho
thấy, việc ghi chép đối với các hộ nông dân là công việc rất khó thực hiện, ảnh
hưởng không nhỏ đến việc quản lý chất lượng cây rau theo tiêu chuẩn VietGAP.
Việc bảo quản giống cây trồng giữ vai trò quan trọng trong việc giảm tổn
thất sau thu hoạch và đảm bảo chất lượng rau củ. Qua khảo sát cho thấy, các nội
dung sau đều được các hộ áp dụng hoàn toàn như: Sản phẩm sau khi thu hoạch
không để trực tiếp với đất và không để qua đêm; Thiết bị, thùng chứa rau phải được
làm từ các nguyên liệu không gây ô nhiễm lên sản phẩm; Thiết bị, thùng chứa rau
phải đảm bảo chắc chắn và vệ sinh sạch sẽ trước khi sử dụng; Nước sử dụng cho xử
lý rau sau thu hoạch phải đảm bảo; Phương tiện vận chuyển được làm sạch trước
khi xếp thùng chứa sản phẩm; Không bảo quản và vận chuyển sản phẩm chung với
các hàng hóa có nguy cơ gây ô nhiễm sản phẩm. Tuy nhiên, nội quy vệ sinh cá nhân
phải được đặt nơi dễ thấy thì đa số các hộ không áp dụng. Chỉ có 36 % các hộ áp
dụng khá thường xuyên nội dung việc hệ thống xử lý rác thải và hệ thống thoát
nước nhằm tránh gây ô nhiễm cho nguồn nước và vùng sản xuất, còn lại là tương
đối áp dụng và thỉnh thoảng mới áp dụng nội dung này. Việc thu gom chất thải hàng
ngày và chuyển đến nơi xử lý được khoảng 15% các hộ khá thường xuyên áp dụng,
còn lại không áp dụng chiếm 10% và thỉnh thoảng mới áp dụng chiếm 75%.
Theo tiêu chuẩn VietGAP, việc ghi chép nhật ký đồng ruộng, nhật ký quản lý
phải được thực hiện thường xuyên. Tuy nhiên, kết quả khảo sát cho thấy, chỉ có
50
45% các hộ là tương đối ghi chép đầy đủ nhật ký về hóa chất, thuốc BVTV, 12%
các hộ thỉnh thoảng có ghi chép, còn lại là các hộ hoàn toàn không ghi chép. Đối
với tiêu chí ghi chép đầy đủ về mua bán sản phẩm, và ghi chép đầy đủ nhật ký sản
xuất các hộ hoàn toàn không có ghi chép chiếm 100%. Điều này cho thấy tiêu chí
ghi chép nhật ký sản xuất rất ít được các hộ quan tâm áp dụng.
Qua khảo sát cho thấy hai nội dung hoàn toàn không được các hộ áp dụng là
có mẫu đơn khiếu kiện và lưu giữ hồ sơ khiếu nại của khách hàng (tiêu chí khiếu nại
và giải quyết tố cáo).
2.3. Thiết kế nghiên cứu:
Để giải quyết vấn đề đặt ra, luận án này xây dựng thiết kế nghiên cứu đi từ
mục tiêu, câu hỏi, giả thuyết, phương pháp và dự kiến những kết quả đạt được:
Nghiên cứu định tính
Nghiên cứu
định lượng
Nghiên cứu tại bàn:
Xác định vấn đề nghiên cứu: Xác định và lượng hóa các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định áp dụng tiêu chuẩ VietGAP trong sản xuất rau của nông hộ tại hai địa phương Quảng Nam và Đà Nẵng
Tổng quan lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm
Cronbach alpha EFA CFA
Cơ sở khoa học và đề xuất mô hình nghiên cứu:
Phỏng vấn sâu Quan sát
SEM
Điều chỉnh, phát triển và kiểm định thang đo
Tổng hợp tại bàn các nghiên cứu trước và dữ liệu nhật ký điền dã
Kiểm định và bàn luận giả thuyết
Hình 2.3: Quy trình nghiên cứu
51
Mục tiêu: Xác định và lượng hóa các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định áp
dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của nông hộ trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam và thành phố Đà Nẵng
Câu hỏi: Các nhân tố nào ảnh hưởng đến quyết định áp dụng tiêu chuẩn
VietGAP trong sản xuất rau của nông dân trên địa bàn tỉnh Quảng Nam và Đà
Giao tiếp
Nẵng.
Nhận thức môi trường
Quyết định áp dụng
Nhận thức rủi ro
Nhận thức lợi ích
Kiểm soát hành vi
Định mức chủ quan
Hình 2.4. Mô hình đề xuất nghiên cứu
(Nguồn: tác giả xây dựng)
Giả thuyết nghiên cứu:
Mối quan hệ giữa giao tiếp và quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong
sản xuất rau của nông dân.
52
Trong thuyết khuếch tán đổi mới của Rogers (1995) cho rằng giao tiếp là một
trong những nhân tố ảnh hưởng quan trọng đến quyết định áp dụng đổi mới cải tiến
của nông dân bởi vì đặc điểm của giao tiếp là tạo dựng và chia sẽ thông tin với nhau
để hiểu biết được nhau. Makokha và cộng sự (1999) đã sử dụng thuyết khuếch tán
đổi mới của Roger (1995) xác nhận rằng các đặc tính của người nông dân như: mức
độ tham gia và hoạt động trong các dịp tranh luận tập thể, mức độ tham dự tập huấn,
giao lưu tại các hội thảo chuyên đề và vai trò của lãnh đạo có ảnh hưởng nhưng
không đáng kể đến quyết định tiếp thu sáng kiến của người nông dân. Trong khi đó,
tần suất tiếp xúc giữa người nông dân và bên khuyến nông có ảnh hưởng tích cực
đến quyết định áp dụng các giống ngô, giống mỳ mới của nông dân ở vùng Tigray,
Ethiopia lại được tìm thấy bởi Gebremariam (2001). Vì vậy, trong ngữ cảnh áp
dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của nông dân, nghiên cứu này đề xuất
giả thuyết rằng.
H1: Có quan hệ cùng chiều giữa giao tiếp với quyết định áp dụng tiêu chuẩn
VietGAP trong sản xuất rau của nông dân.
Mối quan hệ giữa nhận thức lợi ích và quyết định áp dụng tiêu chuẩn
VietGAP trong sản xuất rau của nông dân
Batz và cộng sự (1999) cho rằng nền tảng của thuyết lợi ích kỳ vọng là nông
dân so sánh công nghệ cải tiến với công nghệ truyền thống và áp dụng nếu độ thỏa
dụng kì vọng của công nghệ cải tiến cao hơn độ thỏa dụng kì vọng của công nghệ
truyền thống. Nhiều nghiên cứu đã đưa nhân tố này vào kiểm định sự ảnh hưởng
của nó tới quyết định áp dụng đổi mới công nghệ trong nông nghiệp ((Batz và cộng
sự, (1999), Sarker và cộng, (2009), Dill và cộng sự, (2015)). Đối với sản phẩm được
áp dụng quy trình VietGAP vào trong sản xuất rau sẽ mang lại các lợi ích như giảm
sâu bệnh do sử dụng giống rau đảm bảo chất lượng, hoạt động sản xuất ổn định,
hiệu quả kinh tế tăng nhờ chi phí giảm và giá bán cao. Vì vậy, nghiên cứu này đề
xuất giả thuyết rằng:
53
H2: Có quan hệ cùng chiều giữa nhận thức về lợi ích với quyết định áp dụng tiêu
chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của nông dân.
Mối quan hệ giữa nhận thức môi trường và quyết định áp dụng tiêu chuẩn
VietGAP trong sản xuất rau của nông dân
Bergevoet và cộng sự (2004) cho rằng những người nông dân có mối quan tâm nhiều hơn đến môi trường thì có quyết định áp dụng phương pháp canh tác hữu
cơ. Sarker và cộng sự (2009) cho rằng việc nhận thức được tác động của việc áp
dụng đổi mới công nghệ mang lại sản phẩm an toàn cho người tiêu dùng và cải thiện môi trường chung quanh. Trong bối cảnh mà hoạt động sản xuất nông nghiệp
đã và đang có những dấu hiệu gây tác động tiêu cực đến môi trường và sức khỏe
người tiêu dùng thì hoạt động sản xuất rau theo tiêu chuẩn VietGAP nhờ áp dụng
những biện pháp canh tác đảm bảo cho cây rau hấp thu tốt nhất chất dinh dưỡng mà
không để lại tồn dư trong sản phẩm, làm giảm nguy cơ ô nhiễm môi trường và thực
sự trở nên thân thiện với môi trường góp phần xây dựng một nền sinh thái bền
vững. Vì vậy, trong ngữ cảnh áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của
nông dân, nghiên cứu này đề xuất giả thuyết rằng.
H3 : Có quan hệ cùng chiều giữa nhận thức về môi trường với quyết định áp
dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của nông dân.
Mối quan hệ giữa nhận thức rủi ro và quyết định áp dụng tiêu chuẩn
VietGAP trong sản xuất rau của nông dân
Các kết quả nghiên cứu trước đây như: Ghadim và cộng sự (2005); Wubeneh
(2006); Nguyễn Quốc Nghi và cộng sự (2014) đều cho rằng nhận thức của nông dân
về rủi ro của kỹ thuật, rủi ro do thời tiết, sâu bệnh có tác động đến quyết định từ đó
tác động đến sự chấp nhận áp dụng đổi mới công nghệ trong nông nghiệ của nông
dân. Bên cạnh đó, trong thực tế sự chênh lệch về giá giữa rau an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP và rau thường mặc dù không lớn nhưng vẫn không được chấp nhận rộng rãi bởi niềm tin của người tiêu dùng mặc dù rau VietGAP tại Quảng Nam và Đà Nẵng đã có thương hiệu. Một số người thậm chí lo ngại họ phải trả mức giá cao hơn cho một sản phẩm rau thường nhưng dán nhãn rau an toàn VietGAP. Do vậy, giả thuyết của nghiên cứu này là:
54
H4: Quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của nông dân có
quan hệ nghịch chiều với nhận thức rủi ro.
Mối quan hệ giữa định mức chủ quan và quyết định áp dụng tiêu chuẩn
VietGAP trong sản xuất rau của nông dân
Định mức chủ quan là quan điểm của một người về việc các quy chuẩn xã hội sẽ ảnh hưởng đến bản thân họ như thế nào khi thực hiện hoặc không thực hiện hành
vi đó (Ajzen và Fishbein, 1975). Borges và cộng sự (2014) cho rằng các yếu tố điều
khiển định mức chủ quan được xác định gồm có: gia đình, bạn bè, nông hộ láng giềng, người bán gia súc, công nhân làm việc ở nơi mua vật tư, các trung tâm
khuyến nông và chính quyền. Những cá thể quan trọng này có thể hoạt động như
các kênh phổ biến thông tin về mô hình, đặc biệt là những người gắn bó với nông
dân, chẳng hạn như gia đình sẽ tạo thuận lợi cho việc áp dụng và sử dụng đồng cỏ
tự nhiên cải tiến. Trong khi đó, Bergevoet và cộng sự (2004) đã tìm thấy tác động
đáng kể của định mức chủ quan là bằng chứng mạnh mẽ về sự tồn tại của rào cản xã
hội. Trong một cộng đồng mà tính thuần nông như Quảng Nam; Đà Nẵng thì người
nông dân sẽ có quyết định và thực hiện hành vi theo cách mà những người thân như
bạn bè, bà con, hàng xóm họ nghĩ. Chính vì lý do trên, nghiên cứu này đưa ra giả
thuyết:
H5: Có quan hệ cùng chiều giữa nhân tố định mức chủ quan với ý định áp dụng
tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của nông dân
Mối quan hệ giữa nhận thức kiểm soát hành vi và quyết định áp dụng tiêu
chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của nông dân
Trong thuyết hành vi dự định (Ajzen, 1991) cho rằng không phải tất cả hành
vi đều chịu sự kiểm soát của lý trí, mà hành vi có thể trải dài trên nhiều mức độ
khác nhau từ kiểm soát hoàn toàn cho đến mất kiểm soát hoàn toàn. Trong thực tế
khi mà người nông dân nhận thức được các nguồn lực và cơ hội sẽ có quyết định áp
dụng tiêu chuẩn VietGAP. Chính vì vậy, giả thuyết nghiên cứu này là:
H6: Quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của nông dân có
quan hệ cùng chiều với nhân tố kiểm soát hành vi.
55
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp định tính
Lý do chọn phương pháp nghiên cứu định tính
Việc sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính với mục đích là điều chỉnh
và phát triển thang đo các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định áp dụng tiêu chuẩn
VietGAP trong sản xuất rau của nông dân, dựa trên cơ sở so sánh với các mô hình
gốc (Daniel Bernoulli, 1738), (Roger, 1995), (Ajzen, 1991). Các nghiên cứu về
quyết định áp dụng đổi mới công nghệ trong nông nghiệp của nông dân đã được
kiểm nghiệm tại các quốc gia nhưng mức độ phức tạp trong nhận thức, thái độ cũng
như các điều kiện kinh tế xã hội của các quốc gia đó cũng rất khác so với Việt Nam
nói chung và 2 địa phương Quảng Nam và Đà Nẵng nói riêng. Mặc dù Quảng Nam
và Đà Nẵng là 2 địa phương khác nhau về mặt hành chính kể từ sau ngày 1/1/1997.
Tuy nhiên, các chính sách về hỗ trợ áp dụng sản xuất rau VietGAP của hai địa
phương còn rất hạn chế để tạo ra sự khác nhau về mức độ áp dung tiêu chuẩn
VietGAP trong sản xuất rau của nông hộ. Bên cạnh đó, các điều kiện canh tác, thời
tiết, phong tục tập quán sản xuất của 2 địa phương này có những nét tương đồng.
Chính vì thế, cách tiêp cận này là phù hợp cho việc mô tả, tìm hiểu nhận thức và
quyết định của nông dân.
Trong nghiên cứu này, hai kỹ thuật khảo sát được sử dụng để thu thập thông
tin chính là 1) quan sát, ở đây nghiên cứu này chỉ quan sát để nhận biết về thực
trạng, hoàn cảnh, địa bàn nghiên cứu, 2) phỏng vấn sâu, bởi vì, nghiên cứu này tập
trung vào tìm hiểu nhận thức, quyết định của cá nhân người lao động tham gia sản
xuất rau VietGAP.
Công cụ thu thập thông tin định tính
1) Quan sát
Theo cách đó, trước tiên nghiên cứu tiến hành thu thập dữ liệu định tính bằng
kỹ thuật quan sát trực tiếp các nông hộ tại 4 khu vực sản xuất trên. Trong quá trình
điền dã việc ghi nhật ký điền dã dân tộc học đã được thực hiện nhằm giúp cho
nghiên cứu này có cái nhìn sâu hơn về đặc điểm của khu vực sản xuất đến đời sống
56
hoạt động sản xuất hàng ngày của người dân như: đường vào khu sản xuất, đường
dây điện, hệ thống nước tưới, hệ thống nhà sơ chế, bao bì sản phẩm, thời gian chăm
sóc và thu hoạch, công cụ sản xuất như bình bơm, gầu gánh nước, cuốc, bào cào,
nhà ủ phân….
2) Phỏng vấn sâu
Song song với quá trình quan sát, nghiên cứu thực hiện phỏng vấn sâu với
các nông hộ. Đối tượng tham gia phỏng vấn sâu được chọn từ các lao động nông
nghiệp chính đã và đang áp dụng trồng rau VietGAP.
Khi tiến hành phỏng vấn tác giả lần lượt giới thiệu (1) về bản thân và mục
đích nghiên cứu, (2) tầm quan trọng của thông tin mà người trả lời cung cấp (3) nêu
rõ các ý kiến đều được tôn trọng và có thể được trao đổi lại với người nghiên cứu.
Nghiên cứu được tiến hành qua hai đợt, đợt 1 từ tháng 12/2015- 2/2016 và đợt 2 từ
4/2016 - 5/2016 với nhiều chuyến điền dã khác nhau, vì đây là thời điểm diễn ra các
vụ chính trong sản xuất của nông hộ.
Phương pháp chọn mẫu: nghiên cứu sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên.
Nội dung bảng phỏng vấn: nội dung cuộc phỏng vấn được dựa trên bảng câu
hỏi bán cấu trúc được thiết kế sẵn dựa vào kết quả nghiên cứu tài liệu tổng quan, và
góp ý của giáo viên hướng dẫn. Tuy nhiên, phần lớn các câu hỏi sẽ được phát triển
dựa trên câu trả lời của đáp viên. Quá trình phỏng vấn kéo dài trung bình khoảng 45
- 60 phút, được ghi âm tại thời điểm diễn ra phỏng vấn và có sự đồng ý của người
tham gia.
Số lượng phỏng vấn: Số lượng tham gia phỏng vấn ngừng khi thông tin đã
bão hòa, có nghĩa là không có thêm thông tin mới (Nguyễn Đình Thọ, 2011). Có
tổng cộng 11 lao động nông nghiệp chính (Hưng Mỹ: 4; Lang Châu Bắc: 2; Bàu
Tròn 3; La Hường: 2) trong đó, có 3 lao động nữ và 8 lao động nam.
Phương pháp phân tích dữ liệu định tính: Dữ liệu ngay sau đó được trích
xuất đầy đủ ra văn bản và được xử lý bằng phân tích nội dung (content analysis), là
phương pháp dùng để giải thích nội dung dữ liệu thông qua quá trình phân loại, sắp
xếp mã và xác định chủ đề hay mô thức (Hsieh và Shannon, 2005), với sự hỗ trợ
của phần mềm Nvivo 8.0. Đồng thời, để đảm bảo tính riêng tư của người cung cấp
thông tin, những trích dẫn trong luận án này được mã hóa. Kết quả nghiên cứu định
57
tính cùng với tổng quan đã được thực hiện sẽ phát hiện ra các nhân tố ảnh hưởng
đến quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của nông hộ trên địa
bàn tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng. Các thang đo và bảng hỏi chính thức
được hình thành từ đó.
Các công đoạn phân tích bao gồm: 1) Trích xuất dữ liệu ra văn bảng, 2)
nhập dữ liệu, 3) xây dựng bộ các mã (Node) 4) mã hóa tư liệu (Coding); 5) truy vấn
dữ liệu.
1) Trích xuất dữ liệu ra văn bảng:Dữ liệu được trích xuất ra bằng văn bảng (gỡ
băng ghi âm), những dữ liệu này còn được gọi là dữ liệu sơ cấp hay dữ liệu bên
trong, những dữ liệu thu thập từ các trang web như tạp chí, sách, … gọi là dữ liệu
bên ngoài.
2) Nhập dữ liệu: Trong dự án Nvivo tạo folder chứa tài liệu bên trong này (Tai
lieu phong van), sau đó chọn Project, máy tính xuất hiện bảng Import Internals,
chọn nút Browse và chọn các folder chứa tài liệu phỏng vấn (như hình dưới).
Hình 2.5: Nhập dữ liệu bên trong (phỏng vấn) vào dự án Nvivo 8.0
Trong dự án Nvivo tạo các folder chứa tài liệu bên ngoài sau đó chọn New,
chọn externals chọn đường dẫn chứa tài liệu trong máy tính.
58
Hình 2.6: Nhập dữ liệu bên ngoài vào dự án Nvivo 8.0
3) Xây dựng bộ các mã: Mã thường được sử dụng theo kiểu đưa ra một ý niệm,
ý tưởng chung đối với vấn đề mà chúng ta muốn xem xét. Những ý niệm đó được
xem là công cụ khám phá sự đa dạng của các hình thức mà những ý niệm này muốn
đề cập đến có thể có. Mã có thể độc lập, nhưng cũng có những mã có quan hệ chùm
(Free node) hoặc cây (Tree node). Mã theo dạng cây thường có hai cấp độ là mã lớn
(Parents node) và mã nhỏ (child node). Mã theo dạng cây là mã được lựa chọn cho
nghiên cứu này.
Ví dụ xây dựng mã chuẩn mực chủ quan: (xem thêm các mã khác trong phụ lục 1)
Childe node Mô tả đặc điểm mã
Parents node Chuẩn mực chủ quan
1
2 Các hộ đã áp dụng
Tất cả ý kiến của những người có vai trò quan trọng như các thành viên trong gia đình, các hộ đã áp dụng, trưởng thôn, hội nông dân, chủ nhiệm Hợp tác xã, người tiêu thụ rau VietGAP Thành viên trong gia đình Tìm hiểu xem người nông dân tham khảo ý kiến các thành viên trong gia đình như ba mẹ, ông bà con cái, nói chung những người quan trọng tring gia đình Tìm hiểu xem người nông dân tham khảo ý kiến các hộ đã áp dụng trước, hộ chung quanh hay
59
Trưởng thôn 3
Hội nông dân 4
Chủ nhiệm HTX 5
6
Người buôn, doanh nghiệp tiêu thụ rau VietGAP
đi học tập các hộ ở các địa phương khác như thế nào Tìm hiểu xem người nông dân tham khảo ý kiến trưởng thôn, ông bà có hỏi ý kiến của trưởng thôn về dự định quyết định áp dụng VietGAP như thế nào Tìm hiểu xem người nông dân có tham khảo ý kiến hội nông dân Tìm hiểu xem người nông dân có tham khảo ý kiến của chủ nhiệm HTX trong việc đi đến quyết định áp dụng VIETGAP như thế nào? Tìm hiểu xem những người nông dân có tìm hiểu những doanh nghiệp , người buôn bán thụ rau VietGAP này như thế nào,
Trong dự án Nvivo: Vào Nodes chọn Tree nodes, chọn Tree nodes in this
folder xuất hiện bảng New tree nodes và đặt tên cho nodes (các nodes này gọi là
nodes lớn) như hình dưới.
Hình 2.7: Đặt tên cho các nodes
60
Tiếp tục tạo các nodes bé, thì bôi đen nodes lớn, rồi chọn new chọn New tree
nodes và đặt tên.
4) Mã hóa tư liệu – Coding: Là gắn một đoạn văn trong document với một
node. Có nhiều cách thực hiện mã hóa trong Nvivo. Tuy nhiên, cách mã trực tiếp
bằng cách gắp các thông tin, nội dung thả vào nodes tương ứng.
Trong dự án Nvivo mở file và bôi đen đoạn dữ liệu cần mã hóa, chọn code chọn
code selection, chọn at existing nodes xuất hiện bảng chọn mã muốn gắn. Đây là
công đoạn lâu nhất của luận án nói chung và của người làm sử dụng phần mềm
Nvivo.
5) Truy vấn dữ liệu phục vụ cho việc phân tích nội dung:
Trong Nvivo có 6 loại truy vấn thứ nhất theo từ; thứ hai theo tần số; thứ ba
theo từ khóa (nodes); thứ tư theo ma trận; thứ năm kết hợp giữa thuộc tính và
Nodes; thứ sáu so sánh giữa hai nhóm làm việc. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này sử
dụng phương pháp phân tích nội dung nên việc truy xuất theo từ khóa (nodes) được
ưu tiên sử dụng.
Trong Nvivo chọn mục Queries chọn kiểu truy xuất Coding Query in this
folder xuất hiện bảng và khai báo nodes cần truy xuất như hình dưới.
Hình 2.8: Truy vấn dữ liệu
61
Phương pháp định lượng
Nghiên cứu này lựa chọn phương pháp định lượng nhằm mục tiêu chính là
xác định và lượng hóa các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định áp dụng tiêu chuẩn
VietGAP trong sản xuất rau của nông hộ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam và thành phố
Đà Nẵng đồng thời kiểm chứng lại các nhân tố mà trước đó đã được phát hiện bởi
phương pháp định tính.
Mô hình phân tích:
Để đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định áp dụng đổi mới công
nghệ trong nông nghiệp của nông hộ có rất nhiều mô hình, bao gồm mô hình chuẩn
đoán và mô hình thống kê, các mô hình này không loại trừ mà có thể bổ sung nhau.
Mô hình chuẩn đoán (Heuristic model) bao gồm:
- Bảng câu hỏi đánh giá cổ điển (“Classic” rating Questionnaires);
- Mô hình định tính (Qualitative Systems);
- Mô hình chuyên gia (Expert Systems);
Những mô hình này thường sử dụng mối quan hệ giữa các nhân tố ảnh
hưởng đến quyết định của đối tượng được đánh giá như chuyên gia hay các nông
hộ, để đưa ra những đánh giá về quyết định áp dụng đổi mới công nghệ trong nông
nghiệp của nông hộ trong tương lai. Tuy nhiên, chất lượng của những mô hình
chuẩn đoán phụ thuộc vào kinh nghiệm chủ quan của các chuyên gia, các hộ nông
dân. Hơn nữa, không chỉ những nhân tố liên quan tới quyết định áp dụng đổi mới
công nghệ được xác định bằng kinh nghiệm mà mức độ tương quan giữa các nhân
tố (giao tiếp, nhận thức, định mức chủ quan…) được đánh giá cũng dựa trên kinh
nghiệm, những trải nghiệm chủ quan này.
Chính vì vậy, cho đến nay chưa có nghiên cứu nào sử dụng riêng mô hình
chuẩn đoán để đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định áp dụng đổi mới
công nghệ trong nông nghiệp cả trong nước và thế giới, mà đa phần sử dụng kết hợp
cả mô hình chuẩn đoán và mô hình thống kê. Đây cũng là dạng mô hình được
nghiên cứu áp dụng để phân tích, vì có nhiều ưu điểm hơn, cụ thể sẽ trình bày ở
phần dưới.
62
Mô hình thống kê (Statistical models): Mô hình hồi quy đa biến, Mô hình
logit, mô hình Probit, mô hình SEM….
Một số nghiên cứu sử dụng mô hình Logit, Probit trong phân tích các nhân tố
Fadare (2014), Sarker và cộng sự (2009), Ndiema và cộng sự (2011); Dill và cộng
ảnh hưởng đến quyết định áp dụng đổi mới công nghệ trong nông nghiệp như:
sự (2015); Roberts và cộng sự (2004). Tuy nhiên, nhược điểm của mô hình này là
đòi hỏi dữ liệu lớn, hơn nữa nó không đo lường được mối quan hệ giữa các biến độc
lập, trong khi đó mô hình SEM lại cho phép chỉ rõ mối quan hệ này. Chính vì thế
mà các nghiên cứu gần đây có xu hướng sử dụng mô hình trên (SEM) trong phân
tích cho các chủ đề tương tự.
Mô hình SEM là sự mở rộng của mô hình tuyến tính tổng quát (GLM) cho
phép nhà nghiên cứu kiểm định một tập hợp phương trình hồi quy cùng một lúc. Mô
hình SEM chỉ rõ mối quan hệ giữa các biến tiềm ẩn với nhau. Các mối quan hệ này
có thể mô tả những dự báo mang tính lý thuyết mà các nhà nghiên cứu quan tâm.
Hơn nữa mô hình SEM cho phép phối hợp được các kỹ thuật như hồi quy đa biến,
phân tích nhân tố. Cho phép ước lượng mối quan hệ riêng phần của từng cặp nhân
tố trong mô hình mà các mô hình đo lường trước như hồi quy không thể ước lượng
được. Với những kỹ thuật trong phân tích nhân tố CFA cho phép nhà nghiên cứu
tìm kiếm mô hình phù hợp nhất với dữ liệu. Ngoài ra, mô hình SEM còn sử dụng
thêm phương pháp bootstrap nhằm ước lượng lại các tham số của mô hình lý thuyết
với phương pháp lượng tối ưu (ML).
Với những công dụng và lợi thế đó đã giúp cho mô hình SEM có ý nghĩa hơn
hẳn các mô hình truyền thống trước. Vì vậy mà mô hình này đã được sử dụng rộng
rãi trong các lĩnh vực nghiên cứu như tâm lý học (Anderson & Gerbing,1988;
Hansell và White, 1991), xã hội học (Lavee, 1988; Lorence và Mortimer, 1985), và
trong lĩnh vực quản lý (Tharenou, Latimer và Conroy,1994), áp dụng đổi mới công
nghệ trong nông nghiệp: Sambobo (2007); Rezaei, (2018)…
Tuy nhiên, mô hình này (SEM) nói riêng và mô hình thống kê nói chung có
nhược điểm là không thể phát hiện hoặc điều chỉnh các thang đo của mô hình cho
63
địa bàn nghiên cứu mới mà đòi hỏi phải có mô hình định tính. Vì vậy, đã có những
nghiên cứu áp dụng cả hai mô hình định tính và mô hình thống kê (mô hình SEM)
để phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định áp dụng đổi mới công nghệ
trong nông nghiệp của nông hộ như: Sambobo (2007); Rezaei (2018).
Chính vì vậy, sự kết hợp giữa định tính và thống kê (SEM) là cách tiếp cận
phù hợp để xác định và lượng hóa các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định áp dụng
tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của nông hộ tại hai địa phương Quảng Nam
và Đà Nẵng.
Tổng thể nghiên cứu
Tổng thể nghiên cứu là công việc đầu tiên trong quá trình chọn mẫu. Trong
nghiên cứu này tổng thể được xác định là các lao động nông nghiệp chính đang
tham gia sản xuất rau VietGAP tại Quảng Nam và Đà Nẵng và các lao động này
sẽ có độ tuổi từ 30 trở lên. Bởi vì, theo quan sát trong sản xuất nông nghiệp ở 2 khu
vực trên những người trong độ tuổi này thường là những người bắt đầu tham gia sản
xuất nông nghiệp chính trong gia đình.
Kích thước mẫu
Việc xác định kích thước mẫu nghiên cứu phụ thuộc vào phương pháp phân
tích như hồi quy tuyến tính, phân tích nhân tố hay SEM….. và độ tin cậy, số lượng
biến độc lập…. Trong một nghiên cứu thì mẫu càng lớn càng tốt, nhưng lại tốn chi
phí và thời gian. Các nhà nghiên cứu xác định kích thước mẫu dựa trên các công
thức cho từng phương pháp.
Để tiến hành phân tích hồi qui một cách tốt nhất, theo Tabachnick và Fidell,
kích thước mẫu phải bảo đảm theo công thức: n ≥ 8m + 50 (n là cỡ mẫu, m là số
biến độc lập trong mô hình); Trường hợp sử dụng phương pháp phân tích cấu trúc
tuyến tính, theo Hair và cộng sự (2006), nếu phương pháp ước lượng là ML thì kích
thước mẫu tối thiểu từ 100 - 150.
Nghiên cứu này sử dụng phương pháp phân tích cấu trúc tuyến tính, mô hình
nghiên cứu có 40 biến đo lường. Vì thế, nếu tính theo qui tắc 5 quan sát/biến đo
64
lường thì cỡ mẫu tối thiểu là = 40X 5 = 200, để kích thước mẫu đảm bảo cho mô
hình phân tích thống kê, nghiên cứu chọn 320 quan sát.
Cách thức đo lường các biến có liên quan
Sau khi điều tra điền dã, các thang đo được điều chỉnh cho phù hợp với dữ
liệu thực tế như sau:
Các biến đã được sử dụng trong các nghiên cứu trước
Thang đo giao tiếp (GT): Thang đo này được chỉ ra từ đánh giá của người
nông hộ qua 3 câu hỏi. Thang đo này được sử dụng bởi Gebremariam (2001) dựa
trên nền tảng của thuyết khuếch tán đổi mới của Roger (1962), các thang đo này
tiếp tục được khẳng định bởi Makokha và cộng sự (1999);Trương Thị Ngọc Chi và
cộng sự, (2002); Wubeneh (2006); Dill và cộng sự (2015).
Thang đo nhận thức lợi ích (NTL): gồm 3 câu hỏi và đã được kiểm định bởi
nhiều công trình nghiên cứu khác như: Dill và cộng sự (2015); Sarker và cộng sự
(2009).
Thang đo nhận thức rủi ro (NTR): thể hiện nhận thức của người nông dân
trước những rủi ro khi quyết định áp dụng đổi mới công nghệ. Thang đo này đã
được kiểm định bởi nhiều nhà nghiên cứu như: Wubeneh (2003); Ghadim và cộng
sự (2005), Sambodo (2007), Nguyễn Quốc Nghi và cộng sự (2014).
Thang đo nhận thức môi trường (NTA): thể hiện nhận thức của người nông
dân về tác động của việc áp dụng đổi mới công nghệ trong nông nghiệp đến môi
trường, thang đo này được Sarker và cộng sự (2009) kiểm định.
Thang đo ảnh hưởng của xã hội hay Chuẩn chủ quan (DM): đề cập đến
những ảnh hưởng và tác động của những người quan trọng và gần gũi như: những
thành viên gia đình, bạn bè…..có thể tác động đến cá nhân thực hiện hành vi đó.
Thang đo này được kiểm định bởi Sambodo (2007); Borges và cộng sự (2014);
Rezaei (2018).
Thang đo kiểm soát hành vi (KS): được định nghĩa như là đánh giá của chính
mình về mức độ khó khăn hay dễ dàng ra sao để thực hiện hành vi đó. Thang đo này
được Sambodo (2007) Borges và cộng sự (2014); Rezaei (2018) đã kiểm định.
65
Thang đo quyết định áp dụng (QĐ): Thang đo này có 5 câu hỏi và đã được
Erwin Wauters và cộng sự (2014); Borges và cộng sự (2014) kiểm định.
Ngoài các thang đo được sử dụng ở trên, nghiên cứu này nghi ngờ còn một
số thang đo có thể đo lường được sự tác động đến quyết định áp dụng tiêu chuẩn
VietGAP trong sản xuất rau của nông hộ tại hai địa phương Quảng Nam và Đà
Nẵng như sau:
Thứ nhất thang đo, Tiểu thương lợi dụng thương hiệu sản phẩm áp dụng thực
hành tiêu chuẩn VietGAP để buôn bán thuộc khái niệm nhận thức rủi ro. Mặc dù,
chưa có một công bố nào chính thức sử dụng thang đo này nhưng thang đo trên
được chỉ ra trong kết quả phỏng vấn sâu các nông hộ ở Hưng Mỹ và Bàu Tròn như
sau:
….Sợ nhất là siêu thị nó lấy tới 3 nguồn rau, một trường xuân, rau Đà Lạt,
và rau Hưng Mỹ, khi có kiểm tra nguồn gốc chi ớ thì họ trưng bày hàng mình ra
nhưng số lượng họ đặt của mình chỉ bằng 1/3 của người ta thôi. Họ yêu cầu mình
nhiều thứ như nhãn hiệu, bao bì, đóng gói từ những cái đó nó đẩy giá mình cao lên
và nó lấy số lượng mình ít hơn, lấy hàng mình chỉ để trưng bày kiểm tra thôi….[Nữ,
39 tuổi, Hưng Mỹ].
Thang đo này cũng phù hợp với như kết quả của Pavlou (2003) đã phân loại
các rủi ro thành: rủi ro về tài chính, rủi ro về người bán, rủi ro về sự riêng tư.
Thứ hai thang đo, áp dụng thực hành tiêu chuẩn VietGAP giúp đảm bảo sức
khỏe cho người sản xuất thuộc khái niệm nhận thức môi trường. Thang đo trên dựa
trên kết quả phỏng vấn sâu từ nông hộ: “Gia đình tôi làm nghề trồng rau truyền
thống từ đời cha tôi đến nay đã lâu, nhưng theo cách truyền thống, nay được học
những tiến bộ kỹ thuật trồng rau VietGAP, gia đình tôi sử dụng phân được ủ cho
mục, còn dùng thuốc thì phải đúng danh mục thuốc cho phép. Mà so với thời gian
xưa thì lượng phân bón và thuốc cũng hạn chế được thuốc bảo vệ thực vật. Nói
chung thì làm theo quy trình sản xuất mới ni, người nông dân được hưởng nhiều lợi
ích lắm. Ngoài việc giảm lượng thuốc trừ sâu như nói trên, sức khỏe ít bị ảnh
hưởng thì năng suất tăng lên” [Nam, 48 tuổi, Hưng Mỹ]. Thang đo trên cũng phù
66
hợp với kết quả Batz và cộng sự, (1999) cho rằng người nông dân sẽ so sánh công
nghệ cải tiến với công nghệ truyền thống và sẽ áp dụng nếu độ thỏa dụng kì vọng
của công nghệ cải tiến cao hơn độ thỏa dụng kì vọng của công nghệ truyền thống.
Thứ ba thang đo, Tôi có đủ sản phẩm áp dụng thực hành tiêu chuẩn VietGAP
cung cấp cho thị trường, Người tiêu dùng đã biết đến sản phẩm áp dụng thực hành
tiêu chuẩn VietGAP, Người tiêu dùng đã sử dụng đến sản phẩm áp dụng thực hành
tiêu chuẩn VietGAP thuộc khái niệm thang đo nhận thức cung cầu. Mặc dù, chưa có
một công bố nào chính thức sử dụng thang đo này nhưng thang đo trên được chỉ ra
trong kết quả phỏng vấn sâu các nông hộ ở Hưng Mỹ, La Hường và Bàu Tròn như
sau
….Chi chứ rau ở đây thì nhiều, lúc nào cũng có, chỉ có vài ba ngày tết như
đợt ra giêng từ mùng 4 – 16 al là không có rau bán chứ bình thường thì nhiều [Nam
57 tuổi, La Hường].
… người ta (người tiêu dùng) biết rau bẩn thì nhiều, chứ báo đài cũng ít
nghe nói rau VietGAP là gì, chỉ có nhà nông như mình thì hay để ý đến nó để tìm
cách sản xuất cho an toàn hơn thôi, theo tôi thấy hiện nay ít người sản xuất rau
VietGAP quá, nói sơ sơ trên địa bàn Quảng Nam ni chỉ nghe đâu có 4 nơi sản xuất,
có 4 nơi thì nhằm nhò gì.[Nam, 44 tuổi, Hưng Mỹ]
Hơn nữa, việc tiêu thụ rau VietGAP là gặp không ít khó khăn, phần do chưa
có sự tham gia của các doanh nghiệp có uy tín trong việc tiêu thụ, nhưng nguyên
nhân quan trọng hơn hết theo người sản xuất đó chính là lòng tin của người tiêu
dùng đối với phẩm rau VietGAP:
… họ không tin cũng có lý của họ, do họ nghe tivi nói về sản xuất ẩu quá,
bơm thuốc vô tội vạ, nên họ không tin là đúng rồi, với ri nữa, đừng có nghĩ rau sạch
là không bơm thuốc gì hết là không đúng, mà bơm phải có cách ly, ví dụ cây rau
dền ni mình thấy có sâu thì phải bơm trước mấy ngày trước khi cắt, rứa thôi. Chứ
họ thấy mình bơm thuốc cứ đi rao chỗ này tiếng chỗ kia tiếng thì ai dám ăn.[Nam,
57 tuổi, La Hường].
67
… người tiêu dùng thấy chênh lệch giá cả giữa rau VietGAP và rau bên
ngoài thì họ mua rau truyền thống thôi. Ví dụ bó rau sản xuât theo quy trình
VietGAP giá 5 nghìn, cũng loại rau đó, nhưng sản xuất theo quy trình cũ, truyên
thống, bán với giá 4 nghìn thì họ qua họ mua bó rau 4 nghìn đó ngay. Người tiêu
dùng họ không nghĩ giá cao tí mà nó an toàn hơn [Nam, 48 tuổi, Bàu Tròn].
Cũng trong quá trình quan sát và phỏng vấn, các hộ nông đều cho rằng việc
áp dụng tiêu chuẩn, quy trình VietGAP trong sản xuất rau không tốn nhiều thời gian
và chi phí, hơn nữa việc áp dụng quy trình VietGAP đối với nông dân không khó.
Vì vậy, trong thang đo này loại bỏ ra những biến quan sát: Rủi ro về chi phí thời
gian, tiền bạc và rủi ro kỹ thuật.
Thang đo Likert 5 điểm được sử dụng trong nghiên cứu (với 1 – hoàn toàn
không đồng ý và 5 hoàn toàn đồng ý).
Phương pháp chọn mẫu:
Có nhiều phương pháp chọn mẫu, nhưng được chia thành hai nhóm chính:
(1) chọn mẫu không theo xác xuất hay còn gọi là chọn không ngẫu nhiên (2) chọn
mẫu theo xác xuất hay còn gọi là chọn ngẫu nhiên. Mặc dù phương pháp lấy mẫu
theo xác suất có ưu điểm là sẽ tạo ra được một mẫu đại diện cho tất cả các đối tượng
nghiên cứu. Tuy nhiên, phương pháp này có sự khó khăn khi thời gian và nguồn lực
còn hạn chế, do vậy, nghiên cứu này sẽ chọn mẫu theo phương pháp lấy mẫu thuận
tiện. Theo phương pháp này, nghiên cứu sẽ chọn ngẫu nhiên một số phần tử cho
mẫu. Sau đó, thông qua các phần tử ban đầu hỏi ý kiến những người này để họ giới
thiệu các phần tử khác cho mẫu. Như vậy, các phần tử đầu tiên được chọn ngẫu
nhiên nhưng các phần tử sau được chọn theo phương pháp thuận tiện. Vì vậy, nó
vẫn được xem là chọn mẫu không theo xác suất (Nguyễn Đình Thọ, 2011).
Tiến hành thu thập
Được sự tư vấn của các cán bộ ở Trung tâm khuyến nông tỉnh Quảng Nam
và thành phố Đà Nẵng cũng như kết quả điều tra tiền trạm, có 6 khu vực sản xuất
gồm: Hưng Mỹ; Lang Châu Bắc; Bàu Tròn thuộc tỉnh Quảng Nam và La Hường;
Yến Nê; Túy Loan thuộc thành phố Đà Nẵng được lựa chọn, đó là các khu vực có
68
nhiều hộ tham gia sản xuất rau VietGAP. Do đó, đảm bảo tính đại diện cho việc
nghiên cứu. Nhóm phỏng vấn gồm nghiên cứu sinh và 6 người được thuê ở các địa
phương là cán bộ trong HTX hay tổ sản xuất để hỗ trợ việc thu thập dữ liệu. Khi
chấp nhận khảo sát, người nông dân được mời điền vào phiếu khảo sát. Việc thu
thập dữ liệu diễn ra từ tháng 7 năm 2016 cho đến tháng 9 năm 2016.
Bảng 2.3. Tổng hợp khái niệm và cách thức đo lường
Khái niệm Thang đo Nguồn gốc
Tôi thường xem bản tin Trương Thị Ngọc Chi và
nông nghiệp trên các cộng sự, (2002)
kênh thông tin đại chúng
Tôi thường trao đổi với Roger ( 1995)
cán bộ khuyến nông về áp Gebremariam (2001) Giao tiếp
dụng thực hành x
Tôi trao đổi với bạn bè về Makokha và cộng sự
áp dụng thực hành x ( ở (1999)
quán cà fe…..) Dill và cộng sự (2015)
áp dụng thực hành x giúp Dill và cộng sự (2015) MA
tôi có thu nhập cao hơn ( Sarker và cộng sự (2009) Nhận thức về lợi ích
ổn định)
áp dụng thực hành x giúp Dill và cộng sự (2015) MA
tôi đạt sản lượng cao hơn Sarker và cộng sự (2009)
Nhìn chung áp dụng thực Dill và cộng sự (2015) MA
hành x mang lại nhiều lợi Sarker và cộng sự (2009)
ích
Tiểu thương lợi dụng thương Phát triển từ nghiên cứu
hiệu sản phẩm áp dụng định tính Nhận thức về rủi ro thực hành x để buôn bán
áp dụng thực hành x có Sambodo (2007)
nguy cơ thất thu
69
Giá cả đầu ra không ổn Nguyễn Quốc Nghi và
định cộng sự (2014)
Thời tiết cực đoan khiến Wubeneh (2003); Ghadim
cho cho việc áp dụng thực và cộng sự (2004).
hành x khó
áp dụng thực hành x cải Phát triển từ nghiên cứu
thiện sức khỏe cho người định tính
sản xuất hơn
áp dụng thực hành x Sarker và cộng sự (2009)
Nhận thức về môi mang lại sản phẩm an
toàn cho người tiêu dùng trường
áp dụng thực hành x cải Sarker và cộng sự (2009)
thiện môi trường chung
quanh hơn.
Nói chung nếu áp dụng thực Phát triển từ nghiên cứu
hành x cải thiện môi trường định tính
Tôi có sản phẩm áp dụng Phát triển từ nghiên cứu
thực hành x cung cấp cho định tính
thị trường
Người tiêu dùng đã biết Phát triển từ nghiên cứu
đến sản phẩm áp dụng định tính Nhận thức về cung cầu
thực hành x
Người tiêu dùng đã sử Phát triển từ nghiên cứu
dụng đến sản phẩm áp định tính
dụng thực hành x
Vợ/ chồng tôi nghĩ rằng Sambodo (2007)
tôi nên áp dụng thực hành
x trong thời gian tới Định mức chủ quan
Cha mẹ tôi nghĩ rằng tôi Sambodo (2007)
nên áp dụng thực hành x
trong thời gian tới
70
Các con tôi nghĩ rằng tôi Sambodo (2007)
nên áp dụng thực hành x
trong thời gian tới
Chủ nhiệm HTX, nghĩ
rằng tôi nên áp dụng thực Sambodo (2007)
hành x trong thời gian tới
Các cán bộ khuyến nông Sambodo (2007)
nghĩ rằng tôi nên áp dụng
thực hành x trong thời
gian tới
Trưởng thôn nơi tôi ở Sambodo (2007)
nghĩ rằng tôi nên áp dụng
thực hành x trong thời
gian tới
Hội nông dân của tôi nghĩ Borges và cộng sự (2014);
rằng tôi nên áp dụng thực Erwin Wauters và cộng sự
hành x trong thời gian tới
Hầu hết những người Sambodo (2007)
nông dân như tôi sẽ áp Borges và cộng sự (2014);
dụng thực hành x trong Erwin Wauters và cộng sự
thời gian đến (2010)
Nếu hầu hết những người Borges và cộng sự (2014);
quan trọng đối với tôi Erwin Wauters và cộng sự
nghĩ rằng tôi nên áp dụng (2010)
thực hành x trong thời
gian tới
Nếu tôi áp dụng thực Borges và cộng sự (2014)
hành x trong thời gian tới, Sambodo (2007)
tôi có đủ vốn để áp dụng Kiểm soát hành vi Nếu tôi áp dụng thực hành Borges và cộng sự (2014)
x trong thời gian tới, Tôi Sambodo (2007)
có đủ đất để áp dụng
71
Borges và cộng sự (2014)
Sambodo (2007)
Nếu tôi áp dụng thực hành x trong thời gian tới, Tôi có thể dựa vào phương pháp của các nông dân khác và làm theo họ Nếu tôi áp dụng thực hành x trong thời gian tới, Việc bảo quản sau thu hoạch không là trở ngại với tôi
Erwin Wauters và cộng sự (2010)
Đối với tôi áp dụng thực hành x là quan trọng hơn công việc phi nông nghiệp
Sambodo (2007)
Nếu tôi áp dụng thực hành x trong thời gian tới, cơ sở hạ tầng thuận lợi.
Sambodo (2007)
Nếu tôi áp dụng thực hành x trong thời gian tới, Tôi có đầy đủ kinh nghiệm
Borges và cộng sự (2014)
Nếu tôi áp dụng thực hành x trong thời gian tới, Tôi có đầy đủ kiến thức
Borges và cộng sự (2014)
Quyết định
Áp dụng thực hành x trong thời gian tới là hoàn toàn nằm trong khả năng của tôi. Tôi sẽ tiếp tục áp dụng thực hành x trong thời gian đến Tôi sẽ giới thiệu áp dụng thực hành x trong thời gian đến Erwin Wauters và cộng sự (2013); Borges và cộng sự ( 2014) Erwin Wauters và cộng sự (2013); Borges và cộng sự (2014)
72
Tôi có ý định áp dụng Erwin Wauters và cộng sự
thực hành x trong thời (2013); Borges và cộng sự
gian đến (2014)
Tôi có kế hoạch áp dụng Erwin Wauters và cộng sự
thực hành x trong thời (2013); Borges và cộng sự
gian đến (2014)
Tôi đã quyết định áp dụng Erwin Wauters và cộng sự
thực hành x trong thời (2013)
gian đến
Nói chung tôi sẽ ủng hộ Phát triển từ nghiên cứu
việc áp dụng thực hành x định tính
trong thời gian đến.
Quy trình kiểm định:
Với mục tiêu kiểm định các giả thuyết đã đưa ra, phương pháp phân tích mô
hình cấu trúc tuyến tính (SEM) được sử dụng, thông qua phần mềm AMOS. Đầu
tiên, nghiên cứu kiểm định thang đo thông qua hệ số Cronbach’s Alpha.
Kiểm định chất lượng của thang đo được đánh giá bằng công cụ hệ số tin cậy
Cronbach’s Alpha, hệ số này thường được dùng để đo lường mức độ chặt chẽ các
mục hỏi trong thang đo có sự tương quan với nhau. Để tính Cronbach’s Alpha cho
một thang đo thì thang đo phải có tối thiểu là ba biến đo lường (Nguyễn Đình Thọ,
2011). Nghiên cứu tiến hành kiểm định từng thành phần trước khi phân tích nhân tố.
Biến có hệ số tương quan biến - tổng < 0.3 sẽ bị loại. Tiêu chuẩn chọn thang đo có
độ tin cậy Cronbach’s Alpha từ 0.6 trở lên (dẫn theo Nguyễn Đình Thọ, 2011).
Theo Hair và cộng sự (2006), phân tích nhân tố (EFA) là phương pháp phân
tích thống kê dùng để rút gọn một tập nhiều biến quan sát thành một nhóm để chúng
có ý nghĩa hơn nhưng vẫn chứa đựng hầu hết các nội dung thông tin của biến ban
đầu, phân tích FEA được cho là phù hợp khi thỏa mãn các điều kiện sau:
73
i. Hệ số tải nhân số Factor Loading > 0.55
ii. O.5 ≤ KMO ≤ 1
iii. Kiểm định Bartlett có ý nghĩa thống kê Sig. < 0.05
iv. Phương sai trích (Cumulative % of variance) > 50%
Khi phân tích EFA cho các nhân tố tác động, tác giả sử dụng phương pháp
trích Principal Component Analysis với phép xoay Principal Axis Factoring và
điểm dừng khi trích các yếu tố có eigenvalue lớn hơn 1.
Phương pháp CFA trong phân tích cấu trúc tuyến tính SEM có nhiều ưu
điểm hơn so với phương pháp truyền thống như phương pháp hệ số tương quan,
phân tích nhân tố khám khá EFA. Lý do là, CFA cho phép chúng ta kiểm định cấu
trúc lý thuyết của các thang đo lường như mối quan hệ giữa một khái niệm nghiên
cứu và các khái niệm khác mà không bị chệnh do sai số đo lường. Hơn nữa, chúng
ta có thể kiểm định giá trị hội tụ và giá trị phân biệt của thang đo mà không cần
dùng nhiều nghiên cứu như trong phương pháp truyền thống MTMM (Steenkamp &
Van Trijp, 1991).
Theo Thọ và Trang (2011) trong CFA để đo lường mức độ phù hợp của mô
hình với thông tin thị trường, người ta thường sử dụng các chỉ số như: Chi bình
phương điều chỉnh theo bậc tự do (CMIN/df) ≤ 2; RMSEA < 0.8; TLI, CFI ≥ 0.9 thì
mô hình được gọi là phù hợp với dữ liệu thị trường. Và quy tắc này cũng được sử
dụng để đánh giá mức độ phù hợp của mô hình cấu trúc tuyến tính.
Sau khi đã đánh giá thang đo, toàn bộ mô hình nghiên cứu và các giải thuyết
được tiến hành kiểm định bằng phương pháp phân tích cấu trúc tuyến tính SEM.
Dự kiên kết quả nghiên cứu:
Nhận thức được các điều kiện và hoạt động sản xuất của nông hộ.
Xây dựng mô hình lý thuyết và lượng hóa các nhân tố ảnh hưởng đến quyết
định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của nông hộ.
74
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Với mục tiêu là giới thiệu địa bàn cũng như trình bày cụ thể các bước để tiến
hành một nghiên cứu nhằm đạt được các mục tiêu đề ra, chương này đã đạt được
một số kết quả như sau:
Thứ nhất, giới thiệu các khu vực nghiên cứu, bên cạnh đó, khái quát về tình
hình sản xuất và áp dụng các tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của nông hộ tại
hai địa phương Quảng Nam và Đà Nẵng trong thời gian qua.
Thứ hai, trình bày chi tiết các bước trong một thiết kế, đi từ mục tiêu nghiên
cứu, câu hỏi, giả thuyết đến đề xuất các phương pháp và cuối cùng dự kiến các kết
quả đạt được. Trong đó, lần đầu tiên nghiên cứu này sử dụng phương pháp phỏng
vấn sâu nhằm điều chỉnh và phát triển thang đo.
75
CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ PHÂN TÍCH VÀ THẢO LUẬN
3.1. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định áp dụng tiêu chuẩn
VietGAP trong sản xuất rau của nông hộ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
và thành phố Đà Nẵng thông qua phỏng vấn sâu
3.1.1. Thống kê mô tả
Để khai phá và phát triển thang đo, nghiên cứu tiến hành phỏng vấn sâu đối
tượng là các lao động nông nghiệp chính đã và đang áp dụng trồng rau theo tiêu
chuẩn VietGAP. Khi thông tin đã bão hòa, có nghĩa không có thêm thông tin mới
thì kết thúc phỏng vấn sâu. Như vậy có tổng cộng 11 lao động nông nghiệp chính
(Hưng Mỹ: 4; Lang Châu Bắc: 2; Bàu Tròn 3; La Hường: 2) trong đó, có 3 lao động
nữ và 8 lao động nam. Theo kết quả điều tra, độ tuổi bình quân của người lao động
chính là 51 tuổi. Giá trị này cho thấy độ tuổi bình quân của người lao động chính là
nằm trong thời kỳ cường tráng nhất của sức khỏe. Tuy vậy, vẫn có lao động ở Bàu
Tròn khi được hỏi có độ tuổi là 65 tuổi. Kết quả điều tra cho thấy, số năm kinh
nghiệm bình quân của lao động chính là 17 năm, trong đó, kinh nghiệm bình quân
của lao động đã áp dụng VietGAP là 3 năm. Trình độ của lao động được điều tra
chủ yếu từ cấp 2 trở xuống. Chỉ có 2 lao động ở Hưng Mỹ có trình độ lớp 10. Diện
tích trung bình của hộ sản xuất nông nghiệp là 7 sào (1 sào Trung Bộ tương đương
với 500 m2), khoảng 3.500 m2 trong đó diện tích trung bình trồng rau VietGAP là
1.000m2 / hộ.
3.1.2. Kết quả nghiên cứu thông qua phỏng vấn sâu
Kết quả cho thấy có 8 nhân tố nổi lên từ dữ liệu: 1) giao tiếp; 2) nhận thức
lợi ích; 3) nhận thức rủi ro; 4) nhận thức môi trường; 5) nhận thức cung cầu; 6) định
mức chủ quan; 7) kiểm soát hành vi; 8) quyết định áp dụng
Giao tiếp
Giao tiếp là một quá trình mà người tham gia tạo dựng và chia sẻ thông tin
với nhau để có thể hiểu biết được nhau Theo Rogers (1995). Việc quyết định áp
76
dụng các giống cây trồng chịu tác động bởi tần suất tiếp xúc giữa người nông dân
và cán bộ khuyến nông và thời gian tiếp xúc càng nhiều sẽ có ảnh hưởng tích cực
đến quyết định áp dụng đổi mới của nông dân. Gebremariam (2001). Trong khi đó,
kết quả phỏng vấn sâu cho thấy việc trao đổi giữa nông hộ với cán bộ khuyến nông
là rất ít:
Cũng ít, hồi mới có chương trình thì mấy ổng hay xuống để động viên,
khuyến khích, mấy năm ni không thấy. [Nam, 63 tuổi, Hưng Mỹ].
Hình như ít gặp lắm, lâu lâu thì thấy có xuống thăm đồng chứ có gặp trao
chi được mô. [Nữ, 52 tuổi, Bàu Tròn].
Lúc trước chuẩn bị đi học quy trình này mấy ổng xuống tận ruộng, mời lên
họp để trao đổi lợi ích của việc áp dụng quy trình này ghê lắm, chừ thì ít thấy hơn,
khi nào mưa to ngày mai là sẽ thấy liền, mấy ổng xuống thăm đồng đó, để nắm tình
hình về báo cáo. [Nam, 53 tuổi, La Hường].
Trong khi việc tiếp cận thông tin từ các cán bộ khuyến nông còn hạn chế thì
việc trao đổi giữa các hộ chung quanh lại là việc thường xuyên của người nông dân,
có lẽ đây không phải là đặc thù riêng của Quảng Nam hay Đà Nẵng mà là tình trạng
phổ biến chung cho cả nước khi mà lực lượng khuyến nông xã hay huyện rất mỏng,
không đủ để thường xuyên tiếp cận với các hộ nông dân. Việc trao đổi giữa các hộ
chủ yếu diễn ra vào cuối giờ chiều, các lao động là nam giới thường ngồi lại với
nhau nhâm nhi ly rượu giải mỏi. Việc trao đổi này mang lại nhiều thông tin thiết
thực từ quá trình sản xuất như trao đổi về giá cả, phương pháp áp dụng hay những
khó khăn trong khi áp dụng quy trình VietGAP vào sản xuất.
“…như quy trình nó khó áp dụng ở chỗ ghi nhật ký sản xuất, mấy anh em
thường nói nông dân mà ghi sổ sách gì, mà trong tất cả các khâu trong quy trình
này thì nội dung này khó nhất đó”[Nam, 48 tuổi, Hưng Mỹ]
“…nhiều thời điểm giá cả lên xuống như tết nguyên Đán năm vừa rồi (Bính
Thân), thì mùng 3 đến mùng 10 bán cái chi cũng được, nhưng qua rằm thì giá cả
xuống thê thảm. Cũng có nhiều khi mình hỏi cái ni làm răng cho đạt, hay có thể chỉ
lại cho người ta”. [Nam, 58 tuổi, Lang Châu Bắc].
77
Kết quả phỏng vấn cũng cho thấy, người nông dân rất ít và thậm chí đã
không còn sử dụng Radio để thu thập thông tin cho việc áp dụng các sáng kiến nông
nghiệp như các phát hiện của Ayinde và cộng sự (2010); Idrisa và cộng sự (2012)
mà thay vào đó là tivi. Cũng thông qua phương tiện nghe nhìn này mà nhiều hộ
nhận thức, lên án tính trạng sử dụng hóa chất, thuốc trừ sâu một cách bừa bãi, từ đó,
giúp nâng cao nhận thức cần phải sản xuất rau an toàn, rau sạch theo phương pháp
hiện đại, áp dụng khao học kỹ thuật hơn.
Oh, chi chứ mấy cái đó nghe thường lắm, lâu lâu lại nghe ngâm trái ổ qua
vào nước gì đó, sáng mai to đùng rồi đi bán, hoặc có chỗ làm giá cũng rứa, ăn toàn
ngâm hóa chất không, sao người ta không có lương tâm tí mô hỉ, bán ra chợ cũng
con cháu mình dùng chứ ai hỉ.[Nam, 48 tuổi, Bàu Tròn]
Kết quả cho thấy, việc tiếp cận thông tin từ phương tiện internet ở thôn quê là rất khó khăn. Như trong trả lời các đối tượng được hỏi có thường xem ti vi hay
không thì các đối tượng trả lời chỉ thường xem lúc thời sự, còn lại là nghỉ ngơi để
mai đi làm sớm, do đó, đối với phương tiện internet thì lại càng hiếm hơn. Chính vì
thế, loại quan sát này khỏi thang đo giao tiếp cho nghiên cứu định lượng tính theo.
Nhận thức về lợi ích
Khi người nông dân nhận thức được những lợi ích thu được từ việc áp dụng
các sáng kiến nông nghiệp cũng như mối quan tâm của họ về thực phẩm an toàn, về
môi trường xung quanh sẽ giúp họ nâng cao khả năng áp dụng các sáng kiến nông
nghiệp này. Khi được hỏi, quy trình mới này có mang lại lợi ích như thế nào so với
quy trình cũ? Chẳng hạn như về thu nhập, sản lượng. Một hộ cho biết: Trước đây
mình bón phân đại lên để cho cây rau nó xanh tốt, nhưng theo tiêu chuẩn VietGAP
mình bón phân vừa đủ trong thời gian đầu để đến khi thu hoạch cái phân nó phân
giải hết, cũng giống như phun thuốc, phun thuốc ngay từ giai đoạn cần phải cách ly
bao nhiêu ngày, cũng giống như phân chuồng, trước đây có thể phân chuồng cô
không ủ hoai mục, cô bón đại, nhưng khi học áp dụng VietGAP và thấy họ làm ( khi
được đi tham quan ở Lâm Đồng) thì ủ cho hoai mục, để một phần cây nó hấp thu
nhiều hơn, và cũng để những con vi khuẩn không còn nữa. Sản xuất theo kiểu
78
truyền thống là cuốc đất, phơi ải, phơi khô kéo dài họ sản xuất theo mùa vụ, giờ học
VietGAP về rồi có thể sản xuất không theo mùa vụ nữa mà sản xuất quanh năm, ví
dụ thời gian mình trồng cây ni 2 tháng là hết, cuốc lên phơi ải trồng lại cây khác,
với chừ có nước, có điện ra đồng rồi thì cứ sản xuất quanh năm và cũng xem cây
nào nó thích nghi mùa nào thì làm, hồi xưa không có điện, nước nên chờ trời [Nam,
44 tuổi, Hưng Mỹ].
Kết quả nghiên cứu này cũng phù hợp với Sarker và cộng sự (2009) cho rằng
nhận thức của người nông dân có ảnh hưởng tích cực đến việc áp dụng các sáng
kiến nông nghiệp.
Nhận thức về lợi ích và môi trường
Ngoài việc gia tăng năng suất, giảm thuốc trừ sâu thì sức khỏe của người sản
xuất cũng được cải thiện hơn:
Gia đình tôi làm nghề trồng rau truyền thống từ đời cha tôi đến nay đã lâu,
nhưng theo cách truyền thống, nay được học những tiến bộ kỹ thuật trồng rau
VietGAP, gia đình tôi sử dụng phân được ủ cho mục, còn dùng thuốc thì phải đúng
danh mục thuốc cho phép. Mà so với thời gian xưa thì lượng phân bón và thuốc
cũng hạn chế được thuốc bảo vệ thực vật. Nói chung thì làm theo quy trình sản xuất
mới ni, người nông dân được hưởng nhiều lợi ích lắm. Ngoài việc giảm lượng thuốc
trừ sâu như nói trên, sức khỏe ít bị ảnh hưởng thì năng suất tăng lên [Nam, 48 tuổi,
Hưng Mỹ].
Bên cạnh sức khỏe của người sản xuất được cải thiện do sản xuất đúng quy
trình thì môi trường chung quanh cũng được cải thiện tốt hơn
“…Bây chừ làm theo quy trình này thấy hiệu quả rõ rệt tiết kiệm được sức
người, sức của. Môi trường xung quanh cũng ít ảnh hưởng, do mình bỏ đúng nơi, ít
bơm , mà bơm thì đúng chu kì, thời tiết, sâu bệnh chứ không phải bơm đại như lúc
trước, thấy họ bơm là mình cũng mang bình bơm ra bơm, trước đây cũng quà đại
không có liều lượng cụ thể, mà nó hư hại nhiều lắm”[Nam, 63 tuổi, Hưng Mỹ]. Kết
quả này cũng phù hợp với Sriwichailamphan và cộng sự (2006) cho rằng những
79
người nông dân quan tâm đến môi trường thì khả năng áp dụng GAP cao hơn
(8,2%) so với những người nông dân không quan tâm đến môi trường.
Tuy nhiên, có hộ cho rằng việc chỉ có mình mình áp dụng quy trình
VietGAP, các vùng khác thì không áp dụng làm cho sản phẩm ra thị trường bị đồng
nhất, không phân biệt được đâu là rau sạch, từ đó sẽ ảnh hưởng đến uy tín của sản
phẩm:
“Trước kia chưa học thấy phun thuốc trừ sâu tràn lan đại hải, bây giờ đi học
thấy người ta chỉ cách phun như thế nào cho đạt hiệu quả, họ chỉ cho những loại
thuốc. Có đề ri nề, vùng mình áp dụng quy trình VietGAP, còn vùng khác không áp
dụng nên sản phẩm bán ra họ cũng chưa tin lắm, họ cũng nói mấy bả, mấy ổng
cũng phun thuốc tràn lan chứ, nhưng không cho dù họ có nói chi thì mình học
phương pháp này rồi mình cũng áp dụng, an toàn cho mình, người tiêu dùng, nhiều
lúc người ta cũng phỏng vấn tôi họ có hỏi chị làm mấy rò ni ăn còn mấy rò kia để
bán ra chợ, ý là họ nói mấy đám kia là phun thuốc cho cây nó đạt còn mấy rò mình
ăn thì không phun thuốc, ở đây không có, mình làm ra là mình ăn và bán cho họ
cũng vậy, ở đây cũng gọi là đạo đức nghề nghiệp đó [Nữ, 39 tuổi, Hưng Mỹ]
Đa số các hộ được hỏi cho rằng lợi ích khi áp dụng quy trình VietGAP cho
cây rau chủ yếu là tăng sản lượng, giảm thuốc trừ sâu chứ giá cả thì không thay đổi
nhiều, mà nguyên nhân chính là người tiêu dùng chưa nhận thức được sản phẩm của
rau sạch.
“Nói đi sâu về nó, (rau VIETGAP) cái chất lượng thì tốt nhưng thu nhập thì
chưa tốt lắm, cũng như xưa thôi, bởi vì nguyên nhân ở chỗ người tiêu dùng thấy cái
rẻ là mua chứ họ đâu có nghĩ đến quy trình chăm sóc cây rau này tốn công, tốn của
rất nhiều, nhưng bán bằng giá ngoài nên thu nhập cũng y rứa thôi chứ không đổi
gì. Có điều tôi thấy cũng nghịch, mấy người họ mua nớ, (người tiêu dùng) thì bao
giờ cũng ưa rau sạch, cứ than ăn nhầm rau bẩn, nhưng khi mua rau VietGAP thì lại
trả từng đồng, tôi cũng thấy chán”.[ Nam, 48 tuổi, Hưng Mỹ].
Tuy nhiên có hộ lại nhận thấy, những lợi ích do áp dụng quy trình VietGAP
không nhất thiết phải từ thu nhập mà gia tăng lợi ích từ sức khỏe người sản xuất.
80
Khi có chương trình này thì chú chỉ bán bằng giá thị trường thôi, bởi vì
trong đó chú đã hưởng lợi từ sức khỏe của chú, năng suất cũng cao rồi, chứ không
cần chi bán cao lên. Quy trình VietGAP dạy phun thuốc chi, phân chi xử lý đất ra
sao nên tôi đã có lợi từ chỗ phân thuốc này, tôi bù qua giá cả, sản phẩn của tôi nó
được nâng cao, đời cây kéo dài tuổi thọ [Nam, 56 tuổi, Lang Châu Bắc].
Nhận thức rủi ro:
Nhận thức rủi ro về giá cả
Trong quá trình sản xuất người nông dân luôn chịu những rui ro như rủi ro
thiên tai, dịch bệnh, rủi ro về thị trường giá cả, về thương hiệu…. Trong đó, biến
động giá cả là nguyên nhân quan trọng gây ra rủi ro trong sản xuất rau. Hơn nữa,
thời gian để tiêu thụ cây rau là rất ngắn chỉ một hoặc hai ngày, do đó, nếu không
bán thì cây rau sẽ héo, úa không bán được, dựa vào đó mà người tiểu thương ép giá
nông dân.
Nhiều rủi ro lắm chứ, làm nông mà, bây giờ mưa lụt bất thường lắm, rủi ro
về thị trường, sâu bệnh… nhưng cái rủi ro lớn nhất của người nông dân nói chung
chứ không riêng gì trồng rau VietGAP như cô đâu, đó là rủi ro về mặt thị trường,
đa số bà con ở đây tự tìm đầu ra cho sản phẩm của mình, chủ yếu thông qua các
con buôn, giá rau thì như giá rau truyền thống có khác chi đâu, tình trạng làm được
mùa thì mất giá thường xuyên. Người trồng rau dần dần không mặn mà với việc duy
trì và xây dựng thương hiệu. Hơn nữa cây rau thì chỉ có 1 ngày thôi chứ chiều thì
héo rồi, không bán cho họ thì có về cho bò ăn nên ông bà ta nói cây rau là mua tươi
bán héo[Nữ, 52 tuổi, Bàu Tròn].
Có lúc làm ra nhiều nhưng bán rẻ quá, nói thiệt chứ nhiều lúc phải cắt cho
bò ăn chứ biết làm chi, năn nỉ họ không mua mà, còn có lúc lại không có hàng để
bán, làm nông ni rứa đó, được mùa mất giá, được giá mất mùa ở chỗ mô anh thấy
cũng vậy. Mấy năm trước có công ty Việt Thiên Ngân vào hợp đồng đâu được thời
gian ròi cũng bỏ[Nam, 48 tuổi, Bàu Tròn].
Nhận thức rủi ro về thương hiệu, nhiều mặt hàng nông sản không có thương
hiệu cũng rất khó cho việc tiêu thụ. Tuy nhiên, cây rau theo tiêu chuẩn VietGAP ở 2
81
địa bàn khảo sát là Quảng Nam và Đà Nẵng đều có thương hiệu như Rau VietGAP
Hưng Mỹ, rau của quả VietGAP Bàu Tròn, Rau VietGAP La Hường nhưng đây lại
là nổi lo lắng khác của các hộ, bởi vì:
Sợ nhất là siêu thị nó lấy tới 3 nguồn rau, một trường xuân, rau Đà Lạt, và
rau Hưng Mỹ, khi có kiểm tra nguồn gốc chi ớ thì họ trưng bày hàng mình ra nhưng
số lượng họ đặt của mình chỉ bằng 1/3 của người ta thôi. Họ yêu cầu mình nhiều
thứ như nhãn hiệu, bao bì, đóng gói từ những cái đó nó đẩy giá mình cao lên và nó
lấy số lượng mình ít hơn, lấy hàng mình chỉ để trưng bày kiểm tra thôi….[Nữ, 39
tuổi, Hưng Mỹ].
Nhận thức rủi ro về thời tiết, sâu bệnh
Trong những năm gần đây hiện tượng thời tiết cực đoan đang gia tăng, đối
với 2 địa phương Quảng Nam và Đà Nẵng nằm ở vùng Trung Bộ, nơi phải gánh
chịu hàng chục cơn bão cũng như lũ lụt đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản
xuất nhất là trong sản xuất nông nghiệp.
Có chứ, mưa sơ sơ thì được chứ to quá thì chịu thôi chứ có chi che được đâu,
mấy nhà lưới này thì chỉ che nắng hay che mưa nhỏ thôi [Nam, 57 tuổi, La Hường]
Ở đây gió rất mạnh, nên nếu không có nhà lưới thì cũng rủi ro lắm chứ, tuy
rủi ro nhưng mình cũng đầu tư. thời tiết chừ ổng nắng miết ri nhưng mưa xuống là
hư ngay, biết đó nhưng cũng phải làm [Nam, 63 tuổi, Hưng Mỹ].
Rủi ro về thời tiết thì mình áp dụng khoa học kỹ thuật, rủi ro thời tiết cũng
đơn giản thôi, thời tiết hạn thì mình che, chắn cho tốt. còn rủi ro về sâu bệnh, thì ít
ngại [Nam, 56 tuổi, Lang Châu Bắc].
Mặc dù vậy, nhưng người nông dân vẫn chấp nhận rủi ro để sản xuất, vì theo
họ qua đó có thể học hỏi được kinh nghiệm, rút ra cho các vụ sau:
Làm nghề này thì cứ làm thôi chứ biết sao, bỏ thì làm nghề chi. Còn lụt lội
thì bỏ hết chứ, chừ lụt bất thường lắm, do mấy ông thủy điện ở trên cứ mưa vài
ngày là xả thì lấy đâu rau để bán. Chứ mấy năm trước bà con đây làm cũng canh
thời tiết lắm chứ, qua 23/10 al mới trồng.[Nam, 48 tuổi, Bàu Tròn]
82
Cũng chẳng có chi sợ hết, bởi vì cái nớ còn cho mình rút kinh nghiệm nữa, ví
dụ cái nớ hiện bây giờ nó đang mắt, được giá cao đó nhưng ai cũng ngã vô làm là
sản lượng nó nhiều đến khi thu hoạch là chết chùm, như chú làm ở đây chú ngó ông
kia ổng làm mấy dàn mướp thì minh làm mấy dàn ổ qua, nên làm trái với nhau để
ra thị trường nó đồng đều, chứ khi ra thị trường cái quá thừa cái quá thiếu. [Nam,
53 tuổi, La Hường]
Nhận thức về cung cầu
Việc sản xuất còn nhỏ lẻ manh mún, số hộ sản xuất rau VietGAP chiếm rất ít
so với các hộ sản xuất theo truyền thống, điều này khiến cho người tiêu dùng càng ít
biết đến sản phẩm rau VietGAP cũng có lý do:
… người ta (người tiêu dùng) biết rau bẩn thì nhiều, chứ báo đài cũng ít
nghe nói rau VietGAP là gì, chỉ có nhà nông như mình thì hay để ý đến nó để tìm
cách sản xuất cho an toàn hơn thôi, theo tôi thấy hiện nay ít người sản xuất rau
VietGAP quá, nói sơ sơ trên địa bàn Quảng Nam ni chỉ nghe đâu có 4 nơi sản xuất,
có 4 nơi thì nhằm nhò gì [Nam, 44 tuổi, Hưng Mỹ].
Hơn nữa, việc tiêu thụ rau VietGAP là gặp không ít khó khăn, một phần do
sản lượng sản xuất còn ít đã khiến cho việc quảng bá thương hiệu khó khăn, phần
do chưa có sự tham gia của các doanh nghiệp có uy tín trong việc tiêu thụ, nhưng
nguyên nhân quan trọng hơn hết theo người sản xuất đó chính là người tiêu dùng
chưa có lòng tin đối với phẩm rau VietGAP:
… họ không tin cũng có lý của họ, do họ nghe tivi nói về sản xuất ẩu quá,
bơm thuốc vô tội vạ, nên họ không tin là đúng rồi, với ri nữa, đừng có nghĩ rau sạch
là không bơm thuốc gì hết là không đúng, mà bơm phải có cách ly, ví dụ cây ra dền
ni mình thấy có sâu thì phải bơm trước mấy ngày trước khi cắt, rứa thôi. Chứ họ
thấy mình bơm thuốc cứ đi rao chỗ này tiếng chỗ kia tiếng thì ai dám ăn.[Nam, 57
tuổi, La Hường].
Cũng giải thích cho việc người tiêu dùng chưa có lòng tin với sản phẩm rau
VietGAP một hộ ở Đại An cho rằng:
83
… ở đây có 2 nguyên nhân chính, một là người sản xuất vẫn sản xuất theo lối
truyền thống làm ảnh hưởng đến uy tín rau VietGAP, thứ 2, hầu hết mọi người cứ
nghĩ rau sạch VietGAP là không phun thuốc, không bơm sinh trưởng, không phải
vậy, nên khi họ thấy mình bơm thuốc sâu thì họ nói, cứ thế truyền miệng nhau, làm
cho rau mất đi lòng tin từ họ.[Nữ, 52 tuổi, Bàu Tròn].
Cũng có những suy nghĩ gần như vậy, một hộ ở Duy Phước cho rằng do việc
chưa phân biệt đâu là rau sạch theo tiêu chuẩn VietGAP đâu là rau theo truyền
thống nên ngườ ta còn nghi ngờ, cộng với đó rau sạch thì phải được trưng bày trên
các tạp hóa sạch sẽ, ngăn nắp chứ không thể để tràn lan dưới đất được:
Mọi người dân ai cũng thích nhưng hiện nay giữa các rau sạch và không
sạch còn lẫn lộn, tràn lan với người bán rau sạch thì phải có chỗ để sạch chứ, chứ
hiện nay chợ búa như vậy thì làm sao sạch được, khi ông ni ổng muốn sạch thì phải
làm lên, làm lên thì chi phí cao. Bán giá cao, bán giá cao thì thị trường không chấp
nhận [Nam, 57 tuổi, La Hường].
Chính vì chưa có lòng tin, cộng với việc giá rau truyền thống thường thấp
hơn nên người tiêu dùng thường chọn mau rau truyền thống:
… người tiêu dùng thấy chênh lệch giá cả giữa rau VietGAP và rau bên
ngoài thì họ mua rau truyền thống thôi. Ví dụ bó rau sản xuât theo quy trình
VietGAP giá 5 nghìn, cũng loại rau đó, nhưng sản xuất theo quy trình cũ, truyền
thống, bán với giá 4 nghìn thì họ qua họ mua bó rau 4 nghìn đó ngay. Người tiêu
dùng họ không nghĩ giá cao tí mà nó an toàn hơn [Nam, 48 tuổi, Bàu Tròn].
Chuẩn mực chủ quan
Chuẩn mực chủ quan là quan điểm của một người về các áp lực xã hội sẽ ảnh
hưởng đến bản thân họ như thế nào khi thực hiện hoặc không thực hiện hành vi đó
(Ajzen và Fishbein, 1980). Đó là các áp lực đến từ bố mẹ; vợ chồng, con cái, cán
bộ khuyến nông…
Thường khi đứng trước một quyết định nào đó, con người thường tham khảo
ý kiến của những người chung quanh, bởi họ muốn chia sẻ giá trị trong gia đình như
vợ chồng, con cái, phần nữa họ muốn tìm cách khai thác những chuyên môn và kiến
84
thức từ các tổ chức, cán bộ khuyến nông, các lãnh đạo hợp tác xã, và vai trò trưởng
thôn nên xu hướng quyết định sản xuất rau theo tiêu chuẩn VietGAP của người
nông dân cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi những ý kiến đó:
Vợ tôi ủng hộ chứ, vợ tôi không muốn tôi ôm bình bơm đi phun miết mà phải
học quy trình và áp dụng quy trình này để hạn chế tác hại do thuốc, nhưng quy
trình này cũng mang lại thu nhập và sản phẩm an toàn hơn nên vợ đồng tình lắm
chứ [Nam, 48 tuổi, Hưng Mỹ].
Họ (khuyến nông) gửi giấy mời đi họp, rồi nó về những lợi ích của việc trồng
rau theo tiêu chuẩn VietGAP cho mình nghe, khuyên mình nên áp dụng nó. Với thấy
tivi nói nhiều về rau bẩn quá, cũng sợ [Nam, 48 tuổi, Bàu Tròn].
Hội nông dân người ta cũng khuyến khích mình nên sản xuất theo quy trình để
đảm bảo chất lượng và an toàn cho mình và môi trường chung quanh [Nam, 63
tuổi, Hưng Mỹ].
Mình phun cái ni, có người nói chú mi phun cái ni không tốt, họ khuyên
mình, với mình cũng đi học hỏi các hộ chung quanh chứ [Nam, 58 tuổi, Lang Châu
Bắc].
Kiểm soát hành vi
Nhận thức kiểm soát hành vi được định nghĩa là nhận thức của cá nhân về
việc sẵn có các nguồn lực cần thiết, kiến thức và cơ hội để thực hiện hành vi đó:
Vốn thiếu thì cũng gối đầu, ở các đại lý, mình cũng có uy tín với người ta rồi
nên người ta cũng dễ bán cho mình thôi [Nữ, 52 tuổi, Bàu Tròn].
Đất thì đủ chứ, đất, nước ở đây được Trung tâm kiểm định vùng 2 đến kiểm
định đạt chuẩn rồi mới cho trồng chứ[Nữ, 44 tuổi, Bàu Tròn].
Giống, phân thì không thiếu, xuống các địa lý mua là có, với mình tự để
giống được một số loại [Nam, 63 tuổi, Hưng Mỹ].
Anh chỉ làm nông thôi, với nuôi vài ba con bò, heo, mấy sào ruộng là không
có thời gian làm rồi.[Nam, 48 tuổi, Bàu Tròn].
Thỉnh thoảng mình cũng chạy xe lên vùng rau Túy loan để xem người ta làm
cách ren để học hỏi chứ [Nam, 53 tuổi, La Hường].
85
Rau ni cắt ra thì bán thôi chứ bảo quản chi mô[Nữ, 52 tuổi, Bàu Tròn]
Điện cũng đảm bảo, cái ni do kết hợp chương trình nông thôn mới nên có
điện, giao thông nội đồng[Nam, 56 tuổi, Lang Châu Bắc]
Quyết định áp dụng
Theo Ajzen và Feish (1980) thì quyết định áp dụng như lời tuyên bố rằng
anh/chị sẽ thực hiện hành động như đã nói. Trong nghiên cứu này, quyết định áp
dụng tiêu chuẩn VietGAP như là sự sẵn sàng của một người áp dụng các tiêu chuẩn
VietGAP trong sản xuất rau.
Nó thành thói quen của mình rồi chứ. Với nó tốt mà, nó an toàn trước hết là
cho mình, chứ làm theo kiểu ngày trước nguy hiểm quá [Nam, 48 tuổi, Hưng Mỹ].
Nó thành thói quen của mình rồi, chừ bảo làm theo kiểu trước đây là làm
không được. Chừ quy trình này nó ăn sâu trong tâm trí rồi, chừ làm theo kiểu trước
không làm được đâu. Nó mang lại lợi ích sức khỏe cho người sản xuất, người tiêu
dùng, cho mình và cho môi trường xung quanh đây trong lành hơn [Nam, 57 tuổi,
La Hường].
Không riêng chỉ những hộ còn có chứng nhận quy trình rau VietGAP như ở
Hưng Mỹ, La Hường mới áp dụng quy trình này cho sản xuất rau mà cả những hộ ở
một số khu vực sản xuất như Lang Châu Bắc, Bàu Tròn dù đã hết chứng nhận rau
đạt tiêu chuẩn VietGAP nhưng các hộ đều áp dụng đúng quy trình đã được học vào
sản xuất. Điều này cho thấy, nhận thức của người nông dân có khả năng đã được cải
thiện đáng kể.
Mình vẫn áp dụng quy trình VietGAP trong sản xuất dù không được chứng
nhận, ở đây không nói sản phẩm VietGAP, mà con người VietGAP do mình làm
theo quy trình VietGAP đã quen rồi [Nam, 56 tuổi, Lang Châu Bắc].
Nó thành thói quen của mình rồi, chừ bảo làm theo kiểu trước đây là làm
không được, làm rứa ảnh hưởng sức khỏe mình chết, với thấy trên ti vi nói nhiều về
độc hại của việc làm ẩu, làm tả rồi, bà con mình mua về ăn vô chưa chết nhưng
chết từ từ [Nữ, 52 tuổi, bàu Tròn].
86
Quyết định áp dụng này còn thể hiện qua việc người nông dân có trách
nhiệm nhắc nhở, góp ý, động viên các hộ chung quanh thực hiện quy trình VietGAP
cho cây rau:
Mình cũng có nói, nhắc chứ, nhưng có chị không vừa lòng và có những cuộc
họp mình đề nghị với thôn, với xã, với Hội nông dân làm sao động viên bà con làm
sao đó giảm thiểu tác hại của phun thuốc, từ bao bì, tới những đồ ăn nữa buổi vứt
bừa bãi để đỡ bớt ô nhiễm môi trường, nhưng cũng có người thực thi, cũng có
người không thực thi, họ cứ trơ trơ ra rứa.[Nữ, 44 tuổi, Bàu Tròn].
Qua kết quả phân tích bằng dữ liệu phỏng vấn sâu, các giả thuyết và mô
hình nghiên đề xuất ở chương 1 được điều chỉnh như sau:
Giả thuyết nghiên cứu:
H1: Có quan hệ cùng chiều giữa giao tiếp với quyết định áp dụng tiêu chuẩn
VietGAP trong sản xuất rau của nông dân.
H2: Có quan hệ cùng chiều giữa nhận thức về lợi ích với quyết định áp dụng tiêu
chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của nông dân.
H3 : Có quan hệ cùng chiều giữa nhận thức về môi trường với quyết định áp dụng
tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của nông dân.
H4: Quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của nông dân có
quan hệ nghịch chiều với nhận thức rủi ro.
H5: Quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của nông dân có
quan hệ nghịch chiều với nhận thức cung cầu
H6: Có quan hệ cùng chiều giữa nhân tố định mức chủ quan với quyết định áp dụng
tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của nông dân
H7: Quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của nông dân có
quan hệ cùng chiều với nhân tố kiểm soát hành vi.
87
Giao tiếp
Nhận thức môi trường
Nhận thức rủi ro
Quyết định áp dụng
dụng
Nhận thức lợi ích
Nhận thức cung cầu
Định mức chủ quan
Kiểm soát hành vi
Hình 3.1: Mô hình lý thuyết các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định áp dụng tiêu
chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của nông hộ tại hai địa phương
Quảng Nam và Đà Nẵng
3.2. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định áp dụng tiêu chuẩn
VietGAP trong sản xuất rau của nông hộ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
và thành phố Đà Nẵng qua nghiên cứu định lượng
3.2.1. Thống kê mô tả
Nghiên cứu ở đây chỉ phỏng vấn đối tượng là người làm nông nghiệp chính
trong gia đình chứ không phải chủ hộ vì đa số chủ hộ thường là những người đã lớn
88
tuổi thì ít tham gia nông nghiệp, càng khó tiếp cận quy trình VietGAP. Người làm
nông nghiệp chính không giới hạn tuổi theo quy định làm việc của nhà nước, có thể
là người nông dân nam trên 60 nhưng có sức khỏe để tham gia sản xuất nông nghiệp
thì vẫn thuộc đối tượng phỏng vấn.
Theo kết quả điều tra, độ tuổi bình quân của người lao động chính là 41,3
tuổi, điều này cho thấy độ tuổi bình quân của người lao động chính là nằm trong
thời kỳ cường tráng nhất của sức khỏe và trí tuệ, nhất là ở làng rau Hưng Mỹ, Bàu
Tròn bình quân 39 tuổi. Trong khi đó, lao động nông nghiệp chính ở khu vực sản
xuất Lang Châu Bắc và La Hường có độ tuổi trung bình từ 53 tuổi. Điều này phù
hợp với thực tế điền dã rằng, đội ngũ trung niên của 2 khu vực nghiên cứu này
không có nhiều lựa chọn nghề nghiệp ngoài làm nông. Kết quả điều tra cho thấy, số
năm kinh nghiệm bình quân của lao động chính là 15,6 năm, trong đó, kinh nghiệm
bình quân của lao động đã áp dụng VietGAP là 3,2 năm, bởi vì tiêu chuẩn VietGAP
được áp dụng ở Quảng Nam từ năm 2010 cho đến nay, trong khi đó ở thành phố Đà
Nẵng từ năm 2011. Qua kết quả điều tra nông hộ cho thấy, đa số lao động trình độ
văn hóa thấp, có đến 80% có trình độ từ cấp 2 trở xuống.
Diện tích trung bình của hộ sản xuất rau VietGAP là 600m/ hộ, hộ có diện
tích cao nhất là 2.200m, hộ có diện tích thấp nhất 300m. Mặc dù diện tích không
nhiều mà số thửa lại còn phân tán, có hộ có tới 3 thửa ruộng, rất khó khăn trọng việc
đầu tư máy bơm, điện sản xuất và cả việc vận chuyển sản phẩm. Điều này cũng đã
được UBND tỉnh Quảng Nam ra Quyết định số 23/QĐ-UBND ngày 5/8/2011 và
UBND thành phố Đà Nẵng ra Quyết định số 33/3013/QĐ-UBND ngày 19/10/2013
về việc hỗ trợ dồn điền đổi thửa. Tuy nhiên, hầu hết các địa phương vẫn còn nhiều
khó khăn khi triển khai. Điều này là đáng lo ngại bởi vì các công bố thực nghiệm
trước đây cho thấy việc sản xuất manh mún nhỏ lẻ ảnh hưởng rất lớn đến việc quyết
định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP.
Quy mô hộ gia đình bình quân là 4,4 thành viên/ 1 hộ, trong đó hộ có số
thành viên cao nhất là 7 hộ có số thành viên thấp nhất là 3. Số thành viên phụ thuộc
89
có ảnh hưởng rất lớn đến quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau
nói riêng hay trong sản xuất nói chung của hộ gia đình, từ đó ảnh hưởng không nhỏ
đến thu nhập, chi tiêu của hộ. Bình quân 1 hộ có 1,7 người phụ thuộc, con số này
cũng không cao. Theo quan sát thì số phụ thuộc chủ yếu là con cái còn trong độ tuổi
đi học. Số lao động bình quân của hộ là 2,2 người/hộ, theo ghi nhận thì lao động sản
xuất nông nghiệp nói chung chủ yếu là vợ và chồng trong gia đình là chính, hộ có
con cái hoặc bố mẹ làm nông nghiệp là rất ít. Điều này cũng cho thấy một thực tế là
việc thiếu hụt lao động làm trong nông nghiệp, do số lao động chuyển sang làm các
công việc khác như nữ thì đi may ở các doanh nghiệp, nam thì đi làm thợ hồ, những
công việc nhanh có thu nhập.
3.2.2. Kết quả nghiên cứu định lượng
3.2.2.1. Kiểm định Cronbach’s Alpha
Hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha thường được dùng để đo lường mức độ chặt
chẽ các mục hỏi trong thang đo có sự tương quan với nhau và đòi hỏi phải có tối
thiểu là ba biến đo lường. Nghiên cứu tiến hành kiểm định từng thành phần trước
khi phân tích nhân tố. Biến có hệ số tương quan biến - tổng < 0.3 sẽ bị loại. Tiêu
chuẩn chọn thang đo có độ tin cậy Cronbach’s Alpha từ 0.6 trở lên (Nunnally &
Burnstein, 1994 dẫn theo Nguyễn Đình Thọ và Nguyễn Thị Mai Trang, 2011).
Kết quả chạy Cronbach’s Alpha của 8 yếu tố tác động đến quyết định áp
dụng tiêu chuẩn VietGAP của nông hộ được trình bày ở Bảng 3.1:
90
Bảng 3.1. Cronbach’s Alpha của các khái niệm nghiên cứu
Trung bình Phương sai Tương quan Cronbach’s Biến quan thang đo nếu thang đo nếu biến - tổng sát loại biến loại biến hiệu chỉnh Alpha nếu loại biến
Giao tiếp: Cronbach’s Alpha = 0.935
2.435 .845 .922 7.85 GT1
2.353 .899 .879 7.90 GT2
2.380 .854 .915 7.90 GT3
Nhận thức lợi ích: 0.768
2.955 .623 .664 5.77 NTL1
2.934 .618 .669 5.20 NTL2
2.971 .563 .731 5.91 NTL3
Nhận thức rủi ro: 0.886
1.773 .733 .877 4.25 NTR1
1.513 .801 .818 4.10 NTR3
1.550 .806 .813 4.18 NTR4
Nhận thức môi trường : Cronbach’s Alpha = 0.879
7.487 .715 .855 8.30 NTA1
7.199 .760 .837 8.24 NTA2
7.557 .716 .854 8.22 NTA3
7.025 .766 .835 8.24 NTA4
Nhận thức cung cầu thị trường : Cronbach’s Alpha = 0.756
1.617 .578 .681 4.24 NTC1
1.581 .602 .655 4.24 NTC2
1.549 .576 .685 4.24 NTC3
Định Mức: Cronbach’s Alpha = 0.919
DM1 13.75 12.175 .704 .918
DM4 13.75 11.254 .845 .889
DM5 13.71 11.461 .830 .892
DM8 13.50 11.759 .854 .889
DM9 13.85 11.912 .728 .913
91
Kiểm soát hành vi: Cronbach’s Alpha = 0.909
KS2 19.192 13.59 .742 .894
KS3 18.789 13.65 .759 .892
KS4 19.534 13.48 .617 .909
KS5 20.001 13.79 .771 .892
KS6 19.628 13.75 .729 .895
KS7 19.733 13.74 .749 .894
KS8 19.490 13.71 .752 .893
Quyết định: Cronbach’s Alpha = 0.875
QD1 11.47 9.178 .638 .863
QD2 11.35 8.146 .809 .822
QD3 11.49 8.408 .758 .835
QD5 11.12 8.512 .703 .849
QD6 11.33 9.110 .614 .869
Thành phần Giao tiếp
Kết quả thành phần Giao tiếp có Cronbach’s Alpha là 0.935 và các hệ số
tương quan biến - tổng của các biến thành phần đều lớn hơn 0.3. Vì vậy 3 biến đo
lường thành phần này đều được sử dụng trong phân tích EFA tiếp theo.
Thành phần nhận thức lợi ích
Kết quả thành phần nhận thức lợi ích có Cronbach’s Alpha là 0.768 và các hệ
số tương quan biến - tổng của các biến thành phần đều lớn hơn 0.3. Vì vậy 3 biến
đo lường thành phần này đều được sử dụng trong phân tích EFA tiếp theo.
Thành phần nhận thức rủi ro:
Kết quả thành phần nhận thức rủi ro có Cronbach’s Alpha là 0.507 nhưng hệ
số tương quan biến - tổng của các biến thành phần NTR2 nhỏ hơn 0.3. Biến bị loại
NTR2 có nội dung: Áp dụng thực hành tiêu chuẩn VietGAP có nguy cơ thất thu.
Theo kết quả phỏng vấn sâu thì các hộ nông dân cho rằng đã làm nông nghiệp phải
chấp nhận có lúc được mùa, có lúc sẽ thất thu nên biến này bị loại không ảnh hưởng
đến ý nghĩa. Vì vậy, sau khi loại các biến trên thì kết quả chạy Cronbach’s Alpha là
0.886 và các hệ số tương quan biến – tổng của các biến thành phần đều lớn hơn 0.3. vì vậy,
3 biến đo lường thành phần này đều được sử dụng trong phân tích EFA tiếp theo.
92
Thành phần nhận thức môi trường an toàn
Kết quả thành phần nhận thức môi trường an toàn có Cronbach’s Alpha là
0.879 và các hệ số tương quan biến - tổng của các biến thành phần đều lớn hơn 0.3.
Vì vậy 4 biến đo lường thành phần này đều được sử dụng trong phân tích EFA tiếp
theo.
Thành phần nhận thức cung cầu thị trường
Kết quả thành phần nhận thức cung cầu có Cronbach’s Alpha là 0.756 và các
hệ số tương quan biến - tổng của các biến thành phần đều lớn hơn 0.3. Vì vậy 3 biến
đo lường thành phần này đều được sử dụng trong phân tích EFA tiếp theo.
Thành phần định mức chủ quan
Thành phần định mức chủ quan có Cronbach’s Alpha là 0.629 nhưng hệ số
tương quan biến - tổng của các biến thành phần DM2, DM3, DM6, DM7 đều nhỏ
hơn 0.3.
Biến bị loại DM2 có nội dung: Cha mẹ tôi nghĩ rằng tôi nên áp dụng thực
hành x trong thời gian tới. Theo kết quả quan sát thì hầu hết các hộ ra ở riêng hoặc
nếu có ở chung thì bố mẹ đã quá già không quan tâm nhiều đến sản xuất của con
cái, nên biến này bị loại là không ảnh hưởng đến ý nghĩa.
Biến DM 3: Các con tôi nghĩ rằng tôi nên áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong
sản xuất rau trong thời gian tới. Theo kết quả quan sát thì con cái của các hộ đều
còn trong độ tuổi đi học, chưa hiểu biết nhiều về quy trình VietGAP.
Biến DM 6: Trưởng thôn nơi tôi ở nghĩ rằng tôi nên áp dụng thực hành tiêu
chuẩn x trong thời gian tới. Theo kết quả quan sát, thì trưởng thôn chỉ có vai trò
trong các thủ tục hành chính, chứ không có vai trò trong việc định hướng sản xuất
cho bà con.
Biến DM 7: Hội nông dân của tôi nghĩ rằng tôi nên áp dụng thực hành tiêu
chuẩn VietGAP trong thời gian tới. Theo kết quả quan sát, Hội nông dân chỉ có vai
trò giúp nông dân vay vốn để sản xuất là chính mà chưa phát huy được vai trò dẫn
dắt trong sản xuất cho bà con nơi đây.
Vì vậy, sau khi loại các biến trên thì kết quả chạy Cronbach’s Alpha là 0.919
và các hệ số tương quan biến – tổng của các biến thành phần đều lớn hơn 0.3. Vì
93
vậy, 5 biến đo lường thành phần này đều được sử dụng trong phân tích EFA tiếp
theo.
Thành phần kiểm soát hành vi
Kết quả thành phần kiểm soát hành vi có Cronbach’s Alpha là 0.844 nhưng
hệ số tương quan biến - tổng của các biến thành phần KS1 nhỏ hơn 0.3. Biến bị loại
KS1 có nội dung: Nếu tôi áp dụng thực hành tiêu chuẩn VietGAP trong thời gian
tới, tôi có đủ đất để áp dụng. Theo quan sát thì đa số các hộ đều có đất đủ tiêu chuẩn
để áp dụng VietGAP và không muốn mở rộng quy mô, do thị trường còn chưa phát
triển. Sau khi loại các biến trên thì kết quả chạy Cronbach’s Alpha là 0.909 và các
hệ số tương quan biến – tổng của các biến thành phần đều lớn hơn 0.3. Vì vậy, 7
biến đo lường thành phần này đều được sử dụng trong phân tích EFA tiếp theo.
Thành phần quyết định
Kết quả thành phần quyết định có Cronbach’s Alpha là 0.740 nhưng hệ số
tương quan biến - tổng của các biến thành phần YD4 nhỏ hơn 0.3. Vì vậy, sau khi
loại các biến trên thì kết quả chạy Cronbach’s Alpha là 0.875 và các hệ số tương
quan biến – tổng của các biến thành phần đều lớn hơn 0.3. Vì vậy, 5 biến đo lường
thành phần này đều được sử dụng trong phân tích EFA tiếp theo.
Như vậy, qua phân tích kiểm định Cronbach’s Alpha, mô hình còn 8 thang
3.2.2.2. Phân tích nhân tố khám phá (EFA)
đo đảm bảo chất lượng với 33 biến đặc trưng.
Theo Hair và cộng sự (2006), phân tích nhân tố là phương pháp thống kê
dùng để rút gọn một tập nhiều biến quan sát thành một nhóm để chúng có ý nghĩa
hơn nhưng vẫn chứa đựng hầu hết các nội dung thông tin của biến ban đầu. Phân
tích FEA được cho là phù hợp khi thỏa mãn các điều kiện sau:
1) Hệ số tải nhân số Factor Loading > 0.55
2) O.5 ≤ KMO ≤ 1
3) Kiểm định Bartlett có ý nghĩa thống kê Sig. < 0.05
4) Phương sai trích (Cumulative % of variance) > 50%
Khi phân tích EFA cho các nhân tố tác động, tác giả sử dụng phương pháp
trích Principal Component Analysis với phép xoay Principal Axis Factoring và
điểm dừng khi trích các yếu tố có eigenvalue lớn hơn 1.
94
Mô hình nghiên cứu ban đầu gồm 33 biến quan sát độc lập của 8 thành phần
tiếp tục đưa vào phân tích EFA. Kết quả đầy đủ được trình bày trong Phụ lục.
Qua rút trích nhân tố lần 1 biến KS4 có nội dung: “Nếu tôi áp dụng thực
hành tiêu chuẩn VietGAP trong thời gian tới, việc bảo quản sau thu hoạch không là
trở ngại với tôi” bị loại vì có hệ số tải nhân tố không xác định (xem thêm phụ lục).
Theo kết quả quan sát, thì đa số người nông dân thu hoạch rau xong là bán ngay cho
tiểu thương hoặc cho các siêu thị ngay trong ngày nên việc bảo quan sau thu hoạch
là không trở ngại với họ. Vì vậy, nội dung này loại không có ảnh hưởng đến kết quả
nghiên cứu.
Kết quả thể hiện trong bảng 3.2 cho thấy sau khi loại bỏ biến không tin cậy,
thang đo còn lại 32 biến được tiến hành phân tích nhân tố lần 2 và trích thành 6
nhóm với tổng phương sai trích đạt 49,6% (xấp xỉ gần bằng 50% nên có thể chấp
nhận được) nghĩa là 6 nhân tố rút ra giải thích được 49,6% biến thiên của dữ liệu;
điểm dừng khi trích các yếu tố hệ số Eigenvalue có giá trị >1. Hệ số tải nhân tố đều
lớn hơn 0.5 nên các biến quan sát đều quan trọng, các khái niệm nghiên cứu đạt giá
trị hội tụ. Hệ số KMO là 0.896 (đạt yêu cầu > 0.5) thể hiện sự thích hợp của phân
tích nhân tố, kiểm định Bartlett đạt ý nghĩa thống kê (sig < 0.05).
Tuy nhiên, từ kết quả EFA lần 2, nếu như các biến quan sát được trích vào các
nhân tố 3,4,5,6 được giữ nguyên gốc các yếu tố (kiểm soát hành vi, định mức chủ
quan, quyết định, giao tiếp) thì 3 biến quan sát NTA1, NTA2, NTA3 (nhận thức
môi trường) và 4 biến quan sát NTL1, NTL2, NTL3, NTL4 (nhận thức lợi ích) gộp
thành một nhân tố, đặt tên mới là nhân tố lợi ích - môi trường ký hiệu NTLA và 3
biến NTR1, NTR3, NTR4 ( nhận thức rủi ro) gộp với 3 biến NTC1, NTC2, NTC3 (
nhận thức cung cầu) thành một nhân tố, đặt tên nhân tố mới thứ hai là nhân tố nhận
thức rủi ro, ký hiệu là NTRC. Điều này chứng tỏ về mặt lý thuyết nhận thức môi
trường và nhận thức lợi ích là hai khái niệm, nhưng trên thực tế chúng có thể là một.
Tương tự nhận thức rủi ro và nhận thức cung cầu là hai khái niệm nhưng tựu chung
chúng có thể là một.
Sau đó chạy lại Cronbach’s Alpha cho thấy 6 nhân tố này đều đạt yêu cầu.
Như vậy, các biến quan sát được rút trích vào các nhân tố này sẽ được sử dụng phân
tích nhân tố khẳng định (CFA) ở nội dung tiếp theo.
95
Bảng 3.2. Kết quả phân tích EFA các thang đo các khái niệm nghiên cứu
Nhân tố
1 2 3 4 5 6
NTA4 .851
NTA2 .848
NTA3 .838
NTL3 .740
NTL1 .718
NTL2 .688
NTA1 .682
NTR4 .934
NTR3 .842
NTC2 .787
NTR1 .775
NTC1 .748
NTC3 .714
.840 KS8
.835 KS5
.805 KS7
.801 KS3
.800 KS6
.674 KS2
.922 DM8
.921 DM4
.879 DM5
.752 DM9
.699 DM1
.921 QD2
96
QD3 .893
QD5 .726
QD1 .646
QD6 .583
GT2 .940
GT1 .910
GT3 .872
Extraction Method: Principal Axis Factoring.
Rotation Method: Promax with Kaiser Normalization.
a. Rotation converged in 6 iterations.
Như vậy, sau khi đánh giá thang đo bằng EFA các giả thuyết nghiên cứu
ở mục 3.1.2. được điều chỉnh lại như sau:
H1: Có quan hệ cùng chiều giữa giao tiếp với quyết định áp dụng tiêu chuẩn
VietGAP trong sản xuất rau của nông dân.
H2: Có quan hệ cùng chiều giữa nhận thức về lợi ích – môi trường với quyết
định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của nông dân.
H3 : Quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của nông
dân có quan hệ nghịch chiều giữa nhận thức rủi ro.
H4: Có quan hệ cùng chiều giữa nhân tố chuẩn mực chủ quan với quyết định
áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của nông dân.
H5: Quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của nông dân
3.2.2.3. Kiểm định thang đo bằng phương pháp phân tích nhân tố khẳng định
(CFA)
có quan hệ cùng chiều giữa nhân tố kiểm soát hành vi.
Phần này đánh giá lại các thang đo bằng phân tích nhân tố khẳng định CFA.
Trong phân tích cấu trúc tuyến tính (SEM) CFA có nhiều ưu điểm hơn so với
phương pháp truyền thống như: hệ số tương quan, phân tích nhân tố khám khá EFA.
Lý do là CFA cho phép chúng ta kiểm định cấu trúc lý thuyết của các thang đo
lường như mối quan hệ giữa một khái niệm nghiên cứu và các khái niệm khác mà
97
không bị chệnh do sai số đo lường. Hơn nữa, chúng ta có thể kiểm định giá trị hội tụ
và giá trị phân biệt của thang đo mà không cần dùng nhiều nghiên cứu như trong
phương pháp truyền thống MTMM (Steenkamp & Van Trijp 1991)1
Kết quả CFA thu được trên hình 3.1: Chisquare/df=1.287; GFI=0,895;
TLI=0,977; CFI=0,980; RMSEA=0,031, chứng tỏ mô hình thang đo các yếu tố
quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP của nông dân phù hợp với dữ liệu của thị
trường. Tuy nhiên, các chỉ số GFI <0,9 , do vậy, cần cải thiện mô hình bằng cách
móc các phần dư.
1 Phương pháp MTMM (MultiTrait-MultiMethod) do Campbell & Fiske (1958) (trích dẫn từ Nguyễn Đình Thọ & ctg, 2009, tr. 350) đề nghị được sử dụng phổ biến để đánh giá giá trị các khái niệm nghiên cứu. Tuy nhiên phương pháp này có nhược điểm là nó đòi hỏi phải thực hiện đồng thời nhiều nghiên cứu và nhiều phương pháp trong cùng một dự án
Hình 3.2. CFA lần 1
98
Sau khi móc thì CFA lần 2 như sau:
Kết quả CFA thu được trên hình 3.2: Chisquare/df=1.219; GFI=0,901;
TLI=0,983; CFI=0,984; RMSEA=0,027, chứng tỏ mô hình thang đo các yếu tố
quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP của nông dân phù hợp với dữ liệu của thị
trường.
Hình 3.3. CFA đã móc các phần dư
Về các giá trị hội tụ, các trọng số λi ở dạng chuẩn hóa đều đạt tiêu chuẩn (giá
trị thấp nhất là λDM1 = 0,710). Vì vậy, các biến quan sát dùng để đo lường các khái
niệm (yếu tố) trong mô hình nghiên cứu được hiệu chỉnh sau khi Cronbach alpha và
EFA đều đạt tiêu chuẩn giá trị hội tụ.
99
Về các giá trị phân biệt, hệ số tương quan giữa các khái niệm nghiên cứu đều
nhỏ hơn 1 (cao nhất là QD↔ GT = 0,467 ) chứng tỏ các khái niệm nghiên cứu trong
mô hình đều đạt giá trị phân biệt.
Về độ tin cậy của các thang đo được đánh giá dựa trên các tiêu chuẩn hệ số
tin cậy Cronbach alpha (α), hệ số tin cậy tổng hợp (ρc) và phương sai trích (ρvc).
Bảng 3.3 cho thấy, các yếu tố giao tiếp, kiểm soát hàng vi, nhận thức lợi ích môi
trường, định mức, quyết định, nhận thức rủi ro đều đạt yêu cầu về độ tin cậy.
Bảng 3.3. Kết quả kiểm định độ tin cậy của các thang đo
Độ tin cậy Số biến Số biến Giá trị quan sát quan sát Α Ρc ρvc
6 0.913 0.916 0.645 NTRC
6 0.909 0.911 0.632 KS
7 0.909 0.910 0.592 NTLA Đạt yêu cầu 5 0.919 0.919 0.696 DM
5 0.875 0.878 0.593 QD
3 0.935 0.935 0.828 GT_
3.2.2.4. Kiểm định mô hình nghiên cứu bằng phương pháp cấu trúc tuyến tính
(SEM)
Kết quả SEM thu được trên hình 3.3: Chisquare/df=1.219; GFI=0,901;
TLI=0,983; CFI=0,984; RMSEA=0,027, chứng tỏ mô hình thang đo các yếu tố
quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP của nông dân phù hợp với dữ liệu của thị
trường. Tuy nhiên, kết quả ước lượng (chuẩn hóa) mối quan hệ giữa các khái niệm:
DM → QD không có ý nghĩa thống kê ở độ tin cậy 90% (xem bảng 3.4. Vì vậy, cần
xem xét loại bỏ khái niệm DM.
100
Hình 3.4. Kết quả SEM mô hình lý thuyết
Bảng 3.4 Kết quả kiểm định mối quan hệ nhân quả giữa các khái niệm trong
mô hình lý thuyết chính thức
Estimate S.E. C.R. P Label
QD <--- KS .265 .067 3.982 ***
QD <--- GT_ .255 .063 4.067 ***
QD <--- NTRC -.399 .087 -4.571 ***
QD <--- DM .066 .049 1.343 .179
QD <--- NTLA .114 .052 2.182 .029
101
Trong đó: Estimate: giá trị ước lượng trung bình
SE: sai lệch chuẩn
CR: giá trị tới hạn
P: mức ý nghĩa
***, p<0,001
Kết quả nếu loại biến DM thì Chisquare/df=1.150; GFI=0,919; TLI=0,990;
CFI=0,991; RMSEA=0,023, đồng thời các khái niệm còn lại trong mô hình đều có ý
nghĩa thống kê ở độ tin cậy 90% (P<0.05).
Hình 3.5. Kết quả SEM loại bỏ DM
102
Bảng 3.5. Kết quả kiểm định mối quan hệ nhân quả giữa các khái niệm trong
mô hình lý thuyết chính thức (sau khi đã loại biến DM)
Estimate S.E. C.R. P Label
QD <--- KS .260 .067 3.908 ***
QD <--- GT_ .277 .061 4.560 ***
QD <--- NTRC -.409 .087 -4.690 ***
QD <--- NTLA .118 .052 2.254 .024
Trong đó: Estimate: giá trị ước lượng trung bình
SE: sai lệch chuẩn
CR: giá trị tới hạn
P: mức ý nghĩa
***, p<0,001
Kiểm định ước lượng mô hình lý thuyết bằng bootstrap
Phương pháp bootstrap được sử dụng để ước lượng lại các tham số của mô
hình lý thuyết đã được ước lượng bằng phương pháp ước lượng tối ưu (ML). Lý do,
Gerbing và cộng sự (1988) phương pháp phân tích cấu trúc tuyến tính (SEM)
thường đòi hỏi kích thước mẫu lớn, vì thế, nếu sử dụng các phương pháp ước lượng
thông thường việc lấy mẫu sẽ mất nhiều thời gian và chi phí lớn. Trong trường hợp
này, theo Schumacker và Lomax (2006), bootstrap là phương pháp thay thế phù
hợp, nhờ cách lấy mẫu lặp lại có thay thế, trong đó mẫu ban đầu đóng vai trò là đám
đông (dẫn theo Nguyễn Đình Thọ và Nguyễn Thị Mai Trang, 2011). Trong nghiên
cứu này, thực hiện bootstrap bằng cách lấy mẫu lặp lại với kích thước N = 200. Kết
quả ước lượng thể hiện trên bảng 3.6 cho thấy, độ chệnh (Bias) và sai số lệch chuẩn
của độ chệch (SEBias) giữa ước lượng bootstrap với ước lượng tối ưu ML sử dụng
trong nghiên cứu kiểm định có xuất hiện nhưng không lớn [Bias/SE(Bias) <<2],
chứng tỏ kết quả ước lượng trong nghiên cứu là đáng tin cậy.
103
Bảng 3.6. Kết quả ước lượng bootstrap so với ước lượng ML
Ước lượng ML Ước lượng bootstrap Chênh lệch Quan hệ Estimate S.E. Mean SE SE-SE Bias SE-Bias
QD <--- KS 0.260 0.067 0.260 0.075 0.004 0.000 0.005
QD <--- GT_ 0.277 0.061 0.274 0.061 0.003 -0.003 0.004
QD <---NTRC -0.409 0.087 -0.41 0.129 0.006 -0.001 0.009
QD <--- NTLA 0.118 0.052 0.122 0.055 0.003 -0.004 0.004
Trong đó:
Estimate: giá trị ước lượng trung bình
SE: sai lệch chuẩn
SE-SE: Sai lệch chuẩn của sai lệch chuẩn
Bias: độ chệnh
SE-Bias: sai lệch chuẩn của độ chệnh
Kiểm định các giả thuyết nghiên cứu
Kết quả đánh giá sơ bộ thang đo cho phép hiệu chỉnh mô hình lý thuyết và
các giả thuyết nghiên cứu.
Kết quả kiểm định mô hình lý thuyết chính thức, khái niệm DM tiếp tục bị
loại như hình 3.4, vì thế còn lại 4 giả thuyết.
Kết quả ước lượng bảng 3.5 cho thấy các khái niệm kiểm soát hành vi, nhận
thức lợi ích môi trường, giao tiếp tác động cùng chiều đến quyết định áp dụng tiêu
chuẩn VietGAP của nông dân, và có ý nghĩa thống kê (p<0.05), riêng khái niệm
nhận thức rủi ro có tác động nghịch chiều đến quyết định áp dụng tiêu chuẩn
VietGAP của nông dân, và có ý nghĩa thống kê (p<0.05). Nghĩa là các giả thuyết
H1, H2, H3, H5 đều được chấp nhận.
104
3.2.2.5. Phân tích cấu trúc đa nhóm
Phương pháp phân tích cấu trúc đa nhóm được sử dụng để so sánh mô hình
lý thuyết theo các nhóm nào đó của một biến định tính (VD: nhóm nông dân nam,
nông dân nữ; nhóm nông dân Quảng Nam, nhóm nông dân Đà Nẵng). Phương pháp
phân tích đa nhóm sử dụng trong nghiên cứu này bao gồm hai mô hình: mô hình
khả biến và mô hình bất biến. Trong mô hình khả biến, các tham số ước lượng trong
từng mô hình của các nhóm không bị ràng buộc. Trong mô hình bất biến tham số
ước lượng trong từng mô hình của các nhóm được ràng buộc có giá trị như nhau.
Phương pháp ước lượng ML (Maximum Likehood) được sử dụng trong phân tích đa
nhóm. Kiểm định khác biệt Chi - bình phương được dùng để so sánh hai mô hình.
Nếu kiểm định khác biệt Chi -bình phương cho thấy giữa hai mô hình bất
biến và mô hình khả biến không có sự khác biệt (p-value>0.05) thì mô hình bất biến
sẽ được chọn (vì có bậc tự do cao hơn). Ngược lại, nếu sự khác biệt Chi - bình
phương là có ý nghĩa thống kê (p-value<0.05) thì sẽ chọn mô hình khả biến (có độ
tương thích cao hơn).
Kiểm định giả thuyết phụ về sự khác biệt theo địa điểm (nông dân ở
Quảng Nam và Đà Nẵng)
Kết quả SEM mô hình khả biến cho thấy mô hình lý thuyết có 624 bậc tự do;
Chisquare/df = 1.198 (<3); TLI = 0,974 ( ≥ 0.9); CFI = 0,977 ( ≥ 0,9); RMSEA =
0,026 (<0,08).
Kết quả SEM mô hình bất biến cho thấy mô hình lý thuyết có 628 bậc tự do;
Chisquare/df = 1.201(<3); TLI = 0,973 ( ≥ 0.9); CFI = 0,976 ( ≥ 0,9); RMSEA =
0,026 (<0,08).
Chứng tỏ cả hai mô hình bất biến và khả biến đều phù hợp với dữ liệu thị
trường.
Bảng 3.7. Kiểm định giả thuyết phụ về sự khác biệt theo địa điểm
Mô hình so sánh Chi-square DF P
Bất biến từng phần 754.432 628 .000
Khả biến 747.757 624 .000
Giá trị khác biệt 6.675 4 0.15
105
Chọn mô hình bất biến hay khả biến. Chúng ta kiểm định giả thuyết sau:
H0: Không có sự khác biệt giữa Chi - square của mô hình khả biến và Chi-
square của mô hình bất biến
H1: Có sự khác biệt giữa Chi - square của mô hình khả biến và Chi- square
của mô hình bất biến
Nếu H0 được chấp nhận (P > 0,05), thì mô hình bất biến được chọn (vì có số
bậc tự do cao hơn). Nghĩa là, không có sự khác nhau giữa các nhóm của biến định
tính trong việc giải thích các biến trong mô hình.
Ngược lại, nếu H0 bị từ chối (P ≤ 0,05 chấp nhận H1) thì mô hình khả biến sẽ
được chọn (vì có độ tương thích cao hơn). Nghĩa là, có sự khác nhau giữa các nhóm
của biến phân nhóm trong việc giải thích các biến trong mô hình.
Kết quả kiểm định sự khác biệt giữa các chỉ tiêu tương thích giữa mô hình
khả biến và bất biến từng phần (bảng 3.7) cho thấy sự khác biệt giữa hai mô hình
không có ý nghĩa thống kê (p = 0,15 > 0,05). Vì thế, mô hình bất biến được chọn và
cho phép kết luận không có sự khác nhau giữa các nhóm nông dân ở Quảng Nam và
Đà Nẵng trong việc giải thích (đánh giá) các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định áp
dụng tiêu chuẩn VietGAP của nông dân.
Kiểm định giả thuyết phụ về sự khác biệt theo giới tính của nông dân
Kết quả SEM mô hình khả biến cho thấy mô hình lý thuyết có 624 bậc tự do;
Chisquare/df =1.241 (<3); TLI = 0,968 (≥ 0,9); CFI = 0,971 (≥ 0.9); RMSEA =
0,029 (<0.08).
Kết quả SEM mô hình bất biến cho thấy mô hình lý thuyết có 628 bậc tự do;
Chisquare/df = 1.243 (<3); TLI = 0,968 (≥ 0.9); CFI = 0,971 (≥ 0.9); RMSEA =
0,029 (<0.08).
Chứng tỏ cả hai mô hình bất biến và khả biến đều phù hợp với dữ liệu thị
trường.
Bảng 3.8. Kiểm định giả thuyết phụ về sự khác biệt theo giới tính
Mô hình so sánh Chi-square DF P
Bất biến từng phần 780.361 628 .000
Khả biến 774.351 624 .000
Giá trị khác biệt 6.010 4 0.2
106
Chọn mô hình bất biến hay khả biến. Chúng ta kiểm định giả thuyết sau:
H0: Không có sự khác biệt giữa Chi - square của mô hình khả biến và Chi-
square của mô hình bất biến
H1: Có sự khác biệt giữa Chi - square của mô hình khả biến và Chi- square
của mô hình bất biến
Nếu H0 được chấp nhận (P > 0,05), thì mô hình bất biến được chọn (vì có số
bậc tự do cao hơn). Nghĩa là, không có sự khác nhau giữa các nhóm của biến định
tính trong việc giải thích các biến trong mô hình.
Ngược lại, nếu H0 bị từ chối (P ≤ 0,05 chấp nhận H1) thì mô hình khả biến
sẽ được chọn (vì có độ tương thích cao hơn). Nghĩa là, có sự khác nhau giữa các
nhóm của biến phân nhóm trong việc giải thích các biến trong mô hình.
Kết quả kiểm định sự khác biệt giữa các chỉ tiêu tương thích giữa mô hình
khả biến và bất biến từng phần (bảng 3.8) cho thấy sự khác biệt giữa hai mô hình
không có ý nghĩa thống kê (p = 0,2 > 0,05). Vì thế, mô hình bất biến được chọn và
cho phép kết luận không có sự khác nhau theo giới tính của nông dân trong việc giải
thích (đánh giá) các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP
của nông dân.
Kiểm định giả thuyết phụ về sự khác biệt theo tuổi:
Dữ liệu phỏng vấn được chia thành 3 nhóm tuổi: nhóm từ 30 – 45; nhóm từ
46-55; nhóm trên 55.
Kết quả SEM mô hình khả biến cho thấy mô hình lý thuyết có 936 bậc tự do;
Chisquare/df = 1.198 (<3); TLI = 0,974 (≥ 0.9); CFI = 0,977 (≥ 0.9); RMSEA =
0,026(<0.08).
Kết quả SEM mô hình bất biến cho thấy mô hình lý thuyết có 944 bậc tự do;
Chisquare/df = 1.201 (<3); TLI = 0,973 (≥ 0.9); CFI = 0,976 (≥ 0.9); RMSEA =
0,026 (<0.08).
Chứng tỏ cả hai mô hình bất biến và khả biến đều phù hợp với dữ liệu thị
trường.
107
Bảng 3.9. Kiểm định giả thuyết phụ về sự khác biệt theo tuổi
Mô hình so sánh Chi-square DF P
Bất biến từng phần 1421.614 944 .000
Khả biến 1415.636 936 .000
Giá trị khác biệt 8.375 8 0.65
Chọn mô hình bất biến hay khả biến. Chúng ta kiểm định giả thuyết sau:
H0: Không có sự khác biệt giữa Chi - square của mô hình khả biến và Chi-
square của mô hình bất biến
H1: Có sự khác biệt giữa Chi - square của mô hình khả biến và Chi- square
của mô hình bất biến
Nếu H0 được chấp nhận (P > 0,05), thì mô hình bất biến được chọn (vì có số
bậc tự do cao hơn). Nghĩa là, không có sự khác nhau giữa các nhóm của biến định
tính trong việc giải thích các biến trong mô hình.
Ngược lại, nếu H0 bị từ chối (P ≤ 0,05 chấp nhận H1) thì mô hình khả biến sẽ
được chọn (vì có độ tương thích cao hơn). Nghĩa là, có sự khác nhau giữa các nhóm
của biến phân nhóm trong việc giải thích các biến trong mô hình.
Kết quả kiểm định sự khác biệt giữa các chỉ tiêu tương thích giữa mô hình
khả biến và bất biến từng phần (bảng 3.9) cho thấy sự khác biệt giữa hai mô hình
không có ý nghĩa thống kê (p = 0,65 > 0,05). Vì thế, mô hình bất biến được chọn và
cho phép kết luận không có sự khác nhau theo tuổi của nông dân trong việc giải
thích (đánh giá) các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP
của nông dân.
3.2.2.6. Bàn luận kết quả hồi quy
Giả thuyết H1 tuyên bố rằng nhân tố giao tiếp có quan hệ cùng chiều với
quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của nông hộ. Đúng như
mong đợi, kết quả phân tích cho thấy có β = 0.277 và p <0.05 cho thấy người nông
dân càng có mối quan hệ giao tiếp thông qua các kênh như trao đổi với bạn bè,
những hộ chung quanh, xem truyền hình hay trao đổi với cán bộ khuyến nông thì
càng có quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau. Kết quả này
108
cũng phù hợp với Gebremariam (2001), Makokha và cộng sự (1999), Asiabaka và
cộng sự (2002). Kết quả phỏng vấn cũng cho rằng việc trao đổi thông tin từ các cán
bộ khuyến nông rất kém, trong khi đó người nông dân chủ yếu trao đổi qua bạn bè
và xem phương tiện nghe nhìn, có lẽ đây không phải là đặc thù riêng của Quảng
Nam hay Đà Nẵng mà là tình trạng phổ biến chung của cả nước, khi mà lực lượng
khuyến nông rất hạn chế về số lượng không đủ để thường xuyên tiếp cận với các hộ
nông dân. Bên cạnh đó, việc tiếp cận thông tin từ phương tiện internet là không có ý
nghĩa đến quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP của nông hộ, bởi vì, đa số các
lao động chính, đối tượng được điều tra phỏng vấn có độ tuổi từ 40-45, hơn nữa
phương tiện intenet ở thôn quê là rất khó khăn, hoặc nếu có thì để con cái học bài,
như trong trả lời các đối tượng được hỏi có thường xem ti vi hay không thì các đối
tượng trả lời chỉ thường xem lúc thời sự, còn lại là nghỉ ngơi để mai đi làm sớm, do
đó, đối với phương tiện internet thì lại càng hiếm hơn. Tuy nhiên, Dill và cộng sự
(2015) lại cho rằng việc thường xuyên tiếp cận với internet có ý nghĩa đến quyết
định áp dụng đổi mới. Do đó, nghiên cứu cũng đề xuất rằng nên sử dụng thang đo
này cho các địa bàn có trình độ dân trí cao hơn.
Giả thuyết H2 tuyên bố rằng, nhân tố nhận thức về lợi ích – môi trường có
quan hệ cùng chiều với quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau
của nông hộ. Kết quả phân tích có hệ số β =0.118 và p <0.05 cho thấy người nông
dân càng nhận thức lợi ích do áp dụng tiêu chuẩn VietGAP thì càng có quyết định
áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau. Kết quả này cứu cũng đồng tình
với nhận định của Sarker và cộng sự (2009), một người nông dân nhận thức việc áp
dụng thực hành cải tiến nông nông nghiệp sẽ cải thiện thu nhập và những người
nông dân có nhận thức về môi trường, thể hiện một mối quan tâm nhiều hơn đến
môi trường thì có quyết định áp dụng phương pháp canh tác sạch. Kết quả này phù
hợp với thực tế, bởi vì nông dân sẽ so sánh công nghệ cải tiến với công nghệ truyền
thống và sẽ áp dụng nếu độ thỏa dụng kì vọng của công nghệ cải tiến cao hơn độ
thỏa dụng kì vọng của công nghệ truyền thống (Batz và cộng sự, 1999). Hơn nữa,
nghiên cứu cũng chỉ ra, người nông dân càng nhận thức về sức khỏe cho bản thân
thì càng có quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP.
109
Giả thuyết H3 tuyên bố rằng, nhân tố nhận thức rủi ro có quan hệ nghịch
chiều với quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của nông hộ.
Kết quả phân tích cho thấy có β = -0.409 và p <0.05 cho thấy người nông dân càng
lo ngại các rủi ro khi áp dụng tiêu chuẩn VietGAP thì càng ít có quyết định áp dụng
tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau. Kết quả này cũng phù hợp với Wubeneh
(2003), Ghadim và cộng sự (2005). Các rủi ro do thời tiết và sâu bệnh và giá cả làm
giảm quyết định áp dụng. Tuy nhiên, nghiên cứu này còn phát hiện rằng người nông
dân nhận thức được các rủi ro về thương hiệu đã cản trở quyết định áp dụng của
nông dân:
Sợ nhất là siêu thị nó lấy tới 3 nguồn rau, một trường xuân, rau Đà Lạt, và
rau Hưng Mỹ, nhưng khi có kiểm tra nguồn gốc của cây rau thì họ trưng bày hàng
mình ra và lượng hàng họ đặt của mình chỉ bằng 1/3 của người ta thôi. Họ yêu cầu
mình nhiều thứ như nhãn hiệu, bao bì, đóng gói từ những cái đó nó đẩy giá mình
cao lên và nó lấy số lượng mình ít hơn, lấy hàng mình chỉ để trưng bày kiểm tra
thôi [HM, nam 48 tuổi].
Vì vậy, kết quả này cũng phù hợp với thuyết EUT là nông dân sẽ so sánh
công nghệ cải tiến với công nghệ truyền thống và sẽ áp dụng nếu độ thỏa dụng kì
vọng của công nghệ cải tiến cao hơn độ thỏa dụng kì vọng của công nghệ truyền
thống (Batz và cộng sựl, 1999).
Không như mong đợi, giả thuyết H4 không có ý nghĩa thống kê trong nghiên
cứu này, (nhân tố chuẩn mực chủ quan có quan hệ cùng chiều với quyết định áp
dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của nông hộ). Kết quả này trái với
Martinez và cộng sự (2013); Wauters và cộng sự (2014); Borges và cộng sự (2014)
cho rằng quyết định tiếp tục áp dụng cải tiến hay không ở người nông dân bị ảnh
hưởng lớn từ những người có uy tín. Qua đây có thể thấy rằng tiếng nói của những
người có uy tín rất mờ nhạt, đặc biệt chủ nhiệm các HTX không có vai trò bà đỡ
trong việc tiêu thụ sản phẩm, mà còn hạn chế trong việc làm cầu nối đưa tiến bộ
khoa học kỹ thuật cho nông dân. Còn trưởng thôn chỉ có những vai trò về mặt quản
lý hành chính chứ không có vai trò trong việc gợi ý hay định hướng sản xuất.
110
Giả thuyết H5 tuyên bố rằng nhân tố nhân tố kiểm soát hành vi có quan hệ
cùng chiều với quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của nông
hộ. Kết quả phân tích cho thấy có β = 0.260 và p <0.05 cho thấy nhận thức kiểm
soát hành vi có tác động tích cực đến quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong
sản xuất rau. Khi người nông dân cảm thấy tự tin trong việc thực hiện các quy trình
VietGAP cũng như có thể dựa vào phương pháp của các nông dân khác và làm theo
họ thì quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của họ càng tăng.
Kết quả này cũng phù hợp với Wauters và cộng sự (2014); Läpple và Kelley (2010);
Borges và cộng sự (2014). Trong khi đó, nghiên cứu không tìm thấy ảnh hưởng của
các nhân tố kiểm soát như việc bảo quản sau thu hoạch, diện tích đất để áp dụng
cũng như điều kiện giao thông có tác động đến quyết định của nông dân. Qua kết
quả quan sát và phỏng vấn cũng cho thấy việc tiêu thụ sản phẩm rau của nông dân
là ngay trong buổi sáng khi thu hoạch và bán cho tiểu thương tại vườn, cũng có thể
tại chợ.
111
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Nhằm kiểm định các giả thuyết nghiên cứu, từ đó có căn cứ đề xuất các hàm
ý và chính sách cho phù hợp với thực tế tại địa bàn khảo sát, chương này đã đạt
được những kết quả sau:
Thứ nhất, kết quả nghiên cứu định tính cho thấy có 8 nhân tố nổi lên từ dữ
liệu: 1) giao tiếp; 2) nhận thức lợi ích; 3) nhận thức rủi ro; 4) nhận thức môi trường;
5) nhận thức cung cầu; 6) định mức chủ quan; 7) kiểm soát hành vi; 8) quyết định
áp dụng.
Thứ hai, nghiên cứu định lượng được thực hiện với 294 quan sát thông qua
các kỹ thuật như đánh giá sơ bộ thang đo bằng Cronbach Alpha; EFA, CFA, SEM.
Kết quả cho thấy, có 4 nhân tố ảnh hưởng đến quyết định áp dụng tiêu chuẩn
VietGAP trong sản xuất rau của nông hộ đó là: Giao tiếp, nhận thức lợi ích – môi
trường; nhận thức rủi ro; và nhân tố kiểm soát hành vi. Ngoài ra, nhân tố định mức
chủ quan không có ý nghĩa thống kê trong mô hình nghiên cứu.
112
CHƯƠNG 4
MỘT SỐ HÀM Ý CHÍNH SÁCH
4.1. Một số hàm ý đối với các hộ nông dân
Cần nhận thức rõ về vai trò của việc sản xuất rau an toàn VietGAP trước hết
là đối với sức khỏe của chính bản thân, kế đến là mang lại sản phẩm an toàn cho
người tiêu dùng. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, nhận thức của người nông dân
với sức khỏe và môi trường có tác động không nhỏ đến quyết định áp dụng tiêu
chuẩn VietGAP trong sản xuất rau. Do đó, người nông dân cần chủ động tìm hiểu
quy trình VietGAP, ích lợi của việc áp dụng quy trình vào sản xuất rau.
Qua phân tích thực trạng hiện nay việc ghi chép nhật ký sản xuất rất ít được
các hộ quan tâm. Vì thế, để giải quyết vấn đề này, trong thời gian đến, các hộ cần
tuân thủ nghiêm ngặt và thực hiện đúng quy trình của sản xuất rau theo tiêu chuẩn
VietGAP để người tiêu dùng tin tưởng vào sản phẩm, đặc biệt là việc ghi chép, nhật
ký sản xuất.
Kết quả nghiên cứu trên cho thấy việc người nông dân rất ngại liên kết với
nhau để mở rộng sản xuất đã làm hạn chế nguồn cung cho thị trường. Chính vì vậy,
các hộ cần xây dựng lòng tin với nhau để liên kết sản xuất nhằm đảm bảo nguồn
cung cấp cho thị trường. Bên cạnh đó người nông dân cần liên kết với doanh nghiệp
từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ. Việc người nông dân phá vở hợp đồng đồng khi
giá nông sản lên cao thì bán ra bên ngoài đã cho thấy những hạn chế trong cách làm
ăn của nông dân. Nghiên cứu này cũng đồng tình với quan điểm của ông Hideki
Maruyama, chuyên gia dự án Tăng cường độ tin cậy trong lĩnh vực sản xuất cây
trồng an toàn tại khu vực miền Bắc, khi cho rằng một trong những nguyên tắc cơ
bản trong phân phối các sản phẩm rau an toàn, đó là giữa người sản xuất và người
tiêu thụ phải thiết lập được sự hợp tác bài bản, tin cậy, trên cơ sở hai bên cùng có
lợi. Theo đó, giữa đơn vị phân phối và nông dân phải cùng nhau thiết lập được kế
hoạch sản xuất mang tính chủ động, trên cơ sở có sự đồng thuận giữa hai bên và
trong quá trình sản xuất hai bên có sự giám sát về chất lượng (dẫn từ Công Hoàng
và Nguyên Mạnh, 2017).
113
Theo kết quả nghiên cứu định lượng, người nông dân nhận thức về rủi ro,
nhất là rủi ro về thương hiệu đã làm giảm quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP
trong sản xuất rau. Theo kết quả phỏng vấn sâu một hộ ở Hưng Mỹ, Bình Triều cho
biết: siêu thị lấy tới 3 nguồn rau, một trường xuân, rau Đà Lạt, và rau Hưng Mỹ,
khi có kiểm tra nguồn gốc chi ớ thì họ trưng bày hàng mình ra nhưng số lượng họ
đặt của mình chỉ bằng 1/3 của người ta thôi. Họ yêu cầu mình nhiều thứ như nhãn
hiệu, bao bì, đóng gói từ những cái đó nó đẩy giá mình cao lên và nó lấy số lượng
mình ít hơn, lấy hàng mình chỉ để trưng bày kiểm tra thôi. Do đó, trước mắt để
tránh tình trạng bị lợi dụng thương hiệu, thì người nông dân cần chủ động tìm hiểu
đối tác trong quá trình ký kết hợp đồng, đồng thời chủ động trong việc cập nhật
thông tin thị trường để có kế hoạch sản xuất thích hợp. Về lâu dài, cần bổ sung các
kiến thức về công nghệ nhằm tạo điều kiện cho việc áp dụng truy xuất nguồn gốc
sản phẩm.
Để đảm bảo mạng lưới điện an toàn cho sản xuất, đặc biệt trong điều kiện
mưa gió, người dân các khu vực như Hưng Mỹ, Bàu Tròn, Lang Châu Bắc cần chủ
động củng cố, sử dụng các cây trụ điện bằng bêtông thay cho những cây tre như
hiện nay.
4.2. Một số chính sách đối với các cơ quan hữu quan
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, mặc dù, UBND các tỉnh Quảng Nam và
thành phố Đà Nẵng cũng đã có các quy hoạch các vùng rau sản xuất an toàn theo
hướng VietGAP, tuy nhiên, diện tích đất sản xuất của các nông hộ còn ít, nhỏ lẻ
chưa thể cung cấp số lượng lớn cho thị trường. Do đó, trong thời gian tới cần sớm
có phương án dồn điền đổi thửa nhằm phát triển sản xuất theo hướng quy mô. Bên
cạnh đó, việc phát triển du lịch đối với hai địa phương Quảng Nam và Đà Nẵng là
hướng đi đúng, góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, trong đó, một số
địa phương như Hội An mà cụ thể là làng rau Trà Quế là điểm đến của du khách.
Nên chăng, UBND huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam cũng như UBND Quận
Cẩm Lệ, Đà Nẵng cần mạnh dạn thí điểm xây dựng các khu sản xuất như Hưng Mỹ
- Bình Triều, La Hường – Cẩm Lệ theo hướng trên. Đồng thời xây dựng các trung
114
tâm trưng bày, giới thiệu sản phẩm, kết hợp với xem các nghệ nhân biểu diện hoặc
du khách tự tay tham gia vào một số công đoạn sản xuất.
Để thay đổi quan điểm về tính hữu ích, nâng cao hiểu biết của người nông
dân đối với các quy trình VietGAP thì cần phổ biến rộng rãi hơn nữa các thông tin,
chính sách trên các phương tiện thông tin đại chúng, hay các dạng sổ tay, tờ rơi,
hướng dẫn quy trình cũng như lợi ích của việc áp dụng thực hành quy trình
VietGAP. Bên cạnh đó, Trung tâm khuyến nông cần tổ chức những lớp tập huấn, sử
dụng những hình ảnh sinh động, cụ thể để tác động đến ý thức của người nông dân
về việc sử dụng thuốc trừ sâu không đúng quy định, vứt rác bừa bãi làm ảnh hưởng
nghiêm trọng đến sức khỏe con người, gây ô nhiễm môi trường đất, nguồn nước
ngầm – nguồn nước có thể là nguồn nước uống của nhiều hộ gia đình.
Những khó khăn trong khâu sơ chế và chế biến sau thu hoạch cũng như khả
năng tiêu thụ là một cản trở lớn đối với hộ sản xuất rau do phần lớn các hộ nông dân
đều thiếu kỹ thuật và khả năng sơ chế nông sản sau thu hoạch, thiếu thông tin thị
trường, chi phí giao dịch cao... nên phần lớn nông sản chưa nâng được thêm giá trị
kinh tế đáng kể, từ đó chưa tạo ra động lực để sản xuất rau VietGAP. Bên cạnh đó,
chưa có chính sách đảm bảo lợi ích cho người nông dân trồng rau VietGAP, việc
tiêu thụ người nông dân phải tự lo và phần lớn không ổn định, gặp nhiều rủi ro như
đã phân tích. Điều này cho thấy, trong quá trình áp dụng đổi mới công nghệ trong
nông nghiệp, không chỉ bàn và chú trọng đến các yếu tố kỹ thuật và quy trình tạo ra
sản phẩm mới mà cần phải xây dựng phương thức tổ chức mới. Do vậy, Chính
quyền địa phương cần thiết lập mạng lưới phân phối ở các khu vực nội thị, nội
thành của tỉnh Quảng Nam cũng như ở thành phố Đà Nẵng, thông qua các đại lý,
các quầy trưng bày, giới thiệu sản phẩm, cần đầu tư xây dựng mẫu mã cho phù hợp
với thị hiếu người tiêu dùng. Tạo lập hệ thống bán hàng chuyên nghiệp, xúc tiến
việc đưa các sản phẩm rau VietGAP vào các siêu thị, trung tâm thương mại. Đây là
trách nhiệm chung, cần có sự phối hợp hợp giữa các chủ thể liên quan, mà trước hết
vai trò đặt lên vai của các cấp chính quyền địa phương. Những điệp khúc được mùa
115
mất giá liên tục trong những năm gần đây của các sản phẩm ngành nông nghiệp đã
cho thấy việc điều hành một nền kinh tế còn rất yếu.
Kết quả nghiên cứu trên cho thấy rằng, vai trò của các HTX còn rất hạn chế.
Do đó, để nâng cao vai trò là bà đỡ thì các tổ chức liên minh hợp tác xã cần tăng
cường liên kết, hợp tác giữa các HTX mà trước hết là các HTX trong tỉnh đang sản
xuất, kinh doanh rau, củ quả VietGAP như HTX Mỹ hưng, HTX Bàu Tròn để thâm
nhập thị trường lớn và ổn định để tiêu thụ sản phẩm thông qua hình thức đặt hàng;
hình thành các cửa hàng rau sạch tại Đà Nẵng, Tam Kỳ. Bên cạnh đó, cần tạo điều
kiện để cho các hộ nông dân, các HTX tham gia các triển lãm, hội chợ trong và
ngoài tỉnh để giới thiệu các sản phẩm. Theo kết quả phỏng vấn sâu ngay cả người
dân địa phương vẫn chưa biết và chưa chấp nhận sử dụng rau VietGAP do chính
những người nông dân địa phương mình làm ra.
Để giảm thiểu rủi ro phát sinh trong quá trình tiêu thụ sản phẩm, chính quyền
địa phương cần tìm kiếm thông tin về các doanh nghiệp làm ăn có uy tín để giới
thiệu cho HTX ký hợp đồng thu mua sản phẩm của nông dân. Đồng thời thông qua
các doanh nghiệp nắm bắt được nhu cầu thị hiếu, những quy định về xuất xứ sản
phẩm, đóng gói bao bì, an toàn vệ sinh thực phẩm đối với các mặt hàng rau của quả.
Qua đây, giúp người nông dân tự tin, mạnh dạn áp dụng canh tác rau theo tiêu
chuẩn VietGAP.
Cũng theo kết quả phân tích trên cho thấy, việc nông dân sợ liên kết với các
doanh nghiệp hay siêu thị, điều này bắt nguồn từ việc sản phẩm rau VietGAP chưa
có truy xuất nguồn gốc, khiến cho việc khó phân biệt rau sạch, an toàn và rau truyền
thống. Do đó, việc triển khai Thông tư số 01/VBHN-BNNPTNT ngày 18 tháng 5
năm 2018 về việc “Quy định về truy xuất nguồn gốc, thu hồi và xử lý thực phẩm
nông lâm sản không bảo đảm an toàn” cho cả nước nói chung và địa phương Quảng
Nam và Đà Nẵng nói riêng sẽ thúc đẩy lòng tin của người tiêu dùng, đồng thời góp
phần nâng cao thương hiệu, năng lực cạnh tranh cho các hộ sản xuất rau VietGAP.
Tuy nhiên, việc thực hiện một cách đại trà là rất khó bởi nguồn lực còn hạn chế. Vì
116
thế, có lẽ trước mắt nên làm thí điểm ở một số Hợp tác xã đang được đầu tư lớn như
La Hường, Bàu Tròn.
Đặc điểm của nguồn lao động nông thôn chủ yếu là lao động lớn tuổi, vì vậy
khả năng tiếp thu kiến thức cũng như áp dụng khoa học – kỹ thuật vào hoạt động
sản xuất hạn chế. Để khắc phục vấn đề này, các buổi tập huấn cần được trình bày
với phương pháp phù hợp, sinh động, dễ hiểu. Đồng thời nội dung tập huấn cần phải
thiết thực, đáp ứng được nhu cầu của người nông dân.
Kết hợp chặt chẽ việc xây dựng mới với việc nâng cấp, cải tạo và bảo dưỡng
hệ thống đường giao thông đồng bộ, tạo sự thông suốt giữa các tuyến đường trong
khu sản xuất.
Theo kết quả quan sát các hộ sản xuất ở làng rau Hưng Mỹ, Bàu Tròn đều
kéo điện sinh hoạt từ nhà ra nơi sản xuất với đường dây điện khá cũ kỹ và được bắt
tạm bợ ở các cột điện bằng tre ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất của
người dân. Chính vì vây, UBND các huyện cần sớm chỉ đạo công ty điện lực Thăng
Bình, Đại Lộc triển khai bắt công tơ điện phục vụ sản xuất. Tháo gỡ những vướn
mắc này sẽ một phần giúp người nông dân an tâm, có thêm niềm tin trong việc sản
xuất.
117
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4
Dựa trên các kết quả phân tích ở chương 3, chương này đề xuất các hàm ý
chính sách đối với các chủ thể liên quan
Thứ nhất, đối với nông dân cần nhận thức rõ lợi ích của việc áp dụng tiêu
chuẩn VietGAP như lợi ích về kinh tế, lợi ích môi trường, lợi ích cho xã hội. Để
người tiêu dùng có được lòng tin với sản phẩm rau VietGAP thì người sản xuất cần
tuân thủ nghiêm ngặt và thực hiện đúng quy trình của sản xuất rau theo tiêu chuẩn
VietGAP từ khâu chọn giống, làm đất, đặc biệt là việc ghi chép, nhật ký sản xuất.
Thứ hai, đối với cơ quan nhà nước trước mắt cần phổ biến rộng rãi hơn nữa
các thông tin, chính sách trên các phương tiện thông tin đại chúng, hay các dạng sổ
tay, tờ rơi, hướng dẫn quy trình cũng như lợi ích của việc áp dụng thực hành quy
trình VietGAP đồng thời cần tăng cường kiểm tra giám sát hoạt động sản xuất rau
của các hộ nông dân.
118
KẾT LUẬN
VietGAP (Vietnamese Good Agricultural Practices) là bộ quy tắc thực hành
nông nghiệp tốt cho rau, quả an toàn áp dụng cho thị trường Việt Nam, được ban
hành theo quyết định số 379/QĐ-BNN-KHCN ngày 28 tháng 01 năm 2008 của Bộ
trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Chúng được xem như công nghệ
trong nông nghiệp gồm cả phần cứng như vật tư nông nghiệp, công cụ, nhà xưởng
và phần mềm là quy trình kỹ thuật được áp dụng, tạo ra sản phẩm có năng suất cao.
Tuy nhiên, sản xuất rau an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP những năm gần đây chưa
được nhân rộng. Luận án đã đi sâu tiếp cận từ góc độ động cơ, tâm lý, nhận thức
ảnh hưởng đến quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của nông
dân cho các mùa vụ tiếp theo. Nghiên cứu sử dụng kết hợp cả phương pháp định
tính và định lượng đã tập trung giải quyết được những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, nghiên cứu đã xây dựng mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến quyết
định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của nông hộ tại hai địa phương
Quảng Nam và Đà Nẵng gồm 4 thành phần và được đo bằng 22 quan sát ( trong đó
3 biến quan sát đo nhân tố giao tiếp, 6 quan sát đo nhân tố nhận thức kiểm soát hành
vi, 7 quan sát đo nhân tố nhận thức lợi ích – môi trường, 6 quan sát đo nhân tố nhạn
thức rủi ro).
Thứ hai, giao tiếp có quan hệ cùng chiều với quyết định áp dụng tiêu chuẩn
VietGAP trong sản xuất rau của nông hộ. Tuy nhiên, việc trao đổi giao tiếp từ các
cán bộ khuyến nông rất hạn chế, trong khi đó người nông dân chủ yếu trao đổi
thông tin qua bạn bè và xem phương tiện nghe nhìn là chủ yếu, có lẽ đây không
phải là đặc thù riêng của Quảng Nam hay Đà Nẵng mà là tình trạng phổ biến chung
của cả nước, khi mà lực lượng khuyến nông rất mỏng, không đủ để thường xuyên
tiếp cận với các hộ nông dân. Bên cạnh đó, việc tiếp cận thông tin từ phương tiện
internet là không có ý nghĩa đến quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP của nông
hộ.
119
Thứ ba, nhân tố nhận thức về lợi ích – môi trường có quan hệ cùng chiều với
quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của nông hộ, người nông
dân càng nhận thức lợi ích do áp dụng tiêu chuẩn VietGAP thì càng có quyết định
áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau. Hơn nữa, nghiên cứu cũng chỉ ra,
người nông dân càng nhận thức về sức khỏe cho bản thân thì càng có quyết định áp
dụng tiêu chuẩn VietGAP, điều này chưa được phát hiện trong các nghiên cứu trước
đây.
Thứ tư, nhân tố nhận thức rủi ro có quan hệ nghịch chiều với quyết định áp
dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của nông hộ. Các rủi ro do thời tiết,
sâu bệnh và giá cả làm giảm quyết định áp dụng. Bên cạnh đó, nghiên cứu này còn
phát hiện rằng người nông dân nhận thức được các rủi ro về thương hiệu đã cản trở
quyết định áp dụng của nông dân. Những phát hiện này chưa được nêu bậc trong
các công bố trước đây.
Thứ năm, chuẩn mực chủ quan không có ý nghĩa thống kê trong nghiên cứu
này. Qua đây có thể thấy rằng, vai trò của cha/mẹ vợ/chồng; con cái; hội nông dân;
cán bộ khuyến nông; trưởng thôn; chủ nhiệm/giám đốc các hợp tác xã rất mờ nhạt,
đặc biệt các giám đốc HTX không có vai trò bà đỡ trong việc tiêu thụ sản phẩm, mà
còn hạn chế trong việc làm cầu nối đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật cho nông dân.
Thứ sáu, nhân tố nhân tố kiểm soát hành vi có quan hệ cùng chiều với quyết
định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của nông hộ. Khi người nông
dân cảm thấy tự tin trong việc thực hiện các quy trình VietGAP cũng như có thể dựa
vào phương pháp của các nông dân khác và làm theo họ thì quyết định áp dụng tiêu
chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của họ càng tăng.
Thứ bảy, nghiên cứu đã đề xuất được một số hàm ý và chính sách:
Đối với người nông dân
Cần nhận thức rõ về vai trò của việc sản xuất rau an toàn VietGAP trước hết
là đối với sức khỏe của chính bản thân, kế đến là mang lại sản phẩm an toàn cho
người tiêu dùng.
120
Cần xây dựng lòng tin giữa các nông hộ với nông hộ và nông hộ với doanh
nghiệp nhằm đảm bảo nguồn cung cấp cho thị trường
Cần tuân thủ nghiêm ngặt và thực hiện đúng quy trình của sản xuất rau theo
tiêu chuẩn VietGAP từ khâu chọn giống, làm đất đặc biệt là việc ghi chép, nhật ký
sản xuất.
Đối với cơ quan hữu quan:
Cần sớm có phương án dồn điền đổi thửa nhằm phát triển sản xuất theo
hướng quy mô.
Cần phổ biến rộng rãi hơn nữa các thông tin, chính sách trên các phương
tiện thông tin đại chúng, hay các dạng sổ tay, tờ rơi, hướng dẫn quy trình cũng như
lợi ích của việc áp dụng thực hành quy trình VietGAP
Áp dụng đổi mới công nghệ trong nông nghiệp, không chỉ bàn và chú trọng
đến các yếu tố kỹ thuật và quy trình tạo ra sản phẩm mới mà cần phải xây dựng
phương thức tổ chức mới.
Cần tăng cường liên kết, hợp tác giữa các HTX mà trước hết là các HTX
trong tỉnh đang sản xuất, kinh doanh rau, củ quả VietGAP như HTX Mỹ hưng,
HTX Bàu Tròn để thâm nhập thị trường lớn và ổn định để tiêu thụ sản phẩm.
Tăng cường kiểm tra giám sát hoạt động sản xuất rau của các hộ nông dân.
Tăng cường thanh kiểm tra giám sát các bếp ăn tập thể ở các doanh nghiệp may,
trường học, quân đội. Đồng thời khuyến khích sử dụng sản phẩm rau an toàn chất
lượng.
Một số hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo:
Thứ nhất, mặc dù nghiên cứu định tính đã đạt được những kết quả nhất định,
song vẫn là một nghiên cứu khám phá bằng pháp phỏng vấn sâu với quy mô mẫu là
11 nông dân. Vì vậy, các nghiên cứu tiếp theo cần sử dụng thêm phương pháp
phỏng vấn chuyên gia thì kết quả sẽ có hiệu quả hơn.
Thứ hai, luận án này chỉ mới tiếp cận từ góc độ hành vi của người nông dân
để nghiên cứu quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau. Trong
khi đó, các chính sách vĩ mô của chính quyền nhà nước địa phương chưa được quan
tâm nghiên cứu trong mô hình, chính vì vậy, các kết quả ước lượng và thảo luận về
121
các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất
rau của nông dân ở tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng có những giới hạn nhất
định.
Thứ ba, nghiên cứu này mới chỉ tiếp cận các nông dân là những người đã và
đang áp dụng tiêu chuẩn VietGAP. Do vậy các nghiên cứu tiếp theo cần xem xét
các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất
rau với các nông dân chưa áp dụng.
Thứ tư, kết quả nghiên cứu trên cũng chỉ rằng cần phải có sự vào cuộc của
chính quyền địa phương, nhà khoa học và nhà buôn để đẩy mạnh phát triển sản xuất
rau an toàn VietGAP trong thời gian đến. Do vậy, các nghiên cứu tiếp theo cần xem
xét việc liên kết giữa các chủ thể trong phát triển sản xuất rau theo hướng VietGAP
ở hai địa phương Quảng Nam và Đà Nẵng.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC
ĐÃ CÔNG BỐ
1. Lương Tình và Đoàn Gia Dũng (2016), Mô hình lý thuyết các nhân tố ảnh
hưởng đến áp dụng đổi mới công nghệ trong nông nghiệp của nông hộ ở Việt
Nam (trường hợp áp dụng quy trình VietGAP trong sản xuất rau), tr. 655-
670. Hội thảo khoa học Quốc tế: Kinh tế Việt Nam trong thời kỳ hội nhập:
Cơ hội và thách thức, tập 2, Nxb Hồng Đức.
2. Lương Tình, Đoàn Gia Dũng và Bùi Thị Mai Trúc (2016), Phân tích hành vi
sử dụng thuốc trừ sâu của nông hộ theo hướng tăng trưởng xanh: Nghiên
cứu tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, tr. 96-101. Tạp chí Khoa học và
công nghệ, Đại học Đà Nẵng, số 4-2016.
3. Lương Tình và Đoàn Gia Dũng (2016), Khả năng kết hợp các lý thuyết quyết
định áp dụng đổi mới công nghệ trong nông nghiệp của nông dân: Góc nhìn
từ lý thuyết lợi ích kỳ vọng, thuyết hành vi dự định và thuyết khuếch tán đổi
mới, tr. 460-466. Kỷ yếu hội thảo khoa học Quốc gia năm 2016, Phát triển
kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên, Nxb Nông Nghiệp, 2016.
4. Lương Tình và Đoàn Gia Dũng (2017), Khả năng kết hợp các lý thuyết quyết
định áp dụng đổi mới công nghệ trong nông nghiệp của nông dân: Góc nhìn
từ lý thuyết lợi ích kỳ vọng, thuyết hành vi dự định và thuyết khuếch tán đổi
mới, tr. 18 – 20. Tạp chí Kinh tế Châu Á Thái Bình Dương, số 4/2017.
5. Lương Tình và Đoàn Gia Dũng (2017), Mô hình lý thuyết các nhân tố ảnh
hưởng đến quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của
nông dân trên địa bàn tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng, tr.347-357.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quốc gia, Các vấn đề kinh tế - xã hội trong thực
hiện các mục tiêu phát triển bền vững (SDG) 2030 của Việt Nam, Nxb Lao
động xã hội, Hà Nội, 6 – 2017.
6. Lương Tình và Đoàn Gia Dũng (2017), Mô hình lý thuyết các nhân tố ảnh
hưởng đến quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của
nông dân trên địa bàn tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng, tr 71-74. Tạp
chí Kinh tế Châu Á Thái Bình Dương, số 11/2017.
7. Lương Tình và Đoàn Gia Dũng (2018), Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết
định áp dụng đổi mới công nghệ trong nông nghiệp của nông dân: Một cách
nhìn tổng quan, tr. 30-35. Tạp chí Kinh tế và Quản trị kinh doanh, số 5/2018.
8. Lương Tình, Phan Trần Minh Hưng và Đoàn Gia Dũng (2018). Determinants
of farmers’ intention in applying new technology in production: the case of
VietGAP standard adoption in Quang Nam and Da Nang, Viet Nam, pp 621-
638. The International Conference of the Business and Applied Sciences
Academy of North America (BAASANA).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt:
1. Phương Anh (2017), Đưa rau an toàn đến người tiêu dùng: Gian nan trong
quản lý, truy cập tại https://www.baomoi.com/dua-rau-an-toan-den-nguoi-
tieu-dung-gian-nan-trong-quan-ly/c/23369824.epi ngày 20 tháng 7 năm 2017.
2. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2008), Quyết định số 379/QĐ-BNN-
KHCN, Ban hành quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt cho rau, quả
tươi an toàn.
3. Ngô Đức Cát và Vũ Đình Thắng (2001), Phân tích sản xuất và tiêu dùng nông
sản. Giáo trình Phân tích chính sách nông nghiệp, nông thôn, Nhà xuất bản
Thống kê.
4. Báo cáo số 478/BC-TTBVTV ngày 23 tháng 11 năm 2016 của Chi cục Trồng
trọt và Bảo vệ thực vật Đà Nẵng, 2016.
5. Báo cáo số 443/BC-BVTV ngày 15 tháng 9 năm 2016 của Chi cục Bảo vệ thực
vật Quảng Nam, 2016.
6. Bùi Quang Dũng (2012), "Từ khái niệm nông dân tới xã hội tiểu nông ở Việt
Nam: Dẫn vào một nghiên cứu về phát triển nông thôn", Tạp chí Xã hội học.
7. Hoàng Mạnh Dũng (2010), Thiết lập mơ hình phát triển sản xuất nông nghiệp
tại việt nam thông qua áp dụng tiêu chuẩn GAP, Tạp chí Khoa học Đại học
Mở Tp. Hồ Chí Minh.
8. Nguyễn Khánh Duy (2009), Bài giảng thực hành mô hình cấu trúc tuyến tính
(SEM) với phần mền AMOS, Tài liệu lưu hành nội bộ, Trường Đại học kinh tế
Hồ Chí Minh.
9. Nguyễn Minh Hà và Nguyễn Văn Hùng (2016), Các yếu tố tác động đến việc
tham gia VietGap của hộ trồng thanh long: Nghiên cứu tại huyện Hàm Thuận
Bắc, tỉnh Bình Thuận, Tạp chí Phát triển kinh tế, số 6/2016
10. Trần Thị Thu Hà và Nguyễn Ngọc Phụng (2017), Hiệu quả kinh tế sản xuất
thanh long theo tiêu chuẩn VietGap ở huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình
Thuận – Thực trạng và giải pháp, Tạp chí Khoa học và Công nghệ lâm nghiệp,
số 4/2017.
11. Trung Hiền (2016), Đổi mới công nghệ đóng góp 35% tăng trưởng ngành
nông nghiệp, truy cập ngày 7-7-2016, tại trang web
https://www.vietnamplus.vn/doi-moi-cong-nghe-dong-gop-35-tang-truong-
nganh-nong-nghiep/390350.vnp.
12. Lê Hoa (2017), Xây dựng thương hiệu vùng rau an toàn của Đà Nẵng, trên
website http://danang.gov.vn/ chinh-quyen/chitiet?id=6992&_c=3 cập nhật
ngày 16 tháng 6 năm 2017. truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2017
13. Công Hoàng và Nguyên Mạnh, 2017, Tăng cường kết nối rau an toàn trên địa
bàn Hà Nội, https://nongnghiep.vn/tang-cuong-ket-noi-tieu-thu-rat-tren-dia-
ban-ha-noi-post200712.html truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2017.
14. Đinh Phi Hổ (2003), Kinh tế học nông nghiệp bền vững, Nxb Phương Đông,
TP Hồ Chí Minh.
15. Ngô Thị Phương Lan (2011), Hành vi giảm thiểu rủi ro và vận dụng nguồn vốn
xã hội của nông dân người Việt ở đồng bằng Sông Cửu Long trong quá trình
chuyển dịch từ trồng lúa sang nuôi tôm, Luận án Tiến sĩ lịch sử, Trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
16. Nguyễn Anh Minh (2018) Phát triển sản xuất rau theo hướng thực hành nông
nghiệp tốt tại tỉnh Hòa Bình, luận án tiến sĩ, Học Viện nông nghiệp Việt Nam.
17. Nguyễn Quốc Nghi và Lê Thị Diệu Hiền (2014), Rủi ro thị trường trong sản
xuất nông nghiệp của nông hộ ở đồng bằng song Cửu Long, Tạp chí Khoa học,
Trường đại học Cần Thơ.
18. Quỳnh Nga (2016), Đổi mới công nghệ giúp Việt Nam thuộc top 3 các nước
xuất khẩu gạo thế giới, trên trang website http://baocongthuong.com.vn/doi-
moi-cong-nghe-giup-viet-nam-thuoc-top-3-cac-nuoc-xuat-khau-gao-the-
gioi.html truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2017.
19. Đoàn Ngọc Phả (2014 ) Ảnh hưởng của các chương trình khuyến nông chuyển
giao ứn dụng kỹ thuật nông nghiệp đối với thu nhập của nông dân trồng lúa ở
Đồng bằng Sông Cửu Long, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Trường đại học kinh tế
thành phố Hồ Chí Minh
20. Trần Thanh Sơn (2011), "Ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất lúa của
nông dân ở tỉnh An Giang", Tạp chí Khoa học, Trường đại học Cần Thơ.
21. Hà Vũ Sơn và Dương Ngọc Thành (2014), Các yêu tố ảnh hưởng đến ứng
dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất lúa của hộ nông dân ở tỉnh Hậu Giang,
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ.
22. Đào Quyết Thắng (2018), Nghiên cứu những nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư
phát triển sản xuất nông nghiệp của nông hộ theo tiêu chuẩn GAP - Phân tích
trường hợp tỉnh Ninh Thuận, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế
Quốc Dân.
23. Lê Đình Thắng (1993), Phát triển kinh tế hộ theo hướng sản xuất hàng hóa,
Nxb nông nghiệp, Hà Nội.
24. Đào Thế Tuấn (1997), Kinh tế hộ nông dân, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Hoàng Trọng, Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2005), Phân tích dữ liệu nghiên cứu
với SPSS, Nxb Thống Kê.
26. Ngô Thị Thuận (2010), VietGap trong sản xuất rau an toàn ở thành phố Hà
Nội, Tạp chí Khoa học và Phát triển – Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội.
27. Nguyễn Đình Thọ (2011), Phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh
doanh, NXB Lao động - Xã Hội.
28. Nguyễn Đình Thọ và Nguyễn Thị Mai Trang (2011), Nghiên cứu khoa học
trong Marketing, ứng dụng mô hình cấu trúc tuyến tính SEM, Nxb Lao động.
29. Nguyễn Thị Hồng Trang (2016), Các nhân tố ảnh hưởng tới việc áp dụng thực
hành nông nghiệp tốt của các cơ sở sản xuất rau ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ
Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
30. Tạ Tuyết Thái (2016), Nghiên cứu ảnh hưởng chuyển đổi đất nông nghiệp
sang đất công nghiệp đến sử dụng đất và kinh tế nông hộ ở huyện Mỹ Hào,
Tỉnh Hưng Yên, Luận án tiến sĩ, Học viện Nông nghiệp Việt Nam.
31. Huỳnh Thị Tuyết (2014) Ảnh hưởng của hàm lượng (đạm) Nitrate trong rau,
truy cập tại trang http://sonnptnt.camau.gov.vn/wps/portal/!ut/p/a0/04_Sj9CPykssy0
ngày 12 tháng 5 năm 2016.
32. UBND Đà Nẵng, Quyết định số 4113/QĐ-UB ngày 7/7/2003 về việc triển khai
dự án đầu tư sản xuất, chế biến và tiêu thụ rau an toàn.
33. Văn Việt, Thanh Thắng (2017), Mô hình rau sạch của phụ nữ Tam Thạnh,
Truy cập tại http://baoquangnam.vn/kinhte/nong-nghiep-nong-thon/201311
/rau VietGap-van-con-xa-41386 ngày 20 tháng 7 năm 2017.
34. vi.wikipedia.org
Tiếng anh
35. Adeogun, O., Ajana, A., Ayinla, O., Yarhere, M., & Adeogun, M. (2008).
Application of logit model in adoption decision: A study of hybrid clarias in
Lagos State, Nigeria. American-Eurasian Journal of Agriculture and
Environmental Sciences, 4(4), 468-472.
36. Adesina, A. A., & Baidu-Forson, J. (1995). Farmers' perceptions and adoption
of new agricultural technology: evidence from analysis in Burkina Faso and
Guinea, West Africa. Agricultural Economics, 13(1), 1-9.
37. Ajzen I and Fishbein M. (1980). Understanding Attitudes and Predicting
Social Behaviour (Prentice-Hall, Englewood Cliffs, NJ, 1980)
38. Ajzen, I. (1991). The theory of planned behavior. Organizational Behavior and
Human Decision Processes, 50(2), 179-211. doi: https://doi.org/10.1016/0749-
5978(91)90020-T
39. Akudugu, M. A., Guo, E., & Dadzie, S. K. (2012). Adoption of modern
agricultural production technologies by farm households in Ghana: What
factors influence their decisions. Journal of Biology Agriculture and
healthcare.
40. Anderson, J. C., & Gerbing, D. W. (1988). Structural equation modeling in
practice: A review and recommended two-step approach. Psychological
bulletin, 103(3), 411.
41. Asiabaka, C., & Owens, M. (2002). Determinants of adoptive behaviors of
rural farmers in Nigeria. Paper presented at the AIAEE Proceedings of the
18th Annual Conference. Durban, South Africa.
42. Ayinde, O., Adewumi, M., Olatunji, G., & Babalola, O. (2010).
Determinants of adoption of downy mildew resistant maize by small-scale
farmers in Kwara State, Nigeria. Global Journal of Science Frontier
Research, 10(1), 32-35.
43. Baidu-Forson, J. (1999). Factors influencing adoption of land-enhancing
technology in the Sahel: lessons from a case study in Niger. Agricultural
Economics, 20(3), 231-239.
44. Batz, F.-J., Peters, K., & Janssen, W. (1999). The influence of technology
characteristics on the rate and speed of adoption. Agricultural Economics,
21(2), 121-130.
45. Beedell, J., & Rehman, T. (2000). Using social-psychology models to
understand farmers’ conservation behaviour. Journal of rural studies, 16(1),
117-127.
46. Bergevoet, R. H., Ondersteijn, C., Saatkamp, H., Van Woerkum, C., & Huirne,
R. (2004). Entrepreneurial behaviour of Dutch dairy farmers under a milk
quota system: goals, objectives and attitudes. Agricultural Systems, 80(1), 1-
21.
47. Bernoulli, D. (1738). Expected Utility Theory. Retrieved 6-7, 2016, from
http://inrisk.sites.olt.ubc.ca/files/2012/11/Expected-Utility-Theory.pdf
48. Bijttebier, J., Ruysschaert, G., Marchand, F., Hijbeek, R., Pronk, A., Schlatter,
N., Bechini, L. (2014). Assessing farmers’ intention to adopt soil conservation
practices across Europe. Paper presented at the Proceedings of 11th European
IFSA Symposium.
49. Borges, J. A. R., Foletto, L., & Xavier, V. T. (2015). An interdisciplinary
framework to study farmers decisions on adoption of innovation: Insights from
Expected Utility Theory and Theory of Planned Behavior. African Journal of
Agricultural Research, 10(29), 2814-2825.
50. Borges, J. A. R., Lansink, A. G. O., Ribeiro, C. M., & Lutke, V. (2014).
Understanding farmers’ intention to adopt improved natural grassland using
the theory of planned behavior. Livestock Science, 169, 163-174.
51. Burton, R. J. (2004). Reconceptualising the ‘behavioural approach’in
agricultural studies: a socio-psychological perspective. Journal of rural
studies, 20(3), 359-371.
52. Chi, T. T. N., & Yamada, R. (2002). Factors affecting farmers’ adoption of
technologies in farming system: A case study in Omon district, Can Tho
province, Mekong Delta. Omonrice, 10, 94-100.
53. Deressa, T. T., Hassan, R. M., & Ringler, C. (2011). Perception of and
adaptation to climate change by farmers in the Nile basin of Ethiopia. The
Journal of Agricultural Science, 149(1), 23-31.
54. Dill, M. D., Emvalomatis, G., Saatkamp, H., Rossi, J. A., Pereira, G. R., &
Barcellos, J. O. J. (2015). Factors affecting adoption of economic management
practices in beef cattle production in Rio Grande do Sul state, Brazil. Journal
of rural studies, 42, 21-28.
55. Doss, C. R., & Morris, M. L. (2000). How does gender affect the adoption of
agricultural innovations? The case of improved maize technology in Ghana.
Agricultural Economics, 25(1), 27-39.
56. Fadare, O. A., Akerele, D., & Toritseju, B. (2014). Factors influencing
adoption decisions of maize farmers in Nigeria. International Journal of Food
and Agricultural Economics, 2(3), 45.
57. Feder, G., & Umali, D. L. (1993). The adoption of agricultural innovations: a
review. Technological forecasting and social change, 43(3-4), 215-239.
58. Fishbein, M., & Ajzen, I. (1975). Belief, attitude, intention and behavior: An
introduction to theory and research.
https://www.researchgate.net/publication/233897090_Belief_attitude_intention
_and_behaviour_An_introduction_to_theory_and_research
59. Fliegel, F. (1991). Extension communication and the adoption process. In:
FAO, A Reference Manual, 2nd ed. Rome.
60. Gebremariam, K. (2001). Factors influencing the adoption of new wheat and
maize varieties in Tigray, Ethiopia: The Case of Hawzien Woreda.
Unpublished M. Sc. Thesis, Alemaya University, Alemaya.
61. Ghadim, A. K. A., Pannell, D. J., & Burton, M. P. (2005). Risk, uncertainty,
and learning in adoption of a crop innovation. Agricultural Economics, 33(1), 1-9.
62. Ghadim, A. K., & Pannell, D. J. (1999). A conceptual framework of adoption
of an agricultural innovation. Agricultural Economics, 21(2), 145-154. doi:
https://doi.org/10.1016/S0169-5150(99)00023-7
63. Griliches, Z. (1957). Hybrid corn: An exploration in the economics of
technological change. Econometrica, Journal of the Econometric Society, 501-
522.
64. Hair, J. F., Black, W. C., Babin, B. J., Anderson, R. E., & Tatham, R. L.
(2006). Multivariate data analysis (Vol. 6): Upper Saddle River, NJ: Pearson
Prentice Hall.
65. Hoang, H. G. (2018). Farmers' responses to VietGAP: a case study of a policy
mechanism for transforming the traditional agri-food system in Vietnam: a
dissertation presented in partial fulfilment of the requirements for the degree
of Doctor of Philosophy in Agricultural Systems and Environment at Massey
University, Palmerston North, New Zealand. Massey University.
66. Hsieh, H.-F., & Shannon, S. E. (2005). Three approaches to qualitative content
analysis. Qualitative health research, 15(9), 1277-1288.
67. Idrisa, Y., Ogunbameru, B., & Madukwe, M. (2012). Logit and Tobit analyses
of the determinants of likelihood of adoption and extent of adoption of
improved soybean seed in Borno State, Nigeria. Greener J Agric Sci, 2(2), 37-
45.
68. Ingold, T.(2002). The Perception of the Environment, Essays in livelihood,
dwelling and skill. London and New York: Routledge Taylor & Francis Group.
Available at:
http://nupaub.fflch.usp.br/sites/nupaub.fflch.usp.br/files/Ingold%20-
%20Cap%20I.pdf [Accessed 5 Oct 2013].
69. Jackson, E. L., Quaddus, M., Islam, N., & Stanton, J. (2006). Hybrid Vigour of
Behavioural Theories in the Agribusiness Research Domain. is It Possible?
Journal of International Farm Management, 3(3), 25-39.
70. Läpple, D., & Kelley, H. (2013). Understanding the uptake of organic
farming: Accounting for heterogeneities among Irish farmers. Ecological
Economics, 88, 11-19.
71. Loan, L., Pabuayon, I., Catelo, S., & Sumalde, Z. (2016). Adoption of Good
Agricultural Practice (VietGAP) in the lychee industry in Vietnam. Asian
Journal of Agricultural Extension, Economics & Sociology, 8(2), 1-12.
72. Lynne, G. D., Franklin Casey, C., Hodges, A., & Rahmani, M. (1995).
Conservation technology adoption decisions and the theory of planned
behavior. Journal of Economic Psychology, 16(4), 581-598. doi:
https://doi.org/10.1016/0167-4870(95)00031-6.
73. Makokha, M., Odera, H., Maritim, H., Okalebo, J., & Iruria, D. (1999).
Farmers’ perceptions and adoption of soil management technologies in
western Kenya. African Crop Science Journal, 7(4), 549-558.
74. Martínez-García, C. G., Dorward, P., & Rehman, T. (2013). Factors
influencing adoption of improved grassland management by small-scale dairy
farmers in central Mexico and the implications for future research on
smallholder adoption in developing countries. Livestock Science, 152(2), 228-
238. doi: https://doi.org/10.1016/j.livsci.2012.10.007
75. Ndiema, A., Aboud, A., Kinyua, M., & Keyan, C. (2011). Farmer perception
in adoption of drought tolerant wheat in arid and semiarid region of Kenya.
Paper presented at the 10th African Crop Science Conference Proceedings,
Maputo, Mozambique, 10-13 October 2011.
76. Nunnally, J. C., & Bernstein, I. (1994). Psychometric Theory (McGraw-Hill
Series in Psychology) (Vol. 3): McGraw-Hill New York.
77. Pannell, D., Marshall, G., Barr, N., Curtis, A., Vanclay, F., & Wilkinson, R.
(2006). Understanding and Promoting Adoption of Conservation Practices by
Rural Landholders. Australian Journal of Experimental Agriculture, 46 (11),
1407-24.
78. Pavlou, P. A. (2003). Consumer acceptance of electronic commerce:
Integrating trust and risk with the technology acceptance model. International
journal of electronic commerce, 7(3), 101-134.
79. Ray, G. L. (2001). Extension communication and management. Calcutta: Naya
Prokash.
80. Rezaei, R., Mianaji, S., & Ganjloo, A. (2018). Factors affecting farmers’
intention to engage in on-farm food safety practices in Iran: Extending the
theory of planned behavior. Journal of rural studies, 60, 152-166.
81. Richards, L. (1998). Closeness to data: The changing goals of qualitative data
handling. Qualitative health research, 8(3), 319-328.
82. Roberts, R. K., English, B. C., Larson, J. A., Cochran, R. L., Goodman, W. R.,
Larkin, S. L., . . . Reeves, J. M. (2015). Adoption of Site-Specific Information
and Variable-Rate Technologies in Cotton Precision Farming. Journal of
Agricultural and Applied Economics, 36(1), 143-158. doi:
10.1017/S107407080002191X
83. Rogers, E. M. (1962). Diffusion of innovations. New York: Free Press of
Glencoe.
84. Rogers, E. M. (2003). Diffusion of Innovations. 5th ed. New York: The Free
Press.
85. Rogers, E. M. (2010). Diffusion of innovations: Simon and Schuster.
86. Rogers, E. M., & Shoemaker, F. F. (1971). Communication of Innovations; A
Cross-Cultural Approach.
87. Rogers, E.M. (1995). Diffusion of Innovations. The Free Press.
88. Rogers, E.M., (1981). Diffusion of Innovation. Free Press New York.
89. Sambodo, L. A. (2007). The decision making processes of Semi-commercial
farmers: a case study of technology adoption in Indonesia. Lincoln University.
90. Sarker, M., Itohara, Y., & Hoque, M. (2009). Determinants of adoption
decisions: The case of organic farming (OF) in Bangladesh. Extension
Farming Systems Journal, 5(2), 39.
91. Sriwichailamphan, T., Sriboonchitta, S., Wiboonpongse, A., &
Chaovanapoonphol, Y. (2007). Factors affecting good agricultural practice in
pineapple farming in Thailand. Paper presented at the II International
Symposium on Improving the Performance of Supply Chains in the
Transitional Economies 794.
92. Sunding, D., & Zilberman, D. (2001). The agricultural innovation process:
research and technology adoption in a changing agricultural sector.
Handbook of agricultural economics, 1, 207-261.
93. Tabachnick, B. G., & Fidell, L. S. (2007). Using multivariate statistics: Allyn
& Bacon/Pearson Education.
94. Tutkun, A., Lehmann, B., & Schmidt, P. (2006). Explaining the conversion to
particularly ani-mal-friendly stabling system of farmers of the Obwalden
Canton, Switzerland-Extension of the Theory of Planned Behavior within a
Struc-tural Equation Modeling Approach. Agrarwirtschaft und
Agrarsoziologie, 1(7), 11-25.
95. Vu, T. H., Nguyen, M. D., & Santi, S. (2016). Litchi farmers' preference for
the adoption of Vietnamese Good Agricultural Practices in Luc Ngan district,
Vietnam. Journal of ISSAAS (International Society for Southeast Asian
Agricultural Sciences), 22(1), 64-76.
96. Wauters, E., & Mathijs, E. (2013). An investigation into the socio-
psychological determinants of farmers' conservation decisions: method and
implications for policy, extension and research. The Journal of Agricultural
Education and Extension, 19(1), 53-72.
97. Wauters, E., Bielders, C., Poesen, J., Govers, G., & Mathijs, E. (2010).
Adoption of soil conservation practices in Belgium: an examination of the
theory of planned behaviour in the agri-environmental domain. Land use
policy, 27(1), 86-94.
98. Wauters, E., D'Haene, K., & Lauwers, L. (2017). The social psychology of
biodiversity conservation in agriculture. Journal of Environmental Planning
and Management, 60(8), 1464-1484. doi: 10.1080/09640568.2016.1231666
99. Weir, S., & Knight, J. (2000). Adoption and diffusion of agricultural
innovations in Ethiopia: the role of education: University of Oxford, Institute
of Economics and Statistics, Centre for the Study of African Economies.
100. Weyori, Alirah Emmanuel, Mulubrhan Amare and Herman Waibel. (2014).
Agricultural innovations systems and adoption decision: Findings from a study
of Ghanaian plantain sector. Paper presented at annual conference 2014
"Development Economics and Policy" of Ausschuss für Entwicklungsländer
(AEL) of Verein für Socialpolitik, June 27-28, in Passau, Germany.
101. Wilson, G. A. (1997). Factors influencing farmer participation in the
environmentally sensitive areas scheme. Journal of environmental
management, 50(1), 67-93.
102. Wubeneh, N. G., & Sanders, J. (2006). Farm-level adoption of sorghum
technologies in Tigray, Ethiopia. Agricultural Systems, 91(1-2), 122-134.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1:
DÀN BÀI PHỎNG VẤN ĐỊNH TÍNH
Năm sinh………… lớp học cao nhất…….
Mã số:………..
Quy định:
1) Giới tính: nam; nữ
2) Nhóm tuổi
Từ 30 đến 45; từ 46 đến 55; trên 55
3) Địa điểm
Hưng Mỹ = 1; Bàu Tròn = 2; Lang Châu Bắc = 3; La Hường = 4
1. Giao tiếp Phần này tìm hiểu thông tin người nông dân biết
đến quy trình VIETGAP như thế nào
1.1. Kênh thông tin như báo Tìm hiểu xem người nông dân có thường xem tin
chí, tivi, đài , internet tức nông nghiệp, đặc biệt quy trình VietGAP trên
các phương tiện như ti vi báo chí như thế nào
1.2. Tiếp xúc cán bộ khuyến Tìm hiểu xem người nông dân có thường tiếp xúc
nông trao đổi với cán bộ khyến nông, đặc biệt quy trình
VietGAP như thế nào
1.3. Trao đổi với bạn bè Tìm hiểu xem người nông dân có thường trao đổi
với bạn bè về lĩnh vực nông nghiệp,đặc biệt quy
trình VietGAP như thế nào
2. Nhận thức Quy trình này Tìm hiểu xem quy trình này có mang lại được
mang lại lợi ích những lợi ích về thu nhập, sản lượng
3. Nhận thức về môi trường Tìm hiểu xem quy trình này có mang lại được sản
phẩm an toàn, sức khỏe người sản xuất, người tiêu
dùng và môi trường xung quanh
4. Nhận thức về cung, cầu thị Tìm hiểu xem người nông dân am hiểu thị trường,
trường cung cầu của ngành rau này như thế nàò
5. Nhận thức về rủi ro Tìm hiểu xem những người nông dân có lo ngại
nguy cơ của việc áp dụng quy trình mới này không,
như nguy cơ về sản lượng không đạt, thời tiết, sâu
bệnh; quyền sở hữu đất,
Và người nông dân làm gì để giảm thiểu rủi ro
6. Chuẩn mực chủ quan Phần này tìm hiểu về những ý kiến của những
người chung quanh mà người nông dân tham khảo
6.1. Thành viên trong gia Tìm hiểu xem người nông dân tham khảo ý kiến
đình các thành viên trong gia đình như ba mẹ, ông bà
con cái, nói chung những người quan trọng tring
gia đình
6.2. Các hộ đã áp dụng Tìm hiểu xem người nông dân tham khảo ý kiến
các hộ đã áp dụng trước, hộ chung quanh hay đi
học tập các hộ ở các địa phương khác ?
6.3. Cán bộ khuyến nông Tìm hiểu xem người nông dân tham khảo ý kiến
các cán bộ khuyến nông trước khi đưa ra quyết
định như thế nào, lời khuyên của can bộ khuyến
nông tác động đến quyết định của họ
6.4. Trưởng thôn Tìm hiểu xem người nông dân tham khảo ý kiến
trưởng thôn, ông bà có hỏi ý kiến của trưởng thôn
về dự định quyết định áp dụng VIETGAP?
6.5. Hội nông dân Tìm hiểu xem người nông dân có tham khảo ý kiến
hội nông dân
6.6. Chủ nhiệm HTX Tìm hiểu xem người nông dân có tham khảo ý kiến
của chủ nhiệm HTX trong việc đi đến quyết định
áp dụng VIETGAP như thế nào?
7. Nhóm kiểm soát Phần này tìm hiểu xem những điều kiện để áp dụng
mà người nông dân áp dụng, năng lực của nông
dân
7.1. Đất đai Tìm hiểu xem người nông dân có đất đai đủ tiêu
chuẩn ( xa khu công nghiệp, bệnh viện…)để áp
dụng quy trình mới, những thuận lợi và khó khăn
của đât đai để áp dụng
7.2. Vốn Tìm hiểu xem vốn của người nông dân để áp dụng
quy trình mới, những thuận lợi và khó khăn về vốn
để áp dụng, tiếp cận vốn?
7.3. Giống Tìm hiểu xem những yếu tố đầu vào như giống của
người nông dân khi áp dụng, những khó khăn và
thuận lợi, giống mua từ đâu,khó khăn, thuận lợi ra
sao
7.4. Phân Tìm hiểu xem tình hình phân bón có đáp ứng nhu
cầu sản xuất theo pp mới và những khó khăn thuận
lợi của yếu tố này như thế nào
7.5. Học hỏi để phát triển Tìm hiểu xem những người nông dân có học hỏi
kỹ năng thêm từ những người chung quanh đã áp dụng để
cải thiện kỹ năng làm việc theo quy trình mới này
không?
7.6. Tập huấn Tìm hiểu xem những người nông dân có được trang
bị những kiến thức về quy trình mới nhằm nâng
cao kỹ năng, kiên thức cho quy trình mơi này
không?
7.7. Kinh nghiệm Tìm hiểu xem kinh nghiệm làm việc từ trước đến
nay của người nông dân có đủ để áp dụng quy trình
mới, những thuận lợi và khó khăn khi áp dụng
7.8. Thuốc bảo vệ thực vật Tìm hiểu xem tình hình sử dụng thuốc bvtv có đáp
ứng nhu cầu sản xuất theo pp mới và những khó
khăn thuận lợi của yếu tố này như thế nào
7.9. Lao động Tìm hiểu xem những yếu tố lao động có những khó
khăn và thuận lợi gì? Gia đình có thuê thêm lao
động, ?
7.10. Công việc phi nông Tìm hiểu xem những công việc phi nông nghiệp có
nghiệp quan trọng với người nông dân như thế nào, những
thuận lợi và khó khăn khi người nông dân có
những công việc phi nông nghiệp đối với việc áp
dụng pp mới
7.11. Chi phí Tìm hiểu xem những chi phí khi áp dụng đổi mới
(áp dụng quy trình VietGAP), những thuận lợi và
khó khăn, như chi phí sản xuất, chi phí cấp giấy
chứng nhận
7.12. Cơ sở hạ tầng Tìm hiểu xem cơ sở hạ tầng của khu vực sản xuất
rau, như điện, đường, nước, xe vận chuyển, nhà sơ
chế…có đưa vào hoạt động?
7.13. Bảo quản sau thu Tìm hiểu xem việc bảo quản sau thu hoạch như thế
hoạch nào?
8. Quyết định Phần này tìm hiểu xem quyết định trong tương lai
của người nông dân trong việc áp dụng Tiêu chuẩn
VIETGAP trong sản xuất
8.1. Giới thiệu Tìm hiểu xem người nông dân có giới thiệu
phương pháp này cho mọi người chung quanh biết
để áp dụng trong thời gian đến
8.2. Giám sát Tìm hiểu xem người nông dân có giám sát, theo dõi
những hộ chung quanh có thực hiện các tiêu chuẩn
VietGAP trong sản xuất như thế nào? ( có hộ vứt
bừa bãi thì hộ có nhắc nhở không? Vi du vậy)
8.3. Tiếp tục áp dụng quy Tìm hiểu xem người nông dân có tiếp tục quyết
trình định áp dụng tiêu chuẩn VIETGAP trong sản xuất
rau như thế nào trong thời gian đến
8.4. Ủng hộ phát triển Tìm hiểu xem người nông dân có ủng hộ áp dụng
tiêu chuẩn VIETGAP trong sản xuất rau như thế
nào trong thời gian đến
Phụ lục 2:
BẢNG HỎI PHỎNG VẤN NÔNG HỘ
Số/ Xã, phường: ………
Xin chào ông/bà. Tôi là Lương Tình, hiện đang làm Nghiên cứu sinh ở trường
Đại Học Kinh Tế Đà Nẵng. Vấn đề mà tôi nghiên cứu là những yếu tố ảnh hưởng
đến quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất rau của ông bà. Rất
mong ông/bà dành chút ít thời gian trả lời một số câu hỏi sau. Xin lưu ý là không có
câu trả lời đúng hay sai ở đây. Những ý kiến của ông/bà chỉ sử dụng cho mục đích
nghiên cứu khoa học và được giữ bí mật.
Xin chân thành cảm ơn!
Phần I. Ông/bà cho biết mức độ đồng ý cho các phát biểu dưới đây bằng cách
đánh dấu x vào các ô tương ứng
( 1: rất không đồng ý; 2: không đồng ý; 3: không biết = bình thường; 4: đồng ý; 5:
rất đồng ý.)
Thang đo Mức độ đồng ý
1. Giao tiếp (GT) 1 2 3 4 5
1.1. Tôi thường xem bản tin nông nghiệp trên các kênh
thông tin đại chúng
1.2. Tôi thường trao đổi với cán bộ khuyến nông về vấn
đề rau theo tiêu chuẩn VietGAP
1.3. Tôi trao đổi với bạn bè về vấn đề rau theo tiêu chuẩn
VietGAP ( ở quán cà fe…..)
2. Nhận thức lợi ích (NTL)
2.1. Áp dụng quy trình sản xuất rau theo tiêu chuẩn
VietGAP giúp tôi có thu nhập cao hơn
2.2. Áp dụng quy trình sản xuất rau theo tiêu chuẩn
VietGAP giúp tôi đạt sản lượng cao hơn
2.3. Nhìn chung áp dụng quy trình VietGAP mang lại
nhiều lợi ích hơn
3. Nhận thức môi trường (NTA)
3.1. Áp dụng thực hành tiêu chuẩn VietGAP giúp đảm
bảo sức khỏe cho người sản xuất
3.2. Áp dụng thực hành tiêu chuẩn VietGAP mang lại sản
phẩm an toàn cho người tiêu dùng
3.3. Áp dụng thực hành tiêu chuẩn VietGAP cải thiện
môi trường chung quanh hơn
3.4. Nói chung nếu áp dụng thực hành tiêu chuẩn
VietGAP là rất an toàn cho môi trường
4. Nhận thức rủi ro (NTR)
4.1. Tiểu thương lợi dụng thương hiệu sản phẩm rau áp
dụng thực hành tiêu chuẩn VietGAP để buôn bán
4.2. Áp dụng thực hành tiêu chuẩn VietGAP có nguy cơ
thất thu
4.3. Giá cả đầu ra của sản phẩm áp dụng tiêu chuẩn
VietGAP thường không ổn định
4.4. Thời tiết cực đoan khó cho việc áp dụng thực hành
tiêu chuẩn VietGAP
5. Nhận thức về cung cầu (NTC)
5.1. Tôi có sản phẩm áp dụng thực hành tiêu chuẩn
VietGAP cung cấp cho thị trường
5.2. Người tiêu dùng đã biết đến sản phẩm rau áp dụng
thực hành tiêu chuẩn VietGAP
5.3. Người tiêu dùng đã sử dụng đến sản phẩm áp dụng
thực hành tiêu chuẩn VietGAP
6. Định mức chủ quan (DM)
6.1. Vợ/ chồng tôi nghĩ rằng tôi nên áp dụng thực hành
tiêu chuẩn VietGAP trong thời gian tới
6.2. Cha mẹ tôi nghĩ rằng tôi nên áp dụng thực hành tiêu
chuẩn VietGAP trong thời gian tới
6.3. Các con tôi nghĩ rằng tôi nên áp dụng thực hành tiêu
chuẩn VietGAP trong thời gian tới
6.4. Chủ nhiệm HTX, nghĩ rằng tôi nên áp dụng thực
hành tiêu chuẩn VietGAP trong thời gian tới
6.5. Các cán bộ khuyến nông nghĩ rằng tôi nên áp dụng
thực hành tiêu chuẩn VietGAP trong thời gian tới
6.6. Trưởng thôn nơi tôi ở nghĩ rằng tôi nên áp dụng thực
hành tiêu chuẩn VietGAP trong thời gian tới
6.7. Hội nông dân của tôi nghĩ rằng tôi nên áp dụng thực
hành tiêu chuẩn VietGAP trong thời gian tới
6.8. Hầu hết những người nông dân như tôi sẽ áp dụng
thực hành tiêu chuẩn VietGAP trong thời gian đến
6.9. Hầu hết những người quan trọng đối với tôi nghĩ
rằng tôi nên áp dụng thực hành tiêu chuẩn
VietGAP trong thời gian tới
7. Mức kiểm soát hành vi (KS) 1 2 3 4 5
7.1. Nếu tôi áp dung thực hành tiêu chuẩn VietGAP trong
thời gian tới, Tôi có đủ đất để áp dụng
7.2. Nếu tôi áp dung thực hành tiêu chuẩn VietGAP trong
thời gian tới, Tôi có đủ vốn để áp dụng
7.3. Nếu tôi áp dung thực hành tiêu chuẩn VietGAP trong
thời gian tới, Tôi có thể dựa vào phương pháp của
các nông dân khác và làm theo họ
7.4. Nếu tôi áp dung thực hành tiêu chuẩn VietGAP
trong thời gian tới, Việc bảo quản sau thu hoạch
không là trở ngại với tôi
7.5. Đối với tôi áp dụng thực hành tiêu chuẩn VietGAP là
quan trọng hơn công việc phi nông nghiệp
7.6. Nếu tôi áp dung thực hành tiêu chuẩn VietGAP trong
thời gian tới, cơ sở hạ tầng thuận lợi cho việc áp
dụng
7.7. Nếu tôi áp dung thực hành tiêu chuẩn VietGAP trong
thời gian tới, Tôi có đầy đủ kiến thức
7.8. Áp dụng thực hành tiêu tiêu chuẩn VietGAP trong
thời gian tới là hoàn toàn nằm trong khả năng của tôi
8. Quyết định áp dụng (QD) 1 2 3 4 5
8.1. Tôi sẽ tiếp tục áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong
thời gian đến
8.2. Tôi sẽ giới thiệu cho mọi người áp dụng tiêu chuẩn
VietGAP trong thời gian đến
8.3. Tôi có ý định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong thời
gian đến
8.4. Tôi có kế hoạch quyết định áp dụng tiêu chuẩn
VietGAP trong thời gian đến
8.5. Tôi đã quyết định áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong
thời gian đến
8.6. Nói chung tôi sẽ ủng hộ việc phát triển, sản xuất rau
theo tiêu chuẩn VietGAP trong thời gian đến.
Phần II: Xin vui lòng cho biết một số thông tin cá nhân về ông/bà
1. 1. Giới tính: o Nam o Nữ 2. Độ tuổi
o 30 - 45 o 46 - 55 o Trên 55 3. Trình độ học vấn o Chưa đi học o Từ lớp 1 - 5 o Từ lớp 6 - 9 o Từ lớp 10 – 12 o Trên 12
4. Kinh nghiệm trồng rau………….. năm
5. Kinh nghiệm trồng rau VietGAP………. năm
6. Diện tích đất sản xuất nông nghiệp…………..m2
7. Trong đó diện tích sản xuất rau………….m2
8. Trong đó diện tích sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP ……m2
9. Số người trong gia đình………người
10. Số người tham gia trồng rau VietGAP ……….người
11. Số người phụ thuộc…………..người
Phụ lục Bảng 1: Kết quả phân tích nhân tố khám phá lần 1
Phụ lục 3:
KMO and Bartlett's Test
Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy.
.895
Bartlett's Test of Sphericity Approx. Chi-Square
6795.938
Df
528
Sig.
.000
Total Variance Explained
Rotation Sums of Squared Loadingsa
Initial Eigenvalues
Extraction Sums of Squared Loadings
Facto r
% of Variance
Cumulative %
Total
% of Variance
Cumulative %
Total
Total
9.099
27.572
27.572 8.751
26.518
26.518
5.800
1
4.505
13.652
41.224 4.181
12.670
39.188
5.790
2
3.305
10.016
51.240 2.995
48.266
9.077
5.211
3
55.871
7.605
4.278
2.872
8.704
59.944 2.510
4
61.017
5.146
5.785
1.979
5.996
65.940 1.698
5
4.569
1.655
5.016
6
65.233
4.216
.731
2.214
7
.659
1.997
8
.594
1.799
9
.563
1.707
10
.547
1.658
11
.517
1.566
12
.490
1.486
13
.480
1.456
14
.446
1.353
15
.420
1.274
70.956 1.391 73.169 75.166 76.966 78.673 80.331 81.897 83.382 84.838 86.191 87.465
16
.394
1.193
17
.370
1.122
18
.337
1.022
19
.319
.966
20
.312
.944
21
.288
.872
22
.272
.824
23
.252
.763
24
.245
.741
25
.227
.689
26
.204
.620
27
.197
.597
28
.172
.520
29
.161
.487
30
.144
.436
31
.140
.425
32
.103
.313
33
88.658 89.781 90.803 91.769 92.713 93.585 94.409 95.172 95.913 96.602 97.222 97.819 98.339 98.826 99.262 99.687 100.000
Extraction Method: Principal Axis Factoring.
a. When factors are correlated, sums of squared loadings cannot be added to obtain a total variance.
Pattern Matrixa
Factor
1
2
3
4
5
6
NTA4
NTA2
NTA3
NTL3
NTL1
NTL2
NTA1
.866 .849 .842 .745 .718 .688 .687
KS8
.840
KS5
KS3
KS7
KS6
KS2
.837 .815 .811 .803 .717 .501
KS4
.331
NTR4
NTR3
NTC2
NTR1
NTC1
.935 .842 .787 .776 .748 .715
NTC3
DM8
DM4
DM5
DM9
.922 .920 .879 .751 .699
DM1
QD2
QD3
QD5
QD1
.922 .894 .726 .642 .582
QD6
.940
GT2
.910
GT1
.873
GT3
Extraction Method: Principal Axis Factoring. Rotation Method: Promax with Kaiser Normalization.
a. Rotation converged in 6 iterations.
Bảng 2: Kết quả phân tích nhân tố khám phá lần 2
KMO and Bartlett's Test
Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy. Bartlett's Test of Sphericity Approx. Chi-Square .896 6517.343
df 496
Sig. .000
Total Variance Explained
Rotation Sums of Squared Loadingsa
Initial Eigenvalues
Extraction Sums of Squared Loadings
Factor
Total
% of Variance
Cumulativ e %
% of Variance
Cumulative %
Total
Total
1
8.751 27.347
27.347
8.412
26.287
26.287
5.445
2
4.352 13.600
40.947
4.029
12.591
38.877
5.166
3
3.305 10.329
51.276
2.995
9.359
48.236
5.248
4
2.869
8.965
60.241
2.508
7.838
56.075
4.277
5
1.961
6.128
66.369
1.684
5.264
61.339
5.667
6
1.654
5.170
4.514
1.388
4.337
65.676
7
.660
2.062
8
.612
1.911
9
.594
1.855
10
.555
1.734
11
.524
1.639
12
.510
1.595
13
.490
1.532
14
.454
1.418
15
.424
1.326
16
.395
1.235
17
.372
1.164
18
.362
1.132
71.539 73.600 75.512 77.366 79.100 80.739 82.334 83.866 85.284 86.609 87.845 89.009 90.141
19
.336
1.050
20
.312
.974
21
.302
.945
22
.278
.869
23
.270
.843
24
.249
.778
25
.240
.751
26
.227
.710
27
.198
.618
28
.189
.590
29
.163
.510
30
.147
.460
31
.140
.439
32
.103
.323
91.191 92.165 93.109 93.978 94.821 95.599 96.350 97.060 97.678 98.268 98.778 99.238 99.677 100.000
Extraction Method: Principal Axis Factoring.
a. When factors are correlated, sums of squared loadings cannot be added to obtain a total variance.
Pattern Matrixa
Factor
1
2
3
4
5
6
NTA4
NTA2
NTA3
NTL3
NTL1
NTL2
NTA1
.851 .848 .838 .740 .718 .688 .682
NTR4
NTR3
NTC2
NTR1
.934 .842 .787 .775
NTC1
.748 .714
NTC3
KS8
KS5
KS7
KS3
KS6
.840 .835 .805 .801 .800 .674
KS2
DM8
DM4
DM5
DM9
.922 .921 .879 .752 .699
DM1
QD2
QD3
QD5
QD1
.921 .893 .726 .646 .583
QD6
.940
GT2
.910
GT1
.872
GT3
Extraction Method: Principal Axis Factoring. Rotation Method: Promax with Kaiser Normalization.
a. Rotation converged in 6 iterations.
Bảng 3: Kết quả phân tích nhân tố khẳng định (CFA) lần 1
Bảng 4: Kết quả phân tích nhân tố khẳng định (CFA) lần 2
Bảng 5: Kết quả SEM lần 1
Bảng 6: Kết quả SEM lần 2 sau khi loại DM
Bảng 7: Mô hình bất biến theo địa điểm
Bảng 8: Mô hình khả biến theo địa điểm
Bảng 9: Mô hình bất biến theo độ tuổi
Bảng 10: Mô hình khả biến theo độ tuổi
Bảng 11: Mô hình bất biến theo giới tính
Bảng 12: Mô hình khả biến theo giới tính
Phụ lục 4:
BẢNG HỎI MỨC ĐỘ ÁP DỤNG TIÊU CHUẨN VIETGAP TRONG
SẢN XUẤT RAU CỦA NÔNG HỘ
Xin chào ông/bà, chúng tôi đang thực hiện luận án tiến sĩ ở trường Đại Học
Kinh Tế Đà Nẵng, chúng tôi muốn đi sâu tìm hiểu mức độ áp dụng tiêu chuẩn
VietGAP trong sản xuất rau của ông bà.
Cuộc trao đổi ngày hôm nay là hoàn toàn tự nguyện. Những thông tin thu thập
chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự hợp tác
của ông/bà và gia đình.
Tiêu chuẩn 1: Vùng sản xuất (khu vực sản xuất)
Hoàn Thỉnh Tương Khá Hoàn
toàn thoảng đối thường toàn
không áp thường xuyên áp Tiêu chuẩn áp dụng xuyên áp áp dụng dụng
dụng 25% dụng 75% 100%
0% 50 %
Khu vực sản xuất cách xa khu
vực có chất thải công nghiệp
nặng
Khu vực sản xuất cách xa bệnh
viện
Khu vực sản xuất cách xa nghĩa
trang
Tiêu chuẩn 2: Giống
Giống rau tự sản xuất hay mua?
[ ] Tự sản xuất [ ] mua
Nếu mua thì
Mua từ nguồn nào sau đây?
[ ] mua từ các cơ sở giống được công nhận
[ ] mua từ các hộ trồng rau khác
[ ] khác
Hoàn Thỉnh Tương Khá Hoàn Tiêu chuẩn
toàn thoảng đối thường toàn
không áp thường xuyên áp
áp dụng xuyên áp áp dụng dụng
dụng 25% dụng 75% 100%
0% 50 %
Đối Giống mua về có giấy
với cơ chứng nhận
sở mua
giống
Đối Có hồ sơ ghi chép các
với cơ biện pháp xử lý hạt
sở tự giống, cây con giống
sản
xuất
giống
Tiêu chuẩn 3: Đất
Tiêu chuẩn Hoàn Thỉnh Tương Khá Hoàn
toàn thoảng đối thường toàn
không áp thường xuyên áp
áp dụng xuyên áp áp dụng dụng
dụng 25% dụng 75% 100%
0% 50 %
Đất thoát nước tốt
Không chịu ảnh hưởng của chất
thải công nghiệp, bệnh viện,
nghĩa trang
Không nhiễm các hóa chất độc
hại cho con người và môi
trường
Tiêu chuẩn 4: Nước
Ông bà sử dụng nguồn nước nào cho sản xuất rau?
[ ] Nước máy
[ ] Nước giếng khoan
[ ] Nước giếng khơi
[ ] Nước mương, ao
[ ] Khác.....
Tiêu chuẩn Hoàn Thỉnh Tương Khá Hoàn
toàn thoảng đối thường toàn
không áp thường xuyên áp
áp dụng xuyên áp áp dụng dụng
dụng 25% dụng 75% 100%
0% 50 %
Nguồn nước đủ đáp ứng cho
yêu cầu sản xuất rau
Kiểm tra định kỳ và chất lượng
nguồn nước dùng cho sản xuất
rau
Kiểm tra thường xuyên hệ
thống ống dây tưới nước
Nước rửa dụng cụ phun hóa
chất và nước thải có chảy qua
vùng sản xuất
Có thải trực tiếp nước thải ra
môi trường
Tiêu chuẩn 5: Phân bón
Tiêu chuẩn Hoàn Thỉnh Tương Khá Hoàn
toàn thoảng đối thường toàn
không áp thường xuyên áp
áp dụng xuyên áp áp dụng dụng
dụng 25% dụng 75% 100%
0% 50 %
Không sử dụng phân hữu cơ
chưa qua sử lý (ủ hoại mục)
Trường hợp phân hữu cơ được
xử lý tại chỗ, ghi lại thời gian
và phương pháp xử lý
Trường hợp không tự sản xuất
phân hữu cơ, phải có hồ sơ ghi
rõ tên và địa chỉ tổ chức, cá
nhân và thời gian cung cấp, số
lượng, chủng loại
Sử dụng phân hữu cơ vi sinh
bón cho rau
Sử dụng các loại phân bón có
trong danh mục được phép sản
xuất, kinh doanh tại Việt Nam
Các dụng cụ bón phân sau khi
sử dụng phải được vệ sinh và
phải được bảo dưỡng thường
xuyên
Nơi chứa phân bón hay khu vực
phối trộn phân phải được xây
dựng và bảo dưỡng để không
gây ô nhiễm nguồn nước
Lưu trữ hồ sơ khi sử dụng phân
bón như ghi rõ thời gian bón,
tên phân bón, địa điểm, liều
lượng, phương pháp bón và tên
người bón
Tiêu chuẩn 6: Hóa chất, thuốc BVTV
Tiêu chuẩn Hoàn Thỉnh Tương Khá Hoàn
toàn thoảng đối thường toàn
không áp thường xuyên áp
áp dụng xuyên áp áp dụng dụng
dụng 25% dụng 75% 100%
0% 50 %
Có tham khảo ý kiến của người
có chuyên môn trong trường
hợp cần lựa chọn nguồn thuốc
Sử dụng thuốc trong danh mục
được phép sử dụng cho từng
loại rau, quả tại Việt Nam
Sử dụng hóa chất theo đúng sự
hướng dẫn ghi trên nhãn hoặc
hướng dẫn của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền
Thời gian cách ly phải đảm bảo
theo đúng hướng dẫn sử dụng
thuốc bảo vệ thực vật ghi trên
bao bì
Các hỗn hợp hóa chất và thuốc
bảo vệ thực vật dùng không hết
được xử lý đảm bảo không gây ô
nhiễm môi trường
Sau mỗi lần phun thuốc, dụng
cụ phải được vệ sinh sạch sẽ và
thường xuyên bảo dưỡng
Nước sử dụng để rửa các công
cụ phun thuốc cần được xử lý
tránh gây ô nhiễm
Kho chứa thuốc bảo vệ thực vật
phải xây dựng nơi thoáng mát,
và được khóa cẩn thận
Các hóa chất hết hạn sử dụng
hoặc bị cấm sử dụng phải ghi rõ
trong sổ sách theo dõi và lưu
giữ nơi an toàn
Ghi chép các hóa chất đã sử
dụng cho từng vụ như: tên hóa
chất, lý do, số lượng, thời gian,
liều lượng, phương pháp, thời
gian cách ly, tên người sử dụng
Lưu giữ hồ sơ các hóa chất khi
mua và khi sử dụng
Không tái sử dụng các bao bì,
thùng chứa hóa chất và được
thu gom cất giữ nơi an toàn
Phát hiện dư lượng hóa chất
trong rau vượt quá mức tối đa
cho phép phải dừng ngay việc
thu hoạch, mua bán sản phẩm
và ghi chép cụ thể trong hồ sơ
Các loại nhiên liệu, xăng dầu,
và hóa chất khác cần được lưu
trữ riêng
Tiêu chuẩn 7: Thu hoạch và xử lý sau thu hoạch
Tiêu chuẩn Hoàn Thỉnh Tương Khá Hoàn
toàn thoảng đối thường toàn
không áp thường xuyên áp
áp dụng xuyên áp áp dụng dụng
dụng 25% dụng 75% 100%
0% 50 %
Rau được thu hoạch đúng độ
chín, loại bỏ lá úa, già
Sản phẩm sau khi thu hoạch
không được để trực tiếp với đất
và hạn chế để qua đêm
Thiết bị, thùng chứa rau phải
được làm từ các nguyên liệu
không gây ô nhiễm lên sản
phẩm
Thiết bị, thùng chưa rau phải
đảm bảo chắc chắn và vệ sinh
sạch sẽ trước khi sử dụng
Thiết bị, thùng chứa phải
thường xuyên bảo trì nhằm hạn
chế gây ô nhiễm lên sản phẩm
Khu vực xử lý đóng gói và bảo
quản sản phẩm rau phải tách
biệt khu chứa xăng, dầu, kho
bảo vệ thuốc
Phải có hệ thống xử lý rác thải
và hệ thống thoát nước nhằm
tránh gây ô nhiễm cho nguồn
nước và vùng sản xuất
Thường xuyên vệ sinh nhà
xưởng, thiết bị, dụng cụ
Phải cách ly gia súc, gia cầm
khỏi khu vực sơ chế đóng gói
và bảo quản
Người lao động cần được tập
huấn kiến thức về thực hành vệ
sinh cá nhân và được ghi trong
hồ sơ
Nội quy vệ sinh cá nhân phải
được đặt nơi dễ thấy
Chỉ sử dụng các loại hóa chất
và màng sáp cho phép trong quá
trình xử lý sau thu hoạch
Nước sử dụng cho xử lý rau sau
thu hoạch phải đảm bảo
Phương tiện vận chuyển được
làm sạch trước khi sếp thùng
chứa sản phẩm
Không bảo quản và vận chuyển
sản phẩm chung với các hàng
hóa có nguy cơ gây ô nhiễm sản
phẩm
Tiêu chuẩn 8: Quản lý và xử lý chất thải
Tiêu chuẩn Hoàn Thỉnh Tương Khá Hoàn
toàn thoảng đối thường toàn
không áp thường xuyên áp
áp dụng xuyên áp áp dụng dụng
dụng 25% dụng 75% 100%
0% 50 %
Định kỳ phun thuốc tiêu độc
khử trùng quanh hố ủ
Thu gom chất thải hang ngày và
vận chuyển đến nơi sử lý
Không thải chất thải lỏng qua
vùng sản xuất
Tiêu chuẩn 9: Quản lý người lao động
Tiêu chuẩn Hoàn Thỉnh Tương Khá Hoàn
toàn thoảng đối thường toàn
không áp thường xuyên áp
áp dụng xuyên áp áp dụng dụng
dụng 25% dụng 75% 100%
0% 50 %
Người được giao nhiệm vụ
quản lý và sử dụng hóa chất
phải có kiến thức và kỹ năng về
hóa chất
Tập huấn cho người lao động về
kỹ thuật trồng rau
Cung cấp tài liệu hướng dẫn về
sơ cấp cứu đến tất cả người lao
động
Trang bị bảo hộ lao động như
quần áo bảo hộ, ủng, gang
tay..cho người lao động
Quần áo bảo hộ lao động phải
được giặc sạch và không để
chung với thuốc bảo vệ thực vật
Có biển cảnh báo vùng sản xuất
rau mới được phun thuốc
Có quy trình thao tác an toàn
nhằm hạn chế tối đa rủi ro di
chuyển hoặc nâng vác các vật
nặng
Có đầy đủ đồ bảo hộ cho khách
tham quan
Tiêu chuẩn 10: Ghi chép, lưu trữ hồ sơ
Tiêu chuẩn Hoàn Thỉnh Tương Khá Hoàn
toàn thoảng đối thường toàn
không áp thường xuyên áp
áp dụng xuyên áp áp dụng dụng
dụng 25% dụng 75% 100%
0% 50 %
Ghi chép đầy đủ nhật ký sản
xuất
Ghi chép đầy đủ nhật ký về hóa
chất, thuốc bảo vệ thực vật
Ghi chép đầy đủ về phân bón
Ghi chép đầy đủ về mua bán sản
phẩm
Lưu trữ hồ sơ để việc truy nguyên
nguồn gốc được dễ dàng khi cần thiết
Tiêu chuẩn 11: Kiểm tra, giám sát nội bộ
Tiêu chuẩn Hoàn Thỉnh Tương Khá Hoàn
toàn thoảng đối thường toàn
không áp thường xuyên áp
áp dụng xuyên áp áp dụng dụng
dụng 25% dụng 75% 100%
0% 50 %
Tiến hành kiểm tra nội bộ định
kỳ mỗi năm 1 lần
Lưu trong hồ sơ bảng kiểm tra
đánh giá
Tiêu chuẩn 12: Khiếu nại và giải quyết tố cáo
Tiêu chuẩn Hoàn Thỉnh Tương Khá Hoàn
toàn thoảng đối thường toàn
không áp thường xuyên áp
áp dụng xuyên áp áp dụng dụng
dụng 25% dụng 75% 100%
0% 50 %
Các hộ sản xuất rau có sẵn mẫu
đơn khiếu nại
Lưu giữ hồ sơ khiếu nại của
khách hàng và phương pháp
giải quyết