HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
ĐẶNG VĂN HẢI
hoμn thiÖn ph¸p luËt vÒ kiÓm to¸n nhμ n−íc
®¸p øng yªu cÇu x©y dùng nhμ n−íc ph¸p quyÒn
x· héi chñ nghÜa ViÖt Nam
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số : 62 38 01 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT
Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH ĐÀO TRÍ ÚC
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận án này là công trình
nghiên cứu của riêng tôi; các số liệu và kết quả
nghiên cứu nêu trong Luận án là trung thực, có
nguồn gốc rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Đặng Văn Hải
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU Trang 1
6 6 14
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước liên quan đến đề tài 1.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước liên quan đến đề tài 1.3. Tổng quan kết quả nghiên cứu liên quan đến đề tài và vấn đề đặt
ra cần được tiếp tục nghiên cứu 22
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
24 24
2.1. Khái niệm và đặc điểm của Kiểm toán Nhà nước 2.2. Khái niệm, nội dung điều chỉnh, đặc điểm và vai trò của pháp luật
về kiểm toán nhà nước 27
2.3. Tiêu chí hoàn thiện và các điều kiện đảm bảo hoàn thiện pháp
luật về kiểm toán nhà nước 39
2.4. Yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đối với việc hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước 52
2.5. Pháp luật về kiểm toán nhà nước của các nước trên thế giới và
những giá trị tham khảo cho Việt Nam 59
69 Chương 3: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
3.1. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về kiểm toán nhà
nước ở Việt Nam
3.2. Thực trạng pháp luật về kiểm toán nhà nước ở Việt Nam hiện nay 69 84
Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
117
VỀ KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước ở Việt
Nam hiện nay 117
4.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước ở Việt
Nam hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
124 161 164 165
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
HĐND Hội đồng nhân dân
INTOSAI Tổ chức Quốc tế các cơ quan Kiểm toán tối cao
Kiểm toán Nhà nước KTNN
Kiểm toán Nhà nước Liên bang KTNNLB
Kiểm toán viên KTV
Mục tiêu quốc gia MTQG
Ngân sách nhà nước NSNN
Ngân sách địa phương NSĐP
QPPL Quy phạm pháp luật
UBTV Ủy ban Thường vụ
UBND Ủy ban nhân dân
XDCB Xây dựng cơ bản
XHCN Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: “Nhà nước ta là Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả
quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp
và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp”. Điều đó, đã thể hiện yêu cầu của Đảng phải tăng cường kiểm
soát quyền lực nhà nước, nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả thực thi quyền
lực nhà nước. Để tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước theo yêu cầu của
Đảng, cần phải có các công cụ kiểm soát có hiệu lực và hiệu quả, trong đó có
cơ quan Kiểm toán Nhà nước. Với vị thế là cơ quan kiểm tra tài chính nhà
nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật,
Kiểm toán Nhà nước sẽ là công cụ kiểm tra tài chính có hiệu lực nhất của Nhà
nước đối với mọi cơ quan, tổ chức, đơn vị có quản lý, sử dụng ngân sách, tiền
và tài sản nhà nước, đặc biệt là trong điều kiện Đảng và Nhà nước ta đang đẩy
mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở nước ta hiện nay.
Qua gần 20 năm xây dựng và phát triển, các văn bản pháp luật về tổ
chức và hoạt động của KTNN không ngừng được bổ sung hoàn thiện, đặc biệt
Quốc hội khoá XI, tại kỳ họp thứ 7 đã thông qua Luật Kiểm toán nhà nước là
một bước tiến to lớn về phương diện lập pháp đối với lĩnh vực kiểm toán nhà
nước. Trên cơ sở các văn bản pháp luật này, tổ chức và hoạt động của KTNN
ngày càng đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới, tăng cường kiểm tra, giám
sát của Nhà nước trong quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước.
Mặc dù đã có những bước phát triển quan trọng nhưng trước yêu cầu ngày
càng cao của công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền
2
XHCN, tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước, hoạt động kiểm toán của
KTNN cũng còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong
tình hình mới. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do các
quy định của pháp luật về kiểm toán nhà nước ở nước ta vẫn còn nhiều hạn
chế, bất cập, như: Chế định về địa vị pháp lý chưa tương xứng với vị trí, vai
trò của KTNN; địa vị pháp lý của KTNN và Tổng KTNN chưa được quy định
trong Hiến pháp - đạo luật cơ bản của Nhà nước như hầu hết các nước trên thế
giới nên không tránh khỏi khó khăn khi xác định mô hình tổ chức và cơ chế
hoạt động của cơ quan KTNN; phạm vi kiểm toán chưa bao quát hết việc
kiểm tra, kiểm soát mọi nguồn lực tài chính nhà nước và tài sản công; chưa có
sự tương thích về một số quy định giữa Luật Kiểm toán nhà nước với các luật
liên quan, nhất là các luật về tổ chức bộ máy nhà nước; chưa có các quy định
về chế tài đối với các hành vi vi phạm pháp luật về kiểm toán nhà nước... đã
làm giảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của KTNN với vị thế là cơ quan kiểm
tra tài chính nhà nước cao nhất của quốc gia.
Từ những lý do trên đây, việc hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà
nước ở nước ta hiện nay là vấn đề có tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. Do
vậy, tác giả chọn đề tài: "Hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước đáp ứng
yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam" làm luận
án tiến sỹ, chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận án là pháp luật về kiểm toán nhà nước
ở Việt Nam; những nguyên tắc, chuẩn mực kiểm toán của INTOSAI và pháp
luật về kiểm toán nhà nước của một số nước trên thế giới.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án nghiên cứu các quy định của pháp luật về kiểm toán nhà nước
qua các thời kỳ, Luật Kiểm toán nhà nước và các văn bản hướng dẫn thi hành
3
và những quy định về kiểm toán nhà nước trong các văn bản QPPL có liên
quan từ khi KTNN được thành lập (11/7/1994) đến nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và đánh giá thực trạng pháp luật về kiểm
toán nhà nước, luận án đề xuất các quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật về kiểm toán nhà nước đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích nêu trên luận án có những nhiệm vụ sau đây:
Một: Phân tích cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật về kiểm toán
nhà nước; xác lập các tiêu chí và điều kiện đảm bảo hoàn thiện pháp luật kiểm
toán nhà nước; phân tích yêu cầu đối với việc hoàn thiện pháp luật kiểm toán
nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
và trên cơ sở đó luận chứng các giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm toán
nhà nước ở Việt Nam;
Hai: Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về kiểm toán nhà nước và
thực tiễn thực hiện trong thời gian qua;
Ba: Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận, thực trạng
pháp luật về kiểm toán nhà nước; thực tiễn thi hành pháp luật về kiểm toán
nhà nước thời gian qua và tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm pháp luật về
kiểm toán nhà nước của một số nước trên thế giới, đề xuất các quan điểm và
giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước đáp ứng yêu cầu
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay.
4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp luận
Thực hiện luận án này, tác giả sử dụng phương pháp luận của Triết học
Mác - Lênin, đó là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử được
4
sử dụng nhằm mô tả các tiến trình phát triển của vấn đề dựa trên những điều
kiện kinh tế, chính trị và lịch sử của xã hội. Hơn nữa, phương pháp này được
tác giả sử dụng để đánh giá và giải quyết vấn đề trên cơ sở điều kiện lịch sử
cụ thể của Việt Nam nhằm loại trừ sự võ đoán hay sao chép máy móc.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu
Thực hiện Luận án này, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu
khoa học cụ thể sau đây:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng ở cả 4 chương của luận
án nhằm hệ thống hóa cơ sở lý luận, khái quát hóa, đánh giá thực trạng và đề
xuất các quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước.
- Phương pháp lịch sử, thống kê, so sánh được sử dụng ở Chương 3 nhằm
đánh giá quá trình phát triển, thực trạng pháp luật về kiểm toán nhà nước.
- Phương pháp so sánh pháp luật cũng được sử dụng trong việc xác
định quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước có tính
đến kinh nghiệm quốc tế về pháp luật kiểm toán nhà nước, bởi lẽ pháp luật về
kiểm toán nhà nước ở Việt Nam còn khá mới mẻ, hoàn thiện pháp luật phải
được đặt trong bối cảnh hội nhập quốc tế và khu vực về kiểm toán nhà nước.
5. Những đóng góp về khoa học của luận án
Luận án là công trình chuyên khảo đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu một
cách toàn diện và có hệ thống về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn
thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước; vì vậy, có những đóng góp mới về mặt
khoa học như sau:
- Luận án góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận về KTNN, nhằm thống
nhất nhận thức về khái niệm và đặc điểm của KTNN.
- Đưa ra khái niệm và nội dung điều chỉnh, chỉ rõ đặc điểm và vai trò
của pháp luật về kiểm toán nhà nước; xác lập các tiêu chí và điều kiện đảm
bảo hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước.
- Nghiên cứu yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đối
với việc hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước.
5
- Nghiên cứu pháp luật về kiểm toán nhà nước của một số nước trên thế
giới để rút ra những giá trị tham khảo cho việc hoàn thiện pháp luật về kiểm
toán nhà nước ở nước ta.
- Nghiên cứu sự hình thành và phát triển của pháp luật về kiểm toán
nhà nước ở Việt Nam; đánh giá thực trạng và chỉ ra nguyên nhân của những
tồn tại về thực trạng của pháp luật kiểm toán nhà nước ở nước ta hiện nay.
- Đề xuất các quan điểm cần quán triệt trong hoàn thiện pháp luật về
kiểm toán nhà nước, đồng thời kiến nghị các nhóm giải pháp hoàn thiện pháp
luật về kiểm toán nhà nước đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN ở nước ta hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án có ý nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn:
- Về mặt lý luận: Luận án góp phần làm phong phú thêm lý luận về
hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực cụ thể.
- Về thực tiễn: Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có
hệ thống và toàn diện pháp luật về kiểm toán nhà nước; đề xuất các quan
điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật kiểm toán nhà nước ở nước ta hiện nay.
Kết quả luận án là tài liệu tham khảo có giá trị và đáng tin cậy đối với các nhà
hoạch định chính sách, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc xây
dựng và thực hiện pháp luật về kiểm toán nhà nước; có thể dùng làm tài liệu
tham khảo cho các cơ quan nghiên cứu, sinh viên các trường đại học, cao
đẳng, Kiểm toán viên nhà nước và những người quan tâm đến lĩnh vực này.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận án được kết cấu thành 4 chương, 12 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Là một mô hình tổ chức và hoạt động còn khá mới mẻ ở Việt Nam, hoạt
động nghiên cứu khoa học về kiểm toán nhà nước ở nước ta mới chính thức
được triển khai từ năm 1995. Đến nay, đã có một số đề tài nghiên cứu khoa
học cấp Nhà nước, cấp Bộ, cấp cơ sở nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của
KTNN; nhiều công trình khoa học, bài viết của các nhà khoa học, nhà quản lý
trong nước được công bố tại các hội thảo khoa học, các tạp chí chuyên ngành
và các phương tiện thông tin đại chúng. Các công trình khoa học ở trong nước
liên quan đến luận án được chia làm hai nhóm chủ yếu sau đây:
1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu về Kiểm toán Nhà nước và pháp
luật về kiểm toán nhà nước
Điển hình trong số đó là một số công trình sau đây:
Đề tài nghiên cứu khoa học độc lập cấp Nhà nước (2006) "Định hướng
chiến lược và những giải pháp xây dựng, phát triển hệ thống kiểm toán ở Việt
Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước", do GS.TS
Vương Đình Huệ, Tổng KTNN làm chủ nhiệm. Đây là một đề tài lớn nghiên
cứu về hệ thống các cơ quan kiểm toán ở nước ta gồm KTNN, kiểm toán độc
lập, kiểm toán nội bộ. Đề tài đề cập đến sự cần thiết khách quan của sự ra đời,
thực trạng phát triển của hệ thống các cơ quan kiểm toán và định hướng phát
triển của hệ thống kiểm toán trong thời kỳ công nghiệp hoá và hiện đại hoá
đất nước. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu rộng, bao gồm cả KTNN, kiểm
toán độc lập và kiểm toán nội bộ, nên đề tài chưa nghiên cứu sâu và toàn diện
về phát triển KTNN.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ (2001) "Cơ sở khoa học và thực tiễn
trong việc xác định phạm vi hoạt động của KTNN và sự khác nhau giữa hoạt
7
động KTNN với Thanh tra Nhà nước và Thanh tra tài chính", do TS Nguyễn
Đình Hựu, Giám đốc Trung tâm KH và BD cán bộ trực thuộc KTNN làm chủ
nhiệm. Đề tài đề cập tương đối vĩ mô đến bản chất, vị trí của các cơ quan
trong hệ thống kiểm tra, kiểm soát trên cùng lĩnh vực tài chính công đó là:
Thanh tra Nhà nước, thanh tra tài chính, KTNN và đề cập đến phạm vi, chức
năng của từng loại cơ quan. Mục đích là loại bỏ khả năng chồng chéo về
phạm vi hoạt động dẫn đến tạo ra các khoảng trống trong lĩnh vực kiểm tra,
kiểm soát tài chính công. Đề tài cũng tập trung phân tích thực trạng của việc
chồng chéo về phạm vi hoạt động của các cơ quan này; đồng thời, chỉ ra
nguyên nhân của những tồn tại đó. Đóng góp lớn về mặt khoa học và thực
tiễn của đề tài là đã có được định hướng chung về sự hình thành một hệ thống
kiểm tra tài chính công thống nhất và đưa ra được đề xuất, kiến nghị xây dựng
hệ thống kiểm tra tài chính công nhà nước thống nhất và hiệu quả.
Cùng với các đề tài nghiên cứu khoa học nêu trên, còn có nhiều công
trình khoa học, bài viết của các nhà khoa học, nhà quản lý trong và ngoài
ngành được công bố tại các hội thảo khoa học, các tạp chí chuyên ngành và
các phương tiện thông tin đại chúng, tiêu biểu trong số đó là các bài viết:
"Tăng cường hoạt động của KTNN, góp phần nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng” (Bài của Ông Đỗ Bình Dương, Uỷ
viên Trung ương Đảng, Tổng KTNN đăng trên Báo Nhân dân số ra ngày
28/12/2000). Bài viết nêu lên vị trí, vai trò của cơ quan KTNN trong sự
nghiệp đổi mới đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
và hội nhập quốc tế; đồng thời, nêu ra những phương hướng cơ bản phát
triển KTNN, trong đó có định hướng cơ bản về hoàn thiện hệ thống văn
bản QPPL đồng bộ, hoàn chỉnh, tạo môi trường pháp lý đầy đủ và hiệu lực
cho tổ chức và hoạt động của KTNN. Đây là những định hướng mang tính
chiến lược cho việc phát triển KTNN đáp ứng yêu cầu của tình hình và
nhiệm vụ mới.
8
"Bàn về địa vị pháp lý của cơ quan KTNN ở Việt Nam hiện nay” (Bài
của GS.TSKH Tào Hữu Phùng, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế và Ngân sách
của Quốc hội đăng trên Tạp chí Kiểm toán số xuân 2001). Bài viết đề cập sự
cần thiết khách quan và vị trí, vai trò của KTNN trong việc tăng cường sự
kiểm soát của Nhà nước trong quản lý, sử dụng ngân sách và tài sản quốc gia;
mô hình các cơ quan KTNN trên thế giới và đề xuất mô hình, vị trí pháp lý,
chức năng của KTNN trong cơ cấu tổ chức bộ máy của Nhà nước ta.
"Nhìn lại một năm triển khai thực hiện Luật Kiểm toán nhà nước" (Bài
của GS.TS Vương Đình Huệ, Tổng KTNN đăng trên Tạp chí Kiểm toán số
3/2007). Bài viết đánh giá những kết quả đã đạt được sau một năm triển khai
thực hiện Luật Kiểm toán nhà nước, những khó khăn, tồn tại và nguyên nhân;
đồng thời đề ra các giải pháp nhằm triển khai thực hiện có hiệu qủa Luật
Kiểm toán nhà nước.
"Ban hành Chiến lược phát triển KTNN đến năm 2020 là sự kiện có
tầm quan trọng đặc biệt đối với tiến trình phát triển của KTNN" (Bài của
GS.TS Vương Đình Huệ, Tổng KTNN đăng trên Tạp chí Nghiên cứu khoa
học kiểm toán số 5/2010). Bài viết đánh giá cao việc Uỷ ban thường vụ Quốc
hội ban hành Chiến lược phát triển KTNN đến năm 2020, tạo cơ sở pháp lý
cho việc phát triển KTNN đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước;
đồng thời, thể hiện quyết tâm của toàn ngành KTNN trong việc quán triệt và
triển khai thực hiện Nghị quyết với những giải pháp phù hợp, hiệu quả.
"Nâng cao vai trò của KTNN trong đấu tranh phòng, chống tham
nhũng đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam"
(Bài của Ông Đinh Tiến Dũng, Tổng KTNN đăng trên Tạp chí Cộng sản số
5/2013). Bài viết đã làm rõ vai trò của KTNN trong đấu tranh phòng, chống
tham nhũng; phân tích những kết quả đã đạt được, những tồn tại, hạn chế và
nguyên nhân tồn tại trong phòng, chống tham nhũng của KTNN, đồng thời đề
xuất các giải pháp nhằm nâng cao vai trò của KTNN trong đấu tranh phòng,
9
chống tham nhũng. Mặc dù bài viết có giải pháp hoàn thiện về cơ sở pháp lý,
song cũng mới chỉ giới hạn ở một số quy định về vị trí, vai trò và trách nhiệm
của KTNN trong phòng, chống tham nhũng ở các đạo luật có liên quan.
1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến hoàn thiện pháp
luật về kiểm toán nhà nước
Điển hình trong số đó là các công trình dưới đây:
"Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN" (Bài của PGS.TS Hà Hùng Cường, Bộ trưởng Bộ Tư
pháp đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 1/2009). Bài viết đã phân tích
một số vấn đề lý luận về hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay; nhận diện những hạn
chế của hệ thống pháp luật hiện hành và đề xuất phương hướng hoàn thiện hệ
thống pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở
nước ta hiện nay.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ (2009) "Hoàn thiện pháp luật về
trách nhiệm người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước Việt Nam hiện
nay - Vấn đề và giải pháp", do PGS.TS Trịnh Đức Thảo, Viện Nhà nước và
Pháp luật, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh làm chủ
nhiệm. Đề tài đã đề cập khá toàn diện cơ sở lý luận hoàn thiện pháp luật về
trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước; phân tích
đánh giá những ưu điểm, hạn chế, bất cập và nguyên nhân pháp luật hiện hành
về trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước; đề xuất
các quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người đứng
đầu các cơ quan hành chính nhà nước Việt Nam hiện nay.
Trên đây là hai công trình nghiên cứu của các tác giả ngoài ngành
KTNN có ý nghĩa về mặt lý luận và phương pháp luận trong quá trình nghiên
cứu luận án. Mặc dù các công trình nêu trên không trực tiếp nghiên cứu hoàn
thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước, song gợi mở hướng nghiên cứu cho
10
luận án về cơ sở lý luận: Khái niệm, nội dung điều chỉnh, vai trò của pháp luật
về kiểm toán nhà nước, tiêu chí hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước,
những yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đối với hoàn thiện
pháp luật về kiểm toán nhà nước. Đồng thời, cũng gợi mở hướng nghiên cứu
cho luận án về các giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước:
Nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật về nội dung, nhóm giải pháp hoàn thiện
hình thức pháp luật và nhóm giải pháp tổ chức thực hiện.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ (2002) “Phương hướng và giải
pháp xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật về kiểm toán nhà nước”, do
Ông Hà Ngọc Son, Phó Tổng KTNN làm chủ nhiệm. Đây là đề tài khoa học
cấp bộ có mục tiêu: Xác định những quan điểm định hướng trong phát triển
KTNN và các nguyên tắc trong xây dựng hệ thống pháp luật kiểm toán nhà
nước; đề xuất nội dung chủ yếu và hình thức của hệ thống pháp luật về kiểm
toán nhà nước; kiến nghị hệ thống các giải pháp trong xây dựng và tổ chức
thực hiện pháp luật về kiểm toán nhà nước. Đề tài đã nghiên cứu các vấn đề lý
luận chủ yếu về hệ thống pháp luật kiểm toán nhà nước: Khái niệm và vai trò
của hệ thống pháp luật kiểm toán nhà nước, cấu trúc bên trong bao gồm các
chế định, các QPPL...; hình thức biểu hiện bên ngoài của nó là hệ thống các
văn bản pháp luật và mối quan hệ giữa nội dung và hình thức của nó trong
tổng thể hệ thống pháp luật kiểm toán nhà nước. Đề tài cũng đã nghiên cứu
quá trình ra đời, phát triển và thực trạng hệ thống pháp luật về kiểm toán nhà
nước; trên cơ sở đó phân tích, đánh giá thực trạng, rút ra những ưu điểm, hạn
chế, những nguyên nhân của quá trình xây dựng, nội dung, hình thức và việc
tổ chức thực hiện pháp luật về kiểm toán nhà nước. Tuy nhiên, do Đề tài được
nghiên cứu ở giai đoạn đầu thành lập KTNN, trong điều kiện chưa có Luật
Kiểm toán nhà nước, đến nay tình hình đã có những thay đổi rất cơ bản, nên
những vấn đề lý luận và thực tiễn mới chỉ được nghiên cứu rất cơ bản, chưa
toàn diện và sâu.
11
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ (2008) "Cơ sở lý luận và thực tiễn
sửa đổi, bổ sung Luật Kiểm toán nhà nước", do Ông Hoàng Văn Chương,
Vụ trưởng Vụ Pháp chế làm chủ nhiệm, tác giả luận án là một thành viên
của đề tài. Đề tài đã làm rõ cơ sở lý luận của việc sửa đổi, bổ sung Luật
Kiểm toán nhà nước; đánh giá thực trạng về tổ chức thực hiện, phân tích
hạn chế, bất cập của Luật Kiểm toán nhà nước; đề xuất phương hướng và
giải pháp sửa đổi, bổ sung Luật Kiểm toán nhà nước. Tuy nhiên, do địa vị
pháp lý của KTNN chưa được quy định trong Hiến pháp, nên những nội
dung đề xuất sửa đổi, bổ sung chưa đáp ứng yêu cầu sửa đổi cơ bản và toàn
diện Luật Kiểm toán nhà nước.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ (2008) "Địa vị pháp lý của KTNN
trong đạo luật cơ bản là Hiến pháp", do PGS. TS Lê Huy Trọng, Kiểm toán
trưởng KTNN khu vực III làm chủ nhiệm, tác giả luận án là Phó chủ nhiệm đề
tài. Đề tài đã nghiên cứu, phân tích những vấn đề cơ bản về Hiến pháp - đạo
luật cơ bản của Nhà nước và sự cần thiết phải quy định địa vị pháp lý của
KTNN trong Hiến pháp; phân tích, đánh giá thực trạng về địa vị pháp lý của
KTNN và kinh nghiệm quốc tế; đề xuất định hướng và giải pháp xác lập địa
vị pháp lý của KTNN trong Hiến pháp. Tuy nhiên, đề tài chưa đề cập đến giải
pháp hoàn thiện Luật Kiểm toán nhà nước và các luật có liên quan cho phù
hợp yêu cầu hiến định địa vị pháp lý của KTNN.
"Những vấn đề đặt ra và kiến nghị sửa đổi, bổ sung Luật Kiểm toán nhà
nước” (Bài của TS. Đinh Trịnh Hải, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Tài chính - Ngân
sách của Quốc hội đăng trên Tạp chí Kiểm toán số 11/2010). Bài viết phân
tích những yêu đối với KTNN, những bất cập và đề xuất một số nội dung
mang tính định hướng cho việc sửa đổi, bổ sung Luật Kiểm toán nhà nước.
Tuy nhiên, bài viết mới đề cập hoạt động KTNN trong mối quan hệ trợ giúp
Quốc hội quyết định và giám sát NSNN, chưa đánh giá toàn diện những bất
cập cần sửa đổi, bổ sung của Luật Kiểm toán nhà nước.
12
“Địa vị pháp lý - tính độc lập trong Luật Kiểm toán nhà nước, những
vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện” (Bài của TS. Mai Vinh, KTNN
khu vực I trực thuộc KTNN đăng trên Tạp chí Kiểm toán số 6/2011). Trên cơ
sở khái quát những kết quả đã đạt được sau 6 năm thực hiện Luật Kiểm toán
nhà nước, tác giả đi sâu phân tích thực trạng và nguyên nhân của sự bất cập
trong quy định về địa vị pháp lý, tính độc lập của KTNN trong Luật Kiểm
toán nhà nước; đồng thời, đưa ra yêu cầu và đề xuất phương hướng sửa đổi,
bổ sung Hiến pháp, Luật Kiểm toán nhà nước và các luật có quan nhằm nâng
cao địa vị pháp lý, bảo đảm tính độc lập của KTNN. Tuy nhiên, tác giả chưa
đề xuất cụ thể nội dung quy định về KTNN cần bổ sung vào Hiến pháp, nội
dung sửa đổi, bổ sung Luật Kiểm toán nhà nước và các luật có liên quan.
“Kinh nghiệm các nước trên thế giới xác lập địa vị pháp lý của KTNN
trong Hiến pháp và vận dụng cho Việt Nam” (Bài của Ths. Đặng Văn Hải,
Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế đăng trên Tạp chí Kiểm toán số 3/2011). Trên cơ
sở nghiên cứu Hiến pháp của các nước trên thế giới đưa ra những nhận xét về
tính phổ biến của những quy định về địa vị pháp lý của KTNN trong Hiến
pháp, rút ra những kinh nghiệm tham khảo cho việc đề xuất nội dung quy
định về địa vị pháp lý của KTNN trong Hiến pháp ở Việt Nam.
“Kinh nghiệm quốc tế trong quy định về xử lý hành vi vi phạm Luật
Kiểm toán nhà nước và khả năng vận dụng ở Việt Nam” (Bài của Ths. Đặng
Văn Hải, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế đăng trên Tạp chí Kiểm toán số 5,
6/2011). Trên cơ sở nghiên cứu Luật Kiểm toán nhà nước của các nước trên
thế giới đưa ra những nhận xét về tính phổ biến của những quy định về các
biện pháp chế tài trong Luật Kiểm toán của các nước, rút ra những kinh
nghiệm tham khảo cho việc đề xuất các hình thức xử lý đối với những hành vi
vi phạm pháp luật về kiểm toán nhà nước ở nước ta hiện nay.
Ngoài ra, còn nhiều đề tài khoa học của KTNN đề cập đến nhiều khía
cạnh khác nhau về tổ chức cũng như hoạt động của KTNN; nhiều tài liệu của
13
các dự án mà KTNN hợp tác đã cung cấp rất nhiều nguồn tài liệu để tác giả có
thể tham khảo và hình thành nên những ý tưởng mới, đưa ra phương hướng,
và giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước trong điều kiện xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay.
Tác giả cũng đã bảo vệ thành công Luận văn thạc sỹ luật học "Pháp chế
xã hội chủ nghĩa trong hoạt động kiểm toán nhà nước ở Việt Nam" năm 2009 tại
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Đây là luận văn chuyên
khảo đầu tiên nghiên cứu tương đối toàn diện và hệ thống về Pháp chế xã hội
chủ nghĩa trong hoạt động kiểm toán nhà nước ở Việt Nam, có giá trị to lớn về lý
luận và thực tiễn: Xác định khái niệm, nội dung của pháp chế trong hoạt động
kiểm toán nhà nước; chỉ ra được những đặc trưng của pháp chế XHCN trong
hoạt động kiểm toán nhà nước; chỉ ra được những ưu điểm, tồn tại và nguyên
nhân của những tồn tại về thực trạng pháp chế XHCN trong hoạt động kiểm toán
nhà nước; xác lập hệ thống giải pháp có tính khả thi nhằm bảo đảm pháp chế
XHCN trong hoạt động kiểm toán nhà nước ở nước ta hiện nay. Mặc dù Luận
văn có giải pháp về hoàn thiện hệ thống pháp luật về kiểm toán nhà nước, song
mới chỉ dừng ở các quan điểm và đề xuất chung, chưa có điều kiện nghiên cứu
sâu và toàn diện vấn đề hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước.
Trên đây là các công trình nghiên cứu tiêu biểu trong nước có liên quan
đến đề tài luận án. Qua nghiên cứu cho thấy, nhìn chung các công trình đã
công bố nêu trên có những đóng góp quan trọng trên những khía cạnh nhất
định trong việc giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật kiểm
toán nhà nước trong những giai đoạn lịch sử nhất định, có thể tham khảo, kế
thừa có chọn lọc trong quá trình nghiên cứu luận án. Từ tình hình nghiên cứu
trên có thể khẳng định cho đến nay chưa có công trình khoa học nào đã được
công bố ở trong nước nghiên cứu một cách hoàn chỉnh và có hệ thống về hoàn
thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam.
14
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU NGOÀI NƯỚC LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Ngân hàng phát triển Châu Á đã tài trợ cho KTNN triển khai nghiên
cứu xây dựng pháp luật và trợ giúp trong việc tăng cường năng lực, đào tạo
cán bộ với hai giai đoạn đã góp phần to lớn cho việc triển khai nghiên cứu
khoa học trên nhiều lĩnh vực. Tiếp đó là sự trợ giúp rất lớn của KTNNLB Đức
với dự án GTZ thực hiện trong nhiều năm đã cho ra đời nhiều tài liệu quan
trọng. Các công trình khoa học ở ngoài nước có liên quan đến luận án cũng
được chia làm hai nhóm chủ yếu sau đây:
1.2.1. Nhóm công trình nghiên cứu về Kiểm toán Nhà nước và pháp
luật về kiểm toán nhà nước
Điển hình trong số đó là một số công trình sau đây:
Tuyên bố Lima về hướng dẫn các nguyên tắc kiểm toán, tài liệu dịch
của Dự án GTZ-KTNN Việt Nam - KTNN Liên bang Đức (2001).
Đại hội lần thứ IX của các cơ quan Kiểm toán tối cao (INTOSAI) tổ
chức tại Lima, thủ đô của Pêru đã thông qua chỉ dẫn hoạt động kiểm toán của
các cơ quan Kiểm toán tối cao gọi tắt là Tuyên bố Lima. Tuyên bố Lima đã
được Đại hội lần thứ IX của INTOSAI thông qua vào tháng 10/1977. Nội
dung của bản Tuyên bố này là kết quả của sự hợp tác nghiên cứu giữa các
thành viên của INTOSAI, đây là những định hướng cơ bản và đã được thừa
nhận như là những thông lệ phổ biến đối với việc thiết lập và tổ chức cơ quan
Kiểm toán tối cao, tổ chức kiểm tra tài chính từ bên ngoài đối với nền tài
chính công ở mọi quốc gia.
Mặc dù Tuyên bố Lima không bị ràng buộc về mặt pháp lý quốc tế,
nhưng nó được xem như là một văn kiện chung thích hợp với mọi hình thức
tổ chức hệ thống kiểm tra tài chính ở các nước thành viên. Hầu hết các nước
trên thế giới đều công nhận Tuyên bố Lima là chuẩn mực cho hoạt động kiểm
toán nhà nước đạt hiệu quả mong muốn. Chính vì vậy, Tuyên bố Lima là cơ
sở thích hợp để nhiều nước vận dụng trong việc ban hành các quy định về tổ
chức và hoạt động của KTNN.
15
Toàn bộ Tuyên bố Lima gồm 7 phần, với 25 điều khoản, quy định về:
Mục đích và hình thức kiểm toán; địa vị pháp lý và nguyên tắc hoạt động;
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan Kiểm toán tối cao; phương pháp
và quy trình kiểm toán; báo cáo kiểm toán. Những nội dung cơ bản của Tuyên
bố Lima nêu trên cần phải được vận dụng, quán triệt trong việc thiết lập tổ
chức, triển khai hoạt động kiểm tra tài chính công ở tất cả các cơ quan Kiểm
toán tối cao trên thế giới.
Mandates of Supreme Audit Institutions, INTOSAI (2001), đã đưa ra
mô hình tổ chức của các cơ quan kiểm toán tối cao trên thế giới. Theo nghiên
cứu của INTOSAI về địa vị pháp lý của các cơ quan kiểm toán tối cao thực
hiện với 70 nước có kết quả như sau: Tỷ lệ các nước tổ chức cơ quan KTNN
theo mô hình trực thuộc cơ quan lập pháp chiếm tỷ lệ cao nhất (40%), tiếp
đến là các nước tổ chức theo mô hình KTNN độc lập (30%), các nước tổ chức
theo mô hình thuộc cơ quan hành pháp chiếm tỷ lệ 17%. Các nước còn lại tổ
chức theo các mô hình khác nhau như thuộc nhà vua hay thuộc (như) ngành
tư pháp. Tuy nhiên, mô hình này ở các châu lục lại rất khác nhau:
Các nước châu Âu, châu Mỹ thiên về mô hình tổ chức cơ quan KTNN
trực thuộc cơ quan lập pháp (55% số nước châu Âu, 41,6% các nước châu
Mỹ) tiếp theo là tổ chức theo mô hình độc lập (32% số nước châu Âu); chỉ có
3,2% số nước châu Âu tổ chức theo mô hình thuộc cơ quan hành pháp.
Các nước châu Á có thiên hướng về mô hình tổ chức cơ quan KTNN
độc lập 33,3%, trong khi đó có 28,5% số nước châu Á tổ chức theo mô hình
KTNN trực thuộc cơ quan hành pháp, chỉ có 23,8% số nước châu Á tổ chức
theo mô hình thuộc cơ quan lập pháp. Điểm đáng lưu ý là, với các nước châu
Á thì đa số các nước thuộc khối ASEAN tổ chức theo mô hình KTNN độc lập
với ngành lập pháp và ngành hành pháp (Indonesia, Phi-lip-pin, Singapore,
Thái lan, Malayxia) chiếm 50% số nước thuộc khối ASEAN.
Các nước châu Phi và châu Đại dương có xu hướng tổ chức theo mô
hình cơ quan KTNN độc lập với hành pháp và lập pháp (37,5% số nước ở hai
16
châu lục này), tiếp đến là mô hình trực thuộc Quốc hội (25%) và thuộc ngành
hành pháp chỉ có 12,5%. Mặc dù tài liệu mới chỉ đề cập tới một khía cạnh cụ
thể là mô hình tổ chức của các cơ quan kiểm toán tối cao trong tổ chức bộ
máy nhà nước của các quốc gia trên thế giới, song đây cũng là một tài liệu
tham khảo rất có giá trị trong việc đề xuất mô hình KTNN ở nước ta hiện nay.
“So sánh quốc tế địa vị pháp lý và các chức năng của cơ quan Kiểm
toán tối cao”, của Giáo sư, Tiến sĩ luật học Albert von Mutius, Giảng viên về
Luật công và khoa học hành chính đồng thời là Uỷ viên Hội đồng quản trị
kiêm Giám đốc Viện khoa học hành chính Lorenz von Stein thuộc Trường
Đại học tổng hợp Christian Albrechts, Kiel (2003). Cơ sở của báo cáo được
soạn thảo là Luật về cơ quan Kiểm toán tối cao của các nước: Trung Quốc,
Đức, Pháp, Vương quốc Anh, Malaysia, Nga, Thái Lan, Cộng hòa Séc, Hàn
quốc, Việt Nam. Khi chọn những nước này một mặt có lưu ý đến những nước
có truyền thống kiểm toán lâu năm, nhưng cũng xét đến những nước đã ban
hành Luật mới về kiểm toán trong khuôn khổ quá trình dân chủ hóa và chuyển
đổi từ nền kinh tế kế hoạch xã hội chủ nghĩa sang một trật tự kinh tế định
hướng nhiều hơn theo những nguyên tắc của nền kinh tế thị trường. Trong lựa
chọn các thông số kiểm toán, công trình nghiên cứu dựa vào Tuyên bố Lima.
Trong Tuyên bố này vấn đề không chỉ là soạn thảo ra những định hướng chủ
đạo mới, hơn thế nữa vấn đề là tuyển chọn và hệ thống hóa những nguyên tắc
cơ bản nhìn chung đã được công nhận của sự kiểm tra từ bên ngoài đối với
nền tài chính công. Đây là là một văn kiện cơ bản thích hợp đồng đều với
những hệ thống khác nhau (cụ thể là hệ thống đơn tuyến và hệ thống đồng sự)
của kiểm tra tài chính, với việc đặt cho kiểm tra tài chính những vị trí khác
nhau trong hệ thống các chức năng và quyền lực nhà nước cũng như những
mức độ phát triển khác nhau mà kiểm tra tài chính đã đạt được ở từng khu
vực và từng quốc gia. Mặc dù Tuyên bố Lima không có tác dụng ràng buộc
về mặt pháp lý quốc tế đối với phạm vi nội bộ quốc gia, nhưng không thể
17
đánh giá thấp ảnh hưởng của nó đối với sự phát triển của cơ quan Kiểm toán
tối cao ở từng quốc gia riêng biệt. Hầu như tất cả đều công nhận Tuyên bố
Lima là chuẩn mực đối với việc kiểm tra tài chính một cách có hiệu quả và do
vậy nó tỏ ra là cơ sở thích hợp nhất cho việc so sánh các luật về cơ quan Kiểm
toán tối cao của các nước nêu trên.
Việc so sánh trực tiếp Luật kiểm toán của các nước đã nêu theo những
góc độ đánh giá khác nhau nhằm qua đó làm rõ các định hướng chủ đạo của
Tuyên bố Lima đã được thực hiện trên bình diện hiệu lực luật pháp đến mức
nào, thể hiện trên các mặt chủ yếu:
- Tính độc lập của cơ quan Kiểm toán tối cao;
- Tính độc lập của các ủy viên và cán bộ kiểm toán; quan hệ của các cơ
quan Kiểm toán tối cao với các cơ quan quyền lực nhà nước;
- Tổ chức và nhân sự của cơ quan Kiểm toán tối cao;
- Quyền hạn và nghĩa vụ của cơ quan Kiểm toán tối cao.
Đây là một tài liệu quan trọng, có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong việc
hoàn thiện hệ thống pháp luật về kiểm toán nhà nước ở mỗi quốc gia bảo đảm
tuân thủ nguyên tắc và chuẩn mực kiểm toán quốc tế và phù hợp thông lệ
quốc tế. Tuy nhiên, báo cáo xây dựng ở thời điểm Việt Nam chưa ban hành
Luật Kiểm toán nhà nước, nên chưa thể hiện đầy đủ sự tuân thủ chuẩn mực và
thông lệ quốc tế trong các quy định về KTNN của Nhà nước ta.
“Chức năng nhiệm vụ và địa vị pháp lý của cơ quan kiểm toán trong cơ
cấu nhà nước”, của Hans Jurgen Fuhrmann, Ủy viên KTNNLB Đức, tài liệu
phục vụ báo cáo trước các đại diện của cơ quan lập pháp, hành pháp và
KTNN Việt Nam (2003). Báo cáo nêu rõ sự cần thiết của kiểm tra tài chính
trong hệ thống nhà nước, công tác kiểm tra tài chính của cơ quan KTNN được
gọi là kiểm tra từ bên ngoài (ngoại kiểm); nêu rõ các chức năng, nhiệm vụ của
cơ quan KTNN, bao gồm: Kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ và
kiểm toán hoạt động. Về địa vị pháp lý và tính độc lập của KTNN, báo cáo
18
cho rằng theo quan niệm quốc tế, cơ quan KTNN chỉ có thể hoàn thành nhiệm
vụ theo luật định của mình một cách khách quan và có hiệu lực nếu như nó
được đặt độc lập với đơn vị bị kiểm tra và được bảo vệ trước các tác động từ
bên ngoài. Vì thế trong khoa học người ta gọi tính độc lập là “vị thuốc trường
sinh” của cơ quan kiểm tra tài chính. Báo cáo cũng đưa ra các mô hình về vị
trí của cơ quan KTNN trong phân chia quyền lực nhà nước, trong đó đặc biệt
nhấn mạnh mô hình KTNN độc lập với Quốc hội và Chính phủ được minh
họa thông qua địa vị pháp lý của KTNN LB Đức. Theo đó, ở Đức vào năm
1985, nhà lập pháp đã đưa ra quyết định kết luận cho cuộc tranh luận khoa
học về địa vị pháp lý của KTNNLB. Ngày nay, KTNNLB đứng giữa cơ quan
lập pháp và cơ quan hành pháp với tư cách là cơ quan kiểm tra tài chính độc
lập; có nhiệm vụ hỗ trợ cả hai cơ quan quyền lực khi ra các quyết định. Tuy
nhiên, báo cáo chưa làm rõ mối quan hệ giữa mô hình KTNN với thiết chế tổ
chức thực hiện quyền lực nhà nước, thể chế chính trị của các quốc gia trên thế
giới, những ưu điểm và hạn chế của các mô hình: KTNN độc lập với Quốc hội
và Chính phủ, KTNN trực thuộc Quốc hội và KTNN trực thuộc Chính phủ.
1.2.2. Nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến hoàn thiện pháp
luật về kiểm toán nhà nước của một số nước trên thế giới
Do việc khai thác tài liệu nước ngoài khó khăn và hạn chế, trong phần
này tác giả chỉ đề cập đến các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài ở
một số nước theo mô hình KTNN độc lập với Quốc hội, Chính phủ và mô
hình KTNN trực thuộc Chính phủ. Sau đây là một số công trình tiêu biểu:
"Cơ sở pháp lý của KTNN Liên bang Đức", của Dự án GTZ - KTNN
Việt Nam - KTNNLB Đức năm (2001). Tài liệu giới thiệu sơ lược về
KTNNLB Đức, Hiến pháp Cộng hoà Liên bang Đức (trích điều khoản quy
định về KTNN), Đạo luật về nguyên tắc ngân sách, Quy chế ngân sách Liên
bang, Luật KTNNLB, Quy chế kiểm toán của KTNNLB, Quy chế hoạt động
của KTNNLB. Theo tài liệu này, KTNNLB Đức là cơ quan Kiểm toán tối cao
19
của Liên bang, với tư cách là cơ quan kiểm tra tài chính độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật. Địa vị pháp lý của KTNNLB, các Uỷ viên KTNNLB cũng như
những nhiệm vụ cơ bản được bảo đảm bằng Hiến pháp (Điều 114, khoản 2
Hiến pháp). Những vấn đề cụ thể được quy định trong những đạo luật riêng
như Luật KTNNLB, Quy chế ngân sách Liên bang.
“Khái quát về pháp luật kiểm toán Cộng hòa nhân dân Trung Hoa”
(Bài của Ông Wang Chang Song, Vụ trưởng Vụ Pháp chế KTNN Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa đăng trên Tạp chí Kiểm toán số 7/2004). Bài viết đã khái
quát pháp luật về kiểm toán nhà nước của Trung Quốc, bao gồm những vấn
đề về kiểm toán được quy định trong Hiến pháp, nội dung luật kiểm toán và
các quy định dưới luật. Những quy định trong Hiến pháp Trung Quốc về kiểm
toán giám sát do Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc Trung Quốc xây dựng
gồm có 2 điều (Điều 91 và Điều 109) quy định liên quan đến kiểm toán. Với
những quy định trong đạo luật gốc như vậy, tháng 8/1994 Đại hội Đại biểu
nhân dân toàn quốc Trung Quốc khoá 8 đã thông qua Luật kiểm toán, quy
định một cách toàn diện những nguyên tắc cơ bản và địa vị pháp lý của kiểm
toán giám sát, trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan kiểm toán và trình tự kiểm
toán, trách nhiệm pháp lý. Trong các văn bản quy định do Quốc vụ viện hoặc
cơ quan KTNN xây dựng nhằm cụ thể hoá, hướng dẫn thực hiện Luật kiểm
toán có một số điểm đáng chú ý về tính độc lập của kiểm toán là nêu cao kỷ
luật liêm chính hỗ trợ cho tính độc lập của KTV, theo đó tính độc lập của
KTV được xác định là có mối liên hệ chặt chẽ với kỷ luật liêm chính và kỷ
luật liêm chính đảm bảo cho tính độc lập của KTV. Xác định kỷ luật liêm
chính là sự sống của công tác kiểm toán, tháng 1/2000 KTNN Trung Quốc đã
ban hành "Những quy định về tăng cường kỷ luật kiểm toán của KTNN" đã
quy định KTV phải tuân theo "8 điều không được phép" của kỷ luật liêm
chính kiểm toán gồm: Để đơn vị kiểm toán thu xếp chỗ ở; tiếp nhận việc bố
trí bữa ăn và chiêu đãi của đơn vị được kiểm toán; sử dụng phương tiện giao
20
thông của đơn vị kiểm toán mà không trả tiền; tham gia những hoạt động du
lịch, giải trí và liên hoan do đơn vị được kiểm toán thu xếp; sử dụng phương
tiện thông tin và vật phẩm của đơn vị được kiểm toán mà không trả tiền; nhận
quà biếu, tiền biếu và các loại chứng khoán có mệnh giá của đơn vị được
kiểm toán; nêu những yêu cầu không liên quan đến công tác kiểm toán; thanh
toán những phí tổn của công hoặc tư đối với đơn vị được kiểm toán.
Bên cạnh đó nhiều luật khác cũng có quy định liên quan về kiểm toán
như Luật Phá sản xí nghiệp, Luật Quản lý trưng thu thuế, Luật Chứng khoán,
Luật Mua sắm của Chính phủ, Luật Ngân hàng thương mại và Luật Kế toán...
“Nâng cao địa vị pháp lý, đảm bảo sự độc lập trong hoạt động của các
cơ quan Kiểm toán tối cao” (Bài của TS. Josef Moser, Tổng Thư ký
INTOSAI/ Chủ tịch Tòa Thẩm kế Áo đăng trên Tạp chí Nghiên cứu khoa học
kiểm toán số 58/2012). Trên cơ sở khẳng định sự độc lập của cơ quan Kiểm
toán tối cao là nền tảng thực hiện chức năng của Nhà nước; các yêu cầu về sự
độc lập của cơ quan Kiểm toán tối cao theo Tuyên bố Lima năm 1977 và
Tuyên bố Mêhicô năm 2007 (độc lập về địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ;
độc lập về nhân sự và độc lập về tài chính), Nghị quyết A/66/209 ngày 22
tháng 12 năm 2011 của Đại hội đồng Liên hiệp quốc về sự độc lập của các cơ
quan Kiểm toán tối cao và những kinh nghiệm trong việc xác lập tính độc lập,
địa vị pháp lý của Tòa Thẩm kế Áo. Tổng Thư ký INTOSAI đã nhấn mạnh sự
cần thiết phải hiến định và nâng cao địa vị pháp lý của các cơ quan Kiểm toán
tối cao. Tổng Thư ký INTOSAI cho rằng, để cơ quan Kiểm toán tối cao thực
hiện hiệu quả các nhiệm vụ của mình, điều quan trọng là nó phải hoạt động
độc lập với đơn vị được kiểm toán và được bảo vệ khỏi các tác động từ bên
ngoài. Sự độc lập này đảm bảo việc chuẩn bị báo cáo về kết quả kiểm toán
được cân đối, đáng tin cậy và khách quan. Vì thế, nó không chỉ tối quan trọng
đối với một nền hành chính công minh bạch, mà còn đảm bảo thực hiện hiệu
quả chức năng kiểm soát của Quốc hội đối với Chính phủ và củng cố niềm tin
21
của quần chúng vào bộ máy hành chính nhà nước. Do đó, việc hết sức quan
trọng là xác định địa vị pháp lý, tất cả quyền và nghĩa vụ của cơ quan Kiểm
toán tối cao trong Hiến pháp và các công cụ pháp lý phù hợp khác.
“Xác lập địa vị pháp lý của một cơ quan kiểm toán vào Hiến pháp là sự
cam kết mạnh mẽ của lãnh đạo mỗi nước” (Bài của Ông Hasan Bisri, Phó
Chủ tịch Ủy ban kiểm toán Cộng hòa Indonesia đăng trên Tạp chí Nghiên cứu
khoa học kiểm toán số 58/2012). Trên cơ sở lý giải về ba câu hỏi cơ bản là:
(1) Tại sao cơ quan Kiểm toán tối cao (SAI) lại được hình thành ở một quốc
gia? (2) Vị trí của SAI ở đâu trong cơ cấu quản trị của một đất nước? và (3)
Điều gì nên được quy định đối với một SAI trong một quốc gia? Ông Hasan
Bisri đã chia sẻ kinh nghiệm trong việc hiến định địa vị pháp lý của Uỷ ban
Kiểm toán Indonesia (BPK). Theo ông Hasan Bisri: Ở các quốc gia, vị trí của
một cơ quan kiểm toán trong cơ cấu quản trị của các nước là rất khác nhau. Ở
Indonesia, BPK được quy định bởi Hiến pháp năm 1945 liên quan đến nhiệm
vụ quản lý và trách nhiệm giải trình đối với ngân sách của Chính phủ. Từ khi
được thành lập, BPK đã chiếm giữ một vị trí tương đương với Chính phủ và
Quốc hội. Vị trí này đảm bảo tính độc lập của BPK trong việc thực hiện các
nhiệm vụ như: Quyết định mục tiêu các cuộc kiểm toán, thực hiện kiểm toán
và báo cáo các kết quả kiểm toán một cách độc lập.
Các công trình nghiên cứu liên quan đến pháp luật về kiểm toán nhà
nước ở một số nước trên đây đã cung cấp thêm cơ sở thực tiễn khẳng định vị
trí, vai trò, tính độc lập của KTNN trong tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước của các nước trên thế gới; kinh nghiệm các nước trong việc hiến
định địa vị pháp lý của KTNN, xây dựng Luật Kiểm toán nhà nước và các văn
bản có liên quan hình thành hệ thống pháp luật về kiểm toán nhà nước. Tuy
nhiên, các tác giả mới chỉ phản ánh vấn đề ở mức độ khái quát, chưa phân tích
sâu và toàn diện về nội dung, hình thức pháp luật về kiểm toán nhà nước cũng
như kinh nghiệm hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước ở các nước.
22
1.3. TỔNG QUAN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ
VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN ĐƯỢC TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.3.1. Tổng quan những kết quả nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu những công trình khoa học đã được công bố ở
trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài nêu trên, có thể rút ra nhận xét
tổng quan về kết quả nghiên cứu như sau: Các công trình đã nghiên cứu các
vấn đề liên quan đến đề tài luận án trên những khía cạnh nhất định cả về lý
luận và thực tiễn thi hành pháp về luật kiểm toán nhà nước trong những giai
đoạn lịch sử nhất định; các kết quả nghiên cứu đều khẳng định vị trí, vai trò
quan trọng của KTNN trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, trong
phòng, chống tham nhũng, lãng phí, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả ngân
sách, tiền và tài sản nhà nước; tính độc lập của KTNN trong kiểm tra tài chính
nhà nước và tài sản công; cơ sở hiến định địa vị pháp lý của KTNN; phân
tích, đánh giá mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động của cơ quan KTNN cũng
như những vấn đề về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, đối tượng và phạm vi
kiểm toán của KTNN. Tuy nhiên, chưa có nhiều nghiên cứu trọng tâm về
hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước; những vấn đề lý luận hoàn thiện
pháp luật về kiểm toán nhà nước chưa được làm sáng tỏ và chưa được nghiên
cứu một cách có hệ thống; thực trạng pháp luật kiểm toán nhà nước và tổ
chức thực hiện pháp luật kiểm toán nhà nước chưa được làm rõ để đánh giá
những ưu điểm, hạn chế và chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế của pháp
luật về kiểm toán nhà nước ở nước ta hiện nay; chưa có một tổng thể các giải
hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay.
1.3.2. Những vấn đề đặt ra cần được tiếp tục nghiên cứu
Hướng nghiên cứu của luận án là làm rõ hơn và sáng tỏ hơn những vấn
đề lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật kiểm toán nhà nước trong
điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay.
23
Về mặt lý luận, các vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, giải quyết gồm:
Khái niệm, nội dung điều chỉnh, đặc điểm, vai trò của pháp luật về kiểm toán
nhà nước; đề xuất các tiêu chí hoàn thiện và điều kiện đảm bảo hoàn thiện
pháp luật về kiểm toán nhà nước; phân tích yêu cầu của Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam đối với việc hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước;
nghiên cứu và tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm pháp luật về kiểm toán nhà
nước của một số nước trên thế giới.
Về mặt thực tiễn, các vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, giải quyết gồm:
Phân tích, đánh giá toàn diện, có hệ thống quá trình ra đời và phát triển của
pháp luật về kiểm toán nhà nước; phân tích, đánh giá những ưu điểm, hạn chế
và chỉ ra những nguyên nhân hạn chế của hệ thống pháp luật về kiểm toán nhà
nước ở nước ta hiện nay.
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích toàn diện những vấn đề lý luận, thực
trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về kiểm toán nhà nước thời
gian qua, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm pháp luật về kiểm toán nhà
nước của một số nước trên thế giới, luận án đề xuất các quan điểm và các
nhóm giải pháp đồng bộ nhằm hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước
đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền, tăng cường kiểm soát quyền
lực nhà nước ở nước ta hiện nay.
24
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
2.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
2.1.1. Khái niệm kiểm toán
Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử cho rằng kiểm toán ra đời từ thời La Mã
cổ đại vào thế kỷ thứ III trước Công Nguyên. Chính vì vậy, kiểm toán có gốc
từ La tinh "Audit", nguyên bản là "Audire", gắn liền với nền văn minh của Ai
Cập và La Mã cổ đại. Tuy kiểm toán ra đời đã hơn 2000 năm qua, nhưng nó
cũng chỉ phát triển mạnh mẽ từ giữa thế kỷ XIX. Từ "Audire" có nghĩa là
nghe. Hình ảnh kiểm toán cổ điển thường được tiến hành bằng cách người ghi
chép về tài sản đọc to lên cho một bên độc lập "nghe" rồi sau đó chấp nhận
thông qua việc chứng thực. Ở Việt Nam, thuật ngữ "Kiểm toán" xuất hiện trở
lại và được sử dụng nhiều từ những năm đầu của thập kỷ 90. Trước năm
1975, ở miền Nam Việt Nam đã có hoạt động của các công ty kiểm toán nước
ngoài. Cho đến nay ở Việt Nam cũng như trên thế giới còn tồn tại nhiều cách
hiểu khác nhau về kiểm toán. Tuy nhiên, quan niệm về kiểm toán được chấp
nhận phổ biến hiện nay là: "Kiểm toán là quá trình các kiểm toán viên độc lập
và có năng lực tiến hành thu thập và đánh giá các bằng chứng về các thông
tin được kiểm toán nhằm xác nhận và báo cáo về mức độ phù hợp giữa các
thông tin này với các chuẩn mực đã được thiết lập" [20, tr.5].
Kiểm toán có nhiều loại khác nhau. Căn cứ theo loại hình tổ chức, kiểm
toán được chia thành: Kiểm toán Nhà nước, kiểm toán nội bộ và kiểm toán
độc lập.
Kiểm toán Nhà nước là cơ quan Kiểm tra tài chính tối cao của quốc gia,
thực hiện việc kiểm tra và báo cáo về việc quản lý và sử dụng các nguồn lực
của Nhà nước ở các đơn vị.
25
Kiểm toán nội bộ được tổ chức bên trong mỗi đơn vị, thực hiện kiểm
tra và cho ý kiến về các đối tượng được kiểm toán nhằm giúp đơn vị thực hiện
tốt các chức năng và nhiệm vụ của mình.
Kiểm toán độc lập được tổ chức dưới dạng doanh nghiệp kiểm toán
(công ty hay hãng kiểm toán) nhằm cung cấp dịch vụ kiểm toán và các dịch
vụ khác có tính chuyên môn cho xã hội.
2.1.2. Khái niệm và đặc điểm của Kiểm toán Nhà nước
Ở nước ta sự ra đời và phát triển của KTNN do yêu cầu của sự phát
triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng nhà nước pháp quyền và
hội nhập quốc tế. Trước khi thành lập KTNN không có cơ quan nào trong bộ
máy nhà nước của Nhà nước ta thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của
KTNN. Do vậy, so với các hoạt động kiểm tra, kiểm soát khác của Nhà nước
và so với các loại hình kiểm toán khác (kiểm toán nội bộ, kiểm toán độc lập),
KTNN có những đặc điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, KTNN là cơ quan kiểm tra tài chính từ bên ngoài. Cơ quan
KTNN là một tổ chức kiểm tra từ bên ngoài, nằm ở bên ngoài các hoạt động
tài chính - ngân sách và nằm ngoài các đơn vị được kiểm toán. Điều này đảm
bảo cho người kiểm tra và người bị kiểm tra không đồng nhất với nhau và giữ
được một khoảng cách tối thiểu nhất định giữa họ với nhau, nhằm bảo đảm
tính độc lập về mặt nghiệp vụ và thiết chế của KTNN. Đây là đặc điểm nổi
bật phân biệt giữa hoạt động của KTNN với hoạt động thanh tra nhà nước,
thanh tra tài chính, kiểm toán nội bộ.
Thứ hai, hoạt động kiểm toán của KTNN mang tính độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật; trung thực, khách quan. Đây là đặc điểm cơ bản nhất, yếu tố
quan trọng nhất trong hoạt động kiểm toán của KTNN. Vấn đề này được quy
định thành nguyên tắc và được cụ thể hoá trong các điều, khoản của Luật
Kiểm toán nhà nước và các quy chế liên quan đến tổ chức và hoạt động của
KTNN, phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc tế.
Thứ ba, đối tượng kiểm toán của KTNN là việc quản lý, sử dụng ngân
sách, tiền và tài sản nhà nước ở tất cả các cơ quan, đơn vị, tổ chức có liên
26
quan với phạm vi rộng lớn trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân.
Với tư cách là chủ sở hữu các nguồn lực tài chính và tài sản quốc gia, Nhà
nước thành lập cơ quan KTNN để kiểm soát việc quản lý, sử dụng các nguồn
lực đó của các chủ thể có liên quan, bảo đảm phục vụ cho mục tiêu phát triển
chung của đất nước. Do vậy, về nguyên tắc ở đâu có quản lý, sử dụng ngân
sách, tiền và tài sản nhà nước thì ở đó có hoạt động KTNN.
Thứ tư, chức năng của KTNN là kiểm tra, đánh giá, xác nhận, kết luận
và kiến nghị, trong đó xác nhận độ tin cậy của báo cáo tài chính, báo cáo
quyết toán là chức năng đặc trưng riêng có của kiểm toán nói chung và KTNN
nói riêng. Đồng thời, KTNN cũng có chức năng kiểm toán việc tuân thủ pháp
luật và đánh giá tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong quản lý, sử dụng ngân
sách, tiền và tài sản nhà nước. KTNN đưa ra các kết luận, kiến nghị nhưng
việc xử lý các kết luận, kiến nghị kiểm toán lại do các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền và bản thân các đơn vị được kiểm toán thực hiện. Điều này đòi
hỏi phải có sự phối hợp rất chặt chẽ giữa KTNN với các cơ quan có liên quan
thì hiệu lực kiểm toán mới được xác lập trên thực tế.
Thứ năm, hoạt động kiểm toán nhà nước mang tính chuyên môn,
chuyên nghiệp rất cao: Tuân theo chuẩn mực, quy trình, quy chế một cách
chặt chẽ; đội ngũ KTV nhà nước phải có kiến thức, kinh nghiệm và kỹ năng
tương xứng, đòi hỏi phải có quá trình tuyển dụng, đào tạo, huấn luyện công
phu; sản phẩm của KTNN - Báo cáo kiểm toán có nội dung chuyên môn rất
cao đòi hỏi phải có sự hiểu biết ở mức độ nhất định của người sử dụng (Đại
biểu Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các cơ quan chức năng của Nhà
nước, báo chí và công luận nói chung); đòi hỏi phải được trang bị sử dụng các
phương tiện kỹ thuật hiện đại, đồng bộ (hệ thống dữ liệu, công nghệ thông tin,
các phương tiện đặc chủng trong lĩnh vực đầu tư - dự án...).
Thứ sáu, chủ thể hoạt động kiểm toán - các KTV vừa là công chức nhà
nước, vừa có quy định đặc thù về tiêu chuẩn, trách nhiệm, quyền hạn, có
27
quyền độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong quá trình thực hiện kiểm toán
và quyền bảo lưu kết quả kiểm toán, chịu trách nhiệm về kết quả kiểm toán
theo quy định của pháp luật.
Thứ bảy, hoạt động kiểm toán phân tán trên địa bàn rộng lớn cả nước
(trung bình mỗi KTV mỗi năm phải đi công tác xa nhà, xa cơ quan dài ngày
khoảng 6 đến 7 tháng); hàm chứa nhiều rủi ro về chuyên môn, phẩm chất đạo
đức của KTV. Do vậy, vừa đòi hỏi đội ngũ KTV về cả trình độ chuyên môn
và đạo đức nghề nghiệp; vừa phải có chế độ đãi ngộ thích hợp; vừa đòi hỏi
phải có cơ chế kiểm soát chất lượng và quản lý đạo đức nghề nghiệp chặt chẽ.
Từ sự phân tích những đặc điểm của KTNN nêu trên, có thể đưa ra
định nghĩa về KTNN như sau: Kiểm toán Nhà nước là cơ quan kiểm tra tài
chính nhà nước, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện việc
kiểm tra, đánh giá và xác nhận tính đúng đắn, trung thực của báo cáo tài
chính; việc tuân thủ pháp luật; tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong quản
lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước.
Qua các giai đoạn phát triển của xã hội, kiểm tra tài chính nhà nước
được thực hiện dưới những hình thức khác nhau. Theo thông lệ quốc tế, ở hầu
hết các nước trên thế giới, KTNN là cơ quan kiểm tra tài chính cao nhất của
Nhà nước hay còn gọi là cơ quan Kiểm toán tối cao. Mục đích hoạt động của
Kiểm toán Nhà nước phục vụ việc quản lý vĩ mô của Nhà nước, đảm bảo duy
trì kỷ cương, thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật, chính sách, chế độ, đồng thời
sử dụng tiết kiệm, hiệu quả vốn, tài sản và kinh phí của Nhà nước.
2.2. KHÁI NIỆM, NỘI DUNG ĐIỀU CHỈNH, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA
PHÁP LUẬT VỀ KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
2.2.1. Khái niệm và nội dung điều chỉnh của pháp luật về kiểm toán
nhà nước
Ở nước ta, pháp luật về kiểm toán nhà nước mới được hình thành trong
thời kỳ đổi mới đất nước và đã trở thành một bộ phận quan trọng của hệ thống
28
pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, trong những năm qua vì nhiều lý do khác
nhau mà khái niệm pháp luật về kiểm toán nhà nước chưa được các nhà khoa
học, các cán bộ quản lý nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện. Do vậy,
đến nay trong khoa học pháp lý ở Việt Nam, vẫn chưa đưa ra được khái niệm
pháp luật kiểm toán nhà nước một cách thống nhất và hoàn chỉnh.
Để làm rõ nội hàm khái niệm pháp luật về kiểm toán nhà nước, chúng
ta cần phân tích và đặt nó trong mối quan hệ với khái niệm pháp luật nói
chung. Pháp luật là một hiện tượng xã hội mang tính khách quan, nó ra đời và
tồn tại cùng với Nhà nước. Có nhiều quan niệm khác nhau về pháp luật. Từ
điển Luật học ghi: “Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt
buộc chung do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan
hệ xã hội, phục vụ và bảo vệ quyền lợi của các tầng lớp dân cư trong xã hội”
[57, tr.606]. Trên bình diện phổ biến, có thể định nghĩa về pháp luật như sau:
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành và bảo
đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là nhân tố
điều chỉnh các quan hệ xã hội [56, tr.66].
Pháp luật về kiểm toán nhà nước là một bộ phận của hệ thống pháp luật,
do vậy có đầy đủ các đặc trưng của pháp luật và có những biểu hiện đặc thù
riêng, cụ thể là:
Tính quy phạm phổ biến: Tính phổ biến của pháp luật về kiểm toán nhà
nước được hình thành dựa trên cơ sở của nhu cầu và khả năng điều chỉnh
hành vi xã hội của quyền lực nhà nước, thể hiện ý chí nhà nước, vì bản thân ý
chí và quyền lực nhà nước đã mang tính chất phổ biến. Pháp luật về kiểm toán
nhà nước, do đó có tính phổ biến và bắt buộc, nó điều chỉnh các quan hệ xã
hội tồn tại khách quan trong tổ chức và hoạt động của KTNN.
Tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức: Tính xác định về mặt hình
thức là sự thể hiện nội dung pháp luật trong những hình thức xác định. Đặc
tính nổi bật của pháp luật về kiểm toán nhà nước thể hiện ở việc xác định một
29
cách rõ ràng và chặt chẽ những nội dung của QPPL, của văn bản pháp luật và
của hệ thống pháp luật. Để thực hiện được yêu cầu này, cần phải diễn đạt nội
dung của pháp luật về kiểm toán nhà nước bằng ngôn ngữ pháp lý chuyên
ngành rõ ràng, chính xác dưới hình thức nhất định của pháp luật. Cách viết
một QPPL về kiểm toán nhà nước phải rõ ràng, chính xác, cụ thể và một
nghĩa, có khả năng áp dụng trực tiếp. Tính xác định về mặt hình thức của
pháp luật về kiểm toán nhà nước còn được thể hiện thông qua những hình
thức thể hiện bên ngoài và thủ tục thẩm quyền ban hành văn bản QPPL.
Tính bắt buộc chung: Bắt buộc chung là một thuộc tính vốn có của
pháp luật nói chung và pháp luật về kiểm toán nhà nước nói riêng nhằm bảo
đảm hiệu lực và tính nghiêm minh của pháp luật. Các văn bản QPPL về tổ
chức và hoạt động của KTNN do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành khi có hiệu lực thì mang tính bắt buộc thực hiện đối với tổ chức, cá nhân
có liên quan. Tuy nhiên, trong thực tiễn hoạt động KTNN có những tổ chức,
cá nhân để che giấu những hành vi gian lận, tham nhũng trong quản lý, sử
dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước đã không chấp hành nghiêm chỉnh,
thậm chí chống lại sự thi hành pháp luật. Do vậy, cưỡng chế buộc mọi người
phải thi hành nghiêm chỉnh pháp luật về kiểm toán nhà nước là điều cần thiết.
Tính bảo đảm thực hiện bằng Nhà nước: Pháp luật về kiểm toán nhà
nước do Nhà nước ban hành và vì vậy được Nhà nước bảo đảm thực hiện.
Điều đó có nghĩa rằng, Nhà nước đã trao cho các QPPL tính quyền lực bắt
buộc đối với mọi cơ quan, tổ chức và công dân. Có như vậy pháp luật về kiểm
toán nhà nước mới trở thành quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung và mới
thực sự là công cụ hữu hiệu để Nhà nước quản lý xã hội. Tính bảo đảm thực
hiện bằng Nhà nước của pháp luật về kiểm toán nhà nước được thực hiện nhờ
khả năng tổ chức thực hiện của Nhà nước cả bằng phương pháp thuyết phục
và cưỡng chế thi hành. Qua đó, pháp luật về kiểm toán nhà nước có khả năng
được thực hiện trong cuộc sống một cách dễ dàng, thuận lợi và nhanh chóng.
30
Cho nên nói đến hiệu lực và hiệu quả của pháp luật về kiểm toán nhà nước
phải đồng thời nói đến vai trò và khả năng của Nhà nước trong việc bảo đảm
cho pháp luật về kiểm toán nhà nước được thực thi trên thực tế.
Từ sự phân tích trên đây, có thể đưa ra định nghĩa pháp luật về kiểm
toán nhà nước với tư cách là một bộ phận cấu thành của hệ thống pháp luật
như sau: Pháp luật về kiểm toán nhà nước là tổng thể các quy phạm pháp luật
do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và bảo đảm thực hiện
nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong tổ chức và hoạt động của
Kiểm toán Nhà nước với mục đích tăng cường việc kiểm tra, giám sát của
Nhà nước trong quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước, góp
phần thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, thất thoát, lãng phí, phát hiện
và ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật, nâng cao hiệu quả sử dụng ngân
sách, tiền và tài sản nhà nước.
Nội dung điều chỉnh của pháp luật về kiểm toán nhà nước là sự thể hiện
các quan hệ trong tổ chức và hoạt động của KTNN thành các chế định, các
QPPL theo các nhóm chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, nhóm QPPL điều chỉnh về địa vị pháp lý của KTNN, gồm:
Vị trí pháp lý của cơ quan KTNN trong tổ chức bộ máy nhà nước, tính độc
lập của cơ quan KTNN;
Thứ hai, nhóm QPPL điều chỉnh về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn
của KTNN;
Thứ ba, nhóm QPPL điều chỉnh về đối tượng, phạm vi kiểm toán của KTNN;
Thứ tư, nhóm QPPL điều chỉnh về cơ chế hoạt động của KTNN, gồm:
Chế độ lãnh đạo, mối quan hệ giữa KTNN với Quốc hội, Chính phủ, hoạt
động kiểm toán và bảo đảm hoạt động kiểm toán của KTNN;
Thứ năm, nhóm QPPL điều chỉnh về mô hình tổ chức và nhân sự của
KTNN, gồm: Mô hình tổ chức và cơ cấu tổ chức của KTNN; Tổng KTNN
(Thẩm quyền bầu, nhiệm kỳ, trách nhiệm và quyền hạn của Tổng KTNN); Kiểm
31
toán viên nhà nước (Chức danh, thẩm quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, tiêu chuẩn
của KTV nhà nước, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của KTV nhà nước);
Thứ sáu, nhóm QPPL điều chỉnh về giám sát hoạt động của KTNN, xử
lý vi phạm, gồm: Nội dung giám sát, chủ thể giám sát hoạt động của KTNN;
các hành vi vi phạm pháp luật kiểm toán nhà nước và các biện pháp xử lý.
2.2.2. Đặc điểm của pháp luật về kiểm toán nhà nước
Từ định nghĩa pháp luật về kiểm toán nhà nước nêu trên và qua nghiên
cứu các văn bản QPPL về kiểm toán nhà nước hiện hành có thể rút ra những
đặc điểm cơ bản của pháp luật về kiểm toán nhà nước như sau:
Một là, pháp luật về kiểm toán nhà nước là tổng thể các QPPL điều
chỉnh về tổ chức và hoạt động của KTNN, vừa có những quy định mang tính
chất hành chính, vừa có những quy định mang tính tố tụng, lại vừa có những
quy định mang tính nghề nghiệp chuyên môn. Nhóm quy phạm mang tính
chất hành chính thể hiện chủ yếu trong các chế định về địa vị pháp lý của
KTNN, Tổng KTNN, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của KTNN, mối quan
hệ giữa KTNN với Quốc hội, Chính phủ; những quy định về tổ chức và chỉ
đạo hoạt động của KTNN với các đơn vị trực thuộc KTNN... Nhóm quy phạm
mang tính tố tụng chủ yếu thể hiện trong các chế định về hoạt động KTNN,
như: Quy trình kiểm toán, trình tự, thủ tục kiểm toán, kiểm soát chất lượng
kiểm toán, công khai kết quả kiểm toán, kiểm tra thực hiện kết luận, kiến nghị
kiểm toán, kiến nghị và giải quyết kiến nghị kiểm toán...Nhóm quy phạm
mang tính nghề nghiệp chuyên môn chủ yếu thể hiện trong các quy định về
Chuẩn mực KTNN, như: Quy định về nguyên tắc hoạt động, điều kiện và yêu
cầu về đạo đức nghề nghiệp, năng lực đối với KTV nhà nước; quy định về
nghiệp vụ kiểm toán và xử lý các mối quan hệ phát sinh trong hoạt động kiểm
toán mà KTV nhà nước phải tuân thủ khi tiến hành hoạt động kiểm toán.
Hai là, pháp luật về kiểm toán nhà nước quy định hoạt động thực hiện
quyền lực nhà nước trong việc kiểm tra, giám sát hoạt động quản lý, sử dụng
32
các nguồn lực tài chính nhà nước và tài sản công, nhằm chống thất thoát, lãng
phí và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực đó. Do vậy, khác với các tổ
chức kiểm toán khác (kiểm toán độc lập và kiểm toán nội bộ), KTNN có đối
tượng kiểm toán là hoạt động có liên quan đến quản lý, sử dụng ngân sách,
tiền và tài sản nhà nước và phạm vi kiểm toán là mọi cơ quan, tổ chức, đơn vị
có quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống kinh tế - xã hội. Sự vi phạm nguyên tắc hoạt động kiểm toán,
quy trình kiểm toán và đạo đức nghề nghiệp của KTV nhà nước đều có nguy
cơ dẫn đến hậu quả là không phát hiện được hoặc bao che cho hành vi tham
nhũng gây thất thoát tiền và tài sản của Nhà nước, làm giảm lòng tin của nhân
dân vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.
Ba là, pháp luật về kiểm toán nhà nước bao gồm các QPPL điều chỉnh
những quan hệ phát sinh trong tổ chức và hoạt động của KTNN. Đặc trưng
này thể hiện tính chất của các quan hệ mà pháp luật về kiểm toán nhà nước
điều chỉnh. Những quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động KTNN có thể
chia thành các nhóm quan hệ chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, quan hệ giữa KTNN với cơ quan lập pháp và hành pháp
KTNN là một chủ thể đặc biệt, thay mặt Nhà nước thực hiện chức năng
kiểm tra tài chính nhà nước. Quan hệ pháp luật giữa KTNN với cơ quan lập
pháp và hành pháp của Nhà nước có những đặc điểm sau:
Chủ thể của quan hệ pháp luật này là KTNN, Quốc hội, Chính phủ;
Khách thể của quan hệ pháp luật này nhằm mục đích góp phần xây
dựng nền tài chính quốc gia minh bạch và lành mạnh hóa;
Nội dung của quan hệ pháp luật này là quan hệ về trao quyền, bảo đảm
các điều kiện thực thi nhiệm vụ và trách nhiệm thực thi nhiệm vụ kiểm toán
của KTNN. Trong quan hệ này Quốc hội thông qua Hiến pháp, Luật Kiểm
toán nhà nước thành lập cơ quan KTNN, quy định địa vị pháp lý, chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và cơ chế hoạt động của KTNN; Chính phủ có
33
trách nhiệm bảo đảm các điều kiện về kinh phí, trụ sở, phương tiện làm việc
và các điều kiện vật chất khác nhằm bảo đảm tính độc lập trong hoạt động
kiểm toán của KTNN. KTNN có nhiệm vụ quyết định và tổ chức thực hiện kế
hoạch kiểm toán hàng năm, thực hiện kiểm toán theo yêu cầu của Quốc hội,
UBTV Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; chịu trách nhiệm trước
pháp luật về kết quả kiểm toán; báo cáo kết quả kiểm toán năm và kết quả
thực hiện kiến nghị kiểm toán với Quốc hội, UBTV Quốc hội và gửi báo cáo
kiểm toán cho các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ. Thông qua kết quả kiểm toán, KTNN giúp Quốc hội xem
xét, quyết định dự toán NSNN, quyết định phân bổ ngân sách trung ương,
quyết định dự án, công trình quan trọng quốc gia và phê chuẩn quyết toán
NSNN; giúp Chính phủ trong công tác quản lý, điều hành nền kinh tế.
Thứ hai, quan hệ giữa KTNN với các đơn vị được kiểm toán
Đây là mối quan hệ cơ bản nhất xuyên suốt cuộc kiểm toán. Trong đó,
KTNN với tư cách là cơ quan kiểm tra tài chính nhà nước tiến hành việc kiểm
tra, đánh giá và xác nhận tính đúng đắn, trung thực của báo cáo tài chính, tính
tuân thủ pháp luật, tính kinh tế, tính hiệu lực và hiệu quả trong quản lý, sử
dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước của các đơn vị được kiểm toán. Đơn
vị được kiểm toán là cơ quan, đơn vị, tổ chức có quản lý, sử dụng ngân sách,
tiền và tài sản nhà nước.
Chủ thể của nhóm quan hệ pháp luật này là cơ quan KTNN - chủ thể thực
hiện kiểm toán và các đơn vị được Nhà nước giao quản lý và sử dụng các
nguồn lực tài chính nhà nước và tài sản công - các đơn vị được kiểm toán.
Khách thể của quan hệ pháp luật này nhằm hướng tới sự minh bạch; tính
tuân thủ pháp luật, tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong quản lý và sử dụng
nguồn lực tài chính nhà nước và tài sản công tại đơn vị.
Nội dung của các quan hệ pháp luật giữa KTNN với các đơn vị được kiểm
toán là quyền và nghĩa vụ của các chủ thể mà trong đó một bên là KTNN và
34
một bên là các đơn vị được kiểm toán. KTNN thực hiện chức năng nhiệm vụ
được Nhà nước giao có quyền tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm toán theo kế
hoạch, bảo đảm hoạt động kiểm toán có chất lượng, đạt được mục tiêu yêu
cầu của Nhà nước. Các đơn vị được kiểm toán có nghĩa vụ chấp hành các chế
độ, chính sách và pháp luật về tài chính, ngân sách; chấp hành các nghĩa vụ
theo quy định của pháp luật về kiểm toán nhà nước và thực hiện đầy đủ, kịp
thời kết luận, kiến nghị của KTNN.
Thứ ba, quan hệ giữa KTNN với các cơ quan, đơn vị có liên quan
Chủ thể của nhóm quan hệ này gồm có KTNN và các cơ quan, đơn vị, tổ
chức, cá nhân có liên quan được gọi là bên thứ ba.
Khách thể của quan hệ này nhằm hướng đến sự minh bạch, phân định rõ
phạm vi trách nhiệm của đơn vị được kiểm toán và bên thứ ba đối với việc
quản lý, sử dụng tài chính và tài sản công tại đơn vị được kiểm toán.
Nội dung của quan hệ pháp luật này là quan hệ về quyền và nghĩa vụ của
các chủ thể mà trong đó một bên là KTNN và một bên là bên thứ ba. Trong
đó, KTNN có quyền đề nghị bên thứ ba xem xét làm rõ các vấn đề và những
khía cạnh pháp lý về chế độ chính sách quản lý liên quan đến đơn vị được
kiểm toán; bên thứ ba có trách nhiệm và nghĩa vụ cung cấp thông tin để làm
rõ những vấn đề, những khía cạnh pháp lý có liên quan. Đặc biệt, trong quan
hệ này, bên thứ ba là cơ quan bảo vệ pháp luật; tùy theo tính chất, mức độ vi
phạm, KTNN có quyền đề nghị cơ quan bảo vệ pháp luật xem xét xử lý
những tập thể, cá nhân thuộc đơn vị được kiểm toán có hành vi vi phạm
nghiêm trọng chế độ, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Bốn là, nguồn của pháp luật kiểm toán nhà nước mang tính toàn diện hơn
so với nguồn của pháp luật về thanh tra, kiểm tra tài chính. Nguồn của pháp
luật kiểm toán nhà nước không chỉ thể hiện ở các văn bản pháp luật chuyên
ngành về KTNN (như Luật Kiểm toán nhà nước và các văn bản hướng dẫn thi
hành: Các nghị quyết của UBTV Quốc hội, nghị định của Chính phủ, quyết
35
định của Tổng KTNN…) mà còn được quy định trong các văn bản QPPL về
quản lý, sử dụng và phòng chống gian lận, sai sót trong quản lý, sử dụng các
nguồn lực tài chính nhà nước (như Luật NSNN, Luật Phòng, chống tham
nhũng...). Đặc biệt, địa vị pháp lý của KTNN cần phải được quy định trong
Hiến pháp - đạo luật cơ bản của Nhà nước theo khuyến cáo của INTOSAI và
thông lệ của nhiều quốc gia trên thế giới.
Năm là, pháp luật về kiểm toán nhà nước ở nước ta là một lĩnh vực
pháp luật còn khá mới mẻ, song được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, hệ
thống pháp luật kiểm toán nhà nước được quan tâm xây dựng và từng bước
hoàn thiện. Đến nay, tổ chức và hoạt động của KTNN đã được điều chỉnh bởi
Luật Kiểm toán nhà nước, một văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao; nội
dung của Luật Kiểm toán nhà nước đã cơ bản thể hiện được các nguyên tắc và
chuẩn mực kiểm toán quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của
pháp luật về kiểm toán nhà nước của các nước trên thế giới. Tuy nhiên, do
kiểm toán nhà nước là hoạt động mới chỉ xuất hiện ở Việt Nam từ năm 1994,
do vậy, các văn bản QPPL về tổ chức và hoạt động của KTNN còn chưa đầy
đủ và đồng bộ, đặc biệt là địa vị pháp lý của KTNN còn chưa được quy định
trong Hiến pháp - đạo luật cơ bản của Nhà nước. Đặc điểm này đòi hỏi phải
tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, sự cố gắng nỗ lực
của KTNN và sự quan tâm phối hợp của các cơ quan của Quốc hội, các bộ,
ngành đối với công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà
nước ở nước ta hiện nay.
2.2.3. Vai trò của pháp luật về kiểm toán nhà nước
Pháp luật của nhà nước pháp quyền là pháp luật vì con người, phục vụ
con người, điều đó đòi hỏi muốn xây dựng nhà nước pháp quyền trước hết
phải xây dựng được một hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn thiện cả về nội
dung và hình thức, trong đó có pháp luật về kiểm toán nhà nước. Như vậy,
pháp luật về kiểm toán nhà nước là một trong những phương tiện có vai trò
36
quan trọng để xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Vai trò của pháp luật về kiểm toán nhà nước được thể hiện ở
những nội dung cơ bản sau đây:
Một là, thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng về phát triển
KTNN. Chủ trương, chính sách của Đảng về phát triển KTNN đi vào cuộc
sống thực tế bằng nhiều công cụ, phương tiện khác nhau, nhưng một trong
những công cụ quan trọng nhất có tính bắt buộc chung đối với toàn xã hội là
phải thông qua Nhà nước. Nhà nước bằng công cụ riêng có của mình là pháp
luật thể chế hóa những chủ trương đó thành hệ thống QPPL. Hệ thống quy
phạm này điều chỉnh, hiện thực hóa các chủ trương của Đảng về KTNN vào
đời sống và buộc mọi chủ thể có liên quan phải chấp hành nghiêm chỉnh.
Đồng thời hệ thống quy phạm đó cũng là công cụ hữu hiệu để xử lý những
hành vi vi phạm pháp luật về kiểm toán nhà nước.
Hai là, pháp luật về kiểm toán nhà nước là cơ sở pháp lý cho hoạt
động kiểm tra tài chính nhà nước độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Tổ chức
và hoạt động của KTNN luôn dựa trên những cơ sở, nền tảng pháp lý nhất
định - đó là pháp luật về kiểm toán nhà nước. Để hoạt động KTNN đạt hiệu
quả, đòi hỏi phải xác định một cách khoa học về cách thức tổ chức, chức
năng, nhiệm vụ của KTNN cũng như quan hệ giữa KTNN với các cơ quan lập
pháp, hành pháp và tổ chức có liên quan. Hoạt động kiểm toán của KTNN là
hoạt động kiểm tra tài chính từ bên ngoài, điều này đảm bảo tính độc lập về
mặt nghiệp vụ và tính trung thực, khách quan của kết quả kiểm toán.
Ở nước ta, pháp luật về kiểm toán nhà nước không ngừng được hoàn
thiện đã tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của KTNN đáp ứng yêu
cầu của công cuộc đổi mới đất nước, đồng thời phù hợp với các nguyên tắc,
chuẩn mực kiểm toán quốc tế. Pháp luật về kiểm toán nhà nước đã xác lập
nguyên tắc hoạt động kiểm toán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, trung
thực, khách quan; xác lập địa vị pháp lý của KTNN là cơ quan chuyên môn về
37
lĩnh vực kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức phù
hợp, tạo hành lang pháp lý thuận lợi để xây dựng KTNN trở thành cơ quan
kiểm tra tài chính có hiệu lực và hiệu quả của Nhà nước.
Ba là, pháp luật về kiểm toán nhà nước là phương tiện tăng cường kiểm
tra, giám sát của Nhà nước đối với hoạt động quản lý, sử dụng ngân sách, tiền
và tài sản nhà nước. Thực hiện đầy đủ các chức năng, nhiệm vụ theo quy định
của pháp luật, KTNN góp phần quan trọng trong việc cung cấp thông tin phục
vụ công tác giám sát, quyết định ngân sách của Quốc hội và HĐND các cấp,
phục vụ cho Chính phủ, UBND các cấp quản lý và điều hành NSNN; đồng
thời góp phần đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, nâng cao hiệu
quả sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước.
Bốn là, pháp luật về kiểm toán nhà nước góp phần công khai, minh
bạch các thông tin tài chính và lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia. Với một
nền kinh tế phát triển trên cơ sở minh bạch, các thông tin về quản lý tài chính
của Nhà nước được kiểm toán trước khi công bố sẽ tạo niềm tin cho các nhà
đầu tư quốc tế, các định chế tài chính quốc tế. Đây là cơ sở quan trọng để các
nhà đầu tư quốc tế yên tâm quyết định bỏ vốn đầu tư cho phát triển, góp phần
bù đắp thiếu hụt vốn, đặc biệt là ở các nước đang và kém phát triển. Đối với
các doanh nghiệp hoạt động trong môi trường cạnh tranh và hội nhập, thông
qua hoạt động kiểm toán, KTNN đã xác nhận tính trung thực của báo cáo tài
chính, tình hình sản xuất kinh doanh của đơn vị được kiểm toán, góp phần tạo
lập môi trường kinh doanh minh bạch hơn, xây dựng hệ thống thông tin tin
cậy, tạo được niềm tin để các cổ đông của công ty, các nhà đầu tư, ngân hàng,
cơ quan chức năng xem xét quyết định đầu tư và cho các doanh nghiệp vay
vốn. Bên cạnh đó, với kết quả kiểm toán, các nhà quản trị của doanh nghiệp
sẽ có cơ sở để phân tích lựa chọn được những giải pháp tối ưu trong quá trình
điều hành sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài ra, thông qua loại
38
hình kiểm toán hoạt động, KTNN còn đánh giá tính kinh tế, hiệu lực, hiệu quả
trong quản lý và sử dụng nguồn lực, góp phần giúp cho cơ quan, đơn vị hay
quốc gia có biện pháp quản lý và sử dụng các nguồn lực một cách hiệu quả; từ
đó, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp và quốc gia.
Như vậy, thông qua hoạt động kiểm toán của KTNN đã góp phần công
khai, minh bạch và lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia, tạo niềm tin cho các
nhà đầu tư trong và ngoài nước bỏ vốn vào đầu tư, nhất là đầu tư dài hạn.
Năm là, pháp luật về kiểm toán nhà nước góp phần nâng cao hiệu lực
thực thi pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Pháp luật về kiểm toán
nhà nước quy định địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ và tính độc lập của
KTNN với tư cách là cơ quan kiểm tra tài chính nhà nước cao nhất. Thông
qua việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, KTNN chỉ ra các sai
lệch so với chuẩn mực được chấp nhận, phát hiện các sai trái so với quy
định của pháp luật, từ đó đưa ra các kiến nghị góp phần bảo đảm cho hoạt
động quản lý kinh tế, tài chính ngày càng hoàn thiện hơn, qua đó nâng cao
hiệu lực thực thi pháp luật. Thông qua hoạt động kiểm toán, KTNN không
những chỉ ra các vi phạm pháp luật của các cơ quan, đơn vị mà còn phát
hiện ra những điểm hạn chế, không phù hợp của pháp luật và đưa ra kiến
nghị nhằm sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế, tài
chính phù hợp hơn so với chuẩn mực quốc tế và điều kiện thực tế của đất
nước trong từng giai đoạn phát triển.
Sáu là, pháp luật về kiểm toán nhà nước góp phần vào việc tăng cường
mối quan hệ phối hợp giữa các phân hệ kiểm toán trong nền kinh tế quốc dân.
Hiện nay ở nước ta có đầy đủ ba loại kiểm toán là: KTNN, kiểm toán độc lập
và kiểm toán nội bộ. Các loại kiểm toán này có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, trong đó KTNN giữ vai trò chủ đạo. Để tăng cường quan hệ giữa các
loại kiểm toán, cần phải hoàn thiện pháp luật về từng loại kiểm toán, trong đó
có pháp luật về kiểm toán nhà nước.
39
2.3. TIÊU CHÍ HOÀN THIỆN VÀ CÁC ĐIỀU KIỆN ĐẢM BẢO HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
2.3.1. Tiêu chí hoàn thiện
Tiêu chí hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước là những dấu hiệu,
chuẩn mực dựa vào đó để nhận biết, đánh giá được mức độ hoàn thiện của
pháp luật về kiểm toán nhà nước là tốt hay chưa tốt, đạt hay chưa đạt. Xác
định tiêu chí hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước có ý nghĩa hết sức
quan trọng cả về lý luận và thực tiễn trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN ở nước ta hiện nay.
Để có cơ sở đánh giá, xác định mức độ hoàn thiện của pháp luật về
kiểm toán nhà nước, cần phải dựa vào những tiêu chí nhất định. Những tiêu
chí đó - xét về mặt lý thuyết, là những yếu tố làm nên giá trị của hệ thống; xét
về mặt thực tiễn, là những điều kiện đòi hỏi công tác xây dựng pháp luật phải
đáp ứng để bảo đảm và phát huy vai trò to lớn của pháp luật về kiểm toán nhà
nước. Có thể phân chia các tiêu chí nêu trên thành 3 loại cơ bản sau đây:
2.3.1.1. Tiêu chí về nội dung
Pháp luật về kiểm toán nhà nước được coi là hoàn thiện phải đáp ứng
được các tiêu chí về mặt nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, có nội dung phù hợp với quan điểm, đường lối, chính sách
của Đảng về phát triển KTNN;
Thứ hai, phù hợp với các điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của đất
nước. Tính phù hợp của pháp luật về kiểm toán nhà nước thể hiện sự tương
quan giữa trình độ của pháp luật về kiểm toán nhà nước với sự phát triển của
nền kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội ở mỗi thời kỳ phát triển, cũng như phản
ánh đúng trình độ phát triển của nền kinh tế, xã hội của đất nước.
Thứ ba, phù hợp với những nguyên tắc, yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam.
Thứ tư, phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực kiểm toán của INTOSAI
và thông lệ về pháp luật kiểm toán của các nước trên thế giới. Tiêu chí này
40
đòi hỏi pháp luật về kiểm toán nhà nước phải phù hợp với các nguyên tắc,
chuẩn mực kiểm toán quốc tế, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các nước
trong việc điều chỉnh bằng pháp luật các quan hệ xã hội phát sinh trong tổ
chức và hoạt động của KTNN, bảo đảm cho hệ thống pháp luật về kiểm toán
nhà nước trở thành “cầu nối” hội nhập quốc tế về kiểm toán nhà nước; đồng
thời phù hợp với truyền thống và điều kiện kinh tế, chính trị của Việt Nam.
2.3.1.2. Tiêu chí về hình thức
Một là, tính toàn diện của hệ thống pháp luật về kiểm toán nhà nước
Tính toàn diện là tiêu chuẩn cơ bản thể hiện mức độ hoàn thiện của hệ
thống pháp luật. Đây cũng là tiêu chí hàng đầu để đánh giá mức độ hoàn thiện
của pháp luật về kiểm toán nhà nước. Cũng như đối với hệ thống pháp luật,
tính toàn diện là tiêu chuẩn để “định lượng” pháp luật về kiểm toán nhà nước,
có ý nghĩa quan trọng nhằm tiếp tục nghiên cứu để “định tính” chúng. Tính
toàn diện đòi hỏi pháp luật về kiểm toán nhà nước phải có đầy đủ các chế
định pháp luật về địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức
của KTNN, về hoạt động kiểm toán của KTNN phù hợp với đặc trưng của
từng loại hình kiểm toán là: Kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ
và kiểm toán hoạt động...và thể hiện thống nhất trong hệ thống văn bản QPPL
tương ứng, đồng thời trong từng chế định pháp luật đó phải có đầy đủ các
QPPL cần thiết.
Hai là, tính thống nhất của hệ thống pháp luật về kiểm toán nhà nước
Đây là điều kiện tiên quyết cho sự hợp thành hệ thống các văn bản
QPPL nói chung và hệ thống pháp luật về kiểm toán nhà nước nói riêng. Điều
đó đòi hỏi xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật về kiểm toán nhà nước
phải bảo đảm sự thống nhất của hệ thống pháp luật từ Hiến pháp là đạo luật
gốc đến Luật Kiểm toán nhà nước, các luật có liên quan và các văn bản QPPL
hướng dẫn thi hành. Tính thống nhất của hệ thống pháp luật về kiểm toán nhà
nước phải được thể hiện trên các khía cạnh pháp lý sau:
41
Thứ nhất, các văn bản QPPL về KTNN không mâu thuẫn, chồng chéo,
triệt tiêu lẫn nhau, bảo đảm sự liên kết chặt chẽ, sự phối hợp tác động điều
chỉnh của các văn bản theo một chiều, hướng nhất định.
Thứ hai, sự thống nhất giữa nội dung văn bản với đối tượng phản ánh,
tức những quan hệ kinh tế, xã hội hiện thực, nhằm bảo đảm giá trị thực tế của
hệ thống. Điều đó đòi hỏi những quy định về địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và mô hình tổ chức, cơ chế hoạt động của KTNN phải phù hợp
với các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trong từng giai đoạn lịch
sử phát triển của Việt Nam.
Thứ ba, việc ban hành các văn bản QPPL về kiểm toán nhà nước phải
tuân thủ đúng thẩm quyền, quy trình xây dựng và ban hành văn bản QPPL.
Nguyên tắc về tính thống nhất giữa các văn bản đòi hỏi phải có sự tuân
thủ nguyên tắc pháp chế trong việc ban hành văn bản của các cơ quan nhà
nước, chống chủ quan, duy ý chí, cục bộ địa phương, ngành, thường xuyên làm
tốt công tác xử lý văn bản, hệ thống hoá pháp luật, so sánh pháp luật, học tập
kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật của các nước, song không sao chép máy móc.
Ba là, tính đồng bộ của hệ thống pháp luật về kiểm toán nhà nước
Hệ thống pháp luật về kiểm toán nhà nước có nhiều bộ phận, chế định
khác nhau, nhưng chúng luôn có liên quan và thống nhất với nhau. Do vậy,
tính đồng bộ của hệ thống pháp luật về kiểm toán nhà nước đòi hỏi phải trên
cơ sở sự đầy đủ của hệ thống pháp luật, bảo đảm sự ăn khớp, thống nhất và
nhất quán giữa các văn bản QPPL, loại bỏ mọi mâu thuẫn, trùng lắp hay
chồng chéo trong bản thân hệ thống. Nếu trong hệ thống pháp luật về kiểm
toán nhà nước có những quy định không đồng bộ, giữa các bộ phận của nó
chứa đựng mâu thuẫn, chồng chéo, thì hệ thống pháp luật về kiểm toán nhà
nước không thể tạo ra sự điều chỉnh pháp luật có hiệu quả, thậm chí còn gây
cản trở hoạt động thực tiễn.
Sự đồng bộ của hệ thống pháp luật về kiểm toán nhà nước trước hết
được xác định bởi sự đồng bộ giữa các luật có liên quan về lĩnh vực kinh tế tài
42
chính... để đạt được điều này cần phải chú ý, một mặt, xác định rõ ranh giới
hệ thống pháp luật về kiểm toán nhà nước với các ngành luật khác, mặt khác,
phải tạo ra được hệ thống quy phạm căn bản thống nhất.
Sự đồng bộ của hệ thống pháp luật về kiểm toán nhà nước còn được thể
hiện ở sự thống nhất giữa các quy phạm và giữa các chế định pháp luật, tạo ra
lôgic nhất quán trong việc điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình
kiểm tra tài chính công.
Bốn là, bảo đảm tính minh bạch, hiệu quả và khả thi
Tính minh bạch của pháp luật được thể hiện ở sự công khai, chính xác,
mục đích rõ ràng của cơ quan ban hành pháp luật và cơ quan tổ chức thực thi
pháp luật và quan trọng hơn đó là gắn với những bảo đảm để người dân có thể
tiếp cận với các quy định của pháp luật để tham gia tích cực vào các quan hệ
pháp luật. Đối với pháp luật về kiểm toán nhà nước tính minh bạch phải bảo
đảm cho người dân giám sát được việc quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài
sản nhà nước thông qua công khai kết quả kiểm toán của KTNN; đồng thời
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm soát được hoạt động của KTNN
trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao.
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện
nay tính minh bạch phải được thể hiện trong quá trình xây dựng, ban hành các
văn bản QPPL và thực thi các văn bản QPPL. Trong những năm qua, các văn
bản QPPL về kiểm toán nhà nước đã được công bố trên Công báo, trên các
phương tiện thông tin đại chúng. Tuy nhiên, với đặc điểm trình độ dân trí ở
nước ta còn chưa cao, việc công khai không chỉ dừng ở mức độ đăng tải trên
Công báo và các phương tiện thông tin đại chúng mà cần phải tính đến việc
chuyển tải những nội dung quy định của pháp luật tới những đối tượng có liên
quan và toàn xã hội một cách hữu hiệu nhất thông qua công tác tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật.
Hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước không chỉ về hình thức
và nội dung pháp luật mà còn đánh giá sự tác động của các quy định pháp
43
luật đối với chính trị, kinh tế, xã hội và hiệu quả của sự tác động đó. Hiệu
quả của pháp luật về kiểm toán nhà nước chính là khả năng tác động vào
các quan hệ xã hội về kiểm toán nhà nước. Hiệu quả của pháp luật về kiểm
toán nhà nước phải được đánh giá gắn liền với hiệu quả hoạt động của
KTNN và kết quả phát triển kinh tế, xã hội mà pháp luật mang lại, từ đó
cho thấy pháp luật về kiểm toán nhà nước góp phần công khai, minh bạch
và lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của KTNN đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở
nước ta hiện nay.
Năm là, hình thức văn bản
Văn bản QPPL là hình thức pháp luật tiến bộ nhất, trong đó được phân
ra theo thứ bậc cao thấp khác nhau là Hiến pháp, luật và các văn bản QPPL
dưới luật. Pháp luật về kiểm toán nhà nước được coi là hoàn thiện phải bảo
đảm sự đầy đủ và toàn diện từ quy định về KTNN trong Hiến pháp đến Luật
Kiểm toán nhà nước, các luật có liên quan, các văn bản dưới luật, Hệ thống
chuẩn mực, quy trình và phương pháp chuyên môn nghiệp vụ KTNN. Ngoài
ra, các văn bản QPPL về kiểm toán nhà nước phải được ban hành đúng thẩm
quyền có hình thức kết cấu, bố cục chặt chẽ, hợp lý.
Sáu là, kỹ thuật lập pháp
Một hệ thống pháp luật hoàn thiện phải được xây dựng ở trình độ kỹ
thuật lập pháp cao, yêu cầu này cũng đúng đối với pháp luật về kiểm toán nhà
nước. Điều này đòi hỏi quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về kiểm
toán nhà nước phải được tiến hành theo những nguyên tắc tối ưu, xác định
chính xác cơ cấu nội tại của pháp luật về kiểm toán nhà nước, được biểu đạt
bằng ngôn ngữ pháp lý rõ ràng, cô đọng, lôgíc, chính xác và một nghĩa, đồng
thời mang tính phổ thông và ổn định cao. Việc bảo đảm kỹ thuật lập pháp là
điều kiện quan trọng để bảo đảm tính chính xác về nội dung, bảo đảm văn bản
QPPL về KTNN dễ hiểu, hiểu thống nhất và dễ thực hiện.
44
2.3.1.3. Tiêu chí về tổ chức thực hiện
Một là, tuyên truyền, giáo dục pháp luật về kiểm toán nhà nước
Pháp luật về kiểm toán nhà nước được coi là hoàn thiện không chỉ
được thể hiện ở chỗ được ban hành dưới hình thức một đạo luật mang tính
pháp điển cao, mà quan trọng hơn là đạo luật đó phải đi vào cuộc sống, phải
làm cho các tổ chức, cá nhân có liên quan nắm được một cách đầy đủ và hiểu
được nội dung của các văn bản pháp luật về kiểm toán nhà nước được ban
hành. Muốn vậy, phải coi trọng công tác giáo dục, tuyên truyền, giải thích
pháp luật và cần phải sử dụng nhiều hình thức, biện pháp tuyên truyền, giáo
dục để nâng cao ý thức pháp luật cho các tổ chức, cá nhân có liên quan.
Hai là, đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức
Pháp luật về kiểm toán nhà nước được coi là hoàn thiện còn phải được
thể hiện thông qua hoạt động thực hiện và áp dụng pháp luật của đội ngũ cán
bộ, công chức, trong đó đặc biệt là đội ngũ cán bộ, công chức của KTNN, do
vậy phải nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất cho đội ngũ cán bộ, công
chức của KTNN, trước hết là các KTV nhà nước. Muốn vậy, phải có kế hoạch
đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên về chuyên môn nghiệp vụ và pháp luật cho
đội ngũ cán bộ, công chức, KTV nhà nước, đẩy mạnh tiêu chuẩn hoá đội ngũ
KTV nhà nước, trong đó xác định rõ cả về tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ
và tiêu chuẩn về tác phong, đạo đức, lối sống.
Ba là, kiểm tra, giám sát việc thực hiện và xử lý vi phạm
Pháp luật về kiểm toán nhà nước được coi là hoàn thiện còn được thể
hiện thông qua hiệu quả việc kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện pháp luật
và xử lý các hành vi vi phạm phạm pháp luật về kiểm toán nhà nước. Phân
định rõ chức năng, thẩm quyền của các cơ quan làm công tác kiểm tra, giám
sát việc thực hiện pháp luật về kiểm toán nhà nước. Với vị thế là cơ quan
kiểm tra tài chính nhà nước cao nhất, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật, KTNN thực hiện kiểm toán các cơ quan, đơn vị, tổ chức quản lý, sử
45
dụng ngân sách, tiền, tài sản nhà nước, trong đó có hoạt động điều hành
NSNN của Chính phủ. Do vậy, thẩm quyền kiểm tra, giám sát việc thực hiện
pháp luật về kiểm toán nhà nước thuộc về cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất (Quốc hội) và do chính KTNN thực hiện. Quốc hội thông qua cơ quan
thường trực là UBTV Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc
hội thực hiện giám sát hoạt động và việc sử dụng kinh phí của KTNN; khi cần
thiết tiến hành thẩm tra kết quả hoạt động của KTNN. KTNN thực hiện kiểm
tra việc tuân thủ pháp luật, kiểm soát chất lượng kiểm toán đối với các đơn vị,
tổ chức trực thuộc KTNN, các đơn vị được kiểm toán và các tổ chức, cá nhân
có liên quan đến hoạt động kiểm toán.
Để làm tốt công tác này, cần nâng cao năng lực và phẩm chất của
những người làm công tác kiểm tra, giám sát; đồng thời mở rộng dân chủ, xây
dựng cơ chế kiểm tra, giám sát của các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân;
phát hiện kịp thời những yếu kém, bất cập để khắc phục, xử lý nghiêm mọi hành
vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, KTV nhà nước, của đơn vị được
kiểm toán và tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động kiểm toán nhà nước.
2.3.2. Các điều kiện đảm bảo hoàn thiện pháp luật về kiểm toán
nhà nước
Các điều kiện đảm bảo cho việc hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà
nước là những điều kiện khách quan của sự phát triển xã hội và những
phương tiện do Nhà nước tạo ra nhằm đảm bảo cho việc hoàn thiện pháp luật
về kiểm toán nhà nước ở nước ta hiện nay.
Những điều kiện đảm bảo cho việc hoàn thiện pháp luật về kiểm toán
nhà nước bao gồm những đảm bảo cơ bản là: Đảm bảo về kinh tế; đảm bảo về
chính trị và đảm bảo về pháp lý.
2.3.2.1. Đảm bảo về kinh tế
Pháp luật là hiện tượng chính trị xã hội thuộc thượng tầng kiến trúc, do
đó nó chịu tác động rất lớn của cơ sở hạ tầng. Sự phát triển của kinh tế là yếu
46
tố quyết định đến sự phát triển của pháp luật. Cơ cấu kinh tế, hệ thống kinh tế
quyết định cơ cấu của hệ thống pháp luật, trong đó có pháp luật kiểm toán nhà
nước. Sự ra đời và phát triển của pháp luật kiểm toán nhà nước cũng phụ
thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế đất nước.
Ở Việt Nam, trong thời kỳ vận hành nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch
hóa tập trung, những vấn đề cơ bản của kinh tế do Nhà nước quyết định, vì
chưa có thị trường nên Nhà nước can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế, nguồn
lực xã hội chủ yếu luân chuyển theo chiều dọc, qua nhiều tầng nấc đã hạn chế
tính chủ động, sáng tạo của các chủ thể sản xuất kinh doanh. Vì tập trung vào
giải quyết những vấn đề cụ thể do đó những vấn đề quản lý vĩ mô được coi
trọng không đúng mức hoặc chưa được coi trọng. Do vậy, trong thời kỳ vận
hành nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung ở nước ta chưa xuất hiện
hoạt động kiểm toán, vì kiểm toán ra đời, phát triển do yêu cầu quản lý và
phục vụ cho quản lý. Sau khi nước ta chuyển đổi cơ chế quản lý (năm 1986)
từ kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường theo định hướng XHCN,
hoạt động kiểm toán đã xuất hiện ở nước ta vào những năm 90 của thế kỷ 20:
Năm 1991 thành lập Công ty kiểm toán Việt Nam, ngày 11/07/1994 Chính
phủ đã ban hành Nghị định số 70/CP thành lập cơ quan KTNN và đến năm
1997 thành lập kiểm toán nội bộ ở các doanh nghiệp nhà nước.
Như vậy, do yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN, hoạt động kiểm toán đã xuất hiện ở nước ta và không ngừng
phát triển, nhất là đối với KTNN và kiểm toán độc lập. Hệ thống pháp luật về
kiểm toán nói chung và kiểm toán nhà nước nói riêng ngày càng hoàn thiện,
đặc biệt Nhà nước ta đã ban hành Luật Kiểm toán nhà nước năm 2005, Luật
Kiểm toán độc lập năm 2011 và đang xây dựng Nghị định của Chính phủ về
tổ chức và hoạt động kiểm toán nội bộ, tạo cơ sở pháp lý cho sự phát triển các
loại hình tổ chức kiểm toán ở nước ta; đồng thời là cơ sở để tăng cường pháp
chế XHCN trong hoạt động kiểm toán nói chung và hoạt động kiểm toán nhà
47
nước nói riêng. Mặt khác, trình độ phát triển kinh tế và cơ sở hạ tầng còn tạo
ra cơ sở vật chất cần thiết và điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức thực hiện
pháp luật về kiểm toán nói chung và pháp luật kiểm toán nhà nước nói riêng.
Để pháp luật về kiểm toán nhà nước được thực hiện nghiêm chỉnh, cần chú
trọng tới những vấn đề như: Kinh phí cho việc triển khai tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật về kiểm toán nhà nước; kinh phí hoạt động và cơ sở
vật chất cần thiết phù hợp với đặc thù hoạt động kiểm toán nhà nước độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật, trung thực, khách quan.
2.3.2.2. Đảm bảo về chính trị
Những bảo đảm chính trị - đó là tất cả các yếu tố của hệ thống chính trị,
nền dân chủ. Dưới CNXH, yếu tố quan trọng trong những bảo đảm chính trị
là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản với tư cách là đảng cầm quyền. Nhà nước
XHCN bảo đảm pháp chế bằng hoạt động tổ chức bộ máy nhà nước, bằng sự
giáo dục cán bộ, công chức nhà nước tinh thần tôn trọng pháp luật. Trong
hoạt động bảo đảm những quyền và nghĩa vụ của các chủ thể pháp luật, Nhà
nước cần quan hệ chặt chẽ với các tổ chức xã hội. Sự phát triển toàn diện nền
dân chủ, sự tham gia đông đảo của các tầng lớp nhân dân lao động vào quản
lý những công việc của Nhà nước, khuyến khích những sáng kiến của họ cũng
góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật và tăng cường pháp chế XHCN.
Để xây dựng KTNN trở thành công cụ mạnh về kiểm tra tài chính nhà
nước, những năm qua, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết để cập chủ trương phát
triển KTNN. Nhà nước cũng đã thể chế hoá kịp thời các nghị quyết của Đảng
thành pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của KTNN, mà
điển hình là Luật Kiểm toán nhà nước. Được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo
của Đảng và Nhà nước, địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ
chức của KTNN ngày càng được củng cố và tăng cường; KTNN từ chỗ là cơ
quan thuộc Chính phủ đã có địa vị pháp lý là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực
kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập hoạt động độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật.
48
Trong điều kiện đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền XHCN ở nước ta hiện nay, cần tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với hoạt động của cả hệ thống chính trị. Đối với cơ quan
KTNN, Đảng, Nhà nước cần quan tâm:
Thứ nhất, lãnh đạo, chỉ đạo hoàn thiện hệ thống pháp luật về kiểm toán
nhà nước, bổ sung một số điều về địa vị pháp lý, tính độc lập của KTNN và
Tổng KTNN trong Hiến pháp, hoàn thiện Luật Kiểm toán nhà nước và các
luật có liên quan tạo cơ sở pháp lý cho việc kiện toàn tổ chức, chức năng,
nhiệm vụ của KTNN.
Thứ hai, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện tổ chức và hoạt động
của KTNN để KTNN thực hiện ngày càng tốt hơn chức năng, nhiệm vụ được
giao, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng đất nước, bảo vệ tổ quốc,
cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thứ ba, Đảng, Nhà nước quan tâm đến việc sắp xếp, hoàn thiện hệ
thống các cơ quan thanh tra, kiểm tra, KTNN, nhằm nâng cao năng lực hoạt
động của từng cơ quan; đồng thời tăng cường hơn nữa sự phối hợp giữa các
cơ này trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao, phục vụ đắc lực việc
kiểm tra, giám sát của Đảng, Nhà nước trong quản lý, sử dụng ngân sách, tiền
và tài sản nhà nước, góp phần thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, thất
thoát, lãng phí, phát hiện và ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật, nâng cao
hiệu quả sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước.
Thứ tư, Bộ Chính trị, Ban Bí thư có Chỉ thị về “nâng cao hiệu lực pháp
lý và chất lượng kiểm toán nhà nước”, góp phần nâng cao nhận thức của các
ngành, các cấp về hoạt động kiểm toán nhà nước và thực hiện nghiêm các kết
luận, kiến nghị của KTNN.
Thứ năm, Đảng, Nhà nước quan tâm hơn nữa để hoàn thiện tổ chức, biên
chế và hoạt động của KTNN; đảm bảo kinh phí, phương tiện, trụ sở, thiết bị
và phương tiện làm việc, nhất là về công nghệ thông tin, để KTNN ngày càng
49
hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ được giao; quan tâm hơn nữa đến đời sống vật
chất và tinh thần đối với cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán;
có hình thức phù hợp để tôn vinh những kiểm toán viên, thanh tra viên, kiểm
tra viên có bản lĩnh, dũng khí, có nhiều thành tích đóng góp trong công cuộc
đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí.
2.3.2.3. Đảm bảo về pháp lý
Những đảm bảo pháp lý đối với hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà
nước bao gồm một số yếu tố cơ bản sau đây:
Thứ nhất, xây dựng hệ thống pháp luật về kiểm toán nhà nước đảm bảo
tính toàn diện, thống nhất và đồng bộ
- Địa vị pháp lý của KTNN, Tổng KTNN phải được quy định trong
Hiến pháp; Luật Kiểm toán nhà nước và các luật có liên quan phải phù hợp
với Hiến pháp, bảo đảm đồng bộ, thống nhất, không chồng chéo, mâu thuẫn.
- Luật Kiểm toán nhà nước và các văn bản pháp luật có liên quan phải
quy định đầy đủ các chế định pháp luật về tổ chức và hoạt động của KTNN
phù hợp yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội của đất nước trong từng thời kỳ.
- Tuân thủ các nguyên tắc, chuẩn mực kiểm toán quốc tế, thông lệ các
nước trên thế giới và phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
- Bảo đảm tính khả thi và tính ổn định tương đối.
Thứ hai, ý thức pháp luật của các chủ thể tham gia hoạt động kiểm
toán nhà nước
Ý thức pháp luật của các chủ thể tham gia hoạt động kiểm toán nhà
nước càng được nâng cao thì càng bảo đảm củng cố và tăng cường pháp chế
XHCN. Ý thức pháp luật thể hiện sự nhận thức của các chủ thể và thái độ của
họ đối với các quy định của pháp luật. Cho nên ý thức pháp luật càng được
nâng cao, mức độ hiểu biết pháp luật càng sâu thì tinh thần tôn trọng pháp
luật, thái độ tự giác xử sự theo yêu cầu của pháp luật, thực hiện pháp luật
càng được bảo đảm. Do đó, ý thức pháp luật của các chủ thể tham gia hoạt
50
động kiểm toán nhà nước là một yếu tố có ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện
pháp luật trong hoạt động kiểm toán nhà nước. Pháp luật kiểm toán nhà nước
chỉ có thể được thực hiện nghiêm chỉnh và chính xác khi các chủ thể tham gia
hoạt động kiểm toán nhà nước nắm vững, hiểu rõ, tôn trọng và thực hiện
nghiêm chỉnh; đồng thời, không thực hiện những hành vi mà pháp luật ngăn
cấm và tích cực đấu tranh ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật. Ý thức
pháp luật phụ thuộc rất nhiều vào trình độ học vấn và sự hiểu biết pháp luật
của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật. Do vậy, để nâng cao ý thức pháp
luật cho các chủ thể tham gia hoạt động kiểm toán nhà nước, cần phải đẩy
mạnh công tác tuyên truyền, tập huấn Luật Kiểm toán nhà nước và các văn
bản pháp luật có liên quan cho các cấp, các ngành, các đơn vị được kiểm toán
để nâng cao hiểu biết pháp luật, trên cơ sở đó thực hiện đúng các nghĩa vụ
theo yêu cầu và phối hợp giúp KTNN thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được
giao. Đồng thời, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức về chuyên
môn, lý luận chính trị, quản lý nhà nước, pháp luật, tin học, ngoại ngữ, hội
nhập quốc tế... cho đội ngũ cán bộ, công chức, Kiểm toán viên nhà nước, đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Thứ ba, trình độ, năng lực, phẩm chất chính trị, đạo đức của đội ngũ
cán bộ, công chức trực tiếp làm công tác kiểm toán
Chủ tịch Hồ Chí minh đã nhấn mạnh: “Cán bộ là cái gốc của mọi công
việc, công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Người
cán bộ, công chức tốt là người phải có đủ trình độ, năng lực hoàn thành tốt
công việc được giao, đồng thời là người có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt.
Trình độ, năng lực, phẩm chất chính trị, đạo đức của cán bộ, công chức là
những yếu tố quyết định bảo đảm thực hiện pháp luật đúng đắn, có hiệu quả.
Yêu cầu hoạt động kiểm toán có tính chuyên môn nghề nghiệp cao, tuân thủ
nguyên tắc hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, trung thực, khách
quan; do vậy, nếu đội ngũ Kiểm toán viên nhà nước - những người trực tiếp
51
thực hiện nhiệm vụ kiểm toán, thực thi pháp luật kiểm toán có trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ cao, có hiểu biết sâu sắc về pháp luật, có phẩm chất
đạo đức tốt, có tinh thần trách nhiệm, liêm khiết, trung thực, khách quan, sẽ
bảo đảm chất lượng và hiệu quả công tác kiểm toán, đáp ứng yêu cầu và niềm
tin của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Ngược lại, nếu trình độ, năng lực của đội
ngũ cán bộ này hạn chế, không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, phẩm chất đạo đức
không trong sáng, sẽ dẫn đến tình trạng nhũng nhiễu, hạch sách, cửa quyền, bao
che cho những hành vi vi phạm pháp luật, lợi dụng chức quyền để vụ lợi làm ảnh
hưởng trực tiếp đến chất lượng, hiệu quả công tác kiểm toán và uy tín, danh dự
của cơ quan KTNN. Như vậy, để bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật
kiểm toán nhà nước, ngoài việc tăng cường và nâng cao chất lượng công tác đào
tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ phải tăng
cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát, giáo dục, rèn luyện phẩm chất, đạo
đức, lối sống cho đội ngũ cán bộ, công chức, Kiểm toán viên nhà nước.
Thứ tư, cơ chế phối hợp thực hiện công tác kiểm toán
Để bảo đảm thực hiện pháp luật trong hoạt động kiểm toán nhà nước
một cách nghiêm chỉnh, kịp thời, chính xác các cơ quan có trách nhiệm phải
phối hợp chặt chẽ với nhau trong phạm vi trách nhiệm của mỗi cơ quan theo
quy định của pháp luật. Hoạt động kiểm toán của KTNN có phạm vi và địa
bàn rộng, có liên quan đến tất cả các cơ quan, đơn vị, tổ chức có quản lý, sử
dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước, do vậy, cần phải có sự phối hợp chặt
chẽ giữa KTNN với các cơ quan thanh tra, kiểm tra của Đảng, Nhà nước theo
chức năng của mỗi cơ quan, xây dựng cơ chế phối hợp, thường xuyên trao đổi
thông tin nhằm tránh tình trạng chồng chéo hoặc bỏ sót đối tượng thanh tra,
kiểm tra, kiểm toán; đồng thời, sử dụng kết quả thanh tra, kiểm tra, kiểm toán
trong việc giải quyết công việc của mỗi cơ quan.
Phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan KTNN với các cơ quan có liên quan
của Quốc hội, với HĐND địa phương (trước hết với HĐND cấp tỉnh) trong
52
xây dựng kế hoạch kiểm toán, thực hiện kiểm toán và giám sát thực hiện các
kết luân, kiến nghị kiểm toán của KTNN.
Phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan KTNN với các cơ quan bảo vệ pháp
luật trong việc xử lý các vụ việc vi phạm pháp luật, tham nhũng do KTNN
phát hiện thông qua hoạt động kiểm toán và kiến nghị xử lý.
Phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan KTNN với các cơ quan thông tin đại
chúng trong việc công khai kết quả kiểm toán, tuyên truyền, phổ biến pháp
luật và kết quả hoạt động kiểm toán của KTNN.
Thứ năm, hoạt động kiểm tra, giám sát phòng ngừa và ngăn chặn
những hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động kiểm toán
Hoạt động kiểm tra, giám sát của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền; của các đơn vị chức năng thuộc KTNN, của Trưởng Đoàn kiểm toán,
Tổ trưởng Tổ kiểm toán ngày càng được quy định đầy đủ và thực hiện nghiêm
túc đã có tác dụng tích cực trong việc phòng ngừa, phát hiện và xử lý kịp thời,
nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật kiểm toán nhà nước; đồng thời,
phát hiện những sơ hở trong cơ chế, chính sách, pháp luật để kiến nghị các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung cho phù hợp nhằm loại bỏ
những nguyên nhân dẫn đến vi phạm pháp luật.
2.4. YÊU CẦU CỦA NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM ĐỐI VỚI HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
Nhà nước pháp quyền là một trong những thành tựu của loài người
trong việc tổ chức và vận hành xã hội, trong đó mọi hoạt động của Nhà nước
đều phải chịu sự kiểm soát, sự chế ngự của pháp luật. Đối với nước ta, xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN là yêu cầu tất yếu khách quan của sự
nghiệp đổi mới. Do vậy, một trong các yêu cầu của việc tiếp tục đổi mới và
hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về kiểm toán nhà nước
nói riêng là cần được nhận thức và tiếp cận theo hướng dựa trên các quan
điểm của Đảng ta về “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
53
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng” thông qua
việc xem xét những yêu cầu, phương hướng và giải pháp thực hiện chúng.
Ở nước ta, khái niệm “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” lần đầu
tiên được Đảng ta sử dụng tại Hội nghị Trung ương 2 khóa VII. Từ đó khái
niệm này được sử dụng chính thức trong các văn kiện của Đảng và Nhà
nước. Những nội dung đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ngày càng định hình và thực hiện trong thực tế. Đặc biệt,
qua tổng kết 20 năm đổi mới, trong đó có 15 năm thực hiện Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm
1991), Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã thông qua Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm
2011), xác định rõ hơn những định hướng lớn về xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam:
- Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà
nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
- Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và
kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp.
- Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật
và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
- Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện
đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân
và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn
ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm
quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội,
nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.
54
- Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung
dân chủ, có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất
của Trung ương.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam theo các quan điểm
chỉ đạo nêu trên của Đảng, đặt ra yêu cầu đối với việc hoàn thiện pháp luật về
kiểm toán nhà nước như sau:
2.4.1. Bảo đảm nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp
Một trong những quan điểm cơ bản của việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam là quan điểm về quyền lực nhà nước là thống nhất, có
sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đây vừa là một quan
điểm chỉ đạo quá trình cải cách xây dựng bộ máy nhà nước, vừa là một
nguyên tắc cơ bản, quan trọng trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước ta. Ở nước ta, quyền lực nhà nước bao gồm ba quyền: Quyền lập pháp,
quyền hành pháp và quyền tư pháp; quyền lực nhà nước là tập trung thống
nhất không thể phân chia, song có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp. Để tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước, cần phải có các công cụ
kiểm soát có hiệu lực và hiệu quả, trong đó có KTNN. Do vậy, yêu cầu của
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đòi hỏi hoàn thiện pháp luật về kiểm
toán nhà nước phải xác lập cho được địa vị pháp lý của KTNN phù hợp với vị
thế là cơ quan kiểm tra tài chính nhà nước cao nhất, hoạt động độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật, nhằm tăng cường kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước trong
quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước. Muốn vậy, địa vị pháp
lý và tính độc lập của KTNN phải được quy định trong Hiến pháp theo
khuyến cáo của INTOSAI và phù hợp thông lệ của hầu hết các nước trên thế
55
giới. Dù KTNN Việt Nam thuộc Quốc hội hay Chính phủ hoặc có vị trí độc
lập với Quốc hội và Chính phủ cũng đều phải tuân thủ cơ chế: Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ, phục vụ mục tiêu xây dựng một nước
Việt Nam: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
2.4.2. Tăng cường giám sát của Quốc hội và giám sát của nhân dân
đối với hoạt động quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước
Với vị thế là cơ quan kiểm tra tài chính nhà nước cao nhất, hoạt động
của KTNN đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin phục vụ
công tác giám sát, quyết định dự toán ngân sách và phê chuẩn quyết toán ngân
sách hàng năm của Quốc hội; đồng thời, phục vụ cho việc giám sát của nhân
dân. Do vậy, yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đòi hỏi
hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước phải đáp ứng yêu cầu giám sát
của Quốc hội và giám sát của nhân dân đối với hoạt động quản lý, sử dụng
ngân sách, tiền và tài sản nhà nước, cụ thể là:
Thứ nhất, để Quốc hội quyết định dự toán NSNN, quyết định dự án,
công trình quan trọng quốc gia, KTNN thực hiện kiểm toán dự toán NSNN và
dự án, công trình quan trọng quốc gia để đưa ra ý kiến giúp Quốc hội quyết
định phù hợp với tình hình thực tế của đất nước, bảo đảm tính kinh tế, hiệu
lực, hiệu quả hoạt động quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước.
Thứ hai, để giúp Quốc hội phê chuẩn báo cáo quyết toán NSNN hàng
năm, KTNN có nhiệm vụ kiểm toán báo cáo quyết toán NSNN để đưa ra ý
kiến đánh giá, xác nhận về tính đúng đắn, trung thực của tổng số thu, chi
NSNN; đồng thời, KTNN đưa ra ý kiến đánh giá, xác nhận việc tuân thủ pháp
luật và tính kinh tế, hiệu lực, hiệu quả trong quản lý, điều hành và sử dụng
ngân sách của Chính phủ, các bộ, ngành, các tổ chức kinh tế của Nhà nước và
chính quyền địa phương… phục vụ cho hoạt động giám sát về tài chính, ngân
sách của Quốc hội.
Thứ ba, với việc công khai kết quả kiểm toán, KTNN cung cấp cho
công chúng những thông tin quan trọng, giúp cho người dân biết rõ tình hình
56
thu chi, quản lý sử dụng NSNN, tài sản và công quỹ quốc gia, tạo điều kiện để
nhân dân tham gia giám sát với tư cách là chủ nhân của đất nước.
Thứ tư, thông qua kết quả kiểm toán, KTNN kiến nghị với Quốc hội,
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các luật và cơ chế,
chính sách về quản lý kinh tế, tài chính cho phù hợp với điều kiện phát triển
kinh tế của đất nước trong từng thời kỳ.
2.4.3. Góp phần đảm bảo minh bạch các quan hệ kinh tế, tài chính,
nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách và tài sản nhà nước
Kiểm toán ra đời, phát triển do yêu cầu quản lý và phục vụ cho quản lý.
Kiểm toán là một công cụ quản lý phát triển từ thấp đến cao, gắn với hoạt
động kinh tế của con người. Ở nước ta việc thành lập và phát triển cơ quan
KTNN xuất phát từ chính yêu cầu đòi hỏi của công cuộc đổi mới và sự phát
triển của nền kinh tế thị trường, thực hiện quá trình dân chủ hoá và xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN - Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Phát
triển KTNN là một yêu cầu khách quan của quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc
dân của Nhà nước, đặc biệt là tăng cường sự kiểm tra, kiểm soát của Nhà
nước nhằm sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả NSNN và tài sản quốc gia, chống
tiêu cực, tham nhũng. Do vậy, yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam đòi hỏi hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước phải xác định rõ vai
trò của KTNN đối với nền kinh tế được thể hiện ở những nội dung sau đây:
Thứ nhất, KTNN góp phần làm minh bạch và lành mạnh các thông tin,
các quan hệ kinh tế, tài chính. Vai trò này của KTNN gắn liền với chức năng
kiểm toán báo cáo tài chính. Trong nền kinh tế thị trường, kiểm toán báo cáo
tài chính là một nhu cầu tất yếu khách quan và là một trong những biện pháp
kinh tế nhất, hiệu lực nhất để khắc phục các rủi ro thông tin trong các báo cáo
tài chính. Thông qua hoạt động kiểm toán, KTNN xác nhận tính trung thực,
hợp lý của các thông tin kinh tế, trước hết là thông tin trên các báo cáo tài
chính của các cấp chính quyền, các cơ quan, các đơn vị và các bộ phận được
57
kiểm toán. Kết quả kiểm toán được lập thành báo cáo và công bố công khai
theo quy định của pháp luật đã góp phần làm cho các thông tin về kinh tế , tài
chính được kiểm toán đáp ứng được yêu cầu trung thực, khách quan; xác nhận
độ tin cậy của báo cáo tài chính, làm căn cứ để Nhà nước đưa ra các biện
pháp quản lý phù hợp và giúp cho các đối tượng sử dụng thông tin đưa ra các
quyết định trong mối quan hệ với đơn vị được kiểm toán; đồng thời, giúp cho
các đơn vị được kiểm toán thấy rõ những tồn tại, sai sót để khắc phục nhằm
nâng cao chất lượng thông tin kinh tế, tài chính, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả
vốn, tài sản và kinh phí của Nhà nước.
Thứ hai, KTNN góp phần thúc đẩy các cơ quan nhà nước và các tổ
chức kinh tế, nâng cao chất lượng quản lý và sử dụng các nguồn lực kinh tế
một cách toàn diện cả về tính kinh tế, tính hiệu lực và hiệu quả. Yêu cầu sử
dụng một cách kinh tế, hiệu lực và hiệu quả các nguồn lực kinh tế của Nhà
nước luôn được coi là những mục tiêu hàng đầu của quản lý kinh tế tài chính
vĩ mô và vi mô. Thông qua chức năng kiểm toán hoạt động, kiểm toán đánh
giá một cách khách quan, đồng thời đưa ra những kiến nghị và tư vấn cho các
cấp, các cơ quan, đơn vị nhằm nâng cao chất lượng quản lý.
Thứ ba, KTNN góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích hợp pháp
của các chủ thể kinh tế và người lao động. Vai trò này của KTNN thể hiện
tính chất kinh tế - xã hội của kiểm toán. Thông qua các chức năng của kiểm
toán và thực hiện công khai kết quả kiểm toán, KTNN giúp cho việc xác định
đúng đắn quyền, nghĩa vụ các chủ thể kinh tế và sự phân phối kết quả hoạt
động kinh tế một cách hợp pháp, góp phần đảm bảo sự công bằng trong hoạt
động kinh tế của các tổ chức và xã hội.
2.4.4. Góp phần phòng, chống tham nhũng, làm trong sạch bộ máy
nhà nước ở nước ta hiện nay
Trong điều kiện hiện nay, Đảng và Nhà nước ta coi tham nhũng là một
“quốc nạn” và công cuộc chống tham nhũng là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn
dân và của cả hệ thống chính trị. Với vị thế là cơ quan kiểm tra tài chính nhà
58
nước, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, KTNN là một trong
những công cụ có hiệu lực góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh phòng,
chống tham nhũng ở nước ta hiện nay. Do đó, yêu cầu của Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam đòi hỏi hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước
phải xác định rõ vai trò, trách nhiệm của cơ quan KTNN trong đấu tranh
phòng, chống tham nhũng thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, KTNN là công cụ phục vụ cho việc minh bạch về tài chính
thông qua công khai kết quả kiểm toán báo cáo tài chính của các tổ chức, các
cấp ngân sách. Đây là cơ sở cho hoạt động giám sát của các cơ quan, các cấp
chính quyền, các tổ chức quần chúng và của công dân đối với công tác quản
lý tài chính, đặc biệt là các nguồn lực tài chính nhà nước.
Thứ hai, KTNN là công cụ quan trọng để phát hiện những hiện tượng,
những dấu hiệu tham ô, lãng phí, không tuân thủ pháp luật trong quản lý kinh
tế, tài chính, sử dụng kém hiệu quả các nguồn lực tài chính nhà nước… Trên
cơ sở đó, KTNN kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền kịp thời
ngăn chặn và xử lý các hành vi tham nhũng, tiêu cực theo quy định của pháp
luật. Trường hợp phát hiện hành vi tham nhũng có dấu hiệu tội phạm, KTNN
kiến nghị các cơ quan bảo vệ pháp luật xem xét xử lý về hình sự đối với
những cá nhân có liên quan theo quy định của pháp luật; các cơ quan bảo vệ
pháp luật có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ để giải quyết theo quy định của pháp
luật về tố tụng hình sự và phải thông báo kết quả giải quyết cho KTNN.
Thứ ba, trên cơ sở tính độc lập trong hoạt động kiểm toán, KTNN có
thể chủ động xây dựng kế hoạch kiểm toán hướng vào những lĩnh vực có khả
năng phát sinh tham nhũng lớn, những vấn đề bức xúc được dư luận xã hội
quan tâm nhằm giúp ngăn chặn hành vi tham nhũng. Mặt khác, từ tổng kết
thực tiễn hoạt động kiểm toán, đặc biệt là lĩnh vực tài chính nhà nước, KTNN
có thể đề xuất với Nhà nước các giải pháp hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp
luật phù hợp để góp phần phòng ngừa và ngăn chặn tham nhũng.
59
2.5. PHÁP LUẬT VỀ KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC CỦA CÁC NƯỚC TRÊN
THẾ GIỚI VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ THAM KHẢO CHO VIỆT NAM
Nghiên cứu pháp luật về kiểm toán nhà nước của các nước trên thế giới
trong điều kiện hệ thống pháp luật về kiểm toán nhà nước của Việt Nam mới
được hình thành, đang trong quá trình tiếp tục xây dựng và hoàn thiện là điều
cần thiết. Trên cơ sở tập trung vào việc nghiên cứu pháp luật về kiểm toán
nhà nước của một số nước tiêu biểu, luận án rút ra những vấn đề có tính phổ
biến của pháp luật về kiểm toán nhà nước của các nước để làm cơ sở định
hướng cho hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước ở Việt Nam.
2.5.1. Pháp luật kiểm toán nhà nước của một số nước trên thế giới
2.5.1.1. Pháp luật kiểm toán nhà nước Cộng hoà Liên bang Đức
a) Địa vị pháp lý
Địa vị pháp lý của KTNNLB được quy định trong Hiến pháp và có vị trí
độc lập với Quốc hội và Chính phủ. KTNN là một cơ quan tối cao của Liên
bang và là cơ quan kiểm tra tài chính độc lập, chỉ tuân thủ theo pháp luật.
b) Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn
KTNNLB có chức năng kiểm tra báo cáo quyết toán cũng như tính tuân
thủ và tính hiệu quả của công tác quản lý ngân sách và quản lý kinh tế.
Nhiệm vụ của KTNN Liên bang gồm: Kiểm toán toàn bộ công tác
quản lý và sử dụng ngân sách Liên bang; tư vấn cho Quốc hội và Chính
phủ, Hội đồng liên bang; báo cáo kết quả kiểm toán hàng năm để làm cơ sở
cho Quốc hội giải tỏa trách nhiệm của Chính phủ, thẩm định tính đúng đắn
và khả thi của dự luật NSNN hàng năm. Đối với các công trình trọng điểm,
KTNN tham gia kiểm toán ngay từ khâu kế hoạch trước khi được Quốc hội
thông qua.
Quyền hạn của KTNNLB, bao gồm: Kiểm tra hồ sơ và được cung cấp
thông tin không hạn chế; tham gia vào quá trình ban hành các quy định về
quyết toán và kiểm toán, kiến nghị xử lý sai phạm.
60
c) Đối tượng và phạm vi kiểm toán
Đối tượng kiểm toán của KTNNLB gồm: Cơ quan quản lý trực thuộc
Liên bang, các tài sản đặc biệt và các xí nghiệp của Liên bang; các pháp
nhân theo luật công và trực thuộc trực tiếp Liên bang; các cơ quan bảo
hiểm xã hội trực thuộc Liên bang và Bang, nếu các cơ quan này nhận các
khoản trợ cấp của Liên bang hoặc được Liên bang đứng ra bảo lãnh; các
doanh nghiệp theo luật tư có sự góp vốn của Liên bang; các pháp nhân
khác theo luật tư trong một số trường hợp nhất định. KTNNLB cũng có thể
tiến hành kiểm tra các tổ chức không thuộc hệ thống quản lý của Liên bang
nếu các tổ chức này quản lý hay tiếp nhận vốn của Liên bang.
d) Cơ chế hoạt động
KTNN Liên bang Đức hoạt động theo cơ chế đồng sự, có các Hội đồng
quyết định nằm trong cơ quan KTNNLB. Những quyết định của KTNN Liên
bang được hội đồng này thông qua theo nguyên tắc đa số. Những vấn đề vượt
ra ngoài khuôn khổ của một hội đồng hoặc vấn đề đặc biệt quan trọng thì do
Đại hội đồng quyết định.
đ) Mô hình tổ chức và nhân sự
Cơ quan KTNN Liên Bang bao gồm có các cơ quan kiểm toán khu vực
và các bộ phận kiểm toán. Tại các Bang thành lập cơ quan kiểm toán riêng theo
luật từng Bang. Chủ tịch KTNNLB do Quốc hội liên bang và Hội đồng liên bang
bầu theo đề nghị của Chính phủ, cho nhiệm kỳ 12 năm và không tái cử.
e) Xử lý vi phạm
Luật Kiểm toán liên bang có 1 điều quy định về xử lý vi phạm đối với
các uỷ viên của KTNN Liên bang.
2.5.1.2. Pháp luật kiểm toán nhà nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa
Cơ quan Kiểm toán quốc gia nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa
(CNAO) được thành lập vào th¸ng 11/1983 và trực thuộc Quốc vụ viện, chính
quyền nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện thành lập các cơ quan kiểm toán địa
61
phương của mình. Hiến pháp năm 1982 của Trung Quốc có 2 điều quy định
về KTNN (Điều 91 và Điều 109). Tháng 8/1994, Luật Kiểm toán nước Cộng
hoà nhân dân Trung Hoa được ban hành và có hiệu lực từ 1/1/1995. Ngày
21/10/1997, Quốc vụ viện ban hành Nguyên tắc thực hiện Luật Kiểm toán
nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Sau gần 30 năm xây dựng, với những nỗ
lực trong việc xây dựng cơ chế pháp lý cho KTNN, mở rộng phạm vi kiểm
toán, ban hành chuẩn mực kiểm toán và nghiên cứu các công cụ và phương
pháp kiểm toán, hoạt động kiểm toán ở Trung Quốc đã dần đi vào luật hoá, hệ
thống hoá và chuẩn hoá.
a) Địa vị pháp lý
Địa vị pháp lý của cơ quan KTNN ở Trung Quốc đã được quy định rõ
trong Hiến pháp nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Điều 91 quy định:
Quốc vụ viện lập một cơ quan KTNN để kiểm toán và kiểm tra các khoản thu,
chi của các cơ quan thuộc Quốc vụ viện, chính quyền địa phương các cấp, các
tổ chức tài chính và tiền tệ của Nhà nước, các cơ quan và xí nghiệp. Dưới sự
chỉ đạo của Thủ tướng Quốc vụ viện, cơ quan KTNN thực hiện nhiệm vụ
kiểm toán và giám sát một cách độc lập theo các văn bản QPPL, không có sự
can thiệp của các tổ chức hành chính hay cá nhân nào. Điều 109 quy định: Uỷ
ban nhân dân từ cấp huyện trở lên thành lập các cơ quan kiểm toán. Cơ quan
kiểm toán địa phương các cấp thực hiện thẩm quyền kiểm toán một cách độc
lập theo các văn bản QPPL và chịu trách nhiệm trước UBND cùng cấp và cơ
quan kiểm toán cấp trên trực tiếp.
b) Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn
Chức năng, nhiệm vụ kiểm toán
Cơ quan kiểm toán quốc gia thực hiện việc giám sát thông qua kiểm
toán đối với việc thực hiện ngân sách của Chính phủ trung ương và báo cáo
Thủ tướng Chính phủ kết quả hoạt động kiểm toán của mình; cơ quan kiểm
toán địa phương thực hiện giám sát thông qua kiểm toán việc thực hiện ngân
62
sách của cấp tương ứng và báo cáo kết quả kiểm toán cho chính quyền cùng
cấp và cho cơ quan kiểm toán cấp trên trực tiếp.
Quyền hạn kiểm toán
Cơ quan kiểm toán có quyền yêu cầu đơn vị được kiểm toán cung cấp
những tài liệu, thông tin liên quan đến thu, chi ngân sách; có quyền tiến hành
điều tra các đơn vị hoặc cá nhân liên quan đến nội dung kiểm toán và thu thập
tài liệu có giá trị chứng cứ; có quyền đình chỉ những hoạt động đang triển
khai của đơn vị được kiểm toán liên quan đến những khoản thu, chi vi phạm
các quy định của Nhà nước; kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ
sung cơ chế, chính sách, pháp luật cho phù hợp; có quyền áp dụng các biện
pháp xử phạt; chuyển hồ sơ cho cơ quan tư pháp hay cơ quan có thẩm quyền
vụ việc vi phạm pháp luật nghiêm trọng do mình phát hiện để tiếp tục điều
tra; công bố với công luận kết quả kiểm toán.
c) Đối tượng và phạm vi kiểm toán
Đối tượng và phạm vi kiểm toán của CNAO bao gồm: Việc thực hiện
ngân sách của chính quyền cấp tương ứng; thu, chi của các cơ quan ban ngành
(cả các đơn vị trực thuộc) chính quyền cấp tương ứng, báo cáo quyết toán
ngân sách chính quyền cấp dưới, việc quản lý và sử dụng các quỹ ngoài ngân
sách; thu chi của các cơ quan nhà nước; thu chi của Ngân hàng trung ương;
các khoản nợ, lợi nhuận và thua lỗ của các tổ chức tài chính nhà nước, các
DNNN; doanh nghiệp mà Nhà nước góp cổ phần chi phối; việc thực hiện
ngân sách và báo cáo quyết toán ngân sách của các dự án xây dựng của Nhà
nước; thu, chi của các quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ hay tiền quyên góp của nhân
dân và các quỹ khác có liên quan do các tổ chức được cơ quan nhà nước hoặc
Chính phủ giao cho quản lý; các khoản thu, chi, các khoản trợ giúp tài chính
và khoản vay của các tổ chức tài chính quốc tế hay Chính phủ các nước. Việc
kiểm toán trong Quân giải phóng Trung Hoa do Quân ủy Trung ương quy
định phù hợp với Luật Kiểm toán nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa.
63
d) Cơ chế hoạt động
Nội bộ cơ quan kiểm toán thực hiện chế độ trách nhiệm thủ trưởng hành
chính, cơ quan kiểm toán các cấp ở địa phương thực hiện quyền kiểm toán
độc lập theo quy định của pháp luật, chịu trách nhiệm trước UBND cùng cấp
và cơ quan kiểm toán cấp trên - cơ chế song trùng lãnh đạo.
đ) Mô hình tổ chức và nhân sự
CNAO là cơ quan Kiểm toán tối cao của Trung Quốc và một Bộ thuộc
Quốc vụ viện, do Thủ tướng Quốc vụ viện trực tiếp chỉ đạo, tổ chức và quản
lý công tác kiểm toán trên cả nước và báo cáo công tác lên Quốc vụ viện.
Cơ quan kiểm toán địa phương, đặt dưới sự lãnh đạo kép của chính
quyền cùng cấp và của cơ quan kiểm toán cấp trên trực tiếp, tổ chức và quản
lý công tác kiểm toán trong phạm vi thẩm quyền của mình. Công tác kiểm
toán của các cơ quan này được chỉ đạo chủ yếu từ cơ quan kiểm toán cấp trên
trực tiếp và thực hiện báo cáo chính quyền cùng cấp cũng như cơ quan kiểm
toán cấp trên trực tiếp.
Trong Hiến pháp có 5 điều (điều 62, 63, 67, 80, 86,) quy định liên quan
đến việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Tổng KTNN. Điều 62 quy định Tổng KTNN
phải do Thủ tướng Quốc vụ viện đề cử và do Đại hội Đại biểu nhân dân toàn
quốc quyết định. Điều 63 quy định Tổng KTNN do Đại hội Đại biểu nhân dân
toàn quốc bãi miễn. Điều 80 quy định Chủ tịch nước căn cứ vào quyết định
của Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc để bổ nhiệm, miễn nhiệm Tổng
KTNN. Điều 86 quy định Tổng KTNN là thành viên của Quốc vụ viện.
e) Xử lý vi phạm
Luật Kiểm toán nước CHND Trung Hoa có 1 chương riêng (Chương 6)
quy định về trách nhiệm pháp lý với 10 điều (từ Điều 43 đến Điều 52) quy
định khá đầy đủ và cụ thể về các biện pháp ngăn chặn, xử phạt (hành chính,
kỷ luật, hình sự) đối với các hành vi vi phạm quy định của Nhà nước về chế
độ chi tiêu ngân sách, cản trở, chống đối hoạt động kiểm toán của đơn vị được
kiểm toán và xử lý hành vi vi phạm pháp luật của KTV nhà nước.
64
2.5.1.3. Pháp luật kiểm toán nhà nước Hàn Quốc
Uỷ ban Kiểm toán của Hàn Quốc được thành lập năm 1948 (Trong năm
này, Hội đồng Thanh tra của Hàn Quốc cũng được thành lập). Năm 1963 Hàn
Quốc sáp nhập Uỷ ban Kiểm toán với Hội đồng Thanh tra thành Uỷ ban Kiểm
toán và Thanh tra Hàn Quốc (viết tắt là BAI).
a) Địa vị pháp lý
BAI là cơ quan hiến định, địa vị pháp lý, chức năng và cơ cấu tổ chức
được quy định tại các điều từ Điều 97 đến 100 của Hiến pháp. Điều 97 Hiến
pháp Hàn Quốc quy định: Thành lập Uỷ ban Kiểm toán trực thuộc Tổng
thống để kiểm tra các quyết toán, khoản thu, chi của Nhà nước, các quyết toán
khác của Nhà nước cũng như hoạt động của nền hành chính nhà nước và các
công chức của nó. BAI là cơ quan trực thuộc Tổng thống, nhưng độc lập
trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình.
b) Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn
- BAI kiểm tra báo cáo quyết toán thu chi của Nhà nước và báo cáo kết
quả kiểm tra cho Tổng thống và Quốc hội.
- BAI kiểm toán tài khoản của Nhà nước, chính quyền địa phương và tổ
chức tự quản khác ở địa phương, tổ chức được Chính phủ đầu tư nhằm đảm
bảo hạch toán hợp lý và hợp lệ. Đơn vị chịu sự kiểm toán của BAI, gồm hai
loại: Đơn vị bắt buộc kiểm toán và đơn vị tự nguyện kiểm toán.
Ngoài các nhiệm vụ kiểm toán nêu trên, BAI còn thực hiện các nhiệm
vụ về thanh tra, kiểm tra theo quy định.
c) Đối tượng, phạm vi kiểm toán
Đối tượng chịu kiểm toán bắt buộc: Tài khoản của Nhà nước; tài khoản
của chính quyền tỉnh và cơ quan tự quản khác ở địa phương; tài khoản của
Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc và tài khoản của các pháp nhân có số vốn
quá bán của Nhà nước; tài khoản của các đơn vị mà theo quy định của các
luật khác phải chịu sự kiểm toán của BAI.
65
Ngoài các đối tượng kiểm toán bắt buộc nêu trên, BAI còn có các đối
tượng kiểm toán tự nguyện.
d) Cơ chế hoạt động
BAI làm việc theo chế độ tập thể, bao gồm 7 uỷ viên hội đồng, kể cả
Chủ tịch. Hội đồng các thành viên quyết định theo đa số về các công việc
quan trọng. Để đảm bảo công việc kiểm toán được khách quan với chất lượng
cao, BAI ban hành các chuẩn mực và quy trình kiểm toán dựa trên cơ sở các
chuẩn mực của INTOSAI và phù hợp với các quy định của pháp luật Hàn
Quốc. BAI có quyền yêu cầu đơn vị được kiểm toán phải trình các quyết toán,
chứng từ, hồ sơ liên quan khi kết thúc năm tài chính; có quyền triệu tập các
các đương sự liên quan khi cần thiết hoặc niêm phong tài liệu, hồ sơ, hiện vật.
đ) Mô hình tổ chức và nhân sự
BAI được tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất bao gồm các
vụ chức năng và vụ kiểm toán chuyên ngành cấp trung ương và kiểm toán khu
vực nhưng không đặt trụ sở ở các địa phương.
Chủ tịch BAI do Tổng thống bổ nhiệm với sự đồng ý của Quốc hội,
nhiệm kỳ là 04 năm và chỉ có thể được tái bổ nhiệm một nhiệm kỳ. Các uỷ
viên khác của BAI do Tổng thống bổ nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch BAI.
e) Xử lý vi phạm
Luật Kiểm toán nhà nước Hàn Quốc, có 1 điều (Điều 51) về xử phạt,
quy định cụ thể về mức phạt tù, phạt tiền hoặc xử lý kỷ luật đối với những
hành vi vi phạm trách nhiệm pháp lý, cản trở, chống đối hoạt động kiểm toán
của các cá nhân có liên quan đến hoạt động kiểm toán.
2.5.2. Những giá trị tham khảo cho hoàn thiện pháp luật về kiểm
toán nhà nước ở Việt Nam
Qua việc nghiên cứu các định hướng cơ bản về kiểm tra tài chính công
của Tuyên bố Lima của INTOSAI và những kinh nghiệm của pháp luật về
kiểm toán nhà nước của một số nước trên thế giới cho thấy:
66
Một là, mặc dù các cơ quan KTNN đều có mục đích hoạt động giống
nhau và chức năng, nhiệm vụ không mấy khác nhau, nhưng do những nguyên
nhân nội tại của từng nước mà việc xác định địa vị pháp lý của các cơ quan
KTNN không hoàn toàn giống nhau. Điều đó tùy thuộc vào điều kiện chính
trị, kinh tế, xã hội của mỗi nước, tùy thuộc vào thể chế chính trị và tổ chức
nhà nước của từng quốc gia. Tuy nhiên, dù theo mô hình nào thì cơ quan
KTNN cũng phải được thiết kế là hệ thống kiểm soát từ bên ngoài đối với các
đơn vị được kiểm toán.
Hai là, độc lập khách quan là vấn đề cốt tử có tính nguyên tắc trong
hoạt động kiểm toán. KTNN là cơ quan kiểm toán từ bên ngoài đối với tính
hợp pháp, tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả của quản lý tài chính do các cơ
quan, tổ chức của Nhà nước thực hiện. Hoạt động của KTNN liên quan tới
việc nâng cao trách nhiệm giải trình của Chính phủ đối với quản lý tài chính
và nền hành chính công, liên quan lợi ích và trách nhiệm của đơn vị được
kiểm toán. Do vậy, cơ quan KTNN chỉ có thể hoàn thành nhiệm vụ của mình
một cách khách quan, hiệu lực khi nó độc lập với đơn vị được kiểm toán và
được bảo vệ trước các ảnh hưởng từ bên ngoài. Tính độc trong hoạt động
kiểm toán của KTNN phải được bảo đảm về mặt pháp lý; pháp luật phải bảo
đảm tính độc lập của KTNN trên các mặt cơ bản: Độc lập về địa vị pháp lý,
độc lập về nhân sự, đặc biệt là nhân sự cấp cao của KTNN và độc lập về kinh
phí hoạt động của KTNN.
Ba là, để đảm bảo tính độc lập của KTNN, Tổng KTNN do Quốc hội bầu,
miễn nhiệm, bãi nhiệm với nhiệm kỳ dài hơn nhiệm kỳ của Quốc hội; kinh phí
hoạt động của KTNN do Quốc hội quyết định theo đề nghị của KTNN.
Bốn là, chức năng, đối tượng và phạm vi kiểm toán của KTNN dù theo
phương án nào cũng cần được xác định rõ: KTNN thực hiện kiểm toán báo
cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động đối với mọi cơ quan,
đơn vị, tổ chức có quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước.
67
Năm là, để KTNN hoạt động có hiệu quả cần phải quy định địa vị pháp
lý của KTNN trong Hiến pháp. Tùy theo điều kiện cụ thể của mỗi nước, các
quy định về thiết chế Kiểm toán Nhà nước có thể được quy định tại một
chương, mục, phần riêng hoặc xếp vào mục chung các thiết chế độc lập hoặc
nằm trong cùng chương với cơ quan thuộc nhánh quyền lực mà Kiểm toán
Nhà nước trực thuộc, song, nguyên tắc độc lập và tối cao trong kiểm toán của
cơ quan KTNN vẫn là nội dung hiến định phổ biến nhất.
Sáu là, để bảo đảm hiệu lực của hoạt động kiểm toán và tính nghiêm
minh của pháp luật, cần có những quy định cụ thể về xử lý hành vi vi phạm
pháp luật kiểm toán nhà nước, nhất là những hành vi không thực hiện hoặc
thực hiện không đầy đủ các kết luận, kiến nghị kiểm toán của KTNN.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Bằng phương pháp tiếp cận khoa học để xác định những nội dung quan
trọng liên quan đến hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước đáp ứng yêu
cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay, luận án đã tập
trung phân tích làm rõ các đặc điểm của KTNN và trên cơ sở đó đưa ra khái
niệm KTNN với tư cách là một thiết chế của Nhà nước.
Dưới góc độ luật học, luận án đã luận giải và xây dựng khái niệm và
nội dung điều chỉnh của pháp luật về kiểm toán nhà nước; nhận diện và phân
tích các đặc điểm và vai trò của pháp luật về kiểm toán nhà nước, các tiêu chí
và điểu kiện đảm bảo hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước.
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện
nay, luận án đã phân tích để khẳng định vai trò quan trọng của pháp luật về
kiểm toán nhà nước; chỉ rõ yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN đối với
việc hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước trên cơ sở những căn cứ và
tiêu chí khoa học.
Trong xu thế hội nhập quốc tế, trong đó có hội nhập về KTNN, luận án
đã tập trung đi sâu nghiên cứu pháp luật kiểm toán nhà nước của một số nước
68
trên thế giới về các khía cạnh: Địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn, cơ chế hoạt động, mô hình tổ chức và nhân sự, xử lý vi phạm để rút ra
kinh nghiệm và chọn lọc những yếu tố hợp lý có thể tham khảo trong quá
trình hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước ở nước ta hiện nay.
Qua việc phân tích một cách toàn diện, có hệ thống những vấn đề nêu
trên, có thể khẳng định hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước đáp ứng
yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay là hoàn
toàn có cơ sở khoa học và là yêu cầu tất yếu khách quan.
69
Chương 3
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG
PHÁP LUẬT VỀ KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
3.1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VỀ
KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
3.1.1. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của Kiểm toán
Nhà nước ở Việt Nam
Ở Việt Nam, KTNN được thành lập và hoạt động theo Nghị định số
70/CP ngày 11 tháng 7 năm 1994 của Chính phủ về việc thành lập cơ quan
KTNN, Quyết định số 61/TTg ngày 24 tháng 1 năm 1995 của Thủ tướng
Chính phủ về việc ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của KTNN. Đây là
cơ quan mới ra đời trong công cuộc đổi mới của đất nước và tiến trình cải
cách nền hành chính quốc gia. Sự ra đời và phát triển KTNN là một tất yếu
khách quan, đánh dấu một bước phát triển mới của hệ thống các công cụ kiểm
tra, kiểm soát ở Việt Nam trong điều kiện mới. Sự ra đời của KTNN khẳng
định quyết tâm của Đảng, Nhà nước ta lập lại trật tự, kỷ cương trong quản lý
kinh tế, tài chính; tăng cường tính công khai, minh bạch nền tài chính quốc gia;
góp phần thực thi dân chủ xã hội chủ nghĩa và chống tiêu cực, tham nhũng.
Ngày 14/6/2005 Luật Kiểm toán nhà nước được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 7
thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2006 đã mở ra giai đoạn phát
triển mới của KTNN, với địa vị pháp lý được nâng cao: “Kiểm toán Nhà nước là
cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành
lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” [46].
Sau gần 20 năm hoạt động, từ một cơ quan mà trước đó chưa có tiền lệ,
KTNN vừa xây dựng tổ chức bộ máy, tuyển dụng và đào tạo cán bộ vừa tổ
chức triển khai hoạt động kiểm toán; KTNN đã từng bước khẳng định được vị
trí, vai trò của mình trong cơ cấu bộ máy nhà nước; khẳng định được sự cần
70
thiết, tính tất yếu khách quan đối với hoạt động của cơ quan KTNN với tư
cách là một trong những công cụ hữu hiệu của Nhà nước trong việc kiểm tra,
kiểm soát hoạt động quản lý ngân sách, tiền và tài sản nhà nước trong nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN. KTNN đã thực hiện hàng nghìn cuộc
kiểm toán với quy mô lớn nhỏ khác nhau tại các đơn vị có sử dụng ngân sách,
tiền và tài sản nhà nước trên hầu khắp các lĩnh vực, kể cả lĩnh vực dự trữ quốc
gia, an ninh, quốc phòng và ngân sách Đảng mà trọng tâm là kiểm toán báo
cáo quyết toán của các bộ, ngành, các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung
ương, các Tổng công ty nhà nước và các chương trình mục tiêu quốc gia, các
dự án đầu tư xây dựng cơ bản trọng điểm của Nhà nước. Kết quả kiểm toán
không chỉ giúp cho các bộ, ngành, địa phương điều chỉnh số liệu kế toán và
báo cáo quyết toán, chỉ ra nhiều sai phạm chính sách, chế độ quản lý kinh tế,
tài chính, kiến nghị tăng thu, tiết kiệm chi và đưa vào quản lý qua NSNN
hàng chục nghìn tỷ đồng; mà điều quan trọng hơn là kết quả kiểm toán đã
giúp cho Quốc hội trong công tác quyết định và giám sát thực hiện NSNN,
chính sách tài chính và tiền tệ quốc gia; giúp các đơn vị được kiểm toán nhìn
nhận và đánh giá đúng đắn thực trạng tình hình tài chính, khắc phục được
những yếu kém sơ hở trong quản lý kinh tế và sản xuất kinh doanh, cải tiến và
hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ; đề xuất, kiến nghị với Chính phủ và các
cơ quan chức năng về những sơ hở trong công tác quản lý, những bất cập nảy
sinh trong cơ chế, chính sách để kịp thời sửa đổi, bổ sung cho phù hợp; đồng
thời, hoạt động của KTNN đã góp phần đấu tranh chống tham nhũng, lãng
phí, thất thoát công quỹ và tài sản quốc gia, xác lập trật tự, kỷ cương trong
quản lý kinh tế, tài chính.
3.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về kiểm toán
nhà nước ở Việt Nam
Ở nước ta KTNN là cơ quan mới được thành lập trong thời kỳ đổi mới
và là một cơ quan mới trong cơ cấu tổ chức của Nhà nước mà trước đó chưa
71
có tiền thân về tổ chức và tiền lệ về hoạt động. Do vậy, quá trình phát triển
của KTNN cũng chính là quá trình xây dựng và phát triển của pháp luật về
kiểm toán nhà nước, mà trước hết là việc xác lập và phát triển về địa vị pháp
lý của KTNN. Căn cứ vào quá trình xác lập và phát triển địa vị pháp lý của
KTNN thể hiện trong các văn bản QPPL về KTNN do các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền ban hành, quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về
kiểm toán nhà nước ở Việt Nam được phân thành hai giai đoạn sau đây:
3.1.2.1. Giai đoạn từ khi thành lập đến khi Quốc hội khoá XI thông
qua Luật Kiểm toán nhà nước
Trong giai đoạn đầu, KTNN được tổ chức và hoạt động dựa trên 2 văn
bản QPPL là Nghị định số 70/CP ngày 11/7/1994 của Chính phủ về việc
thành lập cơ quan KTNN và Quyết định số 61/TTg ngày 24/01/1995 của Thủ
tướng Chính phủ về việc ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của KTNN.
Để đảm bảo cơ sở pháp lý cho KTNN hoạt động trong điều kiện chưa
có Luật Kiểm toán nhà nước, trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật,
Nhà nước ta đã bổ sung một số QPPL trong các luật có liên quan để đảm bảo
cho hoạt động kiểm toán ở các lĩnh vực đó, cụ thể là:
Luật NSNN (ban hành năm 1996) có các điều 69, 70, 73, 74 quy định
về hoạt động KTNN trong lĩnh vực NSNN.
Luật Doanh nghiệp nhà nước (ban hành năm 1995) có Điều 12 quy định
về nghĩa vụ của doanh nghiệp nhà nước trong thực hiện chế độ kiểm toán.
Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (ban hành năm 1997) có Điều 48
quy định về Báo cáo tài chính của Ngân hàng Nhà nước phải được KTNN
kiểm toán và xác nhận.
Đặc biệt Luật NSNN được Quốc hội khoá XI thông qua tại kỳ họp thứ 2,
ngày 16/12/2002 đã xác định tính độc lập, quy định chức năng của KTNN
trong kiểm toán NSNN và trách nhiệm báo cáo kết quả kiểm toán với Quốc
hội, UBTV Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan khác theo quy định của pháp
72
luật; thực hiện kiểm toán khi Quốc hội, UBTV Quốc hội, Chính phủ có yêu
cầu. Đây là văn bản pháp lý rất quan trọng quy định đầy đủ hơn chức năng,
nhiệm vụ của KTNN, đặt nền tảng cho việc xác định địa vị pháp lý, chức
năng và nhiệm vụ của KTNN trong Luật Kiểm toán nhà nước sau này.
Tuy nhiên, cũng dễ dàng nhận thấy các quy định về KTNN trong giai
đoạn đầu mới thành lập được quy định tản mạn trong nhiều văn bản khác
nhau, nhìn chung còn rất thiếu và chưa đồng bộ. Trực tiếp điều chỉnh về tổ
chức và hoạt động của KTNN mới chỉ dừng ở Nghị định của Chính phủ và
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ nên xét về hình thức văn bản thì giá trị
pháp lý chưa cao, chưa bao quát đầy đủ các vần đề về tổ chức và hoạt động
của KTNN. Nội dung pháp luật về kiểm toán nhà nước trong giai đoạn này
cũng còn rất hạn chế. Qua nghiên cứu cho thấy, những quy định của Nghị
định 70/CP và Quyết định 61/TTg và các luật có liên quan mới chỉ điều chỉnh
tổng quan về địa vị pháp lý, tổ chức và hoạt động của KTNN; đồng thời, ngay
trong từng nội dung cụ thể cũng bộc lộ nhiều hạn chế và bất cập, cụ thể là:
a) Địa vị pháp lý của cơ quan KTNN
Theo quy định tại Điều 1 của Nghị định số 70/CP và Điều 1 của Điều lệ
tổ chức và hoạt động của KTNN, KTNN được thành lập để: “... giúp Thủ
tướng Chính phủ thực hiện chức năng kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, hợp
pháp của tài liệu và số liệu kế toán, báo cáo quyết toán của các cơ quan Nhà
nước, các đơn vị sự nghiệp, đơn vị kinh tế Nhà nước và các đoàn thể quần
chúng, các tổ chức xã hội sử dụng kinh phí do ngân sách nhà nước cấp”. Quy
định này chưa xác định rõ địa vị pháp lý của cơ quan KTNN trong tổ chức bộ
máy của Nhà nước ta. Tuy nhiên, có thể hiểu một cách gián tiếp KTNN là cơ
quan thuộc Chính phủ thông qua quy định cơ cấu tổ chức của KTNN bao gồm
các đơn vị có vị trí tương đương cấp vụ tại Điều 6 của Điều lệ tổ chức và hoạt
động của KTNN. Phải đến khi Quốc hội thông qua đạo Luật NSNN đầu tiên
của nước ta (Luật NSNN năm 1996), địa vị pháp lý của KTNN mới được quy
định rõ: "Kiểm toán Nhà nước là cơ quan thuộc Chính phủ" (Điều 73).
73
Như vậy, theo các quy định của Nhà nước ở giai đoạn này, địa vị pháp
lý của cơ quan KTNN Việt Nam là cơ quan thuộc Chính phủ; hoạt động
KTNN chịu sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
Việc xác lập địa vị pháp lý của KTNN ở nước ta trong giai đoạn này có
những ưu điểm nhất định:
Thứ nhất, việc xác định KTNN là cơ quan thuộc Chính phủ với những
quy định về quyền và trách nhiệm cụ thể là cơ sở pháp lý để KTNN thực hiện
việc kiểm toán báo cáo tài chính của các cơ quan, tổ chức, đơn vị sử dụng
NSNN, phát huy được vai trò của KTNN trong thực tiễn.
Thứ hai, với vị trí là cơ quan thuộc Chính phủ, pháp luật đã có những
quy định cụ thể về cơ cấu tổ chức của hệ thống KTNN, đã đảm bảo được sự
độc lập ở mức độ cần thiết đối với các đối tượng kiểm toán, làm cơ sở cho
việc thực hiện các nhiệm vụ do Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo.
Bên cạnh những yếu tố tích cực, việc xác định địa vị pháp lý của
KTNN trong giai đoạn này còn có những mặt hạn chế:
Thứ nhất, thực chất địa vị pháp lý của cơ quan KTNN được quy định
tại văn bản pháp luật cao nhất là Luật NSNN, một đạo luật ra đời nhằm điều
chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình hình thành và sử dụng NSNN; do
vậy, nó thiếu những quy định toàn diện và đầy đủ về KTNN.
Thứ hai, với tư cách là cơ quan thuộc Chính phủ, KTNN không có
thẩm quyền ban hành văn bản QPPL để hướng dẫn, chỉ đạo chuyên môn
nghiệp vụ kiểm toán. Đây là những văn bản quan trọng quy định về chuẩn
mực, quy trình và phương pháp chuyên môn nghiệp vụ kiểm toán có liên quan
đến các đơn vị là đối tượng kiểm toán, song do KTNN không có thẩm quyền
ban hành văn bản QPPL nên giá trị pháp lý của những văn bản này bị hạn chế
(chỉ là những quy định nội bộ), làm giảm hiệu lực hoạt động của KTNN.
Thứ ba, việc quy định địa vị pháp lý của KTNN là cơ quan thuộc Chính
phủ còn hạn chế về tính độc lập của KTNN trong việc kiểm toán các đơn vị
74
có địa vị pháp lý cao hơn mình; đặc biệt khi mở rộng các loại hình kiểm toán
thì Chính phủ vừa là chủ thể quản lý các nguồn tài chính nhà nước và tài sản
công, vừa chỉ đạo kiểm toán, nên tính độc lập của KTNN sẽ bị hạn chế.
b) Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của KTNN
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của KTNN chủ yếu được quy định
trong Điều 1, Điều 2 Nghị định 70/CP của Chính phủ và được cụ thể hoá
trong các điều 1, 2, 3, 4, 5 của Điều lệ tổ chức và hoạt động của KTNN, cụ
thể như sau:
- Về chức năng “KTNN thực hiện chức năng kiểm tra, xác nhận tính
đúng đắn, hợp pháp của các số liệu, tài liệu kế toán, báo cáo quyết toán...”.
Như vậy, trong thời gian đầu mới thành lập, KTNN mới chỉ thực hiện chức
năng kiểm toán báo cáo tài chính, là một trong ba chức năng của KTNN. Đây
là chức năng truyền thống của KTNN ở các nước trên thế giới và cũng là
nhiệm vụ chủ yếu của KTNN trong giai đoạn đầu thành lập.
- Về nhiệm vụ, KTNN có nhiệm vụ tổ chức, quản lý bộ máy và chỉ đạo
hoạt động để thực hiện kế hoạch kiểm toán đã được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt. Các quy định về nhiệm vụ của KTNN tương đối phù hợp với chức
năng được giao; trong đó, các quy định về việc nhận xét, đánh giá việc chấp
hành các chính sách tài chính, chế độ kế toán, góp ý với đơn vị được kiểm
toán... là hết sức cần thiết và phù hợp với thông lệ quốc tế.
- Về quyền hạn và trách nhiệm của KTNN, các quy định trong Điều 5
(gồm 9 điểm) đã tạo cơ sở pháp lý cho KTNN thực hiện được nhiệm vụ của
mình; đồng thời cũng xác định rõ trách nhiệm của KTNN trước pháp luật.
Có thể đánh giá khái quát là trong điều kiện mới thành lập, KTNN
được giao thực hiện chức năng, nhiệm vụ kiểm toán báo cáo tài chính về cơ
bản là phù hợp đã tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động của KTNN ở nước ta.
Tuy nhiên, qua thực tiễn hoạt động những quy định về chức năng, nhiệm
vụ và quyền hạn của KTNN nêu trên đã bộc lộ những hạn chế nhất định:
75
Thứ nhất, việc quy định chức năng kiểm toán báo cáo tài chính mới chỉ
thực hiện một phần chức năng kiểm toán của KTNN: Kiểm toán báo cáo tài
chính, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động. Chính việc quy định chức
năng của KTNN chỉ giới hạn trong kiểm toán báo cáo tài chính là một sự ràng
buộc pháp lý làm hạn chế khả năng phát triển của KTNN. Do vậy, xét về lâu dài
để phát huy cao nhất vai trò của KTNN phục vụ cho Nhà nước trong quản lý các
nguồn lực tài chính nhà nước và tài sản công thì chức năng kiểm toán tuân thủ và
chức năng kiểm toán hoạt động cần được xác định cho KTNN là tất yếu.
Thứ hai, về nhiệm vụ: Cũng chính sự hạn chế về chức năng KTNN đã
hạn chế phạm vi hoạt động của KTNN; việc KTNN là cơ quan thuộc Chính
phủ không có thẩm quyền ban hành văn bản QPPL, đặc biệt là trong giai đoạn
đầu mới thành lập, các quy định pháp lý về KTNN chưa đầy đủ cần phải khẩn
trương xây dựng và ban hành, đã làm giảm hiệu lực hoạt động của KTNN.
Thứ ba, về quyền hạn của KTNN: Một trong những quyền quan trọng
của KTNN là công bố kết quả kiểm toán trước công luận, song chưa được quy
định trong quyền hạn của KTNN. Đây là một hạn chế lớn đối với hiệu lực của
các kết luận của KTNN, vì việc công bố kết quả kiểm toán trên các phương
tiện thông tin đại chúng sẽ tạo ra áp lực mạnh mẽ của công luận - một giải
pháp quan trọng đảm bảo được hiệu lực, hiệu quả của hoạt động KTNN. Mặt
khác, việc công bố công khai kết quả kiểm toán cũng là biện pháp thiết thực
để thực hiện cơ chế dân chủ trong nhà nước pháp quyền và là một trong
những biện pháp quan trọng để góp phần phòng, chống tham nhũng.
c) Đối tượng và phạm vi kiểm toán
Điều 2 của của Điều lệ tổ chức và hoạt động của KTNN đã xác định đối
tượng của KTNN bao gồm số liệu kế toán và báo cáo kế toán của: Các cơ
quan trong hệ thống Nhà nước; các đoàn thể quần chúng, xã hội sử dụng kinh
phí từ NSNN; các đơn vị sự nghiệp công; các chương trình, dự án, công trình
đầu tư của Nhà nước; các DNNN và Tổng quyết toán NSNN, quyết toán ngân
sách các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
76
Như vậy, đối tượng kiểm toán được xác định là phù hợp với chức năng
kiểm toán báo cáo tài chính của các đơn vị sử dụng kinh phí NSNN hoặc có
nguồn gốc từ NSNN. Đặc biệt, đối tượng kiểm toán của KTNN gồm các báo
cáo tài chính của các DNNN là rất cần thiết vì đó là các đơn vị kinh tế nắm
giữ và sử dụng một khối lượng lớn tiền và tài sản của Nhà nước.
Tuy nhiên, việc xác định đối tượng kiểm toán của KTNN như trên còn
có những hạn chế nhất định, cụ thể là:
Thứ nhất, xác định đối tượng kiểm toán là số liệu kế toán và báo cáo kế
toán mới chỉ là đối tượng kiểm toán của loại hình kiểm toán báo cáo tài chính,
chưa bao quát hết đối tượng kiểm toán của KTNN là hoạt động có liên quan
đến quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước.
Thứ hai, trong hệ thống tài chính nhà nước còn có các quỹ (quỹ dự trữ
quốc gia; quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển...) có vị trí quan trọng trong sự ổn định
và phát triển nguồn lực tài chính nhà nước; song các quỹ này chưa được xác
định cụ thể là đối tượng kiểm toán, đây là một hạn chế cần được hoàn thiện.
Thứ ba, các tổ chức tài chính tiền tệ mới hình thành đang ngày càng
phát triển trong nền kinh tế thị trường Việt Nam và có tác động đến lợi ích
của nhiều người dân và nền tài chính quốc gia mà Nhà nước là người đại diện
cần có trách nhiệm đánh giá, kiểm tra; song cũng chưa được quy định cụ thể
là đối tượng kiểm toán của KTNN.
d) Mô hình và cơ cấu tổ chức bộ máy
Chương III của Điều lệ tổ chức và hoạt động của KTNN đã quy định về
cơ cấu tổ chức bộ máy KTNN, trong đó xác định, ngoài các đơn vị chức năng
(Văn phòng, Trung tâm KH và BDCB), tổ chức chuyên môn kiểm toán của
KTNN gồm 4 KTNN chuyên ngành và các KTNN khu vực. Tổ chức bộ máy
và phương thức quản lý hệ thống KTNN được thực hiện theo nguyên tắc tập
trung thống nhất. Đây là mô hình tổ chức bộ máy có vai trò rất tích cực bảo
đảm tính độc lập cần thiết trong hoạt động kiểm toán của KTNN; đảm bảo sự
77
chỉ đạo thống nhất từ Thủ tướng Chính phủ, Tổng KTNN đến các đơn vị
thuộc và trực thuộc trên tất cả các mặt: Tổ chức bộ máy, nhân sự, kế hoạch
kiểm toán, phương thức hoạt động...
Tuy nhiên, có thể thấy một vài điểm hạn chế trong mô hình tổ chức của
KTNN ở giai đoạn đầu mới thành lập như sau:
Thứ nhất, mô hình tổ chức và quản lý “tập trung thống nhất” bảo đảm
tính độc lập cao cho hoạt động của KTNN; tuy nhiên, khi quy mô tổ chức của
KTNN được mở rộng để đáp ứng yêu cầu kiểm toán thường xuyên đối với các
đối tượng kiểm toán thì sẽ tạo gánh nặng về quản lý lên Tổng KTNN. Để
khắc phục tồn tại trên, cần kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực bộ máy giúp
việc; tăng cường phân cấp và mở rộng thẩm quyền cho các KTNN khu vực.
Thứ hai, KTNN chuyên ngành và KTNN khu vực có địa vị pháp lý
ngang nhau, đều là đơn vị trực thuộc KTNN thực hiện chức năng kiểm toán,
song việc quy định KTNN chuyên ngành có trách nhiệm xây dựng các văn
bản về chuyên môn nghiệp vụ kiểm toán và chỉ đạo về chuyên môn nghiệp vụ
đối với các KTNN khu vực là không hợp lý.
Thứ ba, trong thực tiễn hoạt động, việc phân định phạm vi, trách nhiệm
kiểm toán giữa KTNN chuyên ngành và KTNN khu vực còn chưa rõ ràng dẫn
đến những chồng chéo và thiếu sự phối kết hợp trong hoạt động kiểm toán đã
làm giảm hiệu quả hoạt động của từng đơn vị cũng như của toàn ngành.
Như vậy, về cơ bản những quy định về mô hình tổ chức của KTNN
trong giai đoạn đầu mới thành lập là đúng hướng, có nhiều mặt tích cực; song,
việc quy định cụ thể trên các mặt phân công, phân nhiệm, cơ cấu bộ máy,
quan hệ lãnh đạo, chỉ đạo... còn phải tiếp tục được nghiên cứu hoàn thiện
cùng với quá trình phát triển quy mô, chức năng, nhiệm vụ của KTNN.
Sau hơn 10 năm xây dựng và phát triển, cơ sở pháp lý cho hoạt động,
kiểm tra, kiểm soát về tài chính và tài sản nhà nước của KTNN là Nghị định
số 70/CP ngày 11/7/1994 và Quyết định số 61/TTg ngày 24/01/1995 của Thủ
78
tướng Chính phủ đã bộc lộ nhiều vấn đề hạn chế, nhất là về chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của KTNN cũng như loại hình kiểm toán mà
KTNN được thực thi. Để khắc phục những hạn chế nêu trên; đồng thời, hoàn
thiện một bước cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động của KTNN cho phù
hợp với yêu cầu cải cách nền hành chính nhà nước, ngày 13/8/2003 Chính
phủ ban hành Nghị định số 93/2003/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của KTNN. Nghị định số 93/2003/NĐ-CP của
Chính phủ đã bổ sung một số chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của KTNN (so với Nghị định số 70/CP của Chính phủ), cụ thể là:
a) Về địa vị pháp lý của KTNN (Điều 1)
Tại Điều 1 Nghị định số 93/2003/NĐ-CP quy định: “Kiểm toán Nhà
nước là cơ quan thuộc Chính phủ ". Nghị định số 93/2003/NĐ-CP của Chính
phủ tuy vẫn quy định KTNN là cơ quan thuộc Chính phủ, song cũng đã thể
hiện bước tiến quan trọng trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật về
kiểm toán nhà nước, lần đầu tiên địa vị pháp lý của KTNN được quy định
trong một văn bản QPPL về kiểm toán nhà nước.
b) Về chức năng của KTNN (Điều 1)
Nghị định 93/2003/NĐ-CP quy định tương đối đầy đủ và toàn diện
chức năng của KTNN là kiểm toán báo cáo tài chính; kiểm toán đánh giá tính
tuân thủ pháp luật, tính kinh tế trong quản lý, sử dụng NSNN và tài sản công
đã khắc phục được những bất cập của Nghị định 70/CP. Ngoài chức năng
kiểm toán tài chính, KTNN của các nước trên thế giới đều thực hiện kiểm
toán tuân thủ để kiểm tra, đánh giá sự tuân thủ pháp luật và thực hiện kiểm
toán hoạt động để đánh giá tính kinh tế, tính hiệu lực, hiệu quả trong hoạt
động của các đơn vị, tổ chức có sử dụng NSNN và tài sản công. Vì vậy, Nghị
định mới quy định chức năng của KTNN là kiểm toán báo cáo tài chính; kiểm
toán đánh giá tính tuân thủ pháp luật, tính kinh tế trong quản lý, sử dụng
NSNN và tài sản công là khá đầy đủ và toàn diện. Đối tượng và phạm vi kiểm
79
toán cũng được xác định rõ ràng hơn, vừa đảm bảo tính cụ thể, vừa đảm bảo
tính khái quát cao hơn theo tinh thần Nghị quyết của Đảng "Đề cao vai trò
của cơ quan Kiểm toán Nhà nước trong việc kiểm toán mọi cơ quan, tổ chức
có sử dụng ngân sách nhà nước".
c) Về nhiệm vụ và quyền hạn của KTNN (Điều 2)
Ngoài sự kế thừa những nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Nghị định số
70/CP của Chính phủ và Điều lệ về tổ chức và hoạt động của KTNN, Nghị
định số 93/2003/NĐ-CP của Chính phủ đã thể chế hoá một số nhiệm vụ của
KTNN theo chủ trương đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước,
cải cách hành chính, minh bạch tài chính và tăng cường kiểm tra tài chính nhà
nước; bổ sung nhiệm vụ quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực, cụ thể là:
- Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ hoặc Bộ trưởng được Thủ
tướng Chính phủ phân công các dự án, dự thảo văn bản QPPL về kiểm toán
nhà nước; chiến lược, quy hoạch phát triển, kế hoạch dài hạn 5 năm và hàng
năm về KTNN và tổ chức thực hiện các văn bản QPPL, chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch sau khi được phê duyệt.
- Ban hành, hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện các tiêu chuẩn,
quy trình, quy phạm và các phương pháp chuyên môn, nghiệp vụ kiểm toán
áp dụng trong các đơn vị trực thuộc KTNN theo quy định của pháp luật;
- Khi thực hiện nhiệm vụ kiểm toán, KTNN độc lập, chỉ tuân theo pháp
luật; chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết luận kiểm toán của mình;
- Công khai báo cáo kết quả kiểm toán hàng năm theo quy định của
pháp luật;
- Kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, chống tham nhũng, lãng phí,
tiêu cực và xử lý vi phạm trong hoạt động kiểm toán nhà nước đối với cán bộ,
công chức, viên chức thuộc thẩm quyền quản lý của KTNN;
- Tổ chức công tác thông tin, tuyên truyền và phổ biến, giáo dục pháp
luật về kiểm toán nhà nước.
80
d) Về cơ cấu tổ chức của KTNN (Điều 4)
Nghị định 93/2003/NĐ-CP tiếp tục khẳng định mô hình tổ chức tập
trung, thống nhất của KTNN, quy định cơ cấu tổ chức của KTNN gồm 19 đơn
vị, trong đó có 16 đơn vị giúp Tổng KTNN thực hiện chức năng, nhiệm vụ và
3 đơn vị sự nghiệp; tăng thêm 6 đầu mối, trong đó thành lập mới các đơn vị:
Vụ Giám định và kiểm tra chất lượng kiểm toán để thực hiện nhiệm vụ
xây dựng, hướng dẫn và kiểm tra thực hiện các chuẩn mực, quy trình, phương
pháp chuyên môn nghiệp vụ, mẫu biểu hồ sơ kiểm toán; giúp Tổng KTNN
kiểm tra, thẩm định các báo cáo kiểm toán trình Tổng KTNN; thanh tra, kiểm
tra chất lượng kiểm toán và đạo đức nghề nghiệp của KTV; giúp Tổng KTNN
giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước.
Vụ Pháp chế có chức năng giúp Tổng KTNN thực hiện việc quản lý
ngành KTNN bằng pháp luật; tổ chức thực hiện việc soạn thảo các dự án, dự
thảo văn bản QPPL về kiểm toán nhà nước trình cơ quan có thẩm quyền ban
hành, thẩm định, rà soát, hệ thống hoá văn bản QPPL, phổ biến, giáo dục
pháp luật, kiểm tra việc thực hiện các văn bản QPPL và thực hiện các nhiệm
vụ khác theo quy định của pháp luật đối với tổ chức pháp chế ở các Bộ, cơ
quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.
Các KTNN chuyên ngành: Trên cơ sở 4 KTNN chuyên ngành, Nghị
định 93/2003/NĐ-CP quy định thành 7 tổ chức KTNN chuyên ngành theo
hướng chuyên môn hóa các đối tượng kiểm toán với quy mô phù hợp hơn,
bao gồm: Kiểm toán NSNN I; Kiểm toán NSNN II; Kiểm toán Đầu tư - Dự án
I; Kiểm toán Đầu tư - Dự án II; Kiểm toán Doanh nghiệp Nhà nước; Kiểm
toán Các tổ chức tài chính - ngân hàng; Kiểm toán Chương trình đặc biệt.
Trong các tổ chức trên, kiểm toán NSNN I và II được tổ chức lại trên cơ sở
Kiểm toán NSNN; Kiểm toán Đầu tư - Dự án I và II trên cơ sở Kiểm toán
Đầu tư XDCB và chương trình dự án vay nợ, viện trợ Chính phủ; Kiểm toán
Doanh nghiệp Nhà nước được tổ chức thành 2 kiểm toán chuyên ngành (Kiểm
81
toán Doanh nghiệp Nhà nước, Kiểm toán Các tổ chức tài chính - ngân hàng)
do đặc điểm, tính chất hoạt động của 2 loại doanh nghiệp này là rất khác
nhau, mỗi loại đều có số lượng doanh nghiệp rất lớn và điều này cũng phù
hợp với thông lệ và kinh nghiệm quốc tế. Còn Kiểm toán Chương trình đặc
biệt vẫn được giữ nguyên để thực hiện kiểm toán các đối tượng thuộc lĩnh vực
an ninh, quốc phòng (có những bí mật và yêu cầu quản lý riêng) là phù hợp.
Đối với các KTNN khu vực: Để đảm bảo sự hợp lý và thống nhất trong
cách xác định tên gọi các khu vực, các KTNN khu vực được thay đổi tên gọi
cho phù hợp như sau:
KTNN khu vực phía Bắc đổi tên thành KTNN khu vực I (trụ sở đặt tại
thành phố Hà Nội);
KTNN khu vực Bắc miền Trung đổi tên thành KTNN khu vực II (trụ sở
đặt tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An);
KTNN khu vực miền Trung đổi tên thành KTNN khu vực III (trụ sở đặt
tại thành phố Đà Nẵng);
KTNN khu vực phía Nam đổi tên thành KTNN khu vực IV (trụ sở đặt
tại thành phố Hồ Chí Minh);
KTNN khu vực miền Tây Nam Bộ đổi tên thành KTNN khu vực V (trụ
sở đặt tại thành phố Cần Thơ, tỉnh Cần Thơ).
Các KTNN chuyên ngành, KTNN khu vực có Kiểm toán trưởng, Phó
Kiểm toán trưởng, cơ cấu tổ chức không quá 5 phòng.
KTNN khu vực là đơn vị có tư cách pháp nhân, có con dấu, tài khoản
và trụ sở riêng. Số lượng các KTNN khu vực trong từng thời kỳ được xác
định trên cơ sở yêu cầu nhiệm vụ, do Tổng KTNN trình Thủ tướng Chính phủ
quyết định thành lập. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của
các đơn vị thuộc và trực thuộc KTNN do Tổng KTNN quy định.
Nghị định 93/2003/NĐ-CP dành một điều quy định về Tổng KTNN
(Điều 3) nhằm cụ thể hoá nhiệm vụ, quyền hạn của Tổng KTNN trong việc
lãnh đạo và quyết định công tác kiểm toán; trong xây dựng các dự án, dự thảo
82
văn bản QPPL về KTNN trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ để ban hành;
trong chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch phát triển, chương trình, kế
hoạch công tác đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; trong tổ chức bộ
máy, quản lý cán bộ. Quy định Tổng KTNN tham dự các phiên họp của
Chính phủ xem xét phân bổ, quyết toán NSNN và về những vấn đề có liên
quan đến hoạt động KTNN.
Tuy nhiên, qua thực tiễn hoạt động, Nghị định 93/2003/NĐ-CP và các
văn bản QPPL về tổ chức và hoạt động của KTNN trong giai đoạn này đã bộc
lộ những bất cập và hạn chế:
Một là, chưa có một văn bản QPPL nào quy định đầy đủ về tổ chức
và hoạt động của cơ quan KTNN. Trực tiếp điều chỉnh hoạt động của
KTNN là các văn bản dưới luật. Lịch sử hình thành và phát triển KTNN
của nhiều nước trên thế giới đã khẳng định hiệu lực hoạt động của cơ quan
KTNN tùy thuộc vào địa vị pháp lý, chức năng và tính độc lập của cơ quan
KTNN. Thông thường, địa vị pháp lý của cơ quan KTNN được quy định
trong Hiến pháp, các vấn đề cụ thể về tổ chức và hoạt động của KTNN
được quy định trong Luật Kiểm toán nhà nước. Thực tế đó đòi hỏi phải ban
hành Luật Kiểm toán nhà nước để quy định một cách phù hợp về tổ chức
và hoạt động của KTNN.
Hai là, địa vị pháp lý của cơ quan KTNN còn thấp, chưa tương xứng
với chức năng, nhiệm vụ được giao đã làm giảm hiệu lực và hiệu quả của
KTNN với tư cách là cơ quan kiểm tra tài chính nhà nước cao nhất trong hệ
thống kiểm soát của Nhà nước. Do vậy, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của KTNN trong quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN và xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta trong điều kiện mở rộng
hội nhập quốc tế, phải xác lập rõ ràng, hợp lý địa vị pháp lý của KTNNN để
tăng cường vị thế và vai trò của KTNN trong việc trợ giúp Chính phủ, Quốc
hội quản lý, giám sát tài chính nhà nước và tài sản công.
83
Ba là, nhiều vấn đề cụ thể liên quan đến hoạt động của KTNN chưa
được quy định đầy đủ, đồng bộ hoặc chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu hội nhập
quốc tế đối với việc xây dựng nền tài chính lành mạnh, công khai và minh
bạch như: Các nguyên tắc hoạt động kiểm toán; quy định về kiểm toán hoạt
động; quy định về giá trị pháp lý của báo cáo kết quả kiểm toán; các quy định
về trách nhiệm của đơn vị được kiểm toán và tổ chức, cá nhân có liên quan
trong việc thực hiện kiến nghị kiểm toán của KTNN; trách nhiệm báo cáo kết
quả kiểm toán của KTNN; các quy định về công khai kết quả kiểm toán... đã
làm giảm hiệu lực và hiệu quả hoạt động của KTNN.
Bốn là, nhiều vấn đề liên quan đến KTNN trong Luật NSNN và các văn
bản pháp luật có liên quan chỉ dừng ở mức quy định chung, chưa được cụ thể
hoá dẫn tới khó khăn trong quá trình thực hiện như quy định thời hạn gửi báo
cáo quyết toán NSNN; kiểm toán quyết toán ngân sách sau khi Quốc hội,
HĐND phê chuẩn; trách nhiệm của KTNN đối với báo cáo kiểm toán...
Thực trạng trên đây đã ảnh hưởng tới hiệu lực, hiệu quả hoạt động của
KTNN. Để giải quyết những vướng mắc phát sinh trong thực tiễn hoạt động
kiểm toán và khắc phục những hạn chế của hệ thống pháp luật về kiểm toán
nhà nước, cần phải ban hành Luật Kiểm toán nhà nước để điều chỉnh toàn
diện về tổ chức và hoạt động của KTNN, nâng cao địa vị pháp lý của KTNN
cho phù hợp vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của KTNN.
3.1.2.2. Giai đoạn từ khi Luật Kiểm toán nhà nước có hiệu lực thi
hành đến nay
Luật Kiểm toán nhà nước được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông
qua ngày 14/6/2005 và có hiệu lực thi hành từ 01/01/2006. Đây là một đạo
luật quan trọng trong hệ thống pháp luật của Nhà nước ta, là công cụ pháp lý
để tăng cường kiểm tra, kiểm soát các nguồn lực tài chính nhà nước, đồng
thời là cơ sở pháp lý cao nhất hiện nay quy định một cách khá đầy đủ, toàn
diện và có hệ thống về tổ chức và hoạt động của KTNN. Luật Kiểm toán nhà
84
nước được xây dựng trên cơ sở tổng kết thực tiễn 10 năm hoạt động của
KTNN, kế thừa những quy định còn phù hợp trong các văn bản pháp luật hiện
hành, nhất là Luật NSNN, các luật, pháp lệnh liên quan đến hệ thống tài
chính, hoạt động thanh tra, kiểm tra tài chính. Luật Kiểm toán nhà nước đã
quán triệt và thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng về phát triển
KTNN; tham khảo có chọn lọc nội dung luật kiểm toán của một số nước trên
thế giới; tuân thủ các nguyên tắc, chuẩn mực của INTOSAI, phục vụ yêu cầu
hội nhập quốc tế và gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới. Luật Kiểm toán
nhà nước được xây dựng theo phương án luật chi tiết để khi ban hành có thể
thực hiện được ngay, nội dung của Luật phải vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt
vừa phù hợp với xu hướng phát triển hoạt động kiểm toán trong tương lai.
3.2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
3.2.1. Thực trạng hình thức của pháp luật về kiểm toán nhà nước
Luật Kiểm toán nhà nước được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông
qua ngày 14/6/2005 và có hiệu lực thi hành từ 01/01/2006. Đây là cơ sở pháp
lý cao nhất hiện nay về tổ chức và hoạt động của KTNN. Để đảm bảo tính độc
lập cho KTNN, Luật Kiểm toán nhà nước đã quy định địa vị pháp lý của
KTNN; địa vị của Tổng KTNN, cơ chế bổ nhiệm, miễn nhiệm Tổng KTNN,
Phó tổng KTNN cũng như bảo đảm kinh phí hoạt động của KTNN. Cùng với
Luật Kiểm toán nhà nước, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Luật
Phòng, chống tham nhũng, Luật Ban hành văn bản QPPL, Luật Cán bộ, công
chức… được ban hành trong thời gian này cũng đã quy định nhiều nội dung
liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của KTNN trong hệ thống các
cơ quan kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước. Trên cơ sở Luật Kiểm toán nhà
nước, KTNN đã phối hợp tích cực với các cơ quan của Chính phủ và của
Quốc hội xây dựng trình các cơ quan có thẩm quyền ban hành và ban hành
theo thẩm quyền các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Kiểm toán nhà nước.
85
Cho đến nay, 10 Nghị quyết của UBTV Quốc hội, 03 Nghị định của Chính
phủ, 01 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 01 Quyết định của Bộ trưởng
Bộ Công an, 04 Thông tư và Thông tư liên tịch đã được ban hành để hướng
dẫn chi tiết Luật Kiểm toán nhà nước. Đáng chú ý là Nghị quyết số
916/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 15/9/2005 của UBTV Quốc hội về cơ cấu tổ
chức của KTNN và Nghị định số 91/2008/NĐ-CP ngày 18/8/2008 của Chính
phủ về công khai kết quả kiểm toán và kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị
kiểm toán của KTNN là những văn bản QPPL quan trọng được ban hành kịp
thời, tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của KTNN.
Trong phạm vi thẩm quyền, Tổng KTNN đã ban hành 36 văn bản QPPL
dưới hình thức quyết định để quy định chi tiết hướng dẫn Luật Kiểm toán nhà
nước, quy chế hoá các hoạt động (ban hành Hệ thống chuẩn mực KTNN, quy
trình kiểm toán chung, các quy trình kiểm toán lĩnh vực ngân sách, doanh
nghiệp nhà nước và đầu tư dự án, Quy chế tổ chức và hoạt động của đoàn
kiểm toán, hệ thống hồ sơ mẫu biểu kiểm toán và hàng loạt các quy chế, quy
định nội bộ) làm nền tảng cho tổ chức và hoạt động KTNN trên thực tế, làm
cơ sở để quản lý, điều hành các hoạt động của ngành theo hướng minh bạch,
công khai, chuyên nghiệp và chính quy hoá, tạo cơ sở để nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là để nâng cao chất lượng kiểm
toán và kiểm soát, quản lý đạo đức nghề nghiệp của KTV.
Trước thềm kỷ niệm 15 năm thành lập ngành, KTNN đã hoàn thành xây
dựng Chiến lược phát triển KTNN đến năm 2020 trình Uỷ ban thường vụ
Quốc hội xem xét quyết định ban hành, làm cơ sở cho phát triển KTNN trong
tương lai. Ngày 19/4/2010 Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết
số 927/2010/NQ-UBTVQH12 về Chiến lược phát triển KTNN đến năm 2020.
Đây là sự kiện có tầm quan trọng đặc biệt đối với tiến trình phát triển của
KTNN; cùng với Luật Kiểm toán nhà nước, Nghị quyết số 927/2010/NQ-
UBTVQH12 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, tạo cơ sở pháp lý cho việc đẩy
86
mạnh phát triển KTNN đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước, xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay.
Tuy vậy, ngay trong sự hình thành nguồn pháp luật về kiểm toán nhà
nước nêu trên đã thể hiện và nảy sinh nhiều vấn đề bất cập, hạn chế đòi hỏi
phải được nghiên cứu để tiếp tục hoàn thiện. Những bất cập và hạn chế đó thể
hiện trên các mặt chủ yếu sau:
Một là, KTNN là cơ quan công quyền, thực hiện chức năng kiểm tra tài
chính công cao nhất của Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì
dân; song địa vi pháp lý lại chưa được quy định trong Hiến pháp như ở hầu
hết các nước trên thế giới.
Là cơ quan thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát từ bên ngoài đối
với tất cả các tổ chức, cơ quan được giao quản lý và sử dụng nguồn lực tài
chính nhà nước và tài sản công; do vậy, về mặt quan hệ tổ chức dù KTNN
được đặt trong bộ máy hành pháp (Chính phủ), lập pháp (Quốc hội) hoặc độc
lập với cả hai cơ quan này thì nó cũng phải có vị trí độc lập, không bị chi phối
lớn bởi các tổ chức hay cá nhân nào. Đó là điều cần phải được quy định rõ ngay
trong Hiến pháp để làm cơ sở hình thành địa vị pháp lý thích hợp với chức năng,
nhiệm vụ, quyền và trách nhiệm của KTNN và là cơ sở hình thành các QPPL tại
các văn bản QPPL về KTNN và các văn bản QPPL có liên quan.
Địa vị pháp lý của KTNN chưa được quy định trong Hiến pháp là một
hạn chế lớn của hệ thống pháp luật về kiểm toán nhà nước ở nước ta hiện nay.
Điều đó đã dẫn đến những quy định và giải pháp cụ thể tại các văn bản QPPL
về kiểm toán nhà nước, vừa thiếu tính ổn định, vừa chưa tương xứng với vai
trò của KTNN trong nền kinh tế, xã hội; mặt khác, là nguyên nhân dẫn đến sự
hạn chế hiệu lực, hiệu quả các hoạt động kiểm toán trong những năm qua.
Hai là, chưa có sự phù hợp và đồng bộ về một số quy định giữa Luật
Kiểm toán nhà nước với các luật có liên quan. Để đáp ứng yêu cầu của việc
hoàn thiện hệ thống pháp luật của Nhà nước ta phục vụ công cuộc đổi mới đất
87
nước và thực hiện cam kết của Tổ chức Thương mại thế giới, đòi hỏi Luật
Kiểm toán nhà nước phải đồng bộ với các luật khác trong hệ thống pháp luật
của Nhà nước ta. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn tình trạng chưa có sự phù hợp
và đồng bộ giữa Luật Kiểm toán nhà nước với Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ
chức Chính phủ, Luật NSNN...
Ba là, các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành Luật Kiểm toán nhà
nước chưa đầy đủ và đồng bộ, chưa có những quy định cụ thể về chế tài đối
với các hành vi vi phạm pháp luật kiểm toán nhà nước. Để bảo đảm hiệu lực
thi hành của Luật Kiểm toán nhà nước, trong thời gian qua KTNN đã tích cực
phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan xây dựng trình cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền nhiều văn
bản dưới luật để quy định cụ thể và hướng dẫn thi hành Luật Kiểm toán
nhà nước. Việc chủ động và khẩn trương xây dựng và ban hành các văn
bản hướng dẫn thi hành Luật Kiểm toán nhà nước đã bảo đảm hiệu lực thi
hành và tính khả thi của Luật Kiểm toán nhà nước. Tuy nhiên, một số quy
định của Luật Kiểm toán nhà nước cần được quy định cụ thể như về thành
lập hệ thống kiểm toán nội bộ (khoản 3 Điều 6); KTNN trình ý kiến để
Quốc hội xem xét, quyết định dự toán NSNN, quyết định phân bổ ngân
sách trung ương (khoản 4 Điều 15)... đến nay vẫn chưa được ban hành
cũng làm ảnh hưởng đến tính đầy đủ và đồng bộ và gây nhiều khó khăn
trong quá trình thực hiện. Mặt khác, hiện nay trong hệ thống các văn bản
QPPL về KTNN chưa có văn bản nào quy định cụ thể về xử lý các hành vi
vi phạm pháp luật kiểm toán nhà nước đã làm giảm hiệu lực hoạt động của
KTNN và tính nghiêm minh của pháp luật. Trong hoạt động kiểm toán
cũng như trong bất cứ lĩnh vực hoạt động nào khác, hệ thống pháp luật điều
chỉnh các mối quan hệ phát sinh nhất thiết phải bao gồm các quy định về
chế tài để xử lý các vi phạm của các bên tham gia trong các quan hệ đó.
Các quy định về chế tài có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng để tăng cường
88
pháp chế trong hoạt động kiểm toán đảm bảo hoạt động kiểm toán diễn ra
theo đúng pháp luật. Tuy nhiên, Luật Kiểm toán nhà nước và các văn bản
pháp luật có liên quan ngoài những quy định chung mang tính nguyên tắc,
hầu như chưa có các quy định về chế tài đối với các hành vi vi phạm của
đơn vị được kiểm toán, của các tổ chức và cá nhân có liên quan. Chính do
chưa có các quy định về chế tài một cách cụ thể và đầy đủ cho nên việc
chấp hành pháp luật về kiểm toán chưa nghiêm, phần nào đã ảnh hưởng
đến chất lượng và hiệu lực hoạt động kiểm toán của KTNN.
Bốn là, Hệ thống chuẩn mực, các quy trình, phương pháp kiểm toán đã
được KTNN chú trọng và ngày càng hoàn thiện, có bước phát triển nhanh so
với các cơ quan KTNN khác trên thế giới và khu vực; tuy nhiên, vẫn chưa đáp
ứng được yêu cầu. Hệ thống chuẩn mực KTNN, các quy trình kiểm toán, các
biện pháp giám sát chất lượng kiểm toán chưa hoàn chỉnh, đồng bộ với các loại
hình kiểm toán và các lĩnh vực kiểm toán, các phương pháp kiểm toán còn đơn
giản; chưa triển khai được kiểm toán trong môi trường công nghệ thông tin và
đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động kiểm toán ...
Trên cơ sở phân tích những mặt hạn chế trên đây, có thể rút ra nhận xét
về tính hệ thống của nguồn pháp luật về kiểm toán nhà nước là: Về mặt hình
thức pháp luật kiểm toán nhà nước phải được thÓ hiÖn trong Hiến pháp, trong
Luật Kiểm toán nhà nước và trong các luật có liên quan; trong hệ thống các
văn bản pháp quy điều chỉnh các quan hệ liên quan giữa KTNN và các đối
tượng được kiểm toán và các cơ quan, tổ chức có liên quan và trong điều
chỉnh các quan hệ nội tại của hệ thống KTNN. Tuy nhiên, cho đến nay những
yêu cầu cơ bản về hình thức đó chưa được đáp ứng, đó là hạn chế lớn về mặt
hình thức của hệ thống pháp luật về kiểm toán nhà nước ở nước ta hiện nay.
3.2.2. Thực trạng nội dung của pháp luật về kiểm toán nhà nước
Với việc ban hành Luật Kiểm toán nhà nước, hệ thống pháp luật hiện
hành về kiểm toán nhà nước ở nước ta về nội dung đã có những mặt tích cực
89
như đã quy định nguyên tắc hoạt động kiểm toán độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật, trung thực, khách quan; đã nâng cao địa vị pháp lý của KTNN; quy
định khá đầy đủ và khá toàn diện về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức
và hoạt động của KTNN; lần đầu tiên, các vấn đề về giá trị pháp lý của báo
cáo kiểm toán (Điều 9), trách nhiệm gửi và cung cấp báo cáo kiểm toán (Điều
15), vấn đề công khai kết quả kiểm toán, kết quả thực hiện các kết luận, kiến
nghị kiểm toán (Điều 58, Điều 59) và giám sát hoạt động kiểm toán (Điều 72)
được quy định trong Luật Kiểm toán nhà nước là cơ sở pháp lý rất quan trọng
cho tổ chức và hoạt động KTNN, nâng cao hiệu lực, hiệu quản hoạt động của
KTNN. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng Luật Kiểm toán nhà nước và các
văn bản có liên quan đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập. Có thể đưa ra những
đánh thực trạng nội dung pháp luật về kiểm toán nhà nước như sau:
3.2.2.1. Về địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức
của Kiểm toán Nhà nước
a) Về địa vị pháp lý của KTNN
Theo quy định tại Điều 13 của Luật Kiểm toán nhà nước: "Kiểm toán
Nhà nước là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính nhà nước do
Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật". Quy định
về địa vị pháp lý của cơ quan KTNN như trên về cơ bản đã có sự phù hợp
nhất định với quy định tại Điều 5 Tuyên bố Lima của INTOSAI "Cơ quan
Kiểm toán tối cao chỉ có thể thực hiện được nhiệm vụ của mình một cách
khách quan và thật hiệu quả khi nó có vị trí độc lập với cơ quan bị kiểm tra
và được bảo vệ trước những ảnh hưởng từ bên ngoài". Bằng việc tách kiểm
tra tài chính ra khỏi phạm vi ngành lập pháp, hành pháp về mặt thiết chế như
vậy sẽ đảm bảo cho người kiểm tra và người bị kiểm tra không đồng nhất với
nhau và giữ được một khoảng cách tối thiểu nhất định giữa họ với nhau. Quy
định này nhằm bảo đảm tính độc lập về mặt nghiệp vụ và thiết chế của
KTNN. Như vậy, với quy định tại Điều 13 của Luật Kiểm toán nhà nước, địa
90
vị pháp lý của KTNN đã được nâng cao một bước, cơ bản khắc phục tình
trạng địa vị pháp của KTNN còn thấp, chưa tương xứng với chức năng, nhiệm
vụ được giao.
Tuy nhiên, quy định về địa vị pháp lý của KTNN chưa đúng với bản chất
của KTNN là cơ quan kiểm tra tài chính nhà nước cao nhất. Thuật ngữ
“chuyên môn’’ trong quy định về địa vị pháp lý của KTNN tại Điều 13 của
Luật Kiểm toán nhà nước là không phù hợp, chưa thể hiện được bản chất của
cơ quan KTNN với tư cách là cơ quan kiểm tra tài chính nhà nước cao nhất
(hoặc KTNN là cơ quan kiểm toán tối cao). Chính vì Luật quy định: “...Kiểm
toán Nhà nước là cơ quan chuyên môn... dẫn đến nhận thức của các cấp, các
ngành, công chúng và xã hội nói chung về vị trí, vai trò và chức năng, nhiệm
vụ của KTNN chưa đầy đủ và toàn diện, thậm chí còn có nhận thức sai lệch,
không đúng đắn về vị trí pháp lý, tổ chức và hoạt động KTNN. Nguyên nhân
chủ yếu là do: Địa vị pháp lý của KTNN chưa được quy định trong Hiến pháp
- đạo luật cơ bản của Nhà nước như hầu hết các nước trên thế giới.
b) Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của KTNN
Trong giai đoạn đầu mới thành lập, KTNN mới thực hiện chức năng
kiểm toán báo cáo tài chính và kiểm toán tuân thủ; các nhiệm vụ và quyền hạn
của KTNN cũng được quy định phù hợp với chức năng kiểm toán này. Sau
khi Luật Kiểm toán nhà nước được ban hành, với vị thế là cơ quan chuyên
môn về kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật, KTNN đã có đầy đủ các chức năng của kiểm toán.
Theo quy định tại Điều 14 Luật Kiểm toán nhà nước: KTNN có chức năng
kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động đối với
cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước.
Để thực hiện chức năng trên, KTNN có các nhiệm vụ, quyền hạn quy
định tại Điều 15, Điều 16 của Luật Kiểm toán nhà nước, trong đó có nhiều
nhiệm vụ mới rất quan trọng là:
91
- KTNN quyết định kế hoạch kiểm toán hàng năm và báo cáo với Quốc
hội, Chính phủ trước khi thực hiện. Quy định này là phù hợp với thông lệ
quốc tế và điều kiện thực tiễn của nước ta. Tuyên bố Lima của INTOSAI
nhấn mạnh phải để cho các cơ quan KTNN tự mình lập chương trình kiểm
toán và không được để công việc này nằm trong phạm vi tác động của các cơ
quan nhà nước khác, bảo đảm tính độc lập của KTNN.
- Trình ý kiến của KTNN để Quốc hội xem xét, quyết định dự toán
NSNN, quyết định phân bổ ngân sách trung ương, quyết định dự án, công
trình quan trọng quốc gia, phê chuẩn quyết toán NSNN. Đây là một nhiệm vụ
mới của KTNN so với quy định của Luật NSNN và các quy định về KTNN.
- Tham gia với các cơ quan của Chính phủ, của Quốc hội khi có yêu
cầu trong việc xây dựng và thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh. Đây chính là
hoạt động tư vấn của KTNN. Từ thực tiễn hoạt động kiểm toán và những
chuẩn mực nghề nghiệp khách quan, KTNN phát hiện những sơ hở, bất cập
trong các văn bản QPPL hiện hành, kiến nghị Chính phủ, Quốc hội sửa đổi,
bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản pháp luật, góp phần bảo đảm tính đầy
đủ, đồng bộ và khả thi của hệ thống pháp luật.
- Xem xét quyết định việc kiểm toán khi Thường trực HĐND, UBND
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có yêu cầu; tham gia với Uỷ ban Kinh
tế và Ngân sách của Quốc hội, các cơ quan khác của Quốc hội, Chính phủ
trong việc xem xét, thẩm tra dự toán NSNN, phân bổ ngân sách trung ương;
tham gia với Uỷ ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội trong hoạt động
giám sát về lĩnh vực tài chính ngân sách; báo cáo kết quả kiểm toán năm và
kết quả thực hiện kiến nghị kiểm toán với Quốc hội, UBTV Quốc hội; gửi báo
cáo kiểm toán cho Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, Chủ tịch
nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; cung cấp kết quả kiểm toán cho Bộ
Tài chính, HĐND nơi kiểm toán và cơ quan khác theo quy định của pháp luật;
công bố công khai kết quả kiểm toán; chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra xem
92
xét, xử lý các vi phạm theo quy định của pháp luật; chỉ đạo hướng dẫn về
chuyên môn, nghiệp vụ kiểm toán nội bộ...
Tuy nhiên, qua thực tiễn hoạt động những quy định về nhiệm vụ của
KTNN đã bộc lộ những tồn tại, vướng mắc cần tập trung tháo gỡ là:
Thứ nhất, nhiệm vụ của KTNN chưa bao quát hết đối với việc kiểm
tra, kiểm soát mọi nguồn lực tài chính nhà nước và tài sản công; chưa thực
hiện kiểm toán việc quản lý và sử dụng vốn và tài sản nhà nước tại các
doanh nghiệp mà Nhà nước không giữ cổ phần chi phối; chưa thực hiện
kiểm toán nghĩa vụ thu nộp NSNN của các tổ chức kinh tế thuộc mọi thành
phần kinh tế.
Thứ hai, một số nhiệm vụ phát sinh trong thời gian qua trên thực tế
KTNN đã và đang phải thực hiện hoặc về lâu dài đây là nhiệm vụ của KTNN,
nhưng chưa được quy định trong Luật Kiểm toán nhà nước, cụ thể:
- Nhiệm vụ phòng ngừa, phát hiện tham nhũng
Với vị thế là cơ quan kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành
lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, vị trí, vai trò của KTNN
được đề cao trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Luật Phòng, chống
tham nhũng quy định KTNN thuộc nhóm các cơ quan trực tiếp có trách nhiệm
phát hiện và phối hợp xử lý tham nhũng: Cơ quan Thanh tra Nhà nước, Cơ
quan điều tra, KTNN, VKSND, TAND; đồng thời quy định cụ thể, rõ ràng về
trách nhiệm của KTNN trong phòng, chống tham nhũng. Tuy nhiên, Luật
Kiểm toán nhà nước chưa quy định nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng của
KTNN, do vậy, cần bổ sung nhiệm vụ này của KTNN cho phù hợp.
- Nhiệm vụ kiểm toán thuế:
Xuất phát từ vai trò của thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN, Tuyên
bố Lima đã đặc biệt nhấn mạnh nhiệm vụ kiểm toán thuế của cơ quan KTNN.
Điều 20 của Tuyên bố Lima quy định về nhiệm vụ kiểm toán thuế của cơ
quan Kiểm toán tối cao như sau:
93
“1. Cơ quan kiểm toán tối cao phải có quyền kiểm toán việc thu thuế ở
mức càng rộng càng tốt, khi thực hiện việc này phải có quyền kiểm tra hồ sơ
thuế cá nhân.
2. Kiểm toán thuế trên hết là kiểm toán tính pháp lý và tính chuẩn tắc,
tuy nhiên, khi kiểm toán việc áp dụng luật thuế, Cơ quan kiểm toán tối cao còn
phải kiểm tra hệ thống thu và hiệu quả thu thuế, việc thực hiện các chỉ tiêu thu
và nếu có thể, phải đề xuất các biện pháp cải tiến cho cơ quan lập pháp”.
Qua thực tiễn hoạt động KTNN ở nước ta đã cho thấy thông qua việc
kiểm tra quyết toán thuế ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã phát hiện
nhiều vụ gian lận về thuế, làm thất thoát hàng nghìn tỷ đồng của NSNN. Tuy
nhiên, do Luật Kiểm toán nhà nước chưa quy định nhiệm vụ kiểm toán nghĩa
vụ nộp thuế của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nên trên thực tế việc
kiểm tra quyết toán thuế ở những tổ chức này gặp khó khăn, lúng túng.
- Nhiệm vụ kiểm toán nợ công:
Đây là nhiệm vụ rất quan trọng trong điều kiện mở rộng giao lưu và
hợp tác quốc tế, nhằm kiểm toán để xem xét mức vay nợ và an toàn nợ công
của quốc gia. Đây cũng là nhiệm vụ kiểm toán theo thông lệ quốc tế, được
nhiều cơ quan KTNN của các nước trên thế giới thực hiện.
- Chưa quy định rõ nhiệm vụ tiền kiểm của KTNN:
Quy định nhiệm vụ của KTNN tại khoản 4 Điều 15 Luật Kiểm toán nhà
nước về trình ý kiến để Quốc hội xem xét, quyết định dự toán NSNN, quyết
định phân bổ ngân sách trung ương, quyết định dự án, công trình quan trọng
quốc gia là chưa rõ ràng, gây khó khăn trong tổ chức thực hiện. Thực chất đây
chính là hình thức kiểm toán trước của KTNN, nhằm bảo đảm các nguồn lực
được động viên và phân bổ vào những mục tiêu phát triển của đất nước cũng
như tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả của các khoản chi NSNN, tránh được
những sai sót, gian lận ngay từ khi lập và phân bổ dự toán, dự án. Mặt khác,
việc đầu tư các công trình quan trọng của quốc gia không chỉ tiêu tốn một số
lượng lớn tiền, của mà còn liên quan đến chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
94
của đất nước. Điều đó đòi hỏi không chỉ được xem xét về mặt kỹ thuật mà
còn phải xem xét các khía cạnh về kinh tế, xã hội. Do vậy, nếu không có một
cơ quan độc lập với cơ quan lập dự án, có đủ năng lực chuyên môn, tuân theo
các chuẩn mực nghề nghiệp xem xét, đánh giá trước khi Quốc hội thảo luận
và quyết định có thể sẽ gây ra những rủi ro lớn. Kinh nghiệm của nhiều nước
có lịch sử phát triển KTNN lâu đời đều giao cho KTNN thực hiện nhiệm vụ
này. Vì vậy, cần xem xét sửa đổi theo hướng quy định rõ KTNN thực hiện
kiểm toán dự toán NSNN, các dự án, công trình quan trọng quốc gia phục vụ
cho việc xem xét quyết định của Quốc hội.
c) Mô hình và cơ cấu tổ chức của KTNN
Để thực hiện đầy đủ các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao,
KTNN phải có tổ chức bộ máy phù hợp cả về mô hình và cơ cấu tổ chức. Luật
Kiểm toán nhà nước tiếp tục khẳng định mô hình tổ chức và hoàn thiện một
bước cơ bản cơ cấu tổ chức của KTNN. Điều 21 Luật Kiểm toán nhà nước
quy định: ”KTNN được tổ chức và quản lý tập trung thống nhất gồm bộ máy
điều hành, KTNN chuyên ngành, KTNN khu vực và các đơn vị sự nghiệp”.
Ngày 15/9/2005, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số
916/2005/NQ-UBTVQH11 quy định cụ thể về cơ cấu tổ chức của KTNN. So
với quy định tại Nghị định số 93/2003/NĐ-CP của Chính phủ, cơ cấu tổ chức
của KTNN theo Nghị quyết số 916/2005/NQ-UBTVQH11 của UBTV Quốc
hội có những điểm mới:
Thứ nhất, điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ và đổi tên một số đơn vị:
Đổi tên Vụ Giám định và kiểm tra chất lượng kiểm toán thành Vụ Chế
độ và Kiểm soát chất lượng kiểm toán, thực hiện chức năng xây dựng trình
Tổng KTNN ban hành Hệ thống chuẩn mực KTNN; ban hành quyết định, chỉ
thị, chế độ công tác; quy chế, quy trình và phương pháp chuyên môn nghiệp
vụ kiểm toán, hồ sơ kiểm toán áp dụng trong hoạt động KTNN và kiểm toán
nội bộ; đồng thời, thực hiện chức năng kiểm soát chất lượng kiểm toán;
95
Đổi tên các đơn vị KTNN chuyên ngành: Các đơn vị KTNN chuyên
ngành không đặt tên theo từng lĩnh vực chuyên ngành như quy định tại Nghị
định số 93/2003/NĐ-CP, mà được đổi tên thành các KTNN chuyên ngành
theo thứ tự từ I đến VII.
Thứ hai, thành lập một số đơn vị phù hợp chức năng, nhiệm vụ mới
Vụ Tổng hợp, tham mưu cho Tổng KTNN về hoạt động kiểm toán: Xây
dựng kế hoạch kiểm toán của toàn ngành, phân giao nhiệm vụ kiểm toán cho
các KTNN chuyên ngành, khu vực, theo dõi việc thực hiện kế hoạch kiểm
toán của toàn ngành, thẩm định và xét duyệt báo cáo kiểm toán trước khi trình
Tổng KTNN ký công bố, tổng hợp, lập báo cáo kiểm toán năm, báo cáo thực
hiện các kết luận và kiến nghị kiểm toán, tổ chức công bố công khai báo cáo
kiểm toán theo quy định tại Điều 58 và 59 Luật Kiểm toán nhà nước,… và là
đầu mối quan hệ công tác giữa KTNN với Quốc hội và Chính phủ.
Vụ Quan hệ quốc tế, thực hiện chức năng tham mưu cho Tổng KTNN
tổ chức thực hiện và quản lý hợp tác quốc tế trong lĩnh vực KTNN; quản lý
các dự án hỗ trợ kỹ thuật của nước ngoài và các tổ chức quốc tế cho KTNN.
Để tiếp tục tăng cường năng lực hoạt động cho KTNN, ngày 28/5/2007
UBTV Quốc hội đã có Nghị quyết số 1123/NQ-UBTVQH 11 về việc thành
lập thêm 4 đơn vị KTNN khu vực trực thuộc KTNN, gồm: KTNN khu vực
VI, trụ sở đặt tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh; KTNN khu vực VII,
trụ sở đặt tại thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái; KTNN khu vực VIII, trụ sở
đặt tại thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà; KTNN khu vực IX, trụ sở đặt
tại thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.
Thực hiện Nghị quyết số 927/2010/NQ-UBTVQH12 ngày 19/4/2010
của UBTV Quốc hội về việc ban hành Chiến lược phát triển KTNN đến năm
2020, ngày 29/4/2011 UBTV Quốc hội đã có Nghị quyết số 1064/NQ-
UBTVQH 12 về việc thành lập thêm 4 KTNN khu vực, 1 KTNN chuyên
ngành, gồm: KTNN khu vực X, trụ sở đặt tại thành phố Thái Nguyên, tỉnh
96
Thái Nguyên; KTNN khu vực XI, trụ sở đặt tại thành phố Thanh Hóa, tỉnh
Thanh Hóa; KTNN khu vực XII, trụ sở đặt tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh
Đắk Lắk; KTNN khu vực XIII, trụ sở đặt tại thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa
- Vũng Tàu; thành lập thêm 1 KTNN chuyên ngành trên cơ sở tách KTNN
chuyên ngành I thành KTNN chuyên ngành Ia và KTNN chuyên ngành Ib
kiểm toán các đơn vị thuộc khối quốc phòng, an ninh.
Qua thực tiễn hoạt động trong những năm qua của KTNN cho thấy về
cơ bản mô hình tổ chức, cơ cấu của KTNN như hiện nay là thích hợp và hiệu
quả phù hợp với quy định về quản lý, điều hành NSNN theo quy định của
Luật NSNN và phù hợp thông lệ quốc tế. Sau gần 20 năm hoạt động, tổ chức
bộ máy của KTNN không ngừng phát triển và hoàn thiện, KTNN đã xây dựng
được bộ máy tổ chức tập trung thống nhất với 31 đơn vị trực thuộc (7 đơn vị
tham mưu, 8 KTNN chuyên ngành, 13 KTNN khu vực, 3 đơn vị sự nghiệp).
Tuy nhiên, cơ cấu tổ chức của KTNN vẫn đang trong quá trình hoàn
thiện, chưa hoàn chỉnh. Số lượng các KTNN khu vực, KTNN chuyên ngành
chưa đáp ứng yêu cầu kiểm toán ngân sách địa phương và ngân sách trung
ương; số lượng, cơ cấu các vụ chức năng còn thiếu và bất cập so với yêu cầu
nhiệm vụ, một số đơn vị còn phải đảm nhiệm quá nhiều chức năng, nhiệm vụ
khác nhau, rất khó khăn cho quản lý và điều hành các hoạt động trong toàn ngành.
3.2.2.2. Đối tượng và phạm vi kiểm toán
Điều 5 Luật Kiểm toán nhà nước quy định: “Đối tượng kiểm toán của
Kiểm toán Nhà nước là hoạt động có liên quan đến quản lý, sử dụng ngân
sách, tiền và tài sản nhà nước”. Quy định như vậy đã phân biệt rõ đối tượng
kiểm toán của KTNN với các đơn vị được kiểm toán là các cơ quan, tổ chức,
đơn vị có quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước. Tuy nhiên, tồn
tại chủ yếu của pháp luật kiểm toán nhà nước hiện hành là việc xác định phạm
vi và đối tượng kiểm toán chưa đầy đủ, chưa bao quát hết các nguồn lực tài
chính nhà nước và tài sản công. Luật Kiểm toán nhà nước quy định “Tài sản
97
nhà nước là tài sản hình thành hoặc có nguồn gốc từ NSNN, thuộc sở hữu,
quản lý của Nhà nước, là đối tượng kế toán của đơn vị được kiểm toán”, chưa
bao gồm đất đai, tài nguyên khoáng sản...
3.2.2.3. Về Tổng Kiểm toán Nhà nước, Phó Tổng Kiểm toán Nhà nước
Cùng với quy định về địa vị pháp lý của cơ quan KTNN, lần đầu tiên địa
vị pháp lý của Tổng KTNN đã được Luật Kiểm toán nhà nước quy định rõ
ràng, đầy đủ. Theo quy định tại Điều 17 của Luật Kiểm toán nhà nước: "Tổng
KTNN do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm theo đề nghị của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội sau khi trao đổi thống nhất với Thủ tướng Chính phủ.
Nhiệm kỳ của Tổng KTNN là bảy năm, có thể được bầu lại nhưng không quá
hai nhiệm kỳ. Lương và chế độ khác của Tổng KTNN như lương và chế độ
khác của Chủ nhiệm Uỷ ban của Quốc hội". Với quy định như trên, Quốc hội
- Cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam
đã quy định thẩm quyền và quy trình bổ nhiệm cao nhất đối với Tổng KTNN để
đảm bảo tính độc lập, khách quan của Tổng KTNN nói riêng và cơ quan KTNN
nói chung khi thực hiện nhiệm vụ kiểm toán. Khoản 3 Điều 17 của Luật Kiểm
toán nhà nước quy định: "Nhiệm kỳ của Tổng Kiểm toán Nhà nước là bảy năm,
có thể được bầu lại nhưng không quá hai nhiệm kỳ". Qua thực tiễn hoạt động
cho thấy, quy định này là phù hợp để đảm bảo tính liên tục, tính chuyên sâu, tính
kế thừa giữa các nhiệm kỳ Quốc hội và phù hợp với thông lệ quốc tế. Việc quy
định nhiệm kỳ của Tổng KTNN là 7 năm đối với nước ta còn bảo đảm được tính
liên tục, “gối đầu” trong xem xét, xác nhận quyết toán NSNN theo quy định của
Hiến pháp và luật (Hiến pháp quy định nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội:
“…phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước…” (khoản 4 Điều 84); khoản 1,
Điều 67 Luật NSNN quy định: “Quốc hội phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà
nước chậm nhất 18 tháng sau khi năm ngân sách kết thúc” ).
Các quy định về Tổng KTNN cơ bản phù hợp, đặc biệt là quy định về
cơ chế bầu Tổng KTNN, nhiệm kỳ Tổng KTNN..., tạo điều kiện cho hoạt
98
động của Tổng KTNN có tính độc lập khi đưa ra các quyết sách. Tuy nhiên,
để tăng thêm tính độc lập cho Tổng KTNN phù hợp với thông lệ quốc tế, đáp
ứng yêu cầu cải cách hành chính, cần có các quy định để bảo đảm tính độc lập
của Tổng KTNN, phân cấp mạnh và tăng cường trách nhiệm của Tổng KTNN
trong vấn đề thiết lập hệ thống tổ chức bộ máy và nhân sự phù hợp đặc thù
hoạt động của KTNN.
Về Phó Tổng KTNN (Điều 20)
Theo quy định của Luật Kiểm toán nhà nước: Phó Tổng KTNN do Tổng
KTNN đề nghị UBTV Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức; nhiệm kỳ
của Phó Tổng KTNN là bảy năm (Điều 20). Qua thực tiễn áp dụng đã cho
thấy cơ chế bổ nhiệm Phó Tổng KTNN theo quy định hiện hành là chưa thật
rõ ràng, thủ tục rườm rà, không phù hợp với thông lệ chung và yêu cầu cải
cách hành chính ở nước ta hiện nay. Theo quy định của Luật Cán bộ, công
chức, Phó Tổng KTNN là công chức nhà nước; do vậy, thẩm quyền bổ nhiệm
và nhiệm kỳ phải tuân thủ các quy định của Nhà nước về cán bộ, công chức.
3.2.2.4. Quy định về Kiểm toán viên nhà nước
KTV nhà nước là chức danh của người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ
kiểm toán. Cơ quan KTNN thực thi nhiệm vụ chủ yếu thông qua đội ngũ
KTV nhà nước. Vì vậy, lực lượng KTV nhà nước mạnh hay yếu là yếu tố ảnh
hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động, hiệu lực và hiệu quả cũng như uy tín
của KTNN. Luật Kiểm toán nhà nước đã dành một chương riêng (Chương III)
và một số điều khoản ở các chương khác có liên quan quy định về KTV nhà
nước, như quy định về chức danh KTV nhà nước (Đều 27), tiêu chuẩn chung
và trách nhiệm của KTV nhà nước (Điều 29, Điều 30); quy định những
trường hợp KTV nhà nước không được thực hiện kiểm toán (Điều 31); quy
định nhiệm vụ, quyền hạn của KTV nhà nước trong thực hiện kiểm toán
(Điều 48); quy định các hành vi bị nghiêm cấm đối với KTV nhà nước (khoản
1 Điều 12). Việc quy định cụ thể vị trí, vai trò, tiêu chuẩn, trách nhiệm, nhiệm
99
vụ, quyền hạn của KTV nhà nước là rất cần thiết, nhằm tạo cơ sở cho việc
tuyển dụng, sử dụng, quản lý, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng có hiệu quả đội
ngũ KTV trong giai đoạn phát triển mới của KTNN.
Tuy nhiên, quy định ngạch KTV dự bị đến nay không phù hợp với quy
định về phân loại công chức của Luật Cán bộ, công chức. Theo quy định của
Luật này, công chức có trình độ từ đại học trở lên có 3 ngạch: Công chức loại
A (ngạch chuyên viên cao cấp và tương đương); công chức loại B (ngạch
chuyên viên chính và tương đương); công chức loại C (ngạch chuyên viên và
tương đương). Mặt khác, mặc dù KTV dự bị là một ngạch công chức và người
được bổ nhiệm vào ngạch đã là công chức nhà nước; song, trên thực tế, vai
trò, chức trách, nhiệm vụ và hoạt động của KTV dự bị chỉ như là một trợ lý
kiểm toán cho KTV ở các ngạch khác. Do quy định về ngạch KTV dự bị, nên
thời gian qua nhiều người ở các cơ quan, đơn vị, tổ chức của các bộ, ngành,
địa phương, doanh nghiệp,... có thâm niên, năng lực công tác nhưng khi
chuyển về KTNN lại được xếp vào ngạch KTV dự bị đã làm hạn chế việc thu
hút nguồn nhân lực có chất lượng cao về công tác tại KTNN.
3.2.2.5. Quy định về hoạt động kiểm toán nhà nước
Hoạt động kiểm toán nhà nước là một trong những nội dung quan trọng
của Luật Kiểm toán nhà nước. Do vậy, Luật Kiểm toán nhà nước đã dành một
chương riêng (Chương IV) gồm 7 mục với 30 điều quy định về hoạt động
kiểm toán của KTNN. Các quy định của Chương này được quy định khá chi
tiết và đầy đủ về các loại hình kiểm toán và nội dung của từng loại hình đó;
quy định cụ thể, chi tiết về thủ tục, trình tự và quy trình tiến hành một cuộc
kiểm toán của KTNN. Hoạt động kiểm toán được xây dựng theo trình tự thủ
tục mang tính tố tụng, bảo đảm chặt chẽ, cụ thể là: Quy định về Quyết định
kiểm toán (Điều 35); loại hình kiểm toán và nội dung của từng loại hình kiểm
toán (từ Điều 36 đến Điều 40); thời hạn kiểm toán, địa điểm kiểm toán (Điều
41, Điều 42); Đoàn kiểm toán, quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn, trách
100
nhiệm của Trưởng Đoàn kiểm toán, Tổ trưởng Tổ kiểm toán, KTV và các
thành viên khác của Đoàn kiểm toán (từ Điều 43 đến Điều 49); quy trình kiểm
toán, quy định cụ thể các bước thực hiện một cuộc kiểm toán, nội dung công
việc cần thực hiện trong từng bước và yêu cầu về thời hạn của từng khâu
trong quy trình lập và phát hành báo cáo kiểm toán (từ Điều 50 đến Điều 57);
công khai kết quả kiểm toán, theo dõi, kiểm tra việc thực hiện kiến nghị kiểm
toán và hồ sơ kiểm toán (từ Điều 58 đến Điều 62).
Điểm mới của Luật Kiểm toán nhà nước là quy định tương đối cụ thể
về thủ tục, trình tự tiến hành hoạt động kiểm toán, tạo cơ sở pháp lý thống
nhất cho việc thực hiện nhiệm vụ kiểm toán của KTNN.
Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng, các quy định của Luật Kiểm toán nhà
nước về hoạt động kiểm toán đã bộc lộ một số hạn chế, tồn tại là:
Thứ nhất, thành phần Đoàn kiểm toán tại Điều 35, Điều 44 là chưa đầy
đủ, thiếu thành phần quan trọng là KTV nhà nước và chưa bảo đảm tính thống
nhất trong các quy định của Luật Kiểm toán nhà nước.
Thứ hai, do Luật Kiểm toán nhà nước chưa quy định nhiệm vụ, quyền
hạn và trách nhiệm của Kiểm toán trưởng KTNN chuyên ngành, KTNN khu
vực trong hoạt động kiểm toán, dẫn đến cách hiểu chưa thống nhất và chưa
đúng về trách nhiệm của Kiểm toán trưởng, Trưởng Đoàn kiểm toán trong
việc thu thập thông tin phục vụ cho việc ra quyết định kiểm toán; khảo sát,
thu thập thông tin lập kế hoạch kiểm toán của cuộc kiểm toán.
Thứ ba, chưa có các quy định về kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm
toán của KTNN.
3.2.2.6. Quy định về đơn vị được kiểm toán
Trước khi Luật Kiểm toán nhà nước được ban hành, chưa có các quy định
cụ thể và đầy đủ về đơn vị được kiểm toán, quyền và nghĩa vụ của đơn vị được
kiểm toán. Luật Kiểm toán nhà nước đã có một chương riêng quy định về đơn vị
được kiểm toán, quyền và nghĩa vụ của đơn vị được kiểm toán (Chương V). Do
101
vậy, từ khi Luật Kiểm toán nhà nước có hiệu lực thi hành, các đơn vị được kiểm
toán đã nâng cao ý thức, trách nhiệm trong việc chấp hành pháp luật, đã thực
hiện tốt hơn nghĩa vụ cung cấp các thông tin, tài liệu phục vụ cho việc kiểm toán
và thực hiện đầy đủ, kịp thời hơn các kết luận, kiến nghị của KTNN.
Tuy nhiên, qua thực tiễn hoạt động kiểm toán, một số quy định về đơn
vị được kiểm toán đã bộc lộ những bất cập, tồn tại, cụ thể là:
Một là, các đơn vị được kiểm toán chưa bao quát hết phạm vi đối tượng
kiểm toán của KTNN là hoạt động có liên quan quản lý và sử dụng ngân sách,
tiền và tài sản nhà nước;
Hai là, khoản 4 Điều 64 Luật Kiểm toán nhà nước quy định đơn vị
được kiểm toán có quyền kiến nghị, song Luật chưa quy định rõ đơn vị được
kiểm toán thực hiện quyền này trong thời hạn bao nhiêu ngày kể từ khi nhận
được báo cáo kiểm toán, nên trong thực tiễn thi hành còn gặp nhiều khó khăn
trong việc thực hiện quyền kiến nghị và giải quyết kiến nghị của các đơn vị
được kiểm toán.
Ba là, khoản 5 Điều 65 Luật Kiểm toán nhà nước quy định: ”Người
đứng đầu đơn vị được kiểm toán phải ký biên bản kiểm toán”. Quy định này
không bảo đảm sự chuẩn xác về mặt pháp lý, vì thực chất biên bản kiểm toán
là báo cáo kết quả kiểm toán tại đơn vị trực thuộc của đơn vị được kiểm toán
do Tổ kiểm toán thực hiện. Do vậy, Tổ trưởng Tổ kiểm toán phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật về tính đúng đắn, trung thực, khách quan của những
đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị trong biên bản kiểm toán của Tổ
kiểm toán (điểm b, khoản 3 Điều 47); giá trị pháp lý của biên bản kiểm toán
hoàn toàn không phụ thuộc vào việc người đứng đầu đơn vị được kiểm toán
ký vào biên bản kiểm toán. Tuy nhiên, do Luật Kiểm toán nhà nước sử dụng
thuật ngữ “Biên bản kiểm toán”, nên dễ dẫn tới hiểu theo nghĩa biên bản
thông thường - các bên đều phải ký vào biên bản; quy định này đã gây khó
khăn và làm ảnh hưởng đến tính độc lập, khách quan của hoạt động KTNN.
102
3.2.2.7. Quy định về bảo đảm hoạt động của Kiểm toán Nhà nước
Luật Kiểm toán nhà nước là một trong số ít các luật trong hệ thống
pháp luật của Nhà nước ta có chương riêng quy định về bảo đảm hoạt động
của KTNN (Chương VI). Đảm bảo đầy đủ, kịp thời phương tiện, điều kiện
kinh phí và cơ sở vật chất là một trong những nhân tố quyết định để đảm bảo
tính độc lập của KTNN trên thực tế và tạo điều kiện để KTNN hoàn thành
chức năng, nhiệm vụ được giao ngày càng nặng nề hơn. Theo quy định của
Luật Kiểm toán nhà nước, KTNN có kinh phí hoạt động riêng, là đơn vị dự
toán cấp I của ngân sách trung ương. Kinh phí hoạt động của KTNN do
KTNN lập dự toán và đề nghị Chính phủ trình Quốc hội quyết định. Nhà
nước có chính sách đầu tư phát triển công nghệ thông tin và các phương tiện
khác để bảo đảm cho tổ chức và hoạt động của KTNN, đáp ứng yêu cầu hội
nhập quốc tế. Chế độ tiền lương, phụ cấp, trang phục đối với cán bộ, công
chức KTNN và chế độ ưu tiên đối với KTV nhà nước do UBTV Quốc hội quy
định (Điều 67, Điều 68, Điều 69).
Mặc dù, cơ chế, chính sách và chế độ đãi ngộ cho KTV (bồi dưỡng và
dưỡng liêm...) tuy đã được cải thiện một bước, song Nhà nước chưa có chế độ
chính sách đãi ngộ theo tính chất hoạt động đặc thù (như phụ cấp lưu động và
một số loại phụ cấp khác) và thu nhập so với mặt bằng hiện nay vẫn còn thấp,
đặc biệt là đối với đội ngũ KTV làm việc trong điều kiện đi công tác xa, dài
ngày trên các địa bàn trong phạm vi cả nước. Do vậy, khó thu hút và giữ được
công chức giỏi; có nguy cơ mất công chức có trình độ chuyên môn cao, chảy
máu chất xám về các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ về tài chính, chứng
khoán và doanh nghiệp kiểm toán.
3.2.2.8. Chưa có các quy định về chế tài đối với các hành vi vi phạm
pháp luật kiểm toán nhà nước của đơn vị được kiểm toán và của tổ chức,
cá nhân có liên quan
Thực tế hoạt động kiểm toán nhà nước những năm qua cho thấy, nhiều
trường hợp vi phạm các quy định của Luật Kiểm toán nhà nước và các văn
103
bản pháp luật có liên quan về nghĩa vụ của đơn vị được kiểm toán và tổ chức,
cá nhân có liên quan, nhưng hiện nay việc xử lý còn nhiều bất cập, chủ yếu
mới chỉ nhắc nhở, rút kinh nghiệm, vì chưa có các chế tài để áp dụng đối với
hành vi vi phạm nêu trên. Luật Kiểm toán nhà nước và các văn bản hướng dẫn
thi hành hầu như chưa có các quy định về chế tài, trừ một số quy định rất
chung như:“chịu trách nhiệm trước pháp luật”; “đề nghị các cơ quan có
thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật”... vì vậy, hiệu lực của hoạt
động kiểm toán và tính nghiêm minh của pháp luật chưa đạt được như mong
muốn, ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu lực của hoạt động KTNN.
Như vậy, để nâng cao hiệu lực của hoạt động kiểm toán và tính nghiêm
minh của pháp luật, việc áp dụng biện pháp xử lý nói chung và xử phạt vi
phạm hành chính nói riêng đối với tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp
luật về kiểm toán nhà nước là một đòi hỏi cấp bách. Đòi hỏi này xuất phát từ
yêu cầu khách quan của việc tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động
kiểm toán nhà nước ở nước ta hiện nay.
3.2.2.9. Chưa có sự phù hợp và đồng bộ về một số quy định giữa
Luật Kiểm toán nhà nước với các luật có liên quan
Do địa vị pháp lý của KTNN chưa được quy định trong Hiến pháp, nên
hiện nay vẫn còn trình trạng chưa có sự phù hợp và đồng bộ trong một số quy
định giữa Luật Kiểm toán nhà nước với các luật có liên quan, nhất là các luật
điều chỉnh về tổ chức bộ máy nhà nước và NSNN, cụ thể là:
Luật Kiểm toán nhà nước quy định: "Tổng Kiểm toán Nhà nước do
Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm theo đề nghị của Uỷ ban thường vụ
Quốc hội sau khi trao đổi thống nhất với Thủ tướng Chính phủ (khoản 2 Điều
17). Tuy nhiên, cả Luật tổ chức Quốc hội và Luật tổ chức Chính phủ đều
không có nội dung nào quy định về vấn đề trên.
Luật NSNN và Luật Kiểm toán nhà nước quy định việc kiểm toán báo
cáo quyết toán NSNN các cấp được thực hiện trước khi Quốc hội, HĐND phê
104
chuẩn quyết toán ngân sách. Tuy nhiên, theo quy định của Luật NSNN và các
văn bản hướng dẫn thi hành thì thời gian lập, chỉnh lý và gửi báo cáo quyết
toán ngân sách của các địa phương quá dài (chậm nhất là ngày 01/10 năm
sau), nên việc kiểm toán để phục vụ HĐND các cấp phê chuẩn quyết toán
ngân sách gặp nhiều khó khăn do thời gian kiểm toán ngắn; nhiều cuộc kiểm
toán không thể thực hiện trước khi HĐND phê chuẩn quyết toán ngân sách
địa phương. Vấn đề này cũng làm ảnh hưởng đến tiến độ phát hành báo cáo
kiểm toán theo quy định của Luật Kiểm toán nhà nước.
3.2.3. Thực trạng về tổ chức thực hiện
Với khuôn khổ pháp lý dần hoàn thiện, năng lực được tăng cường, hoạt
động kiểm toán nhà nước ngày càng mở rộng về quy mô, đa dạng về loại hình
và phương thức kiểm toán, nâng cao chất lượng kiểm toán và công khai kết
quả kiểm toán theo quy định của Luật Kiểm toán nhà nước. Qua hơn 7 năm
thực hiện Luật Kiểm toán nhà nước, hoạt động kiểm toán của KTNN đã đạt
được những bước tiến như sau:
Một là, về quy mô kiểm toán
Từ khi Luật Kiểm toán nhà nước có hiệu lực thi hành, mỗi năm KTNN
thực hiện kiểm toán trên 100 cuộc kiểm toán (Bộ, ngành, tỉnh, thành phố, tập
đoàn, tổng công ty… ), bình quân tăng gấp 2 lần so với giai đoạn trước khi có
Luật Kiểm toán nhà nước, riêng lĩnh vực đầu tư XDCB có số lượng các dự án
đầu tư được kiểm toán gấp 4 lần. Đối với lĩnh vực NSNN, số lượng đầu mối
và tổng số thu, chi NSNN được kiểm toán tăng nhanh. Nếu năm 2004, kiểm
toán tại 8 Bộ, ngành và 22 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, chiếm
5,38% chi ngân sách trung ương, 29% tổng số chi NSĐP và 38% tổng số thu
NSNN thì đến năm 2008, kiểm toán tại 20 Bộ, ngành và 35 tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương, 29% tổng chi ngân sách Trung ương, 49% tổng số chi
NSĐP và 60% tổng số thu NSNN đã được kiểm toán [36, tr.8].
105
Trung bình mỗi năm KTNN thực hiện kiểm toán báo cáo quyết toán
NSNN của 60% số tỉnh, thành phố; báo cáo tài chính của 60% số Bộ, ngành
Trung ương và 12% số doanh nghiệp nhà nước do Trung ương quản lý.
Khoảng cách bình quân giữa 2 lần kiểm toán tại mỗi đơn vị được kiểm toán
đã rút ngắn. Nếu giai đoạn trước khi Luật Kiểm toán nhà nước có hiệu lực,
tần suất kiểm toán từ 4-5 năm/lần/đơn vị thì từ khi Luật Kiểm toán nhà nước
có hiệu lực thi hành, hầu hết các đơn vị dự toán cấp I thuộc ngân sách Trung
ương, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các tập đoàn, tổng công ty
nhà nước, ngân hàng thương mại, tổ chức tài chính, bảo hiểm… được kiểm
toán 2-3 năm/lần/đơn vị; nhiều đơn vị được kiểm toán thường xuyên hàng
năm theo luật định như: Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Chính sách xã
hội....Bên cạnh việc thực hiện kiểm toán theo Kế hoạch kiểm toán hàng năm,
KTNN còn thực hiện nhiều cuộc kiểm toán phục vụ công tác giám sát theo
yêu cầu của UBTV Quốc hội, như: Chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng,
Tổng Công ty Tài chính cổ phần dầu khí...; kiểm toán theo yêu cầu của Thủ
tướng Chính phủ, như: Kiểm toán Xí nghiệp liên doanh dầu khí Vietsopetro,
Công ty cổ phần phát triển đầu tư công nghệ FPT, Dự án Trung tâm Hội nghị
quốc gia, Dự án Cầu Vĩnh Tuy, Dự án Đường 5 kéo dài …Thực hiện kiểm
toán các chương trình mục tiêu quốc gia theo đề nghị của các nhà tài trợ như:
Chương trình 135, Chương trình MTQG nước sạch và vệ sinh môi trường
nông thôn, Chương trình MTQG về giáo dục và đào tạo; hợp tác, kiểm toán
chung với KTNNLB Nga kiểm toán Xí nghiệp liên doanh Vietsovpetro... đã
trở thành công việc thường xuyên trong những năm gần đây của KTNN.
Hai là, về loại hình và phương thức kiểm toán
Trước khi có Luật Kiểm toán nhà nước, KTNN chủ yếu thực hiện kiểm
toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ theo phương thức hậu kiểm phù
hợp với giai đoạn đầu mới thành lập. Từ khi có Luật Kiểm toán nhà nước,
KTNN đã tăng cường kiểm toán cả về diện và chiều sâu, thực hiện đầy đủ cả
106
3 loại hình kiểm toán: Kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ và
kiểm toán hoạt động, chú trọng đánh giá tình hình thực hiện Luật Phòng,
chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chất lượng
công tác kiểm toán Báo cáo quyết toán NSNN được nâng cao, kết quả cuộc
kiểm toán đã phục vụ tốt cho Chính phủ, Quốc hội trong việc xem xét, phê
chuẩn quyết toán NSNN và quyết định dự toán NSNN; cung cấp thông tin cho
HĐND các cấp phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương hàng năm. KTNN
cũng thực hiện kiểm toán và xác nhận báo cáo quyết toán vốn đầu tư của các
dự án XDCB, báo cáo tài chính của các doanh nghiệp, các đơn vị, tổ chức
kinh tế nhằm cung cấp thông tin khách quan, trung thực và nâng cao tính
minh bạch trong quản lý ngân sách, tiền và tài sản nhà nước. Thực hiện quy
định của pháp luật, nhất là Luật Phòng, chống tham nhũng và Luật Thực hành
tiết kiệm, chống lãng phí, KTNN đã tăng cường kiểm toán tuân thủ, qua đó
chỉ rõ sai phạm, trách nhiệm của các tập thể, cá nhân để xảy ra sai phạm; kiến
nghị cụ thể với các cơ quan liên quan xử lý theo quy định của pháp luật.
Những năm gần đây, KTNN đã chú trọng đẩy mạnh kiểm toán hoạt
động nhằm đánh giá tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong quản lý, sử dụng
ngân sách, tiền và tài sản nhà nước, trước hết là đối với các dự án đầu tư,
chương trình mục tiêu quốc gia; phân tích các nguyên nhân lạm phát và đánh
giá việc thực hiện các gói giải pháp của Chính phủ chống lạm phát, kích cầu
theo kết luận của Bộ Chính trị và Nghị quyết của Quốc hội.
Cùng với sự đa dạng các loại hình kiểm toán, các phương thức kiểm
toán cũng được mở rộng. Bên cạnh phương thức kiểm toán quyết toán (hậu
kiểm), KTNN đã thực hiện thẩm định và trình bày ý kiến về dự toán NSNN
hàng năm trình Quốc hội. Nhiều dự án trọng điểm quốc gia được kiểm toán từ
khi khởi công đến khi kết thúc đầu tư như: Trung tâm Hội nghị quốc gia, Dự
án Cầu Vĩnh Tuy, Dự án Đường 5 kéo dài... Phương thức kiểm toán chuyên
đề cũng được triển khai mở rộng nhằm đi sâu kiểm toán, giải đáp các vấn đề
107
thực tiễn trong công tác quản lý ngân sách, tiền và tài sản nhà nước đang được
dư luận quan tâm và đề xuất nhiều ý kiến có giá trị để hoàn thiện hệ thống
chính sách, pháp luật, chế độ quản lý.
Ba là, về chất lượng kiểm toán
Với nhiều biện pháp tăng cường quản lý, kiểm soát chất lượng kiểm
toán và đạo đức nghề nghiệp của KTV, chất lượng kiểm toán ngày càng cao,
đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của thực tiễn. Những kiến nghị của KTNN
ngày càng đa dạng, phong phú, sắc sảo và có chất lượng hơn, được Chính
phủ, Quốc hội, các Bộ, ngành, địa phương sử dụng ngày càng nhiều trong
xem xét, phê chuẩn dự toán và quyết toán ngân sách, giám sát ngân sách và
thực hiện chính sách pháp luật; trong quản lý và xây dựng chính sách tài
chính - ngân sách; các đơn vị được kiểm toán khắc phục những yếu kém, bất
cập, hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ. Hàng năm, KTNN đều tổ chức
thanh tra, kiểm tra việc thực hiện Quy chế tổ chức và hoạt động của Đoàn
KTNN, Quy tắc ứng xử của KTV nhà nước cũng như hồ sơ kiểm toán trong
khi thực hiện hoặc kết thúc kiểm toán đã đưa vào lưu trữ; ban hành và kiểm
tra việc thực hiện các chỉ thị của Tổng KTNN về tăng cường quản lý hoạt
động kiểm toán, kiểm soát chất lượng kiểm toán. Kết quả thanh tra, kiểm tra,
kiểm soát chất lượng được công khai, có tác dụng tốt kịp thời chấn chỉnh các
sai phạm và biểu dương khen thưởng những nhân tố tích cực để nâng cao chất
lượng kiểm toán, rút ngắn thời gian kiểm toán và tránh được các sai phạm,
khuyết điểm của KTV nhà nước.
Bốn là, về kết quả kiểm toán
Qua hoạt động kiểm toán, KTNN đã phát hiện nhiều vi phạm chính
sách, chế độ quản lý kinh tế, tài chính và kiến nghị xử lý tài chính với tổng số
tiền 90.093 tỷ đồng. Tính riêng 5 năm sau khi Luật Kiểm toán nhà nước có
hiệu lực thi hành, đã kiến nghị xử lý tài chính 70.597 tỷ đồng, bằng 78,36%
tổng số kiến nghị xử lý tài chính trong cả 16 năm thành lập và hoạt động
108
động, trong đó: Tăng thu về thuế và các khoản thu khác 17.078 tỷ đồng, giảm
chi NSNN 10.806 tỷ đồng, các khoản phải nộp, hoàn trả và quản lý qua
NSNN 29.133 tỷ đồng, phát hiện tăng thêm so với báo cáo của cơ quan quản
lý thu 7.871 tỷ đồng, kiến nghị xử lý tài chính khác 9.344 tỷ đồng [37, tr.7].
Tổng hợp kết quả kiểm toán 15 năm hoạt động của KTNN (1994 - 2008) cho
thấy: Bình quân 01 đồng NSNN cấp cho KTNN đã góp phần tiết kiệm cho
NSNN 58 đồng, gồm thu về cho NSNN 36 đồng và giảm chi cho NSNN 22
đồng [36, tr.9]. Qua kiểm toán Kiểm toán Nhà nước đã phát hiện và kiến nghị
xử lý trách nhiệm tập thể, cá nhân hàng trăm vụ việc; trong đó, riêng năm
2012, KTNN đã chuyển hồ sơ 4 vụ việc có dấu hiệu tội phạm sang cơ quan
cảnh sát điều tra để điều tra, làm rõ. KTNN đã kiến nghị huỷ bỏ, sửa đổi hàng
trăm văn bản QPPL trái pháp luật hoặc không phù hợp thực tế; trong đó, chỉ
tính riêng từ năm 2006 đến hết năm 2012 đã kiến nghị các bộ, ngành, địa
phương hủy bỏ, sửa đổi 297 văn bản QPPL.
Kết quả hoạt động KTNN không chỉ thể hiện, ghi nhận bằng những số
liệu kiến nghị xử lý tài chính hàng nghìn tỷ đồng mà còn thể hiện ở những
kiến nghị kiểm toán mang tính tư vấn đã giúp các đơn vị được kiểm toán, các
cơ quan quản lý nhà nước chấn chỉnh công tác quản lý tài chính, kế toán, ngăn
ngừa những hành vi tiêu cực, tham ô, lãng phí, đảm bảo quản lý, sử dụng tiền
tài sản nhà nước đúng pháp luật và có hiệu quả. KTNN đã cung cấp những
thông tin xác thực về tình hình quản lý điều hành ngân sách, tiền và tài sản
nhà nước và có nhiều kiến nghị với Quốc hội, Chính phủ,... góp phần sửa đổi,
hoàn thiện các cơ chế, chính sách nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý
nhà nước về kinh tế, tài chính.
Năm là, về công khai kết quả kiểm toán
Thực hiện quy định tại Điều 58 và Điều 59 của Luật Kiểm toán nhà
nước, Nghị định số 91/2008/NĐ-CP ngày 18/8/2008 của Chính phủ về công
khai kết quả kiểm toán và kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán của
109
KTNN. Hàng năm, KTNN công bố công khai kết quả kiểm toán năm và kết
quả kiểm toán một số cuộc kiểm toán thông qua hình thức họp báo và đăng tải
trên Trang thông tin điện tử và Tạp chí Kiểm toán theo quy định. Việc công
khai kết quả kiểm toán đảm bảo đúng pháp luật, có tính định hướng, được dư
luận đồng tình và đánh giá cao.
Sáu là, các đơn vị được kiểm toán và tổ chức, cá nhân có liên quan đã
nâng cao ý thức trong việc tuân thủ nghĩa vụ và trách nhiệm của mình
Thực hiện Luật Kiểm toán nhà nước, các đơn vị được kiểm toán và các
cá nhân có liên quan đã thực hiện tốt hơn nghĩa vụ cung cấp các thông tin, tài
liệu phục vụ cho việc kiểm toán; các tổ chức và cơ quan hữu quan đã phối
hợp tốt trong công tác để thực hiện nhiệm vụ kiểm toán. Các đơn vị được
kiểm toán ngày càng thực hiện nghiêm túc các kết luận, kiến nghị của KTNN
đối với các sai phạm trong việc tuân thủ pháp luật; thực hiện các biện pháp
khắc phục yếu kém trong hoạt động của đơn vị do KTNN phát hiện và kiến
nghị. Lãnh đạo các Bộ, ngành, cơ quan Trung ương, UBND các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương cũng quan tâm và chỉ đạo thực hiện nghiêm túc
các kết luận, kiến nghị của KTNN. Hàng năm, các đơn vị được kiểm toán đều
có báo cáo thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán gửi về KTNN.
Bảy là, về bảo đảm hoạt động của Kiểm toán Nhà nước
Được sự quan tâm của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các địa phương và
nỗ lực của ngành, trụ sở KTNN đã được xây dựng ở trung ương, một số
KTNN khu vực và Trung tâm Đào tạo, Bồi dưỡng cán bộ đảm bảo khang
trang, khá hiện đại. Xây dựng được trung tâm cơ sở dữ liệu và hệ thống mạng
ở trung ương, các khu vực kết nối với mạng Chính phủ và Quốc hội; xây
dựng và vận hành hệ thống thư điện tử cho tất cả công chức, viên chức trong
ngành. Xây dựng và đưa vào khai thác 03 phần mềm phục vụ hoạt động kiểm
toán và chương trình phần mềm phục vụ quản lý, điều hành của lãnh đạo.
Hàng năm, đảm bảo kinh phí hoạt động theo định mức ngân sách được phân
110
bổ, chú trọng từng bước trang bị thêm các phương tiện, đặc biệt là máy tính
xách tay cho kiểm toán viên.
Cùng với chế độ phụ cấp trách nhiệm nghề kiểm toán, phụ cấp thâm
niên và chế độ trang phục cho kiểm toán viên, thu nhập của công chức, viên
chức được cải thiện đáng kể từ nguồn kinh phí trích 2% số tiền các cơ quan tổ
chức thực nộp ngân sách theo kết luận, kiến nghị kiểm toán của KTNN.
Với những kết quả đã đạt được sau gần 20 năm xây dựng và phát triển,
KTNN đã góp phần tăng cường tính minh bạch, hiệu lực, hiệu quả trong quản
lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước. Kết quả hoạt động KTNN đã
đóng góp tích cực vào thành tựu công cuộc đổi mới, cải cách hành chính, đặc
biệt là cải cách tài chính công, khẳng định vị trí, vai trò của KTNN trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, bên
cạnh những kết quả đã đạt được, việc tổ chức thực hiện pháp luật về kiểm
toán nhà nước cũng còn một số hạn chế, tồn tại sau đây:
Thứ nhất, quy mô hoạt động kiểm toán của KTNN còn rất hạn chế so
với yêu cầu kiểm tra, kiểm soát các đối tượng sử dụng ngân sách, tiền và tài
sản nhà nước theo chức năng, nhiệm vụ được giao, nhất là lĩnh vực kiểm toán
NSNN. Theo quy định của Luật NSNN và Luật Kiểm toán nhà nước, báo cáo
quyết toán NSNN, báo cáo quyết toán ngân sách địa phương phải được kiểm
toán trước khi Quốc hội, HĐND phê chuẩn; báo cáo quyết toán, báo cáo tài
chính của các cơ quan, đơn vị, tổ chức có sử dụng NSNN cũng đều phải được
kiểm toán. Thực tế, các đơn vị được kiểm toán trong những năm gần đây tuy
đã tăng dần, nhưng mới chỉ chiếm tỷ lệ khá khiêm tốn trong tổng số các đơn
vị thuộc phạm vi kiểm toán của KTNN. Hiện nay, KTNN mới kiểm toán được
60% số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và khoảng 60% số bộ, cơ quan
Trung ương, nhưng trong mỗi tỉnh (bộ) chỉ kiểm toán được 50% số huyện
(đơn vị dự toán trực thuộc bộ) và mỗi huyện chỉ kiểm toán được 2 đến 3 xã,
quy mô chọn mẫu trong từng cuộc kiểm toán cũng còn rất hạn chế.
111
Thứ hai, chất lượng kiểm toán và tiến độ kiểm toán còn khoảng cách
so với yêu cầu của Luật Kiểm toán nhà nước, chưa giải đáp thích đáng các
vấn đề bức xúc về những hiện tượng tiêu cực cũng như hiệu quả quản lý, sử
dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước, cụ thể là:
- Về kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ: Báo cáo kiểm
toán còn nặng về phát hiện sai sót, chưa xác nhận được tính đúng đắn, trung
thực của báo cáo tài chính, báo cáo quyết toán; các vấn đề tư vấn chưa thật
gắn với đời sống kinh tế - xã hội và những vấn đề nổi cộm, bức xúc hiện nay.
- Về kiểm toán hoạt động và kiểm toán chuyên đề chưa được mở rộng,
nên chưa có điều kiện đi sâu, giải đáp các vấn đề bức xúc, nhức nhối trong dư
luận xã hội về những hiện tượng tiêu cực xẩy ra trong việc quản lý, sử dụng
ngân sách, tiền và tài sản nhà nước, nhất là vấn đề thất thoát, lãng phí trong
đầu tư xây dựng, quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên khoáng sản...;
- Việc chuẩn bị ý kiến về dự toán NSNN và phương án phân bổ ngân
sách trung ương mới chỉ là bước đầu; quá trình triển khai thực hiện gặp nhiều
khó khăn do chưa có đầy đủ cơ sở pháp lý, cơ chế thực hiện và hạn chế nguồn
nhân lực cũng như phương pháp chuyên môn nghiệp vụ...
- Thời gian lập, phát hành báo cáo kiểm toán đã có tiến bộ nhiều, song
nhìn chung còn chậm so với quy định của Luật Kiểm toán nhà nước.
Thứ ba, hiệu lực kiểm toán chưa cao, việc thực hiện các kết luận, kiến
nghị kiểm toán, nhất là việc xử lý trách nhiệm các tổ chức, cá nhân đối với các
sai phạm chưa đầy đủ, nghiêm minh và kịp thời. Chất lượng công tác quản lý tài
chính, ngân sách, tiền và tài sản nhà nước chưa được củng cố và hoàn thiện một
cách tương xứng ở các đơn vị sau khi được kiểm toán. Các sai phạm, tiêu cực,
lãng phí vẫn tiếp tục xảy ra và cá biệt có trường hợp niên độ kiểm toán sau sai
phạm nhiều hơn niên độ kiểm toán trước. Hoạt động kiểm toán chưa phát hiện
được nhiều vụ việc tham nhũng để kiến nghị xử lý theo pháp luật.
- Kết quả kiểm tra tình hình thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán của
KTNN những năm gần đây cho thấy nhiều đơn vị được kiểm toán chưa thực
112
hiện đầy đủ, nghiêm túc các kiến nghị của KTNN. Nguyên nhân chủ yếu của
tình trạng trên là do pháp luật chưa có những quy định về chế tài xử phạt đối
với những cơ quan, tổ chức, đơn vị không thực hiện hoặc thực hiện không đầy
đủ các kiến nghị của KTNN. Việc theo dõi, kiểm tra và tổng hợp kết quả thực
hiện kiến nghị kiểm toán của KTNN còn thiếu nề nếp và tính hệ thống.
- Thực hiện Luật Kiểm toán nhà nước và Luật Phòng, chống tham
nhũng, KTNN đã tổ chức thực hiện việc kiểm toán góp phần quan trọng vào
việc phòng ngừa, phát hiện tham nhũng, vi phạm pháp luật. Thông qua hoạt
động kiểm toán, KTNN đã phát hiện và chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra, cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý nhiều vụ việc có dấu hiệu tham nhũng, vi
phạm pháp luật. Tuy nhiên, Luật Kiểm toán nhà nước và Luật Phòng, chống
tham nhũng chưa quy định rõ vai trò, trách nhiệm của KTNN trong phòng,
chống tham nhũng, trách nhiệm của cơ quan điều tra, cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền trong việc thông báo kết quả xử lý hành vi tham nhũng, vi phạm pháp luật
với KTNN, nhất là những vụ việc không được xử lý, đã làm giảm hiệu lực của
kiến nghị kiểm toán trong phòng, chống tham nhũng. Việc cung cấp kết quả
kiểm toán, báo cáo kiểm toán cho một số cơ quan chức năng có liên quan chưa
được quy định cụ thể nên quá trình thực hiện còn nhiều lúng túng.
Thứ tư, cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện hoạt động còn rất
thiếu thốn. Tuy hệ thống trụ sở cơ quan KTNN đã được Nhà nước quan tâm
xây dựng đáp ứng được một phần nhiệm vụ, song nhìn chung cơ sở vật chất,
trang thiết bị, phương tiện hiện nay của KTNN còn rất thiếu thốn. Công suất
trụ sở KTNN ở Trung ương trên thực tế đã khai thác gấp 2 lần so với thiết kế,
không có đủ chỗ làm việc tối thiểu cho cán bộ, công chức theo quy định. Hầu
hết KTNN khu vực chưa có trụ sở riêng, còn phải đi thuê rất tạm bợ (chỉ có
03/13 KTNN khu vực đã có trụ sở ổn định). Phương tiện phục vụ cho công
tác kiểm toán còn thiếu, như: Ô tô, máy tính, các phương tiện kỹ thuật đặc
chủng phục vụ cho kiểm toán dự án đầu tư; hạ tầng công nghệ thông tin còn
113
thấp kém; kinh phí được cấp hàng năm còn hạn hẹp nên đã phần nào làm hạn
chế tính độc lập, khách quan của KTNN.
Thứ năm, việc giải quyết mối quan hệ giữa mở rộng quy mô, nâng cao
chất lượng kiểm toán và yêu cầu giữ gìn đạo đức, phẩm chất cán bộ, KTV
luôn là một thách thức lớn. Trong những năm qua được sự quan tâm của
Đảng và Nhà nước, đội ngũ KTV nhà nước được tăng cường cả về số lượng
và chất lượng. Nhìn chung đội ngũ KTV nhà nước có bản lĩnh chính trị vững
vàng, phẩm chất đạo đức tốt, yêu ngành, yêu nghề, tận tụy làm việc với tinh
thần trách nhiệm cao; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và các
biểu hiện tiêu cực khác. Tuy nhiên, qua thực tiễn hoạt động kiểm toán cho
thấy còn một số KTV nhà nước chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, kỷ luật, kỷ
cương hành chính chưa nghiêm, văn hóa nghề nghiệp, văn hóa giao tiếp, văn
hóa ứng xử còn thiếu chuyên nghiệp; một số KTV nhà nước coi trọng lợi ích
cá nhân, thiếu tu dưỡng, rèn luyện đã có những hành vi vi phạm quy chế, quy
định của ngành, cá biệt có trường hợp vi phạm pháp luật hình sự bị cơ quan
điều tra khởi tố đã làm ảnh hưởng uy tín của toàn ngành.
Những hạn chế và bất cập của hoạt động KTNN nói trên do nhiều
nguyên nhân, trong đó, có một số nguyên nhân cơ bản là: Khuôn khổ pháp lý
về tổ chức và hoạt động của KTNN chưa đầy đủ và đồng bộ, hiện nay vẫn
chưa có quy định về địa vị pháp lý của cơ quan KTNN trong Hiến pháp - đạo
luật cơ bản của Nhà nước theo khuyến cáo của INTOSAI và thông lệ của hầu
hết các nước trên thế giới; cơ cấu tổ chức của KTNN vẫn đang trong quá trình
hoàn thiện, chưa hoàn chỉnh; số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ được giao; nhiều vấn đề có
tác động ảnh hưởng đến tính hiệu lực, hiệu quả của hoạt động KTNN vẫn còn
trong quá trình hoàn thiện, như: Hệ thống pháp luật về quản lý kinh tế - tài
chính; cải cách tài chính công, hệ thống chuẩn mực, quy trình, phương pháp
kiểm toán và các biện pháp giám sát chất lượng kiểm toán...
114
3.2.4. Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại
3.2.4.1. Những nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, hoạt động kiểm toán nói chung, hoạt động KTNN nói riêng
là lĩnh vực hoạt động mới ở Việt Nam. Đây là một nguyên nhân cơ bản, bởi
lẽ: Pháp luật phản ánh thực tiễn, trong khi thực tiễn hoạt động KTNN còn khá
mới mẻ ở Việt Nam; do vậy, chỉ có thể dựa vào kinh nghiệm thực tiễn của
nước ngoài để vận dụng vào các điều kiện cụ thể ở nước ta, nhất là trong giai
đoạn đầu mới thành lập, nên việc xây dựng hệ thống pháp luật kiểm toán nhà
nước Việt Nam nói chung và chế định về địa vị pháp lý của KTNN nói riêng
chưa phù hợp hoàn toàn với thông lệ quốc tế và điều kiện kinh tế, xã hội của
Việt Nam là điều khó tránh khỏi.
Thứ hai, việc xác lập địa vị pháp lý của KTNN ở nước ta bị ràng buộc
bởi môi trường pháp luật hiện có của Việt Nam, đặc biệt là đạo luật cơ bản
của Nhà nước là Hiến pháp và các luật về tổ chức bộ máy nhà nước với các
thiết chế mà các đạo luật về các thiết chế này điều chỉnh không thể nhanh
chóng được thay đổi phù hợp với điều kiện có sự ra đời và hoạt động của
KTNN. Do vậy, sự bất cập về địa vị pháp lý của KTNN không thể giải quyết
được ngay trong giai đoạn đầu mà cần phải có lộ trình và bước đi phù hợp.
Việc khắc phục những nguyên nhân khách quan nêu trên là một trong
những điều kiện cơ bản để hoàn thiện pháp luật về KTNN ở nước ta hiện nay.
3.2.4.2. Những nguyên nhân chủ quan
Ngoài những nguyên nhân khách quan nêu trên, những nguyên nhân
chủ quan là những yếu tố tác động trực tiếp đến những bất cập của pháp luật
về kiểm toán nhà nước ở nước ta hiện nay, bao gồm:
Một là, KTNN là lĩnh vực hoạt động còn rất mới mẻ, tổ chức và hoạt
động của KTNN chưa có tiền lệ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước ta; cơ quan KTNN mới được thành lập, nên kinh nghiệm về xây dựng
pháp luật, tổ chức và triển khai hoạt động kiểm toán còn hạn chế, phải vừa
115
làm, vừa tổng kết đúc rút kinh nghiệm, nghiên cứu học tập kinh nghiệm nước
ngoài để từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về kiểm toán nhà nước.
Hai là, nhận thức của các cấp, các ngành và của các nhà làm luật về lĩnh
vực KTNN còn nhiều mặt chưa đầy đủ và toàn diện, nhất là về vị trí pháp lý, vai
trò, chức năng, nhiệm vụ của KTNN; thậm chí, có lúc, có nơi còn sai lệch.
Ba là, KTNN được thành lập sau khi Quốc hội thông qua Hiến pháp năm
1992 nên chưa thể quy định địa vị pháp lý của KTNN trong Hiến pháp. Năm 2001
Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung, nhưng chỉ tập trung vào những vấn
đề đã rõ và có sự thống nhất cao; trong khi đó KTNN là một lĩnh vực mới, cần có
thêm thời gian và thực tiễn để nghiên cứu. Do vậy, KTNN cần phải tổng kết, đúc
kết thực tiễn, nghiên cứu, học tập kinh nghiệm nước ngoài để có cơ sở lý luận và
thực tiễn thuyết phục về xác lập địa vị pháp lý của KTNN trong Hiến pháp cho
phù hợp điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam và thông lệ quốc tế.
Từ sự phân tích trên đây cho thấy, những hạn chế, bất cập của hệ thống
pháp luật về kiểm toán nhà nước ở nước ta chịu sự tác động của cả những
nguyên nhân khách quan và chủ quan. Việc tìm giải pháp cho việc hoàn thiện
pháp luật về kiểm toán nhà nước trước hết phải hướng vào giải quyết khắc
phục được những nguyên nhân nêu trên.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Trải qua gần 20 năm xây dựng và phát triển của KTNN, hệ thống các
văn bản QPPL điều chỉnh về tổ chức và hoạt động của KTNN được hình
thành và từng bước hoàn thiện phù hợp với điều kiện về kinh tế, chính trị của
đất nước trong từng giai đoạn nhất định. Các văn bản QPPL về KTNN luôn
có sự kế thừa và phát triển theo yêu cầu kiểm soát của Nhà nước về tài chính,
ngân sách trong từng giai đoạn phát triển của đất nước, đặc biệt, Quốc hội
khoá XI, tại kỳ họp thứ 7 đã thông qua Luật Kiểm toán nhà nước là một bước
tiến to lớn về phương diện lập pháp đối với lĩnh vực KTNN. Trên cơ sở các
văn bản pháp luật này, tổ chức và hoạt động của KTNN ngày càng đáp ứng
116
yêu cầu của công cuộc đổi mới, tăng cường kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước
trong quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước.
Tuy nhiên, dưới góc độ nghiên cứu lý luận về lịch sử nhà nước và pháp
luật, có thể thấy hệ thống văn bản QPPL về KTNN chưa đáp ứng yêu cầu về
tính toàn diện, tính thống nhất và tính đồng bộ; pháp luật về kiểm toán nhà
nước còn nhiều hạn chế cả về nội dung và hình thức, như: Địa vị pháp lý của
KTNN chưa được quy định trong Hiến pháp; phạm vi kiểm toán chưa bao
quát hết việc kiểm tra, kiểm soát mọi nguồn lực tài chính nhà nước và tài sản
công; chưa có sự tương thích về một số quy định giữa Luật Kiểm toán nhà
nước với các luật liên quan; chưa có các quy định cụ thể về chế tài...
Qua việc phân tích, đánh giá những kết quả đã đạt được, những hạn chế
và bất cập của pháp luật về kiểm toán nhà nước, luận án đã luận giải những
nguyên nhân hạn chế, tồn tại của hệ thống pháp luật về kiểm toán nhà nước ở
nước ta hiện nay. Đây là cơ sở thực tiễn để đề ra các giải pháp có tính khả thi
cao nhằm hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước đáp ứng yêu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay.
117
Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. QUAN ĐIỂM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM TOÁN NHÀ
NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1.1. Hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước phải quán triệt và
thể chế hoá các quan điểm của Đảng về phát triển Kiểm toán Nhà nước
Để xây dựng KTNN trở thành một công cụ mạnh về kiểm tra tài chính
nhà nước, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết đề cập chủ trương phát triển
KTNN. Trong điều kiện đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc hoàn
thiện hệ thống pháp luật về kiểm toán nhà nước nhằm tiếp tục đẩy mạnh thực
hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, góp
phần nâng cao vị trí, vai trò và hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Kiểm toán
Nhà nước. Nghị quyết đại hội XI đã khẳng định: “Tăng cường công tác kiểm
toán, thanh tra, kiểm tra, giám sát của các cơ quan chức năng” [17]. Kết luận
Hội nghị Trung ương 5 (khóa XI) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí nhấn mạnh: " Tiếp tục hoàn
thiện thể chế và tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra,
truy tố, xét xử để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, lãng
phí" [18]. Kết luận Hội nghị Trung ương 5 (khóa XI) về tổng kết việc thi hành
Hiến pháp năm 1992 và những nội dung cơ bản về sửa đổi Hiến pháp năm
1992 đã khẳng định rõ: "Nghiên cứu việc bổ sung một số thiết chế độc lập như
cơ quan Kiểm toán Nhà nước, cơ quan bầu cử quốc gia" [18].
Thể chế hoá kịp thời đường lối, chủ trương của Đảng thành pháp luật là
phương hướng chủ yếu và cơ bản hiện nay trong công tác xây dựng và hoàn
118
thiện hệ thống pháp luật của Nhà nước ta nói chung và pháp luật kiểm toán
nhà nước nói riêng, là cơ sở để tăng cường pháp chế XHCN. Đồng thời, tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa là biện pháp bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước và xã hội. Nhà nước thể chế hoá đường lối, chủ trương của
Đảng bằng pháp luật và bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh,
thống nhất, qua đó khẳng định sự đúng đắn và bảo đảm cho đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng được thực hiện nghiêm chỉnh trong thực tiễn đời
sống kinh tế, xã hội. Nguyên tắc pháp chế XHCN yêu cầu hoạt động thể chế
đường lối, chủ trương của Đảng thành pháp luật phải mang tính chủ động,
tích cực. Vì vậy, trong hoạt động kiểm toán nhà nước cần bảo đảm sự lãnh
đạo của Đảng ngay từ khâu thể chế hóa, bảo đảm cho các đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng về phát triển KTNN được thể chế hoá đầy đủ,
đúng đắn và kịp thời, nhằm nhanh chóng xây dựng được một hệ thống pháp
luật về kiểm toán nhà nước bảo đảm tính toàn diện, thống nhất và đầy đủ từ
các quy định về KTNN trong Hiến pháp đến Luật Kiểm toán nhà nước và các
đạo luật có liên quan, các văn bản QPPL hướng dẫn thi hành và hệ thống
chuẩn mực, quy trình kiểm toán nhà nước. Trong đó, việc nghiên cứu xác lập
địa vị pháp lý của KTNN trong Hiến pháp là hết sức cần thiết và là yêu cầu
khách quan, phù hợp với thông lệ quốc tế, nhằm bảo đảm nguyên tắc hoạt
động kiểm toán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, tạo cơ sở pháp lý xây dựng
KTNN trở thành công cụ vững mạnh và sắc bén của Đảng, Nhà nước về kiểm
tra tài chính nhà nước.
4.1.2. Hoµn thiÖn ph¸p luËt về kiÓm to¸n nhµ n−íc phải nhằm xác
định hợp lý mô hình tổ chức của cơ quan Kiểm toán Nhà nước ở nước ta
Để có cơ sở cho việc xác lập địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ của
KTNN, trước hết cần nghiên cứu xác định hợp lý vị trí của cơ quan KTNN
trong cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước của Nhà nước ta. Ở nước ta, KTNN là
cơ quan mới được thành lập trong thời kỳ đổi mới đất nước, không có tổ chức
119
tiền thân trong bộ máy nhà nước. Do vậy, cần tham khảo mô hình tổ chức của
các cơ quan KTNN trên thế giới. Trước hết cần khẳng định mô hình tổ chức
nhà nước nói chung và tổ chức cơ quan kiểm toán tối cao nói riêng tùy thuộc
vào điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của mỗi nước, tùy thuộc vào thể chế
chính trị và tổ chức nhà nước của mỗi quốc gia. Mỗi quốc gia tổ chức cơ quan
kiểm toán tối cao khác nhau, nhưng đều có điểm chung là thực hiện quyền
kiểm tra, kiểm soát từ bên ngoài đối với hoạt động quản lý các nguồn lực tài
chính và tài sản công ” [54]. Cơ quan kiểm toán tối cao được thiết kế là hệ
thống kiểm soát từ bên ngoài đối với các đơn vị được kiểm toán. Chính điều
đó người ta cũng gọi hoạt động kiểm toán của cơ quan kiểm toán tối cao là
hoạt động ngoại kiểm hay kiểm toán ngoại vi. Có ba mô hình phổ biến về vị
trí của cơ quan KTNN là: KTNN trực thuộc Quốc hội, KTNN trực thuộc
Chính phủ và KTNN độc lập với cả Quốc hội và Chính phủ; trong đó, mô
hình KTNN độc lập với Quốc hội và Chính phủ là mô hình bảo đảm tính độc
lập cao nhất của cơ quan Kiểm toán Nhà nước.
Từ việc nghiên cứu các mô hình KTNN của các nước trên thế giới có
thể rút ra một số nhận xét là:
Thứ nhất, dù KTNN tổ chức theo mô hình nào cũng đều có những ưu
điểm, tồn tại nhất định và việc tổ chức cơ quan KTNN luôn tuỳ thuộc vào
điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, lịch sử của từng quốc gia;
Thứ hai, dù tổ chức theo mô hình nào đi chăng nữa thì bản chất của
KTNN vẫn là công cụ kiểm soát các hoạt động quản lý tài chính vĩ mô thuộc
cơ cấu của bộ máy nhà nước, do vậy luôn có sự đan xen nhau giữa các nhánh
quyền lực. Điều đó cho chúng ta thấy rằng việc phân loại một cách rạch ròi
KTNN thuộc nhánh quyền lực nào hay ở vị thế độc lập chỉ có ý nghĩa tương đối.
Thứ ba, các cơ quan KTNN trên thế giới không có sự khác biệt về mục
đích hoạt động, trong khi đó thì những thể chế về tổ chức nhân sự và hoạt
động (mà được gọi là mô hình KTNN) của nó do nhiều nguyên nhân (điều
120
kiện kinh tế, chính trị, lịch sử, xã hội...) lại có rất nhiều điểm khó tương đồng,
thậm chí rất khác nhau giữa các quốc gia.
Đối với Việt Nam, việc xác định vị trí của cơ quan KTNN trong cơ cấu
tổ chức bộ máy nhà nước phải quán triệt các quan điểm và nguyên tắc của
Đảng và Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam -
Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát chặt chẽ giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Từ sự
phân tích trên đây cho thấy, ở nước ta, để phù hợp với thể chế chính trị do một
Đảng duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh, tác giả cho rằng “Phương án
KTNN độc lập với Chính phủ và Quốc hội” là phù hợp với điều kiện ở Việt
Nam. Mô hình KTNN độc lập với Chính phủ và Quốc hội đã bảo đảm được tính
độc lập và hiệu quả hoạt động của KTNN trong thực tiễn hoạt động của KTNN ở
nước ta kể từ khi có Luật Kiểm toán nhà nước; đồng thời, mô hình này phù hợp
thông lệ của nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là của đa số các nước thuộc
khối ASEAN và bảo đảm bảo tính độc lập cao nhất của cơ quan KTNN.
4.1.3. Hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước phải nhằm bảo
đảm tính độc lập của cơ quan Kiểm toán Nhà nước
Tính độc lập của cơ quan KTNN là tiền đề cơ bản bảo đảm cho công
tác kiểm tra tài chính công có hiệu lực và hiệu quả. Kết quả kiểm tra tài chính
đối với tất cả các cơ quan, đơn vị, tổ chức... nói chung, nhất là các cơ quan,
đơn vị có sử dụng NSNN nói riêng đều chịu sự tác động về mặt chính trị... Vì
vậy, tính độc lập đầy đủ của cơ quan KTNN, cũng như KTV phải được bảo
đảm về mặt pháp lý. Đây là yếu tố quan trọng, trực tiếp tác động đến chất
lượng kiểm toán, bởi vì trong hoạt động kiểm toán mọi ý kiến đánh giá, nhận
xét và kết luận của KTV đều dựa vào bằng chứng kiểm toán và tuân thủ pháp
luật, không chịu sự tác động của bất kỳ sức ép nào, nhất là sức ép về chính trị.
Do vậy, hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước phải nhằm bảo đảm tính
121
độc lập của cơ quan KTNN. Sự độc lập của cơ quan KTNN được thể hiện trên
các mặt cơ bản sau đây:
a) Địa vị pháp lý: Địa vị pháp lý của KTNN là tổng thể các quy định
của pháp luật về vị trí của KTNN trong bộ máy quyền lực nhà nước, chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn mà pháp luật quy định cho KTNN, tạo cơ sở pháp
lý cho KTNN với tư cách là cơ quan kiểm tra tài chính nhà nước cao nhất tiến
hành hoạt động kiểm toán một cách độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Địa vị
pháp lý của KTNN ở hầu hết các nước trên thế giới đều được quy định trong
Luật cơ bản (Hiến pháp) và được cụ thể hoá trong Luật Kiểm toán nhà nước.
Ở nước ta KTNN được thành lập sau khi Quốc hội thông qua Hiến pháp năm
1992, do vậy, Hiến pháp chưa có quy định về địa vị pháp lý của KTNN. Hiện
nay, mặc dù Hiến pháp năm 1992 đã được Quốc hội khoá X sửa đổi, bổ sung
(năm 2001), nhưng địa vị pháp lý của KTNN vẫn chưa được quy định, lý do
là việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 chỉ tập trung vào những nội
dung đã rõ và đã có sự thống nhất cao. Do vậy, nếu chờ sửa đổi Hiến pháp và
Luật tổ chức Quốc hội để xác định địa vị pháp lý của KTNN là cơ quan kiểm
tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập sẽ không đáp ứng kịp thời yêu
cầu của công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và
quá trình đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới.
Để khắc phục tồn tại nêu trên; đồng thời xác định địa vị pháp lý của
KTNN đúng với bản chất của KTNN và phù hợp với thông lệ quốc tế, cần
phải bổ sung vào Hiến pháp - đạo luật cơ bản của Nhà nước những quy định
cơ bản về KTNN làm nền tảng cho tổ chức và hoạt động của KTNN.
b) Nhân sự: Cơ chế bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo của cơ quan KTNN, đặc
biệt là Tổng KTNN có tác động quan trọng đến những quyết định do họ đưa
ra, bởi vì Tổng KTNN là người đứng đầu KTNN và phải chịu trách nhiệm về
toàn bộ hoạt động của KTNN; do đó tính độc lập chỉ được thực hiện khi có
quy chế bổ nhiệm, miễn nhiệm được qui định cụ thể bằng pháp luật. Ở hầu
hết các nước trên thế giới dù KTNN được đặt ở Quốc hội, ở Chính phủ hay
122
đứng độc lập, để đảm bảo tính độc lập của KTNN, Tổng KTNN (Chủ tịch
KTNN) đều do Quốc hội bầu và bãi miễn với nhiệm kỳ dài hơn nhiệm kỳ của
Quốc hội. Tính độc lập về nhân sự của KTNN còn thể hiện ở quyền của
KTNN trong việc quyết định số biên chế, tuyển dụng, sa thải, bổ nhiệm,
thuyên chuyển cán bộ trong bộ máy cơ quan KTNN.
c) Ngân sách: Độc lập về nguồn lực tài chính để hoạt động là tiền đề
cơ bản bảo đảm tính tự chủ trong công việc. Nếu bị hạn chế về mặt tài chính
đối với cơ quan KTNN sẽ dẫn đến sự hạn chế trong hoạt động của nó, phạm
vi kiểm toán có thể bị thu hẹp hoặc phải nhờ đến sự giúp đỡ của đơn vị được
kiểm toán, ảnh hưởng trực tiếp đến tính độc lập, khách quan của hoạt động
kiểm toán. Trên thế giới, ở hầu hết các nước đều quy định việc cấp phát ngân
sách cho KTNN được quy định trong Luật Kiểm toán nhà nước, do Quốc hội
quyết định theo đề nghị của KTNN dựa trên khối lượng công việc hàng năm.
Đối với KTNN Việt Nam, một tổ chức mới được thành lập, không có tổ
chức tiền thân trong tổ chức bộ máy nhà nước, hoạt động mang tính chuyên môn
nghề nghiệp cao và bảo đảm nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Do
vậy, Nhà nước cần đảm bảo đầy đủ và có chính sách ưu tiên thích đáng các
nguồn lực cần thiết cho tổ chức bộ máy và hoạt động của KTNN để đảm bảo
tính độc lập, khách quan, chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt động kiểm toán, đặc
biệt là có chính sách đầu tư phát triển công nghệ thông tin và các phương tiện
khác để đảm bảo cho tổ chức và hoạt động của KTNN đáp ứng yêu cầu hội nhập
quốc tế. Đây là điều kiện, là tiền đề để đảm bảo tính độc lập của cơ quan KTNN
trong việc thực hiện đầy đủ các chức năng, nhiệm vụ được giao.
4.1.4. Hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước phải nhằm xây
dựng Kiểm toán Nhà nước thực sự trở thành công cụ kiểm tra tài chính
nhà nước có hiệu lực, hiệu quả
Mục đích hoạt động kiểm toán nhà nước phục vụ việc kiểm tra, giám
sát của Nhà nước trong quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước;
123
góp phần thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, thất thoát, lãng phí, phát
hiện và ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật; nâng cao hiệu quả sử dụng ngân
sách, tiền và tài sản nhà nước. Đây là một đòi hỏi có tính tất yếu và khách
quan khi Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam sử dụng một cách rộng rãi
và có hiệu lực các công cụ quản lý và kiểm soát vĩ mô đối với các hoạt động
kinh tế, tài chính trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Để đáp ứng mục đích trên đây, phải xác lập địa vị pháp lý của KTNN
tương xứng với vị trí, vai trò của cơ quan kiểm tra tài chính nhà nước cao
nhất; hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của KTNN, mở rộng phạm
vi kiểm toán bảo đảm bao quát hết hoạt động quản lý, sử dụng ngân sách, tiền
và tài sản nhà nước, đồng thời thực hiện đầy đủ các chức năng, nhiệm vụ của
KTNN, nhằm thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát nghiêm ngặt việc quản lý và
sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước.
4.1.5. Hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước phải nhằm đáp
ứng yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế, phù hợp với các nguyên tắc,
thông lệ quốc tế và điều kiện thực tế của Việt Nam
Một trong những yêu cầu quan trọng của quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế đòi hỏi phải xây dựng nền tài chính lành mạnh, công khai, đảm bảo
tính minh bạch. Để thực hiện yêu cầu nói trên, ở các nước trên thế giới đều có
một cơ quan độc lập về tổ chức và chức năng làm nhiệm vụ kiểm tra, xác
nhận tính đúng đắn, tính hợp pháp và tính kinh tế của công tác quản lý tài
chính - Đó là cơ quan Kiểm toán tối cao. Kinh nghiệm các nước trên thế giới
đều cho thấy, việc phát triển cơ quan KTNN cùng với các công cụ kiểm tra
khác của Nhà nước là điều kiện cần thiết và là tiền đề để có môi trường tài
chính lành mạnh, minh bạch, tạo điều kiện để thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư
trong và ngoài nước, đảm bảo cho đất nước phát triển nhanh chóng, ổn định
và bền vững. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng,
việc phát triển cơ quan KTNN cũng phải phù hợp với đòi hỏi của các định chế
124
tài chính quốc tế, đặc biệt khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương
mại thế giới. Do đó, để hệ thống pháp luật kiểm toán nhà nước trở thành “cầu
nối” hội nhập quốc tế về KTNN đòi hỏi bản thân nó phải có sự tương đồng
với hệ thống pháp luật về kiểm toán nhà nước các nước và phù hợp với
nguyên tắc, chuẩn mực kiểm toán quốc tế; đồng thời phù hợp điều kiện thực
tế về kinh tế, chính trị của Việt Nam.
4.2. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM TOÁN NHÀ
NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.2.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật về nội dung
4.2.1.1. Địa vị pháp lý của Kiểm toán Nhà nước
Pháp luật về kiểm toán nhà nước trước hết xác định địa vị pháp lý của
cơ quan KTNN trong hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước. Vấn đề xác định địa
vị pháp lý và tính độc lập của cơ quan KTNN được khẳng định tại Điều 5,
Tuyên bố Lima: "Sự thiết lập cơ quan kiểm toán tối cao và tính độc lập của
nó phải được đảm bảo trong Hiến pháp và các đạo luật khác" [54]. Có thể
xem đây là một nguyên tắc quan trọng trong việc thiết lập cơ quan KTNN ở
tất cả các quốc gia trên thế giới. Nội dung của nguyên tắc này đòi hỏi:
Trước hết, cần khẳng định sự tồn tại và hoạt động KTNN là nhu cầu
thiết yếu của Nhà nước pháp quyền từ Hiến pháp, Luật Kiểm toán nhà nước
cho tới các đạo luật có liên quan.
Thứ hai, cơ quan KTNN phải được xem như là một tổ chức kiểm tra tài
chính công cao nhất của quốc gia và không có tổ chức nào thay thế được.
Thứ ba, cơ quan KTNN phải có vị trí tương xứng trong bộ máy quyền
lực Nhà nước, dù nó nằm ở nhánh quyền lực nào trong cơ cấu bộ máy quyền
lực của nhà nước. Tùy thuộc mỗi quốc gia, tổ chức cơ quan kiểm toán tối cao
được xác lập theo hình thức thích hợp, song điều quan trọng là mọi hoạt động
của nó phải được đảm bảo bằng pháp luật và được trao quyền một cách rộng
rãi, để có thể thực thi nhiệm vụ của mình.
125
Đặc biệt, ngày 22/12/2011 Đại hội đồng Liên hiệp quốc đã thông qua
Nghị quyết A/66/209 về “Thúc đẩy tính hiệu lực, trách nghiệm giải trình, tính
hiệu quả và minh bạch của quản lý công bằng cách tăng cường các cơ quan
kiểm toán tối cao”, đánh dấu một mốc lịch sự quan trọng trong gần 60 năm
hoạt động của INTOSAI. Lần đầu tiên Đại hội đồng Liên hiệp quốc công
nhận hoàn toàn tính độc lập của cơ quan Kiểm toán tối cao “Các cơ quan
kiểm toán tối cao chỉ có thể hoàn thành trách nhiệm của mình một cách khách
quan và hiệu quả khi các cơ quan này độc lập với đối tượng kiểm toán và
được bảo vệ chống lại ảnh hưởng bên ngoài” [7] và ghi nhận tầm quan trọng
của các cơ quan Kiểm toán tối cao trong việc thúc đẩy tính hiệu lực, trách
nhiệm giải trình, hiệu quả và tính minh bạch của quản lý công, giúp thực hiện
các mục tiêu và ưu tiên phát triển quốc gia cũng như các mục tiêu phát triển
quốc tế, gồm cả Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ. Đồng thời, Nghị quyết
cũng kêu gọi các quốc gia thành viên Liên hiệp quốc áp dụng các nguyên tắc
hoạt động mà INTOSAI đã đề ra trong Tuyên bố Lima và Mehicô cho phù
hợp cơ cấu của quốc gia mình.
Ở nước ta, địa vị pháp lý của KTNN được quy định trong các văn bản
QPPL về KTNN và có sự phát triển từ thấp đến cao qua các giai đoạn phát
triển của KTNN. Tuy nhiên, việc nghiên cứu xác định địa vị pháp lý của
KTNN cho phù hợp với thể chế chính trị, nguyên tắc tổ chức và thực hiện
quyền lực nhà nước ở nước ta là vấn đề phức tạp và hệ trọng liên quan đến
các quy định của Hiến pháp và các luật về tổ chức nhà nước. Ngay từ khi
KTNN được thành lập (11/7/1994), cùng với thực hiện công tác kiểm toán,
nhiệm vụ nghiên cứu xây dựng một hệ thống văn bản QPPL có giá trị pháp lý
cao (Pháp lệnh KTNN, Luật Kiểm toán nhà nước) điều chỉnh toàn diện về tổ
chức và hoạt động của KTNN, trong đó xác định rõ địa vị pháp lý của KTNN
luôn được lãnh đạo KTNN quan tâm. Theo đề nghị của KTNN, Dự án Pháp
lệnh KTNN đã được đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của
126
Quốc hội nhiệm kỳ khoá X. Dự án Pháp lệnh đã được Chính phủ xem xét cho
ý kiến tại phiên họp ngày 29/4/1999; tuy nhiên, do ở nước ta KTNN là một
lĩnh vực mới, cần có thêm thời gian và thực tiễn để nghiên cứu hoàn chỉnh Dự
án Pháp lệnh, nên Thủ tướng Chính phủ đã đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc
hội cho giãn tiến độ trình, thông qua Dự án Pháp lệnh KTNN đã ghi trong
Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 1999 của Quốc hội khoá X. Sau
một thời gian nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, Dự án Pháp lệnh KTNN tiếp tục
được đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ
khoá XI và dự kiến thông qua vào năm 2003. Ngày 29 tháng 8 năm 2003 Uỷ
ban thường vụ Quốc hội đã họp cho ý kiến về Dự án Pháp lệnh KTNN. Địa vị
pháp lý của cơ quan KTNN là vấn đề được các đại biểu hết sức quan tâm và
cho rằng đây là vấn đề rất cơ bản và quan trọng cần được thể hiện trong Pháp
lệnh, từ đó mới có thể quy định về tổ chức và hoạt động của KTNN. Quán
triệt kết luận của Bộ Chính trị tại Thông báo số 87-TB/TW ngày 18/11/2002:
“Chỉ nên có một cơ quan Kiểm toán Nhà nước để thực hiện các nhiệm vụ
kiểm toán ngân sách. Việc xác định cơ quan này trực thuộc Chính phủ hay
Quốc hội do Quốc hội quyết định", Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã quyết định
không ban hành Pháp lệnh KTNN và đề nghị Quốc hội cho xây dựng Dự án
Luật Kiểm toán nhà nước để quy định đầy đủ về địa vị pháp lý, tổ chức và
hoạt động của KTNN. Để xác lập cơ chế cho KTNN hoạt động một cách độc
lập, có hiệu lực và hiệu quả; đồng thời có cơ sở cho việc nghiên cứu hoàn
thiện Dự án Luật Kiểm toán nhà nước trình Quốc hội thông qua vào kỳ họp
thứ 7 (tháng 5/2005), tại phiên họp ngày 23/11/2004 kỳ họp thứ 6 Quốc hội
khoá XI, Quốc hội đã biểu quyết với đa số phiếu tán thành về 2 nội dung quan
trọng: (1) Về địa vị pháp lý của cơ quan KTNN: “Kiểm toán Nhà nước là cơ
quan chuyên môn do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật”; (2) Về thẩm quyền bầu Tổng KTNN: "Tổng Kiểm toán Nhà nước
do Quốc hội bầu".
127
Trong suốt quá trình thảo luận của Quốc hội về Dự án Luật Kiểm toán
nhà nước, địa vị pháp lý của cơ quan KTNN là vấn đề được các đại biểu Quốc
hội hết sức quan tâm và cho rằng đây là vấn đề rất cơ bản và quan trọng của
Dự án Luật Kiểm toán nhà nước; chỉ khi xác định rõ địa vị pháp lý của cơ
quan KTNN mới có cơ sở để quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn, cơ cấu tổ chức và mối quan hệ của KTNN với Quốc hội, Chính phủ và
các cơ quan khác của Nhà nước. Tuy nhiên, địa vị pháp lý của KTNN có liên
quan tới nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước đã được quy
định trong Hiến pháp và các luật về tổ chức và cũng là vấn đề rất mới mẻ,
chưa có thông lệ ở nước ta. Do vậy, quá trình thảo luận nhiều đại biểu Quốc
hội đã phát biểu nhiều ý kiến phân tích về nhiều khía cạnh khác nhau của vấn
đề để đi đến thống nhất bảo đảm cho quy định của Luật Kiểm toán nhà nước
phù hợp và có tính khả thi cao.
Đến nay, mặc dù Luật Kiểm toán nhà nước đã có quy định về địa vị
pháp lý của KTNN tại Điều 13, song thuật ngữ “chuyên môn” trong cụm từ
“Kiểm toán Nhà nước là cơ quan chuyên môn về kiểm tra tài chính nhà
nước...” chưa phản ánh đúng bản chất của cơ quan KTNN là cơ quan kiểm tra
tài chính nhà nước cao nhất của quốc gia. Ngay trong quá trình thảo luận
thông qua dự án Luật, một số đại biểu còn băn khoăn và không tán thành với
thuật ngữ “chuyên môn’’, vì cho rằng cơ quan nào cũng phải có chuyên môn,
thuật ngữ “chuyên môn’’chưa nói nên bản chất của KTNN; đồng thời đề nghị
cần quy định rõ KTNN là cơ quan kiểm tra tài chính nhà nước cao nhất hoặc
KTNN là cơ quan kiểm toán tối cao như các nước trên thế giới đã quy định.
Như vậy, nội dung quy định về địa vị pháp lý của KTNN tại Điều 13
của Luật Kiểm toán nhà nước là chưa hoàn toàn thể hiện đúng bản chất của
KTNN với tư cách là cơ quan kiểm tra tài chính nhà nước cao nhất, song lại
phù hợp với các quy định hiện hành về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước. Điều này, một mặt nó đảm bảo cho việc Quốc hội thành lập ra cơ quan
128
KTNN là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính nhà nước, hoạt động
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật không trái với quy định hiện hành của Hiến
pháp (không vi hiến); mặt khác, nó cũng đã giải quyết được vấn đề cơ bản và quan
trọng mà các đại biểu Quốc hội hết sức quan tâm để Quốc hội có thể thông qua
Luật Kiểm toán nhà nước - đó là quy định rõ địa vị pháp lý của KTNN.
Tuy nhiên, hiện nay cũng còn có ý kiến cho rằng mặc dù Luật Kiểm
toán nhà nước quy định địa vị pháp lý của KTNN tại Điều 13, nhưng các
quy định hiện hành của pháp luật chưa làm rõ KTNN nằm ở cơ quan nào
trong hệ thống các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp của bộ máy nhà
nước đã được quy định trong Hiến pháp. Vấn đề này, tác giả Luận án cho
rằng, với quy định tại Điều 13 của Luật Kiểm toán nhà nước thì KTNN
không nằm trong hệ thống các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp mà
có vị trí độc lập với Chính phủ và Quốc hội, song đây không phải là sự độc
lập tuyệt đối mà là sự độc lập cần thiết về mặt thiết chế để bảo bảo tính độc
lập về chuyên môn nghiệp vụ của hoạt động kiểm tra tài chính ngoại vi
(ngoại kiểm). Đây là một trong ba mô hình phổ biến của các cơ quan
KTNN trên thế giới, mô hình này bảo đảm cao nhất cho tính độc lập trong
hoạt động của KTNN.
4.2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm toán Nhà nước
a) Chức năng của KTNN
Pháp luật về kiểm toán nhà nước phải quy định rõ chức năng của
KTNN trên cả hai phương diện kiểm toán và tư vấn.
Về chức năng kiểm toán, KTNN phải thực hiện đồng thời cả ba loại
hình kiểm toán: Kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán
hoạt động. Tuỳ theo yêu cầu của từng cuộc kiểm toán, đối với từng đối tượng
kiểm toán cụ thể và tuỳ theo yêu cầu quản lý và trình độ phát triển kinh tế xã
hội của đất nước, trọng tâm của các lại kiểm toán có thể thay đổi cho phù hợp
để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của KTNN.
129
Về chức năng tư vấn, KTNN có trách nhiệm báo cáo kết quả kiểm toán
năm với Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và gửi báo cáo kiểm toán cho
Chính phủ và các cơ quan, tổ chức có liên quan, thông qua đó tư vấn cho
Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ và các Bộ, ngành về những
giải pháp nâng cao công tác quản lý, điều hành ngân sách, quản lý và sử dụng
tài sản, tiền vốn, kinh phí; về bổ sung, sửa đổi các cơ chế chính sách, chế độ
tài chính ngân sách, kế toán, quyết toán cho phù hợp.
Tuyên bố Lima không đưa ra những hướng dẫn cụ thể về chức năng
của cơ quan KTNN, vì nó phụ thuộc vào điều kiện và yêu cầu của mỗi quốc
gia; song cũng có định hướng cơ bản về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan
KTNN trên cả hai mặt: Kiểm toán và tư vấn, đặc biệt nhấn mạnh vai trò của
kiểm toán hoạt động và đề cao chức năng tư vấn của KTNN. Đây là những
định hướng quan trọng để xác định chức năng của cơ quan KTNN, cần được
quán triệt trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật về kiểm toán nhà
nước ở nước ta.
b) Nhiệm vụ, quyền hạn của KTNN
Tuyên bố Lima định hướng các quyền hạn của cơ quan Kiểm toán tối
cao trong lĩnh vực kiểm tra, trong việc đưa ra ý kiến và theo dõi các đơn vị
được kiểm toán thực hiện đầy đủ, nghiêm chỉnh kiến nghị, kết luận của
KTNN cũng như các quyền hạn phối hợp khác trong việc ban hành các đạo
luật, quy chế liên quan đến công tác quản lý ngân sách tài chính, cụ thể là:
Một là, cơ quan KTNN phải được phép tiếp cận với tất cả các tài liệu
có liên quan đến công tác tài chính và có quyền yêu cầu các đơn vị được kiểm
toán cung cấp thông tin, tài liệu và báo cáo quyết toán cũng như các tài liệu có
liên quan khác đến công việc kiểm toán trong thời hạn nhất định.
Hai là, cơ quan KTNN có thể đưa ra những quyết định trong từng
trường hợp rằng việc kiểm toán tiến hành tại trụ sở đơn vị được kiểm toán
hoặc tại trụ sở của cơ quan KTNN theo yêu cầu của mình.
130
Ba là, trong một thời gian do luật pháp quy định, các đơn vị được kiểm
toán phải có ý kiến về các nhận xét, kết luận của cơ quan KTNN và phải công
bố, đưa ra những biện pháp khắc phục, sửa chữa những sai sót trên cơ sở
những kết luận đó.
Bốn là, đối với những cơ quan KTNN không được đưa ra những kết
luận bằng những hình thức có hiệu lực pháp lý bắt buộc phải thi hành, thì cơ
quan KTNN cần phải có quyền kiến nghị tới các cơ quan có thẩm quyền để
đưa ra những biện pháp cần thiết và có hiệu lực bắt buộc.
Năm là, cơ quan KTNN có thể gửi tới Quốc hội, Chính phủ báo cáo
những vấn đề thẩm định quan trọng thông qua kinh nghiệm hoạt động của
mình, kể cả những nhận xét về các đạo luật, quy chế thuộc các vấn đề tài
chính chung dự kiến ban hành. Việc chấp thuận hay bác bỏ là tùy vào các cơ
quan quyền lực nhà nước, tuy nhiên nhiệm vụ này không được dẫn tới sự ảnh
hưởng, tới kết luận kiểm toán và hoạt động của cơ quan KTNN.
Sáu là, các quy chế về trình tự quyết toán chỉ được phép ban hành với
sự thống nhất của cơ quan KTNN.
Từ những định hướng này cho thấy, trong việc xây dựng, hoàn thiện hệ
thống pháp luật về kiểm toán nhà nước cần phải nghiên cứu cụ thể hóa những
khía cạnh pháp lý quan trọng nêu trên. Có như vậy, hoạt động của KTNN mới
bảo đảm hiệu lực, hiệu quả và phát huy được vai trò của cơ quan kiểm tra tài
chính nhà nước cao nhất. Từ các quyền năng này, cơ quan KTNN mới có đủ
các điều kiện cần thiết thực thi nhiệm vụ của mình một cách đầy đủ và mới
đạt được mục tiêu của kiểm toán. Tuy nhiên, quyền đồng thời phải đi đôi với
nghĩa vụ, KTNN phải hoàn thành bổn phận và trách nhiệm của mình, bảo đảm
hoạt động của mình không làm cản trở và không can thiệp vào công việc của
các đơn vị được kiểm toán, không làm những gì ngoài phạm vi trách nhiệm,
quyền hạn pháp luật quy định.
Gắn liền với chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của KTNN, trong định
hướng xây dựng pháp luật về kiểm toán nhà nước, cần thiết phải xác định
131
trách nhiệm pháp lý của KTNN, của các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp
luật về kiểm toán nhà nước. Điều này thể hiện ở những nội dung như sau:
Một là, KTNN phải có trách nhiệm báo cáo kết quả kiểm toán cho
Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội và phải chịu trách nhiệm trước pháp
luật đối với kết quả và những kết luận của mình.
Hai là, nếu đơn vị được kiểm toán vi phạm các quy định của pháp luật
bằng cách khước từ hoặc chậm trễ cung cấp hoặc cung cấp những tài liệu có
liên quan đến nội dung kiểm toán không đúng sự thật, có hành vi chống lại
hoặc cản trở công việc kiểm toán thì cơ quan KTNN có quyền phê phán công
khai bằng văn bản hoặc cảnh cáo, yêu cầu đơn vị đó phải sửa chữa. Nếu đơn
vị được kiểm toán vẫn khước từ sửa chữa vi phạm thì tuỳ theo mức độ có thể
yêu cầu cơ quan pháp luật truy cứu trách nhiệm hình sự.
Ba là, nếu cơ quan KTNN phát hiện đơn vị được kiểm toán vi phạm các
quy định pháp luật về kiểm toán nhà nước bằng cách chuyển dịch, cất giấu, thay
đổi hoặc phá huỷ các tài liệu kế toán, sổ sách kế toán và các tài liệu khác có liên
quan đến các khoản thu, khoản chi thì KTNN có quyền hành động để ngăn chặn.
Nếu KTNN cho rằng các hành vi nói trên của đơn vị được kiểm toán
mà người thủ trưởng trực tiếp hoặc người khác trực tiếp chịu trách nhiệm và
cần phải xử lý kỷ luật cá nhân cụ thể thì KTNN có quyền đưa ra kiến nghị cần
thiết bắt buộc đơn vị được kiểm toán hoặc cấp trên hoặc cơ quan bảo vệ pháp
luật của Nhà nước phải ra quyết định xử lý theo quy định của pháp luật. Nếu
đó là hành vi phạm tội thì phải truy cứu trách nhiệm hình sự...
Nếu hành vi chống lại KTV đang thi hành công vụ có dấu hiệu tội
phạm thì yêu cầu cơ quan pháp luật tiến hành truy cứu trách nhiệm hình sự;
ngược lại, nếu một KTV lạm dụng nhiệm vụ và quyền hạn để tham nhũng
hoặc sao nhãng trách nhiệm thì cũng bị xử lý theo quy định của pháp luật.
4.2.1.3. Đối tượng và phạm vi kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước
Để tránh sự chồng chéo về hoạt động giữa KTNN với các cơ quan
thanh tra, kiểm tra khác của Nhà nước, pháp luật về kiểm toán nhà nước phải
132
quy định rõ đối tượng kiểm toán và phạm vi kiểm toán của KTNN. Về
nguyên tắc, ở đâu có sự chi tiêu, quản lý và sử dụng vốn và kinh phí của Nhà
nước thì ở đó cần thiết phải được cơ quan KTNN kiểm toán. Trên cơ sở đó có
thể hiểu: Đối tượng kiểm toán của KTNN là hoạt động có liên quan đến quản
lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước; phạm vi kiểm toán của KTNN
bao gồm mọi cơ quan, tổ chức, đơn vị được giao quản lý, sử dụng ngân sách,
tiền và tài sản nhà nước.
Là công cụ giúp cơ quan quyền lực nhà nước thực hiện việc kiểm soát nền
tài chính nhà nước, đối tượng của KTNN trước hết và đương nhiên là các hoạt
động của các cơ quan, đơn vị, tổ chức liên quan tới quản lý và sử dụng các
nguồn kinh phí từ NSNN, tiền và tài sản nhà nước. Các cơ quan, đơn vị, tổ chức
có hoạt động quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước là các đơn vị
thuộc phạm vi kiểm toán của KTNN bao gồm các cơ quan hành chính nhà nước
các cấp, các cơ quan chức năng làm nhiệm vụ thu, chi và quản lý ngân sách, tiền
và tài sản nhà nước, các tổ chức sự nghiệp nhà nước và tổ chức khác có sử dụng
NSNN (các đơn vị thụ hưởng ngân sách), các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội,
xã hội - nghề nghiệp được NSNN cấp một phần hoặc toàn bộ kinh phí, các
doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp và tổ chức khác được NSNN trợ cấp,
bảo lãnh, góp cổ phần... Về nguyên tắc, phạm vi của các hoạt động thuộc đối
tượng của KTNN không bị giới hạn, không có vùng cấm. Tuy nhiên, do phạm vi
của các hoạt động đó rất rộng lớn và đa dạng, mặt khác do một số yếu tố đặc thù
về chính trị - xã hội, pháp luật ở một số nước quy định phạm vi đối tượng của
KTNN có những giới hạn nhất định, đặc biệt là ở các lĩnh vực nhạy cảm và lĩnh
vực tối mật quốc gia (an ninh, quốc phòng).
Ở nước ta, đối tượng của KTNN được xác định xuất phát từ đặc điểm
tổ chức NSNN theo nguyên tắc tập trung, thống nhất. Mỗi đơn vị dự toán là
một bộ phận cấu thành của một cấp ngân sách, ngân sách cấp dưới là một bộ
phận của ngân sách cấp trên. NSNN là số liệu tổng hợp toàn bộ số thu - chi
của ngân sách trung ương và ngân sách của các cấp chính quyền địa phương.
133
Do đó, phạm vi kiểm toán rộng liên quan đến tất cả các bộ, ngành trung ương
và ngân sách các tỉnh, thành phố, quận, huyện và ngân sách xã, phường; các
đơn vị sử dụng ngân sách và có nguồn gốc từ NSNN, ngoài ra KTNN còn có
nhiệm vụ kiểm toán các quỹ ngoài ngân sách và các quỹ công khác.
Vấn đề xác định đối tượng và phạm vi kiểm toán của KTNN là vấn đề
quan trọng và nhạy cảm. Đối tượng và phạm vi kiểm toán có thể được hiểu là
thẩm quyền của cơ quan KTNN thực hiện kiểm toán chủ thể nào, phạm vi
nào. Chính vì vậy mà Tuyên bố Lima còn gọi đây là "Các quyền hạn kiểm
toán". Tuyên bố Lima chỉ rõ: Để kiểm tra tài chính có hiệu quả cần phải giành
cho cơ quan Kiểm toán tối cao (SAI) các quyền hạn kiểm toán rộng rãi, có
nghĩa là được kiểm tra toàn bộ hoạt động quản lý kinh tế và ngân sách của
Nhà nước, không lệ thuộc vào việc nó có được thể hiện trong ngân sách của
Nhà nước hay không, đều phải chịu sự kiểm tra của của cơ quan KTNN
(khoản 3 điều 18 phần VII, Tuyên bố Lima). Đồng thời, đối tượng, phạm vi
của KTNN cũng không loại trừ các hoạt động kinh tế tư nhân có sử dụng tiền,
công quỹ của Nhà nước (trợ vốn, thực hiện hợp đồng kinh tế với Nhà nước)
và các khoản trích nộp Nhà nước (thuế). Để nâng cao hiệu lực hoạt động của
KTNN, Tuyên bố Lima khuyến cáo các quốc gia cần phải xác định "Các
quyền hạn kiểm toán" của KTNN trong Hiến pháp và có những quy định chi
tiết, cụ thể hơn trong các đạo luật khác như Luật NSNN, Luật Kiểm toán nhà
nước, các luật có liên quan.
Từ định hướng của Tuyên bố Lima, có thể thấy rõ phạm vi và đối
tượng của KTNN trên những nét chính như sau:
Thứ nhất, KTNN kiểm toán các cơ quan nhà nước, kể cả các cơ sở nhà
nước đóng tại nước ngoài, các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, các tổ chức
kinh tế nhà nước, các chương trình dự án quốc gia, các tổ chức chính trị,
chính trị - xã hội, xã hội nghề nghiệp... có sử dụng nguồn kinh phí của NSNN.
Thứ hai, KTNN kiểm toán các khoản đóng góp của xã hội cho các công
quỹ, trước hết là kiểm tra tính hợp pháp và hợp lệ của các khoản thu, khoản
134
chi, kiểm tra việc sử dụng công quỹ theo mục đích của từng quỹ đã được pháp
luật quy định.
Thứ ba, KTNN kiểm tra các hợp đồng, các gói thầu xây dựng của các
cơ quan nhà nước với bên ngoài. Cụ thể là các khoản chi phí mà Nhà nước sử
dụng cho các hợp đồng dịch vụ và các công trình xây dựng ký với các cá nhân
và tổ chức bên ngoài để cung cấp các dịch vụ hoặc hoàn thành các chương
trình dự án về kinh tế, văn hoá, xã hội.
Thứ tư, KTNN kiểm tra việc tiếp nhận, sử dụng, thanh quyết toán các
khoản viện trợ, vay nợ của Chính phủ ở trong nước và nước ngoài.
Thứ năm, KTNN kiểm tra các hoạt động kinh tế tài chính mà Nhà nước
tham gia trong các hiệp ước quốc tế song phương và đa phương.
Trong hệ thống pháp luật hiện hành về kiểm toán cũng như trong hoạt
động thực tiễn của KTNN Việt Nam, cơ bản chúng ta đã dựa vào định hướng
của Tuyên bố Lima để xác định phạm vi và đối tượng của KTNN. Tuy nhiên,
Luật Kiểm toán nhà nước và các văn bản QPPL có liên quan chưa quy định
đầy đủ đối tượng và phạm vi kiểm toán của KTNN.
4.2.1.4. Mô hình tổ chức và nhân sự của Kiểm toán Nhà nước
a) Về mô hình tổ chức của KTNN
Ở 190 quốc gia là thành viên của Tổ chức quốc tế các cơ quan Kiểm
toán tối cao mô hình tổ chức KTNN rất đa dạng có thể là một cấp (đơn tuyến)
tập trung thống nhất bao gồm KTNN ở trung ương và KTNN khu vực trực
thuộc KTNN trung ương, không lập KTNN ở địa phương hoặc có thể là tổ
chức đa cấp, ở mỗi cấp chính quyền đều lập cơ quan KTNN của cấp mình, cơ
quan kiểm toán các cấp hoàn toàn độc lập với nhau.
Ở Việt Nam, theo quy định của Luật Kiểm toán nhà nước, KTNN được
tổ chức theo nguyên tắc tập trung, thống nhất bao gồm bộ máy điều hành, các
KTNN chuyên ngành ở trung ương và các KTNN khu vực, tạo điều kiện cho
KTNN hoạt động độc lập, không chịu sự chi phối của chính quyền các cấp.
135
Đây là một trong những điều kiện quan trọng đảm bảo tính độc lập, trung
thực, khách quan. Qua thời gian thực hiện mô hình tổ chức này thể hiện khá
ưu việt, với hệ thống tổ chức theo phương pháp trực tuyến đã thể hiện tính tập
trung, thống nhất cao, tạo điều kiện để khai thác triệt để những ưu điểm của
phương thức quản lý trực tuyến, giảm bớt những ách tắc qua nhiều khâu trung
gian, bảo đảm thu nhận thông tin được thực hiện nhanh chóng. Đồng thời,
mỗi KTNN khu vực được giao nhiệm vụ kiểm toán trên phạm vi khu vực (bao
gồm một số tỉnh), vừa giảm chi phí cho hoạt động kiểm toán lại vừa có điều
kiện am hiểu hoạt động của các đơn vị được kiểm toán, nhất là các đặc điểm
ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế - tài chính và thu - chi ngân sách hàng năm.
Để bảo đảm nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt
động kiểm toán, phương hướng hoàn thiện pháp luật kiểm toán nhà nước cần
tiếp tục phát triển hệ thống tổ chức bộ máy của KTNN theo mô hình quản lý
tập trung thống nhất, gồm: Các đơn vị tham mưu, các KTNN chuyên ngành,
các KTNN khu vực, các đơn vị sự nghiệp bảo đảm các yêu cầu sau đây:
Một là, sắp xếp, củng cố lại các đơn vị tham mưu thuộc bộ máy điều
hành theo hướng giảm khâu trung gian; đảm bảo có bộ máy tham mưu gọn
nhẹ, một đơn vị không thực hiện quá nhiều chức năng, nhiệm vụ, góp phần
tăng cường hiệu quả hoạt động của KTNN.
Hai là, phát triển các KTNN chuyên ngành và KTNN khu vực với biên
chế, cơ cấu hợp lý và theo hướng chuyên quản, chuyên môn hóa đối tượng
kiểm toán theo chuyên ngành hẹp và luân chuyển đối tượng kiểm toán.
Nghiên cứu hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của các KTNN chuyên ngành và
KTNN khu vực để phân công nhiệm vụ phù hợp và có tính đến việc luân
chuyển nhiệm vụ kiểm toán trong trung hạn từ 3-5 năm, hoặc luân chuyển vị
trí công tác của công chức quản lý và KTV từ 3-5 năm; tái cơ cấu các phòng
thuộc các KTNN khu vực để gắn kết và phối hợp được tổ chức các phòng với
các Đoàn kiểm toán. Phân giao nhiệm vụ kiểm toán nợ công, nhiệm vụ đánh
136
giá các chỉ số quốc gia trong kiểm toán NSNN để phù hợp với thông lệ quốc
tế của các cơ quan KTNN trên thế giới. Phân giao nhiệm vụ kiểm tra, phân
tích, đánh giá và chuẩn bị ý kiến về dự toán NSNN, ngân sách trung ương, địa
phương cho các KTNN chuyên ngành và khu vực.
Ba là, phát triển các đơn vị sự nghiệp theo hướng tự chủ về tổ chức, tài
chính nhằm đảm bảo sự chủ động phát huy vai trò của các đơn vị trong thực
hiện chức năng, nhiệm vụ được giao.
Bốn là, thực hiện phân cấp mạnh về tổ chức hoạt động, phân giao chức
năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm cụ thể cho từng cấp trong hệ
thống bộ máy KTNN, đảm bảo tính chủ động trong tổ chức và hoạt động,
đồng thời nâng cao trách nhiệm của từng cá nhân, đơn vị.
b) Về nhân sự của KTNN
Theo khuyến cáo của INTOSAI: Sự độc lập của cơ quan Kiểm toán tối
cao không thể tách rời khỏi sự độc lập của nhân viên của nó. Nhân viên được
hiểu là những người phải đưa ra quyết định đại diện cho cơ quan Kiểm toán
tối cao và giải trình các quyết định đó với bên thứ ba, bên thứ ba là thành viên
của ban lãnh đạo tập thể hay người đứng đầu cơ quan Kiểm toán tối cao nếu
tổ chức theo chế độ thủ trưởng. Sự độc lập của nhân viên phải được đảm bảo
bởi Hiến pháp. Cụ thể, quy trình miễn nhiệm cũng phải được quy định trong
Hiến pháp và không được ảnh hưởng đến tính độc lập của nhân viên. Phương
thức bổ nhiệm và bãi nhiệm nhân viên tuỳ thuộc vào cơ cấu Hiến pháp của
mỗi quốc gia. Hiến pháp của hầu hết các nước trên thế giới đều quy định thẩm
quyền bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Tổng KTNN thuộc về cơ quan lập pháp;
nhiệm kỳ của Tổng KTNN thường dài hơn nhiệm kỳ của Quốc hội.
Ở Việt Nam, theo quy định của Luật Kiểm toán nhà nước, Tổng KTNN
do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm; nhiệm kỳ của Tổng KTNN là 7
năm, có thể được bầu lại nhưng không quá hai nhiệm kỳ. Quy định này nhằm
bảo đảm tính độc lập, khách quan của Tổng KTNN và cơ quan KTNN trong
hoạt động kiểm toán.
137
4.2.1.5. Cơ chế hoạt động của Kiểm toán Nhà nước
Tuyên bố Lima không quy định rõ về một hình thức, cơ cấu tổ chức có
thể được ưu tiên với các cơ quan KTNN. Các luật kiểm toán của các nước
trên thế giới quy định về cơ chế hoạt động của cơ quan KTNN khác nhau,
song về cơ bản theo hai hình thức là hình thức đơn tuyến và hình thức đồng
sự. Theo hình thức đơn tuyến, cơ quan KTNN được phân cấp theo thứ bậc,
đứng đầu là Chủ tịch kiểm toán hoặc Tổng kiểm toán. Các luật kiểm toán đưa
ra hình thức tổ chức đơn tuyến thường có ít điều khoản quy định về cơ cấu tổ
chức. Trong hầu hết các trường hợp, đặc điểm của luật kiểm toán này là trao
cho Chủ tịch (Tổng KTNN) tất cả các nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan Kiểm
toán Nhà nước. Tuy nhiên, để thực hiện nhiệm vụ của mình Chủ tịch (Tổng
KTNN) có thể tự định liệu việc bổ nhiệm lực lượng cán bộ cần phải có. Các
Kiểm toán Nhà nước được tổ chức theo hình thức đồng sự có các hội đồng
quyết định nằm trong cơ quan KTNN. Những hội đồng này thông qua các
quyết định của mình theo nguyên tắc đa số. Các uỷ viên hội đồng là người có
vị trí pháp lý độc lập như một thẩm phán. Quyền hạn của Hội đồng bao gồm
việc thông qua các báo cáo kiểm toán, kế hoạch kiểm toán và báo cáo năm.
Sự khác biệt quan trọng nhất so với các cơ quan KTNN được tổ chức theo
đơn tuyến là quyền quyết định được phân cấp. Mỗi cơ chế hoạt động đều có
những ưu điểm nhất định và do từng nước lựa chọn áp dụng. Để đảm bảo chất
lượng kiểm toán, trung thực và khách quan, mỗi cơ chế hoạt động đều có
những quy tắc ứng xử cần thiết và thích hợp trong lãnh đạo và điều hành hoạt
động của cơ quan KTNN.
KTNN Việt Nam được tổ chức theo hình thức đơn tuyến. Đứng đầu
KTNN là Tổng KTNN, do Quốc hội bầu. Ngoài ra, Luật Kiểm toán nhà nước
cũng chứa đựng những nhân tố nhất định của một cơ quan KTNN có quy chế
đồng sự thông qua quy định về Hội đồng KTNN "Tổng Kiểm toán Nhà nước
thành lập Hội đồng Kiểm toán Nhà nước để tư vấn cho Tổng Kiểm toán Nhà
138
nước thẩm định các báo cáo kiểm toán quan trọng hoặc tái thẩm định các báo
cáo kiểm toán theo kiến nghị của đơn vị được kiểm toán và giúp Tổng Kiểm
toán Nhà nước xử lý các kiến nghị về báo cáo kiểm toán” (Điều 25).
4.2.1.6. Về xử lý vi phạm pháp luật kiểm toán nhà nước
Cũng như các lĩnh vực khác của quản lý nhà nước, trong hoạt động
kiểm toán nhà nước, trách nhiệm pháp lý là bắt buộc đối với tất cả những ai
đã vi phạm pháp luật kiểm toán nhà nước. Những người vi phạm pháp luật
nhất thiết phải bị xử lý. Không một người nào có thể biện bạch cho những
hành vi vi phạm pháp luật của mình, dù người đó ở cương vị gì trong xã hội,
hoặc do bất kỳ lý do nào gây nên. Điều quan trọng là phải làm cho mọi hành
vi vi phạm pháp luật đều được phát hiện và xử lý nghiêm minh theo pháp luật;
kiên quyết đấu tranh chống những biểu hiện lợi dụng chức quyền để vi phạm
pháp luật hoặc dung túng bao che cho những hành vi phạm pháp. Nếu những
hành vi phạm pháp không bị xử lý, thì sự buông lỏng đó sẽ là tiền đề gây ra
những hành vi phạm pháp tiếp theo. Hơn nữa nó còn gây nên tâm lý coi
thường pháp luật, gây tổn hại cho pháp chế và trật tự pháp luật.
Để có cơ sở pháp lý xử lý nghiêm minh mọi hành vi vi phạm, trước hết
phải xác định rõ trách nhiệm pháp lý của KTNN, của các chủ thể tham gia vào
quan hệ pháp luật về kiểm toán nhà nước, thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau:
Một là, KTNN phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả kiểm
toán của mình và có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp gây
thiệt hại cho đơn vị được kiểm toán và tổ chức, cá nhân có liên quan;
Hai là, đơn vị được kiểm toán và tổ chức, cá nhân có liên quan phải
chịu trách nhiệm trước pháp luật khi có hành vi vi phạm các điều cấm của
Luật Kiểm toán nhà nước; không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không
đầy đủ nghĩa vụ của mình theo quy định của Luật Kiểm toán nhà nước;
Ba là, KTV nhà nước phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước
Tổng KTNN về kết quả kiểm toán của mình; trong quá trình thực hiện kiểm
toán nếu có hành vi vi phạm pháp luật sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.
139
Nguyên tắc xử lý hành vi vi phạm pháp luật là: Tuỳ theo tính chất, mức
độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu
trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại phải bồi thường theo quy định của pháp
luật. Đây là những nội dung chế tài cần thiết phải được quy định cụ thể trong
hệ thống pháp luật về kiểm toán nhà nước, tạo cơ sở pháp lý cho việc xử lý
kịp thời, nghiêm minh mọi hành vi vi phạm, góp phần bảo đảm hiệu lực hoạt
động của KTNN và tính nghiêm minh của pháp luật.
4.2.2. Nhóm giải pháp hoàn thiện hình thức pháp luật
Ở nước ta, KTNN là cơ quan mới được thành lập, không có tổ chức
tiền thân và chưa có tiền lệ hoạt động; do vậy, hoàn thiện hệ thống pháp luật
đầy đủ và toàn diện cho tổ chức và hoạt động của KTNN là vấn đề cấp thiết,
tạo cơ sở pháp lý để xây dựng KTNN trở thành công cụ mạnh về kiểm tra tài
chính nhà nước; đồng thời, là cơ sở cho việc tăng cường pháp chế XHCN
trong hoạt động KTNN. Việc hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước
phải bảo đảm tính hệ thống, đầy đủ và toàn diện từ các quy định trong Hiến
pháp đến Luật Kiểm toán nhà nước, các luật có liên quan, các văn bản QPPL
hướng dẫn thi hành và hệ thống chuẩn mực, quy trình KTNN với một lịch
trình phù hợp, cụ thể như sau:
4.2.2.1. Bổ sung quy định về Kiểm toán Nhà nước trong Hiến pháp
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã đặt ra yêu cầu: “Khẩn
trương nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi,
bổ sung năm 2001) phù hợp với tình hình mới. Tiếp tục xây dựng, từng bước
hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt
động và quyết định của các cơ quan công quyền”. Kết luận Hội nghị Trung
ương 5 (khóa XI) về tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 và những nội
dung cơ bản về sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định rõ: "Nghiên cứu
việc bổ sung một số thiết chế độc lập như cơ quan Kiểm toán Nhà nước, cơ
quan bầu cử quốc gia". Đây là căn cứ quan trọng để xem xét bổ sung vào
140
Hiến pháp quy định về KTNN, nhằm phát huy hơn nữa hiệu quả hoạt động
của KTNN, góp phần hoàn thiện bộ máy nhà nước theo nguyên tắc phân
công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước.
a) Yêu cầu khách quan quy định về KTNN trong Hiến pháp
Việc bổ sung vào Hiến pháp những quy định về KTNN xuất phát từ các
yêu cầu khách quan sau đây:
Yêu cầu từ vai trò, chức năng: KTNN là công cụ đắc lực hỗ trợ thực
hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội đối với Nhà nước, có vai trò quan
trọng trong quản trị quốc gia thông qua các hoạt động kiểm toán nguồn lực,
kiểm toán tài sản quốc gia nhằm bảo đảm hiệu lực, hiệu quả và tính minh
bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức sử dụng ngân sách, tiền và tài
sản nhà nước. Vì vậy, cần quy định vị trí, chức năng, nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của KTNN, việc bầu Tổng KTNN trong Hiến pháp.
Yêu cầu từ tính chất độc lập của KTNN: Từ quy định KTNN “do Quốc
hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” cho thấy:
Một là, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội được quy định tại Điều 84
của Hiến pháp, nên để Quốc hội thực hiện được yêu cầu “thành lập Kiểm toán
Nhà nước” thì nội dung này phải được quy định thành một nhiệm vụ, quyền
hạn của Quốc hội tại Điều này của Hiến pháp.
Hai là, một cơ quan nhà nước được giao “hoạt động độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật” thì có nghĩa là cơ quan đó không phụ thuộc vào một cơ
quan cụ thể khác (kể cả Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao). Vị trí pháp lý của một cơ quan độc lập như vậy
không thể quy định một nơi nào khác ngoài Hiến pháp.
b) Đề xuất nội dung bổ sung vào Hiến pháp quy định về KTNN
Với những phân tích như trên, vấn đề bổ sung trong Hiến pháp quy định
về cơ quan KTNN là yêu cầu thực tiễn khách quan. Việc xác định tính hiến
định của KTNN phụ thuộc vào các yếu tố sau đây:
141
Thứ nhất, vị trí, vai trò của KTNN trong cơ cấu quyền lực nhà nước và
bộ máy nhà nước.
Thứ hai, tính độc lập của KTNN và mối quan hệ giữa KTNN với các cơ
quan nhà nước khác. Yếu tố này bao gồm các nội dung như KTNN đứng độc
lập với các nhánh quyền lực hay thuộc nhánh quyền lực nào (lập pháp, hành
pháp, tư pháp). Hiện nay, theo quy định tại Điều 13 của Luật Kiểm toán nhà
nước, KTNN có vị trí độc lập, không trực thuộc Quốc hội, Chính phủ.
Thứ ba, bản chất hoạt động của KTNN là yếu tố rất quan trọng để xác
lập sự cần thiết phải có cơ sở hiến định của KTNN. KTNN là cơ quan chức
năng (không phải là chuyên môn nghiệp vụ thông thường) độc lập có vai trò
quan trọng trong quản trị quốc gia bằng hoạt động kiểm toán của mình đối với
các nguồn lực, tài sản quốc gia, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả và tính minh bạch
hoạt động của bộ máy nhà nước.
Trên cơ sở những chỉ dẫn của INTOSAI, nghiên cứu kinh nghiệm các
nước trên thế giới xác lập địa vị pháp lý của KTNN trong Hiến pháp, đặc biệt
là của các nước thuộc khối ASEAN và từ thực tiễn hoạt động của KTNN ở
KTNN, việc bầu Tổng KTNN trong Hiến pháp là cần thiết, các vấn đề cụ thể sẽ
nước ta, việc quy định vị trí, chức năng, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
do luật điều chỉnh. Để bảo đảm tính độc lập của cơ quan KTNN theo chỉ dẫn
của Tuyên bố Lima và Tuyên bố Mehico của INTOSAI, Nghị quyết A/66/209
của Liên hiệp quốc, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm các nước trên thế giới,
tác giả đề xuất bổ sung vào Hiến pháp những quy định về KTNN trong
Chương quy định về các thiết chế độc lập với nội dung như sau:
Về KTNN:
“1. Kiểm toán Nhà nước là cơ quan kiểm tra tài chính nhà nước cao
nhất do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật,
thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính nhà nước, tài sản công.
2. Tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể của Kiểm toán Nhà nước do
luật định”.
142
Về Tổng KTNN:
“1. Tổng Kiểm toán Nhà nước là người đứng đầu Kiểm toán Nhà nước,
do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm. Nhiệm kỳ của Tổng Kiểm toán
Nhà nước là bảy năm, có thể được bầu lại nhưng không quá hai nhiệm kỳ.
2. Tổng Kiểm toán Nhà nước chịu trách nhiệm và báo cáo kết quả kiểm
toán, báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp
chịu trách nhiệm và báo cáo trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội”.
Đồng thời, bổ sung quy định về thẩm quyền của Quốc hội liên quan
đến tổ chức và hoạt động của KTNN (ở Chương quy định về Quốc hội) như
việc bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Tổng KTNN; KTNN chịu sự giám sát tối
cao của Quốc hội; mối quan hệ giữa KTNN với các cơ quan của Quốc hội,
thẩm quyền của KTNN trong việc trình dự án luật ra trước Quốc hội...
Các quy phạm trên là những quy định cơ bản làm nền tảng cho những
quy định cụ thể trong Luật Kiểm toán nhà nước và các luật có liên quan đến
tổ chức và hoạt động của KTNN, bảo đảm sự thống nhất và đồng bộ giữa
Luật Kiểm toán nhà nước và các luật có liên quan trong hệ thống pháp luật
của Nhà nước ta.
4.2.2.2. Sửa đổi, bổ sung Luật Kiểm toán nhà nước
Sau hơn 7 năm thi hành Luật Kiểm toán nhà nước, bên cạnh những kết
quả đạt được, quá trình thực hiện Luật cũng đã phát sinh nhiều vấn đề mới
cần phải giải quyết, một số quy định của Luật Kiểm toán nhà nước bộc lộ
những bất hợp lý cần phải được xem xét sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với
thực tiễn hoạt động của KTNN. Việc sửa đổi, bổ sung Luật Kiểm toán nhà
nước phải quán triệt các quan điểm chỉ đạo sau đây:
Một là, thể chế hóa đầy đủ và toàn diện các quan điểm, chủ trương,
đường lối của Đảng về phát triển KTNN; phát triển KTNN thành công cụ
trọng yếu và hữu hiệu của Đảng và Nhà nước trong kiểm tra, kiểm soát việc
quản lý và sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước; hỗ trợ, phục vụ đắc
143
lực cho hoạt động của Quốc hội, HĐND trong thực hiện chức năng giám sát
và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, của các địa phương.
Hai là, bảo đảm tính độc lập cao đối với hoạt động KTNN; hoàn thiện
địa vị pháp lý của KTNN bảo đảm tương xứng vị trí, vai trò của KTNN với tư
cách là cơ quan kiểm tra tài chính công cao nhất của Nhà nước do Quốc hội
thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; phân định rõ vị trí,
chức năng của KTNN với các cơ quan thanh tra, kiểm tra, giám sát khác của
Nhà nước, nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu quản lý ngân sách, tiền
và tài sản nhà nước trong công cuộc đổi mới.
Ba là, kế thừa và phát huy những mặt tích cực của Luật Kiểm toán nhà
nước hiện hành; bổ sung những nội dung chưa được điều chỉnh hay quy định
chưa rõ hoặc thiếu thống nhất, bãi bỏ những quy định không còn phù hợp với
thực tế hoạt động của KTNN; bảo đảm sự phù hợp và đồng bộ giữa Luật
Kiểm toán nhà nước với các luật khác có liên quan trong hệ thống pháp luật
của Nhà nước ta.
Bốn là, mở rộng phạm vi, đối tượng kiểm toán của KTNN bảo đảm bao
quát hết nhiệm vụ của KTNN đối với việc kiểm tra, kiểm soát mọi nguồn lực
tài chính nhà nước, tài sản công; mở rộng kiểm toán doanh nghiệp theo hướng
vừa kiểm toán như hiện nay, vừa kiểm toán việc quản lý và sử dụng vốn và tài
sản nhà nước tại các doanh nghiệp mà Nhà nước không giữ cổ phần chi phối.
Năm là, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm quốc tế về tổ chức và
hoạt động của KTNN bảo đảm phù hợp với thực tiễn của Việt Nam.
Quán triệt các quan điểm chỉ đạo nêu trên, việc sửa đổi, bổ sung Luật
Kiểm toán nhà nước được thực hiện theo các nội dung định hướng như sau:
Thứ nhất, địa vị pháp lý của KTNN
Trên cơ sở Hiến pháp được Quốc hội thông qua, sửa đổi lại Điều 13
của Luật Kiểm toán nhà nước về địa vị pháp lý của KTNN cho phù hợp với
quy định của Hiến pháp. Đây là những quy định nền tảng cho tổ chức và hoạt
144
động của KTNN; đồng thời, là cơ sở pháp lý cho việc quy định địa vị pháp lý
của KTNN trong Luật Kiểm toán nhà nước phù hợp với vị trí, vai trò là cơ
quan kiểm tra tài chính nhà nước cao nhất do Quốc hội thành lập, hoạt động
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Thứ hai, bổ sung thêm một số nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm toán
Nhà nước
Một là, bổ sung nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng: Để nâng cao vai
trò, trách nhiệm của KTNN trong phòng, chống tham nhũng, cần bổ sung
nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng vào Điều 15 của Luật Kiểm toán nhà
nước với nội dung như sau: “Phòng ngừa, phát hiện tham nhũng thông qua
hoạt động kiểm toán; trường hợp phát hiện hành vi tham nhũng thì đề nghị cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật”.
Hai là, bổ sung nhiệm vụ kiểm toán thuế: Việc bổ sung nhiệm vụ kiểm
toán thuế của KTNN là phù hợp Tuyên bố Lima, tạo cơ sở pháp lý để KTNN
thực hiện kiểm toán các đối tượng có nghĩa vụ nộp NSNN và kiểm soát các
nguồn thu của NSNN. Quy định này nhằm xác định thẩm quyền kiểm tra tài
chính của Nhà nước với tư cách là chủ thể công quyền có quyền huy động sự
đóng góp của các chủ thể kinh tế vào NSNN, còn kế hoạch kiểm toán hàng
năm của KTNN được thực hiện theo nguyên tắc chọn mẫu theo yêu cầu quản
lý của Nhà nước và phù hợp với năng lực (biên chế, kinh phí) của KTNN
trong từng thời kỳ.
Ba là, bổ sung nhiệm vụ kiểm toán nợ công: Việc bổ sung nhiệm vụ
kiểm toán nợ công là phù hợp thông lệ quốc tế và yêu cầu hội nhập quốc tế ở
nước ta hiện nay. Đồng thời, bảo đảm phát huy vai trò của công cụ KTNN
trong việc kiểm toán để xem xét mức vay nợ và an toàn nợ công của quốc gia;
kiến nghị các biện pháp nhằm quản lý, sử dụng nợ công có hiệu quả cho mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Bốn là, bổ sung nhiệm vụ kiểm toán dự toán, dự án: Sửa đổi, bổ sung
quy định tại khoản 4 Điều 15 về nhiệm vụ trình ý kiến để Quốc hội xem xét,
145
quyết định dự toán, dự án theo hướng quy định rõ KTNN thực hiện kiểm toán
dự toán NSNN, các dự án, công trình quan trọng quốc gia phục vụ cho việc
xem xét quyết định của Quốc hội.
Năm là, bổ sung quyền xử lý vi phạm: Bổ sung quyền của KTNN trong
việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về kiểm toán nhà nước của tổ chức,
cá nhân có liên quan theo quy định của pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho việc
xây dựng Nghị định của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực kiểm toán nhà nước.
Thứ ba, đối tượng và phạm vi kiểm toán
Căn cứ vào định hướng của INTOSAI và từ thực tiễn hoạt động kiểm
toán ở nước ta trong thời gian qua, cần bổ sung quy định theo hướng mở rộng
phạm vi đối tượng kiểm toán của KTNN, bảo đảm bao quát hết các nguồn lực
tài chính nhà nước và tài sản công, bao gồm: Ngân sách nhà nước, tiền và tài
sản nhà nước, đất đai, tài nguyên khoáng sản và những đối tượng khác thuộc
quyền sở hữu hoặc quản lý của Nhà nước theo quy định của pháp luật.
Thứ tư, hoàn thiện chế định Tổng KTNN, Phó Tổng KTNN
Để tăng tính độc lập cho Tổng KTNN, đáp ứng yêu cầu cải cách hành
chính và phù hợp với thông lệ quốc tế, cần sửa đổi, bổ sung Luật Kiểm toán
nhà nước theo hướng phân cấp mạnh hơn và tăng cường trách nhiệm cho
Tổng KTNN trong một số vấn đề về tổ chức và hoạt động của KTNN, như:
Bổ sung thêm một điều quy định về quyền miễn trừ đối với Tổng KTNN như
quy định về quyền miễn trừ đối với đại biểu Quốc hội; bổ sung nhiệm vụ xây
dựng Chiến lược phát triển KTNN trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết
định; sửa đổi, bổ sung Điều 21 của Luật Kiểm toán nhà nước theo hướng quy
định cho Tổng KTNN quyền quyết định thành lập, sáp nhập, chia tách, giải
thể các đơn vị trực thuộc KTNN sau khi Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban
hành (phê chuẩn) Chiến lược phát triển KTNN trong từng thời kỳ hoặc đã có
Nghị quyết cho phép thành lập thêm các đơn vị trực thuộc KTNN.
Về Phó Tổng KTNN (Điều 20): Cần xem xét sửa đổi quy định về việc
146
bổ nhiệm Phó Tổng KTNN theo hướng: Phó Tổng KTNN do Tổng KTNN đề
nghị Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Nhiệm kỳ của Phó
Tổng KTNN là 5 năm cho phù hợp với quy định của Luật Cán bộ, công chức.
Thứ năm, Kiểm toán viên nhà nước
Về chức danh KTV nhà nước (Điều 27): Xem xét bỏ ngạch KTV dự bị
để bảo đảm sự phù hợp và tương thích với Luật Cán bộ, công chức và khắc
phục những hạn chế trong tuyển dụng và sử dụng đội ngũ KTV của KTNN.
Về tiêu chuẩn chung của KTV nhà nước (Điều 29): Xem xét sửa lại tiêu
chuẩn quy định tại khoản 4: “Đã tốt nghiệp chương trình bồi dưỡng KTV nhà
nước và được Tổng KTNN cấp chứng chỉ” thành: “Được Tổng KTNN cấp
chứng chỉ KTV nhà nước” cho chuẩn xác. Thực tế, những năm qua, chứng chỉ
bồi dưỡng KTV nhà nước chỉ như là một giấy chứng nhận công chức đã học
qua lớp bồi dưỡng KTV nhà nước, không thể thay thế được chứng chỉ KTV
nhà nước do Tổng KTNN cấp (có giá trị như là chứng chỉ nghề nghiệp). Việc
cấp chứng chỉ KTV nhà nước phải qua kỳ thi do KTNN tổ chức theo quy định
của pháp luật sau khi KTV đã học qua lớp bồi dưỡng KTV nhà nước và có
giấy chứng nhận do Giám đốc Trung tâm Khoa học và Bồi dưỡng cán bộ cấp.
Thứ sáu, về hoạt động kiểm toán nhà nước
Một là, bổ sung “Kiểm toán viên nhà nước” vào thành phần của Đoàn
kiểm toán (Điều 44) cho đầy đủ và bảo đảm sự thống nhất trong các quy định
của Luật Kiểm toán nhà nước.
Hai là, bổ sung theo hướng luật hóa nhiệm vụ, quyền hạn của người đứng
đầu KTNN chuyên ngành, KTNN khu vực trong tất cả các bước của quy trình
kiểm toán; nâng cao trách nhiệm của kiểm toán trưởng trong chỉ đạo khảo sát,
thu thập thông tin lập kế hoạch kiểm toán của cuộc kiểm toán, lựa chọn, bố trí
nhân sự Đoàn kiểm toán trình Tổng KTNN ban hành quyết định kiểm toán bảo
đảm phù hợp về thời gian và nhân sự với nội dung và phạm vi kiểm toán.
Ba là, xác định một cách hợp lý đối tượng, quy mô, phạm vi của một
147
cuộc kiểm toán của KTNN; nghiên cứu quy định rõ các tiêu chí về thời gian,
nhân sự và kinh phí cho một cuộc kiểm toán nhằm bảo đảm tính hiệu quả của
hoạt động kiểm toán nhà nước.
Bốn là, bổ sung quy định về nội dung, hình thức kiểm soát chất lượng
kiểm toán và trách nhiệm kiểm soát chất lượng kiểm toán của các chủ thể có
liên quan trong hoạt động kiểm toán của KTNN. Kiểm soát chất lượng kiểm
toán là biện pháp hết sức quan trọng để nâng cao chất lượng kiểm toán và
kiểm soát đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ Kiểm toán viên nhà nước, tạo
niềm tin của Đảng, Nhà nước và nhân dân vào kết quả kiểm toán của KTNN.
Năm là, nâng cao trách nhiệm của đơn vị được kiểm toán, tổ chức, cá
nhân có liên quan trong việc thực hiện đầy đủ, kịp thời kiến nghị kiểm toán
của KTNN, nhằm bảo đảm tính hiệu lực của hoạt động kiểm toán nhà nước.
Thứ bảy, về đơn vị được kiểm toán
Về các đơn vị được kiểm toán (Điều 63): Bổ sung thêm đơn vị được
kiểm toán là các đơn vị sự nghiệp có thu tự đảm bảo toàn bộ kinh phí hoạt
động vào khoản 7 Điều 63 của Luật Kiểm toán nhà nước cho phù hợp với quy
định của pháp luật về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự
nghiệp công lập. Đề nghị thay thế quy định tại khoản 11, Điều 63 của Luật Kiểm
toán nhà nước về “Doanh nghiệp nhà nước” bằng “Các doanh nghiệp có quản lý
và sử dụng vốn và tài sản nhà nước”, nhằm bảo đảm sự phù hợp với Luật Doanh
nghiệp năm 2005; đồng thời, bảo đảm bao quát nhiệm vụ của KTNN đối với
việc kiểm soát mọi nguồn lực tài chính nhà nước và tài sản công.
Về quyền của đơn vị được kiểm toán (Điều 64): Để bảo đảm trật tự
pháp lý trong việc giải quyết kiến nghị kiểm toán, cần bổ sung quy định về
thời hạn để đơn vị được kiểm toán thực hiện quyền kiến nghị; đồng thời quy
định đơn vị được kiểm toán có trách nhiệm cung cấp đầy đủ các bằng chứng
để chứng minh cho ý kiến kiến nghị của mình.
Về nghĩa vụ của đơn vị được kiểm toán (Điều 65): Đề nghị bãi bỏ
148
khoản 5 Điều 65 Luật Kiểm toán nhà nước quy định: “Người đứng đầu đơn vị
được kiểm toán phải ký biên bản kiểm toán” để bảo đảm sự chuẩn xác về mặt
pháp lý trong việc ghi nhận kết quả kiểm toán của Tổ kiểm toán và tính độc
lập của hoạt động kiểm toán nhà nước.
4.2.2.3. Sửa đổi, bổ sung các luật có liên quan
Nghiên cứu sửa đổi Luật Kiểm toán nhà nước và các luật có liên quan
để phân định rõ vị trí, chức năng của KTNN với các cơ quan thanh tra, kiểm
tra giám sát khác của Nhà nước; đồng thời, bảo đảm sự đồng bộ và phù hợp
giữa Luật Kiểm toán nhà nước với Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính
phủ, Luật NSNN..., cụ thể:
Đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức Quốc hội và Luật tổ chức Chính
phủ liên quan đến KTNN nhằm khẳng định KTNN là cơ quan kiểm tra tài
chính nhà nước cao nhất, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật;
Nghiên cứu sửa đổi một số quy định của Luật Ngân sách nhà nước cho
phù hợp với quy định của Luật Kiểm toán nhà nước về một số nội dung như:
Việc chuẩn bị ý kiến về dự toán NSNN và phương án phân bổ ngân sách
trung ương của KTNN, thời hạn nộp báo cáo quyết toán ngân sách năm của
các bộ, các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương...
4.2.2.4. Hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Kiểm toán
nhà nước
Để nâng cao hiệu lực thi hành của Luật Kiểm toán nhà nước, cần phải tiếp
tục xây dựng và hoàn thiện các văn bản QPPL cụ thể hoá và hướng dẫn thi hành.
Đây là công việc cấp bách phải được tiến hành thường xuyên, liên tục. Đến năm
2015 cần tập trung xây dựng và ban hành các văn bản QPPL chủ yếu sau đây:
Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định vị trí làm việc, cơ
cấu chức danh công chức của KTNN
Quy định rõ vị trí làm việc, cơ cấu chức danh công chức của KTNN phù
hợp với Luật Cán bộ, công chức; tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức của KTNN bảo đảm đủ về số lượng, có cơ cấu và chất
149
lượng phù hợp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về tiêu chuẩn Tổng KTNN
Tạo cơ sở pháp lý cho việc đào tạo, bồi dưỡng và lựa chọn những cán bộ,
công chức có đủ tiêu chuẩn để bầu vào chức danh Tổng KTNN.
Nghị định của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Kiểm toán nội bộ tại các
cơ quan, tổ chức, đơn vị có quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước
Xác định các cơ quan, tổ chức, đơn vị phải thành lập Kiểm toán nội bộ;
mô hình tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, hoạt động và bảo đảm hoạt động của
Kiểm toán nội bộ; trách nhiệm của KTNN đối với Kiểm toán nội bộ...
Quyết định của Tổng KTNN quy định về trưng cầu giám định chuyên môn
trong hoạt động kiểm toán của KTNN
Quy định trình tự, thủ tục, hình thức và nội dung thực hiện giám định
chuyên môn trong thực hiện kiểm toán; sử dụng kết quả giám định trong kiểm
toán và trách nhiệm của các bên trong quá trình thực hiện giám định.
Quyết định của Tổng KTNN quy định về giải quyết kiến nghị của đơn vị
được kiểm toán
Quy định những trường hợp được thực hiện quyền kiến nghị và thời hạn
kiến nghị của đơn vị được kiểm toán; trình tự, thủ tục giải quyết kiến nghị;
trách nhiệm của KTNN, của đơn vị được kiểm toán và các bên có liên quan.
Quyết định của Tổng KTNN quy định về sử dụng cộng tác viên kiểm toán
Quy định đối tượng, tiêu chuẩn, điều kiện, hình thức pháp lý sử dụng cộng
tác viên kiểm toán; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của cộng tác viên; hình
thức, phạm vi và phương thức hoạt động của cộng tác viên kiểm toán.
4.2.2.5. Hoàn thiện hệ thống chuẩn mực, quy trình kiểm toán
Kiểm toán là một nghề, đòi hỏi khắt khe về tính cẩn trọng trong chuyên
môn, nghề nghiệp. Hoạt động kiểm toán là một trong những hoạt động mang
tính chuyên nghiệp cao, luôn phải tuân thủ theo hệ thống chuẩn mực, quy
trình nghề nghiệp thống nhất. Hệ thống chuẩn mực kiểm toán không chỉ là cơ
150
sở cho hoạt động nghề nghiệp mà còn là cơ sở để kiểm tra, đánh giá hoạt
động của KTV. Vì vậy, KTNN cần sớm hoàn thiện hệ thống chuẩn mực, quy
trình kiểm toán nhằm ngày càng nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán của
KTNN. Đến năm 2015, KTNN có đầy đủ hệ thống chuẩn mực, các quy trình
về kiểm toán tài chính, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động; từng bước cụ
thể hoá quy trình kiểm toán theo chuyên ngành hẹp phù hợp với các loại hình
kiểm toán theo quy định của Luật Kiểm toán nhà nước.
Để thực hiện tốt quy định của Luật Kiểm toán nhà nước, chuẩn mực
kiểm toán và quy trình kiểm toán, cần hoàn thiện quy trình kiểm tra, soát xét
chất lượng kiểm toán. Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng, đảm bảo cho các
báo cáo kiểm toán khi phát hành có chất lượng cao, các kết luận đưa ra có tính
thuyết phục, các kiến nghị kiểm toán phù hợp với pháp luật và có tính khả thi
cao. Đồng thời, qua đó đánh giá được chất lượng công tác kiểm toán của các
Đoàn kiểm toán. Nội dung quy trình kiểm tra, soát xét chất lượng kiểm toán
cần quy định rõ: Các nguyên tắc, hình thức, nội dung, trình tự kiểm soát chất
lượng kiểm toán; trách nhiệm các chủ thể kiểm soát. Tăng cường kiểm soát
chất lượng kiểm toán ở tất cả các khâu của quy trình kiểm toán và trách nhiệm
của từng cấp kiểm soát từ bên trong và bên ngoài đối với từng Đoàn kiểm
toán. Việc kiểm tra, soát xét chất lượng kiểm toán trước hết phải do chính bản
thân các KTV, Tổ trưởng Tổ kiểm toán, Trưởng đoàn kiểm toán, Kiểm toán
trưởng tự thực hiện nhằm nâng cao trách nhiệm của những người thực hiện
kiểm toán, lập báo cáo kiểm toán và lập hồ sơ kiểm toán. Đối với các cuộc
kiểm toán có quy mô lớn, nội dung phức tạp, có liên quan đến nhiều đơn vị
hoặc những cuộc kiểm toán có dấu hiệu vi phạm pháp luật của thành viên
Đoàn kiểm toán, ngoài việc kiểm tra, soát xét chất lượng kiểm toán từ bên
trong, cần phải có sự kiểm soát chất lượng kiểm toán từ bên ngoài của các vụ
chức năng thuộc KTNN (Vụ Pháp chế, Vụ Chế độ và Kiểm soát chất lượng
kiểm toán, Thanh tra KTNN) nhằm đảm bảo tính độc lập, khách quan; kịp
151
thời ngăn chặn, phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm
đạo đức nghề nghiệp của KTV và các thành viên Đoàn kiểm toán.
4.2.2.6. Ban hành Nghị định của Chính phủ về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước
Trong hoạt động kiểm toán luôn có những hành vi cố ý hay vô ý của
đơn vị được kiểm toán, của tổ chức, cá nhân có liên quan vi phạm các quy
định của Nhà nước về hoạt động kiểm toán nhà nước. Đó chính là các hành vi
vi phạm pháp luật về kiểm toán nhà nước. Các hành vi vi phạm pháp luật này
tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm đều phải bị xử lý, có những hành vi bị xử
lý hình sự khi gây nguy hiểm lớn cho xã hội và có đủ yếu tố cấu thành tội
phạm. Tuy nhiên, đa số các hành vi vi phạm pháp luật kiểm toán nhà nước
không phải là tội phạm mà là vi phạm hành chính và phải bị xử lý theo quy
định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Thực tế hoạt động kiểm toán
những năm qua cho thấy nhiều trường hợp vi phạm pháp luật của đơn vị được
kiểm toán và tổ chức, cá nhân có liên quan như: Không cung cấp đầy đủ, kịp
thời các thông tin, tài liệu; không thực hiện đầy đủ, kịp thời các kết luận, kiến
nghị kiểm toán..., song những hành vi vi phạm đó chưa bị xử lý đã làm giảm
hiệu lực của hoạt động kiểm toán nói riêng và tính nghiêm minh của pháp luật
nói chung. Một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng nêu trên là do
Nhà nước chưa có quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
này. Vì vậy, việc sớm ban hành Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước là rất cần thiết. Việc xây dựng Nghị định
của Chính phủ về xử phạt hành chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước cần
tập trung vào 03 nhóm hành vi vi phạm sau đây:
Thứ nhất, hành vi của đơn vị được kiểm toán và tổ chức, cá nhân có
liên quan vi phạm các điều cấm, vi phạm các nghĩa vụ pháp lý theo quy định
của Luật Kiểm toán nhà nước trong quá trình thực hiện kiểm toán, bao gồm:
(1) Không chấp hành quyết định kiểm toán;
152
(2) Từ chối cung cấp thông tin, tài liệu phục vụ cho cuộc kiểm toán
theo yêu cầu của KTNN và KTV nhà nước;
(3) Không lập và gửi đầy đủ, kịp thời báo cáo tài chính, báo cáo quyết
toán dự án đầu tư; kế hoạch thu, chi; báo cáo tình hình chấp hành và quyết
toán ngân sách cho KTNN theo yêu cầu;
(4) Không cung cấp đầy đủ, kịp thời các thông tin, tài liệu cần thiết để
thực hiện việc kiểm toán theo yêu cầu của KTNN, KTV nhà nước;
(5) Báo cáo sai lệch, không trung thực, không đầy đủ và thiếu khách
quan thông tin liên quan đến cuộc kiểm toán của KTNN; sửa đổi, chuyển dời,
cất giấu, huỷ hoại tài liệu có liên quan đến nội dung kiểm toán;
(6) Không trả lời và giải trình đầy đủ, kịp thời các vấn đề do Đoàn kiểm
toán, KTV nhà nước yêu cầu;
(7) Người đứng đầu đơn vị được kiểm toán không ký hoặc trì hoãn ký
biên bản kiểm toán;
(8) Mua chuộc, hối lộ KTV nhà nước;
(9) Che giấu các hành vi vi phạm pháp luật về tài chính, ngân sách;
(10) Cản trở công việc của KTNN và KTV nhà nước;
(11) Can thiệp trái pháp luật vào hoạt động kiểm toán của KTNN.
Thứ hai, trong việc thực hiện kết luận, kiến nghị của KTNN, hành vi vi
phạm hành chính trong lĩnh vực KTNN bao gồm:
(1) Không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, kịp thời kết luận,
kiến nghị của KTNN về sai phạm trong báo cáo tài chính và sai phạm trong
việc tuân thủ pháp luật;
(2) Không thực hiện các biện pháp để khắc phục yếu kém trong hoạt
động theo kết luận, kiến nghị của KTNN;
(3) Không báo cáo bằng văn bản về kết quả thực hiện kết luận, kiến
nghị kiểm toán cho KTNN theo quy định.
Thứ ba, trong công khai kết quả kiểm toán, hành vi vi phạm hành chính
153
trong lĩnh vực KTNN bao gồm:
(1) Không thực hiện công khai kết quả kiểm toán theo quy định;
(2) Công khai kết quả kiểm toán không đầy đủ về nội dung, hình thức,
thời hạn quy định;
(3) Công khai tài liệu, số liệu sai sự thật;
(4) Công khai tài liệu, số liệu thuộc bí mật nhà nước, bí mật nghề nghiệp
của cơ quan, đơn vị, tổ chức được kiểm toán theo quy định của pháp luật;
(5) Đưa tin, bài phản ánh về công khai kết quả kiểm toán không chính
xác, không trung thực, khách quan.
4.2.3. Nhóm giải pháp tổ chức thực hiện
4.2.3.1. Nâng cao năng lực đội ngũ công chức làm công tác xây dựng
pháp luật về kiểm toán nhà nước
Để xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của Nhà nước ta nói
chung và pháp luật về từng lĩnh vực quản lý nhà nước nói riêng, trước hết cần
đổi mới cơ bản quy trình, thủ tục xây dựng pháp luật từ sáng kiến pháp luật
đến thông qua luật nhằm đẩy nhanh quá trình soạn thảo, ban hành luật; nâng
cao trình độ, năng lực làm luật của Quốc hội, phát huy vai trò, trách nhiệm
của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội trong việc chuẩn bị, thẩm
tra dự án luật, pháp lệnh. Đối với lĩnh vực kiểm toán nhà nước, xây dựng hệ
thống pháp luật về kiểm toán nhà nước bảo đảm tính khoa học, tính khả thi,
trước hết và quan trọng nhất là yếu tố con người. Công việc quan trọng này
đòi hỏi phải có các chuyên gia am hiểu chuyên môn kiểm toán, am hiểu pháp
luật và việc xây dựng các văn bản pháp luật. Lực lượng soạn thảo các văn bản
pháp luật về kiểm toán nhà nước cần có sự phối hợp của ba nhóm chuyên gia:
(1) Nhóm chuyên gia nghiệp vụ về kiểm toán của cơ quan KTNN, một số
trường đại học, viện nghiên cứu; (2) Nhóm các chuyên gia pháp lý của
KTNN, Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ, Văn phòng Quốc hội… và (3)
Nhóm chuyên gia tư vấn của nước ngoài. Sự phối hợp này nhằm bảo đảm cho
hệ thống pháp luật về kiểm toán nhà nước vừa kế thừa được kinh nghiệm
154
nước ngoài, vừa phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, xã hội của Việt
Nam. Trong quá trình hoàn thiện pháp luật kiểm toán nhà nước, cũng cần chú
trọng tổng kết thực tiễn xây dựng và thực hiện pháp luật kiểm toán nhà nước,
tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm nước ngoài về tổ chức và hoạt động của
KTNN để vận dụng phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta. Do KTNN là
lĩnh vực còn khá mới mẻ đối với nước ta, địa vị pháp lý của KTNN và của
Tổng KTNN chưa được quy định trong Hiến pháp; trong khi đó nhiều nước
trên thế giới KTNN có lịch sử phát triển hàng trăm năm và ở hầu hết các nước
đều quy định địa vị pháp lý của KTNN và của Tổng KTNN trong Hiến pháp.
Do vậy, KTNN Việt Nam và các cơ quan có thẩm quyền cần tăng cường tổ
chức các đoàn cán bộ là những người có thẩm quyền, những chuyên gia pháp
luật của KTNN; lãnh đạo và chuyên gia của các cơ quan, tổ chức có liên quan
như: Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ, các cơ quan của Quốc hội; các đại
biểu Quốc hội ... khảo sát nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài trong xây dựng
thể chế về tổ chức và hoạt động của KTNN, đặc biệt là việc quy định địa vị
pháp lý của KTNN trong Hiến pháp, nhất là những nước kinh tế phát triển và
những nước có điều kiện kinh tế, xã hội tương đồng với Việt Nam. KTNN
cần tích cực tranh thủ sự tài trợ của các tổ chức quốc tế, các đối tác nước
ngoài để tổ chức các diễn đàn, các Hội thảo khoa học quốc tế, mời các nhà
quản lý, các nhà khoa học của INTOSAI, ASOSAI, của các nước có hoạt
động kiểm toán nhà nước phát triển hoặc có điều kiện tương đồng với Việt
Nam trình bày về vị trí, vai trò của cơ quan KTNN trong xây dựng nhà nước
pháp quyền và phát triển kinh tế thị trường, sự cần thiết và kinh nghiệm quy
định địa vị pháp lý của KTNN trong Hiến pháp, nhằm góp phần nâng cao
nhận thức và tạo sự đồng thuận của các cấp, các ngành và các nhà làm luật
của Việt Nam về tổ chức và hoạt động của KTNN. Đồng thời, coi trọng công
tác nghiên cứu khoa học pháp lý về kiểm toán nhà nước để tạo cơ sở khoa học
cho hoạt động xây dựng pháp luật về kiểm toán nhà nước; nâng cao năng lực
đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác xây dựng pháp luật nói chung và
155
pháp luật về kiểm toán nhà nước nói riêng; có cơ chế, chính sách huy động
đông đảo các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn ở trong và ngoài
nước tham gia công tác xây dựng pháp luật về kiểm toán nhà nước.
4.2.3.2. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật về kiểm toán nhà nước cho cán bộ, công chức của Kiểm toán Nhà
nước và các cơ quan, đơn vị, tổ chức
Pháp luật về kiểm toán nhà nước được coi là hoàn thiện không chỉ được
thể hiện ở chỗ được ban hành dưới hình thức một đạo luật mang tính pháp
điển cao, mà quan trọng hơn là đạo luật đó phải đi vào cuộc sống, nghĩa là nó
phải được tuân theo và chấp hành thường xuyên, nghiêm chỉnh trong cuộc
sống. Hiệu quả của việc chấp hành pháp luật tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố. Một
trong những yếu tố quan trọng, có ý nghĩa quyết định về mặt chủ quan, đó là
ý thức pháp luật. Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, biện pháp có ý nghĩa quyết
định trong tổ chức thực hiện là giáo dục và nâng cao ý thức pháp luật, năng
lực thực hiện pháp luật cho cán bộ, công chức nhà nước. Không có ý thức
pháp luật và am hiểu pháp luật thì không thể tự giác tuân theo và chấp hành
nghiêm chỉnh, cũng như không thể áp dụng đúng pháp luật trong quản lý nhà
nước. Phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật là việc làm cần thiết vừa
để nâng cao ý thức pháp luật, phòng ngừa vi phạm pháp luật; đồng thời, cũng
là biện pháp tích cực đấu tranh chống lại những hành vi vi phạm pháp luật.
Do vậy, để hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước cần đẩy mạnh công
tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục sâu rộng Luật Kiểm toán nhà nước, các
văn bản hướng dẫn thi hành và các văn bản QPPL có liên quan đến toàn thể
cán bộ, công chức KTNN, các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa
phương, đặc biệt là các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc phạm vi kiểm toán của
KTNN làm cho cán bộ, công chức KTNN, các tổ chức, cơ quan có liên quan
hiểu được các quy định của pháp luật về kiểm toán nhà nước, nhất là các quy
định về quyền và nghĩa vụ của mình, trên cơ sở đó thực hiện đúng luật, giám
156
sát và phối hợp giúp KTNN hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ được giao.
4.2.3.3. Đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, phẩm chất chính trị
đội ngũ cán bộ, công chức, Kiểm toán viên nhà nước
Pháp luật về kiểm toán nhà nước được coi là hoàn thiện còn phải được
thể hiện thông qua hoạt động thực hiện và áp dụng pháp luật của các đối
tượng có liên quan, trong đó có đội ngũ cán bộ, công chức, KTV nhà nước.
Do vậy, bên cạnh việc xây dựng thể chế về kiểm toán nhà nước, cần phải giáo
dục nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán bộ, công
chức, KTV nhà nước. Muốn vậy, phải có chiến lược đào tạo, bồi dưỡng để
bảo đảm cho đội ngũ cán bộ, công chức, KTV nhà nước có bản lĩnh chính trị
vững vàng, đạo đức nghề nghiệp trong sáng, tinh thông về nghiệp vụ chuyên
môn, chuyên nghiệp, tương xứng với yêu cầu của nghề nghiệp kiểm toán. Để
đáp ứng yêu cầu trên đây, cần thực hiện tốt các nhiệm vụ sau đây:
Thứ nhất, xây dựng và đổi mới chương trình, nội dung đào tạo theo
từng chức danh gắn với tiêu chuẩn hoá công chức; gắn lý luận với thực tiễn,
kết hợp trang bị kiến thức nghiệp vụ với việc nâng cao phẩm chất chính trị,
đạo đức văn hoá nghề nghiệp, kiến thức pháp luật và kỹ năng thực hành nhằm
đáp ứng được yêu cầu thực hiện nhiệm vụ kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm
toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động; bồi dưỡng, bổ sung một số nội dung
đào tạo về một số lĩnh vực kiểm toán mới, như: Kiểm toán môi trường, kiểm
toán trách nhiệm kinh tế, kiểm toán hoạt động, kiểm toán chuyên đề; tăng
cường đào tạo nghiệp vụ kiểm toán trong môi trường công nghệ thông tin;
đào tạo ngoại ngữ, tin học cho cán bộ, công chức, đặc biệt là cho KTV nhà
nước nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế...
Thứ hai, đổi mới phương thức đào tạo, bồi dưỡng công chức; phát triển
hình thức tổ chức đào tạo từ xa, tự đào tạo, đào tạo thông qua hình thức hội
thảo, trao đổi kinh nghiệm...
Thứ ba, tổ chức tuyển dụng công chức, KTV, tổ chức thi cấp Chứng chỉ
157
KTV nhà nước, quản lý việc cấp và sử dụng Thẻ KTV nhà nước theo đúng
quy định. Có kế hoạch đào tạo trong thời gian không dài một đội ngũ chuyên
gia đầu ngành đối với từng lĩnh vực chuyên môn, tiếp cận trình độ các nước
tiên tiến trong khu vực và trên thế giới; xây dựng đội ngũ giảng viên giỏi về
chuyên môn, có kinh nghiệm thực tiễn để thực hiện tốt công tác giảng dạy.
Thứ tư, đẩy mạnh hợp tác trong nước và quốc tế, tăng cường giao lưu
học tập về nghiệp vụ kiểm toán, đặc biệt là thi Chứng chỉ kiểm toán viên quốc
tế; cử cán bộ đi tìm hiểu, học hỏi kinh nghiệm về Chính phủ điện tử, về tin
học hoá các hoạt động kiểm toán tại một số nước tiên tiến.
4.2.3.4. Phát triển đồng bộ và hiện đại cơ sở vật chất, đẩy mạnh ứng
dụng công nghệ thông tin vào hoạt động kiểm toán nhà nước
Đảm bảo đầy đủ, kịp thời phương tiện, kinh phí và cơ sở vật chất là một
trong những nhân tố quyết định để bảo đảm tính độc lập và chất lượng hoạt động
của KTNN. Do vậy, để thực hiện giải pháp quan trọng này, cần thực hiện tốt các
nhiệm vụ sau đây:
Thứ nhất, phát triển cơ sở vật chất và chế độ đãi ngộ thoả đáng phù
hợp đặc thù nghề nghiệp đối với cán bộ, công chức, KTV của KTNN
Cần có chính sách ưu tiên để tạo bước mạnh mẽ trong việc huy động
nguồn lực nhằm đảm bảo cơ sở vật chất mang tính đặc thù cho toàn hệ thống
KTNN. Việc xây dựng cơ sở vật chất và chế độ đãi ngộ đối với cán bộ, công
chức, KTV của KTNN cần tập trung vào một số vấn đề sau:
Một là, xây dựng, trang bị đầy đủ hệ thống trụ sở, phương tiện làm việc
cho KTNN ở trung ương và các khu vực, chú trọng việc đầu tư thiết bị phục
vụ công tác kiểm toán. Phấn đấu đến 2015 xây dựng xong và cơ bản trang bị
đầy đủ, đồng bộ trang thiết bị, phương tiện làm việc tại tất cả các đơn vị trực
thuộc KTNN theo tiêu chuẩn, định mức Chính phủ quy định.
Hai là, phối hợp với Bộ Tài chính và các đơn vị có liên quan nghiên
cứu, xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn, định mức sử dụng kinh phí, ngân
sách và phương tiện phù hợp với tính chất và đặc thù của hoạt động kiểm toán
158
và chức trách, nhiệm vụ của KTV. Đảm bảo đầy đủ kinh phí cho các hoạt
động kiểm toán, có chế độ đãi ngộ thích hợp cho cán bộ, công chức, KTV nhà
nước; đầu tư phát triển hạ tầng công nghệ thông tin và các phương tiện, máy
tính, công cụ trợ giúp hoạt động kiểm toán.
Ba là, đẩy mạnh việc huy động, khai thác có hiệu quả nguồn vốn tài
trợ, viện trợ quốc tế nhằm trang bị, hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật phục
vụ tốt cho hoạt động của KTNN.
Thứ hai, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động kiểm
toán nhà nước
Để phát triển KTNN đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, việc ứng dụng
công nghệ thông tin là yếu tố quan trọng, nhằm đáp ứng các yêu cầu cơ bản:
Một là, cơ bản hoàn thiện xây dựng hạ tầng công nghệ thông tin trong
phạm vi toàn ngành, đảm bảo phương tiện thông tin và truyền thông phục vụ
quản lý điều hành và hoạt động kiểm toán. Củng cố và nâng cấp hệ thống
mạng diện rộng, đảm bảo sự hoạt động ổn định thông suốt của hệ thống mạng
và an toàn bảo mật hệ thống thông tin dữ liệu.
Hai là, xây dựng, hoàn thiện và đưa vào khai thác có hiệu quả hệ thống
cơ sở dữ liệu, thông tin kiểm toán, các phần mềm ứng dụng phục vụ công tác
quản lý, điều hành và hoạt động kiểm toán.
Ba là, phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin đồng bộ; bồi
dưỡng đào tạo kiến thức tin học cho cán bộ, công chức tiếp cận sử dụng công
nghệ mới trong công việc thường xuyên, đáp ứng yêu cầu cao về chất lượng
và hiệu quả.
Bốn là, phát triển ứng dụng công nghệ thông tin, tạo bước đột phá trong
ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ hoạt động kiểm toán, đưa ứng dụng
công nghệ thông tin ngang tầm với các cơ quan KTNN trên thế giới.
4.2.3.5. Tăng cường công tác giám sát đối với hoạt động của Kiểm
159
toán Nhà nước
Để hoạt động kiểm toán của KTNN tuân thủ theo các quy định của
pháp luật, cần phải có cơ chế giám sát thích hợp. Đây là vấn đề có tính
nguyên tắc, bởi vì KTNN là cơ quan có vị thế cao, quyền hạn lớn, thì cùng
với những quy định nâng cao trách nhiệm của KTNN, cần phải có cơ chế
giám sát chặt chẽ đối với hoạt động của KTNN. Do KTNN là cơ quan kiểm
tra tài chính nhà nước cao nhất, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật,
nên pháp luật kiểm toán nhà nước cần quy định trách nhiệm giám sát hoạt
động kiểm toán của KTNN do các chủ thể thuộc cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất thực hiện (Quốc hội, UBTV Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội...)
nhằm bảo đảm tính khách quan và hiệu lực của hoạt động giám sát.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4
Để xây dựng được một hệ thống pháp luật về kiểm toán nhà nước đáp
ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, trước hết phải
dựa trên cơ sở lý luận khoa học và tổng kết thực tiễn; phân tích, đánh giá đầy
đủ những kết quả đạt được, những hạn chế, bất cập của thực trạng pháp luật
về kiểm toán nhà nước xét trên cả hai mặt hình thức và nội dung của pháp luật
và luận giải rõ những nguyên nhân chủ yếu của thực trạng đó. Đồng thời, quá
trình hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước cần quán triệt các quan điểm
cơ bản, đó là: Quán triệt và thể chế hoá các quan điểm của Đảng về phát triển
KTNN; xác định hợp lý mô hình của cơ quan KTNN trong cơ cấu tổ chức bộ
máy của Nhà nước ta; bảo đảm tính độc lập của cơ quan KTNN; xây dựng
KTNN thực sự trở thành công cụ quan trọng và đủ mạnh của Nhà nước thực
hiện việc kiểm tra, kiểm soát nghiêm ngặt việc quản lý và sử dụng ngân sách,
tiền và tài sản nhà nước; đáp ứng yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế, phù hợp
với các nguyên tắc, thông lệ quốc tế và điều kiện thực tế của Việt Nam.
Mục tiêu hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước chỉ có thể đạt
160
được khi tiến hành thực hiện đồng bộ ba nhóm giải pháp cơ bản sau đây:
Nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật về nội dung (địa vị pháp lý, chức năng,
nhiệm vụ và quyền hạn; đối tượng và phạm vi kiểm toán; mô hình tổ chức và
cơ chế hoạt động của KTNN; xử lý vi phạm pháp luật về kiểm toán nhà
nước); nhóm giải pháp hoàn thiện hình thức pháp luật (quy định địa vị pháp lý
của KTNN trong Hiến pháp; sửa đổi, bổ sung Luật Kiểm toán nhà nước; sửa
đổi, bổ sung các luật có liên quan; hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thi hành
Luật Kiểm toán nhà nước; hoàn thiện hệ thống chuẩn mực, quy trình kiểm
toán; ban hành Nghị định của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực kiểm toán nhà nước và nhóm giải pháp về tổ chức thực hiện pháp
luật về kiểm toán nhà nước.
161
KẾT LUẬN
Qua gần 20 năm hoạt động, đặc biệt là sau hơn bảy năm thực hiện Luật
Kiểm toán nhà nước, địa vị pháp lý của KTNN đã được nâng cao; chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức được quy định đầy đủ, cụ thể hơn;
nhận thức của các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị, tổ chức và của toàn xã
hội về cơ quan KTNN và hoạt động kiểm toán nhà nước đầy đủ hơn, đúng
đắn hơn, nhất là sau khi KTNN thực hiện việc công bố công khai kết quả
kiểm toán; hoạt động kiểm toán được tăng cường cả về quy mô kiểm toán,
chất lượng và hiệu lực kiểm toán; các kết luận, kiến nghị kiểm toán được các
đơn vị thực hiện đầy đủ và nghiêm túc hơn. Tuy nhiên trước yêu cầu của công
cuộc đổi mới, xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế, khuôn khổ
pháp lý cho tổ chức và hoạt động của KTNN vẫn còn nhiều tồn tại, bất cập.
Chế định về địa vị pháp lý chưa tương xứng với vị trí, vai trò của KTNN. Địa
vị pháp lý của KTNN và Tổng KTNN chưa được quy định trong Hiến pháp -
đạo luật cơ bản của Nhà nước như hầu hết các nước trên thế nên không tránh
khỏi khó khăn khi xác định vị trí pháp lý, xây dựng mô hình tổ chức và cơ chế
hoạt động của cơ quan KTNN. Đây là bất cập lớn nhất hiện nay của KTNN.
Trong bối cảnh đó nghiên cứu đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật
kiểm toán nhà nước là yêu cầu khách quan và cấp bách nhằm xây dựng
KTNN trở thành công cụ mạnh của Nhà nước về kiểm tra tài chính nhà nước,
góp phần làm minh bạch và lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia.
Bằng phương pháp tiếp cận và nghiên cứu khoa học phù hợp, Luận án
"Hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam" đã đạt được mục đích và hoàn
thành mục tiêu nghiên cứu đề ra. Kết quả nghiên cứu có thể được khái quát:
1. Trên cơ sở nghiên cứu có hệ thống những vấn đề lý luận của Chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản
162
Việt Nam về pháp luật và pháp chế XHCN, luận án đã xây dựng được khái
niệm pháp luật kiểm toán nhà nước, phân tích làm rõ đặc điểm, nội dung và
vai trò của pháp luật về kiểm toán nhà nước phù hợp với quan điểm của Đảng
và thực tiễn hoạt động của KTNN.
2. Luận án cũng phân tích làm rõ những tiêu chí xác định mức độ hoàn
thiện và những điều kiện đảm bảo hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà
nước; yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN đối với việc hoàn thiện pháp
luật về kiểm toán nhà nước. Đây là vấn đề hoàn toàn mới, có ý nghĩa về lý
luận và phương pháp luận trong việc đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp
luật về kiểm toán nhà nước ở nước ta hiện nay.
3. Luận án đã tiến hành phân tích, đánh giá những kết quả đã đạt được,
những hạn chế và bất cập của pháp luật về kiểm toán nhà nước; đồng thời,
luận giải những nguyên nhân hạn chế, tồn tại của hệ thống pháp luật về kiểm
toán nhà nước ở nước ta hiện nay. Đây là cơ sở thực tiễn để đề ra các giải
pháp có tính khả thi cao nhằm hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước
đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam.
4. Căn cứ vào những yêu cầu khách quan và xuất phát từ thực trạng
pháp luật về kiểm toán nhà nước hiện nay, luận án đã đề xuất những quan
điểm định hướng và các nhóm giải pháp cơ bản hoàn thiện pháp luật về kiểm
toán nhà nước đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam, cụ thể như sau:
Nhóm giải pháp hoàn thiện nội dung và hình thức pháp luật về kiểm
toán nhà nước, bao gồm các giải pháp: Xác lập địa vị pháp lý của KTNN
trong Hiến pháp - đạo luật cơ bản của Nhà nước; sửa đổi, bổ sung Luật Kiểm
toán nhà nước; sửa đổi, bổ sung các luật có liên quan; tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện các văn bản để cụ thể hoá và hướng dẫn thi hành Luật Kiểm toán
nhà nước; tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống chuẩn mực, quy trình
kiểm toán; ban hành Nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong
163
lĩnh vực kiểm toán nhà nước. Ngoài các nhóm giải pháp hoàn thiện nội dung,
hình thức pháp luật về kiểm toán nhà nước nêu trên, luận án còn đề xuất
nhóm giải pháp về tổ chức thực hiện: Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công
chức làm công tác xây dựng pháp luật về kiểm toán nhà nước; đẩy mạnh công
tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về kiểm toán nhà nước cho cán
bộ, công chức của KTNN và các cơ quan, đơn vị, tổ chức; đào tạo nâng cao
trình độ chuyên môn, phẩm chất chính trị đội ngũ cán bộ, công chức, KTV
nhà nước; phát triển đồng bộ và hiện đại cơ sở vật chất, đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ thông tin vào hoạt động kiểm toán; tăng cường công tác giám sát
đối với hoạt động của KTNN.
Thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các giải pháp cơ bản nêu trên là nền
tảng, cơ sở, điều kiện để hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước, tạo cơ
sở pháp lý xây dựng KTNN từng bước trở thành cơ quan kiểm tra tài chính
nhà nước có uy tín và có trách nhiệm, đáp ứng lòng mong đợi của Đảng, Nhà
nước và nhân dân, góp phần làm minh bạch và lành mạnh hoá nền tài chính
quốc gia, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, đẩy mạnh
phát triển kinh tế, xã hội, vì mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”./.
164
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1. Đặng Văn Hải (2010), “Hoàn thiện cơ sở pháp lý đầy đủ và toàn diện cho
tổ chức và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước”, Tạp chí Kiểm toán,
(7), tr. 47 - 49.
2. Đặng Văn Hải (2011), “Kinh nghiệm các nước trên thế giới xác lập địa vị
pháp lý của Kiểm toán Nhà nước trong Hiến pháp và vận dụng cho
Việt Nam”, Tạp chí Kiểm toán, (3), tr. 40 - 43.
3. Đặng Văn Hải (2011), “Kinh nghiệm quốc tế trong quy định về xử lý hành
vi vi phạm Luật Kiểm toán nhà nước và khả năng vận dụng ở Việt
Nam”, Tạp chí Kiểm toán, (5), tr. 54 - 56; (6), tr. 49 - 51.
4. Đặng Văn Hải (2012), “Yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam đối với hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước ở nước ta
hiện nay”, Tạp chí Kiểm toán, (2), tr. 36 - 39.
5. Đặng Văn Hải (2012), “Những tiêu chí xác định mức độ hoàn thiện của pháp
luật về kiểm toán nhà nước ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Kiểm toán, (4),
tr.19 - 22.
6. Đặng Văn Hải (2012), “Quy định về Kiểm toán Nhà nước trong Hiến pháp
là yêu cầu khách quan hỗ trợ thực hiện quyền giám sát tối cao của
Quốc hội”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, (13), tr. 11 - 15.
7. Đặng Văn Hải (2012), “Yêu cầu khách quan và định hướng sửa đổi, bổ
sung Luật Kiểm toán nhà nước”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp,
(24), tr. 51 - 56.
165
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Alvin A.Arens (1995), Kiểm toán, Nxb Thống kê, Hà Nội.
2. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1994), Nghị định
số 70/CP về việc thành lập cơ quan Kiểm toán Nhà nước, ngày 11-
7, Hà Nội.
3. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Tờ trình
Quốc hội về Dự án Luật Kiểm toán nhà nước, ngày 20-5, Hà Nội.
4. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008), Nghị định
số 91/2008/NĐ-CP về công khai kết quả kiểm toán và kết quả thực
hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước, ngày
18-8, Hà Nội.
5. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Nghị
quyết số 01/NQ-CP ban hành Chiến lược quốc gia phòng, chống
tham nhũng đến năm 2020, ngày 12-5, Hà Nội.
6. Hà Hùng Cường (2009), "Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN", Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp, (1).
7. Đại hội đồng Liên hiệp quốc (2011), Nghị quyết A/66/209 về thúc đẩy
tính hiệu lực, trách nhiệm giải trình, tính hiệu quả và minh bạch
của quản lý công bằng cách tăng cường các cơ quan kiểm toán tối
cao, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban
chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp
hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
166
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban
chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban
chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban
chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban
chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2004), Giáo trình lý luận Nhà
nước và pháp luật, Tập 1, Hà Nội.
20. Học viện Tài chính (2007), Giáo trình lý thuyết kiểm toán, Nxb Tài chính,
Hà Nội.
21. Vương Đình Huệ (2009), Giải pháp nâng cao vị trí, vai trò của Kiểm toán
Nhà nước trong phòng, chống tham nhũng, Đề tài Nghiên cứu khoa
học cấp bộ, KTNN, Hà Nội.
22. Vương Đình Huệ (2012), Vai trò của KTNN Việt Nam trong hội nhập và
phát triển, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế, Hà Nôi.
23. Vương Đình Huệ (2010), "Ban hành Chiến lược phát triển Kiểm toán Nhà
nước đến năm 2020 là sự kiện có tầm quan trọng đặc biệt đối với tiến
trình phát triển của KTNN", Tạp chí NCKH kiểm toán, (5).
24. Kiểm toán Nhà nước (1995), Tăng cường các thể chế Kiểm toán Nhà
nước ở các nước đang phát triển, Tài liệu dịch, Hà Nội.
167
25. Kiểm toán Nhà nước (2001), So sánh quốc tế về địa vị pháp lý và các
chức năng của cơ quan Kiểm toán tối cao, Tài liệu dịch, Hà Nội.
26. Kiểm toán Nhà nước (2002), Phương hướng và giải pháp xây dựng hoàn
thiện hệ thống pháp luật về kiểm toán nhà nước, Đề tài khoa học
cấp bộ, Hà Nội.
27. Kiểm toán Nhà nước (2003), Những điều khoản quy định về địa vị pháp
lý và tính độc lập của KTNN trong Hiến pháp của một số nước trên
thế giới, Tài liệu dịch, Hà Nội.
28. Kiểm toán Nhà nước (2003), Chức năng nhiệm vụ và địa vị pháp lý của
cơ quan Kiểm toán trong cơ cấu nhà nước, Tài liệu dịch, Hà Nội.
29. Kiểm toán Nhà nước (2003), Luật Kiểm toán nhà nước của một số nước
trên thế giới, Tài liệu dịch, Hà Nội.
30. Kiểm toán Nhà nước (2004), Địa vị pháp lý của KTNN trong Nhà nước
pháp quyền, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế, Hà Nội.
31. Kiểm toán Nhà nước (2004), 10 năm xây dựng và phát triển KTNN Việt
Nam, Hà Nội.
32. Kiểm toán Nhà nước (2005), Vai trò của Kiểm toán Nhà nước trong nền
kinh tế thị trường, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế, Hà Nội.
33. Kiểm toán Nhà nước (2006), Định hướng chiến lược và giải pháp phát
triển KTNN Việt Nam, Đề tài khoa học cấp nhà nước, Hà Nội.
34. Kiểm toán Nhà nước (2008), Đề án trình Bộ Chính trị về tăng cường
năng lực hoạt động của KTNN và các cơ quan thanh tra, kiểm tra,
giám sát của Đảng và Nhà nước, ngày 15-6, Hà Nội.
35. Kiểm toán Nhà nước (2009), Tờ trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội về
Chiến lược phát triển KTNN giai đoạn 2009-2015 và tầm nhìn đến
năm 2020, Hà Nội.
36. Kiểm toán Nhà nước (2009), KTNN Việt Nam- 15 năm xây dựng và phát
triển, Hà Nội.
168
37. Kiểm toán Nhà nước (2012), Báo cáo tổng kết 5 năm thi hành Luật Kiểm
toán nhà nước và đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Kiểm toán nhà
nước, Hà Nội.
38. Kiểm toán Nhà nước (2012), Địa vị pháp lý của KTNN và Tổng KTNN
trong Hiến pháp Nước cộng hoà XHCN Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo
quốc tế, Hà Nội.
39. Quốc hội (1992), Hiến pháp 1992, Hà Nội.
40. Quốc hội (1995), Luật Doanh nghiệp nhà nước, Hà Nội.
41. Quốc hội (1996), Luật Ngân sách nhà nước, Hà Nội.
42. Quốc hội (1997), Luật Các tổ chức tín dụng, Hà Nội.
43. Quốc hội (1998), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ngân sách
nhà nước, Hà Nội.
44. Quốc hội (2001), Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp
1992, Hà Nội.
45. Quốc hội (2002), Luật Ngân sách nhà nước sửa đổi, Hà Nội.
46. Quốc hội (2005), Luật Kiểm toán nhà nước, Hà Nội.
47. Quốc hội (2005), Luật Phòng, chống tham nhũng, Hà Nội.
48. Quốc hội (2005), Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Hà Nội.
49. Quốc hội (2008), Luật Cán bộ, công chức, Hà Nội.
50. Quốc hội (2008), Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Hà Nộị.
51. Đặng Văn Thanh (2006), Vai trò vị trí của KTNN trong việc thực hiện
chức năng giám sát của Quốc hội và HĐND, Đề tài nhánh số 08
của Đề tài Nghiên cứu khoa học cấp nhà nước, KTNN, Hà Nội.
52. Thủ tướng Chính phủ (1995), Quyết định 61/TTg ban hành Điều lệ về tổ
chức và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước, Hà Nội.
53. Trịnh Đức Thảo (2009), Hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm người
đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước Việt Nam hiện nay -
Vấn đề và giải pháp, Đề tài Nghiên cứu khoa học cấp bộ, Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
169
54. Tổ chức Quốc tế các cơ quan Kiểm toán tối cao - INTOSAI (1997),
Tuyên bố Lima về hướng dẫn các nguyên tắc kiểm toán, (sửa đổi, bổ
sung năm 2008).
55. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2003), Giáo trình lý thuyết kiểm
toán, Nxb Tài chính, Hà Nội.
56. Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình lý luận nhà nước và
pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
57. Từ điển luật học (2006), Nxb Từ điển bách khoa - Nxb Tư pháp, Hà Nội.
58. Từ điển tiếng Việt, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.
59. Đào Trí Úc (2010), “Về hệ thống pháp luật Việt Nam và một số định
hướng đổi mới, hoàn thiện”, Tạp chí Khoa học pháp lý, (1).
60. Uỷ ban thường vụ Quốc hội (2005), Nghị quyết số 916/2005/NQ-
UBTVQH11 về tổ chức bộ máy của Kiểm toán Nhà nước, Hà Nội.
61. Uỷ ban thường vụ Quốc hội (2010), Nghị quyết số 927/2010/NQ-
UBTVQH12 về việc ban hành Chiến lược phát triểm Kiểm toán Nhà
nước đến năm 2020, Hà Nội.
Tiếng Anh
62. INTOSAI (2001), Independence of SAIs Project, Final Task Force
Report, 31 March 2001.
63. INTOSAI (2001), Mandates of Supreme Audit Institutions.