BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM --o0o-- HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ THỊ UYÊN Họ và tên NCS TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ KIỂM TRA VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN DO BỘ, CƠ QUAN NGANG BỘ BAN HÀNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Đề tài luận án:
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
HÀ NỘI - 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN HÀN LÂM TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM --o0o-- HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ THỊ UYÊN Họ và tên NCS
TIỂU LUẬN TỔNG QUAN VỀ
VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN
Ngành:
Luật học
Chuyên ngành:
KIỂM TRA VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT DO BỘ, CƠ QUAN NGANG BỘ BAN HÀNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Luật Hiến pháp – Luật Hành chính Mã số: 62.38.01.02 Đề tài luận án:
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Mã số:
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
TS. ĐẶNG VŨ HUÂN TS. LÊ HỒNG SƠN TP.HCM, năm 20 HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các thông tin, số liệu nêu trong Luận án là trung thực. Các
luận điểm kế thừa được trích dẫn rõ ràng. Kết quả nghiên
cứu của Luận án chưa từng được công bố trong công trình
nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Lê Thị Uyên
MỤC LỤC
Nội dung TT Trang
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 5
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 6
5. Những đóng góp mới về khoa học của Luận án 7
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của Luận án 8
7. Bố cục của Luận án 8
9 Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 9
1.2. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu 23
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 25
26
Chƣơng 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA KIỂM TRA VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT DO BỘ, CƠ QUAN NGANG BỘ BAN HÀNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Khái niệm, đặc điểm, bản chất của văn bản QPPL và văn bản 26 QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành
35 2.2. Khái niệm, đặc điểm, bản chất, mục đích của kiểm tra văn bản QPPL và kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành
2.3. Nguyên tắc, đối tƣợng, chủ thể, nội dung kiểm tra văn bản QPPL 49 do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành
2.4 Phƣơng thức, trình tự, thủ tục kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ 60 quan ngang bộ ban hành
2.5 Chủ thể có thẩm quyền xử lý và các hình thức xử lý văn bản QPPL 69 do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành trái pháp luật
74
2.6 Xử lý trách nhiệm đối với ngƣời, cơ quan ban hành văn bản QPPL trái pháp luật và khắc phục hậu quả do áp dụng văn bản trái pháp luật gay ra
2.7 Các yếu tố tác động đến kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan 77 ngang bộ ban hành
82
2.8 Nghiên cứu cơ chế bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản QPPL của một số quốc gia trên thế giới và liên hệ với cơ chế kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành ở Việt Nam hiện nay
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 87
88
Chƣơng 3: THỰC TRẠNG KIỂM TRA VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT DO BỘ, CƠ QUAN NGANG BỘ BAN HÀNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Những kết quả đã đạt đƣợc trong kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ 88 quan ngang bộ ban hành
3.2. Những hạn chế, yếu kém trong kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ 99 quan ngang bộ ban hành
3.3. Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trong kiểm tra văn bản 109 QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 123
124
Chƣơng 4: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG CÔNG TÁC KIỂM TRA VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT DO BỘ, CƠ QUAN NGANG BỘ BAN HÀNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. Phƣơng hƣớng nâng cao chất lƣợng kiểm tra văn bản QPPL do bộ, 124 cơ quan ngang bộ ban hành
4.2. Giải pháp nâng cao chất lƣợng kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ 129 quan ngang bộ ban hành
KẾT LUẬN CHƢƠNG 4 148
149 KẾT LUẬN
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Ủy ban nhân dân: UBND
Hội đồng nhân dân: HĐND
Quy phạm pháp luật: QPPL
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996: Luật năm 1996
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2004: Luật năm 2004
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008: Luật năm 2008
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015: Luật năm 2015
Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Nghị quyết 48-NQ/TW
Chính trị về Chiến lƣợc xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định
hƣớng đến năm 2020 (giai đoạn 2007-2012):
Nghị quyết số 900/UBTVQH11 ngày 21/3/2007 của Nghị quyết 900/UBTVQH11
Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội về Kế hoạch thực hiện
Nghị quyết số 48-NQ/TW:
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính Nghị quyết 49-NQ/TW
trị về Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020:
Nghị định số 135/2003/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 Nghị định 135/2003/NĐ-CP
năm 2003 về kiểm tra và xử lý văn bản QPPL:
Nghị định số 40/2010/NĐ-CP ngày 12 tháng 4 năm Nghị định 40/2010/NĐ-CP
2010 về kiểm tra và xử lý văn bản QPPL:
Nghị định 34/2016/NĐ-CP
Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14 tháng 5 năm 2016 quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015:
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý đất nƣớc trong tình hình
mới, các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền đã ban hành một số lƣợng rất lớn văn bản
quy phạm pháp luật (QPPL), góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia, tạo ra
cơ sở pháp lý vững chắc cho công cuộc đổi mới đất nƣớc. Tuy nhiên, bên cạnh những
kết quả tích cực đã đạt đƣợc, do nhiều nguyên nhân khác nhau, hệ thống pháp luật hiện
nay vẫn bộc lộ nhiều khiếm khuyết và hạn chế nhƣ: cồng kềnh, khó tiếp cận; nhiều
mâu thuẫn, chồng chéo; nhiều văn bản, nhiều quy phạm pháp luật trái pháp luật, lạc
hậu hoặc không phù hợp với thực tiễn cuộc sống nhƣng chƣa đƣợc đình chỉ, bãi bỏ,
sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế kịp thời… Do đó, chƣa đáp ứng đƣợc các yêu cầu về
xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật của Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Theo đó, hệ thống pháp luật phải hoàn thiện theo hƣớng công khai, minh bạch, đồng
bộ, dân chủ, quyền con ngƣời, quyền công dân đƣợc bảo đảm; thể chế hóa đầy đủ quy
định của Hiến pháp về sự phân công, phối hợp và “kiểm soát” lẫn nhau trong thực hiện
quyền lực nhà nƣớc. Đồng thời, phục vụ đắc lực cho công cuộc đổi mới toàn diện đời
sống kinh tế - xã hội của Đất nƣớc và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Bên cạnh việc nâng cao chất lƣợng và kỹ thuật lập pháp, chúng ta đã có nhiều
nỗ lực và thực hiện nhiều hoạt động khác nhau nhằm loại trừ tối đa tình trạng này. Một
trong những hoạt động quan trọng đó chính là kiểm tra văn bản QPPL. Kiểm tra văn
bản QPPL đã đƣợc quy định tại Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và
tiếp tục đƣợc quy định tại Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Chính phủ 2015 (trƣớc
đây đƣợc quy định tại Luật Tổ chức Chính phủ 2001), Luật Tổ chức chính quyền địa
phƣơng 2015 (trƣớc đây đƣợc quy định tại Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân (HDND)
và Ủy ban nhân dân (UBND) năm 2003), Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2015
(trƣớc đây đƣợc quy định tại Luật Ban hành văn bản QPPL năm 1996, Luật Ban hành
văn bản QPPL năm 2008, Luật Ban hành văn bản QPPL của HĐND và UBND năm
2004). Để triển khai công tác kiểm tra văn bản QPPL trên thực tế, Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 135/2003/NĐ-CP ngày 14/11/2003 về kiểm tra và xử lý văn bản
QPPL (sau đó đƣợc thay thế bởi Nghị định số 40/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010) và
1
hiện nay là Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14 tháng 5 năm 2016 quy định chi tiết
và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2015 (Luật năm 2015).
Hoạt động kiểm tra văn bản QPPL đƣợc triển khai đồng bộ trên phạm vi toàn
quốc với đối tƣợng là văn bản QPPL do cấp bộ đến văn bản QPPL do các cấp chính
quyền địa phƣơng ban hành. Trong đó, với vị thế là loại văn bản QPPL đƣợc xếp bậc
thứ nhất trong hệ thống các văn bản QPPL là đối tƣợng của hoạt động kiểm tra văn
bản QPPL, là văn bản đƣợc thực hiện, áp dụng trong phạm vi toàn quốc, văn bản
QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành có vị trí hết sức quan trọng. Do đó, kiểm tra,
kiểm soát việc ban hành văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành có vai trò, ý
nghĩa quan trọng trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, kiểm tra
văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành thời gian qua bộc lộ nhiều bất cập,
hạn chế, cụ thể là:
Về mặt nhận thức, lý luận, một số cán bộ, công chức hoặc ngƣời có thẩm quyền
kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành chƣa nhận thức đƣợc đầy đủ
ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng của kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban
hành; chƣa quan tâm chỉ đạo việc kiểm tra, tự kiểm tra, xử lý văn bản thuộc thẩm
quyền theo đúng quy định của pháp luật; chƣa quan tâm ban hành văn bản cụ thể hóa
hoạt động kiểm tra văn bản tại bộ, ngành mình; chƣa tạo điều kiện về nhân sự, biên
chế, kinh phí và các điều kiện bảo đảm khác phục vụ kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan
ngang bộ ban hành; việc phối hợp trong kiểm tra, xử lý văn bản trái pháp luật, nhất là
từ phía cơ quan đã ban hành văn bản còn nhiều hạn chế; vẫn còn thực tế nể nang, né
tránh, ngại va chạm, “dĩ hòa vi quý” trong kiểm tra, xử lý văn bản…
Bên cạnh đó, về mặt nhận thức, cần đánh giá lại vị trí, vai trò của kiểm tra văn
bản nói chung và kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành nói riêng. Theo
đó, ngoài việc có góc nhìn và nhận thức nhƣ lâu nay cho rằng, kiểm tra văn bản QPPL
là một cơ chế kiểm soát nội bộ giữa các cơ quan hành chính nhà nƣớc và là phƣơng
thức nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, cần đổi mới cách nhìn theo
hƣớng, coi kiểm tra văn bản QPPL là một phƣơng thức kiểm tra, giám sát, kiểm soát
quyền lực nhà nƣớc. Từ cách nhìn này, sẽ có những nghiên cứu về mặt lý luận, thực
tiễn, những giải pháp thích hợp cho việc tăng cƣờng chất lƣợng, hoặc đổi mới phƣơng
thức kiểm tra, xử lý văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành.
2
Hiện nay, các nghiên cứu một cách đầy đủ, chuyên sâu về kiểm tra văn bản
QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ không nhiều, nếu có, thì các nghiên cứu này chủ yếu
đƣợc “lồng ghép” trong các nghiên cứu chung về kiểm tra văn bản QPPL, thiếu tính đồng
bộ. Bên cạnh đó, nhiều vấn đề lý luận xung quanh vấn đề này còn chƣa đƣợc làm sáng tỏ,
nhƣ về khái niệm, vị trí của kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành; thẩm
quyền kiểm tra, xử lý văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành… do đó, thiếu những
nghiên cứu lý luận sắc bén làm cơ sở cho việc đề xuất hoàn thiện pháp luật, nâng cao chất
lƣợng hoạt động kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành.
Về mặt pháp luật thực định, qua quá trình triển khai thực hiện các quy định hiện
hành về kiểm tra văn bản QPPL nói chung và kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan
ngang bộ ban hành nói riêng cho thấy, quy định pháp luật về vấn đề này còn chƣa đầy
đủ, toàn diện. Điều này có thể cũng xuất phát từ góc nhìn hoặc quan điểm chƣa coi kiểm
tra văn bản QPPL là một phƣơng thức kiểm soát quyền lực nhà nƣớc. Do đó, trên cơ sở
đổi mới nhận thức, quan điểm về kiểm tra văn bản QPPL, cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn
thiện pháp luật về vấn đề này tạo tiền đề để triển khai thực hiện tốt hoạt động kiểm tra
văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành. Trong đó, cần đầu tƣ nghiên cứu
công phu và sửa đổi, bổ sung pháp luật hiện hành đối với một số nội dung nhƣ: thẩm
quyền của Tòa án nhân dân tối cao trong xem xét, phán quyết tính pháp lý của văn bản
do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành; thẩm quyền và hình thức xử lý văn bản do bộ, cơ
quan ngang bộ ban hành trái pháp luật; quy định cụ thể trách nhiệm pháp lý đối với chủ
thể có thẩm quyền ban hành văn bản QPPL trái pháp luật; trách nhiệm bồi thƣờng thiệt
hại do ban hành và thi hành văn bản QPPL trái pháp luật gây ra; việc khắc phục hậu quả
do thực hiện văn bản trái pháp luật gặp nhiều khó khăn, vƣớng mắc; cơ quan, ngƣời đã
ban hành văn bản trái pháp luật không bị xử lý trách nhiệm…
Về thực tiễn triển khai hoạt động này cho thấy, việc kiểm tra văn bản do các bộ,
cơ quan ngang bộ ban hành còn nhiều hạn chế, bất cập, chẳng hạn nhƣ: Văn bản có nội
dung trái pháp luật chƣa đƣợc phát hiện kịp thời (phát hiện chậm hoặc không phát hiện
nội dung trái pháp luật của văn bản); văn bản có nội dung trái pháp luật chƣa đƣợc xử lý
kịp thời, triệt để hoặc xử lý không đúng quy định; việc khắc phục hậu quả do thực hiện
văn bản trái pháp luật gặp nhiều khó khăn, vƣớng mắc; cơ quan, ngƣời đã ban hành văn
bản trái pháp luật không bị xử lý trách nhiệm…
3
Có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến tình trạng này, trong đó, về mặt chủ
quan, việc chấp hành trật tự, kỷ cƣơng trong công tác soạn thảo, ban hành văn bản tại
một số bộ, cơ quan ngang bộ chƣa nghiêm; đội ngũ cán bộ kiểm tra văn bản còn thiếu về
số lƣợng, trình độ, năng lực chƣa đồng đều; việc phối hợp trong kiểm tra, xử lý văn bản
trái pháp luật, nhất là từ phía cơ quan đã ban hành văn bản còn nhiều hạn chế; nhận thức
về kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành còn chƣa đầy đủ và đúng mức;
các nghiên cứu lí luận về vấn đề này còn mỏng… Về mặt khách quan, văn bản do các
bộ, cơ quan ngang bộ ban hành trong thời gian qua có số lƣợng lớn, xu hƣớng ngày
càng tăng. Bên cạnh đó, nhiều vấn đề mới nảy sinh xuất phát từ tình hình kinh tế - xã
hội trong nƣớc và quốc tế, làm cho việc xây dựng, ban hành văn bản của các bộ, cơ
quan ngang bộ quy định biện pháp thực hiện chức năng quản lý ngành, lĩnh vực gặp
nhiều khó khăn, vƣớng mắc (nhất là về tài chính, ngân hàng, đất đai, tài nguyên, môi
trƣờng...); quy định pháp luật về soạn thảo, ban hành văn bản còn khiếm khuyết, nhất
là việc xác định bản chất, giá trị pháp lý (hiệu lực) của văn bản khi có sự thay đổi (hết
hiệu lực) của văn bản cấp trên; quy định pháp luật về kiểm tra, xử lý văn bản QPPL
chƣa thực sự đầy đủ và hoàn thiện; kiểm tra văn bản là công việc phức tạp, đòi hỏi
kiến thức chuyên môn sâu, kinh nghiệm, bản lĩnh nghề nghiệp, trong khi đó điều kiện
bảo đảm, nhất là chính sách thu hút, đãi ngộ cán bộ, công chức làm công tác này còn
nhiều hạn chế, chƣa tƣơng xứng yêu cầu nhiệm vụ...
Từ thực trạng này, đặt ra yêu cầu cấp thiết phải có những nghiên cứu sâu sắc về
lí luận cũng nhƣ thực tiễn để phân tích, làm rõ nguyên nhân, đƣa ra đƣợc các giải pháp
thích hợp và đồng bộ cho việc nâng cao chất lƣợng, hiệu quả kiểm tra văn bản QPPL do
các bộ, cơ quan ngang bộ ban hành, góp phần kiểm soát việc tuân thủ pháp luật trong
ban hành văn bản QPPL, nâng cao chất lƣợng ban hành văn bản QPPL, làm cho hệ
thống pháp luật đƣợc thống nhất, đồng bộ, minh bạch và khả thi. Đó cũng là lý do mà
nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài “Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật do các Bộ, cơ
quan ngang Bộ ban hành ở Việt Nam hiện nay” để làm Luận án Tiến sĩ luật học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của Luận án này là thông qua nghiên cứu các vấn đề lý luận về kiểm
tra và xử lý văn bản QPPL, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn kiểm tra, văn
bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành, xây dựng các luận cứ khoa học và thực
4
tiễn làm cơ sở cho việc đề xuất bộ giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm
tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục đích nêu trên, Luận án đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
- Thực hiện tổng quan các vấn đề nghiên cứu có liên quan đến đề tài Luận án nhằm
chỉ ra các vấn đề mà Luận án cần tiếp tục triển khai trong các nội dung nghiên cứu;
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về hoạt động kiểm tra văn bản QPPL do bộ,
cơ quan ngang bộ ban hành, nhƣ khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc, thẩm quyền, tiêu chí,
thủ tục, vai trò và các yếu tố tác động đến kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang
bộ ban hành...
- Đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực thi pháp luật, các điều kiện
bảo đảm cho hoạt động kiểm tra văn bản QPPL của các bộ, cơ quan ngang bộ; chỉ ra
những mặt tích cực, những vấn đề còn hạn chế, bất cập và nguyên nhân;
- Đƣa ra các định hƣớng và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
cũng nhƣ nâng cao hiệu quả của hoạt động kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan
ngang bộ ban hành, góp phần bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất, công khai,
minh bạch của hệ thống văn bản QPPL.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của Luận án là hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản QPPL do
bộ, cơ quan ngang bộ ban hành, gồm: các vấn đề lí luận và thực tiễn trong kiểm tra văn bản
QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành; các yếu tố ảnh hƣởng, điều kiện bảo đảm và kinh
nghiệm về xem xét, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của một số nƣớc trên thế giới.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của Luận án là hoạt động kiểm tra , xử lý văn bản QPPL do
bộ, cơ quan ngang bộ ban hành trong phạm vi không gian ở Việt Nam, giai đoạn từ
năm 2003 (thời điểm Chính phủ ban hành Nghị định số 135/2003/NĐ-CP ngày
14/11/2003 về kiểm tra và xử lý văn bản QPPL) đến hết năm 2015.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận án đƣợc tiếp cận trên cơ sở phƣơng pháp luận của Học thuyết Mác - Lênin
và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc và pháp luật; các quan điểm của Đảng và Nhà
5
nƣớc về đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà nƣớc theo yêu cầu xây dựng Nhà nƣớc
pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa; các quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong giai đoạn hiện nay. Phƣơng pháp duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử đƣợc áp dụng xuyên suốt quá trình nghiên cứu.
Ngoài ra, Luận án còn sử dụng chủ yếu các phƣơng pháp nghiên cứu mang tính
truyền thống nhƣ sau:
(i) Phương pháp phân tích và tổng hợp:
Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng trong tất cả các chƣơng của Luận án. Qua đó,
nhằm lý giải, đánh giá thực trạng, khái quát hóa, rút ra những vấn đề thuộc về bản chất,
các quan điểm liên quan đến vấn đề nghiên cứu, từ đó, đề xuất giải pháp nâng cao chất
lƣợng hoạt động kiểm tra văn bản QPPL do các bộ, cơ quan ngang bộ ban hành.
(ii) Phương pháp nghiên cứu dữ liệu thứ cấp:
Thông qua tổng hợp và phân tích tƣ liệu, tài liệu, số liệu sẵn có để đƣa ra và
phân tích, đánh giá thực trạng kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban
hành. Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng chủ yếu để phục vụ việc tổng hợp, phân tích,
đánh giá các nội dung đƣợc đƣa ra tại Chƣơng 3 (Thực trạng kiểm tra văn bản QPPL
do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành ở Việt Nam hiện nay) của Luận án.
(iii) Phương pháp so sánh:
Đƣợc sử dụng nhằm so sánh hoạt động kiểm tra văn bản QPPL do các bộ, cơ quan
ngang bộ ban hành qua các giai đoạn khác nhau và đƣa ra các đánh giá, nhận định về tình
hình thực hiện hoạt động này qua từng giai đoạn; Ngƣời viết cũng sử dụng phƣơng pháp
này nhằm so sánh, phân biệt hoạt động kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban
hành với một số hoạt động khác nhƣ hoạt động thẩm định, thẩm tra, hoạt động rà soát văn
bản QPPL ở Chƣơng 2 của Luận án. Phƣơng pháp này còn đƣợc sử dụng ở nhiều nội
dung khác và nằm rải rác trong các Chƣơng khác nhau của Luận án.
(iv) Phương pháp lịch sử cụ thể
Nhằm sơ lƣợc quá trình hình thành và phát triển cơ chế kiểm tra văn bản QPPL
ở Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử khác nhau.
Để đảm bảo đúng mục đích và định hƣớng nghiên cứu, Luận án áp dụng các
phƣơng pháp tiếp cận nhƣ sau:
6
- Tiếp cận hệ thống: Phân tích và đánh giá các vấn đề về kiểm tra văn bản
QPPL đƣợc đặt trong một phức hợp những yếu tố có liên quan, tác động qua lại với
nhau tạo thành một chỉnh thể thống nhất.
- Tiếp cận liên ngành: Có sự phối hợp của nhiều ngành khoa học xã hội nhân
văn nhƣ khoa học lịch sử, xã hội học, chính trị học, luật học so sánh…
- Tiếp cận lịch sử: Quan điểm lịch sử cụ thể đƣợc quán triệt trong quá trình
nghiên cứu, đặc biệt việc xem xét mối quan hệ này qua từng giai đoạn lịch sử khác
nhau. Đồng thời khi phân tích, đánh giá từng mặt của mối quan hệ này đƣợc quán triệt
trong những bối cảnh lịch sử và những điều kiện cụ thể nhìn nhận dƣới góc độ logic
phát triển.
5. Những đóng góp mới về khoa học của Luận án
- Luận án xây dựng, phân tích và làm sáng tỏ khái niệm và đặc điểm của văn
bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành; kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan
ngang bộ ban hành; bản chất, ý nghĩa của hoạt động kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ
quan ngang bộ ban hành; đƣa ra hệ thống các yếu tố tác động và điều kiện bảo đảm
kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành. Đồng thời, đƣa ra, phân tích và đề
xuất cách nhìn mới, quan điểm mới về kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban
hành ở Việt Nam hiện nay. Theo đó, bên cạnh việc coi hoạt động này là cơ chế tự
kiểm tra, kiểm soát nội bộ của các cơ quan hành chính nhà nƣớc, cần coi kiểm tra văn
bản QPPL nói chung và kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành nói
riêng là một hình thức kiểm soát quyền lực nhà nƣớc. Từ quan điểm này, Luận án đã
cố gắng gắn việc phân tích, luận giải các vấn đề của Luận án đƣa ra với lí luận chung
về nhà nƣớc pháp quyền và vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nƣớc trong nhà nƣớc pháp
quyền xã hội chủ nghĩa;
- Khái quát thực trạng về kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban
hành ở Việt Nam hiện nay, từ quy định của pháp luật, thực tiễn tổ chức thực hiện, các
điều kiện bảo đảm… các ƣu điểm, hạn chế và nguyên nhân.
- Trên cơ sở phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về kiểm
tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành, Luận án đã đƣa ra các giải pháp
đồng bộ, toàn diện nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả kiểm tra văn bản
QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành trong thời gian tới. Trong đó, đã làm sâu sắc
hơn sự cần thiết phải đổi mới kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành,
7
đồng thời làm rõ về mặt lý luận cũng nhƣ nhu cầu thực tiễn của một số vấn đề, nhƣ
thời hạn kiểm tra văn bản; trách nhiệm bồi thƣờng do áp dụng văn bản trái pháp luật;
thẩm quyền của Tòa án nhân dân tối cao phán quyết về tính hợp hiến, hợp pháp của
văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành…
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của Luận án
- Kết quả nghiên cứu của Luận án sẽ góp phần vào việc nghiên cứu, hoàn thiện
thể chế về kiểm tra văn bản QPPL do các bộ, cơ quan ngang bộ ban hành ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay;
- Kết quả nghiên cứu của Luận án sẽ là công trình khoa học có giá trị tham khảo
cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập về kiểm tra văn bản QPPL nói chung cũng
nhƣ kiểm tra văn bản QPPL do các bộ, cơ quan ngang bộ ban hành nói riêng.
7. Cơ cấu của Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận chung và danh mục tài liệu tham khảo, Luận án
đƣợc kết cấu 04 Chƣơng (có kết luận cho từng chƣơng) bao gồm:
Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và các vấn đề liên quan đến đề tài
nghiên cứu
Chƣơng 2: Cơ sở lý luận của kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật do bộ, cơ
quan ngang bộ ban hành ở Việt Nam hiện nay
Chƣơng 3: Thực trạng kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật do bộ, cơ quan
ngang bộ ban hành ở Việt Nam hiện nay
Chƣơng 4: Phƣơng hƣớng và giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm tra văn bản quy
phạm pháp luật do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành ở Việt Nam hiện nay
8
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1.1. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc
(i) Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Xây dựng hệ thống pháp luật thống
nhất, đồng bộ, minh bạch và hiệu quả trong Nhà nước pháp quyền Việt Nam” do Viện
Nhà nƣớc và Pháp luật chủ trì và PGS.TS Nguyễn Nhƣ Phát làm chủ nhiệm, thực hiện
năm 2011, đã nghiên cứu nhằm xây dựng một hệ thống các tiêu chí đánh giá về tính
thống nhất, sự đồng bộ, minh bạch và hiệu quả của hệ thống pháp luật hiện hành để từ
đó đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật của Nhà nƣớc
pháp quyền Việt Nam giai đoạn 2010 -2020. Theo đó, Đề tài đã phân tích, làm rõ
những vấn đề quan trọng nhƣ giá trị và những thuộc tính cơ bản của hệ thống pháp luật
trong Nhà nƣớc pháp quyền, thực trạng hệ thống pháp luật trong Nhà nƣớc pháp quyền
Việt Nam hiện nay, yêu cầu về tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật trong
Nhà nƣớc pháp quyền và định hƣớng hoàn thiện hệ thống pháp luật trong Nhà nƣớc
pháp quyền Việt Nam giai đoạn 2010-2020, tại nội dung này, Đề tài đã đƣa ra các giải
pháp chung đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ, minh bạch và hiệu quả của hệ thống
pháp luật trong Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020 và các giải
pháp cụ thể đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ, minh bạch và hiệu quả của hệ thống
pháp luật trong Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020, đề xuất trong
một số lĩnh vực pháp luật cấp bách. Mặc dù Đề tài này không đƣa nội dung kiểm tra
văn bản QPPL vào hệ thống các giải pháp để hoàn thiện hệ thống pháp luật, song, để
thực hiện pháp điển quy phạm pháp luật (nhƣ giải pháp Đề tài đã nêu) thì cùng với rà
soát văn bản QPPL, kiểm tra văn bản QPPL cũng là một hoạt động hết sức quan trọng
để phục vụ cho công tác pháp điển QPPL. Đề tài đã cung cấp cho tác giả những thông
tin cũng nhƣ những luận giải quan trọng về lý luận cũng nhƣ thực tiễn của quá trình
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong giai đoạn hiện nay, là tài liệu tham
khảo quan trọng trong quá trình thực hiện đề tài luận án của mình.
9
(ii) Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ “Bảo đảm tính thống nhất của hệ thống
pháp luật Việt Nam” do GS.TS. Phan Trung Lý làm chủ nhiệm năm 2011 đã tiếp cận về
tính thống nhất cũng nhƣ các điều kiện bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật
Việt Nam từ yêu cầu và thực trạng bảo đảm tính thống nhất; các giải pháp nâng cao hiệu
quả của việc bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật và so sánh với việc bảo
đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật một số nƣớc. Cuốn sách phân tích khái niệm
hệ thống pháp luật, tính thống nhất của hệ thống pháp luật và phân biệt với tính hợp
hiến, hợp pháp. Tác giả cuốn sách cho rằng, tính thống nhất đặt ra đối với hệ thống pháp
luật còn tính hợp hiến hợp pháp chỉ đặt ra đối với các văn bản QPPL, các quy phạm
pháp luật cụ thể. Từ việc đánh giá thực trạng của hệ thống pháp luật, tác giả đã đề xuất
các giải pháp đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật trong đó có giải pháp nâng
cao hiệu quả công tác kiểm tra văn bản QPPL trong thời gian tới.
(iii) Đề tài “Cơ chế kiểm tra văn bản QPPL - Thực trạng và giải pháp hoàn
thiện” do Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tƣ pháp thực hiện năm 2004 là công trình
nghiên cứu đầu tiên về cơ sở lý luận kiểm tra văn bản QPPL cũng nhƣ đánh giá thực
trạng và đƣa ra các giải pháp hoàn thiện cơ chế kiểm tra văn bản QPPL. Đề tài đã
nghiên cứu một số vấn đề lý luận về kiểm tra và cơ chế kiểm tra văn bản QPPL nhƣ:
Khái niệm kiểm tra văn bản QPPL, phân biệt kiểm tra văn bản và một số hoạt động
tƣơng tự, đặc trƣng của kiểm tra văn bản QPPL, đối tƣợng kiểm tra, khái niệm cơ chế
kiểm tra và mục đích, ý nghĩa của việc hoàn thiện cơ chế kiểm tra văn bản QPPL;
phân tích, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về kiểm tra văn bản và đề xuất
hƣớng hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả của công tác này trên thực tế; phân tích,
đánh giá thực trạng công tác kiểm tra văn bản QPPL tại thời điểm đó; đề xuất các
giải pháp hoàn thiện cơ chế kiểm tra văn bản cũng nhƣ các điều kiện bảo đảm phục
vụ cho hoạt động kiểm tra văn bản. Mặc dù nhiều nội dung của Đề tài đã bị lạc hậu
do đƣợc nghiên cứu từ khá lâu, song vẫn còn nguyên giá trị và ý nghĩa khoa học của
nó và là tài liệu tham khảo quan trọng của tác giả trong quá trình nghiên cứu Đề tài
Luận án.
(iv) Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trƣờng “Kiểm tra, rà soát, xử lý, hệ thống
hóa văn bản QPPL”, mã số LH-09-08/ĐHL-HN do TS. Bùi Thị Đào làm chủ nhiệm
thực hiện năm 2010 là công trình nghiên cứu với phạm vi khá rộng, bao gồm cả kiểm
10
tra, rà soát, xử lý và hệ thống hóa văn bản QPPL. Theo đó, khái niệm kiểm tra văn bản
đƣợc hiểu khá rộng, gồm cả hoạt động kiểm tra văn bản QPPL trƣớc khi văn bản đƣợc
ban hành (hoạt động thẩm định, thẩm tra) và hoạt động kiểm tra văn bản QPPL sau khi
ban hành. Đồng thời, Đề tài còn đƣa ra một loạt các khái niệm về rà soát, hệ thống hóa
và xử lý văn bản QPPL, đề xuất một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện pháp luật,
nâng cao chất lƣợng hoạt động kiểm tra, rà soát, xử lý và hệ thống hóa văn bản QPPL.
Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, phần giải pháp chƣa thực sự đầy đủ, toàn diện, phần
thực trạng còn khá sơ sài.
(v) Sách nghiệp vụ “Rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL” do TS. Lê Hồng
Sơn chủ biên đƣợc NXB Tƣ pháp phát hành năm 2007, bên cạnh các hƣớng dẫn
nghiệp vụ quan trọng, đã phân tích khái niệm văn bản QPPL, hệ thống văn bản
QPPL, khái niệm rà soát, thƣờng xuyên rà soát văn bản QPPL, nguyên tắc, trình tự
thủ tục rà soát văn bản QPPL... đồng thời đánh giá rà soát, hệ thống hóa văn bản
QPPL có thể đƣợc xem là một trong các cơ chế hậu kiểm nhằm đảm bảo tính hợp
hiến, hợp pháp và tính thống nhất của các văn bản đã đƣợc ban hành và một số vấn
đề khác về rà soát, hệ thống hóa. Mặc dù đến nay nhiều nội dung của cuốn sách đã
lạc hậu so với Nghị định số 16/2013/NĐ-CP của Chính phủ về rà soát, hệ thống hóa
văn bản (nay là Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14 tháng 5 năm 2016 của Chính
phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật năm 2015), song cuốn sách trên vẫn
là tài liệu quan trọng giúp tác giả tham khảo, đối chiếu, so sánh hoạt động kiểm tra
văn bản QPPL với hoạt động rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL trong quá trình
thực hiện Đề tài luận án.
(vi) Đƣợc sự hỗ trợ của Văn phòng UNDP tại Hà Nội, Dự án VIE 02/015 hỗ trợ
thực thi Chiến lƣợc phát triển hệ thống pháp luật đến năm 2010, cuốn sách “Bình luận
Luật Ban hành văn bản QPPL” do TS. Uông Chu Lƣu chủ biên đã đƣợc NXB Tƣ
pháp xuất bản và phát hành năm 2005. Cuốn sách đi sâu vào bình luận các quy định
của Luật Sửa đổi bổ sung một số điều Luật năm 2002 để làm rõ ý tƣởng, tinh thần của
các nhà làm luật, từ đó, giúp cho việc triển khai, thực thi Luật này đúng đắn, có hiệu
quả trên thực tiễn. Cuốn sách còn nêu những ƣu điểm, nhƣợc điểm, những vấn đề còn
tồn tại, bất cập trong các quy định của Luật, trên cơ sở đó, đề xuất các biện pháp giải
quyết cụ thể, đồng thời, chú trọng đến những vấn đề, điều, khoản của Luật còn có
nhiều tranh luận hoặc đòi hỏi phải tiếp tục hoàn thiện. Đặc biệt, cuốn sách đã bình luận
11
sâu sắc nhiều vấn đề liên quan mật thiết đến các nghiên cứu lý luận của Đề tài luận án
nhƣ: Khái niệm văn bản QPPL, hệ thống văn bản QPPL, thẩm quyền ban hành văn bản
QPPL, vấn đề về rà soát, hệ thống hóa, giám sát, kiểm tra văn bản QPPL… Theo đó,
giám sát, kiểm tra văn bản QPPL đều là sự xem xét, đánh giá hình thức và nội dung
văn bản để kết luận về tính hợp hiến, tính hợp pháp, tính thống nhất của văn bản QPPL
trong hệ thống pháp luật.
(vii) Cuốn sách chuyên khảo “Xử lý văn bản hành chính nhà nước khiếm
khuyết” của TS. Nguyễn Thế Quyền do NXB Chính trị Quốc gia ấn hành năm 2009 đã
trực tiếp nghiên cứu về xử lý văn bản khiếm khuyết. Cuốn sách đề cập việc xử lý văn
bản quản lý hành chính khiếm khuyết với nhiều loại, bao gồm văn bản QPPL, văn bản
áp dụng pháp luật và văn bản hành chính thông thƣờng nhƣng chƣa làm nổi bật đƣợc
sự khác biệt về xử lý đối với từng loại văn bản với nhau. Cuốn sách đã bàn về khái
niệm văn bản quản lý hành chính nhà nƣớc, các văn bản quản lý hành chính nhà nƣớc
thuộc diện phải xử lý, khái niệm và hình thức xử lý… song một số vấn đề nhƣ thẩm
quyền, thủ tục… xử lý văn bản quản lý hành chính nhà nƣớc khiếm khuyết chƣa đƣợc
tác giả nghiên cứu, đề cập sâu. Cuốn sách giúp tác giả luận án gợi mở một số vấn đề
cần tiếp tục nghiên cứu và làm sâu sắc thêm dƣới góc độ khoa học pháp lý.
(viii) Nghiên cứu, luận giải khá cơ bản về lý luận, thực trạng và giải pháp cho
hoạt động kiểm tra và xử lý văn bản QPPL, năm 2006, tại Viện Nhà nƣớc và Pháp
luật, tác giả Ngô Hồng Thủy đã bảo vệ thành công luận văn thạc sỹ với đề tài “Kiểm
tra và xử lý văn bản QPPL do chính quyền địa phương ban hành ở nước ta hiện nay”.
Về phạm vi nghiên cứu, luận văn giới hạn với hoạt động kiểm tra văn bản QPPL do
chính quyền địa phƣơng ban hành.
(ix) Tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề trên, tháng 7/2015, tác giả Ngô
Hồng Thủy đã bảo vệ thành công Luận án tiến sĩ Luật học với đề tài “Kiểm tra văn
bản quy phạm pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam”. Về nội
dung, Luận án đã đi vào nghiên cứu, phân tích khá sâu sắc các vấn đề về ban hành và
kiểm tra văn bản QPPL, thực trạng cũng nhƣ các giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng
kiểm tra văn bản của các cơ quan hành chính nhà nƣớc ở Việt Nam. Về phạm vi
nghiên cứu, Luận án có phạm vi nghiên cứu khá rộng, bao gồm hoạt động kiểm tra văn
bản QPPL của tất cả các các cơ quan hành chính nhà nƣớc.
12
(x) “Hoàn thiện cơ chế kiểm tra văn bản QPPL của các cơ quan nhà nước cấp
Bộ” là đề tài luận văn thạc sỹ của tác giả Nguyễn Văn Tuấn, bảo vệ năm 2010 tại Học
viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh. Luận văn đã nghiên cứu những vấn
đề lý luận về sự cần thiết phải kiểm tra và cơ chế kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật
của các cơ quan nhà nƣớc cấp bộ. Trên cơ sở đánh giá thực trạng, đề xuất phƣơng
hƣớng, giải pháp hoàn thiện cơ chế kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của các cơ
quan nhà nƣớc cấp bộ ở Việt Nam hiện nay. Luận văn cho rằng, một trong những giải
pháp hàng đầu là phải tập trung nghiên cứu, hoàn thiện thể chế pháp luật về kiểm
tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật, tạo khuôn khổ pháp lý đầy đủ, thống nhất và
đồng bộ cho công tác này, trong đó cần xác định cho đƣợc các nguyên tắc kiểm tra
văn bản nhằm đề cao kỷ luật, kỷ cƣơng trong hoạt động kiểm tra văn bản của các
cơ quan hành chính nhà nƣớc. Nhìn chung, Luận văn phân tích chƣa cụ thể và chƣa
bám sát vào đối tƣợng nghiên cứu là văn bản QPPL của cấp bộ.
(xi) “Thực hiện pháp luật về kiểm tra, xử lý văn bản QPPL ở Việt Nam” là đề
tài luận văn thạc sĩ của tác giả Phạm Văn Dũng, bảo vệ tại Học viện Chính trị Hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2011. Mục đích của Luận văn này là góp phần làm
sáng tỏ những vấn đề về lý luận thực hiện pháp luật về kiểm tra, xử lý văn bản trong
phạm vi cả nƣớc, chỉ ra những nguyên nhân của mặt tích cực, hạn chế trong công tác
này; trên cơ sở đó đề xuất phƣơng hƣớng và giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật về kiểm tra, xử lý văn bản QPPL. Luận văn có phạm vi nghiên cứu
rộng, trên phạm vi toàn quốc.
(xii) “Tính hợp pháp và tính hợp lý của quyết định hành chính” là đề tài Luận án
tiến sĩ của tác giả Bùi Thị Đào bảo vệ tại Đại học Luật Hà Nội năm 2009. Luận án này
đã đƣa ra và phân tích các tiêu chí về tính hợp pháp và hợp lý của quyết định hành
chính. Quyết định hành chính ở đây đƣợc hiểu bao gồm cả quyết định hành chính quy
phạm pháp luật và quyết định hành chính áp dụng pháp luật, vì vậy, mỗi loại lại có
những đặc trƣng về tính hợp pháp và tính hợp lý.
(xiii) “Kiểm tra và xử lý văn bản QPPL ở Việt Nam hiện nay” là đề tài Luận án
tiến sĩ của tác giả Đoàn Thị Tố Uyên đã bảo vệ tại Đại học Luật Hà Nội năm 2012. Luận
án có phạm vi nghiên cứu rộng và phức tạp. Qua đó đã xây dựng đƣợc các tiêu chuẩn
đánh giá tính hợp pháp và hợp lý của văn bản QPPL làm cơ sở lý luận để kiểm tra và xử
lý văn bản QPPL; chỉ ra sự khác biệt cơ bản giữa các biện pháp xử lý văn bản QPPL có
13
dấu hiệu bất hợp pháp và bất hợp lý. Trong số các giải pháp đảm bảo cho hoạt động
kiểm tra và xử lý văn bản QPPL có hiệu quả nhất, Luận án đã đƣa ra giải pháp mang
tính lâu dài, đó là trao thẩm quyền cho Tòa án hành chính trong việc pháp quyết tính
hợp pháp của văn bản QPPL.
(xiv) Bài viết “Tính hợp pháp và hợp lý của văn bản pháp luật và các biện pháp
xử lý khiếm khuyết của nó” của PGS.TS Vũ Thƣ, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật, số 1
năm 2003 đã phân tích rất rõ ràng, cụ thể về khái niệm và mối quan hệ qua lại giữa tính
hợp pháp và hợp lý của văn bản pháp luật (gồm văn bản QPPL và văn bản áp dụng pháp
luật). Theo đó, “Không ai có thể vin vào tính hợp lý để ra văn bản pháp luật bất hợp
pháp. Tính hợp lý phải trong khuôn khổ của tính hợp pháp”. Tác giả cũng phân tích và
nêu bật các biểu hiện của tính hợp pháp và tính hợp lý của văn bản pháp luật. Bài viết còn
phân tích một số khái niệm có liên quan nhƣ “trái pháp luật”, “văn bản sai trái”, “quyền
và lợi ích hợp pháp”. Trên cơ sở làm rõ tính hợp pháp và tính hợp lý của văn bản pháp
luật, tác giả đã đặt ra vấn đề có tính thực tiễn, đó là việc xử lý đối với các khiếm khuyết về
các phƣơng diện đó nhƣ thế nào? Qua đó đã phân tích sâu sắc về từng biện pháp xử lý đối
với văn bản pháp luật khiếm khuyết.
(xv) Liên quan đến trách nhiệm của cơ quan, ngƣời ban hành văn bản QPPL sai
trái, TS. Hoàng Thị Ngân có bài viết “Trách nhiệm về ban hành văn bản QPPL sai
trái” đăng trên Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật, số 5 năm 2003. Bài viết cho rằng, cơ
quan ban hành cũng nhƣ cơ quan tham mƣu soạn thảo, thẩm định, thẩm tra văn bản
QPPL sai trái sẽ phải chịu trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm hình sự nếu gây hậu quả
nghiêm trọng. Đây là nguồn thông tin lí luận quan trọng để tác giả Luận án nghiên
cứu, kế thừa, phát triển các luận điểm về vấn đề này trong Luận án.
(xvi) Số chuyên đề về “Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật” của Tạp chí Dân
chủ và Pháp luật, tháng 3 năm 2007 bao gồm 11 bài viết liên quan đến các vấn đề về lý
luận cũng nhƣ thực tiễn 04 năm triển khai công tác kiểm tra văn bản kể từ khi Nghị định
số 135/2003/NĐ-CP ngày 14/11/2003 của Chính phủ về kiểm tra và xử lý văn bản
QPPL đƣợc ban hành. Mặc dù các bài viết này đƣợc thực hiện từ năm 2007 và Nghị
định số 135 đã đƣợc Chính phủ thay thế bằng Nghị định số 40/2010/NĐ-CP (đến nay là
Nghị định số 34/2016/NĐ-CP), nhƣng các bài viết tại số chuyên đề này vẫn là tƣ liệu
quan trọng để tác giả tham khảo trong quá trình triển khai đề tài luận án. Đáng chú ý là
14
các bài viết nhƣ “Nhìn lại bốn năm triển khai nhiệm vụ kiểm tra, xử lý văn bản QPPL”
(TS. Đình Trung Tụng), “Vai trò của công tác kiểm tra, xử lý văn bản trong việc xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật” (TS. Lê Hồng Sơn), “Một số vấn đề về thao tác
kiểm tra, phát hiện và đề xuất hướng xử lý văn bản có dấu hiệu trái pháp luật” (Nguyễn
Văn Tuấn)…
(xvii) Các bài viết “Nhìn lại công tác kiểm tra, xử lý văn bản QPPL sau 05 năm
triển khai – Kết quả và những vấn đề đặt ra” (TS. Lê Hồng Sơn), “Thực trạng năng
lực trong công tác kiểm tra văn bản QPPL trong thời gian qua” (ThS. Lê Thị Uyên),
“Kiểm tra, xử lý văn bản QPPL theo các nguồn thông tin” (CN. Nguyễn Thị Việt
Nga)… đăng trên số chuyên đề về “Kiểm tra và rà soát văn bản quy phạm pháp luật”
của Tạp chí Dân chủ và Pháp luật xuất bản năm 2009 là những mảng thông tin quan
trọng giúp tác giả có cái nhìn đa chiều cũng nhƣ cunng cấp những thông tin quý về lý
luận cũng nhƣ thực tiễn trong quá trình triển khai thực hiện đề tài luận án.
(xviii) Liên quan đến khái niệm văn bản QPPL, xác định các tiêu chí cụ thể để
nhận diện văn bản QPPL, trên cơ sở đó xác định trách nhiệm soạn thảo, thẩm định hay
góp ý văn bản, đồng thời, tìm ra giải pháp để khắc phục đƣợc tình trạng văn bản không
cần thẩm định vẫn phải thẩm định, văn bản cần thẩm định lại không đƣợc thẩm định,
tạo ra sự đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật, tháng 8 năm 2009, Bộ Tƣ pháp
đã tổ chức Hội thảo khoa học và thực tiễn: “Nhận diện các đặc trưng của văn bản quy
phạm pháp luật”. Các bài tham luận đƣợc tập hợp trong cuốn tài liệu hội thảo là những
đóng góp quan trọng về lý luận cũng nhƣ thực tiễn ban hành văn bản QPPL, cách nhận
diện, đánh giá, phân biệt văn bản QPPL… để đƣa ra những tiêu chí rõ ràng và cụ thể
để phân biệt văn bản QPPL và văn bản không phải là văn bản QPPL. Trong đó, đáng
chú ý là những bài viết nhƣ: “Nhận diện các loại sai phạm về nội dung và hình thức
văn bản QPPL liên quan đến việc phân biệt giữa văn bản QPPL và văn bản hành
chính thông qua thực tiễn kiểm tra văn bản” (TS. Lê Hồng Sơn), “Một số trường hợp
liên quan đến xác định tính chất văn bản QPPL và văn bản hành chính” (TS. Hoàng
Thị Ngân), “Khái niệm văn bản QPPL nhìn từ góc độ lý luận và thực tiễn” (TS. Đoàn
Thị Tố Uyên) và một số bài viết liên quan đến những vƣớng mắc, bất cập trong áp
dụng và ban hành văn bản QPPL của một số bộ, ngành và địa phƣơng (nhƣ: Bộ Giáo
dục và Đào tạo, Bộ Công an, Sở Tƣ pháp Hải phòng, Sở Tƣ pháp tỉnh Vĩnh Phúc, Sở
15
Tƣ pháp TP. Đà Nẵng…) có giá trị là nền tảng để tác giả luận án bàn luận cũng nhƣ lý
giải sâu sắc hơn về văn bản QPPL và kiểm tra văn bản QPPL.
Ngoài ra, còn một số công trình nghiên cứu về xây dựng, hoàn thiện hệ thống
pháp luật, một số sách, luận văn, bài viết có liên quan đến đề tài luận án đƣợc đăng ở
các tạp chí nhƣ: Luật học, Nhà nƣớc và Pháp luật, Dân chủ và Pháp luật, tài liệu Hội
thảo… mà tác giả chƣa có điều kiện để liệt kê ở đây.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nƣớc
Theo tìm hiểu của tác giả, hầu nhƣ các nƣớc không sử dụng cơ chế kiểm tra văn
bản QPPL với cơ chế tƣơng tự nhƣ ở Việt Nam, mà việc kiểm tra văn bản QPPL do các
cơ quan hành chính nhà nƣớc ban hành đƣợc thực hiện thông qua hệ thống cơ quan tƣ
pháp (Tòa án Hiến pháp, Tòa án Hành chính) với tính chất là một kênh giám sát quyền lực
nhà nƣớc. Có thể dẫn ra các công trình tiêu biểu về vấn đề này:
(i) Cuốn sách “Pháp luật hành chính của Cộng hòa Pháp” của Martin
Lombard, Giáo sƣ Trƣờng Đại học Tổng hợp Panthéon-Assas và Gilles Dumont (Paris
II), Giáo sƣ Trƣờng Đại học Luật và Kinh tế Limoges, NXB Tƣ pháp phát hành năm
2007. Cuốn sách đã lý giải về nguồn luật và trật tự thứ bậc giữa các nguồn của pháp
luật hành chính và cơ chế kiểm tra sự tuân thủ trật tự thứ bậc đó. Quá trình phân tích
về từng loại nguồn luật, cuốn sách đã tiếp cận cách hiểu, bản chất, trật tự pháp lý và
đặc biệt là đã đƣa ra những tiêu chí để kiểm tra, giám sát về tính hợp hiến, về sự phù
hợp của quyết định hành chính với quy định của điều ƣớc quốc tế; cơ chế kiểm tra,
giám sát của Tham chính viện đối với pháp lệnh và điều kiện về tính hợp pháp của
thông tƣ có hiệu lực thi hành bắt buộc. Cuốn sách là tài liệu quan trọng để tác giả luận
án có điều kiện so sánh về kiểm tra và xử lý văn bản QPPL, cụ thể là về tiêu chí xem
xét tính hợp pháp của văn bản QPPL.
(ii) Cuốn sách “Cải cách cơ chế kiểm tra tính hợp pháp của các văn bản hành
chính ở Trung Quốc”, tác giả Meng Sheng, do Đinh Văn Minh và Nguyễn Văn Toàn
biên dịch (thuộc khuôn khổ Chƣơng trình tăng cƣờng năng lực tổng thể ngành Thanh
tra) đã đƣợc NXB Chính trị Quốc gia xuất bản năm 2008. Nội dung cuốn sách đề cập
đến những kinh nghiệm trong việc đánh giá tính hợp pháp, tính đúng đắn của một văn
bản hay một việc làm của cơ quan hành chính. Cuốn sách có dung lƣợng lớn dành cho
việc phân tích, bình luận về truyền thống, lịch sử phát triển việc kiểm tra các văn bản
hành chính ở Trung Quốc từ các triều đại phong kiến đến nƣớc Cộng hòa Nhân dân
16
Trung Hoa. Phù hợp với nguyên tắc Hiến pháp và với đặc điểm của đối tƣợng kiểm
tra, việc kiểm tra các văn bản hành chính hƣớng tới việc nghiên cứu về ba vấn đề cân
bằng nhƣ sau: Cân bằng giữa lợi ích chung và lợi ích cá nhân; Cân bằng giữa việc thực
hiện tốt công quyền và bảo vệ các quyền của công dân; Cân bằng giữa nguyên tắc về
tính hợp pháp và sự phù hợp với các tình huống ngoại lệ. Về hoạt động hành chính, hệ
thống kiểm tra hoạt động hành chính trong luật pháp Trung Quốc có đặc điểm bởi tính
đa dạng, phong phú với các hình thức khác nhau (kiểm tra của Quốc hội và Hội đồng
nhân dân các cấp, kiểm tra theo hệ thống thứ bậc trong nội bộ nền hành chính, kiểm tra
chuyên ngành của Ủy ban thẩm kế và giám sát, kiểm tra chính trị và nhân dân, kiểm
tra của Tòa án thông qua hoạt động xét xử…). Đặc biệt, cuốn sách luận giải về cơ chế
kiểm tra, giám sát từ bên ngoài và tự kiểm tra đối với văn bản hành chính, các hình thức
pháp lý của kiểm tra văn bản hành chính, cải cách cơ chế kiểm tra văn bản hành chính từ
cách tiếp cận mới về đối tƣợng của hoạt động kiểm tra, cải cách cơ chế kiểm tra không
mang tính tố tụng với văn bản hành chính đến cải cách về tố tụng hành chính trong đó
nhấn mạnh vai trò, phạm vi và đối tƣợng kiểm tra của Tòa án hành chính Trung Quốc.
Khái niệm văn bản hành chính mà cuốn sách đề cập gồm văn bản QPPL, văn bản cá biệt
và hợp đồng chính. Cuốn sách có giá trị tham khảo và tạo điều kiện để tác giả luận án
nghiên cứu so sánh trong quá trình thực hiện Đề tài.
(iii) Để có cái nhìn đa chiều về kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ
ban hành, dựa trên nhận thức, quan điểm đó là một trong các phƣơng thức để kiểm
soát quyền lực nhà nƣớc hoặc là hình thức bảo vệ Hiến pháp trong nhà nƣớc pháp
quyền, tác giả đã nghiên cứu một số sách tham khảo, chuyên khảo về vấn đề bảo hiến:
“Tài phán Hiến pháp - Một số vấn đề lý luận cơ bản, kinh nghiệm quốc tế và khả năng
áp dụng cho Việt Nam” do PGS. TS Nguyễn Nhƣ Phát (Chủ biên), Nxb Khoa học xã
hội xuất bản, năm 2011; “Tài phán Hiến pháp và vấn đề xây dựng mô hình tài phán
Hiến pháp ở Việt Nam” do GS, TSKH Đào Trí Úc và PGS, TS Nguyễn Nhƣ Phát (Chủ
biên), Nxb Công an nhân dân xuất bản, năm 2007… Bên cạnh các công trình khoa học
đƣợc xuất bản dƣới dạng sách tham khảo, còn có một số bài viết bài viết có nội dung
liên quan nhƣ: Kinh nghiệm về cơ chế bảo hiến của một số nước trên thế giới (PGS.TS
Đinh Ngọc Vƣợng); Cơ chế tổ chức tòa án hiến pháp Cộng hòa Liên Bang Nga (TS.
Trần Hậu Thành và Lê Thị Hoài Thanh, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh);
Luận án tiến sĩ Luật học “Bảo hiến trong nhà nước pháp quyền” của TS. Nguyễn Mậu
17
Tuân; bài viết “Bảo hiến chuyên trách ở Việt Nam và triển vọng của một “dạng thức yếu”
của TS. Bùi Ngọc Sơn (Đại học Quốc gia Hà Nội); Kinh nghiệm từ mô hình và thẩm
quyền xét xử vụ án hành chính của một số nước trên thế giới (TS. Phạm Hồng Quang,
Đại học Luật Hà Nội)… Các bài viết này chủ yếu của các tác giả trong nƣớc đăng trên
một số tạp chí nhƣ Luật học hay một số website có uy tín nhƣ Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp điện tử (của Văn phòng Quốc hội)... Các sách, bài viết trên đã cung cấp các thông
tin, tri thức quan trọng về các vấn đề lí luận liên quan đến cơ chế bảo hiến ở nhiều
quốc gia trên thế giới, cơ chế xem xét, phán quyết tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản
QPPL, cơ chế giám sát quyền lực nhà nƣớc… Chẳng hạn, việc phán quyết về tính hợp
hiến, hợp pháp của văn bản QPPL đƣợc giao cho Tòa án tối cao (nhƣ Indonesia,
Malaisia, Philipin, Singapore…), Tòa án Hiến pháp (Thái Lan, Liên bang Nga…), Hội
đồng Hiến pháp (Trung Quốc), Hội đồng bảo Hiến (Pháp)… Bên cạnh chức năng bảo
hiến, hệ thống tòa án tƣ pháp đƣợc giao nhiệm vụ xem xét, phán quyết về tính hợp hiến,
hợp pháp của các văn bản QPPL do các cơ quan hành chính nhà nƣớc ban hành bằng
việc thành lập hệ thống tòa án hành chính riêng biệt hoặc tòa hành chính (chuyên trách)
thuộc hệ thống tòa án thƣờng. Đó chính là những thông tin cơ bản, là dữ liệu thứ cấp, là
cơ sở quan trọng để tác giả có điều kiện tham khảo, nghiên cứu sâu hơn về vấn đề kiểm
tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ở Việt Nam ban hành dƣới góc độ là phƣơng
thức kiểm soát quyền lực nhà nƣớc, bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân trong nhà
nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
1.1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
1.1.3.1. Về tình hình nghiên cứu trong nước
(i) Về xây dựng văn bản QPPL: Với các mục đích khác nhau, hiện nay, các
nghiên cứu này tƣơng đối nhiều và có hệ thống. Với các phân tích, đánh giá về thực
trạng hệ thống pháp luật với các góc độ khác nhau song hầu nhƣ đều thống nhất ở “9
không” của hệ thống pháp luật, nhƣ: tính không đồng bộ, không thống nhất, không
tƣơng thích, không tiên liệu trƣớc, không khả thi… Qua phân tích, đánh giá, các
nghiên cứu đều đƣa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
trong thời gian tới. Một số công trình nghiên cứu không coi kiểm tra văn bản QPPL là
một giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật, song lại coi rà soát văn bản QPPL và pháp
điển QPPL là giải pháp. Qua đó, có thể “ngầm hiểu” rằng, kiểm tra văn bản QPPL cũng là
một giải pháp gián tiếp hoàn thiện hệ thống pháp luật, vì kết quả của kiểm tra văn bản là
18
tiền đề quan trọng để rà soát, pháp điển quy phạm pháp luật. Bên cạnh đó, theo nhiều tác
giả, kiểm tra văn bản QPPL là một giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về hoàn thiện hệ thống pháp luật đã cung cấp cho
tác giả những thông tin khá sâu sắc, toàn diện về hệ thống pháp luật Việt Nam, những
kiến thức lý luận quý giá và là dữ liệu thứ cấp quan trọng để tác giả kế thừa, tham khảo
trong quá trình hoàn thiện đề tài luận án.
(ii) Về kiểm tra văn bản QPPL nói chung: Các nghiên cứu về vấn đề này tính
đến nay không nhiều và không mang tính hệ thống. Nhìn chung, các nghiên cứu về
kiểm tra văn bản thƣờng ở phạm vi hẹp, thông qua một số sách, bài viết, tham luận,
các tác giả thƣờng nghiên cứu một khía cạnh, hay một, một số nội dung của kiểm tra
văn bản nhƣ các hình thức xử lý văn bản QPPL, các điều kiện bảo đảm cho công tác
kiểm tra văn bản, thực trạng kiểm tra văn bản QPPL hiện nay… Vì vậy, với phạm vi
và mục đích đã lựa chọn, các công trình nghiên cứu trên chƣa đánh giá đƣợc toàn diện
hoạt động kiểm tra văn bản QPPL, cũng nhƣ chƣa đƣa ra đƣợc hệ thống giải pháp
nhằm nâng cao chất lƣợng kiểm tra văn bản QPPL trong thời gian tới. Bên cạnh đó,
một số công trình nghiên cứu, nhƣ một số đề tài luận án tiến sĩ hay luận văn thạc sỹ,
lại thƣờng có phạm vi quá rộng, nghiên cứu hoạt động này cùng với hoạt động rà soát
văn bản QPPL hay trên phạm vi toàn quốc, hoặc toàn hệ thống các cơ quan hành chính
nhà nƣớc, do vậy, chƣa có điều kiện nghiên cứu sâu về kiểm tra văn bản QPPL do các
bộ, cơ quan ngang bộ ban hành. Ngoài ra, phần lớn các công trình lại chƣa có hoạt
động thu thập thông tin dữ liệu về thực trạng hoạt động kiểm tra văn bản, hoặc hoạt
động này tuy đƣợc thực hiện nhƣng nội dung thiếu thuyết phục, chƣa bám sát, chƣa
thực sự có ý nghĩa trong việc đánh giá chính xác, khách quan hoạt động kiểm tra văn
bản QPPL. Một số công trình nghiên cứu sử dụng dữ liệu thứ cấp bị lạc hậu hoặc thiếu
độ tin cậy.
Bên cạnh đó, một số công trình nghiên cứu đƣợc triển khai trƣớc khi Chính phủ
ban hành Nghị định số 135/2003/NĐ-CP, trƣớc khi Nghị định số 40/2010/NĐ-CP ban
hành thay thế Nghị định số 135 nên nhiều vấn đề nghiên cứu đã trở nên lạc hậu, không
còn phù hợp với các quy định pháp luật hiện hành; hoặc một số vấn đề nghiên cứu về cơ
bản đã đƣợc triển khai trên thực tiễn, tuy nhiên, vẫn cần phải củng cố, hoàn thiện thêm;
hoặc các khảo sát, điều tra, đánh giá thực tiễn nay không còn phù hợp nữa… Tình hình
19
mới đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết cả về phƣơng diện lý luận và thực tiễn nhằm
nâng cao hiệu quả của hoạt động kiểm tra văn bản QPPL.
Về cơ bản, các công trình nghiên cứu thừa nhận rằng, kiểm tra văn bản là giải
pháp quan trọng nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam thống nhất,
đồng bộ, công khai, minh bạch, khả thi cũng nhƣ sự cần thiết, tầm quan trọng của kiểm
tra văn bản QPPL. Song về mặt lý luận cũng nhƣ thực tiễn, vẫn còn nhiều tranh cãi xung
quanh các vấn đề nhƣ: Thẩm quyền kiểm tra văn bản; hình thức và thẩm quyền xử lý
văn bản trái pháp luật; trách nhiệm của cơ quan, ngƣời ban hành văn bản trái pháp luật;
trách nhiệm bồi thƣờng khi áp dụng văn bản trái pháp luật…
Về các giải pháp, cần có thêm nghiên cứu để đƣa ra hệ thống giải pháp riêng,
toàn diện, đồng bộ, tập trung để nâng cao chất lƣợng kiểm tra văn bản QPPL do các bộ,
cơ quan ngang bộ ban hành.
(iii) Về kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành: Mặc dù
kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành có tầm quan trọng đặc biệt trong
kiểm tra văn bản QPPL nói chung, song nghiên cứu về kiểm tra văn bản QPPL do bộ,
cơ quan ngang bộ ban hành lại rất hiếm hoi, hầu nhƣ đƣợc nhắc đến “ẩn” trong nghiên
cứu chung về kiểm tra văn bản QPPL, đƣợc nhắc đến hết sức sơ sài hoặc không đƣợc
nhắc đến.
Đến nay, theo tìm hiểu của tác giả, mới chỉ có 01 công trình nghiên cứu có liên
quan trực tiếp đến đề tài luận án, đó là Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn
Văn Tuấn “Hoàn thiện cơ chế kiểm tra văn bản QPPL của các cơ quan nhà nước cấp
Bộ” bảo vệ năm 2010 tại Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, tuy
nhiên, dƣới góc độ của một Luận văn thạc sĩ, công trình này còn một số hạn chế, còn
những nội dung khác cần phải đƣợc tiếp tục nghiên cứu, luận giải, bổ sung hoặc
nghiên cứu chuyên sâu hơn nữa.
Nhƣ vậy, có thể khẳng định, đây là Luận án Tiến sĩ Luật học đầu tiên về kiểm
tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành ở Việt Nam hiện nay.
1.1.3.2. Về tình hình nghiên cứu ngoài nước
Nhƣ phần tổng quan tình hình nghiên cứu đã trình bày (tại 1.1.2), các nghiên
cứu ngoài nƣớc chủ yếu tập trung vào các vấn đề: cơ chế bảo hiến, tổ chức và hoạt
động của nhà nƣớc pháp quyền, vai trò của pháp luật trong nhà nƣớc pháp quyền, kiểm
soát quyền lực; cơ chế xem xét tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản QPPL của một số
20
nƣớc trên thế giới và thƣờng gắn liền với cơ chế bảo hiến…Ngoài ra, các nghiên cứu
đã đƣa ra và phân tích ƣu, nhƣợc điểm của nhiều mô hình bảo hiến khác nhau trên thế
giới, có phân tích và đánh giá sự phù hợp với điều kiện kinh tế - chính trị ở Việt Nam.
Đây là cơ sở quan trọng để tác giả nghiên cứu, đánh giá, nhìn nhận sâu sắc hơn về
kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ở Việt Nam ban hành dƣới các góc
độ khác nhau mà không chỉ là một hoạt động nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật.
1.1.4. Những vấn đề sẽ đƣợc Luận án kế thừa, tiếp tục phát triển và những
vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu
1.1.4.1. Những vấn đề sẽ được Luận án kế thừa, tiếp tục phát triển
Thứ nhất, một số vấn đề lý luận của kiểm soát quyền lực nhà nƣớc; hoạt động
giám sát tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản QPPL ở một số quốc gia trên thế giới; vấn
đề xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong nhà nƣớc pháp quyền; hạt nhân hợp
lý của những phân tích mang tính lý luận về sự cần thiết và vai trò của Tòa án trong xem
xét, xác định tính hợp Hiến, hợp pháp của văn bản QPPL là nền tảng quan trọng để tác
giả luận án tiếp tục kế thừa, nghiên cứu, phát triển, phân tích, đánh giá gắn với tình hình
thực tiễn cũng nhƣ chế độ chính trị - pháp lý của Việt Nam;
Thứ hai, nghiên cứu, kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những luận giải về khái niệm
văn bản QPPL; nâng cấp và đánh giá lại thực tiễn hoạt động kiểm tra văn bản QPPL;
tiếp thu và thừa nhận cơ chế xem xét tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản QPPL nói
chung và cơ chế kiểm tra văn bản QPPL là hoạt động đúng đắn nhằm bảo đảm tính
khách quan, hợp hiến, hợp pháp, phù hợp, đồng bộ của văn bản QPPL trong hệ thống
pháp luật;
Thứ ba, phát triển quan điểm của một số bài viết cho rằng, cần phải xác định trách
nhiệm của cơ quan, ngƣời đã ban hành văn bản trái pháp luật; đồng thời, xác định trách
nhiệm bồi thƣờng thiệt hại do áp dụng văn bản QPPL trái pháp luật gây ra.
1.1.4.2. Những vấn đề chưa được giải quyết thấu đáo hoặc cần tiếp tục
nghiên cứu
Thứ nhất, trên cơ sở những quan điểm, khái niệm đã đƣợc ghi nhận hoặc nghiên
cứu, Luận án tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ hơn khái niệm văn bản QPPL làm tiền
đề cho hoạt động kiểm tra văn bản QPPL đƣợc thực hiện đúng đắn, chính xác, hiệu
quả; bên cạnh đó, khái niệm và đặc điểm của văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ
21
ban hành chƣa đƣợc giải quyết thấu đáo, để phục vụ cho việc giải quyết các nhiệm vụ
của Luận án, tác giả đã đầu tƣ nghiên cứu và xây dựng, phân tích khái niệm và đặc
điểm của văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành. Tƣơng tự, Luận án đã giải
quyết vấn đề quan trọng trong phần lý luận, là phân tích và “gia cố” thêm khái niệm
kiểm tra văn bản, đánh giá bản chất, mục đích của kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ
quan ngang bộ ban hành;
Thứ hai, một số vấn đề lý luận chƣa đƣợc giải quyết thấu đáo, có hệ thống đã
đƣợc tác giả Luận án tiếp tục nghiên cứu, làm rõ, nhƣ vấn đề lý luận của việc giao
trách nhiệm cho Tòa Hành chính, Tòa án nhân dân tối cao xem xét, phán quyết về tính
hợp hiến, hợp pháp của văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành; bên cạnh
đó, Luận án cũng nghiên cứu, làm rõ thêm về mặt lý luận quan điểm cần phải xác định
trách nhiệm của cơ quan, ngƣời đã ban hành văn bản QPPL trái pháp luật, trách nhiệm
bồi thƣờng khi áp dụng văn bản QPPL trái pháp luật gây ra;
Thứ ba, tổng quan tình hình nghiên cứu cho thấy rõ, kiểm tra văn bản QPPL do
bộ, cơ quan ngang bộ ban hành còn rất hiếm hoi và chƣa mang tính hệ thống, vì vậy,
Luận án xác định cần nghiên cứu tổng thể, làm rõ, sâu sắc về kiểm tra văn bản QPPL
do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành, từ các vấn đề liên quan đến khái niệm, nhận thức,
các yếu tố tác động, các hạn chế, yếu kém, nguyên nhân… đến các vấn đề lý luận, các
giải pháp đồng bộ cho việc nâng cao chất lƣợng hoạt động này tại các cơ quan có thẩm
quyền kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành; nghiên cứu và kiến nghị
đổi mới căn bản hoạt động này;
Thứ tư, do chƣa nhận thấy các nghiên cứu về kiểm tra văn bản nói chung và
kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ nói riêng đƣợc thực hiện dựa trên
(hoặc gắn với) quan điểm và dƣới góc độ kiểm soát quyền lực nhà nƣớc, Luận án đã
nghiên cứu bƣớc đầu và cố gắng phân tích nhằm chứng tỏ kiểm tra văn bản QPPL do
bộ, cơ quan ngang bộ ban hành là một phƣơng thức kiểm soát, giám sát quyền lực nhà
nƣớc. Từ góc nhìn này, kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ cần đƣợc
nghiên cứu với những quan điểm, định tầm mới thì mới xác định đƣợc chính xác, đầy
đủ và toàn diện các giải pháp hữu hiệu;
Thứ năm, kế thừa một số quan điểm có tính chất gợi mở, Luận án tiếp tục nghiên
cứu, đề xuất bƣớc đầu một số giải pháp mang tính đột phá cho kiểm tra văn bản QPPL
do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành, nhƣ xác định thẩm quyền xem xét, xử lý văn bản
22
QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành của Tòa án nhân dân tối cao; trách nhiệm bồi
thƣờng thiệt hại khi áp dụng văn bản QPPL trái pháp luật gây ra…
1.2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU
1.2.1. Các lý thuyết dự kiến sử dụng
Luận án đƣợc tiếp cận trên cơ sở các lý thuyết nghiên cứu sau đây:
- Học thuyết Mác - Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc và pháp luật;
- Các quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà
nƣớc theo yêu cầu xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa;
- Các quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật trong giai đoạn hiện nay và tầm nhìn đến năm 2020.
1.2.2. Giả thuyết nghiên cứu
Văn bản QPPL là sản phẩm tất yếu của các hoạt động thực thi quyền lực và
quản lý nhà nƣớc. Vấn đề không phải ở chỗ hạn chế chủ thể thực thi quyền lực quản lý
xã hội, quản lý nhà nƣớc ban hành văn bản QPPL thì sẽ bảo đảm không vi phạm quyền
con ngƣời. Vấn đề chính nằm ở chỗ các văn bản ban hành phải kịp thời, nhất quán từ
trên xuống dƣới, bắt đầu từ Hiến pháp và để nhằm thực hiện đúng đắn, đến cùng các
quy định của Hiến pháp. Điều này đƣợc bảo đảm quan trọng chính bằng các hoạt động
giám sát, kiểm tra, kiểm soát...
Công tác kiểm tra văn bản QPPL do các Bộ, cơ quan ngang Bộ ban hành hiện
nay còn nhiều hạn chế, bất cập. Các cơ quan kiểm tra văn bản chƣa phát huy đƣợc vị trí,
vai trò, tầm ảnh hƣởng của kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành trên thực
tế. Bởi vậy, cần phải có các giải pháp đồng bộ, hữu hiệu nhằm nâng cao chất lƣợng kiểm
tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành hiện nay nhằm nâng cao hiệu lực
quản lý nhà nƣớc, quản lý xã hội, bảo đảm hiệu quả quyền con ngƣời, quyền công dân
trong điều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
1.2.3. Câu hỏi nghiên cứu
(i) Khái niệm, đặc điểm của văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành?
(ii) Khái niệm, đặc điểm, thẩm quyền, trình tự, thủ tục kiểm tra văn bản QPPL do
bộ, cơ quan ngang bộ ban hành? Trách nhiệm trong việc ban hành và áp dụng văn bản
QPPL trái pháp luật?
(iii) Các yếu tố ảnh hƣởng đến hoạt động kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan
ngang bộ ban hành?
23
(iv) Các điều kiện bảo đảm để hoạt động kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan
ngang bộ ban hành đạt hiệu quả?
(v) Cơ chế bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của các nƣớc trên thế giới?
(vi) Thực trạng về kiểm tra văn bản QPPL do các bộ, cơ quan ngang bộ ban hành?
(vii) Những định hƣớng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả hoạt động kiểm tra văn bản QPPL do các bộ, cơ quan ngang bộ ban hành?
1.2.4. Kết quả nghiên cứu
- Phân tích sâu sắc, toàn diện các vấn đề lý luận về kiểm tra văn bản QPPL do
bộ, cơ quan ngang bộ ban hành;
- Khái quát, đánh giá thực trạng thực thi pháp luật về kiểm tra văn bản QPPL do
bộ, cơ quan ngang bộ ban hành;
- Nghiên cứu, xác định nhu cầu hoàn thiện pháp luật, đƣa ra giải pháp nhằm
nâng cao chất lƣợng kiểm tra văn bản QPPL do các bộ, cơ quan ngang bộ ban hành
trong giai đoạn hiện nay.
24
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành đóng vai trò quan
trọng trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật ở Việt Nam hiện nay. Có thể coi
đây là cơ chế để tự kiểm tra, kiểm soát quyền lực nhà nƣớc của các cơ quan hành chính
nhà nƣớc ở Trung ƣơng, nhƣng trên thực tiễn, hoạt động này còn nhiều hạn chế, bất cập,
đòi hỏi phải có nghiên cứu sâu sắc, tổng thể cả về lý luận cũng nhƣ thực tiễn nhằm đƣa
ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động này trong thời gian tới. Để đạt đƣợc mục
tiêu này, cần có nghiên cứu, đánh giá tổng quan về tình hình nghiên cứu và các vấn đề
có liên quan đến kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành.
Các nghiên cứu trực tiếp về kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành
tính đến nay không nhiều và không mang tính hệ thống. Các công trình nghiên cứu về
kiểm tra văn bản nói chung thƣờng ở phạm vi hẹp hoặc quá rộng. Riêng nghiên cứu về
kiểm tra văn bản QPPL do các bộ, cơ quan ngang bộ ban hành lại rất hiếm hoi, hầu
nhƣ chỉ đƣợc nhắc đến “ẩn” trong nghiên cứu chung về kiểm tra văn bản QPPL hoặc
hầu nhƣ không đƣợc nhắc đến.
Ở nƣớc ngoài, hầu nhƣ không có nghiên cứu về kiểm tra văn bản QPPL với cơ
chế tƣơng tự Việt Nam do cơ chế tổ chức kiểm tra, giám sát loại văn bản này không
giống Việt Nam. Chính vì vậy, có thể nói rằng, kiểm tra văn bản QPPL theo quy định
hiện hành của Việt Nam là một đặc thù riêng có… Về cơ bản, các công trình nghiên cứu
thừa nhận kiểm tra văn bản nhƣ là một giải pháp quan trọng nhằm góp phần hoàn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam thống nhất, đồng bộ, công khai, minh bạch, khả thi cũng
nhƣ sự cần thiết, tầm quan trọng của kiểm tra văn bản QPPL nói chung và kiểm tra văn
bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành nói riêng.
25
Chƣơng 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA KIỂM TRA VĂN BẢN QPPL DO BỘ, CƠ QUAN NGANG BỘ BAN HÀNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, BẢN CHẤT CỦA VĂN BẢN QPPL VÀ
VĂN BẢN QPPL DO BỘ, CƠ QUAN NGANG BỘ BAN HÀNH
2.1.1. Khái niệm, đặc điểm, bản chất của văn bản QPPL
2.1.1.1. Khái niệm văn bản QPPL
Khoa học về quản lý nhà nƣớc đã chỉ ra rằng, để tiến hành hoạt động quản lý,
các chủ thể quản lý thực hiện nhiều biện pháp, hình thức quản lý khác nhau nhƣng cơ
bản và quan trọng nhất vẫn là hình thức ban hành các quyết định quản lý nhà nƣớc.
Quyết định quản lý nhà nƣớc đƣợc thể hiện nhiều dƣới dạng văn bản, trong đó hình
thức văn bản QPPL là quan trọng nhất. Văn bản QPPL với những yếu tố cấu thành của
nó đã tạo ra những ƣu thế đặc biệt để các chủ thể quản lý làm cơ sở cho hoạt động
quản lý. Văn bản QPPL đƣa ra các quy tắc xử sự chung để các đối tƣợng áp dụng
trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Văn bản QPPL chứa đựng tính xác định chặt
chẽ về mặt hình thức, đƣợc nhà nƣớc bảo đảm thực hiện bằng những biện pháp thích
hợp. Văn bản QPPL còn là cơ sở cho việc ban hành các văn bản hành chính cá biệt và
các loại văn bản, giấy tờ khác.
Văn bản QPPL thể hiện ý chí, mục đích của Nhà nƣớc đối với một quan hệ xã
hội nhất định, thể hiện chính sách của Nhà nƣớc đối với vấn đề đó, quan hệ xã hội đó.
Chính vì vậy, văn bản QPPL khi ban hành cần thể hiện rõ nét các nội dung của quan hệ
xã hội mà nó cần điều chỉnh và chính sách xử lý của Nhà nƣớc. Làm đƣợc nhƣ vậy, văn
bản QPPL mới thực hiện tốt đƣợc sứ mệnh của mình, đó là quay trở lại cuộc sống và
phục vụ đắc lực cho cuộc sống, giúp cho nhà quản lý đạt đƣợc mục đích của mình. Có
thể khẳng định, văn bản QPPL chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong quá trình quản
lý của bất cứ nhà nƣớc nào trên thế giới.
Tuy nhiên, hiểu thế nào là văn bản QPPL, khi nào thì ban hành văn bản QPPLvà
nhiều vấn đề khác có liên quan đang là các vấn đề đƣợc nhiều nhà khoa học và những
ngƣời làm công tác thực tiễn tranh luận. Bởi vậy, việc nghiên cứu để có đƣợc một định
nghĩa hợp lý nhất về văn bản QPPL có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao hiệu
lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nƣớc, góp phần xây dựng hệ thống pháp luật thống
26
nhất, đồng bộ, minh bạch, khả thi, phục vụ đắc lực cho các mục tiêu phát triển kinh tế -
xã hội của đất nƣớc.
Trên thế giới, pháp luật một số quốc gia cũng có quy định về khái niệm văn bản
QPPL, nhƣ Azebaizan, Lào, Kyrgikistan, Gruzia và Bulgaria… Theo kinh nghiệm
pháp luật của các nƣớc này, có 03 tiêu chí để xác định văn bản quy phạm pháp luật, cụ
thể là: (i) Văn bản pháp luật là văn bản chứa đựng quy tắc chung; (ii) do cơ quan nhà
nƣớc có thẩm quyền ban hành hoặc thông qua; (iii) có hiệu lực bắt buộc chung, đƣợc
áp dụng nhiều lần.
Để làm rõ hơn khái niệm văn bản quy phạm pháp luật, một số nƣớc bổ sung
thêm tiêu chí để phân biệt giữa văn bản quy phạm pháp luật với các văn bản hành
chính thông thƣờng, nhƣ: Quy phạm pháp luật là những mệnh lệnh bắt buộc mang tính
tạm thời hoặc thƣờng xuyên và đƣợc áp dụng nhiều lần (Kyrgykistan); Quy phạm pháp
luật đƣợc áp dụng cho một số lƣợng không xác định và không hạn chế các đối tƣợng
(Bulgary); Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nƣớc có thẩm
quyền ở Trung ƣơng hoặc địa phƣơng soạn thảo, thông qua, công bố (Lào); Văn bản
quy phạm pháp luật đƣợc ban hành nhằm xác lập, thay đổi hoặc hủy bỏ các quy phạm
pháp luật theo quy định của luật về ban hành văn bản (Azebaizan, Kyrgykistan); Văn
bản pháp luật là luật mang tính bắt buộc thực hiện. Văn bản pháp luật có thể mang tính
quy phạm hoặc mang tính chuyên biệt. Văn bản mang tính chuyên biệt chỉ áp dụng
trong một thời điểm cụ thể và phải phù hợp với văn bản quy phạm. Luật chuyên biệt
không đƣợc đặt tên trùng với luật quy phạm, ngoại trừ các trƣờng hợp ngoại lệ đƣợc
quy định trong Luật Ban hành văn bản (Gruzia) [26].
Ở Việt Nam, khái niệm văn bản quy phạm pháp luật lần đầu tiên đƣợc quy định
tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 (sửa đổi, bổ sung năm 2002),
sau đó, đƣợc hoàn chỉnh hơn theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp
luật năm 2008 (sau đây gọi là Luật năm 2008) và đặc biệt là Luật năm 2015.
Việc xác định và nhận diện chính xác văn bản QPPL có ý nghĩa hết sức quan
trọng trong ban hành, thi hành và kiểm tra văn bản QPPL. Thực tế cho thấy, có không
ít văn bản có chứa QPPL nhƣng không đƣợc ban hành bằng hình thức văn bản QPPL,
ngƣợc lại, có văn bản có thể thức và nội dung nhƣ văn bản QPPL nhƣng lại do chủ thể
không có thẩm quyền quy định, hoặc văn bản chỉ đạo hành chính thông thƣờng lại ban
hành theo trình tự, thủ tục nhƣ văn bản QPPL, dẫn đến tốn kém thời gian triển khai
27
công tác cũng nhƣ kinh phí xây dựng văn bản. Thực tế này cũng một phần do nhận
thức về khái niệm văn bản QPPL chƣa rõ ràng, chƣa có sự phân biệt chuẩn xác, dẫn
đến nhầm lẫn khi quyết định ban hành văn bản quản lý nhà nƣớc bằng hình thức nào.
Việc “nhầm lẫn” này dẫn đến những hậu quả pháp lý không hề nhỏ, bởi một văn bản
QPPL thì đƣợc nhà nƣớc bảo đảm thực hiện bằng quyền lực nhà nƣớc, đƣợc ban
hành theo trình tự, thủ tục nhất định nhằm đảm bảo tính công khai, minh bạch. Đồng
thời, văn bản này phải chịu sự kiểm tra, giám sát từ các cơ quan nhà nƣớc, ngƣời có
thẩm quyền. Chính vì vậy, quyền và lợi ích của đối tƣợng chịu sự tác động của văn
bản đƣợc bảo đảm. Ngƣợc lại, việc ban hành văn bản hành chính nhƣng lại có chứa
QPPL có thể ảnh hƣởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ
chức, công dân, vì riêng việc ban hành không đúng hình thức đã là sai trái, không
loại trừ trƣờng hợp nội dung của loại văn bản này còn không có cơ sở để ban hành,
áp dụng những quy định trái pháp luật làm thiệt hại đến quyền lợi của đối tƣợng bị
áp dụng mà không bị kiểm tra hay giám sát bởi cơ quan nào. Vì thế, việc định nghĩa
khái niệm văn bản QPPL cũng nhƣ các đặc trƣng cơ bản của nó có vai trò hết sức
quan trọng.
Theo Điều 2 Luật năm 2015 thì: “Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản có
chứa quy phạm pháp luật, được ban hành theo đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ
tục quy định trong Luật này. Văn bản có chứa quy phạm pháp luật nhưng được ban hành
không đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật này thì không
phải là văn bản quy phạm pháp luật”. Quy phạm pháp luật đƣợc giải thích là “quy tắc xử
sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần đối với cơ
quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi cả nước hoặc đơn vị hành chính nhất định, do cơ
quan nhà nước, người có thẩm quyền quy định trong Luật này ban hành và được Nhà
nước bảo đảm thực hiện” (khoản 1 Điều 3). Có thể nói, khái niệm mới đã cơ bản và rõ
ràng hơn, tuy nhiên, vẫn cần tiếp tục có hƣớng dẫn cụ thể tại các văn bản dƣới luật.
2.1.1.2. Đặc điểm, bản chất của văn bản QPPL
Theo khái niệm đƣợc quy định ở trên, văn bản QPPL có các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, văn bản QPPL phải chứa quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc
- đây là dấu hiệu cơ bản, quan trọng nhất. Từ việc xác định chính xác tính chất nội
dung của văn bản sẽ ban hành, cơ quan, ngƣời có thẩm quyền ban hành văn bản sẽ xác
28
định đƣợc văn bản đó phải đƣợc ban hành theo trình tự, thủ tục nào. Về nội dung, cần
làm rõ thế nào là tính bắt buộc chung, cơ chế áp dụng các quy tắc xử sự chung này?
Điều này có thể tính đến tần suất áp dụng, đối tƣợng áp dụng văn bản. Chẳng hạn, tần
suất áp dụng quy tắc xử sự chung phải là nhiều lần, có tính chất lặp đi lặp lại, nếu văn
bản chỉ ban hành để áp dụng một lần thì không phải là văn bản QPPL; đồng thời, áp
dụng đối với tất cả các đối tƣợng (trong phạm vi đƣợc xác định đối với từng loại văn
bản), trƣờng hợp này đối tƣợng áp dụng là giả định, trừu tƣợng, không chỉ đích danh ai
hay cơ quan, tổ chức nào, tức là bất kỳ ai, cơ quan, tổ chức nào khi tham gia vào quan
hệ xã hội này cũng buộc phải tôn trọng và tuân thủ quy định mà văn bản đã đặt ra.
Thứ hai, văn bản QPPL do cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền ban
hành. Văn bản QPPL phải do cơ quan nhà nƣớc hoặc ngƣời có thẩm quyền ban hành,
tƣơng ứng với từng cơ quan, từng vị trí chức danh trong bộ máy nhà nƣớc mà cơ quan,
ngƣời có thẩm quyền đó đƣợc ban hành loại văn bản gì để phục vụ cho hoạt động quản
lý nhà nƣớc của mình. “Loại văn bản gì” ở trên muốn nói đến thẩm quyền về hình thức
và thẩm quyền về nội dung của cơ quan, ngƣời ban hành văn bản. Về thẩm quyền hình
thức, theo quy định của pháp luật, cơ quan, ngƣời có thẩm quyền đƣợc ban hành văn
bản QPPL đó dƣới các hình thức nào trong hệ thống văn bản QPPL của nhà nƣớc, ví
dụ nhƣ: Luật, Nghị quyết, Nghị định, Quyết định, Thông tƣ… Theo quy định hiện
hành, về mặt hình thức, Quốc hội có thẩm quyền ban hành Luật, Chính phủ ban hành
Nghị định, Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang Bộ ban hành Thông tƣ và Thông tƣ
liên tịch với Chánh án tòa án nhân dân tối cao, Viện trƣởng Viện Kiểm sát nhân dân
tối cao… Về thẩm quyền nội dung, cơ quan, ngƣời có thẩm quyền chỉ đƣợc ban hành
các văn bản có nội dung phù hợp với thẩm quyền của mình đƣợc pháp luật cho phép
hoặc đã đƣợc phân công, phân cấp. Thẩm quyền này đƣợc xác định trong các văn bản
của cơ quan nhà nƣớc cấp trên có thẩm quyền quy định về phân công, phân cấp, quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà nƣớc cụ thể của từng cơ quan, từng
cấp, từng ngành đối với từng lĩnh vực. Quy định về thẩm quyền còn đảm bảo tính
minh bạch trong ban hành văn bản QPPL, đảm bảo hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nƣớc, gắn với trách nhiệm và quyền hạn của mỗi chủ thể có thẩm quyền, đồng thời,
tránh sự tùy tiện trong ban hành văn bản QPPL.
Thứ ba, nhằm đảm bảo cho việc ban hành văn bản có chất lượng, khách quan,
minh bạch, hợp lý, khả thi và công bằng, mỗi loại văn bản lại phải được ban hành theo
29
một trình tự, thủ tục nhất định. Quy trình này phải đảm bảo cho mọi đối tƣợng trong xã
hội, đặc biệt là các đối tƣợng chịu sự tác động của văn bản tiếp cận đƣợc với chính sách,
quy định sắp đƣợc áp dụng đối với mình và có thể có ý kiến đối với các dự thảo văn bản
đó, đồng thời, quy trình ban hành văn bản QPPL cũng nhằm làm cho mỗi quy phạm
pháp luật khi đƣợc ban hành đảm bảo có đƣợc sự xem xét, giám sát, thẩm định, thẩm tra
(giám sát trƣớc) của các cơ quan có thẩm quyền. Vì thế, việc ban hành theo một trình tự,
thủ tục nhất định là một trong những đặc trƣng của văn bản QPPL.
Thứ tư, văn bản QPPL phải được bảo đảm thực hiện bởi quyền lực nhà nước,
đặc trưng này chính là hệ quả của đặc trưng “có tính bắt buộc chung”. Theo đó, quy
phạm pháp luật trong văn bản QPPL phải đƣợc bảo vệ và phải đƣợc bảo đảm thực thi
trên thực tế, đƣợc tôn trọng, do đó, nhà nƣớc có đầy đủ các biện pháp cần thiết để bảo
đảm cho nó đƣợc thực hiện.
Cần lƣu lý, toàn bộ các dấu hiệu vừa nêu ở trên là các dấu hiệu xuất hiện đồng
thời đối với một văn bản QPPL, thiếu bất kỳ một dấu hiệu nào thì đó không phải là văn
bản QPPL. Bởi trên thực tế, có những văn bản có chứa “quy tắc xử sự chung” nhƣng
lại không đƣợc ban hành theo hình thức văn bản QPPL, không trải qua các trình tự, thủ
tục ban hành văn bản QPPL; hoặc, văn bản do cơ quan nhà nƣớc ban hành, theo trình
tự, thủ tục luật định, nhƣng lại không chứa “quy tắc xử sự chung”… thì cũng không
đƣợc coi là văn bản QPPL.
Nhƣ vậy, các đặc điểm nổi bật của văn bản QPPL là: (i) Có chứa quy tắc xử sự
chung, có tính chất bắt buộc, đƣợc áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần đối với mọi ngƣời
trong phạm vi cả nƣớc hoặc địa giới hành chính nhất định; (ii) Do cơ quan Nhà nƣớc
có thẩm quyền ban hành ; (iii) Đƣợc ban hành theo một trình tự, thủ tục nhất định theo
luật định; (iv) Nhà nƣớc có thể dùng lực lƣợng công quyền để bảo đảm cho việc áp
dụng quy phạm pháp luật bằng việc áp dụng các chế tài.
Về bản chất, văn bản QPPL mang bản chất của pháp luật nói chung và bản chất
của nhà nƣớc đã ban hành ra nó. Theo đó, văn bản QPPL trong Nhà nƣớc pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể hiện, chứa đựng ý chí nhà nƣớc của Nhân dân Việt Nam,
thể hiện quyền lực Nhân dân, Nhân dân thông qua nhà nƣớc để thể hiện ý chí của mình
trong pháp luật nói chung và văn bản QPPL nói riêng. Bảo vệ lợi ích cho ngƣời lao
động, pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ghi nhận và bảo đảm các quyền tự do dân
30
chủ thực sự cho Nhân dân nhƣ quyền tham gia quản lý nhà nƣớc và xã hội, quyền lao
động, quyền tự do kinh doanh… đáp ứng những lợi ích cơ bản của ngƣời lao động,
mang lại tự do thực sự cho cả cộng đồng và mỗi ngƣời dân.
2.1.2. Khái niệm, đặc điểm, bản chất của văn bản QPPL do bộ, cơ quan
ngang bộ ban hành
2.1.2.1. Khái niệm văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành
Cơ cấu tổ chức của Chính phủ gồm có các bộ và cơ quan ngang bộ. Bộ, cơ quan
ngang bộ thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc đối với ngành hoặc lĩnh vực công tác
trong phạm vi cả nƣớc; quản lý nhà nƣớc các dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực; thực
hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn của nhà nƣớc tại doanh nghiệp có vốn nhà nƣớc theo
quy định của pháp luật. Bộ, cơ quan ngang bộ có thẩm quyền ban hành văn bản QPPL
để quản lý ngành, lĩnh vực mà mình đƣợc giao phụ trách bằng hình thức thông tƣ của
bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ và thông tƣ liên tịch giữa bộ trƣởng, thủ
trƣởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trƣởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao.
Từ khái niệm văn bản QPPL và QPPL đã đƣợc đề cập ở phần trên, có thể định
nghĩa văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành nhƣ sau:
“Văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành là văn bản có chứa QPPL,
được áp dụng trong phạm vi cả nước, được ban hành bằng hình thức Thông tư của Bộ
trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ hoặc Thông tư liên tịch của Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao nhằm quản lý nhà nước trong các lĩnh vực được Chính phủ
giao, theo trình tự, thủ tục được quy định trong Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật và được Nhà nước bảo đảm thực hiện.
Văn bản có chứa quy phạm pháp luật nhưng không được ban hành bằng hình
thức Thông tư của Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ hoặc Thông tư liên tịch
của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao,
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo trình tự, thủ tục được quy định trong
Luật Ban hành văn bản QPPL thì không phải là văn bản quy phạm pháp luật của bộ, cơ
quan ngang bộ”.
31
Khái niệm trên vừa mang tính phổ biến vừa mang tính đặc thù, có sự xác định rõ
ràng, chính xác về phạm vi văn bản QPPL của bộ, cơ quan ngang bộ. Đồng thời, khái
niệm cũng chỉ ra những văn bản có khả năng gây “nhầm lẫn” với văn bản QPPL của bộ,
cơ quan ngang bộ. Việc phân biệt này có ý nghĩa trong xác định văn bản QPPL do bộ,
cơ quan ngang bộ ban hành cũng nhƣ xác định đối tƣợng văn bản thuộc đối tƣợng kiểm
tra, giám sát, đối tƣợng văn bản cần phải xử lý bằng các hình thức cụ thể nhƣ thế nào.
2.1.2.2. Đặc điểm, bản chất của văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành
(i) Đặc điểm của văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành
Ngoài các đặc điểm cơ bản nhƣ văn bản QPPL nói chung, thì văn bản QPPL do
bộ, cơ quan ngang bộ ban hành còn có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, đƣợc ban hành để quy định chi tiết, hƣớng dẫn thi hành văn bản của
cấp trên, có phạm vi áp dụng trong cả nƣớc
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành thì:“Bộ trưởng, Thủ trưởng
cơ quan ngang bộ ban hành thông tư để quy định:
1. Chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong luật, nghị quyết của Quốc hội,
pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch
nước, nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ;
2. Biện pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước của mình” [105] và “Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành thông tư liên tịch để quy định về việc
phối hợp giữa các cơ quan này trong việc thực hiện trình tự, thủ tục tố tụng” [105].
Với chức năng của mình, văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành có vai trò
quan trọng trong tổ chức triển khai, quy định chi tiết hay hƣớng dẫn thi hành văn bản
QPPL của cơ quan Nhà nƣớc cấp trên, bảo đảm cho các văn bản này (luật, nghị quyết
của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội, lệnh, quyết định
của Chủ tịch nƣớc, nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tƣớng Chính phủ)
đƣợc thực hiện trên thực tiễn. Ngoài ra, còn quy định biện pháp để thực hiện chức
năng quản lý ngành, lĩnh vực do mình phụ trách. Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy
định, văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nƣớc trung ƣơng có hiệu lực
trong phạm vi cả nƣớc và đƣợc áp dụng đối với mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân, trừ
trƣờng hợp văn bản có quy định khác hoặc điều ƣớc quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác. Đồng thời, các văn bản QPPL về quản
32
lý nhà nƣớc thuộc ngành và lĩnh vực do Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ ban
hành có hiệu lực thi hành trong phạm vi cả nƣớc.
Có thể khẳng định, với chức năng và phạm vi áp dụng, văn bản QPPL do bộ, cơ
quan ngang bộ ban hành có ý nghĩa quan trọng trong quá trình đƣa các quy định trong
văn bản pháp luật của cơ quan nhà nƣớc cấp trên đi vào cuộc sống, triển khai toàn
diện, đồng bộ trên phạm vi cả nƣớc các quy định pháp luật liên quan đến ngành, lĩnh
vực mà mình phụ trách. Đồng thời, góp phần bảo đảm cho hệ thống văn bản QPPL từ
trung ƣơng xuống địa phƣơng đƣợc hợp hiến, hợp pháp, thống nhất, đồng bộ.
Thứ hai, là căn cứ để các cấp chính quyền địa phƣơng ban hành văn bản quy
phạm pháp luật tại địa phƣơng mình hoặc là căn cứ áp dụng để giải quyết các vụ việc
cụ thể:
Để đảm bảo tính hệ thống của văn bản QPPL, việc quy định văn bản QPPL phải
đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ, minh bạch là vô cùng quan trọng. Theo đó, văn bản
QPPL phải bảo đảm tính thống nhất, không mâu thuẫn, chồng chéo với văn bản của cơ
quan nhà nƣớc cấp trên, bảo đảm phù hợp với chủ trƣơng, đƣờng lối chung của Đảng;
bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của văn bản với hệ thống pháp luật;
tính khả thi của văn bản. Nhằm đáp ứng các yêu cầu này, văn bản đƣợc ban hành theo
thẩm quyền phải phù hợp với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh, nghị
quyết của Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội; lệnh, quyết định của Chủ tịch nƣớc; các văn bản
do Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ, Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ ban hành
và các văn bản của cơ quan nhà nƣớc cấp trên. Ngoài ra, văn bản QPPL còn phải bảo đảm
tính công khai, dân chủ trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của cá nhân, cơ
quan, tổ chức trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật; bảo
đảm yêu cầu về quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trƣờng, không làm cản trở việc thực
hiện điều ƣớc quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên…
Văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành là một trong các căn cứ pháp
lý để các cấp chính quyền địa phƣơng ban hành văn bản QPPL để điều chỉnh quan hệ
xã hội thuộc các lĩnh vực cụ thể do bộ, cơ quan ngang bộ đó quản lý tại địa phƣơng
mình. Do vậy, văn bản QPPL của bộ, cơ quan ngang bộ có tầm ảnh hƣởng lớn, không
những cụ thể hóa và triển khai văn bản của cấp trên, mà còn là căn cứ pháp lý để các
cấp chính quyền địa phƣơng ban hành văn bản của mình. Không chỉ thế, văn bản do bộ,
cơ quan ngang bộ còn là căn cứ áp dụng trực tiếp đối với những vụ việc cụ thể (tính chất
33
quy định chi tiết, hƣớng dẫn thi hành của văn bản), chính vì thế, mà vai trò của Thông
tƣ, Thông tƣ liên tịch càng đƣợc khẳng định. Về mặt lý thuyết cũng nhƣ pháp luật thực
định cũng chỉ ra rằng, khi văn bản QPPL đƣợc ban hành thì văn bản đó phải đảm bảo
đồng bộ và phải đƣợc áp dụng ngay trên thực tiễn. Thông tƣ có vai trò quan trọng
trong việc triển khai kịp thời văn bản QPPL của cấp trên, giúp cho các quy định trong
văn bản của cấp trên đi vào cuộc sống.
Thứ ba, về hình thức, phạm vi áp dụng của văn bản
Hình thức, phạm vi áp dụng văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành là đặc
điểm đặc thù thể hiện rõ tính chất của văn bản. Theo đó, văn bản đƣợc ban hành bằng
hình thức Thông tƣ của Bộ trƣởng, thủ trƣởng cơ quan ngang Bộ hoặc Thông tƣ liên tịch
của Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao,
Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Về phạm vi, văn bản có phạm vi áp dụng
trong cả nƣớc và nhằm quản lý nhà nƣớc trong các lĩnh vực đƣợc Chính phủ giao.
(ii) Bản chất của văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành
Về bản chất, văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành là hình thức
thực hiện quyền lực nhà nƣớc của bộ, cơ quan ngang bộ trong quản lý hành chính nhà
nƣớc. Văn bản QPPL do cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền ban hành và bảo đảm thực
hiện, nghĩa là nó chỉ đƣợc hình thành bằng con đƣờng nhà nƣớc. Thông qua nhà nƣớc,
giai cấp thống trị thể hiện và hợp pháp hóa ý chí của mình một cách chính thống trên
thực tế. Văn bản QPPL trong Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam mang
tính Nhân dân (thể hiện ý chí của Nhân dân Việt Nam mà nòng cốt gồm giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và những ngƣời lao động khác), do Nhân dân
(nhà nƣớc tạo mọi điều kiện để Nhân dân Việt Nam tham gia vào các hoạt động xây
dựng, thực hiện văn bản QPPL, kiểm tra, giám sát văn bản QPPL), vì Nhân dân (mang
lại và bảo vệ lợi ích cho Nhân dân trên các lĩnh vực khác nhau).
Phù hợp với phƣơng thức tổ chức quyền lực nhà nƣớc đã đƣợc ghi nhận tại
Hiến pháp, đó là “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm
soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp” và nguyên tắc “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp
luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện tắc tập trung dân chủ”
[101], bộ, cơ quan ngang bộ ban hành văn bản QPPL để thực hiện các nhiệm vụ,
quyền hạn đã đƣợc Nhà nƣớc và Nhân dân giao phó. Do vậy, có thể nói, văn bản
34
QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành là phƣơng thức biểu đạt quyền lực nhà nƣớc
của bộ, cơ quan ngang bộ, nhằm tổ chức, triển khai, thi hành các nhiệm vụ quản lý nhà
nƣớc thuộc ngành, lĩnh vực đƣợc giao phụ trách.
Ngoài ra, về bản chất, văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành còn
góp phần thúc đẩy việc xây dựng và phát triển nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam của Nhân dân, do Nhân, vì Nhân dân. Xây dựng nhà nƣớc pháp quyền Việt
Nam đồng nghĩa với việc củng cố, nâng cao vị trí, vai trò của pháp luật trong đời sống
nhà nƣớc và xã hội. Pháp luật nói chung và hệ thống văn bản QPPL do bộ, cơ quan
ngang bộ ban hành nói riêng đã và đang là cơ sở pháp lý vững chắc cho việc tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nƣớc, ghi nhận và bảo đảm tất cả quyền lực nhà nƣớc
thuộc về Nhân dân, mở rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện quyền làm chủ
của Nhân dân.
2.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, BẢN CHẤT, MỤC ĐÍCH CỦA KIỂM
TRA VĂN BẢN QPPL VÀ KIỂM TRA VĂN BẢN QPPL DO BỘ, CƠ QUAN
NGANG BỘ BAN HÀNH
2.2.1. Khái niệm, đặc điểm, bản chất, mục đích của kiểm tra văn bản QPPL
2.2.1.1. Khái niệm kiểm tra văn bản QPPL
Đặc trƣng cơ bản của Nhà nƣớc pháp quyền là tính tối thƣợng của pháp luật,
pháp luật đƣợc ban hành để bảo đảm quyền tự do, dân chủ của công dân, để bảo đảm
cho con ngƣời, công dân đƣợc phát triển toàn diện. Bên cạnh đó, pháp luật còn là cơ sở
cho tổ chức và hoạt động của các thiết chế nhà nƣớc, bảo đảm cho các thiết chế này
đƣợc tổ chức và vận hành trong khuôn khổ pháp luật. Trên cơ sở pháp luật, các cơ
quan nhà nƣớc tổ chức và thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, đồng thời, xác lập
mối quan hệ với Nhân dân. Có nhƣ vậy, hoạt động của các thiết chế nhà nƣớc mới
đƣợc công khai, minh bạch, trong khuôn khổ và có thể kiểm soát đƣợc, cùng với đó,
quyền và lợi ích của cơ quan, tổ chức, cá nhân đƣợc bảo đảm và bảo vệ. Cũng vì lẽ đó,
pháp luật trong Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải là phƣơng tiện
để giới hạn, kiểm soát quyền lực nhà nƣớc, để Nhà nƣớc thực sự là của Nhân dân,
trong đó, văn bản QPPL phải ngày càng đƣợc nâng cao về chất lƣợng để xứng đáng là
thành phần cốt yếu trong hệ thống pháp luật theo những yêu cầu và tiêu chí mà Đảng
và Nhà nƣớc ta đang hƣớng tới, đó là: “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế
35
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; đổi mới căn bản cơ chế
xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp
phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế,
xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền con người, quyền tự do,
dân chủ của công dân, góp phần đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại vào năm 2020” [65].
Kiểm tra văn bản QPPL là một khâu quan trọng trong quá trình xây dựng, ban
hành và thực hiện pháp luật nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất
của hệ thống pháp luật. Theo Từ điển Tiếng Việt, kiểm tra có nghĩa là “xem xét kỹ
lưỡng để đánh giá, nhận xét” [140]. Còn theo Thuật ngữ Pháp lý do Nhà xuất bản Đại học Pháp phát hành tái bản lần thứ 2 năm 1990 (Gérard Cornu chủ biên)1, thuật ngữ
“kiểm tra” đƣợc hiểu là “sự kiểm tra sự phù hợp của một quyết định, một tình trạng,
một xử sự... với một chuẩn mực (tiêu chuẩn, quy phạm); là hoạt động nhằm kiểm tra
xem một cơ quan công quyền, một cá nhân hoặc một văn bản có tôn trọng hay không
tôn trọng yêu cầu về chức năng, nhiệm vụ hoặc các quy tắc được đặt ra” [142]. Nhƣ
vậy, có thể hiểu, kiểm tra là hoạt động xem xét, đối chiếu những sự vật, sự việc... đã
có hoặc đang đƣợc triển khai trên thực tế với các quy định, quy chuẩn sẵn có... qua đó,
đƣa ra nhận xét, đánh giá về tính đúng, sự phù hợp hay chƣa phù hợp của sự vật, sự
việc... thực tế đó với quy định, quy chuẩn... mà nó đƣợc đối chiếu (tôn trọng hay
không tôn trọng yêu cầu về chức năng, nhiệm vụ hoặc các quy tắc đƣợc đặt ra). Việc
xem xét “kỹ lƣỡng”, đánh giá nhằm mục đích đƣa ra những phƣơng án xử lý khác
nhau nhằm làm cho sự vật, sự việc (đối tƣợng đƣợc kiểm tra)... đƣợc điều chỉnh, hoàn
thiện cho phù hợp với các quy định, quy chuẩn... tƣơng ứng. Từ các phân tích này, có
thể hiểu thuật ngữ “kiểm tra” rộng hơn so với Từ điển Tiếng Việt đã định nghĩa. Việc
kiểm tra không chỉ dừng lại ở việc xem xét để đánh giá, nhận xét mà thông qua việc
xem xét, đánh giá, còn phải đƣa ra phƣơng án giúp cho đối tƣợng đƣợc kiểm tra trở
nên phù hợp với quy chuẩn, quy định. Từ các phân tích trên có thể hiểu: “Kiểm tra là
hoạt động của chủ thể có chức năng (có thẩm quyền) thực hiện việc xem xét, đối chiếu
đối tượng được kiểm tra với các tiêu chí đã được định sẵn nhằm đánh giá, nhận xét,
kết luận về tính đúng, tính phù hợp của đối tượng được kiểm tra với các tiêu chí tương 1 Vocabulare juridique, Presses Universitaires de France, Paris, 1990.
36
ứng và đặt ra yêu cầu, phương án nhằm làm cho đối tượng được kiểm tra trở nên
đúng, phù hợp với các tiêu chí mà nó hướng tới”.
Đối tƣợng của hoạt động kiểm tra là đa dạng, tùy thuộc vào mục đích, tính chất,
phạm vi, quyền hạn của chủ thể kiểm tra... mà xác định đƣợc đối tƣợng đƣợc kiểm tra.
Trong hoạt động quản lý nhà nƣớc, ở hầu hết các ngành, lĩnh vực quản lý nhà nƣớc, các
chủ thể có thẩm quyền đều tiến hành hoạt động kiểm tra với các đối tƣợng của hoạt
động kiểm tra khác nhau phụ thuộc vào yêu cầu quản lý nhà nƣớc của mình. Thông qua
đó, đề ra các phƣơng án nâng cao đƣợc chất lƣợng quản lý nhà nƣớc đối với ngành, lĩnh
vực đó. Chẳng hạn nhƣ: kiểm tra công tác thi đua - khen thƣởng; kiểm tra công tác quản
lý thị trƣờng; kiểm tra công tác thi hành án dân sự ở một địa phƣơng; kiểm tra công tác
xây dựng và ban hành văn bản QPPL của một cơ quan nhà nƣớc nhất định...
Kiểm tra văn bản QPPL lần đầu tiên đƣợc quy định tại Hiến pháp năm 1992
(sửa đổi, bổ sung năm 2001) và tiếp tục đƣợc quy định tại Hiến pháp năm 2013, Luật
Tổ chức Chính phủ năm 2001 (nay là Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015), Luật Tổ
chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 (nay là Luật Tổ chức chính
quyền địa phƣơng 2015), Luật năm 1996, Luật năm 2004, Luật năm 2008 và hiện nay
là Luật năm 2015 và các văn bản hƣớng dẫn thi hành. Cho đến trƣớc thời điểm Chính
phủ ban hành Nghị định số 34/2016/NĐ-CP thì chƣa có định nghĩa chính thức nào về
kiểm tra văn bản QPPL. Do đó, tại Khoản 4 Điều 2 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP quy
định “Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật là việc xem xét, đánh giá, kết luận về tính
hợp hiến, tính hợp pháp, tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật được kiểm
tra và xử lý văn bản trái pháp luật” [31].
Nhƣ vậy, kiểm tra văn bản QPPL là việc xem xét, đánh giá, đối chiếu văn bản
đƣợc kiểm tra với văn bản làm căn cứ pháp lý cho việc kiểm tra nhằm phát hiện những
nội dung không hợp hiến, không hợp pháp, không thống nhất của văn bản. Khái niệm
kiểm tra văn bản đƣợc nêu ở trên còn bao gồm cả hoạt động xử lý văn bản trái pháp
luật. Kiểm tra văn bản là hoạt động diễn ra sau khi văn bản QPPL đã đƣợc ban hành và
có ý nghĩa quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong
Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bên cạnh các công cụ khác, kiểm
tra văn bản QPPL giống nhƣ một công cụ “làm sạch” hệ thống văn bản QPPL. Bằng
các thao tác kỹ thuật nghiệp vụ của mình, kiểm tra văn bản giúp phát hiện những quy
định trái pháp luật, mâu thuẫn, nhƣ văn bản QPPL của cơ quan, ngƣời có thẩm quyền
37
ban hành văn bản ở cấp dƣới không phù hợp với văn bản của cơ quan, ngƣời có thẩm
quyền ban hành văn bản ở cấp cao hơn. Không chỉ dừng ở đó, chế định này còn cho
phép các chủ thể có thẩm quyền thực hiện việc xử lý các quy định trái pháp luật bằng
nhiều hình thức khác nhau, nhƣ đình chỉ việc thi hành, bãi bỏ văn bản... thao tác này
giúp cho các văn bản trở nên phù hợp, đồng bộ với nhau.
Từ các phân tích trên, có thể nhận thấy, kiểm tra văn bản QPPL là quá trình bao
gồm nhiều khâu khác nhau, từ xem xét, đánh giá, đến kết luận về tính pháp lý của văn
bản và việc xử lý văn bản trái pháp luật. Trong đó, cần lƣu ý mối quan hệ biện chứng
giữa kết luận về tính hợp hiến hợp pháp, tính thống nhất của văn bản đƣợc kiểm tra với
việc xử lý nội dung trái pháp luật của văn bản đó. Hoạt động kiểm tra văn bản chỉ có ý
nghĩa thực sự khi toàn bộ các khâu của hoạt động này đƣợc thực hiện triệt để, đến cùng,
tức là thực hiện xong khâu xử lý nội dung trái pháp luật của văn bản. Việc xử lý nội
dung trái pháp luật của văn bản thông qua các hình thức đình chỉ việc thi hành hoặc bãi
bỏ văn bản giúp loại bỏ văn bản trái pháp luật khỏi hệ thống văn bản QPPL, ngăn chặn
các hậu quả xấu phát sinh từ việc ban hành và áp dụng văn bản trái pháp luật gây ra. Do
đó, nói đến kiểm tra văn bản QPPL thì không thể thiếu quá trình xử lý văn bản trái pháp
luật. Đây là ý nghĩa thực sự của công cụ này trong hoàn thiện hệ thống pháp luật và
kiểm soát quyền lực nhà nƣớc.
Kiểm tra văn bản đƣợc hiểu sâu sắc hơn khi đặt trong sự so sánh, phân biệt với
một số hoạt động có tính chất khá gần gũi nhƣ hoạt động thẩm định, thẩm tra văn bản
QPPL (là hoạt động diễn ra trƣớc khi ban hành văn bản QPPL); hoạt động rà soát văn
bản QPPL; hoạt động giám sát văn bản QPPL (là hoạt động diễn ra sau khi ban hành
văn bản). Cụ thể là:
(i) Kiểm tra văn bản QPPL trong mối quan hệ so sánh với thẩm định văn bản
QPPL: Bản chất của thẩm định là kiểm tra trƣớc khi ban hành văn bản QPPL nhằm phát
hiện những vi phạm, khiếm khuyết, hạn chế và dự báo, phòng ngừa những điểm sai trái
có thể có trong dự thảo [142]. Thẩm định, thẩm tra văn bản QPPL có mối quan hệ chặt
chẽ, hữu cơ với kiểm tra văn bản QPPL và điểm chung giữa chúng là hƣớng tới việc
đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của văn bản trong hệ thống văn bản
QPPL. Tuy nhiên, chúng có sự khác nhau cơ bản về phạm vi nội dung, đối tƣợng, thời
điểm, giá trị pháp lý của kết quả kiểm tra. Ngoài ra, nếu nhƣ thẩm định là việc xem xét,
đánh giá và phát hiện những nội dung sai trái, không hợp lý, không khả thi nhằm hoàn
38
thiện dự thảo, bảo đảm một văn bản đƣợc ban hành có chất lƣợng tốt thì kiểm tra văn
bản là nhằm phát hiện những nội dung trái pháp luật của một văn bản QPPL, hƣớng tới
việc xử lý kịp thời, toàn diện, triệt để những sai trái đó, nhằm đảm bảo tính thống nhất
của hệ thống pháp luật và tránh đƣợc những thiệt hại có thể có khi những văn bản đó
tiếp tục đƣợc thực hiện trên thực tiễn.
(ii) Kiểm tra văn bản QPPL trong mối quan hệ so sánh với hoạt động rà soát
văn bản QPPL: Rà soát văn bản “là việc xem xét, đối chiếu, đánh giá các quy định của
văn bản được rà soát với văn bản là căn cứ để rà soát, tình hình phát triển kinh tế - xã
hội nhằm phát hiện, xử lý hoặc kiến nghị xử lý các quy định trái pháp luật, mâu thuẫn,
chồng chéo, hết hiệu lực hoặc không còn phù hợp” [31]. Nhƣ vậy, có thể thấy, kiểm
tra và rà soát văn bản QPPL có điểm giống nhau, đều đƣợc tiến hành sau khi văn bản
đƣợc ban hành và đều nhằm phát hiện những quy định trái pháp luật, không phù hợp
với văn bản làm căn cứ đối chiếu, từ đó có biện pháp xử lý nhằm bảo đảm tính hợp hiến,
hợp pháp, tính thống nhất và tính khả thi của văn bản. Tuy nhiên, hai hoạt động này luôn là
hai hoạt động độc lập, chúng khác nhau cơ bản ở những nội dung nhƣ: đối tƣợng, thời điểm
tiến hành, phạm vi thực hiện, hình thức xử lý. Theo đó, kiểm tra văn bản nhằm phát hiện và
xử lý nội dung trái pháp luật của văn bản ngay khi văn bản đƣợc ban hành; rà soát văn bản
quy phạm pháp luật là chỉ đƣợc tiến hành khi có căn cứ cho rằng, văn bản đó có thể bị
lạc hậu (với văn bản của cơ quan nhà nƣớc cấp trên ban hành sau hoặc với tình hình
phát triển kinh tế - xã hội phát sinh sau khi văn bản đƣợc ban hành), nhằm phát hiện
quy định trái, mâu thuẫn, chồng chéo, hết hiệu lực hoặc không còn phù hợp để kịp thời
đình chỉ việc thi hành, bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc ban hành văn bản mới.
Về mặt đối tƣợng, đối tƣợng của hoạt động rà soát văn bản QPPL là toàn hệ thống văn
bản QPPL (trừ Hiến pháp), còn đối tƣợng của hoạt động kiểm tra văn bản là những
loại văn bản QPPL nhất định theo quy định của pháp luật mà không phải là toàn bộ hệ
thống văn bản QPPL, theo quy định tại Luật năm 2008 (và nay là Luât năm 2015), đối
tƣợng của hoạt động kiểm tra văn bản QPPL chỉ từ văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ
ban hành trở xuống.
(iii) Kiểm tra văn bản QPPL trong mối quan hệ so sánh với hoạt động giám sát văn
bản QPPL: Có thể hiểu, kiểm tra, giám sát văn bản QPPL đều là hoạt động theo dõi,
xem xét, đánh giá văn bản QPPL sau khi đƣợc ban hành. Việc giám sát, kiểm tra văn
39
bản QPPL đƣợc tiến hành nhằm phát hiện những nội dung sai trái hoặc không còn phù
hợp để kịp thời đình chỉ việc thi hành, sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ
văn bản, đồng thời kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xác định trách nhiệm của cơ
quan, cá nhân đã ban hành văn bản sai trái. Có sự khác nhau về thẩm quyền, trình tự,
thủ tục giám sát và kiểm tra văn bản QPPL. Hiện nay, thẩm quyền, trình tự, thủ tục giám
sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, xử lý văn bản quy phạm pháp luật có dấu
hiệu trái pháp luật đƣợc quy định cụ thể tại Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, ngoài
ra, thẩm quyền xử lý văn bản trái pháp luật của các cơ quan thực hiện giám sát văn bản
QPPL cũng đƣợc quy định rõ tại Luật này; thẩm quyền, trình tự, thủ tục kiểm tra văn
bản QPPL đƣợc quy định cụ thể tại Nghị định số 34/2016/NĐ-CP trên cơ sở kế thừa
Nghị định số 40/2010/NĐ-CP và các văn bản hƣớng dẫn thi hành. Về phạm vi, đối
tƣợng, hoạt động giám sát văn bản QPPL đƣợc thực hiện đối với toàn hệ thống văn bản
QPPL, bởi các chủ thể có thẩm quyền ở cơ quan quyền lực nhà nƣớc hoặc cơ quan hành
chính nhà nƣớc. Nhƣng kiểm tra văn bản QPPL hiện nay chỉ đƣợc thực hiện đối với văn
bản QPPL từ cấp bộ ban hành trở xuống các cấp chính quyền địa phƣơng.
2.2.1.2. Đặc điểm của hoạt động kiểm tra văn bản QPPL
(i) Đối tượng của hoạt động là các văn bản QPPL do cơ quan, người có thẩm
quyền thuộc các cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương và các cấp chính quyền địa
phương ban hành: Đây là đặc điểm khá cơ bản của hoạt động này. Theo đó, chỉ các văn
bản do hệ thống cơ quan hành chính nhà nƣớc từ cấp bộ trở xuống các cấp chính quyền
địa phƣơng ban hành mới thuộc đối tƣợng của hoạt động kiểm tra văn bản QPPL. Các văn
bản này bao gồm: thông tƣ của Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ; thông tƣ liên
tịch giữa Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao, Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Nghị quyết của Hội đồng nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng; Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; Văn
bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phƣơng ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc
biệt; Nghị quyết của Hội đồng nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh,
thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ƣơng; Quyết định của Ủy ban nhân dân
cấp huyện; Nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã, phƣờng, thị trấn; Quyết định của Ủy
ban nhân dân cấp xã.
40
(ii) Chủ thể có thẩm quyền kiểm tra, xử lý văn bản là người có thẩm quyền trong
các cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương và địa phương: Bao gồm: Thủ tƣớng
Chính phủ; bộ trƣởng, thủ trƣởng cơ quan ngang bộ; Chủ tịch UBND các cấp.
(iii) Nội dung của hoạt động là kết luận về tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống
nhất của văn bản QPPL: Cơ quan, ngƣời có thẩm quyền có trách nhiệm đối chiếu, đánh
giá và kết luận về giá trị pháp lý của văn bản ở các khía cạnh tính hợp hiến, tính hợp pháp,
tính thống nhất của văn bản và phải chịu trách nhiệm về kết luận của mình. Văn bản đƣợc
kiểm tra đƣợc coi là hợp hiến hợp pháp, thống nhất khi phù hợp với văn bản QPPL của
cấp trên về nội dung, thẩm quyền, căn cứ ban hành, trình tự, thủ tục ban hành văn bản.
Trên cơ sở kết luận kiểm tra, cơ quan, ngƣời có thẩm quyền kiểm tra văn bản kiến nghị cơ
quan đã ban hành văn bản xử lý văn bản hoặc tự mình xử lý văn bản theo thẩm quyền.
(iv) Kiểm tra văn bản phải gắn liền với xử lý văn bản QPPL trái pháp luật: Kiểm
tra văn bản QPPL có mục đích là phát hiện và xử lý văn bản QPPL trái pháp luật, góp
phần hoàn thiện hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ. Chủ thể có thẩm quyền xử lý văn
bản bằng các hình thức khác nhau, gồm: đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ toàn bộ hoặc
một phần văn bản trái pháp luật.
(v) Mối quan hệ phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan có liên quan trong quá
trình kiểm tra, xử lý văn bản QPPL: Trong quá trình kiểm tra văn bản, giữa các cơ
quan có liên quan có mối quan hệ phối hợp chặt chẽ với nhau nhằm đạt đƣợc mục đích
của hoạt động. Đó là mối liên quan, phối hợp giữa cơ quan, ngƣời có thẩm quyền kiểm tra
văn bản với cơ quan, ngƣời đã ban hành văn bản để cung cấp thông tin tài liệu phục vụ
hoạt động kiểm tra văn bản; giữa các cơ quan khác nhau để trao đổi, thảo luận, thống nhất
về các nội dung trái pháp luật của văn bản; giữa các cơ quan ban hành và kiểm tra văn
bản với các phƣơng tiện thông tin đại chúng nhằm công bố, đƣa tin… về văn bản trái pháp
luật và kết quả xử lý văn bản trái pháp luật…
2.2.1.3. Bản chất, mục đích của kiểm tra văn bản QPPL
(i) Là phương thức giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước
Nhƣ đã phân tích, văn bản QPPL nói chung đƣợc coi là phƣơng thức thực hiện
và thể hiện quyền lực nhà nƣớc, ở đó nhà nƣớc thể hiện ý chí của mình. Hiến pháp đã
ghi nhận Nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nƣớc pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, do Nhân dân làm chủ, tất cả
41
quyền lực nhà nƣớc thuộc về Nhân dân, theo đó, Nhân dân thực hiện quyền lực của
mình thông qua các cơ quan nhà nƣớc. Do đó, các cơ quan này thay mặt Nhân dân để
thực hiện quyền lực. Về nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp” [101], văn bản QPPL của nhà nƣớc thể hiện ý chí và
nguyện vọng của nhà nƣớc, cũng là của Nhân dân, tuy nhiên, các văn bản này lại đƣợc
ban hành thông qua các cơ quan đại diện quyền lực nhà nƣớc, do đó, để đảm bảo chính
xác và chắc chắn rằng, quyền lực của Nhân dân đƣợc bảo đảm, tuân thủ đúng Hiến
pháp và pháp luật, thì giữa các cơ quan nhà nƣớc bên cạnh việc phân công, phối hợp
còn cần phải kiểm soát lẫn nhau trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và
tƣ pháp mà Nhân dân giao phó.
Xuất phát từ quan điểm trên, có thể nói bản chất căn bản nhất của hoạt động kiểm
tra văn bản QPPL là một trong những phƣơng thức để các cơ quan nhà nƣớc kiểm tra,
giám sát, kiểm soát lẫn nhau trong quá trình tổ chức thực hiện quyền lực, quản lý hành
chính nhà nƣớc các cơ quan hành chính nhà nƣớc. Mặc dù mới chỉ giới hạn trong các cơ
quan hành chính nhà nƣớc, dƣới góc độ kiểm soát quyền lực nhà nƣớc, kiểm tra văn bản
QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành cần có cái nhìn mới, quan điểm mới, từ đó mới
có những giải pháp hữu hiệu, phù hợp, phát huy vai trò, ý nghĩa trong bảo đảm tính hợp
Hiến, hợp pháp của văn bản QPPL, đáp ứng yêu cầu xây dựng và hoàn thiện nhà nƣớc
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
(ii) Là phương thức bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân
Trên cơ sở quan điểm đã phân tích tại mục (i) của phần này, có thể dễ dàng nhận ra
bản chất cốt lõi của kiểm tra văn bản QPPL đó là phƣơng thức bảo đảm, bảo vệ quyền con
ngƣời, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, công dân, phát huy dân
chủ trong thi hành pháp luật. Theo đó, đứng trƣớc nguy cơ quyền và lợi ích hợp pháp của
cơ quan, tổ chức, công dân có thể bị hạn chế bởi văn bản QPPL, hoặc nguy cơ bằng quyền
lực của mình, cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn bản QPPL chứa đựng các đặc
quyền, đặc lợi cho một nhóm cụ thể nào đó, làm ảnh hƣởng đến nhóm đối tƣợng khác. Do
đó, kiểm tra văn bản QPPL cần đƣợc phát huy để loại bỏ các quy định này, làm sạch hệ
thống văn bản QPPL, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật.
42
(iii) Là phương thức để tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong ban hành và
thi hành pháp luật, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật
Việc kiểm tra văn bản đƣợc tiến hành nhằm phát hiện những nội dung trái pháp
luật của văn bản để kịp thời đình chỉ việc thi hành, bãi bỏ, bảo đảm tính hợp hiến, hợp
pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật, đồng thời, kiến nghị cơ quan, ngƣời có
thẩm quyền xác định trách nhiệm của cơ quan, ngƣời đã ban hành văn bản trái pháp luật
sẽ góp phần nâng cao chất lƣợng, hiệu quả công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật. Theo đó, bên cạnh việc kiểm tra theo thẩm quyền của các cơ quan nhà nƣớc,
cần phát huy cơ chế giám sát từ Nhân dân đối với các văn bản QPPL. Thực hiện tốt cơ
chế này và việc tham gia đông đảo của các tầng lớp, các lực lƣợng khác ngoài xã hội đối
với văn bản QPPL, sẽ tạo “áp lực” lớn đối với cơ quan, ngƣời có thẩm quyền ban hành
văn bản QPPL. Theo đó, sẽ có tác động tích cực đến tăng cƣờng pháp chế xã hội chủ
nghĩa trong ban hành và thi hành pháp luật; nâng cao chất lƣợng, hiệu quả công tác xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
2.2.2. Khái niệm, đặc điểm, bản chất, mục đích của kiểm tra văn bản
QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành
2.2.2.1. Khái niệm kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành
Trên cơ sở khái niệm chung về kiểm tra văn bản QPPL, khái niệm văn bản
QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành và thực tiễn triển khai công tác này trên thực
tế, có thể hiểu kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành nhƣ sau:
“Kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành là hoạt động đối chiếu, xem
xét, đánh giá, kết luận về tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của các văn bản QPPL
do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ ban hành và xử lý văn bản do Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành trái pháp luật”.
Về cơ bản, kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành cũng bao gồm
các nội dung nhƣ đối với các loại văn bản QPPL khác thuộc đối tƣợng đƣợc kiểm tra.
Tuy nhiên, kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành có vị trí đặc biệt
quan trọng trong hoạt động kiểm tra văn bản nói chung và trong xây dựng, hoàn thiện
hệ thống pháp luật.
43
2.2.2.2. Đặc điểm của hoạt động kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan
ngang bộ ban hành
Ngoài các đặc điểm của hoạt động kiểm tra văn bản QPPL nói chung nhƣ đã
nêu ở các phần trên, hoạt động kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban
hành còn có một số đặc điểm đặc trƣng sau:
(i) Đối tượng của hoạt động là Thông tư của Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan
ngang bộ; thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh
án tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao: Đây là các
đối tƣợng chiếm thứ bậc cao nhất trong hệ thống đối tƣợng văn bản QPPL chịu sự
kiểm tra, xử lý theo cơ chế kiểm tra văn bản QPPL. Các văn bản này có phạm vi
không gian áp dụng trên cả nƣớc và tầm ảnh hƣởng mang tính chất ngành, lĩnh vực. Là
văn bản quy định chi tiết các điều, khoản, điểm đƣợc cơ quan nhà nƣớc cấp trên giao,
là căn cứ ban hành văn bản của các cấp chính quyền địa phƣơng và đƣợc áp dụng trực
tiếp đối với các vụ việc cụ thể.
(ii) Chủ thể có thẩm quyền kiểm tra văn bản là Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ: Theo đó, bộ trƣởng, thủ trƣởng cơ quan ngang bộ kiểm tra văn bản
do Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ khác ban hành về những nội dung có liên
quan đến ngành, lĩnh vực do mình phụ trách; Thủ tƣớng Chính phủ kiểm tra thông tƣ
của Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ; nội dung quy định thuộc lĩnh vực quản
lý nhà nƣớc của bộ, cơ quan ngang bộ trong thông tƣ liên tịch giữa Bộ trƣởng, Thủ
trƣởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trƣởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao (Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp kiểm tra văn bản thuộc thẩm quyền
của mình và giúp Thủ tƣớng Chính phủ thực hiện việc kiểm tra văn bản thuộc thẩm
quyền của Thủ tƣớng).
(iii) Chủ thể có thẩm quyền xử lý: Gồm Thủ tƣớng Chính phủ và bộ trƣởng,
Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ. Đây là đặc điểm khá quan trọng và khác biệt so với chủ
thể có thẩm quyền xử lý văn bản QPPL nói chung. Mặc dù pháp luật quy định các hình
thức xử lý văn bản QPPL trái pháp luật bao gồm đình chỉ việc thi hành và bãi bỏ một
phần hoặc toàn bộ văn bản. Tuy nhiên, do đặc điểm là quan hệ hành chính ngang cấp,
nên mặc dù có quy định các hình thức xử lý nhƣ đã nêu, xong các bộ trƣởng, thủ trƣởng
cơ quan ngang bộ khi kiểm tra, kết luận về tính trái pháp luật của văn bản chỉ có thể kiến
nghị cơ quan đã ban hành văn bản (là các bộ, cơ quan ngang bộ khác) tự kiểm tra, xử lý.
44
Trƣờng hợp văn bản không đƣợc tự kiểm tra, xử lý thì bộ trƣởng, thủ trƣởng cơ quan
ngang bộ có thẩm quyền kiểm tra văn bản kiến nghị Thủ tƣớng Chính phủ xử lý bằng
hình thức đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ toàn bộ hoặc một phần văn bản.
Nhƣ vậy, về bản chất, chỉ có Thủ tƣớng Chính phủ mới xử lý những văn bản
này. Còn lại, ngoài việc kiến nghị thì ngƣời có thẩm quyền kiểm tra văn bản do bộ, cơ
quan ngang bộ ban hành không có thẩm quyền gì trong xử lý văn bản, mặc dù văn bản
trái với quy định của ngành, lĩnh vực do mình quản lý.
2.2.2.3 Bản chất, mục đích của kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang
bộ ban hành
Trên cơ sở khái niệm, bản chất, mục đích của kiểm tra văn bản QPPL nói
chung, kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành vừa mang bản chất,
mục đích chung của kiểm tra văn bản QPPL vừa mang tính chất đặc thù. Theo đó, bản
chất, mục đích của kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành thể hiện
ở các nội dung cụ thể nhƣ sau:
Thứ nhất, là phương thức giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước của cơ quan
hành chính nhà nước cấp bộ
Kiểm tra văn bản QPPL do các bộ, cơ quan ngang bộ ban hành có thể đƣợc coi
là một hình thức kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nƣớc của các cơ
quan này nhằm phát hiện và loại trừ sự lạm quyền từ phía các cơ quan có thẩm quyền
ban hành văn bản QPPL, loại trừ tối đa tình trạng không hợp hiến, hợp pháp của nội
dung văn bản QPPL, bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân. Tuy nhiên, kiểm tra
văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành với cơ chế tổ chức nhƣ hiện nay mới
chỉ đáp ứng phần nào nhu cầu kiểm soát quyền lực nhà nƣớc, bởi cơ chế này đƣợc đặt
trong nội bộ các cơ quan hành chính nhà nƣớc, do vậy, mới chỉ thực hiện đƣợc việc
kiểm soát bên trong, mang tính chất nội bộ giữa các cơ quan hành chính nhà nƣớc.
Thứ hai, là phương thức bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân;
bảo đảm lợi ích của doanh nghiệp, lợi ích của công dân
Nhà nƣớc pháp quyền đề cao giá trị của con ngƣời trong mối quan hệ với Nhà
nƣớc. Một trong những yêu cầu không thể thiếu của Nhà nƣớc pháp quyền là tôn
trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con ngƣời. “Trong mối quan hệ với quyền con người,
Nhà nước pháp quyền có ba nghĩa vụ chính, đó là: nghĩa vụ chú ý, nghĩa vụ bảo vệ và
nghĩa vụ thực thi” [129]. Trong nghĩa vụ chú ý, Nhà nƣớc không đƣợc trực tiếp hoặc
45
gián tiếp cản trở cá nhân thực hiện quyền con ngƣời của họ. Trong nghĩa vụ bảo vệ,
Nhà nƣớc phải bảo vệ cá nhân khỏi sự can thiệp vào vị trí pháp lý của họ bởi ngƣời
thứ ba, suy rộng ra, nhà nƣớc có trách nhiệm giữ cho quyền con ngƣời đã đƣợc quy
định trong Hiến pháp đƣợc nguyên vẹn, đúng nhƣ đã đƣợc ghi nhận thông qua các
hình thức khác nhau mà không bị xâm phạm bởi bất kỳ đối tƣợng nào. Nghĩa vụ thực
thi đòi hỏi Nhà nƣớc phải tạo điều kiện để thực thi các quyền của họ thông qua các
biện pháp tích cực mà nhà nƣớc tiến hành.
Văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành là một phƣơng tiện để triển
khai thực hiện, ghi nhận, bảo đảm, bảo vệ quyền con ngƣời, nhƣng cũng có khả năng
chứa đựng các “nguy cơ” xâm phạm quyền con ngƣời. Theo khoản 2 Điều 14 Hiến pháp
năm 2013: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của
luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn
xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” [101]. Văn bản QPPL do bộ, cơ quan
ngang bộ ban hành là văn bản dƣới luật và chủ yếu là các văn bản quy định chi tiết,
hƣớng dẫn thi hành pháp luật. Bởi vậy, hoạt động kiểm tra văn bản là nhằm mục đích
ngăn chặn các quy định bất hợp hiến, bất hợp pháp trong việc tổ chức, hƣớng dẫn thi
hành các quy định của pháp luật, pháp luật về quyền con ngƣời chủ yếu đƣợc thực hiện
thông qua việc ban hành văn bản của các bộ, cơ quan ngang bộ. Cụ thể là việc tìm ra
các quy định trái với các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền con ngƣời (đặc trƣng
nhất là quy định hạn chế quyền con ngƣời tại các văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang
bộ ban hành), để xử lý hoặc kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền xử lý. Tuy nhiên,
cần có sự cân bằng (giải quyết vấn đề) giữa nhu cầu, nhận thức quản lý của các cơ
quan quản lý nhà nƣớc và quyền con ngƣời cũng nhƣ việc ban hành thể chế tại các bộ,
cơ quan ngang bộ và địa phƣơng, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nƣớc song cần bảo đảm
đúng pháp luật, tôn trọng và bảo vệ quyền con ngƣời.
Bên cạnh đó, kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành còn đƣợc coi
là phƣơng thức đảm bảo lợi ích của doanh nghiệp, lợi ích của công dân. Theo đó, văn
bản QPPL còn là công cụ để Nhà nƣớc quản lý kinh tế, tạo điều kiện cho nền kinh tế
thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa đƣợc thực hiện và phát triển thuận lợi. Nhà
nƣớc đã ban hành những văn bản có tính chất tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát
triển tốt, mở rộng sản xuất kinh doanh, hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu thuận
lợi, góp phần phát triển kinh tế đất nƣớc. Chính sách pháp luật của Nhà nƣớc đã có
46
những tác động lớn đến sự phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, thời gian qua, một
số doanh nghiệp đã có nhiều phản ánh về nội dung trái pháp luật của một số văn bản gây
ảnh hƣởng đến lợi ích của các doanh nghiệp. Chẳng hạn, Luật Đầu tƣ năm 2014 quy
định chỉ văn bản QPPL của Chính phủ trở lên mới có thẩm quyền quy định về điều kiện
kinh doanh, nhƣng theo Báo cáo số 327/KTRVB-KT ngày 20/6/2016 của Cục Kiểm tra
văn bản QPPL – Bộ Tƣ pháp, tính từ khi Luật Đầu tƣ 2014 có hiệu lực (01/7/2015) đến
nay (tháng 5/2016), vẫn còn 18 văn bản của bộ, cơ quan ngang bộ quy định về điều kiện
kinh doanh trái thẩm quyền. Việc kiểm tra, xử lý đối với các văn bản này góp phần tháo
dỡ rào cản đầu tƣ kinh doanh do các bộ, cơ quan ngang bộ dựng lên trái thẩm quyền.
Về phía ngƣời dân, nội dung của nhiều lĩnh vực văn bản pháp luật điều chỉnh
có liên quan trực tiếp đến lợi ích của công dân, nhƣ các văn bản liên quan đến quyền
lợi của ngƣời dân nhƣ: bồi thƣờng, hỗ trợ tái định cƣ khi nhà nƣớc thu hồi đất; liên
quan đến thủ tục, giấy tờ hành chính; các vấn đề khác… có tiềm ẩn nhiều khả năng
xâm phạm lợi ích hợp pháp của ngƣời dân. Vì thế, kiểm tra văn bản QPPL nói chung
và kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ nói riêng sẽ thực hiện chức năng
bảo vệ quyền lợi của nhân dân thông qua chế độ kiểm tra, xử lý các nội dung trái pháp
luật của văn bản.
Thứ ba, kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành nhằm góp phần
bảo vệ Hiến pháp, đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính hợp lý, khả thi của văn bản
quy phạm pháp luật
Thực tiễn thời gian qua cho thấy, một số văn bản đã gặp phải những phản ứng
khá gay gắt của ngƣời dân do văn bản không những trái pháp luật, mà còn không đảm
bảo tính khả thi, khó có thể đƣợc thực hiện trên thực tiễn. Ví dụ việc Bộ Tƣ pháp tổ
chức kiểm tra Quyết định số 33/2008/QĐ-BYT về việc ban hành tiêu chuẩn sức khỏe
ngƣời điều khiển phƣơng tiện giao thông cơ giới đƣờng bộ và Quyết định số
34/2008/QĐ-BYT về việc ban hành tiêu chuẩn sức khỏe ngƣời khuyết tật điều khiển
môtô, xe máy ba bánh dành cho ngƣời khuyết tật. Cục Kiểm tra văn bản QPPL cho
rằng, việc đƣa ra quá nhiều tiêu chuẩn (83 tiêu chuẩn), đặc biệt là có những tiêu chuẩn
cụ thể về chiều cao, cân nặng, số đo vòng ngực và một số tiêu chuẩn khác không phù
hợp với thực tế đã hạn chế quyền hiến định của công dân trong việc sử dụng tài sản -
phƣơng tiện giao thông. Mặt khác tạo sự phân biệt đối xử không cần thiết đối với một
47
số công dân có hạn chế về các tiêu chuẩn nêu trên... Cục Kiểm tra văn bản QPPL (Bộ
Tƣ pháp) đề nghị Bộ Y tế thực hiện việc tự kiểm tra, xử lý đối với hai quyết định đã
ban hành để đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp cũng nhƣ tính hợp lý của văn bản. Kết
quả, các văn bản trên đã đƣợc xử lý theo quy định. Lẽ ra, Bộ Y tế phải phối hợp với
Bộ Giao thông vận tải để ban hành thông tƣ liên tịch thì mới phù hợp vì kết hợp đƣợc
tiêu chí sức khỏe của ngƣời điều khiển và quy định đảm bảo an toàn của phƣơng tiện.
Qua kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành, cơ quan kiểm
tra văn bản còn phát hiện thấy văn bản làm cơ sở pháp lý để kiểm tra (Luật, Nghị
định), trong nhiều trƣờng hợp có nội dung chƣa đảm bảo tính hợp pháp, hợp lý, nhất là
tính hợp lý, dẫn đến văn bản quy định chi tiết của bộ, cơ quan ngang bộ cũng có những
khiếm khuyết tƣơng tự. Do đó, qua kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban
hành, chủ thể có thẩm quyền kiểm tra văn bản còn phát hiện và có kiến nghị đối với
nội dung các văn bản khác của các cơ quan nhà nƣớc cấp trên để nghiên cứu, hoàn
thiện các văn bản đó.
Thứ tư, kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành góp phần nâng
cao chất lượng ban hành văn bản QPPL, đảm bảo trật tự, kỷ cương trong ban hành
văn bản quy phạm pháp luật, hoàn thiện hệ thống pháp luật
Nhƣ đã nêu, văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành thƣờng là căn cứ trực
tiếp của văn bản QPPL do các cấp chính quyền địa phƣơng ban hành. Văn bản do bộ,
cơ quan ngang bộ ban hành hợp hiến, hợp pháp, thống nhất, đồng bộ sẽ là tiền đề quan
trọng để toàn hệ thống văn bản từ cấp bộ tới địa phƣơng hợp hiến, hợp pháp, thống
nhất, đồng bộ; ngƣợc lại, sẽ dẫn đến việc trái, mẫu thuẫn, chồng chéo trong hệ thống
pháp luật. Việc áp dụng các văn bản trái pháp luật sẽ để lại hậu quả, ảnh hƣởng đến
quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, công dân nói chung và lợi ích của
doanh nghiệp, ngƣời dân nói riêng, làm ảnh hƣởng đến tính “tối thƣợng” của pháp luật
trong Nhà nƣớc pháp quyền. Quá trình kiểm tra, xử lý các văn bản QPPL do bộ, cơ
quan ngang bộ ban hành không những góp phần làm cho việc soạn thảo, ban hành văn
bản QPPL của bộ, cơ quan ngang bộ từng bƣớc đi vào nề nếp, xiết chặt kỷ luật trong
soạn thảo, ban hành văn bản mà còn góp phần làm cho hệ thống các văn bản QPPL
của các cấp chính quyền địa phƣơng cũng đƣợc điều chỉnh cho phù hợp.
Hơn nữa, hiện nay với vai trò của các phƣơng tiện truyền thông trong hoạt động
đƣa tin, phản ánh về văn bản QPPL có dấu hiệu trái pháp luật, đã tác động mạnh mẽ
48
đối với việc đảm bảo chất lƣợng, trật tự, kỷ cƣơng trong xây dựng, ban hành văn bản.
Theo đó, việc các phƣơng tiện thông tin đại chúng, cơ quan, tổ chức, công dân “đồng
loạt lên tiếng” về các nội dung trái pháp luật của các văn bản QPPL chính là sự giám
sát chặt chẽ, có tác động lớn, làm cho cơ quan ban hành văn bản cũng nhƣ cơ quan
kiểm tra văn bản buộc phải khẩn trƣơng hơn, thấu đáo hơn trong xem xét, xử lý văn
bản có dấu hiệu trái pháp luật.
Thứ năm, kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành nhằm góp phần
phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa
Đặc tính này thể hiện vai trò chung của kiểm tra văn bản QPPL. Kiểm tra văn
bản QPPL không chỉ là việc của cơ quan nhà nƣớc, ngƣời có thẩm quyền kiểm tra văn
bản mà theo các quy định hiện hành về kiểm tra văn bản thì còn có sự tham gia của cơ
quan, tổ chức, công dân vào hoạt động này. Đó chính là tính ƣu việt của phƣơng thức
kiểm tra văn bản theo các nguồn thông tin. Nhờ các quy định này, mà thời gian vừa
qua, các cơ quan có thẩm quyền kiểm tra văn bản đã tiếp nhận và kiểm tra, xử lý kịp
thời nhiều văn bản QPPL trái pháp luật, nhất là các văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ
ban hành.
2.3. NGUYÊN TẮC, ĐỐI TƢỢNG, CHỦ THỂ, NỘI DUNG KIỂM TRA
VĂN BẢN QPPL DO BỘ, CƠ QUAN NGANG BỘ BAN HÀNH
2.3.1. Nguyên tắc kiểm tra văn bản
Kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành phải tuân thủ nghiêm ngặt
những nguyên tắc quan trọng, góp phần nâng cao chất lƣợng, hiệu quả, phát huy vai
trò của kiểm tra văn bản QPPL trên thực tiễn. Các nguyên tắc cần sử dụng trong kiểm
tra văn bản QPPL nhƣ sau:
Một là: Nguyên tắc thường xuyên, kịp thời
Tính thƣờng xuyên của hoạt động kiểm tra văn bản thể hiện ở việc, chỉ cần có
văn bản đƣợc ban hành là phát sinh hoạt động kiểm tra; hoạt động kiểm tra văn bản
không mang tính kế hoạch, cơ quan, ngƣời có thẩm quyền ban hành văn bản khó có thể
dự kiến cụ thể đƣợc sẽ kiểm tra những văn bản nào, kiểm tra bao nhiêu văn bản… trong
những thời kỳ nhất định, vì vậy, cơ quan, ngƣời có thẩm quyền kiểm tra văn bản luôn ở
trong tƣ thế sẵn sàng tiếp nhận và thực hiện kiểm tra văn bản.
Thực hiện tốt nguyên tắc kiểm tra thƣờng xuyên có thể đáp ứng đƣợc yêu cầu
của tính kịp thời. Nguyên tắc kiểm tra văn bản kịp thời yêu cầu cơ quan, ngƣời có
49
thẩm quyền kiểm tra, phát hiện nội dung trái pháp luật đúng thời điểm, giúp cho văn
bản sau khi đƣợc ban hành không có “cơ hội” phát sinh hiệu lực, đƣa vào áp dụng
trong thực tiễn, gây thiệt hại cho đối tƣợng chịu sự tác động. Tính kịp thời có ý nghĩa
rất lớn, góp phần “kịp thời” bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức,
công dân. Ngoài ra, nguyên tắc kịp thời còn thể hiện ở việc cơ quan, ngƣời có thẩm
quyền khẩn trƣơng tổ chức kiểm tra những văn bản có nội dung trái pháp luật sau khi
nhận đƣợc phản ánh của cơ quan, tổ chức, công dân và các phƣơng tiện thông tin đại
chúng. Từ kết quả kiểm tra, phải khẩn trƣơng xử lý hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm
quyền xử lý văn bản QPPL có nội dung trái pháp luật, nhằm hạn chế thấp nhất việc
tiếp tục áp dụng văn bản trái pháp luật, có thể gây thiệt hại cho đối tƣợng chịu sự tác
động của văn bản.
Hai là: Nguyên tắc khách quan, công khai, minh bạch
Nguyên tắc này đòi hỏi cơ quan, ngƣời có thẩm quyền kiểm tra văn bản xem xét
văn bản đƣợc kiểm tra với tất cả những vấn đề có liên quan thật thận trọng, không vì
một động cơ hay mục đích cá nhân nào, trong đó có sự phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ
với các cơ quan có liên quan, cơ quan, ngƣời đã ban hành văn bản để nắm rõ tình hình
và các vấn đề khác liên quan đến văn bản đƣợc kiểm tra. Trên cơ sở tôn trọng sự thật
khách quan và quá trình nghiên cứu, xem xét, cơ quan, ngƣời có thẩm quyền kiểm tra
văn bản kết luận về tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản đƣợc kiểm tra.
Yêu cầu của nguyên tắc khách quan, công khai, minh bạch trong kiểm tra văn
bản đòi hỏi mọi khâu trong quá trình này phải rõ ràng, ai cũng có thể hiểu về quy trình,
ai cũng có thể biết đƣợc kết quả của hoạt động kiểm tra một văn bản cụ thể, nhƣ các
kết luận kiểm tra văn bản, các yêu cầu xử lý văn bản trái pháp luật, hay các quyết định
xử lý nội dung trái pháp luật của văn bản của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền…
ngƣời dân và doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận với các thông tin trên, từ đó, nắm rõ về
tình trạng pháp lý của một văn bản QPPL, góp phần cho việc áp dụng pháp luật cũng
nhƣ việc tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, công dân.
Ba là: Nguyên tắc xử lý văn bản trái pháp luật nhanh chóng, triệt để
Nguyên tắc này giúp hạn chế rủi ro, thiệt hại do áp dụng văn bản trái pháp luật
gây ra, đồng thời, nhanh chóng ban hành văn bản mới để thay thế, bãi bỏ, giúp cho các
quan hệ xã hội không bị đình trệ do không có QPPL để điều chỉnh. Nguyên tắc này
cũng góp phần làm minh bạch hệ thống văn bản QPPL.
50
Nhiều quan điểm cho rằng, cần phải bổ sung một số nguyên tắc nhƣ nguyên tắc
kiểm tra văn bản QPPL phải đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục, tuy nhiên, từ thực tế
thấy rằng, việc thực hiện đúng các quy định pháp luật về kiểm tra văn bản là phải thực
hiện nghiêm chỉnh các quy định về thẩm quyền, trình tự rồi, không cần phải quy định
thành nguyên tắc nữa. Ngoài ra, không tuân thủ trình tự kiểm tra văn bản có thể dẫn tới
vi phạm nguyên tắc khách quan, công khai, minh bạch trong kiểm tra văn bản. Chính
vì vậy, cần có quy định về xử lý đối với trƣờng hợp không tuân thủ đúng thẩm quyền,
trình tự trong kiểm tra văn bản.
Kết hợp giữa việc kiểm tra của cơ quan có thẩm quyền với việc tự kiểm tra của
cơ quan ban hành văn bản, bảo đảm sự phối hợp giữa các cơ quan có liên quan cũng
đƣợc một số quan điểm cho là nguyên tắc của kiểm tra văn bản. Tuy nhiên, việc kết
hợp giữa việc kiểm tra của cơ quan có thẩm quyền với việc tự kiểm tra của cơ quan
ban hành văn bản trong kiểm tra văn bản nhằm giúp cho hoạt động kiểm tra văn bản
đạt đƣợc kết quả cao, đây cũng chính là một thao tác kỹ thuật nghiệp vụ kiểm tra văn
bản, cần lồng ghép vào các chƣơng trình tập huấn nghiệp vụ của cơ quan có thẩm
quyền mà không cần thiết phải quy định thành nguyên tắc kiểm tra văn bản. Tƣơng tự
nhƣ vậy, việc phối hợp giữa các cơ quan trong kiểm tra văn bản cũng là một hoạt động
mang tính nghiệp vụ, bên cạnh đó, công tác phối hợp giữa các cơ quan đƣợc coi là
nguyên tắc hành chính giữa các cơ quan hành chính với nhau và đã đƣợc quy định ở
các văn bản khác, vì vậy, cũng không nhất thiết phải quy định thành một nguyên tắc
trong kiểm tra văn bản. Ngoài ra, một số quan điểm khác cho rằng, cần đƣa các nội
dung nhƣ: Nghiêm cấm các cơ quan, tổ chức, cá nhân lợi dụng việc kiểm tra văn bản
vì mục đích vụ lợi, gây khó khăn cho hoạt động bình thƣờng của cơ quan, ngƣời đã
ban hành văn bản và can thiệp vào quá trình xử lý văn bản trái pháp luật; Sau khi kiểm
tra, cơ quan kiểm tra văn bản phải có kết luận về việc kiểm tra và thông báo cho cơ
quan, ngƣời có thẩm quyền đã ban hành văn bản đƣợc kiểm tra theo quy định của pháp
luật; Cơ quan, ngƣời có thẩm quyền xử lý văn bản chịu trách nhiệm về kết luận kiểm
tra, xử lý của mình; nếu quyết định xử lý trái pháp luật thì phải khắc phục hậu quả
pháp lý do quyết định đó gây ra… Tuy nhiên, các nội dung trên hoặc là đã đƣợc quy
định mang tính nguyên tắc chung tại các văn bản về tổ chức bộ máy nhà nƣớc hoặc các
văn bản liên quan đến trách nhiệm của cán bộ, công chức trong khi thi hành công vụ,
51
do đó, trong mọi việc, cán bộ, công chức phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định này,
không cần thiết phải quy định thành nguyên tắc kiểm tra văn bản.
2.3.2. Đối tƣợng của hoạt động kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành
Từ các khái niệm trên về văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành và
kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành, có thể thấy, đối tƣợng của
hoạt động kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành bao gồm: (i)
Thông tƣ của Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang Bộ; (ii) Thông tƣ liên tịch giữa Bộ
trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang Bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện
trƣởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Ngoài ra, các văn bản QPPL do bộ, cơ quan
ngang bộ ban hành trƣớc đây (nhƣ quyết định, chỉ thị của Bộ trƣởng, thủ trƣởng cơ
quan ngang bộ, Thông tƣ liên tịch giữa các bộ trƣởng, thủ trƣởng cơ quan ngang bộ)
cũng có thể là đối tƣợng của hoạt động kiểm tra văn bản này nếu bị phản ánh, kiến
nghị (vì theo quy định của Luật năm 2015, các văn bản này vẫn còn hiệu lực cho đến
khi có văn bản thay thế, bãi bỏ).
Đây là những đối tƣợng chính, cốt yếu của hoạt động kiểm tra văn bản QPPL
do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành. Tuy nhiên, để tránh nguy cơ những văn bản hành
chính cá biệt mang tính chất hƣớng dẫn do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành nhƣng lại
chứa quy phạm pháp luật, không có căn cứ ban hành, vi phạm quyền con ngƣời, quyền
công dân, trong quá trình kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành,
cần mở rộng đối tƣợng đƣợc kiểm tra nếu có căn cứ phát sinh, mặc dù đó không phải
là văn bản QPPL.
Việc phát hiện kịp thời và tổ chức kiểm tra, xử lý các văn bản này có ý nghĩa
quan trọng trong bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân. Tuy nhiên, khối lƣợng văn
bản này do các cơ quan ban hành mỗi năm là rất lớn, có thể lên đến con số hàng triệu
văn bản, chính vì vậy, việc quy định “cứng” là cơ quan, ngƣời có thẩm quyền phải tổ
chức kiểm tra tất cả những văn bản này là không khả thi, cũng không cần thiết, tuy
nhiên, cần có cơ sở để kiểm tra loại văn bản này khi có dấu hiệu trái pháp luật và dựa
trên những căn cứ nhất định mới phát sinh hoạt động kiểm tra văn bản. Theo đó, việc
phối hợp, trao đổi thông tin, phản ánh giữa các phƣơng tiện thông tin đại chúng, cơ
quan, tổ chức, công dân với cơ quan có thẩm quyền kiểm tra văn bản có vai trò quan
trọng, cần phát huy trên thực tiễn. Quy định này khuyến khích và “mở đƣờng” cho các
cơ quan, tổ chức và cá nhân có quyền “lên tiếng” đề nghị cơ quan có thẩm quyền bảo
52
vệ quyền và lợi ích của chính mình hoặc của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác do các
quy định trái pháp luật gây ra.
Do đó, đối tƣợng của hoạt động kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang
bộ ban hành không chỉ là các văn bản QPPL, mà còn bao gồm cả các loại nhƣ sau: (i)
Văn bản có chứa quy phạm pháp luật do Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ ban
hành nhƣng không đƣợc ban hành bằng hình thức thông tƣ của Bộ trƣởng, Thủ trƣởng
cơ quan ngang bộ, thông tƣ liên tịch giữa bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ với
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trƣởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; (ii) Văn
bản có chứa quy phạm pháp luật hoặc văn bản có thể thức nhƣ văn bản quy phạm pháp
luật do cơ quan, ngƣời không có thẩm quyền ban hành. Cụ thể là, văn bản có thể thức
và nội dung nhƣ văn bản quy phạm pháp luật (ví dụ: thông tƣ), văn bản có thể thức
không phải là văn bản quy phạm pháp luật nhƣng có chứa quy phạm pháp luật (ví dụ:
công văn, thông cáo, thông báo, quy định, quy chế, điều lệ, chƣơng trình, kế hoạch và
các hình thức văn bản hành chính khác) do cơ quan, cá nhân không có thẩm quyền ban
hành văn bản quy phạm pháp luật ban hành: Thủ trƣởng đơn vị thuộc bộ, cơ quan
ngang bộ ban hành hoặc ngƣời đứng đầu các cơ quan, đơn vị thuộc bộ, cơ quan ngang
bộ, cơ quan thuộc Chính phủ đƣợc tổ chức ở cấp tỉnh, cấp huyện ban hành.
Nhƣ vậy, xét về mặt hình thức, đối tƣợng của hoạt động kiểm tra văn bản QPPL
do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành bao gồm: Thông tƣ của Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ
quan ngang bộ, Thông tƣ liên tịch giữa Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ với
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trƣởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và các
loại văn bản khác có chứa quy phạm pháp luật ban hành không đúng hình thức, thẩm
quyền. Xét về mặt nội dung, văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành gồm: Văn bản
do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành để thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc của bộ, cơ
quan ngang bộ đó và văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành để quy định chi tiết
các điều, khoản, điểm đƣợc Quốc hội, Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ giao trong các
văn bản QPPL.
2.3.3. Chủ thể có thẩm quyền kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan
ngang bộ ban hành
2.3.3.1. Thủ tướng Chính phủ
Bộ, cơ quan ngang bộ là các cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý
nhà nƣớc đối với ngành hoặc lĩnh vực trong phạm vi cả nƣớc, ban hành văn bản QPPL để
53
quản lý nhà nƣớc đối với các lĩnh vực đó. Đƣơng nhiên, các văn bản này phải theo trình tự
thủ tục chung và phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về tính thống nhất, sự phù hợp,
đồng bộ với Hiến pháp và các văn bản QPPL khác có hiệu lực pháp lý cao hơn do cơ
quan, ngƣời có thẩm quyền đã ban hành. Theo đó, Thủ tƣớng Chính phủ có thẩm quyền
kiểm tra Thông tƣ của Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ và nội dung quy định
thuộc lĩnh vực quản lý nhà nƣớc của bộ, cơ quan ngang bộ trong thông tƣ liên tịch giữa
Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện
trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Việc thực hiện chức năng của Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ trong hoạt động
kiểm tra, xử lý văn bản QPPL phải thông qua một bộ máy giúp việc cụ thể hoặc một bộ, cơ
quan ngang bộ nào đó trong Chính phủ. Ở Việt Nam, Bộ Tƣ pháp đƣợc giao nhiệm vụ giúp
Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ thực hiện kiểm tra, xử lý văn bản QPPL do bộ, cơ quan
ngang bộ ban hành.
2.3.3.2. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
Trƣớc hết, Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ có thẩm quyền và trách
nhiệm chủ động thực hiện việc tự kiểm tra văn bản QPPL do mình ban hành, kịp thời
phát hiện nội dung sai trái và tự xử lý các nội dung đó.
Đồng thời, bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ còn thực hiện việc kiểm
tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ khác ban hành có nội dung liên quan đến
ngành, lĩnh vực do mình phụ trách. Nhƣ vậy, Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang
bộ có thẩm quyền ở 02 hoạt động, đó là tự kiểm tra và kiểm tra văn bản theo thẩm
quyền. Điều này có thể hạn chế đến mức thấp nhất việc bỏ lọt văn bản QPPL có dấu
hiệu trái pháp luật.
Bộ trƣởng - Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ thực hiện thẩm quyền kiểm tra
tƣơng tự nhƣ các bộ, cơ quan ngang bộ, tức là tự mình kiểm tra văn bản do mình ban
hành và kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ khác ban hành liên quan đến lĩnh vực
do mình quản lý. Tuy nhiên, Bộ trƣởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ cũng có
nhiệm vụ khác với các bộ, ngành khác đó là giúp Thủ tƣớng Chính phủ kiểm tra Thông
tƣ do Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp ban hành về ngành, lĩnh vực quản lý nhà nƣớc của Bộ Tƣ
pháp; thông tƣ liên tịch giữa Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp với Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao, Viện trƣởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Bộ trƣởng, Chủ nhiệm Văn phòng
Chính phủ còn tiến hành kiểm tra, xử lý đối với các văn bản có chứa QPPL do Bộ
54
trƣởng Bộ Tƣ pháp hoặc Thủ trƣởng các đơn vị trực thuộc Bộ Tƣ pháp ban hành không
đúng thể thức, thẩm quyền.
2.3.3.3. Bộ trưởng Bộ Tư pháp
Có thể nói, Bộ Tƣ pháp có vai trò đặc biệt quan trọng đối với trong việc bảo
đảm tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất và đồng bộ của văn bản QPPL trong hệ thống
pháp luật nói chung. Bộ Tƣ pháp không những thực hiện các quyền trong kiểm tra văn
bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành tƣơng tự nhƣ các bộ, cơ quan ngang bộ khác,
mà còn có thẩm quyền kiểm tra các văn bản có chứa quy phạm pháp luật do Bộ
trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ ban hành nhƣng không đƣợc ban hành bằng hình
thức thông tƣ của Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ và văn bản có chứa quy
phạm pháp luật hoặc có thể thức nhƣ văn bản quy phạm pháp luật do Thủ trƣởng cơ
quan thuộc Chính phủ, Thủ trƣởng các đơn vị trực thuộc bộ, cơ quan ngang bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ ban hành.
Đồng thời, giúp Thủ tƣớng Chính phủ kiểm tra, xử lý văn bản QPPL của bộ, cơ
quan ngang bộ. Cụ thể là: (i) Thông tƣ của Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ;
(ii) Nội dung quy định thuộc lĩnh vực quản lý nhà nƣớc của bộ, cơ quan ngang bộ
trong thông tƣ liên tịch giữa Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ với Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao, Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Ngoài kiểm tra, xử lý văn bản QPPL thuộc trách nhiệm của mình và giúp Thủ
tƣớng Chính phủ trong kiểm tra, xử lý văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành, Bộ
Tƣ pháp còn có vai trò quan trọng trong việc giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà
nƣớc về công tác kiểm tra, xử lý văn bản trong phạm vi toàn quốc với các trách nhiệm
cụ thể đƣợc quy định tại Nghị định 40/2010/NĐ-CP (hiện nay đƣợc quy định tại Nghị
định 34/2016/NĐ-CP), gồm: Xây dựng, trình cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc
ban hành theo thẩm quyền các văn bản về kiểm tra, xử lý văn bản; Chủ trì, phối hợp
với Văn phòng Chính phủ, các Bộ, ngành, cơ quan có liên quan tổ chức thực hiện kế
hoạch kiểm tra văn bản thuộc thẩm quyền kiểm tra của Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp; Đôn
đốc, chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện công tác kiểm tra, xử lý văn bản của các Bộ,
ngành, địa phƣơng; Hƣớng dẫn nghiệp vụ, kiểm tra công tác kiểm tra, xử lý văn bản
đối với tổ chức pháp chế Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Sở Tƣ pháp,
Phòng Tƣ pháp; Tổ chức bồi dƣỡng nghiệp vụ kiểm tra, xử lý văn bản cho đội ngũ cán
bộ, công chức kiểm tra văn bản; tổ chức và quản lý đội ngũ cộng tác viên kiểm tra văn
55
bản; Tổ chức mạng lƣới thông tin, xây dựng và quản lý hệ cơ sở dữ liệu phục vụ cho
việc kiểm tra văn bản; tổ chức nghiên cứu khoa học về kiểm tra, xử lý văn bản; Sơ kết,
tổng kết, tổ chức hội thi theo ngành, lĩnh vực về công tác kiểm tra, xử lý văn bản; định
kỳ 6 tháng và hàng năm báo cáo Thủ tƣớng Chính phủ về công tác kiểm tra, xử lý văn
bản trong phạm vi toàn quốc; Khen thƣởng, kỷ luật và đề nghị cấp có thẩm quyền khen
thƣởng, kỷ luật các cán bộ, công chức và cộng tác viên kiểm tra văn bản thuộc quyền
quản lý; khen thƣởng cơ quan, tổ chức, cá nhân đã phát hiện và đề nghị Bộ trƣởng Bộ
Tƣ pháp kiểm tra, xử lý văn bản có dấu hiệu trái pháp luật; Thực hiện hợp tác quốc tế
trong lĩnh vực kiểm tra, xử lý văn bản; Giải quyết khiếu nại, tố cáo về kiểm tra, xử lý
văn bản theo thẩm quyền.
Có thể nói, hiệu quả của kiểm tra văn bản QPPL nói chung và kiểm tra văn bản
do bộ, cơ quan ngang bộ nói riêng phụ thuộc rất nhiều vào năng lực của Bộ Tƣ pháp
trong tác nghiệp nghiệp vụ cụ thể cũng nhƣ ở vai trò giúp Chính phủ thống nhất quản
lý nhà nƣớc về công tác này. Với chức năng giúp Thủ tƣớng Chính phủ trong kiểm tra,
xử lý văn bản QPPL, Bộ Tƣ pháp đƣợc ví nhƣ “ngƣời gác cổng” cho Chính phủ nhằm
không để “lọt” các quy định trái pháp luật có cơ hội phát sinh hiệu lực trên thực tiễn.
Hình ảnh này có thể nói lên đƣợc phần nào vai trò của Bộ Tƣ pháp trong kiểm tra văn
bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành. Vì lẽ đó, trong thời gian tới cần tiếp tục có
nghiên cứu, hoàn thiện tổ chức bộ máy Cục Kiểm tra văn bản QPPL - Bộ Tƣ pháp để
đáp ứng vị trí, vai trò trong kiểm tra văn bản QPPL nói chung và văn bản do bộ, cơ
quan ngang bộ ban hành.
2.3.4. Nội dung kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật do bộ, cơ quan
ngang bộ ban hành
Những nội dung cơ bản trong kiểm tra văn bản QPPL bao gồm:
Thứ nhất, văn bản được ban hành đúng căn cứ pháp lý, tức là có căn cứ pháp
lý cho việc ban hành: Đây là cơ sở để cơ quan, ngƣời có thẩm quyền xác định sự cần
thiết, nội dung vấn đề sẽ đƣợc điều chỉnh trong văn bản mà mình sẽ ban hành, bao
gồm các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nƣớc cấp trên có thẩm quyền
quy định về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan ban hành văn bản, về vấn đề thuộc đối
tƣợng, phạm vi điều chỉnh của văn bản. Đây phải là những văn bản quy phạm pháp
luật có hiệu lực pháp lý cao hơn văn bản sắp đƣợc ban hành, đang có hiệu lực hoặc, để
bảo đảm cho sự thống nhất, đồng bộ, tính ổn định cao của văn bản sắp đƣợc ban hành,
56
thì văn bản làm căn cứ pháp lý cho việc ban hành còn có thể là những văn bản đã đƣợc
ký ban hành, thông qua mà chƣa có hiệu lực tại thời điểm ban hành nhƣng có hiệu lực
trƣớc hoặc cùng thời điểm với văn bản sắp đƣợc ban hành đó.
Thứ hai, văn bản được ban hành đúng thẩm quyền, gồm thẩm quyền về hình
thức và thẩm quyền về nội dung: Nhƣ đã phân tích tại phần khái niệm văn bản QPPL,
thẩm quyền về hình thức nghĩa là cơ quan, ngƣời có thẩm quyền ban hành văn bản chỉ
đƣợc ban hành văn bản đúng hình thức (tên gọi) văn bản quy phạm pháp luật mà Luật
năm 2015 (trƣớc đó là Luật năm 2008) quy định. Cụ thể: Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ
quan ngang bộ ban hành thông tƣ; Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ liên tịch
với Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao, Viện trƣởng Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao
ban hành Thông tƣ liên tịch. Thẩm quyền về nội dung nghĩa là cơ quan, ngƣời có thẩm
quyền chỉ đƣợc ban hành các văn bản có nội dung phù hợp với thẩm quyền của mình
(không phải là vô hạn) đƣợc pháp luật cho phép hoặc đã đƣợc phân công, phân cấp
trong các văn bản của cơ quan nhà nƣớc cấp trên có thẩm quyền về chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn quản lý nhà nƣớc cụ thể của từng cơ quan, từng cấp, từng ngành đối với
từng lĩnh vực.
Thứ ba, nội dung của văn bản phù hợp với quy định của pháp luật: Đây có thể
coi là nội dung trọng tâm của kiểm tra văn bản QPPL. Để bảo đảm cho văn bản có sự
đồng bộ, phù hợp, không bị trái, mâu thuẫn, chồng chéo với các văn bản khác trong hệ
thống văn bản QPPL thì việc kiểm tra nội dung của văn bản là hết sức quan trọng. Nội
dung này đƣợc hiểu là (i) Văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành theo thẩm quyền
phải phù hợp với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của
Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội; lệnh, quyết định của Chủ tịch nƣớc; các văn bản do
Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ và các văn bản của cơ quan nhà nƣớc cấp trên; (ii)
Văn bản quy phạm pháp luật không quy định lại các nội dung đã đƣợc quy định trong
văn bản quy phạm pháp luật khác và bảo đảm thống nhất giữa văn bản hiện hành với
văn bản mới đƣợc ban hành của cùng một cơ quan.
Thứ tư, văn bản được ban hành đúng thể thức, kỹ thuật trình bày: thể thức, kỹ
thuật trình bày của văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành đƣợc quy định cụ
thể tại Chƣơng V Nghị định 34/2016/NĐ-CP (trƣớc đây đƣợc quy định tại Thông tƣ số
25/2011/TT-BTP ngày 27/12/2011 của Bộ Tƣ pháp về thể thức, kỹ thuật trình bày văn
bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ, Bộ trƣởng, Thủ trƣởng
57
cơ quan ngang Bộ và văn bản quy phạm pháp luật liên tịch). Cụ thể nhƣ: việc trình bày
đúng Quốc hiệu; tên cơ quan, tổ chức ban hành văn bản; số, ký hiệu văn bản; địa danh
và ngày, tháng, năm ban hành; tên của văn bản; nội dung văn bản (sự phù hợp với hình
thức của văn bản, các quy định phải đƣợc trình bày rõ ràng, chính xác, ngôn ngữ sử
dụng dễ hiểu, phổ thông)…
Ngoài ra, việc kiểm tra thể thức và kỹ thuật trình bày một văn bản QPPL không
chỉ là việc đối chiếu với các quy định về việc có hay không có, đúng hay không đúng
các thành phần thể thức của một văn bản QPPL mà cần phải chú trọng xem xét văn
phong pháp lý có chặt chẽ, có thể tạo ra nhiều cách hiểu khác nhau, có “lỗ hổng”
không? Có quy định chuyển tiếp để giải quyết các vấn đề có thể sẽ phát sinh sau khi
văn bản có hiệu lực không? Nội dung này cần đƣợc chú trọng trong hoạt động kiểm tra
văn bản. Tuy nhiên, để đánh giá về vấn đề này thì đòi hỏi bề dày kinh nghiệm, trình độ
của ngƣời kiểm tra văn bản, đồng thời, các nội dung này khó định lƣợng, vì vậy, cần
nghiên cứu kỹ lƣỡng để xây dựng các tiêu chí, cố gắng định lƣợng hóa để đánh giá nội
dung này trong kiểm tra văn bản.
Thứ năm, văn bản được ban hành phải tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp
luật về thủ tục xây dựng, ban hành và đăng Công báo, đưa tin hoặc công bố văn bản:
Nhƣ đã phân tích, để đảm bảo tính khách quan, công khai, minh bạch, việc soạn thảo,
ban hành văn bản QPPL phải theo trình tự thủ tục luật định và phải đƣợc đăng Công
báo và đƣa tin hoặc công bố phải tuân theo quy định của Luật năm 2008 và các văn
bản hƣớng dẫn thi hành (hiện nay là Luật năm 2015 và Nghị định 34/2016/NĐ-CP).
Trình tự, thủ tục ban hành văn bản QPPL đƣợc coi là một trong những dấu hiệu của
văn bản QPPL. Tuy nhiên, khi kiểm tra văn bản, thì khó có thể phát hiện đƣợc văn bản
đang đƣợc kiểm tra có đƣợc ban hành theo đúng trình tự, thủ tục hay không. Trƣờng
hợp văn bản bị phát hiện có dấu hiệu trái pháp luật, thì cơ quan, ngƣời có thẩm quyền
kiểm tra văn bản có thể phối hợp với cơ quan, ngƣời có thẩm quyền đã ban hành văn
bản đó để xem xét lại quá trình ban hành văn bản có theo đúng các quy định của pháp
luật về trình tự, thủ tục ban hành văn bản không, từ đó có phƣơng án xử lý. Đây cũng
là nội dung quan trọng trong kiểm tra văn bản, bởi trình tự kiểm tra văn bản bảo đảm
cho văn bản đƣợc ban hành khách quan, minh bạch và có ảnh hƣởng lớn đến chất
lƣợng của văn bản QPPL.
58
Hiện nay, có một số quan điểm cho rằng, cần bổ sung kiểm tra tính hợp lý, khả
thi của văn bản QPPL. Qua nghiên cứu thấy rằng, đối tƣợng của hoạt động kiểm tra
văn bản QPPL là các văn bản QPPL từ cấp bộ ban hành trở xuống văn bản QPPL của
các cấp chính quyền địa phƣơng. Về nội dung, các loại văn bản này phải tuân thủ
nghiêm ngặt, đảm bảo tính đồng bộ, phù hợp, thống nhất về mặt nội dung với các văn
bản của cơ quan nhà nƣớc cấp trên. Thực tế, khi cơ quan nhà nƣớc cấp trên ban hành
văn bản thì đã phải diễn ra hoạt động đánh giá tác động của dự thảo văn bản (RIA),
tổng kết, đánh giá thực tiễn, phải qua quy trình lấy ý kiến cơ quan, tổ chức, công dân,
thẩm định, thẩm tra… và các khâu này đã có nội dung đánh giá tính hợp lý, khả thi của
dự thảo văn bản. Cụ thể là các nội dung: Sự cần thiết ban hành văn bản, đối tƣợng,
phạm vi điều chỉnh của dự thảo văn bản; Sự phù hợp của nội dung dự thảo văn bản với
đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng; Nội dung của dự thảo văn bản và những
vấn đề còn có ý kiến khác nhau; Tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của dự
thảo văn bản với hệ thống pháp luật và tính tƣơng thích với điều ƣớc quốc tế có liên
quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; Tính khả thi của dự thảo
văn bản, bao gồm sự phù hợp giữa quy định của dự thảo văn bản với yêu cầu thực tế,
trình độ phát triển của xã hội và điều kiện bảo đảm để thực hiện; Ngôn ngữ, kỹ thuật
soạn thảo văn bản.
Trƣờng hợp sau khi văn bản đƣợc đƣa vào thi hành mà không còn phù hợp với tình
hình thực tiễn, không còn phù hợp với đƣờng lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà
nƣớc, dẫn đến không còn bảo đảm tính hợp lý, khả thi thì nó sẽ đƣợc rà soát, tổng kết
đánh giá nhằm sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản thay thế cho phù hợp.
Theo đó, các văn bản cấp dƣới lại cũng phải rà soát để sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ
văn bản của mình cho phù hợp với văn bản cấp trên.
Nhƣ vậy, các văn bản của cấp dƣới, căn cứ vào văn bản của cấp trên để ban hành,
có thể hiểu là đã gián tiếp đƣợc đảm bảo tính hợp lý, khả thi. Hiện nay còn nhiều tranh
luận về tính hợp lí. Thật khó để thống nhất tiêu chí cho tính hợp lí, bởi ở mỗi trƣờng
hợp cụ thể, tính hợp lí lại khác nhau. Một số nghiên cứu có đƣa ra tiêu chí nhƣng hết
sức trừu tƣợng, định tính. Chẳng hạn, tiêu chí ngôn ngữ biểu đạt, cách sắp xếp, liên kết
nội dung trong văn bản: tiêu chí này hoàn toàn có thể gây tranh cãi và không thể định
lƣợng đƣợc; tiêu chí phù hợp với đƣờng lối, chính sách của Đảng, phù hợp với điều
kiện phát triển kinh tế - xã hội (nội dung này đã phải có trong quá trình rà soát, đánh
59
giá để xây dựng văn bản cấp trên rồi, hoặc rà soát để xử lý văn bản theo quy định về rà
soát văn bản QPPL); tính thống nhất của văn bản (nội dung này thực chất là tính hợp
pháp, phù hợp, đồng bộ của văn bản)… Giải quyết vấn đề trong trƣờng hợp bảo đảm
tính hợp lý, khả thi nhƣng mâu thuẫn, không thống nhất, không phù hợp với văn bản
cấp trên cũng là vấn đề còn nhiều vƣớng mắc. Hơn nữa, theo Hiến pháp hiện hành và
thông lệ quốc tế thì chỉ thực hiện việc xem xét, xử lý đối với văn bản bất hợp hiến, bất
hợp pháp mà không đặt vấn đề bất hợp lý.
Với cơ chế ban hành văn bản nhƣ hiện nay, có thể nói, văn bản QPPL do bộ, cơ
quan ngang bộ ban hành hợp hiến, hợp pháp thì cơ bản đáp ứng tính hợp lý. Kiểm tra
tính hợp lý của văn bản QPPL có thể đặt ra nhiều rắc rối, sự tùy tiện, khó hoặc không
thể giải quyết đƣợc, tính khả thi không cao. Chẳng hạn, bên cạnh việc kiểm tra, phát
hiện tính hợp hiến, hợp pháp, cơ quan có thẩm quyền kiểm tra văn bản cần tổ chức
một đội ngũ chuyên gia để nghiên cứu, đƣa ra các luận cứ, các số liệu, các thí nghiệm
khoa học để thuyết minh về tính hợp lý của quy phạm pháp luật khi áp dụng trong thực
tiễn. Hơn nữa, thực tế cho thấy số văn bản này không nhiều, sau khi đƣợc ban hành
gặp phản ứng của dƣ luận xã hội cơ bản đã đƣợc xử lý. Do đó, trƣớc mắt, Luận án này
chƣa đặt vấn đề kiểm tra tính hợp lý của văn bản QPPL mà nội dung này chỉ nên đặt ra
khi rà soát văn bản. Nên chăng, tính hợp lý của văn bản cụ thể nên để cho dƣ luận xã
hội, các phƣơng tiện truyền thông, cơ quan, tổ chức, cá nhân, đối tƣợng áp dụng của
văn bản có kiến nghị, đề xuất với cơ quan đã ban hành văn bản đó.
2.4. PHƢƠNG THỨC, TRÌNH TỰ, THỦ TỤC KIỂM TRA VĂN BẢN
QPPL DO BỘ, CƠ QUAN NGANG BỘ BAN HÀNH
2.4.1. Phƣơng thức kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành
Kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành đƣợc tiến hành
thông qua các phƣơng thức: (1) Tự kiểm tra văn bản của cơ quan, ngƣời có thẩm
quyền ban hành văn bản, (2) Kiểm tra văn bản theo thẩm quyền (bao gồm: (i) kiểm tra
văn bản do cơ quan, ngƣời ban hành văn bản gửi đến, (ii) kiểm tra văn bản khi nhận
đƣợc yêu cầu, kiến nghị của các cơ quan, tổ chức, cá nhân phản ánh về văn bản có dấu
hiệu trái pháp luật và (iii) Kiểm tra văn bản theo chuyên đề, địa bàn (tại cơ quan ban
hành văn bản) hoặc theo ngành, lĩnh vực).
60
2.4.1.1. Tự kiểm tra văn bản QPPL
Để bảo đảm tính chủ động, sự linh hoạt trong quản lý hành chính nhà nƣớc, tạo
cơ hội tự xem xét, tự kiểm tra, tự sửa sai trƣớc khi văn bản đƣợc cơ quan có thẩm
quyền khác kiểm tra, xử lý. Đồng thời, cũng bảo đảm nguyên tắc thƣờng xuyên, kịp
thời trong kiểm tra, xử lý văn bản QPPL, văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban
hành đƣợc chính Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ đó tự kiểm tra. Việc tự
kiểm tra văn bản đƣợc thực hiện trong các trƣờng hợp: ngay sau khi văn bản đƣợc ban
hành; nhận đƣợc yêu cầu, kiến nghị của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc nhận đƣợc kết
luận kiểm tra của cơ quan có thẩm quyền kiểm tra văn bản yêu cầu tự kiểm tra, xử lý.
2.4.1.2. Kiểm tra văn bản QPPL theo thẩm quyền
Ngoài việc đƣợc cơ quan đã ban hành văn bản tự kiểm tra, văn bản QPPL của
bộ, cơ quan ngang bộ còn đƣợc kiểm tra bởi cơ quan khác theo phƣơng thức kiểm tra
văn bản theo thẩm quyền, bao gồm:
(i) Kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ gửi đến
Cơ quan có thẩm quyền kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành
tiếp nhận văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ gửi đến, phân loại, xác định thẩm
quyền và phân công ngƣời thực hiện kiểm tra văn bản ngay tại cơ quan có thẩm quyền
kiểm tra văn bản. Trên cơ sở nguyên tắc kiểm tra thƣờng xuyên, kịp thời, văn bản
QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ sau khi đƣợc ký ban hành, cơ quan, ngƣời có thẩm
quyền ban hành văn bản, cơ quan chủ trì soạn thảo phải gửi văn bản đến cơ quan,
ngƣời có thẩm quyền kiểm tra văn bản (thông qua Cục Kiểm tra văn bản quy phạm
pháp luật thuộc Bộ Tƣ pháp; tổ chức pháp chế bộ, cơ quan ngang bộ). Theo đó, thông
tƣ của Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang Bộ gửi đến Cục Kiểm tra văn bản - Bộ
Tƣ pháp và tổ chức pháp chế bộ, cơ quan ngang bộ có thẩm quyền kiểm tra văn bản
theo ngành, lĩnh vực; Thông tƣ liên tịch giữa các Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan
ngang Bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trƣởng Viện Kiểm sát nhân dân
tối cao do Bộ, cơ quan ngang bộ gửi đến Cục Kiểm tra văn bản - Bộ Tƣ pháp; Thông
tƣ của Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp, thông tƣ liên tịch giữa Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp với
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trƣởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao do Bộ
Tƣ pháp gửi đến Vụ Pháp luật - Văn phòng Chính phủ. Cơ quan, ngƣời có thẩm quyền
ban hành văn bản ghi rõ trong mục “Nơi nhận” của văn bản, tên của cơ quan kiểm tra
văn bản mà mình có trách nhiệm gửi văn bản đến để kiểm tra. Có thể coi đây là
61
phƣơng thức kiểm tra văn bản chủ đạo trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra văn
bản tại các cơ quan có thẩm quyền. Phƣơng thức này góp phần đảm bảo thực hiện
đƣợc nguyên tắc kiểm tra văn bản kịp thời, song, để thực hiện tốt phƣơng thức này lại
phụ thuộc nhiều vào ý thức trách nhiệm của cơ quan ban hành văn bản, đồng thời,
thƣờng dẫn đến một sự thụ động nhất định từ cơ quan có thẩm quyền kiểm tra văn bản
(chỉ chờ đợi cơ quan ban hành văn bản gửi văn bản đến mới thực hiện việc kiểm tra).
(ii) Kiểm tra văn bản khi nhận được yêu cầu, kiến nghị của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân phản ánh về văn bản có dấu hiệu trái pháp luật (hay còn gọi là phương
thức kiểm tra văn bản theo các nguồn thông tin)
Trên cơ sở phản ánh, kiến nghị của các cơ quan, tổ chức, cá nhân về văn bản có
dấu hiệu trái pháp luật, cơ quan có thẩm quyền xem xét, đối chiếu quy định của pháp
luật hoặc văn bản đƣợc ban hành có dấu hiệu trái với pháp luật hiện hành đó với văn
bản làm căn cứ pháp lý nhằm phát hiện những nội dung trái pháp luật, kịp thời xử lý
nhằm đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của văn bản trong hệ thống
pháp luật. Phản ánh, kiến nghị có thể đƣợc thực hiện thông qua các phƣơng tiện thông
tin đại chúng, cổng thông tin điện tử của cơ quan, tổ chức hoặc do cơ quan, tổ chức, cá
nhân trực tiếp phản ánh hoặc gửi văn bản yêu cầu, kiến nghị. Ở phƣơng thức này, hoạt
động kiểm tra văn bản sẽ phát sinh sau khi có yêu cầu, kiến nghị về văn bản có dấu
hiệu trái pháp luật. Do vậy, cần có hoạt động phổ biến, tuyên truyền tốt để cơ quan, tổ
chức, cá nhân biết rõ về quyền của mình trong hoạt động kiểm tra văn bản để chủ động
kiến nghị nếu nhận thấy một văn bản có dấu hiệu trái pháp luật, nhằm kịp thời yêu cầu
cơ quan có thẩm quyền tổ chức kiểm tra và xử lý văn bản đó.
Văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành là đối tƣợng của phƣơng thức kiểm
tra văn bản theo các nguồn thông tin ở bộ, cơ quan ngang bộ khá đa dạng, gồm: (i)
toàn bộ các văn bản QPPL do cơ quan có thẩm quyền ban hành trở thành đối tƣợng
của hoạt động kiểm tra văn bản QPPL theo các nguồn thông tin khi cơ quan, ngƣời có
thẩm quyền nhận đƣợc “yêu cầu, kiến nghị của các cơ quan, tổ chức, cá nhân phản ánh
về văn bản có dấu hiệu trái pháp luật và (ii) Văn bản có chứa quy phạm pháp luật
nhƣng không đƣợc ban hành bằng hình thức văn bản quy phạm pháp luật; văn bản có
chứa quy phạm pháp luật hoặc có thể thức nhƣ văn bản quy phạm pháp luật do cơ
quan, ngƣời không có thẩm quyền ban hành nhƣ đã nêu tại Mục 2.3.2. (Đối tƣợng của
hoạt động kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành). Việc kiểm tra và xử lý
62
các văn bản có chứa quy phạm pháp luật nhƣng không đƣợc ban hành bằng hình thức
văn bản quy phạm pháp luật; văn bản có chứa quy phạm pháp luật hoặc có thể thức
nhƣ văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan, ngƣời không có thẩm quyền ban hành chỉ
đƣợc tiến hành khi có yêu cầu, kiến nghị hoặc khiếu nại của cơ quan, tổ chức, các
phƣơng tiện thông tin đại chúng và cá nhân (phải có căn cứ (phản ánh) mà không phải
là đối tƣợng đƣơng nhiên của hoạt động kiểm tra văn bản). Thông thƣờng, các văn bản
này đã có những tác động nhất định (thƣờng là ảnh hƣởng đến quyền và lợi ích của cơ
quan, tổ chức và công dân) tới đời sống kinh tế - xã hội, sau khi đƣợc phản ánh (từ
phía các chủ thể trên hoặc từ các phƣơng tiện truyền thông), cơ quan có thẩm quyền
triển khai kiểm tra, phát hiện văn bản (thƣờng là Công văn) có chứa quy phạm pháp
luật nhƣng lại không đƣợc ban hành bằng hình thức văn bản quy phạm pháp luật sẽ
tiến hành xử lý tùy vào từng trƣờng hợp cụ thể.
Có thể nhận thấy, đối tƣợng của phƣơng thức kiểm tra văn bản QPPL theo các
nguồn thông tin là khá rộng, không bị hạn chế. Có thể coi đây là phƣơng thức dân chủ,
bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, công dân; là một hình thức kiểm
soát quyền lực nhà nƣớc. Việc triển khai thực hiện tốt phƣơng thức này góp phần củng cố
lòng tin của nhân dân vào pháp luật, vào các cơ quan công quyền.
(iii) Kiểm tra văn bản theo chuyên đề, địa bàn (tại cơ quan ban hành văn bản)
hoặc theo ngành, lĩnh vực
Đây là hoạt động kiểm tra văn bản tƣơng đối đặc thù, phụ thuộc vào nhu cầu
quản lý nhà nƣớc của cơ quan, ngƣời có thẩm quyền trong một lĩnh vực nhất định,
trong một phạm vi (bộ, ngành hay địa phƣơng), một thời kỳ nhất định. Căn cứ vào yêu
cầu quản lý nhà nƣớc, mà bộ, cơ quan ngang bộ quyết định việc kiểm tra văn bản theo
một chuyên đề nào đó tại một bộ, ngành, địa phƣơng nhất định có liên quan đến một
hay nhiều lĩnh vực quản lý nhà nƣớc do mình phụ trách; hoặc tại một địa bàn nhất định
nào đó. Hoạt động kiểm tra văn bản theo phƣơng thức này giúp cho cơ quan, ngƣời có
thẩm quyền ban hành văn bản đánh giá đƣợc chất lƣợng văn bản QPPL trong một lĩnh
vực cụ thể, từ kết quả kiểm tra, có thể hoàn thiện hoặc kiến nghị hoàn thiện hệ thống
văn bản QPPL trong lĩnh vực đó; hoặc có thể đánh giá tình hình xây dựng, ban hành
văn bản QPPL của một địa bàn nhất định (bộ, cơ quan ngang bộ, tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ƣơng) để có giải pháp kiến nghị hoàn thiện hệ thống văn bản QPPL của
địa bàn hoặc có đánh giá, kết luận và đƣa ra các giải pháp tăng cƣờng năng lực trong
63
kiểm tra văn bản QPPL của địa bàn đó (chủ yếu mang tính chất quản lý nhà nƣớc
trong kiểm tra văn bản QPPL).
2.4.2. Trình tự, thủ tục kiểm tra, xử lý văn bản QPPL do bộ, cơ quan
ngang bộ ban hành
2.4.2.1. Trình tự, thủ tục tự kiểm tra, xử lý văn bản
(i) Gửi văn bản kiểm tra: Văn bản quy phạm pháp luật sau khi đƣợc ký ban
hành, thì đơn vị làm nhiệm vụ phát hành đồng thời phải gửi văn bản cho đơn vị đƣợc
phân công làm đầu mối tự kiểm tra để thực hiện việc tự kiểm tra văn bản. Đối với văn
bản liên tịch không chủ trì soạn thảo và phát hành nhƣng là một bên ký, thì khi nhận
đƣợc văn bản, Văn phòng (Bộ, cơ quan ngang Bộ) có trách nhiệm sao gửi đơn vị đƣợc
phân công làm đầu mối để tự kiểm tra. Trƣờng hợp các cơ quan, đơn vị nhận đƣợc yêu
cầu, kiến nghị, khiếu nại của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc cơ quan thông tin đại
chúng về văn bản trái pháp luật, thì cơ quan, đơn vị có trách nhiệm phải gửi ngay cho
cơ quan, đơn vị đƣợc phân công làm đầu mối tự kiểm tra.
(ii) Nhận văn bản tự kiểm tra: đơn vị đƣợc phân công làm đầu mối tự kiểm tra
phải vào "Sổ văn bản đến" để theo dõi việc gửi và nhận văn bản tự kiểm tra. Mục đích
là để cơ quan làm đầu mối tự kiểm tra có thể theo dõi, kiểm tra đƣợc số văn bản mà cơ
quan có thẩm quyền đã phát hành đã đƣợc tự kiểm tra, đồng thời cũng theo dõi đƣợc
thời gian kiểm tra đối với văn bản đó.
(iii) Tổ chức thực hiện tự kiểm tra: Khi nhận đƣợc văn bản, lãnh đạo đơn vị
đƣợc giao làm đầu mối tự kiểm tra phân công chuyên viên chuyên trách thực hiện hoặc
giao cho cộng tác viên thực hiện tự kiểm tra.
Việc tự kiểm tra văn bản đƣợc thực hiện trên cơ sở đối chiếu tỉ mỉ, cẩn trọng
từng nội dung văn bản đƣợc kiểm tra với văn bản làm cơ sở pháp lý về từng nội dung
kiểm tra nhƣ: Về căn cứ pháp lý ban hành, thẩm quyền về hình thức và thẩm quyền về
nội dung, nội dung phù hợp với quy định của pháp luật, về thể thức, kỹ thuật trình bày
để từ đó xem xét, kết luận về tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản. Khi tự kiểm tra văn
bản do liên tịch ban hành, đơn vị có trách nhiệm tự kiểm tra các nội dung thuộc lĩnh
vực quản lý nhà nƣớc của bộ, ngành mình, đồng thời, phối hợp với các đơn vị hữu
quan đã ký văn bản liên tịch để kiểm tra toàn bộ các nội dung của văn bản.
Sau khi kiểm tra, ngƣời kiểm tra phải ký tên vào góc trên của văn bản để xác
nhận đã thực hiện việc kiểm tra. Nếu không phát hiện dấu hiệu trái pháp luật, ngƣời
64
kiểm tra nộp kết quả kết luận văn bản không trái pháp luật và chuyển về bộ phận lƣu
trữ kết quả kiểm tra. Nếu phát hiện nội dung trái pháp luật, ngƣời kiểm tra phải tiến
hành các bƣớc sau đây:
+ Bƣớc 1: Lập Phiếu kiểm tra văn bản. Phiếu kiểm tra văn bản là báo cáo tóm
tắt của ngƣời kiểm tra về kết quả kiểm tra văn bản có dấu hiệu trái pháp luật. Phiếu
này bao gồm các nội dung: tên ngƣời kiểm tra văn bản; tên văn bản đƣợc kiểm tra và
văn bản làm cơ sở pháp lý để kiểm tra; nội dung trái pháp luật của văn bản đƣợc kiểm
tra; ý kiến nhận xét của ngƣời kiểm tra về nội dung trái pháp luật; đề xuất hƣớng xử lý
nội dung trái pháp luật; căn cứ vào tính chất, mức độ trái pháp luật của văn bản và hậu
quả gây ra, ngƣời kiểm tra văn bản có thể đề xuất: hình thức xử lý văn bản trái pháp
luật; xử lý trách nhiệm của cơ quan, ngƣời có thẩm quyền đã ban hành văn bản trái
pháp luật; xử lý trách nhiệm đối với cán bộ, công chức đã tham mƣu soạn thảo, thẩm
định, thẩm tra, ban hành văn bản trái pháp luật trong trƣờng hợp ngƣời đó có lỗi.
+ Bƣớc 2: Sau khi lập Phiếu kiểm tra, ngƣời kiểm tra phải lập và hoàn thiện Hồ
sơ về văn bản có nội dung trái pháp luật trình Lãnh đạo đơn vị đƣợc giao làm đầu mối
tự kiểm tra. Hồ sơ văn bản có nội dung trái pháp luật gồm: Văn bản đƣợc kiểm tra, văn
bản làm cơ sở pháp lý để kiểm tra, Phiếu kiểm tra văn bản và các tài liệu có liên quan.
+ Bƣớc 3: Lãnh đạo đơn vị đƣợc giao làm đầu mối tự kiểm tra có trách nhiệm
xem xét nội dung trái pháp luật và thông báo ngay cho đơn vị tham mƣu, trình văn
bản, đồng thời phối hợp tổ chức họp trao đổi, thảo luận với cơ quan, đơn vị đã tham
mƣu, chủ trì soạn thảo, trình văn bản, thống nhất những nội dung trái pháp luật, các
biện pháp xử lý và chuẩn bị dự thảo văn bản xử lý, báo cáo bộ trƣởng, thủ trƣởng cơ
quan ngang bộ để kịp thời xử lý theo thẩm quyền (đối với văn bản liên tịch, thì việc
trao đổi, thảo luận và kiến nghị xử lý cũng phải có sự phối hợp với các cơ quan đã ký
văn bản liên tịch).
+ Bƣớc 4: Lãnh đạo đơn vị đƣợc giao làm đầu mối tự kiểm tra báo cáo bộ
trƣởng, thủ trƣởng cơ quan ngang bộ về kết quả kiểm tra và kiến nghị xử lý văn bản có
nội dung trái pháp luật.
(iv) Kiến nghị xử lý nội dung trái pháp luật
Sau khi thống nhất đƣợc những nội dung trái pháp luật, tuỳ theo mức độ trái
pháp luật, văn bản có thể đƣợc đề xuất xử lý theo các hình thức: Đình chỉ việc thi hành
một phần hoặc toàn bộ văn bản; Bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ nội dung của văn bản.
65
(v) Kiến nghị xem xét, xử lý trách nhiệm đối với cơ quan, người ban hành văn
bản trái pháp luật
Căn cứ vào nội dung trái pháp luật của văn bản và tính chất và mức độ thiệt hại
trên thực tế do văn bản trái pháp luật gây ra, đơn vị đƣợc giao làm đầu mối tự kiểm tra
văn bản có thể kiến nghị bộ trƣởng, thủ trƣởng cơ quan ngang bộ kịp thời áp dụng các
biện pháp khắc phục hậu quả do việc ban hành trái pháp luật gây ra, đồng thời, tổ chức
kiểm điểm, xác định trách nhiệm của tập thể, cá nhân.
(vi) Công bố, lưu trữ kết quả kiểm tra
Văn bản xử lý văn bản trái pháp luật đƣợc phát hiện trong quá trình tự kiểm tra
đƣợc đăng Công báo hoặc đƣa tin trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng trong thời
gian chậm nhất sau 03 ngày làm việc, kể từ khi có quyết định xử lý của cơ quan, ngƣời
có thẩm quyền xử lý văn bản trái pháp luật. Mục đích của hoạt động này là công khai
để các đối tƣợng thuộc diện áp dụng văn bản có nội dung trái pháp luật trƣớc đây biết
và thực hiện theo văn bản mới sau khi đã đƣợc xử lý.
Kết thúc quá trình kiểm tra, xử lý văn bản có nội dung trái pháp luật, ngƣời
kiểm tra phải lập hồ sơ về văn bản có nội dung trái pháp luật. Hồ sơ này bao gồm: văn
bản đƣợc kiểm tra, văn bản làm cơ sở pháp lý để kiểm tra, phiếu kiểm tra văn bản,
thông báo, biên bản các cuộc họp giữa các bên, kết quả xử lý cuối cùng đối với văn
bản và các tài liệu có liên quan khác.
Hồ sơ về văn bản tự kiểm tra đã đƣợc xử lý cuối cùng đƣợc chuyển bộ phận Cơ
sở dữ liệu nhằm xây dựng hệ cơ sở dữ liệu phục vụ kiểm tra văn bản.
2.4.2.2. Trình tự, thủ tục kiểm tra, xử lý văn bản theo thẩm quyền
Quy trình kiểm tra văn bản theo thẩm quyền gồm các bƣớc sau:
(i) Gửi văn bản kiểm tra: để hoạt động kiểm tra văn bản đƣợc thƣờng xuyên,
kịp thời và đầy đủ, ngƣời có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải
ghi rõ trong mục “Nơi nhận” của văn bản tên cơ quan có thẩm quyền kiểm tra văn bản
do mình ban hành. Theo Nghị định 34/2016/NĐ-CP, trong thời hạn chậm nhất 03 ngày
làm việc kể từ ngày ký ban hành, cơ quan, ngƣời có thẩm quyền ban hành văn bản
phải gửi văn bản đến cơ quan kiểm tra văn bản. Cụ thể: văn bản của Bộ trƣởng, Thủ
trƣởng cơ quan ngang Bộ gửi đến Cục Kiểm tra văn bản - Bộ Tƣ pháp và tổ chức pháp
chế của Bộ, cơ quan ngang Bộ có thẩm quyền kiểm tra theo ngành, lĩnh vực. Văn bản
do Bộ Tƣ pháp ban hành hoặc liên tịch ban hành gửi đến Văn phòng Chính phủ. Văn
66
bản liên tịch giữa giữa các Bộ, cơ quan ngang Bộ với Toà án nhân dân tối cao, Viện
Kiểm sát nhân dân tối cao gửi đến Cục Kiểm tra văn bản - Bộ Tƣ pháp.
(ii) Nhận văn bản kiểm tra: Nhận đƣợc văn bản kiểm tra do các cơ quan gửi tới,
cơ quan kiểm tra văn bản phải mở Sổ văn bản đến để theo dõi việc gửi và tiếp nhận
văn bản đƣợc gửi đến để kiểm tra.
(iii) Tổ chức kiểm tra văn bản: Việc kiểm tra đƣợc tổ chức tƣơng tự nhƣ tổ
chức tự kiểm tra. Lãnh đạo cơ quan có thẩm quyền kiểm tra phân công chuyên viên
kiểm tra hoặc cộng tác viên để kiểm tra văn bản.
Cần lưu ý: Việc kiểm tra các văn bản có nội dung thuộc bí mật nhà nƣớc thực
hiện theo quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nƣớc và các quy định pháp luật
có liên quan.
(iv) Việc kiểm tra văn bản do ngƣời kiểm tra thực hiện trên cơ sở đối chiếu nội
dung văn bản đƣợc kiểm tra với văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn nhằm xem xét,
đánh giá và kết luận về tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản dựa trên các tiêu chí: có
căn cứ pháp lý cho việc ban hành văn bản, đảm bảo thẩm quyền ban hành văn bản, nội
dung văn bản phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành, văn bản đƣợc trình bày
đúng thể thức và kỹ thuật, tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật về thủ tục xây
dựng, ban hành và đăng Công báo đƣa tin hoặc công bố văn bản.
Sau khi kiểm tra, ngƣời kiểm tra ký tên vào góc trên của văn bản để xác nhận
đã thực hiện việc kiểm tra và đƣa tên văn bản vào danh mục văn bản đã kiểm tra. Nếu
không phát hiện dấu hiệu trái pháp luật, ngƣời kiểm tra nộp lại văn bản đã kiểm tra (có
chữ ký ở góc trên) về bộ phận lƣu trữ kết quả kiểm tra. Nếu phát hiện văn bản đƣợc
kiểm tra có dấu hiệu trái pháp luật, ngƣời kiểm tra văn bản phải có báo cáo về kết quả
kiểm tra văn bản này thông qua Phiếu kiểm tra văn bản. Phiếu kiểm tra văn bản gồm
những nội dung sau: Tên ngƣời kiểm tra văn bản; tên văn bản đƣợc kiểm tra và văn bản
làm cơ sở pháp lý để kiểm tra; nội dung trái pháp luật của văn bản đƣợc kiểm tra; nội
dung văn bản đối chiếu; ý kiến của ngƣời kiểm tra về nội dung trái pháp luật đó; đề xuất
hƣớng xử lý; các biện pháp khắc phục hậu quả do việc ban hành, thực hiện văn bản trái
pháp luật gây ra và đề xuất hƣớng xử lý trách nhiệm của cơ quan, ngƣời có thẩm quyền
đã ban hành văn bản trái pháp luật.
Căn cứ vào tính chất, mức độ trái pháp luật của văn bản và hậu quả gây ra,
ngƣời kiểm tra văn bản có thể đề xuất: hình thức xử lý văn bản trái pháp luật; xử lý
67
trách nhiệm của cơ quan, ngƣời có thẩm quyền đã ban hành văn bản trái pháp luật; xử
lý trách nhiệm đối với cán bộ, công chức đã tham mƣu soạn thảo, thẩm định, thẩm tra,
ban hành văn bản trái pháp luật trong trƣờng hợp ngƣời đó có lỗi.
(v) Thông báo kết luận kiểm tra văn bản
Trên cơ sở kết quả kiểm tra và trao đổi, thảo luận với cơ quan có liên quan (nếu
có) về nội dung trái pháp luật của văn bản, cơ quan kiểm tra văn bản gửi kết luận kiểm
tra văn bản để bộ, cơ quan ngang bộ đã ban hành văn bản đó tự kiểm tra, xử lý, thông
báo kết quả xử lý cho cơ quan kiểm tra văn bản trong thời hạn quy định của pháp luật.
Việc thông báo kết luận kiểm tra văn bản đƣợc thực hiện bằng văn bản, đƣợc trình bày
nhƣ công văn hành chính thông thƣờng với các nội dung chính sau đây: tên văn bản
đƣợc kiểm tra; tên và nội dung văn bản làm căn cứ pháp lý để xác định nội dung trái
pháp luật của văn bản đƣợc kiểm tra; ý kiến về nội dung trái pháp luật của văn bản
đƣợc kiểm tra; yêu cầu cơ quan, ngƣời đã ban hành văn bản xem xét, xử lý và thông
báo kết quả xử lý văn bản, đồng thời kiến nghị việc xem xét, xử lý trách nhiệm đối với
cơ quan, ngƣời đã tham mƣu xây dựng, ban hành văn bản trái pháp luật đó. Ngoài ra,
sau khi gửi thông báo, cơ quan kiểm tra có thể phối hợp với các đơn vị chức năng của
cơ quan đã ban hành văn bản đƣợc kiểm tra để trao đổi, thảo luận về những nội dung
trái pháp luật của văn bản và hƣớng xử lý những nội dung trái pháp luật đó.
Kết thúc quá trình này, ngƣời kiểm tra phải lập hồ sơ về văn bản có nội dung
trái pháp luật. Hồ sơ này bao gồm: văn bản đƣợc kiểm tra, văn bản làm cơ sở pháp lý
để kiểm tra, phiếu kiểm tra văn bản, biên bản các cuộc họp để trình lãnh đạo cơ quan
kiểm tra văn bản.
Trƣờng hợp cơ quan kiểm tra không nhất trí với kết quả xử lý hoặc bộ, cơ quan
ngang bộ có văn bản trái pháp luật không thông báo kết quả xử lý hoặc không xử lý theo
quy định, thì cơ quan kiểm tra văn bản kiến nghị Thủ tƣớng Chính phủ xử lý. Hồ sơ báo
cáo gồm: Báo cáo của cơ quan kiểm tra văn bản; văn bản đƣợc kiểm tra; cơ sở pháp lý
để kiểm tra; phiếu kiểm tra văn bản, các công văn thông báo của cơ quan kiểm tra văn
bản với cơ quan có văn bản đƣợc kiểm tra và cơ quan có văn bản đƣợc kiểm tra và các
tài liệu liên quan khác (nếu có).
(vi) Theo dõi quá trình xử lý văn bản
Cơ quan có thẩm quyền kiểm tra văn bản phải mở Sổ theo dõi xử lý văn bản có
dấu hiệu trái pháp luật để theo dõi quá trình kiểm tra và xử lý văn bản từ khi phát hiện
68
văn bản trái pháp luật đến khi có kết luận, xử lý cuối cùng về văn bản đó và đến đây mới
có thể coi là kết thúc quy trình của công tác kiểm tra văn bản nói chung.
(vi) Công bố, lưu trữ kết quả kiểm tra
Việc công khai kết quả xử lý văn bản trái pháp luật theo thẩm quyền đƣợc thực
hiện nhƣ đối với văn bản đƣợc xử lý qua tự kiểm tra.
2.5. CHỦ THỂ CÓ THẨM QUYỀN XỬ LÝ VÀ CÁC HÌNH THỨC XỬ LÝ
VĂN BẢN QPPL DO BỘ, CƠ QUAN NGANG BỘ BAN HÀNH TRÁI PHÁP LUẬT
2.5.1. Cơ sở để xử lý văn bản
Văn bản QPPL do bộ trƣởng, thủ trƣởng cơ quan ngang bộ ban hành có thể bị
xử lý dựa trên kết luận kiểm tra văn bản theo các trƣờng hợp sau đây:
(i) Ngay khi văn bản đƣợc ban hành hoặc khi cơ quan ban hành văn bản nhận
đƣợc kiến nghị của cơ quan, tổ chức, cá nhân về văn bản có dấu hiệu trái pháp luật, thì
cơ quan ban hành văn bản tổ chức tự kiểm tra. Trƣờng hợp xác định văn bản do bộ
trƣởng, thủ trƣởng cơ quan ngang bộ ban hành trái pháp luật thì thực hiện việc xử lý;
(ii) Cơ quan có thẩm quyền kiểm tra văn bản gửi kết luận kiểm tra cho Bộ
trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ đề nghị chỉ đạo, tổ chức việc xử lý văn bản theo
quy định. Kết luận kiểm tra phải có các nội dung cơ bản sau đây: tên văn bản đƣợc
kiểm tra; tên và nội dung văn bản làm căn cứ pháp lý để xác định nội dung trái pháp
luật của văn bản đƣợc kiểm tra; ý kiến về nội dung trái pháp luật của văn bản đƣợc
kiểm tra; yêu cầu cơ quan, ngƣời đã ban hành văn bản xem xét, xử lý và thông báo kết
quả xử lý văn bản, đồng thời kiến nghị việc xem xét, xử lý trách nhiệm đối với cơ
quan, ngƣời đã tham mƣu xây dựng, ban hành văn bản trái pháp luật đó.
Khi nhận đƣợc kết luận kiểm tra của cơ quan có thẩm quyền kiểm tra văn bản
gửi đến, bộ trƣởng, thủ trƣởng cơ quan ngang bộ chỉ đạo, tổ chức việc tự kiểm tra và
tự xử lý văn bản. Khi văn bản không đƣợc tự xử lý, cơ quan có thẩm quyền kiểm tra
văn bản kiến nghị Thủ tƣớng Chính phủ xử lý theo quy định.
2.5.2. Thẩm quyền tự xử lý văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành
Khi phát hiện văn bản có dấu hiệu trái pháp luật, đơn vị đƣợc giao giúp bộ
trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ tự kiểm tra văn bản có trách nhiệm lập hồ sơ
kiểm tra văn bản và báo cáo ngay kết quả kiểm tra văn bản với Bộ trƣởng, Thủ trƣởng
cơ quan ngang bộ để xem xét, xử lý theo quy định. Báo cáo kết quả tự kiểm tra văn
bản có dấu hiệu trái pháp luật gồm (i) Đánh giá nội dung có dấu hiệu trái pháp luật của
69
văn bản và đề xuất hƣớng xử lý, thời hạn xử lý, biện pháp khắc phục hậu quả do văn
bản gây ra (nếu có); (ii) Xác định trách nhiệm của cán bộ, công chức tham mƣu soạn
thảo, thẩm định, thẩm tra và ban hành văn bản.
Trên cơ sở hồ sơ kiểm tra văn bản do đơn vị tham mƣu trình, Bộ trƣởng, Thủ trƣởng
cơ quan ngang Bộ có trách nhiệm xử lý kịp thời văn bản trái pháp luật đã ban hành.
Kết quả xử lý văn bản quy phạm pháp luật trái pháp luật phải đƣợc đăng Công
báo, đăng trên Cổng thông tin hoặc Trang thông tin điện tử của bộ, cơ quan ngang bộ.
Trƣờng hợp văn bản đƣợc tự kiểm tra theo phản ánh của cơ quan, tổ chức, cá nhân, thì
kết quả xử lý văn bản cũng đƣợc gửi cho các đối tƣợng này.
Việc tự xử lý văn bản do mình ban hành đƣợc thực hiện trong các trƣờng hợp:
(i) văn bản đƣợc tự kiểm tra, phát hiện ngay khi đƣợc ban hành; (ii) tự kiểm tra, phát
hiện khi văn bản đƣợc cơ quan, tổ chức, cá nhân phản ánh về dấu hiệu trái pháp luật và
(iii) nhận đƣợc kết luận kiểm tra là văn bản trái pháp luật của cơ quan có thẩm quyền
kiểm tra văn bản. Nhƣ vậy, ở các trƣờng hợp (i) và (ii), thì đây là sự chủ động xử lý của
cơ quan đã ban hành văn bản, còn ở trƣờng hợp (iii) thì do có kết luận của cơ quan có
thẩm quyền kiểm tra văn bản mà cơ quan ban hành văn bản tiến hành tự kiểm tra, xử lý
theo quy trình. Tự kiểm tra, xử lý văn bản của cơ quan ban hành văn bản ở trƣờng hợp
(iii) thể hiện sự linh hoạt, mềm dẻo trong quản lý hành chính và trong mối quan hệ, trình
tự, thủ tục kiểm tra văn bản, giúp cơ quan đã ban hành văn bản có cơ hội tự mình sửa
chữa sai sót trƣớc khi bị cơ quan khác xử lý.
2.5.3. Xử lý văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành trái pháp
luật theo thẩm quyền
2.5.3.1. Thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ
Thủ tƣớng Chính phủ xem xét, quyết định bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành
một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật của Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ
quan ngang bộ trái với Hiến pháp, luật và văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan
nhà nƣớc cấp trên [105]; Đình chỉ việc thi hành một phần hoặc toàn bộ nội dung trái
pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý nhà nƣớc của bộ, cơ quan ngang bộ trong thông tƣ
liên tịch do Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân
tối cao, Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành, đồng thời, yêu cầu các
Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ thỏa thuận với Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao, Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cùng xử lý văn bản đó [31];
70
Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp trình Thủ tƣớng Chính phủ xem xét, quyết định các nội
dung trên trong xử lý văn bản QPPL trái pháp luật và giúp Thủ tƣớng Chính phủ thực
hiện các thẩm quyền khác trong việc xử lý văn bản trái pháp luật theo quy định của
pháp luật.
2.5.3.2. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ có thẩm quyền kiến nghị Bộ trƣởng,
Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ khác đình chỉ việc thi hành, bãi bỏ một phần hoặc toàn
bộ văn bản trái pháp luật do các Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ ban hành
liên quan đến ngành, lĩnh vực do mình phụ trách. Trƣờng hợp kiến nghị không đƣợc
chấp thuận thì trình Thủ tƣớng Chính phủ quyết định [31].
Bộ trƣởng, chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ thực hiện thẩm quyền xử lý văn
bản trái pháp luật tƣơng tự các bộ trƣởng, thủ trƣởng cơ quan ngang bộ khác. Đồng
thời, có quyền kiến nghị Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp đình chỉ việc thi hành, bãi bỏ một
phần hoặc toàn bộ văn bản trái pháp luật do Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp ban hành. Trƣờng
hợp kiến nghị không đƣợc chấp thuận thì trình Thủ tƣớng Chính phủ quyết định và
kiến nghị xử lý thông tƣ liên tịch có dấu hiệu trái pháp luật giữa Bộ trƣởng Bộ Tƣ
pháp với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao theo quy định [31].
2.5.3.3. Bộ trưởng Bộ Tư pháp
Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp thực hiện thẩm quyền xử lý văn bản trái pháp luật tƣơng
tự các bộ trƣởng, thủ trƣởng cơ quan ngang bộ khác. Đồng thời, giúp Thủ tƣớng Chính
phủ kiểm tra, xử lý văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành nhƣ sau: (i) Kiến nghị Bộ
trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ đình chỉ việc thi hành, bãi bỏ một phần hoặc toàn
bộ văn bản trái pháp luật do Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ ban hành. Trƣờng
hợp kiến nghị không đƣợc chấp thuận thì trình Thủ tƣớng Chính phủ quyết định; (ii)
Kiến nghị xử lý văn bản liên tịch có dấu hiệu trái pháp luật giữa các Bộ trƣởng, Thủ
trƣởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trƣởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao theo quy định [31].
Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp có trách nhiệm kiểm tra văn bản, sau khi kiến nghị
không đƣợc các bộ, cơ quan ngang bộ chấp thuận thì lập hồ sơ trình Thủ tƣớng Chính
phủ xử lý văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành trái pháp luật.
71
2.5.4. Các hình thức xử lý văn bản quy phạm pháp luật do bộ, cơ quan
ngang bộ ban hành trái pháp luật
Kết quả của hoạt động kiểm tra văn bản nói chung cũng nhƣ hoạt động kiểm tra
văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành là kết luận về tính hợp hiến, hợp pháp của
văn bản đƣợc kiểm tra và văn bản có nội dung trái pháp luật phải đƣợc xử lý. Khác với
một số hoạt động, việc xem xét một văn bản có thể chỉ mang tính chất tƣ vấn, khuyến
nghị, đóng góp ý kiến, chẳng hạn, hoạt động thẩm định văn bản QPPL, cơ quan có
thẩm quyền thẩm định dự thảo văn bản QPPL và đƣa ra các ý kiến tƣ vấn, thẩm định,
cơ quan soạn thảo văn bản có thể tiếp thu hoặc không tiếp thu, giải trình với cơ quan
có thẩm quyền ban hành văn bản về các vấn đề dự kiến không tiếp thu, việc quyết định
nội dung và ban hành văn bản thuộc về cơ quan, ngƣời có thẩm quyền ban hành văn
bản. Hoặc, trong hoạt động rà soát văn bản QPPL, việc xem xét tính hợp hiến, hợp
pháp của văn bản đƣợc đặt trong bối cảnh cụ thể mà bản thân văn bản đƣợc xem xét đó
về bản chất (ngay từ lúc đƣợc ban hành) là hợp hiến, hợp pháp, tuy nhiên, do tình hình
kinh tế - xã hội thay đổi hoặc do văn bản của cơ quan, ngƣời có thẩm quyền cấp trên
ban hành văn bản mới làm cho văn bản đƣợc xem xét đó không còn phù hợp nữa. Do
vậy, cơ quan có trách nhiệm rà soát văn bản phải tự mình hoặc kiến nghị cơ quan,
ngƣời có thẩm quyền xử lý văn bản đƣợc rà soát cho phù hợp với tình hình mới.
Khác với các hoạt động trên, kết quả của hoạt động kiểm tra văn bản với các
yêu cầu về xử lý nội dung trái pháp luật của văn bản cũng nhƣ xử lý trách nhiệm đối
với cơ quan, ngƣời đã ban hành văn bản đó là mang tính bắt buộc. Kết quả cuối cùng
thƣờng là phải đình chỉ việc thi hành, bãi bỏ văn bản đã đƣợc ban hành cho phù hợp
với văn bản là cơ sở xác định nội dung trái pháp luật của văn bản đƣợc kiểm tra. Bởi, ở
trƣờng hợp này, văn bản đã sai ngay từ khi nó đƣợc ban hành chứ không phải do tình
hình thay đổi dẫn đến văn bản trở nên không còn phù hợp (hoặc trái). Cơ quan, ngƣời
đã ban hành văn bản không đƣợc quyền lựa chọn tiếp thu hay không tiếp thu ý kiến kết
luận của cơ quan, ngƣời có thẩm quyền kiểm tra, xử lý văn bản. Khác với cơ quan đã
ban hành văn bản đƣợc rà soát phải thực hiện việc xử lý kết quả sau khi rà soát và
không đặt ra trách nhiệm pháp lý đối với cơ quan, ngƣời đã ban hành văn bản đƣợc rà
soát, đối với hoạt động kiểm tra văn bản QPPL, bên cạnh việc xử lý hoặc kiến nghị xử
lý văn bản đƣợc kiểm tra, cơ quan, ngƣời có thẩm quyền kiểm tra văn bản còn phải xử
72
lý hoặc kiến nghị cơ quan, ngƣời có thẩm quyền xử lý cơ quan, ngƣời đã ban hành,
tham mƣu ban hành, ký, thông qua văn bản trái pháp luật. Việc xem xét, xử lý trách
nhiệm đối với cơ quan, ngƣời đã ban hành văn bản trái pháp luật phải căn cứ vào nội
dung, tính chất, mức độ trái pháp luật của văn bản và hậu quả của nội dung trái pháp
luật gây ra đối với xã hội và trên cơ sở tính chất, mức độ lỗi của cơ quan, ngƣời đã ban
hành, tham mƣu ban hành văn bản đó. Ngoài ra, cần xem xét thiệt hại thực tế mà việc
thực hiện văn bản đó gây ra cho đối tƣợng chịu sự tác động của văn bản để thực hiện
việc bồi thƣờng thiệt hại. Nhƣ vậy, tính chất của kết quả kiểm tra văn bản có ý nghĩa
quan trọng đối với việc nâng cao ý thức trách nhiệm của các chủ thể có thẩm quyền
ban hành văn bản QPPL, có tác dụng lớn đối với việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống
pháp luật.
Trên cơ sở kiểm tra, kết luận văn bản trái pháp luật, các hình thức xử lý văn bản
trái pháp luật bao gồm:
(i) Đình chỉ việc thi hành một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản: Hình thức
đình chỉ việc thi hành một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản áp dụng trong trƣờng
hợp nội dung trái pháp luật đó nếu không đƣợc bãi bỏ kịp thời và nếu tiếp tục thực
hiện thì có thể làm ảnh hƣởng đến lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của
tổ chức, cá nhân.
Hình thức này có thể đƣợc hiểu là hình thức “bƣớc đệm”, “tình thế” trong xử lý
văn bản trái pháp luật nhằm ngăn chặn các hậu quả có thể phát sinh khi chƣa kịp bãi
bỏ văn bản. Đình chỉ việc thi hành văn bản khiến văn bản bị ngƣng hiệu lực trong một
khoảng thời gian nhất định. Trong khoảng thời gian này, cơ quan có thẩm quyền xử lý
văn bản sẽ làm các thủ tục để bãi bỏ văn bản. Khi văn bản bị bãi bỏ, thì mới đƣợc coi
là việc xử lý văn bản đƣợc thực hiện triệt để.
(ii) Bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản trong các trƣờng hợp sau: (i) Một
phần hoặc toàn bộ văn bản đƣợc ban hành trái pháp luật về thẩm quyền, nội dung; văn
bản vi phạm nghiêm trọng trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành và (ii) Văn bản có chứa
quy phạm pháp luật nhƣng không đƣợc ban hành bằng hình thức văn bản quy phạm
pháp luật; văn bản có chứa quy phạm pháp luật hoặc có thể thức nhƣ văn bản quy
phạm pháp luật do cơ quan, ngƣời không có thẩm quyền ban hành.
73
Hiến pháp 2013 chỉ quy định các hình thức xử lý văn bản là đình chỉ việc thi
hành hoặc bãi bỏ toàn bộ hoặc một phần văn bản. Do đó, ở các hoạt động khác nhau,
thì tính chất của hình thức bãi bỏ văn bản QPPL cũng khác nhau. Bãi bỏ trong kiểm tra
văn bản làm cho văn bản hoặc quy định bị mất hiệu lực ngay từ khi đƣợc ban hành, tức
là ngay từ khi đƣợc ban hành, quy định hay nội dung của văn bản đã trái pháp luật,
không thể sửa đổi, bổ sung hay dùng một hình thức xử lý nào khác đƣợc. Việc ban
hành văn bản mới để điều chỉnh các quan hệ xã hội đƣợc các quy phạm pháp luật trƣớc
đây điều chỉnh nhƣng đã bị bãi bỏ do Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang Bộ quyết
định theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Nhƣ vậy, về tính
chất và thời điểm, hình thức bãi bỏ văn bản trái pháp luật xác định rằng, văn bản đó trái
pháp luật ngay từ thời điểm nó đƣợc ban hành. Từ thời điểm này, sẽ phát sinh trách nhiệm
pháp lý của chủ thể ban hành văn bản với đối tƣợng chịu sự tác động của văn bản (trƣờng
hợp việc áp dụng văn bản gây hậu quả). Còn đối với hình thức bãi bỏ văn bản trái pháp
luật trong hoạt động rà soát, hệ thống hóa văn bản, về tính chất cũng nhƣ thời điểm đều
khác so với văn bản bị bãi bỏ do kiểm tra văn bản. Hình thức bãi bỏ ở hoạt động này xác
định văn bản bị xử lý chỉ trái kể từ khi có văn bản khác đƣợc ban hành (sau) có ảnh hƣởng
đến nội dung của văn bản làm căn cứ cho việc ban hành văn bản bị xử lý hoặc do thay đổi
của tình hình thực tiễn (phát sinh sau) mà làm cho văn bản đó không còn phù hợp nữa nên
chủ thể có thẩm quyền sẽ bãi bỏ văn bản đó. Do vậy, sẽ không đặt ra vấn đề trách nhiệm
pháp lý của chủ thể ban hành văn bản trong trƣờng hợp văn bản “không còn phù hợp” và
bị bãi bỏ (vì trong thời gian áp dụng, văn bản đó vẫn hợp pháp).
Ngoài ra, trong quá trình kiểm tra phát hiện văn bản chỉ sai về căn cứ pháp lý
đƣợc viện dẫn, thể thức, kỹ thuật trình bày còn nội dung của văn bản phù hợp với quy
định của pháp luật, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp thì đính chính đối với những sai
sót đó.
2.6. XỬ LÝ TRÁCH NHIỆM ĐỐI VỚI NGƢỜI, CƠ QUAN BAN HÀNH
VĂN BẢN QPPL TRÁI PHÁP LUẬT VÀ KHẮC PHỤC HẬU QUẢ DO ÁP
DỤNG VĂN BẢN TRÁI PHÁP LUẬT GÂY RA
2.6.1. Xử lý trách nhiệm đối với ngƣời, cơ quan ban hành văn bản trái
pháp luật
Văn bản của bộ, cơ quan ngang bộ ban hành để triển khai thực hiện các nhiệm
vụ quản lý nhà nƣớc theo từng ngành, lĩnh vực mà Chính phủ giao, có phạm vi áp
74
dụng trên cả nƣớc với đối tƣợng áp dụng rộng, tầm ảnh hƣởng lớn. Với tính chất nhƣ
vậy, văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành trái pháp luật sẽ có ảnh hƣởng nặng nề
tới tình hình kinh tế, xã hội. Do vậy, càng đòi hỏi cao ở việc ban hành văn bản QPPL
chuẩn mực, phù hợp với đƣờng lối phát triển của đất nƣớc, phù hợp với toàn hệ thống
văn bản QPPL. Từ trách nhiệm của Nhà nƣớc trƣớc Nhân dân, từ trách nhiệm của cán
bộ, công chức trong vai trò “công bộc” của Nhân dân, từ dũng khí “nhận trách nhiệm”
khi làm sai, từ kết quả của hoạt động tự kiểm soát quyền lực trong các cơ quan hành
chính nhà nƣớc cũng nhƣ chịu sự “kiểm soát quyền lực” từ phía Nhân dân, tạo sự bình
đẳng, dân chủ trong quan hệ nhà nƣớc - Nhân dân, từ bản chất của Nhà nƣớc pháp
quyền xã hội chủ nghĩa… thì việc xem xét, xử lý trách nhiệm cơ quan, ngƣời ban hành
văn bản trái pháp luật là phù hợp với thực tiễn, nguyên tắc chung trong quản lý nhà
nƣớc và quy luật tự nhiên. Hoặc nói một cách đơn giản, dù là ai, khi đã đƣợc Nhân dân
giao phó quyền lực, nếu thực hiện nhiệm vụ sai trái, thì tùy tính chất, mức độ đều phải
chịu trách nhiệm. Điều này góp phần tiếp tục xây dựng, củng cố tầng lớp cán bộ, công
chức có trách nhiệm trƣớc Nhà nƣớc, trƣớc Nhân dân, có lòng tự trọng, và quan trọng
hơn là có ý thức tuân thủ pháp luật trong mỗi việc mình làm. Việc tuân thủ pháp luật
trong ban hành văn bản QPPL là điều kiện quan trọng để bảo đảm quyền, lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, tạo điều kiện để các tầng lớp trong xã hội phát
triển tự do, dân chủ, bình đẳng, công bằng.
Nhƣ vậy, tính chất của nhà nƣớc pháp quyền không chỉ đòi hỏi nhà nƣớc ban
hành văn bản QPPL một cách chặt chẽ và thống nhất mà còn đòi hỏi một cơ chế bảo
đảm cho nhà nƣớc cũng phải tuân thủ theo pháp luật, thông qua xem xét, xử lý trách
nhiệm của cơ quan nhà nƣớc, cán bộ, công chức nhà nƣớc nếu ban hành văn bản
QPPL trái pháp luật. Bên cạnh đó, cần phải thấy rằng, việc xem xét, truy cứu trách
nhiệm của cán bộ, công chức, của cơ quan, ngƣời có thẩm quyền đã ban hành văn bản
QPPL trái pháp luật là lẽ đƣơng nhiên, nhằm tạo môi trƣờng pháp lý công bằng, dân
chủ, bình đẳng giữa Nhà nƣớc - Nhân dân, là tiền đề quan trọng để thiết lập, hoàn
thiện hệ thống pháp luật phục vụ hội nhập, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trƣờng,
yêu cầu xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Theo đó, việc xem xét, xử lý trách nhiệm đối với cơ quan, ngƣời đã ban hành
văn bản trái pháp luật phải căn cứ vào nội dung, tính chất, mức độ trái pháp luật của
75
văn bản và hậu quả của nội dung trái pháp luật gây ra đối với xã hội và trên cơ sở tính
chất, mức độ lỗi của cơ quan, ngƣời đã ban hành, tham mƣu ban hành văn bản đó.
Trên cơ sở đó, cơ quan ban hành văn bản có nội dung trái pháp luật phải tổ chức việc
kiểm điểm, xác định trách nhiệm của tập thể và báo cáo cơ quan cấp trên có thẩm
quyền xem xét, quyết định theo quy định của pháp luật, đồng thời xem xét trách nhiệm
của ngƣời đứng đầu cơ quan trong việc ban hành văn bản có nội dung trái pháp luật.
Cán bộ, công chức trong quá trình tham mƣu soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, ban hành
văn bản có nội dung trái pháp luật, tùy theo tính chất, mức độ lỗi và nội dung trái pháp
luật của văn bản, phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật về cán bộ, công
chức. Bên cạnh đó, cơ quan, ngƣời ban hành văn bản khi nhận đƣợc kết luận kiểm tra,
kiến nghị của cơ quan có thẩm quyền kiểm tra văn bản mà không thực hiện việc xem
xét, xử lý văn bản trái pháp luật hoặc không thực hiện thông báo kết quả xử lý theo
quy định thì bị xử lý theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức [31].
2.6.2. Việc khắc phục hậu quả do áp dụng văn bản trái pháp luật gây ra
Song song với việc xem xét, xử lý trách nhiệm của ngƣời, cơ quan ban hành
văn bản, việc xem xét, tính toán, định lƣợng mức độ thiệt hại trên thực tế của đối
tƣợng chịu sự áp dụng của văn bản trái pháp luật là hết sức quan trọng và cần thiết.
Điều này tạo cho các chủ thể tham gia vào tất cả các quan hệ xã hội sự yên tâm về tính
rõ ràng, minh bạch và tính chịu trách nhiệm của Nhà nƣớc, cơ quan nhà nƣớc, ngƣời
có thẩm quyền đã ban hành ra chính sách, pháp luật... tạo môi trƣờng pháp lý trong sạch,
lành mạnh, đủ sức thu hút đầu tƣ, kinh doanh, góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Quy
định bồi thƣờng, khắc phục hậu quả do áp dụng văn bản trái pháp luật gây ra cũng chính
là việc truy cứu trách nhiệm của ngƣời, cơ quan có thẩm quyền đã ban hành văn bản.
Theo đó, ngoài xem xét, xử lý trách nhiệm của cán bộ, công chức trong khi thi hành
công vụ và (hoặc) trách nhiệm hình sự (nếu có) thì ngƣời, cơ quan ban hành văn bản còn
phải chịu trách nhiệm do việc ban hành văn bản trái pháp luật của mình bằng trách
nhiệm bồi thƣờng thiệt hại cho đối tƣợng chịu sự tác động của văn bản. Việc xem xét,
tính toán mức độ thiệt hại của các đối tƣợng này, đồng thời, xác định cơ quan, ngƣời
có thẩm quyền ban hành văn bản có trách nhiệm khắc phục hậu quả, bồi thƣờng thiệt
hại là cần thiết và công bằng.
76
2.7. CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN KIỂM TRA VĂN BẢN QPPL LUẬT
DO BỘ, CƠ QUAN NGANG BỘ BAN HÀNH
Bên cạnh một hệ thống văn bản QPPL đầy đủ, đồng bộ, khả thi làm tiền đề tổ
chức triển khai thực hiện hoạt động này trên thực tế, thì các yếu tố sau có tác động trực
tiếp, mạnh mẽ đến kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành:
2.7.1. Yếu tố nhận thức
Nhận thức là vấn đề khó định lƣợng để đánh giá. Tuy nhiên, điều này phần nào
thể hiện ở kết quả kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành; mức độ quan
tâm của lãnh đạo các bộ, cơ quan ngang bộ, ngƣời đứng đầu tổ chức pháp chế bộ, cơ
quan ngang bộ trong việc tham mƣu hoặc quan tâm kiện toàn về tổ chức, biên chế,
trong việc tạo điều kiện tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ hoặc cử cán bộ, công chức
tham gia các lớp tập huấn nghiệp vụ, các đoàn công tác về kiểm tra văn bản… ở việc
quan tâm, cấp kinh phí hỗ trợ cho kiểm tra văn bản tại bộ, cơ quan ngang bộ mình;
điều này còn thể hiện ở việc ban hành các văn bản pháp luật làm cơ sở để triển khai
hoạt động kiểm tra, rà soát văn bản QPPL tại bộ, cơ quan ngang bộ mình đƣợc tốt hơn;
việc tổ chức, quản lý đội ngũ cộng tác viên kiểm tra văn bản… Tất cả các vấn đề trên
nếu đƣợc quan tâm thực hiện tốt thì góp phần tác động tích cực đến chất lƣợng, hiệu
quả của kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành.
Thực tế cho thấy phần lớn các bộ, cơ quan ngang bộ đều nhận thức đƣợc ý
nghĩa, tầm quan trọng của kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành. Tuy
nhiên, vẫn còn hiện tƣợng kiểm tra văn bản QPPL chƣa đƣợc quan tâm đúng mức,
kiểm tra văn bản chƣa đƣợc đặt đúng vị trí, chƣa phát huy đƣợc vai trò của mình đối
với toàn bộ công tác xây dựng, ban hành, hoàn thiện hệ thống văn bản QPPL thuộc
lĩnh vực quản lý nhà nƣớc của bộ, cơ quan ngang bộ.
Ngoài ra, nhận thức về kiểm tra, xử lý văn bản QPPL chƣa đúng, chƣa đầy đủ
cũng có thể dẫn tới tâm lý nể nang, né tránh, e dè, ngại va chạm và lối tƣ duy “có đi,
có lại” giữa cơ quan, ngƣời có thẩm quyền kiểm tra văn bản với cơ quan, ngƣời đã ban
hành văn bản đƣợc kiểm tra. Nhƣ chúng ta đã biết, tổ chức hệ thống cơ quan, ngƣời có
thẩm quyền kiểm tra văn bản nhƣ hiện nay thực chất vẫn là cơ chế tự kiểm tra, tự kiểm
soát văn bản QPPL trong nội bộ các cơ quan hành chính với nhau, giữa cấp trên với
cấp dƣới… vì lẽ đó, khó có thể thoát khỏi tâm lý trên mỗi khi phát hiện văn bản có dấu
77
hiệu trái pháp luật. Điều này đòi hỏi ngƣời lãnh đạo, ngƣời trực tiếp làm công tác kiểm
tra văn bản phải là ngƣời có ý thức trách nhiệm cao, có bản lĩnh chính trị thật vững
vàng, dám nói, dám làm, không ngại mất lòng, không ngại va chạm… Đây cũng là một
trong những lý do chúng ta cần kiến nghị cơ quan khác, ngoài hệ thống cơ quan hành
chính nhà nƣớc thực hiện việc xem xét, kiểm tra, xử lý văn bản QPPL do bộ, cơ quan
ngang bộ ban hành.
2.7.2. Yếu tố lợi ích
Lợi ích, có thể đƣợc coi là một trong những yếu tố tác động đến kiểm tra văn
bản QPPL nói chung và kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành nói
riêng. Lợi ích có thể là quyền lợi về mặt vật chất, chức vụ… có thể là uy tín, danh dự, sự
thuận lợi, có thể là các mối quan hệ công tác… Những điều này thƣờng mang dấu ấn cá
nhân, nhƣng cũng có thể mang tính nhóm và có thể ảnh hƣởng, tác động đến việc ban
hành văn bản trái pháp luật hoặc/và xử lý hay không xử lý (tự xử lý và xử lý văn bản
theo thẩm quyền) văn bản trái pháp luật. Yếu tố này có ảnh hƣởng không nhỏ đến hoạt
động kiểm tra, xử lý văn bản QPPL.
2.7.3. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ
Có thể khẳng định, mức độ khó khăn, phức tạp của kiểm tra văn bản QPPL do
bộ, cơ quan ngang bộ ban hành cũng ảnh hƣởng không nhỏ đến chất lƣợng, hiệu quả
của kiểm tra văn bản. Theo đó, trình độ chuyên môn nghiệp vụ đƣợc coi là một trong
những yếu tố ảnh hƣởng đến kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành.
Trình độ ở đây không chỉ là bằng cấp chuyên môn, nghiệp vụ, mà còn là thâm niên, là
kinh nghiệm “cọ sát” với nghề; là kỹ năng xử lý các tình huống “nhạy cảm” trong quá
trình tổ chức kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành… Với ý nghĩa đó,
“trình độ” cũng là một trong những yếu tố quan trọng tác động tới kiểm tra văn bản
QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành.
2.7.4. Các điều kiện đảm bảo cho kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật do
các bộ, cơ quan ngang bộ ban hành
Cũng giống nhƣ các hoạt động khác, để thực hiện tốt hoạt động kiểm tra văn
bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành, bên cạnh một hệ thống văn bản QPPL,
cơ sở pháp lý để triển khai thực hiện thật toàn diện, đầy đủ, đồng bộ, thì cần thiết một
loạt các điều kiện bảo đảm khác, góp phần quan trọng trong quá trình thực hiện nhiệm
78
vụ và có ảnh hƣởng lớn đến chất lƣợng, hiệu quả của kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ
quan ngang bộ ban hành trên thực tiễn. Các điều kiện bảo đảm cho kiểm tra văn bản
do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành bao gồm:
2.7.4.1. Tổ chức, biên chế kiểm tra văn bản
Thiết lập các tổ chức tại các cơ quan có thẩm quyền nhằm thực hiện nhiệm vụ
kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành là điều kiện tiên quyết để
bảo đảm cho hoạt động kiểm tra văn bản QPPL đƣợc triển khai trên thực tiễn. Cùng
với việc thành lập các tổ chức, việc bố trí cán bộ, công chức chuyên trách thực hiện
nhiệm vụ này cũng phải đƣợc quan tâm. Theo đó, do tính chất, đặc điểm của văn bản
do bộ, cơ quan ngang bộ có vai trò đặc biệt trong hệ thống pháp luật, cũng nhƣ vai trò
của hoạt động kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành mà cần phải cán bộ,
công chức có đủ kinh nghiệm, trình độ, bản lĩnh để thực hiện công tác này. Trên cơ sở
đó, ở các bộ, cơ quan ngang bộ cần thành lập tổ chức cấp phòng để thành lập nhiệm vụ
này. Tại Bộ Tƣ pháp, do tính chất đặc biệt, vị trí của Bộ Tƣ pháp trong hoạt động kiểm
tra văn bản, cần chú trọng đặc biệt tới tổ chức và hoạt động của đơn vị có chức năng
thực hiện nhiệm vụ kiểm tra văn bản thuộc thẩm quyền của Bộ Tƣ pháp.
2.7.4.2. Cộng tác viên kiểm tra văn bản
Cộng tác viên kiểm tra văn bản là những ngƣời công tác ở các lĩnh vực chuyên
môn khác nhau tại các cơ quan tƣ pháp, cơ quan hành chính nhà nƣớc, trƣờng đại học
hoặc viện nghiên cứu… Do đối tƣợng văn bản đƣợc kiểm tra thuộc nhiều ngành, nhiều
lĩnh vực khác nhau, đòi hỏi nhiều chuyên gia có kinh nghiệm thực tiễn, trình độ ở các
lĩnh vực khác nhau nghiên cứu, đánh giá về tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản QPPL.
Nhƣ vậy, ngoài đội ngũ cán bộ công chức đƣợc giao nhiệm vụ kiểm tra, xử lý văn bản,
các cơ quan kiểm tra văn bản còn huy động các chuyên gia có kinh nghiệm trong các
lĩnh vực chuyên môn khác để xây dựng, hình thành đội ngũ cộng tác viên kiểm tra văn
bản. Việc tổ chức đội ngũ cộng tác viên của các bộ, cơ quan ngang bộ nhằm kịp thời
kiểm tra các văn bản có độ khó, phức tạp, thuộc các lĩnh vực đòi hỏi trình độ chuyên
môn nhiệp vụ sâu là hết sức cần thiết.
Với vai trò giúp Chính phủ quản lý nhà nƣớc trong hoạt động kiểm tra văn bản
QPPL, Bộ Tƣ pháp sẽ là cơ quan hƣớng dẫn việc tổ chức và hoạt động của đội ngũ
cộng tác viên kiểm tra văn bản QPPL thông qua các hình thức nhƣ: ban hành Quy chế
mẫu về cộng tác viên kiểm tra văn bản trong đó bao gồm: cơ chế giao văn bản, nhận
79
kết quả kiểm tra, thẩm quyền và trách nhiệm của các cơ quan kiểm tra, xác định rõ
quyền và nghĩa vụ của cộng tác viên; hƣớng dẫn nghiệp vụ đội ngũ cộng tác viên…
2.7.4.3. Kinh phí và chế độ, chính sách
Kinh phí là điều kiện quan trọng bảo đảm cho hoạt động kiểm tra văn bản. Với
tính chất đặc thù so với các hoạt động khác, ngoài các khoản chi thƣờng xuyên khác,
cần bố trí khoản kinh phí hợp lý để chi cho hoạt động kiểm tra văn bản theo thẩm
quyền. Một số khoản chi cụ thể nhƣ: chi kiểm tra văn bản QPPL, chi họp kiểm tra văn
bản, chi báo cáo kiểm tra văn bản, chi để tổ chức và chi phí cho cộng tác viên kiểm tra
văn bản…
Kiểm tra văn bản là một công việc khó khăn, phức tạp, có khối lƣợng và áp lực
công việc nặng nề, căng thẳng; quá trình thực thi công vụ đòi hỏi công chức thực hiện
phải có tinh thần trách nhiệm cao và chịu nhiều sức ép. Vì vậy, để động viên, khuyến
khích, nâng cao chất lƣợng, hiệu quả công việc, cần phải có các quy định chế độ phụ
cấp nghề nghiệp cho đội ngũ này, điều này sẽ tác động tốt đến tâm lý, tinh thần làm
việc và hiệu quả công tác của đội ngũ công chức kiểm tra văn bản.
2.7.4.4. Hệ cơ sở dữ liệu phục vụ hoạt động kiểm tra văn bản
Hệ Cơ sở dữ liệu phục vụ công tác kiểm tra văn bản bao gồm tập hợp một cách
khoa học các VBQPPL làm cơ sở pháp lý đã đƣợc rà soát, chuẩn hóa hiệu lực; các kết
quả kiểm tra văn bản; các thông tin về nghiệp vụ kiểm tra văn bản và các thông tin, tài
liệu khác... Việc thành lập hệ cơ sở dữ liệu nhằm mục đích chủ yếu phục vụ cho công
tác kiểm tra văn bản QPPL, phục vụ việc phát hiện quy định trái pháp luật, mâu thuẫn,
chồng chéo, hết hiệu lực hoặc không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã
hội để kịp thời đình chỉ việc thi hành, bãi bỏ, thay thế, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành
văn bản mới, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống
văn bản QPPL, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã hội. Chính vì thế, cần phải
xây dựng một hệ cơ sở dữ liệu khoa học, chính xác, tiện lợi và cập nhật thƣờng xuyên,
kịp thời văn bản, thông tin mới nhằm phục vụ đắc lực công tác kiểm tra văn bản. Theo
đó, thống nhất xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu chung ở trung ƣơng do Bộ Tƣ
pháp chủ trì và mỗi bộ, cơ quan ngang bộ, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng xây
dựng một hệ cơ sở dữ liệu riêng, tổng hợp chung vào hệ cơ sở dữ liệu ở trung ƣơng
nhằm đảm bảo tiết kiệm và hiệu quả. Việc rà soát, cập nhật các văn bản này do Bộ Tƣ
80
pháp chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ khác nhằm xây dựng hệ cơ sở dữ
liệu chung phục vụ hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản QPPL.
2.7.4.5. Cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc
Cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc cũng là một trong những điều kiện bảo đảm
cho kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành. Theo đó, điều kiện vật
chất, trang thiết bị làm việc tốt, đáp ứng yêu cầu thì sẽ có tác dụng thúc đẩy, hỗ trợ cho
kiểm tra văn bản đƣợc tốt hơn, thuận lợi hơn, hiệu quả hơn. Chẳng hạn, việc đầu tƣ lắp đặt
hệ thống đƣờng truyền internet tốc độ cao giúp cho ngƣời trực tiếp làm công tác kiểm tra
văn bản dễ dàng hơn trong việc truy cập mạng, trao đổi, khai thác thông tin, dữ liệu…
hoặc hệ thống nhà kho, bàn, tủ làm việc máy tính… cũng có tác động đến hiệu quả của
kiểm tra văn bản QPPL nhƣ việc lƣu trữ hồ sơ, văn bản, tốc độ làm việc…
2.7.4.6. Tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ và phối hợp trong kiểm tra văn bản
do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành
(i) Về tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ
Tập huấn, hƣớng dẫn nghiệp vụ kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban
hành là hoạt động quan trọng trong quản lý nhà nƣớc về kiểm tra văn bản, đặc biệt là
kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành. Kiểm tra văn bản QPPL
vốn là một hoạt động mang tính chuyên môn sâu, tƣơng đối khó khăn và phức tạp,
quan trọng và có tính nhạy cảm, bởi nó liên quan trực tiếp, có tính quyết định đến số
phận pháp lý của một văn bản QPPL. Chính vì vậy, đòi hỏi ngƣời làm công tác này
không chỉ có kinh nghiệm thực tế, trình độ, thâm niên nghề nghiệp mà còn phải có kỹ
năng nghiệp vụ để kiểm tra một văn bản cụ thể. Ngoài các cán bộ công chức trực tiếp
làm việc tại các cơ quan có thẩm quyền kiểm tra văn bản, thì cơ quan có thẩm quyền
kiểm tra văn bản còn có đội ngũ cộng tác viên. Vì vậy, không những đội ngũ cán bộ,
công chức cần thƣờng xuyên đƣợc tập huấn, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ,
đội ngũ cộng tác viên cũng rất cần thiết đƣợc trang bị những kỹ năng nghiệp vụ của
kiểm tra văn bản QPPL. Do đó, có thể nói, tập huấn, hƣớng dẫn nghiệp vụ là điều kiện
bảo đảm quan trọng, có tác động đến chất lƣợng, hiệu quả kiểm tra văn bản QPPL do
bộ, cơ quan ngang bộ ban hành.
(ii) Phối hợp trong kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành
Kiểm tra văn bản là hoạt động đa ngành, đa cấp, đƣợc tiến hành bởi nhiều chủ
thể, liên quan trực tiếp đến rất nhiều cơ quan khác nhau, do đó để triển khai tốt cần
81
phải có phối hợp giữa các cơ quan này nhƣ: Phối hợp trong việc gửi văn bản đến cơ
quan có thẩm quyền kiểm tra; Phối hợp kiểm tra, xử lý đối với các văn bản liên tịch;
Phối hợp trong tổ chức, tham gia đoàn kiểm tra văn bản liên ngành theo chuyên đề,
lĩnh vực, địa bàn; Cơ quan kiểm tra văn bản theo thẩm quyền phối hợp với cơ quan tự
kiểm tra và các đơn vị chủ trì soạn thảo văn bản trao đổi, thảo luận về những nội dung
trái pháp luật của văn bản và hƣớng xử lý những nội dung trái pháp luật đó; phối hợp
giữa cơ quan tự kiểm tra văn bản (tổ chức pháp chế) với đơn vị đã chủ trì soạn thảo
văn bản của Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ trong tự kiểm tra, xử lý, báo cáo
kết quả kiểm tra xử lý văn bản có nội dung trái pháp luật theo thông báo của cơ quan
kiểm tra; Phối hợp trao đổi kinh nghiệm, tập huấn, hƣớng dẫn, bồi dƣỡng về nghiệp vụ
kiểm tra văn bản QPPL; Phối hợp với các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc tiếp
nhận, xử lý kiến nghị về văn bản QPPL trái pháp luật; Phối hợp với các phƣơng tiện
thông tin đại chúng trong tuyên truyền, phổ biến về công tác kiểm tra văn bản cũng
nhƣ việc công bố kết quả kiểm tra văn bản…
2.8. NGHIÊN CỨU CƠ CHẾ BẢO ĐẢM TÍNH HỢP HIẾN, HỢP PHÁP
CỦA VĂN BẢN QPPL CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI VÀ LIÊN
HỆ VỚI CƠ CHẾ KIỂM TRA VĂN BẢN QPPL DO BỘ, CƠ QUAN NGANG
BỘ BAN HÀNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.8.1. Cơ chế bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản QPPL của một
số quốc gia trên thế giới
Ở một số quốc gia trên thế giới, với tính chất là một hoạt động bảo hiến, hoặc
bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản QPPL do các chủ thể ban hành, ngƣời ta
thành lập các thiết chế khác nhau để thực hiện hoạt động này. Theo nghĩa hẹp, bảo
hiến thƣờng gắn với việc cơ quan có thẩm quyền phán xét và ra quyết định về sự phù
hợp với Hiến pháp của các đạo luật do cơ quan lập pháp và các văn bản quy phạm
pháp luật do cơ quan hành pháp ban hành đồng thời ra phán quyết đối với các hành vi
vi phạm Hiến pháp của các cơ quan nhà nƣớc và các quan chức đƣợc Hiến pháp quy
định quyền và nghĩa vụ. Các quốc gia khác nhau đều xây dựng một mô hình bảo hiến
phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và truyền thống của mình và
thƣờng giao cho các thiết chế này các nhiệm vụ khác nhau trong đó có việc giải thích
Hiến pháp nhằm bảo đảm cho các nguyên tắc, quy định của Hiến pháp đƣợc nhận thức
82
đầy đủ, để từ đó có thể dẫn tới việc thực hiện đúng đắn Hiến pháp; giám sát tính hợp
hiến của các đạo luật, văn bản dƣới luật, điều ƣớc quốc tế nhằm đảm bảo cho các quy
định phải phù hợp và không đƣợc mâu thuẫn với các nguyên tắc và những quy định của
Hiến pháp… Theo đó, với các cách thức khác nhau, việc phán quyết về tính hợp hiến,
hợp pháp của văn bản QPPL đƣợc giao cho Tòa án tối cao (Indonesia, Malaisia,
Philipin, Singapore…), Tòa án Hiến pháp (Thái Lan, Liên bang Nga…), Hội đồng Hiến
pháp (Trung Quốc)… Bên cạnh cơ chế bảo hiến, hệ thống tòa án tƣ pháp còn đƣợc giao
nhiệm vụ xem xét, phán quyết về tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản QPPL do các
cơ quan hành chính nhà nƣớc ban hành bằng sự thành lập hệ thống tòa án hành chính
riêng biệt hoặc tòa hành chính (chuyên trách) thuộc hệ thống tòa án thƣờng.
Thực tế hiện nay, Tòa án, với vị trí là nơi “bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
ngƣời, bảo vệ quyền công dân…” mà nhiều quốc gia trên thế giới trao thẩm quyền cho
cơ quan tƣ pháp xem xét, phán quyết về tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản QPPL
thông qua hoạt động của Tòa hiến pháp và Tòa hành chính. Tòa hiến pháp có quyền
tuyên bố về văn bản vi hiến nhằm thực hiện chức năng bảo hiến của mình. Còn Tòa
hành chính có quyền đƣa ra những phán quyết về tính hợp pháp của văn bản dƣới luật.
Ở một số nƣớc, các tòa hành chính độc lập đƣợc thiết lập trong khuôn khổ hệ thống tòa
án tƣ pháp thƣờng. Một số nƣớc (nhƣ Pháp, Đức) hệ thống tòa án đặc biệt đƣợc thiết
lập độc lập với hệ thống tòa án thƣờng (Tòa án hành chính). Tại Nhật Bản, mặc dù
trong luật không quy định rõ tòa án có thẩm quyền hay không trong việc phán quyết
tính hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật hành chính, nhƣng Điều 81 Hiến
pháp Nhật Bản cũng khẳng định rõ: Tòa án tối cao là tòa án có thẩm quyền cuối cùng
có quyền phán quyết bất kể đạo luật, pháp lệnh, nghị định hay quy định nào có hợp
hiến hay không. Nhƣ vậy, mặc dù không có Tòa án Hiến pháp, Nhật Bản cũng thừa
nhận quyền tài phán hiến pháp đƣợc trao cho tòa án tối cao. Về nguyên tắc, ngƣời dân
không thể khởi kiện một quy phạm ra tòa án; tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ
án hành chính cụ thể, tòa án có quyền xem xét tính hợp hiến và hợp pháp của các quy
phạm mà dựa vào đó quyết định bị kiện đƣợc ban hành. Thẩm quyền phán quyết cuối
cùng thuộc về Tòa án tối cao.
Việc xem xét quyết định hành chính mang tính quy phạm tại Trung Quốc cũng
giống nhƣ việc xem xét bất kỳ một văn bản quy phạm pháp luật nào, Khoản 7 Điều 67
Hiến pháp Trung Quốc quy định trao quyền cho Quốc hội, Ủy ban Thƣờng vụ Quốc
83
hội, Chính phủ hoặc chính quyền địa phƣơng cấp cao hơn xử lý. Tuy nhiên, Điều 52
Luật Kiện tụng hành chính cho phép các tòa án, trong quá trình giải quyết các vụ án
hành chính cụ thể, có quyền xem xét tính hợp pháp của các văn bản hành chính quy
phạm của các cấp vụ ở Trung ƣơng, hay của chính quyền địa phƣơng. Điều đó có
nghĩa, về mặt nguyên tắc, không đƣợc khởi kiện quy phạm một cách độc lập, mà phải
gắn liền với một quyết định cá biệt bị kiện trên cơ sở dựa vào quy phạm pháp luật bị
cho là trái pháp luật đó. Khi phán quyết, tòa án cũng không có quyền tuyên bố vô hiệu
hoặc hủy bỏ, mà quyền này thuộc về các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của
Hiến pháp. Mặc dù không quy định ngƣời dân đƣợc khởi kiện một QPPL hay văn bản
QPPL ra tòa án, tuy nhiên, trong quá trình xét xử các vụ án hành chính cụ thể, tòa án
có quyền xem xét tính hợp hiến và hợp pháp của các QPPL mà trên cơ sở đó quyết
định hành chính bị kiện đƣợc ban hành.
Nhƣ vậy, tùy thuộc vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể mà mỗi quốc gia khác nhau
lại có cách thức xem xét, xử lý các văn bản QPPL trái pháp luật khác nhau. Mặc dù có
nơi thì cho phép cá nhân, thể nhân trực tiếp trực tiếp khiếu nại về văn bản QPPL, QPPL
ảnh hƣởng đến lợi ích của mình, có nơi lại chỉ xem xét văn bản QPPL trên cơ sở xem
xét các vụ việc cụ thể. Tuy nhiên, kết quả cuối cùng vẫn là hành động xem xét tính hợp
hiến, hợp pháp của văn bản QPPL hay QPPL cụ thể của Tòa án hành chính.
2.8.2. Mối liên hệ giữa cơ chế kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan
ngang bộ ban hành ở Việt Nam hiện nay với cơ chế bảo đảm tính hợp hiến, hợp
pháp của văn bản QPPL của một số quốc gia trên thế giới
Để hạn chế (hay phòng ngừa) sự lạm quyền, vƣợt quyền của cơ quan có thẩm
quyền ban hành văn bản QPPL, đã đến lúc cần nhìn nhận, liệu rằng, có nên giao cho một
cơ quan nào khác thực hiện việc kiểm tra, phán quyết về tính trái pháp luật của văn bản
do bộ, cơ quan ngang bộ hay không? Nói cách khác, đó chính là tổ chức thực hiện việc
giám sát của cơ quan khác đối với cơ quan hành pháp.
Có thể nhận thấy, dù chủ thể nào và với hình thức xử lý nào, thì suy cho cùng,
kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành ở Việt Nam hiện nay vẫn là việc
tự kiểm tra, tự đánh giá và tự xử lý văn bản QPPL trong nội bộ hệ thống các cơ quan
hành chính nhà nƣớc. Điều này đặt ra nhiều dấu hỏi về việc bảo đảm triệt để tính
khách quan, minh bạch, dân chủ trong kiểm tra văn bản. Bên cạnh đó, là vấn đề về bảo
đảm sự bình đẳng giữa các cơ quan nhà nƣớc, ngƣời có thẩm quyền ban hành văn bản
84
với cơ quan, tổ chức, cá nhân, công dân, đối tƣợng chịu sự tác động của văn bản. Đặc
trƣng của nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa đó là tính tối thƣợng của pháp luật,
sự độc tôn của Hiến pháp, trong đó, quyền con ngƣời, quyền công dân đƣợc ghi nhận
và bảo đảm thực hiện. Để làm đƣợc điều đó, thì hệ thống pháp luật phải đƣợc hoàn
thiện, phục vụ các mục tiêu của nhà nƣớc pháp quyền. Kiểm tra, giám sát văn bản
QPPL là một trong những giải pháp quan trọng để xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật, kiểm soát quyền lực nhà nƣớc, bảo vệ Hiến pháp. Do vậy, việc kiểm tra văn
bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành (thuộc hệ thống cơ quan hành pháp), bên
cạnh cơ chế nội bộ nhƣ hiện nay, cần đƣợc thực hiện bởi hệ thống cơ quan nhà nƣớc
khác, độc lập với hệ thống cơ quan hành chính nhà nƣớc, sự giám sát “từ bên ngoài”
này thể hiện rõ nét tính chất kiểm soát quyền lực nhà nƣớc giữa các quyền lập pháp,
hành pháp và tƣ pháp theo đúng tinh thần của Hiến pháp Việt Nam 2013.
Có thể khái quát ba loại hình vi phạm Hiến pháp nhƣ sau: Trong hoạt động lập
pháp: ban hành luật không phù hợp với quy định của Hiến pháp. Trong hoạt động
hành pháp: ban hành văn bản quy phạm pháp luật trái Hiến pháp hoặc thực hiện các
hành vi vi hiến. Trong hoạt động tư pháp, việc thực thi pháp luật và ban hành văn bản
quy phạm pháp luật trong lĩnh vực tƣ pháp, bao gồm cả hoạt động điều tra, truy tố, xét
xử, thi hành án, kiểm sát các hoạt động tƣ pháp đƣợc thực hiện không đúng với quy
định của Hiến pháp [129].
Nhƣ vậy, việc ban hành văn bản QPPL trái Hiến pháp của hệ thống cơ quan
hành pháp đƣợc coi là vi phạm Hiến pháp và cần đƣợc xem xét, phán quyết bởi một cơ
quan có thẩm quyền khác mà không phải bởi chính cơ quan đã ban hành hoặc có mối
quan hệ hành chính (cấp trên - cấp dƣới) ràng buộc với cơ quan đã ban hành văn bản.
Với nhiệm vụ “bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, bảo vệ quyền công dân, bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân” [101] cũng nhƣ tính chất “độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”
[101] của Tòa án nhân dân, thì việc giao cho Tòa án nhân dân Tối cao xem xét và phán
quyết về tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban
hành là phù hợp. Đƣơng nhiên, để làm đƣợc điều này, thì cần phải sửa đổi một loạt các
quy định pháp luật khác có liên quan (kể cả Hiến pháp 2013), cũng nhƣ phải xây dựng
đƣợc một quy trình khoa học, hợp lý để tổ chức nhiệm vụ này tại Tòa án nhân dân Tối
85
cao. Theo đó, mọi văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành đều chứa đựng khả
năng bị xem xét, kiểm tra, phán quyết về tính hợp hiến, hợp pháp, về số phận pháp lý
(có thể bị bãi bỏ, không đƣợc áp dụng) của văn bản QPPL bởi Tòa án nhân dân Tối cao.
Theo đó, trên cơ sở phát hiện của cơ quan, tổ chức, cá nhân về văn bản do bộ cơ
quan ngang bộ ban hành có dấu hiệu trái pháp luật, hoặc, trên cơ sở một vụ việc cụ thể,
cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận thấy văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành áp
dụng (hoặc sắp áp dụng) đối với mình là bất hợp hiến, bất hợp pháp thì có thể khởi
kiện văn bản đó ra Tòa án nhân dân để xem xét, phán quyết về tính hợp hiến, hợp pháp
của văn bản và quyết định xử lý văn bản đó bằng một hình thức nhất định, chẳng hạn,
đình chỉ thi hành và kiến nghị cơ quan đã ban hành văn bản tự xử lý hoặc xử lý bằng
việc tuyên bố văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ đã ban hành, bị khởi kiện là bất
hợp hiến, bất hợp pháp và bãi bỏ văn bản đó. Văn bản đƣợc tuyên là bất hợp hiến, bất
hợp pháp không đƣợc các cơ quan hành chính nhà nƣớc áp dụng nữa. Việc tính toán
mức độ thiệt hại và phân xử liên quan đến bồi thƣờng thiệt hại do áp dụng văn bản trái
pháp luật gây ra cũng do Tòa án nhân dân tối cao thực hiện.
Đây là có thể là “bƣớc đệm”, là phƣơng thức “quá độ” trƣớc khi chúng ta quyết
định“xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập
pháp, hành pháp và tư pháp” [66]. Là cách thức “kiểm soát quyền lực nhà nước” giữa
hành pháp và tƣ pháp theo quy định của Hiến pháp 2013.
Bên cạnh đó, khi Tòa án nhân dân Tối cao thực hiện chức năng này, thì thẩm
quyền của các bộ, cơ quan ngang bộ trong kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan
ngang bộ ban hành (tức là các quy định hiện hành về kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ
quan ngang bộ ban hành) vẫn cần tiếp tục tồn tại và củng cố, phát huy và coi đây là
một phƣơng thức tự kiểm tra, tự kiểm soát việc ban hành văn bản QPPL của các cơ
quan hành chính nhà nƣớc và lúc này cũng cần sửa đổi Hiến pháp và các văn bản có
liên quan về việc không quy định thẩm quyền của Thủ tƣớng Chính phủ trong kiểm
tra, xử lý văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ nữa (vì đã có Tòa án nhân dân Tối
cao thực hiện).
86
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
Kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành đƣợc coi là công cụ
hữu hiệu để tự kiểm tra, kiểm soát quyền lực của các cơ quan hành chính nhà nƣớc ở
trung ƣơng, là phƣơng tiện giúp “làm sạch” hệ thống pháp luật, làm cho hệ thống pháp
luật trở nên thống nhất, đồng bộ, minh bạch, khả thi. Theo đó, để tạo thuận lợi cho
việc ban hành và kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành, cần
nghiên cứu, làm rõ khái niệm văn bản QPPL, kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan
ngang bộ ban hành và các khái niệm khác có liên quan. Bên cạnh đó, việc phân tích,
đánh giá vị trí, vai trò của kiểm tra văn bản QPPL do Bộ, cơ quan ngang Bộ ban hành
và vai trò của Bộ Tƣ pháp trong kiểm tra văn bản QPPL do Bộ, cơ quan ngang Bộ ban
hành có ý nghĩa hết sức quan trọng, giúp chúng ta nhìn nhận một cách khách quan, có
nghiên cứu xứng tầm và đề xuất đƣợc những giải pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả
hoạt động này trong thời gian tới.
Kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành đƣợc tiến hành bởi các
chủ thể có thẩm quyền khác nhau theo những nguyên tắc, nội dung, phƣơng thức… nhất
định. Trong các chủ thể xem xét, kết luận về tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản QPPL
do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành, cần nghiên cứu, tính đến việc đề xuất giao cho Tòa án
nhân dân tối cao (Tòa hành chính) thực hiện nhiệm vụ này, điều đó thể hiện vai trò giám
sát tƣ pháp đối với các hoạt động hành chính, phù hợp với nguyên tắc tổ chức quyền lực
nhà nƣớc của nƣớc ta.
Với tính chất của nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đề cao mối quan hệ đầy
trách nhiệm giữa Nhà nƣớc - Nhân dân, cần nghiên cứu, ban hành văn bản cụ thể để thực
hiện việc xem xét, xử lý trách nhiệm đối với ngƣời, cơ quan ban hành văn bản trái pháp
luật và khắc phục hậu quả do áp dụng văn bản trái pháp luật gây ra.
87
Chƣơng 3
THỰC TRẠNG KIỂM TRA VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT DO BỘ, CƠ QUAN NGANG BỘ BAN HÀNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. NHỮNG KẾT QUẢ ĐÃ ĐẠT ĐƢỢC TRONG KIỂM TRA VĂN BẢN
QPPL DO BỘ, CƠ QUAN NGANG BỘ BAN HÀNH
Quy định pháp luật về kiểm tra văn bản QPPL nói chung và kiểm tra văn bản
do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành nói riêng là không tách rời và đã đƣợc ban hành từ
khá sớm so với việc triển khai thực hiện trên thực tế. Kiểm tra văn bản QPPL đã đƣợc
quy định tại Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), Luật Tổ chức Chính
phủ 2001, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003, Luật năm
1996, Luật năm 2008, Luật năm 2004. Để triển khai công tác kiểm tra văn bản QPPL
trên thực tế, Chính phủ đã ban hành Nghị định 135/2003/NĐ-CP ngày 14/11/2003 về
kiểm tra và xử lý văn bản QPPL (sau đó đƣợc thay thế bởi Nghị định số 40/2010/NĐ-
CP). Hiện nay, hoạt động kiểm tra văn bản QPPL đƣợc quy định tại Hiến pháp năm
2013, Luật Tổ chức Chính phủ 2015, Luật Tổ chức chính quyền địa phƣơng 2015,
Luật năm 2015 và Nghị định 34/2016/NĐ-CP ngày 14 tháng 5 năm 2016 quy định chi
tiết và biện pháp thi hành Luật năm 2015. Trên cơ sở các quy định pháp luật về kiểm
tra, xử lý văn bản QPPL nêu trên, từ năm 2003 đến hết tháng 12/2015, các bộ, cơ
quan ngang bộ đã tổ chức triển khai nhiệm vụ kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan
ngang bộ ban hành và đạt đƣợc những kết quả tƣơng đối khả quan.
Pháp luật hiện hành chƣa quy định tiêu chí cụ thể để đánh giá chất lƣợng kiểm
tra văn bản QPPL nói chung và kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành
nói riêng. Tuy nhiên, để đánh giá thực trạng của hoạt động này, cũng cần dựa trên
những tiêu chí nhất định. Do đó, hoạt động kiểm tra văn bản QPPL cần đƣợc đánh giá
dựa trên các nội dung nhƣ: tính đầy đủ, hoàn thiện của thể chế làm cơ sở triển khai
công tác này; kết quả tổ chức kiểm tra văn bản thể hiện ở số lƣợng văn bản đƣợc kiểm
tra so với số lƣợng văn bản đã ban hành; số lƣợng văn bản đƣợc xử lý so với số lƣợng
văn bản phát hiện trái pháp luật; sự kịp thời trong kiểm tra, xử lý văn bản; việc triển
khai đầy đủ các phƣơng thức kiểm tra văn bản; việc bố trí kinh phí và các điều kiện
bảo đảm khác cho hoạt động này có tƣơng xứng yêu cầu nhiệm vụ.. Do chƣa có tiêu
chí chính thức, nên việc báo cáo, thu thập thông tin không đƣợc đầy đủ dẫn đến những
khó khăn khi đối chiếu thông tin, số liệu để đƣa ra các đánh giá toàn diện, làm cơ sở
88
cho các giải pháp quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động này. Đây cũng chính là lí do ở
phần sau Luận án có kiến nghị về nội dung này.
3.1.1. Kết quả tổ chức kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ
ban hành
3.1.1.1. Số lượng văn bản được kiểm tra lớn, phạm vi kiểm tra toàn diện
Về tự kiểm tra văn bản, có thể nói, thời gian qua, các cơ quan có thẩm quyền
kiểm tra văn bản đã kiểm tra đƣợc số lƣợng văn bản “khổng lồ”, theo Báo cáo tổng kết
10 năm thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, xử lý văn bản QPPL (từ năm 2003 đến hết tháng
3/2013) và báo cáo Thủ tƣớng Chính phủ các năm 2014, 2015 của Bộ Tƣ pháp, các bộ,
ngành và địa phƣơng đã tự kiểm tra đƣợc 6.162.893 văn bản (bao gồm cả văn bản
QPPL và văn bản có thể thức và nội dung nhƣ văn bản QPPL nhƣng không đƣợc ban
hành đúng thể thức, thẩm quyền)[9],[10],[11]. Trong đó, các Bộ, ngành đã tự kiểm tra
đƣợc 19.047 (văn bản QPPL là 13.190 văn bản, chiếm 69,2% tổng số văn bản các Bộ,
ngành đã tự kiểm tra).
Số liệu trên cho thấy, bộ, cơ quan ngang bộ đã tự kiểm tra đƣợc số lƣợng lớn
văn bản, trong đó có nhiều văn bản không phải là văn bản QPPL cũng đã đƣợc kiểm
tra, xử lý. Kết quả này thể hiện tính chủ động của các cơ quan trong tự kiểm tra văn
bản do mình ban hành.
Về kiểm tra văn bản theo thẩm quyền (bao gồm cả văn bản QPPL do bộ, cơ
quan ngang bộ và HĐND, UBND các cấp ban hành), các Bộ, cơ quan ngang bộ triển
khai thực hiện chủ yếu qua các hình thức: kiểm tra tại cơ quan có thẩm quyền kiểm tra
văn bản, kiểm tra theo địa bàn, kiểm tra theo chuyên đề. Theo đó, từ năm 2003 đến hết tháng 12/2015, trên tổng số các văn bản đã tiếp nhận2, các Bộ, cơ quan ngang bộ (bao
gồm cả Bộ Tƣ pháp) và địa phƣơng đã kiểm tra đƣợc 3.949.474 văn bản; trong đó, các
Bộ, cơ quan ngang bộ kiểm tra đƣợc 60.386 văn bản (văn bản QPPL là 58.010 văn
bản, chiếm 96% tổng số văn bản các Bộ, ngành đã kiểm tra) [9],[10],[11].
Tại Bộ Tư pháp, theo tổng hợp các báo cáo của Cục Kiểm tra văn bản QPPL
trong các năm 2009 đến 2015 cho thấy, trong khoảng thời gian trên, trên cơ sở số văn
bản tiếp nhận, Cục Kiểm tra văn bản đã thực hiện kiểm tra đƣợc 2.833 văn bản văn bản
2 Sở dĩ không báo cáo tổng số văn bản đã tiếp nhận bởi một số Bộ, ngành, địa phƣơng không báo cáo số văn bản đã tiếp nhận.
do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành [36],[37],[38],[39],[40],[41],[42],[43],[44].
89
Các số liệu trên cho thấy, kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành
đã có những kết quả thực tế, thể hiện qua những con số “đồ sộ”, qua hàng loạt văn bản
cụ thể đã bị xử lý, đã đƣợc các phƣơng tiện truyền thông đƣa tin, đƣợc xã hội quan
tâm, theo dõi… Tuy nhiên, số liệu về kết quả kiểm tra này chỉ đƣợc “bóc tách” một
cách khá rõ tại Bộ Tƣ pháp (giữa số liệu kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban
hành và số liệu kiểm tra văn bản do địa phƣơng ban hành; giữa số liệu văn bản đã
kiểm tra với số văn bản đã tiếp nhận…). Còn lại, chƣa thể đánh giá đầy đủ đƣợc thực
trạng kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành thông qua các con số trên.
Chẳng hạn, tác giả Luận án (hoặc cơ quan quản lý nhà nƣớc) không thể đánh giá số
lƣợng văn bản đã đƣợc tự kiểm tra (so) với số lƣợng văn bản đã ban hành (thông qua
các báo cáo công tác về kiểm tra văn bản hàng năm), bởi các cơ quan chỉ báo cáo con
số đã tự kiểm tra mà không có thông tin về số văn bản đã ban hành để đối chiếu, đánh
giá mức độ đầy đủ của việc tự kiểm tra văn bản.
Bên cạnh đó, các số liệu trên cũng chƣa đƣợc các bộ, cơ quan ngang bộ “bóc
tách” giữa số văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành và số văn bản QPPL
do UBND, HĐND cấp tỉnh ban hành mà bộ, cơ quan ngang bộ đã kiểm tra theo thẩm
quyền. Tƣơng tự nhƣ vậy, đối với số lƣợng văn bản đã kiểm tra theo thẩm quyền, cần
báo cáo hoặc đánh giá về số lƣợng văn bản đã kiểm tra theo thẩm quyền (so) với số
lƣợng văn bản đã tiếp nhận và (so) với số lƣợng văn bản mà cơ quan, ngƣời có thẩm
quyền ban hành văn bản đã ban hành để đánh giá về mức độ đầy đủ hay không của
việc kiểm tra văn bản theo thẩm quyền. Ngay tại Báo số 24/BC-BTP ngày 23/01/2014
tổng kết 10 năm thực hiện công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật (2003
- 2013) cũng không đƣa ra đƣợc tổng số văn bản đã tiếp nhận để kiểm tra, do nhiều bộ,
ngành, địa phƣơng không báo cáo [9]. Vì vậy, rất khó để so sánh và đánh giá một cách
toàn diện, đầy đủ bởi cần dựa trên một bộ tiêu chí cụ thể. Song hiện nay, các tiêu chí
này chƣa đƣợc ban hành.
3.1.1.2. Về số lượng văn bản được phát hiện trái pháp luật Theo quy định tại Điều 3 Nghị định 40/2010/NĐ-CP3 thì nội dung kiểm tra văn
bản là việc xem xét, đánh giá và kết luận về tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản theo
các nội dung đƣợc quy định tại Luật năm 2008 và Luật năm 2004. Theo đó, văn bản
hợp hiến, hợp pháp là văn bản bảo đảm đủ các điều kiện sau đây: Ban hành đúng căn cứ 3 Hiện nay nội dung kiểm tra văn bản đƣợc quy định tại Điều 104 Nghị định 34/2016/NĐ-CP
90
pháp lý; Ban hành đúng thẩm quyền; Nội dung của văn bản phù hợp với quy định của
pháp luật; Văn bản đƣợc ban hành đúng trình tự, thủ tục, thể thức và kỹ thuật trình bày
theo quy định của pháp luật. Trên cơ sở đó, các cơ quan có thẩm quyền kiểm tra văn bản
đã tập trung kiểm tra văn bản theo các nội dung trên, việc phát hiện nội dung trái pháp
luật của văn bản đƣợc thể hiện ở tất cả các nội dung.
Qua tự kiểm tra, các Bộ, cơ quan ngang bộ phát hiện đƣợc 279 trong tổng số
46.634 văn bản đƣợc các cơ quan kiểm tra văn bản tự kiểm tra, phát hiện (trong đó,
văn bản QPPL là 241 văn bản, chiếm 86,3% tổng số văn bản các bộ, cơ quan ngang bộ
đã phát hiện trái pháp luật)[9],[10],[11].
Qua công tác kiểm tra văn bản theo thẩm quyền, các bộ, cơ quan ngang bộ và
địa phƣơng đã phát hiện đƣợc 91.982 văn bản có dấu hiệu vi phạm các điều kiện về
tính hợp pháp của văn bản quy định tại Điều 3 Nghị định 40/2010/NĐ-CP, bao gồm
60.105 văn bản QPPL (chiếm 65,3% tổng số văn bản có dấu hiệu vi phạm các điều
kiện về tính hợp pháp của văn bản), còn lại là các văn bản không phải là văn bản
QPPL nhƣng có chứa QPPL. Trong đó có 11.655 văn bản QPPL có dấu hiệu vi phạm
tính hợp pháp về nội dung của văn bản (chiếm 19,3% tổng số văn bản QPPL đã phát
hiện có dấu hiệu vi phạm các điều kiện về tính hợp pháp của văn bản quy định tại Điều
3 Nghị định số 40), còn lại là các văn bản QPPL có dấu hiệu vi phạm về căn cứ pháp
lý; thẩm quyền ban hành; trình tự, thủ tục ban hành; thể thức và kỹ thuật trình bày văn
bản [9],[10],[11].
Riêng các bộ, cơ quan ngang bộ, qua kiểm tra, phát hiện 7.673 văn bản trái
pháp luật (trong đó có 7.373 văn bản QPPL); có 1.836 văn bản trái pháp luật về nội
dung (chiếm 23,9 % số văn bản bộ, cơ quan ngang bộ phát hiện trái pháp luật)
[9,10,11]. Đây là thành tích trong hoạt động kiểm tra văn bản của bộ, cơ quan ngang
bộ nhƣng cũng là con số đáng báo động đối với tình trạng ban hành văn bản trái pháp
luật, chƣa kể đây có thể chƣa phải là con số chính xác, đầy đủ, bởi vẫn còn khả năng
cơ quan có thẩm quyền không kiểm tra hết văn bản cần kiểm tra hoặc bỏ lọt nội dung
trái pháp luật của văn bản.
Riêng Bộ Tư pháp, trên cơ sở kết quả kiểm tra số văn bản QPPL do bộ, cơ
quan ngang bộ ban hành (từ 2009 đến 2015), đã phát hiện 482 văn bản có dấu hiệu trái
pháp luật (năm 2009: 77 văn; năm 2010: 63 văn bản; năm 2011: 73 văn bản; năm
2012: 98 văn bản; năm 2013: 90 văn bản; năm 2014: 58 văn bản; năm 2015: 23 văn
91
bản), chiếm 16,8% trên tổng số văn bản đã tiến hành kiểm tra. Kết quả kiểm tra cho
thấy một số ngành, lĩnh vực có số lƣợng văn bản sai trái nhiều nhƣ: tài chính, xây
dựng, giáo dục và đào tạo... Ngoài ra, có khá nhiều văn bản hành chính có chứa quy
phạm trái pháp luật.
3.1.3.3. Xử lý kịp thời nhiều văn bản trái pháp luật
Về tự xử lý, trong thời gian qua (từ năm 2003 đến hết tháng 12/2015), trên cơ sở
số văn bản tự kiểm tra, phát hiện trái pháp luật, các Bộ, cơ quan ngang bộ đã tự xử lý
đƣợc 250/279 văn bản trái pháp luật (chiếm 89.6% số văn bản tự phát hiện trái pháp
luật) [9],[10],[11].
Về xử lý văn bản trái pháp luật qua kiểm tra văn bản theo thẩm quyền: các văn
bản do bộ, cơ quan ngang bộ kiểm tra, phát hiện đã đƣợc xử lý là 1.053 văn bản, còn
361 văn bản đang xem xét, xử lý (chiếm 25.5% số văn bản trái pháp luật cần xử lý)
[9],[10],[11]. Thực tế cho thấy, một số bộ, cơ quan ngang bộ có tinh thần cầu thị trong
xử lý văn bản QPPL trái pháp luật, đã phối hợp chặt chẽ với cơ quan có thẩm quyền để
trao đổi, thảo luận, thống nhất phƣơng án và tiến hành tự kiểm tra, xử lý kịp thời, đúng
kiến nghị của cơ quan có thẩm quyền kiểm tra văn bản, hoặc một số bộ, cơ quan ngang
bộ còn xử lý cả văn bản sai về thể thức kỹ thuật trình bày bằng việc ban hành văn bản
đính chính.
Một số văn bản cụ thể đã đƣợc kịp thời kiểm tra, kiến nghị xử lý, đƣợc dƣ luận
xã hội quan tâm và đồng tình ủng hộ nhƣ: Quyết định số 33/2008/QĐ-BYT ngày
30/9/2008 của Bộ Y tế về việc ban hành tiêu chuẩn sức khỏe ngƣời điều khiển phƣơng
tiện giao thông cơ giới đƣờng bộ; Quyết định số 34/2008/QĐ-BYT ngày 09/11/2008 của
Bộ Y tế về việc ban hành sức khỏe ngƣời khuyết tật điều khiển xe mô tô, xe gắn máy ba
bánh dùng cho ngƣời khuyết tật; Thông tƣ liên tịch số 09/2009/TTLT-BYT-BTC ngày
14/8/2009 của liên Bộ Y tế và Tài chính hƣớng dẫn thực hiện bảo hiểm y tế; Công văn
283 của Cục Nghệ thuật - Biểu diễn, Bộ Văn hóa - Thông tin về việc không cho phép
học sinh, sinh viên tham gia biểu diễn nghệ thuật tại vũ trƣờng, quán karaoke...
3.1.3.4. Thực hiện thẩm quyền kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang
bộ ban hành
Về cơ bản, cơ quan, ngƣời có thẩm quyền kiểm tra văn bản đã thực hiện nhiệm
vụ này theo đúng thẩm quyền đƣợc giao. Luật năm 2008 quy định Chính phủ kiểm tra,
92
xử lý văn bản QPPL có dấu hiệu trái pháp luật4. Nhƣ vậy, hoạt động kiểm tra văn bản
QPPL đƣợc giao cho Chính phủ thực hiện. Cũng theo Luật năm 2008 và đƣợc cụ thể
hóa tại Nghị định 40/2010/NĐ-CP, các chủ thể có thẩm quyền kiểm tra văn bản QPPL
do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành gồm: Thủ tƣớng Chính phủ, Bộ Tƣ pháp, bộ
trƣởng, thủ trƣởng cơ quan ngang bộ. Trong đó, Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp đóng vai trò
quan trọng trong việc giúp Thủ tƣớng Chính phủ thực hiện thẩm quyền kiểm tra, xử lý
văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành. Để giúp các cơ quan, ngƣời có thẩm
quyền thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, Nghị định 40/2010/NĐ-CP đã giao cho một số chủ thể làm đầu mối, bao gồm5: Cục Kiểm tra văn bản QPPL - Bộ Tƣ pháp; cơ quan kiểm
tra văn bản thuộc tổ chức pháp chế của các bộ, cơ quan ngang bộ. Tại các bộ, cơ quan
ngang bộ, việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan làm công tác kiểm tra văn bản
đƣợc thực hiện theo các mô hình khác nhau. Về cơ bản, pháp luật hiện hành đã quy
định khá rõ thẩm quyền và các cơ quan, ngƣời có thẩm quyền đƣợc giao đã triển khai
thực hiện nhiệm vụ theo quy định, không có sự nhầm lẫn, chồng chéo thẩm quyền
trong quá trình thực hiện kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành.
3.1.3.5. Thực hiện các phương thức kiểm tra văn bản Phƣơng thức kiểm tra văn bản QPPL đƣợc quy định tại Điều 56 Nghị định
40/2010/NĐ-CP, bao gồm: (i) Kiểm tra văn bản do cơ quan, ngƣời có thẩm quyền ban
hành văn bản gửi đến; (ii) Kiểm tra văn bản khi nhận đƣợc yêu cầu, kiến nghị của các
cơ quan, tổ chức, cá nhân phản ánh về văn bản có dấu hiệu trái pháp luật và (iii) Kiểm
tra văn bản theo chuyên đề, địa bàn (tại cơ quan ban hành văn bản) hoặc theo ngành,
lĩnh vực. Tuy nhiên, các phƣơng thức nêu trên mới chỉ là việc cụ thể hóa phƣơng thức
kiểm tra văn bản theo thẩm quyền, cần coi tự kiểm tra văn bản cũng là một phƣơng thức.
Điều này đã đƣợc khắc phục tại Điều 106 Nghị định 34/2016/NĐ-CP. Có thể nói, pháp
luật đã quy định khá đầy đủ, đa dạng các phƣơng thức cần thiết cho việc thực hiện hoạt
4 Luật năm 2015 quy định Chính phủ kiểm tra văn bản QPPL, xử lý văn bản QPPL của bộ, cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, chính quyền địa phƣơng ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật và văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nƣớc cấp trên. 5 Nghị định 34/2016/NĐ-CP cũng kế thừa các quy định này của Nghị định 40/2010/NĐ-CP 6 Điều 106 Nghị định 34/2016/NĐ-CP quy định phƣơng thức kiểm tra văn bản bao gồm: (1) Tự kiểm tra văn bản của cơ quan, ngƣời đã ban hành văn bản và (2) Kiểm tra văn bản theo thẩm quyền, bao gồm: (i) do cơ quan, ngƣời có thẩm quyền ban hành văn bản gửi đến; (ii) Kiểm tra văn bản khi nhận đƣợc yêu cầu, kiến nghị của các cơ quan, tổ chức, cá nhân phản ánh về văn bản có dấu hiệu trái pháp luật và (iii) Kiểm tra văn bản theo chuyên đề, địa bàn (tại cơ quan ban hành văn bản) hoặc theo ngành, lĩnh vực
động kiểm tra văn bản. Trên cơ sở đó, các bộ, cơ quan ngang bộ về cơ bản đã thực hiện
93
các phƣơng thức này trong kiểm tra văn bản. Trong đó, phƣơng thức đƣợc thực hiện
phổ biến nhất là phƣơng thức kiểm tra văn bản do cơ quan, ngƣời có thẩm quyền ban
hành văn bản gửi đến và kiểm tra văn bản theo chuyên đề, địa bàn (tại cơ quan ban
hành văn bản) hoặc theo ngành, lĩnh vực.
3.1.4. Kết quả xây dựng, hoàn thiện thể chế của bộ, cơ quan ngang bộ và
các điều kiện bảo đảm phục vụ kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ
ban hành
3.1.4.1 Xây dựng, hoàn thiện thể chế tại bộ, cơ quan ngang bộ
Để triển khai có hiệu quả, thống nhất, đúng quy trình, quy định của pháp luật về
kiểm tra văn bản QPPL, đến nay, trên cơ sở quy định của Nghị định số 40/2010/NĐ-
CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ về kiểm tra và xử lý văn bản QPPL và các văn bản QPPL liên quan7, đến nay hầu hết các bộ, cơ quan ngang bộ đã ban hành các văn bản
quy định cụ thể về trình tự, thủ tục kiểm tra, xử lý văn bản QPPL, tổ chức, biên chế,
cộng tác viên, kinh phí và các điều kiện bảo đảm khác tạo điều kiện thuận lợi và phù
hợp cho việc triển khai công tác này ở bộ, cơ quan ngang bộ mình, chỉ một số ít các
bộ, cơ quan ngang bộ chƣa xây dựng thể chế về công tác kiểm tra, xử lý văn bản
QPPL tại cơ quan mình (hoặc không báo cáo về Bộ Tƣ pháp) [11].
Trên cơ sở đó, hoạt động kiểm tra văn bản tại bộ, cơ quan ngang bộ cơ bản
đƣợc thực hiện theo quy định và dần đi vào nề nếp. Điều này thể hiện sự quan tâm
của Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ đối với hoạt động kiểm tra, xử lý văn
bản QPPL.
3.1.4.2. Tổ chức, biên chế phục vụ kiểm tra văn bản ở các bộ, cơ quan ngang bộ
Về cơ bản, hệ thống cơ quan kiểm tra văn bản đã thiết lập đƣợc đồng bộ, thống
nhất từ Trung ƣơng đến địa phƣơng để thực hiện việc tự kiểm tra và kiểm tra văn bản
theo thẩm quyền. Trong đó, một số Bộ, cơ quan ngang bộ đã thành lập đơn vị chuyên
trách (cấp Vụ thuộc Bộ, Phòng thuộc Vụ, Cục) về kiểm tra văn bản QPPL, nhƣ: Bộ Tƣ
pháp, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Bộ Quốc phòng... [9]. Có Bộ, ngành tổ chức bộ phận
kiểm tra văn bản thuộc Vụ pháp chế hoặc thuộc Phòng Pháp chế của Văn phòng và 7 Quyết định số 42/2009/QĐ-TTg ngày 16/3/2009 của Thủ tƣớng Chính phủ ban hành quy định về kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật có nội dung thuộc bí mật nhà nƣớc; Thông tƣ 20/2010/TT-BTP ngày 30/11/2010 của Bộ Tƣ pháp quy định chi tiết thi hành một số điều của Nghị định số 40/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật; Thông tƣ liên tịch số 122/2011/TTLT-BTC-BTP ngày 17/8/2011 của Bộ Tài chính và Bộ Tƣ pháp quy định việc lập, dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm cho công tác kiểm tra, xử lý; rà soát; hệ thống hóa văn bản QPPL.
94
một số bộ, ngành phân công và bổ sung biên chế chuyên trách kiểm tra văn bản. Đồng
thời, tổ chức pháp chế các bộ, cơ quan ngang bộ đã đƣợc bố trí biên chế phù hợp để
giúp Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ thực hiện kiểm tra văn bản. Đội ngũ
công chức thực hiện công tác kiểm tra văn bản QPPL đã đƣợc qua đào tạo trình độ cử
nhân luật, nhiều công chức đã đƣợc đào tạo sau đại học ở trong và ngoài nƣớc. Kiểm tra
văn bản là công tác tƣơng đối phức tạp, có ảnh hƣởng sâu, rộng đến đời sống xã hội cũng
nhƣ quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, công dân nên đòi hỏi công chức thực
hiện nhiệm vụ này ngoài việc phải đƣợc đào tạo về kiến thức pháp luật và quản lý nhà
nƣớc còn cần phải đƣợc bồi dƣỡng về kỹ năng, nghiệp vụ cũng nhƣ phải đƣợc trau dồi,
rèn luyện về bản lĩnh chính trị trong quá trình tác nghiệp.
Tại Bộ Tƣ pháp, Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật đƣợc giao giúp Bộ
trƣởng Bộ Tƣ pháp thực hiện thống nhất quản lý nhà nƣớc về kiểm tra văn bản và tổ
chức kiểm tra văn bản QPPL. Hiện nay, tổng số lƣợng biên chế của Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật đƣợc phê duyệt là 368 [25]. Trung bình mỗi năm (kể từ năm
2007 đến năm 2013), Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật phải tổ chức tiếp
nhận, phân loại, kiểm tra khoảng 26.789 văn bản (trong đó hầu hết văn bản là thuộc
thẩm quyền kiểm tra của Bộ Tƣ pháp). Nhƣ vậy, mỗi cán bộ, công chức của Cục này
mỗi năm phải giải quyết hơn 744 văn bản. Số liệu này đƣợc tính với giả định Cục
Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật đã thực hiện đủ 36 biên chế hành chính đƣợc
giao (song thực tế chỉ thực hiện đƣợc tối đa 30 biên chế và phải thực hiện các nhiệm
vụ khác nữa, số lƣợng công chức của Phòng Kiểm tra văn bản chỉ có 08 ngƣời).
Riêng đối với văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành, trung bình mỗi
năm (từ 2009 đến 2015), Cục Kiểm tra văn bản QPPL tổ chức kiểm tra 404 văn bản.
Đó là chƣa kể số văn bản các bộ, cơ quan ngang bộ gửi về để Cục kiểm tra không đầy
đủ, không kịp thời. Bởi theo số liệu cá nhân tự thống kê (từ các nguồn: Công báo
Chính phủ, Cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản pháp luật (vbpl.vn), Thƣ viện pháp luật,
Hệ thống văn bản QPPL trên Cổng thông tin điện tử Bộ Tƣ pháp), thì từ năm 2010 đến
năm 2014, trung bình mỗi năm, mỗi Bộ, cơ quan ngang bộ ban hành khoảng 50 văn
bản QPPL, tổng số trung bình mỗi năm 22 bộ, cơ quan ngang bộ ban hành 1.100 văn
bản QPPL. 8 Năm 2015
95
3.1.4.3. Đội ngũ cộng tác viên kiểm tra văn bản
Ngoài đội ngũ cán bộ công chức đƣợc giao nhiệm vụ kiểm tra, xử lý văn bản,
các cơ quan kiểm tra văn bản còn huy động các chuyên gia có kinh nghiệm trong các
lĩnh vực chuyên môn khác để hình thành đội ngũ cộng tác viên kiểm tra văn bản, nhiều
nơi xây dựng đƣợc mạng lƣới cộng tác viên đông đảo ở nhiều ngành, lĩnh vực khác
nhau góp phần nâng cao chất lƣợng, hiệu quả trong công tác kiểm tra văn bản. Đội ngũ
cộng tác viên đã góp phần quan trọng vào việc bảo đảm cho công tác kiểm tra văn bản
đƣợc tổ chức triển khai trên thực tế. Trên cơ sở các quy định chung, hiện nay nhiều bộ,
ngành đã tổ chức đƣợc đội ngũ cộng tác viên kiểm tra văn bản. Chằng hạn, Bộ Tƣ
pháp (87 cộng tác viên), Giao thông vận tải (36 cộng tác viên), Công an (18 cộng tác
viên)… [9]. Trong quá trình cộng tác, “nhiều cộng tác viên luôn tích cực, đáp ứng tốt
yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ và bảo đảm tiến độ công việc, tuy nhiên, một số
cộng tác viên còn thiếu trách nhiệm, không kiểm tra hoặc kiểm tra không đảm bảo
chất lượng và tiến độ, ảnh hưởng đến công tác kiểm tra văn bản” [9].
Riêng Bộ Tƣ pháp, với khối lƣợng công việc đồ sộ và tính chất đa ngành, đa lĩnh
vực trong trách nhiệm kiểm tra văn bản theo thẩm quyền, những năm gần đây, việc sử
dụng cộng tác viên ngày càng đƣợc chú trọng, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động
kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành ở Bộ Tƣ pháp.
3.1.4.4. Kinh phí, cơ sở vật chất phục vụ kiểm tra văn bản
Kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành là hoạt động đƣợc xác định
mang tính đặc thù, do vậy, Nhà nƣớc đã dành khoản kinh phí hỗ trợ cho việc tổ chức
thực hiện hoạt động này. Từ khi hoạt động này mới đƣợc triển khai thực hiện, đến nay,
các cơ quan có thẩm quyền đã 03 lần ban hành văn bản quy định về kinh phí hỗ trợ
cho hoạt động kiểm tra văn bản QPPL. Trƣớc đây, kinh phí cho công tác kiểm tra văn
bản đã đƣợc quy định tại Thông tƣ liên tịch số 109/2004/TTLT-BTC-BTP và đƣợc
thay thế bằng Thông tƣ liên tịch số 158/2007/TTLT-BTC-BTP ngày 28/12/2007. Đến
năm 2011, Bộ Tƣ pháp đã phối hợp với Bộ Tài chính để xây dựng và ký liên tịch ban
hành Thông tƣ liên tịch số 122/2011/TTLT-BTC-BTP quy định việc lập dự toán, quản
lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm cho công tác kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ
thống hoá văn bản QPPL (thay thế Thông tƣ liên tịch số 158/2007/TTLT-BTC-BTP).
Văn bản mới ban hành đã có một số điểm mới quan trọng, trong đó phải kể đến là chế
độ hỗ trợ cho ngƣời trực tiếp làm công tác kiểm tra, rà soát văn bản đã đƣợc ghi nhận;
96
các mức chi cho hoạt động kiểm tra, rà soát văn bản đƣợc nâng lên một cách đáng kể;
một số mục chi đƣợc bổ sung… góp phần tạo động lực cho các cán bộ, công chức làm
công tác này tại các Bộ, ngành và địa phƣơng. Trên cơ sở các mục chi và mức chi đã
đƣợc quy định tại Thông tƣ liên tịch số 122/2011/TTLT-BTC-BTP, lãnh đạo các bộ, cơ
quan ngang bộ đã quan tâm cấp kinh phí cho công tác này, tạo điều kiện thuận lợi cho
việc triển khai công tác kiểm tra, xử lý văn bản QPPL. Tùy vào điều kiện thực tế và khả
năng ngân sách của từng nơi mà việc bố trí kinh phí hàng năm là khác nhau, ví dụ, Bộ
Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2010: 45 triệu; 2011: 62 triệu; 2013: 150 triệu);
Bộ Giáo dục và đào tạo (30 đến 40 triệu hàng năm)… [9].
Ngoài ra, cơ sở vật chất phục vụ công tác kiểm tra văn bản QPPL tại các bộ, cơ
quan ngang bộ nhƣ: phòng làm việc, mạng internet, máy tính, tủ tài liệu, bàn làm việc,
văn phòng phẩm… về cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
3.1.4.5. Tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ kiểm tra văn bản
Nhận thức đây là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, nhìn chung, các bộ, cơ quan
ngang bộ đều triển khai tổ chức tập huấn, hƣớng dẫn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức
làm công tác kiểm tra văn bản. Đối tƣợng đƣợc tập huấn là cán bộ, công chức trực tiếp
làm công tác kiểm tra văn bản tại tổ chức pháp chế các bộ, ngành và cộng tác viên
kiểm tra văn bản. Hoạt động này giúp tăng cƣờng nhận thức, nâng cao chất lƣợng
chuyên môn, nghiệp vụ kiểm tra văn bản cho cán bộ, công chức và cộng tác viên, đồng
thời, cũng là “kênh” để trao đổi thông tin, tình hình về kiểm tra văn bản, giúp nâng cao
hiệu quả công tác này trên thực tế. Có thể thấy, thời gian qua, các bộ, cơ quan ngang
bộ đã khá chủ động, tích cực trong hoạt động này. Đồng thời, phối hợp tƣơng đối chặt
chẽ với Bộ Tƣ pháp trong quá trình triển khai công tác tập huấn, hƣớng dẫn nghiệp vụ
(trao đổi thông tin, tài liệu; mời báo cáo viên thuộc Bộ Tƣ pháp…).
Riêng Bộ Tƣ pháp, tính từ năm 2003 đến 2015, đã tổ chức đƣợc 26 Hội nghị tập
huấn nghiệp vụ [9],[43],[44]. Việc tập huấn cho cán bộ, công chức các bộ, cơ quan
ngang bộ thƣờng đƣợc lồng ghép với Hội nghị tập huấn khu vực miền Bắc. Có thể nói,
Bộ Tƣ pháp đã khá chú trọng đến kỹ năng, nghiệp vụ, chất lƣợng kiểm tra văn bản
QPPL. Ngoài ra, Bộ Tƣ pháp còn cử báo cáo viên tham gia các lớp tập huấn do các bộ,
cơ quan ngang bộ tổ chức, cung cấp thông tin, tài liệu… khi đƣợc các bộ, cơ quan
ngang bộ yêu cầu. Bên cạnh đó, thƣờng xuyên tổ chức các buổi tọa đàm, trao đổi
nghiệp vụ kiểm tra văn bản với đại diện pháp chế các bộ, cơ quan ngang bộ; xuất bản,
97
phát hành sách9 hƣớng dẫn nghiệp vụ, tuyển tập văn bản QPPL còn hiệu lựctrao đổi,
hƣớng dẫn nghiệp vụ cho các bộ, cơ quan ngang bộ bằng nhiều hình thức khác nhau
nhƣ: điện thoại, email, công văn hành chính…
3.1.4.6. Sự phối hợp trong kiểm tra văn bản
Kiểm tra văn bản là hoạt động đa ngành, đa cấp, đƣợc tiến hành bởi nhiều chủ
thể, liên quan trực tiếp đến rất nhiều cơ quan khác nhau, do đó, để triển khai tốt cần
phải có sự phối hợp giữa các cơ quan này nhằm trao đổi, thảo luận về những nội dung
trái pháp luật của văn bản và hƣớng xử lý những nội dung trái pháp luật đó; trao đổi
kinh nghiệm, tập huấn, hƣớng dẫn, bồi dƣỡng về nghiệp vụ kiểm tra văn bản QPPL…
Về cơ bản, các cơ quan có trách nhiệm kiểm tra, xử lý văn bản đã có sự phối hợp khá
tốt, khá chặt chẽ trong quá trình kiểm tra văn bản QPPL.
3.1.5. Đánh giá chung về kết quả đạt được trong tổ chức kiểm tra văn bản QPPL
Từ khi triển khai nhiệm vụ này cho thấy, về cơ bản, hệ thống pháp luật về kiểm
tra văn bản từng bƣớc đƣợc hoàn thiện, làm cơ sở pháp lý triển khai thực hiện hoạt động
này trên thực tiễn. Theo đó, hệ thống các quy định về nguyên tắc, trình tự, thủ tục, thẩm
quyền, các quy định về kinh phí và các điều kiện bảo đảm khác… khá rõ ràng và ngày
càng đƣợc quan tâm hoàn thiện. Trên cơ sở đó, đã thiết lập đƣợc hệ thống cơ quan/bộ
phận thực hiện nhiệm vụ văn bản QPPL từ trung ƣơng đến địa phƣơng, ở bộ, cơ quan
ngang bộ đã thành lập đơn vị cấp phòng hoặc bộ phận thuộc Vụ Pháp chế hoặc Văn
phòng thuộc Bộ, cơ quan ngang bộ để thực hiện nhiệm vụ này. Về cơ bản, hệ thống cơ
quan này ngày càng đƣợc củng cố và hoàn thiện.
Số lƣợng văn bản QPPL đƣợc kiểm tra nhiều, từng bƣớc bám sát kế hoạch phát
triển kinh tế xã hội của đất nƣớc; chú trọng các lĩnh vực có liên quan nhiều đến doanh
nghiệp, ngƣời dân (tài chính, ngân hàng, đất đai, xây dựng, xử lý vi phạm hành
chính...); việc xử lý một số văn bản trái pháp luật khá quyết liệt, triệt để đã tạo tiếng
vang trong dƣ luận xã hội, đƣợc doanh nghiệp, Nhân dân hoan nghênh, ủng hộ. Hoạt
động kiểm tra, xử lý văn bản đƣợc thực hiện có hệ thống, đồng bộ, cơ bản đúng nguyên
tắc, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Nội dung kiểm tra đảm bảo tính toàn
diện, có chiều sâu, trong đó các văn bản đƣợc xem xét, kiểm tra về căn cứ pháp lý, thẩm
quyền ban hành, nội dung văn bản, trình tự, thủ tục ban hành, thể thức, kỹ thuật trình 9 Sách 100 câu hỏi - đáp về kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Tình huống nghiệp vụ kiểm tra văn bản (02 tập), Tuyển tập hệ thống hoá các văn bản do Bộ Tƣ pháp ban hành còn hiệu lực...
98
bày văn bản; trên cơ sở đó có phân loại sai sót, sai phạm của văn bản theo tính chất, mức
độ khác nhau để xử lý theo các hình thực phù hợp.
Nhận thức về vai trò và ý nghĩa của kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ
ban hành ngày càng đƣợc nâng lên. Do đó, cơ quan có thẩm quyền đã quan tâm, bố trí
biên chế, cơ sở vật chất, trang thiết bị, kinh phí và các điều kiện bảo đảm khác… nhằm
tạo điều kiện thuận lợi tổ chức triển khai nhiệm vụ này tại cơ quan mình.
Có thể nói, kết quả kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ thời gian qua đã
góp phần bảo đảm, bảo vệ quyền con ngƣời, lợi ích của cơ quan, tổ chức, công dân,
đồng thời, góp phần nâng cao chất lƣợng ban hành văn bản QPPL. Đây là tiền đề quan
trọng để hoàn thiện thể chế, xây dựng hệ thống pháp luật minh bạch, đồng bộ, khả thi,
đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nƣớc pháp quyền, tăng cƣờng pháp chế xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế trong giai đoạn hiện nay.
Từ kết quả đã đạt đƣợc cho thấy, hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản cũng đã
khẳng định vị trí, vai trò trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của đất nƣớc.
3.2. NHỮNG HẠN CHẾ, YẾU KÉM TRONG KIỂM TRA VĂN BẢN
QPPL DO BỘ, CƠ QUAN NGANG BỘ BAN HÀNH
3.2.1. Chưa tuân thủ triệt để các nguyên tắc kiểm tra, xử lý văn bản QPPL
Nguyên tắc kiểm tra văn bản, xử lý văn bản trái pháp luật đƣợc quy định tại Điều 4 Nghị định 40/2010/NĐ-CP10, theo đó, nguyên tắc kiểm tra văn bản đƣợc quy
định tại 04 khoản với nhiều nguyên tắc khác nhau, cụ thể là: (i) Việc kiểm tra văn bản,
xử lý văn bản trái pháp luật đƣợc tiến hành thƣờng xuyên, toàn diện, kịp thời; khách
quan, công khai, minh bạch; đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục; kết hợp giữa việc
kiểm tra của cơ quan có thẩm quyền với việc tự kiểm tra của cơ quan ban hành văn
bản, bảo đảm sự phối hợp giữa các cơ quan có liên quan; (ii) Nghiêm cấm các cơ quan,
tổ chức, cá nhân lợi dụng việc kiểm tra văn bản vì mục đích vụ lợi, gây khó khăn cho
hoạt động bình thƣờng của cơ quan, ngƣời đã ban hành văn bản và can thiệp vào quá
10 Hiện nay đƣợc quy định tại Điều 105 Nghị định 34/2016/NĐ-CP, gồm: (1) Bảo đảm tính toàn diện, kịp thời, khách quan, công khai, minh bạch; đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục; kết hợp giữa việc kiểm tra của cơ quan, ngƣời có thẩm quyền với việc tự kiểm tra của cơ quan, ngƣời ban hành văn bản; bảo đảm sự phối hợp giữa các cơ quan có liên quan; (2) Không đƣợc lợi dụng việc kiểm tra, xử lý văn bản vì mục đích vụ lợi, gây khó khăn cho hoạt động của cơ quan, ngƣời có thẩm quyền ban hành văn bản và can thiệp vào quá trình xử lý văn bản trái pháp luật; (3) Cơ quan, ngƣời có thẩm quyền kiểm tra, xử lý văn bản chịu trách nhiệm về kết luận kiểm tra và quyết định xử lý văn bản.
trình xử lý văn bản trái pháp luật; (iii) Sau khi kiểm tra, cơ quan kiểm tra văn bản phải
99
có kết luận về việc kiểm tra và thông báo cho cơ quan, ngƣời có thẩm quyền đã ban hành
văn bản đƣợc kiểm tra theo quy định của pháp luật; (iv) Cơ quan, ngƣời có thẩm quyền xử
lý văn bản chịu trách nhiệm về kết luận kiểm tra, xử lý của mình; nếu quyết định xử lý trái
pháp luật thì phải khắc phục hậu quả pháp lý do quyết định đó gây ra [29].
Có thể thấy, có quá nhiều nguyên tắc trong quy định trên, trong đó, một số nội
dung không phải là nguyên tắc kiểm tra văn bản QPPL. Chẳng hạn, tại khoản 3 Điều 4
Nghị định 40/2010/NĐ-CP quy định: “Sau khi kiểm tra, cơ quan kiểm tra văn bản
phải có kết luận về việc kiểm tra và thông báo cho cơ quan, người có thẩm quyền đã
ban hành văn bản được kiểm tra theo quy định của pháp luật”, quy định này nghiêng
về thủ tục kiểm tra văn bản hơn là một nguyên tắc kiểm tra văn bản. Bởi vậy, việc quy
định nguyên tắc cần ngắn gọn, thể hiện đƣợc yêu cầu, tính chất của kiểm tra văn bản
QPPL. Hiện nay với quy định tại Điều 105 Nghị định 34/2016/NĐ-CP, các bất cập
trên đã đƣợc khắc phục.
Trên thực tế, việc thực hiện các nguyên tắc kiểm tra văn bản chƣa nghiêm túc,
triệt để. Chẳng hạn, gần nhƣ chƣa cơ quan nào bảo đảm nguyên tắc kiểm tra văn bản
thƣờng xuyên, kịp thời. Tính chất thƣờng xuyên, kịp thời trong kiểm tra văn bản đƣợc
thể hiện ngay sau khi văn bản đƣợc ban hành phải đƣợc cơ quan, ngƣời có thẩm quyền
tiến hành kiểm tra, kịp thời phát hiện nội dung trái pháp luật, kịp thời xử lý… Tuy
nhiên hiện nay, tốc độ kiểm tra văn bản chƣa theo kịp tốc độ ban hành văn bản, theo
đó, phần lớn các cơ quan có thẩm quyền chỉ thực hiện đƣợc việc kiểm tra khi văn bản
đã có hiệu lực từ 06 tháng trở lên. Ngoài ra, tình trạng kiểm tra chậm (số văn bản đƣợc
kiểm tra so với số văn bản tiếp nhận đƣợc còn thấp), bỏ sót văn bản cần kiểm tra;
không xử lý hoặc xử lý văn bản trái pháp luật còn dây dƣa, kéo dài còn diễn ra.
Ngay tại Bộ Tƣ pháp, là cơ quan giúp Chính phủ quản lý nhà nƣớc về kiểm tra,
xử lý văn bản QPPL và thực hiện kiểm tra văn bản theo thẩm quyền, việc kiểm tra
không đầy đủ văn bản QPPL tiếp nhận đƣợc cũng thƣờng xuyên xảy ra. Điều này thể
hiện ở tỷ lệ văn bản đƣợc kiểm tra còn thấp so với văn bản tiếp nhận đƣợc để kiểm tra.
Năm 2008, Cục Kiểm tra văn bản QPPL - Bộ Tƣ pháp tiếp nhận 4.646 văn bản quy
phạm pháp luật, đã phân loại và giao kiểm tra 2.025 văn bản, đã kiểm tra đƣợc 1.968
văn bản (đạt 43,58%); Năm 2009, nhận đƣợc 4005 văn bản, đã phân loại và giao kiểm
tra 1.908 văn bản, đã kiểm tra đƣợc 1.291 văn bản (đạt 32,23%); Năm 2010, nhận đƣợc
100
4.109 văn bản, đã kiểm tra đƣợc 2.131 văn bản (đạt 51%); Năm 2011, nhận đƣợc 4.219
văn bản, đã kiểm tra đƣợc 1.774 văn bản (đạt 42,04%). Những năm gần đây, tỷ lệ kiểm
tra đƣợc có nâng lên, khoảng hơn 70%. Nhƣ vậy, còn một lƣợng lớn văn bản QPPL đã
bị bỏ lọt, không hoặc chậm đƣợc kiểm tra.
Ngoài ra, việc kiểm tra văn bản chƣa kịp thời cũng thƣờng xuyên diễn ra. Chẳng
hạn, Thông tƣ số 55/2011/TT-BNNPTNT về kiểm tra, chứng nhận chất lƣợng, an toàn
thực phẩm thủy sản đƣợc ban hành ngày 03/8/2011 (và có hiệu lực kể từ ngày 17/9/2011),
tuy nhiên, đến ngày 27/6/2013, Cục Kiểm tra văn bản QPPL mới phát hành Thông báo số
152/KTrVB gửi Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề nghị tự kiểm tra, xử lý nội
dung trái pháp luật của Thông tƣ trên. Nhƣ vậy, có một khoảng thời gian tƣơng đối dài (từ
năm 2011 đến năm 2013) văn bản đã có hiệu lực áp dụng trên thực tiễn. Nếu trong khoảng
thời gian này, văn bản trên đã gây thiệt hại cho doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân nuôi trồng,
sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu thủy sản thì ai, cơ quan, tổ chức nào tính toán và bồi
thƣờng thiệt hại? Chƣa kể trách nhiệm của cơ quan, ngƣời ban hành văn bản QPPL cũng
chƣa đƣợc thực hiện trên thực tế.
Có thể nói, các nguyên tắc kiểm tra văn bản QPPL chƣa đƣợc thực hiện đầy đủ,
triệt để. Điều này làm tăng khả năng đƣa vào áp dụng văn bản có nội dung trái pháp
luật trong một khoảng thời gian nhất định, làm ảnh hƣởng lớn đến quyền và lợi ích
hợp pháp của cơ quan, tổ chức, công dân. Trƣờng hợp văn bản đƣợc tổ chức kiểm tra,
xử lý kịp thời thì chắc chắn rằng, sẽ không có cơ hội cho các tác động tiêu cực của văn
bản trái pháp luật đƣợc bộc lộ ra. Do đó, về mặt thực tiễn, cần chấn chỉnh và có giải
pháp hữu ích nhằm loại bỏ việc chậm trễ trong kiểm tra, xử lý văn bản QPPL. Về mặt
quy định pháp luật, cần nghiên cứu để quy định cụ thể thời gian, thời điểm cần phải
kiểm tra xong một văn bản QPPL. Do chƣa có quy định nên cũng chƣa có tiêu chí nào
để khẳng định một cơ quan có thẩm quyền kiểm tra văn bản đã chậm kiểm tra văn bản.
Song, với nguyên tắc kịp thời trong kiểm tra văn bản thì việc kiểm tra văn bản càng sớm
càng tốt, và trƣớc khi văn bản có hiệu lực cần đƣợc nghiên cứu để quy định cụ thể.
3.2.2. Chƣa sử dụng đồng đều các phƣơng thức kiểm tra văn bản
Hiện nay, phần lớn các bộ, cơ quan ngang bộ chủ yếu sử dụng phƣơng thức
kiểm tra văn bản do cơ quan ban hành gửi đến. Phƣơng thức này dễ thực hiện và đƣợc
sử dụng phổ biến, song hạn chế của nó là dễ gây cho cơ quan có thẩm quyền kiểm tra
văn bản sự thụ động, chờ đợi cơ quan ban hành gửi văn bản cho mình để kiểm tra. Đây
101
cũng là một trong những nguyên nhân không thực hiện đƣợc nguyên tắc thƣờng
xuyên, kịp thời trong kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành, làm cho văn
bản trái pháp luật có thể đƣa vào thực tiễn và có hiệu lực một thời gian tƣơng đối dài
mới đƣợc kiểm tra, xử lý.
Thực tế, tại nhiều cơ quan, thƣờng phát hành công văn (theo định kỳ) yêu cầu
các bộ, cơ quan ngang bộ tự kiểm tra và lập danh mục văn bản đã ban hành (có liên
quan đến lĩnh vực quản lý nhà nƣớc của bộ, cơ quan ngang bộ) gửi cho cơ quan có thẩm quyền kiểm tra văn bản11. (Theo quy định, cơ quan ban hành văn bản không phải
báo cáo cơ quan có thẩm quyền kiểm tra văn bản về kết quả tự kiểm tra văn bản, tuy
nhiên, để “nhanh”, “tiện” cho việc kiểm tra theo thẩm quyền, nhiều cơ quan có thẩm
quyền kiểm tra văn bản đã yêu cầu cung cấp thông tin này để có thể “tự động” đối
chiếu và “kết luận” về tính hợp pháp của văn bản). Ngoài ra, trên cơ sở danh mục văn
bản đƣợc cung cấp, cơ quan có thẩm quyền kiểm tra văn bản mới thực hiện việc tổng
hợp và tổ chức kiểm tra.
Bên cạnh đó, việc sử dụng phƣơng thức kiểm tra văn bản theo yêu cầu, kiến nghị
của cơ quan, tổ chức, công dân còn hạn chế. Phƣơng thức này chủ yếu đƣợc Bộ Tƣ pháp
sử dụng, còn các bộ, cơ quan ngang bộ khác hầu nhƣ không đƣợc đề cập tại các báo cáo
công tác hàng năm của các bộ, cơ quan ngang bộ gửi Bộ Tƣ pháp.
3.2.3. Chƣa tuân thủ nghiêm trình tự, thủ tục kiểm tra văn bản QPPL
(i) Chưa tuân thủ nghiêm các quy định về gửi văn bản để phục vụ kiểm tra theo thẩm
quyền: Theo quy định tại Điều 19 Nghị định 40/2010/NĐ-CP và đƣợc Bộ Tƣ pháp
hƣớng dẫn cụ thể tại Điều 8 Thông tƣ số 20/2010/TT-BTP (nay đƣợc kế thừa và quy
định tại Nghị định 34/2016/NĐ-CP), thì trong thời hạn chậm nhất là 03 (ba) ngày làm
việc, kể từ ngày ký ban hành, cơ quan, ngƣời có thẩm quyền ban hành văn bản phải
gửi văn bản đến cơ quan, ngƣời có thẩm quyền kiểm tra văn bản. Theo đó, trong thời
hạn 03 ngày sau khi văn bản đƣợc ký ban hành, văn bản của bộ, cơ quan ngang bộ
phải đƣợc gửi đến Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật thuộc Bộ Tƣ pháp, tổ
chức pháp chế bộ, cơ quan ngang bộ (có thẩm quyền kiểm tra văn bản). Tuy nhiên,
11 Chẳng hạn, Công văn số 19051/BTC-PC ngày 29/12/2014; Công văn số 8369/BNN-PC ngày 17/10/20114; Công văn số 3320/BKHCN-PC ngày 15/9/2014; Công văn số 8309/BCT-PC ngày 27/8/2014; Công văn số 6480/BQP-PC ngày 12/8/2014…
trên thực tế, nhiều văn bản đã không đƣợc gửi đến cơ quan có thẩm quyền để kiểm tra
102
theo quy định. Từ đó mới phát sinh tình trạng hàng năm, các bộ, cơ quan ngang bộ
phát hành văn bản yêu cầu các bộ, cơ quan ngang bộ khác (hoặc các địa phƣơng) gửi văn bản12. để phục vụ việc kiểm tra theo thẩm quyền. Ngoài ra, cơ quan có thẩm quyền
kiểm tra còn phải tự khai thác, tự tìm kiếm văn bản QPPL thuộc thẩm quyền kiểm tra
của mình trên internet để phục vụ việc kiểm tra văn bản.
(ii) Chưa tuân thủ nghiêm việc“ký trách nhiệm” vào văn bản sau khi kiểm tra:
hiện nay vẫn còn khá nhiều cán bộ, công chức đƣợc giao kiểm tra văn bản chƣa thực
hiện việc ký tên vào văn bản sau khi thực hiện kiểm tra. Việc ký tên này nhằm xác
định rằng, văn bản cụ thể đó đã đƣợc kiểm tra, thời điểm đƣợc kiểm tra, đồng thời,
cũng là căn cứ xác định trách nhiệm cá nhân trong trƣờng hợp sau này văn bản đƣợc
phát hiện trái pháp luật. Tuy nhiên, cũng chƣa có quy định cụ thể về việc cán bộ, công
chức kiểm tra văn bản sẽ bị xử lý nếu không ký tên vào văn bản sau khi đã thực hiện
việc kiểm tra.
3.2.4. Kiểm tra chƣa toàn diện hoặc không phát hiện nội dung trái pháp
luật của văn bản
Các số liệu tổng hợp cho thấy việc kiểm tra, phát hiện văn bản trái pháp luật
khá đồng đều ở các nội dung khác nhau. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, mặc dù trình độ
nghiệp vụ kiểm tra văn bản ngày càng nâng lên, song ở nhiều cơ quan có thẩm quyền
kiểm tra văn bản, việc cán bộ, công chức đƣợc phân công kiểm tra văn bản hoặc cộng
tác viên kiểm tra văn bản hời hợt, hình thức, không phát hiện nội dung trái pháp luật
của văn bản hoặc chỉ kiểm tra, phát hiện sai thể thức, kỹ thuật trình bày văn bản vẫn
còn xảy ra. Văn bản phải qua nhiều lần kiểm tra, “kiểm tra chéo” hoặc khi đƣợc áp
dụng trên thực tiễn, các nội dung trái pháp luật mới đƣợc phát hiện bởi cơ quan, tổ
chức, cá nhân. Do đó, nhiều vụ việc bị đánh giá là cơ quan có thẩm quyền kiểm tra văn
bản “theo sau” các phƣơng tiện thông tin truyền thông…
Ngoài ra, việc không phát hiện nội dung trái pháp luật xảy ra phổ biến khi thực
hiện phƣơng thức tự kiểm tra văn bản. Theo đó, năm 2015, Cục Kiểm tra văn bản
QPPL (Bộ Tƣ pháp) tổ chức kiểm tra theo thẩm quyền và phát hiện 23 văn bản do bộ,
12 Chẳng hạn, Công văn số 19051/BTC-PC ngày 29/12/2014; Công văn số 8369/BNN-PC ngày 17/10/20114; Công văn số 3320/BKHCN-PC ngày 15/9/2014; Công văn số 8309/BCT-PC ngày 27/8/2014; Công văn số 6480/BQP-PC ngày 12/8/2014…
cơ quan ngang bộ ban hành trái pháp luật. Tuy nhiên, theo báo cáo tổng hợp kết quả tự
103
kiểm tra của bộ, cơ quan ngang bộ năm 2015, các bộ, cơ quan ngang bộ chỉ phát hiện
đƣợc 11 văn bản trái pháp luật [11].
3.2.5. Xử lý chƣa đầy đủ, chƣa kịp thời văn bản trái pháp luật
Theo quy định, “trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo về
việc văn bản có dấu hiệu trái pháp luật, cơ quan, người đã ban hành văn bản phải tổ
chức tự kiểm tra, xử lý văn bản đó và thông báo kết quả xử lý cho cơ quan kiểm tra
văn bản”[29], tuy nhiên, việc xử lý văn bản và thông báo kết quả xử lý vẫn chƣa đƣợc
một số bộ, cơ quan ngang bộ chú trọng. Thực tế cho thấy, ở nhiều bộ, cơ quan ngang
bộ, việc tự kiểm tra, xử lý văn bản QPPL còn chậm chễ, chƣa kịp thời, chƣa đúng quy
định. Vì lẽ đó, qua theo dõi những văn bản có nội dung trái pháp luật đã đƣợc kiến
nghị nhƣng cơ quan ban hành văn bản chƣa kịp thời xử lý, Bộ Tƣ pháp đã ban hành
nhiều văn bản đôn đốc các bộ, cơ quan ngang bộ tự kiểm tra, xử lý văn bản trái pháp
luật đã đƣợc thông báo (nhƣ: Công văn số 135/KTrVB ngày 22/9/2010 đôn đốc 07 Bộ
với 09 văn bản có dấu hiệu trái pháp luật; Công văn số 5397/BTP-KTrVB ngày
02/7/2012 đôn đốc 07 bộ, cơ quan ngang bộ đƣợc thông báo về văn bản có dấu hiệu
trái pháp luật (từ năm 2009 đến 2012)… nhƣng chƣa thông báo kết quả xử lý về Bộ Tƣ
pháp). Đặc biệt, qua theo dõi thấy rằng, việc xử lý văn bản QPPL do bộ, cơ quan
ngang bộ ban hành thƣờng chậm trễ hơn so với các loại văn bản do các cấp chính
quyền địa phƣơng ban hành. Chẳng hạn, năm 2013, trên cơ sở kết quả kiểm tra theo
thẩm quyền, Cục Kiểm tra văn bản - Bộ Tƣ pháp xem xét và đã có 40 Thông báo kiểm
tra đối với 43 văn bản do các Bộ, ngành và địa phƣơng ban hành có dấu hiệu trái pháp
luật về thẩm quyền và nội dung (trong đó có 17 Thông báo đối với 18 văn bản của cấp
Bộ; 23 Thông báo đối với 25 văn bản của địa phƣơng). Theo đó, ngoài 18 văn bản đã
đƣợc xử lý, còn 09 văn bản có hƣớng xử lý, 16 văn bản chƣa có thông tin về hƣớng xử
lý, đáng lƣu ý, có đến hơn 50% số văn bản này là văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ
ban hành… [42].
Bên cạnh đó, nhiều vụ việc khó thống nhất phƣơng án xử lý giữa cơ quan có
thẩm quyền kiểm tra và cơ quan đã ban hành văn bản, nhƣ: cơ quan ban hành văn bản
không nhất trí với kết quả kiểm tra văn bản, không thực hiện việc xử lý... dẫn đến việc
chậm trễ trong xử lý văn bản trái pháp luật. Chẳng hạn, việc kiểm tra Quyết định số
1328/QĐ-BTC ngày 29/5/2012 về việc đính chính Thông tƣ số 157/2011/TT-BTC
104
ngày 14/11/2011 của Bộ Tài chính ban hành Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu
ƣu đãi (sau đây gọi tắt là Quyết định 1328) đƣợc bắt đầu từ tháng 12 năm 2012 (thể
hiện tại Báo cáo ngày 05/12/2012 của Cục Kiểm tra văn bản về việc kiểm tra Quyết
định số 1328/QĐ-BTC ngày 29/5/2012 về việc đính chính Thông tƣ số 157/2011/TT-
BTC) [46]. Qua nhiều lần họp, lấy ý kiến các cơ quan, tổ chức có liên quan, nhiều lần
báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ Tƣ pháp, ngày 12/4/2013, Cục Kiểm tra
văn bản đã có Công văn số 87/KTrVB về việc thông báo kiểm tra văn bản, đề nghị Bộ
Tài chính thực hiện tự kiểm tra và xử lý hủy bỏ nội dung trái pháp luật của Quyết định
số 1328/QĐ-BTC, thông báo kết quả xử lý cho Cục Kiểm tra văn bản theo quy định
(30 ngày, kể từ ngày thông báo) [52]. Tuy nhiên, hết thời hạn trên, cho đến ngày
19/02/2014, Cục Kiểm tra văn bản vẫn chƣa nhận đƣợc phản hồi của Bộ Tài chính về
việc xử lý văn bản trên. Vì vậy, ngày 19/02/2014, Cục Kiểm tra văn bản lại có Công
văn số 33/KTrVB tiếp tục đề nghị Bộ Tài chính xử lý Quyết định số 1328/QĐ-BTC.
Sau đó, Bộ Tài chính đã có phản hồi về vấn đề này. Tuy nhiên, Cục Kiểm tra văn bản
không đồng tình với các nội dung của văn bản trả lời của Bộ Tài chính, đồng thời, Cục
này đã đặt ra vấn đề “Bộ Tài chính cần có hướng xử lý đối với vụ việc trên và có biện
pháp khắc phục hậu quả do việc ban hành văn bản trái gây ra đối với doanh nghiệp”
[46]. Nhƣ vậy, có đến hơn 01 năm chỉ để thống nhất về nội dung và phƣơng án xử lý
đối với 01 văn bản.
Có thể nhận định rằng, việc xử lý văn bản QPPL thời gian qua chƣa “mạnh
tay”, chƣa triệt để, có nhiều văn bản rất khó khăn để thống nhất phƣơng án xử lý, có
những văn bản ảnh hƣởng trực tiếp đến quyền lợi của doanh nghiệp, kéo dài mất rất
nhiều thời gian, nhƣng những văn bản này vẫn chƣa đƣợc cơ quan có thẩm quyền tham
mƣu Thủ tƣớng Chính phủ đình chỉ việc thi hành, nhằm tạm thời chấm dứt ảnh hƣởng
tiêu cực đến lợi ích của doanh nghiệp, để tiếp tục nghiên cứu, xác định hình thức xử lý.
Do đó, cơ quan có thẩm quyền kiểm tra văn bản hoặc cơ quan có thẩm quyền giúp Thủ
tƣớng Chính phủ kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành (Bộ Tƣ pháp)
cần “mạnh dạn” hơn, quyết liệt hơn trong việc thực thi nhiệm vụ của mình trong vai
trò giúp Thủ tƣớng Chính phủ kiểm tra, xử lý văn bản QPPL, đặc biệt là trong việc xử
lý văn bản trái pháp luật, điều này có ý nghĩa lớn đối với hiệu quả của hoạt động kiểm
tra văn bản QPPL cũng nhƣ có tác động tích cực tới ý thức, trách nhiệm của cơ quan,
ngƣời có thẩm quyền ban hành văn bản.
105
3.2.6. Sử dụng không đúng các hình thức xử lý văn bản trái pháp luật
Mục 5 Nghị định số 40/2010/NĐ-CP quy định các hình thức xử lý văn bản trái
pháp luật có quy định các hình thức: Đình chỉ việc thi hành văn bản trái pháp luật,
hủy bỏ, bãi bỏ văn bản trái pháp luật, đính chính văn bản. Trong đó, hình thức đình
chỉ việc thi hành một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản áp dụng trong trƣờng hợp
nội dung trái pháp luật đó nếu chưa được sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, bãi bỏ kịp thời và
nếu tiếp tục thực hiện thì có thể gây hậu quả nghiêm trọng, làm ảnh hƣởng đến lợi
ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; Hình thức hủy bỏ
một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản áp dụng trong trƣờng hợp một phần hoặc
toàn bộ văn bản đó đƣợc ban hành trái thẩm quyền về hình thức, thẩm quyền về nội
dung hoặc không phù hợp với quy định của pháp luật từ thời điểm văn bản đƣợc ban
hành; Hình thức bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản áp dụng trong
trƣờng hợp một phần hoặc toàn bộ văn bản làm căn cứ ban hành văn bản đƣợc kiểm
tra đã đƣợc thay thế bằng văn bản khác của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền, dẫn
đến nội dung của văn bản không còn phù hợp với pháp luật hiện hành hoặc tình hình
kinh tế - xã hội thay đổi; Trong quá trình kiểm tra phát hiện văn bản chỉ sai về căn cứ
pháp lý đƣợc viện dẫn, thể thức, kỹ thuật trình bày còn nội dung của văn bản phù hợp
với quy định của pháp luật, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp thì đính chính đối với
những sai sót đó [29].
Các quy định trên là công cụ hết sức cần thiết để các cơ quan có thẩm quyền thực
hiện việc xử lý văn bản do mình ban hành trái pháp luật hoặc xử lý văn bản trái pháp luật
theo thẩm quyền.
Tuy nhiên trên thực tế, nhiều văn bản đã chƣa đƣợc xử lý theo đúng hình thức
quy định, ví dụ, đáng lẽ văn bản phải xử lý bằng hình thức hủy bỏ (tức là văn bản mất
hiệu lực kể từ khi ban hành) thì phần lớn văn bản trái pháp luật lại dùng hình thức sửa
đổi, bổ sung, đính chính hoặc ban hành văn bản thay thế (đƣơng nhiên công nhận thời
gian tồn tại của các quy định trái pháp luật). Ngoài ra, việc đình chỉ thi hành một phần
hoặc toàn bộ nội dung trái pháp luật của văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành
trái pháp luật thời gian qua cũng chƣa đƣợc ghi nhận, thậm chí đối với cả những văn
bản ảnh hƣởng đến quyền, lợi ích của đối tƣợng áp dụng. Có vẻ nhƣ, các cơ quan có
thẩm quyền vẫn “né tránh” các hình thức xử lý văn bản mạnh mẽ.
106
3.2.7. Chƣa thực hiện xử lý trách nhiệm cơ quan/ngƣời ban hành văn bản
trái pháp luật và khắc phục hậu quả khi áp dụng văn bản QPPL trái pháp luật
do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành
Theo quy định tại Điều 7 Nghị định 40/2010/NĐ-CP (Biện pháp xử lý đối với
cơ quan, ngƣời đã ban hành văn bản trái pháp luật) thì căn cứ vào nội dung trái pháp
luật của văn bản và mức độ thiệt hại trên thực tế do văn bản trái pháp luật gây ra, cơ
quan, ngƣời có thẩm quyền kiểm tra kiến nghị: (i) Cơ quan, ngƣời đã ban hành văn
bản trái pháp luật kịp thời áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả do việc ban hành
và thực hiện văn bản trái pháp luật gây ra; (ii) Cơ quan, ngƣời có thẩm quyền xác định
hình thức, mức độ xử lý đối với cơ quan, ngƣời đã ban hành văn bản trái pháp luật.
Tùy theo tính chất và mức độ vi phạm của văn bản trái pháp luật, cơ quan, ngƣời đã
ban hành văn bản trái pháp luật phải chịu trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm hình sự
theo quy định của pháp luật. Đồng thời, tại Điều 12 Nghị định 40/2010/NĐ-CP (Xử lý
văn bản trái pháp luật qua việc tự kiểm tra văn bản) quy định ngƣời thực hiện tự kiểm
tra văn bản phải đề xuất (i) biện pháp khắc phục hậu quả do văn bản gây ra (nếu có);
thời hạn xử lý đối với văn bản đó và (ii) xác định nguyên nhân, trách nhiệm của cán
bộ, công chức tham mƣu soạn thảo, thẩm định, thẩm tra và thông qua văn bản.
Tuy nhiên, trên thực tế các cơ quan kiểm tra văn bản chƣa áp dụng đƣợc quy
định này, chƣa có trƣờng hợp nào đƣợc báo cáo là đã thực hiện xử lý trách nhiệm cơ
quan/ngƣời ban hành văn bản trái pháp luật và khắc phục hậu quả khi áp dụng văn bản
QPPL trái pháp luật do Bộ, cơ quan ngang Bộ ban hành. Nguyên nhân là do chƣa có
quy định cụ thể để hƣớng dẫn áp dụng các quy định nêu trên.
Tƣơng tự, cũng chƣa ghi nhận trƣờng hợp nào bị xử lý vi phạm trong hoạt động
kiểm tra văn bản (nhƣ: không gửi văn bản để kiểm tra; không tự kiểm tra, xử lý văn bản
do mình ban hành…). Điều này ảnh hƣởng không nhỏ đến trật tự, kỷ cƣơng trong hoạt
động ban hành, kiểm tra văn bản, làm giảm hiệu quả của công tác này trên thực tiễn.
3.2.8. Việc công khai kết quả xử lý văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban
hành còn nhiều hạn chế
Điều 8 Nghị định 40/2010/NĐ-CP quy định việc công bố việc xử lý văn bản trái
pháp luật, theo đó, kết quả xử lý văn bản trái pháp luật phải đƣợc công bố công khai,
đƣa tin trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng và phải đƣợc đăng công báo, đăng
trên trang thông tin điện tử của bộ, cơ quan ngang bộ, chậm nhất là sau 03 (ba) ngày
107
làm việc, kể từ ngày có quyết định xử lý. Đây đƣợc coi là quy định hết sức tiến bộ của
Nghị định 40/2010/NĐ-CP. Quy định này giúp cho ngƣời dân, doanh nghiệp tiếp cận
đƣợc với thông tin về tình trạng pháp lý của văn bản, phục vụ cho việc áp dụng, thi
hành pháp luật, làm cho hệ thống pháp luật minh bạch hơn. Tuy nhiên, thời gian qua,
việc công khai kết quả xử lý văn bản trái pháp luật còn nhiều hạn chế. Thực tế, trừ
những văn bản trái pháp luật do phản ánh của các phƣơng tiện thông tin đại chúng, khi
xử lý cũng đƣợc các phƣơng tiện này chủ động đƣa tin, còn lại, việc cơ quan ban hành
văn bản tự xử lý hoặc cơ quan có thẩm quyền xử lý văn bản trái pháp luật chủ động
phối hợp với các phƣơng tiện thông tin đại chúng để công bố công khai kết quả xử lý
văn bản trái pháp luật còn khá hiếm. Ngoài ra, việc đăng công báo Chính phủ hoặc
đăng trên cổng thông tin của bộ, cơ quan ngang các văn bản xử lý (chủ yếu là Quyết
định bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật) thì hầu hết là các quyết định xử lý của cơ
quan ban hành văn bản đối với văn bản không còn phù hợp với quy định pháp luật
hiện hành, là kết quả của hoạt động rà soát mà không phải là kết quả của hoạt động
kiểm tra văn bản.
Do vậy, để quy định này thực sự phát huy giá trị trên thực tiễn, thì cần thiết phải có
biện pháp “xiết chặt” việc thực hiện quy định này tại các bộ, cơ quan ngang bộ.
3.2.9. Quản lý nhà nƣớc trong kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ
ban hành chƣa chặt chẽ
Trách nhiệm của các cơ quan kiểm tra văn bản trong quản lý nhà nƣớc về công
tác này đã đƣợc Chính phủ quy định cụ thể tại Nghị định số 40/2010/NĐ-CP, tuy nhiên,
hoạt động này đến nay bộc lộ nhiều hạn chế, cần phải chấn chỉnh trong thời gian sắp tới.
Một số nội dung đƣợc thực hiện “thƣa thớt”, nhiều hạn chế ở một số bộ, cơ quan ngang
bộ nhƣ: Tổ chức mạng lƣới thông tin, xây dựng và quản lý hệ cơ sở dữ liệu phục vụ
cho việc kiểm tra, xử lý văn bản trong Bộ, cơ quan ngang Bộ; Tổ chức và quản lý đội
ngũ cộng tác viên kiểm tra văn bản… Có nội dung gần nhƣ chƣa đƣợc thực hiện nhƣ:
Khen thƣởng, kỷ luật và đề nghị cấp có thẩm quyền khen thƣởng, kỷ luật các cán bộ,
công chức và cộng tác viên kiểm tra văn bản thuộc quyền quản lý của Bộ, ngành mình;
khen thƣởng cơ quan, tổ chức, cá nhân đã phát hiện và đề nghị Bộ trƣởng, Thủ trƣởng
cơ quan ngang Bộ kiểm tra, xử lý văn bản có dấu hiệu trái pháp luật…
Ngoài ra, việc theo dõi tình hình xử lý văn bản trái pháp luật còn chƣa sâu sát;
công tác báo cáo, tổng hợp, phục vụ việc xây dựng báo cáo Thủ tƣớng Chính phủ hàng
108
năm về kiểm tra văn bản QPPL còn nhiều hạn chế, nhƣ không gửi báo cáo đầy đủ, kịp
thời; Số liệu báo cáo thiếu chính xác, không đầy đủ; Thông tin không toàn diện…
3.3. NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ, YẾU KÉM TRONG
KIỂM TRA VĂN BẢN QPPL DO BỘ, CƠ QUAN NGANG BỘ BAN HÀNH
3.3.1. Về nhận thức
Tại một số bộ, cơ quan ngang bộ, do chƣa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của
công tác kiểm tra, xử lý văn bản nên chƣa sát sao trong tổ chức kiểm tra, xử lý văn bản
QPPL tại bộ, cơ quan ngang bộ mình, chƣa quan tâm bố trí thích đáng các điều kiện
bảo đảm phục vụ công tác kiểm tra văn bản nhƣ: bố trí kinh phí, kiện toàn tổ chức,
biên chế và các điều kiện bảo đảm khác, trong kiểm tra, xử lý văn bản còn tình trạng
thụ động, trì trệ, chậm trễ…
Kiểm tra văn bản là nhiệm vụ không chỉ khó khăn, phức tạp trong tác nghiệp
nghiệp vụ, mà còn có tính chất tƣơng đối “nhạy cảm”. Với cơ chế kiểm tra văn bản đặt
trong mối quan hệ hành chính nhà nƣớc và gần nhƣ thiếu vắng sự độc lập nhất định,
thì việc xuất hiện tâm lý “nể nang”, “né tránh” là điều khó tránh khỏi. Chính từ lý do
này, mà có thể có những văn bản bị kéo dài thời gian xem xét, xử lý, hoặc kết quả xử
lý không đƣợc công khai trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng.
3.3.2. Về thể chế liên quan đến xem xét, xử lý văn bản QPPL do bộ, cơ
quan ngang bộ ban hành
3.3.2.1. Quy định về thẩm quyền xử lý văn bản QPPL trái pháp luật do bộ, cơ
quan ngang bộ ban hành trái pháp luật còn bất cập
(i) Theo quy định hiện hành, ngoài việc tự kiểm tra, xử lý văn bản do mình ban
hành, bộ trƣởng, thủ trƣởng cơ quan ngang bộ có thẩm quyền kiến nghị Thủ tƣớng
Chính phủ hoặc chính bộ, cơ quan ngang bộ đã ban hành văn bản đó thực hiện xử lý
văn bản trái pháp luật. Xét về tính kịp thời, có thể nhận thấy, việc thực hiện các thủ tục
để yêu cầu cơ quan đã ban hành văn bản tự kiểm tra, xử lý cũng mất khá nhiều thời
gian, chƣa kể, cơ quan đã ban hành văn bản không thực hiện việc tự kiểm tra, xử lý,
hoặc không đồng tình với ý kiến của cơ quan có thẩm quyền kiểm tra văn bản về nội
dung trái pháp luật của văn bản; trƣờng hợp cơ quan có thẩm quyền kiểm tra văn bản
kiến nghị Thủ tƣớng Chính phủ xử lý văn bản trái pháp luật do bộ, cơ quan ngang bộ
ban hành còn mất thêm nhiều thời gian hơn nữa, trong thời gian đó, văn bản vẫn đang
109
còn hiệu lực và có tác động đến các đối tƣợng trực tiếp bị áp dụng, nhƣ vậy, sẽ không
kịp thời hạn chế đƣợc tác động tiêu cực của văn bản trái pháp luật gây ra.
Ngoài ra, việc quy định thẩm quyền trong xử lý văn bản QPPL nhƣ hiện nay
không nâng cao đƣợc vai trò của cơ quan có thẩm quyền kiểm tra văn bản đối với văn
bản đã đƣợc kiểm tra, xử lý. Bởi, các cơ quan này chỉ có quyền “kiến nghị” xử lý mà
không có thẩm quyền gì đối với “số phận” pháp lý của văn bản trái pháp luật. Đặc biệt
là vai trò, thẩm quyền của Bộ Tƣ pháp trong việc giúp Chính phủ, Thủ tƣớng Chính
phủ kiểm tra, xử lý văn bản QPPL. Chính vì thế, các quy định về thẩm quyền trong
kiểm tra, xử lý văn bản trái pháp luật cần tiếp tục đƣợc nghiên cứu, hoàn thiện theo
hƣớng trƣớc mắt giao Bộ Tƣ pháp có thẩm quyền đình chỉ thi hành văn bản do bộ, cơ
quan ngang bộ ban hành có nội dung trái pháp luật mà cơ quan ban hành văn bản
không kịp thời tự xử lý, báo cáo Thủ tƣớng Chính phủ quyết định việc xử lý.
(ii) Điều 100 Hiến pháp 2013“Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành văn bản QPPL để thực hiện nhiệm vụ của
mình, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và xử lý các văn bản trái pháp luật theo
quy định của luật” [101]. Đồng thời, Khoản 2 Điều 35 Luật Tổ chức Chính phủ năm
2015 quy định “2. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ có quyền kiến nghị với
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ khác đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ
những quy định do các cơ quan đó ban hành trái với Hiến pháp, luật và văn bản của
cơ quan nhà nước cấp trên hoặc của bộ, cơ quan ngang bộ về ngành, lĩnh vực do bộ,
cơ quan ngang bộ chịu trách nhiệm quản lý. Trong trường hợp kiến nghị không được
chấp thuận thì trình Thủ tướng Chính phủ quyết định”. Tuy nhiên, Khoản 1 Điều 12
Luật năm 2015 quy định “1. Văn bản quy phạm pháp luật chỉ được sửa đổi, bổ sung,
thay thế hoặc bãi bỏ bằng văn bản quy phạm pháp luật của chính cơ quan nhà nước đã
ban hành văn bản đó hoặc bị đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ bằng văn bản của cơ
quan nhà nước cấp trên có thẩm quyền…”. Đồng thời, Khoản 1 Điều 166 quy định “Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ có trách nhiệm kiểm tra văn bản quy phạm pháp
luật do mình ban hành và do bộ, cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh ban hành về những nội dung có liên quan đến ngành, lĩnh vực do mình phụ
trách. Khi phát hiện văn bản quy phạm pháp luật do mình ban hành trái pháp luật thì Bộ
110
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ có trách nhiệm tự mình bãi bỏ một phần hoặc toàn
bộ văn bản” [105].
Quy định này đã loại trừ khả năng tự đình chỉ văn bản QPPL do mình ban hành
của các chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản. Nhƣ vậy, các hình thức xử lý văn
bản trái pháp luật đƣợc quy định gồm: đình chỉ hoặc bãi bỏ toàn bộ hoặc một phần văn
bản, nhƣng đối với ngƣời đã ban hành văn bản thì chỉ có thể bãi bỏ văn bản do chính
mình ban hành. Việc đình chỉ phải do cơ quan nhà nƣớc cấp trên có thẩm quyền.
3.3.2.2. Chưa quy định thẩm quyền của cơ quan khác không thuộc cơ quan
hành chính xử lý văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành trái pháp luật
Cơ chế kiểm tra, xử lý văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành đang
bị “mang tiếng” là “vừa đá bóng, vừa thổi còi”, không bảo đảm yêu cầu kiểm soát
quyền lực giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tƣ pháp. Do đó, cần nghiên cứu, quy
định Tòa án nhân dân Tối cao cũng có thẩm quyền xem xét, kiểm tra và phán quyết xử
lý văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành trái pháp luật. Hiện tại, cơ quan, tổ chức,
công dân chỉ có thể trông chờ vào sự xem xét, xử lý văn bản trái pháp luật từ chính cơ
quan, ngƣời có thẩm quyền bên trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nƣớc. Hiện
nay, chƣa có quy định việc cơ quan, tổ chức, công dân có thể khởi kiện văn bản QPPL
có dấu hiệu trái pháp luật ra Tòa án nhân dân có thẩm quyền để phán quyết về tính hợp
hiến, hợp pháp của văn bản đó. Về mặt nguyên lí, cơ quan, tổ chức, công dân chịu sự
quản lý của Nhà nƣớc và phải tuân thủ pháp luật, ngƣợc lại, Nhà nƣớc cũng đƣợc tổ
chức và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, mọi hành vi sai trái đều phải bị xử lý.
Trên cơ sở đó, việc ban hành văn bản QPPL trái pháp luật cũng là hành vi sai trái,
trƣớc hết, cần xử lý tính trái pháp luật của văn bản đó, sau đó, tính đến trách nhiệm của
cơ quan, ngƣời đã ban hành văn bản trái pháp luật và trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại
trong trƣờng hợp áp dụng văn bản trái pháp luật gây ra... Chẳng hạn, Thông tƣ số
05/2013/TT-BCT ngày 18/02/2013 của Bộ Công thƣơng quy định về hoạt động kinh
doanh tạm nhập, tái xuất một số loại hàng hóa quy định thời hạn hàng hóa tạm nhập tái
xuất đƣợc lƣu giữ tại Việt Nam và Thông tƣ số 59/2013/TT-BTC ngày 08/5/2013 của
Bộ Tài chính hƣớng dẫn thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan đối với một số
loại hàng hóa kinh doanh tạm nhập, tái xuất, chuyển khẩu và gửi kho ngoại quan
111
không phù hợp với quy định của pháp luật. Cụ thể là: Khoản 1 Điều 13 Thông tƣ số
05/2013/TT-BCT quy định, hàng hóa tạm nhập tái xuất đƣợc lƣu giữ tại Việt Nam
không quá 45 ngày hoàn thanh thủ tục hải quan tạm nhập, chỉ đƣợc gia hạn một lần,
thời hạn gia hạn không quá 15 ngày; Khoản 1 Điều 8 Thông tƣ số 59/2013/TT-BTC
quy định, hàng hóa đƣợc gửi kho ngoại quan không quá 45 ngày kể từ ngày đƣa hàng
vào kho, đƣợc gia hạn một lần, nhƣng tối đa không quá 15 ngày. Trong khi đó, theo
Điều 48 Luật Hải quan quy định, thời hạn gửi hàng hóa tại kho ngoại quan không quá
12 tháng, kể từ ngày hàng hóa đƣợc gửi vào kho, đƣợc gia hạn tối đa không quá 6
tháng; Khoản 2 Điều 12 Nghị định số 12/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành Luật Thƣơng mại về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế và các hoạt động
đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hóa với nƣớc ngoài quy định, hàng hóa
tạm nhập tái xuất đƣợc lƣu lại tại Việt Nam không quá 120 ngày, kể từ ngày hoàn
thành thủ tục hải quan tạm nhập, thời hạn gia hạn mỗi lần không quá 30 ngày và không
quá 2 lần gia hạn cho mỗi lô hàng tạm nhập tái xuất.
Thông tƣ số 05/2013/TT-BCT còn quy định điều kiện kinh doanh tại các điều 4,
5, 6. Trong khi đó, Khoản 4 Điều 7 của Luật Doanh nghiệp quy định: “Chính phủ định
kỳ rà soát, đánh giá lại toàn bộ hoặc một phần các điều kiện kinh doanh, bãi bỏ hoặc
kiến nghị bãi bỏ các điều kiện không còn phù hợp; sửa đổi hoặc kiến nghị sửa đổi các
điều kiện bất hợp lý; ban hành hoặc kiến nghị ban hành điều kiện kinh doanh mới theo
yêu cầu quản lý nhà nƣớc”. Nhƣ vậy, nội dung quy định về thời gian tạm nhập tái xuất,
gửi kho ngoại quan tại Thông tƣ số 05/2013/TT-BCT, Thông tƣ số 59/2013/TT-BTC
và điều kiện kinh doanh tại Thông tƣ số 05/2013/TT-BCT là không phù hợp với Luật
Hải quan, Nghị định số 12/2006/NĐ-CP và Luật Doanh nghiệp.
Ở trƣờng hợp cụ thể này, nếu pháp luật quy định, doanh nghiệp có thể tính đến
việc khởi kiện các Thông tƣ nêu trên ra Tòa Hành chính - Tòa án nhân dân Tối cao nếu
cho rằng, các văn bản trên làm ảnh hƣởng đến lợi ích mình. Đồng thời, có thể yêu cầu
cơ quan, ngƣời đã ban hành văn bản đó bồi thƣờng thiệt hại do việc ban hành văn bản
QPPL trái pháp luật gây ra.
Tuy nhiên, chƣa xét đến tính đúng - sai của văn bản, song, rõ ràng đối với
trƣờng hợp trên, doanh nghiệp hoàn toàn chƣa có cơ sở để khởi kiện văn bản ra một
112
tòa án có thẩm quyền để Tòa án xem xét, phán quyết về tính hợp hiến, hợp pháp của
văn bản đó. Mà doanh nghiệp chỉ có thể chờ đợi vào sự xem xét, kết luận, xử lý từ
chính cơ quan đã ban hành văn bản có dấu hiệu trái pháp luật hoặc cơ quan hành chính
nhà nƣớc có thẩm quyền kiểm tra, xử lý văn bản. Trƣờng hợp cơ quan có thẩm quyền
vẫn chƣa xử lý văn bản đó, thì rõ ràng, doanh nghiệp vẫn phải tuân thủ văn bản, vì văn
bản đang còn hiệu lực pháp luật. Đồng thời, lợi ích của doanh nghiệp sẽ bị ảnh hƣởng
do áp dụng văn bản trái pháp luật gây ra nhƣng cũng chƣa có quy định cụ thể về bồi
thƣờng, khắc phục hậu quả trong trƣờng hợp này. Đó chính là yêu cầu thực tiễn của
việc giao cho Tòa án nhân dân Tối cao thẩm quyền xem xét, phán quyết về tính hợp
hiến, hợp pháp của văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành.
3.3.2.3. Cơ sở pháp lý để xem xét, xử lý trách nhiệm đối với người, cơ quan
ban hành văn bản trái pháp luật và khắc phục hậu quả do áp dụng văn bản trái
pháp luật gây ra chưa cụ thể, chưa đầy đủ
(i) Việc xem xét, xử lý trách nhiệm đối với người, cơ quan ban hành văn bản
trái pháp luật
Thực tế có khá nhiều trƣờng hợp cần phải đặt vấn đề xử lý trách nhiệm của
ngƣời, cơ quan ban hành văn bản trái pháp luật nhƣng đến nay, vẫn chƣa có bất kỳ
trƣờng hợp nào bị xử lý (đồng thời với việc xem xét, khắc phục hậu quả, bồi thƣờng
thiệt hại). Có thể ví dụ trƣờng hợp sau: Công văn số 131/NTBD-PQL ngày 07/3/2014
của Cục Nghệ thuật biểu diễn - Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch về việc tạm dừng cho
phép bà Lƣu Thị Diễm Hƣơng (Hoa hậu thế giới ngƣời Việt năm 2010) tham gia biểu
diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang, thi ngƣời đẹp, ngƣời mẫu (sau đây gọi là Công
văn số 131).
Việc Cục Nghệ thuật biểu diễn đề nghị các Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch
của 63 tỉnh, thành phố (trong phạm vi toàn quốc) “tạm dừng cho phép bà Lưu Thị
Diễm Hương tham gia hoạt động biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang, thi người
đẹp, người mẫu; Có văn bản thông báo đến các Công ty hoạt động tổ chức biểu diễn
nghệ thuật, trình diễn thời trang, tổ chức thi Hoa hậu, người mẫu; các chủ địa điểm…
không được tổ chức cho bà Lưu Thị Diễm Hương tham gia các hoạt động biểu diễn
nghệ thuật, trình diễn thời trang, thi người đẹp, người mẫu” là vi phạm quyền và lợi
113
ích hợp pháp của công dân Lƣu Thị Diễm Hƣơng. Khi các Sở Văn hóa Thể thao và Du
lịch và các công ty tổ chức hoạt động biểu diễn thực hiện yêu cầu này, công dân Lƣu
Thị Diễm Hƣơng sẽ bị “bao vây, cấm vận”, không còn đƣờng để hành nghề, không có
cơ hội để tham gia các hoạt động văn hóa nghệ thuật trên phạm vi toàn quốc, buộc
phải chấm dứt các hợp đồng, vai diễn đã ký kết, đang thực hiện. Việc này vi phạm các
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Về vấn đề xử lý, việc thu hồi, hủy bỏ Công văn số 131 và xem xét việc khắc
phục hậu quả mà Công văn này đã gây ra là cần đƣợc tiến hành khẩn trƣơng để hạn
chế hậu quả lớn hơn có thể xảy ra. Theo đó, Cục Kiểm tra văn bản QPPL - Bộ Tƣ pháp
đã đề nghị Bộ trƣởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch “chỉ đạo, tổ chức việc tự kiểm
tra, hủy bỏ Công văn số 131 theo thẩm quyền, trách nhiệm được quy định tại Nghị
định số 40/2010/NĐ-CP; kịp thời áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả do việc
ban hành và thực hiện Công văn số 131 gây ra đối với xã hội cũng như đối với công
dân Lưu Thị Diễm Hương; căn cứ vào nội dung, tính chất, mức độ trái pháp luật và hậu
quả mà Công văn số 131 đã gây ra và trên cơ sở tính chất, mức độ lỗi của các công
chức đã tham mưu, ban hành văn bản, xem xét trách nhiệm của tập thể, cá nhân, trong
đó có trách nhiệm của người đứng đầu Cục NTBD trong việc ban hành Công văn số
131 theo quy định của Nghị định số 40/2010/NĐ-CP và của pháp luật về cán bộ, công
chức" [56]. Kết quả, Cục Nghệ thuật biểu diễn đã ban hành văn bản khác thay thế
Công văn 131. Chƣa bàn đến hình thức xử lý (thay thế) là chƣa phù hợp với trƣờng
hợp cụ thể này, chỉ xét đến vấn đề khắc phục hậu quả và xử lý cơ quan, ngƣời tham
mƣu, ban hành văn bản thì đến nay vẫn còn bỏ ngỏ.
Theo quy định tại Nghị định số 40/2010/NĐ-CP thì căn cứ vào nội dung trái
pháp luật của văn bản và mức độ thiệt hại trên thực tế do văn bản trái pháp luật gây ra,
cơ quan, ngƣời có thẩm quyền kiểm tra kiến nghị (i) Cơ quan, ngƣời đã ban hành văn
bản trái pháp luật kịp thời áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả do việc ban hành
và thực hiện văn bản trái pháp luật gây ra; (ii) Cơ quan, ngƣời có thẩm quyền xác định
hình thức, mức độ xử lý đối với cơ quan, ngƣời đã ban hành văn bản trái pháp luật. Tùy
theo tính chất và mức độ vi phạm của văn bản trái pháp luật, cơ quan, ngƣời đã ban hành
văn bản trái pháp luật phải chịu trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm hình sự theo quy định
114
của pháp luật [29]. Tuy nhiên, các quy định trên vẫn mang tính chất nguyên tắc, rất
khó áp dụng trong thực tiễn. Pháp luật đã giao Bộ trƣởng Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp
với Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp hƣớng dẫn cụ thể các nội dung có liên quan về xử lý trách
nhiệm đối với ngƣời/cơ quan đã ban hành văn bản QPPL trái pháp luật. Tuy nhiên, đến
nay, văn bản này vẫn chƣa đƣợc ban hành.
(ii) Việc khắc phục hậu quả do áp dụng văn bản trái pháp luật gây ra
Ở ví dụ liên quan đến Công văn số 131/NTBD đã nêu ở trên, có thể dễ dàng
nhận thấy rằng, trong thời gian hiệu lực của văn bản này, công dân Lƣu Thị Diễm
Hƣơng đã có những thiệt hại về vật chất và cả tinh thần, danh dự, uy tín. Về vật chất,
báo chí thời gian đó có đƣa tin, bà Lƣu Thị Diễm Hƣơng có chia sẻ rằng, bà đã bị
“cắt” vai diễn ở một số bộ phim, đã bị một số chƣơng trình nghệ thuật “hủy” show
diễn… vậy rõ ràng, tác động vật chất (thu nhập) của Công văn này đối với đối tƣợng
bị áp dụng (bà Lƣu Thị Diễm Hƣơng) là có thật và chắc hẳn không hề nhỏ. Chƣa kể,
điều này cũng ảnh hƣớng tới hình ảnh, uy tín, danh dự của cá nhân công dân Lƣu Thị
Diễm Hƣơng. Tuy nhiên, các vấn đề liên quan đến khắc phục hậu quả, bồi thƣờng thiệt
hại cho bà Lƣu Thị Diễm Hƣơng đến nay vẫn còn bỏ ngỏ.
Có thể bàn thêm về vấn đề này thông qua một ví dụ khác nhƣ sau: Cục Kiểm
tra văn bản QPPL - Bộ Tƣ pháp trực tiếp nhận đƣợc văn bản của Báo Tiền phong và
một số công dân mua nhà chung cƣ Khu đô thị mới Dƣơng Nội phản ánh về quy định
cách tính diện tích sàn căn hộ chung cƣ tại Thông tƣ số 16/2010/TT-BXD ngày
01/9/2010 của Bộ Xây dựng quy định cụ thể và hƣớng dẫn thực hiện một số nội dung
của Nghị định số 71/2010/NĐ-CP ngày 23/6/2010 của Chính phủ quy định chi tiết và
hƣớng dẫn thi hành Luật Nhà ở (sau đây gọi là 16/2010/TT-BXD) và Công văn số
124/QLN ngày 21/12/2010 của Cục quản lý nhà và Thị trƣờng bất động sản về việc
hƣớng dẫn cách tính diện tích căn hộ nhà chung cƣ (sau đây gọi là Công văn số 124)
không phù hợp với quy định của pháp luật.
Về tính hợp pháp của quy định cách tính diện tích sàn căn hộ theo nguyên tắc
tim tƣờng, Khoản 2 Điều 21 Thông tƣ 16/2010/TT-BXD quy định, đối với hợp đồng
mua bán căn hộ chung cƣ thì diện tích sàn căn hộ mua bán đƣợc xác định theo
nguyên tắc tính kích thƣớc thông thuỷ của căn hộ hoặc tính từ tim tƣờng bao, tƣờng
115
ngăn chia các căn hộ. (Nội dung này đƣợc hƣớng dẫn cụ thể hơn tại điểm 2 của
Công văn số 124 đó là, việc xác định diện tích sàn căn hộ theo kích thƣớc thông
thủy thì đƣợc trừ đi diện tích thuộc sở hữu chung, theo kích thƣớc từ tim tƣờng bao,
tƣờng ngăn chia các căn hộ thì không phải trừ đi diện tích chung). Trong khi đó,
Điều 70 Luật Nhà ở và Điều 49 Nghị định số 71 quy định phần sở hữu chung trong nhà
chung cƣ gồm: “ … khung, cột, tƣờng chịu lực, tƣờng bao ngôi nhà, tƣờng phân chia các
căn hộ… hộp kỹ thuật…”, theo quy định này, thì cách tính diện tích sàn căn hộ theo
nguyên tắc thông thủy mới là cơ sở để xác lập quyền sở hữu thực sự đối với diện tích
thực tế mà ngƣời mua đã trả tiền. Do đó, việc Thông tƣ số 16 và Công văn số 124 của
Bộ Xây dựng đƣa ra cách tính theo tim tƣờng là chƣa có cơ sở pháp lý. Điều 225 Bộ luật
Dân sự cũng quy định phần diện tích, trang thiết bị dùng chung trong nhà chung cƣ
thuộc sở hữu chung của tất cả chủ sở hữu các căn hộ trong nhà đó và không thể phân
chia. Bộ Tƣ pháp đã có văn bản đề nghị Bộ Xây dựng khẩn trƣơng xem xét sớm ban
hành Thông tƣ sửa đổi Thông tƣ 16/2010/TT-BXD để giải tỏa bức xúc, băn khoăn của
dƣ luận báo chí và ngƣời mua căn hộ chung cƣ tại một số khu đô thị hiện nay và đề nghị
Bộ Xây dựng có biện pháp khắc phục hậu quả (nếu có) do quy định về cách tích diện
tích sàn căn hộ theo tim tƣờng tại Thông tƣ số 16/2010/TT-BXD không phù hợp với
pháp luật đối với trƣờng hợp ngƣời mua nhà đã thanh toán, hoàn tất hợp đồng mua bán
trong thời điểm Thông tƣ 16/2010/TT-BXD có hiệu lực thi hành, bảo đảm quyền, lợi ích
hợp pháp của công dân.
Có thể nói, với tính chất của mình, nếu văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban
hành trái pháp luật thì hậu quả gây ra cho cơ quan, tổ chức, cá nhân cũng lớn và có sức
ảnh hƣởng rộng. Song đến nay, vẫn chƣa có quy định về việc cơ quan nhà nƣớc, ngƣời
có thẩm quyền ban hành văn bản trái pháp luật phải khắc phục hậu quả và bồi thƣờng
thiệt hại từ việc ban hành và đƣa vào áp dụng văn bản trái pháp luật gây ra. Hiện nay,
Luật Trách nhiệm bồi thƣờng của Nhà nƣớc mới chỉ quy định trách nhiệm bồi thƣờng
của Nhà nƣớc đối với cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do quyết định hành chính hoặc hành
vi hành chính trái pháp luật của ngƣời thi hành công vụ gây ra mà chƣa quy định về
các vấn đề đã đề cập ở trên.
116
3.3.2.4. Việc xem xét, xử lý vi phạm trong hoạt động kiểm tra văn bản chưa
được thực hiện
Điều 37 Nghị định số 40/2010/NĐ-CP13 quy định những hành vi vi phạm pháp
luật trong công tác kiểm tra, xử lý văn bản của cơ quan, ngƣời có thẩm quyền kiểm tra
văn bản, bao gồm: Không tổ chức kiểm tra, xử lý các văn bản thuộc thẩm quyền kiểm
tra, xử lý; Không kiểm tra, xử lý văn bản khi có yêu cầu của cơ quan nhà nƣớc cấp
trên hoặc đề nghị, kiến nghị của các cơ quan, tổ chức, cá nhân và các cơ quan thông tin
đại chúng; Không xử lý hoặc không báo cáo cơ quan, ngƣời có thẩm quyền xử lý văn
bản khi phát hiện văn bản có dấu hiệu trái pháp luật; Ban hành quyết định xử lý trái
pháp luật, đƣa ra yêu cầu, kiến nghị trái pháp luật đối với cơ quan, ngƣời có văn bản
đƣợc kiểm tra; Kiểm tra, xử lý văn bản không thuộc thẩm quyền kiểm tra, xử lý;
Không chuyển cho cơ quan, ngƣời có thẩm quyền kiểm tra, xử lý văn bản các văn bản
không thuộc thẩm quyền kiểm tra, xử lý của mình; Những hành vi vi phạm pháp luật
khác trong quá trình thực hiện các quy định tại Nghị định số 40/2010/NĐ-CP và các
văn bản pháp luật khác có liên quan trong công tác kiểm tra, xử lý văn bản. Đồng thời,
quy định tùy theo tính chất và mức độ của hành vi vi phạm pháp luật về kiểm tra, xử lý
văn bản, cơ quan, ngƣời có thẩm quyền kiểm tra văn bản phải bị xử lý theo quy định
của pháp luật [29].
Có thể nói, phần lớn các hành vi đƣợc liệt kê ở trên đều có thể làm bỏ lọt văn bản
QPPL trái pháp luật, việc bỏ lọt này làm cho văn bản không đƣợc kiểm tra, xử lý kịp
thời có thể tác động tiêu cực đến hoạt động bình thƣờng của các cơ quan, tổ chức, cá
nhân, gây thiệt hại cho đối tƣợng chịu sự tác động của văn bản... Tuy nhiên, pháp luật
hiện hành chƣa có quy định cụ thể để xử lý các trƣờng hợp vi phạm này.
3.3.2.5. Trình tự, thủ tục kiểm tra, xử lý văn bản còn nhiều hạn chế
Trình tự, thủ tục kiểm tra, xử lý văn bản QPPL nói chung và kiểm tra văn bản
văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành nói riêng mới chỉ quy định về thời
gian phải gửi văn bản để kiểm tra (trong thời hạn chậm nhất là 03 (ba) ngày làm việc, kể
từ ngày ký ban hành) mà chƣa quy định thời gian hoặc thời điểm văn bản phải đƣợc
13 Hiện nay đƣợc quy định tại Điều 133 Nghị định 34/2016/NĐ-CP.
kiểm tra xong kể từ ngày nhận đƣợc văn bản. Điều này dẫn đến thực tế là nhiều văn bản
117
bị kéo dài thời gian kiểm tra hoặc bỏ sót văn bản cần kiểm tra, thực tế, có những cơ
quan tiến hành kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật ngay sau khi nhận đƣợc văn
bản, có những cơ quan kiểm tra sau 10, 15, 30 ngày thậm chí có những văn bản
QPPL sau 3, 4 năm mới đƣợc kiểm tra. Quy định thời gian hoặc thời điểm văn bản
phải kiểm tra xong bảo đảm nguyên tắc thƣờng xuyên, kịp thời trong kiểm tra văn
bản, đồng thời, tránh việc kéo dài thời gian thực hiện văn bản trái pháp luật gây hậu
quả. Ngoài ra, cần bổ sung vào trình tự, thủ tục kiểm tra văn bản việc gửi văn bản
cho cơ quan có thẩm quyền kiểm tra văn bản còn kèm theo hồ sơ tự kiểm tra văn bản
để đảm bảo rằng văn bản này đã đƣợc tự kiểm tra và cũng là căn cứ để xác định trách
nhiệm của cơ quan đầu mối thực hiện tự kiểm tra văn bản khi văn bản đƣợc phát hiện
trái pháp luật (sau đó).
3.3.2.6. Các quy định nhằm bảo đảm thực hiện tốt phương thức kiểm tra văn
bản theo các nguồn thông tin chưa đầy đủ
Kiểm tra văn bản QPPL khi nhận đƣợc yêu cầu, kiến nghị của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân phản ánh về văn bản có dấu hiệu trái pháp luật (kiểm tra văn bản theo
các nguồn thông tin) là phƣơng thức kiểm tra văn bản hiệu quả, có tác động tích cực
đến hoạt động ban hành, kiểm tra, xử lý văn bản, tác động đến nhận thức, ý thức pháp
luật của cơ quan, tổ chức cá nhân trong việc giám sát văn bản QPPL. Đồng thời, giải
quyết những vƣớng mắc, bức xức của xã hội nói chung đối với văn bản có dấu hiệu sai
trái, củng cố lòng tin của tổ chức và công dân vào nhà nƣớc, vào pháp luật. Có thể nói,
phƣơng thức kiểm tra văn bản này còn là công cụ góp phần bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của cơ quan, tổ chức, công dân.
Theo thông tin từ Cục Kiểm tra văn bản QPPL, Bộ Tƣ pháp, hiện nay phƣơng
thức kiểm tra văn bản này hầu nhƣ chỉ đƣợc thực hiện tại Bộ Tƣ pháp, còn lại, qua các
báo cáo hàng năm cho thấy, hầu nhƣ các bộ, cơ quan ngang bộ không báo cáo kết quả
về việc kiểm tra văn bản bằng phƣơng thức này. Nguyên nhân là do pháp luật về kiểm
tra văn bản QPPL chƣa quy định cụ thể việc tổ chức “kênh” tiếp nhận, phân loại, tổ
chức kiểm tra văn bản theo các nguồn thông tin, các quy định về phối hợp giữa cơ
quan kiểm tra văn bản với cơ quan, tổ chức, cá nhân có phản ánh về văn bản có dấu
hiệu trái pháp luật và với các phƣơng tiện truyền thông…
118
3.3.2.7. Chưa xây dựng, ban hành được Bộ Tiêu chí đánh giá chất lượng
hoạt động kiểm tra văn bản nói chung và kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan
ngang bộ ban hành nói riêng
Hiện nay, chƣa có quy định về tiêu chí cụ thể để đánh giá chất lƣợng kiểm tra
văn bản (tính đầy đủ, kịp thời của hoạt động kiểm tra; việc bỏ sót nội dung, văn bản
trái pháp luật…). Nhƣ các phần trên đã phân tích, do chƣa có tiêu chí thống nhất, nên
rất khó khăn để đánh giá một cách có hệ thống về việc một bộ, cơ quan ngang bộ nào
đó đã thực hiện việc tự kiểm tra hay kiểm tra văn bản theo thẩm quyền tốt hay chƣa
tốt, các mặt tích cực và hạn chế; so sánh chất lƣợng giữa các bộ, cơ quan ngang bộ.
Chính vì thế, dù văn bản đƣợc kiểm tra kịp thời hay không, bị bỏ lọt, không đƣợc kiểm
tra hay nội dung trái pháp luật bị bỏ sót (mặc dù đã đƣợc kiểm tra) thì cũng chƣa có
quy định làm căn cứ để đánh giá.
Việc thực hiện có chất lƣợng hoạt động kiểm tra văn bản theo các tiêu chí này
cũng là cơ sở để đánh giá bộ, cơ quan ngang bộ trong thi đua, khen thƣởng.
3.3.3. Về trình độ chuyên môn nghiệp vụ của người trực tiếp kiểm tra văn bản
Với đặc điểm, tính chất của văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành, việc
nghiên cứu, kiểm tra, phát hiện ra nội dung trái pháp luật của một văn bản không hề
đơn giản, kể cả đối với cán bộ có kinh nghiệm, thâm niên trong xây dựng, kiểm tra văn
bản. Do đó, không chỉ đòi hỏi ngƣời kiểm tra văn bản am hiểu các quy định của pháp
luật có liên quan mà còn phải là ngƣời am hiểu thực tiễn, và cũng phải là ngƣời cần cù,
cẩn thận, chi tiết, bởi với tính chất của loại văn bản này, chỉ cần một chữ cũng có thể
làm thay đổi nội dung của văn bản, và ngay lập tức phát sinh lợi ích hay nghĩa vụ của
đối tƣợng chịu sự tác động của văn bản. Chẳng hạn, Quyết định số 1328/QĐ-BTC
ngày 29/5/2012 về việc đính chính Thông tƣ số 157/2011/TT-BTC ngày 14/11/2011
của Bộ Tài chính ban hành Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu ƣu đãi với việc
thay đổi từ chữ “hoặc” thành chữ “và” đã phát sinh trách nhiệm cho doanh nghiệp
bằng việc nâng mức thuế suất của hàng hóa từ 5% lên 70% và thời gian áp dụng kể từ
ngày Thông tƣ số 157/2011/TT-BTC có hiệu lực (tức là trở về trƣớc gần 06 tháng so
với thời điểm ban hành Quyết định đính chính, quy định nội dung và hiệu lực hồi tố
trên gây bất lợi cho doanh nghiệp, ngƣời dân [87].
119
3.3.4. Về kinh phí và các điều kiện bảo đảm phục vụ kiểm tra văn bản
Về kinh phí: Theo thông tin từ Bộ Tƣ pháp, kinh phí hỗ trợ kiểm tra văn bản
hiện nay đƣợc các cơ quan phản ánh rằng chƣa đƣợc cấp đầy đủ, tƣơng xứng với
nhiệm vụ. Bên cạnh đó, mức chi tại Thông tƣ liên tịch số 122/2011/TTLT-BTC-BTP
là chƣa phù hợp với tính chất nhiệm vụ. Trong đó, mức chi hỗ trợ cán bộ, công chức
làm công tác kiểm tra văn bản là từ 50 000đ đến 100 000đ/01 văn bản; Chi thù lao
cộng tác viên kiểm tra văn bản là từ 70 000đ đến 140 000đ/01 văn bản (đối với văn
bản thuộc chuyên ngành, lĩnh vực chuyên môn phức tạp là 300 000đ/01 văn bản)…
trong khi nhiều văn bản khó, phức tạp, việc kiểm tra và xử lý mất nhiều thời gian,
công sức. Bên cạnh đó, mức kinh phí đặc thù cấp cho công tác này còn chƣa đồng đều,
ở một số nơi còn thấp, cá biệt, còn có nơi chƣa đƣợc cấp kinh phí độc lập phục vụ
công tác này gây khó khăn khi triển khai công việc, “chẳng hạn nhƣ Bộ Khoa học và
công nghệ năm 2012 và 2013 không đƣợc cấp kinh phí”[9].
Về tổ chức, biên chế: Do hạn chế về tổng chỉ tiêu biên chế hành chính đƣợc
giao, nên việc bố trí biên chế cho hoạt động này ở một số bộ, cơ quan ngang bộ cũng
bị ảnh hƣởng. Hơn nữa, tính chất công việc phức tạp, chế độ đãi ngộ cho cán bộ làm
kiểm tra văn bản nói chung còn chƣa phù hợp, nên một bộ phận công chức chƣa yên
tâm công tác, thƣờng xuyên có sự di chuyển sang các công tác chuyên môn khác. Điều
này cũng ảnh hƣởng nhất định đến tổ chức, biên chế của các cơ quan kiểm tra văn bản.
Với khối lƣợng công việc đƣợc giao và đã sử dụng đội ngũ cộng tác viên kiểm tra văn
bản, nhƣng một chuyên viên vẫn phải kiêm nhiệm nhiều việc (từ tiếp nhận, vào sổ theo
dõi văn bản đƣợc kiểm tra, theo dõi tình hình xử lý kết quả kiểm tra, tổ chức các cuộc
họp kiểm tra văn bản, thanh quyết toán kinh phí sau khi họp…), dẫn đến quá tải, có
trƣờng hợp không đảm bảo đƣợc tiến độ, chất lƣợng công việc theo yêu cầu.
Riêng Bộ Tƣ pháp, hàng năm đều tổ chức thi tuyển công chức mới hoặc tiếp
nhận cán bộ, công chức từ nơi khác (chủ yếu là từ địa phƣơng) chuyển về, nhƣng số
biên chế này cũng phải phân chia đồng đều cho các đơn vị chuyên môn. Bên cạnh đó,
hàng năm, số biên chế mới vào không nhiều nhƣng lại có một số lƣợng nhất định biên
chế cũng chuyển công tác hoặc nghỉ hƣu, nên đã qua nhiều năm củng cố biên chế mà
vẫn chƣa đƣợc đầy đủ, chƣa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
120
Về cộng tác viên kiểm tra văn bản: Nhiều cộng tác viên còn “non” về trình độ
chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm thực tiễn, kiểm tra không phát hiện đƣợc nội
dung trái pháp luật của văn bản. Một số cộng tác viên còn hời hợt, chiếu lệ khi kiểm
tra văn bản; nhiều cộng tác viên lại chƣa nhiệt tình cộng tác… Có 47,6% đơn vị đƣợc
khảo sát (năm 2014) cho rằng, hoạt động của cộng tác viên là chƣa hiệu quả [16]. Bên
cạnh đó, vẫn còn một số bộ, cơ quan ngang bộ chƣa xây dựng đƣợc đội ngũ cộng tác
viên kiểm tra văn bản. Do vậy, có thể nói lực lƣợng cộng tác viên hỗ trợ cho công tác
kiểm tra văn bản ở bộ, cơ quan ngang bộ vẫn chƣa đƣợc triển khai một cách thực chất.
Về hệ cơ sở dữ liệu phục vụ kiểm tra văn bản: Theo quy định tại Nghị định số
40/2010/NĐ-CP và Điều 15 Thông tƣ số 20/2010/TT-BTP, thì các bộ, cơ quan ngang
bộ có trách nhiệm xây dựng Hệ cơ sở dữ liệu phục vụ công tác kiểm tra văn bản
QPPL. Tuy nhiên, đến nay, hầu nhƣ chƣa có bộ, cơ quan ngang bộ nào đã xây dựng
hoàn thiện đƣợc Hệ cơ sở dữ liệu này. Một số bộ, cơ quan ngang bộ đã triển khai xây
dựng hệ thống cơ sở dữ liệu và đã đăng tải trên trang web của bộ, ngành mình, nhƣng
nhìn chung chƣa đáp ứng đƣợc các yêu cầu thực tế (chỉ đƣợc cập nhật một cách cơ
học, chƣa thực hiện rà soát và chuẩn hóa hiệu lực văn bản; chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu
cập nhật văn bản nhanh chóng; chƣa phân loại theo những tiêu chí phù hợp với việc
phân chia thẩm quyền kiểm tra, xử lý văn bản…). Theo khảo sát, “chỉ có 7,1% các đơn
vị đƣợc khảo sát cho rằng hệ cơ sở dữ liệu hiện có là đáp ứng yêu cầu công việc, có
47,6% cho rằng chƣa đáp ứng yêu cầu; có 28,5% số đơn vị đƣợc khảo sát là chƣa có
hệ cơ sở dữ liệu”[16].
Về tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ và phối hợp trong công tác kiểm tra văn
bản: nội dung các lớp tập huấn, hƣớng dẫn nghiệp vụ đôi lúc còn sơ sài, hình thức,
chƣa có nhiều đổi mới về cách thức tổ chức dẫn đến nhàm chán, lặp đi lặp lại các vấn
đề cũ, chƣa bám sát thực tiễn, nặng về lí thuyết… Sự phối hợp giữa các cơ quan trong
kiểm tra, xử lý văn bản chƣa thật sự nhuần nhuyễn, chặt chẽ. Theo khảo sát, có 78,8%
số ngƣời đƣợc khảo sát cho rằng một trong những nguyên nhân gây ảnh hƣởng đến
chất lƣợng công tác kiểm tra văn bản QPPL, đó là do tính phối hợp chƣa cao giữa các
cấp, các ngành, các cơ quan trong kiểm tra, rà soát văn bản QPPL [16]. Đây có thể coi
là một trong những nguyên nhân của tình trạng chậm hoặc không tiếp tục tiến hành
121
đƣợc các hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản trái pháp luật. Một số cơ quan chƣa có
đƣợc sự hợp tác cần thiết để trao đổi thông tin, tài liệu có liên quan đến văn bản trái
pháp luật làm quá trình kiểm tra văn bản mất nhiều thời gian. Bên cạnh đó, một số cơ
quan lại không thực hiện đúng các quy định về kiểm tra văn bản, hoặc tìm nhiều lý lẽ
để “bao biện” cho tính trái pháp luật của văn bản, không đồng tình với cơ quan có
thẩm quyền kiểm tra văn bản về tính trái pháp luật của văn bản… dẫn đến việc xử lý
văn bản trái pháp luật mất nhiều thời gian hoặc không thể xử lý đƣợc.
Ngoài ra, trong thời gian qua, gần nhƣ chỉ có Cục Kiểm tra văn bản QPPL đã
tích cực phối hợp với các phƣơng tiện thông tin đại chúng để tuyên truyền phổ biến về công tác kiểm tra văn bản, cung cấp kết quả kiểm tra văn bản QPPL14. Còn lại, hầu hết
các cơ quan kiểm tra văn bản chƣa chú trọng sử dụng các phƣơng tiện thông tin đại
chúng để hỗ trợ nghiệp vụ kiểm tra; đăng tải kết quả kiểm tra, xử lý văn bản trên các
14 Ví dụ nhƣ sau khi Cục Kiểm tra văn bản QPPL tiến hành kiểm tra và phát hiện các dấu hiệu trái pháp luật của các văn bản QPPL về xử lý vi phạm hành chính của 33 địa phƣơng (năm 2005), Cục đã thông báo rộng rãi trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng. Kết quả cho thấy hầu hết các địa phƣơng đã nhanh chóng xử lý văn bản.
phƣơng tiện thông tin...
122
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3
Thực trạng kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành đƣợc thể
hiện qua các nội dung: (i) Thực trạng hoạt động kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ
quan ngang bộ ban hành; (iii) Thực trạng các điều kiện bảo đảm phục vụ kiểm tra văn
bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành; (iii) Các hạn chế yếu kém và (iv)
Nguyên nhân của các hạn chế yếu kém.
Thực trạng kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành từ 2003
đến tháng 12/2015 đã đạt đƣợc những kết quả tƣơng đối khả quan, đã có một hệ thống
văn bản QPPL làm nền tảng triển khai trên thực tiễn, đã củng cố tổ chức pháp chế thực
hiện kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ tại các bộ, cơ quan ngang bộ; qua kiểm
tra đã phát hiện và xử lý nhiều văn bản trái pháp luật; các điều kiện bảo đảm cho kiểm
tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành cơ bản đƣợc quan tâm, bố trí… Tuy
nhiên, kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ hiện nay còn nhiều bất cập,
hạn chế, nhƣ quy định pháp luật còn thiếu, chƣa đồng bộ; việc kiểm tra, xử lý văn bản
chƣa đầy đủ, kịp thời; việc kiểm tra văn bản còn hời hợt, hình thức, nội dung kiểm tra
chủ yếu chú trọng về thể thức, kỹ thuật trình bày văn bản; còn bỏ sót (không phát hiện)
nội dung trái pháp luật; nhiều vụ việc còn “theo sau” các phƣơng tiện thông tin truyền
thông… Có một số nguyên nhân dẫn đến các hạn chế trên, nhƣ nhận thức về kiểm tra
văn bản nói chung và kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ nói riêng còn
nhiều hạn chế; Tâm lý “nể nang”, “né tránh”, ngại “va chạm” trong kiểm tra, xử lý văn
bản QPPL; Quy định pháp luật hiện hành liên quan đến việc xử lý văn bản QPPL do
bộ, cơ quan ngang bộ trái pháp luật chƣa đầy đủ, chƣa đảm bảo tính nghiêm khắc; Tổ
chức, biên chế, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ còn nhiều bất cập; Sự phối hợp giữa
các cơ quan trong kiểm tra, xử lý văn bản chƣa thật sự nhuần nhuyễn, chặt chẽ…
Để nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ
ban hành, trong thời gian tới, cần phải nghiên cứu để hạn chế các bất cập nói trên,
đồng thời phải có các giải pháp đồng bộ để làm thay đổi căn bản công tác này.
123
Chƣơng 4
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG KIỂM TRA VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT DO BỘ,
CƠ QUAN NGANG BỘ BAN HÀNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. PHƢƠNG HƢỚNG NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG KIỂM TRA VĂN
BẢN QPPL DO BỘ, CƠ QUAN NGANG BỘ BAN HÀNH
4.1.1. Gắn với yêu cầu nâng cao hiệu quả cơ chế kiểm soát quyền lực trong
Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Kiểm soát quyền lực nhà nƣớc thể hiện mối liên hệ giữa chủ thể quyền lực nhà
nƣớc với khách thể của nó nhằm theo dõi, kiểm tra quá trình thực hiện các nhiệm vụ, chức
năng và thẩm quyền, bảo đảm khách thể phải nằm trong quỹ đạo của các yêu cầu về
quyền lực nhà nƣớc đƣợc xác định trong Hiến pháp, pháp luật. Trong một chế độ chính trị
dân chủ, kiểm soát quyền lực nhà nƣớc là sự thể hiện mối quan hệ chức năng giữa nhà
nƣớc và xã hội. Nhà nƣớc kiểm soát xã hội để quản lý xã hội, nhƣng xã hội, các thiết chế
xã hội cũng có quyền kiểm soát quyền lực nhà nƣớc. Theo đó, bên trong bộ máy nhà nƣớc
không chỉ có sự kiểm soát từ trên xuống dƣới, mà còn có sự kiểm soát lẫn nhau giữa các
cơ quan nhà nƣớc và sự kiểm soát từ phía xã hội, ngƣời dân đối với các cơ quan nhà nƣớc.
Trong phạm vi kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành, cần
coi văn bản QPPL là phƣơng thức thực hiện quyền lực nhà nƣớc. Do vậy, kiểm tra văn
bản QPPL đƣợc coi là một cách thức kiểm tra, kiểm soát, giám sát việc thực hiện
quyền lực nhà nƣớc. Theo đó, việc nâng cao hiệu quả kiểm tra văn bản QPPL do bộ,
cơ quan ngang bộ ban hành ở Việt Nam hiện nay phải đƣợc nghiên cứu, xem xét trên
cơ sở đặc điểm, tính chất của kiểm soát quyền lực nhà nƣớc trong Nhà nƣớc pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; việc nghiên cứu, kiến nghị giải pháp hoàn thiện,
nâng cao hiệu quả kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành về cách
thức tổ chức hoạt động phải thể hiện rõ ràng nguyên tắc trên và phải đảm bảo đƣợc
tính chất “kiểm soát giữa các cơ quan nhà nƣớc”.
Cơ chế kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành nhƣ hiện nay
chƣa thể hiện đƣợc rõ nét yêu cầu này, về bản chất, nó vẫn mang tính tự kiểm tra, tự
kiểm soát giữa các cơ quan trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nƣớc mà chƣa phải
124
là sự “kiểm soát” từ phía các cơ quan nhà nƣớc khác, độc lập với cơ quan hành chính
nhà nƣớc. Hoạt động kiểm soát từ phía xã hội cũng còn hạn chế. Bởi vậy, giải pháp
nâng cao hiệu quả kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành cần gắn
bó chặt chẽ với yêu cầu nâng cao hiệu quả cơ chế kiểm soát quyền lực trong Nhà nƣớc
pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
4.1.2. Gắn với yêu cầu đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ, hợp hiến, hợp
pháp và khả thi, công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật
Thống nhất, đồng bộ, công khai, minh bạch, hợp hiến, hợp pháp và khả thi là
mục tiêu hƣớng đến của bất cứ hệ thống pháp luật nào trên thế giới và luôn đƣợc xem
là yêu cầu vốn có của nhà nƣớc pháp quyền. Bên cạnh đó, minh bạch và thống nhất
còn là những cam kết của các quốc gia thành viên của các tổ chức quốc tế nhƣ: WTO,
EU, ASEAN… Khoa học pháp lý của các quốc gia phát triển trên thế giới đã hình
thành hệ thống lý thuyết chung về nhà nƣớc pháp quyền nói chung và các tiêu chí đánh
giá về tính thống nhất, đồng bộ, sự minh bạch và hiệu quả của hệ thống pháp luật trong
nhà nƣớc pháp quyền nói riêng. Trong nhà nƣớc pháp quyền, tính thống nhất, đồng bộ,
công khai, minh bạch, hợp hiến, hợp pháp và khả thi là những yêu cầu cơ bản, mang
tính phổ biến nhằm bảo đảm dân chủ trong hoạt động của bộ máy nhà nƣớc. “Xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh
bạch…” [65] là mục tiêu hàng đầu của Đảng và Nhà nƣớc ta thể hiện tại Nghị quyết số
48-NQ/TW. Để thực hiện mục tiêu đã đặt ra, một trong các giải pháp đã đƣợc đặt ra tại
Nghị quyết số 48-NQ/TW là: “… Tăng cường kiểm tra đối với văn bản QPPL do các
bộ, ngành, địa phương ban hành để bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất
của hệ thống pháp luật” [65]. Đồng thời, tại Nghị quyết số 900/UBTVQH11 ngày
21/3/2007 của Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội về Kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 48-
NQ/TW (giai đoạn 2007-2012) đã giao Chính phủ, Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội chủ trì
thực hiện nhiệm vụ “tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và xử lý văn bản QPPL,
đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất, đồng bộ, minh bạch của hệ thống
pháp luật” [137].
Thời gian qua, kiểm tra văn bản QPPL nói chung và kiểm tra văn bản QPPL do
bộ, cơ quan ngang bộ ban hành đã đƣợc Quốc hội, Chính phủ quan tâm chỉ đạo, các
125
cấp, các ngành tăng cƣờng nhận thức và quan tâm tổ chức thực hiện nhiệm vụ này và
đạt đƣợc những kết quả khả quan, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật theo mục
tiêu đã đề ra. Tuy nhiên, kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ hiện nay còn
nhiều hạn chế, bất cập, cần phải tiếp tục có nghiên cứu, đánh giá thực tiễn và có các
giải pháp hữu hiệu nhằm tăng cƣờng hoạt động này trong thời gian tới. Yêu cầu đối
với các giải pháp này là phải gắn liền với yêu cầu đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ,
hợp hiến, hợp pháp, khả thi, công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật, theo đúng
mục tiêu, yêu cầu mà Đảng và Nhà nƣớc đã đề ra. Chẳng hạn, để thể hiện tính minh
bạch, bên cạnh việc hệ thống pháp luật nói chung và từng văn bản QPPL nói riêng cần
phải đƣợc công bố, công khai hóa theo cách dễ tiếp cận nhất đối với tất cả mọi ngƣời,
thì việc kiểm tra (hay chƣa kiểm tra), xử lý (hay chƣa xử lý) đối với từng văn bản
QPPL cụ thể cũng phải đƣợc công khai theo hƣớng đó; phƣơng án tổ chức kiểm tra
văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành phải khắc phục đƣợc tác động “tiêu
cực” của một số yếu tố nhƣ nhận thức (nể nang, né tránh, e ngại)… của cơ chế hiện
nay; khắc phục việc “bỏ lọt” văn bản QPPL hoặc QPPL trái pháp luật (không thống
nhất, không đồng bộ); bảo đảm việc tham gia của cơ quan tổ chức, cá nhân vào kiểm
tra văn bản QPPL; bảo đảm việc thực hiện đầy đủ chế độ đƣa tin, công khai về việc
kiểm tra, xử lý văn bản trái pháp luật…
4.1.3. Gắn với yêu cầu nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật, phát
huy dân chủ và công bằng xã hội
Việc nghiên cứu, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm tra văn bản QPPL
phải theo hƣớng nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật, phát huy dân chủ và công
bằng xã hội. Theo đó, hiệu quả pháp luật là kết quả đạt đƣợc trên thực tế do sự tác
động của pháp luật mang lại, phản ánh đúng những mục đích, yêu cầu và định hƣớng
mà pháp luật quy định với những chi phí thấp và mang lại nhiều lợi ích xã hội. Trong
nhà nƣớc pháp quyền, những điều kiện pháp lý có đủ khả năng ảnh hƣởng trực tiếp
đến hiệu quả của pháp luật là: sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật thực định; sự hoàn
thiện của cơ chế thực hiện và áp dụng pháp luật; ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý
của mọi công dân. Đồng thời, chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc ta về xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật đƣợc nêu tại Nghị quyết số 48-NQ/TW là hoàn thiện
126
pháp luật về quyền giám sát của của các cơ quan dân cử “quyền trực tiếp giám sát, kiểm
tra của công dân đối với các hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức; mở rộng các
hình thức dân chủ trực tiếp để người dân tham gia vào công việc của Nhà nước…” [65].
Đồng thời, Nghị quyết số 900/UBTVQH11 ngày 21/3/2007 của Ủy ban thƣờng vụ Quốc
hội về Kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW (giai đoạn 2007-2012) cũng yêu
cầu “tăng cường chất lượng công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật theo
nội dung của Chiến lược xây dựng pháp luật, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp
quyền, hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao văn hóa pháp luật trong nhân dân” [137]. Do
đó, hoàn thiện chế định về kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành ở
Việt Nam hiện nay cần gắn bó chặt chẽ với các yêu cầu nêu trên. Theo đó, cần nghiên
cứu các nội dung kiểm tra văn bản QPPL sao cho bảo đảm đƣợc tính hiệu quả của văn
bản; cần nghiên cứu, hoàn thiện quyền của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong kiểm tra văn
bản QPPL nhằm phát huy hơn nữa dân chủ trong kiểm tra văn bản, chẳng hạn, quyền
phản ánh, quyền khiếu kiện về văn bản có dấu hiệu trái pháp luật…
Ngoài ra, giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang
bộ ban hành phải thúc đẩy hiệu quả của điều chỉnh pháp luật nói chung, tức là làm
tăng chất lƣợng, giá trị của văn bản QPPL trên thực tiễn. Đồng thời, các giải pháp này
cũng phải thể hiện đƣợc tính công bằng trƣớc pháp luật giữa tất cả các đối tƣợng, tăng
tính trách nhiệm giữa Nhà nƣớc - Nhân dân thông qua việc xử lý văn bản trái pháp
luật; cơ quan, ngƣời đã ban hành văn bản trái pháp luật; bồi thƣờng thiệt hại do việc
ban hành, áp dụng văn bản trái pháp luật gây ra.
4.1.4. Gắn bó chặt chẽ với sự nghiệp cải cách hành chính, cải cách tƣ pháp;
với tình hình phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh; góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội
Các giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm tra văn bản QPPL phải đặt trong bối cảnh
chính trị, kinh tế, xã hội cụ thể, để phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, đảm bảo tính khả
thi cao, nhằm góp phần phục vụ phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Bên cạnh đó, các giải pháp này cũng cần phải đặt trong mối quan
hệ tổng thể với sự nghiệp cải cách hành chính, cải cách tƣ pháp. Do đó, không đặt ra
các vấn đề nặng về thủ tục hành chính, gây phiền hà cho cơ quan, tổ chức, công dân
khi thực hiện quyền kiểm tra, giám sát văn bản QPPL. Đồng thời, phải gắn bó chặt chẽ
127
với định hƣớng nhiệm vụ cải cách tƣ pháp đã đƣợc Bộ Chính trị đặt ra tại Nghị quyết
số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020, đó là
“mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với các khiếu kiện hành chính. Đổi mới
mạnh mẽ thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành chính tại tòa án; tạo điều kiện thuận
lợi cho người dân tham gia tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân và cơ quan
công quyền trước tòa án” [66].
4.1.5. Gắn với yêu cầu tăng cƣờng pháp chế xã hội chủ nghĩa trong xây
dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật
Pháp chế xã hội chủ nghĩa là sự tôn trọng và thực hiện pháp luật xã hội chủ
nghĩa một cách tự giác, nghiêm chỉnh, đầy đủ, thống nhất thông qua những hành vi
tích cực của tất cả các cơ quan nhà nƣớc, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và mọi công
dân và kết quả thực hiện của sự tôn trọng và thực hiện pháp luật ấy trong bộ máy nhà
nƣớc và ở ngoài xã hội. Để thiết lập nền pháp chế xã hội chủ nghĩa đầy đủ, thống nhất,
ngoài điều kiện cần là sự tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách tự giác, nghiêm
chỉnh, đầy đủ, thống nhất bằng những hành vi tích cực của các chủ thể (ở đây là các
chủ thể có thẩm quyền ban hành, kiểm tra văn bản QPPL), còn điều kiện đủ nữa là kết
quả của sự tôn và thực hiện pháp luật ấy, đó là “trật tự pháp luật” mà nhờ đó ngƣời dân
đƣợc hƣởng lợi một cách ổn định và an toàn. Điều này hoàn toàn phù hợp với ý chí và
nguyện vọng của nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa khi ban hành pháp luật và tổ chức thực
hiện pháp luật. Theo đó, việc thực hiện các giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm tra văn
bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành phải làm tăng cƣờng pháp chế trong xây
dựng và ban hành văn bản QPPL, đáp ứng các yêu cầu cơ bản của pháp chế xã hội chủ
nghĩa nhƣ: triệt để tôn trọng hiệu lực pháp lý cao nhất của Hiến pháp; văn bản QPPL
phải đƣợc nhận thức và thực hiện thống nhất trong các cấp, các ngành và trên phạm vi
cả nƣớc; quyền và lợi ích hợp pháp của công dân luôn đƣợc bảo đảm, bảo vệ và mở
rộng; mọi vi phạm pháp luật trong ban hành, kiểm tra, xử lý văn bản QPPL đều bị xử
lý kịp thời, nghiêm minh, nhanh chóng, đúng quy định… Bên cạnh việc nghiên cứu,
tìm ra mô hình tốt, phù hợp với điều kiện Việt Nam hiện nay nhằm đảm bảo tính
khách quan, minh bạch trong kiểm tra, xử lý văn bản QPPL thì điều này còn đòi hỏi
tính quyết liệt, triệt để của nội dung giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý văn bản trái
pháp luật. Từ đó, sẽ có tác động ngƣợc trở lại đối với hoạt động xây dựng và ban hành
văn bản QPPL.
128
4.2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG KIỂM TRA VĂN BẢN
QUY PHẠM PHÁP LUẬT DO BỘ, CƠ QUAN NGANG BỘ BAN HÀNH
4.2.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về kiểm tra, xử lý văn bản quy
phạm pháp luật do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành
4.2.1.1 Quy định thẩm quyền tự đình chỉ văn bản QPPL của cơ quan, người
có thẩm quyền ban hành văn bản QPPL
Nhƣ đã nêu tại Mục 3.3.2.1, quy định tại Khoản 1 Điều 12 và Khoản 1 Điều
166 Luật năm 2015 cho thấy, hiện nay, bộ, cơ quan ngang bộ nói riêng (và cơ quan,
ngƣời có thẩm quyền ban hành văn bản QPPL nói chung) không có thẩm quyền tự
đình chỉ văn bản QPPL do mình ban hành trái pháp luật. Quy định này là chƣa thống
nhất với Điều 100 Hiến pháp 2013, quy định tại Khoản 2 Điều 35 Luật Tổ chức Chính
phủ năm 2015. Đồng thời, chƣa bảo đảm đầy đủ quyền hạn của chủ thể ban hành văn
bản đối với văn bản do mình ban hành. Do đó, để bảo đảm các yêu cầu về tính thống
nhất, đồng bộ của hệ thống văn bản QPPL, đồng thời, bảo đảm tính kịp thời, tính chủ
động trong hoạt động tự kiểm tra, xử lý văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban
hành, cần sửa đổi các quy định nêu trên của Luật năm 2015 theo hƣớng trao thẩm
quyền “tự đình chỉ” văn bản QPPL cho cơ quan, ngƣời có thẩm quyền ban hành văn
bản QPPL.
4.2.1.2. Sửa đổi quy định hiện hành về thẩm quyền xử lý văn bản do bộ, cơ
quan ngang bộ ban hành trái pháp luật (theo hướng tăng thẩm quyền cho Bộ Tư
pháp trong tham mưu, giúp Thủ tướng Chính phủ kiểm tra, xử lý văn bản quy
phạm pháp luật)
Theo các quy định hiện hành thì chủ thể có thẩm quyền xử lý văn bản QPPL do
bộ, cơ quan ngang bộ ban hành bao gồm Thủ tƣớng Chính phủ, bộ trƣởng, thủ trƣởng
cơ quan ngang bộ tự xử lý văn bản QPPL do mình ban hành bằng các hình thức đình
chỉ việc thi hành, bãi bỏ hoặc kiến nghị bộ, cơ quan ngang bộ khác tự xử lý văn bản có
nội dung liên quan đến ngành, lĩnh vực quản lý của bộ, cơ quan ngang bộ. Nhƣ vậy,
hiện nay chỉ có Thủ tƣớng Chính phủ mới có thẩm quyền xử lý bằng đầy đủ các hình
thức trên, còn lại, các bộ trƣởng, thủ trƣởng cơ quan ngang bộ chỉ có thẩm quyền đối
với văn bản do chính mình ban hành. Trƣờng hợp qua kiểm tra, phát hiện văn bản do
bộ, cơ quan ngang bộ ban hành trái pháp luật, thì bộ trƣởng, thủ trƣởng cơ quan có
129
thẩm quyền kiểm tra chỉ có thể “kiến nghị” chính cơ quan đã ban hành văn bản hoặc
Thủ tƣớng Chính phủ xử lý. Quy định nhƣ vậy có thể làm giảm hiệu lực, hiệu quả của
kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành, đồng thời, làm ảnh hƣởng
đến nguyên tắc kịp thời trong kiểm tra, xử lý văn bản QPPL, có thể làm phát sinh hậu
quả đáng tiếc trong thời gian thực hiện các thủ tục của quy trình xử lý văn bản QPPL
hiện hành. Do vậy, cần quy định tăng thẩm quyền cho Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp trong
việc giúp Thủ tƣớng Chính phủ xử lý văn bản trái pháp luật do bộ, cơ quan ngang bộ
ban hành. Cụ thể là: Trƣờng hợp văn bản quy phạm pháp luật của Bộ trƣởng, Thủ
trƣởng cơ quan ngang bộ có nội dung trái pháp luật không đƣợc tự kiểm tra, xử lý theo
quy định thì Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp quyết định đình chỉ việc thi hành, đồng thời báo cáo
và kiến nghị Thủ tƣớng Chính phủ bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật đó.
4.2.1.3 Sửa đổi, bổ sung quy định về trình tự, thủ tục kiểm tra văn bản QPPL
Thứ nhất, về thời hạn gửi văn bản để kiểm tra và thời gian kiểm tra văn bản
Hiện nay, pháp luật chƣa quy định về thời gian hay thời điểm phải kiểm tra văn
bản QPPL, vì vậy trên thực tế, thời gian để kiểm tra xong một văn bản QPPL ở mỗi cơ
quan là khác nhau, dẫn đến việc có văn bản đƣợc cơ quan kiểm tra văn bản kiểm tra
ngay khi nhận đƣợc, có những văn bản phải 3, 4 tháng mới đƣợc kiểm tra, thậm chí có
những văn bản phải 3, 4 năm mới đƣợc kiểm tra, còn lại phổ biến là văn bản đƣợc
kiểm tra trong vòng 6 tháng sau khi có hiệu lực.
Với thực tế nhƣ vậy, rõ ràng, nội dung trái pháp luật của văn bản có “điều kiện”
để phát sinh hiệu lực trên thực tiễn và có thể “làm mƣa làm gió” trong đời sống kinh
tế, xã hội khoảng thời gian tƣơng đối dài mà không đƣợc kiểm tra, xử lý trong bối
cảnh chƣa có quy định cụ thể về việc xem xét, xử lý trách nhiệm chủ thể ban hành văn
bản trái pháp luật hoặc bồi thƣờng thiệt hại do việc áp dụng văn bản trái pháp luật gây
ra, cũng chƣa có quy định về khởi kiện văn bản QPPL ra tòa án có thẩm quyền. Do
vậy, cần nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các quy định cụ thể nhằm khắc phục tình trạng
trên theo hƣớng:
- Quy định thời hạn, trách nhiệm tự kiểm tra, gửi văn bản sau khi văn bản được
ký ban hành: Trong vòng 07 ngày (tính từ ngày văn bản đƣợc ký ban hành), cơ quan
ban hành văn bản phải thực hiện xong việc tự kiểm tra văn bản. Trƣờng hợp phát hiện
130
trái pháp luật, phải thực hiện việc xử lý ngay. Trƣờng hợp không phát hiện văn bản trái
pháp luật, cơ quan ban hành văn bản sẽ gửi văn bản cùng với kết quả tự kiểm tra cho
cơ quan có thẩm quyền kiểm tra văn bản. Đây cũng là một cách để thông báo rằng, văn
bản này đã đƣợc tự kiểm tra, không phát hiện trái pháp luật, và cũng là căn cứ để xác
định trách nhiệm kiểm tra văn bản khi sau đó, văn bản đƣợc kiểm tra, phát hiện trái
pháp luật. Nhƣ vậy, tổng thời gian sẽ là trong vòng 10 ngày, cơ quan đã ban hành văn
bản phải tự kiểm tra xong và gửi văn bản đến cơ quan có thẩm quyền để thực hiện
kiểm tra văn bản theo thẩm quyền (hiện tại là 03 ngày, không quy định thời gian tự
kiểm tra);
- Quy định thời hạn kiểm tra văn bản theo thẩm quyền: Cơ quan có thẩm quyền
kiểm tra văn bản trong một khoảng thời gian nhất định sau khi tiếp nhận văn bản,
chẳng hạn từ 15 đến 25 ngày làm việc (tùy thuộc vào số lƣợng văn bản đến mỗi thời
điểm, tính chất, mức độ phức tạp của văn bản và phải đƣợc quy định tại Quy chế kiểm
tra văn bản của bộ, cơ quan ngang bộ...) thì phải tổ chức kiểm tra xong văn bản (bao
gồm cả thống nhất nội dung trái pháp luật với các cơ quan có liên quan). Trong vòng
07 ngày tiếp theo, lãnh đạo cơ quan có thẩm quyền kiểm tra văn bản phải phát hành
đƣợc “Kết luận kiểm tra văn bản” đến cơ quan đã ban hành văn bản. Nhƣ vậy, việc
kiểm tra văn bản QPPL theo thẩm quyền có tối đa 32 ngày để hoàn tất và ra đƣợc kết
luận kiểm tra văn bản. Việc tự kiểm tra, xử lý sau khi nhận đƣợc thông báo kiểm tra
văn bản theo quy định hiện hành (theo quy định tại Nghị định số 34/2016/NĐ-CP, trong
thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận đƣợc kết luận về việc văn bản trái pháp luật, cơ quan,
ngƣời đã ban hành văn bản phải tổ chức tự kiểm tra, xử lý văn bản đó và thông báo kết
quả xử lý cho cơ quan kiểm tra văn bản. Hết thời hạn xử lý trên, nếu cơ quan, ngƣời đã
ban hành văn bản có dấu hiệu trái pháp luật không tự kiểm tra, xử lý hoặc cơ quan có
thẩm quyền kiểm tra, xử lý văn bản không nhất trí với kết quả xử lý của cơ quan, ngƣời
đã ban hành văn bản thì trong thời hạn 15 ngày, cơ quan có thẩm quyền xử lý đối với
văn bản đó phải báo cáo cơ quan, ngƣời có thẩm quyền cấp trên trực tiếp xem xét, xử lý
theo quy định).
Việc tuân thủ quy định hiện hành về vào Sổ theo dõi văn bản đến để kiểm tra và
Sổ theo dõi xử lý văn bản trái pháp luật sẽ theo dõi đƣợc các thời hạn này. Các quy
131
định này có thể bảo đảm rằng văn bản chƣa kịp có hiệu lực hoặc vừa có hiệu lực thời
gian ngắn đã đƣợc phát hiện trái pháp luật và (có thể) bị đình chỉ thi hành để chờ xử lý,
sẽ giảm thiểu tối đa thiệt hại gây ra. Quy định nhƣ vậy không có nghĩa, sau này, cơ
quan đã ban hành văn bản hoặc cơ quan có thẩm quyền kiểm tra văn bản không có
quyền tự kiểm tra hoặc kiểm tra văn bản theo thẩm quyền đối với văn bản đó nữa. Mà
thẩm quyền kiểm tra văn bản đối với văn bản đó tiếp tục trong suốt quá trình văn bản
còn hiệu lực, một cách chủ động hoặc do cơ quan, tổ chức, cá nhân phản ánh, thì sẽ
tiếp tục phát sinh hoạt động kiểm tra văn bản.
Đối với văn bản đƣợc ban hành theo thủ tục rút gọn (có thể có hiệu lực ngay
sau khi ký ban hành) cũng cần nghiên cứu, bổ sung vào trình tự, thủ tục kiểm tra văn
bản. Vì loại văn bản này đƣợc ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn trong những
trƣờng hợp đặc biệt nên về mặt quy trình, tính chất của văn bản có thể chứa đựng
nhiều nguy cơ ảnh hƣởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân
nên càng cần thiết phải thực hiện kiểm tra. Đối với loại văn bản này, cần có nghiên
cứu kỹ lƣỡng về vấn đề thời điểm, thời gian kiểm tra (có thể quy định ƣu tiên thực
hiện để thời gian tự kiểm tra, gửi văn bản, kiểm tra văn bản theo thẩm quyền ngắn hơn
các loại văn bản khác), nhằm kịp thời đảm bảo văn bản hợp hiến, hợp pháp, bảo đảm
quyền con ngƣời, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Việc xử lý
các văn bản này cũng theo trình tự thủ tục thông thƣờng. Đối với văn bản đƣợc ban
hành theo thủ tục rút gọn nhƣng thuộc có nội dung thuộc bí mật nhà nƣớc thì theo quy
định pháp luật về kiểm tra văn bản có nội dung thuộc bí mật nhà nƣớc (hiện nay là
Quyết định số 42/2009/QĐ-TTg ngày 16/3/2009 của Thủ tƣớng Chính phủ ban hành
quy định về kiểm tra, xử lý văn bản QPPL có nội dung thuộc bí mật nhà nƣớc).
Thứ hai, về thẩm quyền, trình tự, thủ tục xử lý văn bản liên tịch giữa bộ, cơ
quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện Kiểm sát
nhân dân tối cao
Cần nghiên cứu, quy định rõ thẩm quyền, trình tự, thủ tục xử lý các văn bản liên
tịch giữa bộ, cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trƣởng Viện
Kiểm sát nhân dân tối cao trong trƣờng hợp phát hiện trái pháp luật, tránh tình trạng
chung chung, khó áp dụng nhƣ hiện nay.
132
Khoản 2 Điều 122 Nghị định 34/2016/NĐ-CP quy định: “Khi kiểm tra, phát
hiện văn bản trái pháp luật, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật kết
luận kiểm tra, gửi cơ quan, người đã ban hành văn bản để xem xét, xử lý. Đối với nội
dung thuộc phạm vi quản lý nhà nước của các bộ, cơ quan ngang bộ trong Thông tư
liên tịch giữa bộ, cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao thì sau khi nhận được kết luận kiểm tra, các cơ
quan đã ban hành thông tư liên tịch phải phối hợp để xem xét, xử lý văn bản theo quy
định”; Trƣờng hợp cơ quan, ngƣời đã ban hành văn bản trái pháp luật không xử lý
hoặc Cục trƣởng Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật không nhất trí với kết quả
xử lý thì Cục trƣởng Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật báo cáo Bộ trƣởng Bộ
Tƣ pháp tiến hành xử lý theo quy định tại Điều 118 và Điều 119 của Nghị định
34/2016/NĐ-CP [31].
Khoản 4 Điều 122 Nghị định 34/2016/NĐ-CP quy định: “Trường hợp phát hiện
nội dung quy định thuộc lĩnh vực của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao trong thông tư liên tịch có dấu hiệu trái pháp luật thì Bộ trưởng Bộ Tư pháp
hoặc Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ (đối với thông tư liên tịch với Bộ
Tư pháp) kiến nghị Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao xem xét,
xử lý theo quy định của pháp luật”. [31]
Đồng thời quy định thẩm quyền của Thủ tƣớng Chính phủ “Đình chỉ việc thi
hành một phần hoặc toàn bộ nội dung trái pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước
của bộ, cơ quan ngang bộ trong thông tư liên tịch do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao ban hành, đồng thời, yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
thỏa thuận với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao cùng xử lý văn bản đó”.
Tuy nhiên, Hiến pháp năm 2013, Luật năm 2015, Nghị định 34/2016/NĐ-CP
cũng nhƣ các quy định pháp luật hiện hành chỉ quy định thẩm quyền của Thủ tƣớng
Chính phủ trong việc đình chỉ thi hành hoặc bãi bỏ văn bản QPPL của bộ trƣởng, thủ
trƣởng cơ quan ngang bộ; Đình chỉ việc thi hành một phần hoặc toàn bộ nội dung trái
pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý nhà nƣớc của bộ, cơ quan ngang bộ trong thông tƣ
133
liên tịch do Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân
tối cao, Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành mà chƣa quy định thẩm
quyền bãi bỏ phần văn bản này. Theo đó, Luật năm 2015 quy định “Quốc hội bãi bỏ
văn bản quy phạm pháp luật của … Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao… trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội”
[105] “Ủy ban thường vụ Quốc hội đình chỉ việc thi hành văn bản quy phạm pháp luật
của… Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao… trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định
việc bãi bỏ văn bản đó tại kỳ họp gần nhất; bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật của…
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao… trái
với pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội…” [105].
Rõ ràng, về thẩm quyền, trình tự, thủ tục bãi bỏ nội dung thuộc phạm vi quản lý
nhà nƣớc của bộ, cơ quan ngang bộ trong văn bản liên tịch giữa bộ, cơ quan ngang bộ
với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trƣởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
đang còn bỏ ngỏ, cần phải có nghiên cứu, giải quyết thấu đáo.
4.2.1.4. Nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung quy định về kinh phí phục vụ công tác
kiểm tra văn bản
Việc hoàn thiện các quy định liên quan đến kinh phí bảo đảm cho công tác kiểm
tra văn bản QPPL tại Thông tƣ liên tịch số 122/2011/TTLT-BTC-BTP không chỉ xuất
phát từ việc sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với Nghị định số 16/2013/NĐ-CP và Thông
tƣ số 09/2013/TT-BTP (nay là Nghị định số 34/2016/NĐ-CP), mà còn xuất phát từ
thực tiễn hết sức khó khăn về kinh phí bảo đảm trong triển khai nhiệm vụ kiểm tra, rà
soát, hệ thống hóa văn bản QPPL tại các bộ, ngành, địa phƣơng thời gian qua. Để bảo
đảm tốt hơn về kinh phí hỗ trợ cho công tác kiểm tra văn bản QPPL, Bộ Tài chính, Bộ
Tƣ pháp cũng cần xem xét, sửa đổi theo hƣớng nâng định mức chi đối với một số nội
dung chi đặc thù về kiểm tra văn bản QPPL đã đƣợc quy định tại Thông tƣ liên tịch số
122/2011/TTLT-BTC-BTP do định mức chi nhƣ hiện tại còn khá thấp và không còn
phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội (đã có rất nhiều thay đổi so với thời điểm Thông
tƣ liên tịch số 122/2011/TTLT-BTC-BTP) nên chƣa hỗ trợ tƣơng xứng với tính chất,
yêu cầu công việc dẫn đến những khó khăn cho cơ quan thực hiện kiểm tra văn bản
QPPL tại các bộ, cơ quan ngang bộ thời gian qua.
134
4.2.1.5. Ban hành văn bản quy định cụ thể làm cơ sở cho việc xem xét, xử lý
trách nhiệm đối với người, cơ quan ban hành văn bản trái pháp luật và các hành vi
vi phạm trong hoạt động kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành
Xử lý trách nhiệm đối với ngƣời, cơ quan ban hành văn bản trái pháp luật và
thực hiện các hành vi vi phạm trong kiểm tra văn bản QPPL có ý nghĩa lớn đối với quá
trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng nhƣ hiệu lực, hiệu quả của các quy
định về kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành. Việc xem xét, xử
lý trách nhiệm đối với cơ quan, ngƣời ban hành văn bản trái pháp luật hiện nay đƣợc
quy định tại Khoản 8 Điều 7 Luật năm 2015, theo đó “Người đứng đầu cơ quan, tổ
chức chủ trì soạn thảo, cơ quan thẩm định, cơ quan trình, cơ quan thẩm tra và cơ
quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình phải chịu trách nhiệm về việc không hoàn thành nhiệm vụ và tùy theo mức độ mà
bị xử lý theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức và quy định khác của pháp
luật có liên quan trong trường hợp dự thảo văn bản không bảo đảm về chất lượng,
chậm tiến độ, không bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp, tính thống nhất của văn
bản quy phạm pháp luật được phân công thực hiện” [105]. Đồng thời, đƣợc quy định
tại Điều 134 Nghị định 34/2016/NĐ-CP. Theo đó, việc xem xét trách nhiệm tập thể,
trách nhiệm cá nhân đƣợc thực hiện nhƣ sau: Cơ quan ban hành văn bản có nội dung
trái pháp luật phải tổ chức việc kiểm điểm, xác định trách nhiệm của tập thể và báo cáo
cơ quan cấp trên có thẩm quyền xem xét, quyết định theo quy định của pháp luật, đồng
thời xem xét trách nhiệm của ngƣời đứng đầu cơ quan trong việc ban hành văn bản có
nội dung trái pháp luật; Cán bộ, công chức trong quá trình tham mƣu soạn thảo, thẩm
định, thẩm tra, ban hành văn bản có nội dung trái pháp luật, tùy theo tính chất, mức độ
lỗi và nội dung trái pháp luật của văn bản, phải chịu trách nhiệm theo quy định của
pháp luật về cán bộ, công chức. Đồng thời, Điều này quy định thủ tục xử lý kỷ luật cán
bộ, công chức thực hiện theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức. [31]
Tuy nhiên, đến nay, trên thực tế hầu nhƣ vẫn chƣa có trƣờng hợp nào bị xử lý kỷ
luật vì tham mƣu soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, ban hành văn bản có nội dung trái
pháp luật. Mặc dù về mặt thủ tục có dẫn đến quy định pháp luật về cán bộ, công chức,
nhƣng các quy định về việc “tùy theo tính chất, mức độ lỗi và nội dung trái pháp luật
135
của văn bản” chƣa đƣợc định lƣợng rõ ràng, tƣơng ứng với từng loại (sau khi định
lƣợng) thì hình thức xử lý nhƣ thế nào, loại vi phạm này đƣợc tính tƣơng tự với hành vi
vi phạm nào của pháp luật về cán bộ, công chức (Luật Cán bộ, công chức 2008, Nghị
định số 34/2011/NĐ-CP ngày 17/5/2011 quy định về xử lý kỷ luật đối với công chức…)
trách nhiệm của tập thể thì xử lý theo quy định pháp luật nào… Do quy định pháp luật
về vấn đề này chƣa chi tiết, chƣa đầy đủ, vì thế, không thể thực hiện đƣợc các quy định
này trên thực tiễn, mặc dù, điều đó là rất cần thiết và có ý nghĩa.
Ngoài ra, những hành vi vi phạm pháp luật trong công tác kiểm tra, xử lý văn
bản của cơ quan, ngƣời có văn bản đƣợc kiểm tra cũng đƣợc quy định tại Điều 133
Nghị định 34/2016/NĐ-CP (nhƣ: Không gửi văn bản theo quy định; Không cung cấp
thông tin, tài liệu cần thiết cho cơ quan, ngƣời có thẩm quyền kiểm tra văn bản; Không
thực hiện việc đăng Công báo, niêm yết các văn bản quy phạm pháp luật đã đƣợc xử lý
theo quy định của pháp luật; Không tổ chức tự kiểm tra để phát hiện, xử lý văn bản trái
pháp luật do mình ban hành; Không xử lý văn bản khi có yêu cầu, kiến nghị của cơ
quan, ngƣời có thẩm quyền kiểm tra hoặc yêu cầu, kiến nghị của cơ quan, tổ chức, cá
nhân và cơ quan thông tin đại chúng; Có hành vi cản trở, gây khó khăn cho cơ quan,
ngƣời có thẩm quyền kiểm tra trong quá trình kiểm tra văn bản; Không thực hiện quyết
định của cơ quan có thẩm quyền xử lý văn bản do mình ban hành…). Theo đó, tùy theo
tính chất và mức độ của hành vi vi phạm pháp luật về kiểm tra, xử lý văn bản, cơ quan,
ngƣời có văn bản đƣợc kiểm tra phải bị xử lý theo quy định của pháp luật, nhƣng cũng
nhƣ các nội dung đã phân tích ở trên, các hành vi này vị xử lý nhƣ thế nào, mức độ nào
thì bị xử lý vẫn chƣa rõ ràng [31].
Do đó, các cơ quan có thẩm quyền cần sớm ban hành văn bản quy định chi tiết
việc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức trong việc ban hành văn bản trái pháp luật và các
vi phạm pháp luật khác trong kiểm tra văn bản QPPL.
4.2.1.6. Ban hành văn bản quy định cụ thể về chế độ khắc phục hậu quả, bồi
thường thiệt hại khi áp dụng văn bản trái pháp luật gây ra
Luật Trách nhiệm bồi thƣờng của Nhà nƣớc chỉ quy định trách nhiệm bồi
thƣờng của Nhà nƣớc đối với cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật của
ngƣời thi hành công vụ gây ra trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng, thi hành
136
án. Trong số các hành vi trái pháp luật của ngƣời thi hành công vụ gây ra quy định tại
Điều 13 Luật Trách nhiệm bồi thƣờng của Nhà nƣớc, không có hành vi nào là hành vi
ban hành văn bản QPPL trái pháp luật, Luật Ban hành văn bản QPPL 2015 cũng chƣa
có quy định về vấn đề này. Cho nên đến nay, chƣa có cơ sở pháp lý cho việc bồi
thƣờng thiệt hại do ban hành văn bản QPPL trái pháp luật gây ra.
Chúng ta đang hƣớng đến, đang xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, nơi mà quyền, lợi ích của con ngƣời đƣợc bảo đảm, nơi mà pháp luật đƣợc đƣa
lên vị trí thƣợng tôn, là công cụ để thể hiện sự công bằng, dân chủ, bình đẳng... Do đó,
cơ quan nhà nƣớc, ngƣời có thẩm quyền đã ban hành văn bản trái pháp luật thì phải
chịu trách nhiệm và đã gây thiệt hại cho đối tƣợng chịu sự tác động của nội dung sai
trái đó thì phải bồi thƣờng. Tuy nhiên, việc ban hành và đƣa vào áp dụng văn bản trái
pháp luật gây hậu quả, vấn đề khắc phục hậu quả, bồi thƣờng thiệt hại do áp dụng,
thực hiện văn bản trái pháp luật... là những vấn đề lớn, quan trọng, đƣợc nhiều cơ
quan, tổ chức, công dân quan tâm. Vì vậy, trong thời gian tới, khi Quốc hội sửa đổi, bổ
sung Luật Ban hành văn bản QPPL và Luật Trách nhiệm bồi thƣờng của Nhà nƣớc,
cần nghiên cứu, quy định trách nhiệm bồi thƣờng đối với hành vi ban hành văn bản
trái pháp luật gây thiệt hại cho cơ quan, tổ chức, cá nhân.
4.2.1.7. Hoàn thiện các quy định về kiểm tra văn bản theo các nguồn thông tin
Kiểm tra văn bản QPPL theo các nguồn thông tin ngày càng khẳng định vai trò
đối với công tác hoàn thiện pháp luật và bảo vệ lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức
và công dân. Có thể gọi đây là một trong những hình thức “kiểm soát ngoài” đối với
việc thực hiện quyền lực nhà nƣớc trong ban hành văn bản QPPL. Hiện nay, ngƣời dân
và doanh nghiệp rất quan tâm đến phƣơng thức kiểm tra văn bản này, coi đây là một
“kênh” để phản ánh và kiến nghị cơ quan, ngƣời có thẩm quyền kiểm tra, xử lý văn
bản có nội dung trái pháp luật nhằm khắc phục việc thực hiện những quy định trái gây
ra những thiệt hại cho cá nhân hay doanh nghiệp.
Để kiểm tra văn bản QPPL theo các nguồn thông tin thực sự phát huy giá trị
trên thực tiễn, đặc biệt là đồng đều tại các bộ, cơ quan ngang bộ, trong thời gian tới,
các cơ quan có thẩm quyền cần quan tâm, nghiên cứu quy định cụ thể hơn về kiểm tra
văn bản theo các nguồn thông tin theo hƣớng:
137
- Quy định rõ hơn trình tự, thủ tục kiểm tra văn bản theo các nguồn thông tin;
cơ chế phối hợp giữa cơ quan có thẩm quyền kiểm tra văn bản với cơ quan ban hành
văn bản/cơ quan có thẩm quyền kiểm tra văn bản khác và các phƣơng tiện thông tin
đại chúng;
- Nghiên cứu, bổ sung các quy định cụ thể về khen thƣởng trong công tác kiểm
tra văn bản, đặc biệt là các quy định về khen thƣởng đối với tổ chức/cá nhân phát hiện
và phản ánh về văn bản có dấu hiệu trái pháp luật.
4.2.1.8. Ban hành Bộ Tiêu chí đánh giá chất lượng kiểm tra văn bản QPPL
do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành
Để tăng cƣờng hiệu quả quản lý nhà nƣớc về kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan
ngang bộ ban hành, trƣớc hết, Bộ Tƣ pháp cần nghiên cứu, tham mƣu Thủ tƣớng
Chính phủ ban hành Bộ tiêu chí đánh giá chất lƣợng kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ
quan ngang bộ ban hành. Theo đó, các tiêu chí này phải là thƣớc đo để đánh giá đƣợc
mức độ hoàn thành nhiệm vụ kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành ở
các cơ quan có thẩm quyền kiểm tra văn bản ở các phƣơng diện nhƣ: tỷ lệ văn bản
đƣợc tự kiểm tra/kiểm tra theo thẩm quyền so với số lƣợng văn bản đã ban hành; tỷ lệ
văn bản phát hiện trái pháp luật so với số lƣợng văn bản đã đƣợc ban hành; tỷ lệ các
dạng trái pháp luật (về nội dung, thẩm quyền, thể thức…) so với số lƣợng văn bản phát
hiện trái pháp luật; tỷ lệ văn bản QPPL trái pháp luật đƣợc xử lý (tự xử lý hoặc do cơ
quan có thẩm quyền xử lý) so với số lƣợng văn bản QPPL trái pháp luật; tỷ lệ văn bản
đƣợc kiểm tra, xử lý theo đúng thời hạn, quy trình; việc công khai văn bản QPPL đã
đƣợc kiểm tra và phát hiện trái pháp luật hay không trái pháp luật… Mức kinh phí
đƣợc cấp phục vụ kiểm tra văn bản so với nhu cầu; Việc ban hành văn bản cụ thể hóa
kiểm tra văn bản tại bộ, cơ quan ngang bộ… Bộ Tiêu chí này sẽ là công cụ để đánh giá
khách quan, toàn diện, chính xác các kết quả của kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang
bộ ban hành, từ đó có cái nhìn tổng thể và giúp cho cơ quan có thẩm quyền có giải pháp
hoặc kiến nghị các giải pháp nhằm nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả, chất lƣợng của
kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành trên thực tiễn.
4.2.1.9. Bổ sung quy định về thẩm quyền tự kiểm tra văn bản quy phạm pháp
luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
Văn bản QPPL của Chính phủ thƣờng là căn cứ pháp lý trực tiếp, chủ yếu để
bộ, cơ quan ngang bộ ban hành văn bản QPPL quy định chi tiết các điều, khoản, điểm
138
đƣợc giao. Trƣờng hợp văn bản QPPL của Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ bất hợp
Hiến, bất hợp pháp sẽ dễ dàng dẫn đến văn bản của bộ, cơ quan ngang bộ, kéo theo đó
là văn bản QPPL của các cấp chính quyền địa phƣơng sẽ không hợp hiến, hợp pháp.
Ngoài ra, văn bản làm cơ sở pháp lý để kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban
hành (Luật, Nghị định), trong nhiều trƣờng hợp có nội dung chƣa đảm bảo tính hợp
pháp, hợp lý (nhất là tính hợp lý), gây khó khăn cho các bộ, cơ quan ngang bộ trong
việc quy định chi tiết để tổ chức thực hiện. Tuy nhiên, chƣa có quy định cụ thể về việc
Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ tự kiểm tra, xử lý văn bản QPPL do mình ban hành.
Hiện nay, Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội, Luật năm 2015 đều quy
định văn bản của Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ phải chịu sự giám sát của các cơ
quan có thẩm quyền, và có thể bị đình chỉ việc thi hành, bị bãi bỏ bởi Quốc hội, Ủy
ban thƣờng vụ Quốc hội. Nhƣ vậy, về mặt quy định thẩm quyền cũng nhƣ trình tự, thủ
tục, thì văn bản do Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ ban hành chịu sự giám sát từ
nhiều chủ thể khác nhau và bị xử lý khi phát hiện bất hợp hiến, bất hợp pháp. Cho đến
nay, chƣa có trƣờng hợp văn bản QPPL nào của Chính phủ hay Thủ tƣớng Chính phủ
bị xử lý, tuy nhiên, về phía mình, Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ cần phải có cơ chế
tự kiểm tra, tự giám sát văn bản QPPL do mình ban hành.
Thực tế thời gian qua cũng có một số nghị định của Chính phủ đƣợc cho là có
dấu hiệu bất hợp pháp, tuy nhiên, cũng chẳng có cơ quan nào xem xét, xử lý, đồng
thời, cũng chƣa có quy định về việc tự kiểm tra, kiến nghị Chính phủ tự xử lý. Chẳng
hạn, thời gian vừa qua, báo chí và dƣ luận xã hội cũng có những ý kiến đa chiều về
Nghị định số 105/2012/NĐ-CP của Chính phủ về tổ chức tang lễ cán bộ, công chức,
viên chức. Theo đó, một số quy định của Nghị định này đƣợc cho là chƣa hợp lý, chƣa
khả thi và trái thẩm quyền, nhƣ việc quy định “linh cữu của ngƣời từ trần quàn tại nhà
tang lễ hoặc tại gia đình không để ô cửa có lắp kính trên nắp quan tài” [27]. Một số nội
dung của Nghị định đƣợc hiểu là giao thẩm quyền, trách nhiệm cho các cơ quan, tổ
chức, cá nhân cấp cao của Đảng, Nhà nƣớc nhƣ giao trách nhiệm cho Ban Chấp hành
Trung ƣơng, Quốc hội, Chủ tịch nƣớc… thông báo về lễ quốc tang; quy định Bộ Chính
trị quyết định thành lập ban tang lễ Nhà nƣớc; quy định trƣởng ban lễ tang Nhà nƣớc
là Tổng bí thƣ; quy định Ban tổ chức Trung ƣơng, Ban Tuyên giáo Trung ƣơng có
139
trách nhiệm, thẩm quyền ban hành các văn bản về lễ quốc tang… Thông thƣờng, một
số văn bản nếu quy định về vấn đề này đều lựa chọn phƣơng thức dẫn chiếu, dẫn chỉ
hoặc có cách quy định mềm nhƣ “thực hiện theo quy định của Bộ Chính trị về thành
lập Ban tang lễ Nhà nƣớc”… mà không lựa chọn cách quy định giao thẩm quyền, trách
nhiệm trực tiếp nhƣ trong Nghị định.
Về chủ thể, cần nghiên cứu, quy định giao cho một cơ quan thực hiện việc tự
kiểm tra văn bản QPPL do Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ ban hành. Thực tế, nếu
giao Bộ Tƣ pháp thực hiện nhiệm vụ này thì sẽ có sự kết nối, liên thông giữa hoạt
động thẩm định văn bản QPPL với hoạt động tự kiểm tra văn bản QPPL do Chính phủ,
Thủ tƣớng Chính phủ ban hành. Hơn nữa, với chức năng “gác cửa” cho Chính phủ về
các vấn đề liên quan đến văn bản QPPL, thì việc giao cho Bộ Tƣ pháp là phù hợp. Về
nội dung tự kiểm tra, cần quy định việc kiểm tra cả tính hợp lý, tính khả thi của văn
bản. Đồng thời, giống nhƣ một cách tự kiểm soát quyền lực, nên chăng, cần nghiên
cứu việc tự kiểm tra cả văn bản hành chính do Thủ tƣớng Chính phủ ban hành trong
trƣờng hợp có phản ánh, kiến nghị.
4.2.2. Tăng cƣờng các điều kiện bảo đảm phục vụ kiểm tra văn bản do bộ,
cơ quan ngang bộ ban hành
4.2.2.1. Củng cố tổ chức, tăng cường biên chế chuyên trách kiểm tra văn bản
tại bộ, cơ quan ngang bộ; nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ,
công chức làm công tác xây dựng, ban hành, kiểm tra văn bản; sắp xếp lại đội ngũ
cán bộ đang làm công tác kiểm tra văn bản theo hướng chuyên môn hóa trong kiểm
tra văn bản; tăng cường tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ kiểm tra văn bản
Trong các điều kiện bảo đảm cho kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban
hành, yếu tố về tổ chức, biên chế chiếm vai trò quan trọng trong việc triển khai có hiệu
quả nhiệm vụ này trên thực tiễn của bộ, cơ quan ngang bộ. Cho đến thời điểm hiện tại,
mặc dù các cơ quan có thẩm quyền kiểm tra văn bản cơ bản đã quan tâm, thành lập tổ
chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra văn bản (trong đó có kiểm tra văn bản QPPL do bộ,
cơ quan ngang bộ ban hành), bố trí biên chế, kinh phí và các điều kiện bảo đảm khác
phục vụ hoạt động này… nhƣng vấn đề về tổ chức, biên chế tại các cơ quan kiểm tra
văn bản hiện nay vẫn cần tiếp tục đƣợc củng cố và hoàn thiện.
140
Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật là đơn vị thuộc Bộ Tƣ pháp có chức
năng tham mƣu, giúp Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp quản lý nhà nƣớc về công tác kiểm tra, rà
soát, hệ thống hoá, hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy
phạm pháp luật; thực hiện kiểm tra văn bản QPPL thuộc thẩm quyền kiểm tra của Bộ
trƣởng Bộ Tƣ pháp; tổ chức thực hiện rà soát, hệ thống hoá, hợp nhất văn bản QPPL,
pháp điển hệ thống QPPL theo quy định của pháp luật. Thời gian tới, Cục Kiểm tra
văn bản QPPL, Bộ Tƣ pháp cần phải đƣợc hoàn thiện theo hƣớng: (i) Về cơ cấu tổ
chức, trên cơ sở quan điểm, định hƣớng về chuyên môn hóa, chuyên sâu trong kiểm tra văn
bản (theo ngành, lĩnh vực), cần bố trí tại Cục Kiểm tra văn bản QPPL 03 phòng thực hiện
chức năng kiểm tra văn bản theo các ngành, lĩnh vực khác nhau; (ii) Về số lƣợng biên chế,
trên cơ sở kiện toàn tổ chức bộ máy theo hƣớng nhƣ đã nêu trên, để có thể bố trí đủ
công chức vào từng vị trí công tác chuyên môn, Cục Kiểm tra văn bản cần phải đƣợc
phân bổ 50 - 60 biên chế, riêng mảng kiểm tra văn bản phải đƣợc bố trí từ 25-30 biên
chế. Đồng thời, mỗi phòng cần kiện toàn, sắp xếp việc phụ trách kiểm tra, xử lý văn
bản QPPL theo từng nhóm lĩnh vực kết hợp với cơ quan ban hành văn bản trên lĩnh
vực đó; chịu trách nhiệm đối với toàn bộ quy trình kiểm tra, xử lý văn bản; kết nối và
giữ mối liên lạc thông suốt với tổ chức pháp chế các bộ, cơ quan ngang bộ, sở tƣ pháp
các địa phƣơng và đội ngũ cộng tác viên kiểm tra văn bản về nhóm lĩnh vực đó.
Các bộ, cơ quan ngang bộ cần có sự quan tâm thích đáng nhằm củng cố, bố trí
đủ công chức có năng lực, trình độ và phẩm chất làm công tác kiểm tra văn bản do bộ,
cơ quan ngang bộ ban hành, đặc biệt là bố trí đủ số biên chế chuyên trách theo quy
định. Cùng với nhiệm vụ rà soát, có thể thành lập Phòng Kiểm tra, rà soát VBQPPL
thuộc Vụ Pháp chế nhằm tạo điều kiện chuyên môn hóa công tác kiểm tra văn bản,
tăng cƣờng khả năng độc lập tổ chức công việc, nâng cao hiệu quả và phát huy vai trò
của công tác này trên thực tế. Bên cạnh đó, để việc kiểm tra văn bản đƣợc chuyên môn
hóa, cần phải có sự phân công cụ thể việc kiểm tra văn bản theo lĩnh vực, địa bàn, xây
dựng cơ sở dữ liệu, xây dựng và quản lý đội ngũ cộng tác viên... để công tác kiểm tra
đƣợc thực hiện có hiệu quả.
Trong quá trình hoàn thiện, củng cố tổ chức, biên chế thực hiện công tác kiểm
tra văn bản tại Bộ Tƣ pháp và các bộ, cơ quan ngang bộ khác, cần kết hợp tổ chức bộ
141
phận (“kênh”) tiếp nhận và xử lý thông tin phục vụ công tác kiểm tra văn bản. Việc tổ
chức “kênh” tiếp nhận phản ánh, kiến nghị của cơ quan, tổ chức, cá nhân về văn bản
có dấu hiệu trái pháp luật (phục vụ kiểm tra văn bản QPPL theo các nguồn thông tin)
tại các bộ, cơ quan ngang bộ là hết sức quan trọng. Theo đó, cùng với các nội dung
khác, việc cung cấp thông tin và trao đổi thông tin, tài liệu hai chiều giữa cơ quan
kiểm tra văn bản và ngƣời/cơ quan phản ánh văn bản có dấu hiệu trái pháp luật là nội
dung chủ yếu. Điều này cần đƣợc nghiên cứu, cụ thể hóa và có hƣớng dẫn cụ thể,
“kênh” này đƣợc tổ chức, vận hành theo cơ chế rõ ràng, minh bạch, theo hƣớng thành
lập bộ phận chuyên trách thực hiện nhiệm vụ tiếp nhận các nguồn thông tin, bố trí biên
chế có kinh nghiệm, trình độ, bản lĩnh để thực hiện nhiệm vụ này. Bên cạnh việc củng
cố, hoàn thiện tổ chức, biên chế, các cơ quan có thẩm quyền kiểm tra văn bản do bộ,
cơ quan ngang bộ ban hành cần tiếp tục chú trọng đào tạo, bồi dƣỡng, nâng cao trình
độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ, công chức làm công tác xây dựng, ban hành,
kiểm tra văn bản; sắp xếp lại đội ngũ cán bộ đang làm công tác kiểm tra văn bản theo
hƣớng chuyên môn hóa trong kiểm tra văn bản. Đồng thời, tăng cƣờng tập huấn,
hƣớng dẫn nghiệp vụ kiểm tra văn bản cho đội ngũ này.
4.2.2.2. Xây dựng và củng cố đội ngũ cộng tác viên và khai thác hiệu quả đội
ngũ cộng tác viên kiểm tra, rà soát văn bản QPPL
Nhằm thu hút và tổ chức, quản lý đội ngũ cộng tác viên, cơ quan kiểm tra văn
bản phải xây dựng đƣợc các quy định cụ thể về tài chính, cơ chế giao văn bản, nhận
kết quả kiểm tra, thẩm quyền và trách nhiệm của các cơ quan kiểm tra, xác định rõ
quyền và nghĩa vụ của cộng tác viên… Cụ thể:
- Về cơ chế giao văn bản - nghiệm thu kết quả kiểm tra văn bản: Phân công
công chức chuyên trách giúp lãnh đạo cơ quan kiểm tra quản lý đội ngũ cộng tác viên.
Hình thức giao, nhận văn bản kiểm tra có thể sử dụng đồng thời hai hình thức giao
nhận trực tiếp và gián tiếp: Trực tiếp giao cho cộng tác viên tại trụ sở cơ quan kiểm tra
văn bản; gián tiếp qua thƣ điện tử, qua phần mềm hỗ trợ nghiệp vụ (sau khi đƣợc nâng
cấp và mở rộng diện sử dụng đến đối tƣợng là cộng tác viên). Đối với việc nghiệm thu
kết quả kiểm tra của cộng tác viên, chuyên viên chuyên trách sẽ nghiệm thu kết quả
kiểm tra của cộng tác viên.
142
- Về việc hƣớng dẫn nghiệp vụ, tạo điều kiện cộng tác cho cộng tác viên: Việc
hƣớng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ về kiểm tra văn bản cần đƣợc tổ chức hàng năm
cho những cộng tác viên nhằm nâng cao chất lƣợng kiểm tra văn bản. Việc tổ chức
hƣớng dẫn cộng tác viên có thể kết hợp với bồi dƣỡng nghiệp vụ cho công chức kiểm
tra văn bản. Ngoài ra, cần cung cấp thông tin, các chính sách pháp luật cho cộng tác
viên và tạo điều kiện để họ tiếp cận hệ thống cơ sở dữ liệu dƣới nhiều hình thức khác
nhau, cung cấp một số tài liệu cần thiết khác phục vụ cho công tác kiểm tra văn bản
theo yêu cầu cộng tác viên.
4.2.2.3. Tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ quan có liên quan trong
kiểm tra, xử lý văn bản
Việc phối hợp cần đƣợc chú trọng thực hiện tốt cả trong nội bộ các cơ quan có
thẩm quyền kiểm tra văn bản; giữa các cơ quan kiểm tra văn bản với nhau, với cơ quan
có văn bản đƣợc kiểm tra và với các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan
(phƣơng tiện truyền thông, ngƣời phản ánh về văn bản có dấu hiệu trái pháp luật…).
Tại các cơ quan kiểm tra văn bản, đó là sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị trực
thuộc bộ, cơ quan ngang bộ nhằm thực hiện tốt công tác kiểm tra theo thẩm quyền, tự
kiểm tra kiểm tra văn bản theo lĩnh vực phụ trách dƣới sự theo dõi, đôn đốc của cơ
quan đầu mối là tổ chức pháp chế; tham gia đoàn công tác liên ngành về kiểm tra văn
bản khi có yêu cầu; tạo điều kiện cho công chức tham gia làm cộng tác viên kiểm tra
văn bản; phối hợp trong các hoạt động khác theo Nghị định 34/2016/NĐ-CP. Giữa cơ
quan có thẩm quyền kiểm tra văn bản và các cơ quan có liên quan cần có sự phối hợp
chặt chẽ, chia sẻ thông tin kịp thời trong công tác kiểm tra văn bản: phối hợp kiểm tra
văn bản (kiểm tra văn bản liên tịch, họp trao đổi, thảo luận về văn bản có dấu hiệu trái
pháp luật, cử đại diện tham gia đoàn kiểm tra văn bản liên ngành…), thẩm tra kết quả
kiểm tra, tiến hành các hoạt động nhằm tham mƣu việc xử lý văn bản trái pháp luật
cho cơ quan, ngƣời có thẩm quyền xử lý văn bản…
Ngoài ra, có một sự phối hợp khác khá quan trọng, đó là phối hợp giữa các cơ
quan kiểm tra văn bản với các phƣơng tiện thông tin đại chúng trong hoạt động kiểm
tra văn bản. Để khai thác hiệu quả tác động của các phƣơng tiện thông tin đại chúng
với công tác kiểm tra văn bản, các cơ quan kiểm tra văn bản phải có quy định cụ thể
143
nhằm tăng cƣờng hơn nữa mối quan hệ phối hợp với các phƣơng tiện thông tin đại
chúng trong: cung cấp thông tin về văn bản có dấu hiệu trái pháp luật; đƣa tin về tình
hình, kết quả xử lý văn bản trái pháp luật; phổ biến, tuyên truyền quy định của pháp
luật về kiểm tra văn bản và kiểm tra văn bản theo các nguồn thông tin…
4.2.2.4. Xây dựng, hoàn thiện Cơ sở dữ liệu phục vụ công tác kiểm tra, rà
soát, hệ thống hóa văn bản thật sự chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
Trách nhiệm về xây dựng, hoàn thiện thiện Cơ sở dữ liệu phục vụ công tác
kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản đã đƣợc quy định tại Nghị định 40/2010/NĐ-
CP (trƣớc đó là Nghị định số 135/2003/NĐ-CP) và Điều 15 Thông tƣ số 20/2010/TT-
BTP. Việc xây dựng Cơ sở dữ liệu phục vụ công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa
văn bản tiếp tục đƣợc quy định tại Điều 178 Nghị định 34/2016/NĐ-CP, theo đó, Cơ
sở dữ liệu phục vụ công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản bao gồm các tài
liệu bằng văn bản, đƣợc phân loại, sắp xếp một cách khoa học và tin học hóa để thống
nhất quản lý, tra cứu, sử dụng. Cơ sở dữ liệu phục vụ công tác kiểm tra, rà soát, hệ
thống hóa văn bản gồm (i) Văn bản phục vụ kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa; (ii) Hồ sơ
rà soát văn bản theo quy định tại Điều 152 của Nghị định 34/2016/NĐ-CP; (iii) Kết
quả hệ thống hóa văn bản; (iv) Kết quả kiểm tra và xử lý văn bản; các thông tin về
nghiệp vụ kiểm tra; (v) Các tài liệu khác có liên quan.
Nghị định 34/2016/NĐ-CP cũng quy định bộ, cơ quan ngang bộ có trách nhiệm
tổ chức mạng lƣới thông tin, cập nhật và quản lý cơ sở dữ liệu phục vụ cho việc kiểm
tra, xử lý văn bản trong bộ, cơ quan ngang bộ. Căn cứ vào trách nhiệm đƣợc giao, tổ
chức pháp chế các bộ, cơ quan ngang bộ, có nhiệm vụ tổng hợp, biên tập, cập nhật,
xây dựng hệ cơ dữ liệu hoàn chỉnh của cơ quan mình. Các kết quả kiểm tra, thông tin
về nghiệp vụ kiểm tra, các thông tin tài liệu khác cũng phải đƣợc thƣờng xuyên cập
nhật, tạo điều kiện cho ngƣời kiểm tra văn bản tham khảo, nâng cao trình độ, kỹ năng
nghiệp vụ. Các bộ, cơ quan ngang bộ cần quan tâm tập trung bố trí về nhân lực, vật lực
cho công tác xây dựng hệ cơ sở dữ liệu phục vụ cho công tác kiểm tra văn bản. Tuy
nhiên, cho đến nay, hầu nhƣ chƣa có bộ, cơ quan ngang bộ nào đã xây dựng đƣợc cho
cơ quan mình Cơ sở dữ liệu phục vụ công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản
một cách chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
144
4.2.2.5. Tăng cường kinh phí và các điều kiện bảo đảm khác phục vụ công
tác kiểm tra văn bản
Dựa trên các quy định của pháp luật, khi lập dự toán ngân sách hàng năm, ngoài
việc lập dự toán bảo đảm hoạt động thƣờng xuyên của cơ quan theo quy định hiện
hành, căn cứ vào yêu cầu công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, các cơ quan,
đơn vị lập dự toán kinh phí hỗ trợ cho công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật
tổng hợp chung vào dự toán ngân sách hàng năm gửi cơ quan có thẩm quyền phê
duyệt. Đối với các tổ chức pháp chế không phải là đơn vị dự toán, hàng năm, tổ chức
pháp chế phải căn cứ vào các nội dung kinh phí hỗ trợ cho công tác kiểm tra văn bản
quy định tại Thông tƣ liên tịch số 122/2011/TTLT-BTC-BTP và kế hoạch kiểm tra
đƣợc phê duyệt, lập dự toán kinh phí hỗ trợ cho công tác kiểm tra văn bản gửi bộ phận
tài chính của cơ quan mình để tổng hợp chung vào dự toán kinh phí của cơ quan theo
quy định. Hoạt động kiểm tra văn bản bao gồm nhiều nội dung chi khác nhau và có thể
thay đổi thƣờng xuyên, phụ thuộc vào số lƣợng văn bản QPPL đƣợc ban hành nên các
cấp, các ngành cần linh hoạt bổ sung kinh phí kịp thời cho công tác này. Ngoài ra, các
bộ, cơ quan ngang bộ cần tổ chức khảo sát về thực trạng trụ sở, các trang thiết bị làm
việc, từ đó xây dựng kế hoạch tổng thể yêu cầu các cấp, các ngành thuộc phạm vi quản
lý trang bị máy móc, trang thiết bị… phục vụ công tác kiểm tra văn bản, tiến hành tin
học hóa công tác kiểm tra văn bản. Đồng thời, cần chú trọng đầu tƣ kinh phí, nhân lực,
cơ sở vật chất phục vụ việc xây dựng Hệ cơ sở dữ liệu phục vụ công tác kiểm tra văn
bản nhƣ đã nói ở trên.
4.2.3. Nghiên cứu, giao thẩm quyền cho Tòa hành chính - Tòa án nhân dân
Tối cao xem xét, xử lý văn bản quy phạm pháp luật do bộ, cơ quan ngang bộ ban
hành có nội dung bất hợp hiến, bất hợp pháp
Ở Việt Nam, việc ra đời Tòa hành chính nằm trong hệ thống Tòa án nhân dân
(theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1995) là một bƣớc tiến quan trọng trong quá
trình phát huy dân chủ, tăng cƣờng pháp chế xã hội chủ nghĩa, đổi mới tổ chức và hoạt
động của hệ thống cơ quan tƣ pháp… Tuy nhiên, Tòa hành chính hiện nay chƣa đảm nhận
chức năng phán quyết về tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản QPPL. Kinh nghiệm của
các quốc gia có thể có ý nghĩa đối với việc nghiên cứu, trao thẩm quyền cho Tòa hành
145
chính - Tòa án nhân dân tối cao xem xét, xử lý văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ
ban hành ở Việt Nam hiện nay. Chủ trƣơng “xây dựng cơ chế phán quyết về những vi
phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp”[66] tại Nghị quyết
49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm
2020 và tiếp tục đƣợc khẳng định tại Đại hội Đảng Toàn quốc lần thứ XI “Tiếp tục xây
dựng, từng bước hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong
các hoạt động và quyết định của cơ quan công quyền”[68], bên cạnh đó, Nghị quyết
số 900/UBTVQH11 ngày 21/3/2007 của Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội về Kế hoạch
thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lƣợc
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hƣớng đến
năm 2020 (giai đoạn 2007-2012) đã đề ra nhiệm vụ “Nghiên cứu xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về giám sát tối cao của Quốc hội và cơ chế bảo vệ Hiến pháp. Xây
dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến và hợp pháp trong các
hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền, có cơ chế phán quyết và xử lý
những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp” [137] thể
hiện quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nƣớc ta về vấn đề này. Nhƣ vậy, bên cạnh
việc nghiên cứu, thiết lập một cơ chế hữu hiệu để thực hiện chức năng bảo hiến nói
chung, thì rất cần thiết nghiên cứu, trao thẩm quyền cho Tòa hành chính - Tòa án nhân
dân Tối cao kiểm tra và xử lý văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành, đây
cũng chính là việc giám sát tƣ pháp của Tòa án đối với các cơ quan hành pháp. Đồng
thời, phù hợp với chủ trƣơng “mở rộng thẩm quyền xét xử của tòa án đối với các khiếu
kiện hành chính…”[66] tại Nghị quyết số 49-NQ/TW. Khi nghiên cứu nhằm thiết lập
mô hình bảo hiến phù hợp với Việt Nam cần đặt trong mối quan hệ tổng thể giữa các
nhiệm vụ của cơ quan bảo hiến này với thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong việc xem
xét, xử lý văn bản QPPL trái pháp luật. Chẳng hạn, văn bản QPPL do Quốc hội, Ủy ban
thƣờng vụ Quốc hội, Chủ tịch nƣớc, Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ, Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành thì chịu sự xem xét, phán quyết về tính hợp hiến
hợp pháp của cơ quan bảo hiến. Còn văn bản do cấp bộ, cơ quan ngang bộ và các cấp
chính quyền địa phƣơng thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân.
Nếu theo mô hình này, văn bản QPPL sẽ đƣợc xem xét, kiểm tra, xử lý dƣới các
góc độ sau:
146
Một là, văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành có thể bị khởi kiện
bởi cơ quan, tổ chức, cá nhân khi họ cho rằng, văn bản QPPL có ảnh hƣởng đến quyền
và lợi ích hợp pháp của mình; hoặc bất kỳ lúc nào, khi có cơ sở cho rằng, văn bản do
bộ, cơ quan ngang bộ ban hành có dấu hiệu trái pháp luật thì cơ quan, tổ chức, cá nhân
sẽ thực hiện việc khởi kiện đến Tòa án đối với văn bản đó. Trên cơ sở khởi kiện này,
Tòa hành chính - Tòa án nhân dân tối cao sẽ xem xét, có kết luận về tính hợp hiến, hợp
pháp của văn bản.
Hai là, khi có cơ sở cho rằng, quyết định hành chính hay hành vi hành chính
của cơ quan, cán bộ, công chức nhà nƣớc áp dụng đối với mình dựa trên cơ sở một văn
bản QPPL trái pháp luật, thì đối tƣợng chịu áp dụng có thể khởi kiện quyết định, hành
vi đó ra Tòa hành chính. Trên cơ sở xem xét quyết định hành chính, hành vi hành
chính đó và các văn bản QPPL làm căn cứ để ban hành, Tòa hành chính sẽ phán quyết
về tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản QPPL làm căn cứ cho việc ban hành quyết
định hành chính hoặc hành vi hành chính. Ở trƣờng hợp này, rõ ràng quyết định hành
chính hay hành vi hành chính cụ thể không hề trái pháp luật (phù hợp với văn bản
QPPL làm căn cứ để ban hành quyết định hành chính, hành vi hành chính), tuy nhiên,
văn bản QPPL làm căn cứ để cơ quan, ngƣời có thẩm quyền ban hành quyết định hành
chính, hành vi hành chính lại trái pháp luật, dẫn đến quyền lợi của đối tƣợng chịu sự
áp dụng bị ảnh hƣởng. Vì thế, qua xem xét một vụ việc cụ thể để có phán quyết về
tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản QPPL là hợp lý, góp phần bảo đảm quyền lợi cho
cơ quan, tổ chức và công dân, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp
luật, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở kết luận về tính hợp pháp của văn bản QPPL, tùy từng trƣờng hợp,
Tòa hành chính - Tòa án nhân dân Tối cao có thể đình chỉ việc thi hành văn bản QPPL
do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành, yêu cầu cơ quan đã ban hành văn bản tự kiểm tra, xử
lý trong một khoảng thời hạn nhất định, trƣờng hợp không xử lý hoặc xử lý không đúng
yêu cầu, Tòa án nhân dân tối cao có thẩm quyền bãi bỏ văn bản QPPL đó và xem xét
tính chất, mức độ thiệt hại đã gây cho đối tƣợng chịu sự tác động của văn bản mà phán
quyết về mức độ thiệt hại và khoản cụ thể để bồi thƣờng.
147
KẾT LUẬN CHƢƠNG 4
Nghiên cứu, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm tra văn bản QPPL do
bộ, cơ quan ngang bộ ban hành cần quán triệt theo hƣớng: Nâng cao hiệu quả cơ chế
kiểm soát quyền lực trong Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam XHCN; đảm bảo tính
thống nhất, đồng bộ, hợp hiến, hợp pháp và khả thi của hệ thống pháp luật; nâng cao
hiệu quả điều chỉnh pháp luật, phát huy dân chủ và công bằng xã hội; tăng cƣờng pháp
chế trong xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Trên cơ sở đó, để nâng
cao hiệu quả công tác này, các giải pháp phải đƣợc thực hiện tƣơng đối đồng bộ, đó là,
hoàn thiện các quy định hiện hành về kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật do
bộ, cơ quan ngang bộ ban hành; đề xuất nghiên cứu, ban hành văn bản quy định cụ thể
về chế độ bồi thƣờng khi áp dụng văn bản trái pháp luật gây hậu quả và nghiên cứu,
giao thẩm quyền cho Tòa hành chính - Tòa án nhân dân tối cao xem xét, xử lý văn bản
QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành có nội dung bất hợp hiến, bất hợp pháp. Bên
cạnh đó, tăng cƣờng các điều kiện bảo đảm phục vụ công tác kiểm tra văn bản QPPL
cũng đƣợc coi là giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan
ngang bộ ban hành. Trong đó, việc sắp xếp, củng cố lại tổ chức, biên chế Cục Kiểm tra
văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tƣ pháp và tổ chức pháp chế các bộ, cơ quan ngang
bộ là vấn đề quan trọng, có tác động đến hiệu quả tổ chức triển khai kiểm tra văn bản
QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành.
148
KẾT LUẬN
Kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành chiếm vị trí quan
trọng trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật của Nhà nƣớc pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, việc nghiên cứu đánh giá về kiểm tra văn bản QPPL
do bộ, cơ quan ngang bộ không nhiều, vì thế, rất cần thiết phải có nghiên cứu một cách
toàn diện, tổng thể các vấn đề về kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành ở
Việt Nam hiện nay, đánh giá, đƣa ra đƣợc những giải pháp quan trọng, phù hợp với
thực tiễn để hoạt động này ngày càng có hiệu quả, đi vào chiều sâu, góp phần xây
dựng hệ thống pháp luật công bằng, dân chủ, công khai, minh bạch, khả thi. Đồng
thời, góp phần thực hiện chủ trƣơng kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nƣớc
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tƣ pháp. Với mục tiêu trên,
Luận án đã giải quyết các vấn đề sau:
Một là, về mặt lý luận, Luận án đã nghiên cứu, đề cập đến những vấn đề lý luận
cơ bản nhất của kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành. Từ vấn đề
nhận thức đƣợc tầm quan trọng của kiểm tra loại văn bản này, đến thẩm quyền, nội
dung, phƣơng thức, cách thức tổ chức thực hiện, các yếu tố tác động và các điều kiện
bảo đảm cho kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành… đều đƣợc
phân tích, tiếp cận khá sâu sắc, góp phần soi sáng cho các vấn đề thực tiễn.
Hai là, nghiên cứu, phân tích, đánh giá sâu sắc về thực trạng nhằm nêu bật
đƣợc những mặt tích cực, những mặt còn hạn chế của kiểm tra văn bản QPPL do bộ,
cơ quan ngang bộ ban hành làm cơ sở cho những đề xuất giải pháp cụ thể. Phần này
đƣợc đánh giá tƣơng đối toàn diện, tổng thể các mặt của kiểm tra văn bản do bộ, cơ
quan ngang bộ ban hành với các nội dung tích cực, nhƣ đã tổ chức đƣợc hệ thống cơ
quan kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành tại Bộ Tƣ pháp và các bộ, cơ
quan ngang bộ; đã kiểm tra, xử lý hoặc tham mƣu cơ quan có thẩm quyền xử lý nhiều
văn bản trai pháp luật; kinh phí, cơ sở vật chất; các phƣơng thức kiểm tra văn bản
đƣợc sử dụng tƣơng đối đồng đều; tác động tích cực đối với xã hội đƣợc thể hiện khá
rõ nét… Tuy nhiên, thực trạng kiểm tra văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành ở
Việt Nam hiện nay còn nhiều hạn chế, bất cập, cách thức tổ chức kiểm tra còn chƣa
tuân thủ nghiêm quy định về kiểm tra văn bản; biên chế kiểm tra văn bản còn thiếu và
trình độ chuyên môn, kinh nghiệm thực tiễn chƣa đồng đều…
149
Ba là, Luận án đã đƣa ra phƣơng hƣớng và các giải pháp tƣơng đối đồng bộ,
toàn diện nhằm khắc phục các hạn chế, phát huy các tích cực của kiểm tra văn bản
QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành, nhƣ: Hoàn thiện các quy định hiện hành về
kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành, chú
trọng tăng thẩm quyền cho cơ quan/ngƣời có thẩm quyền kiểm tra văn bản; nghiên
cứu, giao thẩm quyền cho Tòa hành chính, Tòa án nhân dân tối cao xem xét, xử lý văn
bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành có nội dung bất hợp hiến, bất hợp pháp
là giải pháp mang tính đột phá; tăng cƣờng các điều kiện bảo đảm phục vụ công tác
kiểm tra văn bản QPPL, trong đó, cần củng cố tổ chức, tăng cƣờng biên chế chuyên
trách kiểm tra văn bản tại Bộ, cơ quan ngang Bộ; nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ của cán bộ, công chức làm công tác xây dựng, ban hành, kiểm tra văn bản;
sắp xếp lại đội ngũ cán bộ đang làm công tác kiểm tra văn bản theo hƣớng chuyên
môn hóa trong kiểm tra văn bản; tăng cƣờng tập huấn, hƣớng dẫn nghiệp vụ kiểm tra
văn bản...; xây dựng và củng cố đội ngũ cộng tác viên và khai thác hiệu quả đội ngũ
cộng tác viên kiểm tra, rà soát văn bản QPPL; tăng cƣờng công tác phối hợp giữa các
cơ quan có liên quan trong kiểm tra, xử lý văn bản; xây dựng, hoàn thiện Hệ cơ sở dữ
liệu phục vụ công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản thật sự chuyên nghiệp,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; tăng cƣờng kinh phí và các điều kiện bảo đảm khác phục
vụ công tác kiểm tra văn bản… đƣợc coi là những giải pháp quan trọng về điều kiện
bảo đảm phục vụ kiểm tra văn bản QPPL do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành./.
150
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
1. Lê Thị Uyên, 2007, "Thực trạng năng lực trong công tác kiểm tra văn bản
QPPL thời gian qua", Tạp chí Dân chủ và pháp luật;
2. Lê Thị Uyên và Phan Hoàng Ngọc, 2009, "Kết quả kiểm tra văn bản về xây
dựng và kiểm tra văn bản văn bản QPPL do địa phƣơng ban hành", Tạp chí Dân chủ
và pháp luật;
3. Lê Thị Uyên và Lê Hồng Sơn, 2010, "Một số nội dung cơ bản của Nghị định
số 40/2010/NĐ-CP của Chính phủ về công tác kiểm tra, xử lý văn bản QPPL", Tạp chí
Dân chủ và pháp luật;
4. Lê Thị Uyên, 2014, "Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm tra văn bản
QPPL theo các nguồn thông tin", Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (số tháng 12);
5. Lê Thị Uyên, 2015, "Hoạt động kiểm tra văn bản QPPL: xử lý trách nhiệm
đối với ngƣời, cơ quan ban hành văn bản QPPL trái pháp luật, các hành vi vi phạm
trong hoạt động kiểm tra văn bản QPPL và khắc phục hậu quả do áp dụng văn bản
QPPL trái pháp luật gây ra", Tạp chí Dân chủ và Pháp luật điện tử, ngày 09/4/2015.
151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Ann Seidman, Robert B. Seidman và Nalin Abeysekere, Soạn thảo luật pháp vì
tiến bộ xã hội dân chủ - Sổ tay cho nhà soạn thảo, Kluwer Law International
The Hague - London- Boston. Do ThS. Nguyễn Duy Hƣng, ThS. Lƣu Tiến
Dũng và ThS. Nguyễn Khánh Ngọc dịch
[2] TS. Nguyễn Hoàng Anh, Toà Hiến pháp, Toà Hành chính và vai trò đảm bảo
tính thống nhất của pháp luật, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp
[3] TS. Vũ Hồng Anh (2008), Về tiêu chí xác định và thẩm quyền ban hành văn bản
quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước, Tạp chí Luật học, số 2.
[4] Bộ Tài chính, Bộ Tƣ pháp, Thông tư liên tịch số 122/2011/TTLT-BTC-BTP, ngày
17/8/2011 quy định việc lập dự toán, quản lí, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo
đảm cho công tác kiểm tra, xử lí, rà soát và hệ thống hoá VBQPPL
[5] Bộ Tƣ pháp, Báo cáo số 205/BC-BTP ngày 26 tháng 12 năm 2008 sơ kết 05 năm
thực hiện Nghị định 135/2003/NĐ-CP ngày 14/11/2003 của Chính phủ về kiểm
tra, xử lý văn bản QPPL
[6] Bộ Tƣ pháp, Báo cáo số 92/BC-BTP ngày 01 tháng 6 năm 2011 Kết quả kiểm
tra, xử lý văn bản QPPL năm 2010
[7] Bộ Tƣ pháp, Báo cáo số 95/BC-BTP ngày 28 tháng 5 năm 2012 Kết quả kiểm
tra, xử lý văn bản QPPL năm 2011
[8] Bộ Tƣ pháp, Báo cáo số 98/BC-BTP ngày 08 tháng 5 năm 2013 Kết quả kiểm
tra, xử lý văn bản QPPL năm 2012
[9] Bộ Tƣ pháp, Báo cáo số 24/BC-BTP ngày 23 tháng 01 năm 2014 tổng kết 10
năm công tác kiểm tra văn bản QPPL (2003-2013)
[10] Bộ Tƣ pháp, Báo cáo số 183/BC-BTP ngày 06 tháng 7 năm 2015 Kết quả kiểm
tra, xử lý văn bản QPPL; rà soát, hệ thống hóa, hợp nhất văn bản QPPL; pháp
điển hệ thống QPPL năm 2014
[11] Bộ Tƣ pháp, Báo cáo số 106/BC-BTP ngày 16 tháng 5 năm 2016 Kết quả công
tác kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật năm 2015
và giai đoạn 2011 - 2015; định hướng công tác giai đoạn 2016-2021 và phương
hướng, nhiệm vụ năm 2016
152
[12] Bộ Tƣ pháp, Báo cáo số 339/BC-BTP ngày 09/12/2014 về kết quả rà soát văn bản
QPPL liên quan đến quyền con người bảo đảm phù hợp với Hiến pháp 2013
[13] Bộ Tƣ pháp, Báo cáo số 340/BC-BTP ngày 09/12/2014 về kết quả rà soát văn
bản QPPL bảo đảm phù hợp với Hiến pháp 2013
[14] Bộ Tƣ pháp, chuyên đề kiểm tra và rà soát văn bản qui phạm pháp luật, Tạp chí
Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề năm 2007
[15] Bộ Tƣ pháp, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số tháng 7 năm 2010
[16] Bộ Tƣ pháp (2014), Giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm tra, rà soát văn bản
QPPL, Đề tài khoa học cấp Bộ
[17] Bộ Tƣ pháp, Nghiên cứu cơ chế thẩm định của Bộ Tư pháp đối với dự án, dự
thảo văn bản QPPL, Đề tài khoa học cấp Bộ
[18] Bộ Tƣ pháp, Chuyên đề về kiểm tra văn bản qui phạm pháp luật, Tạp chí Dân
chủ và pháp luật, số chuyên đề năm 2009
[19] Bộ Tƣ pháp, Quy hoạch nguồn nhân sự ngành Tư pháp đến 2020
[20] Bộ Tƣ pháp, Sổ tay hướng dẫn nghiệp vụ rà soát, hệ thống hoá VBQPPL, dự án
VIE/98/001, Hà Nội 2002
[21] Bộ Tƣ pháp, Thông tư số 20/2010/TT-BTP ngày 30/11/2010 hướng dẫn một số
điều của Nghị định số 40/2010/NĐ-CP về kiểm tra và xử lí VBQPPL
[22] Bộ Tƣ pháp, Thông tư số 09/2013/TT-BTP ngày 15/6/2013 quy định chi tiết thi
hành Nghị định số 16/2013/NĐ-CP ngày 06/02/2013 của Chính phủ về rà soát,
hệ thống hóa văn bản QPPL
[23] Bộ Tƣ pháp, Bộ Tài chính, Thông tư liên tịch số 122/2011/TTLT-BTC-BTP ngày
17/8/2011 của Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp quy định việc lập dự toán, quản lý, sử
dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm cho công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống
hóa văn bản QPPL
[24] Bộ Tƣ pháp (2014), Tài liệu Hội nghị chuyên sâu Hiến pháp nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội
[25] Bộ Tƣ pháp, Quyết định số 1846/QĐ-BTP ngày 21/10/2015 của Bộ trưởng Bộ
Tư Pháp về việc giao chỉ tiêu biên chế hành chính năm 2015 cho các đơn vị
thuộc Bộ
[26] Bộ Tƣ pháp, Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu pháp luật của nước ngoài về
ban hành văn bản pháp luật
153
[27] Chính phủ, Nghị định số 105/2012/NĐ-CP của Chính phủ về tổ chức tang lễ cán
bộ, công chức, viên chức
[28] Chính phủ, Nghị định số 135/2003/NĐ-CP ban hành ngày 14-11-2003 về kiểm
tra và xử lí VBQPPL
[29] Chính phủ, Nghị định 40/2010/NĐ-CP ban hành ngày 12-4-2010 về kiểm tra và
xử lí VBQPPL
[30] Chính phủ, Nghị định 16/2013/NĐ-CP ngày 06/02/2013 về rà soát, hệ thống hóa
văn bản QPPL
[31] Chính phủ, Nghị định 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 quy định chi tiết và biện
pháp thi hành Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2015
[32] Chính phủ Việt Nam – Chƣơng trình Phát triển Liên hợp quốc, Hội thảo pháp luật về
ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Hà Nội, 27, 28/12/2010
[33] Chính phủ, Tờ trình số 288/TTr-CP ngày 16/8/2014 Dự án Luật Ban hành văn
bản QPPL
[34] Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, Điều 87 Luật lập pháp ngày 15/3/2000
[35] Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tƣ pháp, Báo cáo kết quả công
tác 08 tháng đầu năm, 15 ngày đầu tháng 9/2007 và phương hướng nhiệm vụ 03
tháng cuối năm 2007
[36] Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tƣ pháp, Báo cáo số 127/BC-
KTrVB ngày 11/11/2008 về kết quả công tác năm 2008 và phương hướng nhiệm
vụ năm 2009
[37] Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tƣ pháp, Báo cáo số 144/BC-
KTrVB ngày 12/11/2009 về kết quả công tác năm 2009 và phương hướng nhiệm
vụ năm 2010
[38] Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tƣ pháp, Báo cáo số 83a/BC-
KTrVB ngày 18/6/2010 về kết quả công tác sáu tháng đầu năm và kế hoạch
công tác sáu tháng cuối năm 2010
[39] Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tƣ pháp, Báo cáo số 152/BC-
KTrVB ngày 29/10/2010 về kết quả công tác năm 2010 và phương hướng nhiệm
vụ năm 2011 của Cục Kiểm tra văn bản
[40] Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tƣ pháp, Báo cáo số 231/BC-
KTrVB ngày 01/11/2011 về kết quả công tác năm 2011 và phương hướng nhiệm
vụ năm 2012 của Cục Kiểm tra văn bản
154
[41] Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tƣ pháp, Báo cáo số 34/BC-
KTrVB ngày 31/01/2013 về kết quả công tác năm 2012 và phương hướng nhiệm
vụ năm 2013 của Cục Kiểm tra văn bản
[42] Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tƣ pháp, Báo cáo số 301/BC-
KTrVB ngày 04/11/2013 về kết quả công tác năm 2013 và phương hướng nhiệm
vụ năm 2014 của Cục Kiểm tra văn bản
[43] Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tƣ pháp, Báo cáo số 353./BC-
KTrVB ngày 16/12/2014 về kết quả công tác năm 2014 và phương hướng nhiệm
vụ năm 2015 của Cục Kiểm tra văn bản
[44] Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tƣ pháp, Báo cáo số 359/BC-
KTrVB ngày 24/11/2015 về kết quả công tác năm 2015 và phương hướng nhiệm
vụ năm 2016 của Cục Kiểm tra văn bản
[45] Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tƣ pháp, Công văn số
135/KTrVB, ngày 22/9/2010 về việc đôn đốc thực hiện thông báo văn bản có
dấu hiệu trái pháp luật.
[46] Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tƣ pháp, Báo cáo ngày
19/5/2014 về quá trình kiểm tra, xử lý Quyết định số 1328/QĐ-BTC ngày
29/5/2012 của Bộ Tài chính về việc đính chính Thông tư số 157/2011/TT-BTC
về kiến nghị, đề xuất của Cục Kiểm tra văn bản
[47] Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tƣ pháp, Thông báo kiểm tra văn
bản số 216/KTrVB ngày 23/8/2013
[48] Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tƣ pháp, Thông báo kiểm tra văn
bản số 215/KTrVB ngày 23/8/2013
[49] Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tƣ pháp, Thông báo kiểm tra văn
bản số 215/KTrVB ngày 23/8/2013
[50] Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tƣ pháp, Thông báo kiểm tra văn
bản số 194/KTrVB ngày 14/8/2013
[51] Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tƣ pháp, Thông báo kiểm tra văn
bản số 139/KTrVB ngày 19/6/2013
[52] Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tƣ pháp, Thông báo kiểm tra văn
bản số 87/KTrVB ngày 12/4/2013
[53] Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tƣ pháp, Thông báo kiểm tra văn
bản số 324/KTrVB ngày 21/11/2013
155
[54] Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tƣ pháp, Thông báo kiểm tra văn
bản số 282/KTrVB ngày 21/10/2013
[55] Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tƣ pháp, Công văn số 20/KTrVB
ngày 17/01/2014 đôn đốc thực hiện Thông báo văn bản có dấu hiệu trái pháp luật
[56] Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tƣ pháp, Thông báo kiểm tra văn
bản số 81/KTrVB ngày 22/4/2014 về Công văn số 131 của Cục Nghệ thuật biểu
diễn, Bộ Văn hóa Thể thao và du lịch
[57] Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tƣ pháp, Thông báo kiểm tra văn
bản số 382/KTrVB ngày 30/12/2013
[58] Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tƣ pháp, Thông báo kiểm tra văn
bản số 362/KTrVB ngày 12/12/2013
[59] Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tƣ pháp, Thông báo kiểm tra văn
bản số 324/KTrVB ngày 21/11/2013
[60] Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tƣ pháp, Thông báo kiểm tra văn
bản số 295/KTrVB ngày 31/10/2013
[61] Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tƣ pháp, Báo cáo quá trình kiểm
tra TT115 và TT 123 của BTC
[62] Dự án VIE 02/015 Hỗ trợ thực thi chiến lƣợc phát triển hệ thống pháp luật đến
năm 2010, Bình luận Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, NXB Tƣ
pháp, Hà Nội 2005
[63] Dự án VIE 02/015 Hỗ trợ thực thi chiến lƣợc phát triển hệ thống pháp luật đến
năm 2010, Sổ tay kỹ thuật soạn thảo, thẩm định, đánh giá tác động của văn bản
quy phạm pháp luật, NXB Tƣ pháp, Hà Nội 2011
[64] ThS. Phạm Văn Dũng (2011), Thực hiện pháp luật về kiểm tra, xử lý văn bản
QPPL ở Việt Nam, Hà Nội
[65] Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24-5-2005 Về
chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam đến năm
2010, Hà Nội.
[66] Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội
[67] Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
156
[68] Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb. Chính trị quốc gia – sự thật, Hà Nội
[69] TS. Bùi Thị Đào (2010), Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trƣờng “Kiểm tra, rà
soát, xử lí, hệ thống hoá VBQPPL”, Hà Nội
[70] TS. Bùi Thị Đào (2002), Giám sát, kiểm tra và xử lý VBQPPL, Tạp chí Nghiên
cứu lập pháp số 9
[71] TS. Bùi Thị Đào (2007), Văn bản quy phạm trái pháp luật và xử lý văn bản quy
phạm trái pháp luật, Tạp chí Luật học số 10
[72] TS. Bùi Thị Đào “Tính hợp pháp và tính hợp lý của quyết định hành chính”,
Luận án tiến sĩ Luật học.
[73] TS. Nguyễn Ngọc Điện (2008), Bình luận về ý tưởng đơn giản hóa hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 05
[74] Nguyễn Minh Đoan (1999), Những yêu cầu đối với việc xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật, Tạp chí Luật học
[75] TS. Nguyễn Minh Đoan (2000), Bàn thêm về cơ cấu của qui phạm pháp luật,
tạp chí Luật học số 3/2000.
[76] PGS.TS. Nguyễn Minh Đoan (2008), Vai trò của pháp luật trong đời sống xã
hội, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[77] TS. Nguyễn Minh Đoan (2010), Văn bản quy phạm pháp luật và quy định của
luật thực định Việt nam về văn bản quy phạm pháp luật, Tạp chí Nghiên cứu
Lập pháp, số 07
[78] TS. Nguyễn Minh Đoan (2011), Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nxb.
Chính trị quốc gia
[79] PGS.TS. Nguyễn Văn Động (2008), Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật,
Nxb. Giáo dục, Hà Nội
[80] E.B.Kovriakova, Hoạt động giám sát của nghị viện, Nxb Matxơcơva, 2005
[81] Thế Kha, Phải xem xét trách nhiệm người ra văn bản sai
http://nld.com.vn/20100924121642685p0c1002/co-the-kien-noi-ra-van-ban-sai.htm
[82] ThS. Hoàng Minh Hà (2008), Luận bàn về tính hợp lý của văn bản quy phạm
pháp luật, Tạp chí Dân chủ pháp luật, số 03
[83] Phan Mạnh Hân (1984), Kỹ thuật lập pháp, Nxb. pháp lý, Hà Nội
157
[84] TS. Phan Trung Hiền, Bảo hiến- cách thức để cân bằng lợi ích giữa Nhà nước
và công dân, kỷ yếu Hội thảo quốc tế về bảo hiến
[85] PGS.TS. Phạm Duy Nghĩa, Hệ thống pháp luật và chế độ pháp quyền
[86] TS. Nguyễn Am Hiểu (2006), Lý luận pháp điển hoá pháp luật và vấn đề của
Việt Nam, Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật, số 6
[87] Nguyễn Quốc Hoàn (2001), Xử lý văn bản quy phạm pháp luật trái pháp luật,
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 01
[88] PGS.TS. Nguyễn Thị Hồi (2008), Một cách tiếp cận về hệ thống hoá pháp luật,
Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 9
[89] http://congly.vn/ts-le-hong-son-cuc-truong-cuc-kiem-tra-van-ban-bo-tu-phaprat-nhieu-
nhung-van-ban-c1036n20110627141318987p0.htm
[90] TS. Phạm Tuấn Khải (2006), Những điểm mới trong Nghị định chi tiết và hướng
dẫn thi hành Luật Ban hành văn ban quy phạm pháp luật, Tạp chí Nhà nƣớc và
pháp luật, số 4
[91] M.M.Utiasev và A.A.Kornilaeva (2002), Các chức năng giám sát của các Nghị
viện cấp khu vực: phân tích có so sánh, Pháp luật và chính trị, số 1. NXB
Matxơcơva.
[92] TS. Phạm Hữu Nghị (2005), Pháp luật Việt Nam: 60 năm nhìn lại, Tạp chí Nhà
nƣớc và pháp luật, số 9
[93] Nhà pháp luật Việt – Pháp (1997), Hội thảo về thẩm định văn bản pháp luật, rà
soát văn bản, hệ thống hoá và pháp điển hoá, Hà Nội.
[94] Nhà pháp luật Việt – Pháp (2007), Pháp luật hành chính của cộng hoà Pháp,
NXB Tƣ pháp.
[95] Nguyễn Thị Phƣợng (2010), Đổi mới cơ chế kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp,
các VBQPPL của bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Tạp chí nghiên cứu
Lập pháp, số 19
[96] TS. Phạm Hồng Quang (2010), “Kinh nghiệm từ mô hình và thẩm quyền xét xử vụ
án hành chính của một số nước trên thế giới”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 17
[97] Quốc hội, Hiến pháp năm 1946
[98] Quốc hội, Hiến pháp năm 1959
[99] Quốc hội, Hiến pháp năm 1980
[100] Quốc hội, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001)
158
[101] Quốc hội, Hiến pháp năm 2013
[102] Quốc hội, Luật Ban hành VBQPPL năm 1996
[103] Quốc hội, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành VBQPPL
năm 1996 số 02/2002/QH11 khoá XI ngày 16/12/2002
[104] Quốc hội, Luật Ban hành VBQPPL số 17/2008/QH12 khoá XII ngày 03/6/2008.
[105] Quốc hội, Luật Ban hành VBQPPL số 80/2015/QH13 khoá XIII ngày 22/6/2015.
[106] Quốc hội, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo số 58/2005/QH11
ngày 29/11/2005
[107] Quốc hội, Luật Tố tụng hành chính số 64/2010/QH12 khoá XII ngày 24/11/2010
[108] Quốc hội, Luật Trách nhiệm bồi thường Nhà nước số 35/2009/QH12 khoá XII
ngày 18/6/2009
[109] Quốc hội, Bộ luật hình sự số 15/1999/QH10 ngày 21/12/1999
[110] Quốc hội, Luật số 32/2011/QH10 ngày 19/6/2009 sửa đổi, bổ sung một số điều
của Bộ luật hình sự số 15/1999/QH10
[111] Quốc hội, Luật số 37/2009/QH12 ngày 25/12/2001 về tổ chức Chính phủ
[112] Quy tắc chuẩn bị và đăng ký quốc gia VBQPPL của cơ quan hành pháp liên
bang Nga ban hành kèm theo Nghị định số 1009 ngày 13/8/19971; các Nghị
định số 195 và 196 ngày 05/3/20091
(http://base.consultant.ru/cons/cgi/online.cgi?req=doc;base=LAW;n=86090).
[113] ThS. Tào Thị Quyên (2010), Cơ sở pháp lý của hoạt động kiểm tra, giám sát tính
hợp hiến của văn bản quy phạm pháp luật, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 10.
[114] TS. Nguyễn Thế Quyền (2009), Xử lí văn bản hành chính nhà nước khiếm
khuyết Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
[115] Nguyễn Thị Việt Nga, Kiểm tra, xử lý văn bản QPPL theo các nguồn thông tin,
tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề năm 2009
[116] TS. Lê Hồng Sơn (2007), Nghiệp vụ rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm
pháp luật, Nxb. Tƣ pháp, Hà Nội.
[117] TS. Lê Hồng Sơn (2011), Tình huống nghiệp vụ kiểm tra văn bản QPPL, Nxb.
Tƣ pháp, Hà Nội.
[118] TS. Lê Hồng Sơn, ThS. Lê Thị Uyên (2010), Một số nội dung cơ bản của Nghị
định số 40/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ về kiểm tra và xử lý văn
bản quy phạm pháp luật, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 7
159
[119] GS.TS.Lê Minh Tâm (2003), Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Tƣ pháp, Hà Nội
[120] GS.TS. Lê Minh Tâm (2006), Mấy vấn đề lý luận về pháp điển hoá, Tạp chí
Luật học số 7
[121] GS.TS. Phạm Hồng Thái (2011), Văn bản quy phạm pháp luật và pháp luật về
văn bản quy phạm pháp luật, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 7
[122] TS. Đinh Trung Tụng, Nhìn lại 04 năm công tác kiểm tra văn bản QPPL, Tạp
chí dân chủ và Pháp, số chuyên đề năm 2007
[123] Thanh tra Chính phủ - Chƣơng trình tăng cƣờng năng lực tổng thể ngành thanh
tra (2008), Cải cách cơ chế kiểm tra tính hợp pháp của các văn bản hành chính
Trung Quốc, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
[124] Thủ tƣớng Chính phủ, Quyết định số 42/2009/QĐ-TTg ngày 16-3-2009 về kiểm
tra và xử lí VBQPPL có nội dung bí mật Nhà nước.
[125] TS. Nguyễn Thị Kim Thoa, Tiêu chí của một văn bản QPPL tốt, thẩm định văn
bản QPPL
[126] PGS.TS Vũ Thƣ (2003), Tính hợp pháp và hợp lí của văn bản pháp luật và các biện
pháp xử lí khiếm khuyết của nó”, Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật số 01
[127] ThS. Ngô Hồng Thủy (2006), Kiểm tra và xử lý văn bản QPPL do chính quyền
địa phương ban hành ở nước ta hiện nay, Hà Nội
[128] TS. Ngô Hồng Thủy (2015), Kiểm tra và xử lý văn bản QPPL do cơ quan hành
chính ban hành ở nước ta hiện nay, Hà Nội
[129] TS. Nguyễn Mậu Tuân (2012), Bảo hiến trong nhà nước pháp quyền, Luận án
Tiến sĩ Luật học (ngành Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật)
[130] Nguyễn Văn Tuấn, Một số vấn đề về kiểm tra văn bản theo chuyên đề, lĩnh vực, Tạp
chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề năm 2009
[131] Nguyễn Văn Tuấn (2009), Hoàn thiện cơ chế kiểm tra văn bản QPPL của các cơ
quan nhà nước cấp bộ, Hà Nội
[132] Trƣờng đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật,
Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội
[133] Trƣờng đại học Luật Hà Nội (2006), Hội thảo khoa học cấp trƣờng “Nhà nước
và pháp luật Việt nam 20 năm đổi mới”
[134] Đào Trí Úc, Nhà nước và pháp luật của chúng ta, NXB Khoa học xã hội,
năm 1997
160
[135] ThS. Lê Thị Uyên, Thực trạng năng lực trong công tác kiểm tra văn bản QPPL
thời gian qua, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề năm 2009
[136] TS. Đoàn Thị Tố Uyên (2012), Kiểm tra và xử lý văn bản QPPL ở Việt Nam
hiện nay, Hà Nội
[137] Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội 11, Nghị quyết số 900/UBTVQH11 ngày 21/3/2007 của UBTVQH về Kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005
của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 (giai đoạn 2007-2012)
[138] Văn phòng Quốc hội Việt Nam - Văn phòng dự án hỗ trợ cải cách pháp luật và tƣ
pháp (2009), Kỷ yếu hội thảo quốc tế về bảo hiến, NXB thời đại, Hà Nội
[139] Văn phòng Quốc hội (2008), Hội thảo “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất
lượng hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội”, Hà Nội
[140] Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (Viện Khoa học xã hội Vùng Đông
Nam bộ), Từ Điển Tiếng Việt, NXB Từ điển Bách Khoa
[141] Viện Nhà nƣớc và Pháp luật (2011), Đề tài Xây dựng hệ thống pháp luật thống
nhất, đồng bộ, minh bạch và hiệu quả trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
[142] Viện Khoa học pháp lí (2004), Đề tài “Cơ chế kiểm tra VBQPPL - Thực trạng
và giải pháp hoàn thiện”, Hà Nội
[143] Viện khoa học pháp lí (2007), Thông tin khoa học pháp lí chuyên đề “Các giải
pháp nâng cao chất lượng thẩm định dự án, dự thảo VBQPPL”, số 11
[144] Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1998), Đề tài “Một số vấn đề về nhận thức và thực tiễn trong quá trình tổ chức thực hiện công tác kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong lĩnh vực hành chính – kinh tế - xã hội”, Hà Nội
[145] GS.TS. Võ Khánh Vinh (2011), Những vấn đề lý luận và thực tiễn của nhóm
quyền dân sự và chính trị, Nhà xuất bàn Khoa học xã hội, Hà Nội
[146] GS.TS. Võ Khánh Vinh (2011), Quyền Con người, Nhà xuất bản Khoa học xã
hội, Hà Nội
[147] TS. Nguyễn Cửu Việt (1998), Về khái niệm văn bản quy phạm pháp luật, Tạp
chí Nhà nƣớc và pháp luật, số 11
[148] TS. Nguyễn Cửu Việt (2007), Trở lại khái niệm văn bản quy phạm pháp luật,
Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 4
[149] GS.TS. Đinh Ngọc Vƣợng (2008), Cơ chế bảo hiến ở một số nước trên thế giới,
Tạp chí nghiên cứu lập pháp
161