VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HUYỀN

MỐI QUAN HỆ GIỮA QUYỀN TƯ PHÁP VÀ QUYỀN HÀNH

PHÁP TRONG THỰC HIỆN QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở

VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2020

VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HUYỀN

MỐI QUAN HỆ GIỮA QUYỀN TƯ PHÁP VÀ QUYỀN HÀNH PHÁP TRONG THỰC HIỆN QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính

Mã số: 938.01.02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. Nguyễn Văn Mạnh

HÀ NỘI – 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số

liệu nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận

khoa học của luận án chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nào. Tôi

hoàn toàn chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình.

Tác giả

Nguyễn Thị Huyền

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ....................................... 9

1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước và nước ngoài liên quan đến đề tài luận án ........ 9

1.2. Nhận xét về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án ............................... 39

1.3. Giả thuyết nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu ........................................................ 44

Kết luận Chương 1 ........................................................................................................ 46

CHƯƠNG 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA

QUYỀN TƯ PHÁP VÀ QUYỀN HÀNH PHÁP TRONG THỰC HIỆN

QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC ........................................................................................ 48

2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành

pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước ..................................................................... 48

2.2. Nội dung mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp trong thực hiện

quyền lực nhà nước ở Việt Nam ................................................................................... 66

2.3. Các điều kiện bảo đảm mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp

trong thực hiện quyền lực nhà nước .............................................................................. 73

Kết luận Chương 2 ........................................................................................................ 83

CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ GIỮA QUYỀN TƯ PHÁP VÀ

QUYỀN HÀNH PHÁP TRONG THỰC HIỆN QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở

VIỆT NAM .................................................................................................................. 84

3.1. Thực trạng quy định của pháp luật về mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền

hành pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam ........................................ 84

3.2. Thực tiễn mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp trong thực hiện

quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay ................................................................... 101

Kết luận Chương 3 ...................................................................................................... 122

CHƯƠNG 4. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM MỐI QUAN HỆ

GIỮA QUYỀN TƯ PHÁP VÀ QUYỀN HÀNH PHÁP TRONG THỰC HIỆN

QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ....................................... 124

4.1. Quan điểm bảo đảm mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp trong

thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay ...................................................... 124

4.2. Giải pháp bảo đảm mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp trong

thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay ................................................... 130

Kết luận Chương 4 ...................................................................................................... 145

KẾT LUẬN ................................................................................................................ 146

DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN .................................................................................. 148

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 149

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ

TAND Tòa án nhân dân

XHCN Xã hội chủ nghĩa

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong các chế độ chuyên chế mọi quyền lực nhà nước đều tập trung

trong tay một cá nhân. Đây chính là nguồn gốc của mọi lạm dụng quyền lực

và xâm phạm quyền, tự do căn bản của con người. Để chấm dứt chế độ này và

đặt nền móng cho sự hình thành các thể chế tự do, dân chủ, Montesquieu đã

khởi xướng và phát triển thuyết phân quyền. Theo học thuyết này, quyền lực

nhà nước không phải tập trung, mà phân chia thành ba quyền: quyền lập pháp,

hành pháp và tư pháp. Các quyền này được thực hiện độc lập với nhau, kiểm

soát và kiềm chế lẫn nhau. Học thuyết này đã trở thành cơ sở lý luận của việc

tổ chức quyền lực nhà nước ở nhiều quốc gia trên thế giới.

Ở nước ta, xuất phát từ nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa, quyền

lực nhà nước được xác định là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm

soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền: lập pháp,

hành pháp và tư pháp. Sự phân công, phân cấp bảo đảm cho các cơ quan nhà

nước phát huy tính độc lập, chủ động và tự chịu trách nhiệm trong quá trình

thực hiện chức năng của mình. Gần đây, vai trò của kiểm soát quyền lực nhà

nước ngày càng được đề cao, bởi vì chỉ có kiểm soát quyền lực mới khắc

phục được tình trạng lộng quyền, lạm quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước

thực sự là của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.

Hiến pháp năm 2013 được đánh giá là bước tiến bộ quan trọng trong

việc hoàn thiện cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực, bảo đảm

cho bộ máy nhà nước hoạt động có hiệu quả hơn. Điều này được thể hiện ở

quy định “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp,

kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập

pháp, hành pháp và tư pháp” [6, Điều 2]. Sự phân công, phối hợp giữa các cơ

quan trong bộ máy nhà nước còn được cụ thể hóa khi Hiến pháp quy định:

1

“Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà

nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam; Quốc

hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan

trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước” [6,

Điều 69]; “Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan

chấp hành của Quốc hội” [6, Điều 94]; “Tòa án nhân dân (TAND) là cơ quan

xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư

pháp” [6, Điều 102]. Có thể nói Hiến pháp 2013 đã tạo ra những cơ sở pháp

lý quan trọng trong nguyên tắc về tính thống nhất, sự phân công, phối hợp và

kiểm soát quyền lực nhà nước đem lại những kết quả lớn về mặt lý luận, thực

tiễn trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam.

Tuy nhiên, một trong những vấn đề cần làm rõ hiện nay đó là khi bàn

về cơ chế phân công, phối hợp quyền lực không thể không nói đến những giới

hạn của các bộ phận quyền lực nhà nước và nguyên tắc quan hệ qua lại về

thẩm quyền, đặc biệt là mối quan hệ của hai nhánh quyền tư pháp và hành

pháp. Cần làm sáng tỏ “tính độc lập tương đối” của mỗi quyền, mối quan hệ

tác động qua lại giữa các nhánh quyền lực, bảo đảm quyền lực không bị tha

hóa và bị lạm dụng. Thực tiễn mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành

pháp ở nước ta hiện nay trên cả ba phương diện phân công, phối hợp và kiểm

soát còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập. Phân công chưa thực sự hợp lý, phối

hợp và kiểm soát chưa bảo đảm được sự độc lập của tư pháp cũng như sự

mềm dẻo, linh hoạt của hành pháp. Trong khi đó, nhánh quyền hành pháp lại

là nhánh quyền trung tâm, quyết định hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ

máy nhà nước; nhánh quyền tư pháp quyết định yếu tố công lý, công bằng,

dân chủ trong xã hội, ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý của người dân cũng như

2

dư luận xã hội. Chính điều này dẫn đến hiệu quả thực thi quyền lực nhà nước

nói chung và quyền tư pháp, quyền hành pháp nói riêng chưa cao, chưa

bảo đảm được nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân - yêu

cầu tất yếu trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.

Từ thực tế nêu trên, yêu cầu đặt ra là phải bảo đảm được mối quan hệ

phân công, phối hợp và kiểm soát giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp để

nâng cao hiệu quả hoạt động của quyền tư pháp, quyền hành pháp nói riêng

và của cả bộ máy nhà nước nói chung. Vì vậy, cần có các nghiên cứu chuyên

sâu và toàn diện về mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp

trong thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam. Trong khoa học pháp lý Việt

Nam, mối quan hệ giữa cơ quan thực hiện quyền lập pháp (Quốc hội) với cơ

quan thực hiện quyền hành pháp (Chính phủ) và cơ quan thực hiện quyền tư

pháp (Tòa án) đã được nghiên cứu nhiều. Lý luận về các mối quan hệ đó cũng

đã được xây dựng khá hoàn chỉnh. Trong khi đó, lý luận về mối quan hệ giữa

cơ quan thực hiện quyền hành pháp (Chính phủ) và cơ quan thực hiện quyền

tư pháp (Tòa án) và các vấn đề có liên quan thì vẫn chưa được nghiên cứu đầy

đủ, hệ thống.

Từ những lý do trên cho thấy, việc nghiên cứu về “Mối quan hệ giữa

quyền tư pháp và quyền hành pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt

Nam hiện nay” là yêu cầu khách quan, cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa quyền

tư pháp và quyền hành pháp; đánh giá thực trạng mối quan hệ này, mục đích

nghiên cứu của luận án là đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm bảo đảm

mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp trong thực hiện quyền

lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay.

3

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện được các mục đích trên, Luận án có nhiệm vụ:

Thứ nhất, nghiên cứu phân tích, đánh giá tổng quan các công trình

nghiên cứu liên quan đến đề tài, xác định những kết quả nghiên cứu mà luận

án sẽ kế thừa và chỉ ra được những vấn đề mà các công trình khoa học chưa

giải quyết, cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án.

Thứ hai, làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò xác lập mối quan hệ giữa

quyền tư pháp và quyền hành pháp; phân tích nội dung và các điều kiện bảo

đảm mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp trong thực hiện

quyền lực nhà nước.

Thứ ba, nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng mối quan hệ giữa

quyền tư pháp và quyền hành pháp trong lịch sử lập hiến ở Việt Nam và thực

tiễn mối quan hệ này hiện nay ở nước ta.

Thứ tư, nghiên cứu, đề xuất các quan điểm, giải pháp bảo đảm mối

quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp trong thực thi quyền lực ở

Việt Nam hiện nay.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận án tập trung nghiên cứu mối quan hệ giữa quyền tư pháp và

quyền hành pháp ở góc độ lý luận, nghiên cứu các quan điểm, quan niệm về

mối quan hệ này; các quy định của Hiến pháp và pháp luật Việt Nam về mối

quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp trong thực hiện quyền lực

nhà nước ở Việt Nam từ 1946 đến nay và thực tiễn mối quan hệ này ở Việt

Nam hiện nay; các quan điểm, giải pháp bảo đảm mối quan hệ giữa quyền tư

pháp và quyền hành pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam

hiện nay.

4

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi nội dung:

Theo Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về

chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, các cơ quan tư pháp gồm: TAND,

Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án. Tuy nhiên,

trong phạm vi luận án, tác giả chỉ tập trung làm sáng tỏ các vấn đề lý luận,

pháp lý về mối quan hệ giữa TAND và Chính phủ; thực tiễn thực hiện mối

quan hệ giữa TAND và Chính phủ; từ đó đề xuất các giải pháp bảo đảm mối

quan hệ giữa TAND và Chính phủ ở Việt Nam hiện nay.

- Phạm vi không gian: Luận án triển khai nghiên cứu tập trung ở phạm

vi quan hệ giữa các cơ quan tư pháp và cơ quan hành pháp ở trung ương, cụ

thể là mối quan hệ giữa TAND và Chính phủ.

- Phạm vi thời gian: Đề tài nghiên cứu mối quan hệ giữa TAND và

Chính phủ từ năm 1946 đến nay, trọng tâm là giai đoạn từ năm 2013 đến nay.

4. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý thuyết

Các lý thuyết nghiên cứu chủ yếu được sử dụng trong Luận án để

nghiên cứu mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp bao gồm:

Thứ nhất, các quan điểm có tính phổ biến và mẫu mực của chủ nghĩa

lập hiến, của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu có uy tín về triết học, về Hiến

pháp và chính trị học như: Học thuyết phân quyền của Montesquieu, học

thuyết "Khế ước xã hội" của Rousseau, học thuyết Nhà nước pháp quyền,…

Các học thuyết này được vận dụng để giải quyết những vấn đề về cơ sở lý

luận của mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp như: khái niệm,

đặc điểm, nội dung mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp; các

điều kiện bảo đảm mối quan hệ này.

5

Thứ hai, cơ sở phương pháp luận được sử dụng trong luận án là chủ

nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, những nguyên lý cơ bản của chủ

nghĩa Mác- Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền lực nhà nước cũng như

cách thức tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước; quan điểm của Đảng và Nhà

nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân

dân và vì Nhân dân. Những tư tưởng này được vận dụng để nghiên cứu và

giải quyết các vấn đề về mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp

trong lịch sử lập hiến ở Việt Nam, chỉ ra những bất cập trong mối quan hệ này

và lý giải nguyên nhân của nó. Đồng thời, những quan điểm này còn là cơ sở

để định ra các quan điểm và đề xuất giải pháp nhằm bảo đảm mối quan hệ

giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà

nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận án áp dụng tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu cụ thể nhằm

làm sáng tỏ các luận điểm nghiên cứu:

- Phương pháp phân tích, tổng hợp: được sử dụng bao quát trong tất cả

các chương, mục của luận án để phát hiện, luận giải thuyết phục về các nội

dung liên quan đến chủ đề luận án.

- Phương pháp luật học so sánh: được sử dụng chủ yếu trong

chương 2 của luận án để làm sáng tỏ mối quan hệ giữa TAND và Chính

phủ trong tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước ở một số quốc gia trên thế

giới và những giá trị tham khảo cho Việt Nam. Trong chương 3, tác giả sử

dụng phương pháp so sánh để làm rõ sự khác nhau của mối quan hệ này

trong từng bản Hiến pháp, rút ra những kinh nghiệm trong từng giai đoạn

lập hiến của Việt Nam.

6

- Phương pháp thống kê: được sử dụng trong chương 1 và 3 của luận

án nhằm tập hợp, đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài và thực

trạng về mối quan hệ giữa TAND và Chính phủ ở Việt Nam hiện nay.

- Phương pháp lịch sử: được sử dụng chủ yếu trong chương 3 nhằm

nghiên cứu mối quan hệ giữa TAND và Chính phủ trong thực hiện quyền lực

nhà nước qua các bản Hiến pháp ở Việt Nam.

5. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án

Toàn bộ luận án hướng tới việc làm sáng tỏ các vấn đề lý luận, thực

trạng; đồng thời đề xuất quan điểm và giải pháp bảo đảm mối quan hệ giữa

quyền tư pháp và quyền hành pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt

Nam hiện nay.

Theo đó, luận án tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề khoa học mà chưa

hoặc đã được đề cập nhưng còn thiếu thống nhất và thiếu toàn diện trong một

số công trình nghiên cứu khác, cụ thể như: khái niệm, đặc điểm, vai trò xác

lập mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp; nội dung mối quan

hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp trên ba phương diện: phân công,

phối hợp, kiểm soát. Đồng thời làm rõ các điều kiện bảo đảm mối quan hệ

giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp.

Luận án phân tích và đánh giá toàn diện thực trạng mối quan hệ giữa

quyền tư pháp và quyền hành pháp trong lịch sử lập hiến và trong giai đoạn

hiện nay ở Việt Nam. Từ đó, xác định các quan điểm định hướng làm cơ sở

cho việc đề xuất các giải pháp cụ thể hướng tới bảo đảm mối quan hệ này.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án

6.1. Ý nghĩa khoa học

Luận án góp phần làm phong phú thêm những nghiên cứu hiện có về

quyền tư pháp, quyền hành pháp và mối quan hệ giữa hai nhánh quyền này

trong thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam.

7

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Đề tài cung cấp những thông tin thực tiễn, những kiến nghị xuất phát

từ thực tiễn, là cơ sở để bảo đảm mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền

hành pháp ở Việt Nam hiện nay.

Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo

đối với các nhà lập pháp, các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý

trong việc ban hành, sửa đổi bổ sung các quy phạm pháp luật điều chỉnh mối

quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp.

Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong hoạt động

nghiên cứu và đào tạo lĩnh vực khoa học pháp lý và khoa học chính trị.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận án

được kết cấu thành bốn chương như sau:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu

Chương 2: Những vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa quyền tư pháp

và quyền hành pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước

Chương 3: Thực trạng mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền

hành pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam

Chương 4: Quan điểm và giải pháp bảo đảm mối quan hệ giữa quyền

tư pháp và quyền hành pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam

hiện nay.

8

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước và nước ngoài liên quan đến

đề tài luận án

1.1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước

1.1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu về lý luận mối quan hệ giữa quyền

tư pháp và quyền hành pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước

Lý luận về quyền hành pháp, quyền tư pháp đã được nhiều công trình

nghiên cứu đề cập đến ở các quy mô khác nhau, tuy nhiên, lý luận về mối

quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp chưa được các học giả phân

tích sâu mà mới chỉ xem xét trong mối tương quan giữa ba nhánh quyền lực:

lập pháp, hành pháp và tư pháp. Có thể kể đến một số công trình liên quan

đến luận án như sau:

Nhóm công trình nghiên cứu lý luận về quyền hành pháp

Trong ba nhánh quyền lực, nhánh quyền hành pháp đóng vai trò quan

trọng trong việc đề xuất, hoạch định chính sách và tổ chức thực thi pháp luật.

Cho đến nay, đã có một số lượng khá lớn các công trình nghiên cứu về quyền

hành pháp. Có thể kể đến một số công trình sau:

Đề tài khoa học cấp Bộ “Pháp luật về tổ chức bộ máy hành chính Nhà

nước ở địa phương: hiện trạng và giải pháp”, năm 2000, của Viện Nhà nước

và Pháp luật [91]. Đề tài đã đưa ra được thực trạng của pháp luật về tổ chức

bộ máy hành chính Nhà nước ở địa phương, đồng thời đề xuất các giải pháp

nâng cao hiệu quả về tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước ở

địa phương. Kết quả nghiên cứu của đề tài là nguồn tài liệu tham khảo cho tác

giả luận án khi nghiên cứu về các vấn đề xoay quanh quyền hành pháp.

9

Đề tài khoa học cấp Bộ, “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về

quyền hành pháp của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam giai

đoạn 2011 - 2020” do PGS.TS Vũ Thư làm chủ nhiệm, Viện Nhà nước và

pháp luật là cơ quan thực hiện (2010) [73]. Đề tài thuộc Chương trình nghiên

cứu khoa học cấp Bộ “Tổng quan: tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước

pháp quyền Việt Nam XHCN giai đoạn 2011-2020”. Đề tài nghiên cứu nhằm

mục đích làm rõ, đánh giá và kiến nghị các vấn đề lý luận và thực tiễn tổ chức

quyền hành pháp qua đó thúc đẩy quá trình tổ chức quyền lực nhà nước trong

Nhà nước pháp quyền XHCN và phát triển xã hội Việt Nam trong giai đoạn

2011-2020. Để thực hiện mục đích trên, đề tài tập trung nghiên cứu, làm sáng

tỏ và đánh giá nhận thức lý luận về quyền hành pháp trong Nhà nước pháp

quyền Việt Nam; đánh giá thực tiễn tổ chức quyền hành pháp trong Nhà nước

ta từ khi đổi mới đến nay; qua đó kiến nghị các vấn đề lý luận và tổ chức thực

tiễn quyền hành pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Nội

dung nghiên cứu của đề tài được trình bày trong 3 phần. Phần I: Những vấn

đề lý luận cơ bản về quyền hành pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN

Việt Nam. Phần II: Tổ chức quyền hành pháp trong Nhà nước pháp quyền

XHCN Việt Nam hiện nay. Phần III: Những vấn đề hoàn thiện việc tổ chức

thực hiện quyền hành pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Có

thể nói, đây là một công trình nghiên cứu trực tiếp và chuyên sâu về nhánh

quyền hành pháp. Do đó, kết quả nghiên cứu của đề tài có giá trị cả về lý luận

và thực tiễn là tài liệu tham khảo quý cho tác giả luận án khi nghiên cứu về

nhánh quyền hành pháp trong mối quan hệ với nhánh quyền tư pháp ở Việt

Nam hiện nay.

Báo cáo Đề tài khoa học cấp Bộ, “Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung chế

định Chính phủ trong Hiến pháp năm 1992” do Bộ tư pháp chủ trì, phối hợp

với tổ chức UNDP - Dự án “Tăng cường tiếp cận công lý và bảo vệ quyền tại

10

Việt Nam” thực hiện [24]. Nhóm nghiên cứu của đề tài đã làm rõ nội hàm

khái niệm quyền hành pháp và phân biệt giữa chức năng “hành chính” và

“hành pháp” của Chính phủ. Theo đó, chức năng “hành chính” là các hoạt

động điều hành mang tính tác nghiệp, mệnh lệnh quyền uy của quản lý nhà

nước, còn chức năng “hành pháp” là hoạt động khởi xướng, hoạch định, tổ

chức thực thi pháp luật và điều hành chính sách mang tính chủ động ở tầm vĩ

mô. Kết quả nghiên cứu của đề tài là tư liệu tham khảo cho tác giả khi nghiên

cứu về chức năng của Chính phủ, từ đó làm rõ được mối quan hệ giữa hai

nhánh quyền tư pháp và hành pháp.

Sách chuyên khảo, “Chính phủ trong nhà nước pháp quyền” của tác giả

Nguyễn Đăng Dung chủ biên, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2008 [30].

Trong cuốn sách, tác giả đã mô tả hệ thống cơ quan hành pháp trong chế độ

cộng hòa đại nghị, cộng hòa tổng thống, cộng hòa hỗn hợp và Chính phủ

trong mô hình nhà nước Việt Nam hiện tại. Qua đó, đưa ra những yêu cầu,

cách thức và hoạt động của Chính phủ hành pháp trong việc xây dựng một

nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Cuốn sách là tài liệu tham

khảo để tác giả so sánh Chính phủ hành pháp trong các mô hình chính thể và

rút ra được kinh nghiệm cho Việt Nam.

Cuốn sách “Thực hiện quyền hành pháp của Chính phủ theo Hiến pháp

năm 2013” của Bộ Tư pháp (2017), Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội

[25]. Cuốn sách phân tích về quyền hành pháp và mối quan hệ giữa Chính

phủ với các cơ quan nhà nước khác trong việc thực thi quyền hành pháp ở

nước ta hiện nay. Tuy nhiên, cuốn sách chỉ tập trung phân tích các quy định

của Hiến pháp, Luật Tổ chức Chính phủ và một số văn bản pháp luật liên

quan, mà chưa đánh giá được thực trạng thực thi quyền hành pháp.

Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Nguyễn Văn Tuấn, “Vai trò của

các cơ quan thanh tra nhà nước trong kiểm soát việc thực hiện quyền hành

11

pháp ở Việt Nam”, năm 2015, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh [82].

Luận án là công trình nghiên cứu khoa học đầu tiên trình bày toàn diện, có hệ

thống, có cơ sở khoa học, lý luận về vai trò của các cơ quan thanh tra nhà

nước trong kiểm soát việc thực hiện quyền hành pháp, một cơ chế kiểm soát

quyền lực bên trong hệ thống hành pháp. Cụ thể: Xây dựng những khái niệm,

làm sáng tỏ cơ sở lý luận về vai trò của các cơ quan thanh tra nhà nước trong

kiểm soát việc thực hiện quyền hành pháp; phân tích, đánh giá thực trạng thực

hiện vai trò kiểm soát việc thực hiện quyền hành pháp của các cơ quan thanh

tra nhà nước; đề xuất các giải pháp khoa học phát huy vai trò của các cơ quan

thanh tra nhà nước trong kiểm soát việc thực hiện quyền hành pháp, góp phần

nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong tình hình mới.

Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Lê Thị Ngọc Trâm “Quyền hành

pháp ở Việt Nam hiện nay”, năm 2017, Học viện Khoa học xã hội [79]. Luận

án tập trung làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về quyền hành pháp như: khái

niệm, nội dung của quyền hành pháp, mối quan hệ giữa quyền hành pháp với

quyền lập pháp và quyền tư pháp…Luận án cũng nghiên cứu các quy định về

quyền hành pháp trong Hiến pháp Việt Nam từ năm 1946 đến nay, qua đó, đề

xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện quyền hành pháp nói

riêng và quyền lực nhà nước ở nước ta nói chung. Đây cũng là luận án nghiên

cứu tương đối toàn diện về quyền hành pháp, có giá trị tham khảo cả về lý

luận và thực tiễn.

Ngoài ra, còn có nhiều bài báo khoa học bàn về những vấn đề lý luận

về quyền hành pháp đã được công bố trên các tạp chí khoa học, như: Trần

Anh Tuấn, Quyền hành pháp và vai trò của Chính phủ trong thực hiện quyền

lực nhà nước, Tạp chí Cộng Sản, số 9/2013 [81]; Nguyễn Văn Cương, Bàn về

quyền hành pháp trong Hiến pháp năm 2013, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp,

số 12/2014 [26]; Nguyễn Phước Thọ, Cơ chế thực hiện quyền hành pháp của

12

Chính phủ theo quy định của pháp luật, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số

13/2014 [71]; Cao Vũ Minh, Quyền hành pháp của Chính phủ trong Hiến

pháp và kiến nghị sửa đổi Luật tổ chức Chính phủ, Tạp chí Nghiên cứu lập

pháp, số 9/2014 [59]; Lê Thị Ngọc Trâm, Chế định quyền hành pháp từ Hiến

pháp năm 1992 đến Hiến pháp năm 2013, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số

11/2015 [80]; PGS.TS. Bùi Xuân Đức, Quyền hành pháp và vai trò của Chính

phủ trong thực hiện quyền hành pháp theo Hiến pháp năm 2013, Tạp chí Nhà

nước và Pháp luật, số 3/2016 [44]; Nguyễn Đăng Dung, Nguyễn Đăng Duy,

Chính phủ kiến tạo và những thử thách, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 8/2017 [32]; Trần Ngọc Đường, Bàn về chính phủ kiến tạo trong mối quan hệ

với Quốc hội, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 11/2017 [43] ; Nguyễn Cửu

Việt, Thẩm quyền của Chính phủ theo Hiến pháp 2013 và Luật Tổ chức chính

phủ 2015, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 19/2017 [87]; Lê Thị Anh Đào,

Nhận diện quyền lực hành pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt

Nam, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 2/2017 [35]; Nguyễn Mạnh Hùng,

Trương Thị Minh Thùy, Kiểm soát của cơ quan lập pháp đối với cơ quan

hành pháp ở Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5/2018 [50]...Các

bài viết trên tập trung nhận diện quyền hành pháp và vai trò của Chính phủ

trong thực hiện quyền hành pháp, cũng như vấn đề kiểm soát quyền hành

pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động của nhánh quyền này trong thực thi

quyền lực nhà nước. Những bài viết này đều có giá trị tham khảo cho nghiên

cứu sinh khi luận giải những vấn đề lý luận về quyền hành pháp nói riêng và

trong mối tương quan với các nhánh quyền lực nhà nước nói chung.

Nhóm công trình nghiên cứu lý luận về quyền tư pháp

Đề tài khoa học cấp nhà nước mã số KX.04.06, “Cải cách các cơ quan

tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp nâng cao hiệu quả và hiệu

lực xét xử của Tòa án trong Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì

13

dân” do TS. Uông Chu Lưu làm Chủ nhiệm (2004) [54]. Đề tài khoa học

được xem là 1 trong những viên gạch đặt nền móng cho các cuộc tranh luận

khoa học liên quan đến nhánh quyền tư pháp. Đề tài gồm 3 chương, chương 1

đề cập đến quyền tư pháp, các nguyên tắc tổ chức thực hiện quyền tư pháp,

thủ tục tư pháp và dành hẳn một mục để bàn về vị trí vai trò trung tâm của

Tòa án trong hệ thống tư pháp cũng như hiệu quả xét xử của Tòa án. Chương

2, tập trung nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp Việt

Nam thời kỳ đổi mới (từ Đại hội VI đến Đại hội IX). Chương 3, tác giả phân

tích, bình luận xoay quanh các vấn đề về cải cách tư pháp trong điều kiện xây

dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Trong đó, tác giả

tập trung phân tích các tiền đề và thách thức đối với công cuộc cải cách tư

pháp ở Việt Nam cũng như các yêu cầu cơ bản và những nội dung của cải

cách tư pháp trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt

Nam. Tất cả các vấn đề trên được đề cập và giải quyết tương đối toàn diện.

Đây sẽ là nguồn tư liệu quý giá để tác giả có thêm định hướng và cơ sở trong

quá trình thực hiện nội dung của luận án liên quan đến nhánh quyền tư pháp.

Đề tài cấp Bộ “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về quyền tư

pháp của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam giai đoạn 2011-

2020” do PGS.TS Nguyễn Đức Minh làm chủ nhiệm, Viện Nhà nước và Pháp

luật là cơ quan chủ trì (2010) [56]. Công trình khoa học đã nghiên cứu một

cách tập trung và toàn diện nhất về quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền

XHCN Việt Nam. Đề tài nghiên cứu đã làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về

quyền tư pháp như: quan niệm về quyền tư pháp trong khoa học pháp lý, tính

phổ biến của quyền tư pháp, những đặc thù của quyền tư pháp trong nhà nước

pháp quyền XHCN Việt Nam cũng như chức năng, nhiệm vụ chủ thể và các

phương thức, phương pháp thực hiện quyền tư pháp. Đề tài đã nhận diện và

phân biệt được các vấn đề về hệ thống tư pháp, cơ quan tư pháp và hoạt động

14

tư pháp. Bên cạnh đó, tác giả của đề tài tập trung phân tích thực trạng tổ chức

thực hiện quyền tư pháp, phân tích một số mô hình tổ chức thực hiện quyền tư

pháp trên thế giới như ở các nước thuộc nhóm Civil Law, nhóm Common

Law, một số nước trong khu vực Châu Á và Trung Đông. Trên cơ sở đó, rút

ra các bài học kinh nghiệm cho mô hình tổ chức và thực hiện quyền tư pháp ở

nước ta, đồng thời đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả quyền tư

pháp giai đoạn 2011- 2020. Đây chính là tiền đề rất tốt để luận án có thể tiếp

thu trong quá trình nghiên cứu.

Cuốn sách "Kiểm soát quyền lực nhà nước" do tác giả GS.TS Nguyễn

Đăng Dung chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2017 [31]. Cuốn sách gồm

hai phần. Phần 1 đề cập đến cơ sở lý luận của sự kiểm soát quyền lực nhà

nước. Trong đó, tác giả tập trung phân tích và lý giải ba vấn đề: tại sao phải

kiểm soát quyền lực nhà nước; lý thuyết nhà nước pháp quyền và chủ nghĩa

hiến pháp – sự thể hiện tập trung tư duy của nhân loại về kiểm soát quyền lực

nhà nước; Hiến pháp – công cụ quan trọng nhất để kiểm soát quyền lực nhà

nước. Phần hai: Nội dung, hình thức và công cụ kiểm soát quyền lực nhà

nước. Phần này tác giả đề cập đến rất nhiều vấn đề, trong đó chú trọng đến

những vấn đề về: Quyền lực nhà nước được kiểm soát bằng việc phân

chia/phân công , phân nhiệm và tự kiểm tra bên trong theo cơ chế kiềm chế và

đối trọng (sự kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên trong); Chính phủ phải

chịu trách nhiệm tiêu điểm của kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên trong;

Phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngoài; Tòa án – cửa ải cuối

cùng của sự kiểm soát quyền lực nhà nước. Cuốn sách là tài liệu cho tác giả

tham khảo khi bàn về vấn đề kiểm soát quyền lực giữa hai nhánh quyền tư

pháp và hành pháp.

Cuốn sách "Sự hạn chế quyền lực nhà nước" của PGS.TS Nguyễn Đăng

Dung, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, (2004) [29]. Đây là cuốn sách tiếp cận

15

từ phương diện khoa học Luật Hiến pháp, tập trung lý giải về sự cần thiết

phải giới hạn quyền lực nhà nước và nội dung của việc hạn chế quyền lực

nhà nước. Trong đó cuốn sách giành 1 chương đề cập đến Tòa án - một phần

nhà nước được đứng tách riêng ra một cách độc lập xét xử đúng sai của

chính các cơ quan các cá nhân đảm trách các công việc của nhà nước - cửa

ải cuối cùng của sự hạn chế nhà nước. Đặc biệt ngay tại chương này tác giả

cũng nhấn mạnh đến sự vô tư, độc lập - bản tính cần có của tư pháp để hạn

chế quyền lực nhà nước. Cuốn sách giúp tác giả luận án có cái nhìn toàn

diện hơn về sự độc lập của tư pháp so với lập pháp và hành pháp trong thực

hiện quyền lực nhà nước.

Cuốn sách "Quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa Việt Nam – Từ lý luận đến thực tiễn" của TS. Nguyễn Văn Quyền –

PGS.TS Nguyễn Tất Viễn (Đồng chủ biên), Nxb Tư pháp, năm 2018 [67].

Cuốn sách là kết quả nghiên cứu của Đề tài khoa học độc lập cấp nhà nước:

Quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, mã số

03/2013/ĐTĐL do Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ quốc gia

(NAFOSTED) tài trợ. Cuốn sách nghiên cứu toàn diện về quyền tư pháp từ

nhận thức lý luận đến tổ chức thực hiện quyền tư pháp ở Việt Nam và một số

quốc gia trên thế giới cũng như đề xuất được mô hình tổ chức thực hiện quyền

tư pháp sau năm 2020. Về nhận thức lý luận, cuốn sách đã phân tích được các

quan niệm về quyền tư pháp, đưa ra được những giá trị phổ biến, giá trị đặc

thù và những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc tổ chức thực hiện quyền tư

pháp như yếu tố lịch sử, văn hóa, yếu tố thể chế chính trị...Về tổ chức thực

hiện quyền tư pháp, tác giả cuốn sách đã phân tích được việc tổ chức thực

hiện quyền tư pháp ở nước ta từ năm 1945 đến nay qua các bản Hiến pháp

1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 và Hiến pháp hiện

hành năm 2013. Đồng thời có sự so sánh với các quốc gia trên thế giới theo

16

hệ thống thông luật, hệ thông luật dân sự, các quốc gia hồi giáo... Đặc biệt

cuốn sách đã phân biệt và chỉ rõ được nội hàm các vấn đề: quyền tư pháp, các

hoạt động tư pháp, các hoạt động mang tính tư pháp và bổ trợ tư pháp – vấn

đề đang còn tranh luận trong giới nghiên cứu khoa học; cũng như đề xuất

được mô hình tổ chức thực hiện quyền tư pháp sau năm 2020. Đây sẽ là

nguồn tài liệu vô cùng hữu ích giúp nghiên cứu sinh trong quá trình luận giải

các vấn đề về quyền tư pháp, đặc biệt là các vấn đề lý luận hiện còn nhiều

quan điểm khác nhau.

Luận án tiến sĩ Luật học "Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ

quan tư pháp theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam" của tác

giả Trần Huy Liệu, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2003 [55]. Luận án

nghiên cứu có hệ thống cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của các cơ

quan tư pháp, vị trí vai trò của cơ quan tư pháp trong bộ máy nhà nước. Phân

tích quá trình hình thành, phát triển và thực trạng tổ chức hoạt động của các

cơ quan tư pháp Việt Nam. Trên cơ sở đó, tác giả luận án kiến nghị những

nội dung cơ bản về đổi mới tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp đáp

ứng yêu cầu đổi mới toàn diện đất nước và xây dựng nhà nước pháp quyền

Việt Nam.

Ngoài ra còn có các luận án tiến sĩ luật học tập trung nghiên cứu về vấn

đề độc lập xét xử của Tòa án ở Việt Nam hiện nay, cụ thể: Luận án tiến sĩ luật

học của Tô Văn Hòa "Tính độc lập của tòa án - nghiên cứu pháp lý về các

khía cạnh lý luận, thực tiễn ở Đức, Mỹ, Pháp, Việt Nam và các kiến nghị với

Việt Nam" [45]; Luận án tiến sĩ luật học của Nguyễn Hải Ninh "Các yếu tố

bảo đảm độc lập xét xử ở Việt Nam hiện nay" [63].

Bên cạnh đó, bài viết của các tác giả bàn luận xoay quanh các vấn đề về

quyền tư pháp chiếm số lượng không nhỏ, tiêu biểu là: GS. TS. Võ Khánh

Vinh với bài viết Về quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền XHCN của

17

dân, do dân và vì dân ở nước ta, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 8/2003

[86]; PGS.TS Trương Hòa Bình Độc lập tư pháp trong nhà nước pháp quyền

XHCN, bảo đảm cho tòa án thực hiện đúng đắn quyền tư pháp, Tạp chí

TAND, TAND tối cao, Số 16/2014 [23]; TS. Nguyễn Văn Cương (2013),

Quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền XHCN một số vấn đề đặt ra trong

tình hình mới, Tạp chí Nghề Luật, Học viện Tư pháp, Số 1/2013 [27];

PGS.TS Nguyễn Đức Minh, Khái quát về quyền tư pháp ở một số nước trên

thế giới, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2/2011 [57]; PGS.TS Nguyễn Đức

Minh (2011), Nhận thức về quyền tư pháp ở Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và

Pháp luật, Viện Nhà nước và Pháp luật, Số 6/2011 [58]; GS.TSKH Đào Trí

Úc (2010), Bàn về quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền XHCN, Tạp chí

Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Số 8/2010 [84]; …

Các bài viết trên đề cập đến quyền tư pháp trên nhiều khía cạnh khác

nhau. Có những bài viết bàn về tính độc lập của tư pháp. Có bài viết tập trung

nghiên cứu quyền tư pháp ở một số nước trên thế giới và giá trị tham khảo

cho Việt Nam. Đặc biệt, có rất nhiều bài viết tập trung luận bàn về vấn đề cải

cách tư pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp đáp

ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay. Các bài viết này giúp

tác giả luận án có cái nhìn sâu sắc hơn về quyền tư pháp, từ đó luận giải được

mối quan hệ giữa quyền tư pháp với các nhánh quyền còn lại trong tổ chức

thực hiện quyền lực nhà nước.

Nhóm công trình nghiên cứu lý luận về mối quan hệ giữa quyền tư

pháp và quyền hành pháp

Hiện nay chưa có công trình nghiên cứu chuyên biệt về mối quan hệ

giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp trong thực thi quyền lực ở Việt Nam.

Chính điều này ít nhiều đã tạo ra tình trạng thiếu tính đầy đủ và toàn diện

trong hoạt động nghiên cứu trên phương diện này. Theo đó, chủ đề nghiên

18

cứu của các công trình thuộc nhóm này thường chỉ đề cập một khía cạnh nhất

định liên quan đến mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp, chưa

mạng lại những kết quả nghiên cứu tổng thể. Có thể chỉ ra một số công trình

nghiên cứu chính sau:

Đề tài khoa học cấp Nhà nước "Phân công, phối hợp và kiểm soát

quyền lực trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam",

mã số KX04-28/06-10 do GS. TS Trần Ngọc Đường làm chủ nhiệm, (2006)

[39]. Đề tài đã được xuất bản thành sách chuyên khảo "Một số vấn đề về phân

công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong xây dựng Nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa Việt Nam" do GS.TS Trần Ngọc Đường chủ biên, Nxb

Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2011. Cuốn sách chuyên khảo này là kết quả

nghiên cứu của đề tài KX 04-28/06-10, bao gồm ba phần:

Phần thứ nhất, trình bày cơ sở lý luận về phân công, phối hợp và kiểm

soát quyền lực trong các kiểu nhà nước, trong đó phân tích quan niệm về

quyền lực; phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước trong lịch

sử; phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước trong các nhà nước

chủ nô, phong kiến, tư sản và lý luận về phân công, phối hợp và kiểm soát

quyền lực nhà nước trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Phần thứ hai, phân tích mối quan hệ phân công, phối hợp và kiểm soát

quyền lực nhà nước ở Việt Nam qua các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980,

1992 và Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001. Trong phần này, tại

chương III, tác giả bàn luận về vấn đề phân công, phối hợp, kiểm soát giữa

quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp qua các thời kỳ: Hiến pháp

1946, 1959, 1980 và Hiến pháp 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001)

Phần thứ ba, trình bày những phương hướng, giải pháp tiếp tục hoàn

thiện việc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước trong xây

dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Trong phần này, tác giả phân

19

tích nội dung hoàn thiện việc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà

nước giữa nhân dân và nhà nước; phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực

nhà nước bên trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; giữa Đảng

cầm quyền và nhà nước trong xây dựng Nhà nước pháp quyền

Đề tài là nguồn tài liệu quý cho tác giả tham khảo khi luận bàn về

những cơ sở lý luận của sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các nhánh

quyền lực, đặc biệt giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp trong thực hiện

quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay.

Cao Anh Đô, Luận án tiến sĩ Luật học tại Học viện chính trị - hành

chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội (2012), "Phân công, phối hợp giữa các

cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ở

Việt Nam" [38]. Luận án đã xây dựng cơ sở lý luận về phân công quyền lực

nhà nước về lập pháp, hành pháp, tư pháp. Làm rõ thực trạng của việc phân

công quyền lực về lập pháp, hành pháp, tư pháp trong thời kì xây dựng nhà

nước XHCN theo nguyên tắc tập quyền của mô hình Xô Viết. Đề xuất

phương hướng và giải pháp hoàn thiện mối quan hệ phân công, phối hợp

quyền lực nhà nước phù hợp với đặc thù của hệ thống chính trị nước ta trong

xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Kết quả nghiên cứu của luận án này

có giá trị tham khảo đối với tác giả khi bàn về khía cạnh phân công, phối hợp

giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp trong thực thi quyền lực ở Việt Nam

hiện nay.

Luận án tiến sĩ Luật học "Mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp

trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam" của Nguyễn Mạnh

Hùng, Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh, năm 2018 [48]. Chương 2 của

luận án nghiên cứu cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp

trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Trong chương này tác giả phân

tích, lập luận khá chi tiết về khái niệm, đặc điểm, yêu cầu và nội dung của

20

mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong nhà nước pháp quyền nói

chung. Trên cơ sở đó, chỉ ra được những nét đặc thù về đặc điểm, yêu cầu và

bản chất của mối quan hệ này trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Theo tác giả, bản chất của mối quan hệ này là: “Bản chất sự phân công giữa

lập pháp và hành pháp là nhằm để tránh tình trạng quyền lực tập trung quá

nhiều vào một cơ quan dễ dẫn đến tình trạng độc quyền và lạm dụng quyền

lực”; “Bản chất sự phối hợp giữa lập pháp và hành pháp không chỉ là cách

thức, lề lối làm việc của các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, quyền hành

pháp mà còn đảm bảo cho việc thực hiện các chức năng, mục tiêu chung của

Nhà nước, bảo đảm cho quyền lực nhà nước luôn thống nhất thuộc về Nhân

dân”; “Bản chất sự kiểm soát lẫn nhau giữa lập pháp và hành pháp là khắc

phục sự lạm quyền, sai quyền và tha hóa của quyền lực; đảm bảo quyền lập

pháp và quyền hành pháp luôn thuộc về Nhân dân” [48, tr.54]. Bên cạnh đó,

tác giả cũng chỉ ra được mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong chính

thể đại nghị, chính thể cộng hòa tổng thống và trong chính thể cộng hòa hỗn

hợp. Đây là tài liệu mà tác giả có thể tham khảo trong quá trình nghiên cứu lý

luận về mối quan hệ giữa quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp

nói chung, cũng như việc thiết lập mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền

hành pháp nói riêng.

Liên quan đến vấn đề nghiên cứu, đã có một số bài viết của các tác giả

đáng chú ý là: Nguyễn Minh Đoan, Quyền lực nhà nước là thống nhất và sự

phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền

lực nhà nước ở Việt Nam, Tạp chí Luật học, số 2/2007 [37]; Nguyễn Thị Hoài

Phương, Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực của nhánh quyền hành pháp

trong xây dựng nhà nước pháp quyền, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số

4/2011 [64]; Phạm Hồng Quang, Mối quan hệ giữa Chính phủ với các cơ

quan thực hiện quyền lập pháp và quyền tư pháp kinh nghiệm của một số

21

nước trên thế giới, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề ngành Tư

pháp nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992/2012 [65]; Tô Văn

Hòa, Kiểm soát quyền lực nhà nước trong chính thể cộng hòa tổng thống theo

Hiến pháp của Philippines, Tạp chí Luật học số 6/2012 [46]; TS. Vũ Anh

Tuấn, Bàn thêm về mối quan hệ giữa phân công, phối hợp và kiểm soát quyền

lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 5/2012

[83]; Đặng Viết Đạt, Kiểm soát quyền hành pháp trong nhà nước pháp quyền,

Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 11/2013 [36]; Dương Hương Liên, Giám sát

hoạt động hành pháp của một số nước trên thế giới và kinh nghiệm đối với

Việt Nam, Tạp chí Thanh tra, số 1/2015 [53]; Đào Trí Úc, Sửa đổi Hiến pháp

1992 và cơ chế kiểm soát quyền lực ở Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, số

844/2013 [85]; Phạm Hữu Nghị, Tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước ở

Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 9/2013

[62]; Lưu Văn Quảng, Cơ chế kiểm soát quyền lực trong bộ máy nhà nước

Mỹ, Tạp chí Quản lý nhà nước số 196/2012 [66]...

Các bài viết này tập trung phân tích mối quan hệ phân công, phối hợp,

đặc biệt là kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Một số bài

viết nghiên cứu về vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước trong bộ máy nhà

nước của một số quốc gia trên thế giới, qua đó rút ra những kinh nghiệm trong

tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam.

Đặc biệt, bài viết của TS.Tô Văn Hòa "Mối quan hệ giữa các cơ quan

thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp theo tinh thần Hiến pháp nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013", Tạp chí Luật học, đặc san

9/2014 [47]. Bài viết đã đưa ra được khái niệm quyền hành pháp, quyền tư

pháp; chỉ ra được hai nguyên tắc cơ bản tác động tới mối quan hệ giữa các cơ

quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp đó là: nguyên tắc quyền

lực nhà nước thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ

22

quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp và

nguyên tắc nhà nước pháp quyền. Đồng thời, bài viết cũng làm sáng tỏ mối

quan hệ giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và cơ quan thực hiện quyền

tư pháp trên các phương diện phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực.

Bài viết có giá trị tham khảo rất lớn đối với tác giả luận án khi nghiên cứu cơ

sở lý luận về mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp trong thực

thi quyền lực ở Việt Nam hiện nay.

1.1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về thực trạng mối quan hệ giữa

quyền tư pháp và quyền hành pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước

Đề tài khoa học cấp Bộ "Phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ

quan nhà nước trong việc thực hiện quyền hành pháp theo tinh thần Hiến

pháp năm 2013", TS. Nguyễn Thị Kim Thoa làm chủ nhiệm đề tài (2019),

Viện Khoa học pháp lý là cơ quan chủ trì [72]. Đây có thể coi là một đề tài

nghiên cứu toàn diện và chuyên sâu về quyền hành pháp trên cả phương diện

chức năng, nhiệm vụ cũng như phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ

quan nhà nước trong việc thực hiện quyền hành pháp. Ngoài phần cơ sở lý

luận về quyền hành pháp cũng như phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các

cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền hành pháp, chương 2 của đề tài

tập trung nghiên cứu về thực trạng phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các

cơ quan trong việc thực hiện quyền hành pháp.

Trong phạm vi phần thực trạng, đề tài khái quát quy định về phân công

phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện quyền hành

pháp qua các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 (sửa đổi, bổ sung

năm 2001) và tập trung ở các quy định của Hiến pháp năm 2013. Ở mỗi bản

Hiến pháp, đề tài chỉ ra được thực trạng quy định của pháp luật về mối quan

hệ giữa lập pháp và hành pháp; giữa tư pháp và hành pháp. Đề tài khẳng định:

23

Hiến pháp năm 1946 đã đảm bảo tính độc lập của các quyền lập pháp, hành

pháp và tư pháp, tạo ra cơ chế cân bằng quyền lực. Hiến pháp năm 1959, sự

phân công quyền lực đã “mờ nhạt” hơn so với Hiến pháp 1946. Hiến pháp

năm 1980, khó phân định mối quan hệ giữa quyền lập pháp, quyền hành pháp

và quyền tư pháp. Ở Hiến pháp năm 1959 và năm 1980 mối quan hệ giữa lập

pháp, hành pháp và tư pháp theo mô hình tập quyền. Hiến pháp năm 1992 đã

vận dụng những hạt nhân hợp lý của học thuyết phân quyền để xác lập mối

quan hệ giữa lập pháp, hành pháp, tư pháp theo cơ chế phân công, phối hợp.

Đến Hiến pháp năm 2013, đề tài tập trung phân tích các quy định của

pháp luật về mối quan hệ phân công, phối hợp, kiểm soát giữa cơ quan lập

pháp và cơ quan hành pháp; giữa TAND và cơ quan hành pháp; giữa Viện

kiểm sát nhân dân và cơ quan hành pháp. Trên cơ sở quy định của pháp luật,

đề tài chỉ ra được thực tiễn thực hiện mối quan hệ giữa TAND và cơ quan

hành chính trên các phương diện: xây dựng pháp luật, giáo dục pháp luật, áp

dụng các biện pháp xử lý hành chính, xét xử các vụ án hành chính, thi hành án

hành chính. Đồng thời, chỉ ra được một số tồn tại hạn chế trong mối quan hệ

giữa TAND và cơ quan hành pháp.

Như vậy, nghiên cứu sinh có thể kế thừa một số kết quả nghiên cứu của

đề tài về phần thực trạng phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan

nhà nước trong việc thực hiện quyền hành pháp như đã phân tích. Trên cơ sở

đó, có thêm nguồn tư liệu tham khảo để khai thác, phát triển và làm rõ hơn

nữa mối quan hệ giữa TAND và Chính phủ.

Luận án tiến sĩ Luật học của Cao Anh Đô tại Học viện chính trị - hành

chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội (2012), "Phân công, phối hợp giữa các

cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ở

Việt Nam" [38]. Tại chương 3 của Luận án, tác giả cũng tập trung phân tích

thực trạng phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực

24

hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp qua hai giai đoạn: trước khi

ban hành Hiến pháp năm 1992 và từ khi có Hiến pháp năm 1992. Đồng thời

chỉ ra được kết quả đạt được cũng như những tồn tại hạn chế trong mối quan

hệ này. Tuy nhiên, luận án này hoàn thiện vào thời điểm năm 2012 khi Hiến

pháp năm 2013 chưa ra đời nên chủ yếu tập trung vào mối quan hệ phân công,

phối hợp giữa cả ba nhánh quyền lực và chủ yếu là quyền lập pháp và quyền

hành pháp. Còn mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp chưa

được nghiên cứu sâu. Tuy nhiên, luận án vẫn là tài liệu có giá trị cho nghiên

cứu sinh khi nghiên cứu mối quan hệ giữa các cơ quan trong việc thực hiện

các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp giai đoạn 1946 đến 1992 - là cơ sở để

phân tích, đánh giá và so sánh với các quy định của Hiến pháp năm 2013.

Luận án tiến sĩ Luật học "Kiểm soát quyền lực hành pháp trong nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam", Lê Thị Anh Đào, năm 2017

[34]. Luận án tập trung nghiên cứu các cơ chế kiểm soát quyền lực hành pháp,

cụ thể: kiểm soát quyền lực hành pháp trong nội bộ hệ thống hành pháp; kiểm

soát quyền lực hành pháp bởi Quốc hội - lập pháp; kiểm soát quyền hành

pháp bởi TAND - tư pháp; kiểm soát bởi Hội đồng nhân dân các cấp. Đây là

những hoạt động kiểm soát từ bên trong hệ thống thực thi quyền lực nhà nước

đối với quyền hành pháp. Ngoài ra, luận án còn phân tích các hoạt động kiểm

soát từ bên ngoài hệ thống thực thi quyền lực nhà nước đối với quyền hành

pháp như: hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, giám sát của

công dân, các phương tiện truyền thông đại chúng. Trong chương 3, khi

nghiên cứu về thực trạng kiểm soát quyền hành pháp, tác giả đề cập đến thực

trạng kiểm soát của TAND - tư pháp đối với quyền hành pháp. Đây là phần

liên quan trực tiếp đến đề tài mà nghiên cứu sinh đang nghiên cứu. Ở phần

này, tác giả luận án khẳng định: hoạt động kiểm soát của TAND đối với

quyền hành pháp chủ yếu được nhận diện thông qua hoạt động xét xử các vụ

25

án hành chính; đối với các khiếu kiện quyết định hành chính hay hành vi hành

chính của các cơ quan hành chính nhà nước. Qua đó phân tích được thực tiễn

xét xử các vụ án hành chính hiện nay, chỉ ra hạn chế, bất cập và nguyên nhân.

Những kiến thức này sẽ là cơ sở để nghiên cứu sinh kế thừa và tiếp tục phát

triển khi phân tích mối quan hệ giữa TAND với Chính phủ trên phương diện

kiểm soát quyền lực.

Bài viết "Kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các

quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp" của GS.TS Phạm Hồng Thái, đăng

trên tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học 28 (2012) [69].

Trong bài viết, tác giả tập trung phân tích cơ chế kiểm soát giữa các cơ quan

nhà nước Việt Nam trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư

pháp. Trước hết, là sự kiểm soát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với cơ

quan hành chính và tư pháp. Tiếp đến là hoạt động kiểm soát của hệ thống

hành chính nhà nước đối với cơ quan quyền lực nhà nước, cơ quan hành chính

nhà nước, cơ quan tư pháp. Cuối cùng là sự kiểm soát của cơ quan tư pháp đối

với các cơ quan khác. Từ đó, chỉ ra được những hạn chế trong hoạt động kiểm

soát giữa ba nhánh quyền lực này.

Bài viết "Chính phủ trong mối quan hệ phân công, phối hợp và kiểm

soát việc thực hiện quyền tư pháp ở Việt Nam" của PGS.TS Đinh Dũng Sỹ,

đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 9/2019 [68]. Bài viết đề cập đến

thực trạng mối quan hệ phân công, phối hợp và kiểm soát giữa Chính phủ với

TAND - cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Trên cơ sở đó đề xuất một số kiến

nghị hoàn thiện mối quan hệ này. Về phần thực trạng, tác giả phân tích một số

quy định của Hiến pháp năm 2013 về phân công, phối hợp, kiểm soát quyền

lực giữa Chính phủ với TAND. Cụ thể: Khoản 5 - Điều 96 Hiến pháp năm

2013 về nhiệm vụ quản lý cán bộ công chức của Chính phủ và tổ chức công

tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống quan liêu,

26

tham nhũng trong bộ máy nhà nước; Khoản 6 - Điều 96 Hiến pháp năm 2013

về nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích nhà nước và xã hội, quyền con người,

quyền công dân của Chính phủ. Ngoài ra, tác giả còn phân tích một số quy

định của Luật Tổ chức Chính phủ năm 2014, Luật Cán bộ, công chức năm

2008, Luật thanh tra năm 2010... để thấy được một số bất cập trong việc phân

công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa Chính phủ với TAND. Bài viết

giúp nghiên cứu sinh có cái nhìn cụ thể, thấu đáo hơn khi phân tích mối quan

hệ giữa TAND và Chính phủ trên phương diện quy định của Hiến pháp và các

luật liên quan.

1.1.1.3. Nhóm công trình nghiên cứu về giải pháp bảo đảm mối quan

hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp trong thực hiện quyền lực nhà

nước

Đề tài khoa học cấp Bộ "Phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ

quan nhà nước trong việc thực hiện quyền hành pháp theo tinh thần Hiến

pháp năm 2013", TS. Nguyễn Thị Kim Thoa làm chủ nhiệm đề tài, Viện

Khoa học pháp lý là cơ quan chủ trì (2019) [72]. Trên cơ sở phân tích thực

trạng phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc

thực hiện quyền hành pháp theo tinh thần Hiến pháp năm 2013, tác giả đề tài

dành chương 3 để đưa ra các quan điểm định hướng và giải pháp hoàn thiện

mối quan hệ này. Phần giải pháp, tác giả đề tài đề xuất hai nhóm giải pháp:

nhóm giải pháp liên quan đến hoàn thiện thể chế và nhóm giải pháp liên quan

đến tổ chức thực thi chính sách, pháp luật. Ở mỗi một nhóm giải pháp đều đề

cập đến các giải pháp phối hợp, kiểm soát giữa Quốc hội với Chính phủ và

giữa TAND, Viện kiểm sát nhân dân với Chính phủ. Đặc biệt trong nhóm giải

pháp liên quan đến tổ chức thực thi chính sách pháp luật, tác giả đề tài kiến

nghị một số giải pháp về phối hợp, kiểm soát giữa TAND với Chính phủ. Cụ

thể: Nghiên cứu để chuyển Viện kiểm sát thành viện công tố; xây dựng một

27

nền tư pháp mạnh, độc lập; triển khai thành lập tòa án sơ thẩm theo thẩm

quyền xét xử; thành lập Hội đồng tư pháp quốc gia để thực hiện nhiệm vụ

quản lý tòa án thay cho TAND tối cao... Đây là những nội dung liên quan trực

tiếp đến luận án mà nghiên cứu sinh đang nghiên cứu.

Đề tài khoa học cấp Bộ "Phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ

quan nhà nước trong việc thực hiện quyền tư pháp theo tinh thần Hiến pháp

năm 2013", TS. Nguyễn Minh Khuê làm chủ nhiệm đề tài, Viện Khoa học

pháp lý là cơ quan chủ trì (2019) [52]. Đề tài gồm 3 chương, chương 1 nghiên

cứu những vấn đề lý luận về phân công, phối hợp, kiểm soát quyền tư pháp.

Chương 2, tập trung phân tích thực trạng phân công, phối hợp, kiểm soát

quyền tư pháp theo tinh thần Hiến pháp năm 2013. Trong chương này, tác giả

đề tài đã chỉ ra được thực tiễn kiểm soát quyền tư pháp bởi Chính phủ bộc lộ

những hạn chế gì. Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả

cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền tư pháp ở chương 3. Một số

giải pháp tác giả đề tài đưa ra trong chương 3 liên quan đến kiểm soát của

hành pháp đối với cơ quan thực hiện quyền tư pháp có giá trị tham khảo cho

nghiên cứu sinh trong quá trình hoàn thiện luận án của mình.

Luận án tiến sĩ Luật học "Kiểm soát quyền lực hành pháp trong nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam", Lê Thị Anh Đào, năm 2017

[34]. Như đã phân tích ở trên, đây là một luận án nghiên cứu tương đối toàn

diện và chuyên sâu về mảng kiểm soát quyền lực hành pháp. Luận án có một

phần nghiên cứu về hoạt động kiểm soát của Tòa án đối với quyền lực hành

pháp. Trong đó tại chương 4, tác giả của luận án đã đề xuất một số giải pháp

hoàn thiện các quy phạm pháp luật về cơ quan thực hiện quyền tư pháp kiểm

soát quyền lực hành pháp - có giá trị tham khảo cho nghiên cứu sinh khi hoàn

thiện mối quan hệ giữa TAND và Chính phủ trên phương diện kiểm soát.

28

Luận án tiến sĩ Luật học "Kiểm soát quyền lực tư pháp trong nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam", Nguyễn Quốc Hùng, năm 2016 [49].

Đây cũng là một luận án nghiên cứu chuyên sâu về kiểm soát quyền lực

nhà nước nói chung và kiểm soát quyền lực tư pháp nói riêng. Luận án đã

nhận diện được quyền lực tư pháp, tính tất yếu phải kiểm soát quyền lực tư

pháp và cơ chế kiểm soát quyền lực tư pháp. Cũng như kiểm soát quyền lực

hành pháp, kiểm soát quyền lực tư pháp bao gồm: cơ chế kiểm soát bên trong

hệ thống thực thi quyền lực nhà nước và cơ chế kiểm soát bên ngoài hệ thống

thực thi quyền lực nhà nước. Trong cơ chế kiểm soát bên trong, luận án cũng

đề cập đến kiểm soát của quyền lực hành pháp với quyền lực tư pháp. Theo

đó, luận án cũng phân tích thực trạng kiểm soát của quyền lực hành pháp đối

với quyền lực tư pháp và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm

soát của hai nhánh quyền lực này. Đây là nội dung mà nghiên cứu sinh có thể

tham khảo, vận dụng để giải quyết mối quan hệ giữa quyền hành pháp và

quyền tư pháp trên phương diện kiểm soát.

Bài viết "Chính phủ trong mối quan hệ phân công, phối hợp và kiểm

soát việc thực hiện quyền tư pháp ở Việt Nam", PGS.TS Đinh Dũng Sỹ, đăng

trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 9/2019 [68]. Như đã phân tích ở nhóm

các công trình nghiên cứu về thực trạng mối quan hệ giữa quyền tư pháp và

quyền hành pháp, bài viết này đã đề xuất một số giải pháp hoàn thiện mối

quan hệ phân công, phối hợp, kiểm soát giữa Chính phủ với TAND. Cụ thể,

tác giả đề xuất ba giải pháp: thống nhất thẩm quyền Chính phủ quản lý đội

ngũ cán bộ, công chức; đổi mới cơ chế quản lý về mặt tổ chức đối với đội ngũ

thẩm phán và đổi mới cơ bản mô hình tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát

nhân dân theo hướng thành lập Viện công tố thuộc hệ thống hành pháp.

Những đề xuất kiến nghị này sẽ là tài liệu tham khảo để nghiên cứu sinh hoàn

thiện chương 4 trong luận án của mình.

29

1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài

1.1.2.1. Nhóm công trình nghiên cứu lý luận về mối quan hệ giữa quyền

tư pháp và quyền hành pháp

Mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp trước hết gắn với

việc phân định giữa quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp trong

tổ chức quyền lực nhà nước nhằm bảo đảm quyền lực nhà nước không bị lạm

dụng. Vì vậy, có rất nhiều công trình nghiên cứu về các bộ phận quyền lực nhà

nước, mối quan hệ giữa các bộ phận quyền lực nhà nước, kiểm soát các bộ

phận quyền lực nhà nước trong mối tương quan với quyền lực nhân dân ở các

nước trên thế giới. Có thể kể đến các công trình tiêu biểu như sau:

Tổ chức quyền lực nhà nước và các bộ phận quyền lực nhà nước là chủ

đề nghiên cứu đã có từ rất sớm trong lịch sử hình thành và phát triển của khoa

học chính trị - pháp lý. Trong tác phẩm “Chính trị (Polistics, 350 TCN) và Hiến

pháp Athens (Athenian Constitution, 350 TCN)", Aristotle đã phân chia quyền

lực nhà nước bao gồm ba thành tố cơ bản, gắn với ba chức năng: nghị luận,

chấp hành và xét xử. Trong đó quyền hành pháp hiểu theo ngày nay đó chính là

quyền chấp hành như quan niệm của Aristole.

- Cuốn sách “Khảo luận thứ hai về chính quyền, chính quyền dân sự”

của J. Locke (1632-1704) [92]. Đây là một trong những danh tác chính trị thế

giới, cuốn sách này vừa tiếp nối dòng chảy liên tục của tư tưởng nhân loại về

phạm trù “nhà nước”, “quyền lực” từ thời Hy Lạp - La Mã cổ đại đến thời Phục

Hưng, vừa góp phần tạo tiền đề trực tiếp cho trào lưu Khai sáng Pháp thế kỷ

XVIII. Cuốn sách là một chuyên luận về nguồn gốc, phạm vi và mục đích chân

chính của chính quyền dân sự. Trong tác phẩm, ông đã chỉ ra sự phân chia

quyền lực nhà nước như một sự phân công lao động hợp lý: lập pháp là quyền

lực cao nhất trong bộ máy nhà nước và thuộc về nghị viện. Nghị viện thông

qua các đạo luật, còn việc thực hiện chúng là phần việc của cơ quan hành pháp.

30

Còn dân chúng hay cộng đồng xã hội sẽ giữ quyền phán xử trong các tranh

chấp giữa bộ ba lập pháp - hành pháp - dân chúng. Điều đáng tiếc là ông chưa

nhận thấy thẩm quyền tài phán lẽ ra phải thuộc về một quyền lực độc lập khác

(quyền lực tư pháp) trong hệ thống các cơ quan nhà nước. Bên cạnh đó, ông

cũng nhấn mạnh phải kiểm soát quyền lực và coi pháp luật là phương tiện để

nhân dân thực hiện quyền kiểm soát của mình đối với quyền lực nhà nước.

- Tác phẩm “Bàn về khế ước xã hội” của Rousseau (1712-1778) [93].

Khế ước xã hội gồm 4 quyển, mỗi quyển có từ mười tới mười lăm chương.

Trong tác phẩm này, ông cho rằng cần có một thực thể để làm luật và thi hành

pháp luật. Rousseau nhấn mạnh là cần có hai cơ quan tách biệt hoàn toàn để

phụ trách hai nhiệm vụ này. Chính quyền, còn gọi là cơ quan hành pháp, là “cơ

quan trung gian làm nhiệm vụ truyền thông giữa người dân và Hội đồng tối

cao, và thi hành luật pháp cũng như bảo đảm tự do dân sự và chính trị.” Chính

quyền hay người đứng đầu guồng máy chính quyền, do đó, chỉ là những nhân

viên thừa hành, có ăn lương, nhân danh Hội đồng tối cao sử dụng quyền lực

được trao cho để thi hành pháp luật. Ông ví quyền lập pháp như trái tim của

nhà nước, quyền hành pháp là bộ óc điều khiển các chi thể hoạt động. Khi bộ

óc bị tê liệt, con người vẫn có thể còn sống dù chỉ sống như thực vật, nhưng khi

quả tim ngừng đập thì con người sẽ chết. Mặt khác, Rousseau nhận thấy có một

vấn nạn là khi nắm giữ quyền lực trong tay, chính quyền dễ có khuynh hướng

lạm dụng quyền hành, và khi chính quyền càng cần nhiều quyền lực để điều

hành thì chủ quyền tối thượng cũng cần có quyền lực tương đương để kiềm chế

chính quyền khỏi lạm dụng quyền hành. Như vậy, Rousseau cũng là một trong

những nhà tư tưởng đề cập đến vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước.

- Tác phẩm “Tinh thần pháp luật” (De l’esprit des lois) của nhà khai

sáng vĩ đại người Pháp - C.L. Montesquieu (1689-1775) về phân chia quyền

lực [60]. Tác phẩm này đã được dịch sang Tiếng Việt với các bản dịch của

31

Trần Xuân Ngạn - “Vạn pháp tinh lý” năm 1961 (Nxb Sài Gòn) và bản dịch

của Hoàng Thanh Đạm - “ Tinh thần pháp luật” năm 1996 và năm 2006 (Nxb

Giáo dục Hà Nội và Nxb Lý luận chính trị). Ông đã kế thừa những luận điểm

phân quyền của J.Locke để phát triển một cách toàn diện học thuyết phân

quyền. Do đó, khi nhắc tới thuyết phân quyền, người ta nghĩ ngay đến

Montesquieu. Ông cho rằng, để tránh hiện tượng lạm quyền thì quyền lực nhà

nước phải được chia sẻ thay vì độc quyền. Trong học thuyết phân quyền của

mình, ông lý giải tính tất yếu của việc tách bạch các nhánh quyền lực và nhà

nước có ba bộ phận quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các quyền này độc

lập nhưng phải tuân thủ trật tự nhất định. Và điều làm nên tầm vóc lớn lao có ý

nghĩa thời đại trong học thuyết phân chia quyền lực của Montesquieu chính là

sự phân chia quyền lực để tiến tới kiểm soát quyền lực, dùng quyền lực để giới

hạn quyền lực, nhằm mục đích không để quyền lực đi đến chỗ lạm quyền. Theo

Montesqueieu, cách thức tổ chức quyền lực nhà nước là: “Cơ quan lập pháp

trong chính thể ấy gồm có hai phần, phần này ràng buộc phần kia do năng

quyền ngăn cản hỗ tương. Cả hai phần sẽ bị quyền hành pháp ràng buộc và

quyền hành pháp sẽ bị quyền lập pháp ràng buộc” [60, tr.144] ; và quyền pháp

xét “…phải do những người trong đoàn thể dân chúng được cử ra theo từng

thời gian trong một năm, do luật quy định thành tòa án, làm việc kéo dài bao

lâu tùy theo sự cần thiết” [60, tr.100]. Có thể khẳng định, những tư tưởng mang

tính chất khai sáng của Montesquieu trong tác phẩm “Tinh thần pháp luật” như:

sự phân chia các nhánh quyền lực, đặc điểm và mối quan hệ giữa các nhánh

quyền lực… là nguồn tư liệu vô cùng quan trọng để nghiên cứu sinh kế thừa và

phát triển trong luận án của mình, đặc biệt trong phần cơ sở lý luận của luận án.

1.1.2.2. Nhóm công trình nghiên cứu thực trạng và giải pháp bảo đảm

mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp

Thực tiễn cho thấy không có mô hình chung, duy nhất cho cách thức tổ

32

chức quyền lực ở các quốc gia trên thế giới, và vì vậy thực tiễn mối quan giữa

quyền tư pháp và quyền hành pháp có sự khác nhau giữa các nước. Công trình

nghiên cứu về thực trạng và giải pháp bảo đảm mối quan hệ giữa quyền tư pháp

và quyền tư pháp ở một số quốc gia tiêu biểu như sau:

- Ở Hoa Kỳ, Phân quyền trong tổ chức quyền lực nhà nước là một trong

những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa lập hiến. Trong Tập luận thuyết Liên

bang (the Federalist Papers) [96] , A. Hamilton cho rằng bằng việc phân chia

thành ba nhánh quyền lực độc lập và kiểm soát lẫn nhau, các nhà lập hiến đã

thể hiện mục đích giữ cho các nhánh quyền lực chính (lập pháp, hành pháp và

tư pháp) độc lập và không bị chi phối bởi nhánh quyền lực nào. Nhánh hành

pháp và tư pháp cần tuân theo các đạo luật, nhưng điều đó không có nghĩa là

phải chiều theo ý muốn của cơ quan lập pháp. Đồng thời, ông nhận định rằng,

trong ba nhánh quyền lực, tư pháp được xem là nhánh quyền lực mềm yếu nhất

bởi: (i) tư pháp không có quyền kiểm soát tài chính, đặt ra các quy định về

quyền và nghĩa vụ của công dân như cơ quan lập pháp; và (ii) sức mạnh của tư

pháp bị giới hạn trong việc tuyên án, còn việc thi hành phán quyết cần phải dựa

vào sự trợ giúp của nhánh hành pháp.

- Cuốn sách “Kiểm soát và cân bằng quyền lực” của James Burns xuất

bản năm 1984 [94] và cuốn “Phân chia quyền lực, hệ thống kiểm soát và cân

bằng quyền lực” của Daniel Hall xuất bản năm 1997 [28]. Đây là hai cuốn sách

nghiên cứu chuyên sâu về sự phân chia và kiểm soát quyền lực trong tổ chức

bộ máy nhà nước Hoa Kỳ - quốc gia áp dụng triệt để nhất học thuyết phân

quyền của Montesquieu. Trên cơ sở phân tích các quy định của Hiến pháp Hoa

Kỳ, James Brurns và Daniel Hall đã chỉ ra phương thức phân chia quyền lực

giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đồng thời, xem xét cơ chế

kiểm soát và cân bằng quyền lực trong tổ chức bộ máy nhà nước ở quốc gia

này. Theo đó, ở Hoa Kỳ, Chính phủ (cơ quan hành pháp), đứng đầu là Tổng

33

thống, hoàn toàn độc lập với Nghị viện (cơ quan lập pháp). Quyền lực của

Tổng thống được Hiến pháp trực tiếp trao cho mà không phụ thuộc vào sự

kiểm soát chính trị của Nghị viện. Chính vì vậy, trong mô hình phân quyền

này, cơ quan hành pháp còn được gọi là Chính phủ Tổng thống.

- Cuốn sách “Khái quát về chính quyền Hợp chủng quốc Hoa Kỳ”

(Người dịch: Trần Đình Nghiên, Hoàng Long, Nxb. Chính trị quốc gia, 2003)

[61]. Cuốn sách tập trung nghiên cứu về cơ cấu tổ chức của chính quyền Hoa

Kỳ. Tại Chương III, IV, V của tác phẩm thể hiện nội dung về ngành lập pháp,

hành pháp, tư pháp. Tổng thống - người đứng đầu ngành hành pháp - có nhiệm

vụ bảo vệ Hiến pháp và thực thi pháp luật do Nghị viện ban hành. Đây là một

trong những chức vụ có thế quyền nhất trong bộ máy nhà nước, tuy vậy vẫn có

những hạn chế quyền lực nhất định đối với Tổng thống. Chính quyền Hợp

Chủng quốc Hoa Kỳ được xây dựng trên nền tảng nguyên tắc tam quyền phân

lập. Vì vậy đây là mô hình không thể không nhắc đến khi nghiên cứu mối quan

hệ giữa quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp nói chung và mối

quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp nói riêng.

- Tài liệu “Issue 7: The Judiciary’s Relationships with the Other

Branches of Government” [109] (Vấn đề 7: Mối quan hệ của Cơ quan Tư pháp

với các cơ quan khác của chính quyền) đã chỉ ra rằng mối quan hệ giữa cơ quan

tư pháp và cơ quan hành pháp ở Hoa Kỳ đặc biệt quan trọng trong các lĩnh vực

mà cơ quan hành pháp chịu trách nhiệm chính như báo cáo hoạt động tài chính

hàng năm của chính phủ, an ninh và quản lý cơ sở vật chất của cơ quan tư

pháp. Tăng cường cơ hội trao đổi giữa cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp

giúp cơ quan tư pháp có thể củng cố vai trò của mình, đồng thời cơ quan tư

pháp phải duy trì mức độ thích hợp sự tự túc và quyền quyết định trong thực

hiện công việc của mình. Cơ quan hành pháp cung cấp các dịch vụ quan trọng

cho hoạt động của cơ quan tư pháp như chỗ làm việc, an ninh, nhân sự, và phát

34

triển, thực hiện các chính sách và thủ tục có ảnh hưởng đến việc quản lý tư

pháp. Do vậy, Chiến lược được đề ra để tăng cường mối quan hệ giữa cơ quan

tư pháp và cơ quan hành pháp là thúc đẩy trao đổi thông tin với cơ quan hành

pháp để tạo điều kiện thuận lợi cho việc xem xét những thay đổi chính sách và

các giải pháp khác nhằm cải thiện quản lý tư pháp.

- “A Comparison of Executive and Judicial Powers under the

Constitutions of Argentina and the United States” [97] (So sánh quyền hành

pháp và quyền tư pháp trong Hiến pháp của Argentina và Hoa Kỳ) của

Alexander W. Weddell, Bulletin of the College of William and Mary in

Virginia, Vol.31, No.8, năm 1937 đã phân tích những điểm khác biệt về cách

thức tổ chức quyền lực nhà nước, đặc biệt là quyền hành pháp và quyền tư

pháp ở Argentina và Hoa Kỳ. Trong khi, mô hình tổ chức của Hoa Kỳ có nhiều

điểm tương đồng với mô hình Anglo-Saxon mà nhấn mạnh đến quyền lập pháp

(essentially leglative), thì mô hình của các quốc gia Mỹ Latinh là nhấn mạnh

quyền hành pháp (essentially executive). Thêm vào đó, quyền tư pháp của Hoa

Kỳ được hình thành và phát triển dựa trên nền tảng sự độc lập của tư pháp,

trong khi đó, Argentina đã gặp nhiều khó khăn trong việc bảo đảm quyền tư

pháp không bị lấn áp bởi quyền hành pháp. Nghiên cứu đã phân tích quy định

của Hiến pháp Argentina và Hiến pháp Hoa Kỳ để minh chứng cho những nhận

định trên, đồng thời lý giải sự khác biệt từ khía cạnh lịch sử, văn hóa, nền tảng

tư tưởng ở mỗi quốc gia.

- Những quan sát của Marcelo Figueiredo trong bài tham luận “The

Relationship between the Judiciary and the Executive Branches in Brazil: A

View from the Latin-American Standpoint” [102] (Mối quan hệ giữa cơ quan tư

pháp và cơ quan hành pháp ở Brazil: góc nhìn từ quan niệm Mỹ Latin) tại Hội

thảo Courts and Executive Powers, University of Johanneburg, ngày 28-29

tháng 5 năm 2015 cũng đồng tình rằng hành pháp là nhánh quyền lực mạnh

35

nhất ở các nước Mỹ Latinh, đặc biệt là các nước theo tổng thống chế

(presidentialism). Tuy nhiên, cải cách trong những năm vừa qua đã nâng cao vị

thế của quyền tư pháp trong tương quan với quyền hành pháp thông qua cơ chế

tài phán hiến pháp (judicial review). Theo đó, các chính sách của cơ quan hành

pháp có thể bị xem xét, bị bãi bỏ, thậm chí bị thay thế bởi cơ quan tư pháp.

Điều này cho thấy, hiến pháp của các quốc gia Mỹ Latin đang dần hướng tới

vai trò quan trọng của quyền tư pháp.

- Ở Úc, độc lập tư pháp là một trong những trụ cột chính của tổ chức

quyền lực nhà nước thể hiện trong Hiến pháp. Bài tạp chí “Judicial

Independence from the Executive: A first-principles review of the Australian

cases” [104] (Độc lập của tư pháp trong mối quan hệ với hành pháp: Đánh giá

nguyên tắc đầu tiên về các vụ việc ở Úc) của Rebecca Ananian-Welsh và

George Williams, Tạp chí Monash University Law Review, Vol.40, No.3, năm

2015 đã nhận diện bốn tiêu chí chính yếu độc lập tư pháp: bổ nhiệm, nhiệm kỳ

và tiền lương, độc lập trong hoạt động, độc lập trong vấn đề ra phán quyết và

độc lập của cá nhân. Vai trò mạnh mẽ của thẩm phán bảo đảm sự độc lập của tư

pháp trong mối quan hệ với hành pháp, đặc biệt ở khía cạnh ra quyết định tư

pháp; đồng thời, các thẩm phán bị hạn chế về những gì họ có thể làm. Tuy

nhiên, một số điểm yếu đã được các tác giả chỉ ra trong bảo đảm độc tập tư

pháp ở Úc như: bảo vệ độc lập tư pháp ở cấp liên bang mạnh hơn ở cấp bang

và vùng lãnh thổ, độc lập trong hoạt động của các tòa án liên bang có thể chịu

sự can thiệp của hành pháp, chẳng hạn việc cắt giảm kinh phí hoạt động cho tòa

án có thể ảnh hưởng đến khả năng thực hiện chức năng hiến định của tòa án.

- Thực tiễn ở Úc cũng cho thấy có những bất đồng giữa cơ quan hành

pháp và cơ quan tư pháp trong một số vấn đề quan trọng. Bài nghiên cứu

“Cycles of judicial and executive power in irregular migration” [103] (Chu

trình của quyền lực tư pháp và hành pháp đối với di cư trái phép) của các tác

36

giả Marinella Marmo và Maria Giannacopoulos, Tạp chí Comparative

Migration Studies, số 5(1), năm 2017 chỉ ra rằng những đấu tranh quyền lực

(power struggles) giữa cơ quan tư pháp và cơ quan hành pháp được thúc đẩy

bởi những xung đột trong vấn đề an ninh, kiểm soát biên giới, quyền con người

liên quan đến di cư trái phép. Thông qua phân tích các phán quyết của tòa án

Úc và Tòa án quyền con người châu Âu, các tác giả nhận thấy một chu trình:

cơ quan hành pháp cố gắng tạo ra một vùng đệm để tránh hoặc giảm thiểu các

biện pháp bảo vệ và tài phán hiến pháp (judicial review) đối với người di cư,

trong khi đó, các thẩm phán phản đối hành động này; tiếp sau đó, chính phủ (cơ

quan hành pháp) bày tỏ sự thất vọng về những can thiệp của tòa án nhằm làm

mất uy tín của việc thực hiện quyền tư pháp, trong khi cơ quan tư pháp vẫn tập

trung vào vấn đề pháp quyền. Tuy nhiên, một nghịch lý rằng những nỗ lực của

cơ quan hành pháp nhằm hạn chế sự can thiệp của cơ quan tư pháp thực tế lại là

trao quyền cho cơ quan tư pháp.

- Bài tham luận “Tensions between the Executive and the Judiciary”

[105] (Sự xung đột giữa Cơ quan hành pháp và Cơ quan tư pháp) của Thẩm

phán McHugh AC tại Hội thảo Australian Bar Association Conference, ngày

10 tháng 7 năm 2002 đã nhận diện một số vấn đề có thể dẫn tới xung đột giữa

cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp trong lĩnh vực luật hành chính. Trong

khi cơ quan tư pháp tin rằng việc mở rộng tài phán hiến pháp là cần thiết để lấp

khoảng trống bởi các quyết định của chính phủ, thì cơ quan hành pháp cho rằng

mở rộng tài phán hiến pháp là sự xâm phạm thẩm quyền của cơ quan hành

pháp. Các quan chức hành pháp cũng lo ngại rằng việc xem xét lại các quyết

định hành chính có thể dẫn đến hậu quả chính trị, tức là ảnh hưởng đến hình

ảnh và chương trình nghị sự của cơ quan hành pháp. Tác giả kết luận rằng sự

xung đột giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp là tất yếu và việc xóa bỏ nó

là không tưởng. Tuy nhiên, có thể giảm bớt sự xung đột này, nếu cơ quan hành

37

pháp và cơ quan tư pháp nhận ra mỗi bên có vai trò riêng và được trang bị tốt

hơn bên kia trong thực hiện vai trò của mình.

- Pháp cũng là quốc gia áp dụng nguyên tắc phân quyền trong tổ chức

quyền lực nhà nước nhưng có những điểm khác biệt so với các quốc gia theo hệ

thống pháp luật chung (common law). Điều này tác động đến mối quan hệ giữa

quyền tư pháp và quyền hành pháp ở Pháp. Công trình “Executive Discretion

and Judicial Control” [99] (Quyền quyết định của cơ quan hành pháp và kiểm

soát của tư pháp) của C. J. Hamson, nhà xuất bản London Stevens & Sons

Limited, năm 1954 đã thảo luận các vấn đề liên quan đến mối quan hệ giữa

quyền hành pháp và quyền tư pháp ở Pháp. Cơ quan hành pháp được lãnh đạo

đồng thời bởi nguyên thủ quốc gia (Tổng thống) và người đứng đầu Chính phủ

(Thủ tướng). Trong khi Tổng thống do toàn thể dân chúng bầu ra, thì người

đứng đầu Chính phủ và các bộ trưởng được thành lập trên cơ sở của Nghị viện

(Hạ viện). Vì vậy, quyền hành pháp phần nào đó phụ thuộc vào quyền lập

pháp, nhưng lại độc lập với quyền tư pháp. Trong tổ chức hành chính, hệ thống

cơ quan tài phán hành chính (administrative tribunals), đứng đầu là Hội đồng

Nhà nước (Conseil d'État), quản lý và kiểm soát hoạt động của các cơ quan

hành chính và hành pháp, giải quyết trnah chấp giữa cá nhân với các cơ quan

nhà nước. Vì vậy, việc thiếu cơ chế kiểm soát tư pháp đối với quyền hành pháp

được cân bằng bởi hệ thống tòa án hành chính. Trong khi đó, tòa án thông

thường không có thẩm quyền xem xét các quyết định và hành động của cơ

quan hành pháp và hành chính.

- “The Constitution of Vietnam: A Contextual Analysis” (Hiến pháp Việt

Nam: Phân tích bối cảnh) của Mark Sidel Oxford: Hart Publishing, 2009 [101].

Đây là một trong số các công trình nghiên cứu sâu về Hiến pháp và tổ chức bộ

máy nhà nước của Việt Nam của Mark Sidel. Trong cuốn sách này, tác giả giới

thiệu sự phát triển và tập trung phân tích nội dung của các bản Hiến pháp năm

38

1946, 1959, 1980 và 1992 (sửa đổi năm 2001). Ông cũng đề cập đến nguyên

tắc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước và một số hạn chế

bất cập trong việc thực hiện cơ chế tại Việt Nam. Chẳng hạn, vấn đề “tập trung

quyền lực” vào Quốc hội với tư cách là “cơ quan quyền lực nhà nước cao

nhất”, vai trò hạn chế nhất định của Chính phủ với tư cách là “cơ quan chấp

hành” của Quốc hội, nét đặc thù về hệ thống cơ quan công tố (Viện kiểm sát

nhân dân) khi các cơ quan này là một hệ thống độc lập, không thuộc về nhánh

hành pháp giống như thông lệ tại nhiều quốc gia. Bên cạnh đó, ông đặc biệt

quan tâm đến vấn đề độc lập của tư pháp theo quy định của Hiến pháp năm

1992. Ở vấn đề này, Mark Sidel so sánh với Trung Quốc để có cái nhìn đa

chiều hơn. Có thể nói, đây là cuốn sách nghiên cứu tương đối toàn diện về lịch

sử lập hiến Việt Nam và cung cấp những hiểu biết quan trọng về định hướng

cải cách hiến pháp trong tương lai. Đây là nguồn tài liệu quan trọng để nghiên

cứu sinh tham khảo khi viết về phần thực trạng và giải pháp của luận án.

1.2. Nhận xét về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án

1.2.1. Nhận xét chung về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Qua việc nghiên cứu các công trình trong nước và nước ngoài, có thể

đưa ra một số nhận xét sau:

Thứ nhất, số lượng các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận

án khá phong phú, đa dạng, được tiếp cận từ nhiều hướng khác nhau, ở mức độ

liên quan khác nhau. Đây sẽ là thuận lợi cho nghiên cứu sinh khi tiếp cận,

nghiên cứu, so sánh và giải quyết các vấn đề của đề tài luận án.

Thứ hai, các công trình trong nước tập trung nghiên cứu các vấn đề liên

quan đến: nguyên tắc phân công, phối hợp, kiểm soát giữa quyền lập pháp,

hành pháp và tư pháp; nghiên cứu chuyên sâu về nhánh quyền hành pháp và

kiểm soát quyền lực hành pháp, về nhánh quyền tư pháp và kiểm soát quyền

lực tư pháp; mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp…Trong những công trình

39

nghiên cứu này cũng đã phần nào đề cập đến mối quan hệ giữa quyền tư pháp

và quyền hành pháp, nhưng chủ yếu trên phương diện kiểm soát quyền lực.

Hiện chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu tập trung, chuyên sâu, một

cách có hệ thống về mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp trong

thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay.

Thứ ba, các công trình nghiên cứu của nước ngoài tập trung nhiều vào

nghiên cứu lý luận và thực trạng mối quan hệ giữa ba ngành: lập pháp, hành

pháp và tư pháp. Có học giả nước ngoài cũng đã nghiên cứu tương đối toàn

diện về lịch sử lập hiến Việt Nam và cũng đã đề cập đến nguyên tắc phân công,

phối hợp, kiểm soát quyền lực nhà nước trong tổ chức hoạt động của bộ máy

nhà nước ta. Những công trình nghiên cứu mà tác giả luận án tiếp cận là những

tư liệu quan trọng, giúp giải quyết các nhiệm vụ mà luận án đặt ra.

1.2.2. Những vấn đề nghiên cứu đã sáng tỏ và được luận án kế thừa,

phát triển trong nghiên cứu đề tài

Căn cứ tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến chủ đề

luận án, có thể nhận thấy một số nội dung liên quan đến đề tài luận án đã

được giải quyết, đạt được sự thống nhất cao và đề tài có thể tiếp thu, kế thừa,

cụ thể:

Trên phương diện lý luận

- Các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đã chỉ ra rằng: nguồn

gốc của quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nhân dân. Do vậy, để quyền lực nhà

nước thực sự thuộc về nhân dân, tránh lộng quyền và lạm quyền, nhất thiết phải

được phân chia hoặc phân công cho các cơ quan nhà nước khác nhau thực hiện.

Đến nay, lý luận và thực tiễn đa số thừa nhận luận điểm của Montesquieu theo

đó quyền lực nhà nước được cấu thành từ ba quyền lập pháp, hành pháp và tư

pháp. Ba loại quyền này cần giao cho ba cơ quan nhà nước khác nhau nắm giữ

để tránh cho xã hội rơi vào tình trạng chuyên quyền, độc đoán.

40

- Ba nhánh quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp có mối quan hệ với

nhau, trong đó thừa nhận tính độc lập của tư pháp.

- Có đề tài đã đưa ra được khái niệm quyền hành pháp, quyền tư pháp,

cơ quan thực hiện quyền hành pháp, cơ quan thực hiện quyền tư pháp.

- Các công trình nghiên cứu trong nước đề cập tương đối nhiều đến mối

liên hệ giữa ba nhánh quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tuy nhiên, chủ

yếu tập trung vào mối liên hệ giữa lập pháp và hành pháp, còn mối liên hệ

giữa tư pháp và hành pháp việc nghiên cứu chưa được hệ thống, toàn diện.

Trên phương diện thực tiễn

- Các công trình nghiên cứu nước ngoài đề cập tương đối rõ nét về thực

tiễn mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp. Tùy cách thức tổ

chức bộ máy nhà nước ở mỗi quốc gia mà mối quan hệ này có sự khác nhau.

Có những quốc gia, sự độc lập của tư pháp trên thực tế rất rõ nét (Hoa Kỳ),

nhưng có những quốc gia xu hướng quyền hành pháp lấn át quyền tư pháp (

Argentina), có những quốc gia nâng cao vị thế của quyền tư pháp trong tương

quan với quyền hành pháp thông qua cơ chế tài phán hiến pháp (các quốc gia

Mỹ Latin), có quốc gia cơ chế kiểm soát của tư pháp đối với quyền hành pháp

được cân bằng bởi hệ thống tòa án hành chính (Pháp).

- Một số công trình nghiên cứu trong nước đã đề cập đến thực trạng tổ

chức quyền hành pháp trong nhà nước Việt Nam từ năm 1945 đến nay, thực

trạng quyền tư pháp trong nhà nước Pháp quyền XHCN Việt Nam.

- Đã có công trình đề cập đến thực trạng phân công, phối hợp giữa các

cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư

pháp trước khi ban hành Hiến pháp năm 1992 và từ khi có Hiến pháp năm

1992 đến nay. Tuy nhiên, thực trạng mối quan hệ giữa quyền tư pháp và

quyền hành pháp qua các bản Hiến pháp Việt Nam chưa được quan tâm

nghiên cứu, cần được tiếp tục làm rõ.

41

Trên phương diện đề xuất, kiến nghị

- Một số công trình hướng đến việc nghiên cứu để đưa ra các kiến nghị,

đề xuất hoàn thiện việc tổ chức thực hiện quyền hành pháp, quyền tư pháp

trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam

- Có công trình hướng đến việc đề xuất các giải pháp hoàn thiện việc

phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập

pháp, hành pháp và tư pháp.

1.2.3. Những vấn đề liên quan đến đề tài luận án còn chưa được giải

quyết hoặc giải quyết chưa được thấu đáo mà luận án cần tiếp tục nghiên cứu

Về phương diện lý luận

- Khái niệm, đặc điểm, nội dung mối quan hệ giữa quyền tư pháp và

quyền hành pháp: đây là vấn đề đã được đề cập đến ở các khía cạnh khác

nhau trong một số công trình khoa học, tuy nhiên chưa được nghiên cứu thấu

đáo. Việc nghiên cứu này sẽ chỉ ra những vấn đề lý luận cơ bản để tác giả

nghiên cứu các chương tiếp theo của luận án.

- Về vai trò xác lập mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành

pháp: các công trình nghiên cứu đã công bố tuy có đề cập đến nhưng đó là

mối quan hệ giữa quyền lập pháp và quyền hành pháp. Trong khi đó, mối

quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp có những nét rất đặc thù,

khác biệt thì chưa được quan tâm nghiên cứu.

- Các điều kiện bảo đảm mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành

pháp: các công trình nghiên cứu đã công bố tuy có đề cập đến các điều kiện

đảm bảo mối quan hệ giữa các nhánh quyền lực nhưng ở mức độ hạn chế, trong

khi đây là vấn đề quan trọng, làm cơ sở, tiền đề cho việc nghiên cứu giải pháp

bảo đảm mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp. Do đó, luận án

sẽ tập trung nghiên cứu các điều kiện đảm bảo đảm mối quan hệ này.

42

Về phương diện thực trạng

Trên thực tế đã có những công trình nghiên cứu về thực trạng phân công,

phối hợp giữa ba nhánh quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp từ Hiến pháp

năm 1946 đến Hiến pháp năm 1992. Tuy nhiên, các công trình này chỉ tập

trung nghiên cứu về thực trạng phân công, phối hợp giữa ba nhánh quyền mà

chưa đi sâu vào hai nhánh quyền tư pháp và hành pháp, đặc biệt vấn đề kiểm

soát giữa hai nhánh quyền này. Luận án sẽ kế thừa những nghiên cứu trước đó,

tiến hành phân tích một cách có hệ thống thực trạng quy định của Hiến pháp và

các văn bản pháp luật cũng như thực tiễn mối quan hệ giữa quyền tư pháp và

quyền hành pháp trong thực thi quyền lực ở nước ta. Từ đó, chỉ ra được những

ưu điểm, tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại hạn chế đó để đề xuất các

giải pháp trong chương 4 của luận án.

Về phương diện giải pháp, kiến nghị

Như đã nói ở trên, một số công trình nghiên cứu cũng đã đưa ra được

các kiến nghị, đề xuất hoàn thiện việc tổ chức thực hiện quyền hành pháp,

quyền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, giải pháp hoàn

thiện việc phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện các

quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tuy nhiên, chưa có một công trình

nghiên cứu chuyên sâu nào để đưa ra được các kiến nghị, đề xuất hoàn thiện

mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp trong thực hiện quyền

lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Do vậy, luận án sẽ tiếp thu có chọn lọc và

tiếp tục nghiên cứu đề xuất hệ thống giải pháp mang tính cụ thể, khả thi.

Xuất phát từ sự phân tích thực trạng tình hình nghiên cứu liên quan đến

đề tài luận án nêu trên, có thể thấy những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên

cứu bao gồm:

Thứ nhất, về khái niệm, đặc điểm, nội dung mối quan hệ giữa quyền tư

pháp và quyền hành pháp, vai trò xác lập mối quan hệ giữa quyền tư pháp và

43

quyền hành pháp. Kết quả nghiên cứu phải đưa ra được các khái niệm có căn

cứ lập luận khoa học thuyết phục. Phân tích được mối quan hệ giữa quyền tư

pháp và quyền hành pháp trên ba phương diện: phân công, phối hợp, kiểm

soát quyền lực giữa hai nhánh quyền này.

Thứ hai, xác định và phân tích các điều kiện bảo đảm mối quan hệ giữa

quyền tư pháp và quyền hành pháp

Thứ ba, quá trình hình thành và phát triển mối quan hệ giữa quyền tư

pháp và quyền hành pháp trong lịch sử lập hiến Việt Nam cũng như thực tiễn

mối quan hệ của hai nhánh quyền này hiện nay. Từ đó chỉ ra được những ưu

điểm, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế tồn tại trong mối quan hệ

giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp ở Việt Nam hiện nay, làm cơ sở cho

việc đề xuất các giải pháp bảo đảm mối quan hệ này ở chương 4 của luận án.

Thứ tư, xác định các quan điểm và giải pháp bảo đảm mối quan hệ giữa

quyền tư pháp và quyền hành pháp. Kết quả nghiên cứu phải đề xuất được hệ

thống giải pháp mang tính tổng thể cho việc bảo đảm mối quan hệ giữa quyền

tư pháp và quyền hành pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam

hiện nay.

1.3. Giả thuyết nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu

1.3.1. Giả thuyết nghiên cứu

Khoản 3 - Điều 2 Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm

2013 xác định nhà nước ta tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc "Quyền lực

nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ

quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp".

Trong những năm qua, sự phân công, phối hợp và kiểm soát việc thực hiện

quyền lực nhà nước giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và

44

tư pháp nói chung cũng như giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp nói riêng

đã được nhận thức, vận dụng trong pháp luật về tổ chức, hoạt động của Quốc

hội, Chính phủ, TAND và Viện kiểm sát nhân dân, Luật tổ chức chính quyền

địa phương. Tuy nhiên, nhiều vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa quyền lập

pháp, hành pháp, tư pháp với nhau nói chung cũng như quan hệ giữa quyền tư

pháp và quyền hành pháp nói riêng chưa được nghiên cứu có hệ thống, đầy đủ

nên nhiều quy định của pháp luật chỉ dừng ở mức quy định chung. Chẳng hạn,

nội dung mối quan hệ giữa tư pháp và hành pháp trong phối hợp và kiểm soát

việc thực hiện quyền tư pháp, hành pháp cụ thể là gì? Do quy định của pháp

luật chưa đủ cụ thể nên thực tiễn thực hiện mối quan hệ giữa quyền tư pháp và

quyền hành pháp hiệu quả chưa cao, còn nhiều bất cập, vướng mắc, chưa thực

sự bảo đảm được sự độc lập của tư pháp cũng như sự mềm dẻo, linh hoạt của

hành pháp. Vì vậy, nghiên cứu có hệ thống, toàn diện các vấn đề lý luận, đánh

giá thực trạng và đề xuất quan điểm, giải pháp bảo đảm mối quan hệ giữa

quyền tư pháp và quyền hành pháp trở thành yêu cầu khách quan, cấp bách,

góp phần hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thực sự của

nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.

1.3.2. Câu hỏi nghiên cứu

Từ giả thuyết nghiên cứu nêu trên, luận án cần trả lời các câu hỏi

nghiên cứu dưới đây:

1. Nhận thức như thế nào về đặc điểm, vai trò mối quan hệ giữa quyền

tư pháp và quyền hành pháp?

2. Nội dung mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp biểu

hiện trên những phương diện nào?

3. Triết lý nào cho việc bảo đảm mối quan hệ giữa quyền tư pháp và

45

quyền hành pháp? Bảo đảm mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành

pháp cần những điều kiện gì?

4. Thực trạng mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp

được quy định như thế nào trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật Việt

Nam? Thực tiễn thực hiện mối quan hệ này có ưu điểm, hạn chế gì? Nguyên

nhân của những ưu điểm, hạn chế đó.

5. Bảo đảm mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp cần

xuất phát từ những quan điểm mang tính định hướng nào?

6. Các giải pháp cần được áp dụng để bảo đảm mối quan hệ giữa quyền

tư pháp và quyền hành pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam

hiện nay.

Kết luận Chương 1

Việc thiết lập mối quan hệ giữa quyền lập pháp, quyền hành pháp và

quyền tư pháp là yếu tố tạo nên sự khác biệt trong việc tổ chức, vận hành bộ

máy nhà nước của các quốc gia. Một số quốc gia trên thế giới thiết lập mối

quan hệ kiềm chế, đối trọng giữa các nhánh quyền lực này. Ở Việt Nam Hiến

định nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước

trong việc thực hiện ba nhánh quyền lực này. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng

để bảo đảm mối quan hệ giữa quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp nói chung

và việc thiết lập, bảo đảm mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành

pháp nói riêng.

Từ tổng quan tình hình nghiên cứu nhận thấy, số lượng các công trình

nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án tương đối nhiều. Kết quả nghiên cứu

của các công trình đã cung cấp lượng thông tin, kiến thức quan trọng, là

nguồn tài liệu tham khảo hữu ích đối với nghiên cứu sinh trong quá trình thực

hiện đề tài luận án của mình. Tuy vậy, thực trạng nghiên cứu cũng cho thấy

46

còn nhiều vấn đề thuộc chủ đề luận án chưa được đề cập, làm rõ, giải quyết

thấu đáo trong các công trình nghiên cứu đã công bố.

Qua việc hệ thống hóa, phân tích, đánh giá về các công trình nghiên

cứu trong nước và nước ngoài liên quan đến đề tài luận án, nghiên cứu sinh đã

xác định những nội dung cơ bản cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án.

Chương 1 đã xác định được mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu nhằm giải

quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn mà chưa được giải quyết ở các công

trình nghiên cứu khác. Ngoài ra, trong chương 1, nghiên cứu sinh cũng đặt ra

giả thuyết nghiên cứu và các câu hỏi nghiên cứu nhằm thực hiện được mục

tiêu của luận án.

47

CHƯƠNG 2

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA QUYỀN

TƯ PHÁP VÀ QUYỀN HÀNH PHÁP TRONG THỰC HIỆN

QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC

2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò mối quan hệ giữa quyền tư pháp

và quyền hành pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước

2.1.1. Khái niệm mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành

pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước

2.1.1.1. Quyền tư pháp

Hiến pháp năm 2013 xác định Tòa án thực hiện quyền tư pháp [6,

Điều 102]. Vậy quyền tư pháp là gì? Đây là một trong những phạm trù có

nhiều tranh luận nhất hiện nay. Trong tiếng Anh, tư pháp là “Justice” nghĩa là

công lý, là một trong ba nhánh quyền lực để tổ chức và duy trì trật tự xã hội,

xuất phát từ lý thuyết về sự phân chia quyền lực, được khởi xướng bởi các

nhà triết học xưa, nhưng chỉ đến thời kỳ La Mã cổ đại, mới thực sự hiện hữu

trong đời sống xã hội. Hiện có những quan niệm khác nhau về quyền tư pháp

trong giới học giả, cụ thể:

Quan niệm thứ nhất cho rằng: quyền tư pháp là một nhánh độc lập

trong cơ chế phân chia quyền lực nhà nước. Với quan niệm này thì khi nói

đến quyền lực nhà nước là đề cập đến ba nhánh quyền độc lập: quyền lập

pháp trao cho Nghị viện, quyền hành pháp trao cho Chính phủ, quyền tư pháp

trao cho Tòa án. Ba nhánh quyền này hoạt động theo chức năng riêng của

mình, đều cân bằng nhau, không quyền nào cao hơn quyền nào và không can

thiệp vào chuyên môn của nhau. Cách thức tổ chức quyền lực này tạo nên sự

cân bằng, đối trọng và kiểm soát lẫn nhau giữa các nhánh quyền lập pháp,

hành pháp và tư pháp, đảm bảo cho quyền lực nhà nước không bị chuyên chế,

48

lạm quyền. Đây là mô hình tổ chức quyền lực nhà nước theo học thuyết phân

quyền của Montesquieu. Trong tác phẩm “Tinh thần pháp luật”, ông viết:

“Khi quyền lập pháp được sáp nhập với quyền hành pháp và tập trung vào

trong một người hay một tập đoàn, thì sẽ không có tự do được. Bởi vì người

ta có thể sợ rằng chính nhà vua hay Nghị viện ấy sẽ làm những đạo luật độc

đoán để thi hành một cách độc đoán. Sẽ không có tự do nếu quyền xét xử

không được phân biệt với quyền lập pháp và quyền hành pháp. Nếu quyền xét

xử được sáp nhập vào quyền lập pháp, thì sẽ không có tự do. Nếu quyền xét

xử được nhập vào quyền hành pháp thì thẩm phán sẽ trở thành những kẻ áp

bức” [60, tr.84]. Như vậy, từ nguồn gốc hình thành trong học thuyết phân

quyền thì quyền tư pháp là quyền xét xử, được thực hiện thông qua cơ quan

có chức năng xét xử là Tòa án. Quyền tư pháp gắn với Tòa án và chỉ Tòa án là

cơ quan duy nhất có chức năng thực hiện quyền tư pháp. Từ khi học thuyết

phân quyền ra đời cho đến nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã sử dụng học

thuyết trong thiết kế và vận hành tổ chức bộ máy nhà nước và đã ghi nhận

trong Hiến pháp của nước mình.

Quan niệm thứ hai tiếp cận quyền tư pháp với tư cách là một nhánh

trong cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước. Đây là

quan điểm được hình thành từ học thuyết chính trị của J.J. Rut-xô (1712-

1778). Ông nêu ra thuyết tập quyền nhưng lại chủ trương phân chia quyền lực

thành ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp để đối trọng, tránh lạm quyền,

nhưng nhánh quyền hành pháp và tư pháp phải phục tùng quyền lực tối cao là

Quốc hội/Nghị viện, vì Quốc hội là nơi tập trung cao nhất quyền lực của quốc

gia. Quan điểm phân chia quyền lực của Rut-xô có hạt nhân quan trọng là

không thừa nhận sự độc lập, kiềm chế, đối trọng giữa các nhánh quyền lực

giống như học thuyết phân quyền. Bởi xét cho đến cùng thì ba nhánh quyền

này đều nằm trong chỉnh thể thống nhất là quyền lực nhà nước, đều có chung

49

nguồn gốc và điều kiện để phát sinh, phát triển và tồn tại. Mặt khác, để thực

hiện được chức năng của mình thì giữa các quyền nhất thiết phải có mối liên

hệ chặt chẽ với nhau, cụ thể: quyền lập pháp phải có mối liên hệ chặt chẽ với

quyền hành pháp để chuyển tải các quy phạm pháp luật vào đời sống một

cách có hiệu quả. Pháp luật chỉ tồn tại trên giấy nếu không có hoạt động hành

pháp và tư pháp. Ngược lại, quyền hành pháp không dựa vào lập pháp sẽ

thiếu điều kiện hoàn thiện pháp luật khi đã được kiểm nghiệm trong thực tiễn.

Tư pháp không có cơ sở để thực thi quyền lực nếu không có luật và không

được hành pháp bảo đảm các điều kiện cần thiết. Bên cạnh sự phối hợp chặt

chẽ giữa các nhánh quyền thì kiểm soát là yếu tố không thể thiếu. Lập pháp

phải kiểm soát hành pháp và tư pháp để đánh giá mức độ thực hiện, áp dụng

pháp luật và hiệu quả của hoạt động đó. Hành pháp phải kiểm soát lập pháp

để kịp thời đưa ra những ý tưởng, chính sách đúng đắn để hiện thực hóa thành

các đạo luật phù hợp. Kiểm soát tư pháp để đảm bảo rằng những vấn đề do

lập pháp đặt ra được quyền lực tư pháp thực thi công bằng, đúng đắn, không

thiên vị. Ngược lại, sự kiểm soát của tư pháp đối với lập pháp và hành pháp là

để quá trình xây dựng luật và thực hiện pháp luật được nghiêm chỉnh, không

bị lạm dụng. Tuy nhiên, sự kiểm soát của mỗi cơ quan là rất khác nhau.

Quan niệm thứ ba nhìn nhận quyền tư pháp thuộc cơ quan tòa án và

cơ quan kiểm sát.

Quan điểm này hình thành và thịnh hành trong thời kỳ Nhà nước Liên

bang Cộng hòa XHCN Xô-viết (Liên xô cũ), sau đó được vận dụng vào việc

tổ chức hệ thống tư pháp ở các nước XHCN trước đây ( Đông Âu, Trung

Quốc, Việt Nam, Cu Ba…). Tòa án là cơ quan xét xử, Viện kiểm sát là cơ

quan thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật (kiểm sát chung), thực hành

quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.

Ở Việt Nam, từ khi ban hành Hiến pháp năm 1946, tiếp đến là các bản

50

Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 và đến nay là Hiến pháp năm 2013 đều xác

định nhiệm vụ của tòa án là xét xử, nghĩa là tính chất “tư pháp” của Tòa án rất

rõ. Nhưng Viện kiểm sát lại không hoàn toàn như vậy. Ở Hiến pháp năm

1946, công tố thuộc Tòa án. Bắt đầu từ Hiến pháp năm 1959 đến nay, Viện

kiểm sát là một thiết chế độc lập. Khi tiến hành sửa đổi Hiến pháp 1992 (vào

năm 2001) vị trí của Viện kiểm sát vẫn không thay đổi, chỉ bỏ chức năng

kiểm sát chung. Hiến pháp thời kỳ này cũng không xác định rõ cơ quan nào là

cơ quan hành pháp, cơ quan nào là cơ quan tư pháp. Do đó, để xác định viện

kiểm sát thuộc lĩnh vực nào của quyền lực nhà nước là rất khó. Hiện nay,

Hiến pháp năm 2013 xác định Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp,

viện kiểm sát nhân dân vẫn tiếp tục được xác định là một thiết chế độc lập, có

chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.

Quan niệm thứ tư lại xác định quyền tư pháp là quyền lực duy nhất

thuộc các tòa án tư pháp.

Đây là quan điểm xuất phát từ quan niệm phân chia quyền lực nhà

nước theo chính thể cộng hòa thành ba quyền độc lập với nhau: quyền lập

pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Trong đó quyền lập pháp thuộc về

Quốc hội/Nghị viện; quyền hành pháp thuộc tổng thống/thủ tướng; quyền tư

pháp thuộc các tòa án. Quan niệm coi tòa án tư pháp là cơ quan duy nhất nắm

quyền tư pháp dựa trên hai luận điểm: thứ nhất, đề cao coi tính độc lập của tư

pháp là yếu tố hàng đầu; thứ hai, sự phân chia quyền lực nhà nước một cách

rành mạch [88, tr.11]. Ưu điểm của quan niệm này là đảm bảo cho tòa án thực

hiện chức năng, nhiệm vụ một cách độc lập. Tòa án sẽ không bị can thiệp

hoặc tác động tiêu cực vào quá trình xét xử làm sai lệch phán quyết của mình.

Tóm lại, mỗi một quan niệm nhìn nhận quyền tư pháp với những

phương diện khác nhau. Điểm chung nhất của các quan niệm trên đó là đều

thống nhất quan điểm quyền tư pháp là một nhánh quyền lực nhà nước song

51

hành với quyền lập pháp và hành pháp. Tuy nhiên, tất cả các quan niệm trên

đều chưa đưa ra khái niệm rõ ràng về quyền tư pháp. Theo tác giả của đề tài,

quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền XHCN là một nhánh quyền lực

trong cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực nhà nước; được trao

cho TAND thực hiện thông qua hoạt động xét xử, nhằm duy trì, bảo vệ công

lý, trật tự pháp luật, quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng

của cá nhân, cơ quan, tổ chức và nhà nước theo quy định của pháp luật.

Về chủ thể thực hiện quyền tư pháp

Theo định nghĩa của từ điển Black’s Law Dictionary, quyền tư pháp

(judicial power) là “Thẩm quyền được trao cho Tòa án và các Thẩm phán xem

xét và quyết định các vụ việc và đưa ra phán quyết có giá trị bắt buộc thi hành

đối với các vụ việc ấy; quyền giải thích và áp dụng pháp luật khi có tranh cãi

phát sinh từ việc một điều gì đó có phù hợp hay không phù hợp với pháp luật

điều chỉnh việc ấy” [98, tr.924]. Ở các nước trên thế giới hiện nay, quyền tư

pháp hầu như được xác định là quyền lực thuộc thẩm quyền của Toà án, là

quyền tài phán thể hiện quyền lực nhà nước được thể hiện qua hình thức xét

xử [52]. Ở Việt Nam, trước khi Hiến pháp năm 2013 ra đời có rất nhiều quan

điểm khác nhau về chủ thể thực hiện quyền tư pháp. PGS.TS Nguyễn Đức

Minh trong đề tài nghiên cứu cấp Bộ của mình đã liệt kê 6 quan điểm khác

nhau về quyền tư pháp và có quan điểm riêng của mình [56]. Từ khi Hiến

pháp năm 2013 có hiệu lực thi hành, có một số quan điểm sau: có quan điểm

cho rằng quyền tư pháp do Toà án thực hiện nhưng với sự tham gia của nhiều

cơ quan khác nhau; quan điểm khác lại nhận định các chức năng của quyền tư

pháp được thông qua hoạt động duy nhất là xét xử và Tòa án thực hiện chức

năng xét xử, do vậy Tòa án có vị trí là cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư

pháp. Tác giả luận án đồng tình với quan điểm thứ hai và cũng phủ hợp với

quan điểm chung của các nước trên thế giới.

52

2.1.1.1. Quyền hành pháp

Với sự ra đời của Hiến pháp năm 2013, lần đầu tiên trong lịch sử lập

hiến nước ta, trong bản Hiến văn có một quy định quan trọng “Chính phủ là

cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa

Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội”

[6, Điều 94]. Nhìn lại lịch sử lập hiến nước ta, khái niệm “quyền hành pháp”

được chính thức xuất hiện trong lần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp vào năm

2001. Cụ thể, Điều 2 của Hiến pháp năm 1992 khi sửa đổi, bổ sung năm 2001

đã quy định “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả

quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp

công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là

thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong

việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.".

So với thời điểm thuật ngữ “quyền lập pháp” được sử dụng trong Hiến

pháp, thời điểm thuật ngữ “quyền hành pháp” được sử dụng trong Hiến pháp

rõ ràng có độ trễ hơn nhiều. Cụ thể, thuật ngữ “quyền lập pháp” được chính

thức sử dụng từ Hiến pháp năm 1959 nhưng phải đến năm 2001 thuật ngữ

“quyền hành pháp” và “quyền tư pháp” mới xuất hiện trong Hiến pháp và

phải tới năm 2013, cơ quan nào được phân công thực hiện mỗi quyền năng

này mới chính thức được hiến định. Vậy quyền hành pháp là gì? Thuật ngữ

quyền hành pháp được tiếp cận nghiên cứu ở nhiều phương diện, do vậy có

nhiều cách hiểu khác nhau về quyền hành pháp. Trong nghiên cứu lý luận, tồn

tại nhiều quan điểm, định nghĩa cùng với nhiều nội dung phong phú, đa chiều

về quyền hành pháp.

Khi giải mã ba loại quyền lực nhà nước là quyền lập pháp, quyền hành

pháp và quyền tư pháp, sẽ là thiếu sót lớn nếu chúng ta không quay trở lại với

53

định nghĩa gốc của ba thuật ngữ này trong tác phẩm kinh điển “Tinh thần

pháp luật” của Montesquieu. Trong tác phẩm bất hủ này, cha đẻ của thuyết

phân quyền đã giải mã như sau:

Trong mỗi quốc gia đều có ba thứ quyền lực: Quyền lập pháp,

quyền thi hành những điều hợp với quốc tế công pháp và quyền thi

hành những điều trong luật dân sự. Với quyền lực thứ nhất, nhà vua

hay pháp quan làm ra các thứ luật cho một thời gian hay vĩnh viễn,

và sửa đổi hay hủy bỏ luật này. Với quyền lực thứ hai, nhà vua

quyết định việc hòa hay chiến, gửi đại sứ đi các nước, thiết lập an

ninh, đề phòng xâm lược. Với quyền lực thứ ba, nhà vua hay pháp

quan trừng trị tội phạm, phân xử tranh chấp giữa các cá nhân.

Người ta sẽ gọi đây là quyền tư pháp, vì trên kia là quyền hành pháp quốc gia [60, tr.105-106].

Như vậy, trong quan niệm nguyên thủy của Montesquieu, quyền hành

pháp chính là quyền “quyết định việc hòa hay chiến, gửi đại sứ đi các nước,

thiết lập an ninh, đề phòng xâm lược”. Nói cách khác, đây chính là phần

quyền còn lại của nhà nước sau khi đã trừ đi phần quyền lập pháp và quyền tư

pháp, mà trọng tâm là quyền thực hiện các biện pháp đối nội và đối ngoại

trong khuôn khổ các đạo luật quốc gia hay chính là quyền thi hành luật. Quan

điểm về quyền hành pháp của Montesquieu được thể hiện rất rõ trong việc

thiết kế cơ cấu quyền lực nhà nước trong Hiến pháp Hoa Kỳ. Cụ thể, theo Từ

điển luật học nổi tiếng Black’s Law Dictionary “quyền hành pháp” (executive

power) là “quyền bảo đảm các đạo luật được thực thi một cách đầy đủ". Theo

luật liên bang, quyền này được trao cho Tổng thống, còn ở các bang, quyền

này được trao cho các thống đốc. Các nội dung cụ thể của quyền hành pháp

của Tổng thống được quy định trong mục 2 Điều 2 Hiến pháp Hoa Kỳ [98, at

657]. Quyền ấy được phân biệt với “quyền lập pháp” (legislative power) được

54

hiểu là “quyền làm và sửa đổi các đạo luật…Theo luật liên bang, quyền này

được trao cho Quốc hội, gồm Hạ viện và Thượng viện. Cơ quan lập pháp có

thể ủy một phần thẩm quyền lập pháp của mình cho các cơ quan thuộc ngành

hành pháp dưới dạng thẩm quyền lập quy và thẩm quyền ban hành các quy định điều tiết tuy nhiên không được ủy quyền lập pháp cho ngành tư pháp.”

[98, at 983]. Trong bách khoa thư về quyền lực (Encyclopedia of Power) do

Keith Dowding (giáo sư Đai học quốc gia Úc) chủ biên (xuất bản năm 2011),

các tác giả có định nghĩa rằng “quyền hành pháp là thẩm quyền thực thi các

đạo luật và bảo đảm rằng các đạo luật này được thi hành như ý định đặt ra

các đạo luật ấy”. [95, at 228]

Ở Việt Nam, nhiều chuyên gia, nhà nghiên cứu cũng đã trình bày quan

điểm của mình về quyền hành pháp.

Từ điển luật học do Viện Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp) biên soạn

dưới sự chỉ đạo của TS. Nguyễn Đình Lộc (chủ tịch Hội đồng biên soạn) năm

2006 có giải nghĩa về quyền hành pháp theo hướng đồng nhất quyền hành

pháp với quyền hành chính. Cụ thể, quyền hành pháp theo cuốn từ điển này

chính là “quyền quản lý hành chính nhà nước về mọi lĩnh vực chính trị, kinh

tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, quốc phòng, an ninh, đối ngoại… trên phạm vi

toàn lãnh thổ quốc gia.” [90, tr.651]

GS.TS. Nguyễn Đăng Dung thì cho rằng trong nguyên nghĩa quyền

hành pháp chỉ đơn thuần là quyền thực thi các đạo luật một cách thụ động.

Tuy nhiên, qua thời gian, quan niệm như vậy không còn đúng nữa. Ngày nay,

quyền hành pháp chính là “quyền hoạch định và điều hành chính sách quốc

gia.” [33]. Trong đó, hoạch định chính sách được hiểu là vạch ra những mục

tiêu tổng quát cho quốc gia cùng các phương tiện phải sử dụng để đạt được

mục tiêu đó (thể hiện rõ nét nhất ở quyền trình dự án luật của Chính phủ).

Điều hành chính sách là vận dụng những phương tiện cần thiết để thực hiện

55

những mục tiêu đã vạch ra, thể hiện ở những quyền năng cụ thể như: tổ chức

nhân sự, điều hành trực tiếp và hoạt động lập quy, kiểm tra, xử lý, bảo đảm sự

tuân thủ chính sách (thông qua hoạt động xử lý hoặc đề nghị xử lý vi phạm

pháp luật). Điều đó được thể hiện rõ trong quy định về thẩm quyền của Chính

phủ (hoặc Thủ tướng Chính phủ) trong các Hiến pháp hiện đại như Hiến pháp

Pháp (Điều 20), Hiến pháp Đức (Điều 64), Hiến pháp Ý (Điều 95), và Hiến

pháp Hà Lan (Điều 146). Như vậy, trong quan niệm của GS.TS. Nguyễn

Đăng Dung, những cấu phần cơ bản của quyền hành pháp phải kể đến là:

quyền trình dự án luật, quyền lập quy và quyền truy tố, xử lý các vi phạm

pháp luật. Ngoài ra, hành pháp cần được phân biệt với “hành chính” vì “hành

chính” là thuật ngữ được dùng để chỉ “hoạt động chấp hành chính sách của

các công chức”.

GS. TS. Thái Vĩnh Thắng, trong cuốn sách chuyên khảo xuất bản

năm 2011 cho rằng “hành pháp” và “hành chính công” (public administration)

là một. Tuy nhiên, hành pháp không chỉ đơn thuần là chức năng tổ chức thực

hiện pháp luật [70, tr.96-97]. Hành pháp gồm các hoạt động cơ bản sau:

(1) Xác lập đường lối, chính sách của Chính phủ về đối nội và đối ngoại phù

hợp với quy định của Hiến pháp và các luật; (2) Tổ chức thực thi các quy

định của Hiến pháp và các luật bằng việc xây dựng và ban hành các văn bản

pháp quy nhằm cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp và luật; (3) Xây dựng

và duy trì hoạt động thường xuyên một bộ máy công quyền từ trung ương

xuống địa phương nhằm điều hòa các mối quan hệ xã hội trên các lĩnh vực

khác nhau của đời sống xã hội nhằm đảm bảo một trật tự an toàn chung cho

mọi công dân trong xã hội; (4) Tổ chức và quản lý các dịch vụ công, quản trị

các tài sản thuộc sở hữu nhà nước, quản lý hành chính việc tổ chức và hoạt

động của các doanh nghiệp nhà nước; (5) Tổ chức kiểm tra, thanh tra việc

chấp hành pháp luật trong hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước và tổ

56

chức kiểm toán tất cả các cơ quan, tổ chức hưởng lương từ ngân sách nhà

nước.[70, tr.97]

GS.TS. Trần Ngọc Đường cho rằng “Chính phủ không phải chỉ có

chấp hành (hành chính) mà trước hết là hành pháp, tức là chủ thể chủ động,

sáng tạo trong việc xây dựng và thực thi chính sách quốc gia. Trong mối quan

hệ với Quốc hội, Chính phủ là người xây dựng chính sách, pháp luật, Quốc

hội là người kiểm tra, giám sát các chính sách, pháp luật đã được thông

qua…Chính phủ mạnh là Chính phủ phải không ngừng nâng cao năng lực xây

dựng chính sách, pháp luật; chủ động trong việc đề xuất, chỉ đạo việc soạn

thảo, thẩm định chính sách.” [42, tr.260-261]

TS. Trần Anh Tuấn (Thứ trưởng Bộ Nội vụ) thì cho rằng “quyền hành

pháp” là “quyền năng trực tiếp trong hoạch định, đệ trình chính sách và thực

thi chính sách”. Quyền này bao gồm: đề xuất chính sách, pháp luật để Quốc

hội phê chuẩn, thông qua, để rồi theo nhiệm vụ, quyền hạn của mình, chính

phủ lại thực thi chính sách, pháp luật, truy tố tội phạm và đưa các hành vi vi

phạm pháp luật (công tố) để tòa án xét xử. Hành chính là một phương diện

của hành pháp. Nếu hành pháp là hoạch định, đề xuất chính sách và định

hướng vĩ mô thì hành chính là triển khai thực hiện chính sách đó (vi mô). [81]

Qua việc khảo cứu một số quan niệm về quyền hành pháp cả ở trong

và ngoài nước kể trên, có thể thấy, các quan niệm này có khá nhiều điểm

tương đồng với nhau. Dường như có sự đồng thuận khá cao giữa các nhà

nghiên cứu ở Việt Nam khi cho rằng, quyền hành pháp tuy về nguyên nghĩa là

chấp hành và tổ chức thực thi các đạo luật nhưng không đơn thuần chỉ là sự

chấp hành các đạo luật một cách thụ động. Quyền hành pháp ngày nay không

chỉ là công việc điều hành chính sách quốc gia mà còn phải thực hiện công

việc hoạch định chính sách quốc gia (để cơ quan lập pháp phê chuẩn chính

sách một cách chính thức). Có lẽ phù hợp với logic ấy mà trong lần sửa đổi,

57

bổ sung Hiến pháp vừa qua, trong thẩm quyền của Chính phủ không chỉ có

việc “tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội” như trước

đây mà còn được bổ sung nội dung “đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc

hội, y ban thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền

để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều này” cùng với thẩm

quyền “trình dự án luật, dự án ngân sách nhà nước và các dự án khác trước

Quốc hội.” [6, Điều 96].

Nghiên cứu sinh cũng đồng quan điểm với một số nhà nghiên cứu

rằng, quyền hành pháp được hiểu gồm hai nghĩa chính: thứ nhất là tổ chức thi

hành pháp luật, thứ hai là hoạch định chính sách quốc gia và tổ chức thực thi

các chính sách đó. Nếu chức năng của Quốc hội là ban hành pháp luật, Tòa án

có chức năng xét xử các hành vi vi phạm pháp luật thì Chính phủ lại là cơ

quan đề xuất chính sách, pháp luật để Quốc hội phê chuẩn, thông qua và theo

nhiệm vụ, quyền hạn của mình để tổ chức thực thi các chính sách, pháp luật

đó. Về mặt khoa học, quyền hành pháp bao gồm quyền lập quy và quyền hành

chính. Quyền lập quy bao hàm quyền hoạch định chính sách quốc gia, quyền

ban hành các văn bản pháp quy. Quyền hành chính bao hàm quyền tổ chức,

điều hành hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội, triển khai chính sách pháp luật

vào đời sống [72]. Quyền hành pháp đầy đủ khi nó bao hàm quyền hành

chính nhà nước cao nhất. Hiến pháp năm 2013 khẳng định Chính phủ là cơ

quan hành chính nhà nước cao nhất. Có ý kiến cho rẳng “hành pháp” và “

hành chính công” là một [ 70]. Quan điểm của nghiên cứu sinh cho rằng, về

bản chất “quyền hành pháp” và “quyền hành chính” không phải là một. “Hành

chính” chỉ là các hoạt động mang tính tác nghiệp, quyền uy mệnh lệnh của

quản lý nhà nước, còn “hành pháp” là hoạt động khởi xướng, hoạch định, tổ

chức thực thi pháp luật và điều hành chính sách mang tính chủ động ở tầm vĩ

mô. Như vậy, không thể giới hạn hành pháp trong khuôn khổ hành chính.

58

“Nếu hành pháp là hoạch định, đề xuất chính sách thì hành chính là cách thức,

phương tiện, nguồn lực triển khai thực hiện chính sách đó” [72].

Từ những phân tích nêu trên có thể hiểu quyền hành pháp bao gồm

quyền lập quy và quyền hành chính, trong đó quyền lập quy là quyền hoạch

định chính sách quốc gia, ban hành các văn bản pháp quy; quyền hành chính

là quyền tổ chức, điều hành các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm

an ninh quốc phòng, đối ngoại theo pháp luật.

Hiến pháp năm 2013 quy định Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền

hành pháp. Điều này không có nghĩa là toàn bộ quyền hành pháp được giao

cho tập thể Chính phủ và các thành viên của Chính phủ đảm nhiệm. Trên thực

tế, quyền hành pháp còn được ủy quyền, phân cấp cho chính quyền địa

phương trên tinh thần: thống nhất, tập trung ở Chính phủ và có sự phân công,

phân cấp hợp lý giữa Trung ương và chính quyền địa phương. Tuy nhiên,

trong phạm vi nghiên cứu của luận án, tác giả chỉ đề cập đến cơ quan thực

hiện quyền hành pháp là Chính phủ trong mối quan hệ với Tòa án – cơ quan

thực hiện quyền tư pháp.

Hiến pháp năm 2013 xác định: Chính phủ là cơ quan “thực hiện quyền

hành pháp” [6, Điều 94]. Như vậy, quyền hành pháp trong nhà nước Cộng

hòa XHCN Việt Nam được thực hiện thông qua một hệ thống các cơ quan

chấp hành mà đứng đầu là Chính phủ. Chức năng hành pháp của Chính phủ

được thể hiện ở ba mặt hoạt động, hay có thể gọi là ba nhiệm vụ lớn.

Thứ nhất, Chính phủ đề xuất chính sách và dự thảo luật để Quốc hội

thông qua. Trong mối quan hệ với Quốc hội, Chính phủ là người đề xuất, xây

dựng chính sách, pháp luật, Quốc hội là người phê duyệt, thông qua chính

sách, và khi chính sách đã được thông qua thì Quốc hội có trách nhiệm giám

sát việc thực hiện các chính sách, pháp luật đó.

Thứ hai, Chính phủ tổ chức triển khai, đưa các văn bản của Quốc hội

59

đi vào đời sống thực tế. Tổ chức thi hành pháp luật là hoạt động không thể

thiếu để pháp luật từ trạng thái “tĩnh” trở thành trạng thái “động”, làm cho

pháp luật không còn nằm trên các trang công báo mà đi vào cuộc sống [72].

Thi hành pháp luật, một mặt, có nghĩa là các cơ quan nhà nước phải thực hiện

quyền và nghĩa vụ được pháp luật quy định; mặt khác, thông qua hoạt động

của mình bảo đảm cho các chủ thể pháp luật khác thi hành quyền và nghĩa vụ

hợp pháp của họ trên thực tế. Đây là mặt hoạt động thể hiện rõ nét nhất tính

chấp hành của Chính phủ. Nhiệm vụ này được thực hiện bởi cả một hệ thống

chấp hành, trong đó, Chính phủ đóng vai trò quyết định.

Thứ ba, Chính phủ thiết lập trật tự công trong các lĩnh vực cần sự can

thiệp của nhà nước vì lợi ích công và duy trì trật tự công đó. Hoạt động này

chính là hoạt động lập quy của Chính phủ, có thể được thực hiện bởi tập thể

Chính phủ hoặc cá nhân các bộ trưởng thành viên của Chính phủ. Mục đích

của hoạt động này là ban hành khung pháp lý để thiết lập trật tự quản lý hành

chính trong một lĩnh vực nào đó mà nhà nước cần quan tâm vì lợi ích công

cộng [47].

Tóm lại, với ba nhiệm vụ hết sức quan trọng nêu trên, Chính phủ thực

sự đóng vai trò chủ đạo, quyết định tới việc bảo đảm quyền hành pháp được

thực hiện một cách hiệu quả.

Trong bộ máy nhà nước ta, Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư

pháp, Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp. Để thực hiện tốt chức

năng, nhiệm vụ của mình, giữa hai nhánh quyền lực này luôn có sự liện hệ,

tác động qua lại lẫn nhau. Tùy vào từng hình thức chính thể, các quốc gia sẽ

có cách thiết lập khác nhau về mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành

pháp nhưng tựu chung lại, mối quan hệ này luôn được xác lập trên ba phương

diện chính: sự phân công, sự phối hợp và sự kiểm soát lẫn nhau giữa hai

nhánh quyền lực này.

60

Từ những khái niệm công cụ và phân tích nêu trên, có thể hiểu mối

quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp trong thực hiện quyền lực

nhà nước ở Việt Nam là quan hệ phân công, phối hợp và kiểm soát việc thực

thi quyền tư pháp và quyền hành pháp do cơ quan tư pháp và cơ quan hành

pháp thực hiện, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất; thực hiện quyền

tư pháp, quyền hành pháp đúng pháp luật, có hiệu lực, hiệu quả; xử lý

nghiêm minh, kịp thời mọi vi phạm pháp luật; thực hiện và bảo vệ quyền, lợi

ích hợp pháp của các cá nhân và tổ chức trong xã hội.

2.1.2. Đặc điểm của mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành

pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam

Đặc điểm của mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp

được xem xét trên cả hai chiều: quan hệ giữa quyền tư pháp - quyền hành

pháp và ngược lại quan hệ giữa quyền hành pháp - quyền tư pháp. Mặt khác,

mối quan hệ ấy còn được xem xét theo nội dung phân công, phối hợp và kiểm

soát giữa cơ quan tư pháp và cơ quan hành pháp trong thực hiện quyền lực

nhà nước. Từ cách tiếp cận nêu trên, mối quan hệ giữa quyền tư pháp và

quyền hành pháp có những đặc điểm sau đây:

Một là, mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp theo nội

dung kiểm soát có tính chất tài phán rõ ràng, cụ thể, bắt buộc thực hiện đối

với hành pháp.

Trong mối quan hệ tư pháp - hành pháp, sự kiểm soát của tư pháp đối

với hành pháp là kiểm soát có tính chất tài phán rất mạnh mẽ, rõ ràng, dứt

khoát và cụ thể. Sở dĩ, mối quan hệ này có những tính chất nêu trên vì theo sự

phân công quyền lực, các cơ quan hành pháp tổ chức thực thi pháp luật trên

các lĩnh vực đời sống xã hội, trong khi đó các cơ quan thực thi quyền tư pháp

lại có chức năng kiểm tra, giám sát, phán xét các hoạt động của cơ quan hành

pháp và cán bộ, công chức hành pháp có đúng theo quy định của pháp luật

61

hay không. Các quyết định hành chính, các hành vi vi phạm pháp luật của cơ

quan, cán bộ, công chức, viên chức hành pháp đều được đưa ra phân tích,

phán xét theo thủ tục tố tụng và đúng theo quy định của pháp luật, không có

ngoại lệ. Mọi kết luận, phán xét của TAND đối với các cơ quan hành pháp,

cán bộ, công chức hành pháp trong các trường hợp vi phạm pháp luật là cụ

thể, minh bạch, bắt buộc thực hiện đối với cơ quan hành pháp, cán bộ, công

chức hành pháp.

Hai là, quyền hành pháp có sự kiểm soát nhất định đối với quyền tư

pháp nhưng phải bảo đảm tính độc lập của TAND khi thực hiện quyền tư pháp.

Đặc điểm này thể hiện rõ nét nhất trong pháp luật của nhiều nước ở

chỗ người đứng đầu hành pháp (Tổng thống, Chủ tịch nước) có quyền đề nghị

Quốc hội bầu, phê chuẩn, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án TAND tối cao.

Như vậy, trong điều kiện bình thường không có gì gay cấn đột xuất thì thường

hết nhiệm kỳ mới bầu lại, phê chuẩn đề nghị của Tổng thống. Quy định này

hạn chế sự can thiệp của hành pháp đối với hoạt động độc lập khi xét xử của

Tòa án.

Nội dung kiểm soát quyền tư pháp của hành pháp ở Việt Nam chủ yếu

thông qua hoạt động thu chi tài chính, ngân sách phục vụ cho hoạt động của

Tòa án và hoạt động bồi thường nhà nước.

Ba là, quan hệ giữa tư pháp và hành pháp mặc dù có sự phân công

rành mạch về chức năng nhưng phối hợp chặt chẽ trong hoạt động nhằm

phục vụ, hỗ trợ bảo đảm hiệu quả hoạt động của cả hành pháp và tư pháp.

Theo sự phân công quyền lực, TAND là cơ quan xét xử thực hiện

quyền tư pháp, còn Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất, thực hiện

quyền hành pháp. Nhưng trong hoạt động khi thực hiện chức năng của mình

pháp luật còn có những quy định bảo đảm sự phối hợp, hỗ trợ giúp cho hoạt

động của hành pháp cũng như tư pháp có hiệu quả hơn, đúng đắn hơn.

62

Đối với cơ quan tư pháp, ngoài việc tài phán về những vi phạm pháp

luật của cơ quan, cán bộ, công chức hành pháp gắn với những chế tài cụ thể,

tài phán của cơ quan tư pháp còn phục vụ, hỗ trợ cho hoạt động hành pháp.

Hoạt động tư pháp đúng đắn, nghiêm minh phục vụ, hỗ trợ cho hoạt động

hành pháp đúng đắn hơn, hiệu quả hơn. Qua hoạt động xét xử, TAND phát

hiện ra những bất cập, thiếu sót trong các quyết định của cơ quan hành pháp,

những việc làm không đúng với quyền hạn, trách nhiệm… Những vấn đề này

sẽ được TAND lưu ý, nhắc nhở, cảnh báo…, nếu cán bộ, công chức nào vi

phạm pháp luật tới mức phải xử lý theo quy định của pháp luật thì TAND sẽ

phán xét nghiêm minh. Như vậy, ngoài việc xử lý vi phạm pháp luật, TAND

giúp cho cơ quan hành pháp kiện toàn bộ máy cán bộ, hủy bỏ hoặc sửa đổi, bổ

sung các quyết định hành chính giúp cho cho hoạt động hành pháp hiệu quả

hơn, đúng đắn hơn.

Đối với cơ quan hành pháp, khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của

mình tạo điều kiện thuận lợi, phục vụ hoạt động tư pháp. Việc tạo điều kiện

thuận lợi, phục vụ hoạt động tư pháp của hành pháp thể hiện ở các nội dung:

hành pháp bảo đảm cơ sở vật chất, kinh phí cho hoạt động tư pháp; tạo nguồn

nhân lực chất lượng cao cho hoạt động tư pháp thông qua hệ thống đào tạo cử

nhân luật, nghề luật; tổ chức, quản lý, cung ứng các dịch vụ bổ trợ tư pháp

như luật sư, công chứng, giám định, hộ tịch; tổ chức công tác thi hành án.

Trong các nội dung trên đáng chú ý là hoạt động tổ chức công tác thi hành án.

Bản án, quyết định của tòa án sẽ trở nên vô nghĩa nếu không được thi hành

trong thực tế. Ở Việt Nam hiện nay, công tác thi hành án là do các cơ quan

thuộc Chính phủ thực hiện, trong đó thi hành án hình sự do Bộ Công an đảm

nhiệm, thi hành án dân sự, hành chính, kinh tế do Bộ Tư pháp quản lý, tổ

chức thực hiện. Như vậy, trong quan hệ giữa quyền hành pháp và quyền tư

pháp để bảo đảm yêu cầu thống nhất quyền lực và phân công, phối hợp trong

63

thực hiện quyền lực nhà nước thì đặc điểm của quan hệ này không chỉ là kiểm

soát, chế ước của tư pháp đối với hành pháp mà ngược lại hành pháp cũng tạo

điều kiện thuận lợi, phục vụ hoạt động tư pháp.

2.1.3. Vai trò xác lập mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền

hành pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam

Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta,

việc xác lập mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp có những

vai trò sau đây:

Một là, góp phần kiểm soát thực hiện quyền lực nhà nước giữa cơ

quan tư pháp và cơ quan hành pháp.

Điều 2 Hiến pháp năm 2013 xác định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân,

do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do

Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng

là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí

thức…”.

Như vậy, bản chất của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà

nước ra đời, tồn tại và phát triển dựa trên nền tảng: “Tất cả quyền lực nhà

nước thuộc về nhân dân”. Điều đó đòi hỏi tất cả quyền lực nhà nước thuộc về

nhân dân không chỉ được ghi nhận trong Cương lĩnh của Đảng, trong Hiến

pháp và pháp luật mà còn phải được bảo đảm thực hiện trong thực tế. Trong

chế độ dân chủ và pháp quyền thì quyền lực nhà nước không phải là quyền

lực tự có của nhà nước mà là quyền lực được nhân dân ủy quyền, nhân dân

giao quyền. Nhân dân ủy quyền, giao quyền cho Nhà nước mà không bị lạm

quyền, mất quyền từ phía quyền lực chính trị nói chung, quyền lực nhà nước

nói riêng. Để giải quyết vấn đề đó, trong tổ chức quyền lực nhà nước tất yếu

phải có kiểm soát quyền lực. Xác lập mối quan hệ giữa nhánh quyền tư pháp

64

và nhánh quyền hành pháp sẽ góp phần kiểm soát việc thực hiện quyền lực

nhà nước giữa cơ quan tư pháp và cơ quan hành pháp. Đây chính là điều kiện

để đảm bảo cho nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, bảo đảm

thực thi quyền lực nhà nước do cơ quan tư pháp và cơ quan hành pháp thực

hiện đúng pháp luật, bảo vệ được các quyền và lợi ích hợp pháp của các cá

nhân, tổ chức trong xã hội.

Hai là, việc xác lập mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành

pháp góp phần bảo đảm thực thi quyền tư pháp và quyền hành pháp có hiệu

lực, hiệu quả.

Như chúng ta đã biết, trong lịch sử ngay cả thời kỳ quyền lực nhà nước

tập trung tuyệt đối trong tay một ông vua chuyên chế thì bản thân ông vua cũng

không thể tự mình thực thi được. Vua chỉ nắm giữ những quyền lực quan trọng

nhất còn phần lớn phải giao lại cho đội ngũ quan lại thay mặt mình thực thi

quyền lực. Ngày nay, do sự phân công lao động xã hội, do tính chuyên nghiệp

hóa của hoạt động quyền lực, tổ chức quyền lực càng phải có sự phân công,

phối hợp và kiểm soát - trở thành một yêu cầu tất yếu khách quan. Trong lao

động quyền lực, con người được giao quyền, ủy quyền nên cũng có những hạn

chế nhất định. Trước hết, khả năng của con người là hữu hạn bắt nguồn từ sự

hữu hạn của trí tuệ và lý tính của mình. Do vậy, khả năng sai lệch trong nhận

thức và thực thi quyền lực nhà nước, khả năng sử dụng quyền lực thiếu hiệu

quả là có thể xảy ra. Chính điều này sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả thực thi quyền

lực nhà nước. Liệu người được ủy quyền có luôn xứng đáng với sự tín nhiệm

của nhân dân? Vì vậy, trong tổ chức quyền lực nhà nước cần có sự phân công,

phân nhiệm một cách rành mạch và kiểm soát một cách chặt chẽ những con

người làm việc trong bộ máy quyền lực nhà nước.

Ba là, việc xác lập mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành

pháp góp phần bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, thuộc về nhân dân

65

Nhà nước ta tổ chức theo nguyên tắc: quyền lực nhà nước là thống

nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong

việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Để bảo đảm quyền lực

nhà nước là thống nhất trong điều kiện có sự phân công, phối hợp và kiểm

soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành

pháp, tư pháp đòi hỏi phải xác lập được nội dung phương thức thực hiện mối

quan hệ giữa các nhánh quyền lực với nhau. Nói cách khác, xác lập mối quan

hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp góp phần thực hiện mỗi quyền lực

có hiệu lực, hiệu quả hơn, cũng thống nhất hướng đến một mục tiêu quyền lực

nhà nước là của nhân dân, nhằm phục vụ nhân dân, xây dựng xã hội dân chủ,

pháp quyền, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.

2.2. Nội dung mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành

pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam

Trong phần này, khi đề cập đến nội dung mối quan hệ giữa quyền tư

pháp và quyền hành pháp, tác giả sẽ xem xét mối quan hệ này trên ba phương

diện: phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực.

2.2.1. Nội dung phân công giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp

trong thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam

Trong nhà nước pháp quyền, tất cả quyền lực nhà nước có nguồn gốc

từ nhân dân. Nhân dân vừa trực tiếp thực hiện quyền lực thông qua các quyền

dân chủ trực tiếp, vừa trao quyền cho các cơ quan trong bộ máy nhà nước

thay mặt mình thực hiện quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước được phân

chia thành quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Việc phân

công thực hiện quyền lực nhà nước và ghi nhận chủ thể của mỗi nhánh quyền

lực là nội dung cốt yếu của Hiến pháp. Phân công quyền lực hợp lý sẽ làm cơ

sở cho việc thực hiện cơ chế phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước.

Ở Việt Nam, trong thực hiện quyền lực nhà nước, thể hiện rất rõ sự

66

phân công quyền lực. Phương diện này được Hiến định trong Hiến pháp năm

2013 bằng quy định Chính phủ thực hiện quyền hành pháp [6, Điều 94],

TAND thực hiện quyền tư pháp [6, Điều 102]. Bên cạnh đó, Hiến pháp còn

quy định những nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, TAND và được cụ thể

hóa thông qua Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 và Luật Tổ chức TAND

năm 2014. Theo đó, Hiến pháp trao cho Chính phủ 08 nhiệm vụ và quyền

hạn, cụ thể: tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp

lệnh, nghị quyết của y ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ

tịch nước; Đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, y ban thường vụ;

trình dự án luật, dự án ngân sách nhà nước; Thống nhất quản lý về kinh tế,

văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường…; Trình

Quốc hội quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ; thành lập, giải

thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc

trung ương, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; Thống nhất quản lý nền hành

chính quốc gia; Bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền con

người, quyền công dân; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; Tổ chức đàm phán,

ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước theo ủy quyền của Chủ tịch nước…

Đối với Tòa án, Hiến pháp trao cho cơ quan này thẩm quyền xét xử

các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao

động, hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật.

Nhiệm vụ của Tòa án là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công

dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp

pháp của tổ chức, cá nhân.

Như vậy với việc phân công cụ thể, rõ ràng như trên sẽ tránh tình

trạng chồng chéo, trùng lặp, mâu thuẫn trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ

của mỗi cơ quan. Việc phân công hợp lý là tiền đề cho sự phối hợp nhịp

nhàng và kiểm soát quyền lực đạt hiệu quả cao nhất.

67

Các quốc gia trên thế giới với các hình thức chính thể khác nhau, sự phân

công giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp cũng có những nét khác biệt.

Ở các quốc gia theo chính thể Cộng hòa Tổng thống, điển hình là Hoa

Kỳ, áp dụng triệt để nguyên tắc phân quyền . Theo đó, quyền hành pháp được

trao cho Tổng thống Hoa Kỳ, là người đứng đầu ngành hành pháp của Liên

bang, chịu trách nhiệm lãnh đạo đất nước. Quyền tư pháp được trao cho Tòa

án và được Hiến pháp quy định cho những quyền năng hoàn toàn độc lập để

đủ sức mạnh “kiềm chế - đối trọng” với hai nhánh quyền còn lại. Hoa Kỳ thực

hiện chế độ bổ nhiệm thẩm phán trọn đời với mức lương ổn định và không bị

cắt giảm bởi bất cứ cơ quan nào.

Ở các quốc gia theo chính thể cộng hòa đại nghị, quyền lực nhà nước

được tổ chức mềm dẻo, linh hoạt hơn, điển hình là ở Đức. Quyền hành pháp

thuộc về Tổng thống và Chính phủ mà đứng đầu là Thủ tướng, nhưng quyền

lực thực chất tập trung vào Thủ tướng. Quyền tư pháp được trao cho Tòa án

gồm Tòa án Hiến pháp Liên bang và các Tòa án Bang. Tòa án Hiến pháp Liên

bang chịu trách nhiệm giám sát và kiểm soát hệ thống chính trị dân chủ nhằm

bảo đảm việc tuân thủ hiến pháp. Mỗi bang sẽ có một tòa án hiến pháp riêng.

Ở các quốc gia theo chính thể cộng hòa hỗn hợp - vừa có các đặc trưng

của cộng hòa đại nghị lẫn cộng hòa tổng thống - mà Pháp là đại diện điển

hình, quyền hành pháp do Chính phủ mà thực chất là Tổng thống nắm giữ.

Tổng thống vừa là nguyên thủ quốc gia, đồng thời tác động trực tiếp đến bộ

máy hành pháp. Quyền tư pháp ở Pháp được trao cho hệ thống Tòa án. Pháp

có hai hệ thống Tòa án: Tòa án thường và Tòa án Hành chính. Ngoài ra, còn

có Tòa án Tối cao được thành lập để xét xử Tổng thống và các thành viên của

Chính phủ khi họ phạm tội.

68

2.2.2. Nội dung phối hợp giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp

trong thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam

Về bản chất, quyền lực nhà nước không phải là sự cộng lại đơn thuần

của các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp mà có thể yêu cầu chúng tách

biệt, độc lập khỏi nhau. Không một cơ quan nào thuần tuý chỉ thực hiện một

quyền mà không tham gia vào việc thực hiện các quyền khác. Không có một

quyền nào chỉ được thực hiện duy nhất bởi một cơ quan/chủ thể mà không có

sự tham gia của các cơ quan/chủ thể khác [72]. Các cơ quan dù được phân

công trong việc thực hiện các quyền khác nhau, nhưng đều phải có sự phối

hợp với các cơ quan khác trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của

mình. Xét cho cùng, phối hợp tức là phân quyền, vì trong phạm vi quyền lực

được phân công, các quyền làm tốt chức năng được phân tự khắc các quyền

của quyền lực được phối hợp tạo nên sự thống nhất quyền lực. Trong mối

quan hệ phối hợp, cần phải xác định rõ nội dung phối hợp, chủ thể chủ trì và

chủ thể phối hợp đồng thời xác định trách nhiệm của từng chủ thể trong mối

quan hệ đó.

Sự phối hợp này thể hiện ngay cả trong nước Mỹ - nơi áp dụng triệt để

nhất học thuyết phân quyền. Nói khác đi, sự độc lập giữa các quyền không

đồng nghĩa với sự biệt lập tuyệt đối của chúng. Tuy nhiên, sự phối hợp giữa

lập pháp và hành pháp thường rõ nét hơn giữa hành pháp và tư pháp. Cụ thể:

Tổng thống là người đứng đầu cơ quan hành pháp cũng tham gia vào hoạt

động lập pháp bằng việc đưa ra các sáng kiến lập pháp dưới hình thức các

thông điệp liên bang hoặc phủ quyết các dự luật đã được Nghị viện thông qua.

Đối với quyền tư pháp, Tổng thống có tham gia thực hiện trong một số trường

hợp nhất định, cụ thể: Tổng thống có quyền ân xá tội phạm đã được Tòa án

xét xử [38, tr.78].

Đối với Việt Nam, nội dung phối hợp giữa quyền tư pháp và quyền hành

69

pháp được Hiến định trong Hiến pháp năm 2013. Trong phạm vi luận án, tác

giả tập trung nghiên cứu sự phối hợp giữa TAND và Chính phủ trong hoạt

động xây dựng pháp luật, giáo dục pháp luật, trong hoạt động quản lý các Tòa

án theo quy định tại Quy chế phối hợp công tác giữa Chính phủ với TAND tối

cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao được ban hành bởi Nghị quyết liên tịch số

15/NQLT/CP-TANDTC-VKSNDTC ngày 31/3/2010.

2.2.3. Nội dung kiểm soát giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp

trong thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam

Kiểm soát có nghĩa là mối quan hệ một chiều hoặc tương tác giữa các cơ

quan nhằm bảo đảm một cơ quan thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn

của mình một cách hiệu quả hoặc theo đúng quy định của pháp luật. Như vậy,

kiểm soát cũng chính là phân quyền, không có phân quyền thì không kiểm

soát được.

* Kiểm soát của quyền lực tư pháp đối với quyền lực hành pháp

Trong tổ chức quyền lực nhà nước, nhánh quyền lực tư pháp được xem

là có vị trí độc lập tương đối. Sự độc lập của Tòa án cùng với sự liêm chính

của các Thẩm phán khi đưa ra những phán quyết theo quy định của pháp luật

chính là cơ sở để bảo vệ Hiến pháp. Trong tương quan đối với cơ quan hành

pháp, thông thường tòa án kiểm soát thông qua thực hiện quyền luận tội, xét

xử các quan chức chính phủ nếu những người này bị phát hiện có dấu hiệu vi

phạm pháp luật. Tòa cũng có quyền ban hành các bản án, quyết định phán xét

đối với các quyết định hay các hành vi của các cơ quan hay công chức hành

chính cụ thể của ngành hành pháp do vi phạm pháp luật.

Ở nước ta, kiểm soát quyền lực hành pháp từ quyền lực tư pháp được

thực hiện bởi Tòa án. Theo quy định của Hiến pháp năm 2013, TAND là cơ

quan có chức năng xét xử, là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Trong cơ chế

kiểm soát của quyền lực tư pháp đối với quyền lực hành pháp nói chung ở

70

Việt Nam, việc thực hiện chức năng xét xử của cơ quan Tòa án là một phương

thức để Tòa án kiểm soát quyền lực. Hoạt động kiểm soát của toà án có tính

chất gián tiếp, thông qua việc giải quyết các tranh chấp về kinh tế, lao động,

hôn nhân và gia đình và thông qua việc giải quyết các vụ án hành chính.

Trong quá trình thực hiện quyền hành pháp, các cơ quan hành chính nhà

nước, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước ban hành các

quyết định hành chính, thực hiện các hành vi hành chính làm phát sinh, thay

đổi hay chấm dứt các quan hệ xã hội, ảnh hưởng đến quyền lợi của công dân,

cơ quan, tổ chức. Quá trình đó có thể nảy sinh các tranh chấp giữa cơ quan

hành chính với công dân, cơ quan, tổ chức. Để giải quyết tranh chấp này, Tòa

án hành chính có quyền phán quyết đối với các quyết định hành chính, hành

vi hành chính của các cơ quan hành chính (giải quyết khiếu kiện hành chính).

Với thẩm quyền đánh giá tính hợp pháp hay sai phạm của quyết định hành

chính, hành vi hành chính bị khiếu kiện, xét xử hành chính thực sự là một cơ

chế hữu hiệu để bảo đảm cho các cơ quan hành chính nhà nước nói chung

thực hiện đúng quy định của pháp luật trong quá trình thực hiện chức năng

quản lý hành chính nhà nước của mình.

Ở Hoa kỳ, tư pháp bao gồm một hệ thống cấp bậc các quan toà do cơ

quan hành pháp bổ nhiệm và được sự chấp thuận của lập pháp. Các thẩm phán

của Tòa án tối cao do tổng thống bổ nhiệm và Thượng viện phê chuẩn. Đối với

cơ quan hành pháp, toà án tối cao có quyền luận tội tổng thống và các quan chức

Chính phủ nếu những người này bị phát hiện có dấu hiệu phạm pháp. Toà án

cũng có quyền ban hành các bản án, quyết định chống lại các cơ quan cụ thể của

ngành hành pháp do vi phạm pháp luật. Đây được xem là công cụ hữu hiệu của

Tòa án nhằm ngăn chặn khả năng Chính phủ lạm dụng quyền lực.

Ở Anh, hệ thống tư pháp có vị trí độc lập rõ ràng. Các thẩm phán của

Tòa án không đồng thời là thành viên hạ viện và được bổ nhiệm dựa trên yếu

71

tố chuyên môn. Toà án là một yếu tố cơ bản trong hệ thống kiềm chế, cân

bằng và chống lại Chính phủ lạm quyền. Các thẩm phán của Tòa án có quyền

quyết định các bộ trưởng và công chức hành chính có hoạt động theo đúng

quyền lực do luật định hay đã vượt quá thẩm quyền hoặc vi phạm luật.

Ở Pháp, kiểm soát của tư pháp đối với hành pháp chủ yếu được thực

hiện thông qua Hội đồng bảo hiến. Nguyên tắc làm việc của Hội đồng Bảo

hiến là tự kiềm chế, chỉ tiến hành xem xét các vụ việc khi tổng thống, thủ

tướng hay chủ tịch hai viện của Quốc hội kiến nghị về tính hợp hiến của một

quyết định chính sách nào đó. Hội đồng Bảo hiến có quyền thẩm định, xem

xét nhằm đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp của các quyết định của tổng thống,

của thủ tướng trước khi công bố.

* Kiểm soát của quyền lực hành pháp đối với quyền lực tư pháp

Tòa án là một cơ quan nhà nước, do vậy ngoài hoạt động xét xử còn

thực hiện các hoạt động hành chính nhà nước có tính chất nội bộ (thiết lập bộ

máy hành chính, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, thực hiện

các hoạt động tác nghiệp hành chính; sử dụng tài sản công, ngân sách nhà

nước và những hoạt động hành chính khác). Theo đó, Tòa án phải chấp hành

pháp luật hành chính với tư cách là một chủ thể của luật hành chính. Điều này

mang lại cho Chính phủ khả năng kiểm soát Tòa án về những hoạt động hành

chính nhà nước do pháp luật quy định. Mặc dầu vậy, vai trò kiểm soát của

Chính phủ - hành pháp đối với Tòa án - tư pháp dễ gặp nhiều rủi ro. Nguyên

nhân nằm ở chỗ hoạt động của Chính phủ thường là đối tượng chủ yếu của

các phán quyết của tư pháp, Chính phủ thường tìm cách gây sức ép hoặc thậm

chí can thiệp trực tiếp vào hoạt động tư pháp để giành lấy ưu thế. Vì vậy, vấn

đề giới hạn nội dung và hình thức kiểm soát quyền tư pháp từ phía quyền lực

hành pháp để bảo đảm tư pháp được độc lập luôn là vấn đề nan giải ở các

quốc gia.

72

Hình thức phổ biến nhất để hành pháp kiểm soát tư pháp là hoạt động

bổ nhiệm thẩm phán ở một số quốc gia. Ở Thái Lan, việc bổ nhiệm, cách chức

thẩm phán tư pháp do nhà vua quyết định trên cơ sở đề xuất của y ban tư

pháp của tòa án nhưng đối với thẩm phán hành chính thì đề cử này phải nhận

được sự chấp thuận của Thủ tướng. Tại Malaysia, việc bổ nhiệm Chánh án tòa

án tối cao và các thẩm phán các tòa án Liên bang, Tòa thượng thẩm do Quốc

vương thực hiện trên cơ sở đề xuất của Thủ tướng sau khi có sự tham vấn của

Hội đồng tiểu vương và Chánh án tòa án liên quan. Ở một số nước, thẩm phán

vi phạm pháp luật, không đủ tư cách có thể bị hành pháp cách chức nhưng

phải tuân thủ những trình tự, thủ tục đặc biệt. Trong khi đó, tại Hoa Kỳ,

những người chủ trương phân quyền cứng rắn đã gắn tính hiệu quả của hoạt

động tư pháp với sự đoạn tuyệt vai trò chi phối của các cơ quan Chính phủ

nhằm bảo vệ hoạt động của ngành tư pháp trước mọi ảnh hưởng của các cơ

quan của Chính phủ, tuy nhiên Hoa Kỳ vẫn tồn tại một cơ chế quan trọng để

hành pháp kiểm soát tư pháp thông qua thẩm quyền trong lĩnh vực tư pháp

của Tổng thống.

2.3. Các điều kiện bảo đảm mối quan hệ giữa quyền tư pháp và

quyền hành pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước

2.3.1. Chế độ chính trị

Quyền lập pháp cùng với quyền hành pháp, quyền tư pháp là các

nhánh hợp thành của quyền lực nhà nước và mối quan hệ giữa các nhánh

quyền lực này là một yếu tố thuộc chế độ chính trị, đồng thời chịu ảnh hưởng

từ chế độ chính trị.

Chế độ chính trị là một khái niệm có nội hàm phong phú và được xem

xét dưới nhiều góc độ khác nhau, nhưng tựu chung bao chứa trong đó những

vấn đề liên quan đến chính thể và chủ quyền quốc gia, về bản chất và mục

đích của nhà nước, về tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước và quyền lực

73

nhân dân, về tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị và chính sách đối

nội, đối ngoại của mỗi quốc gia. Từ khía cạnh tổ chức và thực hiện quyền lực

nhà nước, chế độ chính trị trong xã hội hiện đại và pháp quyền biểu hiện chủ

yếu ở việc thừa nhận ở mức độ nào đối với nguyên lý chủ quyền thuộc về

nhân dân, thừa nhận hay không thừa nhận cơ chế phân quyền và khả năng tác

động của các đảng chính trị đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước.

Trong chế độ chính trị, tất cả các đảng chính trị đều có vai trò tác động

nhất định đến đời sống xã hội của đất nước ở những mức độ khác nhau, tuy

nhiên, đảng cầm quyền bao giờ cũng là nhân tố quyết định sự phát triển của

quốc gia. Hiện nay, trên thế giới đang tồn tại chế độ chính trị nhất nguyên với

một đảng chính trị duy nhất cầm quyền và chế độ chính trị đa nguyên với

nhiều đảng chính trị đại diện cho các giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau cùng

tồn tại, đấu tranh với nhau để chia sẻ quyền lực nhà nước, chi phối đời sống

chính trị - xã hội của quốc gia.

Trên thực tế, mỗi chế độ chính trị, dù đa nguyên hay nhất nguyên thì ở

bất kỳ nhà nước hiện đại nào cũng đều có sự hiện diện của việc phân quyền

với các mức độ áp dụng khác nhau. Ở các nước tổ chức thực hiện quyền lực

nhà nước theo nguyên tắc phân quyền và có hệ thống chính trị đa nguyên thì

quyền tư pháp và quyền hành pháp hoạt động theo cơ chế cân bằng và đối

trọng nhau. Trong khi đó, ở các chế độ chính trị nhất nguyên thường các

nhánh quyền lực nhà nước không hoạt động theo cơ chế cân bằng và đối trọng

nhau mà có sự tác động qua lại ở mức độ nhất định và kiểm soát lẫn nhau.

2.3.2. Chính thể nhà nước

Chính thể là nơi thể hiện một cách tập trung nhất mối quan hệ qua lại

giữa các phạm vi quyền lực: lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Ở các quốc gia theo chính thể cộng hòa tổng thống, điển hình là Hoa

Kỳ, giữa các nhánh quyền lực có sự kiềm chế, đối trọng nhau. Điều II Hiến

74

pháp Hoa Kỳ trao quyền hành pháp cho Tổng thống: “Quyền hành pháp sẽ

được trao cho Tổng thống Hoa Kỳ”. Tổng thống là người đứng đầu ngành

hành pháp của Liên bang, chịu trách nhiệm lãnh đạo đất nước. Ngoài ra Hiến

pháp còn quy định: “Tổng thống sẽ là Tổng tư lệnh các lực lượng lục quân và

hải quân Hoa Kỳ và của lực lượng dự bị ở một số bang”. Tổng thống có

nhiệm kỳ bốn năm và có thể được bầu cử không quá hai lần. Tổng thống có

quyền phủ quyết luật pháp; uỷ nhiệm ân xá; đưa ra các hiệp ước; bổ nhiệm đại

sứ và các quan chức chính phủ khác bao gồm thẩm phán Tòa án Tối cao. Hiến

pháp quy định Tổng thống sẽ định kỳ thông báo cho Quốc hội biết tình trạng

của Liên bang, và đề xuất các dự luật được coi là cần thiết và thích hợp.

Ngoài ra, Điều 1, khoản 7, Hiến pháp cũng trao cho Tổng thống quyền phủ

quyết các dự luật của Quốc hội.

Đối với cơ quan tư pháp: Tổng thống có quyền đề cử và bổ nhiệm các

thẩm phán của Tòa án tối cao, các thẩm phán của tòa án liên bang theo sự

thỏa thuận và nhất trí của Thượng viện. Tổng thống có quyền hủy bỏ bản án

hoặc ân xá (ngoại trừ những trường hợp xét xử các vụ trọng tội) mà không

cần có sự phê chuẩn của bất cứ viện nào thuộc Quốc hội.

Tòa án giữ quyền tư pháp độc lập. Điều III Hiến pháp Hoa Kỳ tuyên bố

“quyền lực pháp lý của Hoa Kỳ sẽ được trao cho Toà án tối cao và những tòa

án cấp dưới mà Quốc hội có thể thiết lập trong một số trường hợp”. Những tòa

án thực thi quyền tư pháp nói trên được gọi là “tòa án hiến định” (constitutional

courts) khác với các “tòa án luật định” (legislative courts) cũng do Quốc hội

Hoa Kỳ thành lập dưới hình thức các cơ quan bán tư pháp và các ủy ban.

Hệ thống Tòa án Hoa Kỳ được Hiến pháp trao cho những quyền năng

hoàn toàn độc lập để đủ sức mạnh “kiềm chế - đối trọng” với Quốc hội và

Tổng thống trong việc thực hiện quyền lực nhà nước. Thẩm phán liên bang do

Tổng thống bổ nhiệm theo sự thỏa thuận và nhất trí của Thượng viện; chỉ cần

75

họ không bị tố cáo và kết tội thì có thể đương nhiệm suốt đời. Trong suốt

nhiệm kỳ của mình các thẩm phán có mức lương ổn định và không bị cắt

giảm bởi bất cứ cơ quan nào. Những sự đảm bảo hiến định nói trên nhằm đảm

bảo sự độc lập của các thẩm phán liên bang trước Tổng thống và Quốc hội.

Nhiệm kỳ suốt đời sẽ bảo vệ các thẩm phán khỏi nguy cơ sa thải nào từ phía

Tổng thống đã bổ nhiệm họ hay bất cứ Tổng thống nào trong suốt cuộc đời

họ. Quy định không được giảm lương của thẩm phán sẽ bảo vệ các thẩm phán

khỏi áp lực của Quốc hội, cơ quan có thể đe dọa cố định mức lương của họ ở

mức thấp đến nỗi họ buộc phải từ chức. Tòa án Hoa Kỳ có quyền kiểm soát cả

cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp thông qua việc giám sát bằng thủ tục

tư pháp (judicial review) đối với các văn bản pháp luật do các cơ quan này

ban hành. Quyền giám sát bằng thủ tục tư pháp thực ra không được ghi nhận

cụ thể trong Hiến pháp Hoa Kỳ mà được củng cố bằng tiền lệ pháp do Tòa án

tối cao của Hoa Kỳ thiết lập từ vụ Marbury kiện Madison.

Ở các quốc gia theo chính thể cộng hòa đại nghị, quyền lực nhà nước

được tổ chức một cách mềm dẻo, linh hoạt hơn. Điều đó thể hiện ở chỗ hành

pháp không hoàn toàn độc lập mà có mối liên hệ mật thiết, thường xuyên với

lập pháp do sự chịu trách nhiệm trước lập pháp và sự chung nhân viên giữa

hai cơ quan này. Nguyên thủ quốc gia chỉ là hành pháp tượng trưng vì bộ máy

hành pháp trực thuộc thủ tướng và thủ tướng mới phải chịu trách nhiệm trước

lập pháp. Tư pháp độc lập với hành pháp trong hoạt động song không hoàn

toàn độc lập trong tổ chức và trong cả tổ chức lẫn hoạt động đều không hoàn

toàn độc lập với lập pháp. Điển hình cho chính thể này là nước Đức.

Ở Đức, quyền hành pháp thuộc về Tổng thống và Chính phủ mà đứng

đầu là Thủ tướng. Lãnh đạo hành pháp gồm thủ tướng và tổng thống với

quyền lực tập trung vào thủ tướng. Chức năng của Tổng thống Liên bang đơn

thuần là đại diện chính thức cho nhà nước nên chủ yếu có tính chất lễ nghi,

76

hình thức. Thực chất Tổng thống không tham gia vào việc lãnh đạo quốc gia,

không có quyền đích thực ban hành các văn bản quy phạm pháp luật và cũng

không có các quyền hạn đặc biệt nên ít có ảnh hưởng tới Chính phủ và Thủ

tướng. Thủ tướng do hạ nghị viện bầu theo đề nghị của tổng thống, nhiệm kỳ

4 năm, không giới hạn số nhiệm kỳ. Người đứng đầu đảng đa số trong Quốc

hội hoặc liên minh đảng thắng cử thường được đề cử giữ chức thủ tướng. Thủ

tướng được quyền quyết định số bộ trưởng và nhiệm vụ của họ, đề cử bổ

nhiệm và miễn nhiệm bộ trưởng. Thủ tướng đề nghị tổng thống phê chuẩn bộ

trưởng, không qua Quốc hội. Thủ tướng một mình chịu trách nhiệm về chính

sách của chính phủ liên bang, không chia sẻ trách nhiệm và quyền lực với các

bộ trưởng. Các bộ trưởng phải chấp hành chính sách của quốc gia do thủ

tướng đưa ra. Nhưng bộ trưởng được đề xuất chính sách để văn phòng thủ

tướng tổng hợp trình thủ tướng quyết định; được toàn quyền quyết định tổ

chức công việc của bộ. Nội các chịu trách nhiệm xử lý khi có xung đột nảy

sinh giữa các bộ trưởng.

Quyền tư pháp thuộc về hệ thống tòa án bao gồm Tòa án Hiến pháp

Liên bang, các Tòa án Liên bang và các Tòa án Bang. Tòa án Hiến pháp Liên

bang chịu trách nhiệm giám sát và kiểm soát hệ thống chính trị dân chủ nhằm

bảo đảm việc tuân thủ hiến pháp. Mỗi bang sẽ có một tòa án hiến pháp riêng.

Tòa án Hiến pháp Liên bang là tòa án hiến pháp tối cao của quốc gia, không

đóng vai trò là tòa án phúc thẩm cao nhất. Nhiệm vụ của Tòa án Hiến pháp

Liên bang gồm: bảo vệ hiến pháp và trật tự dân chủ; kiểm soát các tác nhân

chính trị; cấm một số đảng chính trị cực đoan hoặc xem xét các dự luật liên

quan đến chiến dịch vận động tài chính của các đảng chính trị; xét lại tính hợp

hiến của các đạo luật và phủ quyết nếu cần; phân giải các xung đột giữa các

cấp của chính quyền; kiềm chế việc lạm quyền của các thẩm phán

Trong các lĩnh vực, Liên bang thành lập các Tòa án như: Tòa án Liên

77

bang tối cao, Tòa án Hành chính Liên bang, Tòa án Tài chính Liên bang...

Việc bổ nhiệm thẩm phán ở các Tòa án này được quyết định bởi ủy ban lựa

chọn thẩm phán gồm các Bộ trưởng có thẩm quyền về từng lĩnh vực và lượng

thành viên tương ứng được Hạ viện chọn lựa. Do vậy, nếu như Toà án độc lập

với Chính phủ trong hoạt động thì nó lại phải chịu ảnh hưởng của Chính phủ

trong tổ chức, trong việc bổ nhiệm, thăng thưởng các thẩm phán. Và dĩ nhiên

vai trò kiềm chế của hành pháp với tư pháp cũng thể hiện qua hoạt động này.

Ngược lại, tư pháp có thể kiềm chế hành pháp thông qua Tòa án Hiến

pháp Liên bang, Tòa án Hành chính. Có thể nói Đức là một trong những nước

đầu tiên công nhận nguyên tắc Chính phủ phải chịu trách nhiệm về các hành

vi của công chức khi thi hành nhiệm vụ thông qua việc quy định cho Tòa án

có quyền phán xét các công chức về trách nhiệm của họ.

Ở các quốc gia theo chính thể cộng hòa hỗn hợp, đây là dạng chính thể

có các đặc trưng của cả Cộng hòa Đại nghị lẫn Tổng thống và Pháp là đại diện

điển hình cho dạng chính thể này. Quyền hành pháp do Chính phủ mà thực

chất là Tổng thống nắm. Tổng thống là nguyên thủ quốc gia đồng thời là

người có tác động trực tiếp đến bộ máy hành pháp. Vị trí của Tổng thống

Pháp hiện tại là mô hình kết hợp giữa vị trí Tổng thống Mỹ với Tổng thống

Đức. Với tư cách là người đứng đầu nhà nước do nhân dân trực tiếp bầu ra (từ

năm 1965 trở lại đây, Tổng thống Pháp do nhân dân trực tiếp bầu ra theo

nguyên tắc phổ thông đầu phiếu), Tổng thống có quyền hoạch định chính sách

quốc gia, chủ tọa Hội đồng Bộ trưởng để thông qua chính sách này. Thủ

tướng là người đứng đầu bộ máy hành pháp, có quyền chỉ đạo Chính phủ thực

thi chính sách quốc gia của Tổng thống và phải chịu mọi trách nhiệm trước

Nghị viện về việc thực hiện chính sách này. Ngoài chịu sự kiềm chế từ phía

Nghị viện, Chính phủ còn phải chịu sự kiềm chế từ phía Tòa án Hành chính

mà đứng đầu là Tham chính viện. Tòa án này được thành lập nhằm buộc

78

Chính phủ phải chịu trách nhiệm về những hoạt động của mình và bảo vệ

người dân chống sự lạm dụng quyền hành của cơ quan hành chính. Tòa án

này có quyền hủy bỏ hành vi của các công sở khi công chức của nó vi phạm

pháp luật trong lúc thi hành nhiệm vụ.

Giống các nước khác, quyền tư pháp ở Pháp do hệ thống tòa án nắm

giữ. Pháp có hai hệ thống tòa án: Tòa án thường và Tòa án Hành chính. Hệ

thống tòa án thường gồm nhiều cấp mà cao nhất là Tòa Phá án đặt tại Paris.

Tòa này không xét nội dung vụ kiện mà chỉ đảm bảo sự tôn trọng việc áp

dụng luật lệ tố tụng một cách chính xác. Tòa án này có quyền hủy bỏ các bản

án xét xử không đúng thủ tục và giao hồ sơ cho một tòa án cùng cấp để xử lại.

Ngoài ra còn có Tòa án Tối cao được thành lập để xét xử Tổng thống và các

thành viên của Chính phủ khi họ phạm tội. Khi xét xử các vụ việc này, Tòa án

Tối cao vẫn bị ràng buộc bởi định nghĩa về trọng tội và khinh tội cũng như

việc xác định hình phạt căn cứ vào luật hình hiện hành ở thời điểm các hành

vi đó được thực hiện. Cùng với các loại toà án nói trên, ở Pháp còn có các toà

án chuyên biệt như: Tòa án Thương mại, Tòa án Lao động, Tòa án Bảo hiểm

xã hội, Tòa Hòa giải tranh chấp hợp đồng nông nghiệp, Tòa án Thiếu nhi.

Kiểm soát toàn bộ hoạt động của các cơ quan tư pháp là Hội đồng Thẩm phán

tối cao do Tổng thống là chủ tọa, Bộ trưởng Tư pháp là Phó Chủ tịch và có

thể thay thế Tổng thống. Hội đồng này gồm 9 hội viên do Tổng thống bổ

nhiệm với nhiệm kỳ 4 năm song Tổng thống phải tham khảo ý kiến của nó

trước khi sử dụng quyền ân xá hay giảm án, có thể coi nó là lực lượng kiềm

chế cơ quan tư pháp.

Tóm lại, khi xem xét tổ chức, hoạt động và mối quan hệ giữa các cơ

hành pháp, tư pháp của Pháp có thể thấy rõ tính "lưỡng tính" hay "hỗn hợp"

giữa hai mức độ áp dụng tư tưởng phân quyền: cứng rắn và mềm dẻo. Mức độ

áp dụng này cũng không trung thành tuyệt đối với lý thuyết phân quyền mà

79

cũng làm biến dạng nó ở mức thấp hơn sự áp dụng mềm dẻo và cao hơn ở sự

áp dụng cứng rắn.

2.3.3. Mức độ hoàn thiện của các quy định trong hệ thống pháp luật

về mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp

Về lý luận, ở các nước tổ chức bộ máy nhà nước theo mô hình tam

quyền phân lập thì mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp cũng

như quan hệ giữa quyền tư pháp với quyền lập pháp, quyền lập pháp với

quyền hành pháp chủ yếu là quan hệ kiềm chế, đối trọng, chế ước lẫn nhau. Ở

các nước tổ chức bộ máy nhà nước theo mô hình mềm dẻo hơn như trường

hợp của Việt Nam trong đó không chỉ có sự phân công rành mạch mà còn có

sự phối hợp chặt chẽ và kiểm soát việc thực thi quyền lực nhà nước giữa các

cơ quan nhà nước. Cho dù tổ chức theo mô hình nào thì những quan điểm

nguyên tắc về mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước cũng phải được thể

hiện thành các quy định của pháp luật mới có cơ sở pháp lý để thực hiện trong

thực tế. Tuy vậy, trong thực tế, khi thể chế hóa các nguyên tắc, quan điểm về

mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp cũng như các quan hệ

khác không phải bao giờ cũng đầy đủ, chặt chẽ. Trong hệ thống pháp luật vẫn

còn những quy định bất cập, khó thực hiện hoặc chưa đủ cụ thể bảo đảm sự

phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát giữa tư pháp và hành

pháp. Chẳng hạn như: trong vụ án hành chính khi giải quyết các tranh chấp

hành chính giữa công dân và cơ quan hành chính đòi hỏi người ký các quyết

định hành chính phải có mặt, nhưng họ có nhiều lý do hợp pháp để không có

mặt, thậm chí có phán quyết của Tòa án nhưng họ cũng không thực hiện.

Nhưng đến cùng vẫn chưa có quy định nào ràng buộc trách nhiệm có mặt tại

Tòa và trách nhiệm thực hiện của họ. Như vậy, mối quan hệ giữa quyền tư

pháp và quyền hành pháp phụ thuộc nhiều vào mức độ hoàn thiện của các quy

định trong hệ thống pháp luật.

80

2.3.4. Tổ chức bộ máy và năng lực, phẩm chất đội ngũ cán bộ, công

chức các cơ quan tư pháp và cơ quan hành pháp

Mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp trong việc thực

hiện quyền lực được quy định trong pháp luật, nhưng quan trọng hơn là được

thực hiện trên thực tế như thế nào. Việc thực hiện trên thực tế hoàn toàn phụ

thuộc vào vấn đề tổ chức bộ máy của cơ quan thực hiện quyền tư pháp, cơ

quan thực hiện quyền hành pháp và năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ,

công chức các cơ quan này. Hệ thống tổ chức TAND được cơ cấu bảo đảm

tính độc lập khi xét xử, khách quan, không phụ thuộc vào điều kiện gì, không

chịu áp lực nào khi xem xét đánh giá tính đúng đắn, phù hợp pháp luật trong

hoạt động của các cơ quan hành pháp, cán bộ, công chức cơ quan hành pháp.

Tổ chức hệ thống TAND, các cơ quan điều tra, công tố, thi hành án bảo đảm

nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm trong thực thi quyền tư pháp, nhất là thực

hiện các nguyên tắc tư pháp trong nhà nước pháp quyền XHCN. Điều quan

trọng là bảo đảm cho các cơ quan này khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn của mình trong đó có nhiệm vụ kiểm soát hoạt động của các cơ

quan hành pháp và cán bộ, công chức của cơ quan hành pháp một cách khách

quan, đúng pháp luật không bị ràng buộc, phụ thuộc hay một sức ép nào. Đối

với các cơ quan hành pháp cũng vậy. Để phục vụ, hỗ trợ có hiệu quả cho các

cơ quan thực hiện quyền tư pháp, các cơ quan hành pháp cũng cần có cơ cấu

hợp lý, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn rõ ràng, cụ thể, khả thi. Đây là điều

kiện bảo đảm mối quan hệ giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp.

Năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ, công chức của cơ quan tư pháp, hành pháp có vai trò quyết định trong việc bảo đảm chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, hành pháp, trong đó có thực hiện mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp. Dù pháp luật có quy định đầy đủ, cụ thể đến đâu chăng nữa về mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước mà năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ, công chức không đáp ứng được yêu cầu, vẫn còn yếu kém, hạn chế,

81

quan liêu, tham nhũng, thói vô trách nhiệm, vô cảm… thì sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc thực hiện pháp luật nói chung và thực hiện mối quan hệ giữa quyền tư pháp và hành pháp nói riêng.

2.3.5. Cơ sở vật chất, trang thiết bị, kinh phí phục vụ hoạt động của

cơ quan tư pháp và hành pháp

Để bảo đảm thực hiện mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước thì ngoài vấn đề tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức còn cần phải đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại, hợp lý, kinh phí đủ yêu cầu phục vụ cho hoạt động tư pháp và hành pháp. Những điều kiện vật chất này tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tư pháp và hành pháp, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của từng hoạt động, trong đó có mối quan hệ vừa là phân công, phục vụ, tạo điều kiện thuận lợi cho nhau, vừa là kiểm soát lẫn nhau giữa tư pháp và hành pháp.

Trong điều kiện phát triển của khoa học, công nghệ cần phải khẩn trương chẩn bị các yếu tố cần thiết để tận dụng Cách mạng công nghiệp 4.0 trong tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung và hoạt động tư pháp, hành pháp nói riêng. Theo Chỉ thị số 16 ngày 04/05/2017 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 cần thực hiện ngay các giải pháp quan trọng như phát triển hạ tầng kết nối số, xây dựng chiến lược chuyển đổi số, nền quản trị thông minh, ưu tiên phát triển công nghiệp công nghệ số… Trong đó xây dựng kho dữ liệu dùng chung là vấn đề cấp bách hiện nay, bao gồm ba nền tảng dữ liệu là cơ sở dữ liệu nền địa hình, địa chính; cơ sở dữ liệu người dân, cơ sở dữ liệu doanh nghiệp. Trong cơ sở dữ liệu người dân có những dữ liệu mà ngành nào cũng sử dụng như: mã định danh, họ và tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi sinh, dân tộc, quốc tịch, tiền án, tiền sự, vi phạm pháp luật… Trong cơ sở dữ liệu về hoạt động của nhà nước, các văn bản, quyết định đều được công khai, minh bạch thuận tiện cho việc tra cứu, sử dụng cũng như kiểm tra, kiểm soát.

82

Kết luận Chương 2

Mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp là mối quan hệ

phân công, phối hợp và kiểm soát giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp. Phân

công để tránh tình trạng ôm đồm, “cha chung không ai khóc”; để nâng cao tinh

thần trách nhiệm của các cơ quan nhà nước được giao thực hiện mỗi nhánh

quyền; là cơ sở để thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước. Phối hợp để với thế

mạnh của mình, mỗi nhánh quyền cùng tham gia hỗ trợ việc thực hiện một mảng

quyền khác bảo đảm việc thực hiện mảng quyền thứ hai đạt được hiệu quả tối

ưu. Kiểm soát là nhu cầu tất yếu từ việc phân công quyền lực. Quyền lực muốn

đạt hiệu quả cao nhất, ngoài phân công, phối hợp thì kiểm soát là yếu tố không

thể tách rời. Kiểm soát giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp chính là sự kiểm

soát giữa các nhánh quyền lực nhằm ngăn chặn, loại bỏ những hoạt động sai trái

của các thiết chế quyền lực nhà nước, phát hiện và điều chỉnh được việc thực thi

quyền lực nhà nước, đảm bảo cho quyền lực nhà nước thực thi đúng mục đích

chung và đạt được hiệu quả cao nhất.

Việc xác lập và bảo đảm mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành

pháp có vai trò vô cùng quan trọng, thể hiện: góp phần kiểm soát thực hiện

quyền lực nhà nước giữa cơ quan tư pháp và cơ quan hành pháp; góp phần bảo

đảm thực thi quyền tư pháp và quyền hành pháp có hiệu lực, hiệu quả; góp phần

bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất và thuộc về nhân dân.

Chế độ chính trị; chính thể nhà nước; mức độ hoàn thiện của các quy

định pháp luật; tổ chức bộ máy và năng lực, phẩm chất đội ngũ cán bộ, công

chức; cở sở vật chất, trang thiết bị, kinh phí phục vụ hoạt động hành pháp, tư

pháp là các điều kiện bảo đảm mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành

pháp. Các điều kiện này tác động ở mức độ nhất định đến việc thiết lập và bảo

đảm mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp. Trong đó, chính

thể là nơi thể hiện một cách tập trung nhất mối quan hệ qua lại giữa các nhánh

quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

83

CHƯƠNG 3

THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ GIỮA QUYỀN TƯ PHÁP VÀ QUYỀN

HÀNH PHÁP TRONG THỰC HIỆN QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở

VIỆT NAM

3.1. Thực trạng quy định của pháp luật về mối quan hệ giữa

quyền tư pháp và quyền hành pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước

ở Việt Nam

3.1.1. Lịch sử phát triển mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền

hành pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam qua các bản

Hiến pháp

Trong phần này, luận án tập trung đánh giá khái quát mối quan hệ

giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước ở

Việt Nam qua các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và Hiến pháp 1992

(sửa đổi, bổ sung năm 2001)

3.1.1.1. Hiến pháp năm 1946

Ngày 6 tháng 1 năm 1946, Quốc hội ban hành Hiến pháp năm 1946

quy định về tổ chức bộ máy nhà nước phù hợp với chính thể Việt Nam dân

chủ cộng hòa. Hiến pháp quy định, cơ quan tư pháp của nước Việt Nam dân

chủ cộng hòa bao gồm: Toà án tối cao, các Toà án phúc thẩm và các Toà án

đệ nhị cấp và sơ cấp. Hệ thống Tòa án được tổ chức theo cấp xét xử không

phụ thuộc vào thiết kế tổ chức của đơn vị hành chính - lãnh thổ. Ngoài ra,

Nghị viện có thể thành lập Tòa án đặc biệt để xét xử, truy tố Chủ tịch, Phó

chủ tịch hay một nhân viên Nội các về tội phản quốc. Đặc biệt, hệ thống tòa

án nước ta thời kỳ này do Bộ Tư pháp quản lý (những nơi chưa thành lập

được tòa án, các việc tư pháp do Uỷ ban hành chính đảm nhiệm); thẩm phán

các cấp do những người đứng đầu các cơ quan hành pháp ở trung ương và địa

84

phương bổ nhiệm. Theo Hiến pháp và Sắc lệnh số 13 (ngày 24/01/1946), hệ

thống Tòa án tổ chức theo các nguyên tắc: tòa án biệt lập đối với hành chính,

chỉ có Tòa án mới thực hiện chức năng xét xử; các thẩm phán do Chính phủ

bổ nhiệm; khi xét xử, các viên thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan

khác không được phép can thiệp.

Chính phủ được quy định là cơ quan hành chính cao nhất của toàn

quốc [1, Điều 43]. Trong các quyền năng của mình liên quan đến việc thực

hiện quyền tư pháp, Chính phủ được Hiến pháp quy định quyền đặc xá, quyền

lập dự án ngân sách hàng năm, quyền bổ nhiệm các thẩm phán. Để đảm bảo

cho tòa án độc lập, Hiến pháp đã quy định khi xét xử, các viên thẩm phán chỉ

tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp [1, Điều 69]. Quy

định như vậy cho thấy, giới hạn của Hiến pháp đối với Chính phủ trong việc

tham gia thực hiện những quyền tư pháp theo một nguyên tắc đảm bảo cho

hoạt động xét xử được độc lập. Tuy nhiên, Hiến pháp vẫn tạo cho Chính phủ

thực hiện quyền của chủ thể quản lý với đối tượng quản lý là TAND. Tòa án

thời kỳ này vừa thực hiện quyền công tố, chỉ đạo điều tra, vừa thực hiện

quyền xét xử và tổ chức thi hành án. Tại Tòa án có biện lý (đứng dầu là

Chưởng lý) làm nhiệm vụ truy tố người phạm tội trước tòa án.

Có thể thấy, Hiến pháp năm 1946 đã bảo đảm tính độc lập của các

quyền hành pháp và quyền tư pháp; khẳng định tính nguyên tắc là các cơ quan

Chính phủ và Tòa án đều là những cơ quan cao nhất của quyền lực nhà nước,

mỗi cơ quan nắm giữ một bộ phận quyền lực nhà nước. Hiến pháp năm 1946

cũng tạo cơ chế cân bằng quyền lực, trong đó có việc kiểm soát giữa các cơ tư

pháp đối với cơ quan hành pháp và ngược lại.

3.1.1.2. Hiến pháp năm 1959

Tính đến năm 1959, Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đã ra đời

và phát triển được 14 năm. Đó là một khoảng thời gian có nhiều sự kiện chính

85

trị quan trọng, làm thay đổi tình hình chính trị, xã hội và kinh tế của đất nước.

Ngay sau khi Quốc hội thông qua Hiến pháp năm 1946, thực dân Pháp lại gây

ra chiến tranh để xâm lược nước ta một lần nữa. Nhân dân ta lại bước vào

cuộc kháng chiến trường kì và gian khổ. Với chiến thắng Điện Biên Phủ và

Hội nghị Giơnevơ thắng lợi, miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng

nhưng đất nước còn tạm thời bị chia làm hai miền. Nhiệm vụ cách mạng trong

giai đoạn mới này là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh

thống nhất nước nhà. Hiến pháp năm 1946 đã hoàn thành sứ mệnh của nó

nhưng so với tình hình và nhiệm vụ cách mạng mới nó cần được bổ sung và

thay đổi. Vì vậy, trong Kỳ họp lần thứ 6, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ

cộng hòa Khoá I đã quyết định sửa đổi Hiến pháp năm 1946 và thành lập Ban

dự thảo Hiến pháp sửa đổi. Sau khi làm xong Bản dự thảo đầu tiên, tháng 7

năm 1958, Bản dự thảo được đưa ra thảo luận trong các cán bộ trung cấp và

cao cấp thuộc các cơ quan Quân, Dân, Chính, Đảng. Sau đợt thảo luận này

Bản dự thảo đã được chỉnh lý lại và ngày 01/4/1959, dự thảo được công bố để

toàn dân thảo luận và đóng góp ý kiến xây dựng. Ngày 31/12/1959, Quốc hội

đã nhất trí thông qua Hiến pháp sửa đổi và ngày 01/01/1960, Chủ tịch Hồ Chí

Minh ký Sắc lệnh công bố Hiến pháp.

Hiến pháp năm 1959 quy định Hội đồng Chính phủ là cơ quan chấp

hành của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, và là cơ quan hành chính

Nhà nước cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Hội đồng Chính

phủ có 15 nhiệm vụ, quyền hạn, đồng thời Hiến pháp còn quy định: Ngoài

những quyền hạn trên, Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội có thể trao

cho Hội đồng Chính phủ những quyền hạn khác khi xét thấy cần thiết. Trên

cơ sở Hiến pháp năm 1959, Luật tổ chức Chính phủ ra đời năm 1960, quy

định trong thành phần Chính phủ không có Bộ Tư pháp. Các nhiệm vụ của Bộ

Tư pháp về quản lý tổ chức và hoạt động của các cơ quan điều tra (tư pháp

86

công an), truy tố (viện công tố), xét xử (toà án), thi hành án được chuyển giao

cho Bộ Công an, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao và

một phần cho chính quyền địa phương.

Đối với Tòa án, Hiến pháp 1959 quy định : “Toà án nhân dân tối cao

nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, các Toà án nhân dân địa phương, các Toà

án quân sự là những cơ quan xét xử của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

Trong trường hợp cần xét xử những vụ án đặc biệt, Quốc hội có thể quyết

định thành lập Toà án đặc biệt” [2, Điều 97]. Căn cứ vào Hiến pháp, hệ thống

toà án được thành lập ở các đơn vị hành chính. Để cụ thể hoá Hiến pháp năm

1959, Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1960 đã quy định chế độ bầu thẩm

phán thay thế cho chế độ bổ nhiệm thẩm phán trước đó. Theo đó, Chánh án

TAND tối cao do Quốc hội bầu và bãi miễn. Phó Chánh án, Thẩm phán

TAND tối cao do y ban thường vụ Quốc hội bổ nhiệm và bãi miễn. Chánh

án, Thẩm phán TAND địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra và

bãi miễn.

Về tổ chức của TAND tối cao và các TAND địa phương được quy

định như sau: “Tổ chức cụ thể của bộ máy làm việc và biên chế của Toà án

nhân dân tối cao do Chánh án Toà án nhân dân tối cao định và trình Uỷ ban

thường vụ Quốc hội phê chuẩn” [19, Điều 8] và “Tổ chức cụ thể của bộ máy

làm việc và biên chế cụ thể của các Toà án nhân dân địa phương các cấp do

Chánh án Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện theo những quy định

chung về bộ máy làm việc và biên chế của các cơ quan Nhà nước. Tổng số

biên chế của các Toà án nhân dân địa phương các cấp do Chánh án Toà án

nhân dân tối cao định và trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn” [19,

Điều 14]. Với quy trình nêu trên, có thể nhận thấy ở thời kỳ này TAND tối

cao chủ yếu quản lý về công tác sắp xếp bộ máy làm việc, số lượng biên chế,

trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn tổng biên chế của các TAND địa

87

phương, quản lý về công tác xét xử. Còn Uỷ ban hành chính địa phương quản

lý và cấp kinh phí hoạt động cũng như sắp xếp nhân sự.

Nhìn chung, sự phân công quyền lực giữa lập pháp, hành pháp và tư

pháp đã “mờ nhạt” hơn so với Hiến pháp năm 1946. Những học thuyết về

phân định quyền lực được thể chế trong Hiến pháp năm 1946 đã “không được

kế thừa và phát huy” trong Hiến pháp năm 1959. Có thể nói, từ Hiến pháp

năm 1959 đã bắt đầu hình thành xu hướng tập trung quyền lực nhà nước vào

Quốc hội, còn quyền lực của các cơ quan khác chỉ được coi là quyền lực phái

sinh từ Quốc hội [72].

3.1.1.3. Hiến pháp năm 1980

Thắng lợi vĩ đại của chiến dịch Hồ Chí Minh mùa xuân năm 1975 đã

mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử dân tộc ta. Miền Nam được hoàn toàn

giải phóng, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã hoàn thành trong phạm vi

cả nước. Nước ta đã hoàn toàn độc lập, tự do là điều kiện thuận lợi để thống

nhất hai miền Nam - Bắc, đưa cả nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.

Trước tình hình đó, tháng 9/1975, Hội nghị lần thứ 24 của Ban Chấp

hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã xác định nhiệm vụ quan trọng

hàng đầu lúc này là phải hoàn thành việc thống nhất nước nhà. Hội nghị đã

quyết định triệu tập Hội nghị hiệp thương chính trị thống nhất Tổ quốc; nhất

trí quyết định tổ chức tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội chung cho cả nước.

Quốc hội chung của cả nước đã bắt đầu kỳ họp đầu tiên của mình vào ngày

25/6/1976 và kéo dài đến ngày 03/7/1976. Ngày 02/7/1976 Quốc hội đã thông

qua các nghị quyết quan trọng, trong đó có quyết định trong khi chưa có Hiến

pháp mới, tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta hoạt động dựa trên cơ sở

Hiến pháp năm 1959 của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đồng thời Quốc

hội khoá VI cũng đã ra Nghị quyết về việc sửa đổi Hiến pháp năm 1959 và

thành lập Uỷ ban dự thảo Hiến pháp gồm 36 người do đồng chí Trường Chinh

88

- Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội làm Chủ tịch. Sau một năm rưỡi làm

việc khẩn trương, Uỷ ban đã hoàn thành dự thảo. Bản dự thảo được đưa ra

cho toàn dân thảo luận. Tháng 9/1980, Ban Chấp hành Trung ương Đảng

Cộng sản Việt Nam đã họp kỳ đặc biệt để xem xét và cho ý kiến bổ sung, sửa

chữa dự thảo trước khi trình Quốc hội thảo luận, thông qua. Sau một thời gian

thảo luận, Quốc hội khoá VI tại kỳ họp thứ 7 ngày 18/12/1980 đã nhất trí

thông qua Hiến pháp.

Hiến pháp năm 1980 đã đổi tên Hội đồng chính phủ từ Hiến pháp năm

1959 thành Hội đồng Bộ trưởng. Hội đồng Bộ trưởng là Chính phủ của nước

Cộng hòa XHCN Việt Nam, là cơ quan chấp hành và hành chính Nhà nước

cao nhất của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất [3, Điều 104]. Khái niệm

tư pháp vẫn được hiểu như Hiến pháp năm 1959, bao gồm cả Tòa án và Viện

kiểm sát. Tòa án được tổ chức và hoạt động theo các đơn vị hành chính lãnh

thổ. Nhằm mục đích cụ thể hoá những quy định của Hiến pháp năm 1980,

Luật tổ chức TAND năm 1981 được ban hành trong đó thể hiện mối quan hệ

giữa cơ quan hành chính và cơ quan tư pháp theo hướng hoàn thiện hơn.

Theo đó, về mặt tổ chức, Bộ Tư pháp quản lý các TAND địa phương.

Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định biên chế cho từng Toà án nhân dân địa

phương. Tổng số biên chế của các Toà án nhân dân địa phương do Bộ trưởng

Bộ Tư pháp trình Hội đồng bộ trưởng quyết định. Biên chế của Toà án nhân

dân tối cao do Chánh án Toà án nhân dân tối cao quy định và trình Hội đồng

Nhà nước phê chuẩn. Về chuyên môn, Toà án nhân dân tối cao chịu trách

nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không

họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng Nhà nước. Các

Toà án nhân dân địa phương chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội

đồng nhân dân cùng cấp. Ngoài ra, ở giai đoạn này, các Tòa án quân sự cũng

được thành lập và chịu sự quản lý của Bộ Trưởng Bộ Tư pháp, Bộ trưởng Bộ

89

Quốc phòng và chánh án TAND tối cao. Pháp lệnh tổ chức tòa án quân sự

năm 1985 quy định : “Bộ trưởng Bộ Tư pháp phối hợp chặt chẽ với Bộ trưởng

Bộ Quốc phòng và Chánh án TAND tối cao trong việc quản lý về mặt tổ chức

các Tòa án quân sự quân khu và cấp tương đương và các Tòa án quân sự khu

vực”. Về kinh phí, phương tiện hoạt động và trụ sở của các Tòa án quân sự do

Bộ Quốc phòng và các đơn vị quân đội bảo đảm.

Như vậy, ở giai đoạn này, việc thực hiện quyền tư pháp của cơ quan

hành pháp đã có sự chỉ đạo tập trung vào quản lý biên chế, kinh phí. Bộ Tư

pháp được tổ chức và đảm nhiệm việc quản lý toà án và chủ yếu là việc chăm

lo về đội ngũ cán bộ ngành tư pháp như: trình tổng số biên chế và quy định

biên chế cụ thể cho từng TAND địa phương và chính quyền địa phương chịu

trách nhiệm về ngân sách địa phương cho hoạt động của TAND ở địa phương.

3.1.1.4. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)

* Giai đoạn từ 1992 đến trước 2002

Hiến pháp 1992 quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc

hội và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN

Việt Nam (chứ không phải của Quốc hội). Trong cơ cấu của Chính phủ có Bộ

Tư pháp. Căn cứ vào Hiến pháp 1992, Luật tổ chức TAND được ban hành

năm 1992 quy định: “Việc quản lý các Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ

chức do Bộ trưởng Bộ Tư pháp đảm nhiệm có sự phối hợp chặt chẽ với

Chánh án Toà án nhân dân tối cao. Quy chế phối hợp giữa Bộ trưởng Bộ tư

pháp và Chánh án Toà án nhân dân tối cao trong việc quản lý các Toà án nhân

dân địa phương về mặt tổ chức do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định” [9,

Điều 16]. Luật Tổ chức TAND đã quy định trách nhiệm của Uỷ ban thường

vụ Quốc hội đối với biên chế của TAND tối cao và trách nhiệm của Chính

phủ đối với biên chế của TAND địa phương. Theo đó: “Biên chế của Toà án

nhân dân tối cao do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của

90

Chánh án TAND tối cao. Tổng biên chế của các TAND địa phương do Chính

phủ quyết định theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ tư pháp sau khi trao đổi thống

nhất ý kiến với Chánh án TAND tối cao” [9, Điều 43]. Đối với quyền quyết

định về số lượng thẩm phán TAND tối cao do Uỷ ban thường vụ Quốc hội

quyết định theo đề nghị của Chánh án TAND tối cao. Đối với số lượng Thẩm

phán và Hội thẩm nhân dân của các TAND địa phương, Uỷ ban thường vụ

Quốc hội có quyền quyết định theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ tư pháp sau khi

đã thống nhất ý kiến với Chánh án TAND tối cao. Số lượng Thẩm phán và

Hội thẩm quân nhân của các Toà án quân sự quân khu và tương đương, Toà

án quân sự khu vực do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị

của Bộ trưởng Bộ tư pháp sau khi đã thống nhất ý kiến với Bộ trưởng Bộ

quốc phòng và Chánh án TAND tối cao.

Về quản lý kinh phí, ngân sách Nhà nước cho TAND ở địa phương,

Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 173/TTg ngày 16 -12-1992 về

việc giao cho Bộ Tư pháp quản lý ngân sách của các TAND địa phương.

Năm 1996, y ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Thủ tục

giải quyết các vụ án hành chính. Pháp lệnh lần đầu tiên ghi nhận thẩm quyền

xét xử vụ án hành chính của tòa án đối với các quyết định hành chính, hành vi

hành chính của hệ thống các cơ quan hành pháp. Đây chính là quy định đảm

bảo quyền kiểm soát của Tòa án đối với Chính phủ nói riêng và các cơ quan

hành chính nhà nước nói chung.

Như vậy, ở giai đoạn này, mối quan hệ giữa Chính phủ và cơ quan tư

pháp được thể hiện chủ yếu ở mối quan hệ của chủ thể quản lý với đối tượng

chịu sự quản lý. Cụ thể là việc quản lý TAND địa phương tiếp tục kế thừa quy

định như Luật tổ chức TAND năm 1981 và có điểm mới hơn đó là Bộ Tư

pháp quản lý toàn diện cả về tổ chức, cán bộ và kinh phí hoạt động. Việc tách

kinh phí hoạt động của tòa án với ngân sách địa phương là một điểm mới,

91

khẳng định xu hướng độc lập của toà án với chính quyền địa phương.

* Giai đoạn từ năm 2002 đến 2013

Sau khi Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung, Luật tổ chức

TAND năm 2002 được ban hành và có một số điểm mới. Theo quy định tại

Điều 17 Luật tổ chức TAND năm 2002, TAND tối cao quản lý các TAND địa

phương và các Tòa án quân sự về tổ chức, có sự phối hợp chặt chẽ với Hội

đồng nhân dân địa phương và Bộ Quốc phòng.

Về biên chế, Tổng biên chế của TAND tối cao và các TAND địa

phương do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Chánh

án TAND tối cao. Tổng biên chế của Tòa án quân sự trung ương và các Tòa

án quân sự quân khu và tương đương, Tòa án quân sự khu vực do Uỷ ban

Thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Chánh án TAND tối cao sau

khi thống nhất với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Chánh án TAND tối cao phối

hợp chặt chẽ với Bộ trưởng Bộ quốc phòng quy định biên chế cho từng Tòa

án quân sự quân khu và tương đương, Tòa án quân sự khu vực.

Như vậy, ở giai đoạn này, quyền của cơ quan hành pháp đối với việc

thực hiện quyền tư pháp chỉ còn vai trò của Bộ Trưởng Bộ quốc phòng và

cũng chỉ về biên chế cho toà án quân sự quân khu và tương đương và toà án

quân sự khu vực. Kinh phí hoạt động của TAND tối cao, các TAND địa

phương do TAND tối cao lập dự toán và đề nghị Chính phủ trình Quốc hội

quyết định.

Tóm lại, Hiến pháp năm 1992 đã vận dụng được những hạt nhân hợp

lý của học thuyết phân quyền để xác lập mối quan hệ giữa lập pháp, hành

pháp, tư pháp theo cơ chế phân công, phối hợp quyền lực. Tuy nhiên, tính đến

thời điểm trước khi Hiến pháp năm 2013 ra đời, thì ba nhánh quyền lập pháp,

hành pháp và tư pháp không được trao một cách độc lập cho ba cơ quan khác

nhau. Theo quy định của Hiến pháp năm 1992, chí có Quốc hội là cơ quan

92

duy nhất được nắm quyền lập pháp. Hai nhánh quyền còn lại “đều được thực

hiện với sự phối hợp của các cơ quan nhà nước. Sự phân công quyền lực cũng

không được thực hiện một cách triệt để. Hiến pháp không thể hiện rõ cơ quan

nào là cơ quan thực hiện quyền hành pháp và cơ quan nào thực hiện quyền tư

pháp, vậy nên có sự nhập nhằng giữa các cơ quan khi thực hiện quyền lực của

mình” [72].

3.1.2. Mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp trong

thực hiện quyền lực nhà nước ở Hiến pháp năm 2013 và các văn bản pháp

luật liên quan

Hiện nay, việc xác lập mối quan hệ giữa TAND và Chính phủ dựa trên

quy định của Hiến pháp 2013, Luật Tổ chức TAND 2014, Luật Tổ chức

Chính phủ 2015, Luật Tố tụng hành chính 2015, Luật xử lý vi phạm hành

chính năm 2012 và Quy chế phối hợp công tác được ban hành bởi nghị quyết

liên tịch số 15/NQLT/CP-TANDTC-VKSNDTC ngày 31/03/2010 giữa Chính

phủ, TAND tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

3.1.2.1. Về phân công giữa Chính phủ và TAND

Ngày 28/11/2013, kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIII thông qua bản

Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Hiến pháp này có hiệu lực thi

hành từ ngày 01/01/2014. So với Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm

2001), Hiến pháp năm 2013 có nhiều quy định mới liên quan đến quyền hành

pháp và quyền tư pháp. Bên cạnh việc kế thừa Hiến pháp năm 1992 (tiếp tục

khẳng định Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất nước Cộng

hòa XHCN Việt Nam, là cơ quan chấp hành của Quốc hội) Hiến pháp năm

2013 đã bổ sung một quy định mới, quan trọng nhất, đó là Chính phủ thực

hiện quyền hành pháp. Quy định Chính phủ thực hiện quyền hành pháp bao

hàm cả vị trí của Chính phủ trong phân công thực hiện quyền lực nhà nước,

và chức năng hành pháp của Chính phủ. Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử

93

lập hiến Việt Nam, Hiến pháp chính thức khẳng định Chính phủ là cơ quan

thực hiện quyền hành pháp. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng giúp xác định cụ

thể, rõ ràng, đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, vai trò của Chính phủ

trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường, xây dựng Nhà nước pháp

quyền XHCN Việt Nam. Quy định Chính phủ thực hiện quyền hành pháp,

trước hết là đề cập đến việc phân công quyền lực (phân quyền) giữa các

nhánh quyền lực nhà nước, theo đó, Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền

lập pháp, Chính phủ thực hiện quyền hành pháp, TAND thực hiện quyền tư

pháp. Giữa 3 cơ quan (3 nhánh quyền lực) này có sự phối hợp và kiểm soát

lẫn nhau trong việc thực hiện quyền lực được trao. Nói cách khác, trong cơ

cấu quyền lực nhà nước thống nhất, Chính phủ thực hiện quyền hành pháp,

tương ứng với quyền lập hiến, lập pháp thuộc về Quốc hội và quyền tư pháp

thuộc về TAND. Sự phân công quyền lực này vừa bảo đảm tính thống nhất,

vừa bảo đảm tính phối hợp và kiểm soát lẫn nhau, trên cơ sở hướng tới sự cân

bằng và bảo đảm sự thông suốt của quyền lực. Đây là bước tiến có tính đột

phá trong lịch sử lập hiến ở nước ta. Tuy nhiên, việc phân công quyền lực này

không phải là phân chia quyền lực, không phải là tam quyền phân lập, cân

bằng và đối trọng như trong các nhà nước tư sản.

Về quyền tư pháp, trong Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)

quyền tư pháp mới chỉ xuất hiện 1 lần tại Điều 2 về nguyên tắc tổ chức thực

hiện quyền lực nhà nước. Theo đó, quyền lực nhà nước là thống nhất có sự

phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền

lập pháp, hành pháp và tư pháp, nhưng nội dung của quyền tư pháp, cơ quan

thực hiện quyền tư pháp chưa được xác định cụ thể. Điều này đã được Hiến

pháp 2013 khắc phục bằng việc khẳng định “Tòa án nhân dân là cơ quan xét

xử… thực hiện quyền tư pháp”. Hiến pháp 2013 cùng với việc ghi nhận quyền

tư pháp là một loại quyền lực nhà nước, là việc khẳng định cơ chế kiểm soát

94

quyền lực nhà nước trong đó với tư cách là một quyền lực trong bộ ba quyền

lực nhà nước đặt ra vai trò kiểm soát quyền lực của quyền tư pháp và kiểm

soát chính quyền tư pháp bằng các cơ chế khác nhau. Bên cạnh đó, điểm mới

quan trọng của Hiến pháp liên quan đến quyền tư pháp đó là bổ sung các

nhiệm vụ của Tòa án với tư cách cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Theo đó,

Tòa án thông qua chức năng xét xử thực hiện nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ

quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của

Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Như vậy nhiệm vụ

bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người là hai bổ sung được đánh giá rất cao

của Hiến pháp 2013 về Tòa án và quyền tư pháp.

Luật tổ chức Chính phủ năm 2015 và Luật tổ chức Tòa án năm 2014

được ban hành để cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền

hành pháp và quyền tư pháp.

Khác với Luật tổ chức Tòa án năm 2002, Luật tổ chức tòa án năm

2014 quy định sự xuất hiện của TAND cấp cao trong hệ thống tòa án của đất

nước. Với sự xuất hiện của tòa án cấp cao, hệ thống tòa án đã bước đầu tách

khỏi việc đặt tổ chức tòa án trong sự phụ thuộc vào địa giới hành chính. Sự

xuất hiện của tòa án cấp cao là cố gắng hiện thực hóa một trong những mục

tiêu cụ thể của Chiến lược cải cách tư pháp được khởi xướng cách đây gần

tròn 10 năm. Theo qui định của Luật tổ chức tòa án năm 2014, TAND cấp cao

sẽ thực hiện chức năng phúc thẩm bản án, quyết định sơ thẩm của TAND

tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh

thổ chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị; Giám đốc thẩm, tái

thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp tỉnh và tương

đương thuộc địa hạt pháp lý bị kháng nghị. Tuy chưa hoàn toàn độc lập với

chính quyền địa phương do các tòa án có chức năng xét xử sơ thẩm đều được

bố trí theo địa giới hành chính, nhưng Luật Tổ chức tòa án đang tạo những

95

bước đi ban đầu tiến dần đến sự độc lập của cơ quan tư pháp đối với cơ quan

hành pháp. Hiện tại hệ thống tòa án theo Điều 3 của Luật quy định về tổ chức

TAND bao gồm TAND tối cao; TAND cấp cao; TAND tỉnh, thành phố trực

thuộc Trung ương; TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (và tương

đương) và Tòa án quân sự. Mặt khác, thẩm phán được phân định theo ngạch

gồm: thẩm phán TAND tối cao; thẩm phán cao cấp; thẩm phán trung cấp và

thẩm phán sơ cấp. Việc phân định này thực sự sẽ có ý nghĩa rất lớn trong việc

thay đổi cách hiểu máy móc về vai trò và vị trí của thẩm phán. Cách gọi và

cách hiểu có phần mặc định như trước đây là thẩm phán tỉnh, thẩm phán

huyện vô hình trung đã địa phương hóa chức danh này.

3.1.2.2. Về phối hợp giữa Chính phủ và TAND

Thứ nhất, trong xây dựng pháp luật

Trong hoạt động xây dựng pháp luật, giữa Chính phủ và TAND có sự

phối hợp rất chặt chẽ. Cụ thể, Luật Tổ chức TAND năm 2014 quy định: “Tòa

án nhân dân cùng với cơ quan, tổ chức nghiên cứu, đề xuất các chủ trương,

chính sách, pháp luật về phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, bảo

đảm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội” [11, Khoản 2- Điều17]. Trong số

các nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Hội đồng thẩm phán TAND tối cao có

quyền “Thảo luận, cho ý kiến đối với dự thảo văn bản pháp luật thuộc thẩm

quyền ban hành của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và dự thảo văn bản

pháp luật giữa Tòa án nhân dân tối cao với cơ quan có liên quan theo quy

định của Luật ban hành văn bản pháp luật” [11, Khoản 2- Điều 22]. Sự phối

hợp giữa Chính phủ và TAND được cụ thể hóa hơn nữa trong Quy chế phối

hợp giữa TAND tối cao và Chính phủ: “Trước khi trình Chính phủ dự thảo

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội

hàng năm, năm năm, Bộ Kế hoạch và Đầu tư gửi dự thảo đến Tòa án nhân

dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham gia ý kiến. Khi nhận được

96

dự thảo, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham gia ý

kiến bằng văn bản về dự thảo đó, kiến nghị với Chính phủ những vấn đề cần

thiết, nhất là những vấn đề liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của

Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Bộ Kế hoạch và Đầu

tư giúp Chính phủ nghiên cứu, tiếp thu những kiến nghị của Tòa án nhân dân

tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, hoàn thiện dự thảo Chiến lược phát

triển kinh tế - xã hội, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm, năm năm

trình Chính phủ xem xét” [22, Điều 4]. Ngược lại, TAND tối cao trước khi

trình dự án luật lên Quốc hội bắt buộc phải lấy ý kiến của Chính phủ. Đại diện

lãnh đạo Bộ Tư pháp là thành viên tham dự và phát biểu tại các phiên họp của

Hội đồng thẩm phán TAND tối cao về việc ban hành Nghị quyết của Hội

đồng thẩm phán TAND tối cao.

Thứ hai, trong giáo dục pháp luật

Luật Tổ chức TAND hiện hành quy định: “Tòa án nhân dân phối hợp

với cơ quan, tổ chức phát huy tác dụng giáo dục của phiên tòa và tạo điều

kiện thuận lợi cho việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án nhân dân”

“Trong trường hợp cần thiết, cùng với việc ra bản án, quyết định, Tòa án nhân

dân kiến nghị yêu cầu cơ quan, tổ chức áp dụng biện pháp khắc phục nguyên

nhân, điều kiện phát sinh tội phạm hoặc vi phạm pháp luật tại cơ quan, tổ

chức đó” [11, Khoản1,3- Điều 17].

Như vậy, trên thực tế, hoạt động xét xử của Tòa án ít nhiều góp phần

phối hợp, hỗ trợ cho cơ quan hành pháp trong việc bảo vệ quyền con người,

quyền công dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; đấu

tranh phòng, chống tội phạm, xử lý vi phạm pháp luật…

Thứ ba, về quản lý các tòa án

Theo Luật Tổ chức Chính phủ, TAND tối cao có thẩm quyền quản lý

các TAND về tổ chức, hành chính. Tuy nhiên, đây vốn là nhiệm vụ hành

97

chính thuộc về quyền hành pháp. Đối với Tòa án quân sự, TAND tối cao chủ

trì, phối hợp với Bộ Quốc phòng để quản lý về tổ chức. Đối với việc tuyển

chọn, giám sát thẩm phán, đại diện Chính phủ có tham gia vào quá trình này.

Cụ thể, trong Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia có sự tham

gia của Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng; ở Hội đồng thi tuyển chọn Thẩm phán

sơ cấp, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán cao cấp có đại diện lãnh đạo Bộ

Quốc phòng, Bộ Nội vụ tham gia [11, Điều 70, Điều73].

3.1.2.3. Về kiểm soát giữa Chính phủ và TAND

* Kiểm soát của cơ quan tư pháp đối với cơ quan hành pháp

Hiện nay việc kiểm soát của Tòa án đối với cơ quan hành pháp được

nhận diện thông qua hoạt động xét xử theo thủ tục tố tụng hành chính. Thiết

chế tòa án hành chính được coi là biểu hiện sinh động nhất của việc tòa án

kiểm soát các cơ quan hành pháp [89, tr.130].

Luật Tố tụng hành chính năm 2015 quy định khiếu kiện thuộc thẩm

quyền giải quyết của Tòa án theo phương pháp loại trừ. Theo đó, thẩm quyền

giải quyết khiếu kiện của Tòa án gồm các quyết định hành chính, hành vi

hành chính. Trừ các quyết định hành chính, hành vi hành chính sau: Quyết

định hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các

lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo quy định của pháp luật; Quyết

định, hành vi của Tòa án trong việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính, xử lý

hành vi cản trở hoạt động tố tụng; Quyết định hành chính, hành vi hành chính

mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức; Quyết định kỷ luật buộc thôi việc

công chức giữ chức vụ từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống; Quyết

định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; danh sách cử

tri [13, Điều 30].

Ngoài ra, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định khi giải quyết vụ

việc dân sự: “Tòa án có quyền hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ

98

quan, tổ chức, người có thẩm quyền xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của

đương sự trong vụ việc dân sự mà Tòa án có nhiệm vụ giải quyết”,[17, Điều

34] đồng thời khi xem xét hủy quyết định, Tòa án phải đưa cơ quan, tổ chức

hoặc người có thẩm quyền đã ban hành quyết định tham gia tố tụng với tư

cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Quyết định cá biệt trong trường

hợp này được hiểu là các quyết định hành chính có liên quan trực tiếp tới vụ

việc mà Tòa án thụ lý giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.

Như vậy, xét về góc độ kiểm soát của hoạt động tư pháp đối với hoạt

động hành pháp thì hiện nay, nhiệm vụ của TAND chưa phù hợp và chưa

tương xứng, vì TAND không có thẩm quyền phán xét đối với các quyết định

hành chính, hành vi hành chính của Bộ trưởng trở lên và các văn bản quy

phạm pháp luật của Chính phủ trở xuống [72].

* Kiểm soát của cơ quan hành pháp đối với cơ quan tư pháp

Hiện nay Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác quy định sự kiểm

soát Tòa án từ Chính phủ chưa thực sự rõ ràng nếu không nói là mờ nhạt. Chủ

yếu nhận thấy Chính phủ có thể kiểm soát Tòa án thông qua kiểm soát việc

thu chi tài chính, ngân sách phục vụ cho ngành Tòa án.

Luật tổ chức TAND năm 2014 quy định

Kinh phí hoạt động của Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân

cấp cao, Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương,

Tòa án nhân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương

đương do Chính phủ trình Quốc hội quyết định sau khi thống nhất

với Tòa án nhân dân tối cao. Trường hợp Chính phủ và Tòa án nhân

dân tối cao không thống nhất về dự toán kinh phí hoạt động của Tòa

án nhân dân thì Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kiến nghị Quốc

hội xem xét, quyết định. Kinh phí hoạt động của Tòa án quân sự do

Bộ Quốc phòng phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao lập dự toán

99

và đề nghị Chính phủ trình Quốc hội quyết định [11, Điều 96].

Như vậy, có thể thấy ngân sách của ngành Tòa án chỉ dựa vào ngân

sách nhà nước do Quốc hội phân bổ. Do đó, trong trường hợp thiếu hụt ngành

Tòa án phải đề nghị Chính phủ bổ sung ngân sách. Chính phủ có quyền yêu

cầu Tòa án giải trình tổng thể về tổ chức và hoạt động của mình – là cơ sở để

cấp kinh phí bổ sung.

Mặt khác, Hiến pháp năm 2013 quy định, Chính phủ là cơ quan hành

chính nhà nước cao nhất nhưng lại không có thẩm quyền quản lý về mặt hành

chính đối với hệ thống tư pháp. Luật tổ chức Tòa án quy định Tòa án tối cao

quản lý hành chính các tòa án địa phương; y ban thường vụ Quốc hội quyết

định thành lập, giải thể TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và

tương đương; TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;…Việc quy định

này làm cho chức năng hành pháp và hoạt động thống nhất quản lý hành

chính của Chính phủ chưa được bảo đảm đầy đủ, thông suốt theo tinh thần

của Hiến pháp năm 2013.

Bên cạnh đó, hệ thống tòa án từ trung ương đến địa phương được tổ

chức như hiện nay dường như đã trở thành một hệ thống khép kín với mối

quan hệ Tòa án cấp dưới trực thuộc Tòa án cấp trên cả về phương diện tố tụng

lẫn phương diện tổ chức - hành chính, làm ảnh hưởng đến việc bảo đảm độc

lập xét xử của tòa án. Việc phân cấp bổ nhiệm Thẩm phán cấp tỉnh, cấp huyện

cho Chánh án TAND tối cao theo Luật Tổ chức TAND là chưa thực sự hợp

lý, càng làm cho hệ thống Tòa án thêm khép kín. Do đó, Chính phủ không có

cơ chế nào để kiểm soát hoạt động của cơ quan thực hiện quyền tư pháp [72].

100

3.2. Thực tiễn mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành

pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay

3.2.1. Thực tiễn phân công giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp

trong thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay

Như trên đã phân tích, để bảo đảm hiệu quả thực thi quyền lực nhà

nước, tất yếu phải có cơ quan được phân công để chịu trách nhiệm chính

trong việc thực thi một quyền nhất định, cơ quan đó được gọi là cơ quan thực

hiện quyền tương ứng. Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện rõ sự phân công này

khi quy định Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp tại Điều 94, tòa

án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp tại Khoản 1 - Điều 102, Luật Tổ chức

Chính phủ năm 2015 và Luật Tổ chức Tòa án năm 2014 được ban hành để cụ

thể hóa Hiến pháp năm 2013 cũng đã thể hiện rất rõ điều này.

Đối với Chính phủ, Hiến pháp trao cho cơ quan này 08 nhiệm vụ và

quyền hạn sau:

- Tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp

lệnh, nghị quyết của y ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ

tịch nước;

- Đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, y ban thường vụ

Quốc hội quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ,

quyền hạn quy định tại Điều này; trình dự án luật, dự án ngân sách nhà nước

và các dự án khác trước Quốc hội; trình dự án pháp lệnh trước y ban thường

vụ Quốc hội;

- Thống nhất quản lý về kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, khoa

học, công nghệ, môi trường, thông tin, truyền thông, đối ngoại, quốc phòng,

an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thi hành lệnh tổng động viên hoặc

động viên cục bộ, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và các biện pháp cần thiết

khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính mạng, tài sản của Nhân dân;

101

- Trình Quốc hội quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ;

thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố

trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; trình y ban

thường vụ Quốc hội quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa

giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;

- Thống nhất quản lý nền hành chính quốc gia; thực hiện quản lý về

cán bộ, công chức, viên chức và công vụ trong các cơ quan nhà nước; tổ chức

công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống quan

liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước; lãnh đạo công tác của các bộ, cơ

quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, y ban nhân dân các cấp; hướng

dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân trong việc thực hiện văn bản của cơ quan

nhà nước cấp trên; tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ,

quyền hạn do luật định;

- Bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền con người,

quyền công dân; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội;

- Tổ chức đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước theo ủy

quyền của Chủ tịch nước; quyết định việc ký, gia nhập, phê duyệt hoặc chấm

dứt hiệu lực điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ, trừ điều ước quốc tế trình

Quốc hội phê chuẩn quy định tại khoản 14 Điều 70; bảo vệ lợi ích của Nhà

nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và công dân Việt Nam ở nước ngoài;

- Phối hợp với y ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ

quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội trong việc thực hiện nhiệm vụ,

quyền hạn của mình.

So với Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) thì những

quy định về nhiệm vụ quyền hạn trên đã thể hiện rõ chức năng hành chính và

hành pháp của Chính Phủ. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)

quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ chỉ là các hoạt động hành

102

chính. Đối với các vấn đề liên quan đến chính sách, Chính phủ chỉ có quyền

tổ chức thực hiện mà không được ban hành. Điều này đã được khắc phục ở

Hiến pháp năm 2013, Chính phủ không chỉ có nhiệm vụ tổ chức thi hành Hiến

pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của y ban thường

vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước mà còn có quyền đề xuất,

xây dựng chính sách trình Quốc hội, y ban thường vụ Quốc hội quyết định

hoặc quyết định theo thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.

Như vậy, xét dưới góc độ phân công quyền lực nhà nước, nhánh quyền hành

pháp do Chính phủ đảm nhận được đặt song hành với hai nhánh quyền lực

còn lại là nhánh quyền lập pháp và quyền tư pháp. Mặt khác, trong ba nhánh

quyền lực này, nhánh quyền hành pháp còn giữ vị trí trung tâm, quyết định

hiệu lực, hiệu quả trong thực thi quyền lực nhà nước.

Đối với Tòa án, Hiến pháp trao cho cơ quan này thẩm quyền xét xử

các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao

động, hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật.

Nhiệm vụ của Tòa án là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công

dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp

pháp của tổ chức, cá nhân. Để cụ thể hóa các quy định này của Hiến pháp,

Quốc hội đã ban hành Luật Tổ chức Tòa án năm 2014. Tại Điều 2 - Luật tổ

chức Tòa án năm 2014 quy định Tòa án có 09 nhiệm vụ, quyền hạn.

Tuy nhiên, trong số các nhiệm vụ, quyền hạn đó, nhận thấy hiện nay

Tòa án ở Việt Nam chưa có thẩm quyền xét xử các văn bản pháp luật bị coi là

vi phạm Hiến pháp. Thẩm quyền này được trao cho Quốc hội và y ban

thường vụ Quốc hội. Tòa án chỉ có quyền xét xử tính hợp pháp của các văn

bản áp dụng pháp luật do cơ quan nhà nước ban hành thông qua các vụ kiện

hành chính. Ngoài ra, pháp luật cũng không trao cho Tòa án quyền giải thích

Hiến pháp và pháp luật.

103

Trên thực tế, chính sự phân công quyền lực này mà các cơ quan nhà

nước đã chủ động nâng cao hiệu quả hoạt động của mình bằng những hình thức

khác nhau và buộc phải tự hoàn thiện mình để đáp ứng nhu cầu công việc.

Điều này được minh chứng bằng những hiệu quả trong hoạt động của

Chính phủ thời gian qua. Chính phủ đã đạt được nhiều kết quả trọng tâm

trong chỉ đạo, điều hành, bao gồm: Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, tạo

chuyển biến rõ nét, thực chất trong thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu

lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất

lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, khuyến khích đổi mới sáng

tạo khởi nghiệp, phát triển doanh nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực

hiện quyết liệt cải cách hành chính, tăng cường kỷ luật, kỷ cương, nâng cao

hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật và sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành ở tất

cả các ngành, các cấp. Đặc biệt trong lĩnh vực cải cách thủ tục hành chính.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, tháng 11/2011, Chính phủ đã ban

hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 –

2020, với hệ thống các giải pháp và mục tiêu cụ thể. Chương trình gồm 6 nội

dung là: cải cách thể chế; cải cách thủ tục hành chính; cải cách tổ chức bộ

máy hành chính nhà nước; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,

công chức, viên chức; cải cách tài chính công; hiện đại hóa hành chính.

Chương trình có tính chiến lược, định hướng và chỉ đạo toàn diện cho công

tác cải cách hành chính nhà nước trong thời gian 10 năm và được chia làm hai

giai đoạn: giai đoạn I (2011 – 2015) và giai đoạn II (2016 – 2020).

Có thể khẳng định rằng, cải cách hành chính trong thời gian qua đã đạt

được kết quả toàn diện trên cả 6 nội dung. Thể chế của nền hành chính được

cải cách và dần được hoàn thiện cơ bản phù hợp với yêu cầu chủ trương quan

trọng của Đảng và cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, đáp ứng yêu

cầu hội nhập quốc tế. Chất lượng giải quyết thủ tục hành chính được nâng cao

104

rõ rệt qua công tác kiểm soát, ban hành mới, rà soát, đơn giản hóa, công khai,

minh bạch hóa thủ tục hành chính. Cơ chế một cửa tiếp tục được nâng cao

chất lượng, đạt hiệu quả tốt trong giải quyết thủ tục hành chính cho người

dân, tổ chức. Đã tăng cường đánh giá mức độ hài lòng của công dân, tổ chức,

lấy đó làm thước đo về chất lượng phục vụ của cơ quan hành chính. Bộ máy

hành chính từ Trung ương đến địa phương bước đầu đã phân định rõ nhiệm

vụ, quyền hạn, cơ bản khắc phục tình trạng chồng chéo, bỏ trống chức năng,

nhiệm vụ, phạm vi, đối tượng quản lý; cơ cấu bên trong đã có sự phân định rõ

hơn giữa cơ quan quản lý và đơn vị sự nghiệp. Công tác xây dựng và nâng

cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có nhiều đổi mới; đã

từng bước đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và

hội nhập quốc tế. Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan

hành chính được triển khai một cách đồng bộ từ Trung ương đến địa phương,

từng bước phấn đấu theo hướng “chính phủ điện tử”, “chính quyền điện tử”,

nổi bật là hệ thống một cửa hiện đại cấp quận, huyện, phường, xã, mô hình

Trung tâm hành chính công cấp tỉnh, cấp huyện. Như vậy, chúng ta đã hoàn

thiện giai đoạn I đang thực hiện giai đoạn II (2016 – 2020) của Chương trình

tổng thể cải cách hành chính nhà nước, với những giải pháp quyết liệt, đồng

bộ để tiếp tục triển khai 06 nội dung là: Cải cách thể chế; cải cách thủ tục

hành chính; cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; xây dựng và nâng

cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; cải cách tài chính công;

hiện đại hóa hành chính. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, môi trường

kinh doanh của Việt Nam tăng 14 bậc so với năm 2016, xếp vị trí thứ 68/190

quốc gia và nằm trong nhóm dẫn đầu của các nước ASEAN; chỉ số năng lực

cạnh tranh tăng 5 bậc (từ 60 lên 55/137 nền kinh tế) [106].

Đối với Tòa án, một trong những cải cách đáng kể đó là quan điểm

của Nghị quyết 49-NQ/TW về cải cách tư pháp. Trên cơ sở của Nghị quyết

105

này, hệ thống tòa án đã và đang được tổ chức lại để nâng cao chất lượng hoạt

động xét xử. Mô hình tòa án xét xử hai cấp ngày càng được cụ thể hóa. Trên

thực tế, Tòa án cấp huyện được trao thẩm quyền xét xử sơ thẩm nhiều hơn,

trong khi Tòa án cấp tỉnh tập trung vào hoạt động phúc thẩm. Đặc biệt hiện

nay Hiến pháp quy định thêm Tòa án cấp cao, tăng cường thêm tính độc lập

của Tòa án để Tòa án thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ công lý của mình.

Tóm lại, sự phân công quyền lực rõ ràng đã trở thành động lực thúc

đẩy các cơ quan tư pháp, các cơ quan hành pháp phải tự hoàn thiện mình.

Thực tế đã cho thấy trách nhiệm của các cơ quan đối với xã hội ngày càng dễ

nhận ra với cơ chế phân công này.

3.2.2. Thực tiễn phối hợp giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp

trong thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay

Thứ nhất, trong xây dựng pháp luật

Trong hoạt động xây dựng pháp luật, Chính phủ và Tòa án đều chủ

động, tích cực triển khai phối hợp công tác một cách nhịp nhàng. Cụ thể: Bộ

Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính đã tham khảo ý kiến của TAND tối cao về

nhu cầu phát triển cơ bản của ngành Tòa án khi giúp Chính phủ xây dựng

Chiến lược, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm và 5 năm.

Đối với các dự án luật:

- Trong thời gian từ ngày 01/10/2015 đến ngày 30/09/2016: TAND tối

cao đã chủ trì xây dựng, hoàn thiện dự án Luật tố tụng hành chính (sửa đổi),

Bộ luật tố tụng dân sự (sửa đổi); phối hợp với các cơ quan có liên quan xây

dựng các dự án luật như: Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi), Bộ luật dân sự

(sửa đổi), Bộ luật hình sự (sửa đổi)… trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ

10 Quốc hội khóa XIII. Bên cạnh đó, TAND tối cao cũng đã triển khai tổng

kết thực tiễn thi hành quy định của pháp luật về án phí, lệ phí Tòa án để phối

hợp với Chính phủ xây dựng dự án Pháp lệnh án phí, lệ phí (sửa đổi). Để tiếp

106

tục hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu thực tiễn hiện nay, TAND

tối cao đã xây dựng và gửi hồ sơ đề nghị y ban thường vụ Quốc hội bổ sung

dự án Luật biện pháp khẩn cấp tạm thời trước khi khởi kiện vào chương trình

xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội năm 2016-2017. Ngoài ra, TAND tối

cao còn tham gia góp ý đối với nhiều dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do

các cơ quan hữu quan gửi xin ý kiến góp ý [74].

- Trong thời gian từ ngày 01/10/2016 đến ngày 30/09/2017: TAND tối

cao đã chủ động phối hợp với các cơ quan có liên quan xây dựng các dự án

luật trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XIV, đặc biệt

là Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2015; Luật trách

nhiệm bồi thường của Nhà nước (sửa đổi); Nghị quyết về xử lý nợ xấu của

các tổ chức tín dụng. Phối hợp với Chính phủ xây dựng, trình và được y ban

thường vụ Quốc hội thông qua Nghị quyết quy định về mức thu, miễn, giảm

thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tham gia góp ý kiến đối

với nhiều dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan hữu quan gửi

xin ý kiến góp ý. Ngoài ra, còn phối hợp với các cơ quan nghiên cứu xây

dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật lao động; Luật cạnh tranh

(sửa đổi); Luật lý lịch tư pháp (sửa đổi); Luật phòng chống tham nhũng (sửa

đổi); Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt [75].

- Trong thời gian từ ngày 01/10/2017 đến ngày 30/09/2018: TAND tối

cao đã xây dựng hồ sơ đề nghị đưa Dự án Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án

vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội. Phối hợp với các cơ

quan có liên quan xây dựng 10 dự án luật: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều

của Bộ luật Lao động; Luật Lý lịch Tư pháp (sửa đổi); Luật Cạnh tranh (sửa

đổi); Luật Phòng chống tham nhũng (sửa đổi); Luật Đơn vị hành chính-kinh

tế đặc biệt; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai năm 2013;

Luật Tố cáo (sửa đổi); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành

107

án hình sự; Luật Đặc xá (sửa đổi); Luật Công an nhân dân (sửa đổi) [76].

- Trong thời gian từ ngày 01/10/2018 đến ngày 30/09/2019: TAND tối

cao đã hoàn thiện Hồ sơ dự án Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Phối hợp

với các cơ quan có liên quan nghiên cứu, xây dựng 06 dự án Luật; đồng thời

tích cực tham gia góp ý kiến đối với nhiều dự thảo văn bản quy phạm pháp

luật do các cơ quan hữu quan gửi xin ý kiến góp ý. Đối với công tác phát triển

án lệ, TAND tối cao đang nghiên cứu xây dựng cuốn “Án lệ và Bình luận -

Quyển II” và Giáo trình “Án lệ và thực tiễn xét xử”. Trong năm qua, TAND

tối cao công bố mới 13 án lệ, nâng tổng số án lệ đã được công bố là 29 án lệ.

Tính đến ngày 30/9/2019, có 509 bản án, quyết định của các Tòa án đã viện

dẫn, áp dụng án lệ [77].

- Trong thời gian từ ngày 01/10/2019 đến ngày 30/09/2020: Tòa án

nhân dân tối cao đã trình và được Quốc hội thông qua Luật Hòa giải, đối thoại

tại Tòa án; đồng thời ban hành Kế hoạch triển khai, xây dựng văn bản hướng

dẫn chi tiết để tổ chức thi hành Luật này. Đang chủ trì nghiên cứu, tiến tới đề

xuất Quốc hội xây dựng dự án Luật Bảo vệ người dưới 18 tuổi trong hoàn

cảnh pháp lý đặc biệt. Nghiên cứu xây dựng hồ sơ đề nghị xây dựng Luật sửa

đổi, bổ sung một số điều của Luật Phá sản. Phối hợp với các cơ quan có liên

quan xây dựng, trình Quốc hội thông qua 04 dự án luật ; đang phối hợp

nghiên cứu, xây dựng 04 dự án luật; đồng thời tích cực tham gia góp ý kiến

đối với nhiều dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan hữu quan

gửi xin ý kiến góp ý [78].

Như vậy, có thể thấy các dự án luật Chính phủ chủ trì xây dựng đều

tham khảo ý kiến của Tòa án và ngành Tòa án đều tích cực tham gia. Và có

một số luật để tháo gỡ khó khăn trong phát triển kinh tế - xã hội có nhiều nội

dung thuộc phạm vi hướng dẫn của Tòa án như giải quyết nợ xấu, khắc phục

nợ đọng bảo hiểm. Dựa trên thực tiễn xét xử, như xét xử các vụ án về ngân

108

hàng, Tòa án có nhiều kiến nghị, góp ý về việc xây dựng cơ chế, chính sách,

phòng chống tội phạm. Trong các phiên họp thường kỳ, Chính phủ mời

Chánh án TAND tối cao tham dự. Đánh giá về công tác phối hợp giữa Chính

phủ và Tòa án, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nêu rõ: “Có thể nói, công tác

phối hợp giữa Tòa án và Chính phủ được tiến hành thường xuyên, chặt chẽ,

hiệu quả, nhất là trong thi hành án dân sự, xây dựng pháp luật, hướng dẫn

pháp luật, công tác tương trợ tư pháp…” [107].

Thứ hai, trong công tác giáo dục pháp luật

Thông qua hoạt động xét xử, nhất là tại các phiên tòa lưu động, TAND

đã lồng ghép nội dung nâng cao hiểu biết pháp luật cho những người tham dự

phiên tòa và theo dõi qua phương tiện thông tin đại chúng. Trong điều kiện

phát triển nhanh chóng của công nghệ phát thanh, truyền hình hiện nay, vai

trò giáo dục pháp luật qua các phiên tòa càng có vai trò quan trọng, có tác

dụng lan tỏa sâu rộng, dễ đi vào lòng người.

3.2.3. Thực tiễn kiểm soát giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp

trong thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay

3.2.3.1. Thực tiễn kiểm soát quyền hành pháp từ nhánh quyền tư pháp

Hoạt động kiểm soát của Tòa án đối với cơ quan thực hiện quyền hành

pháp nói chung chủ yếu được nhận diện thông qua hoạt động xét xử các vụ án

hành chính; đối với các khiếu kiện quyết định hành chính hay hành vi hành

chính của các cơ quan hành chính nhà nước. Đây chính là cơ chế tài phán

hành chính.

Tòa án hành chính được thành lập từ năm 1996 xuất phát từ yêu cầu

của thực tiễn hoạt động giải quyết khiếu kiện hành chính. Đây là một cơ chế

khách quan để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân trước

sự xâm hại của Nhà nước; là cơ chế kiểm soát nhằm kịp thời sửa chữa những

quyết định, hành vi hành chính trái pháp luật của cơ quan hành pháp và kịp thời

109

khắc phục hậu quả do các hành vi này gây ra. Toà án hành chính không những

có vai trò to lớn trong việc tạo lập và duy trì một chế độ kỷ cương, pháp chế

nghiêm minh trong hoạt động của các cơ quan nhà nước mà còn góp phần to

lớn vào việc đổi mới và hoàn thiện không ngừng nền hành chính quốc gia. Với

các phán quyết của Toà án hành chính, việc đánh giá năng lực, trình độ chuyên

môn của các cơ quan quản lý nhân sự đối với cán bộ, công chức nhà nước sẽ có

căn cứ rõ ràng hơn. Việc thay thế những cán bộ, nhân viên nhà nước kém năng

lực, kém trình độ sẽ có tính thuyết phục cao. Đồng thời, đó cũng là biện pháp

nâng cao tinh thần trách nhiệm, nâng cao trình độ, năng lực quản lý của các cơ

quan, cán bộ, công chức nhà nước trước nhân dân.

Theo Báo cáo của Chánh án TAND tối cao về công tác của các tòa án

tại các kỳ họp của Quốc hội Khóa XIV, công tác giải quyết các vụ án hành

chính, cụ thể:

- Trong thời gian từ ngày 01/10/2015 đến ngày 30/09/2016:

TAND các cấp đã thụ lý 6.708 vụ, tăng 449 vụ so với cùng kỳ năm

2015; đã giải quyết, xét xử được 5.358 vụ, đạt tỷ lệ 80%; trong đó, giải quyết,

xét xử theo thủ tục sơ thẩm 4.011/4.933 vụ; theo thủ tục phúc thẩm

1.296/1.701 vụ và theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm 51/74 vụ. Tỷ lệ các

bản án, quyết định bị hủy là 3,75% (do nguyên nhân chủ quan 2,9%, và do

nguyên nhân khách quan 0,85%); bị sửa là 3,92% (do nguyên nhân chủ quan

3,34% và do nguyên nhân khách quan là 0,58%) [74].

- Trong thời gian từ ngày 01/10/2016 đến ngày 30/09/2017:

TAND các cấp đã thụ lý 8.209 vụ, tăng 1.501 vụ so năm 2016; đã giải

quyết, xét xử được 5.764 vụ (đạt tỷ lệ 70,2%). Trong đó, thụ lý theo thủ tục sơ

thẩm 6.467 vụ, đã giải quyết, xét xử 4.396 vụ; thụ lý theo thủ tục phúc thẩm

1.686 vụ, đã giải quyết, xét xử 1.332 vụ và thụ lý theo thủ tục giám đốc thẩm,

tái thẩm 56 vụ, đã giải quyết, xét xử 36 vụ. Tỷ lệ các bản án, quyết định bị

110

hủy là 3,66%, giảm 0,09% so với cùng kỳ năm trước (do nguyên nhân chủ

quan 3,07%, và do nguyên nhân khách quan 0,59%); bị sửa là 3,38%, giảm

0,54% so với cùng kỳ năm trước (do nguyên nhân chủ quan 3,34% và do

nguyên nhân khách quan là 0,04%). Tỷ lệ án sơ thẩm có kháng cáo, kháng

nghị là 38,7%; tỷ lệ kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm là 1,34% [75].

- Trong thời gian từ ngày 01/10/2017 đến ngày 30/09/2018:

TAND các cấp đã thụ lý 10.412 vụ, tăng 2.203 vụ so với năm 2017; đã

giải quyết, xét xử được 5.207 vụ (đạt tỷ lệ 50%). Trong đó, thụ lý theo thủ tục

sơ thẩm 7.919 vụ, đã giải quyết, xét xử 3.814 vụ; thụ lý theo thủ tục phúc

thẩm 2.395 vụ, đã giải quyết, xét xử 1.351 vụ và thụ lý theo thủ tục giám đốc

thẩm, tái thẩm 98 vụ, đã giải quyết, xét xử 42 vụ. Tỷ lệ các bản án, quyết định

bị hủy là 4,16% (do nguyên nhân chủ quan 3,03%, và do nguyên nhân khách

quan 1,13%); bị sửa là 3,55% (do nguyên nhân chủ quan 3,34% và do nguyên

nhân khách quan là 0,21%). Tỷ lệ án sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị là

60,6%; tỷ lệ kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm là 2,5%. Toà án nhân dân

các cấp đã giải thích, đính chính hoặc kháng nghị đối với 05 bản án do tuyên

không rõ ràng, gây khó khăn cho công tác thi hành án; ra quyết định buộc thi

hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đối với 137 trường hợp [76].

- Trong thời gian từ ngày 01/10/2018 đến ngày 30/09/2019:

TAND các cấp đã thụ lý 12.802 vụ; đã giải quyết, xét xử được 7.555

vụ, đạt tỷ lệ 59% (so với năm 2018, thụ lý tăng 2.390 vụ, xét xử tăng 2.348

vụ). Trong đó, thụ lý theo thủ tục sơ thẩm 9.651 vụ, đã giải quyết, xét xử

5.358 vụ; thụ lý theo thủ tục phúc thẩm 2.992 vụ, đã giải quyết, xét xử 2.089

vụ; thụ lý theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm 159 vụ, đã giải quyết, xét xử

108 vụ. Tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy là 4,16% (do nguyên nhân chủ

quan 3,08%); bị sửa là 3,75% (do nguyên nhân chủ quan 3,34%). Tỷ lệ án sơ

thẩm có kháng cáo, kháng nghị là 54%; tỷ lệ các bản án đã có hiệu lực pháp

111

luật bị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm là 2,1% [77].

- Trong thời gian từ ngày 01/10/2019 đến ngày 30/09/2020:

Tòa án nhân dân các cấp đã thụ lý 12.470 vụ; đã giải quyết, xét xử

được 8.582 vụ, đạt tỷ lệ 68,8% (so với năm 2019, thụ lý giảm 332 vụ, xét xử

tăng 1.027 vụ). Tỷ lệ bản án, quyết định bị hủy là 3,26% (do nguyên nhân chủ

quan là 2,62%); bị sửa là 2,92% (do nguyên nhân chủ quan là 2,54%). Tỷ lệ

án sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là 28,5%; tỷ lệ

án sơ thẩm, phúc thẩm có kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm là 1,13% [78].

Qua số liệu thống kê giai đoạn 2016 - 2020 có thể thấy, các vụ án

hành chính mà TAND đã thụ lý tăng gần gấp đôi, từ 6.708 vụ năm 2016 lên

12.470 vụ năm 2020. Tuy nhiên, số vụ án hành chính đã giải quyết, xét xử sơ

thẩm với số vụ án đã thụ lý lại giảm ( năm 2016, số vụ án đã giải quyết, xét

xử đạt tỷ lệ 80%, năm 2017 đạt 70,2%, năm 2018 đạt 50%, năm 2019 đạt

59%, năm 2020 đạt 68,8%). Trong khi đó, tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy,

bị sửa năm 2016 là 3.75% và 3,92%; năm 2017 là 3,66% và 3,38%; năm 2018

là 4,16% và 3,55%; năm 2019 là 4,16% và 3,75%, năm 2020 tỷ lệ tương ứng

là 3,26% và 2,92%. Như vậy, có thể thấy, tỷ lệ án bị hủy, bị sửa so với số

lượng án hành chính đã giải quyết, xét xử là tương đối cao. Các vụ án hành

chính thụ lý, giải quyết chủ yếu liên quan tới các quyết định hành chính, hành

vi hành chính về quản lý đất đai ( Riêng năm 2020 các Tòa án đã thụ lý 7.588

vụ, chiếm 79% tổng số các khiếu kiện hành chính).

Điều này cho thấy phương thức kiểm soát quyền hành pháp từ quyền

tư pháp thông qua cơ chế tài phán hành chính chưa thực sự hiệu quả. Cụ thể:

Trước hết, ta nhận thấy phạm vi kiểm soát quyền lực của Tòa án đối

với hành pháp còn hẹp.

Theo quy định của pháp luật hiện hành, Tòa án hành chính chỉ có

112

quyền phán quyết tính hợp pháp và không hợp pháp của các quyết định hành

chính, hành vi hành chính cá biệt mà không có quyền gì khác đối với cơ quan

hành chính, nếu có chỉ là những kiến nghị. Mặt khác, thẩm quyền của Tòa án

hành chính chỉ giới hạn trong phạm vi tranh chấp dưới bộ. Còn các cơ quan

hành chính trung ương không thuộc phạm vi điều chỉnh của Tòa hành chính.

Tòa án hành chính không có quyền giám sát tính hợp hiến, hợp pháp của các

văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan hành chính ở trung ương và địa

phương ban hành. Hiện nay thẩm quyền này chỉ do cơ quan quyền lực nhà

nước và cơ quan hành chính trong cùng hệ thống thực hiện. Hơn thế nữa, tiêu

chí để xem xét lại các quyết định hành chính/hành vi hành chính mới chỉ được

tập trung vào tính hợp pháp của quyết định (về căn cứ, hình thức, nội dung

của quyết định, thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành, thời hiệu, thời hạn ban

hành/thực hiện quyết định hành chính/hành vi hành chính) mà chưa chú trọng

đến tính hợp lý của quyết định hành chính/hành vi hành chính.

Thứ hai, sự độc lập của Tòa hành chính với nhánh hành pháp chưa cao

Hiện nay, theo quy định của Luật tổ chức Tòa án năm 2014, Tòa án

vẫn được tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ, do vậy vẫn chưa đảm bảo

được tính độc lập trong hoạt động xét xử, phán quyết của Tòa án hành chính

đối với các cơ quan hành chính. Bởi người bị kiện thường là người có chức

vụ, quyền hạn ở địa phương nơi thẩm phán công tác, thậm chí là những người

có thể có ý kiến đối với việc bổ nhiệm thẩm phán. Do đó, sẽ xuất hiện tư

tưởng ngại va chạm, ảnh hưởng đến sự công tâm, khách quan khi đưa ra phán

quyết của Tòa đối với các quyết định, hành vi hành chính của các cán bộ,

công chức cùng cấp. Thực tế này làm hạn chế khả năng kiểm soát quyền lực

của Tòa án đối với hành pháp.

Thứ ba, các chế tài kiểm soát quyền lực nhà nước của Tòa án với hành

pháp chưa đủ mạnh

113

Hiện nay theo quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2015: trong

vụ khiếu kiện hành chính, Hội đồng xét xử xem xét tính hợp pháp của quyết

định hành chính, hành vi hành chính và có quyền quyết định: "Bác yêu cầu

khởi kiện, nếu yêu cầu đó không có căn cứ pháp luật; chấp nhận một phần

hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện, tuyên hủy một phần hoặc toàn bộ quyết định

hành chính trái pháp luật và quyết định giải quyết khiếu nại có liên quan (nếu

có); buộc cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà

nước thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật; đồng thời kiến

nghị cách thức xử lý đối với quyết định hành chính trái pháp luật đã bị hủy;

chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện, tuyên bố hành vi hành

chính là trái pháp luật, tuyên hủy một phần hoặc toàn bộ quyết định giải quyết

khiếu nại có liên quan (nếu có); buộc cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm

quyền trong cơ quan nhà nước chấm dứt hành vi hành chính trái pháp luật"

[13, Khoản 2- Điều 193]. Như vậy, quyền của Tòa án chỉ dừng lại ở mức độ

phán xét tính hợp pháp của một quyết định hành chính, hành vi hành chính

mà không thể chỉ định một phương thức xử sự cụ thể cho cơ quan hành chính.

Điều này sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người khởi kiện, bởi khi họ

thắng kiện, các quyết định hành chính sai trái bị hủy bỏ, việc khôi phục hay

không khôi phục lại quyền và lợi ích của người khởi kiện lại phụ thuộc vào cơ

quan hành chính.

Bên cạnh đó, trình độ, năng lực xét xử của thẩm phán còn hạn chế dẫn

đến chất lượng xét xử chưa cao. Điều này có thể minh chứng qua tỷ lệ án

hành chính bị hủy và án bị sửa giai đoạn 2016-2019. Hầu hết án bị hủy và bị

sửa đều do nguyên nhân chủ quan.

3.2.3.2. Thực tiễn kiểm soát quyền tư pháp từ nhánh quyền hành pháp

Kiểm soát của Chính phủ đối với Tòa án thông qua hoạt động thu chi

tài chính, ngân sách phục vụ cho hoạt động của Tòa án

114

Luật Tổ chức TAND năm 2014 quy định: kinh phí hoạt động của

TAND tối cao, TAND cấp cao, TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương,

Tòa án nhân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương do

Chính phủ trình Quốc hội quyết định sau khi thống nhất với TAND tối cao.

Trường hợp Chính phủ và TAND tối cao không thống nhất về dự toán kinh

phí hoạt động của TAND thì Chánh án TAND tối cao kiến nghị Quốc hội

xem xét, quyết định [11, Điều 96]. Như vậy, nguồn ngân sách hoạt động của

Tòa án chỉ dựa vào ngân sách nhà nước do Quốc hội phân bổ. Do đó, trong

trường hợp thiếu hụt ngân sách, Tòa án sẽ phải đề nghị Chính phủ bổ sung.

Chính phủ để có cơ sở cấp kinh phí bổ sung, cơ sở vật chất và các điều kiện

hoạt động cho Tòa án, có quyền yêu cầu Tòa án giải trình tổng thể về tổ chức

và hoạt động của mình.

Trong năm 2016, TAND tối cao đã phân bổ toàn bộ 628 tỷ đồng cho

90 dự án, trong đó có 32 dự án đã hoàn thành và đưa vào sử dụng, 10 dự án

dự kiến hoàn thành trong năm 2016, 14 dự án chuyển tiếp, 19 dự án khởi công

mới và 15 dự án chuẩn bị đầu tư. Về trang bị, cung cấp các phương tiện, điều

kiện làm việc cho các Tòa án, TAND tối cao tiếp tục triển khai công tác trang

cấp tài sản mới cho TAND các cấp theo Đề án trang bị, phương tiện làm việc

của TAND các cấp giai đoạn III (2014 -2018) đã được Thủ tướng Chính phủ

phê duyệt với tổng số kinh phí là 832,650 tỷ đồng. Năm 2016, TAND tối cao

triển khai việc mua sắm ô tô, máy vi tính, máy photocopy với tổng số kinh phí

là 194,167 tỷ đồng và phân bổ 99,790 tỷ đồng để triển khai công tác bảo trì,

sửa chữa 141 trụ sở TAND các cấp. TAND tối cao đề xuất với Chính phủ rút

ngắn thời gian thực hiện Đề án trang bị phương tiện làm việc cho các Tòa án

giai đoạn 3 (2014 – 2018), phấn đấu thực hiện xong trước tháng 6/2017, đồng

thời xây dựng Đề án trang bị phương tiện hoạt động cho các Tòa án giai đoạn

4, tập trung trang bị các phương tiện thiết yếu như: xe ô tô, máy phôtôcoppy,

115

máy scan, bàn ghế làm việc, bàn ghế hội trường xét xử và các phương tiện

thiết yếu khác [74].

Năm 2017, trong công tác đầu tư xây dựng cơ bản, TAND tối cao đã

phân bổ toàn bộ 428,603 tỷ đồng vốn đầu tư phát triển nguồn ngân sách Nhà

nước năm 2017 cho 34 dự án, tập trung cho các dự án đã hoàn thành và đưa

vào sử dụng, các dự án sắp hoàn thành, các dự án chuyển tiếp và một số dự án

chuẩn bị đầu tư (01 dự án chuyển tiếp và 03 dự án chuẩn bị đầu tư, 13 dự án

đã hoàn thành và đưa vào sử dụng, 06 dự án sắp hoàn thành, 11 dự án chuyển

tiếp). Tiếp tục thực hiện Đề án trang bị, phương tiện làm việc của Toà án nhân

dân các cấp giai đoạn III (2014 -2018) đã được Thủ tướng Chính phủ phê

duyệt, năm 2017, TAND tối cao triển khai việc mua sắm ô tô, điều hòa nhiệt

độ, tăng âm, loa đài phục vụ công tác xét xử với tổng số kinh phí là 213,5 tỷ

đồng và phân bổ 72,374 tỷ đồng để triển khai công tác bảo trì, sửa chữa 106

trụ sở TAND các cấp. TAND tối cao đang triển khai thực hiện đề án trang cấp

thiết bị cho hội trường xét xử của TAND các cấp, đồng thời, tiếp tục hoàn

thiện Đề án trang bị phương tiện hoạt động cho các Tòa án giai đoạn 4, tập

trung trang bị các phương tiện thiết yếu như: xe ô tô, máy phôtôcoppy, máy

scan, bàn ghế làm việc, bàn ghế hội trường xét xử và các phương tiện thiết

yếu khác [75].

Năm 2018, trong công tác đầu tư xây dựng cơ bản, TAND tối cao đã

phân bổ toàn bộ 620 tỷ đồng vốn đầu tư phát triển nguồn ngân sách Nhà nước

năm 2018 cho 69 dự án, tập trung cho các dự án xây dựng trụ sở cho các

TAND cấp huyện chưa có trụ sở phải đi thuê, mượn nơi làm việc, các dự án

đã hoặc đang hoàn thành và đưa vào sử dụng. Tiếp tục thực hiện Đề án trang

bị, phương tiện làm việc của TAND các cấp giai đoạn III (2014-2018), TAND

tối cao đã triển khai việc mua sắm ô tô, điều hòa nhiệt độ, máy in, máy tính,

máy photocopy, bàn ghế... để trang cấp cho các Tòa án; đồng thời, TAND tối

116

cao đã xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định phê duyệt

Đề án trang bị tài sản giai đoạn IV (2019-2022) cho các Tòa án. Để tạo điều

kiện tăng cường cơ sở vật chất cho các Tòa án, tại cuộc ngày 18/4/2018 giữa

Thủ tướng Chính phủ và Ban cán sự đảng TAND tối cao đánh giá việc thực

hiện Quy chế phối hợp giữa Chính phủ và TAND tối cao, Thủ tướng Chính

phủ đã đồng ý cho phép bố trí kinh phí để TAND tối cao sớm hoàn thành việc

đầu tư xây dựng mới trụ sở cho 35 TAND cấp huyện hiện chưa có trụ sở phải

đi thuê địa điểm làm việc, cũng như cải tạo mở rộng trụ sở và trang bị nội thất

phòng xét xử của các Tòa án theo yêu cầu mới của pháp luật tố tụng và thực

hiện Đề án tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin. TAND tối cao đang

khẩn trương xây dựng các đề án này để trình Thủ tướng Chính phủ và các cơ

quan có thẩm quyền phê duyệt và triển khai thực hiện [76].

Năm 2019, kế hoạch đầu tư vốn ngân sách nhà nước của hệ thống

TAND được giao 691.783 triệu đồng; TAND tối cao đã tăng cường đôn đốc,

đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án, chủ động nắm bắt và tháo gỡ những

khó khăn, vướng mắc trong công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, hỗ trợ

chủ đầu tư hoàn thiện thủ tục pháp lý nhằm đảm bảo giải ngân 100% kế hoạch

vốn được giao. TAND tối cao cũng đã phân bổ toàn bộ vốn đầu tư phát triển

từ nguồn ngân sách Nhà nước năm 2019 cho 79 dự án theo kế hoạch. Đến

nay, 35 TAND cấp huyện chưa có trụ sở đã được bố trí vốn đầu tư, xây dựng

mới; trong đó, 32 Tòa án đã được đầu tư xây dựng và dự kiến bàn giao trong

năm 2019; 03 Tòa án sẽ khởi công xây dựng trong năm 2019, dự kiến hoàn

thành trong năm 2020. Nhằm cải thiện điều kiện, phương tiện làm việc của

các Tòa án, TAND tối cao đã tích cực phối hợp với các cơ quan có liên quan

hoàn thiện Đề án trang bị tài sản, phương tiện làm việc cho các Tòa án giai

đoạn IV (2019-2023); Đề án cải tạo mở rộng trụ sở và trang bị nội thất phòng

xử án của Tòa án theo yêu cầu mới của pháp luật tố tụng... để trình Chính phủ

117

phê duyệt theo quy định [77].

Năm 2020, trên cơ sở kinh phí được cấp và căn cứ vào số lượng án,

biên chế được giao, điều kiện kinh tế - xã hội của từng địa phương, Tòa án

nhân dân tối cao đã tiến hành phân bổ ngân sách năm 2020 cho các đơn vị dự

toán trực thuộc, đảm bảo kịp thời, đúng định mức, công khai, minh bạch và

công bằng giữa các đơn vị; đồng thời, hướng dẫn, đôn đốc, giám sát công tác

quản lý, sử dụng ngân sách trong hệ thống Tòa án nhân dân. Nhằm cải thiện

điều kiện, phương tiện làm việc của các Tòa án, Tòa án nhân dân tối cao đã

tích cực phối hợp với các cơ quan có liên quan hoàn thiện “Đề án trang bị tài

sản, phương tiện làm việc cho các Tòa án giai đoạn IV (2019-2023)”. Hiện

nay, Tòa án nhân dân tối cao đang xây dựng kế hoạch triển khai Đề án theo

tiến độ kinh phí được giao. Trong công tác triển khai thực hiện Kế hoạch đầu

tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020, đã điều chỉnh kế hoạch vốn năm

2019, kế hoạch đầu tư công trung hạn theo hướng dẫn của Bộ Kế hoạch và

Đầu tư, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, xây dựng kế hoạch đầu tư công

trung hạn giai đoạn 2021-2025 gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính tổng

hợp trình Chính phủ báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định.

Đối với Dự án xây dựng 35 trụ sở Tòa án nhân dân cấp huyện của

những đơn vị chưa có trụ sở làm việc, Tòa án nhân dân tối cao đã được bố trí

vốn đầu tư xây dựng mới 32 trụ sở Tòa án nhân dân cấp huyện của những đơn

vị chưa có trụ sở làm việc trong Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn

2016-2020, 03 đơn vị còn lại là Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều sẽ sử dụng

trụ sở cũ của Tòa án nhân dân tỉnh Cần Thơ; Tòa án nhân dân quận Dương

Kinh, Hải Phòng và Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội được địa

phương bố trí kinh phí xây dựng trụ sở. Đến cuối năm 2020, có 30/32 trụ sở

đã và sẽ hoàn thành, bàn giao đưa vào sử dụng; 02 trụ sở còn lại do giải

phòng mặt bằng chậm sẽ được hoàn thành vào năm 2021 (gồm Tòa án nhân

118

dân huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh và Tòa án nhân dân huyện Long Mỹ,

tỉnh Hậu Giang) [78].

Như vậy, thông qua hoạt động thu chi tài chính, ngân sách, Chính phủ

có thể kiểm soát được phần nào tổ chức và hoạt động của Tòa án.

Ngoài ra, cơ chế kiểm soát Tòa án từ Chính phủ còn được thể hiện

thông qua hoạt động bồi thường nhà nước

Theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước: Chính

phủ là cơ quan được Luật giao trách nhiệm thống nhất quản lý nhà nước về

công tác bồi thường nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng và

thi hành án trên phạm vi cả nước. Bộ Tư pháp là cơ quan đầu mối giúp Chính

phủ thực hiện quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước [15, Điều 73].

Theo báo cáo của Chánh án TAND tối cao về công tác của các tòa án

tại các kỳ họp của Quốc hội Khóa XIV, hoạt động bồi thường theo Luật trách

nhiệm bồi thường của nhà nước giai đoạn 2016-2019, cụ thể như sau:

- Trong thời gian từ ngày 01/10/2015 đến ngày 30/09/2016:

Các Tòa án đã thụ lý 08 yêu cầu bồi thường thuộc trách nhiệm của Tòa

án; đã giải quyết dứt điểm 02 vụ là trường hợp của Ông Lương Ngọc Phi ở

Thái Bình và ông Đặng Thanh Tùng ở Đắk Lắk. Lãnh đạo TAND tối cao cũng

đã chỉ đạo khẩn trương giải quyết các vụ việc còn lại, trong đó có một số vụ

việc oan sai được xét xử từ nhiều năm trước nhưng trong thời gian gần đây mới

phát hiện bị oan và dư luận rất quan tâm, như vụ việc của Ông Huỳnh Văn Nén

ở Bình Thuận hay vụ việc của Ông Trần Văn Thêm ở Bắc Ninh [74].

- Trong thời gian từ ngày 01/10/2016 đến ngày 30/09/2017:

Các Tòa án đã thụ lý 10 yêu cầu bồi thường thuộc trách nhiệm của Tòa

án; đã giải quyết dứt điểm 02 vụ (là trường hợp của Ông Huỳnh Văn Nén ở

Bình Thuận; Ông Trần Sam Sái ở Sóc Trăng) với số tiền bồi thường là trên 10

tỷ đồng [75].

119

- Trong thời gian từ ngày 01/10/2017 đến ngày 30/09/2018:

Các Tòa án đã thụ lý 11 yêu cầu bồi thường thuộc trách nhiệm của Tòa

án, đã giải quyết bồi thường đối với 06 trường hợp với tổng số tiền là trên 09

tỷ đồng [76].

- Trong thời gian từ ngày 01/10/2018 đến ngày 30/09/2019:

Các Tòa án đã thụ lý 08 yêu cầu bồi thường thuộc trách nhiệm của Tòa

án, đã giải quyết dứt điểm 02 trường hợp; đồng thời, đã thực hiện chi trả

802.830.921 đồng tiền bồi thường đối với 03 trường hợp [77].

- Trong thời gian từ ngày 01/10/2019 đến ngày 30/09/2020:

Các Tòa án đã thụ lý 09 yêu cầu bồi thường thuộc trách nhiệm của Tòa

án; đã giải quyết dứt điểm 05 trường hợp. Bên cạnh đó, các Tòa án cũng thụ

lý 29 vụ án dân sự mà người bị oan, sai khởi kiện các cơ quan Nhà nước yêu

cầu bồi thường (trong đó, 10 vụ yêu cầu các cơ quan tiến hành tố tụng bồi

thường trong hoạt động tố tụng hình sự, 05 vụ yêu cầu bồi thường thuộc lĩnh

vực quản lý hành chính nhà nước; 14 vụ yêu cầu bồi thường trong thi hành án

dân sự); đã giải quyết được 13 vụ, còn lại đang trong quá trình giải quyết [78].

Qua thực tiễn kiểm soát của Chính phủ với TAND các cấp có thể thấy

chiều kiểm soát này còn mờ nhạt, khả năng kiểm soát của Chính phủ đối với

Tòa án không cao. Hiện nay, một số quy định của pháp luật đang còn hạn chế

khả năng kiểm soát Tòa án từ Chính phủ, cụ thể:

Một là, việc giao cho Tòa án chức năng quản lý hành chính làm cho

chức năng hành pháp và hoạt động thống nhất quản lý hành chính của Chính

phủ chưa được bảo đảm đầy đủ, thông suốt theo tinh thần của Hiến pháp năm

2013, cũng như ảnh hưởng đến tính độc lập của Tòa án.

Ở nước ta, mô hình quản lý Tòa án về mặt hành chính tư pháp đã có

nhiều thay đổi quan các thời kỳ. Từ năm 2002 đến nay, công tác quản lý

Thẩm phán, quản lý Tòa án địa phương về tổ chức được trao trả cho TAND

120

tối cao. Mô hình này được lý giải nhằm bảo đảm cho Tòa án độc lập hơn với

các thiết chế bên ngoài Tòa án. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng mô hình này làm

xuất hiện mối quan hệ giữa Tòa án cấp trên và Tòa án cấp dưới. Cụ thể là

TAND tối cao nắm quyền chi phối đối với các Tòa án cấp dưới về mặt tổ

chức và tài chính. Trong nội bộ mỗi Tòa án, Chánh án chịu trách nhiệm quản

lý toàn diện về mặt tổ chức – hành chính. Điều này làm cho Tòa án dường

như trở thành một hệ thống khép kín, làm ảnh hưởng đến việc bảo đảm độc

lập, xét xử của Tòa án. Bởi độc lập của tư pháp trước hết là sự độc lập xét xử

của Thẩm phán với Hội thẩm, sự độc lập giữa các cấp Tòa án và giữa các cấp

xét xử. Hay nói cách khác, độc lập tư pháp đặt ra yêu cầu tách bạch hoạt động

xét xử với hoạt động quản lý hành chính, giúp thẩm phán chỉ tập trung vào

công tác chuyên môn. Do vậy, nếu duy trì mô hình quản lý như hiện nay thì

khả năng can thiệp của công tác quản lý hành chính vào công tác xét xử của

Tòa án cấp trên và Tòa án cấp dưới là khá cao.

Hai là, vai trò của Chính phủ còn mờ nhạt trong việc thực hiện quản lý

về tổ chức bộ máy hành chính nhà nước, chế độ công vụ, cán bộ, công chức,

viên chức thuộc Tòa án.

Hiến pháp năm 2013 quy định: Chính phủ “thực hiện quản lý về cán bộ,

công chức, viên chức và công vụ trong các cơ quan nhà nước” [6, Khoản 5

Điều 96]. Luật tổ chức Chính phủ năm 2015 cụ thể hóa quy định của Hiến

pháp: Chính phủ “Thống nhất quản lý nhà nước về cán bộ, công chức, viên

chức và công vụ trong các cơ quan nhà nước”; “Thống nhất quản lý nhà nước

và tổ chức thực hiện chế độ tiền lương, phụ cấp và các chế độ, chính sách khác

đối với cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan nhà nước từ trung ương

đến địa phương” [12, Điều 23]. Như vậy, các quy định của Hiến pháp cũng như

Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 đều ghi nhận một cách nhất quán thẩm

quyền của Chính phủ. Tuy nhiên, Luật Cán bộ, công chức năm 2008 lại có sự

121

thu hẹp phạm vi vai trò, thẩm quyền của Chính phủ bằng việc quy định: y ban

thường vụ Quốc hội quyết định biên chế công chức của Văn phòng Quốc hội,

kiểm toán nhà nước, TAND, viện kiểm sát nhân dân; Chủ tịch nước quyết định

biên chế công chức của Văn phòng Chủ tịch nước; cơ quan có thẩm quyền của

Đảng quyết định biên chế trong hệ thống cơ quan Đảng, tổ chức chính trị - xã

hội. Chính phủ chỉ có thẩm quyền quyết định biên chế của bộ, cơ quan ngang

bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cấp tỉnh, đơn vị sự nghiệp công lập [16, Điều

66]. Rõ ràng, thẩm quyền của Chính phủ theo quy định của Luật cán bộ, công

chức năm 2008 đã bị thu hẹp đi rất nhiều, mặc dù nhiệm vụ thống nhất quản lý

nhà nước về công chức vẫn được giao cho Chính phủ.

Có lẽ điểm rõ nét nhất trong kiểm soát quyền lực của cơ quan hành

pháp đối với các nhánh quyền lực khác chính là thẩm quyền quản lý thống

nhất đội ngũ công chức. Luật Cán bộ, công chức quy định: hành năm Chính

phủ phải báo cáo Quốc hội về công tác quản lý cán bộ, công chức. Các cơ

quan Tòa án, Viện kiểm sát, Kiểm toán nhà nước, Văn phòng Quốc hội, Văn

phòng Chủ tịch nước... phải xây dựng báo cáo về quản lý cán bộ, công chức

của cơ quan mình, gửi Chính phủ để tổng hợp, báo cáo Quốc hội. Tuy vậy,

với các quy định hiện hành cho thấy thẩm quyền quyết định về chức danh,

tiêu chuẩn ngạch, bậc, chế độ chính sách đặc thù và đặc biệt là chỉ tiêu biên

chế vẫn do các cơ quan có thẩm quyền của Đảng và y ban thường vụ Quốc

hội quyết định. Điều này cho thấy vai trò của Chính phủ trong quản lý đối với

đội ngũ cán bộ, công chức ở khía cạnh kiểm soát quyền lực còn yếu.

Kết luận Chương 3

Từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời năm 1945 đến nay,

trong lịch sử lập Hiến ở nước ta, có 5 bản Hiến pháp đã được ban hành. Mỗi

bản Hiến pháp tùy vào bối cảnh lịch sử khác nhau mà quy định cách thức tổ

chức thực hiện quyền lực nhà nước nói chung cũng như thể hiện mối quan hệ

122

giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp nói riêng khác nhau. Nếu Hiến pháp

năm 1946 bảo đảm tính độc lập của các quyền hành pháp và quyền tư pháp,

tạo cơ chế cân bằng quyền lực, trong đó có việc kiểm soát giữa cơ quan tư

pháp đối với cơ quan hành pháp và ngược lại, thì Hiến pháp năm 1959, năm

1980 hình thành xu hướng tập trung quyền lực nhà nước vào Quốc hội, sự

phân công quyền lực giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp đã mờ nhạt hơn

Hiến pháp năm 1946. Đến Hiến pháp năm 1992, hiến định sự phân công, phối

hợp và yếu tố kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các

quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp được bổ sung trong Hiến pháp năm 2013.

Trong chương này, tác giả tập trung phân tích thực trạng quy định của

pháp luật, cụ thể là Hiến pháp năm 2013 và các văn bản pháp luật liên quan

về mối quan hệ phân công, phối hợp, kiểm soát giữa TAND và Chính phủ.

Đồng thời chỉ ra được những kết quả đạt được cũng như hạn chế, bất cập

trong thực tiễn thực hiện mối quan hệ này. Bên cạnh những kết quả đạt được

như: sự phân công tương đối rõ ràng, hợp lý; sự phối hợp nhịp nhàng, thường

xuyên, tích cực thì vẫn tồn tại những bất cập, đặc biệt trong hoạt động kiểm

soát giữa TAND và Chính phủ. Chẳng hạn: cơ chế kiểm soát quyền lực của

Tòa án đối với hành pháp còn mang tình thụ động; phạm vi kiểm soát quyền

lực của Tòa án đối với hành pháp còn hẹp, sự độc lập của Tòa hành chính với

nhánh hành pháp còn chưa cao...ngược lại, khả năng kiểm soát của Chính phủ

đối với Tòa án không cao...

Những vấn đề còn hạn chế, bất cập trong các quy định pháp luật và việc

thực thi cần phải được nhìn nhận khách quan, phân tích kỹ lưỡng để làm cơ sở

tiếp tục hoàn thiện quy định của pháp luật về mối quan hệ phân công, phối

hợp, kiểm soát giữa TAND và Chính phủ.

123

CHƯƠNG 4

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM MỐI QUAN HỆ GIỮA

QUYỀN TƯ PHÁP VÀ QUYỀN HÀNH PHÁP TRONG THỰC HIỆN

QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

4.1. Quan điểm bảo đảm mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền

hành pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay

4.1.1. Quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp phải bảo

đảm nguyên tắc "tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” trong Nhà

nước pháp quyền XHCN Việt Nam

Trong số các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta,

đây là nguyên tắc mang tính chính trị - pháp lý quan trọng, là cơ sở để vận

hành quyền lực nhà nước, đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.

Quyền lực nhà nước thống nhất được hiểu là quyền lực nhà nước thuộc

về nhân dân, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước. Tất cả các

nhánh quyền từ lập pháp, hành pháp hay tư pháp đều do nhân dân ủy quyền,

giao quyền. Mặc dù, mỗi nhánh quyền lực có chức năng, nhiệm vụ và thẩm

quyền pháp lý khác nhau, nhưng đều hướng đến một mục tiêu chung: phục vụ

nhân dân, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, xây dựng chế độ XHCN.

Phân công quyền lực nhà nước là cơ sở để xác định vị trí pháp lý, nội

dung thẩm quyền, phạm vi hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà

nước. Việc phân công quyền lực là nhu cầu khách quan, là cách thức để giới

hạn quyền, làm cho việc nắm giữ và thực thi quyền rõ ràng, minh bạch, tránh

lạm quyền. Bản chất của phối hợp quyền lực nhà nước là phương thức, cách

thức, lề lối làm việc giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các

quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp [41]. Đây là nhân tố thức đẩy việc thực

hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mỗi nhánh quyền lực một cách kịp thời và

đầy đủ. Có phân công, phối hợp thì ắt phải có kiểm soát quyền lực nhà nước.

124

Kiểm soát quyền lực nhà nước để tránh lạm quyền, lộng quyền, đảm bảo

quyền lực nhà nước được thực thi một cách hiệu quả nhất.

Như vậy, muốn đảm bảo được mối quan hệ giữa quyền tư pháp và

quyền hành pháp thì phải bảo đảm được nguyên tắc này để đưa quyền lực nhà

nước trở về đúng nghĩa của nó là quyền lực của nhân dân.

4.1.2. Quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp phải bảo

đảm nguyên tắc Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội

Việc hiến định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội

trong Hiến pháp năm 2013 là tất yếu lịch sử, thể hiện ý chí, nguyện vọng của

nhân dân. Bởi nó xuất phát từ bản chất, vai trò, uy tín của Đảng, được nhân

dân tin tưởng, lựa chọn và ủy thác. Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đã

khẳng định tính tất yếu khách quan của việc Đảng lãnh đạo. Cụ thể qua các

dấu mốc lịch sử: Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công khai sinh ra

nước Việt Nam dân chủ cộng hòa; Chiến thắng Điện Biên phủ năm 1954 và

thắng lợi ở Hội nghị Giơnevơ; Chiến dịch mùa xuân năm 1975 thống nhất

nước nhà tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội; công cuộc đổi mới đất nước

trên tất cả các phương diện tại Đại hội Đảng VI - năm 1986. Và ở thời điểm

hiện tại, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc xây dựng Nhà nước

pháp quyền XHCN Việt Nam càng đậm nét và sâu sắc hơn.

Như vậy, với vị trí, vai trò chính trị - pháp lý của mình, Đảng thực hiện

chức năng lãnh đạo nhà nước và xã hội, lãnh đạo công tác tổ chức quyền lực

nhà nước trong đó có quyền tư pháp và quyền hành pháp. Việc đổi mới mối

quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp nhằm hướng đến thực hiện

quyền lực nhà nước một cách hiệu quả nhất, đảm bảo quyền lực nhà nước

thuộc về nhân dân. Trong quan hệ lãnh đạo cơ quan thực hiện quyền hành

pháp – Chính phủ, để đảm bảo cho Chính phủ thực hiện được các chức năng

quản lý và thực hiện được các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,

125

quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước, bảo vệ quyền tự do dân chủ

của công dân đã được Hiến pháp quy định, đồng thời bảo đảm sự phát triển

bền vững của quốc gia, phòng chống tệ nạn quan liêu, tham nhũng, sự thoái

hóa biến chất của một số bộ phận cán bộ đảng viên trong bộ máy Chính phủ,

Đảng tập trung lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu

cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN (trong đó lãnh đạo công tác quy

hoạch và chiến lược cán bộ cấp cao – Chính phủ; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức về chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức cách mạng, tinh thần phục vụ

Nhân dân); Đảng lãnh đạo công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động

của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, cán bộ, công chức, viên chức, đảng

viên hoạt động trong cơ quan Chính phủ. Bên cạnh đó, Đảng chú trọng lãnh

đạo công tác tổ chức và hoạt động kiểm soát quyền hành pháp trên các

phương diện: lãnh đạo chính trị (quyết định các nguyên tắc tổ chức và hoạt

động của cơ chế kiểm soát quyền hành pháp, quyết định các phương hướng

chính trị trong hoạt động của các thiết thế tham gia kiểm soát quyền hành

pháp); lãnh đạo công tác tổ chức (tổ chức cán bộ, công tác đào tạo, bồi

dưỡng, quyết định chế độ làm việc…); lãnh đạo tư tưởng (thông qua giáo

dục, tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng cho cán bộ và Nhân dân,

nâng cao nhận thức về trách nhiệm, thẩm quyền, quán triệt quan điểm của

Đảng về kiểm soát quyền hành pháp).

Tương tự đối với cơ quan thực hiện quyền tư pháp, Đảng lãnh đạo cơ

quan thực hiện tư pháp là nội dung rất quan trọng và cần thiết trong công

cuộc đổi mới hiện nay, nhằm mục đích: một là, bảo đảm hoạt động của các

cơ quan tư pháp theo đúng đường lối chính trị, kiên định đi theo định hướng

XHCN, giữ vững bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền

XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; hai là, bảo đảm phát huy

đầy đủ vị trí, vai trò của các cơ quan tư pháp để hoàn thành chức năng, nhiệm

126

vụ theo luật định, duy trì và bảo vệ nền pháp chế XHCN, vì sự công bằng,

dân chủ và nghiêm minh trong tổ chức thi hành pháp luật.

Đảng lãnh đạo các cơ quan thực hiện quyền tư pháp có nội dung toàn

diện: lãnh đạo về chính trị, tư tưởng; về tổ chức, cán bộ; về định hướng công

tác. Đảng lãnh đạo các cơ quan thực hiện quyền tư pháp thông qua việc định

ra các nguyên tắc, quan điểm lớn làm cơ sở xây dựng tổ chức và hoạt động

của các cơ quan tư pháp; vạch ra đường lối, định hướng trong các lĩnh vực

hoạt động của các cơ quan thực hiện quyền tư pháp.

Như vậy, hiệu quả công tác lãnh đạo của Đảng sẽ là cơ sở hoàn thiện tổ

chức, hoạt động của Chính Phủ, Tòa án cũng như việc hoàn thiện mối quan

hệ giữa hai cơ quan này. Mặt khác, khi Chính phủ, Tòa án thực hiện tốt chức

năng của mình và phối hợp nhịp nhàng với nhau để đem lại hiệu quả trong

thực thi quyền lực nhà nước sẽ là cơ sở quan trọng để tiếp tục khẳng định,

đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng cầm quyền đối với Nhà nước pháp quyền

XHCN Việt Nam.

4.1.3. Quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp phải bảo

đảm sự độc lập của Tòa án

Sự bảo đảm tính thượng tôn pháp luật trong xã hội có thực hiện được

không, tất cả đều phụ thuộc vào việc thực hiện quyền tư pháp. Như đã đề cập,

bản chất của quyền tư pháp là thi hành công lý, đem lại công lý cho người

dân. Để đem lại được công lý cho người dân, tiêu chuẩn cao nhất để chứng tỏ

cho người dân thấy được công lý đã được thi hành là việc thực hiện quyền tư

pháp phải bảo đảm tính khách quan. Điều này có nghĩa là người dân phải bị

thuyết phục rằng khi quyền tư pháp được thực hiện, nhà nước không thiên vị

bất kỳ ai, tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Sự khách quan là

điều kiện tất yếu của việc thi hành công lý, nếu quyền tư pháp không được

thực hiện một cách khách quan, công bằng thì người dân sẽ không tin vào

127

cam kết bảo vệ công lý của quyền tư pháp của nhà nước. Nói tóm lại, nếu

không thể hiện được sự khách quan thì quyền tư pháp sẽ hoàn toàn mất lòng

tin nơi người dân. Nếu tính khách quan là yêu cầu tất yếu thể hiện công lý thì

tính độc lập lại là điều kiện tiên quyết để quyền tư pháp có thể vận hành một

cách khách quan. Tính độc lập của quyền tư pháp có nghĩa là quá trình vận

hành quyền tư pháp phải được thực hiện bởi những thiết chế được hưởng

những tư cách, những đặc ân nhất định giúp cho họ có thể thi hành công lý

mà không chịu sự chi phối của bất kỳ ai. Quá trình thi hành công lý, đặc biệt

là quá trình xét xử, luôn đụng chạm tới quyền lợi của các bên tham gia tranh

chấp cũng như những chủ thể khác có lợi ích và mối quan tâm liên quan. Tất

cả các chủ thể này đều tìm cách tác động tới việc thực hiện quyền tư pháp để

bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Tính độc lập của quyền tư pháp có nghĩa là

quyền tư pháp phải được thực hiện chỉ dựa trên cơ sở các chứng cứ khách

quan và theo quy định của pháp luật. Nói cách khác, tính độc lập của quyền

tư pháp loại trừ sự can thiệp không chính đáng của bất kỳ cá nhân nào vào

hoạt động thực hiện quyền tư pháp của các cơ quan tư pháp.

Tính độc lập cũng có thể coi là đặc quyền của quyền tư pháp. Chỉ có

quyền tư pháp mới có yêu cầu về tính độc lập. Tính độc lập không phải là

thuộc tính của quyền lập pháp hay hành pháp. Hai quyền này đều được thực

hiện dưới sự chi phối của lợi ích đảng phái, lợi ích đa số, thông qua con

đường nhà nước. Vì vậy, bản thân hai quyền đó đã mang sự thiên vị chính trị

và luôn phụ thuộc vào ý chí của đa số trong xã hội. Đối với quyền tư pháp,

độc lập là thuộc tính tất yếu và không thể thiếu. Nếu quyền tư pháp có thể bị

tác động một cách không chính đáng thì nó sẽ không thể vận hành một cách

khách quan và do đó không thể đem lại công lý cho người dân, tức là không

thể thực hiện được sứ mệnh của nó trong nhà nước pháp quyền. Vì vậy có thể

khẳng định rằng, độc lập là thuộc tính tất yếu của quyền tư pháp.

128

Để bảo đảm tính độc lập của quyền tư pháp thì các cơ quan trong hệ

thống tư pháp đều phải độc lập, tức là đều phải có khả năng miễn trừ trước

những tác động không chính đáng của các chủ thể bên ngoài. Nếu bất kỳ cơ

quan nào trong hệ thống tư pháp không độc lập cũng đều ảnh hưởng tới tính

độc lập của việc thực hiện quyền tư pháp nói chung. Tuy nhiên, tính chất và

mức độ độc lập của từng cơ quan lại phụ thuộc vào đặc điểm của vai trò của cơ

quan đó trong hệ thống tư pháp. Như trên đã phân tích, toà án là cơ quan có vai

trò quyết định tới việc thực hiện quyền tư pháp, là nơi thể hiện tập trung nhất

quá trình thực hiện quyền tư pháp. Chính vì vậy, toà án luôn có tính độc lập

cao nhất trong hệ thống tư pháp. Tính độc lập của toà án được thể hiện gần

như tuyệt đối với mục đích cuối cùng là bảo đảm cho từng thẩm phán không

thể bị ảnh hưởng bởi bất kỳ yếu tố bên ngoài nào tác động tới hoạt động xét xử

của mình. Tính độc lập của toà án, vì vậy, luôn được xem xét từ cả góc độ thiết

chế và góc độ thể chế. Trong nhà nước pháp quyền hiện đại, sự độc lập của toà

án luôn là biểu tượng cho tính độc lập của quyền tư pháp.

4.1.4. Quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp phải bảo

đảm sự chủ động, linh hoạt của hành pháp, thúc đẩy quyền hành pháp

hoạt động hiệu lực, hiệu quả

Gắn với yêu cầu bảo đảm sự độc lập của TAND trong mối quan hệ giữa

cơ quan tư pháp và cơ quan hành pháp còn phải bảo đảm sự chủ động, tình linh

hoạt của hành pháp, thúc đẩy quyền hành pháp hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

Cơ quan hành pháp là cơ quan thực thi pháp luật, có nhiệm vụ, quyền

hạn quản lý, điều hành mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự phát triển của

thực tiễn xã hội luôn luôn đa dạng, sôi động, phức tạp mà nhiều khi pháp

luật không dự kiến trước được, không bao quát hết được. Pháp luật luôn

luôn lạc hậu trước sự phát triển và diễn biến khó lường của thực tiễn xã

hội. Vì vậy, trong thực tiễn hoạt động của mình, cơ quan hành pháp phải

129

hết sức linh hoạt, sáng tạo có khi trong khuôn khổ của pháp luật, nhưng

cũng có khi vượt ra ngoài khuôn khổ pháp luật. Do đặc điểm nêu trên của

hành pháp khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, nên việc kiểm soát

thực hiện quyền lực hành pháp của cơ quan tư pháp phải rất thận trọng. Khi

có những vấn đề liên quan đến chính sách, pháp luật, quyết định hành

chính của cơ quan hành pháp thì trong tài phán, nhận xét, kết luận, kiến

nghị của mình cơ quan tư pháp phải soi xét kỹ càng. Cơ quan tư pháp phải

đặt những chính sách, văn bản, quyết định hành chính trong hoàn cảnh lịch

sử cụ thể đối chiếu với yêu cầu quản lý nhà nước từ thực tiễn để ủng hộ

tính linh hoạt, sáng tạo của hành pháp; không nên vội vã kết luận có tính

chất pháp lý đơn thuần cứng nhắc làm thui chột tinh thần chủ động, sáng

tạo, linh hoạt của hành pháp. Để thực hiện quan điểm này phải có giải pháp

nâng cao nhận thức về mối quan hệ giữa tư pháp và hành pháp; nâng cao

trình độ, năng lực của cán bộ tư pháp… để có khả năng nhận diện cái

đúng, cái sai, nhận thức đúng đắn quan hệ giữa cái bất hợp pháp nhưng hợp

lý và bất hợp pháp nhưng phù hợp với yêu cầu của cuộc sống.

4.2. Giải pháp bảo đảm mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền

hành pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay

4.2.1. Đổi mới nhận thức về quyền tư pháp, quyền hành pháp và mối

quan hệ giữa hai nhánh quyền lực này

Trong giới khoa học pháp lý hiện nay, nếu quyền hành pháp về cơ bản

được nhận thức tương đối thống nhất thì các quan điểm về quyền tư pháp gần

như chưa tìm được tiếng nói chung. Do vậy, để nâng cao hiệu quả hoạt động

của quyền tư pháp, quyền hành pháp, trước hết cần nhận thức đúng và đầy đủ

về hai nhánh quyền này, đặc biệt là quyền tư pháp.

Như đã phân tích ở chương hai, có rất nhiều quan điểm nhận diện

quyền hành pháp và về cơ bản các quan điểm đó đều chung nhau ở một điểm:

130

quyền hành pháp tuy về nguyên nghĩa là chấp hành và tổ chức thực thi các

đạo luật nhưng không đơn thuần chỉ là sự chấp hành các đạo luật một cách thụ

động; Quyền hành pháp ngày nay không chỉ là công việc điều hành chính

sách quốc gia mà còn phải thực hiện công việc hoạch định chính sách quốc

gia (để cơ quan lập pháp phê chuẩn chính sách một cách chính thức).

Đối với quyền tư pháp, vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau, tuy nhiên,

cần nhận thức rằng: quyền tư pháp là quyền tài phán của Nhà nước được thực

hiện dưới hình thức xét xử - là chức năng được trao duy nhất cho Tòa án.

Quyền tư pháp là quyền giải quyết, phán quyết về các tranh chấp pháp lý xảy

ra trong xã hội. Đó có thể là các tranh chấp giữa cá nhân với cá nhân; tranh

chấp giữa cá nhân với cơ quan, tổ chức; tranh chấp giữa các cơ quan, tổ chức

với nhau. Nguyên tắc pháp quyền đòi hỏi cơ quan thực hiện quyền tư pháp

không thể đứng ngoài các tranh chấp xảy ra trong xã hội. Khi các bên có tranh

chấp và giữa các bên không có được sự thỏa thuận, hòa giải và có một bên

khởi kiện, thì Tòa án không thể không can thiệp bằng quyền lực của mình.

Tòa án không thể từ chối giải quyết các tranh chấp đó vì lý do không có luật

điều chỉnh. Có như vậy, quyền con người, quyền công dân mới được bảo vệ;

trật tự pháp luật mới được duy trì. Xử lý các vi phạm pháp luật bằng chế tài

nghiêm khắc nhất của Nhà nước, giải quyết các tranh chấp bằng quyền lực

Nhà nước đều thuộc thẩm quyền của Tòa án. Vì vậy, quy định của Hiến pháp

là cơ sở hiến định cho việc mở rộng thẩm quyền của Tòa án trong xét xử các

loại án, thể hiện xu thế tất yếu của nhà nước pháp quyền.

Ngoài ra, việc xác lập và bảo đảm mối quan hệ: phân công, phối hợp,

kiểm soát giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp mà cụ thể là Chính phủ và

Tòa án là tất yếu khách quan trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nước.

Phân công là tiền đề, cơ sở để thực hiện sự phối hợp và kiểm soát giữa hai

nhánh quyền lực này. Sự phối hợp dựa trên tiền đề phân công trên cơ sở hỗ

131

trợ nhằm đảm bảo thực hiện thống nhất quyền lực nhà nước. Kiểm soát giữa

quyền tư pháp và quyền hành pháp là một tất yếu trong Nhà nước pháp quyền,

càng là tất yếu trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Kiểm soát giữa

quyền tư pháp và quyền hành pháp không đồng nghĩa với việc can thiệp, làm

phương hại đến độc lập của tư pháp, hành pháp. Trái lại, hiệu quả kiểm soát

quyền tư pháp, quyền hành pháp càng được nâng cao thì càng tạo ra tiền đề để

tư pháp độc lập thực sự và không làm mất đi tính mềm dẻo, linh hoạt của

hành pháp. Dù mức độ, phạm vi kiểm soát giữa hai nhánh quyền này đến đâu

thì cũng phải dựa trên công cụ pháp luật thể hiện ý chí của Nhân dân - chủ

nhân của quyền lực nhà nước, tránh sự can thiệp tùy tiện vào quá trình thực

hiện quyền tư pháp, quyền hành pháp. Và cũng cần xác định được mục đích

xuyên suốt của việc bảo đảm mối quan hệ phân công, phối hợp, kiểm soát

giữa quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp nói chung và giữa

quyền tư pháp và quyền hành pháp nói riêng ở nước ta, đó là đảm bảo tất cả

quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; xứng đáng là Nhà nước pháp quyền

XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân như đã hiến định ở Điều 2 –

Hiến pháp năm 2013.

4.2.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về mối quan hệ giữa quyền tư

pháp và quyền hành pháp

4.2.2.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về Tòa án trong mối quan

hệ phân công, phối hợp, kiểm soát Chính phủ

Đối với cơ chế tài phán hành chính

Thứ nhất, cần mở rộng phạm vi kiểm soát quyền lực của tư pháp đối

với hành pháp

Như trên đã phân tích, theo quy định của pháp luật hiện hành việc

kiểm soát tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản pháp luật do hệ thống cơ quan

hành chính nhà nước ở trung ương và chính quyền địa phương ban hành do cơ

132

quan quyền lực và cơ quan hành chính trong cùng hệ thống thực hiện. Tuy

nhiên, thực tế hoạt động này chưa đem lại hiệu quả. Trường hợp nếu được

kiểm soát bởi cơ quan hành chính cấp trên lại mang tính nội bộ, không khách

quan, hiệu lực, hiệu quả không cao. Còn nếu các văn bản ở trung ương thì

Quốc hội sẽ thực hiện việc giám sát. Thực tế, cơ quan lập pháp nước ta chưa

tuyên bố hủy bỏ một văn bản nào được ban hành bởi cơ quan hành pháp bất

hợp hiến hay bất hợp pháp. Quốc hội không phải là cơ quan giải quyết các vụ

việc cụ thể, nên khó có thể biết được văn bản nào vi hiến hay vi luật. Hoạt

động này thường chỉ phát hiện được trong quá trình áp dụng pháp luật của

Tòa án . Chính vì vậy, cần mở rộng phạm vi xét xử của Tòa án đối với tất cả

các khiếu kiện hành chính, phán quyết về các quyết định hành chính, hành vi

hành chính của cơ quan hành pháp, bao gồm cả của Chính phủ và thành viên

Chính phủ. Đây cũng là xu thế tất yếu của Nhà nước pháp quyền và là một

phương thức để Tòa án kiểm soát Chính phủ.

Mặt khác, cần nghiên cứu bổ sung tiêu chí tính hợp lý khi xem xét các

quyết định hành chính, hành vi hành chính để đảm bảo tính khả thi, điều kiện

thực hiện của quyết định hành chính, hành vi hành chính trên thực tế.

Thứ hai, đảm bảo tính độc lập của Tòa án hành chính với các cơ quan

hành pháp.

Kinh nghiệm một số nước trên thế giới cho thấy hệ thống tổ chức cơ

quan tài phán hành chính thường được tổ chức theo khu vực và được tổ chức

theo cấp xét xử. Quán triệt tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày

02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020,

Chúng ta đang chủ trương cải cách hệ thống Tòa án theo cấp xét xử, không tổ

chức Tòa án theo đơn vị hành chính lãnh thổ như hiện nay. Nếu Tòa hành

chính vẫn được tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ sẽ không đảm bảo

được tính khách quan, độc lập trong xét xử của Tòa án. Tác giả luận án ủng

133

hộ việc nghiên cứu xây dựng tòa án sơ thẩm khu vực theo định hướng cải

cách tư pháp. Việc xây dựng tòa án sơ thẩm khu vực có ý nghĩa rất lớn đối

với việc tòa án giải quyết các vụ án hành chính, góp phần tăng cường tính độc

lập và chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử vụ án hành chính của thẩm phán và

hội thẩm nhân dân. Từ đó, chất lượng xét xử các vụ án hành chính sẽ được

nâng cao. Mặt khác, việc tổ chức TAND sơ thẩm khu vực sẽ làm giảm số

lượng các TAND cấp huyện hiện nay. Qua đó, góp phần tập trung nguồn lực

để đầu tư cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cho các tòa án sơ

thẩm khu vực.

Thứ ba, cần nghiên cứu trao cho Tòa án thẩm quyền xem xét và hủy bỏ

hay đình chỉ thi hành các quyết định hành chính quy phạm trái với Hiến pháp,

Luật. Pháp luật hiện hành mới chỉ dừng lại ở việc quy định quyền kiến nghị

cơ quan có thẩm quyền đình chỉ, sửa đổi, bãi bỏ các văn bản quy phạm pháp

luật trái với Hiến pháp, pháp luật. Điều này tạo cho Tòa án cơ chế kiểm soát

cơ quan hành pháp tốt hơn, nghiêm khắc hơn và hiệu quả hơn.

Ngoài ra, cần phải nâng cao trình độ, năng lực xét xử của thẩm phán và

thực hiện chế độ bổ nhiệm thẩm phán suốt đời, đảm bảo lương, phụ cấp cho

thẩm phán hành chính để nâng cao tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của

thẩm phán trong xét xử.

Quy định rõ chức năng bảo vệ Hiến pháp của Tòa án

Cho đến nay, vấn đề bảo hiến không được đặt ra trong luật thực định

Việt Nam một cách chuyên biệt, mà được coi là một phần của vấn đề chung về

bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Cơ chế bảo đảm được xây

dựng dựa vào tư tưởng chủ đạo theo đó Quốc hội, cơ quan quyền lực nhà nước

cao nhất, thực hiện quyền giám sát tối cao đối với các hoạt động xây dựng pháp

luật bao gồm cả chính hoạt động làm luật của mình. Tư tưởng ấy là hệ quả

logic của nguyên tắc tập trung toàn bộ quyền lực nhà nước về tay nhân dân,

134

nguyên tắc cơ bản trong tổ chức bộ máy Nhà nước XHCN Việt Nam.

Ở Pháp, người ta thiết lập một trật tự đánh giá chất lượng văn bản:

khái niệm hợp hiến hay bất hợp hiến chỉ áp dụng đối với các đạo luật; còn văn

bản lập quy được đánh giá trong một quan hệ so sánh với luật và văn bản

không hợp luật có thể bị huỷ bỏ. Về thẩm quyền, việc kiểm tra tính hợp hiến

của một đạo luật là việc của Hội đồng bảo hiến; trong khi đó, việc kiểm tra

tính hợp luật của một văn bản lập quy, trên nguyên tắc, là công việc của Toà

án hành chính: kết quả kiểm tra được ghi nhận trong một bản án hành chính

và có thể được xem xét lại theo trình tự phúc thẩm cũng trong khuôn khổ tố

tụng hành chính.

Ở Mỹ, việc bảo hiến có thể được thực hiện bởi các cấp toà án và diễn

ra theo trình tự tố tụng áp dụng chung cho tất cả các vụ việc tranh chấp được

Toà án thụ lý và giải quyết. Tuy nhiên, Toà án không làm nhiệm vụ thẩm

định tính hợp pháp của văn bản quy phạm, mà chỉ đánh giá văn bản về

phương diện tính hợp hiến. Lý do là dưới sự ràng buộc của nguyên tắc phân

quyền, quan toà không phải là người gác cổng của cơ quan lập pháp, cũng

không phải là người giúp cơ quan lập pháp phán xét chất lượng hoạt động

chuyên môn, đặc biệt là chất lượng hoạt động thi hành pháp luật, của các cơ

quan thuộc hệ thống hành pháp.

Việt Nam không nhất thiết phải phân biệt tài phán bảo hiến đối với

luật và tài phán hành chính về tính hợp luật của văn bản lập quy, như ở Pháp.

Việc giao chức năng bảo hiến cho tất cả các cấp toà án như ở Mỹ càng không

phù hợp với các đặc điểm của hệ thống chính trị và của tổ chức bộ máy nhà

nước Việt Nam. Vả lại, như đã nói, con người Việt theo truyền thống chịu ảnh

hưởng rất sâu đậm của tư tưởng tôn ti trật tự: ở một vị trí nào đó trong hệ

thống, người ta nhìn thấy chân lý thuộc về cấp chỉ huy, cấp trên trực tiếp,

không xa hơn, cao hơn.

135

Theo tác giả, mô hình tốt nhất cho Việt Nam trong khung cảnh hiện tại

có lẽ là sự kết hợp giữa cơ chế bảo hiến của Pháp và hệ thống giám sát, kiểm

tra văn bản đang vận hành. Một mặt, có một Toà án hiến pháp độc lập và

chuyên trách, đảm nhận chức năng bảo hiến và được giao thẩm quyền kiểm

tra tính hợp hiến của các văn bản quy phạm do Quốc hội ban hành. Mặt khác,

vẫn duy trì cơ chế giám sát, kiểm tra văn bản quy phạm như hiện tại với một

vài điều chỉnh hợp lý: căn cứ giám sát, kiểm tra cao nhất là các luật, nghị

quyết của Quốc hội; thừa nhận quyền khiếu nại của công dân trước cơ quan

thẩm quyền đối với một văn bản quy phạm trái luật…Về lâu dài, nếu do kết

quả cải cách tư pháp mà hệ thống toà án thoát khỏi cái bóng của hệ thống

hành chính quản lý để được tổ chức theo khu vực và theo cấp xét xử, thì việc

giao cho Toà hành chính của Toà án thụ lý việc tranh chấp về tính hợp luật

của một văn bản lập quy sẽ có điều kiện để trở nên khả thi.

Hiến pháp cần trao cho Tòa án có thẩm quyền giải thích pháp luật

Nhìn chung, ở những quốc gia theo truyền thống thông luật hay truyền

thống luật dân sự, việc giải thích pháp luật đều được trao cho Tòa án. Thông

thường, các Thẩm phán giải thích pháp luật thông qua những vụ việc cụ thể

được giải quyết tại Tòa án. Giải thích pháp luật là nghĩa vụ, là một phần công

việc hàng ngày của Thẩm phán ở các quốc gia này.

Việt Nam là một quốc gia theo truyền thống pháp luật XHCN, Tòa án

không được trao cho quyền giải thích pháp luật. Quyền này được trao y ban

thường vụ Quốc hội [6, Khoản 2 Điều 74]. TAND tối cao chỉ có quyền đề

nghị y ban thường vụ Quốc hội giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh [18,

Khoản 1 Điều 159]. Như vậy, các Thẩm phán Việt Nam không có quyền giải

thích pháp luật. Tuy nhiên, với quy định của Luật tổ chức TAND năm 2014

về việc áp dụng án lệ tại Tòa án, thì Thẩm phán cần phải diễn giải pháp luật

khi xét xử các vụ án. Như vậy, cũng như Thẩm phán của các quốc gia trên thế

136

giới, Thẩm phán Việt Nam có nghĩa vụ phải giải thích pháp luật trong hoạt

động xét xử của mình. Việc giải thích pháp luật của Thẩm phán (Tòa án) hoàn

toàn khác về tính chất với giải thích pháp luật của y ban thường vụ Quốc

hội. Nếu giải thích pháp luật của y ban thường vụ Quốc hội là có tính bắt

buộc chung thì giải thích pháp luật của Thẩm phán (Tòa án) chỉ có hiệu lực

đối với vụ án cụ thể mà Thẩm phán xét xử và chỉ được áp dụng cho những vụ

án tương tự xảy ra trong tương lai nếu đó là án lệ.

Thiết nghĩa, ở Việt Nam, Hiến pháp cần trao cho Tòa án có thẩm

quyền giải thích pháp luật. Bởi luật pháp dù được xây dựng công phu, ban

hành liên tục cũng không thể tránh khỏi tình trạng chồng chéo và khoảng

trống giữa các quy định. Điều đó càng đúng với hoạt động lập pháp nước ta

hiện nay, khi nhiều văn bản quy phạm còn mang tính “khung”, “định hướng”

để cơ quan quản lý dễ dàng sửa đổi, bổ sung bằng các văn bản dưới luật, dễ

dẫn đến cách hiểu khác nhau trong quá trình áp dụng luật. Và giải thích luật

thông qua thực tiễn xét xử là cách hiệu quả nhất để hướng dẫn áp dụng thống

nhất pháp luật.

4.2.2.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật về Chính phủ trong mối

quan hệ phân công, phối hợp, kiểm soát Tòa án

Thống nhất thẩm quyền Chính phủ quản lý đội ngũ cán bộ, công chức

Theo tác giả, cần sửa đổi Luật Tổ chức Chính phủ trong đó giao Chính

phủ thẩm quyền phê chuẩn cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn bộ máy giúp

việc của TAND và quy định chế độ chính sách đối với thư ký Tòa án, thẩm tra

viên, chế độ lương, phụ cấp…để đảm bảo Chính phủ là cơ quan hành chính

nhà nước cao nhất mà Hiến pháp đã xác định. Việc quy định như thế này sẽ là

cơ sở để đảm bảo sự kiểm soát quyền lực giữa Chính phủ và Tòa án, tránh các

nguy cơ nảy sinh từ sự tách biệt, khép kín của các Tòa án như hiện nay. Trong

lịch sử lập hiến ở Việt Nam, thời kỳ Hiến pháp năm 1980, cơ quan của Chính

137

phủ - Bộ Tư pháp là người quản lý về mặt tổ chức đối với đội ngũ thẩm phán.

Điều này giúp TAND được tổ chức độc lập, không có sự lệ thuộc lẫn nhau về

mặt tổ chức giữa các tòa án trong hệ thống tòa án hay trong cùng một tòa án -

dẫn đến sự lệ thuộc của các thẩm phán đối với các cấp lãnh đạo của họ. Tác

giả cho rằng, cần nghiên cứu để quay lại cơ chế này, cần bóc tách các vấn đề

quản lý tổ chức, con người ra khỏi hệ thống tòa án, giao lại cho cơ quan hành

pháp. Làm như vậy không những đảm bảo được nguyên tắc tối thượng trong

xét xử là độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của các thẩm phán mà còn góp

phần hình thành một cơ chế kiểm soát quyền lực hữu hiệu giữa cơ quan hành

pháp với cơ quan tư pháp.

Tăng cường chức năng kiểm soát của Chính phủ đối với TAND thông

qua việc chuyển Viện kiểm sát nhân dân thành Viện công tố thuộc hệ thống

hành pháp

Mô hình Viện công tố được thành lập chủ yếu ở các nước theo truyền

thống pháp luật Châu Âu lục địa điển hình như Đức, Pháp, Italia... Ở các nước

này, Viện công tố thuộc Chính phủ nên trong quá trình thực hiện quyền truy

tố, Viện công tố thực hiện vai trò là cơ quan đại diện quyền lực công, thể hiện

quan điểm, thái độ và sự phản ứng của công quyền trước các tranh chấp pháp

lý, các vụ án được đưa ra xem xét tại Tòa án.

Mô hình Viện công tố đã từng tồn tại ở Việt Nam do người Pháp du

nhập vào sau khi xâm chiếm Việt Nam làm thuộc địa. Mô hình đó đã tiếp tục

tồn tại sau Cách mạng Tháng Tám 1945, mặc dù hệ thống pháp luật và bộ

máy nhà nước của chế độ thực dân – phong kiến bị xóa bỏ, thay vào đó là bộ

máy của nhà nước kiểu mới. Do hoàn cảnh lịch sử của nước ta lúc đó Hiến

pháp 1946 chỉ đề cập đến tổ chức tòa án. Trong cơ cấu của tòa án có các công

tố viên làm nhiệm vụ buộc tội nhân danh nhà nước trước phiên tòa trong các

vụ án hình sự. Sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc, năm 1958 Viện công tố

138

Trung ương được thành lập trên cơ sở tách các công tố viên ra khỏi tòa án,

đánh dấu bước khởi đầu trong việc hình thành một hệ thống cơ quan nhà nước

độc lập với tòa án nhưng Viện công tố Trung ương vẫn trực thuộc Chính phủ.

Hoạt động chủ yếu của Viện công tố vẫn là hoạt động công tố trước tòa án

nhưng đã bao hàm một số yếu tố của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp

luật như kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử và kiểm sát giam giữ cải tạo.

Nhưng chỉ chưa đầy hai năm sau mô hình Viện công tố đã chấm dứt tồn tại.

Vào thời điểm năm 1959-1960 cách mạng nước ta bước vào giai đoạn phát

triển mới – giai đoạn xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội

ở miền Bắc làm hậu thuẫn cho đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất

nước. Nhu cầu của cuộc cách mạng XHCN đòi hỏi pháp luật phải được chấp

hành nghiêm chỉnh và thống nhất, đòi hỏi một sự nhất trí về mục đích và hành

động trong nhân dân, giữa nhân dân và nhà nước cũng như giữa các ngành

hoạt động nhà nước với nhau. Nếu không đạt được sự thống nhất trong việc

chấp hành pháp luật thì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ gặp nhiều khó

khăn. Vì lẽ trên phải tổ chức ra Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát việc tuân

theo pháp luật nhằm giữ vững pháp chế XHCN, bảo đảm cho pháp luật được

chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Như vậy sự ra đời của mô hình Viện

kiểm sát thay thế cho mô hình Viện công tố ở nước ta gắn liền với yêu cầu

của nhiệm vụ bảo đảm pháp chế thống nhất – điều kiện nền tảng cho việc xây

dựng nhà nước kiểu mới.

Hiện nay, ở nước ta, cơ quan được giao thực hiện quyền công tố là

Viện kiểm sát nhân dân, độc lập với Chính phủ. Mặt khác, theo quy định của

Luật tổ chức TAND thì hệ thống Tòa án ở nước ta được tổ chức từ trung ương

đến địa phương như một hệ thống khép kín, Tòa án cấp trên lãnh đạo Tòa án

cấp dưới và Tòa án cấp dưới trực thuộc Tòa án cấp trên cả trên phương diện

quan hệ tố tụng và quan hệ hành chính; TAND tối cao quản lý các Tòa án địa

139

phương mà không phải Chính phủ như đã từng được quy định trong các luật

tổ chức Tòa án trước đây. Do đó, Chính phủ không có cơ chế nào để kiểm

soát hoạt động của cơ quan thực hiện quyền tư pháp.

Theo tác giả, để tạo ra một cơ chế kiểm soát quyền lực đầy đủ của cơ

quan hành pháp với cơ quan tư pháp thì phải cải cách triệt để mô hình viện

kiểm sát, chuyển viện kiểm sát thành cơ quan công tố thuộc Chính phủ. Khi

cơ quan công tố thuộc hành pháp rồi thì quyền kháng nghị của cơ quan công

tố đối với các bản án, quyết định của tòa án chính là công cụ quan trọng nhất

trong kiểm soát quyền lực giữa cơ quan hành pháp đối với cơ quan tư pháp.

4.2.3. Bảo đảm các điều kiện cần thiết cho việc thực hiện mối quan

hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp

4.2.3.1. Kiện toàn tổ chức bộ máy và năng lực, phẩm chất đội ngũ cán

bộ, công chức các cơ quan tư pháp và cơ quan hành pháp

* Đối với Chính phủ

Để nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của Chính Phủ trước hết

cần sắp xếp, kiện toàn cơ cấu tổ chức của Chính phủ, của các bộ, cơ quan

ngang bộ theo hướng tinh giản, gọn nhẹ, hiệu quả. Sau hơn 4 năm thi hành

Luật Tổ chức Chính phủ, hiện tại Chính phủ gồm 22 bộ, cơ quan ngang bộ (số

lượng này từ khóa XII tiếp tục được duy trì trong khóa XIII và khóa XIV.

Việc sắp xếp, sáp nhập các bộ thành bộ quản lý đa ngành chưa thật sự đi liền

với việc điều chỉnh sâu về chức năng, cắt giảm, lồng ghép nhiệm vụ dẫn đến

khối lượng công việc, phạm vi lĩnh vực quản lý của bộ trở nên phức tạp. Việc

sáp nhập không kèm theo tái cơ cấu lại cấu trúc bên trong của các bộ khiến

cho tổ chức bộ máy bên trong bộ, cơ quan ngang bộ trở nên cồng kềnh, nhiều

tầng nấc trung gian, số đầu mối đơn vị hành chính tăng cao. Cơ cấu tổ chức

của bộ, cơ quan ngang bộ vẫn phổ biến theo mô hình truyền thống. Số tổng

cục được thành lập ngày càng tăng, trong tổng cục cũng tổ chức cục, vụ, văn

140

phòng, thanh tra, đơn vị sự nghiệp tạo nên mô hình bộ trong bộ, không những

làm tăng tính cồng kềnh của bộ máy mà còn làm tăng tính quan liêu, giảm

hiệu quả, hiệu lực của bộ máy quản lý [108].

Như vậy, vấn đề đặt ra hiện nay là cần các giải pháp cải cách quyết liệt

để tái cơ cấu bộ máy Chính phủ, bộ máy các bộ, cơ quan ngang bộ theo đúng

quan điểm tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Theo đó, tập trung xây dựng chính

phủ kiến tạo, phát triển, liêm chính, hành động, phục vụ nhân dân. Tiếp tục

thực hiện nhất quán và nâng cao hiệu quả mô hình bộ quản lý đa ngành, đa

lĩnh vực, điều chỉnh hợp lý ngành, lĩnh vực quản lý giữa các bộ để xác định

hợp lý số lượng các bộ, cơ quan ngang bộ. Nghiên cứu hợp nhất một số bộ có

chức năng gần nhau, đối tượng và phạm vi quản lý liên quan với nhau để khắc

phục tình trạng cắt khúc, chồng chéo hoặc bỏ trống trong quản lý nhà nước

nhưng phải đảm bảo sự liên thông, đồng bộ, thống nhất của bộ máy Chính

phủ. Đổi mới việc sắp xếp, tái cấu trúc tổ chức bên trong của bộ, cơ quan

ngang bộ theo hướng tinh gọn, giảm cấp trung gian. Trên tinh thần đó, xác

định rõ tiêu chí thành lập phòng, vụ, cục, tổng cục, tạo khung tổ chức thống

nhất, đồng bộ giữa các bộ, cơ quan ngang bộ. Nếu Chính phủ làm tốt được

việc này thì mới nâng cao được năng lực và hiệu quả quản lý của mình.

Đối với cán bộ, công chức, viên chức cần làm tốt công tác giáo dục

chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức, viên chức về

đổi mới, sắp xếp tổ chức, bộ máy, tinh giản biên chế; tăng cường tuyên

truyền, vận động, thuyết phục, tạo sự thống nhất cao trong Đảng và sự đồng

thuận trong xã hội. Trong nhiều năm qua, việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức, viên chức ở nước ta chủ yếu vẫn theo kiểu “hàn lâm”, nặng về lý

luận, chưa chú trọng bồi dưỡng, rèn luyện năng lực tổ chức thực tiễn, năng

lực giải quyết những vấn đề cụ thể của cuộc sống. Không ít cán bộ, công

chức, viên chức chưa thật sự say mê học tập, trình độ kiến thức không ngang

141

tầm bằng cấp được nhận, không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao... Điều

đó đòi hỏi phải đổi mới căn bản, toàn diện và nâng cao chất lượng đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức theo hướng hiện đại, chuẩn hóa

chuyên sâu; gắn đào tạo cơ bản tại trường và bồi dưỡng, rèn luyện trong thực

tiễn để đánh giá, tuyển chọn, tạo nguồn và phát triển tài năng của cán bộ,

công chức, viên chức. Cần gắn kết chặt chẽ đào tạo với sử dụng, sử dụng

đúng chuyên môn được đào tạo; không tuyển chọn hoặc bố trí, sử dụng những

cán bộ, công chức, viên chức chưa được đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn

theo chức danh đảm nhiệm.

Tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, tạo động lực để đội

ngũ cán bộ, công chức, viên chức yên tâm gắn bó với công việc, không

ngừng học tập, rèn luyện nâng cao trình độ mọi mặt đáp ứng yêu cầu nhiệm

vụ thời kỳ mới. Trước hết, cần hoàn thiện cơ chế tuyển chọn, đào tạo, bồi

dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ, công chức, viên chức; gắn trách nhiệm với

quyền hạn, quyền lợi với nghĩa vụ. Tiếp tục nghiên cứu cải tiến chế độ tiền

lương, bảo hiểm xã hội, bảo đảm cho cán bộ, công chức, viên chức có thể

sống và sống tốt bằng thu nhập chính đáng của mình. Trên cơ sở bảo đảm

đầy đủ các quyền và lợi ích chính đáng của cán bộ, công chức, viên chức,

các cấp ủy, người đứng đầu vừa động viên, khuyến khích, vừa yêu cầu từng

cán bộ, công chức, viên chức phải không ngừng học tập, rèn luyện, nâng

cao trình độ mọi mặt, đáp ứng yêu cầu công việc, hoàn thành tốt chức

trách, nhiệm vụ được giao.

* Đối với Tòa án nhân dân

Thời gian qua, công tác tổ chức cán bộ của các Tòa án được tập trung

vào việc tổ chức quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung

ương 6, khóa XII về việc tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống

chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Hoàn thiện các quy định, quy

142

chế về công tác tổ chức, cán bộ của hệ thống Tòa án làm cơ sở cho việc xây

dựng đội ngũ cán bộ, Thẩm phán có đủ phẩm chất, năng lực theo yêu cầu của

nền công vụ tiên tiến, chuyên nghiệp và hiện đại; bảo đảm cho các TAND sẵn

sàng đảm nhận và hoàn thành tốt những nhiệm vụ khó khăn, phức tạp của thời

kỳ hội nhập, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đổi mới của đất nước.

Để nâng cao được chất lượng đội ngũ cán bộ, thẩm phán tòa án, trước

hết cần sắp xếp lại bộ máy tổ chức theo hướng chuyên sâu (theo loại án, lĩnh

vực); rà soát đánh giá lại đội ngũ cán bộ, Thẩm phán để có kế hoạch đào tạo,

bồi dưỡng bố trí sử dụng phù hợp với năng lực, sở trường. Ngoài ra, cần xây

dựng cơ chế tạo nguồn, tuyển chọn, sử dụng cán bộ, Thẩm phán trên cơ sở

tiêu chuẩn của từng chức danh gắn với vị trí việc làm của từng đơn vị, Toà án.

Làm tốt công tác tuyển dụng sẽ tạo ra một thế hệ cán bộ tốt, tạo nguồn lực

phát triển đội ngũ Thẩm phán trong sạch, vững mạnh. Xây dựng cơ chế thu

hút cán bộ có trình độ; sinh viên tốt nghiệp đại học chuyên ngành luật, chuyên

ngành Toà án loại giỏi về công tác tại các TAND. Có chính sách đặc thù, ưu

tiên cho các Toà án địa phương vùng sâu, vùng xa khó thu hút nguồn nhân lực

có chất lượng trong công tác tuyển dụng và đào tạo (mở rộng hình thức cử

tuyển, tăng cường việc đào tạo tập trung…). Bên cạnh đó, việc tăng cường

công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho đội ngũ cán bộ, Thẩm phán là vô

cùng quan trọng. Làm tốt công tác này sẽ giúp đội ngũ cán bộ, Thẩm phán

TAND các cấp ngày càng trưởng thành, vững vàng về bản lĩnh chính trị, giỏi

về nghiệp vụ, sẵn sàng đảm nhận và hoàn thành tốt những nhiệm vụ khó

khăn, phức tạp của thời kỳ hội nhập; góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đổi

mới của đất nước.

4.2.3.2. Bảo đảm điều kiện vật chất, trang thiết bị, kinh phí hoạt động

cho cơ quan tư pháp và cơ quan hành pháp

Điều kiện vật chất, trang thiết bị, kinh phí hoạt động là những yếu tố

143

không thể thiếu và tác động đến hiệu quả hoạt động của cơ quan tư pháp, cơ

quan hành pháp. Những điều kiện vật chất này tạo điều kiện thuận lợi cho

hoạt động của cơ quan tư pháp và hành pháp.

Đối với TAND, cần tiếp tục tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị,

phương tiện làm việc cho các Tòa án. TAND tối cao trên cơ sở phê duyệt bố

trí kinh phí của Thủ tướng Chính phủ, sớm hoàn thành việc đầu tư xây dựng

mới trụ sở cho 35 TAND cấp huyện hiện chưa có trụ sở phải đi thuê địa điểm

làm việc. Đồng thời, cải tạo, mở rộng trụ sở và trang bị nội thất phòng xét xử

của các Tòa án theo yêu cầu mới của pháp luật tố tụng và thực hiện đề án

tăng cường ứng dụng công nghệ thông tintrong hoạt động chuyên môn

nghiệp vụ và trong hoạt động quản lý, điều hành. Tiếp tục đổi mới thủ tục

hành chính - tư pháp, đảm bảo công khai minh bạch các hoạt động của Tòa

án, đặc biệt là việc công khai bản án, quyết định của Tòa án trên cổng thông

tin điện tử của TAND.

Đối với Chính phủ, trong điều kiện phát triển của khoa học, công nghệ

cần phải khẩn trương chuẩn bị các yếu tố cần thiết để tận dụng Cách mạng

công nghiệp 4.0. Chính phủ cần thực hiện ngay các giải pháp quan trọng như

phát triển hạ tầng kết nối số, xây dựng chiến lược chuyển đổi số, nền quản trị

thông minh, ưu tiên phát triển công nghiệp công nghệ số… Trong đó xây

dựng kho dữ liệu dùng chung là vấn đề cấp bách hiện nay, bao gồm ba nền

tảng dữ liệu là cơ sở dữ liệu nền địa hình, địa chính; cơ sở dữ liệu người dân,

cơ sở dữ liệu doanh nghiệp. Trong cơ sở dữ liệu về hoạt động của nhà nước,

các văn bản, quyết định đều được công khai, minh bạch thuận tiện cho việc

tra cứu, sử dụng cũng như kiểm tra, kiểm soát; tăng cường các dịch vụ công

trực tuyến. Để làm được điều này thì một trong những yếu tố quan trọng là

phải tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, kinh phí xây dựng một

“Chính phủ điện tử” thực sự mạnh.

144

Các giải pháp bảo đảm mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành

pháp cần được tiến hành đồng bộ, coi trọng mọi giải pháp, từ khâu nhận thức

đến hoàn thiện pháp luật và bảo đảm các điều kiện cần thiết cho việc thực

hiện mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp.

Kết luận Chương 4

Sau khi làm sáng tỏ các vấn đề lý luận, đánh giá thực trạng, luận án đã

đề xuất quan điểm bảo đảm mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành

pháp như sau: quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp phải đảm bảo

nguyên tắc “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, quyền lực nhà nước

là thống nhất, cơ sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà

nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và tư pháp”; quan

hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp phải bảo đảm nguyên tắc Đảng

Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội; quan hệ giữa quyền tư pháp

và quyền hành pháp phải bảo đảm sự độc lập của Tòa án cũng như bảo đảm

sự chủ động linh hoạt của hành pháp, thúc đẩy quyền hành pháp hoạt động

hiệu lực, hiệu quả.

Đồng thời, luận án xác định, để bảo đảm mối quan hệ giữa quyền tư

pháp và quyền hành pháp mà trọng tâm là giữa TAND và Chính phủ, cần thực

hiện đồng bộ các giải pháp sau đây: thứ nhất, đổi mới nhận thức về quyền tư

pháp, quyền hành pháp và mối quan hệ giữa hai nhánh quyền lực này; thứ hai,

hoàn thiện pháp luật về mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp;

thứ ba, kiện toàn tổ chức bộ máy của các cơ quan thực hiện quyền hành pháp,

quyền tư pháp; và cuối cùng là bảo đảm điều kiện vật chất, trang thiết bị, kinh

phí hoạt động cho cơ quan tư pháp và hành pháp. Các nhóm giải pháp có mối

liên hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau để phát huy hiệu lực, hiệu quả

trong thực hiện mối quan hệ giữa TAND và Chính phủ nói riêng cũng như

hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung.

145

KẾT LUẬN

Việc xác lập và bảo đảm mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền

hành pháp mà trọng tâm là giữa TAND với Chính phủ có vai trò vô cùng

quan trọng. Ngoài việc góp phần kiểm soát thực hiện quyền lực nhà nước giữa

quyền tư pháp và quyền hành pháp; góp phần bảo đảm thực thi quyền tư pháp

và quyền hành pháp có hiệu lực, hiệu quả; thì đích đến cuối cùng là bảo đảm

quyền lực nhà nước là thống nhất và thuộc về nhân dân - yêu cầu tất yếu khi

xây dựng nhà nước pháp quyền. Phân công hợp lý, rõ ràng; phối hợp nhịp

nhàng và kiểm soát chéo lẫn nhau giữa tư pháp và hành pháp là một bước tiến

của văn minh nhân loại về quyền lực nhà nước và cũng là những thành tựu lý

luận quan trọng mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra trong quá trình xây dựng

Nhà nước pháp quyền XHCN.

Các quốc gia trên thế giới, tùy thuộc vào hình thức chính thể, vai trò

của Đảng cầm quyền, bối cảnh lịch sử, mức độ hoàn thiện của các quy định

trong hệ thống pháp luật…mà thiết kế mô hình tổ chức bộ máy nhà nước

trong đó xác lập và thực hiện mối quan hệ giữa quyền lập pháp, hành pháp và

tư pháp khác nhau.

Ở Việt Nam, mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp được

hình thành và phát triển qua nhiều giai đoạn lịch sử và xu hướng ngày càng

hoàn thiện, được ghi nhận trong Hiến pháp và hệ thống các văn bản pháp luật

liên quan. Tuy nhiên, pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về mối quan hệ

giữa hai nhánh quyền lực này còn nhiều bất cấp hạn chế, chưa đảm bảo được

sự độc lập của tư pháp cũng như sự linh hoạt, mềm dẻo, chủ động, sáng tạo

của hành pháp. Do đó, hiệu quả hoạt động của quyền hành pháp, quyền tư

pháp nói riêng và bộ máy nhà nước nói chung chưa cao, chưa thực sự đáp ứng

được yêu cầu trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Luận án xây

dựng các nhóm giải pháp từ đổi mới tư duy, nhận thức đến hoàn thiện các quy

146

định của pháp luật và các điều kiện bảo đảm mối quan hệ từ đội ngũ đến cơ sở

vật chất, trang thiết bị, kinh phí cho hoạt động của tư pháp và hành pháp.

Trong đó, đặc biệt chú trọng nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật về mối

quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp. Thực hiện đồng bộ các

nhóm giải pháp này sẽ tạo được sự phân công rõ ràng, trọn vẹn, hợp lý; sự

phối hợp nhịp nhàng và sự kiểm soát hiệu quả, đạt yêu cầu giữa quyền tư

pháp và quyền hành pháp.

Phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực là yêu cầu cốt lõi, cơ bản

của các mô hình Nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng chính trị - pháp

lý của nhân loại. Chính sự phân công, phối hợp giữa quyền tư pháp và quyền

hành pháp là tiền đề, là cơ sở cho sự kiểm soát chéo giữa hai nhánh quyền

này. Còn phối hợp và kiểm soát giữa hai nhánh quyền lực là điều kiện để đảm

bảo quyền lực luôn được thống nhất trên cơ sở phân công. Sự phân công rõ

ràng, sự phối hợp nhịp nhàng và sự kiểm soát chéo giữa quyền tư pháp và

quyền hành pháp sẽ bảo đảm sự độc lập của Tòa án cũng như sự chủ động

linh hoạt, mềm dẻo của hành pháp. Đó là những yêu cầu cần phải có của

quyền tư pháp và quyền hành pháp trong xây dựng Nhà nước pháp quyền nói

chung và Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam nói riêng.

147

DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ

ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Bảo đảm mối quan hệ giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp

trong thực hiện quyền lực nhà nước, Tạp chí Quản lý nhà nước, Số 288,

tháng 01 năm 2020.

2. Hoạt động kiểm soát giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp

trong thực hiện quyền lực nhà nước, Tạp chí Quản lý nhà nước, Số 289,

148

tháng 02 năm 2020.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Văn bản pháp luật

1. Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa năm 1946

2. Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa năm 1959

3. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980

4. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992

5. Nghị quyết số 51/2001/QH10 của Quốc Hội ngày 25/12/2001 về việc sửa

đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa

Việt Nam năm 1992

6. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

7. Luật Tổ chức Toà án nhân dân 1960 và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân

dân 1960

8. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981

9. Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1992

10. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002

11. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014

12. Luật Tổ chức Chính Phủ năm 2015

13. Luật Tố tụng hành chính năm 2015

14. Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012

15. Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2017

16. Luật Cán bộ, công chức năm 2008

17. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015

18. Luật Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật năm 2015

19. Pháp lệnh về tổ chức Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án nhân dân địa

149

phương năm 1961

20. Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946 của Chủ tịch nước về cách thức tổ chức

các tòa án và các ngạch thẩm phán.

21. Nghị quyết số 30c/NQ-CP của Chính phủ ngày 08/11/2011 Ban hành

Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 -

2020.

22. Nghị quyết liên tịch số 15/NQLT/CP-TANDTC-VKSNDTC ngày

31/3/2010 về phối hợp công tác giữa Chính phủ với Tòa án nhân dân tối

cao, VKSNDTC

Tài liệu tiếng Việt

23. Trương Hòa Bình (2014), Độc lập tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa, bảo đảm cho tòa án thực hiện đúng đắn quyền tư pháp,

Tạp chí Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân tối cao, Số 16.

24. Bộ tư pháp, Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung chế định Chính phủ trong Hiến

pháp năm 1992, Báo cáo Đề tài khoa học cấp Bộ, do Bộ tư pháp chủ trì,

phối hợp với tổ chức UNDP.

25. Bộ Tư pháp (2017), Thực hiện quyền hành pháp của Chính phủ theo Hiến

pháp năm 2013, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.

26. Nguyễn Văn Cương (2014), Bàn về quyền hành pháp trong Hiến pháp

năm 2013, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 12.

27. Nguyễn Văn Cương (2013), Quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa một số vấn đề đặt ra trong tình hình mới, Tạp chí Nghề

Luật, Học viện Tư pháp, Số 1.

28. Daniel Hall (1997), Phân chia quyền lực, hệ thống kiểm soát và cân bằng

quyền lực

29. Nguyễn Đăng Dung (chủ biên) (2004), Sự hạn chế quyền lực nhà nước,

150

Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

30. Nguyễn Đăng Dung (2008), Chính phủ trong nhà nước pháp quyền, Nxb.

Đại học Quốc gia, Hà Nội.

31. Nguyễn Đăng Dung (2017), Kiểm soát quyền lực nhà nước, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

32. Nguyễn Đăng Dung, Nguyễn Đăng Duy (2017), Chính phủ kiến tạo và

những thử thách, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 8.

33. Nguyễn Đăng Dung (2018), Quyền hành pháp và quyền hành chính nhà

nước cao nhất, tại trang http://doc.edu.vn/tai-lieu/quyen-hanh-phap-va-

quyenhanh-chinh-nha-nuoc-cao-nhat-39185/>, [truy cập ngày

15/10/2018].

34. Lê Thị Anh Đào (2017), Kiểm soát quyền lực hành pháp trong nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Học

viện Khoa học xã hội.

35. Lê Thị Anh Đào (2017), Nhận diện quyền lực hành pháp trong Nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số

2.

36. Đặng Viết Đạt (2013), Kiểm soát quyền hành pháp trong nhà nước pháp

quyền, Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 11.

37. Nguyễn Minh Đoan (2007), Quyền lực nhà nước là thống nhất và sự phân

công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền

lực nhà nước ở Việt Nam, Tạp chí Luật học, số 2.

38. Cao Anh Đô (2012), Phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc

thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, và tư pháp ở Việt Nam, Luận

án tiến sĩ Luật học, Học viện chính trị - hành chính Quốc gia Hồ Chí

151

Minh.

39. Trần Ngọc Đường (chủ nhiệm đề tài) (2006), Phân công, phối hợp và

kiểm soát quyền lực trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa Việt Nam, đề tài khoa học cấp nhà nước, Mã số KXO4-28/06-10

40. Trần Ngọc Đường (2010), Vấn đề phân công, phối hợp quyền lực và kiểm

soát quyền lực trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Việt Nam, Tạp chí Khoa học pháp lý số 5.

41. Trần Ngọc Đường (2011), Một số vấn đề về phân công, phối hợp và kiểm

soát quyền lực trong xây dựng nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Việt Nam, sách chuyên khảo, Nxb CTQG – sự thật.

42. Trần Ngọc Đường, Phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực với việc

sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Nxb Chính trị quốc gia, 2012

43. Trần Ngọc Đường (2017), Bàn về chính phủ kiến tạo trong mối quan hệ

với Quốc hội, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 11.

44. Bùi Xuân Đức (2016), Quyền hành pháp và vai trò của Chính phủ trong

thực hiện quyền hành pháp theo Hiến pháp năm 2013, Tạp chí Nhà nước

và Pháp luật, số 3.

45. Tô Văn Hòa (2006), Tính độc lập của tòa án - nghiên cứu pháp lý về các

khía cạnh lý luận, thực tiễn ở Đức, Mỹ, Pháp, Việt Nam và các kiến nghị

với Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại Học Luật Hà Nội.

46. Tô Văn Hòa (2012), Kiểm soát quyền lực nhà nước trong chính thể cộng

hòa tổng thống theo Hiến pháp của Philippines, Tạp chí Luật học số 6.

47. Tô Văn Hòa (2014), Mối quan hệ giữa các cơ quan thực hiện quyền hành

pháp và quyền tư pháp theo tinh thần Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Tạp chí Luật học, đặc san 9.

48. Nguyễn Mạnh Hùng (2018), Mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp

trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận án tiến sĩ

152

Luật học, Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh.

49. Nguyễn Quốc Hùng (2016), Kiểm soát quyền lực tư pháp trong nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Học

viện Khoa học xã hội.

50. Nguyễn Mạnh Hùng, Trương Thị Minh Thùy (2018), Kiểm soát của cơ

quan lập pháp đối với cơ quan hành pháp ở Việt Nam, Tạp chí Nhà nước

và pháp luật, số 5.

51. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển bách khoa thư Việt Nam

(2003), Từ điển Bách khoa Việt Nam, Tập 3 (N-S), Nxb. Từ điển Bách

khoa, Hà Nội.

52. Nguyễn Minh Khuê (chủ nhiệm) (2019), Phân công, phối hợp và kiểm

soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền tư pháp theo

tinh thần Hiến pháp năm 2013, Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện Khoa học

pháp lý là cơ quan chủ trì.

53. Dương Hương Liên (2015), Giám sát hoạt động hành pháp của một số

nước trên thế giới và kinh nghiệm đối với Việt Nam, Tạp chí Thanh tra,

số 1.

54. Uông Chu Lưu (chủ nhiệm) (2004), Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn

thiện hệ thống các thủ tục tư pháp nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử

của Tòa án trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do

dân, vì dân, Đề tài khoa học cấp nhà nước mã số KX.04.06.

55. Trần Huy Liệu, (2003), Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư

pháp theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, Luận án tiến

sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.

56. Nguyễn Đức Minh (chủ nhiệm) (2010), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

cơ bản về quyền tư pháp của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt

Nam giai đoạn 2011- 2020, đề tài cấp Bộ, Viện Nhà nước và Pháp luật là

153

cơ quan chủ trì.

57. Nguyễn Đức Minh (2011), Khái quát về quyền tư pháp ở một số nước trên

thế giới, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2.

58. Nguyễn Đức Minh (2011), Nhận thức về quyền tư pháp ở Việt Nam, Tạp

chí Nhà nước và Pháp luật, Viện Nhà nước và Pháp luật, Số 6.

59. Cao Vũ Minh (2014), Quyền hành pháp của Chính phủ trong Hiến pháp

và kiến nghị sửa đổi Luật tổ chức Chính phủ, Tạp chí Nghiên cứu lập

pháp, số 9.

60. Montesquieu (1996), Tinh thần pháp luật (Người dịch: Hoàng Thanh

Đạm), Nxb Giáo dục và Khoa luật trường Đại học Khoa học xã hội và

nhân văn, Hà Nội.

61. Trần Đình Nghiên, Hoàng Long (biên dịch) (2003), Khái quát về chính

quyền Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Nxb. Chính trị quốc gia.

62. Phạm Hữu Nghị (2013), Tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt

Nam: Thực trạng và giải pháp, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 9.

63. Nguyễn Hải Ninh (2013), Các yếu tố bảo đảm độc lập xét xử ở Việt Nam

hiện nay, luận án tiến sĩ luật học, Hà nội

64. Nguyễn Thị Hoài Phương (2011), Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực

của nhánh quyền hành pháp trong xây dựng nhà nước pháp quyền, Tạp

chí Nhà nước và Pháp luật, số 4.

65. Phạm Hồng Quang (2012), Mối quan hệ giữa Chính phủ với các cơ quan

thực hiện quyền lập pháp và quyền tư pháp kinh nghiệm của một số nước

trên thế giới, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề ngành Tư pháp

nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992.

66. Lưu Văn Quảng (2012), Cơ chế kiểm soát quyền lực trong bộ máy nhà

154

nước Mỹ, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 196.

67. Nguyễn Văn Quyền – PGS.TS Nguyễn Tất Viễn (Đồng chủ biên) (2018),

Quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam –

Từ lý luận đến thực tiễn, Nxb Tư pháp.

68. Đinh Dũng Sỹ (2019), Chính phủ trong mối quan hệ phân công, phối hợp

và kiểm soát việc thực hiện quyền tư pháp ở Việt Nam, Tạp chí Nhà nước

và pháp luật, số 9.

69. Phạm Hồng Thái (2012), Kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong

thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, Tạp chí Khoa học

Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học số 28.

70. Thái Vĩnh Thắng (2011), Tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước, Nxb

Tư pháp.

71. Nguyễn Phước Thọ (2014), Cơ chế thực hiện quyền hành pháp của Chính

phủ theo quy định của pháp luật, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 13.

72. Nguyễn Thị Kim Thoa (chủ nhiệm) (2019), Phân công, phối hợp và kiểm

soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền hành pháp

theo tinh thần Hiến pháp năm 2013, Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện Khoa

học pháp lý là cơ quan chủ trì.

73. Vũ Thư (chủ nhiệm) (2010), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về

quyền hành pháp của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

giai đoạn 2011 – 2020, Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện Nhà nước và pháp

luật là cơ quan thực hiện.

74. Tòa án (2016), Báo cáo số 50/BC-TA ngày 12/10/2016 của Chánh án Tòa

án nhân dân tối cao về công tác của các Tòa án tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội

khóa XIV.

75. Tòa án (2017), Báo cáo số 39/BC-TA ngày 10/10/2017 của Chánh án Tòa

án nhân dân tối cao về công tác của các Tòa án tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội

155

khóa XIV.

76. Tòa án (2018), Báo cáo số 50/BC-TA ngày 11/10/2018 của Chánh án Tòa

án nhân dân tối cao về công tác của các Tòa án tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội

khóa XIV.

77. Tòa án (2019), Báo cáo số 59/BC-TA ngày 10/10/2019 của Chánh án Tòa

án nhân dân tối cao về công tác của các Tòa án tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội

khóa XIV.

78. Tòa án (2020), Báo cáo số 44/BC-TA ngày 09/10/2020 của Chánh án Tòa

án nhân dân tối cao về công tác của các Tòa án tại kỳ họp thứ 10 Quốc

hội khóa XIV.

79. Lê Thị Ngọc Trâm (2017), Quyền hành pháp ở Việt Nam hiện nay, Luận

án tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội.

80. Lê Thị Ngọc Trâm (2015), Chế định quyền hành pháp từ Hiến pháp năm

1992 đến Hiến pháp năm 2013, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 11.

81. Trần Anh Tuấn (2013), Quyền hành pháp và vai trò của Chính phủ trong

thực hiện quyền lực nhà nước, Tạp chí Cộng Sản, số 9.

82. Nguyễn Văn Tuấn (2015), Vai trò của các cơ quan thanh tra nhà nước

trong kiểm soát việc thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam, Luận án

tiến sĩ luật học, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.

83. Vũ Anh Tuấn (2012), Bàn thêm về mối quan hệ giữa phân công, phối hợp

và kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Nhà nước

và Pháp luật số 5/2012

84. Đào Trí Úc (2010), Bàn về quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa, Tạp chí Luật học, số 8 (123).

85. Đào Trí Úc (2013), Sửa đổi Hiến pháp 1992 và cơ chế kiểm soát quyền

156

lực ở Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, số 844.

86. Võ Khánh Vinh (2003), Về quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền

XHCN của dân, do dân và vì dân ở nước ta, Tạp chí Nhà nước và Pháp

luật, số 8.

87. Nguyễn Cửu Việt (2017), Thẩm quyền của Chính phủ theo Hiến pháp

2013 và Luật Tổ chức chính phủ 2015, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số

19.

88. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2012), Đề án nghiên cứu chuyển Viện

kiểm sát thành Viện công tố, Hà Nội

89. Viện Khoa học pháp lý (2017), Thực hiện quyền hành pháp của Chính

phủ theo Hiến pháp năm 2013, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.

90. Viện Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp), 2006, Từ điển luật học, Nxb Từ

điển bách khoa

91. Viện Nhà nước và Pháp luật (2000), Pháp luật về tổ chức bộ máy hành

chính Nhà nước ở địa phương: hiện trạng và giải pháp, đề tài khoa học

cấp Bộ.

92. J.Locke (2013), Khảo luận thứ hai về chính quyền, chính quyền dân sự,

Bản dịch Lê Tuấn, Nxb Tri thức, Hà Nội

93. J.J Rousseau (2007), Bàn về khế ước xã hội, Nxb Lý luận chính trị, Hà

Nội.

94. James Brurns (1984), Kiểm soát và cân bằng quyền lực

Tài liệu tiếng nước ngoài

95. Andre Kaiser, Executive Power in Keith Dowding (ed.), Encyclopedia of Power (London: Sage, 2011) (nguyên văn: “the executive power is the authority to enforce laws and to ensure that they are implemented as intended”).

157

96. Alexander Hamilton (1787), The Federalist Papers, New York.

97. Alexander W. Weddell (1937), A Comparison of Executive and Judicial Powers under the Constitutions of Argentina and the United States, Bulletin of the College of William and Mary in Virginia, Vol.31, No.8.

98. Bryan A. Garner (ed.), Black’s Law Dictionary, 9th ed. (St. Paul, MN:

Thomson Reuteurs, 2009)

99. C. J. Hamson (1954), Executive Discretion and Judicial Control, London

Stevens & Sons Limited.

100. H.D.Laswell (1951), The Policy Sciences 101. Mark Sidel Oxford (2009), The Constitution of Vietnam: A Contextual

Analysis by Hart Publishing.

102. Marcelo Figueiredo (2015), The Relationship between the Judiciary and the Executive Branches in Brazil: A View from the Latin-American Standpoint, Courts and Executive Powers, University of Johanneburg. 103. Marinella Marmo & Maria Giannacopoulos (2017), Cycles of judicial and executive power in irregular migration, Comparative Migration Studies 5, Article number: 16.

104. Rebecca Ananian-Welsh & George Williams

(2015), Judicial Independence from the Executive: A first-principles review of the Australian cases, Monash University Law Review, Vol.40, No.3.

105. The Hon Justice McHugh AC (2002), Tensions between the Executive

and the Judiciary, Australian Bar Association Conference.

Các Website 106. https://www.quanlynhanuoc.vn/2019/06/05/1377/ 107. https://vkscapcaohcm.gov.vn/tin-tuc/thu-tuong-chinh-phu-lam-viec-voi-

vksnd-toi-cao-va-tand-toi-cao-3129.html

108. http://tcnn.vn/news/detail/42563/Luat-to-chuc-Chinh-phu-nam-2015-

nhung-noi-dung-can-tiep-tuc-sua-doi-hoan-thien.html

109. United States Courts, https://www.uscourts.gov/statistics-reports/issue-7-

158

judiciarys-relationships-other-branches-government