BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH

VIỆN VĂN HOÁ NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

Vương Trọng Đức

THẨM MỸ TRUYỀN THÔNG

TRONG THIẾT KẾ TẠP CHÍ HERITAGE

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT

Hà Nội - 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH

VIỆN VĂN HOÁ NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

Vương Trọng Đức

THẨM MỸ TRUYỀN THÔNG

TRONG THIẾT KẾ TẠP CHÍ HERITAGE

Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Mỹ thuật

Mã số: 9210101

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. Lê Anh Vân

Hà Nội - 2018

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan bản luận án tiến sĩ Thẩm mỹ truyền thông trong thiết kế

tạp chí Heritage là công trình do tôi nghiên cứu, thực hiện. Những vấn đề nghiên

cứu cùng những ý kiến tham khảo, tư liệu đều có chú thích nguồn đầy đủ.

Tôi xin chịu trách nhiệm về những nội dung trong luận án.

Hà Nội, ngày 05 tháng 10 năm 2018

Tác giả luận án

Vương Trọng Đức

ii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ....................................................................................................... I

DANH MỤC NHỮNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT ......................................................... III

DANH MỤC BẢNG ................................................................................................ IV

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ THẨM MỸ TRUYỀN THÔNG TRONG THIẾT KẾ TẠP CHÍ HERITAGE ............................................................................................................. 12

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ........................................ 12

1.2. Cơ sở lý luận về thẩm mỹ truyền thông trong thiết kế tạp chí ........................... 27

1.3. Khái quát về thiết kế tạp chí Heritage ................................................................ 40

CHƯƠNG 2. NGHỆ THUẬT THIẾT KẾ TẠP CHÍ HERITAGE .................... 44

2.1. Nghệ thuật thiết kế bìa tạp chí Heritage ............................................................. 44

2.2. Nghệ thuật thiết kế dàn trang tạp chí Heritage ................................................... 53

CHƯƠNG 3. THIẾT KẾ TẠP CHÍ HERITAGE TỪ CÁCH TIẾP CẬN LÝ THUYẾT THẨM MỸ TRUYỀN THÔNG ........................................................... 80

3.1. Nhận thức Thẩm mỹ truyền thông trong thiết kế tạp chí Heritage .................... 80

3.2. Phương pháp thể hiện Thẩm mỹ truyền thông trong thiết kế tạp chí Heritage .. 99

CHƯƠNG 4. BÀN LUẬN VỀ THẨM MỸ TRUYỀN THÔNG VÀ THIẾT KẾ TẠP CHÍ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .................................................................. 113

4.1. Thẩm mỹ truyền thông trên con đường phát triển của nghệ thuật đương đại .. 113

4.2. Xu hướng thiết kế tạp chí trong thời đại công nghệ truyền thông kỹ thuật số . 119

4.3. Bài học kinh nghiệm thẩm mỹ truyền thông trong sáng tạo của các nhà thiết kế ở Việt Nam .............................................................................................................. 128

KẾT LUẬN ............................................................................................................ 144

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ............... 148

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 149

PHỤ LỤC ............................................. ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED.

iii

DANH MỤC NHỮNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT

2D Không gian 2 chiều

3D Không gian 3 chiều

GS Giáo sư

H Hình

NCS Nghiên cứu sinh

Nxb Nhà xuất bản

PGS Phó Giáo sư

PL Phụ lục

TC Tạp chí

TCH Tạp chí Heritage

TMTT Thẩm mỹ truyền thông

TKDT Thiết kế dàn trang

TS Tiến sĩ

Tr Trang

iv

DANH MỤC BẢNG

Bảng 1: Sơ đồ phân tích cấu trúc của trang bìa tạp chí Heritage………. 46

Bảng 2: Cấu trúc dàn trang nội dung ấn phẩm tạp chí Heritage……….. 54

Bảng 3: Danh mục cấu trúc nội dung tạp chí Heritage………………… 55

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Kỷ niệm ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam 21 tháng 6, những năm gần đây

Hội báo chí Việt Nam thường tổ chức cuộc triển lãm “Báo chí Việt Nam – Quá

trình hình thành và phát triển” tại thư viện Hà Nội. Triển lãm đã trưng bày những

thành tựu của báo chí qua các thời kỳ, đặc biệt có hàng trăm ấn bản báo chí nguyên

gốc từ thời kỳ đầu như An Nam tạp chí, Công luận, Phong hóa, Giai phẩm… trong

đó có Gia định báo của Trương Vĩnh Ký ra ngày 15 tháng 4 năm 1865 được coi là

báo quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam. Những ấn phẩm báo chí vô giá đã tái hiện cả

một khung cảnh văn hóa xã hội của Việt Nam cuối thế kỷ thứ 19 đầu thế kỷ thứ 20

đã thực sự gây xúc động lớn cho công chúng, đặc biệt những người làm báo và các

nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam. Những trang bìa hay trang nhất của các báo thời

đó thường được những danh họa trụ cột của mỹ thuật Việt Nam như Nguyễn Tường

Lân, Nguyễn Gia Trí, Trần Văn Cẩn, Tô Ngọc Vân và một số họa sĩ thành danh

khác trực tiếp minh họa. Hình ảnh của những cô gái Hà thành, người nông dân, binh

sĩ, trí thức hay những nhân vật hài hước được khắc họa khá chân thực và giàu cảm

xúc cùng với tiêu đề, tít chữ quốc ngữ.

Khi so sánh với báo chí phương tây cùng thời, báo chí Việt Nam ban đầu

được thiết kế dàn trang (TKDT) khá tùy hứng, đôi khi tự nhiên hồn hậu theo cảm

hứng nghệ thuật của các họa sĩ của trường Cao đẳng mỹ thuật Đông Dương. Đặc

điểm khác biệt rõ nét là trang bìa báo chí Việt Nam ngày ấy có xu hướng trình bày

minh họa mang tính nghệ thuật nhiều hơn thay vì diễn đạt cấu trúc thông tin và

truyền thông như báo chí châu Âu. Điều này chắc hẳn có những nguyên do xuất

phát từ bối cảnh chính trị xã hội cũng như đặc tính văn hóa của dân tộc ta. Báo chí

Việt Nam ngày nay cùng với báo chí thế giới đã có những bước chuyển mạnh mẽ

bắt kịp thời đại trong đó ấn phẩm tạp chí là một mũi nhọn đi đầu về mặt thẩm mỹ

TKDT. Cho đến nay các quy chuẩn hình thức TKDT tạp chí đã hoàn toàn hòa nhập

với thế giới đạt tới quy chuẩn chung, xứng đáng một loại hình truyền thông giữ vai

trò quan trọng trong xã hội.

2

Trong thời đại bùng nổ của thông tin và truyền thông, các xuất bản phẩm in

ấn như báo, tạp chí đang phát huy sức mạnh to lớn của mình. Tuy nhiên trong sự

phát triển ào ạt quá nóng thì các xuất bản phẩm đó cũng để lại không ít những vấn

đề mà chúng ta phải lưu tâm. Đặc biệt khâu đầu tiên trong quá trình in ấn là TKDT

ấn phẩm giữ vai trò vô cùng quan trọng nhưng lại chưa thực sự đi đúng hướng.

Trong khi các cơ sở đào tạo về thiết kế đồ họa thường chủ yếu dạy về thiết kế logo,

áp phích, bao bì... tuy nhiên lại rất sơ sài về thiết kế ấn phẩm xuất bản. Hệ quả của

nó là lĩnh vực TKDT báo chí chủ yếu dựa trên chủ nghĩa kinh nghiệm, học truyền

khẩu, truyền tay đã trở nên méo mó và không dễ kiểm soát.

Báo chí đang ở trong tình trạng lộ xộn và dễ dãi. So sánh một tờ báo Âu Mỹ

và một tờ báo Việt Nam, ai cũng nhận thấy báo “Tây” sáng sủa, mạch lạc, dễ nhìn

và “đẹp” hơn của ta. Phải chăng do chữ Việt quá nhiều dấu, câu trả lời là không

phải, vấn đề nằm ở chỗ quan niệm thẩm mỹ trong thiết kế và trình bày. Tiêu chí dễ

đọc, đưa thông tin nhanh mạnh dựa trên cơ sở chu trình đọc phải luôn đặt lên hàng

đầu. Báo chí của ta bối rối về cách sử dụng đồ hình, biểu đồ có thể thay thế cho

thông tin chữ dài lê thê. Phông chữ co kéo tùy tiện biến dạng mất đi sự cân đối của

chữ, cỡ chữ lúc to lúc nhỏ không quy định chuẩn. Có một số tạp chí (TC) Việt Nam

trình bày như vẽ tranh hoặc được trang trí lòe loẹt khiến chuyên gia nước ngoài

tưởng nhầm là sách thiếu nhi.

Thiết kế báo chí trực quan có hiệu quả là phải đảm bảo được mục đích

chuyển tải thông tin đến với người đọc, thu hút được sự quan tâm của họ. Tờ báo

thành công trong thiết kế cũng như trong quảng bá thương hiệu là tờ báo có cơ sở

vững chắc về thông tin thị giác định đưa ra cho độc giả là gì, xác định chính xác độc

giả của mình, phân định nguyên tắc trang trí đối ngược với truyền thông. Nghiên

cứu phân cấp thông tin, tạo tầng, lớp thông tin, nắm vững chu trình đọc từ trên

xuống dưới, từ trái qua phải, từ hình ảnh – chú thích ảnh – tiêu đề - mở đầu – nội

dung. Ảnh báo chí được thiết kế sử dụng như tài nguyên thông tin và sự kể truyện

bằng hiệu ứng thị giác đem lại hiệu quả nhanh hơn rất nhiều so với phần nội dung

chữ. Thiết kế đồ hình, đồ họa (infography) là một ngôn ngữ nghệ thuật để nhấn

3

mạnh thông tin và chuyển tải thông tin một cách rõ ràng nhất tới độc giả. Nói cách

khác có thể thay thế rất nhiều chữ bằng những đồ thị, biểu đồ, đồ hình ngắn gọn dễ

hiểu. Trong một bài báo, tiêu đề và phần mở dầu đóng vai trò thành bại, nếu độc giả

không muốn đọc tiêu đề và phần mở đầu thì họ sẽ không đọc bài báo đó. Màu sắc

cũng là một yếu tố quan trọng trong việc tạo ra hiệu quả truyền đạt thông tin của bài

báo tới độc giả. Trình bày dàn trang là hướng dẫn độc giả xác định được những

thông tin quan trọng trong một trang báo, một bài báo, và một tờ báo.

Thiết kế và dàn trang ấn phẩm báo chí thực sự là điểm nóng vô cùng hấp dẫn

trong bước phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường, nhưng cũng đặt ra nhiều

thách thức cần được giải quyết kịp thời thấu đáo. Ở Việt Nam đã có một số tài liệu

hướng dẫn về thiết kế dàn trang của Hội Nhà báo Việt Nam kết hợp với Trường báo

chí Lille của Pháp, Cục Báo chí Bộ Thông tin – Truyền thông và Viện báo chí Fojo

của Thụy điển. Tuy nhiên tài liệu mới dùng chủ yếu ở góc độ kỹ thuật mà chưa đề

cập đến cái đẹp thẩm mỹ của mối quan hệ giữa nội dung và hình thức trong TKDT

báo chí.

Việc nghiên cứu sự chuyển biến thẩm mỹ trong TKDT ấn phẩm TC là một

yêu cầu cấp thiết hiện nay ở Việt Nam, khi bàn về lĩnh vực này chủ yếu các vấn đề

đưa ra đều mang tính thực hành kỹ năng. Các tài liệu nghiên cứu lý thuyết không

nhiều và cũng chưa bắt kịp được với sự phát triển đa dạng của nghệ thuật TKDT ấn

phẩm TC đương đại. Thiết kế dàn trang ấn phẩm TC là một công việc mỹ thuật nằm

trong lĩnh vực thông tin truyền thông. Một thể loại thiết kế vận hành với rất nhiều

sự trợ giúp của công nghệ như máy tính, chế bản, in ấn, liên quan trực tiếp đến văn

hóa đọc và chiếm tỷ trọng không nhỏ trong công nghiệp văn hóa, chắc chắn không

thể nằm ngoài xu thế chuyển biến chung của nghệ thuật thị giác.

2. Mục đích nghiên cứu

2.1. Mục đích tổng quát

Dưới sự tác động của nhận thức mới trong thời đại khoa học công nghệ,

TKDT ấn phẩm TC có sự chuyển biến mạnh mẽ về thẩm mỹ. Cùng với nghệ thuật

đương đại, nghệ thuật TKDT ngày nay bộc lộ quan điểm thẩm mỹ mới, thẩm mỹ

4

truyền thông (TMTT). Tìm hiểu vấn đề này cần xác định các quan điểm của TMTT

nhằm chỉ rõ những yếu tố thẩm mỹ trong TKDT ấn phẩm tạp chí (TC) mà ở đây sẽ

xét cụ thể trường hợp tạp chí Heritage (TCH) của Hãng hàng không quốc gia Việt

Nam. Khi dòng TC thương mại giải trí mới bùng nổ ở Việt Nam, TCH do lợi thế về

nguồn lực đã thực sự tạo được một vị thế tuyệt đối về cả nội dung lẫn hình thức

thống trị thị trường quảng cáo Việt Nam. Nhưng cho đến nay cũng chưa có công

trình nghiên cứu chuyên biệt về TC này, đặc biệt trong lĩnh vực thẩm mỹ TKDT.

Bên cạnh đó lý thuyết TMTT, một lý thuyết ra đời trong bối cảnh nghệ thuật đương

đại cũng chưa được các nhà nghiên cứu Việt Nam khai thác triệt để, nhất là trong

lĩnh vực TKDT ấn phẩm TC Việt Nam. Bằng cách vận dụng các luận điểm của lý

thuyết TMTT, có thể chỉ ra được những thành công và xu hướng của nghệ thuật

TKDT ấn phẩm TCH, một TC có đầy đủ các yếu tố thành công với sự đóng góp của

đông đảo các văn nhân, nghệ sĩ, doanh nghiệp hàng đầu của Việt Nam. Qua đó xác

định được tính lan toả và bài học kinh nghiệm của TMTT trong thiết kế đồ hoạ.

2.2. Mục tiêu cụ thể

Xác định khái niệm và cơ sở lý luận của lý thuyết thẩm mỹ truyền thông, vận

dụng các luận điểm cơ bản của TMTT nhằm chỉ ra những vấn đề thẩm mỹ được vận

dụng trong TKDT tạp chí Heritage.

Nghiên cứu nghệ thuật TKDT tạp chí Heritage có hai phần quan trọng, thiết

kế trang bìa và TKDT nội dung TC. Trang bìa có vai trò quan trọng đặc biệt và có

đặc điểm thiết kế riêng, khác biệt với hệ thống các trang nội dung. Các hạng mục

nghiên cứu đi sâu vào cấu trúc, tiêu chí, dạng thức và phương pháp thiết kế nhằm là

nổi bật giá trị nghệ thuật TKDT mang đến cho TCH.

Trong khuôn khổ luận án này, đề tài nghiên cứu không có ý định trình bày

chi tiết các quy trình xây dựng và thiết kế kỹ thuật ấn phẩm tạp chí mà chủ yếu tìm

ra những yếu tố thể hiện cái đẹp, sự hiệu quả, tính cập nhật và sự phù hợp thời đại

công nghệ theo quan điểm thẩm mỹ truyền thông. Trên cơ sở đó xác lập những

nguyên tắc và định hướng cho ngành thiết kế đồ hoạ, tòa soạn báo, các cơ quan nhà

xuất bản, cơ sở đào tạo, cũng như các cá nhân thiết kế sáng tạo.

5

Nghiên cứu nhằm mở ra hướng tiếp cận và phát triển thẩm mỹ mới cho

nghành TKDT ấn phẩm TC và tạo ra một văn hóa mới trong chuyển biến nhận thức

và phương pháp thể hiện trong ấn phẩm tạp chí. Xây dựng hệ thống giáo trình học

liệu dành cho các cơ sở đào tạo ngành thiết kế trình bày sách báo tạp chí. Hiện nay

các tài liệu giảng dạy còn sơ sài và chắp vá, giảng dạy không gắn liền với thị trường

hoặc lại bị những yếu tố ngoại lai làm lệch lạc và không đúng về tiêu chí. Nghiên

cứu này sẽ giúp định hướng lại các yêu cầu và quy trình của đào tạo chuyên ngành

thiết kế đồ hoạ.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu chủ yếu tập trung vào nghệ thuật TKDT ấn phẩm TC,

một thể loại báo chí đặc biệt chú trọng hình thức trình bày trước yêu cầu của thị

trường. Thông qua đó tìm ra những yếu tố thẩm mỹ mới phù hợp với xu thế thẩm

mỹ truyền thông của nghệ thuật đương đại của Việt Nam cũng như trên thế giới.

Thẩm mỹ truyền thông là một lý thuyết thẩm mỹ mới của nghệ thuật thị giác

đương đại. Trong khuôn khổ nghiên cứu này, TMTT vừa là lý thuyết nghiên cứu

đồng thời vừa là đối tượng nghiên cứu do tính cập nhật thời đại và hoàn toàn mới ở

Việt Nam.

Tạp chí Việt Nam rất phong phú và đa dạng, trong giai đoạn hiện nay tạp chí

Heritage (TCH) của Hãng hàng không Quốc gia Việt Nam là một trong những TC

thành công nhất có đầy đủ thế mạnh được đầu tư nghiêm túc xứng đáng là đại diện

tiêu biểu nhất cho các dòng TC ở Việt Nam. Được đóng góp bởi nhiều công ty thiết

kế nổi tiếng nước ngoài cũng như trong nước, thiết kế trình bày TCH thực sự là một

trong những hình mẫu mang tính tiêu chuẩn đối với nghề TKDT cũng như các nhà

thiết kế đồ hoạ.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Về không gian: Luận án đề cập đến nghiên cứu tính thẩm mỹ truyền thông

của nghệ thuật TKDT các số TC Heritage đã xuất bản, các trang bìa, các trang nội

dung cũng như các chuyên mục. Bên cạnh đó những số TC mang tính chuyên đề về

6

những ngày lễ lớn trong năm như số Tết Nguyên đán, Tết dương lịch… Bởi đây là

TC phục vụ chủ yếu cho khách hàng của hãng hàng không Vietnam Airlines, nên

việc dàn trang, trình bày được quan tâm song hành cùng nội dung của từng bài viết

cũng như hình ảnh mang tính quảng bá truyền thông thẩm mỹ.

Thực tế thì TCH cho đến nay đã có thêm nhiều biến thể như Heritage

Fashion, Heritage Japan, Heritage Korea… tuy nhiên trong khuôn khổ luận án này

chỉ tập trung nghiên cứu tạp chí Heritage chính mà thôi.

Về thời gian: Thời điểm ra đời TCH số đầu tiên năm 1993 tới những số báo

tiếp theo cho đến ngày nay trải qua các thời kỳ do các công ty thiết kế khác nhau

đảm nhiệm được xác định là khoảng thời gian nghiên cứu đề cập.

4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

4.1. Về phương diện lý luận

Luận án đưa ra cơ sở lý luận và thực tiễn của thiết kế dàn trang TCH theo

quan điểm của thẩm mỹ truyền thông. Thẩm mỹ mới của nghệ thuật hậu hiện đại

trong bối cảnh đương đại, thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 cùng với sự tác động

mạnh mẽ của khoa học công nghệ và truyền thông kỹ thuật số. Một quan điểm thẩm

mỹ mới sẽ hoá giải các bất cập tồn tại trong nội hàm phát triển của nghệ thuật

đương đại nói chung và nghệ thuật thiết kế đồ hoạ nói riêng.

Chỉ ra tính logic, cập nhật và những biểu hiện TMTT khi nội dung thông qua

hình thức thiết kế và trình bày TCH luôn hướng đến sự truyền tải thông điệp và văn

hoá thẩm mỹ. Đúng như quy luật vận động của phép biện chứng, nội dung quy định

và dẫn dắt định hướng hình thức và ngược lại hình thức tác động đóng góp trở lại

nội dung đồng thời trở thành một phần của nội dung trong TKDT ấn phẩm TC.

Tính thẩm mỹ của nghệ thuật TKDT báo chí nói chung, TCH nói riêng phải

dựa trên cơ sở mối quan hệ tương tác giữa nội dung thông tấn và hình thức thiết kế.

Nghệ thuật TKDT ấn phẩm TC không nằm ngoài xu thế phát triển chung của nghệ

thuật hậu hiện đại luôn mang tinh thần TMTT.

4.2. Trong công tác đào tạo

Nghiên cứu thẩm mỹ truyền thông trong thiết kế TCH ở Việt Nam trước hết

7

bổ sung một quan điểm thẩm mỹ mới cho hệ thống lý thuyết trong chương trình đào

tạo của các trường đại học cao đẳng chuyên sâu trong lĩnh vực mỹ thuật. Lý thuyết

mới này nhằm giải quyết các khủng hoảng về nhận thức thẩm mỹ tạo hình trong bối

cảnh đương đại, giúp cho việc nghiên cứu, đào tạo, giảng dạy có cơ sở học thuật

đào tạo về nghệ thuật hậu hiện đại đang diễn ra. Việc nghiên cứu về thẩm mỹ mới

không chỉ bó hẹp ở ngành thiết kế đồ hoạ mà còn phát triển lan rộng ra cách ngành

thuộc lĩnh vực nghệ thuật thị giác.

Đề tài cũng đóng góp cho đào tạo ngành thiết kế đồ hoạ nói chung và chuyên

ngành thiết kế dàn trang xuất bản phẩm nói riêng cơ sở khoa học trong công tác

giảng dạy môn học TKDT, một môn học chưa thực sự phát triển đúng với yêu cầu

thực sự của thị trường. Thực tế môn học này mới chỉ đưa vào chương trình giảng

dạy thiết kế đồ hoạ khá sơ sài và đặt vấn đề thuần tuý kỹ thuật mà thôi. Nghiên cứu

này sẽ khẳng định rõ hơn mục tiêu đào tạo của chuyên ngành TKDT xuất bản phẩm,

giúp sinh viên xác định được mục đích học tập và nghiên cứu môn học.

4.3. Hướng tiếp cận thẩm mỹ trong thiết kế đồ hoạ

Ngành thiết kế đồ hoạ cho tới nay chủ yếu dựa vào cảm quan thẩm mỹ thị

giác nói chung và các nguyên tắc truyền thông theo yêu cầu của thị trường. Trên cơ

sở nghiên cứu này, thiết kế đồ hoạ có thể có những giải pháp rõ nét hơn nhằm giải

quyết nhiệm vụ thiết kế xuất bản phẩm và sản phẩm ấn loát.

Hình thức của một sản phẩm hoàn thiện không chỉ phụ thuộc vào người thiết

kế mà chịu sự ảnh hưởng của những vấn đề liên quan như nội dung thông điệp, chất

liệu sử dụng, chất lượng và kỹ thuật xử lý trong sản xuất và đặc biệt là quan điểm

thẩm mỹ trong bối cảnh đương đại.

Thiết kế dàn trang TCH không chỉ mang ý nghĩa TMTT mà qua đó thúc đẩy

các nghệ sĩ trở thành nhà xúc tiến thực hành xã hội thông qua môi trường truyền

thông. Bởi vì mỗi trang tạp chí đều được thể hiện bằng những ý tưởng táo bạo tác

động vào kênh thông tin xã hội. Nghệ thuật TKDT của TCH tinh tế, sang trọng đã

trở thành cầu nối giao lưu với văn hóa toàn cầu.

8

4.4. Đối với ngành in ấn và xuất bản

Đề tài nghiên cứu sẽ giải quyết được về căn bản mối quan hệ sản xuất giữa

các bộ phận trong chu trình biên tập, thiết kế và in ấn.

Đặt ra các tiêu chí rõ ràng cho các bộ phận thiết kế và trình bày trong tòa

soạn, nhà xuất bản, cơ sở truyền thông quảng cáo.

Định hướng cho chiến lược phát triển của các ấn phẩm như truyện tranh,

sách ảnh, sách báo giải trí.

5. Phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp thu thập thông tin, sưu tầm và phân tích tài liệu

Thống kê, phân loại, hệ thống hóa các dữ liệu để đánh giá thông tin và đưa ra

nhận xét. Nguồn tài liệu sẽ được tra cứu thu thập tại các thư viện, các công ty thiết

kế, toà soạn TCH và các cá nhân trực tiếp tham gia TKDT cũng như các cán bộ phụ

trách trực tiếp và tham gia xây dựng TCH.

5.2. Phương pháp quy nạp và diễn giải

Thông qua hệ thống các mẫu dàn trang TCH rút ra những luận điểm nghiên

cứu đồng thời giải mã các ý tưởng thủ pháp của người thiết kế. So sánh giữa các số

xuất bản của TCH qua các thời kỳ. Đối chiếu những thành công của thiết kế TC

Heritage với các luận điểm của TMTT để tìm ra quan điểm thẩm mỹ mới.

5.3. Phương pháp điều tra xã hội học, phiếu hỏi, phỏng vấn sâu

Gặp trực tiếp những người có liên quan đến đề tài để tìm hiểu thông tin, thu

thập các số liệu cần thiết. Đây là điểm mạnh của luận án với các phỏng vấn chuyên

sâu với các chuyên gia đầu ngành, và đặc biệt với những đối tượng là độc giả ở các

phạm vi khác nhau. Do tài liệu ở trong nước chưa thực sự đầy đủ một cách có hệ

thống nên việc xác lập điều tra theo hướng phỏng vấn là rất cần thiết. Có rất nhiều

chuyên gia giỏi trong lĩnh vực này, nhưng chủ yếu trưởng thành từ kinh nghiệm và

tự học hỏi hoặc có một số nhãn quan sắc sảo mang tính cá nhân.

5.4. Phương pháp tiếp cận cấu trúc quan niệm và cấu trúc phân giải

Chủ nghĩa cấu trúc coi trọng tổng thể hơn cá thể. Sự vật chỉ có ý nghĩa khi

được xem xét trong một cấu trúc của tổng thể. Platon cũng đã từng nói: "Thực thể là

9

do mối liên hệ làm nên". Cấu trúc của một sự vật là một chỉnh thể thống nhất và

toàn vẹn, bao gồm cả nội dung lẫn hình thức, và nó có một ý nghĩa chính xác của

nó, độc lập với bất cứ yếu tố bên ngoài nào.

Theo quan điểm của cấu trúc phân giải thì cấu trúc của nội dung và hình thức

trong thiết kế trình bày sách báo sẽ có nhiều tầng nhiều lớp ý nghĩa, nó luôn mở

rộng. Với cách nhìn này thì các ấn phẩm xuất bản truyền thông sẽ còn phát triển đa

dạng và phong phú hơn, đạt đến những bước phát triển cao hơn.

6. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu của đề tài

6.1. Câu hỏi nghiên cứu

Kể từ khi ra đời ấn phẩm báo chí đầu tiên trên thế giới “Relation aller

Furnemmen und Gedenckwurdigen Historien” (tạm dịch: Mối liên hệ giữa các sự

kiện lịch sử nổi bật) năm 1605 tại Strassburg, Cộng hòa Pháp, trải qua các cuộc

cách mạng kinh tế xã hội như cách mạng công nghiệp, cách mạng truyền thông,

TKDT ấn phẩm TC cho tới nay vẫn luôn là một nghề thú vị và khá chọn lọc. Người

đảm nhiệm công việc này giữ một vai trò quan trọng thậm chí góp phần quyết định

vào sự thành công của TC cùng với ban biên tập, đặc biệt là những TC giải trí, thời

trang, xã hội, phong cách, và hiển nhiên mang tính thị trường rõ nét. Nghệ thuật

TKDT tạp chí Heritage, một trong những TC hàng đầu tại Việt Nam đã có những

thành công gì về thẩm mỹ?

Nghệ thuật hậu hiện đại ra đời từ những năm 60 của thế kỷ trước gây ra

khủng hoảng về nhận thức thẩm mỹ, năm 1983 thẩm mỹ truyền thông ra đời đã cơ

bản giải quyết được vấn đề này. Nghệ thuật TKDT ấn phẩm TCH, thuộc lĩnh vực

nghệ thuật thị giác đã có những biểu hiện gì mang tinh thần của TMTT?

Thẩm mỹ truyền thông đã phát triển thế nào trong nghệ thuật đương đại Việt

Nam trong mối liên hệ với nghệ thuật hậu hiện đại thế giới. Xu hướng phát triển của

thiết kế TC đang phát triển theo hình thức nào và nghệ thuật TKDT ấn phẩm TCH

với các biểu hiện của TMTT đã mang đến những bài học kinh nghiệm gì cho các

nhà thiết kế TC ở Việt Nam?

10

6.2 Giả thuyết nghiên cứu

Nghệ thuật TKDT ấn phẩm TCH luôn mang trong mình bản sắc của văn hoá

Việt Nam, đồng thời cập nhật những phong cách nghệ thuật hậu hiện đại phù hợp

với hơi thở của cuộc sống. Khi nghệ thuật đương đại với sự cộng hưởng của công

nghệ truyền thông kỹ thuật số mang đến quan điểm thẩm mỹ mới, nghệ thuật TKDT

ấn phẩm TC không thể nằm ngoài xu thế chung mà phải chuyển mình để bắt kịp

thẩm mỹ của nghệ thuật đương đại. Từ thiết kế trang bìa cho đến TKDT nội dung

TCH luôn có những quy chuẩn chặt chẽ về mặt dạng thức, kết cấu, tiêu chí rõ ràng

cùng những phương pháp thể hiện phong phú.

Nghệ thuật TKDT ấn phẩm TC bên cạnh sự phát triển nhanh chóng cùng

công nghệ số có sự chuyển biến về nhận thức TMTT, các ý tưởng thiết kế đều mang

đến những luận điểm rõ ràng về quan niệm chứ không dừng ở mức độ làm đẹp.

Nghệ thuật TKDT ấn phẩm TC có sự chuyển biến về phương pháp thể hiện TMTT,

những phương pháp này hoàn toàn dựa trên cơ sở khoa học của công nghệ truyền

thông cùng hướng đi mới của nghệ thuật đương đại.

Thẩm mỹ truyền thông ra đời trong bối cảnh khủng hoảng nhận thức thẩm

mỹ của nghệ thuật hậu hiện đại tại châu Âu và Bắc Mỹ. Các quan điểm của TMTT

đã lan toả khắp thế giới và phát triển tại Việt Nam thông qua các nghệ sĩ thực hành

nghệ thuật đương đại, đặc biệt là nghệ thuật thị giác đã có nhiều đóng góp cho đời

nghệ thuật. Có nhiều xu hướng phát triển nghệ thuật TKDT ấn phẩm TC, điểm nổi

bật đó là xu thế xuất bản điện tử tích hợp đa phương tiện. Các biểu hiện của TMTT

trong TKDT ấn phẩm TCH để lại nhiều bài học kinh nghiệm thực hành và sáng tạo

cho các nhà thiết kế đồ hoạ nói chung và TKDT ấn phẩm TC nói riêng.

7. Cấu trúc của luận án

Ngoài phần Mở đầu (11 trang), Kết luận (04 trang), Tài liệu tham khảo (09

trang) và Phụ lục (105 trang), nội dung luận án được kết cấu bao gồm 4 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận và Tổng quan tình hình nghiên cứu về thẩm mỹ

truyền thông trong thiết kế tạp chí Heritage (32 trang).

Chương 2: Nghệ thuật thiết kế tạp chí Heritage (36 trang).

11

Chương 3: Thiết kế tạp chí Heritage từ cách tiếp cận lý thuyết thẩm mỹ

truyền thông (33 trang).

Chương 4: Bàn luận về thẩm mỹ truyền thông và thiết kế tạp chí ở Việt Nam

hiện nay (31 trang).

12

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ

THẨM MỸ TRUYỀN THÔNG TRONG THIẾT KẾ TẠP CHÍ HERITAGE

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

1.1.1. Các tài liệu nghiên cứu về thiết kế đồ họa ấn phẩm

Năm 2003, Jan V. White trong cuốn Editing by Design (Biên tập bằng thiết

kế) [106], cung cấp hệ thống kiến thức cho việc thực hành dàn trang xuất bản phẩm

với những hướng dẫn và minh họa chi tiết. Các kiến thức được trình bày rất cụ thể,

chi tiết và bao gồm tổng thể căn bản như cách người xem lật giở ấn phẩm, tạo hệ

thống lưới, bố cục chữ và hình ảnh, căn lề. Cuốn sách cũng đưa ra một số nhận định

về việc lựa chọn kiểu chữ và tính năng của chúng trong thiết kế dàn trang. Nó rất

hữu ích cho những người thực hành thiết kế với kiến thức cơ bản, rõ ràng. Tuy

nhiên, cuốn sách chỉ cung cấp kiến thức để thực hành trình bày báo, tạp chí là chính

mà không đề cập đến dàn trang sách. Tác giả cũng không đưa ra kiến thức trong

việc thiết kế sách, báo, tạp chí.

Năm 2004, cuốn Thiết kế, tạo mẫu và dàn trang - Design & Layout (tập 1)

của Roger C. Parker’s [48] đem đến cho người đọc những kiến thức cơ bản trong

việc thiết kế và dàn trang. Nội dung cuốn sách được xây dựng một cách trình tự các

bước thực hiện từ việc lên phác thảo trang, lựa chọn kiểu chữ và những vấn đề xử lý

chữ, các vấn đề trong việc dàn trang và xử lý văn bản đến sử dụng các ký tự biểu

tượng và hình ảnh.

- Trong việc lên phác thảo trang: cuốn sách gợi ý cách phác thảo sơ bộ như

liệt kê nội dung, sắp xếp lại chúng theo một trình tự, xác định đối tượng độc giả,

kích cỡ của ấn phẩm. Kế đến, người thiết kế phác họa trên giấy mà không dùng đến

máy tính. Sau đó, dựa trên bản phác thảo đó, người thiết kế thể hiện chúng trên máy

tính.

- Trong việc lựa chọn kiểu chữ và những vấn đề xử lý chữ: nội dung cung

cấp kiến thức rất chi tiết trong việc chọn kiểu chữ cho các vị trí của nội dung cần

13

thiết kế, dàn trang như tiêu đề, phụ đề, trích dẫn, nội dung và một số định hướng

trong việc tạo và xử lý khoảng trắng của tiêu đề, ngắt dòng, canh lề…

Ngoài ra, kiến thức cũng nêu lên một số hiệu ứng đồ họa như sử dụng màu

để tạo hiệu quả thị giác và xử lý kỹ thuật. Nội dung của sách không đưa ra những

vấn đề nghiên cứu mà những kiến thức trong cuốn sách chỉ dẫn và đưa ra những

kinh nghiệm cụ thể trong việc thực hành dàn trang, thiết kế ấn phẩm.

Năm 2004, cuốn Ý tưởng, bố cục và thể hiện - Design & Layout (tập 2) của

Alan Swann [2] cung cấp cho người đọc kiến thức và nội dung trong việc lên ý

tưởng, bố cục và thể hiện ấn phẩm. Nếu cuốn Design & Layout, tập 1 trình bày

những kiến thức cơ bản nhất và những lời khuyên trong thiết kế, dàn trang thì cuốn

này đem đến cho người thực hành những kỹ năng cụ thể hơn. Với những ví dụ cụ

thể, tác giả chỉ ra một số cách thức bố cục, dàn trang, cách xử lý tình huống khác

nhau. Nó cho người xem thấy một vài phương án để gợi ý cho người thực hành như

lựa chọn tỷ lệ cho hình, sử dụng các hình trong thiết kế, thay đổi kích cỡ và tạo

khoảng cách cho tiêu đề, các gợi ý sắp xếp tiêu đề, tô màu, kết hợp hình minh họa

và văn bản…

Tuy nhiên, cũng như cuốn Thiết kế, tạo mẫu và dàn trang - Design &

Layout, tập 1, cuốn sách này chỉ đưa đến kiến thức cho người thực hành thiết kế,

dàn trang mà không có nghiên cứu về đặc điểm đồ họa của ấn phẩm, những đặc

trưng riêng của từng thể loại hay biểu hiện trong thẩm mỹ thị giác của chúng như

thế nào.

Năm 2005, Krintin Culler trong cuốn Layout Workbook (Sách thực hành dàn

trang) [87] đề cập đến các khía cạnh trong thiết kế là những kiến thức giúp cho

người muốn thực hành việc dàn trang có được từng bước thực hiện công việc của

mình. Nội dung kiến thức định hướng cho người thiết kế từ việc nghiên cứu thông

tin, thảo luận ý tưởng, xây dựng ý tưởng chủ đạo và thực hành dàn trang.

Trong tổ chức cấu trúc dàn trang, hệ thống lưới có nhiều kích cỡ khác nhau

và hình dạng từ cơ bản đến phức tạp. Chúng tùy thuộc vào lượng thông tin mà

người thiết kế cần trình bày. Dựa theo hệ thống lưới, nhà thiết kế xây dựng cấu trúc,

14

xác định tỷ lệ của nội dung và các đối tượng. Trong lịch sử, hệ thống lưới đã được

Pythagoras, Michelangelo, Leonardo da Vinci hay Le Corbusier sử dụng để thiết lập

cấu trúc và tỷ lệ, trong đó có tỷ lệ vàng. Thông qua hệ thống này, các nhà thiết kế có

thể tạo nên sự đa dạng trong việc bố cục các yếu tố thị giác. Tuy nhiên, hệ thống

lưới không bắt buộc phải được tuân thủ trong thiết kế. Nhà thiết kế có thể sử dụng

lưới, và căn cứ theo hệ thống đó thể bố cục nhưng cũng có thể phá vỡ quy luật ấy.

Điều đó phụ thuộc vào kinh nghiệm của người thiết kế để tạo nên một ấn phẩm

thuyết phục hay không.

Năm 2005, cuốn Publication Design Workbook (Thực hành thiết kế xuất bản

phẩm) của Timothy Samara [102] đem đến cho người đọc một khối kiến thức tổng

thể cho việc thiết kế xuất bản phẩm bao gồm các ấn phẩm như tạp chí, báo,

catalogs, báo cáo thường niên, bản tin, văn chương. Tác giả cho rằng, không giống

với các ấn phẩm ở dạng đơn như áp phích quảng cáo, thậm chí là những ấn phẩm có

số lượng trang ít, xuất bản phẩm có số lượng trang lớn, nội dung có chứa đựng văn

bản và hình ảnh. Do vậy, nó đòi hỏi người thiết kế phải tổ chức thông tin, lựa chọn

kiểu chữ sử dụng trong thiết kế để người đọc cảm thấy thoải mái khi đọc số lượng

trang lớn nhưng chúng cũng phải đủ sống động để hấp dẫn độc giả. Nhà thiết kế dựa

trên lượng thông tin cần thiết để kiến trúc lại các bộ phận, các thành phần của trang,

sắp đặt hình ảnh cùng với nghệ thuật chữ để đạt được sự thống nhất trong thiết kế

và mục đích truyền thông của ấn phẩm.

Mặc dù thông điệp cốt lõi là vấn đề mà nhà thiết kế tập trung vào đó nhưng

cần thiết phải xây dựng ý tưởng chủ đạo. Bên cạnh đó, ý tưởng chủ đạo phải được

định hình rõ vì mục đích của xuất bản phẩm là cung cấp thông tin và truyền thông

tới độc giả. Độc giả phải đọc với lượng thông tin lớn, do vậy, ý tưởng đó phải rõ

ràng để người đọc có thể dễ dàng tiếp cập và lĩnh hội thông tin. Hình thức mà ý

tưởng chủ đạo đưa ra thường chứa đựng những câu chuyện, hình ảnh, hình minh

họa, các biểu đồ hay các yếu tố thị giác khác. Thêm vào đó, hình ảnh, màu sắc và

các yếu tố thị giác là những yếu tố cần thiết và hỗ trợ hiệu quả cho ấn phẩm. Những

nội dung này là nguyên liệu để nhà thiết kế xây dựng thành ấn phẩm đồ họa. Việc

15

hiểu chủ đề, bối cảnh văn hóa, khán giả mục tiêu và cấu trúc ấn phẩm là điều mà

các nhà thiết kế cần trước khi tiến hành công đoạn thiết kế, dàn trang.

Những kiến thức được trình bày trong cuốn sách này giúp người thiết kế xây

dựng ý tưởng chủ đạo và hoạch địch kế hoạch thiết kế, xác định mối quan hệ giữa

các thành phần và liên kết chúng để đem đến hiệu quả truyền thông thị giác.

Năm 2007, Timothy Samara trong cuốn Design Elements – A Graphic Style

Manual (Thực hành thiết kế xuất bản phẩm), Nxb Rockport Publishers, New York

[103], đưa ra quan điểm tối thượng của ngành thiết kế và trình bày mà không phải ai

cũng nhớ, đó là “Hãy truyền thông, đừng trang trí” (Communicate – don’t

decorate). Và quan điểm mới “Hãy là việc với chữ như với hình ảnh, coi đó là điều

hệ trọng” (Treat the type as image, as though it’s just as important). Hai quan điểm

này thể hiện sự nghiêm túc trong thiết kế truyền thông là sự tối giản và đề cao thông

tin nội dung.

Năm 2008, cuốn Information Design Workbook (Thực hành thiết kế thông

tin), Kim Baer [81] đề cập đến việc thiết kế thông tin được ứng dụng trong các lĩnh

vực khác nhau, từ thiết kế in ấn cho đến thiết kế trực tuyến như thiết kế đồ họa, thiết

kế tương tác, biên tập, kiến trúc thông tin v.v… Thông tin nếu thiếu cấu trúc thì nó

giống như một mớ dữ liệu bòng bong, lộn xộn, không có một trật tự tuyến tính. Dữ

liệu có thể bao gồm nội dung văn bản, hình ảnh, sự chuyển động, âm thanh… dựa

trên các giác quan của con người để biên dịch các dữ liệu đó sang việc hiểu chúng

như thế nào. Khi các yếu tố được đưa vào trong thiết kế, chúng cần có một mục

đích và kế hoạch rõ ràng. Người thiết kế luôn luôn cố gắng để tạo ra sự giao tiếp

giữa mục đích và kế hoạch để đem đến một ý nghĩa cho người đọc cảm nhận.

Có rất nhiều cách để người đọc hấp thụ và hiểu thông tin. Vì thế, người thiết

kế phải đưa ra được giải pháp để thiết kế và trình bày thông tin đó đầy đủ nội dung,

ý nghĩa và làm cho người đọc dễ dàng tiếp thu. Đây chính là điểm giao thoa của

mối quan hệ liên ngành như soạn thảo, biên tập, đồ họa và minh họa hội tụ trong

thiết kế thông tin. Hiệu quả của truyền thông chính là bản chất của thiết kế này.

Năm 2009, cuốn Graphic Design Theory (Lý thuyết thiết kế đồ hoạ) của

16

Helen Armstrong [80] đưa ra thuật ngữ Typophoto và định nghĩa typophoto là sự

kết hợp giữa typography và photography. Typography là một nghệ thuật sử dụng

chữ để truyền thông được tạo thành bằng cách bố cục các ký tự. Photography được

hiểu là nghệ thuật hình ảnh được tạo ra bằng việc sử dụng thấu kính quang học để

thu nhận hình và tạo ra ảnh của nó. Từ đó có thể hiểu rằng Typophoto là một dạng

nghệ thuật chữ không chỉ sử dụng nó như một phương tiện để truyền đạt thông tin

với cách giao tiếp là người xem đọc chúng bằng cách thức đọc ngôn ngữ của văn

bản để hiểu mà Typophoto diễn đạt ý bằng hình và người xem đọc chúng bằng thị

giác để hiểu.

Các mặt chữ và thuật sắp chữ truyền thống đã tuân thủ chặt chẽ việc đảm bảo

tính chất của việc đọc nhưng lại bỏ qua việc đáp ứng những giá trị mới của cuộc

sống. Mục đích của thiết kế là để đơn giản hóa, làm rõ, để đề cao, để thuyết phục và

thậm chí là để giải trí. Gần đây, việc sử dụng sự tương phản của các nguyên liệu

chữ như các ký tự, các tín hiệu, sử dụng không gian âm bản và dương bản đã nỗ lực

để làm tương thích với cuộc sống hiện đại. Sự cố gắng ấy đã ít nhiều tạo nên sự linh

hoạt trong nghệ thuật chữ. Sự thay đổi đạt được chuyển biến mạnh mẽ khi có sự

tham gia của nhiếp ảnh, của thuật in bản kẽm, in khắc điện v.v. Sự linh hoạt này đã

đáp ứng được mối quan hệ giữa tính kinh tế và cái đẹp thẩm mỹ. Với sự phát triển

của phototelegraphy (điện-báo ảnh), các dạng đồ họa chữ mới sẽ phát triển và sẽ tạo

ra sự khác biệt với tính chất chữ, tính quang học của ảnh và những khái niệm của

các mẫu chữ đơn thuần ngày nay.

Năm 2011, cuốn The Element of Graphic Design (Các yếu tố trong thiết kế

đồ họa) của Alexander W. White [105] đề cập đến các yếu tố cơ bản như màu sắc,

hình thể, nhịp điệu, sự đồng nhất, các nguyên lý về khoảng trống và bố cục trong

thiết kế nói chung. Trong đó, tác giả cũng đưa ra một số gợi ý cho việc bố cục và sử

dụng chữ trong dàn trang. Tác giả cho rằng, điều quan trọng là làm cho các trang

sách trở nên hút người xem. Sự kích thích thị giác sẽ dẫn mắt người xem tới các

trang, khơi dậy sự hiếu kỳ và tham gia một cách tích cực vào việc tiếp nhận thông

tin. Tính đơn giản trong thị giác là loại bỏ bớt những yếu tố không cần thiết và xây

17

dựng chúng một cách logic và phù hợp. Một thiết kế tốt sẽ giảm thiểu việc độc giả

đọc càng nhiều càng tốt mà thay vào là việc hiểu như thế nào.

Năm 2012, cuốn Grids and Page Layouts (Dàn trang và ô lưới) Amy Graver

& Ben Jura [90] đưa ra những gợi ý về việc xây dựng hệ thống lưới và bố cục trang

như số lượng lưới, vị trí của các đối tượng đặt trên hệ thống lưới; nhịp điệu, sự đối

xứng, hình minh họa, mối tương quan của hình và chữ, không gian, tỷ lệ. Trong

cuốn sách, Massimo Vignelli cho rằng có rất nhiều phương cách để làm cho các bố

cục trở nên thú vị, nhưng mục đích của lưới trong thiết kế là để tạo ra sự nhất quán

cho bố cục. Sự hấp dẫn của bố cục là tổng hòa các yếu tố được sử dụng trong thiết

kế. Bên cạnh đó, Vignelli cũng cho rằng nội dung sẽ quyết định những cái gì mà

một bố cục chứa đựng. Khi thực hiện công việc, điều đầu tiên cần cân nhắc đó là

cấu trúc của vùng nội dung, trong đó cần xác định kích thước, tỷ lệ, vị trí, các mà

độc giả tương tác với ấn phẩm, cách họ đọc trên một trang và từ trang này qua trang

khác. Cái cốt lõi không phải là làm tăng cái vẻ hiển thị trên bề mặt trong sự nhất

quán thị giác mà làm sao để đơn giản những thông tin để đem đến cho độc giả sự dễ

dàng tiếp cận.

Nhận xét:

Các tài liệu thiết kế đồ hoạ ấn phẩm khá phong phú cung cấp đầy đủ các cơ

sở nền tảng cho ngành thiết kế đồ hoạ nói chung. Từ nghệ thuật ứng dụng chữ cho

đến sử dụng hình ảnh, đồ hình đồ hoạ, ô lưới, màu sắc cùng những tiêu chí, thông

điệp, ý tưởng thiết kế. Tuy nhiên các tài liệu chủ yếu đề cập đến vấn đề kỹ thuật và

giải pháp, ít bàn luận đến vấn đề quan điểm thẩm mỹ hay xu hướng thẩm mỹ mang

tính cập nhật đương đại.

1.1.2. Các tài liệu nghiên cứu về thiết kế dàn trang ấn phẩm báo chí

Năm 2001, PGS. TS. Vũ Quang Hào trong cuốn Báo chí và đào tạo báo chí

Thụy Điển, Nxb Hà Nội [20], đã giới thiệu chương trình đào tạo trong dự án hợp tác

giữa Viện đào tạo báo chí Fojo Thụy điển và Cục báo chí, Bộ Thông tin – Truyền

thông. Đây là một dự án đào tạo khá tích cực với 3 lớp đào tạo chính trong lĩnh vực

báo chí, đó là lớp bồi dưỡng viết tin bài báo chí, lớp nhiếp ảnh báo chí, và lớp thiết

18

kế trình bày báo chí. Mỗi lớp đều có giảng viên Thụy điển và cùng với giảng viên

Việt Nam. Cả ba lớp luôn được phối hợp để tạo ra một sản phẩm thống nhất, đó là

trang báo. Lớp viết tin bài thì phụ trách nội dung, lớp thiết kế phụ trách phần hình

thức, lớp nhiếp ảnh phụ trách ảnh, vừa là nội dung vừa là hình thức. Tuy nhiên luôn

có sự xung đột giữa các lớp và đặc biệt không phải là học viên mà chính lại là các

giảng viên. Các lớp đều luôn quá đề cao vai trò của ngành mình nên tiếng nói chung

đôi khi bị phá vỡ. Đây cũng chính là thực trạng ở các cơ sở thiết kế mà đề tài muốn

giải quyết tận gốc bằng tiêu chí đẹp thẩm mỹ trong mối quan hệ giữa nội dung và

hình thức.

Năm 2007, Đặng Đức Tuệ trong cuốn Ma-két và Trình bày báo, Hội nhà báo

Việt Nam, Hà Nội [61], đặt vấn đề ma-két báo là hệ thống quy chuẩn quy định việc

tổ chức kỹ thuật, dàn trang báo. Ma-két báo bao gồm những trang mẫu, được dự

tính cho những khả năng khác nhau, và quy định chi tiết về việc sử dụng các công

cụ để trình bày từng trang, mục trong tờ báo. Vai trò của ma-két là “phục vụ” nội

dung thông tin của tờ báo chứ không “áp đặt” lên nội dung, dàn dựng và làm tăng

giá trị thông tin, giúp thông tin trở nên rõ ràng, mạch lạc, dễ hiểu hơn đối với độc

giả. Việc thiếu trao đổi giữa “hình thức” và “nội dung” trong quá trình xây dựng

ma-két sẽ dẫn đến việc áp đặt những quy định cứng nhắc vào quy trình xử lý thông

tin, chứ không giúp cho việc chuyển tải hiệu quả các ý đồ của tòa soạn.

Năm 2010, Phạm Thúy Hằng và Mats Wikman trong Những trang báo đẹp –

Cẩm nang dành cho các nhà thiết kế, Bộ Thông tin - Truyền thông [22], đẩy mạnh

những nguyên tắc cơ bản về cách trình bày những tầng lớp thông tin, ảnh minh họa

và tông màu chủ đạo, sử dụng tài nguyên và các thông tin bằng hình ảnh là một

trong những chất lượng mà con người nhìn nhận thấy nhanh nhất. Cuốn sách đã chỉ

ra những nguyên tắc cơ bản nhất và giới thiệu được bộ ma-két quy chuẩn của trình

bày báo.

Năm 2011, Nguyễn Chí Hùng trong luận văn thạc sĩ Ma-két phụ trương báo

in ở thành phố Hồ Chí Minh từ góc độ lý luận và thực tiễn, Đại học Khoa học Xã

hội & Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội [27], sau khi khảo sát Tuổi trẻ cuối

19

tuần, Phụ nữ chủ nhật, Sài gòn giải phóng thứ bảy, Làm bạn với máy vi tính, Doanh

nhân Sài gòn cuối tuần từ 2008-2011, đã chia các yếu tố nội dung gồm có thông tin

văn tự và ảnh, bảng biểu, đồ hình đồ họa, còn các yếu tố hình thức bao gồm khổ

báo, lề, bát chữ, măng séc, chữ tít, chữ chính văn, khung, nền, vi nhét, minh họa và

một số tín hiệu đồ họa. Sự phân định này rất thực tế nhưng chưa tìm ra được mối

liên hệ tương hỗ chặt chẽ của chúng.

Nhận xét:

Thực tế các tài liệu về TKDT ấn phẩm báo chí không nhiều và cũng chưa

thực sự đầy đủ cho các loại hình thiết kế báo chí rất đa dạng. TKDT là một chuyên

ngành phục vụ báo chí truyền thông có tác động rất lớn đến xã hội, nhưng chính vì

sự phong phú của nó nên các nghiên cứu mang tính phổ quát khó đề cập. Tài liệu

thường đi vào những nội dung cụ thể và mang tính ứng dụng trực tiếp mà ít bàn đến

tính thẩm mỹ.

1.1.3. Các tài liệu nghiên cứu về thẩm mỹ truyền thông

Năm 1971, tác giả Paul N. Campell trong bài báo “Communication

aesthetics” (Thẩm mỹ truyền thông), tạp chí Today’s Speech [83], lần đầu tiên đưa

ra khái niệm mới thẩm mỹ truyền thông trong lĩnh vực mỹ học. Một vấn đề mới

trong các cấu trúc quen thuộc nhưng được kết hợp một cách khác thường. Một

phương pháp luận phân tích nghiên cứu như những cảnh báo chống lại Kant, ủng hộ

chủ nghĩa thực chứng, chủ nghĩa hành vi. Mức độ giao tiếp của con người đã trở

nên kịch tính đòi hỏi phải sử dụng ngôn ngữ như một hoạt động thẩm mỹ, ngôn ngữ

giao tiếp mang tính tượng trưng, con người sở hữu ngôn ngữ và ngược lại, hành vi

của con người ảnh hưởng tới ngôn ngữ biểu tượng và môi trường truyền thông. Bài

báo khẳng định đây là vấn đề rất mới bao gồm những luận điểm dưới sự tác động

của công nghệ truyền thông. Khái niệm thẩm mỹ truyền thông lần đầu tiên được đề

cập trong giới học thuật đem đến những phản ứng trái chiều khởi đầu cho những

nghiên cứu thú vị.

Năm 2001, tác giả Yao Heming trong cuốn 传播美学导论 (Dẫn luận về Mỹ

học truyền thông), Bắc Kinh quảng bá học viện xuất bản xã [109], đề cập đến bản

20

chất của các hoạt động mỹ học truyền thông, nghiên cứu thẩm mỹ về loại hình nghệ

thuật truyền thông và sự tiếp nhận thẩm mỹ của khán giả truyền thông. Tác giả cho

rằng thông tin thẩm mỹ khi được truyền thông có thể làm người tiếp nhận có tinh

thần phấn chấn, tâm lý bay bổng, từ đó có được cảm nhận thoải mái, vui vẻ về cái

đẹp, tình cảm, cảm xúc được bồi dưỡng, có được tinh hoa trong tâm hồn. Thông tin

thẩm mỹ thường có những đặc trưng ở một số phương diện sau:

- Đặc tính thứ nhất của thẩm mỹ truyền thông là tính hình tượng: Sự vật và

hiện tượng của cái đẹp là hình tượng, là cụ thể. Vẻ đẹp được cảm nhận trực tiếp

thông qua giác quan của người thưởng thức. Thông tin thẩm mỹ có hình thái cụ thể

của cảm tính, nội dung của chúng cũng được thể hiện qua một hình thức bên ngoài

nhất định và hình thức này được cấu thành từ các nguyên liệu vật chất như chất

cảm, hình, sắc v.v.

- Đặc tính thứ hai của thẩm mỹ truyền thông là tính biểu cảm: Vẻ đẹp không

chỉ cụ thể, hình tượng, mà nó còn liên quan chặt chẽ đến tình cảm của chủ thể thẩm

mỹ, và có sức cảm mạnh mẽ. Nó không chỉ có tác dụng trực tiếp đến lý trí mà còn

có tác dụng trực tiếp đến tình cảm con người. Nó có thể bằng tình cảm làm con

người cảm động, cổ vũ con người hoặc làm con người vui vẻ. Bất kể sự vật nào của

vẻ đẹp cũng bao hàm thông tin thẩm mỹ, đều có thể khơi gợi tình cảm con người,

khiến tinh thần con người vui vẻ, thỏa mãn. Lev Tolstoy, trong “Nghệ thuật luận”

của mình từng định nghĩa nghệ thuật như sau: “Nghệ thuật là sự giao lưu tình cảm”.

- Đặc tính thứ ba của thẩm mỹ truyền thông là tính sáng tạo: Trong tất cả các

hoạt động truyền thông mang tính thẩm mỹ, các tác phẩm nghệ thuật coi trọng tính

sáng tạo nhất. Tính sáng tạo của các tác phẩm nghệ thuật không chỉ thể hiện ở bản

thân mỗi nghệ thuật gia, thể hiện ở đặc điểm và phong cách sáng tạo mang đặc

trưng riêng biệt không giống người khác, mà còn thể hiện trong các tác phẩm khác

nhau của nghệ thuật gia đó. Nghĩa là, mỗi tác phẩm đều có điểm độc đáo riêng mà

các tác phẩm khác không có cho dù chúng được sáng tạo bởi cùng một nghệ sỹ.

Năm 2002, John Heskett trong cuốn Design - A Very Short Introduction

(Giới thiệu cốt lõi về thiết kế), Nxb. Oxford University Press [92], đã đưa ra một

21

định nghĩa hài hước nhưng đúng cả về mọi phương diện: “Thiết kế là thiết kế một

thiết kế để sản xuất ra được một thiết kế” (Design is to design a design to produce a

design). Điều này cũng cho thấy khái niệm design được mở rộng nên dễ có sự nhầm

lẫn. Đó chính là lý do đề tài này sử dụng thuật ngữ kép thiết kế dàn trang để khẳng

định công việc tiến hành đối với sách báo in. Trong khi đề cập về vấn đề phương

tiện truyền thông, John Hesker cũng sử dụng khái niệm hình ngữ để chỉ bộ các biểu

tượng của Thế vận hội Munich 1972 do Otl Aicher thiết kế. Đây là một quan điểm

rất quan trọng về sự chuyển hóa giữa nội dung và hình thức ít nhất về mặt thuật ngữ

lý luận. Cùng với nó, biểu tượng quảng bá du lịch của New York do Milton Glaser

thiết kế với hình trái tim lồng vào chữ: “Tôi yêu New York” là minh chứng cho việc

hình ảnh chuyển hóa thành nội dung.

Năm 2008, nhà nghiên cứu mỹ thuật Bùi Như Hương trong cuốn Nghiên cứu

mỹ thuật, trường đại học Mỹ thuật Hà Nội - Viện mỹ thuật, Nxb. Mỹ thuật [24], đã

có nghiên cứu về Thời kỳ thẩm mỹ thứ ba. Chúng ta đang sống trong một thời kỳ

khủng hoảng về tiêu chuẩn mỹ học. Cuộc khủng hoảng này gần như mang tính toàn

cầu, nó xuất hiện từ nửa cuối thế kỷ thứ 20. Bắt đầu từ đây, người ta cho rằng lịch

sử mỹ thuật đã chuyển dần sang thời kỷ thẩm mỹ thứ ba, không còn tương ứng với

thời đại công nghiệp nữa, mà là thời đại hậu công nghiệp, với mỹ cảm hoàn toàn

mới, không xác định, có tính chất đảo lộn các nấc thang giá trị trước đây. [24, tr. 57]

Trải qua ba thời kỳ thẩm mỹ, thẩm mỹ cổ điển truyền thống, thẩm mỹ hiện

đại, thẩm mỹ hậu hiện đại. Ở Việt Nam thời kỳ thứ ba gọi là thời kỳ thẩm mỹ mở

cửa, được nhà nghiên cứu đặt tên “Thẩm mỹ tạp kỹ” [24].

Thẩm mỹ này thể hiện rõ ràng nhất ở các tác phẩm pop-art, pop-xã hội, nghệ

thuật quan niệm, sắp đặt, trình diễn, video-art và các loại nghệ thuật tổng hợp khác

nhau như ngày nay. Đặc điểm:

- Đa dạng, không đồng nhất, tính chủ quan và tự do thẩm mỹ là tuyệt đối.

- Không lấy cái đẹp làm tiêu chuẩn cao nhất, mà lấy ý tưởng sáng tạo làm

chính.

- Không hướng đến giá trị lâu bền, cuối cùng của tác phẩm, mà quan trọng

22

hơn là quá trình thể hiện, gây hiệu quả và cảm giác tức thời.

- Tìm kiếm các phương tiện và chất liệu biểu hiện mới, đa dạng, rẻ tiền, sẵn

có trong môi trường để phản ánh các vấn đề đương đại, bức bách, báo độngcủa xã

hội đương đại.

- Đôi khi có tính giải trí, hài hước, ngẫu hứng, song qua đó cài đặt quan niệm

và thông điệp cá nhân gửi tới người xem.

- Xu hướng trí tuệ hóa nghệ thuật bằng cách áp dụng khoa học kỹ thuật như

camera, video, đèn chiếu, màn hình, âm thanh, ánh sáng, chuyển động…, mô hình

hóa các tác phẩm trong không gian và thời gian.

- Xu hướng tổng hợp các loại hình nghệ thuật như sân khấu, múa, âm nhạc,

tạo hình vào cùng một sân chơi. Mở rộng không gian nghệ thuật ra ngoài trời, lôi

kéo người xem cùng tham gia vào hoạt động sáng tạo.

- Xu hướng đại chúng hóa và xã hội hóa nghệ thuật.

Năm 2008, PGS. TS. Bùi Hoài Sơn trong cuốn Phương tiện truyền thông mới

và những thay đổi văn hóa xã hội ở Việt Nam do Nxb. Khoa học xã hội xuất bản đã

cho thấy tác động của công nghệ truyền thông tới đời sống văn hóa nghệ thuật ở

Việt Nam là rất căn bản và mạnh mẽ. Tác giả nhận định các phương tiện truyền

thông mới đã làm thay đổi cả cách tư duy của con người đến mức bản thân chúng ta

cũng không thể tưởng tượng hết khả năng vô cùng của nó. Chưa có một công nghệ

nào có sức ảnh hưởng sâu rộng tới mọi mặt của đời sống xã hội như các phương

tiện truyền thông mới. Sự xuất hiện của chúng đã khiến con người phải định nghĩa,

xem xét lại hàng loạt những vấn đề mà trước đây chúng ta xem là đương nhiên. Một

thế giới ảo sống đan xen với thế giới thực, một không gian tương tác tối đa trong

mọi mối quan hệ xã hội, những cách nhìn rộng mở và khoan dung với các quan

điểm khác biệt, tốc độ xã hội nhanh tới mức các khoảng cách không gian và thời

gian trở nên tương đối, tất cả đã khiến các phương tiện truyền thông mới trở thành

một công nghệ có tầm ảnh hưởng lớn nhất từ khi xuất hiện loài người. [53, tr.6].

Các phương tiện truyền thông mới như internet và điện thoại di động đã

mang đến cho người sử dụng không gian số và ảo. Chính không gian số và ảo đã

23

giúp cho người sử dụng trở nên mạnh dạn và tự tin hơn trong các giao tiếp của mình

và giúp họ thể hiện bản thân và cái “tôi” đối với xã hội. Giúp con người thăng hoa ở

một thế giới khác, nơi họ có thể tự do bày tỏ tình cảm, tự biến mình thành người

hùng, và có thể khám phá bất cứ những gì họ thích mà không chịu quá nhiều sự chi

phối từ các sự kiểm soát từ những người khác.

Công nghệ truyền thông đã gây ra sự hỗn loạn của thông tin và sự hình thành

các tiểu văn hóa, các thói quen bị thay đổi và sự khủng hoảng này còn kéo dài đòi

hỏi một giải quyết thấu đáo. [53].

Năm 2008, tác giả Ceng Yaonong trong cuốn 现代传播美学 (Thẩm mỹ

truyền thông hiện đại) [108] đã đề cập đến Thẩm mỹ truyền thông hiện đại là sự

giao tiếp của một chủ đề mới với tính thẩm mỹ. Thẩm mỹ truyền thông hiện đại có

thể thúc đẩy sự phát triển của phương tiện truyền thông, phù hợp với quy luật của

cái đẹp, làm cho con người trở nên đẹp hơn, đồng thời tăng chất lượng thẩm mỹ của

cả một dân tộc. Thẩm mỹ truyền thông hiện đại sử dụng những thành tựu lý thuyết

mới nhất, giải quyết truyền thông thực tế của nhiều vấn đề khó khăn và nổi trội.

Thẩm mỹ là một phần quan trọng trong sản phẩm văn hóa tinh thần của con người.

Tính thẩm mỹ như là một phần quan trọng trong việc tạo ra văn hóa tinh thần của

nhân loại. Thực hành thẩm mỹ được xem như là yếu tố cốt lõi trong toàn bộ yêu cầu

của quá trình truyền thông. Do đó, nó cần tuân thủ luật truyền bá và các quy tắc

thẩm mỹ trong việc xác định quy trình phổ biến thông tin. Nó cũng cố gắng để hoàn

thành được nhu cầu thẩm mỹ của con người.

Năm 2013, Nguyễn Hoàng Huy (sưu tầm và biên dịch) trong cuốn Mỹ học và

phê bình nghệ thuật, Nxb. Mỹ thuật [28], đã tóm lược một loạt các quan điểm mỹ

học trên thế giới đặc biệt của phương Đông cho thấy các luận điểm tương đồng với

Thẩm mỹ truyền thông.

Thái độ của chúng ta đối với các tác phẩm nghệ thuật đã thay đổi về căn bản.

Ở một số mặt, thậm chí nó đã đảo ngược hẳn đến mức có khi chúng ta biết tên

những người sáng tạo, kể cả cuộc đời họ mà vẫn mù tịt về sản phẩm của họ [28,

tr.14] Đây chính là sự khủng hoảng trong nhận thức thẩm mỹ của con người ở bối

24

cảnh đương đại. Dù sao đi nữa, cuộc cách mạng về thái độ đối với tác giả cũng

mang mầm mống của tư tưởng tiền phong chủ nghĩa sau này sẽ in dấu rất sâu vào

nghệ thuật đương đại. Nghệ sĩ thời cổ đại là một trung gian giữa con người và thần

linh, hơn là một người sáng tạo đích thực. Tương ứng với sự thay đổi đó về phía tác

giả là sự thay đổi liên quan đến khái niệm nhận thức về phía người xem. Cái đẹp là

chủ quan, nó chủ yếu ở trong những gì thỏa mãn nhãn thức của ta, cảm thức của ta.

Theo Charles Morris, trong sự lãnh hội về ký hiệu hình tượng có cả sự bày tỏ

trung gian và tức thì về các đặc tính nào đó. Trong trường hợp của các ký hiệu thẩm

mỹ mà các đặc tính trong câu hỏi đều là những đặc tính giá trị [28, tr.115].

Bhara, xúc cảm, được nhấn mạnh ở điều thứ ba trong các quy tắc Ấn Độ, đề

cao sức mạnh khêu gợi và kỹ thuật là tương ứng với khí vận. Các hiện tượng của

thiên nhiên chỉ là cái cớ để diễn dịch trạng thái tâm hồn của nghệ sĩ và lúc mà

thuyết tượng trưng được tóm lược để thiết lập một sự tương tự, một sự đồng nhất

giữa sắc thái của đối tượng với cái đam mê, cái trực giác của cảm xúc [28, tr.140].

Cơ sở của thực hành nghệ thuật cũng như của mọi tư tưởng mỹ học Trung

Quốc là một nhãn thức triết học dựa trên khái niệm hư không. Theo quan niệm

Trung Hoa, hư không không phải là một cái gì mơ hồ hoặc không hiện hữu, mà là

một khía cạnh năng động của đời sống con người cũng như đời sống vũ trụ [28,

tr.173].

Năm 2015, Benjamim Picado trong bài báo “From objects of

Communication towards reasonableness of sensibility: aesthetic experience and

epistemology of Communication” (Từ các đối tượng truyền thông hướng tới tính

hợp lý: kinh nghiệm và nhận thức luận thẩm mỹ của truyền thông) [98] xem xét các

ý tưởng đem đến những yếu tố trung tâm cho việc đàm luận về thẩm mỹ trong bối

cảnh nghiên cứu Truyền thông: bắt đầu từ những hàm ý giữa thẩm mỹ và tiên đề về

sự đánh giá cao các sản phẩm văn hóa truyền thông, các lý thuyết về truyền thông

xác định cốt lõi thẩm mỹ của các hiện tượng với “nghệ thuật” của chúng. Tác giả

cho rằng, trong bối cảnh của mối quan hệ giữa thẩm mỹ học và truyền thông, người

ta phải xem xét nhu cầu đặt câu hỏi theo chiều dọc về nguồn gốc và bản chất của

25

thẩm mỹ truyền thông cũng như vai trò mở rộng của thẩm mỹ truyền thông trong

cộng đồng. Chúng ta cần phân định phạm vi lý thuyết thẩm mỹ của tác phẩm nghệ

thuật thông qua việc xem xét trải nghiệm của khán giả.

Năm 2016, Marc Jimenez (Phạm Diệu Hương dịch) trong cuốn 50 câu hỏi

mỹ học đương đại, Nxb. Thế giới [37], đã nêu ra một loạt các vấn đề về nhận thức

thẩm mỹ đối với nghệ thuật đương đại. Nguyên bản tiếng Pháp L’esthetique

contemporaine (mỹ học đương đại) đã phần nào xác định mạnh mẽ thẩm mỹ mới

của đời sống nghệ thuật hiện nay. Định nghĩa về mỹ học là “khoa học của cái đẹp”

được coi như một định nghĩa có tính lịch sử không còn tương ứng với ngày nay cả ở

các phương pháp khác nhau lẫn các đối tượng khác biệt, cũng như những ý đồ phức

tạp của chuyên ngành này [37, tr.20]. Công nghiệp văn hóa nói đến một giai đoạn

tiên tiến của các xã hội gọi là hậu công nghiệp với sự phát triển phi thường của các

phương tiện truyền thông và một sự thay đổi về vị thế của văn hóa truyền thống, từ

nay trở đi theo lý thuyết có thể tiếp cận đến số lượng đối tượng lớn nhất. [37, tr.75].

Nghệ thuật ý niệm thuyên chuyển sự suy xét thẩm mỹ của tác phẩm hoặc của

đối tượng nghệ thuật thành chính ý tưởng nghệ thuật, như vậy bỏ qua một cách cố ý

phương diện vật lý và các đặc điểm nhận thức của tác phẩm nghệ thuật để chỉ quan

tâm đến sự vận hành của ý tưởng nghệ thuật, khẳng định vị trí vượt trội của hành vi

và mục đích nghệ thuật so với bản thân tác phẩm. [37, tr.80].

Việc suy xét thẩm mỹ sẽ không thể cứ mãi không biết đến những đổi mới

công nghệ gắn liền với các dự án nghệ thuật, và rằng việc suy xét này sẽ cần nỗ lực

xây dựng các thuật ngữ thực tế hơn về mối liên hệ giữa nghệ thuật và khoa học. Có

lẽ sẽ thích hợp để chấp nhận văn hóa số (cyber culture) và nghệ thuật số (cyber art)

một khoảng cách vừa đủ giữa sự nghi ngại, sự hồi cố mang tính quá khứ chủ nghĩa

và sự hứng khởi quá độ đã sinh ra tất cả những điều không tưởng. [37, tr.98].

Mỹ học của nghệ thuật công nghệ sẽ có nhiệm vụ đánh giá thách thức văn

hóa và nghệ thuật cho những sự chuyển dịch đang diễn ra. Nó sẽ đặt vấn đề về sự

mở rộng chưa từng có này của phương diện cảm tính, về sự bùng nổ trong thế giới

của trí tưởng tượng và do đó là của sự sáng tạo. [37, tr.99].

26

Nguồn gốc khủng hoảng của nghệ thuật đương đại bắt đầu từ rất nhiều phàn

nàn nhắm tới nghệ thuật đương đại. Người ta tố giác sự thiếu giá trị thẩm mỹ, thậm

chí vô giá trị đã đặt ra câu hỏi liệu còn có những tiêu chí của việc đáng giá thẩm

mỹ?

Năm 2016, TS. Lê Trần Hậu Anh trong luận văn tiến sĩ Mỹ thuật Việt Nam -

Những biến đổi trong thời đại công nghệ thông tin, Viện Văn hóa nghệ thuật quốc

gia Việt Nam [4], đã khẳng định tiến trình vi tính hóa hay những mạng thông tin

toàn cầu, các bước phát triển công nghệ vi tính, đã tạo nên một xã hội ảo. Con

người sẽ sống trong cái xã hội ảo đó, họ sống rất gần nhau nhưng lại có thể rất xa

nhau về khoảng cách. Chính vì vậy nghệ thuật phải có những chuyển đổi để thích

ứng, vì từ xã hội thông tin này cách trình bày về thế giới tình cảm của con người sẽ

khác, nó có thể là các tác phẩm đa phương tiện và cả những tác phẩm ảo trên mạng

thông tin toàn cầu (internet). Tiến trình phát triển CNTT đã trở thành công cụ để

kiểm soát và điều tiết đời sống con người. Chính vì vậy công nghệ thông tin đã có

những tác động rất mạnh mẽ đến con người cũng như nghệ thuật. [4, tr.34].

Tính tương tác là đặc trưng nổi bật nhất của nghệ thuật có ứng dụng CNTT,

trước hết nghệ sỹ tương tác với các phương tiện máy móc thông minh, rồi tác phẩm

lại tương tác với người xem, sự tương tác đó hoặc thể hiện ở sự vắng mặt gián tiếp

và có mặt trực tiếp, hoặc tuỳ theo sự lý giải của người xem để thực hiện tác phẩm.

[4, tr.81].

Nhận xét:

Thông qua khái quát chung về tổng quan tình hình nghiên cứu để thấy, cho

đến thời điểm này vẫn chưa có công trình khoa học nào tại Việt Nam nghiên cứu

chuyên sâu về thiết kế dàn trang ấn phẩm tạp chí Heritage. Đặc biệt là đặt vấn đề

nghiên cứu về thẩm mỹ truyền thông, cũng như vai trò của các nghệ sĩ thiết kế dàn

trang tạp chí với những ý tưởng táo bạo, tác động đến đời sống thẩm mỹ xã hội.

Qua đó có thể đưa ra những quan điểm về khả năng chuyển biến thẩm mỹ trong

thiết kế dàn trang ấn phẩm tạp chí ở Việt Nam nói chung, tạp chí Heritage nói riêng.

Khẳng định vai trò của họa sĩ thiết kế dàn trang gắn với tính thẩm mỹ, làm cho vẻ

27

đẹp của tạp chí Heritage không chỉ là một ấn phẩm đơn thuần mà còn là một tác

phẩm nghệ thuật.

1.2. Cơ sở lý luận về thẩm mỹ truyền thông trong thiết kế tạp chí

1.2.1. Khái niệm về báo chí, nhật báo và tạp chí

1.2.1.1. Khái niệm báo chí, nhật báo

Theo đại từ điển tiếng Việt, tác giả Nguyễn Như Ý, Trung tâm ngôn ngữ và

văn hoá Việt Nam, Nhà xuất bản Văn hoá-Thông tin có ghi về báo hay còn gọi là

báo chí (báo – thông báo, chí – giấy) là những xuất bản phẩm định kỳ, có tính thời

sự, là những thông tin mới về những gì đã đang diễn ra trong xã hội. Có mấy loại

hình báo chí như báo viết, báo nói, báo hình, báo điện tử …, nhưng như đã nói ở

trên, ở đây chúng ta chỉ xét đến khái niệm báo in tức là báo viết được in ra trên xuất

bản phẩm bằng giấy.

Trong cuốn Truyền thông đại chúng của tác giả Tạ Ngọc Tấn, nhà xuất bản

chính trị quốc gia (2001), báo in là những ấn phẩm định kỳ chuyển tải nội dung

thông tin mang tính thời sự và được phát hành rộng rãi trong xã hội. Trong trường

hợp này, thuật ngữ báo in dùng để chỉ hai bộ phận nhật báo và tạp chí.

Theo từ điển Anh-Anh-Việt, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội (2017). Journal

có nghĩa là báo chí. Từ điển nêu khái niệm cụ thể rằng báo chí (journal) là tờ báo

(newspaper) hoặc tạp chí (magazine), một ấn phẩm đặc biệt mà tất cả các bài báo

đều có một chủ đề cụ thể hoặc chuyên nghiệp. Newspaper có nghĩa là báo, đó là

một bản in có chứa các tin tức, quảng cáo và các bài báo với nhiều chủ đề được

được gấp lại. Báo được in và bán hàng ngày hoặc hàng tuần. Một số dạng báo như

báo ngày, báo tuần, nhật báo.

Theo từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Đà nẵng (2003)

báo là xuất bản phẩm định kỳ in trên giấy khổ lớn, đăng tin, bài, tranh ảnh để thông

tin, tuyên truyền. Hình thức thông tin tuyên truyền có tính chất quần chúng và nội

bộ, bằng các bài viết, tranh vẽ trực tiếp trên giấy, trên bảng, v.v.

1.2.1.2. Khái niệm tạp chí

Theo đại từ điển tiếng Việt, tác giả Nguyễn Như Ý, Trung tâm ngôn ngữ và

28

văn hoá Việt Nam, Nhà xuất bản Văn hoá-Thông tin. Tạp chí là xuất bản phẩm định

kỳ, đăng nhiều bài của các tác giả khác nhau về một ngành hoạt động nhất định,

đóng thành tập

Theo từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Đà nẵng (2003),

Tạp chí là xuất bản phẩm định kỳ, có tính chất chuyên ngành, đăng nhiều bài do

nhiều người viết, đóng thành tập, thường có khổ nhỏ hơn báo.

Theo Viện từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam.

Tạp chí là chủng loại ấn phẩm báo chí xuất bản định kì, với các kì hạn hằng

tuần, nửa tháng, một tháng, một quý, nửa năm, v.v. Tạp chí khác với báo

hằng ngày. Về nội dung, tạp chí thường chứa đựng những thông tin mang

tính tổng quát hay chuyên đề về tình hình thời sự, các vấn đề thuộc các lĩnh

vực khoa học tự nhiên hoặc xã hội đang được nhiều người quan tâm. Về hình

thức, tạp chí được đóng thành tập với các cỡ khác nhau, khổ thường nhỏ hơn

khổ báo hằng ngày, có bìa.

Theo từ điển Anh-Anh-Việt, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội (2017). Magazine

có nghĩa là tạp chí. Từ điển giải nghĩa thêm, đó là một quyển sách mỏng, khổ rộng,

có bìa mà chúng ta có thể mua hàng tuần hoặc hàng tháng; chứa đựng các bài báo,

hình ảnh, v.v.; thường dựa trên một chủ đề cụ thể.

Qua tham khảo các tài liệu trên, có thể rút ra khái niệm báo chí (journal) là

xuất bản phẩm định kỳ, nội dung chứa đựng thông tin mang tính thời sự được phát

hành rộng rãi trong xã hội, gồm có hai thể loại chính là báo (hay nhật báo –

newspaper) và tạp chí (magazine). Trong khi báo (nhật báo) thường được in giấy

khổ to và truyền đạt nhiều về tin tức hàng ngày, tạp chí (magazine) lại được in giấy

khổ nhỏ hơn được phát hành định kỳ theo tuần, tháng, quý và cung cấp những nội

dung chuyên sâu hơn.

1.2.2. Khái niệm về Thiết kế, Thiết kế đồ họa, Thiết kế dàn trang

1.2.2.1. Khái niệm thiết kế

Theo Đại từ điển tiếng Việt, Nguyễn Như Ý, Trung tâm Ngôn ngữ và Văn

hoá Việt Nam, Nhà xuất bản Văn hoá-Thông tin. Thiết kế là làm đồ án đồ hoạ, xây

29

dựng một bản vẽ với tất cả những tính toán cần thiết để theo đó mà xây dựng công

trình, sản xuất sản phẩm.

Theo Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam.

Thiết kế là lập hồ sơ kĩ thuật để xây dựng (hay cải biến) một công trình hay

mô hình (quy trình) sản xuất hoặc chế tạo một phương tiện, thiết bị (nào đó).

Hồ sơ bao gồm các bản vẽ tổng thể và chi tiết, kèm theo bảng thống kê vật

liệu sử dụng, các bản thuyết minh phần tính toán và những chỉ dẫn cần thiết.

Trong khi thiết kế, người thiết kế phải xử lí các tư liệu kinh tế - kĩ thuật, tính

toán, vẽ viết, làm mẫu mã cũng như dự tính chi phí thực hiện, ảnh hưởng và

lợi ích kinh tế - kĩ thuật do ý đồ đó mang lại sau khi thực hiện.

Từ điển Mỹ thuật phổ thông cho biết về thuật ngữ này như sau:

Thiết kế: (A: design. P: design) Sáng tạo ra mẫu đồ vật theo ý tưởng của các

nhà mĩ học bằng bản vẽ, phác thảo, phác họa, mô hình nhằm đạt tới mức

hoàn thiện để có thể áp dụng vào sản xuất. Thiết kế được áp dụng trong

nhiều lĩnh vực như: thiết kế các công trình kiến trúc, thiết kế các mô hình

máy móc, đồ vật, sản phẩm tiêu dung công nghiệp, thời trang v.v… Thiết kế

tiếng Anh là đi - dai (design) nhưng từ này đã được quốc tế hóa, bởi vậy ở

Việt Nam đôi khi người ta cũng nói: “đi - dai” bìa sách”, “đi - dai mốt”.

Trong cuốn Từ điển tiếng Việt có ghi về thiết kế như sau:

Thiết kế: Lập tài liệu kỹ thuật toàn bộ, gồm có bản tính toán, bản vẽ, v.v. Để

có thể theo đó mà xây dựng công trình, sản xuất, thiết bị, sản phẩm v.v. Thiết

kế một công trình. Thiết kế kiểu máy mới. Thiết kế kĩ thuật. Bản vẽ thiết kế.

Thiết kế và thi công [32].

Qua các tài liệu trên có thể rút ra khái niệm thiết kế là quy trình xây dựng đồ

án đồ hoạ để sản xuất chế tạo sản phẩm ứng dụng phục vụ đời sống xã hội. Bản thân

thiết kế đã là một thuật ngữ phức tạp, trong môi trường nghệ thuật thì thường gọi là

“design”. Theo cố PGS.TS. Nguyễn Ngọc Dũng thì dịch thuật ngữ “design” sang

tiếng Việt là thiết kế sẽ là không thỏa mãn và ông đã đề nghị sử dụng nguyên thuật

ngữ đã được quốc tế hóa là “design” [12].

30

1.2.2.2. Khái niệm thiết kế đồ hoạ

Thiết kế đồ họa (Graphic design), bản thân thuật ngữ thiết kế đồ họa cũng

mới ra đời do nhà thiết kế người Mỹ William Addison Dwinggins dùng đầu tiên

năm 1922 và chỉ trở nên thông dụng sau chiến tranh thế giới thứ 2 và cho đến nay

thì rất phổ biến.

Theo Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam:

Đồ hoạ ấn loát, một bộ môn của đồ hoạ ứng dụng, đi chuyên sâu vào hình

thức của ấn phẩm: sách báo, áp phích, nhãn hàng, bao bì, tài liệu quảng cáo,

tem bưu chính, tiền giấy, bằng khen, đồ bản, vv. Ngoài tay nghề, kiến thức

và óc thẩm mĩ cao, nhà đồ hoạ ấn loát phải hiểu biết tường tận về các chủng

loại chữ, giấy, mực, các kĩ thuật chế bản và in ấn hiện đại, thành thạo trong

nghệ thuật sử dụng ảnh chụp dưới nhiều dạng khác nhau.

Theo từ điển Anh-Anh-Việt, Nxb Văn hóa thông tin:

Graphic: nghệ thuật miêu tả, đặc biệt là biết và vẽ; nghệ thuật tạo hình. Từ

điển giải nghĩa thêm, liên quan đến thị giác hoặc nghệ thuật mô tả; nghệ

thuật thị giác và nghệ thuật kỹ thuật tham gia vào thiết kế hoặc sử dụng chữ

cái và hình ảnh.

Từ đó có thể rút ra khái niệm: thiết kế đồ họa là cách tổ chức có ý thức của

văn bản (chữ) và/hoặc hình ảnh để truyền đạt (một) thông điệp cụ thể. Thuật ngữ

thiết kế đồ họa (graphic design) đề cập đến cả quá trình thiết kế mà theo đó các quá

trình giao tiếp được tạo ra, cũng như các sản phẩm của quá trình thiết kế này. Nó

được sử dụng để thông báo, quảng cáo, hoặc trang trí và thường được thể hiện bằng

sự kết hợp của các chức năng kể trên.

Henry van de Velde, nhà thiết kế, kiến trúc sư người Bỉ cho rằng “Làm đẹp

là kết quả của hệ thống và sự minh bạch, chứ hoàn toàn không phải là một ảo ảnh

quang học” [96]. Nhận định này hoàn toàn phù hợp với ngành thiết kế đồ họa, đặc

biệt là với tư tưởng của Bauhaus. Thiết kế đồ họa bản thân là một ngành mỹ thuật

ứng dụng, phục vụ dây chuyền sản xuất dịch vụ và lẽ đương nhiên nó phải nằm

trong chuỗi cung ứng của xã hội. Vậy những xúc cảm mà người ta hay nói đến

31

trong nghệ thuật, tất nhiên là nghệ thuật thiết kế, nằm ở đâu trong chuỗi cung ứng

đó. Theo Nico Henry Frijda, nhà tâm lý học Hà Lan, giáo sư trường Đại học

Amsterdam trong tác phẩm “The Emotions” (1986) của mình cho rằng cảm xúc ảnh

hưởng đến hành động và đó là những gì sẽ xảy ra khi chúng ta phản ứng với một

kích thích thẩm mỹ ví dụ như một hành động để mua một sản phẩm. Tuy nhiên cảm

giác này là rất cá nhân để có thể được giải thích rằng những kinh nghiệm cá nhân và

ảnh hưởng của nền văn hóa có tác động đến các phản ứng thẩm mỹ. Do đó cần xác

định những đặc điểm của tính thẩm mỹ và các sản phẩm có liên quan đến nhiệm vụ

thiết kế thẩm mỹ [96].

1.2.2.3. Khái niệm thiết kế dàn trang

Thiết kế dàn trang (Page layout, Mise en page, Maquette) còn có thể được

gọi bằng các tên như thiết kế đồ hoạ ấn loát, đồ hoạ sách, thiết kế báo chí vì vậy

trong một số từ điển đã có những khái niệm như sau:

Theo từ điển Anh -Anh - Việt, Nxb Văn hóa Thông tin: Layout có nghĩa là

cách bố trí, cách trình bày. Trong từ điển Anh - Việt, Nxb Văn hóa Thông tin ấn

hành năm 2013 cũng đưa ra khái niệm Layout có nghĩa là cách bố trí, trình bày.

Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam 2, Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa, Hà

Nội (2002).

Ma-ket (Maquette), mẫu dự kiến về hình thức trình bày một cuốn sách, một

tờ báo, một ấn phẩm nói chung để nhà in căn cứ vào đó mà thực hiện công

việc làm ra sản phẩm.

Maket báo, Bản phác thảo cách sắp đặt, trình bày bài, tin, ảnh trên các trang

báo; có định rõ vị trí, số cột (để chỉ bề ngang), chiều cao; có ghi kiểu chữ

dành cho bài, tin và cho các tiêu đề chính và phụ; nếu bài, tin dài không đăng

trọn trong trang thì ghi rõ phần tiếp xem ở trang nào. Nhà in dựa theo đó để

lên trang. Nay làm ma-ket trên máy vi tính.

Theo Viện Từ Điển học và Bách khoa thư Việt Nam:

Đồ hoạ sách, bộ môn nghệ thuật tạo ra hình thức đẹp cho những cuốn sách in

(hoặc chép tay). Ngoài việc trình bày bìa, vẽ phụ bản và minh hoạ, môn đồ

32

hoạ sách quan tâm xử lí trước hết đến kích thước, khuôn khổ sách, chủng

loại giấy và bìa, lựa chọn kiểu dáng chữ, mực in, cách dàn trang chữ hay

tranh ảnh, kĩ thuật khâu, ghim, đóng gáy sách, vv. Cao hơn nữa, đồ hoạ sách

chăm lo cả hình thức áo bìa, hộp đựng sách, vv. Nhà đồ hoạ sách phải hiểu

sâu mọi chủng loại giấy bìa và mực, thành thạo trong xử lí các dạng chữ in

và biết khai thác mọi kĩ thuật ấn loát từ thủ công đến hiện đại [31, tr.824].

Từ đó rút ra khái niệm: thiết kế dàn trang ấn phẩm xuất bản (Page layout,

Mise en page) là một thuật ngữ ghép do ngôn ngữ du nhập chưa tìm ra được một từ

thay thế. Đây là một thể loại nằm trong ngành thiết kế đồ họa (Graphic design).

Thiết kế và trình bày sách là công việc của người họa sĩ thiết kế nhằm mục đích làm

sáng tỏ hơn và làm đẹp hơn nội dung của tác phẩm văn học. Cũng công việc tương

tự như vậy đối với báo chí nhằm làm rõ ràng, mạch lạc, hấp dẫn nội dung thông tin

truyền thông. Việc sử dụng thuật ngữ kép thiết kế dàn trang mới chỉ ra được đúng

bản chất của công việc, đó là việc xây dựng những ma-két sách báo trước khi mang

đi in ấn xuất bản.

Cần phải nói rõ rằng TKDT ấn phẩm là một chuyên ngành nằm trong ngành

thiết kế đồ họa, có những liên hệ đến một số lĩnh vực nghệ thuật và nghề nghiệp mà

tập trung vào truyền thông, hình ảnh và trình bày. TKDT sử dụng nhiều phương

pháp để tạo ra và kết hợp các biểu tượng, hình ảnh và chữ để tạo ra một sự trình bày

thị giác cho những ý tưởng và thông điệp. Nhà thiết kế đồ họa có thể sử dụng nghệ

thuật chữ, kỹ thuật dàn trang, và những hiệu quả của nghệ thuật thị giác nhằm tạo ra

những ấn phẩm hoàn hảo. TKDT thường đề cập đến hai quá trình thiết kế để tạo ra

các giao tiếp thông tin và các sản phẩm thiết kế để phát hành. Không giống với các

thể loại thiết kế đồ họa khác như quảng cáo, bao bì sản phẩm, thiết kế website, gói

sản phẩm của TKDT luôn là một ấn phẩm cụ thể. Các văn bản hình ảnh được trình

bày với sự hỗ trợ của các yếu tố thiết kế cơ bản như đường nét, mảng miếng và màu

sắc. Đặc điểm kỹ năng quan trọng là sự phối hợp các dữ liệu, yếu tố có sẵn trong

yêu cầu hoặc các thành tố khác nhau.

33

1.2.3. Khái quát về Thẩm mỹ truyền thông

1.2.3.1. Khái niệm về Thẩm mỹ, Truyền thông và Thẩm mỹ truyền thông

Khái niệm Thẩm mỹ (Aesthetic)

Theo Đại từ điển tiếng Việt [78] cho thấy Thẩm mỹ là khả năng cảm thụ và

hiểu biết về cái đẹp. Trong Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê có ghi về thẩm mỹ:

Thẩm mỹ - Cảm thụ và hiểu biết về cái đẹp. Khiếu thẩm mỹ. Giá trị thẩm mỹ. Chức

năng thẩm mỹ của văn học. Theo từ điển Anh - Anh - Việt, Nxb Đại học Quốc Gia,

Hà Nội (2017): Aesthetic có nghĩa là thẩm mỹ, có liên quan đến cái đẹp hoặc nghệ

thuật. Aesthetic có nghĩa là mỹ học, thẩm mỹ. Aesthetic là cảm nhận về cái đẹp.

Theo từ điển Anh - Việt, Nxb Văn hóa Thông tin: Aesthetic có nghĩa là thuộc về

thẩm mỹ, có khiếu thẩm mỹ hay có óc thẩm mỹ. Theo từ điển Hán - Việt, Nxb Văn

hóa thời đại (2015): Thẩm mỹ có nghĩa là hiểu biết và thưởng thức cái đẹp. Theo từ

điển Hán - Việt, Đào Duy Anh, Nxb Văn hóa thông tin (2013): Thẩm mỹ, xét biết

cái đẹp cái xấu.

Thuật ngữ “aesthetic” trong tiếng Anh đồng thời cũng dịch là mỹ học. Mỹ

học, được phát kiến bởi triết gia người Đức Alexander Baumgarten (1750-1758),

cung cấp lý thuyết về sự nhận thức và thưởng thức cái đẹp trong nghệ thuật, trong

thiên nhiên và trong xã hội [28]. Nghệ thuật là lĩnh vực tập trung cao nhất mối quan

hệ thẩm mỹ của con người đối với hiện thực. Nói đến nghệ thuật, ta hay nói đến

thẩm mỹ hay sự nhận thức và thưởng thức cái đẹp. Là một hình thái ý thức đặc thù

của con người, nghệ thuật không chỉ gắn liền với cái đẹp mà còn là nơi con người

gửi gắm tư tưởng, khát vọng về cuộc sống. Chính vì vậy nghệ thuật có nhiều chức

năng khác nhau như giáo dục, nhận thức, giải trí, và đặc biệt là thẩm mỹ.

Trong quá trình định nghĩa, nghiên cứu và sử dụng, “mỹ học” được ví như

một cây có nhiều nhánh và luôn luôn phát triển cho phù hợp với hoàn cảnh văn hóa

xã hội tương ứng, bởi vì nó luôn tồn tại trong thiên nhiên, trong xã hội và trong

nghệ thuật. Đây chính là luận cứ quan trọng, là cơ sở để phát triển những nghiên

cứu tiếp theo về chuyển biến thẩm mỹ trong từng thể loại nghệ thuật đặc thù khác

nhau, mà cụ thể ở đây là nghệ thuật TKDT ấn phẩm.

34

Trong khuôn khổ luận án này, thuật ngữ “aesthetic” được sử dụng theo nghĩa

“thẩm mỹ” do thuật ngữ ghép “communication aesthetics” có phạm vi hẹp và bản

thân nó nằm trong lĩnh vực mỹ học, một phạm trù rộng lớn hơn chứa đựng thẩm

mỹ. Từ đó có thể rút ra khái niệm thẩm mỹ (aesthetic) là khả năng cảm thụ và hiểu

biết về cái đẹp.

Khái niệm Truyền thông (Communication)

Theo Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam gỉải thích khái niệm

truyền thông như sau.

Truyền thông (báo chí), quá trình trao đổi thông điệp giữa các thành viên hay

các nhóm người trong xã hội nhằm đạt được sự hiểu biết lẫn nhau. Hoạt động

trao đổi thông điệp có tính phổ biến giữa nguồn phát với công chúng xã hội

rộng rãi được gọi là truyền thông đại chúng.

Truyền thông (tin), x. Liên lạc.

Truyền thông Báo (A. message passing), việc gửi một số thông tin từ đối

tượng này sang đối tượng khác. Trong lập trình hướng đối tượng, các đối

tượng liên hệ với nhau qua cơ chế truyền thông báo, chỉ rõ đối tượng nhận

thông báo, hành động mà đối tượng nhận phải thực hiện và các tham biến

cho việc thực hiện hành động đó.

Theo từ điển số hoá Việt cho biết. Truyền thông, thông tin và tuyên truyền

nói chung, (kĩ thuật) truyền dữ liệu theo những quy tắc và cách thức nhất định.

Từ đó có thể rút ra khái niệm truyền thông được hiểu theo hai góc độ chính,

đó là sự tương tác trao đổi thông điệp giữa con người với con người và sự truyền

gửi một số thông tin liên lạc trông cộng đồng và xã hội.

Khái niệm thẩm mỹ truyền thông (Communication aesthetics)

Theo cuốn Phenomenology of New Tech Arts (Hiện tượng học về nghệ thuật

công nghệ mới) của Mario Costa năm 2005 và For an aesthetics of communication

(Dành cho thẩm mỹ truyền thông), được xuất bản đầu tiên bằng tiếng Pháp năm

1983 của Fred Forest có thể rút ra:

Thẩm mỹ truyền thông là một lý thuyết thẩm mỹ đề cập đến thực hành nghệ

35

thuật hoạt động thông qua sự phát triển mang tính cách mạng và các mô thức của

công nghệ truyền thông cuối thế kỷ thứ 20. Nhận thức những vấn đề đang bùng nổ

thông qua các thể loại tạo nên một bức tranh toàn cảnh, hay còn được gọi như là

một cách tiếp cận nghệ thuật, và tập trung nghiên cứu những chuyển biến trong

cuộc chạy đua xã hội công nghệ [113]. Thẩm mỹ truyền thông nằm trong hệ thống

lý thuyết nghiên cứu nghệ thuật thị giác, thuộc trường phái nghệ thuật hậu hiện đại.

1.2.3.2. Sự ra đời và phát triển của lý thuyết Thẩm mỹ truyền thông

Thẩm mỹ truyền thông được phát kiến vào tháng 10 năm 1983 tại Mercato

San Severino nước Ý bởi Mario Costa (Giáo sư mỹ học Đại học tổng hợp Salerno,

Cộng hòa Ý) và Fred Forest (Nghệ sỹ thực hành nghệ thuật đa phương tiện, Giáo sư

nhiều trường đại học Pháp). Trong sự kiện lấy tên là Artmedia, dành cho Video Art

do Mario Costa tổ chức dưới sự bảo trợ của đài Truyền hình Quốc gia Ý (RAI),

Fred Forest đã được mời đến để thực hiện các tác phẩm trình diễn và sắp đặt. Sau

các cuộc tiếp xúc, hai người đã phát hiện mối quan tâm chung và sự đồng cảm trong

tiến trình gia tăng vị thế của nghệ thuật đương đại trong xã hội cùng với sự bùng nổ

của công nghệ thông tin liên lạc. Mario Costa và Fred Forest đã dự thảo và ký một

bản tuyên ngôn với sự làm chứng của nghệ sĩ người Argentina Horacio Zabala.

Ngay sau đó họ lập một danh sách các nghệ sĩ thực hành trong trào lưu nghệ thuật

mới mà họ vừa định danh lý thuyết thẩm mỹ, tất cả đã nhất trí liên kết với nhau tạo

nên một nhóm quốc tế không chính thức. Đồng thuận về TMTT, Derrick de

Kerckhove, giám đốc chương trình Marshall McLuhan trong Văn hóa và Công nghệ

tại Đại học tổng hợp Toronto, đã thảo luận trực tiếp với Fred Forest và Mario Costa

để thành lập một nhóm nghệ sĩ Canada mang tên "nghệ thuật chiến lược" (Strategic

Arts) để hưởng ứng đối với các quan điểm và mục tiêu mới. Trong nhóm này có

Norman White, một nghệ sỹ tiên phong trong nghệ thuật công nghệ điện tử và

người máy cũng tham gia.

Cùng với phát hiện của Mario Costa và Fred Forest, xuất hiện một trào lưu

quốc tế về TMTT diễn ra trong các bối cảnh khác nhau tại Paris như “Điện tử Frank

Popper” tháng 12 năm 1983, “Trao đổi và nhận định Blaise Gautier” tại Trung tâm

36

Pompidou tháng 5 năm 1984, Hội thảo về truyết học của nghệ thuật do Olivier

Revault D'Allonnes chủ trì tại đại học Sorbonne. Từ năm 1985 cho đến nay, hội

nghị quốc tế về Mỹ học Truyền thông và Đa phương tiện mang tên Artmedia được

xác lập chính thức và điều hành tại Đại học Salerno.

Thẩm mỹ truyền thông vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu và ứng dụng,

nhưng vì lý do địa lý mà hiện nay chia làm ba trung tâm của thế giới có chung quan

điểm, nguyên tắc và hành động. Mario Costa giữ vững và đẩy mạnh hoạt động tại

đại học Salerno, Naples, nước Ý. Trong khi Fred Forest hoạt động tại Pháp, giáo sư

giảng dạy quan điểm thẩm mỹ mới đồng thời thực hành nghệ thuật đương đại tại đại

học Nice Sophia Antipolis, đại học nghệ thuật quốc gia Cergy và đại học Sorbonne

Paris 1. Còn Derrick de Kerckhove nắm giữ các mối liên hệ tại bắc Mỹ, giám đốc

chương trình Marshall McLuhan tại đại học Toronto, Canada [99].

1.2.3.3. Cơ sở lý luận của Thẩm mỹ truyền thông

Trong bài viết For an aesthetics of communication (Dành cho thẩm mỹ

truyền thông), được xuất bản đầu tiên bằng tiếng Pháp năm 1983 Fred Forest đã

trình bày những quan điểm cơ bản cho thấy căn nguyên và tính tất yếu của thẩm mỹ

truyền thông.

Công nghệ và truyền thông đã tái cấu trúc xã hội, cung cấp công cụ sáng tạo

mới cho các nghệ sĩ thực hành

Điện, điện tử và công nghệ máy tính hiện nay đã đưa chúng ta tiến vững chắc

vào xã hội truyền thông. Công nghệ này là trung tâm của sự thay đổi đã tái

cấu trúc xã hội con người trong hơn một thế kỷ, sự chuyển đổi không chỉ

trong môi trường cụ thể mà còn trong cả hệ thống tư duy của chúng ta. Điện,

điện tử và máy tính ngày nay cung cấp cho các nghệ sĩ các công cụ mới của

sự sáng tạo. Ngày càng nhiều, mọi thứ xung quanh chúng ta đang được

chuyển đổi theo hướng này, cùng với sự điều chỉnh gia tăng không ngừng

trước một thực tế luôn thay đổi, không còn nghi ngờ nữa đây chính là điều

quan trọng nhất hiện nay. Vì lý do này, chúng ta nhất thiết phải xem xét lại

nhận thức của chúng ta để nắm bắt thế giới mà chúng ta đang sống [113].

37

Nghệ thuật đương đại được công chúng hoá, kêu gọi sự tương tác giữa tác

giả, tác phẩm và người thưởng thức

Về cơ bản, Thẩm mỹ truyền thông cho rằng một sự song hành của công nghệ

truyền thông và tiến trình phát triển nghệ thuật sẽ công chúng hóa và do vậy làm rõ

các ý nghĩa của các sản phẩm nghệ thuật đương đại, thay thế mục đích của nghệ

thuật là tạo ra những sản phẩm nghệ thuật cụ thể bằng sự tương tác xã hội: "các

nghệ sĩ ngày nay can thiệp trực tiếp trên thực tế, điều đó cho thấy việc đưa ra các

hành động mang tính biểu tượng và thẩm mỹ của nghệ sĩ mang đến nhiều ý nghĩa

khác nhau từ những cái mà nghệ sĩ đã thể hiện cho đến nay." Nhưng TMTT đẩy

điều này đi xa hơn, bằng cách kêu gọi sự tham dự tương tác trên thực tế, nó sáng tạo

cùng với khán giả tạo nên góc nhìn hai chiều [89].

Nghệ thuật đương đại không đề cao vai trò cá nhân nghệ sĩ mà chú trọng

vào quá trình sáng tạo

Cuộc chơi này là tạo ra một hình thức của một nghệ thuật đầy hào hứng vì nó

làm mờ đi vấn đề định danh và hạn chế của những hình thức trước đây. Các mảng

ghép của thẩm mỹ học truyền thông được nhìn nhận cởi mở bởi những người sáng

lập, giờ đây các nghệ sĩ sẽ trở thành một "thực hành xã hội", trở thành một người

trình diễn mang tính xã hội. Việc giảm vai trò cá nhân và kêu gọi sức mạnh, và sự

cộng hưởng như là một mô thức của cuộc chơi nghệ thuật. Các nghệ sĩ có trách

nhiệm coi sức mạnh này như của chính mình, và phải đương đầu với thế giới xung

quanh cùng với nó.

Công nghệ và truyền thông tự nó đã hàm chứa tính sáng tạo và phi sáng tạo

Việc xác định vị trí chính trị-xã hội còn đi xa hơn nữa. Khi các nghệ sĩ kêu

gọi sự nhìn nhận đối với bản chất sáng tạo cũng như phi sáng tạo của công nghệ, và

đặc biệt là công nghệ thông tin. Những phân tích về các khía cạnh hình thức và

chức năng của truyền thông mà TMTT đề cập: "Phải thừa nhận từ nay trở đi rằng

lịch sử và sự khởi đầu của sự hình dung trí tưởng tượng là hiển nhiên trong công

nghệ vượt lên trên những cái mà nhận thức của chúng ta hay phụ thuộc, và do đó

ngày nay in đậm trong công nghệ truyền thông" [89].

38

Công nghệ và truyền thông thay đổi cách tiếp cận về không gian và thời gian

Thẩm mỹ truyền thông thúc đẩy những hàm ý tâm sinh lý của những sáng

tạo công nghệ đi lên, xây dựng sự biến đổi đồng thời của chúng trong quan niệm

của chúng ta về không gian và thời gian. Cũng như phương tiện giao thông đã thay

đổi cách tiếp cận và trải nghiệm về nhà ở và khái niệm địa phương của chúng ta,

TMTT chỉ ra những sáng tạo công nghệ thông tin sẽ thay đổi cách tiếp cận của

chúng ta về sự tương tác của con người. "Sự kết nối các máy tính với nhau và với

các thiết bị khác là bước tiên phong của việc mở ra các mạng lưới viễn thông và loại

bỏ những hạn chế nhất định về khoảng cách". Và tất nhiên nó giúp các nghệ sĩ nhận

biết và khai thác những điều này để thực hành sáng tạo cùng với những phát triển

của truyền thông: "Chúng ta cần lưu ý rằng tất cả những chuyển đổi mang lại bởi hệ

thống phương tiện truyền thông đã tổ chức lại toàn bộ hệ thống của biểu hiện thẩm

mỹ mà ta không biết" [89].

Mối liên hệ giữa công nghệ và nghệ thuật tạo ra xu hướng thực tế ảo

Cuối cùng, Thẩm mỹ truyền thông làm việc với một khía cạnh hóc búa khác

của sự cải tiến công nghệ, nhận thức và cảm thụ trở nên khó đoán bắt từ sự trỗi dậy

của những vấn đề thực tế ảo. Rất có thể, sẽ khuyến khích sự lệch lạc trong cảm nhận

xã hội, TMTT tìm cách đóng khung những vấn đề đang nổi lên chứ không phải né

tránh chúng. Một lần nữa, TMTT tìm cách nhận định các mối liên hệ xã hội và sự

ảnh hưởng bởi sự kết hợp giữa cách mạng truyền thông và đổi mới nghệ thuật trên

cả cấp độ nguyên tắc và chức năng.

Thực hành nghệ thuật đương đại với tuyên ngôn thẩm mỹ mới

Mục tiêu của các nghệ sĩ truyền thông chắc chắn không phải để đưa ra những

ý nghĩa mức độ sơ khai, nhưng trên hết là làm cho chúng ta nhận thức được như thế

nào, cuối cùng việc thực hành tổng quát truyền thông tác động tới hệ thống giác

quan của chúng ta. Cuộc cách mạng này nhằm xác định các vấn đề cho một "nhận

thức mới" với những lý giải cao nhất, và sau cùng với cách cảm nhận mới sẽ mở ra

lối đi cho một thẩm mỹ mới [89].

39

1.2.3.4. Một số thẩm mỹ liên quan đến nghệ thuật thị giác và sự phù hợp của

lý thuyết Thẩm mỹ truyền thông trong thiết kế tạp chí

Bàn về thẩm mỹ trong nghệ thuật thiết kế dàn trang cũng có một số cơ sở lý

thuyết liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới lĩnh vực này. Ví dụ như Thẩm mỹ thông

tin (Information aesthetics) do Lev Manovich, giáo sư (GS) khoa học máy tính tại

Đại học Thành phố New York đưa ra năm 2004; Thẩm mỹ thị giác (Visual

aesthetics) của Noam Tractinsky, giáo sư Đại học Ben-Gurion, Israel đưa ra năm

2008; Thẩm mỹ tương tác (Interaction aesthetics) do GS. Caroline Hummels và GS.

Kees Overbeeke, Đại học công nghệ Eindhoven, Hà lan đưa ra năm 2010. Trong khi

hai lý thuyết trên đều chủ yếu nghiên cứu mối liên hệ tương tác giữa con người và

máy tính thì lý thuyết Thẩm mỹ tương tác trực tiếp nghiên cứu thẩm mỹ trong

ngành thiết kế mỹ thuật. GS. Caroline Hummels và GS. Kees Overbeeke đã cố gắng

chứng minh thiết kế không phải là một công nghệ làm đẹp, vẻ đẹp không phải là

mục đích duy nhất, thiết kế đã tham gia vào một phong trào giải phóng, hướng tới

sự phát triển văn hóa của thời gian. Tuy nhiên các lý thuyết này còn khá sơ khai và

chưa thực sự có một sự lan tỏa rộng khắp trên thế giới. Trong khi đó lý thuyết Thẩm

mỹ truyền thông có đầy đủ cơ sở lý luận, nghiên cứu sâu và rộng khắp trên thế giới

tạo được một trào lưu dành cho các nghệ sỹ, nhà nghiên cứu hoạt động trong lĩnh

vực nghệ thuật thị giác ngày nay.

Nghệ thuật thiết kế dàn trang (TKDT) có mặt từ rất sớm, gắn liền với những

cuốn sách đầu tiên và sau này là báo chí và các ấn phẩm khác. Tuy vậy vị trí của

ngành nghề này không phải lúc nào cũng được coi trọng đúng với vai trò của nó.

Trong các nhà xuất bản, các tòa soạn báo, TKDT luôn được coi là khâu phục vụ nội

dung thông tin văn học và thường không được đề cao. Chỉ đến khi kinh tế thị trường

phát triển và đòi hỏi ngày càng cao, TKDT mới phát huy được thế mạnh của mình

và tỏ rõ ưu thế riêng biệt của mình. Trong mỹ thuật ứng dụng thì TKDT luôn là một

phần quan trọng và phát triển hàng ngày hàng giờ cùng với nhịp sống xã hội cũng

như những bước phát triển của trào lưu nghệ thuật đương đại. Đó là lý do TKDT

không thể đứng ngoài sự đi lên của quá trình phát triển tư duy thẩm mỹ, mà ngày

40

nay TMTT là cơ sở nhận thức phù hợp nhất với nghệ thuật đương đại.

Các nghiên cứu Thẩm mỹ truyền thông đầu tiên được chia làm ba trung tâm

Naples ở Ý, Paris ở Pháp, Toronto ở Canada. Từ đây TMTT tỏa đi khắp châu Âu,

bắc Mỹ, khu vực Địa Trung Hải và mới nhất là châu Á. Tại Trung Quốc đã ra đời

bốn cuốn sách bàn riêng về TMTT. Tác giả Zhang Han với cuốn Thẩm mỹ truyền

thông hiện đại (Modern communication aesthetics) – Nxb China Publishing House,

tác giả Yu Xiong Hua với cuốn Thẩm mỹ truyền thông (Communication aesthetics)

- Nxb Central South University Press, tác giả Ceng Yao Nong với cuốn sách trùng

tên Thẩm mỹ truyền thông hiện đại (Modern communication aesthetics) – Nxb

Tsinghua University Press Publishing, tác giả Yao Heming với cuốn Dẫn luận về

thẩm mỹ truyền thông (Introduction to communication aesthetics) – Nxb Học viện

truyền thông Bắc Kinh, các cuốn sách đã đề cao TMTT như một lý thuyết hiện đại

nhất nhằm đáp ứng những nhu cầu thẩm mỹ tương thích các thực hành nghệ thuật

đương đại phát triển không ngừng. Ở Việt Nam thì chưa thực sự có công trình

nghiên cứu nào đề cập đến vấn đề này. Điều này là chưa thích đáng khi nghệ thuật

thị giác nói chung và mỹ thuật ứng dụng nói riêng của Việt Nam đang cố gắng bắt

kịp với xu thế của thời đại. Việc thiếu một cơ sở lý thuyết ảnh hưởng khá nhiều đến

thành công và hướng đi của nghệ thuật TKDT nhiều tiềm năng.

1.3. Khái quát về thiết kế tạp chí Heritage

Các ấn phẩm tạp chí thương mại giải trí của thời đại chúng ta như được thiết

kế dàn trang để đáp ứng các áp lực của thị trường chứ không phải đáp ứng các yêu

cầu của văn hóa hay nghệ thuật, điều này dường như không còn phù hợp với nhận

thức sâu sắc cần có của con người và thời đại. Quy trình thiết kế dàn trang (TKDT)

cũng phải dựa trên các hệ thống liên quan như xuất bản, quảng cáo, in ấn, phát

hành… vô hình chung lại đưa thẩm mỹ trở lại với quá khứ, hầu như không tạo nên

được một ngôn ngữ cụ thể cho thời đại mà chúng ta đang sống. Đây là vấn đề khá

nghiêm trọng trong chừng mực áp lực của kinh tế thị trường đã tạo ra khả năng

những vấn đề ngoại lai quyết định sản phẩm và xa lạ với những mối quan tâm về

nghệ thuật. Hiện tượng này rất may không xảy ra đối với tạp chí Heritage (TCH) do

41

ban biên tập đã đầu tư rất mạnh mẽ vào khâu TKDT để phù hợp với nội dung văn

hóa chuyển tải nhằm đáp ứng với vị thế của hãng Hàng không quốc gia Việt Nam.

Tạp chí Heritage (TCH) ra đời tháng 6 năm 1993 với mục tiêu là một bộ

phận cấu thành không thể thiếu được của hệ thống dịch vụ trên máy bay của

Vietnam Airlines. Ấn phẩm TC trên máy bay sẽ là một nhịp cầu văn hóa chuyển tải

đến bạn đọc về một Việt Nam đổi mới, thân thiện, mến khách, và giàu giá trị văn

hóa, di sản và truyền thống. Tạp chí cũng là cầu nối để các nhà đầu tư, khách du

lịch đến với Việt Nam. Với sự đầu tư công phu và đúng hướng, Heritage thực sự đã

vượt ra khỏi tầm vóc của một cuốn TC trên máy bay thông thường để trở thành một

ấn bản đại diện cho Việt Nam, một cánh cửa văn hóa nối Việt Nam với thế giới.

“Tạp chí Heritage có ưu thế tuyệt đối về kênh phát hành mà không ấn phẩm

nào có được”, ông Lương Thế Phúc, tổng biên tập thứ ba (2004-2008) của tạp chí

cho biết. Heritage là TC duy nhất được xếp trên từng ghế ngồi tất cả các máy bay

của Vietnam Airlines với 94 chặng bay quốc tế và nội địa. Hàng tháng thống kê có

khoảng 1,6 triệu lượt độc giả, trong đó đa phần thuộc nhóm thu nhập cao. Tỷ lệ độc

giả nam là 67% và nữ là 33 %, trong đó có 72% độc giả trên 35 tuổi. Tính riêng

năm 2013, số báo phát hành là 1 triệu 400 ngàn cuốn và doanh thu quảng cáo đạt

100 tỷ đồng. Năm 2016 có hơn 19 triệu lượt độc giả cao cấp, chuyển tải 1400 trang

quảng cáo cho 500 thương hiệu. Đây là nét đặc sắc và những số liệu chứng minh sự

lựa chọn xứng đáng dành cho TCH để có thể đại diện cho các TC ở Việt Nam.

Những bước đầu phát triển của TCH cũng rất đặc biệt và có ảnh hưởng rõ nét

về sau. Ông Lương Hoài Nam, tổng biên tập thứ hai (1997-2004) cho biết “Số TC

Heritage đầu tiên ra đời, mọi thứ đều không đơn giản vì lĩnh vực xuất bản khi đó ở

Việt Nam chưa phát triển, chúng tôi đã quyết định hợp tác với một đối tác nước

ngoài”. Với sự hỗ trợ về chuyên môn của công ty Region Air Media (Singapore), số

TCH đầu tiên xuất bản tháng 6 năm 1993 (Số đầu tiên có tên là Open Skies, bắt đầu

từ số thứ hai mới có tên là Heritage). Toàn bộ công việc chuẩn bị nội dung, thiết kế,

chế bản được thực hiện ở Singapore. Ngay khi ra đời, Heritage được đánh giá là ấn

phẩm cao cấp nhất Việt Nam vào thời điểm đó. Cùng với sự phát triển của thị

42

trường xuất bản trong nước, các công đoạn xuất bản tạp chí dần dần được chuyển về

làm ở Việt Nam. Thông điệp của Heritage là “Đem Việt Nam đến với thế giới, đem

thế giới đến với Việt Nam”. Tổng biên tập thứ ba Lương Thế Phúc nhận định,

“Heritage vẫn luôn là một ấn phẩm sang trọng, đan xen và hòa quyện giữa quá khứ

và tương lai, di sản với hiện tại, Heritage không chỉ là một ấn phẩm mà còn là một

tác phẩm nghệ thuật”.

Vậy là nhờ sự phát triển đi lên của lĩnh vực xuất bản trong nước, từ chỗ

những số đầu tiên của TCH thiết kế in ấn thực hiện ở Singapore đến nay đã chuyển

hoàn toàn về Việt Nam. Điều thú vị ở chỗ phong cách dàn trang tinh tế và sang

trọng của Heritage đã được tiếp thu vững chắc và phát huy ngày càng mạnh mẽ, đã

được Việt hóa hoàn hảo và đầy tiềm năng. Nghệ thuật dàn trang ấn phẩm TC mới

mẻ đã du nhập vào Việt Nam rất trực tiếp và hòa nhập với xã hội ta một cách rất tự

nhiên, một thẩm mỹ mới đã xuất hiện thông qua nghệ thuật này.

Theo kết quả điều tra khảo sát cho đến tháng 7 năm 2018 trên 300 độc giả

của TCH có tới 62,3% đánh giá đẹp; 23% đánh giá tinh tế sang trọng. Điều TCH lôi

cuốn độc giả đầu tiên có 53,7% là hình ảnh đẹp; 31,7% là thiết kế dàn trang đẹp. Có

tới 92,3% độc giả cho rằng nghệ thuật thiết kế dàn trang TCH là rất dễ đọc; 78,7%

cho rằng TCH có phong cách riêng; 75% đồng ý TCH mang bản sắc dân tộc Việt

Nam; 84,3% cho rằng TCH bắt kịp được với xu thế của thời đại. Đặc biệt có tới

91,3% cho rằng TCH hài hoà giữa nội dung và hình thức, hầu hết cho rằng nghệ

thuật TCH có đóng góp cho truyền thông và là miểu tượng thể hiện được vị trí TC

hàng đầu. Những con số mới nhất cho thấy sự nhìn nhận của độc giả Việt Nam về

TCH là rất đáng ngưỡng mộ và xứng đáng là TC Việt Nam tiêu biểu để nghiên cứu,

đánh giá [PL.2, tr.261].

Tiểu kết

Nghệ thuật thiết kế dàn trang ấn phẩm tạp chí ra đời từ rất sớm, gắn liền với

sự xuất hiện của ấn phẩm báo chí đầu tiên trên thế giới đầu thế kỷ thứ 17. Nghệ

thuật TKDT ấn phẩm TC đã trải qua những bước phát triển không ngừng về thẩm

mỹ dưới sự tác động của các trào lưu nghệ thuật như phong trào Nghệ thuật và Thủ

43

công mỹ nghệ tại Anh thế kỷ 19 do John Ruskin và William Morris khởi xướng,

phong trào Hội họa ấn tượng cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 tại Pháp cùng với ngành

thiết kế đồ họa quảng cáo, trường phái nghệ thuật Bauhaus ở Đức rồi lan truyền

sang Mỹ thế kỷ thứ 20, cuộc cách mạng thông tin - công nghệ và nay là công nghiệp

4.0 diễn ra trên toàn thế giới.

Xuất hiện vào những năm 80 cuối thế kỷ trước, TMTT đã giải quyết những

bất cập của thẩm mỹ truyền thống trước sự phát triển của các loại hình nghệ thuật

đương đại ngày một đa dạng. Thẩm mỹ truyền thông nghiên cứu các vấn đề lý

thuyết liên quan đến thực hành nghệ thuật dựa trên cơ sở của sự phát triển mang

tính cách mạng trong công nghệ truyền thông, đồng thời tạo ra một cách tiếp cận

mới đối với nghệ thuật đương đại. Các tài liệu nghiên cứu về TMTT còn chưa

nhiều, đặc biệt ở Việt Nam mới chỉ có những luận điểm khá gần với lý thuyết thẩm

mỹ này. Tài liệu về thiết kế dàn trang ấn phẩm TC ở Việt Nam chủ yếu đề cập đến

vấn đề thực hành kỹ thuật mà chưa đề cập nhiều đến tính thẩm mỹ.

Thẩm mỹ truyền thông đã mang tới cho nghệ thuật TKDT ấn phẩm TC một

diện mạo mới phù hợp với văn hóa, lối sống thời đại công nghệ số. Cùng với sự

chuyển biến về thẩm mỹ của nghệ thuật đương đại, TKDT thể hiện mạnh mẽ tính

thời đại của công nghệ truyền thông kỹ thuật số bằng sự biểu đạt TMTT trong cả

nội dung và hình thức trình bày. Ở Việt Nam, các TC đặc biệt là TC thương mại

giải trí đã bắt kịp với xu thế chung của thế giới thể hiện vai trò và sức mạnh của một

trong những loại hình truyền thông quan trọng trong bối cảnh xã hội chuyển mình

với nền kinh tế mở cửa và hội nhập. Tạp chí Heritage của Hãng hàng không quốc

gia Việt Nam với lợi thế vượt trội về kênh phát hành và đầu tư, đi đầu trong việc

giới thiệu cho bạn bè thế giới về văn hóa di sản văn hoá, nghệ thuật và du lịch của

Việt Nam; quy tụ những nhà văn, nhà báo, nghệ sĩ hàng đầu của Việt Nam với

những trang báo được TKDT đẳng cấp, xứng đáng là đại diện cho tinh thần của

TMTT của thời đại.

44

Chương 2

NGHỆ THUẬT THIẾT KẾ TẠP CHÍ HERITAGE

2.1. Nghệ thuật thiết kế bìa tạp chí Heritage

Chúng ta đều biết không thể đánh giá một cuốn sách qua bìa của nó, nhưng

riêng với ấn phẩm tạp chí (TC) lại là điều có thể. Trang bìa của TC thực chất là bộ

mặt hoàn chỉnh đại diện cho tư tưởng của TC, bao gồm toàn bộ nội dung, ý tưởng,

quan điểm và cả phong cách thiết kế. Chính vì vậy khi bị thu hút bởi trang bìa một

cuốn TC, quyết định mua nó, ta không chỉ sở hữu nó mà còn trở thành độc giả của

TC đó. Và khi nội dung chủ đề của TC thỏa mãn đúng nhu cầu thông tin, văn hoá

cần thiết, ta sẽ trở thành độc giả trung thành của nó. Kể từ đây, diện mạo của trang

bìa TC ta yêu thích sẽ là niềm tự hào và là nỗi mong chờ với từng số xuất bản.

Hầu hết các loại TC đều có chung một khái niệm về trang bìa. Theo quan

niệm của ngành xuất bản, tạp chí có bìa 1, bìa 2, bìa 3, bìa 4, bìa gấp và bìa phụ.

Khái niệm trang bìa đề cập ở đây chỉ là bìa 1, tức là bìa đứng ở vị trí đầu tiên trong

thứ tự các trang tạp chí. Năm 1865 tờ báo tiếng Việt đầu tiên có tên “Gia Định báo”

được xuất bản tại Sài Gòn. Ở buổi đầu của báo chí Việt Nam, cũng chưa có sự phân

định rạch ròi giữa nhật báo và tạp chí, tuy nhiên trang bìa TC (ở nhật báo là trang

nhất) luôn đóng vai trò quan trọng số một của tờ báo. Cùng với tổng thể tờ báo,

trang bìa cũng luôn phải đảm bảo những tính chất của báo chí như tính thông tấn,

tính thời sự, tính minh bạch, tính cập nhật, thông tin phải nhiều chiều, phong phú đa

dạng cả về nội dung lẫn hình thức thể hiện. Đối tượng của báo chí là công chúng đủ

mọi tầng lớp nên cần ấn tượng và dễ nhớ.

2.1.1. Cấu trúc thiết kế bìa tạp chí Heritage

Bìa của ấn phẩm tạp chí Heritage (TCH) thực sự là một thách thức cho bất

cứ nhà thiết kế nào. Trang bìa phải luôn được nhận diện theo phong cách đã định

hình nhưng cũng phải luôn biến đổi tùy theo nội dung chủ đề từng số xuất bản để

tránh sự nhàm chán. Chính vì vậy, cấu trúc của bìa TCH phải gắn chặt vào một bộ

khung định dạng tiêu chuẩn và những biểu mẫu cho văn hoá và di sản. Tên của TC

45

luôn được đặt ở trên cùng, để dễ dàng nhận diện tên thương hiệu. Điều quan trọng

là giới thiệu cái mới của số xuất bản, bìa TCH phải cho độc giả nhận thấy là họ

chưa đọc số này. Để giải quyết vấn đề này đơn giản nhất là sử dụng màu sắc khác

nhau qua từng số báo. Ngoài ra bản thân các hình ảnh hay tít chữ tuy phải tuân thủ

phong cách, nhưng vẫn mang đặc điểm riêng. Nhìn chung cấu trúc bìa của TCH bao

gồm những thành phần chính như, tên tạp chí, tên cơ quan chủ quản Hãng hàng

không Quốc gia Việt Nam song ngữ Anh - Việt, số xuất bản và thời gian, hình ảnh

chính, tiêu đề bài báo (tít bìa) chính và tất cả được sắp đặt theo quy ước chung.

Tên của TC (được gọi bằng nhiều thuật ngữ như Manchette, Masthead, Title,

Logotype, Logo, Nameplate) chỉ có duy nhất một từ tiếng Anh “Heritage” (tạm dịch

là Di sản), chính là hình ảnh thương hiệu của tạp chí và được thiết kế trong một kiểu

chữ đặc biệt độc đáo để dễ dàng nhận ra. Ở những số đầu tiên từ năm 1993, tên

TCH được sử dụng phông chữ cổ điển có chân (serif). Cho đến năm 1995 thì bắt

đầu sử dụng phông chữ không chân (sans serif) nét đều chắc khoẻ, năm 2003

chuyển sang chữ không chân nhưng có nét thanh nét đậm rất tinh tế gần giống với

phông chữ Optima. Bắt đầu từ năm 2016 sử dụng phông chữ rất độc đáo thiên nhiều

về tính nghệ thuật, đây là phông chữ mà toà soạn đặt ở nước ngoài thiết kế dành

riêng cho TCH. Tên TC cũng được sử dụng ở tất cả các chân trang nội dung bên

trong như là một biểu tượng quảng cáo nhằm khẳng định thương hiệu. Tên của TCH

luôn được bố trí lớn nhất phía trên chiếm gần hết chiều ngang của trang bìa, được

chuyển màu tùy theo tông màu bìa thậm chí dịch chuyển hoặc bị hình ảnh lớn đè lên

một cách cố ý. Sự sáng tạo này luôn tạo bất ngờ thú vị nhưng không bị quá lạm

dụng, do hình ảnh logo thương hiệu đã in đậm trong lòng độc giả và mọi sự sáng

tạo chỉ mang tính gia vị chứ không thay đổi được hình ảnh TC.

Phía trên tên tạp chí Heritage (TCH) là thông tin cơ quan chủ quản “Tạp chí

trên máy bay của hãng hàng không quốc gia Việt Nam” (Vietnam Airlines Inflight

Magazine). Phía dưới tên TC là dòng chữ tiếp thị (Selling line) bằng tiếng Anh

“Complimentary copy” (Báo đọc miễn phí trên máy bay). Ngang dòng chữ này phía

bên phải là ngày tháng năm số xuất bản. Một số tạp chí lại đưa nhóm thông tin này

46

ở một vi trí khá tự do và thậm chí còn phóng đại lên nhằm khẳng định tính mới của

số báo, tuy nhiên TCH lại bố trí rất khiêm tốn và số xuất bản lại để ở gáy TC. Cách

trình bày này cho thấy quan điểm tinh tế sang trọng tập trung chủ yếu về văn hoá và

di sản chứ không đặt nặng vấn đề kinh doanh tiếp thị.

Bảng 1: Sơ đồ phân tích cấu trúc của trang bìa tạp chí Heritage

Ấn tượng thị giác mạnh nhất trên bìa TCH vẫn là hình ảnh chính (Main

image) luôn được để tràn trang và đôi khi còn chèn lên cả tên TC một cách đầy ngụ

ý. Cũng có thể là muốn gây ấn tượng thị giác gợi chí tò mò, hoặc cũng chỉ là một

phá cách đầy tính sáng tạo trong thiết kế. Việc luôn trung thành với cách để ảnh tràn

trang cũng đủ thấy được tầm quan trọng của hình ảnh chính quyết định đến sự cuốn

hút của trang bìa TCH.

Ở các tạp chí khác, việc trình bày nhóm các phông chữ tiêu đề bài báo (tít

bìa) này thực sự là cuộc hơi nghệ thuật chữ (Typography) đầy cảm xúc, đôi khi còn

được chạy quanh hình ảnh chính hoặc giật lề linh hoạt hay biến đổi qua màu sắc, to

nhỏ. Nhưng TCH luôn chỉ có duy nhất một tít bìa và sự tối giản này mang lại vẻ

47

sang trọng của một tạp chí tầm cỡ. Phía góc dưới của trang bìa luôn có logo của

Hãng hàng không Quốc gia Việt Nam – Vietnam Airlines.

Toàn bộ cấu trúc trang bìa của TCH khá đơn giản, sang trọng, kiên định

phong cách từ khi xuất bản số đầu tiên. Tuy nhiên ở những số báo đặc biệt thì trang

bìa được trình bày theo những cách riêng nhằm nhấn mạnh số báo đó. Ví dụ số báo

kỷ niệm hoặc số báo Tết thường được ép nhũ nóng với màu sắc hay gia công nổi,

màu sắc và hình ảnh được xử lý độc đáo mang âm hưởng lễ hội. Ngoài ra một số

khách hàng quảng cáo còn yêu cầu tăng bìa đúp hoặc bìa gấp đôi gấp ba để tăng

diện tích hình ảnh cần thiết. Điều này cũng giúp đẩy cao độ hoàng tráng lộng lẫy

của trang bìa nói riêng và số báo nói chung.

2.1.2. Tiêu chí thiết kế bìa tạp chí Heritage

Thiết kế bìa tạp chí Heritage (TCH) đạt được hiệu quả truyền thông cao do

sự chú trọng mục đích chuyển tải thông tin đến độc giả và thu hút được sư quan tâm

của họ. Trang bìa TCH có được cơ sở vững chắc về thông tin thị giác đưa đến cho

độc giả là nét văn hoá Việt Nam, xác định chính xác đối tượng độc giả là những

người khá thành đạt và có nhãn quan văn hoá nghệ thuật sắc bén. Thành công về

thiết kế bìa TC cũng đồng thời mở ra sự thành công về quảng bá thương hiệu của

chính Heritage. Hình ảnh trang bìa luôn sống động và biểu đạt điển hình văn hoá,

màu sắc độc đáo và đặc biệt là cách sử dụng phông chữ hết sức tinh tế sang trọng,

cách bố cục tít bìa lạ mắt đều là những yếu tố quan trọng trong việc truyền đạt bản

sắc văn hoá và tinh thần Việt đến độc giả trong cũng như ngoài nước.

Để đạt được thành công như ngày hôm nay, khi thiết kế trang bìa TCH luôn

chú trọng đến các tiêu chí then chốt của TC. Trước hết trang bìa của TC có tính

quảng bá mạnh mẽ, luôn có được sự bắt mắt cần thiết và nó chính là poster quảng

cáo cho chính số báo đó. Hình ảnh được sử dụng luôn có độ tương phản và một sức

cuốn hút độc giả. Ngay từ những ngày đầu, trang bìa số tháng 11-12 năm 1993 đã

đưa ra hình ảnh một đám cưới Việt Nam với trang phục truyền thống đậm bản sắc

đồng thời nói lên được cả bối cảnh văn hoá xã hội những năm đầu đổi mới [PL.1,

H.6, tr.167], hay như trang bìa TC tháng 4 năm 2014 là hình ảnh có một không hai

48

bác nông dân chở trên chiếc xe đạp của mình một khối cầu lớn hình thành từ hàng

chục chiếc “Đó” bắt cá đan bằng nan tre [PL.1, H.92, tr.214]. Mặc dầu hấp dẫn,

hình ảnh bìa TCH vẫn luôn tuân theo các nguyên tắc truyền thông và chuẩn mực

của thương hiệu Heritage. Cho dù hình ảnh có thu hút mạnh đến đâu thì logo TC

vẫn được nhận diện một cách dễ dàng khi mới thoạt nhìn.

Trang bìa TCH có sự hấp dẫn ban đầu, có sự sâu sắc khi ngẫm ngợi và thể

hiện rõ nội dung chủ đạo của TC. Với thủ pháp đưa một hình ảnh và một tiêu đề bào

báo (tít bìa) duy nhất để nhấn mạnh nội dung thông điệp rồi dẫn dắt đến các câu

chuyện khác trong TC, điều này có tác động đến quyết định của độc giả. Họ sẽ nhận

biết ngay lập tức loại hình TCH và những câu chuyện văn hoá đáng quan tâm.

Cách sử dụng hoà sắc màu của TCH cũng quyết định nhiều đến bản sắc của

TC. Tất nhiên màu sắc tuỳ thuộc khá nhiều vào sắc thái của ảnh bìa nhưng luôn

được lựa chọn sao cho nổi bật và phù hợp với chủ đề. Các số xuất bản thường

xuyên lưu ý đến sự thay đổi của màu sắc để phân biệt, đôi khi ảnh được sử dụng

đen trắng để tạo sự đột biến và cuốn hút như bìa số tháng 8 năm 2012 [PL.1, H.67,

tr.197].

Phông chữ tiêu đề bài báo (tít bìa) thường được trình bày đơn giản dễ đọc và

phù hợp tính chất nội dung số báo cũng như bản thân bài báo đó, tuy nhiên vẫn có

những phá cách táo bạo đậm chất nghệ thuật biểu tượng. Sự sáng tạo dù nhỏ thôi

nhưng rất tinh tế từ kiểu chữ, kích thước, màu sắc, sắp xếp và thực sự mê hoặc độc

giả. Ví dụ như trang bìa số tháng 6 năm 2017, ở đây tiêu đề “The Magestic

Highlands” không còn là chữ thuần tuý mà đã trở thành yếu tố hình ảnh góp phần

vào sự hoàn thiện của trang bìa [PL.1, H.121, tr.240].

Các phẩm chất sáng tạo mang tính cá nhân luôn được đẩy cao ở trang bìa

TC, nhưng lại luôn tuân thủ sự nhất quán của phong cách và mục tiêu thoả mãn thị

giác của độc giả là cao nhất. Sự hiểu biết về độc giả là một yếu tố luôn thể hiện ra

trong từng thiết kế và luôn được tôn trọng. Cùng với nó là khả năng thể hiện nội

dung đặc sắc của số báo khiến cho độc giả bất ngờ từ số báo này sang số báo khác.

Không thể không nói đến vẻ duyên dáng và sâu sắc của trang bìa TCH và

49

điều này đã tạo nên những độc giả trung thành. Bìa TC luôn được tạo dựng bởi

nhiều yếu tố để hình thành một trang bìa, một poster, một tác phẩm mang nhiều ý

nghĩa. Trang bìa TCH có nhiều ý tưởng thú vị mà chỉ xem một lần là có thể nhớ mãi

như số tháng 1 - 2 năm 1999 có hình ảnh con mắt sâu thẳm hé lộ sau chiếu nón lá,

số tháng 11-12 năm 2002 với nhịp điệu mê hoặc của phên tre đan, số tháng 1-2 năm

2010 sử dụng tranh ngũ hổ với màu sắc rực rỡ, đường nét tinh xảo [PL.1, H.46,

tr.183]. Nghệ thuật sử dụng tương tác mắt (eye contact) như số tháng 9-10 năm

2009 [PL.1, H.43, tr.182], động dáng nhân vật như số tháng 11-12 năm 1995 [PL.1,

H.12, tr.166], bố cục lạ mắt như số tháng 5-6 năm 2005 gây ra sự chú ý thị giác

mạnh [PL.1, H.34, tr.177]. Bìa TCH chưa bao giờ trở nên nhàm chán và vô cảm

trước mắt người xem.

Với tất cả các tiêu chí thực hiện ở trên, Trang bìa tạp chí Heriatage (TCH)

đã tạo được một phong cách riêng, mang bản sắc của văn hoá và du lịch di sản Việt

Nam, cũng chính là nét đại diện cho thương hiệu Vietnam Airlines. Phong cách bìa

của TCH rất dễ nhận dạng và là niềm tự hào của độc giả khi sở hữu cuốn TC và có

thể lập bộ sưu tập riêng cho mình. Sự ổn định trong phong cách trang bìa đã góp

phần không nhỏ vào thành công của TCH.

Trang bìa TCH phản ánh bề dày truyền thống cũng như sức mạnh của TC.

Nó là sự làm việc nỗ lực của tập thể toà soạn với rất nhiều công đoạn như nội dung,

hình ảnh, thiết kế dàn trang. Chỉ có một tổ chức chặt chẽ và một sự định hướng

đúng đắn kết hợp được tất cả các nguồn lực mới có thể thúc đẩy sáng tạo, mới có

thể tạo ra một TC thành công và trang bìa là biểu hiện trực tiếp nhất.

2.1.3. Những dạng thức thiết kế bìa tạp chí Heritage

Trang bìa của tạp chí Heritage (TCH) luôn mang lại sinh khí mới và hết sức

quan trọng đối với từng số xuất bản. Bìa TC đã trở thành biểu tượng và là sự quyến

rũ đối với các độc giả trung thành của nó. Sự phối hợp giữa hình ảnh và chữ được

tập trung cao độ ở trang bìa và hiệu quả ấy đã giải quyết tốt hai mục tiêu cụ thể của

TCH, đó là thông qua trang bìa chuyển tải thông điệp nội dung về văn hoá di sản và

du lịch đồng thời thể hiện tư tưởng của nội dung biên tập.

50

Dạng thức thứ nhất đồng thời là dạng thức TCH hay sử dụng nhất là sử dụng

hình ảnh chụp làm chủ đạo trên trang bìa. Đây là hình thức bìa thiết kế đạt hiệu quả

nhanh nhất, hình ảnh thường là những vẻ đẹp điển hình của văn hoá và con người

Việt Nam. Khi là hình ảnh nhân vật thường có sự đối thoại bằng ánh mắt và vị trí

của mắt càng gần tên trung tâm càng tốt. Ví dụ như số báo tháng 11 năm 2011 là

một điển hình của đối thoại ánh mắt, một của người già, một của người trẻ cùng với

một chủ đề, nhưng lại nói với người xem hai cách khác nhau [PL.1, H.52, tr.187].

Khi lại là những cảnh quan kỳ vĩ hoặc đặc sắc về quê hương đất nước Việt Nam,

đây thực sự là thế mạnh của trang bìa TCH.

Dạng thức thứ hai mà bìa TCH cũng hay sử dụng, đó là sử dụng tranh minh

hoạ vẽ tay làm hình ảnh chủ đạo. Đây cũng là cách thức cổ điển nhất và gần như là

cách duy nhất để tạo ra trang bìa từ thuở sơ khai của TC. Dạng thức này TCH sử

dụng thiên nhiều về tính nghệ thuật, góc văn hoá sâu lắng của dân tộc Việt. Như bìa

số tháng 1 năm 2013 do hoạ sĩ Phạm Thục Quyên vẽ hình ảnh cô gái Việt cưỡi mây

mang đậm bản sắc văn hoá đồng bằng Bắc bộ cổ xưa [PL.1, H.81, tr.206], hay như

bìa số tháng 1 năm 2017 do hoạ sĩ Lê Trí Dũng vẽ chú gà năm mới đầy màu sắc. Có

lẽ đây cũng là những số báo Tết cần màu sắc dân tộc đậm đà vui tươi nhiều hơn

[PL.1, H.119, tr.239].

Một dạng thức nữa nhưng không nhiều TCH có sử dụng nhằm thay đổi góc

nhìn của độc giả, đó là cách sử dụng hình ảnh theo phong cách ý niệm. Hình ảnh có

thể sử dụng một nét chữ thảo (caligraphy) phương Đông như bìa số tháng 1-2 năm

2000 đầy tính biểu cảm huyền hoặc [PL.1, H.19, tr.170], hay đôi bàn tay lờ mờ của

một DJ âm nhạc như số tháng 7-8 năm 2006 [PL.1, H.36, tr.178]. Tuy nhiên dạng

thức này không nhiều và không đại diện cho phong cách bìa TCH.

2.1.4. Các phương pháp thiết kế bìa tạp chí Heritage

Có những mục tiêu quan trọng khi thiết kế một trang bìa tạp chí. Thứ nhất là

để thu hút sự chú ý của độc giả tiềm năng và thứ hai là để thể hiện các nội dung

hoặc chủ đề của tạp chí. Thiết kế một trang bìa đạt được cả hai mục tiêu trên sẽ tạo

cơ hội đáng kể cho mục tiêu cuối cùng, độc giả thoả mãn và hài lòng với số báo.

51

Bìa tạp chí Heritage (TCH) trước hết là gây ấn tượng. TCH không có đối thủ

cạnh tranh trực tiếp, nhưng các hãng hàng không khác đều có TC riêng của mình.

Vấn đề là phải tạo ra một sự khác biệt, một đẳng cấp vượt trội để giữ vững vị thế

hàng đầu. Heritage luôn đặt ra một nhiệm vụ thiết kế là phải gắn chặt với chủ đề của

TC. Trước hết TC lên kế hoạch theo quy trình đã định sẵn, chọn chủ đề của số báo,

xác định bài báo then chốt (features), đặt hàng ảnh bìa hoặc tranh minh hoạ. Thực tế

công tác này cần rất nhiều thời gian và quan trọng, cần nhiều nỗ lực và tư duy phát

hiện ý tưởng trước khi thực hiện. Thực tế thì TCH đã đầu tư rất công phu và chi phí

cho dự kiến trang bìa như sắp xếp những đoàn chụp ảnh với đầy đủ cơ cấu chuyên

nghiệp. Ban biên tập luôn tự đặt ra câu hỏi cho mình về dự kiến một trang bìa ra

sao, hoà sắc gì, dự định tác động tâm lý độc giả đến đâu và tại sao lại như vậy.

Là một thương hiệu lớn, TCH luôn giữ phong cách trang bìa ổn định nhất

quán từ khi ra đời tuy có đôi lúc phá cách, nhưng về cơ bản không thay đổi suốt

hàng chục năm qua. Điều này giúp cho TCH giữ được bản sắc riêng về thẩm mỹ

của mình và tạo sự thân thiết với độc giả. Thực tế TCH có những quy chuẩn và biểu

mẫu riêng cho trang bìa và điều này không hề cản trở tính sáng tạo, ngược lại nó

còn được coi như nền tảng cho mỗi ý tưởng sáng tạo mang phong cách thống nhất.

Trách nhiệm của người thiết kế là phải đem đến cho độc giả sự hấp dẫn trong từng

số TC.

Kiểu chữ hay phông chữ là vấn đề được ban biên tập TCH coi trọng trong

trang bìa của mình. Đối với các ấn phẩm khác thì hệ thống phân cấp thông tin là

điều tối quan trọng trong trang bìa do có nhiều tiêu đề bài báo trên một trang, tuy

nhiên trang bìa TCH lại có nét đặc thù riêng là chỉ có duy nhất một tiêu đề bài báo,

do vậy việc trình bày nó đi vào khía cạnh vẻ đẹp tự thân của kiểu chữ theo xu thế

typography rõ rệt. Nhu cầu về một độ tương phản cao hay một màu sắc khác biệt

không cần đặt ra, thay vào nó là vẻ tinh tế của chính kiểu chữ tiêu đề duy nhất đó,

đây cũng là một nhiệm vụ khó khăn phải giải quyết trong từng số báo. Quan sát số

báo tháng 10 năm 2015 tiêu đề “Step into history” gọn gàng được đặt lọt trong sức

hút của luật viễn cận của một kiến trúc cổ mang lại nhiều ẩn ý [PL.1, H.107, tr.232],

52

hay như số báo tháng 4 năm 2018 tiêu đề “Keeping the flame alive” được kết cấu cỡ

chữ sinh động như chiếc đền lồng rung rinh dưới bàn tay cô gái múa hát dưới sân

đình thực sự thú vị [PL.1, H.133, tr.253]. Ở đây nghệ thuật ý niệm đã phần nào

được lồng ghép khéo léo và tinh tế.

Nghệ thuật xử lý màu sắc trên trang bìa TCH ngoại trừ một số báo kỷ niệm

hay lễ hội mang màu sắc rực rỡ, hầu hết sắc thái có nét sang trọng và trang nhã.

Màu sắc của logo TC hay tiêu đề hoàn toàn nhất quán với màu sắc tổng thể. Đây là

cách xử lý màu có tầm cỡ và đầy bản lĩnh trong bối cảnh thị trường có nhiều biến

đổi đa chiều. Việc giữ vững một phong cách trình bày trang bìa trong thời gian dài

phần nào khẳng định danh tiếng và vị thế của TCH.

Các chi tiết trên trang bìa dù nhỏ nhất đều thể hiện tinh thần của TCH và

được kiểm tra kỹ lưỡng. Các quy ước căn lề, định dạng phông chữ, khoảng trống

cần thiết và cách ngắt dòng độc đáo cho thấy tính chuyên nghiệp của một tạp chí

tầm cỡ. Bước căn chỉnh cuối cùng luôn được nhắc lại trong các chu kỳ làm việc và

thống nhất giữa các bộ phận. Trong cơ cấu toà soạn thì luôn phân định rõ ràng giữa

ban biên tập và phòng thiết kế, tuy nhiên những ý tưởng và giải pháp mới cho trang

bìa lại là thành quả chung của công tác phối hợp làm việc thường xuyên. Những nhà

thiết kế cần có kiến thức tương đối về biên tập, hiểu biết tốt về nhiếp ảnh báo chí và

kỹ thuật minh hoạ, cùng nhau trao đổi các ý tưởng về trang bìa với tiêu chí chung,

cởi mở với các đóng góp của đồng nghiệp, chính vì vậy trang bìa TCH mang đầy đủ

sức mạnh của cả một tập thể sáng tạo.

Khi thực hiện các ý tưởng trang bìa TCH trên máy tính, sẽ có nhiều vấn đề

kỹ thuật nảy sinh phải suy xét kỹ. Người thiết kế bìa tạp chí nắm rất vững những

quy trình ấn loát công nghiệp, các thông số thiết kế được thử nghiệm trước nhiều

lần để cho ra kết quả tốt nhất. Các sự cố ngành in như văn bản bị xê dịch, màu sắc

biến đổi hay hình ảnh to nhỏ ngoài ý muốn là không được chấp nhận và bản in luôn

được thể hiện trung thực nhất.

Thiết kế trang bìa TCH là một sự phối hợp thống nhất giữa các khâu ý tưởng,

nội dung, hình ảnh và thiết kế môt cách nhuần nhuyễn. Thực tế cho thấy việc bao

53

quát nắm bắt các ý tưởng, xuyên suốt nội dung, thực hiện và xử lý hình ảnh, xây

dựng kết cấu trang bìa đều phải dựa vào vai trò của giám đốc sáng tạo. Tư duy sáng

tạo của cong người này đóng vai trò quyết định cho sự phát triển cá tính và phong

cách cho từng số báo, từng thời kỳ của trang bìa TCH. Nhưng vai trò cá nhân ở đây

lại là kết quả của sự tương tác giữa giám đốc sáng tạo và biên tập chính, hai vị trí

cốt lõi này luôn hỗ trợ cho nhau dưới sự định hướng chung của tổng biên tập.

2.2. Nghệ thuật thiết kế dàn trang tạp chí Heritage

Một cuốn tạp chí đến tay người đọc là một sản phẩm được hoàn thiện bởi

nhiều yếu tố. Đó là một quy trình làm việc có sự liên kết giữa các bộ phận với nhau

bao gồm nhóm nội dung, nhóm hình ảnh và nhóm thiết kế. Trong đó, nhóm thiết kế

ảnh hưởng trực tiếp đến việc độc giả sẽ tiếp nhận thông tin như thế nào. Việc thiết

kế dàn trang (TKDT) mang yếu tố quyết định cho khả năng truyền thông và tính

thẩm mỹ. Ngoài chất lượng của nội dung bài viết, người thiết kế phải làm sao để

người đọc cảm thấy hứng thú, lôi cuốn vào bài viết đó. Thêm vào đó, một điều quan

trọng khác đó là phải điều hướng thị giác và làm cho độc giả đọc bài báo một cách

dễ dàng.

Mỗi một bài viết trên tạp chí thường bao gồm nội dung bài báo ở dạng văn

bản và các hình ảnh minh họa cho bài đó. Các thành phần này phải được kết hợp

với nhau và tác động qua lại. Việc TKDT nội dung tạp chí Heritage (TCH) cũng

giống như nhiều TC khác. Đó là công việc mà người thiết kế phải đem đến một sự

trình bày đẹp bắt, giải quyết được sự hài hòa của mối liên kết giữa nội dung thông

tấn và hình ảnh minh họa. Chúng được thể hiện thông qua cấu trúc và những tiêu

chí trong TKDT nội dung của ấn phẩm TC này.

2.2.1. Cấu trúc thiết kế dàn trang nội dung tạp chí Heritage

Trước hết, TCH là một xuất bản phẩm in, được đóng thành quyển, do đó TC

luôn có hai trang liền đối nhau (còn gọi là trang đôi). Với cấu trúc cơ bản trong đặc

tính dạng quyển như vậy, chúng hình thành nên những khoảng không gian và vị trí

để định hình cấu trúc trang nội dung.

Trên một trang TCH thường bao gồm các thành phần cơ bản sau: đầu trang ở

54

phía trên và chân trang ở phía dưới chiếm tỷ lệ nhỏ trên trang; phần nội dung bài

được sắp đặt ở vị trí giữa. Phần nội dung là khu vực trung tâm của trang báo bao

gồm bài viết chính và hình ảnh minh họa. Dựa trên tư liệu hình ảnh minh họa và nội

dung của bài viết mà người thiết kế bổ sung thêm các yếu tố đồ hoạ để tăng tính

thẩm mỹ của trang bài.

2.2.1.1. Cấu trúc cơ bản của trang nội dung ấn phẩm tạp chí Heritage

Các thành phần của bố cục được đặt trên hai trang đơn liền nhau tạo thành

một trang đôi. TCH được thiết kế trên khổ giấy kích thước thống nhất là 21cm x

28.5cm. Để tạo sự đồng bộ, nhất quán cũng như định ra quy chuẩn và xử lý các kỹ

thuật in ấn, gia công thành phẩm, Heritage thiết lập bát chữ cho hệ thống với kích

thước lề trên 2cm, lề dưới 2.2cm, lề trái và lề phải 2.2cm, và lề giữa 1.8cm.

Bảng 2: Cấu trúc dàn trang nội dung ấn phẩm tạp chí Heritage.

Lề trên là phần đầu của trang tạp chí. Phần đầu trang này là vị trí đặt tên của

chuyên mục. TCH có nhiều chuyên mục khác nhau như Heritage, Cover Story,

Food Culture, Folktale v.v., Việc chia thành các nhóm chuyên mục giúp cho người

đọc biết được vị trí của bài viết cũng như vị trí mà mình đang đọc.

Lề dưới chứa đựng phần chân trang TCH. Vị trí này chủ yếu để đặt số trang,

55

tên và số ra của tạp chí. Có nhiều vị trí để đặt số trang trong kết cấu hai trang đối

nhau, tuy nhiên, TCH xác định vị trí số trang được đặt ở góc dưới bên trái của trang

trái, và góc dưới bên phải của trang phải. Số trang không được xem là phần đồ họa

quan trọng của tạp chí bởi điểm tập trung nằm ở không gian dành cho nội dung. Do

vậy, số trang được thiết kế với phông chữ nhỏ vừa đủ để người đọc có thể theo dõi

vị trí của bài viết.

Không gian còn lại là vị trí để dàn trang nội dung. Với một số lượng chữ

nhiều cùng với hình ảnh minh họa, TCH đã biết khéo léo xử lý không gian, phân bổ

nội dung và phân cấp thông tin để người xem đọc được dễ dàng. Để làm được việc

đó, điều quan trọng trên mỗi trang đó là hệ thống lưới (Grid). Chúng ta không thể

nhìn thấy hệ thống lưới được thiết kế cho việc dàn trang này bởi cái mà người đọc

nhìn thấy là kết quả cuối cùng. Nhờ có hệ thống lưới mà việc dàn trang trở nên dễ

dàng hơn, tạo hiệu quả cấu trúc chặt chẽ như khung thiết kế kiến trúc vậy.

Để dàn trang được toàn bộ nội dung bao gồm chữ và hình ảnh, trước tiên

phải thiết kế một bộ định dạng tổng quát (Master) dựa trên các chuyên mục được

thiết kế cho toàn bộ quyển TC. Nhờ bộ định dạng này mà yếu tố thẩm mỹ truyền

thông (TMTT) luôn được đảm bảo nhất quán, đồng bộ xuyên suốt toàn bộ cuốn TC.

Hỗ trợ Master là hệ thống ô lưới trên từng trang giúp cho người thiết kế căn chỉnh

các yếu tố liên quan đến nhau. Bộ định dạng (Master) tác động lớn vào việc hình

thành nên phong cách thiết kế của TCH. Master được thiết kế không chỉ được áp

dụng thiết kế cho một số ra xuất bản mà còn là chuẩn chung trong thiết kế dàn trang

của ấn phẩm TCH.

Bảng 3: Danh mục cấu trúc nội dung tạp chí Heritage

STT Tên mục tiếng Anh

International Detination Folk tale Ghi chú Số 1 tạp chí phát hành năm 1993, ra hai tháng/1 số. Từ năm 2011 đến 1 Heritage 2 Culture 3 Local Culture 4 Local Detination 5 6 7 Art Tên mục tiếng Việt Di sản Văn hóa Văn hóa bản địa Điểm đến bản địa Điểm đến quốc tế Chuyện dân gian Nghệ thuật

56

nay phát hành tháng/1 số.

8 Window 9 Daily life 10 Travel 11 Event

Cửa sổ Cuộc sống thường nhật Du lịch Sự kiện Phóng sự ảnh Bản tin

Photo Essay News Mỗi số tạp chí Heritage có độ dày khoảng 150 trang (cả bìa)

2.2.1.2. Hệ thống lưới của trang nội dung ấn phẩm tạp chí Heritage

Để đảm bảo khả năng đọc được thuận thị giác, nội dung của bài viết thường

được chia thành cột. Nếu lượng chữ trên một dòng quá nhiều, chúng sẽ khiến người

đọc khó khăn hơn. Do vậy, khi sử dụng hệ thống lưới, chữ và hình ảnh sẽ căn cứ

theo hệ thống lưới để dàn trang. Khi đó, chữ sẽ chạy theo hệ thống lưới, cột và định

hình cấu trúc dàn trang.

Trên các trang TCH, người đọc sẽ thấy mỗi trang có số lượng cột chữ

(Column) không đồng đều; có trang chỉ có một cột, trang thì có hai cột, ba cột, thậm

chí bốn cột. Thêm vào đó, kích thước của cột chữ thậm chí có thể có độ rộng khác

nhau. Tuy nhiên, số lượng cột khác nhau chính là do cách người thiết kế tạo hệ

thống lưới và sử dụng biến thể của chúng như thế nào. Về cảm quan thị giác, người

xem sẽ nghĩ vị trí, kích cỡ của các cột khác nhau và thay đổi nhưng bản chất chúng

đều được tổ chức trên hệ thống lưới chung này.

Hệ thống lưới chia 12 cột khá phổ biến và được áp dụng trong dàn trang

TCH. Với hệ thống này, các khối chữ, hình ảnh được tổ chức đa dạng, không tạo ra

sự nhàm chán cho người đọc. 12 là một con số có thể chia hết cho 2, 3 và 4. Đặc

biệt, việc thiết kế 1 cột chữ cũng trở nên rất dễ dàng khi 1 cột chữ có thể có độ rộng

linh hoạt, chẳng hạn 1 cột chữ có thể là sự kết hợp của 2, 3 hay thậm chí 4 cột lưới.

Do đó, dựa trên cách chia này, các cột chữ rất phù hợp để tổ chức không gian, cung

cấp cảm giác trật tự và tính hợp lý hình học cho trang báo.

Như vậy, cột chữ cho phép thay đổi số lượng, thay đổi độ rộng khác nhau

của cột. Khi cột chữ được mở rộng, chúng phù hợp với những nội dung có độ dài và

khối tượng chữ của bài viết nhiều. Với những cột chữ nhỏ hay hẹp, chúng phù hợp

57

với lượng chữ ít hay những đoạn văn bản ngắn. Đôi khi cột chữ được tính bằng số

lẻ tạo những hiệu quả lạ mắt cho độc giả. Ngoài ra đây cũng là lối chơi typography

giàu chất nghệ thuật.

Trên hai trang bài “Over the waves” của TCH số ra tháng 7 năm 2012 [PL.1,

H.65, tr.195], nhà thiết kế đã sử dụng linh hoạt hệ thống lưới để trình bày nội dung.

Trang bên trái xử lý nội dung với cách chia 4 cột chữ, trong khi đó trang bên phải

sử dụng cách chia 3 cột chữ. Các cột chữ đều có độ rộng tương đương nhau. Với

trang bên trái, với lượng nội dung nhiều được dàn đúng trong khuôn khổ của bát

chữ theo chiều rộng. Trang bên phải tạo thêm nhiều khoảng trống nghỉ mắt, đồng

thời tạo sự tập trung vào tên bài và hình minh họa. Nội dung ở trang này được dàn

trên 2 cột (cột thứ 2 và 3), còn cột đầu tiên lại được đặt chú thích.

Như vậy, cấu trúc trang với hệ thống lưới được sử dụng như trên trong tạp

chí Heritage đã tạo nên trật tự, tính liên tục và sự hài hòa vào việc trình bày thông

tin. Nội dung bài viết được đặt trong một cấu trúc thống nhất và là kết cấu chung

cho toàn bộ ấn phẩm. Vì TCH đáp ứng mục tiêu là phục vụ cho nhu cầu của độc giả

trong việc thông tin và quảng bá văn hóa du lịch Việt Nam, do đó, ấn phẩm vừa

mang tính nghệ thuật, vừa đảm bảo tính thông tin, và đương nhiên hai yếu tố nghệ

thuật và thông tin hợp nhất với nhau để đảm bảo yếu tố con người.

2.2.2. Tiêu chí thiết kế dàn trang nội dung tạp chí Heritage

Mỗi bài viết trên TC đều hướng đến mục đích giới thiệu, chia sẻ hay nói

chung là truyền thông về một sự kiện, một nhân vật, một vấn đề nào đó. Đôi khi nội

dung đem đến thông tin xác thực với sự chính xác của văn bản, nhưng trong một số

tình huống, hình ảnh lại làm công việc đó tốt hơn cả. Phóng viên, tác giả bài viết,

nhiếp ảnh gia và các nhà thiết kế của TCH đã phối hợp với nhau để làm cho thông

tin được trình bày mang tính thời đại hơn, đáp ứng nhu cầu và phù hợp với thị hiếu

của độc giả. Nhà thiết kế đã làm sáng tỏ thông qua TKDT để nội dung và hình ảnh

kết hợp với nhau nhằm mang đến hiệu quả TMTT.

Điều quan trọng trong TKDT đó là tối ưu hóa nội dung, làm cho chúng dễ

hấp thu nhất có thể trong khi vẫn đảm bảo sự hấp dẫn thẩm mỹ. Nếu một ấn phẩm

58

được TKDT mà người đọc khó tiếp nhận thông tin, hay không tạo ra được một diện

mạo hấp dẫn họ thì chúng không những không tiếp cận được thị trường mà còn bị

bỏ lại phía sau do không phù hợp với nhu cầu thẩm mỹ của thời đại.

Sứ mệnh của TCH là cung cấp thông tin và quảng bá hình ảnh văn hóa du

lịch Việt Nam. Do vậy, bài viết trên TC không chỉ có nội dung phong phú, khai thác

nhiều góc độ trong văn hóa của người Việt mà những bài viết có chất lượng tốt. Đi

kèm với đó, mỗi bài viết chứa đựng dung lượng lớn bao gồm lượng chữ nhiều và

hình ảnh cũng rất đa dạng. Do đó, việc tổ chức thông tin để đảm bảo độc giả đọc

theo một trình tự tuyến tính là yêu cầu tất yếu. Heritage đã phân cấp nội dung, sử

dụng các yếu tố thiết kế để tạo trình tự đọc hợp lý, giúp người đọc định vị được

thông tin và điểm xuất phát chu trình đọc của thị giác.

Các nhà thiết kế của TCH sử dụng nội dung bài viết, hình ảnh cũng như các

yếu tố đồ họa như những nguyên liệu cho công việc TKDT. Sự sáng tạo của tạp chí

nằm ở việc sử dụng chúng như thế nào để đáp ứng tính thẩm mỹ cho Heritage. Thay

đổi quan điểm trình bày bài viết như một nội dung theo kiểu “báo cáo”, nội dung và

yếu tố đồ hoạ được bố cục tương tác nhằm làm rõ thông điệp của trang báo TC.

Heritage luôn vận dụng nguyên lý thị giác cơ bản như sử dụng màu sắc, thay đổi

phông chữ hay thay đổi tỷ lệ của đối tượng. TCH đã khéo léo tạo điểm xuất phát để

đặt thị giác của độc giả vào đúng trình tự mạch nội dung nhằm đảm bảo việc đọc

theo đúng theo cấu trúc nội dung.

Thiết kế dàn trang nội dung ấn phẩm tạp chí Heritage có hai tiêu chí cơ bản:

- Tiêu chí thứ nhất: TKDT phải phù hợp với năng lực thị giác của độc giả và

chuyển tải thông tin, thông điệp.

- Tiêu chí thứ hai: TKDT phải đảm bảo tính thẩm mỹ, đem đến vẻ đẹp hình

thức thông qua ngôn ngữ tạo hình.

2.2.3. Phương pháp thiết kế dàn trang nội dung tạp chí Heritage

Để đạt được Tiêu chí thứ nhất, TCH đã phân bố cấp độ thông tin và khéo léo

xử lý chữ phù hợp với khả năng tiếp nhận của thị giác, đồng thời dẫn hướng thông

tin một cách logic.

59

2.2.3.1. Phân cấp nội dung thông tin bài viết trên tạp chí Heritage

Việc phân cấp nội dung cần thiết để phân loại, xác định thứ tự và mức độ

quan trọng của thông tin. Thiết lập hệ thống phân cấp nội dung tạo nên sự linh động

và nhất quán trực quan, chú trọng thể hiện nội dung theo một cách có trật tự. Logic

của hệ thống này tạo hiệu quả trong việc điều hướng chuyển động thị giác, làm nổi

bật và tạo sự tập trung vào thông tin và thông điệp cốt lõi. TCH đã dựa trên sự phân

cấp trình tự của thông tin để xử lý tính thông tin và tăng hiệu quả của tính truyền

thông bằng cách đồ họa hoá. Hỗ trợ cho phân cấp thông tin là các yếu tố màu sắc,

kiểu chữ, vị trí tỷ lệ của chữ và các yếu tố đồ họa khác.

Đối với bất kỳ một TC nào, mối quan hệ giữa các khu vực nội dung trên

trang rất quan trọng. Trong việc xử lý nội dung, TCH đã được cấu trúc theo cách có

trật tự, tạo nên tính trực quan hấp dẫn với hệ thống phân cấp phù hợp. TC không chỉ

phân cơ học cấp độ thông tin mà còn vận dụng các yếu tố thiết kế để nhóm các nội

dung. Sự phân cấp nội dung không chỉ xác định tầm quan trọng của các thông tin

mà còn là chức năng thẩm mỹ logic.

Theo cấp độ thông tin, tên bài viết (Title) hay tiêu đề có thứ tự quan trọng số

một, tên tác giả (Bylines) tiếp theo đó là đoạn mở đầu (Leading hay còn gọi là Sapo

- phiên âm từ chapeau trong tiếng Pháp), nội dung bài (Body), ảnh và chú thích

(Caption). Với những bài dài và được chia thành các nội dung nhỏ, chúng thường có

các tiêu đề nội dung (Headlines, Subheads). Dựa trên thứ tự phân cấp như vậy, tên

bài viết là phần cần tạo điểm nhấn và nổi bật nhất. Do vậy, chúng được thiết kế với

kích thước chữ có độ tương phản mạnh với cỡ chữ của nội dung. Thêm vào đó, kiểu

chữ và cỡ chữ kết hợp với màu sắc làm nhấn mạnh hơn nữa điểm chủ đạo của bài

viết. Chính việc thiết kế như vậy đã điều khiển thị giác độc giả đọc tên bài đầu tiên.

Người đọc cũng không mất thời gian để tìm kiếm tên bài viết bởi thói quen của họ

luôn đọc tên bài viết trước khi tìm hiểu nội dung.

Cách các nhóm nội dung được phân biệt và liên kết với nhau như thế nào

đóng một vai trò lớn trong việc xác định khả năng đọc của độc giả. Các yếu tố chính

như thông tin trọng tâm hay hình ảnh chính được đặt ở khu vực trung tâm và được

60

thiết kế nổi bật nhất trong trang. Các yếu tố đồ họa trên bài báo của TC đã góp phần

tạo nên sự phân cấp nhưng vẫn dẫn mắt người đọc. Heritage đã tổ chức lượng lớn

nội dung của tạp chí để tạo mối liên quan, làm cho việc đọc chữ trên nhiều trang trở

nên dễ dàng và đạt được sự thống nhất, hình thành nên tính truyền thông mang ý

nghĩa lớn hơn từng phần riêng rẽ của một bài báo.

2.2.3.2. Kiểu chữ và cỡ chữ trên tạp chí Heritage

Chọn kiểu chữ và sử dụng chúng trong thiết kế dàn trang là một công việc

quan trọng để tạo nên bầu không khí hấp dẫn và thích hợp với đặc tính của nội

dung. Phông chữ cần có cho mỗi bài viết bao gồm: phông chữ tên bài, phông chữ

cho sapo (phần tóm tắt nội dung), phông chữ tiêu đề, phông chữ cho nội dung và

phông chữ cho chú thích. TCH đã sử dụng phông chữ dễ đọc, có độ dẫn mắt và độc

giả cảm thấy thoải mái khi đọc.

Tiêu đề trên tạp chí Heritage

Phông chữ tiêu đề bài viết trên tạp chí Heritage thường rất đa dạng do đặc

thù của từng nội dung. Mỗi bài viết là những câu chuyện và thông điệp khác nhau

nên phông chữ được sử dụng trong thiết kế có nhiệm vụ truyền tải thông tin đó. Một

số bài viết dùng hai phông chữ khác nhau vừa tạo nên sự phong phú, đồng thời tạo

điểm nhấn vào từ khóa của cụm từ tên bài. Bên cạnh đó, việc sử dụng chỉ duy nhất

một phông chữ cho tiêu đề bài báo cũng rất phổ biến. Những tiêu đề tên bài có số

lượng từ ít hoặc muốn tạo tính thống nhất, nhà thiết kế đã xử lý với một phông chữ

nhưng không làm cho chúng trở nên nhàm chán bởi cách nhấn màu và thay đổi tỷ lệ

của chữ hoặc cụm từ. Theo thói quen độc giả, tên bài viết luôn được đọc đầu tiên,

do vậy chúng được thiết kế với cỡ chữ lớn nhất trong tương quan với các thành

phần nội dung khác của chính bài đó.

Trong việc thiết kế dàn trang TCH, dòng tiêu đề bài viết thường được xác

định ý tưởng thiết kế trước tiên. Tiêu đề khởi đầu cho một bài viết đồng thời thường

là điểm xuất phát thị giác quan trọng. Tùy thuộc vào kích thước của các thành phần

khác trên trang, dòng tiêu đề được đặt trong mối quan hệ với các thành phần này và

có độ lớn khác nhau. Để kích thích sự tò mò và lôi cuốn độc giả, các dòng tiêu đề

61

bài viết được thiết kế với kích thước lớn nhất. Bên cạnh đó, việc thiết kế tiêu đề

cũng là việc định hướng cho bố cục của hình ảnh và nội dung để thể hiện thông điệp

của bài viết đó. Nội dung của tiêu đề bài viết với sự đồ họa hóa của chúng có mối

liên hệ mật thiết với nhau để làm rõ nghĩa nội dung.

Trong số báo tháng 9-10 năm 2009 (tr.28-29), tiêu đề bài báo “Chào ngài

Henri Oger” được thiết kế với phông chữ dày, có chân vuông đã tạo điểm nhấn

trong bố cục [PL.1, H.44, tr.182]. Trong thiết kế dàn trang (tr.74-75), số ra tháng 9

năm 2015, tiêu đề bài viết “Hương sắc bốn mùa” được nhấn với cỡ chữ to, phông

chữ có chân với kiểu nét thanh, nét đậm kết hợp với màu vàng tạo nên cảm giác nhẹ

nhàng, duyên dáng gợi âm hưởng của xuân sang, thu tới [PL.1, H.106, tr.231].

Cũng trong một thiết kế của năm 2015, số ra tháng 10, tên bài viết “Những

thác nước nổi tiếng xứ ngàn thông” được sắp đặt các cụm chữ độc đáo [PL.1,

H.110, tr.234]. Không hoàn toàn tuân thủ theo lối bố cục theo phương ngang phổ

biến, tên bài được tách thành hai cụm từ. Cụm từ “Những thác nước nổi tiếng” được

sắp đặt theo phương thẳng đứng lấy cảm hứng từ hướng dòng chảy của thác nước

“Xứ ngàn thông”. Toàn bộ cụm chữ cũng sử dụng phông có chân với nét thanh, nét

mảnh.

Một số bài viết có nhiều ý, tác giả thường ngắt ý bằng những nhóm nội dung

và đặt tiêu đề cho từng nhóm nội dung đó. Tuy nhiên, cũng có rất nhiều bài viết

không ngắt ý, do vậy chúng sẽ không có dòng tiêu đề nội dung. Khi bài viết có các

tiêu đề nội dung, phông chữ cho tiêu đề này được nhắc lại kiểu phông chữ từ tên bài

viết hoặc phông chữ cho nội dung là phổ biến.

Trong một bài viết số ra tháng 9-10 năm 1999, tên bài viết “Mỹ thuật Việt

Nam cuối thế kỷ” được thiết kế khá cầu kỳ. Bài viết đề cập đến mỹ thuật Việt Nam

và được minh họa bằng một số tác phẩm hội họa. Lấy ý tưởng từ những đường nét

được thể hiện trong tranh, cụm chữ “Mỹ thuật Việt Nam cuối thế kỷ” được bố cục

theo phong cách typography với những nét chữ đều nhưng có hơi hướng của kiểu

viết tay. Kết hợp với mảng màu ngẫu hứng, cụm chữ tạo nên sự đan xen giữa hình

âm bản và dương bản đem đến một cảm giác về tính nghệ thuật qua cách thiết kế

62

này [PL.1, H.18, tr.169].

Đoạn mở đầu bài viết trên tạp chí Heritage

Nếu tiêu đề tên bài viết có mức độ quan trọng thứ nhất để thu hút sự quan

tâm của độc giả thì đoạn mở đầu (sapo) có chức năng hoàn thiện nội dung của tiêu

đề này bằng cách tóm tắt thông tin giúp người đọc hiểu được bài viết nói về chủ đề

gì. Độc giả thường có thói quen đọc tên bài viết đầu tiên, sau đó đọc phần tóm tắt để

hiểu và cảm nhận xem nội dung bài có hứng thú hay không trước khi đọc nội dung

chính.

Để thiết lập sự phân cấp thông tin với đoạn mở đầu, đoạn nội dung này cần

nổi bật hơn nội dung bài viết và kém nổi bật hơn so với tên bài. Để làm được điều

đó, TCH lựa chọn phông chữ khác biệt với phông chữ tên bài và phông chữ nội

dung, đồng thời tạo điểm nhấn bằng việc tăng kích thước. Đoạn mở đầu của bài viết

trên TC có kích thước lớn hơn cỡ chữ nội dung chính và nhỏ hơn nhiều so với cỡ

chữ tên bài. Một số đoạn mở đầu được thiết kế với màu sắc có mối liên hệ với màu

sắc trên hình ảnh minh họa cho bài viết đó.

Do đoạn sapo có lượng chữ ít nên cách căn cụm chữ ở đây rất linh hoạt. Tùy

theo bối cảnh của mối liên quan với các thành phần khác mà việc căn lề chữ sẽ được

quyết định. Trong bài viết “Chào ngài Henri Oger” số tháng 9-10 năm 2009 [PL.1,

H.44, tr.182], cụm chữ sapo được căn theo lề phải của trang 28 này, tiêu đề được bố

cục chính giữa hai trang, do vậy cách căn phải của cụm sapo được liên kết với cụm

chữ nội dung trên trang 29 để tạo nên một tổng thể cân đối. Số ra tháng 2 năm 2013

trang 12, sapo bài viết “Năm rắn tìm hình tượng rắn từ nguồn nghệ thuật Việt cổ”

được bố cục theo thể đăng đối [PL.1, H.83, tr.207], do vậy nó được đặt căn giữa để

giữ sự cân đối ổn định của bố cục. Trong một ví dụ khác, số ra tháng 8 năm 2015,

bố cục cụm chữ sapo của bài “Chúng tôi yêu cái đẹp miền sơn cước” được căn trái

để tạo mối liên kết chặt chẽ và dẫn mắt từ cụm tên bài viết [PL.1, H.105, tr.230].

Trong số ra tháng 1-2 năm 2001, đoạn mở đầu của bài “Dancing Dragons”

được thiết kế với kiểu chữ in hoa toàn bộ. Phông chữ được sử dụng khác biệt với

tên bài viết và nội dung chính, đồng thời tạo mối liên kết với hình ảnh cũng như

63

tăng cường không khí và thông điệp bài viết với màu đỏ [PL.1, H.23, tr.172].

Số ra tháng 2 năm 2013, đoạn mở đầu của bài “Vẽ con giáp chơi Tết” chỉ

được thể hiện với kiểu chữ nét mảnh và ở dạng in hoa toàn bộ. Khi thiết kế tạo điểm

nhấn mạnh vào mảng màu lớn trên trang 52, đoạn sapo không sử dụng màu đỏ như

một cách nhắc lại để không ảnh hưởng đến tổng thể chung nhưng vẫn tạo được sự

nhận biết cấp độ thông tin [PL.1, H.86, tr.209].

Chữ nội dung bài viết trên tạp chí Heritage

Nội dung chính của bài viết luôn là phần trình bày khó nhất do lượng chữ

nhiều. Để giữ cho người đọc quan tâm đến các trang nối tiếp các trang, mỗi bố cục

của bài viết được xem xét mối liên quan đến nhau. Trong đặc tính dàn trang của

TCH với hai trang đối nhau, về nguyên tắc mỗi một trang được xem là một bố cục

độc lập. Tuy nhiên, nếu trang kế tiếp không phù hợp và liên hoàn với trang đối của

nó thì yếu tố thẩm mỹ và sự truyền thông không hiệu quả. Do vậy nếu cùng nội

dung, hai trang đối nhau được trình bày theo một tổng thể thống nhất và hệ thống

lưới góp phần tạo mối liên kết trang đôi đó. Một lưu ý quan trọng là một bài viết

nên bắt đầu từ trang chẵn (tức là trang bên tay trái), như vậy sẽ tạo nhiều không

gian để triển khai thiết kế hơn. Điều này sẽ tạo sự kết nối dễ dàng với trang nội

dung kế tiếp để tạo một chỉnh thể toàn vẹn và sự dẫn mắt tốt hơn.

Phông chữ cho nội dung TCH được sử dụng khá đơn giản. Lượng thông tin

chính nằm ở phần này nên phông chữ có chân được dùng xuyên suốt toàn bộ hệ

thống các bài viết. Phông chữ có chân có độ dẫn mắt và dễ đọc nên giảm thiểu sự

điều tiết quá nhiều của mắt người khi đọc lượng chữ như vậy.

Trong mỗi số ra TCH, ngoài phông chữ tên bài viết thay đổi và đa dạng theo

từng nội dung thì phông chữ cho sapo, phông chữ nội dung hay phông chữ cho chú

thích được thống nhất và chỉ dùng một kiểu phông duy nhất cho mỗi loại. Điều đó

tạo nên sự nhất quán, đẹp mắt và độc giả dễ dàng đọc cũng như nhận biết các cấp độ

thông tin.

Trong việc dàn trang nội dung bài viết TCH, tùy theo từng nhóm nội dung

được phân cấp khác nhau mà việc căn lề chữ cũng thay đổi. Chúng được căn trái,

64

căn phải, căn giữa hoặc căn đều hai bên. Tuy nhiên, trong những cách căn lề chữ

này, cách căn trái hoặc căn đều hai bên là phổ biến hơn cả do khả năng dễ đọc của

chúng dựa theo thói quen đọc chữ của chúng ta là đọc từ trái qua phải và từ trên

xuống dưới. Để thuận tiện cho việc đọc, nội dung trên TCH chủ yếu căn trái. Với

một số đoạn nội dung ngắn như sapo, chú thích hay đoạn trích dẫn, những đoạn này

được linh hoạt theo đối tượng liên kết với chúng như hình ảnh, cột chữ… để tạo bố

cục chặt chẽ nhưng vẫn đảm bảo tính dễ đọc.

Theo cấu trúc hệ thống lưới và chia cột như trên đã đề cập, bài viết trên TCH

thường được chia theo cột để ngắt đoạn và giảm bớt số lượng từ trên một dòng.

Heritage đã xử lý trình bày nội dung tốt khi nắm bắt được đặc điểm tâm lý và vật lý

của độc giả. Tuy linh hoạt về số cột trong mỗi bài viết (sử dụng từ 1 đến 4 cột), các

cột đều độ rộng vừa phải, do đó số lượng từ trên một dòng không quá nhiều và đảm

bảo khả năng đọc của mắt. Chúng làm cho mắt người đọc cảm thấy thoải mái, dễ

chịu, không bị căng thẳng.

Với nội dung bài viết, phần lớn các đoạn văn bản được căn bên trái thống

nhất chung với toàn bộ hệ thống TCH. Cách căn chữ này không chỉ đảm bảo khả

năng dễ đọc mà còn thể hiện một phong cách phóng khoáng, một tinh thần cởi mở,

thân thiện. Nó phù hợp với một tạp chí cung cấp thông tin và truyền thông về văn

hóa, du lịch, ẩm thực, con người mà không tạo sự trang nghiêm, cứng nhắc, hay quy

củ. Thêm vào đó, thiết kế dường như không áp dụng cách căn phải vì với lượng chữ

lớn, việc căn chữ bên phải sẽ làm cho độc giả khó tiếp cận hơn, đồng thời cũng mất

nhiều thời gian để đọc hơn.

Tạp chí Heritage (TCH) xử lý độ rộng của cột chữ, kích cỡ chữ và khoảng

cách dòng của phần dàn trang nội dung đảm bảo tính hợp lý thị giác. Chữ nội dung

có độ lớn vừa đủ, thường có kích thước 10 pt. Trong thiết kế, tùy theo cỡ chữ mà

khoảng cách dòng được xác định. Các trang đã khéo léo xử lý văn bản, thiết lập

khoảng cách giữa các dòng phù hợp khi kết hợp với cỡ chữ để đáp ứng khả năng

đọc thuận lợi của độc giả. Thêm vào đó, khi đối sánh giữa các cột chữ với nhau, các

hàng chữ được trông thấy thẳng hàng. Điều đó đảm bảo một tiêu chí cơ bản trong

65

việc dàn trang. Như vậy, chúng đảm bảo tính thẩm mỹ trong thiết kế dàn trang và

thể hiện sự quy chuẩn, đảm bảo tính chuyên nghiệp.

Để tạo điểm nhập cảnh, khởi điểm của nội dung bài viết được thiết kế với ký

tự đầu tiên có tỷ lệ tương phản mạnh so với cỡ chữ nội dung. Chữ cái này có kích

thước lớn, có chiều cao bằng 3 dòng, hay 4 dòng, thậm chí 6 dòng. Một số ký tự

không chỉ được nhấn bằng kích thước mà còn sử dụng màu sắc có mối liên hệ với

màu sắc của hình ảnh trong bài viết. Chúng tạo điểm nhấn giúp người đọc xác định

được vị trí bắt đầu đọc hay đâu là phần khởi đầu của nội dung. Chúng ta có thể thấy

cách đồ họa này được áp dụng hầu hết cho tất cả các bài viết. Trên trang 87, bài

“Bow to the Buddha” số ra tháng 12 năm 2011 [PL.1, H.55, tr.188] và nhiều trang

khác đều xử lý đồ họa chữ theo cách này.

Chú thích hình ảnh trên tạp chí Heritage

Dòng chú thích luôn xuất hiện bên cạnh hình ảnh minh họa cho bài viết.

Chúng có nhiệm vụ cung cấp thông tin chính xác của bức ảnh nên dòng chú thích

được sắp đặt theo vị trí của hình ảnh. Do đó, người đọc hiểu rõ hơn và nhận được

đúng thông tin của những hình ảnh này.

Để hạn chế bớt số lượng phông chữ nhằm mục đích làm cho thiết kế và dàn

trang không bị rối, phông chữ cho các nội dung chú thích cũng được dùng nhắc lại

từ các phông tiêu đề, sapo hay nội dung chính. Tuy nhiên, đây là thành phần phụ

nên kích cỡ của nội dung này được thiết kế nhỏ hơn so với các thành phần còn lại.

Tuy nhiên, trong một số trường hợp, hình ảnh trên trang bài không có chú

thích. Đối với một số bài viết, tên bài và nội dung chỉ tập trung duy nhất vào một

đối tượng, cho nên hình ảnh minh họa không cần chú thích nhưng người đọc vẫn có

thể hiểu được. Ví dụ, trong thiết kế trên trang 80-81, số ra tháng 7 năm 2012, bài

viết “Những cây cầu nổi tiếng thế giới - Iconic Bridges” và hình ảnh minh họa chỉ

đề cập đến cây cầu Brooklyn. Chính vì vậy, độc giả vẫn hiểu được đúng nội dung

mà không cần chú thích hình ảnh [PL.1, H.66, tr.196].

Để đạt được Tiêu chí thứ hai, TCH đã kết hợp các yếu tố đồ họa với các

thành phần khác thông qua nguyên lý tạo hình, đồng thời sử dụng hình ảnh minh

66

họa đa dạng, phù hợp với nội dung, tạo thành cấu trúc tổng thể hiện đại, bắt mắt,

phù hợp với nhu cầu thẩm mỹ của thời đại và qua đó thể hiện thông điệp truyền

thông.

Thiết kế dàn trang TCH là một kỹ năng “trình diễn” nội dung tạo nên một

tổng thể hài hòa giữa nội dung và hình thức. Khi chúng ta mở quyển tạp chí, thị giác

của chúng ta không tập trung nhìn một trang xong rồi mới nhìn đến trang tiếp theo

mà luôn nhìn tổng thể cả hai trang. Do vậy, một bố cục hoàn chỉnh của từng trang

đơn lẻ sẽ kém hiệu quả hơn một tổng thể hoàn chỉnh của hai trang liền nhau. Các

yếu tố đồ họa như hình, mảng, nét và các hình ảnh minh họa được thiết kế sáng tạo

hiệu quả hơn, “phô diễn” mạnh mẽ chủ đề tư tưởng, đem lại hiệu quả thẩm mỹ cao

nhất bằng cách tạo nên một bố cục hoành tráng với hai trang liền kề.

Hình ảnh và các yếu tố đồ họa mang lại sự sống động cho thiết kế dàn trang.

Cho dù là tâm điểm chính hay chỉ là những thành phần nhỏ trong thiết kế thì chúng

vẫn đóng vai trò thiết yếu trong việc truyền đạt thông điệp. Do đó, chúng là nhân tố

quan trọng trong biểu đạt thẩm mỹ.

2.2.3.3. Màu sắc và mảng trên tạp chí Heritage

Trong bất kỳ thiết kế nào, màu sắc luôn là yếu tố làm hấp dẫn thị giác, vừa

có tác động thẩm mỹ, vừa thể hiện tính truyền thông cao. Nếu việc bố cục giữa chữ

và hình được xem như là yếu tố cốt lõi trong dàn trang thì màu sắc là yếu tố làm

hoàn thiện tổng thể. Màu sắc được thể hiện trên các hình vẽ và ảnh minh họa, trên

các biểu đồ, đồ họa thông tin, các tiêu đề, phần trích dẫn, các mảng trang trí, đường

viền ảnh. Màu sắc có thể tạo nên tính cách của mỗi thương hiệu TC.

Với Heritage, TC không sử dụng nhiều màu mà có cách dùng màu khá đơn

giản. Các màu sắc và những mảng màu chủ yếu được sử dụng để tạo điểm nhập

cảnh, điểm nhấn. TCH đề cao tính truyền thông nên cách dùng màu luôn hướng đến

sự lĩnh hội thông tin của những bài viết.

Màu sắc có sự ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự nhận biết. Những thay đổi về màu

sắc của chữ tạo hiệu quả trong việc thể hiện chiều sâu không gian. Màu sắc khiến

cho mắt người đọc phát hiện tín hiệu là dấu hiệu nhận biết trình tự ưu tiên. Những

67

yếu tố xuất hiện trong cảm giác gần với thị giác nhất tạo nên sự chú ý và đó là yếu

tố chiếm vị trí cao trong hệ thống phân cấp thông tin. Các yếu tố khác được thể hiện

với kích thước nhỏ hơn, hoặc màu sắc nhẹ hơn để giảm sự quan trọng do cảm giác

“tĩnh” của đối tượng.

Để giúp việc phân cấp nội dung được rõ ràng, một số tiêu đề hay phần trích

dẫn được thiết kế với màu hoặc mảng màu, trong khi đó một số khác sử dụng đường

kẻ. Tên bài viết “Nghệ thuật từ cái nhìn” trên trang 70-71, số báo tháng 3-4 năm

2003, sử dụng màu cam, trong khi nội dung toàn toàn dùng chữ màu trắng trên nền

đen [PL.1, H.33, tr.177].

Với đặc điểm chung và phổ biến của TCH là độc giả phải đọc một lượng chữ

khá nhiều nên những yếu tố đồ họa phải đáp ứng sự điều tiết thị giác. Từ đó, độc giả

có thể đọc bài viết một cách thư thái, thoải mái. Thiết kế dàn trang không phải sử

dụng triệt để màu sắc, hình khối để gây ấn tượng về thẩm mỹ mà là việc tạo hiệu

quả đồ họa để đáp ứng khả năng đọc trên ấn phẩm TC. Do vậy, để thuận tiện cho

việc đọc, nội dung thường được thể hiện ở trạng thái chữ sẫm màu trên nền sáng

màu. Đây là trạng thái mà mắt người điều tiết tốt nhất khi đọc bài viết có nội dung

nhiều. Phần lớn nội dung chính của bài viết trên TCH được thể hiện ở màu đen trên

nền trắng. Một số trang có thể bắt gặp chữ trắng trên nền đen hoặc nền sẫm màu.

Tuy nhiên, cách này không được áp dụng phổ biến mà nó như một cách để làm thay

đổi, tránh cảm giác đơn điệu trong thiết kế.

Bên cạnh màu sắc của chữ, một trong những yếu tố tạo nên sự hấp dẫn của

TCH đó là màu sắc của hình ảnh. Phần lớn hình ảnh minh họa cho bài viết trên tạp

chí là hình ảnh chụp. Một số ít bài viết sử dụng tác phẩm nghệ thuật như tranh vẽ.

Hình ảnh luôn có sức lôi cuốn người xem mạnh mẽ bởi tính thông tin và nghệ thuật

nhiếp ảnh. Những hình ảnh chụp có độ no màu, độ sắc nét để thấy được các chi tiết

hay những khoảnh khắc mà nhiếp ảnh gia kịp ghi lại luôn khiến người xem chú ý.

Mỗi hình ảnh chứa đựng giá trị thông tin mà độc giả chỉ cần xem hình ảnh cũng có

thể nắm bắt được chủ đề của bài viết.

Tạp chí Heritage (TCH) không sử dụng màu sắc vờn tỉa mà chủ yếu sử dụng

68

những mảng màu phẳng, kích thước mảng màu lớn. Những mảng màu này được sử

dụng tùy theo hình minh họa và nội dung của bài viết. Mỗi bài viết không sử dụng

quá nhiều màu, đôi khi chỉ tạo điểm nhấn với một màu duy nhất. Với cách tạo điểm

nhấn này, thiết kế đem đến cảm giác vừa kết hợp những yếu tố truyền thống nhưng

không đặt chúng trong một không gian hoàn toàn truyền thống mà tạp chí muốn gợi

lên một không gian hiện đại.

Phần cuối các số báo có mục thông tin của Vietnam Airlines, tên bài viết sử

dụng hai màu xanh và vàng. Đây là hai màu đặc trưng trong nhận diện thương hiệu

của Hãng hàng không Quốc gia Vietnam Airlines. Chữ “Welcome” sử dụng màu

vàng, còn chữ “on board” được thể hiện với màu xanh. Cách dùng hai màu này trên

tiêu đề bài viết được sử dụng đồng bộ trên các tiêu đề nội dung. Mỗi tiêu đề nội

dung được thiết kế với một mảng màu để tạo điểm nhấn và phân cấp thông tin. Các

mảng màu được sử dụng luân phiên nhau giúp độc giả nhận biết nhanh và hướng họ

đến việc đọc các tiêu đề này trước khi đọc nội dung, đồng thời chúng vẫn duy trì

được tín hiệu nhận diện thương hiệu đặc trưng của hãng.

Thiết kế của bài “Vẽ con giáp chơi Tết” trên trang 52-53 số ra tháng 2 năm

2013 đã tạo ấn tượng mạnh với một mảng màu đỏ có độ rực. Hình ảnh minh họa có

kích thước nhỏ đặt ở vị trí gần giữa trang. Tên bài và đoạn giới thiệu được đặt ở vị

trí so le nhau so với hình ảnh. Bố cục của trang tạo nên những khoảng trống đỏ đưa

ra một tổng thể hiện đại và gây ấn tượng thị giác mạnh, đem đến một cảm giác sôi

động, một không khí Tết tưng bừng, hoạt náo. Tuy nhiên, đối lập với trang bên trái,

trang 53 lại có màu sắc khá tĩnh lặng trong một không gian trầm. Sự đối lập này

đem lại hiệu quả thẩm mỹ riêng, không chỉ thu hút và định vị điểm nhập cảnh mà

còn giúp cân bằng thị giác và cảm xúc độc giả [PL.1, H.86, tr.209].

Cũng trong số tháng 2 năm 2013, thiết kế trang 24 của bài “Chuyện một

người mê cổ vật” sử dụng mảng màu như một cách tạo điểm nhấn và bố cục. Mảng

màu nâu vàng chiếm 2/3 diện tích. Trên nền màu này không có quá nhiều chi tiết

mà chủ yếu đặt tên bài, hình ảnh và đoạn mở đầu. Hình con chim với những họa tiết

hoa văn trang trí cách điệu đã được lọc bỏ hết phần nền của ảnh gốc và đặt lên nền

69

màu trong bố cục trang. Một phần của hình ảnh bị cắt đi kết hợp với cụm chữ được

căn phải tạo cảm giác lớp trước, lớp sau khi hình ảnh như lấp ló dưới lớp nền màu

của chữ. Không gian tĩnh của mảng màu vừa có chức năng của một lớp nền để làm

nổi bật hình ảnh hiện vật, đồng thời tạo mảng đồ họa làm cho thiết kế hiện đại. Để

tạo sự đồng hộ và liên hoàn, màu nâu vàng được nhắc lại trên khung của cụm chữ

trích đoạn trên trang 24 và màu của chữ trích đoạn trên trang 25. Bên cạnh đó, tuy

không sử dụng sự đậm nhạt của màu để tạo chiều sâu không gian, cách cắt cúp hình

ảnh tương tự trang 24 đã đẩy mảng màu của hai cột chữ lên, tạo cảm giác chiều sâu

với lớp chữ, lớp ảnh và lớp nền [PL.1, H.84, tr.208].

Không dùng những mảng màu lớn, thiết kế trang 44-45 của bài “Mạnh

thường quân của nghệ sĩ Việt Nam” số ra tháng 8 năm 2012 tạo điểm nhấn với

những mảng nhỏ màu đỏ. Mảng màu đỏ này được lấy từ những khối lập phương

trong hình ảnh minh họa. Chúng tạo nên sự kết nối giữa phần thiết kế dàn trang với

nội dung. Những mảng màu này được sắp đặt có chủ ý bên cạnh những cụm chữ in

hoa. Chúng tạo điểm nhấn vào những cụm chữ chứa đựng tính thông tin của sự kiện

như muốn người đọc lưu tâm đến những mốc quan trọng này của chuỗi hoạt động

[PL.1, H.69, tr.198].

Không sử dụng quá nhiều mảng màu để tạo tính trang trí như nhiều ấn phẩm

tạp chí khác, Heritage chủ yếu giải quyết tính thẩm mỹ truyền thông bằng cách tạo

lập mối quan hệ giữa chữ và hình ảnh. Các khối chữ vừa là nội dung, thông tin,

nhưng ở góc độ đồ họa, chúng tạo thành các mảng. Khi chúng ta nheo mắt lại và

không nhìn chúng ở dạng nội dung để đọc thì các khối này tạo thành những mảng

màu ghi. Các mảng khối chữ trên trang tạp chí Heritage vừa có mối quan hệ mật

thiết với nhau, đồng thời liên quan trực tiếp đến bố cục trang. Việc tổ chức và phối

hợp các khối hình đã tạo nên một bố cục thỏa đáng thông qua sự liên kết chặt chẽ và

tạo thành các biến thể hình dạng.

Nếu không có sự tách khối chữ, nội dung của mỗi bài viết sẽ dễ bị rơi vào

trạng thái giống như một bản báo cáo với lượng chữ kín đặc toàn bộ trang. Việc

hình thành các mảng khối chữ đã giảm cảm giác nặng nề của một khối lượng nội

70

dung lớn, tránh cho thiết kế rơi vào sự đơn điệu khiến độc giả không hứng thú với

việc đọc bài viết. Thêm vào đó, các khối chữ không chỉ tạo ra vô số các hình dạng

phong phú mà còn tạo nên nhịp điệu chuyển động của khối hình. Chúng dẫn mắt

người đọc di chuyển từ nội dung này tới nội dung khác.

Các lề và cột nhất quán tạo nên cấu trúc của TCH, hợp nhất các trang bài

không chỉ làm cho bố cục hiệu quả về thị giác mà hiệu quả cả về truyền thông. Để

tạo sự linh hoạt trong thiết kế dàn trang, nhà thiết kế của TCH đã khéo léo tạo nên

những khoảng trống nhưng không làm cho phần mỹ thuật bị trống rỗng mà tham gia

vào nhịp điệu của hệ thống. Mảng không gian trống xung quanh nội dung bài viết

và hình ảnh minh họa là một yếu tố quan trọng. Trong khi nhiều tạp chí sắp đặt chữ

và hình ảnh lấp đầy không gian trên trang giấy thì Heritage luôn chú trọng giải

quyết không gian trống này. Thêm vào đó, chúng tạo nên những khoảng nghỉ để

điều tiết thị giác người đọc khi tạo các điểm dừng thị giác và điểm dừng cho khối

thông tin để kết hợp với tiêu đề bài viết, nội dung trích dẫn, hình ảnh minh họa và

chú thích hình ảnh.

Nhiều tạp chí chỉ dàn trang nhưng không tính đến việc tạo nên những khoảng

trống, chúng chỉ giải quyết về mặt truyền thông ở mức độ cung cấp thông tin cho

độc giả mà không xét đến tâm lý thị giác của họ. Nếu mọi thứ lấp đầy trang giấy thì

chúng chỉ làm nhiệm vụ cung cấp thông tin mà không có tính thẩm mỹ. Do vậy,

chúng không tạo nên được thẩm mỹ truyền thông. Thiết kế ngày nay đòi hỏi sự

quan tâm tới tâm sinh lý độc giả. Sự hấp dẫn của thông tin là điều kiện cần nhưng

chưa đủ để tương tác với người đọc. Sự chú trọng đến giao diện của trang báo sẽ

làm sâu sắc nội dung và đáp ứng nhu cầu cũng như thị hiếu thời đại của con người.

2.2.3.4. Hình ảnh minh họa trên tạp chí Heritage

Hình ảnh là phần quan trọng trên mỗi trang thiết kế cũng như trong nội dung

bài viết. Chẳng thứ gì có thể sánh được với hình ảnh khi đem đến cho tạp chí sự

sống động và những cảm xúc. Mỗi hình ảnh đều kể một câu chuyện và hình ảnh là

người kể chuyện tốt nhất. Chính bản thân độc giả cũng mong muốn được xem

những hình ảnh kết hợp với nội dung ở bất kỳ lĩnh vực nào. Mối quan hệ của hình

71

ảnh với nội dung rất quan trọng trong việc thiết kế. Việc dàn trang nội dung có thể

bị chi phối bởi việc bố cục hình ảnh cùng với việc hình ảnh minh họa cho câu

chuyện tạo ra một cuộc đối thoại thú vị giữa nội dung và hình ảnh.

Trong mỗi bài viết, hình ảnh minh họa là thành phần không thể thiếu. Chúng

không chỉ minh họa, tăng sự hấp dẫn của nội dung, giúp cho việc kể chuyện được rõ

ràng hơn mà cách sử dụng hình ảnh với những cách sáng tạo khác nhau cũng góp

phần thu hút sự quan tâm, chú ý của độc giả. Chúng cũng làm sáng tỏ những ý

tưởng trong việc mô tả một chủ đề cụ thể được tham chiếu trong nội dung. Thậm

chí, hình minh họa đã chuyển đổi khối lượng lớn của nội dung thành yếu tố thị giác

với thông điệp trực quan, dễ hiểu. Hình ảnh có giá trị cảm nhận trực quan nhanh và

lôi cuốn thị giác mạnh mẽ, và cùng với nội dung, chúng hoàn thiện thông điệp của

bài viết.

Mỗi số ra của TCH có nhiều bài viết khác nhau. Với sự phong phú của tư

liệu ảnh, họa sỹ thiết kế TCH đã dùng chúng một cách linh hoạt, đem lại sự sống

động cho phong cách của tạp chí. Kích thước hình ảnh trên mỗi bài viết được thay

đổi khác nhau giúp người đọc xác định được mức độ quan trọng của chúng. Hình

ảnh được Heritage sáng tạo trong việc cắt cúp hay thay đổi tỷ lệ, cũng như việc bố

cục hình ảnh trong mối quan hệ với chữ và với những hình ảnh khác. Vị trí của hình

ảnh, sự trải rộng hay thu hẹp kích thước của chúng trên trang tác động đến tính

thẩm mỹ và khả năng truyền thông của mỗi bài viết.

Hình ảnh chụp chứa đựng sự trung thực của thông tin. Chúng ghi lại những

con người thực hay những trạng thái thực tiễn cho dù đó là hình ảnh được chụp từ

những tình huống thực tế hay được chụp trong xưởng. Chủ đề của hình ảnh luôn

gắn liền với bài viết để minh họa thông tin cho bài viết đó. Do đó, các thể loại ảnh

cũng rất đa dạng như ảnh thời trang, thực phẩm, phong cảnh…; ảnh con người với

các dạng chân dung, ảnh đơn hay nhóm người…

Chúng ta đang sống trong thời đại của thị giác với sự bùng nổ của nhiều thể

loại đồ họa như phim, đồ họa đa phương tiện, nghệ thuật ảnh hay đồ họa tương tác

v.v. Phần nào đó, thói quen của con người cũng chuyển dịch theo sự thay đổi chung.

72

Thời kỳ đầu của sự xuất hiện báo chí ở nước ta với những tờ báo như Gia Định báo,

Thông Loại Khóa Trình, Nam Kỳ v.v., các tờ báo truyền thông dưới dạng trình bày

nội dung bài viết là chính mà ít có sự tham gia của hình ảnh minh họa. Ngày nay,

theo dòng phát triển của tri thức, của công nghệ, hình ảnh không chỉ tham gia vào

việc minh họa nội dung mà bản thân chúng cũng chứa đựng yếu tố nghệ thuật và

tính truyền thông. Người đọc muốn “thấy” thông tin, chứ không muốn “nghe kể” về

thông tin.

Hình ảnh chứa đựng sức mạnh và sự quyến rũ hơn nhiều lời văn. Do yếu tố

tốc độ truyền thông, nhiều độc giả trở nên hứng thú với việc xem hình ảnh hơn là

đọc nhiều chữ, hay lĩnh hội thông tin bằng cách “quét” qua các yếu tố đồ họa hơn là

việc đọc từ cột chữ này sang cột chữ khác. Điều đó nói lên rằng, thiết kế dàn trang

TC bị ảnh hưởng và thậm chí là chấp nhận tính thời đại của đồ họa truyền thông. Từ

đó, việc đồ họa thông tin trong TKDT phải kết hợp giữa hình minh họa và nội dung

thông tin để tạo nên một tổng thể hài hòa.

Thêm vào đó, một điểm hấp dẫn của hình ảnh minh họa là việc các nhà thiết

kế sử dụng hình ảnh một cách sáng tạo. Hình ảnh được sử dụng trong TKDT theo

nhiều cách, từ việc bố cục tràn lề, định vị với hệ thống lưới, đến nằm gọn trong

khuôn hình hay cắt cúp để lấy hình trọng tâm.

Trong bài “Dấu ấn sông Hàn - Crossing the Han River” số ra tháng 8 năm

2015, hình ảnh trên trang 76-77 được bố cục tràn lề, có độ rộng trải dài trên hai

trang liền nhau. Điểm tạo sự hấp dẫn cho người đọc chính là cách khai thác bố cục

của bức ảnh này. Với bố cục toàn cảnh cho người xem thấy một không gian rộng và

bao quát một góc của thành phố, hình ảnh được sắp đặt ở vị trí chân trang để tạo

không giản mở lên phía trên. Nền trời được khéo léo xử lý kỹ thuật để hòa vào nền

giấy tạo cảm giác thoáng đãng, mênh mông. Trong khi đó, trên trang 80-81, hình

ảnh được bố cục theo khổ chữ nhật phổ biến [PL.1, H.103, tr.227].

Hình ảnh trên trang 96-97 của bài “Những thác nước nổi tiếng xứ ngàn

thông”, số ra tháng 10 năm 2015 được bố cục gần như chiếm toàn bộ diện tích của

hai trang. Với ý tưởng này, tạp chí muốn đem đến cho độc giả không chỉ được

73

thưởng lãm, ngắm nhìn và cảm nhận vẻ đẹp của phong cảnh thác nước hùng vĩ rất

nên thơ mà còn truyền tải thông điệp đầy đủ nhất tinh thần và thông tin của bức ảnh

[PL.1, H.110, tr.234].

Trong thiết kế bài “Little treasures” số ra tháng 10 năm 2016, hình ảnh trên

trang 126-127 được chụp với góc nhìn từ trên xuống và được bố cục tự do. Chúng

tạo cảm giác như được sắp đặt trên một mặt phẳng mà ranh giới giữa nền của ảnh và

nền trang giấy hòa làm một. Cùng với sự kết hợp của chữ và hình, chúng như tạo

nên một không gian thực, gần gũi mà người xem cảm thấy như không phải đang

xem một bức ảnh mà chính mắt mình đang xem sản phẩm trong thực tế [PL.1,

H.117, tr.238].

Về hình dạng, hình ảnh có ba dạng chính đó là hình dạng chữ nhật ngang,

hình dạng chữ nhật dọc và hình vuông. Hình ảnh ở thể chữ nhật ngang là loại ảnh

phổ biến, có mối liên hệ với con mắt nhìn của chúng ta. Ngay cả khi chụp ảnh, phần

lớn các bức ảnh được bố cục ở khổ ngang để có thể lấy hết toàn cảnh. Trong TKDT,

hình ảnh khổ ngang sẽ dễ dàng kết hợp với chữ. Những hình ảnh ở thể chữ nhật dọc

thường tập trung vào trung cảnh hay cận cảnh chi tiết của nội dung bức ảnh đó.

Những hình ảnh cận cảnh hoặc cảnh rộng rất thu hút sự chú ý của người xem bởi

chúng thể hiện thông tin chi tiết (cận cảnh) hoặc toàn bộ (cảnh rộng).

Trong nhiều trường hợp, một số hình được nhà thiết kế khéo léo lọc từ ảnh

gốc, thậm chí loại bỏ những chi tiết phụ, phá bỏ khuôn khổ của khung hình truyền

thống để tạo nên không gian mở và làm đa dạng cách thể hiện thẩm mỹ. Hình minh

họa bài “The sacred gem” trên trang 46-47, số ra tháng 5-6 năm 2005 đã sử dụng

hình chụp một bức tranh in đồ họa. Trên trang 47, một số mảng màu được khai thác

từ bức tranh. Hình ảnh ở giữa được lọc bỏ nền, chỉ còn tập trung vào hình để độc

giả tập trung vào cách sáng tạo trong tạo hình người trên tranh của họa sỹ [PL.1,

H.35, tr.178].

Sử dụng những hình ảnh được lọc nền tạo cơ hội cho diện mạo của thiết kế

trở nên mở hơn. Các đoạn văn bản không còn tuân thủ hoàn toàn theo sự định vị của

hệ thống lưới, cột mà chạy quanh hình. Trên thiết kế trang 31 của bài “A royal

74

welcome for spring”, số ra tháng 1 năm 2017, hình chiếc thẻ bài cao cấp được đặt

trên một nền đen chuyển màu từ đen sang ghi tạo cảm giác như một không gian

thực. Hình ảnh như đặt trong một không gian và được nhiếp ảnh gia chụp lại. Ở góc

độ khác, không gian xung quanh chiếc thẻ bài này hoàn toàn tĩnh tạo khoảng không

để đoạn hai cột chữ chạy xung quanh hình. Sự kết hợp giữa dàn trang trên mặt

phẳng của trang giấy với không gian của hình ảnh tạo nên một bố cục lạ mắt, vừa

thực, vừa đồ họa [PL.1, H.120, tr.239].

Trong một thiết kế của bài “All aboard”, hình ảnh không được cắt lọc để lấy

đối tượng chính mà có cách thể hiện ở những hình học đa dạng. Trên bài viết ở

trang 56-57, số ra tháng 12 năm 2012, lấy ý tưởng từ những hình bình hành và hình

tam giác trong kết cấu của công trình kiến trúc nhà ga Atocha, Tây Ban Nha, hình

ảnh đã được cắp cúp một cách táo bạo để tạo bố cục hình bình hành, tạo nên nhịp

điệu độc đáo của bố cục tổng thể [PL.1, H.79, tr.204].

Tương tự như vậy trên bài “Du ngoạn giữa trời xanh - Race the Clouds”, để

phá vỡ lối bố cục truyền thống với sự sắp đặt của những hình ảnh trong dạng chữ

nhật ngang hoặc dọc, hình ảnh trên trang 58-59 của số ra tháng 7 năm 2014 cũng

được cắt cúp theo hình bình hành. Các hình ảnh này được sắp đặt với nhau theo

hướng chuyển động của những đường chéo tạo nên nhịp điệu linh hoạt của hình

[PL.1, H.95 tr.216]. Những khoảng trống được tạo ra từ sự chuyển động của hình

tạo nên điểm nghỉ mắt, đồng thời chúng khiến người xem để ý tới hình ảnh nhiều

hơn.

2.2.3.5. Sự kết hợp giữa chữ và hình trên tạp chí Heritage

Bố cục giữa chữ và hình ảnh tạo nên thành phần chính, là yếu tố trọng tâm

trong thiết kế dàn trang. Chúng có nhiệm vụ tăng cường khả năng truyền thông và

tạo hiệu quả tốt trong sự tương tác với người đọc. Kích thước và việc bố cục hình

ảnh trên trang bài thể hiện tinh thần truyền thông như một tiêu điểm chính; làm cho

người đọc khám phá tiêu đề; thể hiện cá tính của nhân vật hoặc đối tượng; bản thân

mỗi hình ảnh có thể kể một câu chuyện hoàn chỉnh, thậm chí có thể kết hợp nhiều

hình ảnh để kể ra một câu chuyện theo tuyến tính nội dung; hay diễn đạt một đối

75

tượng, không gian hay địa điểm. Những nguyên lý cơ bản trong thiết kế được áp

dụng trong dàn trang giúp cho các nhà thiết kế sắp đặt hình ảnh một cách nhất quán

và hài hòa với các yếu tố khác.

Hình ảnh và chữ được bố cục và căn chỉnh với nhau theo hệ thống lưới là

một cách TKDT khá phổ biến. Cách thiết kế này đem đến tính ổn định của trang tạo

nên bố cục phẳng. Trên trang 70-71 bài “Nghệ thuật từ cái nhìn”, số ra tháng 3-4

năm 2003, hình ảnh và nội dung đều được bố cục theo hệ thống lưới. Điều đó có thể

được nhận thấy dễ dàng khi hình ảnh và chữ luôn được căn với nhau rất ngay ngắn.

Từ tiêu đề bài viết, đoạn mở đầu và hình ảnh lớn trên trang 70 được căn trái với

nhau. Hình ảnh lớn nhất này có kích thước chiều cao bằng với cột chữ ngay bên

phải tạo nên một khối vuông. Bên cạnh đó, hai hình ảnh nhỏ có kích thước đều

nhau, được căn thẳng hàng và hình ảnh dưới cùng được căn bằng cạnh đáy với ảnh

lớn và cột chữ. Trên trang 71, bố cục cũng được thể hiện tương tự như vậy tạo nên

tổng thể hai trang rất ngay ngắn, đồng thời tạo cảm giác khối vững chắc của kiến

trúc [PL.1, H.33 tr.177].

Việc truyền thông bằng hình ảnh có thể đẩy nội dung thể hiện bằng văn bản

trở thành những thành phần phụ. Một số trang có lượng chữ rất ít trong khi những

trang khác lại có những câu chuyện dài. Trên trang trình bày bài viết, hình ảnh có

thể chiếm ưu thế của bố cục, khối chữ được chuyển hẳn sang trang kế tiếp để

nhường chỗ cho việc diễn đạt hình ảnh với kích thước lớn nhất.

Thiết kế bài “Du ngoạn giữa trời xanh - Race the Clouds”, trang 62-63 số ra

tháng 7 năm 2014 chủ yếu dàn trang các hình ảnh là chủ đạo. Bài viết muốn tập

trung thị giác độc giả vào hình ảnh, vẻ đẹp phong cảnh của Brazil. Lượng chữ nội

dung bài không nhiều. Các đoạn nội dung được bố cục ở những mảng nhỏ kết hợp

với hình như một thành phần chú giải để tăng cường tính thông tin của những hình

ảnh này [PL.1, H.95 tr.216].

Trong thiết kế trên trang 88-89, số ra tháng 8 năm 2012, bài viết có lượng nội

dung không nhiều và được dàn trên hai trang. Phần văn bản được trình bày hoàn

toàn trên trang 89, trong khi đó, trang 88 được bố cục với một hình ảnh duy nhất.

76

Hình ảnh với kích thước lớn đã thể hiện được đầy đủ chi tiết và độc giả có thể xem

kỹ hình ảnh này. Một số hình ảnh cận cảnh được bố cục với tỷ lệ nhỏ hơn, xen kẽ

với phần chữ tạo nên một tổng thể cân đối [PL.1, H.33 tr.177].

Một số trang bài sử dụng hình ảnh với kích thước lớn. Kích thước của hình

ảnh thể hiện sự thống trị trang, tạo trọng tâm của sự chú ý. Ở một bố cục bài

“Không ngủ ở Shinsaibashi - Sleepless in Shinsaibashi” thể hiện trên trang 40-41,

số ra tháng 2 năm 2014, một hình ảnh lớn duy nhất được bố cục trên toàn bộ hai

trang liền nhau. Nội dung hình ảnh lột tả được vẻ đẹp của một nét đặc trưng văn hóa

vùng sông nước và góc lấy hình độc đáo. Tên bài viết được đặt ở vị trí bên tay phải,

tại nơi có ít chi tiết hơn của hình ảnh đã không làm ảnh hưởng đến điểm trọng tâm

của bức ảnh. Toàn bộ hai trang này không trình bày nội dung của bài viết. Do vậy,

nó tập trung vào thông tin. Cách bố cục này tạo nên điểm nhập cảnh để truyền thông

cho nội dung được thể hiện tiếp theo [PL.1, H.71 tr.199].

Bài “Naples - Thiên đường bên Địa trung hải” cũng áp dụng cách bố cục

toàn cảnh một hình ảnh trên hai trang đối nhau để người đọc cảm nhận và chiêm

ngưỡng vẻ đẹp kỳ vĩ của thiên nhiên, trang 50-51 của tạp chí Heritage số ra tháng

11 năm 2013, toàn bộ hình ảnh được bố cục tràn lề. Tên bài và một phần nội dung

được trình bày trên trang 50. Người thiết kế đã khéo léo tạo cảm giác không gian

khi đặt chữ lên trên hình mà không làm che khuất hình ảnh. Nó như tạo một lớp

trong suốt. Tại vị trí không có nhiều chi tiết của bức ảnh, nội dung bài viết vẫn đảm

bảo khả năng đọc [PL.1, H.89 tr.212].

Hình ảnh hoặc nội dung của dòng tiêu đề có thể được kết hợp lại thành một

nhóm thống nhất toàn bộ bố cục. Khi hình ảnh và tiêu đề bài viết được sắp đặt với

nhau, chúng tạo sự chú ý nhiều hơn. Hình ảnh và nội dung cũng như ý nghĩa của

chúng kết hợp với tiêu đề đem đến sự hoàn chỉnh của thông tin. Thêm vào đó, nội

dung của tên bài như củng cố câu chuyện của hình ảnh và như vậy, độc giả dễ nắm

bắt được sự chính xác của thông tin.

Bài “Du ngoạn giữa trời xanh - Race the Clouds” trên trang 58 số ra tháng 7

năm 2014, hướng chuyển động của hai ảnh hình bình hành gặp nhau tại điểm bắt

77

đầu của cụm chữ “Du ngoạn giữa”. Cụm chữ này được thiết kế tạo hướng chuyển

động xuống phía dưới và có điểm dừng là cụm chữ “Trời xanh”. Sự kết hợp nhịp

nhàng giữa hình ảnh và chữ đã tạo dòng chuyển động thị giác và dẫn mắt độc giả tới

tiêu đề bài viết [PL.1, H.95 tr.216].

Trong một thiết kế khác, một hình ảnh lớn trên bài “Kỳ lạ những bộ tộc

không mặc quần áo - Tribal people around the world” được bố cục trên hai trang

112-113 của số ra tháng 8 năm 2015. Hình ảnh được sử dụng nguyên khổ chữ nhật

ngang với chân dung của một cô gái da màu. Dường như Heritage chỉ muốn người

xem tập trung vào hình ảnh duy nhất bởi chi tiết của hình ảnh rất độc đáo, một nét

văn hóa đặc trưng của bộ lạc Himba, Namibia. Họa sỹ thiết kế của Heritage đã rất

tài tình khi kết hợp hình ảnh với chữ mà không cần sử dụng thêm các yếu tố đồ họa

như mảng, hình hay nét nào. Trên hình ảnh, gương mặt luôn được người xem chú ý.

Trên gương mặt, đôi mắt là chi tiết bộc lộ nhiều cảm xúc. Hướng nhìn của mắt sẽ

luôn định hướng người xem di chuyển mắt đến vị trí tiếp theo. Do vậy, trong bố cục

này, mặc dù là chi tiết rất nhỏ trên hình ảnh nhưng con mắt của cô gái chính là điểm

điều hướng thị giác đến nội dung. Nó tạo nên sự kết hợp hoàn hảo giữa chữ và hình

[PL.1, H.104, tr.228].

Thiết kế bài “Tranh Dân gian Hàng Trống” trên trang 90-91 số ra tháng 1-2

năm 2010 có cách bố cục chữ và hình ảnh riêng rẽ. Toàn bộ tên bài viết và đoạn mở

đầu được sắp đặt đăng đối, căn chính giữa trang 90 như một trang mở đầu để giới

thiệu những bức tranh dân gian sau đó. Bức tranh Hàng Trống Xích hổ thần tướng

được căn giữa ngay ngắn trên trang 91. Toàn bộ chữ và hình được đặt trên nền màu

nâu vàng gợi không khí cổ xưa. Cách bố cục khiến cho độc giả như đang xem một

quyển sách giới thiệu với một sự trang nghiêm, trang trọng trước một dấu ấn đặc

sắc của nền văn hóa, nghệ thuật cổ truyền của dân tộc [PL.1, H.48, tr.185].

Thiết kế dàn trang ấn phẩm tạp chí Heritage do sự đầu tư thích đáng cả về

nội dung lẫn hình thức nên ngay từ khi ra mắt vào tháng 6 năm 1993 đã trở thành ấn

phẩm cao cấp nhất trong ngành xuất bản tại Việt Nam. Ban biên tập đã hợp tác với

nhiều giám đốc sáng tạo đến từ các công ty thiết kế danh giá trong và ngoài nước.

78

Có thể kể đến các công ty như WordMaker Design năm 1993, Vietnam Investment

Review Ltd. năm 1995, Đỗ Cao Nguyên năm 1999, Thiết kế Quốc Anh năm 2001,

HyPress Creative Advertising Co., Ltd. năm 2001, Time Vision Advertising JSC

năm 2004, Nguyencomm năm 2006, Lotus Communication năm 2008, Clipper

Indochine năm 2012 và Esign từ năm 2012 đến nay. Trong đó có những gương mặt

xuất sắc của ngành thiết kế đồ hoạ nói chung và chuyên ngành TKDT nói riêng như

Đỗ Cao Nguyên, Nguyễn Hà Hùng, Từ Phương Thảo, Nguyễn Đình Nguyên, Steve

Christensen, Vũ Mạnh Hùng… Thực tế TKDT ấn phẩm TCH luôn đạt đến trình độ

cao và điều đáng nói ở đây là nó hầu như không bị thị trường tác động, TCH như

một mảnh đất tự do cho các nghệ sĩ thiết kế thoả sức sáng tạo với những điều kiện

tối ưu mà không chịu một sức ép nào. Ở một góc độ nào đó, ấn phẩm TCH như một

tác phẩm nghệ thuật ứng dụng và là hình mẫu đi đầu của chuyên ngành TKDT.

Nhìn lại chặng đường của cả quá trình phát triển, ấn phẩm TCH có những bước

chuyển biến quan trọng về quan điểm thẩm mỹ, về nhận thức cũng như phương

pháp thể hiện trong TKDT.

Tiểu kết

Tạp chí Heritage có những lợi thế không nhỏ trong thiết kế dàn trang. Thực

tế thì ban biên tập luôn có cơ hội lựa chọn những giám đốc sáng tạo tốt nhất, nhưng

“dù làm việc với nhà thiết kế nào thì ban biên tập cũng phải tương tác tối đa để tạo

ra phong cách của tạp chí”, biên tập chính Vũ Vân Yến cho biết. Với xuất phát điểm

mạnh và bề dày truyền thống vững chắc, TCH đi đầu trong phong cách thiết kế

trang bìa và thiết dàn trang nội dung TC bằng dạng thức độc đáo. Trang bìa của

TCH là biểu tượng cho sự thành công in đậm trong tâm trí độc giả Việt Nam cũng

như khách nước ngoài. Logo TCH vẫn mang vẻ hiện đại nổi bật từ ngày đầu và

không mấy thay đổi cho đến bây giờ. Hình ảnh cũng như màu sắc đã tạo dấu ấn thị

giác nhẹ nhàng nhưng sang trọng do luôn tuân thủ các tiêu chí thiết kế chuẩn mực.

Thiết kế dàn trang nội dung TC tuân thủ cấu trúc thông tin chặt chẽ, mạch lạc giữa

các chuyên mục, nhưng đồng thời là những mảnh đất tự do cho các ý tưởng sáng tạo

của các nghệ sĩ bay bổng. Trang TCH được thiết kế kỹ đến từng chi tiết vận dụng

79

được tất cả các thủ pháp dàn trang theo một quan điểm thẩm mỹ tiên tiến, thẩm mỹ

của nghệ thuật đương đại đang lan toả trong xã hội hiện đại.

Thành công của nghệ thuật thiết kế dàn trang TCH luôn dựa trên các cơ sở

khoa học, cấu trúc cơ bản đồng bộ và hệ thống ô lưới dàn trang luôn được đề cao và

tuân thủ chặt chẽ. Phong cách thiết kế được quy định bởi giám đốc sáng tạo trong

sự tương tác chặt chẽ với ban biên tập tạp chí, mọi hiệu quả thiết kế mang lại đều

nhằm thúc đẩy nội dung thông điệp mà TCH muốn đem tới độc giả. Tạp chí

Heritage đã trở thành một hình mẫu, một tiêu chuẩn cho rất nhiều tạp chí ở Việt

Nam ra đời sau đó. Thực tế thiết kế dàn trang TCH đã đạt tới một trình độ nghệ

thuật nhất định, là niềm tự hào của văn hoá đọc trong giai đoạn phát triển kinh tế

của đất nước.

80

Chương 3

THIẾT KẾ TẠP CHÍ HERITAGE TỪ CÁCH TIẾP CẬN LÝ THUYẾT

THẨM MỸ TRUYỀN THÔNG

3.1. Nhận thức Thẩm mỹ truyền thông trong thiết kế tạp chí Heritage

3.1.1. Khủng hoảng nhận thức trong thiết kế ấn phẩm tạp chí

Cần phải thẳng thắn thừa nhận rằng các nhận thức về nghệ thuật đương đại

ngày nay chứa đựng nhiều hoài nghi và không chắc chắn. Các khái niệm được xây

dựng công phu về không gian, về thời gian, về quy mô và hình thức đều được đặt

những câu hỏi lớn. Thời đại của chúng ta đang trải qua một cuộc khủng hoảng sâu

sắc về nhận thức trong hoàn cảnh các diễn giải lý thuyết về những hiện tượng nghệ

thuật khác nhau đang đặt ra những thách thức. Nghệ thuật đương đại đôi khi bị coi

là dễ dãi và phá bỏ cái đẹp truyền thống.

Trong các loại hình mới của nghệ thuật đương đại như sắp đặt, trình diễn,

video art, có lẽ nghệ thuật trình diễn được coi là kỳ dị nhất. Những tác phẩm trình

diễn của nghệ sĩ Trương Tân những năm 90 được cho là sự lập dị của cá tính có liên

quan đến vấn đề giới, các tác phẩm trình diễn của nghệ sĩ Trần Lương được coi là

không chính thống và nhất là một loạt tiểu phẩm trình diễn của nghệ sĩ Đào Anh

Khánh thường được coi là điên rồ. Điều này là hoàn toàn dễ hiểu do công chúng

nghệ thuật Việt Nam chưa hề có sự chuẩn bị về nhận thức cho những loại hình nghệ

thuật còn khá mới mẻ này. Trong khi đó các tác phẩm sắp đặt của Nguyễn Bảo

Toàn với các vật liệu gần gũi như gốm, mây tre lại dễ đem tới sự cảm thông từ phía

người xem. Tuy nhiên nhiều tác phẩm sắp đặt của những nghệ sĩ khác chưa có được

những thành công này và thường mang lại cảm giác dễ dãi, chưa thuyết phục. Video

art cũng được chấp nhận một cách dè dặt và chờ đợi. Chỉ đến khi các cơ quan, tổ

chức nhà nước vào cuộc chính thức mở các cuộc triển lãm đương đại, các trung tâm

mỹ thuật đương đại cho nghệ sĩ trẻ thì những hình thức nghệ thuật mới này mới

được thừa nhận. Các thể loại nghệ thuật đương đại chính thức được đưa về Cục mỹ

thuật và nhiếp ảnh quản lý.

81

Vấn đề được đặt ra là mỹ thuật ứng dụng nói chung và thiết kế dàn trang

(TKDT) ấn phẩm nói riêng có mang tính thẩm mỹ đương đại hay không? Câu trả lời

là có nhiều ấn phẩm xuất bản trong đó có tạp chí đã phát triển cùng với xu thế

chung của nghệ thuật đương đại. Tuy nhiên do tính chất ứng dụng của nó, nghệ

thuật TKDT phát triển theo hướng riêng phù hợp với mục đích thương mại và

truyền thông. Trên thực tế có không ít thiết kế ấn phẩm tạp chí (TC) bị coi là thái

quá hoặc không có giá trị đóng góp gì về thẩm mỹ. Nhiều trang TC của thanh niên

sinh viên bị chuyên gia nước ngoài chê là giống báo thiếu nhi, màu sắc thì lòe loẹt,

bố cục trình bày thì hỗn độn và khó hiểu. Nhìn chung một số TC được dàn trang cẩu

thả hoặc không được quan tâm, nhưng cũng có những TC được đầu tư phần TKDT

mới lạ lại không được đánh giá đúng thậm chí còn bị cho rằng đã đi chệch hướng

thẩm mỹ.

Những TC được tổ chức thiết kế tốt như TC Đẹp, Phong cách, Sành điệu,

Thời trang trẻ đã thổi luồng gió mới vào nghệ thuật TKDT tạp chí và đã có những

thành công nhất định. Riêng tạp chí Heritage (TCH) do đặc thù những số đầu tiên

thiết kế chế bản ở nước ngoài đã tạo được một nền tảng vững chắc cho những quan

điểm mới trong thiết kế trình bày sau này. Ngay cả khi TCH được chuyển về TKDT

và in ấn ở Việt Nam, tinh thần thẩm mỹ dàn trang của thời đại vẫn được giữ vững

và phát huy cùng với sự tài năng của các công ty, nhà thiết kế trẻ Việt Nam. TKDT

ngày nay mang trong mình một thẩm mỹ nằm ngoài sự hữu hình, nhưng lại nằm ở

khu vực cơ sở của nhận thức, song hành cùng với nhận thức đương đại của chúng

ta. Sự vận hành của các hệ thống công nghệ truyền thông đang liên quan trực tiếp

đến nhận thức của chúng ta, cả nhận thức và công nghệ trao đổi mở đường tới một

mối quan hệ nhận thức mà không nhất thiết phải thông qua hình ảnh hay lời nói.

Thiết kế bài báo có tiêu đề “Cherished Footsteps” (Tiêu đề tiếng Việt là Chuyện

người làm dép cao su) trang 100-101 số tháng 7 năm 2014, một hình đồ hoạ dấu

nhân chéo rất lớn đặt giữa trang và choáng hết mặt trang. Từ trước đến nay thì

không có ai dàn trang vô lý đến vậy, thực tế thì đây là một ý tưởng trình bày mang

tính ý niệm của nghệ thuật đương đại. Hình đồ hoạ chéo mang ngụ ý của quai dép

82

cao su nổi tiếng của lịch sử Việt Nam [PL.1, H.96, tr.219]. Trang 50-51 số tháng 2

năm 2018, nghệ thuật ý niệm lại được thể hiện bằng một miếng hình trắng được co

lại giữa trang như một trang báo khác nằm trong trang báo thực. Chính trong trang

báo trắng nằm trên nền hoa đó lại mở ra nhiều cửa sổ chứa những góc chi tiết cảnh

rừng hoa. Phong cách ý niệm ở đây mang nhiều tính ẩn dụ của nghệ thuật [PL.1,

H.126, tr.244]. Một vấn đề nổi lên là phương cách sử dụng ảnh trong TC ngày nay

là hoàn toàn mới mẻ, là phong cách sử dụng ảnh thông minh, một phương pháp xử

lý ảnh mà trước đây khó được chấp nhận. Người thiết kế có thể cắt cúp lại toàn bộ,

hoặc chỉ sử dụng một phần, hoặc biến báo trở thành bức ảnh hoàn toàn khác nhằm

phục vụ tốt hơn cấu trúc xây dựng thông tin theo quan điểm TMTT.

Theo quan điểm của nghệ sĩ Nguyễn Hà Hùng, giám đốc công ty cổ phần

quảng cáo sáng tạo HyPress Creative Advertising đồng thời là nhà thiết kế chính

cho tạp chí Heritage nhiều năm từ năm 2001 đến 2005 cho biết: “Nhà thiết kế dàn

trang đã mã hóa những thông điệp thông qua những trang tạp chí và độc giả chính là

người giải mã chúng, do vậy điều này phụ thuộc rất nhiều vào mặt bằng nhận thức

chung”. Đây cũng chính là vấn đề khá bất cập trong nhận thức thẩm mỹ nghệ thuật

thị giác nói chung của Việt Nam, sự không đồng đều về trình độ cảm nhận nghệ

thuật đã cản trở khá nhiều sự phát triển của TKDT. Cùng nhất trí với quan điểm

này, nghệ sĩ Nguyễn Đình Nguyên, công ty trách nhiệm hữu hạn Nguyencomm,

TKDT cho TCH những năm 2005, 2006 thổ lộ: “Ở Việt Nam chỉ có một cộng đồng

nhỏ am hiểu thẩm mỹ thiết kế dàn trang tạp chí, nhận thức chung vẫn chưa bắt kịp

được với dòng chảy chung của thế giới”. Thực tế thì vấn đề này không quá nghiêm

trọng bởi vì sự phát triển của bất cứ ngành nghệ thuật sáng tạo nào cũng đều phải đi

trước đón đầu và chỉ có sự nỗ lực và thành quả nghệ thuật mới tạo nên một môi

trường nhận thức cao cập nhật với thời đại.

3.1.2. Tuyên ngôn nghệ thuật mới trong thiết kế ấn phẩm tạp chí

Thiết kế dàn trang (TKDT) ấn phẩm tạp chí (TC), trước hết là phải tạo ra

trang báo dễ đọc, trình bày thông tin chính xác. Về thẩm mỹ, vai trò của nghệ sĩ

TKDT là cung cấp cho độc giả một sự lôi cuốn mới mà tại thời điểm đó có thể họ

83

chưa nhận ra. Nhiệm vụ của người TKDT là chuyển thực tế thông tấn vào ngôn ngữ

thị giác, theo các quy tắc hoàn toàn tùy thuộc vào họ. Lịch sử nghệ thuật cũng cho

thấy bất kỳ một nỗ lực nhằm giới thiệu những dấu hiệu mới luôn phải đối đầu với

những cái nhìn khắt khe của xã hội. Chủ nghĩa Đa đa và các biểu hiện ban đầu của

nó ở thập niên 60 đã phải gồng mình để giới thiệu những phương tiện mới của biểu

thức, để khám phá một hình thức mới.

Câu hỏi cần đặt ra rằng tại sao trong các ngành khoa học tự nhiên, các phát

minh sáng chế luôn được cổ xúy, nhưng trong nghệ thuật đương đại, những TKDT

ấn phẩm lại khó khăn đến vậy. Như một dự đoán tất yếu, phải tiếp tục tìm tòi phải

kêu gọi thẩm mỹ dàn trang mới, cho một xã hội mới và nền văn hóa mới. Có một

mâu thuẫn không thể dung hòa giữa nhu cầu của kinh tế thị trường và sự biểu hiện

của nhận thức mà không thể minh chứng rõ ràng qua các TC. Bản thân TC có một

số thuộc tính làm nó có thể trở nên thương mại hơn. Mặt khác bản chất phương tiện

truyền thông của TC là không thích hợp để truyền đạt nhiều cung bậc cảm nhận

thuần túy nghệ thuật của ngày hôm nay.

Chúng ta đã thấy các nhà thiết kế bị cuốn vào những mâu thuẫn không thể

hòa giải giữa yêu cầu của thị trường và đòi hỏi tự nhiên của TKDT ấn phẩm, đó là

tạo ra một sự nhận thức thẩm mỹ rõ ràng cho hôm nay. Cái cách mà TKDT ấn phẩm

vận hành sẽ mang lại nhiều hơn những yêu cầu đòi hỏi về kinh tế. Điều này là rất

đáng lưu ý nghiêm túc vì nó đã thiết lập và dẫn dắt một hệ thống thừa nhận thẩm

mỹ truyền thông (TMTT) và các và các giá trị xã hội của chúng ta [113].

Theo quan điểm của nghệ sĩ Vũ Mạnh Hùng, đại diện cho công ty cổ phần

Tín hiệu mới Esign, TKDT cho TC Heritage Fashion từ năm 2002 và tạp chí

Heritage (TCH) từ năm 2011 đến nay: “Để chuyển tải nội dung bài viết đến những

đối tượng độc giả khác nhau cần phải có những phong cách TKDT trang khác nhau,

chính vì vậy phong cách TKDT của một TC là một dạng tuyên ngôn đầu tiên của

tạp chí”. Tất nhiên đây là tuyên ngôn mang tính nghệ thuật, một yếu tố cấu thành

của ấn phẩm TC. Nghệ thuật TKDT đã được nghệ sĩ quan niệm như một cách phát

ngôn của tạp chí và thực tế nó lại mang lại ấn tượng đầu tiên đến với độc giả. Ở một

84

góc nhìn khác, nghệ sĩ Nguyễn Hà Hùng của công ty cổ phần quảng cáo sáng tạo

HyPress Creative Advertising khi TKDT cho TCH luôn đề cao tôn chỉ “Less is

more” (Càng ít càng hay), một nhận định nổi tiếng của kiến trúc sư Ludwig Mies

van der Rohe năm 1947, được coi là một trong những quan điểm của chủ nghĩa tối

giản trong nghệ thuật thiết kế và kiến trúc. Điều thú vị rằng đây cũng chính là tiêu

chí của một loạt các nhà thiết kế đến từ các thương hiệu thời trang cao cấp như

Louis Vuitton, Rolex, Christian Dior, Dolce & Gabbana, Gucci… Không khó có

thể nhận ra quan điểm này hoàn toàn muốn vượt lên trên số đông và cố gắng đi tiên

phong trong sự phát triển của thẩm mỹ tiêu dùng. Biên tập chính Vũ Vân Yến, một

trong ba người đầu tiên xây dựng nên TCH nhận định: “Thực tế, tạp chí Heritage đã

tạo ra chuẩn mực cho văn hoá đọc ở Việt Nam”. Đối với nghệ thuật thiết kế dàn

trang ấn phẩm thì đây là một tiếng nói mới trong suốt quá trình phát triển TKDT ấn

phẩm TC, một nghệ thuật rất dễ bị hiểu nhầm sang loại hình trang trí.

Biểu hiện tín hiệu học của TKDT được thể hiện trong bài “Câu chuyện của

nước” trang 48-53 số tháng 5 năm 2012, hình tượng chữ N mềm mại được lồng

ghép trong ảnh nhắc đi nhắc lại ở từng trang báo [PL.1, H.59, tr.191]. Thủ pháp này

cũng thể hiện rõ qua bài “The red Napoleon” trang 18-19 số tháng 11 năm 2013 với

viền màu đỏ chạy quanh trang báo đôi, đây là ký hiệu của quân hàm cấp tướng và

màu sắc biểu tượng của cách mạng [PL.1, H.88, tr.212]. Tạo hình ý niệm của

TKDT được thể hiện như bài “Cây đời” (Tiêu đề tiếng Anh là Growing beauty)

trang 2-7 bản thể nghiệm năm 2015, chữ cái C và O được phóng đại hoà quyện với

tiêu đề và ảnh mang đến một ẩn ý về vẻ đẹp hoàn toàn mới lạ [PL.1, H.99, tr.222].

Bài “Du ngoạn giữa trời xanh” (Race the clouds) từ trang 58 đến trang 67 số tháng 7

năm 2014, các ảnh chụp được cắt cúp lại theo một khung hình mới hoàn toàn và

được sử dụng như những mô-đun để xây dựng một cấu trúc mới nhiều tính biểu

tượng, các khối chữ cũng được vận hành theo những miếng hình đồng nhất đã thực

sự là một lời tuyên bố về phong cách tạo hình ý niệm mới trong nghệ thuật dàn

trang của TCH [PL.1, H.95, tr.216]. Quan điểm nghệ thuật đương đại cũng thể hiện

mạnh mẽ trong bài “Look on the bright side” trang 112-113 số tháng 11 năm 2015.

85

Hình ảnh hẻm núi Antelope, Canyon, Arizona với nhịp điệu của đường nét, khối

cùng nghệ thuật chữ tái hiện chân thực một bức tranh đương đại đầy màu sắc [PL.1,

H.111, tr.234].

Các nghệ sỹ thiết kế đang làm việc căng thẳng để thiết kế TC, những sản

phẩm sao cho bán chạy nhất, kêu gọi được nhiều đầu tư và quảng cáo, nhưng có lẽ

lại không hoàn toàn phù hợp với nhận thức hiện nay của chúng ta. Các ông chủ, các

tòa soạn tạp chí, các phòng chiến lược kinh doanh đưa ra mục tiêu nhằm thỏa mãn

cao nhất cho thị trường, khiến cho độc giả cảm thấy họ cần phải mua tạp chí. Kể cả

như vậy thì một số lượng khổng lồ độc giả cũng chưa chắc đã làm nên nhận thức

thẩm mỹ của thời đại. Tình trạng TC ở Việt Nam đang thể hiện rõ sự bất ổn và lệch

lạc trong một nền kinh tế thị trường đang lên và chưa hoàn toàn định hình. Thế giới

nghệ thuật thiết kế dàn trang đã có những ý tưởng cuối cùng, không gì khác là con

đường đi tới thẩm mỹ học truyền thông. Một khoa học đã được giải quyết từ những

năm 80 tại châu Âu và bắc Mỹ, đây cũng như một tuyên ngôn nghệ thuật trong bối

cảnh xã hội Việt Nam đương đại.

3.1.3. Hiện tượng luận của quan điểm đương đại trong thiết kế ấn phẩm

tạp chí

Khi tập trung tư duy vào thông tin liên lạc và hệ thống giao tiếp trao đổi, một

số nghiên cứu mới đã nêu ra như một phần mở rộng của nghệ thuật xã hội gợi ra cơ

sở mà trên đó lý thuyết vẫn chưa được xác lập. Khám phá và kích hoạt thế giới của

các phương tiện truyền thông về cơ bản là xây dựng hiện tượng luận của tư tưởng

đương đại. Cũng phải thừa nhận rằng những gì khởi đầu và tác động lên quá trình

hình dung tâm tưởng đã có sẵn trong nội hàm của công nghệ nói chung và do đó

ngày nay càng thể hiện rõ trong công nghệ truyền thông, công nghệ mà nhận thức

của chúng ta hoàn toàn bị chi phối mạnh mẽ [113].

Các nghiên cứu nghệ thuật từ trước tới nay thường được tiến hành theo cách

áp đặt từ trên và quy kết dựa trên tổng hợp các thông tin và ý nghĩa của tác phẩm.

Các nhà thiết kế ngày nay đang ở một vị trí có thể tự trình bày lựa chọn, đầu tư và

đại diện cho sự chuyển tải thông tin tự do. Thực tế tất cả mọi lĩnh vực truyền thông

86

đều có thể được xem xét tới tính chất thẩm mỹ của nó, bây giờ các thiết kế có liên

quan đến thẩm mỹ cần được nghiên cứu cụ thể là các phương tiện truyền thông xã

hội. Các nghiên cứu về nghệ thuật xã hội học cũng như những người đại diện cho

nghệ thuật ý niệm, nghệ thuật hậu Avant-Garde, đã làm việc rất nhiều với các dữ

liệu liên quan đến hệ thống thông tin và truyền thông [85].

Sự chuyển biến phương pháp luận trong TKDT được thể hiện thông qua từng

giai đoạn, từng số báo. Nếu như số báo đầu tiên có cách nhìn hoàn toàn 2D (không

gian hai chiều), tiêu đề bài báo được đặt trên khung màu đậm khá cổ điển, phông

chữ nặng nề như trang 5-6 thì trang bìa số tháng 9-10 năm 1993 tiêu đề bài báo

được sắp xếp khá sơ sài và khó đọc, bìa số tháng 1-2 năm 1995 có ảnh quá trung

thực không điển hình và viền bóng cổ điển lại rất khó đọc [PL.1, H.7, tr.163].

Nhưng bìa số tháng 7-8 năm 1995 đã có tư duy thay đổi theo hướng poster quảng

cáo với bàn tay đặt quả bóng golf trên thảm cỏ, trang 16 của số báo đã có hiện

tượng ảnh chèn vào khối chữ làm thay đổi hình, tuy nhiên vẫn theo lối nhìn 2D

[PL.1, H.10, tr.156]. Đến số báo tháng tháng 11-12 cùng năm 1995, trang bìa với

vận động viên wushu Nguyễn Thuý Hiền đã có sự thay đổi lớn, bàn tay được đưa

thẳng ra phía trước mạnh mẽ và chèn lên logo TC, trang báo bài “Tide of change”

cũng có xu hướng poster rõ nét [PL.1, H.12, tr.166]. Không gian 3D (không gian 3

chiều) bắt đầu được đưa vào TKDT bài “Bánh lá” trang 18-19 số báo tháng 1-2 năm

1999, dù còn hơi rối chưa hiệu quả [PL.1, H.14, tr.167]. Bài “Fairy tale” trang 34-

35 đã bắt đầu sử dụng ảnh tạo hình tượng biểu đạt [PL.1, H.16, tr.168]. Bài “Mỹ

thuật Việt Nam cuối thế kỷ” số tháng 9-10 năm 1999 bước đầu dùng chữ tiêu đề

tham dự hình tượng biểu cảm tuy nhiên còn khó đọc [PL.1, H.18, tr.169]. Nghệ

thuật sử dụng khoảng trống biểu hiện manh nha trong bài “Ong mật Tây nguyên”

trang 19 số báo tháng 7-8 năm 2001, nghệ thuật typography sử dụng cột chữ linh

hoạt cũng bắt đầu từ bài “Small change” trang 26-27 số tháng 1-2 năm 2002, trang

39 có bài “Tết” có chữ sa pô được giật cấp mới lạ [PL.1, H.28, tr.174]. Bìa số này

cũng bắt đầu sử dụng ảnh thông minh được cắt ghép thể hiện công đoạn gói bánh

Trưng [PL.1, H.27, tr.174]. Đặc biệt hiệu quả rung (cinetique) của nét được sử dụng

87

trong tiêu đề bài “Những khoảnh khắc Hồ Gươm” trang 76-77 số tháng 5-6 năm

2010 là một bước chuyển mạnh đối với TKDT ấn phẩm TCH [PL.1, H.50, tr.186].

“Thiết kế đồ họa nói chung và thiết kế dàn trang nói riêng chính là sự giao

thoa giữa khoa học và nghệ thuật. Dàn trang tạp chí không chỉ cần hấp dẫn, đẹp mắt

mà còn phải giúp người đọc dễ dàng tiếp cận thông tin. Hơn nữa bản thân thiết kế

chính là sự sáng tạo và sáng tạo thì sẽ phá vỡ mọi lý thuyết. Phong cách dàn trang

của Heritage vừa xây dựng lý thuyết vừa phá vỡ nó”. Quan điểm trên của nghệ sĩ

Vũ Mạnh Hùng đại diện cho công ty cổ phần Tín hiệu mới Esign đã cho thấy một

cách nhìn rất mới về nghệ thuật thiết kế dàn trang, một quan điểm sẵn sàng phá bỏ

lý thuyết cũ để tìm đến một giá trị mới mà không gì khác là sự kết hợp giữa nghệ

thuật và truyền thông trong bối cảnh nghệ thuật đương đại đang bùng lên mạnh mẽ.

Nghệ thuật ngày nay đi sâu và hòa đồng cùng với các hoạt động xã hội, gắn kết con

người với các hoạt động chung có trách nhiệm với các vấn đề lớn được đặt ra như

môi trường, biến đổi khí hậu, toàn cầu hóa... Khi mà nghệ thuật xã hội học giữ vị

thế thông qua sự trỗi dậy của các hoạt động cũng như nhận thức, thiết kế dàn trang

sẽ tự giải quyết một cách chắc chắn các vấn đề của truyền thông, cố gắng đưa ra các

khía cạnh hình thức cũng như chức năng luôn gắn chặt với nó.

3.1.4. Nhận thức mới và quan niệm mới về các mối quan hệ trong thiết kế

ấn phẩm tạp chí

Công nghệ truyền thông đã tạo ra nhiều bước phát triển quan trọng trong cơ

cấu xã hội thời đại ngày nay, sự thay đổi không chỉ trong môi trường xung quanh

chúng ta mà còn biểu hiện trong thái độ sống. Điện tử và máy tính ngày nay hỗ trợ

các nghệ sĩ rất đắc lực trong sáng tạo nghệ thuật. Xã hội của chúng ta đang phụ

thuộc vào công nghệ truyền thông ngày càng rõ nét, chắc chắn đây là điểm mấu

chốt và quan trọng nhất. Điều này lý giải tại sao chúng ta phải luôn luôn xem xét lại

nhận thức của chúng ta để nắm bắt thế giới mà chúng ta đang sống.

Nhận thức đương đại được xây dựng thông qua nhiều kênh khác nhau của

các phương tiện truyền thông đại chúng. Các khái niệm nghệ thuật thuần túy nghệ

thuật đang được đặt câu hỏi. Các nhà thiết kế ngày nay và chính xác là các nhà thiết

88

kế truyền thông giới thiệu vấn đề thẩm mỹ bằng các chức năng nhân học ban đầu

của nó, các hệ thống sản phẩm và hoạt động thiết kế. Một thẩm mỹ mới đang trong

quá trình hoàn thiện, đó là thẩm mỹ truyền thông (TMTT). Thực tế thì vẫn tồn tại

một khoảng cách về trình độ nhận thức và giáo dục giữa văn hóa thương mại và văn

hóa sáng tạo, và nó có thể sẽ không được lưu tâm nhiều cho đến thời điểm hiện tại,

thời đại của máy tính và truyền hình. Bị tác động chóng mặt và khổ sở trước một

thế giới đang thay đổi mà chưa thể chấp nhận được, chúng ta thường có xu hướng

tìm kiếm các giá trị trong quá khứ. Đến đây với vai trò như một nghệ sĩ, nhà thiết kế

truyền thông phải đối mặt với nhiệm vụ cấp bách là nắm được ý nghĩa và xây dựng

được ngôn ngữ của TMTT.

Ngày càng rõ khái niệm về “mối quan hệ” đóng vai trò then chốt trong các

dòng tư tưởng hiện đại. Tất cả các tư tưởng xã hội học hiện đại đều chú trọng đến

khái niệm về mối quan hệ mỗi khi nó được nghiên cứu xã hội như là một tổng thể,

là một hệ thống phức tạp của các mối quan hệ và tương tác chứ không phải là một

thực thể độc lập và bất động. Thiết kế dàn trang cũng không nằm ngoài quan điểm

của hệ thống này. Ý tưởng về các mối quan hệ giao tiếp là dấu ấn của thời đại

chúng ta. Các lĩnh vực nghiên cứu như lý thuyết thông tin, lý thuyết trò chơi, lý

thuyết mạng; lý thuyết quảng cáo…, tất cả đều liên kết tự nhiên với sự quan tâm của

các nhà thiết kế truyền thông, những người đặc biệt chú ý và tiếp nhận các bước

sóng của thời đại ngày nay.

Luôn có một câu hỏi từ lâu nay “đâu là ranh giới định vị của nghệ thuật

truyền thông”? Thực ra thì rất khó có thể định vị được nghệ thuật này nếu không

muốn nói rằng chẳng hề có ranh giới. Nghệ thuật truyền thông là một thái độ, một

cách để liên hệ đến một cái gì đó, chứ không phải chỉ là một thẩm mỹ của đối tượng

nhất định. Chúng ta khẳng định về một nhận thức mới, đó là các giá trị thẩm mỹ

truyền thông và giao tiếp. Các loại hình của thẩm mỹ này thường không cụ thể, bản

chất của nó đến từ những gì đó hư ảo của công nghệ thông tin. Có thể là các tín hiệu

điện thông tin gần như vô hình, hoặc những hình dung không cụ thể, đâu đó ngay

trên đầu chúng ta [89].

89

Nghệ thuật thiết kế dàn trang thể hiện rõ những ảnh hưởng của công nghệ

trong các mối quan hệ nội tại của nó. Trong tòa soạn tạp chí mà không chỉ riêng tạp

chí Heritage, luôn có sự phối hợp của ba bộ phận chính là ban biên tập bài viết, ban

ảnh và ban thiết kế dàn trang. Đối với thiết kế dàn trang, ảnh báo chí được coi là

một một phần của nội dung và đương nhiên được biên tập theo các bài viết. Nhưng

khi ứng dụng dàn trang theo quan điểm mới đặc biệt quan điểm của công ty cổ phần

Tín hiệu mới Esign, ảnh đến đây được coi là nguyên liệu đầu vào và Esign táo bạo

xử lý cắt cúp và sắp xếp lại theo một trình tự mới tạo nên một hiệu quả thị giác hoàn

toàn khác lạ so với hình ảnh cung cấp ban đầu. Sự chủ quan mang tính ý niệm rất rõ

nét ở đây mang lại những ý tưởng hoàn toàn mới cho thiết kế dàn trang tạp chí. Tuy

nhiên điều này không phải lúc nào cũng được chấp nhận ở các tạp chí khác. Mối

liên hệ giữa các ban trong tòa soạn là sự tương tác cộng sinh nhưng không phải lúc

nào cũng hòa hợp. Nghệ sĩ Nguyễn Đình Nguyên của công ty Nguyencomm cho

biết: “Nếu không có một cái chuẩn chung thì các bộ phận biên tập bài viết, ảnh chụp

và thiết kế dàn trang luôn va chạm nhau”. Chẳng thế mà dự án đào tạo và phát triển

báo chí của Cục báo chí kết hợp với tổ chức Sida Thụy Điển luôn yêu cầu các thành

viên biên tập bài viết, ảnh chụp và thiết kế dàn trang phải nhất thiết biết về nghiệp

vụ của nhau. Chỉ có vậy thì sự phối hợp và tương tác mới có hiệu quả tối đa. Theo

nhận xét của nghệ sĩ Nguyễn Hà Hùng từ HyPress Creative Advertising: “Ban biên

tập tạp chí Heritage có trình độ cao và yêu nghề, làm việc luôn trao đổi và tương

tác, không có sự áp đặt lên thiết kế dàn trang. Do vậy các mối quan hệ được phát

huy cao mà không có sự va chạm, nếu có sẽ được giải quyết rất chuyên nghiệp”.

Ngay trong nội hàm của một trang tạp chí, mối quan hệ giữa các yếu tố tạo

hình cũng như dữ liệu nội dung cũng cần có một quan điểm mới hơn để phù hợp với

thời đại. Thực tế TCH có những biểu hiện về quan niệm thẩm mỹ qua các thời kỳ

khác nhau có thể khái quát thành hai giai đoạn lớn. Giai đoạn thứ nhất là từ khi ra

đời cho đến năm 2011, đây là giai đoạn của thẩm mỹ dàn trang hiện đại với quan

niệm về trang TC dưới góc nhìn 2D, ảnh và chữ được đặt cạnh hoặc đan xen nhau.

Từ năm 2012 tới nay, giai đoạn của thẩm mỹ truyền thông với góc nhìn 3D, hình

90

ảnh hay chữ hay đồ hoạ đều trở thành những hình tượng, biểu tượng mang tính ý

niệm nhiều ẩn ý. Ngôn ngữ của nghệ thuật đương đại như tính tương tác, cấu trúc

thông tin, thông điệp gợi cảm, thế giới nội tâm… được vận dụng hoà quyện trong

từng trang báo. Mối quan hệ giữa hình ảnh và chữ được đồ hoạ hoá thành hình thể

chung đã manh nha từ giai đoạn trước thể hiện qua bài “Đàn Bầu” trang 18-19 số

báo tháng 1-2 năm 2000 [PL.1, H.20, tr.170] hay bài “Chào ngài Henry Oger” trang

28-29 số báo 9-10 năm 2009 [PL.1, H.44, tr.182]. Nhưng phải đến bài “Những cây

cầu nổi tiếng thế giới” (Inconic brigdes) trang 76-81 số báo tháng 7 năm 2012 thì

mối quan hệ giữa các thành tố của trang báo đã hoàn toàn đổi mới [PL.1, H.66,

tr.196]. Từng mảnh chữ, từng góc ảnh đã phối hợp với nhau thành một không gian

mới ước lệ như trong mơ, cột chữ đã chuyển mình thành những trụ cầu hay những

dây néo trên cầu, trở thành một phần của cây cầu Brooklyn. Bài “Fragments of

history” trang 18-19 số tháng 10 năm 2017 sử dụng những mảnh gốm cổ, cắt cúp ý

niệm như những mảnh lịch sử phối hợp trên màu nền hoài niệm của thời gian thực

sự tạo được sự nhuần nhuyễn thống nhất [PL.1, H.123, tr.241]. Ấn tượng về màu

sắc của kỷ niệm được thể hiện nhẹ nhàng qua bài “Tản mạn chuyện Tết xưa” (New

year’s nostalgia) trang 120-125 số tháng 2 năm 2018 [PL.1, H.130, tr.249]. Vệt màu

mực nho như biểu tượng ẩn dụ về văn hoá truyền thống trên nền màu vàng bạc màu,

khung ảnh viền trắng cổ điển gợi nhiều kỷ niệm là sự thành công trong việc thống

nhất ngôn ngữ thị giác.

Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ in cũng là một ví dụ điển hình cho

các mối quan hệ của thiết kế dàn trang ấn phẩm trong quy trình xuất bản tạp chí

Heritage. Nếu như ban đầu tạp chí đều phải thiết kế in ấn ở nước ngoài với môi

trường hoàn toàn xa lạ thì nay các điều kiện hạ tầng cũng như kỹ năng chế bản, ấn

loát và đặc biệt là thiết kế dàn trang trong nước đáp ứng đầy đủ yêu cầu của một tạp

chí cao cấp. Sự phát triển của phần mềm dàn trang cũng như các trang thiết bị công

nghệ mới đã thay đổi quy trình thiết kế, tác động trực tiếp đến hiệu quả và phong

cách thiết kế góp phần chuyển đổi tính thẩm mỹ gần với truyền thông hơn nữa.

Nhìn nhận về các mối quan hệ trong thiết kế dàn trang ấn phẩm tạp chí Heritage,

91

nghệ sĩ Vũ Mạnh Hùng của công ty cổ phần Tín hiệu mới Esign cho biết: “Cần hiểu

đúng từng mối quan hệ để nắm được điểm hòa hợp với mình. Có những sự hòa hợp

thể hiện ở hình thức, có sự hòa hợp lại nằm ở nội dung, nhưng cũng không loại trừ

những sự hòa hợp lại nằm chính ở sự bất đồng…Người thiết kế dàn trang lúc này

như một nhạc trưởng, vung cây gậy của mình một cách nhanh, chậm, nặng, nhẹ

giữa giữa các yếu tố tùy thuộc vào mối quan hệ của chúng”.

3.1.5. Thế giới nội tâm và nguyên tắc thiền trong thiết kế ấn phẩm tạp chí

Các nhà thiết kế đương đại đang cố gắng nắm bắt thế giới sáng tạo của mình,

nhưng thực tế đang ngày càng bối rối với những cách làm chủ không gian bên trong

chính mình. Có những dấu hiệu chỉ ra mối bận tâm này ngày một rõ ràng như những

con lắc chao đảo trong mỗi cá nhân. Các nguyên tắc của thiền dạy cho chúng ta sự

khôn ngoan bằng việc từ bỏ mong muốn giải thích thế giới hỗn độn, giúp chúng ta

tập trung vào việc tìm kiếm khả năng tiếp cận với nó mà thôi [85].

Quan sát chiêm ngưỡng thế giới sáng tạo là một bài tập mà công nghệ truyền

thông giúp chúng ta tiếp cận dễ dàng hơn bao giờ hết, vì nó cho phép chúng ta đối

diện trực tiếp với hiện tại, và đối diện thông qua các nghiên cứu phương tiện truyền

thông. Đây là công nghệ mới mà với cách thức hoạt động cho phép chúng ta sắp

xếp thời gian phù hợp theo cách của nó để khám phá vấn đề hiện tại của chúng ta.

Làm việc như thể chúng là giác quan của chúng ta, các phương tiện truyền thông

mới này loại bỏ cách tư duy cấu trúc và tư duy tuyến tính, phá vỡ khái niệm, dẫn

chúng ta vào các dạng khác nhau của hành vi nhân học. Giống như thiền, cách này

mang lại những trạng thái cụ thể và riêng biệt ở đó mối quan hệ của chúng ta với

thời gian, không gian, vấn đề và các đối tượng được sống lại. Các phương tiện

truyền thông mới mở đường cho các loại kiến thức khác, các hình thức tư duy khác.

Mục tiêu mà các thiết kế ngày nay đang hướng tới là làm cho chúng ta nhận

ra dẫn đến một thay đổi căn bản trong mô thức hành vi của chúng ta. Trong sự thay

đổi mô thức hành vi, các nhà thiết kế đưa ra mô thức của riêng mình. Những mô

thức mới này đúng như chức năng của nó có nhận thức lớn hơn về chúng ta. Công

nghệ mới này mở ra sự nhận thức của chúng ta và mở đường cho mỗi cá nhân,

92

thông qua kinh nghiệm của chính mình đẩy lùi những giới hạn để vươn tới các miền

siêu nhận thức, lung linh khắp nơi nhưng tồn tại trong chính bản thân mình [113].

Nghệ sĩ công ty HyPress Nguyễn Hà Hùng nhận định, nghệ thuật thiên về

những cảm xúc trong khi đó truyền thông lại thiên về tính logic, nghệ thuật thiết kế

dàn trang luôn phải điều tiết hai vấn đề trên bằng chính thế giới nội tâm của nghệ sĩ

trong đó thiền là một yếu tố quan trọng trong thiết kế dàn trang đương đại. Đồng

quan điểm như vậy, nghệ sĩ Nguyễn Đình Nguyên cũng cho rằng: “Thiền là sự tập

trung cao độ, sự hòa nhập giữa người thiết kế và đối tượng thiết kế dàn trang”. Bản

thân tạp chí Heritage là một tạp chí chứa hàm lượng nội dung lớn về văn hóa và di

sản của Việt Nam, một văn hóa phương đông ảnh hưởng mạnh mẽ từ văn hóa Phật

giáo. Điều này khá hợp lý cho những thiết kế dàn trang mang tư tưởng thiền đã có

từ chính bản sắc văn hóa Việt Nam. Bàn về vấn đề này, nghệ sĩ Vũ Mạnh Hùng của

công ty Esign cho biết: “Thiền là một trạng thái cân bằng trong nội tâm. Cân bằng

là sự cần thiết trong mọi việc và tưởng chừng thiền định không hề có liên quan tới

thiết kế dàn trang nhưng nếu tĩnh lại, chúng ta sẽ nhìn thấy rất rõ ràng các mối quan

hệ giữa chúng với nhau. Các thiết kế hay nghệ thuật sắp xếp hình ảnh, màu sắc,

đường nét cũng ngầm có một thế cân bằng, một tỷ lệ cân bằng mà không có lý

thuyết nào mô tả được rõ ràng việc này. Dường như nó tồn tại và người ta cảm nhận

được nó chứ không thể đo đếm”. Thế giới nội tâm luôn là vấn đề được các nghệ sĩ

đề cao, tuy nhiên tư tưởng thiền ở đây nằm trong nội dung thiết kế dàn trang chứ

không hoàn toàn biểu lộ trong phong cách hay hành vi của nghệ sĩ. Những trang tạp

chí đưa đến được một tinh thần thiền của phương Đông rõ nét mà giờ đây đã trở

thành tinh thần của thiết kế dàn trang mang tính toàn cầu trở thành một đặc điểm

của thẩm mỹ truyền thông.

Đâu đó đã xuất hiện sự đơn giản, sự tập trung thông qua trang bìa TCH số

tháng 1-2 năm 2001, chỉ có nét trắng mộc mạc của dân gian trên nền đơn sắc xanh

lá [PL.1, H.22, tr.171]. Có những biểu hiện của nội tâm con người thông qua bài

“Đứt đoạn và kết nối” trang 70-71 số tháng 11 năm 2011, với những ô bàn cờ xen

kẽ giữa những mặt tượng phật bằng đá và những biểu cảm khuôn mặt nội tâm khác

93

nhau [PL.1, H.53, tr.187]. Sự tập trung tinh thần của thực hành yoga trong bài

“Yoga cười” (Laughter yoga) trang 114-118 số tháng 6 năm 2012, phông chữ tiêu

đề đã được phóng đại trở thành biểu tượng, cột chữ được sắp xếp kết hợp với hình

ảnh trở thành dấu chữ thập, tất cả đều biểu đạt sự tập trung của cả một tập thể, của

mong ước và ý nguyện [PL.1, H.64, tr.195]. Nhưng sự tập trung và lắng đọng thể

hiện rõ nét hơn ở bài “Giếng làng trong vắt những cội nguồn xứ sở” (Wishing

wells) trang 117-119 số tháng 8 năm 2012 [PL.1, H.74, tr.201], hình miệng giếng

trở thành hình tượng mang tính tâm hồn đặt chính giữa khoảng trống với bệ đỡ là

khối chữ thu hút lực thị giác cao, cách vận dụng nghệ thuật chữ typography hoà

quyện với nét con của mái đình đưa tâm thức con người trở về miền quê thân

thương. Nhưng nói đến thế giới của nội tâm và thiền định thì lại gợi đến khoảng

trống, bài “Tet in Vietnam” trang 32-33 số tháng 2 năm 2013 đã đưa ra một vùng

trắng lớn, một khoảng nghỉ mắt của độc giả hay một khoảng tĩnh của con người khi

nhớ về Tết cổ truyền [PL.1, H.85, tr.209]. Đỉnh cao của nghệ thuật xử lý khoảng

trống được thể hiện ở bài “Cây đời” (Growing beauty) trang 34-41 số tháng 3 năm

2013, nền giấy trắng mênh mang tôn vẻ đẹp màu đen xám trầm mặc của ảnh, của

những mái nhà, mái đình, cánh đồng, mây trời bao la như đưa con người vào cõi

tâm linh xa xôi [PL.1, H.87, tr.210]. Chữ được thu gọn trong từng góc trang nhường

chỗ cho sự ngưng đọng, nghệ thuật xử lý khoảng trống kết hợp với ẩn dụ của hình

ảnh đã mang đến một thế giới nội tâm của riêng từng con người, của thiền định.

3.1.6. Nhận diện thông điệp và tính gợi cảm trong thiết kế ấn phẩm tạp chí

Bằng các ý tưởng cũng như công việc thiết kế dàn trang, Thẩm mỹ truyền

thông (TMTT) giúp chúng ta hiểu rằng đây vẫn là một quá trình còn khá phức tạp.

Thông qua các nghệ sĩ thiết kế đại diện cho lĩnh vực này, TMTT đã làm rõ hơn mối

liên hệ cảm xúc của chúng ta với các phương tiện truyền thông mới. Những liên hệ

cảm xúc ấy đã trở thành những căn cứ, lan tỏa và khuếch đại những rung động thầm

kín của chúng ta. Mối quan hệ ngày càng lệ thuộc của chúng ta với công nghệ

truyền thông trong cuộc sống hàng ngày cho phép chúng ta xác nhận tình trạng và

dẫn đến một hình thức mới của nhận thức. Rõ ràng là các hệ thống phương tiện

94

truyền thông trong xã hội điện tử đã làm nóng môi trường thương mại lạnh lẽo và

mang lại một mức độ nhất định về nhục cảm. Chúng ta đang chìm ngập hoàn toàn

trong một bầu không khí điện tử đang reo rắc những kích thích ngày càng dữ dội tới

từng cá nhân [113].

Các nghệ sĩ thiết kế truyền thông cố gắng trình diễn thông qua các thiết kế

của mình rằng chúng ta đang nằm ở trung tâm của một quá trình thông tin toàn cầu,

và những cách thức phức tạp đã định vị các cá nhân vào vị trí mới mà họ phải khám

phá và xây dựng hình thức cho sự điều chỉnh môi trường xung quanh. Mục tiêu của

các nghệ sĩ thiết kế dàn trang chắc chắn không phải để tạo ra những ý nghĩa đơn

giản mà nhằm làm cho chúng ta nhận thức được là như thế nào và cuối cùng toàn bộ

hiệu quả công việc truyền thông sẽ tác động qua lại với hệ thống cảm nhận của

chúng ta. Sự thay đổi này xác lập các dữ liệu cho một hiểu biết mới trong nhận thức

của chúng ta, sau đó cùng với những cảm giác mới nó sẽ mở ra một thẩm mỹ mới.

Theo nghệ sĩ Nguyễn Hà Hùng, nhận diện thông điệp truyền thông chính là

tiêu chí đầu tiên của nghệ thuật thiết kế dàn trang (TKDT) tạp chí và khi nó trở

thành nội dung của TMTT là điều hiển nhiên. Trong đó sự hấp dẫn của TKDT quyết

định rất nhiều đến nhận diện thông điệp truyền thông. Bản thân thiết kế truyền

thông có một công thức hấp dẫn thị giác bằng những yếu tố như hài hước, lãng mạn,

đe dọa, và giới tính. Như vậy sự gợi cảm giới tính cũng đã trở nên hiện hữu trong

từng trang tạp chí Heritage (TCH) theo tùy từng mức độ khác nhau. Nếu như TC

Heritage Fashion thiên về thời trang thì tính gợi cảm được đẩy cao từ trang bìa cho

tới các trang nội dung, nhưng ở TCH thì mức độ được chuyển đổi rất nhiều, đôi khi

ẩn dấu rất tinh tế và không liên tục. Ngược lại, theo quan điểm của nghệ sĩ Nguyễn

Đình Nguyên từ công ty Nguyencomm, một con người là làm nghiên túc và khắc

khổ lại cho rằng “Trong tạp chí Heritage không có sự gợi cảm giới tính”. Tuy nhiên

nghệ sĩ hoàn toàn thừa nhận trong các cuốn sách bàn về “visual thinking” (tư duy

thị giác) thì gợi cảm giới tính là một trong những cách thu hút thị giác mạnh nhất.

Không quá đề cao tính gợi cảm thì khả năng nhận diện thông điệp truyền thông của

thiết kế dàn trang tạp chí Heritage là rất rõ ràng, đó là nét quyến rũ của các vẻ đẹp

95

văn hóa cũng như sự mê hoặc của các di sản báu vật quốc gia.

Phần nào tương đồng với quan điểm của công ty HyPress, nghệ sĩ Vũ Mạnh

Hùng từ công ty Esign có quan điểm trung dung hơn: “Thông điệp gợi cảm của một

ấn phẩm luôn ẩn chứa trong từng thiết kế của Heritage. Sự “gợi cảm” văn minh của

một ấn phẩm là cần thiết đóng góp cho sự tồn tại trong nhịp sống hiện đại ngày nay.

Những thông điệp “hấp dẫn” này luôn được Heritage thể hiện bằng cách này hay

cách khác trong thiết kế dàn trang, trong sử dụng câu chữ, trong việc phối hợp giữa

tất cả các yếu tố với nhau”. Với nhận định này thì sự gợi cảm giới tính không nhất

thiết phải là những hình ảnh nhân dạng khơi gợi nhục cảm mà cả những hình đồ

họa, sắp xếp đồ họa chữ, màu sắc hay bất kỳ yếu tố tạo hình nào đều có thể mang

tính gợi cảm, miễn sao hiệu quả thị giác khơi gợi được những cảm tính đó. Sự nhận

diện thông điệp cùng với tính gợi cảm giới tính không phải là văn hóa du nhập hoàn

toàn từ phương Tây mà ngay trong văn hóa truyền thống của các nước châu Á cũng

rất mạnh mẽ. Khi ứng dụng vào tạp chí hiện đại, nó được hòa trộn với các ngôn ngữ

hiện đại của thế giới và thể hiện nhịp sống của thời đại. Nghệ thuật thiết kế dàn

trang ấn phẩm tạp chí vận dụng tính chất này như một yếu tố khá nổi bật của thẩm

mỹ truyền thông.

Niềm tự hào không thể phủ nhận của TCH đó là nhận diện thông điệp, thông

điệp về di sản, văn hoá, con người, du lịch của Việt Nam được giới thiệu với thế

giới. Ngay trang bìa TCH số đầu tiên năm 1993 đã khẳng định điều này bằng hình

ảnh chủ đạo gồm sáu thiếu niên đại diện cho tuổi trẻ Việt Nam trong trang phục thể

thao hiện đại với những nụ cười tươi trẻ của thời đại [PL.1, H.1, tr.160]. Bài

“Hương hoa vĩnh hằng” (Scents of eternity) trang 38-43 số tháng 5 năm 2014, sử

dụng màu sắc và độ quyến rũ của hình ảnh hoa sen tạo nên một không gian đậm đặc

hương sen [PL.1, H.94, tr.215]. Thông điệp về hương sen là rõ ràng, nhưng ý tứ ẩn

sâu trong đó có cả nét văn hoá phồn thực của truyền thống dân tộc, sự gợi cảm của

những vòng lá, cánh hoa trong veo là rất đằm thắm và gợi mở. Trang bìa TCH số

tháng 1-2 năm 1999 là một ví dụ về vẻ gợi cảm của thiếu nữ Việt Nam [PL.1, H.14,

tr.167]. Ẩn sau vành nón lá là con mắt đen nhánh với cái nhìn sâu thẳm có quá

96

nhiều ẩn ý sau ánh mắt, vẻ đẹp của phụ nữ Việt Nam là kín đáo và e ấp nhưng

không kém nồng nàn. Bài “Nơi khởi nguồn cho dòng Siemriep” trang 59 số tháng 3

năm 2012 có một bố cục táo bạo, góc của khối cột chữ đâm thẳng vào giữa bức

tượng vũ nữ múa mang lại vẻ đẹp tạo hình lạ mắt [PL.1, H.57, tr.190]. Thông điệp

về di sản nhân loại Khmer được đẩy cao cùng với nét văn hoá phồn thực vốn có của

nó. Hình ảnh mạnh mẽ hơn cả thuộc về bài “Kỳ lạ những bộ tộc không mặc quần

áo” (Tribal people around the world) trang 108-115 số tháng 8 năm 2015, sắc màu

giới tính là không thể phủ nhận nhưng cao hơn nữa là bản sắc văn hoá nghệ thuật

độc đáo, đem tới cho độc giả là sự choáng ngợp và thích thú [PL.1, H.104, tr.228].

3.1.7. Nghệ thuật thiết kế ấn phẩm tạp chí như những hình mẫu mô phỏng

sức mạnh

Nghệ thuật thiết kế dàn trang (TKDT) duy trì liên kết chặt chẽ với thực tại,

tìm cách sử dụng sự ảnh hưởng của mình để thay đổi nhận thức của nó. Thiết kế

giúp xác định lại mối quan hệ xã hội và hành vi bằng cách tái tạo chúng trên cuộc

chơi thiết kế, thay đổi chúng và đề xuất các phiên bản thay thế chúng. Bằng cách

này, nghệ thuật TKDT vận hành trực tiếp trên thực tế thông tin, nó tự đặt mình là

một đại diện của thực tế này. Văn hóa dàn trang không hài lòng với việc duy nhất

chỉ là hoạt động thông tin giải trí, nó bây giờ muốn khẳng định mình như một vũ

khí chiến đấu.

Một nghệ thuật TKDT ấn phẩm TC thực tế không có chức năng nào khác

ngoài việc tạo ảnh hưởng của nó lên sự nhìn nhận của con người. Cũng giống như

nghệ thuật phổ biến hay sắp xếp một cuộc chơi, nghệ thuật dàn trang có sức mạnh

để áp đặt các giả định của riêng mình bằng cách thiết lập các liên hệ cộng đồng của

con người vào những mối quan hệ mới với những thái độ mới. Trong việc mở rộng

ảnh hưởng của quang phổ nghệ thuật để bao hàm các ngành thuộc khoa học xã hội,

biểu hiện của mỗi cá thể có khả năng trở thành trở thành sự phản ánh của một vấn

đề tổng quát hơn với rất nhiều hàm ý, có thể là chính trị, xã hội, tâm lý hay triết học.

Thông qua các sản phẩm của mình, các nghệ sĩ thiết kế ngày nay hiểu rằng

quyền lực là sự liên kết tất cả hành động của con người. Một số nhận thức không

97

đầy đủ cố gắng phủ nhận điều này là giống như phủ nhận một thực tế. Tất cả mọi

người sống trong những giới hạn của liên kế này và được hưởng những quyền tự do

nhất định. Các mối quan hệ giữa con người luôn bị chi phối bởi các trò chơi quyền

lực liên tục diễn ra trong các mối quan hệ. Không có gì để không dám nhận diện nó.

Quyền lực có thể nhận thấy ở tất cả các cấp hoạt động của các mối quan hệ giữa con

người. Nó là thuộc tính của mỗi nhà hoạt động xã hội và những nghệ sĩ TKDT ấn

phẩm TC cũng thuộc thành phần này. Mọi người thực hiện quyền lực của truyền

thông và đồng thời cũng phụ thuộc vào nó. Mỗi người trong chúng ta buộc phải

thỏa hiệp với môi trường thông tin từ khi còn rất nhỏ. Từng người trong chúng ta

tìm thấy sự cần thiết của thông tin để xây dựng một chiến lược hành vi cho riêng

mình, dù là có ý thức hay không chủ định, bởi chúng ta sống và hành động trong

môi trường đó. Mọi sự thay đổi của bất kỳ cá nhân hay tập thể nào đều ảnh hưởng

tới quy tắc chung của vòng xoáy này. Mỗi người trong chúng ta phải học để đương

đầu với những khó khăn cũng như tận dụng quyền tự do mà môi trường thông tin

mang lại nhằm xây dựng những hành vi và mục tiêu của mình [113].

Đến lượt mình, các nghệ sĩ TKDT sẽ trở thành một thực hành xã hội, họ trở

thành một nhà xúc tiến xã hội trong môi trường truyền thông. Những trang tạp chí

được trình diễn với ý tưởng táo bạo như một sự khiêu khích được coi như là hình

thức của sự tác động vào xã hội thông tin. Các nghệ sĩ TKDT có trách nhiệm nhận

biết sức mạnh này là của chính họ và phải đối mặt với với dư luận xã hội cùng với

công việc sáng tạo của mình [89]. Thực ra thì cũng không khó để nhận ra điều này,

nghệ sĩ TKDT đang đóng góp vào một trong những phương tiện truyền thông quyền

lực là ấn phẩm TC. Cảm nhận và phát triển sức mạnh này trong một xã hội tiêu

dùng vừa là yêu cầu, vừa là mục tiêu của TKDT.

Nghệ sĩ Nguyễn Đình Nguyên của công ty nguyencomm chia sẻ: “Khi tôi

thiết kế tạp chí Heritage luôn đặt mục tiêu để khẳng định đây là tạp chí hàng đầu”.

Do vậy những trang TC mà anh thiết kế luôn có sự tự tin tới ngạo mạn của một vị

thế đã có. Khát vọng là rất lớn, thiết kế của anh luôn nhằm tạo ra một cái chuẩn tiêu

chí và mang lại cá tính cho TCH. Định hướng của TCH cũng rất rõ ràng, quyền lực

98

của TC không thể hiện nhiều về khía cạnh chính trị xã hội nhưng lại có vị thế gần

như tuyệt đối trong lĩnh vực quảng cáo và du lịch. Chính vì vậy sức mạnh của

TKDT ấn phẩm TCH có tính phô diễn các đường nét của các thương hiệu lớn, và

đối tượng độc giả của nó cũng là tầng lớp thu nhập cao ở Việt Nam.

Đối với công ty cổ phần Tín hiệu mới Esign khi thiết kế cho TCH lại có lập

luận thiên về nghề nghiệp nhiều hơn là sức mạnh truyền thông của tạp chí. “Khi

thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ, hiểu được đúng con đường mình phải đi, khi

đó bản thân thiết kế dàn trang sẽ phát huy sức mạnh và uy lực mà không cần phải cố

gắng tô vẽ hay thể hiện. Thực hiện đúng sứ mệnh của việc dàn trang ấn phẩm TC,

nội hàm của nó sẽ tự mang tới năng lực góp phần tạo nên cái mà người ta hay gọi là

quyền lực báo chí”, nghệ sĩ Vũ Mạnh Hùng cho biết. Thực tế thì sức mạnh của báo

chí nằm ở chính sự chuyển tải thông tin hướng tới và tham gia vào các hoạt động xã

hội. Biểu hiện thị giác của nó chính là hình thức của tạp chí và sức mạnh của truyền

thông tạp chí được khẳng định thông qua hình thức trình bày rất nhiều và chắc chắn

hình thức góp phần quyết định vị thế của tạp chí Heritage.

Sức mạnh của nghệ thuật TKDT là hiện hữu dưới các góc độ khác nhau.

Trang bìa số tháng 5 năm 2012 thể hiện một bức tranh tuyên truyền về Hồ Chủ

Tịch, ngôn ngữ tạo hình là rất giản dị và phổ biến, nhưng biểu đạt sức mạnh của sự

đoàn kết, của tổ quốc và sự tôn vinh [PL.1, H.59, tr.191]. Cũng vẫn là tín hiệu học

trong bài “The red Napoleon” trang 50-51 số tháng 11 năm 2013, bố cục dàn trang

chắc khoẻ cùng với động dáng thần thái của chân dung đại tướng Võ Nguyên Giáp

lột tả được sức mạnh của ý chí và sự quyết tâm [PL.1, H.88, tr.212]. Sự mô phỏng

sức mạnh còn biểu hiện ở góc độ truyền thống và bề dày văn hoá qua bài “Ngàn

năm bia đá” trang 20-21 số tháng 10 năm 2015, tiêu đề màu đỏ được đặt khéo léo

trên tấm bia đá ngàn năm hàm chứa nhiều ẩn dụ [PL.1, H.108, tr.232]. Sức mạnh

của thiên nhiên đất nước được ẩn chứa trong vẻ tĩnh lặng bao la với trang bìa số

tháng 11 năm 2016, chỉ bằng bố cục và hiệu quả không gian của bức ảnh đã hoàn

thành sứ mệnh tư tưởng của bìa TC [PL.1, H.118, tr.238]. Một sức mạnh khác của

thiên nhiên được kết hợp với trí tuệ con người qua bài “Người nữ nhi theo dấu đại

99

bàng” (The eagle huntress og Mongolia) trang 122-130 số tháng 3 năm 2018, thiết

kế độc đáo chính là các cột chữ được xếp chéo lên mô phỏng hình mẫu của đôi cánh

đại bàng tung bay trên thảo nguyên bao la [PL.1, H.132, tr.251]. Có lý do để biên

tập chính kỳ cựu Vũ Vân Yến nhận định quyết liệt: “Với thực tiễn ngày nay, thành

công của tạp chí phụ thuộc 50 phần trăm vào thiết kế dàn trang cho dù nội dung có

hay đến đâu”. Lẽ dĩ nhiên nhận định này dành cho TC thương mại giải trí, tuy nhiên

cũng phải rất thẳng thắn để một biên tập chính dày dạn đúc kết điều này.

3.2. Phương pháp thể hiện Thẩm mỹ truyền thông trong thiết kế tạp chí

Heritage

3.2.1. Thiết kế ấn phẩm tạp chí, kiến trúc sư thông tin

Nghệ sĩ thiết kế dàn trang (TKDT) có nhiều cơ hội sáng tạo chưa được khai

phá. Tuy nhiên với tư duy và trí tưởng tượng trong công việc hàng ngày của mình,

họ vẫn chưa đóng góp gì nhiều cho sự tạo dựng những giới luật căn bản của nghệ

thuật thiết kế trên cơ sở truyền thông. Bằng công nghệ truyền thông kỹ thuật số, tất

cả những khả năng sáng tạo và tìm tòi cái mới sẽ được phát huy tối đa không giới

hạn. Khi các nghệ sĩ TKDT sử dụng nghệ thuật chữ, hình ảnh, đồ hình, đồ hoạ, phần

mềm máy tính, công nghệ gia công, vân vân…, họ không chỉ sử dụng từng cái một

mà phối hợp chúng vào một hệ thống hay một sắp đặt tổng thể. Nghệ sĩ TKDT đã

làm ra những cấu trúc mới, tổng hợp của nhiều dữ liệu đa dạng, họ ứng dụng những

thiết bị truyền thông đa phương tiện. Họ tổ chức chúng vào hệ thống tương tác và

diễn hoạt chúng. Các nghệ sĩ thiết kế dàn trang đã trở thành kiến trúc sư của thông

tin [113].

Trong giai đoạn phát triển văn hóa hội nhập toàn cầu ngày nay, các sản phẩm

thiết kế dàn trang phải thay đổi chức năng của nó. Thay vì chỉ truyền đạt các nội

dung văn bản hình ảnh thông tấn, trang tạp chí cần phải thể hiện tiềm năng của

chính nó với tất cả các yếu tố cấu thành để tạo được sức mạnh thông qua mối quan

hệ của các thành tố. Giống như các nghệ sĩ nghệ thuật ý niệm, các nghệ sĩ TKDT

đều dựa trên những ý tưởng và trình bày trang TC thoải mái không bị gò ép theo

những nguyên tắc trong một sắp xếp chỉnh chu được cho là đẹp.

100

Bằng cách đưa ra các sản phẩm TKDT như là một hệ thống giao tiếp theo

chức năng và cách vận hành, các nghệ sĩ thiết kế đã thay đổi thói quen của chúng ta

về nhận thức, họ cho rằng những diễn giải mang tính nghệ thuật có ảnh hưởng đến

hành vi nhận thức của chúng ta. Giờ đây nghệ sĩ thiết kế đã trở thành người vận

hành hệ thống trao đổi thông tin và làm sống động trong một sản phẩm giao tiếp xã

hội mà họ thiết kế, vị thế của người nghệ sĩ đã thay đổi. Trong quá khứ họ sản xuất

các sản phẩm như một nghệ nhân, đôi khi giống một người thợ trong dây truyền

công nghệ. Ngày nay nghệ thuật TKDT đã mất đi sự khô cứng của vai trò phụ trợ,

các nghệ sĩ TKDT đã tạo ra một nghệ thuật của giao tiếp và cảm nhận.

Trong suốt quá trình lịch sử của loài người, thành tựu công nghệ đã liên tiếp

xuất hiện như công nghệ chuyển đổi nguyên liệu, công nghệ khai thác năng lượng

và ngày nay là công nghệ thông tin. Giai đoạn này đã đủ điều kiện để phát triển các

hình thức nghệ thuật nhất định ở những khoảnh khắc nhất định. Các nhà xã hội học

đã lưu ý rằng trong xã hội của chúng ta, hơn một nửa các hoạt động thực hiện bởi

những người được hoạt động giao tiếp. Khi mọi người dân dành thời gian một hoặc

hai giờ trên truyền thông, chắc chắn sẽ có những nhận thức nghệ thuật tương ứng

tác động trực tiếp tới công chúng. Đó là cơ sở phát triển của khái niệm mới thẩm

mỹ truyền thông (TMTT).

“Thiết kế đồ họa nói chung và thiết kế dàn trang nói riêng chính là sự giao

thoa giữa khoa học và nghệ thuật. Việc dàn trang xây dựng kết cấu thị giác của

thông tin, vừa phải truyền tải thông điệp một cách mạch lạc, vừa tạo sự hấp dẫn

cuốn hút người đọc, vừa mang dấu ấn riêng của tạp chí. Để làm được việc này nhà

TKDT phải là một kiến trúc sư tài ba”, nghệ sĩ Vũ Mạnh Hùng nhận định. Nói một

cách chính xác thì mọi nhà TKDT phải trang bị cho mình kiến thức của TMTT để

trở thành kiến trúc sư của thông tin. Vấn đề chuyển biến từ văn hóa đọc tới văn hóa

xem ngày càng đáng quan tâm trong sự phát triển của TC thương mại giải trí. Các

bát chữ ngày nay không thể cứng nhắc một khối như trước đây mà nó phải được kết

cấu, bố trí và thậm chí là diễn hoạt để mang lại một hiệu quả truyền thông cao nhất.

Như vậy giờ đây những cột chữ văn bản đã trở thành một yếu tố cấu thành nên một

101

hiệu quả thị giác thông tấn và ngoài giá trị về văn bản ngữ nghĩa, chúng còn là

những viên gạch tạo nên một công trình TMTT.

Đã có những trang tạp chí chỉ bằng phương pháp không sử dụng bất cứ bức

ảnh nào, không sử dụng bất cứ đường nét, màu sắc nào, chỉ ứng dụng nghệ thuật

chữ typography, biến đổi các kiểu chữ, kích thước chữ, độ đậm nhạt, vị trí, đường

hướng của các đoạn văn bản đã tạo dựng được một trang báo, một công trình thông

tin thị giác hoàn hảo và dẫn dắt người đọc đến với thông điệp đơn giản, mạnh mẽ,

và giàu tính nghệ thuật đương đại. Đây là phong cách TKDT đạt tới đỉnh cao của

thẩm mỹ thường được sử dụng cho các bài báo then chốt hoặc sang trọng nhất. Kiến

trúc sư của thông tin phải thể hiện tinh thần của TMTT trong TKDT.

Thực tế thì tất cả các trang TCH đều có cấu trúc quy hoạch thông tin, là kiến

trúc nền tảng của thông tấn. Tuy nhiên một số bài báo lại có những đặc điểm của

phong cách kiến trúc hiện đại nổi bật. Bài “All aboard” trang 56-61 số báo tháng 12

năm 2012 là một thí dụ. Nội dung thông tin được quy hoạch riêng từng trang rành

mạch, hình ảnh và cột chữ lại được cắt ghép theo một cấu trúc mảng lắp ghép mới

mang hơi thở của kiến trúc hiện đại [PL.1, H.79, tr.204]. Tương tự phong cách này

với bài “Du ngoạn giữa trời xanh” (Race the clouds) trang 58-67 số tháng 7 năm

2014 có xu hướng của kiến trúc cảnh quan [PL.1, H.95, tr.216]. Nhưng mãn nhãn

nhất là việc xây dựng biểu tượng của thông tin bài báo đạt hiệu quả chuyển tải rất

cao. Bài “Nhật ký 48 giờ thị trấn Fort William, Scotland” (Scotland all aboard!)

trang 96-101 số tháng 7 năm 2015, con số 48 của tiêu đề kết hợp với cột trắng của

chữ tạo thành một bức tượng sừng sững chứa thông điệp giữa quang cảnh xanh ngắt

trải rộng của vùng núi Scotland [PL.1, H.100, tr.224].

Như nghệ sĩ Nguyễn Đình Nguyên đã chỉ ra: “Phải hiểu rất rõ giá trị của

truyền thông để tổ chức dàn trang ra sao nhằm chuyển tải thông tin hiệu quả nhất”.

Hay nói cách khác là phải đặt nguyên tắc đảm bảo chu trình đọc phải được liền

mạch, thú vị và yếu tố vô hình này đã làm thỏa mãn độc giả một cách nhẹ nhàng

nhất. Trao đổi về vấn đề này, nghệ sĩ Nguyễn Hà Hùng của công ty HyPress nhấn

mạnh: “Độc giả tiếp nhận thông tin qua thị giác lẽ đương nhiên phải có trật tự logic,

102

người thiết kế dàn trang phải dựa trên “Z flowing design” (thiết kế theo mạch hình

chữ Z) trong tất cả các trang tạp chí”. Nếu như người văn hóa Hán ngữ có chu trình

đọc từ trên xuống dưới, từ phải qua trái thì hình chữ Z ở đây thể hiện chu trình đọc

của văn hóa La tinh, tức là từ trái qua phải rồi từ trên xuống dưới. Các nguyên tắc

này cũng nhắc ta nhớ đến các kiến trúc phương Đông được thiết kế theo những mô

phỏng chữ tượng hình nhất định. Dù theo cách nào đi chăng nữa, thẩm mỹ truyền

thông luôn là kiến trúc sư của thông tin trong thời đại mới.

3.2.2. Quan niệm mới về không gian và cấu trúc trong thiết kế ấn phẩm

tạp chí

Có vẻ như Thẩm mỹ truyền thông (TMTT) phần nào đấy xung đột với các

quan niệm về di sản nhân văn của chúng ta, nhưng thực sự công nghệ mới đang dần

tác động đến hệ thống giá trị, tư tưởng, nhận thức của chúng ta và cảm giác của

chúng ta về không gian và cấu trúc. Các nhà TKDT đương đại tự coi mình được

trang bị những phương pháp mới để tìm tòi khám phá những vấn đề thuộc vô thức

và tạo cho nó một hình dạng. Nguồn lực công nghệ thông tin đưa nhà thiết kế vào

một vùng đất trống để thỏa sức khám phá.

Các nhà thiết kế dàn trang (TKDT) sử dụng không gian và cấu trúc trên ấn

phẩm như những nguyên liệu thô để sáng tạo. Cũng giống như các nhà thiết kế

trước đây làm việc với các nguyên liệu như con chữ, hình vẽ, hoa văn…, ngày nay

họ phải thao tác với các nguyên liệu số hoá để hoàn thiện sáng tạo của mình. Không

gian và cấu trúc không chỉ là khái niệm về hiển thị cụ thể mà còn là thực tiễn đang

sống, đang vận hành. Đó là những cái mới do thực hành nghệ thuật tạo ra trong lĩnh

vực TKDT và được chính thức đem tới độc giả [113].

Thẩm mỹ truyền thông đã giúp nhà thiết kế xác lập vị trí của mình trong

cộng đồng nghệ thuật bằng cách đưa ra các khía cạnh của sự chuyển đổi hình thức

dàn trang hay mối quan hệ nổi lên của không gian và cấu trúc thiết kế. Trong công

việc sáng tạo đa dạng của mình, các nhà thiết kế luôn chia sẻ mối quan tâm các vấn

đề khúc mắc đề cập đến không gian và cấu trúc dàn trang. Các sản phẩm TKDT

trước đây thường sử dụng cấu trúc dựa trên bát chữ được quy định khá hạn chế do

103

khả năng của ngành in, ngày nay với công nghệ in ấn đã cho phép các thiết kế được

tự do hoàn toàn trong sáng tạo ngôn ngữ. Đặc biệt về vấn đề giải quyết không gian

là một cuộc cách mạng mang tính đột phá. Các thiết kế dàn trang ban đầu mới chỉ

dùng ở hiệu quả thị giác 2D thì nay các trang ấn phẩm được xử lý theo quan niệm

3D rất nhiều. Không gian ba chiều mang lại tinh thần mới cho các trang tạp chí,

hình ảnh được cắt theo chi tiết đặc thù và phối hợp trên một không gian tái tạo hoàn

toàn theo ý tưởng của nghệ sĩ. Các đồ hình đồ họa kết hợp với khổ chữ theo tầng

lớp có chiều sâu chứ không đặt cạnh nhau thuần túy.

Không gian 3D đã dần chiếm lĩnh đa số các trang báo của TCH, chính điều

này đã hoà quyện giữa cột chữ nội dung và hình ảnh trở nên một tổng thể thống

nhất với hấp dẫn thị giác cao. Bài “Over the waves” trang 22-23 số tháng 7 năm

2012 là một ví dụ rõ nhất cho việc tái cấu trúc để tạo không gian mới, chiếc vòng cổ

được cắt cúp như vòng từ sau ra trước ôm gọn cột chữ nội dung trong một màu đẫm

thời gian gợi không gian hoài cổ [PL.1, H.65, tr.195]. Bài “Đạo diễn David Worth

với khoá học làm phim 3 ngày” trang 52-53 số tháng 8 năm 2012, toàn bộ ảnh được

xử lý lại phối hợp với nghệ thuật chạy cột chữ, tiêu đề bài được xếp chồng nhiều

lớp, hình tượng chữ O được cường điệu lớn, tất cả các dữ liệu được cấu trúc trong

một không gian nghệ thuật phim và sân khấu [PL.1, H.70, tr.199]. Bài “Chuyện một

người mê cổ vật” (Addicted to antiques) trang 20-25 số tháng 2 năm 2013 cũng là

một ví dụ tương tự, những cổ vật đã trở nên sống động trong một cấu trúc không

gian được xử lý hoàn toàn mới [PL.1, H.84, tr.208]. Nhưng huyền hoặc nhất vẫn là

không gian, màu sắc, ánh sáng của bảo tàng được đưa vào trang TC qua bài “Văn

hoá Đông Sơn” (Bronze age) trang 16-23 số tháng 8 năm 2015, chiếc thạp đồng

nằm lọt trang trọng trong khung bằng khối chữ, chiếc chuông đồng với ánh sáng hắt

lại tôn lên hình dạng độc đáo lạ mắt [PL.1, H.102, tr.225]. Bài “Những thác nước

nổi tiếng xứ ngàn thông” trang 96-97 số tháng 10 năm 2015, các ảnh thác nước

được phối hợp khéo léo như một bức tranh toàn cảnh cùng nghệ thuật xử lý chữ tiêu

đề báo phóng túng và nhấn màu đắt đã đem lại một hiệu quả thẩm mỹ cao [PL.1,

H.110, tr.234]. Bài “Tươi xanh màu lá gốm men lục Việt Nam” (Ever green) trang

104

56-61 số tháng 9 năm 2016 cũng là một điển hình của sự chử động tái cấu trúc

không gian nhằm chuyển tải cái hồn văn hoá dân tộc, các sản phẩm gốm được trưng

bày trong cấu trúc thẩm mỹ đầy tính sáng tạo mà đòi hỏi người thiết kế phải có sư

hiểu biết và đồng cảm sâu sắc [PL.1, H.114, tr.236].

Nghệ sĩ Vũ Mạnh Hùng cho biết: “Không gian và cấu trúc dàn trang tạp chí

Heritage (TCH) được điều chỉnh qua các chủ đề xuyên suốt của từng ấn phẩm, đây

chính là công cụ để tạo cảm xúc ban đầu đến độc giả khi tiếp xúc trực quan với một

cuốn tạp chí. Đồng hóa hình ảnh với nội dung con chữ là một trong những yếu tố

tác động mạnh mẽ đến không gian và cấu trúc dàn trang sẽ như thế nào”. Việc coi

hình ảnh cũng như khối văn bản đồng nhất về giá trị ngôn ngữ thị giác là một quan

niệm mới của TMTT. Với quan điểm này, cấu trúc và không gian trong trang ấn

phẩm TCH mang nét hòa quyện và gần với một sản phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh.

Đưa không gian ba chiều vào TKDT là điểm mạnh của TC thương mại giải trí. Tuy

nhiên nghệ sĩ Nguyễn Đình Nguyên lại có quan điểm khác khi thiết kế tạp chí:

“Heritage khôn xé toang không gian một cách quá mãnh liệt mà chủ yếu đưa cái

tĩnh sâu lắng vào trong bản sắc văn hóa và di sản”. Tính chất đặc thù của TCH về

chủ đề di sản luôn được tuân thủ, nhưng yêu cầu về văn hóa và du lịch cần được đẩy

mạnh và sự biến đổi về cấu trúc và không gian trong trang TC được phát huy ngày

càng nhiều. Thẩm mỹ mới của TCH vẫn luôn giữ vững vị thế của một tạp chí hàng

đầu Việt Nam trong môi trường truyền thông hiện đại.

3.2.3. Thiết kế ấn phẩm tạp chí lý giải thực tiễn thông tấn theo cách thức

nghệ thuật và biểu tượng

Thẩm mỹ truyền thông (TMTT) dự tính chuyển đổi trực tiếp các nguyên tắc

cảm nhận được phát hiện trong sự phát triển của môi trường và thế giới xung quanh

chúng ta vào các chức năng của bản thân nghệ thuật. Cái tạo nên hiệu quả thiết kế

dàn trang (TKDT) ấn phẩm tạp chí (TC) không còn là yếu tố vật chất cụ thể, cũng

không phải là biểu hiện thị giác hoặc hình ảnh của nó mà chính xác là không thể

cảm nhận bằng các giác quan trực tiếp của chúng ta, mà chỉ bằng nhận thức của

chúng ta. Không còn có thể tạo hiệu quả mới bằng cách thể hiện và phương pháp

105

cũ, các nghệ sĩ thiết kế đã can thiệp trực tiếp trên phương tiện kỹ thuật số, điều đó

cho thấy cách trình bày mang tính thẩm mỹ và biểu tượng bằng cách sử dụng các

phương tiện khác nhau mà họ được trang bị ngày nay.

Chúng ta đang chứng kiến không chỉ sự thay đổi trong đối tượng của TKDT

mà còn trong các phương tiện để biểu đạt nó. Thông qua một loạt các trải nghiệm,

nghệ thuật mang tính xã hội hóa đã hỗ trợ sự tồn tại của một nghệ thuật dàn trang

ứng tác. Dựa trên lý thuyết về ứng tác, điều đã hoạt động từ lâu nhằm mang lại sự

thay đổi. Nó đưa lý thuyết TMTT vào quá trình thiết kế bằng cách tạo ra sự tương

tác giữa các cá nhân hoặc các nhóm. Đây là loại hình nghệ thuật hoạt động như một

máy phát thông điệp ban đầu, trong đó có cả những cái được xác định cụ thể và cả

những cái không trực tiếp. Các nghệ sĩ thiết kế đóng vai trò của người truyền thông

điệp, bằng cách chuyển tiếp thông tin qua các biểu tượng nghệ thuật chứ không phải

qua các dòng chữ nội dung hay hình ảnh minh họa. Ngày nay, lĩnh vực thông tin

đang mở ra một không gian không hạn chế cho các thể nghiệm của nghệ sĩ thiết kế,

người có khả năng sáng tạo ra hình thức cụ thể của nghệ thuật. Việc thực hành nghệ

thuật TKDT đã luôn gây sự chú ý đặc biệt tới các vấn đề của truyền thông [113].

Biên tập chính đầu tiên của TC Heritage Vũ Vân Yến cho biết: “Là người

xây dựng format của tạp chí, tôi tâm đắc nhất bài truyện cổ có minh hoạ bằng tranh

của các hoạ sĩ”. Là nhà báo say mê nghệ thuật thị giác, nhưng chính chị cũng không

ngờ nó chính là xu thế kết hợp với ngôn ngữ nghệ thuật và biểu tượng của truyền

thông đương đại. Biểu hiện rõ nhất của TCH là một loạt trang bìa được sử dụng

hình tượng mỹ thuật mang tính tượng trưng để chuyển tải thông điệp. Khởi đầu là

bìa số tháng 1-2 năm 2000 với biểu tượng chữ thảo phương Đông mang dáng dấp

của con người trong kỷ nguyên mới, vừa mang tính dân tộc vừa mang tính hiện đại

[PL.1, H.19, tr.170]. Bìa số tháng 3-4 năm 2007 giới thiệu sự hoài niệm về quá khứ

của văn hoá Việt Nam bằng tác phẩm của hoạ sĩ Phạm Thục Quyên, tranh vẽ hình

tượng em bé mặc trang phục truyền thống thổi sáo với các mô típ dân gian phía sau

[PL.1, H.40, tr.180]. Bìa số tháng 1 năm 2017 chuyển tải thông điệp biểu tượng

năm mới bằng tác phẩm của hoạ sĩ Lê Trí Dũng, bức tranh con gà rực rỡ với những

106

thủ pháp kết hợp dân gian và đương đại [PL.1, H.119, tr.239]. Không chỉ có tranh

vẽ mà ngay cả ảnh nghệ thuật được sử dụng trên trang bìa TCH cũng mang tính

biểu tượng mạnh mẽ. Trang bìa số tháng 4 năm 2014 là hình ảnh bác nông dân chở

trên xe đạp của mình một khối tròn khổng lồ những chiếc “đó” bắt cá, hình khối

choáng ngợp toàn bộ trang bìa tượng trưng cho nét văn hoá đặc sắc của Việt Nam

[PL.1, H.92, tr.214].

Đồng hành với những trang bìa là những bài báo giải quyết vấn đề thông tấn

bằng thiết kế phong cách nghệ thuật và biểu tượng. Bài “Khoảnh khắc bị lãng quên”

trang 50-51 số tháng 3 năm 2012, sử dụng hình tượng điêu khắc tượng tròn như

những nhân vật cấu trúc lại trong một không gian nghệ thuật chuyển tải những ký

ức tuổi thơ giàu cảm xúc [PL.1, H.56, tr.189]. Bài “Qua tranh dân gian tìm lại Tết

xưa” (Portraits of a culture) trang 22-27 số tháng 2 năm 2018, ứng dụng nghệ thuật

tranh dân gian trên giấy “Dó” tượng trưng đậm nét của văn hoá dân tộc Việt Nam

[PL.1, H.125, tr.242]. Mô típ viền giấy dân gian xé tay được khai thác triệt để diễn

đạt vẻ mộc mạc của nghệ thuật thủ công truyền thống. Cũng số báo này, bài “Lặng

nhìn thời gian trôi” (Silent guardians) trang 60-65, hình tượng con chó đá đã quá

nổi tiếng trong văn hoá truyền thống Việt phối hợp với mô típ trang trí đã được mã

hoá trong thiết kế biểu đạt sâu sắc bề dày lịch sử dân tộc [PL.1, H.127, tr.246]. Bài

“Bảo vật quốc gia Thăng long Hà Nội” (Historic treasures) trang 12-17 số tháng 3

năm 2018, thiết kế những mảng màu vàng mang mô típ của cuốn sách biểu trưng

cho giá trị văn hoá sâu sắc, bình cổ vật được bao bọc bởi khối chữ vừa như toả

sáng, vừa như gìn giữ di sản [PL.1, H.131, tr.250].

Nghệ sĩ Nguyễn Hà Hùng từ công ty cổ phần quảng cáo sáng tạo HyPress

nhận định: “Tạp chí Heritage có hai đối tượng độc giả tương đối khác nhau về nhận

thức, một là độc giả nước ngoài hai là độc giả trong nước. Nhiệm vụ của tạp chí là

tiếp cận đồng thời hai đối tượng trên cùng với sự gìn giữ bản sắc đậm đà của dân

tộc”. Đây là nhiệm vụ giải quyết vấn đề tạo ra một tiếng nói chung cho thói quen

đọc và cảm nhận giữa các nền văn hóa khác nhau. Một giải pháp rất khả thi là thể

hiện tạp chí theo xu hướng nghệ thuật và biểu tượng. Nghệ thuật phần nào dễ dàng

107

gạt bỏ các giới luật, định kiến hơn các ngành khác và cũng dễ tìm tiếng nói chung đi

thẳng tới cảm nhận trực giác của độc giả. Do vậy mà xu hướng nghệ thuật và biểu

tượng trong thiết kế dàn trang đang có xu thế mạnh lên trong bối cản toàn cầu hóa.

Nhìn nhận một cách khách quan, nghệ sĩ Nguyễn Đình Nguyên cho rằng: “Design

chỉ mang cho bài báo một cái áo khoác, một mình nó không thể trở thành biểu

tượng nghệ thuật. Vậy để đến với tính nghệ thuật hay biểu tượng, đây không phải là

việc riêng của thiết kế dàn trang”. Cách nhìn này khẳng định hơn nữa sự tương tác

giữa các thành phần bài viết, ảnh chụp, và TKDT xây dựng nên ấn phẩm TC. Đồng

quan điểm với nhận định này, nghệ sĩ Vũ Mạnh Hùng còn khái quát hơn nữa, trong

đó không nhìn nhận riêng rẽ vai trò của thiết kế mà xét nó trong một tổng thể chung,

sự chuyển tải thông điệp để đạt tới sứ mệnh của truyền thông: “Tạp chí Heritage

mang sứ mệnh chuyển tải về di sản, văn hóa, du lịch Việt Nam. Đây chính là sứ

mệnh truyền thông. Khi những giá trị được chuyển tải và thừa nhận theo thời gian

nó sẽ trở thành biểu tượng mang những giá trị to lớn hơn, đó là nghệ thuật, đó là

những giá trị vô hình trong tâm trí công chúng”.

3.2.4. Những tham dự tương tác và hệ thống nghệ thuật giao tiếp, biểu

cảm trong thiết kế ấn phẩm tạp chí

Trong các hệ thống tương tác và trao đổi được thiết lập bởi các nghệ sĩ thiết

kế dàn trang (TKDT), các khía cạnh của sự tham gia của độc giả là không thể bỏ

qua. Chắc chắn nó sẽ tham dự và có một tầm quan trọng ngày càng lớn trong tương

lai. Hình thức TKDT tạp chí truyền thống đã hoàn thành nhiệm vụ của nó. Có một

xu hướng rõ rệt của nền văn hóa toàn cầu hiện nay, trong đó ranh giới giữa các loại

hình khoa học và các thể loại nghệ thuật sáng tạo đã trở nên lu mờ. Một cách nhìn

mới về mối quan hệ tam giác giữa nghệ sĩ thiết kế, độc giả và nhà phê bình nhất

thiết làm nảy sinh tư duy thẩm mỹ mới. Một nghệ thuật TKDT mới được tạo ra dựa

trên nguyện vọng và nhu cầu sáng tạo của con người, bao gồm những gì xung

quanh nó, một nghệ thuật mà có thể trở lại phần nào đó giống như nghệ thuật ý

niệm hoặc nghệ thuật tuyên truyền.

Sự gia tăng chóng mặt của các phương tiện truyền thông và những ứng dụng

108

rộng rãi của chúng ngày nay đã dẫn đến một khái niệm trìu tượng hơn về môi

trường xã hội. Đây là một không gian hội ngộ được xây dựng trên cơ sở phương

tiện thông tin truyền thông, một không gian được áp đặt bởi tất cả các phương tiện

truyền thông công nghệ số cho không gian vật lý của chúng ta. Những cảm xúc của

chúng ta được trao đổi thông qua việc xây dựng một mạng lưới thư điện tử khổng lồ

liên hệ với nhau bằng vô tuyến chuyển tải thông điệp. Mạng lưới này được dệt bởi

một kiểu quan hệ mới của con người và đã mở ra một thực tiễn mới. Một không

gian được truyền thông đa phương tiện hóa dần thống lĩnh xã hội như một môi

trường mới đặc biệt dành cho các hoạt động tương tác. Bản thân môi trường có xu

hướng hòa tan và tái bề mặt như là một nơi để mối quan hệ mới của chúng ta hiện

hữu thông qua các phương tiện thông tin. Đây là một khía cạnh trìu tượng nhưng

cũng không kém thực tế của môi trường mới đối với các trải nghiệm của chúng ta.

Môi trường ở đây lưu ý chúng ta về một cách nghĩ tích cực về những nhận thức vật

lý của những gì xảy ra xung quanh ta. Đến nay quan điểm này đã phát triển và khái

niệm về không gian đang gắn bó mật thiết với những gì chúng ta đang thể hiện về

một môi trường thông tin [113].

Tâm sự về nghệ thuật TKDT tạp chí Heritage (TCH), nghệ sĩ Nguyễn Đình

Nguyên công ty Nguyencomm thổ lộ: “Tôi luôn có mối liên hệ giữa thiết kế và âm

nhạc”. Sự biểu cảm trong nghệ thuật thiết kế được thể hiện có hệ thống và xâu

chuỗi trong toàn bộ ấn phẩm TC. Nó lên xuống như giai điệu của những bản nhạc

hoặc mang hiệu quả của các loại hình nghệ thuật khác như phim ảnh hay thơ ca. Chi

tiết hơn và cụ thể hơn, nghệ sĩ Vũ Mạnh Hùng cho biết: “Mọi công việc được gọi là

thiết kế đều chứa đựng sự tương tác giữa các yếu tố nằm trong hệ thống biểu cảm.

Hệ thống biểu cảm là những yếu tố rất khó xác định và quy chuẩn. Đó đơn thuần là

khoảng trống, là màu sắc, là kiểu chữ, là cách sắp đặt, là cấu trúc không gian và

tương tác với hệ thống cấu trúc của cả cuốn TC. Tất cả đều tạo nên cảm giác và tinh

thần cho một tác phẩm dàn trang”. Các nghệ sĩ đều thống nhất về sự tham dự tương

tác cùng với hiệu quả nghệ thuật biểu cảm là không thể thiếu trong thiết kế dàn

trang đương đại.

109

Theo biên tập chính Vũ Vân yến: “Một số tạp chí chỉ cần một đến hai bài

được thiết kế tinh tế thì đã làm cho độc giả rung động, đó là sự biểu cảm”. Bàn về

giao tiếp tương tác với độc giả, chị cho biết: “Nhà thiết kế người nước ngoài chưa

hẳn đã tốt do bởi họ không hiểu thực sự nội dung tiếng Việt để thể hiện, ấy là chưa

nói đến sắc thái văn hoá”. Sự tương tác với độc giả thể hiện mạnh mẽ qua bài “Ối

giời ơi và tình yêu với Hà Nội” trang 98-103 số tháng 5 năm 2012, đây đồng thời là

tựa đề của một bản rap nói về nỗi đam mê của một chàng trai “Tây” sống tại Hà Nội

[PL.1, H.62, tr.193]. Tiêu đề bài báo được dành hẳn một trang để biểu đạt cảm xúc,

những chữ cái được cường điệu thành các tín hiệu thị giác sẵn sàng đối thoại với

giới trẻ. Gương mặt đầy biểu cảm của nhóm nhạc đã hỗ trợ tốt cho thông điệp muốn

chuyển tải. Cũng trong số báo này bài “5 điểm lặn ngắm cảnh đẹp trên thế giới”

(Five heavens for global scuba divers) trang 58 lại đem đến sự tương tác của con

người với biển, sức biểu cảm của biển xanh vô cùng cuốn hút và nhất là số 5 chìm

trong ước biển là điểm nhấn ẩn ý của trang báo [PL.1, H.61, tr.193]. Sức biểu cảm

lôi cuốn bằng vẻ đẹp của đền Taj Mahal được nhân đôi nhờ thủ pháp dàn trang đối

lập giữa ngày và đêm, giữa đen và trắng, giữa âm và dương trong bài “Royal

splendor” trang 76 số tháng 10 năm 2012 [PL.1, H.78, tr.204]. Lối biểu cảm khác là

sự tinh tế và quyến rũ do vẻ mơ màng của cảnh sắc và phong cách dàn trang trang

nhã sang trọng thể hiện trong bài “Hương sắc bốn mùa” (Four seasons of colour)

trang 74-78 số tháng 9 năm 2015 [PL.1, H.106, tr.231]. Cũng đến từ ảnh, từ sự

trang nhã của thiết kế, những sức biểu cảm của trang báo còn được góp phần của

sắc xanh cuộc sống qua bài “Autumn bliss” trang 76-77 số tháng 10 năm 2017

[PL.1, H.124, tr.242].

3.2.5. Thiết kế ấn phẩm tạp chí, thực hành sáng tạo với những sản phẩm

có nghĩa và có vẻ vô nghĩa

Thực tế thì bất kỳ sản phẩm thiết kế nào cũng đều tìm đến một cái có nghĩa

nào đó. Giờ đây các nghệ sĩ thiết kế dàn trang (TKDT) không còn cảm thấy có

nghĩa vụ phải cung cấp một thiết kế hình ảnh cụ thể nào với các yếu tố dữ liệu thật

khi mà họ đang thử nghiệm trực tiếp vào thực tế bằng những phương tiện thông tin.

110

Ngày nay độc giả cũng giữ một vai trò nhất định trong ý nghĩa của nghệ thuật dàn

trang.

Cho đến ngày nay, chúng ta có xu hướng nghĩ rằng truyền thông đơn giản là

các giao dịch chuyển tải mà qua đó thông tin thực tế tự thể hiện bản thân, tự giải

thích cho riêng nó và tiến hành trao đổi. Hoàn toàn không phải như vậy, truyền

thông không chỉ là một phương tiện truyền dẫn. Nói cách khác truyền thông không

phải là một thao tác đơn giản của truyền thông tin. Nó là một thứ mạnh mẽ hơn thế,

bởi vì khi nó vận hành thì không gian và công cụ thực tế là không thật. Quan điểm

của các nhà thực hành nghệ thuật dàn trang là luôn cung cấp cho độc giả hiểu được

thực tế thông tin là cái gì đó bằng những phương tiện hay cách đặt vấn đề theo cách

hư cấu nghệ thuật. Tất nhiên trong chính nó, các giao tiếp tự nó đã tạo ra một thực

tế thông tin mới [113].

Rất cụ thể với tính chất đặc thù của nghề nghiệp, nghệ sĩ Nguyễn Hà Hùng

chia sẻ: “Muốn những điều có nghĩa trở nên quan trọng thì phải có những điều vô

nghĩa. Nó tựa như một khoảng trống trong không gian 2D, khoảng trống làm cho

con mắt được nghỉ ngơi và vì vậy những điểm nhấn mới thực sự được thu hút”.

Ngoài ra tâm sự về trải nghiệm thực hành nghệ sĩ cũng cho biết: “Thách thức lớn

đối với người thiết kế dàn trang là có quá ít khoảng trống trong khi có quá nhiều

vấn đề cần trình bày, hoặc ngược lại là có quá nhiều khoảng trống trong khi có quá

ít vấn đề”. Sự định kiến về khoảng trống trình bày trong quan niệm của độc giả là

có thật và cần có thời gian và thông tin để cảm nhận nó. Đối với các nghệ sĩ thì sự

có vẻ vô nghĩa ấy hoàn toàn là cuộc chơi mang tính thị giác và nghiêm túc. “Người

thiết kế chuyên nghiệp đều phải có tính toán. Giống như âm nhạc, phải có lúc lắng

xuống. Vô nghĩa ở đây thực ra là có chủ định. Đã làm chuyên nghiệp thì không có

một mi-li-mét nào là không có toan tính” nghệ sĩ Nguyễn Đình Nguyên khẳng định.

Có thể đâu đó những chi tiết hoặc hiệu quả thiết kế làm độc giả không cắt nghĩa

được hoàn toàn, đó không phải là những cái vô nghĩa, đó là những ẩn ý có chủ định

của nghệ sĩ. Giải thích thêm về quan điểm thiết kế, nghệ sĩ của công ty Esign Vũ

Mạnh Hùng quan niệm: “Trong thiết kế dàn trang, việc sắp xếp một cách trực quan

111

nhất tưởng chừng là “đặt để vậy thôi” lại là công việc khó khăn nhất đối với một

người làm thiết kế”. Lối suy nghĩ này nhắc lại một nguyên tắc đầy tính triết lý của

các nhà thiết kế phương Tây đã có từ rất lâu “thiết kế mà như không thiết kế mới là

đỉnh cao”.

Bài “Jo Ha Kyu” trang 108 số tháng 5 năm 2012 là một ví dụ, đây không

phải là tiêu đề tiếng nước ngoài dành cho phần bài tiếng Anh mà là tiêu đề có dụng

ý dành cho phần bài tiếng Việt [PL.1, H.63, tr.194]. Bản thân loại hình phim thực

hành video art thuộc nghệ thuật đương đại mà bài viết đề cập đã chứa đầy sự hoài

nghi khó có những kiến giải trực tiếp, cách thức dàn trang cũng đầy ẩn ý khiến cho

độc giả tò mò phải tự đi tìm lời giải cho chính mình. Nhưng nghệ thuật đương đại là

vậy và nghệ thuật TKDT cũng tận dụng xu hướng tương tác tự do này. Bài “Bàn ủi

thời Nguyễn” trang 26-27 số tháng 9 năm 2012 [PL.1, H.76, tr.203], bên cạnh

những bàn ủi nặng nề cổ điển là một khoảng trống lớn tới mức vô lý khiến cho độc

giả không khỏi bối rối. Lẽ dĩ nhiên khoảng trống là một dụng ý, là một sự đối lập và

nó không hoàn toàn vô nghĩa như chính nó biểu hiện. Bài “Simple and Peaceful”

trang 72-73 số tháng 12 năm 2012 [PL.1, H.80, tr.206], cũng đưa ra một mảng màu

vàng cứng nhắc không rõ là bức tường hay dụng ý khác, nhưng cũng không thể phủ

nhận nó bổ sung khá tốt cho vẻ xù xì xám xịt của những bức ảnh đứng bên nó. Thực

tế nghệ thuật TKDT ấn phẩm TC đến đây đã đi xa hơn công năng chuyển tải thông

tấn của mình và đã bắt đầu tham dự vào cuộc chơi của nghệ thuật đương đại, nghệ

thuật của sự tương tác, của ý niệm, không coi trọng mục đích cụ thể mà chú trọng

vào thực hành sáng tạo.

Tiểu kết

Lý thuyết thẩm mỹ truyền thông ra đời không lâu do sự đòi hỏi bức thiết phải

có một cách nhìn mới đối với sự phát triển bùng nổ của các hoạt động nghệ thuật

đương đại. Những quan điểm của nó phần nào giải đáp và định hướng trở lại nghệ

thuật TKDT ấn phẩm TCH ngày nay. Các nhận thức mơ hồ về nghệ thuật TKDT ấn

phẩm TCH đương đại được gỡ bỏ dần dần bằng các tuyên ngôn và luận giải dựa

trên cơ sở nghệ thuật xã hội học dưới sự tác động của điện tử, truyền thông công

112

nghệ số. Những quan niệm mới được xây dựng từng bước nhằm giải quyết các mối

quan hệ trong thực hành nghệ thuật. Thế giới nột tâm cùng với nguyên tắc thiền của

phương Đông được chỉ ra và vận dụng trong các thiết kế dàn trang nhiều hơn.

Những thông điệp truyền thông mang tính gợi cảm không còn xa lạ với các nghiên

cứu và nhận định chuyên môn. Biểu hiện của TKDT góp phần không nhỏ vào sức

mạnh của TCH mà hay được mô tả như vị thế quyền lực.

Thẩm mỹ truyền thông giúp nghệ sĩ thiết kế đồ họa làm việc với những

phương pháp khẳng định mục tiêu thẩm mỹ rõ ràng hơn. Kết cấu thông tin mang

tính kiến trúc được khẳng định như một tiêu chí tiên quyết, cấu trúc không gian ba

chiều được ứng dụng như một thế mạnh của thể loại tạp chí thương mại quảng cáo.

Việc xây dựng các biểu tượng nghệ thuật trong thiết kế TCH cũng không còn xa lạ

nữa. Cho dù không tính đến các xuất bản phẩm tạp chí online, các ấn phẩm TCH đã

thể thiện tính tương tác ngày càng nhiều và các hệ thống nghệ thuật giao tiếp biểu

cảm cũng ngày càng mạnh mẽ hơn. Điều thú vị nhất là thẩm mỹ mới đã đặt ra vấn

đề vô nghĩa cho các sản phẩm sáng tạo của thiết kế để khẳng định cái có nghĩa của

nghệ thuật đồng thời mở rộng biên độ cảm xúc nhiều hơn cho các sản phẩm dàn

trang TCH.

113

Chương 4

BÀN LUẬN VỀ THẨM MỸ TRUYỀN THÔNG VÀ THIẾT KẾ TẠP CHÍ Ở

VIỆT NAM HIỆN NAY

4.1. Thẩm mỹ truyền thông trên con đường phát triển của nghệ thuật

đương đại

4.1.1. Những đóng góp của tác giả lý thuyết thẩm mỹ truyền thông

Khi khủng hoảng nhận thức về nghệ thuật đương đại vẫn còn hiện hữu trong

bối cảnh xã hội đang chuyển mình với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 thì những

đóng góp của các tác giả lý thuyết thẩm mỹ truyền thông (TMTT) là rất kịp thời.

Cuộc cách mạng đang dần xoá nhoà ranh giới và kết nối vạn vật với nhau đòi hỏi

những quan điểm và nhận thức phù hợp với tốc độ phát triển của thời đại.

Người thứ nhất phải kể đến Mario Costa, được biết đến với các nghiên cứu

của mình về mối liên hệ của công nghệ mới trong nghệ thuật và thẩm mỹ, bên cạnh

quan điểm lý thuyết mới "thẩm mỹ truyền thông" (communication aesthetics), ông

còn đưa ra một số khái niệm mới cũng trong mối liên hệ đó như "cái cao cả mang

tính công nghệ" (technological sublime), "hình thái truyền thông" (communication

block), và "thẩm mỹ thông lượng (hay sự tuôn trào)" (aesthetics of flux). Mario

Costa có một sự nghiệp nghiên cứu sâu rộng. Ngoài giảng dạy phương pháp luận và

lịch sử của phê bình văn học tại đại học Naples, ông còn dạy đạo đức học và mỹ học

truyền thông tại đại học Nice Sophia-Antipolis nước Pháp. Ông là tác giả của

khoảng hai mươi cuốn sách và nhiều bài tiểu luận, xuất bản ở châu Âu và Mỹ. Ông

thành lập phòng thể nghiệm về TMTT và nghệ thuật đa phương tiện mang tên

Artmedia tại khoa triết học, đại học Salerno, năm 1985. Là giám đốc của Artmedia

ông đã phát triển mạnh mẽ các hoạt động thúc đẩy nghệ thuật có sự tham gia của

công nghệ mới, xúc tiến nhiều cuộc hội thảo và các sự kiện ở Naples, Paris,

Cologne, Toronto, Tel Aviv và São Paulo [85].

Từ những năm 1960, ông đã cung cấp những giải thích triết học và thẩm mỹ

về nhiều phong trào tiên phong trong nghệ thuật và văn học. Đặc biệt các chức năng

114

của phê bình nghệ thuật hậu hiện đại. Ông chủ yếu làm việc với hai chủ đề chính.

Một là các mối liên hệ xã hội và đạo đức trong truyền thông công nghệ. Hai là

những thay đổi về ý nghĩa của khái niệm “thẩm mỹ” và “nghệ thuật” trước ảnh

hưởng bởi công nghệ điện-điện tử và công nghệ kỹ thuật số, điều này dẫn ông đến

giả thuyết thay đổi căn bản trong những lý thuyết này. Khoảng đầu năm 1980, Costa

bắt đầu một cuộc điều tra trên phương tiện truyền thông và công nghệ thông tin liên

lạc mà kết quả đầu tiên là tính thẩm mỹ của truyền thông, một lý thuyết đã khái

niệm hóa khả năng của một thẩm mỹ mới xuất hiện đồng thời các nơi trên thế giới.

Các nguyên tắc cơ bản của lý thuyết này đã được tuyên bố vào năm 1983. Trong

những năm 1990, Costa xác định một cách khái quát, dễ hiểu, thẩm mỹ và triết học

hơn, lý thuyết của truyền thông đa phương tiện, mà ông đặt tên là “cái cao cả mang

tính công nghệ” [85].

Theo Costa, toàn bộ hệ thống lý thuyết phát triển từ thẩm mỹ truyền thống có

từ thế kỷ thứ 18, thực tế đã trở nên hoàn toàn lỗi thời và không lý giải được những

biểu hiện của nghệ thuật đương đại. Điều kiện nhân học công nghệ đang nổi lên và

các sản phẩm thẩm mỹ quan trọng nhất của nó cần một lý thuyết và lời giải thích

mới. Ví dụ một yếu tố cơ bản của mỹ học truyền thống là “hình khối”, cuối cùng

được thay thế bằng "thông lượng", trong đó các phân tích được xem xét kỹ lưỡng từ

quan điểm triết học và những biểu hiện thẩm mỹ đa dạng của nó [86].

Người thứ hai là Fred Forest, một nghệ sĩ truyền thông đa phương tiện người

Pháp. Ông sử dụng video, nhiếp ảnh, báo chí in, thư tín, phát thanh, truyền hình,

điện thoại, viễn thông, internet, và sự can dự của công chúng trong một loạt các tác

phẩm sắp đặt, trình diễn của mình. Đối với hầu hết các tác phẩm nghệ thuật, ông

thường vận dụng các phương tiện truyền thông đại chúng và quảng cáo như những

nguyên liệu thô. Bên cạnh đó Fred Forest nổi tiếng ở Pháp như là một nhà phê bình

gay gắt của các vấn đề của nghệ thuật đương đại. Ông là tác giả của nhiều cuốn

sách về nghệ thuật, truyền thông và công nghệ. Fred Forest đã giảng dạy tại trường

Cao đẳng quốc gia nghệ thuật (Ecole Nationale Supérieure d'Art), Đại học Cergy-

Pontoise; Đại học Paris 1 Panthéon-Sorbonne; và Đại học Nice Sophia-Antipolis.

115

Bản thân Fred Forest là tác giả của bài viết "Dành cho thẩm mỹ truyền

thông" (For an Aesthetics of Communication), xuất bản năm 1983, được coi là bản

tuyên ngôn của TMTT. Văn bản quan trọng này cho thấy tầm nhìn của ông về các

tác phẩm nghệ thuật truyền thông, mà mục tiêu của nó không phải là để truyền tải

bất kỳ thông điệp hoặc hình ảnh cụ thể nào, nhưng để tạo ra các môi trường thể

nghiệm vi mô của truyền thông trong đó có thể phát hiện một số mảng nổi bật, các

đặc điểm tiềm ẩn của truyền thông đa phương tiện.

4.1.2. Thẩm mỹ truyền thông với nghệ thuật đương đại Việt Nam

Trong bối cảnh nghệ thuật Việt Nam hiện nay, bầu không khí đang nóng lên

với các quan điểm về nghệ thuật đương đại. Âm nhạc có “dân gian đương đại” mà

tiêu biểu là Lê Minh Sơn, Lưu Hà An hay “music-theatre” của Trần Kim Ngọc,

nghệ thuật múa có “múa đương đại” của Trần Ly Ly, nghệ thuật điện ảnh có Trung

tâm điện ảnh trẻ của Bùi Thạc Chuyên, ngành kiến trúc có các xu hướng hoà nhập

thiên nhiên của Võ Trọng Nghĩa, và trong nghệ thuật thị giác là những thể loại mới

“Sắp đặt”, “Trình diễn”, “Video-Art”, “Nghệ thuật đa phương tiện”…

Nhờ chính sách mở cửa bắt đầu từ thời kỳ “đổi mới”, một số họa sĩ Việt Nam

trở nên giàu có. Thị trường mỹ thuật Việt Nam mới mở cửa với thế giới đã tạo nên

một sự hiếu kỳ bởi vẻ đẹp tươi sáng mang nhiều yếu tố lãng mạn. Một số nhà

nghiên cứu nghệ thuật nước ngoài nhận xét tranh Việt Nam có nhiều nét của chủ

nghĩa ấn tượng Pháp. Các họa sĩ thành danh được mời đi giao lưu triển lãm ở nước

ngoài. Một vài họa sĩ sau khi trở về lập tức thay đổi cách vẽ, có họa sĩ sau khi triển

lãm ở nước ngoài về phát ngôn quan điểm cá nhân của mình trên báo chí “Cái đẹp

không quan trọng bằng cái mới” và đương nhiên bị vùi dập không tương tiếc. Dẫu

rằng cảm quan của lớp trẻ mang nhiều yếu tố trực giác, thiếu cơ sở lý thuyết nghiên

cứu nhưng vẫn là một vấn đề đặt ra, phản ứng của các nhà phê bình nghệ thuật cũng

rất xác đáng do quan điểm bất biến “mỹ học là khoa học của cái đẹp” đã ăn sâu vào

tiềm thức của những người làm nghiên cứu nghệ thuật.

Năm 1986, Giám đốc của bảo tàng nghệ thuật Singapore đã có một bài viết

trên tạp chí nghệ thuật uy tín của khu vực Asia Art New phê phán nghệ thuật Việt

116

Nam tuy mới bùng nổ nhưng đã đi vào trạng thái mất cảm xúc, các họa sĩ thành đạt

tự tái chế, tự nhại tranh của chính mình. Các họa sĩ đã trở nên ích kỷ thiếu trách

nhiệm với cộng đồng và dần tự hủy hoại mục đích thật sự của nghệ thuật. Nhưng hạ

tầng cơ sở cho hoạt động nghệ thuật là ở đâu, trong khi chúng ta chưa chú trọng lịch

sử triết học, thiếu cập nhật lịch sử mỹ thuật, không có nhà giám tuyển và cũng

không có cả những luật sư bảo vệ quyền lợi họa sĩ nữa. Năm 1995 đến 1997 thị

trường nghệ thuật tại Việt Nam sụp đổ, cũng là năm ngưỡng bản lề cho một sự thay

đổi lớn với mỹ thuật Việt Nam. Chỉ đến lúc này các nghệ sĩ cùng các nhà nghiên

cứu mới nghiêm túc xem xét lại vấn đề thẩm mỹ.

Nhà nghiên cứu mỹ thuật Bùi Như Hương ở Việt Nam đã chỉ ra thời kỳ thẩm

mỹ thứ ba dành cho nghệ thuật đương đại, đặt tên là “thẩm mỹ tạp kỹ”. Mặc cho

những tranh luận, các nghệ sĩ thực hành nghệ thuật đương đại Việt Nam đã làm việc

cật lực với bản lĩnh đáng trân trọng cho dù trong tâm thế của người đến sau trong

dòng chảy của nghệ thuật thế giới. Họ khẳng định nghệ thuật đương đại Việt Nam

không hề khó hiểu hay dễ dãi, cũng chẳng hề thần thánh hay giỏi giang như một số

người nhận xét, đơn giản nó chỉ là một khoa học thẩm mỹ. Các quan niệm nghệ

thuật đều phải dựa trên một cái nôi văn hóa, một trình độ tri thức cao và kinh

nghiệm thực thành dầy dạn. Khi xã hội vận động đặt ra những nhu cầu mới, có sự

vận hành của tư duy, có sự va đập của cuộc sống thì ắt phải ra đời những cái mới.

Nghệ thuật không có gì là ngẫu nhiên, nó luôn là kết quả của trí tuệ mang yếu tố

nhân văn. Các cấu trúc xã hội đã thay đổi, mô thức công việc cũng thay đổi, con

người đã vượt ra ngoài không gian gian sống của chính mình. Nhưng khi tốc độ

sống đã trở nên quá nhanh, câu hỏi đặt ra là những cảm xúc hạnh phúc thực sự của

con người là ở đâu và người làm nghệ thuật sẽ phải trả lời câu hỏi đó. Văn hóa và

nghệ thuật luôn có nhiệm vụ đi trước bằng cảm thức hay liên tưởng của nghệ sĩ.

Nghệ thuật hiện đại cũng giống như nghệ thuật cổ điển, không thể giao tiếp

với quảng đại quần chúng, không thể đến với người thu nhập thấp trong xã hội. Sở

hữu và thưởng thức nghệ thuật vẫn luôn là những người giầu có, người nghèo

không có cách gì để đến với nghệ thuật. Sự khác biệt trong tốc độ sống luôn là nỗi

117

trăn trở của nghệ sĩ và nghệ thuật đương đại đã phản ứng bằng một quan niệm thẩm

mỹ mới được định danh là thẩm mỹ truyền thông (TMTT). Thẩm mỹ của đại chúng,

của tầng lớp cơ bản của xã hội (ground level) với khẩu hiệu phá bỏ bức tường của

bảo tàng để ra với quảng đại quần chúng. Nghệ thuật đương đại luôn đồng hành

cùng xã hội, đặc biệt đề cao tính dân chủ. Nghệ thuật phải tương tác trực tiếp với tất

cả các giai tầng của xã hội, phải đến với công chúng chứ không phải công chúng

tìm đến thánh đường của nghệ thuật. Người nghệ sĩ phải sống với quần chúng chứ

không phải trong các tháp ngà, họ phải tạo ra một thứ nghệ thuật dân chủ hơn.

Nghệ thuật trình diễn, nghệ thuật sắp đặt, video art hay graffiti đã thực hành

với đúng tôn chỉ mục đích của TMTT, một nghệ thuật chú trọng tới quá trình chứ

không phải bản thân tác phẩm. Một yếu tố đòi hỏi sự chuyển biến rất lớn về quan

niệm sáng tác của người nghệ sĩ. Trương Tân, một nghệ sĩ đặc sắc của Việt Nam

thành danh từ thuở còn ngồi ghế nhà trường với những bức tranh thể hiện chiều sâu

tư duy cùng với kỹ thuật thể hiện hoàn hảo, là một trong những người tiên phong

tham gia sáng tác với các tác phẩm sắp đặt, trình diễn. Xu hướng tối giản trong sáng

tác tranh của anh cũng chưa thực sự thỏa mãn được khát khao thể hiện chính mình.

Việc tìm đến với trình diễn bắt đầu từ những gallery nhỏ trên phố Ngô Quyền, sắp

đặt và trình diễn “Áo cưới” tại Nhà sàn studio rồi đến sắp đặt “Cái bỉm” tại triển

lãm giao lưu do viện Goethe tổ chức đã khẳng định sự chuyển biến sâu sắc trong

quan niệm của nghệ sĩ. Yếu tố nhận diện thông điệp hay gợi cảm tính dục của

TMTT luôn có sẵn trong tác phẩm của Trương Tân. Các hình thể độc đáo mang bản

sắc Trương Tân giờ đây được cắt dán bố trí tràn ngập trong không gian ba chiều cho

thấy một nhận thức mới và quan niệm mới về các mối quan hệ trong sáng tác và

thưởng thức nghệ thuật.

Tác phẩm sắp đặt gốm “Đất qua lửa” của nghệ sĩ gạo cội Nguyễn Bảo Toàn

đã khẳng định quyền lực vượt trội của hình thức thể hiện mới. Khẳng định sức

chuyển tải nghệ thuật thông qua hình thức biểu tượng dưới bàn tay dàn dựng của

nghệ sĩ đóng vai trò của kiến trúc sư thông tin. Sức mạnh của gốm không còn chỉ

dựa vào yếu tố chất liệu mà còn du nhập cả quan niệm mới về không gian và cấu

118

trúc hoành tráng. Năm 1996 Nguyễn Minh Thành, một họa sĩ rất thành công với

hàng loạt tác phẩm chất liệu và chủ đề dân đã có hẳn một triển lãm mang tên Sắp

đặt (Instalation). Khác với vẻ tĩnh lặng của sắp đặt, Trần Lương trình diễn tác phẩm

“Người cơm” ở mỏ than Mạo Khê năm 2001 cho thấy con đường phát triển nghệ

thuật của anh luôn song hành cùng những quan điểm rõ ràng về nhận thức. Anh

luôn ưu tiên những vật liệu của quần chúng, của địa phương. Bản thân vật liệu đã

mang trong nó ký ức của cả cộng đồng, là những gì thân quen gần gũi trong cảm

thức của người Việt. Tác phẩm trình diễn “Trang điểm” của Lại Thi Diệu Hà thể

hiện sâu sắc yếu tố tham dự tương tác khai mở như một hiện tượng luận trong cách

nhìn về nghệ thuật đương đại.

Trong triển lãm Festival mỹ thuật trẻ toàn quốc 2011 đã có giải cao nhất

dành cho tác phẩm video sắp đặt “Trái đất xanh” của tác giả trẻ Lê Trần Hậu Anh.

Thông điệp mà tác phẩm đưa ra như một tuyên ngôn về xã hội và môi trường. Năm

2013, bảo tàng Guggenheim tại New York đã chính thức mua một tác phẩm nghệ

thuật video art của một họa sĩ Việt Nam phần nào khẳng định vai trò của nghệ thuật

đương đại trong sự chuyển biến về nhận thức TMTT của môi trường mỹ thuật Việt

Nam.

Những nghệ sĩ làm nghệ thuật đương đại Việt Nam có học hỏi được gì từ

tuyên ngôn và các luận giải của lý thuyết TMTT hay không, điều này còn chưa

được khẳng định, nhưng chắc chắn họ nắm vững các quan điểm cơ bản của TMTT

với một tri thức cao và cảm nhận thực tiễn đầy tự tin và một tinh thần trách nhiệm

đối với xã hội. Nghệ sĩ không xu thời và cũng không phá phách, họ lao động bằng

nhiệt huyết và cảm nhận sâu sắc về một sự thay đổi, một lối ứng xử mới với nghệ

thuật và xã hội. Trong sự khủng hoảng về nhận thức thẩm mỹ trong giai đoạn hậu

công nghiệp và đặc biệt ở Việt Nam, các nghệ sĩ đã làm việc với những tuyên ngôn

nghệ thuật phá bỏ bức tường bảo tàng trong lòng họ. Trong các tác phẩm sắp đặt,

trình diễn, video art, yếu tố nội tâm và thiền được thể hiện thông qua sự hành xác,

sự chịu đựng. Các thông điệp được kết cấu xây dựng theo hướng gợi mở chứ không

áp đặt dưới bàn tay biên tập của nghệ sĩ đồng thời là kiến trúc sư thông tin. Sức biểu

119

cảm luôn có phần thuộc về nội giới và ngoại giới. Đôi khi sức biểu hiện gần với sự

vô nghĩa của khoảng trống, của sự liên tưởng đến vũ trụ và sự vô ngôn.

Dưới góc độ mỹ thuật ứng dụng, các thiết kế mỹ thuật đa phương tiện là

không thể thiếu các phương pháp thể hiện của TMTT. Riêng với ngành thiết kế đồ

hoạ, TMTT có những biểu hiện không trực tiếp và nổi bật như các loại hình nghệ

thuật mới nhưng tư tưởng của TMTT đã len lỏi trong từng tác phẩm, sản phẩm và đi

vào chiều sâu quan điểm thiết kế mà điển hình là nghệ thuật thiết kế tạp chí

Heritage. Các nghệ sĩ nghệ thuật đương đại Việt Nam đã dần khẳng định tính đúng

đắn của con đường họ đã chọn trong tiến trình phát triển của nghệ thuật toàn cầu với

cơ sở lý luận chặt chẽ và khoa học. Trong thời đại của thông tin và truyền thông kỹ

thuật số, nghệ thuật đã hòa nhập với công nghệ phá bỏ bức tường ngăn cách để đi

thẳng vào cuộc sống, tương tác và cùng sáng tạo với quần chúng và xã hội. Thẩm

mỹ truyền thông đã xác lập được các yếu tố thẩm mỹ mới phù hợp với xã hội đương

đại. Giải quyết được các mối liên hệ giữa nghệ thuật con người và xã hội, chấm dứt

thời kỳ khủng hoảng của nhận thức đối với các vấn đề mới của nghệ thuật.

4.2. Xu hướng thiết kế tạp chí trong thời đại công nghệ truyền thông kỹ

thuật số

4.2.1. Xu hướng thiết kế tạp chí in

Cuối thế kỷ thứ 20 nghệ thuật thị giác đã có những bước phát triển mạnh mẽ

với nhiều ứng dụng của công nghệ. Các hiệu quả của công nghệ thông tin, truyền

thông, kỹ thuật số được đưa vào nghệ thuật thị giác ban đầu là tư liệu, công cụ cũng

như các kỹ năng thao tác và dần biến đổi cả hình thức của nghệ thuật. Trong sự ảnh

hưởng đó, mỹ thuật ứng dụng được hưởng lợi lớn từ những phát triển của khoa học

công nghệ. Đặc biệt sự ra đời của những chiếc máy tính cá nhân vào thập niên 80 và

sự phát triển chóng mặt của công nghệ phần mềm đã thay đổi hẳn tư duy của các

nhà thiết kế mỹ thuật. Lẽ dĩ nhiên mỹ thuật ứng dụng ra đời trước máy tính từ rất

lâu, nhưng nhờ có sự hỗ trợ của công nghệ máy tính thì loại hình nghệ thuật này đã

phát huy năng lực mạnh mẽ đóng vai trò lớn trong phát triển kinh tế xã hội. Nói

riêng về nghệ thuật thiết kế dàn trang (TKDT) ấn phẩm tạp chí (TC), nếu như trước

120

đây người thiết kế phác thảo giả định trên mặt giấy rồi đưa sang bộ phận kỹ thuật

thực hiện trên máy để sản xuất thi công thì ngày nay họ làm trực tiếp trên máy tính

và tất cả được hiển thị trên màn hình gần như thật. Với ứng dụng này thì quyền chủ

động đã hoàn toàn thuộc về người thiết kế, cùng với sự hỗ trợ từ những công nghệ

nhiếp ảnh, in ấn, gia công, xuất bản, nghệ thuật TKDT ấn phẩm TC đã có sự thay

đổi về chất, sự chuyển biến về thẩm mỹ phù hợp với xã hội thông tin ngày nay.

Xuất bản từ lâu đã là một ngành, một lĩnh vực quan trọng trong đời sống văn

hóa, kinh tế xã hội của bất kỳ một quốc gia nào. Các xuất bản phẩm vừa là một sản

phẩm văn hóa, vừa là một sản phẩm thương mại, chúng đóng vai trò lớn trong đời

sống văn hóa, tinh thần của con người. Nhu cầu về thông tin, kiến thức, văn hoá đối

với con người là thứ không thể thiếu trong cuộc sống. Đặc biệt các ấn phẩm như

sách, báo, tạp chí ngày càng phong phú, đa dạng. Trong phát triển của xã hội, sự

giao lưu và tiếp cận với các ấn phẩm của nước ngoài, sự tiến bộ trong tư duy sáng

tạo và tay nghề của các nhà thiết kế đã và đang thay đổi diện mạo của TC trong

nước, làm cho chúng ngày càng hấp dẫn hơn, mang tính thẩm mỹ cao hơn. Định

hướng mục tiêu của TKDT ấn phẩm TC luôn hướng tới người đọc, việc sử dụng

ngôn ngữ đồ họa thị giác đã đem đến những giải pháp mới trình bày nội dung bài

viết, tăng hiệu quả thẩm mỹ trong TKDT.

Những năm gần đây, xu hướng thiết kế đồ họa nói chung đang hướng đến sự

tươi mới của màu sắc. Các màu sắc tươi sáng, nổi bật đã được rất nhiều thương hiệu

sử dụng trong truyền thông hiện đại và cũng rất nhiều TC sử dụng xu hướng màu

sắc này. Những màu sắc có độ rực, mạnh hay những hòa sắc tương phản đã tạo

điểm nhấn hiệu quả. Chúng được thể hiện trong những mảng màu đơn sắc dứt

khoát, hoặc những mảng màu chuyển đa sắc, rực rỡ, thậm chí táo bạo. Đó cũng là

xu thế đồ họa của thời đại.

Ở một góc độ khác, một số thiết kế lại tìm cảm hứng từ quá khứ và có phần

hoài cổ. Những phông chữ và cách trình bày theo lối viết tay của thập niên 80-90

trở về trước; những gam màu theo cách cổ điển hoặc mô phỏng màu thời gian như

vừa kéo quá khứ về với hiện tại nhưng lại tạo nên ấn tượng trong việc làm mới

121

những giá trị cũ. Đâu đó lại sử dụng cách chơi nghệ thuật chữ (typograpy) đa hướng

có cảm giác rối loạn hay nhiều hình khối kỷ hà tạo điểm nhấn thị giác. Tất cả điều

đó góp phần làm cho TKDT trở nên muôn hình muôn vẻ.

Bìa TC được xem là điểm lôi cuốn độc giả. Những hình ảnh đẹp nhất, nội

dung và thông điệp nóng nhất của hình ảnh và của nội dung thường được điểm tin

trên trang bìa như một cửa sổ hé mở về nội dung bên trong. Xu hướng thiết kế TC

ngày nay sử dụng bìa như một công cụ điều hướng và là sứ giả thương hiệu. Nhiều

thiết kế cân nhắc đến việc đưa nghệ thuật thể hiện rộng hơn vào thiết kế bìa, những

kỹ thuật và cách thể hiện mà trước nay vốn chỉ áp dụng đối với các sản phẩm đồ

họa khác. Chúng tạo nên bản sắc thương hiệu và tạo nên phong cách riêng rõ ràng

hơn. Từ đó, chúng đem đến sự nhận thức về truyền thông tuyệt vời mà các trang bìa

có thể làm được khi phát triển hình thức này. Xu hướng này cho thấy sự đa dạng

hơn trong thiết kế bìa, thậm chí nhấn mạnh vào việc sử dụng kiểu chữ hoặc tạo

điểm nhấn vào màu sắc thay vì dùng hình ảnh đơn giản.

Nếu như trước đây, việc thiết kế sử dụng nguyên liệu hình ảnh chụp trong

minh họa và chỉ tác động kỹ thuật số trong chỉnh sửa màu sắc, ánh sáng, độ sắc nét,

lọc hình hay loại bỏ các tạp hình v.v. thì xu thế đồ họa ảnh đã được phát triển mạnh

mẽ. Hình ảnh được đồ họa hóa, kết hợp với yếu tố đồ họa như mảng hình, chữ.

Thay vì hình ảnh giữ nguyên màu sắc để thể hiện độ trung thực của chi tiết, sự kiện

thì chúng được đồ họa hoá để vừa mang âm hưởng của chất ảnh chụp, đồng thời kết

hợp với yếu tố đồ họa trở thành ảnh “thông minh”. Màu sắc được đơn giản, thậm

chí giảm tối đa chi tiết và đa dạng của màu chụp. Những gam màu tối giản, chẳng

hạn sử dụng hai tông màu trở nên phổ biến. Ở một dạng khác, hình minh họa có thể

sử dụng những mảng hình hình học, hay những mảng cắt được sắp đặt với nhau, kết

hợp với sắc độ sáng tối của màu để tạo nên hiệu quả của khối và ánh sáng. Chúng

tạo nên không gian 3D không phải từ những khối hình 3D mà từ chính những mảng

màu 2D. Ảnh chụp sẽ trở nên mạnh bạo với những ý tưởng mạnh mẽ hơn. Các hình

vẽ minh họa cũng được kết hợp với hình ảnh chụp để tạo nên hiệu quả mới, lạ làm

hấp dẫn thị giác người xem. Xu hướng tạo nên hình minh họa một cách thủ công rồi

122

sử dụng hình này cũng đang dần trở nên phổ biến. Trước đây, người họa sỹ chủ yếu

minh họa bằng lối vẽ hội họa hay đồ họa truyền thống. Cho đến khi nhiếp ảnh nở rộ

thì hình ảnh chụp được sử dụng rộng rãi trong tạp chí.

Những năm gần đây cũng cho thấy sự xuất hiện của đồ họa thông tin

(inforgraphy). Xu hướng này cũng đang dần được áp dụng trong thiết kế TC. Đồ

họa thông tin cho phép thể hiện thông tin tóm tắt nhưng bao quát toàn bộ trong một

cấu trúc thông tin được đồ họa hóa. Để tăng hiệu quả TMTT, các nhà thiết kế đồ

họa trực quan hóa các dữ liệu biên tập phức tạp và nội dung dài thành bài báo minh

họa hấp dẫn. Các kiểu chữ và những nguyên tắc cơ bản của hệ thống lưới được thiết

kế để thể hiện một cấu trúc logic. Nếu thông tin không có một cấu trúc logic mà chỉ

để đẹp về hình thức thì nội dung bài viết không còn ý nghĩa, thậm chí nó còn dẫn

đến sự sai lệch trong truyền thông. Do vậy, đồ họa thông tin vừa đảm bảo tính logic

của nội dung, đồng thời đem đến cho người đọc một sự dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ,

thậm chí đọc nhanh, hiểu nhanh và nhớ nhanh. Bên cạnh đó, chúng còn đem đến cái

đẹp về thẩm mỹ.

Chất cảm từ ấn phẩm TC truyền thống ẩn chứa sự khéo léo của bản in mà

khiến nó trở thành một công cụ tiếp thị mạnh mẽ mà những sản phẩm công nghệ kỹ

thuật số không thể cạnh tranh được. Các nhà thiết kế phát triển sự khác biệt của mỗi

thể loại để luôn duy trì một sản phẩm của văn hóa, của thương mại. Chất liệu của

vật liệu in và hoàn thiện sản phẩm cũng được cân nhắc. Những vật liệu giấy mỏng,

nhẹ, dai, chất lượng in cho màu tốt sẽ vẫn khiến cho người xem cảm thấy hứng thú

bởi cái chất cảm một phần được biểu hiện từ đó. Một số chất liệu giấy với bề mặt

không tráng hoặc mờ cũng là xu thế mà nhiều tạp chí lựa chọn. Các loại giấy tái

chế, giấy bạc; những kỹ thuật dập nổi, dập lõm hay trổ thủng, thậm chí tạo các

mảng ghép sẽ tăng thêm độ hấp dẫn và thu hút thị giác trong thiết kế.

Một điều đáng chú ý khác là các tạp chí sẽ đa dạng hóa và phát triển các

nhánh dựa trên thành công của chúng. Giống như các tòa soạn sản xuất TC tuần, các

tạp chí chuyên dụng cũng sẽ được cân nhắc để phát triển. Xu hướng tạp chí có thể

kết hợp với những thể loại ấn phẩm xuất bản khác, chẳng hạn như “mook” (một

123

dạng tạp chí kết hợp với cuốn sách), “maguide” (một dạng tạp chí kết hợp với sách

hướng dẫn), và có thể là “magmanac” (một dạng tạp chí kết hợp với niên giám). Và

như vậy, xu hướng thiết kế sẽ còn có sự thay đổi nhiều hơn nữa trong tương lai.

4.2.2. Xu hướng thiết kế tạp chí điện tử

Sự phát triển của công nghệ truyền thông kỹ thuật số đã mở rộng liên kết

thiết kế đồ họa với nhiều lĩnh vực mới. Các thiết bị điện tử đã trở thành một sản

phẩm, một đồ vật yêu thích và thiết yếu của con người. Tính năng được tích hợp

trong các thiết bị điện tử làm cho con người có cơ hội tiếp cận và mở rộng giao tiếp

thông tin, kiến thức của mình. Các thiết bị thông minh xuất hiện trong đời sống con

người dường như là xu thế tất yếu của thời đại, đáp ứng mọi nhu cầu thông tin giải

trí của chúng ta. Ưu thế về tiện ích và tính cập nhật là không thể phủ nhận. Thiết kế

đồ họa nói chung và TKDT ấn phẩm TC nói riêng phải cập nhật, chuyển đổi để đáp

ứng nhu cầu của xã hội.

Xuất bản điện tử được ra đời tại Mỹ, bắt đầu từ dự án cung cấp sách điện tử

miễn phí Gutenberg do Micheal Hart thành lập năm 1971. Tuy nhiên, phải đến

những năm gần đây khi các thiết bị kỹ thuật số cá nhân như điện thoại thông minh,

máy tính bảng v.v. phát triển và phổ biến thì xuất bản điện tử mới thực sự tạo dấu

ấn và có đà phát triển mạnh mẽ. Con người của xã hội hiện đại luôn có niềm đam

mê với công nghệ. Chính cuộc sống bận rộn và điều kiện là việc thay đổi khiến con

người có xu hướng gắn bó với các thiết bị điện tử nhiều hơn, đây chính là lý do cơ

bản tạo ra xu hướng mới của ngành xuất bản nói chung và báo chí nói riêng.

Xu thế chuyển đổi từ báo in sang báo điện tử là một thực tế tất yếu. Hiện

nay, một số tờ báo nổi tiếng trên thế giới cũng không thể giữ mãi phương thức phát

hành và thiết kế sản phẩm của mình theo lối truyền thống. Chúng buộc phải thay đổi

để tồn tại và tìm cách lấy lại vị thế của mình tìm hướng phát triển cho truyền thông.

Điển hình như tờ báo lâu đời và uy tín nhất London (Anh), tờ Lloyd’s List ra đời

năm 1734, một tờ báo chuyên cung cấp các thông tin về lĩnh vực hàng hải, đã quyết

định dừng phát hành báo giấy vào tháng 12 năm 2013 do nguồn thu từ các ấn bản in

đã sụt giảm trầm trọng và lượng phát hành cũng ngày càng giảm do người đọc thấy

124

không còn cảm thấy tiện lợi với việc tìm kiếm thông tin trên các báo in và sự thua

kém về tính cập nhật của nó. Một trong những tờ báo hàng đầu của nước Mỹ, thời

báo The New York Times ra đời năm 1851 cũng đang phải chịu sự ảnh hưởng mạnh

mẽ từ các sản phẩm của công nghệ kỹ thuật số. Chủ tịch hội đồng quản trị công ty

đã phát biểu: “Vào một thời điểm nào đó trong tương lai, The New York Times sẽ

ngừng phát hành báo giấy”.

Trong khi đó ở Việt Nam, TC e-Chíp là một trong những tạp chí công nghệ

thông tin thành công nhất cũng đã gặp nhiều khó khăn và kém cạnh tranh so với

báo, TC điện tử. Họ buộc phải ngưng phát hành phiên bản báo in sau 10 năm xuất

bản. Thông tấn xã Việt Nam cũng đang bắt đầu chuyển đổi một số bài báo từ hình

thức báo giấy, báo điện tử sang dạng báo điện tử được trình bày giống cách thức của

thiết kế in ấn. Một số TC khác như F.Thời trang, Forbes v.v. cũng đã và đang phát

hành phiên bản TC điện tử.

Ngày nay, khi đồ họa đa phương tiện đã xâm nhập vào nhiều lĩnh vực trong

sự hỗ trợ của kỷ nguyên công nghệ kỹ thuật số, TC điện tử đã tích hợp được tính đa

phương tiện trong việc thiết kế cũng như truyền đạt thông tin tới độc giả. Nếu như

trước đây với các các sản phẩm TC in, nội dung và hình ảnh chỉ xuất hiện “bất

động” trên các trang giấy thì ngày nay, tính động của các TC điện tử đã làm cho

chúng thay đổi diện mạo, tiếp cận được với số lượng độc giả nhiều hơn và làm cho

người đọc thấy hứng thú, thu nhận được nhiều thông tin hơn.

Một bài báo trên TC điện tử không chỉ bao gồm nội dung và hình ảnh như

TC in mà còn tích hợp cả âm thanh, các thước phim, những hình ảnh động. Sự

phong phú và đa dạng của âm thanh và các thể loại phim đã trở thành phần tất yếu

trong cuộc sống của chúng ta. TC điện tử không chỉ cung cấp thông tin tới độc giả

mà còn giúp họ thưởng thức một bản nhạc, xem một đoạn phim v.v. Chúng làm cho

người đọc tiếp cận được bài viết ở dưới nhiều dạng thức khác nhau. Thêm vào đó,

các hiệu ứng chuyển động mà đồ họa đa phương tiện tạo ra tăng thêm phần sinh

động cho cách biểu hiện nghệ thuật của tạp chí điện tử. Thêm vào đó, tính năng cảm

ứng trên các thiết bị điện tử ngày nay cũng tạo nguồn cảm hứng và thay đổi biểu

125

hiện đồ họa của TMTT trong thiết kế TC. Các thiết bị điện tử kỹ thuật số luôn đặt

mục tiêu hướng tới sự trải nghiệm, hành vi của người sử dụng. Do đó sự biểu hiện

thẩm mỹ khác biệt và đặc trưng trên các thiết bị này chiếm ưu thế hơn ấn phẩm TC.

Tính năng cảm ứng nâng cao sự tương tác giữa độc giả với TC. Thay vì thị

giác chỉ tiếp nhận thông tin từ những hình ảnh và nội dung hoàn toàn tĩnh trên ấn

phẩm TC, thì sự tương tác với độc giả tạo ra những trải nghiệm tác động cảm xúc.

Khi TC được hiển thị trên thiết bị điện tử thì thiết kế quan tâm đến hai yếu tố đó là

User Interface (UI) và User Experience (UX). Trong đó, UI được hiểu là việc thiết

kế giao diện cho người sử dụng, UX được hiểu là trải nghiệm của người dùng.

Trong phạm vi TKDT tạp chí, UI được hiểu chính là phần TKDT để hiển thị về mặt

đồ họa cho TC đó; UX là cảm xúc từ việc trải nghiệm thông qua cách thức mà dàn

trang, thiết kế tạo ra. Thiết kế UX quan tâm đến việc người sử dụng cảm nhận và

phản ứng với phần thiết kế, dàn trang đó. Ở điểm này, TC điện tử đã tích hợp yếu tố

công nghệ để xử lý kỹ thuật về mặt thẩm mỹ.

Sự tương tác của người đọc với cách thức thiết kế, dàn trang chính là một

loại cảm xúc. TC điện tử không chỉ đem đến một sản phẩm tiện dụng, đa năng mà

nó còn đẩy cảm xúc của người dùng lên một nấc thang mới theo hướng tích cực.

Điều đó tác động đến tư duy của độc giả ở các cấp độ bản năng, hành vi và phản

ứng. Nếu như trước đây, thẩm mỹ trong thiết kế TC chỉ được xem là cảm xúc từ yếu

tố đồ họa thị giác trên mặt phẳng thiết kế tĩnh thì xu thế ngày nay, thẩm mỹ của sản

phẩm được xem xét lại, được bổ sung thêm cách thức của đồ họa động, tính năng

tiện dụng trong việc vận hành một TC xuất bản điện tử. Tính năng tiện dụng trong

ứng dụng từng được xem là yếu tố kỹ thuật chứ không phải thẩm mỹ, nhưng thực

chất nó lại chính là một phần của thẩm mỹ. TMTT không chỉ dừng lại ở việc xem

xét ở màu sắc, hình khối, bố cục v.v. mà còn bao gồm cả hiệu quả đó tác động đến

bản năng, hành vi và phản ứng của người sử dụng. Xét cho cùng, mọi sự thay đổi

trong thiết kế cũng là để hướng đến đối tượng mục tiêu con người.

Thông tin của các bài viết cũng được chuyên sâu hơn. Như trên đã đề cập,

âm thanh cũng như phim ảnh đã từ lâu là một món ăn tinh thần không thể thiếu

126

trong cuộc sống. Một bài báo khi được tích hợp thêm một bản nhạc hay một đoạn

phim sẽ làm cho thông tin đó được chuyên sâu hơn. Chẳng hạn, một bài viết giới

thiệu bài hát mới, một ca sỹ, một người nghệ sỹ v.v. hay đăng những bản tin có tính

chất thời sự, một sự kiện nào đó, tính năng đa phương tiện được tích hợp làm cho

người đọc có được sự minh họa nội dung đầy đủ nhất. Người xem sẽ dễ dàng đọc

nội dung cũng như thưởng thức một ca khúc, một đoạn phim giới thiệu về người

nghệ sỹ đó v.v. hay có thể theo dõi tin tức, sự kiện về chính trị, kinh doanh v.v. với

đoạn phim thời sự. Người đọc có thể tự điều khiển và đọc thông tin theo sự dẫn

hướng của cách dàn trang. Chúng ta có thể sự bật hoặc tắt để nghe một bản nhạc

hay xem một đoạn phim. Điều đó thực sự làm cho cách truyền thông hoàn thiện

hơn, đồng thời người xem tiếp cận thẩm mỹ theo cách hoàn toàn mới của xu thế

thời hiện đại.

Mỗi bài viết trên TC in có thể lên đến vài nghìn từ nhưng khi đưa vào bản tin

trên web, bài viết thường được rút ngắn do đặc thù mang tính phù hợp với môi

trường đa phương tiện. Tuy nhiên, trên xuất bản phẩm TC điện tử, các bài báo vẫn

có thể giữ nguyên được số lượng từ và hình ảnh. Việc bố trí bài thành các phân

đoạn với các tiêu đề phụ, tạo nhiều lớp thông tin sẽ làm cho bài viết trở nên mạch

lạc, dễ đọc. Nhờ việc xử lý kỹ thuật trong việc ngắt trang nhưng lại khéo léo dẫn

hướng độc giả, đồng thời kết hợp với đồ họa đa phương tiện nên người đọc không

những không thấy bị nhàm chán mà còn khiến họ tò mò, tìm hiểu và khai thác thông

tin triệt để hơn.

Với khả năng phóng to thu nhỏ tiện lợi, người đọc hoàn toàn chủ động điều

chỉnh để có thể đọc được nội dung và xem hình ảnh dễ dàng. Đó cũng là điểm khác

biệt mà TC in không thể giải quyết được. Cỡ chữ trong việc thiết kế và dàn trang

được linh hoạt. Do đó, chúng hoàn toàn đảm bảo khả năng dễ đọc của bài viết. Các

kiểu chữ không chân hay có chân đều được sử dụng phong phú, đa dạng trong thiết

kế TC điện tử.

Khi một TC được tích hợp đa phương tiện thì chính bản thân giá trị thẩm mỹ

của nó được nâng lên cấp độ khác. Bản thân mỗi âm thanh, video hay đồ họa và đồ

127

họa động là chất liệu điển hình của TMTT. Mỗi chất liệu này lại có tính thẩm mỹ

độc lập tương đối. Chúng có thể đứng riêng thành từng tác phẩm hay từng dạng thể

loại mang tính TMTT, nhưng khi được tích hợp với nhau, chúng tạo thành một tác

phẩm TC hoàn thiện ở cấp độ cao mà ở đó, mỗi yếu tố đều hoàn chỉnh về nội dung

lẫn hình thức. Từ đó, chúng tương tác lẫn nhau, bổ sung và hỗ trợ nhau để cùng làm

nổi bật chủ đề của bài viết. Với khả năng đó, TC xuất bản điện tử đem đến cho độc

giả một bức tranh toàn cảnh: TMTT trong thiết kế dàn trang định vị cấu trúc và

truyền tải thông điệp tạp chí, TMTT trong âm thanh, trong nghệ thuật phim ảnh,

TMTT trong đồ họa động có sự kết hợp của công nghệ và sự tích hợp của những giá

trị với khả năng cung cấp thông tin tối ưu. Độc giả sẽ không mất nhiều thời gian để

tìm kiếm những thông tin riêng biệt mà chúng được bố cục, biểu đạt trong một dạng

TC điện tử súc tích, thiết kế đa dạng và ấn tượng.

Tuy nhiên, xuất bản phẩm kỹ thuật số hay ấn phẩm đều có những đặc tính

nổi bật riêng của mình. Do vậy, có lẽ TC in sẽ không hoàn toàn bị “biến mất” nếu

các nhà phát hành, các tòa soạn khai thác những điểm mạnh của văn hoá đọc và

những yếu tố đặc thù để tăng sức hấp dẫn của sản phẩm. Nếu các xuất bản TC điện

tử mạnh ở phần ứng dụng công nghệ, tích hợp đa phương tiện hay các hiệu ứng số

được thiết kế để hiển thị trên sản phẩm thì những ấn bản TC vẫn tạo được sự thích

thú khi người xem được trực tiếp cầm sản phẩm và cảm nhận chúng không chỉ bằng

thị giác mà cảm giác khi tiếp xúc với vật liệu hay chính sự hứng thú khi vận hành.

Mặc dù những xuất bản điện tử với nhiều tính năng tiện dụng và sự biểu đạt

hiện đại của công nghệ số nhưng vẫn còn những độc giả tìm đến với dạng TC in

truyền thống bởi cái chất cảm của kiểu thiết kế truyền thống. Tuy sự phát triển của

công nghệ ngày càng mạnh, một số xuất bản phẩm ở dạng in sẽ không bị mất đi mà

được cập nhật xu thế thiết kế mới, một số xu hướng được lấy cảm hứng từ TMTT.

Cũng phải nhìn nhận rằng, mỗi một lĩnh vực đồ họa đều có những đặc trưng riêng

của mình. TC có đặc trưng đồ họa riêng. Cho dù TC ở dạng xuất bản phẩm điện tử

thì cái gốc của việc đưa đến một diện mạo thẩm mỹ hấp dẫn vẫn nằm ở những yếu

tố và nguyên tắc thiết kế nền tảng mà được xuất phát điểm từ TKDT dạng ấn phẩm.

128

Sự phát triển của công nghệ dường như không ảnh hưởng trực tiếp đến xu

hướng thẩm mỹ nhưng sự tiến bộ của công nghệ sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến những

biểu hiện nghệ thuật thị giác mà chúng ta mong đợi. Những cải tiến liên tục, kết hợp

với công nghệ hiện đại đã và đang phát triển thành một xu hướng thiết kế mới,

tương tác và thú vị hơn. Chúng làm mới thiết kế để đẩy lùi những yếu tố nhàm chán

thông thường.

Về bản chất, các xu hướng thiết kế TC đã làm cho chúng trở nên tốt hơn, đa

dạng và phong phú. Chúng tạo thành những sản phẩm giao tiếp trực quan với sự hấp

dẫn thị giác, dẫn mắt và điều hướng người đọc, khiến người đọc không chỉ hứng thú

với đồ họa thị giác và còn tăng cường khả năng nhận thức của họ.

4.3. Bài học kinh nghiệm thẩm mỹ truyền thông trong sáng tạo của các

nhà thiết kế ở Việt Nam

Giữa nhận thức của chúng ta như những người tham gia trong xã hội đương

đại và cách diễn ngôn các vấn đề hiện hữu của xã hội này vào nghệ thuật đã tạo ra

một khoảng trống tạo tiền đề cơ sở cho các nhà nghiên cứu hình thành một hình

thức mới của thẩm mỹ, định danh là thẩm mỹ truyền thông (TMTT). Ngay cả khi

chúng ta chưa hoàn toàn nhận thức được nó, tính thẩm mỹ đương đại vẫn là một

thẩm mỹ được sinh ra từ nhận thức truyền thông. Đây là một vấn đề mà chúng ta

phải nỗ lực nhìn nhận, thế giới của chúng ta luôn chuyển động theo hướng toàn cầu

hóa và chúng ta có cơ hội để nhìn xuyên thiên niên kỷ của tiếp biến văn hóa. Một

thẩm mỹ trong một truyền thống triết học huy hoàng là không còn đủ để chúng ta

hiểu được những cảm nhận ngày nay.

4.3.1. Trong sáng tạo thiết kế đồ hoạ

Nghệ thuật thiết kế dàn trang (TKDT) nói riêng hay thiết kế đồ họa nói

chung đều thuộc lĩnh vực nghệ thuật thị giác, nghệ thuật đã sản sinh ra TMTT, thẩm

mỹ mới trong bối cảnh đương đại. Làm rõ các đặc điểm của tính thẩm mỹ đương

đại trong TKDT là một yêu cầu cấp thiết hiện nay ở Việt Nam, khi làm việc với

chuyên ngành này chủ yếu các vấn đề được đưa ra đều mang tính thực hành kỹ

năng. Ngày nay thiết kế đồ họa đã có bước chuyển mình mạnh mẽ, người ta nói

129

nhiều đến thiết kế truyền thông hay thiết kế mỹ thuật đa phương tiện. Có nhiều biện

giải khác nhau về thiết kế truyền thông có phải là thiết kế đồ họa phát triển dưới sự

tác động của khoa học công nghệ hay là một loại hình hoàn toàn mới. Cũng giống

như thuật ngữ nghệ thuật thị giác đang dần thay thế thuật ngữ mỹ thuật do mỹ thuật

không bao hàm hết các thể loại mới ra đời, thiết kế đồ họa đã chuyển đổi thành nghệ

thuật thiết kế truyền thông hay thiết kế mỹ thuật đa phương tiện và lẽ dĩ nhiên

chúng đều có chung cơ sở về tạo hình.

Trong những năm qua, một bối cảnh mới đã được tạo ra nhờ sự phát triển

của những ý tưởng thiết kế đầy mạo hiểm, những đột biến về công nghệ tin học và

ấn loát, tác động của những trào lưu tôn giáo và tư tưởng trỗi dậy, niềm đam mê văn

hóa mang tính thần bí của phương Đông và sự quan tâm ngày càng tăng về hệ sinh

thái. Khi đã có một xã hội công nghiệp đầy trải nghiệm và một xã hội tiêu dùng,

chúng ta đang dần dần đi đến một xã hội truyền thông đầy hứa hẹn theo cách riêng,

một xã hội đang tìm kiếm một giá trị mới. Những giá trị này đã biến đổi nghệ thuật

thiết kế đồ hoạ về căn bản thể hiện qua nhận thức và phương pháp tiến hành.

Thiết kế đồ hoạ có sự chuyển biến mạnh mẽ về thẩm mỹ, hướng tới thẩm mỹ

chung với sự tác động của nhận thức TMTT của nghệ thuật đương đại. Những quan

điểm của TMTT là hiện hữu và ngày càng phát triển trong thực tiễn chuyển biến của

thiết kế đồ hoạ trong đó có TKDT. Thẩm mỹ truyền thông khẳng định vị thế của

mình trong thiết kế đồ hoạ, thiết kế truyền thông, thiết kế mỹ thuật đa phương tiện

mà không hề chịu tác động của thị trường hay hệ thống quản lý hành chính. Thẩm

mỹ mới không phải là những kiến giải thiếu cơ sở khoa học hay những nhận định

thoáng qua mang tính tâm lý trong thực hành nghệ thuật.

Xã hội đương đại của thông tin, truyền thông, công nghệ số, trí tuệ nhân tạo

đã hình thành những chuỗi liên kết trong một hệ thống không đồng nhất, với khái

niệm điển hình của sự tương tác, tất cả những điều đó đã dẫn chúng ta đến một lược

đồ tư duy khác trước. Thẩm mỹ truyền thông đến một cách tự nhiên theo xu thế của

thời đại. Với những nghiên cứu từ những nguyên tắc của nghệ thuật mang tính xã

hội học, giờ đây TMTT đã xuất hiện trong nghệ thuật thiết kế đồ hoạ như môt sự

130

mở rộng tự nhiên và hợp lý của những thẩm mỹ nghệ thuật đã tồn tại trong xã hội

của chúng ta, bằng cách đẩy những nguyên tắc này đi xa hơn [108].

4.3.2. Trong sáng tạo thiết kế tạp chí

Gần đây đã có nhiều tranh luận về xu hướng văn hóa đọc chuyển dần sang

văn hóa xem đối với tạp chí, điều này cũng không phải là vô lý bởi chỉ bằng một

hình đồ họa (inforgraphy) cũng có thể thay thế một văn bản dài, một bức ảnh báo

chí xúc động có thể diễn đạt được rất nhiều vấn đề, một lối trình bày ấn tượng có

thể khiến độc giả nắm bắt ngay được thông điệp của bài báo. Để TKDT ấn phẩm

TC, phòng thiết kế phải kết hợp chặt chẽ với ban biên tập nghiên cứu tìm tòi thể

hiện nội dung bài báo theo các tiêu chí truyền thông.

4.3.2.1. Thiết kế trang bìa tạp chí

Tạp chí là một nguồn thông tin, giải trí, nghiên cứu chuyên sâu và uy tín. Dù

cho có rất nhiều loại TC như chính trị xã hội, kinh tế, khoa học, nghệ thuật, sức

khỏe, thể thao, công nghệ… nhưng chỉ thông qua bìa của TC là có thể dễ dàng nhận

ra nét đặc trưng riêng của chúng. Bìa TC có thể ở dạng ảnh chân dung, hình minh

họa, ứng dụng nghệ thuật chữ, nghệ thuật ý niệm hay bất cứ một phong cách thể

hiện nào đều cần phải có tiềm lực nội dung sâu sắc và khả năng sáng tạo lớn. Chỉ có

vậy mới khiến cho độc giả xác định TC mình yêu thích và tạo động lực cho họ đến

với TC. Cũng không quá khi giới phát hành nói rằng trang bìa chiếm tới ba mươi

phần trăm sức mạnh của TC. Chẳng những vậy mà những TC thời trang lớn như

Elle hay Fashion, tổng biên tập chỉ quyết định số lượng in báo chính thức sau khi đã

duyệt thiết kế trang bìa. Xét theo quan điểm nhận thức của TMTT thì trang bìa thể

hiện tuyên ngôn tư tưởng của TC và nhận diện thông điệp của từng số phát hành.

Chính vì vậy việc tạo lập và giữ vững phong cách trang bìa có ý nghĩa sống còn đối

với TC. Ngoài sự hấp dẫn thị giác, trang bìa phải khẳng định tính chất của TC đồng

thời đưa ra tín hiệu mạnh của thông điệp.

Vị trí đặt tên TC (hay logo TC) là một điều vô cùng quan trọng. Từ thưở sơ

khai, tên TC được trình bày hoàn toàn không như ta hình dung về TC ngày nay.

Nhưng sang đầu thế kỷ 19 thì vị trí đặt tên TC đã hình thành khá đầy đủ giống như

131

bây giờ là nằm phía trên cùng trang bìa. Cũng chỉ vài chục năm gần đây, tên TC

thường được đặt ở góc trên bên trái gống như chiếc “nhãn vở học sinh” vậy. Điều

này thực ra là có nguyên do rất thực tế của nó. Các sạp báo ở Anh và một số nước

châu Âu thì TC được xếp theo chiều ngang chồng lên nhau, có nghĩa là mỗi TC chỉ

hở ra một phần ba phía bên trái của mình. Điều này đồng nghĩa với việc phần bên

trái là rất quan trọng cho việc trình bày. Trong khi đó ở Bắc Mỹ, các sạp báo thường

trưng bày theo chiều dọc có nghĩa là các TC hàng sau được xếp cao hơn hàng phía

trước. Vì vậy một phần năm phía trên của trang bìa luôn là điểm ưu tiên dành cho

tên TC. Nếu xét theo điều kiện này thì tên TC như một cái “nhãn vở học sinh” là

hoàn toàn hợp lý cho bất kỳ cách sắp xếp nào đi nữa. Các TC nổi tiếng của Mỹ thì

lại thoải mái khẳng định vị trí với một phần năm phía trên của bìa TC và đó là lý do

tên các TC thường được căng hết khổ báo hoặc biến đổi bất ngờ trong cách trình

bày. Dù cho ở vị trí nào thì tên TC thực sự mô phỏng sức mạnh nội tại của chính TC

đó theo quan điểm của TMTT. Hầu hết các TC giữ vị trí logo cố định, việc tăng

cường sức mạnh của logo TC chỉ bằng sự tương phản với nền hoặc một số khác sử

dụng sự thay đổi màu sắc mà thôi.

Ngay sát tên TC và thường là ở bên dưới là dòng tiếp thị (Selling line) mô tả

rõ nét điểm tiếp thị chính của tạp chí, ví dụ tờ Hàng Hiệu là “Xa xỉ cũng là một lối

sống”. Từ những năm 1950, do sự cạnh tranh mạnh mẽ trên các cột báo, sạp báo đã

dẫn đến việc xuất hiện nhiều tiêu đề những bài báo chính hay còn gọi là “tít bìa”

(Cover lines) trên trang bìa tạp chí. Các dòng tiêu đề bài báo trên trang bìa được rút

ra từ những bài chủ chốt của số báo và được giới thiệu theo một thứ tự nhất định và

thường được sắp xếp quanh hình ảnh chính. Đặc biệt có một “tít bìa” chính to nhất

đôi khi chiếm tới một phần tư diện tích trang bìa giới thiệu điểm nhấn chủ chốt của

nội dung số báo, đó là bài báo quan trọng nhất hay còn gọi là bài đinh (Feature

article) [110]. Cấu trúc thông tin trang bìa là nghệ thuật của kiến trúc truyền thông,

trình tự thông tin thông qua màu sắc, co chữ, độ cao thấp không chỉ đem lại vẻ đẹp

phong phú mà còn dẫn dắt thị giác độc giả một cách khoa học nhất.

Dưới cùng ở một góc bìa tạp chí sẽ là chỗ dành cho chuẩn mã vạch (Bar

132

code) hoặc mã chuẩn quốc tế và đôi khi cả giá bán của TC. Đấy là toàn bộ cấu trúc

cơ bản của một trang bìa TC cần có, tuy nhiên ở những số báo đặc biệt bìa được

trình bày theo những cách riêng nhằm nhấn mạnh số báo đó hay nói theo quan điểm

thẩm mỹ mới đó là tạo hiện tượng hoặc sự gợi cảm. Ví dụ số báo kỷ niệm hoặc số

báo Tết thường được ép nhũ nóng với màu sắc hay gia công nổi, chất liệu kim loại,

màu đặc biệt, hình ảnh ba chiều, hoặc cắt hình độc đáo. Ngoài ra một số khách hàng

quảng cáo còn yêu cầu tăng bìa đúp hoặc bìa gấp đôi gấp ba để tăng diện tích hình

ảnh cần thiết. Điều này cũng giúp đẩy cao độ hoàng tráng lộng lẫy của trang bìa nói

riêng và số báo nói chung.

Để đạt được mục tiêu lớn, trong quá trình TKDT bìa TC cần phải thỏa mãn

một số tiêu chí cụ thể. Trước hết và tiên quyết, trang bìa TC phải có tính quảng cáo.

Các cuốn TC được trưng bày trên giá kệ cao từ 1,8 m cho đến 2,4 m trong hiệu sách

hay siêu thị, hoặc như ở sạp báo Việt Nam được trải dài trên mặt bàn nghiêng, do

vậy bìa TC phải thực sự nổi bật giữa rất nhiều TC khác [110]. Trước nhất nó phải

có được sự bắt mắt cần thiết bởi vì bìa tạp chí chính là poster quảng cáo cho số tạp

chí đó. Độ tương phản và sức cuốn hút của hình ảnh sẽ lôi cuốn người xem. Nhưng

cần xác định rõ, hấp dẫn trong khi luôn tuân theo các nguyên tắc của truyền thông

và chuẩn mực của thương hiệu. Cũng phải chắc chắn là logo TC được nhận diện dễ

dàng dù chỉ mới thoạt nhìn. Để giải quyết vấn đề này, các thủ pháp mang tính biểu

tượng và nghệ thuật là giải pháp tối ưu nhằm đạt tới tiêu chí thẩm mỹ của thời đại.

Khi đã có được cái nhìn đầu tiên, dừng lại, và ngắm nghía của độc giả, trang

bìa phải thể hiện rõ nội dung chủ đạo của TC. Độc giả muốn biết trong tạp chí có gì

khiến họ phải mua nó. Biết nhấn mạnh nội dung chủ đạo và những câu chuyện hấp

dẫn khác trong TC đóng vai trò to lớn tác động đến quyết định của độc giả. Ở mức

độ cụ thể hơn, hình ảnh trung tâm phải thể hiện sản phẩm một cách rõ ràng và cuốn

hút khiến cho độc giả nhận ngay ra thể loại của TC và hoàn toàn bị thu hút. Sản

phẩm ở đây không phải lúc nào cũng là cái gì cụ thể mà có thể là sản phẩm trìu

tượng ví dụ như sản phẩm của TC thông tin ngôn luận hay những TC chuyên ngành

đặc thù ngân hàng, bảo hiểm, thương mại... Đối với các TC chuyên ngành nghiệp

133

vụ, như khoa học công nghệ, thời trang, mỹ phẩm… thì yêu cầu trưng bày sản phẩm

ngành nghề cụ thể là thiết yếu và gần như một quy chuẩn bắt buộc. Bằng cách này

độc giả sẽ nhận biết ngay tức thì loại hình TC họ lựa chọn và những sản phẩm đình

đám đang được quan tâm. Theo quan điểm nhận thức cũng như phương pháp thể

hiện của TMTT, hình ảnh mang tính biểu cảm sẽ là những biểu tượng nội dung rõ

ràng và trực tiếp nhất và điều này chuyển tải thông điệp mạnh mẽ tới độc giả.

Sau tất cả sự choáng ngợp ban đầu, vẻ duyên dáng hấp dẫn và sâu sắc của

trang bìa TC mới giữ được những độc giả trung thành. Các ý tưởng xây dựng trang

bìa luôn là sự kết hợp giữa các yếu tố để tạo nên một tác phẩm thực sự mang nhiều

ý nghĩa. Có những ý tưởng đắt giá tạo nên những trang bìa mà chỉ mới xem một lần,

độc giả có thể nhớ mãi về sau. Không chỉ những trang bìa theo phong cách ý niệm

mới có thể mang vẻ ẩn dụ sâu sắc mà chỉ bằng cách sử dụng hình ảnh, phông chữ,

màu sắc... một cách tinh tế đã đem lại vẻ quyến rũ cần thiết. Phải tạo được cảm giác

khiến cho độc giả phải mua ngay TC nếu không muốn bỏ lỡ một thứ gì đó tuyệt vời.

Quan điểm nhận thức của TMTT đã chỉ rõ, vẻ gợi cảm sâu sắc đi vào thế giới nội

tâm con người mới là con đường đến với độc giả một cách bền vững. Giữa cuộc

ganh đua của các bìa TC trên quầy báo, tiêu chí năng động cũng là một lợi thế

không nhỏ. Có thể chỉ bằng ánh mắt của nhân vật ảnh bìa (eye contact), động dáng

nhân vật, tiêu đề gây sốc, hay những thế bố cục lạ mắt đã tạo cảm giác động và gây

sự chú ý rất mạnh. Điều này cũng tránh được tình trạng trang bìa đẹp mà “vô hồn”

và không bao giờ có thể trở nên nhàm chán trước mắt người xem.

Bằng tất cả những cố gắng, nỗ lực làm việc với trang bìa để đạt tới một tiêu

chí cuối cùng, đó là tạo được một phong cách riêng, một tuyên ngôn mang bản sắc

của thương hiệu mà tạp chí đại diện. Phong cách của bìa TC khiến cho TC dễ nhận

ra trên giá sách và những độc giả trung thành của nó hoàn toàn tự hào khi đã chọn

nó để mua về cho bộ sưu tập của mình. Sự ổn định trong phong cách đôi khi quyết

định đến doanh số cũng như sự thành công của TC. Chỉ có những TC mới xuất bản

hoặc còn vật lộn đi tìm chính mình mới cho ra đời những trang bìa bất nhất không

định hình phong cách.

134

Thiết kế trang bìa một ấn phẩm TC chỉ tốt khi mang lại sức sống cho TC và

rất quan trọng cho số xuất bản đó. Nếu thành công, bìa tạp chí có thể trở thành biểu

tượng văn hoá thẩm mỹ, mầm mống cho các trào lưu và là nỗi kinh ngạc cuốn hút

đối với độc giả. Vấn đề là phải xác định được những nguyên tắc then chốt để tạo

nên một trang bìa thành công. Có lẽ không có vị trí nào trong tạp chí, sự tương tác

giữa các hình ảnh và chữ lại trở nên tối quan trọng như ở trang bìa. Hiệu quả của sự

tương tác ấy phải giải quyết được hai nhiệm vụ quan trọng của TC, thông qua thiết

kế của nó phải truyền tải được thông điệp nội dung tư tưởng của ấn phẩm và thể

hiện phản ánh được mức độ trí tuệ của nội dung biên tập. Công việc này có vẻ mang

nhiều cảm tính chủ quan hơn là tính trí tuệ, do bởi bộ mặt trang bìa của một tạp chí

giống như khuôn mặt của một con người hay một cá tính và nó có một số thể dạng

nhất định mang tính công thức.

Cách tiếp cận này được sử dụng ở hầu hết các TC, ngay cả các TC chuyên

ngành cũng sử dụng hình thức này. Hầu hết các TC đều phản ánh các vấn đề của

mình thông qua hiệu quả của một bức ảnh chất lượng cao. Ảnh trang bìa thường

thường được đầu tư rất kỹ lưỡng, tính toán dàn dựng hết sức công phu hoặc có thể

là một bức ảnh có giá trị lớn về thông tin trong những khoảnh khắc đắt giá. Ở Việt

Nam, chúng ta đã khá quen với những hình thức bìa này ở tất cả các thể loại TC

khác nhau do tính tiện dụng và hiệu quả của nó. Những gương mặt trang bìa thường

xuyên được đón đợi trên các TC Đẹp, Phong cách, Sành điệu, Thời trang trẻ và cả

những TC nghiên cứu kinh tế như Nhịp cầu đầu tư.

Một số TC có thể sử dụng hình ảnh minh họa để trình bày một cái gì đó đặc

biệt, hoặc để truyền đạt ý tưởng có ngụ ý phức tạp, và phong cách vẽ tay phần nào

tiếp cận nhẹ nhàng hơn đối với cảm xúc tức thì của độc giả. Tạp chí cũng có thể sử

dụng kỹ xảo đồ họa máy tính để giúp xử lý một số chủ đề ý niệm, đồng thời giảm

thiểu thời gian và hạn chế chi phí. Đây chính là dạng bìa TC đầu tiên ở Việt Nam từ

cuối thế kỷ 19 và nở rộ vào đầu thế kỷ thứ 20 góp phần không nhỏ vào công cuộc

cách tân của xã hội Việt Nam.

Dạng thức tiếp theo là trang bìa TC sử dụng hoàn toàn hiệu quả của nghệ

135

thuật chữ, thay đổi từ dạng chữ viết tay đến viết thư pháp rồi đến chữ in. Cho đến

nay còn lại không nhiều cách này nhưng chính vì vậy lại có xu hướng nổi bật và gây

chú ý mạnh. Với vẻ đẹp trong cách ứng dụng nghệ thuật chữ typography nên có một

hiệu ứng đặc biệt để đưa ra thông điệp của TC, đồng thời trình diễn một hệ thống

phân cấp thông tin tối ưu rất thuận lợi cho độc giả theo dõi và nắm bắt. Cho dù có

khá nhiều trang bìa báo theo cách này ở đầu thế kỷ thứ 20, nhưng cho đến nay hiếm

khi chúng ta bắt gặp phong cách này ở Việt Nam. Nếu có chăng chỉ ở một vài số

xuất bản đặc biệt vào dịp Tết, số kỷ niệm hoặc ở một số tạp chí phi lợi nhuận nhưng

lại không hoàn toàn đúng tính chất trang bìa sử dụng nghệ thuật chữ.

Một dạng thức nữa là bìa tạp chí được trình bày theo phong cách ý niệm, đây

cũng là hướng tiếp cận của quan điểm phương pháp thể hiện của TMTT, giải quyết

vấn đề thực tiễn bằng hình tượng nghệ thuật mang tính biểu tượng. Cách tiếp cận

này có thể là sự tổng hợp của tất cả các dạng thức đã bàn luận. Đây là lối thiết kế

dàn trang bìa khá mới với cách trình bày mang tính ngụ ý rõ rệt. Nó có thể được sử

dụng một trong những tài nguyên ảnh chụp, nghệ thuật chữ, tranh minh họa hoặc cả

ba. Gần đây khái niệm ảnh thông minh cũng được nhắc tới nhiều khi ảnh được sử

dụng rất mạnh tay hoặc được cắt ghép tùy ý để thể hiện hàm ý của trang bìa.

Phương pháp này dùng để phát đi một thông điệp mạnh mẽ, yêu cầu tiên quyết của

trang bìa ý niệm là phải ngay lập tức có thể hiểu được thông điệp, nhưng lại là một

cái không dễ dàng đạt được. Những ý tưởng được xây dựng phải rất sắc sảo đối với

ban biên tập, và lại rất thú vị đối với độc giả và họ hiểu được ngụ ý của nó ngay.

Đây là loại bìa thường được nhìn thấy trên các TC kinh tế thương mại, TC tin tức

hàng tuần, hay các phụ trương hoặc số bổ sung. Tạp chí Nhịp cầu đầu tư cũng là TC

đi đầu trong việc ứng dụng thể loại bìa ý niệm và đã đạt được thành công lớn. Khi

thiết kế một trang bìa cần rất nhiều sự tập trung ở phần xây dựng ý tưởng, có thể

đùa giỡn, có thể phóng đại nhưng vẫn nằm trong ý tưởng và phong cách chung.

Trang bìa luôn cần một tiêu đề với kích thước và màu sắc hoặc một động thái nổi

bật, đồng thời cần một điểm tập trung thị giác cho dù nó có thể là một khuôn mặt,

tên bài hay một cái gì đó có thể hút mắt độc giả. Các trò chơi thị giác đều được phép

136

nhưng phải đảm bảo rằng độc giả sẽ hiểu nó ngay lập tức.

Vậy làm thế nào trang bìa tạp chí sẽ thu hút được sự chú ý của độc giả tiềm

năng? Theo quan điểm TMTT là bằng cách gây ấn tượng, gây hiện tượng và bằng

nghệ thuật biểu cảm. Phải nghiên cứu đối thủ cạnh tranh và làm một cái gì đó khác

biệt. Tạo một trang bìa thiết kế thu hút sự chú ý là làm một cái gì đó bất thường, có

thể cực đoan hoặc thực sự nổi bật, một trang bìa phải đứng bật ra như ngón cái đầy

ý nghĩa trên một sạp báo. Như những trang bìa hấp dẫn của các TC lớn đã chứng

minh, phải tạo ra một khái niệm thiết kế được gắn chặt với chủ đề của TC.

Điều đầu tiên cần làm khi thiết kế trang bìa ấn phẩm TC đó là phải lên kế

hoạch theo quy trình được định sẵn. Đây là công việc phải đầu tư thời gian nhiều

nhất đơn giản bởi vì nó quan trọng nhất trong công việc thiết kế dàn trang tạp chí.

Nếu khách hàng không thích trang bìa, rất ít khả năng họ sẽ mua TC đó. Ngay cả

những độc giả trung thành cũng giảm bớt mong muốn sở hữu số báo đó. Chính vì

vậy cần phải đặt rất nhiều nỗ lực và ý tưởng vào trang bìa dự kiến trước khi thực sự

bắt đầu thiết kế. Hãy tự đặt câu hỏi rằng muốn bìa TC ra sao và tại sao lại như vậy,

cần sử dụng hòa sắc gì và tác động của chúng vào tân trí người đọc đến đâu. Dự

kiến về trang bìa thú vị, hấp dẫn hay nổi bật, tất cả đều được vạch ra trên giấy trước

nhất [115]. Thật không may là điều này không phải là lúc nào cũng hiệu quả, bởi vì

chúng ta đều biết hình dung phác thảo trên giấy không hoàn toàn giống như thiết kế

thực. Màu sắc có thể không hấp dẫn, độ tương phản có thể không hiệu quả, tiêu đề

có thể không phù hợp do số lượng chữ hoặc hình ảnh có thể có vấn đề. Vấn đề tiên

quyết ở chỗ các thiết kế đỉnh cao ngày nay vẫn luôn được xây dựng ý tưởng ban đầu

trên mặt giấy, điều này giúp cho tính sáng tạo luôn nhân bản và không bị máy tính

quy định về kỹ năng.

Nếu như một người thiết kế mới làm việc trong một tòa soạn, đối diện với

công việc thiết kế một trang bìa thường nghĩ rằng sẽ biết phải làm thế nào, nhưng

thực ra không phải như vậy. Nhìn một trang bìa TC ai cũng nghĩ là nó không quá

khó để thực hiện, đây cũng là suy nghĩ chung của các biên tập viên. Thực tế thiết kế

trang bìa TC luôn là nhiệm vụ hóc búa. Trước hết nó phải như một áp phích quảng

137

cáo cho chính số TC đó. Nhiều TC đã dùng chính trang bìa để in áp phích quảng

cáo cho từng số báo mới xuất bản của mình. Những người thiết kế trang bìa dày dạn

kinh nghiệm luôn biết cân nhắc điều này khi thiết kế. Người thiết kế có nhiều cơ hội

để sáng tạo nhưng bên cạnh đó cũng có vô số giới hạn. Một trang bìa TC có vẻ như

là khá nhiều để tạo nên một cái gì đó đẹp và hấp đẫn, nhưng đồng thời có những bộ

khung quy chuẩn phải tuân theo để tránh nhầm lẫn cho độc giả và đồng thời cung

cấp cho họ nhiều thông tin về nội dung của TC. Nhưng tính quảng cáo của một

trang bìa TC phải được đề cao như một áp phích bởi điều này quyết định rất lớn đến

sự thành công của từng số xuất bản [112].

Không thể nói hết tầm quan trọng của kiểu chữ trên các phương tiện truyền

thông, nhưng nó còn quan trọng hơn nhiều trong ấn phẩm xuất bản. Khi ta đã có rất

nhiều văn bản như thường làm với bìa TC, kiểu chữ có thể làm cho một sự khác biệt

rất lớn giữa một trang bìa nhàm chán với một trang bìa muốn xem. Hệ thống phân

cấp thông tin là một trong những khái niệm quan trọng. Cái quan trọng luôn luôn

phải lớn hơn và có màu sắc khác biệt, nhờ đó có một sự tương phản cao hơn với các

phần khác và đương nhiên dễ nhìn thấy hơn [112]. Điều quan trọng là để hiển thị

cho độc giả một số tít bài báo nhất định quan trọng hơn so với những tít bài khác và

cũng để tạo ra một cấu trúc có thể đọc được trong trang với sự giúp đỡ của hệ thống

phân cấp thông tin. Ví dụ, tiêu đề của bài viết về cá nhân hoặc sự kiện trên các trang

bìa sẽ hầu như luôn có phông chữ lớn hơn các bài viết khác. Khi thiết kế trang bìa

TC phải quyết định các thông tin được cung cấp cho người đọc như thế nào. Nếu

như làm điều đó đúng, các tiêu đề sẽ luôn luôn nổi bật và các thông tin quan trọng

nhất sẽ dễ dàng tìm thấy.

Nghệ thuật xử lý màu sắc trên trang bìa TC chiếm vị thế vô cùng quang

trọng khi thiết kế. Màu sắc của tiêu đề và màu sắc tổng thể bìa là lưu ý đầu tiên.

Một sai lầm phổ biến là đặt yếu tố không tương phản trên trang bìa. Đối với văn bản

được đọc, nó phải là ánh sáng trên nền tối hoặc ngược lại. Có thể làm điều này

thông qua các phông chữ, hoặc có thể làm tối hoặc sáng khu vực của hình ảnh cho

dễ đọc. Thường thì thiết kế sẽ được xem xét dựa trên một bảng màu thương hiệu, và

138

phối hợp áp dụng kiến thức về lý thuyết màu sắc. Đây là những chi tiết quan trọng

dẫn đến việc tạo ra một thiết kế trực quan hấp dẫn phù hợp với độc giả [112]. Theo

cách truyền thống và cũng dễ làm trang bìa sang trọng hơn là sử dụng những chữ

đen và trắng, tuy nhiên cũng không nên sợ hãi việc sử dụng màu sắc bởi vì sáng tạo

luôn cần sự thay đổi. Ngoài ra, có những định chuẩn màu phải lựa chọn, nhiều màu

sắc quá sẽ không hiệu quả. Hầu như, sẽ phải sử dụng một bảng màu nhất quán trên

các thiết kế, vì vậy cách phối màu cũng có những giới hạn riêng.

Hầu hết các TC phát triển ổn định thì trong TKDT bìa phải giữ được sự nhất

quán từ số này sang số khác, đây là lý do tại sao những TC nổi tiếng có xu hướng

giữ phong cách trang bìa ổn định trong một thới gian dài. Điều này là thực sự cần

thiết nếu các nhà quản lý nhấn mạnh vào việc xây dựng một bản sắc thị giác mạnh

mẽ. Tuy nhiên không phải không có TC lại làm ngược lại, họ thay đổi phong cách

trang bìa đều đặn mỗi số phát hành. Thực tế thì đó là những TC quá thiên về sáng

tạo và họ cổ xúy cho sự thay đổi, tuy nhiên nếu nhìn nhận ở góc độ khác thì chính

sự thay đổi thường xuyên đó lại nhận ra sự “ổn định” trong lối trình bày bìa của họ.

Quan điểm nhận thức của TMTT giúp cho các nhà thiết kế đồ hoạ một nhận thức

mới và quan điểm mới về việc giải quyết các mối quan hệ trong công tác TKDT của

mình.

4.3.2.2. Thiết kế dàn trang nội dung tạp chí

Điều quan trọng nhất vẫn là nghệ thuật ứng dụng chữ trong thiết kế. Phông

chữ tiêu đề bài báo trên trang TC thường được yêu cầu đơn giản sao cho dễ đọc và

phù hợp tính chất nội dung số TC nói chung và bản thân tiêu đề bài báo nói riêng,

tuy vậy vẫn có những phá cách táo bạo đặc biệt ở tạp chí thời trang. Một sự sáng tạo

typography đầy thử thách, sự tinh tế của phông chữ, kiểu cách, kích thước, màu sắc,

sắp xếp luôn tạo ra sự mạch lạc nhưng hấp dẫn. Lúc này các tiêu đề không chỉ đơn

thuần là chữ mà còn là các yếu tố hình ảnh tạo nên một vẻ đẹp hoàn hảo của trang

báo. Việc biểu đạt các vấn đề thông tấn bằng thủ pháp sử dụng nghệ thuật chữ đang

là trào lưu và đồng thời là định hướng phương pháp của TMTT.

Tạp chí thành công là TC mang lại nhiều lợi ích cho độc giả. Cả nội dung lẫn

139

hình thức phải là những thứ độc giả cần, độc giả muốn, hay độc giả mơ ước. Đó là

những vấn đề luôn được cập nhật, giàu thông tin kiến thức hoặc giải trí. Chắc chắn

TC phải thể hiện những nội dung đặc sắc khiến cho độc giả phải tìm kiếm và săn

lùng nó. Đơn giản độc giả là trên hết, hiểu biết độc giả của mình cũng là một yếu tố

phải được thể hiện trên từng trang TC. Những phẩm chất sáng tạo cá nhân luôn

được tôn trọng, nhưng phong cách nhất quán của TC và thỏa mãn nhu cầu của độc

giả mới là trên hết. Những tham dự tương tác của độc giả chủ yếu thông qua hệ

thống nghệ thuật dàn trang nhiều tính giao tiếp và biểu cảm.

Thiết kế dàn trang nội dung TC có hiệu quả là phải đảm bảo mục đích

chuyển tải thông tin đến với người đọc bằng cấu trúc thông tin hợp lý. Muốn thiết

kế thành công nhằm quảng bá thương hiệu yêu cầu phải có “kiến trúc” vững chắc

của thông tin trên cơ sở xác định chính xác đối tượng cần tác động. Thực hiện phân

cấp thông tin, áp dụng chu trình đọc thói quen thị giác. Hình ảnh, màu sắc, phông

chữ đều là những yếu tố quan trọng trong việc tạo ra hiệu quả truyền đạt thông tin

tới cho độc giả. Thiết kế dàn trang TC là hướng dẫn độc giả xác định được những

thông tin quan trọng trong một trang báo, cũng như trong cả một tờ báo.

Những “hạn chế” đối với công việc TKDT ấn phẩm TC đó chính là bộ khung

quy chuẩn và những biểu mẫu, những kiến trúc thông tin và chính là quan điểm đầu

tiên trong phương pháp thể hiện TMTT. Nhưng chúng ta không nhìn những quy

định này theo góc độ tiêu cực mà tương tác với chúng theo cách hợp tác và hướng

dẫn phù hợp. Điều quan trọng là một TC phải giữ phong cách ổn định trong thiết kế,

không chỉ từ trang này sáng trang khác mà phải từ số này sang số khác. Tất cả các

TC có thương hiệu lớn luôn giữ phong cách trong một thời gian dài và nếu có quyết

định thay đổi thì đó là công việc rất quan trọng. Nếu như thay đổi thiết kế thường

xuyên thì sẽ không giúp cho việc xây dựng bản sắc thị giác mạnh mẽ [116]. Trong

thiết kế TC thì sự đồng nhất giữa các số là điều bắt buộc không chỉ để tạo nên

thương hiệu mà còn tạo ra sự thân thuộc giữa TC và độc giả của nó. Mối thân thuộc

này sẽ tạo ra lòng tin và sự trung thành, và cuối cùng là sẽ lôi kéo độc giả quay lại

nhiều hơn. Một trong những nhận thức sai lầm lớn nhất trong thiết kế là quy chuẩn

140

và biểu mẫu là hạn chế trong khi trái lại, chúng mở ra nhiều cánh cửa cho những

giải pháp sáng tạo. Thay vì xem quy chuẩn và biểu mẫu như những quy tắc, thì hãy

nghĩ về chúng như là bệ đỡ để giúp tiết kiệm sức lực và thời gian cho việc thiết kế

mỗi trang TC [110].

Nguyên tắc cơ bản là phải giữ được phong cách cũng như kiểu bố cục nhất

định và điều này sẽ giữ được độc giả truyền thống. Không nên coi các hướng dẫn,

các mẫu hoặc khổ tạp chí như quy định bất dịch, nhưng bắt buộc phải xây dựng một

khuôn mẫu thống nhất khi thiết kế một trang TC. Không nhất thiết mọi thứ phải

hoàn toàn giống nhau, nhưng sẽ thiết lập quy hoạch vị trí, khung lưới hướng dẫn và

áp dụng chúng cho tất cả các trang TC để thiết kế cho một tạp chí nhất định [116].

Tiêu đề bài viết vẫn luôn đóng vai trò quan trọng, là điểm nhìn và đọc đầu

tiên đối với độc giả. Với số lượng kiểu chữ vô cùng đa dạng và phong phú trong thế

giới thiết kế ngày nay đã làm cho việc thể hiện yếu tố thẩm mỹ của tiêu đề không

khó khăn. Tuy nhiên, xu hướng làm nổi bật tiêu đề sẽ lựa chọn những cỡ chữ lớn và

có độ dày mạnh của nét chữ. Với sự lựa chọn này, tiêu đề thực sự tạo điểm nhấn để

truyền thông, nhưng đồng thời tạo hiệu quả TMTT. Chúng không chỉ đơn giản

khiến người xem phải đọc những tiêu đề này mà còn tạo nên những mảng đồ họa thị

giác mạnh, sinh động và hấp dẫn.

Ban đầu, tiêu đề bài viết nên luôn được giữ vị trí đầu tiên nhằm thu hút thị

giác và truyền thông điệp. Ngay cả khi bạn cần thay đổi cách bố trí và sử dụng các

phong cách khác nhau trong thiết kế, tiêu đề của các tạp chí phải nổi bật. Vị trí của

nó có thể được ở phía trước hình ảnh hoặc phía sau nó, tùy thuộc vào cách biên tập

hình ảnh cho phép. Có thể có những tín hiệu đồ hoạ mang tính quảng cáo nhằm thu

hút thị giác. Độc giả tiếp nhận điều này và bị thu hút bởi chúng có thể có một tác

động tích cực. Sẽ là rất thiết thực với việc sử dụng lưới khi thiết kế trang TC, phải

tạo ra một cơ cấu tổ chức trang để làm hài lòng người độc chứ không phải là một sự

hỗn loạn [115]. Thiết kế dàn trang TC là một công việc đòi hỏi người thiết kế cần

biết sử dụng màu sắc, phông chữ, hình ảnh để nêu được chủ đề của bài viết. Thêm

vào đó, điều quan trọng sống còn của việc dàn trang nằm ở việc sử dụng hệ thống

141

lưới trong thiết kế. Cho dù TC in hay tạp chí điện tử thì hệ thống lưới luôn là yếu tố

bất di bất dịch, không thể bỏ qua để có được một TKDT tốt. Việc dàn trang nội

dung vẫn luôn phải dựa trên cơ sở hệ thống lưới để đảm bảo tính TMTT.

Một vấn đề sống còn khi TKDT ấn phẩm TC là phải biết tạo được nguồn

cảm hứng. Làm việc với cùng một phong cách từ số tạp chí này đến số tạp chí khác

có thể làm giảm năng lực sáng tạo và điều này có khả năng thể hiện trong công việc.

Trách nhiệm của người thiết kế là phải mang đến cho độc giả sự hấp dẫn trong từng

số TC. Phải biết tìm nguồn cảm hứng bằng cách tạm dừng công việc và nghỉ ngơi

thư dãn, ý tưởng thiết kế luôn ở quanh đâu đó và vì vậy phải luôn quan sát và lấy lại

nguồn cảm hứng sáng tạo. Việc lưu giữ những tài liệu từ bất kể loại hình nào là

phương pháp khơi gợi nguồn cảm hứng được ứng dụng rất hiệu quả [116].

Có những nhận định cho rằng thiết kế thể hiện trong từng chi tiết, do vậy cần

phải kiểm tra lại tất cả các chi tiết dù là nhỏ nhất của mỗi trang tạp chí. Các bước

chỉnh sửa cuối cùng chính là sự khác biệt giữa một TC chuyên nghiệp và một TC

nghiệp dư. Cần phải tái kiểm tra và chỉnh sửa các chi tiết như quy định căn lề,

phông chữ, các khung ảnh, khoảng trắng và luật ngắt dòng chưa được thống nhất.

Trước khi đưa ra bản thiết kế cuối cùng, mọi công việc có vẻ như nhỏ nhặt đều phải

nghĩ đến. Ví dụ như màu đen chẳng hạn, phải chắc chắn là cùng một loại màu đen

trên toàn bộ phiên bản, điều mà không thể phân biệt bằng mắt thường thông qua

hiển thị của màn hình máy tính [116].

Trong tổ chức tòa soạn thường được phân định rõ ràng giữa ban biên tập và

phòng thiết kế, tuy nhiên những ý tưởng và giải pháp hay cho trang bìa cũng như

toàn bộ TC lại nảy sinh khi những bộ phận này làm việc chung với nhau thường

xuyên. Những người thiết kế cần tự làm quen với công việc của biên tập bài báo và

nhờ vậy có khả năng đưa một quan điểm hay một phương pháp thiết kế mới. Nên

cởi mở và tiếp nhận những đóng góp từ đội ngũ biên tập và cùng nhau xây dựng

một tạp chí hoàn thiện và trên cơ sở đó mới có được những trang TC mang đầy sức

mạnh của cả một tập thể [110].

Khi thực hiện TKDT ấn phẩm TC trên máy tính, vẫn có còn có những điều

142

phải quan tâm. Các máy in luôn thất thường vì bản in ra trên giấy không bao giờ

giống với những gì thiết kế hiển thi trên màn hình. Màu sắc sẽ khác, hình ảnh có thể

bị di chuyển, văn bản có thể bị to nhỏ ngoài mong muốn. Việc quản trị tốt máy in

bằng các thông số được thử nghiệm trước là điều phải cân nhắc và sẽ giúp bản in

được trung thực nhất. Thiết kế TC là một quá trình mất nhiều thời gian, do đó

không nên nghĩ rằng sẽ phải hoàn thiện nó trong một thời gian ngắn. Một công việc

đòi hỏi nhiều kiến thức và suy nghĩ thường bắt đầu từ một bản phác thảo và sau đó

đổi dần theo tư duy xoắn ốc và rất có thể lại quay trở lại ý tưởng ban đầu. Nguồn

cảm hứng được tạo ra từ những cuộc chơi với các thành tố và kỹ thuật để tạo nên

một trang TC đẹp.

Mỗi một TC tùy vào đặc tính riêng của mình lựa chọn một dạng thức dàn

trang nhất định. Dù theo cách nào thì các kỹ năng phương pháp tiến hành vẫn phải

được thực hiện theo một quy trình chặt chẽ theo từng bước tuy rằng đôi khi có thể

đảo vị trí các bước đi cụ thể. Thiết kế dàn trang ấn phẩm TC cần có sự phối hợp

thống nhất giữa các khâu ý tưởng, nội dung, hình ảnh và thiết kế. Thực tế theo kinh

nghiệm của những TC lớn thì việc chủ động nắm bắt nội dung, phát triển ý tưởng,

thực hiện hình ảnh, và xây dựng cấu trúc trang bìa đều xuất phát từ giám đốc sáng

tạo sẽ thuận lợi và mang lại nhiều cá tính hơn cho trang TC. Vai trò cá nhân ở đây

chỉ là kết quả của sự tương tác rất nhuần nhuyễn giữa giám đốc sáng tạo và trưởng

ban biên tập, hai vị trí cốt yếu có vai trò ngang nhau để thực hiện những định hướng

của tổng biên tập. Ở Việt Nam ngoài một số tòa soạn lớn, vai trò của các giám đốc

sáng tạo khá mờ nhạt đôi khi không được phát huy đúng với yêu cầu cần có. Điều

này cũng cho thấy quan điểm nhận thức chưa đúng về TMTT và do đó nghệ thuật

TKDT ấn phẩm TC mà thể hiện cao nhất là trang bìa chưa thực sự đồng đều. Đây

cũng là điểm cần khắc phục trong ngành báo chí Việt Nam để phát triển nghệ thuật

TKDT ấn phẩm TC ngày càng tốt hơn phù hợp với xu thế hội nhập.

Tiểu kết

Chủ nghĩa hậu hiện đại ra đời từ những năm 60’ của thế kỷ trước đã mở bung

cánh cửa cho những quan điểm mới về nghệ thuật và thẩm mỹ. Nhiều đại diện tiêu

143

biểu như John Cage, Nam June Park, Bill Viola, Tonny Oursler, Yoko Ono... bằng

những tác phẩm của mình đã cho thấy tư tưởng trái chiều dần xa rời thẩm mỹ truyền

thống. Chỉ đến năm 1983, GS triết học và mỹ học Mario Costa và nghệ sĩ thực hành

nghệ thuật đương đại Fred Forest cùng nhiều nghệ sĩ trên thế giới nhất trí đưa ra

một lý thuyết thẩm mỹ mới phù hợp với bước phát triển của nghệ thuật của thời đại,

thẩm mỹ truyền thông. Nghệ thuật Việt Nam do bối cảnh chiến tranh thống nhất và

bảo vệ tổ quốc đã phần nào phát triển chậm hơn so với trào lưu nghệ thuật thế giới.

Phải đến cuối những năm 90’ nghệ thuật đương đại Việt Nam mới thực sự bùng nổ

với những nghệ sĩ tiên phong giàu lòng quả cảm. Điều thú vị nhất là bản thân lý

thuyết thẩm mỹ truyền thông cũng chưa kịp truyền bá đến Việt Nam một cách chính

thức thì các nghệ sĩ đã làm việc không ngừng, bước đi đúng với những quan điểm

của lý thuyết thẩm mỹ truyền thông đã đúc kết. Là một chuyên ngành của nghệ

thuật thị giác, nghệ thuật thiết kế đồ hoạ Việt Nam đã có những bước tiến căn bản

hoà chung vào xu thế của nghệ thuật đương đại, đáp ứng với những yêu cầu phát

triển của xã hội đang chịu sự tác động của công nghệ truyền thông kỹ thuật số khi

mà cách mạng công nghiệp 4.0 đã cận kề. Các luận điểm của lý thuyết thẩm mỹ

truyền thông đã mang lại giá trị bài học to lớn cho các thực hành sáng tạo thiết kế

đồ hoạ ở Việt Nam. Mặc dù thuộc thể loại mỹ thuật ứng dụng chịu nhiều sức ép của

thị trường, thiết kế đồ hoạ nói chung và thiết kế dàn trang xuất bản phẩm nói riêng

vẫn vượt lên đi tìm bản sắc nghệ thuật độc đáo của mình hoà nhập với dòng chảy

của thời đại. Các tư tưởng của thẩm mỹ truyền thông đã và đang phát triển sâu rộng

lan toả trong mọi ngành nghệ thuật cùng với bước tiến của đất nước con người Việt

Nam.

144

KẾT LUẬN

1. Nghệ thuật thiết kế dàn trang ấn phẩm tạp chí đã đồng hành cùng lịch sử

báo chí Việt Nam qua nhiều giai đoạn. Với những cơ sở nền tảng khá khiêm tốn,

nhưng báo chí đã đạt được những thành quả rất đáng tự hào. Thật cảm động khi

thấy sự tái hiện của một nền văn hóa xã hội Việt Nam những năm 30 của thế kỷ

trước chỉ qua những trang báo thời kỳ đầu cách mạng. Quá trình học hỏi và nghiên

cứu công nghệ in ấn và xuất bản đã mang lại những thành tựu văn minh, văn hoá

mới cho dân tộc ta. Qua các chặng đường đấu tranh giành độc lập của dân tộc,

ngành thiết kế dàn trang xuất bản phẩm vẫn giữ được vai trò phục vụ sự nghiệp

chính trị, văn hóa của đất nước. Đến thời kỳ đổi mới có những thay đổi theo cơ chế

thị trường phục vụ nhu cầu xã hội. Cũng từ đây với sự phát triển quá nóng của

mình, bên cạnh những thành công, ngành thiết kế dàn trang bắt đầu lộ ra những vấn

đề bất ổn và thiếu kiểm soát. Các nhà xuất bản, tòa soạn báo, các cơ sở thiết kế, cơ

sở đào tạo đang cố gắng khắc phục những gì chưa làm được. Tuy nhiên các nghiên

cứu trước đây chú trọng phần lớn vào khâu kỹ năng dành cho người làm thiết kế

dàn trang tự phát mà chưa nhìn ra được quan điểm thẩm mỹ, đó là mối quan hệ

tương tác giữa nội dung văn học, khoa học, thông tấn và hình thức thiết kế ấn phẩm

xuất bản.

Trong khi đó nghệ thuật thị giác với các thể loại mới du nhập vào Việt Nam

như nghệ thuật trình diễn, sắp đặt, video-art… đang bùng nổ dữ dội trong bối cảnh

xã hội đương đại. Các nghệ sĩ trẻ hào hứng với các thể nghiệm sáng tạo mới, các

nhà quản lý cũng bắt đầu vào cuộc dần đưa trào lưu nghệ thuật mới trở nên chính

danh. Mặc dầu vậy nghệ thuật đương đại vẫn để lại một khoảng trống, một nỗi hoài

nghi trong lòng công chúng về giá trị nghệ thuật đích thực của nó. Một số nhà

nghiên cứu Việt Nam đã đưa ra quan điểm học thuật về thẩm mỹ thời kỳ thứ ba

nhưng chưa đủ thuyết phục. Thẩm mỹ truyền thông ra đời năm năm 1983 tại châu

Âu cùng với hệ thống luận điểm xác đáng đã giải quyết được vấn đề khủng hoảng

nhận thức thẩm mỹ của thế giới và Việt Nam. Thẩm mỹ truyền thông đã chọn một

cách tiếp cận hoàn mới đối với nghệ thuật, đề cao sự tương tác phá bỏ hàng rào giữa

145

nghệ sĩ và quần chúng. Cũng từ đây, nghệ thuật đồ hoạ thiết kế dàn trang xuất bản

phẩm mới có hướng phát triển mới, có cơ sở khoa học để luận giải các vấn đề thực

tiễn sáng tạo của chuyên ngành.

2. Tạp chí Heritage của Hãng hàng không quốc gia Việt Nam ngay từ khi ra

đời đã tỏ rõ vị thế của một tạp chí hàng đầu do ưu thế tuyệt đối về khâu phát hành

và đầu tư tài chính. Ở một góc độ nào đó, Heritage đã tạo ra chuẩn mực cho văn hoá

đọc ở Việt Nam. Ban biên tập hùng hậu luôn đồng hành cùng những giám đốc sáng

tạo tốt nhất để cho ra đời những số tạp chí mang đẳng cấp của một truyền thống huy

hoàng quy tụ những nhà văn, nhà báo, nghệ sĩ hàng đầu việt Nam. Thiết kế dàn

trang tạp chí Heritage tạo ra những trang bìa hấp dẫn và những trang báo đẹp mắt và

đầy tính sáng tạo. Cấu trúc và dạng thức thiết kế trình bày của tạp chí Heritage luôn

ổn định và dành cho đối tượng độc giả có thu nhập trên trung bình và khách nước

ngoài. Các tiêu chí thiết kế đề cao sự chuẩn mực và được áp dụng những phương

pháp kỹ năng dàn trang tiên tiến nhất. Những sáng tạo trong thiết kế dàn trang tạp

chí Heritage luôn được phát huy và tôn trọng dường như không gặp phải bất kỳ rào

cản nào. Tạp chí Heritage với phong cách thiết kế dàn trang mẫu mực xứng đáng

đại diện cho tạp chí Việt Nam trong xu thế hoà quyện với tinh thần thẩm mỹ truyền

thông, thẩm mỹ của nghệ thuật đương đại.

3. Số đầu tiên tạp chí Heritage được biên tập và in ấn tại nước ngoài nên

ngay từ khi ra đời đã trở thành xuất bản phẩm cao cấp nhất, tuy nhiên phải đến

những năm gần đây nghệ thuật thiết kế dàn trang trên tạp chí Heritage có những

chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức thẩm mỹ truyền thông, một lý thuyết thẩm mỹ

mới còn khá xa lạ với Việt Nam. Lý thuyết thẩm mỹ truyền thông là một tuyên

ngôn nghệ thuật mới trong thiết kế dàn trang ấn phẩm tạp chí đã giải quyết được

khủng hoảng về nhận thức trong thiết kế cũng như cảm nhận của độc giả. Đây là

một quan điểm thẩm mỹ đương đại mang tính hiện tượng xác lập được nhận thức

mới về các mối quan hệ trong thực hành thiết kế dàn trang ấn phẩm tạp chí. Các tư

tưởng phương Đông về thế giới nội tâm và nguyên tắc thiền được vinh danh trở

thành quan điểm thiết kế tạp chí. Là một loại hình truyền thông, tạp chí Heritage có

146

định hướng thiết kế đề cao sự nhận diện thông điệp đồng thời phát huy tính gợi cảm

của từng trang tạp chí. Thông điệp truyền thông là mục đích nhưng nó sẽ được hiệu

quả hơn rất nhiều với những thủ pháp gợi cảm. Cuối cùng sau những quan điểm tích

cực mang tính thời đại, nghệ thuật thiết kế dàn trang đương đại sẽ tạo lập được

những hình mẫu mô phỏng sức mạnh, quyền lực của truyền thông và hình tượng

nghệ thuật.

4. Trong thực hành nghệ thuật, thiết kế dàn trang ấn phẩm tạp chí Heriatage

có những chuyến biến về phương pháp thể hiện thẩm mỹ truyền thông. Hoàn toàn

phù hợp với quan điểm thiết kế hiện đại, thẩm mỹ truyền thông khẳng định nghệ

thuật thiết kế dàn trang đượng đại phải làm tròn nhiệm vụ của một kiến tức sư thông

tin. Thực tế tạp chí Heritage có bộ master quy chuẩn định dạng đối với những seri

xuất bản và hệ thống ô lưới là mô thức căn bản cho tất cả các trang báo. Phân cấp

thông tin luôn phối hợp với những nghiên cứu tâm lý về chu trình đọc mang lại hiệu

quả logic khoa học hco nghệ thuật thiết kế dàn trang. Điểm mới trong giai đoạn sau

này của tạp chí Heritage là quan niệm về cấu trúc và không gian 3D. Trang tạp chí

sử dụng những yếu tố sẵn có của báo chí tạo nên một kết cấu mới mang tính ý niệm

trong một không gian nhiều chiều có độ hoàng tráng cao. Thẩm mỹ mới đã dẫn dắt

nghệ thuật thiết kế dàn trang lý giải thực tiễn thông tấn theo các hình thức nghệ

thuật và biểu tượng, thúc đẩy những tham dự tương tác và thiết lập những hệ thống

nghệ thuật của giao tiếp và biểu cảm. Tính sáng tạo cũng được đẩy cao hơn với

những thực hành có biểu hiện của sự gần như trống rỗng, vô nghĩa nhưng thực tế là

một bước phát triển khác của những ý nghĩa mới. Thủ pháp này gần với quan niệm

phương Đông, tuy vậy lại được thế giới áp dụng triệt để trong thiết kế đồ hoạ dàn

trang.

5. Lý thuyết thẩm mỹ truyền thông được các nhà nghiên cứu mỹ học và thực

hành nghệ thuật đương đại phát kiến và quy nạp trong bối cảnh nghệ thuật đa

phương tiện phát triển mạnh trên thế giới. Sau giai đoạn khủng hoảng, nghệ thuật

đương đại Việt Nam đã có những bước phát triển quan trọng với những đại diện

tiêu biểu trong các thể loại nghệ thuật, dần khẳng định vị thế của quan điểm thẩm

147

mỹ mới. Các xu thế của nghệ thuật thiết kế đồ hoạ cũng như thiết kế dàn trang đang

được hình thành bắt kịp với bước phát triển mạnh mẽ của công nghệ số và cách

mạng công nghiệp 4.0. Với tốc độ phát triển khoa học công nghệ, các loại hình xuất

bản đã chuyển sang các hình thức mới, ví dụ như ebook, audio book, báo mạng, tạp

chí điện tử… nhất thiết phải có những nghiên cứu mới dành cho phần thiết kế các

xuất bản phẩm điện tử. Đây cũng là một vấn đề cấp thiết hiện nay. Nghiên cứu thẩm

mỹ truyền thông cụ thể trong thiết kế tạp chí Việt Nam đã để lại những giá trị bài

học sâu sắc và thiết thực cho thực hành sáng tạo của các nhà thiết kế đồ hoạ Việt

Nam ngày nay.

Sự phát triển của thẩm mỹ truyền thông khẳng định nghệ thuật thiết kế đồ

họa không xa rời các bước đi của nghệ thuật đương đại, điều đã làm khó cho công

chúng cũng như các nhà chuyên môn quan tâm yêu mến. Thẩm mỹ truyền thông

chưa thực sự phổ biến rộng rãi ở Việt Nam, nhưng các biểu hiện của nó được các

nghệ sĩ trẻ thực hành phát huy mạnh mẽ và đã được xã hội Việt Nam thừa nhận. Về

môi trường báo chí Việt Nam, tuy có những ảnh hưởng không hoàn toàn tốt từ thị

trường nhưng các tạp chí hàng đầu vẫn chứng tỏ một quan điểm cập nhật đưa ra

những lựa chọn chính xác cho con đường phát triển thiết kế dàn trang của riêng

mình. Trong đó tạp chí Heritage của Hãng hàng không quốc gia Việt Nam là một

điển hình cho tư duy duy mỹ và đầy bản sắc truyền thống, bộc lộ những nét hiện đại

của thẩm mỹ truyền thông. Thẩm mỹ của thời đại điện tử và công nghệ số tuy

không còn xa lạ trên thế giới, nhưng vẫn luôn là cần thiết đối với sự vận động của

xã hội truyền thông ngày nay, đặc biệt với xã hội Việt Nam đang chuyển mình về

cơ cấu kinh tế và phát huy truyền thống văn hóa xã hội. Tạp chí Heritage với vị thế

sẵn có khẳng định được bản sắc truyền thống văn hóa cũng như sức phát triển mạnh

mẽ cùng văn hóa văn minh nhân loại sẵn sàng cho xu thế hội nhập toàn cầu hóa như

một tất yếu của lịch sử.

148

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

1. Vương Trọng Đức (2016), “Cấu trúc và tiêu chí thiết kế dàn trang bìa ấn

phẩm tạp chí”, Nghiên cứu Mỹ thuật, số 4, tr. 70 - 78.

2. Vương Trọng Đức (2017), “Những dạng thức và nguyên tắc thiết kế dàn

trang bìa ấn phẩm tạp chí”, Nghiên cứu Mỹ thuật, số 1, tr. 62 - 71.

3. Vương Trọng Đức (2017), “Thẩm mỹ truyền thông với mỹ thuật đương

đại Việt Nam”, Nghiên cứu Mỹ thuật, số 2, tr. 30 - 39.

149

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt

1. Radugin, AA (2002), Từ điển bách khoa Văn hóa học, Vũ Đình Phòng dịch,

Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam, Hà Nội.

2. Swann, Alan (2003), Ý tưởng, bố cục và thể hiện - Design & Layout (Volum 2),

Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Đào Duy Anh (2000), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà

Nội.

4. Lê Trần Hậu Anh (2016), Mỹ thuật Việt Nam - Những biến đổi trong thời đại

công nghệ thông tin, Luận án tiến sĩ nghệ thuật, Viện Văn hóa Nghệ

thuật Quốc gia Việt Nam, Hà Nội.

5. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2014), Triển lãm Mỹ thuật ứng dụng toàn quốc

lần thứ II (2009 - 2014), Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.

6. Nguyễn Chí Bền (2006), Văn hóa Việt Nam, mấy vấn đề lý luận và thực tiễn,

Nxb VHTT, Hà Nội.

7. Barker, Chris (2011), Nghiên cứu văn hóa lý thuyết và thực hành, Bản dịch, Nxb

Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

8. Thor, Clas (2010), Sử dụng báo chí để dạy báo chí, Bộ Thông tin và Truyền

thông, Hà Nội.

9. Schmitt, Eva Maria & Schneider, Matthias (2013), Comics, Manga & Co. -Văn

hóa truyện tranh mới của Đức, Goethe Institute, Hà Nội.

10. Chevalier, Jean & Gheerbrant, Alain (1997), Từ điển biểu tượng văn hóa thế

giới, Bản dịch, Chủ biên Phạm Vĩnh Cư, Nxb Đà Nẵng, Tp HCM.

11. Tạ Phong Châu (chủ biên) (1977), Truyện các ngành nghề, Nxb Lao động, Hà

Nội.

12. Nguyễn Ngọc Dũng (2012), “Bàn về thuật ngữ Design”, In trong cuốn Tạp chí

Nghiên cứu Mỹ thuật, 3+4 (43+44), tr.12-15.

13. Vũ Cao Đàm (2008), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nxb Khoa học

150

và Kỹ thuật, Hà Nội.

14. Trần Thái Đỉnh (2012), Triết học hiện sinh, Nxb Văn học, Hà Nội.

15. Lê Thanh Đức (2002), “Hai mươi năm đồ họa ấn loát Việt Nam”, In trong cuốn

Kỷ yếu hội thảo đồ họa ứng dụng, tr.35- 40, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.

16. Lê Thanh Đức (2003), Nghệ thuật Mô đéc và hậu Mô đéc, Nxb Mỹ thuật, Hà

Nội.

17. Nguyễn Thái Hanh (2002), “Đồ họa Việt Nam - Đâu là cội nguồn, đâu là sáng

tạo”, In trong cuốn Kỷ yếu hội thảo đồ họa ứng dụng, tr.45 - 52, Nxb Mỹ

thuật, Hà Nội.

18. Hồ Xuân Hạnh (1992), Nghệ thuật chữ trang trí và quảng cáo, Nxb Khoa học

và kỹ thuật, Hà Nội.

19. Vũ Quang Hào (2001), Ngôn ngữ báo chí, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà

Nội.

20. Vũ Quang Hào (2004), Báo chí và đào tạo báo chí Thụy Điển, Nxb Hà Nội, Hà

Nội.

21. Vũ Quang Hào (2010), Báo chí – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Đại

học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

22. Phạm Thúy Hằng, Mats Wikman (2010), Những trang báo đẹp - Cẩm nang

dành cho các nhà thiết kế, Bộ Thông tin - Truyền thông, Hà Nội.

23. Đinh Thu Hiền (2011), Dòng tạp chí chỉ dẫn - Giải trí ở Việt Nam: Hiệu quả và

bất cập, Luận văn thạc sỹ báo chí, Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn

- Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

24. Bùi Như Hương (2008), “Thời kỳ thẩm mỹ thứ ba”, Nghiên cứu mỹ thuật,

trường đại học Mỹ thuật Hà Nội - Viện mỹ thuật, Nxb Mỹ thuật.

25. Lưu Thiên Hương (2002), Tính truyền thống và tính hiện đại của ma-két báo chí

Việt Nam, Luận văn thạc sĩ báo chí, Học viện Báo chí và Tuyên truyền,

Hà Nội.

26. Nguyễn Hồng Hưng (2012) Nguyên lý Design thị giác, Nxb Đại học Quốc gia

Tp Hồ Chí Minh.

151

27. Nguyễn Chí Hùng (2011), Ma-két phụ trương báo in ở thành phố Hồ Chí Minh

từ góc độ lý luận và thực tiễn (Khảo sát Tuổi trẻ cuối tuần, Phụ nữ chủ

nhật, Sài gòn giải phóng thứ bảy, Làm bạn với máy vi tính, Doanh nhân

Sài gòn cuối tuần từ 2008-2011), Luận văn thạc sỹ báo chí, Đại học

Khoa học Xã hội & Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

28. Nguyễn Hoàng Huy (2013), Mỹ học và phê bình nghệ thuật, Nxb Mỹ thuật, Hà

Nội.

29. Lê Huyên (1999), “Đồ họa mỹ thuật công nghiệp một chặng đường”, Công trình

chào mừng 50 năm ngày thành lập trường Đại học Mỹ thuật công

nghiệp, Hà Nội.

30. Hêghen (1999), Mỹ học, Phan Ngọc giới thiệu và dịch, Nxb Văn học, Hà Nội.

31. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (2007), Từ

điển Bách khoa Việt Nam, tập 1,2,3,4, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

32. Trần Tiểu Lâm (2012), Các hình thức minh họa sách giáo dục, Đề tài nghiên

cứu khoa học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

33. Nguyễn Duy Lẫm (2002), “Vài nét về đồ họa ứng dụng hiện nay”, In trong Kỷ

yếu Hội thảo Đồ họa ứng dụng, Trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội, tr.90,

Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.

34. Nông Thế Linh (2011), Hình và nét trong thiết kế tranh truyện, Luận văn thạc sĩ

đồ họa, Trường Đại học Mỹ thuật Công Nghiệp, Hà Nội.

35. Nguyễn Thanh Long (2012), Xây dựng thư viện Ma-két mẫu, Đề tài nghiên cứu

khoa học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

36. Cagan, Mac (2004), Hình thái học của nghệ thuật, Phan Ngọc dịch, Nxb Hội

Nhà văn, Hà Nội.

37. Jimenez, Marc (2016), 50 câu hỏi mỹ học đương đại, (Phạm Diệu Hương dịch),

Nxb Thế giới, Hà Nội.

38. Phạm Thị Nam (2010), Chữ trong đồ họa sách văn học những năm đầu thế kỷ

XXI, Luận văn thạc sĩ đồ họa, Trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp, Hà

Nội.

152

39. Đỗ Quế Nga (2005), Nghệ thuật trình bày sách trong mối quan hệ mật thiết của

nó với ngành xuất bản, Luận văn cao đẳng mỹ thuật, Trường Đại học Mỹ

thuật Công nghiệp, Hà Nội.

40. Đặng Thị Bích Ngân (chủ biên) (2012), Từ điển mỹ thuật phổ thông, Nxb Mỹ

thuật, Hà Nội.

41. Nhiều tác giả (2012), Nhập môn - Tư duy sáng tạo và phương pháp nghiên cứu

khoa học, Nxb Tri thức, Thành phố Hồ Chí Minh.

42. Nhiều tác giả (2007), Văn hóa học – Những phương pháp nghiên cứu, Viện Văn

hóa - Thông tin, Hà Nội.

43. Nhiều tác giả (2007), Kỹ thuật và Thể loại báo in, Hội Nhà báo Việt Nam, Hà

Nội.

44. Huỳnh Trà Ngộ (2003), Đại cương về Kỹ thuật in, Nxb Thế giới mới, Hà Nội.

45. Nguyễn Bách Ngọc (2000), Écgônômi trong thiết kế và sản xuất, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

46. Hà Huy Phượng (2000), Sự độc đáo của thông tin đồ họa, trong, Báo chí, những

điểm nhìn từ thực tiễn, Khoa báo chí, Học viện Báo chí và Tuyên truyền,

Nxb Văn hóa -Thông tin, Hà Nội.

47. Hà Huy Phượng (2006), Tổ chức nội dung và thiết kế, trình bày báo in, Nxb

Chính trị Xã hội, Hà Nội.

48. Parkers, Roger C. (2003), Thiết kế, tạo mẫu và dàn trang – Design & Layout

(Volum 1), Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

49. Hoàng Phê (chủ biên) (2004), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.

50. Hoàng Minh Phúc (2015), Đồ họa in khắc gỗ hiện đại Việt Nam, Nxb Thế giới,

Hà Nội.

51. Nguyễn Quân (2008), Ghi chú về nghệ thuật, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh.

52. Lê Minh Quốc (2002), Hành trình chữ viết, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.

53. Bùi Hoài Sơn (2008), Phương tiện truyền thông mới và những thay đổi văn hóa

xã hội ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

54. Đặng Đức Siêu (1982), Chữ viết và các nền văn hóa, Nxb Văn hóa, Hà Nội.

153

55. Phùng Văn Thành (2002), “Đồ họa trong Design công nghiệp”, In trong Kỷ yếu

hội thảo đồ họa ứng dụng, trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội - Viện Mỹ

thuật, Hà Nội.

56. Bùi Quang Thắng (chủ biên) (2008), 30 thuật ngữ nghiên cứu văn hóa, Nxb

KHXH, Hà Nội.

57. Lê Thân (2009), Màu sắc trong quảng bá thương hiệu, Đại học Mỹ thuật Công

nghiệp, tr.35 - 36, Hà Nội.

58. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Tp Hồ Chí

Minh.

59. Trương Thị Thu Thủy (2011), Nghệ thuật thiết kế tạp chí thương mại - giải trí,

Luận văn thạc sĩ mỹ thuật, Trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp, Hà

Nội.

60. Phạm Ngọc Tới (2012), Những yêu cầu mỹ thuật sách giáo dục, Đề tài nghiên

cứu khoa học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

61. Đặng Đức Tuệ (2007), Ma-két và Trình bày báo, Hội nhà báo Việt Nam, Hà

Nội.

62. Phan Cẩm Thượng (2011), Văn minh vật chất của người Việt, Nxb Tri thức, Hà

nội.

63. Nguyễn Trân (1995), Nghệ thuật đồ họa, Nxb. Mỹ Thuật, Hà Nội.

64. Thiết kế logo, nhãn hiệu, bảng hiệu theo tập quán Việt Nam và phương Đông

(1998), (Tố Nguyên dịch), Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.

65. Thiết kế logo nhãn hiệu, bảng hiệu theo tập quán Việt Nam và phương Đông

(1998), Tố Nguyên dịch, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.

66. Phan Cẩm Thượng, Cung Khắc Lược, Lê Quốc Việt (1999), Đồ họa cổ Việt

Nam, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.

67. Phan Cẩm Thượng (2011), Văn minh vật chất của người Việt, Nxb Tri thức, Hà

Nội.

68. Phan Cẩm Thượng (2017), Tập tục đời người văn hóa tập tục của người nông

dân Việt Nam thế kỷ 19 - 20, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

154

69. Viện Mỹ thuật (2007), Nghiên cứu mỹ thuật, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.

70. Viện Mỹ thuật (2008), Nghệ thuật Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa, ĐH

Mỹ thuật Việt Nam, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.

71. Lê Huy Văn (2001), Những vấn đề về design hiện đại, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.

72. Lê Huy Văn - Trần Văn Bình (2003), Lịch sử Design, Nxb Xây dựng, Hà Nội.

73. Lê Huy Văn (2003), Cơ sở phương pháp luận design, Nxb XD, Hà Nội.

74. Lê Huy Văn (2012), “Nguyên lý thị giác - Những chủ định trong đào tạo thiết

kế đồ họa và design”, In trong Nội san Mỹ thuật công nghiệp, tr.46 - 47,

Trường Đại học Mỹ thuật công nghiệp, Hà Nội.

75. Lê Quốc Việt, Cung Khắc Lược (1998), “Nghề in và đồ họa sách thời Nguyễn”,

Thông báo Hán nôm học, Viện nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội.

76. Trần Quốc Vượng (chủ biên), Tô Ngọc Thanh, Nguyễn Chí Bền, Lâm Mỹ

Dung, Trần Thúy Anh (2011), Cơ sở văn hóa Việt Nam, tái bản, Nxb GD

Việt Nam, Hà Nội.

77. Trần Nhật Vy (2015), Báo quấc ngữ ở Sài Gòn cuối thế kỷ 19, Nxb Trẻ.

78. Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà

Nội.

Tài liệu tiếng nước ngoài

79. Ambrose, Gavin & Harris, Paul (2003), The Fundamentals of Creative Design

(Cơ sở thiết kế sáng tạo), AVA Publishing.

80. Armstrong, Helen (2009), Graphic Design Theory (Lý thuyết thiết kế đồ họa),

Princeton Architectural Press.

81. Baer, Kim (2008), Information Design Workbook (Thực hành thiết kế thông

tin), Rockport Publisher.

82. Bringhurst, Robert (2005), The Elements of typographic Style, Version 3.1 (Các

yếu tố trong phong cách đồ họa chữ), Hartley & Marks Publishers,

Vancouver.

83. Campell, Paul N. (2009), “Communication Aesthetics” “Thẩm mỹ truyền

thông”, Today’s Speech Vol. 19, is. 3, 1971 Page 7-18 (Published online:

155

21 May 2009).

84. Coates, Kathryn & Ellison, Andy (2014), An Introduction to Information Design

(Giới thiệu thiết kế thông tin), Laurence King Publishing.

85. Costa, Mario (2005). Phenomenology of New Tech Arts (Hiện tượng học về

nghệ thuật công nghệ mới), University of Salerno, Artmedia.

86. Costa, Mario (2010), Contemporary art and aesthetics of the flow (Nghệ thuật

đương đại và thẩm mỹ thông lượng), Edizioni Mercurio, Vercelli, Euro

15.

87. Culler, Krintin (2005), Layout Workbook (Sách thực hành dàn trang), Rockport

Publishers.

88. Duc, Bernard (2001), L’art de la composition et du cadrage – Peinture,

photographie, bandes dessinees, publicite (Nghệ thuật bố cục và khuôn

hình – Dành cho Hội họa, Nhiếp ảnh, Tranh truyện, quảng cáo), Editions

Fleurus, Paris.

89. Forest, Fred (1996), “Against official contemporary art, for an art of the

present” (Nghệ thuật hiện tại chống lại nghệ thuật đương đại mang tính

chính thống), Tạp chí Leonardo, Số 29, quyển 2, Tháng 4/1996, trang

167-169.

90. Graver, Amy & Jura, Ben (2012), Grids and Page Layouts (Dàn trang và ô

lưới), Rockport.

91. Helgeson, Susanne (2007), New design in Sweden (Thiết kế mới ở Thụy Điển),

Swedish Institute, Helsingborg.

92. Heskett, John (2002), Design: A Very Short Introduction (Giới thiệu cốt lõi về

thiết kế), Oxford University Press, Oxford.

93. Hummels, C., & Overbeeke, K. (2010). Special issue editorial: Aesthetics of

interaction (Số đặc biệt: Thẩm mỹ tương tác), International Journal of

Design, 4(2), 1-2.

94. King, Stacey (2001), Magazine Design that works (Thực hành thiết kế tạp chí),

Rockport Publishers, New York.

156

95. Landa, Robin (2001), “Graphic Design Solutions” “Đến Giải pháp thiết kế đồ

họa”, Cengage Learning Publishers, Albany, New York.

96. Meggs, Philip B. & Purvis, Alston W. (2012), A History of Graphic Design, 5th

Edition (Lịch sử thiết kế đồ họa), John Alley & Sons, Inc., DC.

97. Parker, Mike & Spiekermann, Erik (2011), Typography 32 (Nghệ thuật chữ 32),

Harper Collins Publishers, New York.

98. Picado, Benjamin (2015), “From objects of Communication towards

reasonableness of sensibility: aesthetic experience and epistemology of

Communication” (Từ các đối tượng truyền thông hướng tới tính hợp lý:

kinh nghiệm và nhận thức luận thẩm mỹ của truyền thông), Intercom -

RBCC, số 38, bản 1, tr. 151-168, tháng 6/tháng 7. 2015. São Paulo.

99. Rand, Paul (1993), Design, Form, and Chaos (Thiết kế, hình khối, và những

điều liên quan), Yale University Press, New Haven.

100. Rapti, Youli & Theologou, Kostas, Về sự thúc giục để xác định lại nghệ thuật

như là một kinh nghiệm mới trong văn hoá hiện đại, youlirapti@yahoo.com

& ktheolog@central.ntua.gr, Đại học Kỹ thuật Quốc gia A-then.

101. Samara, Timothy (2002), Making and Breaking the Grids – A Graphic Design

Layout Workshop (Ứng dụng ô lưới – Thực hành thiết kế đồ hoạ dàn

trang), Rockport Publishers Inc, Gloucester.

102. Samara, Timothy (2005), Publication Design Workbook (Thực hành thiết kế

xuất bản phẩm), Rockport Publishers.

103. Samara, Timothy (2007), Design Elements – A Graphic Style Manual (Các yếu

tố trong thiết kế - Hướng dẫn phong cách thiết kế), Rockport Publishers,

New York.

104. Shelley, James, (2015), The Concept of the Aesthetic (Quan niệm thẩm

mỹ), The Stanford Encyclopedia of Philosophy (Winter Edition), Edward

N. Zalta (ed.).

105. White, Alexander W. (2011), The Element of Graphic Design (Các yếu tố

trong thiết kế đồ họa), Allworth Press.

157

106. White, Jan V. (2003), Editing by Design (Biên tập bằng thiết kế), Allworth

Press.

107. Wir Design GmnH (2000), Corporate Communications (Truyền thông nhận

diện thương hiệu), Braunschweig.

108. Ceng Yaonong (2008), 现代传播美学 (Thẩm mỹ truyền thông hiện đại),

Tsinghua University Press Publishinghouse.

109. Yao Heming (2001), 传播美学导论 (Dẫn luận về Mỹ học truyền thông), Bắc

Kinh Quảng bá học viện xuất bản xã.

Tài liệu trang web

110. Vietnam Ad (2016), “Mười bí quyết cho thiết kế tạp chí”, vietnamad.com.vn,

18/01/2017.

111. Bùi Khiêm (2015), “Báo Tạp chí - Sự giống nhau và khác biệt”, Đài phát thanh

và truyền hình Bắc Ninh, bacninhtv.vn, 20/06/2015.

112. Angle, Dan (2016), “The Ultimate Guide to Cover Design” (Hướng dẫn thực

hành thiết kế bìa), Century One, Century One Publishing, UK.

centuryonepublishing.uk, 24/09/2015.

113. Forest, Fred (1983), “For an aesthetics of communication” (Dành cho thẩm mỹ

truyền thông), hypermonde.net, 13/09/2016.

114. Quinn, Tony (2016), “The secrets of magazine cover design” (Bí mật thiết kế

bìa tạp chí), Magnificent Magforum-University of Westminster

Journalism website, 22/06/2016.

115. Sandu, Bogdan (2016), “Tips and Inspiration on How to Design a Magazine

Cover” (Cảm hứng và lời khuyên thiết kế bìa tạp chí),

DesignYourWay.net, 13/8/2016.

116. Vasile, Christian (2016), “Useful Tips for Designing Memorable Magazine

Layouts” (Lời khuyên dành cho thiết kế dàn trang tạp chí),

1stwebdesigner.com, 17/05/2016.

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH

VIỆN VĂN HOÁ NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

THẨM MỸ TRUYỀN THÔNG

TRONG THIẾT KẾ TẠP CHÍ HERITAGE

PHỤ LỤC LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT

Hà Nội – 2018

159

MỤC LỤC

Phụ lục 1: Hình ảnh Tạp chí Heritage………………………………….160

Phụ lục 2: Điều tra, khảo sát bằng bảng hỏi……………………………256

160

PHỤ LỤC 1

HÌNH ẢNH TẠP CHÍ HERITAGE

1.1. TẠP CHÍ HERITAGE NĂM 1993

1.1.1. SỐ THÁNG 5-6 NĂM 1993

H.1. Trang bìa số tháng 5-6, 1993.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

161

H.2. Giới thiệu ra mắt tạp chí, tr.1, số tháng 5-6 năm 1993.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

H.3. Bài “Futuristic Ho Chi Minh - Thành phố tương lai”, tr.4-5, số tháng 5-

6 năm 1993.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

162

1.1.2. SỐ THÁNG 7-8 NĂM 1993

H.4. Trang bìa số tháng 7-8, 1993.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

H.5. Bài “The story of Vietnam Airline - Lịch sử phát triển của hàng không

Việt Nam”, tr.6-7, số tháng 7-8 năm1993.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

163

1.1.3. SỐ THÁNG 11-12 NĂM 1993

H.6. Trang bìa số tháng 11-12, 1993.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

1.2. TẠP CHÍ HERITAGE NĂM 1995

1.2.1. SỐ THÁNG 1-2 NĂM 1995

H.7. Trang bìa số tháng 1-2, 1995.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

164

1.2.2. SỐ THÁNG 5-6 NĂM 1995

H.8. Trang bìa số tháng 5-6, 1995.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

H.9. Bài “All Aboard The Reuni cation Express”, tr.24-25, số tháng 5-6 năm

1995.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

165

1.2.3. SỐ THÁNG 7-8 NĂM 1995

H.10. Trang bìa số tháng 7-8, 1995.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

H.11. Bài “Northwest Passage”, số tháng 7-8 năm 1995.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

166

1.2.4. SỐ THÁNG 11-12 NĂM 1995

H.12. Trang bìa số tháng 11-12, 1995.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

H.13. Bài “Tides of change”, số tháng 11-12 năm 1995.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

167

1.3. TẠP CHÍ HERITAGE NĂM 1999

1.3.1. SỐ THÁNG 1-2 NĂM 1999

H.14. Trang bìa số tháng 1-2, 1999.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

H.15. Bài “Bánh lá”, tr.18-19, số tháng 1-2 năm 1999.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

168

H.16. Bài “The Fairy Tale”, tr.34-37, số tháng 1-2 năm 1999.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

Tr.34-35.

Tr.36-37

169

1.3.2. SỐ THÁNG 9-10 NĂM 1999

H.17. Trang bìa số tháng 9-10, 1999.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

H.18. Bài “Mỹ thuật Việt Nam cuối thế kỷ”, số tháng 9-10 năm 1999.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

170

1.4. TẠP CHÍ HERITAGE NĂM 2000

1.4.1. SỐ THÁNG 1-2 NĂM 2000

H.19. Trang bìa số tháng 1-2, 2000.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

H.20. Bài “Đàn bầu”, tr.16-17, số tháng 1-2 năm 2000.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

171

1.4.2. SỐ THÁNG 9-10 NĂM 2000

H.21. Trang bìa số tháng 9-10, 2000.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

1.5. TẠP CHÍ HERITAGE NĂM 2001

1.5.1. SỐ THÁNG 1-2 NĂM 2001

H.22. Trang bìa số tháng 1-2, 2001.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

172

H.23. Bài “Dancing Dragons”, tr.16-17, số tháng 1-2 năm 2001.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

1.5.2. SỐ THÁNG 3-4 NĂM 2001

H.24. Trang bìa số tháng 3-4, 2001.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

173

H.25. Bài “What’s that tune?”, tr.8-9, số tháng 3-4 năm 2001.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

1.5.3. SỐ THÁNG 7-8 NĂM 2001

H.26. Trang bìa số tháng 7-8, 2001.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

174

1.6. TẠP CHÍ HERITAGE NĂM 2002

1.6.1. SỐ THÁNG 1-2 NĂM 2002

H.27. Trang bìa số tháng 1-2, 2002.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

H.28. Bài “Tet traditions”, tr.39, số tháng 1-2 năm 2002.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

175

1.6.2. SỐ THÁNG 9-10 NĂM 2002

H.29. Trang bìa số tháng 9-10, 2002.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

1.6.3. SỐ THÁNG 11-12 NĂM 2002

H.30. Trang bìa số tháng 11-12, 2002.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

176

H.31. Bài “Moving markets”, tr.14-15, số tháng 11-12 năm 2002.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

1.7. TẠP CHÍ HERITAGE NĂM 2003

SỐ THÁNG 3-4 NĂM 2003

H.32. Bài “Nhạc cung đình”, tr.26-27, số tháng 3-4 năm 2003.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

177

H.33. Bài “Nghệ thuật từ cái nhìn”, tr.70-71, số tháng 3-4 năm 2003.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

1.8. TẠP CHÍ HERITAGE NĂM 2005

SỐ THÁNG 5-6 NĂM 2005

H.34. Trang bìa số tháng 5-6, năm 2005.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

178

H.35. Bài “The sacred gem”, tr.46-47, số tháng 3-4 năm 2005.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

1.9. TẠP CHÍ HERITAGE NĂM 2006

1.9.1. SỐ THÁNG 7-8 NĂM 2006

H.36. Trang bìa số tháng 7-8, năm 2006.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

179

1.9.2. SỐ THÁNG 11-12 NĂM 2006

H.37. Trang bìa số tháng 11-12, năm 2006.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

H.38. Bài “The current of Contemporary Art”, số tháng 11-12 năm 2006.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

180

1.10. TẠP CHÍ HERITAGE NĂM 2007

1.10.1. SỐ THÁNG 1-2 NĂM 2007

H.39. Bài “Medical museum”, tr.90-91, số tháng 1-2 năm 2007.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

1.10.2. SỐ THÁNG 3-4 NĂM 2007

H.40. Trang bìa số tháng 3-4, năm 2007.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

181

H.41. Bài “Sự tích đèo Phật Tử”, số tháng 3-4 năm 2007.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

H.42. Bài “Brilliant Fungus”, tr.50-51, số tháng 3-4 năm 2007.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

182

1.11. TẠP CHÍ HERITAGE NĂM 2009

SỐ THÁNG 9-10 NĂM 2009

H.43. Trang bìa số tháng 9-10, năm 2009.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

H.44. Bài “Chào ngài Henri Oger”, tr.28-29, số tháng 9-10 năm 2009.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

183

H.45. Bài “Làng Việt Cổ bên sông”, tr.61, số tháng 9-10 năm 2009.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

1.12. TẠP CHÍ HERITAGE NĂM 2010

1.12.1. SỐ THÁNG 1-2 NĂM 2010

H.46. Trang bìa số tháng 1-2, năm 2010.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

184

H.47. Bài “Chuyện về một bộ sưu tập gốm”, tr.62-65, số tháng 1-2 năm

2010.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

Tr.62-63

Tr.64-65

185

H.48. Bài “Tranh Dân gian Hàng Trống”, tr.90-91, số tháng 1-2 năm 2010.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

1.12.2. SỐ THÁNG 5-6 NĂM 2010

H.49. Bài “Nhà xưa phố cũ”, tr.20-21, số tháng 5-6 năm 2010.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

186

H.50. Bài “Những khoảnh khắc Hồ Gươm”, tr.76-77, số tháng 5-6 năm 2010.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

1.12.3. SỐ THÁNG 7-8 NĂM 2010

H.51. Trang bìa số tháng 7-8, năm 2010.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

187

1.13. TẠP CHÍ HERITAGE NĂM 2011

1.13.1. SỐ THÁNG 11

H.52. Trang bìa số tháng 11, năm 2011.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

H.53. Bài “Đứt đoạn kết và kết nối”, tr.70-71, số tháng 11 năm 2011.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

188

1.13.1. SỐ THÁNG 12 NĂM 2011

H.54. Trang bìa số tháng 12, năm 2011.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

H.55. Bài “Bow to the Buddha”, tr.86-87, số tháng 12 năm 2011.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

189

1.14. TẠP CHÍ HERITAGE NĂM 2012

1.14.1. SỐ THÁNG 3 NĂM 2012

H.56. Bài “Khoảnh khắc bị lãng quên”, tr.50-53, số tháng 3 năm 2012.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

Tr.50-51

Tr.52-53

190

H.57. Bài “Nơi khởi nguồn cho dòng Siemriep”, tr.59, số tháng 3 năm 2012.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

H.58. Bài “Silky Blossoms”, tr.94-95, số tháng 3 năm 2012.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

191

1.14.2. SỐ THÁNG 5 NĂM 2012

H.59. Trang bìa số tháng 5, năm 2012.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

H.60. Bài “Câu chuyện của nước”, tr.48-53, số tháng 5 năm 2012.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

Tr.48-49.

192

Tr.50-51.

Tr.52-53.

193

H.61. Bài “5 điểm lặn ngắm cảnh đẹp trên thế giới”, tr.58, số tháng 5 năm

2012.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

H.62. Bài “Ối giời ơi và tình yêu với Hà Nội”, tr.98-103, số tháng 5 năm

2012.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

Tr.98-99.

194

Tr.102-103.

H.63. Bài “Jo Ha Kyu”, tr.108, số tháng 5 năm 2012.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

195

1.14.3. SỐ THÁNG 6 NĂM 2012

H.64. Bài “Yoga cười - Laughter Yoga”, tr.114-118, số tháng 6 năm 2012.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

Tr.114. Tr.118.

1.14.4. SỐ THÁNG 7 NĂM 2012

H.65. Bài “Over the waves”, tr.22-23, số tháng 7 năm 2012.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

196

H.66. Bài “Những cây cầu nổi tiếng thế giới - Iconic Bridges”, tr.76-81, số

tháng 7 năm 2012.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

Tr.76-77.

Tr.80-81.

197

1.14.5. SỐ THÁNG 8 NĂM 2012

H.67. Bìa số tháng 8 năm 2012.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

H.68. Bài “Lá biếc hồn sen”, tr.26-31, số tháng 8 năm 2012.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

Tr.26-27.

198

Tr.30-31.

H.69. Bài “Mạnh thường quân của nghệ sĩ Việt Nam”, tr.44-45, số tháng 8

năm 2012.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

199

H.70. Bài “Đạo diễn David Worth với khóa học làm phim 3 ngày”, tr.52-57,

số tháng 8 năm 2012.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

Tr.52-53.

H.71. Bài “Không ngủ ở Shinsaibashi - Sleepless in Shinsaibashi”, tr.84-89,

số tháng 8 năm 2012.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

Tr.84-85.

200

Tr.88-89.

H.72. Bài “Japanese drummers”, tr.93, số tháng 8 năm 2012.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

201

H.73. Bài “The cow racing festival”, tr.112-113, số tháng 8 năm 2012.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

H.74. Bài “The cow racing festival”, tr.112-113, số tháng 8 năm 2012.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

Tr.112. Tr.113

202

H.75. Bài “Bờ ao có con chuồn chuồn - Bamboo Dragonflies”, tr.124-127, số

tháng 8 năm 2012.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

Tr.124-125.

Tr.126-127.

203

1.14.6. SỐ THÁNG 9 NĂM 2012

H.76. Bài “Bàn ủi thời Nguyễn”, tr.26-27, số tháng 9 năm 2012.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

H.77. Bài “Như giấc mơ ùa về từ ký ức”, tr.46, số tháng 9 năm 2012.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

204

1.14.7. SỐ THÁNG 10 NĂM 2012

H.78. Bài “Royal Splendor”, tr.76, số tháng 10 năm 2012.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

1.14.8. SỐ THÁNG 12 NĂM 2012

H.79. Bài “All aboard”, tr.56-61, số tháng 12 năm 2012.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

Tr.56-57.

205

Tr.58-59.

Tr.60-61.

206

H.80. Bài “Simple and Peaceful”, tr.72-73, số tháng 12 năm 2012.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

1.15. TẠP CHÍ HERITAGE NĂM 2013

1.15.1. SỐ THÁNG 1 NĂM 2013

H.81. Trang bìa số tháng 1 năm 2013.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

207

H.82. Bài “Cabbage - The United States”, tr.102-103, số tháng 1 năm 2013.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

1.15.2. SỐ THÁNG 2 NĂM 2013

H.83. Bài “Năm rắn tìm hình tượng rắn từ nguồn nghệ thuật Việt cổ”, tr.12-

13, số tháng 2 năm 2013.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

208

H.84. Bài “Chuyện một người mê cổ vật”, tr.20-25, số tháng 2 năm 2013.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

Tr.20-21.

Tr.24-25.

209

H.85. Bài “Tet in Vietnam”, tr.32-33, số tháng 2 năm 2013.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

H.86. Bài “Vẽ con giáp chơi Tết”, tr.52-53, số tháng 2 năm 2013.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

210

1.15.3. SỐ THÁNG 3 NĂM 2013

H.87. Bài “Cây đời - Growing Beauty”, tr.34-41, số tháng 3 năm 2013.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

Tr.34-35.

Tr.36-37.

211

Tr.38-39.

Tr.40-41.

212

1.15.4. SỐ THÁNG 11 NĂM 2013

H.88. Bài “The Red Napoleon”, tr.18-19, số tháng 11 năm 2013.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

H.89. Bài “Naples - Thiên đường bên Địa trung hải”, tr.50-51, số tháng 11

năm 2013.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

213

1.16. TẠP CHÍ HERITAGE NĂM 2014

1.16.1. SỐ THÁNG 2 NĂM 2014

H.90. Trang bìa số tháng 2 năm 2014.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

H.91. Bài “Dập dềnh sông nước”, tr.40-41, số tháng 2 năm 2014.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

214

1.16.2. SỐ THÁNG 4 NĂM 2014

H.92. Trang bìa số tháng 4 năm 2014.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

H.93. Bài “Hanoi then and now”, tr.91, số tháng 4 năm 2014.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

215

1.16.2. SỐ THÁNG 5 NĂM 2014

H.94. Bài “Hương hoa vĩnh hằng - Scents of Eternity”, tr.38-43, số tháng 5

năm 2014.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

Tr.38-39.

Tr.40-41.

216

Tr.42-43.

1.16.3. SỐ THÁNG 7 NĂM 2014

H.95. Bài “Du ngoạn giữa trời xanh - Race the Clouds”, tr.58-67, số tháng 7

năm 2014.

Nguồn ảnh: Công ty cổ phần Tín hiệu mới Esign.

Tr.58-59.

217

Tr.60-61.

Tr.62-63.

218

Tr.64-65.

Tr.66-67.

219

H.96. Bài “Chuyện người làm dép cao su - Cherished Footsteps”, tr.98-101,

số tháng 7 năm 2014.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

Tr.98-99.

Tr.100-101.

220

1.17. TẠP CHÍ HERITAGE NĂM 2015

1.17.1. SỐ BẢN THỬ NĂM 2015

H.97. Bài “Dấu thiêng ngàn năm - The Imperial Citadel of Thang Long”,

năm 2015.

Nguồn ảnh: Công ty cổ phần Tín hiệu mới Esign.

221

H.98. Bài “Cõi mơ nơi trần thế - Heaven on Earth”, năm 2015.

Nguồn ảnh: Công ty cổ phần Tín hiệu mới Esign.

222

H.99. Bài “Cây đời - Growing Beauty”, năm 2015.

Nguồn ảnh: Công ty cổ phần Tín hiệu mới Esign.

223

224

1.17.2. SỐ THÁNG 7 NĂM 2015

H.100. Bài “Nhật ký 48 giờ - Scotland All Aboard”, tr.96-101, số tháng 7

năm 2015.

Nguồn ảnh: Công ty cổ phần Tín hiệu mới Esign.

Tr.96-97.

Tr.100-101.

225

1.17.3. SỐ THÁNG 8 NĂM 2015

H.101. Trang bìa số tháng 8 năm 2015.

Nguồn ảnh: Công ty cổ phần Tín hiệu mới Esign.

H.102. Bài “Công nghệ luyện kim đúc đồng trong văn hóa Đông Sơn -

Bronze Age”, tr.16-23, số tháng 8 năm 2015.

Nguồn ảnh: Công ty cổ phần Tín hiệu mới Esign.

Tr.16-17.

226

Tr.18-19.

Tr.20-21..

227

Tr.22-23.

H.103. Bài “Dấu ấn sông Hàn - Crossing the Han River”, tr.76-81, số tháng 8

năm 2015.

Nguồn ảnh: Công ty cổ phần Tín hiệu mới Esign.

Tr.76-77.

228

Tr.80-81.

H.104. Bài “Kỳ lạ những bộ tộc không mặc quần áo - Tribal people around

the world”, tr.108-115, số tháng 8 năm 2015.

Nguồn ảnh: Công ty cổ phần Tín hiệu mới Esign.

Tr.108-109.

229

Tr.110-111.

Tr.112-113.

230

Tr.114-115.

H.105. Bài “Chúng tôi yêu cái đẹp miền sơn cước - Mountain views”, tr.120-

126, số tháng 8 năm 2015.

Nguồn ảnh: Công ty cổ phần Tín hiệu mới Esign.

231

1.17.4. SỐ THÁNG 9 NĂM 2015

H.106. Bài “Hương sắc bốn mùa - Four Seasons of Colour”, tr.74-79, số

tháng 9 năm 2015.

Nguồn ảnh: Công ty cổ phần Tín hiệu mới Esign.

Tr.74-75.

Tr.78-79.

232

1.17.5. SỐ THÁNG 10 NĂM 2015

H.107. Trang bìa số tháng 10 năm 2015.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

H.108. Bài “Ngàn năm bia đá”, tr.20-21, số tháng 10 năm 2015.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

233

H.109. Bài “Huế nhìn từ trên cao - Hue from on high”, tr.60-65, số tháng 10

năm 2015.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

Tr.60-61.

Tr.64-65.

234

H.110. Bài “Những thác nước nổi tiếng xứ ngàn thông”, tr.96-97, số tháng

10 năm 2015.

Nguồn ảnh: Công ty cổ phần Tín hiệu mới Esign.

1.17.6. SỐ THÁNG 11 NĂM 2015

H.111. Bài “Look on the bright side”, tr.112-113, số tháng 11 năm 2015.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

235

1.18. TẠP CHÍ HERITAGE NĂM 2016

1.18.1. SỐ THÁNG 2 NĂM 2016

H.112. Trang bìa số tháng 2 năm 2016.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

1.18.2. SỐ THÁNG 9 NĂM 2016

H.113. Trang bìa số tháng 9 năm 2016.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

236

H.114. Bài “Tươi xanh màu lá gốm men lục Việt Nam - Evergreen”, tr.56-

61, số tháng 9 năm 2016.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

Tr.56-57.

Tr.58-59.

237

1.18.3. SỐ THÁNG 10 NĂM 2016

H.115. Bài “Gương mặt của một trung thần”, tr.48-49, số tháng 10 năm

2016.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

H.116. Bài “Hành trình của trái tim tự do”, tr.70-71, số tháng 10 năm 2016.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

238

H.117. Bài “Little treasures”, tr.128-129, số tháng 10 năm 2016.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

1.18.4. SỐ THÁNG 11 NĂM 2016

H.118. Trang bìa số tháng 11 năm 2016.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

239

1.19. TẠP CHÍ HERITAGE NĂM 2017

1.19.1. SỐ THÁNG 1 NĂM 2017

H.119. Trang bìa số tháng 1 năm 2017.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

H.120. Bài “A royal welcome for spring”, tr.30-31, số tháng 1 năm 2017.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

240

1.19.2. SỐ THÁNG 6 NĂM 2017

H.121. Trang bìa số tháng 6 năm 2017.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

H.122. Bài “Chạm vào lịch sử”, tr.16-17, số tháng 6 năm 2017.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

241

1.19.3. SỐ THÁNG 10 NĂM 2017

H.122. Trang bìa số tháng 10 năm 2017.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

H.123. Bài “Fragments of history”, tr.18-19, số tháng 10 năm 2017.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

242

H.124. Bài “Autumn bliss”, tr.76-77, số tháng 10 năm 2017.

Nguồn ảnh: Tòa soạn Tạp chí Heritage.

1.20. TẠP CHÍ HERITAGE NĂM 2018

1.20.1. SỐ THÁNG 2 NĂM 2018

H.125. Bài “Qua tranh dân gian tìm về Tết xưa - Portraits of a Culture”,

tr.22-27, số tháng 2 năm 2018.

Nguồn ảnh: Công ty cổ phần Tín hiệu mới Esign.

Tr.22-23.

243

Tr.24-25.

Tr.26-27.

244

H.126. Bài “Đây mùa xuân tới - Spring Colors”, tr.48-55, số tháng 2 năm

2018.

Nguồn ảnh: Công ty cổ phần Tín hiệu mới Esign.

Tr.48-49.

Tr.50-51.

245

Tr.52-53.

Tr.54-55.

246

H.127. Bài “Lặng nhìn thời gian trôi - Silent guardians”, tr.60-65, số tháng 2

năm 2018.

Nguồn ảnh: Công ty cổ phần Tín hiệu mới Esign.

Tr.60-61.

Tr.64-65.

247

H.128. Bài “Tết nhảy cua người Dao - Dance, dance, dance”, tr.86-91, số

tháng 2 năm 2018.

Nguồn ảnh: Công ty cổ phần Tín hiệu mới Esign.

Tr.86-87.

Tr.90-91.

248

H.129. Bài “Leo núi trong thành phố - Hongkong up and down”, tr.110-116,

số tháng 2 năm 2018.

Nguồn ảnh: Công ty cổ phần Tín hiệu mới Esign.

Tr.110-111.

Tr.112-113.

249

H.130. Bài “Tản mạn chuyện Tết xưa - New year’s nostalgia”, tr.120-125, số

tháng 2 năm 2018.

Nguồn ảnh: Công ty cổ phần Tín hiệu mới Esign.

Tr.120-121.

Tr.124-125.

250

1.20.2. SỐ THÁNG 3 NĂM 2018

H.131. Bài “Bảo vật quốc gia Thăng Long - Historic Treasures”, tr.12-17, số

tháng 3 năm 2018.

Nguồn ảnh: Toàn soạn Tạp chí Heritage.

Tr.12-13.

Tr.16-17.

251

H.132. Bài “Người nữ nhi theo dấu đại bàng - The eagle huntress of

Mongolia”, tr.122-130, số tháng 3 năm 2018.

Nguồn ảnh: Toàn soạn Tạp chí Heritage.

Tr.122-123.

Tr.124-125.

252

Tr.126-127.

Tr.130.

253

1.20.3. SỐ THÁNG 4 NĂM 2018

H.133. Trang bìa số tháng 4 năm 2018.

Nguồn ảnh: Toàn soạn Tạp chí Heritage.

H.134. Bài “Chuyện nhát Xoan Phú Thọ - Soul music”, tr.12-17, số tháng 4

năm 2018.

Nguồn ảnh: Toàn soạn Tạp chí Heritage.

Tr.12-13.

254

Tr.16-17.

H.135. Bài “Tiêu diệt mãng xà - Slaying the python”, tr.36-41, số tháng 4

năm 2018.

Nguồn ảnh: Toàn soạn Tạp chí Heritage.

Tr.36. Tr.37.

255

Tr.38. Tr.39.

256

PHỤ LỤC 2

ĐIỀU TRA, KHẢO SÁT BẰNG BẢNG HỎI

Điều tra bảng hỏi được thực hiện từ ngày 6/5/2018 đến ngày 8/7/2018.

- Số phiếu điều tra: 300

- Giới tính:

- Nam: 37.3%

- Nữ: 62.7%

- Độ tuổi:

- Dưới 18: 0.7%

- Từ 18 đến 25: 1.3%

- Từ 25 đến 36: 19.7%

- Từ 36 đến 45: 42.7%

- Trên 45: 35.7%

257

- Nghề nghiệp:

1. Báo chí 8% 10. Nghệ thuật 8.3%

2. Kinh doanh 16.7% 12. Nhân viên văn phòng 11.7%

3. Cơ khí 13. Nội trợ 0% 3%

4. Du lịch, giải trí 2% 14. Tin học, lập trình viên 1%

5. Giáo dục 10% 15. Truyền thông 4.3%

6. Học sinh, sinh viên 1% 16. Văn hóa 0.7%

7. Kinh tế, tài chính, ngân 13.7% 17. Xây dựng, kiến trúc 6.3%

hàng

8. Luật sư 1.7% 18. Y tế, bác sỹ 3.3%

9. Môi trường, sinh học 2.3% 19. Khác 6%

258

KẾT QUẢ ĐIỀU TRA:

1. Anh (Chị) đánh giá thế nào về Tạp chí Heritage?

- Tinh tế, sang trọng 23%

- Đẹp 62.3%

- Bình thường 14.7%

- Xấu 0%

2. Điều gì lôi cuốn bạn đầu tiên khi đọc tạp chí Heritage?

- Hình ảnh đẹp 53.7%

- Tạp chí được thiết kế đẹp 31.7%

- Nội dung bài viết tốt 18.7%

- Tất cả các lựa chọn trên 29%

259

3. Anh (chị) nhận thấy thông điệp chủ đạo của tạp chí Heritage là gì?

- Di sản 15%

- Văn hóa 28%

- Du lịch 34.7%

- Tất cả các thông điệp trên 59%

4. Việc trình bày nội dung trên tạp chí Heritage có dễ đọc hay không?

- Có 92.3%

- Không 7.7%

260

5. Tạp chí Heritage có sự đột phá về ý tưởng trong thiết kế không?

- Có 44%

- Không 56%

6. Tạp chí Heritage có phong cách riêng không?

- Có 78.7%

- Không 21.3%

7. Tạp chí Heritage có thể hiện bản sắc dân tộc không?

- Có 75%

- Không 25%

261

8. Tạp chí Heritage có bị ảnh hưởng bởi yếu tố thị trường không?

- Có 71.6%

- Không 28.4%

9. Về hình thức, tạp chí Heritage có bắt kịp xu thế thời đại không?

- Có 84.3%

- Không 15.7%

10. Anh (Chị) đánh giá mối quan hệ giữa nội dung và hình thức được thể hiện trong

tạp chí Heritage như thế nào?

- Có mối liên hệ chặt chẽ 91.3%

với nhau

- Không liên hệ với nhau 8.7%

11. Anh (Chị) đánh giá sự kết hợp giữa nghệ thuật và truyền thông trong tạp chí

262

Heritage như thế nào?

- Nghệ thuật góp phần tạo nên sức 59%

mạnh truyền thông

- Nghệ thuật có đóng góp nhưng 40%

không nhiều

- Không có hiệu quả gì 1%

12. Hình thức thiết kế của tạp chí Heritage có thể hiện được vị thế là một trong

những tạp chí hàng đầu Việt Nam không?

- Có 37%

- Có một phần 55.3%

- Không có 7.7%

13. Thiết kế mỹ thuật của tạp chí Heritage có trở thành một biểu tượng thành công

trong mặt bằng chung các tạp chí không?

- Có 44%

- Có một phần 49.3%

- Không có 6.7%

14. Hình thức mỹ thuật của tạp chí Heritage có góp phần vào việc hoàn thành sứ

mệnh của tạp chí Heritage trong các hoạt động chung của Hãng hàng không Quốc

263

gia Việt Nam không?

- Có 50%

- Có một phần 48%

- Không có 2%