BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH
BÙI KIM DUNG
NHẬN DIỆN KIỆT QUỆ TÀI CHÍNH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT
NAM DỰA VÀO DÒNG TIỀN
LUẬN ÁN TIẾN SỸ TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2023
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH
BÙI KIM DUNG
NHẬN DIỆN KIỆT QUỆ TÀI CHÍNH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT
NAM DỰA VÀO DÒNG TIỀN
LUẬN ÁN TIẾN SỸ TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG
Mã số: 9.34.02.01
Người hướng dẫn khoa học: 1. TS. MAI THỊ TRÚC NGÂN
2. TS. LÊ HOÀNG VINH
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2023
i
LỜI CAM ĐOAN
Luận án tiến sỹ, chuyên ngành Tài chính – Ngân hàng “Nhận diện kiệt quệ tài
chính của các doanh nghiệp Việt Nam dựa vào dòng tiền” là công trình nghiên
cứu riêng của nghiên cứu sinh Bùi Kim Dung, dưới sự hướng dẫn khoa học của
TS. Mai Thị Trúc Ngân và TS. Lê Hoàng Vinh. Kết quả nghiên cứu đảm bảo tính
trung thực dựa trên dữ liệu có nguồn gốc đáng tin vậy và các tài liệu tham khảo
được trích dẫn theo đúng quy định.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 10 năm 2022
Người cam đoan
BÙI KIM DUNG
ii
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, nghiên cứu sinh Bùi Kim Dung trân trọng cảm ơn quý Thầy Cô
của Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh tham gia đào tạo chương
trình tiến sỹ chuyên ngành Tài chính – Ngân hàng. Đặc biệt, tôi trân trọng cảm ơn
tập thể hướng dẫn khoa học là TS. Mai Thị Trúc Ngân và TS. Lê Hoàng Vinh, các
Thầy Cô đã luôn quan tâm động viên, hướng dẫn nghiên cứu và hỗ trợ tôi hoàn
thành luận án này.
Luận án được hoàn thành trong điều kiện thuận lợi, dưới sự hỗ trợ của Khoa
Sau Đại học. Tôi trân trọng cảm ơn PGS. TS. Lê Đình Hạc, ThS. Vũ Thị Thu Hà
đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi có thể hoàn thành các thủ tục để thực hiện
luận án.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn đến quý đồng nghiệp nơi tôi công tác, bạn bè và
người thân đã luôn bên cạnh động viên tôi hoàn thành luận án này.
Trân trọng! Nghiên cứu sinh Bùi Kim Dung
iii
TÓM TẮT
------------------------------
Mục tiêu của luận án là đánh giá ảnh hưởng của dòng tiền đến kiệt quệ tài
chính, từ đó đề xuất nhận diện kiệt quệ tài chính có sự tham gia cấu thành của
dòng tiền đối với trường hợp các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tại Việt
Nam. Mẫu nghiên cứu là 505 doanh nghiệp trong giai đoạn 2015 – 2020 theo
phương pháp chọn mẫu có mục đích, dữ liệu thứ cấp được tiếp cận từ báo cáo tài
chính đã kiểm toán và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp.
Phân tích hồi quy cho thấy ảnh hưởng ngược chiều đến kiệt quệ tài chính của
tổng dòng tiền ròng, dòng tiền hoạt động kinh doanh và ảnh hưởng cùng chiều đến
kiệt quệ tài chính của dòng tiền hoạt động tài trợ, trong khi đó dòng tiền hoạt động
đầu tư không đảm bảo ý nghĩa thống kê. Về tương tác giữa các dòng tiền, sự
tương tác giữa dòng tiền hoạt động đầu tư với kinh doanh và giữa dòng tiền hoạt
động kinh doanh với tài trợ có ý nghĩa ảnh hưởng bổ sung (cùng chiều) cho nhau
đến tình trạng kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp; trong khi đó sự tương tác
giữa dòng tiền hoạt động tài trợ và đầu tư cũng ảnh hưởng cùng chiều đến kiệt quệ
tài chính, nhưng mối quan hệ này không đảm bảo được ý nghĩa thống kê. Ngoài
ra, luận án cũng xác định được vai trò điều tiết của dòng tiền hoạt động kinh
doanh đối với tác động của đòn bẩy tài chính đến kiệt quệ tài chính của các doanh
nghiệp.
Từ khóa: Dòng tiền; Kiệt quệ tài chính; doanh nghiệp phi tài chính
iv
ABSTRACT
------------------------------
The aim of this dissertation is to evaluate the impact of cash flows on financial
distress, thereby proposing to identify financial distress with the constitutive
participation of cash flow for the case of non-financial firms listed in Vietnam.
Research data is collected from audited financial statements of 505 non-financial
firms in the period of 2015-2020 according to purposive sampling method.
Regression analysis shows that the total net cash flow, operating cash flows
have negative significant impacts on financial distress and financing cash flows
have positive ones, while investing cash flows have no significant effects on
financial distress. The interaction between investing and operating cash flows as
well as the relationship among financing and operating cash flows have been
found to make obviously significant positive impacts on financial distress.
Meanwhile, although being proved to have some negative impacts on financial
distress, the relationship between operating and investing cash flows does not
imply much significance. In addition, this dissertation concludes that the operating
cash flow is a moderator to decrease the positive impact of financial leverage on
financial distress.
Key words: Cash flows; Financial distress; Non-financial firms
v
MỤC LỤC
----------------------------
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................ ii
TÓM TẮT ............................................................................................................ iii
ABSTRACT .......................................................................................................... iv
MỤC LỤC ............................................................................................................. v
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ............................................................................... ix
DANH MỤC KÝ HIỆU CÁC BIẾN ..................................................................... x
DANH MỤC BẢNG ............................................................................................ xi
DANH MỤC HÌNH ........................................................................................... xiii
Chương 1: GIỚI THIỆU ...................................................................................... 1
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU ........................................................ 1
1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ............................................................................ 6
1.2.1. Mục tiêu nghiên cứu tổng quát .................................................................... 6
1.2.2. Mục tiêu nghiên cứu cụ thể ........................................................................... 6
1.3. CÂU HỎI NGHIÊN CỨU .............................................................................. 7
1.4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ................................................ 7
1.4.1. Đối tượng nghiên cứu .................................................................................. 7
1.4.2. Phạm vi nghiên cứu ..................................................................................... 8
1.5. QUY TRÌNH NGHIÊN CỨU ......................................................................... 8
1.6. DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........................................ 10
1.6.1. Dữ liệu ........................................................................................................ 10
1.6.2. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 10
1.7. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI ............................ 10
1.8. CẤU TRÚC KHÁI QUÁT CỦA ĐỀ TÀI .................................................... 11
TÓM TẮT CHƯƠNG 1 ....................................................................................... 14
vi
Chương 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM ... 15
2.1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ KIỆT QUỆ TÀI CHÍNH CỦA CÁC DOANH
NGHIỆP ..................................................................................................... 15
2.1.1. Tổng quan về kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp ............................. 15
2.1.2. Các mô hình đo lường kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp ............... 18
2.2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ DÒNG TIỀN VÀ GIẢI THÍCH CỦA DÒNG
TIỀN CHO TÌNH TRẠNG KIỆT QUỆ TÀI CHÍNH CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP ...................................................................................... 26
2.2.1. Bản chất và ý nghĩa của dòng tiền ............................................................. 26
2.2.2. Ảnh hưởng của dòng tiền đến kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp .... 27
2.3. BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM VỀ KIỆT QUỆ TÀI CHÍNH VÀ
GIẢI THÍCH CỦA DÒNG TIỀN CHO TÌNH TRẠNG KIỆT QUỆ
TÀI CHÍNH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP ............................................... 33
2.3.1. Mô hình đo lường kiệt quệ tài chính .......................................................... 33
2.3.2. Dòng tiền, đòn bẩy tài chính và các yếu tố khác ảnh hưởng đến kiệt quệ tài
chính của doanh nghiệp ............................................................................... 40
2.3.3. Thảo luận các bằng chứng thực nghiệm và khoảng trống nghiên cứu của
đề tài ........................................................................................................... 65
2.3.3.1. Mô hình đo lường kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp ................... 65
2.3.3.2. Ảnh hưởng của dòng tiền đến kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp . 66
TÓM TẮT CHƯƠNG 2 ....................................................................................... 71
Chương 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................................. 73
3.1. THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU ............................................................................ 73
3.2. LỰA CHỌN MÔ HÌNH ĐO LƯỜNG KIỆT QUỆ TÀI CHÍNH ................ 75
3.3. MÔ HÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA
DÒNG TIỀN ĐẾN KIỆT QUỆ TÀI CHÍNH ............................................ 76
3.3.1. Mô hình nghiên cứu ................................................................................... 76
3.3.2. Đo lường các biến ...................................................................................... 80
3.3.3. Giả thuyết nghiên cứu ................................................................................ 81
vii
3.3.4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 89
3.4. MẪU VÀ DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU ........................................................... 91
3.4.1. Mẫu nghiên cứu ......................................................................................... 91
3.4.2. Dữ liệu nghiên cứu ..................................................................................... 92
TÓM TẮT CHƯƠNG 3 ....................................................................................... 94
Chương 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ............................. 96
4.1. LỰA CHỌN MÔ HÌNH ĐO LƯỜNG KIỆT QUỆ TÀI CHÍNH CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP ...................................................................................... 96
4.1.1. Kiểm định phân phối chuẩn của dữ liệu .................................................... 96
4.1.2. Kiểm định sự khác biệt .............................................................................. 97
4.1.3. Xác định mô hình phù hợp ......................................................................... 98
4.2. ẢNH HƯỞNG CỦA DÒNG TIỀN ĐẾN KIỆT QUỆ TÀI CHÍNH CỦA
CÁC DOANH NGHIỆP .......................................................................... 100
4.2.1. Tính dừng của chuỗi dữ liệu bảng ........................................................... 100
4.2.2. Thống kê mô tả ........................................................................................ 101
4.2.3. Ma trận tương quan và hệ số phóng đại phương sai ................................ 109
4.2.4. Kết quả ước lượng .................................................................................... 113
4.2.4.1. Mô hình nghiên cứu thứ nhất - Tổng dòng tiền và kiệt quệ tài chính .. 113
4.2.4.1. Mô hình nghiên cứu thứ hai - Từng dòng tiền và kiệt quệ tài chính .... 115
4.2.4.2. Mô hình nghiên cứu thứ ba - Sự tương tác giữa các dòng tiền ảnh hưởng
đến kiệt quệ tài chính ............................................................................... 119
4.2.4.3. Mô hình nghiên cứu thứ tư - Dòng tiền hoạt động kinh doanh điều tiết tác
động của đòn bẩy tài chính đến kiệt quệ tài chính ................................... 123
4.3. THẢO LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ................................................. 126
4.3.1. Lựa chọn mô hình đo lường kiệt quệ tài chính ........................................ 126
4.3.2. Dòng tiền và kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp ............................ 127
4.3.3. Các yếu tố khác ảnh hưởng đến kiệt quệ tài chính của các
doanh nghiệp ............................................................................................ 131
TÓM TẮT CHƯƠNG 4 ..................................................................................... 133
viii
Chương 5: KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý, KHUYẾN NGHỊ ................................. 135
5.1. KẾT LUẬN ................................................................................................. 135
5.2. GỢI Ý, KHUYẾN NGHỊ ............................................................................ 136
5.2.1. Lựa chọn sử dụng mô hình đo lường kiệt quệ tài chính .......................... 136
5.2.2. Dòng tiền và kiệt quệ tài chính ................................................................ 137
5.2.2.1. Nhận diện kiệt quệ tài chính có sự tham gia cấu thành của dòng tiền .. 137
5.2.2.2. Giảm thiểu kiệt quệ tài chính dựa vào quản trị dòng tiền .....................138
5.3. HẠN CHẾ VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO CỦA ĐỀ TÀI ...... 141
5.3.1. Hạn chế của đề tài .................................................................................... 141
5.3.2. Hướng nghiên cứu tiếp theo ..................................................................... 142
TÓM TẮT CHƯƠNG 5 ..................................................................................... 143
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 144
CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CÓ LIÊN QUAN CỦA NGHIÊN CỨU SINH
PHỤ LỤC MẪU VÀ DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU
ix
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
------------------
Từ viết đầy đủ Từ viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt
Dòng tiền ròng hoạt động NFCF Net financing cash flows tài trợ
Mô hình hồi quy các ảnh Fixed Effect Model FEM hưởng cố định
Phương pháp bình phương Generalized Least Square GLS nhỏ nhất tổng quát
Ho Chi Minh Stock Sở giao dịch chứng khoán HOSE Exchange Hồ Chí Minh
Sở giao dịch chứng khoán HNX Ha Noi Stock Exchange Hà Nội
Null hypothesis H0 Giả thuyết H0 (giả thuyết không)
Alternative hypothesis H1 Giả thuyết H1 (giả thuyết nghịch)
Dòng tiền ròng hoạt động NICF Net investing cash flows đầu tư
Dòng tiền ròng hoạt động NOCF Net operating cash flows kinh doanh
Mô hình hồi quy gộp POLS Pooled ordinary least squares
Random Effect Model REM Mô hình hồi quy ảnh hưởng ngẫu nhiên
Variance-inflating factor Hệ số phóng đại phương sai VIF
x
DANH MỤC KÝ HIỆU CÁC BIẾN
------------------
Tên biến
Ký hiệu biến Tiếng Việt Tiếng Anh
Kiệt quệ tài chính FD Financial distress
(Tổng) Dòng tiền ròng NCF Net cash flow
OCF Net operating cash flows Dòng tiền ròng hoạt động kinh doanh
ICF Net investing cash flows Dòng tiền ròng hoạt động đầu tư
Dòng tiền ròng hoạt động FCF Net financing cash flows tài trợ
Interaction among Sự tương tác giữa dòng
OCF*ICF operating and investing tiền ròng hoạt động kinh
cash flows doanh và đầu tư
Interaction among Sự tương tác giữa dòng
ICF*FCF financing and investing tiền ròng hoạt động tài trợ
cash flows và đầu tư
Interaction among Sự tương tác giữa dòng
FCF*OCF operating and financing tiền ròng hoạt động kinh
cash flows doanh và tài trợ
AGE Firm age Tuổi doanh nghiệp
SIZE Firm size Quy mô doanh nghiệp
LEV Financial leverage Đòn bẩy tài chính
LEV*OCF
Interaction among operating cash flows and financial leverage Sự tương tác giữa dòng tiền ròng hoạt động kinh tài doanh và đòn bẩy chính
xi
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Tóm tắt nội dung các mô hình đo lường kiệt quệ tài chính ................. 22
Bảng 2.2. Tổng quan nghiên cứu ảnh hưởng của dòng tiền đến kiệt quệ tài chính
tại các doanh nghiệp ...................................................................................54
Bảng 3.1. Tình trạng từng dòng tiền .................................................................... 79
Bảng 3.2. Tổng hợp cách đo lường và giả thuyết nghiên cứu ............................. 86
Bảng 3.3. Nguồn dữ liệu cho các biến ................................................................. 93
Bảng 4.1. Kiểm định phân phối chuẩn của dữ liệu .............................................. 96
Bảng 4.2. Kiểm định Kruskal-Wallis ................................................................... 97
Bảng 4.3. Mức độ chính xác và các dạng sai lầm ................................................ 99
Bảng 4.4. Kiểm định tính dừng của chuỗi dữ liệu bảng .................................... 100
Bảng 4.5. Thống kê mô tả các biến .................................................................... 101
Bảng 4.6. Thống kê số lượng doanh nghiệp theo tình trạng NCF ..................... 103
Bảng 4.7. Thống kê số lượng doanh nghiệp theo tình trạng từng dòng tiền ..... 104
Bảng 4.8. Thống kê số lượng doanh nghiệp theo các mô hình kết hợp 3 dòng tiền
thành phần ......................................................................................... 106
Bảng 4.9. Ma trận hệ số tương quan và VIF ...................................................... 110
Bảng 4.10. Kết quả ước lượng theo POLS, FEM và REM
của mô hình nghiên cứu thứ nhất ...................................................... 113
Bảng 4.11. Kết quả ước lượng theo GLS và PCSE
của mô hình nghiên cứu thứ nhất ...................................................... 115
Bảng 4.12. Kết quả ước lượng theo POLS, FEM và REM
của mô hình nghiên cứu thứ hai ........................................................ 116
Bảng 4.13. Kết quả ước lượng theo GLS và PCSE
của mô hình nghiên cứu thứ hai ........................................................ 118
Bảng 4.14. Kết quả ước lượng theo POLS, FEM và REM
của mô hình nghiên cứu thứ ba .................................................. 119-120
xii
Bảng 4.15. Kết quả ước lượng theo GLS và PCSE
của mô hình nghiên cứu thứ ba ......................................................... 121
Bảng 4.16. Kết quả ước lượng theo POLS, FEM và REM
của mô hình nghiên cứu thứ tư ................................................... 123-124
Bảng 4.17. Kết quả ước lượng theo GLS và PCSE
của mô hình nghiên cứu thứ tư .......................................................... 125
xiii
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1. Quy trình nghiên cứu ............................................................................. 9
Hình 3.1. Thiết kế nghiên cứu lựa chọn mô hình đo lường phù hợp ................... 73
Hình 3.2. Thiết kế nghiên cứu ảnh hưởng của dòng tiền đến kiệt quệ tài chính .. 74
Hình 4.1. Số lượng doanh nghiệp từng năm theo S-Score ................................ 102
Hình 4.2. Số lượng doanh nghiệp của từng trường hợp kết hợp 3 dòng tiền .... 107
Hình 4.3. Thống kê mô tả FD cho từng kết hợp 3 dòng tiền ............................. 108
1
Chương 1:
GIỚI THIỆU
Chương 1 sẽ trình bày lý do chọn đề tài nghiên cứu, qua đó xác định mục
tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu, phạm vi và đối tượng nghiên cứu. Ngoài
ra, chương này mô tả tổng quát về quy trình nghiên cứu, cung cấp thông tin
khái quát về dữ liệu nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu, khẳng định ý
nghĩa khoa học và thực tiễn cũng như đóng góp mới của đề tài, và cuối chương
sẽ giới thiệu khái quát nội dung các chương trong tổng thể đề tài.
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Mục tiêu của quản trị tài chính là tối đa hóa lợi nhuận, tiến đến gia tăng giá trị
thị trường doanh nghiệp, đồng thời là sự gia tăng giá trị tài sản của chủ sở hữu;
không có lợi nhuận thì chẳng ai chấp nhận góp vốn đầu tư cho hoạt động của
doanh nghiệp, đó là nguyên lý cơ bản của tài chính doanh nghiệp. Tuy nhiên, điều
này không có nghĩa là doanh nghiệp tìm kiếm lợi nhuận mà bất chấp rủi ro, doanh
nghiệp luôn cân nhắc đến nguyên tắc đánh đổi giữa lợi nhuận và rủi ro từ các
quyết định tài chính.
Quyết định tài trợ bằng nợ hình thành đòn bẩy tài chính (Financial leverage)
trong cơ cấu vốn giúp doanh nghiệp giảm thuế thu nhập doanh nghiệp và chi phí
vốn thấp hơn so với quyết định tài trợ bằng vốn chủ sở hữu, tuy nhiên quyết định
này làm gia tăng rủi ro cho doanh nghiệp – rủi ro tài chính. Rủi ro tài chính từ
quyết định tài trợ bằng nợ bao gồm hai khía cạnh cụ thể là: (i) gia tăng mức độ
không chắc chắn của lợi nhuận dành cho chủ sở hữu, (ii) nguy cơ có thể xảy ra
tình trạng kiệt quệ tài chính.
Kiệt quệ tài chính (Financial distress) là một trong những vấn đề luôn được
các công ty xem xét khi quyết định vay nợ, bắt nguồn từ những cam kết và trách
nhiệm tài chính của công ty đối với các chủ nợ (Brealey & cộng sự, 2008;
Ehrhardt & Brigham, 2011). Kiệt quệ tài chính xảy ra khi doanh nghiệp không đủ
2
khả năng thực hiện cam kết với chủ nợ, hoặc có thể thực hiện nhưng lại khó khăn.
Kiệt quệ tài chính có thể là tình trạng tạm thời và dẫn đến phát sinh một số rắc rối
cho doanh nghiệp như chủ nợ không tiếp tục tài trợ, dự án khả thi bị trì hoãn hay
bỏ qua,...; nhưng kiệt quệ tài chính cũng có thể dẫn đến phá sản doanh nghiệp.
Theo đó, nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã đúc kết tác động cùng chiều của đòn
bẩy tài chính hình thành bởi quyết định sử dụng nợ đến kiệt quệ tài chính
(Paramartha & Wiagustini, 2021; Dwiantari & Artini, 2021; Wesa & Otinga,
2018; Ceylan, 2021), hay Pourali & cộng sự (2013), Pranowo & cộng sự (2010)
đều khẳng định tồn tại tác động trái chiều của đòn bẩy tài chính đến kiệt quệ tài
chính.
Lý thuyết đánh đổi về cấu trúc vốn (Myers, 1977) cho rằng giá trị công ty có
nợ vượt trội hơn giá trị công ty không nợ nhờ đóng góp của khoản tiết kiệm thuế
từ lãi vay, nhưng lại mối quan hệ này sẽ ngược lại do công ty phải đối mặt với
kiệt quệ tài chính. Lý thuyết này hàm ý rằng sự cân đối hợp lý giữa lợi ích và chi
phí từ quyết định tài trợ bằng nợ sẽ mang đến cơ hội tối đa hóa giá trị công ty. Chi
phí kiệt quệ tài chính tùy thuộc vào phụ thuộc vào khả năng xảy ra những khó
khăn tài chính và độ lớn các khoản chi phí phát sinh có liên quan (Brealey & cộng
sự, 2008), vì vậy đo lường kiệt quệ tài chính cung cấp thông tin hữu ích cho hoạch
định tài trợ bằng nợ của các công ty.
Kiệt quệ tài chính có thể được lượng hóa bởi những mô hình với sự cấu thành
của các chỉ số tài chính khác nhau, trong đó mô hình Z-Score của Altman (1968)
được nhắc đến khá phổ biến (Ningsih & Permatasari, 2018). Theo đó, để áp dụng
mô hình đo lường phù hợp, các nghiên cứu thường tập trung đánh giá hai vấn đề
liên quan, bao gồm (i) Có hay không sự khác biệt trong kết quả đo lường kiệt quệ
tài chính theo các mô hình, và (ii) Mô hình đo lường nào là phù hợp nhất cho từng
trường hợp cụ thể. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm của Dolejšová (2015), cùng
mẫu nghiên cứu, các mô hình Altman Z-Score (1984), IN05 và Springate đều
khẳng định các doanh nghiệp có tình hình tài chính tốt, trong khi đó mô hình
Zmijewski lại cho rằng các doanh nghiệp này phải đối mặt với nguy cơ mất khả
năng thanh toán. Loppies & cộng sự (2020) cũng tìm thấy kết quả không nhất
3
quán, mô hình Altman Z-Score (1968) và mô hình Grover phân loại doanh nghiệp
vào nhóm không có nguy cơ phá sản, tuy nhiên mô hình Springate đưa ra phân
loại ngược lại.
Nghiên cứu thực nghiệm của Pakdaman (2018) khẳng định mô hình Grover có
khả năng dự đoán khó khăn tài chính tốt hơn ba mô hình còn lại (Altman Z-Score
năm 1968, Springate và Zmijewski). Tanjung (2020) đúc kết rằng mô hình
Altman Z-Score (1968) có thể đưa ra dự đoán chính xác về kiệt quệ tài chính hơn
so với các mô hình Springate, Zmijewski và Ohlson. Mulyati & Ilyasa (2020) lại
chỉ ra rằng mô hình Springate là tốt nhất để nhận diện kiệt quệ tài chính khi so
sánh giữa mô hình này với các mô hình Altman Z-Score (1995), Zmijewski và
IGR (Internal Growth Rate).
Ong’era và cộng sự (2017) xác định rằng 79,90% phương sai của kiệt quệ tài
chính được giải thích bởi đòn bẩy tài chính. Nghiên cứu thực nghiệm của Ikpesu
& Eboiyehi (2018), Giarto & Fachrurrozie (2020), Abdioğlu (2019), Lee &
Manual (2019), Dance & Mad (2019) đưa ra bằng chứng về tác động cùng chiều
của đòn bẩy tài chính đến kiệt quệ tài chính; ngược lại, Pourali & cộng sự (2013),
Finishtya (2019) đều cung cấp bằng chứng về tác động ngược chiều đến kiệt quệ
tài chính, tuy nhiên Finishtya (2019) lại tìm thấy rằng tác động độc lập này chưa
đảm bảo được mức ý nghĩa thống kê. Theo lý thuyết quản trị tài chính doanh
nghiệp, mâu thuẫn cơ bản của kiệt quệ tài chính là sự tồn tại của đòn bẩy tài chính
từ quyết định sử dụng nợ, theo đó doanh nghiệp có cam kết hoàn trả đầy đủ và
đúng hạn đối với vốn gốc và tiền lãi cho chủ nợ, trong khi khả năng thực hiện cam
kết lại dựa vào nền tảng khả năng tạo tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh của cá
doanh nghiệp.
Dòng tiền (cash flows) là một trong những khía cạnh tài chính doanh nghiệp
rất được quan tâm bởi nhiều chủ thể, bởi vì dòng tiền cung cấp thông tin hữu ích
cho cả chủ thể bên trong lẫn chủ thể bên ngoài doanh nghiệp. Thông qua tiếp cận
dòng tiền, các chủ thể có thể đánh giá khả năng tạo tiền và đúc kết chất lượng lãi
ròng, xu hướng đầu tư, và nhu cầu huy động nguồn tiền tài trợ từ bên ngoài, từ đó
có thể đánh giá được các khía cạnh tài chính doanh nghiệp như tình hình sử dụng
4
tiền và nguồn tiền, khả năng chi trả nợ gốc và lãi vay cho các chủ nợ bằng tạo ra
từ hoạt động kinh doanh, khả năng chia lãi cho chủ sở hữu bằng tiền tạo ra từ hoạt
động kinh doanh, khả năng tự chủ tài chính và nhiều vấn đề tài chính khác. Như
vậy, thông tin dòng tiền sẽ phát ra tín hiệu rất đáng tin cậy về sức khỏe tài chính
của các doanh nghiệp.
Nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã chứng minh mối quan hệ giữa dòng tiền và
kiệt quệ tài chính của doanh nghiệp. Đánh giá từng thành phần của dòng tiền ảnh
hưởng đến tình trạng kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp, các nghiên cứu đều
sử dụng chỉ số đo lường khả năng sử dụng dòng tiền để thực hiện các trách nhiệm
tài chính của doanh nghiệp; chẳng hạn như Jooste (2007) và Fawzi & cộng sự
(2015) đều cho rằng doanh nghiệp có thể rơi vào tình trạng kiệt quệ tài chính nếu
như doanh nghiệp phải đối diện với các vấn đề nghiêm trọng về dòng tiền, và từ
đó tác giả này đã gợi ý rằng dòng tiền là thông tin phản ánh tốt nhất dùng để nhận
diện kiệt quệ tài chính.
Nghiên cứu của Kordestani & cộng sự (2011), Shamsudin & Kamaluddin
(2015) đều kết luận rằng hai tình trạng dòng tiền có ý nghĩa thống kê trong việc
giải thích cho kiệt quệ tài chính ở mức độ nghiêm trọng là (i) Dòng tiền ròng hoạt
động kinh doanh dương, trong khi dòng tiền ròng từ hoạt động đầu tư và dòng tiền
ròng từ hoạt động tài trợ đều âm, và (ii) Dòng tiền ròng hoạt động kinh doanh,
dòng tiền ròng hoạt động đầu tư và dòng tiền ròng hoạt động tài trợ đều âm. Kết
quả nghiên cứu của Kordestani & cộng sự (2011) còn khẳng định thêm rằng kiệt
quệ tài chính có thể nhận biết nếu dòng tiền ròng hoạt động kinh doanh âm, dòng
tiền ròng hoạt động đầu tư và dòng tiền ròng hoạt động tài trợ đều dương, hay
dòng tiền ròng hoạt động kinh doanh và dòng tiền ròng hoạt động tài trợ đều âm
trong khi dòng tiền ròng hoạt động đầu tư dương; hay nghiên cứu của Shamsudin
& Kamaluddin (2015) lại chỉ ra thêm dòng tiền ròng hoạt động kinh doanh và
Dòng tiền ròng hoạt động đầu tư dương trong khi dòng tiền ròng hoạt động tài trợ
âm, hoặc trường hợp dòng tiền ròng hoạt động kinh doanh dương, dòng tiền ròng
hoạt động đầu tư âm và dòng tiền ròng hoạt động tài trợ dương cũng có ý nghĩa
giải thích cho kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp. Sayari & Mugan (2013)
5
xác định được rằng dòng tiền hoạt động kinh doanh có quan hệ ngược chiều với
chỉ số kiệt quệ tài chính, trong khi đó dòng tiền hoạt động tài trợ có quan hệ cùng
chiều với chỉ số kiệt quệ tài chính và dòng tiền hoạt động đầu tư không có ý nghĩa
thống kê.
Những tổng quan lý thuyết và bằng chứng thực nghiệm nêu trên đã chỉ ra rằng
mâu thuẫn cơ bản dẫn đến nguy cơ kiệt quệ tài chính của các công ty là việc sử
dụng nợ hình thành đòn bẩy tài chính trong cơ cấu nguồn tài trợ. Theo đó, để đảm
bảo mục tiêu quản trị tài chính, nhiều mô hình nhận diện kiệt quệ tài chính đã
được đề xuất với những thành phần khác nhau tùy trường hợp cụ thể; tuy nhiên,
các mô hình lại ít chú ý đến vai trò cấu thành quan trọng của dòng tiền. Nhiều
nghiên cứu thực nghiệm đã phân tích ảnh hưởng của dòng tiền như một yếu tố cấu
thành kiệt quệ tài chính, tuy nhiên kết quả được tìm thấy vừa có tính thống nhất
vừa trái ngược nhau. Đối sánh tiếp cận và thiết lập mô hình của các nghiên cứu
thực nghiệm cho thấy sự không nhất quán có thể xuất phát từ những nguyên nhân
cơ bản như (i) việc xây dựng các biến trong mô hình nghiên cứu, đa phần tiếp cận
độc lập các dòng tiền và chưa chú trọng sự tương tác giữa dòng tiền với đòn bẩy
tài chính, (ii) việc áp dụng những cách đo lường khác nhau cho kiệt quệ tài chính
gắn với từng trường hợp về không gian và thời gian cũng như bối cảnh nghiên
cứu, hoặc (iii) việc sử dụng những phương pháp, công cụ phân tích khác nhau dựa
trên quy mô mẫu cũng như dữ liệu nghiên cứu không giống nhau giữa các tác giả.
Đối với trường hợp các công ty tại Việt Nam, các nghiên cứu thực nghiệm chỉ
kiểm định sử dụng một mô hình đo lường kiệt quệ tài chính mà chưa có sự kiểm
tra, đối sánh mức độ phù hợp từ đa dạng các mô hình, chẳng hạn như Lê Cao
Hoàng Anh & Nguyễn Thị Thu Hằng (2012) với kiểm định chỉ số Z-Score, hay
Phạm Thị Hồng Vân (2018) nghiên cứu việc sử dụng mô hình Logit. Về việc xem
xét dòng tiền là yếu tố ảnh hưởng đến kiệt quệ tài chính, ít được đề cập bởi các tác
giả, mặc dù đã có nhiều nghiên cứu nhằm phân tích, giải thích cho kiệt quệ tài
chính của các công ty dựa trên các yếu tố tài chính và các yếu tố khác. Chẳng hạn,
Trần Thị Hải Lý & cộng sự (2014) tiếp cận dòng tiền chung, Phạm Thị Hồng Vân
(2018) tiếp cận dòng tiền hoạt động kinh doanh, và đều kết luận rằng dòng tiền
6
không đảm bảo được ý nghĩa thống kê. Trịnh Thị Phan Lan (2013) và Hoàng
Tùng (2011) đánh giá rủi ro từ đòn bẩy tài chính của các công ty, chủ yếu tập
trung vào các tỷ số tài chính dựa trên bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh
doanh mà chưa quan tâm đến dòng tiền. Với bối cảnh vừa đề cập trên, đề tài luận
án “Nhận diện kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam dựa vào dòng
tiền” đảm bảo ý nghĩa khoa học cả về lý thuyết lẫn thực tiễn, trong đó hai đóng
góp được kỳ vọng là hữu ích cho các công ty tại Việt Nam, bao gồm các nội dung
chính là (i) đề xuất mô hình đo lường phù hợp cho kiệt quệ tài chính từ đa dạng
các mô hình đã được đề xuất, và (ii) đánh giá dòng tiền như một yếu tố ảnh hưởng
đến kiệt quệ tài chính, là cơ sở cho việc phát triển mô hình nhận diện kiệt quệ tài
chính có chú trọng đến sự cấu thành của dòng tiền.
1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.2.1. Mục tiêu nghiên cứu tổng quát
Mục tiêu nghiên cứu tổng quát của đề tài là đánh giá ảnh hưởng của dòng tiền
đến kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tại Việt Nam,
qua đó đề xuất nhận diện kiệt quệ tài chính có sự tham gia cấu thành của dòng
tiền, đồng thời gợi ý, khuyến nghị quản trị dòng tiền gắn với mục tiêu kiểm soát
tình trạng kiệt quệ tài chính có nguồn gốc từ việc sử dụng đòn bẩy tài chính.
1.2.2. Mục tiêu nghiên cứu cụ thể
Từ mục tiêu nghiên cứu tổng quát nói trên, đề tài xác định các mục tiêu nghiên
cứu cụ thể như sau:
Thứ nhất, lựa chọn được mô hình phù hợp để đo lường kiệt quệ tài chính của
các doanh nghiệp.
Thứ hai, Đánh giá ảnh hưởng của dòng tiền chung và từng dòng tiền đến kiệt
quệ tài chính của các doanh nghiệp.
Thứ ba, Đánh giá ảnh hưởng của sự tương tác giữa các dòng tiền đến kiệt quệ
tài chính của các doanh nghiệp.
Thứ tư, Đánh giá vai trò điều tiết của dòng tiền dòng tiền hoạt động kinh
doanh đối với tác động của đòn bẩy tài chính đến kiệt quệ tài chính của các doanh
nghiệp.
7
Thứ năm, Đề xuất nhận diện kiệt quệ tài chính có sự tham gia cấu thành của
dòng tiền cho các doanh nghiệp; đồng thời, gợi ý giảm thiểu tình trạng kiệt quệ tài
chính do sử dụng đòn bẩy tài chính dựa vào quản trị dòng tiền.
1.3. CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
Đề tài sẽ đạt được mục tiêu nghiên cứu như đã đề cập tại mục 1.2 thông qua
trả lời các câu hỏi nghiên cứu như sau:
Một là, có sự khác biệt kết quả đo lường kiệt quệ tài chính đối với trường hợp
các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tại Việt Nam bởi các mô hình khác nhau
hay không? Mô hình nào là phù hợp nhất để đo lường kiệt quệ tài chính của các
doanh nghiệp này?
Hai là, dòng tiền ròng có ảnh hưởng đến kiệt quệ tài chính của các doanh
nghiệp hay không? Nếu có, ảnh hưởng này như thế nào?
Ba là, dòng tiền hoạt động kinh doanh, dòng tiền hoạt động đầu tư và dòng
tiền hoạt động tài trợ có ảnh hưởng đến kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp
hay không? Nếu có, ảnh hưởng này như thế nào?
Bốn là, mối quan hệ tương tác giữa các dòng tiền có ảnh hưởng đến kiệt quệ
tài chính của các doanh nghiệp hay không? Nếu có, ảnh hưởng này như thế nào?
Năm là, dòng tiền hoạt động kinh doanh có đóng vai trò điều tiết đối với tác
động của đòn bẩy tài chính đến kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp? Nếu có,
vai trò điều tiết này như thế nào?
Sáu là, mô hình nhận diện kiệt quệ tài chính có sự tham gia cấu thành của
dòng tiền như thế nào? Các doanh nghiệp quản trị dòng tiền như thế nào để có thể
giảm thiểu kiệt quệ tài chính do sử dụng đòn bẩy tài chính?
1.4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án là những ảnh hưởng của dòng tiền đến
kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp.
8
1.4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung:
Đề tài luận án nghiên cứu ảnh hưởng của dòng tiền đến kiệt quệ tài chính, qua
đó đề xuất nhận diện kiệt quệ tài chính có tính đến sự tham gia cấu thành của
dòng tiền cho trường hợp các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tại Việt Nam,
theo đó kiệt quệ tài chính là những khó khăn của doanh nghiệp trong việc thực
hiện những cam kết với các chủ nợ, do doanh nghiệp sử dụng đòn bẩy tài chính
được hình thành từ quyết định tài trợ bằng nợ, và dòng tiền của doanh nghiệp bao
gồm dòng tiền chung, dòng tiền hoạt động kinh doanh, dòng tiền hoạt động đầu tư
và dòng tiền hoạt động tài trợ (hay gọi là hoạt động tài chính theo Chế độ kế toán
doanh nghiệp Việt Nam).
Về thời gian:
Đề tài nghiên cứu được thực hiện với thời gian 6 năm, tính từ năm 2015 đến
năm 2020. Sự lựa chọn nghiên cứu bắt đầu từ năm 2015 nhằm đảm bảo tính nhất
quán khi xử lý dữ liệu dựa vào hệ thống báo cáo tài chính của doanh nghiệp được
trình bày theo Thông tư 200 về chế độ kế toán doanh nghiệp tại Việt Nam, thay
thế chế độ kế toán doanh nghiệp trước đó.
Về không gian:
Đề tài nghiên cứu được thực hiện với 505 doanh nghiệp phi tài chính niêm yết
tại Việt Nam, được lựa chọn theo phương pháp chọn mẫu có mục đích. Mẫu
nghiên cứu không bao gồm các doanh nghiệp tài chính bởi những đặc trưng hoạt
động và hệ thống báo cáo tài chính rất khác biệt với nhóm doanh nghiệp phi tài
chính.
1.5. QUY TRÌNH NGHIÊN CỨU
Nhằm thực hiện mục tiêu nghiên cứu cuối cùng là nhận diện kiệt quệ tài chính
dựa vào sự tham gia cấu thành của dòng tiền cho trường hợp các doanh nghiệp phi
tài chính tại Việt Nam, quy trình nghiên cứu của đề tài luận án bao gồm các bước
theo hình 1.1.
9
Khảo lược cơ sở lý thuyết và bằng chứng thực nghiệm
Thiết kế mô hình nghiên cứu
Xác định mẫu nghiên cứu và xử lý dữ liệu nghiên cứu
Lựa chọn phương pháp và xác định kết quả nghiên cứu
Thảo luận, kết luận và gợi ý, khuyến nghị
Hình 1.1. Quy trình nghiên cứu
Các bước thực hiện theo quy trình nghiên cứu tại hình 1.1 có nội dung cụ thể
như sau:
Bước 1: Lược khảo cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu trước có liên quan, sau
đó thảo luận các nghiên cứu trước nhằm xác định khoảng trống nghiên cứu và
định hướng thiết kế mô hình nghiên cứu cho đề tài.
Bước 2: Căn cứ cơ sở lý thuyết và bằng chứng thực nghiệm, đề tài thiết lập mô
hình nghiên cứu và giả thiết nghiên cứu.
Bước 3: Xác định mẫu nghiên cứu phù hợp mục tiêu nghiên cứu cũng như đối
tượng và phạm vi nghiên cứu, từ đó thu thập và xử lý dữ liệu theo mô hình nghiên
cứu tại bước 2.
Bước 4: Xác định phương pháp nghiên cứu với những kỹ thuật phân tích và
ước lượng cụ thể nhằm tìm ra kết quả nghiên cứu phù hợp.
Bước 5: Đây là bước cuối cùng của quy trình, căn cứ kết quả nghiên cứu, đề
tài tiến hành thảo luận, đúc rút kết luận và đưa ra các gợi ý, khuyến nghị có liên
quan nhằm trả lời các câu hỏi nghiên cứu cũng như giải quyết mục tiêu nghiên
cứu đã đề ra.
10
1.6. DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.6.1. Dữ liệu nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở dữ liệu thứ cấp được thu thập từ báo cáo tài
chính đã kiểm toán hàng năm của các doanh nghiệp thông qua Hệ thống dữ liệu
FiinPro của Công ty cổ phần tập đoàn FiinGroup, và tính toán từ Giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh của từng doanh nghiệp.
1.6.2. Phương pháp nghiên cứu
Nhằm trả lời câu hỏi nghiên cứu cũng như thực hiện mục tiêu nghiên cứu, đề
tài luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng.
Để lựa chọn mô hình phù hợp đo lường kiệt quệ tài chính cho các doanh
nghiệp phi tài chính niêm yết tại Việt Nam từ đa dạng các mô hình sẵn có, đề tài
sử dụng kiểm định Kruskal Wallis và các chỉ tiêu đánh mức độ chính xác cũng
như các trường hợp bị lỗi.
Để ước lượng ảnh hưởng của dòng tiền đến kiệt quệ tài chính đối với trường
hợp các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tại Việt Nam, phương pháp nghiên
cứu định lượng được sử dụng để xác định kết quả nghiên cứu, bao gồm các
phương pháp kỹ thuật nghiệp vụ cụ thể như sau: Thống kê mô tả (Descriptive
Statistics), Phân tích tương quan (Correlation analysis), và Phân tích hồi quy dữ
liệu bảng (Panel data regression).
Trên cơ sở kết quả ước lượng, đề tài luận án thảo luận và đề xuất nhận diện
kiệt quệ tài chính cho các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tại Việt Nam dựa
vào sự tham gia cấu thành của dòng tiền, đồng thời khuyến nghị quản trị dòng tiền
gắn với mục tiêu giảm thiểu kiệt quệ tài chính do sử dụng nợ hình thành đòn bẩy
tài chính trong các doanh nghiệp.
1.7. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
Đóng góp chính của đề tài luận án là cung cấp bằng chứng thực nghiệm đáng
tin cậy về việc lựa chọn mô hình phù hợp để đo lường kiệt quệ tài chính cho các
doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tại Việt Nam từ sự đa dạng các mô hình sẵn
có, đồng thời đề tài luận án cung cấp bằng chứng về những khía cạnh ảnh hưởng
của dòng tiền đến kiệt quệ tài chính và đề xuất sự tham gia cấu thành của dòng
11
tiền khi thực hiện nhận diện kiệt quệ tài chính cho các doanh nghiệp. Kết quả
nghiên cứu mang lại ý nghĩa khoa học về sự khẳng định cơ sở lý thuyết liên quan
kiệt quệ tài chính và các dòng tiền, sự điều tiết của dòng tiền đối với tác động của
nợ đến kiệt quệ tài chính, đồng thời kết quả nghiên cứu của luận án là minh chứng
đóng góp quan trọng trong việc phát triển mô hình nhận diện kiệt quệ tài chính có
quan tâm đến vai trò của dòng tiền với kỳ vọng mang lại giá trị khoa học và thực
tiễn cao hơn so với các mô hình trước đây.
Ngoài ra, đề tài luận án cung cấp minh chứng làm sáng tỏ ý nghĩa quan trọng
của chính sách quản trị dòng tiền kết hợp chính sách tài trợ nhằm mục tiêu giảm
thiểu tình trạng kiệt quệ tài chính – một trong những tiền đề góp phần đạt mục tiêu
cuối cùng của quản trị tài chính doanh nghiệp là gia tăng giá trị thị trường doanh
nghiệp cũng như gia tăng giá trị tài sản cho các chủ sở hữu.
Kết quả nghiên cứu của đề tài luận án được kỳ vọng không chỉ cung cấp tài
liệu tham khảo hữu ích cho việc giảng dạy và nghiên cứu tại các trường đại học
khối kinh tế, đặc biệt chuyên ngành tài chính – ngân hàng, mà còn cung cấp thông
tin hữu ích cho các nhà quản trị tài chính doanh nghiệp trong việc đưa ra quyết
định hợp lý về chính sách quản trị dòng tiền hiệu quả và giảm thiểu tình trạng kiệt
quệ tài chính từ sự lựa chọn sử dụng nợ hình thành đòn bẩy tài chính trong cơ cấu
vốn của các doanh nghiệp.
1.8. CẤU TRÚC KHÁI QUÁT CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài nghiên cứu ảnh hưởng của dòng tiền đến kiệt quệ tài chính nhằm đề
xuất nhận diện kiệt quệ tài chính có sự tham gia cấu thành của dòng tiền cho
trường hợp các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tại Việt Nam, được thực hiện
theo kết cấu 5 chương nội dung, bao gồm:
Chương 1 giới thiệu chung về đề tài luận án. Theo đó, chương này trình bày lý
do lựa chọn đề tài nghiên cứu, qua đó xác định mục tiêu nghiên cứu tổng quát, các
mục tiêu nghiên cứu cụ thể và các câu hỏi nghiên cứu tương ứng, trình bày phạm
vi và đối tượng nghiên cứu. Ngoài ra, chương này cũng trình bày quy trình nghiên
cứu, khái quát dữ liệu nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu. Tiếp theo là ý
12
nghĩa và đóng góp thực tiễn của đề tài luận án, và cuối chương trình bày kết cấu
khái quát các chương của đề tài.
Chương 2 lược khảo cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm có liên
quan. Cụ thể là chương này thực hiện khảo lược các cơ sở lý thuyết và các nghiên
cứu thực nghiệm tại Việt Nam và các quốc gia khác về việc lựa chọn sử dụng mô
hình đo lường kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp, và ảnh hưởng của dòng
tiền đến kiệt quệ tài chính. Theo đó, chương này còn thực hiện thảo luận để xác
định khoảng trống nghiên cứu và định hướng thiết kế nghiên cứu nhằm trả lời các
câu hỏi nghiên cứu của đề tài luận án.
Chương 3 trình bày chi tiết về mô hình và phương pháp nghiên cứu. Trước hết,
chương này chi tiết hóa thiết kế nghiên cứu của đề tài luận án, và từ đó xác định
mô hình nghiên cứu của đề tài với những giải thích bản chất và đo lường các biến
cũng như đưa ra các giả thuyết nghiên cứu. Tiếp theo, chương 3 mô tả mẫu nghiên
cứu và dữ liệu nghiên cứu, và phần cuối chương này trình bày chi tiết về
phương pháp nghiên cứu.
Chương 4 cung cấp các kết quả nghiên cứu và thảo luận bản chất các mối quan
hệ được tìm thấy từ kết quả nghiên cứu. Cụ thể, Chương 4 sẽ trình bày và thảo
luận kết quả nghiên cứu về việc lựa chọn mô hình đo lường kiệt quệ tài
chính, những khía cạnh ảnh hưởng của dòng tiền đến tình trạng kiệt quệ tài
chính của các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tại Việt Nam theo thống kê
mô tả, phân tích tương quan và phân tích hồi quy dữ liệu bảng theo các
phương pháp ước lượng khác nhau, và từ đó kiểm định lựa chọn kết quả hồi
quy. Ngoài ra, sau khi kiểm định các vi phạm cơ bản (đa cộng tuyến nghiêm
trọng, phương sai sai số thay đổi và tự tương quan) cũng như đánh giá tính
vững của mô hình hồi quy, kết quả hồi quy chính thức sẽ được khẳng định,
lựa chọn và thảo luận những mối quan hệ được xác định.
Chương 5 đúc kết vấn đề nghiên cứu, và luận giải các gợi ý, khuyến nghị có
liên quan. Cụ thể, Chương 5 đúc rút kết luận về mô hình phù hợp để đo lường kiệt
quệ tài chính cho các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tại Việt Nam, những
khía cạnh ảnh hưởng của dòng tiền đến tình trạng kiệt quệ tài chính cho trường
13
hợp các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam, cũng như khẳng định sự cần thiết
quan trọng trong việc nhận diện kiệt quệ tài chính với sự tham gia cấu thành của
dòng tiền, qua đó trả lời các câu hỏi nghiên cứu cũng như thực hiện mục tiêu
nghiên cứu đã đề ra. Và theo đó, chương này đưa ra các gợi ý và khuyến nghị
nhận diện kiệt quệ tài chính dựa vào dòng tiền, chính sách quản trị dòng tiền kết
hợp chính sách tài trợ dành cho các doanh nghiệp nhằm đảm bảo mục tiêu giảm
thiểu tình trạng kiệt quệ tài chính, qua đó tác động tích cực đến mục tiêu gia tăng
giá trị doanh nghiệp cũng như gia tăng giá trị tài sản của chủ sở hữu dưới góc độ
của quản trị tài chính; kết quả nghiên cứu cũng gợi ý thông tin hữu ích cho các
nhà đầu tư cũng như chủ thể có liên quan trong việc đưa ra các quyết định. Ngoài
ra, chương 5 cũng sẽ trình bày những hạn chế của đề tài nghiên cứu về việc nhận
diện tình trạng kiệt quệ tài chính dựa vào dòng tiền cho trường hợp các doanh
nghiệp phi tài chính niêm yết tại Việt Nam và đưa ra gợi ý hướng nghiên cứu đề
tài tiếp theo trong tương lai.
------------------------------------------------------------------
14
TÓM TẮT CHƯƠNG 1
Tiếp cận theo mục tiêu tài chính của doanh nghiệp, chương 1 đã chỉ ra tầm
quan trọng của dòng tiền trong việc đảm bảo thực hiện các cam kết của doanh
nghiệp đối với các chủ nợ, do doanh nghiệp sử dụng nợ trong cơ cấu vốn, từ đó
giảm thiểu hoặc thậm chí là ngăn chặn xảy ra kiệt quệ tài chính; đồng thời
phân tích kết hợp với các bằng chứng từ các nghiên cứu thực nghiệm, đề tài đã
chỉ ra những khía cạnh ảnh hưởng của dòng tiền đến kiệt quệ tài chính cũng
như khả năng nhận diện kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp dựa vào sự
tham gia cấu thành của dòng tiền, và đảm bảo đề tài khẳng định được ý nghĩa
đóng góp khoa học và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu.
Từ mục tiêu nghiên cứu tổng quát, chương này cũng đưa 5 mục tiêu nghiên
cứu cụ thể và sẽ được xác định giải quyết thông qua 6 câu hỏi nghiên cứu
tương ứng. Bên cạnh đó, đề tài cũng đã chỉ ra đối tượng nghiên cứu và giới hạn
phạm vi nghiên cứu về nội dung, thời gian 6 năm (2015 – 2020) và không gian
505 doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tại Việt Nam.
Sau khi khái quát dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ báo cáo tài chính đã
kiểm toán thông qua hệ thống FiinPro của Công ty cổ phần tập đoàn FiinGroup
và Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, đề tài luận án xác định sử dụng
phương pháp nghiên cứu định lượng. Đồng thời, chương này đã khẳng định ý
nghĩa, đóng góp của đề tài đối với nhà quản trị tài chính doanh nghiệp và các
chủ thể khác. Cuối cùng, chương này đã cung cấp thông tin khái quát 5 chương
của đề tài, bao gồm chương 1 giới thiệu tổng quan về đề tài, chương 2 lược
khảo cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm có liên quan, chương 3 chi
tiết hóa mô hình và phương pháp nghiên cứu, chương 4 cung cấp các kết quả
nghiên cứu và thảo luận bản chất các mối quan hệ, và chương 5 đúc kết vấn đề
nghiên cứu, và luận giải các gợi ý, khuyến nghị có liên quan.
15
Chương 2:
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
VÀ BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM
Chương 2 sẽ trình bày cơ sở lý thuyết và các bằng chứng thực nghiệm về
kiệt quệ tài chính do chính sách tài trợ bằng nợ trong cơ cấu vốn và những khía
cạnh ảnh hưởng của dòng tiền đến tình trạng kiệt quệ tài chính đối với trường
hợp các doanh nghiệp phi tài chính, qua đó chương này sẽ thảo luận nhằm xác
định khoảng trống nghiên cứu và định hướng các biến trong mô hình nghiên
cứu của đề tài luận án.
2.1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ KIỆT QUỆ TÀI CHÍNH CỦA CÁC DOANH
NGHIỆP
2.1.1. Tổng quan về kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp
Kiệt quệ tài chính xảy ra khi doanh nghiệp không đủ khả năng để thực hiện
những lời hứa, cam kết với các chủ nợ hoặc có thể thực hiện nhưng lại rất khó
khăn (Brealey & cộng sự, 2008). Như vậy, mâu thuẫn cơ bản của kiệt quệ tài
chính là chính sách tài trợ bằng nợ, sự hình thành đòn bẩy tài chính trong cơ cấu
vốn của các doanh nghiệp. Kiệt quệ tài chính có thể chỉ là tình trạng xảy ra tạm
thời (Brealey & cộng sự, 2008), dẫn đến phát sinh một số rắc rối cho quá trình
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, chẳng hạn như các dự án khả thi
bị trì hoãn hoặc thậm chí phải bị hủy bỏ, năng suất lao động giảm sút, ngân hàng
cũng như các tổ chức tín dụng không tiếp tục cấp tín dụng, nhà cung cấp thắt chặt
chính sách tín dụng thương mại,…; nhưng kiệt quệ tài chính cũng có thể đẩy
doanh nghiệp đi đến phá sản (Brealey và cộng sự, 2008), và doanh nghiệp phải chi
những khoản tiền lớn cho luật sư, tòa án, kiểm toán viên hay các nhà quản lý.
Chi phí kiệt quệ tài chính (Financial distress costs) phụ thuộc vào khả năng
xảy ra những khó khăn tài chính và độ lớn các khoản chi phí phát sinh có liên
16
quan (Brealey và cộng sự, 2008). Chi phí kiệt quệ tài chính thường được chia ra
thành 2 nhóm là chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp.
- Chi phí trực tiếp: giá trị tài sản giảm sút do tính thanh khoản kém, giảm
giá bán để có thể bán được sản phẩm, chi phí pháp lý và chi phí quản lý
gia tăng, một số doanh nghiệp xảy ra tình trạng kiệt quệ tài chính dẫn đến
nhà quản trị có thể cắt giảm đầu tư cho nghiên cứu và phát triển, nghiên
cứu thị trường và một số khoản đầu tư khác (Brealey & cộng sự, 2008;
Arnold, 2013).
- Chi phí gián tiếp: uy tín và danh tiếng của doanh nghiệp giảm sút, có thể
bị mất khách hàng, các nhà cung cấp vốn đòi hỏi suất sinh lời cao hơn dẫn
đến gia tăng chi phí sử dụng vốn, nhà cung cấp đưa ra tiêu chuẩn bán chịu
khắt khe hơn và điều khoản bán chịu thắt chặt hoặc phát sinh những tổn
thất do áp lực cạnh tranh (Brealey & cộng sự, 2008; Arnold, 2013).
Như vậy, các doanh nghiệp quyết định lựa chọn tài trợ bằng nợ sẽ phải đối mặt
với rủi ro kiệt quệ tài chính (Financial distress risk), và nếu xảy ra kiệt quệ tài
chính, cho dù là trường hợp nào thì doanh nghiệp cũng phải chịu thiệt hại, chấp
nhận phát sinh những tốn kém, qua đó trở thành nhân tố tác động tiêu cực đến giá
trị doanh nghiệp.
Theo lý thuyết đánh đổi về cơ cấu vốn (The Trade-off theory of capital
structure), nếu doanh nghiệp duy trì mức độ sử dụng nợ thấp thì rủi ro kiệt quệ tài
chính có thể không đáng kể và giá trị hiện tại của chi phí kiệt quệ tài chính rất nhỏ
so với giá trị hiện tại của khoản tiết kiệm thuế từ lãi vay nên giá trị doanh nghiệp
tăng lên cùng với quyết định này, cũng như sẽ tiếp tục gia tăng khi sự gia tăng
mức độ sử dụng nợ; tuy nhiên, chi phí kiệt quệ tài chính sẽ càng cao hơn khi càng
gia tăng mức độ sử dụng nợ, và cho đến khi giá trị hiện tại của chi phí kiệt quệ tài
chính bằng giá trị hiện tại của khoản tiết kiệm thuế biên tế thì giá trị doanh nghiệp
đạt cực đại, tại đó xác định được cơ cấu vốn tối ưu cho doanh nghiệp; nếu doanh
nghiệp tiếp tục gia tăng mức độ sử dụng nợ thì giá trị doanh nghiệp sẽ bị giảm
xuống bởi giá trị hiện tại của chi phí kiệt quệ tài chính tăng nhiều hơn giá trị hiện
tại của khoản tiết kiệm thuế từ lãi vay (Brealey & cộng sự, 2008; Arnold, 2013).
17
Dưới góc độ tài chính, nợ là nguồn tài trợ có thời hạn hoàn trả và doanh
nghiệp có trách nhiệm thanh toán nợ gốc và tiền lãi không tùy thuộc vào kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh (Ngô Kim Phượng & cộng sự, 2018), đây là những
đặc trưng cơ bản của nợ và cũng là mâu thuẫn cơ bản dẫn đến doanh nghiệp phải
đối mặt với rủi ro kiệt quệ tài chính; vì vậy, phân tích khả năng thanh toán nợ gốc
và khả năng đảm bảo lãi vay thường được quan tâm bởi nhiều chủ thể khi doanh
nghiệp có sử dụng nợ. Theo đó, các hệ số tài chính thường được sử dụng nhằm
cung cấp thông tin và qua đó cảnh báo khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính của các
doanh nghiệp như sau: hệ số khả năng thanh toán hiện thời, hệ số khả năng đảm
bảo lãi vay, hệ số khả năng thanh toán nợ vay bằng tiền từ sản xuất kinh doanh
(Ngô Kim Phượng & cộng sự, 2018; Brealey & cộng sự, 2008; CFA Institute,
2020).
Tài sản ngắn hạn
Hệ số khả năng thanh toán hiện thời = Nợ ngắn hạn
Hệ số khả năng thanh toán hiện thời cho biết bình quân 1 đồng nợ ngắn hạn
được đảm bảo thanh toán bởi bao nhiêu đồng tài sản ngắn hạn, phản ánh mức độ
an toàn, rủi ro thanh toán trong cơ cấu tài chính. Thông thường, hệ số khả năng
thanh toán hiện thời càng cao thể hiện khả năng thanh toán nợ ngắn hạn sẽ càng
được đảm bảo tốt, nhưng lại thể hiện sự hạn chế hơn về sự linh hoạt của nguồn
vốn; ngược lại, hệ số này nhỏ hơn 1 chứng tỏ cơ cấu tài chính mất cân đối, doanh
nghiệp đã sử dụng nguồn vốn ngắn hạn tài trợ cho tài sản dài hạn, dẫn đến rủi ro
thanh toán cao. Tiêu chuẩn của hệ số khả năng thanh toán hiện thời là lớn hơn 1,
càng lớn hơn 1 cho thấy quy mô giá trị tài sản ngắn hạn đảm bảo cho việc thực
hiện cam kết thanh toán nợ ngắn hạn càng cao, và giảm thiểu khả năng xảy ra kiệt
quệ tài chính cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, trường hợp hệ số khả năng thanh toán
hiện thời lớn hơn 1, hoặc càng cao, nhưng tài sản ngắn hạn có tính thanh khoản
kém thì doanh nghiệp cũng khó có thể đảm bảo tốt cho khả năng thanh toán nợ
ngắn hạn, và do đó nhận biết sẽ đầy đủ hơn khi kết hợp đánh giá hiệu quả quản trị
tồn kho và hiệu quả quản trị các khoản phải thu cũng như xem xét chất lượng của
những tài sản ngắn hạn khác trong doanh nghiệp.
18
Lợi nhuận trước thuế và lãi vay
Hệ số khả năng đảm bảo lãi vay = Chi phí lãi vay
Hệ số khả năng đảm bảo lãi vay cho biết bình quân 1 đồng chi phí lãi vay phát
sinh trong kỳ được đảm bảo bởi bao nhiêu đồng lợi nhuận hoạt động (lợi nhuận
trước thuế và lãi vay). Nếu lợi nhuận trước thuế và lãi vay gấp càng nhiều lần so
với chi phí lãi vay thì khả năng đảm bảo lãi vay càng cao, và khả năng xảy ra kiệt
quệ tài chính càng thấp; và ngược lại. Tiêu chuẩn của hệ số này là lớn hơn 1.
Thông thường, doanh nghiệp có hệ số khả năng đảm bảo lãi vay thấp, dẫn đến gia
tăng rủi ro kiệt quệ tài chính có thể vì hai lý do sau: (i) Sử dụng nhiều nợ vay với
lãi suất cao và làm tăng chi phí lãi vay, và (ii) Hiệu quả sinh lời của các khoản đầu
tư thấp.
Dòng tiền ròng từ hoạt động kinh doanh Hệ số khả năng thanh toán = Nợ vay ngắn hạn đầu kỳ nợ vay đến hạn
Hệ số khả năng thanh toán nợ vay đến hạn lớn hơn 1 chứng tỏ doanh nghiệp
có đủ khả năng thanh toán bằng tiền tạo ra từ quá trình sản xuất kinh doanh đối
với các khoản nợ vay ngắn hạn đến hạn trong kỳ, kể cả các khoản nợ vay dài hạn
đến hạn; ngược lại nếu hệ số này nhỏ hơn 1 chứng tỏ hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp đảm bảo được khả năng tạo tiền hoặc lượng tiền tạo ra từ
sản xuất kinh doanh không đủ để đảm bảo cho việc thanh toán các khoản nợ vay
đến hạn trong kỳ. Trong trường hợp hệ số này liên tục nhỏ hơn 1 qua nhiều kỳ và
chủ nợ không đồng ý gia hạn, doanh nghiệp phải liên tục huy động được vốn từ
bên ngoài hoặc phải chấp nhận thu hẹp đầu tư, và khi hai nguồn này không thể
tiếp tục khai thác, doanh nghiệp bị đẩy vào tình trạng kiệt quệ tài chính và nguy
cơ mất khả năng thanh toán cũng như phá sản sẽ đến gần hơn.
2.1.2. Các mô hình đo lường kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp
Ningsih & Permatasari (2018) đã khẳng định rằng nhiều mô hình kết hợp các
tỷ số tài chính đã được đề xuất nhằm đo lường kiệt quệ tài chính của các doanh
nghiệp, trong đó mô hình Z-Score của Altman (1968) được nhắc đến khá phổ
biến. Theo Tanjung (2020), phân tích dữ liệu của các doanh nghiệp niêm yết
thuộc ngành dược phẩm tại Indonesia, khẳng định Z-Score mô hình dự đoán chính
19
xác nhất khi so sánh với S-Score, X-Score và O-Score. Tuy nhiên, nghiên cứu
thực nghiệm của Fadrul & Ridawati (2020), Andriani & Sihombing (2021) lại tìm
thấy bằng chứng về mức độ chính xác thấp của mô hình Z-Score, tỷ lệ chính xác
lần lượt chỉ đạt mức 28,60% và 25%.
Với mô hình S-Score, Mulyati & Ilyasa (2020) khẳng định đây là mô hình tốt
nhất để đo lường kiệt quệ tài chính thông qua bằng chứng thực tiễn các doanh
nghiệp khoáng sản niêm yết tại Indonesia, và mô hình này cũng được đề xuất áp
dụng cho trường hợp các doanh nghiệp viễn thông niêm yết tại Indonesia theo
nghiên cứu của Fauzi & cộng sự (2021), cho trường hợp các doanh nghiệp xây
dựng niêm yết tại Indonesia theo Tahu (2019), cho trường hợp các doanh nghiệp
sản xuất niêm yết tại Indonesia theo Shalih & Kusumawati (2019). Tuy nhiên, căn
cứ bằng chứng thực nghiệm từ trường hợp các doanh nghiệp giấy và bột giấy
niêm yết tại Indonesia, Fadrul & Ridawati (2020) chỉ ra rằng tỷ lệ chính xác của
mô hình S-Score là rất thấp, ở mức 4,3%; hay Andriani & Sihombing (2021) cho
rằng tỷ lệ chính xác của mô hình này chỉ đạt 47%.
Mô hình O-Score được xem xét trong nghiên cứu thực nghiệm của Elviani &
cộng sự (2020) và nhóm tác giả này khẳng định rằng mô hình này không thể được
sử dụng để đo lường kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực
thương mại niêm yết tại Indonesia. Bên cạnh đó, Tanjung (2020) cũng cho rằng có
sự khác biệt đáng kể khi đo lường kiệt quệ tài chính bởi mô hình O-Score với Z-
Score, S-Score và X-Score, đồng thời khẳng định mô hình này không phải chính
xác nhất. Syamni & cộng sự (2018) không đặt ra mục tiêu xem xét mức độ chính
xác của các mô hình đo lường kiệt quệ tài chính, thay vào đó mục tiêu của nhóm
tác giả này là mối quan hệ giữa kiệt quệ tài chính được xác định bởi các mô hình
khác nhau, theo đó kết quả nghiên cứu đưa ra khuyến nghị các nhà đầu tư cần
quan tâm nhiều hơn bằng chứng kiệt quệ tài chính từ mô hình O-Score bởi mối
quan hệ dự báo ngược chiều với giá cổ phiếu.
Về mô hình X-Score, Andriani & Sihombing (2021), Fadrul & Ridawati
(2020) đều cho rằng mô hình này đo lường kiệt quệ tài chính đảm bảo mức độ
chính xác cao nhất khi xét trong mối quan hệ với S-Score và Z-Score, tỷ lệ chính
20
xác đạt mức 90% từ kết quả phân tích dữ liệu của các doanh nghiệp bất động sản
niêm yết tại Indonesia, hay mức 100% với trường hợp các doanh nghiệp giấy và
bột giấy niêm yết tại Indonesia. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm của Hertina &
cộng sự (2020), Viciwati (2020), Januri & cộng sự (2017) cũng kết luận mô hình
X-Score đạt tỷ lệ chính xác cao trên 80% khi đo lường kiệt quệ tài chính. Trong
khi đó, Fauzi & cộng sự (2021) lại khuyến nghị không sử dụng X-Score dựa vào
kết quả phân tích trường hợp các doanh nghiệp viễn thông niêm yết tại Indonesia.
Ngoài ra, một số mô hình khác cũng được xem xét để đo lường kiệt quệ tài
chính, chẳng hạn như Z-Taffler, H-Score và G-Score. Kanapickiene &
Marcinkevicius (2014) tiếp cận thực tiễn 433 doanh nghiệp xây dựng nộp đơn xin
phá sản trong giai đoạn 2009-2013 tại Luthiania, sử dụng phân tích mô tả, nhóm
tác giả đã khẳng định mô hình Z-Taffler kém chính xác. Shalih & Kusumawati
(2019) khẳng định tồn tại sự khác biệt đáng kể trong việc đo lường kiệt quệ tài
chính bởi mô hình H-Score so với S-Score, đồng thời chỉ ra rằng mô hình H-Score
cho kết quả kém tin cậy hơn. Nghiên cứu thực nghiệm so sánh mô hình G-Score
với Z-Score, S-Score và X-Score, Pakdaman (2018) chỉ ra rằng các mô hình này
đều có khả năng đo lường kiệt quệ tài chính, nhưng G-Score là mô hình nhất khi
áp dụng cho trường hợp các doanh nghiệp ngành dệt may và gạch men niêm yết
tại Tehran.
Không những thế, với mô hình G-Score, Hertina & cộng sự (2020) nghiên
cứu trường hợp các doanh nghiệp khai thác than niêm yết tại Indonesia, đúc kết
rằng mô hình G-Score đo lường kiệt quệ tài chính với tỷ lệ chính xác là 83,33%,
ngang bằng mô hình X-Score, nhưng cao hơn S-Score và Z-Score. Hay Aminian
& cộng sự (2016) phân tích thực tiễn trường hợp các doanh nghiệp dệt, gốm sứ và
gạch ngói niêm yết tại Tehran, chứng minh rằng mô hình G-Score là tốt nhất để
đo lường kiệt quệ tài chính. Ngược lại, Fauzi & cộng sự (2021), Fachrudin (2020)
đều cho rằng mô hình G-Score không phù hợp để đo lường kiệt quệ tài chính; hay
Fredy (2018) nghiên cứu trường hợp các doanh nghiệp giấy và bột giấy niêm yết
tại Indonesia, khẳng định rằng mô hình G-Score cho kết quả đó lường khác biệt
đáng kể với Z-Score và S-Score.
21
Qua lược khảo trên, đo lường kiệt quệ tài chính có thể sử dụng những mô hình
khác nhau, Bảng 2.1 trình bày tổng hợp cách xác định và căn cứ kết luận của từng
mô hình này cho tình trạng kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp.
22
Bảng 2.1. Tóm tắt nội dung các mô hình đo lường kiệt quệ tài chính.
Mô hình Cách xác định Kết luận
Z-Score Z-Score = 1,2X1 + 1,4X2 + 3,3X3 + 0,6X4 + 1,0X5 Z-score < 1,8: Kiệt quệ tài chính
(1968) X1 = Vốn lưu động / Tổng tài sản Z-score từ 1.81 đến 2.99: Vùng
X2 = Lợi nhuận giữ lại / Tổng tài sản xám (Kết quả không chắc chắn)
X3 = Lợi nhuận trước thuế và lãi vay / Tổng tài sản Z-score > 2.99: Sức khỏe tài chính
X4 = Giá trị vốn hóa thị trường / Giá trị sổ sách của nợ tốt.
X5 = Doanh thu / Tổng tài sản
S-Score S-Score = 1,03X1 + 3,07X2 + 0,66X3 + 0,4X4 S-Score > 0,862: Sức khỏe tài
(1978) X1 = Vốn lưu động / Tổng tài sản chính tốt.
X2 = Lợi nhuận trước thuế và lãi vay / Tổng tài sản S-Score = 0,862: Ngưỡng báo
X3 = Lợi nhuận trước thuế / Nợ ngắn hạn động
X4 = Doanh thu / Tổng tài sản S-Score < 0,862: Kiệt quệ tài
chính
O-Score O-Score = -1,32 – 0,407X1 + 6,03X2 – 1,43X3 + 0,0757X4 – 2,37X5 – O-Score > 0,38: Kiệt quệ tài chính
(1980) 1,83X6 + 0,285X7 – 1,72X8 – 0,521X9 O-Score = 0,38: Ngưỡng báo động
X1 = Logarit của Tổng tài sản. O-Score < 0,38: Sức khỏe tài chính
X2 = Nợ / Tổng tài sản lành mạnh
X3 = Vốn lưu động / Tổng tài sản
23
X4 = Nợ ngắn hạn / Tài sản ngắn hạn
X5 = 1 nếu nợ lớn hơn tổng tài sản, 0 nếu ngược lại.
X6 = Lợi nhuận ròng / Tổng tài sản
X7 = Dòng tiền hoạt động kinh doanh / Nợ
X8 = 1 nếu lợi nhuận ròng nhỏ hơn 0, 0 nếu ngược lại.
X9 = Chênh lệch lợi nhuận ròng năm t với năm t-1 / Tổng lợi nhuận ròng năm
t với năm t-1.
X-Score X-Score = -4,336 – 4,513X1 + 5,679X2 – 0,004X3 X-Score > 0: Kiệt quệ tài chính
(1983) X1 = Lợi nhuận ròng / Tổng tài sản X-Score = 0: Ngưỡng báo động
X2 = Nợ / Tổng tài sản X-Score < 0: Sức khỏe tài chính
X3 = Tài sản ngắn hạn / Nợ ngắn hạn lành mạnh.
Z-Taffler Z-Taffler = 3.2 + 12.18X1 + 2.5X2 – 10.68X3 + 0.029X4 Z-Taffler > 0,3: Lành mạnh tài
(1983) X1 = Lợi nhuận trước thuế / Nợ ngắn hạn chính.
X2 = Tài sản ngắn hạn / Nợ Z-Taffler từ 0,2 đến 0,3: Vùng
X3 = Nợ ngắn hạn / Tổng tài sản xám (Kết quả không chắc chắn)
X4 = (Tài sản thanh khoản – Nợ ngắn hạn) / Chi phí hoạt động hàng ngày Z-Taffler < 0.2: Kiệt quệ tài chính
Z-Score Z-score (1984) < 1,23: Kiệt quệ tài Z-Score (1984) = 0,717X1 + 0,847X2 + 3,107X3 + 0,420X4 + 0,998X5
(1984) chính X1 = Vốn lưu động / Tổng tài sản
Z-score (1984) từ 1.23 đến 2.90: X2 = Lợi nhuận giữ lại / Tổng tài sản
24
Vùng xám (Kết quả không chắc X3 = Lợi nhuận trước thuế và lãi vay / Tổng tài sản
chắn) X4 = Giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu / Giá trị sổ sách của nợ
Z-score (1984) > 2.90: Sức khỏe X5 = Doanh thu / Tổng tài sản
tài chính tốt.
H-Score H-Score = 5,528X1 + 0,212X2 + 0.073X3 + 1,270X4 – 0,120X5 + 2,335X6 + H-Score < 0: Kiệt quệ tài chính
(1984) 0,575X7 + 1,083X8 + 0,894X9 – 6,075 H-Score > 0: Lành mạnh tài chính
X1 = Lợi nhuận giữ lại / Tổng tài sản
X2 = Doanh thu / Tổng tài sản
X3 = Lợi nhuận trước thuế / Vốn chủ sở hữu
X4 = Dòng tiền hoạt động kinh doanh / Nợ
X5 = Nợ / Vốn chủ sở hữu
X6 = Nợ ngắn hạn / Tổng tài sản
X7 = Logarit của Tổng tài sản
X8 = Vốn lưu động / Nợ
X9 = Logarit của hệ số khả năng đảm bảo lãi vay
Z-Score Z-Score (1995) < 1,1: Kiệt quệ tài Z-Score (1995) = 6,56X1 + 3,26X2 + 6,72X3 + 1,05X4
(1995) chính X1 = Vốn lưu động / Tổng tài sản
Z-Score (1995) từ 1,1 đến 2,6: X2 = Lợi nhuận giữ lại / Tổng tài sản
Vùng xám (Kết quả không chắc X3 = Lợi nhuận trước thuế và lãi vay / Tổng tài sản
25
chắn) X4 = Giá trị sổ sách của vốn chủ sở hữu / nợ
Z-Score (1995) > 2,6: Sức khỏe tài
chính tốt.
G-Score G-Score = 1,6505X1 + 3,404X2 – 0,016X3 + 0,057 G-Score < hoặc = -0,02: Kiệt quệ
tài chính (2001) X1 = Vốn lưu động / Tổng tài sản
X2 = Lợi nhuận trước thuế và lãi vay / Tổng tài sản G-Score > hoặc = 0,01: Lành
X3 = Lợi nhuận ròng / Tổng tài sản mạnh tài chính
Grover G-Score < hoặc = -0,02: Kiệt quệ G-Score = 1,6505X1 + 3,404X2 – 0,016X3 + 0,057
(2001) tài chính X1 = Vốn lưu động / Tổng tài sản
G-Score > hoặc = 0,01: Lành X2 = Lợi nhuận trước thuế và lãi vay / Tổng tài sản
mạnh tài chính X3 = ROA, đo lường bởi lợi nhuận ròng / Tổng tài sản
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
26
2.2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ DÒNG TIỀN VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA DÒNG
TIỀN ĐẾN KIỆT QUỆ TÀI CHÍNH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
2.2.1. Bản chất và ý nghĩa của dòng tiền
Dòng tiền thể hiện sự dịch chuyển giá trị tăng lên hoặc giảm xuống của tiền
trong một thời kỳ (Nagle & O’Connor, 2010; SBA, 2016). Dòng tiền của doanh
nghiệp được chia thành 3 nhóm với ý nghĩa phản ánh các khía cạnh tài chính khác
nhau, bao gồm: dòng tiền hoạt động kinh doanh (Operating cash flows) thể hiện
khả năng tạo tiền, dòng tiền hoạt động đầu tư (Investing cash flows) thể hiện xu
hướng đầu tư, và dòng tiền hoạt động tài trợ (Financing cash flows) thể hiện nhu
cầu tài trợ bằng nguồn tiền từ bên ngoài.
Dòng tiền hoạt động kinh doanh là các khoản tiền thu vào, các khoản tiền chi
ra liên quan đến thu nhập, chi phí của doanh nghiệp và phát sinh thường xuyên
trong quá trình hoạt động sản xuất, thương mại và cung cấp dịch vụ của doanh
nghiệp (Klammer, 2017; Ngô Kim Phượng & cộng sự, 2018). Dòng tiền hoạt
động kinh doanh có thể được tiếp cận bằng phương pháp trực tiếp trên cơ sở phân
tích và tổng hợp các khoản thu chi từ các tài khoản vốn bằng tiền, bao gồm: tiền
thu từ bán hàng hóa, sản phẩm và cung cấp dịch vụ, tiền chi mua các yếu tố sản
xuất kinh doanh (sức lao động, nguyên vật liệu, hàng hóa,…),…; hoặc có thể tiếp
cận bằng phương pháp gián tiếp trên cơ sở điều chỉnh từ lợi nhuận. Theo đó, dòng
tiền hoạt động kinh doanh có chịu sự tác động của tăng/giảm hàng tồn kho,
tăng/giảm các khoản phải thu và tăng/giảm các khoản phải trả,… vì vậy quản trị
vốn lưu động là yếu tố quan trọng quyết định dòng tiền hoạt động kinh doanh.
Dòng tiền từ hoạt động đầu tư là các khoản thu, chi tiền liên quan đến tài sản
cố định, bất động sản đầu tư và các khoản đầu tư tài chính, không bao gồm chứng
khoán kinh doanh (Klammer, 2017; Ngô Kim Phượng & cộng sự, 2018), được
tiếp cận bằng phương pháp trực tiếp trên cơ sở phân tích và tổng hợp các khoản
thu chi từ các tài khoản vốn bằng tiền, bao gồm: tiền chi mua sắm/thu thanh lý tài
sản cố định và các tài sản dài hạn khác, tiền chi/thu hồi cho vay hoặc mua các
công cụ nợ, trừ những công cụ nợ được coi tương đương tiền, tiền chi/thu hồi vốn
đầu tư vào đơn vị khác, tiền thu lãi cho vay, cổ tức và lợi nhuận được chia.
27
Dòng tiền từ hoạt động huy động vốn hoặc hoạt động tài trợ (hoặc gọi là hoạt
động tài chính theo chế độ kế toán doanh nghiệp hiện hành tại Việt Nam) là các
khoản thu, chi tiền liên quan đến thay đổi kết cấu và quy mô của nợ vay và vốn
chủ sở hữu (Klammer, 2017; Ngô Kim Phượng & cộng sự, 2018). Dòng tiền này
được tiếp cận bằng phương pháp trực tiếp trên cơ sở phân tích và tổng hợp các
khoản thu chi từ các tài khoản vốn bằng tiền, bao gồm: tiền thu do chủ sở hữu góp
vốn, tiền chi trả lại vốn góp cho các chủ sở hữu, kể cả tiền chi mua cổ phiếu quỹ,
tiền thu/chi trả các khoản vay ngắn và dài hạn, tiền chi trả nợ thuê tài chính và tiền
chia lãi cho các chủ sở hữu.
2.2.2. Ảnh hưởng của dòng tiền đến kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp
Tiền được xem như là máu để nuôi sống doanh nghiệp (Lee, 1986; Atrill &
McLaney, 2004); lý thuyết ưa thích thanh khoản (Liquidity Preference Theory)
của Keynes (1936) cho rằng tiền là cơ sở để các doanh nghiệp đảm bảo khả năng
chi trả các khoản nợ vay đến hạn, chi trả lãi vay, hay các trách nhiệm tài chính
khác; vì vậy dòng tiền của doanh nghiệp luôn rất được quan tâm bởi các chủ thể
khác nhau với một trong những ý nghĩa của dòng tiền là khả năng giải thích cho
tình trạng kiệt quệ tài chính của doanh nghiệp.
Tổng dòng tiền ròng ảnh hưởng đến kiệt quệ tài chính
Dòng tiền ròng (Net cash flow) là chỉ tiêu tổng hợp, phản ánh khoản chêch
lệch giữa tiền thu với tiền chi trong cùng kỳ (CFA Institute, 2020; Penman, 2001;
Klammer, 2017; Ngô Kim Phượng & cộng sự, 2018); trường hợp dòng tiền ròng
lớn hơn 0 cho thấy doanh nghiệp có thặng dư tiền trong kỳ, điều này góp phần gia
tăng mức nắm giữ tiền và gia tăng khả năng thực hiện các nghĩa vụ, trách nhiệm
với cổ đông và chủ nợ, hoặc để doanh nghiệp mở rộng đầu tư trong tương lai;
ngược lại, trường hợp dòng tiền ròng nhỏ hơn hoặc bằng 0 cho thấy doanh nghiệp
không có thặng dư tiền trong kỳ, và trường hợp dòng tiền ròng nhỏ hơn 0 còn thể
hiện rằng doanh nghiệp rơi vào tình trạng thiếu hụt tiền, dẫn đến suy giảm mức
nắm giữ tiền và làm suy giảm khả năng đáp ứng các nhu cầu chi tiêu trong tương
lai, doanh nghiệp có thể sẽ phụ thuộc nhiều hơn vào các khoản tài trợ từ bên ngoài
(Ngô Kim Phượng & cộng sự, 2018; Lessambo, 2022; Fridson & Alvarez, 2022).
28
Theo mô hình lý thuyết quản trị tiền của Baumol (1952), doanh nghiệp có
dòng tiền ròng thặng dư sẽ góp phần tăng số dư tiền nắm giữ, qua đó giảm thiểu
khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính cho doanh nghiệp (Brealey và cộng sự, 2008;
Arnold, 2013). Bên cạnh đó, lý thuyết quản trị tiền của Baumol (1952) còn xác
định những động cơ nắm giữ tiền của các doanh nghiệp bao gồm động cơ giao
dịch (transaction motive), động cơ phòng ngừa (precautionary motive) và động cơ
đầu tư (speculative motive); theo đó bản chất doanh nghiệp luôn phải đối mặt với
sự không tương thích giữa tiền thu và tiền chi trong kỳ, và khi đó số dư tiền nắm
giữ sẽ rất cần thiết như một tấm đệm an toàn để doanh nghiệp có thể tiếp tục hoạt
động, doanh nghiệp có thể giảm thiểu khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính (Arnold,
2013). Ngoài ra, lý thuyết ưa thích thanh khoản của Keynes (1936) cũng khẳng
định rằng khoản tiền nắm giữ bởi doanh nghiệp sẽ không mang lại lợi nhuận mà
nắm giữ tiền có ý nghĩa tích cực đối với thanh khoản của bản thân doanh nghiệp;
theo đó, lý thuyết này cũng ủng hộ quan điểm rằng doanh nghiệp có dòng tiền
ròng thặng dư sẽ góp phần cải thiện thanh khoản, giảm thiểu khả năng xảy ra kiệt
quệ tài chính và ngược lại.
Từng dòng tiền ảnh hưởng đến kiệt quệ tài chính
Dòng tiền ròng từ hoạt động kinh doanh là chỉ tiêu tổng hợp, thể hiện chêch
lệch giữa tiền thu vào từ hoạt động kinh doanh với tiền chi ra cho hoạt động kinh
doanh kỳ (CFA Institute, 2020; Penman, 2001; Klammer, 2017; Ngô Kim Phượng
& cộng sự, 2018). Trường hợp dòng tiền ròng từ hoạt động kinh doanh lớn hơn 0
cho thấy doanh nghiệp đảm bảo khả năng tạo tiền và khoản tiền thặng dư này là
cơ sở để doanh nghiệp thực hiện các nghĩa vụ, trách nhiệm với cổ đông và chủ nợ,
hoặc để doanh nghiệp mở rộng đầu tư và gia tăng năng lực sản xuất kinh doanh.
Ngược lại, trường hợp dòng tiền ròng từ hoạt động kinh doanh nhỏ hơn hoặc bằng
0 cho thấy doanh nghiệp không tạo ra tiền trong kỳ. Trường hợp dòng tiền ròng từ
hoạt động kinh doanh nhỏ hơn 0 còn thể hiện doanh nghiệp rơi vào tình trạng
thiếu hụt tiền, thông thường là do gia tăng nhu cầu vốn lưu động trong chu kỳ sản
xuất kinh doanh, và khi đó doanh nghiệp thường huy động nguồn tài trợ bên ngoài
bằng cách vay nợ ngắn hạn, dẫn đến gia tăng mức độ phụ thuộc vào các chủ nợ
29
cũng như gia tăng áp lực thanh toán và phải đối mặt nhiều hơn với rủi ro kiệt quệ
tài chính (Ngô Kim Phượng & cộng sự, 2018; Lessambo, 2022; Fridson &
Alvarez, 2022).
Trường hợp doanh nghiệp bị thâm hụt dòng tiền hoạt động kinh doanh liên tục
nhiều kỳ, doanh nghiệp phải tìm cách vay nợ dài hạn hoặc nhận vốn góp trực tiếp
từ chủ sở hữu, hoặc thậm chí là doanh nghiệp phải thu hẹp đầu tư bằng cách thanh
lý tài sản, chấp nhận giảm năng lực sản xuất kinh doanh (Ngô Kim Phượng &
cộng sự, 2018; Lessambo, 2022; Fridson & Alvarez, 2022). Như vậy, một doanh
nghiệp với dòng tiền hoạt động kinh doanh thặng dư và ổn định ở mức cao sẽ giúp
cho chính doanh nghiệp thực hiện các nghĩa vụ, trách nhiệm với chủ nợ, giảm
thiểu rủi ro mất khả năng thanh toán và làm giảm khả năng xảy ra tình trạng kiệt
quệ tài chính; và ngược lại. Đồng thời, những phân tích lý thuyết về dòng tiền
hoạt động kinh doanh cũng đã chỉ ra vai trò điều tiết của dòng tiền này đối với tác
động của đòn bẩy tài chính đến kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp.
Dòng tiền ròng từ hoạt động đầu tư là chỉ tiêu tổng hợp, thể hiện chêch lệch
giữa tiền thu vào từ hoạt động đầu tư với tiền chi ra cho hoạt động đầu tư (CFA
Institute, 2020; Penman, 2001; Klammer, 2017; Ngô Kim Phượng & cộng sự,
2018). Trường hợp dòng tiền ròng từ hoạt động đầu tư nhỏ hơn 0 thể hiện xu
hướng mở rộng đầu tư và trường hợp dòng tiền ròng từ hoạt động đầu tư lớn hơn
0 thể hiện xu hướng đầu tư thu hẹp. Dòng tiền ròng từ hoạt động đầu tư thường
được tách ra thành hai nhóm thành phần là (i) dòng tiền ròng từ hoạt động đầu tư
liên quan tài sản cố định và (ii) dòng tiền ròng từ hoạt động đầu tư liên quan đầu
tư trái ngành (Ngô Kim Phượng & cộng sự, 2018), qua đó chỉ rõ mở rộng đầu tư
có thực sự góp phần gia tăng năng lực sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp hay
không. Nếu mở rộng đầu tư tài sản cố định thì năng lực sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp sẽ gia tăng, và ngược lại; trong khi đó, mở rộng đầu tư vào các tài
sản tài chính hay bất động sản đầu tư không góp phần gia tăng năng lực sản xuất
kinh doanh cho doanh nghiệp, đây chỉ là dạng đầu tư trái ngành với khả năng
kiểm soát rủi ro của doanh nghiệp sẽ có nhiều hạn chế, tuy nhiên nhờ đầu tư trái
ngành mà doanh nghiệp có thể đảm bảo tốt hơn cho hiệu quả sử dụng vốn khi
30
đồng vốn dư thừa, nhàn rỗi (Ngô Kim Phượng & cộng sự, 2018; Lessambo, 2022;
Fridson & Alvarez, 2022). Như vậy, một doanh nghiệp với dòng tiền hoạt động
đầu tư thặng dư và liên tục xảy ra trong nhiều kỳ là dấu hiệu của việc thu hẹp đầu
tư, thanh lý tài sản cố định làm suy giảm năng lực sản xuất kinh doanh và gia tăng
khả năng xảy ra tình trạng kiệt quệ tài chính; hay dòng tiền hoạt động đầu tư thâm
hụt do quyết định mở rộng đầu tư trái ngành với sự hạn chế về khả năng kiểm soát
rủi ro, có thể là biểu hiện của tình trạng dư thừa vốn và khả năng hấp thụ vốn của
hoạt động kinh doanh chính kém, nếu tình trạng này kéo dài sẽ làm gia tăng khả
năng kiệt quệ tài chính.
Dòng tiền ròng từ hoạt động tài trợ (tài chính) là chỉ tiêu tổng hợp, thể hiện
chêch lệch giữa tiền thu vào từ hoạt động tài trợ với tiền chi ra cho hoạt động tài
trợ (CFA Institute, 2020; Penman, 2001; Klammer, 2017; Ngô Kim Phượng &
cộng sự, 2018). Trường hợp dòng tiền ròng từ hoạt động tài trợ lớn hơn 0 cho biết
doanh nghiệp được tài trợ bằng nguồn tiền từ bên ngoài, có thể bằng cách vay nợ
hoặc phát hành cổ phiếu mới để kêu gọi vốn góp trực tiếp từ chủ sở hữu. Ngược
lại, trường hợp dòng tiền ròng từ hoạt động tài trợ nhỏ hơn 0 cho biết doanh
nghiệp không huy động thêm nguồn tiền tài trợ từ bên ngoài, thậm chí doanh
nghiệp còn chi trả các khoản tài trợ từ bên ngoài đã huy động trước đây. Với
những khác nhau rất rõ giữa nợ vay và vốn chủ sở hữu trong việc xác định ảnh
hưởng của quyết định tài trợ đến mục tiêu tài chính của doanh nghiệp, dòng tiền
ròng từ hoạt động tài trợ thường được tách ra thành hai nhóm thành phần là (i)
dòng tiền ròng từ hoạt động tài trợ liên quan vốn chủ sở hữu và (ii) dòng tiền ròng
từ hoạt động tài trợ liên quan nợ vay (Ngô Kim Phượng & cộng sự, 2018). Như
vậy, một doanh nghiệp có dòng tiền ròng từ hoạt động tài trợ liên quan nợ vay lớn
hơn 0 và liên tục cho thấy doanh nghiệp phụ thuộc nhiều hơn vào các chủ thể cho
vay, đây là mâu thuẫn cơ bản dẫn đến sự gia tăng khả năng xảy ra tình trạng kiệt
quệ tài chính, trong khi đó dòng tiền ròng từ hoạt động tài trợ liên quan vốn chủ
sở hữu lớn hơn 0 phát ra tín hiệu doanh nghiệp phụ thuộc nhiều hơn vào các chủ
sở hữu nhưng điều này không góp phần vào khả năng xảy ra tình trạng kiệt quệ tài
chính. Trường hợp một doanh nghiệp có dòng tiền ròng từ hoạt động tài trợ nhỏ
31
hơn 0 dù là liên quan nợ vay hay vốn chủ sở hữu gợi ý rằng doanh nghiệp phụ
thuộc ít hơn vào các chủ thể cho vay cũng như các chủ sở hữu, điều này có thể
nhờ khả năng tạo tiền tốt từ hoạt động kinh doanh góp phần tích cực vào khả năng
tự chủ tài chính của doanh nghiệp và qua đó doanh nghiệp sẽ giảm được khả năng
xảy ra tình trạng kiệt quệ tài chính (Ngô Kim Phượng & cộng sự, 2018;
Lessambo, 2022; Fridson & Alvarez, 2022).
Mối quan hệ tương tác giữa các dòng tiền ảnh hưởng đến kiệt quệ tài
chính
Tiếp cận theo nội dung và ý nghĩa phân tích như đã đề cập trên, mỗi doanh
nghiệp có 3 dòng tiền, tuy nhiên các dòng tiền này không tồn tại độc lập mà có
mối quan hệ mật thiết với nhau (Ngô Kim Phượng & cộng sự, 2018; CFA
Institute, 2020; Penman, 2001; Lessambo, 2022; Fridson & Alvarez, 2022). Theo
đó, dòng tiền hoạt động kinh doanh là dòng tiền cốt lõi, chủ lực của các doanh
nghiệp. Các doanh nghiệp phải đảm bảo rằng hoạt động kinh doanh tạo ra tiền để
thông qua đó doanh nghiệp có thể đảm bảo thanh khoản và khả năng tự chủ tài
chính để có thể phát triển bền vững.
Nếu dòng tiền hoạt động kinh doanh thặng dư sẽ là cơ sở để đáp ứng nhu cầu
thanh toán các khoản nợ vay đến hạn, chi trả cổ tức cho cổ đông, hay mở rộng đầu
tư tài sản cố định và cũng có thể đầu tư vốn ra bên ngoài doanh nghiệp (Ngô Kim
Phượng & cộng sự, 2018; CFA Institute, 2020; Penman, 2001; Lessambo, 2022;
Fridson & Alvarez, 2022). Nói cách khác là dòng tiền hoạt động kinh doanh thặng
dư trở thành nguồn tiền đáp ứng cho các khoản chi tiền thuộc dòng tiền hoạt động
đầu tư và hoạt động tài trợ (tài chính). Ngược lại nếu dòng tiền hoạt động kinh
doanh thâm hụt, doanh nghiệp có thể huy động dòng tiền vào từ hoạt động tài
chính như vay nợ ngân hàng hay phát hành trái phiếu, hay các hình thức vay nợ
khác, và cũng có thể doanh nghiệp huy động thêm vốn góp của chủ sở hữu hoặc
không chia lợi nhuận cho chủ sở hữu, để tài trợ cho tiền thiếu từ hoạt động kinh
doanh (Ngô Kim Phượng & cộng sự, 2018; CFA Institute, 2020; Penman, 2001;
Lessambo, 2022; Fridson & Alvarez, 2022). Trong một số trường hợp việc thu
hẹp đầu tư bằng cách bán bớt các tài sản dài hạn cũng tạo ra một dòng tiền vào từ
32
hoạt động đầu tư để đáp ứng nhu cầu chi trả các khoản nợ vay đến hạn hoặc bù
đắp phần tiền thiếu từ hoạt động kinh doanh.
Doanh nghiệp sẽ có nguy cơ mất khả năng thanh toán khi dòng tiền hoạt động
kinh doanh thâm hụt liên tục qua nhiều năm (Ngô Kim Phượng & cộng sự, 2018;
CFA Institute, 2020; Penman, 2001; Lessambo, 2022; Fridson & Alvarez, 2022),
bởi vì dòng tiền hoạt động kinh doanh thâm hụt thường sẽ được tài trợ bằng các
khoản nợ vay ngắn hạn, và các khoản nợ vay ngắn hạn này sẽ trở thành nhu cầu
thanh toán trong năm tiếp theo. Vì vậy, nếu dòng tiền hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp năm sau lại tiếp tục thâm hụt thì doanh nghiệp sẽ không thực hiện
được trách nhiệm tài chính với các chủ nợ, hoặc có thể thực hiện nhưng khó khăn,
bằng những cách thức không hiệu quả, cụ thể là vấn đề này có thể giải quyết bằng
một trong ba cách: (i) Bán bớt tài sản cố định và tài sản tài chính, hoặc (ii) Huy
động thêm vốn chủ sở hữu, và (iii) Dàn xếp để thay nợ vay ngắn hạn thành nợ vay
trung dài hạn. Nếu một trong ba giải pháp vừa nêu không thể thực hiện được
doanh nghiệp sẽ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Ngoài ra, những khó
khăn trong việc thực hiện các trách nhiệm tài chính với chủ nợ lại trở thành
nguyên nhân kéo theo là doanh nghiệp khó có thể tìm được nguồn tài trợ từ khoản
nợ vay mới nếu không trả được khoản nợ vay ngắn hạn vay trước đó, dẫn đến
những trở ngại đối với hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như hoạt động đầu tư
trong tương lai.
Dòng tiền hoạt động kinh doanh điều tiết tác động của đòn bẩy tài chính
đến kiệt quệ tài chính
Lý thuyết đánh đổi trong cấu trúc vốn của Myers (1977) chỉ ra rằng doanh
nghiệp sử dụng nợ sẽ hình thành đòn bẩy tài chính, khi đó bên cạnh doanh nghiệp
có được lợi ích tăng thêm nhờ lá chắn thuế từ lãi vay, doanh nghiệp phải chấp
nhận rủi ro tăng thêm, trong đó có sự gia tăng nguy cơ kiệt quệ tài chính (Brealey
& cộng sự, 2008; Arnold, 2013; Horne & Wachowicz, 2008). Theo Ngô Kim
Phượng & cộng sự (2018), CFA Institute (2020), Penman (2001), Lessambo
(2022), Fridson & Alvarez (2022), dòng tiền hoạt động kinh doanh thể hiện khả
năng tạo tiền của các doanh nghiệp, và đây là nguồn lực tài chính vững chắc từ
33
nội lực để các doanh nghiệp có thể thực hiện trách nhiệm không chỉ đối với chủ
nợ mà còn các cổ đông cũng như cơ hội tích lũy để mở rộng đầu tư và tạo giá trị
tăng thêm. Như vậy, các doanh nghiệp sử dụng đòn bẩy tài chính sẽ tác động cùng
chiều đáng kể đến kiệt quệ tài chính, tuy nhiên sự tồn tại của dòng tiền hoạt động
kinh doanh có vai trò điều tiết giảm tác động cùng chiều của đòn bẩy tài chính đến
kiệt quệ tài chính tại các doanh nghiệp.
Không những thế, bản chất của nợ là nguồn tài trợ có tính hoàn trả. Dưới góc
độ quản trị tài chính, các doanh nghiệp lựa chọn tài trợ bằng nợ sẽ làm tăng thêm
áp lực thanh toán (Brealey & cộng sự, 2008; Ngô Kim Phượng & cộng sự, 2021).
Lý thuyết ưa thích thanh khoản của Keynes (1936) đã chỉ ra các động cơ nắm giữ
tiền là giao dịch, dự phòng và đầu cơ; theo đó, doanh nghiệp tạo ra được dòng tiền
hoạt động kinh doanh thặng dư sẽ là cơ sở để gia tăng số dư tiền tích lũy và khi đó
nguy cơ kiệt quệ tài chính sẽ giảm. Như vậy, Lý thuyết này cũng hàm ý rằng dòng
tiền hoạt động kinh doanh có ý nghĩa tích cực đến thanh khoản, và tham gia điều
tiết giảm tác động cùng chiều của đòn bẩy tài chính đến kiệt quệ tài chính.
2.3. BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM VỀ KIỆT QUỆ TÀI CHÍNH VÀ
ẢNH HƯỞNG CỦA DÒNG TIỀN ĐẾN TÌNH TRẠNG KIỆT QUỆ TÀI
CHÍNH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
2.3.1. Mô hình đo lường kiệt quệ tài chính
Fauzi & cộng sự (2021) thực hiện so sánh các mô hình lượng hóa kiệt quệ tài
chính giữa các mô hình Altman, Springate, Zmijewski và Grover cho các công ty
thuộc ngành viễn thông niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Indonesia, mẫu
nghiên cứu là 4 công ty trong giai đoạn 2014-2019 theo phương pháp chọn mẫu
có mục đích. Kết quả nghiên cứu được lần lượt xác định bởi phương pháp phân
tích mô tả, ước lượng không chệch tuyến tính tốt nhất và phân tích tỷ lệ chính xác.
Theo đó, nhóm tác giả cho rằng các mô hình Altman, Springate và Grover đều
cung cấp kết quả nhất quán về kiệt quệ tài chính, trong đó mô hình Altman là tốt
nhất vì đảm bảo tính chính xác, nhất quán và được kiểm định theo phân tích mô tả
và thống kê. Trong khi đó, mô hình Zmijewski và Grover cho kết quả đo lường
không nhất quán.
34
Andriani & Sihombing (2021) nghiên cứu so sánh mức độ chính xác giữa các
mô hình Z-Score, S-Score và X-Score trong việc ước lượng kiệt quệ tài chính của
các công ty thuộc lĩnh vực bất động sản, chọn mẫu nghiên cứu theo phương pháp
chọn mẫu có mục đích và xác định được 20 doanh nghiệp niêm yết trên Sở Giao
dịch Chứng khoán Indonesia trong giai đoạn năm 2017-2019. Nhóm tác giả sử
dụng phương pháp so sánh mô tả các biến giống nhau của các mẫu khác nhau; và
để xác định mức độ chính xác, so sánh các mô hình đo lường kiệt quệ tài chính
thông qua giá trị lợi nhuận trên một cổ phần của mỗi công ty với kỹ thuật biến giả.
Kết quả tính toán bằng mô hình Z-Score cho thấy có 13 trường hợp nằm trong
vùng an toàn và 47 trường hợp nằm trong vùng kiệt quệ tài chính. Tính toán bằng
mô hình S-Score cho thấy có 26 trường hợp nằm trong vùng an toàn và 34 trường
hợp nằm trong vùng kiệt quệ tài chính. Kết quả tính toán bằng mô hình X-Score
cho thấy có 56 trường hợp nằm trong vùng an toàn và 4 trường hợp nằm trong
vùng kiệt quệ tài chính. Nhóm tác giả cho rằng mô hình X-Score là chính xác nhất
trong việc ước lượng kiệt quệ tài chính với tỷ lệ chính xác là 90%, trong khi đó tỷ
lệ chính xác của mô hình S-Score và Z-Score lần lượt là 47% và 25%.
Fadrul & Ridawati (2020) sử dụng phương pháp phân tích mô tả để đánh giá
việc sử dụng các mô hình Z-Score, X-Score và S-Score để ước lượng tình trạng
kiệt quệ tài chính của các công ty giấy và bột giấy niêm yết trên Sở giao dịch
chứng khoán Indonesia, mẫu nghiên cứu bao gồm 9 doanh nghiệp trong giai đoạn
2012-2017. Kết quả nghiên cứu cho thấy mô hình X-Score có tỷ lệ chính xác cao
nhất là 100% và tỷ lệ sai lầm là 0%, trong khi đó mô hình Z-Score có tỷ lệ chính
xác là 28,6% và tỷ lệ sai lầm 71,4%, và mô hình S-Score có tỷ lệ chính xác là
14,3% và tỷ lệ sai lầm là 85,7%. Vì vậy, nhóm tác giả khẳng định mô hình đo
lường chính xác để xác định khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính là X-Score.
Tanjung (2020) sử dụng phương pháp chọn mẫu có mục đích, xác định mẫu
nghiên cứu là 9 doanh nghiệp dược phẩm niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán
Indonesia trong giai đoạn 2013-2017. Theo đó, tác giả đặt ra mục tiêu trả lời 2 câu
hỏi, bao gồm: (i) Thứ nhất, Liệu rằng có sự khác biệt trong kết quả đo lường kiệt
quệ tài chính giữa mô hình Altman Z-Score, Springate, Zmijewski và Ohlson hay
35
không? (ii) Thứ hai, Mô hình nào xác định chính xác nhất về mức độ kiệt quệ tài
chính của các doanh nghiệp. Thông qua sử dụng phương pháp mô tả so sánh,
kiểm định phân phối chuẩn của dữ liệu và kiểm định phối hợp từng cặp (Paired
Samples T-test), tác giả đã khẳng định rằng có tồn tại sự khác biệt đáng kể trong
kết quả đo lường kiệt quệ tài chính giữa các mô hình Altman Z-Score, Springate,
Zmijewski và Ohlson; và trong đó, mô hình Altman Z-Score được đánh giá là phù
hợp nhất để đo lường kiệt quệ tài chính.
Hertina & cộng sự (2020) phân tích mức độ chính xác khi thực hiện đo lường
kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp bởi các mô hình Z-Score, Springate,
Zmijewski và Grover. Theo phương pháp lấy mẫu có mục đích, mẫu nghiên cứu
là 17 công ty khai thác thuộc phân ngành than, niêm yết trên Sở giao dịch chứng
khoán Indonesia trong giai đoạn 2014-2018. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp
mô tả với kiểm định T mẫu độc lập (Independent Sample T-test) và và kiểm định
ANOVA một chiều (One way ANOVA test). Kết quả nghiên cứu đã xác định rằng
tồn tại sự khác biệt đáng kể giữa mô hình Grover và Z-Score, mô hình Grover với
Zmijewski, trong khi đó mô hình Grover với Springate không có sự khác biệt. Kết
quả cuối cùng của kiểm định ANOVA một chiều khẳng định có sự khác biệt đáng
kể giữa bốn mô hình và có mức độ chính xác của Altman Z-Score là 72,22%,
Springate 66,67%, Zmijewski và Grover là 83,33%. Theo đó, nhóm tác giả kết
luận rằng mô hình Zmijewski và Grover là chính xác nhất để ước lượng tình trạng
kiệt quệ tài chính cho các công ty.
Mulyati & Ilyasa (2020) đưa ra 2 mục tiêu là (i) Đánh giá sự khác biệt giữa
các mô hình Altman, Springate, Zmijewski và Tỷ lệ tăng trưởng nội bộ trong việc
ước lượng tình trạng kiệt quệ tài chính, và (ii) Xác định mô hình ước lượng chính
xác nhất về tình trạng kiệt quệ tài chính của các công ty. Mẫu nghiên cứu là 35
doanh nghiệp khoáng sản niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Indonesia trong
giai đoạn 2014-2017, được lựa chọn theo phương pháp chọn mẫu có mục đích.
Kết quả nghiên cứu được xác định bằng phương pháp thống kê, phân tích tỷ lệ
chính xác và tỷ lệ sai lầm loại I; theo đó, nhóm tác giả khẳng định tồn tại sự khác
biệt kết quả ước lượng kiệt quệ tài chính giữa bốn mô hình. Mô hình Springate
36
được đánh giá là tốt nhất với tỷ lệ chính xác là 88,89% và sai số loại I là 8%, thứ
hai là mô hình Zmijewski với tỷ lệ chính xác là 88,89% và tỷ lệ lỗi loại I là
42,86%, thứ ba là mô hình Altman với độ chính xác 75% và loại lỗi I là 46,67%
và cuối cùng là mô hình tỷ lệ tăng trưởng nội bộ với tỷ lệ chính xác là 66,69% và
tỷ lệ lỗi loại I là 11,11%.
Viciwati (2020) xác định và phân tích các mô hình X-Score và Z-Score được
ứng để ước lượng tình trạng kiệt quệ tài chính trong các công ty bán lẻ niêm yết
trên Sở giao dịch chứng khoán Indonesia, mẫu nghiên cứu bao gồm 70 doanh
nghiệp từ năm 2014 đến năm 2018. Tác giả thực hiện kiểm định phân phối chuẩn
của dữ liệu, sau đó kiểm định Kruskal Wallis hoặc kiểm định sự khác biệt. Kết
luận của tác giả cho rằng mô hình X-Score đạt tỷ lệ chính xác cao nhất là 90% và
tỷ lệ lỗi dạng II là 10%, trong khi đó mô hình Z-Score chỉ đạt tỷ lệ chính xác là
74,29%, tỷ lệ lỗi dạng II là 2,86% và kết quả không chắc chắn là 22,86%. Theo
đó, tác giả khuyến nghị các doanh nghiệp có thể xem xét kết quả của mô hình X-
Score để giảm thiểu hoặc tránh nguy cơ kiệt quệ tài chính. Ngoài ra, nghiên cứu
này cũng có hạn chế là chỉ mới xem xét 2 mô hình và thời gian thực hiện chỉ là 5
năm; do đó, tác giả khuyến nghị rằng các nghiên cứu tiếp theo cần sâu hơn thông
qua việc bổ sung các mô hình khác như Sringate, Ohlson, Fulmer, Zavgren, CA-
Score và các mô hình khác, đồng thời có thể kéo dài thời gian nghiên cứu để mẫu
nghiên cứu nhiều hơn.
Tahu (2019) ước lượng kiệt quệ tài chính bằng mô hình Z-Score và S-Score
cho trường hợp các công ty xây dựng niêm yết tại Indonesia, dữ liệu thu thập từ 8
doanh nghiệp trong giai đoạn 2014-2018. Tác giả áp dụng phương pháp so sánh
mức độ chính xác hay lỗi giữa các mô hình chỉ số kiệt quệ tài chính căn cứ kỹ
thuật phân tích thống kê, theo đó kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng S-Score có tỷ lệ
chính xác là 62,5% và tỷ lệ lỗi là 37,5%, trong khi đó Z-Score có những tỷ lệ này
lần lượt là 50% và 50%; vì vậy tác giả khuyến nghị sử dụng S-Score để ước lượng
và tham chiếu để khắc phục tình trạng kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp;
tuy nhiên tác giả cũng khuyến nghị thêm rằng có thể sử dụng các mô hình đo
lường khác với kỳ vọng ước lượng tình trạng kiệt quệ tài chính chính xác hơn.
37
Shalih & Kusumawati (2019) phân tích sự khác biệt trong mô hình S-Score
(Springate) và mô hình Fulmer khi áp dụng các mô hình này để ước lượng kiệt
quệ tài chính của các công ty sản xuất niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán
Indonesia. Mẫu nghiên cứu gồm 18 doanh nghiệp trong giai đoạn 2014-2016, và
nhóm tác giả sử dụng phương pháp kiểm định ANOVA một chiều (One way
ANOVA). Kết quả nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt đáng kể giữa mô hình
Springate và mô hình Fulmer, và Springate là mô hình phù hợp nhất trong việc
lượng hóa tình trạng kiệt quệ tài chính. Theo đó, nhóm tác giả cho rằng sự khác
biệt giữa mô hình Springate với Fulmer là do sự không giống nhau về các chỉ số
tài chính cấu thành mỗi mô hình, bên cạnh đó là sự khác biệt trong đo lường giá
trị gán cho mỗi mô hình. Nhóm tác giả khuyến nghị các nghiên cứu trong tương
lai có thể mở rộng cỡ mẫu cũng như dữ liệu và bổ sung xem xét các mô hình dự
báo kiệt quệ tài chính khác, chẳng hạn như Zmijewski, Altman, Grover và các mô
hình khác.
Syamni & cộng sự (2018) nghiên cứu thực nghiệm trường hợp các công ty
trong lĩnh vực khai thác than niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Indonesia,
mục tiêu là khám phá tính hữu ích của các mô hình Olhson, Altman điều chỉnh,
Grover, Springate và Zmijewski trong việc ước lượng kiệt quệ tài chính của các
công ty này. Mẫu nghiên cứu gồm 19 công ty trong giai đoạn 2013-2015, và nhóm
tác giả sử dụng các kỹ thuật phân tích thống kê, mô tả và phân tích hồi quy dữ liệu
bảng như CEM, FEM và REM kèm các kiểm định Chow and Hausman xác định
kết quả nghiên cứu. Theo đó, mô hình Grover cho thấy số lượng công ty lớn nhất
trong danh mục lành mạnh tài chính, trong khi mô hình Olhson ghi nhận nhiều
công ty hơn trong danh mục kiệt quệ tài chính. Trong khi đó, mô hình Altman
điều chỉnh đã tìm thấy nhiều công ty hơn trong danh mục khu vực báo động tình
trạng kiệt quệ tài chính. Đối với các mối quan hệ giữa mô hình ước lượng kiệt quệ
tài chính với giá cổ phiếu, nghiên cứu cho thấy mô hình Springate ảnh hưởng
không đáng kể đến giá cổ phiếu; trong khi đó mô hình Ohlson và Grover được
phát hiện ảnh hưởng tiêu cực và đáng kể đến giá cổ phiếu của các công ty, cho
thấy rằng các kết quả ước lượng bởi hai mô hình này càng cao thì giá cổ phiếu
38
càng thấp và ngược lại. Mặt khác, mô hình Altman điều chỉnh và Zmijewski được
phát hiện có ảnh hưởng tích cực đến giá cổ phiếu, ngụ ý rằng những kết quả tìm
thấy từ hai mô hình này càng cao thì giá cổ phiếu càng cao. Nhóm tác giả cho
rằng các nhà đầu tư nên chú ý nhiều hơn đến mô hình Ohlson và Grover, bởi vì
chúng đưa ra dự đoán tiêu cực về giá cổ phiếu.
Ningsih & Permatasari (2018) sử dụng dữ liệu của 13 doanh nghiệp niêm yết
trong giai đoạn 2012-2016 thuộc lĩnh vực xe ô tô và phụ tùng xe ô tô, theo đó mục
tiêu của nhóm tác giả là phân tích các thành phần cấu thành mô hình Z-Score điều
chỉnh để đo lường kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp. Kết quả chỉ ra rằng các
doanh nghiệp trong hầu hết các năm đều có biểu hiện kiệt quệ tài chính, cụ thể là
năm 2012 có 1 doanh nghiệp, năm 2013 có 2 doanh nghiệp, năm 2014 là 2 doanh
nghiệp, năm 2015 là 2 doanh nghiệp và năm 2016 là 4 doanh nghiệp. Theo đó,
nhóm tác giả khẳng định rằng mô hình Z-Score có thể được sử dụng để đo lường
kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp; và các nhà quản lý tài chính cần kiểm
soát chặt chẽ và hiệu quả các thành phần của mô hình này để không gặp phải kiệt
quệ tài chính, hay các nhà đầu tư sử dụng mô hình như một công cụ lựa chọn
doanh nghiệp để đầu tư. Ngoài ra, nhóm tác giả cũng khuyến nghị nên mở rộng sử
dụng các mô hình đo lường kiệt quệ tài chính khác như Springate, Ohlson và
Grover.
Pakdaman (2018), mục tiêu của tác giả này là xác định tính hiệu quả của các
mô hình Altman, Springate, Zmijewski và Grover trong việc ước lượng tình trạng
kiệt quệ tài chính của các công ty niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Tehran,
đối sánh kết quả của các mô hình để tìm mô hình phù hợp nhất. Mẫu nghiên cứu
được xác định là 35 công ty dệt may và gạch men từ năm 2011 đến năm 2016, và
theo đó tác giả sử dụng kiểm định tương quan, mỗi giả thuyết nghiên cứu được
kiểm định và phân tích hồi quy. Theo đó, kết quả thu được từ việc xác định các
chỉ số kiệt quệ tài chính từ các môn hình Z-Score, Springate, Zmijewski và
Grover lần lượt là 92%, 84%, 9% và 98%; cho thấy khả năng dự đoán kiệt quệ tài
chính của mô hình Grover đạt mức cao nhất, sau đó là đến mô hình Z-Score và
Springate, và khả năng thấp nhất là mô hình Zmijewski; như vậy mô hình Grover
39
có khả năng ước lượng kiệt quệ tài chính tốt hơn ba mô hình còn lại. Tác giả
khuyến nghị xem xét tình trạng tài chính cũng như vấn đề về khả năng hoạt động
liên tục của công ty thông qua kết quả xác định bởi các mô hình này, từ đó có thể
được xem xét và nâng cao chất lượng ra quyết định của các bên liên quan.
Phạm Thị Hồng Vân (2018) nghiên cứu việc sử dụng mô hình Logit để đo
lường khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính của các công ty cổ phần ngành công
nghiệp niêm yết tại Việt Nam qua bộ dữ liệu dạng bảng với 189 doanh nghiệp
trong giai đoạn 2009-2016. Tác giả đã chỉ ra các nhân tố thuộc nội tại doanh
nghiệp như tỷ lệ nắm giữ tiền, tỷ số nợ, quy mô doanh nghiệp, hiệu suất sử dụng
tài sản, tỷ lệ lợi nhuận giữ lại có tác động đến kiệt quệ tài chính, trong khi các
nhân tố vĩ mô và môi trường không tác động đến kiệt quệ tài chính. Kết quả
nghiên cứu còn khẳng định mô hình dự báo kiệt quệ tài chính có thể đúng theo
tổng thể đạt mức 93,12%.
Januri & cộng sự (2017) phân tích sự khác biệt của kết quả ước lượng kiệt quệ
tài chính của các doanh nghiệp dựa trên các mô hình Z-Score, Springate và
Zmijewski, cụ thể là trường hợp 03 công ty xi măng niêm yết trên Sở giao dịch
chứng khoán Indonesia trong giai đoạn 2011-2015. Nhóm tác giả sử dụng kiểm
định Kruskal-Wallis và đánh giá mức độ chính xác của từng mô hình thông qua tỷ
lệ chính xác và tỷ lệ các dạng lỗi. Kết quả tìm thấy được khẳng định tồn tại sự
khác biệt về khả năng kiệt quệ tài chính từ ba mô hình, được chứng minh thông
qua kiểm định Kruskal Wallis với giá trị ý nghĩa là 0,043; vì vậy nhóm tác giả
khuyến nghị sử dụng các công cụ phân tích khác về khả năng kiệt quệ tài chính
như mô hình Ohlson, Shirata, CA Score, Fulmer và các mô hình khác. Ngoài ra,
nhóm tác giả còn xác định được rằng tỷ lệ chính xác của mô hình X-Score là
100%, trong khi đó mô hình Z-Score và S-Score đều chỉ đạt tỷ lệ chính xác 66,7%
và tương ứng tỷ lệ lỗi là 33,3%; do đó mô hình X-Score được đánh giá là phù hợp
để ước lượng tình trạng kiệt quệ tài chính của các công ty xi măng niêm yết tại
Indonesia.
Aminian & cộng sự (2016) nghiên cứu thực nghiệm với mục tiêu xác định
mức độ hiệu quả của mô hình Z-Score, Springate, Zmijewski và Grover nhằm ước
40
lượng tình trạng kiệt quệ tài chính, đồng thời so sánh kết quả để tìm mô hình phù
hợp cho trường hợp các công ty dệt may, gốm sứ và gạch ngói niêm yết trên Sở
giao dịch chứng khoán Tehran, mẫu nghiên cứu là 35 doanh nghiệp trong giai
đoạn 2008-2013. Trong nghiên cứu này, sau khi xác định phân phối chuẩn của dữ
liệu bằng cách sử dụng các kiểm định tương quan, các giả thuyết nghiên cứu được
kiểm định bằng kỹ thuật phân tích hồi quy. Ngoài ra, bằng cách sử dụng phân tích
tương quan để kiểm tra ý nghĩa của từng mô hình Z-Score, Springate, Zmijewski
và Grover và để tìm ra mô hình phù hợp bằng phương pháp hồi quy tuyến tính
nhiều lần cho dữ liệu bảng, theo đó nhóm tác giả xây dựng 8 giả thuyết nghiên
cứu. Kết quả kiểm định giả thuyết đã chứng minh rằng mô hình Grover, Z-Score,
Springate và Zmijewski đều có khả năng ước lượng kiệt quệ tài chính. Tuy nhiên,
theo nhóm tác giả, vì các nhà đầu tư luôn tìm kiếm thông tin thích hợp để đầu tư
và các nhà quản lý quan tâm đến việc đánh giá các điểm yếu và các mối đe dọa
trong tương lai để đưa ra các quyết định cần thiết khi đối mặt với những mối đe
dọa này, nên sử dụng mô hình Grover như một công cụ để dự đoán tình trạng kiệt
quệ tài chính hoặc khả năng hoạt động liên tục của các công ty.
Lê Cao Hoàng Anh & Nguyễn Thị Thu Hằng (2012) đã tiến hành kiểm định
chỉ số Z với các doanh nghiệp niêm yết trên HOSE. Để xác định độ tin cậy của
mô hình chỉ số Z của Altman tại Việt Nam, nhóm tác giả sử dụng dữ liệu của 293
doanh nghiệp và thực hiện kiểm định thông qua quan sát sai lầm loại I và sai lầm
loại II. Kết quả kiểm định cho thấy mô hình của Altman rất hiệu quả với tỷ lệ dự
báo chính xác đạt 91% tại thời điểm một năm trước khi doanh nghiệp kiệt quệ tài
chính, tỷ lệ này giảm xuống còn 72% trong vòng hai năm. Kết quả này gần tương
đồng với các kiểm định tại những thị trường mới nổi khác như Mexico, Thái Lan.
Nghiên cứu kiểm định hữu ích đối với các nhà thẩm định tín dụng, chuyên gia đầu
tư danh mục và nhà quản trị doanh nghiệp.
2.3.2. Dòng tiền, đòn bẩy tài chính và các yếu tố khác ảnh hưởng đến kiệt quệ tài chính của doanh nghiệp
Với dòng tiền hoạt động kinh doanh như một biến can thiệp, Kusnanto (2023)
kiểm tra ảnh hưởng của sở hữu tổ chức và vốn trí tuệ ảnh hưởng đến kiệt quệ tài
chính cho trường hợp 33 công ty ngành hàng tiêu dùng niêm yết trên Sở giao dịch
41
chứng khoán Indonesia trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019. Kết quả tìm
thấy rằng kiệt quệ tài chính chịu sự ảnh hưởng ngược chiều bởi dòng tiền hoạt
động kinh doanh và vốn trí tuệ, trong khi sở hữu tổ chức ảnh hưởng cùng chiều
không đáng kể đến kiệt quệ tài chính. Bên cạnh đó, Kusnanto (2023) còn khẳng
định rằng vốn trí tuệ và sở hữu tổ chức ảnh hưởng cùng chiều đến dòng tiền hoạt
động kinh doanh, vì vậy tác giả cho rằng các công ty cần phải chú ý đến vốn trí
tuệ và sở hữu tổ chức nhằm đảm bảo khả năng giữ cho dòng tiền hoạt động kinh
doanh được ổn định, qua đó giảm thiểu tình trạng kiệt quệ tài chính.
Mục đích nghiên cứu Romadhina & cộng sự (2022) là kiểm tra và thu thập
bằng chứng thực nghiệm về tác động của dòng tiền và tỷ giá hối đoái đến kiệt quệ
tài chính từ trường hợp các công ty thương mại niêm yết trên Sở giao dịch chứng
khoán Indonesia trong giai đoạn 2014-2018. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp
chọn mẫu có mục đích, theo đó mẫu nghiên cứu gồm 51 công ty, và sử dụng dữ
liệu thứ cấp được thu thập từ báo cáo tài chính hàng năm của các công ty. Với các
kỹ thuật phân tích định lượng, kết quả chỉ ra rằng dòng tiền từ hoạt động kinh
doanh ảnh hưởng ngược chiều đáng kể đến kiệt quệ tài chính, trong khi đó tỷ giá
hối đoái ảnh hưởng cùng chiều đáng kể đến kiệt quệ tài chính.
Sembiring (2022) đánh giá tác động của cơ chế quản trị doanh nghiệp và dòng
tiền hoạt động đối với kiệt quệ tài chính, trong đó cơ chế quản trị được đo lường
thông qua sở hữu của người quản lý, sở hữu tổ chức và ủy ban kiểm toán. Mẫu
nghiên cứu gồm 24 công ty sản xuất niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán
Indonesia có lợi nhuận trước thuế và lãi vay bị âm ít nhất 2 năm trong giai đoạn
2017-2019. Thông qua dữ liệu thứ cấp và sử dụng mô hình cấu trúc bình phương
nhỏ nhất từng phần, kết quả cho thấy sở hữu của nhà quản lý, sở hữu tổ chức và
ủy ban kiểm toán không có tác động đáng kể đến kiệt quệ tài chính, trong khi
dòng tiền hoạt động kinh doanh có tác động ngược chiều đáng kể đến kiệt quệ tài
chính. Giá trị dòng tiền hoạt động kinh doanh càng lớn thì khả năng công ty gặp
khó khăn tài chính càng nhỏ. Ngược lại, giá trị dòng tiền hoạt động kinh doanh
càng nhỏ thì khả năng công ty gặp khó khăn về tài chính càng lớn. Theo đó, nhóm
tác giả cho rằng dòng tiền hoạt động kinh doanh ảnh hưởng lớn đến hiệu quả nói
42
chung và hiệu quả hoạt động kinh doanh nói riêng của công ty, công ty có thể đáp
ứng cho nhu cầu sử dụng tiền của hoạt động kinh doanh và các trách nhiệm tài
chính đến hạn bằng lượng tiền được tạo ra từ hoạt động kinh doanh. Nếu công ty
có dòng tiền hoạt động kinh doanh bị âm, điều này sẽ cản trở rất nhiều đến hoạt
động của công ty và có thể đẩy công ty rơi vào tình trạng kiệt quệ tài chính.
Nghiên cứu khả năng áp dụng các mô hình dòng tiền để dự đoán chính xác tỷ
lệ kiệt quệ tài chính dựa trên 490 quan sát đã được lấy mẫu bao gồm các công ty
phi tài chính niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Nigeria từ năm 2011 đến
năm 2017. Các mô hình được Aderin & Amede (2022) phân tích bằng cách sử
dụng kết hợp phương pháp bình phương nhỏ nhất tổng quát và phương pháp
moment tổng quát. Kết quả chỉ ra rằng các mô hình dòng tiền có khả năng dự
đoán trong việc xác định tỷ lệ kiệt quệ tài chính cả trong giai đoạn hiện tại và giai
đoạn ngay trước đó. Tuy nhiên, khả năng dự đoán này không kéo dài đến các giai
đoạn tiếp theo trước đó. Ngoài ra, hiệu ứng vòng đời ảnh hưởng đáng kể đến mối
quan hệ giữa các mô hình dòng tiền và dự đoán kiệt quệ tài chính. Nhóm tác giả
cho rằng các công ty trưởng thành về tuổi tác và quy mô, các mô hình dòng tiền
được cải thiện có liên quan đến xác suất kiệt quệ tài chính. Nghiên cứu này đã có
thể khắc phục vấn đề gán trọng số cho các mô hình dòng tiền riêng lẻ, nhưng
khuyến nghị nên đặc biệt quan tâm đến các hiệu ứng vòng đời gắn với các giai
đoạn cụ thể khi phát triển các mô hình dòng tiền với mục tiêu nhận diện kiệt quệ
tài chính.
Bằng cách chọn 309 công ty niêm yết tại Đài Loan bị kiệt quệ tài chính, trong
đó có 218 công ty thoát khỏi tình trạng kiệt quệ tài chính và còn lại 91 công ty
không thoát khỏi tình trạng này, Huang & cộng sự (2022) điều tra tác động của
dòng tiền hoạt động kinh doanh đến khả năng và khoảng thời gian các công ty rơi
vào tình trạng kiệt quệ tài chính, và khả năng hồi phục cũng như tồn tại của công
ty. Thông qua sử dụng mô hình hồi quy logistic, kết quả được tìm thấy rằng các
thay đổi trong dòng tiền hoạt động kinh doanh càng đầy đủ, ổn định và tăng
trưởng, đồng thời tính thanh khoản, tăng trưởng và quy mô của các công ty càng
cao thì khả năng tồn tại của công ty càng tăng đáng kể, cho thấy rằng một công ty
43
đang gặp khó khăn có nhiều khả năng hồi phục, khả năng tạo ra lợi nhuận để tồn
tại nếu công ty có thể cải thiện dòng tiền hoạt động kinh doanh sau khi bất ngờ
gặp khó khăn tài chính. Hơn nữa, áp dụng phân tích thời lượng, nghiên cứu này đã
tiến thêm một bước để điều tra sự phụ thuộc vào thời gian về khả năng tồn tại của
công ty trong số 218 công ty còn tồn tại. Kết quả cho thấy rằng các công ty tạo ra
dòng tiền hoạt động kinh doanh nhiều hơn trong giai đoạn sau kiệt quệ tài chính
và có khả năng sinh lời cao hơn, tính thanh khoản và tăng trưởng cao hơn trong
giai đoạn trước khủng hoảng sẽ mất ít thời gian hơn một cách đáng kể để giải
quyết khó khăn tài chính để công ty có thể tồn tại. Tuy nhiên, suy thoái kinh tế có
thể cản trở đáng kể thời gian và tốc độ tồn tại của công ty khi bị kiệt quệ tài chính.
Nhìn chung, nhóm tác giả đã tìm thấy bằng chứng nhất quán và mạnh mẽ rằng
dòng tiền hoạt động kinh doanh là một công cụ đáng tin cậy để dự đoán khả năng
và thời gian tồn tại của các công ty gặp khó khăn tài chính. Nghiên cứu cũng đưa
ra những thông tin hữu ích từ thực tiễn cho các nhà quản lý, nhà đầu tư, nhà hoạch
định chính sách và người cho vay, những người có ý định thúc đẩy hiệu quả tài
chính và tính bền vững của công ty.
Roslan & cộng sự (2022) đánh giá mối quan hệ giữa kiệt quệ tài chính với (i)
thanh khoản đại diện bởi tỷ lệ vốn lưu động trên tài sản và hệ số khả năng thanh
toán hiện thời, (ii) đòn bẩy đại diện bởi tỷ số nợ và tỷ lệ nợ vay ngắn hạn trên vốn
lưu động, (iii) khả năng sinh lời đại diện bởi tỷ suất lợi nhuận hoạt động trên tài
sản, suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu và tỷ suất lợi nhuận ròng trên tài sản, (iv) hệ
số vốn chủ sở hữu trên nợ, (v) tăng trưởng doanh thu, và (vi) dòng tiền đại diện
bởi tỷ lệ dòng tiền hoạt động kinh doanh trên nợ phải trả, tỷ lệ dòng tiền hoạt
động đầu tư trên nợ phải trả và tỷ lệ dòng tiền hoạt động tài trợ trên nợ phải trả
của các công ty sản xuất niêm yết tại Malaysia. Mẫu nghiên cứu bao gồm 84 công
ty trong giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2014, và nhóm tác giả sử dụng phương
pháp hồi quy logistic để đánh giá mối quan hệ giữa các biến trong mô hình nghiên
cứu. Theo đó, kết quả xử lý mô hình thứ nhất cho thấy tỷ lệ vốn lưu động trên tài
sản và tỷ suất lợi nhuận hoạt động trên tài sản ảnh hưởng ngược chiều đến kiệt
quệ tài chính, trong khi đó tỷ số nợ, tỷ suất lợi nhuận ròng trên tài sản và hệ số
44
vốn chủ sở hữu trên nợ ảnh hưởng cùng chiều đến kiệt quệ tài chính. Với mô hình
thứ hai chỉ bao gồm yếu tố dòng tiền, kết quả chỉ ra rằng dòng tiền hoạt động kinh
doanh và dòng tiền hoạt động đầu tư đều có ý nghĩa với ảnh hưởng ngược chiều
đến kiệt quệ tài chính, trong khi đó ảnh hưởng của dòng tiền hoạt động tài trợ là
không đáng kể. Ngoài ra, nhóm tác giả đã xử lý tất cả các biến trong cùng mô
hình thứ ba và sử dụng hồi quy Logit từng bước trong mô hình thứ tư, kết quả cho
thấy các mối quan hệ vẫn đảm bảo được tính ổn định. Căn cứ kết quả nghiên cứu,
nhóm tác giả còn đã khẳng định tầm quan trọng của dòng tiền trong việc thực hiện
mục tiêu giảm thiểu kiệt quệ tài chính, đặc biệt là dòng tiền hoạt động kinh doanh.
Không những thế, nhóm tác giả còn đề xuất rằng việc gia tăng cỡ mẫu nghiên cứu
và nghiên cứu trên nhiều ngành được kỳ vọng cung cấp thông tin hữu ích hơn.
Để khám phá khả năng ứng dụng của mô hình dự đoán kiệt quệ tài chính thông
qua chỉ số F-Score và các thành phần của chỉ số này, qua đó xác định các công ty
có nguy cơ vỡ nợ cao, Rahman & cộng sự (2021) đã tiếp cận mẫu nghiên cứu
được thu thập từ các công ty niêm yết của Hoa Kỳ, bao gồm 81 công ty rơi vào
tình trạng kiệt quệ tài chính đã được trích xuất từ cơ sở dữ liệu nghiên cứu về phá
sản của UCLA-LoPucki trong giai đoạn 2009-2017. Kết quả nghiên cứu này phát
hiện ra rằng mối quan hệ của F-Score và khả năng các công ty rơi vào tình trạng
kiệt quệ tài chính là có ý nghĩa thống kê. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cũng đã
chứng minh rằng các công ty có nguy cơ kiệt quệ tài chính khi dòng tiền hoạt
động kinh doanh bị âm và tỷ suất lợi nhuận trên tài sản giảm nhiều hơn trong năm
trước khi vỡ nợ. Theo đó, nhóm tác giả nhấn mạnh rằng các mô hình dựa trên dữ
liệu kế toán hiện tại rất đơn giản và dễ sử dụng để dự đoán khả năng kiệt quệ tài
chính đối với các công ty.
Để kiểm tra tác động của các tỷ số tài chính và biến số kinh tế vĩ mô đến kiệt
quệ tài chính cho trường hợp các công ty phi tài chính niêm yết trên thị trường
chứng khoán Pakistan, Muien & cộng sự (2022) đã lựa chọn mẫu nghiên cứu bao
gồm 285 công ty trong giai đoạn 2013-2017. Với dữ liệu thứ cấp được thu thập,
nhóm tác giả đã sử dụng hồi quy logistic và tìm thấy rằng khả năng sinh lời thể
hiện qua tỷ suất lợi nhuận hoạt động trên tổng tài sản có tác động ngược chiều
45
đáng kể đến kiệt quệ tài chính, trong khi đó tỷ lệ lợi nhuận giữ lại trên tổng tài sản
lại có tác động cùng chiều. Tiếp theo, thanh khoản đại diện bởi tỷ lệ vốn lưu động
trên tổng tài sản tác động ngược chiều đáng kể đến kiệt quệ tài chính, nhưng hệ số
khả năng thanh toán hiện thời cùng chiều nhưng không đáng kể. Về dòng tiền, kết
quả nghiên cứu khẳng định rằng tỷ lệ dòng tiền hoạt động kinh doanh trên tổng tài
sản tác động ngược chiều đến đáng kể đến kiệt quệ tài chính. Ngoài ra, nhóm tác
giả còn tìm thấy tác động cùng chiều đáng kể của lạm phát đến kiệt quệ tài chính;
và tỷ lệ chính xác tổng thể của mô hình đạt được là 89,40%.
Dirman (2020) đưa ra mục tiêu nghiên cứu là cung cấp thông tin hữu ích cho
việc đưa ra các quyết định có liên quan của các chủ thể, đặc biệt là các nhà đầu tư
và chủ nợ về tác động của khả năng sinh lời, thanh khoản, đòn bẩy tài chính, quy
mô doanh nghiệp và dòng tiền tự do đến kiệt quệ tài chính. Phương pháp nghiên
cứu định lượng được sử dụng để xác định kết quả nghiên cứu dựa trên dữ liệu thứ
cấp được thu thập từ báo cáo tài chính của các doanh nghiệp theo phương pháp
chọn mẫu có mục đích. Phạm vi nghiên cứu được xác định cụ thể với 30 doanh
nghiệp niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Indonesia trong giai đoạn 2016-
2018, thuộc ngành công nghiệp cơ bản và dược phẩm. Tiếp cận theo nguyên tắc
ước lượng tuyến tính không chệch tốt nhất (Best unbiased linear estimator), và
kiệt quệ tài chính được đại diện bởi chỉ sở Z-score, tác giả đã xác định được rằng
khả năng sinh lời tác động ngược chiều đến kiệt quệ tài chính thể hiện qua mối
quan hệ cùng chiều với Z-score, ngược lại quy mô doanh nghiệp tác động cùng
chiều đến kiệt quệ tài chính thể hiện qua mối quan hệ ngược chiều với Z-score,
trong khi đó thanh khoản, đòn bẩy tài chính và dòng tiền tự do không đảm bảo ý
nghĩa thống kê trong mô hình nghiên cứu.
Với mục tiêu nhận diện tác động của đòn bẩy tài chính, tăng trưởng doanh thu
và dòng tiền đến kiệt quệ tài chính có điều tiết bởi quản trị doanh nghiệp được đại
diện bởi sở hữu của người quản lý, Giarto & Fachrurrozie (2020) sử dụng mẫu
nghiên cứu là 31 doanh nghiệp ngành sản xuất lĩnh vực dược phẩm và cơ bản
niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Indonesia giai đoạn 2013 – 2017. Thông
qua phân tích thống kê mô tả và hồi quy logistic cho thống kê suy luận, nhóm tác
46
giả khẳng định kiệt quệ tài chính chịu sự tác động cùng chiều bởi đòn bẩy tài
chính và ngược chiều bởi dòng tiền, trong khi đó tăng trưởng doanh thu không
đảm bảo ý nghĩa để giải thích cho kiệt quệ tài chính. Bên cạnh đó, sự điều tiết bởi
quản trị doanh nghiệp sẽ làm cho tác động của đòn bẩy tài chính trở nên yếu đi và
tác động của tăng trưởng doanh thu trở nên mạnh hơn, trong khi đó sự điều tiết
này không đảm bảo ý nghĩa thống kê đối với tác động của dòng tiền đến kiệt quệ
tài chính. Theo đó, nhóm tác giả gợi ý gia tăng sở hữu của người quản lý trong
doanh nghiệp, điều này được kỳ vọng cải thiện hơn nữa về hiệu quả hoạt động và
qua đó giảm thiểu nguy cơ kiệt quệ tài chính.
Phân tích tác động của thanh khoản, khả năng sinh lời, đòn bẩy tài chính và
dòng tiền hoạt động kinh doanh đến kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp niêm
yết trên Sở giao dịch chứng khoán Indonesia, Dance & Mad (2019) đã sử dụng dữ
liệu thứ cấp được thu thập từ báo cáo tài chính của 323 doanh nghiệp trong giai
đoạn 2013-2017. Kiệt quệ tài chính được đo lường theo mô hình của Zmijewski,
và theo kết quả hồi quy logistic với mức ý nghĩa 5%, nhóm tác giả khẳng định
thanh khoản thể hiện qua hệ số khả năng thanh toán hiện thời, khả năng sinh lời
thể hiện qua suất sinh lời trên tài sản đều có tác động ngược chiều đến kiệt quệ tài
chính; ngược lại đòn bẩy tài chính đại diện bởi hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu tác
động cùng chiều đến kiệt quệ tài chính. Ngoài ra, nhóm tác giả cũng xác định rằng
dòng tiền hoạt động kinh doanh không đảm bảo ý nghĩa thống kê để giải thích cho
kiệt quệ tài chính. Căn cứ kết quả nghiên cứu, nhóm tác giả đề nghị các doanh
nghiệp cần triển khai phân tích các hệ số tài chính để cung cấp thông tin cảnh báo
sớm và từ đó thiết lập chính sách phù hợp để ngăn chặn kiệt quệ tài chính, doanh
nghiệp cần quan tâm nhiều hơn đối với đòn bẩy tài chính khi thực hiện các biện
pháp điều chỉnh trong mối quan hệ với khả năng sinh lời và dòng tiền hoạt động
kinh doanh. Bên cạnh đó, nhóm tác giả còn gợi cho các nhà đầu tư vận dụng phân
tích các hệ số tài chính để nhận diện kiệt quệ tài chính, qua đó có những điều
chỉnh phù hợp cho quyết định đầu tư.
Finishtya (2019) nghiên cứu thực nghiệm tác động của dòng tiền hoạt động
kinh doanh, lợi nhuận và đòn bẩy tài chính đến kiệt quệ tài chính của 111 doanh
47
nghiệp sản xuất niêm yết tại Indonesia trong năm 2016, trong đó kiệt quệ tài chính
được đại diện bởi chỉ số Z-score của Altman (1968). Từ phân chia 2 nhóm bao
gồm 78 doanh nghiệp rơi vào tình trạng kiệt quệ tài chính và 33 doanh nghiệp
không xảy ra tình trạng này, kết hợp sử dụng kỹ thuật hồi quy nhị phân, kết quả
xác định dòng tiền hoạt động kinh doanh cùng chiều với chỉ số Z-score thể hiện
tác động ngược chiều đến kiệt quệ tài chính, trong khi đó lợi nhuận ngược chiều
với chỉ số Z-score thể hiện tác động cùng chiều đến kiệt quệ tài chính. Ngoài ra,
yếu tố đòn bẩy tài chính cùng chiều với chỉ số Z-score thể hiện tác động ngược
chiều đến kiệt quệ tài chính, tuy nhiên mối quan hệ này không đảm bảo ý nghĩa
thống kê.
Sử dụng mô hình Binary Logistic đo lường khả năng xảy ra kiệt quệ tài
chính của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam,
Phạm Thị Hồng Vân (2018) đã đề xuất mô hình nghiên cứu bao gồm 5 biến độc
lập là hệ số khả năng thanh toán hiện thời, tỷ số nợ, tỷ lệ lợi nhuận giữ lại, tỷ lệ
dòng tiền hoạt động và quy mô doanh nghiệp. Tác giả sử dụng dữ liệu bảng với
606 doanh nghiệp trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2015, kết quả kết luận
được rằng hệ số khả năng thanh toán hiện thời và tỷ số nợ có tác động cùng chiều
đến kiệt quệ tài chính, quy mô doanh nghiệp tác động ngược chiều đến kiệt quệ tài
chính, trong khi đó tỷ lệ dòng tiền hoạt động và tỷ lệ lợi nhuận giữ lại không đảm
bảo được ý nghĩa thống kê nhằm giải thích cho kiệt quệ tài chính.
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng thông tin về thu nhập trở nên ít liên
quan hơn để đo lường hiệu quả hoạt động của công ty trong trường hợp tình trạng
khó khăn tài chính. Một cách tương đối đơn giản và thuận tiện để phân tích tình
hình tài chính của công ty là sử dụng thông tin về dòng tiền. Theo đó Shamsudin
& Kamaluddin (2015) đánh giá tám mô hình dòng tiền như một công cụ thay thế
để dự đoán kiệt quệ tài chính. Các mô hình dòng tiền được xác định dựa vào trạng
thái thặng dư hay thâm hụt của dòng tiền thành phần bao gồm các hoạt động kinh
doanh, đầu tư và tài trợ. Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ 124 công ty niêm yết
của Malaysia trong giai đoạn 2006-2013. Kết quả cho thấy các công ty có nhiều
khả năng gặp phải tình trạng kiệt quệ tài chính khi công ty tạo ra dòng tiền dương
48
từ các hoạt động kinh doanh và sử dụng tiền này để tài trợ cho đầu tư trong tương
lai và trả nợ dài hạn. Bên cạnh đó, các công ty cũng có nhiều khả năng rơi vào
tình trạng kiệt quệ tài chính khi không thể trang trải các nghĩa vụ ngắn hạn do
không đủ dòng tiền thu vào từ các hoạt động kinh doanh chính. Các công ty đang
gặp khó khăn có nhiều khả năng nhận được nguồn tiền tài trợ từ bên ngoài vì
lượng tiền được tạo ra từ các hoạt động kinh doanh không đủ. Khi công ty bị rút
vốn trong tất cả các hoạt động kinh doanh, đầu tư và tài trợ, công ty có xu hướng
phá sản cao. Kết quả cũng chỉ ra rằng có sự khác biệt đáng kể giữa các công ty
kiệt quệ tài chính và lành mạnh tài chính về các mô hình dòng tiền khác nhau.
Pouraghajan & cộng sự (2014) nghiên cứu khả năng nhận diện kiệt quệ tài
chính thông qua kết hợp các thành phần của báo cáo dòng tiền theo chế độ kế toán
Iran và kiểm định mối quan hệ giữa dòng tiền và kiệt quệ tài chính của doanh
nghiệp, sử dụng phương pháp hồi quy logistic nhị biến với 30 doanh nghiệp kiệt
quệ tài chính và 30 doanh nghiệp không kiệt quệ tài chính từ năm 2003 đến năm
2013. Ngoài các biến độc lập liên quan đến dòng tiền, nghiên cứu còn tiếp cận các
biến kiểm soát như quy mô doanh nghiệp, đòn bẩy tài chính và khả năng sinh lời.
Kết quả nghiên cứu khẳng định dòng tiền là thông tin hữu ích để đánh giá năng
lực doanh nghiệp và nhận diện kiệt quệ tài chính của doanh nghiệp. Theo đó, tỷ lệ
dòng tiền ròng hoạt động tài trợ trên tổng nợ ảnh hưởng ngược chiều đến kiệt quệ
tài chính, trong khi đó tỷ lệ dòng tiền ròng hoạt động kinh doanh trên tổng nợ và
tỷ lệ dòng tiền hoạt động đầu tư trên tổng nợ cũng có chiều hướng tương tự nhưng
không đảm bảo ý nghĩa thống kê. Không những thế, điểm nổi bật được tìm thấy là
sự kết hợp giữa các dòng tiền với các yếu tố tài chính khác, trong đó kiệt quệ tài
chính chịu ảnh hưởng cùng chiều từ sự kết hợp (i) dòng tiền hoạt động kinh doanh
âm, tỷ suất sinh lời trên vốn đầu tư và cổ tức dương, thuế âm, dòng tiền hoạt động
đầu tư dương và dòng tiền hoạt động tài trợ dương, (ii) dòng tiền hoạt động kinh
doanh âm, tỷ suất sinh lời trên vốn đầu tư và cổ tức âm, thuế âm, dòng tiền hoạt
động đầu tư dương và dòng tiền hoạt động tài trợ âm. Ngoài ra, kiệt quệ tài chính
chịu ảnh hưởng ngược chiều từ sự kết hợp (i) dòng tiền hoạt động kinh doanh
dương, tỷ suất sinh lời trên vốn đầu tư và cổ tức dương, thuế âm, dòng tiền hoạt
49
động đầu tư âm và dòng tiền hoạt động tài trợ dương, (ii) dòng tiền hoạt động
kinh doanh dương, tỷ suất sinh lời trên vốn đầu tư và cổ tức dương, thuế âm, dòng
tiền hoạt động đầu tư âm và dòng tiền hoạt động tài trợ âm, (iii) dòng tiền hoạt
động kinh doanh âm, tỷ suất sinh lời trên vốn đầu tư và cổ tức âm, thuế âm, dòng
tiền hoạt động đầu tư âm và dòng tiền hoạt động tài trợ dương, và (iv) dòng tiền
hoạt động kinh doanh dương, tỷ suất sinh lời trên vốn đầu tư và cổ tức âm, thuế
âm, dòng tiền hoạt động đầu tư âm và dòng tiền hoạt động tài trợ âm.
Để kiểm định ý nghĩa quan trọng của các chỉ số dòng tiền đối với tình trạng
kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp tại Malaysia, Fawzi & cộng sự (2015) đã
sử dụng phương pháp hồi quy logistic. Nghiên cứu này tiếp cận dữ liệu của 52
doanh nghiệp kiệt quệ tài chính và 52 doanh nghiệp không kiệt quệ tài chính trong
3 năm trước khi xảy ra kiệt quệ tài chính trong giai đoạn 2009-2012. Kết quả cho
thấy các chỉ số dòng tiền có ý nghĩa quan trọng trong việc nhận diện kiệt quệ tài
chính, mức độ chính xác dự báo tổng thể lên là 82,10%. Các chỉ số dòng tiền được
gợi ý là tỷ lệ dòng tiền ròng từ hoạt động kinh doanh trước lãi vay trên chi phí lãi
vay, tỷ lệ dòng tiền ròng từ hoạt động kinh doanh trên tổng nợ, tỷ lệ dòng tiền
ròng từ hoạt động đầu tư trên tổng nợ và tỷ lệ dòng tiền ròng từ hoạt động kinh
doanh trên doanh thu.
Với mục tiêu nghiên cứu sự truyền tải thông điệp của dữ liệu phi cấu trúc
trong dự báo kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam, Trần Thị Hải Lý
& cộng sự (2014) đã sử dụng nguồn dữ liệu văn bản trên báo cáo thường niên và
nguồn tin tức trực tuyến của các doanh nghiệp Việt Nam, một cách tiếp cận mới
dựa trên nguồn dữ liệu phi cấu trúc, vào việc dự báo kiệt quệ tài chính. Thông tin
phi cấu trúc được sử dụng riêng biệt hoặc kết hợp với các yếu tố dự báo khác dựa
trên dữ liệu cấu trúc truyền thống, hướng tới mục tiêu cải thiện khả năng dự báo
của các mô hình. Kết quả nghiên cứu cho thấy xét một cách độc lập thông tin phi
cấu trúc có khả năng truyền tải nhiều thông điệp có ý nghĩa trong dự báo tình
trạng kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam, đồng thời
việc kết hợp giữa dữ liệu này và dữ liệu cấu trúc đại diện bởi các nhân tố truyền
thống (tỷ số tài chính, đặc điểm quản trị doanh nghiệp, chỉ số vĩ mô) giúp cải
50
thiện độ chính xác của dự báo. Nguồn thông tin phi cấu trúc góp phần đáng kể
trong việc dự báo kiệt quệ tài chính. Nghiên cứu này đã xác định được danh sách
các từ khóa mang đặc trưng của Việt Nam có vai trò quan trọng trong phân tích
thông điệp phi cấu trúc trong tương lai, bên cạnh những từ khóa đã được tìm thấy
từ các học giả trên thế giới. Nguồn thông tin mềm nội bộ của các doanh nghiệp
niêm yết được thu thập trên các phần thảo luận và dự báo tình hình tương lai của
doanh nghiệp trên báo cáo thường niên đã thể hiện vai trò quan trọng trong dự báo
tình trạng kiệt quệ tài chính của doanh nghiệp Việt Nam. Khi nhà quản lý công bố
những thông tin dự báo mang sắc thái tích cực về tình hình tương lai của doanh
nghiệp, doanh nghiệp này sẽ có xác suất rơi vào tình trạng kiệt quệ tài chính giảm
đi. Nguồn thông tin phi cấu trúc dạng tin tức trực tuyến đăng trên các sở giao dịch
chứng khoán cũng chứng tỏ khả năng dự báo xác suất kiệt quệ tài chính của doanh
nghiệp trong tương lai. Đồng thời, khi kết hợp cả hai nguồn thông tin phi cấu trúc
và cấu trúc thì hiệu quả dự báo kiệt quệ tài chính được cải thiện đáng kể. Với
nhóm dữ liệu cấu trúc, nhóm tác giả có phân tích tỷ lệ dòng tiền trên doanh thu
nhưng yếu tố này không đảm bảo ý nghĩa thống kê.
Lakshan & Wijekoon (2013) nghiên cứu mô hình sử dụng các hệ số tài chính
để nhận diện vỡ nợ của các doanh nghiệp niêm yết tại Sri Lanka. Dữ liệu nghiên
cứu lấy từ báo cáo tài chính năm của 70 doanh nghiệp vỡ nợ và 70 doanh nghiệp
không vỡ nợ từ năm 2002 đến năm 2008, từ đó sử dụng phương pháp phân tích
hồi quy logistic với 15 hệ số tài chính. Phân tích các kết quả kiểm định thống kê
cho thấy mức độ chính xác của mô hình gồm các hệ số tài chính là 77,86% một
năm trước khi vỡ nợ và độ chính xác của mô hình trong 3 năm trước khi vỡ nợ là
trên 72%. Mô hình cuối cùng gồm 3 hệ số tài chính là tỷ lệ vốn lưu động trên tổng
tài sản, tỷ số nợ và tỷ lệ dòng tiền hoạt động kinh doanh trên tổng tài sản; các biến
này có khả năng giải thích hơn trong việc nhận diện vỡ nợ của doanh nghiệp. Như
vậy, mô hình được phát triển trong nghiên cứu này sẽ hữu ích cho các chủ thể
muốn thực hiện dự báo vỡ nợ của các doanh nghiệp niêm yết.
Sayari & Mugan (2013) nghiên cứu ảnh hưởng của các dòng tiền đến chỉ số
kiệt quệ tài chính cho trường hợp 124 doanh nghiệp niêm yết tại Sở giao dịch
51
chứng khoán Istanbul. Mục tiêu nghiên cứu này là xác định khả năng giải thích về
nguy cơ phá sản và tình trạng sức khỏe tài chính của các doanh nghiệp thông qua
4 mô hình hồi quy tuyến tính, trong đó các biến độc lập là quy mô doanh nghiệp,
độ tuổi doanh nghiệp, dòng tiền hoạt động kinh doanh, dòng tiền hoạt động đầu tư
và dòng tiền hoạt động tài trợ. Kết quả nghiên cứu cho thấy dòng tiền hoạt động
kinh doanh và quy mô doanh nghiệp có quan hệ ngược chiều với chỉ số kiệt quệ
tài chính, dòng tiền hoạt động tài trợ có quan hệ cùng chiều với chỉ số kiệt quệ tài
chính, còn độ tuổi doanh nghiệp và dòng tiền hoạt động đầu tư không có ý nghĩa
thống kê nhằm cung cấp minh chứng cho tình trạng kiệt quệ tài chính.
Nhằm nghiên cứu mô hình nhận diện kiệt quệ tài chính với trường hợp các
doanh nghiệp Ấn Độ, Bhunia & cộng sự (2011) sử dụng dữ liệu nghiên cứu lấy từ
báo cáo tài chính của các doanh nghiệp niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán
Ấn Độ từ năm 2001 đến năm 2010. Nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích
khác biệt (Discriminant analysis) và kiểm định chuẩn (Normality test); kết quả
nghiên cứu cho thấy mô hình có hiệu suất tốt trong việc nhận diện kiệt quệ tài
chính với tỷ lệ chính xác hơn 80% và hai chỉ số quan trọng và rất có ý nghĩa trong
số 64 chỉ số sử dụng trong nghiên cứu là tỷ lệ dòng tiền trên doanh thu và thời
gian thu tiền bán hàng.
Với mục tiêu cung cấp mô hình để nhận diện kiệt quệ tài chính dựa vào các
thành phần của báo cáo dòng tiền, bao gồm dòng tiền hoạt động kinh doanh, dòng
tiền hoạt động đầu tư và dòng tiền hoạt động tài trợ, Kordestani & cộng sự (2011)
sử dụng dữ liệu của 70 doanh nghiệp không kiệt quệ tài chính và 70 doanh nghiệp
kiệt quệ tài chính trong giai đoạn 1995 – 2008, niêm yết trên thị trường chứng
khoán Tehran. Kết quả kiểm định chi bình phương cho thấy có sự khác biệt đáng
kể về khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính giữa các doanh nghiệp với thành phần
dòng tiền khác nhau trong 1, 2 và 3 năm trước khi xảy ra kiệt quệ tài chính. Như
vậy, nghiên cứu này khẳng định có thể nhận diện kiệt quệ tài chính dựa vào dòng
tiền. Cụ thể rằng, sự kết hợp của các dòng tiền cung cấp tín hiệu cho kiệt quệ tài
chính trong tương lai của các doanh nghiệp, bao gồm (i) dòng tiền hoạt động kinh
doanh âm, dòng tiền hoạt động đầu tư dương và dòng tiền hoạt động tài trợ
52
dương, (ii) dòng tiền hoạt động kinh doanh âm, dòng tiền hoạt động đầu tư âm và
dòng tiền hoạt động tài trợ dương, (iii) dòng tiền hoạt động kinh doanh dương,
dòng tiền hoạt động đầu tư âm và dòng tiền hoạt động tài trợ âm, và (iv) dòng tiền
hoạt động kinh doanh âm, dòng tiền hoạt động đầu tư âm và dòng tiền hoạt động
tài trợ âm.
Jooste (2007) nghiên cứu về tính hữu ích của các chỉ số dòng tiền trong việc
nhận diện kiệt quệ tài chính của doanh nghiệp, bao gồm tỷ lệ dòng tiền trên doanh
thu, tỷ lệ dòng tiền trên tổng tài sản, tái đầu tư, tỷ lệ dòng tiền trên nợ, khả năng
thanh toán lãi vay bằng tiền, khả năng chia cổ tức, tỷ lệ dòng tiền trên lợi nhuận,
khả năng đáp ứng các trách nhiệm thanh toán. Mẫu nghiên cứu là 27 doanh
nghiệp kiệt quệ tài chính và không kiệt quệ tài chính tại Nam Phi, dữ liệu thu thập
từ báo cáo tài chính 5 năm trước khi xảy ra kiệt quệ tài chính và phương pháp đồ
thị được sử dụng để tìm ra kết quả nghiên cứu. Kết quả cho thấy tỷ lệ dòng tiền
trên nợ là chỉ số tốt nhất dùng để nhận diện kiệt quệ tài chính, các doanh nghiệp
kiệt quệ tài chính có dòng tiền thấp hơn so với các doanh nghiệp không kiệt quệ
tài chính, dẫn đến khả năng đáp ứng các cam kết thanh toán cho chủ nợ thấp và có
xu hướng mắc nợ nhiều.
Với hai mục tiêu nghiên cứu là (i) xây dựng mô hình dự báo kiệt quệ tài chính
và (ii) áp dụng mô hình để theo dõi kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp niêm
yết của Malaysia trong suốt thời kỳ khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997,
Karbhari & Sori (2004) đã tiếp cận dữ liệu trong giai đoạn từ năm 1990 đến năm
1996. Biến phụ thuộc xác định căn cứ phân biệt hai nhóm doanh nghiệp là không
kiệt quệ tài chính và có kiệt quệ tài chính, các chỉ số tài chính được làm biến độc
lập và phân tích đa khác biệt (Multiple Discriminant Analysis) được sử dụng để
xác định mức độ tác động của các biến. Mô hình dự báo kiệt quệ tài chính được
xác định với các yếu tố được sắp xếp theo thứ tự giảm dần mức độ tác động bao
gồm: tỷ số nợ, vòng quay tổng tài sản, tỷ trọng tồn kho trong tổng tài sản, vòng
quay tồn kho và tỷ trọng tiền trong tổng tài sản; và mô hình đã được kiểm định
với mức độ chính xác cao (hơn 80%). Ngoài ra, nghiên cứu còn chỉ ra rằng các
biến mà nhà đầu tư thường quan tâm sử dụng để đánh giá sức khỏe tài chính của
53
doanh nghiệp như dòng tiền, lợi nhuận, vốn lưu động và giá trị tài sản ròng; và
các nhà quản trị doanh nghiệp có dùng mô hình trong hoạch định tài chính, nếu có
dự báo trước 3 – 4 năm trước khi xảy ra kiệt quệ tài chính thì nhà quản trị có thể
dự kiến những biện pháp khắc phục để tránh rơi vào tình trạng phá sản.
Low & cộng sự (2001) nghiên cứu tính hữu ích của các hệ số tài chính trong
việc nhận diện khả năng kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp, qua đó cung cấp
thông tin hữu ích nhằm mục tiêu tối thiểu hóa rủi ro kiệt quệ tài chính. Kết quả
nghiên cứu chỉ ra rằng lợi nhuận và thanh khoản không cần thiết để ám chỉ doanh
nghiệp có tiền để thực hiện được các cam kết với chủ nợ, dòng tiền mới cung cấp
thông tin đáng tin cậy để nhận diện kiệt quệ tài chính của doanh nghiệp với tỷ lệ
82,4% đến 90%.
Căn cứ tóm tắt các bằng chứng thực nghiệm trong và ngoài nước vừa đề cập ở
trên, tổng quan nghiên cứu về ảnh hưởng của dòng tiền đến kiệt quệ tài chính tại
các doanh nghiệp phi tài chính được tổng hợp tại Bảng 2.2.
54
Bảng 2.2. Tổng quan nghiên cứu ảnh hưởng của dòng tiền đến kiệt quệ tài chính tại các doanh nghiệp
Đối tượng nghiên cứu Kết quả nghiên cứu
Tổng dòng tiền ròng, hay Giarto & Fachrurrozie (2020) tìm thấy tác động ngược chiều đáng kể của tổng thể các dòng tiền đến
mối quan hệ kết hợp các kiệt quệ tài chính, trong khi đó Bhunia & cộng sự (2011) lại khẳng định tác động cùng chiều đáng kể
dòng tiền ảnh hưởng đến đến kiệt quệ tài chính, Trần Thị Hải Lý & cộng sự (2014) đúc kết tác động ngược chiều nhưng không
kiệt quệ tài chính, đáng kể.
Aderin & Amede (2022) quan tâm đến tổng hợp các dòng tiền, theo đó thiết lập 8 mô hình kết hợp ba
dòng tiền (kinh doanh, đầu tư và tài trợ). Theo đó, nhóm tác giả đã khẳng định sự kết hợp của các
dòng tiền có ý nghĩa giải thích cho kiệt quệ tài chính, tuy nhiên nghiên cứu này chưa chỉ ra mô hình
kết hợp các dòng tiền cung cấp thông tin cũng như tín hiệu về tình trạng kiệt quệ tài chính hay lành
mạnh tài chính. Trước đó, Kordestani & cộng sự (2011) đã có hướng tiếp cận tương tự, và đúc kết
chi tiết rằng các mô hình kết hợp các dòng tiền cung cấp tín hiệu về kiệt quệ tài chính bao gồm (i)
dòng tiền hoạt động kinh doanh âm, dòng tiền hoạt động đầu tư dương và dòng tiền hoạt động tài trợ
dương, (ii) dòng tiền hoạt động kinh doanh âm, dòng tiền hoạt động đầu tư âm và dòng tiền hoạt
động tài trợ dương, (iii) dòng tiền hoạt động kinh doanh dương, dòng tiền hoạt động đầu tư âm và
dòng tiền hoạt động tài trợ âm, và (iv) dòng tiền hoạt động kinh doanh âm, dòng tiền hoạt động đầu
tư âm và dòng tiền hoạt động tài trợ âm. Pouraghajan & cộng sự (2014) tìm thấy sự kết hợp giữa các
dòng tiền với các yếu tố tài chính khác ảnh hưởng cùng chiều đến kiệt quệ tài chính bao gồm (i) dòng
55
tiền hoạt động kinh doanh âm, tỷ suất sinh lời trên vốn đầu tư và cổ tức dương, thuế âm, dòng tiền
hoạt động đầu tư dương và dòng tiền hoạt động tài trợ dương, (ii) dòng tiền hoạt động kinh doanh
âm, tỷ suất sinh lời trên vốn đầu tư và cổ tức âm, thuế âm, dòng tiền hoạt động đầu tư dương và dòng
tiền hoạt động tài trợ âm. Ngoài ra, kiệt quệ tài chính chịu ảnh hưởng ngược chiều từ sự kết hợp (i)
dòng tiền hoạt động kinh doanh dương, tỷ suất sinh lời trên vốn đầu tư và cổ tức dương, thuế âm,
dòng tiền hoạt động đầu tư âm và dòng tiền hoạt động tài trợ dương, (ii) dòng tiền hoạt động kinh
doanh dương, tỷ suất sinh lời trên vốn đầu tư và cổ tức dương, thuế âm, dòng tiền hoạt động đầu tư
âm và dòng tiền hoạt động tài trợ âm, (iii) dòng tiền hoạt động kinh doanh âm, tỷ suất sinh lời trên
vốn đầu tư và cổ tức âm, thuế âm, dòng tiền hoạt động đầu tư âm và dòng tiền hoạt động tài trợ
dương, và (iv) dòng tiền hoạt động kinh doanh dương, tỷ suất sinh lời trên vốn đầu tư và cổ tức âm,
thuế âm, dòng tiền hoạt động đầu tư âm và dòng tiền hoạt động tài trợ âm.
Shamsudin & Kamaluddin (2015) khẳng định rằng các công ty rơi vào tình trạng kiệt quệ tài chính có
mô hình kết hợp dòng tiền không giống với các công ty lành mạnh tài chính. Theo đó, nhóm tác giả
chỉ ra rằng các công ty có nhiều khả năng gặp phải tình trạng kiệt quệ tài chính nếu (i) dòng tiền hoạt
động kinh doanh dương và tài trợ cho mở rộng đầu tư và trả nợ vay dài hạn, hoặc (ii) dòng tiền hoạt
động kinh doanh không thể trang trải các nghĩa vụ ngắn hạn, hoặc (iii) dòng tiền hoạt động kinh
doanh bị thâm hụt và công ty phải huy động nguồn tiền tài trợ từ bên ngoài, hoặc (iv) tất cả các dòng
tiền hoạt động kinh doanh, đầu tư và tài trợ đều âm.
56
Low & cộng sự (2001) đối sánh giữa nhóm doanh nghiệp rơi vào tình trạng kiệt quệ tài chính với Dòng tiền hoạt động kinh
nhóm doanh nghiệp lành mạnh tài chính, theo đó khẳng định dòng tiền hoạt động kinh doanh có ý doanh ảnh hưởng đến
nghĩa trong việc nhận diện kiệt quệ tài chính. Finishtya (2019), Fawzi & cộng sự (2015), Lakshan & kiệt quệ tài chính
Wijekoon (2013), Sayari & Mugan (2013), Roslan & cộng sự (2022), Kusnanto (2023), Romadhina
& cộng sự (2022), Sembiring (2022), Huang & cộng sự (2022), Rahman & cộng sự (2021), Muien &
cộng sự (2022) đều khẳng định tác động ngược chiều đáng kể của dòng tiền hoạt động kinh doanh
đến kiệt quệ tài chính. Theo đó, công ty có thể tạo ra dòng tiền từ sản xuất kinh doanh càng cao sẽ
gia tăng khả năng đáp ứng các trách nhiệm tài chính đến hạn, từ đó giảm nguy cơ rơi vào khó khăn
tài chính, và ngược lại.
Dance & Mad (2019), Phạm Thị Hồng Vân (2018), Pouraghajan & cộng sự (2014) cũng khẳng định
ảnh hưởng ngược chiều của dòng tiền hoạt động kinh doanh đến kiệt quệ tài chính, nhưng mối quan
hệ lại không đáng kể.
Dòng tiền hoạt động đầu Fawzi & cộng sự (2015), Roslan & cộng sự (2022) đều tìm thấy ảnh hưởng ngược chiều đáng kể của
tư ảnh hưởng đến kiệt dòng tiền hoạt động đầu tư đến kiệt quệ tài chính. Pouraghajan & cộng sự (2014), Sayari & Mugan
quệ tài chính (2013) cũng tìm thấy mối quan hệ ngược chiều nhưng lại không đáng kể. Low & cộng sự (2001)
khẳng định chưa tìm thấy đáng tin cậy về ý nghĩa của dòng tiền hoạt động đầu tư trong việc nhận
diện kiệt quệ tài chính.
57
Dòng tiền hoạt động tài Sayari & Mugan (2013) khẳng định tồn tại mối quan hệ ảnh hưởng cùng chiều đáng kể của dòng tiền
trợ ảnh hưởng đến kiệt hoạt động tài trợ đến kiệt quệ tài chính, Roslan & cộng sự (2022) cũng tìm thấy ảnh hưởng cùng
quệ tài chính chiều nhưng mối quan hệ này không đáng kể. Ngược lại, Pouraghajan & cộng sự (2014) lại đúc kết
ảnh hưởng ngược chiều đáng kể của dòng tiền hoạt động tài trợ đến kiệt quệ tài chính. Ngoài ra, Low
& cộng sự (2001) khẳng định chưa tìm thấy đáng tin cậy về ý nghĩa của dòng tiền hoạt động tài trợ
trong việc nhận diện kiệt quệ tài chính.
Dòng tiền tự do ảnh Dirman (2020) tìm thấy ảnh hưởng ngược chiều của dòng tiền tự do đến kiệt quệ tài chính, nhưng
hưởng đến kiệt quệ tài mối quan hệ này không đáng kể.
chính
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
58
Bên cạnh nhiều bằng chứng khác nhau về ảnh hưởng của dòng tiền đến kiệt
quệ tài chính như đã tổng hợp tại Bảng 2.2, nhiều yếu tố tài chính và phi tài chính
thể hiện đặc điểm công ty hoặc các biến số kinh tế vĩ mô cũng được quan tâm
trong nhiều nghiên cứu. Chẳng hạn đòn bẩy tài chính, khả năng sinh lời, quy mô
công ty, thanh khoản, vốn lưu động, tuổi công ty, lạm phát, tỷ giá hối đoái, cấu
trúc sở hữu, v.v.
Sử dụng dữ liệu thứ cấp được thu thập từ báo cáo tài chính trong giai đoạn
2014-2018 của các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực khai khoáng, niêm yết trên Sở
giao dịch chứng khoán Indonesia, và áp dụng phương pháp chọn mẫu có mục
đích, Oktasari (2020) thực hiện xem xét tác động của thanh khoản, đòn bẩy tài
chính và quy mô doanh nghiệp đến kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp, trong
đó kiệt quệ tài chính được đại diện bởi chỉ số S-Score của Springate (1978). Kết quả
ước lượng đúc kết rằng quy mô công ty và thanh khoản tác động cùng chiều đáng
kể đến kiệt quệ tài chính, trong khi đó đòn bẩy tài chính tác động cùng chiều
nhưng lại không đáng kể đến kiệt quệ tài chính.
Abdioğlu (2019) nghiên cứu kỳ vọng xác định ảnh hưởng của vài yếu tố đặc
điểm doanh nghiệp đến mối quan hệ giữa kiệt quệ tài chính với quyết định cấu
trúc vốn, sử dụng dữ liệu của các doanh nghiệp sản xuất niêm yết trên thị trường
chứng khoán Thổ Nhĩ Kỳ trong giai đoạn 2007 – 2017, trong đó kiệt quệ tài chính
được đại diện bởi chỉ số Z-score của Altman. Kết quả ước lượng theo mô hình yếu
tố cố định cho rằng kiệt quệ tài chính gia tăng khi mức độ sử dụng đòn bẩy tài
chính gia tăng và gia tăng nợ ngắn hạn trong cấu trúc kỳ hạn nợ. Đối với tác động
của mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính trong cấu trúc vốn đến kiệt quệ tài chính,
tác động này trở nên yếu hơn khi có sự điều tiết bởi quy mô doanh nghiệp và khả
năng sinh lời, nhưng sẽ mạnh hơn bởi sự điều tiết bởi tài sản hữu hình. Đối với tác
động của cấu trúc kỳ hạn nợ đại diện bởi tỷ trọng nợ dài hạn trong tổng nợ đến
kiệt quệ tài chính, mối quan hệ này trở nên yếu hơn khi có điều tiết bởi khả năng
sinh lời và tài sản hữu hình.
Nghiên cứu tác động của cấu trúc vốn đến kiệt quệ tài chính của các doanh
nghiệp phi tài chính niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Malaysia Bursa,
59
trong đó cấu trúc vốn được đại diện bởi đòn bẩy tài chính, cấu trúc kỳ hạn nợ, cấu
trúc vốn chủ sở hữu và cấu trúc tài sản, và kiệt quệ tài chính được đại diện bởi chỉ
số Z-score của Altman. Lee & Manual (2019) đã sử dụng dữ liệu nghiên cứu được
thu thập từ trường hợp cụ thể là 74 doanh nghiệp từ năm 2013 đến năm 2017, từ
đó phân tích hồi quy theo OLS để trả lời các giả thuyết nghiên cứu. Theo đó, đòn
bẩy tài chính, vốn chủ sở hữu được huy động từ bên ngoài, tài sản hữu hình tác
động cùng chiều đến kiệt quệ tài chính; đồng thời vốn chủ sở hữu được tích lũy từ
nội bộ ảnh hưởng ngược chiều đến kiệt quệ tài chính. Bên cạnh đó, kết quả nghiên
cứu còn xác định cấu trúc kỳ hạn nợ có tác động ngược chiều đến kiệt quệ tài
chính nhưng không đảm bảo mức ý nghĩa thống kê.
Phân tích các chỉ số hiệu quả tài chính nhằm nhận diện kiệt quệ tài chính của
các doanh nghiệp lĩnh vực khoáng sản, cụ thể là hệ số khả năng thanh toán hiện
thời, suất sinh lời trên tài sản, tỷ số nợ, tỷ lệ chia cổ tức, tỷ số giá thị trường trên
giá sổ sách, và kiệt quệ tài chính được đại diện bởi chỉ số Z-score của Altman.
Iskandar & Prihanto (2019) đã sử dụng phương pháp phân tích tương quan nhân
quả (Causal correlation), dựa trên mẫu nghiên cứu là 6 doanh nghiệp niêm yết trên
Sở giao dịch chứng khoán Indonesia trong giai đoạn 2013 – 2017, được lựa chọn
theo phương pháp chọn mẫu theo mục đích. Phương pháp ước lượng theo FEM và
REM được sử dụng cho dữ liệu bảng, nhóm tác giả đúc kết rằng hệ số khả năng
thanh toán hiện thời, suất sinh lời trên tài sản giải thích ngược chiều cho kiệt quệ
tài chính thông qua kết quả hồi quy ngược chiều với chỉ số Z-score, trong khi các
yếu tố còn lại không đảm bảo ý nghĩa thống kê.
Murhadi & cộng sự (2018) đặt ra mục tiêu phân tích ảnh hưởng của quản trị
doanh nghiệp tốt đến kiệt quệ tài chính, đồng thời thiết lập mô hình nhận diện kiệt
quệ tài chính bằng cách sử dụng dữ liệu lịch sử từ trường hợp các doanh nghiệp
phi tài chính niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Indonesia suốt giai đoạn
2011 – 2015. Nghiên cứu sử dụng phương pháp định lượng thông qua sử dụng kỹ
thuật hồi quy logistic, thực hiện trên mẫu nghiên cứu gồm 337 doanh nghiệp,
tương ứng là 1685 quan sát theo năm. Kết quả nghiên cứu đã xác định tỷ lệ thành
viên hội đồng quản trị độc lập, ý kiến kiểm toán, quy mô doanh nghiệp và đòn bẩy
60
tài chính thuộc nhóm quản trị doanh nghiệp tốt đảm bảo đủ ý nghĩa thống kê khi
đưa vào mô hình, mức độ chính xác của mô hình dự báo phá sản là 99,70%. Theo
đó kết quả ước lượng chỉ ra thành viên hội đồng quản trị độc lập, ý kiến kiểm
toán, đòn bẩy tài chính tác động cùng chiều lên kiệt quệ tài chính, trong khi đó
quy mô doanh nghiệp lại có tác động ngược chiều lên kiệt quệ tài chính.
Ikpesu & Eboiyehi (2018) sử dụng phương pháp sai số chuẩn điều chỉnh trong
dữ liệu bảng để xem xét ảnh hưởng của cấu trúc vốn đại diện bởi tỷ lệ nợ vay dài
hạn trên tổng tài sản đến kiệt quệ tài chính đại diện bởi chỉ số Z-score của Altman
của 58 doanh nghiệp sản xuất giai đoạn 2010-2016 niêm yết trên Sở giao dịch
chứng khoán Nigeria. Kết quả khẳng định tác động cùng chiều của cấu trúc vốn
đến kiệt quệ tài chính, theo đó nhóm nghiên cứu này gợi ý các nhà quản lý doanh
nghiệp cần thận trọng khi lựa chọn cấu trúc vốn, Chính phủ nên khuyến khích
doanh nghiệp ưu tiên nguồn tài trợ nội bộ từ lợi nhuận giữ lại hơn là bên ngoài
thông qua chính sách thuế, hay Ngân hàng Nhà nước có thể chỉ đạo các ngân hàng
thương mại cho vay với lãi suất thấp hơn đối với lĩnh vực sản xuất nhằm tạo sự ổn
định cho các doanh nghiệp.
Tiếp cận theo hướng ứng dụng, Moghaddam & Filsaraei (2016) đã sử dụng dữ
liệu được thu thập từ báo cáo tài chính của 82 doanh nghiệp niêm yết trên Sở giao
dịch chứng khoán Tehran (Iran) giai đoạn 2010-2014. Theo đó, nghiên cứu kỳ
vọng đúc kết tác động của các yếu tố đặc điểm quản trị doanh nghiệp đến kiệt quệ
tài chính bằng phương pháp phân tích hồi quy đa biến theo FEM và REM, kiệt
quệ tài chính được dựa vào thực nghiệm . Nhóm tác giả khẳng định sở hữu tổ
chức có thể giảm kiệt quệ tài chính, trong khi đó mối quan hệ giữa kiệt quệ tài
chính với thành viên hội đồng quản trị độc lập, sự kiêm nhiệm vừa là giám đốc
điều hành vừa là chủ tịch hội đồng quản trị không đảm bảo mức ý nghĩa thống kê.
Ngoài ra, nhóm nghiên cứu này còn chỉ ra rằng đòn bẩy tài chính và ý kiến kiểm
toán sẽ làm gia tăng tình trạng kiệt quệ tài chính, ngược lại quy mô doanh nghiệp
và hiệu quả quản lý sẽ giảm thiểu tình trạng này.
Trịnh Thị Phan Lan (2013) nghiên cứu rủi ro từ đòn bẩy tài chính của các
doanh nghiệp xây dựng - bất động sản niêm yết trên thị trường chứng khoán thông
61
qua xác định và đánh giá các chỉ tiêu tài chính, bao gồm: tỷ số nợ, hệ số nợ trên
vốn chủ sở hữu, tỷ lệ nợ ngắn hạn trên tổng nợ phải trả, tỷ lệ nợ ngắn hạn trên nợ
dài hạn, lợi nhuận sau thuế, suất sinh lời trên tài sản, suất sinh lời trên vốn chủ sở
hữu, hệ số khả năng thanh toán hiện thời, hệ số khả năng thanh toán nhanh và hệ
số khả năng thanh toán lãi vay. Dữ liệu nghiên cứu căn cứ vào báo cáo tài chính
từ năm 2008 đến năm 2012, tuy nhiên không có sự thống nhất về quan sát theo
thời gian đối với từng chỉ tiêu cụ thể và chủ yếu tập trung vào giai đoạn 2010 –
2011. Kết quả cho thấy các doanh nghiệp xây dựng - bất động sản sử dụng đòn
bẩy tài chính cao, cơ cấu nợ cũng không hợp lý, nợ ngắn hạn luôn chiếm hơn 50%
tổng nguồn vốn và lên tới hơn 100% so với nợ dài hạn. Trong bối cảnh kinh
doanh khó khăn, cơ cấu vốn đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến kết quả kinh doanh
của các doanh nghiệp: 90% doanh nghiệp thua lỗ, suất sinh lời trên tài sản và suất
sinh lời trên vốn chủ sở hữu sụt giảm và mất khả năng thanh toán lãi vay ngân
hàng.
Nghiên cứu mối quan hệ giữa đòn bẩy tài chính và sức mạnh về vốn với tình
trạng kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng
khoán Tehran trong giai đoạn 2007 – 2011, Pourali & cộng sự (2013) đã sử dụng
mẫu nghiên cứu gồm 32 doanh nghiệp bị loại khỏi hệ thống và sử dụng kỹ thuật
phân tích hồi quy tuyến tính đa biến. Các biến trong mô hình nghiên cứu bao gồm:
Biến phụ thuộc là mức độ kiệt quệ tài chính, đo lường bởi Altman’s Z-scores có
điều chỉnh; Các biến độc lập là đòn bẩy tài chính, đo lường bởi tỷ số nợ và sức
mạnh về vốn, đo lường bởi tỷ trọng tài sản cố định trong tổng tài sản; Các biến
kiểm soát là quy mô doanh nghiệp, đo lường bởi log tổng giá trị tài sản; lợi nhuận,
đo lường bởi tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu; cơ hội tăng trưởng của
doanh nghiệp, đo lường bởi Tobin’s Q; và tính thanh khoản của tài sản, đo lường
bởi tỷ trọng tài sản ngắn hạn trên tổng tài sản. Nghiên cứu này đã sử dụng phương
pháp bình phương tối thiểu tổng quát ước tính và các kiểm định khác nhau, bao
gồm: kiểm định Hausman, kiểm định MANA,… Kết quả cho thấy không có mối
quan hệ đáng kể giữa đòn bẩy tài chính và sức mạnh về vốn với mức độ kiệt quệ
tài chính. Ngoài ra, nghiên cứu thực nghiệm này cho thấy có mối quan hệ trái
62
chiều giữa đòn bẩy tài chính và mức độ kiệt quệ tài chính, phù hợp với giả thuyết;
trong khi đó, sức mạnh về vốn và mức độ kiệt quệ tài chính có quan hệ trái chiều,
trái ngược lại với giả thuyết.
Bhunia & Mukhuti (2012) nghiên cứu các yếu tố rủi ro tài chính của các doanh
nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Bombay tại Ấn Độ. Nghiên cứu sử
dụng thống kê mô tả, phân tích tương quan và phân tích hồi quy mô hình
Alexander Bathory đối với dữ liệu thứ cấp lấy từ báo cáo tài chính của 513 doanh
nghiệp trong giai đoạn 2010 – 2011. Biến phụ thuộc là rủi ro tài chính, đo lường
bằng mô hình Alexander Bathory. Các biến độc lập bao gồm: (1) cơ cấu nợ, được
đo lường bởi hệ số nợ ngắn hạn trên nợ dài hạn; (2) khả năng thanh toán, đo lường
bởi hệ số khả năng thanh toán hiện thời, hệ số khả năng thanh toán nhanh và tỷ số
nợ; (3) hiệu quả tài chính, đo lường bởi tỷ suất lợi nhuận ròng trên doanh thu và
suất sinh lời trên tài sản; (4) khả năng hoạt động, đo lường bởi vòng quay tồn kho,
vòng quay tài sản cố định, vòng quay tổng tài sản và vòng quay các khoản phải
thu; (5) cơ cấu vốn, đo lường bởi tỷ số tự tài trợ và tỷ trọng tài sản cố định trong
tổng tài sản. Kết quả phân tích hồi quy và thực hiện các kiểm định cho thấy: Rủi
ro tài chính có quan hệ trái chiều đáng kể với khả năng thanh toán, đặc biệt là hệ
số khả năng thanh toán hiện thời, kết quả này phù hợp với giả thuyết; Rủi ro tài
chính có quan hệ trái chiều đáng kể với hiệu quả tài chính, đặc biệt là tỷ suất lợi
nhuận ròng trên doanh thu, kết quả này phù hợp với giả thuyết; Rủi ro tài chính có
quan hệ trái chiều đáng kể với cơ cấu vốn kết quả này phù hợp với giả thuyết; Rủi
ro tài chính không có quan hệ với cơ cấu nợ và khả năng hoạt động, điều này trái
ngược lại với giả thuyết.
Phân tích rủi ro tín dụng xuất hiện khi doanh nghiệp không có khả năng thanh
toán các khoản nợ đến hạn trên cơ sở tiếp cận mô hình hồi quy logistic, và theo
đó, Hoàng Tùng (2011) đã kiểm chứng và dự báo rủi ro này cho doanh nghiệp
Việt Nam. Mẫu nghiên cứu gồm 463 doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng
khoán, được chia thành 2 nhóm: (i) 93 doanh nghiệp có rủi ro tín dụng và (ii) 370
doanh nghiệp không có rủi ro tín dụng. Biến phụ thuộc của mô hình nghiên cứu là
rủi ro tín dụng, thuộc loại biến nhị phân. Rủi ro tín dụng được nhận diện bởi ít
63
nhất 1 trong các dấu hiệu như sau: (i) Không có khả năng thực hiện nghĩa vụ tín
dụng với các đối tác, (ii) Vốn lưu động ròng bị âm, và (iii) Giá trị thị trường của
doanh nghiệp nhỏ hơn tổng nợ phải trả. Sử dụng phương pháp loại trừ dần, tác giả
chọn 4 nhóm biến độc lập được tính từ báo cáo tài chính năm 2009, bao gồm: (1)
cơ cấu vốn, đo lường bởi tỷ số nợ và hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu, (2) cơ cấu đầu
tư, đo lường bởi tỷ lệ tài sản ngắn hạn trên tổng tài sản, (3) hoạt động, đo lường
bởi vòng quay tổng tài sản, (4) hiệu quả, đo lường bởi tỷ suất lợi nhuận trên doanh
thu, suất sinh lời trên tài sản và suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu. Kết quả xử lý dữ
liệu thông qua sự hỗ trợ của phần mềm SPSS cho thấy mô hình hồi quy logistic
dự đoán đúng đối với 98,70% mẫu nghiên cứu, cụ thể là dự đoán đúng 91 trường
hợp trong tổng số 93 trường hợp có rủi ro và dự đoán đúng 366 trường hợp trong
tổng số 370 trường hợp không có rủi ro. Như vậy, theo tác giả, logistic là mô hình
thống kê được sử dụng phổ biến trong phân tích rủi ro tín dụng và qua đó giúp xây
dựng một hàm số dự báo rủi ro này cho các doanh nghiệp trên cơ sở các chỉ tiêu
tài chính, hỗ trợ cho việc xếp hạng tín dụng.
Nghiên cứu khả năng vận dụng các chỉ số tài chính để nhận diện kiệt quệ tài
chính của các doanh nghiệp niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán Tehran (TES),
Salehi & Abedini (2009) sử dụng phương pháp phân tích hồi quy đa biến với hai
bộ dữ liệu bao gồm (i) 30 doanh nghiệp có khó khăn tài chính và (ii) 30 doanh
nghiệp không có bất kỳ khó khăn tài chính. Mô hình nhận diện kiệt quệ tài chính
gồm các chỉ số tài chính liên quan đến thanh khoản, khả năng sinh lời, quản trị tài
sản và sử dụng nợ; kết quả thống kê cho thấy mô hình phù hợp và các chỉ số tài
chính có ý nghĩa giải thích trong mô hình. Ngoài ra, nghiên cứu này còn cho biết
khả năng dự đoán chính xác kiệt quệ tài chính với mô hình được thiết kế 4 năm
trước khi doanh nghiệp xảy ra kiệt quệ tài chính.
Các nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra rằng đòn bẩy tài chính là một trong
những yếu tố gắn với đặc điểm doanh nghiệp thường được quan tâm khi phân tích
ảnh hưởng đến kiệt quệ tài chính. Điều này có thể giải thích theo lý thuyết đánh
đổi trong cơ cấu vốn, đây là mâu thuẫn cơ bản của vấn đề kiệt quệ tài chính trong
các doanh nghiệp. Giarto & Fachrurrozie (2020), Abdioğlu (2019), Lee & Manual
64
(2019), Dance & Mad (2019), Murhadi & cộng sự (2018), Phạm Thị Hồng Vân
(2018), Moghaddam & Filsaraei (2016), Lakshan & Wijekoon (2013), Roslan &
cộng sự (2022) cho rằng đòn bẩy tài chính ảnh hưởng cùng chiều đến kiệt quệ tài
chính, điều này có nghĩa là các công ty sẽ trở nên khó khăn hơn trong việc thực
hiện các trách nhiệm tài chính đến hạn nếu mức độ sử dụng nợ gia tăng, và ngược
lại. Tuy nhiên, Trần Thị Hải Lý & cộng sự (2014), Pourali & cộng sự (2013) lại
tìm thấy mối quan hệ ngược lại, đòn bẩy tài chính ảnh hưởng ngược chiều đến
kiệt quệ tài chính.
Ngoài ra, kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp còn chịu sự ảnh hưởng bởi
khả năng sinh lời (Finishtya, 2019; Dirman, 2020; Dance & Mad, 2019; Iskandar
& Prihanto, 2019; Trần Thị Hải Lý & cộng sự, 2014; Bhunia & Mukhuti, 2012;
Rahman & cộng sự, 2021; Roslan & cộng sự, 2022; Muien & cộng sự, 2022), quy
mô công ty (Dirman, 2020; Oktasari, 2020; Pouraghajan & cộng sự, 2014;
Murhadi & cộng sự, 2018; Phạm Thị Hồng Vân, 2018; Moghaddam & Filsaraei,
2016; Sayari & Mugan, 2013), thanh khoản (Oktasari, 2020; Phạm Thị Hồng Vân,
2018; Dance & Mad, 2019; Iskandar & Prihanto, 2019; Trần Thị Hải Lý & cộng
sự, 2014; Bhunia & Mukhuti, 2012; Lakshan & Wijekoon, 2013; Roslan & cộng
sự, 2022; Muien & cộng sự, 2022), lợi nhuận giữ lại (Muien & cộng sự, 2022),
cấu trúc vốn (Ikpesu & Eboiyehi, 2018; Abdioğlu, 2019; Lee & Manual, 2019;
Lee & Manual, 2019; Roslan & cộng sự, 2022), tuổi công ty (Aderin & Amede,
2022), lạm phát (Muien & cộng sự, 2022; Trần Thị Hải Lý & cộng sự, 2014), tỷ
giá hối đoái (Romadhina & cộng sự, 2022), và nhiều yếu tố khác như thời gian thu
tiền, sức mạnh về vốn, tài sản hữu hình, vòng quay tài sản, vốn trí tuệ, sở hữu tổ
chức, thành viên hội đồng quản trị độc lập, ý kiến kiểm toán, hiệu quả quản lý, sở
hữu nhà nước, giám đốc thuê ngoài, mức độ tập trung quyền trong công ty.
65
2.3.3. Thảo luận các bằng chứng thực nghiệm và khoảng trống nghiên cứu
của đề tài.
2.3.3.1. Mô hình đo lường kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp
Theo các nội dung đã lược khảo trên, kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp
có thể đo lường bởi mô hình Z-Score (Ningsih & Permatasari, 2018; Tanjung,
2020), mô hình S-Score (Tahu, 2019; Shalih & Kusumawati, 2019; Mulyati &
Ilyasa, 2020; Fauzi & cộng sự, 2021), mô hình O-Score (Syamni & cộng sự,
2018), mô hình X-Score (Andriani & Sihombing, 2021; Fadrul & Ridawati, 2020;
Hertina & cộng sự, 2020; Viciwati, 2020; Januri & cộng sự, 2017), mô hình G-
Score (Pakdaman, 2018; Hertina & cộng sự, 2020; Aminian & cộng sự, 2016). Sự
khác nhau trong việc lựa chọn áp dụng mô hình đo lường kiệt quệ tài chính có thể
xuất phát từ đặc trưng quyết định quản trị tài chính của các doanh nghiệp kết hợp
với sự điều tiết bởi các yếu tố thuộc môi trường kinh doanh, môi trường tài chính
và môi trường thuế. Vì vậy, điều tất yếu khi đo lường kiệt quệ tài chính là kiểm
định có hay không tồn tại sự khác biệt giữa các mô hình và đánh giá mức độ chính
xác hay tương ứng là tỷ lệ lỗi của từng mô hình (Andriani & Sihombing, 2021;
Fauzi & cộng sự, 2021; Mulyati & Ilyasa, 2020; Hertina & cộng sự, 2020; Fadrul
& Ridawati, 2020; Viciwati, 2020; Tahu, 2019; Pakdaman, 2018; Januri & cộng
sự, 2017; Aminian & cộng sự, 2016).
Về đo lường kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tại
Việt Nam, nghiên cứu thực nghiệm của Lê Cao Hoàng Anh & Nguyễn Thị Thu
Hằng (2012) đã tiến hành kiểm định mô hình Z-Score cho trường hợp các doanh
nghiệp trên Sở giao dịch chứng khoán Hồ Chí Minh và khẳng định mô hình này
hiệu quả với tỷ lệ chính xác đạt 91% tại thời điểm một năm trước khi kiệt quệ tài
chính và giảm xuống mức 72% trong vòng hai năm. Phạm Thị Hồng Vân (2018)
sử dụng phương pháp hồi quy Logit dựa trên bộ dữ liệu từ mẫu 189 doanh nghiệp
cổ phần ngành công nghiệp niêm yết tại Việt Nam, đúc kết 5 thành phần cấu
thành kiệt quệ tài chính với tỷ lệ chính xác theo tổng thể là 93,12%, bao gồm tỷ lệ
nắm giữ tiền, tỷ số nợ, quy mô doanh nghiệp, hiệu suất sử dụng tài sản và tỷ lệ lợi
nhuận giữ lại. Như vậy, các nghiên cứu thực nghiệm nhằm đề xuất áp dụng mô
66
hình đo lường kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tại
Việt Nam chưa xem xét đến sự đa dạng của các mô hình đo lường, qua đó đối
sánh lựa chọn giữa các mô hình để tăng thêm tính vững chắc cũng như mức độ
thuyết phục trong đúc kết cách thức đo lường kiệt quệ tài chính, đây là khoảng
trống nghiên cứu thực nghiệm gắn với trường hợp cụ thể tại Việt Nam và đề tài
luận án sẽ xử lý vấn đề này với mục đích kiểm định lựa chọn từ tiếp cận phong
phú các mô hình Z-Score, S-Score, O-Score, X-Score, Z-Taffler, H-Score và G-
Score. Theo đó, đề tài luận án lần lượt trả lời 2 câu hỏi nghiên cứu cho trường hợp
cụ thể là các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tại Việt Nam, bao gồm:
(1) Có tồn tại sự khác biệt kết quả đo lường kiệt quệ tài chính khi áp dụng các
mô hình hay không?
(2) Mô hình nào đo lường kiệt quệ tài chính là phù hợp nhất?
2.3.3.2. Ảnh hưởng của dòng tiền đến kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp
Các bằng chứng thực nghiệm trong và ngoài nước đã khẳng định nhiều khía
cạnh ảnh hưởng của dòng tiền đến kiệt quệ tài chính, và đây là cơ sở cho việc phát
triển mô hình nhận diện kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp có sự tham gia
cấu thành của yếu tố dòng tiền. Kiệt quệ tài chính không chỉ liên quan đến từng
dòng tiền bao gồm dòng tiền hoạt động kinh doanh, dòng tiền hoạt động đầu tư và
dòng tiền hoạt động tài trợ, mà còn liên quan sự tổng hợp cũng như các mô hình
kết hợp giữa các dòng tiền, và sự kết hợp của dòng tiền với các yếu tố tài chính
khác. Dance & Mad (2019) khuyến nghị các doanh nghiệp cần phân tích kết hợp
các hệ số tài chính để cung cấp thông tin cảnh báo sớm và cơ sở thiết lập biện
pháp phù hợp để giảm thiểu và có thể hạn chế xảy ra kiệt quệ tài chính, trong đó
các doanh nghiệp cần quan tâm nhiều hơn đến đòn bẩy tài chính trong mối quan
hệ với khả năng sinh lời và dòng tiền hoạt động kinh doanh. Với nội dung đã lược
khảo tại mục 2.3.2, các nghiên cứu thực nghiệm đã cung cấp bằng chứng cũng
như thông tin hữu ích về ảnh hưởng của dòng tiền đến kiệt quệ tài chính cũng như
qua đó đề xuất nhận diện kiệt quệ tài chính có sự tham gia của yếu tố dòng tiền
như sau:
67
Thứ nhất, tổng dòng tiền ròng, cũng là sự kết hợp ba dòng tiền (kinh doanh,
đầu tư và tài trợ) ảnh hưởng đến kiệt quệ tài chính. Tuy nhiên, kết quả đúc kết
chưa nhất quán, điều này có thể hiểu và giải thích bởi sự đa dạng trong kết hợp
giữa các dòng tiền cụ thể để hình thành dòng tiền chung, hoặc sự tương tác giữa
dòng tiền với các khía cạnh tài chính khác có liên quan. Xét mô hình kết hợp các
dòng tiền, có 8 trường hợp (Aderin & Amede, 2022; Kordestani & cộng sự,
2011), và kết quả nghiên cứu của Kordestani & cộng sự (2011) khẳng định rằng
chỉ có 4/8 trường hợp tổng hợp 3 dòng tiền cung cấp tín hiệu về kiệt quệ tài chính.
Mở rộng hơn, kết quả nghiên cứu của Pouraghajan & cộng sự (2014) bổ sung
thêm rằng tình trạng kiệt quệ tài chính của công ty trở nên nặng hơn hay giảm bớt
tùy vào sự kết hợp của dòng tiền với khả năng sinh lời, chính sách cổ tức và thuế
thu nhập doanh nghiệp. Shamsudin & Kamaluddin (2015) cũng khẳng định rằng
kiệt quệ hay lành mạnh tài chính của các công ty tùy vào dạng mô hình kết hợp
giữa các dòng tiền thành phần, theo đó nhóm tác giả cũng chỉ ra 4 trường hợp và
chủ yếu xuất phát từ dòng tiền hoạt động kinh doanh trong mối quan hệ với dòng
tiền hoạt động đầu tư và tài trợ. Điểm giống nhau trong đúc kết từ nghiên cứu của
Kordestani & cộng sự (2011) và Shamsudin & Kamaluddin (2015) là 2 trường
hợp dẫn đến kiệt quệ tài chính bao gồm (i) 03 dòng tiền đều âm, hoặc (ii) chỉ có
dòng tiền hoạt động kinh doanh thặng dư trong khi 02 dòng tiền còn lại bị âm.
Mặc dù các nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra ảnh hưởng của tổng dòng tiền
ròng hoặc mô hình kết hợp các dòng tiền thành phần đến kiệt quệ tài chính. Tuy
nhiên, các nghiên cứu chỉ phân tích dựa trên trạng thái âm (-) hoặc dương (+) của
từng dòng tiền mà chưa quan tâm đến độ lớn của dòng tiền, và xử lý theo dạng
biến giả quy ước theo dạng thức của mô hình dòng tiền. Vì vậy, đề tài luận án sẽ
kiểm định ảnh hưởng của sự tương tác giữa các dòng tiền thành phần, dựa trên độ
lớn của dòng tiền, đây là điểm mới so với các nghiên cứu trước với kỳ vọng cung
cấp thêm bằng chứng hữu ích khi đánh giá sự kết hợp giữa các dòng tiền ảnh
hưởng đến kiệt quệ tài chính. Theo đó, đề tài luận án kế thừa và phát triển các
hướng nghiên cứu như sau:
68
- Đánh giá ảnh hưởng của tổng dòng tiền đến kiệt quệ tài chính của các doanh
nghiệp.
- Đánh giá ảnh hưởng của sự tương tác giữa các dòng tiền thành phần đến kiệt
quệ tài chính của các doanh nghiệp.
Thứ hai, từng dòng tiền thành phần ảnh hưởng đến kiệt quệ tài chính của các
doanh nghiệp.
Không chỉ xem xét tổng thể dòng tiền hay các mô hình kết hợp các dòng tiền,
nhiều nghiên cứu thực nghiệm cũng đã chỉ ra tác động của từng dòng tiền đến kiệt
quệ tài chính của các doanh nghiệp. Theo thống kê tại Bảng 2.2, đa phần các
nghiên cứu đều cho rằng dòng tiền hoạt động kinh doanh có tác động ngược chiều
đến kiệt quệ tài chính, phù hợp với bản chất ý nghĩa của dòng tiền này. Trong khi
đó, kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của dòng tiền hoạt động đầu tư và tài trợ đến
kiệt quệ tài chính có sự khác biệt rõ nét giữa các trường hợp; điều này có thể do
bản chất của hai dòng tiền này dẫn đến ảnh hưởng độc lập đến kiệt quệ tài chính
chưa rõ nét trong cùng kỳ, hoặc ảnh hưởng chỉ trở nên rõ ràng khi có sự tương tác
với dòng tiền còn lại có liên quan.
Ngoài ra, cơ sở lý thuyết và bằng chứng thực nghiệm cho rằng, các chỉ số tài
chính hình thành dựa vào dòng tiền kết hợp với các trách nhiệm tài chính đến hạn
sẽ phản ánh tình trạng kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp. Chẳng hạn Jooste
(2007) cho rằng một doanh nghiệp có khả năng thanh khoản và lợi nhuận tăng
nhưng phải đối diện với các vấn đề nghiêm trọng về dòng tiền, doanh nghiệp này
sẽ đối mặt với tình trạng kiệt quệ tài chính. Theo đó, Jooste (2007) đã chỉ ra rằng
tỷ lệ dòng tiền trên nợ là chỉ số phản ánh tốt nhất sử dụng để giải thích tình trạng
kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp, khi doanh nghiệp có dòng tiền càng cao
góp phần làm gia tăng tỷ lệ dòng tiền trên nợ thì doanh nghiệp có nguy cơ kiệt quệ
tài chính càng thấp và ngược lại. Fawzi (2015) cũng kết luận thống nhất với
Jooste (2007) về ý nghĩa giải thích của dòng tiền thể hiện qua tỷ lệ dòng tiền trên
nợ cho tình trạng kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp, tuy nhiên tác giả này
còn bổ sung rằng dòng tiền thể hiện qua tỷ lệ dòng tiền trên doanh thu cũng quan
trọng trong việc nhận diện kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp. Pranowo &
69
cộng sự (2010) không xem xét yếu tố dòng tiền trong mô hình nghiên cứu, nhưng
nhóm tác giả có đề xuất rằng các doanh nghiệp cần theo dõi các biến số tài chính
có ảnh hưởng đến kiệt quệ tài chính ngay từ đầu giai đoạn suy giảm của dòng tiền
và khi dòng tiền hoạt động kinh doanh bị thâm hụt, đây là một tín hiệu cho tình
trạng kiệt quệ tài chính; vì vậy đề tài sẽ đưa vào mô hình nghiên cứu để đánh giá
vai trò điều tiết của dòng tiền hoạt động kinh doanh đối với tác động của đòn bẩy
tài chính đến kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp, điều này cũng xuất phát từ
bản chất cũng như mâu thuẫn, nguồn gốc cơ bản của kiệt quệ tài chính.
Về tác động của đòn bẩy tài chính đến kiệt quệ tài chính có điều tiết bởi yếu tố
khác có liên quan, Abdioğlu (2019) đã khẳng định rằng tác động này trở nên yếu
hơn khi có sự điều tiết bởi quy mô doanh nghiệp và khả năng sinh lời, nhưng sẽ
mạnh hơn bởi sự điều tiết bởi tài sản hữu hình. Ngoài ra, Abdioğlu (2019) còn
phân tích và chỉ ra rằng tác động của cấu trúc kỳ hạn nợ đại diện bởi tỷ trọng nợ
dài hạn trong tổng nợ đến kiệt quệ tài chính, mối quan hệ này trở nên yếu hơn khi
có điều tiết bởi khả năng sinh lời và tài sản hữu hình. Giarto & Fachrurrozie
(2020) khẳng định rằng sự điều tiết bởi quản trị doanh nghiệp sẽ làm cho tác động
của đòn bẩy tài chính đến kiệt quệ tài chính trở nên yếu hơn. Như vậy, các nghiên
cứu thực nghiệm chưa quan tâm đến dòng tiền hoạt động kinh doanh có thể điều
tiết tác động của đòn bẩy tài chính đến kiệt quệ tài chính như đã đề cập. Theo đó,
đề tài luận án kế thừa và phát triển các hướng nghiên cứu như sau:
- Đánh giá ảnh hưởng của từng dòng tiền thành phần đến kiệt quệ tài chính của
các doanh nghiệp.
- Đánh giá vai trò điều tiết của dòng tiền dòng tiền hoạt động kinh doanh đối
với tác động của đòn bẩy tài chính đến kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp.
Thứ ba, nghiên cứu thực nghiệm về ảnh hưởng của dòng tiền đến kiệt quệ tài
chính đối với trường hợp các doanh nghiệp tại Việt Nam.
Kết quả lược khảo các nghiên cứu thực nghiệm chỉ ra rằng không có nhiều
nghiên cứu về ảnh hưởng của dòng tiền đến kiệt quệ tài chính cho trường hợp các
doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp phi tài chính niêm yết trên thị
trường chứng khoán chính thức tại Việt Nam. Nghiên cứu về kiệt quệ tài chính
70
của Trần Thị Hải Lý & cộng sự (2014), Phạm Thị Hồng Vân (2018) có đề cập đến
dòng tiền, tuy nhiên kết quả chưa rõ nét, điều này là do các nghiên cứu chưa tiếp
cận các dòng tiền một cách đa dạng với nhiều khía cạnh bao gồm tổng thể dòng
tiền, từng dòng tiền và sự kết hợp giữa các dòng tiền cũng như vai trò dòng tiền
hoạt động kinh doanh gắn với trách nhiệm tài chính của doanh nghiệp. Theo đó,
đề tài luận án nghiên cứu cho trường hợp các doanh nghiệp tại Việt Nam với sự đa
dạng khía cạnh nêu trên sẽ cung cấp bằng chứng chặt chẽ và đáng tin cậy hơn, qua
đó giúp hình thành và phát triển mô hình nhận diện kiệt quệ tài chính có sự tham
gia cấu thành của dòng tiền.
------------------------------------------------------------------
71
TÓM TẮT CHƯƠNG 2
Chương 2 đã trình bày cơ sở lý thuyết về kiệt quệ tài chính của các doanh
nghiệp, theo đó kiệt quệ tài chính được khẳng định gắn với quyết định tài trợ
bằng nợ và kiệt quệ tài chính được hiểu là tình trạng không đủ khả năng để
thực hiện những lời hứa, cam kết với các chủ nợ hoặc có thể thực hiện nhưng
lại rất khó khăn; qua đó chương này đã lược khảo các mô hình đo lường kiệt
quệ tài chính của các doanh nghiệp, chẳng hạn như Z-Score, S-Score, O-Score,
X-Score, Z-Taffler, H-Score, G-Score và một số mô hình khác.
Chương này cũng đã tổng quan về bản chất và ý nghĩa của dòng tiền
trong quản lý tài chính doanh nghiệp. Căn cứ vào lược khảo tổng quan về dòng
tiền, dựa vào các lý thuyết khác nhau như lý thuyết ưa thích thanh khoản của
Keynes (1936), mô hình lý thuyết quản trị tiền của Baumol (1952),... chương 2
đã luận giải theo góc độ lý thuyết về ảnh hưởng của tổng dòng tiền ròng và
từng dòng tiền đến tình trạng kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp; đồng
thời đề tài cũng lược khảo nền tảng lý thuyết về mối quan hệ giữa các dòng tiền
ảnh hưởng đến tình trạng kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp. Bên cạnh
đó, đề tài cũng đã lược khảo các nghiên cứu thực nghiệm, qua đó khẳng định
được thực tiễn ảnh hưởng của dòng tiền đến tình trạng kiệt quệ tài chính tại
các doanh nghiệp theo những thời gian và không gian khác nhau, hoặc do cách
xử lý mô hình và phương pháp nghiên cứu. Theo đó, đề tài luận án đã chỉ ra
tầm quan trọng, giá trị khoa học và thực tiễn cũng như là sự cần thiết nghiên
cứu ảnh hưởng của dòng tiền để cung cấp minh chứng xem xét yếu tố này là
một thành phần cấu thành trong mô hình nhận diện kiệt quệ tài chính của các
doanh nghiệp.
Tại chương 2, đề tài cũng đã khẳng định chưa tìm thấy các nghiên cứu
thực nghiệm nhằm mục tiêu cung cấp bằng chứng đáng tin cậy về lựa chọn các
mô hình đo lường kiệt quệ tài chính cho trường hợp các doanh nghiệp nói
chung và doanh nghiệp phi tài chính niêm yết nói riêng tại Việt Nam, theo đó đề
72
tài luận đã chỉ ra rằng cần có những kiểm định nhằm xác định mô hình đo
lường kiệt quệ tài chính phù hợp cho trường hợp các doanh nghiệp phi tài
chính tại Việt Nam.
Kết thúc chương 2, đề tài đã chỉ ra khoảng trống nghiên cứu về nội dung
và phương pháp tiếp cận đối với trường hợp các doanh nghiệp phi tài chính
niêm yết trên thị trường chứng khoán chính thức tại Việt Nam nói riêng và
doanh nghiệp Việt Nam nói chung.
73
Chương 3:
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chương 3, đề tài sẽ trình bày thiết kế nghiên cứu lựa chọn mô hình đo
lường kiệt quệ tài chính cho các doanh nghiệp. Tiếp theo là mô tả chi tiết
mô hình kèm phương pháp nghiên cứu về ảnh hưởng của dòng tiền đến
kiệt quệ tài chính cho trường hợp các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết
tại Việt Nam, đó là nền tảng cho việc đề xuất nhận diện kiệt quệ tài chính
có sự tham gia cấu thành của yếu tố dòng tiền. Phần cuối của chương này
sẽ chỉ rõ phương pháp chọn mẫu nghiên cứu và dữ liệu nghiên cứu.
3.1. THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU
Theo mục tiêu cũng như câu hỏi nghiên cứu của đề tài kết hợp với lược khảo
lý thuyết và bằng chứng thực nghiệm tại chương 2, tác giả đưa ra thiết kế nghiên
cứu lần lượt gồm 2 phần chính như sau: (i) Lựa chọn mô hình đo lường kiệt quệ
tài chính phù hợp, và (ii) Đánh giá những ảnh hưởng của dòng tiền đến kiệt quệ
tài chính. Hình 3.1 và Hình 3.2 bên dưới sẽ mô tả thiết kế nghiên cứu của đề tài.
G-Score
H-Score
Kiểm định O-Score Tiếp cận và xác định lựa chọn Mô hình đo lường các mô hình S-Score phù hợp đo lường
X-Score kiệt quê
tài chính Z-Score
Z-Taffler
Hình 3.1. Thiết kế nghiên cứu lựa chọn mô hình đo lường phù hợp
74
Các khía cạnh ảnh hưởng của dòng tiền đến kiệt quệ tài chính
Từng dòng tiền Sự tương tác giữa Vai trò điều tiết của dòng Dòng tiền ròng
ảnh hưởng đến từng cặp dòng tiền tiền hoạt động kinh doanh ảnh hưởng đến
kiệt quệ tài chính ảnh hưởng đến đối với tác động của đòn kiệt quệ tài chính
kiệt quệ tài chính bẩy tài chính đến kiệt quệ
tài chính
Dòng Dòng Dòng Sự tương tác Sự tương tác Sự tương tác
tiền tiền giữa dòng tiền giữa dòng tiền giữa dòng tiền
hoạt hoạt tiền hoạt hoạt động hoạt động hoạt động
động động động kinh doanh đầu tư với kinh doanh
đầu tài kinh với đầu tư tài trợ với tài trợ
tư trợ doanh
Hình 3.2. Thiết kế nghiên cứu ảnh hưởng của dòng tiền đến kiệt quệ tài chính
75
Theo Hình 3.1, đề tài luận án tiếp cận 7 mô hình đo lường kiệt quệ tài chính
được đề xuất bởi nhiều nghiên cứu, bao gồm S-Score, X-Score, O-Score, Z-Score,
Z-Taffler, G-Score, và H-Score. Sau đó là thực hiện các kiểm định và đánh giá
cần thiết để tìm ra mô hình phù hợp để đo lường kiệt quệ tài chính của các doanh
nghiệp phi tài chính niêm yết tại Việt Nam. Kết quả tìm thấy từ thiết kế nghiên
cứu này là cơ sở đo lường biến phụ thuộc trong các mô hình nghiên cứu trong
thiết kế nghiên cứu tại Hình 3.2.
Theo Hình 3.2, với những khẳng định kế thừa và phát triển hướng nghiên cứu
của đề tài luận án tại mục 2.3.3.2, thiết kế nghiên cứu ảnh hưởng của dòng tiền
đến kiệt quệ tài chính bao gồm 4 khía cạnh tiếp cận, lần lượt là (i) dòng tiền ròng
ảnh hưởng đến kiệt quệ tài chính, (ii) Từng dòng tiền (kinh doanh, đầu tư và tài
trợ) ảnh hưởng đến kiệt quệ tài chính, (iii) Sự tương tác giữa từng cặp dòng tiền
ảnh hưởng đến kiệt quệ tài chính, và (iv) Vai trò điều tiết của dòng tiền hoạt động
kinh doanh đối với tác động của đòn bẩy tài chính đến kiệt quệ tài chính. Kết quả
tìm thấy từ các khía cạnh trong thiết kế nghiên cứu này là cơ sở đề xuất phát triển
mô hình nhận diện kiệt quệ tài chính có sự tham gia cấu thành của dòng tiền cho
trường hợp các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết nói riêng và doanh nghiệp nói
chung tại Việt Nam.
3.2. LỰA CHỌN MÔ HÌNH ĐO LƯỜNG KIỆT QUỆ TÀI CHÍNH
Như đã đề cập ở trên, đề tài sẽ lần lượt trả lời câu hỏi nghiên cứu thứ nhất và
thứ hai để lựa chọn mô hình phù hợp cho mục tiêu đo lường kiệt quệ tài chính đối
với các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tại Việt Nam. Theo đó, để trả lời câu
hỏi nghiên cứu thứ nhất, đề tài sử dụng phương pháp kiểm định phi tham số
Kruskal Wallis nếu dữ liệu nghiên cứu không phải dạng phân phối chuẩn, hoặc sử
dụng phương pháp kiểm định tham số tương đương ANOVA One-way nếu dữ
liệu nghiên cứu tồn tại dạng phân phối chuẩn. Giả thuyết nghiên cứu được xác
định cho các kiểm định này là:
H0: Các mô hình đo lường kiệt quệ tài chính không có sự khác biệt đáng kể
H1: Các mô hình đo lường kiệt quệ tài chính có sự khác nhau đáng kể
76
Để trả lời câu hỏi nghiên cứu thứ hai, đề tài sử dụng phương pháp thống kê các
trường hợp xác định phù hợp và không phù hợp so với kết luận chung của tất cả
các mô hình. Theo đó, kết luận chung về kiệt quệ tài chính hay lành mạnh tài
chính là sự thống nhất của từ 4 trong tổng số 7 mô hình, sau đó tác giả tính toán tỷ
lệ của 3 nhóm trường hợp, bao gồm: (i) những trường hợp có kết quả đo lường
phù hợp kết luận chung, đại diện bởi tỷ lệ chính xác (Accuracy rate), (ii) những
trường hợp có kết quả xác định lành mạnh tài chính nhưng kết luận chung là kiệt
quệ tài chính, đại diện bởi tỷ lệ sai lầm dạng I (Type I error), và (iii) những trường
hợp đưa ra kết quả xác định kiệt quệ tài chính nhưng kết luận chung là lành mạnh
tài chính, đại diện bởi tỷ lệ sai lầm dạng II (Type II error).
3.3. MÔ HÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VỀ ẢNH HƯỞNG
CỦA DÒNG TIỀN ĐẾN KIỆT QUỆ TÀI CHÍNH
3.3.1. Mô hình nghiên cứu
Căn cứ cơ sở lý thuyết và các bằng chứng thực nghiệm, kèm thảo luận và đúc
kết khoảng trống nghiên cứu tại chương 2, mục tiêu đề xuất nhận diện kiệt quệ tài
chính của các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tại Việt Nam có sự tham gia
cấu thành của dòng tiền, đề tài luận án đã lựa chọn tiếp cận đồng thời theo hai
khía cạnh nội dung, bao gồm: (i) Dòng tiền ảnh hưởng đến kiệt quệ tài chính, và
(ii) Dòng tiền hoạt động kinh doanh điều tiết tác động của đòn bẩy tài chính đến
kiệt quệ tài chính.
Thứ nhất, Các dòng tiền ảnh hưởng đến kiệt quệ tài chính
Dòng tiền của các doanh nghiệp bao gồm 3 thành phần là dòng tiền hoạt động
77
kinh doanh, dòng tiền hoạt động đầu tư và dòng tiền hoạt động tài trợ. Mỗi dòng
tiền thể hiện những khía cạnh tài chính khác nhau, lần lượt phản ánh khả năng tạo
tiền, xu hướng đầu tư và nguồn tiền tài trợ từ bên ngoài. Không những thế, các
dòng tiền này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Vì vậy, đề tài luận án thực hiện
kiểm định giả thuyết về ảnh hưởng của dòng tiền đến kiệt quệ tài chính của các
doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tại Việt Nam lần lượt theo các khía cạnh tổng
dòng tiền ròng, từng dòng tiền và sự tương tác giữa các dòng tiền.
(i) Mô hình nghiên cứu thứ nhất xem xét ảnh hưởng của tổng dòng tiền ròng
đến kiệt quệ tài chính, qua đó trả lời câu hỏi nghiên cứu thứ ba của đề tài luận án,
cụ thể phương trình hồi quy như sau:
FDi,t = β0 + β1*NCFi,t + β2*AGEi,t + β3*LEVi,t + β4*SIZEi,t + i,t
Trong đó:
FD là biến phụ thuộc, đại diện cho kiệt quệ tài chính; NCF là biến độc lập, đại
diện cho tổng dòng tiền ròng của doanh nghiệp; LEV, SIZE và AGE lần lượt
là các biến kiểm soát, thể hiện đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp, quy mô
doanh nghiệp và độ tuổi của doanh nghiệp. Ngoài ra, i và t tương ứng với từng
doanh nghiệp và theo từng năm, là sai số ngẫu nhiên
(ii) Mô hình nghiên cứu thứ hai xem xét tác động độc lập của từng dòng tiền
đến kiệt quệ tài chính, qua đó đó trả lời câu hỏi nghiên cứu thứ tư, phương trình
hồi quy được cụ thể như sau:
FDi,t = β0 + β1*OCFi,t + β2*ICFi,t + β3*FCFi,t + β4*AGEi,t + β5*LEVi,t
+ β6*SIZEi,t + i,t
Trong đó:
FD là biến phụ thuộc, đại diện cho kiệt quệ tài chính; OCF là biến độc lập, đại
diện cho dòng tiền hoạt động kinh doanh; ICF là biến độc lập, đại diện cho
dòng tiền hoạt động đầu tư; FCF là biến độc lập, đại diện cho dòng tiền hoạt
động tài trợ; LEV, SIZE và AGE lần lượt là các biến kiểm soát, thể hiện đòn
bẩy tài chính của doanh nghiệp, quy mô doanh nghiệp và độ tuổi của doanh
nghiệp. Ngoài ra, i và t tương ứng với từng doanh nghiệp và theo từng năm,
là sai số ngẫu nhiên
78
(iii) Mô hình nghiên cứu thứ ba xem xét tác động của sự tương tác giữa các
dòng tiền đến kiệt quệ tài chính, qua đó đó trả lời câu hỏi nghiên cứu thứ năm,
phương trình hồi quy cụ thể là:
FDi,t = β0 + β1*OCFi,t + β2*ICFi,t + β3*FCFi,t + β4*(OCF*ICF)i,t
+ β5*(ICF*FCF)i,t + β6*(FCF*OCF)i,t + β7*AGEi,t + β8*LEVi,t
+ β9*SIZEi,t + i,t
Trong đó:
FD là biến phụ thuộc, đại diện cho kiệt quệ tài chính; OCF là biến độc lập, đại
diện cho dòng tiền hoạt động kinh doanh; ICF là biến độc lập, đại diện cho
dòng tiền hoạt động đầu tư; FCF là biến độc lập, đại diện cho dòng tiền hoạt
động tài trợ; OCF*ICF, ICF*FCF và FCF*OCF lần lượt là biến tương tác giữa
từng cặp dòng tiền kinh doanh, đầu tư và tài trợ; LEV, SIZE và AGE lần lượt
là các biến kiểm soát, thể hiện đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp, quy mô
doanh nghiệp và độ tuổi của doanh nghiệp. Ngoài ra, i và t tương ứng với từng
doanh nghiệp và theo từng năm, là sai số ngẫu nhiên.
Ngoài ra, phân tích lý thuyết về mối quan hệ giữa các dòng tiền chỉ ra rằng sự
kết hợp của 3 dòng tiền hình thành dòng tiền ròng chung cho toàn doanh nghiệp,
và từ đó ảnh hưởng đến biến động số dư tiền cuối kỳ so với đầu kỳ. Lý thuyết ưa
thích thanh khoản (Liquidity Preference Theory) của Keynes (1936) xác định
những động cơ nắm giữ tiền của các doanh nghiệp bao gồm động cơ giao dịch,
động cơ phòng ngừa và động cơ đầu tư; theo đó, bản chất doanh nghiệp luôn phải
đối mặt với sự không tương thích giữa tiền thu và tiền chi trong kỳ, và khi đó số
dư tiền nắm giữ sẽ rất cần thiết, như một tấm đệm an toàn để doanh nghiệp có thể
tiếp tục hoạt động, doanh nghiệp có thể giảm thiểu khả năng xảy ra kiệt quệ tài
chính (Arnold, 2013; Tavor và cộng sự, 2018). Như vậy, Lý thuyết ưa thích thanh
khoản của Keynes (1936) ủng hộ quan điểm rằng doanh nghiệp có dòng tiền ròng
thặng dư sẽ góp phần cải thiện thanh khoản, giảm thiểu khả năng xảy ra kiệt quệ
tài chính và ngược lại; mối quan hệ này còn được khẳng định qua Mô hình lý
thuyết quản trị tiền Baumol (1952), doanh nghiệp có dòng tiền ròng thặng dư sẽ
góp phần tăng số dư tiền nắm giữ, qua đó giảm thiểu khả năng xảy ra kiệt quệ tài
79
chính cho doanh nghiệp (Brealey và cộng sự, 2008; Arnold, 2013, Tavor và cộng
sự, 2018). Sayari và Mugan (2013), Jooste (2007), Kordestani và cộng sự (2011)
đã đánh giá sự kết hợp 3 dòng tiền với 8 trường hợp có thể xảy ra theo bảng 3.1
như sau:
Bảng 3.1. Tình trạng từng dòng tiền
Dòng tiền 1 2 3 4 5 6 7 8
Dòng tiền hoạt động kinh doanh + + + + - - - -
Dòng tiền hoạt động đầu tư + + - - - - + +
Dòng tiền hoạt động tài trợ + - + - + - + -
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Theo Bảng 3.1, tác giả sử dụng đồ thị để phân tích ảnh hưởng của sự kết hợp
đồng thời 3 dòng tiền đến tình trạng kiệt quệ tài chính của từng nhóm doanh
nghiệp được phân chia theo 8 trường hợp kết hợp của ba dòng tiền như đề cập trên
cho trường hợp các doanh nghiệp phi tài chính tại Việt Nam.
Thứ hai, Dòng tiền hoạt động kinh doanh điều tiết tác động của đòn bẩy tài
chính đến kiệt quệ tài chính
Dòng tiền hoạt động kinh doanh là minh chứng cho khả năng tạo tiền của các
doanh nghiệp, là cơ sở quan trọng để doanh nghiệp thực hiện các trách nhiệm tài
chính với các chủ thể có liên quan (Ngô Kim Phượng & cộng sự, 2018; CFA
Institute, 2020; Penman, 2001; Lessambo, 2022; Fridson & Alvarez, 2022). Theo
đó, đề tài kiểm định vai trò điều tiết của dòng tiền hoạt động kinh doanh đối với
tác động của đòn bẩy tài chính đến kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp phi tài
chính niêm yết tại Việt Nam theo mô hình thứ tư, qua đó đó trả lời câu hỏi nghiên
cứu thứ sáu, cụ thể như sau:
FDi,t = β0 + β1*OCFi,t + β2*AGEi,t + β3*LEVi,t + β4*SIZEi,t + β5*(LEV*OCF)i,t
+ i,t
Trong đó:
FD là biến phụ thuộc, đại diện cho kiệt quệ tài chính; OCF là biến độc lập, đại
diện cho dòng tiền hoạt động kinh doanh; ICF là biến độc lập, đại diện cho
dòng tiền hoạt động đầu tư; FCF là biến độc lập, đại diện cho dòng tiền hoạt
80
động tài trợ; LEV*OCF là biến tương tác, thể hiện mối quan hệ điều tiết của
dòng tiền hoạt động kinh doanh đối với tác động của đòn bẩy tài chính đến
kiệt quệ tài chính; LEV, SIZE và AGE lần lượt là các biến kiểm soát, thể hiện
đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp, quy mô doanh nghiệp và độ tuổi của
doanh nghiệp. Ngoài ra, i và t tương ứng với từng doanh nghiệp và theo từng
năm, là sai số ngẫu nhiên
3.3.2. Đo lường các biến
Thứ nhất, Biến phụ thuộc FD
Đề tài luận án thực hiện đo lường biến phụ thuộc kiệt quệ tài chính (FD) của
các mô hình nghiên cứu tại mục 3.3.1 căn cứ kết quả lựa chọn mô hình đo lường
theo thiết kế nghiên cứu tại mục 3.2.
Thứ hai, Các biến độc lập là dòng tiền
✓ Biến độc lập NCF là tổng dòng tiền ròng trong kỳ của doanh nghiệp, là
chênh lệch giữa tiền thu với tiền chi trong cùng kỳ. Biến này được đo lường bởi tỷ
lệ tổng dòng tiền ròng trên tổng tài sản, tương tự nghiên cứu của Sayari & Mugan
(2013), Jooste (2007), Kordestani & cộng sự (2011), Giarto & Fachrurrozie
(2020), Bhunia & cộng sự (2011), Trần Thị Hải Lý & cộng sự (2014).
✓ Biến độc lập OCF là dòng tiền hoạt động kinh doanh, được đo lường bởi tỷ
lệ dòng tiền ròng hoạt động kinh doanh trên tổng tài sản (Sayari & Mugan, 2013;
Jooste, 2007; Kordestani & cộng sự, 2011; Muien & cộng sự, 2022; Rahman &
cộng sự, 2021).
✓ Biến độc lập ICF là dòng tiền hoạt động đầu tư, được đo lường bởi tỷ lệ
dòng tiền ròng hoạt động đầu tư trên tổng tài sản (Kordestani & cộng sự, 2011;
Dickinson, 2011; Sayari & Mugan, 2013).
✓ Biến độc lập FCF là dòng tiền hoạt động tài trợ, được đo lường bởi tỷ lệ
dòng tiền ròng hoạt động tài trợ trên tổng tài sản (Sayari & Mugan, 2013;
Kordestani & cộng sự, 2011; Shamsudin & Kamaluddin, 2015).
Thứ ba, các biến tương tác
✓ Biến tương tác giữa dòng tiền hoạt động kinh doanh với dòng tiền hoạt
động đầu tư (OCF.ICF), đo lường bởi tích số giữa tỷ lệ dòng tiền ròng hoạt động
81
kinh doanh trên tổng tài sản với tỷ lệ dòng tiền ròng hoạt động đầu tư trên tổng tài
sản.
✓ Biến tương tác giữa dòng tiền hoạt động đầu tư với dòng tiền hoạt động tài
trợ (ICF.FCF), đo lường bởi tích số giữa tỷ lệ dòng tiền ròng hoạt đầu tư trên tổng
tài sản với tỷ lệ dòng tiền ròng hoạt động tài trợ trên tổng tài sản.
✓ Biến tương tác giữa dòng tiền hoạt động kinh doanh với dòng tiền hoạt
động tài trợ (OCF.FCF), đo lường bởi tích số giữa tỷ lệ dòng tiền ròng hoạt động
kinh doanh trên tổng tài sản với tỷ lệ dòng tiền ròng hoạt động tài trợ trên tổng tài
sản.
✓ Biến tương tác giữa dòng tiền hoạt động kinh doanh với đòn bẩy tài chính
(OCF.LEV), đo lường bởi tích số giữa tỷ lệ dòng tiền ròng hoạt động kinh doanh
trên tổng tài sản với tỷ số nợ.
Thứ tư, Các biến kiểm soát
Ngoài ra, mô hình nghiên cứu có 3 biến kiểm soát, bao gồm: (i) AGE là tuổi
doanh nghiệp, được tính từ khi doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo
hình thức doanh nghiệp cổ phần cho đến năm nghiên cứu (Sayari & Mugan, 2013;
Aderin & Amede, 2022), (ii) SIZE là quy mô doanh nghiệp, được đo lường bởi
logarithmic của tổng tài sản (Muigai & Muriithi, 2017; Ikpesu & Eboiyehi, 2018;
Abdioğlu, 2019; Pourali & cộng sự, 2013; Low & cộng sự, 2001; Sayari &
Mugan, 2013; Dirman, 2020; Oktasari, 2020), và (iii) LEV là đòn bẩy tài chính,
được đo lường bởi tỷ số nợ (Abdioğlu, 2019; Lee & Manual, 2019; Pourali &
cộng sự, 2013; Giarto & Fachrurrozie, 2020; Roslan & cộng sự, 2022).
3.3.3. Giả thuyết nghiên cứu
Ảnh hưởng của dòng tiền đến kiệt quệ tài chính
Biến độc lập NCF được đo lường bởi tỷ lệ dòng tiền ròng trên tổng tài sản.
NCF trong mô hình thứ nhất ảnh hưởng cùng chiều hay ngược chiều cho kiệt quệ
tài chính của các doanh nghiệp tùy vào sự cấu thành nên tình trạng thặng dư hay
thâm hụt dòng tiền ròng bởi dòng tiền hoạt động kinh doanh, dòng tiền hoạt động
đầu tư hay dòng tiền hoạt động tài trợ (Sayari và Mugan, 2013; Jooste, 2007;
Kordestani và cộng sự, 2011; Shamsudin và Kamaluddin, 2015; Pouraghajan &
82
cộng sự, 2014; Aderin & Amede, 2022). Tuy nhiên, kết quả tổng hợp các dòng
tiền nếu hình thành NCF thặng dư thì số dư tiền tăng và ngược lại, và Giarto &
Fachrurrozie (2020) đã tìm thấy bằng chứng quan hệ ngược chiều, theo đó tác giả
kỳ vọng NCF ảnh hưởng ngược chiều cho kiệt quệ tài chính theo mô hình lý
thuyết quản trị tiền Baumol, lý thuyết về động cơ nắm giữ tiền của các doanh
nghiệp cũng như lý thuyết ưa thích thanh khoản của Keynes.
Finishtya (2019), Fawzi & cộng sự (2015), Lakshan & Wijekoon (2013),
Sayari & Mugan (2013), Roslan & cộng sự (2022), Kusnanto (2023), Romadhina
& cộng sự (2022), Sembiring (2022), Huang & cộng sự (2022), Rahman & cộng
sự (2021), Muien & cộng sự (2022) đều xác định dòng tiền hoạt động kinh doanh
có quan hệ ngược chiều với kiệt quệ tài chính. Dòng tiền hoạt động kinh doanh
thặng dư cho thấy doanh nghiệp đảm bảo khả năng tạo tiền và đây là nguồn tiền
quan trọng đáp ứng cho sử dụng tiền trả nợ, nếu doanh nghiệp không tạo ra tiền,
hay bị thâm hụt dòng tiền này sẽ dẫn đến gia nguồn tiền tài trợ bên ngoài và thông
thường là sự gia tăng của nợ vay ngắn hạn. Trường hợp dòng tiền hoạt động kinh
doanh bị thâm hụt liên tục nhiều năm, doanh nghiệp phải tìm cách vay nợ dài hạn
hoặc kêu gọi vốn góp trực tiếp từ chủ sở hữu, hoặc phải thu hẹp đầu tư. Theo đó,
đề tài kỳ vọng rằng một doanh nghiệp với dòng tiền hoạt động kinh doanh thặng
dư và ổn định ở mức cao sẽ giúp cho doanh nghiệp giảm khả năng xảy ra kiệt quệ
tài chính; và ngược lại.
Doanh nghiệp có dòng tiền hoạt động đầu tư thặng dư và liên tục trong nhiều
kỳ là dấu hiệu của thu hẹp đầu tư, thanh lý tài sản cố định nhiều hơn và suy giảm
năng lực sản xuất kinh doanh, gia tăng khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính; hay
dòng tiền hoạt động đầu tư thâm hụt do mở rộng đầu tư trái ngành với nhiều hạn
chế về khả năng quản lý rủi ro, có thể là biểu hiện của tình trạng dư thừa vốn và
khả năng hấp thụ vốn của hoạt động kinh doanh chính chưa tốt, và nếu tình trạng
này kéo dài sẽ làm gia tăng khả năng kiệt quệ tài chính. Kordestani & cộng sự
(2011), Dickinson (2011), Fawzi & cộng sự (2015), Roslan & cộng sự (2022)
khẳng định rằng dòng tiền hoạt động đầu tư tác động ngược chiều đến kiệt quệ tài
chính, và đây cũng là kỳ vọng của đề tài.
83
Một doanh nghiệp có dòng tiền từ hoạt động tài trợ thặng dư và liên tục, gia
tăng phụ thuộc vào các nguồn tài trợ bên ngoài có thể dẫn đến sự gia tăng khả
năng xảy ra kiệt quệ tài chính; ngược lại một doanh nghiệp có dòng tiền từ hoạt
động tài trợ thâm hụt gợi ý rằng doanh nghiệp phụ thuộc ít hơn vào các nguồn tài
trợ bên ngoài, tăng khả năng tự chủ tài chính và qua đó doanh nghiệp sẽ giảm
được khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính. Sayari & Mugan (2013), Kordestani &
cộng sự (2011), Shamsudin & Kamaluddin (2015) cũng đều cho rằng dòng tiền
ròng hoạt động tài trợ giải thích cùng chiều cho kiệt quệ tài chính; theo đó đề tài
cũng kỳ vọng mối quan hệ này cho trường hợp các doanh nghiệp phi tài chính
niêm yết tại Việt Nam.
Ngoài ra, Aderin & Amede (2022) cho rằng kiệt quệ tài chính của doanh
nghiệp còn phụ thuộc vào các mô hình kết hợp ba dòng tiền thành phần. Nghiên
cứu thực nghiệm của Kordestani & cộng sự (2011), Shamsudin & Kamaluddin
(2015) đều cho kết luận rằng hai tình trạng dòng tiền giải thích cho kiệt quệ tài
chính ở mức độ nghiêm trọng là (i) dòng tiền hoạt động kinh doanh thặng dư,
dòng tiền hoạt động đầu tư và tài trợ đều thâm hụt, và (ii) dòng tiền hoạt động
kinh doanh, đầu tư và tài trợ đều thâm hụt. Ngoài ra, nghiên cứu thực nghiệm của
Kordestani & cộng sự (2011) còn khẳng định thêm rằng kiệt quệ tài chính có thể
nhận diện thông qua dòng tiền hoạt động kinh doanh thâm hụt, dòng tiền hoạt
động đầu tư và tài trợ đều thặng dư, hay dòng tiền hoạt động kinh doanh và tài trợ
đều âm trong khi dòng tiền hoạt động đầu tư thặng dư. Hay nghiên cứu thực
nghiệm của Shamsudin & Kamaluddin (2015) đúc kết thêm rằng dòng tiền hoạt
động kinh doanh và đầu tư đều thặng dư trong khi dòng tiền hoạt động tài trợ
thâm hụt, hoặc dòng tiền hoạt động kinh doanh thặng dư, dòng tiền hoạt động
thâm hụt và dòng tiền hoạt động thặng dư cũng có ý nghĩa giải thích cho kiệt quệ
tài chính của các doanh nghiệp. Như vậy, cơ sở lý thuyết về mối quan hệ giữa các
dòng tiền, và giải thích của những mối quan hệ này cho tình trạng kiệt quệ tài
chính của doanh nghiệp, đề tài kỳ vọng các biến tương tác OCF*ICF, ICF*FCF
và FCF*OCF được kỳ vọng hệ số hồi quy lớn hơn 0, tức là kỳ vọng tồn tại mối
quan hệ bổ sung cho nhau giữa các dòng tiền và có ý nghĩa giải thích cho kiệt quệ
84
tài chính (Sayari & Mugan, 2013; Kordestani & cộng sự, 2011; Shamsudin &
Kamaluddin, 2015; Aderin & Amede, 2022).
Với những đúc kết trên, đề tài xác định rằng kiệt quệ tài chính không chỉ chịu
sự ảnh hưởng bởi tổng dòng tiền ròng, từng dòng tiền độc lập mà còn chịu sự ảnh
hưởng bởi mối quan hệ các dòng tiền thành phần. Theo đó, 2 nhóm giả thuyết
nghiên cứu của đề tài như sau:
Nhóm 1: Từng dòng tiền ảnh hưởng đến kiệt quệ tài chính
Giả thuyết nghiên cứu H1a: Dòng tiền hoạt động kinh doanh ảnh hưởng ngược
chiều đến kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp
Giả thuyết nghiên cứu H1b: Dòng tiền hoạt động đầu tư ảnh hưởng ngược
chiều đến kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp
Giả thuyết nghiên cứu H1c: Dòng tiền hoạt động tài trợ ảnh hưởng cùng chiều
đến kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp
Nhóm 2: Mối quan hệ giữa các dòng tiền ảnh hưởng đến kiệt quệ tài chính
Giả thuyết nghiên cứu H2a: Tổng dòng tiền ròng ảnh hưởng ngược chiều đến
kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp
Giả thuyết nghiên cứu H2b: Sự tương tác giữa dòng tiền hoạt động kinh doanh
với dòng tiền hoạt động đầu tư có ảnh hưởng theo
dạng quan hệ bổ sung đến kiệt quệ tài chính của
các doanh nghiệp.
Giả thuyết nghiên cứu H2c: Sự tương tác giữa dòng tiền hoạt động đầu tư với
dòng tiền hoạt động tài trợ có ảnh hưởng theo
dạng quan hệ bổ sung đến kiệt quệ tài chính của
các doanh nghiệp.
Giả thuyết nghiên cứu H2d: Sự tương tác giữa dòng tiền hoạt động kinh doanh
với dòng tiền hoạt động tài trợ có ảnh hưởng theo
dạng quan hệ bổ sung đến kiệt quệ tài chính của
các doanh nghiệp.
Dòng tiền hoạt động kinh doanh điều tiết tác động của đòn bẩy tài chính
đến kiệt quệ tài chính
85
Dưới góc độ quản lý tài chính, mâu thuẫn cơ bản của kiệt quệ tài chính là
những cam kết trách nhiệm tài chính của doanh nghiệp đối với các chủ nợ, xuất
phát từ quyết định tài trợ bằng nợ (Brealey & cộng sự, 2008; Arnold, 2013; Horne
& Wachowicz, 2008). Dòng tiền ròng hoạt động kinh doanh là minh chứng cho
khả năng tạo tiền của các doanh nghiệp, theo đó nếu doanh nghiệp có được lượng
tiền thặng dư này sẽ là cơ sở vững chắc để doanh nghiệp thực hiện các nghĩa vụ,
trách nhiệm đối với chủ nợ, và từ đó giảm thiểu tình trạng kiệt quệ tài chính khi sử
dụng đòn bẩy tài chính. Vì vậy, đề tài cho rằng dòng tiền hoạt động kinh doanh
đóng vai trò điều tiết theo hướng xoa dịu tác động của đòn bẩy tài chính đến kiệt
quệ tài chính của các doanh nghiệp, và xây dựng giả thuyết nghiên cứu như sau:
Giả thuyết nghiên cứu H3: Dòng tiền hoạt động kinh doanh điều tiết giảm tác
động cùng chiều của đòn bẩy tài chính đến kiệt quệ tài chính.
Bảng 3.2 sau đây tổng hợp cách đo lường và giả thuyết nghiên cứu của các
biến chính trong các mô hình nghiên cứu.
86
Bảng 3.2. Tổng hợp cách đo lường và giả thuyết nghiên cứu
Dấu Ký hiệu Tên biến Cách đo lường Nội dung giả thuyết kỳ vọng
Biến phụ thuộc
S-Score = 1,03*X1 + 3,07*X2 + 0,66*X3
+ 0,4*X4
X1 = Vốn lưu động/ Tổng tài sản
FD Kiệt quệ tài chính X2 = Lợi nhuận trước thuế và lãi vay/
Tổng tài sản
X3 = Lợi nhuận trước thuế/ Nợ ngắn hạn
X4 = Doanh thu/ Tổng tài sản
Các biến độc lập và biến tương tác
NCF Tổng dòng tiền ròng Tổng dòng tiền ròng Tổng dòng tiền ròng ảnh hưởng ngược –
chiều đến kiệt quệ tài chính. Tổng tài sản
OCF Dòng tiền hoạt động Dòng tiền ròng hoạt động kinh doanh Dòng tiền hoạt động kinh doanh ảnh –
kinh doanh hưởng ngược chiều đến kiệt quệ tài Tổng tài sản
chính.
87
ICF Dòng tiền hoạt động Dòng tiền ròng hoạt động đầu tư Dòng tiền hoạt động đầu tư ảnh hưởng –
ngược chiều đến kiệt quệ tài chính. đầu tư Tổng tài sản
FCF Dòng tiền hoạt động Dòng tiền ròng hoạt động tài trợ Dòng tiền hoạt động tài trợ (tài chính) +
ảnh hưởng cùng chiều đến kiệt quệ tài tài trợ Tổng tài sản
chính.
OCF*ICF Sự tương tác giữa Tích số giữa chỉ tiêu đo lường OCF với + Mối quan hệ bổ sung giữa dòng tiền
hoạt động kinh doanh với dòng tiền dòng tiền hoạt động ICF
hoạt động đầu tư có ảnh hưởng đáng kể kinh doanh với đầu tư
đến kiệt quệ tài chính.
ICF*FCF Sự tương tác giữa Tích số giữa chỉ tiêu đo lường ICF với + Mối quan hệ bổ sung giữa dòng tiền
hoạt động đầu tư với dòng tiền hoạt dòng tiền hoạt động FCF
động tài trợ có ảnh hưởng đáng kể đến đầu tư với tài trợ
kiệt quệ tài chính.
FCF*OCF Sự tương tác giữa Tích số giữa chỉ tiêu đo lường OCF với + Mối quan hệ bổ sung giữa dòng tiền
hoạt động tài trợ với dòng tiền hoạt dòng tiền hoạt động FCF
động kinh doanh có ảnh hưởng đáng kể kinh doanh với tài trợ
đến kiệt quệ tài chính.
88
LEV*OCF Sự
tương tác giữa Tích số giữa chỉ tiêu đo lường OCF với – Dòng tiền hoạt động kinh doanh điều
tiết giảm tác động cùng chiều của đòn dòng tiền hoạt động LEV
bẩy tài chính đến kiệt quệ tài chính. kinh doanh với đòn
bẩy tài chính
Các biến kiểm soát
LEV Đòn bẩy tài chính Nợ +
Tổng tài sản
AGE Tuổi doanh nghiệp Thời gian từ khi hoạt động dưới hình +
thức công ty cổ phần đến năm lựa chọn
nghiên cứu
SIZE Quy mô doanh Logarit tự nhiên của tổng tài sản +
nghiệp
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
89
3.3.4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu định lượng được sử dụng để xác định kết quả nghiên
cứu, bao gồm các phương pháp kỹ thuật nghiệp vụ cụ thể như sau: thống kê mô tả
(Descriptive Statistics), phân tích tương quan (Correlation analysis) và phân tích
hồi quy dữ liệu bảng cân bằng (Balanced panel regression).
Trước khi thực hiện theo các phương pháp kỹ thuật nghiệp vụ định lượng nêu
trên, đề tài luận án đánh giá tính phù hợp của dữ liệu nghiên cứu, đây là bước đầu
tiên và quan trọng nhất trong quy trình ước lượng cũng như kiểm định giả thuyết
dựa vào dữ liệu bảng. Theo đó, tác giả sử dụng kiểm định Levin, Lin & Chu
(2002) để đúc kết tính dừng của chuỗi dữ liệu bảng (Panel Unit Root Test); nếu P-
value từ kiểm định này nhỏ hơn 5% thì kết luận chuỗi dữ liệu bảng dừng, và
ngược lại.
(i) Thống kê mô tả và phân tích mô tả bằng đồ thị
Thống kê mô tả được sử dụng nhằm cung cấp thông tin khái quát về các biến
trong mô hình nghiên cứu, các chỉ tiêu thống kê mô tả bao gồm: giá trị trung bình
(Mean), giá trị nhỏ nhất (Mininum), giá trị lớn nhất (Maxinum), độ lệch chuẩn
(Standard deviation) và số quan sát (Observations). Ngoài ra, thống kê mô tả còn
cung cấp thông tin khái quát về dòng tiền, kiệt quệ tài chính và các vấn đề khác
của các doanh nghiệp thông qua kết hợp tất cả quan sát của mẫu nghiên cứu.
Bên cạnh đó, tác giả sẽ còn phân tích mô tả bằng đồ thị để chi tiết hóa vấn đề
nghiên cứu, cụ thể tập trung vào mô tả số lượng doanh nghiệp theo S-Score, tình
trạng dòng tiền ròng của từng hoạt động, sự kết hợp của các dòng tiền và tổng
dòng tiền ròng trong từng năm từ năm 2015 đến năm 2020. Ngoài ra, phân tích đồ
thị còn áp dụng để có thông tin chi tiết về chỉ số S-Score đại diện cho kiệt quệ tài
chính của từng trường hợp kết hợp giữa các dòng tiền với các nhóm doanh nghiệp
được phân chia theo tiêu chuẩn 0,862 của S-Score.
(ii) Phân tích tương quan
Phân tích tương quan được sử dụng nhằm xác định mức độ tương quan mạnh
hay yếu, cùng hay ngược chiều giữa các biến trong mô hình nghiên cứu. Ngoài ra,
phân tích tương quan còn gợi ý nhận diện hiện tượng đa cộng tuyến nghiêm trọng
90
có xảy ra hay không; theo Gujarati (2008), nếu hệ số tương quan của một cặp biến
độc lập bất kỳ có giá trị tuyệt đối cao hơn 0,8 thì mô hình có thể gặp lỗi đa cộng
tuyến nghiêm trọng. Theo Gujarati (2008), có ba cách có thể áp dụng để xử lý
hiện tượng đa cộng tuyến: (i) bỏ biến có mức độ tương quan cao với biến số khác,
(ii) sử dụng phương pháp phân tích thành phần chính, và (iii) không làm gì; trong
đó, phương pháp thứ hai đặc biệt hiệu quả khi xử lý các mô hình có nhiều biến
độc lập.
(iii) Phân tích hồi quy
Phân tích hồi quy dữ liệu bảng, bắt đầu từ các mô hình cơ bản là mô hình bình
phương nhỏ nhất thông thường dạng gộp (Pooled Ordinary Least Squares –
POLS), mô hình các yếu tố tác động cố định (Fixed Effects Model – FEM) và mô
hình các yếu tố tác động ngẫu nhiên (Random Effects Model – REM). Sử dụng
kiểm định Redundant Fixed Effects để lựa chọn giữa POLS với FEM, sử dụng
kiểm định Lagrange multiplier (LM) để lựa chọn giữa POLS với REM, và sử
dụng kiểm định Hausman để lựa chọn giữa FEM và REM.
Để kiểm định các giả thuyết nghiên cứu, đề tài sử dụng phương pháp kiểm
định t hoặc kiểm định F với mức ý nghĩa thống kê lần lượt là 1%, 5% và 10% để
xác định mức độ tin cậy về kết quả giải thích của các biến, và căn cứ hệ số β để
giải thích ảnh hưởng của các biến này đến biến phụ thuộc.
Hiện tượng đa cộng tuyến sẽ được kiểm định và kết luận thông qua hệ số
phóng đại phương sai (VIF - Variance-inflating factor), nếu VIF lớn hơn 10 thì
mô hình có hiện tượng đa cộng tuyến nghiêm trọng, và ngược lại.
Hiện tượng phương sai sai số thay đổi sẽ được kiểm định và kết luận bằng
kiểm định White với giả thuyết như sau: H0 là không có hiện tượng phương sai sai
số thay đổi, và H1 là có hiện tượng phương sai sai số thay đổi.
Hiện tượng tự tương quan sẽ được không cần thực hiện kiểm định nếu kết quả
hồi quy được lựa chọn theo FEM vì FEM chỉ quan tâm đến những khác biệt mang
tính cá nhân đóng góp vào mô hình nên không có hiện tượng tự tương quan;
ngược lại hiện tượng tự tương quan sẽ thực hiện kiểm định và kết luận bằng kiểm
91
định Wooldridge với giả thuyết như sau: H0 là không có hiện tượng tự tương
quan, và H1 là có hiện tượng tự tương quan.
Sau khi kiểm định các khuyết tật của mô hình, nếu có xảy ra thì kết quả hồi
quy cuối cùng sẽ được xác định theo phương pháp bình phương nhỏ nhất tổng
quát (Generalized Least Square - GLS). Ngược lại, kết quả hồi quy cuối cùng sẽ
được xác định dựa trên kiểm định Redundant Fixed Effects, kiểm định Lagrange
multiplier (LM) và kiểm định Hausman nói trên.
Ngoài ra, để đánh giá tính vững và khẳng định sự tin cậy của kết quả ước
lượng để trả lời các câu hỏi nghiên cứu, tác giả còn sử dụng mô hình hồi quy ước
lượng sai số chuẩn hiệu chỉnh dữ liệu bảng (Panel Corrected Standard Errors -
PCSE) và từ đó đối sánh với kết quả ước lượng theo GLS. Mô hình PCSE theo
phương pháp tiếp cận của Beck & Katz (1995) để khắc phục vấn đề phương sai
sai số thay đổi, đây là công cụ ước tính phù hợp đối với những trường hợp dữ liệu
nghiên cứu chịu sự ảnh hưởng bởi phụ thuộc chéo, cụ thể là nghiên cứu của đề tài
luận án sử dụng dữ liệu từ 505 công ty trong thời gian 6 năm cho mỗi công ty
được đề cập chi tiết tại mục 3.4.
3.4. MẪU VÀ DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU
3.4.1. Mẫu nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp chọn mẫu có mục đích (Purposive Sampling
Method), theo đó mẫu nghiên cứu gồm 505 doanh nghiệp niêm yết trên thị trường
chứng khoán chính thức tại Việt Nam (Sở giao dịch chứng khóa Hà Nội và Sở
giao dịch chứng khoán Hồ Chí Minh) trong giai đoạn 2015-2020. Doanh nghiệp
được đưa vào mẫu nghiên cứu khi thỏa mãn đầy đủ các điều kiện như sau:
(i) Không phải là những doanh nghiệp thuộc ngành tài chính (ngân hàng,
chứng khoán, bảo hiểm),
(ii) Cổ phiếu của doanh nghiệp vẫn còn niêm yết trên thị trường tính đến thời
điểm kết thúc năm tài chính 2020.
(iii) Có đầy đủ báo cáo tài chính từ năm 2015 đến năm 2020.
(iv) Tất cả báo cáo tài chính được kiểm toán và báo cáo kiểm toán cho ý kiến
chấp nhận tính hợp lý và trung thực theo nguyên tắc trọng yếu.
92
Căn cứ Báo cáo thường niên hàng năm trong giai đoạn 2015-2020 của Sở
giao dịch chứng khoán Hà Nội và Sở giao dịch chứng khoán Hồ Chí Minh, tổng
số lượng doanh nghiệp niêm yết có sự khác nhau giữa các năm, thấp nhất là 684
doanh nghiệp vào năm 2015 và cao nhất là 749 doanh nghiệp vào năm 2018. Theo
đó, tác giả sử dụng mức cao nhất để làm tổng thể, đồng thời lựa chọn tỷ lệ sai số
chấp nhận là +/-5% để xác định cỡ mẫu nghiên cứu của đề tài theo Yamane
(1967).
Công thức tính như sau:
Theo công thức trên, tác giả tìm được cỡ mẫu nghiên cứu tối thiểu là 260,75
và làm tròn thành 261 doanh nghiệp. Như vậy, mẫu nghiên cứu của đề tài như đã
đề cập ở trên là 505 doanh nghiệp, gấp 1,93 lần cỡ mẫu tối thiểu, cho thấy sự lựa
chọn mẫu nghiên cứu là phù hợp và đáng tin cậy.
Danh sách các doanh nghiệp trong mẫu nghiên cứu của đề tài luận án được
trình bày tại phụ lục.
3.4.2. Dữ liệu nghiên cứu
Đề tài sử dụng dữ liệu thứ cấp được thu thập từ báo cáo tài chính đã kiểm toán
và các tài liệu khác từ năm 2015 đến năm 2020 của các doanh nghiệp phi tài chính
niêm yết tại Việt Nam. Như vậy, kết quả nghiên cứu về lựa chọn mô hình đo
lường kiệt quệ tài chính, và về ảnh hưởng của dòng tiền đến kiệt quệ tài chính của
các doanh nghiệp sẽ được xác định trên cơ sở dữ liệu bảng với sự hỗ trợ của phần
mềm Excel, SPSS 26 và Eviews 12.0
Nguồn dữ liệu:
Dữ liệu báo cáo tài chính được thu thập từ FiinPro - Hệ thống dữ liệu tài
chính toàn diện và chuyên sâu nhất về Việt Nam, được cung cấp bởi Công ty cổ
phần tập đoàn FiinGroup. Bên cạnh đó, dữ liệu tuổi doanh nghiệp được tính dựa
vào Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của từng doanh nghiệp được thu thập
theo công bố của doanh nghiệp trên website của doanh nghiệp hoặc của Sở giao
dịch chứng khoán.
93
Bộ dữ liệu nghiên cứu của đề tài được trình bày chi tiết tại phụ lục.
Bảng 3.3 bên dưới tổng hợp nguồn dữ liệu cụ thể được tiếp cận để đo lường
các biến trong mô hình nghiên cứu.
Bảng 3.3. Nguồn dữ liệu cho các biến
Thông tin/dữ liệu Biến liên quan Nguồn dữ liệu
FD Vốn lưu động Bảng cân đối kế toán
FD Lợi nhuận trước thuế Báo cáo kết quả kinh doanh
và lãi vay
Tổng tài sản FD, NCF, OCF, ICF, Bảng cân đối kế toán
FCF, SIZE,
OCF*ICF, ICF*FCF,
FCF*OCF
FD Lợi nhuận trước thuế Báo cáo kết quả kinh doanh
FD Nợ ngắn hạn Bảng cân đối kế toán
FD Doanh thu Báo cáo kết quả kinh doanh
Tổng dòng tiền ròng NCF Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Dòng tiền ròng hoạt OCF, OCF*ICF, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
động kinh doanh OCF*FCF,
LEV*OCF
Dòng tiền ròng hoạt ICF, OCF*ICF, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
động đầu tư ICF*FCF
Dòng tiền ròng hoạt FCF, ICF*FCF, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
động tài trợ (tài chính) OCF*FCF
Nợ LEV, LEV*OCF Bảng cân đối kế toán
Thời gian từ khi hoạt AGE Giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh động dưới hình thức
công ty cổ phần đến
năm nghiên cứu
Nguồn: Thống kê của tác giả
94
TÓM TẮT CHƯƠNG 3
Trên cơ sở mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu, kết hợp lược khảo cơ sở lý
thuyết và các bằng chứng thực nghiệm, đề tài thiết kế nghiên cứu 2 phần với
các phương pháp tương ứng như sau:
(1) Lựa chọn mô hình phù hợp để đo lường kiệt quệ tài chính cho các doanh
nghiệp phi tài chính niêm yết tại Việt Nam.
Để thực hiện nội dung này, đề tài sử dụng phương pháp kiểm định phi tham
số Kruskal Wallis nếu dữ liệu nghiên cứu không phải dạng phân phối chuẩn,
hoặc sử dụng phương pháp kiểm định tham số tương đương ANOVA One-
way nếu dữ liệu nghiên cứu tồn tại dạng phân phối chuẩn. Ngoài ra, đề tài
còn sử dụng phương pháp thống kê tỷ lệ chính xác (Accuracy rate), tỷ lệ sai
lầm dạng I (Type I error), và tỷ lệ sai lầm dạng II (Type II error) để tìm mô
hình phù hợp nhất.
(2) Kiểm định ảnh hưởng của tổng dòng tiền ròng, từng dòng tiền và sự
tương tác giữa các dòng tiền đến kiệt quệ tài chính, vai trò điều tiết của
dòng tiền hoạt động kinh doanh đối với tác động của đòn bẩy tài chính đến
kiệt quệ tài chính cho trường hợp các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết
tại Việt Nam.
Để thực hiện nội dung này, chương 3 đã xác định sử dụng phương pháp
nghiên cứu định lượng nhằm tìm ra kết quả nghiên cứu. Theo đó, bước đầu
tiên, đề tài kiểm định tính dừng của chuỗi dữ liệu bảng dựa theo Levin, Lin
& Chu (2002). Với dữ liệu bảng đã đảm bảo tính dừng, đề tài tiếp tục thực
hiện trình tự các bước phân tích định lượng, cụ thể là phương pháp thống
kê mô tả với các tiêu chí phổ biến (giá trị trung bình, giá trị lớn nhất, giá trị
nhỏ nhất, độ lệch chuẩn và số lượng quan sát), phân tích ma trận tương
quan và phân tích hồi quy dữ liệu bảng theo POLS, FEM và REM kèm các
kiểm định lựa chọn ước lượng phù hợp.
95
Ngoài ra, đề tài cũng xác định rằng nếu mô hình tồn tại các vi phạm như đa
cộng tuyến nghiêm trọng, phương sai sai số thay đổi hay tự tương quan thì
đề tài sẽ sử dụng GLS để khắc phục. Đồng thời, để kiểm tra tính vững của kết
quả ước lượng, đề tài sử dụng mô hình PCSE.
Phần cuối chương 3, đề tài đã giải thích cách thức chọn mẫu nghiên cứu
bao gồm 505 doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tại Việt Nam và dữ liệu
nghiên cứu được tiếp cận từ báo cáo tài chính đã kiểm toán và tài liệu khác có
liên quan trong giai đoạn 2015 – 2020.
96
Chương 4:
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Chương 4 sẽ trình bày và thảo luận kết quả nghiên cứu về (i) Lựa chọn
mô hình đo lường kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp, (ii) Ảnh hưởng
của tổng dòng tiền ròng, từng dòng tiền và sự tương tác giữa các dòng tiền đến
tình trạng kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp, và (iii) Đánh giá vai trò điều
tiết của dòng tiền hoạt động kinh doanh đối với tác động của đòn bẩy tài chính
đến kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp.
4.1. LỰA CHỌN MÔ HÌNH ĐO LƯỜNG KIỆT QUỆ TÀI CHÍNH CỦA
CÁC DOANH NGHIỆP
4.1.1. Kiểm định phân phối chuẩn của dữ liệu
Bảng 4.1 trình bày kết quả kiểm định phân phối chuẩn của dữ liệu, theo đó
kiểm định Kolmogorov-Smirnov áp dụng cho tất cả 7 mô hình đều có kết quả Sig.
nhỏ hơn 5%, đúc kết rằng dữ liệu đo lường kiệt quệ tài chính từ các mô hình đều
tồn tại dạng phân phối không chuẩn. Bên cạnh đó, đề tài thực hiện kiểm tra độ
lệch và độ nhọn của dữ liệu, kết quả thể hiện tại 2 cột bên phải của Bảng 4.1.
Bảng 4.1. Kiểm định phân phối chuẩn của dữ liệu
Kolmogorov-Smirnova Mô hình Độ lệch Độ nhọn Statistic Df Sig.
S-Score ,137 3.030 ,000 4,309 45,267
X-Score ,043 3.030 ,000 -,104 -,553
O-Score ,275 3.030 ,000 6,586 340,236
Z-Score ,419 3.030 ,000 46,025 2346,391
Z-Taffler ,260 3.030 ,000 -5,998 196,478
G-Score ,025 3.030 ,000 ,366 1,934
,000 8,034 110,002 H-Score ,242
3.030 a Lilliefors Significance Correction
Nguồn: Xử lý từ dữ liệu nghiên cứu trên SPSS 26.
97
Theo Bảng 4.1, các mô hình S-Score, O-Score, Z-Score, Z-Taffler, H-Score
đều có trị tuyệt đối của độ lệch và độ nhọn lần lượt lớn hơn 2 và lớn hơn 7, kết
quả này cho khẳng định dữ liệu đo lường kiệt quệ tài chính từ các mô hình này
không phải dạng phân phối chuẩn; trong khi đó dữ liệu của mô hình X-Score và
G-Score có kết quả ngược lại. Như vậy, tham chiếu phân tích độ lệch và độ nhọn,
5/7 mô hình có dữ liệu không phân phối chuẩn; theo đó, đề tài chọn kiểm định
Kruskal Wallis để đúc kết sự khác biệt kết quả đo lường kiệt quệ tài chính thông
qua 7 mô hình như đã đề cập trên, kết quả kiểm định này tại mục 4.1.2.
4.1.2. Kiểm định sự khác biệt
Áp dụng kiểm định Kruskal Wallis để trả lời câu hỏi nghiên cứu thứ nhất của
đề tài, tác giả trình bày kết quả xác định thứ hạng trung bình và thống kê kiểm
định tại Bảng 4.2.
Bảng 4.2. Kiểm định Kruskal-Wallis
Phần 1: Các thứ hạng trung bình (Mean Ranks)
Mô hình Số quan sát Thứ hạng trung bình
3.030 S-Score 12.336,78
3.030 X-Score 2.913,60
3.030 O-Score 9.369,05
3.030 Z-Score 16.180,55
3.030 Z-Taffler 13.334,39
3.030 G-Score 10.583,36
3.030 H-Score 9.520,79
Tổng cộng 21.210
Phần 2: Thống kê kiểm định (Test Statistics)
Value
Kruskal-Wallis H (Chi-square) 8356,572
Df 6
Asymp. Sig. ,000
a. Kruskal Wallis Test
b. Grouping Variable: Model
Nguồn: Xử lý từ dữ liệu nghiên cứu trên SPSS 26.
98
Phần 1 của Bảng 4.2 trình bày thứ hạng trung bình của các mô hình đo lường
kiệt quệ tài chính, trong đó Z-Score có thứ hạng trung bình cao nhất là 16.180,55
và chỉ ra rằng các doanh nghiệp được xác định kiệt quệ tài chính là phổ biến nhất
nếu áp dụng mô hình đo lường này. Với thứ hạng trung bình thấp là 2.913,60, mô
hình X-Score lại cung cấp kết quả kiệt quệ tài chính không phổ biến, hay nói cách
khác rằng tình trạng lành mạnh tài chính là chủ yếu nhất ở các doanh nghiệp. Thứ
hạng trung bình của các mô hình từ cao nhất đến thấp nhất lần lượt là Z-Score, Z-
Taffler, S-Score, G-Score, H-Score, O-Score và X-Score. Sự khác biệt rõ nét về
thứ hạng trung bình hàm ý tồn tại kết quả đo lường không nhất quán giữa các mô
hình này, và kết quả này được khẳng định vững chắc hơn qua thống kê kiểm định
phần 2 của Bảng 4.2.
Theo nội dung phần 2 của Bảng 4.2, giá trị xác suất p tiệm cận có ý nghĩa
(Asymp. Sig.) là 0,000 và nhỏ hơn 5% nên chấp nhận giả thuyết H1, hay tương
ứng là bác bỏ giả thuyết H0. Theo đó, tác giả cho rằng 7 mô hình Z-Score, S-
Score, O-Score, X-Score, Z-Taffler, G-Score và H-Score cung cấp kết quả đo
lường khác biệt đáng kể về tình trạng kiệt quệ tài chính của những doanh nghiệp
phi tài chính niêm yết tại Việt Nam.
4.1.3. Xác định mô hình phù hợp
Với kết quả khẳng định tồn tại sự khác biệt đáng kể về tình trạng kiệt quệ tài
chính của những doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tại Việt Nam bởi các mô
hình, để đảm bảo sự vững chắc trong đo lường kiệt quệ tài chính cho các doanh
nghiệp này, đề tài tiếp tục thực hiện phân tích thống kê mức độ chính xác và các
dạng sai lầm của các mô hình. Kết quả xác định tỷ lệ chính xác và tỷ lệ các dạng
sai lầm của từng mô hình đo lường cụ thể so với kết luận chung về kiệt quệ tài
chính tại các doanh nghiệp được thống kê tại Bảng 4.3.
99
Bảng 4.3. Mức độ chính xác và các dạng sai lầm
Tỷ lệ sai lầm Tỷ lệ Mô hình chính xác Dạng I Dạng II Khác*
86,24% 5,21% 8,55% 0,00% S-Score
85,61% 12,97% 1,42% 0,00% X-Score
42,08% 11,68% 46,24% 0,00% O-Score
51,22% 0,23% 18,35% 30,20% Z-Score
Z-Taffler 85,08% 2,24% 12,31% 0,36%
G-Score 79,74% 20,10% 0,03% 0,13%
H-Score 81,91% 1,09% 17,00% 0,00%
(*) Mô hình chỉ ra tình trạng không chắc chắn nhưng doanh nghiệp
lại có hoặc không kiệt quệ tài chính, hoặc Mô hình cho biết có hoặc
không nhưng tình trạng kiệt quệ tài chính lại không chắc chắn.
Nguồn: Xử lý từ dữ liệu nghiên cứu trên Excel.
Bảng 4.3 cho thấy mô hình S-Score đạt tỷ lệ chính xác cao nhất là 86,24% và
mô hình O-Score đạt tỷ lệ chính xác thấp nhất là 42,08%. Thứ tự mức độ chính
xác từ cao nhất đến thấp nhất lần lượt là các mô hình S-Score, X-Score, Z-Taffler,
H-Score, G-Score, Z-Score và O-Score. Nếu xét về các dạng sai lầm khi đo lường
kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tại Việt Nam, mô
hình Z-Score có tỷ lệ sai lầm dạng I thấp nhất là 0,23%, nhưng mô hình này lại có
sai lầm khác cao nhất (30,20%); mô hình G-Score có tỷ lệ sai lầm dạng II thấp
nhất là 0,23% nhưng mô hình này lại mắc phải sai lầm dạng I cao nhất (20,10%);
và tỷ lệ sai lầm dạng II cao nhất là 46,24% thuộc về mô hình O-Score.
Theo kết quả phân tích trên, tác giả cho rằng kết quả đo lường kiệt quệ tài
chính của các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tại Việt Nam bằng mô hình S-
Score là phù hợp nhất so với các 6 mô hình còn lại, bởi mô hình này không chỉ đạt
tỷ lệ chính xác cao nhất mà tỷ lệ sai lầm các dạng đều không quá 10%. Mặc dù
các mô hình X-Score, Z-Taffler, H-Score và G-Score vẫn có thể sử dụng để tham
chiếu bởi tỷ lệ chính xác cao xấp xỉ hoặc hơn 80%, nhưng các mô hình vẫn có thể
xảy ra sai lầm với tỷ lệ trên 10%, tùy dạng sai lầm cụ thể.
100
4.2. ẢNH HƯỞNG CỦA DÒNG TIỀN ĐẾN KIỆT QUỆ TÀI CHÍNH CỦA
CÁC DOANH NGHIỆP
Theo kết quả nghiên cứu tại mục 4.1, biến phụ thuộc FD của các mô hình
nghiên cứu được đo lường bởi mô hình S-Score của Springate (1978), tương tư
(2019), Shalih & Kusumawati (2019). Theo đó, cách xác định và ý nghĩa đo lường
đúc kết của Abdioğlu (2019), Mulyati & Ilyasa (2020), Fauzi & cộng sự (2021), Tahu
kiệt quệ tài chính như sau:
S-Score = 1,03X1 + 3,07X2 + 0,66X3 + 0,4X4
Trong đó: X1 là tỷ lệ vốn lưu động trên tổng tài sản, X2 là tỷ lệ lợi nhuận
trước thuế và lãi vay trên tổng tài sản, X3 là tỷ lệ lợi nhuận trước thuế trên
nợ ngắn hạn, và X4 là hệ số doanh thu trên tổng tài sản
Nếu S-Score lớn hơn 0,862 chỉ ra rằng các doanh nghiệp có sức khỏe tài chính
tốt, trong khi đó S-Score nhỏ hơn 0,862 chỉ ra tình trạng kiệt quệ tài chính của các
doanh nghiệp, và đúng mức 0,862 là ngưỡng cảnh báo. Như vậy, kết quả S-Score
càng cao thể hiện kiệt quệ tài chính càng thấp và ngược lại.
4.2.1. Tính dừng của chuỗi dữ liệu bảng
Đề tài luận án đã sử dụng kiểm định Levin, Lin & Chu (2002) để kiểm tra tính
dừng của chuỗi dữ liệu bảng, theo đó các kết quả lần lượt được tổng hợp tại Bảng
4.4 bên dưới.
Bảng 4.4. Kiểm định tính dừng của chuỗi dữ liệu bảng
Kiểm định Levin, Lin & Chu Biến Kết luận Statistic P-value
FD -90,2397 0,0000 Dừng
NCF -127,760 0,0000 Dừng
OCF -72,4593 0,0000 Dừng
ICF -80,2466 0,0000 Dừng
FCF -16284,7 0,0000 Dừng
AGE -225,578 0,0000 Dừng
LEV -46,9842 0,0000 Dừng
-45,5693 0,0000 Dừng
SIZE Nguồn: Xử lý của tác giả từ Eviews 12.0
101
Theo Bảng 4.4, kiểm định Levin, Lin & Chu (2002) chỉ ra P-value của tất cả
trường hợp dữ liệu đo lường biến kiệt quệ tài chính (FD), các biến dòng tiền
(NCF, OCF, ICF, FCF) và các biến khác (AGE, LEV, SIZE) đều nhỏ hơn 5%, cho
kết luận rằng chuỗi dữ liệu bảng của tất cả biến trong các mô hình nghiên cứu của
đề tài đều đảm bảo tính dừng, vì vậy dữ liệu bảng được sử dụng trong luận án đáp
ứng yêu cầu để tiếp tục thực hiện các bước tiếp theo trong phương pháp định
lượng dựa vào kỹ thuật phân tích hồi quy.
4.2.2. Thống kê mô tả
Thống kê mô tả các biến trong các mô hình nghiên cứu của đề tài luận án được
thực hiện theo tiêu chí giá trị trung bình, giá trị lớn nhất, giá trị nhỏ nhất, độ lệch
chuẩn và số lượng quan sát; kết quả thống kê mô tả các biến được trình bày tại
bảng 4.5.
Bảng 4.5. Thống kê mô tả các biến
Biến Trung bình Lớn nhất Nhỏ nhất Độ lệch chuẩn Số quan sát
1,4630 18,7491 -5,3624 1,1722 3.030 FD
NCF 0,0027 0,7775 -0,7933 0,0889 3.030
OCF 0,0627 0,9117 -0,7539 0,1362 3.030
ICF -0,0506 0,7488 -1,5858 0,1289 3.030
FCF -0,0094 1,6429 -0,9079 0,1487 3.030
AGE 12,7713 27,0000 3,0000 3,5182 3.030
LEV 0,4779 1,2441 0,0041 0,2261 3.030
SIZE 5,8308 8,0669 4,1830 0,6751 3.030
Nguồn: Xử lý từ dữ liệu nghiên cứu bằng EViews 12.0
FD được đại diện bởi S-Score có giá trị trung bình là 1,4630, cao hơn mức tiêu
chuẩn 0,862 cho thấy các doanh nghiệp nói chung có sức khỏe tài chính lành
mạnh, ít có nguy cơ kiệt quệ tài chính (Springate, 1978); tuy nhiên có sự phân hóa
khá rõ nét về tình trạng kiệt quệ tài chính thể hiện qua FD dao động từ mức thấp
nhất là -5,3624 đến mức cao nhất là 18,7491. Kết quả thống kê cũng chỉ ra sự tồn
tại của doanh nghiệp có sức khỏe tài chính tương đối yếu và có thể phải đối mặt
102
với khó khăn trong việc thực hiện các cam kết với chủ nợ về những trách nhiệm
tài chính, theo đó Công ty cổ phần thương mại và đầu tư Vinataba có biểu hiện
tình trạng kiệt quệ tài chính ở mức độ cao nhất vào năm 2020 với S-Score là -
5,3624; bên cạnh đó là những doanh nghiệp duy trì được tình trạng lành mạnh tài
chính ở mức độ cao, cao nhất là trường hợp Công ty cổ phần Công nghệ Sài Gòn
Viễn Đông năm 2020 với S-Score là 18,7491.
Hình 4.1 bên dưới thống kê bằng đồ thị về số lượng doanh nghiệp phi tài
chính niêm yết tại Việt Nam dựa vào căn cứ mức tiêu chuẩn phân loại của S-Score
như đã đề cập ở trên.
Hình 4.1. Số lượng doanh nghiệp từng năm theo S-Score
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Theo đó, số lượng doanh nghiệp có tín hiệu kiệt quệ tài chính trong giai đoạn
2015-2020 có xu hướng tăng, và tương ứng là xu hướng giảm số lượng doanh
nghiệp lành mạnh tài chính; tuy nhiên phần lớn doanh nghiệp trong mẫu nghiên
cứu có chỉ số S-Score lớn hơn 0,862, cung cấp tín hiệu lành mạnh tài chính.
Thống kê cụ thể tại Hình 4.1 chỉ ra rằng số lượng doanh nghiệp có chỉ số S-Score
nhỏ hơn 0,862 là 106 doanh nghiệp vào năm 2015, nhưng đến năm 2020 là 154
103
doanh nghiệp, và năm 2020 có số lượng doanh nghiệp có tín hiệu kiệt quệ tài
chính theo chỉ số S-Score ở mức cao nhất so với các năm còn lại.
Xét dòng tiền ròng chung của công ty, biến NCF được thống kê mô tả tại Bảng
4.5 chỉ ra rằng NCF trung bình là 0,0027, cho thấy trung bình mẫu nghiên cứu là
các doanh nghiệp có dòng tiền thặng dư trong kỳ, là cơ sở để tăng số dư tiền tích
lũy và qua đó đảm bảo cho khả năng thanh toán, duy trì sự tồn tại của các doanh
nghiệp. Bảng 4.6 bên dưới thống kê số lượng doanh nghiệp phi tài chính niêm yết
tại Việt Nam giai đoạn 2015-2020 dựa theo tình trạng tổng dòng tiền ròng.
Bảng 4.6. Thống kê số lượng doanh nghiệp theo tình trạng NCF
Năm 2015 2016 2017 2018 2019 2020
NCF lớn hơn 0 284 245 260 242 251 271
NCF nhỏ hơn 0 221 260 245 263 254 234
Cộng 505 505 505 505 505 505
Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ dữ liệu nghiên cứu bằng Excel
Theo thống kê tại Bảng 4.6, trong mẫu nghiên cứu gồm 505 doanh nghiệp từ
năm 2015 đến năm 2020, số lượng doanh nghiệp có tổng dòng tiền ròng thặng dư
có xu hướng giảm, từ 284 doanh nghiệp vào năm 2015 xuống còn 271 doanh
nghiệp vào năm 2020, và tương ứng tăng số lượng doanh nghiệp có tổng dòng
tiền ròng thâm hụt, từ 221 doanh nghiệp vào năm 2015 lên mức 234 doanh nghiệp
vào năm 2020. Sự biến động này phù hợp với xu hướng biến động số lượng doanh
nghiệp có tín hiệu kiệt quệ tài chính tại Hình 4.1. Sau mỗi năm hoạt động, số dư
tiền cuối kỳ giảm so với đầu kỳ sẽ làm gia tăng tình trạng kiệt quệ tài chính.
Với độ lệch chuẩn của NCF là 0,0889 và NCF dao động từ thấp nhất là -
0,7933 đến mức cao nhất là 0,7775, cho thấy sự cần thiết phải quan tâm chi tiết
đến từng dòng tiền cũng như sự kết hợp giữa các dòng tiền để có những đúc kết
chặt chẽ hơn. Chi tiết từng dòng tiền tại Bảng 4.5 cho thấy các doanh nghiệp đảm
bảo khả năng tạo tiền ra từ hoạt động kinh doanh thể hiện qua OCF trung bình là
0,0627 và doanh nghiệp giảm các nguồn tiền được tài trợ từ bên ngoài thể hiện
qua FCF trung bình là -0.0094, trong khi đó ICF trung bình là -0.0506 cho thấy
trung bình mẫu nghiên cứu là các doanh nghiệp có khuynh hướng mở rộng đầu tư.
104
Công ty cổ phần đầu tư phát triển công nghiệp và Vận tải năm 2016 thể hiện khả
năng tạo tiền nhiều nhất với OCF lớn nhất là 0,9117, Công ty cổ phần đầu tư Sao
Thăng Long thể hiện xu hướng mở rộng đầu tư nhiều nhất năm 2015 với ICF là -
1,5858 và Công ty cổ phần Tập đoàn Kido giảm nguồn tài trợ từ bên ngoài nhiều
nhất vào năm 2015 với FCF là 0,9079.
Tuy nhiên, kết quả thống kê mô tả tại Bảng 4.5 cũng chỉ ra rằng mẫu nghiên
cứu vẫn có những doanh nghiệp không đảm bảo khả năng tạo tiền từ hoạt động
kinh doanh và Công ty cổ phần Quản lý Đường sông số 3 có tình trạng thâm hụt
dòng tiền hoạt động kinh doanh nhiều nhất vào năm 2016 với OCF là -0,739; hay
mẫu nghiên cứu vẫn bao gồm những doanh nghiệp có xu hướng thu hẹp đầu tư và
Công ty cổ phần Tập đoàn Kido có xu hướng thu hẹp đầu tư mạnh nhất năm 2015
với ICF là 0,7488; hay mẫu nghiên cứu vẫn bao gồm những doanh nghiệp gia tăng
huy động nguồn tiền tài trợ từ bên ngoài và nhiều nhất là trường hợp là Công ty cổ
phần đầu tư Sao Thăng Long với FCF vào năm 2015 của doanh nghiệp này là
1,6429.
Bảng 4.7 bên dưới thống kê số lượng doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tại
Việt Nam giai đoạn 2015-2020 dựa theo tình trạng dòng tiền ròng của từng hoạt
động, bao gồm kinh doanh, đầu tư và tài trợ (tài chính).
Bảng 4.7. Thống kê số lượng doanh nghiệp theo tình trạng từng dòng tiền
2015 2016 2017 2018 2019 2020 Năm
505 505 505 505 505 505 NOCF
363 366 344 361 380 387 - Lớn hơn 0
142 139 161 144 125 118 - Nhỏ hơn 0
505 505 505 505 505 505 NICF
129 125 147 138 147 168 - Lớn hơn 0
376 380 358 367 358 337 - Nhỏ hơn 0
505 505 505 505 505 505 NFCF
209 215 213 167 183 168 - Lớn hơn 0
296 290 292 338 322 337 - Nhỏ hơn 0
Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ dữ liệu nghiên cứu bằng Excel
105
Căn cứ thống kê tại Bảng 4.7 còn cho thấy trong mẫu nghiên cứu 505 doanh
nghiệp, số lượng doanh nghiệp đảm bảo được khả năng tạo tiền từ hoạt động sản
xuất kinh doanh vượt trội hơn nhóm doanh nghiệp không đảm bảo được khả năng
này, thể hiện qua số lượng doanh nghiệp có NOCF dương nhiều hơn số lượng
doanh nghiệp có NOCF âm. Bên cạnh đó, số lượng doanh nghiệp có thặng dư từ
dòng tiền hoạt động kinh doanh có xu hướng tăng trong giai đoạn 2015-2020, từ
363 doanh nghiệp vào năm 2015 lên mức 387 doanh nghiệp vào năm 2020.
Về xu hướng đầu tư trong từng năm từ năm 2015 đến năm 2020, Bảng 4.7 chỉ
ra rằng đa số các doanh nghiệp mở rộng đầu tư thể hiện qua số lượng doanh
nghiệp có NICF âm vượt trội hơn số lượng doanh nghiệp có NICF dương, tuy
nhiên số lượng doanh nghiệp mở rộng đầu tư có xu hướng giảm trong giai đoạn
nghiên cứu, từ 376 doanh nghiệp vào năm 2015 xuống còn 337 doanh nghiệp vào
năm 2020.
Ngoài ra, Bảng 4.7 còn chỉ ra rằng số lượng doanh nghiệp có NFCF dương
giảm và tương ứng tăng số lượng doanh nghiệp có NFCF âm trong giai đoạn
2015-2020, cho thấy số lượng doanh nghiệp cần gia tăng thêm nguồn tiền tài trợ
từ bên ngoài có xu hướng giảm. Sự biến động này có thể là tín hiệu lạc quan về sự
lệ thuộc của doanh nghiệp vào các nguồn tiền tài trợ từ bên ngoài. Tuy nhiên, nếu
xu hướng này không xuất phát từ sự gia tăng khả năng tạo tiền để đáp ứng nhu
cầu sử dụng tiền cho sản xuất kinh doanh và đầu tư thì đây lại có thể là tín hiệu về
sự khó khăn tài chính và do đó nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn hơn trong tiếp
cận các nguồn tài trợ từ bên ngoài.
Về các trường hợp kết hợp giữa 3 dòng tiền với nhau, Bảng 4.8 trình bày
thống kê số lượng doanh nghiệp theo các trường hợp mô hình kết hợp các dòng
tiền thành phần như đã đề cập tại Bảng 3.1.
106
Bảng 4.8. Thống kê số lượng doanh nghiệp theo các mô hình kết hợp 3 dòng
tiền thành phần
Năm 2015 2016 2017 2018 2019 2020
3 7 8 1 6 11 Kết hợp 1
79 70 69 83 90 99 Kết hợp 2
98 111 91 73 93 81 Kết hợp 3
183 178 176 204 191 196 Kết hợp 4
83 76 80 68 63 53 Kết hợp 5
12 15 11 22 11 7 Kết hợp 6
26 21 34 25 21 23 Kết hợp 7
21 27 36 29 30 35 Kết hợp 8
505 505 505 505 505 505 Cộng
Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ dữ liệu nghiên cứu bằng Excel
Theo Bảng 4.8, các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tại Việt Nam có sự
đa dạng trong sự kết hợp của các dòng tiền với nhau. Kết hợp thứ tư có số lượng
doanh nghiệp chiếm tỷ trọng chủ yếu trong từng năm từ năm 2015 đến năm 2020
và có xu hướng tăng số lượng doanh nghiệp thuộc nhóm kết hợp này từ 183 doanh
nghiệp vào năm 2015 lên mức 196 doanh nghiệp vào năm 2020, đó là trường hợp
các doanh nghiệp có NOCF dương, NICF âm và NFCF âm. Kết quả thống kê phù
hợp với nội dung thống kê của Bảng 4.7, theo đó hàm ý rằng dòng tiền hoạt động
kinh doanh đóng vai trò quan trọng tại các doanh nghiệp, thặng dư từ dòng tiền
hoạt động kinh doanh là nguồn tiền để đáp ứng nhu cầu sử dụng tiền của hoạt
động đầu tư và hoạt động tài trợ, và do đó sự vững chắc tài chính sẽ được đảm bảo
hơn. Đối sánh với thống kê tại Hình 4.1, kết quả này là phù hợp, bởi số lượng
doanh nghiệp đạt được chỉ số S-Score cao hơn mức tiêu chuẩn 0,862 và thể hiện
sự lành mạnh tài chính nhiều hơn nhóm doanh nghiệp còn lại.
Ngược lại, trường hợp kết hợp thứ nhất, cả 3 dòng tiền đều thặng dư, đây là
trường hợp ít xảy ra tại các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tại Việt Nam
trong giai đoạn 2015-2020. Kết quả này là phù hợp, bởi lẽ các doanh nghiệp đã
107
tạo được tiền từ hoạt động kinh doanh thì không có nhu cầu thu hẹp đầu tư hoặc
huy động thêm nguồn tiền tài trợ từ bên ngoài.
Hình 4.2 thống kê số lượng doanh nghiệp của từng trường hợp kết hợp 3 dòng
tiền dựa theo chỉ số S-Score với tiêu chuẩn là 0,862.
Hình 4.2. Số lượng doanh nghiệp của từng trường hợp kết hợp 3 dòng tiền
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Xem xét tổng quát Hình 4.2 cho thấy kiệt quệ tài chính có thể xảy ra với bất
kỳ kết hợp giữa 3 dòng tiền. Ngoài ra, tất cả các trường hợp kết hợp giữa 3 dòng
tiền đều có số lượng doanh nghiệp với chỉ số S-Score lớn hơn 0,862 nhiều hơn so
với nhóm doanh nghiệp với chỉ số S-Score nhỏ hơn 0,862; tuy nhiên, sự khác biệt
rõ rệt nhất về số lượng doanh nghiệp giữa nhóm lành mạnh tài chính (S-Score lớn
hơn 0,862) với nhóm kiệt quệ tài chính (S-Score nhỏ hơn 0,862) thể hiện ở trường
hợp kết hợp thứ tư, tiếp theo là trường hợp kết hợp thứ hai, thứ ba và thứ năm.
Các trường hợp kết hợp thứ nhất, thứ sáu, thứ bảy và thứ tám không có sự khác
biệt đáng kể về số lượng doanh nghiệp giữa nhóm lành mạnh tài chính và kiệt quệ
tài chính. Theo đó, tác giả đã tiếp tục thực hiện phân tích thống kê mô tả biến phụ
108
thuộc FD cho từng trường hợp kết hợp 3 dòng tiền của các doanh nghiệp phi tài
chính niêm yết tại Việt Nam, kết quả được tổng hợp và trình bày tại Hình 4.3 bên
dưới.
Hình 4.3. Thống kê mô tả FD cho từng kết hợp 3 dòng tiền
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Căn cứ Hình 4.3, giá trị trung bình của S-Score đại diện cho biến phụ thuộc
FD của tất cả trường hợp kết hợp giữa 3 dòng tiền đều lớn hơn mức tiêu chuẩn
0,862, và mức trung bình của S-Score cao nhất thể hiện tại trường hợp kết hợp thứ
tư (NOCF dương, NICF âm và NFCF âm). Xét độ lệch chuẩn của S-Score, trường
hợp kết hợp thứ hai, thứ tư, thứ sáu và thứ tám cao hơn rõ rệt so với các trường
hợp kết hợp còn lại; điều này hàm ý rằng rủi ro kiệt quệ tài chính của các doanh
nghiệp có thể cao hơn nếu các dòng tiền kết hợp với nhau theo trường hợp (i)
NOCF dương, NICF dương và NFCF âm, (ii) NOCF dương, NICF âm và NFCF
âm, (iii) NOCF âm, NICF âm và NFCF âm, và (iv) NOCF âm, NICF dương và
NFCF âm. Trường hợp kết hợp thứ hai và thứ tư có S-Score cao nhất vượt trội
109
hơn so với các trường hợp kết hợp còn lại, hàm ý lành mạnh tài chính có thể vượt
trội khi kết hợp NOCF dương, NICF dương và NFCF âm, hoặc kết hợp NOCF
dương, NICF âm và NFCF âm. Ngược lại, trường hợp kết hợp thứ 8 có S-Score
nhỏ nhất nổi bật so với các trường hợp kết hợp còn lại, gợi ý rằng sự kết hợp
NOCF âm, NICF dương và NFCF âm sẽ có nguy cơ kiệt quệ tài chính rõ rệt hơn.
Những phân tích thống kê mô tả trên cho thấy, sự kết hợp dòng tiền có ý
nghĩa quan trọng trong việc giải thích cho tình trạng kiệt quệ tài chính hay tương
ứng là sự lành mạnh tài chính của các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tại Việt
Nam. Tuy nhiên, để việc đúc kết trở nên đáng tin cậy hơn, tác giả sẽ thực hiện ước
lượng bằng kỹ thuật phân tích hồi quy và trình bày tại mục 4.2.4 bên dưới
Cuối cùng, Bảng 4.5 cũng chỉ ra rằng các doanh nghiệp trong mẫu nghiên cứu
đã có thâm niên hoạt động theo hình thức công ty cổ phần với độ tuổi trung bình
xấp xỉ 13 năm, cao nhất là 27 năm và thấp nhất là 3 năm; mức độ sử dụng không
quá cao, trung bình tỷ số nợ ở mức 47,79%; và mẫu nghiên cứu cũng thể hiện sự
đa dạng quy mô doanh nghiệp với SIZE dao động từ 4,1830 đến 8,0669.
4.2.3. Ma trận tương quan và hệ số phóng đại phương sai
Kết quả xác định hệ số tương quan giữa các biến và hệ số phóng đại phương
sai (VIF) được trình bày tại bảng 4.9. Theo đó, các dòng tiền đều có mối tương
quan với kiệt quệ tài chính theo mức ý nghĩa thống kê 1% và 10% tùy trường hợp
cụ thể.
110
Bảng 4.9. Ma trận hệ số tương quan và VIF
FD NCF OCF ICF FCF AGE LEV SIZE 1,0000 FD
1,0000 NCF
1,0000 OCF
1,0000 ICF
1,0000 FCF
1,0000 AGE
LEV
SIZE ----- 0,0276ns 0,1293 0,2888*** 0,0000 -0,0320* 0,0784 -0,2203*** 0,0000 -0,0110ns 0,5447 -0,3640*** 0,0000 -0,1558*** 0,0000
(***) Mức ý nghĩa 1%, (*) Mức ý nghĩa 10%, (ns) Không ý nghĩa thống kê
----- 0,2594*** 0,0000 0,2218*** 0,0000 0,1682*** 0,0000 -0,0154ns 0,3953 0,0109ns 0,5472 -0,0119ns 0,5121 1,0571 ----- -0,2732*** 0,0000 -0,5242*** 0,0000 0,0138ns 0,4489 -0,1939*** 0,0000 -0,0051ns 0,7797 2,7681 ----- -0,4837*** 0,0000 0,0691*** 0,0001 0,0336* 0,0647 -0,0749*** 0,0000 2,6227 VIF ----- -0,0817*** 0,0000 0,1551*** 0,0000 0,0625*** 0,0006 3,3530 ----- -0,0627*** 0,0006 -0,0277ns 0,1278 1,0113 1,0000 ----- 0,3329*** 0,0000 1,1832 1,0000 ----- 1,1361
Nguồn: Xử lý từ dữ liệu nghiên cứu bằng EViews 12.0
111
Biến NCF có tương quan dương với biến phụ thuộc FD, gợi ý rằng biến động
dòng tiền ròng tương quan cùng chiều với biến động sự lành mạnh tài chính, tức
tương ứng là ngược chiều với sự biến động tình trạng kiệt quệ tài chính, nhưng
mối tương quan không đảm bảo ý nghĩa thống kê.
Xét tương quan từng dòng tiền với kiệt quệ tài chính, Bảng 4.9 chỉ ra rằng
từng dòng tiền hoạt động kinh doanh, đầu tư và tài trợ thể hiện qua các biến OCF,
ICF và FCF lần lượt có tương quan dương, âm và âm với mức ý nghĩa thống kê
tương ứng là 1%, 10% và 1%. Kết quả phân tích tương quan cho thấy rằng OCF
càng tăng thể hiện sự gia tăng khả năng tạo tiền từ hoạt động kinh doanh hay thâm
hụt tiền từ sản xuất kinh doanh càng ít thì tương ứng tình trạng kiệt quệ tài chính
càng thấp thể hiện qua FD được đo lường bởi S-Score càng cao và ngược lại.
Trong khi đó ICF càng tăng cho thấy xu hướng mở rộng đầu tư giảm xuống hoặc
xu hướng thu hẹp đầu tư càng nhiều thì tương ứng tình trạng kiệt quệ tài chính
càng cao thể hiện qua FD được đại diện với S-Score càng thấp và ngược lại. Hay
FCF càng cao cho thấy xu hướng gia tăng tài trợ bằng nguồn tiền từ bên ngoài thì
tình trạng kiệt quệ tài chính càng tăng thể hiện qua FD được đại diện bởi S-Score
càng thấp và ngược lại.
Bên cạnh đó, với mức ý nghĩa thống kê 1%, kết quả ma trận tương quan tại
bảng 4.9 còn cho thấy biến động tình trạng kiệt quệ tài chính cùng chiều với mức
độ sử dụng đòn bẩy tài chính hình thành từ nợ thể hiện qua hệ số tương quan giữa
biến FD với biến LEV là -0,3640; biến động tình trạng kiệt quệ tài chính cùng
chiều với biến động quy mô của doanh nghiệp thể hiện qua hệ số tương quan giữa
biến FD với biến SIZE là -0,1558. Trong khi đó, biến động tình trạng kiệt quệ tài
chính cùng chiều với độ tuổi của doanh nghiệp nhưng không đảm bảo ý nghĩa
thống kê tại các mức 1%, 5% hay 10%.
Xét tương quan giữa các dòng tiền với nhau tại bảng 4.9, với mức ý nghĩa 1%,
tồn tại tương quan ngược chiều giữa biến OCF với biến ICF, giữa biến ICF với
biến FCF, và giữa biến FCF với biến OCF. Hàm ý về sự tồn tại các quan hệ bù
đắp cho nhau giữa các dòng tiền, theo đó, nếu doanh nghiệp có thể gia tăng dòng
tiền hoạt động kinh doanh thì dòng tiền này sẽ có thể chi tài trợ cho xu hướng mở
112
rộng đầu tư thể hiện qua giảm dòng tiền hoạt động đầu tư, hoặc chi trả và giảm
bớt các nguồn tiền tài trợ từ bên ngoài. Nếu dòng tiền hoạt động kinh doanh thâm
hụt thì doanh nghiệp có thể gia tăng nguồn tiền tài trợ từ bên ngoài thể hiện bởi
gia tăng dòng tiền hoạt động tài trợ (tài chính) hoặc doanh nghiệp thu hẹp hoạt
động đầu tư để có dòng tiền vào nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng tiền của sản xuất
kinh doanh. Hay khi doanh nghiệp có thể chi tài trợ cho mở rộng đầu tư thể hiện
bởi dòng tiền hoạt động đầu tư giảm bằng cách gia tăng nguồn tiền tài trợ từ bên
ngoài thể hiện bởi gia tăng dòng tiền hoạt động tài trợ (tài chính), hay ngược lại
doanh nghiệp có thể thu hẹp hoạt động đầu tư để có dòng tiền vào nhằm mục đích
trả nợ thể hiện qua giảm dòng tiền hoạt động tài trợ.
Hệ số tương quan giữa biến OCF và biến LEV là -0,1939 với mức ý nghĩa 1%
tại Bảng 4.9 hàm ý rằng một sự gia tăng của dòng tiền hoạt động kinh doanh sẽ
tương ứng giảm mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính hình thành từ nợ, mà từ đó
giảm tình trạng kiệt quệ tài chính theo mối tương quan giữa biến LEV và biến FD.
Theo đó, kết quả này sẽ ủng hộ quan điểm dòng tiền hoạt động có khả năng điều
tiết giảm tác động của đòn bẩy tài chính đến kiệt quệ tài chính.
Xét tất cả hệ số tương quan giữa các biến độc lập và biến kiểm soát với nhau,
hệ số tương quan âm dao động từ mức -0,5242 giữa biến OCF và biến FCF đến
mức -0,0051 giữa biến OCF và biến SIZE, hệ số tương quan dương dao động từ
mức 0,0109 giữa biến NCF với biến LEV đến mức 0,3329 giữa biến LEV với
biến SIZE. Theo thống kê này, tham chiếu Hair & cộng sự (2006), Gujarati
(2008), tác giả cho rằng vấn đề đa cộng tuyến không nghiêm trọng trong mô hình
nghiên cứu. Ngoài ra, tại Bảng 4.9, VIF của các biến này dao động từ mức thấp
nhất là 1,0113 đến mức cao nhất là 3,3530, như vậy các trường hợp đều có VIF
nhỏ hơn 10 và tham chiếu Hair & cộng sự (2006), Gujarati (2008) khẳng định
rằng hiện tượng đa cộng tuyến không nghiêm trọng.
113
4.2.4. Kết quả ước lượng
4.2.4.1. Mô hình nghiên cứu thứ nhất – Tổng dòng tiền và kiệt quệ tài chính
Kết quả ước lượng của mô hình nghiên cứu thứ nhất về việc ảnh hưởng của
tổng dòng tiền ròng đến kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp phi tài chính
niêm yết tại Việt Nam được tổng hợp và trình bày tại bảng 4.10.
Bảng 4.10. Kết quả ước lượng theo POLS, FEM và REM
của mô hình nghiên cứu thứ nhất
Biến / Kiểm định POLS FEM REM
0,3884 0,3775 NCF 0,4013* [0,2228] [0,1475] [0,1464]
-0,0593 -0,0397 AGE -0,0113** [0,0056] [0,0084] [0,0065]
-1,8334*** -2,0362 -1,8822 LEV [0,0931] [0,2028] [0,1390]
-0,0671** 0,1369 -0,0553 SIZE [0,0311] [0,1303] [0,0559]
2,8729*** 2,3939 3,1907 C [0,1889] [0,6857] [0,3107]
Breusch-Pagan/ 2662,864
Lagrange multiplier [0,0000]
3309,3316 Redundant Fixed Effects [0,0000]
Hausman 15,9208 [0,0031]
13710,99 Wald [0,0000]
(***) Mức ý nghĩa 1%, (**) Mức ý nghĩa 5%, (*) Mức ý nghĩa 10%,
(ns) Không ý nghĩa thống kê
Prob (F-statistic) 0,0000 0,0000 0,0000
[...] Sai số chuẩn
Nguồn: Xử lý từ dữ liệu nghiên cứu bằng EViews 12.0
114
Với dữ liệu bảng cân bằng sử dụng cho mô hình nghiên cứu thứ nhất, đề tài
ước lượng các mối quan hệ theo các phương pháp cơ bản là POLS, FEM và REM
tại Bảng 4.10, các kết quả ước lượng đều phù hợp thể hiện qua Prob (F-statistic)
nhỏ hơn 5%. Theo đó, kiểm định Breusch-Pagan Lagrange multiplier trên nền
tảng kết quả ước lượng theo POLS có Prob nhỏ hơn 5% chỉ ra REM phù hợp hơn
POLS, kiểm định Redundant Fixed Effects trên kết quả ước lượng theo FEM có
Prob nhỏ hơn 5% chỉ ra FEM phù hợp hơn POLS, và kiểm định Hausman trên kết
quả ước lượng theo REM có Prob nhỏ hơn 5% chỉ ra FEM phù hợp hơn REM.
Như vậy, kết quả ước lượng mô hình nghiên cứu thứ nhất theo FEM phù hợp hơn
POLS và REM.
Theo đúc kết của Susmel (2015), Hair & cộng sự (2006), cho rằng FEM chỉ
quan tâm đến những khác biệt mang tính cá nhân đóng góp vào mô hình nên
không có hiện tượng tự tương quan và đề tài xác định mô hình nghiên cứu thứ
nhất không có vấn đề này. Ngoài ra, với kết quả ước lượng theo FEM, đề tài thực
hiện sử dụng kiểm định Wald với kết quả Prob nhỏ hơn 5% cho kết luận mô hình
thứ nhất tồn tại hiện tượng phương sai sai số thay đổi, vì vậy đề tài sử dụng GLS
để khắc phục hiện tượng này (Greene, 2018; Susmel, 2015; Baltaghi, 2008;
Gujarati, 2008) và kết quả ước lượng này được trình bày tại Bảng 4.11. Ngoài ra,
để đánh giá sự vững chắc cũng như sự tin cậy của kết quả hồi quy theo GLS, đề
tài sử dụng mô hình PCSE và kết quả ước lượng này được trình bày tại cột cuối
cùng của Bảng 4.11.
Căn cứ kết quả ước lượng được lựa chọn cuối cùng là GLS tại Bảng 4.11, đề
tài xác định được rằng biến độc lập NCF ảnh hưởng cùng chiều đến biến phụ
thuộc FD được đại diện bởi S-Score với mức ý nghĩa 1%, theo đó khẳng định tồn
tại mối quan hệ giải thích ngược chiều của tổng dòng tiền ròng đối với tình trạng
kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp. Ngoài ra, kết quả ước lượng theo GLS
còn khẳng định ảnh hưởng của biến kiểm soát AGE, LEV và SIZE đến biến phụ
thuộc FD được đại diện bởi S-Score với mức ý nghĩa là 1%.
Đối sánh kết quả hồi quy theo GLS với PCSE tại Bảng 4.11 cho thấy hệ số hồi
quy và mức ý nghĩa của các biến giải thích đều đảm bảo sự tương đồng, qua đó
115
ủng hộ rằng kết quả hồi quy theo GLS đảm bảo được tính vững chắc và đáng tin
cậy để đúc kết cho trường hợp các doanh nghiệp phi tài chính tại Việt Nam về ảnh
hưởng ngược chiều của tổng dòng tiền ròng đến kiệt quệ tài chính.
Bảng 4.11. Kết quả ước lượng theo GSL và PCSE
của mô hình nghiên cứu thứ nhất
Biến GLS PCSE
0,2557*** 0,2557*** NCF [0,0904] [0,0961]
-0,0110*** -0,0110*** AGE [0,0018] [0,0018]
-1,6692*** -1,6692*** LEV [0,0306] [0,0316]
-0,0756*** -0,0756*** SIZE [0,0103] [0,0106]
2,8053*** 2,8053*** C [0,0594] [0,0625]
(***) Mức ý nghĩa 1%;
0,0000 0,0000 Prob (F-statistic)
[...] Sai số chuẩn;
Nguồn: Xử lý từ dữ liệu nghiên cứu bằng EViews 12.0
4.2.4.2. Mô hình nghiên cứu thứ hai - Từng dòng tiền và kiệt quệ tài chính
Kết quả ước lượng của mô hình nghiên cứu thứ hai về ảnh hưởng của từng
dòng tiền thành phần đến kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp phi tài chính
niêm yết tại Việt Nam được tổng hợp và trình bày tại bảng 4.12.
116
Bảng 4.12. Kết quả ước lượng theo POLS, FEM và REM
của mô hình nghiên cứu thứ hai
Biến / Kiểm định POLS FEM REM
OCF 1,5665*** [0,2344] 0,7843*** [0,1640] 0,9015*** [0,1617]
-0,1329ns 0,1440ns 0,0705ns ICF [0,2412] [0,1648] [0,1635]
-0,6733*** 0,0850ns -0,0525ns FCF [0,2363] [0,1675] [0,1649]
AGE -0,0132** [0,0055] -0,0605*** [0,0084] -0,0387*** [0,0063]
LEV -1,5568*** [0,0923] -1,9729*** [0,2020] -1,7632*** [0,1323]
SIZE -0,0899*** [0,0303] 0,1461ns [0,1296] -0,0683ns [0,0515]
2,7888*** 2,2852*** 3,1446*** C [0,1831] [0,6825] [0,2885]
Breusch-Pagan/ 2262,011
Lagrange multiplier [0,0000]
3153,9943 Redundant Fixed Effects [0,0000]
97,8603 Hausman [0,0000]
13910,85 Wald [0,0000]
(***) Mức ý nghĩa 1%, (**) Mức ý nghĩa 5%, (ns) Không ý nghĩa thống kê
Prob (F-statistic) 0,0000 0,0000 0,0000
[...] Sai số chuẩn
Nguồn: Xử lý từ dữ liệu nghiên cứu bằng EViews 12.0
Với dữ liệu bảng cân bằng sử dụng cho mô hình nghiên cứu thứ hai, đề tài ước
lượng các mối quan hệ theo các phương pháp cơ bản là POLS, FEM và REM tại
Bảng 4.12, các kết quả ước lượng đều phù hợp thể hiện qua Prob (F-statistic) nhỏ
117
hơn 5%. Theo đó, kiểm định Breusch-Pagan Lagrange multiplier trên nền tảng kết
quả ước lượng theo POLS có Prob nhỏ hơn 5% chỉ ra REM phù hợp hơn POLS,
kiểm định Redundant Fixed Effects trên kết quả ước lượng theo FEM có Prob nhỏ
hơn 5% chỉ ra FEM phù hợp hơn POLS, và kiểm định Hausman trên kết quả ước
lượng theo REM có Prob nhỏ hơn 5% chỉ ra FEM phù hợp hơn REM. Như vậy,
kết quả ước lượng mô hình nghiên cứu thứ nhất theo FEM phù hợp hơn POLS và
REM.
Tham chiếu Susmel (2015), Hair & cộng sự (2006), cho rằng FEM chỉ quan
tâm đến những khác biệt mang tính cá nhân đóng góp vào mô hình nên không có
hiện tượng tự tương quan và đề tài xác định mô hình nghiên cứu thứ hai không có
vấn đề này. Ngoài ra, với kết quả ước lượng theo FEM, đề tài thực hiện sử dụng
kiểm định Wald với kết quả Prob nhỏ hơn 5% cho kết luận mô hình thứ hai tồn tại
hiện tượng phương sai sai số thay đổi, vì vậy đề tài sử dụng GLS để khắc phục
hiện tượng này (Greene, 2018; Susmel, 2015; Baltaghi, 2008; Gujarati, 2008) và
kết quả ước lượng này được trình bày tại Bảng 4.13. Ngoài ra, để đánh giá sự
vững chắc cũng như sự tin cậy của kết quả hồi quy theo GLS, đề tài sử dụng mô
hình PCSE và kết quả ước lượng này được trình bày tại cột cuối cùng của Bảng
4.13.
Căn cứ kết quả ước lượng được lựa chọn cuối cùng là GLS tại Bảng 4.13, đề
tài xác định được rằng biến độc lập OCF ảnh hưởng cùng chiều đến biến phụ
thuộc FD được đại diện bởi S-Score với mức ý nghĩa 1%, theo đó khẳng định tồn
tại mối quan hệ giải thích ngược chiều của dòng tiền hoạt động kinh doanh đối với
tình trạng kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp. Biến độc lập ICF và FCF đều
giải thích ngược chiều cho biến phụ thuộc FD được đại diện bởi S-Score, tuy
nhiên ảnh hưởng của biến ICF không đảm bảo ý nghĩa thống kê, trong khi đó biến
FCF đạt mức ý nghĩa 1%; theo đó đề tài cho rằng dòng tiền hoạt động tài trợ ảnh
hưởng cùng chiều đến kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp. Ngoài ra, kết quả
ước lượng theo GLS còn khẳng định ảnh hưởng của biến kiểm soát AGE, LEV và
SIZE đến biến phụ thuộc FD được đại diện bởi S-Score với mức ý nghĩa là 1%.
118
Bảng 4.13. Kết quả ước lượng theo GSL và PCSE
của mô hình nghiên cứu thứ hai
Biến GLS PCSE
0,9017*** 0,9017*** OCF [0,1020] [0,1013]
-0,0019ns -0,0019ns ICF [0,1074] [0,1075]
-0,4376*** -0,4376*** FCF [0,1068] [0,1068]
-0,0142*** -0,0142*** AGE [0,0020] [0,0020]
-1,4964*** -1,4964*** LEV [0,0343] [0,0338]
-0,0924*** -0,0924*** SIZE [0,0108] [0,0113]
2,7945*** 2,7945*** C [0,0631] [0,0662]
(***) Mức ý nghĩa 1%; (ns) Không ý nghĩa thống kê; [...] Sai số chuẩn
Prob (F-statistic) 0,0000 0,0000
Nguồn: Xử lý từ dữ liệu nghiên cứu bằng EViews 12.0
Đối sánh kết quả hồi quy theo GLS với PCSE tại Bảng 4.13 cho thấy hệ số hồi
quy và mức ý nghĩa của các biến giải thích đều đảm bảo sự tương đồng, qua đó
ủng hộ rằng kết quả hồi quy theo GLS đảm bảo được tính vững chắc và đáng tin
cậy để đúc kết cho trường hợp các doanh nghiệp phi tài chính tại Việt Nam về ảnh
hưởng ngược chiều của dòng tiền hoạt động kinh doanh đến kiệt quệ tài chính,
trong khi dòng tiền hoạt động tài trợ ảnh hưởng cùng chiều đến kiệt quệ tài chính,
và dòng tiền hoạt động đầu tư không đảm bảo ý nghĩa thống kê.
119
4.2.4.3. Mô hình nghiên cứu thứ ba - Sự tương tác giữa các dòng tiền ảnh
hưởng đến kiệt quệ tài chính
Kết quả ước lượng của mô hình nghiên cứu thứ ba về mối quan hệ tương tác
giữa các dòng tiền ảnh hưởng đến kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp phi tài
chính niêm yết tại Việt Nam được tổng hợp và trình bày tại bảng 4.14.
Bảng 4.14. Kết quả ước lượng theo POLS, FEM và REM
của mô hình nghiên cứu thứ ba
Biến / Kiểm định POLS FEM REM
1,4264*** 0,6438*** 0,7691*** OCF [0,2338] [0,1658] [0,1634]
0,0668ns 0,3962** 0,3043* ICF [0,2487] [0,1729] [0,1711]
-0,6296*** 0,0131ns -0,1174ns FCF [0,2437] [0,1750] [0,1723]
-2,4742*** -2,5941*** -2,5946*** OCF*ICF [0,6456] [0,4947] [0,4836]
-0,3780ns -0,4509** -0,4267* ICF*FCF [0,3078] [0,2237] [0,2202]
-4,9664*** -1,8488*** -2,4559*** FCF*OCF [0,5110] [0,4071] [0,3949]
-0,0119** -0,0610*** -0,0379*** AGE [0,0054] [0,0084] [0,0063]
-1,5217*** -1,9523*** -1,7344*** LEV [0,0912] [0,2001] [0,1303]
-0,0735** 0,1816ns -0,0550ns SIZE [0,0299] [0,1290] [0,0506]
2,6005*** 2,0509*** 3,0104*** C [0,1814] [0,6796] [0,2840]
120
Bảng 4.14. Kết quả ước lượng theo POLS, FEM và REM
của mô hình nghiên cứu thứ ba (tiếp theo)
Biến / Kiểm định POLS FEM REM
Breusch-Pagan/ Lagrange multiplier 2156,444 [0,0000]
Redundant Fixed Effects 3105,4782 [0,0000]
Hausman 111,0374 [0,0000]
Wald 14162,05 [0,0000]
Prob (F-statistic) 0,0000 0,0000 0,0000
(ns) Không ý nghĩa thống kê; [...] Sai số chuẩn
(***) Mức ý nghĩa 1%; (**) Mức ý nghĩa 5%; (*) Mức ý nghĩa 10%
Nguồn: Xử lý từ dữ liệu nghiên cứu bằng EViews 12.0
Với dữ liệu bảng cân bằng sử dụng cho mô hình nghiên cứu thứ ba, đề tài ước
lượng các mối quan hệ theo các phương pháp cơ bản là POLS, FEM và REM tại
Bảng 4.14, các kết quả ước lượng đều phù hợp thể hiện qua Prob (F-statistic) nhỏ
hơn 5%. Theo đó, kiểm định Breusch-Pagan Lagrange multiplier trên nền tảng kết
quả ước lượng theo POLS có Prob nhỏ hơn 5% chỉ ra REM phù hợp hơn POLS,
kiểm định Redundant Fixed Effects trên kết quả ước lượng theo FEM có Prob nhỏ
hơn 5% chỉ ra FEM phù hợp hơn POLS, và kiểm định Hausman trên kết quả ước
lượng theo REM có Prob nhỏ hơn 5% chỉ ra FEM phù hợp hơn REM. Như vậy,
kết quả ước lượng mô hình nghiên cứu thứ hai theo FEM phù hợp hơn POLS và
REM.
Tham chiếu Susmel (2015), Hair & cộng sự (2006), cho rằng FEM chỉ quan
tâm đến những khác biệt mang tính cá nhân đóng góp vào mô hình nên không có
hiện tượng tự tương quan và đề tài xác định mô hình nghiên cứu thứ hai không có
vấn đề này. Ngoài ra, với kết quả ước lượng theo FEM, đề tài thực hiện sử dụng
kiểm định Wald với kết quả Prob nhỏ hơn 5% cho kết luận mô hình thứ hai tồn tại
hiện tượng phương sai sai số thay đổi, vì vậy đề tài sử dụng GLS để khắc phục
121
hiện tượng này (Greene, 2018; Susmel, 2015; Baltaghi, 2008; Gujarati, 2008) và
kết quả ước lượng này được trình bày tại Bảng 4.15. Ngoài ra, để đánh giá sự
vững chắc cũng như sự tin cậy của kết quả hồi quy theo GLS tại Bảng 4.15, đề tài
sử dụng mô hình PCSE và kết quả ước lượng này được trình bày tại cột cuối cùng
của Bảng 4.15.
Bảng 4.15. Kết quả ước lượng theo GLS và PCSE
của mô hình nghiên cứu thứ ba
Biến / Kiểm định
GLS 0,8627*** PCSE 0,8627*** OCF
[0,1056] 0,0033ns [0,1083] 0,0033ns ICF
[0,1187] -0,3516*** [0,1194] -0,3516*** FCF
[0,1144] -1,2012*** [0,1161] -1,2012*** OCF*ICF
[0,4566] 0,1459ns [0,4285] 0,1459ns ICF*FCF
[0,2599] -3,8020*** [0,2643] -3,8020*** FCF*OCF
[0,3360] -0,0141*** [0,3279] -0,0141*** AGE
[0,0020] -1,4491*** [0,0020] -1,4491*** LEV
[0,0335] -0,0793*** [0,0331] -0,0793*** SIZE
[0,0108] 2,6368*** [0,0113] 2,6368*** C [0,0642] [0,0673]
(***) Mức ý nghĩa 1%; (ns) Không ý nghĩa thống kê
Prob (F-statistic) 0,0000 0,0000
[...] Sai số chuẩn
Nguồn: Xử lý từ dữ liệu nghiên cứu bằng EViews 12.0
122
Căn cứ kết quả ước lượng được lựa chọn cuối cùng là GLS tại Bảng 4.15, đề
tài tiếp tục khẳng định rằng kết quả ước lượng ảnh hưởng của từng dòng tiền
thành phần đến kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp được đại diện bởi chỉ số
S-Score, bao gồm dòng tiền hoạt động kinh doanh, đầu tư và tài trợ lần lượt thể
hiện qua các biến OCF, ICF và FCF; tương tự kết quả ước lượng của mô hình
nghiên cứu thứ nhất đã trình bày tại Bảng 4.13. Ngoài ra, các biến kiểm soát
AGE, LEV và SIZE lần lượt đại diện cho tuổi doanh nghiệp, đòn bẩy tài chính và
quy mô doanh nghiệp cũng cho kết quả tương tự.
Mở rộng hơn so với mô hình nghiên cứu thứ nhất, kết quả ước lượng tại Bảng
4.15 xác định thêm rằng biến tương tác OCF*ICF và OCF*FCF đều đảm bảo ý
nghĩa thống kê ở mức 1% để giải thích ngược chiều cho chỉ số S-Score đại diện
cho biến phụ thuộc FD, theo đó khẳng định rằng sự kết hợp giữa dòng tiền hoạt
động kinh doanh với dòng tiền hoạt động đầu tư, và giữa dòng tiền hoạt động kinh
doanh với dòng tiền hoạt động tài trợ tồn tại mối quan hệ bổ sung khi ảnh hưởng
đến kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp, nội dung giải thích cụ thể sẽ tùy
thuộc vào trạng thái thặng dư hay thâm hụt của từng dòng tiền này (Ngô Kim
Phượng & cộng sự, 2021; CFA Institute, 2020). Biến tương tác ICF*FCF không
đảm bảo ý nghĩa thống kê khi giải thích cho biến phụ thuộc FD được đại diện bởi
chỉ số S-Score.
Bên cạnh đó, đối sánh kết quả hồi quy theo GLS với PCSE tại Bảng 4.15 cho
thấy hệ số hồi quy và mức ý nghĩa của các biến giải thích đều đảm bảo tính nhất
quán, qua đó ủng hộ rằng kết quả hồi quy theo GLS đảm bảo được sự vững chắc
và đáng tin cậy để đúc kết cho trường hợp các doanh nghiệp phi tài chính tại Việt
Nam về kiệt quệ tài chính chịu sự ảnh hưởng bởi mối quan hệ tương tác giữa dòng
tiền hoạt động kinh doanh với dòng tiền hoạt động đầu tư và giữa dòng tiền hoạt
động kinh doanh với dòng tiền hoạt động tài trợ, trong khi đó mối quan hệ tương
tác giữa dòng tiền hoạt động đầu tư với dòng tiền hoạt động tài trợ không đảm bảo
ý nghĩa thống kê.
123
4.2.4.4. Mô hình nghiên cứu thứ tư - Dòng tiền hoạt động kinh doanh điều tiết
tác động của đòn bẩy tài chính đến kiệt quệ tài chính
Kết quả ước lượng của mô hình nghiên cứu thứ tư về vai trò điều tiết của dòng
tiền hoạt động kinh doanh đối với tác động của đòn bẩy tài chính đến kiệt quệ tài
chính của các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tại Việt Nam được tổng hợp và
trình bày tại bảng 4.16.
Bảng 4.16. Kết quả ước lượng theo POLS, FEM và REM
của mô hình nghiên cứu thứ tư
Biến / Kiểm định POLS FEM REM
5,8304*** 2,4922*** 3,2613*** OCF [0,3310] [0,2692] [0,2598]
-0,2221ns 0,0941ns 0,0049ns ICF [0,2299] [0,1629] [0,1614]
-0,8335*** -0,0594ns -0,2426ns FCF [0,2254] [0,1665] [0,1633]
-0,0163*** -0,0568*** -0,0358*** AGE [0,0052] [0,0083] [0,0061]
-1,0311*** -1,7441*** -1,4585*** LEV [0,0930] [0,2016] [0,1280]
-0,0904*** 0,0950ns -0,0791* SIZE [0,0289] [0,1282] [0,0479]
-9,6925*** -3,6724*** -5,0722*** LEV*OCF [0,5552] [0,4623] [0,4444]
2,5387*** 2,4044*** 2,9936*** C [0,1752] [0,6744] [0,2701]
124
Bảng 4.16. Kết quả ước lượng theo POLS, FEM và REM
của mô hình nghiên cứu thứ tư (tiếp theo)
Biến / Kiểm định POLS FEM REM
1873,12
Breusch-Pagan/ Lagrange multiplier [0,0000]
2937,88 Redundant Fixed Effects [0,0000]
139,06 Hausman [0,0000]
14316,93 Wald [0,0000]
(***) Mức ý nghĩa 1%; (*) Mức ý nghĩa 10%
(ns) Không ý nghĩa thống kê; [...] Sai số chuẩn
Prob (F-statistic) 0,0000 0,0000 0,0000
Nguồn: Xử lý từ dữ liệu nghiên cứu bằng EViews 12.0
Với dữ liệu bảng cân bằng sử dụng cho mô hình nghiên cứu thứ tư, đề tài ước
lượng các mối quan hệ theo các phương pháp cơ bản là POLS, FEM và REM tại
Bảng 4.16, các kết quả ước lượng đều phù hợp thể hiện qua Prob (F-statistic) nhỏ
hơn 5%. Theo đó, kiểm định Breusch-Pagan Lagrange multiplier trên nền tảng kết
quả ước lượng theo POLS có Prob nhỏ hơn 5% chỉ ra REM phù hợp hơn POLS,
kiểm định Redundant Fixed Effects trên kết quả ước lượng theo FEM có Prob nhỏ
hơn 5% chỉ ra FEM phù hợp hơn POLS, và kiểm định Hausman trên kết quả ước
lượng theo REM có Prob nhỏ hơn 5% chỉ ra FEM phù hợp hơn REM. Như vậy,
kết quả ước lượng mô hình nghiên cứu thứ ba theo FEM phù hợp hơn POLS và
REM.
Tham chiếu Susmel (2015), Hair & cộng sự (2006), cho rằng FEM chỉ quan
tâm đến những khác biệt mang tính cá nhân đóng góp vào mô hình nên không có
hiện tượng tự tương quan và đề tài xác định mô hình nghiên cứu thứ tư không có
vấn đề này. Ngoài ra, với kết quả ước lượng theo FEM, đề tài thực hiện sử dụng
kiểm định Wald với kết quả Prob nhỏ hơn 5% cho kết luận mô hình thứ ba tồn tại
hiện tượng phương sai sai số thay đổi, vì vậy đề tài sử dụng GLS để khắc phục
125
hiện tượng này (Greene, 2018; Susmel, 2015; Baltaghi, 2008; Gujarati, 2008) và
kết quả ước lượng này được trình bày tại Bảng 4.17. Ngoài ra, để đánh giá sự
vững chắc cũng như sự tin cậy của kết quả hồi quy theo GLS tại Bảng 4.17, đề tài
sử dụng mô hình PCSE và kết quả ước lượng này được trình bày tại cột cuối cùng
của Bảng 4.17.
Bảng 4.17. Kết quả ước lượng theo GLS và PCSE
của mô hình nghiên cứu thứ tư
Biến / Kiểm định GLS PCSE
4,2404*** 4,2404*** OCF [0,1954] [0,1958]
-0,0628ns -0,0628ns ICF [0,1107] [0,1101]
-0,5441*** -0,5441*** FCF [0,1082] [0,1082]
-0,0176*** -0,0176*** AGE [0,0019] [0,0019]
-1,0740*** -1,0740*** LEV [0,0370] [0,0353]
-0,0683*** -0,0683*** SIZE [0,0103] [0,0108]
-6,6726*** -6,6726*** LEV*OCF [0,2965] [0,2938]
2,4367*** 2,4367*** C [0,0646] [0,0662]
(***) Mức ý nghĩa 1%; (ns) Không ý nghĩa thống kê;
Prob (F-statistic) 0,0000 0,0000
[...] Sai số chuẩn;
Nguồn: Xử lý từ dữ liệu nghiên cứu bằng EViews 12.0
126
Căn cứ kết quả ước lượng được lựa chọn cuối cùng là GLS tại Bảng 4.17, đề
tài một lần nữa khẳng định vững chắc hơn về giải thích của từng dòng tiền, bao
gồm dòng tiền hoạt động kinh doanh, đầu tư và tài trợ lần lượt thể hiện qua các
biến OCF, ICF và FCF cho kiệt quệ tài chính được đại diện bởi chỉ số S-Score,
kết quả ước lượng tại Bảng 4.17 tương tự tại Bảng 4.15 và Bảng 4.13. Không
những thế, kết quả ước lượng liên quan các biến kiểm soát AGE, LEV và SIZE
lần lượt đại diện cho tuổi doanh nghiệp, đòn bẩy tài chính và quy mô doanh
nghiệp cũng tiếp tục được khẳng định tương tự như trên đã đề cập tại Bảng 4.13
và Bảng 4.15.
Với biến LEV*OCF được ước lượng theo GLS tại Bảng 4.17, theo mức ý
nghĩa thống kê 1%, xác định rằng biến OCF và biến LEV tồn tại mối quan hệ bổ
sung khi giải thích cho kiệt quệ tài chính, theo đó căn cứ phân tích mối quan hệ
giữa các dòng tiền (Ngô Kim Phượng & cộng sự, 2021; CFA Institute, 2020),
dòng tiền hoạt động kinh doanh nghiệp thặng dư sẽ đóng vai trò điều tiết xoa dịu
tác động cùng chiều của đòn bẩy tài chính đến kiệt quệ tài chính của các doanh
nghiệp; hay ngược lại, tình trạng dòng tiền hoạt động kinh doanh thâm hụt sẽ điều
tiết gia tăng tác động cùng chiều của đòn bẩy tài chính đến kiệt quệ tài chính của
các doanh nghiệp. Đồng thời, đối sánh kết quả hồi quy theo GLS với PCSE với tại
Bảng 4.17 cho thấy hệ số hồi quy và mức ý nghĩa của các biến giải thích đều đảm
bảo sự đồng nhất, qua đó ủng hộ rằng kết quả hồi quy theo GLS đảm bảo được
tính vững chắc và đáng tin cậy để đúc kết vai trò điều tiết của dòng tiền hoạt động
kinh doanh đối với tác động của đòn bẩy tài chính đến kiệt quệ tài chính cho
trường hợp các doanh nghiệp phi tài chính tại Việt Nam.
4.3. THẢO LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.3.1. Lựa chọn mô hình đo lường kiệt quệ tài chính
Kết quả nghiên cứu tại mục 4.1.2 đã trả lời câu hỏi thứ nhất của đề tài, theo đó
các mô hình S-Score, X-Score, Z-Taffler, H-Score, G-Score, Z-Score và O-Score
cho kết quả đo lường khác biệt đáng kể về kiệt quệ tài chính của các công ty phi
tài chính niêm yết tại Việt Nam. Kết quả khác biệt này ủng hộ giả thuyết H1 và
thống nhất với đúc kết của Tanjung (2020), Mulyati & Ilyasa (2020), Hertina &
127
cộng sự (2020), Shalih & Kusumawati (2019), Januri & cộng sự (2017); điều này
có thể được giải thích rằng sự khác biệt về các yếu tố đặc điểm doanh nghiệp dẫn
đến những thành phần cấu thành trong mô hình chỉ số đo lường kiệt quệ tài chính
sẽ được tiếp cận khác nhau, khi đó các chủ thể hữu quan cần kiểm định và đánh
giá nhằm lựa chọn mô hình phù hợp; theo đó, đo lường kiệt quệ tài chính của các
công ty phi tài chính niêm yết tại Việt Nam cũng không ngoại lệ.
Với câu hỏi thứ hai của đề tài, kết quả thống kê tại mục 4.1.3 đã khẳng định
mô hình S-Score là phù hợp nhất để đo lường kiệt quệ tài chính cho các công ty
phi tài chính niêm yết tại Việt Nam, mô hình này không chỉ đạt được tỷ lệ chính
xác cao nhất, mà tỷ lệ từng dạng sai lầm đều không quá 10%. Kết quả lựa chọn
này thống nhất với nghiên cứu thực nghiệm của Mulyati & Ilyasa (2020), Fauzi &
cộng sự (2021), Tahu (2019), Shalih & Kusumawati (2019); theo đó mô hình chỉ
số đo lường kiệt quệ tài chính gắn kết chặt chẽ với sự thành công hay thất bại
trong quản trị vốn lưu động, khả năng sinh lời của vốn, hiệu suất sử dụng tài sản
và khả năng đáp ứng các trách nhiệm nợ ngắn hạn bởi kết quả kinh doanh của
công ty.
4.3.2. Dòng tiền và kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp
Kết quả hồi quy theo GLS tại mục 4.2.4 khẳng định tổng dòng tiền ròng đảm
bảo ý nghĩa thống kê, qua đó chỉ ra rằng kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp
chịu ảnh hưởng ngược chiều đáng kể bởi tổng dòng tiền ròng. Theo đó, chấp nhận
giả thuyết H2a, kết quả này ủng hộ kỳ vọng của đề tài luận án cũng như kết quả
nghiên thực nghiệm của Sayari và Mugan (2013), Jooste (2007), Kordestani &
cộng sự (2011), Shamsudin và Kamaluddin (2015), Giarto & Fachrurrozie (2020).
Kết quả này thống nhất với những lập luận về động cơ nắm giữ tiền theo mô hình
lý thuyết Baumol với giải thích rằng doanh nghiệp có dòng tiền thặng dư sẽ góp
phần tăng mức nắm giữ tiền, là cơ sở để doanh nghiệp đảm bảo khả năng thanh
toán tốt hơn (Brealey và cộng sự, 2008; Arnold, 2013) và theo đó giảm khả năng
xảy ra kiệt quệ tài chính. Kết quả này bổ sung minh chứng cho ý nghĩa của tiền
đối với doanh nghiệp, theo đó tiền được ví như là máu để nuôi sống doanh nghiệp,
là điều kiện để hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được thuận lợi, là cơ sở
128
đảm bảo thanh toán các khoản nợ đến hạn theo lý thuyết về động cơ nắm giữ tiền
và lý thuyết ưa thích thanh khoản của Keynes.
Kết quả hồi quy theo GLS tại mục 4.2.4 khẳng định dòng tiền hoạt động kinh
doanh thể hiện khả năng tạo tiền của doanh nghiệp có ý nghĩa giải thích ngược
chiều cho tình trạng kiệt quệ tài chính đối với trường hợp các doanh nghiệp phi tài
chính niêm yết tại Việt Nam. Kết quả này phù hợp giả thuyết H1a, ủng hộ lý
thuyết chung của phân tích dòng tiền và thống nhất với bằng chứng thực nghiệm
đã được đúc kết bởi Finishtya (2019), Fawzi & cộng sự (2015), Lakshan &
Wijekoon (2013), Sayari & Mugan (2013), Roslan & cộng sự (2022), Kusnanto
(2023), Romadhina & cộng sự (2022), Sembiring (2022), Huang & cộng sự
(2022), Rahman & cộng sự (2021), Muien & cộng sự (2022). Theo đó doanh
nghiệp có NOCF thặng dư và tăng lên cho thấy khả năng tạo tiền được đảm bảo
và gia tăng, là nguồn tiền đáp ứng tốt cho nhu cầu sử dụng tiền cho mục đích trả
nợ vay đến hạn, giảm thiểu khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính cho doanh nghiệp,
và ngược lại.
Ngoài ra, dòng tiền hoạt động kinh doanh còn đóng vai trò điều tiết tác động
của đòn bẩy tài chính đến kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp, phù hợp với
giả thuyết nghiên cứu H3, ủng hộ gợi ý của Pranowo & cộng sự (2010) về ý nghĩa
của dòng tiền này trong kiểm soát kiệt quệ tài chính tại các doanh nghiệp có sử
dụng nợ, và thống nhất với Lý thuyết thanh khoản của Keynes (1936). Theo đó,
kết quả nghiên cứu xác định rằng nếu dòng tiền hoạt động kinh doanh thặng dư thì
nguồn tiền này sẽ giúp doanh nghiệp đảm bảo khả năng thực hiện các trách nhiệm
tài chính với chủ nợ như thanh toán lãi vay và hoàn trả nợ gốc, vì vậy tiền thặng
dư từ sản xuất kinh doanh sẽ giảm thiểu tác động cùng chiều của đòn bẩy tài chính
đến kiệt quệ tài chính. Ngược lại, nếu doanh nghiệp trong giai đoạn thâm hụt dòng
tiền hoạt động kinh doanh, thì việc gia tăng sử dụng đòn bẩy tài chính hình thành
từ nợ sẽ làm tình trạng kiệt quệ tài chính trở nên trầm trọng hơn.
Kết quả hồi quy theo GLS tại mục 4.2.4 khẳng định dòng tiền hoạt động tài trợ
phản ánh nguồn tiền tài trợ từ bên ngoài có ý nghĩa giải thích cùng chiều cho tình
trạng kiệt quệ tài chính đối với trường hợp các doanh nghiệp phi tài chính niêm
129
yết tại Việt Nam, kết quả này phù hợp giả thuyết nghiên cứu H1c và thống nhất
với bằng chứng thực nghiệm từ nghiên cứu của Sayari & Mugan (2013),
Kordestani & cộng sự (2011), Shamsudin & Kamaluddin (2015). Theo đó doanh
nghiệp càng gia tăng huy động nguồn tiền tài trợ từ bên ngoài thể hiện qua FCF
dương càng nhiều thì tình trạng kiệt quệ tài chính càng tăng thể hiện qua S-Score
càng giảm, hay doanh nghiệp càng có xu hướng giảm bớt các nguồn tài trợ từ bên
ngoài thể hiện qua FCF âm càng nhiều thì tình trạng kiệt quệ tài chính càng giảm
thể hiện qua S-Score càng tăng. Kết quả này phù hợp giả thuyết H1c, ủng hộ lý
thuyết chung của phân tích dòng tiền với giải thích rằng doanh nghiệp có dòng
tiền thặng dư từ hoạt động tài trợ và tăng lên cho thấy doanh nghiệp gia tăng huy
động nguồn tiền tài trợ từ bên ngoài, dẫn đến gia tăng khả năng xảy ra kiệt quệ tài
chính cho trường hợp doanh nghiệp gia tăng vay nợ kể cả ngắn hạn và dài hạn.
Kết quả hồi quy theo GLS tại mục 4.2.4 khẳng định mối quan hệ giải thích của
dòng tiền hoạt động đầu tư đối với kiệt quệ tài chính không đảm bảo độ tin cậy,
không ủng hộ giả thuyết nghiên cứu H1b và kết luận của Kordestani & cộng sự
(2011), Dickinson (2011), Fawzi & cộng sự (2015), Roslan & cộng sự (2022).
Điều này có thể giải thích rằng dòng tiền hoạt động đầu tư chủ yếu bao gồm các
khoản thu chi liên quan đến tài sản cố định, do đó hiệu ứng tác động của xu hướng
mở rộng hay thu hẹp đầu tư đến kiệt quệ tài chính không thể hiện rõ ràng, việc
đúc kết chỉ đáng tin cậy khi xem xét hiệu suất sử dụng tài sản cố định trong nhiều
năm tương thích với thời gian hữu ích của tài sản cố định.
Bên cạnh ảnh hưởng độc lập của từng dòng tiền, mối quan hệ tương tác giữa
các dòng tiền thành phần cũng ảnh hưởng đến tình trạng kiệt quệ tài chính của các
doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam, kết quả này phù hợp với ý nghĩa của lý
thuyết phân tích tài chính doanh nghiệp về mối quan hệ giữa các dòng tiền, phân
tích kết hợp 3 dòng tiền sẽ cho thấy tính hiệu quả cũng như tính hợp lý của cơ cấu
thu và chi tiền, của sử dụng tiền và nguồn tiền. Cụ thể theo kết quả ước lượng tại
mục 4.2.4 như sau:
Quan hệ bổ sung giữa dòng tiền hoạt động kinh doanh với dòng tiền hoạt động
tài trợ có ý nghĩa thống kê 1%, cho thấy mối quan hệ này ảnh hưởng đáng kể đến
130
tình trạng kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam, ủng hộ
giả thuyết nghiên cứu H2c và phù hợp ý nghĩa và mối quan hệ giữa các dòng tiền
theo Ngô Kim Phượng & cộng sự (2021), CFA Institute (2020). Theo đó kết quả
này khẳng định rằng doanh nghiệp ít có khả năng xảy ra tình trạng kiệt quệ tài
chính nếu doanh nghiệp đảm bảo được khả năng tạo tiền từ hoạt động kinh doanh,
cho thấy ý nghĩa tích cực của tiền thặng dư từ sản xuất kinh doanh, đó là nguồn
tiền đảm bảo tốt cho khả năng thanh toán các khoản nợ vay cũng như chia lãi cho
chủ sở hữu khi doanh nghiệp có nhu cầu huy động nguồn tiền tài trợ từ bên ngoài
thể hiện bởi xu hướng gia tăng dòng tiền hoạt động tài trợ; hay doanh nghiệp có
thể có sức khỏe tài chính tương đối không đảm bảo được sự lành mạnh xuất phát
từ khả năng không kiểm soát chất lượng hoạt động đầu tư và phải thu hẹp đầu tư
và càng trầm trọng hơn khi có sự kèm theo đó là áp lực gia tăng từ các khoản nợ
vay thuộc dòng tiền hoạt động tài trợ.
Quan hệ bổ sung giữa dòng tiền hoạt động kinh doanh với dòng tiền hoạt động
đầu tư ảnh hưởng đáng kể đến kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp cũng được
khẳng định tại mục 4.2.4, ủng hộ giả thuyết nghiên cứu H2a và phù hợp ý nghĩa
và mối quan hệ giữa các dòng tiền theo Ngô Kim Phượng & cộng sự (2021), CFA
Institute (2020). Kết quả này hàm ý rằng doanh nghiệp ít có khả năng xảy ra tình
trạng kiệt quệ tài chính nếu doanh nghiệp đảm bảo được khả năng tạo tiền từ hoạt
động kinh doanh kết hợp kiểm soát chặt chẽ xu hướng hoạt động đầu tư để trách
rơi vào tăng tưởng nóng; hay xu hướng mở rộng đầu tư là nền tảng tạo thu nhập
kỳ vọng tăng thêm kết hợp thặng dư và gia tăng dòng tiền hoạt động kinh doanh
sẽ giải thích rằng doanh nghiệp có thể giảm thiểu được tình trạng kiệt quệ tài
chính; tuy nhiên kết quả hồi quy biến tương tác giữa dòng tiền hoạt động kinh
doanh với dòng tiền hoạt động đầu tư chưa đạt được mức ý nghĩa thống kê.
Kết quả nghiên cứu tại mục 4.2.4 không ủng hộ giả thuyết nghiên cứu H2b về
quan hệ bổ sung giữa dòng tiền hoạt động đầu tư với dòng tiền hoạt động tài trợ
ảnh hưởng đến tình trạng kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp niêm yết tại Việt
Nam. Kết quả này có thể giải thích rằng các doanh nghiệp có khuynh hướng
hoạch định đầu tư dài hạn vào tài sản cố định trên cơ sở ưu tiên nguồn vốn đáp
131
ứng hình thành từ lợi nhuận giữ lại, dẫn đến mối quan hệ bổ sung giữa dòng tiền
hoạt động đầu tư và tài trợ không rõ ràng khi giải thích cho kiệt quệ tài chính.
4.3.3. Các yếu tố khác ảnh hưởng đến kiệt quệ tài chính của các doanh
nghiệp
Biến kiểm soát AGE đại diện cho tuổi doanh nghiệp ảnh hưởng cùng chiều
đến tình trạng kiệt quệ tài chính đối với trường hợp các doanh nghiệp phi tài chính
niêm yết tại Việt Nam, tương tự kết quả được tìm thấy bởi Aderin & Amede
(2022). Mối quan hệ ảnh hưởng cùng chiều đến tình trạng kiệt quệ tài chính được
lý giải rằng một doanh nghiệp có thâm niên hoạt động càng lâu sẽ có khuynh
hướng dễ dàng chấp nhận rủi ro hơn dựa trên sự tích lũy nhiều kinh nghiệm hơn
trong quản trị tài chính, theo đó tình trạng kiệt quệ tài chính có xu hướng cao hơn
so với các doanh nghiệp với thời gian hoạt động ngắn hơn.
Biến kiểm soát LEV thể hiện mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính ảnh hưởng
cùng chiều cho tình trạng kiệt quệ tài chính đối với trường hợp các doanh nghiệp
phi tài chính niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, thống nhất với kết
luận của Giarto & Fachrurrozie (2020), Abdioğlu (2019), Lee & Manual (2019),
Dance & Mad (2019), Murhadi & cộng sự (2018), Phạm Thị Hồng Vân (2018),
Moghaddam & Filsaraei (2016), Lakshan & Wijekoon (2013), Roslan & cộng sự
(2022). Kết quả nghiên cứu này ủng hộ lý thuyết đánh đổi trong cơ cấu vốn với
giải thích rằng doanh nghiệp càng gia tăng mức độ sử dụng nợ sẽ càng gia tăng rủi
ro tài chính nói chung và rủi ro kiệt quệ tài chính nói riêng.
Biến kiểm soát SIZE thể hiện quy mô doanh nghiệp ảnh hưởng cùng chiều
cho tình trạng kiệt quệ tài chính đối với trường hợp các doanh nghiệp phi tài chính
niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, thống nhất với bằng chứng thực
nghiệm được khẳng định bởi Dirman (2020), Oktasari (2020), Pouraghajan &
cộng sự (2014). Kết quả này ủng hộ lý thuyết bất lợi kinh tế vì quy mô
(Diseconomies of scale) với lý giải rằng sự mở rộng quy mô doanh nghiệp dẫn
đến sự gia tăng chi phí trong dài hạn và gia tăng khả năng xảy ra tình trạng kiệt
quệ tài chính, hay doanh nghiệp có thể có tình trạng kiệt quệ tài chính cao hơn
cùng với gia tăng quy mô theo giả định doanh nghiệp “quá lớn để đỗ vỡ” – “too-
132
big-to-fail” (Roe, 2014; Larsen & cộng sự, 2018), các doanh nghiệp không kiểm
soát tốt rủi ro khi mở rộng quy mô dẫn đến tăng trưởng quá nhanh, tăng trưởng
nóng và gây ra tình trạng thiếu hụt tiền do phải chi nhiều tiền cho dự trữ tồn kho
hay gia tăng bán chịu, dẫn đến gia tăng khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính.
------------------------------------------------------------
133
TÓM TẮT CHƯƠNG 4
Chương 4 đã thực hiện và trả lời câu hỏi nghiên cứu thứ nhất và thứ hai,
theo đó việc đo lường kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp phi tài chính
niêm yết tại Việt Nam sẽ có kết quả khác biệt đáng kể giữa các mô hình S-Score,
X-Score, Z-Taffler, H-Score, G-Score, Z-Score và O-Score; trong đó mô hình S-
Score được xác định là phù hợp nhất để sử dụng. Theo đó đề tài sử dụng mô
hình S-Score đo lường biến phụ thuộc các 3 mô hình nghiên cứu trong phần
tiếp theo gắn với câu hỏi nghiên cứu thứ ba, thứ tư và thứ năm.
Phần 2 của chương 4 đã trình bày kết quả phân tích thống kê mô tả các biến
trong mô hình nghiên cứu theo các tiêu chí giá trị trung bình, giá trị lớn nhất,
giá trị nhỏ nhất, độ lệch chuẩn và số quan sát. Sử dụng phân tích tương quan
và chỉ ra tương quan từng dòng tiền đảm bảo ý nghĩa thống kê với kiệt quệ tài
chính của các doanh nghiệp, ngoài ra phân tích ma trận tương quan kết hợp
VIF cũng khẳng định hiện tượng đa cộng tuyến không nghiêm trọng khi ước
lượng kết quả hồi quy.
Sau khi thực hiện phân tích hồi quy theo các phương pháp cơ bản là POLS,
FEM và REM cho dữ liệu bảng cân bằng, kết quả kiểm định đưa ra sự lựa chọn
kết quả hồi quy của mô hình theo FEM được chấp nhận; mô hình không có hiện
tượng tự tương quan và đa cộng tuyến nghiêm trọng, tuy nhiên mô hình lại bị
hiện tượng phương sai sai số thay đổi dẫn đến kết quả hồi quy cuối cùng được
xác định theo GLS.
Kết quả ước lượng theo GLS cho khẳng định tổng dòng tiền ròng càng cao
sẽ góp phần tạo nên sự lành mạnh hơn về tài chính, hay nói cách khác kiệt quệ
tài chính sẽ giảm, và ngược lại. Bên cạnh đó, kết quả ước lượng đã chỉ ra rằng
dòng tiền hoạt động kinh doanh và tài trợ ảnh hưởng đáng kể đến tình trạng
kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam, trong khi đó
dòng tiền hoạt động đầu tư không đảm bảo ý nghĩa thống kê. Song song đó là
kết quả hồi quy cũng khẳng định mối quan hệ bổ sung giữa dòng tiền hoạt động
134
kinh doanh với dòng tiền hoạt động tài trợ, quan hệ bổ sung giữa dòng tiền
hoạt động đầu tư với dòng tiền hoạt động kinh doanh đều có ý nghĩa thống kê
1% khi xem xét ảnh hưởng đến tình trạng kiệt quệ tài chính của các doanh
nghiệp niêm yết tại Việt Nam; trong khi đó quan hệ bổ sung giữa dòng tiền hoạt
động tài trợ với dòng tiền hoạt động đầu tư không đảm bảo ý nghĩa thống kê
khi ảnh hưởng đến tình trạng kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp niêm yết
tại Việt Nam.
Ngoài ra, dòng tiền hoạt động kinh doanh tồn tại trong mối quan hệ bổ
sung với đòn bẩy tài chính, qua đó khẳng định rằng thặng dư từ dòng tiền hoạt
động kinh doanh sẽ điều tiết xoa dịu tác động cùng chiều của đòn bẩy tài chính
đến kiệt quệ tài chính, ngược lại sự thâm hụt dòng tiền hoạt động kinh doanh
sẽ làm tác động cùng chiều của đòn bẩy tài chính đến kiệt quệ tài chính trở nên
mạnh hơn.
135
Chương 5:
KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý, KHUYẾN NGHỊ
Chương 5 sẽ đúc kết lựa chọn mô hình đo lường kiệt quệ tài chính, mối quan
hệ ảnh hưởng của dòng tiền đến kiệt quệ tài chính, sự tham gia cấu thành của
dòng tiền khi nhận diện kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp phi tài chính
niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, qua đó trả lời các câu hỏi nghiên
cứu và xác định kết quả thực hiện mục tiêu nghiên cứu đã đề ra. Theo đó, chương
này sẽ đưa ra các gợi ý và khuyến nghị cho nhà quản trị tài chính doanh nghiệp
và chủ thể khác liên quan đến khả năng nhận diện kiệt quệ tài chính của các
doanh nghiệp dựa vào dòng tiền, cũng như gợi ý, khuyến nghị hướng quản trị
dòng tiền gắn với mục tiêu giảm thiểu nguy cơ kiệt quệ tài chính.
Ngoài ra, chương 5 cũng sẽ trình bày những hạn chế của đề tài nghiên cứu về
nhận diện kiệt quệ tài chính dựa vào dòng tiền, đồng thời đưa ra gợi ý hướng
nghiên cứu tiếp theo trong tương lai.
5.1. KẾT LUẬN
Đề tài nghiên cứu những khía cạnh ảnh hưởng của dòng tiền đến kiệt quệ tài
chính, qua đó để xuất mô hình nhận diện kiệt quệ tài chính có sự tham gia cấu
thành của dòng tiền cho trường hợp các doanh nghiệp Việt Nam, mẫu nghiên cứu
bao gồm 505 doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam trong thời gian 6 năm từ năm
2015 đến năm 2020 theo phương pháp chọn mẫu có mục đích. Với phương pháp
nghiên cứu định lượng, đề tài đã xác định được cụ thể như sau:
Thứ nhất, mô hình đo lường kiệt quệ tài chính cho trường hợp thực nghiệm
là các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tại Việt Nam
Đề tài khẳng định rằng: (i) Tồn tại sự khác biệt đáng kể về kết quả đo lường
kiệt quệ tài chính theo các mô hình khác nhau, chẳng hạn như 7 mô hình được tiếp
cận theo đề tài này là S-Score, X-Score, Z-Taffler, H-Score, G-Score, Z-Score và
O-Score; và (ii) S-Score là mô hình phù hợp nhất để áp dụng đo lường kiệt quệ tài
chính cho các doanh nghiệp.
136
Thứ hai, ảnh hưởng của dòng tiền đến kiệt quệ tài chính của các doanh
nghiệp phi tài chính niêm yết tại Việt Nam
- Tổng dòng tiền ròng ảnh hưởng đáng kể đến tình trạng kiệt quệ tài chính của
các doanh nghiệp, theo đó tổng dòng tiền ròng thặng dư góp phần giảm tình trạng
kiệt quệ tài chính, và ngược lại.
- Từng dòng tiền ảnh hưởng cho tình trạng kiệt quệ tài chính của các doanh
nghiệp, theo đó dòng tiền hoạt động kinh doanh ảnh hưởng ngược chiều, và dòng
tiền hoạt động tài trợ ảnh hưởng cùng chiều, trong khi đó, dòng tiền hoạt động đầu
tư không đảm bảo ý nghĩa thống kê.
- Mối quan hệ bổ sung giữa dòng tiền hoạt động kinh doanh với dòng tiền hoạt
động tài trợ, quan hệ bổ sung giữa dòng tiền hoạt động đầu tư với dòng tiền hoạt
động kinh doanh đều ảnh hưởng đáng kể đến tình trạng kiệt quệ tài chính của các
doanh nghiệp; trong khi đó quan hệ bổ sung giữa dòng tiền hoạt động tài trợ với
dòng tiền hoạt động đầu tư không đảm bảo ý nghĩa thống kê.
- Dòng tiền hoạt động kinh doanh thể hiện khả năng tạo tiền của doanh nghiệp
đóng vai trò điều tiết giảm tác động của đòn bẩy tài chính đến kiệt quệ tài chính
của doanh nghiệp, hay ngược lại quyết định sử dụng đòn bẩy tài chính trong điều
kiện không đảm bảo khả năng tạo tiền sẽ bổ sung làm cho kiệt quệ tài chính có thể
trở nên trầm trọng hơn.
Với những kết quả được tìm thấy về các khía cạnh ảnh hưởng của dòng tiền
đến kiệt quệ tài chính đã đúc kết ở trên, đề tài luận án khẳng định rằng dòng tiền
là một trong những thành phần quan trọng cần được xem xét trong các mô hình
nhận diện kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết nói riêng
và doanh nghiệp nói chung tại Việt Nam.
5.2. GỢI Ý, KHUYẾN NGHỊ
5.2.1. Lựa chọn sử dụng mô hình đo lường kiệt quệ tài chính
Kiệt quệ tài chính là một vấn đề tài chính quan trọng có nguồn gốc từ quyết
định sử dụng nợ, đòi hỏi người quản lý tài chính và các chủ thể hữu quan lựa chọn
mô hình đo lường phù hợp. Theo đúc kết về lựa chọn mô hình đo lường kiệt quệ
tài chính, để gia tăng tình trạng lành mạnh tài chính hay giảm thiểu nguy cơ kiệt
137
quệ tài chính, các công ty cần tập trung phân bổ vốn cho hoạt động kinh doanh
với những chiến lược cụ thể và gắn kết từng thành phần cấu thành vốn lưu động,
bao gồm quản trị tồn kho, các khoản phải thu và các khoản phải trả. Bên cạnh đó,
công ty cần chú trong các biện pháp gia tăng doanh thu và tiết kiệm chi phí để cải
thiện hơn nữa về kết quả kinh doanh, kết hợp đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn
để gia tăng cơ hội sinh lời của vốn.
Mặc dù mô hình S-Score được xác định là phù hợp nhất, nhưng tỷ lệ tổng hợp
các dạng sai lầm vẫn còn cao (13,76%), vì vậy, để sự lựa chọn vững chắc và tăng
thêm mức độ phù hợp, các nghiên cứu tiếp theo có thể chia nhỏ phạm vi không
gian nghiên cứu theo ngành của từng nhóm công ty. Đề tài luận án chỉ đánh giá
khả năng áp dụng mô hình với những thành phần không đổi so với phiên bản gốc
nên có thể chưa bao quát các khía cạnh tài chính theo đặc thù công ty, vì vậy các
nghiên cứu trong tương lai có thể mở rộng tiếp cận theo hướng phân tích hiệu
chỉnh hoặc bổ sung thành phần của các mô hình, chẳng hạn vấn đề về dòng tiền
cho các mô hình S-Score, X-Score, Z-Taffler, G-Score, Z-Score.
5.2.2. Dòng tiền và kiệt quệ tài chính
5.2.2.1. Nhận diện kiệt quệ tài chính có sự tham gia cấu thành của dòng tiền
Dựa vào kết quả nghiên cứu của luận án kết hợp với nhiều bằng chứng thực
nghiệm khác nhau về mô hình nhận diện kiệt quệ tài chính, tác giả cho rằng, để
nhận diện đáng tin cậy về tình trạng kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp Việt
Nam, không chỉ kế thừa các mô hình sẵn có như S-Score, X-Score, Z-Taffler, G-
Score, Z-Score, hay các mô hình khác, mà cần phải điều chỉnh để phù hợp với
từng trường hợp các doanh nghiệp phi tài chính tại Việt Nam. Theo đó, đề tài luận
án đề xuất bổ sung dòng tiền khi thực hiện nhận diện cũng như dự báo kiệt quệ tài
chính của các doanh nghiệp. Cụ thể hơn, nhận diện kiệt quệ tài chính dựa vào
dòng tiền cần quan tâm đến dòng tiền hoạt động kinh doanh, dòng tiền hoạt động
tài trợ, sự tương tác giữa dòng tiền hoạt động kinh doanh với dòng tiền hoạt động
tài trợ, sự tương tác giữa dòng tiền hoạt động đầu tư với dòng tiền hoạt động kinh
doanh, mô hình tổng hợp 3 dòng tiền để hình thành tổng dòng tiền ròng, và mối
138
quan hệ giữa mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính với khả năng tạo tiền thể hiện qua
dòng tiền hoạt động kinh doanh.
5.2.2.2. Giảm thiểu kiệt quệ tài chính dựa vào quản trị dòng tiền
Nghiên cứu thực nghiệm cho trường hợp các doanh nghiệp phi tài chính niêm
yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, kết quả nghiên cứu gợi ý, khuyến nghị
như sau:
Thứ nhất, Các doanh nghiệp cần quan tâm đến sự cân đối kết hợp của các
dòng tiền để tổng dòng tiền ròng có thể thặng dư và từ đó tăng số dư tiền tích lũy,
qua đó sẽ góp phần giảm thiểu tình trạng kiệt quệ tài chính. Đặc biệt, sự hình
thành của tổng dòng tiền ròng thặng dư bởi dòng tiền hoạt động kinh doanh, nhờ
thặng dư từ dòng tiền hoạt động kinh doanh mà các doanh nghiệp sẽ đảm bảo khả
năng trang trải cho dòng tiền chi ra cho hoạt động tài trợ thì doanh nghiệp sẽ có
tình hình tài chính lành mạnh và giảm thiểu tình trạng kiệt quệ tài chính; hay
doanh nghiệp cần phải giải quyết hài hòa quan hệ cân đối giữa xu hướng mở rộng
đầu tư với huy động nguồn tiền tài trợ từ bên ngoài đáp ứng nhu cầu mở rộng đầu
tư, điều này sẽ có thể giúp doanh nghiệp giảm được tình trạng kiệt quệ tài chính.
Kết quả nghiên cứu khẳng định mối quan hệ tương tác giữa các dòng tiền có
thể giải thích cho tình trạng kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp, kết quả này
hàm ý rằng các doanh nghiệp cần quan tâm và chủ động lập kế hoạch từng dòng
tiền, sau đó phân tích mô phỏng mối quan hệ giữa các dòng tiền để nhận diện sự
kết hợp hợp lý giữa các dòng tiền, có ý nghĩa tích cực đến sự lành mạnh tài chính
của doanh nghiệp.
Thứ hai, với dòng tiền hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp cần tăng cường
các biện pháp để đảm bảo có được thặng dư từ dòng tiền hoạt động kinh doanh thì
tình trạng kiệt quệ tài chính sẽ giảm, sức khỏe tài chính của doanh nghiệp sẽ lành
mạnh hơn.
Kết quả nghiên cứu khẳng định rằng khả năng tạo tiền là vấn đề có ý nghĩa
sống còn đối với sự tồn tại và phát triển bền vững của một doanh nghiệp, không
tạo ra được tiền thì các doanh nghiệp dễ rơi vào tình trạng kiệt quệ tài chính, gia
tăng mức độ phụ thuộc vào các nguồn tài trợ từ bên ngoài hoặc phải chấp nhận
139
thu hẹp hoạt động đầu tư. Để đảm bảo khả năng tạo tiền, các doanh nghiệp cần
thường xuyên đánh giá chu kỳ vốn lưu động trong chu kỳ kinh doanh nhằm xác
định biện pháp thích hợp cho mục tiêu gia tăng hiệu quả tiết kiệm vốn lưu động,
qua đó gia tăng dòng tiền hoạt động kinh doanh và góp phần gia tăng khả năng chi
trả các khoản nợ vay đến hạn trong kỳ. Với mục tiêu tiết kiệm vốn lưu động, các
doanh nghiệp tìm cách có thể rút ngắn thời gian luân chuyển tồn kho, hoặc rút
ngắn thời gian thu tiền bán hàng, hoặc gia tăng thời gian trả tiền mua hàng.
- Doanh nghiệp có thể rút ngắn hạn thời gian luân chuyển tồn kho bằng cách
điều chỉnh chính sách mua hàng và theo dõi chặt chẽ hàng mua đang đi
đường, đổi mới công nghệ và tuyển dụng lao động với trình độ chuyên môn
phù hợp để rút ngắn thời gian sản xuất sản phẩm, hoặc đẩy nhanh tiêu thụ sản
phẩm sau khi hoàn tất sản xuất bằng cách tăng cường quảng cáo, giới thiệu
sản phẩm đến khách hàng. Đối với sản phẩm, hàng hóa đang bị ứ đọng, nhà
quản trị tài chính cần chủ động thanh lý, thậm chí chấp nhận thiệt hại vì giá
bán thấp để đẩy nhanh quá trình luân chuyển đồng vốn.
- Doanh nghiệp có thể rút ngắn thời gian thu tiền bán hàng bằng cách nâng
cao chất lượng sản phẩm, áp dụng chiết khấu thanh toán hấp dẫn cho khách
hàng, xây dựng bộ tiêu chuẩn bán chịu phù hợp với điều kiện cụ thể trong
từng giai đoạn hoạt động của doanh nghiệp, và quản trị các khoản phải thu
một cách chặt chẽ trên cơ sở theo dõi, nhắc nhở khách hàng để đảm bảo thu
hồi đúng hạn hoặc chủ động nghiên cứu và tiếp cận nghiệp vụ bao thanh toán
(factoring) để thu được tiền bán hàng cho dù chưa đến ngày đáo hạn.
- Doanh nghiệp có thể kéo dài thời gian trả tiền mua hàng bằng cách đa dạng
hóa nhà cung cấp để gia tăng cơ hội mua chịu hàng hóa, dịch vụ, hoặc tích
cực đàm phán với nhà cung cấp, chú trọng bảo vệ uy tín và củng cố vị thế tín
dụng thông qua chứng minh năng lực tài chính và thiện chí trả nợ.
Dưới góc độ quản trị tài chính, các doanh nghiệp thường tập trung tìm kiếm
biện pháp rút ngắn thời gian luân chuyển tồn kho để rút ngắn chu kỳ vốn lưu động
thay vì rút ngắn thời gian thu tiền bán hàng có thể ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt
động tiêu thụ sản phẩm bởi áp lực cạnh tranh từ bên ngoài, hoặc kéo dài thời gian
140
trả tiền mua hàng có thể mất đi khoản chiết khấu thanh toán được hưởng. Vì vậy,
để có sự lựa chọn biện pháp thích hợp hướng đến mục tiêu tiết kiệm vốn lưu động,
nhà quản trị tài chính cần tiến hành phân tích lợi ích và chi phí khi ra quyết định
tồn kho, quyết định bán chịu và quyết định mua chịu.
Thứ ba, với dòng tiền hoạt động đầu tư, kết quả chưa rõ ràng gợi ý rằng các
doanh nghiệp không chỉ quan tâm đến xu hướng thay đổi quy mô đầu tư mà còn
phải tích cực tìm kiếm biện pháp nhằm đảm bảo gia tăng hiệu quả đầu tư, theo đó
để quyết định đầu tư hợp lý và đạt hiệu quả cao, đáp ứng kỳ vọng của quản trị tài
chính, doanh nghiệp cần (i) xây dựng và tuân thủ đúng quy trình ra quyết định đầu
tư, (ii) có chiến lược phân bổ vốn đầu tư hợp lý và kiểm soát chặt chẽ hoạt động
đầu tư trái ngành, và (iii) có kế hoạch bảo hành, bảo dưỡng và đánh giá lại công
suất khai thác theo định kỳ, ngoài ra trong một số trường hợp doanh nghiệp cần
tiến hành rà soát lại cơ cấu tài sản hiện có nhằm kịp thời thanh lý những tài sản cố
định dư thừa, kém luân chuyển, hoặc có thể thanh lý các khoản đầu tư tài chính
hiện có với mức giá thị trường phù hợp
Thứ tư, với dòng tiền hoạt động tài trợ, kết quả khẳng định gia tăng huy động
thêm nguồn tiền tài trợ từ bên ngoài là mối đe dọa cho sức khỏe tài chính, có thể
làm gia tăng tình trạng kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp, vì vậy các doanh
nghiệp cần thận trọng phân tích hiệu quả tài chính từ các nguồn tài trợ tăng thêm
từ bên ngoài trước khi ra quyết định.
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng doanh nghiệp gia tăng huy động nguồn tiền tài
trợ từ bên ngoài sẽ là mối đe dọa cho sự lành mạnh tài chính của doanh nghiệp,
gia tăng khả năng xảy ra tình trạng kiệt quệ tài chính; vì vậy các doanh nghiệp cần
chú trọng khai thác nội lực, tăng cường tích lũy vốn từ kết quả hoạt động kinh
doanh để có nguồn tài trợ bên trong. Xuất phát từ nhu cầu đầu tư tăng thêm với
những kỳ vọng hợp lý về lợi ích, nếu doanh nghiệp phải gia tăng nguồn tài trợ bên
ngoài thì doanh nghiệp cần phân tích kỹ lưỡng chi phí có thể phát sinh tăng thêm,
qua đó cân đối hợp lý giữa lợi ích và chi phí; hay doanh nghiệp cần phải chủ động
tìm hiểu và mở rộng lựa chọn kênh huy động các nguồn tài trợ bên ngoài khác
nhau, chẳng hạn như hình thức vay nợ ngắn hạn thông qua phát hành thương
141
phiếu (commercial paper), thuê tài chính, phát hành trái phiếu thông thường hoặc
trái phiếu chuyển đổi thay vì chỉ phụ thuộc vào hình thức vay nợ truyền thống từ
ngân hàng thương mại.
Ngoài ra, sự tương thích giữa cơ cấu nguồn vốn và cơ cấu tài sản là cơ sở rất
quan trọng giúp doanh nghiệp giải quyết hợp lý đối với bài toán đánh đổi giữa lợi
nhuận và rủi ro. Các doanh nghiệp cần chủ động điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn dựa
vào cơ cấu tài sản để không rơi vào tình trạng mất cân đối cơ cấu tài chính, rủi ro
thanh toán cao, nhưng cũng không duy trì quá nhiều nguồn vốn dài hạn so với
mức thực sự cần thiết của hoạt động chính để đảm bảo tiết kiệm chi phí sử dụng
vốn và không xảy ra hiện tượng dư thừa vốn dẫn đến đầu tư trái ngành tràn lan,
khó kiểm soát rủi ro và hiệu quả đầu tư thấp.
Với quyết định gia tăng vay nợ, doanh nghiệp cần thực sự chủ động nhận diện
và đánh giá rủi ro tài chính nói chung và rủi ro kiệt quệ tài chính nói riêng; sau đó
thiết lập các biện pháp phòng ngừa rủi ro và thường xuyên theo dõi, giám sát để
có những điều chỉnh kịp thời.
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu còn gợi ý rằng doanh nghiệp cần chú ý đến sự
bất lợi kinh tế vì quy mô, thực hiện chiến lược tăng trưởng quy mô trong giới hạn
khả năng kiểm soát và tích cực tích lũy kinh nghiệm hoạt động cũng như quản trị
rủi ro nhằm giả thiểu khả năng xảy ra kiệt quệ tài chính cho bản thân doanh
nghiệp.
5.3. HẠN CHẾ VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO CỦA ĐỀ TÀI
5.3.1. Hạn chế của đề tài
Đề tài xác định nghiên cứu kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam
dựa vào dòng tiền, tuy nhiên mẫu nghiên cứu chỉ giới hạn 505 doanh nghiệp phi
tài chính niêm yết tại Việt Nam từ năm 2015 đến năm 2020, như vậy, đề tài chưa
bao quát hết các doanh nghiệp Việt Nam nói chung; ngoài ra, thời gian nghiên cứu
còn ngắn, chỉ trong giai đoạn 6 năm. Sự hạn chế này có thể là lý do dẫn đến kết
quả kém ý nghĩa của dòng tiền hoạt động đầu tư, hoặc yếu tố này có thể tác động
có độ trễ bởi tính chất của các khoản đầu tư dài hạn.
142
Mặc dù đề tài đã thêm tiếp cận bổ sung thêm một số yếu tố với vai trò biến
kiểm soát nhưng vẫn chưa bao quát đa dạng các yếu tố đặc điểm doanh nghiệp và
chưa xem xét liệu có thể có sự điều tiết bởi các yếu tố môi trường tài chính, môi
trường thuế hay các vấn đề vĩ mô như tăng trưởng kinh tế, lạm phát,… đối với
việc quản trị dòng tiền trong mối quan hệ với mục tiêu kiểm soát tình trạng kiệt
quệ tài chính của các doanh nghiệp.
5.3.2. Hướng nghiên cứu tiếp theo
Các nghiên cứu trong tương lai có thể thực hiện kéo dài thêm phạm vi thời
gian và mở rộng thêm phạm vi không gian để tăng thêm tính đại diện cho mẫu
nghiên cứu. Tuy nhiên, các nghiên cứu trong tương lai có thể được thực hiện phân
chia các nhóm doanh nghiệp theo ngành, theo quy mô, hay theo cấu trúc sở
hữu,....; hoặc phân chia giai đoạn gắn với sự thay đổi của các yếu tố môi trường
kinh doanh, môi trường tài chính hay các yếu tố kinh tế vĩ mô.
Ngoài 7 mô hình đo lường kiệt quệ tài chính đã sử dụng, các nghiên cứu trong
tương lai có thể xem xét đến một số mô hình đo lường khác, hoặc các mô hình có
điều chỉnh, chẳng hạn như Z-Score điều chỉnh theo phiên bản năm 1984, năm
1995,…
------------------------------------------------------------------
143
TÓM TẮT CHƯƠNG 5
Chương 5 đã rút ra kết luận về: (i) Sự khác biệt đáng kể giữa các mô hình
đo lường kiệt quệ tài chính và mô hình S-Score là phù hợp nhất, (ii) các khía
cạnh ảnh hưởng của dòng tiền đến kiệt quệ tài chính, từ đó khẳng định việc
nhận diện kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam dựa vào dòng tiền,
khẳng định không chỉ ảnh hưởng độc lập của từng dòng tiền mà còn mối quan
hệ bổ sung giữa các dòng tiền và vai trò điều tiết của dòng tiền hoạt động kinh
doanh đối với tác động của đòn bẩy tài chính đến kiệt quệ tài chính của các
doanh nghiệp.
Căn cứ kết quả nghiên cứu, chương 5 cũng đưa ra các gợi ý, khuyến nghị về
việc nhận diện kiệt quệ tài chính có sự cấu thành của dòng tiền, và gợi ý cho các
nhà quản trị tài chính để đảm bảo quản trị dòng tiền gắn với mục tiêu giảm
thiểu cũng như kiểm soát được tình trạng kiệt quệ tài chính cho các doanh
nghiệp khi có sử dụng đòn bẩy tài chính; hay các nhà đầu tư và chủ thể khác có
thể căn cứ thông tin dòng tiền để nhận diện tình trạng kiệt quệ tài chính của
các doanh nghiệp, qua đó có được thông tin ra quyết định hợp lý và đảm bảo
mục tiêu đề ra.
Cuối cùng, chương này đã khái quát các hạn chế của đề tài, từ đó đã đưa ra
gợi cho hướng nghiên cứu tiếp theo liên quan đến phạm vi nghiên cứu theo
thời gian và không gian, cách tiếp cận và xử lý vấn đề nghiên cứu và sự mở rộng về nội dung nghiên cứu.
144
TÀI LIỆU THAM KHẢO
----------------------
1. Abdioğlu, N. (2019). The Impact of Firm Specific Characteristics on The
Relation Between Financial Distress and Capital Structure Decisions, Journal
of Business Research-Turk, 11 (2), 1057-1067.
2. Aderin, A., & Amede, O. (2022). Cash Flow Patterns and Financial Distress
Prediction. The Journal of Accounting and Management, 12(1), 45-56.
3. Altman, E. I. (1968), Financial Ratios, Discriminant Analysis and The
Prediction of Corporate Bankruptcy, The Journal of Finance, Vol 23, Issue 4,
pp. 589-609.
4. Aminian, A., Mousazade, H. & Khoshkho, O. I. (2016), Investigate the Ability
of Bankruptcy Prediction Models of Altman and Springate and Zmijewski and
Grover in Tehran Stock Exchange, Mediterranean Journal of Social Sciences
(MCSER Publishing, Rome-Italy), Vol. 7, No. 4, pp. 208-214.
5. Andriani, F. & Sihombing, P. (2021), Comparative Analysis of Bankruption
Prediction Models in Property and Real Estate Sector Companies Listed on the
IDX 2017-2019, European Journal of Business and Management Research,
Vol 6, Issue 1, pp. 170-173.
6. Arnold, G. (2013), Corporate financial management (Fifth edition), Pearson
Education Limited (England).
7. Atrill, P. & McLaney, E. (2004), Accounting and finance for non-specialists,
4th ed. placeEssex: FT Prentice Hall, page 124.
8. Bărbută-Misu, N. & Madaleno, M. (2020), Assessment of Bankruptcy Risk of
Large Companies: European Countries Evolution Analysis, Journal of Risk
and Financial Management, Vol. 13, No. 3, pp. 1-28.
9. Baumol, W. J. (1952). The transactions demand for cash: An inventory
theoretic approach. The Quarterly journal of economics, 545-556.
10. Beck, N., & Katz, J. N. (1995). What to do (and not to do) with time-series
cross-section data. American political science review, 89(3), 634-647.
145
11. Bhunia, A. & cộng sự (2011), Prediction of Financial Distress - A Case Study
of Indian Companies, Asian Journal of Business Management, 3 (3), pp. 210-
218.
12. Bhunia, A. & Mukhuti, S. (2012), Financial risk measurement of small and
medium-sized companies listed in Bombay Stock Exchange, International
Journal of Advances in Management and Economics, 1 (3), 27-34.
13. Brealey, R. A., Myers, S. C., & Allen, F. (2008), Principles of Corporate
Finance (Ninth edition), Mc Graw – Hill International Edition (Printed in
Singapore).
14. Ceylan, I. E. (2021), The Impact of Firm-Specific and Macroeconomic Factors
on Financial Distress Risk: A Case Study from Turkey, Universal Journal of
Accounting and Finance, Vol 9, Issue 3, pp. 506-517
15. CFA Institute (2020), Financial Reporting and Analysis, CFA Program
Curriculum Level 1, Volume 3.
16. Dance, M. & Mad, S. I. (2019), Financial ratio analysis in predicting financial
conditions distress in Indonesia Stock Exchange, Russian Journal of
Agricultural and Socio-Economic Sciences, 2 (86), 155-165.
17. Dickinson, V. (2011), Cash Flow Patterns as a Proxy for Firm Life Cycle, The
Accounting Review, 86 (6), 1969-1994.
18. Dirman, A. (2020), Financial Distress: The Impacts of Profitability, Liquidity,
Leverage, Firm Size, and Free Cash Flow, International Journal of Business,
Economics and Law, 22 (1), 17-25.
19. Ditasari, R. A, Triyono & Sasongko, N. (2019), Comparison of Altman,
Springate, Zmijewski and Grover Models in Predicting Financial Distress on
Companies of Jakarta Islamic Index (JII) on 2013-2017, International Summit
on Science Technology and Humanity, p-ISSN: 2477-3328, e-ISSN: 2615-
1588, pp. 490-504.
20. Dolejšová, M. (2015), Is it worth comparing different bankruptcy models?,
Acta Universitatis Agriculturae et Silviculturae Mendelianae Brunensis, Vol.
63, No. 2, 525–531.
146
21. Dwiantari, R. A. & Artini, L. G. S. (2021), The Effect of Liquidity, Leverage,
and Profitability on Financial Distress (Case Study of Property and Real Estate
Companies on the IDX 2017-2019), American Journal of Humanities and
Social Sciences Research, Vol 5, Issue 1, pp. 367-373.
22. Ehrhardt, M. C. & Brigham, E. F. (2011), Financial Management: Theory and
Practice (13th Edition), South-Western Cengage Learning (USA).
23. Elviani, S., Simbolon, R., Riana, Z., Khairani, F., Dewi, S. P. & Fauzi (2020),
The Accuracy of the Altman, Ohlson, Springate and Zmejewski Models in
Bankruptcy Predicting Trade Sector Companies in Indonesia, Budapest
International Research and Critics Institute-Journal (BIRCI-Journal), Volume
3, No 1, pp. 334-347.
24. Erik R.Larsen, Annvan Ackere và Sebastian Osorio (2018), Can electricity
companies be too big to fail?, https://doi.org/10.1016/j.enpol.2018.05.010 hoặc
https://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S0301421518303021 [truy
cập ngày 09/01/2021]
25. Fachrudin, K. A. (2020), The Relationship between Financial Distress and
Financial Health Prediction Model: A Study in Public Manufacturing
Companies Listed on Indonesia Stock Exchange (IDX), Indonesian Journal of
Accounting and Finance, Vol. 22, No. 1, 18-27.
26. Fadrul & Ridawati (2020), Analysis of Method Used to Predict Financial
Distress Potential in Pulp and Paper Companies of Indonesia, International
Journal of Economics Development Research, Volume I (1), pp. 57-69.
27. Fauzi, S. E., Sudjono & Saluy, A. B. (2021), Comparative Analysis of
Financial Sustainability Using the Altman Z-score, Springate, Zmijewski and
Grover Models for Companies Listed at Indonesia Stock Exchange Sub-Sector
Telecommunication Period 2014-2019, Journal of Economics and Business
(The Asian Institute of Research), Vol. 4, No. 1, pp. 57-78.
28. Fawzi, N., Amrizah, K. & Zuraidah, MS (2015), Monitoring Distressed
Companies through Cash Flow Analysis, Procedia Economics and Finance,
28, 136-144.
147
29. Finishtya, F. C. (2019), The role of cash flow of operational, profitability, and
financial leverage in predicting financial distress on manufacturing company
in Indonesia, Journal of Applied Management (JAM), 17 (1), 110-117.
30. Fredy, H. (2018), The prediction of bankruptcy in the pulp and paper industry
company listed in Indonesia Stock Exchange on 2011-2016 period using Z-
score Altman, Springate and Grover model, South-East Asia Journal of
Contemporary Business, Economics and Law, Vol. 15, Issue 5, pp. 52-62.
31. Fridson, M. S, & Alvarez, F. (2022), Financial Statement Analysis Workbook
– A Practitioner’s Guide, Wiley (Canada).
32. Giarto, R. V. D. & Fachrurrozie (2020), The Effect of Leverage, Sales
Growth, Cash Flow on Financial Distress with Corporate Governance as a
Moderating Variable, Accounting Analysis Journal, 9 (1), 15-21.
33. Greene, W. H. (2018). Econometric Analysis (8th Edition). Pearson (New
York).
34. Gujarati, D. N. (2008). Basic Econometrics (5th Edition). McGraw-Hill
Education.
35. Hair, J. F., Black, W. C., Babin, B. J., Anderson, R. E. & Tatham, R. L.
(2006). Multivirate Data Analysis. New Jersey: Pearson Education Inc.
36. Hertina, D., Kusmayadi, D. & Yulaeha (2020), Comparative analysis of the
Altman, Springate, Grover and Zmijewski models as predicting financial
distress, Palarch’s Journal of Archaeology of Egypt/Egyptology, Vol. 17, No.
5, pp. 552-561.
37. Hoàng Tùng (2011), Phân tích rủi ro tín dụng doanh nghiệp bằng mô hình
Logistic, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng, số 2 (43) năm
2011.
38. Horne, J. C. V. và Wachowicz, Jr, J. M. (2008), Fundamentals of Financial
Management (13th edition). Prentice Hall.
39. Huang, J. C., Lin, H. C., & Huang, D. (2022). The Effect of Operating Cash
Flow on the Likelihood and Duration of Survival for Marginally Distressed
Firms in Taiwan. Sustainability, 14(24), 17024.
148
40. Iskandar, D. & Prihanto, H. (2019), Analysis of Financial Performance in
Predicting Financial Distress in Mining Companies, Saudi Journal of
Economics and Finance, 3 (12), 601-609.
41. Januri, Sari, E. N. & Diyanti, A. (2017), The Analysis of the Bankruptcy
Potential Comparative by Altman Z-Score, Springate and Zmijewski Methods
at Cement Companies Listed in Indonesia Stock Exchange, IOSR Journal of
Business and Management, Volume 19, Issue 10. Ver. VI, pp 80-87.
42. Jooste, L. (2007), An evaluation of the usefulness of cash flow ratios to predict
financial distress, Acta Commercii, 7 (1), 1-13.
43. Kanapickiene, R. & Marcinkevicius, R. (2014), Possibilities to apply classical
bankruptcy prediction models in the construction sector in Lithuania,
Economics and Management, Vol. 19, No. 4, pp. 317-332.
44. Karbhari, Y. & Sori, Z. M. (2004), Prediction of Corporate Financial Distress:
Evidence from Malaysian Listed Firms during the Asian Financial Crisis,
Social Science Electronic Publishing, 358-369. Available at
SSRN: https://ssrn.com/abstract=596607
45. Keynes, J. M. (1936), The general theory of employment, investment, and
money, Harcourt Brace, London (UK).
46. Klammer, T. (2017), Statement of Cash Flows: Preparation, Presentation, and
Use, Wiley (USA).
47. Kordestani, G. & cộng sự (2011), Ability of combinations of cash flow
components to predict financial distress, Verslas: Teorija ir Praktika Business:
Theory and practice, 12(3), 277–285.
48. Kordestani, G., Biglari, V., & Bakhtiari, M. (2011), Ability of combinations of
cash flow components to predict financial distress, Business: Theory and
practice, 12 (3), 277–285.
49. Kusnanto, E. (2023). Influence of Intellectual Capital and Institutional
Ownership at Financial Distress with Cash Flow Operating as Intervening
Variable. Journal of Information Systems and Management (JISMA), 2(1), 48-
64.
149
50. Lakshan, M. I. & Wijekoon, W. M. H. N. (2013), The Use of Financial Ratios
in Predicting Corporate Failure in Sri Lanka, GSTF Journal on Business
Review (GBR), 2 (4), 180-185.
51. Lê Cao Hoàng Anh & Nguyễn Thu Hằng (2012), Kiểm định mô hình chỉ số Z
của Altman trong dự báo thất bại doanh nghiệp tại Việt Nam, Tạp chí Công
nghệ Ngân hàng, 74 , 3-9.
52. Lee, D & Manual, V. S. (2019), A Study on Effect of Capital Structure on the
Financial Distress of Non-Financial Companies Listed in Bursa Malaysia
Stock Exchange (KLSE), International Journal of Academic Research in
Business and Social Sciences, 9 (6), 428–450.
53. Lee, T. A. (1986), Towards a Theory and Practice of Cash Flow Accounting,
Garland Publishing, Inc. New York and London.
54. Lessambo, F. I. (2022), Financial Statements – Analysis, Reporting and
Valuation, Palgrave Macmillan (USA).
and finite-sample properties. Journal of Econometrics, 108, 1-24.
55. Levin, A., C.F. Lin and C.S.J. Chu (2002). Unit root tests in panel data: asymptotic
56. Loppies, L. S., Esomar, M. J. F. & Turukay, E. (2020), Bankcrutpcy prediction
analysis using Altman Z-score, Grover model and Springate S-score (A study
in retail companies listed in Indonesia Stock Exchange 2014-2018 period),
Journal of Critical Reviews, Vol 7, Issue 12, pp. 2769-2776.
57. Low, SW., Nor, F. M. & Yatim, P. (2001), Predicting corporate financial
distress using the logit model: The case of Malaysia, Asian Academy of
Management Journal. 6 (1), 49-61.
58. Mahdi Salehi và Bizhan Abedini (2009), Financial Distress Prediction in
Emerging Market: Empirical Evidences from Iran, Business Intelligence
Journal - August, 2009 Vol. 2 No. 2
59. Mardaconsita & Soelton, M. (2019), Analysis of Accuracy Level of Altman Z-
Score Model and Springate Model in Measuring the Potential of Financial
Distress in Plantations Industries, International Journal of Economics and
Financial Research, Vol. 5, Issue. 2, pp. 16-25.
150
60. Moghaddam, R. J. & Filsaraei, M. (2016), The Impact of Corporate
Governance Characteristics on the of Financial Distress, International Finance
and Banking, 3 (2), 162-176.
61. Mohammadi, S. (2016), Studying the Efficiency and the Power of Predicting
Bankruptcy of Firms Listed on the Stock Exchange using Springate, Fulmer,
and Zavgren Models, Mediterranean Journal of Social Sciences (MCSER
Publishing, Rome-Italy), Vol. 7, No. 4, pp. 124-130.
62. Muien, H. M., Nordin, S. B., & Badru, B. O. (2022). The Impact of Financial
and Macroeconomic Variables on Financial Distress: Evidence from Pakistani
Market. Pakistan Journal of Humanities & Social Sciences Research, 05 (01),
129-147.
63. Mulyati, S. & Ilyasa, S. (2020), The Comparative Analysis of Altman Z-Score,
Springate, Zmijewski, And Internal Growth Rate Model in Predicting the
Financial Distress (Empirical Study on Mining Companies Listed on Indonesia
Stock Exchange 2014-2017), KINERJA: Journal of Business and Economics,
Volume 24, No. 1, pp. 82-95.
64. Myers, S. C. (1977), Determinants of corporate borrowing, Journal of
Financial Economics, Vol 5, Issue 2, pp.147-175
65. Nagle, C. & O’Connor, J. (2010), Cash is King, Managing Cash Flow,
https://www.crowleysdfk.ie/wp-content/uploads/2010/03/Managing-Cash-
Flow-Edited-Presentation-for-Website.pdf [truy cập ngày 01/08/2020]
66. Ngô Kim Phượng và các cộng sự (2018), Phân tích tài chính doanh nghiệp
(tái bản lần 4), NXB Kinh tế TP. HCM
67. Ngô Kim Phượng, Lê Hoàng Vinh, Lê Thị Thanh Hà & Lê Mạnh Hưng
(2021), Phân tích tài chính doanh nghiệp (Tái bản lần 5), Nhà xuất bản Tài
chính (Việt Nam).
68. Ningsih, S. & Permatasari, F. F. (2018), Analysis Method of Altman Z Score
Modifications to Predict Financial Distress on The Company Go Public Sub
Sector of The Automotive and Components, International Journal of
Economics, Business and Accounting Research, Vol 2, Issue 3, pp. 36-44.
151
69. Noor, M. F. (2020), Predicting Solvency of Non-Banking Financial
Institutions in Bangladesh by Using Springate & Fulmer Model, Journal of
Management and Economic Studies, 2(1), 51-69.
70. Ohlson, J. A. (1980), Financial Ratios and the Probabilistic Prediction of
Bankruptcy, Journal of Accounting Research, 18 (1), 109-131.
71. Oktasari, D. P. (2020), The Effect of Liquidity, Leverage and Firm Size of
Financial Distress, East African Scholars Multidisciplinary Bulletin, 3 (9),
293-297.
72. Ong’era, J. B., Muturi, W., Oluoch, O. & Karanja, J. N. (2017), Leverage as
Financial Antecedent to Financial Distress among Listed Companies at
Nairobi Securities Exchange, Research Journal of Finance and Accounting, 8
(6), 95-104.
73. Pakdaman, H. (2018), Investigating the Ability of Altman and Springate and
Zmijewski and Grover Bankruptcy Prediction Models in Tehran Stock
Exchange, Revista Espacios, Vol. 39, No. 14, pp. 33-42.
74. Paramartha, P. A. & Wiagustini, N. L. P. (2021), Determination of Financial
Distress in Manufacturing Companies on the Indonesia Stock Exchange,
International Journal of Management Studies and Social Science Research,
Vol 3, Issue 3, pp. 201-208.
75. Phạm Thị Hồng Vân (2018), Đo lường khả năng kiệt quệ tài chính tại các công
ty cổ phần ngành công nghiệp ở Việt Nam, Tạp chí Kinh tế & Phát triển, 255,
32-41.
76. Phạm Thị Hồng Vân (2018), Đo lường khả năng kiệt quệ tài chính của các
công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán, https://tapchitaichinh.vn/kinh-
te-vi-mo/do-luong-kha-nang-kiet-que-tai-chinh-cua-cac-cong-ty-niem-yet-
tren-thi-truong-chung-khoan-133913.html [Truy cập: Ngày 16/03/2021]
77. Pouraghajan, A. & cộng sự (2014), Investigating Impact of Combining
Components of Cash Flow Statement on Financial Distress of Firms Accepted
at Tehran Stock Exchange, Applied mathematics in Engineering, Management
and Technology, 2 (6), pp. 84-92.
152
78. Pourali, M. R., Samadi, M. & Karkani, E. (2013), The study of relationship
between capital intensity and financial leverage with degree of financial
distress in companies listed in Tehran Stock Exchange, International Research
Journal of Applied and Basic Sciences, 4 (12), 3830-3839.
79. Pranowo, K., Achsani, N. A., Manurung, A. H. & Nuryartono, N. (2010),
Determinant of Corporate Financial Distress in an Emerging Market
Economy: Empirical Evidence from the Indonesian Stock Exchange 2004-
2008, International Research Journal of Finance and Economics, Issue 52, pp.
81-90
80. Prasetiyani, E. & Sofyan, M. (2020), Bankruptcy Analysis Using Altman Z-
Score Model and Springate Model in Retail Trading Company Listed in
Indonesia Stock Exchange, Ilomata International Journal of Tax &
Accounting, Vol. 1, No. 3, pp. 139-144.
81. Rahman, M., Sa, C. L., & Masud, M. A. K. (2021). Predicting firms’ financial
distress: an empirical analysis using the F-score model. Journal of Risk and
Financial Management, 14(5), 199.
82. Robot, S. (2013), The application of bankruptcy prediction analysis using
Altman Z-score and Springate methods at PT. Gudang Garam Tbk, Jurnal
EMBA, Vol.1 No.4, 630-636.
83. Roe, M. J. (2014), Structural corporate degradation due to too-big-to-fail
finance, University of Pennsylvania Law Review, Vol. 162, 1419-1464.
84. Romadhina, A. P., Fitriani, M. N., & Andhitiyara, R. (2022). The effect of
cash flow and currency exchange rate on financial distress. Jurnal Akuntansi
Dan Perpajakan Jayakarta, 3(02), 146-167.
85. Roslan, N. H., Rus, R. Md, & Rozzani, N. (2022). Determinants of cash flows
towards financial distress prediction among manufacturing companies in
Malaysia. International Journal of Social Sciences and Management Review,
05 (01), 195-206.
153
86. Salehi, M. & Abedini, B. (2009), Financial Distress Prediction in Emerging
Market: Empirical Evidences from Iran, Business Intelligence Journal, 2 (2),
398-409.
87. Sayari, N. & Mugan, F. N. C. S. (2013), Cash Flow Statement as an Evidence
for Financial Distress, Universal Journal of Accounting and Finance, 1 (3),
95-103.
88. SBA – U.S. Small Business Administration (2016), Financial management for
a small business,
https://www.sba.gov/sites/default/files/articles/MSSB_Financial_Management
_Slides.pptx [truy cập ngày 01/08/2019]
89. Sembiring, E. E. (2022). Effect of Corporate Governance Mechanism and
Operating Cash Flow on Financial Distress. Jurnal Bisnis dan
Akuntansi, 24(2), 205-214.
90. Shalih, R. A. & Kusumawati, F. (2019), Prediction of financial distress in
manufacturing company: a comparative analysis of Springate model and
Fulmer model, Journal of Auditing, Finance, and Forensic Accounting, Vol. 7,
No. 2, 44 – 96.
91. Shamsudin, A. & Kamaluddin, A. (2015), Impeding bankruptcy: Examing
cash flow pattern of distress and healthy firm, Proscedia Economic &
Finance, 31, pp. 766-767
92. Sinarti & Sembiring, T. M. (2015), Bankruptcy Prediction Analysis of
Manufacturing Companies Listed in Indonesia Stock Exchange, International
Journal of Economics and Financial Issues, Vol. 5 (Special Issue), pp. 354-
359.
93. Soo-Wah Low và các cộng sự (2001), Predicting corporate financial distress
using the logit model: The case of Malaysia, Asian Academy of Management
Journal. 6(1): 49-61 (2001).
94. Springate, G. L., 1978. Predicting the Possibility of Failure in a Canadian
Firm: A Discriminant Analysis. Diss. Simon Fraser University. Doctoral
dissertation
154
95. Stephen H. Penman (2001), Financial Statement Analysis and Security
Valuation, MC Graw Hill Edition, page 308 – 334.
96. Suresh, N., Ligori, T. A. A., Khan, S. A. & Thoudam, P. (2019), Predicting
Financial Distress of Bhutan Telecom Limited, International Journal of
Innovative Technology and Exploring Engineering, Volume-8, Issue-8S3, pp
94-99.
97. Syamni, G., Majid, M. S. A. & Siregar, W. V. (2018), Bankruptcy Prediction
Models and Stock Prices of the Coal Mining Industry in Indonesia, Journal of
Economics, Vol. 17 (1), 57-68.
98. Tahu, G. P. (2019), Predicting financial distress of construction companies in
Indonesia: a comparison of Altman Z-score and Springate methods,
International Journal of Sustainability, Education, and Global Creative
Economic, Vol. 2, No. 2, pp 7-12.
99. Talebnia, G., Karmozi, F. & Rahimi, S. (2016), Evaluating and comparing the
ability to predict the bankruptcy prediction models of Zavgren and Springate
in companies accepted in Tehran Stock Exchange, Marketing and Branding
Research, Vol. 3, pp. 137-143.
100. Tan, E. & Wibisana, T. A. (2020), A comparative Analysis Altman (Z-
Score) Revision and Springate (SScore) Model in Predicting Financial Distress
in the Manufacturing Company - Indonesia Stock Exchange, Journal of
Reseacrh in Business, Economics, and Education, Vol. 2, Issue 4, pp. 831-841.
101. Tanjung, P. R. S. (2020), Comparative analysis of Altman Z-score,
Springate, Zmijewski and Ohlson models in predicting financial distress,
EPRA International Journal of Multidisciplinary Research, Volume 6, Issue 3,
pp. 126-137.
102. Tavor, T., Gonen, L. D., Weber, M., & Spiegel, U. (2018). The Modified
Baumol Equation: Theory and Evidence. Rev. Eur. Stud., 10, 25.
103. Trần Thị Hải Lý, Nguyễn Thị Hồng Trân & Nguyễn Ngọc Mi (2014), Sự
truyền tải thông điệp của dữ liệu phi cấu trúc trong dự báo kiệt quệ tài chính
155
của các doanh nghiệp Việt Nam, Tạp chí Phát triển và Hội nhập, 19 (29), 19-
27, 51.
104. Trịnh Thị Phan Lan (2013), Doanh nghiệp xây dựng – bất động sản: Rủi ro
từ đòn bẩy tài chính, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Kinh tế và
Kinh doanh, 29 (3), 68-74.
105. Turk, Z. & Kurklu, E. (2017), Financial failure estimate in BIST
companies with Altman (Z-score) and Springate (S-score) models, Journal of
Economics and Administrative Sciences, Vol. 1, Issue 1, pp. 1-14.
106. Viciwati (2020), Bankruptcy prediction analysis using the Zmijewski
model (Xscore) and the Altman model (Z-score), Dinasti International
Journal of Economics, Finance & Accounting, Volume 1, Issue 5, 794-806.
107. Victoria Dickinson (2011) Cash Flow Patterns as a Proxy for Firm Life
Cycle, The Accounting Review: November 2011, Vol. 86, No. 6, pp. 1969-
1994.
108. Wesa, E. W. & Otinga, H. N. (2018), Determinants of Financial Distress
among Listed Firms at The Nairobi Securities Exchange, Kenya, The Strategic
Journal of Business and Change Management, Vol 5, Issue 4, pp. 1057-1073.
109. Yamane, T. (1967), Statistics, An Introductory Analysis, New York: Harper
and Row Co. USA, 213, 25.
110. Yusuf Karbhari và Zulkarnain Muhamad Sori (2004), Prediction of
Corporate Financial Distress: Evidence from Malaysian Listed Firms during
the Asian Financial Crisis, SSRN Electronic Journal · September 2004,
https://www.researchgate.net/publication/228237873.
CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CÓ LIÊN QUAN
CỦA NGHIÊN CỨU SINH
-------------
1. Nhận diện kiệt quệ tài chính dựa vào dòng tiền của các doanh nghiệp niêm yết
trên Sở Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh, Tạp chí Công nghệ Ngân
hàng, số 150.
2. Các vấn đề tài chính xuất phát từ dòng tiền hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp niêm yết tại Việt Nam, Tạp chí Công Thương, số 7.
3. Ý nghĩa của dòng tiền đối với kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp niêm yết
tại Việt Nam, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng, số 217.
4. Financial distress and interaction among cash flows of non-financial firms listed
in Vietnam, International Conference on Business and Finance 2020 (UEH).
5. Kiệt quệ tài chính và dòng tiền của các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tại
Việt Nam, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng, số 226.
6. Mô hình nào phù hợp để đo lường kiệt quệ tài chính cho công ty phi tài chính
niêm yết tại Việt Nam?, Tạp chí Quản lý và Kinh tế Quốc tế, số 144.