BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

OUTHONE CHAOPHALYPHANH

PHÂN CẤP QUẢN LÝ TRONGĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG

CÁN BỘ, CÔNG CHỨC Ở CỘNG HÒA DÂN CHỦ

NHÂN DÂN LÀO

LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ CÔNG

BỘ NỘI VỤ BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

OUTHONE CHAOPHALYPHANH

PHÂN CẤP QUẢN LÝ TRONGĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG

CÁN BỘ, CÔNG CHỨC Ở CỘNG HÒA DÂN CHỦ

NHÂN DÂN LÀO

Chuyên ngành: Quản lý công

Mã số: 9 34 04 03

LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ CÔNG

Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS.TS. Võ Kim Sơn

2. TS. Nguyễn Duy Hạnh

ii

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận án này là công trình nghiên cứu của riêng tôi.

Các số liệu nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được

trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Nghiên cứu sinh

OUTHONE CHAOPHALYPHANH

iii

LỜI CẢM ƠN

Sau thời gian học tập và nghiên cứu tại Học viện Hành chính quốc gia

(Việt Nam), tôi đã hoàn thành luận án “Phân cấp trong quản lý đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào”.

Để hoàn thành Luận án này, tôi đã nhận được sự hướng dẫn của

PGS.TS. Võ Kim Sơn và TS. Nguyễn Duy Hạnh; sự giảng dạy của các thày

cô giáo của Học viện Hành chính quốc gia; sự giúp đỡ của cán bộ, đồng

nghiệp Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào. Tôi bày tỏ lòng biết

ơn chân thành và sâu sắc nhất tới 02 nhà khoa học hướng dẫn; cảm ơn lãnh

đạo Học viện Hành chính quốc gia, Ban Quản lý đào tạo Sau đại học, các thầy

cô giáo tại Học viện Hành chính quốc gia đã tạo điều kiện thuận lợi, tận tình

giúp đỡ, góp ý về chuyên môn trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.

Tôi gửi lời cảm ơn tới cán bộ, giảng viên Học viện Chính trị và Hành

chính quốc gia Lào đã giúp đỡ và hỗ trợ trong quá trình tác giả để thu thập số

liệu thực tiễn. Cảm ơn gia đình, bạn bè và các đồng nghiệp đã chia sẻ, hỗ trợ

về tài liệu, động viên về tinh thần trong suốt quá trình tác giả nghiên cứu.

Chân thành cảm ơn!

Tác giả luận án

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

1.CBCC : Cán bộ, công chức

2. CHDCND : Cộng hoà dân chủ nhân dân

3. ĐTBD : Đào tạo, bồi dưỡng

4. ĐTBD CBCC : Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

5. HĐND : Hội đồng nhân dân

6. NDCM : Nhân dân cách mạng

7. NS : Ngân sách

8. NSNN : Ngân sách nhà nước

9. QLNN : Quản lý nhà nước

10. UBND : Ủy ban nhân dân

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1

Chương 1.TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ..... 7

1.1. Các công trình nghiên cứu có liên quan ................................................... 7

1.1.1. Các công trình nghiên cứu về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức .... 7

1.1.2. Các công trình nghiên cứu về phân cấp quản lý nhà nước ................... 10

1.1.3. Các công trình nghiên cứu về phân cấp trong đào tạo, bồi dưỡng ...........

1.2. Đánh giá các công trình nghiên cứu có liên quan ................................... 19

1.2.1. Nhận xét ............................................................................................. 19

1.2.2. Định hướng nghiên cứu của luận án ................................................... 20

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ............................................................................... 22

Chương 2. CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ ĐÀO TẠO,BỒI

DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC .............................................................. 23

2.1. Một số vấn đề chung về phân cấp quản lý ............................................. 23

2.1.1. Khái niệm phân cấp quản lý ............................................................... 23

2.1.2. Các hình thức phân cấp quản lý .......................................................... 27

2.2. Phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ............... 39

2.2.1. Một số khái niệm liên quan ................................................................. 39

2.2.2. Sự cần thiết phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức ............................................................................................................. 43

2.2.3. Nguyên tắc phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức ............................................................................................................. 45

2.2.4. Chủ thể tham gia quản lý đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ............ 47

2.3. Nội dung và các yếu tố ảnh hưởng đến phân cấp quản lýtrong đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức .............................................................................. 49

2.3.1. Nội dung cơ bản về phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức ..................................................................................................... 49

2.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ, công chức ......................................................................................... 55

2.4. Thực tiễn phân cấp quản lý đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của

Việt Nam và kinh nghiệm cho Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ................... 57

2.4.1. Thực tiễn phân cấp quản lý đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của

Việt Nam ...................................................................................................... 57

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ............................................................................... 73

Chương 3. THỰC TRẠNG PHÂN CẤP QUẢN LÝ TRONG ĐÀO TẠO,

BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC Ở CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN

DÂN LÀO .................................................................................................... 74

3.1. Khái quát về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở Cộng hòa dân chủ

nhân dân Lào ................................................................................................ 74

3.1.1. Cơ sở chính trị, pháp lý về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ...... 74

3.1.3. Các chủ thể tham gia quản lý đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức .......... 77

3.2. Tình hình phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở

Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ................................................................... 81

3.2.1. Về các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức ................. 81

3.2.2. Về hệ thống cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức .................... 84

3.2.3. Về đội ngũ giảng viên đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức .............. 96

3.2.4. Về ngân sách cho đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức ................... 100

3.2.5. Phân cấp quản lý về văn bằng, chứng chỉ ......................................... 109

3.2.6. Phân cấp về kiểm tra, thanh tra đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức ........................................................................................................... 109

3.3. Đánh giá phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở

Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ................................................................. 110

3.3.1. Ưu điểm............................................................................................ 110

3.3.2. Hạn chế và nguyên nhân ................................................................... 115

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ............................................................................. 123

2

Chương 4. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH PHÂN CẤP

QUẢN LÝ TRONG ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC Ở

CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO ............................................. 124

4.1. Phương hướng đẩy mạnh phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ, công chức ............................................................................................. 124

4.1.1. Phương hướng phân cấp quản lý của Đảng Nhân dân cách mạng Lào và

của Nhà nước cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ........................................... 124

4.1.2. Định hướng phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức ........................................................................................................... 127

4.2. Một số giải pháp đẩy mạnh phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ, công chức ....................................................................................... 129

4.2.1. Phân công lại thẩm quyền quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức ................................................................................................... 129

4.2.2. Nâng cao nhận thức về phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ, công chức ............................................................................................. 133

4.2.3. Hoàn thiện thể chế về phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ, công chức ............................................................................................. 136

4.2.4. Mở rộng quyền tự chủ cho các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức ........................................................................................................... 139

4.2.5. Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, tăng cường đầu tư cơ sở vật

chất cho các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ........................... 144

4.2.6. Hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra đảm bảo việc phân cấp quản lý

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức......................................................... 147

TIỂU KẾT CHƯƠNG 4 ............................................................................. 150

KẾT LUẬN ................................................................................................ 151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... 153

3

DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ

Sơ đồ 3.1. Tổ chức bộ máy của Học viện Chính trị và Hành chínhQuốc gia

Lào ............................................................................................. 91

Bảng 3.1. Tổng hợp số lượng giảng viên của Học viện Chính trị và Hành

chính Quốc gia Lào .................................................................... 98

Bảng 3.2. Tổng hợp giảng viên của 18 Trường chính trị và hành chính

tỉnh ............................................................................................. 99

Bảng 3.3. Chi NSNN cho ĐTBD CBCC giai đoạn 2012 - 2016 ................. 104

Bảng 3.4. Chi NSNN cho ĐTBD CBCC xét theo tính chất kinh tế

(tỷ kip) ...................................................................................... 105

Bảng 3.5. Chi NSNN cho ĐTBD CBCC theo phân cấp ngân sách(giai đoạn

2012-2016) ............................................................................... 106

Bảng 3.6. Ngân sách chi cho cơ sở ĐTBD CBCC (triệu kip/biên

chế/năm) ................................................................................... 107

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, vai trò của Nhà nước nói chung và chính

quyền địa phương các cấp trong quản lý, điều hành kinh tế - xã hội cần phải

được thay đổi cho phù hợp với điều kiện mới, Trung ương cần tập trung vào việc

thực hiện nhiệm vụ quản lý vĩ mô, tăng cường phân cấp nhiều hơn, rõ hơn cho

chính quyền địa phương các cấp nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo, đảm

bảo quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương trong

việc giải quyết các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, phù hợp với yêu cầu phát triển nền

kinh tế nhiều thành phần và đa dạng hoá các quan hệ xã hội với đặc điểm tính

chất của mỗi địa phương, mỗi vùng lãnh thổ. Cùng với sự chuyển đổi từ cơ chế

quản lý hành chính tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường có định hướng xã

hội chủ nghĩa thì tất yếu cơ chế quản lý nhà nước phải phân cấp.

Phân cấp quản lý nhà nước diễn ra vì rất nhiều vì lý do khác nhau song

chủ yếu là nhằm cải thiện hiệu quả của việc cung cấp dịch vụ công; nâng cao

chất lượng quản lý nhà nước bằng cách trao quyền nhiều hơn cho các cấp

chính quyền địa phương. Lợi ích tiềm năng của phân cấp quản lý nhà nước

(QLNN) là rất lớn và chủ yếu xuất phát từ mối quan hệ gần gũi, trực tiếp giữa

chính quyền địa phương với công dân.

Phân cấp QLNN được diễn ra trên nhiều lĩnh vực khi người ta cho rằng

bản chất của phân cấp là chuyển giao bớt thẩm quyền cho cấp dưới và đồng

thời với nó là chuyển giao về nguồn lực tài chính và nhân sự để đảm bảo thực

hiện thẩm quyền. Như vậy phân cấp về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

(ĐTBD CBCC) sẽ là một nội dung đặc biệt quan trọng và cũng rất phức tạp

trong phân cấp quản lý hành chính nhà nước.

Đào tạo, bồi dưỡng (ĐTBD) cán bộ, công chức (CBCC) cho các tổ

chức đảng và nhà nước là một yếu tố cực kỳ quan trọng trong quản lý chiến

1

lược và quản lý nguồn nhân lực. Ở nước Cộng hòa dân chủ nhân

dân(CHDCND) Lào, công tác ĐTBD CBCC để đáp ứng yêu cầu công việc

thực hiện mục tiêu cải cách hành chính là nhiệm vụ trọng tâm của cả hệ thống

chính trị theo sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng Lào.

Ở CHDCND Lào, do cơ chế quan liêu, bao cấp, bao vây, cô lập khá lâu

đã làm cho hoạt động ĐTBD CBCC trở nên trì trệ, hiệu quả không cao, đầu ra

chưa đáp ứng yêu cầu của cải cách hành chính. Vấn đề đổi mới ĐTBD CBCC

nói chung và công tác quản lý ĐTBD CBCCnói riêng có ý nghĩa đặc biệt

quan trọng trong việc phát triển nền hành chính năng động, hiệu lực, hiệu quả.

Để nâng cao hiệu quả quản lý ĐTBD CBCC thì việc phân cấp quản lý đối với

ĐTBD CBCC là một trong những yếu tố quan trọng. Phân cấp, phân quyền

giữa chính quyền Trung ương và địa phương, giữa các cơ quan quản lý hành

chính nhà nước cùng cấp, giữa cơ quan của Đảng và cơ quan của Nhà nước

được xem là một trong những nội dung quan trọng trong công cuộc cải cách

hành chính ở CHDCND Lào.

Thực tiễn ở nước CHDCND Lào, việc hoàn thiện cơ chế, chính sách,

đổi mới công tác quản lý ĐTBD trong đó đẩy mạnh sự phân cấp quản lý trong

công tác ĐTBD CBCC là một trong những nhiệm vụ được đề ra trong Nghị

quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (khóa IX) năm 2006. Trong những

năm qua, hệ thống các văn bản pháp luật liên quan đến quản lý CBCC đã có

nhiều đổi mới, một số nội dung quản lý trong ĐTBD CBCC đã được đẩy

mạnh cho Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào, Trường Chính trị

và Hành chính các tỉnh.

Tuy nhiên, so với yêu cầu của cải cách hành chính, quản lý trong

ĐTBD CBCC còn tồn tại nhiều hạn chế, đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết

đặc biệt là việc phân địch rõ hơn trách nhiệm giữa Đảng với Nhà nước.

Phân cấp quản lý nói chung và phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC

nói riêng không phải là vấn đề mới trong khoa học quản lý. Tuy nhiên, phân

2

cấp quản lý trong ĐTBD CBCC cũng chưa có nhiều công trình đề cập, đặc

biệt ở CHDCND Lào, vấn đề này hiện chưa có sự nghiên cứu một cách bài

bản, chưa tạo nên cơ sở lý thuyết cho hoạt động quản lý này.

Vì vậy, việc nghiên cứu, hệ thống hóa các quan điểm về phân cấp quản

lý trongĐTBD CBCC ở CHDCND Lào, đánh giá thực trạng nhằm đề xuất

một số giải pháp đẩy mạnh phân cấp quản lý ĐTBD CBCC ở CHDCND Lào

trong thời gian tới là rất cần thiết. Do đó, tác giả lựa chọn đề tài “Phân cấp

quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở Cộng hòa dân chủ

nhân dân Lào” làm nội dung nghiên cứu cho luận án của mình.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

- Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở những lý luận và thực tiễn có liên quan, luận án xác định

các phương hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh phân cấp quản lý trong

ĐTBD CBCC tại CHDCND Lào.

- Nhiệm vụ nghiên cứu

+ Tổng quan các công trình đã nghiên cứu có liên quan đề tài để tìm

hiểu những kết quả đã đạt được của các công trình này, những vấn đề cần tiếp

tục nghiên cứu làm rõ.

+ Hệ thống hóa lý thuyết về phân cấp QLNN. Dựa trên nền tảng đó,

xây dựng khung lý thuyết về phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC.

+ Nghiên cứu kinh nghiệm phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC của

một số quốc gia trên thế giới để rút ra các giá trị tham khảo có thể vận dụng

trong điều kiện cụ thể của CHDCND Lào.

+ Phân tích và đánh giá thực trạng phân cấp quản lý trong ĐTBD

CBCC ở CHDCND Lào giai đoạn 2010đếnnay để thấy rõ những ưu điểm,

những hạn chếvà chỉ ra được nguyên nhân của những hạn chếđó.

+ Đề xuất các phương hướng và một số giải pháp nhằm đẩy mạnh phân

cấp quản lý trong ĐTBD CBCC ở CHDCND Lào.

3

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu của luận án là phân cấp quản lý của nhà nước

về ĐTBD CBCC.

- Phạm vi không gian:Để đánh giá tình hình phân cấp một cách tập

trung, luận án chỉ đi sâu phân tích thực trạng phân cấp quản lý trong công tác

ĐTBD CBCC ở CHDCND Lào

- Phạm vi thời gian: Luận án tập trung nghiên cứutừ năm 2010 đến nay,

tầm nhìn đến năm 2030.

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp luận

Đề tài được tiến hành nghiên cứu trên cơ sởchủ nghĩa duy vật biện

chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin.

- Phương pháp nghiên cứu

+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tác giả thực hiện phương pháp này

bằng cách tiếp cận và khai thác vấn đề phân cấp quản lý đ ĐTBD CBCC qua

các thời kỳ lịch sử khác nhau bằng việc xem xét bối cảnh lịch sử, tình hình

thông qua các nguồn sử liệu để rút ra nhận xét về các thời kỳ.

+ Phương pháp phân tích và tổng hợp: Do nhiều nguồn thông tin thu

thập được dưới nhiều dạng khác nhau nên tác giả sẽ dựa vào cả hai phương

pháp phân tích: định tính và định lượng để nghiên cứu vấn đề phân cấp quản

lý trong ĐTBD CBCC. Trên cơ sở các nội dung thu thập được, tác giả sẽtổng

hợp để đưa ra những ý kiến, nhận xét đánh giá về các chủ đề có liên quan.

+ Phương pháp thống kê: Vì việc quản lý trong ĐTBD CBCC ở

CHDCND Lào có nhiều nội dung và nhiều chủ thể tham gia. Để tránh bị trùng

hoặc bỏ sót nội dung, tác giả sử dụng phương pháp thống kê để tìm hiểu các

chủ thể tham gia quản lý trong ĐTBD CBCC và các nội dung của ĐTBD

CBCC ở CHDCND Lào.

4

5. Giả thuyết khoa học và câu hỏi nghiên cứu

- Giả thuyết khoa học:

Việc phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC ở CHDCND Lào chưa được

đẩy mạnh, tập trung vào một số cơ quan ở trung ương. Điều này làm cho hoạt

động ĐTBD CBCC thiếu tính chủ động, thiếu sự phù hợp với từng địa

phương cụ thể.Nếu phân cấp quản lý đối với hoạt động ĐTBD CBCC được

đẩy mạnh thì sẽ góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong ĐTBD CBCC của

CHDCND Lào.

- Câu hỏi nghiên cứu:

Phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC là gì? Gồm những nội dung nào?

Thực trạng phân cấp quản lý hoạt động ĐTBD CBCC ở CHDCND Lào

hiện nay như thế nào?

Để đẩy mạnh phân cấp quản lý hoạt động ĐTBD CBCC ở CHDCND

Lào thời gian tới thì cần thực hiện những phương hướng và giải pháp nào?

6. Những đóng góp mới của đề tài

Kết quả nghiên cứu của luận án có những đóng góp mới sau:

Một là, xây dựng khung lý thuyết về phân cấp quản lý trong ĐTBD

CBCC trên nền lý thuyết chung về quản lý ĐTBD và phân cấp quản lý hành

chính. Đây chính là đóng góp mới quan trọng của Luận án. Trong phần lý

thuyết đã làm rõ cơ sở xác định thẩm quyền của phân cấp cho cấp dưới là

thực tiễn phân cấp cũng như năng lực và mong muốn của cấp dưới trong tiếp

nhận thẩm quyền.

Hai là, đánh giá đúng thực trạng phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC

ở CHDCND Lào hiện nay, bao gồm những kết quả, hạn chế và nguyên nhân.

Ba là, kiến nghị xây dựng mô hình phân cấp quản lý trong ĐTBD

CBCC ở CHDCND Lào và coi đó như một giải pháp cụ thể. Trong mô hình

đã làm rõ vai trò của hai nhóm chủ thể là: Học viện Chính trị và Hành chính

quốc gia Lào, Trường chính trị và hành chính các tỉnh. Trong đó tác giả đề

5

xuất xu hướng “phân cấp trọn gói” nhằm tăng cường tính chủ động và tự

quyết trong quản lý ĐTBD CBCC bằng việc trao nhiều quyền hơn cho Học

viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào và trường chính trị và hành chính

cấp tỉnh trực tiếp ĐTBD CBCC.

7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

- Ý nghĩa khoa học:

Đề tài góp phần làm rõ cơ sở lý luận về phân cấp quản lý trong ĐTBD

CBCC. Đồng thời, đúc rút được kinh nghiệm phân cấp quản lý trong ĐTBD

CBCC ở một số quốc gia (Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản) để xem xét, vận

dụng trong điều kiện thực tiễn của CHDCND Lào.

- Ý nghĩa thực tiễn:

Đề tài đã đánh giá một cách toàn diện, hệ thống và khách quan về thực

trạng phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC ở CHDCND Lào hiện nay. Đồng

thời, đề xuất được một số quan điểm và giải pháp nhằm đẩy mạnh phân cấp

quản lý trong ĐTBD CBCC ở CHDCND Lào.

Kết quả nghiên cứu của luận án có giá trị tham khảo cho các cơ quan

QLNN và là tài liệu tham khảo cho các học viên nghiên cứu về các nội dung

liên quan.

8. Cấu trúc của luận án

Kết cấu luận án gồm: mở đầu,kết luận và 4 chương. Ngoài ra còn có

phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo.

Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan

Chương 2. Cơ sở khoa học về phân cấp quản lý đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ, công chức

Chương 3. Thực trạng phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ, công chức ở CHDCND Lào

Chương 4. Phương hướng và giải pháp đẩy mạnh phân cấp quản lý

trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở CHDCND Lào

6

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN

1.1. Các công trình nghiên cứu có liên quan

1.1.1. Các công trình nghiên cứu về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức

Công tác ĐTBD nói chung và ĐTBD CBCC cho bộ máy nhà nước nói

riêng là vấn đề được nhiều tác giả trên thế giới quan tâm nghiên cứu ở nhiều

giác độ, nhiều môn khoa học khác nhau. Với các nước phát triển, hệ thống

công vụ và đội ngũ công chức đã được hình thành từ rất lâu đời và có tính ổn

định cao. Trong bối cảnh quốc tế luôn thay đổi, các nhà khoa học tập trung

nghiên cứu tính xã hội, sự uyển chuyển của hệ thống công vụ để đảm bảo

“công dân là khách hàng”.

- Luận án tiến sĩ của tác giả Lại Đức Vượng (2009), với tên đề tài là

“Quản lý nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng công chức hành chính trong giai

đoạn hiện nay”[32] đã nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận, đã hoàn thiện khái

niệm công chức hành chính và các khái niệm liên quan đến nội dung, phương

pháp QLNN. Đi sâu phân tích một cách hệ thống về sự hình thành và phát

triển công tác ĐTBD công chức hành chính và đánh giá thực trạng công tác

QLNN về ĐTBD công chức hành chính. Trình bày các nguyên tắc, đề xuất

phương hướng và đưa ra các giải pháp đồng bộ, mạnh mẽ nhằm nâng cao hiệu

lực, hiệu quả QLNN về ĐTBD công chức hành chính đáp ứng yêu cầu quản

lý mới và hội nhập kinh tế quốc tế. Luận án tập trung vào công tác QLNN về

ĐTBD công chức hành chính. Luận án sẽ cung cấp cơ sở để tìm hiểu hoạt

động phân cấp QLNN về ĐTBD công chức hành chính.Tuy nhiên, tác giả

chưa chỉ ra được các nội dung trong QLNN về ĐTBD công chức hành chính.

- Vũ Thanh Xuân (2013), chủ nhiệm đề tài “Cơ sở khoa học của việc

đào tạo, bồi dưỡng theo vị trí việc làm đối với công chức ngành nội vụ” [33]

7

đã khẳng định phương hướng ĐTBD theo vị trí việc làm cho công chức ngành

nội vụ phải phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính, với nhu cầu phát triển

nguồn nhân lực, kết hợp hài hòa với các hình thức đào tạo, bồi dưỡng khác.

Tuy nhiên, tác giả chưa làm rõ được sự khác nhau trong ĐTBD giữa các vị trí

việc làm trong ngành nội vụ.

Ở nước CHDCND Lào, vấn đề ĐTBD CBCC đáp ứng nhiệm vụ trong

giai đoạn mới đã được đề cập trong nhiều văn kiện của các kỳ Đại hội Đảng

Nhân dân Cách mạng Lào từ khoá IV đến khoá X. Bên cạnh đó là các công

trình nghiên cứu dưới hình thức các luận án, luận văn, bài viết trên các tạp chí

liên quan đến vấn đề cán bộ, xây dựng và đào tạo đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu

cầu xây dựng hệ thống chính trị ở CHDCND Lào thời kỳ đổi mới.

- “Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện

Trung ương quản lý ở CHDCND Lào trong thời kỳ đổi mới"của Khăm Phăn

Phôm Mạ Thắt (2005), Luận án tiến sĩ Khoa học chính trị chuyên ngành Xây

dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh [35]. Tác giả phân tích

những cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác ĐTBD đội ngũ cán bộ lãnh đạo,

quản lý chủ chốt, đặc biệt là đối với đối tượng thuộc diện quản lý của Trung

ương, trong thời kỳ đổi mới, nhất là thích ứng với bối cảnh trong nước và thế

giới hiện nay. Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng của công tác ĐTBD

đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Trung ương quản lý, tác giả nêu

lên những vấn đề cấp bách phải giải quyết và đề xuất những phương hướng và

giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết những tồn tại, đẩy mạnh quá trình ĐTBD

cán bộ lãnh đạo chủ chốt với chất lượng hiệu quả ngày càng cao. Đây có thể

xem là nhữngluận cứ khoa học cho công tác ĐTBD đội ngũ cán bộ lãnh đạo

quản lý nói chung và đối với người lãnh đạo chủ chốt thuộc diện quản lý của

Trung ương nói riêng. Tác giả đã góp phần bổ sung và phát triển một cơ sở lý

luận về công tác đào tạo cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Trung ương

quản lý ở CHDCND Lào trong thời kỳ đổi mới.

8

- Khăm Phăn Vông Pha Chăn (2013), “Đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo

của hệ thống chính trị ở Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào hiện nay”, Luận án tiến

sĩ Chính trị học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh [36].

Theo tác giả, cán bộ lãnh đạo có vai trò quan trọng đối với sự phát triển

kinh tế - xã hội của đất nước Lào, việc đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo của hệ

thống chính trị là một nhiệm vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước CHDCND

Lào hiện nay. Ở CHDCND Lào, việc đào tạo cán bộ lãnh đạo trong hệ thống

chính trị tuy đã được Đảng và Nhà nước Lào quan tâm, nhưng công tác đào

tạo cán bộ lãnh đạo của hệ thống chính trị còn nhiều hạn chế, chưa có bước

đột phá và nâng cao hiệu quả đáp ứng các đòi hỏi đặt ra từ thực tiễn yêu cầu

chất lượng cán bộ lãnh đạo thời kỳ mới. Để nâng cao chất lượng đào tạo đội

ngũ cán bộ lãnh đạo của hệ thống chính trị đáp ứng với yêu cầu của sự nghiệp

đổi mới ở Lào hiện nay, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau: Tăng cường

sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với công tác đào tạo; gắn

đào tạo với quy hoạch và sử dụng cán bộ; đổi mới nội dung, chương trình,

phương thức ĐTBD; nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên trong các cơ sở

đào tạo; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật cho các cơ sở

đào tạo; xây dựng chế độ, chính sách đãi ngộ đối với người dạy và học, đồng

thời đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo.

Đối tượng nghiên cứu của luận án là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, nhưng

cách tiếp cận và nghiên cứu của tác giả là cách ĐTBD dành cho công chức.

- Dalyvan Khútavang: “Yêu cầu trong việc đào tạo cán bộ, công chức

chủ chốt trong cơ quan hành chính nhà nước trong thời kỳ mới”, số 6/2010,

Tạp chí Alunmai (tạp chí Lý thuyết và thực tiễn của Đảng Nhân dân cách

mạng Lào) [34]. Trong bài viết này, tác giả đặt ra một số yêu cầu trong công

tác ĐTBD CBCC chủ chốt trong cơ quan hành chính nhà nước, như yêu cầu

về trình độ, về phẩm chất đạo đức, về kỹ năng nghề nghiệp… Để nâng cao

chất lượng ĐTBD số cán bộ, công chức chủ chốt trong cơ quan hành chính

9

nhà nước, tác giả yêu cầu cần có sự phân cấp đào tạo, nghĩa là đối tượng cấp

nào thì được đào tạo nội dung gì, đào tạo ở đâu…

- Thoongchan Phetbounmy: “Quan tâm đặc biệt đối với công tác đào

tạo, bồi dưỡng thế hệ cán bộ, công chức trong tương lai”, số tháng 5/2011, tạp

chí Alunmai [37]. Tác giả bài viết cho rằng cần phải chuẩn bị điều kiện,

nguồn lực tốt cho việc phát triển nền hành chính, trong đó cần chú trọng đến

đội ngũ CBCC. Muốn vậy, ngay từ bây giờ cần phải quan tâm đặc biệt đến

công tác ĐTBD CBCC trong tương lai. Nghĩa là việc ĐTBD CBCC không

phải là giải pháp tình thế, phục vụ cho hiện tại trước mắt, mà phải là chiến

lược chuẩn bị cho tương lai.

Như vậy, đề cập đến công tác ĐTBD đội ngũ CBCC có rất nhiều công

trình, mỗi công trình có những cách tiếp cận khác nhau nhưng đều bàn về

công tác ĐTBD đội ngũ công chức; nội dung, hình thức, phương pháp bồi

dưỡng CBCC nhà nướcphù hợp với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước, phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính, nhiệm vụ

trọng tâm xây dựng nền hành chính quốc gia. Các công trình này đã chỉ ra

những hạn chế của nhà nước trong công tác ĐTBC CBCC, đề xuất những giải

pháp để nhà nước nâng cao chất lượng ĐTBC CBCC.

Các nghiên cứu về ĐTBD CBCC sẽ cung cấp cái nhìn toàn diện, đa

chiều về công tác ĐTBD CBCC. Từ đó giúp tác giả có thể tìm kiếm những

nội dung phù hợp với hướng nghiên cứu của đề tài luận án.

1.1.2. Các công trình nghiên cứu về phân cấp quản lý nhà nước

Cho đến nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã thực hiện phân cấp

QLNN. Tuy nhiên, tùy vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của từng nước

mà việc phân cấp này được xét theo giác độ chính trị hay kinh tế. Với các

quốc gia đa sắc tộc việc thực hiện phân cấp QLNN nhằm phục vụ cho mục

đích chính trị còn ở những quốc gia có nền chính trị thuần nhất và ổn định thì

việc phân cấp QLNN nhằm phục vụ cho mục đích kinh tế.

10

Thực tế, sự sụp đổ của nhiều quốc gia thực hiện chính sách tập trung

hoá quyền lực cao độ đã là những minh chứng cụ thể khẳng định việc phân

cấp để dẫn đến tham nhũng ở mức độ lớn và khó kiểm soát nền kinh tế vĩ mô

hơn. Còn ở những quốc gia có truyền thống phân cấp QLNN lâu đời thì tham

nhũng ít xảy ra hơn vì 3 lý do: Các cấp chính quyền phải giải trình nhiều hơn,

các cấp chính quyền cũng gần dân hơn và bởi vậy họ sẽ sử dụng kinh phí của

đất nước đúng mục đích hơn. Đã có nhiều công trình được các nhà khoa học

dày công nghiên cứu về vấn đề phân cấp QLNN.

- Ở Việt Nam, để đẩy mạnh cải cách hành chính, đáp ứng yêu cầu phát

triển kinh tế - xã hội của đất nước, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số

08/2004/NQ-CP ngày 30/6/2004 “về tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà

nước giữa Chính phủ và chịnh quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương”

[60], tập trung vào phân cấp nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm giữa Chính

phủ và chính quyền cấp tỉnh trên các lĩnh vực chủ yếu nhất có liên quan đến

tất cả các lĩnh vực khác là quản lý quy hoạch, kế hoạch, đầu tư; ngân sách nhà

nước; đất đai, tài nguyên, doanh nghiệp nhà nước; hoạt động sự nghiệp, dịch

vụ công; tổ chức bô máy, cán bộ, công chức.

- Đề tài “Thực hiện tốt sự phân cấp giữa chính quyền Trung ương với

chính quyền địa phương" do Viện Quản lý kinh tế Trung ương thực hiện. Đề

tài đã xem xét phân tích xu thế phân cấp trong cải cách hành chính nhà nước

hiện nay, trong đó lý giải các nguyên nhân khiến phân cấp trở thành xu thế tất

yếu của thời đại ngày nay, đặc biệt trong bối cảnh cải cách hành chính nhà

nước. Nhóm tác giả cũng phân tích các ưu điểm và nhược điểm của phân cấp

cùng các điều kiện tiến hành phân cấp thành công trên thực tế. Đề tài phân

tích thực trạng phân cấp QLNN thông qua việc xem xét những chủ trương về

phân cấp quản lý từ trung ương xuống địa phương; đánh giá tình hình phân

cấp giữa Chính phủ và chính quyền cấp tỉnh trên một số lĩnh vực như: quy

hoạch, kế hoạch; đầu tư xây dụng kết cấu hạ tầng cơ sở; ngân sách; quản lý

11

đất đai, tài nguyên, khoáng sản; quản lý doanh nghiệp nhà nước; quản lý các

đơn vị cung ứng dịch vụ công; về tổ chức bộ máy và nhân sự. Như vậy,đề tài

đã đánh giá thực trạng phân cấp trong công tác tổ chức bộ máy và quản lý

nhân sự ở Việt Nam trong thời gian vừa qua nhưng mới chỉ mang nét chấm

phá, khái quát. Dựa trên những đánh giá và bài học rút ra, nhóm nghiên cứu

đề xuất 5 nhóm giải pháp đẩy mạnh phân cấp, bao gồm: Nhận thức đúng việc

phân cấp trong hệ thống hành chính nhà nước; làm rõ nội dung QLNN trong

cơ chế thị trường của mỗi cấp trong hệ thống hành chính nhà nước; Phân định

rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ mỗi cấp trong hệ thống hành chính; Thực hiện

nghiệm túc các nguyên tắc đã được quy định về phân cấp và tăng cường

ĐTBC CBCC các cấp chính quyền ở địa phương.

Một số tổ chức quốc tế và cơ quan các nước đã tổ chức bàn về đổi mới

cơ chế quản lý, đẩy mạnh phân công, phân cấp trong quản lý nhân sự và thu

hút được sự quan tâm của nhiều nhà quản lý và nhà khoa học. Chuỗi tọa đàm

về “Phân cấp quản lý và quản trị địa phương” do Học viện Hành chính phối

hợp với chuyên gia của tổ chức hợp tác kỹ thuật Bỉ (BTC) tổ chức trong

thờigian từ 2008-2010 đã và dự kiến xem xét các khía cạnh của phân cấp như

các vấn đề chung về phân cấp, trong đó phân biệt giữa phân quyền và tản

quyền; để thực thi quy trình phân cấp quản lý; phân cấp quản lý và quá trình

toàn cầu hóa. Hội thảo "Quản trị địa phương” thuộc Đại hội khối Pháp ngữ tại

Việt Nam tổ chức ngày 26-27 tháng 3 năm 2009 tại Hà Nội đã xem xét đến

vấn đề thẩm quyền của các cấp chính quyền địa phương trong phát triển bền

vững; trong các cuộc “Hội cấp chính quyền địa phương trong phát triển bền

vững. Trong các cuộc hội thảo này, các đại biểu đều nhất trí phân cấp quản lý

nói chung và phân cấp quản lý là giải pháp quan trọng để nâng cao hiệu lực,

hiệu quả của hành chính công. Những kết quả nghiên cứu trên cho thấy:

Những đề tài nghiên cứu khoa học trên chủ yếu nghiên cứu về phân cấp

QLNN nói chung, chưa nghiên cứu chuyên sâu về phân cấp quản lý ĐTBC

12

CBCC; Các công trình nghiên cứu chủ yếu mới tập trung vào hệ thống giải

pháp công tác quản lý CBCC nói chung chứ chưa tập trung nhiều vào giải

pháp đẩy mạnh phân cấp ĐTBC CBCC hoặc nếu có nghiên cứu thì mới chỉ

chú ý đến những mảng nội dung nhất định. Một số nghiên cứu đã xem xét vấn

đề phân cấp quản lý CBCC, chủ yếu tiếp cận dưới giác độ của quy định pháp

luật mà chưa đi thưc hiện các quy định về phân cấp trên thực tế.

- Một tài liệu quan trọng, không thể thiếu khi nghiên cứu về phân cấp

QLNN là cuốn tài liệu “Phân cấp quản lý nhà nước - Lý luận và thực tiễn”

của tác giả Võ Kim Sơn [20]. Theo tác giả, có thể hiểu về phân cấp trong hoạt

động quản lý hành chính nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp cho

ác tổ chức tạo nên bộ máy hành chính nhà nước. Đó là phân công thực thi

quyền lực nhà nước thuộc lĩnh vực quyền hành pháp. Điều này gắn liền với cơ

cấu tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; gắn liền với hệ thống cơ cấu tổ

chức mang tính thứ bậc; là sự chuyển giao quyền thực thi quyền hành pháp từ

tổ chức nhà nước ở cấp này sang tổ chức khác hay là sự chuyển giao một số

chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn từ cấp trên cho cấp dưới.

Trên cơ sở tìm hiểu cơ sở lý luận về phân cấp trong quản lý hành

chính nhà nước: Phân quyền trong lý thuyết quyền lực nhà nước, các hình

thức phân cấp quản lý hành chính nhà nước, phân cấp việc sử dụng nguồn

ngân sách nhà nước - nguồn thu và quyền cho trong hoạt động quản lý hành

chính nhà nước, phân cấp hoạt động cung cấp dịch vụ công hay phân cấp

chức năng thứ hai của các cơ quan hành chính nhà nước; vấn đề phân cấp

quản lý hành chính nhà nước ở Việt nam từ năm 1945 đến năm 2003 theo

quy định của Hiến pháp, theo luật tổ chức Chính phủ và luật tổ chức chính

quyền địa phương, tác giả đã đưa ra những nhận xét về phân công, phân cấp

hoạt động quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam cả những kết quả đã đạt

được và những vấn đề còn hạn chế như sựchồng chéo hoạt động quản lý nhà

nước trên các lĩnh vực giữa các bộ, cơ quan ngang bộ và cơ quan thuộc

13

Chính phủ. Tác giả cho rằng, đây là một trong những vấn đề phức tạp nhất

của sự phân công trách nhiệm hoạt động QLNN đối với ngành, lĩnh vực;

hoạt động QLNN trên một số lĩnh vực chưa được quy định cụ thể cho bộ, cơ

quan ngang bộ nào thực hiện…

Để thực hiện đẩy mạnh phân cấp trong hoạt động quản lý hành chính

nhà nước, tác giả đã đưa ra những luận giải cho thấy phân cấp hoạt động quản

lý hành chính nhà nước mang tính tất yếu, từ đó đưa ra một số nội dung cần

quan tâm nhằm thúc đẩy và nâng cao hiệu quả của phân cấp hoạt động quản

lý hành chính nhà nước từ các nguyên tắc cần tuân thủ đến sự định hướng của

Đảng và Nhà nước Việt Nam trong quá trình phân công, phân cấp hoạt động

quản lý hành chính nhà nước.

Như vậy, các công trình nghiên cứu về phân cấp QLNN đã cung cấp

cho tác giả khái niệm và nội dung trong phân cấp QLNN. ĐTBD CBCC là

một nội dung cũng cần sự phân cấp quản lý.

Để hoạt động ĐTBD có hiệu quả, việc phân cấp quản lý đã được nhiều

tác giả nghiên cứu.

- Nguyễn Ngọc Vân làm chủ nhiệm đề tài “Nghiên cứu luận cứ khoa

học và giải pháp thực hiện phân công, phân cấp đào tạo, bồi dưỡng theo chức

danh cán bộ, công chức nhà nước” [27], đã chỉ rõ hoạt động phân công, phân

cấp ĐTBD theo chức danh CBCC nhà nước là yếu tố bảo đảm tính khoa học

của công tác ĐTBD và khẳng định tính khách quan phải thực hiện phân cấp.

Thực tế cho thấy, công tác ĐTBDCBCC của cả hệ thống các cơ sởĐTBD ở

Việt Nam hiện nay mới chỉ tập trung vào các đối tượng CBCC theo tiêu

chuẩn ngạch, còn việc ĐTBD theo chức danh rất ít. Chính vì vậy, việc phân

công, phân cấp ĐTBD theo chức danh cần được thực hiện để đảm bảo tính

phân tầng kiến thức và tính chuyên sâu trong hoạt động ĐTBD CBCC.

14

- Cuốn sách “The School Management Initiative” (Sáng kiến quản lý

nhà trường) của nhóm tác giả thuộc Education and Manpower Branch and

Education Department (1991), Government Printer, Hong Kong [43].

Tài liệu này trình bày một cách có hệ thống chương trình quản lý thay

đổi ở cấp trường. Nó giải thích việc xây dựng chính sách, thực hiện và đánh

giá trong bộ máy của chính phủ và sau đó mô tả những thay đổi cụ thể được

đề xuất trong phạm vi tổ chức và nội bộ tổ chức.

Tài liệu xem xét các vấn đề chính sách và quản lý ở cấp trường và đưa

ra 18 khuyến nghị cụ thể để tăng cường quản lý hiệu quả cho giáo dục ở cấp

trường. Đây là đề xuất của nhóm nghiên cứu liên quan đến các trường học, có

giá trị tham khảo đối với Ủy ban Giáo dục, Hội đồng Giáo dục, Hội đồng

trường học và các cơ quan có liên quan khác về quản lý giáo dục.

- Bài “Education and Decentralization” (Giáo dục và phân cấp) của World

Bank, đăng trên website

https://www.ciesin.columbia.edu/decentralization/English/Issues/Education.html

Hiện nay có xu hướng toàn cầu hóa việc phân cấp các hệ thống giáo

dục. Hầu hết các quốc gia đang thử nghiệm hoặc cân nhắc một số hình thức

phân cấp giáo dục. Quá trình chuyển quyền hạn ra quyết định từ Bộ Giáo dục

Trung ương sang chính quyền địa phương, cộng đồng và trường học. Mức độ

chuyển đổi khác nhau từ phân ly hành chính sang chuyển tiếp rộng rãi hơn về

kiểm soát tài chính sang cấp khu vực hoặc địa phương. Mặc dù có những lý

thuyết vững chắc cho việc phân cấp các hệ thống giáo dục, quá trình này đòi

hỏi sự cam kết chính trị mạnh mẽ và sự lãnh đạo để thành công. Con đường,

chiều sâu và kết quả cuối cùng, kết quả của các cuộc cải cách về phân quyền

phụ thuộc vào động lực cải cách, điều kiện ban đầu của quốc gia và ngành, và

sự tương tác của các liên minh quan trọng trong ngành.

- Tác giả Cathy Gaynor viết cuốn “Decentralization of Education”

(Phân cấp giáo dục) năm 1998, The World Bank Washington, D.C [38].

15

Cuốn sách này là một trong một loạt các vấn đề trong việc tái cấu trúc

hệ thống giáo dục. Là một phần của giáo dục và cải cách khu vực công, nhiều

quốc gia đang phân cấp việc cấp phát và quản lý các dịch vụ giáo dục cho các

cấp khu vực, địa phương hoặc trường học. Mục tiêu của cuốn sách này là để

hỗ trợ các nhà hoạch định chính sách tinh chỉnh chiến lược và lựa chọn giữa

các phương án có thể để tái cơ cấu hệ thống. Cải cách hệ thống không phải là

sự kiện một lần, mà là một quá trình liên tục thay đổi, đánh giá, và thay đổi

theo nhu cầu của thời điểm cụ thể và các quốc gia cụ thể. Giáo dục tốt nằm

trong tay của lực lượng giảng dạy, và thay đổi hệ thống đòi hỏi sự thay đổi

trong thực tiễn phát triển của giáo viên. Trong nhiều trường hợp giáo viên,

các tổ chức nghề nghiệp, công đoàn và chính phủ không đồng ý về mục đích

và kết quả cải cách. Những thay đổi trong quản lý giáo viên có thể giúp cải

thiện việc dạy và học.

- Péter Radó (2010), “Governing Decentralized Education Systems -

Systemic Change in South Eastern Europe” (Quản trị hệ thống giáo dục phi tập

trung - Thay đổi hệ thống ở Đông Nam Âu), Printed in Budapest, Hungary [50].

Có hai hệ thống con của ngành giáo dục, trong đó phân cấp phải được

giải quyết theo một cách khác: giáo dục đại học và học tập của người lớn.

Trong giáo dục đại học, sự phân quyền xuất hiện như là hai vấn đề liên quan

đến nhau: (1) tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học, (2) mức độ mà các cơ

quan quản lý và kiểm soát chất lượng thực sự thực hiện bởi chính quyền trung

ương được triển khai tới các khuôn khổ hợp tác giáo dục đại học Tổ chức

hoặc chính các tổ chức. Về phân cấp, những vấn đề liên quan đến giáo dục

sau trung học gần gũi hơn với giáo dục mầm non. Về các chức năng quy định

(ví dụ, yêu cầu đối với người lớn, trong một môi trường tối ưu, là giống hệt

nhau, hoặc ít nhất là một phần giống nhau, với những quy định cơ bản cho

thành phần giáo dục chính thức của giáo dục và dạy nghề (VET). Liên quan

đến các khía cạnh khác của học tập dành cho người lớn: (1) chúng liên quan

16

nhiều hơn đến việc phân cấp hoặc phân cấp dịch vụ lao động so với giáo dục;

(2) đến một mức độ lớn, dịch vụ học tập dành cho người lớn được cung cấp

bởi các tổ chức đào tạo trên thị trường đào tạo như các dịch vụ kinh doanh;

(3) các chính sách liên quan đến thúc đẩy việc học tập ở người lớn ở nơi làm

việc là các biện pháp điều chỉnh hoặc các biện pháp khuyến khích tài chính

mà các bên quản lý cấp dưới có rất ít làm; Và (4) một phần lớn các hoạt động

học tập dành cho người lớn được cung cấp bởi các dịch vụ văn hoá hoặc các

phương tiện truyền thông. Do đó, giáo dục bậc cao và học tập dành cho người

lớn không đề được đề cập trong cuốn sách này. Khi thừa nhận rằng giáo dục

và đào tạo nghề là một phần của hệ thống trường trung học, các thành phần

chuyên nghiệp (trái với các thành phần giáo dục phổ thông của VET) sẽ được

thảo luận chỉ liên quan đến những vấn đề mà sự phân cách của họ sẽ là vấn đề

quá mức trong trường hợp điều chỉnh nội dung. Do đó, cuốn sách này chỉ đề

cập đến những cấp độ giáo dục liên quan đến những người có trình độ thấp có

thể có một nhiệm vụ đáng kể: giáo dục mầm non, giáo dục tiểu học, trung học

phổ thông, và phân đoạn giáo dục chính thức của giáo dục và dạy nghề. Ngoài

ra, cuốn sách này còn giới thiệu hệ thống giáo dục tiểu học và trung học tư

thục: trường học thuộc sở hữu của các tổ chức phi chính phủ, nhà thờ, doanh

nghiệp, hoặc các chính phủ nước ngoài. Số trường tư thục ở Đông Nam Âu

không đáng kể, và vai trò của các nhà quản lý giáo dục địa phương liên quan

đến các chủ thể tự trị này là rất hạn chế.

- Luận án của Eunice Heredia-Ortiz (2006), “The Impact of Education

Decentralization on Education Output: A Cross-Country Study” (Tác động

của phân cấp giáo dục đối với đầu ra giáo dục: Nghiên cứu xuyên quốc gia),

Georgia State University [46].

Luận án này khảo sát tác động của việc phân cấp chi tiêu và cơ quan ra

quyết định trong lĩnh vực giáo dục về chất lượng giáo dục tiểu học được cung

cấp công khai. Phân cấp trong giáo dục có thể từ tập trung quyền quản trị để

17

kiểm soát tài chính toàn diện hơn, và nó có thể mở rộng qua tất cả các chức

năng giáo dục. Trong luận án này tác giả định nghĩa thuật ngữ "phân cấp giáo

dục" có nghĩa là quá trình chuyển giao tài chính và ra quyết định quyền lực,

từ cấp cao hơn đến cấp thấp hơn của chính phủ và các đơn vị tổ chức, ảnh

hưởng cách thức các hệ thống trường học đưa ra chính sách về việc tạo ra và

chi tiêu nguồn lực; tổ chức giảng dạy (chương trình giảng dạy, sách giáo

khoa, phương pháp giảng dạy, lịch trình); nhân viên quản lý (thuê/sa thải, quy

mô lương, phân công nhiệm vụ giảng dạy, đào tạo); lập kế hoạch và quản lý

các trường công.

Một số nhà nghiên cứu gợi ý rằng nguồn nhân lực - dưới dạng số lượng

chất lượng đào tạo - đóng một vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế và

tăng thu nhập bình quân đầu người. Giáo dục không chỉ giúp cải thiện thu

nhập (và thu nhập tiềm năng) nhưng nó cũng có khả năng trao quyền cho các

cá nhân; Giáo dục cho phép các cá nhân tham gia ở chính quyền địa phương

và quốc gia, nó cung cấp các kỹ năng và kiến thức để cải thiện chất lượng

cuộc sống và để trở nên hiệu quả hơn. Vì vậy, số liệu về phân cấp giáo dục có

thể cải thiện kết quả liên quan đến cung cấp giáo dục bởi nó có thể giúp cho

việc quản trị tốt hơn.

Mô hình của tác giả điều tra trực tiếp và gián tiếp ảnh hưởng đến việc

phân cấp chi tiêu giáo dục và ra quyết định có thể có (tích cực hoặc tiêu cực)

về dịch vụ giáo dục ở cấp tiểu học. Cụ thể, tác giả điều tra tác động trực tiếp

của phân cấp giáo dục đến các chỉ số đầu ra giáo dục và những ảnh hưởng

gián tiếp tiềm ẩn thông qua các đầu vào của gia đình và trường học.

Mô hình nghiên cứu của luận án tác động phân cấp giáo dục lên giáo

dục tiểu học. Luận án đánh giá các chỉ số khác nhau của giáo dục tiểu học, cụ

thể là đo lường sự tiếp cận với giáo dục thông qua việc nhập học; qua tỷ lệ bỏ

học và tỷ lệ lặp lại và tỷ lệ hoàn thành; học sinh học tập thông qua điểm thi.

18

1.2. Đánh giá các công trình nghiên cứu có liên quan

1.2.1. Nhận xét

Khái quát chung, các công trình có liên quan đã nghiên cứu những khía

cạnh khác nhau về phân cấp QLNN đối với ĐTBD CBCCtrong bộ máy nhà

nước nói chung và trong hệ thống chính trị ở CHDCND Lào nói riêng, góp

phần làm rõ hơn quan niệm phân cấp QLNN về ĐTBD CBCC. Các nhà khoa

học với tư cách là những chủ thể sáng tạo, nghiên cứu, khảo sát, phân tích

khái quát nêu trên đều cố gắng giải quyết những vấn đề căn cốt của phân cấp

QLNN về ĐTBD CBCC với những mức độ khác nhau, qua những công trình

đó, có thể tổng quan lại những vấn đề sau đây:

Một là, về hoạt động ĐTBD nhằm nâng cao chất lượng của đội ngũ

công chức để đáp ứng các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước đã được học giả

các nước đề cập từ lâu và được xem xét trên nhiều giác độ khác nhau và hiện

nay tính xã hội của hoạt động thi hành công vụ đang được nhấn mạnh. Tuy

nhiên, ở các nước không có khái niệm "cán bộ, công chức" và những nghiên

cứu về tính chuyên nghiệp của công chức hành chính thì chưa được đề cập rõ

ràng, cụ thể.

Hai là, ở Việt Nam hiện nay có một số công trình nghiên cứu liên quan

đến vấn đề phân cấp QLNN về đào tạo nhưng là đào tạo nguồn nhân lực cho

xã hội, không phải là đào tạo CBCC (nghĩa là nguồn nhân lực công cho bộ

máy nhà nước hoặc hệ thống chính trị). Ở CHDCND Lào thì gần như chưa có

công trình nào nghiên cứu về phân cấp quản lý ĐTBD CBCC.

Ba là, các nhà khoa học đã chỉ ra được nội dung và giải pháp để đẩy

mạnh phân cấp QLNN về giáo dục và đào tạo. Tuy đối tượng không phải là

CBCC nhưng điều này rất có giá trị, giúp cho tác giả luận án có thể tiếp thu

có chọn lọc những giá trị hợp lý trong việc nghiên cứu nội dung và giải pháp

phân cấp QLNN đối với ĐTBD CBCC.

19

Bốn là, các công trình đã đề cập đến một số khái niệm liên quan: “phân

cấp quản lý nhà nước”, “đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức”, quản lý nhà

nước về đào tạo, bồi dưỡng”… Điều này giúp tác giả thuận lợi trong việc tiếp

cận khái niệm trung tâm: “phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức”.

Tuy nhiên, có thể khẳng định chưa có công trình nào nghiên cứu về

phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC. Vì vậy khoảng trống tri thức về vấn đề

này còn khá lớn.

1.2.2. Định hướng nghiên cứu của luận án

Những công trình nêu trên đã cung cấp những tư liệu, nội dung quan trọng

và cách tiếp cận cho luận án với đề tài phân cấp quản lý ĐTBD CBCC. Tuy

nhiên, nghiên cứu trực tiếp, cụ thể về phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC còn

rất hạn chế. Ở CHDCND Lào, vấn đề này lại càng ít được nghiên cứu. Có thể

nói vấn đề phân cấp quản lý ĐTBD CBCC ở CHDCND Lào là đề tài mang tính

thời sự, là khoảng trống trong nghiên cứu khoa học. Chính vì vậy, việc thực hiện

đề tài này là cần thiết xét trên cả phương diện lý luận và thực tiễn.

Từ việc phân tích, đánh giá những kết quả đạt được và những khoảng

trống trong nghiên cứu của các công trình nêu trên, có thể xác định hướng

nghiên cứu về phân cấp quản lý trong ĐTBD, CBCC như sau:

Một là, nghiên cứu góp phần hoàn thiện khung lý thuyết về phân cấp

quản lý ĐTBD, CBCC

Có một số công trình đã nghiên cứu cơ sở lý thuyết về phân cấp quản lý

về giáo dục và đào tạo hoặc phân cấp về ĐTBD, CBCC; nghiên cứu về phân

cấp quản lý nhà nước và phân cấp trong ĐTBD CBCC. Những công trình đó

đã cung cấp khái niệm liên quan, những sự gợi mở cho đề tài luận án nhưng

chưa có công trình nào nghiên cứu, đề cập về quản lý trong ĐTBD CBCC. Do

đó, chưa có công trình nào làm sáng tỏ về khái niệm, sự cần thiết phải phân

cấp quản lý và nội dung phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC.

20

Cần khẳng định rằng việc tăng cường phân cấp quản lý trong ĐTBD,

CBCC sẽ có tác động trực tiếp đến hiệu quả, chất lượng của hoạt động

ĐTBD, CBCC trong điều kiện hiện nay. Tuy nhiên việc làm này phải được

dựa trên nền tảng khoa học, bao gồm hệ thống lý thuyết về phân cấp quản

lýtrong ĐTBD, CBCC.

Hai là, nghiên cứu tổng kết thực tiễn về phân cấp quản lý ĐTBD

CBCC.

Có nhiều công trình tổng kết thực tiễn ĐTBD CBCC của các quốc gia

trên thế giới để rút ra bài học cho CHDCND Lào trong việc ĐTBD CBCC;

nghiên cứu, phân tích, đánh giá về thực trạng phân cấp ĐTBD CBCC. Tuy

nhiên chưa có công trình nào tổng kết thực tiễn phân cấp quản lý trong ĐTBD

CBCC của các nước để có thể vận dụng cho việc phân cấp quản lý trong

ĐTBD CBCC ở CHDCND Lào; cũng chỉ ra được kết quả và hạn chế hoặc

những vấn đề đặt ra trong việc phân cấp quản lý ĐTBD CBCC ở CHDCND

Lào hiện nay.

Nghiên cứu một cách hệ thống về phân cấp quản lý trong ĐTBD,

CBCC trên các phương diện:thể chế, chính sách, tổ chức bộ máy, nguồn nhân

lực, thanh tra, kiểm tra. Đánh giá một cách khách quan, khoa học hiệu lực,

hiệu quả của việc phân cấp quản lý trong ĐTBD, CBCC trên cơ sở phân tích

những ưu điểm, những hạn chế và chỉ ra nguyên nhân của những tồn tại bất

cập trong phân cấp quản lý trong ĐTBD, CBCC.

Ba là, nghiên cứu ứng dụng giải pháp vào thực tiễn phân cấp quản lý

ĐTBD CBCC

Một số công trình đã đề xuất giải pháp nhằm đẩy mạnh phân cấp quản

lý hoặc phân cấp ĐTBD CBCC nhưng chưa có công trình nào đề xuất giải

pháp đẩy mạnh phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC. Vì vậy xây dựng luận

cứ khoa học cho việc đề xuất giải pháp nhằm tăng cường phân cấp quản lý

trong ĐTBD, CBCC ở CHDCND Lào hiện nay.

21

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Qua việc tổng quan các công trình có liên quan đến đề tài"Phân cấp

quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở Cộng hòa dân chủ nhân

dân Lào", có thể thấy rằng đây là vấn đề chưa được nghiên cứu nhiều. ĐTBD

nguồn nhân lực xã hội và ĐTBD CBCC là khác nhau, do đó việc quản lý 2

nội dung này cũng khác nhau. Phân cấp quản lý hành chính có rất nhiều công

trình nghiên cứu nhưng phân cấp quản lý ĐTBD CBCC thì còn là một khoảng

trống nhất định.

Mặc dù có rất ít công trình nghiên cứu đề cập đến phân cấp quản lý

ĐTBD CBCC nhưng các công trình nghiên cứu về phân cấp quản lý hành

chính và phân cấp quản lý giáo dục - đào tạo đã cung cấp những nội dung có

thể tham khảo, đó là nội dung và giải pháp để đẩy mạnh phân cấp QLNN về

giáo dục và đào tạo, một số khái niệm có thể tham khảo như: “phân cấp quản

lý nhà nước”, “đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức”, quản lý nhà nước về

đào tạo, bồi dưỡng”.

Cũng qua tổng quan, các công trình đãgiúp tác giả nghiên cứu góp phần

hoàn thiện khung lý thuyết về phân cấp quản lý ĐTBD, CBCC; nghiên cứu

tổng kết thực tiễn về phân cấp quản lý ĐTBD CBCC;nghiên cứu ứng dụng

giải pháp vào thực tiễn phân cấp quản lý ĐTBD CBCC.

22

Chương 2

CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ ĐÀO TẠO,

BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC

2.1. Một số vấn đề chung về phân cấp quản lý

2.1.1. Khái niệm phân cấp quản lý

Do tính đa nghĩa của thuật ngữ phân cấp/phân quyền nên có nhiều tài

liệu đưa ra những định nghĩa khác nhau. Tùy thuộc vào mục đích sử dụng từ

này, mỗi một nhà nghiên cứu có những cách tiếp cận khác nhau.

Phân cấp, phân quyền, phi tập trung - gọi chung là phân cấp

(decentralization) trong nhiều thập kỷ qua đã trở thành chính sách ưu tiên của

nhiều nhà làm chính sách trong các tổ chức nhà nước cũng như các tổ chức

lớn. Tuy nhiên một sự khác nhau rất lớn khi nghiên cứu các mức độ về phân

cấp giữa các nước cũng như giữa các tổ chức. Chính vì vậy, để hiểu một cách

toàn diện thuật ngữ này, cần tiếp cận nghiên cứu về nó trên nhiều cách hơn là

chỉ xem xét một khía cạnh riêng lẻ nào. Mỗi một nhà nghiên cứu có thể xem

xét dưới một dạng cụ thể [39].

Phân cấp là sự phân phối chức năng hành chính hay quyền lực hành chính

vốn tập trung ở trung ương (của trung ương) cho các cơ quan địa phương.

Theo Ronidelli và cộng sự, phân cấp là sự chuyển giao trách nhiệm lập

kế hoạch, quản lý, tạo nguồn lực và phân bổ chúng từ chính phủ đến các cơ

quan của chính phủ tại địa phương; cho các cơ quan cấp dưới ở địa phương;

cơ quan bán công hay doanh nghiệp nhà nước hoặc cho đơn vị sự nghiệp hay

cho tổ chức phi chính phủ. Với cách tư duy này, những chức năng, nhiệm vụ

và quyền hạn của cơ quan nhà nước trung ương có thể được chuyển giao cho

nhiều loại cơ quan khác theo nhiều hình thức khác nhau[40], [41].

23

Phân cấp được hiểu như là sự trao quyền từ chính phủ trung ương

những chức năng cụ thể liên quan đến hành chính, kinh tế và chính trị cho

những cơ quan độc lập trên một vùng lãnh thổ nhất định [48].

Phân cấp là một hiện tượng phức tạp liên quan đến nhiều chủ thể ở

nhiều cấp độ khác nhau và từ nhiều khu vực xã hội. Phân cấp là một hiện

tượng phức tạp bao gồm các chức năng và quan hệ hành chính, tài chính và

chính trị [51].

Trên phương diện quản lý một tổ chức, thuật ngữ phân cấp luôn được

xem xét dưới giác độ thực hiện các hoạt động của tổ chức đó thông qua quyền

đưa ra các quyết định có liên quan đến tổ chức. Những quyết định liên quan

đến nhiều lĩnh vực, mà tổ chức phải thực hiện để đạt được mục tiêu của tổ

chức. Chính vì vậy, nhiều tác giả nghiên cứu nội dung của phân cấp thường

xem xét các khía cạnh liên quan đến các yếu tố để cho một tổ chức tồn tại,

vận động và phát triển. Do đó, phân cấp, phân quyền luôn gắn liền với những

quyết định xung quanh các vấn đề: Chính trị hay cơ chế lãnh đạo, quản lý; Tài

chính; Nhân sự; Tổ chức; Quan hệ; Thị trường; Sản xuất và dịch vụ.

Một số nhà nghiên cứu, xem xét khía cạnh của thuật ngữ này nhấn

mạnh đến tính không được tập trung làm quyết định bởi một cá nhân hay một

tổ chức riêng lẻ nhất định.

Trong một công trình nghiên cứu dưới giác độ của quản lý, thuật

ngữphân cấp được tiếp cận theo quan điểm quản lý và do đó luôn gắn liền

với quá trình ra quyết định và các loại quyết định được ban hành. Theo tài

liệu của Liên hợp quốc, phân cấp/phân quyền gắn liền với việc tổ chức hoặc

cơ cấu lại quyền hạn của cả hệ thống nhằm hướng đến đồng trách nhiệm của

các cơ quan từ trung ương đến tận địa phương trong quản lý. Đồng thời đó

cũng là quá trình xây dựng năng lực của các cơ quan, tổ chức được phân

quyền [51].

24

Tài liệu của Ngân hàng thế giới, phân cấp được hiểu theo nghĩa của quá

trình chuyển giao quyền hạn và trách nhiệm các chức năng, nhiệm vụ của khu

vực công từ chính phủ trung ương (cấp trên) cho chính quyền cấp dưới, cho

các tổ chức khác bên ngoài nhà nước. Cách tiếp cận này được nhiều nhà

nghiên cứu quan tâm. Sự quan tâm bởi lý do cơ bản là phân cấp không chỉ

xẩy ra trong tổ chức (nội bộ tổ chức) mà còn cho cả các tổ chức thuộc bên

ngoài tổ chức. Đây cũng chính là vấn đề đã và đang được quan tâm là xã hội

hóa (Việt Nam) hay tư nhân hóa (các nước) các hoạt động vốn của nhà nước

chuyển ra bên ngoài khu vực nhà nước.

Các học giả nghiên cứu cụm từ Decentralization, có những cách giải

thích khác nhau. Tuy nhiên, đều chứa đựng:

- Gắn với cách thức tổ chức một tổ chức (nhà nước hay khu vực tư

nhân). Tức gắn liền với cơ cấu tổ chức;

- Phân chia thành các bộ phận khác nhau với chức năng, nhiệm vụ và

quyền hạn cụ thể;

- Mối quan hệ giữa các bộ phận đó với nhau.

Đặc biệt các học giả đều tập trung khía cạnh quan trong nhất là quyền

được quyết định trên những lĩnh vực gì; vấn đề gì. Đó là Decentralization-

phân cấp, phân quyền.

Phân cấp là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến ở Việt Nam. Tuy

nhiên, cách sử dụng và nội hàm của cụm từ này cũng rất khác nhau.

Nhóm dịch giả quyển sách “Từ duy trì đến phục vụ” thuật ngữ

“decentralization” coi Decentralization là phi tập trung. Phi tập trung nhiều nộn

dung, trong đó gắn với phi tập trung quyết định quản lý trong bộ máy hành

chính nhà nước. Chuyển các quyết định vốn chỉ cơ quan hành chính nhà nước

trung ương mới có quyền, xuống cho chính quyền địa phương các cấp [20].

Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành trung ương lần thứ 9 (khóa IX) bàn

về đổi mới quản lý kinh tế sử dụng đồng thời hai thuật ngữ “phân cấp, phân

25

quyền”. Tuy nhiên, nội dung cơ bản cũng nhằm hướng đến tổ chức lại bộ máy

quản lý nhà nước về kinh tế và trao quyền cho các cấp chính quyền địa

phương khác nhau; các cơ quan khác nhau để đưa ra các quyết định cần về

hoạt động kinh tế [54].

Luật tổ chức chính quyền địa phương Việt Nam năm 2015, khi quy định

về quyền hạn của chính quyền địa phương các cấp sử dụng 4 từ khác nhau:

- Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương trong văn bản

pháp luật;

- Phân quyền cho chính quyền địa phương;

- Phân cấp cho chính quyền địa phương;

- Ủy quyền cho chính quyền địa phương [58].

Tuy nhiên, theo cách các học giả sử dụng (Dennis A. Rondinelli), cả 4

cách nêu trên đều chính là những dạng khác nhau của phân cấp

(decentralization). Do đó, mặc dù sử dụng nhiều cụm từ khác nhau, về bản

chất vấn là xác định quyền quyết định cấc vấn đề cho các cấp chính quyền địa

phương theo pháp luật quy định. Đó chính là phân quyền/phân cấp pháp lý.

Mặt khác, theo nhiều học giả, các tổ chức thuộc bộ máy nhà nước có

những quyền lực nhất định trong mối quan hệ của cả bộ máy nhà nước được

trao thông qua văn bản pháp luật. Đó là cách thức pháp lý để trao quyền cho

từng chủ thể khác nhau.

Thuật ngữ Decentralization với các nghĩa, nhưng phân quyền ít được sử

dụng ở Việt Nam. Tính chất đặc biệt của thế chế nhà nước Việt Nam là

"Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát

giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành

pháp, tư pháp"[55]. Trong điều liên quan đến quyền lực nhà nước, Hiến pháp

không sử dụng cụm từ “phân quyền- decentralization”, nhưng nội hàm của sự

phân công, phối hợp,v.v, thể hiện một trong các nội hàm của phân quyền. Ai

làm gì; quy định ở đâu.

26

Theo Võ Kim Sơn, phân cấp trong hoạt động quản lý hành chính nhà

nước theo nghĩa hạn chế ở khía cạnh thực thi quyền hành pháp. Điều này

cũng phù hợp với xu hướng đang được xem xét của thế giới khi nói về cải

cách hành chính theo đúng nghĩa cải cách hành pháp. Đó là sự chuyển giao

quyền quyết định trên nhiều lĩnh vực khác nhau cho các cơ quan hành chính

nhà nước từ trung ương và địa phương [20].

Nghiên cứu phân cấp quản lý trong một tổ chức hay một ngành thực

chất là hình thành các chủ thể khác nhau cùng thực hiện những nhiệm vụ cụ

thể của tổ chức hay ngành được giao và gắn với đó là trao cho các chủ thể đó

những quyền quyết định trên những lĩnh vực nhất định.

Như vậy, phân cấpquản lý được hiểu là sựphân định thẩm quyền, trách

nhiệm trong quản lý của cơ quan cấp trên cho cơ quan cấp dưới. Đó là quá

trình chuyển giao quyền quyết định thực thi các công việc cụ thể trong hoạt

động của tổ chức cấp trên cho tổ chức cấp dưới nhằm nâng cao hiệu quả hoạt

động quản lý cũng như thực thi công việc.

2.1.2. Các hình thức phân cấp quản lý

Phân cấp quản lý là quá trình chuyển giao quyền hạn và trách nhiệm ra

các quyết định quản lý và thực thi các công việc có liên quan đến nhiều tổ

chức vốn tập trung nay được chuyển giao trực tiếp cho nhiều loại tổ chức

nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý, thực thi công việc của các tổ chức

được phân cấp.

Trong hoạt động quản lý, thực thi các công việc được giao, nhiều loại

quyết định phải được ban hành kịp thời, đúng lúc mới bảo đảm được tính hiệu

quả của việc thực hiện quyết định đó và mới có thể giải quyết được vấn đề.

Thực thi nhiệm vụ và giải quyết vấn đề gắn liền với việc ban hành nhiều

loại quyết định. Những loại quyết định mang tính chất hành chính; những loại

quyết định mang tính chất tài chính; những loại quyết định mang tính nhân sự

27

và tổ chức. Gắn với mỗi một lĩnh vực đó đều luôn tồn tại hai mô hình: tập trung

(centralization) và phân cấp hay phi tập trung (decentralization).

Tùy theo từng điều kiện cụ thể cũng như quy mô của tổ chức, việc lựa

chọn mô hình quản lý theo tập trung hay phân cấp là một nghệ thuật của các

nhà quản lý. Trong hoạt động quản lý không có một mô hình quản lý nào

mang tính lý tưởng, không thay đổi. Tùy thuộc vào điều kiện cụ thể để có thể

đưa ra quyết định về mô hình lựa chọn.

Mô hình phân cấp trong hoạt động quản lý nói chung và QLNN nói

riêng được nghiên cứu theo nhiều giác độ khác nhau và do đó có nhiều cách

phân loại mô hình phân cấp.

Phân loại theo những loại lĩnh vực quyết định trong tổ chức, trên các

lĩnh vực mà tổ chức cần thực hiện để đạt được mục tiêu của tổ chức, cách

phân cấp đó gọi là phân cấp theo nhóm chức năng. Trong trường hợp này có

thể chia thành:

- Phân cấp hành chính (quản lý tác nghiệp);

- Phân cấp quyết định tài chính;

- Phân cấp quyết định về tổ chức (bộ máy, cơ cấu);

- Phân cấp quyết định về nhân sự;

- Phân cấp quyết định về hoạt động sản xuất, kinh doanh, thị trường.

Phân cấp cũng được nghiên cứu theo quan điểm là các quyền quyết

định chỉ được chuyển giao trong nội bộ tổ chức hay chuyển giao ra bên ngoài.

Có thể có một số loại sau:Phân cấp nội bộ; Phân cấp quyền quyết định cho

các tổ chức bên ngoài dưới nhiều dạng như cho các tổ chức khu vực tư nhân,

phi chính phủ; hay gọi là phân cấp chuyển giao.

Đứng trên giác độ về mức độ chuyển giao, có thể phân cấp được phân

loại theo một số nhóm:Tản quyền; Ủy quyền; Trao quyền; Đối tác, hợp tác;

Tư nhân hóa [52].

28

Tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu mà phân cấp cũng có thể được

phân loại theo ngành và lĩnh vực mà các nhà quản lý, các chủ thể quản lý cần

quản lý:Phân cấp quản lý giáo dục;Phân cấp quản lý về y tế;Phân cấp quản lý

thuế; Phân cấp quản lý tài chính;Khác.

Số lượng phân loại ngành, lĩnh vực phụ thuộc vào phân chia của tài

khoản quốc gia. Việc phân chia các loại hình phân cấp cũng như cấp độ phân

cấp chỉ mang tính tương đối và phục vụ cho mục đích nghiên cứu cụ thể từng

lĩnh vực.

2.1.2.1. Phân cấp theo nhóm chức năng trong tổ chức

- Phân cấp hành chính:

Đây là dạng phân cấp các công việc mang tính nội bộ của một tổ chức,

gắn liền với nó là mức độ tự chủ của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống về

thực hiện các chức năng mang tính nội bộ của tổ chức (chức năng bên trong

theo mô hình PODSCoBR) [8].

Phân cấp hành chính trong hệ thống các cơ quan nhà nước là quá trình

phân phối lại quyền hạn và trách nhiệm trong việc tổ chức cung cấp các loại

dịch vụ cho công dân, xã hội theo đúng ý nghĩa của thực thi quyền hành pháp

giữa hệ thống các cơ quan trong bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương

đến tận cơ sở.

Quyền quyết định về việc tổ chức cung cấp dịch vụ loại nào và cách

thức tổ chức cung cấp dịch vụ đó được trao cho những cơ quan trực tiếp cung

cấp dịch vụ đó trên cơ sở khuôn khổ pháp luật nhà nước đã quy định. Các cơ

quan cấp trên không can thiệp vào cách thức tổ chức cung cấp dịch vụ của

những cơ quan cấp dưới đã được phân cấp.

Cách tiếp cận này làm cho các cơ quan trực tiếp cung cấp dịch vụ thuộc

hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước có nhiều trách nhiệm hơn và làm

cho cung cấp dịch vụ tốt hơn, đáp ứng sự hài lòng cao hơn của khách hàng.

29

Những công việc thực thi quyền hành pháp để phục vụ nhân dân gắn

liền chủ yếu với nhiều hoạt động cung cấp dịch vụ. Do đó phân cấp hành

chính trong bộ máy hành chính nhà nước thực chất là xác định rõ chức năng,

nhiệm vụ của cơ quan hành chính đó.

Mỗi cơ quan hành chính nhà nước trong mô hình phân cấp đều được

xác định cụ thể những công việc cần phải làm và cách thức đạt được những

mục tiêu đã đề ra.

- Phân cấp quyền quyết định liên quan đến tài chính.

Phân cấp các quyết định liên quan đền tài chính trong các tổ chức nói

chung và các cơ quan nhà nước nói riêng chia thành hai nhóm hay hai cách

tiếp cận:

Trong hệ thống các cơ quan nhà nước khi hoạt động của các cơ quan

này gắn liền với NSNN thì giữa các cấp chính quyền có liên quan đến ngân

sách đòi hỏi có sự phân cấp quan trọng về những quyết định thu các nguồn

thu để đưa vào NSNN; đồng thời cũng phân cấp quyền được quyết định chi

ngân sách khi có ngân sách. Nhiều nước khi đánh giá mức độ phân cấp quyết

định tài chính thường sử dụng chỉ số mức độ cân đối giữa quyền quyết định

thu và quyền quyết định chi. Mức cân đối càng tăng, thể hiện quyền quyết

định về tài chính theo hướng phân cấp tài chính gia tăng.

Đối với từng loại cơ quan, phân cấp quyền quyết định về tài chính

thường gắn liền trực tiếp với mức độ linh hoạt của việc sử dụng nguồn tài

chính được trao cho tổ chức. Mức độ linh hoạt tỷ lệ sự phân cấp trong việc sử

dụng nguồn tài chính của đơn vị [59].

Trong hoạt động hiện nay của nhiều loại tổ chức trong cơ chế thị

trường, khả năng tạo nguồn thu cũng như cách sử dụng nguồn thu đó đòi hỏi

cơ chế linh hoạt hơn trong quyền quyết định các vấn đề tài chính. Đặc biệt khi

tiếp cận đến thị trường vốn trong và ngoài nước, nhiều đơn vị cung cấp dịch

vụ thuộc khu vực nhà nước thường gặp khó khăn khi đưa ra các quyết định

30

liên quan đến vay vốn trên thị trường và mức độ phân cấp quyền quyết định

về tài chính hạn chế. Xu hướng giao quyền tự chủ ngay càng cao cho các tổ

chức sử dụng NSNN sau khi đó được chuyển giao sẻ gia tăng tính tự chủ về

tài chính và đồng thời gia tăng sự kiểm soát việc sử dụng ngân sách. Nhiều

nước trên thế giới, địa phương (kể cả chính quyền địa phương cấp cơ sở)

thường có nguồn thu khá lớn nên nhiều hoạt động (bao gồm cả giáo dục, y tế)

đều thuộc quyền quyết định của cỏc cấp chính quyền địa phương về ngân

sách. Đây cũng chính là điều hạn chế nhất của các nước đang phát triển.

- Phân cấp quyền quyết định về cơ cấu tổ chức.

Cơ cấu tổ chức của một tổ chức thể hiện trình độ tổ chức, phân công

lao động hợp lý, khoa học trong tổ chức đó. Các nhà lãnhđạo, quản lý của tổ

chức có chức năng rất cơ bản là “chức năng tổ chức”. Tuy nhiên, quyền quyết

định để lựa chọn một loại cơ cấu tổ chức thường bị hạn chế bởi nhiều quy

định của cả hệ thống. Hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước, quyền về

lựa chọn một cơ cấu tổ chức của một loại cơ quan hành chính nhà nước (cấp

trung ương, tỉnh hay huyện) đang theo hai xu hướng:

+ Tạo ra một hệ thống cơ cấu tổ chức khá giống nhau giữa tất cả các địa

phương thông qua một quyết định mang tính tập trung của chính phủ trung

ương. Các địa phương đều phải thiết lập một cơ cấu tổ chức giống nhau [45].

+ Mỗi một tổ chức được thành lập được quyền tự lựa chọn mô hình cơ

cấu tổ chức thích hợp nhất với điều kiện mà trong tổ chức tồn tại, vận động và

phát triển. Đây cũng chính là trao lại cho tổ chức những chức năng cơ bản của

tổ chức. Không thể có mô hình tổ chức giống nhau cho mọi tổ chức khi hoạt

động ở những điều kiện khác nhau. Tập trung quyền quyết định một loại cơ

cấu tổ chức cho bộ máy hành chính nhà nước ở các cấp là không phù hợp.

Trong khu vực tư nhân, quyền quyết định về sự lựa chọn một cơ cấu tổ

chức hợp lý, khoa học vì hiệu quả cung cấp dịch vụ hay sản xuất hàng hóa

31

được giao cho chính tổ chức đó. Điều này làm cho tổ chức có một cơ cấu tổ

chức linh hoạt và dễ thích ứng với môi trường thay đổi.

Quyền quyết định về lựa chọn cơ cấu tổ chức thích nghi với điều kiện

mới là một trong những yêu cầu quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động

quản lý. Hiện nay có rất nhiều loại mô hình cơ cấu tổ chức [31]. Những mô

hình mạng, phẳng hay thứ bậc đều được lựa chọn tùy thuộc vào điều kiện cụ

thể của tổ chức đó.

Trong các cơ quan nhà nước, phân cấp quyền quyết định về cơ cấu tổ

chức bộ máy khá hạn chế. Do đó, các tổ chức có một cơ cấu giống nhau với

các bộ phận như nhau.

- Phân cấp quyền quyết định về nhân sự.

Vấn đề nhân sự của một tổ chức gắn liền với nhiều nội dung liên quan

đến việc xác định số lượng biên chế, cách thức tuyển dụng, sử dụng, bố trí, đề

bạt, khen thưởng kỷ luật cũng như các vấn đề liên quan đến chế độ tiền công.

Phân cấp quyền quyết định các vấn đề liên quan đến nhân sự là một

trong những loại phức tạp nhất của phân cấp quyền quyết định các vấn đề của

một tổ chức. Trong khu vực nhà nước, với thể chế chính trị, thể chế nhà nước

đan xen, phân cấp quyền về nhân sự lại càng phức tạp hơn.Tuy nhiên, để nâng

cao hiệu quả hoạt động của tổ chức, tổ chức phải tự mình xác định được nhu

cầu nguồn nhân lực về cả số lượng và chất lượng. Và được quyền tuyển dụng,

lựa chọn những người đáp ứng.

Tùy thuộc vào mức độ tự chủ về tài chính (phân cấp) mà quyền quyết

định về các vấn đề nhân sự sẽ khác nhau. Các tổ chức càng được trao nhiều

quyền quyết định về tài chính (mức độ tự chủ cao, phân cấp nhiều) càng có

nhiều quyền quyết định về nhân sự.

Trong hệ thống các tổ chức nhà nước, quyền quyết định về nhân sự gắn

liền với nguồn NSNN dành cho tổ chức đó. Mặt khác, quyền này bị phụ thuộc

vào cách thức xác định mô hình chức nghiệp ở trong tổ chức đó. Nếu mô hình

32

chức nghiệp theo hệ thống việc làm, và với quyền tự chủ về tài chính quyền

quyết định về nhân sự hoàn toàn căn cứ vào nhu cầu việc làm. Nếu mô hình

chức nghiệp theo hệ thống ngạch, bậc có thể tạo ra những cơ chế trì trệ và khó

khăn trong việc tinh giảm biên chế; giảm người dư thừa. Đây cũng chính là

thách thức của nhiều nước khi cải cách hành chính.

- Phân cấp quyền quyết định về hoạt động sản xuất, kinh doanh, lựa

chọn thị trường.

Mô hình phân cấp này là hệ quả tất yếu của các mô hình phân cấp đã

nêu trên. Trong cơ chế thị trường, mối quan hệ cung cầu là mối quan hệ cơ

bản được sử dụng để nâng cao hiệu quả hoạt động của mọi tổ chức.

Trong cơ chế thị trường, sự tồn tại, vận động và phát triển của bất cứ tổ

chức nào cũng phải dựa trên đòi hỏi của thị trường để cung cấp hàng hóa và

dịch vụ. Quyền quyết định của các tổ chức gắn liền với tín hiệu của thị

trường. Để cho các tổ chức tự điều chỉnh theo tín hiệu thị trường nhằm thích

ứng với nhu cầu tài chính, nhân sự và cơ cấu tổ chức.

Trong hệ thống các cơ quan nhà nước, hoạt động cung cấp dịch vụ

mang ý nghĩa cơ bản và các loại dịch vụ này đều thuộc loại dịch vụ công [26].

Chính vì vậy, khả năng lựa chọn của các tổ chức nhà nước này gặp khó khăn

và luôn bị ràng buộc bởi các quy định sản xuất cái gì; sản xuất như thế

nào,v.v.. Nhưng đồng thời với xu hướng tư nhân hóa, chuyển giao và xã hội

hóa (Việt Nam), các tổ chức nhà nước cũng đã bắt đầu được quyền một phần

trong việc lựa chọn những loại dịch vụ mang tính cốt lõi để cung cấp và

chuyển giao các loại khác ra bên ngoài. Nhưng quyền này thuộc cơ quan

QLNN chung, khó có thể giao cho từng cơ quan hành chính nhà nước cụ thể.

Quá trình chuyển giao hoạt động cung cấp dịch vụ là một quá trình

chuyển giao phức tạp, không chỉ chuyển giao hoạt động cung cấp dịch vụ vốn

của các cơ quan hành chính nhà nước cấp trên cho các cơ quan hành chính

nhà nước cấp dưới mà còn thực hiện chuyển giao cho các chủ thể thuộc khu

33

vực khác. Điều này hoàn toàn đúng trên lĩnh vực y tế và giáo dục là hai lĩnh

vực vốn dĩ thuộc khu vực nhà nước. Đây là một quá trình chuyển giao phức

tạp, đòi hỏi phải xem xét cụ thể cả phương diện tài chính lẫn chức năng cung

cấp loại dịch vụ.

2.1.2.2. Các loại phân cấp theo mức độ, hình thức chuyển giao quyền

quyết định

Đứng trên giác độ về mức độ chuyển giao, có thể phân cấp được phân

loại theo một số nhóm: Tản quyền; Ủy quyền; Trao quyền; Đối tác, hợp tác;

Tư nhân hóa.Tùy theo điều kiện cụ thể mà phân cấp quyền quyết định quản lý

ở các cấp độ và hình thức khác nhau ở trên sẽ được vận dụng cụ thể cho từng

loại tổ chức [20].

- Tản quyền (deconcentration)

Đây là bước khởi điểm đầu tiên của mô hình phân cấp quyền quyết

định các vấn đề liên quan đến một tổ chức, một hệ thống của nhiều yếu tố cấu

thành. Đó là một quá trình phân cấp quyền quyết định nhiều vấn đề khác nhau

cho từng yếu tố cấu thành tổ chức (lớn) và cả hệ thống. Đó là quyền quyết

định được trao cho các tổ chức đặt tại các địa điểm khác nhau trong cơ cấu tổ

chức (nội bộ tổ chức). Cách tiếp cận này có thể hiểu:

+ Mức độ tản quyền hạn chế do các yếu tố cấu thành tổ chức phụ thuộc

lẫn nhau.

+ Tản quyền cũng có thể hiểu như là phân cấp mang tính nội bộ của tổ

chức. Trong các tổ chức nhỏ, không có khái niệm tản quyền và do đó hình

thức này gắn liền với các tổ chức có cơ cấu tổ chức phức tạp, đặc biệt là cơ

quan nhà nước.

+ Tản quyền sẽ gắn liền với việc cơ cấu lại tổ chức bộ máy của các tổ

chức lớn và đặt các bộ phận gần “dân” hơn và ít quan liêu hơn. Tuy nhiên, đa

số các cuộc cải cách theo hướng tản quyền lại không gắn liền với cải cách cơ

cấu tổ chức bộ máy.

34

Thuật ngữ tản quyền cũng được nhiều tài liệu nghiên cứu và cũng được

tiếp cận theo nhiều giác độ khác nhau. Trong tài liệu “Decentralization,

deconcentration and devolution” nhóm tác giả đã liệt kê nhiều cách tiếp cận

khác nhau về thuật ngữ tản quyền. Điều cơ bản của nhiều cách tiếp cận là ở

khía cạnh tổ chức bộ máy hành chính trung ương. Sự chuyển giao quyền

quyết định vẫn chỉ xảy ra ở trong cơ cấu của một tổ chức (hành chính trung

ương) không bàn về tổ chức hành chính địa phương [44].

Phân cấp theo tản quyền cũng chính là quá trình tổ chức lại sản xuất

theo hướng phi tập trung. Tản quyền sản xuất cũng là thuật ngữ được sử dụng

và cũng có thể hiểu nó như là một quá trình phân bố lại sản xuất như đang

được tiến hành tại các đô thi lớn ở Việt nam thông qua việc di dời các cơ sở

sản xuất. Tổ chức lớn như liên minh Châu Âu (EU) cũng tiếp cận tản quyền

theo nghĩa chuyển quản lý quỹ Châu Âu từ ủy ban về cho các đoàn đại biểu

của ủy ban Châu Âu.

- Ủy quyền (delegation)

Có hai cách tiếp cận đến ủy quyền trong phân cấp quản lý. Một loại ủy

quyền gắn liền với nội bộ tổ chức khi đưa những quyền quyết định cho một số

người khác làm với nhiều lý do khác nhau. Loại ủy quyền này thường được

coi như là một loại năng lực và là nghệ thuật của nhà quản lý.Tuy nhiên, ủy

quyền là một nghệ thuật và do đó, ủy quyền luôn có tính hai mặt: ưu điểm và

hạn chế. Trong một tổ chức, nhà lãnh đạo hoặc quản lý cao cấp phải biết lựa

chọn vấn đề ủy quyền và ủy quyền cho ai [49].

Dạng thứ hai là ủy quyền xảy ra giữa tổ chức với các bộ phận nằm bên

ngoài tổ chức những có mối quan hệ mật thiết với tổ chức về chuyên môn, về

thị trường và về nguồn nhân lực.

Công việc thuộc nhiệm vụ của tổ chức, nhưng do điều kiện về hiệu quả

của việc tổ chức thực hiện, tổ chức có thể ủy quyền cho một tổ chức khác

thực hiện trên cơ sở trao cho họ nguồn lực, quy tắc, quy chế thực hiện.

35

Những tổ chức nhận được sự nủy quyền chỉ làm những công việc như đã ủy

quyền và trên nguyên tắc chỉ chịu trách nhiệm với loại công việc đó.

- Trao quyền (devolution)

Về phương diện lý luận, trao quyền thể hiện rõ nhất bản chất của phân

cấp quyền quyết định các vấn đề liên quan đến quản lý. Đồng thời đây cũng là

một thách thức lớn nhất của phân cấp quản lý.

Những quyền quyết định được chuyển từ cơ quan nhà nước này sang cơ

quan nhà nước khác theo luật định và cơ quan được trao quyền sẽ thực hiện

việc kiểm soát trực tiếp các vấn đề của quản lý. Tuy nhiên, trong mối quan hệ

của hệ thống nhà nước, nhiều nước phát triển không mong muốn phân cấp

theo trao quyền do lo ngại sự giảm quyền kiểm soát của trung ương hay cấp

trên đối với hoạt động của cấp dưới.

Cơ cấu tổ chức thứ bậc của nền hành chính các nước,với cách quan

niệm cấp trên cấp dưới và sự thiếu rõ ràng trong chức năng, nhiệm vụ của

từng cấp làm cho mô hình phân cấp này không thực sự tồn tại. Chính vì vậy,

phân cấp theo mô hình trao quyền đòi hỏi phải thiết lập một cơ cấu tổ chức

hợp lý. Trao quyền gắn liền không chỉ trao nguồn lực, quy chế thực hiện, quy

trình thực hiện mà còn trao cả quyền hạn để tự quyết định và tự chịu trách

nhiệm về những quyết định được ban hành cũng như thực hiện.

Trong hệ thống các cơ quan nhà nước, đây là một hình phân cấp hoạt

động quản lý giữa các cấp chính quyền trung ương và địa phương thông qua

hệ thống pháp luật của nhà nước.

Trong lý thuyết phân cấp theo mô hình trao ủy quyền, tổ chức bộ máy

hành chính nhà nước phải gắn liền với các đơn vị tự chủ địa phương, có tính

độc lập tương đối với nhau, được pháp luật quy định nhiệm vụ, quyền hạn

riêng biệt. Những công việc ủy quyền cho các đơn vị tự chủ đó hoàn toàn

không nằm trong cơ cấu tổ chức của cơ quan trao quyền và trên thực tế, tính

phù thuộc giữa các loại cơ quan trên hạn chế và nguyên tắc không phải là cơ

36

quan phụ thuộc. Nhiều nước gọi đó là những cơ quan độc lập - giống như

những loại trường độc lập trong giáo dục ở Anh.

Tản quyền, ủy quyền, trao quyền là những phương thức tổ chức quyền

lực nhà nước. Tư tưởng về tản quyền, ủy quyền, trao quyền đã được biết đến,

được thực hiện từ thời cổ đại và không ngừng được bổ sung, hoàn thiện cho

tới ngày nay. Việc tổ chức nhà nước theo các phương thức này nhằm đoạn

tuyệt với phương thức tập quyền tuyệt đối trong tổ chức quyền lực nhà nước ở

chế độ chủ nô, phong kiến. Tản quyền, ủy quyền, trao quyền nhằm tránh

quyền lực tập trung trong tay một người, một nhóm người để xây dựng cơ chế

quyền lực đủ sức ngăn chặn việc lạm quyền và sử dụng quyền lực trái với lợi

ích của nhân dân. Theo đó, quyền lực được phân chia thành các nhánh độc lập

hoặc giao cho các cấp chính quyền địa, nhưng đồng thời các nhánh quyền lực

hoặc các phần quyền lực đó vừa phải có sự liên kết, phối hợp lại vừa kiểm

soát, đối trọng lẫn nhau trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nước.

Tản quyền là hình thức tổ chức quản lý nhà nước phổ biến của các

nước đang phát triển. Theo đó, quyền lực nhà nước vẫn được tập trung, nhưng

nhà nước trung ương cử đại diện của mình xuống địa phương để tổ chức thực

hiện quyền lực nhà nước tại địa phương đó.

Ủy quyền là việc cấp trên cho phép cấp dưới có quyền ra quyết định về

những vấn đề thuộc quyền hạn của mình, trong khi người cho phép vẫn đứng

ra chịu trách nhiệm.

Trao quyền là sự chuyển giao quyền hạn và trách nhiệm được lập kế

hoạch trước đó và tiến hành một cách cẩn trọng nhằm thực hiện các công việc

trong giới hạn đã được định trước của người trao quyền cho người được trao

quyền.

Có thể thấy ủy quyền và trao quyền giống nhau là sự chuyển giao

quyền của người cấp trên cho cấp dưới. Tuy nhiên, ủy quyền là chuyển giao

quyền, còn trao quyền nghĩa là trao cả quyền và trách nhiệm.

37

- Đối tác, hợp tác giữa các khu vực với nhau, đặc biệt là đối tác giữa

các chủ thể khu vực công với khu vực tư (Public - private partnership- PPP).

Quan hệ đối tác cũng được coi như là mức độ phân cấp quyền quyết

định các vấn đề liên quan đến hoạt động cung cấp dịch vụ và hàng hóa của

một tổ chức. Trong mô hình này, các bên cùng liên kết với nhau trên quan hệ

đối tác và tùy thuộc vào mô hình đối tác (liên doanh, liên kết, hợp tác,...) mà

quyền quyết định các vấn đề liên quan đến tổ chức trong quá trình cung cấp

hàng hóa và dịch vụ được chia sẻ giữa các đối tác.

Mô hình đối tác đang trở thành phổ biến và tương quan về tài chính

giữa các bên trong đối tác sẽ tạo ra tương quan về quyền quyết định các vấn

đề liên quan đến thị trường, cơ cấu tổ chức, nhân sự [19].

- Tư nhân hóa.

Tư nhân hóa là một loại hình được nhiều nhà nghiên cứu gọi là phân

quyền triệt để đối với hoạt động cho khu vực bên ngoài. Đó là sự tổ chức lại

hoạt động của bộ máy nhà nước và xác định cụ thể những loại công việc mà

nhà nước phải đảm nhận và những loại công việc mà nhà nước đảm nhận

thông qua các hình thức phân cấp đã nêu trên. Còn lại những lĩnh vực khác

nhà nước sẽ chuyển giao cho các khu vực khác hay tư nhân hóa.

Tư nhân hóa có thể tiến hành ở những mức độ khác nhau. Đơn giản

nhất là hợp đồng cho khu vực tư nhân thực hiện một số hoạt động cung cấp

dịch vụ công bằng NSNN. Dạng này cũng giống như dạng ủy quyền hay trao

quyền những không thuộc các chủ thể bên trong khu vực nhà nước.

Mức độ cao nhất của tư nhân hóa là nhà nước từ bỏ hoạt động cung cấp

dịch vụ đó mà để cho khu vực tư nhân lựa chọn và cung cấp theo nguyên tắc

của thị trường. Trong trường hợp này, nhà nước chỉ đóng vai trò QLNN nhằm

bảo đảm hoạt động cung cấp dịch vụ đó tuân thủ các quy định của pháp luật.

Tư nhân hóa các nội dung thuộc lĩnh vực của nhà nước đảm nhận mang

tính truyền thống sang cho các khu vực khác thực hiện sẽ có tính hai mặt của

38

nó. Chính vì vậy, đây là một vấn đề được nhiều nước quan tâm, nhưng áp

dụng rất hạn chế. Một số nước (điển hình là Vương quốc Anh, nước Nga thời

tổng thống Enlsin) coi tư nhân hóa là biện pháp cần thiết để thúc đẩy phát

triển kinh tế. Nhưng ngay chính các nước này cũng đang phải xem lại tư nhân

hóa và có xu hướng quốc hữu hóa lại một số chủ thể cung cấp dịch vụ đã

được tư nhân hóa.

- Nhận xét chung

Phân cấp quyền quyết định các vấn đề liên quan đến một hệ thống, một

bộ máy hay một tổ chức lớn có thể biểu hiện dưới nhiều dang khác nhau. Tuy

thuộc vào bản chất của hệ thống, cơ cấu tổ chức hay quy mô của tổ chức mà

có nhiều loại hình phân cấp khác nhau và ở các mức độ khác nhau.

Trong khu vực nhà nước, hoạt động QLNN gắn liền với hoạt động cung

cấp nhiều loại dịch vụ (công) do các chủ thể của nhà nước đảm nhận, việc

phân cấp đòi hỏi nghiên cứu, xem xét dưới hai lĩnh vực: hoạt động QLNN và

hoạt động cung cấp dịch vụ.

Mô hình phân cấp quyền quyết định liên quan đến các vấn đề QLNN và

do đó gắn liền với các vấn đề nội bộ của bộ máy nhà nước cũng như bộ máy

hành chính nhà nước. Trong khi đó, hoạt động cung cấp dịch vụ gắn liền với

nhiều yếu tố và đã đang đặt trong môi trường cạnh tranh.

2.2. Phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

2.2.1. Một số khái niệm liên quan

2.2.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước

Thuật ngữ hành chính “quản lý nhà nước” được sử dụng khá phổ biến

với nhiều cách tiếp cận khác nhau:

+ Theo nghĩa rộng: QLNN là hoạt động của toàn bộ máy nhà nước cơ

quan quyền lực nhà nước: Quốc hội; các cơ quan hành chính nhà nước: Chính

phủ, các Bộ, Ủy ban hành chính các cấp; cơ quan kiểm sát: Viện kiểm sát nhân

dân tối cao và các các viện kiểm sát nhân dân các cấp. Ví dụ: Quốc hội thực

39

hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của

Quốc hội: xét báo các hoạt động của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc

hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

+ Theo nghĩa hẹp: QLNN là hoạt động riêng hệ thống cơ quan hành

chính nhà nước (quản lý hành chính nhà nước): Chính phủ, các bộ, cơ quan

ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp, các sở, phòng,

ban chuyên môn Ủy ban nhân dân. Ví dụ: Chính phủ thống nhất quản lý hệ

thống giáo dục quốc dân về mục tiêu chương trình, nội dung kế hoạch giáo

dục - đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, tiêu chuẩn giáo viên, quy chế thi cử và hệ

thống văn bằng, học hàm, học vị, các hình thức giáo dục khác, thực hiện phổ

cấp giáo dục tiểu học, xóa nạn mù chữ,…

Một số nhà nghiên cứu hành chính, luật pháp cho rằng:

+ QLNN là hoạt động có tổ chức bằng pháp quyền bằng bộ máy nhà

nước (công quyền) để điều chỉnh các quá trình - xã hội và hành vi của mọi

công dân và mọi tổ chức xã hội, chính trị, khoa học, văn hóa - xã hội nhằm

giữ gìn thể chế chính trị, trật tự xã hội và phát triển xã hội theo những mục

tiêu đã định.

+ QLNN là hoạt động của Nhà nước trên lĩnh vực lập pháp, hành pháp

và tư pháp nhằm thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại của Nhà nước.

+ QLNN là một dạng quản lý xã hội và hành vi hoạt động của con người.

+ QLNN (quản lý hành chính nhà nước) là hoạt động hành chính của

các cơ quan thực thi quyền lực nhà nước (quyền hành pháp) để quản lý, điều

hành các lĩnh vực của đời sống xã hội theo luật pháp.

QLNN là một dạng của quản lý, chứa đựng bên trong nhiều kỹ năng

thuộc về quản lý như mọi tổ chức khác đã vận dụng. QLNN mang tính quyền

lực nhà nước, nó hướng tới những đối tượng nhất định. Theo cách hiểu chung

nhất, đứng trên góc độ quản lý công thì QLNN là một dạng quản lý xã hội đặc

biệt, mang tính quyền lực nhà nước.

40

2.2.1.2. Khái niệm đào tạo, bồi dưỡng

Trước đây, khi định nghĩa về đào tạo, thường sử dụng thuật ngữ “đào

tạo mới” và “đào tạo lại”. Tuy nhiên do tính đa nghĩa của cụm từ “đào tạo lại”

mà dần dần 2 khái niệm này không còn được sử dụng. Thay vào đó thuật ngữ

ĐTBD lao động làm việc trong các tổ chức đang trở thành phổ biến.Mặc dù

có nhiều cách giải thích khái niệm ĐTBD nhưng chung quy có hai cách hiểu

cơ bản như sau:

Cách hiểu thứ nhất, khái niệm ĐTBD bao gồm 02 nội dung là Đào tạo

và Bồi dưỡng. Trong cách hiểu này, ĐTBD vừa thực hiện những nhiệm vụ

của giáo dục quốc dân (đào tạo trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học và sau

đại học), vừa cập nhật kiến thức, trang bị kỹ năng, phương pháp làm việc

cho CBCC.

Cách hiểu thứ hai, khái niệm ĐTBD là một thuật ngữ đi cùng nhau, để

chỉ hoạt động thường xuyên của các cơ quan, đơn vị quản lý và sử dụng

CBCC nhằm cập nhật kiến thức, trang bị kỹ năng, phương pháp làm việc...

cho CBCC.

Đào tạo được xem là quá trình làm cho con người “trở thành người có

năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định”, còn bồi dưỡng được xác định là

quá trình làm cho con người “tăng thêm năng lực hoặc phẩm chất”. Mặc dù

đào tạo và bồi dưỡng tuy là hai khái niệm khác nhau nhưng nó cùng một mục

đích chung làm cho người lao động có năng lực công tác. Trên thực tế rất khó

phân chia đào tạo và bồi dưỡng, bởi lẽ giữa chúng có sự đan xen và kế thừa

lẫn nhau. Hiện nay, trừ một số cơ sở đào tạo thuộc hệ thống giáo dục quốc

dân, có cấp bằng học theo cấp học, bậc học. Trên thế giới, cơ quan hành chính

của các nước như Mỹ, Nhật Bản, Thái Lan, Singapore... không đặt ra nhiệm

vụ tổ chức đào tạo các trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học và sau đại học

cho công chức. Điều này được giải nghĩa: khi được tuyển dụng và bổ nhiệm

vào một vị trí nhất định, người công chức đã phải đáp ứng các tiêu chuẩn của

41

vị trí đó, trong đó có tiêu chuẩn về trình độ đào tạo. Khi cần nguồn nhân lực

có trình độ cao hơn, họ sẽ tổ chức tuyển dụng những đối tượng đã được đào

tạo trình độ họ cần mà không tổ chức hoặc cử công chức đi đào tạo.

Ở CHDCND Lào, cách hiểu vềđào tạo, bồi dưỡng gần như không tách

rời, là việc tổ chức những cơ hội cho CBCC học tập, nhằm giúp tổ chức đạt

được mục tiêu của mình bằng việc tăng cường năng lực, làm gia tăng giá trị

của nguồn lực quan trọng nhất - đội ngũ CBCC.

Như vậy, ĐTBD là quá trình tổ chức, bồi đắp, xây dựng thêm những

kiến thức, kỹ năng mà người học còn thiếu hoặc yếu, giúp họ hoàn thành tốt

hơn công việc của mình.

2.2.1.3. Khái niệm cán bộ, công chức

Theo Luật Cán bộ, công chức năm 2015 do Quốc hội nước CHDCND

Lào ban hành:

"Cán bộ là công dân Lào, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức

vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Nhân dân cách mạng

Lào, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hộiở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện,

trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước".

“Công chức là công dân Lào, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch,

chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Nhà

nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ

quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân

chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an

nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp; trong biên chế

và hưởng lương từ ngân sách nhà nước”.

2.2.1.4. Khái niệm phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức

Từ các khái niệm có liên quan đã phân tích ở trên, có thể hiểukhái niệm

phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức như sau:

42

Phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là sự

chuyển giao một số chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm quản lý

trong hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức từ cấp trung ương đến

các cấp chính quyền địa phương để đảm bảo giảm tải cho cấp trung ương và

giúp cho cấp địa phương dễ dàng tiếp cận và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ, công chức đúng đối tượng và thuận lợi nhất.

2.2.2. Sự cần thiết phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức

ĐTBD CBCC, viên chức có vị trí, vai trò hết sức quan trọng đối với

phát triển nguồn nhân lực, nó quyết định đến sự phát triển của mỗi ngành nói

riêng và đất nước nói chung. Vì vậy, công tác ĐTBD CBCC là nhiệm vụ

trọng tâm và xuyên suốt của công tác cán bộ, là yêu cầu khách quan trong xây

dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC, ở các cơ quan nhà nước. Nội

dung công tác ĐTBD cho đội ngũ CBCC, viên chức bao gồm nhiều nội dung,

như lý luận chính trị, phương pháp lãnh đạo, quản lý, khoa học xã hội, nhân

văn, kỹ năng xử lý công việc, cập nhật kiến thức mới …. Đồng thời, thông

qua công tác ĐTBD sẽ giúp CBCC có khả năng phân tích, xử lý các tình

huống, hình thành phương pháp luận khoa học để giải quyết các vấn đề

nhanh, nhạy và đạt hiệu quả cao nhất. Chính vì vai trò của công tác và sự

phức tạp trong công tác ĐTBD CBCC hiện nay mà vấn đề về phân cấp quản

lý là yêu cầu bức thiết.

- Xuất phát từ vai trò của phân cấp trong việc nâng cao chất lượng và

hiệu quả của hoạt động ĐTBD CBCC. Điều này sẽ giúp cho hoạt động ĐTBD

phát huy được tính chủ động, tích cực và sáng tạo của các cấp trong công tác

ĐTBD CBCC ở cấp mình quản lý, khi phân cấp QLNN đối với hoạt động này

thì các cấp sẽ chủ động hơn, có các biện pháp và hình thức đào tạo, cách thức

tiếp cận hợp lý, khoa học nhất.

43

- Xuất phát từ vai trò cụ thể của phân cấp QLNN đối với công tác

ĐTBDcho các cấp chính quyền địa phương. Việc phân cấp QLNN đối với hoạt

động ĐTBD chính là cách thức hiệu quả để nâng cao chất lượng và hiệu quả

hoạt động của hành chính nhà nước và đáp ứng tốt nhất đòi hỏi của công tác

ĐTBD CBCC đối với các cấp hiện nay. Nó cho phép huy động tối đa mọi nguồn

lực của địa phương, cấp chính quyền trung ương chi tiêu ít hơn mà vẫn đảm bảo

thực hiện hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của mình đối với toàn hệ thống.

- Xuất phát từ yêu cầu của cải cách nền hành chính nhà nước, đòi hỏi

cần có sự chuyển hóa, chuyển giao trong mọi hoạt động, từ phân cấp, phân

quyền, đến các hoạt động khác, đặc biệt là về ĐTBD CBCC. Phân cấp QLNN

chính là việc làm tất yếu để thực hiện công tác cải cách hành chính quốc gia.

Theo đó các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, văn hoá, giáo dục, y tế,... cũng

đòi hỏi cần có sự cấp trong quản lý, kéo theo sự phân cấp trong vấn đề

ĐTBD, cập nhật kiến thức cho đội ngũ CBCC thực hiện nhiệm vụ của ngành,

lĩnh vực đó.

- Xuất phát từ thực tế xã hội hóa dịch vụ công cộng. Công tác ĐTBD là

một bộ phận thuộc về các dịch vụ công cộng, do nhà nước cung ứng theo nhu

cầu của xã hội và dù muốn hay không thì nhà nước cũng sẽ đảm bảo các dịch

vụ này phải được cung ứng tốt nhất, chất lượng đối với toàn xã hội. Xã hội

hóa, chuyển giao một phần nghĩa vụ, quyền lợi của các đơn vị công lập cho

các chủ thể khác ngoài nhà nước thực hiện, quá trình phân cấp, phân quyền

được tiến hành, thì công tác QLNN đối với vấn đề này trở nên cấp thiết.

Việc phân cấp ĐTBDCBCC một mặt nhằm phát huy tính năng động,

sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cấp địa phương trên cơ sở

phân định rõ, cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mỗi cấp trong

quản lý ĐTBD; mặt khác, bảo đảm sự quản lý tập trung, thống nhất và thông

suốt của cấp trung ương, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả phân cấp quản lý,

phục vụ tốt hơn nhu cầu và lợi ích của người học là CBCC ở từng địa phương,

44

trên cơ sở phát huy thế mạnh của mỗi cấp ĐTBD. Do vậy, việc phân cấp quản

lý ĐTBD hợp lý, chính xác sẽ có những tác dụng tích cực như sau:

Một là, thúc đẩy sự phát triển của các loại hình ĐTBD thông qua việc

cung cấp những cơ hội tốt hơn để cơ sở ĐTBD ở mỗi cấp được tham gia tích

cực và trực tiếp hơn vào các quá trình quản lý, tổ chức và ra quyết định của

cấp trực tiếp.

Hai là, tăng cường hiệu quả của việc cung cấp các dịch vụ công trong

ĐTBD CBCC cho người học thông qua việc ủy quyền cho cấp đào tạo ở địa

phương thực thi chức năng cung cấp dịch vụ học tập, từ đó hạn chế sự độc

quyền và trì trệ của các cơ sở ĐTBD.

Ba là, tạo điều kiện để nâng cao chất lượng của những dịch vụ dạy và

học được cung cấp cho học viên dựa trên trách nhiệm của đơn vị cung ứng

dịch vụ ĐTBD và sự nhạy bén trong việc nắm bắt và đáp ứng nhu cầu của học

viên ở cấp chính quyền địa phương.

Bốn là, tăng cường sự chủ động, minh bạch, trách nhiệm trong việc tổ

chức dạy và học ở mỗi cấp và năng lực giải quyết các công việc của các đơn

vị tổ chức cung ứng dịch vụ ĐTBD CBCC chính quyền địa phương.

Năm là, cho phép đại diện đa dạng hơn về chính trị và sự tham gia của

các nhóm lợi ích như văn hóa, chính trị, tôn giáo, sắc tộc khác nhau… vào

quá trình ra quyết định của các cơ quan nhà nước liên quan đến các vấn đề

của mỗi địa phương.

2.2.3. Nguyên tắc phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức

Phân cấp ĐTBDCBCC là căn cứ pháp lý để các cơ quan, đơn vị tổ chức

thực hiện công tác ĐTBD CBCC ở đơn vị mình, cấp mình quản lý. Thông qua

kế hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt cần phải thông báo cho tất cả

các đơn vị biết và triển khai thực hiện. Căn cứ kế hoạch tổng thể, các đơn vị

có liên quan lập kế hoạch chi tiết cho đơn vị mình, trong đó có chia ra kế

45

hoạch cụ thể (tháng, quý, 06 tháng và ghi rõ các lớp học; đối tượng, thời gian

mở từng lớp).

Kế hoạch chi tiết này cần thông báo cho các đơn vị, cá nhân biết để chủ

động trong việc sắp xếp thời gian, công việc và cử CBCC tham dự. Trên cơ

sở kế hoạch tổng thể và kế hoạch chi tiết đã được thông báo, các đơn vị đăng

ký CBCC tham dự từng khoá học từ đầu năm hoặc theo từng giai đoạn cụ thể.

Đơn vị tổ chức lớp chuẩn bị liên hệ địa điểm, giảng viên, tài liệu và các điều

kiện cần thiết khác. Định kỳ hàng tháng, hàng quý, đặc biệt là 06 tháng đầu

năm tổ chức sơ kết, rút kinh nghiệm, thậm chí điều chỉnh kế hoạch ĐTBD cho

phù hợp; xây dựng kế hoạch 06 tháng cuối năm và dự kiến kế hoạch ĐTBD

năm sau theo quy định.

Phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cần chú ý

các nguyên tắc sau:

Một là, nguyên tắc dân chủ tập trungtrong phân cấp QLNN đối với

ĐTBD CBCC.

Việc quản lý ĐTBD CBCC phải đảm bảo sự thống nhất trên toàn quốc

nhưng phải đảm bảo sự phù hợp với thực tiễn từng địa phương. Do đó, cần thực

hiện nguyên tắc dân chủ tập trung trong phân cấp QLNN đối với ĐTBD CBCC.

Tập trung dân chủ trong phân cấp QLNN đối với ĐTBD CBCC đòi hỏi

tập trung quyền lực cho cơ quan quản lý trung ương nhưng đồng thời mở rộng

dân chủ cho cơ quan quản lý ĐTBD CBCC địa phương.

Hai là, nguyên tắc kết hợp phân cấp quản lý theo ngành và phân cấp

quản lý theo lãnh thổ trong phân cấp QLNN đối với ĐTBD.

QLNN đối với ĐTBD CBCC có sự tham gia của nhiều cơ quan trung

ương và địa phương; của cơ quan quản lý chuyên môn đến cơ quan quản lý

lãnh thổ. Do vậy, việc phân cấp quản lýđối với ĐTBD CBCC không thể tách

rời yếu giữa quản lý theo ngành và theo lãnh thổ. Để việc quản lý đối với

ĐTBD CBCC hiệu quả thì việc phân cấpQLNN đối với ĐTBD phải kết hợp

cả quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ.

46

Ba là, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong phân cấp QLNN đối

với ĐTBD.

Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi thực hiện phân cấp

QLNN đối với ĐTBDtrước hết phải tuân thủ những quy định của pháp luật.

Việc phân cấp quản lý ĐTBD CBCC phải được thực hiện nghiêm ngặt theo

đúng trình luật định, tránh mỗi địa phương, mỗi ngành triển khai tùy tiện

nhiệm vụ theo ý kiến chủ quan trái với quy định chung của Nhà nước.

Bốn là, nguyên tắc bình đẳng giữa các địa phương.

Cũng giống như bất kỳ hoạt động có mục đích nào, phân cấp quản lý

trong ĐTBD CBCC cần được tổ chức và hoạt động có hiệu quả các công việc

của mình trên các lĩnh vực đã được phân công.

Khi phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC cần có sự bình đẳng giữa các

địa phương, nghĩa là không có sự ưu tiên đối với bất kỳ địa phương nào, dù

đó là địa phương thành phố hay địa phương miền núi, vùng sâu xa; địa

phương phát triển về kinh tế hay địa phương nghèo…

Năm là, bảo đảm tính hiệu lực,hiệu quả.

Phân cấp là một quá trình bắt đầu từ việc thử nghiệm hoặc rà soát chức

năng, nhiệm vụ của từng cấp quản lý để phát hiện khả năng, tính trội của một

cấp nhất định trong việc đảm nhiệm một công việc, hoạt động thuộc nội dung

quản lý nhà nước. Việc lựa chọn chủ thể quản lý về ĐTBD, CBCC phải xuất

phát từ tiêu chí hiệu lực, hiệu quả, có nghĩa là cấp nào có khả năng đạt được

mục tiêu, chất lượng và yêu cầu quản lý với chi phí ít nhất và thời gian ngắn

nhất thì nên giao nhiệm vụ tương ứng cho cấp đó.

2.2.4. Chủ thể tham gia quản lý đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

2.2.4.1. Bộ Nội vụ

Bộ Nội vụ là cơ quan cơ quan QLNN về CBCC. Tuy nhiên, tuỳ từng

quốc gia khác nhau, ở từng thời điểm khác nhau mà có tên gọi khác nhau

như Bộ Nội vụ, Viện nhân sự quốc gia, Ban tổ chức chính phủ... nhưng phổ

47

biến gọi là Bộ Nội vụ (ví dụ ở Việt Nam trướcnhững năm 90, Bộ Nội vụ

chính là Bộ Công an ngày nay).Bộ Nội vụ thực hiện chức năng QLNN về

CBCC, đồng thời là chủ thể QLNN về ĐTBD cho đội ngũ CBCC trên phạm

vi cả nước.

Thực hiện chức năng quản lý ĐTBD CBCC, Bộ Nội vụ xây dựng

chương trình, kế hoạch ĐTBD CBCC; chương trình, nội dung ĐTBD CBCC;

đội ngũ giảng viên và cơ sở ĐTBD CBCC; kinh phí phục vụĐTBD CBCC;

thanh tra công tác ĐTBD CBCC.

2.2.4.2. Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ

Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ phối hợp với Bộ

Nội vụ để thực hiện việc QLNN đối với công tác ĐTBD CBCC. Theo đó, các

bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ quản lý công tác ĐTBD

CBCC trong phạm vi bộ, ngành, lĩnh vực của mình.

2.2.4.3. Bộ Tài chính

Bộ Tài chính thực hiện chức năng QLNN về tài chính trên phạm vi cả

nước đối với các lĩnh vực của quốc gia. Kinh phí dành cho công tác ĐTBD

CBCC lấy từ ngân sách nhà nước sẽ chịu sự QLNN của Bộ tài chính. Theo

đó, Bộ Tài chính xây dựng kế hoạch sử dụng, cấp và thanh tra kiểm toán đối

với kinh phí dành cho ĐTBD CBCC.

2.2.4.4. Chính quyền địa phương

Chính quyền địa phương thực hiện chức năng QLNN trên địa bàn lãnh

thổ theo sự phân chia của mỗi quốc gia. Tuỳ theo thể chế của mỗi quốc gia

mà chính quyền địa phương được phân cấp thẩm quyền quản lý đối với công

tác ĐTBD CBCC.

2.2.4.5. Đơn vị sử dụng cán bộ, công chức

Đơn vị sử dụng CBCC là đơn vị thụ hưởng thành quả của công tác

ĐTBD CBCC. Tuỳ theo nhu cầu của mình, đơn vị sử dụng CBCC cử CBCC

đi ĐTBD ở đâu, nội dung gì.

48

Là đơn vị thụ hưởng thành quả của công tác ĐTBD CBCC, đơn vị sử

dụng CBCC thực hiện chế độ hướng dẫn tập sự, thử việc cho CBCC; đề xuất

việc biên soạn và lựa chọn chương trình ĐTBD phù hợp với vị trí việc làm

của công chức; tạo điều kiện để CBCC đi ĐTBD.

2.2.4.6. Cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

Là những đơn vị trực tiếp thực hiện hoạt động ĐTBD CBCC, cơ sở

ĐTBD CBCC tham gia quản lý ĐTBD CBCC qua những nội dung sau:

- Tổ chức biên soạn tài liệu ĐTBD CBCC trên cơ sở chương trình do

cơ quan có thẩm quyền ban hành theo phân cấp về ĐTBD CBCC.

- Tổ chức thực hiện các khóa ĐTBD CBCC và đánh giá chất lượng

trong phạm vi trách nhiệm được giao.

- Cấp chứng chỉ ĐTBD CBCC của các chương trình ĐTBD được giao.

Như vậy, việc phân cấp quản lý ĐTBD CBCC cho các cơ sở ĐTBD

CBCCthông qua hoạt động giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ

sở ĐTBD CBCC từ việc tổ chức biên soạn tài liệu ĐTBD CBCC, tham gia

thẩm định tài liệu đến việc cấp chứng chỉ ĐTBD CBCC các chương trình

được giao thực hiện.

2.3. Nội dung và các yếu tố ảnh hưởng đến phân cấp quản lýtrong

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

2.3.1. Nội dung cơ bản về phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ, công chức

2.3.1..1. Phân cấp quản lý về nội dung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức

Nội dung ĐTBD CBCC là yếu tố cơ bản trong ĐTBD CBCC. CBCC ở

những vị trí khác nhau thì cần được ĐTBD theo những chương trình khác

nhau. Do đó, phân cấp nội dung ĐTBD CBCC chính là nhằm đảm bảo chất

lượng và hiệu quả ĐTBD CBCC

49

Đây là nội dung cơ bản của việc phân cấp trong quản lýĐTBD CBCC,

việc ĐTBDcho CBCC nội dung gì, ở mức độ nào cần phải được phân cấp

giữa cơ quan quản lý trung ương và cơ quan quản lý địa phương, giữa các cơ

quan quản lý ở trung ương với nhau. Dựa vào tính chất chuyên môn nghiệp

vụ của của từng loại CBCC mà có sự phân cấp nội dung ĐBDT hợp lý.

Theo đó, cơ quan trung ương quản lý kiến thức, kỹ năng mà mọi CBCC

phải học chung, hoặc kiến thức mới được chuyển giao từ các tổ chức nước

ngoài, hoặc các kiến thức còn nhiều ý kiến tranh luận... còn các kiến thức, kỹ

năng mang tính tác nghiệp cụ thể ở địa phương thì có thể giao cho cơ quan địa

phương quản lý. Hoặc nội dung ĐTBD CBCC sẽ tập trung ở cơ quan trung

ương để đảm bảo tính thống nhất, còn địa phương sẽ quản lý việc tổ chức

thực hiện.

Giao quyền và trách nhiệm, tạo tính chủ động tự quyết, tự chịu trong

toàn bộ hoạt động quản lý ĐTBDCBCC cho cơ quan chuyên môn QLNN về

ĐTBD CBCC từ quy định khung nội dung, chương trình, kế hoạch giảng dạy,

tiêu chuẩn đội ngũ đến việc kiểm định, đánh giá chất lượng ĐTBD.

Giao cơ sở ĐTBD CBCC tự chủ trong việc triển khai thực hiện nội

dung, chương trình, kế hoạch giảng dạy, đánh giá chất lượng trên cơ sở căn

cứ khung nội dung, chương trình, kế hoạch chung được quy định.

2.3.1.2. Phân cấp quản lý cơ sở thực hiện chức năng đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức

Cơ sở ĐTBD CBCC gồm có cơ sởĐTBD CBCCcấp quốc gia, theo khu

vực, theo địa giới hành chính. Phân cấp cơ sở ĐTBD CBCC nhằm đảm bảo

năng lực ĐTBD của mỗi cơ sở ĐTBD CBCC.

Tổ chức bộ máy là nhân tố cơ bản mang lại hiệu quả trong hoạt động

của bất cứ tổ chức nào, riêng đối với hoạt động ĐTBDCBCC thì vấn đề tổ

chức bộ máy khoa học, gọn nhẹ và hợp lý là tiền đề góp phần tổ chức hiệu

quả trong ĐTBD CBCC.

50

Về thẩm quyền quản lý: xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của các

cơ quan QLNN trong lĩnh vực ĐTBD CBCC ở cấp trung ương với địa

phương. Theo đó, cơ quan QLNN về ĐTBD CBCC trung ương tập trung vào

việc hoạch định, xây dựng chính sách, quy hoạch mạng lưới cơ sở ĐTBD

CBCC. Cơ quan QLNN địa phương xây dựng chiến lược, kế hoạch và thực

thi chính sách ĐTBD CBCC tại địa phương, khu vực trên cơ sở căn cứ chính

sách, quy định và điều kiện đặt thù của địa phương, vùng, miền.

Hoàn thiện thiết chế tổ chức cơ quan chuyên môn QLNN về ĐTBD

CBCC: quy định rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền của

cơ quan chuyên môn QLNN về ĐTBD CBCC ở trung ương và địa phương, cơ

chế phối hợp, hướng dẫn trong công tác QLNN về ĐTBD CBCC.

Quy định khung về cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý cơ sở ĐTBD CBCC:

Cơ quan QLNN trung ương quy định khung cơ cấu tổ chức bộ máy cơ sở

ĐTBDCBCC theo từng loại hình, hạng trường, cơ sở ĐTBD CBCC phải xây

dựng và thiết kế cơ cấu tổ chức bộ máy của mình trình cơ quan QLNN theo

thẩm quyền phê duyệt nhằm đảm bảo cơ cấu tổ chức theo cơ cấu quy định,

đồng thời gắn với loại hình hoạt động của cơ sở ĐTBD CBCC.

2.3.1.3. Phân cấp quản lý về đội ngũ giảng viên và viên chức phục vụ

hoạt độngđào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

Mỗi cơ sở ĐTBD CBCC có đội ngũ giảng viên và những người phục

vụ khác nhau. Đội ngũ này thực hiện các chương trình ĐTBD CBCC. Bộ Nội

vụ là cơ quan quản lý cấp quốc gia về đội ngũ CBCC, viên chức. Tuy nhiên

với phạm vi rộng, số lượng đông thì việc phân cấp là điều tất yếu nhằm đảm

bảo hiệu lực, hiệu quả trong vấn đề quản lý nhân sự công.

Con người luôn là yếu tố quyết định mọi thắng lợi trong bất cứ hoàn

cảnh nào. Phân cấp quản lý về đội ngũgiảng viên và viên chức phục vụ hoạt

động ĐTBD CBCC chính là vấn đề cơ quan nào quản lý giảng viên, viên

chức phục vụ ĐTBD CBCC của các cơ sở ĐTBC CBCC trung ương và địa

51

phương theo một trật tự thứ bậc từ trên xuống dưới, theo cả chiều dọc lẫn

chiều ngang trong QLNN.

Phân cấp quản lý theo chiều ngang: đối với các cơ sở ĐTBD CBCC ở

trung ương thì đội ngũ giảng viên và viên chức phục vụĐTBD CBCC do

trung ương quản lý; đối với các cơ sở ĐTBD CBCC ở địa phương thì đội ngũ

giảng viên và viên chức phục vụĐTBD CBCC do địa phương quản lý.

Phân cấp theo chiều dọc: cơ quan quản lý CBCC, viên chức của cả

nước sẽ thống nhất quản lý đội ngũ giảng viên và viên chức phục vụĐTBD

CBCC. Chương trình ĐTBD thì do cơ quan quản lý giáo dục và đào tạo hoặc

cơ quan khác quản lý. Cơ sở, vật chất kỹ thuật do địa phương quản lý.

Đối với cơ quan quản lý về đội ngũ giảng viên và viên chức phục

vụĐTBD CBCC cần quy định rõ định mức biên chế, tiêu chuẩn chuyên môn,

nghiệp vụ theo vị trí việc làm trong cơ quan QLNN về ĐTBD CBCC để cơ

quan này được tuyển dụng theo yêu cầu công việc của mình đảm bảo đúng

tiêu chuẩn và quy trình quy định.

Đối với giảng viên và viên chức phục vụ trong các cơ sở ĐTBD CBCC:

Nhà nước quy định rõ vị trí việc làm, tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ của

từng vị trí việc làm trong hoạt động chuyên môn tại cơ sở ĐTBD CBCC.

Người đứng đầu cơ sở này thực hiện việc tuyển dụng nhân sự theo yêu cầu

công việc của đơn vị mình gắn với tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ được

quy định, đồng thời chịu trách nhiệm toàn bộ kết quả hoạt động chuyên môn

và chất lượng nhân sự trước cơ quan QLNN.

2.3.1.4. Phân cấp quản lý về ngân sách tài chính cho đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức

Ngân sách tài chính là một yếu tố quan trọng trong hoạt động ĐTBD

CBCC. Thực hiện việc phân cấp ĐTBD CBCC dẫn theo việc phân cấp tài

chính ngân sách cho hoạt động này nhằm đảm bảo tính chủ động cho các

cấp dưới.

52

Kinh phí cho công tác ĐTBD CBCC do Nhà nước cấp, được phân bổ

từ ngân sách nhà nước cho các cấp chính quyền, các bộ, ngành, địa phương và

tiếp tục được phân bổ đến các cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị. CBCC

được cử đi ĐTBD được hưởng nguyên lương. Như vậy, Nhà nước bao cấp

toàn bộ kinh phí cho công tác ĐTBD CBCC. Đây là sự quan tâm rất lớn của

Đảng và Nhà nước đối với công tác ĐTBD, xây dựng đội ngũ CBCC. Vì vậy,

để động viên công chức tích cực tham gia và toàn tâm, toàn ý vào nhiệm vụ

ĐTBD, bên cạnh chế độ, chính sách chung của Nhà nước, mỗi địa phương, cơ

quan, đơn vị căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể và trong khuôn khổ cho

phép có các hình thức hỗ trợ tài chính cho CBCC đi ĐTBD nhằm khuyến

khích, động viên công chức trong ĐTBD, góp phần vào việc nâng cao chất

lượng, hiệu quả công tác ĐTBD.

Tài chính cho công tác ĐTBD CBCC là nội dung cần có sự phân cấp và

quản lý chặt chẽ, phải được quy định cụ thể trong luật và các văn bản quản lý

của nhà nước. Nguồn tài chính phải được quản lý thống nhất, có sự phân phối

hợp lý dựa trên nhu cầu và điều kiện thực tế trong ĐTBD của từng cấp, từng

ngành mà có sự phân cấp quản lý hợp lý nhất.

Nhà nước quy định cơ chế quản lý tài chính trong hoạt động ĐTBD

CBCC: về học phí, kinh phí đóng góp, cơ chế, chính sách để thực hiện công

tác ĐTBD CBCC.Bộ Tài chính thống nhất quản lý tất cả các vấn đề liên quan

đến chi tiêu tài chính công, các chế độ, định mức trong các hoạt động giáo

dục, văn hoá, xã hội,… liên quan đến chi tiêu công thì đều có ý kiến và phê

duyệt của Bộ Tài chính.

Để phân cấp quản lý về ngân sách tài chính cho ĐTBD CBCC cần giao

cơ chế tự chủ tài chính đối với ngân sách cấp cho hoạt động ĐTBD CBCC;

giao quyền tự chủ về tài chính được cấp và nguồn thu khác theo quy định cho

cơ sở ĐTBD CBCC trong hoạt động chuyên môn. Nghĩa là ngân sách cấp cho

hoạt động ĐTBD CBCC cần giao cho cơ sở ĐTBD CBCC được tự chủ, tự

53

hạch toán, mà không chi qua Sở tài chính để giao nhiệm vụ cho các cơ sở

ĐTBD CBCC.

2.3.1.5. Phân cấp quản lý về văn bằng, chứng chỉ

Văn bằng được cấp cho người học sau khi tốt nghiệp một một trình độ

đào tạo; chứng chỉ được cấp cho người học sau khi được hoàn thành một khóa

hoặc một chương trình đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn.

Chính phủ giao cho một cơ quan cấp bộ thống nhất quản lý văn bằng,

chứng chỉ trên phạm vi cả nước; quy định chi tiết nội dung chính ghi trên văn

bằng, chứng chỉ và phụ lục văn bằng, chứng chỉ hoặc quy định mẫu văn bằng,

chứng chỉ; quy định nguyên tắc in phôi, quản lý, cấp phát, thu hồi, hủy bỏ văn

bằng, chứng chỉ.

Văn bằng, chứng chỉ có thể đượccơ quan cấp bộ tập trung quản lý hoặc

phân cấp cho các chủ thể khác quản lý tuỳ theo điều kiện thực tế và thể chế

của mỗi quốc gia khác nhau.

Trong xu hướng cải cách hành chính, việc phân cấp quản lý hành chính

được tăng cường, theo đó văn bằng, chứng chỉ cũng được chú trọng phân cấp

quản lý.

2.3.1.6. Phân cấp về kiểm tra, thanh tra đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức

Kiểm tra, thanh tra là hoạt động của nhà nước nhằm đảm bảo sự tuân

thủ đúng quy định của các cơ quan. Kiểm tra, thanh tra gồm có kiểm tra,

thanh tra của cơ quan thanh tra nhà nước và cơ quan thanh tra chuyên ngành.

Đối với hoạt động ĐTBD CBCC, hoạt động kiểm tra, thanh tra gồm có:

- Cơ quan thanh tra nhà nước ở trung ương là Thanh tra Chính phủ, ở

địa phương là thanh tra tỉnh, thanh tra huyện.

- Cơ quan thanh tra chuyên ngành (cán bộ, công chức) ở trung ương có

thanh tra của Bộ Nội vụ, cấp tỉnh Sở Nội vụ, cấp huyện là Phòng Nội vụ.

54

2.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức

Nhìn chung, các yếu tố ảnh hưởng đến phân cấp QLNN về ĐTBD

CBCC có hàm chứa đầy đủ các yếu tố ảnh hưởng chung đến việc phân cấp

QLNN. Trên góc độ các yếu tố ảnh hưởng đến ĐTBD CBCC có thể thấy một

số yếu tố cơ bản sau:

Thứ nhất,môi trường chính trị, pháp lý.

Môi trường chính trị, pháp lý thường thể hiện là sự ổn định hay không

về chính sách, sự tôn nghiêm của pháp luật và tinh thần pháp chế. Trong một

quốc gia, mọi lĩnh vực, mọi cá nhân, tổ chức đều chịu ảnh hưởng của môi

trường chính trị, pháp lý. Phân cấp QLNN về ĐTBD CBCC là một lĩnh vực

trong quản lý của nhà nước. Do đó không thể không chịu ảnh hưởng của môi

trường chính trị, pháp lý.

Các quy định của thể chế chính trị, pháp lý càng đầy đủ, cụ thể thì việc

phân cấp QLNN về ĐTBD CBCC càng hoàn thiện, và ngược lại nếu các quy

định về ĐTBD CBCC không đầy đủ sẽ gây khó khăn cho việc phân cấp

QLNN về ĐTBD CBCC.

Mặt khác, ở quốc gia có truyền thống phân cấp thì việc phân cấp

QLNN về ĐTBD CBCC là điều bình thường, và khi đó công tác phân cấp

QLNN về ĐTBD CBCC sẽ gặp thuận lợi. Nhưng ở quốc gia mà việc phân cấp

quản lý còn ít thì trong vấn đề QLNN về ĐTBD CBCC sẽ gặp những ý kiến

trái chiều khi đặt vấn đề phân cấp.

Thứ hai, thẩm quyền pháp lý của mỗi cơ quan quản lý trong vấn đề

phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC.

Việc phân cấp quản lý nói chung và phân cấp quản lý trong ĐTBD

CBCC nói riêng phụ thuộc vào thẩm quyền của cơ quan được phân cấp. Mỗi

cơ quan có chức năng, nhiệm vụ khác nhau, thẩm quyền ở những phạm vi

khác nhau nên việc phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC sẽ phụ thuộc vào

55

thẩm quyền pháp lý của mỗi cơ quan. Thẩm quyền pháp lý của cơ quan quản

lý có thể chia thành thẩm quyền chung và thẩm quyền riêng, thẩm quyền trên

phạm vi toàn quốc và thẩm quyền ở phạm vi địa phương nhất định.

Các yếu tố tổ chức, cơ chế vận hành cũng như sự hợp lý của mỗi cơ

quan cũng có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực và hiệu quả phân cấp quản lý

trongĐTBD CBCC. Vì thế, trong vấn đề phân cấp quản lý trongĐTBD CBCC

cần căn cứ thẩm quyền pháp lý để phân cấp quản lý phù hợp với chức năng,

nhiệm vụ của mỗi cơ quan.

Thứ ba,chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức tham gia QLNN về

ĐTBD CBCC.

Đội ngũ CBCC quản lý ĐTBD là chủ thể trực tiếp tổ chức và tiến hành

mọi hoạt động quản lý. Chất lượng của đội ngũ này ảnh hưởng trực tiếp đến

hiệu quả quản lý. Thực hiện phân cấp QLNN về ĐTBD CBCC không thể tách

rời với chất lượng đội ngũ CBCC. Chất lượng đội ngũCBCC quản lý ĐTBD

càng cao thì hiệu quả phân cấp quản lý càng tốt hơn và ngược lại. Nếu chất

lượng đội ngũCBCC quản lý ĐTBD ở địa phương, cơ quan cấp dưới kém thì

rõ ràng cơ quan trung ương, cấp trên chưa thể thực hiện phân cấp cho cấp

dưới. Bên cạnh đó, chất lượng đội ngũCBCC quản lý ĐTBD ở địa phương, cơ

quan cấp dưới kém thì chính cơ quan, địa phương đó cũng chưa sẵn sàng cho

việc nhận sự phân cấp từ cấp trên, trung ương.

Thứ tư,cơ sở vật chất, tài chính, kỹ thuật của mỗi cơ quan.

Hệ thống cơ sở hạ tầng, kỹ thuật, tài chính có vai trò to lớn đối với sự

tồn tại, phát triển của mọi tổ chức. Đó là công cụ, phương tiện để các cơ quan,

tổ chức thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.

Khi phân cấp quản lý nói chung và phân cấp QLNN trong ĐTBD

CBCC thì không thể không chú ý đến cơ sở vật chất, tài chính, kỹ thuật của

mỗi cơ quan, đơn vị. Cũng giống như nguồn lực con người, cơ sở vật chất, tài

56

chính, kỹ thuật của cơ quan, đơn vị bảo đảm thì mới có thể tiến hành phân cấp

QLNN trong ĐTBD.

2.4. Thực tiễn phân cấp quản lý đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức của Việt Nam và kinh nghiệm cho Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào

2.4.1. Thực tiễn phân cấp quản lý đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức của Việt Nam

2.4.1.1. Phân cấp quản lý về nội dung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

Theo Nghị định số 101/2017/NĐ-CPngày 01/9/2017 của Chính phủ

Việt Nam về ĐTBD CBCC viên chức, Việt Nam có các chương trình, tài liệu

ĐTBD CBCC viên chức như sau:

- Chương trình, tài liệu bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ, công chức,

viên chức, gồm: Chương trình, tài liệu bồi dưỡng lý luận chính trị theo tiêu

chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý;Chương trình, tài liệu bồi dưỡng lý luận chính

trị theo tiêu chuẩn ngạch, tiêu chuẩn chức danh cán bộ, công chức, viên chức.

- Chương trình, tài liệu bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh,

gồm: Chương trình, tài liệu bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh theo

tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý; Chương trình, tài liệu bồi dưỡng kiến

thức quốc phòng và an ninh theo tiêu chuẩn ngạch, tiêu chuẩn chức danh cán

bộ, công chức, viên chức.

- Chương trình, tài liệu bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước theo tiêu

chuẩn ngạch công chức, thời gian thực hiện tối thiểu là 06 tuần, tối đa là 08

tuần, gồm:Chương trình, tài liệu bồi dưỡng ngạch cán sự và tương đương;

Chương trình, tài liệu bồi dưỡng ngạch chuyên viên và tương đương; Chương

trình, tài liệu bồi dưỡng ngạch chuyên viên chính và tương đương; Chương

trình, tài liệu bồi dưỡng ngạch chuyên viên cao cấp và tương đương.

- Chương trình, tài liệu bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề

nghiệp viên chức, thời gian thực hiện tối thiểu là 06 tuần, tối đa là 08 tuần,

gồm:Chương trình, tài liệu bồi dưỡng chức danh nghề nghiệp hạng IV;

57

Chương trình, tài liệu bồi dưỡng chức danh nghề nghiệp hạng III; Chương

trình, tài liệu bồi dưỡng chức danh nghề nghiệp hạng II; Chương trình, tài liệu

bồi dưỡng chức danh nghề nghiệp hạng I.

- Chương trình, tài liệu bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước trước

khi bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo, quản lý, thời gian thực hiện tối thiểu là 02

tuần, tối đa là 04 tuần, gồm:Chương trình, tài liệu bồi dưỡng lãnh đạo, quản

lý cấp phòng và tương đương; Chương trình, tài liệu bồi dưỡng lãnh đạo,

quản lý cấp huyện và tương đương; Chương trình, tài liệu bồi dưỡng lãnh

đạo, quản lý cấp sở và tương đương;Chương trình, tài liệu bồi dưỡng lãnh

đạo, quản lý cấp vụ và tương đương; Chương trình, tài liệu bồi dưỡng Thứ

trưởng và tương đương.

- Chương trình, tài liệu bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng lãnh đạo, quản lý

cấp xã, thời gian thực hiện tối thiểu là 02 tuần, tối đa là 04 tuần.

- Chương trình, tài liệu bồi dưỡng theo yêu cầu của vị trí việc làm, kiến

thức, kỹ năng chuyên ngành, thời gian thực hiện tối đa là 01 tuần.

Việc quản lý chương trình ĐTBD CBCC được phân cấp như sau:

- Cơ quan có thẩm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam quản lý và

hướng dẫn cụ thể về chương trình bồi dưỡng lý luận chính trị.

- Bộ Quốc phòng chủ trì, phối hợp với Bộ Công an quản lý và hướng

dẫn cụ thể về chương trình bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh.

- Bộ Nội vụ quản lý chương trình bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà

nước theo tiêu chuẩn ngạch công chức; chương trình bồi dưỡng kiến thức

quản lý nhà nước trước khi bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo, quản lý.

- Các bộ quản lý chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành quản

lý chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức.

- Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tổ chức chính trị -

xã hội ở trung ương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý các chương trình bồi

58

dưỡng theo yêu cầu của vị trí việc làm, kiến thức, kỹ năng chuyên ngành cho

cán bộ, công chức, viên chức thuộc thẩm quyền quản lý.

- Các chương trình bồi dưỡng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Bộ Quốc

phòng, Bộ Công an và các bộ phải có ý kiến thống nhất của Bộ Nội vụ trước

khi ban hành.

2.4.1.2. Phân cấp quản lý cơ sở thực hiện chức năng đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức

Phân cấp quản lý ĐTBD CBCC viên chức dựa trên phân cấp quản lý

của các cơ quan quản lý và năng lực hoạt động của các cơ sở ĐTBD CBCC.

Mỗi nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng được cơ quan quản lý có thẩm

quyền giao cho cơ sở ĐTBD CBCC có năng lực thực hiện tốt nhất, phù hợp

với nhiệm vụ chính trị và ngành, lĩnh vực quản lý chuyên môn nghiệp vụ của

cơ quan quản lý cơ sở ĐTBD CBCC.

Trong quá trình tổ chức, cơ sở đào tạo, bồi dưỡng không thực hiện

đúng theo quy định và không đáp ứng yêu cầu về chất lượng đào tạo, bồi

dưỡng thì cơ quan quản lý có thẩm quyền có thể quyết định thu hồi lại nội

dung đã phân cấp cho cơ sở đào tạo, bồi dưỡng khi thực hiện không đáp ứng

yêu cầu. Ở Việt Nam hiện nay, Nghị định 101/2017/NĐ-CP đã có quy định

khá cụ thể và rõ ràng về phân cấp quản lý cơ sở ĐTBD CBCC. Cụ thể, Nghị

định quy định hệ thống cơ sở đào tạo được giao nhiệm vụ ĐTBD CBCC:

- Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức bồi dưỡng các

chương trình sau:

+ Chương trình bồi dưỡng lý luận chính trị theo tiêu chuẩn chức vụ

lãnh đạo, quản lý cấp huyện và tương đương; cấp sở và tương đương; cấp vụ

và tương đương; Thứ trưởng và tương đương;

+ Chương trình nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phương pháp

sư phạm cho giảng viên lý luận chính trị trong hệ thống cơ sở đào tạo, bồi

dưỡng, cơ sở đào tạo, nghiên cứu;

59

+ Chương trình bồi dưỡng lý luận chính trị theo tiêu chuẩn ngạch công

chức, tiêu chuẩn chức danh cán bộ, công chức, viên chức;

+ Chương trình bồi dưỡng khác do cấp có thẩm quyền giao.

- Học viện Hành chính Quốc gia tổ chức bồi dưỡng các chương trình sau:

+ Chương trình bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước trước khi bổ

nhiệm chức vụ lãnh đạo, quản lý cấp huyện và tương đương, cấp sở và tương

đương, cấp vụ và tương đương, Thứ trưởng và tương đương;

+ Chương trình bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước theo tiêu chuẩn

ngạch chuyên viên cao cấp và tương đương;

+ Chương trình nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phương pháp

sư phạm cho giảng viên quản lý nhà nước trong hệ thống cơ sở đào tạo,

bồi dưỡng, cơ sở đào tạo, nghiên cứu;

+ Chương trình bồi dưỡng khác do cấp có thẩm quyền giao.

- Trường Chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổ chức bồi

dưỡng các chương trình sau:

+ Chương trình bồi dưỡng lý luận chính trị theo tiêu chuẩn chức vụ

lãnh đạo, quản lý cấp phòng và tương đương;

+ Chương trình bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước trước khi bổ

nhiệm chức vụ lãnh đạo, quản lý cấp phòng và tương đương;

+ Chương trình bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước theo tiêu chuẩn

ngạch cán sự và tương đương; ngạch chuyên viên và tương đương; ngạch

chuyên viên chính và tương đương;

+ Chương trình bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng lãnh đạo, quản lý cấp xã;

+ Chương trình bồi dưỡng khác do cấp có thẩm quyền giao.

- Cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của bộ, cơ quan ngang

bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương tổ chức

bồi dưỡng các chương trình sau:

60

+ Chương trình bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước trước khi bổ

nhiệm chức vụ lãnh đạo, quản lý cấp phòng và tương đương;

+ Chương trình bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước theo tiêu chuẩn

ngạch cán sự và tương đương; ngạch chuyên viên và tương đương; ngạch

chuyên viên chính và tương đương;

+ Chương trình bồi dưỡng khác do cấp có thẩm quyền giao.

- Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tổ chức chính trị -

xã hội ở trung ương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giao nhiệm vụ tổ

chức thực hiện chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề

nghiệp; chương trình bồi dưỡng theo yêu cầu của vị trí việc làm, kiến thức, kỹ

năng chuyên ngành của viên chức cho các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng, cơ sở đào

tạo, nghiên cứu có đủ điều kiện theo quy định thuộc thẩm quyền quản lý và

gửi danh sách về Bộ Nội vụ để tổng hợp, theo dõi, quản lý.

Quản lý các cơ sở ĐTBD CBCC được phân cấp như sau:

- Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh là cơ sở quan trực thuộc

Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam; đặt dưới sự lãnh đạo,

chỉ đạo trực tiếp, toàn diện, thường xuyên của Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Như

vậy, Bộ Chính trị, Ban Bí thư trực tiếp quản lý đối với Học viện Chính trị

Quốc gia Hồ Chí Minh.

- Học viện Hành chính Quốc gia là đơn vị sự nghiệp công lập hạng đặc

biệt, trực thuộc Bộ Nội vụ. Như vậy, Bộ Nội vụ là cơ quan quản lý đối với

Học viện Hành chính Quốc gia.

- Trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là đơn vị sự

nghiệp trực thuộc tỉnh uỷ, thành uỷ, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp và thường

xuyên của ban thường vụ tỉnh uỷ, thành ủy. Như vậy, tỉnh uỷ, thành ủy trực

tiếp quản lý các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

- Cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của bộ, cơ quan ngang

bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tổ chức chính trị - xã hội là đơn vị sự nghiệp

61

công lập trực thuộc bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tổ chức

chính trị - xã hội.

2.4.1.3. Phân cấp quản lý về đội ngũ giảng viên đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ, công chức

Theo Nghị định số 101/2017/NĐ-CP, giảng viên ĐTBD CBCC, viên

chức là giảng viên của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện

Hành chính Quốc gia, các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng, cơ sở đào tạo, nghiên

cứu; giảng viên kiêm nhiệm; người được mời thỉnh giảng.

Theo Nghị định số 101/2017/NĐ-CP, tiêu chuẩn, nhiệm vụ của đội ngũ

giảng viên ĐTBD CBCC, viên chức như sau:

- Về tiêu chuẩn: Trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ

nghĩa;Phẩm chất chính trị vững vàng, đạo đức lối sống lành mạnh;Đạt chuẩn

về trình độ đào tạo chuyên môn theo quy định; Có trình độ lý luận chính trị,

quản lý nhà nước, tin học, ngoại ngữ và nghiệp vụ sư phạm đáp ứng yêu cầu

nhiệm vụ được giao;Đủ sức khỏe theo yêu cầu nghề nghiệp;Lý lịch bản thân

rõ ràng, đáp ứng yêu cầu về chính trị.

- Về nhiệm vụ: Biên soạn chương trình, tài liệu và giảng dạy theo

quy định;Nghiên cứu khoa học và công nghệ;Học tập, bồi dưỡng nâng cao

trình độ.

Về chế độ, chính sách: Chế độ, chính sách đối với giảng viên Học viện

Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Hành chính Quốc gia do cấp có

thẩm quyền quy định;Giảng viên của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng được

hưởng chế độ, chính sách của giảng viên trong cơ sở giáo dục đại học.

Việc quản lý đội ngũ giảng viên ĐTBD CBCC, viên chức nhưu sau:

- Đối với giảng viên của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh do

Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh quản lý.

- Đối với giảng viên của Học viện Hành chính Quốc gia do Bộ Nội vụ

quản lý.

62

- Đối với giảng viên củacác cơ sở ĐTBD CBCC thuộc bộ, cơ quan

ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tổ chức chính trị - xã hội do bộ, cơ quan

ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tổ chức chính trị - xã hội quản lý.

- Đối với giảng viên của các trường chính trị, mặc dù là đơn vị sự

nghiệp công lập, nhưng việc tuyển dụng, bổ nhiệm, luân chuyển, thăng hạng,

chấm dứt hợp đồng lao động đối với giảng viên không thuộc thẩm quyền của

TCT, cũng không thuộc thẩm quyền của sở nội vụ địa phương, mà thuộc thẩm

quyền của ban tổ chức tỉnh ủy/thành ủy.

2.4.1.4. Phân cấp quản lý về ngân sách tài chính cho đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức

Phân cấp quản lý tài chính trong đào tạo, bồi dưỡng là nhân tố cơ bản

và quan trọng trong quá trình phân cấp ở Việt Nam giai đoạn hiện nay. Ở Việt

Nam, Bộ Tài chính thống nhất quản lý tất cả các vấn đề liên quan đến chi tiêu

tài chính công, các chế độ, định mức trong các hoạt động giáo dục, văn hoá,

xã hội,… liên quan đến chi tiêu công thì đều có ý kiến và phê duyệt của Bộ

Tài chính. Trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức

hiện nay ở Việt Nam, Bộ Nội vụ là đơn vị đầu mối quản lý các chương trình

về đào tạo, bòi dưỡng, trên cơ sở chương trình khung của các cơ sở đào tạo

xây dựng, và tài liệu đi kèm, Bộ Nội vụ cho ý kiến phê duyệt, theo đó các chế

độ đối với người học sẽ được quy định theo. Điều này tuỳ thuộc vào đối

tượng đi học, tuỳ thuộc chương trình học và tuỳ thuộc và thời gian học mà

kinh phí hỗ trợ sẽ khác nhau. Nhìn chung, theo chế độ hiện hành, mỗi cán bộ,

công chức khi được cơ quan cử đi học tập thường được hỗ trợ kinh phí đào

tạo, bồi dưỡng, hỗ trợ tiền công tác phí, xe cộ, ăn ngủ và các chế độ khác.

Viên chức ở Việt Nam là những người tham gia công tác và làm việc tại các

cơ sở, đơn vị nhà nước công lập, cung ứng các dịch vụ công, đặc thù là đơn vị

sự nghiệp công lập như các bệnh viên, trường học, viện nghiên cứu,… đây là

những đơn vị sự nghiệp có thu, tức là ngoài nguồn nhân sách nhà nước hỗ trợ,

63

thì đơn vị vẫn có nguồn thu thêm từ các hoạt động cung ứng dịch vụ công của

mình. Chính vì vậy mà đối tượng người học là viên chức có chế độ riêng và

được hưởng kinh phí theo quy định riêng. Thậm chí một số chương trình, học

tập mà đơn vị cử cán bộ tham gia học tập tự trang trải, tự chi trả tiền học cho

viên chức, không được nhận kinh phí hỗ trợ từ nhà nước.

Đối với giảng viên và các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng, trên cơ sở nguồn

kinh phí được cấp có thẩm quyền phê duyệt từ đầu năm, triển khai thực hiện

nhiệm vụ được giao trên cơ sở quyết định phê duyệt về đào tạo, bồi dưỡng.

Đồng thời, quá trình tổ chức và triển khai thực hiện theo đúng quy định cảu

pháp luật, đúng với Nghị định của Chính phủ và đúng với Thông tư hướng

dẫn của Bộ Nội vụ và Bộ chuyên ngành. Bộ Tài chính là Bộ chủ quản về ngân

sách nhà nước, là đơn vị nghiên cứu, đề xuất các Thông tư hướng dẫn thực

hiện về phân bổ kinh phí, mức hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng trên góc độ đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ, công chức trên cơ sở Nghị định của Chính phú.

Mới đây nhất là Thông tư số 40/2017/TT-BTC ngày 28/4/2017 của Bộ

Tài chính quy định chế độ công tác phí, chế độ Hội nghị đối với cán bộ, công

chức, viên chức của các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập. Ngay

tại Khoản 2 Điều 1 Thông tư ghi rõ đối tượng:

“a) Đối với chế độ công tác phí:

- Cán bộ, công chức, viên chức, lao động hợp đồng theo quy định của

pháp luật làm việc tại các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, tổ

chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức hội sử dụng kinh phí do

ngân sách nhà nước hỗ trợ.

- Đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp khi tham gia hoạt động của Hội

đồng nhân dân.

b) Đối với chế độ chi hội nghị:

- Các hội nghị chuyên môn, hội nghị sơ kết và tổng kết chuyên đề; hội

nghị tổng kết năm; hội nghị tập huấn triển khai nhiệm vụ công tác do các cơ

64

quan hành chính nhà nước tổ chức được quy định tại Quyết định số

114/2006/QĐ-TTg ngày 25/5/2006 của Thủ tướng Chính phủ ban hành quy

định chế độ họp trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước (sau

đây gọi là Quyết định số 114/2006/QĐ-TTg ngày 25/5/2006); kỳ họp của Hội

đồng nhân dân, phiên họp của Thường trực Hội đồng nhân dân và cuộc họp

các Ban của Hội đồng nhân dân.

- Các hội nghị chuyên môn, hội nghị sơ kết và tổng kết chuyên đề, hội

nghị tổng kết năm, hội nghị tập huấn triển khai nhiệm vụ của các đơn vị sự

nghiệp công lập.

- Các hội nghị chuyên môn, hội nghị tập huấn triển khai nhiệm vụ hoặc

các hội nghị được tổ chức theo quy định trong điều lệ của các tổ chức chính

trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức hội sử dụng kinh phí do ngân sách nhà

nước hỗ trợ.

c) Riêng Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam, Đại hội

Đảng các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc, hội nghị của các cơ quan

thuộc Đảng Cộng sản Việt Nam, kỳ họp Quốc hội, họp Hội đồng dân tộc, các

uỷ ban của Quốc hội, phiên họp Uỷ ban thường vụ Quốc hội thực hiện theo

quy định riêng của cấp có thẩm quyền.”

Trên cơ sở đối tượng áp dụng, Điều 2 của Thông tư cũng ghi rõ kinh

phí được lấy từ nguồn nào để cung ứng cho các hoạt động của các đối tượng

nêu trên rất cụ thể: “ Nguồn kinh phí để chi công tác phí, chi hội nghị: Ngân

sách nhà nước; Nguồn thu phí được để lại theo quy định của pháp luật về phí,

lệ phí; Nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp, dịch vụ của đơn vị sự nghiệp công

lập; Nguồn kinh phí khác theo quy định của pháp luật (nếu có)”.

2.4.1.5. Phân cấp quản lý về văn bằng, chứng chỉ

Bộ Nội vụ là Bộ đầu ngành quản lý nhà nước về văn bằng, chứng chỉ

trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức thống nhất trong cả

nước.

65

Văn bằng, chứng chỉ, chứng nhận đào tạo, bồi dưỡng trong và ngoài

nước là một trong những căn cứ đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của

công chức trong thời gian đi học và là một trong những điều kiện để công

chức đáp ứng các tiêu chuẩn quy định theo vị trí công việc. Văn bằng, chứng

chỉ chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch cao hơn được thay thế

chứng chỉ chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch thấp hơn. Hiện nay,

trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức ở Việt Nam

đang thực hiện theo Thông tư số 01/2018/TT-BNV ngày 08/01/2018 của Bộ

Nội vụ hướng dẫn một số điều của nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày

01/9/2017 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức.

Thông tư quy định cụ thể về mẫu phôi văn bằng, chứng chỉ. Tại Thông tư này,

Bộ Nội vụ quy định cụ thể về mẫu chứng chỉ, chứng nhận đối với công tác

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Về thể thức trình bày cũng như nội

dung các mục ghi trong chứng chỉ, chứng nhận là thống nhất trong cả nước.

Ví dụ về kích thức chứng chỉ, chứng đảm bảo theo khổ 13 cm x 19 cm; về

mầu của chứng chỉ, chứng nhận ở mặt trước và mặt sau phải thống nhất,…

Trên cơ sở đó, Bộ Nội vụ phân cấp cho các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng, các cấp

đào tạo bồi dưỡng cán cứ vào mẫu chung, thống nhất đó mà triển khai in ấn,

thiết kế và có quyền xác nhận, cấp chứng chỉ, chứng nhận cho người học theo

chức năng, nhiệm vụ mà cơ sở đó được quy định. Từ đó, các trường, các học

viện, các trung tâm, cơ sở đào tạo, bồi dưỡng lập sổ theo dõi việc cấp phát

chứng chỉ, chứng nhận khoa học, hợp lý, đảm bảo số, ký hiệu và khoá học

riêng. Đó là đối với các khối trường đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch,

bậc, hạng đối với công chức, viên chức. Còn đối với các trường đào tạo, bồi

dưỡng về lý luận chính trị, cập nhật chủ trương của Đảng cũng có những quy

định riêng, trên cơ sở có sự góp ý và phê duyệt của Bộ Nội vụ.

Trong công tác đào tạo, bồi dưỡng ở Việt Nam có khối trường Đảng, ở

trung ương có Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, các khu vực có Học

66

viện chính trị Khu vực I, Khu vực II, Khu vực III. Ở các địa phương có

trường chính trị tỉnh và thành phố. Các trường này đào tạo theo chương trình

chung được Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh ban hành và quản lý.

Mẫu văn bằng, chứng chỉ và mẫu bằng tốt nghiệp như bằng tốt nghiệp trung

cấp lý luận chính trị - hành chính; bằng tốt nghiệp cao cấp lý luận chính trị

đều do Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh quản lý và quy định. Các

mẫu văn bằng, chứng chỉ này do Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

quản lý và thống nhất trong toàn quốc.

Dù các chương trình đào tạo, bồi dưỡng khác nhau, các lĩnh vực khác

nhau, các hệ đào tạo bồi dưỡng khác nhau, nhưng giá trị chứng chỉ, chứng

nhận cấp cho người học có giá trị chung trong cả nước. Tức là giá trị, hiệu lực

của chứng chỉ và chứng nhận là như nhau dù người học có học ở đâu và như

thế nào thì theo phân cấp quản lý về đào tạo, bồi dưỡng chứng chỉ chấp cho

người học được công nhận như nhau trong các vấn đề về thi nâng ngạch, hoàn

thiện ngạch bậc, chứng chỉ, đủ điều kiện bổ nhiệm vị trí quản lý lãnh đạo

trong toàn quốc.

2.4.1.6. Phân cấp về kiểm tra, thanh tra đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức

- Đối với Bộ Nội vụ

+ Xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo

thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức, viên chức.

+ Xây dựng, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt hoặc ban hành theo

thẩm quyền chiến lược, đề án, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức, viên chức; hướng dẫn thực hiện chiến lược, đề án, kế hoạch đào tạo, bồi

dưỡng sau khi được phê duyệt, ban hành; theo dõi, tổng hợp kết quả đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ

67

quan thuộc Chính phủ, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, Ủy ban nhân

dân cấp tỉnh.

+ Xây dựng kế hoạch, quản lý, hướng dẫn công tác bồi dưỡng cán

bộ, công chức, viên chức ở nước ngoài bằng nguồn ngân sách nhà nước. Tổ

chức các khóa bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức ở nước ngoài theo

thẩm quyền.

+ Tổng hợp nhu cầu, đề xuất kinh phí đào tạo, bồi dưỡng gửi Bộ Tài

chính cân đối, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt; hướng dẫn các bộ, cơ

quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tổ chức chính trị - xã hội ở trung

ương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện sau khi được cấp có thẩm quyền

phê duyệt.

+ Quản lý, biên soạn các chương trình, tài liệu bồi dưỡng cán bộ, công

chức, viên chức theo thẩm quyền.

+ Quy định tiêu chuẩn cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức,

viên chức.

+ Tổ chức các hoạt động thi đua, khen thưởng trong đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ, công chức, viên chức.

+ Thanh tra, kiểm tra hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức,

viên chức.

- Đối với bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tổ chức

chính trị - xã hội ở trung ương

+ Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện đề án, kế hoạch đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức, viên chức thuộc phạm vi quản lý.

+ Tổ chức thực hiện chế độ đào tạo, bồi dưỡng theo quy định.

+ Cử cán bộ, công chức, viên chức đi đào tạo, bồi dưỡng theo thẩm quyền.

+ Tổ chức các khóa bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức ở nước

ngoài theo thẩm quyền.

68

+ Quản lý và biên soạn các chương trình, tài liệu bồi dưỡng cán bộ,

công chức, viên chức theo thẩm quyền.

+ Quản lý cơ sở đào tạo, bồi dưỡng và đội ngũ giảng viên theo thẩm quyền.

+ Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chế độ, chính sách đào tạo, bồi

dưỡng theo thẩm quyền.

- Đối với Bộ Tài chính

+ Cân đối, bố trí kinh phí đào tạo, bồi dưỡng trong nước và ở nước

ngoài trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.

+ Hướng dẫn, kiểm tra việc quản lý, sử dụng kinh phí đào tạo, bồi dưỡng.

- Đối với Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương

+ Xây dựng, ban hành chế độ khuyến khích cán bộ, công chức, viên

chức không ngừng học tập nâng cao trình độ, năng lực công tác; bố trí kinh

phí bảo đảm thực hiện có hiệu quả chế độ đào tạo, bồi dưỡng theo quy định.

+ Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện đề án, kế hoạch đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức, viên chức thuộc phạm vi quản lý.

+ Tổ chức thực hiện chế độ đào tạo, bồi dưỡng theo quy định.

+ Cử cán bộ, công chức, viên chức đi đào tạo, bồi dưỡng theo thẩm quyền.

+ Quản lý và biên soạn các chương trình, tài liệu bồi dưỡng cán bộ,

công chức, viên chức theo thẩm quyền.

+ Quản lý cơ sở đào tạo, bồi dưỡng và đội ngũ giảng viên theo thẩm quyền.

+ Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chế độ, chính sách đào tạo, bồi

dưỡng theo thẩm quyền.

2.4.2. Kinh nghiệm cho Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào

CHDCND Lào là quốc gia không lớn trong các quốc gia ở Đông Nam

Á. ĐTBD công chức (người làm việc cho nhà nước) cũng có khá nhiều điều

tương đồng với các quốc gia khác. Do đó, xem xét lý luận và thực tiễn các

thức tổ chức bộ máy ĐTBD công chức của các nước sẽ giúp cho Lào có hệ

thống ĐTBD tốt hơn, phù hợp với điều kiện của Lào.

69

Một là, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ sở

ĐTBD CBCC, đó là Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào với các

trường chính trị và hành chính địa phương.

Về cơ bản hiện nay chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn giữa Học viện

chính trị và hành chính quốc gia Lào và trường hành chính tỉnh, địa phương

được phân định cụ thể trên cơ sở các quyết định về chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn của mỗi đơn vị. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện

nhiệm vụ ĐTBD, thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mỗi đơn vị luôn nảy

sinh và phát sinh những việc, những vấn đề có liên quan, có một số vấn đề cụ

thể, rõ ràng về nhiệm vụ, đối tượng ĐTBD, có một số trùng chéo về chức

năng ĐTBD CBCC. Nhìn chung, ở Lào, Học viện chính trị và Hành chính

quốc gia Lào là đơn vị đầu mối duy nhất ở trung ương và của cả nước đảm

trách công tác ĐTBD CBCC trong phạm vi cả nước. Học viện thống nhất

quản lý toàn bộ các chương trình ĐTBD, thống nhất quản lý về văn bằng,

chứng chỉ, chứng nhận đối với công tác ĐTBD CBCC hiện nay.

Trong những năm qua công tác ĐTBD CBCC ở CHDCND Lào có

nhiều thay đổi, số lượng CBCC tăng lên, nhu cầu học tập, bồi dưỡng ngày

càng nhiều, các quy định về bổ nhiệm cán bộ quản lý, lãnh đạo ngày càng

cao,… điều này đã đặt ra yêu cầu ngày càng lớn đối với công tác ĐTBD

CBCC cả về quy mô, lẫn chất lượng chuyên môn.

Hai là, thống nhất quản lý nội dung, chương trình, hình thức ĐTBD.

Tiếp tục thực hiện đổi mới nội dung, chương trình, tài liệu và phương

pháp ĐTBD theo hướng bám sát thực tiễn, nhu cầu người học, khắc phục tình

trạng lý thuyết, trùng lặp. Bên cạnh những chương trình tổng quan chung do

Học viện chính trị và hành chính quốc gia Lào biên soạn, ban hành, còn có

của Bộ Nội vụ ban hành, các Bộ, ngành, các trường chính trị địa phương cần

đẩy mạnh nghiên cứu, xây dựng các chương trình, tài liệu ĐTBD về chuyên

môn nghiệp vụ của riêng mình. Xúc tiến nhanh việc nghiên cứu xây dựng các

70

chương trình, tài liệu ĐTBD theo nhu cầu của người học, nhất là khi các cơ

quan, đơn vị đã hoàn thành các chuwong trình, các tiêu chí ứng với từng vị trí

công tác của CBCC.

Ba là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống các cơ quan quản lý ĐTBD,

xây dựng cơ chế phối hợp hợp lý.

Hoàn thiện hệ thống các cơ quan quản lý ĐTBD CBCC, đồng thời xây

dựng được cơ chế phối hợp giữa các cơ quan là nhân tố đảm bảo chất lượng

và hiệu quả của công tác phân cấp quản lý ĐTBD CBCC hiện nay ở Lào. Đây

được xem như là nhân tố quyết định đến hiệu lực và hiệu quả của hoạt động

phân cấp. Trong phân cấp nếu như thiếu đi những cơ quan quản lý ở các cấp

độ khác nhau thì sẽ không thể có được sự thông suốt. Để phân cấp được thuận

lợi và hiệu quả, cấp trên và cấp dưới trong cùng một ngành dọc phải được tổ

chức và xây dựng hợp lý và phải được phân định cụ thể về chức năng, nhiệm

vụ, quyền hạn của mình trong tổ chức hoạt động ĐTBD CBCC. Không những

thế mà các cơ quan liên quan đến công tác ĐTBD như cơ quan QLNN đối với

CBCC, cơ quan điều phối, cơ quan cung ứng dịch vụ ĐTBD, các tổ chức

ngoài nhà nước cũng là những nhân tố tác động và ảnh hưởng trực tiếp hoặc

gián tiếp tới vấn đề phân cấp quản lý ĐTBD. Trong nhiều trường hợp khác

nhau các cơ quan quản lý.

Bốn là, tăng cường kiểm tra, giám sát việc phân cấp hoạt động ĐTBD.

Muốn cho công tác phân cấp quản lý ĐTBD CBCC được thực hiện đầy đủ,

đúng với yêu cầu cần có cơ chế kiểm tra, giám sát phân cấp hoạt động ĐTBD hiệu

quả, thiết thực. Kiểm tra, đánh giá ĐTBD là bước đi vô cùng quan trọng trong

chuỗi quá trình ĐTBD khép kín. Kiểm tra, đánh giá việc phân cấp quản lý ĐTBD

CBCC là để xem có đạt mục tiêu đề ra không, nội dung, chương trình có phù hợp

với việc phân cấp hay không, học viên áp dụng được gì sau ĐTBD khi thực hiện

phân cấp. Việc đánh giá công tác phân cấp ĐTBD cũng nhằm phát hiện những lỗ

hổng, sự bất hợp lý, phi thực tế của phân cấp cũng như quá trình ĐTBD để từ đó

nâng cao chất lượng ĐTBD CBCC hiện nay.

71

Hầu hết các khóa học ĐTBD đều có đánh giá chương trình ĐTBD như:

đánh giá phản ứng của người học về nội dung, chương trình, giảng viên, cách

tổ chức…; đánh giá kết quả học tập thông qua những bài kiểm tra để biết học

viên tiếp thu được gì từ khóa học. Đây là việc đánh giá kết quả ĐTBD theo

phương pháp truyền thống. Cách thức đánh giá này có ưu điểm: dễ đánh giá

vì chỉ cần căn cứ vào kết quả điểm học tập và nhận xét của cơ sở, đơn vị đào

tạo. Tuy nhiên, ở một mức độ nhất định, cách thức đánh giá này chưa phản

ánh chính xác kết quả học tập của học viên thông qua nhận thức và vận dụng

các kiến thức đã học vào thực tế, thậm chí có trường hợp điểm học tập cao

nhưng thực chất nhận thức của học viên chưa phản ánh đúng kết quả đó.

Kiểm tra đánh giá công tác phân cấp quản lý ĐTBD còn mang ý nghĩa bao

quát hơn, nó bao hàm toàn bộ cả quá trình ĐTBD và việc phân định chức

năng, nhiệm vụ và phạm vi ĐTBD của các cấp khác nhau.

Hiện nay, cách thức đánh giá kết quả, hiệu quả ĐTBD đã có sự thay

đổi, hướng đánh giá kết quả sau đào tạo, nghĩa là đánh giá kết quả đầu ra của

cả quá trình ĐTBD. Đặc biệt là ĐTBD CBCC, một trong những đối tượng

đào tạo cơ bản và cần mức độ ứng dụng cao sau khi ĐTBD. Công tác phân

cấp cần đánh giá xem việc phân cấp tới đâu, phân cấp những mảng việc nào,

những nội dung phân cấp có phù hợp không, cấp được phân có năng lực thực

hiện và đảm nhận có tốt không, qua đó có những đề xuất, điều chỉnh cho hợp

lý và khoa học nhất. Mục tiêu của công tác là làm sao cho mọi đối tượng được

ĐTBD, sau khi kết thức khoá học có thể vận dụng kiến thức đã học vào thực

tế công tác để giải quyết những vấn đề đặt ra trong thực tiễn thi hành công vụ

của CBCC, những thay đổi đối với việc thực hiện công việc như thế nào. Từ

đó, đánh giá tác động, hiệu quả của tổ chức xem việc ĐTBD CBCC có tác

động, ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của tổ chức hay không. Thông qua đó

có thể thấy được hiệu quả của công tác phân cấp quản lý ĐTBD CBCC.

72

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Phân cấp QLNN vừa là nội dung vừa là phương thức để thực hiện công

tác QLNN thuộc các ngành, lĩnh vực quản lý trong đó có QLNN về ĐTBD

CBCC. Việc thực hiện phân cấp QLNN hợp lý, rõ ràng, khoa học sẽ điều kiện

thuận lợi cho công tác QLNN và hoạt động ĐTBD CBCC, từ đó nâng cao

chất lượng ĐTBD, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC.

Như vậy trong chương này, luận án đã đạt được một số kết quả sau:

Một là, đã làm rõ được một số khái niệm liên quan và đặc biệt là khái

niệm trung tâm: Khái niệm phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC, đó là sự

chuyển giao một số chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm quản lý

trong hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức từ cấp trung ương đến

các cấp chính quyền địa phương để đảm bảo giảm tải cho cấp trung ương và

giúp cho cấp địa phương dễ dàng tiếp cận và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ, công chức đúng đối tượng và thuận lợi nhất.

Hai là, lý giải sự cần thiết phải phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC,

nguyên tắc và các yếu tố ảnh hưởng đến phân cấp quản lý trong ĐTBD

CBCC; đặc biệt là làm rõ được nội dung phân cấp quản lý trong ĐTBD

CBCC. Các nội dung đó là: phân cấp quản lý nội dung chương trình, phân cấp

quản lý các cơ sở ĐTBD CBCC, phân cấp quản lý đội ngũ giảng viên, phân

cấp quản lý văn bằng chứng chỉ, phân cấp quản lý tài chính, phân cấp kiểm

tra, thanh tra ĐTBD CBCC.

Ba là, trên cơ sở xem xét thực tiễn phân cấp quản lý trong ĐTBD

CBCC của Việt Nam, một quốc gia láng giềng có nhiều điểm tương đồng về

thể chế chính trị. Qua đó, luận án đã rút ra được kinh nghiệm có thể vận dụng

trong điều kiện cụ thể của CHDCND Lào.

73

Chương 3

THỰC TRẠNG PHÂN CẤP QUẢN LÝ TRONG

ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNGCÁN BỘ, CÔNG CHỨC

Ở CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

3.1. Khái quát về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở Cộng hòa

dân chủ nhân dân Lào

3.1.1. Cơ sở chính trị, pháp lý về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

Trước đây, ĐTBD CBCC của CHDCND Lào được thực hiệntrên cơ

sởnghị quyết của Đảng NDCM Lào mà chưa được thể chế thành quy phạm

pháp luật. Mặc dù công tác ĐTBD CBCC được tiến hành khá lâu nhưng đến

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (năm 2006) thì Đảng NDCM Lào mới

chính thức văn bản hoá trong nghị quyết.

Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (năm 2016), Đảng NDCM

Lào tiếp tục khẳng định và nhấn mạnh công tác ĐTBD CBCC: Đổi mới

ĐTBD CBCC trong hệ thống trường Đảng cần đảm bảo chất lượng kiến thức,

khả năng về mặt tổ chức là hàng đầu (không chạy theo số lượng và bằng cấp);

nhanh chóng hoàn chỉnh nội dung chương trình, đội ngũ giảng viên, đổi mới

hình thức dạy và học; chú trọng lựa chọn mục đích nhập học tuân theo kế

hoạch đã định và tiêu chuẩn chức vụ. Xác định quy chế quản lý trường Đảng

và trung tâm ĐTBD về chính trị - hành chính ở địa phương; ĐTBD ngắn hạn

cho cán bộ cấp huyện, bản theo hướng 3 xây (xây tỉnh thành khâu chiến lược,

xây huyện thành khâu mạnh mẽ toàn diện và xây bản thành khâu phát triển),

tổ chức thực hiện bồi dưỡng cho cán bộ cấp bản một cách có hệ thống liên tục

và toàn diện để đảm bảo xây dựng được cán bộ nguồn tại chỗ trong quy trình

xây dựng bản thành khâu phát triển [65, tr.70-71].

Trên cơ sở chủ trương, đường lối của Đảng NDCM Lào, Nhà nước

CHDCND Lào đã thể chế hóa thành văn bản pháp luật. Cụ thể:

74

- Luật Cán bộ, công chức năm 2015.

Luật Cán bộ, công chức năm 2015 nêu các đối tượng là CBCC, quyền và

nghĩa vụ của CBCC, khen thưởng và kỷ luật CBCC.Luật Cán bộ, công chức

năm 2015 dành hẳn 01 chương (chương VIII) quy định về ĐTBD CBCC.

- Nghị định số 294/CP ngày 4/9/2017 của Chính phủ về ĐTBD CBCC.

Nghị định quy định cụ thể hình thức, nội dung ĐTBD. Đó là, đào tạo là

gì, bồi dưỡng là gì. Các hình thức ĐTBD, những nội dung cần ĐTBD trong

các khoá học.

- Hướng dẫn số 07/BNV ngày 02/05/2018 của Bộ Nội vụ hướng dẫn

thực hiện Nghị định của Chính phủ về ĐTBD CBCC.

Bộ Nội vụ đã hướng dẫn các cơ quan tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt

trận Xây dựng đất nước Lào, cơ quan đoàn thể Trung ương và cơ quan hành

chính địa phương thực hiện Nghị định của Chính phủ về ĐTBD CBCC;

hướng dẫn CBCC nâng cao kiến thức, khả năng để thực hiện tốt trách nhiệm

của mình.

Các văn bản của Đảng và Nhà nước Lào đã khẳng định tầm quan

trọng của hoạt động ĐTBD CBCC. Đảng và Nhà nước Lào đã có những quy

định về hình thức, nội dung, phương pháp, chính sách... đối với hoạt động

ĐTBD CBCC.

CBCC của CHDCND Lào có quyền để nhận được sự ĐTBD, phát triển

kiến thức, kỹ năng để thực thi nhiệm vụ.

Đào tạo là hình thức nâng cao chuyên môn cho CBCC có đạo đức

chính trị, đạo đức cách mạng, kiến thức về chính trị - hành chính, kiến thức về

khoa học, khoa học chuyên môn cao lên một cách có hệ thống để có khả năng

thực hiện các công việc có hiêu quả cao.

Bồi dưỡng là quy trình học tập một cách có thệ thống để giáo dục nâng

cao kiến thức, khả năng và quan điểm của mình nhằm củng cố thực hiện

nhiệm vụ công tác có hiệu quả cao. Bồi dưỡng gồm có các loại như sau:

75

- Bồi dưỡng định hướng. Bồi dưỡng định hướng nhằm giúp cho công

chức mới hiểu rõ những nội dung:Quy chế công chức của CHDCND Lào;

Các quy tắc quản lý trong cơ quan nhà nước (cho từng cơ quan);Vị trí, vai trò,

nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của cơ quan nơi công chức làm việc;Chế độ phối

hợp;Các vấn đề khác có liên quan đến vai trò, nhiệm vụ của cơ quan.

- Bồi dưỡng tại chức.

Bồi dưỡng tại chức là hoạt động bồi dưỡng mang tính thường xuyên

nhằm nâng cao năng lực của công chức trên các lĩnh vực: lý luận chính trị;

năng lực kỹ thuật, chuyên môn trên những lĩnh vực cụ thể. Hoạt động bồi

dưỡng này dựa trên kết quả đánh giá hàng năm cũng như các khách hàng

tham gia bồi dưỡng.

Bồi dưỡng tại chức gồm: Bồi dưỡng công chức đảm nhiệm chức vụ hành

chính; bồi dưỡng công chức chuyên môn; bồi dưỡng công chức chuyên viên.

- Bồi dưỡng công chức nhận chức vụ mới.

Vị trí mới là hoạt động ĐTBD để phát triển năng lực về lý luận chính

trị, chuyên môn, kỹ thuật và những kiến thức khác cần cho những người nhận

nhiệm vụ mới; nhiệm vụ ở cấp cao hơn.

3.1.2. Nguyên tắc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

ĐTBD CBCC là hoạt động nhằm nâng cao chất lượng, năng lực và hiệu

quả làm việc của đội ngũ CBCC. Do đó, hoạt động ĐTBD cho đội ngũ này

phải tuân theo những nguyên tắc nhất định. Cụ thể:

Một là, phải phù hợp với đường lỗi chính sách của Đảng, luật và quy

định của Nhà nước.

Hai là, phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược phát

triển nguồn nhân lực, chiến lược phát triển CBCC, kế hoạch, kế hoạch công

tác và chương trình dự án của từng thời kỳ.

Ba là, có tổ chức liên tục theo ngạch chuyên môn, phù hợp với yêu cầu

thực tế trong phát triển CBCC của ngành do dựa trên đánh giá kết quả thực

hiện công việc của CBCC.

76

Bốn là, sử dụng công nghệ mới và nâng cao ngoại ngữ.

Năm là, bảo đảm chất lượng và phù hợp với mục đích yêu cầu.

3.1.3. Các chủ thể tham gia quản lý đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

Ở CHDCND Lào, Bộ Nội vụ là cơ quan cơ quan QLNN về ĐTBD

CBCC, nhưng cơ quan quản lý chương trình ĐTBD CBCC là Bộ Giáo dục và

Thể thao,Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào. Đây là một đặc thù

ở CHDCND Lào, bởi Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào không

phải là cơ quan QLNN nhưng lại thực hiện chức năng QLNN đối với hoạt

động ĐTBD CBCC. Bộ Giáo dục và Thể thao không QLNNvề CBCC nhưng

lại QLNNvề chương trình ĐTBD CBCC.

1) Chính phủ

Chính phủ CHDCND Lào, là cơ quan hành pháp cao nhất của nước

CHDCND Lào. Chính phủ quản lý thống nhất việc thực hiện nhiệm vụtrên

tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, an ninh - quốc phòng, ngoại giao, văn

hoá-xã hội, giáo dục đào tạo, y tế… Chính phủ có nghĩa vụ thực hiện Hiến

pháp, pháp luật, Nghị quyết của Quốc hội, Nghị định và Sắc lệnh của Chủ

tịch nước.

Liên quan đến CBCC, Chính phủ có các nhiệm vụ và quyền hạn sau:

- Thống nhất QLNN về CBCC, viên chức và công vụ trong các cơ quan

nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập; quản lý biên chế công chức, số lượng

người làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp

công lập từ trung ương đến địa phương.

- Thống nhất QLNN và tổ chức thực hiện chế độ tiền lương, phụ cấp và

các chế độ, chính sách khác đối với CBCC, viên chức trong các cơ quan nhà

nước từ trung ương đến địa phương.

- Chỉ đạo thực hiện cải cách hành chính nhà nước, cải cách chế độ công

vụ, công chức.

77

2) Bộ Giáo dục và Thể thao

Bộ Giáo dục và Thể thao là cơ quan của Chính phủ CHDCND Lào,

thực hiện chức năng QLNN về giáo dục và thể thao. Bộ Giáo dục và Thể thao

không phải là cơ quan QLNN về ĐTBD CBCC, mà là cơ quan QLNN về lĩnh

vực giáo dục và đào tạo, nhưng Bộ Giáo dục và Thể thao là cơ quan ban hành

chương trình ĐTBD CBCC trên cơ sở xây dựng của Học viện Chính trị và

Hành chính Quốc gia Lào.

Cơ cấu tổ chức Bộ Giáo dục và Thể thao như sau: Văn phòng Bộ; Văn

phòng Ban chấp hành Đảng; Vụ Tổ chức và Cán bộ; Vụ Kiểm tra giám sát;

Vụ Tài chính; Vụ Kế hoạch; Vụ Hợp tác quốc tế; Vụ Giáo dục trước phổ

thông; Vụ Giáo dục phổ thông; Vụ Giáo dục chuyên môn; Vụ Giáo dục cấp

cao; Vụ Giáo dục ngoài trường; Vụ Sư phạm; Vụ Giáo dục sinh hoạt; Vụ

Giáo dục thể thao và văn hóa; Vụ Thể thao cấp cao; Vụ Thể thao quần chúng;

Viện Nghiên cứu khoa học giáo dục; Viện Phát triển quản lý giáo dục; Văn

phòng UNDP; Văn phòng Olimpic quốc gia.

Trong 21 đơn vị đầu mối của Bộ Giáo dục và Thể thao thì Vụ Thể thao

cấp cao là đơn vị tham mưu, giúp việc Bộ trưởng về việc ban hành chương

trình ĐTBD CBCC.

3) Bộ Nội vụ

Bộ Nội vụ là cơ quan của Chính phủ CHDCND Lào, được giao nhiệm vụ

thực hiện chức năng QLNNvề CBCC, viên chức nhà nước; thống nhất quản lý

về tổ chức ĐTBDCBCC, các chức danh công chức hành chính các cấp.

Trong ĐTBD CBCC, Bộ Nội vụ có nhiệm vụ và quyền hạn như sau:

- Xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo

thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật, chế độ, chính sách về ĐTBD

công chức;

- Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch ĐTBD công chức trình

cấp có thẩm quyền phê duyệt hoặc ban hành theo thẩm quyền; tổ chức, hướng

78

dẫn thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch ĐTBD sau khi được ban hành;

theo dõi, tổng hợp kết quả ĐTBD công chức của cán bộ, cơ quan ngang bộ,

cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thủ đô;

- Xây dựng kế hoạch và tổ chức bồi dưỡng công chức ở ngoài nước

theo thẩm quyền;

- Tổng hợp nhu cầu, đề xuất kinh phí ĐTBD hàng năm, trung hạn, dài

hạn; hướng dẫn các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban

nhân dân tỉnh, thủ đô thực hiện sau khi được Chính phủ phê duyệt;

- Tổ chức các hoạt động thi đua, khen thưởng trong ĐTBD công chức;

- Hướng dẫn việc tổ chức bồi dưỡng công chức ở ngoài nước bằng

nguồn ngân sách Nhà nước;

- Thanh tra, kiểm tra hoạt động ĐTBD công chức.

4) Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ

Trong ĐTBD CBCC, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính

phủ có nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

- Xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch ĐTBDđội ngũ

công chức thuộc phạm vị quản lý;

- Tổ chức thực hiện chế độ ĐTBDtheo quy định; báo cáo kết quả hoạt

động ĐTBDcông chức hàng năm để Bộ Nội vụ theo dõi, tổng hợp;

- Cử công chức đi ĐTBDtheo thẩm quyền;

- Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chế độ, chính sách ĐTBD trong

phạm vi thẩm quyền.

5) Bộ Tài chính

Trong việc ĐTBD CBCC, Bộ Tài chính có nhiệm vụ, quyền hạn sau:

- Cân đối, bố trí kinh phí ĐTBD hàng năm, trung hạn, dài hạn, trong

nước và ngoài nước trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.

- Hướng dẫn, kiểm tra việc quản lý, sử dụng kinh phí ĐTBD.

6) Ban Tổ chức Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào

79

Ban Tổ chức Trung ương là cơ quan tham mưu của Ban Chấp hành

Trung ương, trực tiếp và thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư về chủ

trương và các chính sách lớn thuộc lĩnh vực tổ chức, cán bộ, đảng viên, bảo

vệ chính trị nội bộ của hệ thống chính trị; quản lý biên chế CBCC, viên chức

cơ quan đảng, Mặt trận Xây dựng đất nước Lào và các tổ chức chính trị-xã

hội; đồng thời là cơ quan chuyên môn, nghiệp vụ về công tác tổ chức, cán bộ,

đảng viên, bảo vệ chính trị nội bộ của Trung ương.

Nghiên cứu, đề xuất với các cơ quan nhà nước trong việc thể chế hoá

các nghị quyết, quyết định của Đảng về CBCC.

Tham gia thẩm định các đề án lớn về CBCC của Chính phủ và các bộ,

ngành, cơ quan nhà nước.

Quy định nội dung ĐTBD CBCC và chế độ học tập của CBCC.

7) Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào

Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào (viết tắt là NAPPA) là

một trong nhưng các cơ quan tổ chức của Ban Chấp hành Trung ương Đảng

và nhà nước, là cơ quan chuyên môn cấp Trung ương, có vị trí tương đương

với các đơn vị khác của Đảng, Bộ - đơn vị tương đương của Chính phủ.

Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào có chức năng ĐTBD

CBCC đang giữ vị trí và chuẩn bị đảm nhiệm chức vụ cấp trung, cấp cao của

Đảng, Nhà nước và cơ quan quần chúng khác; nghiên cứu lý luận Mác -

Lênin, khoa học chính trị và hành chính; lý luận cách mạng và thực tiễn để

phục vụ vào việc dạy và học và góp phần vào công tác nghiên cứu làm cho

đường lối và chính sách chung của Đảng và Nhà nước được thực hiện vào

hoàn cảnh thực thực tế.

Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào không chỉ là cơ sở

ĐTBD CBCC cấp quốc gia của Lào, mà còn là cơ quan duy nhất xây dựng

các chương trình ĐTBD CBCC của Lào. Ngoài ra, Học viện Chính trị và

80

Hành chính Quốc gia Lào còn là cơ quan ban hành chức năng, nhiệm vụ của

các trường chính trị và hành chính cấp tỉnh.

8) Tỉnh uỷ cấp tỉnh

Trong ĐTBD CBCC ở địa phương, tỉnh uỷ cấp tỉnh có nhiệm vụ sau:

- Xây dựng, ban hành chế độ khuyến khích CBCC không ngừng học

tập, nâng cao trình độ, năng lực công tác.

- Xây dựng, ban hành quy hoạch, kế hoạch ĐTBDCBCC thuộc phạm vi

lãnh đạo.

- Chỉ đạo thực hiện ĐTBD CBCC trong phạm vi thuộc thẩm quyền.

- Quản lý Trường chính trị và hành chính tỉnh và đội ngũ giảng viên

của Trường chính trị và hành chính tỉnh.

9) Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh

Trong ĐTBD CBCC ở địa phương, UBND cấp tỉnh có nhiệm vụ sau:

- Xây dựng, ban hành chế độ kinh phí và bố trí kinh phí đảm bảo hoạt

động ĐTBD CBCC.

- Tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch ĐTBD thuộc phạm vi quản lý.

- Tổ chức thực hiện chế độ ĐTBD theo quy định; báo cáo kết quả hoạt

động ĐTBD CBCC hàng năm.

- Quản lý cơ sở vật chất của Trường chính trị và hành chính tỉnh.

3.2. Tình hình phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào

3.2.1.Về các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức

* Hệ thống chương trình ĐTBD CBCC của CHDCND Lào

Các chương trình ĐTBD CBCC ở CHDCND Lào hiện đang thực hiện

gồm có các chương trình ĐTBD lý luận chính trị và các chương trình bồi

dưỡng trưởng bản, làng.

Có 04 chương trình hệ đào tạo và 03 chương trình hệ bồi dưỡng cơ bản

dành cho CBCC. Cụ thể:

81

+Chương trình đào tạo thạc sĩ lý luận chính trị - hành chính, gồm có 06

chuyên ngành: Kinh tế chính trị; Chính trị học; Hành chính học; Triết học;

Quản lý kinh tế; Xây dựng Đảng.

+Chương trình đào tạo đại học lý luận chính trị - hành chính, gồm có

07 chuyên ngành: Chính trị học; Hành chính học; Công tác kiểm tra; Công tác

tuyên truyền; Công tác tổ chức quần chúng; Công tác tổ chức; Kinh tế chính

trị và quản lý kinh tế.

+Chương trình đào tạo cao đẳng lý luận chính trị - hành chính, gồm có

07 chuyên ngành: Chính trị học; Hành chính học; Công tác kiểm tra; Công tác

tuyên truyền; Công tác tổ chức quần chúng; Công tác tổ chức; Kinh tế chính

trị và quản lý kinh tế.

+Chương trìnhđào tạo trung cấp lý luận chính trị - hành chính.

+Chương trình bồi dưỡng lý luận chính trị - hành chính (5 tháng).

+Chương trìnhbồi dưỡng cơ sở lý luận (3 tháng).

+Chương trìnhbồi dưỡng cơ sở lý luận (10 ngày dành cho Bí thư -

Trưởng bản, làng).

Ngoài 07 chương trình cơ bản trên, ở CHDCND Lào còn có các

chương trình bồi dưỡng sau:

+ Chương trình bồi dưỡng kỹ năng cho trưởng bản, làng;

+ Chương trình bồi dưỡng lý luận cho CBCC các bộ và cơ quan ngang

bộ (45 ngày).

* Chủ thể xây dựng chương trình ĐTBD CBCC

Tất cả các chương trình ĐTBD CBCC ở CHDCND Lào, dù do Học

viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào hay các trường chính trị và hành

chính cấp tỉnh thực hiện thì đều do Học viện Chính trị và Hành chính Quốc

gia Lào xây dựng..

Việc xây dựng chương trình đã được Học viện Chính trị và Hành chính

quốc gia Lào thực hiện bài bản, nghiêm túc. Thực hiện đổi mới và nâng cao

82

chất lượng ĐTBD CBCC, việc xây dựng khung chương trình, biên soạn giáo

trình của Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào đã chỉ đạo lấy ý kiến

của các chuyên gia, cán bộ quản lý các cấp, giảng viên các trường chính trị và

hành chính tỉnh qua nhiều vòng. Mặt khác, Học viện Chính trị và Hành chính

quốc gia Lào có đội ngũ giảng viên, nhà khoa học có trình độ cao, chuyên

môn sâu. Vì vậy, việc xây dựng chương trình, biên soạn giáo trình ĐTBD

CBCC do Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào thực hiện có chất

lượng, được các địa phương đánh giá phù hợp thực tế.

* Chủ thể quyết định/phê duyệt chương trình ĐTBD CBCC

Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào là cơ quan chuyên môn

nhưng Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào không phải là cơ quan

QLNN, do vậy các chương trình ĐTBD CBCC không do Học viện ký quyết

định ban hành. Việc QLNN đối với các chương trình ĐTBD CBCC sẽ do cơ

quan QLNN thực hiện.

Bộ Giáo dục và Thể thao là cơ quan QLNN về giáo dục, đào tạo và thể

thao. Hoạt động ĐTBD CBCC, mặc dù đối tượng là CBCC do Bộ Nội vụ quản

lý nhưng ĐTBD CBCC cũng là một nội dung của giáo dục và đào tạo. Do vậy,

Bộ Giáo dục và Thể thao là cơ quan QLNN về hoạt động ĐTBD CBCC, nên các

chương trình ĐTBD CBCC do Bộ Giáo dục và Thể thao ký ban hành.

Có thể thấy, mặc dù các chương trình ĐTBD CBCC do Học viện Chính

trị và Hành chính Quốc gia Lào xây dựng nhưng việc ký ban hành lại do Bộ

Giáo dục và Thể thao thực hiện. Nghĩa là, sau khi xây dựng xong các chương

trình ĐTBD CBCC, các chương trình này sẽ được chuyển sang Bộ Giáo dục

và Thể thao ký quyết định ban hành

* Chủ thể thực hiện chương trình ĐTBD CBCC

Việc thực hiện chương trình ĐTBD CBCC có sự phân cấp giữa Học

viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào và các trường chính trị và hành

chính cấp tỉnh.

83

Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào thực hiện các chương

trình ĐTBD CBCC như sau:

+ Thực hiện chương trình đào tạo thạc sĩ lý luận chính trị - hành chính.

+ Thực hiện chương trình đào tạo đại học lý luận chính trị - hành chính.

+ Thực hiện chương trình đào tạo cao đẳng lý luận chính trị - hành chính.

+ Thực hiện chương trình bồi dưỡng lý luận chính trị - hành chính (5 tháng).

Các Trường chính trị và hành chính tỉnh thực hiện các chương trình

ĐTBD CBCC như sau:

+ Thực hiện chương trình đào tạo trung cấp lý luận chính trị - hành chính.

+ Thực hiện chương trình bồi dưỡng cơ sở lý luận (3 tháng).

+ Thực hiện chương trình cơ sở lý luận (10 ngày dành cho Bí thư -

Trưởng bản, làng).

Như vậy, ở CHDCND Lào, việc thực hiện các chương trình ĐTBD

CBCC có sự phân cấp giữa Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào

với các trường chính trị và hành chính cấp tỉnh. Tuy nhiên, việc quản lý

chương trình ĐTBD CBCC thì chưa có sự phân cấp. Tất cả các chương trình

ĐTBD CBCC đều do Bộ Giáo dục và Thể thao ký, ban hành và quản lý thống

nhất trong cả nước.

3.2.2. Về hệ thốngcơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức

Ở nước CHDCND Lào, hoạt động ĐTBD CBCC do Học viện Chính trị

và Hành chính Quốc gia Lào và các Trường chính trị và hành chính cấp tỉnh

đảm nhận. Ngoài các cơ sở này, không còn cơ sở nào có chức năng, nhiệm vụ

ĐTBD CBCC. Các bộ, cơ quan ngang bộ và các cơ quan trung ương khác,

các ban, ngànhkhông có cơ sở ĐTBD CBCC.

3.2.2.1. Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào

Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào là cơ sở ĐTBD CBCC

ở trung ương, trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Chính phủ.

84

Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương

Đảng Nhân dân cách mạng Lào quy định.

Nghị quyết số 75/BCTTĐ, ngày 30/7/2019 của Bộ Chính trị Ban Chấp

hành Trung ương Đảng về tổ chức và hoạt động của Học viện Chính trị và

Hành chính Quốc gia đã quy định cụ thể về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền

hạn, cơ cấu tổ chức bộ máy của Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia

Lào như sau:

* Nhiệm vụ của Học viện:

- Nghiên cứu lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Kai Son Phôm Vỉ Hẳn,

truyền thống và lịch sử của đảng và nhà nước đặt vào việc thành lập đường lối

của đảng; nghiên cứu khoa học chính trị và hành chính, khoa học lãnh đạo và

quản lý; tổng kết bài học và thực tiễn trong lãnh đạo của đảng; nghiên cứu

chuyên sâu đề tài, bồi dưỡng đường lối, chính sách, những vấn mới về sử dụng

lý luận Mác-Lênin, các đề tài chuyên sâu khác cho cán bộ lãnh đạo cấp chiến

lược, cán bộ lãnh đạo cấp cao, cán bộ lãnh đạo các cấp trong từng thời kỳ.

-Thành lập và phát triển chương trình lý luận chính trị cấp cơ sở, cấp trung,

cấp cao và đề nghị đến hội đồng lý luận trung ương đảng xem xet ban hành.

-Thành lập và phát triển giáo trình, sách tham khảo và các tài liệu khác

áp dụng vào công việc dạy và học lý luận chính trị, chuyên môn chính trị và

hành chính trong hệ thống trường đảng và đơn vị các trường khác.

-Bồi dưỡng nâng cao bán bộ lãnh đạo - quản lý cấp chiến lược và cán

bộ lãnh đạo cấp cao về lý luận chính trị, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Kai

Son Phôm Vỉ Hẳn, truyền thống và lịch sử của đảng, của nhà nước, quan

niệm, đường lối của đảng, chính sách và pháp luật của nhà nước; các lý luận

và thực tiễn cả trong và ngoài nước; khoa học chính trị và hành chính, khoa

học lãnh đạo - quản lý.

85

-Nâng cao kiến thức cho cán bộ lãnh đạo - quản lý, sĩ quan quân đội và

cảnh sát đảm nhiệm chức vụ hành chính từ cấp 1 - 5 về lý luận chính trị cấp

trung trình và cấp cao.

-Bồi dưỡng lý luận chính trị cấp cao cho đội ngũ giảng viên đang làm

nhiệm vụ giảng dạy lý luận chính trị trong hệ thống trường đảng và các đơn vị

trường khác.

-Thành lập, phát triển chương trình và tổ thức thực hiện công việc

giảng - học chuyên môn lý luận chính trị - hành chính hệ thạc sĩ, tiến sĩ. Đối

với thành lập và phát triển chường trình là phải đề nghị đến Bộ Giáo dục và

Thể thao xem xet ban hành.

-Chỉ đạo về chuyên môn, hợp tác với tỉnh, thủ đô về công tác quản lý

việc giảng dạy và học; giúp đỡ hỗ trợ, bổ sung thông tin chống hệ thống các

trường đảng.

-Phối hợp với các bộ phận khác có liên quan cùng nhau thực hiện đào

tạo bồi dưỡng nâng cao. Bồi dưỡng, tập huấn về cơ sở lý luận chính trị - hành

chính, lý luận Mác-Lênin và tư tưởng Kai Son Phôm Vỉ Hẳn, đường lối, chính

sách của đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước cho bội ngũ cán bộ lãnh

đạo – quản lý của đảng - nhà nước trong hệ thống chính trị.

- Tổ chức thực hiện việc giám sát, kiểm tra đảng - nhà nước, ngăn chặn -

phòng chống tham nhũng và xem xét sửa chữa đề nghị, kiến nghị trong lĩnh

vực trách nhiệm lãnh đạo - quản lý của Học viện Chính trị và Hành chính

quốc gia.

- Lãnh đạo, quản lý các công việc nội bộ Học viện Chính trị và Hành

chính quốc gia như: Công việc xây dựng và cải thiện đảng - cán bộ, công việc

chuyên môn, công việc quản lý dịch vụ, công việc quản lý và sử dụng ngân

sách, cộng xây dựng thệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật, các công việc thực hiện

chế độ khác.

86

- Hợp tác với nước ngoài trong lĩnh vực đào tạo và bồi dưỡng nâng cao

kiến thức cho cán bộ lãnh đạo - quản lý và công viện nghiên cứu khoa học, tổ

hợp thực tiễn về đề tài có quan tâm của cả hai bên.

- Tổng hợp, báo cáo tình hình hoạt động toàn vẹn các công việc của

Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia đối với Bộ Chính trị Trung ương

Đảng và Ban Chấp hành Trung ương Đảng biết đến chính thức.

- Quản lý, sử dụng ngân sách, vốn hỗ trợ của trong nước vào nước

ngoài, tài sản của Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia.

- Thực hiện các công việc khác theo sự giao của Bộ Chính trị Trung

ương, Ban Chấp hành Trung ương và Chính phủ.

* Quyền hạn của Học viện:

- Khi nhận được thông báo về thông tin từ cấp trên trọng hệ thống đảng

và hệ thống nhà nước; xin ý kiến của cấp trên về vấn đề những cần thiết.

Ngoài ra, có quyền được biết báo cáo lại về thông tin từ ban ngành, địa

phương và ra thông báo, hướng dẫn cho địa phương, ban ngành về vấn đề liên

quan đến Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia.

- Tham dự hội nghị mở rộng của Trung ương Đảng, Quốc hội và

Chính phủ hoặc các hội nghị liên quan đến Học viện Chính trị và Hành

chính quốc gia.

- Quy định hình thức bằng chứng nhận trình độ chính trị cấp cơ sở, cấp

trung bình, cấp cao cho thống nhất toàn quốc; có quyền ra bằng chứng nhận

cho những người đã tốt nghiệp lý luận chính trị cấp cơ sở, cấp trung bình và

cấp cao tại Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia.

- Cấp bằng tốt nghiệp cho những người đã tốt nghiệp chuyên môn

chính trị và hành chính cấp thạc sĩ và tiến sĩ theo chương trình học của Học

viện Chính trị và Hành chính quốc gia.

- Tuyển chọn, đặt ưu tiên về đề tài nghiên cứu khoa học lý luận và thực

tiễn đã nằm trong trách nhiệm của Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia

87

để áp dụng vào công việc giảng dạy và học; cán bộ, giảng viên có quyền viết

và xuất bản sách của mình do được chứng nhận của hội đồng khoa học cấp

Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia.

- Quyết định cho giảng viên - giảng viên chính có nhiệm vụ giảng dạy

và nghiên cứu khoa học có trình độ học vấn bậc tiến sĩ và phó giáo sư tiến sĩ

trở lên đã nghỉ hưu những vẫn có kiến thức, kinh nghiệm cao về việc giảng

dạy, có sức khỏe tốt, còn có sự yêu cầu của tổ chức và chính bản thân tự

nguyện tiếp tục thực hiện giảng dạy cũng có thể ra hạn làm giảng viên được

nhưng không quá 10 năm.

- Phối hợp với cơ quan tổ chức Đảng, Nhà nước Mặt trận Xây dựng đất

nước Lào, Hội Cựu chiến binh Lào, tổ chức chính trị - xã hội Trung ương và

địa phương đến tận cá nhân nhà khoa học, giảng viên đề làm nhiệm vụ đào

tạo, bồi dưỡng và nghiên cứu khoa học.

- Nghiên cứu, đề nghị cấp trên xem xét ban hành chức vụ chuyên môn

giảng viên lý luận chính trị - hành chính và chức chuyên môn của công chức.

- Quan hệ và hợp tác với các nước và các cơ quan tổ chức quốc tế trên

cơ sở đối ngoại của Đảng và quy luật của Chính phủ đã quy định ra.

- Nghiên cứu và quyết định các công việc nội bộ của Học viện Chính trị

và Hành chính quốc gia như: Biên chế, bố trí, bổ nhiệm, di chuyển, thăng

chức và cách chức của cán bộ - công chức cấp phó Vụ trở xuống. thành lập và

sắp đặt các đơn vị, ra quy định, các quy luật, sử dụng ngân sách, giám sát,

kiểm tra, cải thiện kết quả kiểm tra, thực hiện chính sách và vân vân…

- Có quyền được hưởng chế độ về vật chất và tinh thân khác giống như

các đơn vị khác của Đảng, các Bộ - tổ chức khác.

- Thực hiện các quyền hạn theo phân công của Bộ Chính trị Trung

ương Đảng và Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

* Cơ cấu nhân sự

88

- Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia gồm có 1 giám đốc được

bổ nhiểm, cách chức do Bộ Chính trị trung ương Đảng theo kiến nghị của Ban

Tổ chức Trung ương Đảng; một số phó giám đốc Học viện Chính trị và Hành

chính quốc gia được bổ nhiệm và cách chức do Ban Bí thư Trung ương Đảng

theo kiến nghị của Ban Tổ chức Trung ương Đảng trên cơ sở thống nhất của

Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia.

- Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia gồm có chánh văn

phòng, vụ trưởng, giám đốc trung tâm và trưởng khoa các khoa được bổ

nhiệm, cách chức do Ban Bí thư Trung ương Đảng theo kiến nghị của Ban

Tổ chức Trung ương Đảng trên cơ sở thống nhất của Học viện Chính trị và

Hành chính quốc gia.

- Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia gồm có phó tránh văn

phòng, phó vụ trưởng, phó giám đốc trung tâm và phó trưởng khoa các khoa

được bổ nhiệm, cách chức do Giám đốc Học viện Chính trị và Hành chính

quốc gia theo kiến nghị của Vụ Tổ chức - Cán bộ trên cơ sở thống nhất của

Ban Chấp hành Đảng bộ, Ban Giám đốc Học viện Chính trị và Hành chính

quốc gia và Bộ Nội vụ.

- Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia gồm có trưởng phòng,

trưởng phòng chuyên môn, phó trưởng phòng, phó trưởng phòng chuyên môn

và một số nhân viên theo vị trí được bổ nhiệm và cách chức do Giám đốc Học

viện Chính trị và Hành chính quốc gia theo kiến nghị của Vụ Tổ chức - Cán

bộ trên cơ sở thống nhất của các bộ phận có liên quan.

- CBCC của Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào có chuyên

môn, kiến thức và năng lực về khoa học chính trị, hành chính và kỹ thuật nào

đó, có một số cán bộ quản lý hành chính do dựa vào yêu cầu cụ thể của công

việc và phù hợp theo hướng cải cách bộ máy gọn nhẹ có hiệu quả.

- Vai trò, cơ cấu tổ chức và cách làm việc của các Vụ, Văn phòng,

Trung tâm Thông tin và các Khoa do Giám đốc Học viện quy định cụ thể.

89

* Cơ cấu bộ máy tổ chức

Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào gồm 12 đơn vị, cụ thể:

1.Văn phòng

2.Vụ Tổ chức - cán bộ

3.Vụ Quản lý giảng dạy - học

4.Vụ Kiểm tra

5.Vụ Quản lý nghiên cứu khoa học

6.Trung tâm thông tin chính trị và hành chính

7.Trung tâm nghiên cứu tư tưởng Kai Son Phôm Vỉ Hẳn

8.Khoa Triết học

9.Khoa Kinh tế chính trị và quản lý kinh tế

10. Khoa Chủ nghĩa xã hội khoa học

11. Khoa Xây dựng đảng và lịch sử đảng

12. Khoa Hành chính học

90

Sơ đồ 3.1. Tổ chức bộ máy của Học viện Chính trị và Hành chính

Văn phòng

Vụ Tổ chức cán bộ

Vụ Quản lý giảng dạy - học

Vụ Kiểm tra

Vụ quản lý nghiên cứu khoa học

Phó Giám đốc

Trung tâm thông tin chính trị và hành chính

Giám đốc

Trung tâm nghiên cứu tư tưởng Kai Son Phôm Vỉ Hẳn

Khoa triết học

Khoa kinh tế chính trị và quản lý kinh tế

Khoa chủ nghĩa xã hội khoa học

Khoa xây dựng đảng và lịch sử đảng

Khoa hành chính học

Quốc gia Lào

[Tác giả tổng hợp]

Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào là cơ quan chuyên môn

cấp Trung ương do có vị trí tương đương Bộ của Chính phủ. Việc quản lý

Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào thuộc thẩm quyền của Ban

91

Chấp hành Trung ương Đảng và Chính phủ. Sự phân cấp quản lý được thể

hiện qua một số khía cạnh sau:

+ Việc thành lập, quy định chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của

Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào do Bộ Chính trị Trung ương

Đảng ra quyết định.

+ Việc bổ nhiệm, bãi nhiệm Giám đốc Học viện thuộc thẩm quyền của

Bộ Chính trị Trung ương Đảng.Việc bổ nhiệm, bãi nhiệm Phó Giám đốc Học

viện, Vụ trưởng và tương đương thuộc thẩm quyền của Ban Bí thư Trung

ương Đảng.Việc bổ nhiệm, bãi nhiệm Phó Vụ trưởng và tương đương thuộc

thẩm quyền của Giám đốc Học viện.Việc tuyển dụng giảng viên và nhân viên

thuộc thẩm quyền của Giám đốc Học viện.

+ Việc quy định tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp, nâng ngạch, thăng

hạng do Ban Tổ chức Trung ương quy định.

+ Việc xây dựng các chương trình ĐTBD CBCC, biên soạn giáo trình

ĐTBD CBCC thuộc thẩm quyền của Học viện Chính trị và Hành chính Quốc

gia Lào.

Việc quyết định ban hành chương trình ĐTBD CBCC thuộc thẩm

quyền của Bộ Giáo dục và Thể thao, do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Thể thao

ký quyết định.

+Việc quy định mẫu, in và cấp văn bằng, chứng chỉ ĐTBD CBCC

thuộc thẩm quyền của Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào.

+Việc cấp NSNN cho hoạt động của Học viện Chính trị và Hành chính

Quốc gia Lào thuộc thẩm quyền của Chính phủ, do Bộ Tài chính thực hiện.

3.2.2.2.Trường chính trị và hành chính cấp tỉnh

Trường chính trị và hành chính cấp tỉnh trực là cơ sở ĐTBD CBCC ở

địa phương, trực thuộc Tỉnh ủy.

CHDCND Lào 18 đơn vị hành chính tỉnh, thủ đô (Thủ đô Vientiane,

Attapeu, Bokeo, Bolikhamsai, Champasak, Huaphan, Khammouane, Luang

92

Namtha, Luang Prabang, Oudomxay, Phongsaly, Salavan, Savanakhet,

Sekong, Vientiane, Xayabury, Xaysomboun, Xiengkhuang), tương ứng có 18

Trường chính trị và hành chính. Chức năng và nhiệm vụ của các Trường

chính trị và hành chính cấp tỉnh do Học viện Chính trị và Hành chính Quốc

gia Lào quy định.

- Về nhiệm vụ:

+ Tổ chức quản lý dạy - học lý luận chính trị - hành chính theo chương

trình ĐTBD của Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào đã quy định,

tổ chức ĐTBD theo quyết định của Ban Chấp hành Đảng ủy và cơ quan quản

lý của Tỉnh hoặc Thủ đô, trong đó có chương trình bồi dưỡng 45 ngày, sơ cấp,

trung cấp, cao đẳng, sau đại học và bồi dưỡng theo chuyên đề.

+ Bổ dung nội dung chương trình, tài liệu dạy - học theo trách nhiệm

của mình để bảo đảm tính khoa học cho việc dạy - học của trường chính trị,

công tác bồi dưỡng phải thực hiện liên tục.

+ Lãnh đạo, quản lý, ban hành quản lý và kiểm soát hành chính công

việc trong nội bộ trường chính trị tỉnh như: công tác tổ chức - cán bộ và chính

sách, công tác quản lý sử dụng, công tác hành chính công sở, công tác chuyên

môn khác, công tác quản lý sử dụng ngân sách, công tác xây dựng cơ sở hạ

tầng… để tạo điều kiện thuận lợi, bảo đảm cho việc thực hiện công tác dạy -

học và nghiên cứu khoa học ngày càng có chất lượng và hiệu quả cao.

+ Nghiên cứu và đề nghị lên Học viện Chính trị và Hành chính Quốc

gia Lào về tổ chức thi và bảo vệ tốt nghiệp của học viên thuộc trách nhiệm

của mình.

+ Tự lập khám phá mọi tiềm năng để không ngừng pháp triển và nâng

cào trình độ kiến thức, khả năng của đội ngũ cán bộ, giảng viên. Song mở

rộng chú trọng lập và phát triển mạng lưới đồng nghiệp, đối tác của mình

trong và ngoài nước.

93

+ Làm công tác hậu cần cho Ban Chấp hành Đảng ủy Tỉnh hoặc Thủ đô

trong công tác nghiên cứu lý luận và tổng hợp bài học thực tiễn trong khu vực

chính trị - hành chính, đồng thời tổ chức phát hành thành tựu của việc nghiên

cứu đó.

+ Lập kế hoạch ngân sách hàng năm, 5 năm để đề nghị lãnh đạo Tỉnh

phê duyệt sử dụng ngân sách và quản lý thu - chi ngân sách của mình cho phù

hợp nghiêm túc với qui định tài chính.

+ Tổ chức đánh giá hoạt động công việc hàng năm, hàng quý, hàng

tháng của trường, tổ chức tổng kết rút ra bài học kinh nghiệm trong từng giai

đoạn để hoàn thiện tổ chức và hoạt động của trường ngày càng tốt hơn.

+ Quan hệ và hợp tác mọi lĩnh vực với nước ngoài theo quyền hạn của

Ban Chấp hành Đảng ủy Tỉnh hoăc Thủ đô đã qui định.

+ Có trách nhiệm nghiên cứu và đề nghị tổ chức cấp trên mà lãnh đạo

chuyên môn để xin chứng chỉ khoa học cho đội ngũ giảng viên ở nội bộ

trường chính trị.

+ Có quyền thông báo và báo cáo tình hình thực hiện công tác chuyên

môn và bổ sung công tác bộ máy của nhà trường từng giai đoạn, đồng thời lập

kế hoạch ĐTBD cán bộ giảng viên của trường trong từng năm cho Học viện

Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào biết để làm căn cứ và giúp đỡ về

chuyên môn và ĐTBD giảng viên của trường chính trị tỉnh và Thủ đô.

+ Thực hiện nhiệm vụ khác do Ban Chấp hành Đảng bộtỉnh, cơ quan

quản lý của tỉnh, Thủ đô và đơn vị liên quan của Trung ương giao.

- Về quyền hạn:

+ Có quyền được nhận các thông tin từ Ban Chấp hành Đảng bộ địa

phương mà trường trực thuộc, tổ chức cấp trên lãnh đạo cơ quan chuyên môn

và các Ban về vấn đề liên quan với trường chính trị, lập ra thông báo hoặc

hướng dẫn khác trong nội bộ nhà trường và đối với các bộ phận có liên quan

trong toàn tỉnh hoặc Thủ đô.

94

+ Ban Lãnh đạo nhà trường có quyền tham gia hội nghị của Ban Chấp

hành Đảng tỉnh và cơ quan hành chính của tỉnh hoặc Thủ đô, hội nghị cụ thể

về vấn đề liên quan trực tiếp với nhà trường và tham gia hội nghị theo lời mời

của các bộ phận liên quan.

+ Cấp bằng tốt nghiệp hệ sơ cấp và giấy chứng nhận bồi dưỡng chính

trị - hành chính theo chương trình.

+ Quan hệ hợp tác với tổ chức và cá nhân hoặc người có thẩm quyền

liên quan đến công việc ĐTBD CBCC đã được quy định.

+ Được nhận chính sách về vật chất và tinh thần giống như các Ban

khác trong tỉnh hoặc Thủ đô.

+ Đề nghị Ban Chấp hành Đảng bộtỉnh - Chủ tịch tỉnh hoặc Ban Chấp

hành Đảng bộ Thủ đô - Chủ tịch Thủ đô thông qua các cơ quan có liên quan

để nghiên cứu xử lý hành chính cấp phòng và đơn vị, đề nghị cấp trên nghiên

cứu, xử lý quyết định thực hiện kỷ luật đối với người thực hiện sai và thực

hiện chính sách khen thưởng đối với cán bộ, công chức có công lao tốt.

+ Được cấp chứng chỉ giảng viên, giảng viên chính… theo quy định

của pháp luật.

Như vậy, ở CHDCND Lào, hệ thống cơ sở ĐTBD CBCC gồm Học

viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào và 18 Trường chính trị và hành

chính cấp tỉnh (tỉnh, thủ đô). Sự phân cấp quản lý được thể hiện qua một số

khía cạnh sau:

+ Về việc thành lập, quy định chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy:

Mặc dù là cơ sở ĐTBD CBCC của địa phương, nhưng chức năng,

nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Trường chính trị và hành chính cấp tỉnh do

Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào quy định.

+ Về nhân sự:

Việc bổ nhiệm, bãi nhiệm hiệu trưởng, phó hiệu trưởng thuộc thẩm

quyền của Tỉnh uỷ.

95

Việc bổ nhiệm, bãi nhiệm trưởng, phó trưởng khoa, phòng thuộc thẩm

quyền của Ban thường vụ tỉnh uỷ.

Việc tuyển dụng giảng viên, nhân viên nhà trường thuộc thẩm quyền

của Tỉnh uỷ do Ban tổ chức tỉnh uỷ thực hiện.

Việc quy định tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp, nâng ngạch, thăng

hạng do Bộ Nội vụ quy định.

+ Về chương trình, giáo trình ĐTBD CBCC:

Việc xây dựng các chương trình ĐTBD CBCC, biên soạn giáo trình

ĐTBD CBCC thuộc thẩm quyền của Học viện Chính trị và Hành chính Quốc

gia Lào.

Việc quyết định ban hành chương trình ĐTBD CBCC thuộc thẩm

quyền của Bộ Giáo dục và Thể thao, do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Thể thao

ký quyết định.

+ Về văn bằng, chứng chỉ ĐTBD CBCC:

Việc quy định mẫu, in và cấp văn bằng, chứng chỉ ĐTBD CBCC thuộc

thẩm quyền của Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào.

+ Về NSNN:

Việc cấp NSNN cho hoạt động của Trường chính trị và hành chính tỉnh

thuộc thẩm quyền của UBND tỉnh, do Sở Tài chính thực hiện.

3.2.3. Về đội ngũ giảng viên đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức

Giảng viên ĐTBD CBCC ở CHDCND Lào bao gồm giảng viên của

Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào và giảng viên của 18 trường

chính trị và hành chính cấp tỉnh.

- Đối với giảng viên cao cấp

+ Có bằng tiến sĩ phù hợp với chuyên môn, chuyên ngành giảng dạy.

+ Có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên.

+ Có chứng chỉ bồi dưỡng giảng viên cao cấp.

+ Có trình độ cao cấp lý luận chính trị.

96

+ Có trình độ ngoại ngữ bậc 4 (B2) theo khung năng lực ngoại ngữ

dùng cho CHDCND Lào.

+ Có trình độ tin học đạt chuẩn kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin cơ bản.

- Đối với giảng viên chính

+ Có bằng thạc sĩ trở lên phù hợp với chuyên môn, chuyên ngành giảng dạy.

+ Có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên.

+ Có chứng chỉ bồi dưỡng giảng viên chính.

+ Có trình độ trung cấp lý luận chính trị trở lên.

+ Có trình độ ngoại ngữ bậc 3 (B1) theo khung năng lực ngoại ngữ

dùng cho CHDCND Lào.

+ Có trình độ tin học đạt chuẩn kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin cơ bản.

- Đối với giảng viên

+ Có bằng tốt nghiệp đại học trở lên phù hợp với chuyên môn, chuyên

ngành giảng dạy.

+ Có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên.

+ Có chứng chỉ bồi dưỡng giảng viên.

+ Có trình độ trung cấp lý luận chính trị trở lên đối với giảng viên

giảng dạy các chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị,

+ Có trình độ ngoại ngữ bậc 2 (A2) theo khung năng lực ngoại ngữ

dùng cho CHDCND Lào.

+ Có trình độ tin học đạt chuẩn kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin cơ bản.

*Đội ngũ giảng viên của Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào.

Tính đến ngày 01/01/2018, tổng số CBCC của Học viện Chính trị và

Hành chính Quốc gia Lào là 251 người, trong đó nam là 145 người (chiếm

57,77%), nữ là 106 người (42,23%).

Số giảng viên của Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào là

149 người (chiếm 59,36%). Giảng viên nam là 93 người (chiếm 62,42%),

giảng viên nữ là 56 người (37,58%).

97

Về trình độ giảng viên, tiến sĩ có 16 người (chiếm 10,74%), trong đó

nam 14 người (87,50%), nữ là 2 người (chiếm 12,50%); Thạc sĩ có 55 người

(chiếm 36,91%), trong đó nam là 31 người (chiếm 56,36%), nữ là 24 người

(chiếm 43,64%); cử nhân có 78 người (chiếm 52,35%), trong đó nam 48

người (chiếm 61,54%), nữ là 30 người (chiếm 38,46%).

Bảng 3.1. Tổng hợp số lượng giảng viên của Học viện Chính trị và Hành

chính Quốc gia Lào

Tổng Giới tính Trình độ chuyên môn

số Nam Nữ Tiến sĩ Thạc sĩ Cử nhân

Số lượng (người) 93 56 16 55 78 149

Tỷ lệ (%) 62,42 37,58 10,74 36,91 52,35 100

(Nguồn: Vụ Tổ chức - Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào)

+ Giảng viên của Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào do

Giám đốc Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào tuyển dụng, sử

dụng và quản lý.

+ Quy định tiêu chuẩn nâng ngạch, bậc giảng viên do Ban Tổ chức

Trung ương quy định.

* Đội ngũ giảng viên của các trường chính trị và hành chính.

- Đội ngũ nhân sự của các Trường chính trị và hành chính tỉnh gồm có

617 người, trong đó nam là 366 người (chiếm 59,32%), nữ là 251 người

(chiếm 40,68%).

- Riêng đội ngũ giảng viên của các Trường chính trị và hành chính tỉnh

có 373 giảng viên (chiếm 60,45%) trong đó giảng viên nam là 254 người

(chiếm 68,10%), nữ là 119 người (chiếm 31,90%).

Về trình độ giảng viên: tiến sĩ có 10 người (chiếm 2,68%), Thạc sĩ có

117 người (chiếm 31,37%); cử nhân là 246 người (chiếm 65,95%).

98

Bảng 3.2. Tổng hợp giảng viên của 18 Trường chính trị

và hành chính tỉnh

Tổng Giới tính Trình độ chuyên môn

số Nam Nữ Tiến sĩ Thạc sĩ Cử nhân

373 Số lượng (người) 254 119 10 117 246

100 Tỷ lệ (%) 68,10 31,90 2,68 31,37 65,95

(Nguồn: Vụ Tổ chức - Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào)

- Giảng viên của các Trường chính trị và hành chính do Ban Tổ chức

Tỉnh ủy tuyển dụng và quản lý. Các Trường chính trị và hành chính là đơn vị

sử dụng giảng viên.

-Quy định tiêu chuẩn nâng ngạch, bậc giảng viên do Bộ Nội vụ quy định.

Có thể thấy, Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào là cơ quan

quản lý chương trình ĐTBD CBCC, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền

hạn của các Trường chính trị và hành chính cấp tỉnh, nhưng lại không trực

tiếp quản lý đội ngũ giảng viên của các trường này, mà phân cấp cho các địa

phương quản lý.

Cơ quan quản lý đội ngũ giảng viên của các trường chính trị và hành

chính cấp tỉnh là Ban Tổ chức Tỉnh ủy.

+ Về quy trình tuyển dụng giảng viên theo quy trình sau:

Bước 1. Trường chính trị và hành chính tỉnh thông báo nhu cầu tuyển dụng.

Bước 2. Ban Tổ chức Tỉnh ủy tham mưu cho Tỉnh ủy thành lập Hội

đồng tuyển dụng do 1 Phó Bí thư Tỉnh ủy làm Chủ tịch Hội đồng.

Bước 3. Ban Tổ chức Tỉnh ủy trình Tỉnh ủy phê duyệt kết quả tuyển dụng.

Bước 4. Chuyển kết quả danh sách những người trúng tuyển sang Sở

Nội vụ để làm chính sách.

Nhận thức được tầm quan trọng của đội ngũ giảng viên của các Trường

chính trị và hành chính cấp tỉnh nên công tác quản lý đội ngũ này rất được

quan tâm.

99

Có thể thấy, việc quản lý đội ngũ giảng viên của các cơ sở ĐTBD

CBCC ở CHDCND Lào chưa có sự phân cấp, mà sự phân công, phối hợp

giữa cơ quan quản lý nhà nước (Bộ Nội vụ) với cơ quan tham mưu, giúp việc

cho Đảng NDCM Lào (Ban Tổ chức).

* So sánh, đối chiếu với tiêu chuẩn giảng viên

- Về văn bằng, chứng chỉ: 100% giảng viên của Học viện Chính trị và

Hành chính Quốc gia Lào đáp ứng được các yêu cầu về văn bằng, chứng chỉ.

98,2% giảng viên của các trường chính trị và hành chính cấp tỉnh đáp ứng

được các yêu cầu về văn bằng, chứng chỉ; 1,8% giảng viên chưa đáp ứng

đượcyêu cầu về văn bằng, chứng chỉ là do thiếu chứng chỉ ngoại ngữ hoặc tin

học. Các giảng viên chưa đáp ứng được do quá trình lịch sử để lại, số giảng

viên này đều lớn tuổi, sắp nghỉ hưu nên không hoàn thiện văn bằng, chứng chỉ.

- Về năng lực giảng dạy, ở CHDCND Lào chưa có tiêu chuẩn cụ thể để

lượng hóa, việc lên lớp của các giảng viên mới được kiểm tra qua việc thông

qua bài giảng của giảng viên trước hội đồng khoa học của khoa chuyên môn

của Học viện và của trường.

- Về kinh nghiệm thực tiễn, đội ngũ giảng viên của Học viện Chính trị

và Hành chính Quốc gia Lào, các trường chính trị và hành chính cấp tỉnh cơ

bản là chưa có kinh nghiệm thực tiễn, có tới 78,8% giảng viên được tuyển sau

khi tốt nghiệp đại học; 1,9% giảng viên được chuyển về từ một số trường đại

học và trường chính trị và hành chính cấp tỉnh; 19,3% giảng viên được

chuyển về từ các cơ quan, đơn vị khác.

3.2.4. Về ngân sách cho đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức

* Các hoạt động ĐTBD CBCC được NSNN cấp kinh phí

- NSNN cấp cho các cơ sở ĐTBD CBCC chi các khoản:

+ Các khoản chi phục vụ trực tiếp lớp học: Chi thù lao giảng viên; phụ

cấp tiền ăn giảng viên; chi phí đưa, đón, bố trí nơi ở cho giảng viên; Chi tài

liệu học tập theo nội dung chương trình khoá học cho học viên (không kể tài

100

liệu tham khảo); Chi khen thưởng cho học viên đạt loại giỏi, loại xuất sắc;

Chi hỗ trợ một phần tiền ăn cho học viên trong thời gian đi tập trung học; Chi

hỗ trợ cho các đối tượng là những người hoạt động không chuyên trách ở bản

trong những ngày đi tập trung học tại cơ sở đào tạo các khoản: Chi phí đi lại

từ cơ quan đến nơi học tập (một lượt đi và về; nghỉ lễ; nghỉ tết); chi hỗ trợ

tiền thuê chỗ nghỉ; Chi thuê hội trường, phòng học, thiết bị phục vụ học tập

(nếu có);

+ Các khoản chi ra đề thi, coi thi, chấm thi; hội đồng xét kết quả; Chi in

và cấp chứng chỉ.

+ Các khoản chi cho mở lớp: khai giảng, bế giảng; chi nước uống phục

vụ lớp học; đối với các lớp học chuyên sâu, nâng cao có chuyên gia nước

ngoài giảng dạy được chi giải khát giữa giờ (cà phê, trà, hoa quả, bánh

ngọt...); chi tổ chức cho học viên đi khảo sát, thực tế (nếu có); chi khác phục

vụ trực tiếp lớp học (điện, nước, thông tin liên lạc, văn phòng phẩm, vệ sinh,

trông giữ xe...); Chi tiền thuốc y tế thông thường cho học viên (ốm đau).

Các cơ sở ĐTBD CBCC đã được ngân sách đầu tư xây dựng phòng

nghỉ phải có trách nhiệm bố trí chỗ nghỉ cho học viên ở xa đối với những lớp

được cấp có thẩm quyền giao nhiệm vụ và phân bổ kinh phí thực hiện không

được thu thêm khoản tiền phòng nghỉ của học viên.

+ Các khoản chi cho các hoạt động quản lý trực tiếp công tác ĐTBD

CBCC của cơ sở ĐTBD CBCC hoặc các cơ quan, đơn vị được giao nhiệm vụ

mở lớp ĐTBD CBCC: Chi công tác phí cho cán bộ quản lý lớp của cơ sở

ĐTBD CBCC trong trường hợp phải tổ chức lớp ở xa; chi làm thêm giờ của

cán bộ quản lý lớp (nếu có); Chi khảo sát, điều tra, xây dựng kế hoạch ĐTBD;

chi tổ chức các cuộc họp nhằm đánh giá kết quả, hiệu quả, chất lượng ĐTBD

ngay sau khi kết thúc khoá học; Các khoản chi khác để phục vụ quản lý, điều

hành lớp học (nếu có).

101

+ Chi dịch thuật.

+ Chi biên soạn chương trình, giáo trình mới hoặc chi chỉnh sửa, bổ

sung cập nhật chương trình, giáo trình. Do cơ quan, đơn vị được giao chủ trì

biên soạn chương trình, giáo trình, tài liệu ĐTBD kiến thức, kỹ năng chuyên

môn nghiêp vụ chi từ nguồn kinh phí ĐTBD CBCC được giao hàng năm.

- NSNN cấp cho cơ quan, đơn vị cử CBCC đi học để chi các khoản:

+ Chi phí đi lại từ cơ quan đến nơi học tập (một lượt đi và về; nghỉ lễ;

nghỉ tết); chi thanh toán tiền thuê chỗ nghỉ cho CBCC trong những ngày đi

tập trung học tại cơ sở ĐTBD CBCC (trong trường hợp cơ sở ĐTBD CBCC

và đơn vị tổ chức ĐTBD xác nhận không bố trí được chỗ nghỉ). Căn cứ địa

điểm tổ chức lớp học và khả năng ngân sách, các cơ quan, đơn vị cử CBCC đi

học sử dụng từ nguồn kinh phí chi thường xuyên và nguồn kinh phí khác của

mình để hỗ trợ cho CBCC được cử đi học hai khoản chi phí nêu trên đảm bảo

nguyên tắc: Các khoản chi hỗ trợ này không vượt quá mức chi hiện hành của

Bộ Tài chính quy định chế độ công tác phí, chế độ chi tổ chức các cuộc hội

nghị đối với các cơ quan nhà nước và các đơn vị sự nghiệp công lập. Cơ quan

đơn vị cử CBCC đi học không chi hỗ trợ tiền chi phí đi lại và tiền thuê chỗ

nghỉ đối với các trường hợp là những người hoạt động ở bản.

+ Trường hợp cơ quan, đơn vị được giao kinh phí ĐTBD CBCC nhưng

không có cơ sở ĐTBD CBCC, không có điều kiện tự tổ chức lớp phải gửi

CBCC đi ĐTBD ở các cơ sở ĐTBD khác thì cơ quan, đơn vị thanh toán cho

các cơ sở ĐTBD các khoản: Chi phí ĐTBD theo hợp đồng dịch vụ do cơ

quan, đơn vị được cấp có thẩm quyền giao kinh phí ĐTBD CBCC ký kết với

cơ sở ĐTBD; tiền mua giáo trình, tài liệu (không kể tài liệu tham khảo) theo

hoá đơn thu tiền của cơ sở ĐTBD; Chi hỗ trợ tiền ăn cho học viên trong

những ngày đi học tập trung. Cơ sở ĐTBD có trách nhiệm chi hỗ trợ tiền ăn

cho học viên theo đúng mức hỗ trợ được cơ quan, đơn vị ký kết với cơ sở

ĐTBD tại hợp đồng dịch vụ và theo đúng số ngày thực tế học viên đi học.

102

Trường hợp cơ quan, đơn vị cử CBCC đi học thanh toán trực tiếp cho học

viên khoản chi hỗ trợ tiền ăn, thì chứng từ chi phải kèm theo xác nhận của cơ

sở ĐTBD về số ngày thực tế học viên đi học.

+ Chi các hoạt động trực tiếp phục vụ cho công tác quản lý ĐTBD

CBCC của các Bộ, cơ quan trung ương, địa phương.

Căn cứ nguồn kinh phí ĐTBD CBCC được cấp có thẩm quyền giao

hàng năm, bộ, cơ quan trung ương, địa phương quyết định việc phân bổ kinh

phí cho cơ quan, đơn vị được giao nhiệm vụ quản lý về công tác ĐTBD của

toàn ngành, của địa phương để chi cho các nội dung: chi xây dựng, lập kế

hoạch ĐTBD; chi tổ chức các cuộc họp, hội thảo, hội nghị; chi đi công tác để

kiểm tra, đánh giá kết quả ĐTBD và các chi khác liên quan trực tiếp đến công

tác quản lý ĐTBD CBCC.

- Kinh phí ĐTBD CBCC ở nước ngoài được giao trong dự toán hàng

năm của cơ quan, đơn vị được giao chủ trì tổ chức các khoá ĐTBD CBCC ở

nước ngoài và được sử dụng để chi cho các nội dung sau:

+ Chi phí dịch vụ phải trả cho tổ chức thực hiện dịch vụ ĐTBD CBCC

ở trong nước;

+ Chi học phí và các khoản chi phí bắt buộc phải trả cho các cơ sở

ĐTBD CBCC hoặc cơ sở dịch vụ ở nước ngoài;

+ Chi phí cho công tác phiên dịch, biên dịch tài liệu;

+ Chi phí mua bảo hiểm y tế trong thời gian học tập ở nước ngoài;

+ Chi phí cho công tác tổ chức lớp học: Khảo sát, đàm phán, xây dựng

chương trình học tập với các cơ sở đào tạo ở nước ngoài;

+ Chi phí ăn, ở, đi lại, lệ phí sân bay; chi mua bảo hiểm;

+ Chi làm thủ tục xuất, nhập cảnh (hộ chiếu, visa).

* Tỷ trọng NSNN cấp cho đào tạo, bồi dưỡng CBCC

Trong chi NSNN nói chung thì chi NSNN cho ĐTBD CBCC được chú

trọng ưu tiên hơn so với các lĩnh vực kinh tế xã hội khác.

103

Giai đoạn 2012-2016, chi NSNN cho ĐTBD CBCC ở CHDCND Lào

đã không ngừng tăng lên cả về số tuyệt đối, về tỷ trọng chi NSNN và so với

GDP.NSNN chi cho ĐTBD CBCC đã tăng gấp 2,4 lần, từ hơn 22.600 tỷ kip

năm 2012 lên đến gần 55.000 tỷ kip năm 2016. Tỷ trọng chi NSNN cho

ĐTBD CBCC trong GDP tăng từ 4,2% (năm 2012) lên 5,6% (năm

2016). Mức chi NSNN cho giáo dục bình quân một người tăng từ 283.000 kip

năm 2012 lên 784.000 kip vào năm 2016.

Bảng 3.3. Chi NSNN cho ĐTBD CBCC giai đoạn 2012- 2016

Chỉ tiêu 2012 2013 2014 2015 2016

GDP (tỷ kip) 613.443 710.000 815.000 973.791 1.143.442

Tổng chi NSNN (tỷ kip) 178.541 200.050 229.750 321.377 368.340

Chi NSNN cho ĐTBD 27.510 32.730 41.630 55.300 66.770

CBCC (tỷ kip)

NSNN cho ĐTBD 4,48 4,6 5,11 5,67 5,83

CBCC so với GDP (%)

Chi NSNN cho ĐTBD 15,4 16,36 18,11 17,20 18,12

CBCC so với tổng chi

NSNN (%)

(Nguồn: Bộ Tài chính)

Nhà nước luôn tăng chi NSNN cho ĐTBD CBCCcả về quy mô và tỷ

trọng trong tổng chi NSNN để không ngừng nâng cao công tác ĐTBD CBCC,

đáp ứng nhu cầu thực thi công vụ. Chi NSNN cho ĐTBD CBCCkhông ngừng

tăng qua các năm, năm 2012 là 41.630 tỷ kip thì đến năm 2015 là 55.300 và

đến năm 2016 thì con số đó là 66.770 (chiếm 20% tổng chi NSNN).

- Xét theo tính chất kinh tế, chi NSNN cho ĐTBD CBCCgồm chi: Chi

thường xuyên và chi đầu tư phát triển.

104

Bảng 3.4. Chi NSNN cho ĐTBD CBCCxét theo tính chất kinh tế (tỷ kip)

Tổng chi

Chi thường xuyên

Chi đầu tư phát triển

Năm

NSNN cho

Số chi Tỷ lệ Số chi Tỷ lệ

ĐTBD CBCC

(tỷ kip % (tỷ kip %

2012 27.510 24.310 88,36 3.200 11,63

2013 32.730 27.830 85 4.900 14,97

2014 41.360 35.007 84,6 6.623 15,36

2015 55.300 45.595 82,45 9.705 17,55

2016 66.770 55.240 82,73 11.530 17,26

(Nguồn: Bộ Tài chính)

+ Chi đầu tư phát triển cho ĐTBD CBCCđược ưu tiên hàng đầu trong

cơ cấu chi đầu tư phát triển của NSNN cho lĩnh vực hạ tầng xã hội và không

ngừng tăng lên. Số liệu cho thấy chi đầu tư phát triển có xu hướng tăng nhanh

cả về quy mô và tỷ trọng chi NSNN cho ĐTBD CBCC. Năm 2016 bố trí

11.530 tỷ đồng chi đầu tư phát triển, tăng 18,8% so với năm 2015.

Chi đầu tư phát triển bao gồm các khoản chi mang tính chất đầu tư như

mua sắm, xây dựng, sửa chữa trường lớp… Đây là khoản chi nhằm củng cố

và phát triển quy mô trường lớp. Để góp phần nâng cao chất lượng ĐTBD,

mạng lưới trường lớp không chỉ được mở rộng về quy mô mà còn được nâng

cao về chất lượng. Cơ sở ĐTBD CBCC khang trang, sạch sẽ và có kiến trúc

hiện đại sẽ góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng ĐTBD.

+ Chi thường xuyên cho ĐTBD CBCC là các khoản chi phục vụ cho

hoạt động của ĐTBD như chi lương, phụ cấp, chi cho giảng dạy, học tập, chi

hành chính,…

Cùng với sự phát triển của ngành giáo dục, đội ngũ giảng viên cơ sở

ĐTBD CBCC cũng ngày một tăng. Trong những năm qua, lương của công

chức nói chung và lương của giảng viên nói riêng liên tục được cải thiện.

Việc tăng lương sẽ góp phần tăng thu nhập cho đội ngũ này và là một yếu tố

105

góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy. Chính vì vậy, trong giai đoạn tới,

với chính sách ưu đãi với giảng viên về tiền lương thì các khoản chi lương sẽ

ngày một tăng và sẽ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi NSNN. Năm 2016 chi

thường xuyên được bố trí 55.240 tăng 21,15% so với năm 2015, nhưng vẫn

chưa đáp ứng được nhu cầu, chưa đủ để tạo ra những thay đổi có tính chất đột

phá. Nên đa số ở các tỉnh, cơ cấu chi tiền lương và các khoản phụ cấp có tính

chất lương vẫn chiếm khoảng 85%-90% và chi cho các hoạt động giảng dạy,

học tập, mua sắm, sửa chữa, hành chính quản lý chỉ khoảng 10%-15% chi

thường xuyên.

Cơ chế phân cấp quản lý NSNN cho cho ĐTBD CBCCngày càng tăng

cường quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm cho chính quyền địa phương.

Ngân sách trung ương đảm bảo nhiệm vụ chi cho hoạt động ĐTBD

CBCCdo địa phương quản lý. Việc phân cấp nhiệm vụ chi cho hoạt động

ĐTBD CBCCcủa ngân sách chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân

tỉnh, thủ đô quyết định bảo đảm phù hợp với phân cấp quản lý ĐTBD

CBCCtheo quy định của pháp luật, trình độ năng lực quản lý ngân sách của

từng cấp và kế hoạch chung của địa phương về ĐTBD CBCC.

Bảng 3.5. Chi NSNN cho ĐTBD CBCCtheo phân cấp ngân sách

(giai đoạn 2012-2016)

Cấp ngân sách 2012 2013 2014 2015 2016

Trung ương (%) 16,35 17,13 14,65 13,76 19,63

Địa phương (%) 83,65 82,87 85,35 86,24 80,37

Tổng (%) 100 100 100 100 100

(Nguồn: Bộ Tài chính)

Theo phân cấp hiện nay thì chính quyền cấp tỉnh quản lý tài chính của

các Trường Chính trị và Hành chính tỉnh. Tuy nhiên, mỗi địa phương có cách

quản lý ngân sách cho ĐTBD CBCC khác nhau (do điều kiện cụ thể từng tỉnh

khác nhau). Vấn đề đặt ra là cần tăng cường sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ

106

quan địa phương có cơ chế phù hợp để cấp kinh phí cho các cơ sở ĐTBD

CBCC kịp thời và đầy đủ và có chính sách phân bổ ngân sách công bằng cho

các Trường Chính trị và Hành chính tỉnh.

Chi cho các cơ sở ĐTBD CBCC bao gồm các khoản chi đầu tư xây

dựng cơ bản, chi hoạt động thường xuyên và chi cho hoạt động ĐTBD.

Bảng 3.6.Ngân sách chi cho cơ sở ĐTBD CBCC (triệu kip/biên chế/năm)

TT Cơ sở đào tạo, bồi dưỡng CBCC 2012 2013 2014 2015 2016

1 Học viện Chính trị và Hành chính 115 118 117 120 116

quốc gia Lào

2 Trường Chính trị và Hành chính tỉnh 56 58 55 56 59

Attapeu

3 Trường Chính trị và Hành chính tỉnh 61 60 63 61 64

Bokeo

4 Trường Chính trị và Hành chính tỉnh 61 62 61 63 63

Bolikhamsai

5 Trường Chính trị và Hành chính tỉnh 63 63 62 62 64

Champasak

6 Trường Chính trị và Hành chính tỉnh 65 64 64 63 67

Huaphan

7 Trường Chính trị và Hành chính tỉnh 62 65 64 66 66

Khammouane

8 Trường Chính trị và Hành chính tỉnh 64 66 65 65 67

Luang Namtha

9 Trường Chính trị và Hành chính tỉnh 68 68 69 69 68

Luang Prabang

10 Trường Chính trị và Hành chính tỉnh 71 70 69 71 71

Oudomxay

11 Trường Chính trị và Hành chính tỉnh 69 71 70 72 73

Phongsaly

107

12 Trường Chính trị và Hành chính tỉnh 70 72 71 73 73

Xayabury

13 Trường Chính trị và Hành chính tỉnh 74 74 72 73 74

Salavan

14 Trường Chính trị và Hành chính tỉnh 75 76 76 77 75

Savanakhet

15 Trường Chính trị và Hành chính tỉnh 77 77 77 78 77

Sekong

16 Trường Chính trị và Hành chính tỉnh 80 82 83 81 82

Vientiane

17 Trường Chính trị và Hành chính thủ 94 94 96 95 95

đô Vientiane

18 Trường Chính trị và Hành chính tỉnh 85 84 84 83 85

Xiengkhuang

19 Trường Chính trị và Hành chính tỉnh 85 85 84 84 83

Xaysomboun

(Nguồn: Bộ Tài chính)

* Chu trình ngân sách cho ĐTBD CBCC

Chu trình ngân sách cho ĐTBD CBCC gồm lập ngân sách, chấp hành

ngân sách và quyết toán ngân sách.Quý cuối cùng của năm năm, các trường

lập nhu cầu ngân sách ĐTBD CBCC và gửi về Bộ Tài chính (đối với Học

viện Chính trị và Hành chính quốc gia), Sở Tài chính (đối với trường chính trị

và hành chính cấp tỉnh). Từ đó xác định nhu cầu ngân sách để Bộ Tài chính

báo cáo Chính phủ và đưa vào nhu cầu ngân sách trình Quốc hội.

Sau khi có ngân sách, tiến hành phân bổ. Học viện Chính trị và Hành

chính quốc gia nhận phân bổ trực tiếp qua Bộ Tài chính. Các trường chính trị

và hành chính cấp tỉnh nhận phân bổ qua ngân sách địa phương, ngân sách địa

phương cấp qua Sở tài chính của tỉnh, thành phố.

108

Kết thúc năm tài chính, các trường báo cáo và quyết toán ngân sách. Cơ

quan tài chính sẽ soát xét toàn bộ chế độ kế toán và quyết toán ngân sách,

đảm bảo cho quyết toán nhanh gọn, chính xác, trung thực.

3.2.5. Phân cấp quản lý về văn bằng, chứng chỉ

Mỗi loại chương trình ĐTBD CBCC sẽ có văn bằng chứng chỉ tương

ứng. Ở CHDCND Lào, tất cả các văn bằng chứng chỉ của các chương trình

ĐTBD CBCC đều do Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào quản lý

và trực tiếp cấp cho học viên.

Mặc dù các Trường chính trị và hành chính cấp tỉnh được phân cấp

thực hiện 01 chương trình đào tạo và 02 chương trình bồi dưỡng CBCC,

nhưng việc cấp văn bằng chứng chỉ cho học viên sau khi tốt nghiệp lại do Học

viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào thực hiện. Nghĩa là các Trường

chính trị và hành chính cấp tỉnh thực hiện ĐTBD CBCC nhưng không được

cấp văn bằng chứng chỉ. Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào là cơ

quan thống nhất trong cả nước cấp văn bằng, chứng chỉ ĐTBD CBCC.

Việc Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào thống nhất quản

lý và cấp các văn bằng chứng chỉ có ưu điểm là tạo sự thống nhất trong cả

nước về việc quản lý, cấp phát văn bằng chứng chỉ. Tuy nhiên, điều đó cũng

dẫn đến sự ôm đồm của Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào, nên

có sự phân cấp để giảm tải khối lượng công việc, đồng thời kích thích sự chủ

động của các trường chính trị và hành chính cấp tỉnh.

3.2.6. Phân cấp về kiểm tra, thanh tra đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức

Ở CHDCND Lào, việc ĐTBD CBCC do Học viện Chính trị và Hành

chính quốc gia Lào và các trường chính trị và hành chính tỉnh thực hiện. Do

vậy, công tác ĐTBD CBCC chịu sự kiểm tra, thanh tra như sau:

Ở trung ương, công tác ĐTBD CBCC của Học viện Chính trị và Hành

chính quốc gia Lào chịu sự kiểm tra của Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng

109

Nhân dân Cách mạng Lào, sự thanh tra của Thanh tra Chính phủ và Thanh tra

chuyên ngành của Bộ Giáo dục và Thể thao.

Ở cấp tỉnh, công tác ĐTBD CBCC do trường chính trị và hành chính tỉnh

thực hiện, chịu sự thanh tra tỉnh và thanh tra chuyên ngành của Học viện Chính

trị và Hành chính quốc gia Lào.Bên cạnh đó, các trường chính trị và hành chính

tỉnhchịu sự kiểm toán nhà nước và kiểm tra của Ủy ban Kiểm tra tỉnh ủy.

3.3. Đánh giá phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào

3.3.1.Ưu điểm

3.3.1.1. Về phân cấp quản lý các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ, công chức

Một là, các chương trình ĐTBD CBCC được quản lý thống nhất.

Ở CHDCND Lào, chương trình ĐTBD CBCC không đa dạng và phong

phú, số lượng chương trình ít. Chính vì thế các chương trình ĐTBD CBCC

không có sự phân cấp quản lý, mà tập trung quản lý thống nhất một đầu mối

là Bộ Giáo dục và Thể thao. Bộ Giáo dục và Thể thao là cơ quan quản lý nhà

nước về giáo dục và đào tạo; Bộ Nội vụ là cơ quan quản lý nhà nước về đội

ngũ CBCC, về ĐTBD CBCC. Tuy nhiên, Bộ Giáo dục và Thể thao mới là cơ

quan quản lý nhà nước về chương trình ĐTBD CBCC.

Hai là, các chương trình ĐTBD CBCC được thực hiện đồng bộ.

Chính vì số lượng chương trình ĐTBD CBCC ít, không có sự phân cấp

nên việc quản lý chương trình ĐTBD CBCC có ưu điểm là tập trung, tạo sự

thống nhất trong ban hành, thực thi. Khi có sự thay thế, sửa đổi cũng đảm bảo

tính nhất quán, không gây sự sáo trộn trong công tác ĐTBD CBCC ở các cơ

sở ĐTBD CBCC trên toàn quốc.

3.3.1.2. Về phân cấp quản lý cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

Một là, các cơ sở ĐTBD CBCC được phân định rõ ràng về chức năng,

nhiệm vụ.

110

Ở CHDCND Lào, hệ thống cơ sở ĐTBD CBCC chỉ có Học viện Chính

trị và Hành chính quốc gia Lào ở trung ương và 18 trường chính trị và hành

chính ở 18 tỉnh, thành phố.

Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào là cơ sở ĐTBD CBCC

trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào, trực

tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Trường chính trị và hành chính của tỉnh là cơ

sở ĐTBD CBCC trực thuộc tỉnh uỷ. Như vậy, các cơ sở ĐTBD CBCC của

CHDCND Lào có sự phân cấp.

Do số lượng các cơ sở ĐTBD CBCC hạn chế, không đa dạng nên việc

phân định chức năng, nhiệm vụ rất rõ ràng, không bị chồng chéo, lấn sân

trong hoạt động ĐTBD CBCC. Sự phân công, phân cấp trong quản lý các yếu

tố cấu thành cơ sở ĐTBD CBCC được chuyên môn hoá, trao quyền cho các

cơ quan cấp dưới nhiều hơn, tạo sự chủ động cho các cơ sởĐTBD CBCC

trong hoạt động.

Hai là, sự phân cấp quản lý các cơ sở ĐTBD CBCC đã phát huy hiệu

lực, hiệu quả quản lý.

Phân cấp quản lý các cơ sở ĐTBD CBCC đã giải phóng khối lượng

công việc cho cơ quan trung ương, đồng thời tạo sự chủ động cho cơ quan địa

phương trong việc quản lý, điều hành các trường chính trị và hành chính.

Chính vì thế mà hiệu quả, hiệu lực quản lý được tăng cường.

Ba là, sự phân cấp quản lý các cơ sở ĐTBD CBCC đã tạo sự chủ động

trong hoạt động của các cơ sở ĐTBD CBCC

Do phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của Học viện Chính trị và

Hành chính quốc gia Lào ở trung ương và các trường chính trị và hành chính

cấp tỉnh nên các trường rất chủ động trong hoạt động. Học việnChính trị và

Hành chính quốc gia Lào được ĐTBD CBCC chương trình gì, đối tượng nào;

trường chính trị và hành chính cấp tỉnhđược ĐTBD CBCC chương trình gì,

đối tượng nào rất tường minh, không sấn lân nhau.

111

Sự phân cấp quản lý đã chú ý đến đặc thù của từng loại yếu tố cấu

thành cơ sở ĐTBD CBCC như nhân sự, tài chính, bộ máy... để có phân cấp

hợp lý nhằm mang lại chủ động trong hoạt động.

3.3.1.3. Về phân cấp quản lý đội ngũ giảng viên đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ, công chức

Sự phân cấp quản lý đội ngũ giảng viên ĐTBD CBCC đã mang lại một

số ưu điểm sau:

Thứ nhất, chủ động xây dựng quy hoạch phát triển đội ngũ giảng viên

của các trường chính trị và hành chính cấp tỉnh.

Các địa phương có sự rà soát về nguồn nhân lực giảng viên, điều chỉnh

quy hoạch, kế hoạch ĐTBD và bố trí sắp xếp đội ngũ giảng viên của các

Trường chính trị và hành chính cấp tỉnh theo quy định và phù hợp với tình

hình thực tế của mỗi địa phương. Ban Tổ chức Tỉnh ủy và Sở Nội vụ phối hợp

rà soát, điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch ĐTBD và bố trí sắp xếp đội ngũ giảng

viên theo quy định và phù hợp với tình hình thực tế của mỗi địa phương.

Thứ hai, dễ dàng thực hiện các chính sách đối với giảng viên.

Thực hiện đầy đủ, kịp thời các chế độ chính sách đối với giảng viên của

Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào và các trường chính trị và

hành chính tỉnh, đặc biệt là giảng viên công tác tại một số tỉnh có điều kiện

kinh tế - xã hội khó khăn.

Thực hiện sự phân cấp quản lý đội ngũ giảng viên đã tạo điều kiện cho

một số tỉnh tham mưu thực hiện chếđộ thu hút đối với sinh viên, giảng viên

giỏi về công tác tại địa phương và nhiều chế độ đãi ngộ khác đối với giảng

viên trường chính trị và hành chính tỉnh.

Thứ ba, có điều kiện để chăm lo nâng cao trình độ, chuẩn hóa đội ngũ

giảng viên.

Do phân cấp quản lý đội ngũ giảng viên, nên các địa phương có điều

kiện hơn để chăm lo nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên trường chính trị và

112

hành chính của tỉnh. Nhiều trường đã cử giảng viên tham dự đầy đủ các hội

nghị tập huấn do Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào tổ chức: tập

huấn về chuyên môn nghiệp vụ, cử sang Việt Nam học tập. Tham gia tập

huấn và triển khai có hiệu quả chương trình bồi dưỡng các cấp học theo yêu

cầu của Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào.

Thứ tư, chú trọng, quan tâm phát triển nguồn nhân lực tại chỗ.

Do được chủ động trong tuyển dụng, quản lý giảng viên của trường

chính trị và hành chính tỉnh, nhiều tỉnh đã ưu tiên phát triển đội ngũ giảng

viên là người địa phương, người dân tộc thiểu số. Một số tỉnh đã quan tâm

tuyển dụng, ĐTBD giảng viên, bổ nhiệmcán bộ quản lý là người dân tộc thiểu

số. Đây là một điểm thuận lợi cho sự phát triển ĐTBD CBCC vùng dân tộc

thiểu số miền núi và cũng là một trong những nội dung của hoạt động quản lý

nhà nước. Bởi vì giảng viên là người dân tộc thiểu số có những thế mạnh đó

là: Thông thạo ngôn ngữ dân tộc, am hiểu văn hóa, phong tục tập quán đồng

bào, có sự ổn định về mặt cư trú, sinh hoạt, công tác trên địa bàn, dễ gần với

đồng bào để trao đổi, giảng dạy,…

3.3.1.4. Về phân cấp quản lý ngân sách cho đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức

Có thể thấy, ngân sách dành cho ĐTBD CBCC ngày càng tăng lên, thể

hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước Lào đối với CBCC nói chung, với

công tác ĐTBD nói riêng.Phân cấp quản lý về tài chính cho ĐTBD CBCC đạt

được những kết quả:

Thứ nhất, NSNN đầu tư cho ĐTBD CBCC đã thực sự được ưu tiên

đúng với quan điểm giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu trong cả chi

đầu tư phát triển và chi thường xuyên của NSNN nên đã tạo điều kiện cho

ĐTBD CBCC có nhiều nguồn lực hơn để phát triển.

Thứ hai, phân cấp quản lý NSNN cho ĐTBD CBCC được đổi mới theo

hướng tăng cường nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các địa phương.

113

Sự đổi mới đó đã tạo điều kiện và động lực khuyến khích các địa phương

phân bổ và sử dụng nguồn NSNN kết hợp chặt chẽ với khả năng huy động các

nguồn tài chính ngoài ngân sách đầu tư cho ĐTBD CBCC phù hợp với điều

kiện cụ thể của từng địa phương, nâng cao hiệu quả tạo lập sử dụng các nguồn

tài chính đầu tư cho ĐTBD CBCC.

Thứ ba, quy trình lập dự toán và phê duyệt kế hoạch phân bổ ngân sách

cho ĐTBD CBCC tổng thể tương đối tốt, được thực hiện theo đúng hướng

dẫn của Bộ Tài chính và đảm bảo tuân thủ các quy định của Luật ngân sách.

Điều này tạo ra sự chặt chẽ, đảm bảo tính pháp lý của kế hoạch phân bổ ngân

sách. Bên cạnh đó, nó còn tạo ra mối liên hệ chặt chẽ giữa các cấp quản lý

ngân sách, tạo ra mối liên hệ thường xuyên, có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ

đối với việc sử dụng NSNN.

Phân bổ dự toán NSNN chi thường xuyên về ĐTBD CBCC cho các

tỉnh, thủ đô có được định mức rõ ràng, công khai, minh bạch, ổn định trong

thời kỳ ổn định NSNN nên tạo động lực thúc đẩy các địa phương tự chủ khai

thác, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực.

Thứ tư, việc chuyển từ hình thức cấp phát bằng hạn mức kinh phí sang

phương thức rút dự toán ngân sách tại Kho bạc Nhà nước đã giảm đỡ các thủ

tục giấy tờ, như: thông báo, đối chiếu hạn mức kinh phí hàng quý của cơ quan

tài chính và của đơn vị dự toán cấp trên với Kho bạc và đơn vị trực tiếp sử

dụng ngân sách.

Thứ năm, về cơ chế quyết toán NSNN. Việc quy định cơ quan tài chính

xét duyệt quyết toán của cơ quan sử dụng ngân sách cùng cấp có mặt tích cực

là tạo điều kiện tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan tài chính và cơ quan sử

dụng ngân sách trong giám sát việc chấp hành chế độ chính sách chi tiêu ngân

sách, đảm bảo việc chi tiêu đúng chế độ quy định.

Thứ sáu, ưu tiên chi NSNN theo nhiệm vụ và theo vùng phù hợp với

điều kiện kinh tế xã hội và mục tiêu ĐTBD CBCC của CHDCND Lào hiện

114

nay. Vì vậy, cơ chế ưu tiên chi NSNN cho ĐTBD CBCC đã góp phần quan

trọng vào thực hiện nhiệm vụ chính trị, giảm khoảng cách năng lực thực thi

công vụ của CBCC các địa phương.

3.3.1.5. Về phân cấp quản lý văn bằng, chứng chỉ

Ở CHDCND Lào, quản lý văn bằng, chứng chỉ ĐTBD CBCC không có

sự phân cấp, mà do Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào thống

nhất quản lý. Điều này có ưu điểm đảm bảo tính tập trung trong quản lý và

cấp phát văn bằng, chứng chỉ ĐTBD CBCC, đồng thời tạo sự thuận lợi cho

việc tra cứu, thẩm tra trong tương lai.

3.3.1.6. Về phân cấp kiểm tra, thanh tra đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức

Kiểm tra, thanh tra ĐTBD CBCC trong những năm qua ở CHDCND

Lào ít xảy ra, chủ yếu là hoạt động kiểm toán tài chính định kỳ. Ở cấp trung

ương, Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào trong 5 năm qua chưa

có đoàn kiểm tra, thanh tra của Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng NDCMD

Lào và Thanh tra Chính phủ nào vào làm việc do có sự sai phạm hoặc đơn thư

khiếu nại, tố cáo.

Ở cấp tỉnh, trong 5 năm qua có một số cuộc làm việc của Ủy ban Kiểm

tra tỉnh ủy về trường chính trị và hành chính tỉnh làm việc do đơn thư, khiếu

nại liên quan đến công tác cán bộ và tài chính. Tuy nhiên, đó là những sai

phạm ít nghiêm trọng, một số cuộc kiểm tra, thanh tra sau khi kết thúc mới

chỉ có mức kỷ luật khiển trách.

3.3.2. Hạn chế và nguyên nhân

3.3.2.1. Về phân cấp quản lý các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ. công chức

Một là, việc tập trung quản lý các chương trình ĐTBD CBCC ở một cơ

quan sẽ gây nên tình trạng “độc quyền”, bảo thủ.

115

Ở CHDCND Lào, hiện không có sự phân cấp quản lý các chương trình

ĐTBD CBCC, tất cả các chương trình do Bộ Giáo dục và Thể thao ban hành,

việc xây dựng chương trình do Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia

Lào tiến hành. Việc không phân cấp quản lýchương trình ĐTBD CBCCxuất

phát từ nguyên nhân do không có nhiều chương trình. Chính vì thế việc phân

cấp quản lý là không cần thiết. Điều đó tạo nên tính tập trung, đồng bộ của

các chương trình ĐTBD CCC. Tuy nhiên, nó có nhược điểm là không tạo tính

chủ động cho các cơ quan trong việc xây dựng chương trình. Việc sửa đổi,

thay thế chương trình luôn bị chậm, thiếu sự phù hợp với các địa phương, đối

tượng khác nhau.

Hai là, các chương trình ĐTBD CBCC chưa thực sự đáp ứng được yêu

cầuĐTBD CBCC.

Các chương trình ĐTBD CBCC hiện hành vẫn còn nặng về tính lý

thuyết, chưa thực sự sát hợp với nhiều loại đối tượng khác nhau, chưa sâu sát

với đối tượng ở địa phương, cơ sở. Cơ quan QLNN về CBCC là Bộ Nội vụ

nhưng lại không tham gia quản lý chương trình ĐTBD CBCC. Bộ Nội vụ

quản lý CBCC, sẽ biết được CBCC thiếu những kiến thức, kỹ năng gì, cần

những kiến thức, kỹ năng gì nhưng không được tham gia quản lý chương

trình, không được tham gia xây dựng chương trình. Chính vì thế mà các

chương trình ĐTBD CBCC chưa thực sự sát hợp. Trong khi Bộ Giáo dục và

Thể thao là cơ quan quản lý chương trình nhưng lại không tham gia quản lý

CBCC, không tham gia vào quá trình xây dựng chương trình ĐTBD CBCC.

3.3.2.2. Về phân cấp quản lý các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

Một là, sự phân cấp quản lý các cơ sở ĐTBD CBCC ở CHDCND Lào

mang dấu ấn của sự phân công nhiệm vụ giữa các cơ quan có liên quan đến

hoạt động ĐTBD CBCC hơn là sự phân cấp. Sự phân cấp quản lý chưa thực

sự rõ nét. Ví dụ: quản lý chương trình là Bộ Giáo dục và Thể thao, trong khi

quản lý văn bằng chứng chỉ là Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia

116

Lào... Cơ quan ở địa phương không có thẩm quyền quản lý chương trình và

văn bằng, chứng chỉ.

Hai là, trao quyền, phân cấp quản lý đối với các cơ sở ĐTBD CBCC

không nhất quán theo chức năng, nhiệm vụ của cơ quan. Ví dụ, quản lý tổ

chức bộ máy của các trường chính trị và hành chính tỉnh, thủ đô là Học viện

Chính trị và Hành chính quốc gia Lào, trong khi quản lý tổ chức bộ máy của

Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào là Bộ Chính trị. Như vậy,

quản lý tổ chức bộ máy phân cấp từ cơ quan của Đảng (Bộ Chính trị) sang cơ

sở ĐTBD CBCC (Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào).

Một số tồn tại trong vấn đề phân cấp quản lý các cơ sở ĐTBD CBCC ở

CHDCND Lào xuất phát từ nhiều nguyên nhân như yếu tố truyền thống, thể

chế chính trị... nhưng điều quan trọng là ở ở CHDCND Lào không có nhiều

cơ sở ĐTBD CBCC, không đa dạng về chương trình ĐTBD CBCC, khối

lượng công việc cũng mức độ nên sự phân cấp quản lý là chưa bức thiết, chủ

yếu là phân công nhiệm vụ giữa các cơ quan.

3.3.2.3. Về phân cấp quản lý đội ngũ giảng viên đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ, công chức

Cơ quan quản lý đội ngũ giảng viên chưa thực sự được trao quyền chủ

động trong tác nhân sự, nhất là cơ quan quản lý ở địa phương. Ở trung ương,

cơ quan quản lý giảng viên là Ban Tổ chức Trung ương, nhưng việc tuyển

dụng, sử dụng giảng viên được trao quyền cho Học viện Chính trị và Hành

chính quốc gia Lào. Trong khi đó, trường chính trị và hành chính tỉnh là đơn

vị sử dụng giảng viên nhưng không được tham gia vào quy trình tuyển dụng

giảng viên của nhà trường, các trường Trường chính trị và hành chính tỉnh

hầu như không tham gia vào khâu tuyển dụng giảng viên, mà do Tỉnh uỷ

tuyển dụng và phân công về trường. Điều này gây khó khăn cho việc lựa chọn

và sử dụng giảng viên của nhà trường.

Chất lượng đội ngũ giảng viên của các trường chính trị và hành chính

tỉnh còn hạn chế. Đội ngũ giảng viên của các trường còn yếu về chuyên môn,

117

năng lực giảng dạy: Chưa được chuẩn hóa so với yêu cầu; trình độ chuyên

môn, lý luận chính trị, trình độ pháp luật, kỹ năng quản lý nhà nước còn hạn

chế. Hơn nữa, nhiều người còn hạn chế về chuyên môn, khả năng sự phạm, ít

hiểu biết về thực tiễn công tác của CBCC.

Như vậy, có thể thấy rằng, Bộ Nội vụ và Sở Nội vụ các tỉnh là cơ quan

quản lý nhà nước về CBCC, viên chức nhưng các cơ quan này hầu như không

tham gia quản lý đội ngũ giảng viên của Học viện Chính trị và Hành chính

quốc gia Lào và các Trường chính trị và hành chính cấp tỉnh.

Phân cấp quản lý giảng viên ở các Trường chính trị và hành chính cấp

tỉnh như trên là do một số nguyên nhân:

Một là, do lãnh đạo cấp tỉnh chưa nhận thức đầy đủ về vấn đề phân cấp

quản lý CBCC nên các hoạt động quản lý CBCC (bao gồm tuyển dụng, sử

dụng, bố trí, luân chuyển, bổ nhiệm, thăng hạng, hưu trí...) được tập trung về

tỉnh uỷ mà không phân cấp cho các cơ quan.

Hai là, công tác ĐTBD đối với giảng viên chưa được quan tâm nên

chưa có các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên của

Trường chính trị và hành chính cấp tỉnh.

Ba là, nguồn kinh phí của các địa phương còn hạn chế nên không đủ

điều kiện để thực hiện các biện pháp phân công, phân cấp quản lý đội ngũ

giảng viên của các Trường chính trị và hành chính cấp tỉnh.

3.3.2.4. Về phân cấp quản lý ngân sách tài chính cho hoạt động đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

Thứ nhất, chi NSNN cho ĐTBD CBCC chưa có sự gắn kết chặt chẽ với

thực hiện các mục tiêu cải cách hành chính nên lựa chọn ưu tiên phân bổ và

sử dụng NSNN chi cho ĐTBD CBCC hiệu quả chưa cao. Nguyên nhân của

hạn chế này là do dự toán chi NSNN cho ĐTBD CBCC mới chỉ xây dựng cho

từng năm, chưa xây dựng được kế hoạch ngân sách trung hạn của ĐTBD

CBCC trong khi kế hoạch phát triển cán bộ trong thời kỳ 5 năm nên có sự

118

tách rời giữa lập kế hoạch ngân sách hàng năm với kế hoạch phát triển, chưa

dự toán đấy đủ các nguồn ngoài NSNN có thể huy động vào ĐTBD CBCC

trong điều kiện thực hiện cải cách hành chính. Vì vậy, ưu tiên phân bổ và sử

dụng NSNN chi cho ĐTBD CBCC còn mang tính ngắn hạn, tính trung hạn và

dài hạn còn hạn chế. Cũng do đó, chi cho ĐTBD CBCC còn dàn trải, nhiều

mục tiêu ưu tiên được đặt ra nhưng không đủ ngân sách để thực hiện, gây lãng

phí và sử dụng kém hiệu quả các nguồn tài chính đầu tư cho ĐTBD CBCC.

Thứ hai, cơ chế phân cấp quản lý NSNN cho ĐTBD CBCC các tỉnh,

thủ đô không thống nhất, nên nhiều cơ quan quản lý cán bộ địa phương không

tổng hợp được ngân sách ĐTBD CBCC trên địa bàn. Hầu hết các cơ sở

ĐTBD CBCC các địa phương chỉ được thông báo kinh phí chi sự nghiệp mà

không được thông báo kinh phí chi đầu tư xây dựng cơ bản cho ĐTBD CBCC

địa phương. Điều này gây khó khăn cho các cơ sở ĐTBD CBCC trong việc

theo dõi tình hình sử dụng ngân sách trên địa bàn và tổng hợp báo cáo.

Thứ ba, phân bổ dự toán chi NSNN cho ĐTBD CBCC chưa đáp ứng

được yêu cầu thực hiện công bằng với các lĩnh vực khác, chưa tạo ra động lực

mạnh mẽ phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các địa phương và

từng cơ sở ĐTBD CBCC. Nguyên nhân của hạn chế này chính là những bất

cập của hệ thống định mức phân bổ dự toán chi NSNN cho ĐTBD CBCC.

Phân bổ dự toán chi NSNN chi thường xuyên ĐTBD CBCC cho các

tỉnh, thủ đô theo số lượng CBCC không có tác dụng tạo động lực cho người

học. Bởi vì, các địa phương có tỷ lệ CBCC khác nhau. Hệ số định mức phân

bổ dự toán NSNN chi thường xuyên ĐTBD CBCC ưu tiên theo vùng còn sự

chênh lệch khá lớn giữa các địa phương.

Phân bổ dự toán NSNN chi đầu tư ĐTBD CBCC cho các địa phương

chưa có định mức cụ thể nên chưa phát huy được quyền tự chủ, tự chịu trách

nhiệm của các địa phương trong lựa chọn ưu tiên phân bổ và sử dụng nguồn

119

NSNN kết hợp với các nguồn tài chính ngoài NSNN để đầu tư chuẩn hóa các

trang thiết bị và cơ sở vật chất trong hoạt động ĐTBD CBCC.

Thứ tư, công tác tổ chức chấp hành NSNN còn bất cập.

Quy trình phân bổ và cấp phát ngân sách ĐTBD CBCC còn rất nhiều

thủ tục, luân chuyển qua nhiều công đoạn, quá nhiều cấp quản lý, qua nhiều

khâu kiểm tra giám sát, nhiều công việc còn bị trùng lặp… đã ảnh hưởng đến

sự phân bổ ngân sách và tính kịp thời trong việc sử dụng kinh phí ở cơ sở

ĐTBD CBCC. Quy trình này cũng hạn chế tính chủ động trong sử dụng kinh

phí ngân sách đồng thời không phát huy được tính tự chịu trách nhiệm trong

quyết định chi tiêu của cơ sở ĐTBD CBCC trong sử dụng NSNN.

Theo Luật NSNN thì ngân sách cho ĐTBD CBCC ở địa phương do cấp

tỉnh, thủ đô đảm nhiệm chi, do đó sở ĐTBD CBCC không được chủ động

điều hành toàn bộ ngân sách cho phù hợp với tiến độ các công việc của ngành

trên địa bàn tỉnh, thủ đô.

Đối với việc chuyển hình thức cấp phát bằng hạn mức kinh phí sang

phương thức rút dự toán ngân sách tại Kho bạc Nhà nước thì hiện nay, ở

nhiều Kho bạc, do chưa bố trí đủ lực lượng phục vụ, cán bộ trực tiếp chưa

nắm vững các chế độ, chính sách có liên quan nên khâu thanh toán rất chậm

trễ, đơn vị phải đi lại nhiều lần, sao chụp cung cấp tài liệu gây lãng phí. Hiệu

quả công việc kiểm soát chi của Kho bạc Nhà nước còn khá hạn chế, ảnh

hưởng không nhỏ đến việc quyết toán và xét duyệt quyết toán của cơ quan tài

chính, cơ quan chủ quản cấp trên. Nhiều chế độ, mức chi ngân sách chưa có

quy định hoặc qua bất hợp lý, chưa được bổ sung, sửa đổi nên gây khó khăn

cho đơn vị, cho Kho bạc Nhà nước khi tìm kiếm căn cứ chi tiêu và kiểm soát.

Về hồ sơ, thủ tục rút dự toán tại Kho bạc Nhà nước: trong khi giao

quyết định giao dự toán NSNN đã chi tiết đến từng nhóm, mục (chia ra từng

quý), không ít Kho bạc Nhà nước tỉnh vẫn đòi hỏi các đơn vị phải lập dự toán

năm chi tiết đến từng khoản mục, tiểu mục (gửi cơ quan tài chính, chủ quan

120

cấp trên duyệt) và còn buộc các đơn vị phải rút dự toán trong năm theo đúng

mục đã dự toán đó. Một số Kho bạc yêu cầu sử dụng giấy rút tên dự toán theo

mẫu in sẵn, chưa chấp nhận giấy rút dự toán do đơn vị cấp trên lập.

Thứ năm, cơ chế quyết toán và thực hiện NSNN chưa phù hợp.

Việc quy định cơ quan tài chính phải duyệt quyết toán của đơn vị sử

dụng ngân sách là không phù hợp với khả năng của cơ quan tài chính. Vì vậy

theo quy định sau 1 tháng nhận báo cáo quyết toán của đơn vị sử dụng ngân

sách, cơ quan tài chính phải ra thông báo duyệt quyết toán của đơn vị. Nhưng

với số lượng các đơn vị sử dụng ngân sách rất lớn, thời gian duyệt quyết toán

bị hạn chế, dẫn đên kết quả là chất lượng công tác duyệt quyết toán không

được đảm bảo, công việc này trở nên hình thức. Hơn nữa, do quy định như

vậy nên dẫn đến việc cơ quan tài chính trở thành một bên cùng chịu trách

nhiệm trong chi tiêu tại đơn vị, dẫn tới ý thức tự chịu trách nhiệm trong chi

tiêu đơn vị chưa cao. Việc quyết toán kinh phí đã sử dụng chưa gắn kết với

kết quả thực hiện những mục tiêu của công việc đã được vạch ra và bố trí

kinh phí để thực hiện.

Do các địa phương tự phân bổ và cấp kinh phí cho các dự án nên sự chỉ

đạo của các cơ quan quản lý chương trình ở trung ương chưa phát huy được

hiệu lực. Việc chấp hành chế độ báo cáo của các địa phương đối với cơ quan

chủ quản không nghiêm nên rất khó tổng hợp, đánh giá việc thực hiện nhiệm

vụ của từng địa phương. Mặt khác, kinh phí được giao tổng chỉ tiêu cả năm

cho tất cả các nhiệm vụ trên địa bàn tỉnh, thủ đô nên việc phân bổ cho các

ngành ở địa phương để triển khai thực hiện rất chậm, không đảm bảo tiến độ

hoàn thành các nhiệm vụ đã đề ra. Việc phân bổ kinh phí tại các địa phương

còn phân tán, dàn trải, thiếu tập trung, dẫn đến tình trạng nhiều công việc dở

dang, không hoàn thành đúng tiến độ.

Những hạn chế trên là do các quy định của pháp luật về NSNN đối với

các hoạt động ĐTBD CBCC chưa được hoàn thiện nên cơ sở pháp lý về phân

121

công, phân cấp tài chính chưa đầy đủ, đồng bộ. Mặt khác do năng lực của

công chức lập dự toán NSNN, quản lý tài chính còn hạn chế nên ảnh hưởng

không nhỏ đến chất lượng các kế hoạch, dự toán hằng năm và quá trình triển

khai các kế hoạch, dự toán này.

3.3.2.5. Về phân cấp quản lý văn bằng, chứng chỉ

Do tập trung quản lý nên việc cấp phát văn bằng, chứng chỉ đôi khi

chưa kịp thời, còn chậm trễ. Một hạn chế khác, đó là Học viện Chính trị và

Hành chính quốc gia Lào là đơn vị sự nghiệp nhưng thực hiện chức năng quản

lý đối với văn bằng, chứng chỉ nên đôi khi hiệu lực, hiệu quả không cao. Tình

trạng đó là do thể chế chính trị của CHDCND Lào.

3.3.2.6. Về phân cấp kiểm tra, thanh tra đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức

Việc phân cấp kiểm tra, thanh tra ĐTBD CBCC cũng chưa thực sự phù

hợp, bởi Bộ Giáo dục và Thể thao không phải là cơ quan chuyên môn, trong

khi Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào lại không phải là cơ quan

quản lý nhà nước. Do vậy, công tác kiểm tra, thanh tra của 2 cơ quan này

chưa thực sự hiệu quả.

Kiểm tra, thanh tra ĐTBD CBCC đôi khi chưa chủ động, còn bị động

và phụ thuộc vào đơn thư, khiếu nại tố cáo nên kết quả kiểm tra, thanh tra

ĐTBD CBCC thời gian qua chưa phản ánh đúng tình hình.

122

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

Việc phân cấp quản lý ĐTBD CBCC là một bộ phận nằm trong chương

trình cảicách hành chính. Phân cấp quản lý ĐTBD CBCC chỉ có tác dụng

thực sự khi trao quyền quyết định cho địa phương, cho các trường. Sẽ khó tìm

thấy sự phân cấp quản lý ĐTBD CBCC thống nhất cho các địa phương, vì

mỗi địa phương đều có những điều kiện cụ thể khác nhau. Điều quan trọng là

cần tìm cho ra những điểm chung để quy định và tùy thuộc vào đặc điểm

riêng mà có những hướng dẫn cụ thể cho từng địa phương.Phân cấp QLNN

vừa là nội dung vừa là phương thức để thực hiện công tác QLNN thuộc các

ngành, lĩnh vực quản lý trong đó có phân cấp quản lý ĐTBD CBCC.

Trong chương này, luận án đã hoàn thành được nhiệm vụ:

Một là, khái quát các vấn đề cơ bản về ĐTBD CBCC ở CHDCND Lào;

giới thiệu các cơ quan quản lý ĐTBD CBCC ở trung ương và địa phương của

CHDCND Lào; phân tích các nội dung liên quan đến ĐTBD CBCC của

CHDCND Lào.

Hai là, đánh giá tình hình phân cấp quản lý ĐTBD CBCC ở CHDCND

Lào trên các mặt: nội dung phân cấp quản lý chương trình ĐTBD CBCC;

phân cấp quản lý cơ sở ĐTBD CBCC; phân cấp quản lý đội ngũ giảng viên;

phân cấp quản lý ngân sách ĐTBD CBCC, phân cấp quản lý văn bằng chứng

chỉ, phân cấp kiểm tra, thanh tra ĐTBD CBCC. Trên cơ sở đó, có những nhận

định về ưu điểm, hạn chế của phân cấp quản lý trongĐTBD CBCC ở

CHDCND Lào hiện nay.

Ba là, đối với hoạt động ĐTBD CBCC có những tính chất và đặc thù so

với các hoạt động giáo dục và đào tạo, để đạt được kết quả trong phân cấp

quản lý ĐTBD CBCC đòi hỏi các cơ quan quản lý phải cố gắng làm hết trách

nhiệm, đúng thẩm quyền, tuân thủ pháp luật, vượt qua những khó khăn, thách

thức để đạt được chất lượng CBCC trong thời kỳ đổi mới và hội nhập.

123

Chương 4

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH PHÂN CẤP QUẢN

LÝ TRONG ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC Ở

CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

4.1. Phương hướng đẩy mạnh phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức

4.1.1. Phương hướng phân cấp quản lý của Đảng Nhân dân cách

mạng Lào và của Nhà nước cộng hòa dân chủ nhân dân Lào

Quán triệt các quan điểm, chủ trương của Đảng về phân cấp quản lý,

CHDCND Lào đã có những giải pháp tích cực, cụ thể trong việc thực hiện

phân cấp QLNN giữa cấp trung ương và địa phương.

Việc sửa đổi luật và ban hành các nghị định về các lĩnh vực kinh tế - xã

hội đã thể hiện quyết tâm phân cấp nhiều hơn, rõ hơn các nhiệm vụ, thẩm

quyền từ Chính phủ, các bộ, ngành cho chính quyền địa phương và giữa các

cấp chính quyền địa phương trên các lĩnh vực. Quá trình thực hiện phân cấp

đã tạo dần các yếu tố, chuẩn bị cho việc phân cấp mạnh mẽ và đồng bộ cho

chính quyền địa phương trong tình hình mới.

Để tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, đáp ứng yêu cầu phát triển

kinh tế - xã hội của đất nước hiện nay, Chính phủ đã ra Nghị quyết số 19/CP

ngày 2/6/2015 về tiếp tục đẩy mạnh phân cấp QLNN giữa Chính phủ với

chính quyền tỉnh, thủ đô đã xác định mục tiêu như sau: Tiếp tục đẩy mạnh

phân cấp QLNN giữa Chính phủ và chính quyền địa phương cấp tỉnh, giữa

chính quyền địa phương các cấp nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo,

quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương trên cơ sở

phân định rõ, cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mỗi cấp trong bộ

máy chính quyền nhà nước, bảo đảm sự quản lý tập trung, thống nhất và

thông suốt của Chính phủ, tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính để nâng

124

cao hiệu lực, hiệu quả QLNN phục vụ tốt hơn nhu cầu và lợi ích của nhân dân

thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ở từng địa phương trong điều kiện chuyển

sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Quán triệt quan điểm quyền lực nhà nước là thống nhất, bảo đảm quản

lý thống nhất của Chính phủ về thể chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch,

thanh tra, kiểm tra; đồng thời phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của

chính quyền cấp tỉnh trong việc thực hiện các nhiệm vụ QLNN trên địa bàn

theo quy định của pháp luật.

- Tuân thủ nguyên tắc kết hợp chặt chẽ giữa quản lý theo ngành với

quản lý theo lãnh thổ, phân định rõ những nhiệm vụ QLNN của bộ, ngành với

nhiệm vụ QLNN của chính quyền cấp tỉnh đối với hoạt động kinh tế - xã hội

trên địa bàn lãnh thổ.

- Bảo đảm nguyên tắc hiệu quả, việc nào, cấp nào sát thực tế hơn giải

quyết kịp thời và phục vụ tốt hơn các yêu cầu của tổ chức và nhân dân thì

giao cho cấp đó thực hiện; phân cấp phải rõ việc, rõ địa chỉ, rõ trách nhiệm,

gắn với chức năng, nhiệm vụ của mỗi cấp.

- Phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai

đoạn, đặc thù của ngành, lĩnh vực, điều kiện và khả năng phát triển của từng

khu vực, vùng lãnh thổ, với từng loại hình đô thị, nông thôn, với xu thế hội

nhập khu vực và quốc tế.

- Phải đảm bảo tương ứng giữa nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm với

nguồn lực tài chính, tổ chức, nhân sự và các điều kiện cần thiết khắc; phải

đồng bộ, ăn khớp giữa các ngành, lĩnh vực có liên quan.

- Bảo đảm quyền và thực hiện đầy đủ trách nhiệm của HĐND, UBND

và Chủ tịch UBND tỉnh trong việc quyết định, thực hiện các nhiệm vụ được

phân cấp; chấp hành nghiêm kỷ luật, kỷ cương hành chính; đồng thời phát

huy dân chủ rộng rãi để nhân dân tham gia quản lý nhà nước.

- Phân cấp phải thể hiện sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống thể chế,

125

văn bản quy phạm pháp luật gắn với đổi mới cơ chế và đảm bảo quyền tự chủ,

tự chịu trách nhiệm của các đơn vị cơ sở.

- Đối với những vấn đề đã phân cấp, chính quyền cấp tỉnh chịu trách

nhiệm tổ chức triển khai thực hiện; các bộ, ngành Trung ương có trách nhiệm

theo dõi, hướng dẫn kiểm tra, nếu phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc trái với

quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực thì xử lý theo thẩm quyền

hoặc báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét.

Nghị định số 25/BTCTW, ngày 22/12/2014 của Ban Tổ chức Trung

ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào về định hướng, mục tiêu, các biện pháp

xây tỉnh thành khâu chiến lược, xây huyện thành khâu vững manh, xây bản

thành khâu phát triển:

- Cải cách xây dựng và nâng cao năng lực của Đảng bộ tỉnh, Đảng bộ

huyện và cở sở Đảng bản cho vững mạnh, trong sang và có khả năng chỉ đạo

cao hơn.

- Khôi phục hành chính dân chủ nhân dân ở địa phương cho vững mạnh

trên cở sở thực hiện quyền lực cũng như vai trò nhiệm vụ hành chính và quản

lý hành chính bằng luật pháp; coi trọng quyền lực nhân dân là khâu then chốt,

đảm bảo quyền dân chủ và công bằng trong xã hội.

- Phát huy quyền lực nhân đân và đáp ứng yêu cầu lợi ích của nhân dân

bằng cách tạo mọi điều kiện cho sự sống và làm ăn theo chính sách Đảng và

pháp luật của Nhà nước; xây dựng tình đoàn kết và tập hợp lại đồng bào dân

tộc, các tầng lớp cho vững chắc.

- Phát triển địa phương - các vùng miền và nông thôn có sự chuyển đổi

theo hướng từng bước giảm bớt sự trênh lệch giữa sự phát triển và lợi nhuận;

thúc đẩy sản xuất hàng hóa và dịch vụ, tạo lợi nhuận cho hộ gia đình để giảm

nghèo tiến tới mục tiêu thiên niên kỷ mới, làm cho nhân dân có đời sống từng

bước đầy đủ về vật chất và tinh thần.

126

- Thực hiện đường lối quốc phòng - an ninh toàn diện, chủ động tăng

sức khả năng chiến đấu và vững mạnh bằng bản thân mình cho lực lượng địa

phương trong sự bảo đảm tính ổn định và trật tự xã hội ở các địa phương.

4.1.2. Định hướng phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức

Việc phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC không đơn giản là giao

nhiệm vụ cho cấp dưới mà còn là giao quyền hạn với tư cách là những điều

kiện tiên quyết để cấp dưới có thể thực thi, hoàn thành nhiệm vụ. Phân cấp

cũng không chỉ là giao nhiệm vụ và quyền hạn mà còn là chỉ rõ mục tiêu phải

đạt, quy định phạm vi trách nhiệm cho cấp dưới trong việc thực hiện nhiệm

vụ để đạt được các mục tiêu. Như vậy, phân cấp là việc chuyển giao nhiệm

vụ, thẩm quyền từ cơ quan QLNN cấp trên xuống cơ quan QLNN cấp dưới để

thực thi một số nhiệm vụ nhất định nhằm đạt mục tiêu đã đặt ra. Trong phạm

vi nhiệm vụ, thẩm quyền được phân cấp, mỗi cấp quản lý có quyền chủ động,

tự chủ và tự chịu trách nhiệm đối với việc sử dụng các nguồn lực nhằm đạt

các mục tiêu trong các công việc của mình.

Việc phân cấp trước hết được gắn liền với sự phân định chức năng,

nhiệm vụ giữa các cơ quan tham gia quản lý ĐTBD CBCC. Vấn đề đặt ra

hiện nay là điều chỉnh chức năng nhiệm vụ giữa các bộ phận cấu thành hệ

thống quản lý ĐTBD CBCC; Giữa cơ quan quản lý cấp trung ương với địa

phương và cơ sở ĐTBD CBCC như thế nào để đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của

xã hội và khắc phục những mặt còn yếu kém. Đây là vấn đề lớn, khó, cần

nghiêm túc nghiên cứu, thảo luận để từng bước tìm lời giải. Một trong những

khía cạnh quan trọng của việc phân định chức năng, nhiệm vụ đối với hệ

thống quản lý ĐTBD CBCC là sự phân cấp quản lý giữa Học viện Chính trị

và Hành chính Quốc gia Lào với các tỉnh; giữa Tỉnh ủy và UBND tỉnh.

Phân cấp quản cấp quản lý ĐTBD CBCC, thực chất là sự giao quyền

hạn QLNN về ĐTBD CBCC của trung ương với địa phương, phân cấp đồng

127

thời là sự giảm bớt quản lý trực tiếp của cấp trên và kéo theo phương thức để

thực hiện việc quản lý của cấp dưới. Phân cấp quản lý hoàn toàn không có

nghĩa là buông lỏng quản lý. Khi quyền quyết định được giao cho cấp dưới

không có nghĩa là cấp trên hết trách nhiệm, quyền hạn. Thay vì trước đây, cấp

trên phải trực tiếp quản lý nội dung công việc và nắm quyền ra quyết định thì

sau phân cấp, cấp trên nắm quyền giám sát, giữ vai trò định hướng cho hoạt

động.

Mục tiêu phân cấp trong quản lý ĐTBD CBCC nhằm phân định rõ

ràng, cụ thể nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi cấp trong hệ thống

quản lý ĐTBD CBCC, phát huy tính năng động, sáng tạo, quyền tự chủ, tự

chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương trên cơ sở đảm bảo sự thống

nhất trong ĐTBD CBCC.

Việc phân cấp cần tuân thủ theo một số nguyên tắc sau:

- Nguyên tắc tập trung dân chủ thể hiện việc quán triệt quyền lực tập

trung vào cơ quan quản lý nhà nước về ĐTBD CBCC cấp trung ương, đảm

bảo quản lý thống nhất về ĐTBD CBCC của Học viện Chính trị và Hành

chính Quốc gia Lào về thể chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kiểm tra

thanh tra, đồng thời phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của mỗi chính

quyền địa phương trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị là ĐTBD CBCC.

- Nguyên tắc kết hợp quản lý ngành và lãnh thổ, nguyên tắc này đòi

hỏi mọi hoạt động quản lý ĐTBD CBCC không thể tách rời sự chỉ đạo theo

ngành và lãnh thổ.

- Nguyên tắc phù hợp đòi hỏi phân cấp phải phù hợp với trình độ phát

triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn, với đặc thù của ĐTBD CBCC cũng

như phù hợp với chủ trương phân cấp của trung ương với địa phương.

- Nguyên tắc hiệu quả là nguyên tắc được quán triệt trong mọi nguyên

tắc phân cấp sao cho việc phân cấp phải đảm bảo tính hiệu quả. Theo nguyên

tắc này, việc nào, cấp nào thực hiện có hiệu quả hơn thì giao cho cấp đó. Phân

128

cấp phải rõ việc, rõ địa chỉ, rõ trách nhiệm, do đó, mỗi việc chỉ do một cấp

thực hiện, gắn với chức năng, nhiệm vụ của cấp đó.

Tuy nhiên, quy mô của việc chuyển giao này rất đa dạng, từ phân cấp

quản lý hành chính, quản lý nhân sự, quản lý chuyên môn đến quản lý tài

chính. Mặc dù về lý thuyết, phân cấp là đúng đắn và có nhiều lợi ích nhưng

trên thực tế, để thành công quá trình này lại phụ thuộc rất nhiều vào quan

điểm của các nhà quản lý, hệ thống chính trị, động lực cải cách cũng như phụ

thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, mối quan hệ trong ĐTBD CBCC.

4.2. Một số giải pháp đẩy mạnh phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức

4.2.1. Phân công lại thẩm quyền quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ, công chức

Do đặc thù thể chế chính trị, ở CHDCND Lào không chỉ có Nhà nước,

mà Đảng NDCM Lào cũng tham gia vào hoạt động ĐTBD CBCC. Do vậy,

cần có sự phân định hoạt động ĐTBD CBCC giữa Đảng và Nhà nước, giữa

trung ương và địa phương. Hiện nay ở CHDCND Lào có rất nhiều chủ thể

cùng tham gia công tác quản lý ĐTBD CBCC. Thực hiện phân cấp quản lý

trong ĐTBD CBCC thì cần thu gọn đầu mối, giảm số lượng chủ thể tham gia

quản lý trong ĐTBD CBCC.

Một là, phân định lại thẩm quyền quản lýgiữa cơ quan của Đảng

NDCM Lào và cơ quan của Nhà nước CHDCND Lào trong quản lý ĐTBD

CBCC. Theo đó, Đảng NDCM Lào sẽ thực hiện các công việc sau: Quy định

ĐTBD CBCC; Lãnh đạo việc xây dựng, thẩm định và ban hành nội dung

chương trình ĐTBD CBCC; Chỉ đạo việc tổ chức ĐTBD CBCC; Trực tiếp

quản lý cơ sở ĐTBD CBCC và đội ngũ giảng viên của các cơ sở ĐTBD

CBCC.

Nhà nước CHDCND Lào sẽ thực hiện các công việc sau: Xây dựng và

ban hành kế hoạch triển khai quy định ĐTBD CBCC; Tổ chức thực hiện

129

ĐTBD CBCC; Cấp kinh phí cho hoạt động ĐTBD CBCC và hoạt động của

các cơ sở ĐTBD CBCC.

Hai là, phân định thẩm quyền quản lý giữa cơ quan trung ương và cơ

quan địa phương trong quản lý ĐTBD CBCC. Theo đó, điều chỉnh chức năng,

nhiệm vụ của cơ quan trung ương và cơ quan địa phương cấp tỉnh cho phù

hợp với yêu cầu quản lý ĐTBD CBCC trong tình hình mới.

Đối với các cơ quan trung ương, tập trung thực hiện chức năng xây

dựng chính sách, xác lập những chế định pháp lý và cơ chế cho việc vận hành

có hiệu quả việc quản lý ĐTBD CBCC; ban hành thể chế quản lý vĩ mô đối

với công tác quản lý ĐTBD CBCC; chỉ đạo kiểm tra thực hiện các nội dung

về ĐTBD CBCC.

Đối với các cơ quan địa phương, xác định rõ vai trò, chức năng và trách

nhiệm của Tỉnh ủy và UBND cấp tỉnh trong quản lý ĐTBD CBCC trên cơ sở

pháp luật và phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

Giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho cơ quan quản lý, đơn vị sử

dụng CBCC quyết định các vấn đề liên quan đến hoạt động ĐTBD CBCC cho

cơ quan, đơn vị. Bảo đảm cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong tổ chức

ĐTBD CBCC cho Trường chính trị và hành chính tỉnh.

Ba là, phân định thẩm quyền quản lý giữa các cơ quan trung ương

trong quản lý ĐTBD CBCC. Cần có sự thống nhất giữa cơ quan QLNN về

CBCC với cơ quan QLNN về giáo dục và đào tạo và cơ quan thực hiện chức

năng ĐTBD CBCC.

Bộ Nội vụ là cơ quan QLNN về CBCC, về hoạt động ĐTBD CBCC;

còn Bộ Giáo dục và Thể thao là cơ quan QLNN về giáo dục và đào tạo; Học

viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào là cơ quan thực hiện ĐTBD

CBCC. Theo đó, việc ký ban hành các chương trình ĐTBD CBCC sẽ được

chuyển từ Bộ Giáo dục và Thể thao về Bộ Nội vụ; việc ban hành chức năng,

nhiệm vụ của các trường chính trị và hành chính tỉnh chuyển từ Học viện

130

Chính trị và Hành chính quốc gia Lào về Ban Bí thư Trung ương Đảng hoặc

Bộ Nội vụ.

Trên cơ sở phân định cụ thể chức năng, nhiệm vụ giữa Đảng NDCM

Lào và Nhà nước CHDCND Lào, giữa cơ quan trung ương và cơ quan địa

phương, giữa các cơ quan trong ương với nhau trong quản lý ĐTBD CBCC,

có thể xác định lại nhiệm vụ của các chủ thể tham gia quản lý trong ĐTBD

CBCC như sau:

- Đối với Chính phủ.

Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về CBCC, trong đó có hoạt

động ĐTBD.

- Đối với Bộ Giáo dục và Thể thao.

Bộ Giáo dục và Thể thao không tham gia vào hoạt động ĐTBD CBCC,

do vậy sẽ không ban hành chương trình ĐTBD CBCC.

- Đối với Bộ Nội vụ.

Bộ Nội vụ thực hiện chức năng QLNN về CBCC, viên chức nhà nước;

thống nhất quản lý về tổ chức ĐTBD CBCC, các chức danh công chức hành

chính các cấp. Do đó, Bộ Nội vụ sẽ ban hành và thống nhất quản lý các

chương trình ĐTBD CBCC. Đi cùng với việc thống nhất quản lý các chương

trình ĐTBD CBCC thì Bộ nội vụ sẽ thống nhất quản lý văn bằng, chứng chỉ

các chương trình ĐTBD CBCC.

- Đối với các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.

Thực hiện nhiệm vụ xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế

hoạch ĐTBD CBCC thuộc phạm vị quản lý.

- Đối với Bộ Tài chính.

Cân đối, bố trí kinh phí ĐTBD hàng năm, trung hạn, dài hạn, trong

nước và ngoài nước trình cấp có thẩm quyền phê duyệt; hướng dẫn, kiểm tra

việc quản lý, sử dụng kinh phí ĐTBD.

- Đối với Ban Tổ chức Trung ương Đảng NDCM Lào.

131

Quy định chế độ học tập của CBCC và nội dung ĐTBD CBCC.

- Đối với Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào.

Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào không chỉ là cơ sở

ĐTBD CBCC cấp quốc gia của Lào, mà còn là cơ quan duy nhất xây dựng

các chương trình ĐTBD CBCC của Lào, biên soạn giáo trình, tài liệu

ĐTBD CBCC.

Mặc dù Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào là cơ quan tương

đương cấp bộ của Chính phủ, tuy nhiên Học viện Chính trị và Hành chính Quốc

gia Lào không phải là cơ quan QLNN. Vì thế sẽ không thực hiện chức năng

QLNN. Việc ban hành và thống nhất quản lý chương trình ĐTBD CBCC, văn

bằng chứng chỉ sẽ thuộc thẩm quyền của cơ quan QLNN (Bộ Nội vụ).

Thêm nữa, Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào sẽ không

ban hành quy định chức năng, nhiệm vụ của các Trường chính trị và hành

chính cấp tỉnh. Việc quy định chức năng, nhiệm vụ của các trường chính trị

và hành chính cấp tỉnh và ban hành văn bản quy định sẽ do Ban Bí thư Trung

ương thực hiện, vì các Trường chính trị và hành chính cấp tỉnh là đơn vị trực

thuộc tỉnh uỷ.

- Đối với Tỉnh uỷ các tỉnh.

Xây dựng, ban hành quy hoạch, kế hoạch ĐTBD CBCC và quản lý

Trường chính trị và hành chính tỉnh và đội ngũ nhân sự các Trường chính trị

và hành chính tỉnh.

- Đối với Ban Tổ chức Tỉnh ủy.

Ban Tổ chức Tỉnh ủy là cơ quan giúp việc Tỉnh ủy trong việc quản lý

Trường chính trị và hành chính tỉnh; tuyển dụng, quản lý đội ngũ nhân sự các

Trường chính trị và hành chính tỉnh.

- Đối với Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.

Quản lý cơ sở vật chất của Trường chính trị và hành chính tỉnh và đội

ngũ giảng viên của Trường chính trị và hành chính tỉnh.

132

- Đối với các Sở Nội vụ.

Sở Nội vụlà cơ quan tham mưu QLNN về ĐTBD CBCC của

tỉnh,UBND tỉnh quyết định công tác ĐTBD CBCC từ việc xây dựng kế

hoạch, tổ chức thực hiện kế hoạch, thanh tra, kiểm tra.Sở Nội vụ cần chủ trì,

phối hợp với các sở, ngành liên quan như Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Sở Tài chính,

Trường chính trị và hành chính tỉnh… xây dựng cơ chế phối hợp từ việc xây

dựng kế hoạch, chiêu sinh, mở lớp đến việc quản lý, đánh giá các khóa ĐTBD

CBCC. Trong quá trình ĐTBD CBCC, việc xây dựng kế hoạch cần phải cập

nhật những kiến thức; về mục tiêu ĐTBD gắn với tiến trình cải cách hành

chính; về hệ thống các cơ sở ĐTBD CBCC và quy trình ĐTBD…

- Đối với các trường chính trị và hành chính cấp tỉnh

Các trường chính trị và hành chính cấp tỉnh là cơ sở ĐTBD CBCC của

địa phương, trực tiếp thực hiện các chương trình ĐTBD CBCC theo phân cấp.

Trường chính trị và hành chính cấp tỉnh thực hiện chương trình nào thì nên

cấp bằng (hoặc chứng chỉ) của chương trình đó.

4.2.2. Nâng cao nhận thức về phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức

Muốn có chủ trương và hành động đúng thì trước hết phải nhận thức

đúng, nhất là những người lãnh đạo, quản lý. Khi nhận thức đúng, những

người lãnh đạo, quản lýsẽ tích cực học tập, trau dồi năng lực quản lý, điều

hành, đồng thời sẽ tạo điều kiện để thúc đẩy sự phân cấp trong ĐTBD CBCC.

Cần nhận thức rõ vai trò của phân cấp quản lý là rất quan trọng, từ đó

nâng cao nhận thức trong toàn hệ thống chính trị, nhất là là các cơ quan quản

lý; các cơ quan cử CBCC đi ĐTBD; các cơ sở ĐTBD CBCC về trọng trách

ĐTBD CBCC đáp ứng đòi hỏi phát triển nền công vụ trong giai đoạn hiện nay.

Từ nhận thức đúng đắn, đầy đủ sẽ là nền tảng cho các hành động phù hợp với

thực tiễn. Vì vậy, trước hết cần nâng cao nhận thức về phân cấp quản lý ĐTBD

CBCC những người có thẩm quyền lãnh đạo, quản lý về ĐTBD CBCC.

133

Thực tế thời gian qua cho thấy nhận thức về công tác quản lý ĐTBD

đối với CBCC của cấp ủy và cơ quan quản lý ở nhiều địa phương còn chưa

đúng mức. Nhận thức về trách nhiệm, nghĩa vụ trong việc học tập, nâng cao

trình độ của nhiều CBCC chưa đúng. Vì vậy sự phân cấp trong quản lý ĐTBD

đối với CBCC còn hạn chế, thiếu sự phân quyền trong ĐTBD đối với CBCC.

Để khắc phục điều này cần tiếp tục quán triệt sâu sắc tư tưởng chỉ đạo của

Đảng về CBCC và công tác ĐTBD CBCC, để từ đó có sự nhận thức đúng đắn

về việc phân cấp quản lý trong ĐTBD đối với CBCC.

Nếu phân cấp hợp lý, khoa học thì điều hành thông suốt, công việc có

kết quả, trách nhiệm sẽ rõ ràng. Để phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC hợp

lý, khoa học thì nguyên tắc cao nhất là cơ quan nào chịu trách nhiệm chính

trong việc quản lý ĐTBD CBCC thì được ủy quyền phân cấp mạnh. Các cơ

sở ĐTBD CBCC là những đơn vị chịu trách nhiệm chính về ĐTBD CBCC thì

phải được đảm bảo tương ứng giữa nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm,

nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất, nhân sự và các điều kiện cần thiết khác để

thực hiện nhiệm vụ được giao. Phân cấp phải gắn liền với ủy quyền hợp lý.

Muốn vậy, cần:

Một là, cần nhận thức đúng đắn của các cấp, các ngành, của đội ngũ

CBCC về công tác ĐTBD CBCC. Đó là hoạt động nhằm mục đích trang bị

kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ, phương pháp làm việc, kinh nghiệm trong quản

lý, điều hành và thực thi nhiệm vụ của CBCC, nghĩa là học để làm việc.

Chính vì thế việc phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC là nhằm trao quyền

cho cấp dưới, phân công công việc cho cấp dưới và các cơ quan liên quan để

cùng phối hợp thực hiện nhiệm vụ ĐTBD CBCC. Mục đích cuối cùng là hiệu

quả ĐTBD CBCC, là nâng cao chất lượng, năng lực làm việc của đội ngũ

CBCC. Phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC là nhằm phân chia trách nhiệm.

Việc ĐTBD CBCC là công việc của toàn hệ thống chính trị, nên các cơ quan

phải cùng chung trách nhiệm quản lý.

134

Hai là, cần tư duy lại cơ chế phân cấp trong ĐTBD CBCC. Xác định cụ

thể vai trò của các cơ sở ĐTBD CBCC trong việc phát triển năng lực cho

CBCC. Cần phát huy vai trò của các Trường chính trị và hành chính cấp tỉnh

trong ĐTBD về kiến thức, kỹ năng lãnh đạo, quản lý. Việc phân cấp quản lý

trong ĐTBD CBCC ở CHDCND Lào hiện nay theo cơ chế “chiều ngang”, mà

ít theo “chiều dọc”, nghĩa là các nội dung quản lý trong ĐTBD CBCC được

phân chia cho các cơ quan ở trung ương mà ít có sự chia sẻ với cơ quan địa

phương. Do thể chế chính trị ở CHDCND Lào khác với nhiều nước trên thế

giới là có một đảng lãnh đạo là Đảng NDCM Lào, không thực hiện tam quyền

phân lập đối với các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, do vậy việc quản

lý trong ĐTBD CBCC có sự tham gia của Đảng NDCM Lào. Tuy nhiên, chưa

có văn bản chính thức nào quy định việc phân chia quản lý đối với ĐTBD

CBCC giữa Đảng NDCM Lào và Nhà nước CHDCN Lào; giữa các cơ quan

trung ương với các cơ quan địa phương. Chính vì thế cần có cơ chế phân cấp.

Ba là, cần phải thống nhất và phân công rõ ràng, có quy chế phối hợp

giữa cơ quan tham mưu, tư vấn cho Chính phủ về quản lý ĐTBD CBCC là Bộ

Nội vụ với cơ quan thực hiện ĐTBD CBCC cấp trung ương là Học viện

Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào. Nếu không có sự thống nhất giữa một

bên là cơ quan QLNN về ĐTBD CBCC (Bộ Nội vụ) với một bên là cơ sở

ĐTBD CBCC cao cấp (Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào) thì

rất khó có thể thực hiện được sự thống nhất về nội dung, phương pháp ĐTBD,

cũng như hướng dẫn các cơ sở ĐTBD CBCC thực hiện. Vì Học viện Chính trị

và Hành chính Quốc gia Lào sẽ trực tiếp hưỡng dẫn hệ thống các Trường

chính trị và hành chính cấp tỉnh. Các Trường chính trị và hành chính cấp tỉnh

do địa phương quản lý nhưng lại do Học viện Chính trị và Hành chính Quốc

gia Lào quy định chức năng, nhiệm vụ. Do đó, phân cấp quản lý ĐTBD

CBCC phải có sự thống nhất giữa các cơ quan quản lý và cơ sở ĐTBD CBCC

cao nhất.

135

Để thực hiện quản lý trong ĐTBD CBCC một cách hiệu quả cần thực

hiện đổi mới tư duy trong ĐTBD CBCC. ĐTBD là nhằm tăng cường kiến

thức, kỹ năng làm việc chứ không phải để hoàn thiện bằng cấp, chứng chỉ.

Phải tạo ra được cơ chế mới về ĐTBD CBCC bao gồm các quy định, chính

sách và các nguồn lực cho ĐTBD từ khâu chuẩn bị, thiết kế chương trình, tổ

chức ĐTBD, đánh giá cho đến sử dụng kết quả sau ĐTBD.Cần tuyên truyền

sâu rộng về vai trò của công tác ĐTBD CBCC nhằm thay đổi nhận thức của

các cấp, các ngành và bản thân CBCC về công tác ĐTBD CBCC. Đây là hoạt

động đầu tư cho tương lai, kết quả thu về là rất lớn nhưng không thể định

lượng, vì vậy nếu không nhận thức đúng đắn và đầy đủ về hoạt động ĐTBD

CBCC khó đạt được kết quả như mong muốn.

Chính vì thế cần nâng cao nhận thức về phân cấp quản lý trong ĐTBD

CBCC ở CHDCND Lào để xác định đúng chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ

quan tham gia vào quản lý ĐTBD CBCC, từ đó mới có thể phân cấp cho cơ

quan cấp dưới.

4.2.3. Hoàn thiện thể chế về phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức

Hoàn thiện các văn bản quản lý về ĐTBD CBCC làm cơ sở cho việc tổ

chức triển khai kế hoạch ĐTBD, như tiêu chuẩn cụ thể cho từng chức danh

CBCC; danh mục kỹ năng cần thiết đối với CBCC; quy định cụ thể về giảng

viên và học viên; hệ thống chương trình, tài liệu ĐTBD CBCC. Xây dựng và

hoàn thiện chế độ, chính sách đối với công tác ĐTBD CBCC; xây dựng quy

định về ĐTBD...

Cần rà soát và tập hợp các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý và

phân cấp quản lý ĐTBD CBCC. Xử lý, xoá bỏ những nội dung chồng chéo,

mâu thuẫn, những nội dung lạc hậu, không phù hợptrong hệ thống văn bản

pháp luật để ban hành văn bản mới thống nhất, dễ hiểu và dễ áp dụng.

Xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật để tạo ra một

136

khung pháp lý đầy đủ, hợp lý cho sự vận hành của các cơ quan thực hiện chức

năng ĐTBD CBCC và quản lý ĐTBD CBCC. Trong việc thực hiện cần chú

trọng một số vấn đề sau:

Thứ nhất, nghiên cứu khắc phục việc ban hành các văn bản không đúng

thẩm quyền, văn bản chồng chéo từ đó tạo lập một hành lang pháp lý thống

nhất, đồng bộ và thông suốt đối với hoạt động ĐTBD CBCC. Trên cơ sở đó,

cần nghiên cứu loại bỏ những văn bản không mang tính quy phạm pháp luật

nhưng hiện đang điều chỉnh hoạt động ĐTBD CBCC và thay thế bằng các văn

bản quy phạm pháp luật. Chỉ khi nào thực hiện được việc này thì mới hạn chế

những bất cập, chồng chéo và mâu thuẫn của hệ thống văn bản về ĐTBD

CBCC hiện nay.

Thứ hai, tạo lập một cơ chế mới đảm bảo tinh thần đổi mới quản lý và

tổ chức hoạt động ĐTBD CBCC. Cụ thể là tiến hành thể chế hóa chế độ

ĐTBD CBCC gắn chế độ bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch với yêu cầu vị trí

việc làm, yêu cầu năng lực.

Thứ ba, hoàn thiện tiêu chuẩn công chức theo hướng chú trọng năng

lực. Hoàn thiện tiêu chuẩn công chức nhất là hệ thống tiêu chuẩn cụ thể trên

cơ sở nhấn mạnh tiêu chuẩn năng lực của CBCC. Cần thiết phải tiến hành mô

tả công việc cho tất cả các vị trí việc làm trong từng cơ quan đơn vị. Mỗi vị trí

việc làm khi mô tả phải xác định chức trách, các nhiệm vụ cụ thể và ngạch

công chức tương ứng. Kết cấu tiêu chuẩn ngạch công chức sẽ gồm: tiêu chuẩn

về phẩm chất, tiêu chuẩn về trình độ và tiêu chuẩn về năng lực.

Trong tiêu chuẩn ngạch công chức phải có và nhất thiết phải có nội

dung liên quan đến các nhóm năng lực để thực thi nhiệm vụ khi công chức

được bố trí vào một vị trí việc làm ứng với ngạch đó.

Đối với các tiêu chuẩn chức vụ quản lý phải bổ sung thêm và quy định

rõ, cụ thể các nội dung liên quan đến tiêu chuẩn năng lực của từng vị trí quản

lý. Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn công chức cần có những bước đi phù hợp,

137

cân nhắc đến yếu tố lịch sử hình thành đội ngũ công chức và cần tiến hành

đồng thời với các giải pháp đồng bộ khác như xây dựng các vị trí việc làm,

đổi mới công tác quản lý biên chế, đổi mới nội dung và hình thức tuyển dụng,

đánh giá công chức và đổi mới công tác ĐTBD CBCC theo hướng chú trọng

yếu tố năng lực, trọng dụng, đãi ngộ xứng đáng cho những người có tài, tâm

huyết với nền hành chính và mong muốn phục vụ nhân dân.

Để đẩy mạnh phân cấp QLNN về công tác ĐTBD CBCCthì đội ngũ

những người làm công tác quản lý ĐTBD CBCCphải nắm vững những chủ

trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác ĐTBD CBCC; nắm được

các bước trong quy trình ĐTBD và có những kiến thức, kỹ năng cần thiết để

tổ chức công tác ĐTBD CBCC một cách bài bản, khoa học và hiệu quả.

Hoàn thiện thể chế ĐTBD CBCC cầnthông qua kế hoạch về ĐTBD

CBCC. Kế hoạch đó phải đảm bảo các yêu cầu sau:

- Kế hoạch ĐTBD CBCC phải dựa trên yêu cầu chính trị, nhiệm vụ của

chính quyền địa phương để xác định nhu cầu của CBCC trong tương lai.

- Kế hoạch ĐTBD CBCC cần gắn quy hoạch về ĐTBD với sử dụng và

tạo nguồn cán bộ lâu dài.

- Kế hoạch ĐTBD CBCC phải căn cứ vào tiêu chuẩn chức danh, nhiệm

vụ theo quy định hiện hành của nhà nước. Đồng thời đảm bảo dân chủ, công

khai, tránh tình trạng bè phái, mất đoàn kết.

Thứ tư, việc phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC cần được cụ thể hoá

thành văn bản. Thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan liên quan đến

ĐTBD CBCC cần được thể hiện dưới hình thức văn bản để các cơ quan căn

cứ vào đó thực hiện. Nếu không thể chế hoá thành văn bản quy phạm pháp

luật, thì các quy định đó cần được thể hiện ở dạng quy chế phối hợp hoặc

phân công nhiệm vụ giữa các cơ quan. Với thực tế nhiều cơ quan cùng tham

gia quản lý ĐTBD CBCC, thì việc hoàn thiện thể chế về phân cấp quản lý

trong ĐTBD CBCC là rất cần thiết.

138

4.2.4. Mở rộng quyền tự chủ cho các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ, công chức

Đổi mới phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC theo hướng tăng cường

quyền tự chủ cho các cơ sở ĐTBD CBCC. Nhà trường được trao nhiều quyền

hơn trong việc quyết định những vấn đề liên quan đến hoạt động của chính

mình và phát huy tính chủ động, sáng tạo của các lực lượng trong và ngoài

nhà trường.

Để mở rộng quyềntự chủ cho các cơ sởĐTBD CBCC cần:

- Quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm quản lý

ĐTBD CBCC của các cấp.

- Khuyến khích, hỗ trợ, tạo điều kiện cho cơ sởĐTBD CBCC phát huy

vai trò chủ động trong quản trị nội bộ và hoạt động ĐTBD CBCC.

- Chuẩn bị tốt các điều kiện về con người, cụ thể là cán bộ quản lý nhà

trường, các thành viên và những người có liên quan cần được ĐTBD để có hiểu

biết và đủ năng lực thực hiện tự quản, chủ động, sáng tạo trong công việc.

- Người đứng đầu cơ sởĐTBD CBCC đóng vai trò trụ cột trong việc

triển khai phương thức quản lý mới nhưng phải huy động được sự đóng góp

trí tuệ của mọi thành viên nhà trường và phát huy tối đa sức mạnh của cơ

quan cử CBCC đi ĐTBD nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng ĐTBD trong

nhà trường.

- Xây dựng môi trường sư phạm chuẩn mực.

- Đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá ĐTBD từ việc xây dựng và triển

khai thực hiện chuẩn đánh giá, sử dụng các hình thức và phương pháp kiểm

tra đánh giá đến việc thực hiện quy trình đánh giá và xử lý kết quả kiểm tra,

đánh giá kết quả ĐTBD.

Mở rộng quyền tự chủ cho các cơ sở ĐTBD CBCC, cần chú ý các nội

dung sau:

139

- Các cơ sở ĐTBD CBCC được quyền chủ động biên soạn tài liệu, bài

giảng, chủ động xây dựng thời khóa biểu học tập, tổ chức các mô hình học tập

phù hợp với các đối tượng CBCC thuộc cơ quan, địa phương mình.

- Các cơ sở ĐTBD CBCC được quyền chủ động mời, bố trí những

giảng viên giỏi chuyên môn, giàu kinh nghiệm thực tiễn, có phương pháp sư

phạm tốt và đến từ các môi trường làm việc khác nhau tham gia giảng bài tại

các khóa ĐTBD CBCC. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi vì đối

tượng học viên là CBCC phần lớn được đào tạo cơ bản, trong đó không ít

người có trình độ đào tạo cao và kỹ năng chuyên môn sâu.

- Các cơ sở ĐTBD CBCC được quyền chủ động áp dụng các phương

pháp giảng dạy tích cực trong các lớp ĐTBD. Theo đó, các phương pháp

giảng dạy tiên tiến như thảo luận nhóm, xử lý tình huống, trò chơi, đóng

kịch... được áp dụng ngày càng phổ biến.

- Các cơ sở ĐTBD CBCC được quyền chủ động thực hiện các công

việc tổ chức lớp học như: xác định nhu cầu đào tạo, chiêu sinh học viên, tổ

chức quản lý lớp, tổ chức kiểm tra và chấm điểm kiểm tra, bài thu hoạch cuối

khóa... đã giúp nâng cao năng lực và tính chuyên nghiệp của các cơ sở

ĐTBD. Đặc biệt, việc nhiều cơ sở ĐTBD cùng được tham gia tổ chức các

chương trình phân cấp cũng tạo ra sự cạnh tranh trong cung cấp dịch vụ, góp

phần nâng cao chất lượng và hiệu quả ĐTBD.

- Các cơ sở ĐTBD CBCC được quyền cấp bằng tốt nghiệp, chứng chỉ

khóa học cho học viên đủ điều kiện khi kết thúc khóa ĐTBD CBCC.

- Các cơ sở ĐTBD CBCC được quyền chủ động trong vấn đề tài chính.

Đảm bảo kinh phí và đổi mới cơ chế tài chính trong công tác ĐTBD CBCC.

Điều chỉnh quy định về đối tượng hưởng kinh phí từ NSNN khi được ĐTBD;

sửa đổi quy định về quyền lợi của CBCC được hưởng khi được cử đi ĐTBD

cũng như trách nhiệm đền bù chi phí ĐTBD đối với CBCC. Thu hút và đa

dạng hóa nguồn kinh phí cho hoạt động ĐTBD.

140

Một khía cạnh khác của vấn đề tự chủ cần đặt ra là phải thay đổi cơ chế

phân cấp cứng nhắc hiện nay tạo điều kiện cho cạnh tranh trong công tác

ĐTBD CBCC phát triển. Trước mắt, cần trao quyền lựa chọn cơ sở ĐTBD

CBCC cho chính người thụ hưởng ĐTBD CBCC, tức là các cơ quan quản lý,

sử dụng ĐTBD CBCC.

Thực hiện cơ chế cạnh tranh ĐTBD giữa các cơ sở ĐTBD CBCC, nhất

là giữa các Trường chính trị và hành chính cấp tỉnh. Cơ chế phân cấp theo đối

tượng người học gắn với một cấp cơ sở ĐTBD CBCC như hiện nay tạo ra sức

ỳ ở các cơ sở ĐTBD CBCC. Để khắc phục tính ỳ do “độc quyền” phải thực

hiện cạnh tranh trong ĐTBD CBCC. CBCC không chỉ được ĐTBD ở hệ

thống cơ sở ĐTBD CBCC mà tiến tới bất kỳ cơ sởĐTBD nào trong hệ thống

giáo dục quốc dân có đủ khả năng đáp ứng yêu cầu phát triển năng lực cho

CBCC thì CBCC có quyền theo học. Khuyến khích các trường đại học, các

viện nghiên cứu tham gia cung ứng dịch vụ ĐTBD kỹ năng, nghiệp vụ cho

CBCC nếu đủ điều kiện. Vấn đề là để nâng cao chất lượng dịch vụ, các cơ sở

phải cạnh tranh: cạnh tranh về về chất lượng giảng viên, cạnh tranh về tổ chức

các khóa đào tạo, phương pháp giảng dạy… cuối cùng là cạnh tranh về chất

lượng và hiệu quả. Trong quá trình cạnh tranh đó, chất lượng dịch vụ sẽ được

nâng lên và giá cả sẽ hạ thấp và người được hưởng lợi cuối cùng là nền hành

chính, cơ quan sử dụng công chức và bản thân người công chức.

Cần tạo lập cơ chế trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho cơ quan,

đơn vị sử dụng và quản lý CBCC quyết định các vấn đề liên quan đến hoạt

động ĐTBD CBCC do cơ quan đơn vị quản lý và sử dụng. Hạn chế dần tình

trạng phân công, phân cấp ĐTBD CBCC mang tính khép kín như hiện nay,

nên hình thành cơ chế mở, cạnh tranh ĐTBD CBCC bằng cách thu hút một số

trường đại học công lập có năng lực tham gia ĐTBD CBCC.

Xây dựng cơ chế đề cao và khuyến khích vai trò tự học, tự ĐTBD

CBCC. Hình thành cơ chế giám sát, đánh giá hoạt động ĐTBD bởi vì càng

141

mở rộng hoạt động ĐTBD CBCC thì càng phải tăng cường các hoạt động

giám sát, kiểm tra, đánh giá để đảm bảo chất lượng và định hướng theo mục

tiêu ĐTBD CBCC.

Tuy nhiên để mở rộng quyền tự chủ cho các cơ sở ĐTBD CBCC thì

các cơ sở ĐTBD CBCC phải đảm bảo về năng lực ĐTBD. Do đó, cần nâng

cao năng lực ĐTBD của các cơ sởĐTBD CBCC để một mặt nâng cao chất

lượng ĐTBD CBCC, mặt khác tạo cơ sở vững chắc cho việcmở rộng quyền tự

chủ. Để nâng cao năng lực ĐTBD của các cơ sởĐTBD CBCC, cần:

Một là, củng cố hệ thống cơ sở ĐTBD CBCC hiện nay, đó là Học viện

Chính trị và Hành chính quốc gia Lào, các Trường chính trị và hành chính

tỉnh. Hệ thông cơ sở ĐTBDCBCC được chú trọng trang bị hiện đại và có

quyền tự chủ cao trong quản lý, tổ chức thực hiện ĐTBD. Cơ sở ĐTBDCBCC

chuyển sang chế độ hoạt động cung cấp dịch vụ công, xây dựng quan hệ cung

cầu giữa cơ sở ĐTBDCBCC với cơ quan quản lý, sử dụng CBCC.

Phương thức tổ chức ĐTBD CBCC theo tiêu chuẩn ngạch, tiêu chuẩn

cán bộ lãnh đạo, quản lý như hiện nay “gắn chặt” đối tượng học viên vào một

loại cơ sở ĐTBD CBCC nhất định. Cơ chế này hầu như đã triệt tiêu sự cạnh

tranh và nâng cao chất lượng, hiệu quả ĐTBD của các cơ sở ĐTBD CBCC.

Có 2 cách để thúc đẩy nhanh sự phát triển của các cơ sở ĐTBD CBCC.

Thứ nhất là, hoàn thiện hệ thống các cơ sở ĐTBD CBCC hiện hành; và thứ

hai là, xây dựng cơ sở ĐTBD CBCC mới. Phương án xây dựng mới là không

khả thi, trong khi đã có hệ thống cơ sở ĐTBD CBCC; phương án tối ưu là

củng cố lại các cơ sở ĐTBD CBCC hiện có. Các cơ sở ĐTBD CBCC được

chú trọng trang bị hiện đại và có quyền tự chủ cao trong quản lý, tổ chức thực

hiện ĐTBD. Các cơ sở ĐTBD CBCC chuyển sang chế độ hoạt động cung cấp

dịch vụ công, xây dựng quan hệ cung cầu giữa cơ sở đào tạo với cơ quan quản

lý, sử dụng CBCC, tạo cơ chế mở, cạnh tranh trong việc cung cấp dịch vụ

ĐTBD CBCC.

142

Hai là, đổi mới cơ chế tài chính, đầu tư các nguồn lực cho hoạt động

ĐTBD CBCC. Cơ sở ĐTBD CBCC ngày càng nâng cao quyền tự chủ gắn với

tự chịu trách nhiệm về tài chính, nghĩa là tự chủ trong việc sử dụng nguồn

NSNNcấp, tự chủ trong việc khai thác và sử dụng các nguồn thu, phát huy

tiềm năng về cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên để mở rộng quy mô và đa

dạng hóa các loại hình ĐTBD gắn với nhu cầu của xã hội.

Tự chủ về tài chính góp phần chủ động trong hoạt độngĐTBD nguồn

nhân lực công đáp ứng nhu cầu xã hội, tăng nguồn tài chính cho các cơ sở

ĐTBD CBCC. Cần tiếp tục đổi mới cơ chế phân bổ và quản lý, sử dụng kinh

phí ĐTBD phù hợp với tình hình phát triển của CBCC, đảm bảo sự chủ động

của cơ quan quản lý, đơn vị sử dụng CBCC.

Đầu tư kinh phí nhằm thực hiện nhiệm vụ ĐTBD CBCC. Nhà nước cần

hoàn thiện chế độ, chính sách hỗ trợ cho hoạt động ĐTBD CBCC. Đối với

CBCCnên có chế độ khuyến khích trong việc ĐTBD để tạo động lực cho

CBCC không ngừng học tập nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ và

năng lực công tác. Thực hiện tốt chính sách của Nhà nước về ĐTBD đối với

CBCC như: việc bồi dưỡng hàng năm là bắt buộc; CBCC khi đi ĐTBD nâng

cao trình độ sẽ được hỗ trợ kinh phí; kết quả học tập tốt có thể được xem xét

nâng lương trước thời hạn.

Những năm gần đây, CHDCND Lào đã thực hiện chính sách khuyến

khích, chế độ đãi ngộ đối với CBCC khi đi ĐTBD, chẳng hạn như: gửi CBCC

sang Việt Nam đào tạo trình độ cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ; đào tạo trung cấp lý

luận chính trị - hành chính, cao cấp lý luận chính trị - hành chính; CBCC khi

được cử đi ĐTBD chuyên môn, trình độ được giữ nguyên lương, trong thời

gian học không phải đến cơ quan làm việc, sau khi học xong được hỗ trợ một

phần kinh phí tùy theo chương trình học… Chính sách này đã động viên đội

ngũ CBCC phấn đấu học tập, đã có kết quả thực tế, đó là chất lượng của đội

143

ngũ CBCC đã được nâng lên rõ rệt. Cần tiếp tục thực hiện chính sách này, tuy

nhiên cần nghiên cứu nâng mức hỗ trợ cho phù hợp với tình hình hiện nay.

4.2.5. Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, tăng cường đầu tư cơ

sở vật chất cho các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

Đây là các nguồn lực quan trọng để đẩy mạnh phân cấp quản lý trong

ĐTBD CBCC.

Một là, nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên.

Đội ngũ giảng viên có ảnh hưởng lớn đến việc nâng cao chất lượng

ĐTBD. Đội ngũ này phải bao gồm những nhà nghiên cứu có kiến thức chuyên

sâu, có bề dày kinh nghiệm, có tâm với nghề.Xây dựng đội ngũ giảng viên có

trình độ cao, giỏi lý luận, giàu kinh nghiệm thực tiễn. Liên tụccử các giảng

viên đi học tập, bồi dưỡng chuyên môn, giao lưu nghề nghiệp.

Cần tuyển chọn những người có trình độ, có chuyên môn, có đạo đức

và lòng yêu nghề tham gia vào đội ngũ giảng viên. Việc tuyển chọn càng kỹ

thì chất lượng đội ngũ giảng viên càng cao, có như vậy mới đáp ứng yêu cầu

ĐTBD CBCC hiện nay. Bên cạnh đó, cần quy định những điều kiện, tiêu

chuẩn mới đối với giảng viên làm công tác ĐTBD CBCC với định hướng,

tiêu chuẩn cao hơn và các chế độ chính sách đãi ngộ thỏa đáng nhằm thu hút

những người giỏi, có năng lực tham gia công tác ĐTBD CBCC.

Đồng thời với việc tuyển chọn người mới, cần tiến hành rà soát, đánh

giá đội ngũ giảng viên hiện có để sàng lọc những người đáp ứng đủ các tiêu

chuẩn mới và chuyển công tác những người chưa đáp ứng tiêu chuẩn. Đây là

việc làm cần thiết nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên đáp ứng yêu

cầu ĐTBD CBCC.

Có đội ngũ giảng viên, cần bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho họ, rèn

giũa họ để thực sự trở thành đội ngũ “máy cái”. Thực tế luôn vận động không

ngừng, nên kiến thức, kỹ năng thực hiện công vụ có những thay đổi nhất định

mà giảng viên cần cập nhật, bổ sung thường xuyên. Đồng thời, tiến hành bồi

144

dưỡng về phương pháp ĐTBD, nhất là phương pháp thiết kế chương trình bồi

dưỡng và sử dụng trang thiết bị hiện đại trong ĐTBD.

Chế độ đãi ngộ hợp lý là điều kiện quan trọng để đội ngũ giảng viên

không ngừng rèn luyện, học tập và tăng cường năng lực nghiên cứu, giảng

dạy. Muốn xây dựng đội ngũ giảng viên các cơ sở ĐTBD CBCC cần đáp ứng

về số lượng, bảo đảm về chất lượng. Nên có hỗ trợ cụ thể đối với những giảng

viên này khi tham gia các khóa học nâng cao trình độ nghiệp vụ; có chính

sách ưu tiên đối với những người về làm giảng viên ở các cơ sở ĐTBD

CBCC; phụ cấp, trợ cấp cho giảng viên ở cơ sở ĐTBD CBCC để họ yên tâm

công tác. Tuy nhiên, đi kèm với những chính sách ưu đãi thì cần có những

văn bản quy định tiêu chuẩn, chế độ làm việc của giảng viên của các cơ sở

ĐTBD CBCC một cách chặt chẽ.

Ngoài đội ngũ giảng viên cơ hữu, các cơ sởĐTBD CBCC cần xây dựng

đội ngũ giảng viên kiêm chức tham gia hướng dẫn các khoá ĐTBD. Ở nhiều

nước trên thế giới, các cơ sởĐTBD CBCC đóng vai trò là người tổ chức còn

giảng viên là những chuyên gia, các nhà quản lý có nhiều kinh nghiệm thực

tiễn. Trên thực tế, những người đã, đang làm và có kinh nghiệm trong việc

thực hiện những công việc đó mới biết được và chỉ dẫn cụ thể được phải làm

việc đó như thế nào và làm sao để đạt hiệu quả cao nhất. Kinh nghiệm quốc tế

chỉ ra rằng xây dựng đội ngũ giảng viên kiêm chức trên cơ sở có quy chế

giảng viên kiêm chức sẽ có được một đội ngũ giảng viên đủ về số lượng, có

bề dầy kinh nghiệm quản lý và công tác thực tiễn. Đội ngũ này phải được bồi

dưỡng về nghiệp vụ sư phạm. Cần phải nhận được rằng các cơ sở ĐTBD

CBCCC rất khác các trường đại học, cao đẳng nên không thể mời sinh viên

giỏi mới tốt nghiệp đại học về để giảng dạy, mà hãy tìm kiếm những nhà quản

lý giỏi, những công chức giỏi (về lý thuyết và thực hành) trong lĩnh vực làm

việc của họ để làm giảng viên kiêm chức.

Hai là, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho cơ sởĐTBD CBCC.

145

Hệ thống cơ sở vật chất ở đây trước hết là hệ thống phòng học và các

trang thiết bị phục vụ cho việc giảng dạy theo phương pháp hiện đại. Các cơ

sởĐTBD CBCC cần có những phòng học phù hợp cho các lớp học với số

lượng học viên không quá lớn, tạo điều kiện cho việc chia sẻ kinh nghiệm,

truyền thụ kiến thức, kỹ năng, phát triển năng lực hiệu quả.

Để đảm bảo hiệu quả hoạt động, hệ thống cơ sở vật chất và kỹ thuật có

vai trò hết sức quan trọng. Thực hiện mục tiêu này, cần tập trung vào một số

biện pháp như:

- Bảo đảm điều kiện làm việc (phòng làm việc, trang thiết bị) đúng theo

quy định của Nhà nước; thay thế kịp thời các trang thiết bị cũ, hỏng khi có

yêu cầu.

- Kịp thời sửa đổi, bổ sung những quy định bất hợp lý về quản lý tài

chính, tài sản, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Đồng thời, nghiên cứu, mở rộng

thực hiện cơ chế khoán đối với một số chế độ tài chính để bảo đảm linh hoạt

và phát huy tính chủ động của các đơn vị phục vụ.

- Nghiên cứu áp dụng hình thức ký hợp đồng thuê ngoài đối với một số

loại hình dịch vụ (như cung cấp dịch vụ ăn uống, vệ sinh) để vừa có điều kiện

giảm biên chế, tiết kiệm chi phí vừa nâng cao chất lượng phục vụ.

- Nghiên cứu việc quy định công tác quản lý tài chính, chi tiêu ngân

sách để tăng tính chủ động, thống nhất, kịp thời đáp ứng yêu cầu hoạt động

của nhà trường.

- Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác giảng dạy,

nghiên cứu, điều hành, phục vụ. Tăng cường thực hiện chương trình “điện tử

hóa” các hoạt động của nhà trường.

Với những thành tựu của khoa học công nghệ, ứng dụng công nghệ

thông tin trong đời sống và trong các hoạt động của con người ngày càng phổ

biến. Việc ứng dụng những thành tựu công nghệ thông tin trong các hoạt động

146

của nhà trường một mặt là phù hợp với sự vận động và phát triển của xã hội,

mặt khác giúp cho việc hoạt động ĐTBD CBCC ngày càng hiệu quả hơn.

4.2.6. Hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra đảm bảo việc phân cấp

quản lý đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

Công tác thanh tra, kiểm tra làmột khâu quan trọng trong quy trình quản

lý. Không thanh tra, kiểm tra tốt thì không có biện pháp quản lý hiệu quả. Việc

thanh tra, kiểm tra có thể đánh giá đúng những nội dung đã được phân cấp

quản lý, đảm bảo cho việc phân cấp trong ĐTBD CBCC được thực hiện thống

nhất và mang lại hiệu quả. Từ đó, giúp các cơ quan quản lý dễ dàng nắm bắt

thông tin, góp phần tăng cường hiệu lực trong quản lý ĐTBD CBCC.

Xây dựng hệ thống thanh tra, kiểm tra khả thi để đánh giá đúng những

việc đã được phân cấp đảm bảo sự quản lý thống nhất, giảm thiểu sự phân tán

cục bộ và những bất cập trong việc thực hiện kỷ luật, kỷ cương, nâng cao hiệu

quả quản lý trong ĐTBD CBCC, góp phần thúc đầy phát triển kinh tế - xã hội,

phục vụ tốt hơn nhu cầu của tổ chức và lợi ích của nhân dân.

Hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra nhằm góp phần quan trọng trong

việc phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm trong phân cấp quản

lý ĐTBD CBCC. Đồng thời, phát huy nhân tố tích cực, góp phần nâng cao

chất lượng, hiệu quả của ĐTBD CBCC. Muốn vậy, cần tăng cường hoạt động

đánh giá chất lượng, đưa hoạt động này trở thành hoạt động thường xuyên của

các cơ sở ĐTBD CBCC, đơn vị quản lý và đơn vị sử dụng CBCC. Hiện nay ở

CHDCND Lào chưa có các tiêu chí đánh giá chất lượng ĐTBD CBCC, nên

việc kiểm soát chất lượng ĐTBD CBCC rất khó khăn. Có thể tham khảo các

tiêu chí sau:

Một là, đối với chương trình ĐTBD, đánh giá: Tính phù hợp của

chương trình; Tính khoa học của chương trình; Tính cân đối của chương

trình; Tính ứng dụng của chương trình; Hình thức của chương trình.

147

Hai là, đối với học viên, đánh giá: Mục tiêu học tập; Phương pháp học

tập; Thái độ học tập.

Ba là, đối với giảng viên, đánh giá: Kiến thức của giảng viên; Phẩm

chất, đạo đức nghề nghiệp của giảng viên; Trách nhiệm của giảng viên;

Phương pháp giảng dạy của giảng viên; Phương pháp kiểm tra, đánh giá của

giảng viên.

Bốn là, đối với cơ sở vật chất, đánh giá: Phòng học, chất lượng phòng

học: Nguồn tài liệu; Công nghệ thông tin.

Năm là, đối với hoạt động đánh giá kết quả học tập, đánh giá: Phương

pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập phù hợp;Hoạt động kiểm tra, đánh giá

khách quan, chính xác, kịp thời.

Sáu là, đối với hiệu quả sau bồi dưỡng, đánh giá: Kiến thức chuyên

môn, nghiệp vụ; Kỹ năng; Thái độ của CBCC, viên chức sau ĐTBD.

Bảy là, đối với tổ chức ĐTBD, đánh giá: Kế hoạch tổ chức khóa ĐTBD

được xây dựng rõ ràng, đầy đủ; Đảm bảo số lượng và chất lượng giảng viên

tham gia khóa ĐTBD; Thời gian bồi dưỡng được lựa chọn phù hợp; Thực

hiện đầy đủ việc đánh giá chất lượng ĐTBD; Công tác phục vụ hậu cần tổ

chức khóa ĐTBD.

Việc thanh tra, kiểm tra trong ĐTBD CBCC ở CHDCND Lào được

giao cho 2 hệ thống cơ quan là cơ quan thanh tra nhà nước và cơ quan kiểm

tra của Đảng.

Đối với thanh tra chuyên ngành ĐTBD CBCC, hiện nay đang do cơ

quan thanh tra của Bộ Giáo dục và Thể thao đảm nhận, nên giao thẩm quyền

thanh tra, kiểm tra cho Bộ Nội vụ, vì đây là cơ quan được Chính phủ giao

quyền QLNN về đội ngũ CBCC. Do đó sẽ thực hiện thanh tra, kiểm tra về

ĐTBD CBCC, đồng thời giao quyền cho Bộ Nội vụ việc thanh tra, kiểm tra

trong quản lý ĐTBD CBCC. Tuy nhiên, Bộ Nội vụ chỉ thực hiện thẩm quyền

148

thanh tra, quản lý đối với các cơ quan chính quyền, còn các cơ quan đảng sẽ

do Ban Tổ chức Trung ương thực hiện.

Để hoạt động thanh tra, kiểm tra việc phân cấp quản lý ĐTBD CBCC

có hiệu quả, cần hoàn thiện các quy định của pháp luật về thanh tra, kiểm tra

đối với các cơ sở ĐTBD CBCC và trong hoạt động ĐTBD CBCC. Ngoài các

quy định của pháp luật thì cũng cần có quy chế phối hợp làm việc giữa Học

viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào với các cơ quan trung ương; quy

chế phối hợp làm việc giữa các trường chính trị và hành chính tỉnh, thành phố

với các cơ quan cấp tỉnh để làm cơ sở cho hoạt động thanh tra, kiểm tra quản

lý ĐTBD CBCC.

149

TIỂU KẾT CHƯƠNG 4

Đẩy mạnh phân cấp quản lý trongĐTBD CBCClà yêu cầu khách quan

nhưng không thể phân cấp tuỳ tiện. Việc phân định chức năng nhiêm vụ giữa

các cơ quan trong việc quản lý hoạt động ĐTBD CBCClà một công việc hết

sức phức tạp và khó khăn nên không thể nhận thức đơn giản trong phân cấp

quản lý ĐTBD CBCC. Việc phân cấp quản lý ĐTBD CBCC là điều kiện cho

địa phương phát huy tính năng động, sáng tạo, khai thác những lợi thế của địa

phương thực hiện việc quản lý có hiệu quả theo một trình tự pháp luật do Nhà

nước quy định thống nhất trong cả nước. Mặt khác, không nên cứng nhắc

quan niệm cho rằng tập trung là bất hợp lý, phân cấp là tốt, hoặc ngược lại.

Vấn đề là phải có sự nhận thức đúng đắn và sự hợp lý về nội dung, mức độ

phân cấp phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội, sự hoàn thiện tổ

chức bộ máy và trình độ năng lực quản lý của đội ngũ CBCC.

Như vậy, luận án đã giải quyết được các nhiệm vụ đặt ra trong chương

này, đó là:

Một là, đề xuất phương hướng đẩy mạnh phân cấp quản lý ĐTBD

CBCC trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ thể hiện việc quán triệt quyền

lực tập trung vào cơ quan QLNN về ĐTBD CBCC cấp trung ương, đảm bảo

quản lý thống nhất về ĐTBD CBCC của Học viện Chính trị và Hành chính

Quốc gia Lào.

Hai là, đề xuất được một số giải pháp chủ yếu nhằmđẩy mạnh phân cấp

quản lý ĐTBD CBCC: Nâng cao nhận thức về phân cấp quản lý ĐTBD

CBCC; Hoàn thiện thể chế về phân cấp quản lý ĐTBD CBCC; Đẩy mạnh trao

quyền tự chủ cho các cơ sở ĐTBD CBCC; Nâng cao năng lực của các cơ

quan quản lý ĐTBD CBCC; Hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra trong phân

cấp quản lý ĐTBD CBCC…

150

KẾT LUẬN

Cần khẳng định xu hướng phân cấp là một xu thế thế tất yếu và không

thể phủ nhận được trong tiến trình cải cách hành chính, việc phân cấp quản lý

ĐTBD CBCC là một bộ phận nằm trong chương trình tổng thể cải cách hành

chính của CHDCND Lào. Phân cấp quản lý về ĐTBD CBCC vừa là yêu cầu

của công cuộc cải cách hành chính nhà nước trong giai đoạn hiện nay, vừa là

một tất yếu khách quan xuất phát từ sự nghiệp đổi mới đất nước, sự chuyển đổi

từ cơ chế quản lý hành chính tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường định

hướng XHCN và cũng là hướng đi của các nước trong khu vực và trên thế giới.

Đổi mới phân cấp, phân quyền trong hoạt động QLNN là yêu cầu

khách quan nhưng không tuỳ tiện. Việc phân định chức năng nhiêm vụ giữa

các bộ phận của một tổ chức là một công việc hết sức phức tạp và càng phức

tạp hơn đối với hệ thống tổ chức hành chính nhà nước. Không thể nhận thức

đơn giản trong phân cấp quản lý ĐTBD CBCC. Việc phân cấp quản lý ĐTBD

CBCC là điếu kiện cho địa phương phát huy tính năng động, sáng tạo, khai

thác những lợi thế của địa phương thực hiện việc quản lý có hiệu quả theo

một trình tự pháp luật do Nhà nước quy định thống nhất trong cả nước. Mặt

khác, không nên cứng nhắc quan niệm cho rằng tập trung là bất hợp lý, phân

cấp là tốt hay ngược lại.Phân cấp quản lý về ĐTBD CBCCcần chú ý quyền

hạn, trách nhiệm (về quản lý chuyên môn; về quản lý tổ chức, nhân sự; và

quản lý tài chính) của cơ quan; đồng thời quy định rõ mối quan hệ quyền hạn,

trách nhiệm ở trung ương giữa Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia

Lào với Tỉnh ủy và UBND tỉnh; ở địa phương thì giữa Ban Tổ chức Tỉnh ủy

với Sở Nội vụ, có như vậy mới có thể thực hiện thành công tiến trình phân

cấp quản lý ĐTBD CBCC.

Như vậy, luận án đã đạt được những kết quả sau:

Một là, đã tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan, mặc dù số

151

lượng công trình nghiên cứu về phân cấp quản lý ĐTBD CBCC không nhiều

nhưng đã cung cấp những nội dung có thể tham khảo cho luận án, gợi mở một

số ý tưởng để tác giả có thể vận dụng vào đề tài luận án.

Hai là, đã xây dựng được khung lý thuyết về phân cấp quản lý trong

ĐTBD CBCC. Cụ thể là làm rõ được một số khái niệm liên quan, đặc biệt là

khái niệm trung tâm: Khái niệm phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC. Đồng

thời, lý giải sự cần thiết phải phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC, nguyên

tắc và các yếu tố ảnh hưởng đến phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC; nội

dung phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC.

Ba là, trên cơ sở xem xét thực tiễn phân cấp quản lý trong ĐTBD

CBCC của Việt Nam, luận án đã rút ra được kinh nghiệm có thể vận dụng

trong điều kiện cụ thể của CHDCND Lào.

Bốn là, đánh giá tình hình phân cấp quản lý ĐTBD CBCC ở CHDCND

Lào trên các mặt: nội dung phân cấp quản lý chương trình ĐTBD CBCC;

phân cấp quản lý cơ sở ĐTBD CBCC; phân cấp quản lý đội ngũ giảng viên;

phân cấp quản lý ngân sách ĐTBD CBCC. Từ đó có những đánh giá ưu điểm,

hạn chế của phân cấp quản lý ĐTBD CBCC ở CHDCND Lào hiện nay.

Năm là, từ thực tiễn phân cấp quản lý ĐTBD CBCC ở CHDCND Lào

hiện nay, đề xuất được phương hướng đẩy mạnh phân cấp quản lý ĐTBD

CBCC trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ thể hiện việc quán triệt quyền

lực tập trung vào cơ quan QLNN về ĐTBD CBCC cấp trung ương, đảm bảo

quản lý thống nhất về ĐTBD CBCC của Học viện Chính trị và Hành chính

Quốc gia Lào. Từ đó, đề xuất các giải pháp đẩy mạnh phân cấp quản lý

ĐTBD CBCC. Một số giải pháp điển hình, đó là: Nâng cao nhận thức về phân

cấp quản lý ĐTBD CBCC; Hoàn thiện thể chế về phân cấp quản lý ĐTBD

CBCC; Đẩy mạnh trao quyền tự chủ cho các cơ sở ĐTBD CBCC; Nâng cao

năng lực của các cơ quan quản lý ĐTBD CBCC; Hoàn thiện cơ chế thanh tra,

kiểm tra trong phân cấp quản lý ĐTBD CBCC…

152

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Tiếng Việt

1. Ngô Thành Can (2014), Đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực

trong khu vực công, Nxb Lao Động, Hà Nội.

2. Đinh Minh Dũng (2012), “Phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục và

đào tạoở cấp huyện vùng đồng bằng sông Cửu Long”, Tạp chí Quản lý

nhà nước, Số 195 (4-2012).

3. Đinh Minh Dũng (2015), Quản lý nhà nước về giáo dục ở cấp huyện

vùng Đồng bằng sông Cửu Long – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn,

Nxb Lao Động, Hà Nội.

4. Phan Hồng Dương (2005), “Phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục và

đào tạo”, Luận văn lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, Đại học

quốc gia Hà Nội.

5. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2005), Hệ thống chương

trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở các trường chính

trị tỉnh, thành phố, Kỷ yếu Hội thảo, Hà Nội.

6. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Cơ quan hợp tác quốc tế

Nhật Bản JICA (2016), Phương pháp quản lý đào tạo cán bộ và công

chức, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội.

7. Học viện Hành chính Quốc gia (2004), Giáo trình Phát triển tổ chức

hành chính nhà nước, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

8. Học viện Hành chính Quốc gia (2012), Giáo trình Hành chính học đại

cương, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

9. Mai Hữu Khuê (2002), Từ điển giải thích thuật ngữ hành chính, Nxb

Lao động, Hà Nội.

10. Trần Kiểm (2004), Khoa học quản lí nhà trường phổ thông, Nxb Đại

học Quốc gia, Hà Nội.

153

11. Trương Đắc Linh (2002), “Phân cấp quản lý trung ương và địa phương

- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số

3, tr.24-25.

12. Nguyễn Hải Long (2009), “Nâng cao hiệu quả phân cấp quản lý giáo

dục và đào tạo trong tiến trình cải cách hành chính ở Việt Nam”, Luận

án tiến sĩ quản lý hành chính công, Học viện Hành chính, Hà Nội.

13. Uông Chu Lưu (2015), “Một số vấn đề lý luận về phân cấp quản lý nhà

nước”, Tạp chí Dân chủ pháp luật, Số chuyên đề 60 năm ngành Tư

pháp, tháng 7/2015.

14. Hoàng Mai (2016), Phân cấp quản lý nhân sự hành chính nhà nước ở

Việt Nam hiện nay (sách chuyên khảo), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

15. Lưu Văn Mao (1997), “Cơ sở khoa học của phân công, phân cấp quản

lý cán bộ, công chức lãnh đạo, cao cấp trong cải cách hành chính hiện

nay”, Đề tài khoa học cấp bộ, Bộ Nội vụ, Hà Nội.

16. Phạm Thị Tuyết Minh (2015), “Phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục

dưới góc nhìn pháp lý và thực tiễn”, Tạp chí Khoa học quản lý giáo

dục, Số 02 (tháng 6/2015).

17. Ngân hàng thế giới (2005), Phân cấp ở Đông Á để chính quyền địa

phương phát huy tác dụng, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

18. S.Chiavo Campo và P.S.A. Sundaram (2003), Phục vụ và duy trì: Cải

thiện hành chính công trong một thế giới cạnh tranh,Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

19. Võ Kim Sơn (1998), “Đối tác công - tư”, Tạp chí quản lý nhà nước.

20. Võ Kim Sơn (2004), Phân cấp quản lý nhà nước - Lý luận và thực

tiễn,Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

21. Tạ Ngọc Tấn, Lê Văn Lợi (đồng chủ biên) (2017), Đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ lãnh đạo, quản lý đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa

và hội nhập quốc tế ở Việt Nam và Lào, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

154

22. Trịnh Ngọc Thạch (2012), Mô hình quản lý đào tạo nguồn nhân lực

chất lượng cao trong giáo dục đại học Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia

Hà Nội.

23. Tống Đức Thảo và Nguyễn Trọng Bình (2018), “Hợp nhất một số cơ

quan Đảng và chính quyền ở Trung Quốc - Nghiên cứu trường hợp

quận Thuận Đức”, Tạp chí Lý luận chính trị, Số 2/2018.

24. Trần Hồng Thắm (2012), “Một số giải pháp đẩy mạnh phân cấp quản lý

nhà nước đối với giáo dục phổ thông”, Tạp chí khoa học Đại học sư

phạm Thành phố Hồ Chí Minh, số 34/2012.

25. Đinh Thị Minh Tuyết (2007), “Về phân cấp quản lý giáo dục - đào tạo

ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Quản lý nhà nước, Số 142.

26. Vũ Huy Từ chủ biên (1999), Quản lý khu vực công, Nxb Khoa học và

Kỹ thuật, Hà Nội.

27. Nguyễn Ngọc Vân (2005), “Nghiên cứu các luận cứ khoa học và giải

pháp thực hiện phân công, phân cấp đào tạo, bồi dưỡng theo chức danh

cán bộ, công chức nhà nước”, Đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội.

28. Viện Ngôn ngữ học (1997), Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên),

Nhà xuất bản Đà Nẵng, Hà Nội - Đà Nẵng.

29. Nguyễn Cửu Việt (2010), “Khái niệm tập quyền, tản quyền và phân

quyền”, Tạp chí Khoa học, Đại học quốc gia Hà Nội, Số 26/2010.

30. Trương Quốc Việt (2012), “Về thực hiện nội dung phân cấp quản lý

đào tạo, bồi dưỡng công chức hiện nay”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, Số

12/2012, tr.40-42.

31. Bùi Thế Vĩnh chủ biên (1997), Phân tích và thiết kế tổ chức cơ quan

hành chính, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

32. Lại Đức Vượng (2009), “Quản lý nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng công

chức hành chính trong giai đoạn hiện nay”, Luận án tiến sĩ, Học viện

Hành chính, Hà Nội.

155

33. Vũ Thanh Xuân (2013), “Cơ sở khoa học của việc đào tạo, bồi dưỡng

theo vị trí việc làm đối với công chức ngành nội vụ”, Đề tài khoa học

cấp cơ sở, Hà Nội.

B. Tiếng Lào

34. Dalyvan Khútavang (2010), “Yêu cầu trong việc đào tạo cán bộ, công

chức chủ chốt trong cơ quan hành chính nhà nước trong thời kỳ mới”,

Tạp chí Alunmai (tạp chí Lý thuyết và thực tiễn của Đảng Nhân dân

cách mạng Lào), số 6/2010, Viêng Chăn.

35. Khăm Phăn Phôm Mạ Thắt (2005), Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ

lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Trung ương quản lý ở CHDCND Lào

trong thời kỳ đổi mới, Luận án tiến sĩ Khoa học chính trị chuyên ngành

Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

36. Khăm Phăn Vông Pha Chăn (2013), “Đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo

của hệ thống chính trị ở Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào hiện nay”,

Luận án tiến sĩ Chính trị học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia

Hồ Chí Minh, Hà Nội.

37. Thoongchan Phetbounmy (2011), “Quan tâm đặc biệt đối với công tác

đào tạo, bồi dưỡng thế hệ cán bộ, công chức trong tương lai”, Tạp chí

Alunmai (tạp chí Lý thuyết và thực tiễn của Đảng Nhân dân cách mạng

Lào), 5/2011, Viêng Chăn.

C. Tiếng Anh

38. Cathy Gaynor (1998), Decentralization of Education (Phân cấp giáo

dục), The World Bank Washington, D.C.

39. Chanchal Kumar Sharma (2006), “Decentralization Dilemma:

Measuring the Degree and Evaluating the Outcomes (Tiến thoái lưỡng

nan phân cấp: Đo lường mức độ và đánh giá kết quả)”, Indian Journal

of Political Science, Vol. 67, No. 1, 2006.

156

40. Dennis A. Rondinelli (1981), “Government Decentralization in

Comparative Perspective: Developing Countries (Phân cấp chính phủ

theo quan điểm so sánh: Các nước đang phát triển)”, International

Review of Administrative Science, 47,1981.

41. Dennis A. Rondinelli; John R. Nellis and G. Shabbir Cheema (1983),

Decentralization in Developing Countries (Phân cấp ở các nước đang

phát triển), A Review of Recent Experience, The World Bank 1983.

42. Gaudioso C.Sosmena (1991), Decentralization and Empowerment

(Phân cấp và trao quyền), JR.Manila, Philippines.

43. Education and Manpower Branch and Education Department (1991),

The School Management Initiative (Sáng kiến quản lý trường

học),Government Printer, Hong Kong.

44. Elizabeth Linda Yuliani (2004), Decentralization, deconcentration and

devolution: what do they mean? (Phân cấp, phân cấp và giải thể:

chúng có ý nghĩa gì?) cifor.cgiar.org

45. ESCAP (1999), Local Government in Asia and the Pacific - A

Comparative Analysis of Fifteen Countries (Chính quyền địa phương ở

châu Á và Thái Bình Dương - Phân tích so sánh của mười lăm quốc

gia), ESCAP, IUALA-ASPAC, KLAFIR, 1999.

46. Eunice Heredia-Ortiz (2006), The Impact of Education

Decentralization on Education Output: A Cross-Country Study (Tác

động của phân cấp giáo dục đối với đầu ra giáo dục: Một nghiên cứu

xuyên quốc gia), Georgia State University.

47. European Centre for Disease Prevention and Control (2017), “A

literature review of Training Needs Assessment (TRNA) methodology”

(Một đánh giá tài liệu về phương pháp đánh giá nhu cầu đào tạo

(TRNA)). Stockholm: ECDC.

157

48. Jean-Paul Faguet (1997), Decentralization and local government

performance (Phân cấp và chính quyền địa phương thực thi), Centre

for Economic Performance and Development Studies Institute, London

School of Economics.

49. John C.Foltz và Jay Akridge (2015), The Art of Delegation (Nghệ thuật

phái đoàn), Research Gate.

50. Péter Radó (2010), Governing Decentralized Education Systems -

Systemic Change in South Eastern Europe (Quản lý các hệ thống giáo

dục phi tập trung - Thay đổi hệ thống ở Đông Nam Âu), Printed in

Budapest, Hungary.

51. UNDP (1997), Decentralized Governance Programme: Strengthening

Capacity for People (Chương trình quản trị phi tập trung: Tăng cường

năng lực cho người dân), September 1997.

52. UNDP (1999), Decentralization: A Sampling of Definition (Phân cấp:

lấy mẫu định nghĩa), Government of Germany.

D. Văn bản quy phạm

D.1. Văn bản của Việt Nam

53. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Điều lệ Đảng (khóa XI).

54. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành

trung ương lần thứ 9 (khóa IX) về đổi mới phương thức lãnh đạo về

kinh tế.

55. Quốc hội (2013), Hiến pháp.

56. Quốc hội (2008), Luật Cán bộ, công chức.

57. Quốc hội (2010), Luật Viên chức.

58. Quốc hội (2015), Luật Tổ chức chính quyền địa phương.

59. Quốc hội (2015), Luật Ngân sách nhà nước.

158

60. Chính phủ (2004), Nghị quyết số 08/2004/NQ-CP ngày 30/6/2004 về

tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và chính

quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

61. Chính phủ (2017), Nghị định số 34/2017/NĐ-CP ngày 03/4/2017 quy

định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nội vụ.

62. Chính phủ (2017), Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 về

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức.

63. Thủ tướng Chính phủ (2018), Quyết định số 05/2018/QĐ-TTg ngày

23/01/2018 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ

chức của Học viện Hành chính Quốc gia.

64. Bộ Nội vụ (2018), Thông tư số 01/2018/TT-BNV ngày 08/01/2018

hướng dẫn một số điều của Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày

01/9/2017 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức,

viên chức.

D.2. Văn bản của CHDCND Lào

65. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ X, Nxb quốc gia, Viêng Chăn.

66. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1995), Nghị quyết số 09/BCTTĐ ngày

27/2/1995 của của Bộ Chính trị Trung ương Đảng về thành lập Học

viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào.

67. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1999), Nghị quyết số 08/BCTTWĐ

ngày 23/2/1999 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng về

thành lập Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào.

68. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2002), Nghị quyết số 65/BCTTĐ ngày

21/7/2003 của Bộ Chính trị Trung ương Đảng về việc chuyển giao các

trường chính trị và hành chính và thủ đô thuộc về Học viện Chính trị và

Hành chính Quốc gia Lào chịu trách nhiệm và lãnh đạo trực tiếp.

69. Quốc hội (2015), Hiến pháp.

159

70. Quốc hội (2015), Luật Giáo dục (sửa đổi).

71. Quốc hội (2015), Luật Cán bộ, công chức.

72. Quốc hội (2015), Luật Chính phủ của nước CHDCND Lào (sửa đổi).

73. Chính phủ (1995), Nghị định số 59/CP ngày 29/7/1995 về thành lập

Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào.

74. Chính phủ (2017), Nghị định số 67/CP ngày 03/07/2017 về tổ chức và

hoạt động của Bộ Giáo dục và Thể thao.

75. Chính phủ (2017), Nghị định số 294/CP ngày 04/09/2017 về đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ, công chức.

76. Chính phủ (2015), Nghị quyết số 19/CP ngày 2/6/2015 về tiếp tục đẩy

mạnh phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ với chính quyền tỉnh,

thủ đô.

77. Ban Tổ chức Trung ương (2012), Nghị định số 03/BTCTĐ ngày

15/2/2012 về xây tỉnh thành khâu chiến lược, xây huyện thành khâu

vững mạnh, xây bản thành khâu phát triển.

78. Ban Tổ chức Trung ương (2014), Nghị định số 25/BTCTĐ ngày

22/12/2014 về định hướng, mục tiêu, các biện pháp xây tỉnh thành khâu

chiến lược, xây huyện thành khâu vững mạnh, xây bản thành khâu phát

triển.

79. Bộ Giáo dục và Thể thao (2011), Quyết định của số 1382/GD-TC ngày

2/6/2011 về chứng nhận kế hoạch phát triển nhân sự hành chính và

quản lý giáo dục năm 2011-2015.

80. Văn phòng Chính phủ (2003), Thông báo số 1063/VPCP ngày

29/8/2003 về việc thực hiện chính sách cho học viên được cử đi đào

tạo, bồi dưỡng.

81. Bộ Tài chính (2013), Thông tư số 293/TT-BTC ngày 9/2/2013 quy định

việc quản lý và sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước dành cho công

tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.

160

82. Bộ Nội vụ (2017), Tờ trình số 198/BNV ngày 29/7/2017 về đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ, công chức.

83. Bộ Nội vụ (2018), Hướng dẫn số 07/BNV ngày 02/5/2018 về tổ chức

thực hiện Nghị định số 294/CP ngày 04/9/2017 của Chính phủ về

ĐTBD CBCC.

84. Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào(2000), Quyết định số

2160/HVCT-HCQG ngày 21/12/2000 về quy định chung của Học viện

Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào.

85. Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào(2016), Quyết định số

033/HVCTHC ngày12/01/2016 về hỗ trợ cho học viên.

86. Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào(2016), Quy định số

1201/HVCT-HCQG ngày 16/11/2016 về tổ chức và hoạt động của

trường chính trị và hành chính tỉnh và Thủ đô.

161