BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
OUTHONE CHAOPHALYPHANH
PHÂN CẤP QUẢN LÝ TRONGĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG
CÁN BỘ, CÔNG CHỨC Ở CỘNG HÒA DÂN CHỦ
NHÂN DÂN LÀO
LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ CÔNG
BỘ NỘI VỤ BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
OUTHONE CHAOPHALYPHANH
PHÂN CẤP QUẢN LÝ TRONGĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG
CÁN BỘ, CÔNG CHỨC Ở CỘNG HÒA DÂN CHỦ
NHÂN DÂN LÀO
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 9 34 04 03
LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Võ Kim Sơn
2. TS. Nguyễn Duy Hạnh
ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án này là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được
trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Nghiên cứu sinh
OUTHONE CHAOPHALYPHANH
iii
LỜI CẢM ƠN
Sau thời gian học tập và nghiên cứu tại Học viện Hành chính quốc gia
(Việt Nam), tôi đã hoàn thành luận án “Phân cấp trong quản lý đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào”.
Để hoàn thành Luận án này, tôi đã nhận được sự hướng dẫn của
PGS.TS. Võ Kim Sơn và TS. Nguyễn Duy Hạnh; sự giảng dạy của các thày
cô giáo của Học viện Hành chính quốc gia; sự giúp đỡ của cán bộ, đồng
nghiệp Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào. Tôi bày tỏ lòng biết
ơn chân thành và sâu sắc nhất tới 02 nhà khoa học hướng dẫn; cảm ơn lãnh
đạo Học viện Hành chính quốc gia, Ban Quản lý đào tạo Sau đại học, các thầy
cô giáo tại Học viện Hành chính quốc gia đã tạo điều kiện thuận lợi, tận tình
giúp đỡ, góp ý về chuyên môn trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi gửi lời cảm ơn tới cán bộ, giảng viên Học viện Chính trị và Hành
chính quốc gia Lào đã giúp đỡ và hỗ trợ trong quá trình tác giả để thu thập số
liệu thực tiễn. Cảm ơn gia đình, bạn bè và các đồng nghiệp đã chia sẻ, hỗ trợ
về tài liệu, động viên về tinh thần trong suốt quá trình tác giả nghiên cứu.
Chân thành cảm ơn!
Tác giả luận án
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1.CBCC : Cán bộ, công chức
2. CHDCND : Cộng hoà dân chủ nhân dân
3. ĐTBD : Đào tạo, bồi dưỡng
4. ĐTBD CBCC : Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
5. HĐND : Hội đồng nhân dân
6. NDCM : Nhân dân cách mạng
7. NS : Ngân sách
8. NSNN : Ngân sách nhà nước
9. QLNN : Quản lý nhà nước
10. UBND : Ủy ban nhân dân
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1.TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ..... 7
1.1. Các công trình nghiên cứu có liên quan ................................................... 7
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức .... 7
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về phân cấp quản lý nhà nước ................... 10
1.1.3. Các công trình nghiên cứu về phân cấp trong đào tạo, bồi dưỡng ...........
1.2. Đánh giá các công trình nghiên cứu có liên quan ................................... 19
1.2.1. Nhận xét ............................................................................................. 19
1.2.2. Định hướng nghiên cứu của luận án ................................................... 20
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ............................................................................... 22
Chương 2. CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ ĐÀO TẠO,BỒI
DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC .............................................................. 23
2.1. Một số vấn đề chung về phân cấp quản lý ............................................. 23
2.1.1. Khái niệm phân cấp quản lý ............................................................... 23
2.1.2. Các hình thức phân cấp quản lý .......................................................... 27
2.2. Phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ............... 39
2.2.1. Một số khái niệm liên quan ................................................................. 39
2.2.2. Sự cần thiết phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức ............................................................................................................. 43
2.2.3. Nguyên tắc phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức ............................................................................................................. 45
2.2.4. Chủ thể tham gia quản lý đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ............ 47
2.3. Nội dung và các yếu tố ảnh hưởng đến phân cấp quản lýtrong đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức .............................................................................. 49
2.3.1. Nội dung cơ bản về phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức ..................................................................................................... 49
2.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức ......................................................................................... 55
2.4. Thực tiễn phân cấp quản lý đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của
Việt Nam và kinh nghiệm cho Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ................... 57
2.4.1. Thực tiễn phân cấp quản lý đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của
Việt Nam ...................................................................................................... 57
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ............................................................................... 73
Chương 3. THỰC TRẠNG PHÂN CẤP QUẢN LÝ TRONG ĐÀO TẠO,
BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC Ở CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN
DÂN LÀO .................................................................................................... 74
3.1. Khái quát về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở Cộng hòa dân chủ
nhân dân Lào ................................................................................................ 74
3.1.1. Cơ sở chính trị, pháp lý về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ...... 74
3.1.3. Các chủ thể tham gia quản lý đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức .......... 77
3.2. Tình hình phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ................................................................... 81
3.2.1. Về các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức ................. 81
3.2.2. Về hệ thống cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức .................... 84
3.2.3. Về đội ngũ giảng viên đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức .............. 96
3.2.4. Về ngân sách cho đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức ................... 100
3.2.5. Phân cấp quản lý về văn bằng, chứng chỉ ......................................... 109
3.2.6. Phân cấp về kiểm tra, thanh tra đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức ........................................................................................................... 109
3.3. Đánh giá phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ................................................................. 110
3.3.1. Ưu điểm............................................................................................ 110
3.3.2. Hạn chế và nguyên nhân ................................................................... 115
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ............................................................................. 123
2
Chương 4. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH PHÂN CẤP
QUẢN LÝ TRONG ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC Ở
CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO ............................................. 124
4.1. Phương hướng đẩy mạnh phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức ............................................................................................. 124
4.1.1. Phương hướng phân cấp quản lý của Đảng Nhân dân cách mạng Lào và
của Nhà nước cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ........................................... 124
4.1.2. Định hướng phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức ........................................................................................................... 127
4.2. Một số giải pháp đẩy mạnh phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức ....................................................................................... 129
4.2.1. Phân công lại thẩm quyền quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức ................................................................................................... 129
4.2.2. Nâng cao nhận thức về phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức ............................................................................................. 133
4.2.3. Hoàn thiện thể chế về phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức ............................................................................................. 136
4.2.4. Mở rộng quyền tự chủ cho các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức ........................................................................................................... 139
4.2.5. Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, tăng cường đầu tư cơ sở vật
chất cho các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ........................... 144
4.2.6. Hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra đảm bảo việc phân cấp quản lý
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức......................................................... 147
TIỂU KẾT CHƯƠNG 4 ............................................................................. 150
KẾT LUẬN ................................................................................................ 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... 153
3
DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ
Sơ đồ 3.1. Tổ chức bộ máy của Học viện Chính trị và Hành chínhQuốc gia
Lào ............................................................................................. 91
Bảng 3.1. Tổng hợp số lượng giảng viên của Học viện Chính trị và Hành
chính Quốc gia Lào .................................................................... 98
Bảng 3.2. Tổng hợp giảng viên của 18 Trường chính trị và hành chính
tỉnh ............................................................................................. 99
Bảng 3.3. Chi NSNN cho ĐTBD CBCC giai đoạn 2012 - 2016 ................. 104
Bảng 3.4. Chi NSNN cho ĐTBD CBCC xét theo tính chất kinh tế
(tỷ kip) ...................................................................................... 105
Bảng 3.5. Chi NSNN cho ĐTBD CBCC theo phân cấp ngân sách(giai đoạn
2012-2016) ............................................................................... 106
Bảng 3.6. Ngân sách chi cho cơ sở ĐTBD CBCC (triệu kip/biên
chế/năm) ................................................................................... 107
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, vai trò của Nhà nước nói chung và chính
quyền địa phương các cấp trong quản lý, điều hành kinh tế - xã hội cần phải
được thay đổi cho phù hợp với điều kiện mới, Trung ương cần tập trung vào việc
thực hiện nhiệm vụ quản lý vĩ mô, tăng cường phân cấp nhiều hơn, rõ hơn cho
chính quyền địa phương các cấp nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo, đảm
bảo quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương trong
việc giải quyết các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, phù hợp với yêu cầu phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần và đa dạng hoá các quan hệ xã hội với đặc điểm tính
chất của mỗi địa phương, mỗi vùng lãnh thổ. Cùng với sự chuyển đổi từ cơ chế
quản lý hành chính tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường có định hướng xã
hội chủ nghĩa thì tất yếu cơ chế quản lý nhà nước phải phân cấp.
Phân cấp quản lý nhà nước diễn ra vì rất nhiều vì lý do khác nhau song
chủ yếu là nhằm cải thiện hiệu quả của việc cung cấp dịch vụ công; nâng cao
chất lượng quản lý nhà nước bằng cách trao quyền nhiều hơn cho các cấp
chính quyền địa phương. Lợi ích tiềm năng của phân cấp quản lý nhà nước
(QLNN) là rất lớn và chủ yếu xuất phát từ mối quan hệ gần gũi, trực tiếp giữa
chính quyền địa phương với công dân.
Phân cấp QLNN được diễn ra trên nhiều lĩnh vực khi người ta cho rằng
bản chất của phân cấp là chuyển giao bớt thẩm quyền cho cấp dưới và đồng
thời với nó là chuyển giao về nguồn lực tài chính và nhân sự để đảm bảo thực
hiện thẩm quyền. Như vậy phân cấp về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
(ĐTBD CBCC) sẽ là một nội dung đặc biệt quan trọng và cũng rất phức tạp
trong phân cấp quản lý hành chính nhà nước.
Đào tạo, bồi dưỡng (ĐTBD) cán bộ, công chức (CBCC) cho các tổ
chức đảng và nhà nước là một yếu tố cực kỳ quan trọng trong quản lý chiến
1
lược và quản lý nguồn nhân lực. Ở nước Cộng hòa dân chủ nhân
dân(CHDCND) Lào, công tác ĐTBD CBCC để đáp ứng yêu cầu công việc
thực hiện mục tiêu cải cách hành chính là nhiệm vụ trọng tâm của cả hệ thống
chính trị theo sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng Lào.
Ở CHDCND Lào, do cơ chế quan liêu, bao cấp, bao vây, cô lập khá lâu
đã làm cho hoạt động ĐTBD CBCC trở nên trì trệ, hiệu quả không cao, đầu ra
chưa đáp ứng yêu cầu của cải cách hành chính. Vấn đề đổi mới ĐTBD CBCC
nói chung và công tác quản lý ĐTBD CBCCnói riêng có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng trong việc phát triển nền hành chính năng động, hiệu lực, hiệu quả.
Để nâng cao hiệu quả quản lý ĐTBD CBCC thì việc phân cấp quản lý đối với
ĐTBD CBCC là một trong những yếu tố quan trọng. Phân cấp, phân quyền
giữa chính quyền Trung ương và địa phương, giữa các cơ quan quản lý hành
chính nhà nước cùng cấp, giữa cơ quan của Đảng và cơ quan của Nhà nước
được xem là một trong những nội dung quan trọng trong công cuộc cải cách
hành chính ở CHDCND Lào.
Thực tiễn ở nước CHDCND Lào, việc hoàn thiện cơ chế, chính sách,
đổi mới công tác quản lý ĐTBD trong đó đẩy mạnh sự phân cấp quản lý trong
công tác ĐTBD CBCC là một trong những nhiệm vụ được đề ra trong Nghị
quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (khóa IX) năm 2006. Trong những
năm qua, hệ thống các văn bản pháp luật liên quan đến quản lý CBCC đã có
nhiều đổi mới, một số nội dung quản lý trong ĐTBD CBCC đã được đẩy
mạnh cho Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào, Trường Chính trị
và Hành chính các tỉnh.
Tuy nhiên, so với yêu cầu của cải cách hành chính, quản lý trong
ĐTBD CBCC còn tồn tại nhiều hạn chế, đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết
đặc biệt là việc phân địch rõ hơn trách nhiệm giữa Đảng với Nhà nước.
Phân cấp quản lý nói chung và phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC
nói riêng không phải là vấn đề mới trong khoa học quản lý. Tuy nhiên, phân
2
cấp quản lý trong ĐTBD CBCC cũng chưa có nhiều công trình đề cập, đặc
biệt ở CHDCND Lào, vấn đề này hiện chưa có sự nghiên cứu một cách bài
bản, chưa tạo nên cơ sở lý thuyết cho hoạt động quản lý này.
Vì vậy, việc nghiên cứu, hệ thống hóa các quan điểm về phân cấp quản
lý trongĐTBD CBCC ở CHDCND Lào, đánh giá thực trạng nhằm đề xuất
một số giải pháp đẩy mạnh phân cấp quản lý ĐTBD CBCC ở CHDCND Lào
trong thời gian tới là rất cần thiết. Do đó, tác giả lựa chọn đề tài “Phân cấp
quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở Cộng hòa dân chủ
nhân dân Lào” làm nội dung nghiên cứu cho luận án của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở những lý luận và thực tiễn có liên quan, luận án xác định
các phương hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh phân cấp quản lý trong
ĐTBD CBCC tại CHDCND Lào.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Tổng quan các công trình đã nghiên cứu có liên quan đề tài để tìm
hiểu những kết quả đã đạt được của các công trình này, những vấn đề cần tiếp
tục nghiên cứu làm rõ.
+ Hệ thống hóa lý thuyết về phân cấp QLNN. Dựa trên nền tảng đó,
xây dựng khung lý thuyết về phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC.
+ Nghiên cứu kinh nghiệm phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC của
một số quốc gia trên thế giới để rút ra các giá trị tham khảo có thể vận dụng
trong điều kiện cụ thể của CHDCND Lào.
+ Phân tích và đánh giá thực trạng phân cấp quản lý trong ĐTBD
CBCC ở CHDCND Lào giai đoạn 2010đếnnay để thấy rõ những ưu điểm,
những hạn chếvà chỉ ra được nguyên nhân của những hạn chếđó.
+ Đề xuất các phương hướng và một số giải pháp nhằm đẩy mạnh phân
cấp quản lý trong ĐTBD CBCC ở CHDCND Lào.
3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận án là phân cấp quản lý của nhà nước
về ĐTBD CBCC.
- Phạm vi không gian:Để đánh giá tình hình phân cấp một cách tập
trung, luận án chỉ đi sâu phân tích thực trạng phân cấp quản lý trong công tác
ĐTBD CBCC ở CHDCND Lào
- Phạm vi thời gian: Luận án tập trung nghiên cứutừ năm 2010 đến nay,
tầm nhìn đến năm 2030.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận
Đề tài được tiến hành nghiên cứu trên cơ sởchủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin.
- Phương pháp nghiên cứu
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tác giả thực hiện phương pháp này
bằng cách tiếp cận và khai thác vấn đề phân cấp quản lý đ ĐTBD CBCC qua
các thời kỳ lịch sử khác nhau bằng việc xem xét bối cảnh lịch sử, tình hình
thông qua các nguồn sử liệu để rút ra nhận xét về các thời kỳ.
+ Phương pháp phân tích và tổng hợp: Do nhiều nguồn thông tin thu
thập được dưới nhiều dạng khác nhau nên tác giả sẽ dựa vào cả hai phương
pháp phân tích: định tính và định lượng để nghiên cứu vấn đề phân cấp quản
lý trong ĐTBD CBCC. Trên cơ sở các nội dung thu thập được, tác giả sẽtổng
hợp để đưa ra những ý kiến, nhận xét đánh giá về các chủ đề có liên quan.
+ Phương pháp thống kê: Vì việc quản lý trong ĐTBD CBCC ở
CHDCND Lào có nhiều nội dung và nhiều chủ thể tham gia. Để tránh bị trùng
hoặc bỏ sót nội dung, tác giả sử dụng phương pháp thống kê để tìm hiểu các
chủ thể tham gia quản lý trong ĐTBD CBCC và các nội dung của ĐTBD
CBCC ở CHDCND Lào.
4
5. Giả thuyết khoa học và câu hỏi nghiên cứu
- Giả thuyết khoa học:
Việc phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC ở CHDCND Lào chưa được
đẩy mạnh, tập trung vào một số cơ quan ở trung ương. Điều này làm cho hoạt
động ĐTBD CBCC thiếu tính chủ động, thiếu sự phù hợp với từng địa
phương cụ thể.Nếu phân cấp quản lý đối với hoạt động ĐTBD CBCC được
đẩy mạnh thì sẽ góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong ĐTBD CBCC của
CHDCND Lào.
- Câu hỏi nghiên cứu:
Phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC là gì? Gồm những nội dung nào?
Thực trạng phân cấp quản lý hoạt động ĐTBD CBCC ở CHDCND Lào
hiện nay như thế nào?
Để đẩy mạnh phân cấp quản lý hoạt động ĐTBD CBCC ở CHDCND
Lào thời gian tới thì cần thực hiện những phương hướng và giải pháp nào?
6. Những đóng góp mới của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận án có những đóng góp mới sau:
Một là, xây dựng khung lý thuyết về phân cấp quản lý trong ĐTBD
CBCC trên nền lý thuyết chung về quản lý ĐTBD và phân cấp quản lý hành
chính. Đây chính là đóng góp mới quan trọng của Luận án. Trong phần lý
thuyết đã làm rõ cơ sở xác định thẩm quyền của phân cấp cho cấp dưới là
thực tiễn phân cấp cũng như năng lực và mong muốn của cấp dưới trong tiếp
nhận thẩm quyền.
Hai là, đánh giá đúng thực trạng phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC
ở CHDCND Lào hiện nay, bao gồm những kết quả, hạn chế và nguyên nhân.
Ba là, kiến nghị xây dựng mô hình phân cấp quản lý trong ĐTBD
CBCC ở CHDCND Lào và coi đó như một giải pháp cụ thể. Trong mô hình
đã làm rõ vai trò của hai nhóm chủ thể là: Học viện Chính trị và Hành chính
quốc gia Lào, Trường chính trị và hành chính các tỉnh. Trong đó tác giả đề
5
xuất xu hướng “phân cấp trọn gói” nhằm tăng cường tính chủ động và tự
quyết trong quản lý ĐTBD CBCC bằng việc trao nhiều quyền hơn cho Học
viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào và trường chính trị và hành chính
cấp tỉnh trực tiếp ĐTBD CBCC.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
- Ý nghĩa khoa học:
Đề tài góp phần làm rõ cơ sở lý luận về phân cấp quản lý trong ĐTBD
CBCC. Đồng thời, đúc rút được kinh nghiệm phân cấp quản lý trong ĐTBD
CBCC ở một số quốc gia (Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản) để xem xét, vận
dụng trong điều kiện thực tiễn của CHDCND Lào.
- Ý nghĩa thực tiễn:
Đề tài đã đánh giá một cách toàn diện, hệ thống và khách quan về thực
trạng phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC ở CHDCND Lào hiện nay. Đồng
thời, đề xuất được một số quan điểm và giải pháp nhằm đẩy mạnh phân cấp
quản lý trong ĐTBD CBCC ở CHDCND Lào.
Kết quả nghiên cứu của luận án có giá trị tham khảo cho các cơ quan
QLNN và là tài liệu tham khảo cho các học viên nghiên cứu về các nội dung
liên quan.
8. Cấu trúc của luận án
Kết cấu luận án gồm: mở đầu,kết luận và 4 chương. Ngoài ra còn có
phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo.
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan
Chương 2. Cơ sở khoa học về phân cấp quản lý đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức
Chương 3. Thực trạng phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức ở CHDCND Lào
Chương 4. Phương hướng và giải pháp đẩy mạnh phân cấp quản lý
trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở CHDCND Lào
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
1.1. Các công trình nghiên cứu có liên quan
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức
Công tác ĐTBD nói chung và ĐTBD CBCC cho bộ máy nhà nước nói
riêng là vấn đề được nhiều tác giả trên thế giới quan tâm nghiên cứu ở nhiều
giác độ, nhiều môn khoa học khác nhau. Với các nước phát triển, hệ thống
công vụ và đội ngũ công chức đã được hình thành từ rất lâu đời và có tính ổn
định cao. Trong bối cảnh quốc tế luôn thay đổi, các nhà khoa học tập trung
nghiên cứu tính xã hội, sự uyển chuyển của hệ thống công vụ để đảm bảo
“công dân là khách hàng”.
- Luận án tiến sĩ của tác giả Lại Đức Vượng (2009), với tên đề tài là
“Quản lý nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng công chức hành chính trong giai
đoạn hiện nay”[32] đã nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận, đã hoàn thiện khái
niệm công chức hành chính và các khái niệm liên quan đến nội dung, phương
pháp QLNN. Đi sâu phân tích một cách hệ thống về sự hình thành và phát
triển công tác ĐTBD công chức hành chính và đánh giá thực trạng công tác
QLNN về ĐTBD công chức hành chính. Trình bày các nguyên tắc, đề xuất
phương hướng và đưa ra các giải pháp đồng bộ, mạnh mẽ nhằm nâng cao hiệu
lực, hiệu quả QLNN về ĐTBD công chức hành chính đáp ứng yêu cầu quản
lý mới và hội nhập kinh tế quốc tế. Luận án tập trung vào công tác QLNN về
ĐTBD công chức hành chính. Luận án sẽ cung cấp cơ sở để tìm hiểu hoạt
động phân cấp QLNN về ĐTBD công chức hành chính.Tuy nhiên, tác giả
chưa chỉ ra được các nội dung trong QLNN về ĐTBD công chức hành chính.
- Vũ Thanh Xuân (2013), chủ nhiệm đề tài “Cơ sở khoa học của việc
đào tạo, bồi dưỡng theo vị trí việc làm đối với công chức ngành nội vụ” [33]
7
đã khẳng định phương hướng ĐTBD theo vị trí việc làm cho công chức ngành
nội vụ phải phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính, với nhu cầu phát triển
nguồn nhân lực, kết hợp hài hòa với các hình thức đào tạo, bồi dưỡng khác.
Tuy nhiên, tác giả chưa làm rõ được sự khác nhau trong ĐTBD giữa các vị trí
việc làm trong ngành nội vụ.
Ở nước CHDCND Lào, vấn đề ĐTBD CBCC đáp ứng nhiệm vụ trong
giai đoạn mới đã được đề cập trong nhiều văn kiện của các kỳ Đại hội Đảng
Nhân dân Cách mạng Lào từ khoá IV đến khoá X. Bên cạnh đó là các công
trình nghiên cứu dưới hình thức các luận án, luận văn, bài viết trên các tạp chí
liên quan đến vấn đề cán bộ, xây dựng và đào tạo đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu
cầu xây dựng hệ thống chính trị ở CHDCND Lào thời kỳ đổi mới.
- “Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện
Trung ương quản lý ở CHDCND Lào trong thời kỳ đổi mới"của Khăm Phăn
Phôm Mạ Thắt (2005), Luận án tiến sĩ Khoa học chính trị chuyên ngành Xây
dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh [35]. Tác giả phân tích
những cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác ĐTBD đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý chủ chốt, đặc biệt là đối với đối tượng thuộc diện quản lý của Trung
ương, trong thời kỳ đổi mới, nhất là thích ứng với bối cảnh trong nước và thế
giới hiện nay. Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng của công tác ĐTBD
đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Trung ương quản lý, tác giả nêu
lên những vấn đề cấp bách phải giải quyết và đề xuất những phương hướng và
giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết những tồn tại, đẩy mạnh quá trình ĐTBD
cán bộ lãnh đạo chủ chốt với chất lượng hiệu quả ngày càng cao. Đây có thể
xem là nhữngluận cứ khoa học cho công tác ĐTBD đội ngũ cán bộ lãnh đạo
quản lý nói chung và đối với người lãnh đạo chủ chốt thuộc diện quản lý của
Trung ương nói riêng. Tác giả đã góp phần bổ sung và phát triển một cơ sở lý
luận về công tác đào tạo cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Trung ương
quản lý ở CHDCND Lào trong thời kỳ đổi mới.
8
- Khăm Phăn Vông Pha Chăn (2013), “Đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo
của hệ thống chính trị ở Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào hiện nay”, Luận án tiến
sĩ Chính trị học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh [36].
Theo tác giả, cán bộ lãnh đạo có vai trò quan trọng đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước Lào, việc đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo của hệ
thống chính trị là một nhiệm vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước CHDCND
Lào hiện nay. Ở CHDCND Lào, việc đào tạo cán bộ lãnh đạo trong hệ thống
chính trị tuy đã được Đảng và Nhà nước Lào quan tâm, nhưng công tác đào
tạo cán bộ lãnh đạo của hệ thống chính trị còn nhiều hạn chế, chưa có bước
đột phá và nâng cao hiệu quả đáp ứng các đòi hỏi đặt ra từ thực tiễn yêu cầu
chất lượng cán bộ lãnh đạo thời kỳ mới. Để nâng cao chất lượng đào tạo đội
ngũ cán bộ lãnh đạo của hệ thống chính trị đáp ứng với yêu cầu của sự nghiệp
đổi mới ở Lào hiện nay, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau: Tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với công tác đào tạo; gắn
đào tạo với quy hoạch và sử dụng cán bộ; đổi mới nội dung, chương trình,
phương thức ĐTBD; nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên trong các cơ sở
đào tạo; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật cho các cơ sở
đào tạo; xây dựng chế độ, chính sách đãi ngộ đối với người dạy và học, đồng
thời đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo.
Đối tượng nghiên cứu của luận án là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, nhưng
cách tiếp cận và nghiên cứu của tác giả là cách ĐTBD dành cho công chức.
- Dalyvan Khútavang: “Yêu cầu trong việc đào tạo cán bộ, công chức
chủ chốt trong cơ quan hành chính nhà nước trong thời kỳ mới”, số 6/2010,
Tạp chí Alunmai (tạp chí Lý thuyết và thực tiễn của Đảng Nhân dân cách
mạng Lào) [34]. Trong bài viết này, tác giả đặt ra một số yêu cầu trong công
tác ĐTBD CBCC chủ chốt trong cơ quan hành chính nhà nước, như yêu cầu
về trình độ, về phẩm chất đạo đức, về kỹ năng nghề nghiệp… Để nâng cao
chất lượng ĐTBD số cán bộ, công chức chủ chốt trong cơ quan hành chính
9
nhà nước, tác giả yêu cầu cần có sự phân cấp đào tạo, nghĩa là đối tượng cấp
nào thì được đào tạo nội dung gì, đào tạo ở đâu…
- Thoongchan Phetbounmy: “Quan tâm đặc biệt đối với công tác đào
tạo, bồi dưỡng thế hệ cán bộ, công chức trong tương lai”, số tháng 5/2011, tạp
chí Alunmai [37]. Tác giả bài viết cho rằng cần phải chuẩn bị điều kiện,
nguồn lực tốt cho việc phát triển nền hành chính, trong đó cần chú trọng đến
đội ngũ CBCC. Muốn vậy, ngay từ bây giờ cần phải quan tâm đặc biệt đến
công tác ĐTBD CBCC trong tương lai. Nghĩa là việc ĐTBD CBCC không
phải là giải pháp tình thế, phục vụ cho hiện tại trước mắt, mà phải là chiến
lược chuẩn bị cho tương lai.
Như vậy, đề cập đến công tác ĐTBD đội ngũ CBCC có rất nhiều công
trình, mỗi công trình có những cách tiếp cận khác nhau nhưng đều bàn về
công tác ĐTBD đội ngũ công chức; nội dung, hình thức, phương pháp bồi
dưỡng CBCC nhà nướcphù hợp với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính, nhiệm vụ
trọng tâm xây dựng nền hành chính quốc gia. Các công trình này đã chỉ ra
những hạn chế của nhà nước trong công tác ĐTBC CBCC, đề xuất những giải
pháp để nhà nước nâng cao chất lượng ĐTBC CBCC.
Các nghiên cứu về ĐTBD CBCC sẽ cung cấp cái nhìn toàn diện, đa
chiều về công tác ĐTBD CBCC. Từ đó giúp tác giả có thể tìm kiếm những
nội dung phù hợp với hướng nghiên cứu của đề tài luận án.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về phân cấp quản lý nhà nước
Cho đến nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã thực hiện phân cấp
QLNN. Tuy nhiên, tùy vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của từng nước
mà việc phân cấp này được xét theo giác độ chính trị hay kinh tế. Với các
quốc gia đa sắc tộc việc thực hiện phân cấp QLNN nhằm phục vụ cho mục
đích chính trị còn ở những quốc gia có nền chính trị thuần nhất và ổn định thì
việc phân cấp QLNN nhằm phục vụ cho mục đích kinh tế.
10
Thực tế, sự sụp đổ của nhiều quốc gia thực hiện chính sách tập trung
hoá quyền lực cao độ đã là những minh chứng cụ thể khẳng định việc phân
cấp để dẫn đến tham nhũng ở mức độ lớn và khó kiểm soát nền kinh tế vĩ mô
hơn. Còn ở những quốc gia có truyền thống phân cấp QLNN lâu đời thì tham
nhũng ít xảy ra hơn vì 3 lý do: Các cấp chính quyền phải giải trình nhiều hơn,
các cấp chính quyền cũng gần dân hơn và bởi vậy họ sẽ sử dụng kinh phí của
đất nước đúng mục đích hơn. Đã có nhiều công trình được các nhà khoa học
dày công nghiên cứu về vấn đề phân cấp QLNN.
- Ở Việt Nam, để đẩy mạnh cải cách hành chính, đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số
08/2004/NQ-CP ngày 30/6/2004 “về tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà
nước giữa Chính phủ và chịnh quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương”
[60], tập trung vào phân cấp nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm giữa Chính
phủ và chính quyền cấp tỉnh trên các lĩnh vực chủ yếu nhất có liên quan đến
tất cả các lĩnh vực khác là quản lý quy hoạch, kế hoạch, đầu tư; ngân sách nhà
nước; đất đai, tài nguyên, doanh nghiệp nhà nước; hoạt động sự nghiệp, dịch
vụ công; tổ chức bô máy, cán bộ, công chức.
- Đề tài “Thực hiện tốt sự phân cấp giữa chính quyền Trung ương với
chính quyền địa phương" do Viện Quản lý kinh tế Trung ương thực hiện. Đề
tài đã xem xét phân tích xu thế phân cấp trong cải cách hành chính nhà nước
hiện nay, trong đó lý giải các nguyên nhân khiến phân cấp trở thành xu thế tất
yếu của thời đại ngày nay, đặc biệt trong bối cảnh cải cách hành chính nhà
nước. Nhóm tác giả cũng phân tích các ưu điểm và nhược điểm của phân cấp
cùng các điều kiện tiến hành phân cấp thành công trên thực tế. Đề tài phân
tích thực trạng phân cấp QLNN thông qua việc xem xét những chủ trương về
phân cấp quản lý từ trung ương xuống địa phương; đánh giá tình hình phân
cấp giữa Chính phủ và chính quyền cấp tỉnh trên một số lĩnh vực như: quy
hoạch, kế hoạch; đầu tư xây dụng kết cấu hạ tầng cơ sở; ngân sách; quản lý
11
đất đai, tài nguyên, khoáng sản; quản lý doanh nghiệp nhà nước; quản lý các
đơn vị cung ứng dịch vụ công; về tổ chức bộ máy và nhân sự. Như vậy,đề tài
đã đánh giá thực trạng phân cấp trong công tác tổ chức bộ máy và quản lý
nhân sự ở Việt Nam trong thời gian vừa qua nhưng mới chỉ mang nét chấm
phá, khái quát. Dựa trên những đánh giá và bài học rút ra, nhóm nghiên cứu
đề xuất 5 nhóm giải pháp đẩy mạnh phân cấp, bao gồm: Nhận thức đúng việc
phân cấp trong hệ thống hành chính nhà nước; làm rõ nội dung QLNN trong
cơ chế thị trường của mỗi cấp trong hệ thống hành chính nhà nước; Phân định
rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ mỗi cấp trong hệ thống hành chính; Thực hiện
nghiệm túc các nguyên tắc đã được quy định về phân cấp và tăng cường
ĐTBC CBCC các cấp chính quyền ở địa phương.
Một số tổ chức quốc tế và cơ quan các nước đã tổ chức bàn về đổi mới
cơ chế quản lý, đẩy mạnh phân công, phân cấp trong quản lý nhân sự và thu
hút được sự quan tâm của nhiều nhà quản lý và nhà khoa học. Chuỗi tọa đàm
về “Phân cấp quản lý và quản trị địa phương” do Học viện Hành chính phối
hợp với chuyên gia của tổ chức hợp tác kỹ thuật Bỉ (BTC) tổ chức trong
thờigian từ 2008-2010 đã và dự kiến xem xét các khía cạnh của phân cấp như
các vấn đề chung về phân cấp, trong đó phân biệt giữa phân quyền và tản
quyền; để thực thi quy trình phân cấp quản lý; phân cấp quản lý và quá trình
toàn cầu hóa. Hội thảo "Quản trị địa phương” thuộc Đại hội khối Pháp ngữ tại
Việt Nam tổ chức ngày 26-27 tháng 3 năm 2009 tại Hà Nội đã xem xét đến
vấn đề thẩm quyền của các cấp chính quyền địa phương trong phát triển bền
vững; trong các cuộc “Hội cấp chính quyền địa phương trong phát triển bền
vững. Trong các cuộc hội thảo này, các đại biểu đều nhất trí phân cấp quản lý
nói chung và phân cấp quản lý là giải pháp quan trọng để nâng cao hiệu lực,
hiệu quả của hành chính công. Những kết quả nghiên cứu trên cho thấy:
Những đề tài nghiên cứu khoa học trên chủ yếu nghiên cứu về phân cấp
QLNN nói chung, chưa nghiên cứu chuyên sâu về phân cấp quản lý ĐTBC
12
CBCC; Các công trình nghiên cứu chủ yếu mới tập trung vào hệ thống giải
pháp công tác quản lý CBCC nói chung chứ chưa tập trung nhiều vào giải
pháp đẩy mạnh phân cấp ĐTBC CBCC hoặc nếu có nghiên cứu thì mới chỉ
chú ý đến những mảng nội dung nhất định. Một số nghiên cứu đã xem xét vấn
đề phân cấp quản lý CBCC, chủ yếu tiếp cận dưới giác độ của quy định pháp
luật mà chưa đi thưc hiện các quy định về phân cấp trên thực tế.
- Một tài liệu quan trọng, không thể thiếu khi nghiên cứu về phân cấp
QLNN là cuốn tài liệu “Phân cấp quản lý nhà nước - Lý luận và thực tiễn”
của tác giả Võ Kim Sơn [20]. Theo tác giả, có thể hiểu về phân cấp trong hoạt
động quản lý hành chính nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp cho
ác tổ chức tạo nên bộ máy hành chính nhà nước. Đó là phân công thực thi
quyền lực nhà nước thuộc lĩnh vực quyền hành pháp. Điều này gắn liền với cơ
cấu tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; gắn liền với hệ thống cơ cấu tổ
chức mang tính thứ bậc; là sự chuyển giao quyền thực thi quyền hành pháp từ
tổ chức nhà nước ở cấp này sang tổ chức khác hay là sự chuyển giao một số
chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn từ cấp trên cho cấp dưới.
Trên cơ sở tìm hiểu cơ sở lý luận về phân cấp trong quản lý hành
chính nhà nước: Phân quyền trong lý thuyết quyền lực nhà nước, các hình
thức phân cấp quản lý hành chính nhà nước, phân cấp việc sử dụng nguồn
ngân sách nhà nước - nguồn thu và quyền cho trong hoạt động quản lý hành
chính nhà nước, phân cấp hoạt động cung cấp dịch vụ công hay phân cấp
chức năng thứ hai của các cơ quan hành chính nhà nước; vấn đề phân cấp
quản lý hành chính nhà nước ở Việt nam từ năm 1945 đến năm 2003 theo
quy định của Hiến pháp, theo luật tổ chức Chính phủ và luật tổ chức chính
quyền địa phương, tác giả đã đưa ra những nhận xét về phân công, phân cấp
hoạt động quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam cả những kết quả đã đạt
được và những vấn đề còn hạn chế như sựchồng chéo hoạt động quản lý nhà
nước trên các lĩnh vực giữa các bộ, cơ quan ngang bộ và cơ quan thuộc
13
Chính phủ. Tác giả cho rằng, đây là một trong những vấn đề phức tạp nhất
của sự phân công trách nhiệm hoạt động QLNN đối với ngành, lĩnh vực;
hoạt động QLNN trên một số lĩnh vực chưa được quy định cụ thể cho bộ, cơ
quan ngang bộ nào thực hiện…
Để thực hiện đẩy mạnh phân cấp trong hoạt động quản lý hành chính
nhà nước, tác giả đã đưa ra những luận giải cho thấy phân cấp hoạt động quản
lý hành chính nhà nước mang tính tất yếu, từ đó đưa ra một số nội dung cần
quan tâm nhằm thúc đẩy và nâng cao hiệu quả của phân cấp hoạt động quản
lý hành chính nhà nước từ các nguyên tắc cần tuân thủ đến sự định hướng của
Đảng và Nhà nước Việt Nam trong quá trình phân công, phân cấp hoạt động
quản lý hành chính nhà nước.
Như vậy, các công trình nghiên cứu về phân cấp QLNN đã cung cấp
cho tác giả khái niệm và nội dung trong phân cấp QLNN. ĐTBD CBCC là
một nội dung cũng cần sự phân cấp quản lý.
Để hoạt động ĐTBD có hiệu quả, việc phân cấp quản lý đã được nhiều
tác giả nghiên cứu.
- Nguyễn Ngọc Vân làm chủ nhiệm đề tài “Nghiên cứu luận cứ khoa
học và giải pháp thực hiện phân công, phân cấp đào tạo, bồi dưỡng theo chức
danh cán bộ, công chức nhà nước” [27], đã chỉ rõ hoạt động phân công, phân
cấp ĐTBD theo chức danh CBCC nhà nước là yếu tố bảo đảm tính khoa học
của công tác ĐTBD và khẳng định tính khách quan phải thực hiện phân cấp.
Thực tế cho thấy, công tác ĐTBDCBCC của cả hệ thống các cơ sởĐTBD ở
Việt Nam hiện nay mới chỉ tập trung vào các đối tượng CBCC theo tiêu
chuẩn ngạch, còn việc ĐTBD theo chức danh rất ít. Chính vì vậy, việc phân
công, phân cấp ĐTBD theo chức danh cần được thực hiện để đảm bảo tính
phân tầng kiến thức và tính chuyên sâu trong hoạt động ĐTBD CBCC.
14
- Cuốn sách “The School Management Initiative” (Sáng kiến quản lý
nhà trường) của nhóm tác giả thuộc Education and Manpower Branch and
Education Department (1991), Government Printer, Hong Kong [43].
Tài liệu này trình bày một cách có hệ thống chương trình quản lý thay
đổi ở cấp trường. Nó giải thích việc xây dựng chính sách, thực hiện và đánh
giá trong bộ máy của chính phủ và sau đó mô tả những thay đổi cụ thể được
đề xuất trong phạm vi tổ chức và nội bộ tổ chức.
Tài liệu xem xét các vấn đề chính sách và quản lý ở cấp trường và đưa
ra 18 khuyến nghị cụ thể để tăng cường quản lý hiệu quả cho giáo dục ở cấp
trường. Đây là đề xuất của nhóm nghiên cứu liên quan đến các trường học, có
giá trị tham khảo đối với Ủy ban Giáo dục, Hội đồng Giáo dục, Hội đồng
trường học và các cơ quan có liên quan khác về quản lý giáo dục.
- Bài “Education and Decentralization” (Giáo dục và phân cấp) của World
Bank, đăng trên website
https://www.ciesin.columbia.edu/decentralization/English/Issues/Education.html
Hiện nay có xu hướng toàn cầu hóa việc phân cấp các hệ thống giáo
dục. Hầu hết các quốc gia đang thử nghiệm hoặc cân nhắc một số hình thức
phân cấp giáo dục. Quá trình chuyển quyền hạn ra quyết định từ Bộ Giáo dục
Trung ương sang chính quyền địa phương, cộng đồng và trường học. Mức độ
chuyển đổi khác nhau từ phân ly hành chính sang chuyển tiếp rộng rãi hơn về
kiểm soát tài chính sang cấp khu vực hoặc địa phương. Mặc dù có những lý
thuyết vững chắc cho việc phân cấp các hệ thống giáo dục, quá trình này đòi
hỏi sự cam kết chính trị mạnh mẽ và sự lãnh đạo để thành công. Con đường,
chiều sâu và kết quả cuối cùng, kết quả của các cuộc cải cách về phân quyền
phụ thuộc vào động lực cải cách, điều kiện ban đầu của quốc gia và ngành, và
sự tương tác của các liên minh quan trọng trong ngành.
- Tác giả Cathy Gaynor viết cuốn “Decentralization of Education”
(Phân cấp giáo dục) năm 1998, The World Bank Washington, D.C [38].
15
Cuốn sách này là một trong một loạt các vấn đề trong việc tái cấu trúc
hệ thống giáo dục. Là một phần của giáo dục và cải cách khu vực công, nhiều
quốc gia đang phân cấp việc cấp phát và quản lý các dịch vụ giáo dục cho các
cấp khu vực, địa phương hoặc trường học. Mục tiêu của cuốn sách này là để
hỗ trợ các nhà hoạch định chính sách tinh chỉnh chiến lược và lựa chọn giữa
các phương án có thể để tái cơ cấu hệ thống. Cải cách hệ thống không phải là
sự kiện một lần, mà là một quá trình liên tục thay đổi, đánh giá, và thay đổi
theo nhu cầu của thời điểm cụ thể và các quốc gia cụ thể. Giáo dục tốt nằm
trong tay của lực lượng giảng dạy, và thay đổi hệ thống đòi hỏi sự thay đổi
trong thực tiễn phát triển của giáo viên. Trong nhiều trường hợp giáo viên,
các tổ chức nghề nghiệp, công đoàn và chính phủ không đồng ý về mục đích
và kết quả cải cách. Những thay đổi trong quản lý giáo viên có thể giúp cải
thiện việc dạy và học.
- Péter Radó (2010), “Governing Decentralized Education Systems -
Systemic Change in South Eastern Europe” (Quản trị hệ thống giáo dục phi tập
trung - Thay đổi hệ thống ở Đông Nam Âu), Printed in Budapest, Hungary [50].
Có hai hệ thống con của ngành giáo dục, trong đó phân cấp phải được
giải quyết theo một cách khác: giáo dục đại học và học tập của người lớn.
Trong giáo dục đại học, sự phân quyền xuất hiện như là hai vấn đề liên quan
đến nhau: (1) tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học, (2) mức độ mà các cơ
quan quản lý và kiểm soát chất lượng thực sự thực hiện bởi chính quyền trung
ương được triển khai tới các khuôn khổ hợp tác giáo dục đại học Tổ chức
hoặc chính các tổ chức. Về phân cấp, những vấn đề liên quan đến giáo dục
sau trung học gần gũi hơn với giáo dục mầm non. Về các chức năng quy định
(ví dụ, yêu cầu đối với người lớn, trong một môi trường tối ưu, là giống hệt
nhau, hoặc ít nhất là một phần giống nhau, với những quy định cơ bản cho
thành phần giáo dục chính thức của giáo dục và dạy nghề (VET). Liên quan
đến các khía cạnh khác của học tập dành cho người lớn: (1) chúng liên quan
16
nhiều hơn đến việc phân cấp hoặc phân cấp dịch vụ lao động so với giáo dục;
(2) đến một mức độ lớn, dịch vụ học tập dành cho người lớn được cung cấp
bởi các tổ chức đào tạo trên thị trường đào tạo như các dịch vụ kinh doanh;
(3) các chính sách liên quan đến thúc đẩy việc học tập ở người lớn ở nơi làm
việc là các biện pháp điều chỉnh hoặc các biện pháp khuyến khích tài chính
mà các bên quản lý cấp dưới có rất ít làm; Và (4) một phần lớn các hoạt động
học tập dành cho người lớn được cung cấp bởi các dịch vụ văn hoá hoặc các
phương tiện truyền thông. Do đó, giáo dục bậc cao và học tập dành cho người
lớn không đề được đề cập trong cuốn sách này. Khi thừa nhận rằng giáo dục
và đào tạo nghề là một phần của hệ thống trường trung học, các thành phần
chuyên nghiệp (trái với các thành phần giáo dục phổ thông của VET) sẽ được
thảo luận chỉ liên quan đến những vấn đề mà sự phân cách của họ sẽ là vấn đề
quá mức trong trường hợp điều chỉnh nội dung. Do đó, cuốn sách này chỉ đề
cập đến những cấp độ giáo dục liên quan đến những người có trình độ thấp có
thể có một nhiệm vụ đáng kể: giáo dục mầm non, giáo dục tiểu học, trung học
phổ thông, và phân đoạn giáo dục chính thức của giáo dục và dạy nghề. Ngoài
ra, cuốn sách này còn giới thiệu hệ thống giáo dục tiểu học và trung học tư
thục: trường học thuộc sở hữu của các tổ chức phi chính phủ, nhà thờ, doanh
nghiệp, hoặc các chính phủ nước ngoài. Số trường tư thục ở Đông Nam Âu
không đáng kể, và vai trò của các nhà quản lý giáo dục địa phương liên quan
đến các chủ thể tự trị này là rất hạn chế.
- Luận án của Eunice Heredia-Ortiz (2006), “The Impact of Education
Decentralization on Education Output: A Cross-Country Study” (Tác động
của phân cấp giáo dục đối với đầu ra giáo dục: Nghiên cứu xuyên quốc gia),
Georgia State University [46].
Luận án này khảo sát tác động của việc phân cấp chi tiêu và cơ quan ra
quyết định trong lĩnh vực giáo dục về chất lượng giáo dục tiểu học được cung
cấp công khai. Phân cấp trong giáo dục có thể từ tập trung quyền quản trị để
17
kiểm soát tài chính toàn diện hơn, và nó có thể mở rộng qua tất cả các chức
năng giáo dục. Trong luận án này tác giả định nghĩa thuật ngữ "phân cấp giáo
dục" có nghĩa là quá trình chuyển giao tài chính và ra quyết định quyền lực,
từ cấp cao hơn đến cấp thấp hơn của chính phủ và các đơn vị tổ chức, ảnh
hưởng cách thức các hệ thống trường học đưa ra chính sách về việc tạo ra và
chi tiêu nguồn lực; tổ chức giảng dạy (chương trình giảng dạy, sách giáo
khoa, phương pháp giảng dạy, lịch trình); nhân viên quản lý (thuê/sa thải, quy
mô lương, phân công nhiệm vụ giảng dạy, đào tạo); lập kế hoạch và quản lý
các trường công.
Một số nhà nghiên cứu gợi ý rằng nguồn nhân lực - dưới dạng số lượng
chất lượng đào tạo - đóng một vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế và
tăng thu nhập bình quân đầu người. Giáo dục không chỉ giúp cải thiện thu
nhập (và thu nhập tiềm năng) nhưng nó cũng có khả năng trao quyền cho các
cá nhân; Giáo dục cho phép các cá nhân tham gia ở chính quyền địa phương
và quốc gia, nó cung cấp các kỹ năng và kiến thức để cải thiện chất lượng
cuộc sống và để trở nên hiệu quả hơn. Vì vậy, số liệu về phân cấp giáo dục có
thể cải thiện kết quả liên quan đến cung cấp giáo dục bởi nó có thể giúp cho
việc quản trị tốt hơn.
Mô hình của tác giả điều tra trực tiếp và gián tiếp ảnh hưởng đến việc
phân cấp chi tiêu giáo dục và ra quyết định có thể có (tích cực hoặc tiêu cực)
về dịch vụ giáo dục ở cấp tiểu học. Cụ thể, tác giả điều tra tác động trực tiếp
của phân cấp giáo dục đến các chỉ số đầu ra giáo dục và những ảnh hưởng
gián tiếp tiềm ẩn thông qua các đầu vào của gia đình và trường học.
Mô hình nghiên cứu của luận án tác động phân cấp giáo dục lên giáo
dục tiểu học. Luận án đánh giá các chỉ số khác nhau của giáo dục tiểu học, cụ
thể là đo lường sự tiếp cận với giáo dục thông qua việc nhập học; qua tỷ lệ bỏ
học và tỷ lệ lặp lại và tỷ lệ hoàn thành; học sinh học tập thông qua điểm thi.
18
1.2. Đánh giá các công trình nghiên cứu có liên quan
1.2.1. Nhận xét
Khái quát chung, các công trình có liên quan đã nghiên cứu những khía
cạnh khác nhau về phân cấp QLNN đối với ĐTBD CBCCtrong bộ máy nhà
nước nói chung và trong hệ thống chính trị ở CHDCND Lào nói riêng, góp
phần làm rõ hơn quan niệm phân cấp QLNN về ĐTBD CBCC. Các nhà khoa
học với tư cách là những chủ thể sáng tạo, nghiên cứu, khảo sát, phân tích
khái quát nêu trên đều cố gắng giải quyết những vấn đề căn cốt của phân cấp
QLNN về ĐTBD CBCC với những mức độ khác nhau, qua những công trình
đó, có thể tổng quan lại những vấn đề sau đây:
Một là, về hoạt động ĐTBD nhằm nâng cao chất lượng của đội ngũ
công chức để đáp ứng các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước đã được học giả
các nước đề cập từ lâu và được xem xét trên nhiều giác độ khác nhau và hiện
nay tính xã hội của hoạt động thi hành công vụ đang được nhấn mạnh. Tuy
nhiên, ở các nước không có khái niệm "cán bộ, công chức" và những nghiên
cứu về tính chuyên nghiệp của công chức hành chính thì chưa được đề cập rõ
ràng, cụ thể.
Hai là, ở Việt Nam hiện nay có một số công trình nghiên cứu liên quan
đến vấn đề phân cấp QLNN về đào tạo nhưng là đào tạo nguồn nhân lực cho
xã hội, không phải là đào tạo CBCC (nghĩa là nguồn nhân lực công cho bộ
máy nhà nước hoặc hệ thống chính trị). Ở CHDCND Lào thì gần như chưa có
công trình nào nghiên cứu về phân cấp quản lý ĐTBD CBCC.
Ba là, các nhà khoa học đã chỉ ra được nội dung và giải pháp để đẩy
mạnh phân cấp QLNN về giáo dục và đào tạo. Tuy đối tượng không phải là
CBCC nhưng điều này rất có giá trị, giúp cho tác giả luận án có thể tiếp thu
có chọn lọc những giá trị hợp lý trong việc nghiên cứu nội dung và giải pháp
phân cấp QLNN đối với ĐTBD CBCC.
19
Bốn là, các công trình đã đề cập đến một số khái niệm liên quan: “phân
cấp quản lý nhà nước”, “đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức”, quản lý nhà
nước về đào tạo, bồi dưỡng”… Điều này giúp tác giả thuận lợi trong việc tiếp
cận khái niệm trung tâm: “phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức”.
Tuy nhiên, có thể khẳng định chưa có công trình nào nghiên cứu về
phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC. Vì vậy khoảng trống tri thức về vấn đề
này còn khá lớn.
1.2.2. Định hướng nghiên cứu của luận án
Những công trình nêu trên đã cung cấp những tư liệu, nội dung quan trọng
và cách tiếp cận cho luận án với đề tài phân cấp quản lý ĐTBD CBCC. Tuy
nhiên, nghiên cứu trực tiếp, cụ thể về phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC còn
rất hạn chế. Ở CHDCND Lào, vấn đề này lại càng ít được nghiên cứu. Có thể
nói vấn đề phân cấp quản lý ĐTBD CBCC ở CHDCND Lào là đề tài mang tính
thời sự, là khoảng trống trong nghiên cứu khoa học. Chính vì vậy, việc thực hiện
đề tài này là cần thiết xét trên cả phương diện lý luận và thực tiễn.
Từ việc phân tích, đánh giá những kết quả đạt được và những khoảng
trống trong nghiên cứu của các công trình nêu trên, có thể xác định hướng
nghiên cứu về phân cấp quản lý trong ĐTBD, CBCC như sau:
Một là, nghiên cứu góp phần hoàn thiện khung lý thuyết về phân cấp
quản lý ĐTBD, CBCC
Có một số công trình đã nghiên cứu cơ sở lý thuyết về phân cấp quản lý
về giáo dục và đào tạo hoặc phân cấp về ĐTBD, CBCC; nghiên cứu về phân
cấp quản lý nhà nước và phân cấp trong ĐTBD CBCC. Những công trình đó
đã cung cấp khái niệm liên quan, những sự gợi mở cho đề tài luận án nhưng
chưa có công trình nào nghiên cứu, đề cập về quản lý trong ĐTBD CBCC. Do
đó, chưa có công trình nào làm sáng tỏ về khái niệm, sự cần thiết phải phân
cấp quản lý và nội dung phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC.
20
Cần khẳng định rằng việc tăng cường phân cấp quản lý trong ĐTBD,
CBCC sẽ có tác động trực tiếp đến hiệu quả, chất lượng của hoạt động
ĐTBD, CBCC trong điều kiện hiện nay. Tuy nhiên việc làm này phải được
dựa trên nền tảng khoa học, bao gồm hệ thống lý thuyết về phân cấp quản
lýtrong ĐTBD, CBCC.
Hai là, nghiên cứu tổng kết thực tiễn về phân cấp quản lý ĐTBD
CBCC.
Có nhiều công trình tổng kết thực tiễn ĐTBD CBCC của các quốc gia
trên thế giới để rút ra bài học cho CHDCND Lào trong việc ĐTBD CBCC;
nghiên cứu, phân tích, đánh giá về thực trạng phân cấp ĐTBD CBCC. Tuy
nhiên chưa có công trình nào tổng kết thực tiễn phân cấp quản lý trong ĐTBD
CBCC của các nước để có thể vận dụng cho việc phân cấp quản lý trong
ĐTBD CBCC ở CHDCND Lào; cũng chỉ ra được kết quả và hạn chế hoặc
những vấn đề đặt ra trong việc phân cấp quản lý ĐTBD CBCC ở CHDCND
Lào hiện nay.
Nghiên cứu một cách hệ thống về phân cấp quản lý trong ĐTBD,
CBCC trên các phương diện:thể chế, chính sách, tổ chức bộ máy, nguồn nhân
lực, thanh tra, kiểm tra. Đánh giá một cách khách quan, khoa học hiệu lực,
hiệu quả của việc phân cấp quản lý trong ĐTBD, CBCC trên cơ sở phân tích
những ưu điểm, những hạn chế và chỉ ra nguyên nhân của những tồn tại bất
cập trong phân cấp quản lý trong ĐTBD, CBCC.
Ba là, nghiên cứu ứng dụng giải pháp vào thực tiễn phân cấp quản lý
ĐTBD CBCC
Một số công trình đã đề xuất giải pháp nhằm đẩy mạnh phân cấp quản
lý hoặc phân cấp ĐTBD CBCC nhưng chưa có công trình nào đề xuất giải
pháp đẩy mạnh phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC. Vì vậy xây dựng luận
cứ khoa học cho việc đề xuất giải pháp nhằm tăng cường phân cấp quản lý
trong ĐTBD, CBCC ở CHDCND Lào hiện nay.
21
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Qua việc tổng quan các công trình có liên quan đến đề tài"Phân cấp
quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở Cộng hòa dân chủ nhân
dân Lào", có thể thấy rằng đây là vấn đề chưa được nghiên cứu nhiều. ĐTBD
nguồn nhân lực xã hội và ĐTBD CBCC là khác nhau, do đó việc quản lý 2
nội dung này cũng khác nhau. Phân cấp quản lý hành chính có rất nhiều công
trình nghiên cứu nhưng phân cấp quản lý ĐTBD CBCC thì còn là một khoảng
trống nhất định.
Mặc dù có rất ít công trình nghiên cứu đề cập đến phân cấp quản lý
ĐTBD CBCC nhưng các công trình nghiên cứu về phân cấp quản lý hành
chính và phân cấp quản lý giáo dục - đào tạo đã cung cấp những nội dung có
thể tham khảo, đó là nội dung và giải pháp để đẩy mạnh phân cấp QLNN về
giáo dục và đào tạo, một số khái niệm có thể tham khảo như: “phân cấp quản
lý nhà nước”, “đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức”, quản lý nhà nước về
đào tạo, bồi dưỡng”.
Cũng qua tổng quan, các công trình đãgiúp tác giả nghiên cứu góp phần
hoàn thiện khung lý thuyết về phân cấp quản lý ĐTBD, CBCC; nghiên cứu
tổng kết thực tiễn về phân cấp quản lý ĐTBD CBCC;nghiên cứu ứng dụng
giải pháp vào thực tiễn phân cấp quản lý ĐTBD CBCC.
22
Chương 2
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ ĐÀO TẠO,
BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
2.1. Một số vấn đề chung về phân cấp quản lý
2.1.1. Khái niệm phân cấp quản lý
Do tính đa nghĩa của thuật ngữ phân cấp/phân quyền nên có nhiều tài
liệu đưa ra những định nghĩa khác nhau. Tùy thuộc vào mục đích sử dụng từ
này, mỗi một nhà nghiên cứu có những cách tiếp cận khác nhau.
Phân cấp, phân quyền, phi tập trung - gọi chung là phân cấp
(decentralization) trong nhiều thập kỷ qua đã trở thành chính sách ưu tiên của
nhiều nhà làm chính sách trong các tổ chức nhà nước cũng như các tổ chức
lớn. Tuy nhiên một sự khác nhau rất lớn khi nghiên cứu các mức độ về phân
cấp giữa các nước cũng như giữa các tổ chức. Chính vì vậy, để hiểu một cách
toàn diện thuật ngữ này, cần tiếp cận nghiên cứu về nó trên nhiều cách hơn là
chỉ xem xét một khía cạnh riêng lẻ nào. Mỗi một nhà nghiên cứu có thể xem
xét dưới một dạng cụ thể [39].
Phân cấp là sự phân phối chức năng hành chính hay quyền lực hành chính
vốn tập trung ở trung ương (của trung ương) cho các cơ quan địa phương.
Theo Ronidelli và cộng sự, phân cấp là sự chuyển giao trách nhiệm lập
kế hoạch, quản lý, tạo nguồn lực và phân bổ chúng từ chính phủ đến các cơ
quan của chính phủ tại địa phương; cho các cơ quan cấp dưới ở địa phương;
cơ quan bán công hay doanh nghiệp nhà nước hoặc cho đơn vị sự nghiệp hay
cho tổ chức phi chính phủ. Với cách tư duy này, những chức năng, nhiệm vụ
và quyền hạn của cơ quan nhà nước trung ương có thể được chuyển giao cho
nhiều loại cơ quan khác theo nhiều hình thức khác nhau[40], [41].
23
Phân cấp được hiểu như là sự trao quyền từ chính phủ trung ương
những chức năng cụ thể liên quan đến hành chính, kinh tế và chính trị cho
những cơ quan độc lập trên một vùng lãnh thổ nhất định [48].
Phân cấp là một hiện tượng phức tạp liên quan đến nhiều chủ thể ở
nhiều cấp độ khác nhau và từ nhiều khu vực xã hội. Phân cấp là một hiện
tượng phức tạp bao gồm các chức năng và quan hệ hành chính, tài chính và
chính trị [51].
Trên phương diện quản lý một tổ chức, thuật ngữ phân cấp luôn được
xem xét dưới giác độ thực hiện các hoạt động của tổ chức đó thông qua quyền
đưa ra các quyết định có liên quan đến tổ chức. Những quyết định liên quan
đến nhiều lĩnh vực, mà tổ chức phải thực hiện để đạt được mục tiêu của tổ
chức. Chính vì vậy, nhiều tác giả nghiên cứu nội dung của phân cấp thường
xem xét các khía cạnh liên quan đến các yếu tố để cho một tổ chức tồn tại,
vận động và phát triển. Do đó, phân cấp, phân quyền luôn gắn liền với những
quyết định xung quanh các vấn đề: Chính trị hay cơ chế lãnh đạo, quản lý; Tài
chính; Nhân sự; Tổ chức; Quan hệ; Thị trường; Sản xuất và dịch vụ.
Một số nhà nghiên cứu, xem xét khía cạnh của thuật ngữ này nhấn
mạnh đến tính không được tập trung làm quyết định bởi một cá nhân hay một
tổ chức riêng lẻ nhất định.
Trong một công trình nghiên cứu dưới giác độ của quản lý, thuật
ngữphân cấp được tiếp cận theo quan điểm quản lý và do đó luôn gắn liền
với quá trình ra quyết định và các loại quyết định được ban hành. Theo tài
liệu của Liên hợp quốc, phân cấp/phân quyền gắn liền với việc tổ chức hoặc
cơ cấu lại quyền hạn của cả hệ thống nhằm hướng đến đồng trách nhiệm của
các cơ quan từ trung ương đến tận địa phương trong quản lý. Đồng thời đó
cũng là quá trình xây dựng năng lực của các cơ quan, tổ chức được phân
quyền [51].
24
Tài liệu của Ngân hàng thế giới, phân cấp được hiểu theo nghĩa của quá
trình chuyển giao quyền hạn và trách nhiệm các chức năng, nhiệm vụ của khu
vực công từ chính phủ trung ương (cấp trên) cho chính quyền cấp dưới, cho
các tổ chức khác bên ngoài nhà nước. Cách tiếp cận này được nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm. Sự quan tâm bởi lý do cơ bản là phân cấp không chỉ
xẩy ra trong tổ chức (nội bộ tổ chức) mà còn cho cả các tổ chức thuộc bên
ngoài tổ chức. Đây cũng chính là vấn đề đã và đang được quan tâm là xã hội
hóa (Việt Nam) hay tư nhân hóa (các nước) các hoạt động vốn của nhà nước
chuyển ra bên ngoài khu vực nhà nước.
Các học giả nghiên cứu cụm từ Decentralization, có những cách giải
thích khác nhau. Tuy nhiên, đều chứa đựng:
- Gắn với cách thức tổ chức một tổ chức (nhà nước hay khu vực tư
nhân). Tức gắn liền với cơ cấu tổ chức;
- Phân chia thành các bộ phận khác nhau với chức năng, nhiệm vụ và
quyền hạn cụ thể;
- Mối quan hệ giữa các bộ phận đó với nhau.
Đặc biệt các học giả đều tập trung khía cạnh quan trong nhất là quyền
được quyết định trên những lĩnh vực gì; vấn đề gì. Đó là Decentralization-
phân cấp, phân quyền.
Phân cấp là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến ở Việt Nam. Tuy
nhiên, cách sử dụng và nội hàm của cụm từ này cũng rất khác nhau.
Nhóm dịch giả quyển sách “Từ duy trì đến phục vụ” thuật ngữ
“decentralization” coi Decentralization là phi tập trung. Phi tập trung nhiều nộn
dung, trong đó gắn với phi tập trung quyết định quản lý trong bộ máy hành
chính nhà nước. Chuyển các quyết định vốn chỉ cơ quan hành chính nhà nước
trung ương mới có quyền, xuống cho chính quyền địa phương các cấp [20].
Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành trung ương lần thứ 9 (khóa IX) bàn
về đổi mới quản lý kinh tế sử dụng đồng thời hai thuật ngữ “phân cấp, phân
25
quyền”. Tuy nhiên, nội dung cơ bản cũng nhằm hướng đến tổ chức lại bộ máy
quản lý nhà nước về kinh tế và trao quyền cho các cấp chính quyền địa
phương khác nhau; các cơ quan khác nhau để đưa ra các quyết định cần về
hoạt động kinh tế [54].
Luật tổ chức chính quyền địa phương Việt Nam năm 2015, khi quy định
về quyền hạn của chính quyền địa phương các cấp sử dụng 4 từ khác nhau:
- Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương trong văn bản
pháp luật;
- Phân quyền cho chính quyền địa phương;
- Phân cấp cho chính quyền địa phương;
- Ủy quyền cho chính quyền địa phương [58].
Tuy nhiên, theo cách các học giả sử dụng (Dennis A. Rondinelli), cả 4
cách nêu trên đều chính là những dạng khác nhau của phân cấp
(decentralization). Do đó, mặc dù sử dụng nhiều cụm từ khác nhau, về bản
chất vấn là xác định quyền quyết định cấc vấn đề cho các cấp chính quyền địa
phương theo pháp luật quy định. Đó chính là phân quyền/phân cấp pháp lý.
Mặt khác, theo nhiều học giả, các tổ chức thuộc bộ máy nhà nước có
những quyền lực nhất định trong mối quan hệ của cả bộ máy nhà nước được
trao thông qua văn bản pháp luật. Đó là cách thức pháp lý để trao quyền cho
từng chủ thể khác nhau.
Thuật ngữ Decentralization với các nghĩa, nhưng phân quyền ít được sử
dụng ở Việt Nam. Tính chất đặc biệt của thế chế nhà nước Việt Nam là
"Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp"[55]. Trong điều liên quan đến quyền lực nhà nước, Hiến pháp
không sử dụng cụm từ “phân quyền- decentralization”, nhưng nội hàm của sự
phân công, phối hợp,v.v, thể hiện một trong các nội hàm của phân quyền. Ai
làm gì; quy định ở đâu.
26
Theo Võ Kim Sơn, phân cấp trong hoạt động quản lý hành chính nhà
nước theo nghĩa hạn chế ở khía cạnh thực thi quyền hành pháp. Điều này
cũng phù hợp với xu hướng đang được xem xét của thế giới khi nói về cải
cách hành chính theo đúng nghĩa cải cách hành pháp. Đó là sự chuyển giao
quyền quyết định trên nhiều lĩnh vực khác nhau cho các cơ quan hành chính
nhà nước từ trung ương và địa phương [20].
Nghiên cứu phân cấp quản lý trong một tổ chức hay một ngành thực
chất là hình thành các chủ thể khác nhau cùng thực hiện những nhiệm vụ cụ
thể của tổ chức hay ngành được giao và gắn với đó là trao cho các chủ thể đó
những quyền quyết định trên những lĩnh vực nhất định.
Như vậy, phân cấpquản lý được hiểu là sựphân định thẩm quyền, trách
nhiệm trong quản lý của cơ quan cấp trên cho cơ quan cấp dưới. Đó là quá
trình chuyển giao quyền quyết định thực thi các công việc cụ thể trong hoạt
động của tổ chức cấp trên cho tổ chức cấp dưới nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động quản lý cũng như thực thi công việc.
2.1.2. Các hình thức phân cấp quản lý
Phân cấp quản lý là quá trình chuyển giao quyền hạn và trách nhiệm ra
các quyết định quản lý và thực thi các công việc có liên quan đến nhiều tổ
chức vốn tập trung nay được chuyển giao trực tiếp cho nhiều loại tổ chức
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý, thực thi công việc của các tổ chức
được phân cấp.
Trong hoạt động quản lý, thực thi các công việc được giao, nhiều loại
quyết định phải được ban hành kịp thời, đúng lúc mới bảo đảm được tính hiệu
quả của việc thực hiện quyết định đó và mới có thể giải quyết được vấn đề.
Thực thi nhiệm vụ và giải quyết vấn đề gắn liền với việc ban hành nhiều
loại quyết định. Những loại quyết định mang tính chất hành chính; những loại
quyết định mang tính chất tài chính; những loại quyết định mang tính nhân sự
27
và tổ chức. Gắn với mỗi một lĩnh vực đó đều luôn tồn tại hai mô hình: tập trung
(centralization) và phân cấp hay phi tập trung (decentralization).
Tùy theo từng điều kiện cụ thể cũng như quy mô của tổ chức, việc lựa
chọn mô hình quản lý theo tập trung hay phân cấp là một nghệ thuật của các
nhà quản lý. Trong hoạt động quản lý không có một mô hình quản lý nào
mang tính lý tưởng, không thay đổi. Tùy thuộc vào điều kiện cụ thể để có thể
đưa ra quyết định về mô hình lựa chọn.
Mô hình phân cấp trong hoạt động quản lý nói chung và QLNN nói
riêng được nghiên cứu theo nhiều giác độ khác nhau và do đó có nhiều cách
phân loại mô hình phân cấp.
Phân loại theo những loại lĩnh vực quyết định trong tổ chức, trên các
lĩnh vực mà tổ chức cần thực hiện để đạt được mục tiêu của tổ chức, cách
phân cấp đó gọi là phân cấp theo nhóm chức năng. Trong trường hợp này có
thể chia thành:
- Phân cấp hành chính (quản lý tác nghiệp);
- Phân cấp quyết định tài chính;
- Phân cấp quyết định về tổ chức (bộ máy, cơ cấu);
- Phân cấp quyết định về nhân sự;
- Phân cấp quyết định về hoạt động sản xuất, kinh doanh, thị trường.
Phân cấp cũng được nghiên cứu theo quan điểm là các quyền quyết
định chỉ được chuyển giao trong nội bộ tổ chức hay chuyển giao ra bên ngoài.
Có thể có một số loại sau:Phân cấp nội bộ; Phân cấp quyền quyết định cho
các tổ chức bên ngoài dưới nhiều dạng như cho các tổ chức khu vực tư nhân,
phi chính phủ; hay gọi là phân cấp chuyển giao.
Đứng trên giác độ về mức độ chuyển giao, có thể phân cấp được phân
loại theo một số nhóm:Tản quyền; Ủy quyền; Trao quyền; Đối tác, hợp tác;
Tư nhân hóa [52].
28
Tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu mà phân cấp cũng có thể được
phân loại theo ngành và lĩnh vực mà các nhà quản lý, các chủ thể quản lý cần
quản lý:Phân cấp quản lý giáo dục;Phân cấp quản lý về y tế;Phân cấp quản lý
thuế; Phân cấp quản lý tài chính;Khác.
Số lượng phân loại ngành, lĩnh vực phụ thuộc vào phân chia của tài
khoản quốc gia. Việc phân chia các loại hình phân cấp cũng như cấp độ phân
cấp chỉ mang tính tương đối và phục vụ cho mục đích nghiên cứu cụ thể từng
lĩnh vực.
2.1.2.1. Phân cấp theo nhóm chức năng trong tổ chức
- Phân cấp hành chính:
Đây là dạng phân cấp các công việc mang tính nội bộ của một tổ chức,
gắn liền với nó là mức độ tự chủ của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống về
thực hiện các chức năng mang tính nội bộ của tổ chức (chức năng bên trong
theo mô hình PODSCoBR) [8].
Phân cấp hành chính trong hệ thống các cơ quan nhà nước là quá trình
phân phối lại quyền hạn và trách nhiệm trong việc tổ chức cung cấp các loại
dịch vụ cho công dân, xã hội theo đúng ý nghĩa của thực thi quyền hành pháp
giữa hệ thống các cơ quan trong bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương
đến tận cơ sở.
Quyền quyết định về việc tổ chức cung cấp dịch vụ loại nào và cách
thức tổ chức cung cấp dịch vụ đó được trao cho những cơ quan trực tiếp cung
cấp dịch vụ đó trên cơ sở khuôn khổ pháp luật nhà nước đã quy định. Các cơ
quan cấp trên không can thiệp vào cách thức tổ chức cung cấp dịch vụ của
những cơ quan cấp dưới đã được phân cấp.
Cách tiếp cận này làm cho các cơ quan trực tiếp cung cấp dịch vụ thuộc
hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước có nhiều trách nhiệm hơn và làm
cho cung cấp dịch vụ tốt hơn, đáp ứng sự hài lòng cao hơn của khách hàng.
29
Những công việc thực thi quyền hành pháp để phục vụ nhân dân gắn
liền chủ yếu với nhiều hoạt động cung cấp dịch vụ. Do đó phân cấp hành
chính trong bộ máy hành chính nhà nước thực chất là xác định rõ chức năng,
nhiệm vụ của cơ quan hành chính đó.
Mỗi cơ quan hành chính nhà nước trong mô hình phân cấp đều được
xác định cụ thể những công việc cần phải làm và cách thức đạt được những
mục tiêu đã đề ra.
- Phân cấp quyền quyết định liên quan đến tài chính.
Phân cấp các quyết định liên quan đền tài chính trong các tổ chức nói
chung và các cơ quan nhà nước nói riêng chia thành hai nhóm hay hai cách
tiếp cận:
Trong hệ thống các cơ quan nhà nước khi hoạt động của các cơ quan
này gắn liền với NSNN thì giữa các cấp chính quyền có liên quan đến ngân
sách đòi hỏi có sự phân cấp quan trọng về những quyết định thu các nguồn
thu để đưa vào NSNN; đồng thời cũng phân cấp quyền được quyết định chi
ngân sách khi có ngân sách. Nhiều nước khi đánh giá mức độ phân cấp quyết
định tài chính thường sử dụng chỉ số mức độ cân đối giữa quyền quyết định
thu và quyền quyết định chi. Mức cân đối càng tăng, thể hiện quyền quyết
định về tài chính theo hướng phân cấp tài chính gia tăng.
Đối với từng loại cơ quan, phân cấp quyền quyết định về tài chính
thường gắn liền trực tiếp với mức độ linh hoạt của việc sử dụng nguồn tài
chính được trao cho tổ chức. Mức độ linh hoạt tỷ lệ sự phân cấp trong việc sử
dụng nguồn tài chính của đơn vị [59].
Trong hoạt động hiện nay của nhiều loại tổ chức trong cơ chế thị
trường, khả năng tạo nguồn thu cũng như cách sử dụng nguồn thu đó đòi hỏi
cơ chế linh hoạt hơn trong quyền quyết định các vấn đề tài chính. Đặc biệt khi
tiếp cận đến thị trường vốn trong và ngoài nước, nhiều đơn vị cung cấp dịch
vụ thuộc khu vực nhà nước thường gặp khó khăn khi đưa ra các quyết định
30
liên quan đến vay vốn trên thị trường và mức độ phân cấp quyền quyết định
về tài chính hạn chế. Xu hướng giao quyền tự chủ ngay càng cao cho các tổ
chức sử dụng NSNN sau khi đó được chuyển giao sẻ gia tăng tính tự chủ về
tài chính và đồng thời gia tăng sự kiểm soát việc sử dụng ngân sách. Nhiều
nước trên thế giới, địa phương (kể cả chính quyền địa phương cấp cơ sở)
thường có nguồn thu khá lớn nên nhiều hoạt động (bao gồm cả giáo dục, y tế)
đều thuộc quyền quyết định của cỏc cấp chính quyền địa phương về ngân
sách. Đây cũng chính là điều hạn chế nhất của các nước đang phát triển.
- Phân cấp quyền quyết định về cơ cấu tổ chức.
Cơ cấu tổ chức của một tổ chức thể hiện trình độ tổ chức, phân công
lao động hợp lý, khoa học trong tổ chức đó. Các nhà lãnhđạo, quản lý của tổ
chức có chức năng rất cơ bản là “chức năng tổ chức”. Tuy nhiên, quyền quyết
định để lựa chọn một loại cơ cấu tổ chức thường bị hạn chế bởi nhiều quy
định của cả hệ thống. Hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước, quyền về
lựa chọn một cơ cấu tổ chức của một loại cơ quan hành chính nhà nước (cấp
trung ương, tỉnh hay huyện) đang theo hai xu hướng:
+ Tạo ra một hệ thống cơ cấu tổ chức khá giống nhau giữa tất cả các địa
phương thông qua một quyết định mang tính tập trung của chính phủ trung
ương. Các địa phương đều phải thiết lập một cơ cấu tổ chức giống nhau [45].
+ Mỗi một tổ chức được thành lập được quyền tự lựa chọn mô hình cơ
cấu tổ chức thích hợp nhất với điều kiện mà trong tổ chức tồn tại, vận động và
phát triển. Đây cũng chính là trao lại cho tổ chức những chức năng cơ bản của
tổ chức. Không thể có mô hình tổ chức giống nhau cho mọi tổ chức khi hoạt
động ở những điều kiện khác nhau. Tập trung quyền quyết định một loại cơ
cấu tổ chức cho bộ máy hành chính nhà nước ở các cấp là không phù hợp.
Trong khu vực tư nhân, quyền quyết định về sự lựa chọn một cơ cấu tổ
chức hợp lý, khoa học vì hiệu quả cung cấp dịch vụ hay sản xuất hàng hóa
31
được giao cho chính tổ chức đó. Điều này làm cho tổ chức có một cơ cấu tổ
chức linh hoạt và dễ thích ứng với môi trường thay đổi.
Quyền quyết định về lựa chọn cơ cấu tổ chức thích nghi với điều kiện
mới là một trong những yêu cầu quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động
quản lý. Hiện nay có rất nhiều loại mô hình cơ cấu tổ chức [31]. Những mô
hình mạng, phẳng hay thứ bậc đều được lựa chọn tùy thuộc vào điều kiện cụ
thể của tổ chức đó.
Trong các cơ quan nhà nước, phân cấp quyền quyết định về cơ cấu tổ
chức bộ máy khá hạn chế. Do đó, các tổ chức có một cơ cấu giống nhau với
các bộ phận như nhau.
- Phân cấp quyền quyết định về nhân sự.
Vấn đề nhân sự của một tổ chức gắn liền với nhiều nội dung liên quan
đến việc xác định số lượng biên chế, cách thức tuyển dụng, sử dụng, bố trí, đề
bạt, khen thưởng kỷ luật cũng như các vấn đề liên quan đến chế độ tiền công.
Phân cấp quyền quyết định các vấn đề liên quan đến nhân sự là một
trong những loại phức tạp nhất của phân cấp quyền quyết định các vấn đề của
một tổ chức. Trong khu vực nhà nước, với thể chế chính trị, thể chế nhà nước
đan xen, phân cấp quyền về nhân sự lại càng phức tạp hơn.Tuy nhiên, để nâng
cao hiệu quả hoạt động của tổ chức, tổ chức phải tự mình xác định được nhu
cầu nguồn nhân lực về cả số lượng và chất lượng. Và được quyền tuyển dụng,
lựa chọn những người đáp ứng.
Tùy thuộc vào mức độ tự chủ về tài chính (phân cấp) mà quyền quyết
định về các vấn đề nhân sự sẽ khác nhau. Các tổ chức càng được trao nhiều
quyền quyết định về tài chính (mức độ tự chủ cao, phân cấp nhiều) càng có
nhiều quyền quyết định về nhân sự.
Trong hệ thống các tổ chức nhà nước, quyền quyết định về nhân sự gắn
liền với nguồn NSNN dành cho tổ chức đó. Mặt khác, quyền này bị phụ thuộc
vào cách thức xác định mô hình chức nghiệp ở trong tổ chức đó. Nếu mô hình
32
chức nghiệp theo hệ thống việc làm, và với quyền tự chủ về tài chính quyền
quyết định về nhân sự hoàn toàn căn cứ vào nhu cầu việc làm. Nếu mô hình
chức nghiệp theo hệ thống ngạch, bậc có thể tạo ra những cơ chế trì trệ và khó
khăn trong việc tinh giảm biên chế; giảm người dư thừa. Đây cũng chính là
thách thức của nhiều nước khi cải cách hành chính.
- Phân cấp quyền quyết định về hoạt động sản xuất, kinh doanh, lựa
chọn thị trường.
Mô hình phân cấp này là hệ quả tất yếu của các mô hình phân cấp đã
nêu trên. Trong cơ chế thị trường, mối quan hệ cung cầu là mối quan hệ cơ
bản được sử dụng để nâng cao hiệu quả hoạt động của mọi tổ chức.
Trong cơ chế thị trường, sự tồn tại, vận động và phát triển của bất cứ tổ
chức nào cũng phải dựa trên đòi hỏi của thị trường để cung cấp hàng hóa và
dịch vụ. Quyền quyết định của các tổ chức gắn liền với tín hiệu của thị
trường. Để cho các tổ chức tự điều chỉnh theo tín hiệu thị trường nhằm thích
ứng với nhu cầu tài chính, nhân sự và cơ cấu tổ chức.
Trong hệ thống các cơ quan nhà nước, hoạt động cung cấp dịch vụ
mang ý nghĩa cơ bản và các loại dịch vụ này đều thuộc loại dịch vụ công [26].
Chính vì vậy, khả năng lựa chọn của các tổ chức nhà nước này gặp khó khăn
và luôn bị ràng buộc bởi các quy định sản xuất cái gì; sản xuất như thế
nào,v.v.. Nhưng đồng thời với xu hướng tư nhân hóa, chuyển giao và xã hội
hóa (Việt Nam), các tổ chức nhà nước cũng đã bắt đầu được quyền một phần
trong việc lựa chọn những loại dịch vụ mang tính cốt lõi để cung cấp và
chuyển giao các loại khác ra bên ngoài. Nhưng quyền này thuộc cơ quan
QLNN chung, khó có thể giao cho từng cơ quan hành chính nhà nước cụ thể.
Quá trình chuyển giao hoạt động cung cấp dịch vụ là một quá trình
chuyển giao phức tạp, không chỉ chuyển giao hoạt động cung cấp dịch vụ vốn
của các cơ quan hành chính nhà nước cấp trên cho các cơ quan hành chính
nhà nước cấp dưới mà còn thực hiện chuyển giao cho các chủ thể thuộc khu
33
vực khác. Điều này hoàn toàn đúng trên lĩnh vực y tế và giáo dục là hai lĩnh
vực vốn dĩ thuộc khu vực nhà nước. Đây là một quá trình chuyển giao phức
tạp, đòi hỏi phải xem xét cụ thể cả phương diện tài chính lẫn chức năng cung
cấp loại dịch vụ.
2.1.2.2. Các loại phân cấp theo mức độ, hình thức chuyển giao quyền
quyết định
Đứng trên giác độ về mức độ chuyển giao, có thể phân cấp được phân
loại theo một số nhóm: Tản quyền; Ủy quyền; Trao quyền; Đối tác, hợp tác;
Tư nhân hóa.Tùy theo điều kiện cụ thể mà phân cấp quyền quyết định quản lý
ở các cấp độ và hình thức khác nhau ở trên sẽ được vận dụng cụ thể cho từng
loại tổ chức [20].
- Tản quyền (deconcentration)
Đây là bước khởi điểm đầu tiên của mô hình phân cấp quyền quyết
định các vấn đề liên quan đến một tổ chức, một hệ thống của nhiều yếu tố cấu
thành. Đó là một quá trình phân cấp quyền quyết định nhiều vấn đề khác nhau
cho từng yếu tố cấu thành tổ chức (lớn) và cả hệ thống. Đó là quyền quyết
định được trao cho các tổ chức đặt tại các địa điểm khác nhau trong cơ cấu tổ
chức (nội bộ tổ chức). Cách tiếp cận này có thể hiểu:
+ Mức độ tản quyền hạn chế do các yếu tố cấu thành tổ chức phụ thuộc
lẫn nhau.
+ Tản quyền cũng có thể hiểu như là phân cấp mang tính nội bộ của tổ
chức. Trong các tổ chức nhỏ, không có khái niệm tản quyền và do đó hình
thức này gắn liền với các tổ chức có cơ cấu tổ chức phức tạp, đặc biệt là cơ
quan nhà nước.
+ Tản quyền sẽ gắn liền với việc cơ cấu lại tổ chức bộ máy của các tổ
chức lớn và đặt các bộ phận gần “dân” hơn và ít quan liêu hơn. Tuy nhiên, đa
số các cuộc cải cách theo hướng tản quyền lại không gắn liền với cải cách cơ
cấu tổ chức bộ máy.
34
Thuật ngữ tản quyền cũng được nhiều tài liệu nghiên cứu và cũng được
tiếp cận theo nhiều giác độ khác nhau. Trong tài liệu “Decentralization,
deconcentration and devolution” nhóm tác giả đã liệt kê nhiều cách tiếp cận
khác nhau về thuật ngữ tản quyền. Điều cơ bản của nhiều cách tiếp cận là ở
khía cạnh tổ chức bộ máy hành chính trung ương. Sự chuyển giao quyền
quyết định vẫn chỉ xảy ra ở trong cơ cấu của một tổ chức (hành chính trung
ương) không bàn về tổ chức hành chính địa phương [44].
Phân cấp theo tản quyền cũng chính là quá trình tổ chức lại sản xuất
theo hướng phi tập trung. Tản quyền sản xuất cũng là thuật ngữ được sử dụng
và cũng có thể hiểu nó như là một quá trình phân bố lại sản xuất như đang
được tiến hành tại các đô thi lớn ở Việt nam thông qua việc di dời các cơ sở
sản xuất. Tổ chức lớn như liên minh Châu Âu (EU) cũng tiếp cận tản quyền
theo nghĩa chuyển quản lý quỹ Châu Âu từ ủy ban về cho các đoàn đại biểu
của ủy ban Châu Âu.
- Ủy quyền (delegation)
Có hai cách tiếp cận đến ủy quyền trong phân cấp quản lý. Một loại ủy
quyền gắn liền với nội bộ tổ chức khi đưa những quyền quyết định cho một số
người khác làm với nhiều lý do khác nhau. Loại ủy quyền này thường được
coi như là một loại năng lực và là nghệ thuật của nhà quản lý.Tuy nhiên, ủy
quyền là một nghệ thuật và do đó, ủy quyền luôn có tính hai mặt: ưu điểm và
hạn chế. Trong một tổ chức, nhà lãnh đạo hoặc quản lý cao cấp phải biết lựa
chọn vấn đề ủy quyền và ủy quyền cho ai [49].
Dạng thứ hai là ủy quyền xảy ra giữa tổ chức với các bộ phận nằm bên
ngoài tổ chức những có mối quan hệ mật thiết với tổ chức về chuyên môn, về
thị trường và về nguồn nhân lực.
Công việc thuộc nhiệm vụ của tổ chức, nhưng do điều kiện về hiệu quả
của việc tổ chức thực hiện, tổ chức có thể ủy quyền cho một tổ chức khác
thực hiện trên cơ sở trao cho họ nguồn lực, quy tắc, quy chế thực hiện.
35
Những tổ chức nhận được sự nủy quyền chỉ làm những công việc như đã ủy
quyền và trên nguyên tắc chỉ chịu trách nhiệm với loại công việc đó.
- Trao quyền (devolution)
Về phương diện lý luận, trao quyền thể hiện rõ nhất bản chất của phân
cấp quyền quyết định các vấn đề liên quan đến quản lý. Đồng thời đây cũng là
một thách thức lớn nhất của phân cấp quản lý.
Những quyền quyết định được chuyển từ cơ quan nhà nước này sang cơ
quan nhà nước khác theo luật định và cơ quan được trao quyền sẽ thực hiện
việc kiểm soát trực tiếp các vấn đề của quản lý. Tuy nhiên, trong mối quan hệ
của hệ thống nhà nước, nhiều nước phát triển không mong muốn phân cấp
theo trao quyền do lo ngại sự giảm quyền kiểm soát của trung ương hay cấp
trên đối với hoạt động của cấp dưới.
Cơ cấu tổ chức thứ bậc của nền hành chính các nước,với cách quan
niệm cấp trên cấp dưới và sự thiếu rõ ràng trong chức năng, nhiệm vụ của
từng cấp làm cho mô hình phân cấp này không thực sự tồn tại. Chính vì vậy,
phân cấp theo mô hình trao quyền đòi hỏi phải thiết lập một cơ cấu tổ chức
hợp lý. Trao quyền gắn liền không chỉ trao nguồn lực, quy chế thực hiện, quy
trình thực hiện mà còn trao cả quyền hạn để tự quyết định và tự chịu trách
nhiệm về những quyết định được ban hành cũng như thực hiện.
Trong hệ thống các cơ quan nhà nước, đây là một hình phân cấp hoạt
động quản lý giữa các cấp chính quyền trung ương và địa phương thông qua
hệ thống pháp luật của nhà nước.
Trong lý thuyết phân cấp theo mô hình trao ủy quyền, tổ chức bộ máy
hành chính nhà nước phải gắn liền với các đơn vị tự chủ địa phương, có tính
độc lập tương đối với nhau, được pháp luật quy định nhiệm vụ, quyền hạn
riêng biệt. Những công việc ủy quyền cho các đơn vị tự chủ đó hoàn toàn
không nằm trong cơ cấu tổ chức của cơ quan trao quyền và trên thực tế, tính
phù thuộc giữa các loại cơ quan trên hạn chế và nguyên tắc không phải là cơ
36
quan phụ thuộc. Nhiều nước gọi đó là những cơ quan độc lập - giống như
những loại trường độc lập trong giáo dục ở Anh.
Tản quyền, ủy quyền, trao quyền là những phương thức tổ chức quyền
lực nhà nước. Tư tưởng về tản quyền, ủy quyền, trao quyền đã được biết đến,
được thực hiện từ thời cổ đại và không ngừng được bổ sung, hoàn thiện cho
tới ngày nay. Việc tổ chức nhà nước theo các phương thức này nhằm đoạn
tuyệt với phương thức tập quyền tuyệt đối trong tổ chức quyền lực nhà nước ở
chế độ chủ nô, phong kiến. Tản quyền, ủy quyền, trao quyền nhằm tránh
quyền lực tập trung trong tay một người, một nhóm người để xây dựng cơ chế
quyền lực đủ sức ngăn chặn việc lạm quyền và sử dụng quyền lực trái với lợi
ích của nhân dân. Theo đó, quyền lực được phân chia thành các nhánh độc lập
hoặc giao cho các cấp chính quyền địa, nhưng đồng thời các nhánh quyền lực
hoặc các phần quyền lực đó vừa phải có sự liên kết, phối hợp lại vừa kiểm
soát, đối trọng lẫn nhau trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nước.
Tản quyền là hình thức tổ chức quản lý nhà nước phổ biến của các
nước đang phát triển. Theo đó, quyền lực nhà nước vẫn được tập trung, nhưng
nhà nước trung ương cử đại diện của mình xuống địa phương để tổ chức thực
hiện quyền lực nhà nước tại địa phương đó.
Ủy quyền là việc cấp trên cho phép cấp dưới có quyền ra quyết định về
những vấn đề thuộc quyền hạn của mình, trong khi người cho phép vẫn đứng
ra chịu trách nhiệm.
Trao quyền là sự chuyển giao quyền hạn và trách nhiệm được lập kế
hoạch trước đó và tiến hành một cách cẩn trọng nhằm thực hiện các công việc
trong giới hạn đã được định trước của người trao quyền cho người được trao
quyền.
Có thể thấy ủy quyền và trao quyền giống nhau là sự chuyển giao
quyền của người cấp trên cho cấp dưới. Tuy nhiên, ủy quyền là chuyển giao
quyền, còn trao quyền nghĩa là trao cả quyền và trách nhiệm.
37
- Đối tác, hợp tác giữa các khu vực với nhau, đặc biệt là đối tác giữa
các chủ thể khu vực công với khu vực tư (Public - private partnership- PPP).
Quan hệ đối tác cũng được coi như là mức độ phân cấp quyền quyết
định các vấn đề liên quan đến hoạt động cung cấp dịch vụ và hàng hóa của
một tổ chức. Trong mô hình này, các bên cùng liên kết với nhau trên quan hệ
đối tác và tùy thuộc vào mô hình đối tác (liên doanh, liên kết, hợp tác,...) mà
quyền quyết định các vấn đề liên quan đến tổ chức trong quá trình cung cấp
hàng hóa và dịch vụ được chia sẻ giữa các đối tác.
Mô hình đối tác đang trở thành phổ biến và tương quan về tài chính
giữa các bên trong đối tác sẽ tạo ra tương quan về quyền quyết định các vấn
đề liên quan đến thị trường, cơ cấu tổ chức, nhân sự [19].
- Tư nhân hóa.
Tư nhân hóa là một loại hình được nhiều nhà nghiên cứu gọi là phân
quyền triệt để đối với hoạt động cho khu vực bên ngoài. Đó là sự tổ chức lại
hoạt động của bộ máy nhà nước và xác định cụ thể những loại công việc mà
nhà nước phải đảm nhận và những loại công việc mà nhà nước đảm nhận
thông qua các hình thức phân cấp đã nêu trên. Còn lại những lĩnh vực khác
nhà nước sẽ chuyển giao cho các khu vực khác hay tư nhân hóa.
Tư nhân hóa có thể tiến hành ở những mức độ khác nhau. Đơn giản
nhất là hợp đồng cho khu vực tư nhân thực hiện một số hoạt động cung cấp
dịch vụ công bằng NSNN. Dạng này cũng giống như dạng ủy quyền hay trao
quyền những không thuộc các chủ thể bên trong khu vực nhà nước.
Mức độ cao nhất của tư nhân hóa là nhà nước từ bỏ hoạt động cung cấp
dịch vụ đó mà để cho khu vực tư nhân lựa chọn và cung cấp theo nguyên tắc
của thị trường. Trong trường hợp này, nhà nước chỉ đóng vai trò QLNN nhằm
bảo đảm hoạt động cung cấp dịch vụ đó tuân thủ các quy định của pháp luật.
Tư nhân hóa các nội dung thuộc lĩnh vực của nhà nước đảm nhận mang
tính truyền thống sang cho các khu vực khác thực hiện sẽ có tính hai mặt của
38
nó. Chính vì vậy, đây là một vấn đề được nhiều nước quan tâm, nhưng áp
dụng rất hạn chế. Một số nước (điển hình là Vương quốc Anh, nước Nga thời
tổng thống Enlsin) coi tư nhân hóa là biện pháp cần thiết để thúc đẩy phát
triển kinh tế. Nhưng ngay chính các nước này cũng đang phải xem lại tư nhân
hóa và có xu hướng quốc hữu hóa lại một số chủ thể cung cấp dịch vụ đã
được tư nhân hóa.
- Nhận xét chung
Phân cấp quyền quyết định các vấn đề liên quan đến một hệ thống, một
bộ máy hay một tổ chức lớn có thể biểu hiện dưới nhiều dang khác nhau. Tuy
thuộc vào bản chất của hệ thống, cơ cấu tổ chức hay quy mô của tổ chức mà
có nhiều loại hình phân cấp khác nhau và ở các mức độ khác nhau.
Trong khu vực nhà nước, hoạt động QLNN gắn liền với hoạt động cung
cấp nhiều loại dịch vụ (công) do các chủ thể của nhà nước đảm nhận, việc
phân cấp đòi hỏi nghiên cứu, xem xét dưới hai lĩnh vực: hoạt động QLNN và
hoạt động cung cấp dịch vụ.
Mô hình phân cấp quyền quyết định liên quan đến các vấn đề QLNN và
do đó gắn liền với các vấn đề nội bộ của bộ máy nhà nước cũng như bộ máy
hành chính nhà nước. Trong khi đó, hoạt động cung cấp dịch vụ gắn liền với
nhiều yếu tố và đã đang đặt trong môi trường cạnh tranh.
2.2. Phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
2.2.1. Một số khái niệm liên quan
2.2.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước
Thuật ngữ hành chính “quản lý nhà nước” được sử dụng khá phổ biến
với nhiều cách tiếp cận khác nhau:
+ Theo nghĩa rộng: QLNN là hoạt động của toàn bộ máy nhà nước cơ
quan quyền lực nhà nước: Quốc hội; các cơ quan hành chính nhà nước: Chính
phủ, các Bộ, Ủy ban hành chính các cấp; cơ quan kiểm sát: Viện kiểm sát nhân
dân tối cao và các các viện kiểm sát nhân dân các cấp. Ví dụ: Quốc hội thực
39
hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của
Quốc hội: xét báo các hoạt động của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc
hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
+ Theo nghĩa hẹp: QLNN là hoạt động riêng hệ thống cơ quan hành
chính nhà nước (quản lý hành chính nhà nước): Chính phủ, các bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp, các sở, phòng,
ban chuyên môn Ủy ban nhân dân. Ví dụ: Chính phủ thống nhất quản lý hệ
thống giáo dục quốc dân về mục tiêu chương trình, nội dung kế hoạch giáo
dục - đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, tiêu chuẩn giáo viên, quy chế thi cử và hệ
thống văn bằng, học hàm, học vị, các hình thức giáo dục khác, thực hiện phổ
cấp giáo dục tiểu học, xóa nạn mù chữ,…
Một số nhà nghiên cứu hành chính, luật pháp cho rằng:
+ QLNN là hoạt động có tổ chức bằng pháp quyền bằng bộ máy nhà
nước (công quyền) để điều chỉnh các quá trình - xã hội và hành vi của mọi
công dân và mọi tổ chức xã hội, chính trị, khoa học, văn hóa - xã hội nhằm
giữ gìn thể chế chính trị, trật tự xã hội và phát triển xã hội theo những mục
tiêu đã định.
+ QLNN là hoạt động của Nhà nước trên lĩnh vực lập pháp, hành pháp
và tư pháp nhằm thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại của Nhà nước.
+ QLNN là một dạng quản lý xã hội và hành vi hoạt động của con người.
+ QLNN (quản lý hành chính nhà nước) là hoạt động hành chính của
các cơ quan thực thi quyền lực nhà nước (quyền hành pháp) để quản lý, điều
hành các lĩnh vực của đời sống xã hội theo luật pháp.
QLNN là một dạng của quản lý, chứa đựng bên trong nhiều kỹ năng
thuộc về quản lý như mọi tổ chức khác đã vận dụng. QLNN mang tính quyền
lực nhà nước, nó hướng tới những đối tượng nhất định. Theo cách hiểu chung
nhất, đứng trên góc độ quản lý công thì QLNN là một dạng quản lý xã hội đặc
biệt, mang tính quyền lực nhà nước.
40
2.2.1.2. Khái niệm đào tạo, bồi dưỡng
Trước đây, khi định nghĩa về đào tạo, thường sử dụng thuật ngữ “đào
tạo mới” và “đào tạo lại”. Tuy nhiên do tính đa nghĩa của cụm từ “đào tạo lại”
mà dần dần 2 khái niệm này không còn được sử dụng. Thay vào đó thuật ngữ
ĐTBD lao động làm việc trong các tổ chức đang trở thành phổ biến.Mặc dù
có nhiều cách giải thích khái niệm ĐTBD nhưng chung quy có hai cách hiểu
cơ bản như sau:
Cách hiểu thứ nhất, khái niệm ĐTBD bao gồm 02 nội dung là Đào tạo
và Bồi dưỡng. Trong cách hiểu này, ĐTBD vừa thực hiện những nhiệm vụ
của giáo dục quốc dân (đào tạo trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học và sau
đại học), vừa cập nhật kiến thức, trang bị kỹ năng, phương pháp làm việc
cho CBCC.
Cách hiểu thứ hai, khái niệm ĐTBD là một thuật ngữ đi cùng nhau, để
chỉ hoạt động thường xuyên của các cơ quan, đơn vị quản lý và sử dụng
CBCC nhằm cập nhật kiến thức, trang bị kỹ năng, phương pháp làm việc...
cho CBCC.
Đào tạo được xem là quá trình làm cho con người “trở thành người có
năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định”, còn bồi dưỡng được xác định là
quá trình làm cho con người “tăng thêm năng lực hoặc phẩm chất”. Mặc dù
đào tạo và bồi dưỡng tuy là hai khái niệm khác nhau nhưng nó cùng một mục
đích chung làm cho người lao động có năng lực công tác. Trên thực tế rất khó
phân chia đào tạo và bồi dưỡng, bởi lẽ giữa chúng có sự đan xen và kế thừa
lẫn nhau. Hiện nay, trừ một số cơ sở đào tạo thuộc hệ thống giáo dục quốc
dân, có cấp bằng học theo cấp học, bậc học. Trên thế giới, cơ quan hành chính
của các nước như Mỹ, Nhật Bản, Thái Lan, Singapore... không đặt ra nhiệm
vụ tổ chức đào tạo các trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học và sau đại học
cho công chức. Điều này được giải nghĩa: khi được tuyển dụng và bổ nhiệm
vào một vị trí nhất định, người công chức đã phải đáp ứng các tiêu chuẩn của
41
vị trí đó, trong đó có tiêu chuẩn về trình độ đào tạo. Khi cần nguồn nhân lực
có trình độ cao hơn, họ sẽ tổ chức tuyển dụng những đối tượng đã được đào
tạo trình độ họ cần mà không tổ chức hoặc cử công chức đi đào tạo.
Ở CHDCND Lào, cách hiểu vềđào tạo, bồi dưỡng gần như không tách
rời, là việc tổ chức những cơ hội cho CBCC học tập, nhằm giúp tổ chức đạt
được mục tiêu của mình bằng việc tăng cường năng lực, làm gia tăng giá trị
của nguồn lực quan trọng nhất - đội ngũ CBCC.
Như vậy, ĐTBD là quá trình tổ chức, bồi đắp, xây dựng thêm những
kiến thức, kỹ năng mà người học còn thiếu hoặc yếu, giúp họ hoàn thành tốt
hơn công việc của mình.
2.2.1.3. Khái niệm cán bộ, công chức
Theo Luật Cán bộ, công chức năm 2015 do Quốc hội nước CHDCND
Lào ban hành:
"Cán bộ là công dân Lào, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức
vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Nhân dân cách mạng
Lào, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hộiở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện,
trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước".
“Công chức là công dân Lào, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch,
chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ
quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an
nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp; trong biên chế
và hưởng lương từ ngân sách nhà nước”.
2.2.1.4. Khái niệm phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức
Từ các khái niệm có liên quan đã phân tích ở trên, có thể hiểukhái niệm
phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức như sau:
42
Phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là sự
chuyển giao một số chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm quản lý
trong hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức từ cấp trung ương đến
các cấp chính quyền địa phương để đảm bảo giảm tải cho cấp trung ương và
giúp cho cấp địa phương dễ dàng tiếp cận và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức đúng đối tượng và thuận lợi nhất.
2.2.2. Sự cần thiết phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức
ĐTBD CBCC, viên chức có vị trí, vai trò hết sức quan trọng đối với
phát triển nguồn nhân lực, nó quyết định đến sự phát triển của mỗi ngành nói
riêng và đất nước nói chung. Vì vậy, công tác ĐTBD CBCC là nhiệm vụ
trọng tâm và xuyên suốt của công tác cán bộ, là yêu cầu khách quan trong xây
dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC, ở các cơ quan nhà nước. Nội
dung công tác ĐTBD cho đội ngũ CBCC, viên chức bao gồm nhiều nội dung,
như lý luận chính trị, phương pháp lãnh đạo, quản lý, khoa học xã hội, nhân
văn, kỹ năng xử lý công việc, cập nhật kiến thức mới …. Đồng thời, thông
qua công tác ĐTBD sẽ giúp CBCC có khả năng phân tích, xử lý các tình
huống, hình thành phương pháp luận khoa học để giải quyết các vấn đề
nhanh, nhạy và đạt hiệu quả cao nhất. Chính vì vai trò của công tác và sự
phức tạp trong công tác ĐTBD CBCC hiện nay mà vấn đề về phân cấp quản
lý là yêu cầu bức thiết.
- Xuất phát từ vai trò của phân cấp trong việc nâng cao chất lượng và
hiệu quả của hoạt động ĐTBD CBCC. Điều này sẽ giúp cho hoạt động ĐTBD
phát huy được tính chủ động, tích cực và sáng tạo của các cấp trong công tác
ĐTBD CBCC ở cấp mình quản lý, khi phân cấp QLNN đối với hoạt động này
thì các cấp sẽ chủ động hơn, có các biện pháp và hình thức đào tạo, cách thức
tiếp cận hợp lý, khoa học nhất.
43
- Xuất phát từ vai trò cụ thể của phân cấp QLNN đối với công tác
ĐTBDcho các cấp chính quyền địa phương. Việc phân cấp QLNN đối với hoạt
động ĐTBD chính là cách thức hiệu quả để nâng cao chất lượng và hiệu quả
hoạt động của hành chính nhà nước và đáp ứng tốt nhất đòi hỏi của công tác
ĐTBD CBCC đối với các cấp hiện nay. Nó cho phép huy động tối đa mọi nguồn
lực của địa phương, cấp chính quyền trung ương chi tiêu ít hơn mà vẫn đảm bảo
thực hiện hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của mình đối với toàn hệ thống.
- Xuất phát từ yêu cầu của cải cách nền hành chính nhà nước, đòi hỏi
cần có sự chuyển hóa, chuyển giao trong mọi hoạt động, từ phân cấp, phân
quyền, đến các hoạt động khác, đặc biệt là về ĐTBD CBCC. Phân cấp QLNN
chính là việc làm tất yếu để thực hiện công tác cải cách hành chính quốc gia.
Theo đó các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, văn hoá, giáo dục, y tế,... cũng
đòi hỏi cần có sự cấp trong quản lý, kéo theo sự phân cấp trong vấn đề
ĐTBD, cập nhật kiến thức cho đội ngũ CBCC thực hiện nhiệm vụ của ngành,
lĩnh vực đó.
- Xuất phát từ thực tế xã hội hóa dịch vụ công cộng. Công tác ĐTBD là
một bộ phận thuộc về các dịch vụ công cộng, do nhà nước cung ứng theo nhu
cầu của xã hội và dù muốn hay không thì nhà nước cũng sẽ đảm bảo các dịch
vụ này phải được cung ứng tốt nhất, chất lượng đối với toàn xã hội. Xã hội
hóa, chuyển giao một phần nghĩa vụ, quyền lợi của các đơn vị công lập cho
các chủ thể khác ngoài nhà nước thực hiện, quá trình phân cấp, phân quyền
được tiến hành, thì công tác QLNN đối với vấn đề này trở nên cấp thiết.
Việc phân cấp ĐTBDCBCC một mặt nhằm phát huy tính năng động,
sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cấp địa phương trên cơ sở
phân định rõ, cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mỗi cấp trong
quản lý ĐTBD; mặt khác, bảo đảm sự quản lý tập trung, thống nhất và thông
suốt của cấp trung ương, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả phân cấp quản lý,
phục vụ tốt hơn nhu cầu và lợi ích của người học là CBCC ở từng địa phương,
44
trên cơ sở phát huy thế mạnh của mỗi cấp ĐTBD. Do vậy, việc phân cấp quản
lý ĐTBD hợp lý, chính xác sẽ có những tác dụng tích cực như sau:
Một là, thúc đẩy sự phát triển của các loại hình ĐTBD thông qua việc
cung cấp những cơ hội tốt hơn để cơ sở ĐTBD ở mỗi cấp được tham gia tích
cực và trực tiếp hơn vào các quá trình quản lý, tổ chức và ra quyết định của
cấp trực tiếp.
Hai là, tăng cường hiệu quả của việc cung cấp các dịch vụ công trong
ĐTBD CBCC cho người học thông qua việc ủy quyền cho cấp đào tạo ở địa
phương thực thi chức năng cung cấp dịch vụ học tập, từ đó hạn chế sự độc
quyền và trì trệ của các cơ sở ĐTBD.
Ba là, tạo điều kiện để nâng cao chất lượng của những dịch vụ dạy và
học được cung cấp cho học viên dựa trên trách nhiệm của đơn vị cung ứng
dịch vụ ĐTBD và sự nhạy bén trong việc nắm bắt và đáp ứng nhu cầu của học
viên ở cấp chính quyền địa phương.
Bốn là, tăng cường sự chủ động, minh bạch, trách nhiệm trong việc tổ
chức dạy và học ở mỗi cấp và năng lực giải quyết các công việc của các đơn
vị tổ chức cung ứng dịch vụ ĐTBD CBCC chính quyền địa phương.
Năm là, cho phép đại diện đa dạng hơn về chính trị và sự tham gia của
các nhóm lợi ích như văn hóa, chính trị, tôn giáo, sắc tộc khác nhau… vào
quá trình ra quyết định của các cơ quan nhà nước liên quan đến các vấn đề
của mỗi địa phương.
2.2.3. Nguyên tắc phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức
Phân cấp ĐTBDCBCC là căn cứ pháp lý để các cơ quan, đơn vị tổ chức
thực hiện công tác ĐTBD CBCC ở đơn vị mình, cấp mình quản lý. Thông qua
kế hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt cần phải thông báo cho tất cả
các đơn vị biết và triển khai thực hiện. Căn cứ kế hoạch tổng thể, các đơn vị
có liên quan lập kế hoạch chi tiết cho đơn vị mình, trong đó có chia ra kế
45
hoạch cụ thể (tháng, quý, 06 tháng và ghi rõ các lớp học; đối tượng, thời gian
mở từng lớp).
Kế hoạch chi tiết này cần thông báo cho các đơn vị, cá nhân biết để chủ
động trong việc sắp xếp thời gian, công việc và cử CBCC tham dự. Trên cơ
sở kế hoạch tổng thể và kế hoạch chi tiết đã được thông báo, các đơn vị đăng
ký CBCC tham dự từng khoá học từ đầu năm hoặc theo từng giai đoạn cụ thể.
Đơn vị tổ chức lớp chuẩn bị liên hệ địa điểm, giảng viên, tài liệu và các điều
kiện cần thiết khác. Định kỳ hàng tháng, hàng quý, đặc biệt là 06 tháng đầu
năm tổ chức sơ kết, rút kinh nghiệm, thậm chí điều chỉnh kế hoạch ĐTBD cho
phù hợp; xây dựng kế hoạch 06 tháng cuối năm và dự kiến kế hoạch ĐTBD
năm sau theo quy định.
Phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cần chú ý
các nguyên tắc sau:
Một là, nguyên tắc dân chủ tập trungtrong phân cấp QLNN đối với
ĐTBD CBCC.
Việc quản lý ĐTBD CBCC phải đảm bảo sự thống nhất trên toàn quốc
nhưng phải đảm bảo sự phù hợp với thực tiễn từng địa phương. Do đó, cần thực
hiện nguyên tắc dân chủ tập trung trong phân cấp QLNN đối với ĐTBD CBCC.
Tập trung dân chủ trong phân cấp QLNN đối với ĐTBD CBCC đòi hỏi
tập trung quyền lực cho cơ quan quản lý trung ương nhưng đồng thời mở rộng
dân chủ cho cơ quan quản lý ĐTBD CBCC địa phương.
Hai là, nguyên tắc kết hợp phân cấp quản lý theo ngành và phân cấp
quản lý theo lãnh thổ trong phân cấp QLNN đối với ĐTBD.
QLNN đối với ĐTBD CBCC có sự tham gia của nhiều cơ quan trung
ương và địa phương; của cơ quan quản lý chuyên môn đến cơ quan quản lý
lãnh thổ. Do vậy, việc phân cấp quản lýđối với ĐTBD CBCC không thể tách
rời yếu giữa quản lý theo ngành và theo lãnh thổ. Để việc quản lý đối với
ĐTBD CBCC hiệu quả thì việc phân cấpQLNN đối với ĐTBD phải kết hợp
cả quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ.
46
Ba là, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong phân cấp QLNN đối
với ĐTBD.
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi thực hiện phân cấp
QLNN đối với ĐTBDtrước hết phải tuân thủ những quy định của pháp luật.
Việc phân cấp quản lý ĐTBD CBCC phải được thực hiện nghiêm ngặt theo
đúng trình luật định, tránh mỗi địa phương, mỗi ngành triển khai tùy tiện
nhiệm vụ theo ý kiến chủ quan trái với quy định chung của Nhà nước.
Bốn là, nguyên tắc bình đẳng giữa các địa phương.
Cũng giống như bất kỳ hoạt động có mục đích nào, phân cấp quản lý
trong ĐTBD CBCC cần được tổ chức và hoạt động có hiệu quả các công việc
của mình trên các lĩnh vực đã được phân công.
Khi phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC cần có sự bình đẳng giữa các
địa phương, nghĩa là không có sự ưu tiên đối với bất kỳ địa phương nào, dù
đó là địa phương thành phố hay địa phương miền núi, vùng sâu xa; địa
phương phát triển về kinh tế hay địa phương nghèo…
Năm là, bảo đảm tính hiệu lực,hiệu quả.
Phân cấp là một quá trình bắt đầu từ việc thử nghiệm hoặc rà soát chức
năng, nhiệm vụ của từng cấp quản lý để phát hiện khả năng, tính trội của một
cấp nhất định trong việc đảm nhiệm một công việc, hoạt động thuộc nội dung
quản lý nhà nước. Việc lựa chọn chủ thể quản lý về ĐTBD, CBCC phải xuất
phát từ tiêu chí hiệu lực, hiệu quả, có nghĩa là cấp nào có khả năng đạt được
mục tiêu, chất lượng và yêu cầu quản lý với chi phí ít nhất và thời gian ngắn
nhất thì nên giao nhiệm vụ tương ứng cho cấp đó.
2.2.4. Chủ thể tham gia quản lý đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
2.2.4.1. Bộ Nội vụ
Bộ Nội vụ là cơ quan cơ quan QLNN về CBCC. Tuy nhiên, tuỳ từng
quốc gia khác nhau, ở từng thời điểm khác nhau mà có tên gọi khác nhau
như Bộ Nội vụ, Viện nhân sự quốc gia, Ban tổ chức chính phủ... nhưng phổ
47
biến gọi là Bộ Nội vụ (ví dụ ở Việt Nam trướcnhững năm 90, Bộ Nội vụ
chính là Bộ Công an ngày nay).Bộ Nội vụ thực hiện chức năng QLNN về
CBCC, đồng thời là chủ thể QLNN về ĐTBD cho đội ngũ CBCC trên phạm
vi cả nước.
Thực hiện chức năng quản lý ĐTBD CBCC, Bộ Nội vụ xây dựng
chương trình, kế hoạch ĐTBD CBCC; chương trình, nội dung ĐTBD CBCC;
đội ngũ giảng viên và cơ sở ĐTBD CBCC; kinh phí phục vụĐTBD CBCC;
thanh tra công tác ĐTBD CBCC.
2.2.4.2. Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ
Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ phối hợp với Bộ
Nội vụ để thực hiện việc QLNN đối với công tác ĐTBD CBCC. Theo đó, các
bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ quản lý công tác ĐTBD
CBCC trong phạm vi bộ, ngành, lĩnh vực của mình.
2.2.4.3. Bộ Tài chính
Bộ Tài chính thực hiện chức năng QLNN về tài chính trên phạm vi cả
nước đối với các lĩnh vực của quốc gia. Kinh phí dành cho công tác ĐTBD
CBCC lấy từ ngân sách nhà nước sẽ chịu sự QLNN của Bộ tài chính. Theo
đó, Bộ Tài chính xây dựng kế hoạch sử dụng, cấp và thanh tra kiểm toán đối
với kinh phí dành cho ĐTBD CBCC.
2.2.4.4. Chính quyền địa phương
Chính quyền địa phương thực hiện chức năng QLNN trên địa bàn lãnh
thổ theo sự phân chia của mỗi quốc gia. Tuỳ theo thể chế của mỗi quốc gia
mà chính quyền địa phương được phân cấp thẩm quyền quản lý đối với công
tác ĐTBD CBCC.
2.2.4.5. Đơn vị sử dụng cán bộ, công chức
Đơn vị sử dụng CBCC là đơn vị thụ hưởng thành quả của công tác
ĐTBD CBCC. Tuỳ theo nhu cầu của mình, đơn vị sử dụng CBCC cử CBCC
đi ĐTBD ở đâu, nội dung gì.
48
Là đơn vị thụ hưởng thành quả của công tác ĐTBD CBCC, đơn vị sử
dụng CBCC thực hiện chế độ hướng dẫn tập sự, thử việc cho CBCC; đề xuất
việc biên soạn và lựa chọn chương trình ĐTBD phù hợp với vị trí việc làm
của công chức; tạo điều kiện để CBCC đi ĐTBD.
2.2.4.6. Cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Là những đơn vị trực tiếp thực hiện hoạt động ĐTBD CBCC, cơ sở
ĐTBD CBCC tham gia quản lý ĐTBD CBCC qua những nội dung sau:
- Tổ chức biên soạn tài liệu ĐTBD CBCC trên cơ sở chương trình do
cơ quan có thẩm quyền ban hành theo phân cấp về ĐTBD CBCC.
- Tổ chức thực hiện các khóa ĐTBD CBCC và đánh giá chất lượng
trong phạm vi trách nhiệm được giao.
- Cấp chứng chỉ ĐTBD CBCC của các chương trình ĐTBD được giao.
Như vậy, việc phân cấp quản lý ĐTBD CBCC cho các cơ sở ĐTBD
CBCCthông qua hoạt động giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ
sở ĐTBD CBCC từ việc tổ chức biên soạn tài liệu ĐTBD CBCC, tham gia
thẩm định tài liệu đến việc cấp chứng chỉ ĐTBD CBCC các chương trình
được giao thực hiện.
2.3. Nội dung và các yếu tố ảnh hưởng đến phân cấp quản lýtrong
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
2.3.1. Nội dung cơ bản về phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức
2.3.1..1. Phân cấp quản lý về nội dung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức
Nội dung ĐTBD CBCC là yếu tố cơ bản trong ĐTBD CBCC. CBCC ở
những vị trí khác nhau thì cần được ĐTBD theo những chương trình khác
nhau. Do đó, phân cấp nội dung ĐTBD CBCC chính là nhằm đảm bảo chất
lượng và hiệu quả ĐTBD CBCC
49
Đây là nội dung cơ bản của việc phân cấp trong quản lýĐTBD CBCC,
việc ĐTBDcho CBCC nội dung gì, ở mức độ nào cần phải được phân cấp
giữa cơ quan quản lý trung ương và cơ quan quản lý địa phương, giữa các cơ
quan quản lý ở trung ương với nhau. Dựa vào tính chất chuyên môn nghiệp
vụ của của từng loại CBCC mà có sự phân cấp nội dung ĐBDT hợp lý.
Theo đó, cơ quan trung ương quản lý kiến thức, kỹ năng mà mọi CBCC
phải học chung, hoặc kiến thức mới được chuyển giao từ các tổ chức nước
ngoài, hoặc các kiến thức còn nhiều ý kiến tranh luận... còn các kiến thức, kỹ
năng mang tính tác nghiệp cụ thể ở địa phương thì có thể giao cho cơ quan địa
phương quản lý. Hoặc nội dung ĐTBD CBCC sẽ tập trung ở cơ quan trung
ương để đảm bảo tính thống nhất, còn địa phương sẽ quản lý việc tổ chức
thực hiện.
Giao quyền và trách nhiệm, tạo tính chủ động tự quyết, tự chịu trong
toàn bộ hoạt động quản lý ĐTBDCBCC cho cơ quan chuyên môn QLNN về
ĐTBD CBCC từ quy định khung nội dung, chương trình, kế hoạch giảng dạy,
tiêu chuẩn đội ngũ đến việc kiểm định, đánh giá chất lượng ĐTBD.
Giao cơ sở ĐTBD CBCC tự chủ trong việc triển khai thực hiện nội
dung, chương trình, kế hoạch giảng dạy, đánh giá chất lượng trên cơ sở căn
cứ khung nội dung, chương trình, kế hoạch chung được quy định.
2.3.1.2. Phân cấp quản lý cơ sở thực hiện chức năng đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức
Cơ sở ĐTBD CBCC gồm có cơ sởĐTBD CBCCcấp quốc gia, theo khu
vực, theo địa giới hành chính. Phân cấp cơ sở ĐTBD CBCC nhằm đảm bảo
năng lực ĐTBD của mỗi cơ sở ĐTBD CBCC.
Tổ chức bộ máy là nhân tố cơ bản mang lại hiệu quả trong hoạt động
của bất cứ tổ chức nào, riêng đối với hoạt động ĐTBDCBCC thì vấn đề tổ
chức bộ máy khoa học, gọn nhẹ và hợp lý là tiền đề góp phần tổ chức hiệu
quả trong ĐTBD CBCC.
50
Về thẩm quyền quản lý: xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của các
cơ quan QLNN trong lĩnh vực ĐTBD CBCC ở cấp trung ương với địa
phương. Theo đó, cơ quan QLNN về ĐTBD CBCC trung ương tập trung vào
việc hoạch định, xây dựng chính sách, quy hoạch mạng lưới cơ sở ĐTBD
CBCC. Cơ quan QLNN địa phương xây dựng chiến lược, kế hoạch và thực
thi chính sách ĐTBD CBCC tại địa phương, khu vực trên cơ sở căn cứ chính
sách, quy định và điều kiện đặt thù của địa phương, vùng, miền.
Hoàn thiện thiết chế tổ chức cơ quan chuyên môn QLNN về ĐTBD
CBCC: quy định rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền của
cơ quan chuyên môn QLNN về ĐTBD CBCC ở trung ương và địa phương, cơ
chế phối hợp, hướng dẫn trong công tác QLNN về ĐTBD CBCC.
Quy định khung về cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý cơ sở ĐTBD CBCC:
Cơ quan QLNN trung ương quy định khung cơ cấu tổ chức bộ máy cơ sở
ĐTBDCBCC theo từng loại hình, hạng trường, cơ sở ĐTBD CBCC phải xây
dựng và thiết kế cơ cấu tổ chức bộ máy của mình trình cơ quan QLNN theo
thẩm quyền phê duyệt nhằm đảm bảo cơ cấu tổ chức theo cơ cấu quy định,
đồng thời gắn với loại hình hoạt động của cơ sở ĐTBD CBCC.
2.3.1.3. Phân cấp quản lý về đội ngũ giảng viên và viên chức phục vụ
hoạt độngđào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Mỗi cơ sở ĐTBD CBCC có đội ngũ giảng viên và những người phục
vụ khác nhau. Đội ngũ này thực hiện các chương trình ĐTBD CBCC. Bộ Nội
vụ là cơ quan quản lý cấp quốc gia về đội ngũ CBCC, viên chức. Tuy nhiên
với phạm vi rộng, số lượng đông thì việc phân cấp là điều tất yếu nhằm đảm
bảo hiệu lực, hiệu quả trong vấn đề quản lý nhân sự công.
Con người luôn là yếu tố quyết định mọi thắng lợi trong bất cứ hoàn
cảnh nào. Phân cấp quản lý về đội ngũgiảng viên và viên chức phục vụ hoạt
động ĐTBD CBCC chính là vấn đề cơ quan nào quản lý giảng viên, viên
chức phục vụ ĐTBD CBCC của các cơ sở ĐTBC CBCC trung ương và địa
51
phương theo một trật tự thứ bậc từ trên xuống dưới, theo cả chiều dọc lẫn
chiều ngang trong QLNN.
Phân cấp quản lý theo chiều ngang: đối với các cơ sở ĐTBD CBCC ở
trung ương thì đội ngũ giảng viên và viên chức phục vụĐTBD CBCC do
trung ương quản lý; đối với các cơ sở ĐTBD CBCC ở địa phương thì đội ngũ
giảng viên và viên chức phục vụĐTBD CBCC do địa phương quản lý.
Phân cấp theo chiều dọc: cơ quan quản lý CBCC, viên chức của cả
nước sẽ thống nhất quản lý đội ngũ giảng viên và viên chức phục vụĐTBD
CBCC. Chương trình ĐTBD thì do cơ quan quản lý giáo dục và đào tạo hoặc
cơ quan khác quản lý. Cơ sở, vật chất kỹ thuật do địa phương quản lý.
Đối với cơ quan quản lý về đội ngũ giảng viên và viên chức phục
vụĐTBD CBCC cần quy định rõ định mức biên chế, tiêu chuẩn chuyên môn,
nghiệp vụ theo vị trí việc làm trong cơ quan QLNN về ĐTBD CBCC để cơ
quan này được tuyển dụng theo yêu cầu công việc của mình đảm bảo đúng
tiêu chuẩn và quy trình quy định.
Đối với giảng viên và viên chức phục vụ trong các cơ sở ĐTBD CBCC:
Nhà nước quy định rõ vị trí việc làm, tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ của
từng vị trí việc làm trong hoạt động chuyên môn tại cơ sở ĐTBD CBCC.
Người đứng đầu cơ sở này thực hiện việc tuyển dụng nhân sự theo yêu cầu
công việc của đơn vị mình gắn với tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ được
quy định, đồng thời chịu trách nhiệm toàn bộ kết quả hoạt động chuyên môn
và chất lượng nhân sự trước cơ quan QLNN.
2.3.1.4. Phân cấp quản lý về ngân sách tài chính cho đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức
Ngân sách tài chính là một yếu tố quan trọng trong hoạt động ĐTBD
CBCC. Thực hiện việc phân cấp ĐTBD CBCC dẫn theo việc phân cấp tài
chính ngân sách cho hoạt động này nhằm đảm bảo tính chủ động cho các
cấp dưới.
52
Kinh phí cho công tác ĐTBD CBCC do Nhà nước cấp, được phân bổ
từ ngân sách nhà nước cho các cấp chính quyền, các bộ, ngành, địa phương và
tiếp tục được phân bổ đến các cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị. CBCC
được cử đi ĐTBD được hưởng nguyên lương. Như vậy, Nhà nước bao cấp
toàn bộ kinh phí cho công tác ĐTBD CBCC. Đây là sự quan tâm rất lớn của
Đảng và Nhà nước đối với công tác ĐTBD, xây dựng đội ngũ CBCC. Vì vậy,
để động viên công chức tích cực tham gia và toàn tâm, toàn ý vào nhiệm vụ
ĐTBD, bên cạnh chế độ, chính sách chung của Nhà nước, mỗi địa phương, cơ
quan, đơn vị căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể và trong khuôn khổ cho
phép có các hình thức hỗ trợ tài chính cho CBCC đi ĐTBD nhằm khuyến
khích, động viên công chức trong ĐTBD, góp phần vào việc nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác ĐTBD.
Tài chính cho công tác ĐTBD CBCC là nội dung cần có sự phân cấp và
quản lý chặt chẽ, phải được quy định cụ thể trong luật và các văn bản quản lý
của nhà nước. Nguồn tài chính phải được quản lý thống nhất, có sự phân phối
hợp lý dựa trên nhu cầu và điều kiện thực tế trong ĐTBD của từng cấp, từng
ngành mà có sự phân cấp quản lý hợp lý nhất.
Nhà nước quy định cơ chế quản lý tài chính trong hoạt động ĐTBD
CBCC: về học phí, kinh phí đóng góp, cơ chế, chính sách để thực hiện công
tác ĐTBD CBCC.Bộ Tài chính thống nhất quản lý tất cả các vấn đề liên quan
đến chi tiêu tài chính công, các chế độ, định mức trong các hoạt động giáo
dục, văn hoá, xã hội,… liên quan đến chi tiêu công thì đều có ý kiến và phê
duyệt của Bộ Tài chính.
Để phân cấp quản lý về ngân sách tài chính cho ĐTBD CBCC cần giao
cơ chế tự chủ tài chính đối với ngân sách cấp cho hoạt động ĐTBD CBCC;
giao quyền tự chủ về tài chính được cấp và nguồn thu khác theo quy định cho
cơ sở ĐTBD CBCC trong hoạt động chuyên môn. Nghĩa là ngân sách cấp cho
hoạt động ĐTBD CBCC cần giao cho cơ sở ĐTBD CBCC được tự chủ, tự
53
hạch toán, mà không chi qua Sở tài chính để giao nhiệm vụ cho các cơ sở
ĐTBD CBCC.
2.3.1.5. Phân cấp quản lý về văn bằng, chứng chỉ
Văn bằng được cấp cho người học sau khi tốt nghiệp một một trình độ
đào tạo; chứng chỉ được cấp cho người học sau khi được hoàn thành một khóa
hoặc một chương trình đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn.
Chính phủ giao cho một cơ quan cấp bộ thống nhất quản lý văn bằng,
chứng chỉ trên phạm vi cả nước; quy định chi tiết nội dung chính ghi trên văn
bằng, chứng chỉ và phụ lục văn bằng, chứng chỉ hoặc quy định mẫu văn bằng,
chứng chỉ; quy định nguyên tắc in phôi, quản lý, cấp phát, thu hồi, hủy bỏ văn
bằng, chứng chỉ.
Văn bằng, chứng chỉ có thể đượccơ quan cấp bộ tập trung quản lý hoặc
phân cấp cho các chủ thể khác quản lý tuỳ theo điều kiện thực tế và thể chế
của mỗi quốc gia khác nhau.
Trong xu hướng cải cách hành chính, việc phân cấp quản lý hành chính
được tăng cường, theo đó văn bằng, chứng chỉ cũng được chú trọng phân cấp
quản lý.
2.3.1.6. Phân cấp về kiểm tra, thanh tra đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức
Kiểm tra, thanh tra là hoạt động của nhà nước nhằm đảm bảo sự tuân
thủ đúng quy định của các cơ quan. Kiểm tra, thanh tra gồm có kiểm tra,
thanh tra của cơ quan thanh tra nhà nước và cơ quan thanh tra chuyên ngành.
Đối với hoạt động ĐTBD CBCC, hoạt động kiểm tra, thanh tra gồm có:
- Cơ quan thanh tra nhà nước ở trung ương là Thanh tra Chính phủ, ở
địa phương là thanh tra tỉnh, thanh tra huyện.
- Cơ quan thanh tra chuyên ngành (cán bộ, công chức) ở trung ương có
thanh tra của Bộ Nội vụ, cấp tỉnh Sở Nội vụ, cấp huyện là Phòng Nội vụ.
54
2.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức
Nhìn chung, các yếu tố ảnh hưởng đến phân cấp QLNN về ĐTBD
CBCC có hàm chứa đầy đủ các yếu tố ảnh hưởng chung đến việc phân cấp
QLNN. Trên góc độ các yếu tố ảnh hưởng đến ĐTBD CBCC có thể thấy một
số yếu tố cơ bản sau:
Thứ nhất,môi trường chính trị, pháp lý.
Môi trường chính trị, pháp lý thường thể hiện là sự ổn định hay không
về chính sách, sự tôn nghiêm của pháp luật và tinh thần pháp chế. Trong một
quốc gia, mọi lĩnh vực, mọi cá nhân, tổ chức đều chịu ảnh hưởng của môi
trường chính trị, pháp lý. Phân cấp QLNN về ĐTBD CBCC là một lĩnh vực
trong quản lý của nhà nước. Do đó không thể không chịu ảnh hưởng của môi
trường chính trị, pháp lý.
Các quy định của thể chế chính trị, pháp lý càng đầy đủ, cụ thể thì việc
phân cấp QLNN về ĐTBD CBCC càng hoàn thiện, và ngược lại nếu các quy
định về ĐTBD CBCC không đầy đủ sẽ gây khó khăn cho việc phân cấp
QLNN về ĐTBD CBCC.
Mặt khác, ở quốc gia có truyền thống phân cấp thì việc phân cấp
QLNN về ĐTBD CBCC là điều bình thường, và khi đó công tác phân cấp
QLNN về ĐTBD CBCC sẽ gặp thuận lợi. Nhưng ở quốc gia mà việc phân cấp
quản lý còn ít thì trong vấn đề QLNN về ĐTBD CBCC sẽ gặp những ý kiến
trái chiều khi đặt vấn đề phân cấp.
Thứ hai, thẩm quyền pháp lý của mỗi cơ quan quản lý trong vấn đề
phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC.
Việc phân cấp quản lý nói chung và phân cấp quản lý trong ĐTBD
CBCC nói riêng phụ thuộc vào thẩm quyền của cơ quan được phân cấp. Mỗi
cơ quan có chức năng, nhiệm vụ khác nhau, thẩm quyền ở những phạm vi
khác nhau nên việc phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC sẽ phụ thuộc vào
55
thẩm quyền pháp lý của mỗi cơ quan. Thẩm quyền pháp lý của cơ quan quản
lý có thể chia thành thẩm quyền chung và thẩm quyền riêng, thẩm quyền trên
phạm vi toàn quốc và thẩm quyền ở phạm vi địa phương nhất định.
Các yếu tố tổ chức, cơ chế vận hành cũng như sự hợp lý của mỗi cơ
quan cũng có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực và hiệu quả phân cấp quản lý
trongĐTBD CBCC. Vì thế, trong vấn đề phân cấp quản lý trongĐTBD CBCC
cần căn cứ thẩm quyền pháp lý để phân cấp quản lý phù hợp với chức năng,
nhiệm vụ của mỗi cơ quan.
Thứ ba,chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức tham gia QLNN về
ĐTBD CBCC.
Đội ngũ CBCC quản lý ĐTBD là chủ thể trực tiếp tổ chức và tiến hành
mọi hoạt động quản lý. Chất lượng của đội ngũ này ảnh hưởng trực tiếp đến
hiệu quả quản lý. Thực hiện phân cấp QLNN về ĐTBD CBCC không thể tách
rời với chất lượng đội ngũ CBCC. Chất lượng đội ngũCBCC quản lý ĐTBD
càng cao thì hiệu quả phân cấp quản lý càng tốt hơn và ngược lại. Nếu chất
lượng đội ngũCBCC quản lý ĐTBD ở địa phương, cơ quan cấp dưới kém thì
rõ ràng cơ quan trung ương, cấp trên chưa thể thực hiện phân cấp cho cấp
dưới. Bên cạnh đó, chất lượng đội ngũCBCC quản lý ĐTBD ở địa phương, cơ
quan cấp dưới kém thì chính cơ quan, địa phương đó cũng chưa sẵn sàng cho
việc nhận sự phân cấp từ cấp trên, trung ương.
Thứ tư,cơ sở vật chất, tài chính, kỹ thuật của mỗi cơ quan.
Hệ thống cơ sở hạ tầng, kỹ thuật, tài chính có vai trò to lớn đối với sự
tồn tại, phát triển của mọi tổ chức. Đó là công cụ, phương tiện để các cơ quan,
tổ chức thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.
Khi phân cấp quản lý nói chung và phân cấp QLNN trong ĐTBD
CBCC thì không thể không chú ý đến cơ sở vật chất, tài chính, kỹ thuật của
mỗi cơ quan, đơn vị. Cũng giống như nguồn lực con người, cơ sở vật chất, tài
56
chính, kỹ thuật của cơ quan, đơn vị bảo đảm thì mới có thể tiến hành phân cấp
QLNN trong ĐTBD.
2.4. Thực tiễn phân cấp quản lý đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức của Việt Nam và kinh nghiệm cho Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
2.4.1. Thực tiễn phân cấp quản lý đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức của Việt Nam
2.4.1.1. Phân cấp quản lý về nội dung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Theo Nghị định số 101/2017/NĐ-CPngày 01/9/2017 của Chính phủ
Việt Nam về ĐTBD CBCC viên chức, Việt Nam có các chương trình, tài liệu
ĐTBD CBCC viên chức như sau:
- Chương trình, tài liệu bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ, công chức,
viên chức, gồm: Chương trình, tài liệu bồi dưỡng lý luận chính trị theo tiêu
chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý;Chương trình, tài liệu bồi dưỡng lý luận chính
trị theo tiêu chuẩn ngạch, tiêu chuẩn chức danh cán bộ, công chức, viên chức.
- Chương trình, tài liệu bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh,
gồm: Chương trình, tài liệu bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh theo
tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý; Chương trình, tài liệu bồi dưỡng kiến
thức quốc phòng và an ninh theo tiêu chuẩn ngạch, tiêu chuẩn chức danh cán
bộ, công chức, viên chức.
- Chương trình, tài liệu bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước theo tiêu
chuẩn ngạch công chức, thời gian thực hiện tối thiểu là 06 tuần, tối đa là 08
tuần, gồm:Chương trình, tài liệu bồi dưỡng ngạch cán sự và tương đương;
Chương trình, tài liệu bồi dưỡng ngạch chuyên viên và tương đương; Chương
trình, tài liệu bồi dưỡng ngạch chuyên viên chính và tương đương; Chương
trình, tài liệu bồi dưỡng ngạch chuyên viên cao cấp và tương đương.
- Chương trình, tài liệu bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề
nghiệp viên chức, thời gian thực hiện tối thiểu là 06 tuần, tối đa là 08 tuần,
gồm:Chương trình, tài liệu bồi dưỡng chức danh nghề nghiệp hạng IV;
57
Chương trình, tài liệu bồi dưỡng chức danh nghề nghiệp hạng III; Chương
trình, tài liệu bồi dưỡng chức danh nghề nghiệp hạng II; Chương trình, tài liệu
bồi dưỡng chức danh nghề nghiệp hạng I.
- Chương trình, tài liệu bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước trước
khi bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo, quản lý, thời gian thực hiện tối thiểu là 02
tuần, tối đa là 04 tuần, gồm:Chương trình, tài liệu bồi dưỡng lãnh đạo, quản
lý cấp phòng và tương đương; Chương trình, tài liệu bồi dưỡng lãnh đạo,
quản lý cấp huyện và tương đương; Chương trình, tài liệu bồi dưỡng lãnh
đạo, quản lý cấp sở và tương đương;Chương trình, tài liệu bồi dưỡng lãnh
đạo, quản lý cấp vụ và tương đương; Chương trình, tài liệu bồi dưỡng Thứ
trưởng và tương đương.
- Chương trình, tài liệu bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng lãnh đạo, quản lý
cấp xã, thời gian thực hiện tối thiểu là 02 tuần, tối đa là 04 tuần.
- Chương trình, tài liệu bồi dưỡng theo yêu cầu của vị trí việc làm, kiến
thức, kỹ năng chuyên ngành, thời gian thực hiện tối đa là 01 tuần.
Việc quản lý chương trình ĐTBD CBCC được phân cấp như sau:
- Cơ quan có thẩm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam quản lý và
hướng dẫn cụ thể về chương trình bồi dưỡng lý luận chính trị.
- Bộ Quốc phòng chủ trì, phối hợp với Bộ Công an quản lý và hướng
dẫn cụ thể về chương trình bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh.
- Bộ Nội vụ quản lý chương trình bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà
nước theo tiêu chuẩn ngạch công chức; chương trình bồi dưỡng kiến thức
quản lý nhà nước trước khi bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo, quản lý.
- Các bộ quản lý chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành quản
lý chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức.
- Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tổ chức chính trị -
xã hội ở trung ương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý các chương trình bồi
58
dưỡng theo yêu cầu của vị trí việc làm, kiến thức, kỹ năng chuyên ngành cho
cán bộ, công chức, viên chức thuộc thẩm quyền quản lý.
- Các chương trình bồi dưỡng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Bộ Quốc
phòng, Bộ Công an và các bộ phải có ý kiến thống nhất của Bộ Nội vụ trước
khi ban hành.
2.4.1.2. Phân cấp quản lý cơ sở thực hiện chức năng đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức
Phân cấp quản lý ĐTBD CBCC viên chức dựa trên phân cấp quản lý
của các cơ quan quản lý và năng lực hoạt động của các cơ sở ĐTBD CBCC.
Mỗi nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng được cơ quan quản lý có thẩm
quyền giao cho cơ sở ĐTBD CBCC có năng lực thực hiện tốt nhất, phù hợp
với nhiệm vụ chính trị và ngành, lĩnh vực quản lý chuyên môn nghiệp vụ của
cơ quan quản lý cơ sở ĐTBD CBCC.
Trong quá trình tổ chức, cơ sở đào tạo, bồi dưỡng không thực hiện
đúng theo quy định và không đáp ứng yêu cầu về chất lượng đào tạo, bồi
dưỡng thì cơ quan quản lý có thẩm quyền có thể quyết định thu hồi lại nội
dung đã phân cấp cho cơ sở đào tạo, bồi dưỡng khi thực hiện không đáp ứng
yêu cầu. Ở Việt Nam hiện nay, Nghị định 101/2017/NĐ-CP đã có quy định
khá cụ thể và rõ ràng về phân cấp quản lý cơ sở ĐTBD CBCC. Cụ thể, Nghị
định quy định hệ thống cơ sở đào tạo được giao nhiệm vụ ĐTBD CBCC:
- Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức bồi dưỡng các
chương trình sau:
+ Chương trình bồi dưỡng lý luận chính trị theo tiêu chuẩn chức vụ
lãnh đạo, quản lý cấp huyện và tương đương; cấp sở và tương đương; cấp vụ
và tương đương; Thứ trưởng và tương đương;
+ Chương trình nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phương pháp
sư phạm cho giảng viên lý luận chính trị trong hệ thống cơ sở đào tạo, bồi
dưỡng, cơ sở đào tạo, nghiên cứu;
59
+ Chương trình bồi dưỡng lý luận chính trị theo tiêu chuẩn ngạch công
chức, tiêu chuẩn chức danh cán bộ, công chức, viên chức;
+ Chương trình bồi dưỡng khác do cấp có thẩm quyền giao.
- Học viện Hành chính Quốc gia tổ chức bồi dưỡng các chương trình sau:
+ Chương trình bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước trước khi bổ
nhiệm chức vụ lãnh đạo, quản lý cấp huyện và tương đương, cấp sở và tương
đương, cấp vụ và tương đương, Thứ trưởng và tương đương;
+ Chương trình bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước theo tiêu chuẩn
ngạch chuyên viên cao cấp và tương đương;
+ Chương trình nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phương pháp
sư phạm cho giảng viên quản lý nhà nước trong hệ thống cơ sở đào tạo,
bồi dưỡng, cơ sở đào tạo, nghiên cứu;
+ Chương trình bồi dưỡng khác do cấp có thẩm quyền giao.
- Trường Chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổ chức bồi
dưỡng các chương trình sau:
+ Chương trình bồi dưỡng lý luận chính trị theo tiêu chuẩn chức vụ
lãnh đạo, quản lý cấp phòng và tương đương;
+ Chương trình bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước trước khi bổ
nhiệm chức vụ lãnh đạo, quản lý cấp phòng và tương đương;
+ Chương trình bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước theo tiêu chuẩn
ngạch cán sự và tương đương; ngạch chuyên viên và tương đương; ngạch
chuyên viên chính và tương đương;
+ Chương trình bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng lãnh đạo, quản lý cấp xã;
+ Chương trình bồi dưỡng khác do cấp có thẩm quyền giao.
- Cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của bộ, cơ quan ngang
bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương tổ chức
bồi dưỡng các chương trình sau:
60
+ Chương trình bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước trước khi bổ
nhiệm chức vụ lãnh đạo, quản lý cấp phòng và tương đương;
+ Chương trình bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước theo tiêu chuẩn
ngạch cán sự và tương đương; ngạch chuyên viên và tương đương; ngạch
chuyên viên chính và tương đương;
+ Chương trình bồi dưỡng khác do cấp có thẩm quyền giao.
- Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tổ chức chính trị -
xã hội ở trung ương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giao nhiệm vụ tổ
chức thực hiện chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề
nghiệp; chương trình bồi dưỡng theo yêu cầu của vị trí việc làm, kiến thức, kỹ
năng chuyên ngành của viên chức cho các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng, cơ sở đào
tạo, nghiên cứu có đủ điều kiện theo quy định thuộc thẩm quyền quản lý và
gửi danh sách về Bộ Nội vụ để tổng hợp, theo dõi, quản lý.
Quản lý các cơ sở ĐTBD CBCC được phân cấp như sau:
- Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh là cơ sở quan trực thuộc
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam; đặt dưới sự lãnh đạo,
chỉ đạo trực tiếp, toàn diện, thường xuyên của Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Như
vậy, Bộ Chính trị, Ban Bí thư trực tiếp quản lý đối với Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Học viện Hành chính Quốc gia là đơn vị sự nghiệp công lập hạng đặc
biệt, trực thuộc Bộ Nội vụ. Như vậy, Bộ Nội vụ là cơ quan quản lý đối với
Học viện Hành chính Quốc gia.
- Trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là đơn vị sự
nghiệp trực thuộc tỉnh uỷ, thành uỷ, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp và thường
xuyên của ban thường vụ tỉnh uỷ, thành ủy. Như vậy, tỉnh uỷ, thành ủy trực
tiếp quản lý các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
- Cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của bộ, cơ quan ngang
bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tổ chức chính trị - xã hội là đơn vị sự nghiệp
61
công lập trực thuộc bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tổ chức
chính trị - xã hội.
2.4.1.3. Phân cấp quản lý về đội ngũ giảng viên đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức
Theo Nghị định số 101/2017/NĐ-CP, giảng viên ĐTBD CBCC, viên
chức là giảng viên của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện
Hành chính Quốc gia, các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng, cơ sở đào tạo, nghiên
cứu; giảng viên kiêm nhiệm; người được mời thỉnh giảng.
Theo Nghị định số 101/2017/NĐ-CP, tiêu chuẩn, nhiệm vụ của đội ngũ
giảng viên ĐTBD CBCC, viên chức như sau:
- Về tiêu chuẩn: Trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa;Phẩm chất chính trị vững vàng, đạo đức lối sống lành mạnh;Đạt chuẩn
về trình độ đào tạo chuyên môn theo quy định; Có trình độ lý luận chính trị,
quản lý nhà nước, tin học, ngoại ngữ và nghiệp vụ sư phạm đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ được giao;Đủ sức khỏe theo yêu cầu nghề nghiệp;Lý lịch bản thân
rõ ràng, đáp ứng yêu cầu về chính trị.
- Về nhiệm vụ: Biên soạn chương trình, tài liệu và giảng dạy theo
quy định;Nghiên cứu khoa học và công nghệ;Học tập, bồi dưỡng nâng cao
trình độ.
Về chế độ, chính sách: Chế độ, chính sách đối với giảng viên Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Hành chính Quốc gia do cấp có
thẩm quyền quy định;Giảng viên của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng được
hưởng chế độ, chính sách của giảng viên trong cơ sở giáo dục đại học.
Việc quản lý đội ngũ giảng viên ĐTBD CBCC, viên chức nhưu sau:
- Đối với giảng viên của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh do
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh quản lý.
- Đối với giảng viên của Học viện Hành chính Quốc gia do Bộ Nội vụ
quản lý.
62
- Đối với giảng viên củacác cơ sở ĐTBD CBCC thuộc bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tổ chức chính trị - xã hội do bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tổ chức chính trị - xã hội quản lý.
- Đối với giảng viên của các trường chính trị, mặc dù là đơn vị sự
nghiệp công lập, nhưng việc tuyển dụng, bổ nhiệm, luân chuyển, thăng hạng,
chấm dứt hợp đồng lao động đối với giảng viên không thuộc thẩm quyền của
TCT, cũng không thuộc thẩm quyền của sở nội vụ địa phương, mà thuộc thẩm
quyền của ban tổ chức tỉnh ủy/thành ủy.
2.4.1.4. Phân cấp quản lý về ngân sách tài chính cho đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức
Phân cấp quản lý tài chính trong đào tạo, bồi dưỡng là nhân tố cơ bản
và quan trọng trong quá trình phân cấp ở Việt Nam giai đoạn hiện nay. Ở Việt
Nam, Bộ Tài chính thống nhất quản lý tất cả các vấn đề liên quan đến chi tiêu
tài chính công, các chế độ, định mức trong các hoạt động giáo dục, văn hoá,
xã hội,… liên quan đến chi tiêu công thì đều có ý kiến và phê duyệt của Bộ
Tài chính. Trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức
hiện nay ở Việt Nam, Bộ Nội vụ là đơn vị đầu mối quản lý các chương trình
về đào tạo, bòi dưỡng, trên cơ sở chương trình khung của các cơ sở đào tạo
xây dựng, và tài liệu đi kèm, Bộ Nội vụ cho ý kiến phê duyệt, theo đó các chế
độ đối với người học sẽ được quy định theo. Điều này tuỳ thuộc vào đối
tượng đi học, tuỳ thuộc chương trình học và tuỳ thuộc và thời gian học mà
kinh phí hỗ trợ sẽ khác nhau. Nhìn chung, theo chế độ hiện hành, mỗi cán bộ,
công chức khi được cơ quan cử đi học tập thường được hỗ trợ kinh phí đào
tạo, bồi dưỡng, hỗ trợ tiền công tác phí, xe cộ, ăn ngủ và các chế độ khác.
Viên chức ở Việt Nam là những người tham gia công tác và làm việc tại các
cơ sở, đơn vị nhà nước công lập, cung ứng các dịch vụ công, đặc thù là đơn vị
sự nghiệp công lập như các bệnh viên, trường học, viện nghiên cứu,… đây là
những đơn vị sự nghiệp có thu, tức là ngoài nguồn nhân sách nhà nước hỗ trợ,
63
thì đơn vị vẫn có nguồn thu thêm từ các hoạt động cung ứng dịch vụ công của
mình. Chính vì vậy mà đối tượng người học là viên chức có chế độ riêng và
được hưởng kinh phí theo quy định riêng. Thậm chí một số chương trình, học
tập mà đơn vị cử cán bộ tham gia học tập tự trang trải, tự chi trả tiền học cho
viên chức, không được nhận kinh phí hỗ trợ từ nhà nước.
Đối với giảng viên và các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng, trên cơ sở nguồn
kinh phí được cấp có thẩm quyền phê duyệt từ đầu năm, triển khai thực hiện
nhiệm vụ được giao trên cơ sở quyết định phê duyệt về đào tạo, bồi dưỡng.
Đồng thời, quá trình tổ chức và triển khai thực hiện theo đúng quy định cảu
pháp luật, đúng với Nghị định của Chính phủ và đúng với Thông tư hướng
dẫn của Bộ Nội vụ và Bộ chuyên ngành. Bộ Tài chính là Bộ chủ quản về ngân
sách nhà nước, là đơn vị nghiên cứu, đề xuất các Thông tư hướng dẫn thực
hiện về phân bổ kinh phí, mức hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng trên góc độ đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức trên cơ sở Nghị định của Chính phú.
Mới đây nhất là Thông tư số 40/2017/TT-BTC ngày 28/4/2017 của Bộ
Tài chính quy định chế độ công tác phí, chế độ Hội nghị đối với cán bộ, công
chức, viên chức của các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập. Ngay
tại Khoản 2 Điều 1 Thông tư ghi rõ đối tượng:
“a) Đối với chế độ công tác phí:
- Cán bộ, công chức, viên chức, lao động hợp đồng theo quy định của
pháp luật làm việc tại các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức hội sử dụng kinh phí do
ngân sách nhà nước hỗ trợ.
- Đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp khi tham gia hoạt động của Hội
đồng nhân dân.
b) Đối với chế độ chi hội nghị:
- Các hội nghị chuyên môn, hội nghị sơ kết và tổng kết chuyên đề; hội
nghị tổng kết năm; hội nghị tập huấn triển khai nhiệm vụ công tác do các cơ
64
quan hành chính nhà nước tổ chức được quy định tại Quyết định số
114/2006/QĐ-TTg ngày 25/5/2006 của Thủ tướng Chính phủ ban hành quy
định chế độ họp trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước (sau
đây gọi là Quyết định số 114/2006/QĐ-TTg ngày 25/5/2006); kỳ họp của Hội
đồng nhân dân, phiên họp của Thường trực Hội đồng nhân dân và cuộc họp
các Ban của Hội đồng nhân dân.
- Các hội nghị chuyên môn, hội nghị sơ kết và tổng kết chuyên đề, hội
nghị tổng kết năm, hội nghị tập huấn triển khai nhiệm vụ của các đơn vị sự
nghiệp công lập.
- Các hội nghị chuyên môn, hội nghị tập huấn triển khai nhiệm vụ hoặc
các hội nghị được tổ chức theo quy định trong điều lệ của các tổ chức chính
trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức hội sử dụng kinh phí do ngân sách nhà
nước hỗ trợ.
c) Riêng Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam, Đại hội
Đảng các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc, hội nghị của các cơ quan
thuộc Đảng Cộng sản Việt Nam, kỳ họp Quốc hội, họp Hội đồng dân tộc, các
uỷ ban của Quốc hội, phiên họp Uỷ ban thường vụ Quốc hội thực hiện theo
quy định riêng của cấp có thẩm quyền.”
Trên cơ sở đối tượng áp dụng, Điều 2 của Thông tư cũng ghi rõ kinh
phí được lấy từ nguồn nào để cung ứng cho các hoạt động của các đối tượng
nêu trên rất cụ thể: “ Nguồn kinh phí để chi công tác phí, chi hội nghị: Ngân
sách nhà nước; Nguồn thu phí được để lại theo quy định của pháp luật về phí,
lệ phí; Nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp, dịch vụ của đơn vị sự nghiệp công
lập; Nguồn kinh phí khác theo quy định của pháp luật (nếu có)”.
2.4.1.5. Phân cấp quản lý về văn bằng, chứng chỉ
Bộ Nội vụ là Bộ đầu ngành quản lý nhà nước về văn bằng, chứng chỉ
trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức thống nhất trong cả
nước.
65
Văn bằng, chứng chỉ, chứng nhận đào tạo, bồi dưỡng trong và ngoài
nước là một trong những căn cứ đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của
công chức trong thời gian đi học và là một trong những điều kiện để công
chức đáp ứng các tiêu chuẩn quy định theo vị trí công việc. Văn bằng, chứng
chỉ chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch cao hơn được thay thế
chứng chỉ chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch thấp hơn. Hiện nay,
trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức ở Việt Nam
đang thực hiện theo Thông tư số 01/2018/TT-BNV ngày 08/01/2018 của Bộ
Nội vụ hướng dẫn một số điều của nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày
01/9/2017 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức.
Thông tư quy định cụ thể về mẫu phôi văn bằng, chứng chỉ. Tại Thông tư này,
Bộ Nội vụ quy định cụ thể về mẫu chứng chỉ, chứng nhận đối với công tác
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Về thể thức trình bày cũng như nội
dung các mục ghi trong chứng chỉ, chứng nhận là thống nhất trong cả nước.
Ví dụ về kích thức chứng chỉ, chứng đảm bảo theo khổ 13 cm x 19 cm; về
mầu của chứng chỉ, chứng nhận ở mặt trước và mặt sau phải thống nhất,…
Trên cơ sở đó, Bộ Nội vụ phân cấp cho các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng, các cấp
đào tạo bồi dưỡng cán cứ vào mẫu chung, thống nhất đó mà triển khai in ấn,
thiết kế và có quyền xác nhận, cấp chứng chỉ, chứng nhận cho người học theo
chức năng, nhiệm vụ mà cơ sở đó được quy định. Từ đó, các trường, các học
viện, các trung tâm, cơ sở đào tạo, bồi dưỡng lập sổ theo dõi việc cấp phát
chứng chỉ, chứng nhận khoa học, hợp lý, đảm bảo số, ký hiệu và khoá học
riêng. Đó là đối với các khối trường đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch,
bậc, hạng đối với công chức, viên chức. Còn đối với các trường đào tạo, bồi
dưỡng về lý luận chính trị, cập nhật chủ trương của Đảng cũng có những quy
định riêng, trên cơ sở có sự góp ý và phê duyệt của Bộ Nội vụ.
Trong công tác đào tạo, bồi dưỡng ở Việt Nam có khối trường Đảng, ở
trung ương có Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, các khu vực có Học
66
viện chính trị Khu vực I, Khu vực II, Khu vực III. Ở các địa phương có
trường chính trị tỉnh và thành phố. Các trường này đào tạo theo chương trình
chung được Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh ban hành và quản lý.
Mẫu văn bằng, chứng chỉ và mẫu bằng tốt nghiệp như bằng tốt nghiệp trung
cấp lý luận chính trị - hành chính; bằng tốt nghiệp cao cấp lý luận chính trị
đều do Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh quản lý và quy định. Các
mẫu văn bằng, chứng chỉ này do Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
quản lý và thống nhất trong toàn quốc.
Dù các chương trình đào tạo, bồi dưỡng khác nhau, các lĩnh vực khác
nhau, các hệ đào tạo bồi dưỡng khác nhau, nhưng giá trị chứng chỉ, chứng
nhận cấp cho người học có giá trị chung trong cả nước. Tức là giá trị, hiệu lực
của chứng chỉ và chứng nhận là như nhau dù người học có học ở đâu và như
thế nào thì theo phân cấp quản lý về đào tạo, bồi dưỡng chứng chỉ chấp cho
người học được công nhận như nhau trong các vấn đề về thi nâng ngạch, hoàn
thiện ngạch bậc, chứng chỉ, đủ điều kiện bổ nhiệm vị trí quản lý lãnh đạo
trong toàn quốc.
2.4.1.6. Phân cấp về kiểm tra, thanh tra đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức
- Đối với Bộ Nội vụ
+ Xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo
thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức, viên chức.
+ Xây dựng, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt hoặc ban hành theo
thẩm quyền chiến lược, đề án, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức, viên chức; hướng dẫn thực hiện chiến lược, đề án, kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng sau khi được phê duyệt, ban hành; theo dõi, tổng hợp kết quả đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ
67
quan thuộc Chính phủ, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh.
+ Xây dựng kế hoạch, quản lý, hướng dẫn công tác bồi dưỡng cán
bộ, công chức, viên chức ở nước ngoài bằng nguồn ngân sách nhà nước. Tổ
chức các khóa bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức ở nước ngoài theo
thẩm quyền.
+ Tổng hợp nhu cầu, đề xuất kinh phí đào tạo, bồi dưỡng gửi Bộ Tài
chính cân đối, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt; hướng dẫn các bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tổ chức chính trị - xã hội ở trung
ương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện sau khi được cấp có thẩm quyền
phê duyệt.
+ Quản lý, biên soạn các chương trình, tài liệu bồi dưỡng cán bộ, công
chức, viên chức theo thẩm quyền.
+ Quy định tiêu chuẩn cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức,
viên chức.
+ Tổ chức các hoạt động thi đua, khen thưởng trong đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức, viên chức.
+ Thanh tra, kiểm tra hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức,
viên chức.
- Đối với bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tổ chức
chính trị - xã hội ở trung ương
+ Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện đề án, kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức, viên chức thuộc phạm vi quản lý.
+ Tổ chức thực hiện chế độ đào tạo, bồi dưỡng theo quy định.
+ Cử cán bộ, công chức, viên chức đi đào tạo, bồi dưỡng theo thẩm quyền.
+ Tổ chức các khóa bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức ở nước
ngoài theo thẩm quyền.
68
+ Quản lý và biên soạn các chương trình, tài liệu bồi dưỡng cán bộ,
công chức, viên chức theo thẩm quyền.
+ Quản lý cơ sở đào tạo, bồi dưỡng và đội ngũ giảng viên theo thẩm quyền.
+ Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chế độ, chính sách đào tạo, bồi
dưỡng theo thẩm quyền.
- Đối với Bộ Tài chính
+ Cân đối, bố trí kinh phí đào tạo, bồi dưỡng trong nước và ở nước
ngoài trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.
+ Hướng dẫn, kiểm tra việc quản lý, sử dụng kinh phí đào tạo, bồi dưỡng.
- Đối với Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
+ Xây dựng, ban hành chế độ khuyến khích cán bộ, công chức, viên
chức không ngừng học tập nâng cao trình độ, năng lực công tác; bố trí kinh
phí bảo đảm thực hiện có hiệu quả chế độ đào tạo, bồi dưỡng theo quy định.
+ Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện đề án, kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức, viên chức thuộc phạm vi quản lý.
+ Tổ chức thực hiện chế độ đào tạo, bồi dưỡng theo quy định.
+ Cử cán bộ, công chức, viên chức đi đào tạo, bồi dưỡng theo thẩm quyền.
+ Quản lý và biên soạn các chương trình, tài liệu bồi dưỡng cán bộ,
công chức, viên chức theo thẩm quyền.
+ Quản lý cơ sở đào tạo, bồi dưỡng và đội ngũ giảng viên theo thẩm quyền.
+ Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chế độ, chính sách đào tạo, bồi
dưỡng theo thẩm quyền.
2.4.2. Kinh nghiệm cho Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
CHDCND Lào là quốc gia không lớn trong các quốc gia ở Đông Nam
Á. ĐTBD công chức (người làm việc cho nhà nước) cũng có khá nhiều điều
tương đồng với các quốc gia khác. Do đó, xem xét lý luận và thực tiễn các
thức tổ chức bộ máy ĐTBD công chức của các nước sẽ giúp cho Lào có hệ
thống ĐTBD tốt hơn, phù hợp với điều kiện của Lào.
69
Một là, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ sở
ĐTBD CBCC, đó là Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào với các
trường chính trị và hành chính địa phương.
Về cơ bản hiện nay chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn giữa Học viện
chính trị và hành chính quốc gia Lào và trường hành chính tỉnh, địa phương
được phân định cụ thể trên cơ sở các quyết định về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của mỗi đơn vị. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện
nhiệm vụ ĐTBD, thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mỗi đơn vị luôn nảy
sinh và phát sinh những việc, những vấn đề có liên quan, có một số vấn đề cụ
thể, rõ ràng về nhiệm vụ, đối tượng ĐTBD, có một số trùng chéo về chức
năng ĐTBD CBCC. Nhìn chung, ở Lào, Học viện chính trị và Hành chính
quốc gia Lào là đơn vị đầu mối duy nhất ở trung ương và của cả nước đảm
trách công tác ĐTBD CBCC trong phạm vi cả nước. Học viện thống nhất
quản lý toàn bộ các chương trình ĐTBD, thống nhất quản lý về văn bằng,
chứng chỉ, chứng nhận đối với công tác ĐTBD CBCC hiện nay.
Trong những năm qua công tác ĐTBD CBCC ở CHDCND Lào có
nhiều thay đổi, số lượng CBCC tăng lên, nhu cầu học tập, bồi dưỡng ngày
càng nhiều, các quy định về bổ nhiệm cán bộ quản lý, lãnh đạo ngày càng
cao,… điều này đã đặt ra yêu cầu ngày càng lớn đối với công tác ĐTBD
CBCC cả về quy mô, lẫn chất lượng chuyên môn.
Hai là, thống nhất quản lý nội dung, chương trình, hình thức ĐTBD.
Tiếp tục thực hiện đổi mới nội dung, chương trình, tài liệu và phương
pháp ĐTBD theo hướng bám sát thực tiễn, nhu cầu người học, khắc phục tình
trạng lý thuyết, trùng lặp. Bên cạnh những chương trình tổng quan chung do
Học viện chính trị và hành chính quốc gia Lào biên soạn, ban hành, còn có
của Bộ Nội vụ ban hành, các Bộ, ngành, các trường chính trị địa phương cần
đẩy mạnh nghiên cứu, xây dựng các chương trình, tài liệu ĐTBD về chuyên
môn nghiệp vụ của riêng mình. Xúc tiến nhanh việc nghiên cứu xây dựng các
70
chương trình, tài liệu ĐTBD theo nhu cầu của người học, nhất là khi các cơ
quan, đơn vị đã hoàn thành các chuwong trình, các tiêu chí ứng với từng vị trí
công tác của CBCC.
Ba là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống các cơ quan quản lý ĐTBD,
xây dựng cơ chế phối hợp hợp lý.
Hoàn thiện hệ thống các cơ quan quản lý ĐTBD CBCC, đồng thời xây
dựng được cơ chế phối hợp giữa các cơ quan là nhân tố đảm bảo chất lượng
và hiệu quả của công tác phân cấp quản lý ĐTBD CBCC hiện nay ở Lào. Đây
được xem như là nhân tố quyết định đến hiệu lực và hiệu quả của hoạt động
phân cấp. Trong phân cấp nếu như thiếu đi những cơ quan quản lý ở các cấp
độ khác nhau thì sẽ không thể có được sự thông suốt. Để phân cấp được thuận
lợi và hiệu quả, cấp trên và cấp dưới trong cùng một ngành dọc phải được tổ
chức và xây dựng hợp lý và phải được phân định cụ thể về chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của mình trong tổ chức hoạt động ĐTBD CBCC. Không những
thế mà các cơ quan liên quan đến công tác ĐTBD như cơ quan QLNN đối với
CBCC, cơ quan điều phối, cơ quan cung ứng dịch vụ ĐTBD, các tổ chức
ngoài nhà nước cũng là những nhân tố tác động và ảnh hưởng trực tiếp hoặc
gián tiếp tới vấn đề phân cấp quản lý ĐTBD. Trong nhiều trường hợp khác
nhau các cơ quan quản lý.
Bốn là, tăng cường kiểm tra, giám sát việc phân cấp hoạt động ĐTBD.
Muốn cho công tác phân cấp quản lý ĐTBD CBCC được thực hiện đầy đủ,
đúng với yêu cầu cần có cơ chế kiểm tra, giám sát phân cấp hoạt động ĐTBD hiệu
quả, thiết thực. Kiểm tra, đánh giá ĐTBD là bước đi vô cùng quan trọng trong
chuỗi quá trình ĐTBD khép kín. Kiểm tra, đánh giá việc phân cấp quản lý ĐTBD
CBCC là để xem có đạt mục tiêu đề ra không, nội dung, chương trình có phù hợp
với việc phân cấp hay không, học viên áp dụng được gì sau ĐTBD khi thực hiện
phân cấp. Việc đánh giá công tác phân cấp ĐTBD cũng nhằm phát hiện những lỗ
hổng, sự bất hợp lý, phi thực tế của phân cấp cũng như quá trình ĐTBD để từ đó
nâng cao chất lượng ĐTBD CBCC hiện nay.
71
Hầu hết các khóa học ĐTBD đều có đánh giá chương trình ĐTBD như:
đánh giá phản ứng của người học về nội dung, chương trình, giảng viên, cách
tổ chức…; đánh giá kết quả học tập thông qua những bài kiểm tra để biết học
viên tiếp thu được gì từ khóa học. Đây là việc đánh giá kết quả ĐTBD theo
phương pháp truyền thống. Cách thức đánh giá này có ưu điểm: dễ đánh giá
vì chỉ cần căn cứ vào kết quả điểm học tập và nhận xét của cơ sở, đơn vị đào
tạo. Tuy nhiên, ở một mức độ nhất định, cách thức đánh giá này chưa phản
ánh chính xác kết quả học tập của học viên thông qua nhận thức và vận dụng
các kiến thức đã học vào thực tế, thậm chí có trường hợp điểm học tập cao
nhưng thực chất nhận thức của học viên chưa phản ánh đúng kết quả đó.
Kiểm tra đánh giá công tác phân cấp quản lý ĐTBD còn mang ý nghĩa bao
quát hơn, nó bao hàm toàn bộ cả quá trình ĐTBD và việc phân định chức
năng, nhiệm vụ và phạm vi ĐTBD của các cấp khác nhau.
Hiện nay, cách thức đánh giá kết quả, hiệu quả ĐTBD đã có sự thay
đổi, hướng đánh giá kết quả sau đào tạo, nghĩa là đánh giá kết quả đầu ra của
cả quá trình ĐTBD. Đặc biệt là ĐTBD CBCC, một trong những đối tượng
đào tạo cơ bản và cần mức độ ứng dụng cao sau khi ĐTBD. Công tác phân
cấp cần đánh giá xem việc phân cấp tới đâu, phân cấp những mảng việc nào,
những nội dung phân cấp có phù hợp không, cấp được phân có năng lực thực
hiện và đảm nhận có tốt không, qua đó có những đề xuất, điều chỉnh cho hợp
lý và khoa học nhất. Mục tiêu của công tác là làm sao cho mọi đối tượng được
ĐTBD, sau khi kết thức khoá học có thể vận dụng kiến thức đã học vào thực
tế công tác để giải quyết những vấn đề đặt ra trong thực tiễn thi hành công vụ
của CBCC, những thay đổi đối với việc thực hiện công việc như thế nào. Từ
đó, đánh giá tác động, hiệu quả của tổ chức xem việc ĐTBD CBCC có tác
động, ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của tổ chức hay không. Thông qua đó
có thể thấy được hiệu quả của công tác phân cấp quản lý ĐTBD CBCC.
72
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Phân cấp QLNN vừa là nội dung vừa là phương thức để thực hiện công
tác QLNN thuộc các ngành, lĩnh vực quản lý trong đó có QLNN về ĐTBD
CBCC. Việc thực hiện phân cấp QLNN hợp lý, rõ ràng, khoa học sẽ điều kiện
thuận lợi cho công tác QLNN và hoạt động ĐTBD CBCC, từ đó nâng cao
chất lượng ĐTBD, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC.
Như vậy trong chương này, luận án đã đạt được một số kết quả sau:
Một là, đã làm rõ được một số khái niệm liên quan và đặc biệt là khái
niệm trung tâm: Khái niệm phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC, đó là sự
chuyển giao một số chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm quản lý
trong hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức từ cấp trung ương đến
các cấp chính quyền địa phương để đảm bảo giảm tải cho cấp trung ương và
giúp cho cấp địa phương dễ dàng tiếp cận và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức đúng đối tượng và thuận lợi nhất.
Hai là, lý giải sự cần thiết phải phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC,
nguyên tắc và các yếu tố ảnh hưởng đến phân cấp quản lý trong ĐTBD
CBCC; đặc biệt là làm rõ được nội dung phân cấp quản lý trong ĐTBD
CBCC. Các nội dung đó là: phân cấp quản lý nội dung chương trình, phân cấp
quản lý các cơ sở ĐTBD CBCC, phân cấp quản lý đội ngũ giảng viên, phân
cấp quản lý văn bằng chứng chỉ, phân cấp quản lý tài chính, phân cấp kiểm
tra, thanh tra ĐTBD CBCC.
Ba là, trên cơ sở xem xét thực tiễn phân cấp quản lý trong ĐTBD
CBCC của Việt Nam, một quốc gia láng giềng có nhiều điểm tương đồng về
thể chế chính trị. Qua đó, luận án đã rút ra được kinh nghiệm có thể vận dụng
trong điều kiện cụ thể của CHDCND Lào.
73
Chương 3
THỰC TRẠNG PHÂN CẤP QUẢN LÝ TRONG
ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNGCÁN BỘ, CÔNG CHỨC
Ở CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
3.1. Khái quát về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở Cộng hòa
dân chủ nhân dân Lào
3.1.1. Cơ sở chính trị, pháp lý về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Trước đây, ĐTBD CBCC của CHDCND Lào được thực hiệntrên cơ
sởnghị quyết của Đảng NDCM Lào mà chưa được thể chế thành quy phạm
pháp luật. Mặc dù công tác ĐTBD CBCC được tiến hành khá lâu nhưng đến
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (năm 2006) thì Đảng NDCM Lào mới
chính thức văn bản hoá trong nghị quyết.
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (năm 2016), Đảng NDCM
Lào tiếp tục khẳng định và nhấn mạnh công tác ĐTBD CBCC: Đổi mới
ĐTBD CBCC trong hệ thống trường Đảng cần đảm bảo chất lượng kiến thức,
khả năng về mặt tổ chức là hàng đầu (không chạy theo số lượng và bằng cấp);
nhanh chóng hoàn chỉnh nội dung chương trình, đội ngũ giảng viên, đổi mới
hình thức dạy và học; chú trọng lựa chọn mục đích nhập học tuân theo kế
hoạch đã định và tiêu chuẩn chức vụ. Xác định quy chế quản lý trường Đảng
và trung tâm ĐTBD về chính trị - hành chính ở địa phương; ĐTBD ngắn hạn
cho cán bộ cấp huyện, bản theo hướng 3 xây (xây tỉnh thành khâu chiến lược,
xây huyện thành khâu mạnh mẽ toàn diện và xây bản thành khâu phát triển),
tổ chức thực hiện bồi dưỡng cho cán bộ cấp bản một cách có hệ thống liên tục
và toàn diện để đảm bảo xây dựng được cán bộ nguồn tại chỗ trong quy trình
xây dựng bản thành khâu phát triển [65, tr.70-71].
Trên cơ sở chủ trương, đường lối của Đảng NDCM Lào, Nhà nước
CHDCND Lào đã thể chế hóa thành văn bản pháp luật. Cụ thể:
74
- Luật Cán bộ, công chức năm 2015.
Luật Cán bộ, công chức năm 2015 nêu các đối tượng là CBCC, quyền và
nghĩa vụ của CBCC, khen thưởng và kỷ luật CBCC.Luật Cán bộ, công chức
năm 2015 dành hẳn 01 chương (chương VIII) quy định về ĐTBD CBCC.
- Nghị định số 294/CP ngày 4/9/2017 của Chính phủ về ĐTBD CBCC.
Nghị định quy định cụ thể hình thức, nội dung ĐTBD. Đó là, đào tạo là
gì, bồi dưỡng là gì. Các hình thức ĐTBD, những nội dung cần ĐTBD trong
các khoá học.
- Hướng dẫn số 07/BNV ngày 02/05/2018 của Bộ Nội vụ hướng dẫn
thực hiện Nghị định của Chính phủ về ĐTBD CBCC.
Bộ Nội vụ đã hướng dẫn các cơ quan tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt
trận Xây dựng đất nước Lào, cơ quan đoàn thể Trung ương và cơ quan hành
chính địa phương thực hiện Nghị định của Chính phủ về ĐTBD CBCC;
hướng dẫn CBCC nâng cao kiến thức, khả năng để thực hiện tốt trách nhiệm
của mình.
Các văn bản của Đảng và Nhà nước Lào đã khẳng định tầm quan
trọng của hoạt động ĐTBD CBCC. Đảng và Nhà nước Lào đã có những quy
định về hình thức, nội dung, phương pháp, chính sách... đối với hoạt động
ĐTBD CBCC.
CBCC của CHDCND Lào có quyền để nhận được sự ĐTBD, phát triển
kiến thức, kỹ năng để thực thi nhiệm vụ.
Đào tạo là hình thức nâng cao chuyên môn cho CBCC có đạo đức
chính trị, đạo đức cách mạng, kiến thức về chính trị - hành chính, kiến thức về
khoa học, khoa học chuyên môn cao lên một cách có hệ thống để có khả năng
thực hiện các công việc có hiêu quả cao.
Bồi dưỡng là quy trình học tập một cách có thệ thống để giáo dục nâng
cao kiến thức, khả năng và quan điểm của mình nhằm củng cố thực hiện
nhiệm vụ công tác có hiệu quả cao. Bồi dưỡng gồm có các loại như sau:
75
- Bồi dưỡng định hướng. Bồi dưỡng định hướng nhằm giúp cho công
chức mới hiểu rõ những nội dung:Quy chế công chức của CHDCND Lào;
Các quy tắc quản lý trong cơ quan nhà nước (cho từng cơ quan);Vị trí, vai trò,
nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của cơ quan nơi công chức làm việc;Chế độ phối
hợp;Các vấn đề khác có liên quan đến vai trò, nhiệm vụ của cơ quan.
- Bồi dưỡng tại chức.
Bồi dưỡng tại chức là hoạt động bồi dưỡng mang tính thường xuyên
nhằm nâng cao năng lực của công chức trên các lĩnh vực: lý luận chính trị;
năng lực kỹ thuật, chuyên môn trên những lĩnh vực cụ thể. Hoạt động bồi
dưỡng này dựa trên kết quả đánh giá hàng năm cũng như các khách hàng
tham gia bồi dưỡng.
Bồi dưỡng tại chức gồm: Bồi dưỡng công chức đảm nhiệm chức vụ hành
chính; bồi dưỡng công chức chuyên môn; bồi dưỡng công chức chuyên viên.
- Bồi dưỡng công chức nhận chức vụ mới.
Vị trí mới là hoạt động ĐTBD để phát triển năng lực về lý luận chính
trị, chuyên môn, kỹ thuật và những kiến thức khác cần cho những người nhận
nhiệm vụ mới; nhiệm vụ ở cấp cao hơn.
3.1.2. Nguyên tắc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
ĐTBD CBCC là hoạt động nhằm nâng cao chất lượng, năng lực và hiệu
quả làm việc của đội ngũ CBCC. Do đó, hoạt động ĐTBD cho đội ngũ này
phải tuân theo những nguyên tắc nhất định. Cụ thể:
Một là, phải phù hợp với đường lỗi chính sách của Đảng, luật và quy
định của Nhà nước.
Hai là, phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược phát
triển nguồn nhân lực, chiến lược phát triển CBCC, kế hoạch, kế hoạch công
tác và chương trình dự án của từng thời kỳ.
Ba là, có tổ chức liên tục theo ngạch chuyên môn, phù hợp với yêu cầu
thực tế trong phát triển CBCC của ngành do dựa trên đánh giá kết quả thực
hiện công việc của CBCC.
76
Bốn là, sử dụng công nghệ mới và nâng cao ngoại ngữ.
Năm là, bảo đảm chất lượng và phù hợp với mục đích yêu cầu.
3.1.3. Các chủ thể tham gia quản lý đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Ở CHDCND Lào, Bộ Nội vụ là cơ quan cơ quan QLNN về ĐTBD
CBCC, nhưng cơ quan quản lý chương trình ĐTBD CBCC là Bộ Giáo dục và
Thể thao,Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào. Đây là một đặc thù
ở CHDCND Lào, bởi Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào không
phải là cơ quan QLNN nhưng lại thực hiện chức năng QLNN đối với hoạt
động ĐTBD CBCC. Bộ Giáo dục và Thể thao không QLNNvề CBCC nhưng
lại QLNNvề chương trình ĐTBD CBCC.
1) Chính phủ
Chính phủ CHDCND Lào, là cơ quan hành pháp cao nhất của nước
CHDCND Lào. Chính phủ quản lý thống nhất việc thực hiện nhiệm vụtrên
tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, an ninh - quốc phòng, ngoại giao, văn
hoá-xã hội, giáo dục đào tạo, y tế… Chính phủ có nghĩa vụ thực hiện Hiến
pháp, pháp luật, Nghị quyết của Quốc hội, Nghị định và Sắc lệnh của Chủ
tịch nước.
Liên quan đến CBCC, Chính phủ có các nhiệm vụ và quyền hạn sau:
- Thống nhất QLNN về CBCC, viên chức và công vụ trong các cơ quan
nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập; quản lý biên chế công chức, số lượng
người làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp
công lập từ trung ương đến địa phương.
- Thống nhất QLNN và tổ chức thực hiện chế độ tiền lương, phụ cấp và
các chế độ, chính sách khác đối với CBCC, viên chức trong các cơ quan nhà
nước từ trung ương đến địa phương.
- Chỉ đạo thực hiện cải cách hành chính nhà nước, cải cách chế độ công
vụ, công chức.
77
2) Bộ Giáo dục và Thể thao
Bộ Giáo dục và Thể thao là cơ quan của Chính phủ CHDCND Lào,
thực hiện chức năng QLNN về giáo dục và thể thao. Bộ Giáo dục và Thể thao
không phải là cơ quan QLNN về ĐTBD CBCC, mà là cơ quan QLNN về lĩnh
vực giáo dục và đào tạo, nhưng Bộ Giáo dục và Thể thao là cơ quan ban hành
chương trình ĐTBD CBCC trên cơ sở xây dựng của Học viện Chính trị và
Hành chính Quốc gia Lào.
Cơ cấu tổ chức Bộ Giáo dục và Thể thao như sau: Văn phòng Bộ; Văn
phòng Ban chấp hành Đảng; Vụ Tổ chức và Cán bộ; Vụ Kiểm tra giám sát;
Vụ Tài chính; Vụ Kế hoạch; Vụ Hợp tác quốc tế; Vụ Giáo dục trước phổ
thông; Vụ Giáo dục phổ thông; Vụ Giáo dục chuyên môn; Vụ Giáo dục cấp
cao; Vụ Giáo dục ngoài trường; Vụ Sư phạm; Vụ Giáo dục sinh hoạt; Vụ
Giáo dục thể thao và văn hóa; Vụ Thể thao cấp cao; Vụ Thể thao quần chúng;
Viện Nghiên cứu khoa học giáo dục; Viện Phát triển quản lý giáo dục; Văn
phòng UNDP; Văn phòng Olimpic quốc gia.
Trong 21 đơn vị đầu mối của Bộ Giáo dục và Thể thao thì Vụ Thể thao
cấp cao là đơn vị tham mưu, giúp việc Bộ trưởng về việc ban hành chương
trình ĐTBD CBCC.
3) Bộ Nội vụ
Bộ Nội vụ là cơ quan của Chính phủ CHDCND Lào, được giao nhiệm vụ
thực hiện chức năng QLNNvề CBCC, viên chức nhà nước; thống nhất quản lý
về tổ chức ĐTBDCBCC, các chức danh công chức hành chính các cấp.
Trong ĐTBD CBCC, Bộ Nội vụ có nhiệm vụ và quyền hạn như sau:
- Xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo
thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật, chế độ, chính sách về ĐTBD
công chức;
- Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch ĐTBD công chức trình
cấp có thẩm quyền phê duyệt hoặc ban hành theo thẩm quyền; tổ chức, hướng
78
dẫn thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch ĐTBD sau khi được ban hành;
theo dõi, tổng hợp kết quả ĐTBD công chức của cán bộ, cơ quan ngang bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thủ đô;
- Xây dựng kế hoạch và tổ chức bồi dưỡng công chức ở ngoài nước
theo thẩm quyền;
- Tổng hợp nhu cầu, đề xuất kinh phí ĐTBD hàng năm, trung hạn, dài
hạn; hướng dẫn các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban
nhân dân tỉnh, thủ đô thực hiện sau khi được Chính phủ phê duyệt;
- Tổ chức các hoạt động thi đua, khen thưởng trong ĐTBD công chức;
- Hướng dẫn việc tổ chức bồi dưỡng công chức ở ngoài nước bằng
nguồn ngân sách Nhà nước;
- Thanh tra, kiểm tra hoạt động ĐTBD công chức.
4) Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ
Trong ĐTBD CBCC, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ có nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
- Xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch ĐTBDđội ngũ
công chức thuộc phạm vị quản lý;
- Tổ chức thực hiện chế độ ĐTBDtheo quy định; báo cáo kết quả hoạt
động ĐTBDcông chức hàng năm để Bộ Nội vụ theo dõi, tổng hợp;
- Cử công chức đi ĐTBDtheo thẩm quyền;
- Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chế độ, chính sách ĐTBD trong
phạm vi thẩm quyền.
5) Bộ Tài chính
Trong việc ĐTBD CBCC, Bộ Tài chính có nhiệm vụ, quyền hạn sau:
- Cân đối, bố trí kinh phí ĐTBD hàng năm, trung hạn, dài hạn, trong
nước và ngoài nước trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.
- Hướng dẫn, kiểm tra việc quản lý, sử dụng kinh phí ĐTBD.
6) Ban Tổ chức Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào
79
Ban Tổ chức Trung ương là cơ quan tham mưu của Ban Chấp hành
Trung ương, trực tiếp và thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư về chủ
trương và các chính sách lớn thuộc lĩnh vực tổ chức, cán bộ, đảng viên, bảo
vệ chính trị nội bộ của hệ thống chính trị; quản lý biên chế CBCC, viên chức
cơ quan đảng, Mặt trận Xây dựng đất nước Lào và các tổ chức chính trị-xã
hội; đồng thời là cơ quan chuyên môn, nghiệp vụ về công tác tổ chức, cán bộ,
đảng viên, bảo vệ chính trị nội bộ của Trung ương.
Nghiên cứu, đề xuất với các cơ quan nhà nước trong việc thể chế hoá
các nghị quyết, quyết định của Đảng về CBCC.
Tham gia thẩm định các đề án lớn về CBCC của Chính phủ và các bộ,
ngành, cơ quan nhà nước.
Quy định nội dung ĐTBD CBCC và chế độ học tập của CBCC.
7) Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào
Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào (viết tắt là NAPPA) là
một trong nhưng các cơ quan tổ chức của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
và nhà nước, là cơ quan chuyên môn cấp Trung ương, có vị trí tương đương
với các đơn vị khác của Đảng, Bộ - đơn vị tương đương của Chính phủ.
Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào có chức năng ĐTBD
CBCC đang giữ vị trí và chuẩn bị đảm nhiệm chức vụ cấp trung, cấp cao của
Đảng, Nhà nước và cơ quan quần chúng khác; nghiên cứu lý luận Mác -
Lênin, khoa học chính trị và hành chính; lý luận cách mạng và thực tiễn để
phục vụ vào việc dạy và học và góp phần vào công tác nghiên cứu làm cho
đường lối và chính sách chung của Đảng và Nhà nước được thực hiện vào
hoàn cảnh thực thực tế.
Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào không chỉ là cơ sở
ĐTBD CBCC cấp quốc gia của Lào, mà còn là cơ quan duy nhất xây dựng
các chương trình ĐTBD CBCC của Lào. Ngoài ra, Học viện Chính trị và
80
Hành chính Quốc gia Lào còn là cơ quan ban hành chức năng, nhiệm vụ của
các trường chính trị và hành chính cấp tỉnh.
8) Tỉnh uỷ cấp tỉnh
Trong ĐTBD CBCC ở địa phương, tỉnh uỷ cấp tỉnh có nhiệm vụ sau:
- Xây dựng, ban hành chế độ khuyến khích CBCC không ngừng học
tập, nâng cao trình độ, năng lực công tác.
- Xây dựng, ban hành quy hoạch, kế hoạch ĐTBDCBCC thuộc phạm vi
lãnh đạo.
- Chỉ đạo thực hiện ĐTBD CBCC trong phạm vi thuộc thẩm quyền.
- Quản lý Trường chính trị và hành chính tỉnh và đội ngũ giảng viên
của Trường chính trị và hành chính tỉnh.
9) Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh
Trong ĐTBD CBCC ở địa phương, UBND cấp tỉnh có nhiệm vụ sau:
- Xây dựng, ban hành chế độ kinh phí và bố trí kinh phí đảm bảo hoạt
động ĐTBD CBCC.
- Tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch ĐTBD thuộc phạm vi quản lý.
- Tổ chức thực hiện chế độ ĐTBD theo quy định; báo cáo kết quả hoạt
động ĐTBD CBCC hàng năm.
- Quản lý cơ sở vật chất của Trường chính trị và hành chính tỉnh.
3.2. Tình hình phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
3.2.1.Về các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức
* Hệ thống chương trình ĐTBD CBCC của CHDCND Lào
Các chương trình ĐTBD CBCC ở CHDCND Lào hiện đang thực hiện
gồm có các chương trình ĐTBD lý luận chính trị và các chương trình bồi
dưỡng trưởng bản, làng.
Có 04 chương trình hệ đào tạo và 03 chương trình hệ bồi dưỡng cơ bản
dành cho CBCC. Cụ thể:
81
+Chương trình đào tạo thạc sĩ lý luận chính trị - hành chính, gồm có 06
chuyên ngành: Kinh tế chính trị; Chính trị học; Hành chính học; Triết học;
Quản lý kinh tế; Xây dựng Đảng.
+Chương trình đào tạo đại học lý luận chính trị - hành chính, gồm có
07 chuyên ngành: Chính trị học; Hành chính học; Công tác kiểm tra; Công tác
tuyên truyền; Công tác tổ chức quần chúng; Công tác tổ chức; Kinh tế chính
trị và quản lý kinh tế.
+Chương trình đào tạo cao đẳng lý luận chính trị - hành chính, gồm có
07 chuyên ngành: Chính trị học; Hành chính học; Công tác kiểm tra; Công tác
tuyên truyền; Công tác tổ chức quần chúng; Công tác tổ chức; Kinh tế chính
trị và quản lý kinh tế.
+Chương trìnhđào tạo trung cấp lý luận chính trị - hành chính.
+Chương trình bồi dưỡng lý luận chính trị - hành chính (5 tháng).
+Chương trìnhbồi dưỡng cơ sở lý luận (3 tháng).
+Chương trìnhbồi dưỡng cơ sở lý luận (10 ngày dành cho Bí thư -
Trưởng bản, làng).
Ngoài 07 chương trình cơ bản trên, ở CHDCND Lào còn có các
chương trình bồi dưỡng sau:
+ Chương trình bồi dưỡng kỹ năng cho trưởng bản, làng;
+ Chương trình bồi dưỡng lý luận cho CBCC các bộ và cơ quan ngang
bộ (45 ngày).
* Chủ thể xây dựng chương trình ĐTBD CBCC
Tất cả các chương trình ĐTBD CBCC ở CHDCND Lào, dù do Học
viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào hay các trường chính trị và hành
chính cấp tỉnh thực hiện thì đều do Học viện Chính trị và Hành chính Quốc
gia Lào xây dựng..
Việc xây dựng chương trình đã được Học viện Chính trị và Hành chính
quốc gia Lào thực hiện bài bản, nghiêm túc. Thực hiện đổi mới và nâng cao
82
chất lượng ĐTBD CBCC, việc xây dựng khung chương trình, biên soạn giáo
trình của Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào đã chỉ đạo lấy ý kiến
của các chuyên gia, cán bộ quản lý các cấp, giảng viên các trường chính trị và
hành chính tỉnh qua nhiều vòng. Mặt khác, Học viện Chính trị và Hành chính
quốc gia Lào có đội ngũ giảng viên, nhà khoa học có trình độ cao, chuyên
môn sâu. Vì vậy, việc xây dựng chương trình, biên soạn giáo trình ĐTBD
CBCC do Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào thực hiện có chất
lượng, được các địa phương đánh giá phù hợp thực tế.
* Chủ thể quyết định/phê duyệt chương trình ĐTBD CBCC
Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào là cơ quan chuyên môn
nhưng Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào không phải là cơ quan
QLNN, do vậy các chương trình ĐTBD CBCC không do Học viện ký quyết
định ban hành. Việc QLNN đối với các chương trình ĐTBD CBCC sẽ do cơ
quan QLNN thực hiện.
Bộ Giáo dục và Thể thao là cơ quan QLNN về giáo dục, đào tạo và thể
thao. Hoạt động ĐTBD CBCC, mặc dù đối tượng là CBCC do Bộ Nội vụ quản
lý nhưng ĐTBD CBCC cũng là một nội dung của giáo dục và đào tạo. Do vậy,
Bộ Giáo dục và Thể thao là cơ quan QLNN về hoạt động ĐTBD CBCC, nên các
chương trình ĐTBD CBCC do Bộ Giáo dục và Thể thao ký ban hành.
Có thể thấy, mặc dù các chương trình ĐTBD CBCC do Học viện Chính
trị và Hành chính Quốc gia Lào xây dựng nhưng việc ký ban hành lại do Bộ
Giáo dục và Thể thao thực hiện. Nghĩa là, sau khi xây dựng xong các chương
trình ĐTBD CBCC, các chương trình này sẽ được chuyển sang Bộ Giáo dục
và Thể thao ký quyết định ban hành
* Chủ thể thực hiện chương trình ĐTBD CBCC
Việc thực hiện chương trình ĐTBD CBCC có sự phân cấp giữa Học
viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào và các trường chính trị và hành
chính cấp tỉnh.
83
Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào thực hiện các chương
trình ĐTBD CBCC như sau:
+ Thực hiện chương trình đào tạo thạc sĩ lý luận chính trị - hành chính.
+ Thực hiện chương trình đào tạo đại học lý luận chính trị - hành chính.
+ Thực hiện chương trình đào tạo cao đẳng lý luận chính trị - hành chính.
+ Thực hiện chương trình bồi dưỡng lý luận chính trị - hành chính (5 tháng).
Các Trường chính trị và hành chính tỉnh thực hiện các chương trình
ĐTBD CBCC như sau:
+ Thực hiện chương trình đào tạo trung cấp lý luận chính trị - hành chính.
+ Thực hiện chương trình bồi dưỡng cơ sở lý luận (3 tháng).
+ Thực hiện chương trình cơ sở lý luận (10 ngày dành cho Bí thư -
Trưởng bản, làng).
Như vậy, ở CHDCND Lào, việc thực hiện các chương trình ĐTBD
CBCC có sự phân cấp giữa Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào
với các trường chính trị và hành chính cấp tỉnh. Tuy nhiên, việc quản lý
chương trình ĐTBD CBCC thì chưa có sự phân cấp. Tất cả các chương trình
ĐTBD CBCC đều do Bộ Giáo dục và Thể thao ký, ban hành và quản lý thống
nhất trong cả nước.
3.2.2. Về hệ thốngcơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức
Ở nước CHDCND Lào, hoạt động ĐTBD CBCC do Học viện Chính trị
và Hành chính Quốc gia Lào và các Trường chính trị và hành chính cấp tỉnh
đảm nhận. Ngoài các cơ sở này, không còn cơ sở nào có chức năng, nhiệm vụ
ĐTBD CBCC. Các bộ, cơ quan ngang bộ và các cơ quan trung ương khác,
các ban, ngànhkhông có cơ sở ĐTBD CBCC.
3.2.2.1. Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào
Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào là cơ sở ĐTBD CBCC
ở trung ương, trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Chính phủ.
84
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Nhân dân cách mạng Lào quy định.
Nghị quyết số 75/BCTTĐ, ngày 30/7/2019 của Bộ Chính trị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng về tổ chức và hoạt động của Học viện Chính trị và
Hành chính Quốc gia đã quy định cụ thể về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn, cơ cấu tổ chức bộ máy của Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia
Lào như sau:
* Nhiệm vụ của Học viện:
- Nghiên cứu lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Kai Son Phôm Vỉ Hẳn,
truyền thống và lịch sử của đảng và nhà nước đặt vào việc thành lập đường lối
của đảng; nghiên cứu khoa học chính trị và hành chính, khoa học lãnh đạo và
quản lý; tổng kết bài học và thực tiễn trong lãnh đạo của đảng; nghiên cứu
chuyên sâu đề tài, bồi dưỡng đường lối, chính sách, những vấn mới về sử dụng
lý luận Mác-Lênin, các đề tài chuyên sâu khác cho cán bộ lãnh đạo cấp chiến
lược, cán bộ lãnh đạo cấp cao, cán bộ lãnh đạo các cấp trong từng thời kỳ.
-Thành lập và phát triển chương trình lý luận chính trị cấp cơ sở, cấp trung,
cấp cao và đề nghị đến hội đồng lý luận trung ương đảng xem xet ban hành.
-Thành lập và phát triển giáo trình, sách tham khảo và các tài liệu khác
áp dụng vào công việc dạy và học lý luận chính trị, chuyên môn chính trị và
hành chính trong hệ thống trường đảng và đơn vị các trường khác.
-Bồi dưỡng nâng cao bán bộ lãnh đạo - quản lý cấp chiến lược và cán
bộ lãnh đạo cấp cao về lý luận chính trị, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Kai
Son Phôm Vỉ Hẳn, truyền thống và lịch sử của đảng, của nhà nước, quan
niệm, đường lối của đảng, chính sách và pháp luật của nhà nước; các lý luận
và thực tiễn cả trong và ngoài nước; khoa học chính trị và hành chính, khoa
học lãnh đạo - quản lý.
85
-Nâng cao kiến thức cho cán bộ lãnh đạo - quản lý, sĩ quan quân đội và
cảnh sát đảm nhiệm chức vụ hành chính từ cấp 1 - 5 về lý luận chính trị cấp
trung trình và cấp cao.
-Bồi dưỡng lý luận chính trị cấp cao cho đội ngũ giảng viên đang làm
nhiệm vụ giảng dạy lý luận chính trị trong hệ thống trường đảng và các đơn vị
trường khác.
-Thành lập, phát triển chương trình và tổ thức thực hiện công việc
giảng - học chuyên môn lý luận chính trị - hành chính hệ thạc sĩ, tiến sĩ. Đối
với thành lập và phát triển chường trình là phải đề nghị đến Bộ Giáo dục và
Thể thao xem xet ban hành.
-Chỉ đạo về chuyên môn, hợp tác với tỉnh, thủ đô về công tác quản lý
việc giảng dạy và học; giúp đỡ hỗ trợ, bổ sung thông tin chống hệ thống các
trường đảng.
-Phối hợp với các bộ phận khác có liên quan cùng nhau thực hiện đào
tạo bồi dưỡng nâng cao. Bồi dưỡng, tập huấn về cơ sở lý luận chính trị - hành
chính, lý luận Mác-Lênin và tư tưởng Kai Son Phôm Vỉ Hẳn, đường lối, chính
sách của đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước cho bội ngũ cán bộ lãnh
đạo – quản lý của đảng - nhà nước trong hệ thống chính trị.
- Tổ chức thực hiện việc giám sát, kiểm tra đảng - nhà nước, ngăn chặn -
phòng chống tham nhũng và xem xét sửa chữa đề nghị, kiến nghị trong lĩnh
vực trách nhiệm lãnh đạo - quản lý của Học viện Chính trị và Hành chính
quốc gia.
- Lãnh đạo, quản lý các công việc nội bộ Học viện Chính trị và Hành
chính quốc gia như: Công việc xây dựng và cải thiện đảng - cán bộ, công việc
chuyên môn, công việc quản lý dịch vụ, công việc quản lý và sử dụng ngân
sách, cộng xây dựng thệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật, các công việc thực hiện
chế độ khác.
86
- Hợp tác với nước ngoài trong lĩnh vực đào tạo và bồi dưỡng nâng cao
kiến thức cho cán bộ lãnh đạo - quản lý và công viện nghiên cứu khoa học, tổ
hợp thực tiễn về đề tài có quan tâm của cả hai bên.
- Tổng hợp, báo cáo tình hình hoạt động toàn vẹn các công việc của
Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia đối với Bộ Chính trị Trung ương
Đảng và Ban Chấp hành Trung ương Đảng biết đến chính thức.
- Quản lý, sử dụng ngân sách, vốn hỗ trợ của trong nước vào nước
ngoài, tài sản của Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia.
- Thực hiện các công việc khác theo sự giao của Bộ Chính trị Trung
ương, Ban Chấp hành Trung ương và Chính phủ.
* Quyền hạn của Học viện:
- Khi nhận được thông báo về thông tin từ cấp trên trọng hệ thống đảng
và hệ thống nhà nước; xin ý kiến của cấp trên về vấn đề những cần thiết.
Ngoài ra, có quyền được biết báo cáo lại về thông tin từ ban ngành, địa
phương và ra thông báo, hướng dẫn cho địa phương, ban ngành về vấn đề liên
quan đến Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia.
- Tham dự hội nghị mở rộng của Trung ương Đảng, Quốc hội và
Chính phủ hoặc các hội nghị liên quan đến Học viện Chính trị và Hành
chính quốc gia.
- Quy định hình thức bằng chứng nhận trình độ chính trị cấp cơ sở, cấp
trung bình, cấp cao cho thống nhất toàn quốc; có quyền ra bằng chứng nhận
cho những người đã tốt nghiệp lý luận chính trị cấp cơ sở, cấp trung bình và
cấp cao tại Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia.
- Cấp bằng tốt nghiệp cho những người đã tốt nghiệp chuyên môn
chính trị và hành chính cấp thạc sĩ và tiến sĩ theo chương trình học của Học
viện Chính trị và Hành chính quốc gia.
- Tuyển chọn, đặt ưu tiên về đề tài nghiên cứu khoa học lý luận và thực
tiễn đã nằm trong trách nhiệm của Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia
87
để áp dụng vào công việc giảng dạy và học; cán bộ, giảng viên có quyền viết
và xuất bản sách của mình do được chứng nhận của hội đồng khoa học cấp
Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia.
- Quyết định cho giảng viên - giảng viên chính có nhiệm vụ giảng dạy
và nghiên cứu khoa học có trình độ học vấn bậc tiến sĩ và phó giáo sư tiến sĩ
trở lên đã nghỉ hưu những vẫn có kiến thức, kinh nghiệm cao về việc giảng
dạy, có sức khỏe tốt, còn có sự yêu cầu của tổ chức và chính bản thân tự
nguyện tiếp tục thực hiện giảng dạy cũng có thể ra hạn làm giảng viên được
nhưng không quá 10 năm.
- Phối hợp với cơ quan tổ chức Đảng, Nhà nước Mặt trận Xây dựng đất
nước Lào, Hội Cựu chiến binh Lào, tổ chức chính trị - xã hội Trung ương và
địa phương đến tận cá nhân nhà khoa học, giảng viên đề làm nhiệm vụ đào
tạo, bồi dưỡng và nghiên cứu khoa học.
- Nghiên cứu, đề nghị cấp trên xem xét ban hành chức vụ chuyên môn
giảng viên lý luận chính trị - hành chính và chức chuyên môn của công chức.
- Quan hệ và hợp tác với các nước và các cơ quan tổ chức quốc tế trên
cơ sở đối ngoại của Đảng và quy luật của Chính phủ đã quy định ra.
- Nghiên cứu và quyết định các công việc nội bộ của Học viện Chính trị
và Hành chính quốc gia như: Biên chế, bố trí, bổ nhiệm, di chuyển, thăng
chức và cách chức của cán bộ - công chức cấp phó Vụ trở xuống. thành lập và
sắp đặt các đơn vị, ra quy định, các quy luật, sử dụng ngân sách, giám sát,
kiểm tra, cải thiện kết quả kiểm tra, thực hiện chính sách và vân vân…
- Có quyền được hưởng chế độ về vật chất và tinh thân khác giống như
các đơn vị khác của Đảng, các Bộ - tổ chức khác.
- Thực hiện các quyền hạn theo phân công của Bộ Chính trị Trung
ương Đảng và Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
* Cơ cấu nhân sự
88
- Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia gồm có 1 giám đốc được
bổ nhiểm, cách chức do Bộ Chính trị trung ương Đảng theo kiến nghị của Ban
Tổ chức Trung ương Đảng; một số phó giám đốc Học viện Chính trị và Hành
chính quốc gia được bổ nhiệm và cách chức do Ban Bí thư Trung ương Đảng
theo kiến nghị của Ban Tổ chức Trung ương Đảng trên cơ sở thống nhất của
Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia.
- Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia gồm có chánh văn
phòng, vụ trưởng, giám đốc trung tâm và trưởng khoa các khoa được bổ
nhiệm, cách chức do Ban Bí thư Trung ương Đảng theo kiến nghị của Ban
Tổ chức Trung ương Đảng trên cơ sở thống nhất của Học viện Chính trị và
Hành chính quốc gia.
- Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia gồm có phó tránh văn
phòng, phó vụ trưởng, phó giám đốc trung tâm và phó trưởng khoa các khoa
được bổ nhiệm, cách chức do Giám đốc Học viện Chính trị và Hành chính
quốc gia theo kiến nghị của Vụ Tổ chức - Cán bộ trên cơ sở thống nhất của
Ban Chấp hành Đảng bộ, Ban Giám đốc Học viện Chính trị và Hành chính
quốc gia và Bộ Nội vụ.
- Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia gồm có trưởng phòng,
trưởng phòng chuyên môn, phó trưởng phòng, phó trưởng phòng chuyên môn
và một số nhân viên theo vị trí được bổ nhiệm và cách chức do Giám đốc Học
viện Chính trị và Hành chính quốc gia theo kiến nghị của Vụ Tổ chức - Cán
bộ trên cơ sở thống nhất của các bộ phận có liên quan.
- CBCC của Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào có chuyên
môn, kiến thức và năng lực về khoa học chính trị, hành chính và kỹ thuật nào
đó, có một số cán bộ quản lý hành chính do dựa vào yêu cầu cụ thể của công
việc và phù hợp theo hướng cải cách bộ máy gọn nhẹ có hiệu quả.
- Vai trò, cơ cấu tổ chức và cách làm việc của các Vụ, Văn phòng,
Trung tâm Thông tin và các Khoa do Giám đốc Học viện quy định cụ thể.
89
* Cơ cấu bộ máy tổ chức
Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào gồm 12 đơn vị, cụ thể:
1.Văn phòng
2.Vụ Tổ chức - cán bộ
3.Vụ Quản lý giảng dạy - học
4.Vụ Kiểm tra
5.Vụ Quản lý nghiên cứu khoa học
6.Trung tâm thông tin chính trị và hành chính
7.Trung tâm nghiên cứu tư tưởng Kai Son Phôm Vỉ Hẳn
8.Khoa Triết học
9.Khoa Kinh tế chính trị và quản lý kinh tế
10. Khoa Chủ nghĩa xã hội khoa học
11. Khoa Xây dựng đảng và lịch sử đảng
12. Khoa Hành chính học
90
Sơ đồ 3.1. Tổ chức bộ máy của Học viện Chính trị và Hành chính
Văn phòng
Vụ Tổ chức cán bộ
Vụ Quản lý giảng dạy - học
Vụ Kiểm tra
Vụ quản lý nghiên cứu khoa học
Phó Giám đốc
Trung tâm thông tin chính trị và hành chính
Giám đốc
Trung tâm nghiên cứu tư tưởng Kai Son Phôm Vỉ Hẳn
Khoa triết học
Khoa kinh tế chính trị và quản lý kinh tế
Khoa chủ nghĩa xã hội khoa học
Khoa xây dựng đảng và lịch sử đảng
Khoa hành chính học
Quốc gia Lào
[Tác giả tổng hợp]
Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào là cơ quan chuyên môn
cấp Trung ương do có vị trí tương đương Bộ của Chính phủ. Việc quản lý
Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào thuộc thẩm quyền của Ban
91
Chấp hành Trung ương Đảng và Chính phủ. Sự phân cấp quản lý được thể
hiện qua một số khía cạnh sau:
+ Việc thành lập, quy định chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của
Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào do Bộ Chính trị Trung ương
Đảng ra quyết định.
+ Việc bổ nhiệm, bãi nhiệm Giám đốc Học viện thuộc thẩm quyền của
Bộ Chính trị Trung ương Đảng.Việc bổ nhiệm, bãi nhiệm Phó Giám đốc Học
viện, Vụ trưởng và tương đương thuộc thẩm quyền của Ban Bí thư Trung
ương Đảng.Việc bổ nhiệm, bãi nhiệm Phó Vụ trưởng và tương đương thuộc
thẩm quyền của Giám đốc Học viện.Việc tuyển dụng giảng viên và nhân viên
thuộc thẩm quyền của Giám đốc Học viện.
+ Việc quy định tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp, nâng ngạch, thăng
hạng do Ban Tổ chức Trung ương quy định.
+ Việc xây dựng các chương trình ĐTBD CBCC, biên soạn giáo trình
ĐTBD CBCC thuộc thẩm quyền của Học viện Chính trị và Hành chính Quốc
gia Lào.
Việc quyết định ban hành chương trình ĐTBD CBCC thuộc thẩm
quyền của Bộ Giáo dục và Thể thao, do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Thể thao
ký quyết định.
+Việc quy định mẫu, in và cấp văn bằng, chứng chỉ ĐTBD CBCC
thuộc thẩm quyền của Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào.
+Việc cấp NSNN cho hoạt động của Học viện Chính trị và Hành chính
Quốc gia Lào thuộc thẩm quyền của Chính phủ, do Bộ Tài chính thực hiện.
3.2.2.2.Trường chính trị và hành chính cấp tỉnh
Trường chính trị và hành chính cấp tỉnh trực là cơ sở ĐTBD CBCC ở
địa phương, trực thuộc Tỉnh ủy.
CHDCND Lào 18 đơn vị hành chính tỉnh, thủ đô (Thủ đô Vientiane,
Attapeu, Bokeo, Bolikhamsai, Champasak, Huaphan, Khammouane, Luang
92
Namtha, Luang Prabang, Oudomxay, Phongsaly, Salavan, Savanakhet,
Sekong, Vientiane, Xayabury, Xaysomboun, Xiengkhuang), tương ứng có 18
Trường chính trị và hành chính. Chức năng và nhiệm vụ của các Trường
chính trị và hành chính cấp tỉnh do Học viện Chính trị và Hành chính Quốc
gia Lào quy định.
- Về nhiệm vụ:
+ Tổ chức quản lý dạy - học lý luận chính trị - hành chính theo chương
trình ĐTBD của Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào đã quy định,
tổ chức ĐTBD theo quyết định của Ban Chấp hành Đảng ủy và cơ quan quản
lý của Tỉnh hoặc Thủ đô, trong đó có chương trình bồi dưỡng 45 ngày, sơ cấp,
trung cấp, cao đẳng, sau đại học và bồi dưỡng theo chuyên đề.
+ Bổ dung nội dung chương trình, tài liệu dạy - học theo trách nhiệm
của mình để bảo đảm tính khoa học cho việc dạy - học của trường chính trị,
công tác bồi dưỡng phải thực hiện liên tục.
+ Lãnh đạo, quản lý, ban hành quản lý và kiểm soát hành chính công
việc trong nội bộ trường chính trị tỉnh như: công tác tổ chức - cán bộ và chính
sách, công tác quản lý sử dụng, công tác hành chính công sở, công tác chuyên
môn khác, công tác quản lý sử dụng ngân sách, công tác xây dựng cơ sở hạ
tầng… để tạo điều kiện thuận lợi, bảo đảm cho việc thực hiện công tác dạy -
học và nghiên cứu khoa học ngày càng có chất lượng và hiệu quả cao.
+ Nghiên cứu và đề nghị lên Học viện Chính trị và Hành chính Quốc
gia Lào về tổ chức thi và bảo vệ tốt nghiệp của học viên thuộc trách nhiệm
của mình.
+ Tự lập khám phá mọi tiềm năng để không ngừng pháp triển và nâng
cào trình độ kiến thức, khả năng của đội ngũ cán bộ, giảng viên. Song mở
rộng chú trọng lập và phát triển mạng lưới đồng nghiệp, đối tác của mình
trong và ngoài nước.
93
+ Làm công tác hậu cần cho Ban Chấp hành Đảng ủy Tỉnh hoặc Thủ đô
trong công tác nghiên cứu lý luận và tổng hợp bài học thực tiễn trong khu vực
chính trị - hành chính, đồng thời tổ chức phát hành thành tựu của việc nghiên
cứu đó.
+ Lập kế hoạch ngân sách hàng năm, 5 năm để đề nghị lãnh đạo Tỉnh
phê duyệt sử dụng ngân sách và quản lý thu - chi ngân sách của mình cho phù
hợp nghiêm túc với qui định tài chính.
+ Tổ chức đánh giá hoạt động công việc hàng năm, hàng quý, hàng
tháng của trường, tổ chức tổng kết rút ra bài học kinh nghiệm trong từng giai
đoạn để hoàn thiện tổ chức và hoạt động của trường ngày càng tốt hơn.
+ Quan hệ và hợp tác mọi lĩnh vực với nước ngoài theo quyền hạn của
Ban Chấp hành Đảng ủy Tỉnh hoăc Thủ đô đã qui định.
+ Có trách nhiệm nghiên cứu và đề nghị tổ chức cấp trên mà lãnh đạo
chuyên môn để xin chứng chỉ khoa học cho đội ngũ giảng viên ở nội bộ
trường chính trị.
+ Có quyền thông báo và báo cáo tình hình thực hiện công tác chuyên
môn và bổ sung công tác bộ máy của nhà trường từng giai đoạn, đồng thời lập
kế hoạch ĐTBD cán bộ giảng viên của trường trong từng năm cho Học viện
Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào biết để làm căn cứ và giúp đỡ về
chuyên môn và ĐTBD giảng viên của trường chính trị tỉnh và Thủ đô.
+ Thực hiện nhiệm vụ khác do Ban Chấp hành Đảng bộtỉnh, cơ quan
quản lý của tỉnh, Thủ đô và đơn vị liên quan của Trung ương giao.
- Về quyền hạn:
+ Có quyền được nhận các thông tin từ Ban Chấp hành Đảng bộ địa
phương mà trường trực thuộc, tổ chức cấp trên lãnh đạo cơ quan chuyên môn
và các Ban về vấn đề liên quan với trường chính trị, lập ra thông báo hoặc
hướng dẫn khác trong nội bộ nhà trường và đối với các bộ phận có liên quan
trong toàn tỉnh hoặc Thủ đô.
94
+ Ban Lãnh đạo nhà trường có quyền tham gia hội nghị của Ban Chấp
hành Đảng tỉnh và cơ quan hành chính của tỉnh hoặc Thủ đô, hội nghị cụ thể
về vấn đề liên quan trực tiếp với nhà trường và tham gia hội nghị theo lời mời
của các bộ phận liên quan.
+ Cấp bằng tốt nghiệp hệ sơ cấp và giấy chứng nhận bồi dưỡng chính
trị - hành chính theo chương trình.
+ Quan hệ hợp tác với tổ chức và cá nhân hoặc người có thẩm quyền
liên quan đến công việc ĐTBD CBCC đã được quy định.
+ Được nhận chính sách về vật chất và tinh thần giống như các Ban
khác trong tỉnh hoặc Thủ đô.
+ Đề nghị Ban Chấp hành Đảng bộtỉnh - Chủ tịch tỉnh hoặc Ban Chấp
hành Đảng bộ Thủ đô - Chủ tịch Thủ đô thông qua các cơ quan có liên quan
để nghiên cứu xử lý hành chính cấp phòng và đơn vị, đề nghị cấp trên nghiên
cứu, xử lý quyết định thực hiện kỷ luật đối với người thực hiện sai và thực
hiện chính sách khen thưởng đối với cán bộ, công chức có công lao tốt.
+ Được cấp chứng chỉ giảng viên, giảng viên chính… theo quy định
của pháp luật.
Như vậy, ở CHDCND Lào, hệ thống cơ sở ĐTBD CBCC gồm Học
viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào và 18 Trường chính trị và hành
chính cấp tỉnh (tỉnh, thủ đô). Sự phân cấp quản lý được thể hiện qua một số
khía cạnh sau:
+ Về việc thành lập, quy định chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy:
Mặc dù là cơ sở ĐTBD CBCC của địa phương, nhưng chức năng,
nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Trường chính trị và hành chính cấp tỉnh do
Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào quy định.
+ Về nhân sự:
Việc bổ nhiệm, bãi nhiệm hiệu trưởng, phó hiệu trưởng thuộc thẩm
quyền của Tỉnh uỷ.
95
Việc bổ nhiệm, bãi nhiệm trưởng, phó trưởng khoa, phòng thuộc thẩm
quyền của Ban thường vụ tỉnh uỷ.
Việc tuyển dụng giảng viên, nhân viên nhà trường thuộc thẩm quyền
của Tỉnh uỷ do Ban tổ chức tỉnh uỷ thực hiện.
Việc quy định tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp, nâng ngạch, thăng
hạng do Bộ Nội vụ quy định.
+ Về chương trình, giáo trình ĐTBD CBCC:
Việc xây dựng các chương trình ĐTBD CBCC, biên soạn giáo trình
ĐTBD CBCC thuộc thẩm quyền của Học viện Chính trị và Hành chính Quốc
gia Lào.
Việc quyết định ban hành chương trình ĐTBD CBCC thuộc thẩm
quyền của Bộ Giáo dục và Thể thao, do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Thể thao
ký quyết định.
+ Về văn bằng, chứng chỉ ĐTBD CBCC:
Việc quy định mẫu, in và cấp văn bằng, chứng chỉ ĐTBD CBCC thuộc
thẩm quyền của Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào.
+ Về NSNN:
Việc cấp NSNN cho hoạt động của Trường chính trị và hành chính tỉnh
thuộc thẩm quyền của UBND tỉnh, do Sở Tài chính thực hiện.
3.2.3. Về đội ngũ giảng viên đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức
Giảng viên ĐTBD CBCC ở CHDCND Lào bao gồm giảng viên của
Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào và giảng viên của 18 trường
chính trị và hành chính cấp tỉnh.
- Đối với giảng viên cao cấp
+ Có bằng tiến sĩ phù hợp với chuyên môn, chuyên ngành giảng dạy.
+ Có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên.
+ Có chứng chỉ bồi dưỡng giảng viên cao cấp.
+ Có trình độ cao cấp lý luận chính trị.
96
+ Có trình độ ngoại ngữ bậc 4 (B2) theo khung năng lực ngoại ngữ
dùng cho CHDCND Lào.
+ Có trình độ tin học đạt chuẩn kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin cơ bản.
- Đối với giảng viên chính
+ Có bằng thạc sĩ trở lên phù hợp với chuyên môn, chuyên ngành giảng dạy.
+ Có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên.
+ Có chứng chỉ bồi dưỡng giảng viên chính.
+ Có trình độ trung cấp lý luận chính trị trở lên.
+ Có trình độ ngoại ngữ bậc 3 (B1) theo khung năng lực ngoại ngữ
dùng cho CHDCND Lào.
+ Có trình độ tin học đạt chuẩn kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin cơ bản.
- Đối với giảng viên
+ Có bằng tốt nghiệp đại học trở lên phù hợp với chuyên môn, chuyên
ngành giảng dạy.
+ Có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên.
+ Có chứng chỉ bồi dưỡng giảng viên.
+ Có trình độ trung cấp lý luận chính trị trở lên đối với giảng viên
giảng dạy các chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị,
+ Có trình độ ngoại ngữ bậc 2 (A2) theo khung năng lực ngoại ngữ
dùng cho CHDCND Lào.
+ Có trình độ tin học đạt chuẩn kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin cơ bản.
*Đội ngũ giảng viên của Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào.
Tính đến ngày 01/01/2018, tổng số CBCC của Học viện Chính trị và
Hành chính Quốc gia Lào là 251 người, trong đó nam là 145 người (chiếm
57,77%), nữ là 106 người (42,23%).
Số giảng viên của Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào là
149 người (chiếm 59,36%). Giảng viên nam là 93 người (chiếm 62,42%),
giảng viên nữ là 56 người (37,58%).
97
Về trình độ giảng viên, tiến sĩ có 16 người (chiếm 10,74%), trong đó
nam 14 người (87,50%), nữ là 2 người (chiếm 12,50%); Thạc sĩ có 55 người
(chiếm 36,91%), trong đó nam là 31 người (chiếm 56,36%), nữ là 24 người
(chiếm 43,64%); cử nhân có 78 người (chiếm 52,35%), trong đó nam 48
người (chiếm 61,54%), nữ là 30 người (chiếm 38,46%).
Bảng 3.1. Tổng hợp số lượng giảng viên của Học viện Chính trị và Hành
chính Quốc gia Lào
Tổng Giới tính Trình độ chuyên môn
số Nam Nữ Tiến sĩ Thạc sĩ Cử nhân
Số lượng (người) 93 56 16 55 78 149
Tỷ lệ (%) 62,42 37,58 10,74 36,91 52,35 100
(Nguồn: Vụ Tổ chức - Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào)
+ Giảng viên của Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào do
Giám đốc Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào tuyển dụng, sử
dụng và quản lý.
+ Quy định tiêu chuẩn nâng ngạch, bậc giảng viên do Ban Tổ chức
Trung ương quy định.
* Đội ngũ giảng viên của các trường chính trị và hành chính.
- Đội ngũ nhân sự của các Trường chính trị và hành chính tỉnh gồm có
617 người, trong đó nam là 366 người (chiếm 59,32%), nữ là 251 người
(chiếm 40,68%).
- Riêng đội ngũ giảng viên của các Trường chính trị và hành chính tỉnh
có 373 giảng viên (chiếm 60,45%) trong đó giảng viên nam là 254 người
(chiếm 68,10%), nữ là 119 người (chiếm 31,90%).
Về trình độ giảng viên: tiến sĩ có 10 người (chiếm 2,68%), Thạc sĩ có
117 người (chiếm 31,37%); cử nhân là 246 người (chiếm 65,95%).
98
Bảng 3.2. Tổng hợp giảng viên của 18 Trường chính trị
và hành chính tỉnh
Tổng Giới tính Trình độ chuyên môn
số Nam Nữ Tiến sĩ Thạc sĩ Cử nhân
373 Số lượng (người) 254 119 10 117 246
100 Tỷ lệ (%) 68,10 31,90 2,68 31,37 65,95
(Nguồn: Vụ Tổ chức - Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào)
- Giảng viên của các Trường chính trị và hành chính do Ban Tổ chức
Tỉnh ủy tuyển dụng và quản lý. Các Trường chính trị và hành chính là đơn vị
sử dụng giảng viên.
-Quy định tiêu chuẩn nâng ngạch, bậc giảng viên do Bộ Nội vụ quy định.
Có thể thấy, Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào là cơ quan
quản lý chương trình ĐTBD CBCC, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của các Trường chính trị và hành chính cấp tỉnh, nhưng lại không trực
tiếp quản lý đội ngũ giảng viên của các trường này, mà phân cấp cho các địa
phương quản lý.
Cơ quan quản lý đội ngũ giảng viên của các trường chính trị và hành
chính cấp tỉnh là Ban Tổ chức Tỉnh ủy.
+ Về quy trình tuyển dụng giảng viên theo quy trình sau:
Bước 1. Trường chính trị và hành chính tỉnh thông báo nhu cầu tuyển dụng.
Bước 2. Ban Tổ chức Tỉnh ủy tham mưu cho Tỉnh ủy thành lập Hội
đồng tuyển dụng do 1 Phó Bí thư Tỉnh ủy làm Chủ tịch Hội đồng.
Bước 3. Ban Tổ chức Tỉnh ủy trình Tỉnh ủy phê duyệt kết quả tuyển dụng.
Bước 4. Chuyển kết quả danh sách những người trúng tuyển sang Sở
Nội vụ để làm chính sách.
Nhận thức được tầm quan trọng của đội ngũ giảng viên của các Trường
chính trị và hành chính cấp tỉnh nên công tác quản lý đội ngũ này rất được
quan tâm.
99
Có thể thấy, việc quản lý đội ngũ giảng viên của các cơ sở ĐTBD
CBCC ở CHDCND Lào chưa có sự phân cấp, mà sự phân công, phối hợp
giữa cơ quan quản lý nhà nước (Bộ Nội vụ) với cơ quan tham mưu, giúp việc
cho Đảng NDCM Lào (Ban Tổ chức).
* So sánh, đối chiếu với tiêu chuẩn giảng viên
- Về văn bằng, chứng chỉ: 100% giảng viên của Học viện Chính trị và
Hành chính Quốc gia Lào đáp ứng được các yêu cầu về văn bằng, chứng chỉ.
98,2% giảng viên của các trường chính trị và hành chính cấp tỉnh đáp ứng
được các yêu cầu về văn bằng, chứng chỉ; 1,8% giảng viên chưa đáp ứng
đượcyêu cầu về văn bằng, chứng chỉ là do thiếu chứng chỉ ngoại ngữ hoặc tin
học. Các giảng viên chưa đáp ứng được do quá trình lịch sử để lại, số giảng
viên này đều lớn tuổi, sắp nghỉ hưu nên không hoàn thiện văn bằng, chứng chỉ.
- Về năng lực giảng dạy, ở CHDCND Lào chưa có tiêu chuẩn cụ thể để
lượng hóa, việc lên lớp của các giảng viên mới được kiểm tra qua việc thông
qua bài giảng của giảng viên trước hội đồng khoa học của khoa chuyên môn
của Học viện và của trường.
- Về kinh nghiệm thực tiễn, đội ngũ giảng viên của Học viện Chính trị
và Hành chính Quốc gia Lào, các trường chính trị và hành chính cấp tỉnh cơ
bản là chưa có kinh nghiệm thực tiễn, có tới 78,8% giảng viên được tuyển sau
khi tốt nghiệp đại học; 1,9% giảng viên được chuyển về từ một số trường đại
học và trường chính trị và hành chính cấp tỉnh; 19,3% giảng viên được
chuyển về từ các cơ quan, đơn vị khác.
3.2.4. Về ngân sách cho đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức
* Các hoạt động ĐTBD CBCC được NSNN cấp kinh phí
- NSNN cấp cho các cơ sở ĐTBD CBCC chi các khoản:
+ Các khoản chi phục vụ trực tiếp lớp học: Chi thù lao giảng viên; phụ
cấp tiền ăn giảng viên; chi phí đưa, đón, bố trí nơi ở cho giảng viên; Chi tài
liệu học tập theo nội dung chương trình khoá học cho học viên (không kể tài
100
liệu tham khảo); Chi khen thưởng cho học viên đạt loại giỏi, loại xuất sắc;
Chi hỗ trợ một phần tiền ăn cho học viên trong thời gian đi tập trung học; Chi
hỗ trợ cho các đối tượng là những người hoạt động không chuyên trách ở bản
trong những ngày đi tập trung học tại cơ sở đào tạo các khoản: Chi phí đi lại
từ cơ quan đến nơi học tập (một lượt đi và về; nghỉ lễ; nghỉ tết); chi hỗ trợ
tiền thuê chỗ nghỉ; Chi thuê hội trường, phòng học, thiết bị phục vụ học tập
(nếu có);
+ Các khoản chi ra đề thi, coi thi, chấm thi; hội đồng xét kết quả; Chi in
và cấp chứng chỉ.
+ Các khoản chi cho mở lớp: khai giảng, bế giảng; chi nước uống phục
vụ lớp học; đối với các lớp học chuyên sâu, nâng cao có chuyên gia nước
ngoài giảng dạy được chi giải khát giữa giờ (cà phê, trà, hoa quả, bánh
ngọt...); chi tổ chức cho học viên đi khảo sát, thực tế (nếu có); chi khác phục
vụ trực tiếp lớp học (điện, nước, thông tin liên lạc, văn phòng phẩm, vệ sinh,
trông giữ xe...); Chi tiền thuốc y tế thông thường cho học viên (ốm đau).
Các cơ sở ĐTBD CBCC đã được ngân sách đầu tư xây dựng phòng
nghỉ phải có trách nhiệm bố trí chỗ nghỉ cho học viên ở xa đối với những lớp
được cấp có thẩm quyền giao nhiệm vụ và phân bổ kinh phí thực hiện không
được thu thêm khoản tiền phòng nghỉ của học viên.
+ Các khoản chi cho các hoạt động quản lý trực tiếp công tác ĐTBD
CBCC của cơ sở ĐTBD CBCC hoặc các cơ quan, đơn vị được giao nhiệm vụ
mở lớp ĐTBD CBCC: Chi công tác phí cho cán bộ quản lý lớp của cơ sở
ĐTBD CBCC trong trường hợp phải tổ chức lớp ở xa; chi làm thêm giờ của
cán bộ quản lý lớp (nếu có); Chi khảo sát, điều tra, xây dựng kế hoạch ĐTBD;
chi tổ chức các cuộc họp nhằm đánh giá kết quả, hiệu quả, chất lượng ĐTBD
ngay sau khi kết thúc khoá học; Các khoản chi khác để phục vụ quản lý, điều
hành lớp học (nếu có).
101
+ Chi dịch thuật.
+ Chi biên soạn chương trình, giáo trình mới hoặc chi chỉnh sửa, bổ
sung cập nhật chương trình, giáo trình. Do cơ quan, đơn vị được giao chủ trì
biên soạn chương trình, giáo trình, tài liệu ĐTBD kiến thức, kỹ năng chuyên
môn nghiêp vụ chi từ nguồn kinh phí ĐTBD CBCC được giao hàng năm.
- NSNN cấp cho cơ quan, đơn vị cử CBCC đi học để chi các khoản:
+ Chi phí đi lại từ cơ quan đến nơi học tập (một lượt đi và về; nghỉ lễ;
nghỉ tết); chi thanh toán tiền thuê chỗ nghỉ cho CBCC trong những ngày đi
tập trung học tại cơ sở ĐTBD CBCC (trong trường hợp cơ sở ĐTBD CBCC
và đơn vị tổ chức ĐTBD xác nhận không bố trí được chỗ nghỉ). Căn cứ địa
điểm tổ chức lớp học và khả năng ngân sách, các cơ quan, đơn vị cử CBCC đi
học sử dụng từ nguồn kinh phí chi thường xuyên và nguồn kinh phí khác của
mình để hỗ trợ cho CBCC được cử đi học hai khoản chi phí nêu trên đảm bảo
nguyên tắc: Các khoản chi hỗ trợ này không vượt quá mức chi hiện hành của
Bộ Tài chính quy định chế độ công tác phí, chế độ chi tổ chức các cuộc hội
nghị đối với các cơ quan nhà nước và các đơn vị sự nghiệp công lập. Cơ quan
đơn vị cử CBCC đi học không chi hỗ trợ tiền chi phí đi lại và tiền thuê chỗ
nghỉ đối với các trường hợp là những người hoạt động ở bản.
+ Trường hợp cơ quan, đơn vị được giao kinh phí ĐTBD CBCC nhưng
không có cơ sở ĐTBD CBCC, không có điều kiện tự tổ chức lớp phải gửi
CBCC đi ĐTBD ở các cơ sở ĐTBD khác thì cơ quan, đơn vị thanh toán cho
các cơ sở ĐTBD các khoản: Chi phí ĐTBD theo hợp đồng dịch vụ do cơ
quan, đơn vị được cấp có thẩm quyền giao kinh phí ĐTBD CBCC ký kết với
cơ sở ĐTBD; tiền mua giáo trình, tài liệu (không kể tài liệu tham khảo) theo
hoá đơn thu tiền của cơ sở ĐTBD; Chi hỗ trợ tiền ăn cho học viên trong
những ngày đi học tập trung. Cơ sở ĐTBD có trách nhiệm chi hỗ trợ tiền ăn
cho học viên theo đúng mức hỗ trợ được cơ quan, đơn vị ký kết với cơ sở
ĐTBD tại hợp đồng dịch vụ và theo đúng số ngày thực tế học viên đi học.
102
Trường hợp cơ quan, đơn vị cử CBCC đi học thanh toán trực tiếp cho học
viên khoản chi hỗ trợ tiền ăn, thì chứng từ chi phải kèm theo xác nhận của cơ
sở ĐTBD về số ngày thực tế học viên đi học.
+ Chi các hoạt động trực tiếp phục vụ cho công tác quản lý ĐTBD
CBCC của các Bộ, cơ quan trung ương, địa phương.
Căn cứ nguồn kinh phí ĐTBD CBCC được cấp có thẩm quyền giao
hàng năm, bộ, cơ quan trung ương, địa phương quyết định việc phân bổ kinh
phí cho cơ quan, đơn vị được giao nhiệm vụ quản lý về công tác ĐTBD của
toàn ngành, của địa phương để chi cho các nội dung: chi xây dựng, lập kế
hoạch ĐTBD; chi tổ chức các cuộc họp, hội thảo, hội nghị; chi đi công tác để
kiểm tra, đánh giá kết quả ĐTBD và các chi khác liên quan trực tiếp đến công
tác quản lý ĐTBD CBCC.
- Kinh phí ĐTBD CBCC ở nước ngoài được giao trong dự toán hàng
năm của cơ quan, đơn vị được giao chủ trì tổ chức các khoá ĐTBD CBCC ở
nước ngoài và được sử dụng để chi cho các nội dung sau:
+ Chi phí dịch vụ phải trả cho tổ chức thực hiện dịch vụ ĐTBD CBCC
ở trong nước;
+ Chi học phí và các khoản chi phí bắt buộc phải trả cho các cơ sở
ĐTBD CBCC hoặc cơ sở dịch vụ ở nước ngoài;
+ Chi phí cho công tác phiên dịch, biên dịch tài liệu;
+ Chi phí mua bảo hiểm y tế trong thời gian học tập ở nước ngoài;
+ Chi phí cho công tác tổ chức lớp học: Khảo sát, đàm phán, xây dựng
chương trình học tập với các cơ sở đào tạo ở nước ngoài;
+ Chi phí ăn, ở, đi lại, lệ phí sân bay; chi mua bảo hiểm;
+ Chi làm thủ tục xuất, nhập cảnh (hộ chiếu, visa).
* Tỷ trọng NSNN cấp cho đào tạo, bồi dưỡng CBCC
Trong chi NSNN nói chung thì chi NSNN cho ĐTBD CBCC được chú
trọng ưu tiên hơn so với các lĩnh vực kinh tế xã hội khác.
103
Giai đoạn 2012-2016, chi NSNN cho ĐTBD CBCC ở CHDCND Lào
đã không ngừng tăng lên cả về số tuyệt đối, về tỷ trọng chi NSNN và so với
GDP.NSNN chi cho ĐTBD CBCC đã tăng gấp 2,4 lần, từ hơn 22.600 tỷ kip
năm 2012 lên đến gần 55.000 tỷ kip năm 2016. Tỷ trọng chi NSNN cho
ĐTBD CBCC trong GDP tăng từ 4,2% (năm 2012) lên 5,6% (năm
2016). Mức chi NSNN cho giáo dục bình quân một người tăng từ 283.000 kip
năm 2012 lên 784.000 kip vào năm 2016.
Bảng 3.3. Chi NSNN cho ĐTBD CBCC giai đoạn 2012- 2016
Chỉ tiêu 2012 2013 2014 2015 2016
GDP (tỷ kip) 613.443 710.000 815.000 973.791 1.143.442
Tổng chi NSNN (tỷ kip) 178.541 200.050 229.750 321.377 368.340
Chi NSNN cho ĐTBD 27.510 32.730 41.630 55.300 66.770
CBCC (tỷ kip)
NSNN cho ĐTBD 4,48 4,6 5,11 5,67 5,83
CBCC so với GDP (%)
Chi NSNN cho ĐTBD 15,4 16,36 18,11 17,20 18,12
CBCC so với tổng chi
NSNN (%)
(Nguồn: Bộ Tài chính)
Nhà nước luôn tăng chi NSNN cho ĐTBD CBCCcả về quy mô và tỷ
trọng trong tổng chi NSNN để không ngừng nâng cao công tác ĐTBD CBCC,
đáp ứng nhu cầu thực thi công vụ. Chi NSNN cho ĐTBD CBCCkhông ngừng
tăng qua các năm, năm 2012 là 41.630 tỷ kip thì đến năm 2015 là 55.300 và
đến năm 2016 thì con số đó là 66.770 (chiếm 20% tổng chi NSNN).
- Xét theo tính chất kinh tế, chi NSNN cho ĐTBD CBCCgồm chi: Chi
thường xuyên và chi đầu tư phát triển.
104
Bảng 3.4. Chi NSNN cho ĐTBD CBCCxét theo tính chất kinh tế (tỷ kip)
Tổng chi
Chi thường xuyên
Chi đầu tư phát triển
Năm
NSNN cho
Số chi Tỷ lệ Số chi Tỷ lệ
ĐTBD CBCC
(tỷ kip % (tỷ kip %
2012 27.510 24.310 88,36 3.200 11,63
2013 32.730 27.830 85 4.900 14,97
2014 41.360 35.007 84,6 6.623 15,36
2015 55.300 45.595 82,45 9.705 17,55
2016 66.770 55.240 82,73 11.530 17,26
(Nguồn: Bộ Tài chính)
+ Chi đầu tư phát triển cho ĐTBD CBCCđược ưu tiên hàng đầu trong
cơ cấu chi đầu tư phát triển của NSNN cho lĩnh vực hạ tầng xã hội và không
ngừng tăng lên. Số liệu cho thấy chi đầu tư phát triển có xu hướng tăng nhanh
cả về quy mô và tỷ trọng chi NSNN cho ĐTBD CBCC. Năm 2016 bố trí
11.530 tỷ đồng chi đầu tư phát triển, tăng 18,8% so với năm 2015.
Chi đầu tư phát triển bao gồm các khoản chi mang tính chất đầu tư như
mua sắm, xây dựng, sửa chữa trường lớp… Đây là khoản chi nhằm củng cố
và phát triển quy mô trường lớp. Để góp phần nâng cao chất lượng ĐTBD,
mạng lưới trường lớp không chỉ được mở rộng về quy mô mà còn được nâng
cao về chất lượng. Cơ sở ĐTBD CBCC khang trang, sạch sẽ và có kiến trúc
hiện đại sẽ góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng ĐTBD.
+ Chi thường xuyên cho ĐTBD CBCC là các khoản chi phục vụ cho
hoạt động của ĐTBD như chi lương, phụ cấp, chi cho giảng dạy, học tập, chi
hành chính,…
Cùng với sự phát triển của ngành giáo dục, đội ngũ giảng viên cơ sở
ĐTBD CBCC cũng ngày một tăng. Trong những năm qua, lương của công
chức nói chung và lương của giảng viên nói riêng liên tục được cải thiện.
Việc tăng lương sẽ góp phần tăng thu nhập cho đội ngũ này và là một yếu tố
105
góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy. Chính vì vậy, trong giai đoạn tới,
với chính sách ưu đãi với giảng viên về tiền lương thì các khoản chi lương sẽ
ngày một tăng và sẽ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi NSNN. Năm 2016 chi
thường xuyên được bố trí 55.240 tăng 21,15% so với năm 2015, nhưng vẫn
chưa đáp ứng được nhu cầu, chưa đủ để tạo ra những thay đổi có tính chất đột
phá. Nên đa số ở các tỉnh, cơ cấu chi tiền lương và các khoản phụ cấp có tính
chất lương vẫn chiếm khoảng 85%-90% và chi cho các hoạt động giảng dạy,
học tập, mua sắm, sửa chữa, hành chính quản lý chỉ khoảng 10%-15% chi
thường xuyên.
Cơ chế phân cấp quản lý NSNN cho cho ĐTBD CBCCngày càng tăng
cường quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm cho chính quyền địa phương.
Ngân sách trung ương đảm bảo nhiệm vụ chi cho hoạt động ĐTBD
CBCCdo địa phương quản lý. Việc phân cấp nhiệm vụ chi cho hoạt động
ĐTBD CBCCcủa ngân sách chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân
tỉnh, thủ đô quyết định bảo đảm phù hợp với phân cấp quản lý ĐTBD
CBCCtheo quy định của pháp luật, trình độ năng lực quản lý ngân sách của
từng cấp và kế hoạch chung của địa phương về ĐTBD CBCC.
Bảng 3.5. Chi NSNN cho ĐTBD CBCCtheo phân cấp ngân sách
(giai đoạn 2012-2016)
Cấp ngân sách 2012 2013 2014 2015 2016
Trung ương (%) 16,35 17,13 14,65 13,76 19,63
Địa phương (%) 83,65 82,87 85,35 86,24 80,37
Tổng (%) 100 100 100 100 100
(Nguồn: Bộ Tài chính)
Theo phân cấp hiện nay thì chính quyền cấp tỉnh quản lý tài chính của
các Trường Chính trị và Hành chính tỉnh. Tuy nhiên, mỗi địa phương có cách
quản lý ngân sách cho ĐTBD CBCC khác nhau (do điều kiện cụ thể từng tỉnh
khác nhau). Vấn đề đặt ra là cần tăng cường sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ
106
quan địa phương có cơ chế phù hợp để cấp kinh phí cho các cơ sở ĐTBD
CBCC kịp thời và đầy đủ và có chính sách phân bổ ngân sách công bằng cho
các Trường Chính trị và Hành chính tỉnh.
Chi cho các cơ sở ĐTBD CBCC bao gồm các khoản chi đầu tư xây
dựng cơ bản, chi hoạt động thường xuyên và chi cho hoạt động ĐTBD.
Bảng 3.6.Ngân sách chi cho cơ sở ĐTBD CBCC (triệu kip/biên chế/năm)
TT Cơ sở đào tạo, bồi dưỡng CBCC 2012 2013 2014 2015 2016
1 Học viện Chính trị và Hành chính 115 118 117 120 116
quốc gia Lào
2 Trường Chính trị và Hành chính tỉnh 56 58 55 56 59
Attapeu
3 Trường Chính trị và Hành chính tỉnh 61 60 63 61 64
Bokeo
4 Trường Chính trị và Hành chính tỉnh 61 62 61 63 63
Bolikhamsai
5 Trường Chính trị và Hành chính tỉnh 63 63 62 62 64
Champasak
6 Trường Chính trị và Hành chính tỉnh 65 64 64 63 67
Huaphan
7 Trường Chính trị và Hành chính tỉnh 62 65 64 66 66
Khammouane
8 Trường Chính trị và Hành chính tỉnh 64 66 65 65 67
Luang Namtha
9 Trường Chính trị và Hành chính tỉnh 68 68 69 69 68
Luang Prabang
10 Trường Chính trị và Hành chính tỉnh 71 70 69 71 71
Oudomxay
11 Trường Chính trị và Hành chính tỉnh 69 71 70 72 73
Phongsaly
107
12 Trường Chính trị và Hành chính tỉnh 70 72 71 73 73
Xayabury
13 Trường Chính trị và Hành chính tỉnh 74 74 72 73 74
Salavan
14 Trường Chính trị và Hành chính tỉnh 75 76 76 77 75
Savanakhet
15 Trường Chính trị và Hành chính tỉnh 77 77 77 78 77
Sekong
16 Trường Chính trị và Hành chính tỉnh 80 82 83 81 82
Vientiane
17 Trường Chính trị và Hành chính thủ 94 94 96 95 95
đô Vientiane
18 Trường Chính trị và Hành chính tỉnh 85 84 84 83 85
Xiengkhuang
19 Trường Chính trị và Hành chính tỉnh 85 85 84 84 83
Xaysomboun
(Nguồn: Bộ Tài chính)
* Chu trình ngân sách cho ĐTBD CBCC
Chu trình ngân sách cho ĐTBD CBCC gồm lập ngân sách, chấp hành
ngân sách và quyết toán ngân sách.Quý cuối cùng của năm năm, các trường
lập nhu cầu ngân sách ĐTBD CBCC và gửi về Bộ Tài chính (đối với Học
viện Chính trị và Hành chính quốc gia), Sở Tài chính (đối với trường chính trị
và hành chính cấp tỉnh). Từ đó xác định nhu cầu ngân sách để Bộ Tài chính
báo cáo Chính phủ và đưa vào nhu cầu ngân sách trình Quốc hội.
Sau khi có ngân sách, tiến hành phân bổ. Học viện Chính trị và Hành
chính quốc gia nhận phân bổ trực tiếp qua Bộ Tài chính. Các trường chính trị
và hành chính cấp tỉnh nhận phân bổ qua ngân sách địa phương, ngân sách địa
phương cấp qua Sở tài chính của tỉnh, thành phố.
108
Kết thúc năm tài chính, các trường báo cáo và quyết toán ngân sách. Cơ
quan tài chính sẽ soát xét toàn bộ chế độ kế toán và quyết toán ngân sách,
đảm bảo cho quyết toán nhanh gọn, chính xác, trung thực.
3.2.5. Phân cấp quản lý về văn bằng, chứng chỉ
Mỗi loại chương trình ĐTBD CBCC sẽ có văn bằng chứng chỉ tương
ứng. Ở CHDCND Lào, tất cả các văn bằng chứng chỉ của các chương trình
ĐTBD CBCC đều do Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào quản lý
và trực tiếp cấp cho học viên.
Mặc dù các Trường chính trị và hành chính cấp tỉnh được phân cấp
thực hiện 01 chương trình đào tạo và 02 chương trình bồi dưỡng CBCC,
nhưng việc cấp văn bằng chứng chỉ cho học viên sau khi tốt nghiệp lại do Học
viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào thực hiện. Nghĩa là các Trường
chính trị và hành chính cấp tỉnh thực hiện ĐTBD CBCC nhưng không được
cấp văn bằng chứng chỉ. Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào là cơ
quan thống nhất trong cả nước cấp văn bằng, chứng chỉ ĐTBD CBCC.
Việc Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào thống nhất quản
lý và cấp các văn bằng chứng chỉ có ưu điểm là tạo sự thống nhất trong cả
nước về việc quản lý, cấp phát văn bằng chứng chỉ. Tuy nhiên, điều đó cũng
dẫn đến sự ôm đồm của Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào, nên
có sự phân cấp để giảm tải khối lượng công việc, đồng thời kích thích sự chủ
động của các trường chính trị và hành chính cấp tỉnh.
3.2.6. Phân cấp về kiểm tra, thanh tra đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức
Ở CHDCND Lào, việc ĐTBD CBCC do Học viện Chính trị và Hành
chính quốc gia Lào và các trường chính trị và hành chính tỉnh thực hiện. Do
vậy, công tác ĐTBD CBCC chịu sự kiểm tra, thanh tra như sau:
Ở trung ương, công tác ĐTBD CBCC của Học viện Chính trị và Hành
chính quốc gia Lào chịu sự kiểm tra của Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng
109
Nhân dân Cách mạng Lào, sự thanh tra của Thanh tra Chính phủ và Thanh tra
chuyên ngành của Bộ Giáo dục và Thể thao.
Ở cấp tỉnh, công tác ĐTBD CBCC do trường chính trị và hành chính tỉnh
thực hiện, chịu sự thanh tra tỉnh và thanh tra chuyên ngành của Học viện Chính
trị và Hành chính quốc gia Lào.Bên cạnh đó, các trường chính trị và hành chính
tỉnhchịu sự kiểm toán nhà nước và kiểm tra của Ủy ban Kiểm tra tỉnh ủy.
3.3. Đánh giá phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
3.3.1.Ưu điểm
3.3.1.1. Về phân cấp quản lý các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức
Một là, các chương trình ĐTBD CBCC được quản lý thống nhất.
Ở CHDCND Lào, chương trình ĐTBD CBCC không đa dạng và phong
phú, số lượng chương trình ít. Chính vì thế các chương trình ĐTBD CBCC
không có sự phân cấp quản lý, mà tập trung quản lý thống nhất một đầu mối
là Bộ Giáo dục và Thể thao. Bộ Giáo dục và Thể thao là cơ quan quản lý nhà
nước về giáo dục và đào tạo; Bộ Nội vụ là cơ quan quản lý nhà nước về đội
ngũ CBCC, về ĐTBD CBCC. Tuy nhiên, Bộ Giáo dục và Thể thao mới là cơ
quan quản lý nhà nước về chương trình ĐTBD CBCC.
Hai là, các chương trình ĐTBD CBCC được thực hiện đồng bộ.
Chính vì số lượng chương trình ĐTBD CBCC ít, không có sự phân cấp
nên việc quản lý chương trình ĐTBD CBCC có ưu điểm là tập trung, tạo sự
thống nhất trong ban hành, thực thi. Khi có sự thay thế, sửa đổi cũng đảm bảo
tính nhất quán, không gây sự sáo trộn trong công tác ĐTBD CBCC ở các cơ
sở ĐTBD CBCC trên toàn quốc.
3.3.1.2. Về phân cấp quản lý cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Một là, các cơ sở ĐTBD CBCC được phân định rõ ràng về chức năng,
nhiệm vụ.
110
Ở CHDCND Lào, hệ thống cơ sở ĐTBD CBCC chỉ có Học viện Chính
trị và Hành chính quốc gia Lào ở trung ương và 18 trường chính trị và hành
chính ở 18 tỉnh, thành phố.
Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào là cơ sở ĐTBD CBCC
trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào, trực
tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Trường chính trị và hành chính của tỉnh là cơ
sở ĐTBD CBCC trực thuộc tỉnh uỷ. Như vậy, các cơ sở ĐTBD CBCC của
CHDCND Lào có sự phân cấp.
Do số lượng các cơ sở ĐTBD CBCC hạn chế, không đa dạng nên việc
phân định chức năng, nhiệm vụ rất rõ ràng, không bị chồng chéo, lấn sân
trong hoạt động ĐTBD CBCC. Sự phân công, phân cấp trong quản lý các yếu
tố cấu thành cơ sở ĐTBD CBCC được chuyên môn hoá, trao quyền cho các
cơ quan cấp dưới nhiều hơn, tạo sự chủ động cho các cơ sởĐTBD CBCC
trong hoạt động.
Hai là, sự phân cấp quản lý các cơ sở ĐTBD CBCC đã phát huy hiệu
lực, hiệu quả quản lý.
Phân cấp quản lý các cơ sở ĐTBD CBCC đã giải phóng khối lượng
công việc cho cơ quan trung ương, đồng thời tạo sự chủ động cho cơ quan địa
phương trong việc quản lý, điều hành các trường chính trị và hành chính.
Chính vì thế mà hiệu quả, hiệu lực quản lý được tăng cường.
Ba là, sự phân cấp quản lý các cơ sở ĐTBD CBCC đã tạo sự chủ động
trong hoạt động của các cơ sở ĐTBD CBCC
Do phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của Học viện Chính trị và
Hành chính quốc gia Lào ở trung ương và các trường chính trị và hành chính
cấp tỉnh nên các trường rất chủ động trong hoạt động. Học việnChính trị và
Hành chính quốc gia Lào được ĐTBD CBCC chương trình gì, đối tượng nào;
trường chính trị và hành chính cấp tỉnhđược ĐTBD CBCC chương trình gì,
đối tượng nào rất tường minh, không sấn lân nhau.
111
Sự phân cấp quản lý đã chú ý đến đặc thù của từng loại yếu tố cấu
thành cơ sở ĐTBD CBCC như nhân sự, tài chính, bộ máy... để có phân cấp
hợp lý nhằm mang lại chủ động trong hoạt động.
3.3.1.3. Về phân cấp quản lý đội ngũ giảng viên đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức
Sự phân cấp quản lý đội ngũ giảng viên ĐTBD CBCC đã mang lại một
số ưu điểm sau:
Thứ nhất, chủ động xây dựng quy hoạch phát triển đội ngũ giảng viên
của các trường chính trị và hành chính cấp tỉnh.
Các địa phương có sự rà soát về nguồn nhân lực giảng viên, điều chỉnh
quy hoạch, kế hoạch ĐTBD và bố trí sắp xếp đội ngũ giảng viên của các
Trường chính trị và hành chính cấp tỉnh theo quy định và phù hợp với tình
hình thực tế của mỗi địa phương. Ban Tổ chức Tỉnh ủy và Sở Nội vụ phối hợp
rà soát, điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch ĐTBD và bố trí sắp xếp đội ngũ giảng
viên theo quy định và phù hợp với tình hình thực tế của mỗi địa phương.
Thứ hai, dễ dàng thực hiện các chính sách đối với giảng viên.
Thực hiện đầy đủ, kịp thời các chế độ chính sách đối với giảng viên của
Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào và các trường chính trị và
hành chính tỉnh, đặc biệt là giảng viên công tác tại một số tỉnh có điều kiện
kinh tế - xã hội khó khăn.
Thực hiện sự phân cấp quản lý đội ngũ giảng viên đã tạo điều kiện cho
một số tỉnh tham mưu thực hiện chếđộ thu hút đối với sinh viên, giảng viên
giỏi về công tác tại địa phương và nhiều chế độ đãi ngộ khác đối với giảng
viên trường chính trị và hành chính tỉnh.
Thứ ba, có điều kiện để chăm lo nâng cao trình độ, chuẩn hóa đội ngũ
giảng viên.
Do phân cấp quản lý đội ngũ giảng viên, nên các địa phương có điều
kiện hơn để chăm lo nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên trường chính trị và
112
hành chính của tỉnh. Nhiều trường đã cử giảng viên tham dự đầy đủ các hội
nghị tập huấn do Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào tổ chức: tập
huấn về chuyên môn nghiệp vụ, cử sang Việt Nam học tập. Tham gia tập
huấn và triển khai có hiệu quả chương trình bồi dưỡng các cấp học theo yêu
cầu của Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào.
Thứ tư, chú trọng, quan tâm phát triển nguồn nhân lực tại chỗ.
Do được chủ động trong tuyển dụng, quản lý giảng viên của trường
chính trị và hành chính tỉnh, nhiều tỉnh đã ưu tiên phát triển đội ngũ giảng
viên là người địa phương, người dân tộc thiểu số. Một số tỉnh đã quan tâm
tuyển dụng, ĐTBD giảng viên, bổ nhiệmcán bộ quản lý là người dân tộc thiểu
số. Đây là một điểm thuận lợi cho sự phát triển ĐTBD CBCC vùng dân tộc
thiểu số miền núi và cũng là một trong những nội dung của hoạt động quản lý
nhà nước. Bởi vì giảng viên là người dân tộc thiểu số có những thế mạnh đó
là: Thông thạo ngôn ngữ dân tộc, am hiểu văn hóa, phong tục tập quán đồng
bào, có sự ổn định về mặt cư trú, sinh hoạt, công tác trên địa bàn, dễ gần với
đồng bào để trao đổi, giảng dạy,…
3.3.1.4. Về phân cấp quản lý ngân sách cho đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức
Có thể thấy, ngân sách dành cho ĐTBD CBCC ngày càng tăng lên, thể
hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước Lào đối với CBCC nói chung, với
công tác ĐTBD nói riêng.Phân cấp quản lý về tài chính cho ĐTBD CBCC đạt
được những kết quả:
Thứ nhất, NSNN đầu tư cho ĐTBD CBCC đã thực sự được ưu tiên
đúng với quan điểm giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu trong cả chi
đầu tư phát triển và chi thường xuyên của NSNN nên đã tạo điều kiện cho
ĐTBD CBCC có nhiều nguồn lực hơn để phát triển.
Thứ hai, phân cấp quản lý NSNN cho ĐTBD CBCC được đổi mới theo
hướng tăng cường nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các địa phương.
113
Sự đổi mới đó đã tạo điều kiện và động lực khuyến khích các địa phương
phân bổ và sử dụng nguồn NSNN kết hợp chặt chẽ với khả năng huy động các
nguồn tài chính ngoài ngân sách đầu tư cho ĐTBD CBCC phù hợp với điều
kiện cụ thể của từng địa phương, nâng cao hiệu quả tạo lập sử dụng các nguồn
tài chính đầu tư cho ĐTBD CBCC.
Thứ ba, quy trình lập dự toán và phê duyệt kế hoạch phân bổ ngân sách
cho ĐTBD CBCC tổng thể tương đối tốt, được thực hiện theo đúng hướng
dẫn của Bộ Tài chính và đảm bảo tuân thủ các quy định của Luật ngân sách.
Điều này tạo ra sự chặt chẽ, đảm bảo tính pháp lý của kế hoạch phân bổ ngân
sách. Bên cạnh đó, nó còn tạo ra mối liên hệ chặt chẽ giữa các cấp quản lý
ngân sách, tạo ra mối liên hệ thường xuyên, có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ
đối với việc sử dụng NSNN.
Phân bổ dự toán NSNN chi thường xuyên về ĐTBD CBCC cho các
tỉnh, thủ đô có được định mức rõ ràng, công khai, minh bạch, ổn định trong
thời kỳ ổn định NSNN nên tạo động lực thúc đẩy các địa phương tự chủ khai
thác, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực.
Thứ tư, việc chuyển từ hình thức cấp phát bằng hạn mức kinh phí sang
phương thức rút dự toán ngân sách tại Kho bạc Nhà nước đã giảm đỡ các thủ
tục giấy tờ, như: thông báo, đối chiếu hạn mức kinh phí hàng quý của cơ quan
tài chính và của đơn vị dự toán cấp trên với Kho bạc và đơn vị trực tiếp sử
dụng ngân sách.
Thứ năm, về cơ chế quyết toán NSNN. Việc quy định cơ quan tài chính
xét duyệt quyết toán của cơ quan sử dụng ngân sách cùng cấp có mặt tích cực
là tạo điều kiện tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan tài chính và cơ quan sử
dụng ngân sách trong giám sát việc chấp hành chế độ chính sách chi tiêu ngân
sách, đảm bảo việc chi tiêu đúng chế độ quy định.
Thứ sáu, ưu tiên chi NSNN theo nhiệm vụ và theo vùng phù hợp với
điều kiện kinh tế xã hội và mục tiêu ĐTBD CBCC của CHDCND Lào hiện
114
nay. Vì vậy, cơ chế ưu tiên chi NSNN cho ĐTBD CBCC đã góp phần quan
trọng vào thực hiện nhiệm vụ chính trị, giảm khoảng cách năng lực thực thi
công vụ của CBCC các địa phương.
3.3.1.5. Về phân cấp quản lý văn bằng, chứng chỉ
Ở CHDCND Lào, quản lý văn bằng, chứng chỉ ĐTBD CBCC không có
sự phân cấp, mà do Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào thống
nhất quản lý. Điều này có ưu điểm đảm bảo tính tập trung trong quản lý và
cấp phát văn bằng, chứng chỉ ĐTBD CBCC, đồng thời tạo sự thuận lợi cho
việc tra cứu, thẩm tra trong tương lai.
3.3.1.6. Về phân cấp kiểm tra, thanh tra đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức
Kiểm tra, thanh tra ĐTBD CBCC trong những năm qua ở CHDCND
Lào ít xảy ra, chủ yếu là hoạt động kiểm toán tài chính định kỳ. Ở cấp trung
ương, Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào trong 5 năm qua chưa
có đoàn kiểm tra, thanh tra của Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng NDCMD
Lào và Thanh tra Chính phủ nào vào làm việc do có sự sai phạm hoặc đơn thư
khiếu nại, tố cáo.
Ở cấp tỉnh, trong 5 năm qua có một số cuộc làm việc của Ủy ban Kiểm
tra tỉnh ủy về trường chính trị và hành chính tỉnh làm việc do đơn thư, khiếu
nại liên quan đến công tác cán bộ và tài chính. Tuy nhiên, đó là những sai
phạm ít nghiêm trọng, một số cuộc kiểm tra, thanh tra sau khi kết thúc mới
chỉ có mức kỷ luật khiển trách.
3.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
3.3.2.1. Về phân cấp quản lý các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ. công chức
Một là, việc tập trung quản lý các chương trình ĐTBD CBCC ở một cơ
quan sẽ gây nên tình trạng “độc quyền”, bảo thủ.
115
Ở CHDCND Lào, hiện không có sự phân cấp quản lý các chương trình
ĐTBD CBCC, tất cả các chương trình do Bộ Giáo dục và Thể thao ban hành,
việc xây dựng chương trình do Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia
Lào tiến hành. Việc không phân cấp quản lýchương trình ĐTBD CBCCxuất
phát từ nguyên nhân do không có nhiều chương trình. Chính vì thế việc phân
cấp quản lý là không cần thiết. Điều đó tạo nên tính tập trung, đồng bộ của
các chương trình ĐTBD CCC. Tuy nhiên, nó có nhược điểm là không tạo tính
chủ động cho các cơ quan trong việc xây dựng chương trình. Việc sửa đổi,
thay thế chương trình luôn bị chậm, thiếu sự phù hợp với các địa phương, đối
tượng khác nhau.
Hai là, các chương trình ĐTBD CBCC chưa thực sự đáp ứng được yêu
cầuĐTBD CBCC.
Các chương trình ĐTBD CBCC hiện hành vẫn còn nặng về tính lý
thuyết, chưa thực sự sát hợp với nhiều loại đối tượng khác nhau, chưa sâu sát
với đối tượng ở địa phương, cơ sở. Cơ quan QLNN về CBCC là Bộ Nội vụ
nhưng lại không tham gia quản lý chương trình ĐTBD CBCC. Bộ Nội vụ
quản lý CBCC, sẽ biết được CBCC thiếu những kiến thức, kỹ năng gì, cần
những kiến thức, kỹ năng gì nhưng không được tham gia quản lý chương
trình, không được tham gia xây dựng chương trình. Chính vì thế mà các
chương trình ĐTBD CBCC chưa thực sự sát hợp. Trong khi Bộ Giáo dục và
Thể thao là cơ quan quản lý chương trình nhưng lại không tham gia quản lý
CBCC, không tham gia vào quá trình xây dựng chương trình ĐTBD CBCC.
3.3.2.2. Về phân cấp quản lý các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Một là, sự phân cấp quản lý các cơ sở ĐTBD CBCC ở CHDCND Lào
mang dấu ấn của sự phân công nhiệm vụ giữa các cơ quan có liên quan đến
hoạt động ĐTBD CBCC hơn là sự phân cấp. Sự phân cấp quản lý chưa thực
sự rõ nét. Ví dụ: quản lý chương trình là Bộ Giáo dục và Thể thao, trong khi
quản lý văn bằng chứng chỉ là Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia
116
Lào... Cơ quan ở địa phương không có thẩm quyền quản lý chương trình và
văn bằng, chứng chỉ.
Hai là, trao quyền, phân cấp quản lý đối với các cơ sở ĐTBD CBCC
không nhất quán theo chức năng, nhiệm vụ của cơ quan. Ví dụ, quản lý tổ
chức bộ máy của các trường chính trị và hành chính tỉnh, thủ đô là Học viện
Chính trị và Hành chính quốc gia Lào, trong khi quản lý tổ chức bộ máy của
Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào là Bộ Chính trị. Như vậy,
quản lý tổ chức bộ máy phân cấp từ cơ quan của Đảng (Bộ Chính trị) sang cơ
sở ĐTBD CBCC (Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào).
Một số tồn tại trong vấn đề phân cấp quản lý các cơ sở ĐTBD CBCC ở
CHDCND Lào xuất phát từ nhiều nguyên nhân như yếu tố truyền thống, thể
chế chính trị... nhưng điều quan trọng là ở ở CHDCND Lào không có nhiều
cơ sở ĐTBD CBCC, không đa dạng về chương trình ĐTBD CBCC, khối
lượng công việc cũng mức độ nên sự phân cấp quản lý là chưa bức thiết, chủ
yếu là phân công nhiệm vụ giữa các cơ quan.
3.3.2.3. Về phân cấp quản lý đội ngũ giảng viên đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức
Cơ quan quản lý đội ngũ giảng viên chưa thực sự được trao quyền chủ
động trong tác nhân sự, nhất là cơ quan quản lý ở địa phương. Ở trung ương,
cơ quan quản lý giảng viên là Ban Tổ chức Trung ương, nhưng việc tuyển
dụng, sử dụng giảng viên được trao quyền cho Học viện Chính trị và Hành
chính quốc gia Lào. Trong khi đó, trường chính trị và hành chính tỉnh là đơn
vị sử dụng giảng viên nhưng không được tham gia vào quy trình tuyển dụng
giảng viên của nhà trường, các trường Trường chính trị và hành chính tỉnh
hầu như không tham gia vào khâu tuyển dụng giảng viên, mà do Tỉnh uỷ
tuyển dụng và phân công về trường. Điều này gây khó khăn cho việc lựa chọn
và sử dụng giảng viên của nhà trường.
Chất lượng đội ngũ giảng viên của các trường chính trị và hành chính
tỉnh còn hạn chế. Đội ngũ giảng viên của các trường còn yếu về chuyên môn,
117
năng lực giảng dạy: Chưa được chuẩn hóa so với yêu cầu; trình độ chuyên
môn, lý luận chính trị, trình độ pháp luật, kỹ năng quản lý nhà nước còn hạn
chế. Hơn nữa, nhiều người còn hạn chế về chuyên môn, khả năng sự phạm, ít
hiểu biết về thực tiễn công tác của CBCC.
Như vậy, có thể thấy rằng, Bộ Nội vụ và Sở Nội vụ các tỉnh là cơ quan
quản lý nhà nước về CBCC, viên chức nhưng các cơ quan này hầu như không
tham gia quản lý đội ngũ giảng viên của Học viện Chính trị và Hành chính
quốc gia Lào và các Trường chính trị và hành chính cấp tỉnh.
Phân cấp quản lý giảng viên ở các Trường chính trị và hành chính cấp
tỉnh như trên là do một số nguyên nhân:
Một là, do lãnh đạo cấp tỉnh chưa nhận thức đầy đủ về vấn đề phân cấp
quản lý CBCC nên các hoạt động quản lý CBCC (bao gồm tuyển dụng, sử
dụng, bố trí, luân chuyển, bổ nhiệm, thăng hạng, hưu trí...) được tập trung về
tỉnh uỷ mà không phân cấp cho các cơ quan.
Hai là, công tác ĐTBD đối với giảng viên chưa được quan tâm nên
chưa có các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên của
Trường chính trị và hành chính cấp tỉnh.
Ba là, nguồn kinh phí của các địa phương còn hạn chế nên không đủ
điều kiện để thực hiện các biện pháp phân công, phân cấp quản lý đội ngũ
giảng viên của các Trường chính trị và hành chính cấp tỉnh.
3.3.2.4. Về phân cấp quản lý ngân sách tài chính cho hoạt động đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Thứ nhất, chi NSNN cho ĐTBD CBCC chưa có sự gắn kết chặt chẽ với
thực hiện các mục tiêu cải cách hành chính nên lựa chọn ưu tiên phân bổ và
sử dụng NSNN chi cho ĐTBD CBCC hiệu quả chưa cao. Nguyên nhân của
hạn chế này là do dự toán chi NSNN cho ĐTBD CBCC mới chỉ xây dựng cho
từng năm, chưa xây dựng được kế hoạch ngân sách trung hạn của ĐTBD
CBCC trong khi kế hoạch phát triển cán bộ trong thời kỳ 5 năm nên có sự
118
tách rời giữa lập kế hoạch ngân sách hàng năm với kế hoạch phát triển, chưa
dự toán đấy đủ các nguồn ngoài NSNN có thể huy động vào ĐTBD CBCC
trong điều kiện thực hiện cải cách hành chính. Vì vậy, ưu tiên phân bổ và sử
dụng NSNN chi cho ĐTBD CBCC còn mang tính ngắn hạn, tính trung hạn và
dài hạn còn hạn chế. Cũng do đó, chi cho ĐTBD CBCC còn dàn trải, nhiều
mục tiêu ưu tiên được đặt ra nhưng không đủ ngân sách để thực hiện, gây lãng
phí và sử dụng kém hiệu quả các nguồn tài chính đầu tư cho ĐTBD CBCC.
Thứ hai, cơ chế phân cấp quản lý NSNN cho ĐTBD CBCC các tỉnh,
thủ đô không thống nhất, nên nhiều cơ quan quản lý cán bộ địa phương không
tổng hợp được ngân sách ĐTBD CBCC trên địa bàn. Hầu hết các cơ sở
ĐTBD CBCC các địa phương chỉ được thông báo kinh phí chi sự nghiệp mà
không được thông báo kinh phí chi đầu tư xây dựng cơ bản cho ĐTBD CBCC
địa phương. Điều này gây khó khăn cho các cơ sở ĐTBD CBCC trong việc
theo dõi tình hình sử dụng ngân sách trên địa bàn và tổng hợp báo cáo.
Thứ ba, phân bổ dự toán chi NSNN cho ĐTBD CBCC chưa đáp ứng
được yêu cầu thực hiện công bằng với các lĩnh vực khác, chưa tạo ra động lực
mạnh mẽ phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các địa phương và
từng cơ sở ĐTBD CBCC. Nguyên nhân của hạn chế này chính là những bất
cập của hệ thống định mức phân bổ dự toán chi NSNN cho ĐTBD CBCC.
Phân bổ dự toán chi NSNN chi thường xuyên ĐTBD CBCC cho các
tỉnh, thủ đô theo số lượng CBCC không có tác dụng tạo động lực cho người
học. Bởi vì, các địa phương có tỷ lệ CBCC khác nhau. Hệ số định mức phân
bổ dự toán NSNN chi thường xuyên ĐTBD CBCC ưu tiên theo vùng còn sự
chênh lệch khá lớn giữa các địa phương.
Phân bổ dự toán NSNN chi đầu tư ĐTBD CBCC cho các địa phương
chưa có định mức cụ thể nên chưa phát huy được quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của các địa phương trong lựa chọn ưu tiên phân bổ và sử dụng nguồn
119
NSNN kết hợp với các nguồn tài chính ngoài NSNN để đầu tư chuẩn hóa các
trang thiết bị và cơ sở vật chất trong hoạt động ĐTBD CBCC.
Thứ tư, công tác tổ chức chấp hành NSNN còn bất cập.
Quy trình phân bổ và cấp phát ngân sách ĐTBD CBCC còn rất nhiều
thủ tục, luân chuyển qua nhiều công đoạn, quá nhiều cấp quản lý, qua nhiều
khâu kiểm tra giám sát, nhiều công việc còn bị trùng lặp… đã ảnh hưởng đến
sự phân bổ ngân sách và tính kịp thời trong việc sử dụng kinh phí ở cơ sở
ĐTBD CBCC. Quy trình này cũng hạn chế tính chủ động trong sử dụng kinh
phí ngân sách đồng thời không phát huy được tính tự chịu trách nhiệm trong
quyết định chi tiêu của cơ sở ĐTBD CBCC trong sử dụng NSNN.
Theo Luật NSNN thì ngân sách cho ĐTBD CBCC ở địa phương do cấp
tỉnh, thủ đô đảm nhiệm chi, do đó sở ĐTBD CBCC không được chủ động
điều hành toàn bộ ngân sách cho phù hợp với tiến độ các công việc của ngành
trên địa bàn tỉnh, thủ đô.
Đối với việc chuyển hình thức cấp phát bằng hạn mức kinh phí sang
phương thức rút dự toán ngân sách tại Kho bạc Nhà nước thì hiện nay, ở
nhiều Kho bạc, do chưa bố trí đủ lực lượng phục vụ, cán bộ trực tiếp chưa
nắm vững các chế độ, chính sách có liên quan nên khâu thanh toán rất chậm
trễ, đơn vị phải đi lại nhiều lần, sao chụp cung cấp tài liệu gây lãng phí. Hiệu
quả công việc kiểm soát chi của Kho bạc Nhà nước còn khá hạn chế, ảnh
hưởng không nhỏ đến việc quyết toán và xét duyệt quyết toán của cơ quan tài
chính, cơ quan chủ quản cấp trên. Nhiều chế độ, mức chi ngân sách chưa có
quy định hoặc qua bất hợp lý, chưa được bổ sung, sửa đổi nên gây khó khăn
cho đơn vị, cho Kho bạc Nhà nước khi tìm kiếm căn cứ chi tiêu và kiểm soát.
Về hồ sơ, thủ tục rút dự toán tại Kho bạc Nhà nước: trong khi giao
quyết định giao dự toán NSNN đã chi tiết đến từng nhóm, mục (chia ra từng
quý), không ít Kho bạc Nhà nước tỉnh vẫn đòi hỏi các đơn vị phải lập dự toán
năm chi tiết đến từng khoản mục, tiểu mục (gửi cơ quan tài chính, chủ quan
120
cấp trên duyệt) và còn buộc các đơn vị phải rút dự toán trong năm theo đúng
mục đã dự toán đó. Một số Kho bạc yêu cầu sử dụng giấy rút tên dự toán theo
mẫu in sẵn, chưa chấp nhận giấy rút dự toán do đơn vị cấp trên lập.
Thứ năm, cơ chế quyết toán và thực hiện NSNN chưa phù hợp.
Việc quy định cơ quan tài chính phải duyệt quyết toán của đơn vị sử
dụng ngân sách là không phù hợp với khả năng của cơ quan tài chính. Vì vậy
theo quy định sau 1 tháng nhận báo cáo quyết toán của đơn vị sử dụng ngân
sách, cơ quan tài chính phải ra thông báo duyệt quyết toán của đơn vị. Nhưng
với số lượng các đơn vị sử dụng ngân sách rất lớn, thời gian duyệt quyết toán
bị hạn chế, dẫn đên kết quả là chất lượng công tác duyệt quyết toán không
được đảm bảo, công việc này trở nên hình thức. Hơn nữa, do quy định như
vậy nên dẫn đến việc cơ quan tài chính trở thành một bên cùng chịu trách
nhiệm trong chi tiêu tại đơn vị, dẫn tới ý thức tự chịu trách nhiệm trong chi
tiêu đơn vị chưa cao. Việc quyết toán kinh phí đã sử dụng chưa gắn kết với
kết quả thực hiện những mục tiêu của công việc đã được vạch ra và bố trí
kinh phí để thực hiện.
Do các địa phương tự phân bổ và cấp kinh phí cho các dự án nên sự chỉ
đạo của các cơ quan quản lý chương trình ở trung ương chưa phát huy được
hiệu lực. Việc chấp hành chế độ báo cáo của các địa phương đối với cơ quan
chủ quản không nghiêm nên rất khó tổng hợp, đánh giá việc thực hiện nhiệm
vụ của từng địa phương. Mặt khác, kinh phí được giao tổng chỉ tiêu cả năm
cho tất cả các nhiệm vụ trên địa bàn tỉnh, thủ đô nên việc phân bổ cho các
ngành ở địa phương để triển khai thực hiện rất chậm, không đảm bảo tiến độ
hoàn thành các nhiệm vụ đã đề ra. Việc phân bổ kinh phí tại các địa phương
còn phân tán, dàn trải, thiếu tập trung, dẫn đến tình trạng nhiều công việc dở
dang, không hoàn thành đúng tiến độ.
Những hạn chế trên là do các quy định của pháp luật về NSNN đối với
các hoạt động ĐTBD CBCC chưa được hoàn thiện nên cơ sở pháp lý về phân
121
công, phân cấp tài chính chưa đầy đủ, đồng bộ. Mặt khác do năng lực của
công chức lập dự toán NSNN, quản lý tài chính còn hạn chế nên ảnh hưởng
không nhỏ đến chất lượng các kế hoạch, dự toán hằng năm và quá trình triển
khai các kế hoạch, dự toán này.
3.3.2.5. Về phân cấp quản lý văn bằng, chứng chỉ
Do tập trung quản lý nên việc cấp phát văn bằng, chứng chỉ đôi khi
chưa kịp thời, còn chậm trễ. Một hạn chế khác, đó là Học viện Chính trị và
Hành chính quốc gia Lào là đơn vị sự nghiệp nhưng thực hiện chức năng quản
lý đối với văn bằng, chứng chỉ nên đôi khi hiệu lực, hiệu quả không cao. Tình
trạng đó là do thể chế chính trị của CHDCND Lào.
3.3.2.6. Về phân cấp kiểm tra, thanh tra đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức
Việc phân cấp kiểm tra, thanh tra ĐTBD CBCC cũng chưa thực sự phù
hợp, bởi Bộ Giáo dục và Thể thao không phải là cơ quan chuyên môn, trong
khi Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào lại không phải là cơ quan
quản lý nhà nước. Do vậy, công tác kiểm tra, thanh tra của 2 cơ quan này
chưa thực sự hiệu quả.
Kiểm tra, thanh tra ĐTBD CBCC đôi khi chưa chủ động, còn bị động
và phụ thuộc vào đơn thư, khiếu nại tố cáo nên kết quả kiểm tra, thanh tra
ĐTBD CBCC thời gian qua chưa phản ánh đúng tình hình.
122
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Việc phân cấp quản lý ĐTBD CBCC là một bộ phận nằm trong chương
trình cảicách hành chính. Phân cấp quản lý ĐTBD CBCC chỉ có tác dụng
thực sự khi trao quyền quyết định cho địa phương, cho các trường. Sẽ khó tìm
thấy sự phân cấp quản lý ĐTBD CBCC thống nhất cho các địa phương, vì
mỗi địa phương đều có những điều kiện cụ thể khác nhau. Điều quan trọng là
cần tìm cho ra những điểm chung để quy định và tùy thuộc vào đặc điểm
riêng mà có những hướng dẫn cụ thể cho từng địa phương.Phân cấp QLNN
vừa là nội dung vừa là phương thức để thực hiện công tác QLNN thuộc các
ngành, lĩnh vực quản lý trong đó có phân cấp quản lý ĐTBD CBCC.
Trong chương này, luận án đã hoàn thành được nhiệm vụ:
Một là, khái quát các vấn đề cơ bản về ĐTBD CBCC ở CHDCND Lào;
giới thiệu các cơ quan quản lý ĐTBD CBCC ở trung ương và địa phương của
CHDCND Lào; phân tích các nội dung liên quan đến ĐTBD CBCC của
CHDCND Lào.
Hai là, đánh giá tình hình phân cấp quản lý ĐTBD CBCC ở CHDCND
Lào trên các mặt: nội dung phân cấp quản lý chương trình ĐTBD CBCC;
phân cấp quản lý cơ sở ĐTBD CBCC; phân cấp quản lý đội ngũ giảng viên;
phân cấp quản lý ngân sách ĐTBD CBCC, phân cấp quản lý văn bằng chứng
chỉ, phân cấp kiểm tra, thanh tra ĐTBD CBCC. Trên cơ sở đó, có những nhận
định về ưu điểm, hạn chế của phân cấp quản lý trongĐTBD CBCC ở
CHDCND Lào hiện nay.
Ba là, đối với hoạt động ĐTBD CBCC có những tính chất và đặc thù so
với các hoạt động giáo dục và đào tạo, để đạt được kết quả trong phân cấp
quản lý ĐTBD CBCC đòi hỏi các cơ quan quản lý phải cố gắng làm hết trách
nhiệm, đúng thẩm quyền, tuân thủ pháp luật, vượt qua những khó khăn, thách
thức để đạt được chất lượng CBCC trong thời kỳ đổi mới và hội nhập.
123
Chương 4
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH PHÂN CẤP QUẢN
LÝ TRONG ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC Ở
CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
4.1. Phương hướng đẩy mạnh phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức
4.1.1. Phương hướng phân cấp quản lý của Đảng Nhân dân cách
mạng Lào và của Nhà nước cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
Quán triệt các quan điểm, chủ trương của Đảng về phân cấp quản lý,
CHDCND Lào đã có những giải pháp tích cực, cụ thể trong việc thực hiện
phân cấp QLNN giữa cấp trung ương và địa phương.
Việc sửa đổi luật và ban hành các nghị định về các lĩnh vực kinh tế - xã
hội đã thể hiện quyết tâm phân cấp nhiều hơn, rõ hơn các nhiệm vụ, thẩm
quyền từ Chính phủ, các bộ, ngành cho chính quyền địa phương và giữa các
cấp chính quyền địa phương trên các lĩnh vực. Quá trình thực hiện phân cấp
đã tạo dần các yếu tố, chuẩn bị cho việc phân cấp mạnh mẽ và đồng bộ cho
chính quyền địa phương trong tình hình mới.
Để tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước hiện nay, Chính phủ đã ra Nghị quyết số 19/CP
ngày 2/6/2015 về tiếp tục đẩy mạnh phân cấp QLNN giữa Chính phủ với
chính quyền tỉnh, thủ đô đã xác định mục tiêu như sau: Tiếp tục đẩy mạnh
phân cấp QLNN giữa Chính phủ và chính quyền địa phương cấp tỉnh, giữa
chính quyền địa phương các cấp nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo,
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương trên cơ sở
phân định rõ, cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mỗi cấp trong bộ
máy chính quyền nhà nước, bảo đảm sự quản lý tập trung, thống nhất và
thông suốt của Chính phủ, tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính để nâng
124
cao hiệu lực, hiệu quả QLNN phục vụ tốt hơn nhu cầu và lợi ích của nhân dân
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ở từng địa phương trong điều kiện chuyển
sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Quán triệt quan điểm quyền lực nhà nước là thống nhất, bảo đảm quản
lý thống nhất của Chính phủ về thể chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch,
thanh tra, kiểm tra; đồng thời phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của
chính quyền cấp tỉnh trong việc thực hiện các nhiệm vụ QLNN trên địa bàn
theo quy định của pháp luật.
- Tuân thủ nguyên tắc kết hợp chặt chẽ giữa quản lý theo ngành với
quản lý theo lãnh thổ, phân định rõ những nhiệm vụ QLNN của bộ, ngành với
nhiệm vụ QLNN của chính quyền cấp tỉnh đối với hoạt động kinh tế - xã hội
trên địa bàn lãnh thổ.
- Bảo đảm nguyên tắc hiệu quả, việc nào, cấp nào sát thực tế hơn giải
quyết kịp thời và phục vụ tốt hơn các yêu cầu của tổ chức và nhân dân thì
giao cho cấp đó thực hiện; phân cấp phải rõ việc, rõ địa chỉ, rõ trách nhiệm,
gắn với chức năng, nhiệm vụ của mỗi cấp.
- Phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai
đoạn, đặc thù của ngành, lĩnh vực, điều kiện và khả năng phát triển của từng
khu vực, vùng lãnh thổ, với từng loại hình đô thị, nông thôn, với xu thế hội
nhập khu vực và quốc tế.
- Phải đảm bảo tương ứng giữa nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm với
nguồn lực tài chính, tổ chức, nhân sự và các điều kiện cần thiết khắc; phải
đồng bộ, ăn khớp giữa các ngành, lĩnh vực có liên quan.
- Bảo đảm quyền và thực hiện đầy đủ trách nhiệm của HĐND, UBND
và Chủ tịch UBND tỉnh trong việc quyết định, thực hiện các nhiệm vụ được
phân cấp; chấp hành nghiêm kỷ luật, kỷ cương hành chính; đồng thời phát
huy dân chủ rộng rãi để nhân dân tham gia quản lý nhà nước.
- Phân cấp phải thể hiện sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống thể chế,
125
văn bản quy phạm pháp luật gắn với đổi mới cơ chế và đảm bảo quyền tự chủ,
tự chịu trách nhiệm của các đơn vị cơ sở.
- Đối với những vấn đề đã phân cấp, chính quyền cấp tỉnh chịu trách
nhiệm tổ chức triển khai thực hiện; các bộ, ngành Trung ương có trách nhiệm
theo dõi, hướng dẫn kiểm tra, nếu phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc trái với
quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực thì xử lý theo thẩm quyền
hoặc báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét.
Nghị định số 25/BTCTW, ngày 22/12/2014 của Ban Tổ chức Trung
ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào về định hướng, mục tiêu, các biện pháp
xây tỉnh thành khâu chiến lược, xây huyện thành khâu vững manh, xây bản
thành khâu phát triển:
- Cải cách xây dựng và nâng cao năng lực của Đảng bộ tỉnh, Đảng bộ
huyện và cở sở Đảng bản cho vững mạnh, trong sang và có khả năng chỉ đạo
cao hơn.
- Khôi phục hành chính dân chủ nhân dân ở địa phương cho vững mạnh
trên cở sở thực hiện quyền lực cũng như vai trò nhiệm vụ hành chính và quản
lý hành chính bằng luật pháp; coi trọng quyền lực nhân dân là khâu then chốt,
đảm bảo quyền dân chủ và công bằng trong xã hội.
- Phát huy quyền lực nhân đân và đáp ứng yêu cầu lợi ích của nhân dân
bằng cách tạo mọi điều kiện cho sự sống và làm ăn theo chính sách Đảng và
pháp luật của Nhà nước; xây dựng tình đoàn kết và tập hợp lại đồng bào dân
tộc, các tầng lớp cho vững chắc.
- Phát triển địa phương - các vùng miền và nông thôn có sự chuyển đổi
theo hướng từng bước giảm bớt sự trênh lệch giữa sự phát triển và lợi nhuận;
thúc đẩy sản xuất hàng hóa và dịch vụ, tạo lợi nhuận cho hộ gia đình để giảm
nghèo tiến tới mục tiêu thiên niên kỷ mới, làm cho nhân dân có đời sống từng
bước đầy đủ về vật chất và tinh thần.
126
- Thực hiện đường lối quốc phòng - an ninh toàn diện, chủ động tăng
sức khả năng chiến đấu và vững mạnh bằng bản thân mình cho lực lượng địa
phương trong sự bảo đảm tính ổn định và trật tự xã hội ở các địa phương.
4.1.2. Định hướng phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức
Việc phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC không đơn giản là giao
nhiệm vụ cho cấp dưới mà còn là giao quyền hạn với tư cách là những điều
kiện tiên quyết để cấp dưới có thể thực thi, hoàn thành nhiệm vụ. Phân cấp
cũng không chỉ là giao nhiệm vụ và quyền hạn mà còn là chỉ rõ mục tiêu phải
đạt, quy định phạm vi trách nhiệm cho cấp dưới trong việc thực hiện nhiệm
vụ để đạt được các mục tiêu. Như vậy, phân cấp là việc chuyển giao nhiệm
vụ, thẩm quyền từ cơ quan QLNN cấp trên xuống cơ quan QLNN cấp dưới để
thực thi một số nhiệm vụ nhất định nhằm đạt mục tiêu đã đặt ra. Trong phạm
vi nhiệm vụ, thẩm quyền được phân cấp, mỗi cấp quản lý có quyền chủ động,
tự chủ và tự chịu trách nhiệm đối với việc sử dụng các nguồn lực nhằm đạt
các mục tiêu trong các công việc của mình.
Việc phân cấp trước hết được gắn liền với sự phân định chức năng,
nhiệm vụ giữa các cơ quan tham gia quản lý ĐTBD CBCC. Vấn đề đặt ra
hiện nay là điều chỉnh chức năng nhiệm vụ giữa các bộ phận cấu thành hệ
thống quản lý ĐTBD CBCC; Giữa cơ quan quản lý cấp trung ương với địa
phương và cơ sở ĐTBD CBCC như thế nào để đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của
xã hội và khắc phục những mặt còn yếu kém. Đây là vấn đề lớn, khó, cần
nghiêm túc nghiên cứu, thảo luận để từng bước tìm lời giải. Một trong những
khía cạnh quan trọng của việc phân định chức năng, nhiệm vụ đối với hệ
thống quản lý ĐTBD CBCC là sự phân cấp quản lý giữa Học viện Chính trị
và Hành chính Quốc gia Lào với các tỉnh; giữa Tỉnh ủy và UBND tỉnh.
Phân cấp quản cấp quản lý ĐTBD CBCC, thực chất là sự giao quyền
hạn QLNN về ĐTBD CBCC của trung ương với địa phương, phân cấp đồng
127
thời là sự giảm bớt quản lý trực tiếp của cấp trên và kéo theo phương thức để
thực hiện việc quản lý của cấp dưới. Phân cấp quản lý hoàn toàn không có
nghĩa là buông lỏng quản lý. Khi quyền quyết định được giao cho cấp dưới
không có nghĩa là cấp trên hết trách nhiệm, quyền hạn. Thay vì trước đây, cấp
trên phải trực tiếp quản lý nội dung công việc và nắm quyền ra quyết định thì
sau phân cấp, cấp trên nắm quyền giám sát, giữ vai trò định hướng cho hoạt
động.
Mục tiêu phân cấp trong quản lý ĐTBD CBCC nhằm phân định rõ
ràng, cụ thể nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi cấp trong hệ thống
quản lý ĐTBD CBCC, phát huy tính năng động, sáng tạo, quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương trên cơ sở đảm bảo sự thống
nhất trong ĐTBD CBCC.
Việc phân cấp cần tuân thủ theo một số nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc tập trung dân chủ thể hiện việc quán triệt quyền lực tập
trung vào cơ quan quản lý nhà nước về ĐTBD CBCC cấp trung ương, đảm
bảo quản lý thống nhất về ĐTBD CBCC của Học viện Chính trị và Hành
chính Quốc gia Lào về thể chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kiểm tra
thanh tra, đồng thời phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của mỗi chính
quyền địa phương trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị là ĐTBD CBCC.
- Nguyên tắc kết hợp quản lý ngành và lãnh thổ, nguyên tắc này đòi
hỏi mọi hoạt động quản lý ĐTBD CBCC không thể tách rời sự chỉ đạo theo
ngành và lãnh thổ.
- Nguyên tắc phù hợp đòi hỏi phân cấp phải phù hợp với trình độ phát
triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn, với đặc thù của ĐTBD CBCC cũng
như phù hợp với chủ trương phân cấp của trung ương với địa phương.
- Nguyên tắc hiệu quả là nguyên tắc được quán triệt trong mọi nguyên
tắc phân cấp sao cho việc phân cấp phải đảm bảo tính hiệu quả. Theo nguyên
tắc này, việc nào, cấp nào thực hiện có hiệu quả hơn thì giao cho cấp đó. Phân
128
cấp phải rõ việc, rõ địa chỉ, rõ trách nhiệm, do đó, mỗi việc chỉ do một cấp
thực hiện, gắn với chức năng, nhiệm vụ của cấp đó.
Tuy nhiên, quy mô của việc chuyển giao này rất đa dạng, từ phân cấp
quản lý hành chính, quản lý nhân sự, quản lý chuyên môn đến quản lý tài
chính. Mặc dù về lý thuyết, phân cấp là đúng đắn và có nhiều lợi ích nhưng
trên thực tế, để thành công quá trình này lại phụ thuộc rất nhiều vào quan
điểm của các nhà quản lý, hệ thống chính trị, động lực cải cách cũng như phụ
thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, mối quan hệ trong ĐTBD CBCC.
4.2. Một số giải pháp đẩy mạnh phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức
4.2.1. Phân công lại thẩm quyền quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức
Do đặc thù thể chế chính trị, ở CHDCND Lào không chỉ có Nhà nước,
mà Đảng NDCM Lào cũng tham gia vào hoạt động ĐTBD CBCC. Do vậy,
cần có sự phân định hoạt động ĐTBD CBCC giữa Đảng và Nhà nước, giữa
trung ương và địa phương. Hiện nay ở CHDCND Lào có rất nhiều chủ thể
cùng tham gia công tác quản lý ĐTBD CBCC. Thực hiện phân cấp quản lý
trong ĐTBD CBCC thì cần thu gọn đầu mối, giảm số lượng chủ thể tham gia
quản lý trong ĐTBD CBCC.
Một là, phân định lại thẩm quyền quản lýgiữa cơ quan của Đảng
NDCM Lào và cơ quan của Nhà nước CHDCND Lào trong quản lý ĐTBD
CBCC. Theo đó, Đảng NDCM Lào sẽ thực hiện các công việc sau: Quy định
ĐTBD CBCC; Lãnh đạo việc xây dựng, thẩm định và ban hành nội dung
chương trình ĐTBD CBCC; Chỉ đạo việc tổ chức ĐTBD CBCC; Trực tiếp
quản lý cơ sở ĐTBD CBCC và đội ngũ giảng viên của các cơ sở ĐTBD
CBCC.
Nhà nước CHDCND Lào sẽ thực hiện các công việc sau: Xây dựng và
ban hành kế hoạch triển khai quy định ĐTBD CBCC; Tổ chức thực hiện
129
ĐTBD CBCC; Cấp kinh phí cho hoạt động ĐTBD CBCC và hoạt động của
các cơ sở ĐTBD CBCC.
Hai là, phân định thẩm quyền quản lý giữa cơ quan trung ương và cơ
quan địa phương trong quản lý ĐTBD CBCC. Theo đó, điều chỉnh chức năng,
nhiệm vụ của cơ quan trung ương và cơ quan địa phương cấp tỉnh cho phù
hợp với yêu cầu quản lý ĐTBD CBCC trong tình hình mới.
Đối với các cơ quan trung ương, tập trung thực hiện chức năng xây
dựng chính sách, xác lập những chế định pháp lý và cơ chế cho việc vận hành
có hiệu quả việc quản lý ĐTBD CBCC; ban hành thể chế quản lý vĩ mô đối
với công tác quản lý ĐTBD CBCC; chỉ đạo kiểm tra thực hiện các nội dung
về ĐTBD CBCC.
Đối với các cơ quan địa phương, xác định rõ vai trò, chức năng và trách
nhiệm của Tỉnh ủy và UBND cấp tỉnh trong quản lý ĐTBD CBCC trên cơ sở
pháp luật và phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho cơ quan quản lý, đơn vị sử
dụng CBCC quyết định các vấn đề liên quan đến hoạt động ĐTBD CBCC cho
cơ quan, đơn vị. Bảo đảm cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong tổ chức
ĐTBD CBCC cho Trường chính trị và hành chính tỉnh.
Ba là, phân định thẩm quyền quản lý giữa các cơ quan trung ương
trong quản lý ĐTBD CBCC. Cần có sự thống nhất giữa cơ quan QLNN về
CBCC với cơ quan QLNN về giáo dục và đào tạo và cơ quan thực hiện chức
năng ĐTBD CBCC.
Bộ Nội vụ là cơ quan QLNN về CBCC, về hoạt động ĐTBD CBCC;
còn Bộ Giáo dục và Thể thao là cơ quan QLNN về giáo dục và đào tạo; Học
viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào là cơ quan thực hiện ĐTBD
CBCC. Theo đó, việc ký ban hành các chương trình ĐTBD CBCC sẽ được
chuyển từ Bộ Giáo dục và Thể thao về Bộ Nội vụ; việc ban hành chức năng,
nhiệm vụ của các trường chính trị và hành chính tỉnh chuyển từ Học viện
130
Chính trị và Hành chính quốc gia Lào về Ban Bí thư Trung ương Đảng hoặc
Bộ Nội vụ.
Trên cơ sở phân định cụ thể chức năng, nhiệm vụ giữa Đảng NDCM
Lào và Nhà nước CHDCND Lào, giữa cơ quan trung ương và cơ quan địa
phương, giữa các cơ quan trong ương với nhau trong quản lý ĐTBD CBCC,
có thể xác định lại nhiệm vụ của các chủ thể tham gia quản lý trong ĐTBD
CBCC như sau:
- Đối với Chính phủ.
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về CBCC, trong đó có hoạt
động ĐTBD.
- Đối với Bộ Giáo dục và Thể thao.
Bộ Giáo dục và Thể thao không tham gia vào hoạt động ĐTBD CBCC,
do vậy sẽ không ban hành chương trình ĐTBD CBCC.
- Đối với Bộ Nội vụ.
Bộ Nội vụ thực hiện chức năng QLNN về CBCC, viên chức nhà nước;
thống nhất quản lý về tổ chức ĐTBD CBCC, các chức danh công chức hành
chính các cấp. Do đó, Bộ Nội vụ sẽ ban hành và thống nhất quản lý các
chương trình ĐTBD CBCC. Đi cùng với việc thống nhất quản lý các chương
trình ĐTBD CBCC thì Bộ nội vụ sẽ thống nhất quản lý văn bằng, chứng chỉ
các chương trình ĐTBD CBCC.
- Đối với các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.
Thực hiện nhiệm vụ xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế
hoạch ĐTBD CBCC thuộc phạm vị quản lý.
- Đối với Bộ Tài chính.
Cân đối, bố trí kinh phí ĐTBD hàng năm, trung hạn, dài hạn, trong
nước và ngoài nước trình cấp có thẩm quyền phê duyệt; hướng dẫn, kiểm tra
việc quản lý, sử dụng kinh phí ĐTBD.
- Đối với Ban Tổ chức Trung ương Đảng NDCM Lào.
131
Quy định chế độ học tập của CBCC và nội dung ĐTBD CBCC.
- Đối với Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào.
Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào không chỉ là cơ sở
ĐTBD CBCC cấp quốc gia của Lào, mà còn là cơ quan duy nhất xây dựng
các chương trình ĐTBD CBCC của Lào, biên soạn giáo trình, tài liệu
ĐTBD CBCC.
Mặc dù Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào là cơ quan tương
đương cấp bộ của Chính phủ, tuy nhiên Học viện Chính trị và Hành chính Quốc
gia Lào không phải là cơ quan QLNN. Vì thế sẽ không thực hiện chức năng
QLNN. Việc ban hành và thống nhất quản lý chương trình ĐTBD CBCC, văn
bằng chứng chỉ sẽ thuộc thẩm quyền của cơ quan QLNN (Bộ Nội vụ).
Thêm nữa, Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào sẽ không
ban hành quy định chức năng, nhiệm vụ của các Trường chính trị và hành
chính cấp tỉnh. Việc quy định chức năng, nhiệm vụ của các trường chính trị
và hành chính cấp tỉnh và ban hành văn bản quy định sẽ do Ban Bí thư Trung
ương thực hiện, vì các Trường chính trị và hành chính cấp tỉnh là đơn vị trực
thuộc tỉnh uỷ.
- Đối với Tỉnh uỷ các tỉnh.
Xây dựng, ban hành quy hoạch, kế hoạch ĐTBD CBCC và quản lý
Trường chính trị và hành chính tỉnh và đội ngũ nhân sự các Trường chính trị
và hành chính tỉnh.
- Đối với Ban Tổ chức Tỉnh ủy.
Ban Tổ chức Tỉnh ủy là cơ quan giúp việc Tỉnh ủy trong việc quản lý
Trường chính trị và hành chính tỉnh; tuyển dụng, quản lý đội ngũ nhân sự các
Trường chính trị và hành chính tỉnh.
- Đối với Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.
Quản lý cơ sở vật chất của Trường chính trị và hành chính tỉnh và đội
ngũ giảng viên của Trường chính trị và hành chính tỉnh.
132
- Đối với các Sở Nội vụ.
Sở Nội vụlà cơ quan tham mưu QLNN về ĐTBD CBCC của
tỉnh,UBND tỉnh quyết định công tác ĐTBD CBCC từ việc xây dựng kế
hoạch, tổ chức thực hiện kế hoạch, thanh tra, kiểm tra.Sở Nội vụ cần chủ trì,
phối hợp với các sở, ngành liên quan như Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Sở Tài chính,
Trường chính trị và hành chính tỉnh… xây dựng cơ chế phối hợp từ việc xây
dựng kế hoạch, chiêu sinh, mở lớp đến việc quản lý, đánh giá các khóa ĐTBD
CBCC. Trong quá trình ĐTBD CBCC, việc xây dựng kế hoạch cần phải cập
nhật những kiến thức; về mục tiêu ĐTBD gắn với tiến trình cải cách hành
chính; về hệ thống các cơ sở ĐTBD CBCC và quy trình ĐTBD…
- Đối với các trường chính trị và hành chính cấp tỉnh
Các trường chính trị và hành chính cấp tỉnh là cơ sở ĐTBD CBCC của
địa phương, trực tiếp thực hiện các chương trình ĐTBD CBCC theo phân cấp.
Trường chính trị và hành chính cấp tỉnh thực hiện chương trình nào thì nên
cấp bằng (hoặc chứng chỉ) của chương trình đó.
4.2.2. Nâng cao nhận thức về phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức
Muốn có chủ trương và hành động đúng thì trước hết phải nhận thức
đúng, nhất là những người lãnh đạo, quản lý. Khi nhận thức đúng, những
người lãnh đạo, quản lýsẽ tích cực học tập, trau dồi năng lực quản lý, điều
hành, đồng thời sẽ tạo điều kiện để thúc đẩy sự phân cấp trong ĐTBD CBCC.
Cần nhận thức rõ vai trò của phân cấp quản lý là rất quan trọng, từ đó
nâng cao nhận thức trong toàn hệ thống chính trị, nhất là là các cơ quan quản
lý; các cơ quan cử CBCC đi ĐTBD; các cơ sở ĐTBD CBCC về trọng trách
ĐTBD CBCC đáp ứng đòi hỏi phát triển nền công vụ trong giai đoạn hiện nay.
Từ nhận thức đúng đắn, đầy đủ sẽ là nền tảng cho các hành động phù hợp với
thực tiễn. Vì vậy, trước hết cần nâng cao nhận thức về phân cấp quản lý ĐTBD
CBCC những người có thẩm quyền lãnh đạo, quản lý về ĐTBD CBCC.
133
Thực tế thời gian qua cho thấy nhận thức về công tác quản lý ĐTBD
đối với CBCC của cấp ủy và cơ quan quản lý ở nhiều địa phương còn chưa
đúng mức. Nhận thức về trách nhiệm, nghĩa vụ trong việc học tập, nâng cao
trình độ của nhiều CBCC chưa đúng. Vì vậy sự phân cấp trong quản lý ĐTBD
đối với CBCC còn hạn chế, thiếu sự phân quyền trong ĐTBD đối với CBCC.
Để khắc phục điều này cần tiếp tục quán triệt sâu sắc tư tưởng chỉ đạo của
Đảng về CBCC và công tác ĐTBD CBCC, để từ đó có sự nhận thức đúng đắn
về việc phân cấp quản lý trong ĐTBD đối với CBCC.
Nếu phân cấp hợp lý, khoa học thì điều hành thông suốt, công việc có
kết quả, trách nhiệm sẽ rõ ràng. Để phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC hợp
lý, khoa học thì nguyên tắc cao nhất là cơ quan nào chịu trách nhiệm chính
trong việc quản lý ĐTBD CBCC thì được ủy quyền phân cấp mạnh. Các cơ
sở ĐTBD CBCC là những đơn vị chịu trách nhiệm chính về ĐTBD CBCC thì
phải được đảm bảo tương ứng giữa nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm,
nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất, nhân sự và các điều kiện cần thiết khác để
thực hiện nhiệm vụ được giao. Phân cấp phải gắn liền với ủy quyền hợp lý.
Muốn vậy, cần:
Một là, cần nhận thức đúng đắn của các cấp, các ngành, của đội ngũ
CBCC về công tác ĐTBD CBCC. Đó là hoạt động nhằm mục đích trang bị
kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ, phương pháp làm việc, kinh nghiệm trong quản
lý, điều hành và thực thi nhiệm vụ của CBCC, nghĩa là học để làm việc.
Chính vì thế việc phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC là nhằm trao quyền
cho cấp dưới, phân công công việc cho cấp dưới và các cơ quan liên quan để
cùng phối hợp thực hiện nhiệm vụ ĐTBD CBCC. Mục đích cuối cùng là hiệu
quả ĐTBD CBCC, là nâng cao chất lượng, năng lực làm việc của đội ngũ
CBCC. Phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC là nhằm phân chia trách nhiệm.
Việc ĐTBD CBCC là công việc của toàn hệ thống chính trị, nên các cơ quan
phải cùng chung trách nhiệm quản lý.
134
Hai là, cần tư duy lại cơ chế phân cấp trong ĐTBD CBCC. Xác định cụ
thể vai trò của các cơ sở ĐTBD CBCC trong việc phát triển năng lực cho
CBCC. Cần phát huy vai trò của các Trường chính trị và hành chính cấp tỉnh
trong ĐTBD về kiến thức, kỹ năng lãnh đạo, quản lý. Việc phân cấp quản lý
trong ĐTBD CBCC ở CHDCND Lào hiện nay theo cơ chế “chiều ngang”, mà
ít theo “chiều dọc”, nghĩa là các nội dung quản lý trong ĐTBD CBCC được
phân chia cho các cơ quan ở trung ương mà ít có sự chia sẻ với cơ quan địa
phương. Do thể chế chính trị ở CHDCND Lào khác với nhiều nước trên thế
giới là có một đảng lãnh đạo là Đảng NDCM Lào, không thực hiện tam quyền
phân lập đối với các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, do vậy việc quản
lý trong ĐTBD CBCC có sự tham gia của Đảng NDCM Lào. Tuy nhiên, chưa
có văn bản chính thức nào quy định việc phân chia quản lý đối với ĐTBD
CBCC giữa Đảng NDCM Lào và Nhà nước CHDCN Lào; giữa các cơ quan
trung ương với các cơ quan địa phương. Chính vì thế cần có cơ chế phân cấp.
Ba là, cần phải thống nhất và phân công rõ ràng, có quy chế phối hợp
giữa cơ quan tham mưu, tư vấn cho Chính phủ về quản lý ĐTBD CBCC là Bộ
Nội vụ với cơ quan thực hiện ĐTBD CBCC cấp trung ương là Học viện
Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào. Nếu không có sự thống nhất giữa một
bên là cơ quan QLNN về ĐTBD CBCC (Bộ Nội vụ) với một bên là cơ sở
ĐTBD CBCC cao cấp (Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào) thì
rất khó có thể thực hiện được sự thống nhất về nội dung, phương pháp ĐTBD,
cũng như hướng dẫn các cơ sở ĐTBD CBCC thực hiện. Vì Học viện Chính trị
và Hành chính Quốc gia Lào sẽ trực tiếp hưỡng dẫn hệ thống các Trường
chính trị và hành chính cấp tỉnh. Các Trường chính trị và hành chính cấp tỉnh
do địa phương quản lý nhưng lại do Học viện Chính trị và Hành chính Quốc
gia Lào quy định chức năng, nhiệm vụ. Do đó, phân cấp quản lý ĐTBD
CBCC phải có sự thống nhất giữa các cơ quan quản lý và cơ sở ĐTBD CBCC
cao nhất.
135
Để thực hiện quản lý trong ĐTBD CBCC một cách hiệu quả cần thực
hiện đổi mới tư duy trong ĐTBD CBCC. ĐTBD là nhằm tăng cường kiến
thức, kỹ năng làm việc chứ không phải để hoàn thiện bằng cấp, chứng chỉ.
Phải tạo ra được cơ chế mới về ĐTBD CBCC bao gồm các quy định, chính
sách và các nguồn lực cho ĐTBD từ khâu chuẩn bị, thiết kế chương trình, tổ
chức ĐTBD, đánh giá cho đến sử dụng kết quả sau ĐTBD.Cần tuyên truyền
sâu rộng về vai trò của công tác ĐTBD CBCC nhằm thay đổi nhận thức của
các cấp, các ngành và bản thân CBCC về công tác ĐTBD CBCC. Đây là hoạt
động đầu tư cho tương lai, kết quả thu về là rất lớn nhưng không thể định
lượng, vì vậy nếu không nhận thức đúng đắn và đầy đủ về hoạt động ĐTBD
CBCC khó đạt được kết quả như mong muốn.
Chính vì thế cần nâng cao nhận thức về phân cấp quản lý trong ĐTBD
CBCC ở CHDCND Lào để xác định đúng chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ
quan tham gia vào quản lý ĐTBD CBCC, từ đó mới có thể phân cấp cho cơ
quan cấp dưới.
4.2.3. Hoàn thiện thể chế về phân cấp quản lý trong đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức
Hoàn thiện các văn bản quản lý về ĐTBD CBCC làm cơ sở cho việc tổ
chức triển khai kế hoạch ĐTBD, như tiêu chuẩn cụ thể cho từng chức danh
CBCC; danh mục kỹ năng cần thiết đối với CBCC; quy định cụ thể về giảng
viên và học viên; hệ thống chương trình, tài liệu ĐTBD CBCC. Xây dựng và
hoàn thiện chế độ, chính sách đối với công tác ĐTBD CBCC; xây dựng quy
định về ĐTBD...
Cần rà soát và tập hợp các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý và
phân cấp quản lý ĐTBD CBCC. Xử lý, xoá bỏ những nội dung chồng chéo,
mâu thuẫn, những nội dung lạc hậu, không phù hợptrong hệ thống văn bản
pháp luật để ban hành văn bản mới thống nhất, dễ hiểu và dễ áp dụng.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật để tạo ra một
136
khung pháp lý đầy đủ, hợp lý cho sự vận hành của các cơ quan thực hiện chức
năng ĐTBD CBCC và quản lý ĐTBD CBCC. Trong việc thực hiện cần chú
trọng một số vấn đề sau:
Thứ nhất, nghiên cứu khắc phục việc ban hành các văn bản không đúng
thẩm quyền, văn bản chồng chéo từ đó tạo lập một hành lang pháp lý thống
nhất, đồng bộ và thông suốt đối với hoạt động ĐTBD CBCC. Trên cơ sở đó,
cần nghiên cứu loại bỏ những văn bản không mang tính quy phạm pháp luật
nhưng hiện đang điều chỉnh hoạt động ĐTBD CBCC và thay thế bằng các văn
bản quy phạm pháp luật. Chỉ khi nào thực hiện được việc này thì mới hạn chế
những bất cập, chồng chéo và mâu thuẫn của hệ thống văn bản về ĐTBD
CBCC hiện nay.
Thứ hai, tạo lập một cơ chế mới đảm bảo tinh thần đổi mới quản lý và
tổ chức hoạt động ĐTBD CBCC. Cụ thể là tiến hành thể chế hóa chế độ
ĐTBD CBCC gắn chế độ bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch với yêu cầu vị trí
việc làm, yêu cầu năng lực.
Thứ ba, hoàn thiện tiêu chuẩn công chức theo hướng chú trọng năng
lực. Hoàn thiện tiêu chuẩn công chức nhất là hệ thống tiêu chuẩn cụ thể trên
cơ sở nhấn mạnh tiêu chuẩn năng lực của CBCC. Cần thiết phải tiến hành mô
tả công việc cho tất cả các vị trí việc làm trong từng cơ quan đơn vị. Mỗi vị trí
việc làm khi mô tả phải xác định chức trách, các nhiệm vụ cụ thể và ngạch
công chức tương ứng. Kết cấu tiêu chuẩn ngạch công chức sẽ gồm: tiêu chuẩn
về phẩm chất, tiêu chuẩn về trình độ và tiêu chuẩn về năng lực.
Trong tiêu chuẩn ngạch công chức phải có và nhất thiết phải có nội
dung liên quan đến các nhóm năng lực để thực thi nhiệm vụ khi công chức
được bố trí vào một vị trí việc làm ứng với ngạch đó.
Đối với các tiêu chuẩn chức vụ quản lý phải bổ sung thêm và quy định
rõ, cụ thể các nội dung liên quan đến tiêu chuẩn năng lực của từng vị trí quản
lý. Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn công chức cần có những bước đi phù hợp,
137
cân nhắc đến yếu tố lịch sử hình thành đội ngũ công chức và cần tiến hành
đồng thời với các giải pháp đồng bộ khác như xây dựng các vị trí việc làm,
đổi mới công tác quản lý biên chế, đổi mới nội dung và hình thức tuyển dụng,
đánh giá công chức và đổi mới công tác ĐTBD CBCC theo hướng chú trọng
yếu tố năng lực, trọng dụng, đãi ngộ xứng đáng cho những người có tài, tâm
huyết với nền hành chính và mong muốn phục vụ nhân dân.
Để đẩy mạnh phân cấp QLNN về công tác ĐTBD CBCCthì đội ngũ
những người làm công tác quản lý ĐTBD CBCCphải nắm vững những chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác ĐTBD CBCC; nắm được
các bước trong quy trình ĐTBD và có những kiến thức, kỹ năng cần thiết để
tổ chức công tác ĐTBD CBCC một cách bài bản, khoa học và hiệu quả.
Hoàn thiện thể chế ĐTBD CBCC cầnthông qua kế hoạch về ĐTBD
CBCC. Kế hoạch đó phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Kế hoạch ĐTBD CBCC phải dựa trên yêu cầu chính trị, nhiệm vụ của
chính quyền địa phương để xác định nhu cầu của CBCC trong tương lai.
- Kế hoạch ĐTBD CBCC cần gắn quy hoạch về ĐTBD với sử dụng và
tạo nguồn cán bộ lâu dài.
- Kế hoạch ĐTBD CBCC phải căn cứ vào tiêu chuẩn chức danh, nhiệm
vụ theo quy định hiện hành của nhà nước. Đồng thời đảm bảo dân chủ, công
khai, tránh tình trạng bè phái, mất đoàn kết.
Thứ tư, việc phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC cần được cụ thể hoá
thành văn bản. Thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan liên quan đến
ĐTBD CBCC cần được thể hiện dưới hình thức văn bản để các cơ quan căn
cứ vào đó thực hiện. Nếu không thể chế hoá thành văn bản quy phạm pháp
luật, thì các quy định đó cần được thể hiện ở dạng quy chế phối hợp hoặc
phân công nhiệm vụ giữa các cơ quan. Với thực tế nhiều cơ quan cùng tham
gia quản lý ĐTBD CBCC, thì việc hoàn thiện thể chế về phân cấp quản lý
trong ĐTBD CBCC là rất cần thiết.
138
4.2.4. Mở rộng quyền tự chủ cho các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức
Đổi mới phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC theo hướng tăng cường
quyền tự chủ cho các cơ sở ĐTBD CBCC. Nhà trường được trao nhiều quyền
hơn trong việc quyết định những vấn đề liên quan đến hoạt động của chính
mình và phát huy tính chủ động, sáng tạo của các lực lượng trong và ngoài
nhà trường.
Để mở rộng quyềntự chủ cho các cơ sởĐTBD CBCC cần:
- Quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm quản lý
ĐTBD CBCC của các cấp.
- Khuyến khích, hỗ trợ, tạo điều kiện cho cơ sởĐTBD CBCC phát huy
vai trò chủ động trong quản trị nội bộ và hoạt động ĐTBD CBCC.
- Chuẩn bị tốt các điều kiện về con người, cụ thể là cán bộ quản lý nhà
trường, các thành viên và những người có liên quan cần được ĐTBD để có hiểu
biết và đủ năng lực thực hiện tự quản, chủ động, sáng tạo trong công việc.
- Người đứng đầu cơ sởĐTBD CBCC đóng vai trò trụ cột trong việc
triển khai phương thức quản lý mới nhưng phải huy động được sự đóng góp
trí tuệ của mọi thành viên nhà trường và phát huy tối đa sức mạnh của cơ
quan cử CBCC đi ĐTBD nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng ĐTBD trong
nhà trường.
- Xây dựng môi trường sư phạm chuẩn mực.
- Đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá ĐTBD từ việc xây dựng và triển
khai thực hiện chuẩn đánh giá, sử dụng các hình thức và phương pháp kiểm
tra đánh giá đến việc thực hiện quy trình đánh giá và xử lý kết quả kiểm tra,
đánh giá kết quả ĐTBD.
Mở rộng quyền tự chủ cho các cơ sở ĐTBD CBCC, cần chú ý các nội
dung sau:
139
- Các cơ sở ĐTBD CBCC được quyền chủ động biên soạn tài liệu, bài
giảng, chủ động xây dựng thời khóa biểu học tập, tổ chức các mô hình học tập
phù hợp với các đối tượng CBCC thuộc cơ quan, địa phương mình.
- Các cơ sở ĐTBD CBCC được quyền chủ động mời, bố trí những
giảng viên giỏi chuyên môn, giàu kinh nghiệm thực tiễn, có phương pháp sư
phạm tốt và đến từ các môi trường làm việc khác nhau tham gia giảng bài tại
các khóa ĐTBD CBCC. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi vì đối
tượng học viên là CBCC phần lớn được đào tạo cơ bản, trong đó không ít
người có trình độ đào tạo cao và kỹ năng chuyên môn sâu.
- Các cơ sở ĐTBD CBCC được quyền chủ động áp dụng các phương
pháp giảng dạy tích cực trong các lớp ĐTBD. Theo đó, các phương pháp
giảng dạy tiên tiến như thảo luận nhóm, xử lý tình huống, trò chơi, đóng
kịch... được áp dụng ngày càng phổ biến.
- Các cơ sở ĐTBD CBCC được quyền chủ động thực hiện các công
việc tổ chức lớp học như: xác định nhu cầu đào tạo, chiêu sinh học viên, tổ
chức quản lý lớp, tổ chức kiểm tra và chấm điểm kiểm tra, bài thu hoạch cuối
khóa... đã giúp nâng cao năng lực và tính chuyên nghiệp của các cơ sở
ĐTBD. Đặc biệt, việc nhiều cơ sở ĐTBD cùng được tham gia tổ chức các
chương trình phân cấp cũng tạo ra sự cạnh tranh trong cung cấp dịch vụ, góp
phần nâng cao chất lượng và hiệu quả ĐTBD.
- Các cơ sở ĐTBD CBCC được quyền cấp bằng tốt nghiệp, chứng chỉ
khóa học cho học viên đủ điều kiện khi kết thúc khóa ĐTBD CBCC.
- Các cơ sở ĐTBD CBCC được quyền chủ động trong vấn đề tài chính.
Đảm bảo kinh phí và đổi mới cơ chế tài chính trong công tác ĐTBD CBCC.
Điều chỉnh quy định về đối tượng hưởng kinh phí từ NSNN khi được ĐTBD;
sửa đổi quy định về quyền lợi của CBCC được hưởng khi được cử đi ĐTBD
cũng như trách nhiệm đền bù chi phí ĐTBD đối với CBCC. Thu hút và đa
dạng hóa nguồn kinh phí cho hoạt động ĐTBD.
140
Một khía cạnh khác của vấn đề tự chủ cần đặt ra là phải thay đổi cơ chế
phân cấp cứng nhắc hiện nay tạo điều kiện cho cạnh tranh trong công tác
ĐTBD CBCC phát triển. Trước mắt, cần trao quyền lựa chọn cơ sở ĐTBD
CBCC cho chính người thụ hưởng ĐTBD CBCC, tức là các cơ quan quản lý,
sử dụng ĐTBD CBCC.
Thực hiện cơ chế cạnh tranh ĐTBD giữa các cơ sở ĐTBD CBCC, nhất
là giữa các Trường chính trị và hành chính cấp tỉnh. Cơ chế phân cấp theo đối
tượng người học gắn với một cấp cơ sở ĐTBD CBCC như hiện nay tạo ra sức
ỳ ở các cơ sở ĐTBD CBCC. Để khắc phục tính ỳ do “độc quyền” phải thực
hiện cạnh tranh trong ĐTBD CBCC. CBCC không chỉ được ĐTBD ở hệ
thống cơ sở ĐTBD CBCC mà tiến tới bất kỳ cơ sởĐTBD nào trong hệ thống
giáo dục quốc dân có đủ khả năng đáp ứng yêu cầu phát triển năng lực cho
CBCC thì CBCC có quyền theo học. Khuyến khích các trường đại học, các
viện nghiên cứu tham gia cung ứng dịch vụ ĐTBD kỹ năng, nghiệp vụ cho
CBCC nếu đủ điều kiện. Vấn đề là để nâng cao chất lượng dịch vụ, các cơ sở
phải cạnh tranh: cạnh tranh về về chất lượng giảng viên, cạnh tranh về tổ chức
các khóa đào tạo, phương pháp giảng dạy… cuối cùng là cạnh tranh về chất
lượng và hiệu quả. Trong quá trình cạnh tranh đó, chất lượng dịch vụ sẽ được
nâng lên và giá cả sẽ hạ thấp và người được hưởng lợi cuối cùng là nền hành
chính, cơ quan sử dụng công chức và bản thân người công chức.
Cần tạo lập cơ chế trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho cơ quan,
đơn vị sử dụng và quản lý CBCC quyết định các vấn đề liên quan đến hoạt
động ĐTBD CBCC do cơ quan đơn vị quản lý và sử dụng. Hạn chế dần tình
trạng phân công, phân cấp ĐTBD CBCC mang tính khép kín như hiện nay,
nên hình thành cơ chế mở, cạnh tranh ĐTBD CBCC bằng cách thu hút một số
trường đại học công lập có năng lực tham gia ĐTBD CBCC.
Xây dựng cơ chế đề cao và khuyến khích vai trò tự học, tự ĐTBD
CBCC. Hình thành cơ chế giám sát, đánh giá hoạt động ĐTBD bởi vì càng
141
mở rộng hoạt động ĐTBD CBCC thì càng phải tăng cường các hoạt động
giám sát, kiểm tra, đánh giá để đảm bảo chất lượng và định hướng theo mục
tiêu ĐTBD CBCC.
Tuy nhiên để mở rộng quyền tự chủ cho các cơ sở ĐTBD CBCC thì
các cơ sở ĐTBD CBCC phải đảm bảo về năng lực ĐTBD. Do đó, cần nâng
cao năng lực ĐTBD của các cơ sởĐTBD CBCC để một mặt nâng cao chất
lượng ĐTBD CBCC, mặt khác tạo cơ sở vững chắc cho việcmở rộng quyền tự
chủ. Để nâng cao năng lực ĐTBD của các cơ sởĐTBD CBCC, cần:
Một là, củng cố hệ thống cơ sở ĐTBD CBCC hiện nay, đó là Học viện
Chính trị và Hành chính quốc gia Lào, các Trường chính trị và hành chính
tỉnh. Hệ thông cơ sở ĐTBDCBCC được chú trọng trang bị hiện đại và có
quyền tự chủ cao trong quản lý, tổ chức thực hiện ĐTBD. Cơ sở ĐTBDCBCC
chuyển sang chế độ hoạt động cung cấp dịch vụ công, xây dựng quan hệ cung
cầu giữa cơ sở ĐTBDCBCC với cơ quan quản lý, sử dụng CBCC.
Phương thức tổ chức ĐTBD CBCC theo tiêu chuẩn ngạch, tiêu chuẩn
cán bộ lãnh đạo, quản lý như hiện nay “gắn chặt” đối tượng học viên vào một
loại cơ sở ĐTBD CBCC nhất định. Cơ chế này hầu như đã triệt tiêu sự cạnh
tranh và nâng cao chất lượng, hiệu quả ĐTBD của các cơ sở ĐTBD CBCC.
Có 2 cách để thúc đẩy nhanh sự phát triển của các cơ sở ĐTBD CBCC.
Thứ nhất là, hoàn thiện hệ thống các cơ sở ĐTBD CBCC hiện hành; và thứ
hai là, xây dựng cơ sở ĐTBD CBCC mới. Phương án xây dựng mới là không
khả thi, trong khi đã có hệ thống cơ sở ĐTBD CBCC; phương án tối ưu là
củng cố lại các cơ sở ĐTBD CBCC hiện có. Các cơ sở ĐTBD CBCC được
chú trọng trang bị hiện đại và có quyền tự chủ cao trong quản lý, tổ chức thực
hiện ĐTBD. Các cơ sở ĐTBD CBCC chuyển sang chế độ hoạt động cung cấp
dịch vụ công, xây dựng quan hệ cung cầu giữa cơ sở đào tạo với cơ quan quản
lý, sử dụng CBCC, tạo cơ chế mở, cạnh tranh trong việc cung cấp dịch vụ
ĐTBD CBCC.
142
Hai là, đổi mới cơ chế tài chính, đầu tư các nguồn lực cho hoạt động
ĐTBD CBCC. Cơ sở ĐTBD CBCC ngày càng nâng cao quyền tự chủ gắn với
tự chịu trách nhiệm về tài chính, nghĩa là tự chủ trong việc sử dụng nguồn
NSNNcấp, tự chủ trong việc khai thác và sử dụng các nguồn thu, phát huy
tiềm năng về cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên để mở rộng quy mô và đa
dạng hóa các loại hình ĐTBD gắn với nhu cầu của xã hội.
Tự chủ về tài chính góp phần chủ động trong hoạt độngĐTBD nguồn
nhân lực công đáp ứng nhu cầu xã hội, tăng nguồn tài chính cho các cơ sở
ĐTBD CBCC. Cần tiếp tục đổi mới cơ chế phân bổ và quản lý, sử dụng kinh
phí ĐTBD phù hợp với tình hình phát triển của CBCC, đảm bảo sự chủ động
của cơ quan quản lý, đơn vị sử dụng CBCC.
Đầu tư kinh phí nhằm thực hiện nhiệm vụ ĐTBD CBCC. Nhà nước cần
hoàn thiện chế độ, chính sách hỗ trợ cho hoạt động ĐTBD CBCC. Đối với
CBCCnên có chế độ khuyến khích trong việc ĐTBD để tạo động lực cho
CBCC không ngừng học tập nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ và
năng lực công tác. Thực hiện tốt chính sách của Nhà nước về ĐTBD đối với
CBCC như: việc bồi dưỡng hàng năm là bắt buộc; CBCC khi đi ĐTBD nâng
cao trình độ sẽ được hỗ trợ kinh phí; kết quả học tập tốt có thể được xem xét
nâng lương trước thời hạn.
Những năm gần đây, CHDCND Lào đã thực hiện chính sách khuyến
khích, chế độ đãi ngộ đối với CBCC khi đi ĐTBD, chẳng hạn như: gửi CBCC
sang Việt Nam đào tạo trình độ cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ; đào tạo trung cấp lý
luận chính trị - hành chính, cao cấp lý luận chính trị - hành chính; CBCC khi
được cử đi ĐTBD chuyên môn, trình độ được giữ nguyên lương, trong thời
gian học không phải đến cơ quan làm việc, sau khi học xong được hỗ trợ một
phần kinh phí tùy theo chương trình học… Chính sách này đã động viên đội
ngũ CBCC phấn đấu học tập, đã có kết quả thực tế, đó là chất lượng của đội
143
ngũ CBCC đã được nâng lên rõ rệt. Cần tiếp tục thực hiện chính sách này, tuy
nhiên cần nghiên cứu nâng mức hỗ trợ cho phù hợp với tình hình hiện nay.
4.2.5. Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, tăng cường đầu tư cơ
sở vật chất cho các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Đây là các nguồn lực quan trọng để đẩy mạnh phân cấp quản lý trong
ĐTBD CBCC.
Một là, nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên.
Đội ngũ giảng viên có ảnh hưởng lớn đến việc nâng cao chất lượng
ĐTBD. Đội ngũ này phải bao gồm những nhà nghiên cứu có kiến thức chuyên
sâu, có bề dày kinh nghiệm, có tâm với nghề.Xây dựng đội ngũ giảng viên có
trình độ cao, giỏi lý luận, giàu kinh nghiệm thực tiễn. Liên tụccử các giảng
viên đi học tập, bồi dưỡng chuyên môn, giao lưu nghề nghiệp.
Cần tuyển chọn những người có trình độ, có chuyên môn, có đạo đức
và lòng yêu nghề tham gia vào đội ngũ giảng viên. Việc tuyển chọn càng kỹ
thì chất lượng đội ngũ giảng viên càng cao, có như vậy mới đáp ứng yêu cầu
ĐTBD CBCC hiện nay. Bên cạnh đó, cần quy định những điều kiện, tiêu
chuẩn mới đối với giảng viên làm công tác ĐTBD CBCC với định hướng,
tiêu chuẩn cao hơn và các chế độ chính sách đãi ngộ thỏa đáng nhằm thu hút
những người giỏi, có năng lực tham gia công tác ĐTBD CBCC.
Đồng thời với việc tuyển chọn người mới, cần tiến hành rà soát, đánh
giá đội ngũ giảng viên hiện có để sàng lọc những người đáp ứng đủ các tiêu
chuẩn mới và chuyển công tác những người chưa đáp ứng tiêu chuẩn. Đây là
việc làm cần thiết nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên đáp ứng yêu
cầu ĐTBD CBCC.
Có đội ngũ giảng viên, cần bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho họ, rèn
giũa họ để thực sự trở thành đội ngũ “máy cái”. Thực tế luôn vận động không
ngừng, nên kiến thức, kỹ năng thực hiện công vụ có những thay đổi nhất định
mà giảng viên cần cập nhật, bổ sung thường xuyên. Đồng thời, tiến hành bồi
144
dưỡng về phương pháp ĐTBD, nhất là phương pháp thiết kế chương trình bồi
dưỡng và sử dụng trang thiết bị hiện đại trong ĐTBD.
Chế độ đãi ngộ hợp lý là điều kiện quan trọng để đội ngũ giảng viên
không ngừng rèn luyện, học tập và tăng cường năng lực nghiên cứu, giảng
dạy. Muốn xây dựng đội ngũ giảng viên các cơ sở ĐTBD CBCC cần đáp ứng
về số lượng, bảo đảm về chất lượng. Nên có hỗ trợ cụ thể đối với những giảng
viên này khi tham gia các khóa học nâng cao trình độ nghiệp vụ; có chính
sách ưu tiên đối với những người về làm giảng viên ở các cơ sở ĐTBD
CBCC; phụ cấp, trợ cấp cho giảng viên ở cơ sở ĐTBD CBCC để họ yên tâm
công tác. Tuy nhiên, đi kèm với những chính sách ưu đãi thì cần có những
văn bản quy định tiêu chuẩn, chế độ làm việc của giảng viên của các cơ sở
ĐTBD CBCC một cách chặt chẽ.
Ngoài đội ngũ giảng viên cơ hữu, các cơ sởĐTBD CBCC cần xây dựng
đội ngũ giảng viên kiêm chức tham gia hướng dẫn các khoá ĐTBD. Ở nhiều
nước trên thế giới, các cơ sởĐTBD CBCC đóng vai trò là người tổ chức còn
giảng viên là những chuyên gia, các nhà quản lý có nhiều kinh nghiệm thực
tiễn. Trên thực tế, những người đã, đang làm và có kinh nghiệm trong việc
thực hiện những công việc đó mới biết được và chỉ dẫn cụ thể được phải làm
việc đó như thế nào và làm sao để đạt hiệu quả cao nhất. Kinh nghiệm quốc tế
chỉ ra rằng xây dựng đội ngũ giảng viên kiêm chức trên cơ sở có quy chế
giảng viên kiêm chức sẽ có được một đội ngũ giảng viên đủ về số lượng, có
bề dầy kinh nghiệm quản lý và công tác thực tiễn. Đội ngũ này phải được bồi
dưỡng về nghiệp vụ sư phạm. Cần phải nhận được rằng các cơ sở ĐTBD
CBCCC rất khác các trường đại học, cao đẳng nên không thể mời sinh viên
giỏi mới tốt nghiệp đại học về để giảng dạy, mà hãy tìm kiếm những nhà quản
lý giỏi, những công chức giỏi (về lý thuyết và thực hành) trong lĩnh vực làm
việc của họ để làm giảng viên kiêm chức.
Hai là, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho cơ sởĐTBD CBCC.
145
Hệ thống cơ sở vật chất ở đây trước hết là hệ thống phòng học và các
trang thiết bị phục vụ cho việc giảng dạy theo phương pháp hiện đại. Các cơ
sởĐTBD CBCC cần có những phòng học phù hợp cho các lớp học với số
lượng học viên không quá lớn, tạo điều kiện cho việc chia sẻ kinh nghiệm,
truyền thụ kiến thức, kỹ năng, phát triển năng lực hiệu quả.
Để đảm bảo hiệu quả hoạt động, hệ thống cơ sở vật chất và kỹ thuật có
vai trò hết sức quan trọng. Thực hiện mục tiêu này, cần tập trung vào một số
biện pháp như:
- Bảo đảm điều kiện làm việc (phòng làm việc, trang thiết bị) đúng theo
quy định của Nhà nước; thay thế kịp thời các trang thiết bị cũ, hỏng khi có
yêu cầu.
- Kịp thời sửa đổi, bổ sung những quy định bất hợp lý về quản lý tài
chính, tài sản, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Đồng thời, nghiên cứu, mở rộng
thực hiện cơ chế khoán đối với một số chế độ tài chính để bảo đảm linh hoạt
và phát huy tính chủ động của các đơn vị phục vụ.
- Nghiên cứu áp dụng hình thức ký hợp đồng thuê ngoài đối với một số
loại hình dịch vụ (như cung cấp dịch vụ ăn uống, vệ sinh) để vừa có điều kiện
giảm biên chế, tiết kiệm chi phí vừa nâng cao chất lượng phục vụ.
- Nghiên cứu việc quy định công tác quản lý tài chính, chi tiêu ngân
sách để tăng tính chủ động, thống nhất, kịp thời đáp ứng yêu cầu hoạt động
của nhà trường.
- Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác giảng dạy,
nghiên cứu, điều hành, phục vụ. Tăng cường thực hiện chương trình “điện tử
hóa” các hoạt động của nhà trường.
Với những thành tựu của khoa học công nghệ, ứng dụng công nghệ
thông tin trong đời sống và trong các hoạt động của con người ngày càng phổ
biến. Việc ứng dụng những thành tựu công nghệ thông tin trong các hoạt động
146
của nhà trường một mặt là phù hợp với sự vận động và phát triển của xã hội,
mặt khác giúp cho việc hoạt động ĐTBD CBCC ngày càng hiệu quả hơn.
4.2.6. Hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra đảm bảo việc phân cấp
quản lý đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Công tác thanh tra, kiểm tra làmột khâu quan trọng trong quy trình quản
lý. Không thanh tra, kiểm tra tốt thì không có biện pháp quản lý hiệu quả. Việc
thanh tra, kiểm tra có thể đánh giá đúng những nội dung đã được phân cấp
quản lý, đảm bảo cho việc phân cấp trong ĐTBD CBCC được thực hiện thống
nhất và mang lại hiệu quả. Từ đó, giúp các cơ quan quản lý dễ dàng nắm bắt
thông tin, góp phần tăng cường hiệu lực trong quản lý ĐTBD CBCC.
Xây dựng hệ thống thanh tra, kiểm tra khả thi để đánh giá đúng những
việc đã được phân cấp đảm bảo sự quản lý thống nhất, giảm thiểu sự phân tán
cục bộ và những bất cập trong việc thực hiện kỷ luật, kỷ cương, nâng cao hiệu
quả quản lý trong ĐTBD CBCC, góp phần thúc đầy phát triển kinh tế - xã hội,
phục vụ tốt hơn nhu cầu của tổ chức và lợi ích của nhân dân.
Hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra nhằm góp phần quan trọng trong
việc phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm trong phân cấp quản
lý ĐTBD CBCC. Đồng thời, phát huy nhân tố tích cực, góp phần nâng cao
chất lượng, hiệu quả của ĐTBD CBCC. Muốn vậy, cần tăng cường hoạt động
đánh giá chất lượng, đưa hoạt động này trở thành hoạt động thường xuyên của
các cơ sở ĐTBD CBCC, đơn vị quản lý và đơn vị sử dụng CBCC. Hiện nay ở
CHDCND Lào chưa có các tiêu chí đánh giá chất lượng ĐTBD CBCC, nên
việc kiểm soát chất lượng ĐTBD CBCC rất khó khăn. Có thể tham khảo các
tiêu chí sau:
Một là, đối với chương trình ĐTBD, đánh giá: Tính phù hợp của
chương trình; Tính khoa học của chương trình; Tính cân đối của chương
trình; Tính ứng dụng của chương trình; Hình thức của chương trình.
147
Hai là, đối với học viên, đánh giá: Mục tiêu học tập; Phương pháp học
tập; Thái độ học tập.
Ba là, đối với giảng viên, đánh giá: Kiến thức của giảng viên; Phẩm
chất, đạo đức nghề nghiệp của giảng viên; Trách nhiệm của giảng viên;
Phương pháp giảng dạy của giảng viên; Phương pháp kiểm tra, đánh giá của
giảng viên.
Bốn là, đối với cơ sở vật chất, đánh giá: Phòng học, chất lượng phòng
học: Nguồn tài liệu; Công nghệ thông tin.
Năm là, đối với hoạt động đánh giá kết quả học tập, đánh giá: Phương
pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập phù hợp;Hoạt động kiểm tra, đánh giá
khách quan, chính xác, kịp thời.
Sáu là, đối với hiệu quả sau bồi dưỡng, đánh giá: Kiến thức chuyên
môn, nghiệp vụ; Kỹ năng; Thái độ của CBCC, viên chức sau ĐTBD.
Bảy là, đối với tổ chức ĐTBD, đánh giá: Kế hoạch tổ chức khóa ĐTBD
được xây dựng rõ ràng, đầy đủ; Đảm bảo số lượng và chất lượng giảng viên
tham gia khóa ĐTBD; Thời gian bồi dưỡng được lựa chọn phù hợp; Thực
hiện đầy đủ việc đánh giá chất lượng ĐTBD; Công tác phục vụ hậu cần tổ
chức khóa ĐTBD.
Việc thanh tra, kiểm tra trong ĐTBD CBCC ở CHDCND Lào được
giao cho 2 hệ thống cơ quan là cơ quan thanh tra nhà nước và cơ quan kiểm
tra của Đảng.
Đối với thanh tra chuyên ngành ĐTBD CBCC, hiện nay đang do cơ
quan thanh tra của Bộ Giáo dục và Thể thao đảm nhận, nên giao thẩm quyền
thanh tra, kiểm tra cho Bộ Nội vụ, vì đây là cơ quan được Chính phủ giao
quyền QLNN về đội ngũ CBCC. Do đó sẽ thực hiện thanh tra, kiểm tra về
ĐTBD CBCC, đồng thời giao quyền cho Bộ Nội vụ việc thanh tra, kiểm tra
trong quản lý ĐTBD CBCC. Tuy nhiên, Bộ Nội vụ chỉ thực hiện thẩm quyền
148
thanh tra, quản lý đối với các cơ quan chính quyền, còn các cơ quan đảng sẽ
do Ban Tổ chức Trung ương thực hiện.
Để hoạt động thanh tra, kiểm tra việc phân cấp quản lý ĐTBD CBCC
có hiệu quả, cần hoàn thiện các quy định của pháp luật về thanh tra, kiểm tra
đối với các cơ sở ĐTBD CBCC và trong hoạt động ĐTBD CBCC. Ngoài các
quy định của pháp luật thì cũng cần có quy chế phối hợp làm việc giữa Học
viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào với các cơ quan trung ương; quy
chế phối hợp làm việc giữa các trường chính trị và hành chính tỉnh, thành phố
với các cơ quan cấp tỉnh để làm cơ sở cho hoạt động thanh tra, kiểm tra quản
lý ĐTBD CBCC.
149
TIỂU KẾT CHƯƠNG 4
Đẩy mạnh phân cấp quản lý trongĐTBD CBCClà yêu cầu khách quan
nhưng không thể phân cấp tuỳ tiện. Việc phân định chức năng nhiêm vụ giữa
các cơ quan trong việc quản lý hoạt động ĐTBD CBCClà một công việc hết
sức phức tạp và khó khăn nên không thể nhận thức đơn giản trong phân cấp
quản lý ĐTBD CBCC. Việc phân cấp quản lý ĐTBD CBCC là điều kiện cho
địa phương phát huy tính năng động, sáng tạo, khai thác những lợi thế của địa
phương thực hiện việc quản lý có hiệu quả theo một trình tự pháp luật do Nhà
nước quy định thống nhất trong cả nước. Mặt khác, không nên cứng nhắc
quan niệm cho rằng tập trung là bất hợp lý, phân cấp là tốt, hoặc ngược lại.
Vấn đề là phải có sự nhận thức đúng đắn và sự hợp lý về nội dung, mức độ
phân cấp phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội, sự hoàn thiện tổ
chức bộ máy và trình độ năng lực quản lý của đội ngũ CBCC.
Như vậy, luận án đã giải quyết được các nhiệm vụ đặt ra trong chương
này, đó là:
Một là, đề xuất phương hướng đẩy mạnh phân cấp quản lý ĐTBD
CBCC trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ thể hiện việc quán triệt quyền
lực tập trung vào cơ quan QLNN về ĐTBD CBCC cấp trung ương, đảm bảo
quản lý thống nhất về ĐTBD CBCC của Học viện Chính trị và Hành chính
Quốc gia Lào.
Hai là, đề xuất được một số giải pháp chủ yếu nhằmđẩy mạnh phân cấp
quản lý ĐTBD CBCC: Nâng cao nhận thức về phân cấp quản lý ĐTBD
CBCC; Hoàn thiện thể chế về phân cấp quản lý ĐTBD CBCC; Đẩy mạnh trao
quyền tự chủ cho các cơ sở ĐTBD CBCC; Nâng cao năng lực của các cơ
quan quản lý ĐTBD CBCC; Hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra trong phân
cấp quản lý ĐTBD CBCC…
150
KẾT LUẬN
Cần khẳng định xu hướng phân cấp là một xu thế thế tất yếu và không
thể phủ nhận được trong tiến trình cải cách hành chính, việc phân cấp quản lý
ĐTBD CBCC là một bộ phận nằm trong chương trình tổng thể cải cách hành
chính của CHDCND Lào. Phân cấp quản lý về ĐTBD CBCC vừa là yêu cầu
của công cuộc cải cách hành chính nhà nước trong giai đoạn hiện nay, vừa là
một tất yếu khách quan xuất phát từ sự nghiệp đổi mới đất nước, sự chuyển đổi
từ cơ chế quản lý hành chính tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường định
hướng XHCN và cũng là hướng đi của các nước trong khu vực và trên thế giới.
Đổi mới phân cấp, phân quyền trong hoạt động QLNN là yêu cầu
khách quan nhưng không tuỳ tiện. Việc phân định chức năng nhiêm vụ giữa
các bộ phận của một tổ chức là một công việc hết sức phức tạp và càng phức
tạp hơn đối với hệ thống tổ chức hành chính nhà nước. Không thể nhận thức
đơn giản trong phân cấp quản lý ĐTBD CBCC. Việc phân cấp quản lý ĐTBD
CBCC là điếu kiện cho địa phương phát huy tính năng động, sáng tạo, khai
thác những lợi thế của địa phương thực hiện việc quản lý có hiệu quả theo
một trình tự pháp luật do Nhà nước quy định thống nhất trong cả nước. Mặt
khác, không nên cứng nhắc quan niệm cho rằng tập trung là bất hợp lý, phân
cấp là tốt hay ngược lại.Phân cấp quản lý về ĐTBD CBCCcần chú ý quyền
hạn, trách nhiệm (về quản lý chuyên môn; về quản lý tổ chức, nhân sự; và
quản lý tài chính) của cơ quan; đồng thời quy định rõ mối quan hệ quyền hạn,
trách nhiệm ở trung ương giữa Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia
Lào với Tỉnh ủy và UBND tỉnh; ở địa phương thì giữa Ban Tổ chức Tỉnh ủy
với Sở Nội vụ, có như vậy mới có thể thực hiện thành công tiến trình phân
cấp quản lý ĐTBD CBCC.
Như vậy, luận án đã đạt được những kết quả sau:
Một là, đã tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan, mặc dù số
151
lượng công trình nghiên cứu về phân cấp quản lý ĐTBD CBCC không nhiều
nhưng đã cung cấp những nội dung có thể tham khảo cho luận án, gợi mở một
số ý tưởng để tác giả có thể vận dụng vào đề tài luận án.
Hai là, đã xây dựng được khung lý thuyết về phân cấp quản lý trong
ĐTBD CBCC. Cụ thể là làm rõ được một số khái niệm liên quan, đặc biệt là
khái niệm trung tâm: Khái niệm phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC. Đồng
thời, lý giải sự cần thiết phải phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC, nguyên
tắc và các yếu tố ảnh hưởng đến phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC; nội
dung phân cấp quản lý trong ĐTBD CBCC.
Ba là, trên cơ sở xem xét thực tiễn phân cấp quản lý trong ĐTBD
CBCC của Việt Nam, luận án đã rút ra được kinh nghiệm có thể vận dụng
trong điều kiện cụ thể của CHDCND Lào.
Bốn là, đánh giá tình hình phân cấp quản lý ĐTBD CBCC ở CHDCND
Lào trên các mặt: nội dung phân cấp quản lý chương trình ĐTBD CBCC;
phân cấp quản lý cơ sở ĐTBD CBCC; phân cấp quản lý đội ngũ giảng viên;
phân cấp quản lý ngân sách ĐTBD CBCC. Từ đó có những đánh giá ưu điểm,
hạn chế của phân cấp quản lý ĐTBD CBCC ở CHDCND Lào hiện nay.
Năm là, từ thực tiễn phân cấp quản lý ĐTBD CBCC ở CHDCND Lào
hiện nay, đề xuất được phương hướng đẩy mạnh phân cấp quản lý ĐTBD
CBCC trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ thể hiện việc quán triệt quyền
lực tập trung vào cơ quan QLNN về ĐTBD CBCC cấp trung ương, đảm bảo
quản lý thống nhất về ĐTBD CBCC của Học viện Chính trị và Hành chính
Quốc gia Lào. Từ đó, đề xuất các giải pháp đẩy mạnh phân cấp quản lý
ĐTBD CBCC. Một số giải pháp điển hình, đó là: Nâng cao nhận thức về phân
cấp quản lý ĐTBD CBCC; Hoàn thiện thể chế về phân cấp quản lý ĐTBD
CBCC; Đẩy mạnh trao quyền tự chủ cho các cơ sở ĐTBD CBCC; Nâng cao
năng lực của các cơ quan quản lý ĐTBD CBCC; Hoàn thiện cơ chế thanh tra,
kiểm tra trong phân cấp quản lý ĐTBD CBCC…
152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tiếng Việt
1. Ngô Thành Can (2014), Đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực
trong khu vực công, Nxb Lao Động, Hà Nội.
2. Đinh Minh Dũng (2012), “Phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục và
đào tạoở cấp huyện vùng đồng bằng sông Cửu Long”, Tạp chí Quản lý
nhà nước, Số 195 (4-2012).
3. Đinh Minh Dũng (2015), Quản lý nhà nước về giáo dục ở cấp huyện
vùng Đồng bằng sông Cửu Long – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn,
Nxb Lao Động, Hà Nội.
4. Phan Hồng Dương (2005), “Phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục và
đào tạo”, Luận văn lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, Đại học
quốc gia Hà Nội.
5. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2005), Hệ thống chương
trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở các trường chính
trị tỉnh, thành phố, Kỷ yếu Hội thảo, Hà Nội.
6. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Cơ quan hợp tác quốc tế
Nhật Bản JICA (2016), Phương pháp quản lý đào tạo cán bộ và công
chức, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội.
7. Học viện Hành chính Quốc gia (2004), Giáo trình Phát triển tổ chức
hành chính nhà nước, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
8. Học viện Hành chính Quốc gia (2012), Giáo trình Hành chính học đại
cương, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
9. Mai Hữu Khuê (2002), Từ điển giải thích thuật ngữ hành chính, Nxb
Lao động, Hà Nội.
10. Trần Kiểm (2004), Khoa học quản lí nhà trường phổ thông, Nxb Đại
học Quốc gia, Hà Nội.
153
11. Trương Đắc Linh (2002), “Phân cấp quản lý trung ương và địa phương
- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số
3, tr.24-25.
12. Nguyễn Hải Long (2009), “Nâng cao hiệu quả phân cấp quản lý giáo
dục và đào tạo trong tiến trình cải cách hành chính ở Việt Nam”, Luận
án tiến sĩ quản lý hành chính công, Học viện Hành chính, Hà Nội.
13. Uông Chu Lưu (2015), “Một số vấn đề lý luận về phân cấp quản lý nhà
nước”, Tạp chí Dân chủ pháp luật, Số chuyên đề 60 năm ngành Tư
pháp, tháng 7/2015.
14. Hoàng Mai (2016), Phân cấp quản lý nhân sự hành chính nhà nước ở
Việt Nam hiện nay (sách chuyên khảo), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
15. Lưu Văn Mao (1997), “Cơ sở khoa học của phân công, phân cấp quản
lý cán bộ, công chức lãnh đạo, cao cấp trong cải cách hành chính hiện
nay”, Đề tài khoa học cấp bộ, Bộ Nội vụ, Hà Nội.
16. Phạm Thị Tuyết Minh (2015), “Phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục
dưới góc nhìn pháp lý và thực tiễn”, Tạp chí Khoa học quản lý giáo
dục, Số 02 (tháng 6/2015).
17. Ngân hàng thế giới (2005), Phân cấp ở Đông Á để chính quyền địa
phương phát huy tác dụng, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
18. S.Chiavo Campo và P.S.A. Sundaram (2003), Phục vụ và duy trì: Cải
thiện hành chính công trong một thế giới cạnh tranh,Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
19. Võ Kim Sơn (1998), “Đối tác công - tư”, Tạp chí quản lý nhà nước.
20. Võ Kim Sơn (2004), Phân cấp quản lý nhà nước - Lý luận và thực
tiễn,Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Tạ Ngọc Tấn, Lê Văn Lợi (đồng chủ biên) (2017), Đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ lãnh đạo, quản lý đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế ở Việt Nam và Lào, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
154
22. Trịnh Ngọc Thạch (2012), Mô hình quản lý đào tạo nguồn nhân lực
chất lượng cao trong giáo dục đại học Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia
Hà Nội.
23. Tống Đức Thảo và Nguyễn Trọng Bình (2018), “Hợp nhất một số cơ
quan Đảng và chính quyền ở Trung Quốc - Nghiên cứu trường hợp
quận Thuận Đức”, Tạp chí Lý luận chính trị, Số 2/2018.
24. Trần Hồng Thắm (2012), “Một số giải pháp đẩy mạnh phân cấp quản lý
nhà nước đối với giáo dục phổ thông”, Tạp chí khoa học Đại học sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh, số 34/2012.
25. Đinh Thị Minh Tuyết (2007), “Về phân cấp quản lý giáo dục - đào tạo
ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Quản lý nhà nước, Số 142.
26. Vũ Huy Từ chủ biên (1999), Quản lý khu vực công, Nxb Khoa học và
Kỹ thuật, Hà Nội.
27. Nguyễn Ngọc Vân (2005), “Nghiên cứu các luận cứ khoa học và giải
pháp thực hiện phân công, phân cấp đào tạo, bồi dưỡng theo chức danh
cán bộ, công chức nhà nước”, Đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội.
28. Viện Ngôn ngữ học (1997), Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên),
Nhà xuất bản Đà Nẵng, Hà Nội - Đà Nẵng.
29. Nguyễn Cửu Việt (2010), “Khái niệm tập quyền, tản quyền và phân
quyền”, Tạp chí Khoa học, Đại học quốc gia Hà Nội, Số 26/2010.
30. Trương Quốc Việt (2012), “Về thực hiện nội dung phân cấp quản lý
đào tạo, bồi dưỡng công chức hiện nay”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, Số
12/2012, tr.40-42.
31. Bùi Thế Vĩnh chủ biên (1997), Phân tích và thiết kế tổ chức cơ quan
hành chính, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Lại Đức Vượng (2009), “Quản lý nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng công
chức hành chính trong giai đoạn hiện nay”, Luận án tiến sĩ, Học viện
Hành chính, Hà Nội.
155
33. Vũ Thanh Xuân (2013), “Cơ sở khoa học của việc đào tạo, bồi dưỡng
theo vị trí việc làm đối với công chức ngành nội vụ”, Đề tài khoa học
cấp cơ sở, Hà Nội.
B. Tiếng Lào
34. Dalyvan Khútavang (2010), “Yêu cầu trong việc đào tạo cán bộ, công
chức chủ chốt trong cơ quan hành chính nhà nước trong thời kỳ mới”,
Tạp chí Alunmai (tạp chí Lý thuyết và thực tiễn của Đảng Nhân dân
cách mạng Lào), số 6/2010, Viêng Chăn.
35. Khăm Phăn Phôm Mạ Thắt (2005), Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Trung ương quản lý ở CHDCND Lào
trong thời kỳ đổi mới, Luận án tiến sĩ Khoa học chính trị chuyên ngành
Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
36. Khăm Phăn Vông Pha Chăn (2013), “Đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo
của hệ thống chính trị ở Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào hiện nay”,
Luận án tiến sĩ Chính trị học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
37. Thoongchan Phetbounmy (2011), “Quan tâm đặc biệt đối với công tác
đào tạo, bồi dưỡng thế hệ cán bộ, công chức trong tương lai”, Tạp chí
Alunmai (tạp chí Lý thuyết và thực tiễn của Đảng Nhân dân cách mạng
Lào), 5/2011, Viêng Chăn.
C. Tiếng Anh
38. Cathy Gaynor (1998), Decentralization of Education (Phân cấp giáo
dục), The World Bank Washington, D.C.
39. Chanchal Kumar Sharma (2006), “Decentralization Dilemma:
Measuring the Degree and Evaluating the Outcomes (Tiến thoái lưỡng
nan phân cấp: Đo lường mức độ và đánh giá kết quả)”, Indian Journal
of Political Science, Vol. 67, No. 1, 2006.
156
40. Dennis A. Rondinelli (1981), “Government Decentralization in
Comparative Perspective: Developing Countries (Phân cấp chính phủ
theo quan điểm so sánh: Các nước đang phát triển)”, International
Review of Administrative Science, 47,1981.
41. Dennis A. Rondinelli; John R. Nellis and G. Shabbir Cheema (1983),
Decentralization in Developing Countries (Phân cấp ở các nước đang
phát triển), A Review of Recent Experience, The World Bank 1983.
42. Gaudioso C.Sosmena (1991), Decentralization and Empowerment
(Phân cấp và trao quyền), JR.Manila, Philippines.
43. Education and Manpower Branch and Education Department (1991),
The School Management Initiative (Sáng kiến quản lý trường
học),Government Printer, Hong Kong.
44. Elizabeth Linda Yuliani (2004), Decentralization, deconcentration and
devolution: what do they mean? (Phân cấp, phân cấp và giải thể:
chúng có ý nghĩa gì?) cifor.cgiar.org
45. ESCAP (1999), Local Government in Asia and the Pacific - A
Comparative Analysis of Fifteen Countries (Chính quyền địa phương ở
châu Á và Thái Bình Dương - Phân tích so sánh của mười lăm quốc
gia), ESCAP, IUALA-ASPAC, KLAFIR, 1999.
46. Eunice Heredia-Ortiz (2006), The Impact of Education
Decentralization on Education Output: A Cross-Country Study (Tác
động của phân cấp giáo dục đối với đầu ra giáo dục: Một nghiên cứu
xuyên quốc gia), Georgia State University.
47. European Centre for Disease Prevention and Control (2017), “A
literature review of Training Needs Assessment (TRNA) methodology”
(Một đánh giá tài liệu về phương pháp đánh giá nhu cầu đào tạo
(TRNA)). Stockholm: ECDC.
157
48. Jean-Paul Faguet (1997), Decentralization and local government
performance (Phân cấp và chính quyền địa phương thực thi), Centre
for Economic Performance and Development Studies Institute, London
School of Economics.
49. John C.Foltz và Jay Akridge (2015), The Art of Delegation (Nghệ thuật
phái đoàn), Research Gate.
50. Péter Radó (2010), Governing Decentralized Education Systems -
Systemic Change in South Eastern Europe (Quản lý các hệ thống giáo
dục phi tập trung - Thay đổi hệ thống ở Đông Nam Âu), Printed in
Budapest, Hungary.
51. UNDP (1997), Decentralized Governance Programme: Strengthening
Capacity for People (Chương trình quản trị phi tập trung: Tăng cường
năng lực cho người dân), September 1997.
52. UNDP (1999), Decentralization: A Sampling of Definition (Phân cấp:
lấy mẫu định nghĩa), Government of Germany.
D. Văn bản quy phạm
D.1. Văn bản của Việt Nam
53. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Điều lệ Đảng (khóa XI).
54. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành
trung ương lần thứ 9 (khóa IX) về đổi mới phương thức lãnh đạo về
kinh tế.
55. Quốc hội (2013), Hiến pháp.
56. Quốc hội (2008), Luật Cán bộ, công chức.
57. Quốc hội (2010), Luật Viên chức.
58. Quốc hội (2015), Luật Tổ chức chính quyền địa phương.
59. Quốc hội (2015), Luật Ngân sách nhà nước.
158
60. Chính phủ (2004), Nghị quyết số 08/2004/NQ-CP ngày 30/6/2004 về
tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và chính
quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
61. Chính phủ (2017), Nghị định số 34/2017/NĐ-CP ngày 03/4/2017 quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nội vụ.
62. Chính phủ (2017), Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 về
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức.
63. Thủ tướng Chính phủ (2018), Quyết định số 05/2018/QĐ-TTg ngày
23/01/2018 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của Học viện Hành chính Quốc gia.
64. Bộ Nội vụ (2018), Thông tư số 01/2018/TT-BNV ngày 08/01/2018
hướng dẫn một số điều của Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày
01/9/2017 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức,
viên chức.
D.2. Văn bản của CHDCND Lào
65. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X, Nxb quốc gia, Viêng Chăn.
66. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1995), Nghị quyết số 09/BCTTĐ ngày
27/2/1995 của của Bộ Chính trị Trung ương Đảng về thành lập Học
viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào.
67. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1999), Nghị quyết số 08/BCTTWĐ
ngày 23/2/1999 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng về
thành lập Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào.
68. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2002), Nghị quyết số 65/BCTTĐ ngày
21/7/2003 của Bộ Chính trị Trung ương Đảng về việc chuyển giao các
trường chính trị và hành chính và thủ đô thuộc về Học viện Chính trị và
Hành chính Quốc gia Lào chịu trách nhiệm và lãnh đạo trực tiếp.
69. Quốc hội (2015), Hiến pháp.
159
70. Quốc hội (2015), Luật Giáo dục (sửa đổi).
71. Quốc hội (2015), Luật Cán bộ, công chức.
72. Quốc hội (2015), Luật Chính phủ của nước CHDCND Lào (sửa đổi).
73. Chính phủ (1995), Nghị định số 59/CP ngày 29/7/1995 về thành lập
Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào.
74. Chính phủ (2017), Nghị định số 67/CP ngày 03/07/2017 về tổ chức và
hoạt động của Bộ Giáo dục và Thể thao.
75. Chính phủ (2017), Nghị định số 294/CP ngày 04/09/2017 về đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức.
76. Chính phủ (2015), Nghị quyết số 19/CP ngày 2/6/2015 về tiếp tục đẩy
mạnh phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ với chính quyền tỉnh,
thủ đô.
77. Ban Tổ chức Trung ương (2012), Nghị định số 03/BTCTĐ ngày
15/2/2012 về xây tỉnh thành khâu chiến lược, xây huyện thành khâu
vững mạnh, xây bản thành khâu phát triển.
78. Ban Tổ chức Trung ương (2014), Nghị định số 25/BTCTĐ ngày
22/12/2014 về định hướng, mục tiêu, các biện pháp xây tỉnh thành khâu
chiến lược, xây huyện thành khâu vững mạnh, xây bản thành khâu phát
triển.
79. Bộ Giáo dục và Thể thao (2011), Quyết định của số 1382/GD-TC ngày
2/6/2011 về chứng nhận kế hoạch phát triển nhân sự hành chính và
quản lý giáo dục năm 2011-2015.
80. Văn phòng Chính phủ (2003), Thông báo số 1063/VPCP ngày
29/8/2003 về việc thực hiện chính sách cho học viên được cử đi đào
tạo, bồi dưỡng.
81. Bộ Tài chính (2013), Thông tư số 293/TT-BTC ngày 9/2/2013 quy định
việc quản lý và sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước dành cho công
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
160
82. Bộ Nội vụ (2017), Tờ trình số 198/BNV ngày 29/7/2017 về đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức.
83. Bộ Nội vụ (2018), Hướng dẫn số 07/BNV ngày 02/5/2018 về tổ chức
thực hiện Nghị định số 294/CP ngày 04/9/2017 của Chính phủ về
ĐTBD CBCC.
84. Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào(2000), Quyết định số
2160/HVCT-HCQG ngày 21/12/2000 về quy định chung của Học viện
Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào.
85. Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào(2016), Quyết định số
033/HVCTHC ngày12/01/2016 về hỗ trợ cho học viên.
86. Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào(2016), Quy định số
1201/HVCT-HCQG ngày 16/11/2016 về tổ chức và hoạt động của
trường chính trị và hành chính tỉnh và Thủ đô.
161