BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TÀI CHÍNH
HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
-------------
NGUYỄN TỬ ĐỨC THỌ
PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP TỈNH NINH BÌNH
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
HÀ NỘI - 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TÀI CHÍNH
HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
-------------
NGUYỄN TỬ ĐỨC THỌ
PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP TỈNH NINH BÌNH
Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số : 62.34.02.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học: 1, TS. PHẠM VĂN KHOAN
2. PGS., TS. TRẦN VĂN GIAO
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản Luận án là công trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong Luận án là trung thực và
có nguồn gốc rõ ràng.
Tác giả Luận án
Nguyễn Tử Đức Thọ
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng, biểu đồ
MỞ ĐẦU
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN
1 19
SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1. NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ HỆ THỐNG NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC
1.1.1. Ngân sách nhà nước
1.1.1.1. Khái niệm ngân sách nhà nước
1.1.1.2. Thu, chi ngân sách nhà nước và vay nợ cho ngân sách
nhà nước
1.1.1.3. Quy trình quản lý ngân sách nhà nước
1.1.2. Hệ thống ngân sách nhà nước
19 19 19 20 22 25
1.2. PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.2.1. Khái niệm phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
1.2.2. Hình thức phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
1.2.3. Căn cứ phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
1.2.4. Nội dung phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
25 25 27 28 30
1.2.5. Nguyên tắc phân cấp quản lý ngân sách nhà nước.
38
1.2.6. Lợi ích và bất lợi của phân cấp quản lý ngân sách nhà
45
nước
1.2.7. Đo lường mức độ phân cấp quản lý ngân sách nhà nước 47
1.2.7.1. Những chỉ tiêu định lượng đo lường mức độ phân cấp
quản lý ngân sách nhà nước
1.2.7.2. Những chỉ tiêu định tính đo lường mức độ phân cấp
47 48
quản lý ngân sách nhà nước
1.2.8. Những yếu tố ảnh hưởng đến kết quả phân cấp quản lý
50
ngân sách nhà nước
1.2.8.1. Những điều kiện tiên quyết để phân cấp quản lý NSNN
50
đạt hiệu quả
1.2.8.2. Sự công bằng giữa các cấp chính quyền tác động đến
51
phân cấp quản lý NSNN
1.3. KINH NGHIỆM PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CỦA
MỘT SỐ NƯỚC VÀ MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG Ở VIỆT NAM - BÀI HỌC CÓ
1.2.8.3. Sự ổn định vĩ mô tác động đến phân cấp quản lý NSNN 52 53
THỂ ÁP DỤNG CHO TRƯỜNG HỢP TỈNH NINH BÌNH
1.3.1. Kinh nghiệm phân cấp quản lý ngân sách nhà nước của
một số nước ASEAN
1.3.1.1. Kinh nghiệm phân cấp quản lý ngân sách của Thái Lan
1.3.1.2. Kinh nghiệm phân cấp quản lý ngân sách của Indonesia
1.3.2. Kinh nghiệm phân cấp quản lý ngân sách nhà nước của
một số tỉnh ở Việt Nam
53 53 56 59
1.3.2.1. Kinh nghiệm phân cấp quản lý ngân sách địa phương
59
của tỉnh Thái Bình
1.3.2.2. Kinh nghiệm phân cấp quản lý ngân sách địa phương
của tỉnh Hưng Yên
1.3.3. Bài học từ kinh nghiệm phân cấp quản lý ngân sách nhà
nước của một số nước ASEAN và một số tỉnh ở Việt Nam có thể áp
dụng cho phân cấp quản lý ngân sách nhà nước trường hợp tỉnh
Ninh Bình
1.3.3.1. Bài học từ kinh nghiệm phân cấp quản lý ngân sách của
Thái Lan, Indonesia có thể áp dụng cho phân cấp quản lý ngân sách
nhà nước của Trung ương cho chính quyền địa phương (trong đó có
tỉnh Ninh Bình)
1.3.3.2. Bài học từ kinh nghiệm phân cấp quản lý ngân sách ở
tỉnh Thái Bình và tỉnh Hưng Yên có thể áp dụng cho tỉnh Ninh Bình
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN
61 62 62 64 65 66
SÁCH NHÀ NƯỚC NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP TỈNH NINH
BÌNH
2.1. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN VỀ ĐIỀU
KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI TÁC ĐỘNG ĐẾN PHÂN CẤP QUẢN
66
LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRƯỜNG HỢP TỈNH NINH BÌNH
2.1.1. Những đặc điểm thuận lợi về điều kiện tự nhiên, kinh tế -
xã hội tác động đến phân cấp quản lý ngân sách nhà nước trường
66
hợp tỉnh Ninh Bình
2.1.2. Những đặc điểm khó khăn về điều kiện tự nhiên, kinh tế
- xã hội tác động đến phân cấp quản lý ngân sách nhà nước trường
68
hợp tỉnh Ninh Bình
2.2. THỰC TRẠNG PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
TRƯỜNG HỢP TỈNH NINH BÌNH, GIAI ĐOẠN 2011- 2017
2.2.1. Thực trạng phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
trường hợp tỉnh Ninh Bình, thời kỳ ổn định ngân sách 2011 – 2016
2.2.1.1. Thực trạng thiết kế hệ thống ngân sách nhà nước
trường hợp tỉnh Ninh Bình, thời kỳ ổn định ngân sách 2011 – 2016
2.2.1.2. Thực trạng phân cấp quản lý ngân sách nhà nước của
69 69 69 70
Trung ương cho tỉnh Ninh Bình, thời kỳ ổn định ngân sách 2011 –
2016
2.2.1.2.1.Thực trạng phân cấp của Trung ương về ban hành chính
70
sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức thu chi ngân sách cho tỉnh Ninh Bình,
thời kỳ ổn định ngân sách 2011 – 2016
2.2.1.2.2.Thực trạng phân cấp của Trung ương về nguồn thu, thực
73
hiện bổ sung, vay nợ và xác định nhiệm vụ chi ngân sách cho tỉnh Ninh
Bình, thời kỳ ổn định ngân sách 2011 – 2016
2.2.1.2.3.Thực trạng phân cấp của Trung ương về quy trình quản
84
lý ngân sách nhà nước cho tỉnh Ninh Bình, thời kỳ ổn định ngân sách
2011 - 2016
2.2.1.3. Thực trạng phân cấp quản lý ngân sách giữa các cấp
chính quyền địa phương ở tỉnh Ninh Bình, thời kỳ ổn định ngân sách
87
2011 – 2016
2.2.1.3.1. Thực trạng phân cấp nguồn thu và bổ sung ngân sách
cho các cấp chính quyền địa phương ở tỉnh Ninh Bình, thời kỳ ổn định
87
ngân sách 2011 – 2016
2.2.1.3.2. Thực trạng phân cấp nhiệm vụ chi ngân sách cho các
100
cấp chính quyền địa phương ở tỉnh Ninh Bình, thời kỳ ổn định ngân sách
2011 – 2016
2.2.2. Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước trường hợp tỉnh
Ninh Bình năm 2017
2.2.2.1. Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước của Trung ương
115 115
cho tỉnh Ninh Bình năm 2017
2.2.2.2. Phân cấp quản lý ngân sách giữa các cấp chính quyền
địa phương ở tỉnh Ninh Bình năm 2017
2.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC TRƯỜNG HỢP TỈNH NINH BÌNH, GIAI ĐOẠN 2011 - 2017
2.3.1. Những kết quả đạt được trong phân cấp quản lý ngân
sách nhà nước trường hợp tỉnh Ninh Bình, thời kỳ ổn định ngân sách
119 124 124
2011 – 2016 và năm 2017
2.3.1.1. Những kết quả đạt được trong phân cấp quản lý NSNN
của Trung ương cho tỉnh Ninh Bình
2.3.1.2. Những kết quả đạt được trong phân cấp quản lý NS
giữa các cấp CQĐP tỉnh Ninh Bình
2.3.2. Những hạn chế trong phân cấp quản lý ngân sách nhà
nước trường hợp tỉnh Ninh Bình, thời kỳ ổn định ngân sách 2011 –
124 125 127
2016 và năm 2017
2.3.2.1. Những hạn chế trong phân cấp quản lý NSNN của
Trung ương cho tỉnh Ninh Bình
2.3.2.2. Những hạn chế trong phân cấp quản lý NS giữa các cấp
127 128
CQĐP tỉnh Ninh Bình
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong phân cấp quản lý
ngân sách nhà nước trường hợp tỉnh Ninh Bình, thời kỳ ổn định
130
ngân sách 2011 – 2016 và năm 2017
2.3.3.1. Nguyên nhân của hạn chế trong phân cấp quản lý
NSNN của Trung ương cho tỉnh Ninh Bình
2.3.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong phân cấp quản
lý NS giữa các cấp CQĐP tỉnh Ninh Bình
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Chương 3: GIẢI PHÁP PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC TRƯỜNG HỢP TỈNH NINH BÌNH
3.1. PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU VÀ QUAN ĐIỂM VỀ PHÂN CẤP
QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRƯỜNG HỢP TỈNH NINH BÌNH,
130 132 135 136 136
THỜI KỲ 2017 - 2020 TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030
3.1.1. Phương hướng về phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
trường hợp tỉnh Ninh Bình, thời kỳ 2017 – 2020 tầm nhìn đến năm
136
2030
3.1.2. Mục tiêu và quan điểm về phân cấp quản lý ngân sách
nhà nước trường hợp tỉnh Ninh Bình, thời kỳ 2017 – 2020 tầm nhìn
141
đến năm 2030
3.1.2.1. Mục tiêu phân cấp quản lý ngân sách nhà nước trường
hợp tỉnh Ninh Bình, thời kỳ 2017 – 2020 tầm nhìn đến năm 2030
3.1.2.2. Quan điểm về phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
141 142
trường hợp tỉnh Ninh Bình, thời kỳ 2017 – 2020 tầm nhìn đến năm
2030
3.2. GIẢI PHÁP PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
TRƯỜNG HỢP TỈNH NINH BÌNH, THỜI KỲ 2017 - 2020 TẦM NHÌN ĐẾN
143
NĂM 2030
3.2.1. Giải pháp về phân cấp quản lý ngân sách nhà nước của
143
Trung ương cho tỉnh Ninh Bình, thời kỳ 2017 – 2020 tầm nhìn đến
năm 2030
3.2.1.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật có liên
quan đến phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
3.2.1.2. Hoàn thiện việc phân cấp trong quy trình quản lý ngân
sách nhà nước
3.2.1.3. Thay đổi phương thức xác định tỷ lệ phân chia các
khoản thu giữa ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương, bổ
sung cơ chế chuyển giao ngân sách từ địa phương có thặng dư về
Trung ương
3.2.1.4. Tăng dần thẩm quyền quyết định chế độ, định mức thu
chi ngân sách cho chính quyền cấp tỉnh
3.2.1.5. Thiết kế hệ thống NSĐP chỉ gồm 2 cấp – NS cấp tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương và NS cấp cơ sở
3.2.1.6. Phân cấp quản lý ngân sách gắn với quản lý ngân sách
theo kết quả thực hiện nhiệm vụ và kế hoạch tài chính 5 năm, kế
143 147 148 152 154 162
hoạch tài chính – ngân sách nhà nước 3 năm
3.2.2. Giải pháp về phân cấp quản lý ngân sách giữa các cấp
chính quyền địa phương ở tỉnh Ninh Bình, thời kỳ 2017 – 2020 tầm
165
nhìn đến năm 2030
3.2.2.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy về phân cấp
quản lý ngân sách địa phương tỉnh Ninh Bình
3.2.2.2. Hoàn thiện việc phân cấp nguồn thu, số bổ sung ngân
165 168
sách địa phương tỉnh Ninh Bình
3.2.2.3. Hoàn thiện việc phân cấp nhiệm vụ chi ngân sách địa
phương tỉnh Ninh Bình
3.2.2.4. Tăng cường tính công khai, minh bạch; kiểm tra chặt
chẽ việc quản lý và phân cấp quản lý ngân sách địa phương tỉnh Ninh
170 171
Bình
3.2.2.5. Nâng cao trình độ cán bộ, công chức tài chính- ngân
sách các cấp tỉnh Ninh Bình
3.2.3. Tổ chức thực hiện các giải pháp phân cấp quản lý ngân
sách nhà nước trường hợp tỉnh Ninh Bình, thời kỳ 2017 – 2020 tầm
175 178
nhìn đến năm 2030
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỂ THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP PHÂN
CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRƯỜNG HỢP TỈNH NINH
180
BÌNH, THỜI KỲ 2017 - 2020 TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030
3.3.1. Kiến nghị với Trung ương
3.3.2. Kiến nghị với chính quyền tỉnh Ninh Bình
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
180 181 183 184 187
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
188 197
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CBCC Cán bộ, công chức
CQĐP Chính quyền địa phương
CQTW Chính quyền Trung ương
GTGT Giá trị gia tăng
HCNN Hành chính nhà nước
HĐND Hội đồng nhân dân
NS
Ngân sách
NSĐP Ngân sách địa phương
NSNN Ngân sách nhà nước
NSTW Ngân sách Trung ương
TNDN Thu nhập doanh nghiệp
TNCN Thu nhập cá nhân
UBND Ủy ban nhân dân
XDCB Xây dựng cơ bản
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
Trang
Nội dung
Bảng 2.1 Tổng hợp số thực thu NSNN trên địa bàn tỉnh Ninh
73
Bình, thời kỳ 2011 – 2016
Bảng 2.2
Các khoản thu NSĐP tỉnh Ninh Bình được phân cấp và
76
các khoản thu bổ sung từ NSTW, thời kỳ 2011 - 2016
Bảng 2.3
Nợ của chính quyền địa phương tỉnh Ninh Bình tính
78
đến 31/12/2016
Bảng 2.4
Tổng số chi NSĐP tỉnh Ninh Bình, thời kỳ 2011 – 2016
81 82
Bảng 2.5 Mức độ tương xứng giữa các khoản thu được phân cấp và tổng chi của NSĐP tỉnh Ninh Bình, thời kỳ 2011 –
Bảng 2.6
2016 So sánh chi chuyển nguồn sang năm sau và chi đầu tư
84
phát triển NSĐP tỉnh Ninh Bình, thời kỳ 2011 – 2016
Bảng 2.7
Các khoản thu NS cấp tỉnh được phân cấp và các
khoản thu bổ sung cân đối thực sự từ NSTW của NS
90
cấp tỉnh ở Ninh Bình, thời kỳ 2011 – 2016
Bảng 2.8
Các khoản thu NS cấp huyện được phân cấp và các
khoản thu bổ sung cân đối thực sự từ NS cấp tỉnh của
NS cấp huyện trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, thời kỳ 2011
– 2016
Bảng 2.9
Số bổ sung cân đối từ NS cấp tỉnh cho NS huyện của
từng huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trên địa bàn
92 93
tỉnh Ninh Bình, thời kỳ 2011 – 2016
Bảng 2.10 Các khoản thu NS cấp xã được phân cấp và các khoản
thu bổ sung cân đối từ NS cấp trên của NS cấp xã trên
94
địa bàn tỉnh Ninh Bình, thời kỳ 2011 – 2016
Bảng 2.11 Thu bổ sung có mục tiêu từ NS cấp trên của các cấp
96
NSĐP tỉnh Ninh Bình, thời kỳ 2011 – 2016
Bảng 2.12 Tỷ trọng số thu được hưởng theo phân cấp của từng cấp
NSĐP trong tổng số các khoản thu phân cấp cho NSĐP
98
tỉnh Ninh Bình, thời kỳ 2011 - 2016
Bảng 2.13
Số tuyệt đối và tỷ trọng nguồn thu của từng cấp NS ở
địa phương trong tổng số các nguồn thu của NSĐP tỉnh
99
Ninh Bình, thời kỳ 2011 – 2016
Bảng 2.14 Tổng số chi NS cấp tỉnh ở Ninh Bình, thời kỳ 2011 –
101
2016
Mức độ tương xứng giữa các khoản thu được phân cấp
Bảng 2.15
102
và tổng chi của NS cấp tỉnh ở Ninh Bình, thời kỳ 2011
Bảng 2.16
– 2016 So sánh chi chuyển nguồn sang năm sau và chi đầu tư
103
phát triển NS cấp tỉnh ở Ninh Bình, thời kỳ 2011 - 2016
Bảng 2.17 Tổng số chi NS cấp huyện ở tỉnh Ninh Bình, thời kỳ
103
2011 – 2016
Mức độ tương xứng giữa các khoản thu được phân cấp
Bảng 2.18
105
và tổng chi của NS cấp huyện ở tỉnh Ninh Bình, thời kỳ
Bảng 2.19
2011 – 2016 So sánh chi chuyển nguồn sang năm sau và chi đầu tư
phát triển NS cấp huyện ở tỉnh Ninh Bình, thời kỳ 2011
105
- 2016
Bảng 2.20 Tổng số chi NS cấp xã ở tỉnh Ninh Bình, thời kỳ 2011 –
106
2016
Bảng 2.21 Mức độ tương xứng giữa các khoản thu được phân cấp
107
và tổng chi của NS cấp xã ở tỉnh Ninh Bình, thời kỳ
2011 – 2016
Bảng 2.22
So sánh chi chuyển nguồn sang năm sau và chi đầu tư
phát triển NS cấp xã ở tỉnh Ninh Bình, thời kỳ 2011 -
108
2016
Bảng 2.23
Chi thường xuyên cho giáo dục của các cấp NSĐP tỉnh
109
Ninh Bình, thời kỳ 2011 – 2016
Bảng 2.24
Chi thường xuyên cho y tế của các cấp NSĐP tỉnh
Ninh Bình, thời kỳ 2011 – 2016
112
Bảng 2.25
Chi tiêu của từng cấp NS và tỷ trọng trong tổng chi tiêu
114
NSĐP tỉnh Ninh Bình, thời kỳ 2011 -2016
Bảng 2.26 Dự toán Trung ương phân cấp nguồn thu, số bổ sung và
118
nhiệm vụ chi cho NSĐP tỉnh Ninh Bình, năm 2017
Bảng 2. 27 Tình hình dự toán phân cấp nguồn thu, số bổ sung và
nhiệm vụ chi giữa các cấp NSĐP ở tỉnh Ninh Bình, năm
120
2017
Bảng 2. 28 Dự toán các khoản chi thường xuyên cho giáo dục-đào
tạo, y tế của NSĐP, NS cấp tỉnh và NS huyện ở tỉnh
123
Ninh Bình, năm 2017
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Số hiệu
Trang
Nội dung
Biểu đồ 2.1: Tổng thực thu NSNN trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, thời
74
kỳ 2011 - 2016
Biểu đồ 2.2: Tổng chi NSĐP trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, thời kỳ
82
2011 - 2016
1
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
MỞ ĐẦU
Phân cấp quản lý NSNN là một lĩnh vực quan trọng của phân cấp quản lý
nhà nước. Mỗi cấp chính quyền được phân cấp chỉ có thể độc lập thực hiện và
thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ được giao khi họ chủ động có được các
nguồn lực cần thiết và có quyền đưa ra các quyết định chi tiêu.
Trên phương diện lý thuyết cũng như thực tiễn, phân cấp quản lý NSNN
đã được thừa nhận là phương thức quan trọng để nâng cao hiệu quả quản lý
NSNN; từ đó, đảm bảo giải quyết kịp thời các nhiệm vụ quản lý nhà nước ở các
cấp chính quyền từ Trung ương đến cơ sở.
Một trong các vấn đề đặc biệt quan trọng của phân cấp quản lý NSNN là
phân cấp quản lý NSNN đối với một tỉnh cụ thể. Trong những năm qua, sau khi
được Trung ương phân cấp, việc phân cấp quản lý NSĐP (phân cấp quản lý NS
giữa chính quyền cấp tỉnh với chính quyền cấp huyện và cấp xã) trên địa bàn tỉnh
Ninh Bình đã bám sát Luật NSNN, đặc điểm của địa phương và thu được những
kết quả đáng ghi nhận. Nguồn thu và nhiệm vụ chi của từng cấp CQĐP đã được
quy định cụ thể, rõ ràng. CQĐP đã bước đầu chủ động trong việc xây dựng và
phân bổ NS cấp mình, chủ động khai thác tiềm năng, thế mạnh của địa phương.
Việc bố trí chi tiêu NS bước đầu hiệu quả hơn, hạn chế tình trạng cấp trên can
thiệp sâu vào công việc của cấp dưới. Tuy nhiên, trong xu hướng toàn cầu hóa,
hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, bối cảnh kinh tế trong nước và trên địa bàn
tỉnh Ninh Bình có nhiều thay đổi, cải cách hành chính địa phương được thực hiện
ngày càng mạnh mẽ đã dẫn đến phân cấp quản lý NSNN trường hợp tỉnh Ninh
Bình cũng phải thay đổi, hoàn thiện theo.
Điều này cho thấy việc đánh giá một cách khách quan, toàn diện thực
trạng phân cấp quản lý NSNN trường hợp tỉnh Ninh Bình trong thời gian vừa
qua, chỉ ra những hạn chế để có được những giải pháp đúng đắn hoàn thiện phân
2
cấp quản lý NS đối với địa phương là một đòi hỏi cấp thiết. Tuy đã có một số
công trình nghiên cứu của các nhà khoa học về phân cấp quản NSNN giữa
CQTW và CQĐP ở Việt Nam, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu, đánh
giá một cách toàn diện về phân cấp quản lý NSNN đối với trường hợp tỉnh Ninh
Bình, giai đoạn 2011 – 2017, định hướng 2017- 2020 tầm nhìn đến năm 2030.
Trước những yêu cầu bức thiết về lý luận và thực tiễn của việc phân cấp
quản lý NSNN đối với trường hợp tỉnh Ninh Bình, nghiên cứu sinh lựa chọn đề
tài "Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước nghiên cứu trường hợp tỉnh Ninh
Bình” làm luận án tiến sĩ của mình.
Trong luận án, cụm từ “phân cấp quản lý ngân sách nhà nước nghiên cứu
trường hợp tỉnh Ninh Bình” (hoặc nói gọn lại là “phân cấp quản lý ngân sách
nhà nước trường hợp tỉnh Ninh Bình”) được sử dụng với nghĩa bao hàm 2 vấn đề
lớn: (1) Phân cấp quản lý NSNN của Trung ương cho tỉnh Ninh Bình; (2) Sau khi
được Trung ương phân cấp, trên địa bàn của mình, tỉnh Ninh bình thực hiện phân
cấp quản lý NS giữa các cấp chính quyền tỉnh, huyện (bao gồm cả thành phố
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
thuộc tỉnh) và xã (bao gồm cả phường, thị trấn).
Mục đích nghiên cứu của Luận án:
Xây dựng cơ sở lý luận và căn cứ thực tiễn để đề xuất hệ thống các giải
pháp khả thi nhằm hoàn thiện phân cấp quản lý NSNN đối với trường hợp tỉnh
Ninh Bình trong thời kỳ 2017- 2020 tầm nhìn đến năm 2030.
Nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án:
- Hệ thống hoá làm rõ hơn lý luận về phân cấp quản lý NSNN, trong đó có
phân cấp quản lý NS giữa các cấp CQĐP.
- Sau khi xem xét việc phân cấp quản lý NSNN của Trung ương cho tỉnh
Ninh Bình, luận án tập trung phân tích và đánh giá một cách khoa học về thực
trạng phân cấp quản lý NS giữa các cấp CQĐP của tỉnh Ninh Bình hiện nay; làm
3
rõ những kết quả, hạn chế và nguyên nhân của tình hình.
- Đưa ra định hướng, mục tiêu, quan điểm và hệ thống các giải pháp khả
thi nhằm hoàn thiện phân cấp quản lý NSNN đối với trường hợp tỉnh Ninh Bình
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
trong thời kỳ mới, tính đến năm 2020 tầm nhìn tới năm 2030.
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận về phân cấp
quản lý NSNN (có lưu ý đến phân cấp quản lý NS giữa các cấp CQĐP); thực tiễn
về phân cấp quản lý NSNN của Trung ương cho một địa phương (tỉnh) cụ thể và
phân cấp quản lý NS giữa các cấp CQĐP của tỉnh đó.
Phạm vi nghiên cứu:
Nội dung nghiên cứu:
Trước tiên, luận án nghiên cứu về phân cấp quản lý NSNN của Trung
ương cho một địa phương (tỉnh) cụ thể, với ba nội dung cơ bản là: (1) ) Phân cấp
thẩm quyền ban hành luật pháp, chính sách, tiêu chuẩn và định mức NSNN. (2)
Phân cấp quản lý nguồn thu, điều hòa bổ sung NS, vay nợ và nhiệm vụ chi NS.
(3) Phân cấp thực hiện quy trình quản lý NS. Sau nữa, luận án tập trung nghiên
cứu về phân cấp quản lý NS giữa cấp tỉnh với cấp huyện và cấp xã của tỉnh đó
với nội dung chủ yếu là: Phân cấp quản lý nguồn thu, điều hòa bổ sung NS, và
nhiệm vụ chi NS.
Không gian nghiên cứu: Luận án nghiên cứu đối với trường hợp tỉnh Ninh
Bình và khảo sát kinh nghiệm của một số quốc gia, một số tỉnh trong nước về
phân cấp quản lý NS.
Thời gian nghiên cứu: Thực tiễn về phân cấp quản lý NSNN của Trung
ương cho tỉnh Ninh Bình và phân cấp quản lý NS giữa các cấp CQĐP ở tỉnh
Ninh Bình được nghiên cứu trong giai đoạn 2011 – 2017. Định hướng, mục tiêu,
quan điểm và các giải pháp khả thi nhằm hoàn thiện phân cấp quản lý NSNN đối
với trường hợp tỉnh Ninh Bình trong thời gian tới được xác định đến năm 2020
4
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN
tầm nhìn đến năm 2030.
Trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử, trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp:
Tác giả áp dụng phương pháp này để phân tích lý thuyết về quản lý và
phân cấp quản lý NSNN thành những mặt, những bộ phận, những mối quan hệ
theo lịch sử thời gian để nhận thức, phát hiện và khai thác các khía cạnh khác
nhau của lý thuyết, từ đó chọn lọc những thông tin cần thiết phục vụ cho đề tài
nghiên cứu; đồng thời liên kết những mặt, những bộ phận từ lý thuyết đã thu thập
được thành một chỉnh thể để tạo ra cơ sở lý luận về phân cấp quản lý NSNN, đặc
biệt là phân cấp quản lý NSĐP ở một tỉnh. Kết hợp lý luận với thực tế, đem lý
luận phân tích thực tế, từ phân tích thực tế, tác giả đã rút ra những đánh giá, và
tổng hợp lại đưa ra những kết luận, những đề xuất mang tính khoa học, phù hợp
với lý luận và thực tiễn về phân cấp quản lý NSNN trường hợp tỉnh Ninh Bình.
- Phương pháp lịch sử:
Tác giả sử dụng phương pháp này để tiếp cận và khai thác vấn đề phân cấp
quản lý NSNN trường hợp tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2011 - 2017. Xem xét bối
cảnh lịch sử, tìm hiểu các nguồn tư liệu có liên quan đến phân cấp quản lý
NSNN. Trên cơ sở đó tác giả xây dựng khung lý thuyết của đề tài luận án. Trong
phạm vi nghiên cứu của đề tài này, việc tìm hiểu những tư liệu liên quan đến
phân cấp quản lý NSNN đối với trường hợp tỉnh Ninh Bình là rất quan trọng,
nhằm có các căn cứ để nghiên cứu quá trình phân cấp quản lý NSNN trường hợp
tỉnh Ninh Bình hiện nay. Qua việc nghiên cứu, tìm ra các vấn đề còn vướng mắc
về lý luận và thực tiễn, đề xuất những giải pháp phân cấp quản lý NSNN đối với
trường hợp tỉnh Ninh Bình cho phù hợp.
5
- Phương pháp so sánh: Tác giả sử dụng phương pháp này để làm rõ sự
giống và khác nhau, ưu điểm, hạn chế của các vấn đề nghiên cứu, từ đó có các đề
xuất phù hợp nhằm đạt mục tiêu nghiên cứu.
- Phương pháp kế thừa khoa học: Tác giả sử dụng những kết quả nghiên
cứu có liên quan đã được công bố trong và ngoài nước để hoàn thiện cơ sở lý
5. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
LUẬN ÁN
luận và các giải pháp của luận án.
5.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Từ khi thực hiện đường lối đổi mới cho đến nay, Việt Nam đã từng bước
đẩy mạnh việc thực hiện phân cấp quản lý nhà nước giữa Trung ương và địa
phương và giữa các cấp CQĐP. Trung ương đã có những giải pháp tích cực, cụ
thể trong việc tăng cường phân cấp nhiều hơn, rõ hơn các nhiệm vụ, thẩm quyền
cho CQĐP và giữa các cấp CQĐP trên các lĩnh vực tài chính - NS, kế hoạch -
đầu tư, đất đai tài nguyên, y tế, văn hoá, giáo dục, tổ chức cán bộ, v.v...
Việc đẩy mạnh hơn nữa phân cấp quản lý nhà nước giữa Trung ương với
địa phương và trao nhiều quyền hơn cho các cấp chính quyền trong quản lý
NSNN, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách hành chính đang là vấn đề được
nhiều nhà khoa học nghiên cứu. Tuy nhiên, còn nhiều nội dung liên quan đến
phân cấp quản lý NSNN cần được nghiên cứu thêm như: phân cấp về thẩm
quyền quyết định về NS, thẩm quyền ban hành cơ chế chính sách về NS, phân
cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi NSĐP của một tỉnh, v.v...
Đã có một số công trình nghiên cứu liên quan tới vấn đề phân cấp quản lý
NSNN, NSĐP trên các phương diện khác nhau. Đây là những tài liệu tham khảo
có giá trị, phục vụ rất hiệu quả trong việc nghiên cứu đề tài này. Điển hình là các
công trình sau:
5.1.1. Các Luận án tiến sĩ:
5.1.1.1. Trần Thị Diệu Oanh (2012), Luận án tiến sĩ “Phân cấp quản lý và
6
địa vị pháp lý của CQĐP trong quá trình cải cách bộ máy nhà nước ở Việt Nam”
[53].
Tác giả đã phân tích làm rõ quan niệm khoa học về phân cấp quản lý và
những khái niệm có liên quan; đánh giá thực trạng phân cấp quản lý và địa vị
pháp lý của CQĐP trong quá trình cải cách bộ máy nhà nước ở Việt Nam; đề
xuất các giải pháp đẩy mạnh phân cấp trên cơ sở quan điểm tiếp cận mới về quan
hệ giữa CQTW và CQĐP để từ đó xác định rõ hơn địa vị pháp lý của CQĐP ở
nước ta đáp ứng yêu cầu nền kinh tế thị trường, cải cách bộ máy nhà nước và xây
dựng nhà nước pháp quyền.
5.1.1.2. Mai Đình Lâm (2012), Luận án tiến sỹ "Tác động của phân cấp
tài khóa đến tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam" [34].
Tác giả đã sử dụng mô hình thực nghiệm có bổ sung thêm biến giải thích
là độ mở kinh tế (đo lường bằng tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của địa phương)
để giải thích thêm cho tăng trưởng kinh tế ở các địa phương. Nghiên cứu sử dụng
dữ liệu trong giai đoạn 2000-2011 với phương pháp hồi qui sử dụng dữ liệu
bảng. Kết luận của nghiên cứu là phân cấp quản lý NSNN có ảnh hưởng tích cực
đến tăng trưởng kinh tế và biến bổ sung cũng có ý nghĩa giải thích cho tăng
trưởng kinh tế các địa phương ở Việt Nam.
5.1.1.3. Tô Thiện Hiền (2012), Luận án tiến sĩ “Nâng cao hiệu quả quản lý
NSNN tỉnh An Giang giai đoạn 2011 – 2015 và tầm nhìn đến 2020” [52].
Trong Luận án, tác giả có một phần nghiên cứu về phân cấp quản lý
NSNN giữa trung ương và địa phương trong trường hợp cụ thể là tỉnh An Giang.
Thực trạng phân cấp quản lý NSNN giữa tỉnh, huyện và xã ở tỉnh An Giang về
cơ bản giống như luật định. Tuy nhiên, tình trạng mất cân đối NSNN của các cấp
chính quyền là phổ biến. Luận án cũng xem xét mối quan hệ giữa các cấp chính
quyền theo quy trình quản lý NS từ lập dự toán, chấp hành, quyết toán NS và các
khuyến nghị giải pháp nhằm cải thiện hiệu quả quản lý NSNN của tỉnh An
7
Giang.
5.1.1.4. Lê Toàn Thắng (2013), Luận án tiến sĩ "Phân cấp quản lý NSNN
ở Việt Nam hiện nay" [33].
Tác giả đã nghiên cứu về phân cấp quản lý NSNN ở Việt Nam dựa trên
góc độ lý thuyết hành chính công, đã đánh giá phân cấp quản lý NSNN ở Việt
Nam theo bốn nội dung: Phân cấp thẩm quyền ban hành luật pháp, chính sách,
tiêu chuẩn và định mức NSNN; Phân cấp quản lý nguồn thu, nhiệm vụ chi
NSNN; Phân cấp thực hiện quy trình quản lý NSNN; Phân cấp trong giám sát,
thanh tra, kiểm toán NSNN. Trên cơ sở đó nghiên cứu cũng đề xuất các giải pháp
và các điều kiện để thực hiện giải pháp tăng cường phân cấp cho các địa phương
ở Việt Nam.
5.1.1.5. Nguyễn Xuân Thu (2015), Luận án Tiến sĩ “Phân cấp quản lý
NSĐP ở Việt Nam” [41].
Tác giả đã làm rõ tác động của phân cấp quản lý NSĐP đến quản trị nhà
nước của CQĐP trong trường hợp CQĐP ở Việt Nam, cụ thể như sau: (1) Khẳng
định các nội dung phân cấp quản lý NSĐP có tác động khác nhau đến từng khía
cạnh quản trị nhà nước của CQĐP; phân cấp NSĐP có tác động tích cực đến chất
lượng cung ứng dịch vụ công, minh bạch và hiệu suất của bộ máy hành chính
nhưng lại có tác động tiêu cực đến chi phí không chính thức, tiếp cận và sở hữu
đất đai. (2) Khẳng định tăng cường phân cấp cho chính quyền cấp dưới trong
cung cấp hàng hóa, dịch vụ công sẽ giúp phân bổ nguồn lực hiệu quả cũng phù
hợp trong trường hợp CQĐP được tổ chức thành ba cấp. (3) Phát hiện kết quả tác
động của phân cấp quản lý NSNN đến quản trị nhà nước của CQĐP phụ thuộc
vào sự phân cấp quản lý NS theo từng nhiệm vụ chi, khả năng kiểm soát của
chính quyền cấp trên đối với chính quyền cấp dưới và năng lực của chính quyền
được phân cấp.
Những đề xuất mới rút ra từ kết quả nghiên cứu: (1) Phân cấp cho chính
8
quyền cấp huyện cung cấp các hàng hóa, dịch vụ công mang tính địa phương và
không đòi hỏi lợi thế về qui mô; chuyển giao lại cho chính quyền cấp tỉnh những
nhiệm vụ chi mà cấp huyện thực hiện không hiệu quả; phân định chi tiết từng
nhiệm vụ chi cho từng cấp CQĐP. (2) Điều chỉnh phương thức chia sẻ nguồn thu
thuế GTGT, thuế TNDN giữa NSTW và NSĐP; chuyển thuế tài nguyên, thuế
bảo vệ môi trường thành khoản thu phân chia giữa các cấp CQĐP; xây dựng một
danh mục nguồn thu bắt buộc mà CQĐP phải tuân thủ và một danh mục các
nguồn thu mở mà các địa phương có thể tự lựa chọn nguồn thu và quyết định
thuế suất hay mức thu. (3) Xác định lại phạm vi vay nợ của CQĐP và giới hạn nợ
của CQĐP cần được xây dựng dựa trên khả năng trả nợ.
5.1.1.6. Nguyễn Thị Thanh (2017), Hoàn thiện phân cấp quản lý đầu tư
XDCB sử dụng nguồn vốn NS của thành phố Hà Nội đến năm 2020, Luận án tiến
sĩ, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân [40].
Tác giả đã đưa ra những luận giải về cơ sở lý luận phân cấp quản lý đầu tư
XDCB sử dụng nguồn NSNN, cụ thể: (1) Nội dung phân cấp quản lý đầu tư
XDCB nguồn vốn NS, bao gồm: Phân cấp trong công tác quy hoạch; phân cấp
trong công tác lập kế hoạch đầu tư XDCB; phân cấp trong công tác phân bổ và
giao kế hoạch vốn đầu tư XDCB; phân cấp trong chuẩn bị đầu tư, phê duyệt,
thẩm định và quyết định đầu tư dự án; phân cấp trong công tác quyết toán, theo
dõi, kiểm tra, giám sát công trình đầu tư. (2) Những nhân tố có thể ảnh hưởng
đến kết quả công tác phân cấp quản lý đầu tư XDCB, gồm: Các văn bản pháp
luật tác động đến quá trình phân cấp quản lý đầu tư XDCB; sự tác động của các
quy định phân cấp nguồn vốn NSNN cũng như tổ chức và cơ chế vận hành của
bộ máy quản lý Nhà nước đến quá trình phân cấp đầu tư XDCB của các địa
phương.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về phân cấp quản lý đầu tư xây dựng sử
dụng nguồn NSNN, tác giả đã chỉ ra rằng khung phân cấp quản lý NS của Nhà
9
nước cũng như thể chế pháp lý hay các văn bản quy phạm pháp luật về phân cấp
đầu tư đã chi phối đến các quyết định đầu tư, dự toán thu chi và phân bổ NS từ
đó tác động mạnh mẽ đến công tác phân cấp quản lý đầu tư XDCB sử dụng
nguồn NSNN; thêm vào đó, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước cũng
như sự minh bạch của CQĐP cũng tác động lớn đến những chủ trương đầu tư của
địa phương, và do đó cũng ảnh hưởng đến công tác phân cấp quản lý đầu tư
XDCB sử dụng nguồn NSNN.
Từ đó, tác giả đã đề ra 4 nhóm giải pháp chính: (1) Hoàn thiện khung phân
cấp quản lý đầu tư XDCB trong tổng thể phân cấp quản lý NSNN; (2) Tăng
cường phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi và điều hòa NSNN; (3) Tăng cường
phân cấp trong quy trình NS và (4) Tăng cường công tác cán bộ, trách nhiệm giải
trình và phối hợp. Bên cạnh đó, luận án cũng đề xuất thêm nhóm giải pháp nhằm
tiến tới minh bạch hóa quá trình phân cấp, thực hiện phù hợp với chích sách phát
triển của thành phố cũng như nâng cao năng lực của CQĐP.
5.1.2. Sách, các bài báo, chuyên đề:
5.1.2.1. Cuốn sách “Phân cấp quản lý nhà nước - Lý luận và thực tiễn"
của tác giả Võ Kim Sơn, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm 2004 [66].
Đây là một cuốn sách bổ ích với những phân tích cặn kẽ các vấn đề lý luận
về phân cấp quản lý nhà nước như các quan niệm về phân cấp cùng sự bình luận
về các hình thức phân cấp quản lý nhà nước. Tác giả đã phân tích tình hình phân
cấp quản lý HCNN ở Việt Nam từ năm 1945 đến năm 2003 và rút ra những nhận
xét, đánh giá. Đặc biệt, dựa trên kinh nghiệm của một số nước, tác giả có đưa ra
một số kiến nghị về phân cấp quản lý NSNN cho Việt Nam: (1) Phân cấp quản lý
NSNN phải được xem xét như là một cách thay đổi mang tính hệ thống, vì quá
trình này tác động đến nhiều đối tượng, nhiều loại cơ quan và nhiều cấp. (2) Phân
cấp quản lý NSNN phải theo chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà
nước. (3) Phải có Chính phủ có năng lực để theo dõi và đánh giá phân cấp quản
10
lý NSNN của các cấp chính quyền (Trung ương, địa phương) để có sự đánh giá
ai có thể trao quyền quản lý NSNN. (4) Cần có sự phân cấp ở các mức độ khác
nhau giữa các cơ quan quản lý nhà nước ở đô thị và nông thôn do khả năng tìm
kiếm nguồn thu và chi khác nhau. (5) Phân cấp quản lý NSNN phải gắn liền với
việc quy định rõ ràng về thuế. (6) Phân cấp quản lý NSNN phải dựa trên một
chiến lược tổng thể, dài hạn và nhất quán, không vì tính huống. (7) Đơn giản hóa
những quy định phân cấp quản lý NSNN cho các cấp để tạo cơ hội cho các cấp
dễ thực hiện và gắn liền với hạn chế của địa phương về năng lực. (8) Mô hình
phân cấp, chuyển giao nhiệm vụ và trách nhiệm quản lý NSNN giữa các cấp
chính quyền phải phù hợp với mục tiêu của cải cách theo hướng phân cấp. Tránh
sự tập trung vào một cấp mới. (9) Phải có NS cứng (cái mà CQĐP đó có) và linh
hoạt. (10) Mối quan hệ giữa các cấp CQĐP trong phân cấp và chuyển giao quyền
và nhiệm vụ quản lý NSNN cần được đảm bảo ổn định và thích ứng với điều
kiện phát triển của các cấp CQĐP. (11) Phải có cơ sở pháp lý để bảo vệ phân
cấp, chuyển giao quyền, nhiệm vụ quản lý NSNN; đồng thời Chính phủ và chính
quyền các cấp phải thực hiện đúng cam kết phân cấp quản lý NSNN đã được
trao.
5.1.2.2. Cuốn sách “Phân cấp quản lý NSNN cho chính quyền điạ phương:
Thực trạng và giải pháp” của tác giả Lê Chi Mai, Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, năm 2006 [31].
Nguyên cứu về phân cấp quản lý NSNN cho CQĐP, tác giả đã sử dụng dữ
liệu nghiên cứu của 2 tỉnh là Lạng Sơn và Đà Nẵng để minh họa cho các nhận
xét về phân cấp quản lý NSNN ở Việt Nam. Trong nghiên cứu này, phân cấp
quản lý NSNN được xem xét trên các khía cạnh: phân cấp nhiệm vụ chi và
nguồn thu; phân cấp thẩm quyền trong quyết định chế độ, định mức phân bổ và
chi tiêu NS; phân cấp về qui trình NS. Theo đó, các giải pháp được đưa ra là tăng
cường phân cấp nhiệm vụ chi cho CQĐP, trong đó nhấn mạnh đến cải thiện minh
11
bạch trách nhiệm chi tiêu NS của các cấp và phân cấp trách nhiệm chi tiêu tương
ứng với nguồn thu được phân cấp. Đối với phân cấp nguồn thu, nghiên cứu ủng
hộ quan điểm tạo ra một số nguồn thu tự có cho CQĐP bằng việc trao quyền tự
chủ thuế cho CQĐP từng bước và ở mức độ hạn chế; cải tiến cách phân chia giữa
trung ương và địa phương đối với một số loại thuế nhằm đảm bảo tính công
bằng. Về hệ thống điều hòa NS, cần hoàn thiện phương pháp tính toán số bổ
sung theo công thức có tính ổn định và công khai, bổ sung mục tiêu cần có căn
cứ khách quan và rõ ràng; quy định rõ hơn về vay nợ của địa phương. Đối với hệ
thống định mức phân bổ và chi tiêu NS ở địa phương, cần điều chỉnh cho phù
hợp với biến động thực tế, đảm bảo mỗi địa phương có đủ năng lực để cung cấp
các dịch vụ công thiết yếu ở mức độ trung bình. Và cuối cùng, nghiên cứu cũng
đề xuất quan điểm tăng cường phân cấp trong qui trình NS, trong đó trọng tâm là
tách bạch NSTW với NSĐP, xóa bỏ tính lồng ghép trong thực hiện NS.
5.1.2.3. Cuốn sách “Điều hòa NS giữa Trung ương và địa phương” do tác
giả Bùi Đường Nghiêu làm chủ biên, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, 2006 [7].
Nội dung của cuốn sách bàn về vấn đề điều hòa NS giữa Trung ương và
địa phương, vai trò của cơ chế điều hòa NS, đánh giá thực trạng của cơ chế điều
hòa NS liên quan đến phân chia nguồn thu, nhiệm vụ chi NS, cơ chế xác định tỷ
lệ phân chia nguồn thu NS, cơ chế bổ sung NS, nhóm tác giả cũng đề cập đến
giải pháp hoàn thiện cơ chế điều hòa NSNN ở Việt Nam.
5.1.2.4. Công trình với tên đề tài: “Thực hiện tốt sự phân cấp giữa CQTW
với CQĐP " do Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương thực hiện năm
2005 [65]. Công trình đã xem xét, phân tích xu thế phân cấp trong cải cách
HCNN hiện nay, trong đó lý giải các nguyên nhân khiến phân cấp trở thành xu
thế tất yếu của thời đại ngày nay, đặc biệt trong bối cảnh cải cách HCNN. Nhóm
tác giả cũng phân tích các ưu điểm và nhược điểm của phân cấp cùng các điều
kiện tiến hành phân cấp thành công trên thực tế. Công trình đã phân tích thực
12
trạng phân cấp quản lý nhà nước thông qua việc xem xét những chủ trương về
phân cấp quản lý từ Trung ương xuống địa phương; đánh giá tình hình phân cấp
giữa Chính phủ và chính quyền cấp tỉnh trên một số lĩnh vực như: quy hoạch, kế
hoạch; đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở; NS; quản lý đất đai, tài nguyên,
khoáng sản; quản lý doanh nghiệp nhà nước; quản lý các đơn vị cung ứng dịch
vụ công; về tổ chức bộ máy và nhân sự. Công trình có đánh giá thực trạng phân
cấp trong quản lý NS ở Việt Nam trong thời gian vừa qua nhưng mới chỉ mang
nét chấm phá, khái quát. Dựa trên những đánh giá và bài học rút ra, nhóm nghiên
cứu đề xuất 5 nhóm giải pháp đẩy mạnh phân cấp, bao gồm: Nhận thức đúng
việc phân cấp trong hệ thống HCNN; làm rõ nội dung quản lý nhà nước trong cơ
chế thị trường của mỗi cấp trong hệ thống bộ máy quản lý nhà nước; phân định
rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ mỗi cấp trong hệ thống hành chính; thực hiện
nghiêm túc các nguyên tắc đã được quy định về phân cấp và tăng cường đào tạo,
bồi dưỡng CBCC các cấp CQĐP.
5.1.2.5. Công trình với tên đề tài: “Nghiên cứu,tổng hợp quá trình hướng
dẫn xây dựng, triển khai và đánh giá kết quả thực hiện các đề án phân cấp
quản lý nhà nước thuộc các ngành, lĩnh vực (giai đoạn 2004 - 2007)" do Ban chủ
nhiệm chương trình 121, Bộ Nội vụ thực hiện năm 2007 [1]. Công trình đã trình
bày cơ sở cho việc tổ chức xây dựng các đề án; việc chỉ đạo hướng dẫn xây dựng
và triển khai thực hiện các đề án phân cấp quản lý nhà nước. Đặc biệt, công trình
đã đánh giá khái quát, tổng hợp kết quả thực hiện các đề án phân cấp quản lý nhà
nước đối với các ngành, lĩnh vực ở Việt Nam giai đoạn 2004 -2007. Tuy nhiên,
là một đề tài đánh giá việc phân cấp quản lý nhà nước đối với các ngành, lĩnh
vực nên không tập trung sâu vào phân cấp quản lý NSNN.
5.1.2.6. Ngân hàng thế giới (2005), “Phân cấp ở Đông Á: Để CQĐP phát
huy tác dụng, Nhà xuất bản Văn hoá thông tin [36].
Cuốn sách đã cung cấp nhiều vấn đề mang tính lý thuyết về phân cấp và
13
được làm rõ qua việc nghiên cứu thực tế ở một số nước Đông Bắc Á và Đông
Nam Á như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Indonesia, Philippines, Thái Lan
và Việt Nam. Nhóm tác giả cho rằng giữa phân cấp và quản lý tài chính công có
một sự tác động qua lại tương hỗ. Hoạt động trong cả quá trình phân cấp hành
chính phụ thuộc vào sự tương tác với các khía cạnh chính trị và tài chính của quá
trình phân cấp. Tuy nhiên, cuốn sách không đi sâu phân tích các khía cạnh của
phân cấp quản lý NSNN.
5.1.2.7. “Báo cáo phát triển Việt Nam năm 2005 - quản lý và điều hành ”
của Ngân hàng thế giới tại Việt Nam phát hành [35]. Báo cáo này tập trung vào
việc phân tích những vấn đề về tài chính công, quản lý công và chính sách công.
Trong đó, nội dung cuốn sách bàn về thuế, phí và lệ phí, quy trình NS, NS cho
các chương trình mục tiêu quốc gia, tài sản và nợ, chống tham nhũng, công tác
lập kế hoạch v.v. Đặc biệt trong phần quản lý công có đề cập đến nội dung phân
cấp NS và sự tham gia của người dân trong quản lý NSNN ở Việt Nam.
5.1.2.8. “Báo cáo phát triển Việt Nam năm 2010 - Các thể chế hiện đại”
của Ngân hàng thế giới tại Việt Nam ấn hành [37]. Báo cáo tập trung vàp việc
phân cấp, trao quyền và trách nhiệm giải trình, hai khía cạnh của thể chế hiện đại
và là những khía cạnh quan trọng nhất của Việt Nam trong hai thập kỷ vừa qua.
Để tìm hiểu những tác động của quá trình phân cấp và trao quyền, nhóm nghiên
cứu tiến hành các hoạt động như : (1) Phân tích những tác động do quá trình
phân cấp đem lại, buộc các cơ quan hành chính trung ương phải tự điều chỉnh khi
các trách nhiệm và chức năng được trao cho cấp dưới; (2) Nghiên cứu xem xét
thực tiễn việc phân cấp và trao quyền về mặt địa lý cho chính quyền cấp dưới;
(3) Nghiên cứu thực tiễn việc phân cấp về chức năng cho các đơn vị cung ứng
dịch vụ công, đặc biệt là dịch vụ hành chính công, dịch vụ y tế, giáo dục; (4)
Phân tích tầm quan trọng ngày càng tăng của hệ thống pháp luật và tư pháp mà
vai trò của những hệ thống này đang thay đổi trong quá trình thực hiện phân cấp;
14
(5) Xem xét các hình thức mới và những thay đổi trong việc kiểm soát quá trình
phân cấp từ phía các cơ quan chống tham nhũng, các tổ chức xã hội dân sự, các
phương tiện thông tin đại chúng và Quốc hội.
5.1.2.9. Bùi Thị Mai Hoài (2009) với bài nghiên cứu "Vận dụng mô hình
Tiebout vào phân cấp tài khóa ở Việt Nam" đăng trong Tạp Chí Phát triển Kinh
tế, số 3 [9] đã khái quát mô hình lý thuyết phân cấp quản lý NSNN của Tiebout
và đánh giá mô hình phân cấp quản lý NSNN của Việt Nam, đưa ra các luận giải
về sự khác biệt giữa thực tiễn phân cấp quản lý NSNN ở Việt Nam so với mô
hình Tiebout.
5.1.2.10. Vũ Như Thăng, Lê Thị Mai Liên (2013), Bàn về phân cấp NS ở
Việt Nam, Tạp chí tài chính, số 5 [72].
Trong bài viết, các tác giả đã nêu ra tóm tắt các kết quả đã đạt được, những
hạn chế trong phân cấp quản lý NSNN; đồng thời đưa ra các gợi ý chính sách về
phân cấp nhiệm vụ chi, phân cấp nguồn thu, chuyển giao NS giữa Trung ương và
địa phương, và vấn đề vay nợ của địa phương.
5.1.2.11. Ngoài ra, còn có nhiều tài liệu nghiên cứu khác liên quan đến
phân cấp quản lý NSNN. Chẳng hạn như:
Vũ Thành Tự Anh (2013), Phân cấp quản lý kinh tế ở Việt Nam nhìn từ
góc độ thể chế, Báo cáo theo yêu cầu của Ủy Ban Kinh Tế của Quốc hội Việt
Nam [73].
Vũ Như Thăng, các cộng sự (2012), Báo cáo chuyên đề nghiên cứu phân
cấp quản lý NSNN ở Việt Nam: thực trạng và định hướng đổi mới, Dự án Tăng
cường năng lực quyết định và giám sát NS của các cơ quan dân cử Việt Nam của
UB tài chính và NS của Quốc hội [71].
Các công trình nghiên cứu của Ủy ban Tài chính - NS của Quốc hội; tài
liệu của một số chương trình, dự án của các tổ chức nước ngoài và quốc tế tại
Việt Nam - DANIDA (Đan Mạch), SIDA (Thụy Điển), KAS (CHLB Đức), SDC
15
(Thuỵ Sỹ), ADB (Ngân hàng phát triển châu Á), WB (Ngân hàng thế giới), thông
qua việc tài trợ nghiên cứu phân cấp quản lý ở một số địa phương, bộ, ngành đã
xây dựng được các báo cáo tổng kết tình hình phân cấp quản lý nhà nước và đưa
ra một số khuyến nghị về đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước ở nước ta hiện
nay. Thêm vào đó, nhiều tổ chức quốc tế và các cơ quan đã tổ chức các Hội thảo
trong và ngoài nước bàn về đổi mới cơ chế quản lý, đẩy mạnh phân công, phân
cấp trong quản lý NS và thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà quản lý và nhà
khoa học.
5.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
So với các nghiên cứu trong nước thì các nghiên cứu ở nước ngoài về phân
cấp quản lý NSNN có nhiều hơn và đa dạng hơn. Căn cứ vào tiêu chí tác động
của phân cấp quản lý NSNN có thể phân chia các nghiên cứu đó thành các loại
như sau:
5.2.1. Các nghiên cứu về tác động của phân cấp quản lý NSNN đến hiệu
suất của khu vực công và phúc lợi xã hội.
Phân cấp quản lý NSNN sẽ làm gia tăng phúc lợi xã hội thông qua hai
kênh:(1) Phân bổ nguồn lực hiệu quả: CQĐP có mối quan hệ gần gũi với người
dân địa phương nên có thể đưa ra các chính sách khác nhau để đáp ứng tốt hơn
sở thích và lợi ích của người dân so với CQTW. (2) Cạnh tranh giữa các CQĐP:
Nếu chi phí cung cấp hàng hóa công cộng được tài trợ bởi thuế giao cho địa
phương, người dân sẽ lựa chọn địa phương phù hợp nhất với sở thích của họ
bằng cách “bỏ phiếu bằng chân” theo lý thuyết đã trình bày trong công trình:
Tiebout, M. Charles (1956), A Pure Theory of Local Expenditures, Journal of
Political Economy, 64: 416-24 [85]. Cạnh tranh giữa các CQĐP trong việc cung
cấp hàng hóa công dẫn đến có thể đạt được hiệu quả Pareto trong phân bổ nguồn
5.2.2. Các nghiên cứu về tác động của phân cấp quản lý NSNN đến tăng
lực.
16
trưởng kinh tế .
* Các nghiên cứu khẳng định phân cấp quản lý NSNN đem lại hiệu quả
tích cực đến tăng trưởng kinh tế, có thể kể đến các công trình:
Martinez-Vazquez, Jorge and Jameson Boex(2001), The Design of
Equalization Grants: Theory and Applications, World Bank Institute and
Georgia State University School of Policy Studies [79].
Martinez-Vazquez, J. and MacNab, R. M. (2003), Fiscal Decentralization
and Economic Growth, World Development,Volume 31, Issue 9, September
2003, Pages 1597–1616 [80].
* Các nghiên cứu khẳng định phân cấp quản lý NSNN có thể làm tổn hại
đến hiệu quả kinh tế, điển hình là:
Trong công trình của Prud’homme, R. (1994), On the Dangers of
Decentralization, Policy Research Working Paper Series. No. 1252. Washington,
DC: World Bank [82], đã có lưu ý rằng nhiều khi CQĐP đi ngược lại với mục
tiêu chính sách của CQTW. Ví dụ, CQĐP có thể tăng chi tiêu hoặc tăng thuế
trong khi CQTW đang nỗ lực giảm chi tiêu hay giảm thuế.
Trong công trình của Bogoev, Ksente (1991), The dangers of
decentralization: the experience of Yugoslavia, Foundation Journal Public
Finance, 1991, p. 99-112 [74], Nam Tư – một chính phủ có sự phân cấp quản lý
NSNN rất mạnh đã được sử dụng để minh họa CQTW đã không thể thực hiện
được chính sách tài khóa trong bối cảnh lạm phát cao và bất ổn kinh tế vĩ mô.
Ở một khía cạnh khác, phân cấp quản lý NSNN sẽ thúc đẩy các CQĐP vay
nợ và dẫn đến khủng hoảng nợ quốc gia.
Công trình Tanzi (1995), Fiscal Federalism and Decentralization: A
Review of Some Efficiency and Macroeconomic Aspects, Annual World Bank
Conference on Development Economics, pp. 295-316 [84] đã chỉ ra rằng: Khủng
hoảng tài khóa ở một số nước đang phát triển như Brazil và Argentina là do gia
17
tăng vay nợ của các CQĐP dẫn đến gia tăng nợ quốc gia.
5.2.3. Các nghiên cứu về tác động của phân cấp quản lý NSNN đến ổn
định kinh tế vĩ mô.
Phân cấp quản lý NSNN được cho là có tác động thúc đẩy ổn định kinh tế
vĩ mô nhờ giảm bớt các chi phí thông tin, chi phí hoạt động trong cung ứng dịch
vụ, và thúc đẩy khu vực tư nhân phát triển nếu kỷ luật tài khóa được thực thi một
cách nghiêm ngặt như ở các nước phát triển. Trong trường hợp ngược lại, khi
mức độ tuân thủ kỷ luật tài khóa kém, phân cấp quản lý NSNN sẽ tạo ra mất cân
bằng tiền tệ, tài khóa và làm suy yếu tăng trưởng kinh tế. Điển hình cho các
nghiên cứu thuộc nhóm này là công trình:
Shah, Anwar (2006), Fiscal decentralization and macroeconomic
management, International Tax and Public Finance, Volume 13, Issue 4, pp 437-
462 [83].
5.2.3. Các nghiên cứu về tác động của phân cấp quản lý NSNN đến hiệu
quả quản trị nhà nước của CQĐP.
Trong công trình của Inman, Robert.P and Rubinfeld, Daniel L (1997),
Rethinking Federalism, Journal Economic Perpectives, Volume 11 (4), page 43-
64 [78], các tác giả khẳng định phân cấp quản lý NSNN giúp khuyến khích sự
tham gia và dẫn đến trách nhiệm giải trình cao hơn của nhà nước. Cũng có nhiều
nghiên cứu thực hiện nhằm kiểm chứng mối quan hệ giữa phân cấp quản lý
NSNN và quản trị nhà nước. Một số nhà nghiên cứu tập trung vào mối quan hệ
giữa phân cấp quản lý NSNN và tham nhũng, chẳng hạn các công trình:
Fisman, R.and R. Gatti (2002), Decentraliation andCorruption: Evidence
from US FederalTransfer Programs.Public Choice,Vol 113,No1/2,pp 25-35 [75].
Gurgur,T. and A. Shah(2005), Localization and corruption: panacea or
pandora’s box? World BankPolicy ResearchWorking aper Series,No. 3486 [76].
Một số nhà nghiên cứu khác lại xem xét phân cấp quản lý NSNN như là
18
một chỉ số của quản lý hành chính công theo khía cạnh tham gia của người dân,
minh bạch của các quy định của luật pháp, ví dụ các công trình:
Huther, J. and A. Shah(1998), Applying a Simple Measure of Good
Governance to the Debate of Fiscal Decentralization,World Bank Policy
Research Working Paper Series, No. 1894 [77].
Mello, L. and M. Barenstein (2001), Fiscal Decentralization and
Governance: A Cross-Country Analysis, IMF Working Paper Series. No. 01/71.
Washington, DC: International Monetary Fund [81].
Các kết luận rút ra từ các nghiên cứu này là khá đa dạng, tuy nhiên luận
điểm phân cấp quản lý NSNN giúp cải thiện chất lượng quản trị nhà nước được
khá nhiều nghiên cứu ủng hộ.
5.3."Chỗ trống" trong nghiên cứu về phân cấp quản lý ngân sách nhà
nước
Như mục 5.1 và 5.2 ở trên đã trình bày, có rất nhiều công trình khoa học
nghiên cứu về phân cấp quản lý NSNN, hoặc nghiên cứu một nội dung trong số
các nội dung của phân cấp quản lý NSNN, nhưng chưa có công trình nào trùng
lặp về tên đề tài, đối tượng, phạm vi nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu như tác
6. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN
giả đã lựa chọn.
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục các công trình của tác giả đã
công bố liên quan đến luận án, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, kết cấu
của Luận án gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
Chương 2: Thực trạng phân cấp quản lý ngân sách nhà nước nghiên
cứu trường hợp tỉnh Ninh Bình
Chương 3: Giải pháp phân cấp quản lý ngân sách nhà nước trường hợp
tỉnh Ninh Bình
19
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ
1.1. NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ HỆ THỐNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1.1. Ngân sách nhà nước [22]
1.1.1.1. Khái niệm ngân sách nhà nước
Trong hoạt động kinh tế - xã hội, “NS” thường được hiểu là một kế hoạch
ước tính số tiền thu chi của một chủ thể.
Dưới chế độ phong kiến, những khoản chi tiêu cho mục đích công cộng
(làm đường, đắp đê, xây dựng quân đội, ...) không có sự tách biệt với những
khoản chi tiêu cho gia đình nhà vua. Khi giai cấp tư sản xuất hiện và có đại diện
tại nghị viện (đại diện cho người dân) thì xuất hiện yêu cầu phải tách bạch rõ
ràng khoản chi tiêu cho mục đích công cộng và chi tiêu cho gia đình nhà vua, từ
đó làm nảy sinh khái niệm NSNN. Thuật ngữ NSNN đã được đưa vào Hiến pháp
của nước Anh từ cuối thế kỷ thứ 17 và cho đến ngày nay thì có trong Hiến pháp
của tất cả các nước.
Theo Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), NSNN bao gồm tất cả
các khoản chi tiêu và các khoản thu của Chính phủ, được trình lên cơ quan lập
pháp xem xét và phê duyệt trước khi bắt đầu một năm NS mới.
Tuy nhiên việc tăng cường vai trò can thiệp của nhà nước trong các lĩnh
vực kinh tế - xã hội đã dẫn đến những thay đổi trong quan niệm về NS theo nghĩa
rộng hơn: Quốc hội có quyền kiểm soát và phê duyệt NS và sử dụng NS như một
công cụ để đảm bảo trách nhiệm của Chính phủ trong việc sử dụng nguồn lực;
NS là một công cụ của Chính phủ để vận hành các chính sách. Phạm vi của NS
phụ thuộc vào phạm vi hoạt động của Chính phủ, bao gồm cả các khoản thu và
chi
20
Khác với NS của các chủ thể khác (hộ gia đình, doanh nghiệp, tổ chức xã
hội, v.v...), từ các quan niệm trên có thể khái niệm về NSNN theo các góc nhìn
khác nhau: Về kinh tế, đó là là một công cụ chính sách kinh tế của quốc gia; về
chính trị, NSNN được các đại biểu của dân giám sát, phê duyệt; về luật pháp,
NSNN là một văn bản pháp luật được phê duyệt bởi cơ quan quyền lực nhà nước,
còn cơ quan hành pháp là người thực hiện; về mặt quản lý, NSNN là căn cứ để
quản lý tài chính trong các đơn vị sử dụng NS.
1.1.1.2. Thu, chi ngân sách nhà nước và vay nợ cho ngân sách nhà
nước
Thu NSNN
Thu NSNN là hoạt động tài chính của Nhà nước được xác lập bằng hệ
thống chính sách, luật pháp do Nhà nước ban hành dựa trên cơ sở quyền lực
chính trị của Nhà nước đối với các chủ thể khác trong xã hội để huy động một bộ
phận giá trị của cải xã hội hình thành quỹ NSNN nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu
của Nhà nước.
Với thông lệ quốc tế, phân loại theo nội dung kinh tế, các khoản thu
NSNN bao gồm: (1) Các loại thuế, phí, lệ phí; (2) Các khoản đóng góp xã hội;
(3) Tài trợ; (4) Các khoản thu khác.
Về thu NSNN cần đặc biệt lưu ý: Thuế, phí, lệ phí là các khoản thu thường
xuyên; còn thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN. Các khoản thu còn lại giữ vai
trò quan trọng trong việc cùng thuế, phí, lệ phí tạo lập nên NSNN, đặc biệt là
trong điều kiện thu có nhiều khó khăn và chi ngày càng gia tăng.
Chi NSNN
Chi NSNN là quá trình phân bổ và sử dụng NSNN nhằm thực hiện các
nhiệm vụ của Nhà nước trong từng thời kỳ.
Với thông lệ quốc tế, phân loại theo nội dung kinh tế, chi NSNN bao gồm:
21
(1) Chi thường xuyên là những khoản chi có thời hạn tác động ngắn,
thường dưới một năm. Nhìn chung, đây là các khoản chi chủ yếu phục vụ cho
chức năng quản lý và điều hành xã hội một cách thường xuyên của Nhà nước
trong các lĩnh vực như: Quản lý nhà nước, quốc phòng, an ninh, sự nghiệp giáo
dục đào tạo, y tế, văn hoá thông tin, thể dục thể thao, khoa học công nghệ, v.v...
(2) Chi đầu tư phát triển là những khoản chi có thời hạn tác động dài,
thường trên một năm, hình thành nên những tài sản vật chất có khả năng tạo
được nguồn thu, trực tiếp làm tăng cơ sở vật chất của đất nước. Các khoản chi
đầu tư phát triển bao gồm: Chi đầu tư XDCB các công trình kết cấu hạ tầng kinh
tế xã hội không có khả năng thu hồi vốn; chi mua hàng hoá, vật tư dự trữ của
Nhà nước; đầu tư hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp, các quỹ và đầu tư vào tài sản;
góp vốn cổ phần liên doanh vào các doanh nghiệp cần thiết phải có sự tham gia
của Nhà nước; chi cho các chương trình mục tiêu quốc gia, dự án của nhà nước.
(3) Các khoản chi khác bao gồm những khoản chi NSNN còn lại như: Chi
trả nợ gốc và lãi các khoản tiền do Nhà nước vay, chi viện trợ, chi cho vay, chi
bổ sung quỹ dự trữ tài chính, v.v...
Vay nợ cho NSNN
Các quốc gia thường bị áp lực về gia tăng chi tiêu, trong khi khả năng tăng
thu NSNN là rất khó khăn. Trong điều kiện thu không đủ chi thì NSNN bị bội
chi. Về cơ bản, các quốc gia trên thế giới thường sử dụng các nguồn bù đắp bội
chi NSNN như sau:
Vay nợ trong nước
Vay nợ trong nước thường được thực hiện thông qua việc chính phủ phát
hành công cụ nợ trên thị trường tài chính trong nước. Biện pháp dễ triển khai,
tránh bị ảnh hưởng từ bên ngoài, cung cấp cho thị trường tài chính một khối
lượng hàng hóa có quy mô lớn, chất lượng cao, ít rủi ro, không làm giảm dự trữ
ngoại hối. Vì vậy, biện pháp này được coi là một cách hiệu quả để kiềm chế lạm
22
phát trước mắt. Tuy nhiên, nó có thể làm gia tăng tỷ lệ lạm phát trong tương lai
nếu tỷ lệ nợ trên GDP liên tục tăng. Khả năng vay của Nhà nước bị giới hạn
trọng phạm vi lượng tiết kiệm của khu vực tư. Nếu vay quá nhiều trong nước sẽ
làm tăng lãi suất thị trường trong nước, tạo ra sự chèn lấn đầu tư của khu vực tư,
và cái vòng nợ - trả lãi - bội chi sẽ làm tăng mạnh các khoản nợ công.
Vay nợ ngoài nước
Chính phủ có thể vay nợ nước ngoài từ các chính phủ nước ngoài, các định
chế tài chính quốc tế như Ngân hàng thế giới (WB), Qũy Tiền tệ Quốc tế (IMF),
Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), các tổ chức liên chính phủ, tổ chức quốc
tế, v.v... Đây là là biện pháp bù đắp bội chi không trực tiếp gây sức ép lạm phát
cho nền kinh tế, bổ sung cho nguồn vốn thiếu hụt trong nước, góp phần thúc đẩy
phát triển kinh tế -xã hội. Tuy nhiên, vay nước ngoài phụ thuộc vào đối tác cho
vay, chịu sự ràng buộc, áp đặt bởi nhiều điều kiện về chính trị, quân sự, kinh tế,
v.v... Nếu vay nước ngoài quá nhiều sẽ kéo theo vấn đề phụ thuộc nước ngoài.
Nếu sử dụng tiền vay nợ không hiệu quả sẽ làm tăng áp lực trả nợ, gián tiếp gây
sức ép lạm phát.
1.1.1.3. Quy trình quản lý ngân sách nhà nước
Theo thông lệ quốc tế, quy trình quản lý NSNN là toàn bộ các hoạt động
của 3 khâu: (1) Chuẩn bị và quyết định NSNN; (2) Chấp hành NSNN; (3) Kiểm
toán và đánh giá NSNN.
Chuẩn bị và quyết định NS phải hoàn thành trước khi bắt đầu năm NS.
Chấp hành NS được thực hiện trong năm NS. Kiểm toán và đánh giá thực hiện
sau khi năm NS kết thúc. Đây là quy trình quản lý đã được hình thành từ lâu
trong lịch sử, gắn liền với quyền quyết định và giám sát của Quốc hội về NSNN.
Ở Việt Nam, khâu thứ 3 của quy trình quản lý NSNN được gọi là khâu quyết
toán NSNN.
23
Về mặt thời gian, quy trình quản lý NSNN là một khoảng thời gian tính từ
khi bắt đầu xây dựng dự toán NS cho đến khi phê duyệt và công bố quyết toán
NS.
Về mặt không gian, quy trình quản lý NSNN diễn ra ở tất cả các cơ quan
nhà nước, các đơn vị sử dụng NSNN từ trung ương đến địa phương.
Về mặt nội dung, quy trình quản lý NSNN bao gồm:
Chuẩn bị và quyết định dự toán NS hàng năm.
Trong khâu chuẩn bị dự toán, cơ quan hành pháp dự báo thu, chi NSNN
trên phạm vi cả nước từ Trung ương đến địa phương; ban hành các văn bản
hướng dẫn xây dựng dự toán, triển khai xây dựng dự toán, trình bản dự toán NS
lên cơ quan quyền lực nhà nước xem xét, quyết định.
Theo thông lệ quốc tế, quá trình chuẩn bị dự toán NS được thực hiện bởi
sự kết hợp của 2 phương pháp. Phương pháp thứ nhất: Dự toán NS được xây
dựng từ cấp trên và áp đặt cho cấp dưới; phương pháp thứ hai: Dự toán NS được
xây dựng từ cấp dưới rồi đệ trình lên cấp trên, sau đó cấp trên và cấp dưới thảo
luận để điều chỉnh dự toán. Quyết định dự toán là bước công việc tiếp theo, bao
gồm các nội dung: Thẩm tra dự thảo NS; Thảo luận và quyết định NS.
Chấp hành dự toán NS.
Chấp hành dự toán NS là quá trình thực hiện tổng hợp các biện pháp kinh
tế, tài chính và hành chính để biến các chỉ tiêu thu, chi ghi trong dự toán trở
thành hiện thực. Chấp hành dự toán phải tuân thủ kỷ luật tài khoá tổng thể; đảm
bảo hiệu quả phân bổ và hiệu quả hoạt động.
Nội dung chấp hành dự toán NS gồm: Chấp hành dự toán thu NS, chấp
hành dự toán chi NS và hoạt động quản lý quĩ NS.
Để tổ chức chấp hành dự toán NS thành công, đòi hỏi phải có sự tuân thủ
nghiêm minh pháp luật về NSNN, sự vào cuộc của tất cả các cơ quan, đơn vị, cá
24
nhân như: Cơ quan thu (Thuế, Hải quan,...); cơ quan tài chính, cơ quan quản lý
quỹ NSNN; ngân hàng nơi người nộp thuế mở tài khoản; tổ chức, cá nhân có
nghĩa vụ nộp NSNN; các đơn vị sử dụng NSNN; v.v... Đặc biệt, sự lãnh đạo, chỉ
đạo của các cấp chính quyền giữ vai trò vô cùng quan trọng trong việc tổ chức
chấp hành dự toán NS.
Kiểm toán và đánh giá NS.
Sau khi kết thúc năm NS, cơ quan hành pháp lập báo cáo quyết toán trình
cơ quan quyền lực nhà nước phê chuẩn. Để có căn cứ xem xét, cơ quan quyền
lực nhà nước sử dụng báo cáo đánh giá của cơ quan Kiểm toán nhà nước, báo
cáo thẩm tra của các cơ quan giúp việc, báo cáo đánh giá của khu vực xã hội dân
sự (nếu có). Các báo cáo đó đánh giá về tính tuân thủ, hiệu quả và tác động của
thu chi NS đối với hoạt động kinh tế - xã hội. Căn cứ vào các báo cáo quyết toán
và các báo cáo đánh giá, cơ quan quyền lực nhà nước sẽ thảo luận để phê chuẩn
quyết toán NS.
Về mối quan hệ quyền lực, quy trình quản lý NSNN là quá trình cụ thể hóa
quyền lực nhà nước trong lĩnh vực tài chính -NS của cơ quan quyền lực nhà nước
(Quốc hội, HĐND) và cơ quan chấp hành (Chính phủ, UBND).
Về chủ thể tham gia: Các cơ quan nhà nước ở tất cả các cấp đều tham gia
vào quy trình quản lý NSNN với những quyền hạn và trách nhiệm cụ thể ở từng
giai đoạn của quy trình quản lý NSNN. Ngoài ra, còn phải kể đến các cơ quan, tổ
chức, đơn vị, cá nhân khác có liên quan đến NSNN.
Thời gian của một năm NS là 12 tháng. Các mốc thời gian bắt đầu và kết
thúc 1 năm NS ở các quốc gia không giống nhau. Ví dụ: Tại Anh, năm NS bắt
đầu từ ngày 01/4 năm nay và kết thúc vào cuối ngày 31/3 năm sau; tại Pháp, Việt
Nam, năm NS bắt đầu từ ngày 01/01 và kết thúc vào cuối ngày 31/12 hàng năm.
Nhưng quy trình quản lý NSNN vẫn không hề thay đổi.
25
1.1.2. Hệ thống ngân sách nhà nước
Nhà nước ở các quốc gia được tổ chức thành hệ thống chính quyền các cấp
từ trung ương đến cơ sở. Mỗi cấp chính quyền trong bộ máy nhà nước thực hiện
chức năng nhiệm vụ được giao trên một địa bàn hành chính - lãnh thổ nhất định,
luôn phải có đội ngũ cán bộ công chức, viên chức, cơ sở vật chất và các phương
tiện tài chính. Hệ thống chính quyền nhà nước, địa vị pháp lý cũng như các chức
năng nhiệm vụ về quản lý nhà nước của các cấp chính quyền là yếu tố cơ bản,
quyết định, đòi hỏi phải xây dựng được một hệ thống NSNN phù hợp. “Hệ thống
NSNN là tập hợp các cấp ngân sách từ Trung ương đến địa phương, được xây
dựng theo mối quan hệ chiều dọc, dựa trên những nguyên tắc nhất định để đảm
bảo sự hoạt động thống nhất của từng cấp trong toàn bộ hệ thống và đạt được
mục tiêu của hệ thống” [22, tr84].
Cấp NSNN được hình thành trên cơ sở cấp chính quyền. Ở những nước có
nhà nước liên bang, hệ thống NS thường có 3 cấp: NS liên bang, NS bang và
NSĐP. Ở những nước có nhà nước đơn nhất, hệ thống NS thường bao gồm
NSTW và NSĐP. NSĐP là toàn bộ các khoản thu NSNN được phân cấp, thu bổ
1.2. PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC [8], [22], [36], [37],
sung từ NS cấp trên và các khoản chi NSNN của cấp địa phương.
1.2.1. Khái niệm phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
[85]
Vào những năm 1980 của thế kỷ trước, tăng trưởng kinh tế thế giới bắt
đầu đình trệ cùng với các cuộc khủng hoảng nợ của các nước Mỹ Latinh đã đặt ra
nhiều nghi vấn về tính hiệu quả đối với sự can thiệp quá sâu của nhà nước. Để
khắc phục tính kém hiệu quả của nhà nước Trung ương, nhiều quốc gia đã thực
hiện phân cấp, các cấp CQĐP được chia sẻ nhiều quyền lực hơn và CQTW tập
trung thực hiện các nhiệm vụ vĩ mô, trọng yếu của nhà nước. Xu hướng phân cấp
cũng còn được chi phối bởi một loạt các nhân tố như: nỗ lực tinh giảm bộ máy
26
hành chính Trung ương, cắt giảm NS, tăng cường tự do hoá kinh tế và định
hướng thị trường.
Phân cấp quản lý NSNN là một nội dung trọng yếu của phân cấp quản lý
nhà nước - sự chuyển giao quyền và trách nhiệm của CQTW cho các cấp chính
quyền bên dưới. Tuy vậy, phân cấp quản lý NSNN là một khái niệm phức tạp,
không có sự thống nhất hoàn toàn về cách hiểu. Thuật ngữ “phân cấp quản lý
NSNN’’ thường nhấn mạnh việc phân chia nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp
chính quyền; nhưng nó cũng bao hàm các thẩm quyền quản lý và quyền quyết
định về NS giữa các cấp chính quyền nhà nước. NSNN thực chất là công cụ tài
chính để phục vụ cho sự thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của chính quyền nhà
nước. Chính quyền nhà nước được phân cấp, phân quyền thì công cụ tài chính
này cũng phải được tổ chức cho phù hợp với cơ cấu tổ chức của chủ thể sử dụng
nó. Nếu có sự phân cấp về quản lý kinh tế - xã hội cho các cấp chính quyền thì
cũng phải phân cấp tương ứng về NS. Bởi vì, nếu không có quyền tự quản tương
ứng về tài chính thì không thể có cơ sở vật chất cho việc thực hiện những quyền
tự quản về kinh tế - xã hội. Phân cấp quản lý kinh tế - xã hội là tiền đề, điều kiện
quyết định phân cấp quản lý NSNN và ngược lại, nếu phân cấp quản lý NSNN
phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế - xã hội, sẽ giúp các cấp chính quyền thực
hiện tốt các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của mình. Đây là hai mặt của một quá
trình thống nhất, quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau, thúc đẩy nhau
phát triển tích cực nếu nhận thức và vận dụng chúng hợp quy luật.Thực tiễn cho
thấy, nếu không có phân công trách nhiệm rõ ràng giữa các cấp chính quyền
bằng cơ chế phân cấp quản lý kinh tế - xã hội phù hợp thì không có được cơ chế
phân cấp quản lý NSNN đúng; ngược lại, nếu không có được cơ chế phân cấp
quản lý NSNN đúng, sẽ gây khó khăn cho chính quyền thực hiện yêu cầu quản lý
nhà nước về kinh tế - xã hội. Như vậy, phân cấp quản lý NSNN là hệ quả tất yếu
của phân cấp quản lý kinh tế - xã hội. Nếu thoát ly mối quan hệ này thì phân cấp
27
quản lý NSNN không có ý nghĩa kinh tế - xã hội, gây cản trở cho quản lý nhà
nước và sự phát triển kinh tế - xã hội.
Từ việc phân tích trên, tác giả luận án cho rằng: Phân cấp quản lý NSNN
là việc phân chia nguồn lực, nhiệm vụ chi cùng với việc xác định phạm vi,
trách nhiệm, quyền hạn quản lý và quyết định về NS giữa các cấp chính quyền
nhà nước phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế - xã hội.
Sự cần thiết của phân cấp quản lý NSNN chính là do những lợi ích mà
phân cấp quản lý NSNN mang lại (sẽ được nghiên cứu ở mục 1.2.6): Thúc đẩy
CQĐP nâng cao năng lực quản lý và tinh thần phục vụ nhân dân; tăng phúc lợi
xã hội cho các địa phương và toàn thể quốc gia; giúp ổn định kinh tế vĩ mô.
1.2.2. Hình thức phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
Phân cấp quản lý NSNN là nhằm thúc đẩy CQĐP thực hiện các nhiệm vụ
kinh tế - xã hội đã được phân cấp. Chính vì vậy, quá trình phân cấp quản lý
NSNN cũng được diễn ra như phân cấp quản lý kinh tế - xã hội, bao gồm các
hình thức sau:
Tản quyền (deconcentration): Là hình thức giao quyền quyết định, chức
năng quản lý cụ thể vốn thuộc cơ quan Trung ương cho các cơ quan đại diện
CQTW ở các địa phương, trong khi quyền lực và trách nhiệm về pháp lý vẫn
thuộc hệ thống cơ quan Trung ương. Đây là hình thức có mức độ phân cấp bằng
không nếu nhìn từ mối quan hệ giữa các cấp chính quyền, vì việc chuyển giao
nhiệm vụ, quyền hạn chỉ diễn ra trong nội bộ chính quyền cấp trên. Cơ quan
Trung ương đại diện tại địa phương chỉ là đơn vị dự toán của NS cấp trên.
Uỷ quyền (delegation): Là hình thức CQĐP được CQTW giao quyền hạn
và trách nhiệm điều hành trên địa bàn địa phương, tuy nhiên CQTW vẫn chịu
trách nhiệm về các quyết định. Ví dụ, phân cấp quản lý NSNN ở Việt Nam mang
đậm dấu ấn của hình thức ủy quyền. Theo các Luật NSNN năm 1996 (sửa đổi bổ
sung năm 1998), năm 2002 và năm 2015, nguồn thu, nhiệm vụ chi NS được phân
28
chia giữa các cấp chính quyền, nhưng mọi quyền quyết định quan trọng về
NSNN đều tập trung ở CQTW (quyền quy định về chính sách thuế, các định mức
chi tiêu chủ yếu, quyết định dự toán, quyết toán NSNN,v.v...)
- Trao quyền (devolution): là sự phân giao quyền hạn, nhiệm vụ, phương
tiện vật chất v.v… từ CQTW cho các cấp CQĐP thực hiện. CQĐP được tự quyết
định các vấn đề của địa phương trên cơ sở luật pháp. CQTW thực hiện sự kiểm
tra hoạt động của địa phương thông qua hệ thống pháp luật. Đây là hình thức
đảm bảo tính độc lập cao nhất của CQĐP.
Hình thức trao quyền có mức độ phân cấp cao nhất thường được áp dụng ở
mô hình nhà nước liên bang. Ngược lại, các hình thức phân cấp ở mức độ thấp
hơn thường được áp dụng trong mô hình nhà nước đơn nhất. Nhưng thường thì
phân cấp quản lý NSNN có sự lồng ghép giữa các hình thức khác nhau.
1.2.3. Căn cứ phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
Để thực hiện phân cấp quản lý NSNN nói chung và NSĐP nói riêng, cần
phải dựa trên các căn cứ sau:
Căn cứ vào hệ thống pháp luật về phân cấp quản lý NSNN
Các quốc gia trên thế giới đều ban hành những quy định pháp luật để thực
hiện quản lý xã hội. Để quản lý NSNN có hiệu quả thì Nhà nước ban hành hệ
thống những quy định pháp luật có liên quan đến việc tổ chức và quản lý NSNN,
trong đó có những quy định cụ thể về phân cấp quản lý NSNN.
Trong hệ thống những quy định pháp luật về NSNN thì Luật NSNN là văn
bản pháp luật quy định tập trung nhất những vấn đề có liên quan đến quản lý
NSNN và phân cấp quản lý NSNN. Thông thường trong Luật NSNN sẽ có những
quy định về hệ thống NSNN có những cấp nào, thẩm quyền của các cơ quan
quản lý nhà nước là gì, quy định về phân chia nguồn thu và nhiệm vụ chi NSNN
của các cấp NS, những quy định về cách thức quản lý NSNN và trách nhiệm của
29
các cơ quan nhà nước ở Trung ương như Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan ở
địa phương như cơ quan quyền lực và cơ quan HCNN, những quy định về giám
sát và kiểm toán NSNN,v.v...
Căn cứ vào tổ chức bộ máy nhà nước
NS là phương tiện tài chính để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà
nước. Vì vậy, tổ chức bộ máy nhà nước, địa vị pháp lý cũng như các chức năng
nhiệm vụ của các cấp chính quyền là căn cứ cơ bản để xây dựng hệ thống NS. Ở
đơn vị hành chính nào, chính quyền bao gồm đủ cả 2 cơ quan – cơ quan quyền
lực nhà nước và cơ quan HCNN - thì tổ chức tương wings một cấp NS. Ở đơn vị
hành chính nào, chính quyền chỉ có cơ quan HCNN thì tổ chức là một đơn vị dự
toán của NS cấp trên.
Căn cứ vào khả năng cung cấp hàng hóa công cộng của các cấp chính
quyền
Nguồn lực là khan hiếm, do đó lý thuyết Tiebout cũng như thực tiễn đã
chỉ ra rằng cấp chính quyền nào làm tốt việc cung cấp những hàng hóa công cộng
nào thì hãy giao cho cấp chính quyền đó. Phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi
NS là để cung cấp hàng hóa công cộng với chi phí thấp nhất nhưng chất lượng
cao nhất, đồng thời đáp ứng nhu cầu, sở thích của người dân địa phương.
Căn cứ vào đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của vùng lãnh thổ
Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của các vùng lãnh thổ khác nhau có thể
dẫn đến chênh lệch về GDP, GDP tính bình quân trên đầu người, về thu nhập và
chi tiêu, về tỷ lệ hộ nghèo, v.v...Vì vậy, khi phân cấp thu chi, điều hòa và bổ
sung NS cần tính đến thuận lợi cũng như khó khăn của từng địa phương để phát
triển cân đối giữa các vùng, miền và đảm bảo công bằng cho người dân thụ
hưởng các hàng hóa công cộng.
30
1.2.4. Nội dung phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
Từ khái niệm về phân cấp quản lý NSNN nói chung và phân cấp quản lý
NSĐP nói riêng, xét dưới góc độ mối quan hệ quyền lực giữa Trung ương - địa
phương, giữa cấp tỉnh – các cấp bên dưới, các nước đều thừa nhận phân cấp quản
lý NS bao gồm ba nội dung chủ yếu sau:
(1) Xác định phạm vi, trách nhiệm và quyền hạn của các cấp chính quyền
trong việc ban hành các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức thu chi NS.
(2) Phân chia nguồn lực (từ thu NS, điều hòa và bổ sung NS, vay nợ) và
xác định nhiệm vụ chi.
(3) Xác định quyền hạn và trách nhiệm của các cấp chính quyền nhà nước
trong quá trình thực hiện quy trình quản lý NS.
Nội dung vật chất của hoạt động NS bao gồm: Thu; Chuyển giao NS giữa
các cấp chính quyền; vay nợ; và chi tiêu. Ví dụ, việc xác định quyền hạn và trách
nhiệm của CQĐP và CQTW trong từng nhiệm vụ chi được thể hiện thông qua
quá trình thực hiện quy trình quản lý NSNN. Tương tự, việc xác định phạm vi,
trách nhiệm và quyền hạn của các cấp chính quyền trong việc ban hành các chính
sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức thu chi NSNN cũng chính là việc xác định
thẩm quyền quyết định của các cấp chính quyền đối với từng khoản thu, chi.
Các nội dung cụ thể về phân cấp quản lý NS:
Thứ nhất: Xác định phạm vi, trách nhiệm và quyền hạn của các cấp
chính quyền trong việc ban hành các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định
mức thu chi NS
Về chế độ, chính sách trong phân cấp quản lý NSNN cần làm rõ những
vấn đề sau: Cơ quan Nhà nước nào có thẩm quyền ra các chế độ, chính sách,
định mức, tiêu chuẩn thu, chi và đó là những loại chế độ nào?
31
Về nguyên tắc, những chính sách, chế độ nào đã do Trung ương quy định
thì các cấp CQĐP tuyệt đối không được tự điều chỉnh hoặc vi phạm. Ngược lại,
Trung ương cũng phải tôn trọng thẩm quyền của các địa phương, tránh can thiệp
làm mất đi tính tự chủ của họ.
Từ phân tích về các hình thức phân cấp quản lý NSNN đã đề cập ở trên có
thể thấy: Ở các nước áp dụng hình thức Trao quyền (devolution) – thường là các
nước liên bang – mức độ phân cấp đảm bảo tính độc lập cao nhất cho CQĐP.
CQĐP có thể tự đặt ra các sắc thuế và quy định tiêu chuẩn, chế độ định mức chi
tiêu. Ở những nước áp dụng hình thức Uỷ quyền (delegation) thì quyền quyết
định ban hành các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức thu chi NS quan
trọng thuộc về Trung ương, còn địa phương chủ yếu chỉ được giao trách nhiệm
và quyền hạn điều hành quản lý NS.
Thứ hai: Phân chia nguồn lực (từ thu NS, điều hòa và bổ sung NS, vay
nợ) và xác định nhiệm vụ chi
Phân cấp nguồn thu NS
Phân cấp nguồn thu cho một cấp chính quyền là việc chuyển giao quyền
và trách nhiệm cho cấp chính quyền đó về việc nuôi dưỡng, huy động và sử dụng
nguồn thu để thực hiện nhiệm vụ chi. Việc phân cấp nguồn thu cần phải tương
ứng với nhiệm vụ chi, cân bằng được mối quan hệ lợi ích – chi phí của người
nộp thuế, hạn chế tác động rủi ro của thuế, giảm thiểu chi phí hành chính trong
quản lý và thu thuế. Phân cấp nguồn thu còn nhằm để đảm bảo sự công bằng
giữa các cấp CQĐP và Trung ương về tài chính cũng như sự bình đẳng giữa các
vùng.
Nguồn thu của NSNN chủ yếu là thuế. Nguồn thu từ thuế luôn bị giới hạn.
Nếu một cấp NS nào đó được nhận nhiều hơn thì các cấp NS khác sẽ ít đi vì khả
năng tăng thuế rất hạn chế. CQĐP các cấp khó đưa ra được nhiều sắc thuế địa
phương vì công dân địa phương sẽ không ủng hộ. Vì vậy, chuyển giao một sắc
32
thuế cho CQĐP luôn đòi hỏi phải xem xét trên 2 mặt: Khả năng thu và quản lý
thu. CQĐP, đặc biệt là CQĐP cấp cơ sở thường gặp khó khăn về năng lực. Đó
cũng là một lý do để Trung ương không muốn chuyển giao cho địa phương các
nhiệm vụ, quyền hạn về thuế. Chính phủ thường cho rằng Trung ương thu thuế
sẽ hiệu quả hơn là giao cho địa phương, nhất là địa phương cấp cơ sở.
Về lý thuyết, nguồn thu của CQĐP là từ:
(1) Các khoản thu được phân cấp, bao gồm:
- Các khoản thu địa phương được hưởng 100%;
- Các khoản thu được phân chia theo tỷ lệ % với CQTW hoặc CQĐP cấp
trên.
(2) Bổ sung từ Trung ương hoặc CQĐP cấp trên.
Các khoản thu được phân cấp của CQĐP cần được coi trọng, đó là cách
thức thể hiện mức độ tự chủ về tài chính của CQĐP các cấp và mức độ cân đối
chung giữa các cấp NS về tài chính.
Nguồn thu của địa phương càng lớn, chính quyền càng phải có trách
nhiệm báo cáo với công dân địa phương. Công dân sẽ tích cực nộp thuế hoặc tạo
nguồn tài chính cho CQĐP khi họ thấy rõ được lợi ích từ việc nộp thuế của họ.
Từ đó sẽ tạo nên hoạt động có hiệu quả hơn khi giao cho CQĐP tạo nguồn thu
của địa phương. Khi trao cho CQĐP trách nhiệm, quyền hạn về một số sắc thuế,
đặc biệt phải lưu ý các vấn đề sau:
Thứ nhất: CQĐP cần được trao quyền về một số loại thuế địa phương mà
họ hiểu rõ và có thể quản lý hiệu quả nhất. Chẳng hạn thuế thu nhập từ lương,
thuế tài sản. Những loại thuế như thuế GTGT, thuế lợi nhuận kinh doanh nếu để
lại cho CQĐP thu sẽ gặp khó khăn vì năng lực, cách thức thu thập thông tin hạn
chế.
Thứ hai: Sự cam kết, ủng hộ của công dân trong việc nộp thuế.
33
Thứ ba: Quyền hạn của CQĐP định ra thuế suất.
Ở nhiều quốc gia, nhà nước thực hiện chính sách trao cho CQĐP quyền
thuế độc lập. Mức độ độc lập và các loại thuế được trao có sự khác nhau giữa các
nước. Việc trao quyền đó sẽ tạo cơ hội cho CQĐP xử lý được hài hòa các mối
quan hệ trong việc tạo ra nguồn thu phù hợp với điều kiện thị trường ở địa
phương.
Trao cho CQĐP quyền về thuế tương đối độc lập cũng là cách thức giải
quyết mẫu thuẫn giữa trách nhiệm phải chi của địa phương và sự không thích
ứng của nguồn thu. Thuế địa phương, phần được chia từ các loại thuế chia chung
với các cấp chính quyền khác, cùng các nguồn thu khác là cách làm hiệu quả và
phổ biến hiện nay ở nhiều nước để giải quyết mối quan hệ và tạo sự cân bằng thu
chi. Đi liền với việc chuyển giao thu thuế địa phương có thể dần dần cắt giảm
phần chuyển giao giữa các cấp chính quyền. CQĐP có nhiều quyền hơn về thuế
thì họ cũng phải chịu áp lực nhiều hơn từ công dân địa phương. Đó chính là cách
nâng cao hiệu quả của thuế được thu, tránh được sự đi vòng vèo của các nguồn
thu. Nói cách khác, đó là sự gia tăng các loại thuế cho địa phương và hạn chế
phần thuế mà địa phương phải thu hộ và sau đó lại được phân phối lại cho địa
phương.
CQĐP có thể được trao một số quyền như: Ấn định cơ sở tính thuế và thuế
suất, quy định mức thu phí dịch vụ. Mức độ cao nhất của phân cấp quyền hạn về
thu NSNN là CQĐP được phép tự đặt ra các khoản thu.
Cần lưu ý là khi phân cấp về nguồn thu NS, thường gặp một số cản trở
sau:
(1) Cản trở theo mối quan hệ dọc. Do phần lớn thuế thuộc về Trung ương
hoặc cấp trên nên CQĐP thường gặp khó khăn liên quan đến trách nhiệm phải
chi. Ở một số nước, Trung ương hoặc cấp trên thường đưa về địa phương những
nhiệm vụ thuộc Trung ương hoặc cấp trên nhằm giảm áp lực NS của mình,
34
nhưng lại không chuyển NS về cho địa phương. Sự không phù hợp nguồn thu và
các khoản chi do mối quan hệ dọc (quan hệ trên - dưới) có thể làm cho việc sử
dụng NS không hiệu quả hoặc làm cho nhiều hoạt động kinh tế, đầu tư khó thực
hiện và có thể tạo ra sự chênh lệch giữa các vùng.
(2) Cản trở ngang. Đó là sự không bình đẳng giữa các đơn vị hành chính
cùng cấp, các vùng khác nhau có thể thu chi rất khác nhau. Bổ sung của Trung
ương hoặc cấp trên có thể hạn chế sự không bình đẳng đó, nhưng vấn đề lại là ở
chỗ Trung ương hoặc cấp trên có chuyển giao hay không, cơ chế chuyển giao và
thời điểm chuyển giao NS. CQĐP thường không muốn cung cấp các hàng hóa
công cộng vượt ra khỏi địa giới hành chính của mình và thường cung cấp dưới
khả năng. Chuyển giao tài chính từ Trung ương hoặc cấp trên có thể hỗ trợ việc
cung cấp hàng hóa công cộng vượt ra ngoài địa giới.
Để khắc phục những cản trở dọc và ngang nói trên rất cần phải có cơ chế
phân cấp quản lý NSNN hợp lý, rõ ràng, minh bạch và đòi hỏi Trung ương,
CQĐP cấp trên và CQĐP cấp dưới tôn trọng thực hiện.
Điều hòa và bổ sung NS
Năng lực thu NS ở các địa phương thường khác nhau, do đó phân cấp
nguồn thu và nhiệm vụ chi có thể gây ra mất cân bằng về tài chính. Nhiệm vụ chi
của CQĐP không cân bằng với nguồn thu của địa phương được gọi là mất cân
bằng theo chiều dọc. Khả năng tài chính của các địa phương khác nhau nhưng
phải thực hiện các nhiệm vụ chi như nhau được gọi là mất cân bằng theo chiều
ngang. Để giải quyết sự mất cân bằng giữa thu và chi NS của các cấp chính
quyền, cần phải có cơ chế điều hòa và bổ sung NS. Có thể thực hiện theo các giải
pháp:
(1) Để lại nguồn thu để giải quyết vấn đề cân bằng theo chiều dọc hoặc
điều tiết nguồn thu từ nơi có nguồn thu cao đến nơi có nguồn thu thấp để giải
quyết vấn đề cân đối theo chiều ngang.
35
(2) Bổ sung NS: Bổ sung trọn gói không điều kiện để tạo cân bằng thu chi
của các cấp chính quyền; hoặc bổ sung có mục tiêu. Nguồn bổ sung có thể lấy từ
NS cấp này chi cho NS cấp khác hoặc thông qua một quỹ điều hòa NS.
Theo thông lệ quốc tế, khi chuyển giao (điều hòa và bổ sung) NS giữa các
cấp chính quyền cần phải chú ý:
- Chuyển giao phải được xác định khách quan, công khai, minh bạch theo
những quy định cụ thể. Thiết kế chuyển giao cần được Trung ương quyết định.
- Phải ổn định tương đối một số năm. Muốn vậy, đòi hỏi phải thiết kế được
mục tiêu, lượng NS chuyển giao cũng như công việc được chuyển giao.
- Công thức tính chuyển giao cần rõ ràng, dựa vào các yếu tố khả thi và
đơn giản.
Phân cấp vay nợ cho CQĐP
Việc thiếu hụt nguồn tài chính của địa phương trong một số trường hợp là
không tránh khỏi (ví dụ, khi suy thoái kinh tế làm giảm nguồn thu nhưng nhu cầu
chi lại tăng; khi cần đầu tư lớn mà nguồn thu lại nhỏ; khi thời điểm thu và thời
điểm chi không khớp nhau,...). Phân cấp thẩm quyền vay nợ cho CQĐP là để giải
quyết tình huống này. Tuy nhiên, cần có cơ chế để đảm bảo CQĐP và cử tri của
địa phương chỉ được vay trong một giới hạn hợp lý và phải tự chịu trách nhiệm
về quyết định vay và trả nợ tiền vay.
Về mặt lý thuyết, là một thực thể có tư cách pháp nhân công pháp nên
CQĐP có thể thực hiện các quyền vay vốn trên thị trường tài chính trong và
ngoài nước. Tuy nhiên, do năng lực tài chính của CQĐP hạn chế nên việc vay nợ
đó gặp nhiều khó khăn. Trong nhiều trường hợp, phải nhờ vào sự bảo lãnh của
CQTW thì CQĐP mới có thể vay được.
Vấn đề vay nợ và tiếp cận thị trường tài chính trong và ngoài nước luôn là
vấn đề quan tâm của CQĐP các nước. Do hạn chế về nguồn lực và năng lực quản
36
lý nên các nước thường thành lập một số quỹ để có thể kiểm soát việc vay vốn
của CQĐP. Ví dụ, quỹ phát triển cộng đồng, quỹ phát triển nhà ở là những dạng
của thị trường tài chính có thể giúp CQĐP vay và để Trung ương hay cơ quan
hành chính cấp trên có thể kiểm soát được các khoản vay.
Thị trường tài chính và mối quan hệ giữa người cho vay và người đi vay là
mối quan hệ chứa nhiều mục đích. Nếu thể chế cho vay mang tính can thiệp của
Nhà nước thì khó có thể đảm bảo hoạt động cho vay bình đẳng theo cơ chế thị
trường. Người đi vay thường có nhiều và đủ thông tin hơn về những dự án mà họ
vay tiền, kể cả khả năng rủi ro thanh toán cho các khoản vay. Trong khi đó,
người cho vay lại hạn chế khi tiếp cận thông tin và điều kiện thực tế của người
vay. Cho vay đối với CQĐP các cấp đòi hỏi phải có sự kiểm soát chặt chẽ của
người cho vay, đặc biệt là các ngân hàng thương mại của nhà nước.
Phân cấp quản lý NS và trao quyền tự chủ đi vay, nếu không có sự bảo
lãnh của Trung ương thì đòi hỏi CQĐP phải đánh giá cụ thể hơn năng lực tài
chính (các khoản thu) của mình. Nếu CQTW thực hiện bảo lãnh mà CQĐP
không tuân thủ kỷ luật tài chính thì có thể dẫn đến khủng hoảng nợ vay của
CQĐP như đã xảy ra ở một số nước.
Để được trao quyền vay vốn trên thị trường tài chính không cần có sự bảo
lãnh, CQĐP cần xây dựng được đủ năng lực thẩm định và thực hiện các dự án
đầu tư. Đây là hạn chế lớn nhất của CQĐP nhiều nước, trong đó có Việt Nam.
Phân cấp nhiệm vụ chi NS
Nhiệm vụ chi NS được xây dựng dựa trên cơ sở trách nhiệm cung cấp các
hàng hóa công cộng của các cấp chính quyền. Phân cấp nhiệm vụ chi cho biết
“Ai là nhà sản xuất, sản xuất cái gì và cho ai” trong việc cung ứng các hàng hóa
công cộng. Chúng cần rõ ràng, minh bạch, không chồng chéo giữa các cấp, đảm
bảo hiệu quả về kinh tế, công bằng về tài chính, nâng cao trách nhiệm giải trình
và hiệu lực quản lý. Việc cho phép CQĐP có quyền ở mức nhất định trong lựa
37
chọn các khoản chi hoặc quyết định các định mức chi tiêu là một trong những
tiêu chí để đánh giá mức độ phân cấp nhiệm vụ chi NS.
Phân cấp mở rộng được sự tham gia của công dân địa phương trong các
chương trình, dự án phát triển. Điều có tính cốt lõi là càng gần với địa phương,
với cộng đồng thì trách nhiệm báo cáo sẽ càng tạo động lực chi tiêu tiết kiệm,
hiệu quả để cung cấp hàng hóa công cộng cho cộng đồng.
Để phân cấp nhiệm vụ chi NS, cần thực hiện nguyên tắc: Dịch vụ ai cung
cấp tốt hơn thì người đó cung cấp và quyền chi thuộc về họ.
Dựa trên nguyên tắc chọn người tốt nhất để trao nhiệm vụ chi, khi thiết kế
chính sách cần phải quan tâm đến các sản phẩm được tạo ra bởi CQTW và
CQĐP. Trung ương phải đưa ra cơ chế kiểm soát hoạt động cung cấp dịch vụ do
mình thực hiện hoặc tạo ra sự khuyến khích để CQĐP thực hiện có hiệu quả.
Trung ương và địa phương đều có những vấn đề cần ưu tiên của mình.
Nhiều vấn đề ưu tiên của Trung ương có độ tràn (phạm vi ảnh hưởng) lớn, mang
tầm khu vực; trong khi đó, ưu tiên của địa phương lại mang tính cục bộ. Cần căn
cứ vào độ tràn và mức độ ưu tiên địa phương để có thể chuyển giao nhiệm vụ chi
cho địa phương hay để lại Trung ương.
CQĐP các cấp phải chịu trách nhiệm báo cáo với cơ quan cấp trên về
những hoạt động được cấp trên ủy quyền thực hiện; và phải chịu trách nhiệm báo
cáo với cử tri khu vực bầu cử về nhiều hoạt động.
Thứ ba: Xác định quyền hạn và trách nhiệm của các cấp chính quyền
nhà nước trong quá trình thực hiện quy trình quản lý NS
Ở các nước, trong quy trình quản lý NSNN có rất nhiều cơ quan nhà nước
các cấp, tổ chức và cá nhân tham gia, vì vậy pháp luật của các nước đều quy định
rõ nhiệm vụ quyền hạn của các cơ quan nhà nước các cấp và trách nhiệm, nghĩa
vụ của tổ chức, cá nhân về NSNN.
38
Trong phân cấp quản lý NSNN theo hình thức trao quyền (devolution),
CQĐP được độc lập ở mức cao nhất. CQĐP có thể tự quyết định NSĐP của mình
trên cơ sở quy định của pháp luật; hệ thống NSNN không mang tính lồng ghép –
Quốc hội chỉ phê chuẩn dự toán và quyết toán NSTW; Hội đồng cấp địa phương
phê chuẩn dự toán và quyết toán của NSĐP cấp mình.
Trong phân cấp quản lý NSNN theo hình thức uỷ quyền (delegation), địa
phương chủ yếu chỉ được giao trách nhiệm và quyền hạn điều hành quản lý NS.
Hội đồng cấp địa phương tuy có quyền phê chuẩn dự toán và quyết toán NSĐP
cấp mình nhưng không “dứt mạch”. NSĐP các cấp phải được tổng hợp cùng
NSTW để thành NSNN (hệ thống NSNN mang tính lồng ghép). Chỉ sau khi
NSNN được Quốc hội phê chuẩn thì địa phương mới biết được NSĐP do mình
phê chuẩn đã được thừa nhận về mặt pháp lý hay chưa.
1.2.5. Nguyên tắc phân cấp quản lý ngân sách nhà nước.
Từ những phân tích mang tính lý thuyết về phân cấp quản lý NSNN đã đề
cập ở trên, có thể xây dựng những nguyên tắc mang tính lý luận để thực hiện
phân cấp quản lý NSNN ở các nhà nước đơn nhất như sau:
Thứ nhất: Phân cấp quản lý NS phải phù hợp và đồng bộ với phân cấp
tổ chức bộ máy chính quyền nhà nước
Việc tổ chức bộ máy chính quyền nhà nước và phân cấp quản lý nhà nước
(trong đó có phân cấp quản lý NS) được quy định trong Hiến pháp. Hệ thống
NSNN gồm NSTW và NSĐP. NSĐP gồm NS của các cấp CQĐP. “Cấp CQĐP”
gồm có cơ quan quyền lực và cơ quan HCNN được tổ chức ở các đơn vị hành
chính.
Quá trình phân cấp quản lý NSNN nói chung, NSĐP nói riêng còn cần
phải chú ý đến quan hệ giữa quản lý theo ngành với quản lý theo lãnh thổ. Kết
hợp giữa quản lý theo ngành với quản lý theo lãnh thổ là một trong những
nguyên tắc quan trọng trong quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội ở các quôc gia.
39
Quản lý theo ngành là hoạt động quản lý ở các đơn vị, các tổ chức kinh tế,
văn hóa, xã hội có cùng cơ cấu kinh tế-kỹ thuật hay hoạt động với cùng một mục
đích giống nhau nhằm làm cho hoạt động của các tổ chức, đơn vị này phát triển
một cách đồng bộ, nhịp nhàng, đáp ứng được yêu cầu của nhà nước và xã hội.
Hoạt động quản lý theo ngành được thực hiện với hình thức, qui mô khác nhau,
có thể trên phạm vi toàn quốc, trên một vùng lãnh thổ. Tính lãnh thổ ở các địa
phương thể hiện trong việc coi địa phương là một vùng lãnh thổ có những đặc
trưng, đặc điểm nhất định (đặc điểm địa lý, tự nhiên, kinh tế, thổ ngữ, văn hóa,
làng nghề,..) nhằm phân biệt nó với các vùng đất khác. Yêu cầu quản lý theo
lãnh thổ đảm bảo sự phát triển tổng thể các ngành, các lĩnh vực, các mặt hoạt
động chính trị - khoa học, văn hoá - xã hội trên một đơn vị hành chính lãnh thổ
nhằm thực hiện sự quản lý toàn diện và khai thác tối đa, có hiệu quả cao nhất
mọi tiềm năng trên lãnh thổ, không phân biệt ngành, thành phần kinh tế, cấp nhà
nước quản lý trực tiếp.
Cần phải chú ý tôn trọng nguyên tắc này để phân bổ NS cho các ngành,
các địa phương phù hợp với chính sách phân cấp quản lý nhà nước.
Thứ hai: NSTW và NS mỗi cấp CQĐP được phân cấp nguồn thu và
nhiệm vụ chi cụ thể
Vấn đề cơ bản và được tất cả các cấp chính quyền quan tâm nhất trong
phân cấp quản lý NSNN là nguồn thu, nhiệm vụ chi, Vì vậy, Luật NSNN của
các nước đều quy định cụ thể nguồn thu, nhiệm vụ chi của NSTW và NSĐP.
Nhiệm vụ chi thuộc NS cấp nào do NS cấp đó bảo đảm; việc ban hành và thực
hiện chính sách, chế độ mới làm tăng chi NS phải có giải pháp bảo đảm nguồn
tài chính phù hợp với khả năng cân đối của NS từng cấp; việc quyết định đầu tư
các chương trình, dự án sử dụng vốn NS phải bảo đảm trong phạm vi NS theo
phân cấp.
40
Thứ ba: Trên địa bàn cả nước, đảm bảo vai trò chủ đạo của NSTW và
tính chủ động của NSĐP. Trên địa bàn tỉnh, đảm bảo vai trò chủ đạo của NS
cấp tỉnh và tính chủ động của NS các cấp bên dưới.
Đây là nguyên tắc xây dựng mối quan hệ giữa NSTW và NSĐP, giữa các
cấp chính quyền ở địa phương. Mối quan hệ hợp lý giữa các cấp NS có ý nghĩa
rất quan trọng trong vận hành hệ thống NS.
Ở đây có 2 vấn đề cần làm rõ : Thế nào là chủ đạo? Thế nào là chủ động?
Vai trò chủ đạo của NSTW là do vị trí, vai trò của CQTW trong hệ thống
chính quyền nhà nước quyết định. NSTW giữ vai trò chủ đạo nghĩa là: (1)
Nguồn thu chủ yếu của NSNN tập trung vào NSTW để bảo đảm thực hiện được
các nhiệm vụ chiến lược, quan trọng của quốc gia như: Các dự án đầu tư phát
triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội có tác động đến cả nước hoặc nhiều địa
phương; các chương trình, dự án quốc gia; các chính sách xã hội quan trọng;
điều phối hoạt động kinh tế vĩ mô của đất nước; bảo đảm quốc phòng, an ninh,
đối ngoại. (2) NSTW là trung tâm điều hoà trong hệ thống NSNN, đảm bảo chi
bổ sung cân đối và bổ sung có mục tiêu cho NS các địa phương.
Thông qua NSTW, Chính phủ chi phối, đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất
trong hoạt động tài chính công và thực hiện điều tiết đối với hoạt động kinh tế -
xã hội của quốc gia. Tuy nhiên, nếu tập trung quá mức quyền hạn NS vào cấp
Trung ương thì sẽ dẫn đến hạn chế sự chủ động của CQĐP. Chính vì vậy, trong
phân cấp quản lý NSNN cần phân chia nguồn lực, nhiệm vụ chi cùng với việc
xác định phạm vi, trách nhiệm, quyền hạn quản lý và quyết định về NS cho
CQĐP đến mức hợp lý để đảm bảo tính chủ động của địa phương.
Trong đời sống xã hội, “chủ động” thường được hiểu là: Tự mình quyết
định hành động theo những dự tính của mình mà không bị chi phối bởi người
khác hoặc hoàn cảnh bên ngoài. Nhưng địa phương không phải là quốc gia, mà
chỉ là một bộ phận của quốc gia, nên chủ động của CQĐP chỉ có thể được hiểu là
41
tự mình quyết định trong phạm vi quyền hạn được phân cấp, không được phép
vượt ra khỏi quy định của pháp luật và sự kiểm soát của Trung ương. Vì vậy, có
thể hiểu NSĐP được phân cấp nguồn thu bảo đảm chủ động thực hiện những
nhiệm vụ chi được giao, nghĩa là nguồn thu được phân cấp phải tương xứng với
nhiệm vụ chi, CQĐP được quyền quyết định sử dụng NS của mình để thực hiện
những nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và trật tự an
toàn xã hội trong phạm vi đã được giao.
Vai trò chủ đạo của NS cấp tỉnh thể hiện ở chỗ: Nguồn lực chủ yếu đã
được phân cấp cho địa phương được đưa vào NS cấp tỉnh để thực hiện những
nhiệm vụ trọng yếu của tỉnh; NS cấp tỉnh là trung tâm điều hòa của NSĐP (bao
gồm cấp tỉnh và các cấp bên dưới). Để phát huy sự chủ động của chính quyền
cấp cơ sở, cũng không thể tập trung quyền hạn NS quá mức vào cấp tỉnh, cần
phải phân cấp nguồn thu đảm bảo cho cấp dưới chủ động thực hiện nhiệm vụ chi
được giao.
Thứ tư: Phân cấp quản lý NS phải phù hợp với phân cấp quản lý kinh
tế - xã hội và trình độ quản lý của chính quyền nhà nước các cấp
Như đã phân tích ở trên, sự phân cấp về quản lý kinh tế - xã hội cho các
cấp chính quyền đòi hỏi phải có quyền tự quản tương ứng về tài chính để thực
hiện những quyền tự quản về kinh tế - xã hội. Phân cấp quản lý kinh tế - xã hội là
tiền đề, điều kiện quyết định phân cấp quản lý NS và ngược lại, nếu phân cấp
quản lý NS phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế - xã hội, sẽ giúp các cấp chính
quyền thực hiện tốt các nhiệm vụ kinh tế - xã hội được giao.
Lý thuyết Tiebout đã chỉ ra rằng cấp chính quyền nào làm tốt việc cung
cấp những hàng hóa công cộng nào thì hãy giao cho cấp chính quyền đó. Vì vậy,
phân cấp quản lý NS cần phù hợp với năng lực quản lý của các cấp chính quyền,
bao gồm năng lực về quản lý, phát triển nguồn thu và thực hiện các nhiệm vụ chi
42
NS. Điều đó sẽ phát huy lợi ích của phân cấp quản lý NS, nâng cao hiệu quả
phân bổ và sử dụng NS.
Thứ năm: Đảm bảo tính hiệu quả
Nguyên tắc về tính hiệu quả trong phân cấp quản lý NSNN bao hàm 2 nội
dung cơ bản là tính hiệu quả kinh tế và tính hiệu suất. Tính hiệu quả kinh tế đòi
hỏi phải đạt được kết quả cụ thể với đầu vào nguồn NS là nhỏ nhất. Tính hiệu
suất là yêu cầu đạt được kết quả tốt nhất có thể với nguồn NS đầu vào đã xác
định trước.
Tính hiệu quả trong phân cấp quản lý NSNN thể hiện ở hai khía cạnh là
hiệu quả chung do những quy định pháp luật về phân cấp quản lý NSNN tạo ra
và hiệu quả khi xem xét những chi phí trong quá trình thực hiện phân cấp quản lý
NSNN. Ở khía cạnh thứ nhất có liên quan chặt chẽ đến phạm vi phân giao quản
lý nguồn thu và nhiệm vụ chi NSNN. Phân cấp quản lý thu NSNN là phải đạt
được mục tiêu là thu đúng, thu đủ, thu kịp thời các khoản thu theo quy định với
chi phí là thấp nhất. Phân cấp quản lý chi NSNN phải đánh giá cấp NSNN nào
chi là hiệu quả nhất, thuận lợi nhất. Ở khía cạnh thứ hai cho thấy là thêm một cấp
NSNN là phát sinh thêm chi phí quản lý điều hành của cấp đó và của cả cấp khác
có liên quan như hoạt động kiểm tra, giám sát, phê duyệt NSNN. Do vậy cần
phải xây dựng hệ thống NSNN với các cấp NSNN trung gian ít nhất.
Tính hiệu quả trong phân cấp quản lý NSNN được thể hiện là có sự phân
công trách nhiệm chi NSNN rõ ràng, gắn nguồn lực với trách nhiệm và gắn trách
nhiệm với quyền hạn của từng cấp.
Hiệu quả phân cấp quản lý NSNN yêu cầu phải phân định rõ ràng mỗi cấp
chính quyền cần chịu trách nhiệm về những khoản chi NSNN nào. Theo đó mỗi
dịch vụ công cộng nên được cung cấp bởi cấp quản lý nào để sử dụng hết lợi ích
và trang trải được các chi phí của việc cung cấp dịch vụ công cộng đó. Như vậy
Trung ương và địa phương cần phải chịu trách nhiệm cung cấp các dịch vụ công
43
cộng một cách nhanh nhất, đáp ứng tốt nhất các nhu cầu của nhân dân và với chi
phí rẻ nhất.
Nguồn lực NSNN dành cho địa phương phải tương ứng với chi phí cần
thiết mà địa phương đó phải bỏ ra để cung cấp các dịch vụ công cộng. Sự gắn bó
này được thể hiện thông qua việc thảo thuận chia sẻ về việc thu thuế và khoản bổ
sung NS có điều kiện hoặc theo mục tiêu. Những nguồn lực này phải ổn định và
dễ dự đoán để tạo điều kiện thuận lợi cho việc lập kế hoạch và quản lý
NSNNmột cách hiệu quả nhất.
Trách nhiệm chi tiêu của Trung ương và địa phương cũng cần được gắn
kết với quyền hạn của họ trong việc quản lý nguồn thu và chi NS của cấp mình.
Địa phương sẽ quản lý nguồn thu và nhiệm vụ chi NS của cấp mình có hiệu quả
hơn nếu như địa phương được phân cấp một mức độ quyền hạn cần thiết trong
việc sử dụng nguồn lực đó. Việc phân cấp quản lý NSNN phải gắn liền với việc
giao quyền kiểm soát cần thiết và quyền chủ động cho địa phương trong việc
cung cấp các dịch vụ công cộng có chất lượng và hiệu quả cao.
Thứ sáu: Đảm bảo tính công bằng
Công bằng trong phân cấp quản lý NSNN được đặt ra là vì:
(1) Giữa các địa phương trong một quốc gia có những đặc điểm tự nhiên,
xã hội, trình độ phát triển kinh tế khác nhau. Những quy định về phân cấp quản
lý NSNN đơn giản áp dụng như nhau cho tất cả các địa phương rất có thể sẽ dẫn
tới những bất công bằng, tạo ra khoảng cách chênh lệch ngày càng lớn về điều
kiện phát triển giữa các địa phương.
(2) NSNN có được là từ sự đóng góp của người dân trên cả nước thông
qua các phương thức khác nhau. Do đó, có thể các khoản đóng góp của người
dân nơi này đôi khi lại được Nhà nước thu về ở một nơi khác, dẫn đến việc
nguồn thu phát sinh chỉ ở một địa phương nào đó. Vì thế nó không phản ánh
đúng mức độ đóng góp của địa phương đó cho Nhà nước. Việc phân cấp nguồn
44
thu và nhiệm vụ chi NSNN giữa Trung ương và địa phương là công cụ chủ yếu
để thực hiện việc điều hoà trong toàn bộ hệ thống NSNN. Nhà nước đóng vai trò
là người điều phối thông qua NSTW bằng phương thức bổ sung NS. Bổ sung NS
có thể là bổ sung để cân đối NS hoặc bổ sung NS có mục tiêu. Quy định này cho
phép điều tiết các nguồn lực giữa các địa phương với nhau để tạo điều kiện cùng
nhau phát triển.
Thứ bảy: Đảm bảo tăng cường hiệu lực quản lý, kiểm soát NSNN
Vấn đề quan trọng đối với bất kỳ hệ thống NSNN nào là phải giảmthiểu
những thất thoát có thể xảy ra sau khi thực hiện phân cấp quản lý NSNN. Để
đảm bảo tăng cường hiệu lực quản lý, kiểm soát NSNN thì cần xây dựng một
thiết chế kiểm soát NSNN có mức độ độc lập cao hơn, cũng như có thẩm quyền
xử lý các vi phạm trong quản lý NS. Thiết chế này cho phép ngăn ngừa những
sai phạm trong các quyết định về NS của các cấp chính quyền cũng như phát
hiện các vi phạm dẫn đến lãng phí, tham nhũng trong quá trình quản lý sử dụng
NSNN.
Kiểm toán nhà nước là cơ quan có chức năng quan trọng nhất để thực hiện việc kiểm soát NSNN. Tuy nhiên để kiểm toán và xử lý thực sự có chất lượng thì cơ quan này phải có cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt động đặc biệt. Cơ quan này thường chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Quốc hội, nếu không công tác kiểm toán NSNN trở thành hình thức và kém hiệu quả.
Thứ tám: Nâng cao năng lực quản lý, trách nhiệm giải trình của địa
phương
Khi quyết định mức độ phân cấp quản lý NSNN, trách nhiệm thu thuế và nhiệm vụ chi NS cho địa phương thì Trung ương cần phải có đánh giá về năng lực quản lý của địa phương. Năng lực quản lý NS của địa phương bao gồm: năng lực ra quyết định về NS, năng lực tổ chức thực hiện thu chi NS và năng lực giám sát NS.
Năng lực giải trình của CQĐP bao gồm việc giải trình trước người dân địa phương và giải trình với Trung ương. Trách nhiệm giải trình trước người dân địa phương là yêu cầu quan trọng để đảm bảo cho CQĐP phải quản lý NSĐP một
45
các có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu của người dân địa phương. Trách nhiệm giải trình của địa phương với Trung ương là việc giải trình của địa phương về hiệu quả của việc sử dụng nguồn lực tài chính đã được phân cấp quản lý cho địa phương. Bởi nguồn lực tài chính và hoạt động chi NS của địa phương cũng là một phần của nguồn lực tài chính quốc gia, nguồn lực tài chính này là để cho địa phương thực hiện nhiệm vụ của quốc gia.
1.2.6. Lợi ích và bất lợi của phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
Phân cấp quản lý NS sẽ đem lại những lợi ích tích cực, nhưng cũng có thể đem lại một số bất lợi nhất định cho quản lý nhà nước và phát triển kinh tế - xã hội. Điều này có thể được lý giải như sau:
Những lợi ích của phân cấp quản lý NSNN
Thứ nhất: Thúc đẩy CQĐP nâng cao năng lực quản lý và tinh thần phục
vụ nhân dân.
Phân cấp làm cho CQĐP hiểu dân, gần dân hơn so với Trung ương; đồng thời, người dân cũng hiểu CQĐP hơn là hiểu CQTW. Tình hình này cũng tương tự nếu đề cấp đến chính quyền cấp tỉnh và cấp cơ sở. Điều đó dẫn đến việc CQĐP có thể cung cấp được những hàng hóa công cộng đáp ứng tốt hơn nhu cầu cụ thể, đa dạng của người dân; nhưng cũng thúc đẩy lãnh đạo địa phương nâng cao tính trách nhiệm và giải trình đối với người dân, nâng cao tinh thần dân chủ và sự tham gia của người dân.
Lý thuyết "Bỏ phiếu bằng chân" của Charles M. Tiebout cho rằng: Người dân có thể di chuyển tự do giữa các địa phương, các CQĐP sẽ cạnh tranh với nhau trong việc cung ứng hàng hóa công cộng địa phương để cho mật độ dân số của địa phương mình ở mức thích hợp, do đó có thể đạt được sự phân bổ tối ưu nguồn lực. Trong phạm vi quyền hạn, trách nhiệm của mình, CQĐP sẽ nỗ lực đưa ra các chính sách kinh tế - xã hội, nêu cao tinh thần phục vụ nhân dân tốt nhất nhằm nâng cao thành tích trong con mắt người dân. Phân cấp một mặt có thể làm cho địa phương tự chủ hơn trong công việc quản lý cũng như tài chính; mặt khác, phân cấp cũng làm giảm bớt khối lượng công việc, giải quyết các sự vụ của những nhà lãnh đạo cấp cao, ở các bộ ở Trung ương để tập trung hơn vào chính sách.
Thứ hai: Tăng phúc lợi xã hội cho các địa phương và toàn thể quốc gia.
46
Phân bổ nguồn lực trong khu vực công chủ yếu là theo ý chí chính trị. Nhu cầu về hàng hóa công cộng rất khác nhau giữa các vùng, các tầng lớp nhân dân và các cá nhân. CQTW chỉ cung cấp được tốt những hàng hóa công cộng quốc gia, chung cho mọi vùng và mọi người dân, không cung cấp được tốt hàng hóa công cộng địa phương. Nếu chỉ để Trung ương cung cấp toàn bộ hàng hóa công cộng thì sẽ làm giảm tổng phúc lợi xã hội của tổng hàng hóa công cộng. Nếu phân cấp cho các địa phương cung cấp hàng hóa công cộng địa phương thì không những tăng phúc lợi của địa phương mà còn tăng tổng phúc lợi xã hội quốc gia. Người dân có thể di chuyển tự do giữa các địa phương, CQĐP sẽ cạnh tranh với nhau trong việc cung cấp hàng hóa công cộng. Sự cạnh tranh và tự do di chuyển của người dân, cùng với cơ chế cung cấp hàng hóa công cộng, kết quả có thể đạt được hiệu quả Pareto trong phân bổ nguồn lực. Nếu giao cho cấp tỉnh thực hiện phân cấp quản lý NSĐP giữa cấp tỉnh và các cấp bên dưới
Thứ ba: Giúp ổn định kinh tế vĩ mô.
Lý thuyết phân quyền của Musgrave và Oates cho rằng: Chức năng ổn định kinh tế vĩ mô và tái phân phối thu nhập giao cho CQTW; chức năng phân bổ nguồn lực giao cho cả Trung ương và địa phương – Trung ương cung cấp hàng hóa công cộng quốc gia, còn địa phương cung cấp hàng hóa công cộng địa phương. Phân cấp quản lý NSNN sẽ làm giảm chi phí thông tin, chi phí hoạt động trong cung cấp hàng hóa công cộng, thúc đẩy khu vực tư nhân phát triển, cải thiện tăng trưởng kinh tế trong dài hạn; thúc đẩy sự độc lập của ngân hàng Trung ương với chính phủ, đảm bảo tính độc lập của các chính sách tiền tệ. Vì vậy ổn định kinh tế vĩ mô sẽ được cải thiện.
Những bất lợi của phân cấp quản lý NSNN
Thứ nhất: Có thể làm giảm hiệu quả
Một khi thể chế của một quốc gia đang ở tình trạng yếu kém thì lãnh đạo các địa phương rất khó đáp ứng nhu cầu của người dân. Trong điều kiện đó, nếu phân cấp mạnh thì có thể thúc đẩy tính cục bộ địa phương, tăng cường vay nợ, đầu tư tràn lan, dẫn đến lãng phí lớn và khủng hoảng nợ quốc gia. Do đó muốn đẩy mạnh phân cấp quản lý NSNN cần phải có một thể chế hữu hiệu có tính minh bạch, trách nhiệm giải trình cao.
Thứ hai: Có thể làm gia tăng mất công bằng về tài chính
47
Mất công bằng về tài chính giữa Trung ương và địa phương do việc thu thuế không tương xứng với chi tiêu của địa phương. Bất bình đẳng về tài chính giữa các địa phương xuất phát từ những khác biệt trong thu NS giữa các địa phương khác nhau. Từ đó, các công dân ở cùng một nước có thể hưởng các dịch vụ công khác nhau tùy theo địa bàn mà họ sinh sống. Sự chênh lệch về mức độ và chất lượng các dịch vụ công lại kéo theo sự bất bình đẳng về thu nhập, v.v…
Thứ ba: Có thể làm gia tăng thất thoát, lãng phí nguồn lực ở địa phương
Phân cấp quản lý NSNN, trong đó có phân cấp quản lý NSĐP, giao cho CQĐP bên dưới nhiều quyền hơn, kiểm soát của Trung ương đối với địa phương hoặc của tỉnh với cấp dưới nới lỏng hơn. Nếu CQĐP cấp dưới có năng lực yếu kém, thiếu trách nhiệm thì sẽ tạo ra nhiều cơ hội tham nhũng, lãng phí hơn. Phân cấp quản lý NSNN, trong đó có phân cấp quản lý NSĐP có thể không đạt được hiệu quả phân bổ nguồn lực công.
1.2.7. Đo lường mức độ phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
1.2.7.1. Những chỉ tiêu định lượng đo lường mức độ phân cấp quản lý
ngân sách nhà nước
Để đo lường mức độ phân cấp quản lý NSNN đã có những công trình
nghiên cứu của các tác giả như: Oates (1972), Zang & Zou (1998), Robert
M.McNab(2001), Halder (2007). Các nhà nghiên cứu thường sử dụng thu NS của
CQĐP và chi NS của CQĐP như là các chỉ số để đo lường. Các chỉ số đo lường
cụ thể thường được sử dụng là:
(1) Tỷ lệ thu NS được phân cấp của CQĐP: Được xác định bằng tỷ lệ
giữa tổng thu NSĐP được phân cấp với tổng thu NSNN. Cần lưu ý là: Tổng thu
NSĐP được phân cấp không bao gồm số bổ sung NS từ CQTW cho CQĐP.
CQĐP được đề cập đến trong tỷ lệ này là tổng hợp tất cả các địa phương của
quốc gia (ví dụ, ở Việt Nam là 63 tỉnh).
(2) Tỷ lệ chi tiêu của CQĐP: Được xác định bằng tỷ lệ giữa tổng chi
NSĐP với tổng chi NSNN. Để tránh tính trùng, tổng chi NSĐP đã loại bỏ phần
chuyển giao của CQTW cho CQĐP để thực hiện các nhiệm vụ của CQTW. Tổng
48
chi NSNN được đo bằng tổng chi của CQĐP và CQTW, trong đó không tính đến
phần trợ cấp hay bổ sung NS từ CQTW cho CQĐP vì nó thuộc phạm vi NS của
CQĐP và đảm bảm khoản chi này chỉ được ghi một lần. CQĐP được đề cập đến
trong tỷ lệ này là tổng hợp tất cả các địa phương của quốc gia (ví dụ, ở Việt Nam
là 63 tỉnh).
Trong trường hợp nghiên cứu phân cấp quản lý NS cho một địa phương
cụ thể, để xác định mức độ tương xứng giữa thu và chi đã phân cấp cho địa
phương đó, có thể sử dụng chỉ số Tỷ lệ các khoản thu NS được phân cấp so với
tổng chi NS của một địa phương cụ thể. Chỉ số đó được xác định bằng cách lấy
tổng các khoản thu được phân cấp chia cho tổng các khoản chi của địa phương
cụ thể. Ví dụ, tổng các khoản thu được phân cấp của một tỉnh (hoặc huyên, xã)
chia cho tổng các khoản chi của tỉnh (hoặc huyện, xã) đó.
Ở những nước NSĐP có 3 cấp (tỉnh, huyện, xã), để đo lường mức độ phân
cấp quản lý NSĐP ở một tỉnh cụ thể, có thể sử dụng những chỉ tiêu tương tự như
đã nêu trên. Tỷ lệ chi NS của chính quyền cấp huyện được xác định bằng tỷ lệ
giữa tổng chi NS cấp huyện (gộp tất cả chi NS cấp huyện của các huyện trong
tỉnh) với tổng chi NSĐP toàn tỉnh; Tỷ lệ thu NS của chính quyền cấp huyện được
xác định bằng tỷ lệ giữa tổng thu NS cấp huyện (gộp tất cả thu NS cấp huyện của
các huyện trong tỉnh) với tổng thu NSĐP toàn tỉnh. Tỷ lệ chi NS của chính quyền
cấp xã, Tỷ lệ thu NS của chính quyền cấp xã có cách tính tương tự như của cấp
huyện.
1.2.7.2. Những chỉ tiêu định tính đo lường mức độ phân cấp quản lý
ngân sách nhà nước
Các chỉ tiêu định lượng đã đề cập ở trên có ưu điểm là dễ sử dụng, tính
khả thi cao do dữ liệu dễ thu thập và nó phản ánh được qui mô NS của CQĐP
hay tầm quan trọng của từng NSĐP trong nền kinh tế. Tuy nhiên, các chỉ tiêu này
cũng có sự hạn chế đáng kể: (1) Không cho thấy quyền hạn của CQĐP trong
49
thực hiện các khoản thu, chi NS. (2) Không phân biệt các nguồn thu là thuế hay
các nguồn thu không phải thuế. (3) Ngoài ra, cách đo lường này còn có vấn đề
khi sử dụng để so sánh mức độ phân cấp quản lý NSNN giữa hai quốc gia hay
hai địa phương với nhau. Khi so sánh hai quốc gia hay hai địa phương với nhau,
nếu tỷ lệ giữa thu hay chi NS của CQĐP với tổng thu hay chi NSNN là như nhau
thì chúng ta có thể dễ dàng kết luận mức độ phân cấp quản lý NSNN ở hai quốc
gia hay hai địa phương này là như nhau. Tuy nhiên trên thực tế mức độ phân cấp
quản lý NSNN còn phụ thuộc vào số lượng các CQĐP ở mỗi quốc gia hay số
lượng các đơn vị chính quyền cấp dưới của mỗi CQĐP.
Vì những hạn chế của chỉ tiêu định lượng đo lường phân cấp quản lý
NSNN theo tỷ lệ thu NS và tỷ lệ chi NS của CQĐP, nhiều chỉ tiêu định tính đã
được bổ sung.
Ngân hàng thế giới (2004) đã đưa ra cách đo lường phân cấp quản lý
NSNN bao gồm các chỉ số định lượng như đã nêu trên và các chỉ số định tính bổ
sung: (1) Khung nhiệm vụ liên quan đến chi NS của CQĐP và CQTW; (2) Khung
nhiệm vụ liên quan đến thu NS của CQĐP và CQTW; (3) Khung qui định về
chuyển giao NS giữa các cấp chính quyền; (4) Khung qui định về vay nợ của
CQĐP.
Các chỉ số định tính này cho phép đánh giá phân cấp quản lý NSNN ở
nhiều khía cạnh khác nhau. Ví dụ, khung nhiệm vụ liên quan đến thu NS sẽ cho
biết cấp chính quyền nào chịu trách nhiệm cho các nhiệm vụ trong thực hiện các
nguồn thu như: xây dựng thuế suất, công cụ thu và xây dựng bộ máy hành chính
thuế.
Dựa vào cách tiếp cận của Ngân hàng thế giới, có thể điều chỉnh các chỉ số
đo lường nói trên cho phù hợp với điều kiện của từng quốc gia, địa phương để
đánh giá mức độ phân cấp quản lý NS.
50
1.2.8. Những yếu tố ảnh hưởng đến kết quả phân cấp quản lý ngân
sách nhà nước [69]
Lợi ích của phân cấp quản lý (trong đó có phân cấp quản lý NSNN) chỉ có
thể đạt được khi thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp hợp lý và đòi hỏi phải có
những điều kiện nhất định. Đó là lý do giải thích tại sao nhiều nước nhận thức
được lợi ích của phân cấp nhưng vẫn chưa muốn phân cấp cho CQĐP và cũng
giải thích tại sao một số nước không có CQĐP đại diện (không có hội đồng) mà
thay vào đó là cơ quan hành chính mang tính tản quyền.
Nhiều công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng, các nhà chính trị là người dẫn
dắt quá trình phân cấp, nhưng nếu các nhà quản lý tác nghiệp hàng ngày cùng
các nhà chính trị đều nhận thức được đầy đủ về về lợi ích của phân cấp thì họ sẽ
liên kết để thúc đẩy mạnh hơn quá trình phân cấp. Trong phân cấp quản lý
NSNN, các nhà chính trị và cộng đồng dân cư có điều kiện tham gia nhiều hơn
vào quá trình quản lý NS và các nhà quản lý NS có thể đưa ra những quyết định
tốt hơn về sử dụng NS.
1.2.8.1. Những điều kiện tiên quyết để phân cấp quản lý NSNN đạt hiệu
quả
Phân cấp quản lý NSNN cho CQĐP các cấp đòi hỏi CQĐP các cấp phải
chuẩn bị cho mình điều kiện để tiếp nhận sự phân cấp. Đồng thời Trung ương,
CQĐP cấp trên cần hỗ trợ CQĐP cấp dưới có đủ được những điều kiện đó. Các
công trình nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm phân cấp cho CQĐP của các nước
đã chỉ ra những điều kiện tiên quyết cần có. Đó là:
Thứ nhất: Tăng cường năng lực thực thi quản lý NSNN của CQĐP các
cấp.
Thứ hai: Thiết kế một cách khoa học được mối quan hệ đối tác giữa Trung
ương, CQĐP cấp trên và CQĐP cấp dưới thực hiện nhiệm vụ quản lý NS được
chuyển giao.
51
Thứ ba: Có con người, vật lực và nguồn tài chính cần thiết đảm bảo cho
hoạt động thực thi nhiệm vụ quản lý NS của CQĐP.
Thứ tư: Mở rộng sự tham gia của công dân thông qua cơ quan đại diện và
các tổ chức quần chúng.
Thứ năm: Hoàn thiện việc đánh giá thông tin kinh tế và xã hội để đưa ra
được các quyết định hợp lý cho cả nước và từng địa phương.
Thứ sáu: Phân cấp phải gắn kết quyền tự chủ về tài chính - NS với thẩm quyền cung ứng dịch vụ công và chức năng của CQĐP. Nhờ tự chủ về tài chính, các nhà lãnh đạo địa phương mới có thể đảm bảo nguồn tài chính cho các quyết định của mình, cũng như đảm bảo thực hiện các cam kết trước cử tri.
Thứ bảy: Người dân tại địa phương phải được thông tin đầy đủ về chi phí cho các dịch vụ công, các phương án lựa chọn để cung cấp dịch vụ công, các nguồn lực mà địa phương hiện có để người dân có thể tham gia vào quá trình ra quyết định, nhất là quyết định về NS một cách thực chất.
Thứ tám: Phải có cơ chế lấy ý kiến của người dân trong cộng đồng để họ có thể trình bày nguyện vọng của mình, hơn nữa, buộc các đại biểu dân cử phải có trách nhiệm đối với các nguyện vọng đó. Có như vậy, người dân mới tích cực tham gia vào quá trình phân cấp.
Thứ chin: Phải có cơ chế buộc CQĐP phải báo cáo công khai hoạt động
và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động để nhân dân có thể giám sát họ.
Thứ mười: Phải thiết lập các công cụ cho phân cấp (chẳng hạn: khung
pháp lý, bộ máy tổ chức, thiết kế hệ thống NS v.v…).
1.2.8.2. Sự công bằng giữa các cấp chính quyền tác động đến phân cấp
quản lý NSNN
Vấn đề công bằng giữa các cấp NS là yếu tố cần thiết, quan trọng để phân cấp quản lý NSNN thành công. Nếu một nhiệm vụ được chuyển giao từ Trung ương, CQĐP cấp trên cho CQĐP cấp dưới luôn bị đối xử mang tính thứ bậc thì nhiệm vụ đó có thể không được thực hiện tốt. Đây là một vấn đề tương đối phổ biến ở các nước. Nhiệm vụ, trách nhiệm được chuyển giao nhưng không được chuyển giao phù hợp với quyền hạn và nguồn lực. Cấp chuyển giao vẫn giữ lại cho mình những gì vốn đã có về quyền hạn và nguồn lực; trong khi đó, cấp được chuyển giao muốn thực hiện được nhiệm vụ như cấp chuyển giao đã thực hiện
52
thì phải có nhiều quyền hạn và nguồn lực hơn. Đó chính là nguyên nhân tại sao một số nhiệm vụ khi phân cấp, cấp dưới thực hiện có thể chất lượng kém hơn so với trước khi chuyển giao (do cấp trên thực hiện).
Một vấn đề khác của sự không công bằng trong thực hiện nhiệm vụ nhà nước là năng lực của đội ngũ công chức. Do tính chất lịch sử, nhiệm vụ của địa phương là do người địa phương thực hiện. Công chức cao cấp, có chuyên môn sâu thường không làm việc ở địa phương. CQĐP cấp càng thấp (cấp cơ sở) càng có đội ngũ công chức với trình độ chuyên môn ngạch bậc thấp. Để đẩy mạnh phân cấp cần hạn chế sự không công bằng đó, cần xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển đội ngũ công chức có trình độ đồng đều làm việc trong hệ thống các cơ quan nhà nước (trong đó có các cơ quan chuyên môn về tài chính – NS) từ Trung ương đến cơ sở căn cứ vào nhu cầu của công việc. Điều đó sẽ tạo thuận lợi cho việc phân cấp, chuyển giao nhiệm vụ từ cấp trên xuống cấp dưới.
Nếu thực hiện tốt việc cung cấp hàng hóa công cộng sẽ tạo cơ hội để nhiều người dân tiếp cận đến các hàng hóa đó. Các hàng hóa công cộng chuyển giao cho CQĐP cung cấp đồng thời với việc CQĐP được quyền quy định các loại phí, lệ phí một cách hợp lý có thể tạo ra sự công bằng hơn trong việc sử dụng chúng.
1.2.8.3. Sự ổn định vĩ mô tác động đến phân cấp quản lý NSNN
Ổn định kinh tế vĩ mô là sự giảm thiểu những biến động trong ngắn hạn của các chỉ số kinh tế ở tầm quốc gia như tỷ lệ lạm phát, tỷ giá, tốc độ tăng trưởng GDP, tỷ lệ thất nghiệp, v.v... Có sự ổn định vĩ mô thì mới có được niềm tin của người dân, doanh nghiệp và phát triển nền kinh tế bền vững. Và từ đó, cũng mới có thể vận hành trôi chảy các chính sách của Nhà nước, trong đó có việc phân cấp quản lý NSNN. Kinh nghiệm của thế giới đã chỉ ra rằng, tình hình chính trị, kinh tế - xã hội bất ổn thì những điều kiện tiên quyết để phân cấp quản lý NSNN có kết quả như đã đề cập ở mục 1.2.7.1 sẽ không được tuân thủ. Vì vậy, ổn định kinh tế, chính trị của quốc gia và các địa phương là một trong các yếu tố vô cùng quan trọng để phân cấp quản lý NSNN thành công.
Tại tất cả các quốc gia, phân cấp, chuyển giao nhiệm vụ cho CQĐP cần phải đảm bảo không vượt ra khỏi tầm kiểm soát của chính quyền cấp trên, để không dẫn đến vấn đề “địa phương hóa”, tạo mầm mống chia tách và bất ổn.
53
1.3. KINH NGHIỆM PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CỦA
MỘT SỐ NƯỚC VÀ MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG Ở VIỆT NAM - BÀI HỌC CÓ THỂ ÁP
DỤNG CHO TRƯỜNG HỢP TỈNH NINH BÌNH
1.3.1. Kinh nghiệm phân cấp quản lý ngân sách nhà nước của một số
nước ASEAN [36]
1.3.1.1. Kinh nghiệm phân cấp quản lý ngân sách của Thái Lan
Tháng 11 năm 1999, Thái Lan ban hành một đạo luật quan trọng về phân
cấp là Luật Kế hoạch và trình tự phân cấp (Act of Decentralization Plan and
Procedures). Căn cứ vào đạo luật này, một uỷ ban đặc biệt bao gồm đại diện của
cơ quan chính phủ, CQĐP và giới chuyên môn, có tên gọi là Uỷ ban Phân cấp
quốc gia đã được thành lập và có nhiệm vụ đề ra kế hoạch phân cấp và cũng qui
định rõ chức năng, quyền hạn hành chính, thu thuế và phí giữa CQTW và CQĐP.
Về hình thức, ở Thái Lan có ba cấp chính quyền là CQTW, chính quyền
tỉnh và chính quyền cơ sở. Nhưng về thực chất, có 5 kiểu cơ quan tự chủ địa
phương: ở thành thị có thành phố, quận (tiếng Thái là Thesaban), ở nông thôn có
các Cơ quan hành chính tỉnh, cơ quan hành chính xã (Tambon) và các uỷ ban vệ
sinh môi trường hay còn gọi là các hạt vệ sinh. Mỗi hình thức cơ quan tự chủ địa
phương này đều hoạt động theo một đạo luật riêng. Những hình thức cơ quan tự
chủ địa phương của Thái Lan đã tồn tại từ lâu, kể từ hiến pháp quân chủ lập hiến
đầu tiên của Thái Lan năm 1933. Mặc dù ở Thái Lan cũng có huyện nhưng
huyện không phải là cơ quan hành chính độc lập mà thuộc thẩm quyền hành
chính của Cơ quan hành chính tỉnh.
Điểm đáng chú ý trong quá trình phân cấp của Thái Lan là sự thành lậpcác
CQĐP ở cơ sở với tư cách là cơ quan tự chủ, hay còn gọi là Tambon, tương
đương như xã ở Việt Nam. Sau 2 năm thực hiện đạo luật phân cấp, số cơ quan
hành chính xã đã tăng từ 2761 lên đến 6746. Và kể từ sau hiến pháp 1997, rất
nhiều hạt vệ sinh đã được nâng cấp lên thành Cơ quan hành chính Tambon, hoặc
54
thành Thesaban. Điểm đáng chú ý nữa là những cơ quan tự chủ địa phương này
hoạt động độc lập với nhau và chỉ chịu sự giám sát của CQTW thông qua Cục
CQĐP thuộc Bộ Nội vụ.
Đạo luật phân cấp đã cố gắng phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của cáccơ
quan tự chủ địa phương. Chẳng hạn như trong lĩnh vực dịch vụ công, Cơ quan
hành chính Xã có nhiệm vụ: 1) cải tạo và duy tu đường sá, nước và nước thải, 2)
dịch vụ công 3) xây dựng và duy tu bảo dưỡng, còn Cơ quan hành chính Tỉnh có
nhiệm vụ 1) điều phối và phối hợp các Cơ quan tự chủ địa hương khác trong
vùng, 2) cải tạo và duy tu các kênh đường thủy trong đất liền kết nối với các khu
vực tự chủ địa phương khác, 3) thiết lập và duy trì hệ thống xử lý nước thải
thống nhất, 4) hỗ trợ chính phủ hay các cơ quan tự chủ địa phương khác trong
việc phát triển địa phương.
Đạo luật phân cấp cũng qui định rõ mọi nhiệm vụ, chức năng hay trách
nhiệm nào thuộc phạm vi trách nhiệm của CQTW nếu trùng với những chức
năng của CQĐP qui định trong luật phân cấp thì phải được chuyển giao cho
CQĐP.
Tuy nhiên, vẫn còn có nhiều điểm trùng nhau trong chức năng và quyền
hạn giữa các cơ quan CQĐP. Ví dụ cả cơ quan hành chính tỉnh và cơ quan hành
chính xã đều có nhiệm vụ phát triển công nghiệp, du lịch, văn hoá, thể thao địa
phương, bảo vệ nhóm người dễ bị tổn thương, phòng chống thiên tai, duy trì an
ninh khu vực, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên.
Về phân cấp NS, CQĐP được thu khá nhiều loại thuế. Chẳng hạn như Cơ
quan hành chính xã được phép thu thuế nhà đất, thuế GTGT, thuế hàng hóa và
các loại phí sử dụng.
Thành công nổi bật của phân cấp ở Thái Lan là tăng tính tự chủ của chính
quyền cơ sở, mà trong đó phải kể đến tự chủ trong chi tiêu với nguồn thu tăng
lên. Tuy nhiên, tỷ lệ chi tiêu tăng lên của CQĐP là nhờ có khoản NS và tài trợ
55
tăng lên được chuyển đồng thời với các nhiệm vụ từ CQTW xuống. Nội dung
công việc chủ yếu liên quan đến những những khoản chi tiêu cho những dịch vụ
công có qui mô nhỏ như cải tạo đường sá, cầu cống, kênh mương thuỷ lợi, cấp và
thoát nước. Việc chuyển giao quyền hạn thu thuế vẫn chưa được thực hiện.
Mặc dù vậy, sự chi phối của CQTW đối với CQĐP ở Thái Lan vẫn còn rất
mạnh. Có thể nói “tỉnh” ở Thái Lan không hẳn là một cơ quan hành chính địa
phương mà chỉ là một cơ quan đóng tại cơ sở của CQTW và chịu trách nhiệm
giám sát CQĐP trong phạm vi tỉnh đó. Người đứng đầu cơ quan hành chính tỉnh
(Thị trưởng) có những quyền hạn như 1) phê chuẩn kế hoạch phát triển 5 năm
của các cơ quan tự chủ, 2) phê duyệt NS hàng năm và NS bổ sung, 3) mở rộng,
gia hạn và giải thể hội đồng địa phương, và 4) bổ nhiệm, bãi nhiệm người đứng
đầu các cơ quan chấp hành các cơ quan tự chủ và thành viên của các uỷ ban chấp
hành.
Có một số vấn đề như: các kế hoạch chuyển giao nguồn nhân lực chưa
được tiến hành. Những đối tượng nằm trong diện phải chuyển thành công chức
địa phương có biểu hiện phản đối ngấm ngầm và công khai. Do vậy, điều này có
vẻ khó thực hiện trong thực tế.
Hơn nữa, quá trình phân cấp ở Thái Lan về thực chất là sự tản quyền dưới
danh nghĩa phân cấp. Cụ thể là trong lĩnh vực giáo dục và y tế khuynh hướng rõ
ràng là theo hướng tản quyền. Bộ giáo dục đang có kế hoạch chia đất nước thành
295 “khu giáo dục” dựa trên đơn vị huyện, và thành lập các “cơ quan giáo dục” ở
những vùng này và uỷ quyền cho họ về giáo dục địa phương.
Bộ Y tế cũng có kế hoạch chia các dịch vụ y tế khu vực thông qua việc
thiết lập một “Uỷ ban Y tế vùng” ở mỗi tỉnh với thành viên từ các cơ quan tự chủ
địa phương và các tổ chức tư nhân. Điều này có lẽ chỉ để giải quyết tình trạng tập
trung quá mức về giáo dục và y tế của Trung ương chứ không phải là phân cấp.
56
Tuy nhiên, nó cũng có mặt tích cực là thúc đẩy cạnh tranh, các sáng kiến
địa phương, tính hiệu quả và chất lượng dịch vụ tốt hơn bằng việc uỷ quyền cho
các cơ quan được thiết lập tại địa phương.
Một điểm cần chú ý nữa là Tambon (xã) được coi là đơn vị hành chính độc
lập nhưng dân số thường quá nhỏ, năng lực tài chính yếu nên phân cấp thường
dẫn đến cung cấp dịch vụ công không hiệu quả theo qui mô.
1.3.1.2. Kinh nghiệm phân cấp quản lý ngân sách của Indonesia
Nhiều đạo luật liên quan đến phân cấp mà quan trọng nhất là đạo luật phân
cấp số 22/1999 đã được ban hành và phân cấp đã trở thành chính sách quốc gia
của Indonesia với trọng tâm đặt nhiều hơn vào CQĐP.
Các đơn vị hành chính ở Indonesia bao gồm: tỉnh, châu/thành phố, huyện,
thị xã, thị trấn và làng xã. Nhưng CQĐP gồm 3 cấp có địa vị tự chủ là: tỉnh là
cấp thứ nhất, tiếp đến là châu/thành phố và dưới cùng là xã. Huyện tuy là đơn vị
hành chính nhưng không có địa vị tự chủ mà là đơn vị trực thuộc của tỉnh. Trước
khi thực hiện phân cấp, cấp tỉnh có quyền hạn bác bỏ hay đình chỉ việc thực hiện
của cấp thứ hai. Mặc dù cơ cấu thứ bậc của các cấp CQĐP không thay đổi,
nhưng sau khi phân cấp ở Indonesia không còn mối quan hệ theo chiều dọc như
vậy nữa mà hai cấp này có địa vị tự chủ như nhau. Tỉnh với tư cách là đơn vị tự
chủ có quyền hạn liên quan đến quản lý liên châu hay, liên thành phố, hay những
quyền hạn khác mà không thể giải quyết trong phạm vi một châu, chẳng hạn như
các công trình công cộng, giao thông vận tải, thông tin liên lạc, rừng và trồng
rừng.
Phân cấp đặt trọng tâm nhiều hơn vào cấp chính quyền châu/thành phố.
Những lĩnh vực thuộc quyền hạn của cấp chính quyền này bao gồm:
những dự án công trình công cộng, y tế, giáo dục, văn hoá, nông nghiệp, vận tải
và thông tin liên lạc, công nghiệp và thương mại, đầu tư phát triển, môi trường,
quản lý đất đai, hợp tác xã và nguồn nhân lực. Các thành phố cũng chịu trách
57
nhiệm về phòng cháy chữa cháy, vệ sinh, công viên và lập kế hoạch để đáp ứng
tốt hơn nhu cầu của chính họ.
Một điểm đáng chú ý nữa là trước khi phân cấp, các bộ đều thành lập
những đơn vị ngành dọc ở dưới cơ sở và thực hiện các chức năng tản quyền.
Sau phân cấp, những đơn vị cơ sở này về nguyên tắc đã được xoá bỏ hoặc
được nhập vào các đơn vị tương ứng của CQĐP, trừ những lĩnh vực an ninh quốc
phòng, quan hệ quốc tế, tư pháp, tài chính tiền tệ, tôn giáo. Một trong những
nguyên nhân dẫn đến việc loại bỏ những đơn vị này là: với cơ cấu theo ngành
dọc, họ chỉ chú ý đến lợi ích cục bộ của bộ mình ở Trung ương, là nơi cấp NS
chủ yếu, chứ không thực hiện sự phối hợp giữa các ngành với nhau. Hơn nữa,
CQĐP cũng có những bộ phận có nhiệm vụ tương tự như những đơn vị cơ sở của
các bộ. Sự phối hợp giữa hai loại đơn vị này rất kém, làm giảm hiệu quả của nền
hành chính công. Bởi vậy việc loại bỏ những đơn vị cơ sở của các bộ ngành
không chỉ trao quyền tự chủ nhiều hơn cho CQĐP mà còn tăng tính hiệu quả của
quản lý hành chính công.
Về mặt tài chính, CQĐP giờ đây có nhiều nguồn thu độc lập hơn, có quyền
tự cân đối và đi vay. Chẳng hạn như các châu và thành phố có thể tự mình đặt ra
một số loại thuế và tỷ lệ nguồn thu của họ trong nguồn thu của tỉnh đã cao hơn so
với trước đây. CQĐP được hình thành các quĩ tự cân đối, hay là phần NS được
phân bổ cho CQĐP từ nguồn thu của CQTW. Quĩ này bao gồm nguồn thu chia
theo tỷ lệ, phân bổ NS cho mục đích chung và khoản phân bổ NS cho mục đích
đặc biệt. CQĐP còn được nhận một tỷ lệ trong nguồn thu từ dầu lửa, khí đốt và
những tài nguyên thiên nhiên khác, thuế đất và tài sản, thuế đánh vào quyền mua
bán đất và nhà cửa, và thuế thu nhập. Tỷ lệ phân chia này phụ thuộc vào loại
nguồn thu. Ví dụ đối với thu từ dầu lửa, 85% thuộc về CQTW và 15% thuộc về
CQĐP. Trong số 15% đó, 3% thuộc về tỉnh có khai thác dầu, 6% thuộc về
châu/thành phố sản xuất dầu và 6% còn lại dành cho các châu/thành phố khác
trong tỉnh.
58
CQĐP cũng có thể đi vay từ CQTW, từ các ngân hàng và các tổ chức phi
ngân hàng, có thể phát hành trái phiều CQĐP nếu họ được hội đồng địa phương
chấp thuận. CQĐP không thể trực tiếp vay nước ngoài nhưng có thể vay thông
qua CQTW.
CQĐP sử dụng khoản phân bổ NS cho mục đích chung để cung cấp dịch
vụ công. Khoảng 25% nguồn thu trong nước được phân bổ cho mục đích sử dụng
này của CQĐP. Khoản phân bổ NS này về thực chất là bổ sung của CQTW và
CQĐP có toàn quyền sử dụng quĩ này. Nó được phân bổ trên cơ sở tính toán nhu
cầu và tiềm năng kinh tế của từng địa phương. Tuy nhiên, có một vấn đề là trong
số những dịch vụ về phúc lợi, giáo dục và cơ sở hạ tầng, người ta chưa phân biệt
được loại dịch vụ nào cần được cung cấp thống nhất, loại nào cần cân nhắc đến
sự khác biệt của điều kiện địa phương.
Thành công nổi bật nhất của phân cấp ở Indonesia là nó không gặp bất cứ
sự phản kháng nào, mặc dù còn có tranh cãi về mức độ phân cấp. Ngay cả các bộ
của CQTW mà về tiềm năng có thể mất bớt quyền hạn và do đó là mất đi đặc lợi
của mình nhưng cũng không có tiếng nói phản đối công khai.
Với sự phân cấp mạnh mẽ hơn, CQĐP nhận được sự tự chủ nhiều hơn và
đặc biệt là sự mở rộng quyền hạn của các hội đồng địa phương. CQTW giờ đây
không còn can thiệp vào CQĐP về mặt nhân sự, chẳng hạn như bầu thị trưởng.
Nhờ đó, các hội đồng địa phương có quyền quyết định mức lương của các thành
viên hội đồng và nhiều hội đồng đã được tăng lương, thậm chí có nơi tăng lên
gấp đôi.
Tuy nhiên, sau khi thực hiện phân cấp, những vùng giàu có tài nguyên
thiên nhiên thường bày tỏ sự không thoả mãn và cho rằng phạm vi phân cấp vẫn
còn quá hạn chế.
Việc CQĐP được phép định ra các loại thuế và phí có thể làm tăng nguồn
thu trước mắt của họ nhưng nếu những loại thuế và phí này không được tính toán
59
cân nhắc kỹ trên cơ sở hợp lý sẽ làm tổn hại đến các hoạt động kinh doanh của
địa phương và về lâu dài sẽ dẫn đến tác động xấu.
1.3.2. Kinh nghiệm phân cấp quản lý ngân sách địa phương của một
số tỉnh ở Việt Nam
1.3.2.1. Kinh nghiệm phân cấp quản lý ngân sách địa phương của tỉnh
Thái Bình
Ngày 9/9/2016, Sở Tài chính Thái Bình đã tổ chức Hội nghị thảo luận về
phân cấp quản lý NSĐP giai đoạn 2017 – 2020, trong Báo cáo Hội nghị có đánh
giá kinh nghiệm phân cấp quản lý NSĐP thời kỳ đã qua (2011 – 2016) của tỉnh
Thái Bình.
Cùng với quá trình phát triển kinh tế của địa phương trong những năm
qua, kinh tế xã hội của các huyện, thành phố, các xã, phường, thị trấn cũng đang
từng bước được đổi mới, phát triển, cơ chế phân cấp quản lý NSĐP cho thời kỳ
ổn định 2011 - 2016 cũng đã được bổ sung, điều chỉnh phù hợp với điều kiện
kinh tế - xã hội, từng vùng, từng địa phương và nội dung được quy định chi tiết
rõ ràng hơn.
Về thu NS các cấp: Đối với các khoản thu phân chia đã phân chia thành 2
nhóm đơn vị hành chính (nhóm có điều kiện kinh tế phát triển khá, nhóm có điều
kiện phát triển kinh tế thấp hơn), phân chia lĩnh vực thu ngoài quốc doanh thành
2 đối tượng thu (thu từ doanh nghiệp; thu từ hộ gia đình, cá nhân); phân chia
nguồn thu tiền sử dụng đất thành 3 loại hình (thu từ hộ gia đình cá nhân theo giá
quy định; thu từ các doanh nghiệp nộp 1 lần; thu từ đấu giá, đất thương phẩm)
ngoài ra còn quy định chi tiết rõ ràng từng khoản thu phân chia thuộc từng lĩnh
vực thu…
Về chi NS các cấp: Được quy định rõ ràng nhiệm vụ chi đầu tư XDCB cho
các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội không có khả năng thu hồi vốn.
Đối với nguồn thu từ quỹ đất thương phẩm được phân chia cho xã thì được đầu
60
tư trên địa bàn xã, nguồn thu được phân chia cho huyện thì cấp huyện quản lý
đầu tư trên địa bàn huyện theo kế hoạch của UBND tỉnh. Chi NS cấp xã có
nhiệm vụ chi sự nghiệp giao thông, kiến thiết đô thị do cấp xã quản lý, chi cho
công tác khuyến nông, lâm, ngư thuộc cấp xã quản lý, chi hoạt động của tổ chức
cơ sở Đảng.
Bên cạnh những thành công và kết quả đạt được, cơ chế phân cấp quản lý
NS ở địa phương cũng còn có những tồn tại, vướng mắc đáng kể, thể hiện trên
một số nội dung cơ bản sau:
+ Đối với nhóm nguồn thu 100%: Tuy cả 3 cấp NS ở địa phương đều có
các khoản thu phân chia 100%. Tuy vậy NS cấp tỉnh lại được phân cấp hưởng
100% nhiều khoản thu nhất, trong đó có 2 khoản thu có tính ổn định và có tỷ
trọng lớn ở địa phương (thuế tài nguyên, tiền thuê đất). Nguồn thu 100% của NS
cấp huyện và NS cấp xã là những khoản thu còn lại, đây là những nguồn thu
không chắc chắn và không phụ thuộc tăng trưởng kinh tế, hầu hết không có tính
chất thuế: đặc biệt là khoản thu tại xã (thu từ quỹ đất công ích, hoa lợi công
sản…). Trong điều kiện địa phương đang thu hút đầu tư, quy hoạch đô thị, quy
hoạch cụm công nghiệp, nhiều diện tích đất đã bị thu hồi… đã làm cho nguồn thu
hàng năm không ổn định, thậm chí có xu hướng giảm dần.
+ Đối với nhóm các khoản thu được phân chia theo tỷ lệ:
Đối với 5 khoản thu phân chia giữa NSTW và NSĐP: Sau khi phân chia tỷ
lệ với TW, địa phương đã thực hiện phân chia tỷ lệ còn lại cho 3 cấp NS ở địa
phương, trong đó NS cấp huyện, NS cấp xã chỉ được phân chia các khoản thu
(thuế GTGT, thuế TNDN, thuế TTĐB) thuộc lĩnh vực thu ngoài quốc doanh; NS
cấp tỉnh hưởng các khoản thu còn lại thuộc các lĩnh vực thu từ doanh nghiệp nhà
nước do TW quản lý, doanh nghiệp nhà nước do địa phương quản lý, thu từ lĩnh
vực đầu tư nước ngoài, thuế TNCN, phí xăng dầu. Đây là những khoản thu chủ
yếu trong tổng thu nội địa ở địa phương, chính vì vậy có thể khẳng định đây là
61
nguyên nhân chính gây bị động trong điều hành NS, không khuyến khích các địa
phương chủ động khai thác và nuôi dưỡng nguồn thu trên địa bàn.
Việc xác định tỷ lệ phần trăm (%) các khoản thu phân chia giữa 3 cấp NS
ở địa phương còn mang tính ước lượng, chưa có đầy đủ những căn cứ; như là dự
báo tình hình sản xuất kinh doanh dịch vụ của doanh nghiệp, hộ gia đình, cá
nhân; xác định nghĩa vụ nộp NSNN; ý thức chấp hành chính sách thu trên địa
bàn của mỗi địa phương,... Chính vì vậy việc xác định tỷ lệ phần trăm các khoản
thu phân chia giữa các cấp NS ở địa phương chưa đạt được sự công bằng và
khách quan.
Cơ chế phân cấp ở địa phương đã quy định cụ thể nhiệm vụ chi cho từng
cấp NS trên các lĩnh vực, tuy vậy kết quả chi hàng năm cho thấy nhiệm vụ chi ở
NS cấp tỉnh còn chiếm tỷ trọng cao, NS cấp huyện trung bình, còn NS cấp xã vẫn
ở mức thấp, đã làm hạn chế tính chủ động, linh hoạt của chính quyền cấp dưới
trong việc quản lý điều hành NS, ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương.
1.3.2.2. Kinh nghiệm phân cấp quản lý ngân sách địa phương của tỉnh
Hưng Yên
Trong Báo cáo của Hội nghị thảo luận về phân cấp quản lý NSĐP, giai
đoạn 2017 – 2020, do Sở Tài chính Hưng Yên tổ chức ngày 27/9/2016, có đánh
giá kinh nghiệm phân cấp quản lý NSĐP của tỉnh Hưng Yên thời kỳ 2011 –
2016.
Hội nghị đã đánh giá Hưng Yên là một trong những tỉnh còn nghèo, vì thế
việc quản lý phân bổ chi tiêu NSNN hợp lý, hiệu quả rất quan trọng cho phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Trong những năm gần đây, hàng năm nguồn thu
NS cấp tỉnh chiếm tỷ trọng trên 55% tổng thu NSĐP của tỉnh, nguồn thu NS cấp
huyện chiếm trên 30% và còn lại là nguồn thu NS cấp xã. Trong chi tiêu của
NSĐP, chi tiêu NS cấp tỉnh lớn (chiếm trên 57%). Công tác phân cấp quản lý
62
NSĐP trên địa bàn tỉnh đã có những bước tiến mới. Hưng Yên đã phân định
được rõ nguồn thu, nhiệm vụ chi của mỗi cấp NS; tăng cường và đề cao vai trò
của chính quyền cấp dưới trong việc điều hành và quản lý NSĐP trên địa bàn, tỷ
trọng thu, chi NS trong tỉnh đang dần chuyển đổi theo hướng tăng tỷ trọng NSĐP
cho cấp dưới, và giảm tỷ trọng của cấp tỉnh. Bên cạnh đó, công tác quyết toán đã
dần đi vào nề nếp với chất lượng ngày càng được nâng cao hơn.
Tuy nhiên phân cấp quản lý NSĐP trên địa bàn cũng đã bộc lộ một số hạn
chế nhất định như: sự quyết định dự toán, điều chỉnh dự toán và quyết toán
NSĐP ở các cấp còn trùng lặp về thẩm quyền quyết định, tỷ lệ phân cấp thu - chi
NS chưa giúp điều hòa sự phát triển kinh tế - xã hội giữa các huyện, xã trong
tỉnh,…
1.3.3. Bài học từ kinh nghiệm phân cấp quản lý NSNN của một số
nước ASEAN và một số tỉnh ở Việt Nam có thể áp dụng cho phân cấp quản
lý ngân sách nhà nước trường hợp tỉnh Ninh Bình
1.3.3.1. Bài học từ kinh nghiệm phân cấp quản lý ngân sách của Thái
Lan, Indonesia có thể áp dụng cho phân cấp quản lý ngân sách nhà nước của
Trung ương cho chính quyền địa phương (trong đó có tỉnh Ninh Bình)
Thứ nhất: Tất cả các nước thực hiện phân cấp đều được thể chế hoá bằng
hiến pháp và các đạo luật riêng. Mặc dù hệ thống hành chính ở cả ba nước nói
trên khác nhau và không giống với Việt Nam nhưng phân cấp đều nhằm mục
đích tăng quyền tự chủ cho cấp chính quyền cơ sở, là cấp gần dân nhất.
Thứ hai: Cần phân biệt rõ những dịch vụ được cung cấp bởi CQĐP với
những dịch vụ do CQTW cung cấp để từ đó phân định trách nhiệm về mặt hành
chính. Tuy nhiên, điều này không hề đơn giản. Trong nhiều trường hợp hệ thống
giám sát chính thức (chế độ đại diện) có trách nhiệm đảm nhận những quyền hạn
được chuyển giao lại không hoạt động tốt. Để khuyến khích sự tham gia của
người dân và nâng cao trách nhiệm tài chính, cần có một số hệ thống giám sát
63
không chính thức, bổ sung cho chế độ đại diện chính thức. Một hướng giải quyết
là công khai minh bạch để tăng sự giám sát của dân. Ngoài ra cũng cần xây dựng
những cách thức mới để xác định đúng thứ tự ưu tiên trong số các kế hoạch, dự
án phát triển của địa phương.
Thứ ba: Để phối hợp lợi ích và kế hoạch phát triển của các đơn vị tự chủ
cơ sở hoặc chính quyền cơ sở, cần có biện pháp thúc đẩy sự hợp tác giữa các cấp
CQĐP, giữa chính quyền và người dân.
Thứ tư: Cần nhận thức rõ rằng thực hiện phân cấp có nghĩa là vai trò của
CQTW chuyển từ chỗ là người cung cấp dịch vụ sang giám sát và phối hợp việc
cung cấp dịch vụ hiệu quả của CQĐP.
Thứ năm: Điều cực kỳ quan trọng là phải nâng cao được trách nhiệm tài
chính của CQĐP trước người dân. Bởi vậy phải có những biện pháp tăng cường
nguồn thu cho địa phương, chẳng hạn như cho phép địa phương thu những loại
thuế liên quan đến tài sản.
Thứ sáu: Nếu quá trình phân cấp diễn ra nhanh chóng mà không có sự chú
ý thỏa đáng đến phân phối lại thu nhập sẽ làm cho khoảng cách giàu nghèo gia
tăng. Bởi vậy, cần xây dựng cơ chế điều tiết về mặt NS giữa các CQĐP để ngăn
chặn sự bất bình đẳng gia tăng thêm giữa các khu vực. Những vùng kém phát
triển hơn phải có những chính sách ưu đãi hơn. Cơ chế điều tiết NS phải được
xây dựng trên cơ sở khách quan, hợp lý và được đồng thuận. Cần loại bỏ những
hình thức đàm phán bí mật giữa một địa phương với Trung ương. Cơ chế điều
tiết nên do CQTW quyết định, hay một tổ chức trung lập chẳng hạn như một uỷ
ban phụ trách vấn đề liên chính quyền. Một mặt cơ chế điều tiết phải bảo đảm ổn
định hàng năm để các CQĐP có thể lên kế hoạch NS phù hợp, mặt khác nó cũng
phải linh hoạt để tránh được tình trạng tài chính xấu của địa phương gây ảnh
hưởng đến sự ổn định kinh tế vĩ mô. Hai điều kiện mâu thuẫn nhau này có thể
giải quyết khi đặt tỷ lệ điều tiết ở một mức nhất định so với nguồn thu của quốc
64
gia và tỷ lệ này sẽ được đánh giá lại thường xuyên thông qua những đàm phán
chính thức. Nếu công thức phân bổ càng đơn giản và càng dễ thực hiện càng tốt.
Thứ bảy: Quá trình phân cấp diễn ra mạnh đã mang lại quyền tự chủ nhiều
hơn cho chính quyền cấp cơ sở nhưng cũng dẫn đến hiện tượng cục bộ địa
phương. Do đó cần tăng cường sự giám sát của cả cấp trên và của nhân dân địa
phương
Thứ tám: Cần nâng cao năng lực của CQĐP và quan tâm đến các tổ chức
phi chính phủ (NGO). Các tổ chức tài trợ quốc tế thường liên hệ trực tiếp đến
CQĐP và NGO. Khung khổ pháp luật, năng lực của những tổ chức này cần được
mở rộng. Các nguồn tài trợ hay các chương trình dành cho địa phương tùy thuộc
nhiều vào năng lực của đội ngũ cán bộ CQĐP và hoạt động của NGO.
1.3.3.2. Bài học từ kinh nghiệm phân cấp quản lý ngân sách ở tỉnh Thái
Bình và tỉnh Hưng Yên có thể áp dụng cho tỉnh Ninh Bình
Mở rộng phân cấp quản lý NSĐP trên địa bàn tỉnh là một chủ trương đúng
đắn, những tồn tại nảy sinh từ phân cấp chủ yếu là do thiết kế và thực hiện phân
cấp chưa tốt. Để tạo ra động lực phát triển cho các địa phương, khi phân cấp
quản lý NSĐP cần lưu ý:
Thứ nhất: Tránh can thiệp quá sâu của cấp tỉnh làm giảm tính chủ động,
linh hoạt và tăng sự phụ thuộc của các cấp chính quyền huyện, xã.
Thứ hai: Cần có sự phối hợp đồng bộ trong phân cấp quản lý NSĐP trên
địa bàn tỉnh.
Thứ ba: Đảm bảo sự rõ ràng trong phân cấp giữa cấp tỉnh, cấp huyện và
cấp xã.
Thứ tư: Phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế, xã hội, quốc phòng, an
ninh và năng lực quản lý của mỗi cấp tỉnh, huyện, xã trên địa bàn.
65
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Trong Chương 1, tác giả đã hệ thống hóa, phân tích làm rõ thêm được cơ
sở lý luận về phân cấp quản lý NSNN (có lưu ý đến phân cấp quản lý NSĐP). Cụ
thể là: (1) Các vấn đề cơ bản về NSNN và Hệ thống NSNN. (2) Các vấn đề lý
luận về phân cấp quản lý NSNN (Khái niệm, Hình thức, Căn cứ, Nội dung,
Nguyên tắc; v.v...). (3) Kinh nghiệm phân cấp quản lý NSNN của một số nước
và một số địa phương ở Việt Nam có thể áp dụng cho phân cấp quản lý NSNN
trường hợp tỉnh Ninh Bình.
Từ phân tích ở Chương 1 cho phép rút ra một số kết luận chủ yếu sau:
Phân cấp quản lý NSNN là một cách thức, một giải pháp cơ bản để phát
huy tính chủ động, sáng tạo của địa phương; tăng cường năng lực quản lý nhà
nước của các cấp chính quyền; tăng hiệu quả sử dụng NSNN và cung ứng tốt
nhất hàng hóa công cộng cho nhân dân.
Phân cấp quản lý NSNN phải phù hợp và đồng bộ với phân cấp tổ chức bộ
máy chính quyền nhà nước; mỗi cấp CQĐP được phân cấp nguồn thu và nhiệm
vụ chi cụ thể; đảm bảo vai trò chủ đạo của NSTW và tính chủ động của NSĐP; ở
mỗi tỉnh, đảm bảo vai trò chủ đạo của NS cấp tỉnh và tính chủ động của NS các
cấp bên dưới; phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế - xã hội và trình độ quản lý
của chính quyền nhà nước các cấp; v.v...
Để phân cấp quản lý NSNN thành công cần phải có những điều kiện cần
thiết như: Kinh tế và chính trị ổn định, thiết kế hệ thống NS, khung pháp lý, năng
lực quản lý của CQĐP, v.v... Và phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp phù hợp
với điều kiện của đất nước và các địa phương trong từng thời kỳ. Đó có thể là các
giải pháp liên quan đến quyền quyết định chính sách, chế độ về NS; các giải
pháp về phân chia nguồn thu, nhiệm vụ chi; điều hòa và bổ sung NS; vay nợ;
phân định trách nhiệm quyền hạn của các cơ quan đơn vị trong quy trình quản lý
NSNN, v.v...
66
Chương 2:
THỰC TRẠNG PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
2.1. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ
NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI TÁC ĐỘNG ĐẾN PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC TRƯỜNG HỢP TỈNH NINH BÌNH
NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP TỈNH NINH BÌNH
2.1.1. Những đặc điểm thuận lợi về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội
tác động đến phân cấp quản lý ngân sách nhà nước trường hợp tỉnh Ninh
Bình
Sau đây là những đặc điểm thuận lợi cơ bản:
Thứ nhất: Vị trí địa lý. Ninh Bình nằm ở vùng cửa ngõ miền bắc Việt
Nam, cách thủ đô Hà Nội 93 km, là nơi tiếp nối giao lưu kinh tế và văn hoá giữa
lưu vực sông Hồng với lưu vực sông Mã, giữa vùng đồng bằng Bắc Bộ với vùng
rừng núi Tây Bắc, nằm gần các địa bàn kinh tế trọng điểm phía Bắc với tuyến
hành lang Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh.
Thứ hai: Giao thông tương đối phát triển. Đến nay, cùng với các tuyến
đường quốc lộ như: 1A, 10, tuyến đường cao tốc qua Ninh Bình, đường ĐT 477,
đường kết nối cao tốc cầu Giẽ - Ninh Bình; đường giao thông Bái Đính đi Kim
Sơn; các tuyến tỉnh lộ, huyện lộ trên địa bàn tỉnh cũng đã được đầu tư xây dựng,
nâng cấp, mở rộng, theo hướng hiện đại; các tuyến đường giao thông liên xã, liên
thôn được đầu tư nâng cấp, mở rộng, xây dựng hoàn chỉnh.
Thứ ba: Tỉnh có nhiều tài nguyên thích hợp để phát triển các vùng nguyên
liệu cho các ngành công nghiệp chế biến thủy hải sản, hoa quả xuất khẩu hay các
loại nông sản, thủ công mỹ nghệ, đặc biệt là tài nguyên đá vôi và các loại khoáng
sản phù hợp để phát triển công nghiệp vật liệu xây dựng. Đá vôi là nguồn tài
nguyên khoáng sản lớn nhất của Ninh Bình. Với những dãy núi đá vôi khá lớn,
67
chạy từ Hoà Bình, theo hướng tây bắc – đông nam, dài hơn 40 km, diện tích trên
1.2000ha, trữ lượng hàng chục tỷ mét khối đá vôi và hàng chục triệu tấn đôlômít.
Thứ tư: Có nhiều danh thắng, di tích lịch sử-văn hoá với các loại hình kiến
trúc, nghệ thuật, tín ngưỡng, tôn giáo rất phong phú; mật độ tương đối dày, phân
bố rộng khắp từ vùng đồi núi tới đồng bằng, ven biển. Có thể kể ra như Quần thể
danh thắng Tràng an, Tam Cốc- Bích Động; di tích lịch sử văn hoá tâm linh Cố
đô Hoa Lư; chùa Bái Đính; nhà thờ đá Phát Diệm v.v…
Thứ năm: Là tỉnh nhỏ, nhưng Ninh Bình phát triển toàn diện, kinh tế tăng
trưởng khá, bình quân giai đoạn 2011 -2016 đạt trên 11,7%/năm, gấp 2 lần bình
quân chung của cả nước; chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, tỷ trọng ngành công
nghiệp đạt 48%, dịch vụ 40%, nông nghiệp chỉ còn 12%; thu NS tăng, năm 2016
đạt 6.676 tỷ đồng, xuất khẩu trên 1 tỉ USD; xây dựng nông thôn mới đứng tốp
đầu cả nước với 50% số xã đạt chuẩn. Công tác cải cách hành chính được chỉ đạo
thực hiện quyết liệt, nhất là thực hiện một cửa, một cửa liên thông. An sinh xã
hội, việc làm được quan tâm; giáo dục và đào tạo tăng cả quy mô và chất lượng;
an ninh chính trị được giữ vững.
Thứ sáu: Tỉnh Ninh Bình có 2 thành phố thuộc tỉnh là thành phố Ninh
Bình và thành phố Tam Điệp có mức độ phát triển kinh tế khá. Trong đó, thành
phố Ninh Bình là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học và du lịch
của tỉnh.
Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội thuận lợi, sản xuất kinh doanh phát
triển thì khả năng tích lũy để chi cho đầu tư phát triển càng cao. Như vậy cơ chế
phân cấp quản lý NSNN cũng phải thay đổi cho phù hợp. Khi thực hiện phân cấp
quản lý NSNN trường hợp tỉnh Ninh Bình cần khuyến khích được tính chủ động,
tinh thần sáng tạo của chính quyền các cấp tỉnh, huyện và xã để khai thác tốt các
tiềm năng, lợi thế nói trên. Kinh tế phát triển thì thu NSNN trên địa bàn sẽ tăng
68
cao và bền vững. Đồng thời chi NSNN của các cấp chính quyền phải quán triệt tinh
thần hiệu quả và tiết kiệm, gia tăng đầu tư thúc đẩy được những thuận lợi nói trên.
2.1.2. Những đặc điểm khó khăn về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội
tác động đến phân cấp quản lý ngân sách nhà nước trường hợp tỉnh Ninh
Bình
Những đặc điểm khó khăn cơ bản, gồm có:
Thứ nhất: Địa hình tỉnh Ninh Bình bị sông, núi chia cắt mạnh, vùng núi có
độ dốc lớn, đồng bằng nằm ven biển nên hàng năm tỉnh chịu nhiều thiên tai như
bão, lụt... gây những trở ngại nhất định cho phát triển kinh tế - xã hội. Vùng đồi
núi chiếm gần 30% diện tích của tỉnh, chủ yếu thuộc huyện Nho Quan, phía Bắc
và Đông Bắc huyện Gia Viễn.
Thứ hai: Quy mô kinh tế tỉnh Ninh Bình còn nhỏ, nhiều lĩnh vực còn lạc
hậu; vẫn là tỉnh nhận 50% hỗ trợ từ NSTW; thu nhập bình quân đầu người của
Ninh Bình chỉ đạt khoảng 40 triệu đồng, trong khi mức bình quân chung của cả
nước khoảng 49 triệu đồng. Tỷ lệ dân số phụ thuộc vào nông nghiệp còn lớn, lao
động trong lĩnh vực này vẫn chiếm 70%. Nông nghiệp công nghệ cao và các mô
hình sản xuất hàng hóa của tỉnh còn ít. Tỉnh cũng chưa khai thác đầy đủ và hiệu
quả tiềm năng phát triển du lịch, đóng góp của du lịch vào GDP còn thấp.
Thứ ba: Có ít doanh nghiệp tư nhân mạnh về tài chính và quy mô sản xuất
kinh doanh lớn, thiếu các nhà quản lý doanh nghiệp giỏi và công nhân kỹ thuật
lành nghề, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm đáp ứng yêu cầu phát
triển của nền sản xuất tiên tiến, hiện đại.
Thứ tư: Nguy cơ ảnh hưởng đến môi trường có dấu hiệu tăng, nhất là ở các
dòng sông, môi trường nông thôn, nguồn rác thải trong sản xuất và sinh hoạt.
Thứ năm: Chênh lệch về phát triển kinh tế - xã hội giữa đô thị và nông
thôn, giữa vùng núi và đồng bằng còn lớn.
69
Những khó khăn nói trên cùng nhiều nguyên nhân khác đã dẫn đến trình
độ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Ninh Bình còn thấp so với nhiều tỉnh khác
trong cả nước. Tích lũy đầu tư từ nội bộ nền kinh tế tỉnh còn thấp, sự phát triển
giữa các huyện lại không đồng đều. Vì vậy, khi thực hiện phân cấp quản lý
NSNN, tỉnh Ninh Bình rất cần sự hỗ trợ của NSTW; còn NS cấp huyện, cấp xã
của tỉnh rất cần sự hỗ trợ của NS cấp trên. Sự hỗ trợ này là cần thiết để đảm bảo
cho các cấp CQĐP cân đối được NS và đảm bảo cho sự phát triển công bằng
2.2. THỰC TRẠNG PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
TRƯỜNG HỢP TỈNH NINH BÌNH, GIAI ĐOẠN 2011 – 2017
giữa các huyện, thành phố thuộc tỉnh; các xã, phường và thị trấn.
2.2.1. Thực trạng phân cấp quản lý ngân sách nhà nước trường hợp
tỉnh Ninh Bình, thời kỳ ổn định ngân sách 2011 – 2016
2.2.1.1. Thực trạng thiết kế hệ thống ngân sách nhà nước trường hợp
tỉnh Ninh Bình, thời kỳ ổn định ngân sách 2011 – 2016
Hệ thống NSNN ở Việt Nam bao gồm NSTW và NSĐP. NSĐP lại bao
gồm NS cấp tỉnh, NS cấp huyện và NS cấp xã. NS cấp tỉnh là tên gọi chung cho
NS của chính quyền cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. NS cấp huyện là
tên gọi chung cho NS của chính quyền cấp huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh,
thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương. NS cấp xã là tên gọi chung
cho NS của chính quyền cấp xã, phường và thị trấn. Mối quan hệ giữa các cấp
NS được thiết kế theo các nguyên tắc đã được quy định trong Luật NSNN.
Do hệ thống NSNN ở Việt Nam mang tính lồng ghép nên trong Nghị định
60/2003/NĐ-CP [10, Điều 5], Chính phủ đã quy định một số thuật ngữ được
dùng trong quản lý và phân cấp quản lý NSNN như sau: (1) NSĐP tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương (gọi chung là NS tỉnh), bao gồm NS cấp tỉnh và NS
của các huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực
thuộc trung ương. (2) NS huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố
70
thuộc thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là NS huyện), bao gồm NS cấp
huyện và NS của các xã, phường, thị trấn. (3) NS các xã, phường, thị trấn (gọi
chung là NS cấp xã).
Như vậy, khi nghiên cứu thực tiễn phân cấp quản lý NSNN ở Việt Nam
cần phải nhìn dưới 2 góc độ:
Dưới góc độ chưa lồng ghép: Hệ thống NSNN ở Việt Nam bao gồm
NSTW và NSĐP, còn NSĐP bao gồm NS cấp tỉnh, NS cấp huyện và NS cấp xã.
Dưới góc độ lồng ghép: Hệ thống NSNN ở Việt Nam bao gồm NSTW và
NSĐP. Còn NSĐP (NS tỉnh) bao gồm NS cấp tỉnh và NS huyện; NS huyện bao
gồm NS cấp huyện và NS cấp xã; NS cấp xã là NS cấp cơ sở.
Nhìn dước góc độ chưa lồng ghép, NSĐP tỉnh Ninh Bình là NS của 1
trong 63 CQĐP cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. NSĐP tỉnh Ninh
Bình bao gồm: (1) NS cấp tỉnh. (2) NS cấp huyện ở 6 huyện (Nho Quan, Gia
Viễn, Hoa Lư, Yên Khánh, Yên Mô, Kim Sơn) và 2 thành phố thuộc tỉnh (thành
phố Tam Điệp, thành phố Ninh Bình). (3) NS cấp xã ở 121 xã, 17 phường và 7
thị trấn của 6 huyện và 2 thành phố nói trên [21,tr15].
2.2.1.2. Thực trạng phân cấp quản lý ngân sách nhà nước của Trung
ương cho tỉnh Ninh Bình, thời kỳ ổn định ngân sách 2011 – 2016
2.2.1.2.1.Thực trạng phân cấp của Trung ương về ban hành chính sách,
chế độ, tiêu chuẩn, định mức thu chi ngân sách cho tỉnh Ninh Bình, thời kỳ ổn
định ngân sách 2011 – 2016
Theo Luật NSNN, trong phân cấp quản lý NSNN, mọi quyền quyết định
quan trọng về NSNN đều tập trung ở CQTW, như quy định về chính sách thuế,
các định mức chi tiêu chủ yếu, quyết định dự toán, phê chuẩn quyết toán NSNN,
v.v...
71
Tuy nhiên, Luật NSNN cho phép HĐND cấp tỉnh (trong đó có Ninh Bình)
quyết định việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi cho từng cấp NS ở địa
phương; quyết định tỷ lệ phần trăm (%) phân chia giữa NS các cấp CQĐP đối
với phần NSĐP được hưởng từ các khoản thu theo quy định của Luật NSNN và
các khoản thu phân chia giữa các cấp NS ở địa phương; quyết định thu phí, lệ phí
và các khoản đóng góp của nhân dân theo quy định của pháp luật; quyết định
nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ NS ở địa phương; quyết định cụ thể đối
với một số chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi NS theo quy định khung của Chính
phủ; quyết định các chế độ chi NS đối với một số nhiệm vụ chi có tính chất đặc
thù ở địa phương.
Ngoài thẩm quyền riêng nói trên của HĐND tỉnh, HĐND các cấp chỉ có
thẩm quyền về tổ chức thực hiện.
Như vậy, thẩm quyền ban hành chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức
thu chi NS ở địa phương rất hạn chế và chỉ tập trung ở chính quyền cấp tỉnh.
Chính quyền cấp huyện và cấp xã không được giao thẩm quyền này.
Về thu NS: Trong phạm vi thẩm quyền được giao, CQĐP đã ban hành một
cách đồng bộ các văn bản pháp quy liên quan đến thu NSĐP, có thể kể ra như:
Nghị quyết số 22/2011/NQ-HĐND ngày 15/12/2011 của HĐND tỉnh ban
hành Quy định danh mục về mức thu và quản lý, sử dụng các khoản phí và lệ phí
trên địa bàn tỉnh Ninh Bình của 23 loại phí và 15 loại lệ phí.
Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐND ngày 16/7/2014 của HĐND tỉnh về
việc ban hành Quy định mức thu, tỷ lệ phần trăm (%) nộp NSNN và để lại đơn vị
thu các khoản phí, lệ phí trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
V.v...
Về chi NS: Trong phạm vi thẩm quyền được phân cấp, chính quyền tỉnh
Ninh Bình đã ban hành đầy đủ, kịp thời các văn bản trong lĩnh vực chi NS, điển
hình như:
72
Nghị quyết số 22/2010/ NQ-HĐND ngày 24/12/2010 của HĐND tỉnh ban
hành định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên NSĐP năm 2011.
Nghị quyết số 23/2010/ NQ-HĐND ngày 24/12/2010 của HĐND tỉnh ban
hành nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư NSĐP tỉnh Ninh Bình
giai đoạn 2011 - 2015.
Quyết định số 01/2014/QĐ-UBND ngày 20/01/2014 ban hành Quy định
trình tự, thủ tục, nội dung và mức chi hỗ trợ một phần chi phí khám, chữa bệnh
cho người nghèo trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
V.v...
Đề cập chung cả thu và chi NS có các văn bản như: Nghị quyết số
03/2010/NQ-HĐND ngày 27/7/2010 về phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi và tỷ
lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu giữa NS các cấp CQĐP trên địa bàn
tỉnh; Nghị quyết số 28/2012/NQ-HĐND ngày 20/12/2012 sửa đổi, bổ sung một
số khoản tại quy định về phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi và tỷ lệ phần trăm
(%) phân chia các khoản thu giữa NS các cấp CQĐP ban hành kèm theo Nghị
quyết số 03/2010/NQ-HĐND ngày 27/7/2010 của HĐND tỉnh Ninh Bình.
V.v...
Nhận xét:
HĐND tỉnh và UBND tỉnh Ninh Bình đã kịp thời ban hành các văn bản
pháp quy liên quan đến thu chi NSĐP đúng với thẩm quyền được phân cấp, phù
hợp với yêu cầu quản lý ở địa phương. Đây là một trong những điều kiện tiền đề,
là công cụ quan trọng được các cấp chính quyền và nhân dân tỉnh Ninh Bình sử
dụng để quản lý NSĐP trong những năm qua. Số lượng các văn bản pháp quy do
chính quyền tỉnh Ninh Bình ban hành khá nhiều, đã được đưa đầy đủ lên Cổng
thông tin điện tử “Cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản pháp luật”, trang dành cho
tỉnh Ninh Bình.
73
2.2.1.2.2.Thực trạng phân cấp của Trung ương về nguồn thu, thực hiện bổ
sung, vay nợ và xác định nhiệm vụ chi ngân sách cho tỉnh Ninh Bình, thời kỳ ổn
định ngân sách 2011 – 2016
(1)Tình hình thu NSNN trên địa bàn tỉnh Ninh Bình
Tình hình thu NSNN được thể hiện qua Bảng 2.1. Bảng này chỉ tính “số
thực thu” - phản ánh thành tích công tác thu của riêng từng năm. Không tính các
khoản thu năm nay nhưng thực ra đã thu vào NS của các năm trước như: Thu kết
dư năm trước, thu chuyển nguồn từ năm trước; không tính các khoản thu để lại
đơn vị chi quản lý qua NSNN; không tính số bổ sung từ Trung ương cho địa
phương.
Bảng 2.1: Tổng hợp số thực thu NSNN trên địa bàn tỉnh Ninh Bình,
thời kỳ 2011 – 2016
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
Nội dung
2011
2012
2013
2014
2015
2016
Tổng số thực thu
6.676.000
NSNN trên địa bàn
3.407.465
2.556.466
3.056.714
3.155.111
4.333.248
Thu từ thuế, phí, lệ phí
và thu khác (không kể
4.746.523
1.688.041
1.859.114
2.188.322
2.293.440
2.694.973
thu từ xuất nhập khẩu)
Thu tiền sử dụng đất
700.000
1.119.169
435.337
651.584
881.573
543.146
Thu
từ xuất nhập
1.229.477
khẩu
262.015
600.255
318.525
756.702
216.808
Đơn vị: Triệu đồng
(Nguồn: Báo cáo quyết toán NS các năm 2011 - 2015, UBND tỉnh Ninh Bình.
Riêng số liệu năm 2016 được lấy trong Báo cáo quyết toán NS năm 2016 do
UBND tỉnh lập để trình HĐND tỉnh phê chuẩn vào kỳ họp cuối năm 2017)
Để thấy trực quan hơn, có thể biểu diễn Bảng 2.1 dưới dạng Biểu đồ 2.1.
74
Biểu đồ 2.1:
8.000.000
7.000.000
6.000.000
5.000.000
4.000.000
Series 1
3.000.000
2.000.000
1.000.000
0
Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016
Tổng thực thu NSNN trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, thời kỳ 2011-2016 Đơn vị tính: Triệu đồng
Tổng thực thu NSNN trên địa bàn năm 2015 của tỉnh Ninh Bình đã tăng
27,17% so với năm 2011, năm 2016 tăng 54% so với năm 2015 (đây là mức tăng
rất cao, chưa từng có ở tỉnh Ninh Bình, sẽ được giải thích thêm ở phía dưới).
Tổng thực thu NSNN trên địa bàn tỉnh năm 2012, 2013 và 2014 so với năm 2011
bị sụt giảm là do thu tiền sử dụng đất sụt giảm; còn thu từ thuế, phí, lệ phí và thu
khác liên tục tăng qua các năm. Đặc biệt tốc độ tăng thu thuế, phí, lệ phí bình
quân đạt trên 12,7%/năm; cơ cấu thu đã có chuyển biến theo chiều hướng tích
cực, các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí và thu khác nội địa (không kể thu tiền sử
dụng đất và thu từ xuất, nhập khẩu) chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng thực
thu NSNN trên địa bàn (năm 2011 chiếm tỷ trọng 49%, năm 2015 chiếm 62,2%,
năm 2016 chiếm 58,4%). Tốc độ tăng thu từ thuế, phí, lệ phí và thu khác nội địa
cao hơn tốc độ tăng thu NSNN trên địa bàn. Đây là nguồn tài chính thường
xuyên, chiếm tỷ trọng chủ yếu trong việc đảm bảo cho sự phát triển kinh tế - xã
hội, giữ vững quốc phòng, an ninh và ổn định chính trị của tỉnh.
75
Số thu tiền sử dụng đất năm 2011 có số thực hiện cao nhất trong 6 năm
2011 - 2016, lý do bởi năm 2011 giá trị bất động sản cao nhất và là năm có số
lượng đấu giá quyền sử dụng đất nhiều, các năm 2012, 2013 và 2014 thị trường
bất động sản gần như đóng băng, số lượng giao dịch về đất ít nên số thu tiền sử
dụng đất thấp, năm 2015 và 2016 thị trường bất động sản có xu hướng phục hồi
nên số thu tiền sử dụng đất đạt khá.
Đối với các khoản thu từ hoạt động xuất nhập khẩu, mặc dù NSĐP không
được hưởng (NSTW hưởng 100%) nhưng địa phương sẽ được thưởng nếu vượt
thu nên cũng được tỉnh rất quan tâm chỉ đạo thực hiện.
Như trên đã nói, tổng thực thu NSNN trên địa bàn tỉnh Ninh Bình năm
2016 đã tăng 54% so với năm 2015, vượt 39,5% dự toán HĐND tỉnh giao, đạt
6.676.000 tỷ đồng, là mức thu cao nhất từ trước đến nay.
Có thể giải thích như sau: (1) Sản xuất công nghiệp là ngành chủ lực có
thế mạnh đóng góp lớn vào số thu NSNN trên địa bàn của tỉnh, đặc biệt là sản
xuất ô tô của Tập đoàn Hyundai Thành Công, số thu năm 2016 đạt 1.600 tỷ
đồng, là mức đóng góp lớn nhất cho địa phương, chưa từng có từ trước tới nay
của tập đoàn này. Bên cạnh đó, ngành sản xuất xi măng là ngành truyền thống
của tỉnh vẫn phát huy được thế mạnh, đóng góp cho NSNN năm 2016 khoảng
300 tỷ đồng. Một lĩnh vực nữa đóng góp số thu tương đối lớn cho NSNN, đó là
lĩnh vực kinh doanh xăng dầu, số nộp NS năm 2016 đạt 600 tỷ đồng, trong đó chỉ
riêng số thu thuế bảo vệ môi trường đối với kinh doanh xăng dầu đã là 380 tỷ
đồng. (2) Do được phân cấp hợp lý, CQĐP các cấp trên địa bàn tỉnh đã chủ động
chỉ đạo quyết liệt ngay từ đầu năm với nhiều giải pháp thu NS công khai, công
bằng, minh bạch, đúng quy định của pháp luật. Qua đó đã động viên được các tổ
chức, cá nhân cộng đồng doanh nghiệp hưởng ứng, tích cực sản xuất kinh doanh
và chấp hành thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ nộp thuế cho nhà nước.
76
(2) Phân cấp về thu và bổ sung từ NSTW cho NSĐP tỉnh Ninh Bình
Bảng 2.2 thể hiện tình hình thu và số bổ sung từ Trung ương cho tỉnh Ninh
Bình.
Bảng 2.2: Các khoản thu NSĐP tỉnh Ninh Bình được phân cấp
và các khoản thu bổ sung từ NSTW, thời kỳ 2011 - 2016
NỘI DUNG
2011
2012
2013
2014
2015
2016
1.Cáckhoảnthu
2.779.404
2.262.305
2.793.729
2.773.962
3.485.132
5.336.523
NSĐPđượcphâncấp
-CáckhoảnthuNSĐP
1.426.798
754.465
1.124.687
1.043.219
1.393.905
2.013.080
hưởng100%
-CáckhoảnthuNSĐP
1.352.606
1.507.840
1.669.042
1.730.743
2.091.227
3.323.443
hưởngtheotỷlệ%
2.Thu BS từ NSTW
2.293.697
3.058.037
3.080.264
3.866.006
3.682.906
-Thu BS cân đối
1.180.856
1.352.980
1.771.948
2.098.398
2.058.970
3.329.619 1.893.793
-Thu BS có mục tiêu
1.112.841
1.705.057
1.308.316
1.767.608
1.623.936
1.435.826
3.SosánhThuBS
42,5%
60,0%
63,4%
75,6%
59,1%
35,5%
cânđối/Cáckhoản
thuNĐPđượcphâncấp
ĐV tính: Triệu đồng
(Nguồn: Báo cáo quyết toán NS các năm 2011 - 2015, UBND tỉnh Ninh Bình.
Riêng số liệu năm 2016 được lấy trong Báo cáo quyết toán NS năm 2016 do
UBND tỉnh lập để trình HĐND tỉnh phê chuẩn vào kỳ họp cuối năm 2017)
Qua Bảng 2.2 có thể thấy các khoản thu NSĐP được phân cấp có xu
hướng tăng (giảm) gần giống như số thực thu NSNN trên địa bàn (thể hiện ở
Bảng 2.1). Các khoản thu NSĐP được phân cấp năm 2012, 2013 và 2014 so với
năm 2011 bị sụt giảm hoặc tăng không đáng kể là do thu tiền sử dụng đất sụt
giảm. Bắt đầu từ năm 2015, các khoản thu NSĐP được phân cấp đã tăng lên
đáng kể, đặc biệt là năm 2016 đã tăng ở mức rất cao. Đây là dấu hiệu đáng mừng
về thu NS và phân cấp thu NS ở Ninh Bình.
Hàng năm các khoản thu NSĐP được phân cấp vẫn không đảm bảo được
77
số chi, phải nhận bổ sung cân đối từ NSTW. Tuy nhiên, cũng có dấu hiệu đáng
mừng: Tỷ lệ số thu bổ sung so với số thu đã được phân cấp của NSĐP, bắt đầu từ
năm 2015 đã có xu hướng giảm xuống (năm 2016 chỉ còn 35,5%, thấp nhất trong
cả thời kỳ 2011 -2016).
Số thu NSĐP tỉnh Ninh Bình hưởng theo phân cấp thường gần bằng số thu
nội địa (do phần thu nội địa NSTW hưởng 100% thấp); còn thu từ xuất nhập
khẩu, NSĐP không được hưởng. Tuy nhiên. tốc độ tăng của các khoản thu mà
NSĐP hưởng 100% có xu hướng tăng chậm hơn so với tốc độ tăng các khoản thu
NS chung, do các sắc thuế được phân chia 100% cho NSĐP có hiệu suất thu
thấp. Như vậy, phần lớn thu NSĐP tỉnh Ninh Bình đến từ khoản thu phân chia
theo tỷ lệ phần trăm và số bổ sung từ Trung ương.
Quy mô các khoản bổ sung có mục tiêu của Trung ương cho NSĐP tỉnh
Ninh Bình từ 2011 đến 2016 luôn được mở rộng có tác động tích cực trong việc
thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của địa phương, giảm được nghèo và thu hẹp
bất bình đẳng NS theo chiều ngang.
(3) Vay nợ của NSĐP tỉnh Ninh Bình
Trong phân cấp NSĐP tỉnh Ninh Bình, chỉ có NS cấp tỉnh được phép vay
nợ khi cần thiết. Tình hình vay nợ của NS cấp tỉnh thể hiện qua các báo cáo
quyết toán NSĐP như sau: Năm 2011 vay 30 tỷ đồng; năm 2012: 505 tỷ đồng;
năm 2013: 375 tỷ đồng; năm 2014: 260 tỷ đồng; năm 2015: 20 tỷ đồng; năm
2016: 380 tỷ đồng. Bảng 2.3 thể hiện tình hình nợ CQĐP tính đến cuối năm
2016.
78
Bảng 2.3: Nợ của chính quyền địa phương tỉnh Ninh Bình
tính đến 31/12/2016
Đơn vị: Triệu đồng
Tỷ lệ
Chỉ tiêu Kế hoạch Thực TH/KH T
hiện (%) T
I Số dư nợ CQĐP cuối ngày 31/12/2015 678.935 678.935 100
1 Dư nợ vay đầu tư các công trình theo khoản 3
100 Điều 8 Luật NSNN 489.000 489.000
- Vay Ngân hàng Phát triển Việt Nam 489.000 489.000 100
2 Dư nợ vay đầu tư vào các dự án có khả năng
hoàn vốn của địa phương 189.935 189.935
- Vay lại vốn vay nước ngoài của Chính phủ 189.935 189.935 100 100
II Số phát sinh nợ vay CQĐP trong năm 2016 380.000 380.000 100
1 Vay đầu tư các công trình theo khoản 3 Điều
100 8 Luật NSNN 380.000 380.000
Vay Kho bạc nhà nước 200.000 200.000 100 -
Vay Ngân hàng Phát triển Việt Nam 180.000 180.000 100 -
III Số trả nợ trong năm 2016 405.030 581.030 143
1 Nguồn trả nợ từ NS cấp tỉnh 405.030 581.030 143
Trả nợ các khoản vay đầu tư các công trình -
theo khoản 3 Điều 8 Luật NSNN 397.030 573.030 144
Vay lại vốn vay nước ngoài của Chính phủ 8.000 8.000 100 -
2 Chi tiết trả nợ 405.030 581.030 143
- Gốc 402.000 578.000 144
79
- Lãi - - -
- Phí 3.030 3.030 100
IV Số dư nợ CQĐP đến cuối ngày 31/12/2016 656.935 480.935 73
1 Dư nợ vay đầu tư các công trình theo khoản 3 475.000 299.000 63
Điều 8 Luật NSNN
- Vay Ngân hàng Phát triển Việt Nam 475.000 299.000 63
2 Dư nợ vay đầu tư vào các dự án có khả năng
hoàn vốn của địa phương 181.935 181.935 100
- Vay lại vốn vay nước ngoài của Chính phủ 181.935 181.935 100
V Tỷ lệ dư nợ vay theo khoản 3 Điều 8 trên
tổng mức vốn đầu tư XDCB trong nước 47,3% 29,8%
năm 2016 của NS cấp tỉnh
(Nguồn: Báo cáo của UBND tỉnh về Nợ của CQĐP tỉnh Ninh Bình năm
2016)
Qua bảng số liệu trên cho thấy: Tỷ lệ dư nợ vay theo khoản 3 Điều 8 Luật
NSNN 2002 trên tổng mức vốn đầu tư XDCB trong nước năm 2016 của NS cấp
tỉnh, số thực tế (29,8%) vẫn còn thấp so với số kế hoạch (47,3%); số trả nợ năm
2016 vượt kế hoạch đề ra (đạt 143%). Tiền trả nợ được lấy từ NS cấp tỉnh.Theo
báo cáo của UBND tỉnh, tổng dư nợ 480,935 tỷ đồng cuối ngày 31/12/2016 được
sử dụng như sau: 299 tỷ đầu tư cho kiên cố hóa kênh mương, đầu tư các dự án
đường giao thông nông thôn, trạm bơm điện phục vụ sản xuất nông nghiệp, cơ sở
nuôi trồng thủy sản, cơ sở hạ tầng làng nghề nông thôn; 181,935 tỷ đầu tư cho dự
án cấp nước vệ sinh và sức khỏe nông thôn Đồng bằng sông Hồng.
Ngoài báo cáo về nợ của CQĐP cấp tỉnh năm 2016 nói trên, UBND tỉnh
còn có báo cáo về nợ đọng XDCB của NS cấp huyện và NS cấp xã với số liệu
vào cuối ngày 31/12/2016 như sau:
- Nợ đọng XDCB thuộc NS cấp huyện: 2.671,108 tỷ đồng (trong đó lớn
80
nhất là: Thành phố Ninh Bình nợ 1.312,997 tỷ đồng, Kim Sơn: 385,963 tỷ đồng,
Nho Quan: 365,246 tỷ đồng; ít nhất là Gia Viễn: 54,957 tỷ đồng).
- Nợ đọng XDCB thuộc NS cấp xã: 1.038,924 tỷ đồng (trong đó các xã đạt
chuẩn nông thôn mới nợ 637, 603 tỷ đồng).
Nhận xét:
(1) Tỉnh Ninh Bình đã đạt được các điều kiện về vay nợ như qui định trong
Luật NSNN 2002 và các văn bản hướng dẫn. Tuy nhiên, nợ của CQĐP thể hiện ở
Bảng 2.3 mới chỉ là các khoản nợ theo qui định, phạm vi chưa bao quát hết nghĩa
vụ trả nợ của địa phương, bởi vì các huyện, xã còn nợ đọng XDCB khá lớn. (2)
Thiếu rõ ràng về người chịu trách nhiệm cuối cùng cho các khoản nợ. Trong các
qui định của Luật, chưa có qui định cụ thể đối với trường hợp địa phương không
trả được nợ. (3) Quỹ Đầu tư phát triển Ninh Bình (vốn điều lệ 500 tỷ đồng) được
thành lập theo Quyết định số 2782/QĐ-UBND ngày 26/12/2003 của UBND tỉnh
Ninh Bình để tiếp nhận các nguồn vốn từ NSNN, huy động các nguồn vốn nhàn
rỗi thuộc các thành phần kinh tế, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, vốn
viện trợ, tài trợ và các nguồn vốn khác để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh Ninh Bình. Điều này đòi hỏi cần có sự kiểm soát chặt chẽ vì về bản chất đó
chính là các khoản nợ của CQĐP. (4) Nguồn trả nợ gốc và lãi được đảm bảo từ
NS cấp tỉnh, nếu việc đi vay hôm nay không làm gia tăng năng lực và cơ sở thuế
cho ngày mai thì vòng lẩn quẩn nợ là khó tránh được. (5) Luật Đầu tư công 2014
có hiệu lực từ 01/01/2015 coi nợ đọng XDCB trong đầu tư công là sự vi phạm
quy định của pháp luật. Tuy nhiên, năm 2015 và 2016, nợ đọng XDCB của NS
cấp huyện năm 2016 vẫn phát sinh thêm 949,227 tỷ đồng; cấp xã thêm 312,996
tỷ đồng. Nợ đọng XDCB ở tỉnh Ninh Bình tuy đã bớt căng thẳng so với trước
đây, nhưng để giải quyết dứt điểm sẽ còn khó khăn, đòi hỏi phải có sự vào cuộc
quyết liệt của CQĐP các cấp.
81
(4) Phân cấp nhiệm vụ chi cho NSĐP tỉnh Ninh Bình
Tổng hợp số liệu về chi NSĐP tỉnh Ninh Bình thời kỳ 2011 - 2016 được
thể hiện ở Bảng 2.4. Trong bảng này chỉ tính các khoản thực chi là “Chi đầu tư
phát triển”, “Chi thường xuyên”, “Chi Chương trình mục tiêu Quốc gia và
Chương trình Chính phủ” (thuật ngữ được dùng trong biểu mẫu quyết toán của
NSĐP, do Trung ương quy định). Không tính các khoản tuy gọi là “chi”, nhưng
chưa thật sự đã chi cho kinh tế - xã hội của địa phương, như: Chi chuyển nguồn
sang năm sau, ...
Tổng chi NSĐP năm 2016 tăng 60,9% so với năm 2011, trong đó chi cho
đầu tư phát triển tăng 20,2%, chi thường xuyên tăng 92%. Tốc độ tăng chi đầu
tư phát triển tăng thấp hơn tốc độ chi thường xuyên là do chi thường xuyên chủ
yếu là chi tiền lương, mỗi khi tăng mức lương tối thiểu sẽ kéo theo tăng các
khoản phụ cấp, đóng góp BHXH cho người lao động, v.v....
Để thấy một cách trực quan hơn, có thể biểu diễn bảng 2.4 dưới dạng Biểu
đồ 2.2.
Bảng 2.4: Tổng số chi NSĐP
tỉnh Ninh Bình, thời kỳ 2011 – 2016
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
Nội dung
2011
2012
2013
2014
2015
2016
Tổng số chi NSĐP
4.892.901 6.308.795 6.324.280 6.303.338 7.105.099 8.752.689
1. Chi đầu tư phát triển
1.566.385 1.380.251 1.703.227
961.983 1.426.929 2.841.165
2. Chi thường xuyên
2.512.653 3.451.861 3.896.679 4.213.803 4.616.112 4.748.666
3. Chi CTMTQG & CT
813.863 1.476.683
724.374
1.127.552 1.062.058 1.162.858
Chính phủ
Đơn vị: Triệu đồng
(Nguồn: Báo cáo quyết toán NS các năm 2011 - 2015, UBND tỉnh Ninh Bình.
Riêng số liệu năm 2016 được lấy trong Báo cáo quyết toán NS năm 2016 do
82
UBND tỉnh lập để trình HĐND tỉnh phê chuẩn vào kỳ họp cuối năm 2017)
Biểu đồ 2.2: Tổng chi NSĐP tỉnh Ninh Bình,
thời kỳ 2011 - 2016
Tổng chi NSĐP (chỉ tính Chi ĐTPT + Chi TX + Chi CTMTQG & CT Chính phủ)
Series 1
10.000.000 9.000.000 8.000.000 7.000.000 6.000.000 5.000.000 4.000.000 3.000.000 2.000.000 1.000.000 0
Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016
Để xác định mức độ tương xứng giữa thu và chi đã phân cấp cho NSĐP
tỉnh Ninh Bình, có thể sử dụng chỉ số Tỷ lệ các khoản thu NS được phân cấp so
với tổng chi NS của một địa phương cụ thể đã được đề cập ở Chương 1.
Bảng 2.5: Mức độ tương xứng giữa các khoản thu được phân cấp và
NỘI DUNG
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2.779.404
2.262.305
2.793.729
2.773.962
3.485.132 5.336.523
1.Cáckhoảnthu NSĐPđượcphâncấp (đv tính: Triệu đồng) 2.Tổng chi NSĐP (đv
4.892.901
6.308.795 6.324.280
6.303.338
7.105.099
8.752.689
tính: Triệu đồng)
3.Mức độ tương xứng
56,8
35,9
44,2
44,0
49,0
61,0
giữa thu và chi (%)
tổng chi của NSĐP tỉnh Ninh Bình, thời kỳ 2011 – 2016
(Tính toán dựa vào Báo cáo quyết toán NS các năm 2011 - 2015, UBND tỉnh
83
Ninh Bình. Riêng số liệu năm 2016 được lấy trong Báo cáo quyết toán NS năm
2016 do UBND tỉnh lập để trình HĐND tỉnh phê chuẩn vào kỳ họp cuối năm
2017)
Nhìn vào số liệu tính toán được của Bảng 2.5, có thể thấy thời kỳ 2011 –
2016, mức độ phân cấp nguồn thu cho NSĐP tỉnh Ninh Bình vẫn ở mức thấp so
với nhiệm vụ chi, thường ở mức dưới 50%. Vậy có cách gì để Trung ương phân
cấp thu nhiều hơn cho NSĐP nói chung và NSĐP tỉnh Ninh Bình nói riêng? Giải
pháp cho vấn đề này sẽ được tác giả trình bày ở Chương 3.
Trong phân cấp quản lý NS của Trung ương cho tỉnh Ninh Bình có vấn đề
đáng lưu ý là: Tuy nhận bổ sung lớn từ Trung ương nhưng “chi chuyển nguồn
sang năm sau” của NSĐP rất lớn. “Chi chuyển nguồn sang năm sau” thực ra vẫn
là một khoản tiền chưa thực sự chi (vẫn còn trong tồn quỹ NS ở Kho bạc Nhà
nước để sang năm sau chi). Trong thời kỳ 2011 – 2016, chi đầu tư phát triển và
chi thường xuyên đều vượt dự toán được giao lúc đầu năm (trong năm phải điều
chỉnh tăng dự toán chi), nhưng chi chuyển nguồn sang năm sau thường lớn hơn
cả chi đầu tư phát triển, thậm chí năm 2014 còn gấp 2, 2 lần chi đầu tư phát triển
(thể hiện ở Bảng 2.6). Có những khoản chi chuyển nguồn sang năm sau là hợp
lý. Nhưng nếu chi chuyển nguồn tràn lan và quá nhiều sẽ gây đọng vốn. Nếu
chuyển nguồn do nhiệm vụ chi không đúng hoặc nhiệm vụ chi đúng mà thực
hiện sai nguyên tắc dẫn đến tạm ứng treo; thủ tục XDCB nhiêu khê, thẩm tra
dích dắc, dẫn đến khó, chậm triển khai, không có khối lượng thanh toán nên phải
chuyển; cơ quan tài chính chậm phân bổ kinh phí v.v... thì rất cần được chấn
chỉnh và có giải pháp khắc phục.
84
Bảng 2.6: So sánh chi chuyển nguồn sang năm sau
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
2016
2011
2012
2013
2014
2015
Nội dung
1.Chi đầu
tư phát
triển (đv tính: Triệu
1.566.385 1.380.251 1.703.227
961.983 1.426.929 2.841.165
đồng)
2.Chi chuyển nguồn
sang năm sau (đv tính:
2.514.317 1.752.450 1.619.241 2.116.592 1.617.922 2.369.283
Triệu đồng)
3.So sánh chi chuyển
nguồn sang năm sau
1,60 lần
1,27 lần
0,95 lần
2,20 lần
1,13 lần
0,83 lần
với Chi đầu tư phát
triển
và chi đầu tư phát triển NSĐP tỉnh Ninh Bình, thời kỳ 2011 – 2016
(Nguồn: Báo cáo quyết toán NS các năm 2011 - 2015, UBND tỉnh Ninh Bình.
Riêng số liệu năm 2016 được lấy trong Báo cáo quyết toán NS năm 2016 do
UBND tỉnh lập để trình HĐND tỉnh phê chuẩn vào kỳ họp cuối năm 2017)
2.2.1.2.3.Thực trạng phân cấp của Trung ương về quy trình quản lý ngân
sách nhà nước cho tỉnh Ninh Bình, thời kỳ ổn định ngân sách 2011 - 2016
Quy trình quản lý NSĐP (trong đó có tỉnh Ninh Bình) nằm trong quy trình
quản lý NSNN thống nhất đã được Trung ương quy định, bao gồm ba giai đoạn:
Lập dự toán NS, Chấp hành NS và Quyết toán NS.
Trong quy trình quản lý NSNN, Trung ương đã phân cấp cho các cấp
CQĐP tỉnh Ninh Bình như sau:
Hàng năm, HĐND các cấp trên địa bàn tỉnh Ninh Bình thực hiện: (1)
Quyết định dự toán thu NSNN trên địa bàn, dự toán thu chi NSĐP (gồm cấp
mình và các cấp CQĐP bên dưới). (2) Quyết định phân bổ dự toán NS cấp mình.
(3) Phê chuẩn quyết toán NSĐP (gồm cấp mình và các cấp CQĐP bên dưới). (4)
Quyết định các chủ trương, biện pháp để triển khai thực hiện NSĐP (gồm cấp
85
mình và các cấp CQĐP bên dưới). (5) Quyết định điều chỉnh dự toán NSĐP
trong trường hợp cần thiết (gồm cấp mình và các cấp CQĐP bên dưới). (6) Giám
sát việc thực hiện NS đã được HĐND quyết định.
Riêng HĐND tỉnh còn thực hiện các công việc sau: (1) Quyết định việc
phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi cho từng cấp NS ở địa phương. (2) Quyết định
tỷ lệ phần trăm (%) phân chia giữa NS các cấp CQĐP đối với phần NSĐP được
hưởng từ các khoản thu phân chia theo tỷ lệ % giữa NSTW và NSĐP và các
khoản thu phân chia giữa các cấp NS ở địa phương. (3) Quyết định thu phí, lệ phí
và các khoản đóng góp của nhân dân theo quy định của pháp luật. (4) Quyết định
cụ thể một số định mức phân bổ NS, chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi theo quy
định của Chính phủ. (5) Quyết định mức huy động vốn theo quy định của Luật
NSNN.
UBND tỉnh, huyện, thành phố thuộc tỉnh và các xã, phường, thị trấn ở
Ninh Bình thực hiện: (1) Lập dự toán NSĐP, phương án phân bổ NS cấp mình;
dự toán điều chỉnh NSĐP trong trường hợp cần thiết, trình HĐND cùng cấp
quyết định và báo cáo cơ quan HCNN, cơ quan tài chính cấp trên trực tiếp. (2)
Lập quyết toán NSĐP trình HĐND cùng cấp phê chuẩn và báo cáo cơ quan
HCNN, cơ quan tài chính cấp trên trực tiếp. (3) Kiểm tra nghị quyết của HĐND
cấp dưới về tài chính - NS. (4) Căn cứ vào nghị quyết của HĐND cùng cấp,
quyết định giao nhiệm vụ thu, chi NS cho từng cơ quan, đơn vị trực thuộc; nhiệm
vụ thu, chi, mức bổ sung cho NS cấp dưới và tỷ lệ phần trăm (%) phân chia giữa
các cấp NS ở địa phương đối với các khoản thu phân chia; quy định nguyên tắc
bố trí và chỉ đạo thực hiện dự toán NS đối với một số lĩnh vực chi được HĐND
quyết định. (5) Tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện ngân NSĐP. (6)
Phối hợp với các cơ quan nhà nước cấp trên trong việc quản lý NSNN trên địa
bàn. (7) Chỉ đạo cơ quan tài chính địa phương chủ trì phối hợp với các cơ quan
liên quan giúp UBND thực hiện nhiệm vụ về NSNN.
86
Riêng UBND cấp tỉnh còn phải lập và trình HĐND cùng cấp quyết định tỷ
lệ phần trăm (%) phân chia giữa NS các cấp CQĐP đối với phần NSĐP được
hưởng từ các khoản thu phân chia theo tỷ lệ % giữa NSTW và NSĐP và các
khoản thu phân chia giữa các cấp NS ở địa phương.
Các đơn vị dự toán của NSĐP tỉnh Ninh Bình thực hiện: (1) Tổ chức lập
dự toán thu, chi NS thuộc phạm vi quản lý, thực hiện phân bổ dự toán NS được
giao cho các đơn vị trực thuộc và điều chỉnh phân bổ dự toán theo thẩm quyền.
(2) Tổ chức thực hiện dự toán thu, chi NS được giao. (3 Duyệt quyết toán đối với
các đơn vị dự toán cấp dưới.
Tổ chức, cá nhân thực hiện: (1) Nộp đầy đủ, đúng hạn các khoản thuế, phí,
lệ phí và các khoản phải nộp khác vào NS. (2) Trường hợp được Nhà nước trợ
cấp, hỗ trợ vốn và kinh phí theo dự toán được giao thì phải quản lý, sử dụng các
khoản vốn và kinh phí đó đúng mục đích, đúng chế độ, tiết kiệm, có hiệu quả và
quyết toán với cơ quan tài chính; (3) Chấp hành đúng quy định của pháp luật về
kế toán, thống kê và công khai NS.
Từ các báo cáo tổng kết của CQĐP tỉnh Ninh Bình có thể rút ra một số
nhận xét về phân cấp trong quy trình quản lý NSNN cho các cấp chính quyền ở
tỉnh, thời kỳ ổn định NS 2011 – 2016, như sau:
Thứ nhất: CQĐP các cấp trên địa bàn tỉnh đều có quyết tâm cao trong việc
chỉ đạo, điều hành NSĐP. Đặc biệt, CQĐP cấp tỉnh luôn có sự quan tâm chỉ đạo
quyết liệt ngay từ đầu năm với nhiều giải pháp công khai, công bằng, minh bạch,
đúng quy định của pháp luật.
Thứ hai: Việc lập dự toán NS của các cấp CQĐP ở tỉnh đã có nhiều tiến
bộ. Dự toán thu, chi NS sát thực tế hơn so với trước. Nhưng vẫn còn hiện tượng
một số địa phương lập dự toán thu thấp, chi cao để dễ điều hành, lấy thành tích.
Có hiện tượng giấu nguồn thu phát sinh: Xã giấu huyện, huyện giấu tỉnh, v.v...
Thứ ba: Việc chấp hành về thu, chi NS đã đạt được kết quả tốt hơn so với
87
trước. Nhưng quản lý NS còn để xảy ra thất thu, chi tiêu sai chế độ, thậm chí có
sự tùy tiện, sai phạm ở nhiều cấp.
Thứ tư: Công tác quyết toán NS của các cấp CQĐP đã từng bước được
nâng cao về mặt chất lượng. Tuy nhiên, ở một vài địa phương, thời gian gửi báo
cáo quyết toán còn chưa kịp thời; việc thuyết minh, giải trình quyết toán, việc
xác định chi chuyển nguồn, kết dư NS chưa đảm bảo quy định,…
2.2.1.3. Thực trạng phân cấp quản lý ngân sách giữa các cấp chính
quyền địa phương ở tỉnh Ninh Bình, thời kỳ ổn định ngân sách 2011 – 2016
Phân cấp quản lý NSNN có 3 nội dung: (1) Xác định phạm vi, trách nhiệm
và quyền hạn của các cấp chính quyền trong việc ban hành các chính sách, chế
độ, tiêu chuẩn, định mức thu chi NS. (2) Phân chia nguồn lực (thu NS, điều hòa
và bổ sung NS, vay nợ) và xác định nhiệm vụ chi. (3) Xác định quyền hạn và
trách nhiệm của các cấp chính quyền nhà nước trong quá trình thực hiện quy
trình quản lý NS. Nhưng, nội dung (1) và (3) Trung ương đã quy định cụ thể đối
với tất cả các cấp NS, từ Trung ương đến cơ sở; đồng thời, vay nợ của NS cấp
tỉnh chính là vay nợ của NSĐP tỉnh – chúng đã được nghiên cứu ở mục 2.2.1.2.
Vì vậy, mục 2.2.1.3 sẽ chỉ còn phải nghiên cứu: Thực trạng phân cấp nguồn thu,
thực hiện bổ sung, xác định nhiệm vụ chi cho NS các cấp CQĐP ở tỉnh Ninh
Bình, thời kỳ ổn định NS 2011 – 2016.
2.2.1.3.1. Thực trạng phân cấp nguồn thu và bổ sung ngân sách cho các
cấp CQĐP ở tỉnh Ninh Bình, thời kỳ ổn định ngân sách 2011 – 2016
Nguồn thu để phân chia giữa NS cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã ở tỉnh Ninh
Bình bao gồm hai nhóm:
- Nhóm 1: Nguồn thu NS cấp tỉnh, NS cấp huyện và NS cấp xã hưởng
100%.
- Nhóm 2: Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%). Bao gồm: (1)
Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%) giữa NSTW và NSĐP, phần
88
NSĐP hưởng được coi như 100% và đem phân chia cho NS cấp tỉnh, NS cấp
huyện và NS cấp xã; (2) Các khoản thu (ngoài các khoản ở mục (1)) phân chia
cho NS cấp tỉnh, NS cấp huyện và NS cấp xã.
Từ năm 2011 đến năm 2016, phân cấp nguồn thu giữa các cấp NSĐP ở
Ninh Bình thực hiện theo Nghị quyết số 03/2010/NQ-HĐND ngày 27/7/2010
của HĐND tỉnh về phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi và tỷ lệ phần trăm (%)
phân chia các khoản thu giữa NS các cấp CQĐP trên địa bàn tỉnh, Nghị quyết số
28/2012/NQ-HĐND ngày 20 tháng 12 năm 2012 sửa đổi bổ sung Nghị quyết
03/2010/NQ-HĐND (Xem PHỤ LỤC 1A và 1B).
Nhận xét:
Thứ nhất: Nghị quyết số 03/2010/NQ-HĐND (kể cả Nghị quyết số
28/2012/NQ-HĐND sau đó) đã được xây dựng dựa trên các cơ sở sau:
- Các văn bản pháp luật liên quan, áp dụng cho thời kỳ ổn định NS 2011 –
2016.
- Dựa trên sự đánh giá việc thực hiện phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi và
tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu giữa NS các cấp CQĐP trên địa bàn
tỉnh của thời kỳ ổn định NS trước (2007 -2010); và tình hình kinh tế-xã hội tỉnh
Ninh Bình, thời kỳ 2011 – 2016.
- Đặc biệt, tại Tờ trình số 38/TT-UBND ngày 13/7/2010 của UBND tỉnh
đã phân tích kỹ những yếu tố tích cực cần kế thừa về phân cấp nguồn thu, nhiệm
vụ chi, tỷ lệ phần trăm phân chia các khoản thu của thời kỳ trước; đồng thời
trình HĐND tỉnh cơ chế mới cho thời kỳ 2011-2016.
- Dựa trên Báo cáo thẩm tra của Ban Kinh tế và NS, ý kiến thảo luận của
các đại biểu HĐND tỉnh.
Thứ hai: Nghị quyết số 03/2010/NQ-HĐND và Nghị quyết số
28/2012/NQ-HĐND đã bám sát lý thuyết về phân cấp quản lý NSNN, Luật
NSNN 2002 và đặc điểm điều kiện tự nghiên, kinh tế -xã hội của tỉnh Ninh Bình.
89
Về mặt lý thuyết, nguồn thu NSĐP hưởng 100% thường là thuế tài sản, thuế nhà
đất, một số loại phí, lệ phí từ dịch vụ địa phương, phí phương tiện, phí cầu
đường… Đây là những sắc thuế có số thu thuế thường ít biến động (do cơ sở thuế
có tính ổn định cao) và thường gắn với các lợi ích trực tiếp của các dịch vụ mà
CQĐP cung cấp. Các loại thuế được phân chia giữa Trung ương và địa phương
thường bao gồm các loại thuế như thuế GTGT, thuế TNCN, thuế TNDN.
Thứ ba: Phần lớn các khoản thu phân chia giữa các cấp CQĐP tỉnh Ninh
Bình được áp dụng nguyên tắc: Tỷ lệ phân chia một khoản thu cụ thể cho NS cấp
huyện (hoặc xã) là như nhau giữa các huyện (hoặc xã); hai khoản thu khác nhau
thì áp dụng hai tỷ lệ phân chia khác nhau. Chính vì vậy, đối với NS cấp huyện
và cấp xã, có thể vừa có khoản thu được phân chia với tỷ lệ nhỏ hơn 100%, lại
vừa được nhận số bổ sung cân đối từ NS cấp trên. Cách phân chia này khác với
cách của Trung ương. Bởi vì, trong việc phân chia nguồn thu giữa NSTW và
NSĐP có 2 điểm: (1) Tất cả các khoản thu phân chia giữa NSTW và NSĐP cho
một tỉnh cụ thể được áp dụng chung một tỷ lệ (ví dụ, thời kỳ 2011-2016, tỷ lệ
phân chia cho Hà Nội là 42%, Vĩnh Phúc 60%). (2) Đối với các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương sau khi đã được chia lại 100% các khoản thu phân chia
giữa NSTW và NSĐP, mà nhiệm vụ chi theo quy định vẫn lớn hơn nguồn thu
NSĐP được hưởng, thì NSTW sẽ thực hiện bổ sung cân đối cho NSĐP tương
ứng với số chênh lệch thiếu giữa nguồn thu và nhiệm vụ chi. Như vậy, các tỉnh
có tỷ lệ phân chia nhỏ hơn 100% thì không có thu bổ sung cân đối từ NSTW; chỉ
những tỉnh có tỷ lệ phân chia bằng 100% mà thu chưa đủ chi thì mới được nhận
bổ sung cân đối từ NSTW.
Thứ tư: Áp dụng Luật NSNN 2002, Nghị quyết số 03/2010/NQ-HĐND
đưa ra cơ chế: Các cấp NSĐP vượt thu (phần các cấp NSĐP được hưởng) thì
được tăng chi tương ứng; các huyện, thành phố có số thu nộp NSNN vượt cả về
tổng số và số phân chia về NS cấp tỉnh so với dự toán do HĐND tỉnh giao thì
90
được NS tỉnh cấp lại 100% (sau đó điều chỉnh lại là 80%) số vượt thu tiền sử
dụng đất và 50% số vượt thu các khoản thu cân đối chi thường xuyên sau khi đã
trừ phần làm lương theo quy định. Cơ chế đó có tác dụng khuyến khích các cấp
CQĐP từ tỉnh đến huyện, xã quan tâm khai thác, nuôi dưỡng nguồn thu, tăng
cường công tác thu NS, phấn đấu thu vượt dự toán.
Phân cấp nguồn thu và bổ sung từ NSTW cho NS cấp tỉnh ở Ninh Bình
Tình hình phân cấp nguồn thu cho NS cấp tỉnh ở Ninh Bình thể hiện ở
Bảng 2.7.
Bảng 2.7: Các khoản thu NS cấp tỉnh được phân cấp
và các khoản thu bổ sung cân đối thực sự từ NSTW của NS cấp tỉnh
ở Ninh Bình, thời kỳ 2011 – 2016
NỘI DUNG
2011
2012
2013
2014
2015
2016
1.CáckhoảnthuNS
1.494.529 1.445.172 1.757.566 1.783.316 2.148.999 3.576.509
cấptỉnhđượcphâncấp
-CáckhoảnthuNScấp tỉnh
395.388
218.623
376.353
359.841
440.029
734.856
hưởng100%
-CáckhoảnthuNScấp tỉnh
1.099.141 1.226.549 1.381.213 1.423.475 1.708.970 2.841.653
hưởngtheotỷlệ%
2.Thu BSCĐ thực sự từ
329.679
507.298
903.747
1.230.197 1.190.769
1.025.592
từ
NSTW = BSCĐ
NSTW – BSCĐ cho cấp
huyện
3.SosánhthuBS
22,1%
35,1%
51,4%
69,0%
55,4%
28,7%
cânđốithựcsự/Cáckhoản
thuNScấptỉnh
đượcphâncấp
ĐV tính: Triệu đồng
(Nguồn: Báo cáo quyết toán NS các năm 2011 - 2015, UBND tỉnh Ninh Bình.
Riêng số liệu năm 2016 được lấy trong Báo cáo quyết toán NS năm 2016 do
UBND tỉnh lập để trình HĐND tỉnh phê chuẩn vào kỳ họp cuối năm 2017)
91
Ghi chú về cách tính số thu bổ sung cân đối thực sự từ NS cấp trên của
các cấp NS ở địa phương trong các Bảng 2.7, 2.8 của Luận án: Giả sử Trung
ương bổ sung cân đối cho tỉnh 200, tỉnh bổ sung cân đối cho huyện 90, huyện bổ
sung cân đối cho xã 30 thì thực sự NS cấp tỉnh được bổ sung cân đối là 200 – 90
= 110; NS cấp huyện thực sự được bổ sung cân đối là 90 – 30 = 60; NS cấp xã
thực sự được bổ sung cân đối là 30.
Qua Bảng 2.7 có thể thấy các khoản thu NS cấp tỉnh được phân cấp có xu
hướng tăng đều qua các năm. Các khoản thu NS cấp tỉnh được phân cấp không bị
ảnh hưởng đáng kể do thu tiền sử dụng đất sụt giảm của năm 2012, 2013 và
2014. Bắt đầu từ năm 2015, các khoản thu NS cấp tỉnh được phân cấp đã tăng lên
đáng kể, đặc biệt là năm 2016 có mức tăng cao nhất chưa từng có. Đây là dấu
hiệu đáng mừng về thu và phân cấp thu cho NS cấp tỉnh, làm cho NS cấp tỉnh
giữ được vai trò chủ đạo đối với các cấp NS bên dưới ở Ninh Bình.
Hàng năm, các khoản thu NS cấp tỉnh được phân cấp vẫn không đủ để chi,
vẫn phải nhận bổ sung cân đối của Trung ương. Tuy nhiên, cũng có dấu hiệu
đáng mừng: Tỷ lệ số thu bổ sung cân đối so với số thu đã được phân cấp của NS
cấp tỉnh, bắt đầu từ năm 2015 đã có xu hướng giảm xuống (năm 2016 chỉ còn
28,7%, thấp nhất trong cả thời kỳ 2011 -2016). Có thể thấy, phần lớn số thu NS
cấp tỉnh ở Ninh Bình đến từ khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm và số bổ
sung từ Trung ương.
Về bổ sung có mục tiêu của NSTW cho tỉnh sẽ được đề cập ở Bảng 2.11
phía dưới (cùng với bổ sung có mục tiêu từ NS cấp trên của NS huyện, NS xã).
Phân cấp nguồn thu và bổ sung từ NS cấp tỉnh cho NS cấp huyện ở tỉnh
Ninh Bình
Tình hình phân cấp nguồn thu cho NS cấp huyện ở Ninh Bình thể hiện ở
Bảng 2.8.
92
Bảng 2.8: Các khoản thu NS cấp huyện được phân cấp
và các khoản thu bổ sung cân đối thực sự từ NS cấp tỉnh của
NS cấp huyện trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, thời kỳ 2011 – 2016
NỘI DUNG
2011
2012
2013
2014
2015
2016
1.CáckhoảnthuNS
1.081.627
659.795
874.991
809.953 1.059.324 1.422.227
cấphuyệnđượcphâncấp
-CáckhoảnthuNScấp
848.875
400.867
608.964
525.457
716.713
980.316
huyện hưởng100%
-CáckhoảnthuNScấp
232.752
258.928
266.027
284.496
342.611
441.911
huyện hưởngtheotỷlệ%
2.ThuBSCĐ thực sự từ
488.960
656.531
599.487
528.835
495.589
491.722
NScấptỉnh = BSCĐ từ
NScấptỉnh – BSCĐ cho
cấp xã
3.Sosánhthu
60.7%
90,9%
60,4%
61,2%
46,4%
34,4%
BSCĐthựcsự/Cáckhoản
thuNScấphuyện
đượcphâncấp
ĐV tính: Triệu đồng
(Nguồn: Báo cáo quyết toán NS các năm 2011 - 2015, UBND tỉnh Ninh Bình.
Riêng số liệu năm 2016 được lấy trong Báo cáo quyết toán NS năm 2016 do
UBND tỉnh lập để trình HĐND tỉnh phê chuẩn vào kỳ họp cuối năm 2017)
Qua Bảng 2.8 có thể thấy các khoản thu NS cấp huyện được phân cấp bị
sụt giảm mạnh vào năm 2012, sau đó phục hồi dần, nhưng đến năm 2015 vẫn
chưa bằng năm 2011. Đó là do thu tiền sử dụng đất sụt giảm của năm 2012, 2013
và 2014.
Có điều đáng chú ý, khác biệt so với thu NSĐP tỉnh và NS cấp tỉnh là: Số
thu được phân cấp 100% cho NS cấp huyện thường gấp từ 1,5 đến 2 lần (năm
2016 là 2,2 lần) số thu NS cấp huyện được hưởng theo tỷ lệ phần trăm (%). Đây
là dấu hiệu tốt của việc phân cấp cho cấp huyện – lấy thu tại huyện để chi tại
93
huyện.
Hàng năm, các khoản thu NS cấp huyện được phân cấp vẫn không đủ để
chi, vẫn phải nhận bổ sung cân đối của tỉnh. Tuy nhiên, cũng có dấu hiệu đáng
mừng: Tỷ lệ số thu bổ sung cân đối so với số thu đã được phân cấp của NS cấp
huyện, bắt đầu từ năm 2015 đã có xu hướng giảm xuống (năm 2016 chỉ còn
34,4%, thấp nhất trong cả thời kỳ 2011 -2016). Rõ ràng là, phần lớn số thu NS
cấp huyện ở Ninh Bình đến từ khoản thu NS cấp huyện được hưởng 100% và số
bổ sung từ cấp trên.
Tình hình số bổ sung từ NS cấp tỉnh cho NS huyện của từng huyện, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh trên địa bàn tỉnh Ninh Bình thể hiện ở Bảng 2.9.
Bảng 2.9: Số bổ sung cân đối từ NS cấp tỉnh cho NS huyện của từng
huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trên địa bàn tỉnh Ninh Bình,
thời kỳ 2011 – 2016
S
Huyện, thị xã, TP
Năm 2011
Năm 2012
Năm 2013
Năm 2014
Năm 2015
Năm 2016
T
thuộc tỉnh
T
Tổng số
851.177
845.682
868.201
868.201
868.201
868.201
1 H. Nho Quan
194.446
193.116
198.335
198.335
198.335
198.335
2 H. Gia Viễn
117.170
115.647
119.513
119.513
119.513
119.513
3 H. Hoa Lư
71.470
71.143
72.869
72.869
72.869
72.869
4 H. Yên Khánh
144.017
144.046
146.897
146.897
146.897
146.897
5 H. Yên Mô
125.137
124.655
127.640
127.640
127.640
127.640
6 H. Kim Sơn
148.683
147.319
151.657
151.657
151.657
151.657
7 TP Tam Điệp
50.284
49.796
51.290
51.290
51.290
51.290
(trước 4/2015 là thị
xã)
8 TP Ninh Bình
0
0
0
0
0
0
Đơn vị: Triệu đồng
(Nguồn: Báo cáo quyết toán NS các năm 2011 - 2015, UBND tỉnh Ninh Bình.
Riêng số liệu năm 2016 được lấy trong Báo cáo quyết toán NS năm 2016 do
94
UBND tỉnh lập để trình HĐND tỉnh phê chuẩn vào kỳ họp cuối năm 2017)
Có thể nhận thấy, thời kỳ 2011 – 2016, NS huyện (lồng ghép NS cấp
huyện và NS các xã bên dưới) của các huyện Nho Quan, Kim Sơn, Yên Khánh,
Yên Mô, Gia Viễn phải nhận bổ sung cân đối lớn từ NS cấp tỉnh (từ 125 tỷ đồng
đến gần 200 tỷ đồng). Đồng thời, thành phố Ninh Bình đã tự cân đối được NS,
không cần nhận bổ sung cân đối từ NS cấp tỉnh. Ngoài ra, tất cả các huyện, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh đều được nhận bổ sung có mục tiêu từ NS cấp tỉnh mỗi
năm hàng trăm tỷ đồng. Số bổ sung có mục tiêu từ NS cấp tỉnh có tác dụng giúp
các huyện, thành phố phát triển kinh tế - xã hội một cách công bằng hơn. (Số bổ
sung có mục tiêu cho NS cấp huyện được trình bày ở phía dưới, tại Bảng 2.11).
Phân cấp nguồn thu và bổ sung từ NS cấp huyện cho NS cấp xã ở tỉnh
Ninh Bình
Tình hình phân cấp nguồn thu và số bổ sung cân đối cho NS cấp xã ở tỉnh
Ninh Bình thể hiện ở Bảng 2.10.
Bảng 2.10: Các khoản thu NS cấp xã được phân cấp
và các khoản thu bổ sung cân đối từ NS cấp trên của NS cấp xã
trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, thời kỳ 2011 – 2016
NỘI DUNG
2011
2012
2013
2014
2015
2016
1.CáckhoảnthuNS
337.787
203.248
157.329
161.172
180.693
276.809
cấpxãđượcphâncấp
-CáckhoảnthuNScấp
182.535
134.966
139.370
157.921
237.163
297.908
xãhưởng100%
-CáckhoảnthuNScấpxã
20.713
22.363
21.802
22.772
39.646
39.879
hưởngtheotỷlệ%
2.ThuBSCĐtừNScấptrên 194.646
246.195
339.366
372.612
376.479
379.241
3.SosánhthuBS
95,8%
156,5%
210,6%
206,2%
136,0%
112,3%
cânđối/Cáckhoản
thuNScấpxã
ĐV tính: Triệu đồng
95
đượcphâncấp = (2) : (1)
(Nguồn: Báo cáo quyết toán NS các năm 2011 - 2015, UBND tỉnh Ninh Bình.
Riêng số liệu năm 2016 được lấy trong Báo cáo quyết toán NS năm 2016 do
UBND tỉnh lập để trình HĐND tỉnh phê chuẩn vào kỳ họp cuối năm 2017)
Qua Bảng 2.10 có thể thấy các khoản thu NS cấp xã được phân cấp bị sụt
giảm mạnh vào năm 2012, sau đó phục hồi dần, và đến năm 2015 thì vượt năm
2011. Đó là do thu tiền sử dụng đất sụt giảm của năm 2012, 2013 và 2014.
Có điều đáng chú ý là: Số thu được phân cấp 100% cho NS cấp xã thường
gấp trên 6 lần (năm 2016 là 7,5 lần) số thu NS cấp xã được hưởng theo tỷ lệ %.
Đây là dấu hiệu tốt của việc phân cấp cho cấp xã – lấy thu tại xã để chi tại xã.
Hàng năm, các khoản thu NS cấp xã được phân cấp vẫn không đủ để chi,
vẫn phải nhận bổ sung cân đối của huyện. Tuy nhiên, cũng có dấu hiệu đáng
mừng: Tỷ lệ số thu bổ sung so với số thu đã được phân cấp của NS cấp xã, bắt
đầu từ năm 2015 đã có xu hướng giảm xuống (năm 2016 chỉ còn 112,3%, thấp
nhất trong 5 năm 2012 -2016). Rõ ràng là, phần lớn số thu NS cấp xã ở Ninh
Bình đến từ khoản thu NS cấp xã được hưởng 100% và số bổ sung từ cấp trên.
Đến đây, vấn đề số bổ sung có mục tiêu của các cấp NSĐP sẽ được đề
cập chung ở Bảng 2.11.
“Số bổ sung có mục tiêu” khác với “số bổ sung cân đối” ở chỗ: Số bổ sung
cân đối được nhập chung vào các khoản thu khác để tài trợ cho tổng số chi
chung, nhưng số bổ sung có mục tiêu chỉ được dùng để chi cho những mục tiêu
đã được chỉ định cụ thể; số bổ sung cân đối được ổn định trong cả thời kỳ ổn
định NS (3 – 5 năm), còn số bổ sung có mục tiêu được tính hàng năm.
96
Bảng 2.11: Thu bổ sung có mục tiêu từ NS cấp trên của các cấp NSĐP
tỉnh Ninh Bình, thời kỳ 2011 – 2016
Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015
2016
1.112.841
1.705.057
1.308.316
1.767.608
1.623.936
1.435.826
CủaNScấptỉnh
479.400
1.119.545
1.345.541
1.717.333
1.926.698
1.978.043
CủaNScấphuyện
324.095
374.031
367.204
344.634
619.034
695.841
CủaNScấpxã
1.916.336
3.198.633
3.021.061
3.829.575
4.169.668
4.109.710
Tổngcộng
(doanhsốtínhtrùng)
Đơn vị tính: Triệu đồng
(Nguồn: Báo cáo quyết toán NS các năm 2011 - 2015, UBND tỉnh Ninh Bình.
Riêng số liệu năm 2016 được lấy trong Báo cáo quyết toán NS năm 2016 do
UBND tỉnh lập để trình HĐND tỉnh phê chuẩn vào kỳ họp cuối năm 2017)
Qua Bảng 2.11, có thể thấy tất cả thu bổ sung có mục tiêu của cấp xã là để
chi cho cấp xã. Thu bổ sung có mục tiêu của NS cấp tỉnh chính là toàn bộ thu bổ
sung có mục tiêu từ NSTW của NSĐP toàn tỉnh, nhưng NS cấp tỉnh còn phải cấp
bổ sung có mục tiêu cho NS cấp huyện. Điều này cũng diễn ra tương tự đối với
NS cấp huyện. Dòng “Tổng cộng” của Bảng 2.11 là doanh số tính trùng lắp.
Tuy nhiên, nó lại có tính rõ ràng, không bù trừ khi quyết toán. Có điều rất đáng
lưu ý trong Bảng 2.11 là: Năm 2013, 2015 và 2016, NS cấp tỉnh cấp bổ sung có
mục tiêu cho NS cấp huyện lớn hơn cả số bổ sung có mục tiêu mà NSTW cấp
cho NSĐP. Điều đó thể hiện sự rất quan tâm của cấp tỉnh đối với các huyện trong
việc phân chia nguồn lực NS.
Quy mô các khoản bổ sung có mục tiêu của NS cấp trên cho NS cấp dưới
từ 2011 đến 2016 luôn được ổn định hoặc mở rộng, cùng với NSĐP có tác động
tích cực trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương, phục
vụ tốt cho việc xây dựng nông thôn mới ở Ninh Bình, giảm được nghèo và thu
hẹp bất bình đẳng NS giữa các vùng trong tỉnh.
Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn
97
2010 – 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 800/QĐ-
TTg ngày 04/6/2010. Theo Báo cáo của UBND tỉnh về kết quả thực hiện Chương
trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2011
– 2016, sự hỗ trợ của Trung ương và tỉnh đã tạo nguồn lực để các cấp CQĐP bên
dưới triển khai thực hiện chương trình có hiệu quả, đồng thời tạo động lực để các
tố chức và người dân tham gia chung sức đóng góp tiền của, công sức, đất đai để
xây dựng nông thôn mới. Cụ thể: (1) Nhóm công việc nhà nước hỗ trợ 100%:
Công tác quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng tập huấn tuyên truyền và Đào tạo nghề
cho lao động nông thôn thực hiện tốt và mang lại kết quả. (2) Nhóm hỗ trợ hoạt
động quản lý tại các đơn vị của tỉnh, huyện và xã đã đáp ứng được yêu cầu hoạt
động. (3) Nhóm công việc hỗ trợ một phần: Rõ nhất ở các nội dung nhà nước và
nhân dân cùng làm (như hỗ trợ nhà văn hóa thôn kinh phí đáp ứng được 58% nhu
cầu; hỗ trợ dồn điền đổi thửa đã đáp ứng được 92%; hỗ trợ xi măng làm đường
giao thông nông thôn đã đóng góp được 30% kinh phí làm đường...).
Tổng nguồn vốn huy động cho xây dựng nông thôn mới toàn tỉnh thời kỳ
2011 -2016 ước đạt 19.970.872 triệu đồng, trong đó vốn NS và vốn có nguồn gốc
NS đạt 7.015.370 triệu đồng chiếm 35,2% (vốn NS trực tiếp là 2.717.580 triệu
đồng, chiếm 13,6 %); vốn tín dụng 34.099.635 triệu đồng, chiếm 20,5%; vốn
doanh nghiệp 1.256.800 triệu đồng, chiếm 6,3%; vốn nhân dân tham gia là
7.220.232 triệu đồng chiếm 36,0%; vốn khác: 379.104 triệu đồng chiếm 2,0%.
Đến hết năm 2016 có 60 xã của tỉnh đạt danh hiệu “xã đạt chuẩn nông
thôn mới”. Bình quân số tiêu chí đạt chuẩn/xã là 15,5 tiêu chí (tăng 10,5 tiêu
chí/xã so với năm 2011), không còn xã đạt chuẩn dưới 6 tiêu chí theo Bộ Tiêu
chí Quôc gia nông thôn mới; kết quả lấy ý kiến về sự hài lòng của người dân ở
các xã đạt chuấn nông thôn mới đều đạt tỷ lệ hài lòng trên 90% [60, Phần
A,I.1.2].
98
Để đo lường thêm sự phân cấp thu, tác giả luận án đã lập Bảng 2.12 tính
tỷ trọng số thu được hưởng theo phân cấp của từng cấp NS ở địa phương trong
tổng số các khoản thu phân cấp cho NSĐP tỉnh Ninh Bình; Bảng 2.13 tính số
tuyệt đối và tỷ trọng nguồn thu của từng cấp NS ở địa phương trong tổng số các
nguồn thu của NSĐP tỉnh Ninh Bình.
Bảng 2.12: Tỷ trọng số thu được hưởng theo phân cấp của từng cấp
NSĐP trong tổng số các khoản thu phân cấp cho NSĐP tỉnh Ninh Bình,
thời kỳ 2011 - 2016
2011
2012
2013
2014
2015
2016
53,8
63,9
62,9
64,3
61,7
CủaNScấptỉnh
67,0
38,9
29,2
31,3
29,2
30,4
CủaNScấphuyện
26,6
7,3
6,9
5,8
6,5
7,9
CủaNScấpxã
6,4
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
Tổng cộng
100,0
ĐV tính: %
(Tính toán dựa vào Báo cáo quyết toán NS các năm 2011 - 2015, UBND tỉnh
Ninh Bình. Riêng số liệu năm 2016 được lấy trong Báo cáo quyết toán NS năm
2016 do UBND tỉnh lập để trình HĐND tỉnh phê chuẩn vào kỳ họp cuối năm
2017)
Như vậy, trong tổng số các khoản thu phân cấp cho địa phương Ninh Bình
được hưởng, NS cấp tỉnh nắm giữ khoảng 63%, NS cấp huyện khoảng 30% và
NS cấp xã khoảng 7%. Điều này làm cho NS cấp trên luôn giữ vai trò chủ đạo
đối với các cấp NS bên dưới trên địa bàn tỉnh ngay trong cách phân chia các
khoản thu phân cấp cho NSĐP được hưởng. Đây là việc làm rất đúng và thận
trọng của tỉnh. Bởi vì, nếu cấp tỉnh nắm phần lớn nguồn lực, nhưng chỉ nắm
nguồn từ bổ sung cân đối của Trung ương, còn các khoản thu NSĐP được hưởng
theo phân cấp chủ yếu để cho cấp huyện và xã nắm thì tính chủ động của NS cấp
tỉnh sẽ kém đi.
99
Bảng 2.13: Số tuyệt đối và tỷ trọng nguồn thu của từng cấp NS ở địa
phương trong tổng số các nguồn thu của NSĐP tỉnh Ninh Bình,
thời kỳ 2011 – 2016
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2.457.649
2.537.982
2.624.088
3.063.788
3.037.006
4.059.884
CủaNScấptỉnh
(48,4%)
(47,7%)
(44,7%)
(46,2%)
(42,4%)
(46,8%)
2.678.241
1.893.463
2.004.796
2.382.163
2.858.692
3.193.389
CủaNScấphuyện
ĐV tính số tuyệt đối: Triệu đồng
(40,3%)
(37,3%)
(37,7%)
(40,6%)
(39,8%)
(36,8%)
721.989
777.555
867.742
897.939
1.272.322
1.412.869
CủaNScấpxã
(14,3%)
(14,6%)
(14,7%)
(13,5%)
(17,8%)
(16,4%)
5.073.101
5.320.342
5.873.993
6.639.968
7.168.038
8.666.142
Tổng cộng
(100%)
(100%)
(100%)
(100%)
(100%)
(100%)
(Tính toán dựa vào Báo cáo quyết toán NS các năm 2011 - 2015, UBND tỉnh
Ninh Bình. Riêng số liệu năm 2016 được lấy trong Báo cáo quyết toán NS năm
2016 do UBND tỉnh lập để trình HĐND tỉnh phê chuẩn vào kỳ họp cuối năm
2017)
Ghi chú: Trong Bảng 2.13 này “Số bổ sung thực sự từ NS cấp trên” của một cấp
NS = Số bổ sung từ NS cấp trên trừ (-) Số bổ sung cho NS cấp dưới. Số bổ sung
từ NS cấp trên cho NS cấp dưới bao gồm Số bổ sung cân đối và Số bổ sung có
mục tiêu. Nguồn thu của một cấp NS = số thu được phân cấp + số bổ sung thực
sự từ NS cấp trên. Nguồn thu của NSĐP = số thu được phân cấp + số thu bổ sung
từ NSTW.
Nhìn vào Bảng 2.13 có thể thấy, từ 2011 – 2016, nguồn thu của tất cả các
cấp tỉnh, huyện, xã tăng đều qua các năm. Trong điều kiện thị trường bất động
sản bị biến động mạnh, số thu được phân cấp của NSĐP năm 2012, 2013 và
2014 bị giảm về số tuyệt đối so với năm 2011, nhưng nguồn thu để đảm bảo số
chi của từng cấp NS ở địa phương vẫn được tăng đều thì đây quả là một thành
tích tốt trong phân cấp quản lý NSĐP và sự quan tâm chỉ đạo của cấp trên. NS
100
từng cấp được đảm bảo nguồn thu để chủ động chi tiêu, đồng thời NS cấp tỉnh,
cấp huyện vẫn luôn giữ được vai trò chủ đạo đối với các cấp NS bên dưới. NS
cấp tỉnh nắm giữ khoảng 55%, NS cấp huyện nắm giữ khoảng 34% - 35%, NS
cấp xã nắm giữ khoảng 10% - 11% tổng số nguồn thu của NSĐP.
Điểm đáng chú ý là, ở tỉnh Ninh Bình trong thời kỳ 2011 – 2016, việc
phân cấp nguồn thu cho NS xã được tăng cường nhiều hơn, theo đó NS xã được
hưởng tối thiểu 70% đối với các khoản thu: thuế nhà đất (đã được thay bởi thuế
sử dụng đất phi nông nghiệp); thuế chuyển quyền sử dụng đất (đã được thay
bằng thuế TNCN từ chuyển quyền sử dụng đất); thuế sử dụng đất nông nghiệp; lệ
phí trước bạ nhà, đất. Khoản thu tiền sử dụng đất cũng được điều chỉnh theo
hướng tăng tỷ lệ (%) phân chia cho NS cấp huyện, cấp xã để có thêm nguồn đầu
tư xây dựng cơ sở hạ tầng theo phân cấp, khuyến khích đẩy mạnh đấu giá quyền
sử dụng đất và giao đất có thu tiền. Nhờ vậy, đã khuyến khích các xã tăng cường
công tác quản lý tài chính, phấn đấu tăng thu, sử dụng NS tiết kiệm và hiệu quả.
Tóm lại, việc phân cấp nguồn thu thời kỳ 2011 – 2016 ở tỉnh Ninh Bình đã
có sự điều chỉnh theo hướng mở rộng phân cấp một số khoản thu cho NS cấp
huyện, NS cấp xã nhằm tăng cường nguồn lực tài chính cho NS cấp dưới, tạo sự
chủ động và khuyến khích chính quyền cấp huyện, cấp xã quản lý, khai thác
nguồn thu gắn với nuôi dưỡng nguồn thu. Nguồn thu được tập trung chủ yếu vào
NS cấp tỉnh nhằm cung ứng nguồn tài chính đảm bảo vai trò chủ đạo của NS cấp
tỉnh ở địa phương.
2.2.1.3.2. Thực trạng phân cấp nhiệm vụ chi ngân sách cho các cấp
CQĐP ở tỉnh Ninh Bình, thời kỳ ổn định ngân sách 2011 – 2016
Từ năm 2011 đến năm 2016, phân cấp nhiệm vụ chi giữa các cấp NSĐP ở
Ninh Bình thực hiện theo Nghị quyết số 03/2010/NQ-HĐND ngày 27/7/2010 của
HĐND tỉnh về phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi và tỷ lệ phần trăm (%) phân
chia các khoản thu giữa NS các cấp CQĐP trên địa bàn tỉnh, (xem PHỤ LỤC
101
1A). Nghị quyết số 28/2012/NQ-HĐND ngày 20 tháng 12 năm 2012 chỉ sửa đổi
một số quy định về phân cấp nguồn thu, không sửa đổi gì liên quan đến quy định
phân cấp nhiệm vụ chi của Nghị quyết 03/2010/NQ-HĐND.
Nhận xét: Nhiệm vụ chi của các cấp NSĐP được HĐND tỉnh Ninh Bình
phân cấp là tương tự nhau, chỉ khác ở cấp độ phạm vi là thuộc tỉnh, huyện hoặc
xã.
Tình hình chi NS cấp tỉnh được thể hiện qua Bảng 2.14.
Bảng 2.14: Tổng số chi NS cấp tỉnh ở Ninh Bình,
thời kỳ 2011 – 2016
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
Nội dung
2011
2012
2013
2014
2015
2016
Tổng số chi NS cấp
2.393.554 3.402.614 2.931.799 3.127.411 3.146.750 4.184.430
tỉnh
1. Chi đầu tư phát triển
590.706
559.907
643.339
291.476
379.465 1.249.342
2. Chi thường xuyên
1.006.198 1.395.165 1.588.010 1.736.910 1.755.946 1.875.088
3. Chi CTMTQG & CT
796.650 1.447.542
700.450 1.099.025 1.011.339 1.060.000
Chính phủ
Đơn vị: Triệu đồng
(Nguồn: Báo cáo quyết toán NS các năm 2011 - 2015, UBND tỉnh Ninh Bình.
Riêng số liệu năm 2016 được lấy trong Báo cáo quyết toán NS năm 2016 do
UBND tỉnh lập để trình HĐND tỉnh phê chuẩn vào kỳ họp cuối năm 2017)
Trong khi chi thường xuyên NS cấp tỉnh tăng qua các năm thì chi đầu tư
phát triển NS cấp tỉnh lại tỏ ra không có tính ổn định. Chi thường xuyên luôn
luôn lớn hơn chi đầu tư phát triển. Chi CTMTQG &CT Chính phủ của NS cấp
tỉnh có xu hướng tăng qua các năm.
Để xác định mức độ tương xứng giữa thu và chi đã phân cấp cho NS
cấp tỉnh ở Ninh Bình, có thể sử dụng chỉ số Tỷ lệ các khoản thu NS được phân
cấp so với tổng chi NS của một địa phương cụ thể đã được đề cập ở Chương 1.
102
Bảng 2.15: Mức độ tương xứng giữa các khoản thu được phân cấp và
NỘI DUNG
2011
2012
2013
2014
2015
2016
1.CáckhoảnthuNS
1.494.529 1.445.172 1.757.566 1.783.316 2.148.999 3.576.509
cấptỉnhđượcphâncấp
2.Tổng chi NS cấp tỉnh
2.393.554 3.402.614 2.931.799 3.127.411 3.146.750
4.184.430
(đv tính: Triệu đồng)
3.Mức độ tương xứng
62,4
42,5
60,0
57,0
68,3
85,5
giữa thu và chi (%)
tổng chi của NS cấp tỉnh ở Ninh Bình, thời kỳ 2011 – 2016
(Nguồn: Báo cáo quyết toán NS các năm 2011 - 2015, UBND tỉnh Ninh Bình.
Riêng số liệu năm 2016 được lấy trong Báo cáo quyết toán NS năm 2016 do
UBND tỉnh lập để trình HĐND tỉnh phê chuẩn vào kỳ họp cuối năm 2017)
Như phần trên đã phân tích, thời kỳ 2011 – 2016, mức độ phân cấp nguồn
thu cho NSĐP tỉnh Ninh Bình so với nhiệm vụ chi, thường ở mức khoảng 50%
(riêng năm 2016 đạt mức 61,0%). Nhưng nhìn vào Bảng 2.15, có thể thấy đối với
NS cấp tỉnh, mức độ này cao hơn, thường ở mức trên 60% (riêng năm 2016 đạt
mức 85,5%). Điều này đã thể hiện rõ nét việc coi trọng nguyên tắc “NS cấp tỉnh
giữ vai trò chủ đạo” trong hệ thống NSĐP. Khi mức độ tương xứng giữa thu và
chi của NS cấp tỉnh cao hơn mức độ tương xứng giữa thu và chi của chung toàn
bộ NSĐP thì tất nhiên mức độ đó của NS cấp huyện và cấp xã sẽ thấp hơn mức
chung (sẽ được xem xét ở phía dưới).
Liên quan đến phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi của HĐND tỉnh Ninh
Bình cho NS cấp tỉnh thời kỳ 2011 – 2016 có vấn đề đặc biệt đáng lưu ý là: Chi
chuyển nguồn của NS cấp tỉnh lớn gấp nhiều lần chi đầu tư phát triển của NS
cấp tỉnh; nhiều nhất là 5,2 lần (năm 2014), ít nhất là 1,2 lần (năm 2016) (xem
Bảng 2.16). Cần khắc phục nguyên nhân gây chuyển nguồn bất hợp lý quá lớn,
trong khi nhu cầu chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên ngày càng lớn. Trong
103
3 cấp NS ở địa phương thì tình trạng chi chuyển nguồn quá lớn tập trung nhiều
nhất ở cấp tỉnh. Đây là điều rất đáng trăn trở: Cấp tỉnh giữ vai trò chủ đạo, làm
gương cho các cấp bên dưới, nhưng lại không làm tốt việc này nhất.
Bảng 2.16: So sánh chi chuyển nguồn sang năm sau
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
Nội dung
2011
2012
2013
2014
2015
2016
1.Chi đầu
tư phát
triển (đv tính: Triệu
590.706
559.907
643.339
291.476
379.465 1.249.342
đồng)
2.Chi chuyển nguồn
sang năm sau (đv tính:
2.020.203 1.399.305 1.391.667 1.501.311
837.791 1.470.828
Triệu đồng)
3.So sánh chi chuyển
nguồn sang năm sau
3,4 lần
2,5 lần
2,2 lần
5,2 lần
2,2 lần
1,2 lần
với Chi đầu tư phát
triển
và chi đầu tư phát triển NS cấp tỉnh ở Ninh Bình, thời kỳ 2011 - 2016
(Nguồn: Báo cáo quyết toán NS các năm 2011 - 2015, UBND tỉnh Ninh Bình.
Riêng số liệu năm 2016 được lấy trong Báo cáo quyết toán NS năm 2016 do
UBND tỉnh lập để trình HĐND tỉnh phê chuẩn vào kỳ họp cuối năm 2017)
Tình hình chi NS cấp huyện được thể hiện qua Bảng 2.17.
Bảng 2.17: Tổng số chi NS cấp huyện ở tỉnh Ninh Bình,
thời kỳ 2011 – 2016
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
Nội dung
2011
2012
2013
2014
2015
2016
Tổng số chi NS cấp
1.791.366 2.097.303 2.516.709 2.294.795 2.715.201 3.236.429
huyện
1. Chi đầu tư phát triển
661.049
524.276
807.324
454.360
560.454
985.236
Đơn vị: Triệu đồng
104
2. Chi thường xuyên
1.126.354 1.556.843 1.697.991 1.815.463 2.104.208 2.161.193
3. Chi CTMTQG & CT
3.963
16.184
11.394
24.972
50.539
90.000
Chính phủ
(Nguồn: Báo cáo quyết toán NS các năm 2011 - 2015, UBND tỉnh Ninh Bình.
Riêng số liệu năm 2016 được lấy trong Báo cáo quyết toán NS năm 2016 do
UBND tỉnh lập để trình HĐND tỉnh phê chuẩn vào kỳ họp cuối năm 2017)
Chi thường xuyên NS cấp huyện tăng qua các năm, chi đầu tư phát triển
NS cấp huyện không có tính ổn định. Chi thường xuyên cũng luôn luôn lớn hơn
chi đầu tư phát triển từ 2 – 3 lần. Chi CTMTQG &CT Chính phủ của NS cấp
huyện có xu hướng tăng qua các năm. Nhờ việc tăng cường phân cấp nguồn thu
và các chính sách về thưởng vượt thu (đặc biệt là cấp lại cho cấp huyện 100%
vượt thu tiền sử dụng đất phần NS cấp tỉnh so dự toán HĐND tỉnh giao) đã giúp
cho cấp huyện có nguồn để thực hiện các nhiệm vụ chi. Số chi NS cấp huyện
tăng cả về tổng chi NS cũng như chi thường xuyên. Đối với cấp huyện, tổng chi
NS năm 2016 gấp 1,8 lần so với năm 2011, trong đó chi thường xuyên gấp gần 2
lần. Tốc độ chi thường xuyên của NS cấp huyện tăng cao là do trong thời kỳ này
tỉnh đã tập trung bố trí nguồn NS để chi thực hiện các chế độ chính sách, đảm
bảo an sinh xã hội ở huyện, đặc biệt là từ năm 2015 - 2016.
Để xác định mức độ tương xứng giữa thu và chi đã phân cấp cho NS cấp
huyện ở Ninh Bình, có thể sử dụng chỉ số Tỷ lệ các khoản thu NS được phân
cấp so với tổng chi NS của một địa phương cụ thể đã được đề cập ở Chương 1.
105
Bảng 2.18: Mức độ tương xứng giữa các khoản thu được phân cấp và
NỘI DUNG
2011
2012
2013
2014
2015
2016
1.422.227
1.CáckhoảnthuNS
1.081.627
659.795
874.991
809.953 1.059.324
cấphuyệnđượcphâncấp
2.Tổng chi NS cấp huyện (đv tính: Triệu
1.791.366 2.097.303 2.516.709 2.294.795
2.715.201
3.236.429
đồng)
3.Mức độ tương xứng
60,4
31,5
34,8
35,3
39,0
44,0
giữa thu và chi (%)
tổng chi của NS cấp huyện ở tỉnh Ninh Bình, thời kỳ 2011 – 2016
(Nguồn: Báo cáo quyết toán NS các năm 2011 - 2015, UBND tỉnh Ninh Bình.
Riêng số liệu năm 2016 được lấy trong Báo cáo quyết toán NS năm 2016 do
UBND tỉnh lập để trình HĐND tỉnh phê chuẩn vào kỳ họp cuối năm 2017)
Nhìn vào Bảng 2.18 có thể thấy mức độ phân cấp nguồn thu cho NS cấp
huyện so với nhiệm vụ chi thường ở mức 35 - 40% (riêng năm 2011 đạt mức
60,4% - đây là năm có số thu về tiền sử dụng đất cao; còn năm 2016 đạt 44,0%).
Liên quan đến phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi của HĐND tỉnh Ninh
Bình cho NS cấp huyện thời kỳ 2011 – 2016 cũng có vấn đề đáng lưu ý là: Chi
chuyển nguồn của NS cấp huyện cũng khá lớn, có năm vượt chi đầu tư phát triển
30%. Tuy vậy mức độ chi chuyển nguồn cũng đỡ hơn là của NS cấp tỉnh. (Xem
Bảng 2.19).
Bảng 2.19: So sánh chi chuyển nguồn sang năm sau và chi đầu tư
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
Nội dung
2011
2012
2013
2014
2015
2016
1.Chi đầu
tư phát
triển (đv tính: Triệu
661.049
524.276
807.324
454.360
560.454
925.236
đồng)
phát triển NS cấp huyện ở tỉnh Ninh Bình, thời kỳ 2011 - 2016
106
2.Chi chuyển nguồn
sang năm sau (đv tính:
426.508
320.667
198.623
574.490
721.659
770.562
Triệu đồng)
3.So sánh chi chuyển
nguồn sang năm sau
0,7 lần
0,6 lần
0,3 lần
1,3 lần
1,3 lần
0,8 lần
với Chi đầu tư phát
triển
(Nguồn: Báo cáo quyết toán NS các năm 2011 - 2015, UBND tỉnh Ninh Bình.
Riêng số liệu năm 2016 được lấy trong Báo cáo quyết toán NS năm 2016 do
UBND tỉnh lập để trình HĐND tỉnh phê chuẩn vào kỳ họp cuối năm 2017)
Tình hình chi NS cấp xã được thể hiện qua Bảng 2.20.
Bảng 2.20: Tổng số chi NS cấp xã ở tỉnh Ninh Bình,
thời kỳ 2011 – 2016
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
Nội dung
2011
2012
2013
2014
2015
2016
Tổng số chi NS cấp xã
707.981
808.878
888.101
881.132 1.243.148 1.331.830
1. Chi đầu tư phát triển
314.630
296.068
252.564
216.147
487.010
606.497
2. Chi thường xuyên
380.101
499.853
610.678
661.430
755.958
712.385
3. Chi CTMTQG & CT
13.250
12.957
24.859
3.555
180
12.858
Chính phủ
Đơn vị: Triệu đồng
(Nguồn: Báo cáo quyết toán NS các năm 2011 - 2015, UBND tỉnh Ninh Bình.
Riêng số liệu năm 2016 được lấy trong Báo cáo quyết toán NS năm 2016 do
UBND tỉnh lập để trình HĐND tỉnh phê chuẩn vào kỳ họp cuối năm 2017)
Chi thường xuyên NS cấp xã tăng liên tục qua các năm, chi đầu tư phát
triển lúc tăng, lúc giảm không ổn định. Chi để thực hiện CTMTQG và CT Chính
phủ không ổn định và có xu hướng giảm. Đối với NS cấp xã, tổng chi NS năm
2015 gấp 1,8 lần so với năm 2011, trong đó chi đầu tư phát triển gấp 1,5 lần, chi
107
thường xuyên gấp 2 lần. Năm 2016, tổng chi NS gấp 1,9 lần năm 2011, trong đó
chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên cũng đều tăng 1,9 lần. Tốc độ chi thường
xuyên của NS cấp xã tăng cao là do trong thời kỳ này đã được tập trung bố trí
nguồn NS để chi thực hiện các chế độ, chính sách, đảm bảo an sinh xã hội tại cơ
sở.
Để xác định mức độ tương xứng giữa thu và chi đã phân cấp cho NS cấp
xã ở tỉnh Ninh Bình, có thể sử dụng chỉ số Tỷ lệ các khoản thu NS được phân
cấp so với tổng chi NS của một địa phương cụ thể đã được đề cập ở Chương 1.
Bảng 2.21: Mức độ tương xứng giữa các khoản thu được phân cấp và
NỘI DUNG
2011
2012
2013
2014
2015
2016
1.CáckhoảnthuNS cấp
337.787
203.248
157.329
161.172
180.693
276.809
xã đượcphâncấp
2.Tổng chi NS cấp xã
707.981
808.878
888.101
881.132
1.243.148
1.331.830
(đv tính: Triệu đồng)
3.Mức độ tương xứng
28,7
19,5
18,1
20,5
22,3
25,4
giữa thu và chi (%)
tổng chi của NS cấp xã ở tỉnh Ninh Bình, thời kỳ 2011 – 2016
(Nguồn: Báo cáo quyết toán NS các năm 2011 - 2015, UBND tỉnh Ninh Bình.
Riêng số liệu năm 2016 được lấy trong Báo cáo quyết toán NS năm 2016 do
UBND tỉnh lập để trình HĐND tỉnh phê chuẩn vào kỳ họp cuối năm 2017)
Nhìn vào Bảng 2.21 có thể thấy mức độ phân cấp nguồn thu cho NS cấp
xã so với nhiệm vụ chi thường ở mức 19-25%.
Vấn đề chi chuyển nguồn của NS cấp xã ở tỉnh Ninh Bình không gặp phải
vấn đề lớn như ở cấp tỉnh và cấp huyện (xem Bảng 2.22). So với chi đầu tư phát
triển, chi chuyển nguồn sang năm sau chỉ chiếm từ 10 – 20%. Nhưng trong quản
lý NS cũng cần phải chú ý hạn chế những khoản chi chuyển nguồn không đáng
có.
108
Bảng 2.22: So sánh chi chuyển nguồn sang năm sau và chi đầu tư
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
Nội dung
2011
2012
2013
2014
2015
2016
1.Chi đầu
tư phát
triển (đv tính: Triệu
314.630
296.068
252.564
216.147
487.010
606.587
đồng)
2.Chi chuyển nguồn
sang năm sau (đv tính:
67.606
32.478
24.859
40.791
58.472
127.893
Triệu đồng)
3.So sánh chi chuyển
nguồn sang năm sau
0,2 lần
0,1 lần
0,1 lần
0,2 lần
0,1 lần
0,2 lần
với Chi đầu tư phát
triển
phát triển NS cấp xã ở tỉnh Ninh Bình, thời kỳ 2011 - 2016
(Nguồn: Báo cáo quyết toán NS các năm 2011 - 2015, UBND tỉnh Ninh Bình.
Riêng số liệu năm 2016 được lấy trong Báo cáo quyết toán NS năm 2016 do
UBND tỉnh lập để trình HĐND tỉnh phê chuẩn vào kỳ họp cuối năm 2017)
Để thấy đầy đủ hơn bức tranh phân cấp nhiệm vụ chi NSĐP tỉnh Ninh
Bình, cần đi sâu phân tích việc phân cấp nhiệm vụ chi để cung cấp hàng hóa
công cộng của các cấp chính quyền. Trong luận án, tác giả chỉ lấy phân cấp
nhiệm vụ chi thường xuyên cho giáo dục và y tế để làm ví dụ minh họa. Giáo dục
và y tế là hai trong số những hàng hóa công cộng quan trọng nhất mà chính
quyền nhà nước cung cấp cho nhân dân.
Giáo dục công lập (hiểu theo nghĩa hẹp, không bao gồm đào tạo và dạy
nghề) ở tỉnh Ninh Bình được phân cấp quản lý như sau: (1) Các trường Trung
học phổ thông công lập, trường phổ thông có nhiều cấp học (trong đó có cấp học
trung học phổ thông) là các đơn vị trực thuôc Sở Giáo dục. Các trường được giao
tự chủ tài chính, tự bảo đảm được một phần chi thường xuyên. Phần chi thường
xuyên còn thiếu được NS cấp tỉnh đảm bảo. (2) Các trường Trung học cơ sở,
109
Tiểu học, Mầm non là các đơn vị trực thuộc Phòng Giáo dục (cơ quan chuyên
môn của UBND các huyện). Các trường cũng được giao tự chủ tài chính, tự bảo
đảm được một phần chi thường xuyên. Phần chi thường xuyên còn thiếu được
NS cấp huyện đảm bảo. (3) NS cấp xã chỉ được phân cấp chi hỗ trợ cho giáo dục
mầm non và giáo dục khác do xã quản lý (chi hỗ trợ: Lễ khai giảng; Tổng kết
năm học; Ngày Nhà giáo Việt Nam; Ngày Quốc tế phụ nữ; Ngày Phụ nữ Việt
Nam; Tết Trung thu; Tết Thiếu nhi; một số hoạt động hè và các hoạt động mang
tính chất không thường xuyên).
Thực trạng chi thường xuyên cho giáo dục của các cấp NSĐP thể hiện ở
Bảng 2.23:
Bảng 2.23: Chi thường xuyên cho giáo dục của các cấp NSĐP
tỉnh Ninh Bình, thời kỳ 2011 – 2016
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
Nội dung
2011
2012
2013
2014
2015
2016
I.Tổng số chi TX cho
801.722 1.178.919 1.295.403 1.416.697 1.620.768 1.557.752
GD của NSĐP
1.Chi TX cho GD từ NS
139.102
179.907
197.772
218.734
230.222
226.389
cấp tỉnh
2. Chi TX cho GD từ
651.010
986.557 1.085.078 1.180.210 1.361.002 1.313.575
NS cấp huyện
3. Chi TX cho GD từ
11.610
12.455
12.553
17.753
29.544
17.788
NS cấp xã
II.Tổng chi TX của
2.512.653 3.451.861 3.896.697 4.213.803 4.616.112 4.748.665
NSĐP
III. Tỷ lệ chi TX cho
GD trên tổng chi TX
31,9
34,1
33,2
33,6
35,1
32,8
của NSĐP (%)
ĐV tính: Triệu đồng
(Nguồn: Báo cáo quyết toán NS các năm 2011 - 2015, UBND tỉnh Ninh Bình.
110
Riêng số liệu năm 2016 được lấy trong Báo cáo quyết toán NS năm 2016 do
UBND tỉnh lập để trình HĐND tỉnh phê chuẩn vào kỳ họp cuối năm 2017)
Từ bảng số liệu trên có thể thấy, tỉnh Ninh Bình đã rất quan tâm đến giáo
dục. Chi thường xuyên cho giáo duc tăng đều đều qua các năm. Riêng năm 2016
giảm đi 63.016 triệu đồng so với năm 2015. Chi thường xuyên cho giáo dục
chiếm từ 33-34% chi thường xuyên của NSĐP và tập trung chủ yếu ở cấp
huyện. Đây là một trong số các điều kiện quan trọng, mang tính quyết định để
Ninh Bình nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Theo Báo cáo của UBND
tỉnh Ninh Bình năm 2016, tỷ lệ huy động trẻ mầm non đến trường ở độ tuổi nhà
trẻ đạt từ 56%-57% dân số độ tuổi, ở độ tuổi mẫu giáo đạt 97% -98,7% dân số độ
tuổi, riêng trẻ 5 tuổi luôn đạt trên 99,8%; huy động 99,9% trẻ 6 tuổi vào lớp 1.
Chất lượng chăm sóc và giáo dục trẻ mầm non luôn được quan tâm. Đối với giáo
dục tiểu học, tỷ lệ học sinh học 2 buổi/ngày tăng dần qua từng năm học, đến nay
đạt 96,4%. 100% học sinh từ lớp 3 đến lớp 5 được học tiếng Anh theo chương
trình mới. Các trường trung học tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học nhằm
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của
học sinh, tăng cường kỹ năng thực hành, phân hoá theo năng lực học sinh. Kết
quả những năm gần đây, có từ 79%-85% học sinh tốt nghiệp THCS vào lớp 10
THPT. Chất lượng giáo dục ở khối THPT cũng không ngừng được nâng cao.
Nhiều năm liền, kết quả tốt nghiệp THPT và điểm bình quân các môn thi tuyển
sinh Đại học, Cao đẳng của học sinh Ninh Bình luôn thuộc diện một trong các
tỉnh dẫn đầu cả nước [60, Phần A, I.2].
Có thể nói, phân cấp chi thường xuyên của NSĐP (gắn liền với phân cấp
quản lý nhà nước về giáo dục) của tính Ninh Bình, thời kỳ 2011 -2016, đã đạt
được một số kết quả: (1) Phát huy được tính chủ động và chịu trách nhiệm của
CQĐP cấp gần dân (cấp huyện) đối với sự nghiệp phát triển giáo dục từ mầm
non đến trung học cơ sở . (2) Giao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục, đồng
111
thời điều chỉnh tăng học phí theo lộ trình chuyển học phí thành giá dịch vụ giúp
chi thường xuyên của NS cho giáo dục bớt căng thẳng. (3) Giúp CQĐP các cấp
chủ động hơn trong việc lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội; (4) Góp phần
giảm tải khối lượng công việc cho Sở Giáo dục và Đào tạo và vì vậy giúp cho Sở
và các cơ sở giáo dục tập trung hơn vào quản lý chuyên môn.
Tuy nhiên, với cơ chế phân cấp như trên, Sở Gáo dục và Đào tạo muốn
biết trước tổng kinh phí hoạt động của toàn ngành giáo dục trong tỉnh theo năm,
để chủ động lập kế hoạch phát triển giáo dục sẽ khó khăn. Vì vậy, rất cần sự phối
hợp tốt giữa ngành giáo dục và ngành tài chính. Nếu không có sự phối hợp tốt, sẽ
dẫn đến tình trạng “Nhà nước giao gậy, nhưng có hai người cầm hai đầu”. Một
hạn chế lớn trong chi thường xuyên của NS cho giáo dục cả nước (trong đó có
tỉnh Ninh Bình), đó là 80% để chi lương (mặc dù mức lương giáo viên không
phải là cao), chỉ còn lại 20% để chi cho hoạt động dạy học.
Hoạt động y tế công lập ở tỉnh Ninh Bình được phân cấp quản lý như sau:
(1) Tất cả các cơ sở y tế tuyến tỉnh và tuyến huyện đều trực thuộc Sở Y tế. Trạm
y tế xã trực thuộc Trung tâm y tế huyện; nhân viên y tế thôn bản do Trạm Y tế xã
quản lý. Các cơ sở y tế công lập từ tuyến tỉnh đến tuyến xã đều là những đơn vị
sự nghiệp tự chủ tài chính, đảm bảo được một phần chi thường xuyên. Phần chi
thường xuyên còn thiếu của các cơ sở y tế do NS cấp tỉnh đảm bảo. (2) NS cấp
huyện chi thường xuyên cho hoạt động y tế do cấp huyện quản lý (chi hỗ trợ y tế
tuyến huyện về công tác tuyên truyền phòng chống dịch bệnh; Ngày Thày thuốc
Việt nam; Ngày Quốc tế phụ nữ; Ngày Phụ nữ Việt Nam;...). (3) NS cấp xã chi
thường xuyên cho hoạt động y tế do xã quản lý (chi hỗ trợ y tế tuyến xã về công
tác tuyên truyền phòng chống dịch bệnh; Ngày Thày thuốc Việt nam; Ngày Quốc
tế phụ nữ; Ngày Phụ nữ Việt Nam;...). Thực trạng chi thường xuyên cho y tế
của các cấp NSĐP thể hiện ở Bảng 2.24:
112
Bảng 2.24: Chi thường xuyên cho y tế của các cấp NSĐP
tỉnh Ninh Bình, thời kỳ 2011 – 2016
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
Nội dung
2011
2012
2013
2014
2015
2016
I.Tổng số chi TX cho
310.892
388.140
467.228
496.463
517.215
557.692
YT của NSĐP
1.Chi TX cho YT từ NS
255.555
357.934
462.871
492.230
510.052
546.009
cấp tỉnh
2. Chi TX cho YT từ NS
51.632
27.791
2.591
2.200
2.825
3.269
cấp huyện
3. Chi TX cho YT từ NS
3.705
2.415
1.766
2.033
4.338
8.324
cấp xã
II.Tổng chi TX của
2.512.653 3.451.861 3.896.697 4.213.803 4.616.112 4.748.665
NSĐP
III. Tỷ lệ chi TX cho
YT trên tổng chi TX
12,4
11,2
12,0
11,8
11,2
11,7
của NSĐP (%)
ĐV tính: Triệu đồng
(Nguồn: Báo cáo quyết toán NS các năm 2011 - 2015, UBND tỉnh Ninh Bình.
Riêng số liệu năm 2016 được lấy trong Báo cáo quyết toán NS năm 2016 do
UBND tỉnh lập để trình HĐND tỉnh phê chuẩn vào kỳ họp cuối năm 2017)
Từ bảng số liệu trên có thể thấy: (1) Tỉnh Ninh Bình cũng rất quan tâm
đến y tế. Chi thường xuyên cho y tế tăng đều qua các năm. Chi thường xuyên
cho y tế chiếm từ 11-12% chi thường xuyên của NSĐP và tập trung chủ yếu ở
cấp tỉnh. Y tế là dịch vụ công gắn liền với sức khỏe (tính mệnh) con người, đòi
hỏi yêu cầu kỹ thuật chất lượng và công bằng cao, do đó tỉnh phân cấp cho cấp
huyện và cấp xã rất hạn chế (điều này khác với lĩnh vực giáo dục, tỉnh đã phân
cấp mạnh cho huyện, để cấp chính quyền gần dân hơn cung cấp dịch vụ giáo dục
phổ cập). (2) Hàng hóa công cộng y tế chủ yếu do cấp tỉnh cung cấp sẽ đảm bảo
được tốt hơn tính công bằng cho nhân dân trong tỉnh. Đồng thời, Sở Y tế cũng
113
nắm chắc được tổng kinh phí hoạt động của ngành y tế tỉnh. (3) Giao quyền tự
chủ cho các cơ sở y tế, đồng thời điều chỉnh tăng viện phí theo lộ trình để chuyển
viện phí thành giá dịch vụ giúp chi thường xuyên của NS cho y tế bớt căng
thẳng.
Việc đảm bảo chi thường xuyên NSĐP cho y tế đã góp phần quan trọng
vào việc chăm sóc toàn diện sức khỏe nhân dân. Theo Báo cáo của UBND tỉnh
Ninh Bình năm 2016, mạng lưới y tế từ tỉnh đến cơ sở không ngừng được củng
cố, kiện toàn, phát triển, lớn mạnh cả về số lượng, quy mô và chất lượng. Đặc
biệt, các cơ sở khám, chữa bệnh tuyến tỉnh tăng nhanh. Bệnh viện Đa khoa tỉnh
với quy mô 700 giường bệnh và 6 bệnh viện chuyên khoa có quy mô từ 100 đến
400 giường bệnh đã được xây dựng; số giường bệnh/vạn dân không ngừng tăng
lên, hiện nay đạt 26,8 giường bệnh/vạn dân. Các cơ sở khám, chữa bệnh từ tuyến
huyện trở lên đều được trang bị khá đầy đủ các máy móc, thiết bị hiện đại. Mạng
lưới y tế cơ sở được tăng cường, đến nay 100% xã, phường, thị trấn có trạm y tế;
73,8% số xã, phường, thị trấn được công nhận chuẩn quốc gia về y tế giai đoạn
2011-2020; 73,2% trạm y tế có bác sỹ làm việc… Công tác y tế dự phòng,
phòng, chống dịch bệnh được quan tâm và đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Những năm gần đây không có dịch bệnh nguy hiểm, dịch bệnh lớn xảy ra trên
địa bàn tỉnh. Chương trình tiêm chủng mở rộng, phòng, chống các bệnh truyền
nhiễm, phòng, chống suy dinh dưỡng trẻ em được tuyên truyền và triển khai
đồng bộ, rộng khắp, nhận thức của người dân được nâng lên. Đến nay, trên 98%
trẻ em được tiêm chủng đầy đủ; tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi giảm
xuống còn 13,5% (năm 2016)... [60, Phần A,I.2]
Để đo lường sự phân cấp chi, trên cơ sở vận dụng linh hoạt các chỉ số đã
được đề cập ở Chương 1, tác giả luận án lập Bảng 2.25 tính chi tiêu của từng cấp
NS và tỷ trọng trong tổng chi tiêu NSĐP tỉnh Ninh Bình, thời kỳ 2011 -2016.
114
Bảng 2.25: Chi tiêu của từng cấp NS và tỷ trọng trong tổng chi tiêu
NSĐP tỉnh Ninh Bình, thời kỳ 2011 -2016
Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016
CủaNScấptỉnh
2.393.554 (49.0%)
3.402.614 (54,0%)
2.931.799 (46.3%)
3.127.411 (50,0%)
3.146.750 (44,3%)
4.184.430 (47,8%)
CủaNScấphuyện
1.791.366 (37,0%)
2.097.303 (33,2%)
2.516.709 (40.0%)
2.294.795 (36,4%)
2.715.201 (38,2%)
3.236.429 (37,0%)
CủaNScấpxã
707.981 (14,0%)
808.878 (12,8%)
888.101 (13,7%)
881.132 (13,6%)
1.243.148 (17,5%)
1.331.830 (15,2%)
Tổng cộng
4.892.90 (100,0%)
6.308.795 (100,0%)
6.336.609 (100,0%)
6.303.338 (100,0%)
7.105.099 (100,0%)
8.752.689 (100%)
Đơn vị tính số tuyệt đối: Triệu đồng
(Tính toán dựa vào Báo cáo quyết toán NS các năm 2011 - 2015, UBND tỉnh
Ninh Bình. Riêng số liệu năm 2016 được lấy trong Báo cáo quyết toán NS năm
2016 do UBND tỉnh lập để trình HĐND tỉnh phê chuẩn vào kỳ họp cuối năm
2017)
Nhìn vào Bảng 2.25 có thể thấy, từ 2011 – 2016, các khoản chi của tất cả
các cấp tỉnh, huyện, xã hầu như đều tăng qua các năm (cá biệt mới có năm giảm
đi chút ít so với năm trước). Trong điều kiện thị trường bị biến động mạnh, số
thu được phân cấp của NSĐP năm 2012, 2013 và 2014 bị giảm về số tuyệt đối so
với năm 2011, nhưng nguồn để đảm bảo số chi của từng cấp NS ở địa phương
vẫn được tăng thì đây quả là một thành tích tốt trong quản lý và phân cấp quản lý
NSĐP và sự quan tâm chỉ đạo của cấp trên. NS từng cấp được đảm bảo nguồn
thu để chủ động chi tiêu, đồng thời NS cấp tỉnh, cấp huyện vẫn luôn giữ được vai
trò chủ đạo đối với các cấp NS bên dưới. NS cấp tỉnh nắm giữ khoảng 51%, NS
cấp huyện nắm giữ khoảng 35%, NS cấp xã nắm giữ khoảng 14% tổng số các
khoản chi NSĐP. Nhìn chung, việc phân cấp nhiệm vụ chi NSĐP tỉnh Ninh Bình
đã nhất quán với nguyên tắc lý thuyết về nhiệm vụ chi NS. Nhiệm vụ được giao
ở các cấp CQĐP là tương xứng với khu vực địa lý và người hưởng lợi.
Qua Bảng 2.13 và 2.25 có thể thấy vai trò chủ đạo của NS cấp tỉnh, của
115
NS cấp huyện đối với NS của chính quyền các cấp bên dưới cả về thu và chi;
đồng thời các cấp NS bên dưới đều được phân cấp tương đối hợp lý để đảm bảo
tính chủ động trong việc thu và chi. Số liệu ở Bảng 2.13 và 2.25 có quan hệ chặt
chẽ với nhau, thể hiện mối quan hệ giữa phân cấp nguồn thu và phân cấp nhiệm
vụ chi. Chẳng hạn, trong thực tiễn NS cấp tỉnh nắm giữ khoảng 55% nguồn thu
NSĐP nhưng chỉ thực hiện được khoảng 51% nhiệm vụ chi NSĐP, bởi vì trong
quản lý NS thời kỳ 2011 – 2016, NS cấp tỉnh chi chuyển nguồn rất lớn – đó là
khoản chưa thực sự chi . v.v...
Tóm lại, việc phân cấp thu, chi NSĐP thời kỳ 2011 – 2016 ở tỉnh Ninh
Bình đã có sự điều chỉnh theo hướng mở rộng phân cấp cho NS cấp huyện, NS
cấp xã. NS cấp tỉnh và NS cấp huyện đã làm tốt vai trò chủ đạo của mình đối với
NS các cấp bên dưới. Việc phân cấp đã tạo sự chủ động và khuyến khích chính
quyền cấp huyện, cấp xã quản lý, khai thác nguồn thu gắn với nuôi dưỡng nguồn
thu, thực hiện tốt nhiệm vụ chi.
2.2.2. Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước trường hợp tỉnh Ninh
Bình năm 2017
2.2.2.1. Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước của Trung ương cho tỉnh
Ninh Bình năm 2017
Phân cấp quản lý NSNN của Trung ương cho tỉnh Ninh Bình từ năm 2017
được thực hiện theo Luật NSNN 2015 như mọi tỉnh khác. Luật NSNN 2015 tiếp
tục tăng cường phân cấp quản lý NS, phát huy tính chủ động của NS các cấp
CQĐP trong quản lý và sử dụng NSNN. Đồng thời, để khắc phục một số tồn tại
về phân cấp quản lý NSNN của Luật NSNN 2002, Luật NSNN 2015 đã có một
số nội dung thay đổi.
116
Về phân cấp nguồn thu giữa NSTW và NSĐP
Đối với phân cấp nguồn thu: (1) Khoản thuế TNDN đơn vị hạch toán toàn
ngành, theo Luật NSNN 2002 là khoản thu NSTW hưởng 100%; Luật NSNN
2015 quy định là khoản thu phân chia giữa NSTW và NSĐP. (2) Quy định toàn
bộ tiền thu từ xử phạt vi phạm hành chính, phạt, tịch thu khác phải nộp vào
NSNN và phân cấp rõ do cơ quan nhà nước thuộc cấp nào thu thì NS cấp đó
hưởng (Luật NSNN 2002 chưa quy định rõ). (3) Phân định cụ thể và rõ ràng đối
với các khoản thu hồi vốn của Nhà nước đầu tư tại các tổ chức kinh tế; thu cổ
tức, lợi nhuận được chia. (4) Luật NSNN 2015 quy định: Thu từ hoạt động xổ số
kiến thiết là nguồn thu NSĐP được hưởng 100%; đồng thời, không sử dụng để
xác định tỷ lệ phần trăm (%) phân chia nguồn thu giữa NSTW và NSĐP hoặc
xác định số bổ sung cân đối từ NSTW cho NSĐP. (5) Kết thúc năm NS, trường
hợp NSĐP hụt thu so với dự toán cấp trên giao do nguyên nhân khách quan, thì
NS cấp trên hỗ trợ NS cấp dưới theo khả năng của NS cấp trên.Trường hợp đặc
biệt có phát sinh nguồn thu từ dự án mới đi vào hoạt động trong thời kỳ ổn định
NS làm NSĐP tăng thu lớn thì số tăng thu phải nộp về NS cấp trên. (6) Luật
NSNN 2002 quy định: Tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu giữa các cấp
NS được ổn định trong cả thời kỳ ổn định NS. Nhưng Luật NSNN 2015 quy định
cứng hơn: Trong thời kỳ ổn định NS, không thay đổi tỷ lệ phần trăm (%) phân
chia các khoản thu giữa các cấp NS.
Điều hòa và bổ sung NS
Luật NSNN 2002 quy định số bổ sung cân đối từ NSTW cho NSĐP được
ổn định bằng số tuyệt đối trong suốt thời kỳ ổn định NS, dẫn đến các địa phương
có nguồn thu thấp sẽ rất khó khăn. Luật NSNN 2015 đã sửa lại là: Căn cứ khả
năng cân đối của NS cấp trên, cơ quan có thẩm quyền quyết định tăng thêm số bổ
sung cân đối NS từ NS cấp trên cho NS cấp dưới .Về số bổ sung có mục tiêu từ
NS câp trên cho NS cấp dưới, để khắc phục tồn tại và đảm bảo tính chủ động của
NSĐP, Luật NSNN 2015 bổ sung quy định cụ thể 04 nhóm nhiệm vụ được NS
117
cấp trên bổ sung có mục tiêu. Tổng mức hỗ trợ vốn đầu tư phát triển hàng năm
của NSTW cho NSĐP tối đa không vượt quá 30% tổng chi đầu tư XDCB của
NSTW.
Về phân cấp vay nợ cho CQĐP
Luật NSNN 2015 đã quy định NS cấp tỉnh được bội chi và bội chi của NS
cấp tỉnh được tổng hợp vào bội chi NSNN. Khống chế mức giới hạn vay của
NSĐP tính trên số thu NSĐP được hưởng theo phân cấp, thay vì khống chế mức
huy động trên chi đầu tư XDCB
Về phân cấp nhiệm vụ chi giữa NSTW và NSĐP
Luật NSNN 2015 đã bổ sung quy định HĐND tất cả các cấp có thêm
nhiệm vụ, quyền hạn “Quyết định danh mục các chương trình, dự án thuộc kế
hoạch đầu tư trung hạn nguồn NSNN của NS cấp mình; quyết định chương trình,
dự án đầu tư quan trọng của địa phương được đầu tư từ nguồn vốn NSNN”.
Luật NSNN 2015 quy định chỉ phân cấp nhiệm vụ nghiên cứu khoa học
cho cấp tỉnh, còn các cấp huyện, xã không có nhiệm vụ chi cho nghiên cứu khoa
học. Trong phân cấp nhiệm vụ chi đối với thị xã, thành phố thuộc tỉnh phải có
nhiệm vụ chi đầu tư xây dựng các trường phổ thông công lập các cấp, điện chiếu
sáng, cấp thoát nước, giao thông đô thị, vệ sinh đô thị và các công trình phúc lợi
công cộng khác.
Về thẩm quyền quyết định NSĐP, Luật NSNN 2015 kế thừa Luật NSNN
2002 về thẩm quyền của HĐND, UBND các cấp trong việc Quyết định NSĐP,
đồng thời quy định bổ sung: NS xã, thị trấn được phân chia nguồn thu từ thuế
nhà đất, thuế môn bài thu từ cá nhân, hộ kinh doanh, thuế sử dụng đất nông
nghiệp thu từ hộ gia đình, lệ phí trước bạ nhà đất để bảo đảm chủ động thực hiện
các nhiệm vụ chi của xã. Việc quyết định tỷ lệ phần trăm (%) cho NS xã hưởng
do HĐND cấp tỉnh quyết định.
118
Dự kiến Trung ương phân cấp nguồn thu, số bổ sung và nhiệm vụ chi cho
NSĐP năm 2017 được thể hiện ở Bảng 2.26.
Bảng 2.26: Dự toán Trung ương phân cấp nguồn thu, số bổ sung và
nhiệm vụ chi cho NSĐP tỉnh Ninh Bình, năm 2017
Đv: Triệu đồng
*Tổng thu NSNN trên địa bàn tỉnh: 5.985.000
1.Tổng thu NSĐP
6.933.641
6.631.477
Nội dung thu Số tiền Nội dung chi Số tiền
2.Các khoản thu NSĐP
4.151.100
- Chi ĐTPT
903.676
được phân cấp
-Các khoản thu NSĐP
1.100.580
-Chi TX
4.838.397
được hưởng 100%
-Các khoản thu NSĐP
3.050.520
-Chi khác
889.404
được hưởng theo tỷ lệ %
3.Thu BS từ NSTW
2.782.541
-Thu BS cân đối
2.314.537
-Thu BS có mục tiêu
468.004
Chênh lệch thu chi NSĐP (bội thu NS cấp tỉnh): 302.164, dùng để:
-Trả nợ gốc tiền vay: 302.164
-Trả nợ NH phát triển: 188.000
-Trả nợ WB chương trình nước sạch nông thôn: 14.164
- Hoàn ứng Quỹ dự trữ TC: 100.000
Mức độ tương xứng giữa các khoản thu được phân cấp và Tổng chi NSĐP = Tỷ lệ giữa các
khoản thu NSĐP được phân cấp so với Tổng chi NSĐP = 62,6%
1.Tổng chi NSĐP
119
(Nguồn: Dự toán NSNN tỉnh Ninh Bình 2017, UBND tỉnh Ninh Bình)
Nhận xét: (1) Dự toán NSĐP được xây dựng với thu lớn hơn chi 302.164
triệu đồng, nghĩa là NS cấp tỉnh bội thu 302.164 triệu đồng (dự toán NS các cấp
bên dưới, thu = chi). Vì bội thu nên không đặt vấn đề vay nợ để bù đắp bội chi;
ngược lại, dùng bội thu để trả nợ tiền vay từ các năm trước. (2) Năm 2017, dự
toán tổng thu NSNN trên địa bàn 5.985.000 là con số thấp. Bởi vì số thực hiện
tổng thu NSNN trên địa bàn năm 2016 đã đạt 6.676.000 triệu đồng. (3) Năm
2016, các khoản thu được phân cấp đã đảm bảo được 61,0% tổng chi NSĐP. Vì
vậy, năm 2017 dự toán 62,6% là vừa phải, có tính khả thi. (4) Số thực chi NSĐP
năm 2015 đã đạt 7.105.099 triệu đồng; năm 2016 đạt 8.752.689 triệu đồng. Vì
vậy, năm 2017 dự toán chỉ chi 6.631.477 triệu đồng đòi hỏi tỉnh Ninh Bình sẽ
phải phấn đấu rất cao, phải có giải pháp quyết liệt để tiết kiệm chi. (5) Tuy có
một số quy định về phân cấp quản lý NSNN trong Luật NSNN 2015 thay đổi,
hoàn thiện hơn so với trong Luật NSNN 2002, nhưng dự toán năm 2017 nói lên
tình hình phân cấp quản lý NS cho tỉnh Ninh Bình xu hướng không có biến động
lớn.
2.2.2.2. Phân cấp quản lý ngân sách giữa các cấp chính quyền địa
phương ở tỉnh Ninh Bình năm 2017
Ngày 14/12/2016, HĐND tỉnh đã ra Nghị quyết số 34/2016/NQ-HĐND
“Ban hành quy định phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi và tỷ lệ phần trăm (%)
phân chia các khoản thu giữa NS các cấp CQĐP tỉnh Ninh Bình” áp dụng cho
thời kỳ ổn định NS tính từ năm 2017 (xem PHỤ LỤC 2).
Nhận xét: (1) Căn cứ pháp lý để xây dựng Nghị quyết số 34/2016/NQ-
HĐND bao gồm: Luật Tổ chức CQĐP ngày 19/6/2015; Luật NSNN ngày
25/6/2015; Luật Phí và Lệ phí ngày 25/11/2015; Đề nghị của UBND tỉnh Ninh
Bình tại Tờ trình số 169/TTr-UBND ngày 30/11/2016 về việc phân cấp nguồn
thu, nhiệm vụ chi và tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu giữa NS các
120
cấp CQĐP tỉnh Ninh Bình, Báo cáo thẩm tra của Ban Kinh tế - NS và ý kiến thảo
luận của các đại biểu HĐND tỉnh Ninh Bình. (2) Việc phân cấp quản lý NSĐP
tỉnh Ninh Bình từ khi áp dụng Luật NSNN 2002 và Luật NSNN 2015 là khá bài
bản, phù hợp với lý thuyết về phân cấp quản lý NSNN và Luật NSNN. Nghị
quyết số 34/2016/NQ-HĐND đã kế thừa những điểm tích cực còn phù hợp của
Nghị quyết 03/2010/NQ-HĐND và Nghị quyết 28/2012/NQ-HĐND. (3) Trong
Nghị quyết số 34/2016/NQ-HĐND có một điểm đáng chú ý là: Thời kỳ 2011 –
2016, thành phố Ninh Bình có thặng dư, nhưng không có cơ chế điều tiết về NS
cấp tỉnh. Thành phố Ninh Bình là địa bàn tập trung số lượng lớn các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh, các tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất kinh doanh
của tỉnh nên số thu thuế GTGT hàng năm rất lớn so với các huyện, thành phố còn
lại. Vì vậy, từ năm 2017, khoản thuế GTGT nói trên ở thành phố Ninh Bình phải
phân chia cho NS cấp tỉnh 15%, NS thành phố 85%; trong khi đó, ở các huyện và
thành phố Tam Điệp phân chia cho NS cấp huyện 100%.
Tình hình dự toán phân cấp giữa các cấp NSĐP ở tỉnh Ninh Bình, năm
2017 được tổng hợp trong Bảng 2.27.
Bảng 2. 27: Tình hình dự toán phân cấp nguồn thu, số bổ sung và
nhiệm vụ chi giữa các cấp NSĐP ở tỉnh Ninh Bình, năm 2017
NỘI DUNG
NSĐP
NS cấp tỉnh
NS huyện
A,Các khoản thu được phân cấp và số bổ sung từ NS cấp trên của
NSĐP, NS cấp tỉnh và NS huyện
1.Các khoản thu NS
4.151.100
3.075.212
1.075.888
được phân cấp
2.Tỷ trọng các khoản
100% =
74,1% =
25,9% =