BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGÔ THỊ DIỆP LAN
PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC
PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ CÔNG
HÀ NỘI, 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGÔ THỊ DIỆP LAN
PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC
PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 9.34.04.03
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. ĐẶNG KHẮC ÁNH
2. PGS.TS. TRƯƠNG QUỐC CHÍNH
HÀ NỘI, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận án là trung thực.
Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được công bố trong bất
cứ công trình nào.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Ngô Thị Diệp Lan
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN CÁC TỪ VIẾT TẮT DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỐ MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ................................................................................... 1 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................... 4 3. Đối tượng và phạm vi nghiêncứu ......................................................... 5
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ................................. 5 5. Giả thuyết khoa học và câu hỏi nghiên cứu ......................................... 7
6. Những đóng góp mới của đề tài nghiên cứu ........................................ 7 7. Kết cấu của luận án ............................................................................... 8 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ............................ 9 1.1. Các công trình nghiên cứu về phân cấp quản lý nhà nước .............. 9 1.1.1. Các công trình nghiên cứu trong nước ........................................... 9 1.1.2. Các công trình nghiên cứu nước ngoài ......................................... 12
1.2. Các công trình nghiên cứu phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục .... 14 1.2.1. Các công trình nghiên cứu trong nước ......................................... 14 1.2.2. Các công trình nghiên cứu nước ngoài ......................................... 17
1.3. Đánh giá chung về các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án ..................................................................................................... 22 1.3.1. Những nội dung đã được nghiên cứu ........................................... 22 1.3.2. Những nội dung luận án cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung ........... 23
Tiểu kết chương 1 ....................................................................................... 25 Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA PHÂN CẤP QUẢN
LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC PHỔ THÔNG .................................... 27 2.1. Quản lý và quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông .................... 27 2.1.1. Quản lý và quản lý nhà nước ........................................................ 27
2.1.2. Quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông ..................................... 29
2.2. Phân cấp quản lý nhà nước và phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông .......................................................................................... 33 2.2.1. Khái niệm phân cấp quản lý nhà nước ......................................... 33
2.2.2. Khái niệm phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông ...... 37
2.2.3. Tác động của phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông . 42
2.2.4. Phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông ở Việt Nam qua
các thời kỳ ............................................................................................. 45
2.3. Nội dung, điều kiện và các yếu tố ảnh hưởng đến phân cấp quản lý
nhà nước về giáo dục phổ thông ............................................................. 47
2.3.1. Nội dung phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông ........ 47
2.3.2. Điều kiện phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông ....... 51
2.3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến phân cấp quản lý nhà nướcvề giáo dục
phổ thông ............................................................................................... 52
2.4. Kinh nghiệm của một số quốc gia trong phân cấp quản lý nhà nước
về giáo dục phổ thông và giá trị tham khảo cho Việt Nam ................... 56
2.4.1. Kinh nghiệm một số quốc gia trong phân cấp quản lý nhà nước về
giáo dục phổ thông ................................................................................ 56
2.4.2. Những giá trị tham khảo cho Việt Nam ........................................ 62
Tiểu kết chương 2 ....................................................................................... 64
Chương 3: THỰC TRẠNG PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI
VỚI GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ
HÀ NỘI ....................................................................................................... 66
3.1. Khái quát về Thành phố Hà Nội và tình hình giáo dục phổ thông
trên địa bàn Thành phố Hà Nội ............................................................. 66
3.1.1. Khái quát về Thành phố Hà Nội .................................................. 66
3.1.2. Tình hình giáo dục phổ thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội .... 68
3.2. Phân tích thực trạng phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ
thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội ................................................... 75
3.2.1. Khái quát tình hình phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ
thông trên địa bàn thành phố Hà Nội ..................................................... 75
3.2.2. Đánh giá chung về thực trạng phân cấp quản lý nhà nước về giáo
dục phổ thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội ....................................... 92
Tiểu kết chương 3 ..................................................................................... 105
Chương 4: QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG
CƯỜNG PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC PHỔ
THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................................ 107
4.1. Quan điểm và định hướng tăng cường phân cấp quản lý nhà nước
về giáo dục phổ thông ........................................................................... 107
4.1.1. Quan điểm tăng cường phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục
phổ thông ............................................................................................ 107
4.1.2. Định hướng tăng cường phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục
phổ thông ............................................................................................. 109
4.2. Giải pháp tăng cường phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ
thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội ................................................. 111
4.2.1. Đổi mới tư duy về phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ
thông ................................................................................................... 111
4.2.2. Xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật về phân cấp quản lý
nhà nước về giáo dục phổ thông .......................................................... 113
4.2.3. Nâng cao năng lực của đội ngũ công chức, viên chức quản lý giáo
dục phổ thông ...................................................................................... 124
4.2.4. Hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra đảm bảo hiệu quả phân cấp
quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông .............................................. 129
4.2.5. Các giải pháp bổ trợ ................................................................... 131
Tiểu kết chương 4 ..................................................................................... 140
KẾT LUẬN ............................................................................................... 141
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ........................................ 144
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 145
PHỤ LỤC 1 ............................................................................................... 155
PHỤ LỤC 2 ............................................................................................... 159
PHỤ LỤC 3 ............................................................................................... 161
PHỤ LỤC 4 ............................................................................................... 162
CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Viết đầy đủ
Cải cách hành chính CCHC
Công nghệ thông tin CNTT
Đào tạo bồi dưỡng ĐTBD
Giáo dục và Đào tạo GD&ĐT
Giáo dục phổ thông GDPT
Hành chính nhà nước HCNN
Hội đồng nhân dân HĐND
Kinh tế - xã hội KT-XH
Nhà xuất bản NXB
Quản lý nhà nước QLNN
Trung học cơ sở THCS
Trung học phổ thông THPT
Thủ tục hành chính TTHC
Uỷ ban nhân dân UBND
©
Tổ chức Thương mại thế giới WTO
DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỐ
BẢNG:
Bảng 2.1. Các yếu tố ảnh hưởng khi thực hiện phân cấp quản lý nhà nước về
GDPT ........................................................................................................... 55
Bảng 3.1. Biểu thống kê quy mô giáo dục cho các cơ sở giáo dục trên địa bàn
thành phố Hà Nội ......................................................................................... 68
Bảng 3.2. Thống kê công tác bổ nhiệm cho các cơ sở giáo dục trên địa bàn
thành phố Hà Nội từ năm học 2014-2015 đến năm học 2018-2019 .............. 80
Bảng 3.3. Khảo sát đánh giá mức độ phân cấp về bộ máy, nhân sự trong
GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội ......................................................... 81
Bảng 3.4. Bảng thống kê cấp ngân sách các trường công lập trên địa bàn
Hà Nội .......................................................................................................... 85
Bảng 3.5. Khảo sát đánh giá mức độ phân cấp trong quản lý tài chính trong
GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội ......................................................... 87
Bảng 3.6. Mức độ tự chủ về chương trình, nhân sự và tài chính của các trường
phổ thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội .................................................... 88
Bảng 3.7. Khảo sát đánh giá mức độ phân cấp trong kế hoạch phát triển
GDPT, xây dựng nội dung, chương trình GDPT ........................................... 91
SƠ ĐỒ:
Sơ đồ 2.1. Hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về GDPT ....................... 32
Sơ đồ 3.1. Phân cấp quản lý nhà nước đối với GDPT trên địa bàn Thành phố
Hà Nội .......................................................................................................... 76
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Không chỉ Việt Nam mà hầu hết các quốc gia phát triển trên thế giới,
giáo dục được coi là “quốc sách hàng đầu” trong sự nghiệp xây dựng và phát
triển đất nước. Trong các cấp học, GDPT bao gồm giáo dục tiểu học, giáo dục
trung học cơ sở (giai đoạn giáo dục cơ bản) và giáo dục trung học phổ thông
(giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp) là giai đoạn cực kỳ quan trọng góp
phần cung cấp, định hướng năng lực và nhân cách người học. Cùng với GDPT,
QLNN đối với GDPT luôn luôn là vấn đề được các nhà hoạch định chính sách
đặc biệt quan tâm bởi vì quản lý giáo dục từ bình diện quốc gia đến các cấp
quản lý giáo dục ở địa phương và các cơ sở giáo dục đều có ảnh hưởng đến
việc thực hiện chính sách GDPT và nâng cao chất lượng GDPT.
Giáo dục và đào tạo có vai trò rất quan trọng trong đào tạo nguồn nhân
lực chất lượng cao và cung cấp nhân tài cho đất nước. Tuy nhiên, do sự
chuyển đổi từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị
trường theo định hướng XHCN nên các cơ chế, chính sách hiện hành về quản
lý nhà nước về giáo dục nói chung, quản lý nhà nước về GDPT nói riêng đang
còn nhiều hạn chế, bất cập; sự phân cấp quản lý đối với GDPT chưa rõ ràng,
chưa hợp lý; quyền hạn chưa đi đôi với trách nhiệm. Theo đánh giá của của
Chiến lược phát triển giáo dục 2010 -2020: “Quản lý giáo dục còn nhiều bất
cập, mang tính bao cấo, ôm đồm, sự vụ và chồng chéo, phân tán; trách nhiệm
và quyền hạn quản lý chuyên môn chưa đi đôi với trách nhiệm, quyền hạn quản
lý về nhân sự và tài chính. Hệ thống pháp luật và chính sách giáo dục thiếu
đồng bộ, chậm được sửa đổi, bổ sung. Sự phối hợp giữa ngành giáo dục với
các bộ, ngành địa phương chưa chặt chẽ”. Thay vì phải thực hiện cơ chế phân
cấp quản lý, Nhà nước đã “tập trung” quá mức trong quản lý nhà nước về giáo
dục. Hậu quả là cấp dưới bị hạn chế trong phân cấp quản lý, ít có quyền chủ
động, sáng tạo, chất lượng giáo dục thấp và đầu ra không đáp ứng được yêu
cầu của xã hội và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1
Để nâng cao hiệu quả QLNN về GDPT cần thực hiện nhiều giải pháp.
Một trong những giải pháp để phát triển GDPT ở nước ta là phải cải cách mạnh
mẽ hệ thống thể chế và phương thức quản lý nhà nước về GDPT theo hướng
đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước như kết luận của Hội nghị Trung ương 8
Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH. Nghị quyết nhấn mạnh: “Thực
hiện phân cấp quản lý về giáo dục, phát huy tính chủ động, tự chịu tách nhiệm
của các cơ sở giáo dục, trách nhiệm của UBND tỉnh, thành phố và các quận,
huyện trong việc thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục” [51, tr.37].
Như vậy, có thể khẳng định: Phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ
thông là một trong nhữn yếu tố quan trọng để nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước về giáo dục phổ thông. Trước yêu cầu đổi mới mạnh mẽ nền giáo dục nước
nhà thì vấn đề phân cấp quản lý về giáo dục nói chung, GDPT nói riêng đang trở
nên bức xúc và cần được nghiên cứu một cách toàn diện và nghiêm túc.
Hà Nội là trung tâm chính trị - hành chính quốc gia, là trung tâm lớn về
văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả
nước. Hà Nội là nơi tập trung đông dân cư, nhu cầu về đời sống tinh thần cao,
có điều kiện để tiếp thu nhanh chóng nền văn minh tiên tiến của nhân loại.
Trong những năm qua, giáo dục phổ thông của Thủ đô đã đạt được những kết
quả quan trọng, hệ thống các trường phổ thông phát triển đa dạng với nhiều
loại hình trường, lớp; cơ sở vật chất của các trường được xây dựng khang
trang hơn trước; nhiều trường đạt chuẩn quốc gia.
Tuy đã đạt được những kết quả bước đầu, nhưng chất lượng GDPT ở
nước ta nói chung và trên địa bàn Thành phố Hà Nội nói riêng vẫn còn thấp
so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Một trong những nguyên nhân
ảnh hưởng đến chất lượng GDPT là do phân cấp quản lý nhà nước về
GDPTcòn có nhiều hạn chế. Mô hình tổ chức quản lý nhà nước theo ngành
kết hợp theo lãnh thổ dẫn đến cùng một đối tượng quản lý là các cơ sở giáo
2
dục phổ thông nhưng chịu sự quản lý của rất nhiều cơ quan quản lý nhà nước
khác nhau như Bộ, Sở, Phòng Giáo dục đào tạo quản lý theo chiều dọc về
chuyên môn; Uỷ ban nhân dân các cấp quản lý theo chiều ngang về nhân sự,
hành chính.. Sự chồng chéo về chức năng, việc phân định nhiệm vụ, quyền
hạn chưa phù hợp dẫn đến chưa phát huy hiệu quả quản lý nhà nước về giáo
dục; từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giáo dục phổ thông trên địa
bàn.Quá trình đổi mới phân cấp quản lý nhà nước về GDPT vẫn chưa đáp
ứng được những đòi hỏi bức xúc của thực tiễn và còn nhiều hạn chế, bất hợp
lý; phân cấp nhưng chưa bảo đảm quản lý thống nhất, còn biểu hiện phân tán,
cục bộ, chưa chú trọng việc thanh tra, kiểm tra đối với những chức năng,
nhiệm vụ đã phân cấp cho địa phương. Phân cấp quản lý nhà nước về GDPT
chưa phân định rõ ràng, cụ thể nhiệm vụ, thẩm quyền của mỗi cấp chính
quyền trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước; chưa xác định rõ
trách nhiệm của mỗi cấp, của tập thể và cá nhân đối với những nhiệm vụ đã
được phân cấp; phân cấp nhiệm vụ cho cấp dưới, nhưng chưa bảo đảm tương
ứng các điều kiện cần thiết để thực hiện, còn thiếu sự ăn khớp, đồng bộ giữa
các ngành, các lĩnh vực có liên quan, chưa tạo điều kiện cho địa phương chủ
động cân đối các nguồn lực.
Đặc biệt với đặc thù là thủ đô của cả nước, bên cạnh các văn bản pháp
luật chuyên ngành về giáo dục, Hà Nội chịu sự điều chỉnh của Luật Thủ đô
với những cơ chế quản lý được áp dụng riêng trên địa bàn. Quy định trách
nhiệm quản lý nhà nước về GDPT của các cơ quan quản lý phải có những
điểm đặc thù để đáp ứng được các thách thức và nhu cầu thay đổi nhanh
chóng trong bối cảnh mở cửa hội nhập và toàn cầu hóa đòi hỏi hệ thống
GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội; để thực hiện mục tiêu giáo dục là tạo
ra những công dân kiểu mới. Cải cách giáo dục phải đẩy mạnh phân cấp quản
lý, trao quyền nhiều hơn cho cấp dưới, huy động các nguồn lực của địa
phương và tạo ra cơ hội học tập suốt đời cho mọi người dân.
3
Mặt khác, dưới góc độ khoa học quản lý công cho đến nay, chưa có công
trình nghiên cứu nào nghiên cứu toàn diện và sâu sắc về phân cấp quản lý nhà
nước về GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội. Việc giải mã những vấn đề lý
luận của phân cấp quản lý về GDPT cũng như đánh giá thực tiễn phân cấp
quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn thành phố Hà Nội từ đó xác định
phương hướng và giải pháp phù hợp để tăng cường, đảm bảo phân cấp quản
lý nhà nước về GDPT trên địa bàn hiệu quả.
Xuất phát từ những lý do trên việc lựa chọn đề tài: “Phân cấp quản lý
nhà nước về giáo dục phổ thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội”làm đề tài
nghiên cứu Luận án tiến sĩ chuyên ngành Quản lý công là hoàn toàn cấp thiết
về lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Muc đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là luận giải, cung cấp những luận cứ
khoa học về lý luận và thực tiễn để tăng cường phân cấp quản lý nhà nước về
GDPT trên địa bàn Thành phố hướng tới nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý
nhà nước về GDPT.
2.2. Nhiêm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, tác giả luận án đề ra các nhiệm vụ
nghiên cứu sau:
- Hệ thống hóa và làm rõ cơ sở lý luận của phân cấp quản lý nhà nước
về GDPT, nội dung phân cấp quản lý nhà nước về GDPT, các yếu tố ảnh
hưởng đến phân cấp quản lý nhà nước về GDPT cũng như kinh nghiệm phân
cấp QLNN về GDPT một số nước trên thế giới.
- Phân tích, đánh giá thực trạng phân cấp quản lý nhà nước về GDPT,
tìm hiểu những kết quả đã đạt được cũng như những hạn chế, nguyên nhân
của những hạn chế trong phân cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn
Thành phố Hà Nội.
4
- Đề xuất phương hướng và các giải pháp đổi mới và đẩy mạnh phân
cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội trong những
năm tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiêncứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu hoạt động phân cấp quản lý nhà nước về GDPT.
3.2. Phạm vi nghiêncứu
- Về không gian: thành phố Hà Nội
- Về nội dung: Luận án chỉ nghiên cứu hoạt động phân cấp quản lý nhà
nước về GDPT công lập tại các cấp quản lý theo ngành (Bộ Giáo dục và Đào
tạo - Sở Giáo dục và Đào tạo - Phòng Giáo dục và Đào tạo) và phân cấp quản
lý theo lãnh thổ trên địa bàn Thành phố Hà Nội (UBND các cấp) ở 3 lĩnh vực
chủ chốt: (i) bộ máy, nhân sự; (ii) cơ sở vật chất và tài chính; (iii) chuyên
môn (bao gồm lập kế hoạch phát triển giáo dục phổ thông, xây dựng nội
dung, chương trình và đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông).
- Về thời gian: từ năm 2010 đến nay.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Đề tài này được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm, chủ trương, đường lối của
Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quản lý nhà
nước, phân cấp quản lý nhà nướcvề giáo dục. Phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử được kết hợp nhất quán để nghiên
cứu và phân tích thực trạng quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn Thành
phố Hà Nội.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện các mục đích nghiên cứu trên, nghiên cứu sinh sử dụng các
phương pháp nghiên cứu sau: phương pháp nghiên cứu lý luận; phương pháp
phân tích - tổng hợp; phương pháp thống kê; phương pháp điều tra xã hội học.
5
Một là, phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích, tổng hợp và hệ thống hóa các tài liệu lý luận và kinh nghiệm
liên quan đến vấn đề nghiên cứu để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận. Đồng
thời nghiên cứu các văn bản luật, các văn bản quy phạm pháp luật của Chính
phủ, Bộ GD&ĐT… liên quan đến vấn đề nghiên cứu để phân tích cơ sở lý
luận của luận án.
Hai là, phương pháp phân tích - tổng hợp
Luận án sử dụng phương pháp phân tích để lý giải thính cấp thiết và ý
nghĩa mà đề tài nghiên cứu đặt ra trong phân cấp quản lý nhà nước về GDPT
trên địa bàn Thành phố Hà Nội. Luận án phân tích, đánh giá thực trạng việc thực
hiện phân cấp quản lý nhà nước về GDPT, phân tích nguyên nhân của những
bất cập, hạn chế tạo cơ sở cho đề xuất các giải pháp và kiến nghị.
Luận án sử dụng phương pháp tổng hợp để tóm lược nội dung sau mỗi phần
phân tích, đánh giá. Phương pháp tổng hợp được sử dụng để khái quát vấn đề, tóm
lược nội dung của từng mục và các kết luận của từng chương của luận án.
Ba là, phương pháp thống kê
Luận án sử dụng phương pháp thống kê để có số liệu cụ thể về thực trạng
phân cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
Bốn là, phương pháp điều tra xã hội học
Điều tra xã hội học bằng bảng hỏi với 200 phiếu được phát ra cho đối
tượng là cán bộ các cơ quan quản lý nhà nước về GDPT và cán bộ quản lý
các trường phổ thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội. Số phiếu nghiên cứu
sinh phát ra cụ thể như sau:
- 80 phiếu cho cán bộ quản lý nhà nước về GDPT ở Sở Giáo dục và
Đào tạo Hà Nội và cán bộ quản lý ở các Phòng Giáo dục và Đào tạo các quận
Ba Đình; Đống Đa, Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng, Tây Hồ, Long Biên, Nam Từ
Liêm, Bắc Từ Liêm và các huyện Gia Lâm, Đông Anh, Hoài Đức, Phúc Thọ.
- 120 phiếu cho cán bộ quản lý các trường Tiểu học, THCS và THPT.
Bảng điều tra này gồm có 2 phiếu:
6
- Phiếu 1: Thực trạng phân cấp QLNN về GDPT trên địa bàn Thành phố
Hà Nội;
- Phiếu 2: Ý kiến kiến nghị về tăng cườngphân cấp QLNN về GDPT trên
địa bàn Thành phố Hà Nội.
5. Giả thuyết khoa học và câu hỏi nghiên cứu
5.1. Giả thuyết khoa học
(1) Phân cấp QLNN về GDPT có ảnh hưởng lớn đến hoạt động QLNN
về GDPT cũng như đời sống kinh tế - xã hội.
(2). Phân cấp QLNN về GDPT ở nước ta nói chung, trên địa bàn Thành
phố Hà Nội nói riêng tuy đã đạt được những kết quả bước đầu nhưng vẫn còn
nhiều hạn chế, bất cập....
(3). Tăng cường phân cấp QLNN về GDPT tại địa bàn Hà Nội trên cơ sở
phân định cụ thể, rõ ràng nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cấp quản lý nhà nước về
GDPT, khắc phục chồng chéo và mẫu thuẫn giữa các cấp, các ngành góp phần
nâng cao hiệu lực, hiệu qủa QLNN về GDPT từ đó đẩy mạnh chất lượng GDPT
đáp ứng yêu cầu phát triển trong xu thế hội nhập.
5.2. Câu hỏi nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận án cần trả lời thấu đáo các câu
hỏi sau đây:
- Phân cấp quản lý nhà nước về GDPT là gì? Có tác động như thế nào?
- Thực trạng phân cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn Thành
phố Hà Nội hiện nay như thế nào? Những kết quả đã đạt được và những hạn
chế trong phân cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn Thành phố?
- Cần phải làm gì để đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước đối với GDPT
trên địa bàn Thành phố Hà Nội trong những năm tới?
6. Những đóng góp mới của đề tài nghiên cứu
Về mặt lý luận
Qua tham khảo các tài liệu về phân cấp quản lý và GD trong và ngoài
nước, nghiên cứu các xu hướng, mô hình phân cấp QLGD ở một số nước trên
7
thế giới, luận án góp phần xây dựng hệ thống cơ sở lý luận về phân cấp quản
lý nhà nước về giáo dục nói chung và GDPT nói riêng ở nước ta.
Về mặt thực tiễn
Nghiên cứu, nhận xét thực trạng phân cấp quản lý nhà nước về
GDPTtrên địa bàn Thành phố, đánh giá những ưu điểm và những mặt hạn
chế, xác định những nguyên nhân của những hạn chế và đề xuất các giải pháp
đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả phân cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa
bàn Thành phố Hà Nội trong những năm tới.
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
các cơ quan của Đảng, nhà nước trong việc ban hành các cơ chế, chính sách
đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả phân cấp quản lý nhà nước về GDPT ở các
địa phương.
Kết quả nghiên cứu của luận án là cơ sở để chính quyền Thành phố Hà
Nội đổi mới quản lý đối với các trường phổ thông trên tinh thần đẩy mạnh
phân cấp quản lý, giáo quyền hợp lý cho các trường để xây dựng nền giáo dục
của Thành phố Hà Nội ngày càng phát triển.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án kết cấu thành 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Chương 2: Cơ sở lý luận và pháp lý về phân cấp quản lý nhà nước đối
với giáo dục phổ thông
Chương 3: Thực trạng phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông
trên địa bàn Thành phố Hà Nội
Chướng 4: Quan điểm và giải pháp tăng cường phân cấp quản lý nhà
nước về giáo dục phổ thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội
8
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Các công trình nghiên cứu về phân cấp quản lý nhà nước
1.1.1. Các công trình nghiên cứu trong nước
Các công trình nghiên cứu về phân cấp quản lý nhà nước ở trong nước
có thể kể đến là:
- Võ Kim Sơn (2004): “Phân cấp quản lý nhà nước – lý luận và thực
tiễn”, NXB Chính trị Quốc gia. Đây có lẽ là cuốn sách chuyên khảo đầu tiên
ở nước ta về phân cấp quản lý nhà nước. Cuốn sách dày 483 trang, bao gồm 4
chương trình bày các vấn đề về cơ sở lý luận trong quản lý HCNN; các hình
thức phân cấp quản lý HCNN; phân cấp quản lý HCNN ở Việt Nam từ năm
1945 đến năm 2003. Chương 4 của cuốn sách tác giả lý giải sự cần thiết phải
đẩy mạnh phân cấp quản lý HCNN và đề xuất một số giải pháp đẩy mạnh
phân cấp quản lý HCNN ở Việt Nam [60].
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước của Viện nghiên cứu Khoa
học tổ chức, Bộ Nội vụ: “Tình hình phân cấp giữa Trung ương và địa
phương”, năm 2004. Đề tài nghiên cứu, đánh giá thực trạng phân cấp giữa
Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương với nhau.
Các tác giả đề tài đã phân tích các kết quả đã đạt được, những hạn chế của quá
trình phân cấp, nguyên nhân của những hạn chế, trên cơ sở đó đề xuất 6 nhóm
giải pháp để thực hiện phân cấp quản lý giữa Trung ương và địa phương [7].
- Phạm Hồng Thái (2011): “Một số vấn đề nhận thức lý luận về tập quyền,
tản quyền, phân quyền, phân cấp trong quản lý nhà nước”, bài viết trong cuốn
“Phân cấp quản lý nhà nước”, NXB Công an Nhân dân. Tác giải bài viết phân
tích làm rõ khái niệm phân cấp, tản quyền, phân quyền và đưa ra khái niệm
phân cấp như sau: “Phân cấp là việc phân công chức năng, phân định nhiệm vụ,
quyền hạn cho từng cấp hành chính; nếu nhìn từ chế độ quản lý thì bản chất của
9
phân cấp là việc cấp trên chuyển giao những nhiệm vụ, quyền hạn do mình
nắm giữ cho cấp dưới thực hiện một cách thường xuyên, liên tục bằng phương
thức ban hành văn bản quy phạm pháp luật hoặc bằng cách chuyển cho cấp
dưới thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn bằng các quyết định cụ thể” [64].
Trong bài viết, tác giả đã phân tích thực trạng phân cấp quản lý giữa trung
ương và địa phương và đề xuất một số quan điểm, nguyên tắc phân cấp quản lý
ở nước ta hiện nay.
- Nguyễn Đăng Dung (2011): “Các hình thức phân cấp, phân quyền”, bài
trong cuốn “Phân cấp quản lý nhà nước”, NXB Công an Nhân dân. Tác giải
trình bày 06 hình thức phân cấp: hình thức phân cấp dựa vào các nguồn gốc
lịch sử; hình thức phân cấp bằng trật tự thứ bậc và chức năng; hình thức phân
cấp qua vấn đề được đề cập và các giá trị của nhà nghiên cứu; hình thức tập
trung vào các mẫu hình và chức năng hành chính; hình thức dựa trên kinh
nghiệm của một quốc gia; hình thức phân cấp trên cơ sở các mục đích: chính
trị, thị trường, không gian và quản lý.Trong bài viết tác giả phân tích 3 thể loại
về phân cấp hành chính: tản quyền, phân quyền và ủy quyền [64].
Một số tác giả đã có các công trình nghiên cứu về phân cấp quản lý đăng
trên các tạp chí chuyên ngành và trình bày tại các hội thảo khoa học:
- Nguyễn Minh Phương:“Thực trạng phân cấp, phân quyền và vấn đề tự
quản địa phương tại Việt Nam”, bài tham luận tại Hội thảo “Tổ chức chính
quyền địa phương ở Việt Nam: Những vấn đề lý luận và thực tiễn” do Văn
phòng Quốc hội, Oxfam, Unicef phối hợp tổ chức tại Ninh Thuận ngày
06/4/2013. Bài tham luận đã trình bày các khái niệm phân cấp, phân quyền, tự
quản địa phương và những vấn đề đặt ra trong phân cấp, phân quyền, tự quản
địa phương ở nước ta hiện nay và đề xuất kiến nghị các giải pháp đẩy mạnh
phân cấp, phân quyền, tự quản địa phương ở nước ta trong thời gian tới [55].
- Hoàng Mai: tham luận: “Thẩm quyền của các cấp chính quyền địa
phương trong phát triển bền vững - kết quả của quá trình phân cấp quản lý ở
10
Việt Nam” được trình bày tại Hội thảo quốc tế về quản trị địa phương (tháng
3/2009 trong chương trình Đại hội khối Pháp ngữ năm 2009 tổ chức tại Hà
Nội. Tác giả nhấn mạnh: Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định
hướng XHCN, xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền, cải cách nền
HCNN và hội nhập quốc tế, thực hiện phân cấp, phân quyền ngày càng đầy
đủ, toàn diện hơn tiến đến tự quản địa phương là yêu cầu có tính quy luật,
không thể trì hoãn được [49].
- Hoàng Thị Ngân (2010): “Thực trạng và xu hướng phân cấp quản lý
giữa Trung ương và địa phương ở Việt Nam”, bài tham gia hội thảo của Khoa
Luật, Đại học Quốc gia. Bài tham luận đánh giá thực trạng phân cấp quản lý
giữa Trung ương và địa phương ở Việt Nam, những kết quả đã đạt được, những
hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế và xu hướng phân cấp quản lý nhà
nước trong những năm tới. Bài tham luận nhấn mạnh: Việc phân cấp cho mỗi
cấp mỗi địa phương và ở mỗi thời kỳ đòi hỏi phải khác nhau. Tuy vậy, nó luôn
được coi là vấn đề tất yếu của nhà nước và phụ thuộc vào khả năng của chính
quyền địa phương trong mỗi giai đoạn phát triển. Nếu phân cấp, giao nhiều
quyền quá có thể dẫn đến chính quyền địa phương sẽ quá tải, không thể thực
hiện hết được các chức năng, nhiệm vụ, nếu phân cấp, giao ít quyền quá thì sẽ
không phát huy được các thế mạnh của địa phương, hiệu quả hoạt động của
chính quyền địa phương sẽ không cao.
Ngoài ra, nhiều nhiều nhà khoa học và quản lý đã công bố các công trình
nghiên cứu trên các tạp chí, như: Đàm Bích Hiên: “Bàn về phân cấp quản lý
giữa các cấp chính quyền địa phương ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Dân chủ
và Pháp luật. Bộ Tư pháp, Số 9/2005; Hoàng Thị Ngân:“Đẩy mạnh công tác
phân cấp Trung ương và địa phương”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn
phòng Quốc hội, Số 2+3/2009; Trần Anh Tuấn:“Đẩy mạnh phân cấp quản lý
hành chính nhà nước đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập toàn cầu”, Tạp
chí Quản lý nhà nước, Học viện Hành chính Quốc gia, Số 10/2014; Nguyễn
11
Minh Phương: “Để tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý giữa các cấp chính
quyền địa phương hiện nay”, Tạp chí Quản lý nhà nước. Học viện Hành
chính, Số 1/2007; Vũ Thư: “Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn về phân cấp
quản lý cho chính quyền địa phương ở nước ta”, Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật, Viện Nhà nước và Pháp luật, Số 4/2009; Trần Thị Diệu Oanh:“Mối quan
hệ giữa phân cấp quản lý và địa vị pháp lý của chính quyền địa phương ở
nước ta hiện nay”, Tạp chí Quản lý nhà nước. Học viện Hành chính Quốc gia,
Số 4/ 2010; Trần Thị Diệu Oanh:“Một số vấn đề phân cấp quản lý cho chính
quyền đô thị”,Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp, Số 12/2011; Phạm
Thanh Huyền: “Một số vấn đề về phân cấp quản lý hành chính nhà nước”,
Tạp chí Tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ, Số 2/2014; Nguyễn Cửu Việt: “Phân
cấp quản lý trong mối quan hệ giữa trung ương và địa phương”, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội, Số 7/2005.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu nước ngoài
Trên thế giới, phân cấp quản lý nhà nước đã được một số nhà khoa học
nghiên cứu trong nhiều thập kỷ qua. Các công trình nghiên cứu về phân cấp
quản lý nhà nước có thể kể đến là:
- Ngân hàng thế giới (2005): “Phân cấp ở Đông Á để chính quyền địa
phương phát huy tác dụng”, NXB Văn hóa - Thông tin. Các tác giải cuốn sách
nhấn mạnh: phân cấp quản lý là một biện pháp hữu hiệu đưa chính quyền về gần
dân hơn và mang lại cho người dân cơ hội tham gia vào quá trình ban hành quyết
định quản lý. Hệ thống phân cấp được thiết kế tốt sẽ mang lại nhiều lợi ích, trong
đó có việc đẩy mạnh tăng trưởng và ổn định kinh tế - xã hội.
Cuốn sách đề cập đến kinh nghiệm của các nước Đông Á trong quá trình
phân cấp với mục tiêu nhận thức rõ những thách thức của quá trình thiết kế
các mô hình cải cách, rút ra những bài học kinh nghiệm trong quá trình thực
hiện và nghiên cứu các tác động của tiến trình phân cấp quản lý. Trong cuốn
sách có dẫn chứng tình hình phân cấp ở Việt Nam [50].
12
- Báo cáo nghiên cứu của Ngân hàng thế giới: “What is Desentralization”,
năm 2002. Báo cáo phân tích khái niệm và đặc điểm của phân cấp, phân quyền;
lịch sử phát triển của quá trình này ở một số quốc gia trên thế giới. Báo cáo nhấn
mạnh: Phân cấp là sự chuyển giao trách nhiệm và nguồn thu tài chính từ chính
quyền cấp cao xuống các cấp chính quyền thấp hơn và đây là một biện pháp hữu
hiệu phát huy tính chủ động, sáng tạo của cấp dưới, tạo điều kiện để phát triển
kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, mỗi địa phương (Khan, 2002).
- Tài liệu nghiên cứu của Liên hiệp quốc (UNDP): “Desentralization –
Sampling of defination” (Phân cấp - Sự thử nghiệm về phạm trù), năm 1999.
Tài liệu nghiên cứu nhấn mạnh: hoạt động quản lý HCNN được thực hiện bởi
các cơ quan HCNN từ Trung ương đến cơ sở. Bộ máy HCNN vận hành theo
nhiều mô hình và phương thức khác nhau, trong đó mô hình phân công và
phối hợp giữa các bộ phận cấu thành bộ máy HCNN được coi là mô hình cơ
bản. Mỗi cơ quan, tổ chức được xác định một cách cụ thể, rõ ràng, không hạn
chế về chức năng, nhiệm vụ nhằm bảo đảm việc thực hiện pháp luật có hiệu
lực, hiệu quả. Để thực hiện nhiệm vụ một cách tốt nhất cần phải trao cho các
cơ quan, tổ chức đó quyền hạn và các nguồn lực nhất định. Trao quyền cho họ
và đòi hỏi họ phải chịu trách nhiệm với chức trách, nhiệm vụ được giao.
- Osborne và Gaebler (2000): “Sáng tạo lại chính phủ”, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội. Các tác giả cho rằng, phân quyền là một cách để nâng cao
hiệu quả hoạt động quản lý và thúc đẩy quá trình vận động và phát triển. Phân
quyền giống như sáng tạo lại chính phủ; sáng tạo lại các hoạt động; hành
chính công mới hay quản lý công mới.
Sáng tạo lại chính phủ nhằm chỉ ra một cách làm hoàn toàn mới so với
trước đây để tiến hành các hoạt động của khu vực công. Những vấn đề đề cập
trong 10 nội dung mà hai tác giả đưa ra không phải hoàn toàn mới, nhưng tiếp
cận theo một cách thức mới để chuyển từ quan điểm chính phủ quản lý cai trị
sang chính phủ mang tính doanh nghiệp. Mô hình sáng tạo lại chính phủ được
13
coi là một cách để làm cho hoạt động của chính phủ năng động hơn, tốt hơn.
Chính phủ theo mô hình doanh nghiệp khuyến khích cạnh tranh giữa các bên
cung cấp dịch vụ, đẩy sự kiểm soát từ bộ máy hành chính sang cộng đồng [54].
- J. M. Cohen, S. B. Peterson (2002): “Phân cấp quản lý hành chính -
Chiến lược cho các nước đang phát triển”, NXBChính trị Quốc gia, Hà Nội.
Cuốn sách dày 343 trang đã trình bày vị trí, vai trò và tính tất yếu khách quan
của phân cấp quản lý hành chính đối với các nước đang phát triển. Trong bối
cảnh mở cửa hội nhập và chuyển đổi cơ chế quản lý, các quốc gia muốn phát
triển cần đổi mới cách thức quản lý nhà nước, đẩy mạnh phân cấp quản lý giữa
trung ương và các cấp chính quyền địa phương. Không có mô hình phân cấp
chung cho các quốc gia đang phát triển. Tùy từng điều kiện và trình độ phát triển
khác nhau, các quốc gia sẽ xác định mức độ phân cấp quản lý phù hợp [37].
1.2. Các công trình nghiên cứu phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục
1.2.1. Các công trình nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam hiện nay còn ít công trình nghiên cứu về phân cấp quản lý
nhà nước về giáo dục nói chung và GDPT nói riêng.
- Có thể nói công trình nghiên cứu tương đối toàn diện đầu tiên về phân
cấp quản lý nhà nước về GDPT là Đề tài khoa học cấp Bộ B98-52-22
“Nghiên cứu tập trung và phân quyền trong hệ thống quản lý ngành GDPT
Việt nam” do TS. Nguyễn Tiến Hùng làm chủ nhiệm. Đề tài khoa học tập
trung nghiên cứu các kiểu tập trung và phân cấp trong quản lý ngành giáo
dục; lợi thế và rủi ro của phân cấp quản lý ngành giáo dục; các tiêu chí xác
định tập trung hay phân cấp trong hệ thống quản lý ngành GDPT; khuynh
hướng tập trung và phân cấp theo chức năng và các thành phần của chức năng
quản lý giáo dục [31].
- Tiếp theo, năm 2003, Dự án hỗ trợ Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện
một khảo sát tại 12 tỉnh và thành phố và hoàn thành “Báo cáo hiện trạng và
khuyến nghị về phân cấp quản lý giáo dục Việt Nam”. Bản báo cáo đã mô tả
14
chi tiết hiện trạng và đề xuất khuyến nghị nhằm đẩy mạnh phân cấp quản lý
nhà nước về giáo dục ở Việt Nam.
- Năm 2003, các tác giả Đậu Hoàn Đô, Nguyễn Công Giáp và Đào Vân
Vy đã cho công bố công trình nghiên cứu: “Phân cấp quản lý giáo dục Việt
Nam: Thực trạng và xu hướng”. Công trình này được thực hiện với sự hỗ trợ
của Tổ chức Cứu trợ trẻ em Thụy Điển và Viện Chiến lược chương trình giáo
dục. Công trình nghiên cứu đã bước đầu khái quát các xu hướng phân cấp
quản lý nhà nước về giáo dục của các quốc gia trên thế giới; thực trạng phân
cấp quản lý nhà nước về giáo dục và đề xuất phương hướng đẩy mạnh phân
cấp quản lý nhà nước về giáo dục ở Việt Nam [23].
- Trần Hồng Hạnh (2011): “Một số nhìn nhận về phân cấp quản lý nhà
nước về giáo dục và đào tạo ở Việt Nam”,bài trong cuốn “Phân cấp quản lý
nhà nước”, NXB Công an Nhân dân. Tác giả trình bày cơ sở lý luận về phân
cấp quản lý nhà nước đối với GD&ĐT; thực trạng phân cấp quản lý nhà nước
đối với GD&ĐT, qua đó đề xuất một số định hướng nhằm đổi mới, tăng cường
phân cấp quản lý nhà nước đối với GD&ĐT ở nước ta hiện nay.
Đề cập đến những khó khăn, tồn tại trong quá trình phân cấp quản lý giáo
dục ở Việt Nam, tác giả nhấn mạnh: hệ thống tổ chức bộ máy thực hiện phân
cấp quản lý còn hạn chế, chưa có sự phân định rõ ràng, cụ thể nhyieemj vụ,
quyền hạn giữa trung ương và địa phương; việc phân cấp quản lý còn gặp nhiều
lúng túng, thiếu sự đồng bộ, dẫn đến tình trạng cắt khúc, chia việc mà thiếu sự
liên thông trong hệ thống; sự phối hợp giữa ngành giáo dục với các ngành liên
quan chưa chặt chẽ, thống nhất nên ngành giáo dục thực hiện các chức năng
chuyên môn rất khó khăn [64].
Một số tác giả đã công bố các công trình nghiên cứu về phân cấp quản lý
đối với GD-ĐT trên các tạo chí chuyên ngành, như:
- Nguyễn Tiến Hùng (2004): “Tìm hiểu quy trình nghiên cứu phân cấp
quản lý giáo dục”, Tạp chí Phát triển giáo dục, số 4 (64). Theo tác giả, để có
15
thể xác định lại hợp lý trách nhiệm, quyền hạn và trách nhiệm của từng cấp
quản lý và nhà trường phổ thông, cũng như cơ chế phối hợp làm việc giữa các
cấp đòi hỏi phải xác định được các mâu thuẫn, khó khăn trong thực hiện các
chức năng quản lý giáo dục hiện hành của từng cấp quản lý và nhà trường, từ
đó đề ra các giải pháp khắc phục. Vì vậy, quy trình nghiên cứu về phân cấp
quản lý giáo dục cần được thực hiện theo 3 bước: (1) xây dựng bức tranh hiện
trạng về phân cấp quản lý giáo dục; (2) phân tích hiện trạng về phân cấp quản
lý giáo dục; và (3) xây dựng các giải pháp về phân cấp quản lý giáo dục [32].
- Nguyễn Tiến Hùng (2006): “Vai trò của các cấp quản lý trong xu thế
phân cấp quản lý giáo dục đại học”, Tạp chí Khoa học giáo dục, số 6 năm 2006.
Bài báo phân tích vai trò của Quốc hội, Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, các
bộ và cơ quan ngang bộ, UBND tỉnh/thành phố, Sở giáo dục và Đào tạo, các
trường đại học trong xu hướng phân cấp quản lý giáo dục đại học [33].
- Đinh Thị Minh Tuyết (2007): “Về phân cấp quản lý giáo dục - đào tạo ở
nước ta hiện nay”, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 142 (11-2007). Tác giả bài
báo đã phân tích thực trạng phân cấp quản lý trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo
ở nước ta hiện nay; những kết quả đã đạt được cũng như những hạn chế, bất
cập, nguyên nhân của những hạn chế, bất cập; đề xuất định hướng và một số
giải pháp hoàn thiện phân cấp quản lý giáo dục - đào tạo. Tác giả bài báo nhấn
mạnh: đổi mới phân cấp quản lý về giáo dục - đào tạo là một yêu cầu khách
quan nhưng không thể tự do, tùy tiện. Không thể nhận thức đơn giản trong
phân cấp quản lý về giáo dục - đào tạo và cũng không nên cứng nhắc quan
niệm cho rằng tập trung là bất hợp lý, phân cấp là hợp lý và ngược lại [74].
- Trần Hồng Thắm: “Một số giải pháp đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà
nước về giáo dục phổ thông”, Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm Thành phố
Hồ Chí Minh, số tháng 2/2012. Bài báo phân tích thực tiễn phân cấp quản lý nhà
nước đối với bậc giáo dục phổ thông ở Việt Nam và đề xuất các giải pháp đẩy
mạnh phân cấp quản lý nhà nước đối với bậc học này. Tác giả đã trình bày một
16
số ý kiến về việc phân cấp quản lý GDPT với mong muốn góp phần định hướng
cho việc thực hiện công tác này ở nước ta trong thời gian tới [65].
Theo tác giả, phân cấp quản lý GDPT chỉ có tác dụng thực sự khi trao
quyền quyết định cho chính quyền cấp cơ sở và cấp nhà trường. Sẽ khó tìm
thấy mô hình phân cấp GDPT thống nhất cho cả nước, vì mỗi địa phương đều
có những điều kiện cụ thể khác nhau. Điều quan trọng là cần tìm ra những
điểm chung để quy định và tùy thuộc vào đặc điểm riêng mà có những hướng
dẫn cụ thể cho từng địa phương.
- Đinh Minh Dũng: “Phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo ở
cấp huyện vùng đồng bằng sông Cửu Long”, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 195
(4-2012). Tác giả bài báo trình bày quá trình phân cấp về GD-ĐT ở đồng bằng
sông Cứu Long từ sau giải phóng miền Nam và nhấn mạnh: tuy có nhiều thời kỳ
phân cấp quản lý nhà nước về GD-ĐT khác nhau, nhưng giáo dục tiểu học và
THCS cơ bản được phân cấp quản lý cho UBND cấp huyện và nó đã phát huy
tác dụng nhất định. Bài báo cũng đã trình bày những vấn đề đặt ra đối với phân
cấp quản lý về GD-ĐT ở các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long [17].
1.2.2. Các công trình nghiên cứu nước ngoài
- Rondineli D. và Nellis J. (1996): “Assessing decentralization policies
in Developing countries: the case for cautious optimism” (Chính sách phân
cấp sự định ở các nước đang phát triển: Trường hợp về chủ nghĩa lạc quan
cẩn trọng), Delelopment Policy Review 4. Theo các tác giả, ngay từ những
năm 80 của thế kỷ XX, nhiều nước trên thế giới tại châu Âu, châu Úc, châu
Mỹ, châu Á và châu Phi đã bắt đầu thể nghiệm và thực hiện hệ thống phân
cấp quản lý đối với GD-ĐT theo hướng tra quyền ban hành các quyết định
quản lý cho cấp dưới của chính phủ trung ương (chính quyền cấp
vùng/bang/tỉnh/thành phố/quận/huyên) và cho các trường. Lý do phân cấp
quản lý đối với GD-ĐT ở các quốc gia là rất khác nhau nhưng chủ yếu là do
cấp trung ương không thể tiếp tục gánh vác việc cung cấp tài chính cho hệ
17
thống GD-ĐT và do hệ thống quản lý về giáo dục quá cồng kềnh, quan liêu
gây tốn kém và lãng phí cho ngân sách nhà nước [102].
- Lockheed, Marlaine (2004): “Decentralization of education: Eight
lessons for school effectiveness and improvement” (Phân cấp giáo dục: Tám
bài học của sự tiến triển và ấn tượng trường học), The word Bank,
Washington, D.C. Theo các tác giả, mô hình phân cấp quản lý cho chính
quyền cấp dưới có hai kiểu điển hình: Phân cấp quản lý cho một cấp chính
quyền (tỉnh/thành phố) chịu trách nhiệm quản lý GDPT và mô hình phân cấp
cho hai cấp chính quyền (vùng/bang và tỉnh/thành phố) quản lý GDPT. Mô
hình phân cấp quản lý cho nhà trường thực chất là mô hình nâng cao quyền tự
chủ của các trường phổ thông, coi nhà trường là một đơn vị cải cách chính và
dựa trên sự phân bổ lại quyền hạn ban hành quyết định quản lý như là một
động lực để khuyến khích và duy trì cải cách. Kinh nghiệm tại các quốc gia
cải cách thành công đều có chung đặc điểm là đẩy mạnh phân cấp quản lý cho
các trường phổ thông và nâng cao quyền tự chủ của các trường mà vẫn tuân
thủ các quy định của chính quyền trung ương và chính quyền cấp trên [100].
- Elizabeth M. King và Susana Corderio Guerra (2005): “Những cuộc
cải cách giáo dục ở Đông Á: chính sách, quá trình và tác động” trong cuốn
sách “Phân cấp ở Đông Á để chính quyền địa phương phát huy tác dụng”,
NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội. Theo tác giả, phân cấp quản lý nhà nước về
giáo dục ở Đông Á có những đặc trưng chung. Đặc trưng lớn nhất là hệ thống
giáo dục được chuyển giao dựa trên các cơ cấu điều hành và quản lý đa tầng,
kết quả là để có được một chính sách quốc gia nhất quán đòi hỏi phải có sự nỗ
lực rất lớn. Chính phủ trung ương và các cấp chính quyền trung gian vẫn tiếp
tục quản lý cấp giáo dục cơ bản, song chính quyền cấp thấp nhất và bản thân
các trường phổ thông lại quản lý chế độ giáo dục cơ bản.
Sau khi phân tích thực trạng cải cách giáo dục ở các nước Đông Á, bài
viết rút ra những bài học kinh nghiệm trong phân cấp quản lý giáo dục: (1)
18
Cần làm sáng tỏ sự phân chia các chức năng, đơn giản hóa các quy trình và
cung cấp các cơ chế để phối hợp và thúc đẩy chia sẻ hiểu biết về cải cách ở
các cấp chính quyền khác nhau cũng như phân xử những bất đồng; (2) Chính
phủ trung ương giữ nhiều vai trò quan trọng nhưng cũng rất khác nhau trong
bối cảnh phân cấp và cần thay đổi cấu trúc và kỹ năng của mình; (3) bản thiết
kế phân cấp cần thiết để vận hành hệ thống giáo dục bao gồm các hệ thống
đánh giá cá nhân, tài chính, học sinh và quản lý thông tin. Hệ thống này cần
được sắp xếp lại để phản ánh mối quan hệ liên chính quyền với các chức năng
được phân công và năng lực cần được nâng cao; (4) Để quá trình mang lại tác
động tích cực đối với thành tích học tập của học sinh, các hệ thống thông tin
và đánh giá không chỉ phải đúng chỗ mà còn phải hoạt động phối hợp với
nhau trong suốt quá trình tham gia [25].
- Donal R. Winkler (1998): Decentralization in education: An Economic
Perspective (Phân cấp quản lý trong giáo dục: Viễn cảnh kinh tế), World bank
[93]. Theo tác giả, ở hầu hết các nước đang phát triển, trách nhiệm cung cấp giáo
dục bậc tiểu học và trung học cơ sở vẫn thuộc về chính phủ trung ương. Tuy
nhiên, ngày càng có nhiều nước trên thế giới đang tách trách nhiệm này khỏi
trung ương như một phần của cải cách nhằm phân cấp chức năng của chính phủ.
Việc chuyển giao này diễn ra dưới nhiều hình thức, bao gồm cả việc chuyển giao
các trách nhiệm tài khóa và quản lý cho các cấp chính quyền thấp hơn, cho phép
các trường công lập có quyền hoạt động độc lập, yêu cầu có sự tham gia của
cộng đồng trong việc điều hành hoạt động của các trường học, mở rộng hình
thức tài trợ từ cộng đồng, cho phép phụ huynh tự lựa chọn trường học cho con
em mình, khuyến khích hình thức cung ứng dịch vụ tư nhân.
Phân tích quá trình phân cấp quản lý trong giáo dục, tác giả chia quá
trình phân cấp thành các các hình thức khác nhau: dựa trên mục đích phân cấp
quản lý ta có phân cấp về chính trị, hành chính, tài chính và thị trường; dựa
theo mức độ chuyển giao quyền hạn từ cấp trung ương xuống cấp thấp hơn, ta
19
có các hình thức phân cấp: Phi tập trung hóa; ủy thác; ủy quyền; tư nhân hóa.
- Caldwell B. J (2003): “Self-Management and the Public good in
School education: getting the balance right for Australia”(Tự quản và lợi ích
xã hội trong giáo dục phổ thông: quyền bình đẳng ở Úc), Invited paper
presented as a counry report at an International workshop on “Leading and
Managing schools for Quality and Equity” organized by the Ministry of
Education of Chile. Tác giả bài tham luận viết: trong bối cảnh nền kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế, cần phải quan niệm đầy đủ hơn về một hệ thống
giáo dục phổ thông phát triển. Một nền giáo dục phổ thông tốt không chỉ bao
gồm sự đầy đủ về các yếu tố vật chất như lớp học, số lượng giáo viên, sách
giáo khoa…mà quan trọng hơn là tạo động lực thúc đẩy chất lượng dạy và
học. Về bản chất, có 3 yếu tố tạo nên động lực cho việc dạy và học đạt hiệu
quả là: (i) có nhiều cơ hội cho việc lựa chọn và cạnh tranh; (ii) nhà trường tự
chủ; và (iii) nhà trường tự chịu trách nhiệm.
Như vậy, yêu cầu đặt ra ở đây là phải đổi mới cơ chế quản lý giáo dục
phổ thông sao cho chất lượng dạy và học được nâng lên đồng thời với những
chi phí lợi ích hợp lý.
- Winkler R, Donald R. and Gershberg (2003): Effects on Quality of
Schooling (Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng dạy học), Word Bank,
Washington D.C. Cuốn sách đã cung cấp nhiều kinh nghiệm quý trong việc
giải quyết mâu thuẫn cơ bản trong quản lý giáo dục giữa việc cần tập trung
quản lý cái gì ở cấp trung ương và phân cấp những gì cho các cấp quản lý
thấp hơn trong quản lý nhà nước về GDPT. Đặc biệt là những kinh nghiệm
giải quyết có hiệu quả và hợp lý khuynh hướng trao quyền tự chủ quản lý và
trách nhiệm cho quá trình ban hành quyết định tại các trường đang phát triển
mạnh mẽ trên thế giới. Đây là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng
dạy và học ở các trường phổ thông hiện nay [103].
20
- Cheema, G. Shabbir and Rondineli (1993): “Decentralization and
development: Policy implementation in developing countries” (Phân cấp và
phát triển: thực thi chính sách ở các nước đang phát triển), Sage, Beverly Hills.
Các tác giả cuốn sách nhấn mạnh: trong bối cảnh phân cấp quản lý đối với
GDPT, các quốc gia trên thế giới đều có cùng một điểm chung, đó là: một mặt,
cần duy trì vai trò của tập trung trong quản lý, nhưng chỉ tập trung vào thiết lập
đường lối mang tính định hướng cho toàn bộ hệ thống, đề ra mục tiêu và các
tiêu chuẩn học tập cho học sinh, các chính sách hỗ trợ cho nhà trường và kiểm
soát việc thực hiện của nhà trường; mặt khác, cần nâng cao quyền tự chủ cho
nhà trường trong việc huy động và sử dụng các nguồn lực để đáp ứng tốt nhất
nhu cầu học tập của học sinh, cha mẹ học sinh và cộng đồng. Tuy nhiên, mối
quan hệ giữa trách nhiệm và quyền hạn, nhất là trách nhiệm của các cấp quản
lý và nhà trường phổ thông vẫn là vấn đề khó khăn đang được các quốc gia tiếp
tục nghiên cứu phù hợp với tình hình thực thế của mỗi nước [92].
- Báo cáo nghiên cứu của Trung tâm Dân chủ và Quản trị thuộc cơ quan
phát triển quốc tế Hoa Kỳ USAID: “Decentralization and democratic Local
Government” (Phân cấp và Quản trị địa phương dân chủ), Washington D.C,
USAID, May 2000. Báo cáo trình bày mối quan hệ giữa phân cấp và quản trị
địa phương dân chủ. Bản báo cáo nhấn mạnh: Xu hướng chung trong các nhà
nước dân chủ hiện đại là khi xã hội phát triển càng cao thì việc phân cấp quản
lý càng diễn ra nhiều hơn, chính quyền các địa phương được trao nhiều nhiệm
vụ, quyền hạn hơn [106].
- Sách chuyên khảo của Alfred de Grazia: “Decentralization - The
element of Political Science” (Phân cấp - yếu tố của khoa học chính trị), New
Jersey, 1999. Tác giả cuốn sách nhấn mạnh đến các đặc điểm của phân cấp
quản lý, coi phân cấp quản lý là ý chí của các nhà chính trị, mang tính định
hướng chính trị của nhà nước. Cuốn sách chuyên khảo trình bày các điều kiện
để thực hiện phân cấp quản lý và khẳng định: phân cấp quản lý là quá trình
21
chuyển đổi phương thức thực thi quyền lực nhà nước tập trung quan liêu sang
dân chủ; là chuyển giao nhiệm vụ, quyền hạn từ chính quyền trung ương cho
chính quyền địa phương các cấp nhằm mục tiêu hiệu quả. Phân cấp, phân
quyền không có nghĩa là làm giảm vai trò của trung ương mà ngược lại trung
ương làm đúng việc phải làm là xây dựng chính sách, pháp luật và giải quyết
các vấn đề có tính chiến lược, đồng thời thúc đẩy tính độc lập, chịu trách
nhiệm trong quá trình ra quyết định và tổ chức thực hiện của chính quyền địa
phương các cấp [89].
1.3. Đánh giá chung về các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận
án
1.3.1. Những nội dung đã được nghiên cứu
Từ việc hệ thống hóa tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
luận án, chúng ta có thể thấy những công trình nghiên cứu trên thế giới và ở
Việt Nam đã giải quyết được nhiều vấn đề có tính chất nền tảng cho nghiên
cứu về phân cấp quản lý nhà nước nói chung, phân cấp quản lý nhà nước về
GDPT nói riêng.
Những công trình nghiên cứu này đã nghiên cứu và đưa ra nhiều quan
niệm khác nhau về phân cấp quản lý dựa trên quan điểm của các học giả, so
sánh, phân biệt phân cấp với phân quyền, ủy quyền, tản quyền. Các nghiên
cứu về lịch sử hình thành và phát triển của phân cấp quản lý trên thế giới cũng
cho thấy các đặc điểm của của hoạt động phân cấp ở mỗi giai đoạn khác nhau
của quá trình phát triển của mỗi quốc gia.
Các công trình nghiên cứu cũng đã đề cấp đến các đặc điểm, nguyên tắc
phân cấp quản lý, từ đó đề xuất quy trình và mô hình phân cấp quản lý phù
hợp với đặc điểm của các quốc gia trên thế giới.
Các công trình nghiên cứu về phân cấp quản lý về giáo dục đã phân tích
vai trò của phân cấp quản lý từ nhiều góc nhìn; lợi thế và rủi ro của phân cấp
quản lý; các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện phân cấp, các kiểu tập trung và
phân cấp quản lý về giáo dục.
22
Các công trình nghiên cứu chủ yếu phân tích, đặt nền tảng lý luận và thực
tiễn, quan điểm tiếp cận tổng thể cho việc tiến hành nghiên cứu về mối quan hệ
trong phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương, về bản chất, vai trò,
chức năng của chính quyền địa phương, cơ sở của việc phân cấp nói chung, phân
cấp về giáo dục nói riêng.
Nhìn chung, các nội dung liên quan đến hoạt động phân cấp, phân cấp
quản lý về giáo dục đã được các học giả trong và ngoài nước nghiên cứu,
phân tích ở nhiều khía cạnh khác nhau. Những công trình khoa học này cung
cấp hệ thống những kiến thức khoa học phong phú, đặt nền tảng cho việc
nghiên cứu đề tài này.
1.3.2. Những nội dung luận án cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung
Nhìn chung các nghiên cứu về phân cấp quản lý nhà nước về giáo
dụcmới chỉ mang tính chất khái quát bước đầu, trên địa bàn cả nước hoặc ở
một số vùng nhất định. Những nghiên cứu về phân cấp quản lý đối với GDPT
đặc biệt gắn với địa bàn đặc thù là Thủ đô Hà Nội thì chưa có công trình nào.
Mặt khác, chủ yếu các công trình nghiên cứu giai đoạn sau khi Nghị định
115/2010/NĐ-CP ban hành. Hiện nay Nghị định 127/2018/NĐ- CP thay thế
Nghị định 115/2010/NĐ-CP với những thay đổi nhất định trong phân cấp
quản lý nhà nước về GD nói chung và GDPT nói riêng. Việc tiếp tục nghiên
cứu đánh giá sự phù hợp thể chế hiện hành với thực tiễn của GDPT ở thủ đô
Hà Nội là hoàn toàn cần thiết.
Trên cơ sở phân tích những vấn đề đã được nghiên cứu, luận án cần tiếp
tục nghiên cứu những nội dung sau:
Một là, nghiên cứu cơ sở lý luận của hoạt động phân cấp, nhất là phân
cấp phân cấp quản lý nhà nước về GDPT: Đặc điểm, nội dung, vai trò; các
yếu tố ảnh hưởng đến phân cấp quản lý nhà nước về GDPT; làm rõ kinh
nghiệm về phân cấp QLNN đối với GDPT một số nước trên thế giới để tham
khảo cho Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng. Những nội dung này sẽ là
23
khung lý thuyết để xác định, đánh giá thực trạng cũng như đề xuất các giải
pháp đẩy mạnh và tăng cường phân cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa
bàn Thành phố Hà Nội trong những năm tới.
Hai là,nghiên cứu hệ thống hành lang pháp lý liên quan đến hoạt động
phân cấp quản lý và phân cấp quản lý nhà nước về GDPT ở Việt Nam.
Những quy định mang tính pháp lý về phân cấp quản lý còn nằm rải rác ở
nhiều văn bản quy phạm khác nhau. Luận án cần nghiên cứu để tập hợp và hệ
thống hóa các quy định này nhằm xây dựng cơ sở cho việc đánh giá thực
trạng phân cấp quản lý nhà nước về GDPT ở nước ta hiện nay.
Ba là, với đặc thù của thành phố Hà Nội, luận án cần làm rõ đặc trưng
phân cấp QLNN về GDPT với chính quyền đô thị có gì khác với các địa
phương khác. Đồng thời phân tích, đánh giá thực trạng, những kết quả đã đạt
được, những hạn chế, bất cập, nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong
phân cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
Bốn là, nêu phương hướng và đề xuất các giải pháp đẩy mạnh và nâng
cao hiệu quả phân cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn Thành phố Hà
Nội trong những năm tới. Luận án cũng đề xuất các giải pháp đổi mới phân
cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội trong bối
cảnh hiện nay.
24
Tiểu kết chương 1
Chương 1 của luận án đã tập trung nghiên cứu các công trình nghiên cứu ở
trong nước và trên thế giới về phân cấp quản lý, phân cấp quản lý về giáo dục và
đánh giá chung về các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.
Trong chương này luận án đã chỉ rõ những nội dung đã được các tác giả trong
nước và quốc tế nghiên cứu về phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục; những
nội dung tác giải luận án cần nghiên cứu, bổ sung.
Tuy chưa có công trình nào trực tiếp nghiên cứu về phân cấp quản lý
nhà nước về GDPT, nhưng đã có một số công trình nghiên cứu cơ sở lý luận
và thực tiễn, giải quyết được nhiều vấn đề có tính chất nền tảng cho nghiên
cứu về phân cấp quản lý nhà nước nói chung, phân cấp quản lý nhà nước về
GDPT nói riêng.
Các công trình nghiên cứu ở trong nước và trên thế giới đã đưa ra nhiều
quan niệm khác nhau về phân cấp quản lý dựa trên quan điểm của các học giả,
so sánh, phân biệt phân cấp với phân quyền, ủy quyền, tản quyền. Các nghiên
cứu về lịch sử hình thành và phát triển của phân cấp quản lý cũng cho chung
ta thấy được đặc điểm của của phân cấp quản lý ở mỗi giai đoạn khác nhau
của quá trình phát triển. Các công trình nghiên cứu cũng đã đề cập đến đặc
điểm, nguyên tắc phân cấp quản lý, từ đó đề xuất quy trình và mô hình phân
cấp quản lý phù hợp với đặc điểm của từng nước.
Các công trình nghiên cứu về phân cấp quản lý về giáo dục đã phân tích
vai trò của phân cấp quản lý từ nhiều góc nhìn; lợi thế và rủi ro của phân cấp;
các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện phân cấp, các kiểu tập trung và phân
cấp quản lý về giáo dục.
Các công trình nghiên cứu trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn, quan điểm
tiếp cận cho việc tiến hành nghiên cứu về mối quan hệ trong phân cấp, phân
quyền giữa trung ương và địa phương, về bản chất, vai trò, chức năng của chính
quyền địa phương, cơ sở của việc phân cấp quản lý về giáo dục.
25
Các nội dung liên quan đến phân cấp, phân cấp quản lý về giáo dục đã
được các học giả trong và ngoài nước nghiên cứu, phân tích ở nhiều khía cạnh
khác nhau. Những công trình khoa học này cung cấp những kiến thức khoa
học cơ bản, đặt nền tảng cho nghiên cứu sinh nghiên cứu đề tài này.
Tuy vậy, những nghiên cứu về phân cấp và phân cấp quản lý nhà nước về
giáo dục mới chỉ mang tính chất khái quát bước đầu, chưa đi vào cụ thể. Các
nghiên cứu về phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục còn rất ít, được đề cập
rời rạc, không mang tính hệ thống và toàn diện. Những nghiên cứu về phân
cấp quản lý đối với GDPT hầu như chưa có, nhất là phân cấp quản lý nhà
nước về GDPT ở một địa phương cụ thể.
Trên cơ sở phân tích làm rõ những vấn đề đã được nghiên cứu, luận án
cần tiếp tục nghiên cứu đặc điển, mục tiêu, các nguyên tắc phân cấp quản lý;
các yếu tố ảnh hưởng đến phân cấp quản lý nhà nước về GDPT; các kiểu tập
trung và phân cấp quản lý nhà nước về GDPT; những vấn đề đặt ra khi thực
hiện phân cấp quản lý nhà nước về GDPT ở nước ta hiện nay. Luận án cũng
đề ra nhiệm vụ nghiên cứu thực trạng phân cấp quản lý nhà nước về GDPT
trên địa bàn Thành phố Hà Nội; nêu phương hướng và đề xuất các giải pháp
đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn Thành phố Hà
Nội trong những năm tới.
26
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA PHÂN CẤP QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
2.1. Quản lý và quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông
2.1.1. Quản lý và quản lý nhà nước
Nếu chiết tự theo từ, thuật ngữ “quản lý" (tiếng Việt gốc Hán) có thể
hiểu là hai quá trình tích hợp vào nhau; quá trình "quản" là sự coi sóc, giữ gìn,
duy trì ở trạng thái "ổn định"; quá trình “ lý" là sửa sang, sắp xếp, đổi mới để
đưa tổ chức vào thế “phát triển”.
Dưới góc độ khoa học, có rất nhiều quan điểm khác nhau về quản lý. Có
tác giả cho rằng, quản lý là việc đạt đến mục tiêu thông qua hoạt động của
người khác. Tác giả khác lại coi quản lý như một hoạt động thiết yếu bảo đảm
phối hợp những nỗ lực cá nhân để đạt tới mục tiêu của nhóm.
Theo Harol Koontz: "Quản lý là một nghệ thuật nhằm đạt được mục tiêu
đã đề ra thông qua việc điều khiển, chỉ huy, phối hợp, hướng dẫn hoạt động
của những người khác", [36]
Còn Nguyễn Minh Đạo: "Quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển,
hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người nhằm đạt
tới mục tiêu đã đề ra" [20]
Giáo trình Khoa học quản lý của Trường Đại học Kinh tế quốc dân thì
quan niệm: "Quản lý là việc đạt tới mục đích của tổ chức một cách có kết quả
và hiệu quả thông qua quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra
các nguồn lực của tổ chức" [71]
Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau, nhưng phổ quát hơn cả có thể
hiểu: quản lý là sự tác động có định hướng và có tổ chức của chủ thể quản lý
lên đối tượng quản lý bằng các phương thức nhất định để đạt tới mục tiêu đề ra.
27
Quản lý bao gồm các yếu tố cấu thành sau: (1) Chủ thể quản lý là tác
nhân tạo ra các tác động; (2) đối tượng quản lý bị quản lý tiếp nhận trực tiếp
các tác động của chủ thể quản lý; (3) Các khách thể quản lý là mục tiêu mà
chủ thể quản lý tác động để mong muốn đạt được.
Theo đối tượng quản lý, các hoạt động quản lý có thể phân chia thành 3
nhóm chủ yếu: quản lý giới vô sinh ( ví dụ như nhà xưởng, ruộng đất, tài
nguyên, hầm mỏ, thiết bị máy móc, nguyên vật liệu, sản phẩm.) , quản lý giới
sinh vật và quản lý xã hội. Quản lý xã hội với tư cách là quản lý các hoạt
động của con người, giữa con người với nhau trong xã hội là một bộ phận của
quản lý chung.
Quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, xuất hiện và tồn
tại cùng với sự xuất hiện và tồn tại của nhà nước. Quản lý nhà nước là hoạt
động gắn liền với hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước, có tính chất
cưỡng chế đơn phương đối với xã hội. Nội hàm của quản lý nhà nước thay đổi
phụ thuộc vào chế độ chính trị, lịch sử và đặc điểm văn hoá, trình độ phát
triển kinh tế - xã hội của mỗi một quốc gia qua các giai đoạn lịch sử.
Quản lý nhà nước thực hiện 3 quyền: 1) Quyền lập pháp do các cơ quan
lập pháp thực hiện. Quyền lập pháp là quyền ban hành và sửa đổi Hiến pháp
và luật, tức là quyền xây dựng các quy tắc pháp lý cơ bản để điều chỉnh các
quan hệ xã hội theo định hướng của nhà nước; 2) Quyền hành pháp là quyền
chấp hành và điều hành do hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện.
Quyền hành pháp là quyền thực thi pháp luật, tức là hoạt động chấp hành luật và
điều hành, quản lý các mặt của đời sống sống kinh tế - xã hội theo các quy định
của pháp luật; 3) Quyền tư pháp do các cơ quan tư pháp thực hiện. Quyền tư
pháp là quyền bảo vệ pháp luật của các cơ quan tư pháp.
Trong quản lý xã hội có rất nhiều chủ thể tham gia: các đảng phái chính
trị, nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế, các hội nghề
nghiệp..., trong đó nhà nước giữ vai trò quan trọng. Nhà nước là trung tâm
28
của hệ thống chính trị và là công cụ quan trọng nhất để quản lý xã hội. So với
quản lý của các tổ chức khác, thì quản lý nhà nước có những điểm khác biệt:
1) Chủ thể quản lý nhà nước là các cơ quan, cá nhân trong bộ máy nhà nước
được trao quyền; 2) Đối tượng quản lý nhà nước là tất cả các cá nhân, tổ chức
sinh sống và hoạt động trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, công dân làm việc bên
ngoài lãnh thổ quốc gia; 3) Quản lý nhà nước là quản lý toàn diện trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh,
quốc phòng, ngoại giao...; 4) Quản lý nhà nước mang tính quyền lực nhà
nước, sử dụng công cụ pháp luật nhà nước, chính sách để quản lý xã hội; 5)
Mục tiêu của quản lý nhà nước là phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn định và
phát triển của toàn xã hội [28, 242].
Từ những đặc điểm trên chúng ta có thể hiểu, quản lý nhà nước là một
dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực nhà nước và sử dụng pháp
luật và chính sách để điều chỉnh hành vi của cá nhân, tổ chức trên tất cả các
mặt của đời sống xã hội do các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện,
nhằm phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội.
2.1.2. Quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông
Để làm rõ khái niệm quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông cần làm
sáng tỏ thuật ngữ: giáo dục phổ thông. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 2 Quy
định tiêu chuẩn, quy trình xây dựng, chỉnh sửa chương trình giáo dục phổ thông;
tổ chức và hoạt động của hội đồng quốc gia thẩm định chương trình giáo dục
phổ thông được ban hành kèm theo Thông tư 14/2017/TT-BGDĐT (có hiệu lực
từ 22/07/2017), thì: Giáo dục phổ thông gồm giáo dục tiểu học, giáo dục trung
học cơ sở (giai đoạn giáo dục cơ bản) và giáo dục trung học phổ thông (giai đoạn
giáo dục định hướng nghề nghiệp).
Như vậy, thuật ngữ giáo dục phổ thông là thuật ngữ mang nội hàm
rộng bao gồm cả giáo dục tiểu học, giáo dục trung học cơ sở (giai đoạn
giáo dục cơ bản) và giáo dục trung học phổ thông (giai đoạn giáo dục định
hướng nghề nghiệp).
29
Trên cơ sở phân tích trên có thể hiểu: quản lý nhà nước về giáo dục phổ
thông là một lĩnh vực của quản lý nhà nước do các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền theo quy định của pháp luật, thực hiện sự tác động và điều chỉnh bằng
quyền lực nhà nước đối với các hoạt động giáo dục phổ thông nhằm thực hiện
mục tiêu duy trì kỷ luật, kỷ cương, phát triển giáo dục phổ thông đáp ứng yêu
cầu phát triển đất nước.
Từ quan niệm trên có thể xác định các yếu tố cấu thành của QLNN
về GDPT ở Việt Nam hiện nay như sau:
Thứ nhất, chủ thể QLNN về GDPT là các cơ quan nhà nước. Cụ thể
trong phạm vi nghiên cứu của luận án là hệ thống các cơ quan hành chính
nhà nước. Theo quy định của Luật Giáo dục hiện nay hệ thống các cơ quan
quản lý nhà nước về GDPT được quy định như sau:
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về GDPT. Chính phủ trình
Quốc hội trước khi quyết định những chủ trương lớn có ảnhhưởng đến quyền
và nghĩa vụ học tập của công dân trong phạm vi cả nước, những chủ trương
về cải cách nội dung chương trình của các bậc học phổ thông, hằng năm báo
cáo Quốc hội về kết quả hoạt động GDPT và việc thực hiện việc thu chi ngân
sách GDPT.
Bộ Giáo dục và Đào tạo chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc
thực hiện quản lý nhà nước về GDPT.
Các Bộ có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà nước
về GDPT quy định tại Nghị định của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và cơ cấu tổ chức của mỗi Bộ; đồng thời phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào
tạo bảo đảm sự thống nhất quản lý nhà nước về GDPT. Bộ Kế hoạch và Đầu tư
chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội, Bộ Nội vụ và các cơ quan có liên quan tổng hợp chỉ tiêu đào tạo, bồi
dưỡng hàng năm và đưa vào kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của cả nước
trình Thủ tương Chính phủ phê duyệt; chịu trách nhiệm về tính hợp lý, sự đáp
30
ứng nhu cầu thực tiễn và cân đối về cơ cấu nguồn nhân lực được đào tạo. Bộ
Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo và các cơ quan liên
quan lập dự toán, phân bổ, tổ chức thực hiện ngân sách nhà nước; xây dựng
các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức về tài chính - ngân sách; bảo
đảm tài chính và thực hiện thanh tra, kiểm tra tài chính - ngân sách đối với
lĩnh vực GDPT theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nuớc và các văn bản
pháp luật có liên quan. Bộ Nội vụ có trách nhiệm thực hiện những quy định
về quản lý biên chế GDPT quy định tại Nghị định của Chính phủ.
Ủy ban nhân dân các cấp và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cáp thực
hiện quản lý nhà nước về GDPT ở địa phương theo quy định của Chính phủ.
Ở cấp tỉnh có Sở Giáo dục và Đào tạo. Giám đốc Sở Giáo dục và Đào
tạo chịu trách nhiệm trước UBND cấp tỉnh trong quản lý nhà nước về GDPT
trong phạm vi tỉnh, bao gồm các trường tiểu học, THCS, THPT. Một số Sở
Giáo dục và Đào tạo chỉ được quản lý chuyên môn và một vài mặt khác thuộc
quá trình GDPT. Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo được cấp bằng tốt nghiệp
THCS, THPT.
Cấp huyện có Phòng Giáo dục và Đào tạo. Trưởng Phòng Giáo dục và
Đào tạo chịu trách nhiệm trước UBND cấp huyện thực hiện quản lý nhà nước
về GDPT trong phạm vi các quận, huyện. Phòng Giáo dục và Đào tạo cấp
huyện quản lý các trường tiểu học, THCS. Trưởng Phòng Giáo dục và Đào
tạo được cấp bằng tốt nghiệp tiểu học.
31
Sơ đồ 2.1. Hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về GDPT
CHÍNH PHỦ
BộGD&ĐT
UBND cấp tỉnh
Sở GD&ĐT
UBND cấp huyện
Phòng GD&ĐT
UBND cấp xã
Ghi chú: Quan hệ trực thuộc về tổ chức
Quan hệ chỉ đạo về chuyên môn, nghiệp vụ
Thứ hai, nội dung quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông.
Chủ thể QLNN sẽ tiến hành các hoạt động sau trong lĩnh vực GDPT:
- Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính
sách phát triển giáo dục phổ thông;
- Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về GDPT;
ban hành điều lệ nhà trường; ban hành quy định về tổ chức và hoạt động của
các cơ sở giáo dục phổ thông;
- Quy định mục tiêu, chương trình, nội dung GDPT; tiêu chuẩn nhà giáo;
tiêu chuẩn cơ sở vật chất và thiết bị trường học; việc biên soạn, xuất bản, in
và phát hành sách giáo khoa, giáo trình; quy chế thi cử và cấp văn bằng,
chứng chỉ;
- Tổ chức, quản lý việc bảo đảm chất lượng giáo dục và kiểm định chất
lượng giáo dục phổ thông;
32
- Thực hiện công tác thống kê, thông tin về tổ chức và hoạt động giáo
dục phổ thông;
- Tổ chức bộ máy quản lý về giáo dục phổ thông;
- Tổ chức, chỉ đạo việc đào tạo, bồi dưỡng, quản lý nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục phổ thông;
- Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để phát triển giáo dục
phổ thông;
- Tổ chức, quản lý công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ
trong lĩnh vực giáo dục phổ thông;
- Tổ chức, quản lý công tác hợp tác quốc tế về giáo dục phổ thông;
- Quy định việc tặng danh hiệu vinh dự cho người có nhiều công lao đối
với sự nghiệp giáo dục phổ thông;
- Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về GDPT; giải quyết
khiếu nại, tố cáo và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về GDPT.
Thứ ba, mục đích của QLNN về GDPT. Đó là hướng tới duy trì ổn định,
trật tự và đảm bảo sự phát triển của các quan hệ xã hội giữa các chủ thể tham
gia hoạt động GDPT.
2.2. Phân cấp quản lý nhà nước và phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục
phổ thông
2.2.1. Khái niệm phân cấp quản lý nhà nước
Để làm rõ nội hàm thuật ngữ phân cấp quản lý nhà nước, trước hết cần
xuất phát từ thuật ngữ “phân cấp”. Hiện nay, có một số quan niệm khác nhau
xung quanh khái niệm “phân cấp”. Theo một số tác giả, phân cấp chính là phân
quyền giữa trung ương và địa phương; Phân cấp là phân ra, chia thành các cấp,
các hạng; Phân cấp có sự chuyển giao quyền lực quản lý xuống các cấp dưới để
thực hiện cho sát dân và sát tình hình thực tiễn, đồng thời, để giảm bớt khối
lượng cho cấp trên khỏi phải trực tiếp giải quyết những việc sự vụ.
33
Có quan niệm khác cho rằng, phân cấp có thể theo hai hướng: một
hướng nằm ngang là sự phân chia căn cứ vào sự khác nhau của các công việc
của một cấp; hướng nằm dọc (thẳng đứng) là sự phân chia theo cơ cấu thứ bậc
công việc giữa các cấp khác nhau [70, 162].
Có ý kiến cho rằng, cần phân biệt “phân cấp quản lý” với một số khái
niệm gần với nó là phân công, phân nhiệm, phân quyền vì phân công và phân
nhiệm đều để chỉ sự xác định quyền hạn, trách nhiệm cả theo chiều ngang và
chiều dọc. Thông thường, người ta sử dụng khái niệm phân công để chỉ quan
hệ theo chiều ngang với dụng ý phân biệt nó với phân cấp. Nếu phân quyền
được hiểu là phân giao quyền hạn cho một cơ quan hoặc một cấp chính quyền
nào đấy thì thực ra sử dụng thuật ngữ phân công và phân cấp là đầy đủ và
chính xác hơn [43, tr.24-25].
Như vậy, cho đến nay, mặc dù được sử dụng một cách rộng rãi, song
cách hiểu về phân cấp còn chưa hoàn toàn thống nhất.
Dưới góc độ ngôn ngữ, “cấp” được hiểu là loại hạng trong một hệ thống
(xếp theo trình độ cao thấp, trên dưới). Từ đó, phân cấp quản lý được cắt
nghĩa là giao bớt một phần quyền quản lý cho cấp dưới, quy định nhiệm vụ và
quyền hạn cho mỗi cấp. Như vậy, ở đây có hai nội dung cần lưu ý là chuyển
giao thẩm quyền cho cấp dưới và xác định thẩm quyền của mỗi cấp trong đó.
Hiện nay, căn cứ vào cách phân chia đơn vị hành chính - lãnh thổ mà ở
Việt Nam hình thành các cấp chính quyền: trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và
cấp xã. Phân cấp quản lý nhà nước, trước hết được hiểu là phân cấp giữa
trung ương với chính quyền cấp tỉnh; đồng thời, còn bao hàm cả phân cấp
giữa các cấp chính quyền địa phương với nhau.
Phân cấp quản lý nhà nước bao gồm: 1) Phân cấp theo chức năng là các
cá nhân, tổ chức ở những vị trí xác định được giao thực hiện những nhiệm vụ
nhất định phù hợp với chức năng quản lý của mình; 2) phân cấp theo lãnh thổ
là mỗi cấp quản lý (chính quyền địa phương) được giao quản lý các đối tượng
34
trên một địa bàn xác định. Ở đó, bộ máy quản lý được chủ động quyết định
mục tiêu, kế hoạch, biện pháp và huy động sử dụng các nguồn lực trong địa
bàn theo quy định một cách tối ưu nhất; 3) phân cấp kỹ thuật là cấp quản lý
được giao quyền quyết định những tiêu chuẩn kỹ thuật, định mức kinh tế, tài
chính quy tắc và quy trình thực hiện các nhiệm vụ được giao theo quy định
cho phù hợp với điều kiện kinh tế, văn hoá xã hội và tự nhiên của địa bàn; 4)
phân cấp lợi ích là cấp quản lý được chủ động kết quả đầu ra, lợi ích thực hiện
cùng những biện pháp tăng cường lợi ích của tập thể (hay địa bàn) và điều
hoà lợi ích giữa các bên theo quy định.
Hiện nay, thuật ngữ phân cấp không chỉ dùng trong quản lý mà còn dùng
phổ biến trong các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, môi trường. Phân cấp là một
trong những nội dung quan trọng của cải các hành chính của các quốc gia bao
gồm 3 loại hình cơ bản hợp thành là tản quyền, phân quyền và uỷ quyền. Sự
phân định này phụ thuộc vào mối quan hệ quản lý giữa các cấp hành chính trong
hệ thống các cơ quan nhà nước. Tính phụ thuộc trên, dưới của hệ thống các cấp
hành chính là yếu tố chủ đạo và chi phối nghĩa vụ của từ phân cấp [68, tr.164].
Xét trên quan điểm khoa học quản lý, phân cấp quản lý nhà nước là thuật
ngữ chỉ sự phân định quyền, nhiệm vụ, trách nhiệm bằng cách quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cấp theo nguyên tắc tập trung dân chủ để
vừa đảm hảo việc điều hành tập trung, thống nhất của Chính phủ đồng thời
phát huy dân chủ, nâng cao tính năng động của mỗi địa phương, cơ sở. Phân
cấp quản lỷ được hiểu là sự chuyển giao ổn định thẩm quyền, nhiệm vụ và
trách nhiệm từ cơ quan quản lý cấp trên xuống cấp dưới trực thuộc nhằm đạt
mục tiêu chung một cách có hiệu quả nhất trong quá trình phân công quản lý
của cả hệ thống hành chính nhà nước. Trong phạm vi thẩm quyền được giao,
mỗi cấp có quyền hành động tự chủ nhất định để phát huy tính năng động
sáng tạo của mình [64, tr.385].
Về nguyên tắc, phân cấp quản lý không đơn thuần là phân chia quyền lực
giữa Trung ương và địa phương (theo cấp hành chính và đơn vị hành chính)
35
và cũng không phải là phân chia lợi ích giữa Trung ương và địa phương, giữa
cấp trên và cấp dưới, mà thực chất là phân định rõ nhiệm vụ, thẩm quyền giữa
cấp trên và cấp dưới một cách hợp lý, tạo thuận lợi trong việc giải quyết các
công việc của Nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước.
Như vậy, có thể thấy phân cấp quản lý nhà nước là một quá trình liên thông từ
việc xác định chức năng, nhiệm vụ của mỗi cấp hành chính đến thẩm quyền
hành chính tương ứng ở mỗi cấp và các điều kiện thực hiện để đạt mục tiêu
quản lý của hệ thống một cách hiệu quả nhất. Trong quá trình đó, mỗi cấp đều
phải chịu trách nhiệm với nhau và chịu trách nhiệm với nhân dân về kết quả
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được phân cấp.
Nếu nhìn từ chế độ quản lý thì bản chất của phân cấp quản lý nhà nước
là việc cấp trên chuyển giao những nhiệm vụ quyền hạn do mình nắm giữ cho
cấp dưới thực hiện một cách thường xuyên, liên tục bằng phương thức ban
hành văn bản quy phạm pháp luật hoặc bằng cách chuyển cho cấp dưới thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn bằng các quyết định cụ thể.
Sản phẩm cuối cùng của phân cấp quản lý nhà nước là hệ thống quy định
pháp luật về phân định thẩm quyền quản lý nhà nước và cơ chế thực hiện
những thẩm quyền đó. Như vậy, phân cấp quản lý nhà nước bao gồm các nội
dung cụ thể sau: 1) Xác định những thẩm quyền đặc biệt của trung ương trong
quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực hoạt động cụ thể nhằm bảo đảm tính
thống nhất trong quản lý nhà nước; 2) xác định những thẩm quyền riêng của
từng cấp chính quyền theo tiêu chí “cấp tốt nhất”; 3) xác định thẩm quyền
chung của các cấp chính quyền và cơ chế phối hợp trong việc thực hiện thẩm
quyền chung; 4) quy định các điều kiện về tài chính, tổ chức, nhân sự để bảo
đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được phân cấp; 5) xác định cơ chế
kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được phân cấp.
Trên cơ sở những lập luận ở trên chúng ta có thể đưa ra khái niệm về
phân cấp quản lý nhà nước như sau: Phân cấp quản lý nhà nước là sự phân
36
định thẩm quyền, trách nhiệm giữa các cấp chính quyền trên cơ sở bảo đảm
sự phù hợp giữa khối lượng và tính chất thẩm quyền với năng lực và điều kiện
thực tế của từng cấp nhằm tăng cường chất lượng, hiệu lực và hiệu quả của
hoạt động quản lý nhà nước.
2.2.2. Khái niệm phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông
Thời gian đầu chính phủ các nước thường quản lý giáo dục phổ thông
theo mô hình tập trung. Ở mô hình này, việc ra quyết định quản lý và thực
hiện chức năng giám sát và đánh giá chủ yếu do Bộ Giáo dục hoặc các Vụ
chức năng của Bộ Giáo dục tiến hành. Chính quyền trung ương quy định mọi
mặt của hệ thống, bao gồm các vấn đề liên quan đến học sinh, giáo viên, tài
chính và trang thiết bị. Chính quyền trung ương còn xây dựng chính sách và
quản lý mọi hoạt động, như việc trả lương cho giáo viên, thực hiện đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục. Chính quyền địa
phương có trách nhiệm triển khai và thực hiện, nhà trường cũng được trao
một số quyền lực song vẫn chịu sự quản lý chặt chẽ của trung ương, do đó địa
phương và nhà trường có rất ít điều kiện để phát huy sự năng động, sáng tạo.
Phân cấp quản lý nhà nước về GDPT được coi là mô hình quản lý thay thế và
khắc phục những hạn chế của cơ chế quản lý tập trung.
Trên cơ sở những lý luận về phân cấp quản lý nhà nước nói chung đã phân
tích, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT là việc chuyển giao quyền hạn, quyền ra
quyết định cho cấp dưới thông qua các tổ chức giáo dục. Ở Việt Nam có bốn cấp
được chuyển giao quyền hạn là: Cấp trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã.
Hiểu cụ thể hơn, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT là chuyển trách
nhiệm lập kế hoạch, quản lý và phân bổ các nguồn lực từ chính phủ trung
ương tới các cơ quan chuyên ngành của chính phủ, các cơ quan cấp dưới, các
đơn vị công lập tự chủ một phần, các đơn vị vùng hay chức năng hoặc các tổ
chức tư nhân hay tình nguyện.
Các định nghĩa trên đã phản ánh được một mặt của phân cấp: phân công
lại hoặc trao thêm trách nhiệm và quyền quyết định phù hợp với các chức năng
37
hoặc thành phần cụ thể của chức năng cho cấp thấp hơn của chính phủ trung
ương. Tuy nhiên, để hiểu đầy đủ về phân cấp cần phải đề cập đến các mặt còn lại
của phân cấp, đó là tính chịu trách nhiệm của từng cấp và mối quan hệ công việc
giữa các cấp trong và ngoài hệ thống quản lý nhà nước về GDPT.
Một cách khái quát chúng ta có thể hiểu, phân cấp quản lý nhà nước về
GDPT là quá trình thiết kế lại hệ thống quy trình trách nhiệm, quyền hạn và
tính chịu trách nhiệm (theo các chức năng hoặc thành phần, của chức năng
quản lý nhà nước về GDPT) theo hướng dịch chuyển từ cấp trên xuống cấp
dưới, cũng như quy trình quan hệ công việc giữa các bên liên quan (trong và
ngoài hệ thống quản lý đối với GDPT), nhằm sử dụng tối đa các nguồn lực
đạt tới mục tiêu đề ra.
Từ khái niệm trên, có thể xem xét các đặc điểm của phân cấp QLNN về
GDPT như sau:
Phân cấp quản lý nhà nước về GDPT liên quan chặt chẽ với quản lý nhà
nước về GDPT. Về bản chất thì phân cấp quản lý nhà nước về GDPT là một
hình thức cải cách trong quản lý nhà nước về GDPT theo hướng dịch chuyển
quyền ra quyết định cho các cấp thấp hơn để phù hợp với điều kiện thực tế và
đảm bảo sử dụng các nguồn lực hiệu quả hơn, đạt được mục tiêu đề ra. Trong
đó, chủ yếu và chuyển giao một số thẩm quyền từ Chính phủ, các bộ (trong đó
phần lớn là nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Giáo dục và đào tạo), cho chính
quyền địa phương hay cơ quan hành chính nhà nước cấp dưới bằng các văn
bản luật, nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo... của các cơ quan,
đơn vị hành chính cấp dưới, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý
Phân cấp quản lý nhà nước về GDPT ở Việt Nam dựa trên nguyên tắc
kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ. Ở địa phương, Sở Giáo dục và
Đào tạo vừa chịu sự quản lý của chính quyền địa phương cấp tỉnh (Hội đồng
nhân dân và UBND tỉnh), vừa chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn của Bộ Giáo dục và
Đào tạo; Phòng Giáo dục và Đào tạo vừa chịu sự quản lý của chính quyền địa
38
phương cấp huyện vừa chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn của Sở Giáo dục và Đào
tạo. Phân cấp quản lý còn được thực hiện đối với những chức năng quản lý
GDPT khác nhau của ngành. Ví dụ, ngành giáo dục - đào tạo thực hiện quản
lý chuyên môn, nghiệp vụ, song tuỳ theo từng địa phương mà ngành có thể
chịu trách nhiệm các vấn đề khác như quản lý ngân sách, đội ngũ giáo viên,
nhân viên, tổ chức bộ máy, biên chế, xây dựng trường học. Đối với một số địa
phương, Sở Giáo đục và Đào tạo chỉ quản lý các hoạt động liên quan đến
chuyên môn, nghiệp vụ. Các vấn đề về ngân sách, tổ chức bộ máy, biên chế
chịu sự quản lý của các cơ quan quản lý ngành và lĩnh vực khác.
Các mối quan hệ trong phân cấp quản lý nhà nước về GDPT được chia
thành hai loại khác chính: 1) Mối quan hệ theo chiều dọc là mối quan hệ theo
hệ thống thứ bậc, cấp dưới phục tùng cấp trên, chịu sự kiểm tra, giám sát của
cấp trên. Mối quan hệ này bao gồm: Bộ Giáo dục và Đào tạo - Sở Giáo dục và
Đào tạo - Phòng Giáo dục và Đào tạo; 2) Mối quan hệ theo chiều ngang là
mối quan hệ phối hợp của các cơ quan trong cùng một cấp quản lý. Mối quan
hệ này bao gồm: Ở cấp tỉnh: Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Nội vụ, Sở Tài
chính, Sở KH-ĐT...; Ở cấp huyện: Phòng Giáo dục và Đào tạo, Phòng Nội vụ,
Phòng Tài chính…
Khi xét đến phân cấp quản lý nhà nước về GDPT người ta thường coi nó
nhự một yêu cầu để thực hiện chủ trương dân chủ hóa trong GDPT. Qua đó,
phân cấp quản lý nhà nước về GDPT tính đến phạm vi quản lý của các cấp
quản lý khác nhau của GDPT, bao hàm các nhiệm vụ quản lý, đối tượng quản
lý, điều kiện quản lý. Khi xét thấy phạm vi quản lý đó vượt quá khả năng của
một tổ chức thì thực hiện phân cấp, thường là sự phân cấp giữa cơ quan cấp
trên với cơ quan cấp dưới. Xu thế tổ chức và quản lý trong GDPT ngày càng
được coi trọng là phân cấp và phân quyền mạnh xuống cấp dưới, đặc biệt là
xuống cấp cơ sở, kết hợp với việc tăng cường trách nhiệm của cấp dưới.
39
Bên cạnh những đặc điểm trên khi nghiên cứu phân cấp QLNN về giáo
dục phổ thông cần phân định sự khác biệt giữa phân cấp QLNN về GDPT của
chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn. Sự khác biệt này xuất phát từ sự
khác biệt giữa đô thị và nông thôn dẫn đến tổ chức và hoạt động cũng như
phương thức quản lý của chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn khác
nhau và cuối cùng là tác động trực tiếp đến việc phân cấp cấp QLNN về GDPT
của chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn.
Theo Luật Quy hoạch đô thị năm 2009, đô thị “là khu vực tập trung dân
cư sinh sống có mật độ cao và chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực kinh tế phi
nông nghiệp, là trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế, văn hoá hoặc chuyên
ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của quốc gia hoặc một
vùng lãnh thổ, một địa phương, bao gồm nội thành, ngoại thành của thành
phố, nội thị, ngoại thị của thị xã, thị trấn’’.
Như vậy, đô thị với vị trí, vai trò là trung tâm chính trị, hành chính, kinh
tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ của một địa phương, vùng, miền,
của cả nước, là động lực cho sự phát triển đối với địa phương, vùng, miền đó
hoặc cả nước. Mặt khác đô thị là nơi tập trung dân cư, mật độ dân số cao.
Theo báo cáo kết quả Tổng điều tra dân số năm 2019, trong 10 năm qua, quá
trình đô thị hóa diễn ra nhanh và rộng khắp tại nhiều địa phương đã tác động
làm gia tăng dân số ở khu vực thành thị. Dân số khu vực thành thị ở Việt Nam
năm 2019 là 33.059.735 người, chiếm 34,4%; ở khu vực nông thôn là
63.149.249 người, chiếm 65,6%. Từ năm 2009 đến nay, tỉ trọng dân số khu
vực thành thị tăng 4,8 điểm phần trăm. Dân số khu vực thành thị ở Việt Nam
năm 2019 là 33.059.735 người, chiếm 34,4%; ở khu vực nông thôn là
63.149.249 người, chiếm 65,6%. Từ năm 2009 đến nay, tỉ trọng dân số khu
vực thành thị tăng 4,8 điểm phần tram [8].
Về kinh tế - xã hội, ở khu vực đô thị chủ yếu là phi nông nghiệp, đa
ngành, đa lĩnh vực, có tốc độ phát triển kinh tế cao, cơ sở hạ tầng phát triển;
40
có nhiều cơ hội giao lưu, trao đổi học tập tiếp cận các nền giáo dục hiện
đại.Chính vì thế trình độ dân trí, trình độ học vấn của người dân cũng cao hơn
so với khu vực nông thôn. Riêng đối với GDPT,cũng theo báo cáo kết quả
Tổng điều tra dân số năm 2019, tỉ lệ đi học chung của bậc tiểu học là 101,0%,
bậc THCS là 92,8%, bậc THPT là 72,3%. Ở cấp tiểu học, không có sự khác
biệt giữa thành thị và nông thôn về tỉ lệ đi học chung (100,9% so với
101,0%). Cấp học càng cao thì khoảng cách chênh lệch về tỉ lệ đi học chung
giữa thành thị và nông thôn càng lớn, cụ thể: ở cấp THCS, tỉ lệ đi học chung
của khu vực thành thị cao hơn tỉ lệ đi học chung của khu vực nông thôn là 3,4
điểm phần trăm; mức chênh lệch này ở cấp THPT là 13,0 điểm phần tram [8].
Điều đó đồng nghĩa với việc đô thị cũng là nơi được Nhà nước, xã hội
đầu tư mạnh cho sự phát triển giáo dục và cũng thu hút được sự quan tâm lớn
về giáo dục trong đó có GDPT. Trong khi ở địa bàn nông thôn chủ yếu là
nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, kinh tế công nghiệp, thương mại, dịch
vụ và thông tin chưa phát triển mạnh, ngân sách dành cho giáo dục hạn chế
hơn các lĩnh vực khác.
Với những điểm khác biệt trên dẫn đến khi tiến hành phân cấp QLNN
về GDPT không thể “cào bằng” giữa chính quyền đô thị và chính quyền nông
thôn. Bởi lẽ phân cấp về bản chất là trao quyền nhưng khi và chỉ khi địa
phương có đủ khả năng, điều kiện để tiếp nhận quyền. Bởi vậy, với chính
quyền đô thị nguồn nhân lực, vật lực dành cho GDPT tốt hơn chính quyền
nông thôn vì vậy vừa là yêu cầu vừa là đòi hỏi việc phân cấp trong QLNN về
GDPT phải được đẩy mạnh hơn. Mặt khác, theo Luật Tổ chức chính quyền
địa phương, cơ cấu tổ chức của chính quyền đô thị có điểm khác với chính
quyền nông thôn. Chính quyền địa phương có thể có đầy đủ Hội đồng nhân
dân và Uỷ ban nhân dân, có thể không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện ở
chính quyền nông thôn hoặc không tổ chức Hội đồng nhân dân phường ở
chính quyền đô thị…Khi tổ chức bộ máy có sự khác biệt đương nhiên quy
định phân cấp QLNN về GDPT phải được điều chỉnh cho phù hợp.
41
2.2.3. Tác động của phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông
Xem xét tác động của phân cấp quản lý nhà nước về GDPT xuất phát từ
tác động của phân cấp quản lý nhà nước nói chung đối với các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Mặt khác, để có sự đánh giá toàn diện, cần xem xét tác động
cả hai chiều hướng: tích cực và tiêu cực.
Như vậy, có thể xem xét phân cấp quản lý nhà nước có những tác động
tích cực như sau:
Một là, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT tạo ra cơ hội để có một
chính phủ có trách nhiệm hơn, công khai và minh bạch hơn khi người dân
tham gia vào quá trình ra quyết định, có thể dễ dàng giám sát và đánh giá việc
chính phủ tuân thủ các quyết định của mình. Phân cấp quản lý nhà nước về
GDPT làm giảm bớt các thủ tục hành chính quan liêu,phức tạp và làm tăng
tinh thần, trách nhiệm của cán bộ, công chức trước những điều kiện và nhu
cầu của địa phương. Phân cấp quản lý nhà nước về GDPT làm giảm bớt khối
lượng công việc sự vụ của những nhà lãnh đạo cấp cao ở trung ương để tập
trung nhiều hơn vào những công việc quan trọng và ban hành các cơ chế,
chính sách.
Hai là, phân cấp quản lý tạo điều kiện cho chính quyền địa phương các
cấp phát huy tính năng động, sáng tạo, sử dụng hợp lý các nguồn lực và lợi
thế của địa phương, làm giảm bớt các thủ tục hành chính quan liêuphức tạp và
giúp giảm bớt căng thẳng về tài chính đối với chính quyền trung ương khi
chính quyền địa phương có thêm quyền nhiều hơn trong việc huy động các
khoản ngân quỹ bằng cách thu phí và lệ phí đối với những dịch vụ mà chính
quyền địa phương cung cấp.
Ba là, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT giúp việc cung ứng các dịch
vụ GDPT có hiệu quả hơn bởi các cấp chính quyền địa phương hiểu rõ hơn về
các điều kiện, đặc điểm và nhu cầu của người dân địa phương so với cấp
trung ương. Các nhà cung ứng dịch vụ giáo dục ngày càng đáp ứng tốt hơn
nhu cầu của người dân và của xã hội.
42
Bốn là, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT tạo điều kiện cho người
dân có tiếng nói nhiều hơn về dịch vụ GDPT do đó nâng cao phúc lợi cho họ.
Khi các quyết định được ban hành càng gần với cấp thực hiện thì tiếng nói
của người dân càng lớn hơn, nhất là khi các quyết định được đưa ra từ chính
người thực hiện là các trường phổ thông. Khi người dân tham gia vào quá
trình ra quyết định cũng có nghĩa là họ sẽ thực hiện việc giám sát và đánh giá
việc thực hiện các quyết định chính xác và hiểu hơn.
Năm là, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT giúp cấp dưới phân bổ
ngân sách phù hợp với các yếu tố đầu vào. Việc giao trách nhiệm cho cấp
dưới làm tăng trách nhiệm của của cấp thực thi trong các hoạt động của mình.
Lợi ích của người hưởng lợi lớn hơn nếu họ cùng đóng góp các nguồn lực tài
chính, công sức cho nhà trường. Từ đó, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT
làm tăng cường nguồn tài chính do phân cấp quản lý sẽ tạo ra các nguồn thu
cho hệ thống GDPT thông qua việc tận dụng nguồn thu từ phí, lệ phí, loại bỏ
được các thủ tục hành chính không cần thiết và giảm chi phí điều hành. Mục
tiêu của phân cấp quản lý nhà nước là chuyển gánh nặng tài chính cho GDPT
từ ngân sách nhà nước sang ngân sách của địa phương, các tổ chức cộng đồng
hoặc cha mẹ học sinh. Điều này rất phù hợp với những quốc gia có nguồn tài
chính chưa nhiều như Việt Nam.
Sáu là, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT tăng cường tinh thần trách
nhiệm của các cấp, tăng tính chủ động, sáng tạo, vì vậy cải thiện chất lượng
GDPT. Thông qua việc gắn kết quá trình ra các quyết định quản lý phù hợp
với điều kiện, nhu cầu của mỗi nhà trường, có tính đến các đặc điểm về văn
hóa địa phương và môi trường học tập sẽ nâng cao chất lượng giáo dục.
Nói cách khác phân cấp quản lý nhà nước về GDPT làm rõ nhiệm vụ,
quyền hạn của mỗi cấp được phân cấp, gia tăng sự cạnh tranh và thúc đẩy
việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn.
Bên cạnh những tác động tích cực, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT
cũng tiềm ẩn những tiêu cực như sau:
43
Thứ nhất, phân cấp quản lý đối với GDPT có thể gây khó khăn trong
cung ứng dịch vụ GDPT vì cấp trung ương và cấp chính quyền địa phương
không có chung một mục đích. Chính phủ có thể muốn thông qua giáo dục để
củng cố sự thống nhất trong chính sách giáo dục của quốc gia, trong khi đó
các địa phương lại chỉ chú trọng phát triển giáo dục ở địa phương mình, muốn
bảo vệ phong tục, tập quán của địa phương. Đây là vấn đề khó đặt ra cho phân
cấp quản lý nhà nước.
Thứ hai, phân cấp quản lý đối với GDPT làm mất đi tính hiệu quả và làm
giảm hiệu quả kiểm soát đối với nguồn lực tài chính của chính quyền trung
ương. Năng lực hành chính và năng lực kỹ thuật yếu ở cấp địa phương có thể
dẫn đến việc cung cấp dịch vụ kém chất lượng.
Thứ ba, trong phân cấp quản lý, trách nhiệm hành chính được chuyển cho
cấp địa phương mà không kèm theo nguồn tài chính dễ làm cho chính quyền
địa phương khó cung ứng đầy đủ dịch vụ GDPT cho người dân. Phân cấp quản
lý nhà nước không khoa học đôi khi còn khiến cho sự phối hợp các chính sách
quốc gia trở nên khó khăn, phức tạp và có thể dẫn đến tình trạng cán bộ địa
phương lợi dụng các chức năng, nhiệm vụ được phân cấp để vi phạm.
Thứ tư, phân cấp quản lý đối với GDPT ảnh hưởng tiêu cực đến việc
đảm bảo sự công bằng trong giáo dục, gia tăng sự chênh lệch về kết kết quả
học tập ở đô thị và nông thôn. Phân cấp quản lý nhà nước về GDPT có thể
làm gia tăng khoảng cách về học vấn đối với học sinh có điều kiện với những
học sinh có hoàn cảnh khó khăn. Những học sinh có điều kiện được học trong
các trường có điều kiện tốt hơn, giáo viên có chất lượng hơn.
Thứ năm, trong quá trình thực hiện phân cấp quản lý đối với GDPT, sự
không tin tưởng lẫn nhau giữa các trường công và các trường tư có thể làm
xấu đi sự hợp tác ở cấp địa phương. Những người lãnh đạo, quản lý cần đánh
giá đúng ưu điểm và hạn chế của các loại hình nhà trường để xây dựng các cơ
chế, chính sách phù hợp.
44
Những vấn đề khác có thể sảy ra khi phân cấp quan lý nhà nước đối với
GDPT là: 1) các nhóm lợi ích tranh giành quyền hạn và quyền kiểm soát các
nguồn lực đã được phân cấp; 2) các cơ quan chức năng ở địa phương được
trao trách nhiệm nhưng không được trao quyền hạn và quyền kiểm soát đầy
đủ; 3) các cấp chính quyền địa phương không đủ năng lực đảm đương các
chức trách, nhiệm vụ mới; 4) phân định các chức năng, nhiệm vụ vượt quá
khẳ năng của chính quyền địa phương; 5) hướng dẫn luật pháp không rõ ràng;
6) thiếu sự tin tưởng của người dân địa phương do hoài nghi với những sáng
kiến mới; 7) không bảo đảm ngân sách cho những dự án thử nghiệm.
2.2.4. Phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông ở Việt Nam qua
các thời kỳ
Như nhiều nước đang phát triển, giáo dục phổ thông ở nước ta khởi đầu
với mô hình quản lý từ trên xuống, theo kiểu tập trung. Điều này thể hiện rõ
trong GDPT giai đoạn sau cải cách giáo dục lần thứ nhất đến cuối thập kỷ 60
và giai đoạn sau giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
- Cải cách giáo dục lần thứ nhất (1950): Bộ Giáo dục quy định chặt chẽ về
đường lối giáo dục, nội dung, chương trình, quyền bỏ và bổ sung các môn học,
thời gian biểu, loại hình trường cho từng vùng, từng khu vực. Vào những năm
này, Bộ Giáo dục quyết định xóa bỏ trường tư thục, quốc lập hóa một số trường
tư, chuyển toàn bộ học sinh vào trường công. Từ năm 1954, ở vùng tự do cũ chỉ
có hệ thống trường phổ thông 9 năm duy nhất do Nhà nước quản lý toàn diện.
- Cải cách giáo dục sau giải phóng miền Nam: Khi đó Bộ Giáo dục ra
quyết định xây dựng lại cấu trúc hệ thống giáo dục quốc dân trên phạm vi toàn
quốc: Hệ thống giáo dục 12 năm, đổi mới nội dung giáo dục, biên soạn và xuất
bản sách giáo khoa chung cho toàn quốc. Khoảng 2.500 trường tư thục của chế
độ cũ ở miền Nam được quốc lập hoá. Nhà nước chủ trương đưa dần toàn bộ
trường tư vào diện quản lý của Nhà nước. Các giáo viên trường tư thục được
xem xét, tuyển dụng, học sinh phổ thông được miễn hoàn toàn học phí.
45
Từ năm học 1960 - 1961, ngành giáo dục bắt đầu vận động nhân dân
đóng học phí từ cấp I đến cấp III. Số tiền thu học phí được dùng để trả lương
cho giáo viên. Ngoài ra cộng đồng còn có đóng góp to lớn trong việc xây
dựng, tu bổ các trường học, mua sắm thiết bị dạy học cho nhà trường. Ở giai
đoạn này, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT được triển khai khá mạnh
xuống tới cấp huyện.
Những biểu hiện rõ rệt nhất của phân cấp quản lý nhà nước về GDPT ở
Việt nam là trong giai đoạn đổi mới kinh tế từ năm 1990. Điểm nổi bật trong
phân cấp quản lý nhà nước về GDPT trong thời kỳ này là phân cấp quản lý
theo tuyến và theo chức năng trong hệ thống GDPT. Phân cấp quản lý nhà
nước về GDPT được thực hiện theo mô hìnhtrực tuyến - chức năngvà dựa trên
nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ. Các tuyến quản lý
nhà nước về GDPT bao gồm: Chính phủ - UBND tỉnh/thành phố - UBND
huyện/quận là quan hệ trực tuyến; Bộ Giáo dục và Đào tạo - Sở GD&ĐT -
Phòng GD&ĐT và các bộ, ngành liên quan khác của Chính phủ, UBND các
tỉnh, thành phố và UBND các quận, huyện.
Luật Giáo dục năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) là cơ sở pháp lý
để quy định phân cấp quản lý nhà nước về GDPT ở nước ta hiện nay.
Nghị quyết số 21/2016/NQ-CP của Chính phủ ngày 21/3/2016 về phân
cấp quản lý nhà nước giữa Chỉnh phủ và UBND tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương xác định mục tiêu: Tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà
nước về giáo dục giữa Chính phủ và UBND cấp tỉnh, giữa chính quyền địa
phương các cấp nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo, quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương trên cơ sở phân định rõ, cụ thể
nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mỗi cấp trong bộ máy chính quyền nhà
nước, bảo đảm sự quản lý tập trung, thống nhất và thông suốt của Chính phủ,
tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản
lý nhà nước phục vụ tốt hơn nhu cầu và lợi ích của nhân dân, thúc đẩy phát
46
triển kinh tế - xã hội ở từng địa phương trong điều kiện chuyển sang nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN [9].Nghị định số 127/2018/NĐ-CP ngày
21/9/2018 của Chính phủ quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục
xác định cụ thể trách nhiệm, quyền hạn quản lý nhà nước về giáo dục của cơ
quan chuyên môn các cấp (Bộ, Sở, Phòng ) và chính quyền địa phương các
cấp (UBND cấp tỉnh, huyện, xã) dựa trên các yêu cầu: 1) Bảo đảm tính thống
nhất, thông suốt và nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong quản lý nhà nước về
giáo dục.2). Bảo đảm tương ứng giữa nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm với
nguồn lực tài chính, nhân sự, điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục và các
điều kiện cần thiết khác để thực hiện nhiệm vụ được giao. 3). Xác định cụ thể
nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm quản lý nhà nước của các bộ, Ủy ban nhân
dân các cấp và các cơ quan có liên quan (Điều 3).
2.3. Nội dung, điều kiện và các yếu tố ảnh hưởng đến phân cấp quản lý nhà
nước về giáo dục phổ thông
2.3.1. Nội dung phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông
Khi nghiên cứu nội dung phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ
thông có thể xem xét ở nhiều khía cạnh với những nội dung khác nhau. Tuy
nhiên trong phạm vi nghiên cứu của luận án, tập trung làm rõ phân cấp quản
lý nhà nước về GDPT ở 3 lĩnh vực chủ chốt: (i)bộ máy, nhân sự; (ii) cơ sở vật
chất và tài chính; (iii)lập kế hoạch phát triển giáo dục phổ thông, xây dựng
nội dung, chương trình và đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông
Một là, phân cấp về tổ chức bộ máy, nhân sự
Về tổ chức bộ máy, phân cấp QLNN về GDPT cần phân định thẩm
quyền của từng cấp trong các nội dung như: ra quyết định thành lập hoặc cho
phép thành lập, thu hồi quyết định thành lập hoặc quyết định cho phép thành
lập, sáp nhập, chia, tách, giải thể, đổi tên, chuyển đổi loại hình trường
Về quản lý nhân sự, phân cấp QLNN về GDPT cần phân định thẩm
quyền của từng cấp trong các nội dung như: xác định cấp có thẩm quyền quy
47
định tiêu chuẩn chức danh, chế độ làm việc của nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục; danh mục khung vị trí việc làm và định mức số lượng người làm
việc trong các cơ sở giáo dục, sử dụng, đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng và thực
hiện chính sách đối với đội ngũ công chức, viên chức và người lao động tại các
cơ sở giáo dục…
Hai là, phân cấp về chuyên môn
Chuyên môn được hiểu là nhưng công việc liên quan đến lập kế hoạch
phát triển giáo dục phổ thông, xây dựng nội dung, chương trình và đánh giá
chất lượng giáo dục phổ thông. Ví dụ như việc quy định việc tổ chức biên
soạn, thẩm định, phê duyệt được phép sử dụng và hướng dẫn lựa chọn tài liệu
học tập, sách giáo khoa, tài liệu giảng dạy trong các cơ sở giáo dục phổ thông;
ban hành quy chế thi cử thuộc thẩm quyền của cấp trung ương hay địa
phương.Có hai xu hướng chính: một là thống nhất về chuyên môn trên phạm
vi toàn quốc gia, hai là phân quyền mạnh về chuyên môn, có nghĩa là địa
phương sẽ xây dựng chương trình, nội dung giáo dục theo điều kiện kinh tế -
xã hội của địa phương.
Ba là, phân cấp trong chức năng quản lý cơ sở vật chất, tài chính
Quản lý cơ sở vật chất là một trong những nội dung quan trọng phải phân
cấp rõ ràng giữa Trung ương và địa phương cũng như giữa các cấp địa phương
với nhau. Bởi lẽ, để chính quyền địa phương thực hiện được các nhiệm vụ, quyền
hạn trong QLNN về GDPT, điều kiện tiên quyết là phải có tài chính. Vì thế nắm
bắt được công cụ tài chính sẽ chi phối hay kiểm soát được việc thực hiện các
nhiệm vu, quyền hạn khác.
Ngân sách cho giáo dục thông thường bao gồm 2 thành tố chính: chi thường
xuyên và chi đầu tư cơ bản. Chi thường xuyên bao gồm chi lương và chi ngoài
lương. Chi ngoài lương bao gồm các khoản chi hành chính, mua tài liệu phục
vụ giảng dạy và học tập, chi cho các dịch vụ và bảo dưỡng. Chi đầu tư cơ bản
bao gồm chi phí xây dựng trường mới và nâng cấp trường hiện có.
48
Xem xét phân cấp trong việc quản lý cơ sở vật chất tài chinh về giáo dục
ở bình diện rộng cần phải xác định xem chính quyền trung ương quản lý ngân
sách những cấp học nào? Địa phương quản lý ngân sách cấp học nào? Ngoài
ra, chi tiết hơn có thể xem xét như mức độ, tính chất của dự án. Ở Việt Nam,
chính quyền trung ương quản lý ngân sách chi cho giáo dục đại học, một số
giáo dục nghề và cao đẳng. Khoảng hai phần ba ngân sách trung ương nằm
dưới quyền điều hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo, phần còn lại do các Bộ,
ngành có trường quản lý. Ngân sách trung ương cũng bao gồm kinh phí cho
các chương trình mục tiêu. Tuy nhiên, kinh phí chi cho các chương trình mục
tiêu được cấp thông qua ngân sách trung ương nhưng lại do chính quyền địa
phương thay mặt trung ương thực hiện.
Chính quyền địa phương quản lý ngân sách chi cho các bậc học mầm non,
phổ thông, dạy nghề và cao đẳng. Trong hệ thống chính quyền địa phương thì
chính quyền cấp tỉnh quản lý ngân sách chi cho các trường THPT, THCN, cao
đẳng và dạy nghề. Chính quyền cấp huyện quản lý ngân sách chi cho các trường
THCS, tiểu học và mầm non.
Về mức độ phân cấp trong từng nội dung trên cũng hoàn toàn phải phụ
thuộc vào mô hình tổ chức chính quyền ở mỗi quốc gia. Ví dụ với các nước
theo hệ thống pháp lý Ăng-glô-xắc xông như Anh, Mỹ, Canada, Úc, Niudilân
và các nước trước đây là thuộc địa của Anh thì tính độc lập của hệ thống
chính quyền địa phương, mối quan hệ lỏng lẻo và sự phân cách giữa các cấp
chính quyền là nét đặc trưng cơ bản nhất của mô hình này. Trung ương không
phải là cơ quan quản lý cấp trên của địa phương và không điều khiển địa
phương. Các cấp chính quyền địa phương cũng độc lập với nhau và không có
sự trực thuộc lẫn nhau. Trong phạm vi quyền hạn của mình các chính quyền
đều có quyền tổ chức hoạt động chỉ phụ thuộc vào pháp luật mà không phụ
thuộc vào bất cứ một sự chỉ đạo nào của cấp trên. Trong trường hợp có mâu
thuẫn, tranh chấp hoặc có hiện tượng vi phạm pháp luật sẽ bị sự phân giải của
tòa án.Vì vậy về cơ bản các nội dung phân cấp QLNN về GDPT sẽ rất lớn.
49
Còn với các quốc gia theo hệ thống pháp lý Châu Âu lục địa điển hình
như Pháp thì quyền lực về pháp lý vẫn là của chính phủ trung ương, tuy nhiên
đã có sự chuyển giao quyền ra các quyết định cụ thể, những chức năng tài
chính và quản lý cụ thể bằng các phương tiện hành chính cho các cấp khác
nhau. Điểm cốt lõi của tản quyền là các bộ vẫn giữ lại quyền lực đối với những
nhiệm vụ then chốt tại cấp Trung ương và chuyển giao các vai trò thực hiện
liên quan đến các nhiệm vụ đó xuống các cán bộ nằm tại các cơ quan khu vực
của bộ (ví dụ như ở Pháp là các tỉnh trưởng). Các cá nhân này thường đóng
một vài trò chính trị và đại diện cho thẩm quyền nhà nước. Họ chịu trách
nhiệm về luật pháp và trật tự. Trong một vài nước, họ còn có trách nhiệm thúc
đẩy sự phối hợp các hoạt động của chính quyền và theo dõi các cơ quan nhà
nước ở địa phương của họ. Chức năng của hệ thứ bậc này là có một viên chức
nhà nước trong mỗi địa phương đại diện cho nhà nước, do đó thúc đẩy sự ổn
định chính trị trong những xã hội không yên ổn và bị chia nhỏ. Mức độ của sự
điều phối từ Trung ương, hiệu quả và hiệu suất phần lớn phụ thuộc vào ai nắm
quyền hành kỹ thuật đối với các cán bộ khu vực của các bộ, ngành theo ngành
dọc. Với mô hình này, việc phân cấp QLNN về GDPT, cũng được thiết lập từ
trung ương đến địa phương, trong đó vai trò của người đại diện của trung
ương ở địa phương có giá trị nhất định.
Ở Việt Nam, tổ chức theo hình thức nhà nước đơn nhất, tổ chức hệ
thống giáo dục quốc dân là trách nhiệm của chính quyền trung ương, theo đó
Nhà nước quy định cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân thống nhất trên phạm
vi toàn quốc, bao gồm các cấp bậc học, số năm học của từng cấp, thời gian
biểu dạy học trong năm, thi cử và hệ thống văn bằng của các cấp bậc học, quy
định về cấu trúc tổ chức của ngành đến các cơ sở giáo dục - đào tạo... Bên
cạnh đó vẫn phân quyền QLNN về GDPT cho chính quyền địa phương theo
những nội dung và mức độ cụ thể.
50
2.3.2. Điều kiện phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông
Trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập quốc tế
các cơ quan chức năng cần phải quan niệm đầy đủ hơn về vị trí, vai trò của
nền GDPT. Có thể nói, một nền GDPT phát triển không chỉ bao gồm các yếu
tố vật chất như lớp học, số lượng giáo viên, sách giáo khoa mà quan trọng hơn
là tạo cơ chế để các trường phổ thông không ngừng nâng cao chất lượng dạy
và học. Về bản chất, có ba yếu tố tạo động lực cho việc dạy và học hiệu quả:
1) Có nhiều cơ hội lựa chọn và cạnh tranh; 2) nhà trường tự chủ; 3) nhà
trường tự chịu trách nhiệm [91].
Như vậy, yêu cầu đặt ra ở đây là phải đổi mới cơ chế phân cấp quản lý
nhà nước về GDPT sao chochất lượng dạy và học được nâng lên cùng
vớinhững chi phí và lợi ích hợp lý.
Phân cấp quản lý nhà nước nói chung phải có các điều kiện sau đây:
- Đối với cơ quan nhà nước cấp dưới phải hội tụ 2 điều kiện:
Thứ nhất, đủ năng lực thực thi các chức năng, nhiệm vụ mà cấp trên giao
cho. Đây là điều kiện để đảm bảo cân đối giữa nhiệm vụ được giao với năng
lực thực hiện nhiệm vụ đó. Cơ quan nhà nước cấp dưới không có được điều
kiện này thì không thể chuyển giao chức năng, nhiệm vụ cho cấp đó.
Thứ hai, chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức của cấp dưới. Đội ngũ
cán bộ, công chức cấp dưới phải tuyệt đối tin tưởng, trung thành với quốc gia
mà đại diện là các cơ quan nhà nước trung ương; phải luôn luôn đặt lợi ích, chủ
quyền quốc gia lên trên hết. Trên thực tế, điều kiện này khó xác định, định
lượng, mà phải được trải nghiệm qua thời gian, thực tiễn mới được sáng tỏ.
- Đối với cơ quan nhà nước cấp trên, phải hội đủ 3 điều kiện:
Thứ nhất, phải có được các hệ thống kiểm soát hữu hiệu việc thực hiện
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan hành chính
nhà nước; kiểm soát việc thực hiện những thẩm quyền đã trao cho cấp dưới.
Các hệ thống kiểm soát phải gắn với các cơ quan nhà nước giao quyền. Ngoài
51
ra cần có các hệ thống kiểm soát độc lập, kiểm soát của các cơ quan tư pháp,
tòa án, viện kiểm sát.
Thứ hai, năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ, công chức tham gia
thực hiện hoạt động kiểm soát trong các hệ thống kiểm soát việc thực hiện
thẩm quyền được giao của các cơ quan nhà nước. Đội ngũ cán bộ, công chức
kiểm soát phải có đủ trình độ, năng lực thực hiện nhiệm vụ được giao; phải
tuyệt đối trung thành với nhà nước, đặt lợi ích của nhà nước, của quốc gia lên
trên lợi ích cá nhân, lợi ích cục bộ.
Thứ ba, cần có hệ thống các chế tài cụ thể, nghiêm minh để xử lý các vi
phạm của các cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước, nhất là các
chế tài xử lý người đứng đầu các cơ quan nhà nước.
Những điều kiện nêu trên đối với các cơ quan nhà nước cấp trên liên
quan đến vấn đề kiểm tra, kiểm soát và xử lý kết quả kiểm tra, kiểm soát.
2.3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến phân cấp quản lý nhà nướcvề giáo dục
phổ thông
Lý thuyết và kinh nghiệm của các quốc gia thực hiện phân cấp quản lý
nhà nước về GDPT thành công khẳng định là các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng
phân cấp quản lý nhà nước về GDPT bao gồm: Tài chính công của chính
phủ; bối cảnh chính trị;cấu trúc hành chính và năng lực của chính phủ; bối
cảnh lịch sử và văn hoá.
Yếu tố thứ nhất: Tài chính công của chính phủ
Một yêu cầu tối thiểu cho phân cấp quản lý nhà nước về GDPT là việc
chuyển các nguồn lực và đặc biệt là quyền hạn phân phối các nguồn lực từ
cấp trung ương xuống cấp dưới và nhà trường. Thực tế cho thấy, để việc dịch
chuyển này thành công và có hiệu quả thì chính quyền cấp dưới phải có quyền
ra quyết định độc lập và phải có nguồn thu ngân sách riêng. Canada, Brazil đã
rất thành công trong phân cấp quản lý do có nguồn thu nhâp từ nguồn thu thuế
của chính phủ trung ương để lại cho các địa phương, học phí của người sử
52
dụng dịch vụ giáo dục và nguồn tài chính do các tổ chức, cá nhân đóng góp.
Ngược lại, Peru, Chile lại gặp rất nhiều khó khăn trong các nỗ lực phân cấp
quản lý đối với GDPT do không có các nguồn thu của địa phương và không
có ngân sách riêng [94, tr.172].
Yêu tố thứ hai: Bối cảnh chính trị
Tư tưởng chính trị và quan điểm chính sách của các nhà lãnh đạo và các
nhóm quan tâm hay chịu ảnh hưởng của giáo dục luôn đóng vai trò quan trọng
cho việc thông qua cũng như thực hiện chính sách phân cấp quản lý. Hầu hết
các quốc gia chưa thành công trong các nỗ lực phân cấp quản lý nhà nước về
GDPT chủ yếu là do còn thiếu sự ủng hộ về chính trị của người ban hành
chính sách, chứ không đơn thuần chỉ là vấn đề kỹ thuật. Phân cấp thường đưa
đến phân phối lại quyền lực chính trị giữa các nhóm chính trị trong xã hội, vì
vậy cần lôi cuốn các nhóm chính trị này tham dự ngay từ đầu vào hoạch định
chính sách phân cấp quản lý để họ có tiếng nói, tìm kiếm sự cân bằng quyền
lực hợp lý và sau đó cam kết thực hiện chính sách phân cấp quản lý. Khi
hoạch định các cơ chế, chính sách về phân cấp quản lý nhà nước về GDPT
cần quan tâm thu hút sự tham dự của các nhóm cán bộ lãnh đạo ở các Bộ, các
cấp chính quyền địa phương và những nhà quản lý GDPT.
Thực tế, giáo viên luôn đóng vai trò quan trọng trong thực hiện bất kỳ kế
hoạch phận cấp nào, nên nếu không lôi kéo được họ tham dự vào quá trình
hình thành chính sách thì có thể dẫn tới thất bại, như trường hợp ở Peru là một
ví dụ. Phân cấp thường bị hiểu lầm là làm tăng quyền củà viên chức địa
phương và giảm quyền của viên chức bộ, tuy nhiên, thực tế không phải như
vậy, nó phụ thuộc vào cách thiết kế thể chế của từng quốc gia, ví dụ: Tại
Chile, đi đối vói cải cách phân cấp (dẫn tới tăng quyền ra quyết định về nguồn
lực cho địa phương) là cơ chế chính phủ trungương bổ nhiệmtrực tiếp lãnh
đạochính quyềnđịa phương [104, tr.311-314].
Yếu tố thứ 3: Các cấu trúc hành chính và năng lực của chính phủ
Cấu trúc hành chính và năng lực của chính phủ đều có ảnh hưởng quan
trọng đến phân cấp quản lý nhà nước về GDPT. Cấu trúc hành chính liên
53
quan đến các quy định về thể chế và luật pháp, theo đó quy định cấu trúc bộ
máy quản lý đối với GDPT, quy trình bổ nhiệm hay bầu các nhà lãnh đạo
GDPT. Năng lực hành chính liên quan đến khả năng ban hành và thực hiện
các quyết định quản lý đối với GDPT. Tại hầu hết các quốc gia, hiến pháp
quy định cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của chính phủ. Nếu hiến pháp
trao thẩm quyền nhiều cho chính phủ trung ương thì cải cách phân cấp quản
lý nhà nước về GDPT rất khó thực hiện, như trường hợp của Chile hay Peru
phải trưng cầu ý dân để sửa đổi hiến pháp [104,tr. 221].
Trong thực tế, muốn thực hiện thành công phân cấp quản lý nhà nước về
GDPT đòi hỏi các đạo luật và văn bản quy phạm pháp luật phải xác định rõ
rằng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tính chịu trách nhiệm, cũng như mối
quan hệ làm việc của từng cấp chính quyền trong quản lý nhà nước về GDPT.
Nếu các quy định về chức năng, nhiệm vụ, các hoạt động phối hợp trong phân
cấp không cụ thể, rõ ràng thì sẽ rất có ít cơ hội để thay đổi. Ở Peru, ban giám
đốc địa phương và vùng được thiết lập bởi kế hoạch phân cấp mơ hồ nên không
có cơ hội thực hiện các nhiệm vụ được phân cấp, mà chủ yếu là giải quyết các
vấn đề sự vụ để đáp ứng yêu cầu của cấp trên [104, tr.242].
Yếu tố thứ tư: Bối cảnh lịch sử và văn hoá
Lịch sử và văn hoá liên quan đến truyền thống văn hóa của cộng đồng và
các khuynh hướng của người dân hướng tới uy quyền. Theo các nhà nghiên
cứu thì phân cấp quản lý đã tương đối thành công ở Nigeria, Zimbabue một
phần do các nước này đã có truyền thống phân cấp và cạnh tranh; chủ yếu là
các cộng đồng nhỏ có quan hệ họ hàng nên dễ dàng kiểm soát việc cung cấp
tài sản chung. Thành công ở các nước này có thể tương phản với thất bại
trong phân cấp quản lý nhà nước về GDPT ở Peru do lịch sử và văn hoá của
các nước này là khác nhau và các quyết định có xu hướng dựa vào chính phủ
trung ương [94, tr.124].
54
Bảng 2.1. Các yếu tố ảnh hưởng khi thực hiện phân cấp quản lý
nhà nước về GDPT
(Các yếu tố được sắp xếp theo mức độ từ khó khăn nhất đến ít khó khăn
nhất khi thực hiện phân cấp quản lý đối với GDPT)
Cấu trúc hành Bối cảnh lịch Tài chính công Bối cảnh chính trị chính và năng lực sử và văn hóa của chính phủ
Chính phủ trung Hiến pháp quy định Các cộng Khó khăn nhất:
Chính phủ trung ương ban hành chính chính phủ trung đồng địa
ương quy định sách phân cấp mới ương chịu trách phương có
trực tiếp các đầu chỉ phù hợp với các nhiệm về giáo dục; truyền thống
vào GDPT cho các đảng phái và các thiếu năng lực quản phụ thuộc vào
trường phổ thông chính trị gia của lý tại cấp địa phương chính phủ
ở địa phương mình, mà chưa tham trung ương
khảo các nhóm chịu
ảnh hưởng
Cung cấp tài chính Chính phủ trung Các nhiệm vụ quản
bằng tiền mặt có ương chủ trương lý hành chính của
điều kiện theo các phân cấp có tham chính phủ trung
dự án hay các khảo các nhóm chịu ương đã và đang phi
nhiệm vụ cụ thể ảnh hưởng và được tập trung hóa cho
trong GDPT sự ủng hộ chính trị cấp vùng và địa
rộng rãi phương
Cung cấp tài chính Một số quyền ra
theo kiểu trọn gói quyết định giáo dục
không có điều được trao cho chính
kiện kèm theo quyền địa phương và
(hoặc là phần trăm các cơ quan này
để lại từ nguồn được phép tạo ra các
55
thuế của chính phủ nguồn thu từ giáo
trung ương) dục
Áp lực phân cấp bắt Chính quyền địa Các cộng Ít khó khăn nhất:
Chính quyền địa nguồn từ cấp địa phương được trao đồng địa
phương có các phương và các nhóm quyền ra quyết định phương có
khoản thu lớn từ chịu ảnh hưởng khác mạnh, đem lại kết truyền thống
thuế và đóng góp nhau, bao gồm cha quả trong việc phát tự lực và tinh
tài chính và hiện mẹ học sinh, giáo triển năng lực quản thần cạnh
vật tự nguyện viên và các quan lý của địa phương tranh giữa các
chức chính quyền địa công đồng
phương
Nguồn: Winkler 1991
2.4. Kinh nghiệm của một số quốc gia trong phân cấp quản lý nhà nước về
giáo dục phổ thông và giá trị tham khảo cho Việt Nam
2.4.1. Kinh nghiệm một số quốc gia trong phân cấp quản lý nhà nước về
giáo dục phổ thông
Ở mỗi quốc gia khác nhau có thể có sự khác biệt về cấu trúc hệ thống
quản lý nhà nước về GDPT, nhưng nhìn chung thường bao gồm từ hai đến
năm cấp quản lý (trung ương, vùng, tỉnh/thành phố, huyện/quận, xã/phường)
tham gia điều hành các hoạt động giáo dục.
Chức năng quản lý nhà nước về GDPT là một thể thống nhất những
họạt động tất yếu của chủ thể quản lý nảy sinh từ sự phân công, chuyên môn
hoá trong hoạt động quản lý nhằm thực hiện mục tiêu. Mỗi chức năng có các
thành phần chức năng hay nhiệm vụ cụ thể, là quá trình liên tục của các bước
công việc tất yếu phải thực hiện.
Trong thực tế, các chức năng GDPT có thể được phân loại theo nhiều
cách tùy thuộc vào cách nhóm các thành phần của chức năng với nhau và tuỳ
theo bối cảnh và truyền thống của các quốc gia. Tuy nhiên, có thể thấy các
56
thành phần cơ bản của chức năng quản lý nhà nước về GDPT tương đối phổ
biến là: 1) Tổ chức, bộ máy nhân sự; 2) chuyên môn (chương trình, phương
pháp giảng dạy và đánh giá chất lượng); 3) thi cử và giám sát; cơ sở vật chất
và tài chính
Dưới đây là khuynh hướng và thực tiễn quốc tế về tập trung và phân cấp
theo các thành phần chức năng trên:
Thứ nhất, phân cấp về tổ chức bộ máy nhân sự nhà trường
Tuyển dụng và thăng tiến giáo viên: các tiêu chuẩn kiểm định giáo viên
chủ yếu do chính phủ đặt ra (Hoa Kỳ do chính quyền bang), nhưng các tiêu
chuẩn đặt ra để kiểm định giáo viên thường là các tiêu chuẩn quá cao không
phù hợp với thực tiễn, vì vậv tại nhiều địa phương, chính quyền địa phương
đề các tiêu chuẩn kiểm định giáo viên riêng cho địa phương mình.
Thực tiễn về tuyển dụng và thăng tiến cho giáo viên phổ thông khác
nhau rất lớn giữa các nước. Ở quốc gia thực hiện cơ chế tập trung cao như
Cameroon, Bộ Giáo dục không tuyển dụng, phân bổ, bổ nhiệm, thăng tiến và
thuyên chuyển giáo viên, mà những việc này do Bộ Dịch vụ công thực hiện.
Ở quốc gia thực hiện phân cấp mạnh như Brazil, cộng đồng dân cư tự tuyển
dụng giáo viên, còn thăng tiến là quyền của thị trưởng.
ii) Tổ chức nhà trường bao gồm các nhiệm vụ: xây dựng, ban hành và
thực hiện các chuẩn quy định tối thiểu về nhà trường, cấu trúc nhà trường và
các quyền được giáo dục của trẻ em. Trong đó, phần lớn việc xây dựng và ban
hành các chuẩn quy định tối thiểu trên chủ yếu mang tính tập trung cao (do
cấp trung ương đảm nhiệm, ngoại trừ một số ít trường hợp trao cho các chính
quyền bang - như Hoa Kỳ); còn việc thực hiện chúng được phân cấp cho cấp
dưới (bang/tỉnh/thành phố).
Thứ hai, phân cấp về chuyên môn
Thi cử và giám sát có sự khác nhau giữa các quốc gia. Trong số các nước
trước đây là thuộc địa của Anh (các nước ở Tây Ấn và lân cận), các kỳ thi
57
được tổ chức và xếp hạng tại Anh. Phần lớn các nước Mỹ La tinh không có
chuẩn hay các kỳ thi quốc gia mà các tiêu chuẩn để xét lên lớp do cấp trường
quy định nên đã thường có sự khác nhau rất lớn giữa các trường ngay trong
cùng một địa phương.
Về chương trình và phương pháp giảng dạy: cơ quan của Chính phủ
thường quy định về các chuẩn chương trình hoặc chương trình khung (phần
cứng); còn việc phát triển và thực hiện chương trình (phần mềm) thì phân cấp
cho cấp dưới và nhà trường thực hiện. Việc đào tạo ban đầu cho giáo viên
THPT thường do Bộ giáo dục chịu trách nhiệm; còn bồi dưỡng giáo viên chủ
yếu do chính quyền địa phương thực hiện.
Thứ ba, phân cấp trong quản lý tài chính
Trong các nước có hệ thống tập trung cao, chính phủ trung ương cung
cấp trực tiếp tài chính và các đầu vào cho GDPT, không có đóng góp của
chính quyền địa phương. Ở các nước có hệ thống phân cấp mạnh, cộng đồng
địa phương cấp tài chính và cung cấp đầu vào cho GDPT, thông qua việc thu
thuế ở địa phương (Mỹ, Brazil, Chilê…) hoặc thông qua đóng góp tự nguyện
(Peru, Kenya…). Ở các nước có hệ thống kết hợp, chính phủ trung ương cấp
tài chính và cung cấp một số đầu vào cho GDPT thông qua các tài trợ (trọn
gói hoặc qua dự án), còn việc kiểm soát sử dụng nguồn tài chính này do cộng
đồng địa phương thực hiện (Trung Quốc, Colombia, Ấn Độ, Nigieria…).
Trong việc xây dựng nhà trường, các Chính phủ đều ban hành các tiêu
chuẩn về xây dựng. Trong mô hình tập trung, chính phủ trung ương trực tiếp
thực hiện xây dựng; còn trong mô hình phân cấp, cộng đồng địa phương sẽ
cung cấp (thường thông qua đóng góp tự nguyện) và tham gia xây dựng
trường. Trong thực tiễn, việc cung cấp kinh phí xây dựng trường có khuynh
hướng phân cấp mạnh so với các chức năng giáo dục khác, đặc biệt là ở các
nước châu Phi và châu Á [96].
Từ những phân tích trên cho thấy, tập trung và phân cấp không hoàn
toàn theo các chức năng quản lý nhà nước về GDPT, mà phần lớn theo các
58
thành phần của chức năng quản lý, có nghĩa là trong mỗi chức năng quản lý
có thành phần cần tập trung, có thành phần phân cấp.
Qua phân tích thực tế ở một số quốc gia cho thấy một mô hình phân cấp
quản lý nhà nước về GDPT có hiệu quả cần đơn giản (như mô hình phân cấp
cho một cấp quản lý) và kết hợp với nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm cho các trường phổ thông theo cách uỷ quyền ra quyết định sử dụng các
nguồn lực hiện có để đáp ứng tốt nhất nhu cầu địa phương và người học. Mô
hình phân cấp quản lý cho hai cấp quản lý (Colombia và Bolivia) cho thấy
nhiều bất cập, rất khó làm cho hệ thống GDPT chịu trách nhiệm có hiệu quả và
hiện nay Colombia và Bolivia đã phải thay đổi theo mô hình một cấp quản lý.
Nhìn chung, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT làm cho việc cung
ứng dịch vụ GDPT hiệu quả hơn do địa phượng biết điều kiện và nhu cầu của
địa phương tốt hơn cấp trung ương. Tuy nhiên, việc trao quyền tự chủ ra
quyết định trong phân cấp quản lý không tự nó làm cho dịch vụ GDPT tốt hơn
thậm chí có thể dẫn đến tình trạng “vô chính phủ” và mất kiểm soát nếu
không gắn hệ thống chịu trách nhiệm cho các tổ chức thực hiện cung ứng dịch
vụ GDPT. Những phân tích dưới đây sẽ làm rõ hơn nguyên nhân của những
thành công và thất bại trong việc phân cấp quản lý nhà nước về GDPT của
các nước trên thế giới.
Trong thực tế, các mối quan hệ trách nhiệm trên khác nhau theo quốc
gia. Ở Argentina và Brazil, do thiếu “hợp đồng” rõ ràng giữa bộ giáo dục và
các tỉnh/bang nên ảnh hưởng của phân cấp tới chất lượng và công bằng trong
GDPT khác nhau lớn theo các tỉnh/bang, chủ yếu phụ thuộc vào năng lực
quản lý của chính quyền các tỉnh/bang. Tuy nhiên, chất lượng GDPT tăng lên
sau khi sử dụng hiệu quả các hình thức “hợp đồng” và quản lý giáo viên hiệu
quả. Chất lượng GDPT cũng phụ thuộc nhiều vào trình độ của công chức địa
phương và việc phát huy hiệu quả mối quan hệ trách nhiệm giữa người hưởng
dịch vụ và nhà quản lý.
59
Tại Chile, chất lượng GDPT không tăng trong những năm 80 do có lỗ
hổng giữa trách nhiệm và quyền hạn và nguồn ngân sách hoạt động hạn hẹp
tại cấp ỉnh cũng như thiếu các cơ chế để người dân tham gia vào các quá trình
quản lý để làm tăng tính cạnh tranh giữa trường công và trường tư. Chất
lượng GDPT ở quốc gia này tăng nhiều khi áp dụng một số biện pháp tăng
mối quan hệ trách nhiệm giữa người hưởng dịch vụ và nhà quản lý.
Mô hình nhà trường tự chủ là mô hình mà trong đó nhà trường là trung
tâm của quá trình phân cấp. Mô hình này vận hành theo hai mối quan hệ trách
nhiệm chính là: Quan hệ “hợp đồng” giữa trung ương (hoặc tỉnh/thành phố
khi được trao quyền quản lý) với nhà trường; và mối quan hệ giữa “quyền lực
người hưởng dịch vụ” hay cộng đồng với nhà trường. Đây là mô hình tại Hàn
Quốc, Trung Quốc, Nicaragua, El Salvador và tại một số quốc gia khác như
Brazil,Honduras và Guatemala [96].
Năm 1995, trong Chương trình quốc gia lần thứ 6 của Hàn Quốc đã nhấn
mạnh tới việc nâng cao quyền tự chủ cho trường phổ thông và thực tế các
chương trình này đã đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người dân địa phương. Vấn
đề tự chủ cho trường phổ thôngđã được đưa ra từ chính phủ tiền nhiệm,
nhưng vẫn được các chính phủ sau đó tiếp tục theo đuổi giải quyết.
Ở Trung Quốc, việc đẩy mạnh phân cấp và nâng cao quyền tự chủ cho
trường phổ thông cũng được triển khai rất mạnh trong thời gian gần đây.
Tuy nhiên, có một sự khác biệt khá lớn trong chính sách phân cấp giữa các
địa phương và khu vực tự trị. Chẳng hạn, tại Thượng Hải việc trao quyền
tự chủ cho các nhà trường phổ thông đã được thực hiện khá mạnh. Hình
thức cung ứng dịch vụ GDPT ở đây rất đa dạng, đáp ứng tốt nhu cầu của
người dân địa phương. Các khu vực chậm phát triển hơn, như khu vực tư
trị phía Tây Nam Trung Quốc thì tính tự chủ trong các nhà trường phổ
thông còn yếu, do chưa đủ các điều kiện để gắn hệ thống chịu trách nhiệm
vào các nhà trường.
60
Năm 1993, Nicaragua bắt đầu thực hiện quá trình tự chủ cho nhà trường
với tham dự của cộng đồng, đến 1996 có hơn 400 trường tiểu học và trung
học kiểu này. Các trường này được yêu cầu bầu ra một hội đồng trường bao
gồm cha mẹ, giáo viên, hiệu trưởng, cộng đồng,... và ký hợp đồng với Bộ
Giáo dục (hoặc sở) theo đó phân cấp cho Hội đồng này quản lý các tài trợ,
giáo viên, các chi phí hoạt động và duy trì, bảo dưỡng và ra các quyết định
học thuật. Như vậy, một mặt, “quyền lực người hưởng dịch vụ” được thực
hiện thông qua hoạt động tham dự tích cực của cha mẹ học sinh và cộng đồng
vào quản lý nhà trưởng; mặt khác, quan hệ “hợp đồng” giữa Bộ (hoặc sở) và
trường được thực hiện theo cách nâng Cáo quyền tự chủ nhà trường, dưới sự
giám sát của các cấp QLGD, đi đôi với việc tăng cường chức năng kiểm toán
của trung ương và thông qua thực hiện tài trợ hàng tháng theo mức độ hiệu
quả và theo số lượng học sinh nhập học.
Đánh giá về mô hình trường tự chủ tại Nicaragua cho thấy việc uỷ quyền
cho các trường ra các quyết định về quản lý giáo viên có tác động tích cực
đến kết quả điểm số của học sinh; còn tại EI Salvador, kết quả học tập và
nhập học tại vùng nông thôn tăng mạnh với chương trình EDUCO, do các
quyết định yề quản lý giáo viên được ban hành tại cấp trường.
Tại các quốc gia khác như: Trung Quốc, Argentia, Brazil, Chile,
Honduras,… mô hình trường có quyền tự chủ trong một số lĩnh vực (tài
chính, hành chính hoặc sư phạm,...) cũng đã làm tăng kết quả thi và các chỉ số
kết quả giáo dục khác và khuyến khích các trường phổ thông nâng cao hiệu
quả quản lý, kể cả các trường giàu và các trường nghèo.
Qua phân tích thực tế ở một số quốc gia cho thấy, một mô hình phân cấp
quản lý nhà nước về GDPT có hiệu quả cần đơn giản (như mô hình phân cấp
cho một chính quyền cấp dưới của chính phủ) và kết hợp với nâng cao quyền
tự chủ cho trường phổ thông theo hình thức uỷ quyền ra quyết định đã khuyến
khích các nhà trường sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để không ngừng
61
nâng cao chất lượng GDPT, đáp ứng tốt nhu cầu của người dân địa phương và
của học sinh.
2.4.2. Những giá trị tham khảo cho Việt Nam
Trong quá trình phát triển của lịch sử nhân loại nói chung và của từng
quốc gia nói riêng, GDPT luôn là nhu cầu cơ bản và có tính phổ quát. Tuy
nhiên hệ thống giáo dục và mô hình quản lý nhà nước về GDPT của các nước
là rất đa dạng và khác nhau. Mô hình quản lý nhà nước về GDPT của các nước
chịu sự chi phối của các yếu tố, như đặc điểm thể chế chỉnh trị - xã hội, thể chế
nhà nước, chínhsách quốc gia về phát triển GDPT, trình độ phát triển kinh tế,
truyền thống văn hóa, v.v... Tùy thuộc vào các đặc điểm này mà các quốc gia
có cơ chế quản lý nhà nước về GDPT khác nhau. Ngay trong một quốc gia, cơ
chế quản lý nhà nước về GDPT cũng thay đổi theo từng giai đoạn phát triển.
Tùy theo định chế nhà nước và các đặc điểm phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội
mà các quốc gia thực hiện các cơ chế phân cấp quản lý nhà nước về GDPT ở
các mức độ khác nhau. Là một nước đi sau, mong muốn tiến hành hiệu quả
việc quản lý nhà nước về GDPT trước những thách thức trong xu thế mở cửa
hội nhập và đổi mới cơ chế quản lý, GDPT Việt Nam phải có những đổi mới,
trước hết là đổi mới tư duy quản lý để đề ra những biện pháp cải cách phù hợp
với xu hướng phát triển của thế giới và điều kiện Việt Nam.
Qua nghiên cứu kinh nghiệm rất đa dạng và phong phú của các quốc gia
đã thực hiện phân cấp quản lý nhà nước về GDPT thành công, chúng ta có thể
rút ra một số bài học kinh nghiệm cho việc phát triển một mô hình phân cấp
quản lý nhà nước về GDPT ở Việt Nam như sau:
Một là, kết hợp tập trung và phân cấp trong quản lý nhà nước về GDPT.
Tùy theo từng mức độ, như phi tập trung hoá, uỷ quyền, trao quyền và tư nhân
hoá để thực hiện phân cấp, tránh các mô hình phân cấp phức tạp; đảm bảo quyền
hạn đi đôi với trách nhiệm thực hiện và nâng cao quyền tự chủ cho các trường
phổ thông trong khuôn khổ quy định của trung ương và địa phương.
62
Hai là, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT đi đôi với việc củng cố và
xây dựng hệ thống chịu trách nhiệm với kết quả đầu ra, nếu không sẽ dẫn đến
tình trạng buông lỏng, vô tổ chức và không thể kiểm soát được. Ngoài ra, khi
xây dựng hệ thống chịu trách nhiệm đòi hỏi phải có sự phân định rõ ràng
quyền hạn và trách nhiệm. Các quy định về quyền hạn và trách nhiệm phải cụ
thể và rõ ràng về các kết quả quản lý đối với GDPT và quản lý tài chínhcủa
từng cấp quản lý GDPT và các trường phổ thông.
Ba là, để phân cấp quản lý nhà nước về GDPT thành công cần nâng cao
năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức các cấp quản lý GDPT. Bồi dưỡng
nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý GDPT các cấp, như năng lực lập kế
hoạch hoạt động của nhà trường; quản lý tài chính, nhân sự, năng lực quản lý
sự thay đổi; giải quyết các xung đột, mâu thuẫn phù hợp với bối cảnh phân
cấp quản lý nhà nước về GDPT.
Bốn là, kinh nghiệm phân cấp quản lý nhà nước về GDPT tại các nước
trên thế giới đã chứng minh rằng, yếu tố quan trọng nhất quyết định thành
công hay thất bại của các cải cách trong phân cấp quản lý là các quan hệ về
tính chịu trách nhiệm phải được xây dựng và thực hiện trong các mô hình
phân cấp quản lý.
63
Tiểu kết chương 2
Giáo dục và quảnlý giáo dục luôn là vấn đề được mọi quốc gia trên thế
giới quan tâm. Quản lý nhà nước về giáo dục quốc gia đến các cấp quản lý ở
địa phương và các cơ sở giáo dục đều có tầm ảnh hướng đến việc thực hiện
chính sách giáo dục, nâng cao hiệu quả đầu tư cho giáo dục và nâng cao chất
lượng giáo dục.
Phân cấp quản lý nhà nước về GDPT là một yếu tố quan trọng quyết
định hiệu quả quản lý và chất lượng GDPT. Ở nước ta, phân cấp quản lý một
nội dung quan trọng của cải cách hành chính nhà nước, tạo điều kiện đế phát
triển nguồn lực con người để sự phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh
và bền vững.
Trong Chương 2, luận án phân tích làm rõ cơ sở khoa học về phân cấp
quản lý nhà nước về GDPT; khái niệm phân cấp quản lý, mục tiêu, quan điểm
và nguyên tắc phân cấp quản lý; khái niệm, tác động phân cấp quản lý nhà
nước về GDPT; nội dung, điều kiện, các yếu tố ảnh hưởng đến phân cấp quản
lý nhà nước về GDPT. Trong chương này, luận án cũng trình bày kinh
nghiệm của các nước trên thế giới trong phân cấp quản lý nhà nước về GDPT
theo chức năng và kinh nghiệm phân cấp cho chính quyền cấp dưới và cho
nhà trường và rút ra các giá trị tham khảo cho Việt Nam.
Thông qua việc trình bày và phân tích làm rõ những vấn đề lý luận và
thực tiễn phân cấp quản lý nhà nước về GDPT, chương này đã trả lời các câu
hỏi cơ bản về phân cấp quản lý nhà nước về GDPT như: Phân cấp quản lý
nhà nước phải theo các mục tiêu, quan điểm và nguyên tắc nào? Phân cấp
phân cấp quản lý nhà nước về GDPT có những ưu điểm, hạn chế gì? Nội
dung, điều kiện để phân cấp quản lý là gì? Những yếu tố nào ảnh hưởng đến
phân cấp quản lý nhà nước về GDPT? Phân cấp quản lý nhà nước về GDPT
phải căn cứ vào cơ sở pháp lý nào? Nghiên cứu kinh nghiệm của các nước
64
trên thế giới trong phân cấp quản lý nhà nước về GDPT chúng ta nhận thấy
trước hết cần tập trung và phân cấp theo các chức năng và các thành phần của
chức năng QLGD và tiếp theo phải thiết kế hệ thống để định hướng tập trung
vào nâng cao quyền tự chủ cho trường phổ thông trong khuôn khổ quy định
của chính quyền trung ương và địa phương. Cấp trung ương và địa phương
chỉ nên tập trung vào các chức năng định hướng, hỗ trợ và kiểm soát hệ thống
GDPT, các chức năng thực hiện tại cấp trường cần uỷ quyền cho lãnh đạo
trường và Hội đồng trường quyết định. Kinh nghiệm của các nước cũng cho
thấy nên đi theo mô hình phân cấp đơn giản (một cấp chính quyền) kết hợp
với nâng cao quyền tự chủ của các trường phổ thông.
Hầu hết các nước thực hiện phân cấp quản lý thành công đều tăng
cường quyền lực của người hưởng dịch vụ thông qua việc thành lập Hội đồng
trường phổ thông. Hội đồng không chỉ dừng ở nhiệm vụ tư vấn, mà còn có
quyền bầu hiệu trưởng, tuyển chọn, đánh giá, sa thải giáo viên và quản lý việc
phân bổ các nguồn lực trong nhà trường.
Các nội dung nghiên cứu ở chương 2 được xem là cơ sở và định hướng
cho việc nghiên cứu thực trạng phân cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa
bàn Thành phố Hà Nội ở chương 3.
65
Chương 3
THỰC TRẠNG PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Khái quát về Thành phố Hà Nội và tình hình giáo dục phổ thông trên
địa bàn Thành phố Hà Nội
3.1.1. Khái quát về Thành phố Hà Nội
Hà Nội là thủ đô của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và cũng
là kinh đô của hầu hết các vương triều phong kiến Việt trước đây. Hà Nội là
thành phố trực thuộc trung ương có diện tích lớn nhất cả nước, đồng thời cũng
là địa phương đứng thứ nhì về dân số. Tổng dân số của thành phố Hà Nội tại
thời điểm 0 giờ ngày 01/4/2019 là 8.053.663 người, trong đó: Dân số nam là
3.991.919 người, chiếm 49,6%; dân số nữ là 4.061.744 người, chiếm 50,4%.
Dân số sống ở khu vực thành thị là 3.962.310 người, chiếm 49,2% và ở khu
vực nông thôn là 4.091.353 người, chiếm 50,8%. Hà Nội là thành phố đông
dân thứ hai của cả nước, sau thành phố Hồ Chí Minh (8.993.082 người) [8].
Hà Nội nằm giữa đồng bằng sông Hồng trù phú, nơi đây đã sớm trở
thành một trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa ngay từ những buổi đầu
của lịch sử Việt Nam. Sau đợt mở rộng địa giới hành chính vào tháng
8 năm 2008, Hà Nội hiện nay gồm 12 quận, 1 thị xã và 17 huyện ngoại thành.
Hiện nay, Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh là hai trung tâm kinh tế - xã hội
đặc biệt quan trọng của Việt Nam.
Sau chiến tranh, Hà Nội tiếp tục giữ vai trò thủ đô của quốc gia Việt
Nam thống nhất. Hà Nội đã được UNESCO trao danh hiệu “Thành phố vì hòa
bình” vào năm 1999.
Năm 1978, Quốc hội Việt Nam phê chuẩn mở rộng địa giới Hà Nội, sáp
nhập thêm 5 huyện Ba Vì, Thạch Thất, Phúc Thọ, Đan Phượng, Hoài
Đức và thị xã Sơn Tây của tỉnh Hà Sơn Bình cùng hai huyện của tỉnh Vĩnh
66
Phú là Mê Linh, Sóc Sơn. Sau những thay đổi về địa giới và hành chính
năm 2008, tính đến nay, Hà Nội có 30 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 12
quận, 17 huyện, 1 thị xã và 584 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 386 xã, 177
phường và 21 thị trấn.
Từ cuối thập niên 1990, sự phát triển về kinh tế dẫn đến các khu vực
ngoại ô Hà Nội nhanh chóng được đô thị hóa. Việc tăng dân số quá nhanh
cùng quá trình đô thị hóa thiếu quy hoạch tốt đã khiến Hà Nội trở nên chật
chội, ô nhiễm và giao thông nội ô thường xuyên ùn tắc. Hà Nội còn là một
thành phố phát triển không đồng đều với giữa các khu vực như giữa các quận
nội thành và huyện ngoại thành, nhiều nơi người dân vẫn chưa có được những
điều kiện sinh hoạt thiết yếu.
Trong những năm gần đây, tốc độ tăng tổng sản phẩm (GDP) trên địa
bàn Thành phố là 9,0 - 9,5%; trong đó dịch vụ tăng 9,8 - 10,5%, công nghiệp -
xây dựng tăng 8,7 - 9,0%, nông nghiệp tăng 2,0 - 2,5%. Đại hội Đảng bộ
Thành phố lần thứ 16 đề ra mục tiêu tới năm 2020 phát triển thành thành
phố công nghiệp theo hướng hiện đại, trung tâm hành chính chính trị quốc gia,
trung tâm lớn về kinh tế và giao lưu quốc tế, trung tâm văn hóa giáo dục y tế
của cả Việt Nam. Thành phố phấn đấu GDP bình quân đầu người đạt 5.300 đô
la Mỹ vào năm 2020 [57, tr.28].
Từ nhiều thế kỷ, vị thế kinh đô đã giúp Thăng Long - Hà Nội trở thành
trung tâm giáo dục của Việt Nam. Hà Nội ngày nay vẫn là trung tâm giáo dục
lớn nhất của cả nước. Năm 2017, Hà Nội có 719 trường tiểu học, 609 trường
trung học cơ sở và 208 trường trung học phổ thông với 27.552 lớp học, 1.814
nghìn học sinh. Hệ thống trường trung học phổ thông, Hà Nội có 40 trường
công lập, một số trường có chất lượng giảng dạy và truyền thống lâu đời,
như Trung học Chuyên Hà Nội - Amsterdam, Trung học phổ thông chuyên
Nguyễn Huệ, Trung học Chu Văn An, Trung học Trần Phú. Bên cạnh các
trường công lập, thành phố còn có 65 trường dân lập và 5 trường bán công
[59]. Hà Nội cũng là địa điểm của ba trường trung học đặc biệt, trực thuộc
67
các trường đại học, là Trường Trung học phổ thông Chuyên Ngoại
ngữ thuộc Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường
Trung học phổ thông chuyên Khoa học Tự nhiên thuộc Trường Đại học Khoa
học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội và Trường Trung học phổ thông
Chuyên thuộc Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Các trường trung học
chuyên này là nơi tập trung nhiều học sinh phổ thông ưu tú không chỉ của Hà
Nội mà còn của các địa phương trong cả nước [57, tr.62].
Cùng với việc ban hành Luật Thủ đô 2012, Hà Nội có những cơ chế đặc
thù về các lĩnh vực (trong đó có kinh tế tài chính), sự đầu tư cho giáo dục nói
chung và giáo dục phổ thông được chú trọng. Chính vì thế việc phân cấp quản
lý nhà nước về GDPT càng cần được đẩy mạnh và chú trọng.
3.1.2. Tình hình giáo dục phổ thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội
Hệ thống GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội trong những năm qua
tiếp tục được ổn định và phát triển mạnh. Mạng lưới trường, lớp được mở
rộng, cơ sở vật chất được tăng cường đầu tư xây dựng, từng bước được kiên
cố hóa, chuẩn hóa và hiện đại, đáp ứng nhu cầu học tập của con em nhân dân
Thủ đô và yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực trong thời kỳ mới.
Bảng 3.1. Biểu thống kê quy mô giáo dục
cho các cơ sở giáo dục trên địa bàn thành phố Hà Nội
Giáo dục Tiểu học
Giáo dục THCS
Giáo dục THPT
Trường Lớp
HS
Trường Lớp
HS
Trường Lớp
HS
710
15.316 584.495
615
9.668 355.370
209
4.824
187.869
711
16.510 610.310
609
9.971 376.900
207
4.836
189.732
719
16.491 641.850
609
10.715 399.396
208
4.922
189.732
727
678.776
617
426.924
216
196.469
736
18.240 738.978
624
11.537 451.800
222
5.467
216.736
Năm học 2014- 2015 2015- 2016 2016- 2017 2017- 2018 2018- 2019
Nguồn: Sở Giáo dục và đào tạo thành phố Hà Nội
68
Qua bảng số liệu trên cho thấy, quy mô giáo dục Hà Nội tiếp tục được
ổn định và phát triển mạnh. Mạng lưới trường, lớp được mở rộng, cơ sở vật
chất được tăng cường đầu tư, cơ bản từng bước được kiên cố hóa, chuẩn hóa
và hiện đại, đáp ứng nhu cầu học tập của con em nhân dân thủ đô và yêu cầu
đào tạo nhân lực trong thời kỳ mới.
Hiện nay, trên địa bàn Thành phố: Giáo dục tiểu học có 736 trường với
18.240 lớp, 738.978 học sinh; so với cùng kỳ năm trước tăng 09 trường, tăng
60.202 học sinh.
Giáo dục tiểu học: quy mô phát triển, chất lượng giáo dục đại trà và
mũi nhọn ổn định, phát triển, đáp ứng được nhu cầu học tập ngày càng cao.
Tiếp tục quan tâm đến chất lượng dạy học giữa các vùng miền trên địa bàn
Thành phố, dành sự quan tâm và ưu tiên đặc biệt trong việc chỉ đạo các hoạt
động dạy và học đối với học sinh lớp 1. Toàn Thành phố đã huy động trẻ 6
tuổi ra lớp: 176.950/176.950 đạt tỷ lệ 100%; Trẻ 11 tuổi hoàn thành chương
trình tiểu học: 124.851/126.218, đạt tỷ lệ 98,92%; Trẻ đến 14 tuổi hoàn thành
chương trình tiểu học: 436.494/438.610, đạt tỷ lệ 99,52%; 584/584 đơn vị xã,
phường đạt chuẩn phổ cập giáo dục Tiểu học mức độ III; 30/30 quận, huyện,
thị xã đạt phổ cập giáo dục Tiểu học mức độ III; Toàn thành phố đạt chuẩn
phổ cập giáo dục Tiểu học mức độ III năm 2018; 100% các trường đã thực
hiện nghiêm túc chương trình năm học theo chỉ đạo của Bộ GDĐT về đảm
bảo các yêu cầu cần đạt về kiến thức, kỹ năng theo chuẩn kiến thức, kỹ năng.
Chú trọng tăng cường việc dạy học tích hợp giáo dục kỹ năng sống, giáo dục
bảo vệ môi trường, giáo dục an toàn giao thông, phòng chống tai nạn thương
tích, phòng chống HIV/AIDS, giáo dục nếp sống thanh lịch, văn minh vào các
môn học và các hoạt động giáo dục ngoài giờ chính khóa cho học sinh.
Giáo dục trung học cơ sở (THCS) có 624 trường với 11.537 lớp, 451.800
học sinh; so với cùng kỳ năm trước tăng 07 trường, tăng 24.876 học sinh.Giáo
dục trung học phổ thông (THPT) có 222 trường với 5.467 lớp, 216.736 học sinh;
so với cùng kỳ năm trước tăng 06 trường, tăng 20.267 học sinh [59].
69
Giáo dục trung học: đạt được các tiêu chí đánh giá của Bộ GDĐT ở
mức độ cao, chất lượng văn hoá được giữ vững tăng đều khá, giỏi với năm
học trước.
100% các trường trung học cơ sở (THCS), trung học phổ thông (THPT)
đã xây dựng kế hoạch dạy học của từng tổ nhóm, phân môn của môn học và
đã bước đầu tiến hành các hoạt động dạy học theo chuyên đề nhằm định
hướng phát triển năng lực học sinh, đảm bảo thời gian kết thúc học kỳ thống
nhất toàn Thành phố, có đủ thời lượng dành cho luyện tập, ôn tập, thí nghiệm,
thực hành, tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo và kiểm tra định kỳ. Các
hình thức đổi mới trong kiểm tra, đánh giá đều hướng tới phát triển năng lực;
coi trọng đánh giá để giúp đỡ học sinh về phương pháp học tập, động viên sự
cố gắng, hứng thú học tập của các em.
Tiếp tục triển khai “Trường học kết nối” trong tổ chức và quản lý hoạt
động chuyên môn qua mạng tới tất cả các trường THCS, THPT. Các trường
đã tiến hành tập huấn và cấp tài khoản cho các giáo viên và học sinh. Việc
khai thác và sử dụng “Trường học kết nối” ở các trường đã dần đi vào nề nếp
và có tác dụng tốt cho giáo viên và học sinh. Sở chỉ đạo các trường thường
xuyên đưa bài lên trang web, xây dựng "nguồn học liệu mở", góp phần đổi
mới phương pháp dạy học trong trường học hiện nay.
Chất lượng giáo dục toàn diện được giữ vững, chất lượng giáo dục mũi
nhọn tiếp tục phát triển. Việc đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy được
đẩy mạnh ở tất cả các cấp học, ngành học.
GDĐT Hà Nội tiếp tục khẳng định vị trí dẫn đầu cả nước, giành thành
tích cao trong các kỳ thi học sinh giỏi quốc gia, quốc tế với 197 giải và huy
chương quốc tế năm 2018, 134 giải quốc gia năm 2019 (với 11 giải Nhất, 19
học sinh được dự thi vòng 2 chọn vào đội tuyển quốc gia dự thi quốc tế); 21
đề tài đạt giải tại cuộc thi Khoa học kỹ thuật cấp quốc gia dành cho học sinh
trung học năm 2019 (trong đó có 03 đề tài đạt giải Nhất, 05 giải Nhì, 06 giải
Ba); 48 giải tại Cuộc thi Tìm kiếm Tài năng Toán học quốc tế ITMC 2019
70
(trong đó có 02 Huy chương Vàng, 15 Huy chương Bạc, 23 Huy chương
Đồng)...[59]
Trên cơ sở thực tiễn của công tác GD&ĐT, quy hoạch tổng thể phát triển
KT-XH và điều kiện thực tế của Thành phố, Sở Giáo dục và Đào tạo đã xây
dựng quy hoạch, kế hoạch dài hạn và hàng năm về phát triển GDPT, tích cực
chỉ đạo việc thực hiện kế hoạch sau khi được chính quyền Thành phố phê
duyệt. Sở Giáo dục và Đào tạo đã phối hợp với Sở Quy hoạch - Kiến trúc,
Viện Quy hoạch xây dựng Hà Nội và UBND các quận, huyện, thị xã rà soát,
điều chỉnh bổ sung quy hoạch mạng lưới trường học; xây dựng quy định mức
thu học phí về giáo dục phổ thông công lập.
Tổ chức thực hiện kịp thời và có kết quả phần lớn các văn bản quy phạm
pháp luật về GDPT. Tham mưu cho UBND Thành phố ban hành các quy định
về tổ chức hoạt động của các cơ sở GDPT trên địa bàn Thành phố.
Chất lượng GDPT của Hà Nội tiếp tục được giữ vững và có nhiều tiến
bộ. Việc đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy, nâng cao chất lượng giáo
dục toàn diện được đẩy mạnh ở các cấp học mang lại kết quả bước đầu. Tiếp
tục đổi mới nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả các phong trào thi giáo
viên dạy giỏi, học sinh giỏi các cấp, đặc biệt là kỳ thi học sinh giỏi quốc gia
và quốc tế. Hà Nội tiếp tục là đơn vị dẫn đầu về số lượng và chất lượng giải
trong kỳ thi học sinh giỏi THPT các môn văn hoá cấp Quốc gia.
Thực hiện tốt việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý giáo
dục. Xây dựng và thực hiện tốt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý
các cấp theo hướng dẫn của Bộ Giáo dục và UBND Thành phố.
Việc huy động, quản lý sử dụng các nguồn lực để phát triển giáo dục đã
có những kết quả nhất định; phong trào thành lập quỹ khuyến học được mở
rộng đến từng cơ quan tổ chức, từng địa bàn dân cư.
Xã hội hóa giáo dục có nhiều bước chuyển biến tích cực, đã huy động
được các nguồn lực cho sự nghiệp phát triển GDPT. Các hoạt động, phong
trào thi đua được tổ chức sôi nổi, thiết thực, có ý nghĩa.
71
Lực lượng thanh tra, kiểm tra giáo dục được tăng cường và dần hoàn
thiện về số lượng cũng như chất lượng; các hoạt động thanh tra, kiểm tra
chuyên môn, hành chính và một số nội dung kiểm tra chuvên đề đối với các
trường phổ thông được thực hiện có nề nếp.
Tuy đã đạt được những kết quả quan trọng nhưng GDPT trên địa bàn
Thành phố vẫn còn những hạn chế. Những hạn chế này bao gồm:
Việc triển khai, tổ chức thực hiện đưa chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước về phát triển giáo dục và đào tạo, nhất là quan điểm “giáo dục là
quốc sách hàng đầu” còn chậm và lúng túng. Việc thể chế hoá văn bản pháp
quy của cấp trên trên địa bàn Thành phố còn chậm, hiệu quả chưa cao.
Việc xây dựng chiến lược phát triển GDPT của Hà Nội, chương trình, kế
hoạch ngắn hạn, dài hạn còn chưa cụ thể, chưa đáp ứng yêu cầu của xã hội; có
kế hoạch được phê duyệt nhưng khâu triển khai, tổ chức thực hiện còn chậm.
Quản lý GDPT của Thủ đô vẫn còn nhiều bất cập, còn mang tính bao
cấp, sự vụ và chồng chéo, phân tán. Quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của
các cơ sở giáo dục THCS, THPT chưa được quy định đầy đủ, sát với thực
tế.Tình trạng dạy thêm, học thêm còn sảy ra khá phổ biến ở các trường phổ
thông trên địa bàn Thành phố.
Tổ chức bộ máy quản lý GDPT còn rập khuôn, máy móc, phong cách
làm việc chưa được thay đổi nhiều theo hướng cải cách hành chính. Số lượng
công chức tại một số Phòng Giáo dục và Đào tạo trên địa bàn Thành phố còn
thiếu, trình độ, năng lực của một số cán bộ quản lý còn hạn chế.
Một bộ phận học sinh phổ thông có biểu hiện hạn chế về đạo đức, lối
sống, hạn chế trong năng lực hợp tác, sáng tạo; công tác hướng nghiệp chưa
thực sự đạt hiệu quả cao, định hướng nghề nghiệp của học sinh THCS chưa rõ
nét nên phân luồng sau THCS gặp khó khăn; các chính sách phân luồng sau
THCS còn thiếu.
Chính sách huy động và phân bổ nguồn lực tài chính cho GDPT trên địa
bàn Thành phố chưa thật hợp lý, đầu tư cho GDPT và sử dụng nguồn lực chưa
72
hiệu quả. Việc đầu tư ngân sách cho GDPT chưa tập trung cao cho những
mục tiêu ưu tiên, còn để sảy ra tình trạng thất thoát, lãng phí; kinh phí chi cho
các hoạt động chuyên môn còn thấp.
Công tác thanh tra, kiểm tra nhất là là thanh tra, kiểm tra chuyên đề còn
hình thức, chưa thật sự hiệu quả. Việc rút kinh nghiệm, khắc phục những tồn
tại, sai sót sau thanh tra, kiểm tra chưa được thực hiện nghiêm túc. Giải quyết
khiếu nại, tố cáo còn chưa triệt để, có trường hợp còn để kéo dài.
Những tồn tại, hạn chế trong phát triển GDPT trên địa bàn Thành phố Hà
Nội xuất phát từ các nguyên nhân chính sau đây:
Hà Nội là địa phương có dân số đông, tỉ lệ dân số trong độ tuổi đi học
cao. Điều này đã tạo gánh nặng cho GDPT của Thành phố.
Sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương đôi
khi còn chưa kịp thời, thiếu sâu sát. Cá biệt ở một số quận, huyện chính quyền
địa phương còn thiếu sự quan tâm, thờ ơ với sự nghiệp phát triển GDPT.
Việc tham mưu cho cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp có lúc còn thiếu
cụ thể, chưa kịp thời. Bộ máy quản lý GDPT của Thành phố hoạt động chưa thật
hiệu quả, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới.
Quản lý nhà nước về GDPT còn lỏng lẻo, chưa theo kịp sự phát triển
của xã hội. Trình độ và tư duy quản lý GDPT chưa theo kịp với thực tiễn phát
triển của khoa học, công nghệ và của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN và hội nhập quốc tế nên chưa có những quyết sách kịp thời cho các
vấn đề mới liên quan đến GDPT. Phương thức quản lý đối với GDPT chậm
được đổi mới. Tư duy quản lý chú trọng quản lý đầu vào mà chưa coi trọng
quản lý đầu ra. Chưa phân định rõ giữa quản lý nhà nước với hoạt động quản
trị trong các trường phổ thông.
Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục còn thiếu về số lượng, hạn chế về chất
lượng; một bộ phận thiếu tâm huyết, chưa theo kịp yêu cầu đổi mới và phát
triển của GDPT của Thủ đô trong tình hình mới.
Các văn bản pháp luật trong lĩnh vực GDPT hiện nay còn tản mạn, thiếu
tính hệ thống và đồng bộ, còn chồng chéo, mâu thuẫn. Một số cơ chế, chính
73
sách của của Thành phố và các quận, huyện chưa thật phù hợp, nhất là các
quy định về phân cấp quản lý trong công tác tổ chức, cán bộ; phân bổ ngân
sách. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Phòng Giáo dục chưa được quy
định cụ thể; trách nhiệm và quyền hạn quản lý chuyên môn chưa đi đôi với
trách nhiệm, quyền hạn quản lý về nhân sự và tài chính.
Vấn đề cần quan tâm hơn trong cải cách GDPT là đổi mới phương pháp
dạy học chứ không chỉ tập trung đổi mới nội dung dạy học.Hiện nay các thầy,
cô giáo ở các trường phổ thông hầu như chỉ cần nói đủ những gì có trong sách
giáo khoa, tuân thủ trình tự lên lớp. Sự sáng tạo và nghệ thuật dạy học chưa
thật sự trở lên cấp thiết. Những tiết thao giảng, dự giờ diễn ra không thực
chất, khó phản ánh được chất lượng của giáo viên, học sinh.
Chế độ đãi ngộ của Nhà nước đối với cán bộ công tác tại Sở, Phòng Giáo
dục chưa hợp lý. Cán bộ quản lý, giáo viên giỏi của các trường phổ thông được
điều động, biệt phái về Phòng Giáo dục nhưng không được hưởng chế độ phụ
cấp thâm niên đối với nhà nhà giáo nên không khuyến khích, tạo động lực làm
việc cho công chức, viên chức các Phòng Giáo dục ở các quận, huyện.
Cách đánh giá học sinh xếp theo khá, giỏi, trung bình hiện nay là chưa
khoa học. Chất lượng GDPT cần phải đạt ở cả hai mặt là nắm chắc kiến thức
văn hóa và thực hành, thí nghiệm thành công kiến thức đã được học.
Chưa có cơ chế hợp lý trong tuyển dụng, sử dụng công chức, viên chức
để thu hút nhân tài về công tác tại các đơn vị giáo dục trên địa bàn Thành phố.
Việc sử dụng nguồn nhân lực ngành giáo dục trên địa bàn chưa hiệu quả, tình
trạng chảy máu chất xám còn diễn ra.
Nhận thức về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của chính quyền Thành
phố về GDPT theo tinh thần Luật giáo dục năm 2005, Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật giáo dục năm 2009 chưa thật đầy đủ.
Cải cách GDPT mới chỉ dừng ở các quyết định ở tầm vĩ mô, chưa thấm
vào các trường học. Cả cán bộ quản lý và giáo viên không dễ dàng từ bỏ cách
làm cố hữu vì quan điểm dạy học chỉ nhằm “hoàn thành nhiệm vụ năm học và
không để lại điều tiếng gì”.
74
Công tác quản lý chất lượng giáo dục, thanh tra, kiểm tra, giám sát trong
các trường phổ thông trên địa bàn Thành phố chưa được coi trọng đúng mức.
Năng lực, nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra của một số cán bộ còn hạn chế; phương
thức thanh tra, kiểm tra còn thiếu linh hoạt, không mấy hiệu quả.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, giáo viên của Thành phố chưa có sự
đổi mới cơ bản về nội dung và phương pháp; chưa lấy đặc điểm, nhu cầu của
người học làm căn cứ để xác định chương trình, nội dung và phương pháp đào
tạo, bồi dưỡng. Trong đào tạo, bồi dưỡng mới chú ý đến việc cung cấp các nội
dung lý luận chung chung, chưa quan tâm đúng mức đến bồi dưỡng những
kiến thức, kỹ năng.
Cuối cùng là, Phâncấp quản lý nhà nước về GDPTtrên địa bàn Thành
phố cònnhiều hạn chế, bật cập, nhất là cơ chếphốihợpgiữangành giáo dục
vớicácngànhchứcnăng khác. Trách nhiệm và quyền hạn quản lý chuyên môn
chưa đi đôi với trách nhiệm, quyền hạn quản lý về nhân sự và tài chính. Các
Phòng Giáo dục thiếu quyền chủ động trong công tác chỉ đạo, điều hành nên
thiếu sự chủ động, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về GDPT không cao.
Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội chưa thật chặt chẽ.
Chưa sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của Nhà nước và của xã hội vào phát
triển GDPT của Thành phố.
3.2. Phân tích thực trạng phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông
trên địa bàn Thành phố Hà Nội
3.2.1. Khái quát tình hình phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ
thông trên địa bàn thành phố Hà Nội
Phân cấp quản lý nhà nước đối với GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội
được thực hiện từ UBND Thành phố, Sở Giáo dục và Đào tạo xuống UBND
các quận, huyện và các Phòng Giáo dục và Đào tạo. Có thể khái quát hoá mô
hình phân cấp quản lý đối với GDPT trên địa bàn thành phố Hà Nội được thể
hiện trong Sơ đồ 3.1.
75
Sơ đồ 3.1. Phân cấp quản lý nhà nước đối với GDPT
trên địa bàn Thành phố Hà Nội
- Xây dựng và thực hiện kế hoạch GD và UBND đảm bảo các nguồn lực cho GD; Thành phố
Sở GD&ĐT
-
Quản lý các trường PT trên địa bàn;
- Quản lý việc ĐTBD giáo viên của TP;
- Quản lý việc thực hiện các quy định về
Tiêu chuẩn GV; thi, cấp bằng THPT;
Các trường THPT
- Thanh tra, kiểm tra; - Xã hội hóa giáo dục.
- Xây dựng chương trình trình, đề án phát
UBND quận, huyện
Phòng GD&ĐT
Triển GD và thực hiện khi được phê duyệt;
- Quản lý các trường THCS, Tiểu học;
- Thực hiện phổ cập giáo dục;
- Quản lý việc thực hiện các quy định về
tiêu chuẩn GV; thi, cấp bằng Tiểu học;
- Thanh tra, kiểm tra;
- Xã hội hóa giáo dục.
Trường THPT và Tiểu học
Cụ thể các nội dung về phân cấp QLNN đối GDPT trên địa bàn Hà Nội như sau:
Một là, thực trạng phân cấp về bộ máy, nhân sự
Căn cứ Nghị định số 127/2018/NĐ-CP ngày 21/9/2018 của Chính phủ
quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục, theo đó:
(1) Phân cấp về tổ chức, bộ máy
Bộ Giáo dục và đào tạo ban hành điều lệ, quy chế tổ chức và hoạt động
trường mầm non, trường tiểu học, trường trung học cơ sở, trường trung học
phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học
76
Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội quyết định thành lập hoặc cho
phép thành lập, thu hồi quyết định thành lập hoặc quyết định cho phép
thành lập, sáp nhập, chia, tách, giải thể, đổi tên, chuyển đổi loại hình
trường đối với các cơ sở giáo dục công lập, tư thục theo quy định, bao
gồm: trường trung học phổ thông, trường phổ thông có nhiều cấp học có
cấp học cao nhất là trung học phổ thông, trường phổ thông dân tộc nội trú
cấp tỉnh và cấp huyện, trung tâm giáo dục thường xuyên cấp tỉnh và các cơ
sở giáo dục khác thuộc phạm vi quản lý nhà nước theo quy định. Quyết
định cho phép thành lập, quyết định giải thể hoặc chấm dứt hoạt động đối
với cơ sở giáo dục phổ thông có vốn đầu tư nước ngoài (trừ cơ sở giáo dục
mầm non, cơ sở giáo dục phổ thông do cơ quan đại diện ngoại giao nước
ngoài, tổ chức quốc tế liên chính phủ đề nghị thành lập) theo quy định trên
cơ sở tham mưu của Sở Giáo dục và đào tạo
Chủ tịch UBND cấp huyện quyết định thành lập hoặc cho phép thành
lập, thu hồi quyết định thành lập hoặc quyết định cho phép thành lập, sáp
nhập, chia, tách, giải thể, đổi tên, chuyển đổi loại hình đối với các cơ sở giáo
dục công lập, dân lập, tư thục theo quy định, bao gồm: Nhà trẻ, trường mẫu
giáo, trường mầm non, trường tiểu học, trường trung học cơ sở, trường phổ
thông có nhiều cấp học có cấp học cao nhất là trung học cơ sở, trường phổ
thông dân tộc bán trú, trung tâm học tập cộng đồng và các cơ sở giáo dục
khác thuộc thẩm quyền quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp huyện.
Chủ tịch UBND cấp xã cho phép thành lập, quyết định sáp nhập, chia,
tách, đình chỉ hoạt động giáo dục, giải thể nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập
theo quy định.
(2) Phân cấp về nhân sự.
Theo Nghị định số 127/2018/NĐ-CP ngày 21/9/2018 của Chính phủ quy
định trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục, việc phân cấp được tiến hành
như sau:
77
Bộ Giáo dục và đào tạo quy định tiêu chuẩn chức danh, chế độ làm việc
của nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; danh mục khung vị trí việc làm và
định mức số lượng người làm việc trong các cơ sở giáo dục. Quy định tiêu
chuẩn người đứng đầu, cấp phó người đứng đầu các cơ sở giáo dục phổ thông,
giáo dục thường xuyên, trường trung cấp sư phạm, cao đẳng sư phạm; tiêu
chuẩn chức danh Giám đốc, Phó Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo, Trưởng
phòng, Phó Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo; chuẩn nghề nghiệp nhà giáo.
Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội quyết định biên chế công chức của
cơ quan quản lý giáo dục trên địa bàn tỉnh trong tổng số biên chế công chức
được cơ quan có thẩm quyền giao; Phê duyệt tổng số lượng người làm việc
của các cơ sở giáo dục công lập thuộc phạm vi quản lý của tỉnh theo quy định
của pháp luật trên cơ sở trình của UBND tỉnh
UBND thành phố Hà Nội quyết định biên chế công chức của cơ quan
quản lý giáo dục trên địa bàn tỉnh trong tổng số biên chế công chức được
cơ quan có thẩm quyền giao. Phê duyệt tổng số lượng người làm việc của
các cơ sở giáo dục công lập thuộc phạm vi quản lý của tỉnh theo quy định
của pháp luật.
UBND cấp huyện chỉ đạo thực hiện việc sử dụng, đánh giá, đào tạo,
bồi dưỡng và thực hiện chính sách đối với đội ngũ công chức, viên chức và
người lao động tại các cơ sở giáo dục thuộc phạm vi quản lý theo quy định;
thường xuyên cập nhật thông tin về đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục thuộc phạm vi quản lý vào cơ sở dữ liệu quốc gia về giáo dục.Sắp
xếp, tổ chức lại các cơ sở giáo dục tiểu học, trung học cơ sở trên địa bàn
phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương; bảo đảm đủ biên chế công
chức quản lý giáo dục, đủ số lượng người làm việc theo đề án vị trí việc
làm được phê duyệt,
Chủ tịch UBND cấp huyện quyết định tuyển dụng hoặc ủy quyền
quyết định tuyển dụng viên chức giáo dục theo các quy định hiện hành;
78
phân bổ số lượng người làm việc theo vị trí việc làm; công nhận, bổ nhiệm,
miễn nhiệm, điều động, thay đổi vị trí việc làm, khen thưởng, kỷ luật đối
với người đứng đầu, cấp phó người đứng đầu các cơ sở giáo dục công lập
phỏ thông, trường phổ thông dân tộc nội trú cấp huyện không có cấp trung
học phổ thông và các cơ sở giáo dục khác thuộc thẩm quyền quản lý trên
cơ sở kế hoạch do Phòng Giáo dục và Đào tạo xây dựng và ý kiến thẩm
định của Phòng Nội vụ.
Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội quyết định thành lập hội đồng trường,
công nhận, bổ nhiệm, miễn nhiệm Chủ tịch hội đồng trường, bổ sung, thay thế
thành viên Hội đồng trường các cơ sở giáo dục công lập trên cơ sở tham mưu
của Sở Gáo dục và Đào tạo.
Trên cơ sở các quy định chung của Trung ương, hiện trạng cụ thể phân
cấp trong tổ chức bộ máy và quản lý nhân sự của thành phố Hà Nội ở một số
lĩnh vực cơ bản như sau:
Theo quy định, quản lý nhân sự trong GDPT hiện nay như sau: Sở Giáo
dục và Đào tạo quản lý nhân sự khối các trường THPT, UBND các quận,
huyện quản lý nhân sự khối các trường THCS, Tiểu học.
Quy trình bổ nhiệm Giám đốc Sở, Trưởng Phòng Giáo dục và Đào tạo:
Tập thể cán bộ quản lý giáo dục bỏ phiếu tín nhiệm, sau đó thông qua thường
vụ Thành ủy, quận ủy, huyện ủy và UBND Thành phố, các quận, huyện quyết
định trên cơ sở tham khảo ý kiến của Bộ hoặc Sở Giáo dục và Đào tạo.
Quy trình bổ nhiệm Hiệu trưởng: Ở các bậc học THPT, THCS vàTiểu
học, tập thể giáo viên của trường bỏ phiếu tín nhiệm, sau đó UBND Thành
phố, quận, huyện ra quyết định bổ nhiệm. Ở một số quận, huyện, việc bổ
nhiệm Hiệu trưởng lấy ý kiến hẹp trong lãnh đạo nhà trường nên dẫn đến tình
trạng bổ nhiệm người không được cán bộ, giảng viên của nhà trường tín
nhiệm, gây mất đoàn kết nội bộ.
79
Bảng 3.2. Thống kê công tác bổ nhiệm cho các cơ sở giáo dục trên địa bàn
thành phố Hà Nội từ năm học 2014-2015 đến năm học 2018-2019
Năm học Danh sách quy hoạch cán bộ quản lý Cấp bổ nhiệm Số cán bộ được bổ nhiệm BN Mới BN Lại
2014-2015
Thành ủy và Sở GD&ĐT
2015- 2016 62 CBQL 51 CBQL Sở GD&ĐT
2016- 2017 2017- 2018
2018- 2019 Sở GD&ĐT
18 đồng chí trong diện Thành ủy quản lý, 407 đồng chí cấp trưởng, 1029 đồng chí cấp phó 18 đồng chí trong diện Thành ủy quản lý, 407 đồng chí cấp trưởng, 1029 đồng chí cấp phó 13 đồng chí GĐ, PGĐ Sở 54 đồng chí TP, PTP các phòng thuộc Sở 1.061 đồng chí HT, PHT
Nguồn: Sở Giáo dục và đào tạo thành phố Hà Nội
Hàng năm, trên cơ sở kế hoạch của Phòng Giáo dục và Đào tạo và các
trường trực thuộc, Sở Giáo dục và Đào tạo xây dựng kế hoạch biên chế cho
tẩt cả các cấp học, chi tiết tới từng loại giáo viên và cùng với Sở Nội vụ tham
mưu cho UBND Thành phố phê duyệt. Trong thực tiễn, tại một số trường do
sự phối hợp không tốt giữa cơ quan Nội vụ và cơ quan quản lý giáo dục trong
xây dựng chỉ tiêu biên chế nên gây ra rất nhiều khó khăn cho GDPT trong xây
dựng kế hoạch phát triển GDPT. Ở các quận, huyện, thực tế quản lý nhân sự
GDPT rất khác nhau: có nơi UBND các quận, huyện quản lý trực tiếp, có nơi
quản lý nhân sự thông qua tham mưu của Phòng Nội vụ, có nơi quản lý nhân
sự thông qua ủy quyền cho Phòng Giáo dục và Đào tạo.
Quy trình tuyển dụng giáo viên: Sở Giáo dục và Đào tạo thông báo nhu
cầu tuyển dụng giáo viên hàng năm, sau đó Sở Giáo dục và Đào tạo tham mưu
cho UBND Thành phố thành lập Hội đồng tuyển dụng. Kết quả tuyển dụng
80
giáo viên được Sở Giáo dục và Đào tạo và Sở Nội vụ trình UBND Thành phố
phê duyệt và những người trúng tuyển được phân công về các trường trên địa
bàn các quận, huyện. Một bất cập lớn hiện nay là ngành giáo dục không được
toàn quyền quyết định phân bổ chỉ tiêu nhân sự ngành giáo dục. Bất cập này là
một trong các nguyên nhân dẫn đến cơ cấu giáo viên các trường phổ thông trên
địa bàn Thành phố không đồng bộ, có nơi thừa nơi thiếu.
Công tác đào tạo giáo viên tuy đã có quy định là UBND Thành phố chịu
trách nhiệm về đào tạogiáo viên THCS trở xuống nhưng vẫn thiếu các quy
định cụ thể về trách nhiệm của Bộ Giáo dục - Đào tạo và UBND các cấp
trong đào tạo giáo viên (46,8% hoàn toàn đồng ý, 2,6% phần nào đồng ý; xem
bảng 2.2, câu hỏi 14). Đây có thể là một trong các nguyên nhân dẫn đến việc
đào tạo giáo viên các trường phổ thông trên địa bàn Thành phố hiện nay chưa
đáp ứng được yêu cầu nâng cao chất lượng giáo viên.
Bảng 3.3. Khảo sát đánh giá mức độ phân cấp về bộ máy, nhân sự
trong GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội
Câu hỏi*
Hoàn toàn đồng ý (%) 46,8 Phần nào đồng ý (%) 2,6 Không có ý kiến (%) 16,3 Phần nào không đồng ý (%) 4,4 Hoàn toàn không đồng ý (%) 9,9 Câu hỏi 14
33,2 28,9 11,1 13,4 13,4 Câu hỏi 15
31,3 25,8 14,7 13,1 15,1 Câu hỏi 16
36,8 19,0 9,9 19,80 14,6 Câu hỏi 17
* Danh mục các câu hỏi trong phần Phụ lục
Nguồn: Kết quả điều tra xã hội học của tác giả
Trong bồi dưỡnggiáo viên, tuy đã có quy định về trách nhiệm và quyền
hạn của UBND Thành phố, Sở và Phòng Giáo dục và Đào tạo nhưng việc
chuẩn hóa cán bộ, giáo viên còn rất khó khăn, vì vậy Bộ Giáo dục và Đào tạo
cần có những hướng dẫn cụ thể để giải quyết với những cán bộ, giáo viên này
(31,3% nhất trí, 25,8% phần nào nhất trí; xem bảng 2.2, câu hỏi 16).
81
Giải pháp cho việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên các ý kiến đều cho rằng để
nâng cao chất lượng của đội ngũ giáo viên và những bất cập hiện nay việc đào
tạo giáo viên từ THCS trở xuống và bồi dưỡng giáo viên trên địa bàn Thành phố
cần giao cho Sở Giáo dục và Đào tạo quản lý và thực hiện.
Điều động, biệt phái cán bộ, giáo viên trong phạm vi các đơn vị trực thuộc
Sở Giáo dục và Đào tạo do Sở Giáo dục và Đào tạo xem xét quyết định; điều
động, biệt phái cán bộ, giáo viên trong phạm vi các đơn vị trực thuộc Phòng
Giáo dục và Đào tạo do Phòng Giáo dục và Đào tạo xem xét quyết định.
Điều động, biệt phái cán bộ, giáo viên từ các đơn vị trực thuộc Sở Giáo dục
và Đào tạo sang các đơn vị trực thuộc Phòng Giáo dục và Đào tạo hoặc ngược
lại: Sau khi có ý kiến chấp thuận của nơi cho viên chức đi và ý kiến chấp thuận
của Phòng Giáo dục và Đào tạo, Phòng Nội vụ nơi tiếp nhận cán bộ, giáo viên
đến hoặc ngược lại, do Sở Giáo dục và Đào tạo xem xét quyết định.
Điều động, biệt phái cán bộ, giáo viên từ các đơn vị trực thuộc Phòng
Giáo dục và Đào tạo này sang các đơn vị trực thuộc Phòng Giáo dục và Đào
tạo kia: Sau khi có ý kiến chấp thuận của Phòng Giáo dục và Đào tạo, Phòng
Nội vụ nơi cho cán bộ, giáo viên đi và ý kiến chấp thuận của Phòng Giáo dục
và Đào tạo, Phòng Nội vụ nơi cho cán bộ, giáo viên đến, Sở Giáo dục và Đào
tạo xem xét quyết định.
Thuyên chuyển giáo viên trong phạm vi Thành phố: Đối với giáo viên
THPT, Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo chuyển theo ngành; đối với giáo viên
THCS vàTiểu học do UBND các quận, huyện quyết định. Điều này dẫn đến việc
tình trạng ngành giáo dục không nắm được thông tin, gây khó khăn rất nhiều cho
việc xây dựng kế hoạch giáo dục, chất lượng giáo viên không đáp ứng được yêu
cầu và cũng gây khó khăn cho giáo viên khi có nguyện vọng chuyển trường.
Thuyên chuyển giáo viên phạm vi ngoài Thành phố: Trên cơ sở biên bản
của Hội đồng xét thuyên chuyển giáo viên của các quận, huyện, Giám đốc Sở
Giáo dục và Đào tạo ký duyệt danh sách đề nghị Sở Nội vụ ra quyết định. Khi
tiếp nhận giáo viên từ tỉnh khác chuyển về, Sở Nội vụ căn cứ đề nghị của
Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo để ra quyết định.
82
Về thực trạng phân cấp quản lý nhân sự, các ý kiến đều cho rằng nếu Sở
Giáo dục và Đào tạo quản lý toàn diện về nhân sự sẽ sắp xếp, điều tiết được
nhân sự phù hợp với đặc điểm của ngành, tạo điều kiện phát triển GDPT.
Trong những năm tới cần phân cấp quản lý nhân sự nhiều hơn cho các quận,
huyện và các trường phổ thông.
Hai là, thực trạng phân cấp trong quản lý tài chính và cơ sở vật chất
Theo Nghị định số 127/2018/NĐ-CP ngày 21/9/2018 của Chính phủ quy định
trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục, việc phân cấp được tiến hành như sau:
HDND thành phố Hà Nội quyết định mức thu học phí hàng năm đối với các
cơ sở giáo dục công lập thuộc phạm vi quản lý nhà nước của tỉnh theo quy định
của pháp luật trên cơ sở trình UBND cấp tỉnh( Sở Giáo dục và đào tạo tham mưu).
UBND thành phố Hà Nội bố trí đúng, đủ ngân sách nhà nước chi cho giáo
dục tại địa phương theo quy định; quản lý, kiểm tra việc sử dụng ngân sách
nhà nước chi cho giáo dục theo quy định của Luật ngân sách nhà nước và
phân cấp quản lý ngân sách hiện hành nhằm đáp ứng các điều kiện bảo đảm
chất lượng giáo dục; thực hiện thu, sử dụng học phí và các khoản thu hợp
pháp khác đối với các cơ sở giáo dục công lập thuộc tỉnh; thực hiện chính
sách xã hội hóa giáo dục, huy động các nguồn lực hợp pháp để phát triển giáo
dục tại địa phương. Bố trí đủ quỹ đất dành cho các cơ sở giáo dục theo chiến
lược, kế hoạch phát triển giáo dục tại địa phương.
UBND cấp huyện bảo đảm đủ các điều kiện về tài chính, tài sản, cơ sở
vật chất và quỹ đất theo quy định; thực hiện chính sách xã hội hóa giáo dục,
huy động các nguồn lực để phát triển giáo dục; ban hành các quy định để bảo
đảm quyền tự chủ, trách nhiệm giải trình về thực hiện nhiệm vụ và chất lượng
giáo dục đối với các cơ sở giáo dục thuộc thẩm quyền quản lý.
UBND cấp xã đầu tư hoặc tham gia đầu tư xây dựng các trường mầm
non, tiểu học, trung học cơ sở, trường phổ thông có nhiều cấp học trong đó có
cấp học cao nhất là trung học cơ sở, trung tâm học tập cộng đồng theo quy
định của Ủy ban nhân dân cấp huyện; phối hợp với các đơn vị có liên quan
83
tham mưu Ủy ban nhân dân cấp huyện xây dựng trường chuẩn quốc gia, kế
hoạch sử dụng đất dành cho các cơ sở giáo dục trên địa bàn.
Sở Giáo dục và đào tạo trình Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội quyết
định: Xây dựng dự toán ngân sách giáo dục, quyết định phân bổ, giao dự toán
ngân sách đối với các cơ sở giáo dục trực thuộc sau khi được cấp có thẩm
quyền phê duyệt; duyệt quyết toán, thông báo quyết toán năm và tổng hợp báo
cáo quyết toán ngân sách của các cơ sở giáo dục trực thuộc; phối hợp với Sở
Tài chính, Sở Kế hoạch và Đầu tư xác định, cân đối ngân sách nhà nước chi
cho giáo dục hằng năm của địa phương trình cấp có thẩm quyền; hướng dẫn,
thanh tra, kiểm tra việc cấp, sử dụng ngân sách nhà nước và các nguồn tài
chính hợp pháp khác cho giáo dục trên địa bàn tỉnh.Hướng dẫn, tổ chức thực
hiện huy động các nguồn lực để phát triển giáo dục, bảo đảm quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục trực thuộc; quản lý tài chính, tài sản,
cơ sở vật chất được giao theo quy định của pháp luật.
Phòng Giáo dục và đào tạo cũng xây dựng dự toán, gửi Phòng Tài chính - Kế
hoạch thẩm định, trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện phê duyệt phương án
phân bổ, giao dự toán ngân sách cho các cơ sở giáo dục công lập thuộc phạm vi
quản lý của Ủy ban nhân dân cấp huyện; phối hợp với Phòng Tài chính - Kế hoạch
hướng dẫn, kiểm tra việc cấp, sử dụng ngân sách nhà nước và các nguồn tài chính
hợp pháp khác đối với các cơ sở giáo dục trên địa bàn huyện theo quy định.
Lưu ý: Ngoài những nội dung trên, UBND thành phố Hà Nội có thể phân
cấp, ủy quyền cho Ủy ban nhân dân cấp huyện, Sở Giáo dục và Đào tạo thực
hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền quản lý nhà nước về giáo
dục của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. UBND cấp huyện có thể phân cấp, ủy
quyền cho Ủy ban nhân dân cấp xã, Phòng Giáo dục và Đào tạo thực hiện một
hoặc một số nhiệm vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền quản lý nhà nước về giáo
dục của Ủy ban nhân dân cấp huyện.
Trên cơ sở những quy định pháp lý chung, thành phố Hà Nội đã tiến
hành cấp ngân sách cho một số cơ sở GDPT trên địa bàn thành phố Hà Nội
những năm vừa qua như sau:
84
Bảng 3.4. Bảng thống kê cấp ngân sách các trường công lập
(Đơn vị tính: đồng)
trên địa bàn Hà Nội
TT
Đơn vị
Quận
Năm 2016
Năm 2017
Năm 2018
Ghi chú
6.104.638.000
trực
chuyên thuộc
1.
4.629.363.000
Hoàn Kiếm
Trường tiểu học Bình Minh
12.609.093.000
trực
chuyên thuộc
2.
12.010.962.000
Hai Bà Trưng
Trường PTCS Nguyễn Đình Chiểu
7.652.841.000
trực
chuyên thuộc
3.
7.972.975.000
Đống Đa
Trường PTCS Xã Đàn
Trường biệt Sở GD&ĐT Trường biệt Sở GD&ĐT Trường biệt Sở GD&ĐT
4.
11.218.288.000
12.983.211.000 12.898.476.000
5.
Đống Đa Đông Anh
7.629.499.000
8.920.770.000
8.920.846.000
6.
Sóc Sơn
8.782.647.000
10.512.371.000
11.095.800.000
7.
37.197.618.000
30.969.137.000
42.817.863.000
8.
Cầu Giấy Hà Đông
27.161.941.000
32.496.702.000
9.
Ba Vì
6.772.391.000
9.607.317.000
30.062.999.000 8.478.783.000
10.
Tây Hồ 21.313.697.000
26.712.336.000
22.123.224.000
11.
Ba Đình 13.718.420.000
14.209.530.000
13.114.703.000
12.
12.477.276.000
11.703.847.000
13.
9.659.854.000
10.981.948.000
10.445.244.000
14.
10.014.751.000
11.774.118.000
11.960.531.000
15.
9.778.105.001
10.102.280.000
10.192.908.000
16.
Hai Bà Trưng 11.028.950.000 Thanh Trì Hoàng Mai Từ Liêm Hoài Đức
14.578.751.001
15.099.138.000
13.441.283.000
17.
20.974.193.000
19.397.081.000
18.
Trường THPT Kim Liên Trường THPT Đông Anh Trường THPT Sóc Sơn Trường THPT chuyên Hà Nội- Amsterdam Trường THPT chuyên Nguyễn Huệ Trường THPT Bất Bạt Trường THPT Chu Văn An Trường THPT Phan Đình Phùng Trường THPT Trần Nhân Tông Trường THPT Ngọc Hồi Trường THPT Việt Nam - Ba Lan Trường THPT Xuân Đỉnh Trường THPT Hoài Đức A Trường THPT Sơn Tây Trường THPT Xuân Mai
Sơn Tây 17.729.818.000 Chương Mỹ
11.768.581.001
12.970.360.000
12.985.632.000
Nguồn: Sở Giáo dục và đào tạo thành phố Hà Nội
85
Quy trình xây dựng và phê duyệt ngân sách giáo dục: Cơ quan quản lý
giáo dục phối hợp với cơ quan kế hoạch và tài chính xây dựng dự thảo kế
hoạch ngân sách, sau đó trình UBND các cấp phê duyệt. Việc phân bổ ngân
sách giáo dục trên địa bàn Hà Nội do UBND Thành phố quyết định.
Quy trình cấp phát ngân sách giáo dục: Quy trình cấp phát ngân sách
giáo dục được thực hiện theo các quy định sau:
1) Sở Tài chính cấp kinh phí cho khối trường trực thuộc thông qua Sở
Giáo dục và Đào tạo, số trường còn lại cấp thông qua Phòng Tài chính huyện.
2) Sở Tài chính cấp kinh phí cho khối trường trực thuộc thông qua Sở
Giáo dục và Đào tạo, số trường còn lại giao cho UBND cấp huyện quản lý,
sau đó Phòng Tài chính huyện phân bổ cho Phòng Giáo dục và Đào tạo để
phân cho các trường.
Như vậy, khi kinh phí được cấp phát trực tiếp từ các cơ quan tài chính có
thể dẫn đến kinh phí cấp cho giáo dục bị cắt xén để chi cho các mục tiêu khác.
Kinh phí cấp thông qua ngành giáo dụccũng có những bất cập do ngành có
nhiều cấp trung gian dễ dẫn đến sự chậm trễ. Cấp kinh phí giáo dục thông qua
UBND cấp huyện có ưu điểm là bộ máy quản lý tài chính địa phương quản lý
tốt hơn so với ngành giáo dục, đồng thời gắn được trách nhiệmcủa địa phương
vào việc huy động các nguồn lực để phát triển giáo dục.
Các ý kiến đều cho rằng cần có quyền hạn tài chính khi thực hiện kế
hoạch giáo dục. Tuy nhiên, cần hiểu quyền hành về tài chính giáo dục chỉ giới
hạn trong khâu lập kế hoạch và phân bổ ngân sách, vì trong thực tế thực hiện
Luật Ngân sách phải phân cấp cho UBND cấp huyện quản lý nên phần lớn
cấp tỉnh không giữ được quyền quản lý ngân sách toàn diện như trước. Nhìn
chung, phân cấp quản lý tài chính cho cấp huyện sẽ dẫn đến khó khăn cho
ngành giáo dục trong việc lập kế hoạch phát triểnkhi mà các thông tin ngân
sách giáo dục không được công khai và các đơn vị giáo dục không được tham
gia vào việc lập kế hoạch ngân sách.
86
Ngoài ra, còn có một số khó khăn khác đối với quản lý tài chính hiện nay
là việc thực hiện Luật Ngân sách đòi hỏi các trường cần có đội ngũ kế toán
chuyên nghiệp, có trình độ chuyên môn cao. Hiện nay Phòng Giáo dục và
Đào tạo ở các quận, huyện không trực tiếp quản lý các trường phổ thông
nhưng lại vẫn phải quản lý quỹ lương và thanh quyết toán cho khối này dẫn
đến quá tải trong công việc. Ở khía cạnh khác, các trường phổ thông hiện nay
không biết số kinh phí hoạt động của trường mình được cấp trong năm học là
bao nhiêu nên không có căn cứ để lập kế hoạch.
Bảng 3.5. Khảo sát đánh giá mức độ phân cấp trong quản lý tài chính
trong GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội
Hoàn toàn Phần nào Không có Phần nào Hoàn toàn
đồng ý đồng ý ý kiến không không Câu hỏi* (%) (%) (%) đồng ý (%) đồng ý (%)
Câu hỏi 18 36,4 20,9 19,4 8,3 15,0
Câu hỏi 19 53,0 20,6 14,6 6,3 5,5
* Danh mục các câu hỏi trong phần Phụ lục
Nguồn: Kết quả điều tra xã hội học của tác giả
Đánh giá về thủ tục ngân sách, nhiều ý kiến cho rằng các quy định hiện
hành về phân bổ, cấp phát ngân sách gây khó khăn cho Sở, Phòng Giáo dục
và Đào tạo và nhà trường phổ thông (36,4% hoàn toàn đồng ý, 20,9% phần
nào đồng ý; xem bảng 2.3, câu hỏi 18).
Kết quả khảo sát cán bộ quản lý giáo dục ở Sở, Phòng Giáo dục và Đào
tạo; Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng, giáo viên các trường phổ thông về mức độ
tự chủ về các chức năng chuyên môn chính: chương trình, nhân sự và tài
chính của các trường phổ thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội như sau:
87
Bảng 3.6. Mức độ tự chủ về chương trình, nhân sự và tài chính
của các trường phổ thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội
Mức độ Số Nội dung đánh giá Tỷ lệ % đánh giá người
Tự chủ 127 74,71% Quyền tự chủ thực hiện chương trình
Không tự chủ 43 25,29% kế hoạch dạy học
Hoàn toàn 34 20% Mức độ tự chủ trong thực hiện Một phần 120 70,59% chương trình kế hoạch dạy học Rất ít 16 9,41%
Tư chủ 110 64,71% Quyền tự chủ về nhân sự (tuyển
chọn, sử dụng, thuyên chuyển cán Không tự chủ 60 35,29% bộ, giáo viên…)
Hoàn toàn 25 14,71% Mức độ tự chủ trong thực hiện quyền Một phần 123 72,35% tự chủ về nhân sự Rất ít 22 12,94%
Quyền tự chủ về tài chính (huy động, Tự chủ 122 71,76%
quản lý và sử dụng các nguồn tài Không tự chủ 48 28,24% chính, tài sản)
Hoàn toàn 33 19,41% Mức độ tự chủ trong thực hiện quyền Một phần 111 65,29% tự chủ về tài chính Rất ít 26 15,29%
Nguồn: Kết quả điều tra xã hội học của nghiên cứu sinh
Kết quả điều tra cho thấy, các trường phổ thông trên địa bàn Thành phố
hiện nay rất ít được trao quyền tự chủ về thực hiện chương trình kế hoạch dạy
học, quyền tự chủ nhân sự, và quyền tự chủ tài chính.
88
Ba là, thực trạng phân cấp về chuyên môn
Đây là chức năng quản lý GDPT được thực hiện theo hướng tập trung
hoá mạnh mẽ về chính quyền trung ương. Theo Luật Giáo dục 2009 và Nghị
định 127/2018/NĐ-CP:
Bộ Giáo dục và đào tạo ban hành chương trình giáo dục phổ thông; quy
định việc tổ chức biên soạn, thẩm định, phê duyệt được phép sử dụng và
hướng dẫn lựa chọn tài liệu học tập, sách giáo khoa, tài liệu giảng dạy trong
các cơ sở giáo dục phổ thông; Ban hành quy chế thi cử; quy định việc kiểm
tra và đánh giá người học; quy định văn bằng, chứng chỉ trong hệ thống giáo
dục quốc dân và việc công nhận văn bằng do cơ sở giáo dục nước ngoài cấp
cho người Việt Nam. Chủ trì xây dựng hiệp định về tương đương văn bằng
hoặc công nhận lẫn nhau về văn bằng với các nước, tổ chức quốc tế; Ban hành
chuẩn quốc gia đối với cơ sở giáo dục thuộc phạm vi quản lý nhà nước của bộ
theo khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân và khung trình độ quốc gia
Việt Nam; quy định tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục; quy trình và chu
kỳ kiểm định chất lượng giáo dục ở các cấp học và các trình độ đào tạo thuộc
phạm vi quản lý nhà nước của bộ
Ở địa phương, Hội đồng nhân dân quyết định kế hoạch, chương trình,
dự án, chính sách phát triển giáo dục, phân luồng, hướng nghiệp học sinh tại
địa phương phù hợp với chiến lược phát triển ngành giáo dục và kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội của địa phương trên cơ sở trình của UBND. UBND
cấp huyện đáp ứng các điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục, tiến tới tổ
chức học 02 buổi/ngày đối với giáo dục tiểu học, trung học cơ sở; chịu trách
nhiệm giải trình về hoạt động giáo dục, chất lượng giáo dục, quản lý đội ngũ
công chức, viên chức, người lao động và người học, thực hiện chính sách phát
triển giáo dục thuộc phạm vi quản lý.
Trên cơ sở quy định chung đó, việc phân cấp về chuyên môn ở thành phố
Hà Nội được tiến hành như sau:
89
Việc lập kế hoạch phát triển GDPT được thực hiện theo từng bước từ cấp
thấp đến cấp cao (Trường - Phòng-Sở GD&ĐT). Bước đầu tiên, từng trường phổ
thông xây dựng kế hoạch dựa trên cơ sở đánh giá việc thực hiện kế hoạch phát
triển GDPT của năm trước và mục tiêu, nhiệm vụ đề ra cho năm kế hoạch mới.
Bước tiếp theo, Phòng và Sở GD&ĐT là các đơn vị tổng hợp, xem xét điều chỉnh
kế hoạch để hoàn thiện và bước cuối cùng, các ngành chức năng (Sở Nội vụ, Sở
Kế hoạch-Đầu tư và Sở Tài chính) xem xét, điều chỉnh kế hoạch và tham mưu
trình UBND Thành phố phê duyệt.
Kết quả điều tra cho thấy, quy trình lập kế hoạch phát triển GDPT hiện nay
được thực hiện từ cấp thấp đến cấp cao: Trường - Phòng - Sở GD&ĐT (73% hoàn
toàn đồng ý; 11,4% phần nào đồng ý; xem bảng 2.1, câu hỏi 6).
Trong thực tế, việc lập kế hoạch phát triển GDPT tại nhiều trường còn mang
tình hình thức do việc lập kế hoạch tại các trường thường là chậm và nhiều khi số
liệu chênh lệch với số liệu của Sở Giáo dục và Đào tạo nên Sở Giáo dục và Đào
tạo thường phải chủ động lập kế hoạch phát triển GDPT cho cả Thành phố để kịp
phê duyệt cho năm học mới (46,4% đồng ý so với 40,4% không đồng ý; xem bảng
2.1, câu hỏi 5). Vì vậy, trong nhiều trường hợp kế hoạch phát triển GDPT được
phê duyệt chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế. Trong khâu lập kế hoạch, ngành
giáo dục thường gặp khó khăn do nhiều văn bản hướng dẫn từ Bộ Giáo dục và
Đào tạo về lập kế hoạch còn chưa cập nhật với thực tiễn, nhất là cơ chế phối hợp
giữa cơ quan quản lý giáo dục và các cơ quan chức năng của các quận, huyện,
thành phố chưa rõ ràng.
Trách nhiệm thực hiện kế hoạch GDPT được đánh giá là đã gắn với quyền
hạn về nhân sự (46,6% hoàn toàn đồng ý, 25,6% phần nào đồng ý; xem bảng 2.1,
câu hỏi 7); gắn với quyền hạn về nhân sự (49,4% hoàn toàn đồng ý, 28,3% phần
nào đồng ý; xem bảng 2.1, câu hỏi 8).
90
Bảng 3.7. Khảo sát đánh giá mức độ phân cấp trong kế hoạch phát triển
GDPT, xây dựng nội dung, chương trình GDPT
Hoàn toàn Phần nào Không có Phần nào Hoàn toàn
đồng ý đồng ý ý kiến không không Câu hỏi* đồng ý (%) đồng ý (%) (%) (%) (%)
20.8 25,6 13,2 12,8 27,6 Câu hỏi 5
73,2 11,4 4,7 5,9 4,7 Câu hỏi 6
46,6 25,6 9,8 13,0 5,0 Câu hỏi 7
49,4 28,3 4,7 13,0 4,6 Câu hỏi 8
65,5 20,2 6,3 4,3 3,7 Câu hỏi 9
53,6 18,8 12,8 4,0 10,8 Câu hỏi 10
52,6 23,9 6,3 10,8 6,4 Câu hỏi 11
43,8 10,9 5,6 8,7 31,0 Câu hỏi 12
59,0 17,9 10,0 9,2 4,0 Câu hỏi 13
* Danh mục các câu hỏi trong phần Phụ lục
Nguồn: Kết quả điều tra xã hội học của nghiên cứu sinh
Việc xây dựng nội dung, chương trình GDPT hiện nay đã thể hiện trách
nhiệm tham gia của cán bộ quản lý giáo dục, tuy nhiên còn thiếu cơ chế quy
định trách nhiệm để cán bộ quản lý giáo dục tham gia xây dựng sách giáo
khoa (65,5% nhất trí so với 20,2% không nhất trí; xem bảng 2.1, câu hỏi 9).
Về biên soạn sách giáo khoa, nhiều ý kiến cho rằng còn thiếu cơ chế để
cán bộ quản lý giáo dục các cấp có trách nhiệm tham gia xây dựng sách giáo
khoa (53,6% hoàn toàn đồng ý, 18,8% phần nào đồng ý; xem bảng 2.1, câu
10). Các ý kiến trả lời đều cho rằng, thành lập Hội đồng biên soạn sách giáo
khoa cần có sự tham gia rộng rãi của các chuyên gia ở địa phương nhằm nâng
cao chất lượng và gắn với thực tiễn của địa phương.
91
Về thiết bị dạy học, một số ý kiến cho rằng đã có quy định tương đối rõ
về trách triệm của từng cấp quản lý giáo dục (Bộ, Sở, Phòng) trong xây dựng
danh mục các thiết bị dạy học, thẩm định mẫu, mua sắm, cung cấp, sử dụng,
quản lý trang thiết bị dạy học (43,8% đồng ý so với 31% không đồng ý; xem
bảng 2.1, câu hỏi 12).
Nhiều ý kiến cho rằng, cần cho các trường phổ thông quyền tự mua sắm
tài liệu, trang thiết bị dạy học bằng nguồn kinh phí của nhà trường. Một số ý
kiến cho rằng, ngân sách đầu tư cho sách giáo khoa, trang thiết bị dạy học
hiện nay quá ít (chiếm 0,5 - 1%) và cần nghiên cứu tăng kinh phí cho các
hạng mục này lên 3% - 4% đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng GDPT.
Đánh giá chất lượng GDPT, nhiều ý kiến cho rằng các văn bản pháp luật
của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có quy định cụ thể về trách nhiệm đánh giá
chất lượng GDPT giữa các cấp quản lý (52,6% hoàn toàn đồng ý, 23,9% phần
nào đồng ý; xem bảng 2.1, câu hỏi 11) và sự phân công trách nhiệm giữa các
cấp quản lý trong việc ra đề thi, coi thi, chấm thi, duyệt kết quả thi là hợp lý
(59% hoàn toàn đồng ý, 17,9% phần nào đồng ý; xem bảng 2.1, câu hỏi 13).
Nhiều ý kiến cho rằng việc quản lý chất lượng GDPT nên quy về một mối là
Sở Giáo dục và Đào tạo; phân cấp tổ chức thi và cấp bằng tốt nghiệp PHTH
và THCS giao cho Sở Giáo dục và Đào tạo, Phòng Giáo dục và Đào tạo tổ
chức kiểm tra, đánh giá và cấp giấy chứng nhận cho khối Trung học vì hiện
nay Phòng Giáo dục và Đào tạo không đủ nhân lực để thực hiện đánh giá
chuyên môn.
3.2.2. Đánh giá chung về thực trạng phân cấp quản lý nhà nước về giáo
dục phổ thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội
3.2.2.1. Những kết quả đạt được
Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, trong những năm qua công tác
quản lý nhà nước về GDPT ở nước ta đã có nhiều đổi mới. Tư duy quản lý
nhà nước chuyển từ kế hoạch hóa tập trung quan liêu sang phân cấp, tự chủ và
92
tự chịu trách nhiệm. Phương thức quản lý chuyển từ một chiều, theo quan hệ
dọc từ trên xuống sang quan hệ tương tác dọc - ngang đa chiều, lấy đơn vị cơ
sở làm trung tâm. quản lý nhà nước về GDPT đương nhiên cũng phải vận
hành theo cơ chế vận hành mới. Đổi mới quản lý nhà nước về GDPT phải
chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu sang cơ chế thị trường có sự phân cấp,
tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm và lấy nhà trường làm cơ sở.
Nhìn chung, các quy định về phân cấp quản lý nhà nước về GDPT đã kế
thừa có chọn lọc các quy định phân cấp quản lý của các bậc học khác trong hệ
thống giáo dục quốc dân, do đó phân cấp phân cấp quản lý nhà nước về
GDPTvề cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong quản lý nhà nướcvề
giáo dục của địa phương.
Phân cấp phân cấp QLNN về GDPT đã kết hợp các nội dung về phân cấp
trong quản lý chuyên môn, quản lý nhân sự, quản lý tài chính. Các quy trình
công việc đã được thực hiện đúng nguyên tắc, đảm bảo hoạt động quản lý
giáo dục được diễn ra đúng kế hoạch, đáp ứng được nhu cầu quản lý.
Việc thực hiện các quy định về phân cấp QLNN về GDPT đã đáp ứng
được yêu cầu, nhiệm vụ cải cách hành chính Nhà nước, cải cách giáo dục, bảo
đảm nguyên tắc tập trung dân chủ và nguyên tắc kết hợp giữa quản lý theo
ngành và quản lý theo lãnh thổ.
Phân QLNN về GDPT bước đầu đã phát huy tính năng động, tự chủ, tự
chịu trách nhiệm của các cơ quan quản lý giáo dục và các trường phổ thông, góp
phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan, đơn vị giáo dục.
Chính quyền thành phố Hà Nội đã quản lý thống nhất đối với các cơ sở
GD&ĐT, tạo điều kiện để các cơ sở đó cùng phát triển ổn định, lâu dài; bảo
đảm lợi ích của từng cá nhân, tập thể và toàn xã hội; phân cấp quản lý, gắn
quyền hạn với trách nhiệm của từng cấp quản lý nhà nước về giáo dục, của
tập thể và cá nhân người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước các cấp;
gắn phân cấp nhiệm vụ với phân cấp quản lý về tài chính, tổ chức nhân sự và
bảo đảm các điều kiện vật chất khác.
93
Tách bạch quản lý nhà nước ra khỏi việc điềuhành công việc thường
xuyên của cơ sở. Một mặt trao cho cơ sở giáo dục đầy đủ quyền tự chủ và
trách nhiệm; mặt khác bảo đảm quyền sở hữu và vai trò của đại diện chủ sở
hữu trong các cơ sở giáo dục công lập và ngoài công lập.
3.2.2.2. Những hạn chế
Một là, những bất cập trong phân cấp về tổ chức bộ máy, nhân sự quản
lý nhà nước về giáo dục phổ thông và nhân sự
Kết quả khảo sát thực trạng về tổ chức bộ máy quản lý đối với GDPT
trên địa bàn Thành phố cho thấy, một số điểm còn bất cập và chưa thống nhất
trong hệ thống quản lý. Các biểu hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất, phân cấp về tổ chức bộ máy quản lý nhà nước
Chức năng, nhiệmvụ của các cơ quan quản lý giáo dụctrên địa bàn thành
phố Hà Nội chưa đi đôi với quyền hạn. Các cơ quan quản lý giáo dục địa
phương phải gánh trọng trách nặng nề trong việc triển khai các chính sách,
chương trình giáo dục trên địa bàn. Để thực hiện được các chức năng, nhiệm
vụ này một cách hiệu quả các cơ quan quản lý giáo dục địa phương phải phải
có các quyền hạn nhất địnhtrong việc huy động, bố trí sử dụng nhân sự, cũng
như trong việc huy động, phân bổ các nguồn tài chính kịp thời và phù hợp với
mục đích công việc triển khai. Kết quả điều tra cho thấy, các cơ quan quản
lýgiáo dục địa phương chưa được trao quyền hạn phù hợp với chức năng,
nhiệm vụ, nhất là các quyền hạn trong vấn đề nhân sự và tài chính.
Một số văn bản pháp quy về phân cấp quản lý nhà nước về GDPT có quy
định, quản lý nhà nước về GDPT không chỉ do các cơ quan quản lý về giáo
dục thực hiện mà các cơ quan, tổ chức khác cũng có trách nhiệm tham gia, tuy
nhiên ai chịu trách nhiệm về vấn đề gì, chịu trách nhiệm đến đâu vẫn chưa có
quy định cụ thể. Khi chưa xác định được rõ ràng chức năng, nhiệm vụ và
quyền hạn của từng cơ quan, tổ chức thì không thể xác định được cơ cấu tổ
chức bộ máy hợp lý và cũng không thể xác đinh được biên chế, nhân sự, trình
độ của đội ngũ cán bộ cần có để thực hiện nhiệm vụ.
94
Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý giáo dục thành phố Hà Nội chưa theo kịp
sự phát triển của GDPT, có những mảng công việc mới chưa có bộ máy quản
lý. Bộ máy quản lý giáo dục trên địa bàn Thành phố chưa bao quát hết các
mảng công việc mới phát sinh. Trong những năm gần đây, chức năng nhiệm
vụ của các cơ quan quản lý giáo dục có nhiều thay đổi theo nội dung phân
cấp, nhiều công việc quản lý mới phát sinh, ví dụ như việc đưa tin học vào
các trường phổ thông, sử dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy, kiểm tra
đánh giá; triển khai hàng loạt các dự án cấp tiểu học, THCS; phổ cập
GDPT… Trên địa bàn Thành phố hiện nay cơ cấu tổ chức bộ máy vẫn chưa
theo kịp tìnhhình, chưa có đủcác bộ phận quản lý các mảng công việc mới.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý giáo dục trong
mối quan hệ với các cơ quan chức năng chưa được quy định hợp lý. Theo các
văn bản phân cấp quản lý, chức năng quản lý GDPT hiện nay bị chia cắt
thành nhiều phần việc cho các cơ quan quản lý khác nhau phối hợp thực hiện.
Tuy nhiên, bản chất của sự phối hợp nàynhư thế nào lại chưa có quy định cụ
thể. Hiệu quả quản lý GDPT trong các trường hợp này chủ yếu dựa vào sự
điều hành của lãnh đạo Thành phố và vào khả năng phối hợp tự phát của cơ
quan quản lý GDPT với các cơ quan chức năng khác.
Do phân cấp QLNN về GDPT chưa rõ nên sự phối hợp giữa các cơ quan,
tổ chức chưa thật hiệu quả.
Thứ hai, về quản lý nhân sự
Việc UBND Thành phố giao cho Sở Nội vụ quyền phê duyệt biên chế
và tuyển dụng nhân sự cho GDPTlà một bất cập. Cũng như hầu hết các tỉnh
thành phố khác, việc ngành giáo dục (đặc biệt là Phòng Giáo dục) không được
giao nhiệm vụ chủ trì, đầu mối tham mưu cho UBND cùng cấp trong tuyển
dụng giáo viên nên không chủ động được trong việc điều tiết cơ cấu, số lượng
theo môn học, cấp học. Do không nắm được các yêu cầu của các trường phổ
thong nên cơ cấu cán bộ quản lý giáo dục không sát với yêu cầu, chất lượng
không đảm bảo, không đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.
95
Có những nơi, ngành giáo dục thậm chí không được tham mưu, không
có sự phối hợp giữa ngành nội vụ và giáo dục. Đây là một trong những lý do
của tình trạng việc tuyển dụng không sát với thực tế, tạo ra nghịch lý thừa –
thiếu cục bộ như vừa qua tại một số địa phương [87].
Về tuyển chọn, đề bạt cán bộ quản lý GDPT.
Quá trình điều hành, quản lý gặp nhiều khó khăn xuất phát từ Thông tư
liên tịch số 11/2015/TTLT-BGD ĐT-BNV giữa Bộ Nội vụ và Bộ Giáo dục và
Đào tạo về phân cấp quản lý đối với lĩnh vực giáo dục. Theo Thông tư liên
tịch này thì cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên ngành giáo dục là do Phòng
Nội vụ quyết định nhưng chưa phân rõ quyết định những nội dung gì. Vì
Thông tư không quy định phù hợp, cụ thể nên có tình trạng có quận, huyện,
phó trưởng phòng GD&ĐT mới được bổ nhiệm hay giáo viên được tuyển về
các trường phổ thông mà Trưởng phòng GD&ĐT không hề hay biết.Ngành
GDPT có quá ít quyền hạn trong việc bổ nhiệm cán bộ quản lý của ngành,
nhất là hiệu trưởng, hiệu phó các nhà trường phổ thông.
Nhìn chung, phân định chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm chưa rõ ràng,
thiếu sự thống nhất giữa các cơ quan tham gia quản lý nhà nước về GDPT dẫn
đến tình trạng quản lý chồng chéo, thủ tục hành chính rườm rà. Việc chỉ đạo đối
với GDPT thiếu tập trung và chưa sâu sát, dẫn đến chậm trễ trong thực hiện công
việc, ảnh hưởng tới chất lượng GDPT.
Không thống nhất cơ cấu tổ chức và định biên của Sở Giáo dục và Đào
tạo và các Phòng Giáo dục và Đào tạo. Định biên của các Phòng Giáo dục và
Đào tạo quá thấp, không đủ cán bộ chuyên môn để chỉ đạo, điều hành nên
nhiều Phòng Giáo dục và Đào tạo đã phải sử dụng cả đội ngũ giáo viên tham
gia vào công tác quản lý, làm nảy sinh nhiều bất cập trọng chế độ chính sách,
ảnh hường đến chất lượng và hiệu quả quản lý GDPT.
Không thống nhất trong chỉ đạo giữa các phòng ban trong SởGiáo dục và
Đào tạo; giữa Phòng Tổ chức cán bộ với Phòng Giáo dục Tiểu học và Trung
96
học đã gây ra không ít khó khăn cho cấp dưới trong quá trình tổ chức thực
hiện nhiệm vụ.
Hai là, những hạn chế trong phân cấp về chuyên môn
Quản lý chuyên môn đối với GDPT hiện đang là vấn đề được nói đến
nhiều vì đã đến lúc phải có những cải cách từ tầm vĩ mô, như cách tiếp cận
mục tiêu, quan điểm và phương thức phát triển chương trình GDPT đến
những vấn đề cụ thể, như biên soạn sách giáo khoa, đổi mới nội dung, phương
pháp dạy học hay tin học hóa nhà trường,... Những vấn đề nổi cộm trong lĩnh
vực này được thể hiện khá phổ biến và đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất
lượng GDPT trên địa bàn Thành phố. Dưới đây là một số bất cập cụ thể:
Bản chất tập trung của chương trình GDPT là nhằm đáp ứng nhu cầu
phát triển của quốc gia và các địa phương. Hiện nay giáo viên các trường phổ
thông phải thực hiện trong khung thời gian cứng do Bộ Giáo dục và Đào tạo
quy định. Khung thời gian này chỉ đủ để giáo viên truyền tải kiến thức, không
có thời gian dành cho những hoạt động khác của học sinh. Chương trình
GDPT tập trung chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển toàn diện của học sinh,
chưa phù hợp với địa phương và chưa cho phép giáo viên quan tâm tới các
đối tượng học sinh khác nhau.
Thực tế GDPT trên địa bàn Thành phố cho thấy chương trình GDPT hiện
nay quá nặng, không thiết thực. Học sinh phải học nhiều kiến thức hàn lâm,
xa rời thực tế, không thật cần thiết. Tuy vậy, Sở Giáo dục và Đào tạo cũng
như các trường phổ thông trên địa bàn không thể thay đổi chương trình vì
chương trình GDPT hiện nay do Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định. Cán bộ
quản lý GDPT và giáo viên chưa được tham gia nhiều vào quá trình xây dựng
chương trình. Rõ ràng việc áp dụng chung một chương trình GDPT cho đối
tượng học sinh ở Thủ đô cũng giống như học sinh các tỉnh miền núi, hải đảo,
vùng sâu, vùng xa là không phù hợp. Bởi lẽ học sinh Thủ đô có điều kiện để
tiếp cận nhiều tri thức mới, hội nhập quốc tế, về cơ bản trình độ ngoại ngữ và
tin học khá tốt, nhu cầu, mong muốn và định hướng học tập cũng khác học
sinh các tỉnh thành khác.
97
Quản lý chuyên môn và phân phối chương trình GDPT còn cứng nhắc,
xa rời thực tế làm hạn chế sự chủ động, sáng tạo của các trường phổ thông.
Chỉ đạo của Bộ và Sở Giáo dục và Đào tạo còn mang tính áp đặt, chưa phù
hợp với thực tiễn của Thành phố.
Việc kiểm tra các hoạt động chuyên môn của các trường phổ thông hiện
nay còn mang tính hình thức, chưa thực chất, dễ gây ra tình trạng thực hiện
kiểu đối phó, chỉ nhằm đáp ứng yêu cầu của các đoàn kiểm tra hay thi đua vì
vậy đã không mang lại hiệu quả thiết thực.
Ba là, những hạn chế trong phân cấp về quản lý cơ sở vật chất, tài chính
Trong công tác quản lý tài chính, quy trình xây dựng và phê duyệt ngân
sách GDPT cũng gây nhiều khó khăn cho ngành giáo dục. Phân bổ ngân sách,
cấp phát tài chính phụ thuộc nhiều vào mức độ phối hợp hay mối quan hệ của
ngành giáo dục với các ngành chức năng. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của cơ quan quản lý giáo dục trên địa bàn thành phố Hà Nội còn chồng chéo
với các cơ quan chức năng khác. Những chồng chéo trách nhiệm có thể thấy
qua quản lý ngân sách và tài chính của ngành giáo dục. Về quản lý tài chính,
vai trò quyết định việc tham mưu phân bổ và quản lý tài chính đối với
GDPTchủ yếu thuộc về Sở Tài chính. Các cơ quan quản lý giáo dục tuy có
tham gia song chủ yếu với vai trò đề xuất, kiến nghị, ít có tác dụng. Chính vì
thế nhiều quận, huyện Phòng Tài chính không phối hợp chặt chẽ với Phòng
Giáo dục và đào tạo dẫn đến việc cấp phát kinh phí không kịp thời, gây khó
khăn cho các cơ sở giáo dục.
Theo quy trình cấp phát ngân sách thì kinh phí GDPT được cấp phát trực
tiếp từ cơ quan tài chính. Điều này dẫn đến việc kinh phí cho GDPT bị chậm
trễ hoặc dễ bị cắt xén để chi cho các mục tiêu phát triển khác của địa phương.
Ngoài ra, còn có một số khó khăn khác, như: Việc thực hiện Luật Ngân sách
nhà nước đòi hỏi các trường phổ thông cần có đội ngũ kế toán chuyên nghiệp,
nhưng phần lớn kế toán ở các trường phổ thông trên địa bàn Thành phố hiện
98
nay là kiêm nhiệm hoặc trình độ không đạt chuẩn quy định; Nhiều nơi Phòng
GD&ĐT không quản lý các trường phổ thông, nhưng lại quản lý quỹ lương và
thanh toán, quyết toán cho khối này dẫn đến quá tải trong công việc; GDPT
thường không biết trước tổng kinh phí hoạt động của mình theo năm (trừ quỹ
lương) nên khó lập kế hoạch phát triển GD...
Việc chi phải được thực hiện theo các định mức quy định nhưng các định
mức này lại thường lạc hậu, không phù hợp với những diễn biến của giá cả thị
trường. Nhiều khoản chi của nhà trường không được thanh toán do không nằm
trong danh mục các khoản chi theo quy định hoặc những khoản phát sinh nằm
ngoài dự toán. Ngân sách được duyệt thường ít hơn nhiều so với nhu cầu để đảm
bảo các mục tiêu đăng ký trong kế hoạch hàng năm của các trường làm ảnh
hưởng tới khả năng thực hiện các mục tiêu đề ra trong kế hoạch, nhất là các mục
tiêu về nâng cao chất lượng GDPT trên địa bàn Thành phố.
Việc huy động thêm các nguồn lực ngoài ngân sách được cấp cho các
trường phổ thông hiện nay còn hạn chế. Nguồn ngoài ngân sách mà các
trường có thể huy động dễ dàng nhất là học phí thì lại không được tự quyết
định mà phải dựa trên quyết định của UBND Thành phố.
Việc phân bổ ngân sách GDPT cho các địa phương hiện nay chưa dựa
trên các tiêu chí khoa học, mang tính cào bằng, mà dựa trên quy mô dân số
của các quận, huyện, không đảm bảo sự công bằng giữa các địa phương, đang
dựa trên dân số ở các độ tuổi đi học căn cứ quản lý hộ khẩu. Trong khi đó
thành phố Hà Nội, người dân ở các khu vực tỉnh thành khác đổ về với quá
trình di dư, đô thị hoá rất nhiều. Như vậy mức phân bổ ngân sách không còn
phù hợp với thực tế. Mặt khác,nhiều năm nay, tỷ lệ ngân sách cả nước cho
giáo dục hằng năm ở mức xấp xỉ 20%, tuy nhiên việc vận hành tài chính cho
ngành giáo dục còn nhiều bất cập. Cụ thể, về cơ chế quản lý ngân sách dành
cho giáo dục, đào tạo được phân cấp mạnh theo chiều dọc, cho các địa
phương và theo chiều ngang cho các bộ, ngành. Trong tổng chi ngân sách nhà
99
nước cho giáo dục thì ngân sách địa phương trực tiếp, quản lý sử dụng chiếm
tỷ trọng 89%, ngân sách do các bộ, ngành trung ương quản lý là 11%, trong
đó Bộ Giáo dục – đào tạo chỉ trực tiếp sử dụng, quản lý sử dụng gần 5%.[88]
Tuy nhiên cả Chính phủ, Bộ Tài Chính, Bộ Kết hoạch và đầu tư, Bộ Giáo dục
và đào tạo không giám sát được dòng tiền phân cấp cho thành phố được quản
lý, sử dụng ra sao và hiệu quả thế nào.
3.2.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế
Nhìn vào thực tế hiện nay GDPT ở nước ta vẫn ở giai đoạn “giao thời”
giữa mô hình quản lý cũ và mô hình quản lý mới. Phương thức quản lý về cơ
bản vẫn mang tính áp đặt từ ttên xuống, chưa phát huy được tính chủ động,
sáng tạo của đơn vị cơ sở. Về phía các cấp quản lý nhà nước về GDPT cấp
trên, trường phổ thông vẫn được coi là đơn vị thực hiện, chịu trách nhiệm thi
hành các mệnh lệnh hành chính và các quy định được truyền đạt từ cơ quan
quản lý nhà nước về GDPT cấp trên, việc lắng nghe, chia sẻ với đơn vị cơ sở
còn mang tính hình thức. Về phía các nhà trường, đa số cán bộ quản lý nhà
nước về GDPT chưa được đào tạo có hệ thống về quản lý nhà nước, làm việc
dựa vào kinh nghiệm cá nhân, tính chuyên nghiệp chưa cao. Năng lực điền
hành, quản lý của một bộ phận cán bộ quản lý nhà nước về GDPT còn bất cập
trong công tác tham mưu, xây dựng chính sách, chỉ đạo, tổ chức thực hiện và
thực thi công vụ. Kiến thức về pháp luật, về tổ chức bộ máy, về quản lý nhân
sự, nhất là về quản lý tài chính còn nhiều hạn chế dẫn đến hạn chế trong thực
thi trách nhiệm và thẩm quyền, đặc biệt khi được Nhà nước phân quyền tự
chủ, tự chịu trách nhiệm.
Những hạn chế trong phân cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn
Thành phố Hà Nội xuất phát từ các nguyên nhân chính sau đây:
Thứ nhất, nhận thức, quan điểm về các chủ trương, giải pháp phân cấp
quản lý nhà nước về GDPT giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo và chính quyền địa
phương các cấp chưa rõ ràng, rành mạch, thiếu sự nhất quán. Không ít người
100
lo ngại phân cấp quản lý mạnh trong GDPT sẽ dẫn đến tình trạng cục bộ,
phân tán, cát cứ, mất tập trung, khó quản lý. Trong tổ chức chỉ đạo thực hiện
các chức năng, nhiệm vụ được phân cấp còn thiếu quyết tâm, từ xây dựng,
ban hành các chương trình, kế hoạch đến tổ chức thực hiện; chưa chú trọng
đến công tác tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm.
Thứ hai, tư duy về quản lý GDPT của ngành giáo dục và các Bộ, ngành,
chính quyền địa phương chậm đổi mới trong điều kiện đã được Nhà nước phân
cấp quản lý nhà nước về GDPT. Chính quyền thành phố và ngành giáo dục Thủ
đô chưa thật sự quan tâm xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ đã được phân cấp.
Thứ ba, những hạn chế trong thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật
về phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông.
Các văn bản pháp quy về phân cấp quản lý nhà nước về GDPT quy định
chưa rõ nên có tình trạng nhiều ban, ngành tham gia vào quản lý GDPT. Điều
này ảnh hưởng nhất định đến hiệu quả quản lý GDPT trên địa bàn.
Bản chất của sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý GDPT trên địa bàn
với các cơ quan quản lý chức năng khác còn chưa được xác định cụ thể đã
gây ra không ít khó khăn trong công tác quản lý GDPT.
Để cho những chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước được nhanh
chóng đi vào cuộc sống, việc nghiên cứu kỹ lưỡng và khoa học để xây dựng
các văn bản pháp quy có tính khả thi là khâu rất quan trọng. Tuy nhiên, thực
tiễn cho ta thấy việc triển khai ở khâu này chưa thực sự khoa học, còn rất
nhiều vấn đề bất cập. Việc ban hành văn bản quy phạm còn thiếu tính hệ
thống, chồng chéo nên đã phải thay đổi nhiều lần. Một số văn bản quy phạm
ban hành chậm, chưa đáp ứng kịp thời với đòi hỏi của thực tiễn hoặc khi được
ban hành thì đã bị lạc hậu và bất cập so với thực tiễn. Sau khi Chính phủ ban
hành các Nghị định có liên quan đến giáo dục, các cơ quan chức năng ban
hành các văn bản hướng dẫn thực hiện các nghị định thường bị chậm.
101
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý giáo dục địa
phương chưa được quy định cụ thể, rõ ràng. Các văn bản quy phạm pháp luật
hiện hành quy định chưa thống nhất chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các
cơ quan quản lý giáo dục. Có văn bản quy định bộ máy quản lý giáo dụcđịa
phương được giao quản lý toàn diện các mặt chuyên môn, tài chính, nhân sự,
nhưng có văn bản lại quy định cơ quan quản lý giáo dục địa phương chỉ quản
lý chuyên môn thuần túy và được giáo them một số chức năng, nhiệm vụ khác
trong quản lý nhân sự, tài chính.
Cho đến nay, vẫn còn thiếu nhiều các văn bản pháp quy chỉ đạo và quản
lý hoạt động quản lý đối với các trường phổ thông: Văn bản quy định cụ thể
về chế độ, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ thư viện, giáo viên giỏi; quy chế
hoạt động của các trường phổ thông chuyên; các văn bản về cộng tác coi thi,
chấm thi, thanh tra đối với GDPT cũng ban hành chậm.
Trong công tác quản lý chuyên môn, chỉ đạo thi và đánh giá xếp loại học
sinh, có nhiều văn bản hướng dẫn và được bổ sung, nhiều nhưng vẫn thiếu
nên cán bộ, giáo viên dễ bị nhầm lẫn khi áp dụng. Có một số văn bản quy
phạm về GDPT nhưng khi đưa vào thực hiện đã phát hiện ra những mâu
thuẫn hoặc không có tính khả thi.
Một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, giáo viên còn chưa hợp lý,
không kịp thời hoặc do ban hành đã quá lâu nhưng vẫn được áp dụng nên
không còn phù hợp với thực tiễn, như các văn bản liên quan chế độ chính sách
thường hay áp dụng mức tiền cố định: Thông tưcủa Bộ Giáo dục và Đào tạo
quy định công tác phí của giáo viên phổ thông; Thông tư về khen thưởng và
kỷ luật học sinh hiện nay không phù hợp với thực tiễn.
Trên địa bàn Thành phố, hệ thống văn bản quản lý chuyên môn đối với
GDPT cũng thiếu thống nhất, các tiêu chí, quy định chưa rõ ràng nên việc
đánh giá chất lượng dạy và học chưa thống nhất giữa các quận, huyện và các
trường phổ thông .
102
Thứ tư, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT đòi hỏi các cơ quan quản lý
GDPT và các trường phổ thông phải có đội ngũ cán bộ, giảng viên có năng
lực để có thể chủ động, sáng tạo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ đã được
phân cấp, nhưng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục và giáo
viên ít được các cơ quan chức năng coi trọng, chưa bám sát yêu cầu đổi mới,
phân cấp quản lý, chất lượng các khóa đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, giáo viên
thường không thiết thực, chất lượng không cao.Chất lượng của cán bộ quản lý
GDPT ở các quận, huyện còn hạn chế, lung túng trong giải quyết công việc,
chưa đáp ứng tốt các chức năng, nhiệm vụ được phân cấp. Năng lực quản lý,
điều hành của một bộ phận cán bộ quản lý GDPTtrên địa bàn Thành phố, nhất
là ở các huyện ngoại thành còn thấp, chưa có nhiều kinh nghiệm. Công tác
tham mưu, xây dựng chính sách, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ thường
chậm, hiệu quả đạt thấp. Nhiều cán bộ quản lý GDPT còn hạn chế về trình độ
ngoại ngữ và khả năng sử dụng công nghệ thông tin.
Thứ năm, phân cấp QLNN về GDPT thường phải đi đôi với tăng cường
công tác thanh tra, kiểm tra GDPT, nhưng trong hệ thống quản lý GDPT ở
nước ta nói chung và trên địa bàn Thành phố Hà Nội nói riêng công tác thanh
tra, kiểm tra, đánh giá đang là khâu yếu, chưa đáp ứng tốt yêu cầu quản lý
chất lượng GDPT. Mặc dù, trong thời gian qua Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tập
trung khá nhiều nguồn lực nhằm cải thiện hiện trạng trên nhưng cho đến nay
vẫn còn một số hạn chế:
Công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý các vi phạm trong thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ được phân cấp chưa kịp thời, một vài cơ sở GDPT lợi
dụng những chức năng, nhiệm vụ được phân cấp vi phạm các quy định của
pháp luật. Công tác thanh tra, kiểm tra các cơ quan quản lý GDPT và các
trường phổ thông thực hiện chưa thường xuyên, còn mang tính hình thức. Đội
ngũ thanh tra chuyên ngành chưa đủ về số lượng và đảm bảo chất lượng.
Nguyên nhân chủ yếu là do phần lớn trong số đó chưa được đào tạo bài bản
và thường là sử dụng thanh tra viên kiêm nhiệm. Đồng thời, các tiêu chuẩn
103
lựa chọn để bổ nhiệm cán bộ thanh tra chưa gắn chặt với các yêu cầu về kiến
thức, kỹ năng đặc thù của công tác thanh tra giáo dục.
Thiếu các điều kiện đảm bảo để thực hiện nhiệm vụ. Cụ thể là: 1)
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, cán bộ thanh tra, kiểm tra phải đi lại rất
vất vả nhưng vẫn chưa có chính sách hỗ trợ cụ thể nào; 2) việc cung cấp
thông tin cần thiết từ cơ quan quản lý GDPT các cấp để hỗ trợ hoạt động
thanh tra, kiểm tra, đánh giá còn thiếu và chưa kịp thời; 3) việc kiểm soát chất
lượng học tập của học sinh chủ yếu bằng cách quản lý hành chính các kỳ thi
quốc gia tốt nghiệp THPT nên việc kiểm soát chất lượng quá trình giáo dục
còn rất hạn chế.
104
Tiểu kết chương 3
Chương 3 luận án đã triển khai nghiên cứu những nội dung sau:
Khái quát tình hình thành phố Hà Nội và tình hình giáo dục phổ thông
trên địa bàn thành phố Hà Nội. Với vị trí là Thủ đô, trung tâm văn hoá giáo
dục kinh tế chính trị của cả nước, cùng với hệ thống văn bản pháp luật chuyên
biệt (Luật Thủ đô) rõ ràng việc phân cấp QLNN về GDPT là cần thiết để đẩy
mạnh chất lượng GDPT.
Những năm qua, thực trạng phân cấp quản lý nhà nước về GDPT trên
địa bàn Thành phố Hà Nội đã đạt được những kết quả quan trọng, tạo ra sự
chuyển biến rõ rệt trong công tác quản lý nhà nước về GDPT. Chính quyền
thành phố đã chú trọng phân cấp trên cả 3 lĩnh vực: tổ chức, bộ máy; chuyên
môn (lập kết hoach, xây dựng nội dung chương trình và đánh giá chất lượng
giáo dục)và cơ sở vật chất và tài chính, tuân thủ theo quy định của Luật Giáo
dục và Nghị định 127/2018/NĐ-CP:
Tuy nhiên, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn Thành phố
đước triển khai thực hiện chưa lâu nên không tránh khỏi những tồn tại, hạn
chế. Theo các văn bản phân cấp quản lý, chức năng quản lý GDPT hiện nay bị
chia cắt thành nhiều phần việc cho các cơ quan quản lý khác nhau phối hợp
thực hiện. Tuy nhiên, hiệu quả quản lý GDPT trong các trường hợp này chủ
yếu dựa vào sự điều hành của lãnh đạo Thành phố và vào khả năng phối hợp
tự phát của cơ quan quản lý GDPT với các cơ quan chức năng khác.
Sở Giáo dục và đào tạo là cơ quan giúp việc cho UBND thành phố Hà
Nội trong quản lý nhà nước về GDPT nhưng quyền hạn chưa tương xứng với
nhiệm vụ còn phụ thuộc rất lớn vào các cơ quan ban ngành có liên quan. Về
nhân sự, bộ máy vai trò chủ trì, đầu mối tham mưu cho UBND cùng cấp là Sở
Nội vụ. Về quản lý tài chính, vai trò quyết định về phân bổ và quản lý tài chính
đối với GDPTchủ yếu thuộc về Sở Tài chính. Các cơ quan quản lý giáo dục tuy
có tham gia song chủ yếu với vai trò đề xuất, kiến nghị, ít có tác dụng. Về
105
chuyên môn Sở Giáo dục và Phòng Giáo dục chịu sự chi phối về chuyên môn
của Bộ Giáo dục và đào tạo về chương trình, sách giáo khoa... Các đơn vị
trường học phổ thông cũng chưa được trao quyền tương xứng với nhiệm vụ
giáo dục.
Những hạn chế trong phân cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn
Thành phố xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có các nguyên
nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan như: nhận thức về các chủ trương,
giải pháp phân cấp quản lý nhà nước về GDPT giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo
và chính quyền địa phương các cấp chưa rõ ràng, rành mạch, thiếu sự nhất
quá; bất cập trong văn bản pháp luật hiện hành; năng lực của đội ngũ cán bộ
công chức, hạn chế công tác thanh tra, kiểm tra. Phân tích thực trạng và tìm
hiểu nguyên nhân của những hạn chế là cơ sở để nghiên cứu sinh đề xuất
phương hướng và các giải pháp đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước về
GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội trong những năm tới.
106
Chương 4
QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG
PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
4.1. Quan điểm và định hướng tăng cường phân cấp quản lý nhà nước về
giáo dục phổ thông
4.1.1. Quan điểm tăng cường phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ
thông
Để đẩy mạnh cải cách hành chính, đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế cần phải đổi mới, tăng
cường phân cấp quản lý nhà nước nói chung, phân cấp QLNN về GDPT nói
riêng. Trong những năm qua, Chính phủ và các cơ quan hữu quan đã có nhiều
giải pháp tích cực để tăng cường phân cấp phân cấp quản lý đối với GDPT.
Tuy nhiên, quá trình phân cấp QLNN đối với GDPT trong thời gian qua xét
về tổng thể chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, vẫn còn những hạn chế,
bất hợp lý. Nguyên nhân được xác định là nhận thức của cán bộ, công chức về
phân cấp phân cấp quản lý đối với GDPT chưa đầy đủ; chưa có các cơ chế,
chính sách phù hợp cho việc phân cấp quản lý; các nguồn lực để thực hiện
còn hạn chế.
Việc chuyển giao các nhiệm vụ, quyền hạn trong quản lý nhà nước về
GDPT chỉ có thể được tiến hành một khi thẩm quyền và trách nhiệm của cấp
chuyển giao và cấp được chuyển giao đã được xác định rõ ràng. Vì vậy, bản
thân quản lý nhà nước về GDPT phải hàm chứa nội dung phân định thẩm
quyền của từng cấp hay nói cách khác, phân định thẩm quyền là tiền đề cho
việc chuyển giao nhiệm vụ, quyền hạn hoặc rộng hơn nữa, điều chỉnh khối
lượng nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà nước về GDPT cho phù hợp với khả
năng và điều kiện thực tế của mỗi cấp chính quyền.
107
Do đó, có thể hiểu phân cấp là một hình thức phân định thẩm quyền
QLNN giữa các cấp chính quyền. Quan điểm này được thể hiện tại khoản 1,
Điều 11 Luật tổ chức chính quyển địa phương năm 2015: “Nhiệm vụ, quyền
hạn của chính quyền địa phương các cấp được xác định trên cơ sở phân định
thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương và của
mỗi cấp chính quyền địa phương theo hình thức phân quyền, phân cấp”.
Phân cấp quản lý nhà nước về GDPT nhằm phát huy tính năng động,
sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương các
cấp trên cơ sở phân định rõ, cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mỗi
cấp trong bộ máy chính quyền nhà nước, bảo đảm sự quản lý tập trung, thống
nhất và thông suốt, tăng cường kỷ luật kỷ cương hành chính để nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước về GDPT, phục vụ tốt hơn nhu cầu và lợi ích
của nhân dân, thúc đẩy phát triển GDPT ở từng địa phương trong điều kiện
chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Phân cấp quản lý nhà nước về GDPT cần phải căn cứ vào các quan điểm
sau đây để mang lại hiệu quả cao. Các quan điểm đó là:
Một là, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT phải phù hợp với trình độ
phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Hà Nội trong từng giai đoạn, đặc thù,
điều kiện và khả năng phát triển của từng địa phương; với từng loại hình đô
thị, nông thôn, với xu thế hội nhập khu vực và quốc tế. Trong thời gian tới,
Hà Nội sẽ thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND cấp phường trong nhiệm
kỳ 2021-2026 với 177 phường thuộc 12 quận và thị xã Sơn Tây.
Hai là, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT phải đảm bảo quan điểm đáp
ứng yêu cầu hiệu quả QLNN. Hiệu quả quản lý nhà nước về GDPT là hiệu quả
tổng hợp, hiệu quả kinh tế gắn với hiệu quả xã hội. Quan điểm này nhấn mạnh,
cấp nào giải quyết kịp thời các chức năng, nhiệm vụ và cung cấp dịch vụ GDPT
tốt hơn, hiệu quả hơn, đáp ứng tốt các yêu cầu của nhân dân thì giao cho cấp đó
thực hiện. Phân cấp quản lý nhà nước về GDPT phải rõ việc, rõ địa chỉ, rõ trách
nhiệm, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mỗi cấp chính quyền địa phương.
108
Ba là, tuân thủ quan điểm kết hợp chặt chẽ giữa quản lý theo ngành với
quản lý theo lãnh thổ, phân định rõ những nhiệm vụ quản lý nhà nước về
GDPT của các sở, ngành với nhiệm vụ quản lý nhà nước của các cấp chính
quyền địa phương đối với GDPT trên địa bàn.
Bốn là, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT phải bảo đảm tương ứng
giữa nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm với các nguồn lực tài chính, tổ chức,
nhân sự và các điều kiện cần thiết khác để có thể thực hiện được các chức
năng, nhiệm vụ được phân cấp. Phân cấp quản lý nhà nước về GDPT cũng
phải đồng bộ, ăn khớp giữa các ngành, lĩnh vực có liên quan.
Năm là, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT phải đảm bảo thực hiện đầy
đủ quyền và trách nhiệm của chính quyền địa phương các cấp trong việc quyết
định, thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước về GDPT; chính quyền địa
phương các cấp phải chấp hành nghiêm kỷ luật, kỷ cương hành chính, đồng thời
phát huy dân chủ rộng rãi để nhân dân tham gia vào sự nghiệp phát triển GDPT.
Sáu là, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT phải đảm bảo sự đồng bộ
và thống nhất. Phải đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống thể chế,
các văn bản quy phạm pháp luật và cơ chế quản lý; đảm bảo quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm của các trường phổ thông.
Bảy là, đối với những nội dung đã được phân cấp, chính quyền các cấp
chịu trách nhiệm tổ chức triển khai thực hiện; các Sở Giáo dục và Đào tạo có
trách nhiệm hướng dẫn, giám sát và kiểm tra. Nếu phát hiện có vi phạm pháp
luật hoặc trái với quy hoạch, kế hoạch phát triển GDPT đã được phê duyệt thì xử
lý theo thẩm quyền hoặc báo cáo cơ quan nhà nước cấp trên xem xét giải quyết.
4.1.2. Định hướng tăng cường phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ
thông
Từ những bài học kinh nghiệm của các quốc gia đã thực hiện phân cấp
thành công và dựa vào cơ sở lý luận, những định hướng cho việc đẩy mạnh
phân cấp quản lý nhà nước về GDPT bao gồm:
109
Một là, kết hợp tập trung và phân cấp, cũng như các kiểu phân cấp quản
lý nhà nước về GDPT, như phi tập trung hoá, uỷ quyền, trao quyền và xã hội
hóa, đảm bảo quyền hạn đi đôi với trách nhiệm thực hiện và nâng cao quyền
tự chủ cho các trường phổ thông. Cụ thể nên áp dụng mô hình phân cấp cho
các cấp chính quyền địa phương quản lý các trường phổ thông, trong đó Bộ
Giáo dục và Đào tạo tập trung vào chức năng ban hành các văn bản quy phạm
định hướng, hỗ trợ phát triển và kiểm soát hệ thống GDPT; cấp sở Giáo dục
và Đào tạo được trao quyền quản lý các trường THPT, thực hiện các chức
năng hỗ trợ phát triển, kiểm soát hệ thống và đảm bảo chất lượng GDPT ở địa
địa phương; cấp Phòng Giáo dục và Đào tạo quản lý các trường Tiểu học,
THCS và cấp trường phổ thông được tự chủ trong xây dựng kế hoạch, quản lý
đội ngũ cán bộ, giáo viên và ngân sách của nhà trường phù hợp với nhu cầu
và điều kiện của mình.
Hai là, phân cấp quyền ra quyết định cho cấp thực hiện đi đôi với việc
củng cố và xây dựng hệ thống chịu trách nhiệm với kết quả đầu ra. Để xây
dựng một hệ thống chịu trách nhiệm cần tăng cường các mối quan hệ về tính
chịu trách nhiệm giữa nhà quản lý, nhà trường với gia đình và xã hội. Để tăng
cường trách nhiệm cần công khai, minh bạch thông tin, dùng các công cụ
pháp lý và kinh tế để người dân có thể biểu đạt ý kiến và nguyện vọng của
mình vối các cấp quản lý GDPT, khuyến khích cha mẹ học sinh và cộng đồng
cùng chia sẻ công việc quản lý các trường phổ thông thông qua mô hình hội
đồng trường phổ thông. Hệ thống chịu trách nhiệm cũng đòi hỏi sự phân định
rõ ràng quyền hạn và trách nhiệm của các bên có liên quan, thông tin về kết
quả giáo dục và chi tiêu tài chính của từng cấp quản lý GDPT và trường phổ
thông phải công khai, minh bạch.
Ba là, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT đi đôi với nâng cao năng
lực của cán bộ quản lý GDPT. Để phân cấp quản lý nhà nước về GDPT thành
110
công, một mặt cần không ngừng nâng cao cơ sở vật chất cho các trường phổ
thông, mặt khác cần nâng cao năng lực cán bộ của cán bộ quản lý GDPT các
cấp trong lập kế hoạch chiến lược, quản lý nhân sự, tài chính phù hợp với bối
cảnh phân cấp quản lý.
4.2. Giải pháp tăng cường phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ
thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội
4.2.1. Đổi mới tư duy về phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông
Đây là giải pháp mang tính tiên quyết bởi lẽ từ thay đổi về tư duy nhận
thức sẽ thay đổi hành động pháp lý. Mặt dù tư duy về phân cấp QLNN nói
chung và phân cấp QLNN về GDPT đã hình thành ở Việt Nam một thời gian,
tuy nhiên mức độ phân cấp cũng như bản chất thật sự của phân cấp thì chúng ta
triển khai chưa đầy đủ.
Nói chung, để xác định rõ bản chất của phân cấp quản lý nhà nước về
GDPT cần phân biệt quản lý nhà nước đối với hoạt động GDPT và quản lý
nhà nước đối với hoạt động cung cấp dịch vụ GDPT của từng chủ thể cung
cấp dịch vụ đó.
Nếu coi quy trình GDPT là tập hợp của nhiều hoạt động cần xác định rõ
quy trình đó và quyết định nhà nước cần phải quản lý những giai đoạn nào,
yếu tố nào trong quy trình đó. Ai là người chịu trách nhiệm quản lý những
giai đọn và các yếu tố đó. Đây chính là bản chất của phân cấp quản lý nhà
nước về GDPT.
Cải cách quản lý nhà nước về GDPT của nhiều nước trên thế giới đều đang
đi theo hướng phi tập trung hóa. Trước đây, các loại hình giáo dục, trong đó có
GDPT đều coi trọng yếu tố quyền lực trung ương từ xây dựng chương trình đến
các hoạt động quản lý GDPT. Việc phát huy tinh thần tự chủ, sáng tạo của các cấp
chính quyền địa phương trong sự nghiệp phát triển GDPT ít được quan tâm.
Trong tiến trình cải cách hành chính nhà nước và đổi mới sự nghiệp giáo dục cần
đổi mới tư duy về phân cấp quản lý nhà nước về GDPT.
111
Phân cấp quản lý nhà nước về GDPT nhằm phát huy tính năng động,
sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương các
cấp trên cơ sở phân định rõ, cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mỗi
cấp trong bộ máy chính quyền nhà nước, bảo đảm sự quản lý tập trung, thống
nhất và thông suốt, tăng cường kỷ luật kỷ cương hành chính để nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước về GDPT.
Phân cấp quản lý nhà nước về GDPT là một phạm trù xoay quanh hệ
thống các cơ quan nhà nước quản lý hoạt động GD. Đó chính là quá trình xác
lập chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước trong thực thi hoạt động
quản lý nhà nước đối với các hoạt động cung cấp dịch vụ GDPT. Đây là chức
năng nội bộ của hệ thống các cơ quan nhà nước.
Nhà nước quản lý những chủ thể cung cấp dịch vụ GDPT của Nhà nước,
đó chính là các trường học. Vấn đề quan tâm của các trường nằm ở khía cạnh:
sự can thiệp của Nhà nước đối với các hoạt động cung cấp dịch vụ GDPT và
các trường phổ thông cung cấp dịch vụ GDPT được thực hiện những vấn đề
gì theo các quy định pháp luật? Nhà nước trao quyền tự chủ như thế nào cho
các trường phổ thông?
Tự chủ có vai trò quan trọng trong quản lý nhà nước về GDPT để thúc
đẩy sự phát triển của GDPT nhằm đáp ứng tốt nhu cầu của các tầng lớp nhân
dân. Các cơ quan nhà nước cần trao quyền tự chủ nhiều hơn cho các trường
phổ thông vì đây là một xu thế phân cấp của nhiều nước trên thế giới để phát
triển GDPT và là cách thức tốt nhất giải phóng nguồn lực của các trường phổ
thông và của xã hội.
Đổi mới tư duy về phân cấp quản lý nhà nước về GDPT cần phải: 1)
Phân cấp phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn,
đặc điểm, điều kiện và khả năng của từng địa phương; 2) Cấp nào giải quyết
kịp thời các chức năng, nhiệm vụ và cung cấp dịch vụ GDPT tốt hơn, hiệu quả
hơn, đáp ứng tốt các yêu cầu của nhân dân thì giao cho cấp đó thực hiện; 3)
112
Phân cấp quản lý phải bảo đảm tương ứng giữa nhiệm vụ, thẩm quyền, trách
nhiệm với các nguồn lực tài chính, tổ chức, nhân sự và các điều kiện cần thiết
khác để có thể thực hiện được các chức năng, nhiệm vụ được phân cấp; 4)
Phân cấp quản lý phải đảm bảo thực hiện đầy đủ quyền và trách nhiệm của
chính quyền địa phương các cấp trong việc quyết định, thực hiện các nhiệm vụ
quản lý nhà nước về GDPT; 5) Phân cấp quản lý phải đảm bảo sự đồng bộ,
thống nhất trong hệ thống thể chế, các văn bản quy phạm pháp luật và cơ chế
quản lý, đảm bảo quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các trường phổ thông.
Nghiên cứu các mô hình phân cấp quản lý có hiệu quả đã khẳng định các
quyết định cần được ban hành càng sát với nơi thực thi thì càng tốt. Sở Giáo
dục và Đào tạo, các phòng Giáo dục và Đào tạo là những cấp chịu trách
nhiệm chính về GDPT thì phải là nơi ban hành các quyết định quản lý các
nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất, nhân sự và các điều kiện cần thiết khác để
thực hiện các hoạt động quản lý. Phân cấp quản lý nhà nước về GDPT phải
gắn với ủy quyền hợp lý.
Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN về GD&ĐT thì việc đẩy mạnh
phân cấp quản lý là hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Chúng ta cần
phân định rõ thẩm quyền của các cơ quan QLNN các cấp, đặc biệt là giữa
UBND Thành phố và UBND các quận, huyện, giữa Sở GD&ĐT và các
Phòng GD&ĐT; cần phân định rõ công tác QLNN về giáo GD&ĐT với công
tác quản trị của các trường phố thông.
4.2.2. Xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật về phân cấp quản lý
nhà nước về giáo dục phổ thông
Để hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm về phân cấp quản lý nhà
nước về GDPT cần tiếp tục rà soát lại hệ thống các văn bản quy về phân cấp
quản lý nhà nước về GDPT. Liên quan đến phân cấp quản lý nhà nước về
GDPT có những hệ thống văn bản sau: văn bản về chức năng, nhiệm vụ của
cơ quan chuyên môn và chính quyền địa phương; văn bản về tài chính; văn
113
bản chuyên ngành về giáo dục. Vì vậy rà soát để tránh việc chồng chéo giữa
các hệ thống văn bản; sửa đổi, bổ sung các văn bản hướng dẫn để tạo hành
lang pháp lý cho việc đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước về GDPT, bãi bỏ
các văn bản không phù hợp. Với đặc thù là Thủ đô, có Luật Thủ đô riêng để
điều chỉnh những cơ chế, chính sách đặc thù, thành phố Hà Nội có thể đi đầu
trong các địa phương cả nước để áp dụng các chính sách, pháp luật mới về
phân cấp quản lý nhà nước về GDPT. Các chính sách, pháp luật sửa đổi, bổ
sung phải thể hiện những nội dung cụ thể như sau:
Thứ nhất, tăng cường phân cấp về tổ chức bộ máy và quản lý nhân sự
Trên cơ sở các quy định của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về chức
năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức bộ máy các cơ quan QLNN về GDPT, Thành
phố Hà Nội xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về GDPT thống
nhất trên địa bàn, có tính tới đặc thù của các quận, huyện.
Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật trong đó quy định rõ chức năng,
nhiệm vụ và quyền hạn của bộ máy quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn
Thành phố với tư cách cơ quan chuyên môn chịu trách nhiệm tham mưu trong
quản lý nhà nước về GDPT.
UBND Thành phố ủy quyền cho Sở Nội vụ và Sở Giáo dục và Đào tạo
xác định biên chế cán bộ, giáo viên cho các Phòng Giáo dục và Đào tạo, các
trường phổ thông trên cơ sở có tính đến các đặc thù của các quận, huyện
nhằm đảm bảo hiệu quả hoạt động của bộ má quản lý nhà nước về GDPT và
chất lượng GDPT của các trường phổ thông trên địa bàn Thành phố.
Phân định cụ thể, rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý
nhà nước về giáo dục phổ thông trên địa bàn Thành phố. Theo đó, những
công việc do UBND Thành phố Hà Nội có quyền quyết định:
(1) Thành lập, giải thể trường THPT;
(2) Quy định tổ chức bộ máy của các Phòng Giáo dục và Đào tạo;
114
(3) Ban hành chính sách phát triển GDPT của thành phố và phê duyệt kế
hoạch phát triển GDPT Thành phố;
(4) Công nhận trường THCS, tiểu học đạt chuẩn quốc gia;
(5) Phê duyệt chỉ tiêu biên chế, nhân sự GDPT của Thành phố;
(6) Lựa chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm cách chức hiệu trưởng trường phổ
thông trung học;
(8) Phê duyệt chỉ tiêu ngân sách phát triển GDPT cho Thành phố;
(9) Phê duyệt chỉ tiêu đào tạo giáo viên THCS và tiểu học;
(10) Việc xây dựng hệ thống thông tin quản lý GDPT của Thành phố.
Những công việc do UBND Thành phố quyết định sau khi có ý kiến của
Bộ Giáo dục và Đào tạo:
(i) Phê duyệt quy hoạch mạng lưới các trường phổ thông trên địa bàn
Thành phố;
(ii) Quy định tổ chức bộ máy của Sở Giáo dục và Đào tạo;
(iii) Công nhận trường THPT đạt chuẩn quốc gia;
(iv) Quyết định lựa chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Giám đốc
Sở Giáo dục và Đào tạo.
Những công việc do UBND Thành phố ủy quyền cho Giám đốc Sở
Giáo dục và Đào tạo quyết định:
(i) Phân bổ chỉ tiêu biên chế của ngành giáo dục cho các Phòng GD&ĐT
và các trường phổ thông theo sỹ số học sinh, số lớp và định biên nhà nước;
(ii) Quản lý nhân sự (thuyên chuyển, điều động, cử đi học, khen thưởng,
kỷ luật cán bộ, giáo viên) trên địa bàn Thành phố;
(iii) Phân bổ chỉ tiêu ngân sách giáo dục cho các Phòng Giáo dục và Đào
tạo và các trường phổ thông trong địa bàn;
(iv) Cụ thể hóa phần lựa chọn của chương trình GDPT và danh mục tài
liệu tham khảo cho phù hợp với nhu cầu và điều kiện của Thành phố;
115
(v) Cụ thể hóa các danh mục bổ sung về thiết bị dạy học theo chương
trình GDPT cho phù hợp với trình độ, điều kiện của Thành phố;
(vi) Ban hành tài liệu hướng dẫn giáo viên trên địa bàn Thành phố.
Những công việc do UBND các quận, huyện có quyền quyết định:
- Thành lập, giải thể trường THCS, trường tiểu học;
- Quản lý nhân sự của các trường THCS và tiểụ học trên địa bàn các
quận, huyện;
- Lựa chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức hiệu trưởng trường THCS,
trường tiểu học.
Công việc do Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo được quyền quyết
định: Điều động, thuyên chuyển giáo viên THCS và tiểu học.
Như vậy về quản lý nhân sự, Sở Giáo dục và Đào tạo hoặc Phòng Giáo
dục và Đào tạo là cơ quan chuyên môn chủ trì, đầu mối tham mưu giúp
UBND cấp tỉnh, cấp huyện trong công tác tuyển dụng, sử dụng và quản lý đội
ngũ giáo viên các cấp để đảm bảo việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý đội
ngũ giáo viên hợp lý theo đúng quy định và yêu cầu thực hiện nhiệm vụ giáo
dục tại các địa phương.
Xuất phát từ thực tiễn việc tuyển dụng viên chức trong ngành giáo dục
vẫn phụ thuộc vào đơn vị ngoài chuyên môn dẫn đến tình trạng thừa, thiếu
giáo viên phổ thông cục bộ hoặc không đáp ứng yêu cầu chuyên môn vì vậy
cần trao quyền chủ động hơn cho Sở Giáo dục và đào tạo, Phòng Giáo dục và
đào tạo. UBND là cơ quan sử dụng viên chức, UBND là cơ quan tuyển dụng,
tuy nhiên tham mưu về số lượng, tiêu chuẩn giữa ngành giáo dục và nội vụ.
Nếu vẫn theo cách truyền thống ngành Nội vụ tham mưu UBND cùng cấp khi
tuyển dụng thì rất khó bám sát yêu cầu thực tiễn về số lượng và chất lượng.
Để đẩy mạnh quản lý nhà nước về GDPT cần có các văn bản quy phạm
kiện toàn hệ thống các cơ quan quản lý GDPT ở địa phương, trong đó quy định
116
rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của bộ máy quản lý GDPT ở địa phương
với tư cách là cơ quan chuyên môn chịu trách nhiệm tham mưu về quản lý nhà
nước về GDPT trên địa bàn Thành phố.
Chính quyền Thành phố Hà Nội cần đổi mới tư duy về phân cấp quản lý
nhà nước về GDPT, tăng tính chủ động, tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các
cơ quan QLNN về GDPT. Sở GD&ĐT Thành phố có trách nhiệm phối hợp
với Sở Nội vụ và các Sở, ban, ngành có liên quan tiếp tục tham mưu với
UBND Thành phố nghiên cứu ban hành văn bản mới về việc phân cấp quản
lý đối với GDPT theo đúng Nghị định 127/2018/NĐ-CP của Chính phủ
nhằm giúp Sở GD&ĐT, các Phòng GD&ĐT các quận, huyện trên địa bàn
Thành phố chủ động trong công tác chỉ đạo, điều hành.
Thực hiện phân cấp quản lý, Chủ tịch UBND các quận, huyện trên địa bàn
Thành phố cần ủy quyền cho Trưởng phòng GD&ĐT quyết định bổ nhiệm, bổ
nhiệm lại, miễn nhiệm, luân chuyển, cách chức, giáng chức đối với Hiệu
trưởng, Phó Hiệu trưởng các trường Tiểu học, THCS công lập trên địa bàn các
quận, huyện; quyết định tiếp nhận giáo viên từ huyện ngoài chuyển đến; điều
động giáo viên giữa các trường Tiểu học, THCS trong huyện; cho phép các
trường Tiểu học, THCS được ký hợp đồng lao động trong phạm vi chỉ tiêu biên
chế được giao; quyết định phân bổ, giao dự toán chi ngân sách GDPT cho các
trường Tiểu học, THCS khi được UBND các quận, huyện phê duyệt.
Trách nhiệm và quyền hạn về quản lý chuyên môn đi đôi với trách
nhiệm, quyền hạn quản lý về nhân sự và tài chính sẽ giúp cho các Phòng
GD&ĐT chủ động trong quản lý, điều hành các trường phổ thông. Do đó,
việc quản lý các nguồn lực đầu tư phát triển GDPT và việc quản lý chất lượng
giáo dục của các quận, huyện sẽ đạt được hiệu quả cao hơn.
Mặt khác, UBND các quận, huyên và các Phòng GD&ĐT cần tăng cường
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các trường Tiểu học, THCS; tạo điều kiện
117
cho các trường phổ thông được chủ động, sáng tạo trong việc thực hiện các hoạt
động giáo dục. Đồng thời, các Phòng GD&ĐT cần tăng cường công tác kiểm tra
chuyên ngành đối với các trường phổ thông về chuyên môn, quản lý nhân sự và
tài chính theo hướng công khai, minh bạch khi đánh giá. Trong quá trình kiểm
tra, đánh giá, Phòng GD&ĐT cần xem các trường có đi đúng hành lang pháp
luật hay không, chứ không phải chỉ có làm đúng theo chỉ đạo của cấp trên hay
không. Quản lý như vậy thể hiện sự dân chủ, phát huy được tính năng động,
sáng tạo của cơ sở và cán bộ quản lý các trường phổ thông.
Việc tăng cường phân cấp nhưng vẫn bảo đảm việc quản lý thống nhất,
thông suốt từ trên xuống dưới. Một cơ quan quản lý có thể làm nhiều việc
nhưng một việc chỉ một cơ quan làm và chịu trách nhiệm chính. Phòng
GD&ĐT không làm thay những việc mà các trường phổ thông hoặc xã hội có
thể làm được và làm tốt để hướng tới một xã hội dân sự. Cần phân định rõ
quản lý nhà nước về GDPT với quản trị của các trường phổ thông. QLNN đối
với GDPT là nhiệm vụ của cơ quan QLNN đối với các trường phổ thông. Quản
trị, điều hành các hoạt động GDPT là trách nhiệm của các trường phổ thông.
Sở GD&ĐT, các Phòng GD&ĐT phải tập trung vào nhiệm vụ tham mưu
xây dựng chính sách phát triển GDPT để trình cấp có thẩm quyền ban hành;
chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức thực hiện các chính sách, pháp luật về GDPT;
tăng cường công tác kiểm tra, khen thưởng và xử lý vi phạm của các trường
phổ thông trong việc tuân thủ các quy định của pháp luật.
Các trường phổ thông được giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tổ
chức thực hiện nhiệm vụ giáo dục, quản lý nhân lực, tài chính, tài sản để hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao. Việc đổi mới quản trị của các trường phổ thông
thực hiện theo hướng phát huy dân chủ, tính sáng tạo của nhà trường. Hội đồng
trường cần bảo đảm vai trò lãnh đạo của cấp uỷ Đảng và cơ quan chủ quản. Các
trường phổ thông thực hiện cơ chế tự chủ, công khai, minh bạch, chịu sự giám
118
sát của các chủ thể nhà trường, của Nhà nước và của xã hội; chịu trách nhiệm
báo cáo, giải trình trước các cơ quan quản lý cấp trên.
Thứ hai, tăng cường phân cấp về tài chính và quản lý tài chính đối với
cơ sở giáo dục phố thông
Phân cấp quản lý tài chính nói chung và phân cấp quản lý tài chính cho
GDPT nói riêng là một xu thế tất yếu trong phân cấp quản lý nhà nước.
Những năm gần đây, các nhà nghiên cứu ở nhiều nước đã chứng minh rằng
phân cấp quản lý tài chính cho GDPT có nhiều tác động tích cực đến chất
lượng GDPT. Phân cấp quản lý tài chính GDPT tạo được quyền chủ động của
các trường phổ thông trong việc phân bổ kinh phí phù hợp với yêu cầu hoạt
động, làm tăng hiệu quả sử dụng kinh phí trong hoạt động giáo dục của nhà
trường. Ở Việt Nam, phân cấp quản lý tài chính GDPT mới được thực hiện
(kể từ Nghị định 43/2006/NĐ-CP và sau này là NĐ16/2015/NĐ-CP ngày
14/2/2015 quy định cơ chế tự chủ các đơn vị sự nghiệp công lập) và điều kiện
để thực hiện phân cấp tài chính GDPT vẫn còn nhiều hạn chế.
Phân cấp quản lý tài chính GDPT là chuyển quyền ra quyết định tài
chính cho những người thực hiện trực tiếp các chính sách, các dịch
GDPT với khách hàng và có lợi nhất cho các khách hàng.
Như đã phân tích trong thực trạng chương 3, quản lý, phân bổ tài chính
giáo dục ở các địa phương và Thành phố Hà Nội nói chung thuộc thẩm quyền
UBND các cấp và ngành tài chính là cơ quan tham mưu; vai trò của ngành
giáo dục rất mờ nhạt. Việc quản lý chuyên môn – nhân sự- cơ sở vật chất là
ba mảng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Với quan điểm coi giáo dục là
quốc sách hàng đầu, chú trọng đầu tư cho giáo dục, để nâng cao chất lượng
giáo dục , không chỉ trao thẩm quyền về chuyên môn, cần phân cấp việc tham
mưu, quản lý về nhân sự và tài chính. Cách thức cung cấp tài chính GDPT có
hiệu quả hiện nay là Sở GD&ĐT phải được quyền phân bổ chỉ tiêu tài chính
119
sau khi được UBND Thành phố Hà Nội phê duyệt cho GDPT và các trường
phổ thông có quyền quyết định sử dụng các chỉ tiêu trên theo nhu cầu thực tế
của nhà trường, các tài trợ và ngân sách cần được cấp trực tiếp từ kho bạc tới
trường phổ thông.
UBND Thành phố Hà Nội và các quận, huyện cần nâng tỷ lệ chi ngân
sách địa phương cho GDPT, trong đó tăng tỷ lệ chi cho hoạt động dạy và học;
đảm bảo thực hiện đúng chi ngân sách cho GDPT hàng năm. UBND các
quận, huyện cần có cơ chế tài chính đầu tư cho phát triển GDPT công khai,
minh bạch; đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, tránh dàn trải, thất thoát, lãng
phí. UBND các quận, huyện cần xây dựng định mức kinh phí hỗ trợ cho các
trường Tiểu học, THCS xây dựng trường chuẩn quốc gia để kích cầu các đơn
vị, tránh cơ chế “xin - cho”, tạo sự chủ động cho các Phòng GD&ĐT trong
việc lựa chọn, đầu tư mua sắm trang thiết bị dạy học cho các trường phổ
thông để đảm bảo tính thực tiễn, hợp lý, hiệu quả.
Các Phòng GD&ĐT trên địa bàn Thành phố Hà Nội cần hướng dẫn các
trường Tiểu học, THCS thực hiện tốt một số nội dung: 1) Chỉ đạo, hướng dẫn
các trường phổ thông thực hiện nghiêm túc, đúng quy định của Luật Ngân
sách; thực hiện đúng hướng dẫn của Sở GD&ĐT Hà Nội tại công văn số
953/SGDĐT-KHTC ngày 15/8/2014 về việc thu và quản lý sử dụng các
khoản thu trong trường học. Việc sử dụng các khoản đóng góp tự nguyện
phục vụ bản thân học sinh trong nhà trường phải đảm bảo dân chủ, công khai
minh bạch, đúng mục đích và hiệu quả; 2) Chỉ đạo các trường phổ thông xây
dựng kế hoạch đầu tư, mua sắm đồ dùng thiết bị đảm bảo thiết thực, phù hợp;
khai thác, sử dụng triệt để, có hiệu quả đồ dùng, thiết bị hiện có; 3) Hướng
dẫn các trường phổ thông xây dựng và thực hiện tốt quy chế chi tiêu nội bộ;
thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
120
Các Phòng GD&ĐT cần phối hợp với Phòng Tài chính - Kế hoạch tiến
hành kiểm tra, rà soát các công trình xây dựng của các nhà trường để tham
mưu với UBND các quận, huyện có kế hoạch tu bổ hoặc xây mới hợp lý,
tránh lãng phí, thất thoát; ưu tiên đầu tư xây dựng các công trình cấp bách,
nhất là phòng học.
UBND huyện cần chú trọng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong đầu tư,
đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, đúng mục đích, phù hợp với điều kiện phát
triển KT-XH của địa phương. Ngành GD&ĐT cần tiếp tục đẩy mạnh xã hội
hoá giáo dục, khuyến khích các doanh nghiệp, cá nhân đầu tư cho giáo dục.
Hội khuyến học cần phát triển các quỹ học bổng, khuyến học, khuyến tài,
giúp học sinh, sinh viên nghèo học giỏi; tăng cường chính sách hỗ trợ đối với
các đối tượng con thương binh, liệt sỹ, gia đình thuộc diện hộ nghèo.
Việc đổi mới cơ chế tài chính trong GDPT sẽ huy động sự tham gia đóng
góp của toàn xã hội, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách và các nguồn
lực đầu tư cho phát triển GDPT ở các cấp học trên địa bàn Thành phố.
Một điểm rất quan trọng là cần kết hợp hài hòa giữa quyền hạn ra quyết
định trong sử dụng các nguồn lực với trách nhiệm của các cấp quản lý GDPT
và các nhà trường phổ thông. Hiện nay, Sở GD&ĐT lập kế hoạch về nhu cầu
giáo viên cho một năm còn thiếu sự linh hoạt do phải tuân thủ các quy định
cứng do Trung ương đặt ra liên quan đến số lượng giáo viên cần có và lương
cần trả cho cán bộ, giáo viên. Vì vậy, Sở GD&ĐT cần được cung cấp ngân
sách trọn gói để chủ động trong việc sử dụng đáp ứng các nhu cầu GDPT của
Thành phố.Trong trường phổ thông, để có thể ra các quyết định tài chính
một cách đúng đắn, nhà trường cần có quyền trong việc phân bổ và sử
dụng kinh phí, tuyển dụng cán bộ, giáo viên và tự chủ trong việc thực hiện
chương trình dạy học. Ðây cũng chính là cách thức tốt nhất để thực hiện phân
cấp quản lý tài chính GDPT và quan lý dựa vào nhà trường [75, 122].
121
Đẩy mạnh phân cấp quản lý tài chính GDPT hệ thống cung cấp tài chính
cần phải thiết kế lại để giúp các nhà trường phổ thông chủ động trong các
hoạt động, giúp học sinh đạt tới kết quả đầu ra mong muốn. Nếu muốn hệ
thông GDPT tập trung vào kết quả đầu ra thay vì tập trung vào kết quả đầu
vào cần hướng tới cách cung cấp tài chính theo cách hỗ trợ và kết nối cách
thức cung cấp tài chính cho nhà trường với kết quả học tập của học sinh và vì
vậy đòi hỏi sự dịch chuyển từ việc cung cấp tài chính cho trả lương sang kiểu
cung cấp tài chính tập trung vào kết quả học tập của học sinh.
Có thể kết hợp giữa cung cấp tài chính tập trung để đảm bảo mức độ chi
tối thiểu trên đầu số học sinh, đôi đôi với quy định cho phép các trường phổ
thông được tự chủ trong sử dụng các tài trợ nhằm đạt được kết quả đầu ra cho
học sinh. Tuy nhiên, khó khăn nằm ở chỗ xác định mức độ chi phí tối thiểu
cho học sinh để đạt được kết quả đầu ra như mong muốn. Kinh nghiệm cho
thấy, cẩn xem xét các nhu cầu cá nhân khác nhau, sự khác nhau về giá cả
trong đầu vào của giáo dục và hiệu quả của việc làm ra các kết quả. Cơ sở chi
tiêu này còn phải được hỗ trợ bới các nguồn lực bổ sung để đảm bảo tất cả
các học sinh có thể nhận được dịch vụ mà họ cần.
Do khả năng hạn chế của các trường phổ thông trong việc tìm kiếm các
nguồn lực bổ sung từ cộng đồng nên cần có chính sách khuyến khích cha mẹ
học sinh vầccs nhà tài trợ hỗ trợ tăng nguồn lực cho nhà trường trong khuôn
khổ các quy định của Nhà nước và tránh quá tải cho cha mẹ học sinh và nhà
trường cần có quyền tự chủ trong sử dụng các nguồn lực này. Đối với các
trường ở các huyện nghèo cần nhận được sự hỗ trợ từ Nhà nước để đảm bảo
công bằng trong GDPT.
Nếu chúng ta quyết định phân cấp nhiều hơn cho cấp trường cần trao
quyền quyết định về nhân sự và tài chính cho các trường phổ thông và khi đó
buộc nhà trườngphải chịu trách nhiệm về kết quả giáo dục của mình. Hiệu
122
trưởng và Hội đồng nhà trường phải là người chịu trách nhiệm lập kế hoạch
và ra các quyết định về ngân sách phù hợp với các hoạt động của nhà trường.
Điều này đòi hỏi phải hủy bỏ các quy định về việc không dịch chuyển kinh
phí từ hạng mục này sang sử dụng ở hạng mục khác, khuyến khích các trường
phổ thông sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn lực.
Để tăng cường trách nhiệm của các cấp quản lý GDPT và trường phổ
thông với người hưởng dịch vụ cần nghiên cứu thực hiện các chính sách để
việc cung cấp tài chính làm cho hoạt động của trường phổ thông phụ thuộc
vào lựa chọn của người hưởng dịch vụ và xây dựng cơ chế đấu thầu cung cấp
dịch vụ do Nhà nước đặt hàng.
Thứ ba, tăng cường phân cấp về chuyên môn trong lập kế hoạch
phát triển giáo dục phổ thông, xây dựng nội dung, chương trình và đánh
giá chất lượng giáo dục phổ thông
Như đã đánh giá ở trên, việc lập kế hoạch phát triển giáo dục phổ thông,
xây dựng nội dung, chương trình và đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông do
Thành phố Hà Nội tiến hành trên cơ sở chuẩn chung về nội dung, chương trình
và đánh giá chất lượng do Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa ra. Chính vì “mặc
chung một cái áo” nên việc đào tạo, giáo dục học sinh phổ thông không có sự
khác biệt giữa các vùng, miền, giữa thành thị và nông thôn.
Với đặc thù là trung tâm giáo dục của cả nước, trình độ dân trí cao,
điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi cho việc giáo dục, tập trung các trường
chất lượng cao, đội ngũ giảng viên có kinh nghiệm, năng lực. Vì vậy, việc lập
kế hoạch phát triển giáo dục phổ thông, xây dựng nội dung, chương trình và
đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông cần bám sát điều kiện kinh tế- văn
hoá – xã hội và tình hình giáo dục phổ thông của thủ đô Hà Nội. Đã đến lúc
Bộ Giáo dục và đào tạo cần mạnh mẽ trao quyền tự chủ cho các địa phương
trong đó có thành phố Hà Nội trong việc xây dựng nội dung, chương trình
123
giáo dục phổ thông cũng như các tiêu chí kiểm định đánh giá chất lượng phổ
thông. Bộ với tư cách “người gác cửa” sẽ kiểm tra, giám sát việc đảm bảo
chất lượng GDPT của địa phương. Đơn cử việc học ngoại ngữ Hà Nội có thể
không chỉ tiếng Anh mà còn đẩy mạnh các ngoại ngữ khác như Trung Quốc,
Nhật Bản, Hàn Quốc... theo nhu cầu của xã hội trong từng thời kỳ. Còn các
địa phương miền núi khác bên cạnh học Tiếng Anh có thể giảng dạy thêm
tiếng dân tộc trong các trường phổ thông. Có như thế mới tạo sự đa dạng và
thích ứng của mỗi địa phương.
4.2.3. Nâng cao năng lực của đội ngũ công chức, viên chức quản lý giáo
dục phổ thông
Tất cả các cải cách về phân cấp quản lý về giáo dục thành công trên thế
giới đề phải đi đôi với việc nâng cao năng lực của đội ngũ công chức, viên
chức quản lý giáo dục tại địa phương (cấp tỉnh, huyện, xã) và cấp thực hiện là
các trường.
Công chức, viên chức quản lý về GDPT của nước ta có hai đặc trưng cơ
bản: 1) Họ thường xuất thân từ nhà giáo, được lựa chọn đưa sang làm quản lý
với niềm tin rằng những nhà giáo có kinh nghiệm, có phẩm chất chính trị và
năng lực chuyên môn sẽ làm tốt công tác quản lý; 2) họ trưởng thành trong
một hệ thống chưa thoát khỏi mô hình quản lý tập trung nên thói quen của cán
bộ ở cơ quan quản lý là chỉ huy, ra mệnh lệnh và kiểm soát, còn ở cấp trường
là tuân thủ, thực hiện mệnh lệnh của cấp trên trong mọi lĩnh vực chuyên môn,
nhân sự và tài chính.
Các đặc trưng này trở thành rào cản khi chuyển sang mô hình quản lý tự
chủ, theo đó các thói quen cũ, năng lực cũ cần phải vứt bỏ để thay thế bằng
những thói quen mới, năng lực mới. Công chức ở cơ quan quản lý nhà nước
về GDPT phải chuyển sang vai trò là người tư vấn, hướng dẫn, hỗ trợ, tạo
điều kiện cho nhà trường phát huy quyền tự chủ; còn chủ tịch hội đồng trường
124
và hiệu trưởng phải là những người có tầm nhìn chiến lược, có năng lực quyết
định, tổ chức thực hiện, minh bạch hóa các hoạt động chuyên môn, nhân sự,
tài chính, thậm chí kể cả năng lực tiếp cận thị trường trong bối cảnh hình
thành thị trường giáo dục.
Nâng cao năng lực về mọi mặt của công chức, viên chức quản lý GDPT
trên địa bàn Thành phố Hà Nội và các trường phổ thông giúp họ sẵn sàng đảm
nhận và thực hiện có hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ được phân cấp. Cần
đặc biệt chú trọng nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý của những người đứng
đầu Sở, Phòng Giáo dục và Đào tạo, hiệu trưởng các trường phổ thông. Họ
phải nắm bắt được các kiến thức quản lý giáo dục khoa học, biết khuyến
khích, động viên đội ngũ cán bộ, giáo viên phấn đấu không ngừng nâng cao
chất lượng giáo dục. Cán bộ quản lý GDPT không nâng cao năng lực của
mình thì không thể thực hiện phân cấp và cũng không thể tự chủ.
Quản lý GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội đòi hỏi phải có đội ngũ
cán bộ quản lý GDPT các cấp (sở - phòng - trường) có đầy đủ những phẩm
chất và năng lực ở mức độ chung của các cán bộ chủ chốt và các chuyên viên
trong từng lĩnh vực quản lý.
Để nâng cao năng lực cho đội ngũ công chức, viên chức quản lý GDPT,
Bộ Giáo dục và Đào tạo cần tổ chức các khóa bồi dưỡng cho cán bộ chủ chốt
của các Sở Giáo dục và đào tạo và nhất là cho cán bộ quản lý các trường phổ
thông về lập kế hoạch, quản lý nhân sự, tài chính, thanh tra và thông tin
GDPT trong bối cảnh phân cấp quản lý.
Hầu hết công chức, viên chức quản lý GDPT trên địa bàn Thành phố Hà
Nội hiện nay đều chưa được đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức quản lý, nhất là
các kiến thức về phân cấp quản lý nên tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng
cao năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý là một giải pháp quan trọng đẩy
mạnh phân cấp quản lý nhà nước đổi với GDPT hiện nay. Cán bộ quản lý
GDPT cần được bồi dưỡng các kiến thức và kỹ năng chủ yếu sau đây:
125
- Kiến thức, kỹ năng lập kế hoạch phát triển GDPT, trong đó cần chú
trọng lập kế hoạch phát triển nhà trường, kế hoạch học tập cho học sinh, hợp
tác giữa nhà trường với cha mẹ học sinh và cộng đồng, xây dựng các mục tiêu
phát triển và các giải pháp để đạt được mục tiêu, xây dựng khung năng lực và
chế độ trách nhiệm của cán bộ quản lý GDPT.
- Kiến thức, kỹ năng xây dựng chương trình và tài liệu dạy học phát triển
phần mềm của chương trình đáp ứng nhu cầu phát triển của Thành phố.
- Năng lực quản lý khoa học, linh hoạt, đáp ứng được yêu cầu và chịu
trách nhiệm với cấp trên và người hưởng dịch vụ GDPT.
- Năng lực tư duy sáng tạo, trung thực, khách quan, đề cao tinh thần
trách nhiệm; làm việc nhóm và giao tiếp hiệu quả.
- Năng lực tự học, liên tục cập nhật kiến thức và các kinh nghiệm quản
lý, phấn đấu học tập suốt đời bằng các hình thức khác nhau.
Cùng với việc tự nâng cao năng lực của đội ngũ công chức, viên chức
quản lý GDPT là trách nhiệm của Sở Giáo dục và Đào tạo và các trường phổ
thông trong xây dựng và thực hiện các khóa đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản
lý GDPT ở các quận, huyện. Xây dựng nội dung chương trình đào tạo, bồi
dưỡng phù hợp, đổi mới phương pháp đào tạo, bồi dưỡng, trao đổi thảo luận,
liên hệ giải quyết các tình huống cụ thể trong quản lý là những phương pháp
tốt cần được áp dụng trong các khóa đào tạo, bồi dưỡng.
Nhiều nước thực hiện phân cấp quản lý đối với GDPT đều xây dựng câu lạc
bộ cán bộ quản lý GDPT và hiệu trưởng các trường phổ thông, tổ chức các diễn
đàn chuyên bàn về phân cấp quản lý về giáo dục để cán bộ quản lý, hiệu trưởng
các trường phổ thông có điều kiện trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau.
Cần có kế hoạch không ngừng nâng cao chất lượng tuyển dụng công
chức, giáo viên; quy hoạch đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục kế cận để có đội
ngũ cán bộ quản lý có chất lượng, đáp ứng yêu cầu phát triển GDPT của
Thành phố trong tình hình mới. Tích cực đổi mới, hoàn thiện cơ chế quản lý
126
cán bộ quản lý GDPT theo hướng tăng cường kỷ luật, kỷ cương, nâng cao
tinh thần trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ quản lý GDPT,
phân công, phân cấp hợp lý giữa các cấp, các ngành, các cơ quan trong thực
hiện các nhiệm vụ quản lý, quy định cụ thể trách nhiệm, quyền hạn của từng
cấp, từng cán bộ quản lý GDPT.
Để nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ công chức, viên chức
quản lý GDPT trên địa bàn thành phố Hà Nội cần rà soát, bổ sung, hoàn thiện
các cơ chế, chính sách trong tuyển chọn, sử dụng, đánh giá, khen thưởng, kỷ
luật và trong thực hiện các chế độ, chính sách, áp dụng các biện pháp khuyến
khích, đãi ngộ, tạo động lực làm việc cho cán bộ quản lý GDPT nhằm thu hút
đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục có chất lượng, toàn tâm, toàn ý phục vụ cho
sự nghiệp phát triển GDPT của thành phố.
Cần đổi mới công tác quy hoạch, tuyển chọn, luân chuyển, đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ quản lý GDPT trên địa bàn thành phố. UBND thành phố Hà Nội
và các quận, huyện cần rà soát, đánh giá thực trạng công tác QLNN đối với
GDPT trên địa bàn, thực trạng đội ngũ cán bộ Sở GD&ĐT, các Phòng
GD&ĐT và cán bộ quản lý của các trường phổ thông; thực hiện quy hoạch cán
bộ lãnh đạo Sở GD&ĐT, các Phòng GD&ĐT, cán bộ quản lý các trường phổ
thông đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Danh sách quy hoạch cần được
công khai để những người thuộc đối tượng trong quy hoạch có ý thức rèn
luyện, bồi dưỡng; tạo điều kiện cho quần chúng giám sát, giúp đỡ công chức,
viên chức để họ có định hướng phấn đấu phát triển. Hằng năm, UBND Thành
phố và các quận, huyện cần có sự rà soát, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch cho
phù hợp; đưa ra khỏi danh sách quy hoạch đối với những đối tượng không còn
đủ điệu kiện, tiêu chuẩn hoặc không có sự tiến bộ, không có ý thức vươn lên.
Công tác quy hoạch cán bộ phải gắn với đào tạo và sử dụng. Việc bổ nhiệm cán
bộ lãnh đạo, quản lý giáo dục nhất thiết phải thực hiện theo quy hoạch, trên cơ
sở cạnh tranh và tài năng.
127
UBND Thành phố và các quận, huyện cần ban hành quy định về luân
chuyển, điều động cán bộ lãnh đạo, quản lý của các Phòng GD&ĐT và của các
trường; tiến hành luân chuyển, điều động chuyên viên từ Phòng GD&ĐT
xuống làm cán bộ quản lý các trường phổ thông; luân chuyển, điều động
cán bộ quản lý từ trường lên Phòng GD&ĐT, từ Phong GD&ĐT lên Sở
GD&ĐT. UBND các quận, huyện cần có kế hoạch, có cơ chế tuyển chọn
CBQL giỏi ở các trường phổ thông về công tác tại Phòng GD&ĐT; thực hiện
việc điều động Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng giữa các trường theo yêu cầu,
nhiệm vụ công tác. Bên cạnh đó, UBND các quận, huyện cần tiến hành luân
chuyển những hiệu trưởng đã có thời gian đảm nhận chức vụ Hiệu trưởng hai
nhiệm kỳ ở một trường học, chuyển đổi đối với những hiệu trưởng nhiều năm
quản lý mà nhà trường không phát triển hoặc nội bộ mất đoàn kết; miễn
nhiệm đối với cán bộ quản lý không còn đủ phẩm chất, năng lực, uy tín; cách
chức, giáng chức đối với những cán bộ quản lý có sai phạm.
UBND Thành phố và các quận, huyện và Sở GD&ĐT, các Phòng
GD&ĐT cần đổi mới công tác đề bạt cán bộ quản lý. Việc bổ nhiệm cán bộ
quản lý cần căn cứ vào năng lực, hiệu quả công tác, sự tín nhiệm của tập thể;
tránh căn cứ vào “mối quan hệ”, cơ chế “sống lâu lên lão làng”. Trước khi
xem xét bổ nhiệm cần thăm dò ý kiến quần chúng, lấy phiếu tín nhiệm của tập
thể đơn vị, tranh thủ ý kiến của cán bộ chủ chốt của Thành phố.
Sở GD&ĐT cần tham mưu với UBND Thành phố có cơ chế hỗ trợ kinh
phí, tạo điều kiện cho cán bộ của Sở GD&ĐT, các Phòng GD&ĐT và cán bộ
quản lý của các trường phổ thông đi học sau đại học, ngoại ngữ (kể cả ở nước
ngoài) để nâng cao chất lượng của cán bộ quản lý để đáp ứng yêu cầu phân
cấp quản lý nhà nước về GDPT.
Thực hiện chế độ, chính sách hợp lý đối với cán bộ quản lý GDPT. Chế độ
ưu đãi hợp lý sẽ thu hút được những cán bộ quản lý giỏi về công tác tại các cơ
128
quan quản lý, góp phần thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ được phân cấp,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN đối với GDPT.
Việc áp dụng tốt chính sách thu hút nhân tài, chính sách tiền lương, bảo
hiểm xã hội; đổi mới thực hiện công tác thi đua, khen thưởng.... sẽ thu hút được
người tài giỏi về công tác trong ngành GDPT; động viên, khuyến khích công
chức, viên chức tích cực học tập, nâng cao trình độ, năng lực, hoàn thành tốt các
nhiệm vụ của ngành trong bối cảnh đẩy mạnh phân cấp quản lý.
4.2.4. Hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra đảm bảo hiệu quả phân cấp
quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông
Kiểm tra, thanh tra, đánh giá là một khâu trọng yếu trong quy trình QLNN
đối với GDPT. Không có kiểm tra, thanh tra, đánh giá khách quan và thực chất
thì hiệu quả quản lý không cao. Công tác kiểm tra, thanh tra, đánh giá khách
quan với phương pháp khoa học sẽ góp phần thúc đẩy các hoạt động của toàn hệ
thống và hoàn thiện từng bước cơ chế QLNN đối với GDPT cũng như ở các
trường phổ thông. Muốn nâng cao chất lượng GDPT trong bối cảnh phân cấp
quản lý cần ban hành cơ chế thanh tra, kiểm tra đảm bảo việc phân cấp quản lý
nhà nước về GDPT được thực hiện hiệu quả, tránh tình trạng các cơ quan, tổ
chức lạm dụng các chức năng, quyền hạn được phân cấp để vi phạm pháp luật.
Thanh tra, kiểm tra QLNN về GDPT phải bao quát tất cả các nội dung
quản lý, từ xây dựng chương trình, kế hoạch phát triển GDPT đến thực hiện
chương trình giáo dục; cấp phát, chi tiêu tài chính; huy động và sử dụng các
nguồn lực xã hội; tuyển chọn, đánh giá, khen thưởng, kỷ luật, luân chuyển, đề
bạt cán bộ, giáo viên; đánh giá kết quả học tập; việc dạy thêm, học thêm; thực
hiện các chức năng, nhiệm vụ được phân cấp. Việc tăng cường thanh tra,
kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn được giao của chính
quyền địa phương, các trường phổ thông, hạn chế được việc tùy tiện trong
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được phân cấp hoặc lợi dụng các chức
năng, nhiệm vụ được phân cấp để vi phạm.
129
Một trong những nguyên nhân của các tồn tại về GDPT trên địa bàn
thành phố Hà Nội trong thời gian qua là do công tác quản lý chất lượng, thanh
tra, kiểm tra, giám sát chưa được coi trọng đúng mức.Trong điều kiện đẩy
mạnh phân cấp quản lý, giao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục, đào tạo thì
công tác thanh tra, kiểm tra của cơ quan quản lý các cấp, việc giám sát của xã
hội chưa được tăng cường.
Theo Nghị định số 42/2013/NĐ-CP ngày 09/5/2013 của Chính phủ về tổ
chức và hoạt động thanh tra giáo dục, các Phòng GD&ĐT của Thành phố
không có chức năng thanh tra chuyên ngành với các trường phổ thông. Sở
GD&ĐT, các Phòng GD&ĐT thực hiện chức năng kiểm tra đối với các
trường phổ thông trong việc tổ chức thực hiện các hoạt động GDPT.
Công tác kiểm tra của Sở GD&ĐT, các Phòng GD&ĐT trong thời gian
tới cần có sự cải tiến về tổ chức, nội dung, hình thức cụ thể như sau:
- Đổi mới tổ chức, hoạt động kiểm tra chuyên ngành trong GDPT
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động kiểm tra. Kiện toàn đội ngũ
cán bộ kiểm tra của ngành GDPT trên địa bàn Thành phố. Tổ chức tuyên
truyền, quán triệt Luật Thanh tra 2010; Luật Khiếu nại 2011, Luật Tố cáo 2018,
Luật Phòng chống tham nhũng 2018, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012
và các văn bản quy phạm pháp luật khác về GDPT.
- Sở GD&ĐT, các Phòng GD&ĐT phối hợp với các cơ quan chức năng
thực hiện tốt việc kiểm tra chức năng đối với các trường phổ thông, chủ
động phối hợp với Thanh tra Thành phố và các quận, huyện trong hoạt động
thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, giải quyết kịp thời những bức
xúc trong GDPT mà xã hội quan tâm.
- Sở GD&ĐT, các Phòng GD&ĐT tăng cường kiểm tra định kỳ và đột
xuất đối với các trường phổ thông trong việc tổ chức các hoạt động giáo dục;
kiểm tra định kỳ và đột xuất chất lượng GDPT của các trường phổ thông. Sau
130
kiểm tra cần đánh giá, rút ra những bài học kinh nghiệm, phát hiện những
điển hình tiên tiến để phổ biến, triển khai trong toàn ngành.
Mỗi năm học, Sở GD&ĐT, các Phòng GD&ĐT cần tổ chức kiểm tra
toàn diện hoạt động GDPT của ít nhất 20% trên tổng số các trường phổ thông
trên địa bàn Thành phố. Ngoài ra, Sở GD&ĐT, các Phòng GD&ĐT cần tiến
hành kiểm tra chuyên đề đối với tất cả các đơn vị còn lại.
- Sở GD&ĐT, các Phòng GD&ĐT cần chỉ đạo các trường phổ thông
thực hiện tốt “3 công khai” để người học và xã hội giám sát, đánh giá: công
khai chất lượng giáo dục; công khai các điều kiện về cơ sở vật chất, đội ngũ
giáo viên; công khai thu, chi tài chính.
- Bố trí phòng tiếp dân riêng, có lịch và quy định về tiếp dân; giải quyết
kịp thời, dứt điểm, triệt để đơn thư khiếu nại tố cáo của công dân.
Việc thanh tra, kiểm tra, đánh giá các đơn vị quản lý giáo dục và các
trường phổ thông phải công khai, thực chất, công bằng. Qua kiểm tra, thanh
tra, Sở GD&ĐT, các Phòng GD&ĐT phát hiện, ngăn ngừa và có hình thức xử
lý kịp thời những sai phạm trong việc tuân thủ pháp luật về GDPT, lấy kết
quả thanh tra, kiểm tra làm căn cứ để đánh giá, xếp loại thi đua các trường
phổ thông.
4.2.5. Các giải pháp bổ trợ
Thứ nhất, đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục phổ thông
GDPT phải được phát triển theo phương thức xã hội hóa - một phương
thức đem lại hiệu quả thiết thực được nhiều nước áp dụng. Xây dựng hệ thống
các cơ chế, chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế, cá tổ chức và tư
nhân tham gia xã hội hóa GDPT. Xã hội hóa giáo dục trong GDPT cần thực
hiện các nội dung hoạt động: 1) Huy động toàn xã hội tham gia phát triển quy
mô GDPT, thực hiện mục tiêu xây dựng một xã hội học tập; 2) Đa dạng hóa
các hình thức học tập và loại hình nhà trường phổ thông; 3) Đa dạng hóa các
131
loại hình nhà trường tham gia vào quá trình GDPT; tham gia xây dựng các
yếu tố, điều kiện phát triển GDPT.
Phân cấp quản lý nhà nước về GDPT phải được triển khai cùng với
phương thức xã hội hóa - một phương thức đang đem lại hiệu quả thiết thực
và được các cấp quản lý GDPT của nhiều nước trên thế giới áp dụng.
Khi nói đến xã hội hóa GDPT thì cần gắn nhà trường với cộng đồng xã
hội nơi trường đóng. Nhà trường tiểu học, THCS là những cơ sở văn hóa có
chức năng nâng cao dân trí, chuẩn bị nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội,
thực hiện những mục tiêu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa phương.
Phương hướng, mục tiêu GDPT của nhà trường phải hướng vào mục tiêu phát
triển của địa phương, vì vậy phát triển GDPT phải bằng sức mạnh của địa
phương và cả cộng đồng xã hội.
Mối quan hệ giữa các trường phổ thông với địa phương càng được củng
cố khi các lực lượng xã hội ở địa phương tham gia vào phát triển GDPT.
GDPT không chỉ do những cán bộ quản lý ngành thực hiện mà cần có sự
tham gia của cộng đồng, tạo điều kiện cho mọi người dân thực hiện quyền
làm chủ của mình đối với sự nghiệp phát triển GDPT.
Xã hội hóa GDPT cần thực hiện ở mọi nội dung hoạt động: Huy động
toàn xã hội tham gia phát triển quy mô GDPT, thực hiện mục tiêu xây dựng
một xã hội học tập trên địa bàn Thành phố; đa dạng hóa các hình thức học tập
và loại hình nhà trường phổ thông; đa dạng hóa các nguồn lực cho GDPT; xây
dựng môi trường giáo dục; tham gia vào quá trình giáo dục; tham gia xây
dựng các điều kiện phát triển GDPT.
Muốn xã hội hóa GDPT được thực hiện có hiệu quả rất cần có sự quản lý
của nhà nước. Quản lý của nhà nước trong xã hội hóa GDPT được hiểu là trách
nhiệm của chính quyền các cấp về ba nhóm vấn đề: Xây dựng hệ thống các cơ
chế, chính sách về xã hội hóa GD; Tổ chức chỉ đạo thực hiện xã hội hóa
GDPT; Giám sát đôn đốc, kiểm tra việc triển khai và thực hiện xã hội hóa.
132
Lý thuyết về phân cấp quản lý trong GDPT được vận dụng vào việc thực
hiện xã hội hóa GDPT:
- Cấp trung ương: Xây dựng và chỉ đạo thực hiện các cơ chế, chính sách
về xã hội hóa GDPT; ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về xã hội hóa
GDPT, về cơ chế phối hợp giữa các ngành, các cấp, về huy động, sử dụng
nguồn lực phát triển GDPT; quy định nghĩa vụ, quyền hạn và trách nhiệm của
các bên có liên quan trong quá trình tham gia vào xã hội hóa GDPT.
- Cấp địa phương: UBND các cấp chỉ đạo, phối hợp, kiểm tra, giám sát
các lực lượng xã hội tham gia phát triển GDPT căn cứ vào chủ trương, chính
sách của cấp trên, nghị quyết của Hội đồng nhân dân các cấp về xã hội hóa
GDPT. Để thực hiện các chủ trương, các chương trình, kế hoạch xã hội hóa
GDPT, UBND Thành phố và các quận, huyện căn cứ vào sự tham mưu của
ngành dọc, của các trường và của Hội đồng nhà trường có trách nhiệm huy
động, tổ chức sự tham gia của các lực lượng trong cộng đồng, quán triệt
nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Thứ hai, trao quyền tự chủ cho các trường phổ thông
Quyền tự chủ của các trường phổ thông được hiểu là quyền của nhà
trường trong việc quyết định những vấn đề có liên quan trực tiếp đến tổ chức
và hoạt động của nhà trường, bao gồm việc thực hiện chương trình, nội dung
và phương pháp giáo dục; việc tuyển dụng, sử dụng và sa thải giáo viên; việc
huy động nguồn lực tài chính và sử dụng ngân sách nhà trường. Nhìn từ góc
độ của mô hình quản lý công mới thì đó là kiểu phân cấp quản lý tới cấp
trường và được gọi là quản lý lấy nhà trường làm cơ sở (School-Based
Management).
Ở nước ta cũng như ở nhiều nước đang phát triển khác, tuy mô hình quản
lý công mới và quản lý lấy nhà trường làm cơ sở chưa được chính thức đưa vào
trong quản lý nhà nước về GDPT, nhưng do tác động của tiến trình toàn cầu
133
hóa, nhiều ý tưởng của các mô hình trên đã được chia sẻ, thâm nhập, chuyển
hóa vào trong tiến trình đổi mới quản lý nhà nước về GDPT ở nước ta.
Luật Giáo dục năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) là cơ sở pháp lý
để quản lý các trường phổ thông ở nước ta chuyển sang phương thức quản lý
lấy nhà trường làm cơ sở. Điều 14 của Luật Giáo dục quy định nguyên tắc
quản lý nhà nước về giáo dục, trong đó Nhà nước thực hiện phân công, phân
cấp quản lý giáo dục, tăng cường quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ sở
giáo dục. Quy định này được cụ thể hóa ở Điều 58 về nhiệm vụ và quyền hạn
của nhà trường với 3 nội dung mới: 1) Nhà trường có quyền tuyển dụng nhà
giáo và tham gia vào quá trình điều động nhà giáo; 2) Nhà trường có quyền
huy động, sử dụng, quản lý các nguồn lực theo quy định của pháp luật; 3) Nhà
trường có nhiệm vụ tự đánh giá chất lượng giáo dục và chịu sựkiểm định chất
lượng giáo dục của cơ quan có thẩm quyền.
Cách đây 5 năm, trong khuôn khổ của một chương trình nghiên cứu theo
tiếp cận hệ thống để nâng cao chất lượng giáo dục, các nhà nghiên cứu của
Ngân hàng Thế giới đã có sự đánh giá bước đầu về tự chủ trường học ở nhiều
nước trên thế giới. Khi đó tự chủ cũng được đặt trong mô hình 3A
(Autonomy: tự chủ, Assessment: đánh giá, Accountability: giải trình) và việc
đánh giá tập trung vào 5 tiêu chí: 1) Mức độ tự chủ trong lập kế hoạch và
quản lý ngân sách nhà trường; 2) Mức độ tự chủ trong quản lý nhân sự; 3) Vai
trò của hội đồng trường trong quản trị nhà trường; 4) Đánh giá học sinh và
đánh giá trường học; 5) Giải trình với các bên liên quan [75, 240].
Ở nước ta, thực hiện tự chủ trường học có những điểm mạnh và cơ hội,
nhưng cũng có những điểm yếu và thách thức. Những điểm mạnh và cơ hội
là: 1) Đã có một số quy định pháp lý về tự chủ trường học; 2) đã có kinh
nghiệm và bài học trong phát huy tự chủ về tài chính; 3) Nghị quyết số 29-
NQ/TW ngày 04/11/2013 về Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào
134
tạo yêu cầu tách quản lý nhà nước với quản trị cơ sở giáo dục; 4) việc đổi mới
chương trình GDPT đòi hỏi một điều kiện bảo đảm là nhà trường phải được tự
chủ về chuyên môn, tài chính và nhân sự. Những điểm yếu và thách thức bao
gồm: 1) Thiếu sự đồng thuận xã hội trong nhận thức về tự chủ trường học; 2)
còn nhiều bất cập trong tự chủ về nhân sự, vai trò của Hội đồng trường và trách
nhiệm giải trình; 3) còn nhiều yếu kém về năng lực ở cả hệ thống quản lý và
cấp trường trong thực hiện tự chủ; 4) theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP, ngày
25/4/2006 về Quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm
vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công
lập cũng như Nghị định 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 quy định cơ chế tự
chủ của đơn vị sự nghiệp công lập thì điều kiện để thực hiện tự chủ trong
GDPT là khả năng tự bảo đảm chi phí. Quy định này khó được thực hiện với
nhà trường phổ thông và trái với thông lệ quốc tế.
Từ đó, có thể nhận dạng được một số việc phải làm sau đây để điều kiện
về tự chủ trường phổ thông được hiện thực hóa:
Một là, tạo sự đồng thuận về nhận thức đối với một số nội dung quan
trọng của tự chủ.
Cần thống nhất rằng, tự chủ trường học là một chính sách quản lý, một
công cụ để nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục, chứ không phải là mục
đích để theo đuổi. Điều bất ổn hiện nay trong Nghị định 43 cũng như Nghị
định 16 là biến tự chủ thành mục đích mà nhà trường công lập cần đạt được
bằng cách tự bảo đảm các khoản chi, từ chi thường xuyên, đến chi quản lý và
chi đầu tư. Cái mà các nghị định này hướng tới là giảm chi ngân sách nhà
nước trong các lĩnh vực dịch vụ công. Điều này là cần thiết nhưng không thể
áp dụng đồng loạt cho mọi lĩnh vực, cũng như trong cùng một lĩnh vực như
giáo dục. Nếu trong giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học, việc huy động
các nguồn thu ngoài ngân sách như học phí, nghiên cứu khoa học, chuyển
135
giao công nghệ là hợp lý và cần thiết thì GDPT không như vậy. Cần coi
GDPT là loại dịch vụ công thiết yếu, nơi Nhà nước cần đầu tư ngân sách để
bảo đảm các khoản chi của nhà trường. Việc thu học phí có thể đặt ra ở THPT
hoặc ở một số cơ sở giáo dục đáp ứng nhu cầu của thị trường chất lượng cao
trong giáo dục, nhưng tuyệt nhiên không nên đặt yêu cầu về tự bảo đảm các
khoản chi như một điều kiện tiên quyết cho tự chủ.
Điều kiện để nhà trường phổ thông được tự chủ chính là các điều kiện đã
được đúc kết từ mô hình 3A nói trên. Đó là: 1) Có một Hội đồng nhà trường có
quyền lực và năng lực; 2) Đã được đánh giá, kiểm định và công nhận về chất
lượng; 3) Bảo đảm thực hiện giải trình công khai, minh bạch và trung thực. Khi
đó nhà trường được giao quyền tự chủ, bao gồm tự chủ về chuyên môn, nhân sự
và tài chính.
Hai là, hoàn thiện các quy định pháp lý về tự chủ trường phổ thông.
Hiện nay, Điều 14 và Điều 58 của Luật Giáo dục đã tương đối đủ để tạo
thành hành lang pháp lý cho việc thực hiện quyền tự chủ trường phổ thông.
Có điều các văn bản dưới luật lại không nhất quán với tinh thần của Luật
Giáo dục. Trước hết, trong các điều lệ trường tiểu học và trung học, tuyệt
nhiên không có quy định nào về việc thực hiện các quyền tự chủ theo Điều 58
của Luật Giáo dục. Dường như các nhà soạn thảo điều lệ nhà trường vẫn nhìn
trường phổ thông dưới góc độ của một nhà trường tuân thủ, chịu trách nhiệm
thi hành các mệnh lệnh hành chính hoặc các quy định được truyền đạt từ cơ
quan quản lý cấp trên. Ở một góc độ khác, từ Nghị định 43 năm 2006 đến
Nghị định 16 năm 2015 quy định về cơ chế tự chủ của các đơn vị sự nghiệp
công lập thì nhà trường công lập được tự chủ hay không và tự chủ đến mức
độ nào lại hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng tự bảo đảm các khoản chi. Như
thế từ tinh thần tự chủ của Luật Giáo dục đến tinh thần tự chủ của các văn bản
dưới luật đã có sự khác biệt về nhận thức như đã trình bày ở trên.
136
Vì thế, việc hoàn thiện thể chế về quyền tự chủ trường phổ thông cần tập
trung vào chỉnh lý các văn bản dưới luật, trên cơ sở có sự đồng thuận về nhận
thức đối với các nội dung cơ bản của tự chủ. Theo hướng đó cần:
- Ban hành một nghị định riêng về tự chủ của trường phổ thông công lập
với hai nội dung chủ yếu sau đây: 1) Nhà trường được giao quyền tự chủ khi
bảo đảm các điều kiện đã được kiểm định và công nhận về chất lượng; có hội
đồng trường đủ năng lực và quyền lực; thực hiện trách nhiệm giải trình công
khai, minh bạch và trung thực; 2) quyền tự chủ của trường phổ thông bao
gồm: tự chủ về chuyên môn (chọn sách giáo khoa, nội dung, cách dạy, cách
học, cách đánh giá trong phạm vi những quy định của chương trình giáo dục
phổ thông); tự chủ về nhân sự (tuyển dụng, sử dụng, bổ nhiệm, đãi ngộ giáo
viên); tự chủ về tài chính (sử dụng ngân sách nhà nước được cấp trọn gói, huy
động và sử dụng nguồn thu ngoài ngân sách nhà nước).
- Sửa đổi, bổ sung điều lệ trường tiểu học và điều lệ trường trung học,
trong đó: 1) làm rõ vai trò và thẩm quyền của hội đồng trường cùng mối quan
hệ giữa hội đồng trường và hiệu trưởng; 2) làm rõ trách nhiệm giải trình của
nhà trường đối với hội đồng trường, với các bậc phụ huynh và cộng đồng địa
phương, với cơ quan quản lý cấp trên; 3) cụ thể hóa các quyền tự chủ về
chuyên môn, nhân sự và tài chính.
Ba là, thể chế hóa chủ trương tách quản lý nhà nước với quản trị các
trường phổ thông.
Đây là chủ trương đã được quy định trong Nghị quyết số 29 của Ban
chấp hành Trung ương nhưng đến nay chưa được đề cập đến trong Chương
trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 29. Chính việc chậm
thể chế hóa chủ trương này khiến việc tự chủ các trường phổ thông còn gặp
rào cản lớn trong tổ chức thực hiện. Chừng nào chưa tách bạch quản lý nhà
nước với quản trị các trường phổ thông thì cơ quan quản lý nhà nước vẫn tiếp
137
tục giữ thói quen can thiệp vào mọi hoạt động liên quan đến chỉ đạo, quyết
định những vấn đề lớn của các trường phổ thông, qua đó vô hiệu hóa hội đồng
trường, biến hội đồng trường thành một thiết chế hình thức trong tổ chức của
nhà trường.
Vì thế cần sớm thể chế hóa chủ trương trên để thiết lập một quan hệ phối
hợp mới giữa nhà trường và cơ quan quản lý cấp trên. Đó là quan hệ hỗ trợ,
tạo điều kiện cho nhà trường phát huy tốt quyền tự chủ của mình. Trên
nguyên tắc tập trung làm tốt chức năng quản lý nhà nước, cơ quan quản lý
nhà nước về GDPT địa phương chuyển từ vị trí “người ra lệnh” sang vị trí
“người cộng tác” để cung cấp thông tin, chia sẻ kinh nghiệm, giúp nhà trường
phát huy quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình trong công tác quản lý cụ thể
của mình để công tác quản lý nhà trường bám sát thực tế nhà trường, lắng
nghe tiếng nói của giáo viên, học sinh, gia đình và xã hội, từ đó bản thân nhà
trường có những quyết định đúng đắn, phù hợp và khả thi. Điều này đòi hỏi
có sự trao đổi thông tin hai chiều, kịp thời và tin cậy giữa cơ quan quản lý
giáo dục địa phương với nhà trường, gia đình và xã hội. Trong điều kiện phát
triển mạnh mẽ hiện nay của công nghệ thông tin, điều đó cũng có nghĩa là
phải hiện đại hóa công tác quản lý, chuyển nhanh sang việc thực hiện tin học
hóa công tác quản lý.
Kể cả trên phương diện pháp lý lẫn thực tế, vấn đề tự chủ đã được quy
định và tổ chức thực hiện trong GDPT ở nước ta từ hơn 10 năm nay. Tuy
nhiên, giáo dục nước ta, kể cả ở GDPT mới chỉ đi những bước đầu trên con
đường tự chủ. Trên con đường này, Việt Nam cũng có cách tiếp cận riêng. Đó
là cách tiếp cận theo kiểu đánh đổi giữa quyền tự chủ với việc tự bảo đảm các
khoản chi.
Về bản chất, đó là một cách tiếp cận mang tính thị trường. Nó khuyến
khích và đòi hỏi các trường phổ thông phải cố gắng tạo ra các khoản thu
138
ngoài ngân sách và dùng các khoản thu này để “mua” lấy quyền tự chủ. Dĩ
nhiên, chẳng có một công thức chung để đi tới tự chủ. Mỗi nước, tùy theo
điều kiện kinh tế - xã hội của mình mà có con đường riêng để đưa tự chủ vào
GDPT. Chúng ta chọn cách tiếp cận nói trên với mục đích chính là tháo gỡ
mâu thuẫn giữa một bên là sự hạn hẹp của ngân sách nhà nước với một bên là
yêu cầu cao về mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng GDPT.
Có điều cách tiếp cận thị trường trong GDPT là một việc làm lợi bất cập
hại. Nó tạo ra trong nhà trường một môi trường mà cả thày và trò đều đứng
trước các xung đột về giá trị. Đó là các xung đột giữa một bên là các giá trị
hướng tới phẩm chất người học mà chương trình GDPT phải thực hiện với
một bên là các giá trị thị trường mà dù muốn hay không các trường phổ thông
phải theo đuổi để tạo ra các khoản thu. Kết quả của những xung đột này là sự
loang rộng và thậm chí lên ngôi của các phi giá trị như sự giả dối, bệnh thành
tích, bệnh hình thức, bệnh bè phái, bệnh đối phó, thói tùy tiện, thói vô cảm…
Trong một môi trường như vậy, khó mà hình thành một cách thực chất các
phẩm chất mong muốn của học sinh.
Muốn thay cách tiếp cận trên bằng một tiếp cận khác, phù hợp hơn với
các đặc trưng của GDPT không nên có chuyện tự bảo đảm các khoản chi để
được giao quyền tự chủ. Nhà trường vẫn cần được cấp ngân sách nhà nước
đầy đủ và được giao quyền tự chủ khi đã được kiểm định và công nhận về
chất lượng, có một hội đồng trường đủ mạnh và thực hiện trách nhiệm giải
trình một cách công khai, minh bạch. Đó là cách tiếp cận hướng tới nâng cao
chất lượng GDPT. Nó sẽ tạo nên môi trường văn hóa lành mạnh và trung thực
để cả thày và trò cùng vững tâm hướng tới các phẩm chất mà chương trình
GDPT mong muốn trong các trường phổ thông.
139
Tiểu kết chương 4
Phân cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội
trong những năm qua bước đầu đã phát huy tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm
của của các cơ quan nhà nước và đội ngũ cán bộ quản lý GDPT, góp phần
nâng cao chất lượng GDPT. Tuy nhiên, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT
trên địa bàn Thành phố vẫn còn nhiều bất cập, những bất cập trong tổ chức bộ
máy và thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về GDPT; những bất cập
trong thực hiện các chức năng chuyên môn và quản lý các nguồn lực vật chất;
những bất cập trong quản lý đội ngũ giáo viên và thanh tra, kiểm tra GDPT.
Căn cứ vào các quan điểm, định hướng phân cấp quản lý nhà nước về
GDPT cần triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp để đẩy mạnh phân cấp
quản lý đối với GDPT trên địa bàn Thành phố trong những năm tới. Các giải
pháp đó là: 1) Đổi mới tư duy về phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ
thông; 2)Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về phân cấp
quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông; 3) Nâng cao năng lực của đội ngũ cán
bộ quản lý giáo dục phổ thông; 4) Hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra đảm
bảo hiệu quả phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông; 5) Các giải
pháp bổ trợ khác (Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục phổ thông, Trao quyền tự chủ
cho các trường phổ thông).
Thực hiện đồng bộ các giải pháp trên sẽ góp phần đẩy mạnh và nâng cao
hiệu quả phân cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội
trong những năm tới, góp phần phát triển GDPT, đáp ứng tốt các yêu cầu của
người dân và xã hội.
140
KẾT LUẬN
Phân cấp quản lý nhà nước nói chung và phân cấp quản lý nhà nước về
GDPT nói riêng là một trong những nội dung quan trọng trong Chương trình
tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020. Trên thực tế,
phân cấp quản lý quản lý nhà nước về GDPT trên cơ sở xác định rõ chức
trách, nhiệm vụ của các cơ quan có liên quan đã mang lại những kết quả tích
cực. Phân cấp quản lý nhà nước về GDPT là rất cần thiết để phát triển GDPT
và hoàn toàn khả thi nếu có các cơ chế, chính sách đúng và điều kiện thực
hiện được đảm bảo.
Nghiên cứu đề tài này, tác giả mong muốn đóng góp ý kiến làm rõ sự
cần thiết phải đổi mới nhận thức về sự cần thiết phải đối mới mạnh mẽ các cơ
chế, chính sách trong quản lý nhà nước về GDPT trong giai đoạn chuyển đổi
từ tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Luận án phân tích làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về sự cần thiết về nhận
thức và quyết tâm tổ chức thực hiện chính sách đổi mới trong quản lý nhà
nước về GDPT thông qua mô hình phân cấp, từ đó khắc phục những yếu kém
trong quản lý nhà nước về GDPT ở nước ta hiện nay. Phân định rõ chức
trách, nhiệm vụ của các bộ, các cơ quan chuyên môn và chính quyền địa
phương các cấp; coi trọng các khâu quản lý đối với GDPT để giải quyết
những vấn đề đang đặt ra trong xã hội, mà phân cấp quản lý là một trong
những giải pháp được nhiều nước trên thế giới đã thực hiện thành công.
Những kết quả nghiên cứu đề tài được thể hiện ở những nội dung chính
sau đây:
1. Luận án đã tập trung nghiên cứu các công trình nghiên cứu ở trong nước
và trên thế giới về phân cấp quản lý, phân cấp quản lý về giáo dục và đánh giá
chung về các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án. Trong chương
141
này nghiên cứu sinh đã chỉ rõ những nội dung đã được các tác giả trong nước và
quốc tế nghiên cứu về phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục; những nội dung
tác giải luận án cần nghiên cứu, bổ sung.
2. Phân tích làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước về
GDPT, luận án khẳng định xu hướng phi tập trung (decentralization) là xu
hướng chung trong quản lý nhà nước về GDPT trên thế giới hiện nay.Luận án
phân tích làm rõ khái niệm phân cấp quản lý quản lý nhà nước về giáo dục
phổ thông; tác động phân cấp quản lý nhà nước về GDPT; nội dung, điều
kiện, các yếu tố ảnh hưởng đến phân cấp quản lý nhà nước về GDPT. Trong
chương này, nghiên cứu sinh trình bày kinh nghiệm của các nước trên thế giới
trong phân cấp quản lý nhà nước về GDPT và rút ra các giá trị tham khảo cho
Việt Nam.
3. Phân tích thực trạng phân cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa
bàn Thành phố Hà Nội. Tuy đã đạt được những kết quả quan trọng, tạo ra sự
chuyển biến bước đầu trong công tác quản lý nhà nước về GDPT, nhưng phân
cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn Thành phố vẫn còn nhiều tồn tại,
hạn chế. Các hạn chế này tập trung trong ba lĩnh vực chủ chốt: (i) bộ máy,
nhân sự; (ii) cơ sở vật chất và tài chính; (iii) chuyên môn (bao gồm lập kế
hoạch phát triển giáo dục phổ thông, xây dựng nội dung, chương trình và
đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông).
4. Luận án đã trình bày quan điểm, định hướng phân cấp quản lý nhà
nước về GDPT. Trên cơ sở các quan điểm và định hướng này luận án đã đề
xuất các giải pháp để đẩy mạnh phân cấp quản lý đối với GDPT trên địa bàn
Thành phố trong những năm tới. Các giải pháp đó là: 1) Đổi mới tư duy về
phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông; 2)Xây dựng và hoàn thiện
hệ thống chính sách, pháp luật về phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ
thông; 3) Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục phổ thông; 4)
142
Hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra đảm bảo hiệu quả phân cấp quản lý nhà
nước về giáo dục phổ thông; 5)Các giải pháp bổ trợ khác (Đẩy mạnh xã hội
hóa giáo dục phổ thông, Trao quyền tự chủ cho các trường phổ thông).
Song cũng cần nhấn mạnh rằng, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT
chỉ phát huy hiệu quả khi cơ quan nhà nước cấp trên trao nhiều quyền hơn
cho cấp cơ sở đồng thời không ngừng nâng cao năng lực của cán bộ quản lý
GDPT và thực hiện công tác kiển tra, giám sát các hoạt động GDPT có hiệu
quả. Các ý tưởng mới về phân cấp quản lý nhà nước về GDPT chỉ có thể thực
hiện khi được thể chế hóa bằng các quy định pháp luật và cần có sự phối hợp
đa ngành (ít nhất là ngành Giáo dục, Nội vụ và Tài chính).
143
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
1. Ngô Thị Diệp Lan, Cách tiếp cận đổi mới quản lý giáo dục phổ thông và
quản lý các trường phổ thông hiện nay, Tạp chí quản lý nhà nước 258
tháng 7/2017.
2. Ngô Thị Diệp Lan, Giáo dục phổ thông trên địa bàn thành phố Hà Nội –
thực trạng và giải pháp, Tạp chí quản lý nhà nước 270 tháng 7/2018.
144
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Đặng Quốc Bảo - Nguyễn Đắc Hưng (2004), Giáo dục Việt Nam hướng
tới tương lai - vấn đề và giải pháp, NXB Chính quốc gia, Hà Nội
2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày
04/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Quyết định số 2653/QĐ-BGDĐT ngày
25/7/2014ban hành Kế hoạch hành động của ngành giáo dục triển khai
Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 29-
NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ, Thông tư liên tịch số
11/2015/TTLT-BGD-ĐT-BNV Hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Giáo dục và Đào tạo thuộc UBND
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Phòng Giáo dục và Đào tạo
thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ, Thông tư liên tịch số
07/2009/TTLT-BGD-ĐT-BNV hướng dẫn quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế đối với đơn vị sự
nghiệp công lập Giáo dục và Đào tạo.
6. Bộ Giáo dục và Đào tạo - Viện nghiên cứu phát triển giáo dục (2003),
Chiến lược phát triển giáo dục trong thế kỷ XXI - kinh nghiệm của các
quốc gia, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
7. Bộ Nội vụ, Đề án phân cấp quản lý nhà nước trung ương - địa phương,
Hà Nội, 8/2003.
145
8. Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương, Kết quả Tổng
điều tra dân số và nhà ở thời điểm 0 giờ ngày 1 tháng 4 năm 2019, NXB
Thống kê, 2019
9. Chính phủ Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, Nghị quyết số 21/NQ-CP
ngày 21/3/2016 của Chính phủ về Phân cấp quản lý giữa Chính phủ và
UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
10. Chính phủ Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, Nghị định số
115/2010/NĐ-CP ngày 24/12/2010 của Chính phủ Quy định trách nhiệm
quản lý nhà nước về giáo dục.
11. Chính phủ Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, Nghị định số 16/2015/NĐ-
CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ Quy định cơ chế tự chủ của đơn vị
sự nghiệp công lập.
12. Chính phủ Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam,Quyết định số 711/QĐ-
TTg của thủ tướng Chính phủ ngày 13/6/2012 về Chiến lược phát triển
giáo dục giai đoạn 2011 – 2020.
13. Chính phủ, Nghị quyết số 49/NQ-CP ngày 09/6/2014 ban hànhChương
trình hành động thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013
của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI.
14. Chỉ thị số 10/2008/CT-UBND của Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội
về Thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của ngành giáo dục và đào tạo Hà
Nội trong năm học 2017 - 2018.
15. Cộng hòa XHCN Việt Nam,Luật Giáo dục năm 2005; Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Giáo dục năm 2018,NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội - 2018.
16. Cộng hòa XHCN Việt Nam,Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm
2015,NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2016.
146
17. Đinh Minh Dũng,“Phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo ở cấp
huyện vùng đồng bằng sông Cửu Long”, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 195
(4-2012).
18. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 18-NQ/TW Hội nghị lần thứ 6
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ
chức bộ máy của hệ thống chính trị, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 19-NQ/TW Hội nghị lần thứ 6
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống
tổ chức, quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn
vị sự nghiệp công lập.
20. Nguyễn Minh Đạo, Cơ sở khoa học quản lý, NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội 1997
21. Nguyễn Tiến Đạt,Kinh nghiệm và thành tựu phát triển giáo dục và đào
tạo trên thế giới, tập 1 và 2,NXB Giáo dục Hà Nội - 2006.
22. PGS. TS. Nguyễn Minh Đoan, Phân cấp, phân quyền giữa Trung ương
và địa phương, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2012.
23. Đậu Hoàn Đô, Nguyễn Công Giáp và Đào Vân Vy,Phân cấp quản lý giáo
dục Việt Nam: Thực trạng và xu hướng,NXB Giáo dục Hà Nội, 2003
24. Trần Khánh Đức - Bùi Quốc Dũng, Xu hướng và đặc trưng phân cấp
quản lý giáo dục ở các nước đang phát triển, NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội - 2005.
25. Elizabeth M. King và Susana Corderio Guerra (2005): “Những cuộc cải
cách giáo dục ở Đông Á: chính sách, quá trình và tác động”, sách “Phân
cấp ở Đông Á để chính quyền địa phương phát huy tác dụng”, NXB Văn
hóa Thông tin, Hà Nội
26. Phạm Minh Hạc - Trần Kiều - Đặng Bá Lãm - Nghiêm Đình Vy, Giáo
dục thế giới đi vào thế kỷ XXI, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội-2002.
147
27. Ðỗ Thị Thu Hằng, Nghiên cứu các chính sách phi tập trung hóa tài
chính giáo dục nhằm nâng cao chất lượng đối với các trường THPT Việt
Nam, Ðề tài trọng điểm cấp trường Ðại học Quốc gia Hà Nội, mã số:
QGTÐ 10.20, Hà Nội, 2012.
28. Nguyễn Ngọc Hiến(chủ biên),Hành chính công (dùng cho nghiên cứu
sinh và giảng dạy sau đại học),NXB Thống kê, Hà Nội - 2003.
29. Nguyễn Tiến Hùng, Một số kinh nghiệm quốc tế về phân cấp quản lý
giáo dục phổ thông, Tạp chí Phát triển giáo dục,số 12/2004.
30. Nguyễn Tiến Hùng, Cơ sở lý luận và thực tiễn về phân cấp quản lý
trường trung học phổ thông Việt Nam, Luận án tiến sĩ Giáo dục học,
Viện KHGD Việt Nam, 2005.
31. TS. Nguyễn Tiến Hùng,Đề tài khoa học cấp Bộ B98-52-22:Nghiên cứu
tập trung và phân quyền trong hệ thống quản lý ngành GDPT Việt Nam.
32. Nguyễn Tiến Hùng, Tìm hiểu quy trình nghiên cứu phân cấp quản lý
giáo dục, Tạp chí Phát triển giáo dục, số 4 (64), năm 2004
33. Nguyễn Tiến Hùng,Vai trò của các cấp quản lý trong xu thế phân cấp quản
lý giáo dục đại học, Tạp chí Khoa học giáo dục, số 6 năm 2006.
34. Phạm Thanh Huyền, Một số vấn đề về phân cấp quản lý hành chính nhà
nước, tạp chí Tổ chức nhà nước, số tháng 12/2015.
35. Đặng Thị Thanh Huyền,Giáo dục phổ thông với phát triển chất lượng
nguồn nhân lực, NXB Khoa học Hà Nội – 2001.
36. Harol Koontz, Cỷil O”Donnell, Heinz Weihrich, Những vấn đề cốt yếu
của quản lý. NXB khoa học - Kỹ thuật, 1992).
37. J. M. Cohen và S. B. Peterson,Phân cấp quản lý hành chính - chiến lược
cho các nước đang phát triển, NXB Chính quốc gia, Hà Nội -2002.
38. Trần Kiểm,Khoa học quản lý nhà trường phổ thông, NXB Đại học quốc
gia Hà Nội, 2005.
148
39. Hà Khanh, Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, NXB Giáo dục, Hà Nội -
2007.
40. Ngô Thị Diệp Lan, Một số giải pháp tăng cường phân cấp quản lý nhà
nước về giáo dục phổ thông, tạp chí Quản lý nhà nước, số 236/2015.
41. Lê Thị Ái Lâm,Phát triển nguồn nhân lực thông quan giáo dục và đào
tạo - kinh nghiệm Đông Á, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội - 2003.
42. Đặng Bá Lãm (chủ biên),Quản lý nhà nước về giáo dục: lý luận và thực
tiễn,NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2005.
43. Trương Đắc Linh, Phân cấp quản lý trung ương và địa phương: Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn, tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 3/2002.
44. Nguyễn Phương Linh - Đỗ Thị Hoa, Tìm hiểu các văn bản quy phạm pháp
luật về Quản lý giáo dục và Đào tạo, NXB Công an nhân dân - 2016.
45. Trần Thị Bích Liễu, Quản lý dựa vào nhà trường: con đường nâng cao hiệu
quả và chất lượng giáo dục, NXB Ðại học Sư phạm, Hà Nội - 2005.
46. Nguyễn Thế Long,Đổi mới tư duy phát triển giáo dục Việt Nam trong
kinh tế thị trường, NXB Lao động, Hà Nội - 2006.
47. Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Tác động của các chính sách phân cấp quản lý
giáo dục đối với chất lượng giáo dục qua một số công trình nghiên cứu,
tạp chí Giáo dục và Xã hội, số 18 (78) tháng 8/2012.
48. TS. Uông Chu Lưu, Một số vấn đề lý luận về phân cấp quản lý nhà
nước, Tạp chí Dân chủ pháp luật, số chuyên đề 60 năm ngành Tư pháp.
49. Hoàng Mai, Phân cấp quản lý nhân sự hành chính nhà nước ở Việt Nam
hiện nay, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội - 2016.
50. Ngân hàng thế giới (2005): “Phân cấp ở Đông Á để chính quyền địa
phương phát huy tác dụng”, NXB Văn hóa - Thông tin
51. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương khóa XI về
Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu
CNH, HĐH, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội – 2013.
149
52. Nghị quyết 21/2016/NQ-CP của Chính phủ ngày 21/3/2016 về phân cấp
quản lý nhà nước giữa Chính phủ và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương.
53. Trần Thị Diệu Oanh, Phân cấp quản lý tổ chức bộ máy và cán bộ, công
chức trong quá trình cải cách hành chính, tạp chí Quản lý nhà nước, số
10/2014.
54. Osborne và Gaebler (2000): “Sáng tạo lại chính phủ”, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
55. Nguyễn Minh Phương, Tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý giữa các cấp
chính quyền địa phương hiện nay, tạp chí Quản lý nhà nước, số 1/2007.
56. Hoàng Văn Sao, Phân cấp, phân quyền trong quản lý hành chính nhà
nước, tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, số 4/2002.
57. Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hà Nội, Báo cáo tổng kết năm học
2014 – 2015, phướng hướng nhiệm vụ trọng tâm năm học 2015 – 2016.
58. Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hà Nội, Báo cáo tổng kết năm học
2016 – 2017, phướng hướng nhiệm vụ trọng tâm năm học 2017 – 2018.
59. Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hà Nội, Báo cáo tổng kết năm học
2018 – 2019, phướng hướng nhiệm vụ trọng tâm năm học 2019 – 2020
60. Võ Kim Sơn,Phân cấp quản lý nhà nước - lý luận và thực tiễn, NXB
Chính quốc gia, Hà Nội, 2004.
61. Nguyễn Thế Tài, Phân công, phân cấp trong quản lý hành chính nhà
nước, tạp chí Tổ chức nhà nước, số 11/2011.
62. Nguyễn Thị Thanh Tâm, Phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ
thông (từ thực tiễn tỉnh Bến Tre), Luận văn thạc sĩ Quản lý hành chính
công, Học viện Hành chính Quốc gia, năm 2008.
63. Đặng Văn Thanh, Phân cấp quản lý tài chính nhà nước – Thực trạng và
giải pháp hoàn thiện, tạp chí Quản lý nhà nước, số 9/2004.
64. Phạm Hồng Thái - Nguyễn Đăng Dung (đồng chủ biên), Phân cấp quản
lý nhà nước, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội – 2011.
150
65. Trần Hồng Thắm, Một số giải pháp đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà
nước về giáo dục phổ thông, tạp chí Khoa học, Đại học ư phạm TP Hồ
Chí Minh, số 34/2012.
66. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 711/QĐ-TTg phê duyệt “Chiến
lược phát triển giáo dục 2011 - 2020” ngày 13/6/2012, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội - 2012.
67. Nguyễn Xuân Tế (2008), Quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ
sở giáo dục,Website Trường cán bộ quản lý GD&ĐT TP. Hồ Chí Minh.
68. Nguyễn Hồng Thuận, Đổi mới phân cấp quản lý trường trung học phổ
thông Việt Nam, đề tài khoa học cấp Bộ, Viện Khoa học giáo dục, 2011.
69. Vũ Thư, Phân cấp quản lý giữa các cấp chính quyền và những vấn đề
đặt ra, tạp chí Quản lý nhà nước, số 7/2014.
70. Trường Cán bộ quản lý giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh, Tài liệu học
tập, bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục phổ thông, NXB Đại học luật,
TP Hồ Chí Minh - 2008.
71. Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Giáo trình Khoa học quản lý, tập I,
Hà Nội 2001).
72. Hoàng Tụy (Chủ biên), Cải cách và chấn hưng giáo dục, NXB Tổng hợp
Thành phố Hồ Chí Minh, 2005.
73. Trần Anh Tuấn, Đẩy mạnh phân cấp quản lý hành chính nhà nước đáp
ứng yêu cầu phát triển và hội nhập toàn cầu, tạp chí Quản lý nhà nước,
số 10/2004.
74. Đinh Thi Minh Tuyết, Về phân cấp quản lý giáo dục - đào tạo ở nước ta
hiện nay, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 142 (11/2007).
75. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, XII, XII của Đảng Cộng
sản Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội – 2006, 2011, 2016
76. Viện Khoa học Giáo dục,Tuyển tập các công trình nghiên cứu vê Giáo
dục phổ thông của Nhà giáo nhân dân Phạm Văn Hoàn,NXB Đại học
quốc gia Hà Nội, năm 2001.
151
77. Viện Khoa học giáo dục,Xã hội hóa giáo dục, NXB Đại học quốc gia Hà
Nội, năm 2005
78. Viện nghiên cứu phát triển giáo dục - Trung tâm nghiên cứu phát triển
nguồn nhân lực, Từ chiến lược phát triển giáo dục đến chính sách phát
triển nguôn nhân lực, NXB Giáo dục, năm 2002
79. Viện Khoa học Giáo dục,Tuyển tập các công trình nghiên cứu vê Giáo
dục phổ thông của Nhà giáo nhân
80. Phạm Viết Vượng (Chủ biên),Quản lý hành chính nhà nước và quản lý
giáo dục đào tạo,NXB Đại học sư phạm, năm 2003
81. Nguyễn Cửu Việt, Phân cấp quản lý trong mối quan hệ giữa Trung ương
và địa phương, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 7/2005.
82. Nguyễn Cửu Việt, Khái niệm tập quyền, tản quyền và phân quyền, Tạp
chí Luật học, ĐH Quốc gia Hà Nội, số 26/2010.
83. Đào Văn Vy, Phân cấp quản lý giáo dục ở Việt Nam: Quan niệm, thực
tiễn và những vấn đề đặt ra về giáo dục phổ thông, tạp chí Khoa học
Giáo dục, số 37/2008.
84. Đào Văn Vỹ (1991), Từ điển Pháp - Việt, NXB TP.Hồ Chí Minh.
85. Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội, Công văn số 2475/UBND-KT về
việc triển khai Nghị quyết số 21/2017/NQ-CP về phân cấp quản lý nhà
nước giữa Chính phủ và UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
86. Website Thư viện pháp luật: http://lawsoft.thuvienphapluat.com
87. Hà Nguyên, Bất cập trong quản lý Nhà nước về giáo dục: Biến dạng
phân cấp quản lý, www.htp// giaoducthoidai.vn ngày 7/3/2019
88. Lê Hà, Cần khắc phục một số vấn đề trong vận hành tài chính cho giáo
dục, www.htp;//nhandanorg.vn ngày 29/10/2018
Tiếng Anh
89. Alfred de Grazia (1999),Decentralization - The element of Political
Science”, New Jersey.
152
90. Brian G. Knight &Nora Gordon (2006),The Effects of School District
Consolidation on Educational Cost and Quality, forthcoming, Public
Finance Review.
91. Clive A. J. Dimmock, School-based management and school
effectiveness, 1993.
92. Cheema, G. Shabbir and Rondineli (1993): “Decentralization and
development: Policy implementation in developing countries”, Sage,
Beverly Hills
93. Donal R. Winkler (1998): Decentralization in education: An Economic
Perspective,World bank
94. Harry Anthony Patrinos, David Lakshmanan Ariasingam
(1997),Decentralization of education: demand-side financing,World Bank,
Wash. D.c
95. Odden A, Busch C., Financing schools for high performance: strategies
for improving the use of educational resources, San Francisco: Jossey-
Bass,1988.
96. Jere R. Behrman, Anil B. Deolalikar, Lee-Ying Soon (2002),Conceptual
issues in the role of education decentralization in promoting effective
schooling in Asian developing countries,ADB, Manila.
97. Jacques Hallack (1990),Investing in the future. Setting
EductionalPriorities in the Developing world,UNDP.
98. Kanokpan Lao-Araya (2002),Effect of decentralization strategy on
macroeconomic stability in Thailand,ADB, Manila
99. Kaori Okano and Motonori Tsuchiya (1999),Education in contemporary
Japan: inequality and diversity,Cam. Univ. Pr
100. Lockheed, Marlaine (2004),“Decentralization of education: Eight
lessons for school effectiveness and improvement”,The word Bank,
Washington, D.C.
153
101. Nora Gordon & Brian Knight (2006),The Causes of Political
Integration: An Application to School Districts, NBER Working Papers
12047, National Bureau of Economic Research, Inc.
102. Rondineli D. và Nellis J. (1996),Assessing decentralization policies in
Developing countries: the case for cautious optimism, Delelopment
Policy Review 4.
103. Winkler R, Donald R. and Gershberg (2003), Effects on Quality of
Schooling,Word Bank, Washington D.C.
104. World Bank (1997),Decenfralization of education: legal issues,Wash. D.C.
105. World Bank (1998),Decentralization of education: teacher
management,Wash. D.C.
106. Washington D.C, USAID (2000),Decentralization and democratic Local
Governm.
154
PHỤ LỤC 1
PHIẾU KHẢO SÁT
Lấy ý kiến cán bộ quản lý giáo dục phổ thông và giáo viên về phân cấp
quản lý nhà nuwóc đối với GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội
Xin vui lòng đọc và đánh dấu X vào ô bên cạnh nội dung đánh giá mà
anh/chị lựa chọn.
Nội dung khảo sát Mức độ đánh X
giá
Tốt 1. Theo anh/chị, mức độ đáp ứng của quản lý đối với
GDPT ở địa phương nơi anh/chị công tác trước các yêu Khá
cầu phát triển KT-XH địa phương như thế nào? TB
2. Việc sửa đổi, bổ sung văn bản pháp quy về phân cấp Phù hợp
quản lý nhà nước về GDPT có phù hợp với tình hình Khá phù hợp
thực tế của địa phương? Chưa phù hợp
3. Theo anh/chị các văn bản pháp quy về quản lý nhà Bao quát
nước về GDPT có bao quát hết các mặt hoạt động Khá bao quát
GDPT hiện nay không ? Chưa bao quát
4. Các văn bản pháp quy liên quan đển quản lý nhà Nhất quán
nước về GDPT có nhất quán từ trung ương đến địa Khá nhất quán
phương? Chưa nhất quán
5. Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà Có
nước về GDPT ở địa phương có tương xứng với quyền Không hạn?
6. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn các cơ quan quản Có
lý nhà nước về GDPT có được quy định rõ ràng, cụ thể? Không
155
7. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan Có
quản lý nhà nước về GDPT có chồng chéo với các cơ Không quan nhà nước khác không?
8. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về GDPT Có
ở TP Hà Nội có hợp lý không? Không
9. Mức độ linh hoạt trong cơ cấu tổ chức bộ máy quản Tốt
lý nhà nước về GDPT trên địa bàn TP Hà Nội trước Khá
những thay đổi của tình hình thực tế? TB
10. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về GDPT Có
trên địa bàn TP Hà Nội có thống nhất và phù hợp Không không?
11. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về GDPT Có
trên địa bàn TP Hà Nội có bao quát hết các mảng công Không việc?
12. Chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong tổ Có
chức bộ máy quản lý nhà nước về GDPT có rõ ràng, Không phù hợp?
13. Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà Có
nước về GDPT có được quy định rõ ràng, hiệu quả? Không
14. Công tác thông tin trong quản lý nhà nước về GDPT Có
trên địa bàn Thành phố có kịp thời và chính xác? Không
15. Đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về GDPT của Đủ
Thành phố có đáp ứng đủ về số lượng? Không đủ
16. Chất lượng của đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước Tốt
về GDPT trên địa bàn Thành phố hiện nay như thế nào? Khá
TB
156
17. Đội ngũ cán bộ quản lý GDPT, giáo viên các
Có
trường phổ thông có thường xuyên được đào tạo, bồi Không có dưỡng?
18. Kiến thức được đào tạo, bồi dưỡng có đáp ứng yêu Có
cầu nâng cao chất lượng của đội ngũ giáo viên không? Không
19. Quy định chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan Có
quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn Thành phố có Không hợp lý trong tương quan với các cơ quan, tổ chức khác?
20. Mức độ hiệu quả trong cơ chế phối hợp hoạt động Tốt
giữa các cơ quan quản lý nhà nước về GDPT và các Khá
ban, ngành chức năng khác trên địa bàn Thành phố? TB
21. Tầm quan trọng của các văn bản hướng dẫn của Quan trọng
Trung ương về cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản Khá q. trọng
lý nhà nước về GDPT và các cơ quan chức năng khác ở Không q. trọng địa phương?
22. Vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước về Rất nổi bật
GDPT trong tương quan với các ban, ngành chức năng Khá nổi bật
khác trên địa bàn Thành phố? Mờ nhạt
23. Theo anh/chị quản lý nhân sự trong ngành GDPT Sở Nội vụ
nên giao cho Sở Nội vụ hay Sở Giáo dục và Đào tạo? Sở GD-ĐT
24. Theo anh/chị quản lý tài chính, ngân sách của Sở Tài chính
GDPT nên giao cho Sở Tài chính hay Sở Giáo dục và SỞGD-ĐT Đào tạo?
25. Các trường phổ thông hiện nay có quyền tự chủ Có
trong xây dựng chương trình, kế hoạch dạy học? Không có
157
26. Anh/chị đánh giá mức độ tự chủ trong triển khai Hoàn toàn
thực hiện chương trình, kế hoach dạy học ở các trường Một phần
phổ thông? Rất ít
27. Các trường phổ thông có quyền tự chủ về nhân sự, Có
bao gồm tự chủ trong tuyển chọn, đánh giá, khen Không thưởng, kỷ luật cán bộ, giáo viên?
28. Anh/chị đánh giá mức độ tự chủ trong sử dụng, Hoàn toàn
thuyên chuyển và thực hiện các chế độ, chính sách đối Một phần
với cán bộ, giáo viên? Rất ít
29. Các trường phổ thông có quyền tự chủ về tài chính, Có
bao gồm huy động, quản lý và sử dụng các nguồn tài
chính và các tài sản phục vụ việc nâng cao chất lượng Không
GDPT?
30. Anh/chị đánh giá mức độ tự chủ trong thực hiện Hoàn toàn
quyền thu, chi tài chính trong các trường phổ thông trên Một phần
địa bàn Thành phố? Rất ít
Đề nghị ghi lại những thông tin sau đây:
Chức vụ: ……………….…….. (CB quảnlý, Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng,
Giáo viên)
Đơn vị công tác: …………………………………….…. (Sở GD&ĐT,
Phòng GD&ĐT, Trường Tiểu học,THCS, THPT).
Chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của anh/chị!
158
PHỤ LỤC 2
Câu hỏi lấy ý kiến khuyến nghị về phân cấp quản lý nhà nước về GDPT
trên địa bàn Thành phố Hà Nội
Câu Nội dung
Chính sách và kế hoạch phát triển GDPT
1 Bộ GD&ĐT đã thực hiện tương đối tốt chức năng quản lý vĩ mô,
quản lý bằng pháp luật, chính sách, hướng dẫn và kiểm tra thực hiện
2 Bộ GD&ĐT còn ôm đồm, sự vụ trong việc thực hiện các chức năng
quản lý nhà nước về GDPT
3 Sự phối hợp giữa Bộ GD&ĐT và địa phương trong việc xây dụng
chính sách phát triển GDPT đã được thực hiện tốt
4 Chưa có phân công trách nhiệm cụ thể giữa Bộ GD&ĐT và địa
phương trong việc xây dựng chính sách phát triển GDPT
5 Việc lập các chương trình, kế hoạch phát triển GDPT còn mang tính
hình thức
6 Quy trình lập kế hoạch phát triển GDPT được thực hiện từ cấp
Trường lên cấp Phòng và Sở GD&ĐT
7 Trách nhiệm thực hiện kế hoạch phát triển GDPT đã gắn liền với
quyền hạn về quản lý nhân sự
8 Trách nhiệm thực hiện kế hoạch phát triển GDPT đã gắn liền với quyền
hạn về tài chính, nội dung chương trình, SGK, tài liệu và thiết bị dạy
học và đánh giá kết quả dạy và học của các trường phổ thông
Nội dung, chương trình, sách giáo khoa, tài liệu, thiết bị dạy học
và đánh giá
9 Việc xây dựng chương trình GDPT hiện nay đã thể hiện trách nhiệm
tham gia của cán bộ quản lý nhà nước về GDPT ở địa phương
159
10 Hiện chưa có cơ chế đảm bảo để cán bộ quản lý nhà nước về GDPT
ở địa phương có trách nhiệm tham gia xây dựng SGK.
11 Đã có sự quy định rõ ràng về trách nhiệm đánh giá chất lượng GDPT
giữa các cấp quản lý (Bộ GD&ĐT, Sở GD&ĐT, Phòng GD&ĐT).
12 Đã có quy định rõ ràng về trách nhiệm của từng cấp quản lý nhà
nước về GDPT (Bộ GD&ĐT, Sở GD&ĐT, Phòng GD&ĐT) trong
vấn đề xây dựng danh mục, thẩm định mẫu, mua sắm, cung cấp, sử
dụng, quản lý trang thiết bị dạy học
13 Sự phân công trách nhiệm hiện nay giữa các cấp quản lý nhà nước về
GDPT trong việc ra đề thi, coi thi, chấm thi, phê duyệt kết quả thi là
hợp lý
Giáo viên
14 Hiện nay chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm của Bộ GD&ĐT và
UBND các cấp trong đào tạo, bồi dưỡng giáo viên
15 Trách nhiệm của UBND các cấp, Sở và Phòng GD&ĐT trong đào
tạo, bồi dưỡng giáo viên đã được quy định rõ ràng
16 Quyền hạn của UBND các cấp, Sở và Phòng GD&ĐT trong bồi
dưỡng giáo viên đã được quy định rõ ràng
17 Các quy định hiện nay về trách nhiệm của các cấp trong việc tuyển
dụng giáo viên tại địa phương là hợp lý
Tài chính
18 Các quy định hiện nay về dự toán, phân bổ, cấp phát ngân sách gây
khó khăn cho Sở GD&ĐT, Phòng GD&ĐT và trường trong việc tổ
chức thực, hiện nhiệm vụ được giao
160
PHỤ LỤC 3
BẢNG CÂU HỎI
Phỏng vấn cán bộ quản lý giáo dục Sở, các Phòng Giáo dục và Đào tạo
trên địa bàn Thành phố Hà Nội
1. Đánh giá chất lượng GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội hiện nay
như thế nào?
2. Nêu những văn bản chỉ đạo về phân cấp quản lý nhà nước về GDPT
của UBND Thành phố đối với ngành giáo dục phổ thông?
3. Đánh giá chung về thực trạng phân cấp quản lý nhà nước về
GDPTtrên địa bàn Thành phố Hà Nội? Những kết quả đạt được; những hạn
chế; nguyên nhân của những hạn chế?
4. Công tác cán bộ quản lý GDPT và giáo viên như thế nào?
- Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý GDPT và giáo viên?
- Quy trình thi tuyển giáo viên?
- Công tác thuyên chuyển giáo viên?
- Quy trình bổ nhiệm Giám đốc Sở GD&ĐT/Trưởng phòng GD&ĐT/
Hiệu trưởng các trường phổ thông?
5. Công tác quản lý tài chính GDPT như thế nào?
- Quy trình xây dựng và phê duyệt ngân sách GDPT?
- Quy trình cấp phát ngân sách GDPT?
6. Nhận xét về công tác thanh tra, kiểm tra trong phân cấp quản lý nhà
nước về GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội hiện nay?
7. Thông tin trong phân cấp quản lý nhà nước về GDPT giữa Sở
GD&ĐT, Phòng GD&ĐT và các trường phổ thông trên địa bàn Thành phố Hà
Nội như thế nào?
161
Thu thập ý kiến khuyến nghị về phân cấp quản lý nhà nước
đối với GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội
PHỤ LỤC 4
Để góp phần đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước về GDPT, Luận án
“Phân cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội” do
nghiên cứu sinh Ngô Thị Diệp Lan thực hiện, xin kính đề nghị anh/chị dành
thời gian trả lời vào Phiếu thu thập ý kiến khuyến nghị về phân cấp quản lý
nhà nước về GDPT dưới đây.
Quan điểm của anh/chị sẽ giúp ích rất nhiều cho sự thành công của
Luận án. Xin trân trọng cảm ơn!
PHẦN 1: MỘT SỐ THÔNG TIN CHUNG
Xin đề nghị anh/chị đánh dấu “x” vào một trong các ô hoặc điền thông
tin vào các khoảng trống thích hợp dưới đây:
Cơ quan công tác:
□ Bộ GD-ĐT □ Sở GD-ĐT □ Sở Nội vụ
□ Sở KH-ĐT □ Sở TC □ UBND các cấp
□ Hiệu trưởng, Hiệu phó trường phổ thông
Khác (ghi cụ thể):
…………………………………………………………………………….………….
PHẦN II: KHUYẾN NGHỊ VỂ PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Xin đề nghị anh/chị cho ý kiến bằng cách khoanh tròn một trong các chữ
số trong cột "Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ" (với ý nghĩa: 1. Hoàn toàn đồng ý; 2. Phần
nào đồng ý; 3. Không có ý kiến; 4. Phần nào không đồng ý; 5. Hoàn toàn không
đồng ý), hoặc ghi các ý kiến vào các khoảng trống thích hợp dưới đây:
162
Nội dung chương trình GDPT
1. Bộ GD&ĐT chịu trách nhiệm xây dựng mục tiêu phát triển GDPT
1 2 3 4 5
80% 16% 0% 2% 2%
2. Bộ GD&ĐT chịu trách nhiệm xây dựng các chuẩn kiến thức về nội dung
GDPT
1 2 3 4 5
92% 8% 0% 0% 0%
3. Nội dung chương trình giáo dục cho GDPT cần được thiết kế theo phần
bắt buộc để đáp ứng yêu cầu phát triển phần mềm lựa chọn
1 2 3 4 5
56% 28% 0% 8% 8%
4. Bộ GD&ĐT ban hành phần cứng và hướng dẫn thực hiện phần mềm của
nội dungchương trình GDPT
1 2 3 4 5
72% 28% 5% 0% 0%
5. Sở GD&ĐT chịu trách nhiệm phát triển và quy định phần mềm của nội dung
chương trình GDPT phù hợp với điều kiện của địa phương và nhà trường
1 2 3 4 5
76% 24% 0% 0% 0%
6. Tăng cường sự tham dự của giáo viên trong quá trình phát triển chương
trình giáo dục phố thông
1 2 3 4 5
52% 32% 0% 8% 8%
Khác (ghi cụ thể):
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………............
163
Sách giáo khoa và tài liệu tham khảo
7. Bộ GD&ĐT ban hành một loại SGK chuẩn thống nhất trên toàn quốc và
hướng dẫn tài liệu tham khảo cho các trường phổ thông
1 2 3 4 5
55% 38% 0% 7% 0%
8. Bộ GD&ĐT ban hành nhiều loại SGK chuẩn khác nhau cho các trường phổ
thông để các Sở GD&ĐT lựa chọn phù hợp với điều kiện của địa phương
1 2 3 4 5
64% 36% 0% 0% 0%
9. Sở GD&ĐT quy định danh mục tài liệu tham khảo cho GDPT ở địa
phương cho phù hợp với điều kiện của địa phương và của nhà trường
1 2 3 4 5
68% 32% 0% 0% 0%
Khác (ghi cụ thể):
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
Phương pháp giáo dục và thiết bị dạy học
10. Bộ GD&ĐT quy định danh mục bắt buộcvàlựa chọnphương pháp GD và
thiết bị dạy học theo nội dung chương trình GDPT và SGK đã ban hành
1 2 3 4 5
80% 16% 0% 2% 2%
11. Sở GD&ĐT quy định cụ thể danh mục lựa chọn về phương pháp GD và
thiết bị dạy học cho các trường phổ thông phù hợp với điều kiện của địa
phương và nhà trường
1 2 3 4 5
92% 8% 0% 0% 0%
164
Tổ chức
12. Bộ GD&ĐT chịu trách nhiệm xây dựng các chuẩn về tổ chức
nhà trường và mạng lưới trường phổ thông tại Thành phố
1 2 3 4 5
72% 24% 0% 4% 0%
13. Bộ GD&ĐT phối hợp với Bộ Nội vụ quy định chức năng,nhiệm vụ và tổ
chức bộ máy của Sở và Phòng GD&ĐT
1 2 3 4 5
80%16% 0% 2%2%
14. UBND thành phố quyết định cụ thể bộ máy của Sở vàGD-ĐT tại địa
phương
1 2 3 4 5
72%28% 0% 0% 0%
15. UBND thành phố quyết định thành lập, sát nhập, chia tách, giảithể, đình
chỉ hoạt động trường phổ thông
1 2 3 4 5
92% 8% 0% 0% 0%
16. Thử nghiệm mô hình HĐ trường PTnhằm nâng cao vai trò và trách
nhiệmCủa phụ huynh trong việc chia sẻ kinh nghiệm quản lý nhà trường
1 2 3 4 5
54% 30% 6% 0% 0%
Khác (ghi cụ thể):……………………………………………………………
Công nhận trường phổ thông chuẩn quốc gia
17. Bộ GD&ĐT quy định chuẩn quốc gia cho nhà trường phổ thông
1 2 3 4 5
68% 32% 0% 0% 0%
165
18. Sở GD&ĐT trình UBND Thành phố quyết định công nhận trường phổ
thông đạt chuẩn
1 2 3 4 5 6
64% 36% 0% 0% 0%
Khác (ghi cụ thể):
………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
Kế hoạch, phân bổ và sử dụng nhânsự
19. Bộ GD&ĐT phối hợp với Bộ Nội vụ quy định tiêu chuẩn các ngạch công
chức đối với nhà giáo, cán bộ quản lý GD, nhânviên và định mức biên chế
nhà trường phổ thông
1 2 3 4 5
72%28%0% 0% 0%
20. UBND thành phố quyết định cơ cấu và định mức biên chế choSở và
Phòng GD&ĐT
1 2 3 4 5
68% 32% 0% 0% 0%
21. Sở GD&ĐT chủ trì lập dự thảo kế hoạch phát triển nhân sự chongành
GDPT theo quy trình từ dưới lên (trường - Sở GD&ĐT);
1 2 3 4 5
76% 24% 0% 0%0%
22. Tiếp theo, Sở Nội vụ tổng hợp, điều chỉnh và trình UBNDThành phố phê
duyệt kế hoạch phất triển nhân sự của thành phố 1 2 3 4 5
80% 16% 0% 2% 2%
23. Sở GD&ĐT chủ trì phân bổ chỉ tiêu biên chế GDPT cho các trườngphổ
thông dưới sự giám sát của Sở Nội vụ
1 2 3 4 5
166
72% 12%0% 8%8%
24. Các trường PT được chủ động sử dụng số biên chế được phân bổ, và sắp
xếp, quản lý lao động phù hợp với chức năng, nhiệm vụ 1
2 3 4 5
51%25%0%16% 8%
25. Các trường PT được thực hiện chế độ hợp đồng lao độngphù hợp với khối
lượng công việc và khả năng tài chính của mình
1 2 3 4 5
52% 32% 0% 6% 10%
Khác (ghi cụ thể):
………………………………….……………………………………………
Tuyển dụng,sa thải giáo viên
26. Sở GD&ĐT chủ trì và phối hợp với Sở Nội vụ tuyển dụng/sa thải GV và
phân cho các trường PT
1 2 3 4 5
54% 46% 0% 0% 0%
27. Sở GD&ĐT giới thiệu danh sách dự tuyển, lãnh đạo trườngcùng với hội
đồng trường PT phỏng vấn và trình Sở GD&ĐT và Sở Nội vụ ra quyết định
1 2 3 4 5
55% 38% 0% 7% 0%
28. Lãnh đạo các trường PT tuyển dụng trực tiếp GV (theo chỉtiêu được phân
bổ) dưới sự giám sát của Sở GD&ĐT và Sở Nội vụ ra quyết định tuyển
dụng
1 2 3 4 5
52% 32% 4% 8% 4%
167
29. Cấp ra quyết định tuyển dụng có quyết sa thải
1 2 3 4 5
80% 16% 0% 0% 0%
Khác (ghi cụ thể):
………………………………….……………………………….……………
……………………………………………………………………………
Khen thưởng, kỷ luật giáo viên
30. Bộ GD&ĐTquy định và hướng dẫn về khen thưởng, kỷ luật GVphổ thông
theo các chuẩn đã ban hành
1 2 3 4 5
80% 16%0%; 4% 0%
31. Sở GD&ĐT quyết định việc khen thưởng, kỷ luật GV phổ thông trên cơ
sở đề nghị của trường phổ thông
1 2 3 4 5
67% 23% 0% 5% 5%
Khác (ghi cụ thể):
………………………………….……………………………….…………
………………………………………………………………………
Đào tạo, bồi dưỡng giảng viên
32. Bộ GD&ĐT chịu trách nhiệm đào tạo, bồi dưỡng GV cho các trườngphổ
thông
1 2 3 4 5
56% 28% 0% 10% 6%
33. Bộ GD&ĐT ban hành và hướng dẫn các loại chương trình bồidưỡng giáo
viên
1 2 3 4 5
52% 24% 0% 12% 12%
168
34. Bộ GD&ĐT chịu trách nhiệm bồi dưỡng GV theo chuyên đề và dài hạn
1 2 3 4 5
50% 28% 0% 14% 12%
35. Sở GD-ĐT chịu trách nhiệm bồi dưỡng GV định kỳ
1 2 3 4 5
47% 34% 6% 8% 4%
36. Trường PT chịu trách nhiệm bồi dưỡng GV thường xuyên
1 2 3 4 5
52% 32% 4% 8% 4%
Khác (ghi cụ thể):
………………………………….……………………………….…………
…………………………………………………………………………..
Bổ nhiệm Hiệu trưởng trưởng phổ thông
37. Sở GD&ĐT giới thiệu danh sách ứng cử viên hiệu trưởng đểHội đồng
trường phỏng vấn, sau đó Sở GD&ĐT và Sở Nội vụ trình UBND thành phố ra
quyết định
1 2 3 4 5
54% 32% 4% 8% 2%
38. Hiệu trưởng trường PT được bầu bởi tập thể GV, cha mẹ học sinh và
các quan chức địaphương/cộng đồng liên quan
1 2 3 4 5
38% 42% 0%14% 6%
Khác (ghi cụ thể):
………………………………….……………………………….……………
………………………………………………………………………………
169
Tài chính GDPT
39. Bộ GD&ĐT phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng các định mứcvề tài
chính GDPT, phân bổ ngân sách nhà nước chi cho GDPT
1 2 3 4 5
80% 15% 0% 5% 0%
40. Bộ GD&ĐT chịu trách nhiệm báo cáo hàng năm về sử dụngngân sách
GDPT cho Chính phủ
1 2 3 4 5
75% 25% 0% 0% 0%
Khác (ghi cụ thể):
………………………………….……………………………….…………
……………………………………………………………………………
Lập dự toán và phân bổ ngân sách
41. Trường PT căn cứ vào nhiệm vụ của năm kế hoạch, chế độ hi tiêu tài
chính hiện hành, kế hoạch hoạt động tài chính củanăm trước liên kề, lập dự
toán thu, chi năm kế hoạch gửi SởGD-ĐT thẩm tra, điều chỉnh và tổng hợp
cho toàn ngành GDPT
(quy trình từ dưới lên: trường - Sở GD&ĐT)
1 2 3 4 5
68% 32% 0% 0% 0%
42. Tiếp theo, Sở TC và sở KH-ĐT thẩm tra, tổng hợp, điều chỉnh và trình
UBND thành phố phê duyệt kế hoạch ngân sáchtỉnh/t.p (trong đó có GDPT)
1 2 3 4 5
64% 36% 0% 0% 0%
43. Sở GD&ĐT chủ trì phân bổ chỉ tiêu ngân sách ngành GDPT (đãđược phê
duyệt) cho các trường PT
1 2 3 4 5
72% 12% 0% 8% 8%
170
44. Sau đó, Sờ TC cấp kinh phí trực tiếp cho các trường phổ thôngqua Kho
bạc nhà nước dưới sự giám sát của ngành GD
1 2 3 4 5
76% 24% 0% 0% 0%
Khác (ghi cụ thể):
………………………………….……………………………….…………
……………………………………………………………………………
Sử dụng kinh phí và báo cáo
45. Các trường phổ thông chịu trách nhiệm chi kế toán, quyết toán theo các
dự toán được phê duyệt dưái sự kiểm soát của SởTC, Sở GD&ĐT và Kho bạc
nhà nước
1 2 3 4 5
52% 32%0%8% 8%
46. Các trường PT được chủ động tài chính và phân bổ kinh phí để thực hiện
nhiệm vụ phù hợp với nhu cầu và điều kiện của trường
1 2 3 4 5
47% 34% 63% 8% 4%
47. Các trường phổ thông được phép điều chỉnh dự toán thu, chi trongphạm vị
được phê duyệt cho phù hợp với nhu cầu thực tế của nhà trường và phải gửi
Sở GD&ĐT, Sở TC và Kho bạcNhà nước để theo dõi, quản lý
1 2 3 4 5
57% 36%0%7% 0%
48. Các trường phổ thông được phép điều chỉnh tăng mức lương tốithiểu theo
quy định của Nhà nước cho cán bộ, giáo viên và nhân viênnhà trường tuỳ theo
khả năng tài chính của mình
1 2 3 4 5
48% 28% 0% 16% 8%
171
49. Các trường PT còn kinh phí ngân sách và các khoản thu sự nghiệp, cuối
năm chưa chi hết, được chuyển sang năm sau để tiếp tục sử dụng.
1 2 3 4 5
50% 20% 0% 20% 10%
50. Các truờng phổ thông phải thực hiện chế độ công khai tài chínhtheo
nguyên tắc trả cao hơn cho người nào có hiệu xuất lao động cao,đóng góp
nhiều chọ việc tăng thu, tiết kiệm chi
1 2 3 4 5
72% 28% 0% 0%0%
51.Thực hiện các chính sách và chương trình làm cho các nguồn lực củanhà
trường phổ thông phụ thuộc vào sự lựa chọn của khách hàng- tiền gắn liền với
học sinh (ví dụ như chương trình trợ cấp để hỗ trợ học sinh nghèo đến trường,
khi đó học sinh nghèo đến trường càng đông thì trường càng nhận được
nhiều ngân sách hơn).
1 2 3 4 5
64% 36% 0% 0% 0%
Khác (ghi cụ thể):
………………………………….……………………………….……………
………………………………………………………………………………
Thanh tra, đánh giá và thông tin GDPT
52. Bộ GD&ĐT ban hành tiêu chí đánh giá, kiểm định chất lượng dạy và
họcvà các hoạt động khác cùa nhà trường
1 2 3 4 5
76% 20% 0% 4% 0%
53. Thanh tra và đánh giá GD về thực hiện của địa phương vàtrường PT phải
dựa trên các chuẩn và tiêu chí đã ban hành 1 2
3 4 5
72% 28% 0% 0% 0%
172
54. Thanh tra và đánh giá GD phải đi đôi với khen thưởng/trừngphạt tuỳ theo
mức độ thực hiện của địa phương và nhà trường PT
1 2 3 4 5
68% 32% 0% 0% 0%
55. Bộ GD&ĐT chịu trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc thực hiện củacác địa
phương và nhà trường theo các chuẩn GDPT được ban hành
1 2 3 4 5
64% 20% 0% 10% 6%
56. Bộ GD&ĐT trịu trách nhiệm thanh tra và đánh giá toàn ngànhGD theo
chuyên đề
1 2 3 4 5
68% 32% 0% 0% 0%
57. Bộ GD&ĐT chịu trách nhiệm thực hiện đánh giá và phân loạiGDPT theo
chuyên đề
1 2 3 4 5
72% 28% 0% 0% 0%
58. Sở GD&ĐT chịu trách nhiệm thanh tra giáo dục tại cấp tỉnh/tptheo hướng
đảm bảo chất lượng
1 2 3 4 5
64% 36% 0% 0% 0%
59. Sở GD-ĐT thực hiện đánh giá và phân loại GDPT theo định kỳ
1 2 3 4 5
70% 25% 0% 5% 0%
60. Sở GD&ĐT thực hiện việc đánh giá, kiểm định chất lượng dạyvà học và
các hoạt động khác của nhà trường
1 2 3 4 5
64% 25% 0% 11%0%
173
61 Trường phổ thông thực hiện đánh giá và phân loại GDPT thườngxuyên
1 2 3 4 5
75%20% 0% 5%0%
62.Bộ GD&ĐT ban hành quy định về thu thập, xử lý, sử dụng và quản lýthông
tin GDPT
1 2 3 4 5
72% 28% 0% 0% 0%
63. Bộ GD&ĐT ban hành quy chế sử dụng hệ thống thông tín quản lýGDP
1 2 3 4 5
68% 32% 0% 0%0%
64. Bộ GD&ĐT quy định thống nhất chế độ báo cáo về GDPT theomẫu biểu,
tiêu chí, thời điểm trên địa bàn Thành phố
1 2 3 4 5
64% 36% 0% 0% 0%
65. Thông tin về thực hiện của nhà trường (qua kết quả thanh travà đánh giá
GDPT) cần được công khai
1 2 3 4 5
80%16%0% 2%2%
66. Cần có cơ chế đảm bảo cung cấp thông tin GDPT rõ ràng, minh bạch,
thường xuyên cho cho người dân
1 2 3 4 5
68% 32%0%0% 0%
Khác (ghi cụ thể):
………………………………….……………………………….……………
………………………………………………………………………………
174
Xâydựng và bảo dưỡng nhà trường
67. Bộ GD&ĐT ban hành tiêu chuẩn và định mức về cơ sở vật chất cho
cácTrường phổ thông 1 2 3 4 5
76% 24% 0% 0% 0%
68. Xây dựng trường thuộc phạm vi quản lý của địa phương và các chương
trình, dự án phát triển GDPT trên địa bàn Thành phố theo phân cấp quản
lýnhà nước đối với GDPT
1 2 3 4 5
72% 28% 0% 0% 0%
Khác (ghi cụ thể):
………………………………….……………………………….…………
……………………………………………………………………………
Chiến lược, chính sách và kế hoạch phát triển GDPT
69. Bộ GD&ĐT chịu trách nhiệm dự thảo và thực hiện chiến lược và
chínhsách phát triển ngành GDPT sau khi được Chính phủ phê duyệt
1 2 3 4 5
92% 8% 0% 0% 0%
70. Sở GD&ĐT chịu trách nhiệm dự thảo và thực hiện kế hoạch và chínhsách
phát triển GDPT Thành phố sau khi được UBND Thành phố phê duyệt
1 2 3 4 5
72% 28% 0% 0% 0%
71. Bộ GD&ĐT chịu trách nhiệm bảo đảm chất lượng GDPT
1 2 3 4 5
64% 28% 0% 8% 0%72. Bộ GD&ĐT chịu trách nhỉệm đảm bảo chính sách
công bằng trongGDPT
1 2 3 4 5 80% 16% 0% 2%2%
175
73. Cần có quy định cụ thể về pháp lý, chính trị và kinh tế để người dântham
dự và nói ra yêu cầu của mình với Chính phủ trong quá trình xây dựng
chínhsách phát triển GDPT
1 2 3 4 5
55% 38% 0% 7% 0%
Khác (ghi cụ thể):
………………………………….……………………………….……………
………………………………………………………………………………
Nâng cao năng lực cho các cơ quan quản lý GDPT và nhà trường phổ
thông
74. Bộ GD&ĐT cần tổ chức các lớp tập huấn cho cán bộ chủ chốt ở Sở,
cácPhòng GD&ĐT, các trường phổ thông về xây dựng kế hoạch, quản lý
nhân sự,tài chính, thanh tra và thông tin GDPT trong bối cảnh đẩy mạnh phân
quản lý
1 2 3 4 5
80% 16% 0% 2% 2%
75. Sở GD&ĐT cần tổ chức các lớp tập huấn riêng cho các đối tượng là cán
bộ quản lý GDPT và giáo viên các trường phổ thông trên địa bàn
1 2 3 4 5
72% 24% 0% 0% 0%
76. Sở GD&ĐT tổ chức các lớp tập huấn trên thông qua các dự ánhỗ trợ phát
triển GDPT và các dự án khác
1 2 3 4 5
72% 28% 0% 0% 0%
77. Tăng cường cơ sở vật chất và nguồn tài chính cho các trường phổ
thôngđáp ứng được yêu cầu trong bối cảnh đẩy mạnh phân cấp quản lý
1 2 3 4 5
92% 8% 0% 0% 0%
176
78. Thử nghiệm mô hình Hội đồng cụm trường phổ thông để tận dụng vàchia
sẻ các nguồn lực của cụm trường phổ thông để nâng cao năng lực củatừng
trường
1 2 3 4 5
52% 32% 0% 6% 10%
Khác (ghi cụ thể):
………………………………….……………………………….……………
……………………………………………………………………………
177