BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGÔ THỊ DIỆP LAN

PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC

PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ CÔNG

HÀ NỘI, 2019

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGÔ THỊ DIỆP LAN

PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC

PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ CÔNG

Chuyên ngành: Quản lý công

Mã số: 9.34.04.03

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. PGS.TS. ĐẶNG KHẮC ÁNH

2. PGS.TS. TRƯƠNG QUỐC CHÍNH

HÀ NỘI, 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,

kết quả nêu trong luận án là trung thực.

Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được công bố trong bất

cứ công trình nào.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Ngô Thị Diệp Lan

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN CÁC TỪ VIẾT TẮT DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỐ MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ................................................................................... 1 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................... 4 3. Đối tượng và phạm vi nghiêncứu ......................................................... 5

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ................................. 5 5. Giả thuyết khoa học và câu hỏi nghiên cứu ......................................... 7

6. Những đóng góp mới của đề tài nghiên cứu ........................................ 7 7. Kết cấu của luận án ............................................................................... 8 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ............................ 9 1.1. Các công trình nghiên cứu về phân cấp quản lý nhà nước .............. 9 1.1.1. Các công trình nghiên cứu trong nước ........................................... 9 1.1.2. Các công trình nghiên cứu nước ngoài ......................................... 12

1.2. Các công trình nghiên cứu phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục .... 14 1.2.1. Các công trình nghiên cứu trong nước ......................................... 14 1.2.2. Các công trình nghiên cứu nước ngoài ......................................... 17

1.3. Đánh giá chung về các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án ..................................................................................................... 22 1.3.1. Những nội dung đã được nghiên cứu ........................................... 22 1.3.2. Những nội dung luận án cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung ........... 23

Tiểu kết chương 1 ....................................................................................... 25 Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA PHÂN CẤP QUẢN

LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC PHỔ THÔNG .................................... 27 2.1. Quản lý và quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông .................... 27 2.1.1. Quản lý và quản lý nhà nước ........................................................ 27

2.1.2. Quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông ..................................... 29

2.2. Phân cấp quản lý nhà nước và phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông .......................................................................................... 33 2.2.1. Khái niệm phân cấp quản lý nhà nước ......................................... 33

2.2.2. Khái niệm phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông ...... 37

2.2.3. Tác động của phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông . 42

2.2.4. Phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông ở Việt Nam qua

các thời kỳ ............................................................................................. 45

2.3. Nội dung, điều kiện và các yếu tố ảnh hưởng đến phân cấp quản lý

nhà nước về giáo dục phổ thông ............................................................. 47

2.3.1. Nội dung phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông ........ 47

2.3.2. Điều kiện phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông ....... 51

2.3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến phân cấp quản lý nhà nướcvề giáo dục

phổ thông ............................................................................................... 52

2.4. Kinh nghiệm của một số quốc gia trong phân cấp quản lý nhà nước

về giáo dục phổ thông và giá trị tham khảo cho Việt Nam ................... 56

2.4.1. Kinh nghiệm một số quốc gia trong phân cấp quản lý nhà nước về

giáo dục phổ thông ................................................................................ 56

2.4.2. Những giá trị tham khảo cho Việt Nam ........................................ 62

Tiểu kết chương 2 ....................................................................................... 64

Chương 3: THỰC TRẠNG PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI

VỚI GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ

HÀ NỘI ....................................................................................................... 66

3.1. Khái quát về Thành phố Hà Nội và tình hình giáo dục phổ thông

trên địa bàn Thành phố Hà Nội ............................................................. 66

3.1.1. Khái quát về Thành phố Hà Nội .................................................. 66

3.1.2. Tình hình giáo dục phổ thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội .... 68

3.2. Phân tích thực trạng phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ

thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội ................................................... 75

3.2.1. Khái quát tình hình phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ

thông trên địa bàn thành phố Hà Nội ..................................................... 75

3.2.2. Đánh giá chung về thực trạng phân cấp quản lý nhà nước về giáo

dục phổ thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội ....................................... 92

Tiểu kết chương 3 ..................................................................................... 105

Chương 4: QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG

CƯỜNG PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC PHỔ

THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................................ 107

4.1. Quan điểm và định hướng tăng cường phân cấp quản lý nhà nước

về giáo dục phổ thông ........................................................................... 107

4.1.1. Quan điểm tăng cường phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục

phổ thông ............................................................................................ 107

4.1.2. Định hướng tăng cường phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục

phổ thông ............................................................................................. 109

4.2. Giải pháp tăng cường phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ

thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội ................................................. 111

4.2.1. Đổi mới tư duy về phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ

thông ................................................................................................... 111

4.2.2. Xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật về phân cấp quản lý

nhà nước về giáo dục phổ thông .......................................................... 113

4.2.3. Nâng cao năng lực của đội ngũ công chức, viên chức quản lý giáo

dục phổ thông ...................................................................................... 124

4.2.4. Hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra đảm bảo hiệu quả phân cấp

quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông .............................................. 129

4.2.5. Các giải pháp bổ trợ ................................................................... 131

Tiểu kết chương 4 ..................................................................................... 140

KẾT LUẬN ............................................................................................... 141

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ........................................ 144

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 145

PHỤ LỤC 1 ............................................................................................... 155

PHỤ LỤC 2 ............................................................................................... 159

PHỤ LỤC 3 ............................................................................................... 161

PHỤ LỤC 4 ............................................................................................... 162

CÁC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt Viết đầy đủ

Cải cách hành chính CCHC

Công nghệ thông tin CNTT

Đào tạo bồi dưỡng ĐTBD

Giáo dục và Đào tạo GD&ĐT

Giáo dục phổ thông GDPT

Hành chính nhà nước HCNN

Hội đồng nhân dân HĐND

Kinh tế - xã hội KT-XH

Nhà xuất bản NXB

Quản lý nhà nước QLNN

Trung học cơ sở THCS

Trung học phổ thông THPT

Thủ tục hành chính TTHC

Uỷ ban nhân dân UBND

©

Tổ chức Thương mại thế giới WTO

DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỐ

BẢNG:

Bảng 2.1. Các yếu tố ảnh hưởng khi thực hiện phân cấp quản lý nhà nước về

GDPT ........................................................................................................... 55

Bảng 3.1. Biểu thống kê quy mô giáo dục cho các cơ sở giáo dục trên địa bàn

thành phố Hà Nội ......................................................................................... 68

Bảng 3.2. Thống kê công tác bổ nhiệm cho các cơ sở giáo dục trên địa bàn

thành phố Hà Nội từ năm học 2014-2015 đến năm học 2018-2019 .............. 80

Bảng 3.3. Khảo sát đánh giá mức độ phân cấp về bộ máy, nhân sự trong

GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội ......................................................... 81

Bảng 3.4. Bảng thống kê cấp ngân sách các trường công lập trên địa bàn

Hà Nội .......................................................................................................... 85

Bảng 3.5. Khảo sát đánh giá mức độ phân cấp trong quản lý tài chính trong

GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội ......................................................... 87

Bảng 3.6. Mức độ tự chủ về chương trình, nhân sự và tài chính của các trường

phổ thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội .................................................... 88

Bảng 3.7. Khảo sát đánh giá mức độ phân cấp trong kế hoạch phát triển

GDPT, xây dựng nội dung, chương trình GDPT ........................................... 91

SƠ ĐỒ:

Sơ đồ 2.1. Hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về GDPT ....................... 32

Sơ đồ 3.1. Phân cấp quản lý nhà nước đối với GDPT trên địa bàn Thành phố

Hà Nội .......................................................................................................... 76

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Không chỉ Việt Nam mà hầu hết các quốc gia phát triển trên thế giới,

giáo dục được coi là “quốc sách hàng đầu” trong sự nghiệp xây dựng và phát

triển đất nước. Trong các cấp học, GDPT bao gồm giáo dục tiểu học, giáo dục

trung học cơ sở (giai đoạn giáo dục cơ bản) và giáo dục trung học phổ thông

(giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp) là giai đoạn cực kỳ quan trọng góp

phần cung cấp, định hướng năng lực và nhân cách người học. Cùng với GDPT,

QLNN đối với GDPT luôn luôn là vấn đề được các nhà hoạch định chính sách

đặc biệt quan tâm bởi vì quản lý giáo dục từ bình diện quốc gia đến các cấp

quản lý giáo dục ở địa phương và các cơ sở giáo dục đều có ảnh hưởng đến

việc thực hiện chính sách GDPT và nâng cao chất lượng GDPT.

Giáo dục và đào tạo có vai trò rất quan trọng trong đào tạo nguồn nhân

lực chất lượng cao và cung cấp nhân tài cho đất nước. Tuy nhiên, do sự

chuyển đổi từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị

trường theo định hướng XHCN nên các cơ chế, chính sách hiện hành về quản

lý nhà nước về giáo dục nói chung, quản lý nhà nước về GDPT nói riêng đang

còn nhiều hạn chế, bất cập; sự phân cấp quản lý đối với GDPT chưa rõ ràng,

chưa hợp lý; quyền hạn chưa đi đôi với trách nhiệm. Theo đánh giá của của

Chiến lược phát triển giáo dục 2010 -2020: “Quản lý giáo dục còn nhiều bất

cập, mang tính bao cấo, ôm đồm, sự vụ và chồng chéo, phân tán; trách nhiệm

và quyền hạn quản lý chuyên môn chưa đi đôi với trách nhiệm, quyền hạn quản

lý về nhân sự và tài chính. Hệ thống pháp luật và chính sách giáo dục thiếu

đồng bộ, chậm được sửa đổi, bổ sung. Sự phối hợp giữa ngành giáo dục với

các bộ, ngành địa phương chưa chặt chẽ”. Thay vì phải thực hiện cơ chế phân

cấp quản lý, Nhà nước đã “tập trung” quá mức trong quản lý nhà nước về giáo

dục. Hậu quả là cấp dưới bị hạn chế trong phân cấp quản lý, ít có quyền chủ

động, sáng tạo, chất lượng giáo dục thấp và đầu ra không đáp ứng được yêu

cầu của xã hội và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

1

Để nâng cao hiệu quả QLNN về GDPT cần thực hiện nhiều giải pháp.

Một trong những giải pháp để phát triển GDPT ở nước ta là phải cải cách mạnh

mẽ hệ thống thể chế và phương thức quản lý nhà nước về GDPT theo hướng

đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước như kết luận của Hội nghị Trung ương 8

Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo

dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH. Nghị quyết nhấn mạnh: “Thực

hiện phân cấp quản lý về giáo dục, phát huy tính chủ động, tự chịu tách nhiệm

của các cơ sở giáo dục, trách nhiệm của UBND tỉnh, thành phố và các quận,

huyện trong việc thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục” [51, tr.37].

Như vậy, có thể khẳng định: Phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ

thông là một trong nhữn yếu tố quan trọng để nâng cao hiệu quả quản lý nhà

nước về giáo dục phổ thông. Trước yêu cầu đổi mới mạnh mẽ nền giáo dục nước

nhà thì vấn đề phân cấp quản lý về giáo dục nói chung, GDPT nói riêng đang trở

nên bức xúc và cần được nghiên cứu một cách toàn diện và nghiêm túc.

Hà Nội là trung tâm chính trị - hành chính quốc gia, là trung tâm lớn về

văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả

nước. Hà Nội là nơi tập trung đông dân cư, nhu cầu về đời sống tinh thần cao,

có điều kiện để tiếp thu nhanh chóng nền văn minh tiên tiến của nhân loại.

Trong những năm qua, giáo dục phổ thông của Thủ đô đã đạt được những kết

quả quan trọng, hệ thống các trường phổ thông phát triển đa dạng với nhiều

loại hình trường, lớp; cơ sở vật chất của các trường được xây dựng khang

trang hơn trước; nhiều trường đạt chuẩn quốc gia.

Tuy đã đạt được những kết quả bước đầu, nhưng chất lượng GDPT ở

nước ta nói chung và trên địa bàn Thành phố Hà Nội nói riêng vẫn còn thấp

so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Một trong những nguyên nhân

ảnh hưởng đến chất lượng GDPT là do phân cấp quản lý nhà nước về

GDPTcòn có nhiều hạn chế. Mô hình tổ chức quản lý nhà nước theo ngành

kết hợp theo lãnh thổ dẫn đến cùng một đối tượng quản lý là các cơ sở giáo

2

dục phổ thông nhưng chịu sự quản lý của rất nhiều cơ quan quản lý nhà nước

khác nhau như Bộ, Sở, Phòng Giáo dục đào tạo quản lý theo chiều dọc về

chuyên môn; Uỷ ban nhân dân các cấp quản lý theo chiều ngang về nhân sự,

hành chính.. Sự chồng chéo về chức năng, việc phân định nhiệm vụ, quyền

hạn chưa phù hợp dẫn đến chưa phát huy hiệu quả quản lý nhà nước về giáo

dục; từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giáo dục phổ thông trên địa

bàn.Quá trình đổi mới phân cấp quản lý nhà nước về GDPT vẫn chưa đáp

ứng được những đòi hỏi bức xúc của thực tiễn và còn nhiều hạn chế, bất hợp

lý; phân cấp nhưng chưa bảo đảm quản lý thống nhất, còn biểu hiện phân tán,

cục bộ, chưa chú trọng việc thanh tra, kiểm tra đối với những chức năng,

nhiệm vụ đã phân cấp cho địa phương. Phân cấp quản lý nhà nước về GDPT

chưa phân định rõ ràng, cụ thể nhiệm vụ, thẩm quyền của mỗi cấp chính

quyền trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước; chưa xác định rõ

trách nhiệm của mỗi cấp, của tập thể và cá nhân đối với những nhiệm vụ đã

được phân cấp; phân cấp nhiệm vụ cho cấp dưới, nhưng chưa bảo đảm tương

ứng các điều kiện cần thiết để thực hiện, còn thiếu sự ăn khớp, đồng bộ giữa

các ngành, các lĩnh vực có liên quan, chưa tạo điều kiện cho địa phương chủ

động cân đối các nguồn lực.

Đặc biệt với đặc thù là thủ đô của cả nước, bên cạnh các văn bản pháp

luật chuyên ngành về giáo dục, Hà Nội chịu sự điều chỉnh của Luật Thủ đô

với những cơ chế quản lý được áp dụng riêng trên địa bàn. Quy định trách

nhiệm quản lý nhà nước về GDPT của các cơ quan quản lý phải có những

điểm đặc thù để đáp ứng được các thách thức và nhu cầu thay đổi nhanh

chóng trong bối cảnh mở cửa hội nhập và toàn cầu hóa đòi hỏi hệ thống

GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội; để thực hiện mục tiêu giáo dục là tạo

ra những công dân kiểu mới. Cải cách giáo dục phải đẩy mạnh phân cấp quản

lý, trao quyền nhiều hơn cho cấp dưới, huy động các nguồn lực của địa

phương và tạo ra cơ hội học tập suốt đời cho mọi người dân.

3

Mặt khác, dưới góc độ khoa học quản lý công cho đến nay, chưa có công

trình nghiên cứu nào nghiên cứu toàn diện và sâu sắc về phân cấp quản lý nhà

nước về GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội. Việc giải mã những vấn đề lý

luận của phân cấp quản lý về GDPT cũng như đánh giá thực tiễn phân cấp

quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn thành phố Hà Nội từ đó xác định

phương hướng và giải pháp phù hợp để tăng cường, đảm bảo phân cấp quản

lý nhà nước về GDPT trên địa bàn hiệu quả.

Xuất phát từ những lý do trên việc lựa chọn đề tài: “Phân cấp quản lý

nhà nước về giáo dục phổ thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội”làm đề tài

nghiên cứu Luận án tiến sĩ chuyên ngành Quản lý công là hoàn toàn cấp thiết

về lý luận và thực tiễn.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Muc đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận án là luận giải, cung cấp những luận cứ

khoa học về lý luận và thực tiễn để tăng cường phân cấp quản lý nhà nước về

GDPT trên địa bàn Thành phố hướng tới nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý

nhà nước về GDPT.

2.2. Nhiêm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu, tác giả luận án đề ra các nhiệm vụ

nghiên cứu sau:

- Hệ thống hóa và làm rõ cơ sở lý luận của phân cấp quản lý nhà nước

về GDPT, nội dung phân cấp quản lý nhà nước về GDPT, các yếu tố ảnh

hưởng đến phân cấp quản lý nhà nước về GDPT cũng như kinh nghiệm phân

cấp QLNN về GDPT một số nước trên thế giới.

- Phân tích, đánh giá thực trạng phân cấp quản lý nhà nước về GDPT,

tìm hiểu những kết quả đã đạt được cũng như những hạn chế, nguyên nhân

của những hạn chế trong phân cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn

Thành phố Hà Nội.

4

- Đề xuất phương hướng và các giải pháp đổi mới và đẩy mạnh phân

cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội trong những

năm tới.

3. Đối tượng và phạm vi nghiêncứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận án nghiên cứu hoạt động phân cấp quản lý nhà nước về GDPT.

3.2. Phạm vi nghiêncứu

- Về không gian: thành phố Hà Nội

- Về nội dung: Luận án chỉ nghiên cứu hoạt động phân cấp quản lý nhà

nước về GDPT công lập tại các cấp quản lý theo ngành (Bộ Giáo dục và Đào

tạo - Sở Giáo dục và Đào tạo - Phòng Giáo dục và Đào tạo) và phân cấp quản

lý theo lãnh thổ trên địa bàn Thành phố Hà Nội (UBND các cấp) ở 3 lĩnh vực

chủ chốt: (i) bộ máy, nhân sự; (ii) cơ sở vật chất và tài chính; (iii) chuyên

môn (bao gồm lập kế hoạch phát triển giáo dục phổ thông, xây dựng nội

dung, chương trình và đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông).

- Về thời gian: từ năm 2010 đến nay.

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Phương pháp luận

Đề tài này được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm, chủ trương, đường lối của

Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quản lý nhà

nước, phân cấp quản lý nhà nướcvề giáo dục. Phương pháp luận của chủ

nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử được kết hợp nhất quán để nghiên

cứu và phân tích thực trạng quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn Thành

phố Hà Nội.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện các mục đích nghiên cứu trên, nghiên cứu sinh sử dụng các

phương pháp nghiên cứu sau: phương pháp nghiên cứu lý luận; phương pháp

phân tích - tổng hợp; phương pháp thống kê; phương pháp điều tra xã hội học.

5

Một là, phương pháp nghiên cứu lý luận

Phân tích, tổng hợp và hệ thống hóa các tài liệu lý luận và kinh nghiệm

liên quan đến vấn đề nghiên cứu để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận. Đồng

thời nghiên cứu các văn bản luật, các văn bản quy phạm pháp luật của Chính

phủ, Bộ GD&ĐT… liên quan đến vấn đề nghiên cứu để phân tích cơ sở lý

luận của luận án.

Hai là, phương pháp phân tích - tổng hợp

Luận án sử dụng phương pháp phân tích để lý giải thính cấp thiết và ý

nghĩa mà đề tài nghiên cứu đặt ra trong phân cấp quản lý nhà nước về GDPT

trên địa bàn Thành phố Hà Nội. Luận án phân tích, đánh giá thực trạng việc thực

hiện phân cấp quản lý nhà nước về GDPT, phân tích nguyên nhân của những

bất cập, hạn chế tạo cơ sở cho đề xuất các giải pháp và kiến nghị.

Luận án sử dụng phương pháp tổng hợp để tóm lược nội dung sau mỗi phần

phân tích, đánh giá. Phương pháp tổng hợp được sử dụng để khái quát vấn đề, tóm

lược nội dung của từng mục và các kết luận của từng chương của luận án.

Ba là, phương pháp thống kê

Luận án sử dụng phương pháp thống kê để có số liệu cụ thể về thực trạng

phân cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội.

Bốn là, phương pháp điều tra xã hội học

Điều tra xã hội học bằng bảng hỏi với 200 phiếu được phát ra cho đối

tượng là cán bộ các cơ quan quản lý nhà nước về GDPT và cán bộ quản lý

các trường phổ thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội. Số phiếu nghiên cứu

sinh phát ra cụ thể như sau:

- 80 phiếu cho cán bộ quản lý nhà nước về GDPT ở Sở Giáo dục và

Đào tạo Hà Nội và cán bộ quản lý ở các Phòng Giáo dục và Đào tạo các quận

Ba Đình; Đống Đa, Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng, Tây Hồ, Long Biên, Nam Từ

Liêm, Bắc Từ Liêm và các huyện Gia Lâm, Đông Anh, Hoài Đức, Phúc Thọ.

- 120 phiếu cho cán bộ quản lý các trường Tiểu học, THCS và THPT.

Bảng điều tra này gồm có 2 phiếu:

6

- Phiếu 1: Thực trạng phân cấp QLNN về GDPT trên địa bàn Thành phố

Hà Nội;

- Phiếu 2: Ý kiến kiến nghị về tăng cườngphân cấp QLNN về GDPT trên

địa bàn Thành phố Hà Nội.

5. Giả thuyết khoa học và câu hỏi nghiên cứu

5.1. Giả thuyết khoa học

(1) Phân cấp QLNN về GDPT có ảnh hưởng lớn đến hoạt động QLNN

về GDPT cũng như đời sống kinh tế - xã hội.

(2). Phân cấp QLNN về GDPT ở nước ta nói chung, trên địa bàn Thành

phố Hà Nội nói riêng tuy đã đạt được những kết quả bước đầu nhưng vẫn còn

nhiều hạn chế, bất cập....

(3). Tăng cường phân cấp QLNN về GDPT tại địa bàn Hà Nội trên cơ sở

phân định cụ thể, rõ ràng nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cấp quản lý nhà nước về

GDPT, khắc phục chồng chéo và mẫu thuẫn giữa các cấp, các ngành góp phần

nâng cao hiệu lực, hiệu qủa QLNN về GDPT từ đó đẩy mạnh chất lượng GDPT

đáp ứng yêu cầu phát triển trong xu thế hội nhập.

5.2. Câu hỏi nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận án cần trả lời thấu đáo các câu

hỏi sau đây:

- Phân cấp quản lý nhà nước về GDPT là gì? Có tác động như thế nào?

- Thực trạng phân cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn Thành

phố Hà Nội hiện nay như thế nào? Những kết quả đã đạt được và những hạn

chế trong phân cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn Thành phố?

- Cần phải làm gì để đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước đối với GDPT

trên địa bàn Thành phố Hà Nội trong những năm tới?

6. Những đóng góp mới của đề tài nghiên cứu

Về mặt lý luận

Qua tham khảo các tài liệu về phân cấp quản lý và GD trong và ngoài

nước, nghiên cứu các xu hướng, mô hình phân cấp QLGD ở một số nước trên

7

thế giới, luận án góp phần xây dựng hệ thống cơ sở lý luận về phân cấp quản

lý nhà nước về giáo dục nói chung và GDPT nói riêng ở nước ta.

Về mặt thực tiễn

Nghiên cứu, nhận xét thực trạng phân cấp quản lý nhà nước về

GDPTtrên địa bàn Thành phố, đánh giá những ưu điểm và những mặt hạn

chế, xác định những nguyên nhân của những hạn chế và đề xuất các giải pháp

đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả phân cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa

bàn Thành phố Hà Nội trong những năm tới.

Kết quả nghiên cứu của luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho

các cơ quan của Đảng, nhà nước trong việc ban hành các cơ chế, chính sách

đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả phân cấp quản lý nhà nước về GDPT ở các

địa phương.

Kết quả nghiên cứu của luận án là cơ sở để chính quyền Thành phố Hà

Nội đổi mới quản lý đối với các trường phổ thông trên tinh thần đẩy mạnh

phân cấp quản lý, giáo quyền hợp lý cho các trường để xây dựng nền giáo dục

của Thành phố Hà Nội ngày càng phát triển.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo và phụ lục,

luận án kết cấu thành 4 chương:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài

Chương 2: Cơ sở lý luận và pháp lý về phân cấp quản lý nhà nước đối

với giáo dục phổ thông

Chương 3: Thực trạng phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông

trên địa bàn Thành phố Hà Nội

Chướng 4: Quan điểm và giải pháp tăng cường phân cấp quản lý nhà

nước về giáo dục phổ thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội

8

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. Các công trình nghiên cứu về phân cấp quản lý nhà nước

1.1.1. Các công trình nghiên cứu trong nước

Các công trình nghiên cứu về phân cấp quản lý nhà nước ở trong nước

có thể kể đến là:

- Võ Kim Sơn (2004): “Phân cấp quản lý nhà nước – lý luận và thực

tiễn”, NXB Chính trị Quốc gia. Đây có lẽ là cuốn sách chuyên khảo đầu tiên

ở nước ta về phân cấp quản lý nhà nước. Cuốn sách dày 483 trang, bao gồm 4

chương trình bày các vấn đề về cơ sở lý luận trong quản lý HCNN; các hình

thức phân cấp quản lý HCNN; phân cấp quản lý HCNN ở Việt Nam từ năm

1945 đến năm 2003. Chương 4 của cuốn sách tác giả lý giải sự cần thiết phải

đẩy mạnh phân cấp quản lý HCNN và đề xuất một số giải pháp đẩy mạnh

phân cấp quản lý HCNN ở Việt Nam [60].

- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước của Viện nghiên cứu Khoa

học tổ chức, Bộ Nội vụ: “Tình hình phân cấp giữa Trung ương và địa

phương”, năm 2004. Đề tài nghiên cứu, đánh giá thực trạng phân cấp giữa

Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương với nhau.

Các tác giả đề tài đã phân tích các kết quả đã đạt được, những hạn chế của quá

trình phân cấp, nguyên nhân của những hạn chế, trên cơ sở đó đề xuất 6 nhóm

giải pháp để thực hiện phân cấp quản lý giữa Trung ương và địa phương [7].

- Phạm Hồng Thái (2011): “Một số vấn đề nhận thức lý luận về tập quyền,

tản quyền, phân quyền, phân cấp trong quản lý nhà nước”, bài viết trong cuốn

“Phân cấp quản lý nhà nước”, NXB Công an Nhân dân. Tác giải bài viết phân

tích làm rõ khái niệm phân cấp, tản quyền, phân quyền và đưa ra khái niệm

phân cấp như sau: “Phân cấp là việc phân công chức năng, phân định nhiệm vụ,

quyền hạn cho từng cấp hành chính; nếu nhìn từ chế độ quản lý thì bản chất của

9

phân cấp là việc cấp trên chuyển giao những nhiệm vụ, quyền hạn do mình

nắm giữ cho cấp dưới thực hiện một cách thường xuyên, liên tục bằng phương

thức ban hành văn bản quy phạm pháp luật hoặc bằng cách chuyển cho cấp

dưới thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn bằng các quyết định cụ thể” [64].

Trong bài viết, tác giả đã phân tích thực trạng phân cấp quản lý giữa trung

ương và địa phương và đề xuất một số quan điểm, nguyên tắc phân cấp quản lý

ở nước ta hiện nay.

- Nguyễn Đăng Dung (2011): “Các hình thức phân cấp, phân quyền”, bài

trong cuốn “Phân cấp quản lý nhà nước”, NXB Công an Nhân dân. Tác giải

trình bày 06 hình thức phân cấp: hình thức phân cấp dựa vào các nguồn gốc

lịch sử; hình thức phân cấp bằng trật tự thứ bậc và chức năng; hình thức phân

cấp qua vấn đề được đề cập và các giá trị của nhà nghiên cứu; hình thức tập

trung vào các mẫu hình và chức năng hành chính; hình thức dựa trên kinh

nghiệm của một quốc gia; hình thức phân cấp trên cơ sở các mục đích: chính

trị, thị trường, không gian và quản lý.Trong bài viết tác giả phân tích 3 thể loại

về phân cấp hành chính: tản quyền, phân quyền và ủy quyền [64].

Một số tác giả đã có các công trình nghiên cứu về phân cấp quản lý đăng

trên các tạp chí chuyên ngành và trình bày tại các hội thảo khoa học:

- Nguyễn Minh Phương:“Thực trạng phân cấp, phân quyền và vấn đề tự

quản địa phương tại Việt Nam”, bài tham luận tại Hội thảo “Tổ chức chính

quyền địa phương ở Việt Nam: Những vấn đề lý luận và thực tiễn” do Văn

phòng Quốc hội, Oxfam, Unicef phối hợp tổ chức tại Ninh Thuận ngày

06/4/2013. Bài tham luận đã trình bày các khái niệm phân cấp, phân quyền, tự

quản địa phương và những vấn đề đặt ra trong phân cấp, phân quyền, tự quản

địa phương ở nước ta hiện nay và đề xuất kiến nghị các giải pháp đẩy mạnh

phân cấp, phân quyền, tự quản địa phương ở nước ta trong thời gian tới [55].

- Hoàng Mai: tham luận: “Thẩm quyền của các cấp chính quyền địa

phương trong phát triển bền vững - kết quả của quá trình phân cấp quản lý ở

10

Việt Nam” được trình bày tại Hội thảo quốc tế về quản trị địa phương (tháng

3/2009 trong chương trình Đại hội khối Pháp ngữ năm 2009 tổ chức tại Hà

Nội. Tác giả nhấn mạnh: Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định

hướng XHCN, xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền, cải cách nền

HCNN và hội nhập quốc tế, thực hiện phân cấp, phân quyền ngày càng đầy

đủ, toàn diện hơn tiến đến tự quản địa phương là yêu cầu có tính quy luật,

không thể trì hoãn được [49].

- Hoàng Thị Ngân (2010): “Thực trạng và xu hướng phân cấp quản lý

giữa Trung ương và địa phương ở Việt Nam”, bài tham gia hội thảo của Khoa

Luật, Đại học Quốc gia. Bài tham luận đánh giá thực trạng phân cấp quản lý

giữa Trung ương và địa phương ở Việt Nam, những kết quả đã đạt được, những

hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế và xu hướng phân cấp quản lý nhà

nước trong những năm tới. Bài tham luận nhấn mạnh: Việc phân cấp cho mỗi

cấp mỗi địa phương và ở mỗi thời kỳ đòi hỏi phải khác nhau. Tuy vậy, nó luôn

được coi là vấn đề tất yếu của nhà nước và phụ thuộc vào khả năng của chính

quyền địa phương trong mỗi giai đoạn phát triển. Nếu phân cấp, giao nhiều

quyền quá có thể dẫn đến chính quyền địa phương sẽ quá tải, không thể thực

hiện hết được các chức năng, nhiệm vụ, nếu phân cấp, giao ít quyền quá thì sẽ

không phát huy được các thế mạnh của địa phương, hiệu quả hoạt động của

chính quyền địa phương sẽ không cao.

Ngoài ra, nhiều nhiều nhà khoa học và quản lý đã công bố các công trình

nghiên cứu trên các tạp chí, như: Đàm Bích Hiên: “Bàn về phân cấp quản lý

giữa các cấp chính quyền địa phương ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Dân chủ

và Pháp luật. Bộ Tư pháp, Số 9/2005; Hoàng Thị Ngân:“Đẩy mạnh công tác

phân cấp Trung ương và địa phương”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn

phòng Quốc hội, Số 2+3/2009; Trần Anh Tuấn:“Đẩy mạnh phân cấp quản lý

hành chính nhà nước đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập toàn cầu”, Tạp

chí Quản lý nhà nước, Học viện Hành chính Quốc gia, Số 10/2014; Nguyễn

11

Minh Phương: “Để tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý giữa các cấp chính

quyền địa phương hiện nay”, Tạp chí Quản lý nhà nước. Học viện Hành

chính, Số 1/2007; Vũ Thư: “Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn về phân cấp

quản lý cho chính quyền địa phương ở nước ta”, Tạp chí Nhà nước và Pháp

luật, Viện Nhà nước và Pháp luật, Số 4/2009; Trần Thị Diệu Oanh:“Mối quan

hệ giữa phân cấp quản lý và địa vị pháp lý của chính quyền địa phương ở

nước ta hiện nay”, Tạp chí Quản lý nhà nước. Học viện Hành chính Quốc gia,

Số 4/ 2010; Trần Thị Diệu Oanh:“Một số vấn đề phân cấp quản lý cho chính

quyền đô thị”,Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp, Số 12/2011; Phạm

Thanh Huyền: “Một số vấn đề về phân cấp quản lý hành chính nhà nước”,

Tạp chí Tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ, Số 2/2014; Nguyễn Cửu Việt: “Phân

cấp quản lý trong mối quan hệ giữa trung ương và địa phương”, Tạp chí

Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội, Số 7/2005.

1.1.2. Các công trình nghiên cứu nước ngoài

Trên thế giới, phân cấp quản lý nhà nước đã được một số nhà khoa học

nghiên cứu trong nhiều thập kỷ qua. Các công trình nghiên cứu về phân cấp

quản lý nhà nước có thể kể đến là:

- Ngân hàng thế giới (2005): “Phân cấp ở Đông Á để chính quyền địa

phương phát huy tác dụng”, NXB Văn hóa - Thông tin. Các tác giải cuốn sách

nhấn mạnh: phân cấp quản lý là một biện pháp hữu hiệu đưa chính quyền về gần

dân hơn và mang lại cho người dân cơ hội tham gia vào quá trình ban hành quyết

định quản lý. Hệ thống phân cấp được thiết kế tốt sẽ mang lại nhiều lợi ích, trong

đó có việc đẩy mạnh tăng trưởng và ổn định kinh tế - xã hội.

Cuốn sách đề cập đến kinh nghiệm của các nước Đông Á trong quá trình

phân cấp với mục tiêu nhận thức rõ những thách thức của quá trình thiết kế

các mô hình cải cách, rút ra những bài học kinh nghiệm trong quá trình thực

hiện và nghiên cứu các tác động của tiến trình phân cấp quản lý. Trong cuốn

sách có dẫn chứng tình hình phân cấp ở Việt Nam [50].

12

- Báo cáo nghiên cứu của Ngân hàng thế giới: “What is Desentralization”,

năm 2002. Báo cáo phân tích khái niệm và đặc điểm của phân cấp, phân quyền;

lịch sử phát triển của quá trình này ở một số quốc gia trên thế giới. Báo cáo nhấn

mạnh: Phân cấp là sự chuyển giao trách nhiệm và nguồn thu tài chính từ chính

quyền cấp cao xuống các cấp chính quyền thấp hơn và đây là một biện pháp hữu

hiệu phát huy tính chủ động, sáng tạo của cấp dưới, tạo điều kiện để phát triển

kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, mỗi địa phương (Khan, 2002).

- Tài liệu nghiên cứu của Liên hiệp quốc (UNDP): “Desentralization –

Sampling of defination” (Phân cấp - Sự thử nghiệm về phạm trù), năm 1999.

Tài liệu nghiên cứu nhấn mạnh: hoạt động quản lý HCNN được thực hiện bởi

các cơ quan HCNN từ Trung ương đến cơ sở. Bộ máy HCNN vận hành theo

nhiều mô hình và phương thức khác nhau, trong đó mô hình phân công và

phối hợp giữa các bộ phận cấu thành bộ máy HCNN được coi là mô hình cơ

bản. Mỗi cơ quan, tổ chức được xác định một cách cụ thể, rõ ràng, không hạn

chế về chức năng, nhiệm vụ nhằm bảo đảm việc thực hiện pháp luật có hiệu

lực, hiệu quả. Để thực hiện nhiệm vụ một cách tốt nhất cần phải trao cho các

cơ quan, tổ chức đó quyền hạn và các nguồn lực nhất định. Trao quyền cho họ

và đòi hỏi họ phải chịu trách nhiệm với chức trách, nhiệm vụ được giao.

- Osborne và Gaebler (2000): “Sáng tạo lại chính phủ”, NXB Chính trị

Quốc gia, Hà Nội. Các tác giả cho rằng, phân quyền là một cách để nâng cao

hiệu quả hoạt động quản lý và thúc đẩy quá trình vận động và phát triển. Phân

quyền giống như sáng tạo lại chính phủ; sáng tạo lại các hoạt động; hành

chính công mới hay quản lý công mới.

Sáng tạo lại chính phủ nhằm chỉ ra một cách làm hoàn toàn mới so với

trước đây để tiến hành các hoạt động của khu vực công. Những vấn đề đề cập

trong 10 nội dung mà hai tác giả đưa ra không phải hoàn toàn mới, nhưng tiếp

cận theo một cách thức mới để chuyển từ quan điểm chính phủ quản lý cai trị

sang chính phủ mang tính doanh nghiệp. Mô hình sáng tạo lại chính phủ được

13

coi là một cách để làm cho hoạt động của chính phủ năng động hơn, tốt hơn.

Chính phủ theo mô hình doanh nghiệp khuyến khích cạnh tranh giữa các bên

cung cấp dịch vụ, đẩy sự kiểm soát từ bộ máy hành chính sang cộng đồng [54].

- J. M. Cohen, S. B. Peterson (2002): “Phân cấp quản lý hành chính -

Chiến lược cho các nước đang phát triển”, NXBChính trị Quốc gia, Hà Nội.

Cuốn sách dày 343 trang đã trình bày vị trí, vai trò và tính tất yếu khách quan

của phân cấp quản lý hành chính đối với các nước đang phát triển. Trong bối

cảnh mở cửa hội nhập và chuyển đổi cơ chế quản lý, các quốc gia muốn phát

triển cần đổi mới cách thức quản lý nhà nước, đẩy mạnh phân cấp quản lý giữa

trung ương và các cấp chính quyền địa phương. Không có mô hình phân cấp

chung cho các quốc gia đang phát triển. Tùy từng điều kiện và trình độ phát triển

khác nhau, các quốc gia sẽ xác định mức độ phân cấp quản lý phù hợp [37].

1.2. Các công trình nghiên cứu phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục

1.2.1. Các công trình nghiên cứu trong nước

Ở Việt Nam hiện nay còn ít công trình nghiên cứu về phân cấp quản lý

nhà nước về giáo dục nói chung và GDPT nói riêng.

- Có thể nói công trình nghiên cứu tương đối toàn diện đầu tiên về phân

cấp quản lý nhà nước về GDPT là Đề tài khoa học cấp Bộ B98-52-22

“Nghiên cứu tập trung và phân quyền trong hệ thống quản lý ngành GDPT

Việt nam” do TS. Nguyễn Tiến Hùng làm chủ nhiệm. Đề tài khoa học tập

trung nghiên cứu các kiểu tập trung và phân cấp trong quản lý ngành giáo

dục; lợi thế và rủi ro của phân cấp quản lý ngành giáo dục; các tiêu chí xác

định tập trung hay phân cấp trong hệ thống quản lý ngành GDPT; khuynh

hướng tập trung và phân cấp theo chức năng và các thành phần của chức năng

quản lý giáo dục [31].

- Tiếp theo, năm 2003, Dự án hỗ trợ Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện

một khảo sát tại 12 tỉnh và thành phố và hoàn thành “Báo cáo hiện trạng và

khuyến nghị về phân cấp quản lý giáo dục Việt Nam”. Bản báo cáo đã mô tả

14

chi tiết hiện trạng và đề xuất khuyến nghị nhằm đẩy mạnh phân cấp quản lý

nhà nước về giáo dục ở Việt Nam.

- Năm 2003, các tác giả Đậu Hoàn Đô, Nguyễn Công Giáp và Đào Vân

Vy đã cho công bố công trình nghiên cứu: “Phân cấp quản lý giáo dục Việt

Nam: Thực trạng và xu hướng”. Công trình này được thực hiện với sự hỗ trợ

của Tổ chức Cứu trợ trẻ em Thụy Điển và Viện Chiến lược chương trình giáo

dục. Công trình nghiên cứu đã bước đầu khái quát các xu hướng phân cấp

quản lý nhà nước về giáo dục của các quốc gia trên thế giới; thực trạng phân

cấp quản lý nhà nước về giáo dục và đề xuất phương hướng đẩy mạnh phân

cấp quản lý nhà nước về giáo dục ở Việt Nam [23].

- Trần Hồng Hạnh (2011): “Một số nhìn nhận về phân cấp quản lý nhà

nước về giáo dục và đào tạo ở Việt Nam”,bài trong cuốn “Phân cấp quản lý

nhà nước”, NXB Công an Nhân dân. Tác giả trình bày cơ sở lý luận về phân

cấp quản lý nhà nước đối với GD&ĐT; thực trạng phân cấp quản lý nhà nước

đối với GD&ĐT, qua đó đề xuất một số định hướng nhằm đổi mới, tăng cường

phân cấp quản lý nhà nước đối với GD&ĐT ở nước ta hiện nay.

Đề cập đến những khó khăn, tồn tại trong quá trình phân cấp quản lý giáo

dục ở Việt Nam, tác giả nhấn mạnh: hệ thống tổ chức bộ máy thực hiện phân

cấp quản lý còn hạn chế, chưa có sự phân định rõ ràng, cụ thể nhyieemj vụ,

quyền hạn giữa trung ương và địa phương; việc phân cấp quản lý còn gặp nhiều

lúng túng, thiếu sự đồng bộ, dẫn đến tình trạng cắt khúc, chia việc mà thiếu sự

liên thông trong hệ thống; sự phối hợp giữa ngành giáo dục với các ngành liên

quan chưa chặt chẽ, thống nhất nên ngành giáo dục thực hiện các chức năng

chuyên môn rất khó khăn [64].

Một số tác giả đã công bố các công trình nghiên cứu về phân cấp quản lý

đối với GD-ĐT trên các tạo chí chuyên ngành, như:

- Nguyễn Tiến Hùng (2004): “Tìm hiểu quy trình nghiên cứu phân cấp

quản lý giáo dục”, Tạp chí Phát triển giáo dục, số 4 (64). Theo tác giả, để có

15

thể xác định lại hợp lý trách nhiệm, quyền hạn và trách nhiệm của từng cấp

quản lý và nhà trường phổ thông, cũng như cơ chế phối hợp làm việc giữa các

cấp đòi hỏi phải xác định được các mâu thuẫn, khó khăn trong thực hiện các

chức năng quản lý giáo dục hiện hành của từng cấp quản lý và nhà trường, từ

đó đề ra các giải pháp khắc phục. Vì vậy, quy trình nghiên cứu về phân cấp

quản lý giáo dục cần được thực hiện theo 3 bước: (1) xây dựng bức tranh hiện

trạng về phân cấp quản lý giáo dục; (2) phân tích hiện trạng về phân cấp quản

lý giáo dục; và (3) xây dựng các giải pháp về phân cấp quản lý giáo dục [32].

- Nguyễn Tiến Hùng (2006): “Vai trò của các cấp quản lý trong xu thế

phân cấp quản lý giáo dục đại học”, Tạp chí Khoa học giáo dục, số 6 năm 2006.

Bài báo phân tích vai trò của Quốc hội, Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, các

bộ và cơ quan ngang bộ, UBND tỉnh/thành phố, Sở giáo dục và Đào tạo, các

trường đại học trong xu hướng phân cấp quản lý giáo dục đại học [33].

- Đinh Thị Minh Tuyết (2007): “Về phân cấp quản lý giáo dục - đào tạo ở

nước ta hiện nay”, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 142 (11-2007). Tác giả bài

báo đã phân tích thực trạng phân cấp quản lý trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo

ở nước ta hiện nay; những kết quả đã đạt được cũng như những hạn chế, bất

cập, nguyên nhân của những hạn chế, bất cập; đề xuất định hướng và một số

giải pháp hoàn thiện phân cấp quản lý giáo dục - đào tạo. Tác giả bài báo nhấn

mạnh: đổi mới phân cấp quản lý về giáo dục - đào tạo là một yêu cầu khách

quan nhưng không thể tự do, tùy tiện. Không thể nhận thức đơn giản trong

phân cấp quản lý về giáo dục - đào tạo và cũng không nên cứng nhắc quan

niệm cho rằng tập trung là bất hợp lý, phân cấp là hợp lý và ngược lại [74].

- Trần Hồng Thắm: “Một số giải pháp đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà

nước về giáo dục phổ thông”, Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm Thành phố

Hồ Chí Minh, số tháng 2/2012. Bài báo phân tích thực tiễn phân cấp quản lý nhà

nước đối với bậc giáo dục phổ thông ở Việt Nam và đề xuất các giải pháp đẩy

mạnh phân cấp quản lý nhà nước đối với bậc học này. Tác giả đã trình bày một

16

số ý kiến về việc phân cấp quản lý GDPT với mong muốn góp phần định hướng

cho việc thực hiện công tác này ở nước ta trong thời gian tới [65].

Theo tác giả, phân cấp quản lý GDPT chỉ có tác dụng thực sự khi trao

quyền quyết định cho chính quyền cấp cơ sở và cấp nhà trường. Sẽ khó tìm

thấy mô hình phân cấp GDPT thống nhất cho cả nước, vì mỗi địa phương đều

có những điều kiện cụ thể khác nhau. Điều quan trọng là cần tìm ra những

điểm chung để quy định và tùy thuộc vào đặc điểm riêng mà có những hướng

dẫn cụ thể cho từng địa phương.

- Đinh Minh Dũng: “Phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo ở

cấp huyện vùng đồng bằng sông Cửu Long”, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 195

(4-2012). Tác giả bài báo trình bày quá trình phân cấp về GD-ĐT ở đồng bằng

sông Cứu Long từ sau giải phóng miền Nam và nhấn mạnh: tuy có nhiều thời kỳ

phân cấp quản lý nhà nước về GD-ĐT khác nhau, nhưng giáo dục tiểu học và

THCS cơ bản được phân cấp quản lý cho UBND cấp huyện và nó đã phát huy

tác dụng nhất định. Bài báo cũng đã trình bày những vấn đề đặt ra đối với phân

cấp quản lý về GD-ĐT ở các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long [17].

1.2.2. Các công trình nghiên cứu nước ngoài

- Rondineli D. và Nellis J. (1996): “Assessing decentralization policies

in Developing countries: the case for cautious optimism” (Chính sách phân

cấp sự định ở các nước đang phát triển: Trường hợp về chủ nghĩa lạc quan

cẩn trọng), Delelopment Policy Review 4. Theo các tác giả, ngay từ những

năm 80 của thế kỷ XX, nhiều nước trên thế giới tại châu Âu, châu Úc, châu

Mỹ, châu Á và châu Phi đã bắt đầu thể nghiệm và thực hiện hệ thống phân

cấp quản lý đối với GD-ĐT theo hướng tra quyền ban hành các quyết định

quản lý cho cấp dưới của chính phủ trung ương (chính quyền cấp

vùng/bang/tỉnh/thành phố/quận/huyên) và cho các trường. Lý do phân cấp

quản lý đối với GD-ĐT ở các quốc gia là rất khác nhau nhưng chủ yếu là do

cấp trung ương không thể tiếp tục gánh vác việc cung cấp tài chính cho hệ

17

thống GD-ĐT và do hệ thống quản lý về giáo dục quá cồng kềnh, quan liêu

gây tốn kém và lãng phí cho ngân sách nhà nước [102].

- Lockheed, Marlaine (2004): “Decentralization of education: Eight

lessons for school effectiveness and improvement” (Phân cấp giáo dục: Tám

bài học của sự tiến triển và ấn tượng trường học), The word Bank,

Washington, D.C. Theo các tác giả, mô hình phân cấp quản lý cho chính

quyền cấp dưới có hai kiểu điển hình: Phân cấp quản lý cho một cấp chính

quyền (tỉnh/thành phố) chịu trách nhiệm quản lý GDPT và mô hình phân cấp

cho hai cấp chính quyền (vùng/bang và tỉnh/thành phố) quản lý GDPT. Mô

hình phân cấp quản lý cho nhà trường thực chất là mô hình nâng cao quyền tự

chủ của các trường phổ thông, coi nhà trường là một đơn vị cải cách chính và

dựa trên sự phân bổ lại quyền hạn ban hành quyết định quản lý như là một

động lực để khuyến khích và duy trì cải cách. Kinh nghiệm tại các quốc gia

cải cách thành công đều có chung đặc điểm là đẩy mạnh phân cấp quản lý cho

các trường phổ thông và nâng cao quyền tự chủ của các trường mà vẫn tuân

thủ các quy định của chính quyền trung ương và chính quyền cấp trên [100].

- Elizabeth M. King và Susana Corderio Guerra (2005): “Những cuộc

cải cách giáo dục ở Đông Á: chính sách, quá trình và tác động” trong cuốn

sách “Phân cấp ở Đông Á để chính quyền địa phương phát huy tác dụng”,

NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội. Theo tác giả, phân cấp quản lý nhà nước về

giáo dục ở Đông Á có những đặc trưng chung. Đặc trưng lớn nhất là hệ thống

giáo dục được chuyển giao dựa trên các cơ cấu điều hành và quản lý đa tầng,

kết quả là để có được một chính sách quốc gia nhất quán đòi hỏi phải có sự nỗ

lực rất lớn. Chính phủ trung ương và các cấp chính quyền trung gian vẫn tiếp

tục quản lý cấp giáo dục cơ bản, song chính quyền cấp thấp nhất và bản thân

các trường phổ thông lại quản lý chế độ giáo dục cơ bản.

Sau khi phân tích thực trạng cải cách giáo dục ở các nước Đông Á, bài

viết rút ra những bài học kinh nghiệm trong phân cấp quản lý giáo dục: (1)

18

Cần làm sáng tỏ sự phân chia các chức năng, đơn giản hóa các quy trình và

cung cấp các cơ chế để phối hợp và thúc đẩy chia sẻ hiểu biết về cải cách ở

các cấp chính quyền khác nhau cũng như phân xử những bất đồng; (2) Chính

phủ trung ương giữ nhiều vai trò quan trọng nhưng cũng rất khác nhau trong

bối cảnh phân cấp và cần thay đổi cấu trúc và kỹ năng của mình; (3) bản thiết

kế phân cấp cần thiết để vận hành hệ thống giáo dục bao gồm các hệ thống

đánh giá cá nhân, tài chính, học sinh và quản lý thông tin. Hệ thống này cần

được sắp xếp lại để phản ánh mối quan hệ liên chính quyền với các chức năng

được phân công và năng lực cần được nâng cao; (4) Để quá trình mang lại tác

động tích cực đối với thành tích học tập của học sinh, các hệ thống thông tin

và đánh giá không chỉ phải đúng chỗ mà còn phải hoạt động phối hợp với

nhau trong suốt quá trình tham gia [25].

- Donal R. Winkler (1998): Decentralization in education: An Economic

Perspective (Phân cấp quản lý trong giáo dục: Viễn cảnh kinh tế), World bank

[93]. Theo tác giả, ở hầu hết các nước đang phát triển, trách nhiệm cung cấp giáo

dục bậc tiểu học và trung học cơ sở vẫn thuộc về chính phủ trung ương. Tuy

nhiên, ngày càng có nhiều nước trên thế giới đang tách trách nhiệm này khỏi

trung ương như một phần của cải cách nhằm phân cấp chức năng của chính phủ.

Việc chuyển giao này diễn ra dưới nhiều hình thức, bao gồm cả việc chuyển giao

các trách nhiệm tài khóa và quản lý cho các cấp chính quyền thấp hơn, cho phép

các trường công lập có quyền hoạt động độc lập, yêu cầu có sự tham gia của

cộng đồng trong việc điều hành hoạt động của các trường học, mở rộng hình

thức tài trợ từ cộng đồng, cho phép phụ huynh tự lựa chọn trường học cho con

em mình, khuyến khích hình thức cung ứng dịch vụ tư nhân.

Phân tích quá trình phân cấp quản lý trong giáo dục, tác giả chia quá

trình phân cấp thành các các hình thức khác nhau: dựa trên mục đích phân cấp

quản lý ta có phân cấp về chính trị, hành chính, tài chính và thị trường; dựa

theo mức độ chuyển giao quyền hạn từ cấp trung ương xuống cấp thấp hơn, ta

19

có các hình thức phân cấp: Phi tập trung hóa; ủy thác; ủy quyền; tư nhân hóa.

- Caldwell B. J (2003): “Self-Management and the Public good in

School education: getting the balance right for Australia”(Tự quản và lợi ích

xã hội trong giáo dục phổ thông: quyền bình đẳng ở Úc), Invited paper

presented as a counry report at an International workshop on “Leading and

Managing schools for Quality and Equity” organized by the Ministry of

Education of Chile. Tác giả bài tham luận viết: trong bối cảnh nền kinh tế thị

trường và hội nhập quốc tế, cần phải quan niệm đầy đủ hơn về một hệ thống

giáo dục phổ thông phát triển. Một nền giáo dục phổ thông tốt không chỉ bao

gồm sự đầy đủ về các yếu tố vật chất như lớp học, số lượng giáo viên, sách

giáo khoa…mà quan trọng hơn là tạo động lực thúc đẩy chất lượng dạy và

học. Về bản chất, có 3 yếu tố tạo nên động lực cho việc dạy và học đạt hiệu

quả là: (i) có nhiều cơ hội cho việc lựa chọn và cạnh tranh; (ii) nhà trường tự

chủ; và (iii) nhà trường tự chịu trách nhiệm.

Như vậy, yêu cầu đặt ra ở đây là phải đổi mới cơ chế quản lý giáo dục

phổ thông sao cho chất lượng dạy và học được nâng lên đồng thời với những

chi phí lợi ích hợp lý.

- Winkler R, Donald R. and Gershberg (2003): Effects on Quality of

Schooling (Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng dạy học), Word Bank,

Washington D.C. Cuốn sách đã cung cấp nhiều kinh nghiệm quý trong việc

giải quyết mâu thuẫn cơ bản trong quản lý giáo dục giữa việc cần tập trung

quản lý cái gì ở cấp trung ương và phân cấp những gì cho các cấp quản lý

thấp hơn trong quản lý nhà nước về GDPT. Đặc biệt là những kinh nghiệm

giải quyết có hiệu quả và hợp lý khuynh hướng trao quyền tự chủ quản lý và

trách nhiệm cho quá trình ban hành quyết định tại các trường đang phát triển

mạnh mẽ trên thế giới. Đây là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng

dạy và học ở các trường phổ thông hiện nay [103].

20

- Cheema, G. Shabbir and Rondineli (1993): “Decentralization and

development: Policy implementation in developing countries” (Phân cấp và

phát triển: thực thi chính sách ở các nước đang phát triển), Sage, Beverly Hills.

Các tác giả cuốn sách nhấn mạnh: trong bối cảnh phân cấp quản lý đối với

GDPT, các quốc gia trên thế giới đều có cùng một điểm chung, đó là: một mặt,

cần duy trì vai trò của tập trung trong quản lý, nhưng chỉ tập trung vào thiết lập

đường lối mang tính định hướng cho toàn bộ hệ thống, đề ra mục tiêu và các

tiêu chuẩn học tập cho học sinh, các chính sách hỗ trợ cho nhà trường và kiểm

soát việc thực hiện của nhà trường; mặt khác, cần nâng cao quyền tự chủ cho

nhà trường trong việc huy động và sử dụng các nguồn lực để đáp ứng tốt nhất

nhu cầu học tập của học sinh, cha mẹ học sinh và cộng đồng. Tuy nhiên, mối

quan hệ giữa trách nhiệm và quyền hạn, nhất là trách nhiệm của các cấp quản

lý và nhà trường phổ thông vẫn là vấn đề khó khăn đang được các quốc gia tiếp

tục nghiên cứu phù hợp với tình hình thực thế của mỗi nước [92].

- Báo cáo nghiên cứu của Trung tâm Dân chủ và Quản trị thuộc cơ quan

phát triển quốc tế Hoa Kỳ USAID: “Decentralization and democratic Local

Government” (Phân cấp và Quản trị địa phương dân chủ), Washington D.C,

USAID, May 2000. Báo cáo trình bày mối quan hệ giữa phân cấp và quản trị

địa phương dân chủ. Bản báo cáo nhấn mạnh: Xu hướng chung trong các nhà

nước dân chủ hiện đại là khi xã hội phát triển càng cao thì việc phân cấp quản

lý càng diễn ra nhiều hơn, chính quyền các địa phương được trao nhiều nhiệm

vụ, quyền hạn hơn [106].

- Sách chuyên khảo của Alfred de Grazia: “Decentralization - The

element of Political Science” (Phân cấp - yếu tố của khoa học chính trị), New

Jersey, 1999. Tác giả cuốn sách nhấn mạnh đến các đặc điểm của phân cấp

quản lý, coi phân cấp quản lý là ý chí của các nhà chính trị, mang tính định

hướng chính trị của nhà nước. Cuốn sách chuyên khảo trình bày các điều kiện

để thực hiện phân cấp quản lý và khẳng định: phân cấp quản lý là quá trình

21

chuyển đổi phương thức thực thi quyền lực nhà nước tập trung quan liêu sang

dân chủ; là chuyển giao nhiệm vụ, quyền hạn từ chính quyền trung ương cho

chính quyền địa phương các cấp nhằm mục tiêu hiệu quả. Phân cấp, phân

quyền không có nghĩa là làm giảm vai trò của trung ương mà ngược lại trung

ương làm đúng việc phải làm là xây dựng chính sách, pháp luật và giải quyết

các vấn đề có tính chiến lược, đồng thời thúc đẩy tính độc lập, chịu trách

nhiệm trong quá trình ra quyết định và tổ chức thực hiện của chính quyền địa

phương các cấp [89].

1.3. Đánh giá chung về các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận

án

1.3.1. Những nội dung đã được nghiên cứu

Từ việc hệ thống hóa tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

luận án, chúng ta có thể thấy những công trình nghiên cứu trên thế giới và ở

Việt Nam đã giải quyết được nhiều vấn đề có tính chất nền tảng cho nghiên

cứu về phân cấp quản lý nhà nước nói chung, phân cấp quản lý nhà nước về

GDPT nói riêng.

Những công trình nghiên cứu này đã nghiên cứu và đưa ra nhiều quan

niệm khác nhau về phân cấp quản lý dựa trên quan điểm của các học giả, so

sánh, phân biệt phân cấp với phân quyền, ủy quyền, tản quyền. Các nghiên

cứu về lịch sử hình thành và phát triển của phân cấp quản lý trên thế giới cũng

cho thấy các đặc điểm của của hoạt động phân cấp ở mỗi giai đoạn khác nhau

của quá trình phát triển của mỗi quốc gia.

Các công trình nghiên cứu cũng đã đề cấp đến các đặc điểm, nguyên tắc

phân cấp quản lý, từ đó đề xuất quy trình và mô hình phân cấp quản lý phù

hợp với đặc điểm của các quốc gia trên thế giới.

Các công trình nghiên cứu về phân cấp quản lý về giáo dục đã phân tích

vai trò của phân cấp quản lý từ nhiều góc nhìn; lợi thế và rủi ro của phân cấp

quản lý; các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện phân cấp, các kiểu tập trung và

phân cấp quản lý về giáo dục.

22

Các công trình nghiên cứu chủ yếu phân tích, đặt nền tảng lý luận và thực

tiễn, quan điểm tiếp cận tổng thể cho việc tiến hành nghiên cứu về mối quan hệ

trong phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương, về bản chất, vai trò,

chức năng của chính quyền địa phương, cơ sở của việc phân cấp nói chung, phân

cấp về giáo dục nói riêng.

Nhìn chung, các nội dung liên quan đến hoạt động phân cấp, phân cấp

quản lý về giáo dục đã được các học giả trong và ngoài nước nghiên cứu,

phân tích ở nhiều khía cạnh khác nhau. Những công trình khoa học này cung

cấp hệ thống những kiến thức khoa học phong phú, đặt nền tảng cho việc

nghiên cứu đề tài này.

1.3.2. Những nội dung luận án cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung

Nhìn chung các nghiên cứu về phân cấp quản lý nhà nước về giáo

dụcmới chỉ mang tính chất khái quát bước đầu, trên địa bàn cả nước hoặc ở

một số vùng nhất định. Những nghiên cứu về phân cấp quản lý đối với GDPT

đặc biệt gắn với địa bàn đặc thù là Thủ đô Hà Nội thì chưa có công trình nào.

Mặt khác, chủ yếu các công trình nghiên cứu giai đoạn sau khi Nghị định

115/2010/NĐ-CP ban hành. Hiện nay Nghị định 127/2018/NĐ- CP thay thế

Nghị định 115/2010/NĐ-CP với những thay đổi nhất định trong phân cấp

quản lý nhà nước về GD nói chung và GDPT nói riêng. Việc tiếp tục nghiên

cứu đánh giá sự phù hợp thể chế hiện hành với thực tiễn của GDPT ở thủ đô

Hà Nội là hoàn toàn cần thiết.

Trên cơ sở phân tích những vấn đề đã được nghiên cứu, luận án cần tiếp

tục nghiên cứu những nội dung sau:

Một là, nghiên cứu cơ sở lý luận của hoạt động phân cấp, nhất là phân

cấp phân cấp quản lý nhà nước về GDPT: Đặc điểm, nội dung, vai trò; các

yếu tố ảnh hưởng đến phân cấp quản lý nhà nước về GDPT; làm rõ kinh

nghiệm về phân cấp QLNN đối với GDPT một số nước trên thế giới để tham

khảo cho Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng. Những nội dung này sẽ là

23

khung lý thuyết để xác định, đánh giá thực trạng cũng như đề xuất các giải

pháp đẩy mạnh và tăng cường phân cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa

bàn Thành phố Hà Nội trong những năm tới.

Hai là,nghiên cứu hệ thống hành lang pháp lý liên quan đến hoạt động

phân cấp quản lý và phân cấp quản lý nhà nước về GDPT ở Việt Nam.

Những quy định mang tính pháp lý về phân cấp quản lý còn nằm rải rác ở

nhiều văn bản quy phạm khác nhau. Luận án cần nghiên cứu để tập hợp và hệ

thống hóa các quy định này nhằm xây dựng cơ sở cho việc đánh giá thực

trạng phân cấp quản lý nhà nước về GDPT ở nước ta hiện nay.

Ba là, với đặc thù của thành phố Hà Nội, luận án cần làm rõ đặc trưng

phân cấp QLNN về GDPT với chính quyền đô thị có gì khác với các địa

phương khác. Đồng thời phân tích, đánh giá thực trạng, những kết quả đã đạt

được, những hạn chế, bất cập, nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong

phân cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội.

Bốn là, nêu phương hướng và đề xuất các giải pháp đẩy mạnh và nâng

cao hiệu quả phân cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn Thành phố Hà

Nội trong những năm tới. Luận án cũng đề xuất các giải pháp đổi mới phân

cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội trong bối

cảnh hiện nay.

24

Tiểu kết chương 1

Chương 1 của luận án đã tập trung nghiên cứu các công trình nghiên cứu ở

trong nước và trên thế giới về phân cấp quản lý, phân cấp quản lý về giáo dục và

đánh giá chung về các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.

Trong chương này luận án đã chỉ rõ những nội dung đã được các tác giả trong

nước và quốc tế nghiên cứu về phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục; những

nội dung tác giải luận án cần nghiên cứu, bổ sung.

Tuy chưa có công trình nào trực tiếp nghiên cứu về phân cấp quản lý

nhà nước về GDPT, nhưng đã có một số công trình nghiên cứu cơ sở lý luận

và thực tiễn, giải quyết được nhiều vấn đề có tính chất nền tảng cho nghiên

cứu về phân cấp quản lý nhà nước nói chung, phân cấp quản lý nhà nước về

GDPT nói riêng.

Các công trình nghiên cứu ở trong nước và trên thế giới đã đưa ra nhiều

quan niệm khác nhau về phân cấp quản lý dựa trên quan điểm của các học giả,

so sánh, phân biệt phân cấp với phân quyền, ủy quyền, tản quyền. Các nghiên

cứu về lịch sử hình thành và phát triển của phân cấp quản lý cũng cho chung

ta thấy được đặc điểm của của phân cấp quản lý ở mỗi giai đoạn khác nhau

của quá trình phát triển. Các công trình nghiên cứu cũng đã đề cập đến đặc

điểm, nguyên tắc phân cấp quản lý, từ đó đề xuất quy trình và mô hình phân

cấp quản lý phù hợp với đặc điểm của từng nước.

Các công trình nghiên cứu về phân cấp quản lý về giáo dục đã phân tích

vai trò của phân cấp quản lý từ nhiều góc nhìn; lợi thế và rủi ro của phân cấp;

các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện phân cấp, các kiểu tập trung và phân

cấp quản lý về giáo dục.

Các công trình nghiên cứu trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn, quan điểm

tiếp cận cho việc tiến hành nghiên cứu về mối quan hệ trong phân cấp, phân

quyền giữa trung ương và địa phương, về bản chất, vai trò, chức năng của chính

quyền địa phương, cơ sở của việc phân cấp quản lý về giáo dục.

25

Các nội dung liên quan đến phân cấp, phân cấp quản lý về giáo dục đã

được các học giả trong và ngoài nước nghiên cứu, phân tích ở nhiều khía cạnh

khác nhau. Những công trình khoa học này cung cấp những kiến thức khoa

học cơ bản, đặt nền tảng cho nghiên cứu sinh nghiên cứu đề tài này.

Tuy vậy, những nghiên cứu về phân cấp và phân cấp quản lý nhà nước về

giáo dục mới chỉ mang tính chất khái quát bước đầu, chưa đi vào cụ thể. Các

nghiên cứu về phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục còn rất ít, được đề cập

rời rạc, không mang tính hệ thống và toàn diện. Những nghiên cứu về phân

cấp quản lý đối với GDPT hầu như chưa có, nhất là phân cấp quản lý nhà

nước về GDPT ở một địa phương cụ thể.

Trên cơ sở phân tích làm rõ những vấn đề đã được nghiên cứu, luận án

cần tiếp tục nghiên cứu đặc điển, mục tiêu, các nguyên tắc phân cấp quản lý;

các yếu tố ảnh hưởng đến phân cấp quản lý nhà nước về GDPT; các kiểu tập

trung và phân cấp quản lý nhà nước về GDPT; những vấn đề đặt ra khi thực

hiện phân cấp quản lý nhà nước về GDPT ở nước ta hiện nay. Luận án cũng

đề ra nhiệm vụ nghiên cứu thực trạng phân cấp quản lý nhà nước về GDPT

trên địa bàn Thành phố Hà Nội; nêu phương hướng và đề xuất các giải pháp

đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn Thành phố Hà

Nội trong những năm tới.

26

Chương 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA PHÂN CẤP QUẢN LÝ

NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC PHỔ THÔNG

2.1. Quản lý và quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông

2.1.1. Quản lý và quản lý nhà nước

Nếu chiết tự theo từ, thuật ngữ “quản lý" (tiếng Việt gốc Hán) có thể

hiểu là hai quá trình tích hợp vào nhau; quá trình "quản" là sự coi sóc, giữ gìn,

duy trì ở trạng thái "ổn định"; quá trình “ lý" là sửa sang, sắp xếp, đổi mới để

đưa tổ chức vào thế “phát triển”.

Dưới góc độ khoa học, có rất nhiều quan điểm khác nhau về quản lý. Có

tác giả cho rằng, quản lý là việc đạt đến mục tiêu thông qua hoạt động của

người khác. Tác giả khác lại coi quản lý như một hoạt động thiết yếu bảo đảm

phối hợp những nỗ lực cá nhân để đạt tới mục tiêu của nhóm.

Theo Harol Koontz: "Quản lý là một nghệ thuật nhằm đạt được mục tiêu

đã đề ra thông qua việc điều khiển, chỉ huy, phối hợp, hướng dẫn hoạt động

của những người khác", [36]

Còn Nguyễn Minh Đạo: "Quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển,

hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người nhằm đạt

tới mục tiêu đã đề ra" [20]

Giáo trình Khoa học quản lý của Trường Đại học Kinh tế quốc dân thì

quan niệm: "Quản lý là việc đạt tới mục đích của tổ chức một cách có kết quả

và hiệu quả thông qua quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra

các nguồn lực của tổ chức" [71]

Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau, nhưng phổ quát hơn cả có thể

hiểu: quản lý là sự tác động có định hướng và có tổ chức của chủ thể quản lý

lên đối tượng quản lý bằng các phương thức nhất định để đạt tới mục tiêu đề ra.

27

Quản lý bao gồm các yếu tố cấu thành sau: (1) Chủ thể quản lý là tác

nhân tạo ra các tác động; (2) đối tượng quản lý bị quản lý tiếp nhận trực tiếp

các tác động của chủ thể quản lý; (3) Các khách thể quản lý là mục tiêu mà

chủ thể quản lý tác động để mong muốn đạt được.

Theo đối tượng quản lý, các hoạt động quản lý có thể phân chia thành 3

nhóm chủ yếu: quản lý giới vô sinh ( ví dụ như nhà xưởng, ruộng đất, tài

nguyên, hầm mỏ, thiết bị máy móc, nguyên vật liệu, sản phẩm.) , quản lý giới

sinh vật và quản lý xã hội. Quản lý xã hội với tư cách là quản lý các hoạt

động của con người, giữa con người với nhau trong xã hội là một bộ phận của

quản lý chung.

Quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, xuất hiện và tồn

tại cùng với sự xuất hiện và tồn tại của nhà nước. Quản lý nhà nước là hoạt

động gắn liền với hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước, có tính chất

cưỡng chế đơn phương đối với xã hội. Nội hàm của quản lý nhà nước thay đổi

phụ thuộc vào chế độ chính trị, lịch sử và đặc điểm văn hoá, trình độ phát

triển kinh tế - xã hội của mỗi một quốc gia qua các giai đoạn lịch sử.

Quản lý nhà nước thực hiện 3 quyền: 1) Quyền lập pháp do các cơ quan

lập pháp thực hiện. Quyền lập pháp là quyền ban hành và sửa đổi Hiến pháp

và luật, tức là quyền xây dựng các quy tắc pháp lý cơ bản để điều chỉnh các

quan hệ xã hội theo định hướng của nhà nước; 2) Quyền hành pháp là quyền

chấp hành và điều hành do hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện.

Quyền hành pháp là quyền thực thi pháp luật, tức là hoạt động chấp hành luật và

điều hành, quản lý các mặt của đời sống sống kinh tế - xã hội theo các quy định

của pháp luật; 3) Quyền tư pháp do các cơ quan tư pháp thực hiện. Quyền tư

pháp là quyền bảo vệ pháp luật của các cơ quan tư pháp.

Trong quản lý xã hội có rất nhiều chủ thể tham gia: các đảng phái chính

trị, nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế, các hội nghề

nghiệp..., trong đó nhà nước giữ vai trò quan trọng. Nhà nước là trung tâm

28

của hệ thống chính trị và là công cụ quan trọng nhất để quản lý xã hội. So với

quản lý của các tổ chức khác, thì quản lý nhà nước có những điểm khác biệt:

1) Chủ thể quản lý nhà nước là các cơ quan, cá nhân trong bộ máy nhà nước

được trao quyền; 2) Đối tượng quản lý nhà nước là tất cả các cá nhân, tổ chức

sinh sống và hoạt động trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, công dân làm việc bên

ngoài lãnh thổ quốc gia; 3) Quản lý nhà nước là quản lý toàn diện trên tất cả

các lĩnh vực của đời sống xã hội: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh,

quốc phòng, ngoại giao...; 4) Quản lý nhà nước mang tính quyền lực nhà

nước, sử dụng công cụ pháp luật nhà nước, chính sách để quản lý xã hội; 5)

Mục tiêu của quản lý nhà nước là phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn định và

phát triển của toàn xã hội [28, 242].

Từ những đặc điểm trên chúng ta có thể hiểu, quản lý nhà nước là một

dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực nhà nước và sử dụng pháp

luật và chính sách để điều chỉnh hành vi của cá nhân, tổ chức trên tất cả các

mặt của đời sống xã hội do các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện,

nhằm phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội.

2.1.2. Quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông

Để làm rõ khái niệm quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông cần làm

sáng tỏ thuật ngữ: giáo dục phổ thông. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 2 Quy

định tiêu chuẩn, quy trình xây dựng, chỉnh sửa chương trình giáo dục phổ thông;

tổ chức và hoạt động của hội đồng quốc gia thẩm định chương trình giáo dục

phổ thông được ban hành kèm theo Thông tư 14/2017/TT-BGDĐT (có hiệu lực

từ 22/07/2017), thì: Giáo dục phổ thông gồm giáo dục tiểu học, giáo dục trung

học cơ sở (giai đoạn giáo dục cơ bản) và giáo dục trung học phổ thông (giai đoạn

giáo dục định hướng nghề nghiệp).

Như vậy, thuật ngữ giáo dục phổ thông là thuật ngữ mang nội hàm

rộng bao gồm cả giáo dục tiểu học, giáo dục trung học cơ sở (giai đoạn

giáo dục cơ bản) và giáo dục trung học phổ thông (giai đoạn giáo dục định

hướng nghề nghiệp).

29

Trên cơ sở phân tích trên có thể hiểu: quản lý nhà nước về giáo dục phổ

thông là một lĩnh vực của quản lý nhà nước do các cơ quan nhà nước có thẩm

quyền theo quy định của pháp luật, thực hiện sự tác động và điều chỉnh bằng

quyền lực nhà nước đối với các hoạt động giáo dục phổ thông nhằm thực hiện

mục tiêu duy trì kỷ luật, kỷ cương, phát triển giáo dục phổ thông đáp ứng yêu

cầu phát triển đất nước.

Từ quan niệm trên có thể xác định các yếu tố cấu thành của QLNN

về GDPT ở Việt Nam hiện nay như sau:

Thứ nhất, chủ thể QLNN về GDPT là các cơ quan nhà nước. Cụ thể

trong phạm vi nghiên cứu của luận án là hệ thống các cơ quan hành chính

nhà nước. Theo quy định của Luật Giáo dục hiện nay hệ thống các cơ quan

quản lý nhà nước về GDPT được quy định như sau:

Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về GDPT. Chính phủ trình

Quốc hội trước khi quyết định những chủ trương lớn có ảnhhưởng đến quyền

và nghĩa vụ học tập của công dân trong phạm vi cả nước, những chủ trương

về cải cách nội dung chương trình của các bậc học phổ thông, hằng năm báo

cáo Quốc hội về kết quả hoạt động GDPT và việc thực hiện việc thu chi ngân

sách GDPT.

Bộ Giáo dục và Đào tạo chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc

thực hiện quản lý nhà nước về GDPT.

Các Bộ có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà nước

về GDPT quy định tại Nghị định của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền

hạn và cơ cấu tổ chức của mỗi Bộ; đồng thời phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào

tạo bảo đảm sự thống nhất quản lý nhà nước về GDPT. Bộ Kế hoạch và Đầu tư

chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và

Xã hội, Bộ Nội vụ và các cơ quan có liên quan tổng hợp chỉ tiêu đào tạo, bồi

dưỡng hàng năm và đưa vào kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của cả nước

trình Thủ tương Chính phủ phê duyệt; chịu trách nhiệm về tính hợp lý, sự đáp

30

ứng nhu cầu thực tiễn và cân đối về cơ cấu nguồn nhân lực được đào tạo. Bộ

Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo và các cơ quan liên

quan lập dự toán, phân bổ, tổ chức thực hiện ngân sách nhà nước; xây dựng

các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức về tài chính - ngân sách; bảo

đảm tài chính và thực hiện thanh tra, kiểm tra tài chính - ngân sách đối với

lĩnh vực GDPT theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nuớc và các văn bản

pháp luật có liên quan. Bộ Nội vụ có trách nhiệm thực hiện những quy định

về quản lý biên chế GDPT quy định tại Nghị định của Chính phủ.

Ủy ban nhân dân các cấp và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cáp thực

hiện quản lý nhà nước về GDPT ở địa phương theo quy định của Chính phủ.

Ở cấp tỉnh có Sở Giáo dục và Đào tạo. Giám đốc Sở Giáo dục và Đào

tạo chịu trách nhiệm trước UBND cấp tỉnh trong quản lý nhà nước về GDPT

trong phạm vi tỉnh, bao gồm các trường tiểu học, THCS, THPT. Một số Sở

Giáo dục và Đào tạo chỉ được quản lý chuyên môn và một vài mặt khác thuộc

quá trình GDPT. Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo được cấp bằng tốt nghiệp

THCS, THPT.

Cấp huyện có Phòng Giáo dục và Đào tạo. Trưởng Phòng Giáo dục và

Đào tạo chịu trách nhiệm trước UBND cấp huyện thực hiện quản lý nhà nước

về GDPT trong phạm vi các quận, huyện. Phòng Giáo dục và Đào tạo cấp

huyện quản lý các trường tiểu học, THCS. Trưởng Phòng Giáo dục và Đào

tạo được cấp bằng tốt nghiệp tiểu học.

31

Sơ đồ 2.1. Hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về GDPT

CHÍNH PHỦ

BộGD&ĐT

UBND cấp tỉnh

Sở GD&ĐT

UBND cấp huyện

Phòng GD&ĐT

UBND cấp xã

Ghi chú:  Quan hệ trực thuộc về tổ chức

Quan hệ chỉ đạo về chuyên môn, nghiệp vụ

Thứ hai, nội dung quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông.

Chủ thể QLNN sẽ tiến hành các hoạt động sau trong lĩnh vực GDPT:

- Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính

sách phát triển giáo dục phổ thông;

- Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về GDPT;

ban hành điều lệ nhà trường; ban hành quy định về tổ chức và hoạt động của

các cơ sở giáo dục phổ thông;

- Quy định mục tiêu, chương trình, nội dung GDPT; tiêu chuẩn nhà giáo;

tiêu chuẩn cơ sở vật chất và thiết bị trường học; việc biên soạn, xuất bản, in

và phát hành sách giáo khoa, giáo trình; quy chế thi cử và cấp văn bằng,

chứng chỉ;

- Tổ chức, quản lý việc bảo đảm chất lượng giáo dục và kiểm định chất

lượng giáo dục phổ thông;

32

- Thực hiện công tác thống kê, thông tin về tổ chức và hoạt động giáo

dục phổ thông;

- Tổ chức bộ máy quản lý về giáo dục phổ thông;

- Tổ chức, chỉ đạo việc đào tạo, bồi dưỡng, quản lý nhà giáo và cán bộ

quản lý giáo dục phổ thông;

- Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để phát triển giáo dục

phổ thông;

- Tổ chức, quản lý công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ

trong lĩnh vực giáo dục phổ thông;

- Tổ chức, quản lý công tác hợp tác quốc tế về giáo dục phổ thông;

- Quy định việc tặng danh hiệu vinh dự cho người có nhiều công lao đối

với sự nghiệp giáo dục phổ thông;

- Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về GDPT; giải quyết

khiếu nại, tố cáo và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về GDPT.

Thứ ba, mục đích của QLNN về GDPT. Đó là hướng tới duy trì ổn định,

trật tự và đảm bảo sự phát triển của các quan hệ xã hội giữa các chủ thể tham

gia hoạt động GDPT.

2.2. Phân cấp quản lý nhà nước và phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục

phổ thông

2.2.1. Khái niệm phân cấp quản lý nhà nước

Để làm rõ nội hàm thuật ngữ phân cấp quản lý nhà nước, trước hết cần

xuất phát từ thuật ngữ “phân cấp”. Hiện nay, có một số quan niệm khác nhau

xung quanh khái niệm “phân cấp”. Theo một số tác giả, phân cấp chính là phân

quyền giữa trung ương và địa phương; Phân cấp là phân ra, chia thành các cấp,

các hạng; Phân cấp có sự chuyển giao quyền lực quản lý xuống các cấp dưới để

thực hiện cho sát dân và sát tình hình thực tiễn, đồng thời, để giảm bớt khối

lượng cho cấp trên khỏi phải trực tiếp giải quyết những việc sự vụ.

33

Có quan niệm khác cho rằng, phân cấp có thể theo hai hướng: một

hướng nằm ngang là sự phân chia căn cứ vào sự khác nhau của các công việc

của một cấp; hướng nằm dọc (thẳng đứng) là sự phân chia theo cơ cấu thứ bậc

công việc giữa các cấp khác nhau [70, 162].

Có ý kiến cho rằng, cần phân biệt “phân cấp quản lý” với một số khái

niệm gần với nó là phân công, phân nhiệm, phân quyền vì phân công và phân

nhiệm đều để chỉ sự xác định quyền hạn, trách nhiệm cả theo chiều ngang và

chiều dọc. Thông thường, người ta sử dụng khái niệm phân công để chỉ quan

hệ theo chiều ngang với dụng ý phân biệt nó với phân cấp. Nếu phân quyền

được hiểu là phân giao quyền hạn cho một cơ quan hoặc một cấp chính quyền

nào đấy thì thực ra sử dụng thuật ngữ phân công và phân cấp là đầy đủ và

chính xác hơn [43, tr.24-25].

Như vậy, cho đến nay, mặc dù được sử dụng một cách rộng rãi, song

cách hiểu về phân cấp còn chưa hoàn toàn thống nhất.

Dưới góc độ ngôn ngữ, “cấp” được hiểu là loại hạng trong một hệ thống

(xếp theo trình độ cao thấp, trên dưới). Từ đó, phân cấp quản lý được cắt

nghĩa là giao bớt một phần quyền quản lý cho cấp dưới, quy định nhiệm vụ và

quyền hạn cho mỗi cấp. Như vậy, ở đây có hai nội dung cần lưu ý là chuyển

giao thẩm quyền cho cấp dưới và xác định thẩm quyền của mỗi cấp trong đó.

Hiện nay, căn cứ vào cách phân chia đơn vị hành chính - lãnh thổ mà ở

Việt Nam hình thành các cấp chính quyền: trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và

cấp xã. Phân cấp quản lý nhà nước, trước hết được hiểu là phân cấp giữa

trung ương với chính quyền cấp tỉnh; đồng thời, còn bao hàm cả phân cấp

giữa các cấp chính quyền địa phương với nhau.

Phân cấp quản lý nhà nước bao gồm: 1) Phân cấp theo chức năng là các

cá nhân, tổ chức ở những vị trí xác định được giao thực hiện những nhiệm vụ

nhất định phù hợp với chức năng quản lý của mình; 2) phân cấp theo lãnh thổ

là mỗi cấp quản lý (chính quyền địa phương) được giao quản lý các đối tượng

34

trên một địa bàn xác định. Ở đó, bộ máy quản lý được chủ động quyết định

mục tiêu, kế hoạch, biện pháp và huy động sử dụng các nguồn lực trong địa

bàn theo quy định một cách tối ưu nhất; 3) phân cấp kỹ thuật là cấp quản lý

được giao quyền quyết định những tiêu chuẩn kỹ thuật, định mức kinh tế, tài

chính quy tắc và quy trình thực hiện các nhiệm vụ được giao theo quy định

cho phù hợp với điều kiện kinh tế, văn hoá xã hội và tự nhiên của địa bàn; 4)

phân cấp lợi ích là cấp quản lý được chủ động kết quả đầu ra, lợi ích thực hiện

cùng những biện pháp tăng cường lợi ích của tập thể (hay địa bàn) và điều

hoà lợi ích giữa các bên theo quy định.

Hiện nay, thuật ngữ phân cấp không chỉ dùng trong quản lý mà còn dùng

phổ biến trong các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, môi trường. Phân cấp là một

trong những nội dung quan trọng của cải các hành chính của các quốc gia bao

gồm 3 loại hình cơ bản hợp thành là tản quyền, phân quyền và uỷ quyền. Sự

phân định này phụ thuộc vào mối quan hệ quản lý giữa các cấp hành chính trong

hệ thống các cơ quan nhà nước. Tính phụ thuộc trên, dưới của hệ thống các cấp

hành chính là yếu tố chủ đạo và chi phối nghĩa vụ của từ phân cấp [68, tr.164].

Xét trên quan điểm khoa học quản lý, phân cấp quản lý nhà nước là thuật

ngữ chỉ sự phân định quyền, nhiệm vụ, trách nhiệm bằng cách quy định chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cấp theo nguyên tắc tập trung dân chủ để

vừa đảm hảo việc điều hành tập trung, thống nhất của Chính phủ đồng thời

phát huy dân chủ, nâng cao tính năng động của mỗi địa phương, cơ sở. Phân

cấp quản lỷ được hiểu là sự chuyển giao ổn định thẩm quyền, nhiệm vụ và

trách nhiệm từ cơ quan quản lý cấp trên xuống cấp dưới trực thuộc nhằm đạt

mục tiêu chung một cách có hiệu quả nhất trong quá trình phân công quản lý

của cả hệ thống hành chính nhà nước. Trong phạm vi thẩm quyền được giao,

mỗi cấp có quyền hành động tự chủ nhất định để phát huy tính năng động

sáng tạo của mình [64, tr.385].

Về nguyên tắc, phân cấp quản lý không đơn thuần là phân chia quyền lực

giữa Trung ương và địa phương (theo cấp hành chính và đơn vị hành chính)

35

và cũng không phải là phân chia lợi ích giữa Trung ương và địa phương, giữa

cấp trên và cấp dưới, mà thực chất là phân định rõ nhiệm vụ, thẩm quyền giữa

cấp trên và cấp dưới một cách hợp lý, tạo thuận lợi trong việc giải quyết các

công việc của Nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước.

Như vậy, có thể thấy phân cấp quản lý nhà nước là một quá trình liên thông từ

việc xác định chức năng, nhiệm vụ của mỗi cấp hành chính đến thẩm quyền

hành chính tương ứng ở mỗi cấp và các điều kiện thực hiện để đạt mục tiêu

quản lý của hệ thống một cách hiệu quả nhất. Trong quá trình đó, mỗi cấp đều

phải chịu trách nhiệm với nhau và chịu trách nhiệm với nhân dân về kết quả

thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được phân cấp.

Nếu nhìn từ chế độ quản lý thì bản chất của phân cấp quản lý nhà nước

là việc cấp trên chuyển giao những nhiệm vụ quyền hạn do mình nắm giữ cho

cấp dưới thực hiện một cách thường xuyên, liên tục bằng phương thức ban

hành văn bản quy phạm pháp luật hoặc bằng cách chuyển cho cấp dưới thực

hiện nhiệm vụ, quyền hạn bằng các quyết định cụ thể.

Sản phẩm cuối cùng của phân cấp quản lý nhà nước là hệ thống quy định

pháp luật về phân định thẩm quyền quản lý nhà nước và cơ chế thực hiện

những thẩm quyền đó. Như vậy, phân cấp quản lý nhà nước bao gồm các nội

dung cụ thể sau: 1) Xác định những thẩm quyền đặc biệt của trung ương trong

quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực hoạt động cụ thể nhằm bảo đảm tính

thống nhất trong quản lý nhà nước; 2) xác định những thẩm quyền riêng của

từng cấp chính quyền theo tiêu chí “cấp tốt nhất”; 3) xác định thẩm quyền

chung của các cấp chính quyền và cơ chế phối hợp trong việc thực hiện thẩm

quyền chung; 4) quy định các điều kiện về tài chính, tổ chức, nhân sự để bảo

đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được phân cấp; 5) xác định cơ chế

kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được phân cấp.

Trên cơ sở những lập luận ở trên chúng ta có thể đưa ra khái niệm về

phân cấp quản lý nhà nước như sau: Phân cấp quản lý nhà nước là sự phân

36

định thẩm quyền, trách nhiệm giữa các cấp chính quyền trên cơ sở bảo đảm

sự phù hợp giữa khối lượng và tính chất thẩm quyền với năng lực và điều kiện

thực tế của từng cấp nhằm tăng cường chất lượng, hiệu lực và hiệu quả của

hoạt động quản lý nhà nước.

2.2.2. Khái niệm phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông

Thời gian đầu chính phủ các nước thường quản lý giáo dục phổ thông

theo mô hình tập trung. Ở mô hình này, việc ra quyết định quản lý và thực

hiện chức năng giám sát và đánh giá chủ yếu do Bộ Giáo dục hoặc các Vụ

chức năng của Bộ Giáo dục tiến hành. Chính quyền trung ương quy định mọi

mặt của hệ thống, bao gồm các vấn đề liên quan đến học sinh, giáo viên, tài

chính và trang thiết bị. Chính quyền trung ương còn xây dựng chính sách và

quản lý mọi hoạt động, như việc trả lương cho giáo viên, thực hiện đào tạo,

bồi dưỡng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục. Chính quyền địa

phương có trách nhiệm triển khai và thực hiện, nhà trường cũng được trao

một số quyền lực song vẫn chịu sự quản lý chặt chẽ của trung ương, do đó địa

phương và nhà trường có rất ít điều kiện để phát huy sự năng động, sáng tạo.

Phân cấp quản lý nhà nước về GDPT được coi là mô hình quản lý thay thế và

khắc phục những hạn chế của cơ chế quản lý tập trung.

Trên cơ sở những lý luận về phân cấp quản lý nhà nước nói chung đã phân

tích, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT là việc chuyển giao quyền hạn, quyền ra

quyết định cho cấp dưới thông qua các tổ chức giáo dục. Ở Việt Nam có bốn cấp

được chuyển giao quyền hạn là: Cấp trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã.

Hiểu cụ thể hơn, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT là chuyển trách

nhiệm lập kế hoạch, quản lý và phân bổ các nguồn lực từ chính phủ trung

ương tới các cơ quan chuyên ngành của chính phủ, các cơ quan cấp dưới, các

đơn vị công lập tự chủ một phần, các đơn vị vùng hay chức năng hoặc các tổ

chức tư nhân hay tình nguyện.

Các định nghĩa trên đã phản ánh được một mặt của phân cấp: phân công

lại hoặc trao thêm trách nhiệm và quyền quyết định phù hợp với các chức năng

37

hoặc thành phần cụ thể của chức năng cho cấp thấp hơn của chính phủ trung

ương. Tuy nhiên, để hiểu đầy đủ về phân cấp cần phải đề cập đến các mặt còn lại

của phân cấp, đó là tính chịu trách nhiệm của từng cấp và mối quan hệ công việc

giữa các cấp trong và ngoài hệ thống quản lý nhà nước về GDPT.

Một cách khái quát chúng ta có thể hiểu, phân cấp quản lý nhà nước về

GDPT là quá trình thiết kế lại hệ thống quy trình trách nhiệm, quyền hạn và

tính chịu trách nhiệm (theo các chức năng hoặc thành phần, của chức năng

quản lý nhà nước về GDPT) theo hướng dịch chuyển từ cấp trên xuống cấp

dưới, cũng như quy trình quan hệ công việc giữa các bên liên quan (trong và

ngoài hệ thống quản lý đối với GDPT), nhằm sử dụng tối đa các nguồn lực

đạt tới mục tiêu đề ra.

Từ khái niệm trên, có thể xem xét các đặc điểm của phân cấp QLNN về

GDPT như sau:

Phân cấp quản lý nhà nước về GDPT liên quan chặt chẽ với quản lý nhà

nước về GDPT. Về bản chất thì phân cấp quản lý nhà nước về GDPT là một

hình thức cải cách trong quản lý nhà nước về GDPT theo hướng dịch chuyển

quyền ra quyết định cho các cấp thấp hơn để phù hợp với điều kiện thực tế và

đảm bảo sử dụng các nguồn lực hiệu quả hơn, đạt được mục tiêu đề ra. Trong

đó, chủ yếu và chuyển giao một số thẩm quyền từ Chính phủ, các bộ (trong đó

phần lớn là nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Giáo dục và đào tạo), cho chính

quyền địa phương hay cơ quan hành chính nhà nước cấp dưới bằng các văn

bản luật, nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo... của các cơ quan,

đơn vị hành chính cấp dưới, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý

Phân cấp quản lý nhà nước về GDPT ở Việt Nam dựa trên nguyên tắc

kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ. Ở địa phương, Sở Giáo dục và

Đào tạo vừa chịu sự quản lý của chính quyền địa phương cấp tỉnh (Hội đồng

nhân dân và UBND tỉnh), vừa chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn của Bộ Giáo dục và

Đào tạo; Phòng Giáo dục và Đào tạo vừa chịu sự quản lý của chính quyền địa

38

phương cấp huyện vừa chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn của Sở Giáo dục và Đào

tạo. Phân cấp quản lý còn được thực hiện đối với những chức năng quản lý

GDPT khác nhau của ngành. Ví dụ, ngành giáo dục - đào tạo thực hiện quản

lý chuyên môn, nghiệp vụ, song tuỳ theo từng địa phương mà ngành có thể

chịu trách nhiệm các vấn đề khác như quản lý ngân sách, đội ngũ giáo viên,

nhân viên, tổ chức bộ máy, biên chế, xây dựng trường học. Đối với một số địa

phương, Sở Giáo đục và Đào tạo chỉ quản lý các hoạt động liên quan đến

chuyên môn, nghiệp vụ. Các vấn đề về ngân sách, tổ chức bộ máy, biên chế

chịu sự quản lý của các cơ quan quản lý ngành và lĩnh vực khác.

Các mối quan hệ trong phân cấp quản lý nhà nước về GDPT được chia

thành hai loại khác chính: 1) Mối quan hệ theo chiều dọc là mối quan hệ theo

hệ thống thứ bậc, cấp dưới phục tùng cấp trên, chịu sự kiểm tra, giám sát của

cấp trên. Mối quan hệ này bao gồm: Bộ Giáo dục và Đào tạo - Sở Giáo dục và

Đào tạo - Phòng Giáo dục và Đào tạo; 2) Mối quan hệ theo chiều ngang là

mối quan hệ phối hợp của các cơ quan trong cùng một cấp quản lý. Mối quan

hệ này bao gồm: Ở cấp tỉnh: Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Nội vụ, Sở Tài

chính, Sở KH-ĐT...; Ở cấp huyện: Phòng Giáo dục và Đào tạo, Phòng Nội vụ,

Phòng Tài chính…

Khi xét đến phân cấp quản lý nhà nước về GDPT người ta thường coi nó

nhự một yêu cầu để thực hiện chủ trương dân chủ hóa trong GDPT. Qua đó,

phân cấp quản lý nhà nước về GDPT tính đến phạm vi quản lý của các cấp

quản lý khác nhau của GDPT, bao hàm các nhiệm vụ quản lý, đối tượng quản

lý, điều kiện quản lý. Khi xét thấy phạm vi quản lý đó vượt quá khả năng của

một tổ chức thì thực hiện phân cấp, thường là sự phân cấp giữa cơ quan cấp

trên với cơ quan cấp dưới. Xu thế tổ chức và quản lý trong GDPT ngày càng

được coi trọng là phân cấp và phân quyền mạnh xuống cấp dưới, đặc biệt là

xuống cấp cơ sở, kết hợp với việc tăng cường trách nhiệm của cấp dưới.

39

Bên cạnh những đặc điểm trên khi nghiên cứu phân cấp QLNN về giáo

dục phổ thông cần phân định sự khác biệt giữa phân cấp QLNN về GDPT của

chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn. Sự khác biệt này xuất phát từ sự

khác biệt giữa đô thị và nông thôn dẫn đến tổ chức và hoạt động cũng như

phương thức quản lý của chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn khác

nhau và cuối cùng là tác động trực tiếp đến việc phân cấp cấp QLNN về GDPT

của chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn.

Theo Luật Quy hoạch đô thị năm 2009, đô thị “là khu vực tập trung dân

cư sinh sống có mật độ cao và chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực kinh tế phi

nông nghiệp, là trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế, văn hoá hoặc chuyên

ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của quốc gia hoặc một

vùng lãnh thổ, một địa phương, bao gồm nội thành, ngoại thành của thành

phố, nội thị, ngoại thị của thị xã, thị trấn’’.

Như vậy, đô thị với vị trí, vai trò là trung tâm chính trị, hành chính, kinh

tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ của một địa phương, vùng, miền,

của cả nước, là động lực cho sự phát triển đối với địa phương, vùng, miền đó

hoặc cả nước. Mặt khác đô thị là nơi tập trung dân cư, mật độ dân số cao.

Theo báo cáo kết quả Tổng điều tra dân số năm 2019, trong 10 năm qua, quá

trình đô thị hóa diễn ra nhanh và rộng khắp tại nhiều địa phương đã tác động

làm gia tăng dân số ở khu vực thành thị. Dân số khu vực thành thị ở Việt Nam

năm 2019 là 33.059.735 người, chiếm 34,4%; ở khu vực nông thôn là

63.149.249 người, chiếm 65,6%. Từ năm 2009 đến nay, tỉ trọng dân số khu

vực thành thị tăng 4,8 điểm phần trăm. Dân số khu vực thành thị ở Việt Nam

năm 2019 là 33.059.735 người, chiếm 34,4%; ở khu vực nông thôn là

63.149.249 người, chiếm 65,6%. Từ năm 2009 đến nay, tỉ trọng dân số khu

vực thành thị tăng 4,8 điểm phần tram [8].

Về kinh tế - xã hội, ở khu vực đô thị chủ yếu là phi nông nghiệp, đa

ngành, đa lĩnh vực, có tốc độ phát triển kinh tế cao, cơ sở hạ tầng phát triển;

40

có nhiều cơ hội giao lưu, trao đổi học tập tiếp cận các nền giáo dục hiện

đại.Chính vì thế trình độ dân trí, trình độ học vấn của người dân cũng cao hơn

so với khu vực nông thôn. Riêng đối với GDPT,cũng theo báo cáo kết quả

Tổng điều tra dân số năm 2019, tỉ lệ đi học chung của bậc tiểu học là 101,0%,

bậc THCS là 92,8%, bậc THPT là 72,3%. Ở cấp tiểu học, không có sự khác

biệt giữa thành thị và nông thôn về tỉ lệ đi học chung (100,9% so với

101,0%). Cấp học càng cao thì khoảng cách chênh lệch về tỉ lệ đi học chung

giữa thành thị và nông thôn càng lớn, cụ thể: ở cấp THCS, tỉ lệ đi học chung

của khu vực thành thị cao hơn tỉ lệ đi học chung của khu vực nông thôn là 3,4

điểm phần trăm; mức chênh lệch này ở cấp THPT là 13,0 điểm phần tram [8].

Điều đó đồng nghĩa với việc đô thị cũng là nơi được Nhà nước, xã hội

đầu tư mạnh cho sự phát triển giáo dục và cũng thu hút được sự quan tâm lớn

về giáo dục trong đó có GDPT. Trong khi ở địa bàn nông thôn chủ yếu là

nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, kinh tế công nghiệp, thương mại, dịch

vụ và thông tin chưa phát triển mạnh, ngân sách dành cho giáo dục hạn chế

hơn các lĩnh vực khác.

Với những điểm khác biệt trên dẫn đến khi tiến hành phân cấp QLNN

về GDPT không thể “cào bằng” giữa chính quyền đô thị và chính quyền nông

thôn. Bởi lẽ phân cấp về bản chất là trao quyền nhưng khi và chỉ khi địa

phương có đủ khả năng, điều kiện để tiếp nhận quyền. Bởi vậy, với chính

quyền đô thị nguồn nhân lực, vật lực dành cho GDPT tốt hơn chính quyền

nông thôn vì vậy vừa là yêu cầu vừa là đòi hỏi việc phân cấp trong QLNN về

GDPT phải được đẩy mạnh hơn. Mặt khác, theo Luật Tổ chức chính quyền

địa phương, cơ cấu tổ chức của chính quyền đô thị có điểm khác với chính

quyền nông thôn. Chính quyền địa phương có thể có đầy đủ Hội đồng nhân

dân và Uỷ ban nhân dân, có thể không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện ở

chính quyền nông thôn hoặc không tổ chức Hội đồng nhân dân phường ở

chính quyền đô thị…Khi tổ chức bộ máy có sự khác biệt đương nhiên quy

định phân cấp QLNN về GDPT phải được điều chỉnh cho phù hợp.

41

2.2.3. Tác động của phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông

Xem xét tác động của phân cấp quản lý nhà nước về GDPT xuất phát từ

tác động của phân cấp quản lý nhà nước nói chung đối với các lĩnh vực của

đời sống xã hội. Mặt khác, để có sự đánh giá toàn diện, cần xem xét tác động

cả hai chiều hướng: tích cực và tiêu cực.

Như vậy, có thể xem xét phân cấp quản lý nhà nước có những tác động

tích cực như sau:

Một là, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT tạo ra cơ hội để có một

chính phủ có trách nhiệm hơn, công khai và minh bạch hơn khi người dân

tham gia vào quá trình ra quyết định, có thể dễ dàng giám sát và đánh giá việc

chính phủ tuân thủ các quyết định của mình. Phân cấp quản lý nhà nước về

GDPT làm giảm bớt các thủ tục hành chính quan liêu,phức tạp và làm tăng

tinh thần, trách nhiệm của cán bộ, công chức trước những điều kiện và nhu

cầu của địa phương. Phân cấp quản lý nhà nước về GDPT làm giảm bớt khối

lượng công việc sự vụ của những nhà lãnh đạo cấp cao ở trung ương để tập

trung nhiều hơn vào những công việc quan trọng và ban hành các cơ chế,

chính sách.

Hai là, phân cấp quản lý tạo điều kiện cho chính quyền địa phương các

cấp phát huy tính năng động, sáng tạo, sử dụng hợp lý các nguồn lực và lợi

thế của địa phương, làm giảm bớt các thủ tục hành chính quan liêuphức tạp và

giúp giảm bớt căng thẳng về tài chính đối với chính quyền trung ương khi

chính quyền địa phương có thêm quyền nhiều hơn trong việc huy động các

khoản ngân quỹ bằng cách thu phí và lệ phí đối với những dịch vụ mà chính

quyền địa phương cung cấp.

Ba là, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT giúp việc cung ứng các dịch

vụ GDPT có hiệu quả hơn bởi các cấp chính quyền địa phương hiểu rõ hơn về

các điều kiện, đặc điểm và nhu cầu của người dân địa phương so với cấp

trung ương. Các nhà cung ứng dịch vụ giáo dục ngày càng đáp ứng tốt hơn

nhu cầu của người dân và của xã hội.

42

Bốn là, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT tạo điều kiện cho người

dân có tiếng nói nhiều hơn về dịch vụ GDPT do đó nâng cao phúc lợi cho họ.

Khi các quyết định được ban hành càng gần với cấp thực hiện thì tiếng nói

của người dân càng lớn hơn, nhất là khi các quyết định được đưa ra từ chính

người thực hiện là các trường phổ thông. Khi người dân tham gia vào quá

trình ra quyết định cũng có nghĩa là họ sẽ thực hiện việc giám sát và đánh giá

việc thực hiện các quyết định chính xác và hiểu hơn.

Năm là, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT giúp cấp dưới phân bổ

ngân sách phù hợp với các yếu tố đầu vào. Việc giao trách nhiệm cho cấp

dưới làm tăng trách nhiệm của của cấp thực thi trong các hoạt động của mình.

Lợi ích của người hưởng lợi lớn hơn nếu họ cùng đóng góp các nguồn lực tài

chính, công sức cho nhà trường. Từ đó, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT

làm tăng cường nguồn tài chính do phân cấp quản lý sẽ tạo ra các nguồn thu

cho hệ thống GDPT thông qua việc tận dụng nguồn thu từ phí, lệ phí, loại bỏ

được các thủ tục hành chính không cần thiết và giảm chi phí điều hành. Mục

tiêu của phân cấp quản lý nhà nước là chuyển gánh nặng tài chính cho GDPT

từ ngân sách nhà nước sang ngân sách của địa phương, các tổ chức cộng đồng

hoặc cha mẹ học sinh. Điều này rất phù hợp với những quốc gia có nguồn tài

chính chưa nhiều như Việt Nam.

Sáu là, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT tăng cường tinh thần trách

nhiệm của các cấp, tăng tính chủ động, sáng tạo, vì vậy cải thiện chất lượng

GDPT. Thông qua việc gắn kết quá trình ra các quyết định quản lý phù hợp

với điều kiện, nhu cầu của mỗi nhà trường, có tính đến các đặc điểm về văn

hóa địa phương và môi trường học tập sẽ nâng cao chất lượng giáo dục.

Nói cách khác phân cấp quản lý nhà nước về GDPT làm rõ nhiệm vụ,

quyền hạn của mỗi cấp được phân cấp, gia tăng sự cạnh tranh và thúc đẩy

việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn.

Bên cạnh những tác động tích cực, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT

cũng tiềm ẩn những tiêu cực như sau:

43

Thứ nhất, phân cấp quản lý đối với GDPT có thể gây khó khăn trong

cung ứng dịch vụ GDPT vì cấp trung ương và cấp chính quyền địa phương

không có chung một mục đích. Chính phủ có thể muốn thông qua giáo dục để

củng cố sự thống nhất trong chính sách giáo dục của quốc gia, trong khi đó

các địa phương lại chỉ chú trọng phát triển giáo dục ở địa phương mình, muốn

bảo vệ phong tục, tập quán của địa phương. Đây là vấn đề khó đặt ra cho phân

cấp quản lý nhà nước.

Thứ hai, phân cấp quản lý đối với GDPT làm mất đi tính hiệu quả và làm

giảm hiệu quả kiểm soát đối với nguồn lực tài chính của chính quyền trung

ương. Năng lực hành chính và năng lực kỹ thuật yếu ở cấp địa phương có thể

dẫn đến việc cung cấp dịch vụ kém chất lượng.

Thứ ba, trong phân cấp quản lý, trách nhiệm hành chính được chuyển cho

cấp địa phương mà không kèm theo nguồn tài chính dễ làm cho chính quyền

địa phương khó cung ứng đầy đủ dịch vụ GDPT cho người dân. Phân cấp quản

lý nhà nước không khoa học đôi khi còn khiến cho sự phối hợp các chính sách

quốc gia trở nên khó khăn, phức tạp và có thể dẫn đến tình trạng cán bộ địa

phương lợi dụng các chức năng, nhiệm vụ được phân cấp để vi phạm.

Thứ tư, phân cấp quản lý đối với GDPT ảnh hưởng tiêu cực đến việc

đảm bảo sự công bằng trong giáo dục, gia tăng sự chênh lệch về kết kết quả

học tập ở đô thị và nông thôn. Phân cấp quản lý nhà nước về GDPT có thể

làm gia tăng khoảng cách về học vấn đối với học sinh có điều kiện với những

học sinh có hoàn cảnh khó khăn. Những học sinh có điều kiện được học trong

các trường có điều kiện tốt hơn, giáo viên có chất lượng hơn.

Thứ năm, trong quá trình thực hiện phân cấp quản lý đối với GDPT, sự

không tin tưởng lẫn nhau giữa các trường công và các trường tư có thể làm

xấu đi sự hợp tác ở cấp địa phương. Những người lãnh đạo, quản lý cần đánh

giá đúng ưu điểm và hạn chế của các loại hình nhà trường để xây dựng các cơ

chế, chính sách phù hợp.

44

Những vấn đề khác có thể sảy ra khi phân cấp quan lý nhà nước đối với

GDPT là: 1) các nhóm lợi ích tranh giành quyền hạn và quyền kiểm soát các

nguồn lực đã được phân cấp; 2) các cơ quan chức năng ở địa phương được

trao trách nhiệm nhưng không được trao quyền hạn và quyền kiểm soát đầy

đủ; 3) các cấp chính quyền địa phương không đủ năng lực đảm đương các

chức trách, nhiệm vụ mới; 4) phân định các chức năng, nhiệm vụ vượt quá

khẳ năng của chính quyền địa phương; 5) hướng dẫn luật pháp không rõ ràng;

6) thiếu sự tin tưởng của người dân địa phương do hoài nghi với những sáng

kiến mới; 7) không bảo đảm ngân sách cho những dự án thử nghiệm.

2.2.4. Phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông ở Việt Nam qua

các thời kỳ

Như nhiều nước đang phát triển, giáo dục phổ thông ở nước ta khởi đầu

với mô hình quản lý từ trên xuống, theo kiểu tập trung. Điều này thể hiện rõ

trong GDPT giai đoạn sau cải cách giáo dục lần thứ nhất đến cuối thập kỷ 60

và giai đoạn sau giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.

- Cải cách giáo dục lần thứ nhất (1950): Bộ Giáo dục quy định chặt chẽ về

đường lối giáo dục, nội dung, chương trình, quyền bỏ và bổ sung các môn học,

thời gian biểu, loại hình trường cho từng vùng, từng khu vực. Vào những năm

này, Bộ Giáo dục quyết định xóa bỏ trường tư thục, quốc lập hóa một số trường

tư, chuyển toàn bộ học sinh vào trường công. Từ năm 1954, ở vùng tự do cũ chỉ

có hệ thống trường phổ thông 9 năm duy nhất do Nhà nước quản lý toàn diện.

- Cải cách giáo dục sau giải phóng miền Nam: Khi đó Bộ Giáo dục ra

quyết định xây dựng lại cấu trúc hệ thống giáo dục quốc dân trên phạm vi toàn

quốc: Hệ thống giáo dục 12 năm, đổi mới nội dung giáo dục, biên soạn và xuất

bản sách giáo khoa chung cho toàn quốc. Khoảng 2.500 trường tư thục của chế

độ cũ ở miền Nam được quốc lập hoá. Nhà nước chủ trương đưa dần toàn bộ

trường tư vào diện quản lý của Nhà nước. Các giáo viên trường tư thục được

xem xét, tuyển dụng, học sinh phổ thông được miễn hoàn toàn học phí.

45

Từ năm học 1960 - 1961, ngành giáo dục bắt đầu vận động nhân dân

đóng học phí từ cấp I đến cấp III. Số tiền thu học phí được dùng để trả lương

cho giáo viên. Ngoài ra cộng đồng còn có đóng góp to lớn trong việc xây

dựng, tu bổ các trường học, mua sắm thiết bị dạy học cho nhà trường. Ở giai

đoạn này, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT được triển khai khá mạnh

xuống tới cấp huyện.

Những biểu hiện rõ rệt nhất của phân cấp quản lý nhà nước về GDPT ở

Việt nam là trong giai đoạn đổi mới kinh tế từ năm 1990. Điểm nổi bật trong

phân cấp quản lý nhà nước về GDPT trong thời kỳ này là phân cấp quản lý

theo tuyến và theo chức năng trong hệ thống GDPT. Phân cấp quản lý nhà

nước về GDPT được thực hiện theo mô hìnhtrực tuyến - chức năngvà dựa trên

nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ. Các tuyến quản lý

nhà nước về GDPT bao gồm: Chính phủ - UBND tỉnh/thành phố - UBND

huyện/quận là quan hệ trực tuyến; Bộ Giáo dục và Đào tạo - Sở GD&ĐT -

Phòng GD&ĐT và các bộ, ngành liên quan khác của Chính phủ, UBND các

tỉnh, thành phố và UBND các quận, huyện.

Luật Giáo dục năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) là cơ sở pháp lý

để quy định phân cấp quản lý nhà nước về GDPT ở nước ta hiện nay.

Nghị quyết số 21/2016/NQ-CP của Chính phủ ngày 21/3/2016 về phân

cấp quản lý nhà nước giữa Chỉnh phủ và UBND tỉnh, thành phố trực thuộc

Trung ương xác định mục tiêu: Tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà

nước về giáo dục giữa Chính phủ và UBND cấp tỉnh, giữa chính quyền địa

phương các cấp nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo, quyền tự chủ, tự

chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương trên cơ sở phân định rõ, cụ thể

nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mỗi cấp trong bộ máy chính quyền nhà

nước, bảo đảm sự quản lý tập trung, thống nhất và thông suốt của Chính phủ,

tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản

lý nhà nước phục vụ tốt hơn nhu cầu và lợi ích của nhân dân, thúc đẩy phát

46

triển kinh tế - xã hội ở từng địa phương trong điều kiện chuyển sang nền kinh

tế thị trường định hướng XHCN [9].Nghị định số 127/2018/NĐ-CP ngày

21/9/2018 của Chính phủ quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục

xác định cụ thể trách nhiệm, quyền hạn quản lý nhà nước về giáo dục của cơ

quan chuyên môn các cấp (Bộ, Sở, Phòng ) và chính quyền địa phương các

cấp (UBND cấp tỉnh, huyện, xã) dựa trên các yêu cầu: 1) Bảo đảm tính thống

nhất, thông suốt và nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong quản lý nhà nước về

giáo dục.2). Bảo đảm tương ứng giữa nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm với

nguồn lực tài chính, nhân sự, điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục và các

điều kiện cần thiết khác để thực hiện nhiệm vụ được giao. 3). Xác định cụ thể

nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm quản lý nhà nước của các bộ, Ủy ban nhân

dân các cấp và các cơ quan có liên quan (Điều 3).

2.3. Nội dung, điều kiện và các yếu tố ảnh hưởng đến phân cấp quản lý nhà

nước về giáo dục phổ thông

2.3.1. Nội dung phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông

Khi nghiên cứu nội dung phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ

thông có thể xem xét ở nhiều khía cạnh với những nội dung khác nhau. Tuy

nhiên trong phạm vi nghiên cứu của luận án, tập trung làm rõ phân cấp quản

lý nhà nước về GDPT ở 3 lĩnh vực chủ chốt: (i)bộ máy, nhân sự; (ii) cơ sở vật

chất và tài chính; (iii)lập kế hoạch phát triển giáo dục phổ thông, xây dựng

nội dung, chương trình và đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông

Một là, phân cấp về tổ chức bộ máy, nhân sự

Về tổ chức bộ máy, phân cấp QLNN về GDPT cần phân định thẩm

quyền của từng cấp trong các nội dung như: ra quyết định thành lập hoặc cho

phép thành lập, thu hồi quyết định thành lập hoặc quyết định cho phép thành

lập, sáp nhập, chia, tách, giải thể, đổi tên, chuyển đổi loại hình trường

Về quản lý nhân sự, phân cấp QLNN về GDPT cần phân định thẩm

quyền của từng cấp trong các nội dung như: xác định cấp có thẩm quyền quy

47

định tiêu chuẩn chức danh, chế độ làm việc của nhà giáo và cán bộ quản lý

giáo dục; danh mục khung vị trí việc làm và định mức số lượng người làm

việc trong các cơ sở giáo dục, sử dụng, đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng và thực

hiện chính sách đối với đội ngũ công chức, viên chức và người lao động tại các

cơ sở giáo dục…

Hai là, phân cấp về chuyên môn

Chuyên môn được hiểu là nhưng công việc liên quan đến lập kế hoạch

phát triển giáo dục phổ thông, xây dựng nội dung, chương trình và đánh giá

chất lượng giáo dục phổ thông. Ví dụ như việc quy định việc tổ chức biên

soạn, thẩm định, phê duyệt được phép sử dụng và hướng dẫn lựa chọn tài liệu

học tập, sách giáo khoa, tài liệu giảng dạy trong các cơ sở giáo dục phổ thông;

ban hành quy chế thi cử thuộc thẩm quyền của cấp trung ương hay địa

phương.Có hai xu hướng chính: một là thống nhất về chuyên môn trên phạm

vi toàn quốc gia, hai là phân quyền mạnh về chuyên môn, có nghĩa là địa

phương sẽ xây dựng chương trình, nội dung giáo dục theo điều kiện kinh tế -

xã hội của địa phương.

Ba là, phân cấp trong chức năng quản lý cơ sở vật chất, tài chính

Quản lý cơ sở vật chất là một trong những nội dung quan trọng phải phân

cấp rõ ràng giữa Trung ương và địa phương cũng như giữa các cấp địa phương

với nhau. Bởi lẽ, để chính quyền địa phương thực hiện được các nhiệm vụ, quyền

hạn trong QLNN về GDPT, điều kiện tiên quyết là phải có tài chính. Vì thế nắm

bắt được công cụ tài chính sẽ chi phối hay kiểm soát được việc thực hiện các

nhiệm vu, quyền hạn khác.

Ngân sách cho giáo dục thông thường bao gồm 2 thành tố chính: chi thường

xuyên và chi đầu tư cơ bản. Chi thường xuyên bao gồm chi lương và chi ngoài

lương. Chi ngoài lương bao gồm các khoản chi hành chính, mua tài liệu phục

vụ giảng dạy và học tập, chi cho các dịch vụ và bảo dưỡng. Chi đầu tư cơ bản

bao gồm chi phí xây dựng trường mới và nâng cấp trường hiện có.

48

Xem xét phân cấp trong việc quản lý cơ sở vật chất tài chinh về giáo dục

ở bình diện rộng cần phải xác định xem chính quyền trung ương quản lý ngân

sách những cấp học nào? Địa phương quản lý ngân sách cấp học nào? Ngoài

ra, chi tiết hơn có thể xem xét như mức độ, tính chất của dự án. Ở Việt Nam,

chính quyền trung ương quản lý ngân sách chi cho giáo dục đại học, một số

giáo dục nghề và cao đẳng. Khoảng hai phần ba ngân sách trung ương nằm

dưới quyền điều hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo, phần còn lại do các Bộ,

ngành có trường quản lý. Ngân sách trung ương cũng bao gồm kinh phí cho

các chương trình mục tiêu. Tuy nhiên, kinh phí chi cho các chương trình mục

tiêu được cấp thông qua ngân sách trung ương nhưng lại do chính quyền địa

phương thay mặt trung ương thực hiện.

Chính quyền địa phương quản lý ngân sách chi cho các bậc học mầm non,

phổ thông, dạy nghề và cao đẳng. Trong hệ thống chính quyền địa phương thì

chính quyền cấp tỉnh quản lý ngân sách chi cho các trường THPT, THCN, cao

đẳng và dạy nghề. Chính quyền cấp huyện quản lý ngân sách chi cho các trường

THCS, tiểu học và mầm non.

Về mức độ phân cấp trong từng nội dung trên cũng hoàn toàn phải phụ

thuộc vào mô hình tổ chức chính quyền ở mỗi quốc gia. Ví dụ với các nước

theo hệ thống pháp lý Ăng-glô-xắc xông như Anh, Mỹ, Canada, Úc, Niudilân

và các nước trước đây là thuộc địa của Anh thì tính độc lập của hệ thống

chính quyền địa phương, mối quan hệ lỏng lẻo và sự phân cách giữa các cấp

chính quyền là nét đặc trưng cơ bản nhất của mô hình này. Trung ương không

phải là cơ quan quản lý cấp trên của địa phương và không điều khiển địa

phương. Các cấp chính quyền địa phương cũng độc lập với nhau và không có

sự trực thuộc lẫn nhau. Trong phạm vi quyền hạn của mình các chính quyền

đều có quyền tổ chức hoạt động chỉ phụ thuộc vào pháp luật mà không phụ

thuộc vào bất cứ một sự chỉ đạo nào của cấp trên. Trong trường hợp có mâu

thuẫn, tranh chấp hoặc có hiện tượng vi phạm pháp luật sẽ bị sự phân giải của

tòa án.Vì vậy về cơ bản các nội dung phân cấp QLNN về GDPT sẽ rất lớn.

49

Còn với các quốc gia theo hệ thống pháp lý Châu Âu lục địa điển hình

như Pháp thì quyền lực về pháp lý vẫn là của chính phủ trung ương, tuy nhiên

đã có sự chuyển giao quyền ra các quyết định cụ thể, những chức năng tài

chính và quản lý cụ thể bằng các phương tiện hành chính cho các cấp khác

nhau. Điểm cốt lõi của tản quyền là các bộ vẫn giữ lại quyền lực đối với những

nhiệm vụ then chốt tại cấp Trung ương và chuyển giao các vai trò thực hiện

liên quan đến các nhiệm vụ đó xuống các cán bộ nằm tại các cơ quan khu vực

của bộ (ví dụ như ở Pháp là các tỉnh trưởng). Các cá nhân này thường đóng

một vài trò chính trị và đại diện cho thẩm quyền nhà nước. Họ chịu trách

nhiệm về luật pháp và trật tự. Trong một vài nước, họ còn có trách nhiệm thúc

đẩy sự phối hợp các hoạt động của chính quyền và theo dõi các cơ quan nhà

nước ở địa phương của họ. Chức năng của hệ thứ bậc này là có một viên chức

nhà nước trong mỗi địa phương đại diện cho nhà nước, do đó thúc đẩy sự ổn

định chính trị trong những xã hội không yên ổn và bị chia nhỏ. Mức độ của sự

điều phối từ Trung ương, hiệu quả và hiệu suất phần lớn phụ thuộc vào ai nắm

quyền hành kỹ thuật đối với các cán bộ khu vực của các bộ, ngành theo ngành

dọc. Với mô hình này, việc phân cấp QLNN về GDPT, cũng được thiết lập từ

trung ương đến địa phương, trong đó vai trò của người đại diện của trung

ương ở địa phương có giá trị nhất định.

Ở Việt Nam, tổ chức theo hình thức nhà nước đơn nhất, tổ chức hệ

thống giáo dục quốc dân là trách nhiệm của chính quyền trung ương, theo đó

Nhà nước quy định cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân thống nhất trên phạm

vi toàn quốc, bao gồm các cấp bậc học, số năm học của từng cấp, thời gian

biểu dạy học trong năm, thi cử và hệ thống văn bằng của các cấp bậc học, quy

định về cấu trúc tổ chức của ngành đến các cơ sở giáo dục - đào tạo... Bên

cạnh đó vẫn phân quyền QLNN về GDPT cho chính quyền địa phương theo

những nội dung và mức độ cụ thể.

50

2.3.2. Điều kiện phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông

Trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập quốc tế

các cơ quan chức năng cần phải quan niệm đầy đủ hơn về vị trí, vai trò của

nền GDPT. Có thể nói, một nền GDPT phát triển không chỉ bao gồm các yếu

tố vật chất như lớp học, số lượng giáo viên, sách giáo khoa mà quan trọng hơn

là tạo cơ chế để các trường phổ thông không ngừng nâng cao chất lượng dạy

và học. Về bản chất, có ba yếu tố tạo động lực cho việc dạy và học hiệu quả:

1) Có nhiều cơ hội lựa chọn và cạnh tranh; 2) nhà trường tự chủ; 3) nhà

trường tự chịu trách nhiệm [91].

Như vậy, yêu cầu đặt ra ở đây là phải đổi mới cơ chế phân cấp quản lý

nhà nước về GDPT sao chochất lượng dạy và học được nâng lên cùng

vớinhững chi phí và lợi ích hợp lý.

Phân cấp quản lý nhà nước nói chung phải có các điều kiện sau đây:

- Đối với cơ quan nhà nước cấp dưới phải hội tụ 2 điều kiện:

Thứ nhất, đủ năng lực thực thi các chức năng, nhiệm vụ mà cấp trên giao

cho. Đây là điều kiện để đảm bảo cân đối giữa nhiệm vụ được giao với năng

lực thực hiện nhiệm vụ đó. Cơ quan nhà nước cấp dưới không có được điều

kiện này thì không thể chuyển giao chức năng, nhiệm vụ cho cấp đó.

Thứ hai, chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức của cấp dưới. Đội ngũ

cán bộ, công chức cấp dưới phải tuyệt đối tin tưởng, trung thành với quốc gia

mà đại diện là các cơ quan nhà nước trung ương; phải luôn luôn đặt lợi ích, chủ

quyền quốc gia lên trên hết. Trên thực tế, điều kiện này khó xác định, định

lượng, mà phải được trải nghiệm qua thời gian, thực tiễn mới được sáng tỏ.

- Đối với cơ quan nhà nước cấp trên, phải hội đủ 3 điều kiện:

Thứ nhất, phải có được các hệ thống kiểm soát hữu hiệu việc thực hiện

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan hành chính

nhà nước; kiểm soát việc thực hiện những thẩm quyền đã trao cho cấp dưới.

Các hệ thống kiểm soát phải gắn với các cơ quan nhà nước giao quyền. Ngoài

51

ra cần có các hệ thống kiểm soát độc lập, kiểm soát của các cơ quan tư pháp,

tòa án, viện kiểm sát.

Thứ hai, năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ, công chức tham gia

thực hiện hoạt động kiểm soát trong các hệ thống kiểm soát việc thực hiện

thẩm quyền được giao của các cơ quan nhà nước. Đội ngũ cán bộ, công chức

kiểm soát phải có đủ trình độ, năng lực thực hiện nhiệm vụ được giao; phải

tuyệt đối trung thành với nhà nước, đặt lợi ích của nhà nước, của quốc gia lên

trên lợi ích cá nhân, lợi ích cục bộ.

Thứ ba, cần có hệ thống các chế tài cụ thể, nghiêm minh để xử lý các vi

phạm của các cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước, nhất là các

chế tài xử lý người đứng đầu các cơ quan nhà nước.

Những điều kiện nêu trên đối với các cơ quan nhà nước cấp trên liên

quan đến vấn đề kiểm tra, kiểm soát và xử lý kết quả kiểm tra, kiểm soát.

2.3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến phân cấp quản lý nhà nướcvề giáo dục

phổ thông

Lý thuyết và kinh nghiệm của các quốc gia thực hiện phân cấp quản lý

nhà nước về GDPT thành công khẳng định là các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng

phân cấp quản lý nhà nước về GDPT bao gồm: Tài chính công của chính

phủ; bối cảnh chính trị;cấu trúc hành chính và năng lực của chính phủ; bối

cảnh lịch sử và văn hoá.

Yếu tố thứ nhất: Tài chính công của chính phủ

Một yêu cầu tối thiểu cho phân cấp quản lý nhà nước về GDPT là việc

chuyển các nguồn lực và đặc biệt là quyền hạn phân phối các nguồn lực từ

cấp trung ương xuống cấp dưới và nhà trường. Thực tế cho thấy, để việc dịch

chuyển này thành công và có hiệu quả thì chính quyền cấp dưới phải có quyền

ra quyết định độc lập và phải có nguồn thu ngân sách riêng. Canada, Brazil đã

rất thành công trong phân cấp quản lý do có nguồn thu nhâp từ nguồn thu thuế

của chính phủ trung ương để lại cho các địa phương, học phí của người sử

52

dụng dịch vụ giáo dục và nguồn tài chính do các tổ chức, cá nhân đóng góp.

Ngược lại, Peru, Chile lại gặp rất nhiều khó khăn trong các nỗ lực phân cấp

quản lý đối với GDPT do không có các nguồn thu của địa phương và không

có ngân sách riêng [94, tr.172].

Yêu tố thứ hai: Bối cảnh chính trị

Tư tưởng chính trị và quan điểm chính sách của các nhà lãnh đạo và các

nhóm quan tâm hay chịu ảnh hưởng của giáo dục luôn đóng vai trò quan trọng

cho việc thông qua cũng như thực hiện chính sách phân cấp quản lý. Hầu hết

các quốc gia chưa thành công trong các nỗ lực phân cấp quản lý nhà nước về

GDPT chủ yếu là do còn thiếu sự ủng hộ về chính trị của người ban hành

chính sách, chứ không đơn thuần chỉ là vấn đề kỹ thuật. Phân cấp thường đưa

đến phân phối lại quyền lực chính trị giữa các nhóm chính trị trong xã hội, vì

vậy cần lôi cuốn các nhóm chính trị này tham dự ngay từ đầu vào hoạch định

chính sách phân cấp quản lý để họ có tiếng nói, tìm kiếm sự cân bằng quyền

lực hợp lý và sau đó cam kết thực hiện chính sách phân cấp quản lý. Khi

hoạch định các cơ chế, chính sách về phân cấp quản lý nhà nước về GDPT

cần quan tâm thu hút sự tham dự của các nhóm cán bộ lãnh đạo ở các Bộ, các

cấp chính quyền địa phương và những nhà quản lý GDPT.

Thực tế, giáo viên luôn đóng vai trò quan trọng trong thực hiện bất kỳ kế

hoạch phận cấp nào, nên nếu không lôi kéo được họ tham dự vào quá trình

hình thành chính sách thì có thể dẫn tới thất bại, như trường hợp ở Peru là một

ví dụ. Phân cấp thường bị hiểu lầm là làm tăng quyền củà viên chức địa

phương và giảm quyền của viên chức bộ, tuy nhiên, thực tế không phải như

vậy, nó phụ thuộc vào cách thiết kế thể chế của từng quốc gia, ví dụ: Tại

Chile, đi đối vói cải cách phân cấp (dẫn tới tăng quyền ra quyết định về nguồn

lực cho địa phương) là cơ chế chính phủ trungương bổ nhiệmtrực tiếp lãnh

đạochính quyềnđịa phương [104, tr.311-314].

Yếu tố thứ 3: Các cấu trúc hành chính và năng lực của chính phủ

Cấu trúc hành chính và năng lực của chính phủ đều có ảnh hưởng quan

trọng đến phân cấp quản lý nhà nước về GDPT. Cấu trúc hành chính liên

53

quan đến các quy định về thể chế và luật pháp, theo đó quy định cấu trúc bộ

máy quản lý đối với GDPT, quy trình bổ nhiệm hay bầu các nhà lãnh đạo

GDPT. Năng lực hành chính liên quan đến khả năng ban hành và thực hiện

các quyết định quản lý đối với GDPT. Tại hầu hết các quốc gia, hiến pháp

quy định cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của chính phủ. Nếu hiến pháp

trao thẩm quyền nhiều cho chính phủ trung ương thì cải cách phân cấp quản

lý nhà nước về GDPT rất khó thực hiện, như trường hợp của Chile hay Peru

phải trưng cầu ý dân để sửa đổi hiến pháp [104,tr. 221].

Trong thực tế, muốn thực hiện thành công phân cấp quản lý nhà nước về

GDPT đòi hỏi các đạo luật và văn bản quy phạm pháp luật phải xác định rõ

rằng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tính chịu trách nhiệm, cũng như mối

quan hệ làm việc của từng cấp chính quyền trong quản lý nhà nước về GDPT.

Nếu các quy định về chức năng, nhiệm vụ, các hoạt động phối hợp trong phân

cấp không cụ thể, rõ ràng thì sẽ rất có ít cơ hội để thay đổi. Ở Peru, ban giám

đốc địa phương và vùng được thiết lập bởi kế hoạch phân cấp mơ hồ nên không

có cơ hội thực hiện các nhiệm vụ được phân cấp, mà chủ yếu là giải quyết các

vấn đề sự vụ để đáp ứng yêu cầu của cấp trên [104, tr.242].

Yếu tố thứ tư: Bối cảnh lịch sử và văn hoá

Lịch sử và văn hoá liên quan đến truyền thống văn hóa của cộng đồng và

các khuynh hướng của người dân hướng tới uy quyền. Theo các nhà nghiên

cứu thì phân cấp quản lý đã tương đối thành công ở Nigeria, Zimbabue một

phần do các nước này đã có truyền thống phân cấp và cạnh tranh; chủ yếu là

các cộng đồng nhỏ có quan hệ họ hàng nên dễ dàng kiểm soát việc cung cấp

tài sản chung. Thành công ở các nước này có thể tương phản với thất bại

trong phân cấp quản lý nhà nước về GDPT ở Peru do lịch sử và văn hoá của

các nước này là khác nhau và các quyết định có xu hướng dựa vào chính phủ

trung ương [94, tr.124].

54

Bảng 2.1. Các yếu tố ảnh hưởng khi thực hiện phân cấp quản lý

nhà nước về GDPT

(Các yếu tố được sắp xếp theo mức độ từ khó khăn nhất đến ít khó khăn

nhất khi thực hiện phân cấp quản lý đối với GDPT)

Cấu trúc hành Bối cảnh lịch Tài chính công Bối cảnh chính trị chính và năng lực sử và văn hóa của chính phủ

Chính phủ trung Hiến pháp quy định Các cộng Khó khăn nhất:

Chính phủ trung ương ban hành chính chính phủ trung đồng địa

ương quy định sách phân cấp mới ương chịu trách phương có

trực tiếp các đầu chỉ phù hợp với các nhiệm về giáo dục; truyền thống

vào GDPT cho các đảng phái và các thiếu năng lực quản phụ thuộc vào

trường phổ thông chính trị gia của lý tại cấp địa phương chính phủ

ở địa phương mình, mà chưa tham trung ương

khảo các nhóm chịu

ảnh hưởng

Cung cấp tài chính Chính phủ trung Các nhiệm vụ quản

bằng tiền mặt có ương chủ trương lý hành chính của

điều kiện theo các phân cấp có tham chính phủ trung

dự án hay các khảo các nhóm chịu ương đã và đang phi

nhiệm vụ cụ thể ảnh hưởng và được tập trung hóa cho

trong GDPT sự ủng hộ chính trị cấp vùng và địa

rộng rãi phương

Cung cấp tài chính Một số quyền ra

theo kiểu trọn gói quyết định giáo dục

không có điều được trao cho chính

kiện kèm theo quyền địa phương và

(hoặc là phần trăm các cơ quan này

để lại từ nguồn được phép tạo ra các

55

thuế của chính phủ nguồn thu từ giáo

trung ương) dục

Áp lực phân cấp bắt Chính quyền địa Các cộng Ít khó khăn nhất:

Chính quyền địa nguồn từ cấp địa phương được trao đồng địa

phương có các phương và các nhóm quyền ra quyết định phương có

khoản thu lớn từ chịu ảnh hưởng khác mạnh, đem lại kết truyền thống

thuế và đóng góp nhau, bao gồm cha quả trong việc phát tự lực và tinh

tài chính và hiện mẹ học sinh, giáo triển năng lực quản thần cạnh

vật tự nguyện viên và các quan lý của địa phương tranh giữa các

chức chính quyền địa công đồng

phương

Nguồn: Winkler 1991

2.4. Kinh nghiệm của một số quốc gia trong phân cấp quản lý nhà nước về

giáo dục phổ thông và giá trị tham khảo cho Việt Nam

2.4.1. Kinh nghiệm một số quốc gia trong phân cấp quản lý nhà nước về

giáo dục phổ thông

Ở mỗi quốc gia khác nhau có thể có sự khác biệt về cấu trúc hệ thống

quản lý nhà nước về GDPT, nhưng nhìn chung thường bao gồm từ hai đến

năm cấp quản lý (trung ương, vùng, tỉnh/thành phố, huyện/quận, xã/phường)

tham gia điều hành các hoạt động giáo dục.

Chức năng quản lý nhà nước về GDPT là một thể thống nhất những

họạt động tất yếu của chủ thể quản lý nảy sinh từ sự phân công, chuyên môn

hoá trong hoạt động quản lý nhằm thực hiện mục tiêu. Mỗi chức năng có các

thành phần chức năng hay nhiệm vụ cụ thể, là quá trình liên tục của các bước

công việc tất yếu phải thực hiện.

Trong thực tế, các chức năng GDPT có thể được phân loại theo nhiều

cách tùy thuộc vào cách nhóm các thành phần của chức năng với nhau và tuỳ

theo bối cảnh và truyền thống của các quốc gia. Tuy nhiên, có thể thấy các

56

thành phần cơ bản của chức năng quản lý nhà nước về GDPT tương đối phổ

biến là: 1) Tổ chức, bộ máy nhân sự; 2) chuyên môn (chương trình, phương

pháp giảng dạy và đánh giá chất lượng); 3) thi cử và giám sát; cơ sở vật chất

và tài chính

Dưới đây là khuynh hướng và thực tiễn quốc tế về tập trung và phân cấp

theo các thành phần chức năng trên:

Thứ nhất, phân cấp về tổ chức bộ máy nhân sự nhà trường

Tuyển dụng và thăng tiến giáo viên: các tiêu chuẩn kiểm định giáo viên

chủ yếu do chính phủ đặt ra (Hoa Kỳ do chính quyền bang), nhưng các tiêu

chuẩn đặt ra để kiểm định giáo viên thường là các tiêu chuẩn quá cao không

phù hợp với thực tiễn, vì vậv tại nhiều địa phương, chính quyền địa phương

đề các tiêu chuẩn kiểm định giáo viên riêng cho địa phương mình.

Thực tiễn về tuyển dụng và thăng tiến cho giáo viên phổ thông khác

nhau rất lớn giữa các nước. Ở quốc gia thực hiện cơ chế tập trung cao như

Cameroon, Bộ Giáo dục không tuyển dụng, phân bổ, bổ nhiệm, thăng tiến và

thuyên chuyển giáo viên, mà những việc này do Bộ Dịch vụ công thực hiện.

Ở quốc gia thực hiện phân cấp mạnh như Brazil, cộng đồng dân cư tự tuyển

dụng giáo viên, còn thăng tiến là quyền của thị trưởng.

ii) Tổ chức nhà trường bao gồm các nhiệm vụ: xây dựng, ban hành và

thực hiện các chuẩn quy định tối thiểu về nhà trường, cấu trúc nhà trường và

các quyền được giáo dục của trẻ em. Trong đó, phần lớn việc xây dựng và ban

hành các chuẩn quy định tối thiểu trên chủ yếu mang tính tập trung cao (do

cấp trung ương đảm nhiệm, ngoại trừ một số ít trường hợp trao cho các chính

quyền bang - như Hoa Kỳ); còn việc thực hiện chúng được phân cấp cho cấp

dưới (bang/tỉnh/thành phố).

Thứ hai, phân cấp về chuyên môn

Thi cử và giám sát có sự khác nhau giữa các quốc gia. Trong số các nước

trước đây là thuộc địa của Anh (các nước ở Tây Ấn và lân cận), các kỳ thi

57

được tổ chức và xếp hạng tại Anh. Phần lớn các nước Mỹ La tinh không có

chuẩn hay các kỳ thi quốc gia mà các tiêu chuẩn để xét lên lớp do cấp trường

quy định nên đã thường có sự khác nhau rất lớn giữa các trường ngay trong

cùng một địa phương.

Về chương trình và phương pháp giảng dạy: cơ quan của Chính phủ

thường quy định về các chuẩn chương trình hoặc chương trình khung (phần

cứng); còn việc phát triển và thực hiện chương trình (phần mềm) thì phân cấp

cho cấp dưới và nhà trường thực hiện. Việc đào tạo ban đầu cho giáo viên

THPT thường do Bộ giáo dục chịu trách nhiệm; còn bồi dưỡng giáo viên chủ

yếu do chính quyền địa phương thực hiện.

Thứ ba, phân cấp trong quản lý tài chính

Trong các nước có hệ thống tập trung cao, chính phủ trung ương cung

cấp trực tiếp tài chính và các đầu vào cho GDPT, không có đóng góp của

chính quyền địa phương. Ở các nước có hệ thống phân cấp mạnh, cộng đồng

địa phương cấp tài chính và cung cấp đầu vào cho GDPT, thông qua việc thu

thuế ở địa phương (Mỹ, Brazil, Chilê…) hoặc thông qua đóng góp tự nguyện

(Peru, Kenya…). Ở các nước có hệ thống kết hợp, chính phủ trung ương cấp

tài chính và cung cấp một số đầu vào cho GDPT thông qua các tài trợ (trọn

gói hoặc qua dự án), còn việc kiểm soát sử dụng nguồn tài chính này do cộng

đồng địa phương thực hiện (Trung Quốc, Colombia, Ấn Độ, Nigieria…).

Trong việc xây dựng nhà trường, các Chính phủ đều ban hành các tiêu

chuẩn về xây dựng. Trong mô hình tập trung, chính phủ trung ương trực tiếp

thực hiện xây dựng; còn trong mô hình phân cấp, cộng đồng địa phương sẽ

cung cấp (thường thông qua đóng góp tự nguyện) và tham gia xây dựng

trường. Trong thực tiễn, việc cung cấp kinh phí xây dựng trường có khuynh

hướng phân cấp mạnh so với các chức năng giáo dục khác, đặc biệt là ở các

nước châu Phi và châu Á [96].

Từ những phân tích trên cho thấy, tập trung và phân cấp không hoàn

toàn theo các chức năng quản lý nhà nước về GDPT, mà phần lớn theo các

58

thành phần của chức năng quản lý, có nghĩa là trong mỗi chức năng quản lý

có thành phần cần tập trung, có thành phần phân cấp.

Qua phân tích thực tế ở một số quốc gia cho thấy một mô hình phân cấp

quản lý nhà nước về GDPT có hiệu quả cần đơn giản (như mô hình phân cấp

cho một cấp quản lý) và kết hợp với nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách

nhiệm cho các trường phổ thông theo cách uỷ quyền ra quyết định sử dụng các

nguồn lực hiện có để đáp ứng tốt nhất nhu cầu địa phương và người học. Mô

hình phân cấp quản lý cho hai cấp quản lý (Colombia và Bolivia) cho thấy

nhiều bất cập, rất khó làm cho hệ thống GDPT chịu trách nhiệm có hiệu quả và

hiện nay Colombia và Bolivia đã phải thay đổi theo mô hình một cấp quản lý.

Nhìn chung, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT làm cho việc cung

ứng dịch vụ GDPT hiệu quả hơn do địa phượng biết điều kiện và nhu cầu của

địa phương tốt hơn cấp trung ương. Tuy nhiên, việc trao quyền tự chủ ra

quyết định trong phân cấp quản lý không tự nó làm cho dịch vụ GDPT tốt hơn

thậm chí có thể dẫn đến tình trạng “vô chính phủ” và mất kiểm soát nếu

không gắn hệ thống chịu trách nhiệm cho các tổ chức thực hiện cung ứng dịch

vụ GDPT. Những phân tích dưới đây sẽ làm rõ hơn nguyên nhân của những

thành công và thất bại trong việc phân cấp quản lý nhà nước về GDPT của

các nước trên thế giới.

Trong thực tế, các mối quan hệ trách nhiệm trên khác nhau theo quốc

gia. Ở Argentina và Brazil, do thiếu “hợp đồng” rõ ràng giữa bộ giáo dục và

các tỉnh/bang nên ảnh hưởng của phân cấp tới chất lượng và công bằng trong

GDPT khác nhau lớn theo các tỉnh/bang, chủ yếu phụ thuộc vào năng lực

quản lý của chính quyền các tỉnh/bang. Tuy nhiên, chất lượng GDPT tăng lên

sau khi sử dụng hiệu quả các hình thức “hợp đồng” và quản lý giáo viên hiệu

quả. Chất lượng GDPT cũng phụ thuộc nhiều vào trình độ của công chức địa

phương và việc phát huy hiệu quả mối quan hệ trách nhiệm giữa người hưởng

dịch vụ và nhà quản lý.

59

Tại Chile, chất lượng GDPT không tăng trong những năm 80 do có lỗ

hổng giữa trách nhiệm và quyền hạn và nguồn ngân sách hoạt động hạn hẹp

tại cấp ỉnh cũng như thiếu các cơ chế để người dân tham gia vào các quá trình

quản lý để làm tăng tính cạnh tranh giữa trường công và trường tư. Chất

lượng GDPT ở quốc gia này tăng nhiều khi áp dụng một số biện pháp tăng

mối quan hệ trách nhiệm giữa người hưởng dịch vụ và nhà quản lý.

Mô hình nhà trường tự chủ là mô hình mà trong đó nhà trường là trung

tâm của quá trình phân cấp. Mô hình này vận hành theo hai mối quan hệ trách

nhiệm chính là: Quan hệ “hợp đồng” giữa trung ương (hoặc tỉnh/thành phố

khi được trao quyền quản lý) với nhà trường; và mối quan hệ giữa “quyền lực

người hưởng dịch vụ” hay cộng đồng với nhà trường. Đây là mô hình tại Hàn

Quốc, Trung Quốc, Nicaragua, El Salvador và tại một số quốc gia khác như

Brazil,Honduras và Guatemala [96].

Năm 1995, trong Chương trình quốc gia lần thứ 6 của Hàn Quốc đã nhấn

mạnh tới việc nâng cao quyền tự chủ cho trường phổ thông và thực tế các

chương trình này đã đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người dân địa phương. Vấn

đề tự chủ cho trường phổ thôngđã được đưa ra từ chính phủ tiền nhiệm,

nhưng vẫn được các chính phủ sau đó tiếp tục theo đuổi giải quyết.

Ở Trung Quốc, việc đẩy mạnh phân cấp và nâng cao quyền tự chủ cho

trường phổ thông cũng được triển khai rất mạnh trong thời gian gần đây.

Tuy nhiên, có một sự khác biệt khá lớn trong chính sách phân cấp giữa các

địa phương và khu vực tự trị. Chẳng hạn, tại Thượng Hải việc trao quyền

tự chủ cho các nhà trường phổ thông đã được thực hiện khá mạnh. Hình

thức cung ứng dịch vụ GDPT ở đây rất đa dạng, đáp ứng tốt nhu cầu của

người dân địa phương. Các khu vực chậm phát triển hơn, như khu vực tư

trị phía Tây Nam Trung Quốc thì tính tự chủ trong các nhà trường phổ

thông còn yếu, do chưa đủ các điều kiện để gắn hệ thống chịu trách nhiệm

vào các nhà trường.

60

Năm 1993, Nicaragua bắt đầu thực hiện quá trình tự chủ cho nhà trường

với tham dự của cộng đồng, đến 1996 có hơn 400 trường tiểu học và trung

học kiểu này. Các trường này được yêu cầu bầu ra một hội đồng trường bao

gồm cha mẹ, giáo viên, hiệu trưởng, cộng đồng,... và ký hợp đồng với Bộ

Giáo dục (hoặc sở) theo đó phân cấp cho Hội đồng này quản lý các tài trợ,

giáo viên, các chi phí hoạt động và duy trì, bảo dưỡng và ra các quyết định

học thuật. Như vậy, một mặt, “quyền lực người hưởng dịch vụ” được thực

hiện thông qua hoạt động tham dự tích cực của cha mẹ học sinh và cộng đồng

vào quản lý nhà trưởng; mặt khác, quan hệ “hợp đồng” giữa Bộ (hoặc sở) và

trường được thực hiện theo cách nâng Cáo quyền tự chủ nhà trường, dưới sự

giám sát của các cấp QLGD, đi đôi với việc tăng cường chức năng kiểm toán

của trung ương và thông qua thực hiện tài trợ hàng tháng theo mức độ hiệu

quả và theo số lượng học sinh nhập học.

Đánh giá về mô hình trường tự chủ tại Nicaragua cho thấy việc uỷ quyền

cho các trường ra các quyết định về quản lý giáo viên có tác động tích cực

đến kết quả điểm số của học sinh; còn tại EI Salvador, kết quả học tập và

nhập học tại vùng nông thôn tăng mạnh với chương trình EDUCO, do các

quyết định yề quản lý giáo viên được ban hành tại cấp trường.

Tại các quốc gia khác như: Trung Quốc, Argentia, Brazil, Chile,

Honduras,… mô hình trường có quyền tự chủ trong một số lĩnh vực (tài

chính, hành chính hoặc sư phạm,...) cũng đã làm tăng kết quả thi và các chỉ số

kết quả giáo dục khác và khuyến khích các trường phổ thông nâng cao hiệu

quả quản lý, kể cả các trường giàu và các trường nghèo.

Qua phân tích thực tế ở một số quốc gia cho thấy, một mô hình phân cấp

quản lý nhà nước về GDPT có hiệu quả cần đơn giản (như mô hình phân cấp

cho một chính quyền cấp dưới của chính phủ) và kết hợp với nâng cao quyền

tự chủ cho trường phổ thông theo hình thức uỷ quyền ra quyết định đã khuyến

khích các nhà trường sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để không ngừng

61

nâng cao chất lượng GDPT, đáp ứng tốt nhu cầu của người dân địa phương và

của học sinh.

2.4.2. Những giá trị tham khảo cho Việt Nam

Trong quá trình phát triển của lịch sử nhân loại nói chung và của từng

quốc gia nói riêng, GDPT luôn là nhu cầu cơ bản và có tính phổ quát. Tuy

nhiên hệ thống giáo dục và mô hình quản lý nhà nước về GDPT của các nước

là rất đa dạng và khác nhau. Mô hình quản lý nhà nước về GDPT của các nước

chịu sự chi phối của các yếu tố, như đặc điểm thể chế chỉnh trị - xã hội, thể chế

nhà nước, chínhsách quốc gia về phát triển GDPT, trình độ phát triển kinh tế,

truyền thống văn hóa, v.v... Tùy thuộc vào các đặc điểm này mà các quốc gia

có cơ chế quản lý nhà nước về GDPT khác nhau. Ngay trong một quốc gia, cơ

chế quản lý nhà nước về GDPT cũng thay đổi theo từng giai đoạn phát triển.

Tùy theo định chế nhà nước và các đặc điểm phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội

mà các quốc gia thực hiện các cơ chế phân cấp quản lý nhà nước về GDPT ở

các mức độ khác nhau. Là một nước đi sau, mong muốn tiến hành hiệu quả

việc quản lý nhà nước về GDPT trước những thách thức trong xu thế mở cửa

hội nhập và đổi mới cơ chế quản lý, GDPT Việt Nam phải có những đổi mới,

trước hết là đổi mới tư duy quản lý để đề ra những biện pháp cải cách phù hợp

với xu hướng phát triển của thế giới và điều kiện Việt Nam.

Qua nghiên cứu kinh nghiệm rất đa dạng và phong phú của các quốc gia

đã thực hiện phân cấp quản lý nhà nước về GDPT thành công, chúng ta có thể

rút ra một số bài học kinh nghiệm cho việc phát triển một mô hình phân cấp

quản lý nhà nước về GDPT ở Việt Nam như sau:

Một là, kết hợp tập trung và phân cấp trong quản lý nhà nước về GDPT.

Tùy theo từng mức độ, như phi tập trung hoá, uỷ quyền, trao quyền và tư nhân

hoá để thực hiện phân cấp, tránh các mô hình phân cấp phức tạp; đảm bảo quyền

hạn đi đôi với trách nhiệm thực hiện và nâng cao quyền tự chủ cho các trường

phổ thông trong khuôn khổ quy định của trung ương và địa phương.

62

Hai là, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT đi đôi với việc củng cố và

xây dựng hệ thống chịu trách nhiệm với kết quả đầu ra, nếu không sẽ dẫn đến

tình trạng buông lỏng, vô tổ chức và không thể kiểm soát được. Ngoài ra, khi

xây dựng hệ thống chịu trách nhiệm đòi hỏi phải có sự phân định rõ ràng

quyền hạn và trách nhiệm. Các quy định về quyền hạn và trách nhiệm phải cụ

thể và rõ ràng về các kết quả quản lý đối với GDPT và quản lý tài chínhcủa

từng cấp quản lý GDPT và các trường phổ thông.

Ba là, để phân cấp quản lý nhà nước về GDPT thành công cần nâng cao

năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức các cấp quản lý GDPT. Bồi dưỡng

nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý GDPT các cấp, như năng lực lập kế

hoạch hoạt động của nhà trường; quản lý tài chính, nhân sự, năng lực quản lý

sự thay đổi; giải quyết các xung đột, mâu thuẫn phù hợp với bối cảnh phân

cấp quản lý nhà nước về GDPT.

Bốn là, kinh nghiệm phân cấp quản lý nhà nước về GDPT tại các nước

trên thế giới đã chứng minh rằng, yếu tố quan trọng nhất quyết định thành

công hay thất bại của các cải cách trong phân cấp quản lý là các quan hệ về

tính chịu trách nhiệm phải được xây dựng và thực hiện trong các mô hình

phân cấp quản lý.

63

Tiểu kết chương 2

Giáo dục và quảnlý giáo dục luôn là vấn đề được mọi quốc gia trên thế

giới quan tâm. Quản lý nhà nước về giáo dục quốc gia đến các cấp quản lý ở

địa phương và các cơ sở giáo dục đều có tầm ảnh hướng đến việc thực hiện

chính sách giáo dục, nâng cao hiệu quả đầu tư cho giáo dục và nâng cao chất

lượng giáo dục.

Phân cấp quản lý nhà nước về GDPT là một yếu tố quan trọng quyết

định hiệu quả quản lý và chất lượng GDPT. Ở nước ta, phân cấp quản lý một

nội dung quan trọng của cải cách hành chính nhà nước, tạo điều kiện đế phát

triển nguồn lực con người để sự phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh

và bền vững.

Trong Chương 2, luận án phân tích làm rõ cơ sở khoa học về phân cấp

quản lý nhà nước về GDPT; khái niệm phân cấp quản lý, mục tiêu, quan điểm

và nguyên tắc phân cấp quản lý; khái niệm, tác động phân cấp quản lý nhà

nước về GDPT; nội dung, điều kiện, các yếu tố ảnh hưởng đến phân cấp quản

lý nhà nước về GDPT. Trong chương này, luận án cũng trình bày kinh

nghiệm của các nước trên thế giới trong phân cấp quản lý nhà nước về GDPT

theo chức năng và kinh nghiệm phân cấp cho chính quyền cấp dưới và cho

nhà trường và rút ra các giá trị tham khảo cho Việt Nam.

Thông qua việc trình bày và phân tích làm rõ những vấn đề lý luận và

thực tiễn phân cấp quản lý nhà nước về GDPT, chương này đã trả lời các câu

hỏi cơ bản về phân cấp quản lý nhà nước về GDPT như: Phân cấp quản lý

nhà nước phải theo các mục tiêu, quan điểm và nguyên tắc nào? Phân cấp

phân cấp quản lý nhà nước về GDPT có những ưu điểm, hạn chế gì? Nội

dung, điều kiện để phân cấp quản lý là gì? Những yếu tố nào ảnh hưởng đến

phân cấp quản lý nhà nước về GDPT? Phân cấp quản lý nhà nước về GDPT

phải căn cứ vào cơ sở pháp lý nào? Nghiên cứu kinh nghiệm của các nước

64

trên thế giới trong phân cấp quản lý nhà nước về GDPT chúng ta nhận thấy

trước hết cần tập trung và phân cấp theo các chức năng và các thành phần của

chức năng QLGD và tiếp theo phải thiết kế hệ thống để định hướng tập trung

vào nâng cao quyền tự chủ cho trường phổ thông trong khuôn khổ quy định

của chính quyền trung ương và địa phương. Cấp trung ương và địa phương

chỉ nên tập trung vào các chức năng định hướng, hỗ trợ và kiểm soát hệ thống

GDPT, các chức năng thực hiện tại cấp trường cần uỷ quyền cho lãnh đạo

trường và Hội đồng trường quyết định. Kinh nghiệm của các nước cũng cho

thấy nên đi theo mô hình phân cấp đơn giản (một cấp chính quyền) kết hợp

với nâng cao quyền tự chủ của các trường phổ thông.

Hầu hết các nước thực hiện phân cấp quản lý thành công đều tăng

cường quyền lực của người hưởng dịch vụ thông qua việc thành lập Hội đồng

trường phổ thông. Hội đồng không chỉ dừng ở nhiệm vụ tư vấn, mà còn có

quyền bầu hiệu trưởng, tuyển chọn, đánh giá, sa thải giáo viên và quản lý việc

phân bổ các nguồn lực trong nhà trường.

Các nội dung nghiên cứu ở chương 2 được xem là cơ sở và định hướng

cho việc nghiên cứu thực trạng phân cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa

bàn Thành phố Hà Nội ở chương 3.

65

Chương 3

THỰC TRẠNG PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI

GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

3.1. Khái quát về Thành phố Hà Nội và tình hình giáo dục phổ thông trên

địa bàn Thành phố Hà Nội

3.1.1. Khái quát về Thành phố Hà Nội

Hà Nội là thủ đô của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và cũng

là kinh đô của hầu hết các vương triều phong kiến Việt trước đây. Hà Nội là

thành phố trực thuộc trung ương có diện tích lớn nhất cả nước, đồng thời cũng

là địa phương đứng thứ nhì về dân số. Tổng dân số của thành phố Hà Nội tại

thời điểm 0 giờ ngày 01/4/2019 là 8.053.663 người, trong đó: Dân số nam là

3.991.919 người, chiếm 49,6%; dân số nữ là 4.061.744 người, chiếm 50,4%.

Dân số sống ở khu vực thành thị là 3.962.310 người, chiếm 49,2% và ở khu

vực nông thôn là 4.091.353 người, chiếm 50,8%. Hà Nội là thành phố đông

dân thứ hai của cả nước, sau thành phố Hồ Chí Minh (8.993.082 người) [8].

Hà Nội nằm giữa đồng bằng sông Hồng trù phú, nơi đây đã sớm trở

thành một trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa ngay từ những buổi đầu

của lịch sử Việt Nam. Sau đợt mở rộng địa giới hành chính vào tháng

8 năm 2008, Hà Nội hiện nay gồm 12 quận, 1 thị xã và 17 huyện ngoại thành.

Hiện nay, Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh là hai trung tâm kinh tế - xã hội

đặc biệt quan trọng của Việt Nam.

Sau chiến tranh, Hà Nội tiếp tục giữ vai trò thủ đô của quốc gia Việt

Nam thống nhất. Hà Nội đã được UNESCO trao danh hiệu “Thành phố vì hòa

bình” vào năm 1999.

Năm 1978, Quốc hội Việt Nam phê chuẩn mở rộng địa giới Hà Nội, sáp

nhập thêm 5 huyện Ba Vì, Thạch Thất, Phúc Thọ, Đan Phượng, Hoài

Đức và thị xã Sơn Tây của tỉnh Hà Sơn Bình cùng hai huyện của tỉnh Vĩnh

66

Phú là Mê Linh, Sóc Sơn. Sau những thay đổi về địa giới và hành chính

năm 2008, tính đến nay, Hà Nội có 30 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 12

quận, 17 huyện, 1 thị xã và 584 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 386 xã, 177

phường và 21 thị trấn.

Từ cuối thập niên 1990, sự phát triển về kinh tế dẫn đến các khu vực

ngoại ô Hà Nội nhanh chóng được đô thị hóa. Việc tăng dân số quá nhanh

cùng quá trình đô thị hóa thiếu quy hoạch tốt đã khiến Hà Nội trở nên chật

chội, ô nhiễm và giao thông nội ô thường xuyên ùn tắc. Hà Nội còn là một

thành phố phát triển không đồng đều với giữa các khu vực như giữa các quận

nội thành và huyện ngoại thành, nhiều nơi người dân vẫn chưa có được những

điều kiện sinh hoạt thiết yếu.

Trong những năm gần đây, tốc độ tăng tổng sản phẩm (GDP) trên địa

bàn Thành phố là 9,0 - 9,5%; trong đó dịch vụ tăng 9,8 - 10,5%, công nghiệp -

xây dựng tăng 8,7 - 9,0%, nông nghiệp tăng 2,0 - 2,5%. Đại hội Đảng bộ

Thành phố lần thứ 16 đề ra mục tiêu tới năm 2020 phát triển thành thành

phố công nghiệp theo hướng hiện đại, trung tâm hành chính chính trị quốc gia,

trung tâm lớn về kinh tế và giao lưu quốc tế, trung tâm văn hóa giáo dục y tế

của cả Việt Nam. Thành phố phấn đấu GDP bình quân đầu người đạt 5.300 đô

la Mỹ vào năm 2020 [57, tr.28].

Từ nhiều thế kỷ, vị thế kinh đô đã giúp Thăng Long - Hà Nội trở thành

trung tâm giáo dục của Việt Nam. Hà Nội ngày nay vẫn là trung tâm giáo dục

lớn nhất của cả nước. Năm 2017, Hà Nội có 719 trường tiểu học, 609 trường

trung học cơ sở và 208 trường trung học phổ thông với 27.552 lớp học, 1.814

nghìn học sinh. Hệ thống trường trung học phổ thông, Hà Nội có 40 trường

công lập, một số trường có chất lượng giảng dạy và truyền thống lâu đời,

như Trung học Chuyên Hà Nội - Amsterdam, Trung học phổ thông chuyên

Nguyễn Huệ, Trung học Chu Văn An, Trung học Trần Phú. Bên cạnh các

trường công lập, thành phố còn có 65 trường dân lập và 5 trường bán công

[59]. Hà Nội cũng là địa điểm của ba trường trung học đặc biệt, trực thuộc

67

các trường đại học, là Trường Trung học phổ thông Chuyên Ngoại

ngữ thuộc Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường

Trung học phổ thông chuyên Khoa học Tự nhiên thuộc Trường Đại học Khoa

học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội và Trường Trung học phổ thông

Chuyên thuộc Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Các trường trung học

chuyên này là nơi tập trung nhiều học sinh phổ thông ưu tú không chỉ của Hà

Nội mà còn của các địa phương trong cả nước [57, tr.62].

Cùng với việc ban hành Luật Thủ đô 2012, Hà Nội có những cơ chế đặc

thù về các lĩnh vực (trong đó có kinh tế tài chính), sự đầu tư cho giáo dục nói

chung và giáo dục phổ thông được chú trọng. Chính vì thế việc phân cấp quản

lý nhà nước về GDPT càng cần được đẩy mạnh và chú trọng.

3.1.2. Tình hình giáo dục phổ thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội

Hệ thống GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội trong những năm qua

tiếp tục được ổn định và phát triển mạnh. Mạng lưới trường, lớp được mở

rộng, cơ sở vật chất được tăng cường đầu tư xây dựng, từng bước được kiên

cố hóa, chuẩn hóa và hiện đại, đáp ứng nhu cầu học tập của con em nhân dân

Thủ đô và yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực trong thời kỳ mới.

Bảng 3.1. Biểu thống kê quy mô giáo dục

cho các cơ sở giáo dục trên địa bàn thành phố Hà Nội

Giáo dục Tiểu học

Giáo dục THCS

Giáo dục THPT

Trường Lớp

HS

Trường Lớp

HS

Trường Lớp

HS

710

15.316 584.495

615

9.668 355.370

209

4.824

187.869

711

16.510 610.310

609

9.971 376.900

207

4.836

189.732

719

16.491 641.850

609

10.715 399.396

208

4.922

189.732

727

678.776

617

426.924

216

196.469

736

18.240 738.978

624

11.537 451.800

222

5.467

216.736

Năm học 2014- 2015 2015- 2016 2016- 2017 2017- 2018 2018- 2019

Nguồn: Sở Giáo dục và đào tạo thành phố Hà Nội

68

Qua bảng số liệu trên cho thấy, quy mô giáo dục Hà Nội tiếp tục được

ổn định và phát triển mạnh. Mạng lưới trường, lớp được mở rộng, cơ sở vật

chất được tăng cường đầu tư, cơ bản từng bước được kiên cố hóa, chuẩn hóa

và hiện đại, đáp ứng nhu cầu học tập của con em nhân dân thủ đô và yêu cầu

đào tạo nhân lực trong thời kỳ mới.

Hiện nay, trên địa bàn Thành phố: Giáo dục tiểu học có 736 trường với

18.240 lớp, 738.978 học sinh; so với cùng kỳ năm trước tăng 09 trường, tăng

60.202 học sinh.

Giáo dục tiểu học: quy mô phát triển, chất lượng giáo dục đại trà và

mũi nhọn ổn định, phát triển, đáp ứng được nhu cầu học tập ngày càng cao.

Tiếp tục quan tâm đến chất lượng dạy học giữa các vùng miền trên địa bàn

Thành phố, dành sự quan tâm và ưu tiên đặc biệt trong việc chỉ đạo các hoạt

động dạy và học đối với học sinh lớp 1. Toàn Thành phố đã huy động trẻ 6

tuổi ra lớp: 176.950/176.950 đạt tỷ lệ 100%; Trẻ 11 tuổi hoàn thành chương

trình tiểu học: 124.851/126.218, đạt tỷ lệ 98,92%; Trẻ đến 14 tuổi hoàn thành

chương trình tiểu học: 436.494/438.610, đạt tỷ lệ 99,52%; 584/584 đơn vị xã,

phường đạt chuẩn phổ cập giáo dục Tiểu học mức độ III; 30/30 quận, huyện,

thị xã đạt phổ cập giáo dục Tiểu học mức độ III; Toàn thành phố đạt chuẩn

phổ cập giáo dục Tiểu học mức độ III năm 2018; 100% các trường đã thực

hiện nghiêm túc chương trình năm học theo chỉ đạo của Bộ GDĐT về đảm

bảo các yêu cầu cần đạt về kiến thức, kỹ năng theo chuẩn kiến thức, kỹ năng.

Chú trọng tăng cường việc dạy học tích hợp giáo dục kỹ năng sống, giáo dục

bảo vệ môi trường, giáo dục an toàn giao thông, phòng chống tai nạn thương

tích, phòng chống HIV/AIDS, giáo dục nếp sống thanh lịch, văn minh vào các

môn học và các hoạt động giáo dục ngoài giờ chính khóa cho học sinh.

Giáo dục trung học cơ sở (THCS) có 624 trường với 11.537 lớp, 451.800

học sinh; so với cùng kỳ năm trước tăng 07 trường, tăng 24.876 học sinh.Giáo

dục trung học phổ thông (THPT) có 222 trường với 5.467 lớp, 216.736 học sinh;

so với cùng kỳ năm trước tăng 06 trường, tăng 20.267 học sinh [59].

69

Giáo dục trung học: đạt được các tiêu chí đánh giá của Bộ GDĐT ở

mức độ cao, chất lượng văn hoá được giữ vững tăng đều khá, giỏi với năm

học trước.

100% các trường trung học cơ sở (THCS), trung học phổ thông (THPT)

đã xây dựng kế hoạch dạy học của từng tổ nhóm, phân môn của môn học và

đã bước đầu tiến hành các hoạt động dạy học theo chuyên đề nhằm định

hướng phát triển năng lực học sinh, đảm bảo thời gian kết thúc học kỳ thống

nhất toàn Thành phố, có đủ thời lượng dành cho luyện tập, ôn tập, thí nghiệm,

thực hành, tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo và kiểm tra định kỳ. Các

hình thức đổi mới trong kiểm tra, đánh giá đều hướng tới phát triển năng lực;

coi trọng đánh giá để giúp đỡ học sinh về phương pháp học tập, động viên sự

cố gắng, hứng thú học tập của các em.

Tiếp tục triển khai “Trường học kết nối” trong tổ chức và quản lý hoạt

động chuyên môn qua mạng tới tất cả các trường THCS, THPT. Các trường

đã tiến hành tập huấn và cấp tài khoản cho các giáo viên và học sinh. Việc

khai thác và sử dụng “Trường học kết nối” ở các trường đã dần đi vào nề nếp

và có tác dụng tốt cho giáo viên và học sinh. Sở chỉ đạo các trường thường

xuyên đưa bài lên trang web, xây dựng "nguồn học liệu mở", góp phần đổi

mới phương pháp dạy học trong trường học hiện nay.

Chất lượng giáo dục toàn diện được giữ vững, chất lượng giáo dục mũi

nhọn tiếp tục phát triển. Việc đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy được

đẩy mạnh ở tất cả các cấp học, ngành học.

GDĐT Hà Nội tiếp tục khẳng định vị trí dẫn đầu cả nước, giành thành

tích cao trong các kỳ thi học sinh giỏi quốc gia, quốc tế với 197 giải và huy

chương quốc tế năm 2018, 134 giải quốc gia năm 2019 (với 11 giải Nhất, 19

học sinh được dự thi vòng 2 chọn vào đội tuyển quốc gia dự thi quốc tế); 21

đề tài đạt giải tại cuộc thi Khoa học kỹ thuật cấp quốc gia dành cho học sinh

trung học năm 2019 (trong đó có 03 đề tài đạt giải Nhất, 05 giải Nhì, 06 giải

Ba); 48 giải tại Cuộc thi Tìm kiếm Tài năng Toán học quốc tế ITMC 2019

70

(trong đó có 02 Huy chương Vàng, 15 Huy chương Bạc, 23 Huy chương

Đồng)...[59]

Trên cơ sở thực tiễn của công tác GD&ĐT, quy hoạch tổng thể phát triển

KT-XH và điều kiện thực tế của Thành phố, Sở Giáo dục và Đào tạo đã xây

dựng quy hoạch, kế hoạch dài hạn và hàng năm về phát triển GDPT, tích cực

chỉ đạo việc thực hiện kế hoạch sau khi được chính quyền Thành phố phê

duyệt. Sở Giáo dục và Đào tạo đã phối hợp với Sở Quy hoạch - Kiến trúc,

Viện Quy hoạch xây dựng Hà Nội và UBND các quận, huyện, thị xã rà soát,

điều chỉnh bổ sung quy hoạch mạng lưới trường học; xây dựng quy định mức

thu học phí về giáo dục phổ thông công lập.

Tổ chức thực hiện kịp thời và có kết quả phần lớn các văn bản quy phạm

pháp luật về GDPT. Tham mưu cho UBND Thành phố ban hành các quy định

về tổ chức hoạt động của các cơ sở GDPT trên địa bàn Thành phố.

Chất lượng GDPT của Hà Nội tiếp tục được giữ vững và có nhiều tiến

bộ. Việc đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy, nâng cao chất lượng giáo

dục toàn diện được đẩy mạnh ở các cấp học mang lại kết quả bước đầu. Tiếp

tục đổi mới nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả các phong trào thi giáo

viên dạy giỏi, học sinh giỏi các cấp, đặc biệt là kỳ thi học sinh giỏi quốc gia

và quốc tế. Hà Nội tiếp tục là đơn vị dẫn đầu về số lượng và chất lượng giải

trong kỳ thi học sinh giỏi THPT các môn văn hoá cấp Quốc gia.

Thực hiện tốt việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý giáo

dục. Xây dựng và thực hiện tốt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý

các cấp theo hướng dẫn của Bộ Giáo dục và UBND Thành phố.

Việc huy động, quản lý sử dụng các nguồn lực để phát triển giáo dục đã

có những kết quả nhất định; phong trào thành lập quỹ khuyến học được mở

rộng đến từng cơ quan tổ chức, từng địa bàn dân cư.

Xã hội hóa giáo dục có nhiều bước chuyển biến tích cực, đã huy động

được các nguồn lực cho sự nghiệp phát triển GDPT. Các hoạt động, phong

trào thi đua được tổ chức sôi nổi, thiết thực, có ý nghĩa.

71

Lực lượng thanh tra, kiểm tra giáo dục được tăng cường và dần hoàn

thiện về số lượng cũng như chất lượng; các hoạt động thanh tra, kiểm tra

chuyên môn, hành chính và một số nội dung kiểm tra chuvên đề đối với các

trường phổ thông được thực hiện có nề nếp.

Tuy đã đạt được những kết quả quan trọng nhưng GDPT trên địa bàn

Thành phố vẫn còn những hạn chế. Những hạn chế này bao gồm:

Việc triển khai, tổ chức thực hiện đưa chủ trương, chính sách của Đảng,

Nhà nước về phát triển giáo dục và đào tạo, nhất là quan điểm “giáo dục là

quốc sách hàng đầu” còn chậm và lúng túng. Việc thể chế hoá văn bản pháp

quy của cấp trên trên địa bàn Thành phố còn chậm, hiệu quả chưa cao.

Việc xây dựng chiến lược phát triển GDPT của Hà Nội, chương trình, kế

hoạch ngắn hạn, dài hạn còn chưa cụ thể, chưa đáp ứng yêu cầu của xã hội; có

kế hoạch được phê duyệt nhưng khâu triển khai, tổ chức thực hiện còn chậm.

Quản lý GDPT của Thủ đô vẫn còn nhiều bất cập, còn mang tính bao

cấp, sự vụ và chồng chéo, phân tán. Quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của

các cơ sở giáo dục THCS, THPT chưa được quy định đầy đủ, sát với thực

tế.Tình trạng dạy thêm, học thêm còn sảy ra khá phổ biến ở các trường phổ

thông trên địa bàn Thành phố.

Tổ chức bộ máy quản lý GDPT còn rập khuôn, máy móc, phong cách

làm việc chưa được thay đổi nhiều theo hướng cải cách hành chính. Số lượng

công chức tại một số Phòng Giáo dục và Đào tạo trên địa bàn Thành phố còn

thiếu, trình độ, năng lực của một số cán bộ quản lý còn hạn chế.

Một bộ phận học sinh phổ thông có biểu hiện hạn chế về đạo đức, lối

sống, hạn chế trong năng lực hợp tác, sáng tạo; công tác hướng nghiệp chưa

thực sự đạt hiệu quả cao, định hướng nghề nghiệp của học sinh THCS chưa rõ

nét nên phân luồng sau THCS gặp khó khăn; các chính sách phân luồng sau

THCS còn thiếu.

Chính sách huy động và phân bổ nguồn lực tài chính cho GDPT trên địa

bàn Thành phố chưa thật hợp lý, đầu tư cho GDPT và sử dụng nguồn lực chưa

72

hiệu quả. Việc đầu tư ngân sách cho GDPT chưa tập trung cao cho những

mục tiêu ưu tiên, còn để sảy ra tình trạng thất thoát, lãng phí; kinh phí chi cho

các hoạt động chuyên môn còn thấp.

Công tác thanh tra, kiểm tra nhất là là thanh tra, kiểm tra chuyên đề còn

hình thức, chưa thật sự hiệu quả. Việc rút kinh nghiệm, khắc phục những tồn

tại, sai sót sau thanh tra, kiểm tra chưa được thực hiện nghiêm túc. Giải quyết

khiếu nại, tố cáo còn chưa triệt để, có trường hợp còn để kéo dài.

Những tồn tại, hạn chế trong phát triển GDPT trên địa bàn Thành phố Hà

Nội xuất phát từ các nguyên nhân chính sau đây:

Hà Nội là địa phương có dân số đông, tỉ lệ dân số trong độ tuổi đi học

cao. Điều này đã tạo gánh nặng cho GDPT của Thành phố.

Sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương đôi

khi còn chưa kịp thời, thiếu sâu sát. Cá biệt ở một số quận, huyện chính quyền

địa phương còn thiếu sự quan tâm, thờ ơ với sự nghiệp phát triển GDPT.

Việc tham mưu cho cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp có lúc còn thiếu

cụ thể, chưa kịp thời. Bộ máy quản lý GDPT của Thành phố hoạt động chưa thật

hiệu quả, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới.

Quản lý nhà nước về GDPT còn lỏng lẻo, chưa theo kịp sự phát triển

của xã hội. Trình độ và tư duy quản lý GDPT chưa theo kịp với thực tiễn phát

triển của khoa học, công nghệ và của nền kinh tế thị trường định hướng

XHCN và hội nhập quốc tế nên chưa có những quyết sách kịp thời cho các

vấn đề mới liên quan đến GDPT. Phương thức quản lý đối với GDPT chậm

được đổi mới. Tư duy quản lý chú trọng quản lý đầu vào mà chưa coi trọng

quản lý đầu ra. Chưa phân định rõ giữa quản lý nhà nước với hoạt động quản

trị trong các trường phổ thông.

Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục còn thiếu về số lượng, hạn chế về chất

lượng; một bộ phận thiếu tâm huyết, chưa theo kịp yêu cầu đổi mới và phát

triển của GDPT của Thủ đô trong tình hình mới.

Các văn bản pháp luật trong lĩnh vực GDPT hiện nay còn tản mạn, thiếu

tính hệ thống và đồng bộ, còn chồng chéo, mâu thuẫn. Một số cơ chế, chính

73

sách của của Thành phố và các quận, huyện chưa thật phù hợp, nhất là các

quy định về phân cấp quản lý trong công tác tổ chức, cán bộ; phân bổ ngân

sách. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Phòng Giáo dục chưa được quy

định cụ thể; trách nhiệm và quyền hạn quản lý chuyên môn chưa đi đôi với

trách nhiệm, quyền hạn quản lý về nhân sự và tài chính.

Vấn đề cần quan tâm hơn trong cải cách GDPT là đổi mới phương pháp

dạy học chứ không chỉ tập trung đổi mới nội dung dạy học.Hiện nay các thầy,

cô giáo ở các trường phổ thông hầu như chỉ cần nói đủ những gì có trong sách

giáo khoa, tuân thủ trình tự lên lớp. Sự sáng tạo và nghệ thuật dạy học chưa

thật sự trở lên cấp thiết. Những tiết thao giảng, dự giờ diễn ra không thực

chất, khó phản ánh được chất lượng của giáo viên, học sinh.

Chế độ đãi ngộ của Nhà nước đối với cán bộ công tác tại Sở, Phòng Giáo

dục chưa hợp lý. Cán bộ quản lý, giáo viên giỏi của các trường phổ thông được

điều động, biệt phái về Phòng Giáo dục nhưng không được hưởng chế độ phụ

cấp thâm niên đối với nhà nhà giáo nên không khuyến khích, tạo động lực làm

việc cho công chức, viên chức các Phòng Giáo dục ở các quận, huyện.

Cách đánh giá học sinh xếp theo khá, giỏi, trung bình hiện nay là chưa

khoa học. Chất lượng GDPT cần phải đạt ở cả hai mặt là nắm chắc kiến thức

văn hóa và thực hành, thí nghiệm thành công kiến thức đã được học.

Chưa có cơ chế hợp lý trong tuyển dụng, sử dụng công chức, viên chức

để thu hút nhân tài về công tác tại các đơn vị giáo dục trên địa bàn Thành phố.

Việc sử dụng nguồn nhân lực ngành giáo dục trên địa bàn chưa hiệu quả, tình

trạng chảy máu chất xám còn diễn ra.

Nhận thức về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của chính quyền Thành

phố về GDPT theo tinh thần Luật giáo dục năm 2005, Luật sửa đổi, bổ sung

một số điều của Luật giáo dục năm 2009 chưa thật đầy đủ.

Cải cách GDPT mới chỉ dừng ở các quyết định ở tầm vĩ mô, chưa thấm

vào các trường học. Cả cán bộ quản lý và giáo viên không dễ dàng từ bỏ cách

làm cố hữu vì quan điểm dạy học chỉ nhằm “hoàn thành nhiệm vụ năm học và

không để lại điều tiếng gì”.

74

Công tác quản lý chất lượng giáo dục, thanh tra, kiểm tra, giám sát trong

các trường phổ thông trên địa bàn Thành phố chưa được coi trọng đúng mức.

Năng lực, nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra của một số cán bộ còn hạn chế; phương

thức thanh tra, kiểm tra còn thiếu linh hoạt, không mấy hiệu quả.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, giáo viên của Thành phố chưa có sự

đổi mới cơ bản về nội dung và phương pháp; chưa lấy đặc điểm, nhu cầu của

người học làm căn cứ để xác định chương trình, nội dung và phương pháp đào

tạo, bồi dưỡng. Trong đào tạo, bồi dưỡng mới chú ý đến việc cung cấp các nội

dung lý luận chung chung, chưa quan tâm đúng mức đến bồi dưỡng những

kiến thức, kỹ năng.

Cuối cùng là, Phâncấp quản lý nhà nước về GDPTtrên địa bàn Thành

phố cònnhiều hạn chế, bật cập, nhất là cơ chếphốihợpgiữangành giáo dục

vớicácngànhchứcnăng khác. Trách nhiệm và quyền hạn quản lý chuyên môn

chưa đi đôi với trách nhiệm, quyền hạn quản lý về nhân sự và tài chính. Các

Phòng Giáo dục thiếu quyền chủ động trong công tác chỉ đạo, điều hành nên

thiếu sự chủ động, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về GDPT không cao.

Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội chưa thật chặt chẽ.

Chưa sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của Nhà nước và của xã hội vào phát

triển GDPT của Thành phố.

3.2. Phân tích thực trạng phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông

trên địa bàn Thành phố Hà Nội

3.2.1. Khái quát tình hình phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ

thông trên địa bàn thành phố Hà Nội

Phân cấp quản lý nhà nước đối với GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội

được thực hiện từ UBND Thành phố, Sở Giáo dục và Đào tạo xuống UBND

các quận, huyện và các Phòng Giáo dục và Đào tạo. Có thể khái quát hoá mô

hình phân cấp quản lý đối với GDPT trên địa bàn thành phố Hà Nội được thể

hiện trong Sơ đồ 3.1.

75

Sơ đồ 3.1. Phân cấp quản lý nhà nước đối với GDPT

trên địa bàn Thành phố Hà Nội

- Xây dựng và thực hiện kế hoạch GD và UBND đảm bảo các nguồn lực cho GD; Thành phố

Sở GD&ĐT

-

Quản lý các trường PT trên địa bàn;

- Quản lý việc ĐTBD giáo viên của TP;

- Quản lý việc thực hiện các quy định về

Tiêu chuẩn GV; thi, cấp bằng THPT;

Các trường THPT

- Thanh tra, kiểm tra; - Xã hội hóa giáo dục.

- Xây dựng chương trình trình, đề án phát

UBND quận, huyện

Phòng GD&ĐT

Triển GD và thực hiện khi được phê duyệt;

- Quản lý các trường THCS, Tiểu học;

- Thực hiện phổ cập giáo dục;

- Quản lý việc thực hiện các quy định về

tiêu chuẩn GV; thi, cấp bằng Tiểu học;

- Thanh tra, kiểm tra;

- Xã hội hóa giáo dục.

Trường THPT và Tiểu học

Cụ thể các nội dung về phân cấp QLNN đối GDPT trên địa bàn Hà Nội như sau:

Một là, thực trạng phân cấp về bộ máy, nhân sự

Căn cứ Nghị định số 127/2018/NĐ-CP ngày 21/9/2018 của Chính phủ

quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục, theo đó:

(1) Phân cấp về tổ chức, bộ máy

Bộ Giáo dục và đào tạo ban hành điều lệ, quy chế tổ chức và hoạt động

trường mầm non, trường tiểu học, trường trung học cơ sở, trường trung học

phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học

76

Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội quyết định thành lập hoặc cho

phép thành lập, thu hồi quyết định thành lập hoặc quyết định cho phép

thành lập, sáp nhập, chia, tách, giải thể, đổi tên, chuyển đổi loại hình

trường đối với các cơ sở giáo dục công lập, tư thục theo quy định, bao

gồm: trường trung học phổ thông, trường phổ thông có nhiều cấp học có

cấp học cao nhất là trung học phổ thông, trường phổ thông dân tộc nội trú

cấp tỉnh và cấp huyện, trung tâm giáo dục thường xuyên cấp tỉnh và các cơ

sở giáo dục khác thuộc phạm vi quản lý nhà nước theo quy định. Quyết

định cho phép thành lập, quyết định giải thể hoặc chấm dứt hoạt động đối

với cơ sở giáo dục phổ thông có vốn đầu tư nước ngoài (trừ cơ sở giáo dục

mầm non, cơ sở giáo dục phổ thông do cơ quan đại diện ngoại giao nước

ngoài, tổ chức quốc tế liên chính phủ đề nghị thành lập) theo quy định trên

cơ sở tham mưu của Sở Giáo dục và đào tạo

Chủ tịch UBND cấp huyện quyết định thành lập hoặc cho phép thành

lập, thu hồi quyết định thành lập hoặc quyết định cho phép thành lập, sáp

nhập, chia, tách, giải thể, đổi tên, chuyển đổi loại hình đối với các cơ sở giáo

dục công lập, dân lập, tư thục theo quy định, bao gồm: Nhà trẻ, trường mẫu

giáo, trường mầm non, trường tiểu học, trường trung học cơ sở, trường phổ

thông có nhiều cấp học có cấp học cao nhất là trung học cơ sở, trường phổ

thông dân tộc bán trú, trung tâm học tập cộng đồng và các cơ sở giáo dục

khác thuộc thẩm quyền quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp huyện.

Chủ tịch UBND cấp xã cho phép thành lập, quyết định sáp nhập, chia,

tách, đình chỉ hoạt động giáo dục, giải thể nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập

theo quy định.

(2) Phân cấp về nhân sự.

Theo Nghị định số 127/2018/NĐ-CP ngày 21/9/2018 của Chính phủ quy

định trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục, việc phân cấp được tiến hành

như sau:

77

Bộ Giáo dục và đào tạo quy định tiêu chuẩn chức danh, chế độ làm việc

của nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; danh mục khung vị trí việc làm và

định mức số lượng người làm việc trong các cơ sở giáo dục. Quy định tiêu

chuẩn người đứng đầu, cấp phó người đứng đầu các cơ sở giáo dục phổ thông,

giáo dục thường xuyên, trường trung cấp sư phạm, cao đẳng sư phạm; tiêu

chuẩn chức danh Giám đốc, Phó Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo, Trưởng

phòng, Phó Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo; chuẩn nghề nghiệp nhà giáo.

Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội quyết định biên chế công chức của

cơ quan quản lý giáo dục trên địa bàn tỉnh trong tổng số biên chế công chức

được cơ quan có thẩm quyền giao; Phê duyệt tổng số lượng người làm việc

của các cơ sở giáo dục công lập thuộc phạm vi quản lý của tỉnh theo quy định

của pháp luật trên cơ sở trình của UBND tỉnh

UBND thành phố Hà Nội quyết định biên chế công chức của cơ quan

quản lý giáo dục trên địa bàn tỉnh trong tổng số biên chế công chức được

cơ quan có thẩm quyền giao. Phê duyệt tổng số lượng người làm việc của

các cơ sở giáo dục công lập thuộc phạm vi quản lý của tỉnh theo quy định

của pháp luật.

UBND cấp huyện chỉ đạo thực hiện việc sử dụng, đánh giá, đào tạo,

bồi dưỡng và thực hiện chính sách đối với đội ngũ công chức, viên chức và

người lao động tại các cơ sở giáo dục thuộc phạm vi quản lý theo quy định;

thường xuyên cập nhật thông tin về đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý

giáo dục thuộc phạm vi quản lý vào cơ sở dữ liệu quốc gia về giáo dục.Sắp

xếp, tổ chức lại các cơ sở giáo dục tiểu học, trung học cơ sở trên địa bàn

phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương; bảo đảm đủ biên chế công

chức quản lý giáo dục, đủ số lượng người làm việc theo đề án vị trí việc

làm được phê duyệt,

Chủ tịch UBND cấp huyện quyết định tuyển dụng hoặc ủy quyền

quyết định tuyển dụng viên chức giáo dục theo các quy định hiện hành;

78

phân bổ số lượng người làm việc theo vị trí việc làm; công nhận, bổ nhiệm,

miễn nhiệm, điều động, thay đổi vị trí việc làm, khen thưởng, kỷ luật đối

với người đứng đầu, cấp phó người đứng đầu các cơ sở giáo dục công lập

phỏ thông, trường phổ thông dân tộc nội trú cấp huyện không có cấp trung

học phổ thông và các cơ sở giáo dục khác thuộc thẩm quyền quản lý trên

cơ sở kế hoạch do Phòng Giáo dục và Đào tạo xây dựng và ý kiến thẩm

định của Phòng Nội vụ.

Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội quyết định thành lập hội đồng trường,

công nhận, bổ nhiệm, miễn nhiệm Chủ tịch hội đồng trường, bổ sung, thay thế

thành viên Hội đồng trường các cơ sở giáo dục công lập trên cơ sở tham mưu

của Sở Gáo dục và Đào tạo.

Trên cơ sở các quy định chung của Trung ương, hiện trạng cụ thể phân

cấp trong tổ chức bộ máy và quản lý nhân sự của thành phố Hà Nội ở một số

lĩnh vực cơ bản như sau:

Theo quy định, quản lý nhân sự trong GDPT hiện nay như sau: Sở Giáo

dục và Đào tạo quản lý nhân sự khối các trường THPT, UBND các quận,

huyện quản lý nhân sự khối các trường THCS, Tiểu học.

Quy trình bổ nhiệm Giám đốc Sở, Trưởng Phòng Giáo dục và Đào tạo:

Tập thể cán bộ quản lý giáo dục bỏ phiếu tín nhiệm, sau đó thông qua thường

vụ Thành ủy, quận ủy, huyện ủy và UBND Thành phố, các quận, huyện quyết

định trên cơ sở tham khảo ý kiến của Bộ hoặc Sở Giáo dục và Đào tạo.

Quy trình bổ nhiệm Hiệu trưởng: Ở các bậc học THPT, THCS vàTiểu

học, tập thể giáo viên của trường bỏ phiếu tín nhiệm, sau đó UBND Thành

phố, quận, huyện ra quyết định bổ nhiệm. Ở một số quận, huyện, việc bổ

nhiệm Hiệu trưởng lấy ý kiến hẹp trong lãnh đạo nhà trường nên dẫn đến tình

trạng bổ nhiệm người không được cán bộ, giảng viên của nhà trường tín

nhiệm, gây mất đoàn kết nội bộ.

79

Bảng 3.2. Thống kê công tác bổ nhiệm cho các cơ sở giáo dục trên địa bàn

thành phố Hà Nội từ năm học 2014-2015 đến năm học 2018-2019

Năm học Danh sách quy hoạch cán bộ quản lý Cấp bổ nhiệm Số cán bộ được bổ nhiệm BN Mới BN Lại

2014-2015

Thành ủy và Sở GD&ĐT

2015- 2016 62 CBQL 51 CBQL Sở GD&ĐT

2016- 2017 2017- 2018

2018- 2019 Sở GD&ĐT

18 đồng chí trong diện Thành ủy quản lý, 407 đồng chí cấp trưởng, 1029 đồng chí cấp phó 18 đồng chí trong diện Thành ủy quản lý, 407 đồng chí cấp trưởng, 1029 đồng chí cấp phó 13 đồng chí GĐ, PGĐ Sở 54 đồng chí TP, PTP các phòng thuộc Sở 1.061 đồng chí HT, PHT

Nguồn: Sở Giáo dục và đào tạo thành phố Hà Nội

Hàng năm, trên cơ sở kế hoạch của Phòng Giáo dục và Đào tạo và các

trường trực thuộc, Sở Giáo dục và Đào tạo xây dựng kế hoạch biên chế cho

tẩt cả các cấp học, chi tiết tới từng loại giáo viên và cùng với Sở Nội vụ tham

mưu cho UBND Thành phố phê duyệt. Trong thực tiễn, tại một số trường do

sự phối hợp không tốt giữa cơ quan Nội vụ và cơ quan quản lý giáo dục trong

xây dựng chỉ tiêu biên chế nên gây ra rất nhiều khó khăn cho GDPT trong xây

dựng kế hoạch phát triển GDPT. Ở các quận, huyện, thực tế quản lý nhân sự

GDPT rất khác nhau: có nơi UBND các quận, huyện quản lý trực tiếp, có nơi

quản lý nhân sự thông qua tham mưu của Phòng Nội vụ, có nơi quản lý nhân

sự thông qua ủy quyền cho Phòng Giáo dục và Đào tạo.

Quy trình tuyển dụng giáo viên: Sở Giáo dục và Đào tạo thông báo nhu

cầu tuyển dụng giáo viên hàng năm, sau đó Sở Giáo dục và Đào tạo tham mưu

cho UBND Thành phố thành lập Hội đồng tuyển dụng. Kết quả tuyển dụng

80

giáo viên được Sở Giáo dục và Đào tạo và Sở Nội vụ trình UBND Thành phố

phê duyệt và những người trúng tuyển được phân công về các trường trên địa

bàn các quận, huyện. Một bất cập lớn hiện nay là ngành giáo dục không được

toàn quyền quyết định phân bổ chỉ tiêu nhân sự ngành giáo dục. Bất cập này là

một trong các nguyên nhân dẫn đến cơ cấu giáo viên các trường phổ thông trên

địa bàn Thành phố không đồng bộ, có nơi thừa nơi thiếu.

Công tác đào tạo giáo viên tuy đã có quy định là UBND Thành phố chịu

trách nhiệm về đào tạogiáo viên THCS trở xuống nhưng vẫn thiếu các quy

định cụ thể về trách nhiệm của Bộ Giáo dục - Đào tạo và UBND các cấp

trong đào tạo giáo viên (46,8% hoàn toàn đồng ý, 2,6% phần nào đồng ý; xem

bảng 2.2, câu hỏi 14). Đây có thể là một trong các nguyên nhân dẫn đến việc

đào tạo giáo viên các trường phổ thông trên địa bàn Thành phố hiện nay chưa

đáp ứng được yêu cầu nâng cao chất lượng giáo viên.

Bảng 3.3. Khảo sát đánh giá mức độ phân cấp về bộ máy, nhân sự

trong GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội

Câu hỏi*

Hoàn toàn đồng ý (%) 46,8 Phần nào đồng ý (%) 2,6 Không có ý kiến (%) 16,3 Phần nào không đồng ý (%) 4,4 Hoàn toàn không đồng ý (%) 9,9 Câu hỏi 14

33,2 28,9 11,1 13,4 13,4 Câu hỏi 15

31,3 25,8 14,7 13,1 15,1 Câu hỏi 16

36,8 19,0 9,9 19,80 14,6 Câu hỏi 17

* Danh mục các câu hỏi trong phần Phụ lục

Nguồn: Kết quả điều tra xã hội học của tác giả

Trong bồi dưỡnggiáo viên, tuy đã có quy định về trách nhiệm và quyền

hạn của UBND Thành phố, Sở và Phòng Giáo dục và Đào tạo nhưng việc

chuẩn hóa cán bộ, giáo viên còn rất khó khăn, vì vậy Bộ Giáo dục và Đào tạo

cần có những hướng dẫn cụ thể để giải quyết với những cán bộ, giáo viên này

(31,3% nhất trí, 25,8% phần nào nhất trí; xem bảng 2.2, câu hỏi 16).

81

Giải pháp cho việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên các ý kiến đều cho rằng để

nâng cao chất lượng của đội ngũ giáo viên và những bất cập hiện nay việc đào

tạo giáo viên từ THCS trở xuống và bồi dưỡng giáo viên trên địa bàn Thành phố

cần giao cho Sở Giáo dục và Đào tạo quản lý và thực hiện.

Điều động, biệt phái cán bộ, giáo viên trong phạm vi các đơn vị trực thuộc

Sở Giáo dục và Đào tạo do Sở Giáo dục và Đào tạo xem xét quyết định; điều

động, biệt phái cán bộ, giáo viên trong phạm vi các đơn vị trực thuộc Phòng

Giáo dục và Đào tạo do Phòng Giáo dục và Đào tạo xem xét quyết định.

Điều động, biệt phái cán bộ, giáo viên từ các đơn vị trực thuộc Sở Giáo dục

và Đào tạo sang các đơn vị trực thuộc Phòng Giáo dục và Đào tạo hoặc ngược

lại: Sau khi có ý kiến chấp thuận của nơi cho viên chức đi và ý kiến chấp thuận

của Phòng Giáo dục và Đào tạo, Phòng Nội vụ nơi tiếp nhận cán bộ, giáo viên

đến hoặc ngược lại, do Sở Giáo dục và Đào tạo xem xét quyết định.

Điều động, biệt phái cán bộ, giáo viên từ các đơn vị trực thuộc Phòng

Giáo dục và Đào tạo này sang các đơn vị trực thuộc Phòng Giáo dục và Đào

tạo kia: Sau khi có ý kiến chấp thuận của Phòng Giáo dục và Đào tạo, Phòng

Nội vụ nơi cho cán bộ, giáo viên đi và ý kiến chấp thuận của Phòng Giáo dục

và Đào tạo, Phòng Nội vụ nơi cho cán bộ, giáo viên đến, Sở Giáo dục và Đào

tạo xem xét quyết định.

Thuyên chuyển giáo viên trong phạm vi Thành phố: Đối với giáo viên

THPT, Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo chuyển theo ngành; đối với giáo viên

THCS vàTiểu học do UBND các quận, huyện quyết định. Điều này dẫn đến việc

tình trạng ngành giáo dục không nắm được thông tin, gây khó khăn rất nhiều cho

việc xây dựng kế hoạch giáo dục, chất lượng giáo viên không đáp ứng được yêu

cầu và cũng gây khó khăn cho giáo viên khi có nguyện vọng chuyển trường.

Thuyên chuyển giáo viên phạm vi ngoài Thành phố: Trên cơ sở biên bản

của Hội đồng xét thuyên chuyển giáo viên của các quận, huyện, Giám đốc Sở

Giáo dục và Đào tạo ký duyệt danh sách đề nghị Sở Nội vụ ra quyết định. Khi

tiếp nhận giáo viên từ tỉnh khác chuyển về, Sở Nội vụ căn cứ đề nghị của

Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo để ra quyết định.

82

Về thực trạng phân cấp quản lý nhân sự, các ý kiến đều cho rằng nếu Sở

Giáo dục và Đào tạo quản lý toàn diện về nhân sự sẽ sắp xếp, điều tiết được

nhân sự phù hợp với đặc điểm của ngành, tạo điều kiện phát triển GDPT.

Trong những năm tới cần phân cấp quản lý nhân sự nhiều hơn cho các quận,

huyện và các trường phổ thông.

Hai là, thực trạng phân cấp trong quản lý tài chính và cơ sở vật chất

Theo Nghị định số 127/2018/NĐ-CP ngày 21/9/2018 của Chính phủ quy định

trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục, việc phân cấp được tiến hành như sau:

HDND thành phố Hà Nội quyết định mức thu học phí hàng năm đối với các

cơ sở giáo dục công lập thuộc phạm vi quản lý nhà nước của tỉnh theo quy định

của pháp luật trên cơ sở trình UBND cấp tỉnh( Sở Giáo dục và đào tạo tham mưu).

UBND thành phố Hà Nội bố trí đúng, đủ ngân sách nhà nước chi cho giáo

dục tại địa phương theo quy định; quản lý, kiểm tra việc sử dụng ngân sách

nhà nước chi cho giáo dục theo quy định của Luật ngân sách nhà nước và

phân cấp quản lý ngân sách hiện hành nhằm đáp ứng các điều kiện bảo đảm

chất lượng giáo dục; thực hiện thu, sử dụng học phí và các khoản thu hợp

pháp khác đối với các cơ sở giáo dục công lập thuộc tỉnh; thực hiện chính

sách xã hội hóa giáo dục, huy động các nguồn lực hợp pháp để phát triển giáo

dục tại địa phương. Bố trí đủ quỹ đất dành cho các cơ sở giáo dục theo chiến

lược, kế hoạch phát triển giáo dục tại địa phương.

UBND cấp huyện bảo đảm đủ các điều kiện về tài chính, tài sản, cơ sở

vật chất và quỹ đất theo quy định; thực hiện chính sách xã hội hóa giáo dục,

huy động các nguồn lực để phát triển giáo dục; ban hành các quy định để bảo

đảm quyền tự chủ, trách nhiệm giải trình về thực hiện nhiệm vụ và chất lượng

giáo dục đối với các cơ sở giáo dục thuộc thẩm quyền quản lý.

UBND cấp xã đầu tư hoặc tham gia đầu tư xây dựng các trường mầm

non, tiểu học, trung học cơ sở, trường phổ thông có nhiều cấp học trong đó có

cấp học cao nhất là trung học cơ sở, trung tâm học tập cộng đồng theo quy

định của Ủy ban nhân dân cấp huyện; phối hợp với các đơn vị có liên quan

83

tham mưu Ủy ban nhân dân cấp huyện xây dựng trường chuẩn quốc gia, kế

hoạch sử dụng đất dành cho các cơ sở giáo dục trên địa bàn.

Sở Giáo dục và đào tạo trình Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội quyết

định: Xây dựng dự toán ngân sách giáo dục, quyết định phân bổ, giao dự toán

ngân sách đối với các cơ sở giáo dục trực thuộc sau khi được cấp có thẩm

quyền phê duyệt; duyệt quyết toán, thông báo quyết toán năm và tổng hợp báo

cáo quyết toán ngân sách của các cơ sở giáo dục trực thuộc; phối hợp với Sở

Tài chính, Sở Kế hoạch và Đầu tư xác định, cân đối ngân sách nhà nước chi

cho giáo dục hằng năm của địa phương trình cấp có thẩm quyền; hướng dẫn,

thanh tra, kiểm tra việc cấp, sử dụng ngân sách nhà nước và các nguồn tài

chính hợp pháp khác cho giáo dục trên địa bàn tỉnh.Hướng dẫn, tổ chức thực

hiện huy động các nguồn lực để phát triển giáo dục, bảo đảm quyền tự chủ, tự

chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục trực thuộc; quản lý tài chính, tài sản,

cơ sở vật chất được giao theo quy định của pháp luật.

Phòng Giáo dục và đào tạo cũng xây dựng dự toán, gửi Phòng Tài chính - Kế

hoạch thẩm định, trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện phê duyệt phương án

phân bổ, giao dự toán ngân sách cho các cơ sở giáo dục công lập thuộc phạm vi

quản lý của Ủy ban nhân dân cấp huyện; phối hợp với Phòng Tài chính - Kế hoạch

hướng dẫn, kiểm tra việc cấp, sử dụng ngân sách nhà nước và các nguồn tài chính

hợp pháp khác đối với các cơ sở giáo dục trên địa bàn huyện theo quy định.

Lưu ý: Ngoài những nội dung trên, UBND thành phố Hà Nội có thể phân

cấp, ủy quyền cho Ủy ban nhân dân cấp huyện, Sở Giáo dục và Đào tạo thực

hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền quản lý nhà nước về giáo

dục của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. UBND cấp huyện có thể phân cấp, ủy

quyền cho Ủy ban nhân dân cấp xã, Phòng Giáo dục và Đào tạo thực hiện một

hoặc một số nhiệm vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền quản lý nhà nước về giáo

dục của Ủy ban nhân dân cấp huyện.

Trên cơ sở những quy định pháp lý chung, thành phố Hà Nội đã tiến

hành cấp ngân sách cho một số cơ sở GDPT trên địa bàn thành phố Hà Nội

những năm vừa qua như sau:

84

Bảng 3.4. Bảng thống kê cấp ngân sách các trường công lập

(Đơn vị tính: đồng)

trên địa bàn Hà Nội

TT

Đơn vị

Quận

Năm 2016

Năm 2017

Năm 2018

Ghi chú

6.104.638.000

trực

chuyên thuộc

1.

4.629.363.000

Hoàn Kiếm

Trường tiểu học Bình Minh

12.609.093.000

trực

chuyên thuộc

2.

12.010.962.000

Hai Bà Trưng

Trường PTCS Nguyễn Đình Chiểu

7.652.841.000

trực

chuyên thuộc

3.

7.972.975.000

Đống Đa

Trường PTCS Xã Đàn

Trường biệt Sở GD&ĐT Trường biệt Sở GD&ĐT Trường biệt Sở GD&ĐT

4.

11.218.288.000

12.983.211.000 12.898.476.000

5.

Đống Đa Đông Anh

7.629.499.000

8.920.770.000

8.920.846.000

6.

Sóc Sơn

8.782.647.000

10.512.371.000

11.095.800.000

7.

37.197.618.000

30.969.137.000

42.817.863.000

8.

Cầu Giấy Hà Đông

27.161.941.000

32.496.702.000

9.

Ba Vì

6.772.391.000

9.607.317.000

30.062.999.000 8.478.783.000

10.

Tây Hồ 21.313.697.000

26.712.336.000

22.123.224.000

11.

Ba Đình 13.718.420.000

14.209.530.000

13.114.703.000

12.

12.477.276.000

11.703.847.000

13.

9.659.854.000

10.981.948.000

10.445.244.000

14.

10.014.751.000

11.774.118.000

11.960.531.000

15.

9.778.105.001

10.102.280.000

10.192.908.000

16.

Hai Bà Trưng 11.028.950.000 Thanh Trì Hoàng Mai Từ Liêm Hoài Đức

14.578.751.001

15.099.138.000

13.441.283.000

17.

20.974.193.000

19.397.081.000

18.

Trường THPT Kim Liên Trường THPT Đông Anh Trường THPT Sóc Sơn Trường THPT chuyên Hà Nội- Amsterdam Trường THPT chuyên Nguyễn Huệ Trường THPT Bất Bạt Trường THPT Chu Văn An Trường THPT Phan Đình Phùng Trường THPT Trần Nhân Tông Trường THPT Ngọc Hồi Trường THPT Việt Nam - Ba Lan Trường THPT Xuân Đỉnh Trường THPT Hoài Đức A Trường THPT Sơn Tây Trường THPT Xuân Mai

Sơn Tây 17.729.818.000 Chương Mỹ

11.768.581.001

12.970.360.000

12.985.632.000

Nguồn: Sở Giáo dục và đào tạo thành phố Hà Nội

85

Quy trình xây dựng và phê duyệt ngân sách giáo dục: Cơ quan quản lý

giáo dục phối hợp với cơ quan kế hoạch và tài chính xây dựng dự thảo kế

hoạch ngân sách, sau đó trình UBND các cấp phê duyệt. Việc phân bổ ngân

sách giáo dục trên địa bàn Hà Nội do UBND Thành phố quyết định.

Quy trình cấp phát ngân sách giáo dục: Quy trình cấp phát ngân sách

giáo dục được thực hiện theo các quy định sau:

1) Sở Tài chính cấp kinh phí cho khối trường trực thuộc thông qua Sở

Giáo dục và Đào tạo, số trường còn lại cấp thông qua Phòng Tài chính huyện.

2) Sở Tài chính cấp kinh phí cho khối trường trực thuộc thông qua Sở

Giáo dục và Đào tạo, số trường còn lại giao cho UBND cấp huyện quản lý,

sau đó Phòng Tài chính huyện phân bổ cho Phòng Giáo dục và Đào tạo để

phân cho các trường.

Như vậy, khi kinh phí được cấp phát trực tiếp từ các cơ quan tài chính có

thể dẫn đến kinh phí cấp cho giáo dục bị cắt xén để chi cho các mục tiêu khác.

Kinh phí cấp thông qua ngành giáo dụccũng có những bất cập do ngành có

nhiều cấp trung gian dễ dẫn đến sự chậm trễ. Cấp kinh phí giáo dục thông qua

UBND cấp huyện có ưu điểm là bộ máy quản lý tài chính địa phương quản lý

tốt hơn so với ngành giáo dục, đồng thời gắn được trách nhiệmcủa địa phương

vào việc huy động các nguồn lực để phát triển giáo dục.

Các ý kiến đều cho rằng cần có quyền hạn tài chính khi thực hiện kế

hoạch giáo dục. Tuy nhiên, cần hiểu quyền hành về tài chính giáo dục chỉ giới

hạn trong khâu lập kế hoạch và phân bổ ngân sách, vì trong thực tế thực hiện

Luật Ngân sách phải phân cấp cho UBND cấp huyện quản lý nên phần lớn

cấp tỉnh không giữ được quyền quản lý ngân sách toàn diện như trước. Nhìn

chung, phân cấp quản lý tài chính cho cấp huyện sẽ dẫn đến khó khăn cho

ngành giáo dục trong việc lập kế hoạch phát triểnkhi mà các thông tin ngân

sách giáo dục không được công khai và các đơn vị giáo dục không được tham

gia vào việc lập kế hoạch ngân sách.

86

Ngoài ra, còn có một số khó khăn khác đối với quản lý tài chính hiện nay

là việc thực hiện Luật Ngân sách đòi hỏi các trường cần có đội ngũ kế toán

chuyên nghiệp, có trình độ chuyên môn cao. Hiện nay Phòng Giáo dục và

Đào tạo ở các quận, huyện không trực tiếp quản lý các trường phổ thông

nhưng lại vẫn phải quản lý quỹ lương và thanh quyết toán cho khối này dẫn

đến quá tải trong công việc. Ở khía cạnh khác, các trường phổ thông hiện nay

không biết số kinh phí hoạt động của trường mình được cấp trong năm học là

bao nhiêu nên không có căn cứ để lập kế hoạch.

Bảng 3.5. Khảo sát đánh giá mức độ phân cấp trong quản lý tài chính

trong GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội

Hoàn toàn Phần nào Không có Phần nào Hoàn toàn

đồng ý đồng ý ý kiến không không Câu hỏi* (%) (%) (%) đồng ý (%) đồng ý (%)

Câu hỏi 18 36,4 20,9 19,4 8,3 15,0

Câu hỏi 19 53,0 20,6 14,6 6,3 5,5

* Danh mục các câu hỏi trong phần Phụ lục

Nguồn: Kết quả điều tra xã hội học của tác giả

Đánh giá về thủ tục ngân sách, nhiều ý kiến cho rằng các quy định hiện

hành về phân bổ, cấp phát ngân sách gây khó khăn cho Sở, Phòng Giáo dục

và Đào tạo và nhà trường phổ thông (36,4% hoàn toàn đồng ý, 20,9% phần

nào đồng ý; xem bảng 2.3, câu hỏi 18).

Kết quả khảo sát cán bộ quản lý giáo dục ở Sở, Phòng Giáo dục và Đào

tạo; Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng, giáo viên các trường phổ thông về mức độ

tự chủ về các chức năng chuyên môn chính: chương trình, nhân sự và tài

chính của các trường phổ thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội như sau:

87

Bảng 3.6. Mức độ tự chủ về chương trình, nhân sự và tài chính

của các trường phổ thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội

Mức độ Số Nội dung đánh giá Tỷ lệ % đánh giá người

Tự chủ 127 74,71% Quyền tự chủ thực hiện chương trình

Không tự chủ 43 25,29% kế hoạch dạy học

Hoàn toàn 34 20% Mức độ tự chủ trong thực hiện Một phần 120 70,59% chương trình kế hoạch dạy học Rất ít 16 9,41%

Tư chủ 110 64,71% Quyền tự chủ về nhân sự (tuyển

chọn, sử dụng, thuyên chuyển cán Không tự chủ 60 35,29% bộ, giáo viên…)

Hoàn toàn 25 14,71% Mức độ tự chủ trong thực hiện quyền Một phần 123 72,35% tự chủ về nhân sự Rất ít 22 12,94%

Quyền tự chủ về tài chính (huy động, Tự chủ 122 71,76%

quản lý và sử dụng các nguồn tài Không tự chủ 48 28,24% chính, tài sản)

Hoàn toàn 33 19,41% Mức độ tự chủ trong thực hiện quyền Một phần 111 65,29% tự chủ về tài chính Rất ít 26 15,29%

Nguồn: Kết quả điều tra xã hội học của nghiên cứu sinh

Kết quả điều tra cho thấy, các trường phổ thông trên địa bàn Thành phố

hiện nay rất ít được trao quyền tự chủ về thực hiện chương trình kế hoạch dạy

học, quyền tự chủ nhân sự, và quyền tự chủ tài chính.

88

Ba là, thực trạng phân cấp về chuyên môn

Đây là chức năng quản lý GDPT được thực hiện theo hướng tập trung

hoá mạnh mẽ về chính quyền trung ương. Theo Luật Giáo dục 2009 và Nghị

định 127/2018/NĐ-CP:

Bộ Giáo dục và đào tạo ban hành chương trình giáo dục phổ thông; quy

định việc tổ chức biên soạn, thẩm định, phê duyệt được phép sử dụng và

hướng dẫn lựa chọn tài liệu học tập, sách giáo khoa, tài liệu giảng dạy trong

các cơ sở giáo dục phổ thông; Ban hành quy chế thi cử; quy định việc kiểm

tra và đánh giá người học; quy định văn bằng, chứng chỉ trong hệ thống giáo

dục quốc dân và việc công nhận văn bằng do cơ sở giáo dục nước ngoài cấp

cho người Việt Nam. Chủ trì xây dựng hiệp định về tương đương văn bằng

hoặc công nhận lẫn nhau về văn bằng với các nước, tổ chức quốc tế; Ban hành

chuẩn quốc gia đối với cơ sở giáo dục thuộc phạm vi quản lý nhà nước của bộ

theo khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân và khung trình độ quốc gia

Việt Nam; quy định tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục; quy trình và chu

kỳ kiểm định chất lượng giáo dục ở các cấp học và các trình độ đào tạo thuộc

phạm vi quản lý nhà nước của bộ

Ở địa phương, Hội đồng nhân dân quyết định kế hoạch, chương trình,

dự án, chính sách phát triển giáo dục, phân luồng, hướng nghiệp học sinh tại

địa phương phù hợp với chiến lược phát triển ngành giáo dục và kế hoạch

phát triển kinh tế - xã hội của địa phương trên cơ sở trình của UBND. UBND

cấp huyện đáp ứng các điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục, tiến tới tổ

chức học 02 buổi/ngày đối với giáo dục tiểu học, trung học cơ sở; chịu trách

nhiệm giải trình về hoạt động giáo dục, chất lượng giáo dục, quản lý đội ngũ

công chức, viên chức, người lao động và người học, thực hiện chính sách phát

triển giáo dục thuộc phạm vi quản lý.

Trên cơ sở quy định chung đó, việc phân cấp về chuyên môn ở thành phố

Hà Nội được tiến hành như sau:

89

Việc lập kế hoạch phát triển GDPT được thực hiện theo từng bước từ cấp

thấp đến cấp cao (Trường - Phòng-Sở GD&ĐT). Bước đầu tiên, từng trường phổ

thông xây dựng kế hoạch dựa trên cơ sở đánh giá việc thực hiện kế hoạch phát

triển GDPT của năm trước và mục tiêu, nhiệm vụ đề ra cho năm kế hoạch mới.

Bước tiếp theo, Phòng và Sở GD&ĐT là các đơn vị tổng hợp, xem xét điều chỉnh

kế hoạch để hoàn thiện và bước cuối cùng, các ngành chức năng (Sở Nội vụ, Sở

Kế hoạch-Đầu tư và Sở Tài chính) xem xét, điều chỉnh kế hoạch và tham mưu

trình UBND Thành phố phê duyệt.

Kết quả điều tra cho thấy, quy trình lập kế hoạch phát triển GDPT hiện nay

được thực hiện từ cấp thấp đến cấp cao: Trường - Phòng - Sở GD&ĐT (73% hoàn

toàn đồng ý; 11,4% phần nào đồng ý; xem bảng 2.1, câu hỏi 6).

Trong thực tế, việc lập kế hoạch phát triển GDPT tại nhiều trường còn mang

tình hình thức do việc lập kế hoạch tại các trường thường là chậm và nhiều khi số

liệu chênh lệch với số liệu của Sở Giáo dục và Đào tạo nên Sở Giáo dục và Đào

tạo thường phải chủ động lập kế hoạch phát triển GDPT cho cả Thành phố để kịp

phê duyệt cho năm học mới (46,4% đồng ý so với 40,4% không đồng ý; xem bảng

2.1, câu hỏi 5). Vì vậy, trong nhiều trường hợp kế hoạch phát triển GDPT được

phê duyệt chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế. Trong khâu lập kế hoạch, ngành

giáo dục thường gặp khó khăn do nhiều văn bản hướng dẫn từ Bộ Giáo dục và

Đào tạo về lập kế hoạch còn chưa cập nhật với thực tiễn, nhất là cơ chế phối hợp

giữa cơ quan quản lý giáo dục và các cơ quan chức năng của các quận, huyện,

thành phố chưa rõ ràng.

Trách nhiệm thực hiện kế hoạch GDPT được đánh giá là đã gắn với quyền

hạn về nhân sự (46,6% hoàn toàn đồng ý, 25,6% phần nào đồng ý; xem bảng 2.1,

câu hỏi 7); gắn với quyền hạn về nhân sự (49,4% hoàn toàn đồng ý, 28,3% phần

nào đồng ý; xem bảng 2.1, câu hỏi 8).

90

Bảng 3.7. Khảo sát đánh giá mức độ phân cấp trong kế hoạch phát triển

GDPT, xây dựng nội dung, chương trình GDPT

Hoàn toàn Phần nào Không có Phần nào Hoàn toàn

đồng ý đồng ý ý kiến không không Câu hỏi* đồng ý (%) đồng ý (%) (%) (%) (%)

20.8 25,6 13,2 12,8 27,6 Câu hỏi 5

73,2 11,4 4,7 5,9 4,7 Câu hỏi 6

46,6 25,6 9,8 13,0 5,0 Câu hỏi 7

49,4 28,3 4,7 13,0 4,6 Câu hỏi 8

65,5 20,2 6,3 4,3 3,7 Câu hỏi 9

53,6 18,8 12,8 4,0 10,8 Câu hỏi 10

52,6 23,9 6,3 10,8 6,4 Câu hỏi 11

43,8 10,9 5,6 8,7 31,0 Câu hỏi 12

59,0 17,9 10,0 9,2 4,0 Câu hỏi 13

* Danh mục các câu hỏi trong phần Phụ lục

Nguồn: Kết quả điều tra xã hội học của nghiên cứu sinh

Việc xây dựng nội dung, chương trình GDPT hiện nay đã thể hiện trách

nhiệm tham gia của cán bộ quản lý giáo dục, tuy nhiên còn thiếu cơ chế quy

định trách nhiệm để cán bộ quản lý giáo dục tham gia xây dựng sách giáo

khoa (65,5% nhất trí so với 20,2% không nhất trí; xem bảng 2.1, câu hỏi 9).

Về biên soạn sách giáo khoa, nhiều ý kiến cho rằng còn thiếu cơ chế để

cán bộ quản lý giáo dục các cấp có trách nhiệm tham gia xây dựng sách giáo

khoa (53,6% hoàn toàn đồng ý, 18,8% phần nào đồng ý; xem bảng 2.1, câu

10). Các ý kiến trả lời đều cho rằng, thành lập Hội đồng biên soạn sách giáo

khoa cần có sự tham gia rộng rãi của các chuyên gia ở địa phương nhằm nâng

cao chất lượng và gắn với thực tiễn của địa phương.

91

Về thiết bị dạy học, một số ý kiến cho rằng đã có quy định tương đối rõ

về trách triệm của từng cấp quản lý giáo dục (Bộ, Sở, Phòng) trong xây dựng

danh mục các thiết bị dạy học, thẩm định mẫu, mua sắm, cung cấp, sử dụng,

quản lý trang thiết bị dạy học (43,8% đồng ý so với 31% không đồng ý; xem

bảng 2.1, câu hỏi 12).

Nhiều ý kiến cho rằng, cần cho các trường phổ thông quyền tự mua sắm

tài liệu, trang thiết bị dạy học bằng nguồn kinh phí của nhà trường. Một số ý

kiến cho rằng, ngân sách đầu tư cho sách giáo khoa, trang thiết bị dạy học

hiện nay quá ít (chiếm 0,5 - 1%) và cần nghiên cứu tăng kinh phí cho các

hạng mục này lên 3% - 4% đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng GDPT.

Đánh giá chất lượng GDPT, nhiều ý kiến cho rằng các văn bản pháp luật

của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có quy định cụ thể về trách nhiệm đánh giá

chất lượng GDPT giữa các cấp quản lý (52,6% hoàn toàn đồng ý, 23,9% phần

nào đồng ý; xem bảng 2.1, câu hỏi 11) và sự phân công trách nhiệm giữa các

cấp quản lý trong việc ra đề thi, coi thi, chấm thi, duyệt kết quả thi là hợp lý

(59% hoàn toàn đồng ý, 17,9% phần nào đồng ý; xem bảng 2.1, câu hỏi 13).

Nhiều ý kiến cho rằng việc quản lý chất lượng GDPT nên quy về một mối là

Sở Giáo dục và Đào tạo; phân cấp tổ chức thi và cấp bằng tốt nghiệp PHTH

và THCS giao cho Sở Giáo dục và Đào tạo, Phòng Giáo dục và Đào tạo tổ

chức kiểm tra, đánh giá và cấp giấy chứng nhận cho khối Trung học vì hiện

nay Phòng Giáo dục và Đào tạo không đủ nhân lực để thực hiện đánh giá

chuyên môn.

3.2.2. Đánh giá chung về thực trạng phân cấp quản lý nhà nước về giáo

dục phổ thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội

3.2.2.1. Những kết quả đạt được

Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, trong những năm qua công tác

quản lý nhà nước về GDPT ở nước ta đã có nhiều đổi mới. Tư duy quản lý

nhà nước chuyển từ kế hoạch hóa tập trung quan liêu sang phân cấp, tự chủ và

92

tự chịu trách nhiệm. Phương thức quản lý chuyển từ một chiều, theo quan hệ

dọc từ trên xuống sang quan hệ tương tác dọc - ngang đa chiều, lấy đơn vị cơ

sở làm trung tâm. quản lý nhà nước về GDPT đương nhiên cũng phải vận

hành theo cơ chế vận hành mới. Đổi mới quản lý nhà nước về GDPT phải

chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu sang cơ chế thị trường có sự phân cấp,

tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm và lấy nhà trường làm cơ sở.

Nhìn chung, các quy định về phân cấp quản lý nhà nước về GDPT đã kế

thừa có chọn lọc các quy định phân cấp quản lý của các bậc học khác trong hệ

thống giáo dục quốc dân, do đó phân cấp phân cấp quản lý nhà nước về

GDPTvề cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong quản lý nhà nướcvề

giáo dục của địa phương.

Phân cấp phân cấp QLNN về GDPT đã kết hợp các nội dung về phân cấp

trong quản lý chuyên môn, quản lý nhân sự, quản lý tài chính. Các quy trình

công việc đã được thực hiện đúng nguyên tắc, đảm bảo hoạt động quản lý

giáo dục được diễn ra đúng kế hoạch, đáp ứng được nhu cầu quản lý.

Việc thực hiện các quy định về phân cấp QLNN về GDPT đã đáp ứng

được yêu cầu, nhiệm vụ cải cách hành chính Nhà nước, cải cách giáo dục, bảo

đảm nguyên tắc tập trung dân chủ và nguyên tắc kết hợp giữa quản lý theo

ngành và quản lý theo lãnh thổ.

Phân QLNN về GDPT bước đầu đã phát huy tính năng động, tự chủ, tự

chịu trách nhiệm của các cơ quan quản lý giáo dục và các trường phổ thông, góp

phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan, đơn vị giáo dục.

Chính quyền thành phố Hà Nội đã quản lý thống nhất đối với các cơ sở

GD&ĐT, tạo điều kiện để các cơ sở đó cùng phát triển ổn định, lâu dài; bảo

đảm lợi ích của từng cá nhân, tập thể và toàn xã hội; phân cấp quản lý, gắn

quyền hạn với trách nhiệm của từng cấp quản lý nhà nước về giáo dục, của

tập thể và cá nhân người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước các cấp;

gắn phân cấp nhiệm vụ với phân cấp quản lý về tài chính, tổ chức nhân sự và

bảo đảm các điều kiện vật chất khác.

93

Tách bạch quản lý nhà nước ra khỏi việc điềuhành công việc thường

xuyên của cơ sở. Một mặt trao cho cơ sở giáo dục đầy đủ quyền tự chủ và

trách nhiệm; mặt khác bảo đảm quyền sở hữu và vai trò của đại diện chủ sở

hữu trong các cơ sở giáo dục công lập và ngoài công lập.

3.2.2.2. Những hạn chế

Một là, những bất cập trong phân cấp về tổ chức bộ máy, nhân sự quản

lý nhà nước về giáo dục phổ thông và nhân sự

Kết quả khảo sát thực trạng về tổ chức bộ máy quản lý đối với GDPT

trên địa bàn Thành phố cho thấy, một số điểm còn bất cập và chưa thống nhất

trong hệ thống quản lý. Các biểu hiện cụ thể như sau:

Thứ nhất, phân cấp về tổ chức bộ máy quản lý nhà nước

Chức năng, nhiệmvụ của các cơ quan quản lý giáo dụctrên địa bàn thành

phố Hà Nội chưa đi đôi với quyền hạn. Các cơ quan quản lý giáo dục địa

phương phải gánh trọng trách nặng nề trong việc triển khai các chính sách,

chương trình giáo dục trên địa bàn. Để thực hiện được các chức năng, nhiệm

vụ này một cách hiệu quả các cơ quan quản lý giáo dục địa phương phải phải

có các quyền hạn nhất địnhtrong việc huy động, bố trí sử dụng nhân sự, cũng

như trong việc huy động, phân bổ các nguồn tài chính kịp thời và phù hợp với

mục đích công việc triển khai. Kết quả điều tra cho thấy, các cơ quan quản

lýgiáo dục địa phương chưa được trao quyền hạn phù hợp với chức năng,

nhiệm vụ, nhất là các quyền hạn trong vấn đề nhân sự và tài chính.

Một số văn bản pháp quy về phân cấp quản lý nhà nước về GDPT có quy

định, quản lý nhà nước về GDPT không chỉ do các cơ quan quản lý về giáo

dục thực hiện mà các cơ quan, tổ chức khác cũng có trách nhiệm tham gia, tuy

nhiên ai chịu trách nhiệm về vấn đề gì, chịu trách nhiệm đến đâu vẫn chưa có

quy định cụ thể. Khi chưa xác định được rõ ràng chức năng, nhiệm vụ và

quyền hạn của từng cơ quan, tổ chức thì không thể xác định được cơ cấu tổ

chức bộ máy hợp lý và cũng không thể xác đinh được biên chế, nhân sự, trình

độ của đội ngũ cán bộ cần có để thực hiện nhiệm vụ.

94

Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý giáo dục thành phố Hà Nội chưa theo kịp

sự phát triển của GDPT, có những mảng công việc mới chưa có bộ máy quản

lý. Bộ máy quản lý giáo dục trên địa bàn Thành phố chưa bao quát hết các

mảng công việc mới phát sinh. Trong những năm gần đây, chức năng nhiệm

vụ của các cơ quan quản lý giáo dục có nhiều thay đổi theo nội dung phân

cấp, nhiều công việc quản lý mới phát sinh, ví dụ như việc đưa tin học vào

các trường phổ thông, sử dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy, kiểm tra

đánh giá; triển khai hàng loạt các dự án cấp tiểu học, THCS; phổ cập

GDPT… Trên địa bàn Thành phố hiện nay cơ cấu tổ chức bộ máy vẫn chưa

theo kịp tìnhhình, chưa có đủcác bộ phận quản lý các mảng công việc mới.

Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý giáo dục trong

mối quan hệ với các cơ quan chức năng chưa được quy định hợp lý. Theo các

văn bản phân cấp quản lý, chức năng quản lý GDPT hiện nay bị chia cắt

thành nhiều phần việc cho các cơ quan quản lý khác nhau phối hợp thực hiện.

Tuy nhiên, bản chất của sự phối hợp nàynhư thế nào lại chưa có quy định cụ

thể. Hiệu quả quản lý GDPT trong các trường hợp này chủ yếu dựa vào sự

điều hành của lãnh đạo Thành phố và vào khả năng phối hợp tự phát của cơ

quan quản lý GDPT với các cơ quan chức năng khác.

Do phân cấp QLNN về GDPT chưa rõ nên sự phối hợp giữa các cơ quan,

tổ chức chưa thật hiệu quả.

Thứ hai, về quản lý nhân sự

Việc UBND Thành phố giao cho Sở Nội vụ quyền phê duyệt biên chế

và tuyển dụng nhân sự cho GDPTlà một bất cập. Cũng như hầu hết các tỉnh

thành phố khác, việc ngành giáo dục (đặc biệt là Phòng Giáo dục) không được

giao nhiệm vụ chủ trì, đầu mối tham mưu cho UBND cùng cấp trong tuyển

dụng giáo viên nên không chủ động được trong việc điều tiết cơ cấu, số lượng

theo môn học, cấp học. Do không nắm được các yêu cầu của các trường phổ

thong nên cơ cấu cán bộ quản lý giáo dục không sát với yêu cầu, chất lượng

không đảm bảo, không đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.

95

Có những nơi, ngành giáo dục thậm chí không được tham mưu, không

có sự phối hợp giữa ngành nội vụ và giáo dục. Đây là một trong những lý do

của tình trạng việc tuyển dụng không sát với thực tế, tạo ra nghịch lý thừa –

thiếu cục bộ như vừa qua tại một số địa phương [87].

Về tuyển chọn, đề bạt cán bộ quản lý GDPT.

Quá trình điều hành, quản lý gặp nhiều khó khăn xuất phát từ Thông tư

liên tịch số 11/2015/TTLT-BGD ĐT-BNV giữa Bộ Nội vụ và Bộ Giáo dục và

Đào tạo về phân cấp quản lý đối với lĩnh vực giáo dục. Theo Thông tư liên

tịch này thì cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên ngành giáo dục là do Phòng

Nội vụ quyết định nhưng chưa phân rõ quyết định những nội dung gì. Vì

Thông tư không quy định phù hợp, cụ thể nên có tình trạng có quận, huyện,

phó trưởng phòng GD&ĐT mới được bổ nhiệm hay giáo viên được tuyển về

các trường phổ thông mà Trưởng phòng GD&ĐT không hề hay biết.Ngành

GDPT có quá ít quyền hạn trong việc bổ nhiệm cán bộ quản lý của ngành,

nhất là hiệu trưởng, hiệu phó các nhà trường phổ thông.

Nhìn chung, phân định chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm chưa rõ ràng,

thiếu sự thống nhất giữa các cơ quan tham gia quản lý nhà nước về GDPT dẫn

đến tình trạng quản lý chồng chéo, thủ tục hành chính rườm rà. Việc chỉ đạo đối

với GDPT thiếu tập trung và chưa sâu sát, dẫn đến chậm trễ trong thực hiện công

việc, ảnh hưởng tới chất lượng GDPT.

Không thống nhất cơ cấu tổ chức và định biên của Sở Giáo dục và Đào

tạo và các Phòng Giáo dục và Đào tạo. Định biên của các Phòng Giáo dục và

Đào tạo quá thấp, không đủ cán bộ chuyên môn để chỉ đạo, điều hành nên

nhiều Phòng Giáo dục và Đào tạo đã phải sử dụng cả đội ngũ giáo viên tham

gia vào công tác quản lý, làm nảy sinh nhiều bất cập trọng chế độ chính sách,

ảnh hường đến chất lượng và hiệu quả quản lý GDPT.

Không thống nhất trong chỉ đạo giữa các phòng ban trong SởGiáo dục và

Đào tạo; giữa Phòng Tổ chức cán bộ với Phòng Giáo dục Tiểu học và Trung

96

học đã gây ra không ít khó khăn cho cấp dưới trong quá trình tổ chức thực

hiện nhiệm vụ.

Hai là, những hạn chế trong phân cấp về chuyên môn

Quản lý chuyên môn đối với GDPT hiện đang là vấn đề được nói đến

nhiều vì đã đến lúc phải có những cải cách từ tầm vĩ mô, như cách tiếp cận

mục tiêu, quan điểm và phương thức phát triển chương trình GDPT đến

những vấn đề cụ thể, như biên soạn sách giáo khoa, đổi mới nội dung, phương

pháp dạy học hay tin học hóa nhà trường,... Những vấn đề nổi cộm trong lĩnh

vực này được thể hiện khá phổ biến và đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất

lượng GDPT trên địa bàn Thành phố. Dưới đây là một số bất cập cụ thể:

Bản chất tập trung của chương trình GDPT là nhằm đáp ứng nhu cầu

phát triển của quốc gia và các địa phương. Hiện nay giáo viên các trường phổ

thông phải thực hiện trong khung thời gian cứng do Bộ Giáo dục và Đào tạo

quy định. Khung thời gian này chỉ đủ để giáo viên truyền tải kiến thức, không

có thời gian dành cho những hoạt động khác của học sinh. Chương trình

GDPT tập trung chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển toàn diện của học sinh,

chưa phù hợp với địa phương và chưa cho phép giáo viên quan tâm tới các

đối tượng học sinh khác nhau.

Thực tế GDPT trên địa bàn Thành phố cho thấy chương trình GDPT hiện

nay quá nặng, không thiết thực. Học sinh phải học nhiều kiến thức hàn lâm,

xa rời thực tế, không thật cần thiết. Tuy vậy, Sở Giáo dục và Đào tạo cũng

như các trường phổ thông trên địa bàn không thể thay đổi chương trình vì

chương trình GDPT hiện nay do Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định. Cán bộ

quản lý GDPT và giáo viên chưa được tham gia nhiều vào quá trình xây dựng

chương trình. Rõ ràng việc áp dụng chung một chương trình GDPT cho đối

tượng học sinh ở Thủ đô cũng giống như học sinh các tỉnh miền núi, hải đảo,

vùng sâu, vùng xa là không phù hợp. Bởi lẽ học sinh Thủ đô có điều kiện để

tiếp cận nhiều tri thức mới, hội nhập quốc tế, về cơ bản trình độ ngoại ngữ và

tin học khá tốt, nhu cầu, mong muốn và định hướng học tập cũng khác học

sinh các tỉnh thành khác.

97

Quản lý chuyên môn và phân phối chương trình GDPT còn cứng nhắc,

xa rời thực tế làm hạn chế sự chủ động, sáng tạo của các trường phổ thông.

Chỉ đạo của Bộ và Sở Giáo dục và Đào tạo còn mang tính áp đặt, chưa phù

hợp với thực tiễn của Thành phố.

Việc kiểm tra các hoạt động chuyên môn của các trường phổ thông hiện

nay còn mang tính hình thức, chưa thực chất, dễ gây ra tình trạng thực hiện

kiểu đối phó, chỉ nhằm đáp ứng yêu cầu của các đoàn kiểm tra hay thi đua vì

vậy đã không mang lại hiệu quả thiết thực.

Ba là, những hạn chế trong phân cấp về quản lý cơ sở vật chất, tài chính

Trong công tác quản lý tài chính, quy trình xây dựng và phê duyệt ngân

sách GDPT cũng gây nhiều khó khăn cho ngành giáo dục. Phân bổ ngân sách,

cấp phát tài chính phụ thuộc nhiều vào mức độ phối hợp hay mối quan hệ của

ngành giáo dục với các ngành chức năng. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn

của cơ quan quản lý giáo dục trên địa bàn thành phố Hà Nội còn chồng chéo

với các cơ quan chức năng khác. Những chồng chéo trách nhiệm có thể thấy

qua quản lý ngân sách và tài chính của ngành giáo dục. Về quản lý tài chính,

vai trò quyết định việc tham mưu phân bổ và quản lý tài chính đối với

GDPTchủ yếu thuộc về Sở Tài chính. Các cơ quan quản lý giáo dục tuy có

tham gia song chủ yếu với vai trò đề xuất, kiến nghị, ít có tác dụng. Chính vì

thế nhiều quận, huyện Phòng Tài chính không phối hợp chặt chẽ với Phòng

Giáo dục và đào tạo dẫn đến việc cấp phát kinh phí không kịp thời, gây khó

khăn cho các cơ sở giáo dục.

Theo quy trình cấp phát ngân sách thì kinh phí GDPT được cấp phát trực

tiếp từ cơ quan tài chính. Điều này dẫn đến việc kinh phí cho GDPT bị chậm

trễ hoặc dễ bị cắt xén để chi cho các mục tiêu phát triển khác của địa phương.

Ngoài ra, còn có một số khó khăn khác, như: Việc thực hiện Luật Ngân sách

nhà nước đòi hỏi các trường phổ thông cần có đội ngũ kế toán chuyên nghiệp,

nhưng phần lớn kế toán ở các trường phổ thông trên địa bàn Thành phố hiện

98

nay là kiêm nhiệm hoặc trình độ không đạt chuẩn quy định; Nhiều nơi Phòng

GD&ĐT không quản lý các trường phổ thông, nhưng lại quản lý quỹ lương và

thanh toán, quyết toán cho khối này dẫn đến quá tải trong công việc; GDPT

thường không biết trước tổng kinh phí hoạt động của mình theo năm (trừ quỹ

lương) nên khó lập kế hoạch phát triển GD...

Việc chi phải được thực hiện theo các định mức quy định nhưng các định

mức này lại thường lạc hậu, không phù hợp với những diễn biến của giá cả thị

trường. Nhiều khoản chi của nhà trường không được thanh toán do không nằm

trong danh mục các khoản chi theo quy định hoặc những khoản phát sinh nằm

ngoài dự toán. Ngân sách được duyệt thường ít hơn nhiều so với nhu cầu để đảm

bảo các mục tiêu đăng ký trong kế hoạch hàng năm của các trường làm ảnh

hưởng tới khả năng thực hiện các mục tiêu đề ra trong kế hoạch, nhất là các mục

tiêu về nâng cao chất lượng GDPT trên địa bàn Thành phố.

Việc huy động thêm các nguồn lực ngoài ngân sách được cấp cho các

trường phổ thông hiện nay còn hạn chế. Nguồn ngoài ngân sách mà các

trường có thể huy động dễ dàng nhất là học phí thì lại không được tự quyết

định mà phải dựa trên quyết định của UBND Thành phố.

Việc phân bổ ngân sách GDPT cho các địa phương hiện nay chưa dựa

trên các tiêu chí khoa học, mang tính cào bằng, mà dựa trên quy mô dân số

của các quận, huyện, không đảm bảo sự công bằng giữa các địa phương, đang

dựa trên dân số ở các độ tuổi đi học căn cứ quản lý hộ khẩu. Trong khi đó

thành phố Hà Nội, người dân ở các khu vực tỉnh thành khác đổ về với quá

trình di dư, đô thị hoá rất nhiều. Như vậy mức phân bổ ngân sách không còn

phù hợp với thực tế. Mặt khác,nhiều năm nay, tỷ lệ ngân sách cả nước cho

giáo dục hằng năm ở mức xấp xỉ 20%, tuy nhiên việc vận hành tài chính cho

ngành giáo dục còn nhiều bất cập. Cụ thể, về cơ chế quản lý ngân sách dành

cho giáo dục, đào tạo được phân cấp mạnh theo chiều dọc, cho các địa

phương và theo chiều ngang cho các bộ, ngành. Trong tổng chi ngân sách nhà

99

nước cho giáo dục thì ngân sách địa phương trực tiếp, quản lý sử dụng chiếm

tỷ trọng 89%, ngân sách do các bộ, ngành trung ương quản lý là 11%, trong

đó Bộ Giáo dục – đào tạo chỉ trực tiếp sử dụng, quản lý sử dụng gần 5%.[88]

Tuy nhiên cả Chính phủ, Bộ Tài Chính, Bộ Kết hoạch và đầu tư, Bộ Giáo dục

và đào tạo không giám sát được dòng tiền phân cấp cho thành phố được quản

lý, sử dụng ra sao và hiệu quả thế nào.

3.2.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế

Nhìn vào thực tế hiện nay GDPT ở nước ta vẫn ở giai đoạn “giao thời”

giữa mô hình quản lý cũ và mô hình quản lý mới. Phương thức quản lý về cơ

bản vẫn mang tính áp đặt từ ttên xuống, chưa phát huy được tính chủ động,

sáng tạo của đơn vị cơ sở. Về phía các cấp quản lý nhà nước về GDPT cấp

trên, trường phổ thông vẫn được coi là đơn vị thực hiện, chịu trách nhiệm thi

hành các mệnh lệnh hành chính và các quy định được truyền đạt từ cơ quan

quản lý nhà nước về GDPT cấp trên, việc lắng nghe, chia sẻ với đơn vị cơ sở

còn mang tính hình thức. Về phía các nhà trường, đa số cán bộ quản lý nhà

nước về GDPT chưa được đào tạo có hệ thống về quản lý nhà nước, làm việc

dựa vào kinh nghiệm cá nhân, tính chuyên nghiệp chưa cao. Năng lực điền

hành, quản lý của một bộ phận cán bộ quản lý nhà nước về GDPT còn bất cập

trong công tác tham mưu, xây dựng chính sách, chỉ đạo, tổ chức thực hiện và

thực thi công vụ. Kiến thức về pháp luật, về tổ chức bộ máy, về quản lý nhân

sự, nhất là về quản lý tài chính còn nhiều hạn chế dẫn đến hạn chế trong thực

thi trách nhiệm và thẩm quyền, đặc biệt khi được Nhà nước phân quyền tự

chủ, tự chịu trách nhiệm.

Những hạn chế trong phân cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn

Thành phố Hà Nội xuất phát từ các nguyên nhân chính sau đây:

Thứ nhất, nhận thức, quan điểm về các chủ trương, giải pháp phân cấp

quản lý nhà nước về GDPT giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo và chính quyền địa

phương các cấp chưa rõ ràng, rành mạch, thiếu sự nhất quán. Không ít người

100

lo ngại phân cấp quản lý mạnh trong GDPT sẽ dẫn đến tình trạng cục bộ,

phân tán, cát cứ, mất tập trung, khó quản lý. Trong tổ chức chỉ đạo thực hiện

các chức năng, nhiệm vụ được phân cấp còn thiếu quyết tâm, từ xây dựng,

ban hành các chương trình, kế hoạch đến tổ chức thực hiện; chưa chú trọng

đến công tác tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm.

Thứ hai, tư duy về quản lý GDPT của ngành giáo dục và các Bộ, ngành,

chính quyền địa phương chậm đổi mới trong điều kiện đã được Nhà nước phân

cấp quản lý nhà nước về GDPT. Chính quyền thành phố và ngành giáo dục Thủ

đô chưa thật sự quan tâm xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục

để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ đã được phân cấp.

Thứ ba, những hạn chế trong thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật

về phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông.

Các văn bản pháp quy về phân cấp quản lý nhà nước về GDPT quy định

chưa rõ nên có tình trạng nhiều ban, ngành tham gia vào quản lý GDPT. Điều

này ảnh hưởng nhất định đến hiệu quả quản lý GDPT trên địa bàn.

Bản chất của sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý GDPT trên địa bàn

với các cơ quan quản lý chức năng khác còn chưa được xác định cụ thể đã

gây ra không ít khó khăn trong công tác quản lý GDPT.

Để cho những chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước được nhanh

chóng đi vào cuộc sống, việc nghiên cứu kỹ lưỡng và khoa học để xây dựng

các văn bản pháp quy có tính khả thi là khâu rất quan trọng. Tuy nhiên, thực

tiễn cho ta thấy việc triển khai ở khâu này chưa thực sự khoa học, còn rất

nhiều vấn đề bất cập. Việc ban hành văn bản quy phạm còn thiếu tính hệ

thống, chồng chéo nên đã phải thay đổi nhiều lần. Một số văn bản quy phạm

ban hành chậm, chưa đáp ứng kịp thời với đòi hỏi của thực tiễn hoặc khi được

ban hành thì đã bị lạc hậu và bất cập so với thực tiễn. Sau khi Chính phủ ban

hành các Nghị định có liên quan đến giáo dục, các cơ quan chức năng ban

hành các văn bản hướng dẫn thực hiện các nghị định thường bị chậm.

101

Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý giáo dục địa

phương chưa được quy định cụ thể, rõ ràng. Các văn bản quy phạm pháp luật

hiện hành quy định chưa thống nhất chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các

cơ quan quản lý giáo dục. Có văn bản quy định bộ máy quản lý giáo dụcđịa

phương được giao quản lý toàn diện các mặt chuyên môn, tài chính, nhân sự,

nhưng có văn bản lại quy định cơ quan quản lý giáo dục địa phương chỉ quản

lý chuyên môn thuần túy và được giáo them một số chức năng, nhiệm vụ khác

trong quản lý nhân sự, tài chính.

Cho đến nay, vẫn còn thiếu nhiều các văn bản pháp quy chỉ đạo và quản

lý hoạt động quản lý đối với các trường phổ thông: Văn bản quy định cụ thể

về chế độ, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ thư viện, giáo viên giỏi; quy chế

hoạt động của các trường phổ thông chuyên; các văn bản về cộng tác coi thi,

chấm thi, thanh tra đối với GDPT cũng ban hành chậm.

Trong công tác quản lý chuyên môn, chỉ đạo thi và đánh giá xếp loại học

sinh, có nhiều văn bản hướng dẫn và được bổ sung, nhiều nhưng vẫn thiếu

nên cán bộ, giáo viên dễ bị nhầm lẫn khi áp dụng. Có một số văn bản quy

phạm về GDPT nhưng khi đưa vào thực hiện đã phát hiện ra những mâu

thuẫn hoặc không có tính khả thi.

Một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, giáo viên còn chưa hợp lý,

không kịp thời hoặc do ban hành đã quá lâu nhưng vẫn được áp dụng nên

không còn phù hợp với thực tiễn, như các văn bản liên quan chế độ chính sách

thường hay áp dụng mức tiền cố định: Thông tưcủa Bộ Giáo dục và Đào tạo

quy định công tác phí của giáo viên phổ thông; Thông tư về khen thưởng và

kỷ luật học sinh hiện nay không phù hợp với thực tiễn.

Trên địa bàn Thành phố, hệ thống văn bản quản lý chuyên môn đối với

GDPT cũng thiếu thống nhất, các tiêu chí, quy định chưa rõ ràng nên việc

đánh giá chất lượng dạy và học chưa thống nhất giữa các quận, huyện và các

trường phổ thông .

102

Thứ tư, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT đòi hỏi các cơ quan quản lý

GDPT và các trường phổ thông phải có đội ngũ cán bộ, giảng viên có năng

lực để có thể chủ động, sáng tạo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ đã được

phân cấp, nhưng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục và giáo

viên ít được các cơ quan chức năng coi trọng, chưa bám sát yêu cầu đổi mới,

phân cấp quản lý, chất lượng các khóa đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, giáo viên

thường không thiết thực, chất lượng không cao.Chất lượng của cán bộ quản lý

GDPT ở các quận, huyện còn hạn chế, lung túng trong giải quyết công việc,

chưa đáp ứng tốt các chức năng, nhiệm vụ được phân cấp. Năng lực quản lý,

điều hành của một bộ phận cán bộ quản lý GDPTtrên địa bàn Thành phố, nhất

là ở các huyện ngoại thành còn thấp, chưa có nhiều kinh nghiệm. Công tác

tham mưu, xây dựng chính sách, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ thường

chậm, hiệu quả đạt thấp. Nhiều cán bộ quản lý GDPT còn hạn chế về trình độ

ngoại ngữ và khả năng sử dụng công nghệ thông tin.

Thứ năm, phân cấp QLNN về GDPT thường phải đi đôi với tăng cường

công tác thanh tra, kiểm tra GDPT, nhưng trong hệ thống quản lý GDPT ở

nước ta nói chung và trên địa bàn Thành phố Hà Nội nói riêng công tác thanh

tra, kiểm tra, đánh giá đang là khâu yếu, chưa đáp ứng tốt yêu cầu quản lý

chất lượng GDPT. Mặc dù, trong thời gian qua Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tập

trung khá nhiều nguồn lực nhằm cải thiện hiện trạng trên nhưng cho đến nay

vẫn còn một số hạn chế:

Công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý các vi phạm trong thực hiện các

chức năng, nhiệm vụ được phân cấp chưa kịp thời, một vài cơ sở GDPT lợi

dụng những chức năng, nhiệm vụ được phân cấp vi phạm các quy định của

pháp luật. Công tác thanh tra, kiểm tra các cơ quan quản lý GDPT và các

trường phổ thông thực hiện chưa thường xuyên, còn mang tính hình thức. Đội

ngũ thanh tra chuyên ngành chưa đủ về số lượng và đảm bảo chất lượng.

Nguyên nhân chủ yếu là do phần lớn trong số đó chưa được đào tạo bài bản

và thường là sử dụng thanh tra viên kiêm nhiệm. Đồng thời, các tiêu chuẩn

103

lựa chọn để bổ nhiệm cán bộ thanh tra chưa gắn chặt với các yêu cầu về kiến

thức, kỹ năng đặc thù của công tác thanh tra giáo dục.

Thiếu các điều kiện đảm bảo để thực hiện nhiệm vụ. Cụ thể là: 1)

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, cán bộ thanh tra, kiểm tra phải đi lại rất

vất vả nhưng vẫn chưa có chính sách hỗ trợ cụ thể nào; 2) việc cung cấp

thông tin cần thiết từ cơ quan quản lý GDPT các cấp để hỗ trợ hoạt động

thanh tra, kiểm tra, đánh giá còn thiếu và chưa kịp thời; 3) việc kiểm soát chất

lượng học tập của học sinh chủ yếu bằng cách quản lý hành chính các kỳ thi

quốc gia tốt nghiệp THPT nên việc kiểm soát chất lượng quá trình giáo dục

còn rất hạn chế.

104

Tiểu kết chương 3

Chương 3 luận án đã triển khai nghiên cứu những nội dung sau:

Khái quát tình hình thành phố Hà Nội và tình hình giáo dục phổ thông

trên địa bàn thành phố Hà Nội. Với vị trí là Thủ đô, trung tâm văn hoá giáo

dục kinh tế chính trị của cả nước, cùng với hệ thống văn bản pháp luật chuyên

biệt (Luật Thủ đô) rõ ràng việc phân cấp QLNN về GDPT là cần thiết để đẩy

mạnh chất lượng GDPT.

Những năm qua, thực trạng phân cấp quản lý nhà nước về GDPT trên

địa bàn Thành phố Hà Nội đã đạt được những kết quả quan trọng, tạo ra sự

chuyển biến rõ rệt trong công tác quản lý nhà nước về GDPT. Chính quyền

thành phố đã chú trọng phân cấp trên cả 3 lĩnh vực: tổ chức, bộ máy; chuyên

môn (lập kết hoach, xây dựng nội dung chương trình và đánh giá chất lượng

giáo dục)và cơ sở vật chất và tài chính, tuân thủ theo quy định của Luật Giáo

dục và Nghị định 127/2018/NĐ-CP:

Tuy nhiên, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn Thành phố

đước triển khai thực hiện chưa lâu nên không tránh khỏi những tồn tại, hạn

chế. Theo các văn bản phân cấp quản lý, chức năng quản lý GDPT hiện nay bị

chia cắt thành nhiều phần việc cho các cơ quan quản lý khác nhau phối hợp

thực hiện. Tuy nhiên, hiệu quả quản lý GDPT trong các trường hợp này chủ

yếu dựa vào sự điều hành của lãnh đạo Thành phố và vào khả năng phối hợp

tự phát của cơ quan quản lý GDPT với các cơ quan chức năng khác.

Sở Giáo dục và đào tạo là cơ quan giúp việc cho UBND thành phố Hà

Nội trong quản lý nhà nước về GDPT nhưng quyền hạn chưa tương xứng với

nhiệm vụ còn phụ thuộc rất lớn vào các cơ quan ban ngành có liên quan. Về

nhân sự, bộ máy vai trò chủ trì, đầu mối tham mưu cho UBND cùng cấp là Sở

Nội vụ. Về quản lý tài chính, vai trò quyết định về phân bổ và quản lý tài chính

đối với GDPTchủ yếu thuộc về Sở Tài chính. Các cơ quan quản lý giáo dục tuy

có tham gia song chủ yếu với vai trò đề xuất, kiến nghị, ít có tác dụng. Về

105

chuyên môn Sở Giáo dục và Phòng Giáo dục chịu sự chi phối về chuyên môn

của Bộ Giáo dục và đào tạo về chương trình, sách giáo khoa... Các đơn vị

trường học phổ thông cũng chưa được trao quyền tương xứng với nhiệm vụ

giáo dục.

Những hạn chế trong phân cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn

Thành phố xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có các nguyên

nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan như: nhận thức về các chủ trương,

giải pháp phân cấp quản lý nhà nước về GDPT giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo

và chính quyền địa phương các cấp chưa rõ ràng, rành mạch, thiếu sự nhất

quá; bất cập trong văn bản pháp luật hiện hành; năng lực của đội ngũ cán bộ

công chức, hạn chế công tác thanh tra, kiểm tra. Phân tích thực trạng và tìm

hiểu nguyên nhân của những hạn chế là cơ sở để nghiên cứu sinh đề xuất

phương hướng và các giải pháp đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước về

GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội trong những năm tới.

106

Chương 4

QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG

PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC PHỔ THÔNG

TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

4.1. Quan điểm và định hướng tăng cường phân cấp quản lý nhà nước về

giáo dục phổ thông

4.1.1. Quan điểm tăng cường phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ

thông

Để đẩy mạnh cải cách hành chính, đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế

thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế cần phải đổi mới, tăng

cường phân cấp quản lý nhà nước nói chung, phân cấp QLNN về GDPT nói

riêng. Trong những năm qua, Chính phủ và các cơ quan hữu quan đã có nhiều

giải pháp tích cực để tăng cường phân cấp phân cấp quản lý đối với GDPT.

Tuy nhiên, quá trình phân cấp QLNN đối với GDPT trong thời gian qua xét

về tổng thể chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, vẫn còn những hạn chế,

bất hợp lý. Nguyên nhân được xác định là nhận thức của cán bộ, công chức về

phân cấp phân cấp quản lý đối với GDPT chưa đầy đủ; chưa có các cơ chế,

chính sách phù hợp cho việc phân cấp quản lý; các nguồn lực để thực hiện

còn hạn chế.

Việc chuyển giao các nhiệm vụ, quyền hạn trong quản lý nhà nước về

GDPT chỉ có thể được tiến hành một khi thẩm quyền và trách nhiệm của cấp

chuyển giao và cấp được chuyển giao đã được xác định rõ ràng. Vì vậy, bản

thân quản lý nhà nước về GDPT phải hàm chứa nội dung phân định thẩm

quyền của từng cấp hay nói cách khác, phân định thẩm quyền là tiền đề cho

việc chuyển giao nhiệm vụ, quyền hạn hoặc rộng hơn nữa, điều chỉnh khối

lượng nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà nước về GDPT cho phù hợp với khả

năng và điều kiện thực tế của mỗi cấp chính quyền.

107

Do đó, có thể hiểu phân cấp là một hình thức phân định thẩm quyền

QLNN giữa các cấp chính quyền. Quan điểm này được thể hiện tại khoản 1,

Điều 11 Luật tổ chức chính quyển địa phương năm 2015: “Nhiệm vụ, quyền

hạn của chính quyền địa phương các cấp được xác định trên cơ sở phân định

thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương và của

mỗi cấp chính quyền địa phương theo hình thức phân quyền, phân cấp”.

Phân cấp quản lý nhà nước về GDPT nhằm phát huy tính năng động,

sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương các

cấp trên cơ sở phân định rõ, cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mỗi

cấp trong bộ máy chính quyền nhà nước, bảo đảm sự quản lý tập trung, thống

nhất và thông suốt, tăng cường kỷ luật kỷ cương hành chính để nâng cao hiệu

lực, hiệu quả quản lý nhà nước về GDPT, phục vụ tốt hơn nhu cầu và lợi ích

của nhân dân, thúc đẩy phát triển GDPT ở từng địa phương trong điều kiện

chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Phân cấp quản lý nhà nước về GDPT cần phải căn cứ vào các quan điểm

sau đây để mang lại hiệu quả cao. Các quan điểm đó là:

Một là, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT phải phù hợp với trình độ

phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Hà Nội trong từng giai đoạn, đặc thù,

điều kiện và khả năng phát triển của từng địa phương; với từng loại hình đô

thị, nông thôn, với xu thế hội nhập khu vực và quốc tế. Trong thời gian tới,

Hà Nội sẽ thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND cấp phường trong nhiệm

kỳ 2021-2026 với 177 phường thuộc 12 quận và thị xã Sơn Tây.

Hai là, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT phải đảm bảo quan điểm đáp

ứng yêu cầu hiệu quả QLNN. Hiệu quả quản lý nhà nước về GDPT là hiệu quả

tổng hợp, hiệu quả kinh tế gắn với hiệu quả xã hội. Quan điểm này nhấn mạnh,

cấp nào giải quyết kịp thời các chức năng, nhiệm vụ và cung cấp dịch vụ GDPT

tốt hơn, hiệu quả hơn, đáp ứng tốt các yêu cầu của nhân dân thì giao cho cấp đó

thực hiện. Phân cấp quản lý nhà nước về GDPT phải rõ việc, rõ địa chỉ, rõ trách

nhiệm, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mỗi cấp chính quyền địa phương.

108

Ba là, tuân thủ quan điểm kết hợp chặt chẽ giữa quản lý theo ngành với

quản lý theo lãnh thổ, phân định rõ những nhiệm vụ quản lý nhà nước về

GDPT của các sở, ngành với nhiệm vụ quản lý nhà nước của các cấp chính

quyền địa phương đối với GDPT trên địa bàn.

Bốn là, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT phải bảo đảm tương ứng

giữa nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm với các nguồn lực tài chính, tổ chức,

nhân sự và các điều kiện cần thiết khác để có thể thực hiện được các chức

năng, nhiệm vụ được phân cấp. Phân cấp quản lý nhà nước về GDPT cũng

phải đồng bộ, ăn khớp giữa các ngành, lĩnh vực có liên quan.

Năm là, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT phải đảm bảo thực hiện đầy

đủ quyền và trách nhiệm của chính quyền địa phương các cấp trong việc quyết

định, thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước về GDPT; chính quyền địa

phương các cấp phải chấp hành nghiêm kỷ luật, kỷ cương hành chính, đồng thời

phát huy dân chủ rộng rãi để nhân dân tham gia vào sự nghiệp phát triển GDPT.

Sáu là, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT phải đảm bảo sự đồng bộ

và thống nhất. Phải đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống thể chế,

các văn bản quy phạm pháp luật và cơ chế quản lý; đảm bảo quyền tự chủ, tự

chịu trách nhiệm của các trường phổ thông.

Bảy là, đối với những nội dung đã được phân cấp, chính quyền các cấp

chịu trách nhiệm tổ chức triển khai thực hiện; các Sở Giáo dục và Đào tạo có

trách nhiệm hướng dẫn, giám sát và kiểm tra. Nếu phát hiện có vi phạm pháp

luật hoặc trái với quy hoạch, kế hoạch phát triển GDPT đã được phê duyệt thì xử

lý theo thẩm quyền hoặc báo cáo cơ quan nhà nước cấp trên xem xét giải quyết.

4.1.2. Định hướng tăng cường phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ

thông

Từ những bài học kinh nghiệm của các quốc gia đã thực hiện phân cấp

thành công và dựa vào cơ sở lý luận, những định hướng cho việc đẩy mạnh

phân cấp quản lý nhà nước về GDPT bao gồm:

109

Một là, kết hợp tập trung và phân cấp, cũng như các kiểu phân cấp quản

lý nhà nước về GDPT, như phi tập trung hoá, uỷ quyền, trao quyền và xã hội

hóa, đảm bảo quyền hạn đi đôi với trách nhiệm thực hiện và nâng cao quyền

tự chủ cho các trường phổ thông. Cụ thể nên áp dụng mô hình phân cấp cho

các cấp chính quyền địa phương quản lý các trường phổ thông, trong đó Bộ

Giáo dục và Đào tạo tập trung vào chức năng ban hành các văn bản quy phạm

định hướng, hỗ trợ phát triển và kiểm soát hệ thống GDPT; cấp sở Giáo dục

và Đào tạo được trao quyền quản lý các trường THPT, thực hiện các chức

năng hỗ trợ phát triển, kiểm soát hệ thống và đảm bảo chất lượng GDPT ở địa

địa phương; cấp Phòng Giáo dục và Đào tạo quản lý các trường Tiểu học,

THCS và cấp trường phổ thông được tự chủ trong xây dựng kế hoạch, quản lý

đội ngũ cán bộ, giáo viên và ngân sách của nhà trường phù hợp với nhu cầu

và điều kiện của mình.

Hai là, phân cấp quyền ra quyết định cho cấp thực hiện đi đôi với việc

củng cố và xây dựng hệ thống chịu trách nhiệm với kết quả đầu ra. Để xây

dựng một hệ thống chịu trách nhiệm cần tăng cường các mối quan hệ về tính

chịu trách nhiệm giữa nhà quản lý, nhà trường với gia đình và xã hội. Để tăng

cường trách nhiệm cần công khai, minh bạch thông tin, dùng các công cụ

pháp lý và kinh tế để người dân có thể biểu đạt ý kiến và nguyện vọng của

mình vối các cấp quản lý GDPT, khuyến khích cha mẹ học sinh và cộng đồng

cùng chia sẻ công việc quản lý các trường phổ thông thông qua mô hình hội

đồng trường phổ thông. Hệ thống chịu trách nhiệm cũng đòi hỏi sự phân định

rõ ràng quyền hạn và trách nhiệm của các bên có liên quan, thông tin về kết

quả giáo dục và chi tiêu tài chính của từng cấp quản lý GDPT và trường phổ

thông phải công khai, minh bạch.

Ba là, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT đi đôi với nâng cao năng

lực của cán bộ quản lý GDPT. Để phân cấp quản lý nhà nước về GDPT thành

110

công, một mặt cần không ngừng nâng cao cơ sở vật chất cho các trường phổ

thông, mặt khác cần nâng cao năng lực cán bộ của cán bộ quản lý GDPT các

cấp trong lập kế hoạch chiến lược, quản lý nhân sự, tài chính phù hợp với bối

cảnh phân cấp quản lý.

4.2. Giải pháp tăng cường phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ

thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội

4.2.1. Đổi mới tư duy về phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông

Đây là giải pháp mang tính tiên quyết bởi lẽ từ thay đổi về tư duy nhận

thức sẽ thay đổi hành động pháp lý. Mặt dù tư duy về phân cấp QLNN nói

chung và phân cấp QLNN về GDPT đã hình thành ở Việt Nam một thời gian,

tuy nhiên mức độ phân cấp cũng như bản chất thật sự của phân cấp thì chúng ta

triển khai chưa đầy đủ.

Nói chung, để xác định rõ bản chất của phân cấp quản lý nhà nước về

GDPT cần phân biệt quản lý nhà nước đối với hoạt động GDPT và quản lý

nhà nước đối với hoạt động cung cấp dịch vụ GDPT của từng chủ thể cung

cấp dịch vụ đó.

Nếu coi quy trình GDPT là tập hợp của nhiều hoạt động cần xác định rõ

quy trình đó và quyết định nhà nước cần phải quản lý những giai đoạn nào,

yếu tố nào trong quy trình đó. Ai là người chịu trách nhiệm quản lý những

giai đọn và các yếu tố đó. Đây chính là bản chất của phân cấp quản lý nhà

nước về GDPT.

Cải cách quản lý nhà nước về GDPT của nhiều nước trên thế giới đều đang

đi theo hướng phi tập trung hóa. Trước đây, các loại hình giáo dục, trong đó có

GDPT đều coi trọng yếu tố quyền lực trung ương từ xây dựng chương trình đến

các hoạt động quản lý GDPT. Việc phát huy tinh thần tự chủ, sáng tạo của các cấp

chính quyền địa phương trong sự nghiệp phát triển GDPT ít được quan tâm.

Trong tiến trình cải cách hành chính nhà nước và đổi mới sự nghiệp giáo dục cần

đổi mới tư duy về phân cấp quản lý nhà nước về GDPT.

111

Phân cấp quản lý nhà nước về GDPT nhằm phát huy tính năng động,

sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương các

cấp trên cơ sở phân định rõ, cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mỗi

cấp trong bộ máy chính quyền nhà nước, bảo đảm sự quản lý tập trung, thống

nhất và thông suốt, tăng cường kỷ luật kỷ cương hành chính để nâng cao hiệu

lực, hiệu quả quản lý nhà nước về GDPT.

Phân cấp quản lý nhà nước về GDPT là một phạm trù xoay quanh hệ

thống các cơ quan nhà nước quản lý hoạt động GD. Đó chính là quá trình xác

lập chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước trong thực thi hoạt động

quản lý nhà nước đối với các hoạt động cung cấp dịch vụ GDPT. Đây là chức

năng nội bộ của hệ thống các cơ quan nhà nước.

Nhà nước quản lý những chủ thể cung cấp dịch vụ GDPT của Nhà nước,

đó chính là các trường học. Vấn đề quan tâm của các trường nằm ở khía cạnh:

sự can thiệp của Nhà nước đối với các hoạt động cung cấp dịch vụ GDPT và

các trường phổ thông cung cấp dịch vụ GDPT được thực hiện những vấn đề

gì theo các quy định pháp luật? Nhà nước trao quyền tự chủ như thế nào cho

các trường phổ thông?

Tự chủ có vai trò quan trọng trong quản lý nhà nước về GDPT để thúc

đẩy sự phát triển của GDPT nhằm đáp ứng tốt nhu cầu của các tầng lớp nhân

dân. Các cơ quan nhà nước cần trao quyền tự chủ nhiều hơn cho các trường

phổ thông vì đây là một xu thế phân cấp của nhiều nước trên thế giới để phát

triển GDPT và là cách thức tốt nhất giải phóng nguồn lực của các trường phổ

thông và của xã hội.

Đổi mới tư duy về phân cấp quản lý nhà nước về GDPT cần phải: 1)

Phân cấp phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn,

đặc điểm, điều kiện và khả năng của từng địa phương; 2) Cấp nào giải quyết

kịp thời các chức năng, nhiệm vụ và cung cấp dịch vụ GDPT tốt hơn, hiệu quả

hơn, đáp ứng tốt các yêu cầu của nhân dân thì giao cho cấp đó thực hiện; 3)

112

Phân cấp quản lý phải bảo đảm tương ứng giữa nhiệm vụ, thẩm quyền, trách

nhiệm với các nguồn lực tài chính, tổ chức, nhân sự và các điều kiện cần thiết

khác để có thể thực hiện được các chức năng, nhiệm vụ được phân cấp; 4)

Phân cấp quản lý phải đảm bảo thực hiện đầy đủ quyền và trách nhiệm của

chính quyền địa phương các cấp trong việc quyết định, thực hiện các nhiệm vụ

quản lý nhà nước về GDPT; 5) Phân cấp quản lý phải đảm bảo sự đồng bộ,

thống nhất trong hệ thống thể chế, các văn bản quy phạm pháp luật và cơ chế

quản lý, đảm bảo quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các trường phổ thông.

Nghiên cứu các mô hình phân cấp quản lý có hiệu quả đã khẳng định các

quyết định cần được ban hành càng sát với nơi thực thi thì càng tốt. Sở Giáo

dục và Đào tạo, các phòng Giáo dục và Đào tạo là những cấp chịu trách

nhiệm chính về GDPT thì phải là nơi ban hành các quyết định quản lý các

nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất, nhân sự và các điều kiện cần thiết khác để

thực hiện các hoạt động quản lý. Phân cấp quản lý nhà nước về GDPT phải

gắn với ủy quyền hợp lý.

Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN về GD&ĐT thì việc đẩy mạnh

phân cấp quản lý là hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Chúng ta cần

phân định rõ thẩm quyền của các cơ quan QLNN các cấp, đặc biệt là giữa

UBND Thành phố và UBND các quận, huyện, giữa Sở GD&ĐT và các

Phòng GD&ĐT; cần phân định rõ công tác QLNN về giáo GD&ĐT với công

tác quản trị của các trường phố thông.

4.2.2. Xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật về phân cấp quản lý

nhà nước về giáo dục phổ thông

Để hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm về phân cấp quản lý nhà

nước về GDPT cần tiếp tục rà soát lại hệ thống các văn bản quy về phân cấp

quản lý nhà nước về GDPT. Liên quan đến phân cấp quản lý nhà nước về

GDPT có những hệ thống văn bản sau: văn bản về chức năng, nhiệm vụ của

cơ quan chuyên môn và chính quyền địa phương; văn bản về tài chính; văn

113

bản chuyên ngành về giáo dục. Vì vậy rà soát để tránh việc chồng chéo giữa

các hệ thống văn bản; sửa đổi, bổ sung các văn bản hướng dẫn để tạo hành

lang pháp lý cho việc đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước về GDPT, bãi bỏ

các văn bản không phù hợp. Với đặc thù là Thủ đô, có Luật Thủ đô riêng để

điều chỉnh những cơ chế, chính sách đặc thù, thành phố Hà Nội có thể đi đầu

trong các địa phương cả nước để áp dụng các chính sách, pháp luật mới về

phân cấp quản lý nhà nước về GDPT. Các chính sách, pháp luật sửa đổi, bổ

sung phải thể hiện những nội dung cụ thể như sau:

Thứ nhất, tăng cường phân cấp về tổ chức bộ máy và quản lý nhân sự

Trên cơ sở các quy định của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về chức

năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức bộ máy các cơ quan QLNN về GDPT, Thành

phố Hà Nội xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về GDPT thống

nhất trên địa bàn, có tính tới đặc thù của các quận, huyện.

Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật trong đó quy định rõ chức năng,

nhiệm vụ và quyền hạn của bộ máy quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn

Thành phố với tư cách cơ quan chuyên môn chịu trách nhiệm tham mưu trong

quản lý nhà nước về GDPT.

UBND Thành phố ủy quyền cho Sở Nội vụ và Sở Giáo dục và Đào tạo

xác định biên chế cán bộ, giáo viên cho các Phòng Giáo dục và Đào tạo, các

trường phổ thông trên cơ sở có tính đến các đặc thù của các quận, huyện

nhằm đảm bảo hiệu quả hoạt động của bộ má quản lý nhà nước về GDPT và

chất lượng GDPT của các trường phổ thông trên địa bàn Thành phố.

Phân định cụ thể, rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý

nhà nước về giáo dục phổ thông trên địa bàn Thành phố. Theo đó, những

công việc do UBND Thành phố Hà Nội có quyền quyết định:

(1) Thành lập, giải thể trường THPT;

(2) Quy định tổ chức bộ máy của các Phòng Giáo dục và Đào tạo;

114

(3) Ban hành chính sách phát triển GDPT của thành phố và phê duyệt kế

hoạch phát triển GDPT Thành phố;

(4) Công nhận trường THCS, tiểu học đạt chuẩn quốc gia;

(5) Phê duyệt chỉ tiêu biên chế, nhân sự GDPT của Thành phố;

(6) Lựa chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm cách chức hiệu trưởng trường phổ

thông trung học;

(8) Phê duyệt chỉ tiêu ngân sách phát triển GDPT cho Thành phố;

(9) Phê duyệt chỉ tiêu đào tạo giáo viên THCS và tiểu học;

(10) Việc xây dựng hệ thống thông tin quản lý GDPT của Thành phố.

Những công việc do UBND Thành phố quyết định sau khi có ý kiến của

Bộ Giáo dục và Đào tạo:

(i) Phê duyệt quy hoạch mạng lưới các trường phổ thông trên địa bàn

Thành phố;

(ii) Quy định tổ chức bộ máy của Sở Giáo dục và Đào tạo;

(iii) Công nhận trường THPT đạt chuẩn quốc gia;

(iv) Quyết định lựa chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Giám đốc

Sở Giáo dục và Đào tạo.

Những công việc do UBND Thành phố ủy quyền cho Giám đốc Sở

Giáo dục và Đào tạo quyết định:

(i) Phân bổ chỉ tiêu biên chế của ngành giáo dục cho các Phòng GD&ĐT

và các trường phổ thông theo sỹ số học sinh, số lớp và định biên nhà nước;

(ii) Quản lý nhân sự (thuyên chuyển, điều động, cử đi học, khen thưởng,

kỷ luật cán bộ, giáo viên) trên địa bàn Thành phố;

(iii) Phân bổ chỉ tiêu ngân sách giáo dục cho các Phòng Giáo dục và Đào

tạo và các trường phổ thông trong địa bàn;

(iv) Cụ thể hóa phần lựa chọn của chương trình GDPT và danh mục tài

liệu tham khảo cho phù hợp với nhu cầu và điều kiện của Thành phố;

115

(v) Cụ thể hóa các danh mục bổ sung về thiết bị dạy học theo chương

trình GDPT cho phù hợp với trình độ, điều kiện của Thành phố;

(vi) Ban hành tài liệu hướng dẫn giáo viên trên địa bàn Thành phố.

Những công việc do UBND các quận, huyện có quyền quyết định:

- Thành lập, giải thể trường THCS, trường tiểu học;

- Quản lý nhân sự của các trường THCS và tiểụ học trên địa bàn các

quận, huyện;

- Lựa chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức hiệu trưởng trường THCS,

trường tiểu học.

Công việc do Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo được quyền quyết

định: Điều động, thuyên chuyển giáo viên THCS và tiểu học.

Như vậy về quản lý nhân sự, Sở Giáo dục và Đào tạo hoặc Phòng Giáo

dục và Đào tạo là cơ quan chuyên môn chủ trì, đầu mối tham mưu giúp

UBND cấp tỉnh, cấp huyện trong công tác tuyển dụng, sử dụng và quản lý đội

ngũ giáo viên các cấp để đảm bảo việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý đội

ngũ giáo viên hợp lý theo đúng quy định và yêu cầu thực hiện nhiệm vụ giáo

dục tại các địa phương.

Xuất phát từ thực tiễn việc tuyển dụng viên chức trong ngành giáo dục

vẫn phụ thuộc vào đơn vị ngoài chuyên môn dẫn đến tình trạng thừa, thiếu

giáo viên phổ thông cục bộ hoặc không đáp ứng yêu cầu chuyên môn vì vậy

cần trao quyền chủ động hơn cho Sở Giáo dục và đào tạo, Phòng Giáo dục và

đào tạo. UBND là cơ quan sử dụng viên chức, UBND là cơ quan tuyển dụng,

tuy nhiên tham mưu về số lượng, tiêu chuẩn giữa ngành giáo dục và nội vụ.

Nếu vẫn theo cách truyền thống ngành Nội vụ tham mưu UBND cùng cấp khi

tuyển dụng thì rất khó bám sát yêu cầu thực tiễn về số lượng và chất lượng.

Để đẩy mạnh quản lý nhà nước về GDPT cần có các văn bản quy phạm

kiện toàn hệ thống các cơ quan quản lý GDPT ở địa phương, trong đó quy định

116

rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của bộ máy quản lý GDPT ở địa phương

với tư cách là cơ quan chuyên môn chịu trách nhiệm tham mưu về quản lý nhà

nước về GDPT trên địa bàn Thành phố.

Chính quyền Thành phố Hà Nội cần đổi mới tư duy về phân cấp quản lý

nhà nước về GDPT, tăng tính chủ động, tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các

cơ quan QLNN về GDPT. Sở GD&ĐT Thành phố có trách nhiệm phối hợp

với Sở Nội vụ và các Sở, ban, ngành có liên quan tiếp tục tham mưu với

UBND Thành phố nghiên cứu ban hành văn bản mới về việc phân cấp quản

lý đối với GDPT theo đúng Nghị định 127/2018/NĐ-CP của Chính phủ

nhằm giúp Sở GD&ĐT, các Phòng GD&ĐT các quận, huyện trên địa bàn

Thành phố chủ động trong công tác chỉ đạo, điều hành.

Thực hiện phân cấp quản lý, Chủ tịch UBND các quận, huyện trên địa bàn

Thành phố cần ủy quyền cho Trưởng phòng GD&ĐT quyết định bổ nhiệm, bổ

nhiệm lại, miễn nhiệm, luân chuyển, cách chức, giáng chức đối với Hiệu

trưởng, Phó Hiệu trưởng các trường Tiểu học, THCS công lập trên địa bàn các

quận, huyện; quyết định tiếp nhận giáo viên từ huyện ngoài chuyển đến; điều

động giáo viên giữa các trường Tiểu học, THCS trong huyện; cho phép các

trường Tiểu học, THCS được ký hợp đồng lao động trong phạm vi chỉ tiêu biên

chế được giao; quyết định phân bổ, giao dự toán chi ngân sách GDPT cho các

trường Tiểu học, THCS khi được UBND các quận, huyện phê duyệt.

Trách nhiệm và quyền hạn về quản lý chuyên môn đi đôi với trách

nhiệm, quyền hạn quản lý về nhân sự và tài chính sẽ giúp cho các Phòng

GD&ĐT chủ động trong quản lý, điều hành các trường phổ thông. Do đó,

việc quản lý các nguồn lực đầu tư phát triển GDPT và việc quản lý chất lượng

giáo dục của các quận, huyện sẽ đạt được hiệu quả cao hơn.

Mặt khác, UBND các quận, huyên và các Phòng GD&ĐT cần tăng cường

quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các trường Tiểu học, THCS; tạo điều kiện

117

cho các trường phổ thông được chủ động, sáng tạo trong việc thực hiện các hoạt

động giáo dục. Đồng thời, các Phòng GD&ĐT cần tăng cường công tác kiểm tra

chuyên ngành đối với các trường phổ thông về chuyên môn, quản lý nhân sự và

tài chính theo hướng công khai, minh bạch khi đánh giá. Trong quá trình kiểm

tra, đánh giá, Phòng GD&ĐT cần xem các trường có đi đúng hành lang pháp

luật hay không, chứ không phải chỉ có làm đúng theo chỉ đạo của cấp trên hay

không. Quản lý như vậy thể hiện sự dân chủ, phát huy được tính năng động,

sáng tạo của cơ sở và cán bộ quản lý các trường phổ thông.

Việc tăng cường phân cấp nhưng vẫn bảo đảm việc quản lý thống nhất,

thông suốt từ trên xuống dưới. Một cơ quan quản lý có thể làm nhiều việc

nhưng một việc chỉ một cơ quan làm và chịu trách nhiệm chính. Phòng

GD&ĐT không làm thay những việc mà các trường phổ thông hoặc xã hội có

thể làm được và làm tốt để hướng tới một xã hội dân sự. Cần phân định rõ

quản lý nhà nước về GDPT với quản trị của các trường phổ thông. QLNN đối

với GDPT là nhiệm vụ của cơ quan QLNN đối với các trường phổ thông. Quản

trị, điều hành các hoạt động GDPT là trách nhiệm của các trường phổ thông.

Sở GD&ĐT, các Phòng GD&ĐT phải tập trung vào nhiệm vụ tham mưu

xây dựng chính sách phát triển GDPT để trình cấp có thẩm quyền ban hành;

chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức thực hiện các chính sách, pháp luật về GDPT;

tăng cường công tác kiểm tra, khen thưởng và xử lý vi phạm của các trường

phổ thông trong việc tuân thủ các quy định của pháp luật.

Các trường phổ thông được giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tổ

chức thực hiện nhiệm vụ giáo dục, quản lý nhân lực, tài chính, tài sản để hoàn

thành tốt nhiệm vụ được giao. Việc đổi mới quản trị của các trường phổ thông

thực hiện theo hướng phát huy dân chủ, tính sáng tạo của nhà trường. Hội đồng

trường cần bảo đảm vai trò lãnh đạo của cấp uỷ Đảng và cơ quan chủ quản. Các

trường phổ thông thực hiện cơ chế tự chủ, công khai, minh bạch, chịu sự giám

118

sát của các chủ thể nhà trường, của Nhà nước và của xã hội; chịu trách nhiệm

báo cáo, giải trình trước các cơ quan quản lý cấp trên.

Thứ hai, tăng cường phân cấp về tài chính và quản lý tài chính đối với

cơ sở giáo dục phố thông

Phân cấp quản lý tài chính nói chung và phân cấp quản lý tài chính cho

GDPT nói riêng là một xu thế tất yếu trong phân cấp quản lý nhà nước.

Những năm gần đây, các nhà nghiên cứu ở nhiều nước đã chứng minh rằng

phân cấp quản lý tài chính cho GDPT có nhiều tác động tích cực đến chất

lượng GDPT. Phân cấp quản lý tài chính GDPT tạo được quyền chủ động của

các trường phổ thông trong việc phân bổ kinh phí phù hợp với yêu cầu hoạt

động, làm tăng hiệu quả sử dụng kinh phí trong hoạt động giáo dục của nhà

trường. Ở Việt Nam, phân cấp quản lý tài chính GDPT mới được thực hiện

(kể từ Nghị định 43/2006/NĐ-CP và sau này là NĐ16/2015/NĐ-CP ngày

14/2/2015 quy định cơ chế tự chủ các đơn vị sự nghiệp công lập) và điều kiện

để thực hiện phân cấp tài chính GDPT vẫn còn nhiều hạn chế.

Phân cấp quản lý tài chính GDPT là chuyển quyền ra quyết định tài

chính cho những người thực hiện trực tiếp các chính sách, các dịch

GDPT với khách hàng và có lợi nhất cho các khách hàng.

Như đã phân tích trong thực trạng chương 3, quản lý, phân bổ tài chính

giáo dục ở các địa phương và Thành phố Hà Nội nói chung thuộc thẩm quyền

UBND các cấp và ngành tài chính là cơ quan tham mưu; vai trò của ngành

giáo dục rất mờ nhạt. Việc quản lý chuyên môn – nhân sự- cơ sở vật chất là

ba mảng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Với quan điểm coi giáo dục là

quốc sách hàng đầu, chú trọng đầu tư cho giáo dục, để nâng cao chất lượng

giáo dục , không chỉ trao thẩm quyền về chuyên môn, cần phân cấp việc tham

mưu, quản lý về nhân sự và tài chính. Cách thức cung cấp tài chính GDPT có

hiệu quả hiện nay là Sở GD&ĐT phải được quyền phân bổ chỉ tiêu tài chính

119

sau khi được UBND Thành phố Hà Nội phê duyệt cho GDPT và các trường

phổ thông có quyền quyết định sử dụng các chỉ tiêu trên theo nhu cầu thực tế

của nhà trường, các tài trợ và ngân sách cần được cấp trực tiếp từ kho bạc tới

trường phổ thông.

UBND Thành phố Hà Nội và các quận, huyện cần nâng tỷ lệ chi ngân

sách địa phương cho GDPT, trong đó tăng tỷ lệ chi cho hoạt động dạy và học;

đảm bảo thực hiện đúng chi ngân sách cho GDPT hàng năm. UBND các

quận, huyện cần có cơ chế tài chính đầu tư cho phát triển GDPT công khai,

minh bạch; đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, tránh dàn trải, thất thoát, lãng

phí. UBND các quận, huyện cần xây dựng định mức kinh phí hỗ trợ cho các

trường Tiểu học, THCS xây dựng trường chuẩn quốc gia để kích cầu các đơn

vị, tránh cơ chế “xin - cho”, tạo sự chủ động cho các Phòng GD&ĐT trong

việc lựa chọn, đầu tư mua sắm trang thiết bị dạy học cho các trường phổ

thông để đảm bảo tính thực tiễn, hợp lý, hiệu quả.

Các Phòng GD&ĐT trên địa bàn Thành phố Hà Nội cần hướng dẫn các

trường Tiểu học, THCS thực hiện tốt một số nội dung: 1) Chỉ đạo, hướng dẫn

các trường phổ thông thực hiện nghiêm túc, đúng quy định của Luật Ngân

sách; thực hiện đúng hướng dẫn của Sở GD&ĐT Hà Nội tại công văn số

953/SGDĐT-KHTC ngày 15/8/2014 về việc thu và quản lý sử dụng các

khoản thu trong trường học. Việc sử dụng các khoản đóng góp tự nguyện

phục vụ bản thân học sinh trong nhà trường phải đảm bảo dân chủ, công khai

minh bạch, đúng mục đích và hiệu quả; 2) Chỉ đạo các trường phổ thông xây

dựng kế hoạch đầu tư, mua sắm đồ dùng thiết bị đảm bảo thiết thực, phù hợp;

khai thác, sử dụng triệt để, có hiệu quả đồ dùng, thiết bị hiện có; 3) Hướng

dẫn các trường phổ thông xây dựng và thực hiện tốt quy chế chi tiêu nội bộ;

thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.

120

Các Phòng GD&ĐT cần phối hợp với Phòng Tài chính - Kế hoạch tiến

hành kiểm tra, rà soát các công trình xây dựng của các nhà trường để tham

mưu với UBND các quận, huyện có kế hoạch tu bổ hoặc xây mới hợp lý,

tránh lãng phí, thất thoát; ưu tiên đầu tư xây dựng các công trình cấp bách,

nhất là phòng học.

UBND huyện cần chú trọng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong đầu tư,

đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, đúng mục đích, phù hợp với điều kiện phát

triển KT-XH của địa phương. Ngành GD&ĐT cần tiếp tục đẩy mạnh xã hội

hoá giáo dục, khuyến khích các doanh nghiệp, cá nhân đầu tư cho giáo dục.

Hội khuyến học cần phát triển các quỹ học bổng, khuyến học, khuyến tài,

giúp học sinh, sinh viên nghèo học giỏi; tăng cường chính sách hỗ trợ đối với

các đối tượng con thương binh, liệt sỹ, gia đình thuộc diện hộ nghèo.

Việc đổi mới cơ chế tài chính trong GDPT sẽ huy động sự tham gia đóng

góp của toàn xã hội, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách và các nguồn

lực đầu tư cho phát triển GDPT ở các cấp học trên địa bàn Thành phố.

Một điểm rất quan trọng là cần kết hợp hài hòa giữa quyền hạn ra quyết

định trong sử dụng các nguồn lực với trách nhiệm của các cấp quản lý GDPT

và các nhà trường phổ thông. Hiện nay, Sở GD&ĐT lập kế hoạch về nhu cầu

giáo viên cho một năm còn thiếu sự linh hoạt do phải tuân thủ các quy định

cứng do Trung ương đặt ra liên quan đến số lượng giáo viên cần có và lương

cần trả cho cán bộ, giáo viên. Vì vậy, Sở GD&ĐT cần được cung cấp ngân

sách trọn gói để chủ động trong việc sử dụng đáp ứng các nhu cầu GDPT của

Thành phố.Trong trường phổ thông, để có thể ra các quyết định tài chính

một cách đúng đắn, nhà trường cần có quyền trong việc phân bổ và sử

dụng kinh phí, tuyển dụng cán bộ, giáo viên và tự chủ trong việc thực hiện

chương trình dạy học. Ðây cũng chính là cách thức tốt nhất để thực hiện phân

cấp quản lý tài chính GDPT và quan lý dựa vào nhà trường [75, 122].

121

Đẩy mạnh phân cấp quản lý tài chính GDPT hệ thống cung cấp tài chính

cần phải thiết kế lại để giúp các nhà trường phổ thông chủ động trong các

hoạt động, giúp học sinh đạt tới kết quả đầu ra mong muốn. Nếu muốn hệ

thông GDPT tập trung vào kết quả đầu ra thay vì tập trung vào kết quả đầu

vào cần hướng tới cách cung cấp tài chính theo cách hỗ trợ và kết nối cách

thức cung cấp tài chính cho nhà trường với kết quả học tập của học sinh và vì

vậy đòi hỏi sự dịch chuyển từ việc cung cấp tài chính cho trả lương sang kiểu

cung cấp tài chính tập trung vào kết quả học tập của học sinh.

Có thể kết hợp giữa cung cấp tài chính tập trung để đảm bảo mức độ chi

tối thiểu trên đầu số học sinh, đôi đôi với quy định cho phép các trường phổ

thông được tự chủ trong sử dụng các tài trợ nhằm đạt được kết quả đầu ra cho

học sinh. Tuy nhiên, khó khăn nằm ở chỗ xác định mức độ chi phí tối thiểu

cho học sinh để đạt được kết quả đầu ra như mong muốn. Kinh nghiệm cho

thấy, cẩn xem xét các nhu cầu cá nhân khác nhau, sự khác nhau về giá cả

trong đầu vào của giáo dục và hiệu quả của việc làm ra các kết quả. Cơ sở chi

tiêu này còn phải được hỗ trợ bới các nguồn lực bổ sung để đảm bảo tất cả

các học sinh có thể nhận được dịch vụ mà họ cần.

Do khả năng hạn chế của các trường phổ thông trong việc tìm kiếm các

nguồn lực bổ sung từ cộng đồng nên cần có chính sách khuyến khích cha mẹ

học sinh vầccs nhà tài trợ hỗ trợ tăng nguồn lực cho nhà trường trong khuôn

khổ các quy định của Nhà nước và tránh quá tải cho cha mẹ học sinh và nhà

trường cần có quyền tự chủ trong sử dụng các nguồn lực này. Đối với các

trường ở các huyện nghèo cần nhận được sự hỗ trợ từ Nhà nước để đảm bảo

công bằng trong GDPT.

Nếu chúng ta quyết định phân cấp nhiều hơn cho cấp trường cần trao

quyền quyết định về nhân sự và tài chính cho các trường phổ thông và khi đó

buộc nhà trườngphải chịu trách nhiệm về kết quả giáo dục của mình. Hiệu

122

trưởng và Hội đồng nhà trường phải là người chịu trách nhiệm lập kế hoạch

và ra các quyết định về ngân sách phù hợp với các hoạt động của nhà trường.

Điều này đòi hỏi phải hủy bỏ các quy định về việc không dịch chuyển kinh

phí từ hạng mục này sang sử dụng ở hạng mục khác, khuyến khích các trường

phổ thông sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn lực.

Để tăng cường trách nhiệm của các cấp quản lý GDPT và trường phổ

thông với người hưởng dịch vụ cần nghiên cứu thực hiện các chính sách để

việc cung cấp tài chính làm cho hoạt động của trường phổ thông phụ thuộc

vào lựa chọn của người hưởng dịch vụ và xây dựng cơ chế đấu thầu cung cấp

dịch vụ do Nhà nước đặt hàng.

Thứ ba, tăng cường phân cấp về chuyên môn trong lập kế hoạch

phát triển giáo dục phổ thông, xây dựng nội dung, chương trình và đánh

giá chất lượng giáo dục phổ thông

Như đã đánh giá ở trên, việc lập kế hoạch phát triển giáo dục phổ thông,

xây dựng nội dung, chương trình và đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông do

Thành phố Hà Nội tiến hành trên cơ sở chuẩn chung về nội dung, chương trình

và đánh giá chất lượng do Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa ra. Chính vì “mặc

chung một cái áo” nên việc đào tạo, giáo dục học sinh phổ thông không có sự

khác biệt giữa các vùng, miền, giữa thành thị và nông thôn.

Với đặc thù là trung tâm giáo dục của cả nước, trình độ dân trí cao,

điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi cho việc giáo dục, tập trung các trường

chất lượng cao, đội ngũ giảng viên có kinh nghiệm, năng lực. Vì vậy, việc lập

kế hoạch phát triển giáo dục phổ thông, xây dựng nội dung, chương trình và

đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông cần bám sát điều kiện kinh tế- văn

hoá – xã hội và tình hình giáo dục phổ thông của thủ đô Hà Nội. Đã đến lúc

Bộ Giáo dục và đào tạo cần mạnh mẽ trao quyền tự chủ cho các địa phương

trong đó có thành phố Hà Nội trong việc xây dựng nội dung, chương trình

123

giáo dục phổ thông cũng như các tiêu chí kiểm định đánh giá chất lượng phổ

thông. Bộ với tư cách “người gác cửa” sẽ kiểm tra, giám sát việc đảm bảo

chất lượng GDPT của địa phương. Đơn cử việc học ngoại ngữ Hà Nội có thể

không chỉ tiếng Anh mà còn đẩy mạnh các ngoại ngữ khác như Trung Quốc,

Nhật Bản, Hàn Quốc... theo nhu cầu của xã hội trong từng thời kỳ. Còn các

địa phương miền núi khác bên cạnh học Tiếng Anh có thể giảng dạy thêm

tiếng dân tộc trong các trường phổ thông. Có như thế mới tạo sự đa dạng và

thích ứng của mỗi địa phương.

4.2.3. Nâng cao năng lực của đội ngũ công chức, viên chức quản lý giáo

dục phổ thông

Tất cả các cải cách về phân cấp quản lý về giáo dục thành công trên thế

giới đề phải đi đôi với việc nâng cao năng lực của đội ngũ công chức, viên

chức quản lý giáo dục tại địa phương (cấp tỉnh, huyện, xã) và cấp thực hiện là

các trường.

Công chức, viên chức quản lý về GDPT của nước ta có hai đặc trưng cơ

bản: 1) Họ thường xuất thân từ nhà giáo, được lựa chọn đưa sang làm quản lý

với niềm tin rằng những nhà giáo có kinh nghiệm, có phẩm chất chính trị và

năng lực chuyên môn sẽ làm tốt công tác quản lý; 2) họ trưởng thành trong

một hệ thống chưa thoát khỏi mô hình quản lý tập trung nên thói quen của cán

bộ ở cơ quan quản lý là chỉ huy, ra mệnh lệnh và kiểm soát, còn ở cấp trường

là tuân thủ, thực hiện mệnh lệnh của cấp trên trong mọi lĩnh vực chuyên môn,

nhân sự và tài chính.

Các đặc trưng này trở thành rào cản khi chuyển sang mô hình quản lý tự

chủ, theo đó các thói quen cũ, năng lực cũ cần phải vứt bỏ để thay thế bằng

những thói quen mới, năng lực mới. Công chức ở cơ quan quản lý nhà nước

về GDPT phải chuyển sang vai trò là người tư vấn, hướng dẫn, hỗ trợ, tạo

điều kiện cho nhà trường phát huy quyền tự chủ; còn chủ tịch hội đồng trường

124

và hiệu trưởng phải là những người có tầm nhìn chiến lược, có năng lực quyết

định, tổ chức thực hiện, minh bạch hóa các hoạt động chuyên môn, nhân sự,

tài chính, thậm chí kể cả năng lực tiếp cận thị trường trong bối cảnh hình

thành thị trường giáo dục.

Nâng cao năng lực về mọi mặt của công chức, viên chức quản lý GDPT

trên địa bàn Thành phố Hà Nội và các trường phổ thông giúp họ sẵn sàng đảm

nhận và thực hiện có hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ được phân cấp. Cần

đặc biệt chú trọng nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý của những người đứng

đầu Sở, Phòng Giáo dục và Đào tạo, hiệu trưởng các trường phổ thông. Họ

phải nắm bắt được các kiến thức quản lý giáo dục khoa học, biết khuyến

khích, động viên đội ngũ cán bộ, giáo viên phấn đấu không ngừng nâng cao

chất lượng giáo dục. Cán bộ quản lý GDPT không nâng cao năng lực của

mình thì không thể thực hiện phân cấp và cũng không thể tự chủ.

Quản lý GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội đòi hỏi phải có đội ngũ

cán bộ quản lý GDPT các cấp (sở - phòng - trường) có đầy đủ những phẩm

chất và năng lực ở mức độ chung của các cán bộ chủ chốt và các chuyên viên

trong từng lĩnh vực quản lý.

Để nâng cao năng lực cho đội ngũ công chức, viên chức quản lý GDPT,

Bộ Giáo dục và Đào tạo cần tổ chức các khóa bồi dưỡng cho cán bộ chủ chốt

của các Sở Giáo dục và đào tạo và nhất là cho cán bộ quản lý các trường phổ

thông về lập kế hoạch, quản lý nhân sự, tài chính, thanh tra và thông tin

GDPT trong bối cảnh phân cấp quản lý.

Hầu hết công chức, viên chức quản lý GDPT trên địa bàn Thành phố Hà

Nội hiện nay đều chưa được đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức quản lý, nhất là

các kiến thức về phân cấp quản lý nên tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng

cao năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý là một giải pháp quan trọng đẩy

mạnh phân cấp quản lý nhà nước đổi với GDPT hiện nay. Cán bộ quản lý

GDPT cần được bồi dưỡng các kiến thức và kỹ năng chủ yếu sau đây:

125

- Kiến thức, kỹ năng lập kế hoạch phát triển GDPT, trong đó cần chú

trọng lập kế hoạch phát triển nhà trường, kế hoạch học tập cho học sinh, hợp

tác giữa nhà trường với cha mẹ học sinh và cộng đồng, xây dựng các mục tiêu

phát triển và các giải pháp để đạt được mục tiêu, xây dựng khung năng lực và

chế độ trách nhiệm của cán bộ quản lý GDPT.

- Kiến thức, kỹ năng xây dựng chương trình và tài liệu dạy học phát triển

phần mềm của chương trình đáp ứng nhu cầu phát triển của Thành phố.

- Năng lực quản lý khoa học, linh hoạt, đáp ứng được yêu cầu và chịu

trách nhiệm với cấp trên và người hưởng dịch vụ GDPT.

- Năng lực tư duy sáng tạo, trung thực, khách quan, đề cao tinh thần

trách nhiệm; làm việc nhóm và giao tiếp hiệu quả.

- Năng lực tự học, liên tục cập nhật kiến thức và các kinh nghiệm quản

lý, phấn đấu học tập suốt đời bằng các hình thức khác nhau.

Cùng với việc tự nâng cao năng lực của đội ngũ công chức, viên chức

quản lý GDPT là trách nhiệm của Sở Giáo dục và Đào tạo và các trường phổ

thông trong xây dựng và thực hiện các khóa đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản

lý GDPT ở các quận, huyện. Xây dựng nội dung chương trình đào tạo, bồi

dưỡng phù hợp, đổi mới phương pháp đào tạo, bồi dưỡng, trao đổi thảo luận,

liên hệ giải quyết các tình huống cụ thể trong quản lý là những phương pháp

tốt cần được áp dụng trong các khóa đào tạo, bồi dưỡng.

Nhiều nước thực hiện phân cấp quản lý đối với GDPT đều xây dựng câu lạc

bộ cán bộ quản lý GDPT và hiệu trưởng các trường phổ thông, tổ chức các diễn

đàn chuyên bàn về phân cấp quản lý về giáo dục để cán bộ quản lý, hiệu trưởng

các trường phổ thông có điều kiện trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau.

Cần có kế hoạch không ngừng nâng cao chất lượng tuyển dụng công

chức, giáo viên; quy hoạch đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục kế cận để có đội

ngũ cán bộ quản lý có chất lượng, đáp ứng yêu cầu phát triển GDPT của

Thành phố trong tình hình mới. Tích cực đổi mới, hoàn thiện cơ chế quản lý

126

cán bộ quản lý GDPT theo hướng tăng cường kỷ luật, kỷ cương, nâng cao

tinh thần trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ quản lý GDPT,

phân công, phân cấp hợp lý giữa các cấp, các ngành, các cơ quan trong thực

hiện các nhiệm vụ quản lý, quy định cụ thể trách nhiệm, quyền hạn của từng

cấp, từng cán bộ quản lý GDPT.

Để nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ công chức, viên chức

quản lý GDPT trên địa bàn thành phố Hà Nội cần rà soát, bổ sung, hoàn thiện

các cơ chế, chính sách trong tuyển chọn, sử dụng, đánh giá, khen thưởng, kỷ

luật và trong thực hiện các chế độ, chính sách, áp dụng các biện pháp khuyến

khích, đãi ngộ, tạo động lực làm việc cho cán bộ quản lý GDPT nhằm thu hút

đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục có chất lượng, toàn tâm, toàn ý phục vụ cho

sự nghiệp phát triển GDPT của thành phố.

Cần đổi mới công tác quy hoạch, tuyển chọn, luân chuyển, đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ quản lý GDPT trên địa bàn thành phố. UBND thành phố Hà Nội

và các quận, huyện cần rà soát, đánh giá thực trạng công tác QLNN đối với

GDPT trên địa bàn, thực trạng đội ngũ cán bộ Sở GD&ĐT, các Phòng

GD&ĐT và cán bộ quản lý của các trường phổ thông; thực hiện quy hoạch cán

bộ lãnh đạo Sở GD&ĐT, các Phòng GD&ĐT, cán bộ quản lý các trường phổ

thông đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Danh sách quy hoạch cần được

công khai để những người thuộc đối tượng trong quy hoạch có ý thức rèn

luyện, bồi dưỡng; tạo điều kiện cho quần chúng giám sát, giúp đỡ công chức,

viên chức để họ có định hướng phấn đấu phát triển. Hằng năm, UBND Thành

phố và các quận, huyện cần có sự rà soát, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch cho

phù hợp; đưa ra khỏi danh sách quy hoạch đối với những đối tượng không còn

đủ điệu kiện, tiêu chuẩn hoặc không có sự tiến bộ, không có ý thức vươn lên.

Công tác quy hoạch cán bộ phải gắn với đào tạo và sử dụng. Việc bổ nhiệm cán

bộ lãnh đạo, quản lý giáo dục nhất thiết phải thực hiện theo quy hoạch, trên cơ

sở cạnh tranh và tài năng.

127

UBND Thành phố và các quận, huyện cần ban hành quy định về luân

chuyển, điều động cán bộ lãnh đạo, quản lý của các Phòng GD&ĐT và của các

trường; tiến hành luân chuyển, điều động chuyên viên từ Phòng GD&ĐT

xuống làm cán bộ quản lý các trường phổ thông; luân chuyển, điều động

cán bộ quản lý từ trường lên Phòng GD&ĐT, từ Phong GD&ĐT lên Sở

GD&ĐT. UBND các quận, huyện cần có kế hoạch, có cơ chế tuyển chọn

CBQL giỏi ở các trường phổ thông về công tác tại Phòng GD&ĐT; thực hiện

việc điều động Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng giữa các trường theo yêu cầu,

nhiệm vụ công tác. Bên cạnh đó, UBND các quận, huyện cần tiến hành luân

chuyển những hiệu trưởng đã có thời gian đảm nhận chức vụ Hiệu trưởng hai

nhiệm kỳ ở một trường học, chuyển đổi đối với những hiệu trưởng nhiều năm

quản lý mà nhà trường không phát triển hoặc nội bộ mất đoàn kết; miễn

nhiệm đối với cán bộ quản lý không còn đủ phẩm chất, năng lực, uy tín; cách

chức, giáng chức đối với những cán bộ quản lý có sai phạm.

UBND Thành phố và các quận, huyện và Sở GD&ĐT, các Phòng

GD&ĐT cần đổi mới công tác đề bạt cán bộ quản lý. Việc bổ nhiệm cán bộ

quản lý cần căn cứ vào năng lực, hiệu quả công tác, sự tín nhiệm của tập thể;

tránh căn cứ vào “mối quan hệ”, cơ chế “sống lâu lên lão làng”. Trước khi

xem xét bổ nhiệm cần thăm dò ý kiến quần chúng, lấy phiếu tín nhiệm của tập

thể đơn vị, tranh thủ ý kiến của cán bộ chủ chốt của Thành phố.

Sở GD&ĐT cần tham mưu với UBND Thành phố có cơ chế hỗ trợ kinh

phí, tạo điều kiện cho cán bộ của Sở GD&ĐT, các Phòng GD&ĐT và cán bộ

quản lý của các trường phổ thông đi học sau đại học, ngoại ngữ (kể cả ở nước

ngoài) để nâng cao chất lượng của cán bộ quản lý để đáp ứng yêu cầu phân

cấp quản lý nhà nước về GDPT.

Thực hiện chế độ, chính sách hợp lý đối với cán bộ quản lý GDPT. Chế độ

ưu đãi hợp lý sẽ thu hút được những cán bộ quản lý giỏi về công tác tại các cơ

128

quan quản lý, góp phần thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ được phân cấp,

nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN đối với GDPT.

Việc áp dụng tốt chính sách thu hút nhân tài, chính sách tiền lương, bảo

hiểm xã hội; đổi mới thực hiện công tác thi đua, khen thưởng.... sẽ thu hút được

người tài giỏi về công tác trong ngành GDPT; động viên, khuyến khích công

chức, viên chức tích cực học tập, nâng cao trình độ, năng lực, hoàn thành tốt các

nhiệm vụ của ngành trong bối cảnh đẩy mạnh phân cấp quản lý.

4.2.4. Hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra đảm bảo hiệu quả phân cấp

quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông

Kiểm tra, thanh tra, đánh giá là một khâu trọng yếu trong quy trình QLNN

đối với GDPT. Không có kiểm tra, thanh tra, đánh giá khách quan và thực chất

thì hiệu quả quản lý không cao. Công tác kiểm tra, thanh tra, đánh giá khách

quan với phương pháp khoa học sẽ góp phần thúc đẩy các hoạt động của toàn hệ

thống và hoàn thiện từng bước cơ chế QLNN đối với GDPT cũng như ở các

trường phổ thông. Muốn nâng cao chất lượng GDPT trong bối cảnh phân cấp

quản lý cần ban hành cơ chế thanh tra, kiểm tra đảm bảo việc phân cấp quản lý

nhà nước về GDPT được thực hiện hiệu quả, tránh tình trạng các cơ quan, tổ

chức lạm dụng các chức năng, quyền hạn được phân cấp để vi phạm pháp luật.

Thanh tra, kiểm tra QLNN về GDPT phải bao quát tất cả các nội dung

quản lý, từ xây dựng chương trình, kế hoạch phát triển GDPT đến thực hiện

chương trình giáo dục; cấp phát, chi tiêu tài chính; huy động và sử dụng các

nguồn lực xã hội; tuyển chọn, đánh giá, khen thưởng, kỷ luật, luân chuyển, đề

bạt cán bộ, giáo viên; đánh giá kết quả học tập; việc dạy thêm, học thêm; thực

hiện các chức năng, nhiệm vụ được phân cấp. Việc tăng cường thanh tra,

kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn được giao của chính

quyền địa phương, các trường phổ thông, hạn chế được việc tùy tiện trong

thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được phân cấp hoặc lợi dụng các chức

năng, nhiệm vụ được phân cấp để vi phạm.

129

Một trong những nguyên nhân của các tồn tại về GDPT trên địa bàn

thành phố Hà Nội trong thời gian qua là do công tác quản lý chất lượng, thanh

tra, kiểm tra, giám sát chưa được coi trọng đúng mức.Trong điều kiện đẩy

mạnh phân cấp quản lý, giao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục, đào tạo thì

công tác thanh tra, kiểm tra của cơ quan quản lý các cấp, việc giám sát của xã

hội chưa được tăng cường.

Theo Nghị định số 42/2013/NĐ-CP ngày 09/5/2013 của Chính phủ về tổ

chức và hoạt động thanh tra giáo dục, các Phòng GD&ĐT của Thành phố

không có chức năng thanh tra chuyên ngành với các trường phổ thông. Sở

GD&ĐT, các Phòng GD&ĐT thực hiện chức năng kiểm tra đối với các

trường phổ thông trong việc tổ chức thực hiện các hoạt động GDPT.

Công tác kiểm tra của Sở GD&ĐT, các Phòng GD&ĐT trong thời gian

tới cần có sự cải tiến về tổ chức, nội dung, hình thức cụ thể như sau:

- Đổi mới tổ chức, hoạt động kiểm tra chuyên ngành trong GDPT

nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động kiểm tra. Kiện toàn đội ngũ

cán bộ kiểm tra của ngành GDPT trên địa bàn Thành phố. Tổ chức tuyên

truyền, quán triệt Luật Thanh tra 2010; Luật Khiếu nại 2011, Luật Tố cáo 2018,

Luật Phòng chống tham nhũng 2018, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012

và các văn bản quy phạm pháp luật khác về GDPT.

- Sở GD&ĐT, các Phòng GD&ĐT phối hợp với các cơ quan chức năng

thực hiện tốt việc kiểm tra chức năng đối với các trường phổ thông, chủ

động phối hợp với Thanh tra Thành phố và các quận, huyện trong hoạt động

thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, giải quyết kịp thời những bức

xúc trong GDPT mà xã hội quan tâm.

- Sở GD&ĐT, các Phòng GD&ĐT tăng cường kiểm tra định kỳ và đột

xuất đối với các trường phổ thông trong việc tổ chức các hoạt động giáo dục;

kiểm tra định kỳ và đột xuất chất lượng GDPT của các trường phổ thông. Sau

130

kiểm tra cần đánh giá, rút ra những bài học kinh nghiệm, phát hiện những

điển hình tiên tiến để phổ biến, triển khai trong toàn ngành.

Mỗi năm học, Sở GD&ĐT, các Phòng GD&ĐT cần tổ chức kiểm tra

toàn diện hoạt động GDPT của ít nhất 20% trên tổng số các trường phổ thông

trên địa bàn Thành phố. Ngoài ra, Sở GD&ĐT, các Phòng GD&ĐT cần tiến

hành kiểm tra chuyên đề đối với tất cả các đơn vị còn lại.

- Sở GD&ĐT, các Phòng GD&ĐT cần chỉ đạo các trường phổ thông

thực hiện tốt “3 công khai” để người học và xã hội giám sát, đánh giá: công

khai chất lượng giáo dục; công khai các điều kiện về cơ sở vật chất, đội ngũ

giáo viên; công khai thu, chi tài chính.

- Bố trí phòng tiếp dân riêng, có lịch và quy định về tiếp dân; giải quyết

kịp thời, dứt điểm, triệt để đơn thư khiếu nại tố cáo của công dân.

Việc thanh tra, kiểm tra, đánh giá các đơn vị quản lý giáo dục và các

trường phổ thông phải công khai, thực chất, công bằng. Qua kiểm tra, thanh

tra, Sở GD&ĐT, các Phòng GD&ĐT phát hiện, ngăn ngừa và có hình thức xử

lý kịp thời những sai phạm trong việc tuân thủ pháp luật về GDPT, lấy kết

quả thanh tra, kiểm tra làm căn cứ để đánh giá, xếp loại thi đua các trường

phổ thông.

4.2.5. Các giải pháp bổ trợ

Thứ nhất, đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục phổ thông

GDPT phải được phát triển theo phương thức xã hội hóa - một phương

thức đem lại hiệu quả thiết thực được nhiều nước áp dụng. Xây dựng hệ thống

các cơ chế, chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế, cá tổ chức và tư

nhân tham gia xã hội hóa GDPT. Xã hội hóa giáo dục trong GDPT cần thực

hiện các nội dung hoạt động: 1) Huy động toàn xã hội tham gia phát triển quy

mô GDPT, thực hiện mục tiêu xây dựng một xã hội học tập; 2) Đa dạng hóa

các hình thức học tập và loại hình nhà trường phổ thông; 3) Đa dạng hóa các

131

loại hình nhà trường tham gia vào quá trình GDPT; tham gia xây dựng các

yếu tố, điều kiện phát triển GDPT.

Phân cấp quản lý nhà nước về GDPT phải được triển khai cùng với

phương thức xã hội hóa - một phương thức đang đem lại hiệu quả thiết thực

và được các cấp quản lý GDPT của nhiều nước trên thế giới áp dụng.

Khi nói đến xã hội hóa GDPT thì cần gắn nhà trường với cộng đồng xã

hội nơi trường đóng. Nhà trường tiểu học, THCS là những cơ sở văn hóa có

chức năng nâng cao dân trí, chuẩn bị nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội,

thực hiện những mục tiêu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa phương.

Phương hướng, mục tiêu GDPT của nhà trường phải hướng vào mục tiêu phát

triển của địa phương, vì vậy phát triển GDPT phải bằng sức mạnh của địa

phương và cả cộng đồng xã hội.

Mối quan hệ giữa các trường phổ thông với địa phương càng được củng

cố khi các lực lượng xã hội ở địa phương tham gia vào phát triển GDPT.

GDPT không chỉ do những cán bộ quản lý ngành thực hiện mà cần có sự

tham gia của cộng đồng, tạo điều kiện cho mọi người dân thực hiện quyền

làm chủ của mình đối với sự nghiệp phát triển GDPT.

Xã hội hóa GDPT cần thực hiện ở mọi nội dung hoạt động: Huy động

toàn xã hội tham gia phát triển quy mô GDPT, thực hiện mục tiêu xây dựng

một xã hội học tập trên địa bàn Thành phố; đa dạng hóa các hình thức học tập

và loại hình nhà trường phổ thông; đa dạng hóa các nguồn lực cho GDPT; xây

dựng môi trường giáo dục; tham gia vào quá trình giáo dục; tham gia xây

dựng các điều kiện phát triển GDPT.

Muốn xã hội hóa GDPT được thực hiện có hiệu quả rất cần có sự quản lý

của nhà nước. Quản lý của nhà nước trong xã hội hóa GDPT được hiểu là trách

nhiệm của chính quyền các cấp về ba nhóm vấn đề: Xây dựng hệ thống các cơ

chế, chính sách về xã hội hóa GD; Tổ chức chỉ đạo thực hiện xã hội hóa

GDPT; Giám sát đôn đốc, kiểm tra việc triển khai và thực hiện xã hội hóa.

132

Lý thuyết về phân cấp quản lý trong GDPT được vận dụng vào việc thực

hiện xã hội hóa GDPT:

- Cấp trung ương: Xây dựng và chỉ đạo thực hiện các cơ chế, chính sách

về xã hội hóa GDPT; ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về xã hội hóa

GDPT, về cơ chế phối hợp giữa các ngành, các cấp, về huy động, sử dụng

nguồn lực phát triển GDPT; quy định nghĩa vụ, quyền hạn và trách nhiệm của

các bên có liên quan trong quá trình tham gia vào xã hội hóa GDPT.

- Cấp địa phương: UBND các cấp chỉ đạo, phối hợp, kiểm tra, giám sát

các lực lượng xã hội tham gia phát triển GDPT căn cứ vào chủ trương, chính

sách của cấp trên, nghị quyết của Hội đồng nhân dân các cấp về xã hội hóa

GDPT. Để thực hiện các chủ trương, các chương trình, kế hoạch xã hội hóa

GDPT, UBND Thành phố và các quận, huyện căn cứ vào sự tham mưu của

ngành dọc, của các trường và của Hội đồng nhà trường có trách nhiệm huy

động, tổ chức sự tham gia của các lực lượng trong cộng đồng, quán triệt

nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.

Thứ hai, trao quyền tự chủ cho các trường phổ thông

Quyền tự chủ của các trường phổ thông được hiểu là quyền của nhà

trường trong việc quyết định những vấn đề có liên quan trực tiếp đến tổ chức

và hoạt động của nhà trường, bao gồm việc thực hiện chương trình, nội dung

và phương pháp giáo dục; việc tuyển dụng, sử dụng và sa thải giáo viên; việc

huy động nguồn lực tài chính và sử dụng ngân sách nhà trường. Nhìn từ góc

độ của mô hình quản lý công mới thì đó là kiểu phân cấp quản lý tới cấp

trường và được gọi là quản lý lấy nhà trường làm cơ sở (School-Based

Management).

Ở nước ta cũng như ở nhiều nước đang phát triển khác, tuy mô hình quản

lý công mới và quản lý lấy nhà trường làm cơ sở chưa được chính thức đưa vào

trong quản lý nhà nước về GDPT, nhưng do tác động của tiến trình toàn cầu

133

hóa, nhiều ý tưởng của các mô hình trên đã được chia sẻ, thâm nhập, chuyển

hóa vào trong tiến trình đổi mới quản lý nhà nước về GDPT ở nước ta.

Luật Giáo dục năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) là cơ sở pháp lý

để quản lý các trường phổ thông ở nước ta chuyển sang phương thức quản lý

lấy nhà trường làm cơ sở. Điều 14 của Luật Giáo dục quy định nguyên tắc

quản lý nhà nước về giáo dục, trong đó Nhà nước thực hiện phân công, phân

cấp quản lý giáo dục, tăng cường quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ sở

giáo dục. Quy định này được cụ thể hóa ở Điều 58 về nhiệm vụ và quyền hạn

của nhà trường với 3 nội dung mới: 1) Nhà trường có quyền tuyển dụng nhà

giáo và tham gia vào quá trình điều động nhà giáo; 2) Nhà trường có quyền

huy động, sử dụng, quản lý các nguồn lực theo quy định của pháp luật; 3) Nhà

trường có nhiệm vụ tự đánh giá chất lượng giáo dục và chịu sựkiểm định chất

lượng giáo dục của cơ quan có thẩm quyền.

Cách đây 5 năm, trong khuôn khổ của một chương trình nghiên cứu theo

tiếp cận hệ thống để nâng cao chất lượng giáo dục, các nhà nghiên cứu của

Ngân hàng Thế giới đã có sự đánh giá bước đầu về tự chủ trường học ở nhiều

nước trên thế giới. Khi đó tự chủ cũng được đặt trong mô hình 3A

(Autonomy: tự chủ, Assessment: đánh giá, Accountability: giải trình) và việc

đánh giá tập trung vào 5 tiêu chí: 1) Mức độ tự chủ trong lập kế hoạch và

quản lý ngân sách nhà trường; 2) Mức độ tự chủ trong quản lý nhân sự; 3) Vai

trò của hội đồng trường trong quản trị nhà trường; 4) Đánh giá học sinh và

đánh giá trường học; 5) Giải trình với các bên liên quan [75, 240].

Ở nước ta, thực hiện tự chủ trường học có những điểm mạnh và cơ hội,

nhưng cũng có những điểm yếu và thách thức. Những điểm mạnh và cơ hội

là: 1) Đã có một số quy định pháp lý về tự chủ trường học; 2) đã có kinh

nghiệm và bài học trong phát huy tự chủ về tài chính; 3) Nghị quyết số 29-

NQ/TW ngày 04/11/2013 về Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào

134

tạo yêu cầu tách quản lý nhà nước với quản trị cơ sở giáo dục; 4) việc đổi mới

chương trình GDPT đòi hỏi một điều kiện bảo đảm là nhà trường phải được tự

chủ về chuyên môn, tài chính và nhân sự. Những điểm yếu và thách thức bao

gồm: 1) Thiếu sự đồng thuận xã hội trong nhận thức về tự chủ trường học; 2)

còn nhiều bất cập trong tự chủ về nhân sự, vai trò của Hội đồng trường và trách

nhiệm giải trình; 3) còn nhiều yếu kém về năng lực ở cả hệ thống quản lý và

cấp trường trong thực hiện tự chủ; 4) theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP, ngày

25/4/2006 về Quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm

vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công

lập cũng như Nghị định 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 quy định cơ chế tự

chủ của đơn vị sự nghiệp công lập thì điều kiện để thực hiện tự chủ trong

GDPT là khả năng tự bảo đảm chi phí. Quy định này khó được thực hiện với

nhà trường phổ thông và trái với thông lệ quốc tế.

Từ đó, có thể nhận dạng được một số việc phải làm sau đây để điều kiện

về tự chủ trường phổ thông được hiện thực hóa:

Một là, tạo sự đồng thuận về nhận thức đối với một số nội dung quan

trọng của tự chủ.

Cần thống nhất rằng, tự chủ trường học là một chính sách quản lý, một

công cụ để nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục, chứ không phải là mục

đích để theo đuổi. Điều bất ổn hiện nay trong Nghị định 43 cũng như Nghị

định 16 là biến tự chủ thành mục đích mà nhà trường công lập cần đạt được

bằng cách tự bảo đảm các khoản chi, từ chi thường xuyên, đến chi quản lý và

chi đầu tư. Cái mà các nghị định này hướng tới là giảm chi ngân sách nhà

nước trong các lĩnh vực dịch vụ công. Điều này là cần thiết nhưng không thể

áp dụng đồng loạt cho mọi lĩnh vực, cũng như trong cùng một lĩnh vực như

giáo dục. Nếu trong giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học, việc huy động

các nguồn thu ngoài ngân sách như học phí, nghiên cứu khoa học, chuyển

135

giao công nghệ là hợp lý và cần thiết thì GDPT không như vậy. Cần coi

GDPT là loại dịch vụ công thiết yếu, nơi Nhà nước cần đầu tư ngân sách để

bảo đảm các khoản chi của nhà trường. Việc thu học phí có thể đặt ra ở THPT

hoặc ở một số cơ sở giáo dục đáp ứng nhu cầu của thị trường chất lượng cao

trong giáo dục, nhưng tuyệt nhiên không nên đặt yêu cầu về tự bảo đảm các

khoản chi như một điều kiện tiên quyết cho tự chủ.

Điều kiện để nhà trường phổ thông được tự chủ chính là các điều kiện đã

được đúc kết từ mô hình 3A nói trên. Đó là: 1) Có một Hội đồng nhà trường có

quyền lực và năng lực; 2) Đã được đánh giá, kiểm định và công nhận về chất

lượng; 3) Bảo đảm thực hiện giải trình công khai, minh bạch và trung thực. Khi

đó nhà trường được giao quyền tự chủ, bao gồm tự chủ về chuyên môn, nhân sự

và tài chính.

Hai là, hoàn thiện các quy định pháp lý về tự chủ trường phổ thông.

Hiện nay, Điều 14 và Điều 58 của Luật Giáo dục đã tương đối đủ để tạo

thành hành lang pháp lý cho việc thực hiện quyền tự chủ trường phổ thông.

Có điều các văn bản dưới luật lại không nhất quán với tinh thần của Luật

Giáo dục. Trước hết, trong các điều lệ trường tiểu học và trung học, tuyệt

nhiên không có quy định nào về việc thực hiện các quyền tự chủ theo Điều 58

của Luật Giáo dục. Dường như các nhà soạn thảo điều lệ nhà trường vẫn nhìn

trường phổ thông dưới góc độ của một nhà trường tuân thủ, chịu trách nhiệm

thi hành các mệnh lệnh hành chính hoặc các quy định được truyền đạt từ cơ

quan quản lý cấp trên. Ở một góc độ khác, từ Nghị định 43 năm 2006 đến

Nghị định 16 năm 2015 quy định về cơ chế tự chủ của các đơn vị sự nghiệp

công lập thì nhà trường công lập được tự chủ hay không và tự chủ đến mức

độ nào lại hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng tự bảo đảm các khoản chi. Như

thế từ tinh thần tự chủ của Luật Giáo dục đến tinh thần tự chủ của các văn bản

dưới luật đã có sự khác biệt về nhận thức như đã trình bày ở trên.

136

Vì thế, việc hoàn thiện thể chế về quyền tự chủ trường phổ thông cần tập

trung vào chỉnh lý các văn bản dưới luật, trên cơ sở có sự đồng thuận về nhận

thức đối với các nội dung cơ bản của tự chủ. Theo hướng đó cần:

- Ban hành một nghị định riêng về tự chủ của trường phổ thông công lập

với hai nội dung chủ yếu sau đây: 1) Nhà trường được giao quyền tự chủ khi

bảo đảm các điều kiện đã được kiểm định và công nhận về chất lượng; có hội

đồng trường đủ năng lực và quyền lực; thực hiện trách nhiệm giải trình công

khai, minh bạch và trung thực; 2) quyền tự chủ của trường phổ thông bao

gồm: tự chủ về chuyên môn (chọn sách giáo khoa, nội dung, cách dạy, cách

học, cách đánh giá trong phạm vi những quy định của chương trình giáo dục

phổ thông); tự chủ về nhân sự (tuyển dụng, sử dụng, bổ nhiệm, đãi ngộ giáo

viên); tự chủ về tài chính (sử dụng ngân sách nhà nước được cấp trọn gói, huy

động và sử dụng nguồn thu ngoài ngân sách nhà nước).

- Sửa đổi, bổ sung điều lệ trường tiểu học và điều lệ trường trung học,

trong đó: 1) làm rõ vai trò và thẩm quyền của hội đồng trường cùng mối quan

hệ giữa hội đồng trường và hiệu trưởng; 2) làm rõ trách nhiệm giải trình của

nhà trường đối với hội đồng trường, với các bậc phụ huynh và cộng đồng địa

phương, với cơ quan quản lý cấp trên; 3) cụ thể hóa các quyền tự chủ về

chuyên môn, nhân sự và tài chính.

Ba là, thể chế hóa chủ trương tách quản lý nhà nước với quản trị các

trường phổ thông.

Đây là chủ trương đã được quy định trong Nghị quyết số 29 của Ban

chấp hành Trung ương nhưng đến nay chưa được đề cập đến trong Chương

trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 29. Chính việc chậm

thể chế hóa chủ trương này khiến việc tự chủ các trường phổ thông còn gặp

rào cản lớn trong tổ chức thực hiện. Chừng nào chưa tách bạch quản lý nhà

nước với quản trị các trường phổ thông thì cơ quan quản lý nhà nước vẫn tiếp

137

tục giữ thói quen can thiệp vào mọi hoạt động liên quan đến chỉ đạo, quyết

định những vấn đề lớn của các trường phổ thông, qua đó vô hiệu hóa hội đồng

trường, biến hội đồng trường thành một thiết chế hình thức trong tổ chức của

nhà trường.

Vì thế cần sớm thể chế hóa chủ trương trên để thiết lập một quan hệ phối

hợp mới giữa nhà trường và cơ quan quản lý cấp trên. Đó là quan hệ hỗ trợ,

tạo điều kiện cho nhà trường phát huy tốt quyền tự chủ của mình. Trên

nguyên tắc tập trung làm tốt chức năng quản lý nhà nước, cơ quan quản lý

nhà nước về GDPT địa phương chuyển từ vị trí “người ra lệnh” sang vị trí

“người cộng tác” để cung cấp thông tin, chia sẻ kinh nghiệm, giúp nhà trường

phát huy quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình trong công tác quản lý cụ thể

của mình để công tác quản lý nhà trường bám sát thực tế nhà trường, lắng

nghe tiếng nói của giáo viên, học sinh, gia đình và xã hội, từ đó bản thân nhà

trường có những quyết định đúng đắn, phù hợp và khả thi. Điều này đòi hỏi

có sự trao đổi thông tin hai chiều, kịp thời và tin cậy giữa cơ quan quản lý

giáo dục địa phương với nhà trường, gia đình và xã hội. Trong điều kiện phát

triển mạnh mẽ hiện nay của công nghệ thông tin, điều đó cũng có nghĩa là

phải hiện đại hóa công tác quản lý, chuyển nhanh sang việc thực hiện tin học

hóa công tác quản lý.

Kể cả trên phương diện pháp lý lẫn thực tế, vấn đề tự chủ đã được quy

định và tổ chức thực hiện trong GDPT ở nước ta từ hơn 10 năm nay. Tuy

nhiên, giáo dục nước ta, kể cả ở GDPT mới chỉ đi những bước đầu trên con

đường tự chủ. Trên con đường này, Việt Nam cũng có cách tiếp cận riêng. Đó

là cách tiếp cận theo kiểu đánh đổi giữa quyền tự chủ với việc tự bảo đảm các

khoản chi.

Về bản chất, đó là một cách tiếp cận mang tính thị trường. Nó khuyến

khích và đòi hỏi các trường phổ thông phải cố gắng tạo ra các khoản thu

138

ngoài ngân sách và dùng các khoản thu này để “mua” lấy quyền tự chủ. Dĩ

nhiên, chẳng có một công thức chung để đi tới tự chủ. Mỗi nước, tùy theo

điều kiện kinh tế - xã hội của mình mà có con đường riêng để đưa tự chủ vào

GDPT. Chúng ta chọn cách tiếp cận nói trên với mục đích chính là tháo gỡ

mâu thuẫn giữa một bên là sự hạn hẹp của ngân sách nhà nước với một bên là

yêu cầu cao về mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng GDPT.

Có điều cách tiếp cận thị trường trong GDPT là một việc làm lợi bất cập

hại. Nó tạo ra trong nhà trường một môi trường mà cả thày và trò đều đứng

trước các xung đột về giá trị. Đó là các xung đột giữa một bên là các giá trị

hướng tới phẩm chất người học mà chương trình GDPT phải thực hiện với

một bên là các giá trị thị trường mà dù muốn hay không các trường phổ thông

phải theo đuổi để tạo ra các khoản thu. Kết quả của những xung đột này là sự

loang rộng và thậm chí lên ngôi của các phi giá trị như sự giả dối, bệnh thành

tích, bệnh hình thức, bệnh bè phái, bệnh đối phó, thói tùy tiện, thói vô cảm…

Trong một môi trường như vậy, khó mà hình thành một cách thực chất các

phẩm chất mong muốn của học sinh.

Muốn thay cách tiếp cận trên bằng một tiếp cận khác, phù hợp hơn với

các đặc trưng của GDPT không nên có chuyện tự bảo đảm các khoản chi để

được giao quyền tự chủ. Nhà trường vẫn cần được cấp ngân sách nhà nước

đầy đủ và được giao quyền tự chủ khi đã được kiểm định và công nhận về

chất lượng, có một hội đồng trường đủ mạnh và thực hiện trách nhiệm giải

trình một cách công khai, minh bạch. Đó là cách tiếp cận hướng tới nâng cao

chất lượng GDPT. Nó sẽ tạo nên môi trường văn hóa lành mạnh và trung thực

để cả thày và trò cùng vững tâm hướng tới các phẩm chất mà chương trình

GDPT mong muốn trong các trường phổ thông.

139

Tiểu kết chương 4

Phân cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội

trong những năm qua bước đầu đã phát huy tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm

của của các cơ quan nhà nước và đội ngũ cán bộ quản lý GDPT, góp phần

nâng cao chất lượng GDPT. Tuy nhiên, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT

trên địa bàn Thành phố vẫn còn nhiều bất cập, những bất cập trong tổ chức bộ

máy và thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về GDPT; những bất cập

trong thực hiện các chức năng chuyên môn và quản lý các nguồn lực vật chất;

những bất cập trong quản lý đội ngũ giáo viên và thanh tra, kiểm tra GDPT.

Căn cứ vào các quan điểm, định hướng phân cấp quản lý nhà nước về

GDPT cần triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp để đẩy mạnh phân cấp

quản lý đối với GDPT trên địa bàn Thành phố trong những năm tới. Các giải

pháp đó là: 1) Đổi mới tư duy về phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ

thông; 2)Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về phân cấp

quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông; 3) Nâng cao năng lực của đội ngũ cán

bộ quản lý giáo dục phổ thông; 4) Hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra đảm

bảo hiệu quả phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông; 5) Các giải

pháp bổ trợ khác (Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục phổ thông, Trao quyền tự chủ

cho các trường phổ thông).

Thực hiện đồng bộ các giải pháp trên sẽ góp phần đẩy mạnh và nâng cao

hiệu quả phân cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội

trong những năm tới, góp phần phát triển GDPT, đáp ứng tốt các yêu cầu của

người dân và xã hội.

140

KẾT LUẬN

Phân cấp quản lý nhà nước nói chung và phân cấp quản lý nhà nước về

GDPT nói riêng là một trong những nội dung quan trọng trong Chương trình

tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020. Trên thực tế,

phân cấp quản lý quản lý nhà nước về GDPT trên cơ sở xác định rõ chức

trách, nhiệm vụ của các cơ quan có liên quan đã mang lại những kết quả tích

cực. Phân cấp quản lý nhà nước về GDPT là rất cần thiết để phát triển GDPT

và hoàn toàn khả thi nếu có các cơ chế, chính sách đúng và điều kiện thực

hiện được đảm bảo.

Nghiên cứu đề tài này, tác giả mong muốn đóng góp ý kiến làm rõ sự

cần thiết phải đổi mới nhận thức về sự cần thiết phải đối mới mạnh mẽ các cơ

chế, chính sách trong quản lý nhà nước về GDPT trong giai đoạn chuyển đổi

từ tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Luận án phân tích làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về sự cần thiết về nhận

thức và quyết tâm tổ chức thực hiện chính sách đổi mới trong quản lý nhà

nước về GDPT thông qua mô hình phân cấp, từ đó khắc phục những yếu kém

trong quản lý nhà nước về GDPT ở nước ta hiện nay. Phân định rõ chức

trách, nhiệm vụ của các bộ, các cơ quan chuyên môn và chính quyền địa

phương các cấp; coi trọng các khâu quản lý đối với GDPT để giải quyết

những vấn đề đang đặt ra trong xã hội, mà phân cấp quản lý là một trong

những giải pháp được nhiều nước trên thế giới đã thực hiện thành công.

Những kết quả nghiên cứu đề tài được thể hiện ở những nội dung chính

sau đây:

1. Luận án đã tập trung nghiên cứu các công trình nghiên cứu ở trong nước

và trên thế giới về phân cấp quản lý, phân cấp quản lý về giáo dục và đánh giá

chung về các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án. Trong chương

141

này nghiên cứu sinh đã chỉ rõ những nội dung đã được các tác giả trong nước và

quốc tế nghiên cứu về phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục; những nội dung

tác giải luận án cần nghiên cứu, bổ sung.

2. Phân tích làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước về

GDPT, luận án khẳng định xu hướng phi tập trung (decentralization) là xu

hướng chung trong quản lý nhà nước về GDPT trên thế giới hiện nay.Luận án

phân tích làm rõ khái niệm phân cấp quản lý quản lý nhà nước về giáo dục

phổ thông; tác động phân cấp quản lý nhà nước về GDPT; nội dung, điều

kiện, các yếu tố ảnh hưởng đến phân cấp quản lý nhà nước về GDPT. Trong

chương này, nghiên cứu sinh trình bày kinh nghiệm của các nước trên thế giới

trong phân cấp quản lý nhà nước về GDPT và rút ra các giá trị tham khảo cho

Việt Nam.

3. Phân tích thực trạng phân cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa

bàn Thành phố Hà Nội. Tuy đã đạt được những kết quả quan trọng, tạo ra sự

chuyển biến bước đầu trong công tác quản lý nhà nước về GDPT, nhưng phân

cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn Thành phố vẫn còn nhiều tồn tại,

hạn chế. Các hạn chế này tập trung trong ba lĩnh vực chủ chốt: (i) bộ máy,

nhân sự; (ii) cơ sở vật chất và tài chính; (iii) chuyên môn (bao gồm lập kế

hoạch phát triển giáo dục phổ thông, xây dựng nội dung, chương trình và

đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông).

4. Luận án đã trình bày quan điểm, định hướng phân cấp quản lý nhà

nước về GDPT. Trên cơ sở các quan điểm và định hướng này luận án đã đề

xuất các giải pháp để đẩy mạnh phân cấp quản lý đối với GDPT trên địa bàn

Thành phố trong những năm tới. Các giải pháp đó là: 1) Đổi mới tư duy về

phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông; 2)Xây dựng và hoàn thiện

hệ thống chính sách, pháp luật về phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ

thông; 3) Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục phổ thông; 4)

142

Hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra đảm bảo hiệu quả phân cấp quản lý nhà

nước về giáo dục phổ thông; 5)Các giải pháp bổ trợ khác (Đẩy mạnh xã hội

hóa giáo dục phổ thông, Trao quyền tự chủ cho các trường phổ thông).

Song cũng cần nhấn mạnh rằng, phân cấp quản lý nhà nước về GDPT

chỉ phát huy hiệu quả khi cơ quan nhà nước cấp trên trao nhiều quyền hơn

cho cấp cơ sở đồng thời không ngừng nâng cao năng lực của cán bộ quản lý

GDPT và thực hiện công tác kiển tra, giám sát các hoạt động GDPT có hiệu

quả. Các ý tưởng mới về phân cấp quản lý nhà nước về GDPT chỉ có thể thực

hiện khi được thể chế hóa bằng các quy định pháp luật và cần có sự phối hợp

đa ngành (ít nhất là ngành Giáo dục, Nội vụ và Tài chính).

143

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ

1. Ngô Thị Diệp Lan, Cách tiếp cận đổi mới quản lý giáo dục phổ thông và

quản lý các trường phổ thông hiện nay, Tạp chí quản lý nhà nước 258

tháng 7/2017.

2. Ngô Thị Diệp Lan, Giáo dục phổ thông trên địa bàn thành phố Hà Nội –

thực trạng và giải pháp, Tạp chí quản lý nhà nước 270 tháng 7/2018.

144

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Đặng Quốc Bảo - Nguyễn Đắc Hưng (2004), Giáo dục Việt Nam hướng

tới tương lai - vấn đề và giải pháp, NXB Chính quốc gia, Hà Nội

2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày

04/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng

yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

3. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Quyết định số 2653/QĐ-BGDĐT ngày

25/7/2014ban hành Kế hoạch hành động của ngành giáo dục triển khai

Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 29-

NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI.

4. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ, Thông tư liên tịch số

11/2015/TTLT-BGD-ĐT-BNV Hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Giáo dục và Đào tạo thuộc UBND

tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Phòng Giáo dục và Đào tạo

thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.

5. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ, Thông tư liên tịch số

07/2009/TTLT-BGD-ĐT-BNV hướng dẫn quyền tự chủ, tự chịu trách

nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế đối với đơn vị sự

nghiệp công lập Giáo dục và Đào tạo.

6. Bộ Giáo dục và Đào tạo - Viện nghiên cứu phát triển giáo dục (2003),

Chiến lược phát triển giáo dục trong thế kỷ XXI - kinh nghiệm của các

quốc gia, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội

7. Bộ Nội vụ, Đề án phân cấp quản lý nhà nước trung ương - địa phương,

Hà Nội, 8/2003.

145

8. Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương, Kết quả Tổng

điều tra dân số và nhà ở thời điểm 0 giờ ngày 1 tháng 4 năm 2019, NXB

Thống kê, 2019

9. Chính phủ Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, Nghị quyết số 21/NQ-CP

ngày 21/3/2016 của Chính phủ về Phân cấp quản lý giữa Chính phủ và

UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

10. Chính phủ Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, Nghị định số

115/2010/NĐ-CP ngày 24/12/2010 của Chính phủ Quy định trách nhiệm

quản lý nhà nước về giáo dục.

11. Chính phủ Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, Nghị định số 16/2015/NĐ-

CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ Quy định cơ chế tự chủ của đơn vị

sự nghiệp công lập.

12. Chính phủ Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam,Quyết định số 711/QĐ-

TTg của thủ tướng Chính phủ ngày 13/6/2012 về Chiến lược phát triển

giáo dục giai đoạn 2011 – 2020.

13. Chính phủ, Nghị quyết số 49/NQ-CP ngày 09/6/2014 ban hànhChương

trình hành động thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013

của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI.

14. Chỉ thị số 10/2008/CT-UBND của Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội

về Thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của ngành giáo dục và đào tạo Hà

Nội trong năm học 2017 - 2018.

15. Cộng hòa XHCN Việt Nam,Luật Giáo dục năm 2005; Luật sửa đổi, bổ

sung một số điều của Luật Giáo dục năm 2018,NXB Chính trị quốc gia,

Hà Nội - 2018.

16. Cộng hòa XHCN Việt Nam,Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm

2015,NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2016.

146

17. Đinh Minh Dũng,“Phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo ở cấp

huyện vùng đồng bằng sông Cửu Long”, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 195

(4-2012).

18. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 18-NQ/TW Hội nghị lần thứ 6

Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ

chức bộ máy của hệ thống chính trị, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

19. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 19-NQ/TW Hội nghị lần thứ 6

Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống

tổ chức, quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn

vị sự nghiệp công lập.

20. Nguyễn Minh Đạo, Cơ sở khoa học quản lý, NXB Chính trị quốc gia, Hà

Nội 1997

21. Nguyễn Tiến Đạt,Kinh nghiệm và thành tựu phát triển giáo dục và đào

tạo trên thế giới, tập 1 và 2,NXB Giáo dục Hà Nội - 2006.

22. PGS. TS. Nguyễn Minh Đoan, Phân cấp, phân quyền giữa Trung ương

và địa phương, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2012.

23. Đậu Hoàn Đô, Nguyễn Công Giáp và Đào Vân Vy,Phân cấp quản lý giáo

dục Việt Nam: Thực trạng và xu hướng,NXB Giáo dục Hà Nội, 2003

24. Trần Khánh Đức - Bùi Quốc Dũng, Xu hướng và đặc trưng phân cấp

quản lý giáo dục ở các nước đang phát triển, NXB Chính trị Quốc gia,

Hà Nội - 2005.

25. Elizabeth M. King và Susana Corderio Guerra (2005): “Những cuộc cải

cách giáo dục ở Đông Á: chính sách, quá trình và tác động”, sách “Phân

cấp ở Đông Á để chính quyền địa phương phát huy tác dụng”, NXB Văn

hóa Thông tin, Hà Nội

26. Phạm Minh Hạc - Trần Kiều - Đặng Bá Lãm - Nghiêm Đình Vy, Giáo

dục thế giới đi vào thế kỷ XXI, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội-2002.

147

27. Ðỗ Thị Thu Hằng, Nghiên cứu các chính sách phi tập trung hóa tài

chính giáo dục nhằm nâng cao chất lượng đối với các trường THPT Việt

Nam, Ðề tài trọng điểm cấp trường Ðại học Quốc gia Hà Nội, mã số:

QGTÐ 10.20, Hà Nội, 2012.

28. Nguyễn Ngọc Hiến(chủ biên),Hành chính công (dùng cho nghiên cứu

sinh và giảng dạy sau đại học),NXB Thống kê, Hà Nội - 2003.

29. Nguyễn Tiến Hùng, Một số kinh nghiệm quốc tế về phân cấp quản lý

giáo dục phổ thông, Tạp chí Phát triển giáo dục,số 12/2004.

30. Nguyễn Tiến Hùng, Cơ sở lý luận và thực tiễn về phân cấp quản lý

trường trung học phổ thông Việt Nam, Luận án tiến sĩ Giáo dục học,

Viện KHGD Việt Nam, 2005.

31. TS. Nguyễn Tiến Hùng,Đề tài khoa học cấp Bộ B98-52-22:Nghiên cứu

tập trung và phân quyền trong hệ thống quản lý ngành GDPT Việt Nam.

32. Nguyễn Tiến Hùng, Tìm hiểu quy trình nghiên cứu phân cấp quản lý

giáo dục, Tạp chí Phát triển giáo dục, số 4 (64), năm 2004

33. Nguyễn Tiến Hùng,Vai trò của các cấp quản lý trong xu thế phân cấp quản

lý giáo dục đại học, Tạp chí Khoa học giáo dục, số 6 năm 2006.

34. Phạm Thanh Huyền, Một số vấn đề về phân cấp quản lý hành chính nhà

nước, tạp chí Tổ chức nhà nước, số tháng 12/2015.

35. Đặng Thị Thanh Huyền,Giáo dục phổ thông với phát triển chất lượng

nguồn nhân lực, NXB Khoa học Hà Nội – 2001.

36. Harol Koontz, Cỷil O”Donnell, Heinz Weihrich, Những vấn đề cốt yếu

của quản lý. NXB khoa học - Kỹ thuật, 1992).

37. J. M. Cohen và S. B. Peterson,Phân cấp quản lý hành chính - chiến lược

cho các nước đang phát triển, NXB Chính quốc gia, Hà Nội -2002.

38. Trần Kiểm,Khoa học quản lý nhà trường phổ thông, NXB Đại học quốc

gia Hà Nội, 2005.

148

39. Hà Khanh, Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, NXB Giáo dục, Hà Nội -

2007.

40. Ngô Thị Diệp Lan, Một số giải pháp tăng cường phân cấp quản lý nhà

nước về giáo dục phổ thông, tạp chí Quản lý nhà nước, số 236/2015.

41. Lê Thị Ái Lâm,Phát triển nguồn nhân lực thông quan giáo dục và đào

tạo - kinh nghiệm Đông Á, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội - 2003.

42. Đặng Bá Lãm (chủ biên),Quản lý nhà nước về giáo dục: lý luận và thực

tiễn,NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2005.

43. Trương Đắc Linh, Phân cấp quản lý trung ương và địa phương: Một số

vấn đề lý luận và thực tiễn, tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 3/2002.

44. Nguyễn Phương Linh - Đỗ Thị Hoa, Tìm hiểu các văn bản quy phạm pháp

luật về Quản lý giáo dục và Đào tạo, NXB Công an nhân dân - 2016.

45. Trần Thị Bích Liễu, Quản lý dựa vào nhà trường: con đường nâng cao hiệu

quả và chất lượng giáo dục, NXB Ðại học Sư phạm, Hà Nội - 2005.

46. Nguyễn Thế Long,Đổi mới tư duy phát triển giáo dục Việt Nam trong

kinh tế thị trường, NXB Lao động, Hà Nội - 2006.

47. Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Tác động của các chính sách phân cấp quản lý

giáo dục đối với chất lượng giáo dục qua một số công trình nghiên cứu,

tạp chí Giáo dục và Xã hội, số 18 (78) tháng 8/2012.

48. TS. Uông Chu Lưu, Một số vấn đề lý luận về phân cấp quản lý nhà

nước, Tạp chí Dân chủ pháp luật, số chuyên đề 60 năm ngành Tư pháp.

49. Hoàng Mai, Phân cấp quản lý nhân sự hành chính nhà nước ở Việt Nam

hiện nay, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội - 2016.

50. Ngân hàng thế giới (2005): “Phân cấp ở Đông Á để chính quyền địa

phương phát huy tác dụng”, NXB Văn hóa - Thông tin

51. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương khóa XI về

Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu

CNH, HĐH, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội – 2013.

149

52. Nghị quyết 21/2016/NQ-CP của Chính phủ ngày 21/3/2016 về phân cấp

quản lý nhà nước giữa Chính phủ và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố

trực thuộc Trung ương.

53. Trần Thị Diệu Oanh, Phân cấp quản lý tổ chức bộ máy và cán bộ, công

chức trong quá trình cải cách hành chính, tạp chí Quản lý nhà nước, số

10/2014.

54. Osborne và Gaebler (2000): “Sáng tạo lại chính phủ”, NXB Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

55. Nguyễn Minh Phương, Tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý giữa các cấp

chính quyền địa phương hiện nay, tạp chí Quản lý nhà nước, số 1/2007.

56. Hoàng Văn Sao, Phân cấp, phân quyền trong quản lý hành chính nhà

nước, tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, số 4/2002.

57. Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hà Nội, Báo cáo tổng kết năm học

2014 – 2015, phướng hướng nhiệm vụ trọng tâm năm học 2015 – 2016.

58. Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hà Nội, Báo cáo tổng kết năm học

2016 – 2017, phướng hướng nhiệm vụ trọng tâm năm học 2017 – 2018.

59. Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hà Nội, Báo cáo tổng kết năm học

2018 – 2019, phướng hướng nhiệm vụ trọng tâm năm học 2019 – 2020

60. Võ Kim Sơn,Phân cấp quản lý nhà nước - lý luận và thực tiễn, NXB

Chính quốc gia, Hà Nội, 2004.

61. Nguyễn Thế Tài, Phân công, phân cấp trong quản lý hành chính nhà

nước, tạp chí Tổ chức nhà nước, số 11/2011.

62. Nguyễn Thị Thanh Tâm, Phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục phổ

thông (từ thực tiễn tỉnh Bến Tre), Luận văn thạc sĩ Quản lý hành chính

công, Học viện Hành chính Quốc gia, năm 2008.

63. Đặng Văn Thanh, Phân cấp quản lý tài chính nhà nước – Thực trạng và

giải pháp hoàn thiện, tạp chí Quản lý nhà nước, số 9/2004.

64. Phạm Hồng Thái - Nguyễn Đăng Dung (đồng chủ biên), Phân cấp quản

lý nhà nước, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội – 2011.

150

65. Trần Hồng Thắm, Một số giải pháp đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà

nước về giáo dục phổ thông, tạp chí Khoa học, Đại học ư phạm TP Hồ

Chí Minh, số 34/2012.

66. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 711/QĐ-TTg phê duyệt “Chiến

lược phát triển giáo dục 2011 - 2020” ngày 13/6/2012, NXB Chính trị

quốc gia, Hà Nội - 2012.

67. Nguyễn Xuân Tế (2008), Quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ

sở giáo dục,Website Trường cán bộ quản lý GD&ĐT TP. Hồ Chí Minh.

68. Nguyễn Hồng Thuận, Đổi mới phân cấp quản lý trường trung học phổ

thông Việt Nam, đề tài khoa học cấp Bộ, Viện Khoa học giáo dục, 2011.

69. Vũ Thư, Phân cấp quản lý giữa các cấp chính quyền và những vấn đề

đặt ra, tạp chí Quản lý nhà nước, số 7/2014.

70. Trường Cán bộ quản lý giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh, Tài liệu học

tập, bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục phổ thông, NXB Đại học luật,

TP Hồ Chí Minh - 2008.

71. Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Giáo trình Khoa học quản lý, tập I,

Hà Nội 2001).

72. Hoàng Tụy (Chủ biên), Cải cách và chấn hưng giáo dục, NXB Tổng hợp

Thành phố Hồ Chí Minh, 2005.

73. Trần Anh Tuấn, Đẩy mạnh phân cấp quản lý hành chính nhà nước đáp

ứng yêu cầu phát triển và hội nhập toàn cầu, tạp chí Quản lý nhà nước,

số 10/2004.

74. Đinh Thi Minh Tuyết, Về phân cấp quản lý giáo dục - đào tạo ở nước ta

hiện nay, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 142 (11/2007).

75. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, XII, XII của Đảng Cộng

sản Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội – 2006, 2011, 2016

76. Viện Khoa học Giáo dục,Tuyển tập các công trình nghiên cứu vê Giáo

dục phổ thông của Nhà giáo nhân dân Phạm Văn Hoàn,NXB Đại học

quốc gia Hà Nội, năm 2001.

151

77. Viện Khoa học giáo dục,Xã hội hóa giáo dục, NXB Đại học quốc gia Hà

Nội, năm 2005

78. Viện nghiên cứu phát triển giáo dục - Trung tâm nghiên cứu phát triển

nguồn nhân lực, Từ chiến lược phát triển giáo dục đến chính sách phát

triển nguôn nhân lực, NXB Giáo dục, năm 2002

79. Viện Khoa học Giáo dục,Tuyển tập các công trình nghiên cứu vê Giáo

dục phổ thông của Nhà giáo nhân

80. Phạm Viết Vượng (Chủ biên),Quản lý hành chính nhà nước và quản lý

giáo dục đào tạo,NXB Đại học sư phạm, năm 2003

81. Nguyễn Cửu Việt, Phân cấp quản lý trong mối quan hệ giữa Trung ương

và địa phương, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 7/2005.

82. Nguyễn Cửu Việt, Khái niệm tập quyền, tản quyền và phân quyền, Tạp

chí Luật học, ĐH Quốc gia Hà Nội, số 26/2010.

83. Đào Văn Vy, Phân cấp quản lý giáo dục ở Việt Nam: Quan niệm, thực

tiễn và những vấn đề đặt ra về giáo dục phổ thông, tạp chí Khoa học

Giáo dục, số 37/2008.

84. Đào Văn Vỹ (1991), Từ điển Pháp - Việt, NXB TP.Hồ Chí Minh.

85. Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội, Công văn số 2475/UBND-KT về

việc triển khai Nghị quyết số 21/2017/NQ-CP về phân cấp quản lý nhà

nước giữa Chính phủ và UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

86. Website Thư viện pháp luật: http://lawsoft.thuvienphapluat.com

87. Hà Nguyên, Bất cập trong quản lý Nhà nước về giáo dục: Biến dạng

phân cấp quản lý, www.htp// giaoducthoidai.vn ngày 7/3/2019

88. Lê Hà, Cần khắc phục một số vấn đề trong vận hành tài chính cho giáo

dục, www.htp;//nhandanorg.vn ngày 29/10/2018

Tiếng Anh

89. Alfred de Grazia (1999),Decentralization - The element of Political

Science”, New Jersey.

152

90. Brian G. Knight &Nora Gordon (2006),The Effects of School District

Consolidation on Educational Cost and Quality, forthcoming, Public

Finance Review.

91. Clive A. J. Dimmock, School-based management and school

effectiveness, 1993.

92. Cheema, G. Shabbir and Rondineli (1993): “Decentralization and

development: Policy implementation in developing countries”, Sage,

Beverly Hills

93. Donal R. Winkler (1998): Decentralization in education: An Economic

Perspective,World bank

94. Harry Anthony Patrinos, David Lakshmanan Ariasingam

(1997),Decentralization of education: demand-side financing,World Bank,

Wash. D.c

95. Odden A, Busch C., Financing schools for high performance: strategies

for improving the use of educational resources, San Francisco: Jossey-

Bass,1988.

96. Jere R. Behrman, Anil B. Deolalikar, Lee-Ying Soon (2002),Conceptual

issues in the role of education decentralization in promoting effective

schooling in Asian developing countries,ADB, Manila.

97. Jacques Hallack (1990),Investing in the future. Setting

EductionalPriorities in the Developing world,UNDP.

98. Kanokpan Lao-Araya (2002),Effect of decentralization strategy on

macroeconomic stability in Thailand,ADB, Manila

99. Kaori Okano and Motonori Tsuchiya (1999),Education in contemporary

Japan: inequality and diversity,Cam. Univ. Pr

100. Lockheed, Marlaine (2004),“Decentralization of education: Eight

lessons for school effectiveness and improvement”,The word Bank,

Washington, D.C.

153

101. Nora Gordon & Brian Knight (2006),The Causes of Political

Integration: An Application to School Districts, NBER Working Papers

12047, National Bureau of Economic Research, Inc.

102. Rondineli D. và Nellis J. (1996),Assessing decentralization policies in

Developing countries: the case for cautious optimism, Delelopment

Policy Review 4.

103. Winkler R, Donald R. and Gershberg (2003), Effects on Quality of

Schooling,Word Bank, Washington D.C.

104. World Bank (1997),Decenfralization of education: legal issues,Wash. D.C.

105. World Bank (1998),Decentralization of education: teacher

management,Wash. D.C.

106. Washington D.C, USAID (2000),Decentralization and democratic Local

Governm.

154

PHỤ LỤC 1

PHIẾU KHẢO SÁT

Lấy ý kiến cán bộ quản lý giáo dục phổ thông và giáo viên về phân cấp

quản lý nhà nuwóc đối với GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội

Xin vui lòng đọc và đánh dấu X vào ô bên cạnh nội dung đánh giá mà

anh/chị lựa chọn.

Nội dung khảo sát Mức độ đánh X

giá

Tốt 1. Theo anh/chị, mức độ đáp ứng của quản lý đối với

GDPT ở địa phương nơi anh/chị công tác trước các yêu Khá

cầu phát triển KT-XH địa phương như thế nào? TB

2. Việc sửa đổi, bổ sung văn bản pháp quy về phân cấp Phù hợp

quản lý nhà nước về GDPT có phù hợp với tình hình Khá phù hợp

thực tế của địa phương? Chưa phù hợp

3. Theo anh/chị các văn bản pháp quy về quản lý nhà Bao quát

nước về GDPT có bao quát hết các mặt hoạt động Khá bao quát

GDPT hiện nay không ? Chưa bao quát

4. Các văn bản pháp quy liên quan đển quản lý nhà Nhất quán

nước về GDPT có nhất quán từ trung ương đến địa Khá nhất quán

phương? Chưa nhất quán

5. Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà Có

nước về GDPT ở địa phương có tương xứng với quyền Không hạn?

6. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn các cơ quan quản Có

lý nhà nước về GDPT có được quy định rõ ràng, cụ thể? Không

155

7. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan Có

quản lý nhà nước về GDPT có chồng chéo với các cơ Không quan nhà nước khác không?

8. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về GDPT Có

ở TP Hà Nội có hợp lý không? Không

9. Mức độ linh hoạt trong cơ cấu tổ chức bộ máy quản Tốt

lý nhà nước về GDPT trên địa bàn TP Hà Nội trước Khá

những thay đổi của tình hình thực tế? TB

10. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về GDPT Có

trên địa bàn TP Hà Nội có thống nhất và phù hợp Không không?

11. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về GDPT Có

trên địa bàn TP Hà Nội có bao quát hết các mảng công Không việc?

12. Chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong tổ Có

chức bộ máy quản lý nhà nước về GDPT có rõ ràng, Không phù hợp?

13. Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà Có

nước về GDPT có được quy định rõ ràng, hiệu quả? Không

14. Công tác thông tin trong quản lý nhà nước về GDPT Có

trên địa bàn Thành phố có kịp thời và chính xác? Không

15. Đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về GDPT của Đủ

Thành phố có đáp ứng đủ về số lượng? Không đủ

16. Chất lượng của đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước Tốt

về GDPT trên địa bàn Thành phố hiện nay như thế nào? Khá

TB

156

17. Đội ngũ cán bộ quản lý GDPT, giáo viên các

trường phổ thông có thường xuyên được đào tạo, bồi Không có dưỡng?

18. Kiến thức được đào tạo, bồi dưỡng có đáp ứng yêu Có

cầu nâng cao chất lượng của đội ngũ giáo viên không? Không

19. Quy định chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan Có

quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn Thành phố có Không hợp lý trong tương quan với các cơ quan, tổ chức khác?

20. Mức độ hiệu quả trong cơ chế phối hợp hoạt động Tốt

giữa các cơ quan quản lý nhà nước về GDPT và các Khá

ban, ngành chức năng khác trên địa bàn Thành phố? TB

21. Tầm quan trọng của các văn bản hướng dẫn của Quan trọng

Trung ương về cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản Khá q. trọng

lý nhà nước về GDPT và các cơ quan chức năng khác ở Không q. trọng địa phương?

22. Vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước về Rất nổi bật

GDPT trong tương quan với các ban, ngành chức năng Khá nổi bật

khác trên địa bàn Thành phố? Mờ nhạt

23. Theo anh/chị quản lý nhân sự trong ngành GDPT Sở Nội vụ

nên giao cho Sở Nội vụ hay Sở Giáo dục và Đào tạo? Sở GD-ĐT

24. Theo anh/chị quản lý tài chính, ngân sách của Sở Tài chính

GDPT nên giao cho Sở Tài chính hay Sở Giáo dục và SỞGD-ĐT Đào tạo?

25. Các trường phổ thông hiện nay có quyền tự chủ Có

trong xây dựng chương trình, kế hoạch dạy học? Không có

157

26. Anh/chị đánh giá mức độ tự chủ trong triển khai Hoàn toàn

thực hiện chương trình, kế hoach dạy học ở các trường Một phần

phổ thông? Rất ít

27. Các trường phổ thông có quyền tự chủ về nhân sự, Có

bao gồm tự chủ trong tuyển chọn, đánh giá, khen Không thưởng, kỷ luật cán bộ, giáo viên?

28. Anh/chị đánh giá mức độ tự chủ trong sử dụng, Hoàn toàn

thuyên chuyển và thực hiện các chế độ, chính sách đối Một phần

với cán bộ, giáo viên? Rất ít

29. Các trường phổ thông có quyền tự chủ về tài chính, Có

bao gồm huy động, quản lý và sử dụng các nguồn tài

chính và các tài sản phục vụ việc nâng cao chất lượng Không

GDPT?

30. Anh/chị đánh giá mức độ tự chủ trong thực hiện Hoàn toàn

quyền thu, chi tài chính trong các trường phổ thông trên Một phần

địa bàn Thành phố? Rất ít

Đề nghị ghi lại những thông tin sau đây:

Chức vụ: ……………….…….. (CB quảnlý, Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng,

Giáo viên)

Đơn vị công tác: …………………………………….…. (Sở GD&ĐT,

Phòng GD&ĐT, Trường Tiểu học,THCS, THPT).

Chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của anh/chị!

158

PHỤ LỤC 2

Câu hỏi lấy ý kiến khuyến nghị về phân cấp quản lý nhà nước về GDPT

trên địa bàn Thành phố Hà Nội

Câu Nội dung

Chính sách và kế hoạch phát triển GDPT

1 Bộ GD&ĐT đã thực hiện tương đối tốt chức năng quản lý vĩ mô,

quản lý bằng pháp luật, chính sách, hướng dẫn và kiểm tra thực hiện

2 Bộ GD&ĐT còn ôm đồm, sự vụ trong việc thực hiện các chức năng

quản lý nhà nước về GDPT

3 Sự phối hợp giữa Bộ GD&ĐT và địa phương trong việc xây dụng

chính sách phát triển GDPT đã được thực hiện tốt

4 Chưa có phân công trách nhiệm cụ thể giữa Bộ GD&ĐT và địa

phương trong việc xây dựng chính sách phát triển GDPT

5 Việc lập các chương trình, kế hoạch phát triển GDPT còn mang tính

hình thức

6 Quy trình lập kế hoạch phát triển GDPT được thực hiện từ cấp

Trường lên cấp Phòng và Sở GD&ĐT

7 Trách nhiệm thực hiện kế hoạch phát triển GDPT đã gắn liền với

quyền hạn về quản lý nhân sự

8 Trách nhiệm thực hiện kế hoạch phát triển GDPT đã gắn liền với quyền

hạn về tài chính, nội dung chương trình, SGK, tài liệu và thiết bị dạy

học và đánh giá kết quả dạy và học của các trường phổ thông

Nội dung, chương trình, sách giáo khoa, tài liệu, thiết bị dạy học

và đánh giá

9 Việc xây dựng chương trình GDPT hiện nay đã thể hiện trách nhiệm

tham gia của cán bộ quản lý nhà nước về GDPT ở địa phương

159

10 Hiện chưa có cơ chế đảm bảo để cán bộ quản lý nhà nước về GDPT

ở địa phương có trách nhiệm tham gia xây dựng SGK.

11 Đã có sự quy định rõ ràng về trách nhiệm đánh giá chất lượng GDPT

giữa các cấp quản lý (Bộ GD&ĐT, Sở GD&ĐT, Phòng GD&ĐT).

12 Đã có quy định rõ ràng về trách nhiệm của từng cấp quản lý nhà

nước về GDPT (Bộ GD&ĐT, Sở GD&ĐT, Phòng GD&ĐT) trong

vấn đề xây dựng danh mục, thẩm định mẫu, mua sắm, cung cấp, sử

dụng, quản lý trang thiết bị dạy học

13 Sự phân công trách nhiệm hiện nay giữa các cấp quản lý nhà nước về

GDPT trong việc ra đề thi, coi thi, chấm thi, phê duyệt kết quả thi là

hợp lý

Giáo viên

14 Hiện nay chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm của Bộ GD&ĐT và

UBND các cấp trong đào tạo, bồi dưỡng giáo viên

15 Trách nhiệm của UBND các cấp, Sở và Phòng GD&ĐT trong đào

tạo, bồi dưỡng giáo viên đã được quy định rõ ràng

16 Quyền hạn của UBND các cấp, Sở và Phòng GD&ĐT trong bồi

dưỡng giáo viên đã được quy định rõ ràng

17 Các quy định hiện nay về trách nhiệm của các cấp trong việc tuyển

dụng giáo viên tại địa phương là hợp lý

Tài chính

18 Các quy định hiện nay về dự toán, phân bổ, cấp phát ngân sách gây

khó khăn cho Sở GD&ĐT, Phòng GD&ĐT và trường trong việc tổ

chức thực, hiện nhiệm vụ được giao

160

PHỤ LỤC 3

BẢNG CÂU HỎI

Phỏng vấn cán bộ quản lý giáo dục Sở, các Phòng Giáo dục và Đào tạo

trên địa bàn Thành phố Hà Nội

1. Đánh giá chất lượng GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội hiện nay

như thế nào?

2. Nêu những văn bản chỉ đạo về phân cấp quản lý nhà nước về GDPT

của UBND Thành phố đối với ngành giáo dục phổ thông?

3. Đánh giá chung về thực trạng phân cấp quản lý nhà nước về

GDPTtrên địa bàn Thành phố Hà Nội? Những kết quả đạt được; những hạn

chế; nguyên nhân của những hạn chế?

4. Công tác cán bộ quản lý GDPT và giáo viên như thế nào?

- Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý GDPT và giáo viên?

- Quy trình thi tuyển giáo viên?

- Công tác thuyên chuyển giáo viên?

- Quy trình bổ nhiệm Giám đốc Sở GD&ĐT/Trưởng phòng GD&ĐT/

Hiệu trưởng các trường phổ thông?

5. Công tác quản lý tài chính GDPT như thế nào?

- Quy trình xây dựng và phê duyệt ngân sách GDPT?

- Quy trình cấp phát ngân sách GDPT?

6. Nhận xét về công tác thanh tra, kiểm tra trong phân cấp quản lý nhà

nước về GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội hiện nay?

7. Thông tin trong phân cấp quản lý nhà nước về GDPT giữa Sở

GD&ĐT, Phòng GD&ĐT và các trường phổ thông trên địa bàn Thành phố Hà

Nội như thế nào?

161

Thu thập ý kiến khuyến nghị về phân cấp quản lý nhà nước

đối với GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội

PHỤ LỤC 4

Để góp phần đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước về GDPT, Luận án

“Phân cấp quản lý nhà nước về GDPT trên địa bàn Thành phố Hà Nội” do

nghiên cứu sinh Ngô Thị Diệp Lan thực hiện, xin kính đề nghị anh/chị dành

thời gian trả lời vào Phiếu thu thập ý kiến khuyến nghị về phân cấp quản lý

nhà nước về GDPT dưới đây.

Quan điểm của anh/chị sẽ giúp ích rất nhiều cho sự thành công của

Luận án. Xin trân trọng cảm ơn!

PHẦN 1: MỘT SỐ THÔNG TIN CHUNG

Xin đề nghị anh/chị đánh dấu “x” vào một trong các ô hoặc điền thông

tin vào các khoảng trống thích hợp dưới đây:

Cơ quan công tác:

□ Bộ GD-ĐT □ Sở GD-ĐT □ Sở Nội vụ

□ Sở KH-ĐT □ Sở TC □ UBND các cấp

□ Hiệu trưởng, Hiệu phó trường phổ thông

Khác (ghi cụ thể):

…………………………………………………………………………….………….

PHẦN II: KHUYẾN NGHỊ VỂ PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

VỀ GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Xin đề nghị anh/chị cho ý kiến bằng cách khoanh tròn một trong các chữ

số trong cột "Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ" (với ý nghĩa: 1. Hoàn toàn đồng ý; 2. Phần

nào đồng ý; 3. Không có ý kiến; 4. Phần nào không đồng ý; 5. Hoàn toàn không

đồng ý), hoặc ghi các ý kiến vào các khoảng trống thích hợp dưới đây:

162

Nội dung chương trình GDPT

1. Bộ GD&ĐT chịu trách nhiệm xây dựng mục tiêu phát triển GDPT

1 2 3 4 5

80% 16% 0% 2% 2%

2. Bộ GD&ĐT chịu trách nhiệm xây dựng các chuẩn kiến thức về nội dung

GDPT

1 2 3 4 5

92% 8% 0% 0% 0%

3. Nội dung chương trình giáo dục cho GDPT cần được thiết kế theo phần

bắt buộc để đáp ứng yêu cầu phát triển phần mềm lựa chọn

1 2 3 4 5

56% 28% 0% 8% 8%

4. Bộ GD&ĐT ban hành phần cứng và hướng dẫn thực hiện phần mềm của

nội dungchương trình GDPT

1 2 3 4 5

72% 28% 5% 0% 0%

5. Sở GD&ĐT chịu trách nhiệm phát triển và quy định phần mềm của nội dung

chương trình GDPT phù hợp với điều kiện của địa phương và nhà trường

1 2 3 4 5

76% 24% 0% 0% 0%

6. Tăng cường sự tham dự của giáo viên trong quá trình phát triển chương

trình giáo dục phố thông

1 2 3 4 5

52% 32% 0% 8% 8%

Khác (ghi cụ thể):

………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………............

163

Sách giáo khoa và tài liệu tham khảo

7. Bộ GD&ĐT ban hành một loại SGK chuẩn thống nhất trên toàn quốc và

hướng dẫn tài liệu tham khảo cho các trường phổ thông

1 2 3 4 5

55% 38% 0% 7% 0%

8. Bộ GD&ĐT ban hành nhiều loại SGK chuẩn khác nhau cho các trường phổ

thông để các Sở GD&ĐT lựa chọn phù hợp với điều kiện của địa phương

1 2 3 4 5

64% 36% 0% 0% 0%

9. Sở GD&ĐT quy định danh mục tài liệu tham khảo cho GDPT ở địa

phương cho phù hợp với điều kiện của địa phương và của nhà trường

1 2 3 4 5

68% 32% 0% 0% 0%

Khác (ghi cụ thể):

………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………

Phương pháp giáo dục và thiết bị dạy học

10. Bộ GD&ĐT quy định danh mục bắt buộcvàlựa chọnphương pháp GD và

thiết bị dạy học theo nội dung chương trình GDPT và SGK đã ban hành

1 2 3 4 5

80% 16% 0% 2% 2%

11. Sở GD&ĐT quy định cụ thể danh mục lựa chọn về phương pháp GD và

thiết bị dạy học cho các trường phổ thông phù hợp với điều kiện của địa

phương và nhà trường

1 2 3 4 5

92% 8% 0% 0% 0%

164

Tổ chức

12. Bộ GD&ĐT chịu trách nhiệm xây dựng các chuẩn về tổ chức

nhà trường và mạng lưới trường phổ thông tại Thành phố

1 2 3 4 5

72% 24% 0% 4% 0%

13. Bộ GD&ĐT phối hợp với Bộ Nội vụ quy định chức năng,nhiệm vụ và tổ

chức bộ máy của Sở và Phòng GD&ĐT

1 2 3 4 5

80%16% 0% 2%2%

14. UBND thành phố quyết định cụ thể bộ máy của Sở vàGD-ĐT tại địa

phương

1 2 3 4 5

72%28% 0% 0% 0%

15. UBND thành phố quyết định thành lập, sát nhập, chia tách, giảithể, đình

chỉ hoạt động trường phổ thông

1 2 3 4 5

92% 8% 0% 0% 0%

16. Thử nghiệm mô hình HĐ trường PTnhằm nâng cao vai trò và trách

nhiệmCủa phụ huynh trong việc chia sẻ kinh nghiệm quản lý nhà trường

1 2 3 4 5

54% 30% 6% 0% 0%

Khác (ghi cụ thể):……………………………………………………………

Công nhận trường phổ thông chuẩn quốc gia

17. Bộ GD&ĐT quy định chuẩn quốc gia cho nhà trường phổ thông

1 2 3 4 5

68% 32% 0% 0% 0%

165

18. Sở GD&ĐT trình UBND Thành phố quyết định công nhận trường phổ

thông đạt chuẩn

1 2 3 4 5 6

64% 36% 0% 0% 0%

Khác (ghi cụ thể):

………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………

Kế hoạch, phân bổ và sử dụng nhânsự

19. Bộ GD&ĐT phối hợp với Bộ Nội vụ quy định tiêu chuẩn các ngạch công

chức đối với nhà giáo, cán bộ quản lý GD, nhânviên và định mức biên chế

nhà trường phổ thông

1 2 3 4 5

72%28%0% 0% 0%

20. UBND thành phố quyết định cơ cấu và định mức biên chế choSở và

Phòng GD&ĐT

1 2 3 4 5

68% 32% 0% 0% 0%

21. Sở GD&ĐT chủ trì lập dự thảo kế hoạch phát triển nhân sự chongành

GDPT theo quy trình từ dưới lên (trường - Sở GD&ĐT);

1 2 3 4 5

76% 24% 0% 0%0%

22. Tiếp theo, Sở Nội vụ tổng hợp, điều chỉnh và trình UBNDThành phố phê

duyệt kế hoạch phất triển nhân sự của thành phố 1 2 3 4 5

80% 16% 0% 2% 2%

23. Sở GD&ĐT chủ trì phân bổ chỉ tiêu biên chế GDPT cho các trườngphổ

thông dưới sự giám sát của Sở Nội vụ

1 2 3 4 5

166

72% 12%0% 8%8%

24. Các trường PT được chủ động sử dụng số biên chế được phân bổ, và sắp

xếp, quản lý lao động phù hợp với chức năng, nhiệm vụ 1

2 3 4 5

51%25%0%16% 8%

25. Các trường PT được thực hiện chế độ hợp đồng lao độngphù hợp với khối

lượng công việc và khả năng tài chính của mình

1 2 3 4 5

52% 32% 0% 6% 10%

Khác (ghi cụ thể):

………………………………….……………………………………………

Tuyển dụng,sa thải giáo viên

26. Sở GD&ĐT chủ trì và phối hợp với Sở Nội vụ tuyển dụng/sa thải GV và

phân cho các trường PT

1 2 3 4 5

54% 46% 0% 0% 0%

27. Sở GD&ĐT giới thiệu danh sách dự tuyển, lãnh đạo trườngcùng với hội

đồng trường PT phỏng vấn và trình Sở GD&ĐT và Sở Nội vụ ra quyết định

1 2 3 4 5

55% 38% 0% 7% 0%

28. Lãnh đạo các trường PT tuyển dụng trực tiếp GV (theo chỉtiêu được phân

bổ) dưới sự giám sát của Sở GD&ĐT và Sở Nội vụ ra quyết định tuyển

dụng

1 2 3 4 5

52% 32% 4% 8% 4%

167

29. Cấp ra quyết định tuyển dụng có quyết sa thải

1 2 3 4 5

80% 16% 0% 0% 0%

Khác (ghi cụ thể):

………………………………….……………………………….……………

……………………………………………………………………………

Khen thưởng, kỷ luật giáo viên

30. Bộ GD&ĐTquy định và hướng dẫn về khen thưởng, kỷ luật GVphổ thông

theo các chuẩn đã ban hành

1 2 3 4 5

80% 16%0%; 4% 0%

31. Sở GD&ĐT quyết định việc khen thưởng, kỷ luật GV phổ thông trên cơ

sở đề nghị của trường phổ thông

1 2 3 4 5

67% 23% 0% 5% 5%

Khác (ghi cụ thể):

………………………………….……………………………….…………

………………………………………………………………………

Đào tạo, bồi dưỡng giảng viên

32. Bộ GD&ĐT chịu trách nhiệm đào tạo, bồi dưỡng GV cho các trườngphổ

thông

1 2 3 4 5

56% 28% 0% 10% 6%

33. Bộ GD&ĐT ban hành và hướng dẫn các loại chương trình bồidưỡng giáo

viên

1 2 3 4 5

52% 24% 0% 12% 12%

168

34. Bộ GD&ĐT chịu trách nhiệm bồi dưỡng GV theo chuyên đề và dài hạn

1 2 3 4 5

50% 28% 0% 14% 12%

35. Sở GD-ĐT chịu trách nhiệm bồi dưỡng GV định kỳ

1 2 3 4 5

47% 34% 6% 8% 4%

36. Trường PT chịu trách nhiệm bồi dưỡng GV thường xuyên

1 2 3 4 5

52% 32% 4% 8% 4%

Khác (ghi cụ thể):

………………………………….……………………………….…………

…………………………………………………………………………..

Bổ nhiệm Hiệu trưởng trưởng phổ thông

37. Sở GD&ĐT giới thiệu danh sách ứng cử viên hiệu trưởng đểHội đồng

trường phỏng vấn, sau đó Sở GD&ĐT và Sở Nội vụ trình UBND thành phố ra

quyết định

1 2 3 4 5

54% 32% 4% 8% 2%

38. Hiệu trưởng trường PT được bầu bởi tập thể GV, cha mẹ học sinh và

các quan chức địaphương/cộng đồng liên quan

1 2 3 4 5

38% 42% 0%14% 6%

Khác (ghi cụ thể):

………………………………….……………………………….……………

………………………………………………………………………………

169

Tài chính GDPT

39. Bộ GD&ĐT phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng các định mứcvề tài

chính GDPT, phân bổ ngân sách nhà nước chi cho GDPT

1 2 3 4 5

80% 15% 0% 5% 0%

40. Bộ GD&ĐT chịu trách nhiệm báo cáo hàng năm về sử dụngngân sách

GDPT cho Chính phủ

1 2 3 4 5

75% 25% 0% 0% 0%

Khác (ghi cụ thể):

………………………………….……………………………….…………

……………………………………………………………………………

Lập dự toán và phân bổ ngân sách

41. Trường PT căn cứ vào nhiệm vụ của năm kế hoạch, chế độ hi tiêu tài

chính hiện hành, kế hoạch hoạt động tài chính củanăm trước liên kề, lập dự

toán thu, chi năm kế hoạch gửi SởGD-ĐT thẩm tra, điều chỉnh và tổng hợp

cho toàn ngành GDPT

(quy trình từ dưới lên: trường - Sở GD&ĐT)

1 2 3 4 5

68% 32% 0% 0% 0%

42. Tiếp theo, Sở TC và sở KH-ĐT thẩm tra, tổng hợp, điều chỉnh và trình

UBND thành phố phê duyệt kế hoạch ngân sáchtỉnh/t.p (trong đó có GDPT)

1 2 3 4 5

64% 36% 0% 0% 0%

43. Sở GD&ĐT chủ trì phân bổ chỉ tiêu ngân sách ngành GDPT (đãđược phê

duyệt) cho các trường PT

1 2 3 4 5

72% 12% 0% 8% 8%

170

44. Sau đó, Sờ TC cấp kinh phí trực tiếp cho các trường phổ thôngqua Kho

bạc nhà nước dưới sự giám sát của ngành GD

1 2 3 4 5

76% 24% 0% 0% 0%

Khác (ghi cụ thể):

………………………………….……………………………….…………

……………………………………………………………………………

Sử dụng kinh phí và báo cáo

45. Các trường phổ thông chịu trách nhiệm chi kế toán, quyết toán theo các

dự toán được phê duyệt dưái sự kiểm soát của SởTC, Sở GD&ĐT và Kho bạc

nhà nước

1 2 3 4 5

52% 32%0%8% 8%

46. Các trường PT được chủ động tài chính và phân bổ kinh phí để thực hiện

nhiệm vụ phù hợp với nhu cầu và điều kiện của trường

1 2 3 4 5

47% 34% 63% 8% 4%

47. Các trường phổ thông được phép điều chỉnh dự toán thu, chi trongphạm vị

được phê duyệt cho phù hợp với nhu cầu thực tế của nhà trường và phải gửi

Sở GD&ĐT, Sở TC và Kho bạcNhà nước để theo dõi, quản lý

1 2 3 4 5

57% 36%0%7% 0%

48. Các trường phổ thông được phép điều chỉnh tăng mức lương tốithiểu theo

quy định của Nhà nước cho cán bộ, giáo viên và nhân viênnhà trường tuỳ theo

khả năng tài chính của mình

1 2 3 4 5

48% 28% 0% 16% 8%

171

49. Các trường PT còn kinh phí ngân sách và các khoản thu sự nghiệp, cuối

năm chưa chi hết, được chuyển sang năm sau để tiếp tục sử dụng.

1 2 3 4 5

50% 20% 0% 20% 10%

50. Các truờng phổ thông phải thực hiện chế độ công khai tài chínhtheo

nguyên tắc trả cao hơn cho người nào có hiệu xuất lao động cao,đóng góp

nhiều chọ việc tăng thu, tiết kiệm chi

1 2 3 4 5

72% 28% 0% 0%0%

51.Thực hiện các chính sách và chương trình làm cho các nguồn lực củanhà

trường phổ thông phụ thuộc vào sự lựa chọn của khách hàng- tiền gắn liền với

học sinh (ví dụ như chương trình trợ cấp để hỗ trợ học sinh nghèo đến trường,

khi đó học sinh nghèo đến trường càng đông thì trường càng nhận được

nhiều ngân sách hơn).

1 2 3 4 5

64% 36% 0% 0% 0%

Khác (ghi cụ thể):

………………………………….……………………………….……………

………………………………………………………………………………

Thanh tra, đánh giá và thông tin GDPT

52. Bộ GD&ĐT ban hành tiêu chí đánh giá, kiểm định chất lượng dạy và

họcvà các hoạt động khác cùa nhà trường

1 2 3 4 5

76% 20% 0% 4% 0%

53. Thanh tra và đánh giá GD về thực hiện của địa phương vàtrường PT phải

dựa trên các chuẩn và tiêu chí đã ban hành 1 2

3 4 5

72% 28% 0% 0% 0%

172

54. Thanh tra và đánh giá GD phải đi đôi với khen thưởng/trừngphạt tuỳ theo

mức độ thực hiện của địa phương và nhà trường PT

1 2 3 4 5

68% 32% 0% 0% 0%

55. Bộ GD&ĐT chịu trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc thực hiện củacác địa

phương và nhà trường theo các chuẩn GDPT được ban hành

1 2 3 4 5

64% 20% 0% 10% 6%

56. Bộ GD&ĐT trịu trách nhiệm thanh tra và đánh giá toàn ngànhGD theo

chuyên đề

1 2 3 4 5

68% 32% 0% 0% 0%

57. Bộ GD&ĐT chịu trách nhiệm thực hiện đánh giá và phân loạiGDPT theo

chuyên đề

1 2 3 4 5

72% 28% 0% 0% 0%

58. Sở GD&ĐT chịu trách nhiệm thanh tra giáo dục tại cấp tỉnh/tptheo hướng

đảm bảo chất lượng

1 2 3 4 5

64% 36% 0% 0% 0%

59. Sở GD-ĐT thực hiện đánh giá và phân loại GDPT theo định kỳ

1 2 3 4 5

70% 25% 0% 5% 0%

60. Sở GD&ĐT thực hiện việc đánh giá, kiểm định chất lượng dạyvà học và

các hoạt động khác của nhà trường

1 2 3 4 5

64% 25% 0% 11%0%

173

61 Trường phổ thông thực hiện đánh giá và phân loại GDPT thườngxuyên

1 2 3 4 5

75%20% 0% 5%0%

62.Bộ GD&ĐT ban hành quy định về thu thập, xử lý, sử dụng và quản lýthông

tin GDPT

1 2 3 4 5

72% 28% 0% 0% 0%

63. Bộ GD&ĐT ban hành quy chế sử dụng hệ thống thông tín quản lýGDP

1 2 3 4 5

68% 32% 0% 0%0%

64. Bộ GD&ĐT quy định thống nhất chế độ báo cáo về GDPT theomẫu biểu,

tiêu chí, thời điểm trên địa bàn Thành phố

1 2 3 4 5

64% 36% 0% 0% 0%

65. Thông tin về thực hiện của nhà trường (qua kết quả thanh travà đánh giá

GDPT) cần được công khai

1 2 3 4 5

80%16%0% 2%2%

66. Cần có cơ chế đảm bảo cung cấp thông tin GDPT rõ ràng, minh bạch,

thường xuyên cho cho người dân

1 2 3 4 5

68% 32%0%0% 0%

Khác (ghi cụ thể):

………………………………….……………………………….……………

………………………………………………………………………………

174

Xâydựng và bảo dưỡng nhà trường

67. Bộ GD&ĐT ban hành tiêu chuẩn và định mức về cơ sở vật chất cho

cácTrường phổ thông 1 2 3 4 5

76% 24% 0% 0% 0%

68. Xây dựng trường thuộc phạm vi quản lý của địa phương và các chương

trình, dự án phát triển GDPT trên địa bàn Thành phố theo phân cấp quản

lýnhà nước đối với GDPT

1 2 3 4 5

72% 28% 0% 0% 0%

Khác (ghi cụ thể):

………………………………….……………………………….…………

……………………………………………………………………………

Chiến lược, chính sách và kế hoạch phát triển GDPT

69. Bộ GD&ĐT chịu trách nhiệm dự thảo và thực hiện chiến lược và

chínhsách phát triển ngành GDPT sau khi được Chính phủ phê duyệt

1 2 3 4 5

92% 8% 0% 0% 0%

70. Sở GD&ĐT chịu trách nhiệm dự thảo và thực hiện kế hoạch và chínhsách

phát triển GDPT Thành phố sau khi được UBND Thành phố phê duyệt

1 2 3 4 5

72% 28% 0% 0% 0%

71. Bộ GD&ĐT chịu trách nhiệm bảo đảm chất lượng GDPT

1 2 3 4 5

64% 28% 0% 8% 0%72. Bộ GD&ĐT chịu trách nhỉệm đảm bảo chính sách

công bằng trongGDPT

1 2 3 4 5 80% 16% 0% 2%2%

175

73. Cần có quy định cụ thể về pháp lý, chính trị và kinh tế để người dântham

dự và nói ra yêu cầu của mình với Chính phủ trong quá trình xây dựng

chínhsách phát triển GDPT

1 2 3 4 5

55% 38% 0% 7% 0%

Khác (ghi cụ thể):

………………………………….……………………………….……………

………………………………………………………………………………

Nâng cao năng lực cho các cơ quan quản lý GDPT và nhà trường phổ

thông

74. Bộ GD&ĐT cần tổ chức các lớp tập huấn cho cán bộ chủ chốt ở Sở,

cácPhòng GD&ĐT, các trường phổ thông về xây dựng kế hoạch, quản lý

nhân sự,tài chính, thanh tra và thông tin GDPT trong bối cảnh đẩy mạnh phân

quản lý

1 2 3 4 5

80% 16% 0% 2% 2%

75. Sở GD&ĐT cần tổ chức các lớp tập huấn riêng cho các đối tượng là cán

bộ quản lý GDPT và giáo viên các trường phổ thông trên địa bàn

1 2 3 4 5

72% 24% 0% 0% 0%

76. Sở GD&ĐT tổ chức các lớp tập huấn trên thông qua các dự ánhỗ trợ phát

triển GDPT và các dự án khác

1 2 3 4 5

72% 28% 0% 0% 0%

77. Tăng cường cơ sở vật chất và nguồn tài chính cho các trường phổ

thôngđáp ứng được yêu cầu trong bối cảnh đẩy mạnh phân cấp quản lý

1 2 3 4 5

92% 8% 0% 0% 0%

176

78. Thử nghiệm mô hình Hội đồng cụm trường phổ thông để tận dụng vàchia

sẻ các nguồn lực của cụm trường phổ thông để nâng cao năng lực củatừng

trường

1 2 3 4 5

52% 32% 0% 6% 10%

Khác (ghi cụ thể):

………………………………….……………………………….……………

……………………………………………………………………………

177