HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ TRÂM

THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ KIÓM SO¸T

THO¶ THUËN H¹N CHÕ C¹NH TRANH

ë VIÖT NAM HIÖN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

HÀ NỘI - 2019

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ TRÂM

THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ KIÓM SO¸T

THO¶ THUËN H¹N CHÕ C¹NH TRANH

ë VIÖT NAM HIÖN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

Mã số: 62 38 01 01

Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS,TS. Phạm Minh Tuấn

2. TS. Lê Đinh Mùi

HÀ NỘI - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung

thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo

quy định.

Tác giả luận án

Nguyễn Thị Trâm

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU Trang 1

9 9

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 1.2. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra cần

tiếp tục nghiên cứu 24

29

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH 2.1. Khái niệm và đặc điểm của thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa

thuận hạn chế cạnh tranh 29

2.2. Nội dung pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, hình thức và chủ thể thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh 41

2.3. Vai trò và điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa

thuận hạn chế cạnh tranh 52

2.4. Thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trên

thế giới và những giá trị tham khảo cho Việt Nam 62

74

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH 3.1. Thực trạng pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ở

Việt Nam hiện nay 74

3.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế

cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay 82

3.3. Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn

chế cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay 104

120

CHƯƠNG 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM 4.1. Quan điểm bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn

chế cạnh tranh ở Việt Nam 120

4.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn

chế cạnh tranh ở Việt Nam 125

151

KẾT LUẬN DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC

154 155 166

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CT&BVNTD Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng :

European Union (Liên minh châu Âu) EU :

Kinh tế thị trường KTTT :

Thoả thuận hạn chế cạnh tranh TTHCCT :

Xã hội chủ nghĩa XHCN :

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ

Trang

Bảng 3.1. Số vụ việc hạn chế cạnh tranh đã điều tra, xử lý đến hết năm 2018 98

Bảng 3.2. Nguồn nhân lực Cục Quản lý cạnh tranh giai đoạn 2005 - 2015 110

Biểu đồ 3.1. Tỷ lệ doanh nghiệp "hiểu" về Luật Cạnh tranh 87

Biểu đồ 3.2. Số vụ việc hạn chế cạnh tranh điều tra tiền tố tụng giai đoạn

2006 – 2016 96

Biểu đồ 3.3. Các vụ việc hạn chế cạnh tranh điều tra tiền tố tụng giai

đoạn 2011-2016 97

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Cạnh tranh là quy luật của nền kinh tế thị trường, là động lực cho sự phát

triển của nền kinh tế, từ đó là sự phát triển của quốc gia. Tuy nhiên, thay vì cạnh

tranh, có những doanh nghiệp chọn con đường bắt tay với đối thủ thiết lập các thỏa

thuận hạn chế cạnh tranh để vừa giảm áp lực cạnh tranh vừa tăng khả năng chi phối

thị trường, từ đó thao túng, ép buộc người tiêu dùng và các doanh nghiệp khác nhằm

tìm kiếm lợi nhuận tối đa. Những thỏa thuận hạn chế cạnh tranh này “làm cản trở,

làm sai lệch, thậm chí triệt tiêu cạnh tranh tự do trên thị trường, trực tiếp tác động tiêu

cực đến quy luật cạnh tranh, gây ảnh hưởng xấu đến hiệu quả của nền kinh tế” [112,

tr.2]. Do đó các nhà nước trong nền kinh tế thị trường (KTTT) đều phải chú trọng

kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh (TTHCCT) để bảo vệ tự do cạnh tranh, thúc

đẩy cạnh tranh hiệu quả. Trên bình diện quốc tế, Tổ chức Thương mại Thế giới

(WTO) đã phải có những quy định buộc các thành viên của mình đảm bảo cạnh tranh

công bằng và ngăn chặn các hành vi hạn chế cạnh tranh (Điều 9 Hiệp định GATS -

Phụ lục 1b) nhằm mở cửa thị trường, bảo vệ cạnh tranh và tự do thương mại.

Nhà nước có nhiều phương diện, cách thức khác nhau để kiểm soát TTHCCT

như: phương diện xã hội, phương diện kinh tế, phương diện pháp lý… trong đó

kiểm soát TTHCCT trên phương diện pháp lý, xây dựng và tổ chức thực hiện

pháp luật về kiểm soát TTHCCT bằng quyền lực và sức mạnh đặc biệt của nhà

nước đã tỏ ra có hiệu quả. Tuy nhiên thực tế cho thấy rằng doanh nghiệp luôn

thiết lập rất nhiều thỏa thuận trong hoạt động kinh doanh, và trong vô số các thỏa

thuận đó, làm thế nào để xác định đâu là TTHCCT, xác định mức độ tác động

hạn chế cạnh tranh của thỏa thuận, cách thức kiểm soát phù hợp để vẫn bảo đảm

quyền tự do thỏa thuận của doanh nghiệp mà vẫn bảo vệ quy luật cạnh tranh…

không phải là điều đơn giản, ngay cả đối với các quốc gia đã phát triển nền

KTTT và tích lũy nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực thực hiện pháp luật chống

độc quyền. Vì thế kiểm soát TTHCCT như thế nào là thách thức trong quá trình

xây dựng và triển khai thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT, đặc biệt ở các

quốc gia có nền kinh tế đang chuyển đổi và chưa hề có kinh nghiệm trong vấn đề

này như Việt Nam. Do đó, nghiên cứu thấu đáo những vấn đề lý luận làm cơ sở

2

cho việc xây dựng và triển khai thực hiện pháp luật nhằm kiểm soát TTHCCT

một cách hữu hiệu là vấn đề cấp thiết ở Việt Nam hiện nay.

Sau khi Luật Cạnh tranh 2004 được ban hành và có hiệu lực, thực hiện pháp

luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam đã bước đầu có kết quả khả quan. Nhìn

chung, trong xã hội bắt đầu có một cách nhìn nghiêm túc và khoa học hơn và đã

có những động thái thực hiện pháp luật kiểm soát TTHCCT một cách chủ động,

tích cực, các nhà nghiên cứu, nhà thực thi pháp luật đã lên tiếng về những trường

hợp có dấu hiệu TTHCCT và cơ quan có thẩm quyền đã vào cuộc xác minh dấu

hiệu vi phạm pháp luật, cơ quan quản lý cạnh tranh cũng đã chủ động phát hiện

những vụ việc có dấu hiệu vi phạm và tích cực tuyên truyền, phổ biến pháp luật

kiểm soát TTHCCT. Tuy có những điểm sáng như trên, thực tiễn thực hiện pháp

luật về kiểm soát TTHCCT vẫn có rất nhiều vấn đề cần phải quan tâm. Về phía

cơ quan quản lý nhà nước, việc áp dụng pháp luật về kiểm soát TTHCCT chưa

đầy đủ, chưa thông suốt, xử lý vi phạm pháp luật còn nhiều lúng túng. Cho tới

hiện nay cơ quan quản lý cạnh tranh chỉ mới xử lý hoàn tất hai vụ việc TTHCCT

vi phạm pháp luật, mặc dù trong báo cáo thường niên cơ quan này luôn nhận

định TTHCCT hiện đang rất phổ biến tại Việt Nam. Cơ quan quản lý cạnh tranh

cũng cảnh báo nhiều về những trường hợp doanh nghiệp nước ngoài TTHCCT

thao túng thị trường Việt Nam tuy nhiên cũng mới chỉ dừng ở mức độ cảnh báo.

Thông đồng trong đấu thầu là một loại TTHCCT rất phổ biến và gây hậu quả

nghiêm trọng cho nền kinh tế nhưng cơ quan quản lý cạnh tranh chưa xử lý được

một vụ thông thầu nào. Những hạn chế trong thực hiện pháp luật đó làm giảm

hiệu quả kiểm soát và ngăn ngừa vi phạm pháp luật. Về phía cộng đồng doanh

nghiệp, bên cạnh các doanh nghiệp nghiêm túc thực hiện pháp luật về kiểm soát

TTHCCT, vẫn đang tồn tại rất nhiều "thỏa thuận ngầm" của các doanh nghiệp

[17] là biểu hiện của việc thực hiện pháp luật không nghiêm chỉnh, thậm chí cố

tình vi phạm pháp luật. Nhiều hành vi vi phạm pháp luật về kiểm soát TTHCCT

ngày càng tinh vi và phức tạp xuất phát từ hoạt động của hiệp hội ngành nghề, từ

sự thao túng của doanh nghiệp nước ngoài, các hành vi TTHCCT diễn ra ở nhiều

ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế... đã và đang xâm hại nghiêm trọng tới

lợi ích của người tiêu dùng, của các doanh nghiệp khác, gây thiệt hại cho nền

3

kinh tế và ảnh hưởng xấu đến môi trường kinh doanh của Việt Nam. Để xử lý

những tiêu cực trên cần có nhiều biện pháp đồng bộ, trong đó đảm bảo thực hiện

pháp luật về kiểm soát TTHCCT đóng vai trò quan trọng.

Xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN),

chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương "tôn

trọng và vận dụng đầy đủ, đúng đắn các quy luật và cơ chế vận hành của KTTT"

[28, tr.52] và "các chủ thể tham gia thị trường đều được coi trọng, cùng phát

triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh và văn minh" [28, tr.60].

Để thực hiện chủ trương của Đảng về vận dụng đầy đủ và đúng đắn quy luật

cạnh tranh, để bảo vệ cạnh tranh bình đẳng và bảo vệ các chủ thể tham gia thị

trường, cần nghiên cứu làm rõ luận cứ khoa học của thực hiện pháp luật về kiểm

soát TTHCCT, đánh giá những kết quả đạt được và những vấn đề hạn chế, bất

cập, nguyên nhân của thành công và hạn chế của việc thực hiện pháp luật về

kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam thời gian qua, từ đó xác định các quan điểm và

giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT trong thời gian tới.

Từ lý luận và thực tiễn có thể thấy nghiên cứu về thực hiện pháp luật về

kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam là một yêu cầu bức thiết trong giai đoạn hiện

nay. Do đó nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề: "Thực hiện pháp luật về kiểm soát

thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay" để nghiên cứu ở cấp độ

luận án tiến sĩ.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở làm sáng tỏ các vấn đề lý luận, phân tích, đánh giá thực trạng, luận

án có mục đích nghiên cứu là xác định các nguyên nhân của các ưu và nhược điểm,

rút ra các bài học kinh nghiệm, từ đó đề xuất quan điểm và giải pháp đảm bảo thực

hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam hiện nay nhằm bảo vệ cạnh

tranh, bảo vệ môi trường kinh doanh, bảo vệ quyền tự do kinh doanh và cạnh tranh,

thông qua đó góp phần xây dựng nền KTTT định hướng XHCN và thực hiện chủ

trương hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận án có những nhiệm vụ sau đây:

4

Thứ nhất, xây dựng khái niệm thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT;

làm rõ nội dung, hình thức, chủ thể, vai trò và các điều kiện đảm bảo thực hiện

pháp luật về kiểm soát TTHCCT; nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế để tìm ra

những giá trị cần học tập về thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT.

Thứ hai, phân tích những ưu điểm, hạn chế của pháp luật về kiểm soát

TTHCCT hiện nay; phân tích những kết quả đã đạt được, những hạn chế, bất cập

trong thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam, đồng thời chỉ rõ

nguyên nhân của những hạn chế và bất cập đó, rút ra các bài học kinh nghiệm.

Thứ ba, luận chứng cơ sở khoa học để đề xuất các quan điểm và giải pháp

bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam hiện nay.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề thực hiện

pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam dưới góc độ của chuyên ngành Lý

luận lịch sử nhà nước và pháp luật.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về mặt thời gian: Đề tài nghiên cứu thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT

từ khi Luật Cạnh tranh 2004 có hiệu lực thi hành là ngày 01/7/2005 đến nay.

- Về mặt không gian: Đề tài nghiên cứu thực hiện pháp luật về kiểm soát

TTHCCT ở Việt Nam. Trong quá trình nghiên cứu có tìm hiểu kinh nghiệm thực

hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT của EU và Hoa Kỳ nhưng với mục đích

rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam chứ không nhằm mục đích so

sánh các hệ thống pháp luật.

- Về mặt nội dung: Do Luật Cạnh tranh 2004 chỉ điều chỉnh các TTHCCT

theo chiều ngang nên đề tài cũng chỉ nghiên cứu về thực hiện pháp luật về kiểm

soát TTHCCT với các TTHCCT theo chiều ngang, không nghiên cứu về các

TTHCCT theo chiều dọc.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận

Luận án được nghiên cứu trên nền tảng lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin,

Tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về nhà nước và

5

pháp luật, về thực hiện pháp luật và pháp chế XHCN, về pháp luật về kiểm soát

TTHCCT và thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT. Chủ trương, đường lối và

quan điểm của Đảng về xây dựng nhà nước pháp quyền, phát triển nền KTTT

định hướng XHCN, hội nhập kinh tế quốc tế cũng là cơ sở lý luận của luận án.

Các lý thuyết nghiên cứu cụ thể trong luận án đó là: Lý luận chung về

nhà nước và pháp luật, Các lý thuyết kinh tế của kinh tế học, Lý luận về pháp

luật cạnh tranh và các học thuyết của pháp luật cạnh tranh.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và

chủ nghĩa duy vật lịch sử để nghiên cứu các vấn đề liên quan đến nội dung đề tài.

Lý luận và thực tiễn của thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam

được nghiên cứu trong mối quan hệ với thực hiện pháp luật nói chung, trong mối

quan hệ với lý luận và thực tiễn thực hiện pháp luật cạnh tranh nói riêng, trong

mối liên hệ với các yếu tố của nền KTTT; nghiên cứu trong sự vận động, trong

sự phát triển, từ đó phát hiện ra các xu hướng biến đổi, chuyển hóa. Quan điểm

lịch sử cụ thể cũng đặt ra yêu cầu chú ý đúng mức tới hoàn cảnh lịch sử cụ thể

của sự ra đời và phát triển của đối tượng nghiên cứu để đánh giá, nhận định

những tác động cả khách quan lẫn chủ quan đến thực hiện pháp luật về kiểm soát

TTHCCT ở Việt Nam hiện nay.

Để đạt được mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án, trên cơ sở

phương pháp luận trên, luận án sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác

nhau tùy thuộc vào nội dung cần nghiên cứu như sau:

- Phương pháp phân tích - tổng hợp được sử dụng trong các chương 1,

chương 2, chương 3 và chương 4 của đề tài. Phân tích khái niệm pháp luật, thực

hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT, đặc điểm, nội dung, hình thức, vai trò của

thực hiện pháp luật, các điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật, phân tích nguyên

nhân của thực trạng thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam;

phân tích các quan điểm và giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm soát

TTHCCT. Các kết quả phân tích được tổng hợp lại nhằm thiết lập hệ thống các

quan điểm, luận giải về nội dung nghiên cứu.

6

Luận án phân tích Luật Cạnh tranh 2004 và văn bản hướng dẫn thi hành,

phân tích Luật Cạnh tranh (sửa đổi) 2018 đồng thời phân tích các vụ việc thực

tiễn "nhằm mục đích làm sáng tỏ luật, làm rõ các quy tắc mà người làm luật

muốn thiết lập và bảo đảm tính chính xác của việc áp dụng luật trong thực tiễn"

[31, tr.16]. Trên cơ sở các nguồn tài liệu có được về vấn đề nghiên cứu bao gồm các

quy định pháp luật, các hồ sơ vụ việc, các tài liệu hướng dẫn áp dụng, các công

trình nghiên cứu… luận án phân tích và tổng hợp các đánh giá, bình luật, dự đoán

về vấn đề nghiên cứu và tìm câu trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu đặt ra.

- Phương pháp thống kê:

Luận án sử dụng phương pháp thống kê để hệ thống hóa các tài liệu liên

quan đến vấn đề nghiên cứu. Phương pháp này được thực hiện nhằm nghiên cứu

các chương 1, 2 và chương 3.

Cách thức thu thập số liệu trong phương pháp thống kê là thu thập gián tiếp

(Desk Study), bao gồm: Kế thừa các công trình nghiên cứu đã được công bố;

tổng hợp các nguồn số liệu thông qua các báo cáo, tổng kết của các nguồn thông

tin chính thức; tổng hợp thông tin thông qua các phương tiện thông tin đại

chúng: Báo chí, Internet...

- Phương pháp điều tra xã hội học:

Luận án sử dụng phương pháp điều tra xã hội học bằng bảng hỏi.

+ Mục đích: Thu thập thông tin, số liệu về nhận thức của doanh nghiệp về

pháp luật cạnh tranh; nhận thức của doanh nghiệp về TTHCCT, hành vi

TTHCCT vi phạm pháp luật và thái độ, hình thức thực hiện pháp luật mà doanh

nghiệp lựa chọn trong thực tiễn; các đề xuất, kiến nghị của doanh nghiệp nhằm

đảm bảo thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam.

+ Công cụ thực hiện điều tra là bảng hỏi, bên cạnh các câu hỏi có sẵn các

phương án trả lời còn có những câu hỏi về ý kiến khác khi không trả lời theo câu

hỏi đóng. Kết quả điều tra khảo sát cho phép tiến hành những suy luận thống kê,

đo lường và đánh giá mối liên hệ giữa các biến số về nhận thức, thái độ, năng lực

của doanh nghiệp khảo sát đến hành vi thực hiện pháp luật về kiểm soát

TTHCCT. Từ kết quả thu được ở số lượng mẫu đã điều tra thực tế tại địa bàn

nghiên cứu nhằm khái quát cho tổng thể.

7

+ Chọn địa bàn khảo sát: Do chủ thể thực hiện pháp luật về kiểm soát

TTHCCT là các doanh nghiệp, nên địa bàn khảo sát được lựa chọn là các tỉnh/thành

phố tập trung số lượng doanh nghiệp nhiều nhất của 05 vùng, miền trong cả nước.

Căn cứ vào số liệu tại bảng biểu số 115 của Tổng cục Thống kê công bố trong Niên

giám thống kê xuất bản năm 2016 để chọn ra 05 tỉnh/thành phố như sau: Đồng bằng

sông Hồng chọn Hà Nội, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung chọn Đà Nẵng,

Tây Nguyên chọn Lâm Đồng, Đông Nam Bộ chọn Thành phố Hồ Chí Minh và

Đồng bằng sông Cửu Long chọn Cần Thơ [63, tr.276-277].

+ Chọn đối tượng khảo sát: Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế,

gồm: Doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu

hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hợp tác xã...

+ Phương pháp chọn mẫu và điều tra thu thập thông tin: Mẫu điều tra được

chọn theo cách chọn mẫu thuận tiện. Trong năm tỉnh, thành phố tại địa bàn khảo

sát, mỗi tỉnh, thành phố, dự kiến chọn 100 mẫu khảo sát trong tổng thể. Tổng

cộng là 500 mẫu khảo sát.

Kết quả điều tra được sử dụng chủ yếu ở chương 3 của luận án.

- Phương pháp so sánh: Trong quá trình nghiên cứu đề tài sử dụng phương

pháp so sánh nhằm đối chiếu các quy định pháp luật trong Luật Cạnh tranh 2004

và Luật Cạnh tranh 2018 (sửa đổi) để xem xét, đánh giá mức độ hoàn thiện của

nội dung pháp luật Việt Nam đang nghiên cứu. Luận án cũng sử dụng phương

pháp so sánh khi nghiên cứu kinh nghiệm thực hiện pháp luật về kiểm soát

TTHCCT của EU và Hoa Kỳ để làm rõ tương đồng trong quan điểm của hai hệ

thống pháp luật có những điều kiện lịch sử phát triển khác nhau, từ đó xác lập

những điểm cốt lõi trong kinh nghiệm thực hiện pháp luật về kiểm soát

TTHCCT. Phương pháp so sánh được sử dụng ở các chương 2 và 3 của luận án.

Trong quá trình áp dụng các phương pháp trên, đề tài sử dụng các công cụ

như: Mô tả, phân tích, tổng hợp, so sánh, dự đoán để làm rõ vấn đề cần nghiên cứu.

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu

Luận án là công trình nghiên cứu chuyên sâu, có tính hệ thống và toàn diện

đầu tiên về thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam hiện nay.

Điểm mới và cũng là đóng góp khoa học quan trọng của luận án chính là vận

8

dụng lý luận về thực hiện pháp luật để nghiên cứu một lĩnh vực cụ thể là kiểm

soát TTHCCT, từ đó phát hiện ra những điểm đặc thù của thực hiện pháp luật

trong lĩnh vực này, cụ thể như sau:

- Luận án góp phần hệ thống hóa, làm sáng tỏ cơ sở lý luận thực hiện pháp

luật về kiểm soát TTHCCT. Luận án đã từ các lý thuyết kinh tế và lý thuyết pháp

lý phân tích, luận giải cơ sở kinh tế-pháp lý của pháp luật về kiểm soát TTHCCT

và xây dựng khái niệm, chỉ ra các đặc điểm, nội dung và các điều kiện bảo đảm

thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT.

- Luận án phân tích, đánh giá toàn diện thực trạng thực hiện pháp luật về

kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam hiện nay, góp phần nhận dạng những dấu hiệu

nghi vấn về việc không bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT

trong thực tiễn, thậm chí vi phạm pháp luật. Từ đó chỉ ra những ưu điểm, hạn

chế và nguyên nhân trong việc thực hiện pháp luật và đề xuất quan điểm, giải

pháp để bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam.

Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần xây dựng hệ thống lý luận về thực

hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT. Những nghiên cứu về thực trạng pháp luật

và các đề xuất hoàn thiện pháp luật là những đóng góp cho công tác lập pháp. Kết

quả nghiên cứu về thực trạng thực hiện pháp luật và những giải pháp đảm bảo thực

hiện pháp luật góp phần nâng cao hiệu quả của công tác thực hiện pháp luật trong

thực tiễn. Những kết quả của luận án sẽ góp phần nâng cao nhận thức của các cơ

quan, tổ chức và nhân dân về thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt

Nam, từ đó từng bước hiện thực hóa những giải pháp được đề xuất trong Luận án.

Với ý nghĩa khoa học và thực tiễn như trên, luận án có thể sử dụng làm tài

liệu tham khảo cho các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức và cá nhân trong việc

chỉ đạo và thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT; là tài liệu tham khảo khi sửa

đổi, bổ sung những chính sách, pháp luật về kiểm soát TTHCCT. Luận án cũng có

thể làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu và giảng dạy tại các cơ sở đào

tạo về pháp luật cạnh tranh và những đề tài nghiên cứu có liên quan đến TTHCCT.

6. Kết cấu của luận án

Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội

dung luận án được kết cấu làm 4 chương, 11 tiết.

9

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ

NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU

1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1.1. Các công trình nghiên cứu trong nước

Trong nước đã có nhiều công trình, bài viết được công bố nghiên cứu liên

quan đến đề tài tập trung vào các nhóm vấn đề sau:

1.1.1.1. Nghiên cứu về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh phát sinh trong nền KTTT, vì thế vấn đề này

được nghiên cứu, phân tích cặn kẽ dưới góc độ kinh tế học.

Sách "Kinh tế vi mô" của nhóm tác giả Lê Bảo Lâm, Nguyễn Như Ý, Trần

Thị Bích Dung, Trần Bá Thọ [44] đã nghiên cứu về bản chất kinh tế của

TTHCCT và vai trò của nhà nước trong nền KTTT bên cạnh các nội dung

kinh tế vi mô khác. Các tác giả đã phân tích hành vi TTHCCT (các-ten) hình

thành trong thị trường độc quyền nhóm, sự phụ thuộc lẫn nhau trong việc ra

quyết định của các doanh nghiệp trên thị trường độc quyền nhóm đã khiến

cho các doanh nghiệp phải lựa chọn giữa hai phương án: hoặc chúng cạnh

tranh với nhau để gạt dần các đối thủ ra khỏi thị trường, hoặc cấu kết, hợp

tác với nhau nhằm tránh những tổn thất do cạnh tranh gây ra, từ đó xác

định bản chất kinh tế của TTHCCT, các yếu tố có thể phá vỡ một

TTHCCT. Các tác giả cũng nghiên cứu về vai trò của nhà nước trong nền

KTTT. Mục tiêu tổng quát mà nhà nước can thiệp vào nền KTTT là để sửa

chữa các thất bại của thị trường, trong đó công cụ hữu hiệu nhất của nhà

nước chính là luật pháp. Để nền kinh tế có thể vận hành một cách bình

thường, nhà nước cần tạo ra môi trường pháp lý, bao gồm các quy tắc ứng

xử phù hợp với các quy luật của thị trường.

Bài viết: "Về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh" của tác giả Trần Thị Nguyệt

[53] đã tiếp cận từ vị trí và ảnh hưởng của hành vi TTHCCT trong lý thuyết về

cạnh tranh và thực tiễn về cạnh tranh trong nền KTTT để đưa ra khái niệm, phân

10

loại THCCT, tiêu chí để cấm TTHCCT trong bối cảnh nền KTTT còn chưa hoàn

thiện của Việt Nam. Không chỉ dừng lại ở góc độ nghiên cứu kinh tế học, bài

viết có khuyến nghị rằng khác với các lĩnh vực pháp luật khác, pháp luật cạnh

tranh nói chung và pháp luật chống TTHCCT nói riêng chỉ có thể hiểu được, vận

dụng trong mối quan hệ mật thiết với các tiêu chí hiệu quả của kinh tế học.

Các nghiên cứu dưới góc độ luật học sau đó đã tiếp thu những kết quả

nghiên cứu về TTHCCT dưới góc độ kinh tế học này, tiêu biểu như bài viết:

"Cạnh tranh và các dạng thức thoả thuận hạn chế cạnh tranh" của tác giả

Nguyễn Thị Hồng Vân [71] đã tiếp cận hành vi TTHCCT trên nền tảng các lý

thuyết kinh tế để bình luận và đề xuất giải pháp xây dựng hoàn thiện pháp luật

về kiểm soát TTHCCT.

Luận án đã tiếp thu các luận cứ về cơ sở kinh tế - pháp lý này làm nền tảng

lý luận nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm của TTHCCT, xây dựng pháp luật

và vai trò, các điều kiện đảm bảo thực hiện pháp luật về TTHCCT ở Việt

Nam hiện nay, đề xuất sửa đổi pháp luật về kiểm soát TTHCCT.

1.1.1.2. Nghiên cứu pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

- Các nội dung lý luận về pháp luật về kiểm soát TTHCCT đã được nhiều

công trình nghiên cứu đề cập đến.

Trước khi Luật Cạnh tranh 2004 chưa ra đời đã có Đề tài nghiên cứu khoa

học cấp Bộ: "Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Luật Cạnh tranh" của Lê Thị

Bích Thọ [60]. Nghiên cứu này xây dựng một số nội dung lý luận về pháp luật

về kiểm soát TTHCCT, đó là: Tiêu chí xác định hành vi TTHCCT, yêu cầu kiểm

soát hành vi và yêu cầu hội nhập quốc tế khi xây dựng pháp luật.

Sau khi Luật Cạnh tranh 2004 được ban hành, đề tài nghiên cứu khoa học

cấp Bộ: "Những vấn đề đặt ra và giải pháp thực thi có hiệu quả Luật Cạnh tranh

trong thực tiễn" của Tăng Văn Nghĩa [52] đã đặt ra những vấn đề về vai trò của

pháp luật cạnh tranh, vai trò của Nhà nước trong đảm bảo tự do cạnh tranh và

nghiên cứu sinh đã tiếp thu để nghiên cứu về vai trò của thực hiện pháp luật về

kiểm soát TTHCCT trong nền KTTT. Bên cạnh đó, công trình này đã đưa ra các

luận thuyết về "Giới hạn hợp pháp của các TTHCCT", nghiên cứu sinh đã xem

xét những luận thuyết này, so sánh với pháp luật của một số quốc gia để xác định

11

có những TTHCCT được phép thực hiện và những TTHCCT cần phải bị cấm

tuyệt đối trong nội dung pháp luật về kiểm soát TTHCCT Việt Nam.

Đề tài: "Điều chỉnh pháp luật đối với thoả thuận hạn chế cạnh tranh ở Việt

Nam hiện nay" của tác giả Nguyễn Thị Nhung [54]. Đây là một nghiên cứu ở

góc độ pháp luật kinh tế về khái niệm và đặc trưng pháp lý của TTHCCT, về nhu

cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với TTHCCT, cấu trúc và cơ chế điều chỉnh

bằng pháp luật đối với TTHCCT. Công trình này có một số nội dung lý luận về

pháp luật kiểm soát TTHCCT, đó là xây dựng khái niệm pháp luật về kiểm soát

TTHCCT, những đặc trưng pháp lý về TTHCCT và cơ chế điều chỉnh pháp luật.

- Nghiên cứu về thực trạng pháp luật về kiểm soát TTHCCT:

Ở góc độ khái quát nhất có thể kể đến sách tham khảo: "Pháp luật cạnh

tranh tại Việt Nam" của nhóm tác giả Lê Danh Vĩnh, Hoàng Xuân Bắc,

Nguyễn Ngọc Sơn [73]. Công trình này đã tiếp cận chi tiết về chế định pháp

luật về kiểm soát TTHCCT: Định nghĩa, những đặc điểm cơ bản của

TTHCCT và bình luận về điểm tương đồng và khác biệt trong các quy định

pháp luật về kiểm soát TTHCCT của Việt Nam, nêu và đánh giá những nội

dung pháp lý cơ bản về pháp luật kiểm soát TTHCCT Việt Nam.

Ấn phẩm: "Cẩm nang về Luật cạnh tranh Việt Nam" của tác giả Alice

Phạm [55] vận dụng các lý thuyết kinh tế học để luận giải về TTHCCT,

nghiên cứu các vụ việc TTHCCT cũng như so sánh pháp luật để đánh giá thực

trạng pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam, từ đó đưa ra kiến nghị về:

Thị phần của doanh nghiệp tham gia thỏa thuận, mở rộng phạm vi điều chỉnh

và mở rộng quy mô pháp lí của Luật Cạnh tranh ra ngoài biên giới lãnh thổ...

là những điểm đã được nghiên cứu sinh tiếp thu cho nghiên cứu của mình.

Bài báo: "Một số bất cập trong pháp luật điều chỉnh hành vi hạn chế

cạnh tranh của Việt Nam" của tác giả Nguyễn Thị Vân Anh [2] đã nêu lên

những hạn chế của Luật Cạnh tranh 2004 và các văn bản hướng dẫn thi hành.

Luận án đã tiếp thu ý tưởng về quy định miễn trách nhiệm cho doanh nghiệp

tham gia vào các TTHCCT bị cấm nhưng tự nguyện khai báo với cơ quan

quản lí cạnh tranh cho nghiên cứu của mình.

12

Tài liệu tọa đàm: "Chính sách khoan hồng và tác động phá vỡ Cartel"

của Trung tâm Thông tin Cạnh tranh thuộc Cục CT&BVNTD [66] đã phát

hành gồm tham luận của nhiều tác giả, tập trung trao đổi về cơ chế pháp luật

tạo thuận lợi cho việc "đầu thú" của các bên tham gia vào TTHCCT để

khuyến khích việc tự đưa vụ việc ra ánh sáng nhằm hưởng những ưu đãi miễn

trừ của pháp luật và đánh giá thực trạng pháp luật về kiểm soát TTHCCT Việt

Nam đã thiếu hẳn các quy định về chính sách khoan hồng cũng như cơ chế áp

dụng pháp luật trong thực tiễn.

- Bên cạnh đó, một số tác giả cũng nghiên cứu thực trạng pháp luật kiểm

soát TTHCCT Việt Nam trên cơ sở so sánh với pháp luật nước ngoài.

Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật Quốc tế: "Vấn đề thoả thuận hạn chế

cạnh tranh theo pháp luật nước ngoài" của Phùng Văn Thành [57] đã nghiên

cứu về pháp luật về kiểm soát TTHCCT dưới những góc độ: Tác động của

TTHCCT đối với môi trường và cấu trúc cạnh tranh, đối với người tiêu dùng, đối

với nền kinh tế và toàn xã hội và yêu cầu kiểm soát bằng pháp luật; Mục tiêu

chung về kiểm soát TTHCCT và việc giải quyết về mặt chính sách trên bình diện

quốc tế; Giải quyết xung đột pháp luật trong kiểm soát TTHCCT; Những kinh

nghiệm quốc tế trong kiểm soát TTHCCT.

Tài liệu Hội thảo "Pháp luật điều chỉnh hành vi hạn chế cạnh tranh: Kinh

nghiệm EU và bài học cho Việt Nam" của Dự án Hỗ trợ Thương mại Đa biên

(EU-Việt Nam MUTRAP III), Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam

(VCCI) [26] đã chứa đựng những thông tin đáng tham khảo về kinh nghiệm thực

thi pháp luật của EU và Cộng hòa Pháp. Bên cạnh các thông tin cơ bản về pháp

luật về kiểm soát TTHCCT của Liên minh châu Âu còn có những đánh giá, bình

luận về pháp luật Việt Nam.

Sách có tựa đề: "Tiêu chí đánh giá tính cạnh tranh bất hợp pháp của một số

nước và một số bình luận về luật cạnh tranh của Việt Nam" của tác giả Nguyễn

Văn Cương [25] đã nghiên cứu về các tiêu chí để đánh giá một TTHCCT là bất

hợp pháp theo pháp luật cạnh tranh Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. Tác giả nêu và phân

tích cơ sở pháp lý của việc đánh giá tính cạnh tranh bất hợp pháp các TTHCCT,

phân tích các tiêu chí, điều kiện đánh giá như "hạn chế cạnh tranh", "trái với lợi

13

ích công cộng", học thuyết "hạn chế cạnh tranh bổ trợ", các quy tắc như quy tắc

hợp lý, quy tắc per-se. Thông qua các án lệ tác giả phân tích và bình luận về thực

hiện pháp luật về kiểm soát TTHCC, bình luận về pháp luật cạnh tranh Việt

Nam, gợi mở những ý tưởng góp phần hoàn thiện pháp luật. Đây là một công

trình nghiên cứu khá sâu về thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT của Hoa

Kỳ, EU mà đề tài đã tham khảo và kế thừa những nội dung về các học thuyết và

quy tắc, điều kiện áp dụng để đảm bảo thực hiện pháp luật về kiểm soát

TTHCCT Việt Nam.

1.1.1.3. Các nghiên cứu về thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận

hạn chế cạnh tranh

- Những nghiên cứu liên quan đến lý thuyết thực hiện pháp luật về kiểm

soát TTHCCT.

Các vấn đề lý luận chung về thực hiện pháp luật được nghiên cứu chi tiết trong

các giáo trình về lý luận chung nhà nước và pháp luật. Ngoài ra còn có các công

trình tiêu biểu như "Thực hiện pháp luật - những vấn đề lý luận và thực tiễn" của

tác giả Nguyễn Văn Mạnh [48] phân tích về Khái niệm thực hiện pháp luật, các

hình thức thực hiện và các chủ thể thực hiện pháp luật tương ứng với mỗi hình thức,

nội dung, các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật, thực tiễn thực hiện pháp luật ở

nước ta. Để làm rõ hơn về một trong bốn hình thức thực hiện pháp luật có công

trình: "Thực hiện và áp dụng pháp luật ở Việt Nam" của tác giả Nguyễn Minh Đoan

[32] đã nghiên cứu về các vấn đề: Thực tiễn pháp luật, áp dụng pháp luật, quy trình

thực hiện và áp dụng pháp luật, những bảo đảm thực hiện pháp luật, áp dụng pháp

luật tương tự, giải thích pháp luật và hiệu quả thực hiện pháp luật ở Việt Nam.

Nghiên cứu sinh sử dụng các tài liệu này làm nền tảng lý luận để từ đó nghiên cứu

về thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT.

Nhận thức về vai trò và chức năng của nhà nước trong nền KTTT là nền

tảng của lý thuyết về xây dựng và thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT, đề

cao hay coi nhẹ vai trò của nhà nước, nhà nước can thiệp vào các quy luật của thị

trường hay nhà nước kiến tạo sẽ trực tiếp quyết định việc cấm hay kiểm soát

cạnh tranh, chống hay chỉ kiểm soát TTHCCT, miễn trừ cho độc quyền nhà nước

hay không, cơ chế và phương thức kiểm soát và xử lý vi phạm… Sách "Nhà

14

nước kiến tạo phát triển - Lý luận, thực tiễn trên thế giới và ở Việt Nam" của Vũ

Công Giao và Trịnh Quốc Toản [35] với các tham luận của nhiều tác giả về nhà

nước kiến tạo phát triển gợi mở những ý tưởng về những yêu cầu, điều kiện đảm

bảo thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT, lý giải nguyên nhân sâu sa của

những hạn chế, bất cập trong pháp luật và thực hiện pháp luật về kiểm soát

TTHCCT ở Việt Nam hiện nay.

Sách có nhiều quan điểm tương đồng với tài liệu "Vai trò của Nhà nước

trong phát triển kinh tế Việt Nam" do Ngân hàng Thế giới (WB) [51] phát hành

trong chương trình nghiên cứu về Việt Nam: Tăng cường vai trò kiến tạo của

Nhà nước trong một nền KTTT đưa ra như "quản lý nền KTTT định hướng

XHCN thông qua luật pháp, chiến lược, quy hoạch tổng thể, chính sách và các

công cụ kinh tế phù hợp với các nguyên tắc KTTT; phát triển thể chế, quản lý

kinh tế vĩ mô và môi trường kinh doanh, can thiệp giải quyết thất bại thị

trường… [51, tr.26]. Vai trò và chức năng của nhà nước đặc biệt tác động đến lý

thuyết và thực tiễn thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT vì liên quan trực

tiếp đến quy luật cạnh tranh của nền KTTT và nghiên cứu sinh đã tiếp thu những

nội dung lý thuyết này để đề xuất các phương hướng và giải pháp bảo đảm thực

hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam hiện nay.

Bài báo: "Tư duy phát triển và vấn đề thực thi luật cạnh tranh ở Việt Nam"

của Lê Thành Vinh [72] đã đặt vấn đề về tư duy của các nhà hoạch định chính

sách để đưa Luật cạnh tranh vào thực tiễn. Nghiên cứu này nêu lên những vấn đề

lý thuyết liên quan đến thực thi pháp luật, đó là giải quyết mâu thuẫn giữa cạnh

tranh hay hợp tác, mở cửa hay bảo hộ... trong nền KTTT để thực hiện pháp luật

về kiểm soát TTHCCT đạt được kết quả mong đợi.

- Những nghiên cứu liên quan đến thực tiễn thực hiện pháp luật về kiểm

soát TTHCCT đi vào thực trạng thực hiện pháp luật trong thời gian qua, bao

gồm những nghiên cứu chung và đi vào các lĩnh vực cụ thể:

Hội thảo: "5 năm thực thi pháp luật cạnh tranh trong kiểm soát hành vi hạn

chế cạnh tranh ở Việt Nam" của Hội đồng cạnh tranh Việt Nam (VCC), Dự án

Hỗ trợ thương mại đa biên giai đoạn III (EU- Viet Nam MUTRAP III) [40] đã có

nhiều tham luận đã nêu lên các vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện pháp luật về

15

kiểm soát TTHCCT như: Vướng mắc trong các quy định và thực thi các quy

định của pháp luật về xử lý vụ việc cạnh tranh, một số vấn đề thực tiễn về điều

tra vụ việc hạn chế cạnh tranh, thực tiễn giải quyết các vụ việc về hành vi hạn

chế cạnh tranh tại Việt Nam...

Cuốn sổ tay: "Hành vi hạn chế cạnh tranh: Một số vụ việc điển hình của

châu Âu" của Dự án Hỗ trợ Thương mại Đa biên (EU - Việt Nam MUTRAP III)

[27] đã phân tích và bình luận về TTHCCT theo pháp luật EU và những khuyến

nghị về thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT của Việt Nam trên cơ sở phân

tích thực trạng thực hiện pháp luật thời gian qua. Luận án đã tham khảo được

nhiều kinh nghiệm thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT từ tài liệu này.

Nghiên cứu tổng quát nhất về thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT:

"Báo cáo rà soát các quy định của Luật Cạnh tranh Việt Nam" của Cục Quản lý

cạnh tranh [15] đã công bố những nội dung rà soát đối với các chế định pháp luật

cạnh tranh, đánh giá kết quả thực thi các quy định hiện hành về kiểm soát

TTHCCT. Kết quả rà soát cho thấy những tác động tích cực cũng như những bất

cập qua 05 năm thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT. Những kết quả rà

soát của tài liệu này mang giá trị thực tiễn cao, là tài liệu tham khảo hữu ích cho

đề tài nghiên cứu.

Tại Hội thảo 10 năm thực thi Luật Cạnh tranh ở Việt Nam và những bài học

kinh nghiệm của châu Âu do Hội đồng Cạnh tranh Việt Nam phối hợp với Dự án

hỗ trợ Chính sách thương mại và đầu tư của châu Âu (EU-MUTRAP) tổ chức

tháng 12 năm 2014 có bài tham luận của tác giả F. Naert về "Xử lý Cartel" [49]

nhận định rằng thực tiễn thực thi cho thấy các-ten ngày càng tinh vi, có thể tồn

tại dưới rất nhiều hình thức như thỏa thuận, trao đổi thông tin lỏng lẻo, thông

đồng ‘ngầm’, phối hợp hành động... và để xử lý cần áp dụng nhiều biện pháp

nghiệp vụ phối hợp lẫn nhau. Các diễn giả trong hội thảo cũng nghiên cứu và

thảo luận về các vấn đề lý thuyết áp dụng pháp luật như: Loại bằng chứng, xác

định mức thiệt hại, khoan hồng khi xử lý TTHCCT. Ngoài ra còn có các tham

luận về quá trình tố tụng cạnh tranh và tố tụng hành chính của 04 vụ việc hạn chế

cạnh tranh ở Việt Nam, thị phần và vai trò trong giải quyết vụ việc TTHCCT, vai

trò của hiệp hội doanh nghiệp. Đề tài đã tham khảo các thông tin về tình hình

16

thực hiện pháp luật trong vòng mười năm qua, những bình luận về pháp luật và

thực hiện pháp luật, về vai trò của nhà nước, doanh nghiệp, hiệp hội doanh

nghiệp trong thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT.

Hội thảo: "Đánh giá 10 năm thực thi luật và chính sách cạnh tranh tại Việt

Nam" của Cục Quản lý cạnh tranh [21] đã tập trung vào điểm mấu chốt là mối

quan hệ phối hợp giữa cơ quan quản lý cạnh tranh và cơ quan quản lý ngành để

thực hiện tốt cả hai nhiệm vụ là bảo vệ cạnh tranh và điều tiết ngành. Hội thảo có

các tham luận đánh giá tổng quan về kết quả thực thi Luật cạnh tranh; các hoạt

động phối hợp xây dựng và thực thi Luật và chính sách cạnh tranh giai đoạn

2005-2015; mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan cạnh tranh và Cơ quan quản lý

ngành trong hoạt động xây dựng và thực thi chính sách và pháp luật cạnh tranh...

Giá trị tham khảo tài liệu hội thảo là những thông tin về tình hình thực tiễn thực

thi pháp luật cạnh tranh trong vòng mười năm qua, vai trò của cơ quan quản lý

cạnh tranh trong việc áp dụng pháp luật và mối quan hệ với các cơ quan nhà

nước khác trong thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT.

Bộ tài liệu mang tên chung: "Hồ sơ các vấn đề cạnh tranh" của CUTS

Hanoi Resource Centre [10] đã có bài viết về các vấn đề cạnh tranh ở Việt Nam,

đưa ra những phân tích về pháp luật và các vụ việc vi phạm pháp luật. Một phần

nhỏ phân tích và bình luận vụ việc TTHCCT trong bộ tài liệu này đã gợi mở

những ý tưởng về chính sách và pháp luật để có thể đảm bảo thực hiện pháp luật

về kiểm soát TTHCCT trong thực tiễn Việt Nam.

Các công trình nghiên cứu như Luận án tiến sĩ Luật học: "Pháp luật hạn

chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại ở Việt Nam hiện nay"

của Nguyễn Thị Tình [61] không nghiên cứu tổng quát thực hiện pháp luật về

kiểm soát TTHCCT mà nghiên cứu về những lĩnh vực cụ thể, trong đó có liên

quan đến thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT. Tuy thế, những nội dung

nghiên cứu này cũng góp phần làm rõ hơn về thực hiện pháp luật về kiểm soát

TTHCCT trên nền tảng lý thuyết chung của pháp luật cạnh tranh.

Để đánh giá hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh, Luận án tiến sĩ Kinh tế:

"Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh của Việt Nam" của

Trịnh Anh Tuấn [68] đã đưa ra các tiêu chí đánh giá cụ thể, xem xét thực trạng

17

và từ đó kết luận nguyên nhân dẫn đến hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh

Việt Nam trong thời gian qua chưa cao. Tuy đã làm rõ góc độ đánh giá hiệu quả

thực hiện pháp luật, công trình này không tiếp cận vào nội dung thực hiện pháp

luật của từng hình thức tuân thủ, sử dụng, thi hành và áp dụng pháp luật về kiểm

soát TTHCCT.

1.1.2. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài

1.1.2.1. Các nghiên cứu về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài dưới góc độ kinh tế học về

TTHCCT rất đa dạng, phong phú. Trong đó giải nghĩa về thuật ngữ TTHCCT

dưới góc độ kinh tế của công trình: "The Concise Encyclopedia Of Economic"

(Bác khoa toàn thư về kinh tế) của David R.Henderson [84] được nhiều nghiên

cứu sau này dẫn nguồn và công nhận các nội dung về khái niệm TTHCCT,

nguồn gốc dẫn đến hình thành TTHCCT, động cơ của các bên tham gia

TTHCCT, bản chất của một TTHCCT là sự "đồng thuận" giữa các bên dưới

bất cứ hình thức nào để hạn chế cạnh tranh giữa họ nhằm đem lại lợi ích cao

nhất. Trong công trình "Kinh tế học" của David Begg, Stanley Fisher và

Rudiger Dornbusch [4], các tác giả sử dụng lý thuyết kinh tế hiện đại để xác

định nguyên nhân hình thành và bản chất của một TTHCCT để đi đến kết luận

rằng một TTHCCT theo chiều ngang (các-ten) có khả năng gây tác hại rất lớn

cho nền kinh tế, thậm chí là một loại "ung nhọt" của thị trường, các nhà nước

cần phải sử dụng những chính sách vi mô và vĩ mô để kiểm soát nó. Các tác

giả cũng đưa ra những trường hợp TTHCCT vi phạm pháp luật đã bị xử lý và

bình luận về một số điều kiện thị trường, yếu tố tác động đã thúc đẩy hình

thành và phát triển của TTHCCT.

Bộ sách: "Foundations and Trends® in Microeconomics" (Những nền

tảng và xu hướng trong kinh tế vi mô) của Joseph E. Harrington Jr [100] đã

tập trung vào "How Do Cartels Operate?" (TTHCCT hoạt động như thế nào?).

Tác giả nghiên cứu khoảng 20 Quyết định giải quyết vụ việc các-ten của Ủy

ban Châu Âu trong giai đoạn 2000-2004 dưới góc độ kinh tế học để rút ra cơ

chế vận hành của một các-ten. Các công trình nghiên cứu về TTHCCT dưới

góc độ kinh tế khác cũng tương tự hai công trình trên, tập trung làm rõ khái

18

niệm, nguồn gốc, bản chất, động cơ hình thành... và cơ chế phá vỡ TTHCCT

một cách hữu hiệu nhất.

Các nghiên cứu về TTHCCT dưới góc độ luật học tập trung vào rõ vấn đề

thống nhất ý chí của một TTHCCT. Trong bài nghiên cứu về: "Combinations,

Concerted Practices and Cartels: Adopting the Concept of Conspiracy in

European Community Competition Law" (Sự kết hợp, phối hợp hành động và

TTHCCT: Áp dụng khái niệm về âm mưu trong Luật cạnh tranh EU) của tác giả

Julian M. Joshua & Sarah Jordan [103] hướng tới xác định khái niệm rộng nhất

của "thỏa thuận" theo hai hệ thống pháp luật cạnh tranh nổi bật nhất hiện nay là

pháp luật cạnh tranh EU và Hoa Kỳ. Tác giả nhận định rằng để có một

TTHCCT, trước hết, phải có một "thỏa thuận", và chỉ cần chứng minh các bên có

"thỏa thuận" với nhau là có thể xác định vi phạm pháp luật chứ không đòi hỏi

chứng minh các bên đã có hành động trong thực tiễn.

Cho rằng trong thực tế việc xác định một TTHCCT là công việc khó khăn

vì cơ sở lý luận và pháp lý về TTHCCT còn nhiều điểm chưa hoàn thiện, trong các

bài viết: "Objective and Subjective Theories of Concerted Action” (Lý thuyết về

chủ thể và đối tượng của hành động phối hợp) và The Gary Dinners and the

Meaning of Concerted Action" (Vụ việc The Gary Dinners và ý nghĩa của hành

động phối hợp) của William H. Page [127] đã cho rằng có ba câu hỏi cơ bản cần đặt

ra khi áp dụng pháp luật: Thứ nhất, thế nào là một thỏa thuận? Thứ hai, những bằng

chứng cần thiết để chứng minh thỏa thuận? Và cuối cùng, nếu đúng là có một thỏa

thuận và đã được chứng minh, thỏa thuận đó hạn chế thương mại không?

Những luận cứ này đã khơi mở tiếp cho những nghiên cứu nối tiếp như là:

"EU Concerted Practices & US Concerted Actions: Beyond William H. Page's

Proposal" (Phối hợp hành động của EU và phố hợp hành động của Hoa Kỳ:

Theo giả thuyết của William H. Page) của hai tác giả Federico Ghezzi và

Mariateresa Maggiolino [88] đã dẫn ra các án lệ để chứng minh rằng trong thực

tiễn áp dụng pháp luật, các từ ngữ sau là tương đồng về nghĩa và có thể thay thế

cho nhau: "agreement", "concerted actions", "a unity of purpose", "a common

design and understanding", "a meeting of minds" hay là "a conscious

commitment to a common scheme" khi nói về TTHCCT.

19

Bài viết: "The Concept of Concerted Practice and Its Scope from the

Perspective of Turkish and European Competition Law" (Định nghĩa và phạm vi

của hành động phối hợp từ quan điểm của Luật cạnh tranh Thổ Nhĩ Kỳ và EU)

của tác giả Metin Topcuoglu [104] đã xác định khái niệm "hành động phối hợp"

hình thành nên một TTHCCT và xác định chủ thể TTHCCT.

Những nghiên cứu dưới góc độ kinh tế học và luật học đó đã làm rõ tiêu chí

để xác định một TTHCCT là hành vi TTHCCT là hành vi chủ quan, đạt được khi

có sự thống nhất ý chí của các bên và hoàn toàn phân biệt được với các hành vi

ngẫu nhiên trên thị trường.

1.1.2.2. Những nghiên cứu về pháp luật kiểm soát thỏa thuận hạn chế

cạnh tranh

Ở phạm vi ngoài nước, pháp luật về kiểm soát TTHCCT được nghiên cứu

rất rộng rãi dưới nhiều góc độ, trình bày kinh nghiệm xây dựng pháp luật của

nhiều quốc gia trên toàn thế giới. Tuy thế, do phạm vi nghiên cứu của đề tài nên

chỉ tập trung nghiên cứu những công trình về pháp luật chống độc quyền của EU

và Hoa Kỳ.

Bài viết: "The Fundamental Goal of Antitrust: Protecting Consumers, Not

Increasing Efficiency" (Mục tiêu cơ bản của Luật chống độc quyền: Bảo vệ

người tiêu dùng chứ không phải tăng cường hiệu quả) của của hai tác giả John B.

Kirkwood & Robert H. Lande [101] đã sử dụng các vấn đề lý thuyết để phân tích

mục tiêu cuối cùng của xây dựng và thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT

chính là bảo vệ người tiêu dùng. Mục tiêu đó tác động đến nội dung của pháp

luật. Nghiên cứu này đã gợi mở ý tưởng về yêu cầu xây dựng và hoàn thiện pháp

luật tác động đến thực hiện pháp luật cũng như củng cố thêm ý tưởng về mối

quan hệ tương tác giữa áp dụng pháp luật của cơ quan quản lý nhà nước với tuân

thủ pháp luật, thi hành và sử dụng pháp luật của các chủ thể hướng tới mục tiêu

cuối cùng là bảo vệ người tiêu dùng chứ không phải là xử lý vi phạm.

Để nghiên cứu về việc xây dựng các quy định của pháp luật như thế nào nhằm

phá vỡ cơ sở hình thành và phát triển của các TTHCCT ngay từ đầu, công trình:

"Research Handbook on the Economics of Antitrust Law" (Cẩm nang nghiên cứu về

khía cạnh kinh tế của Luật chống độc quyền) của tác giả Einer Elhauge [85] đã làm

20

rõ cơ sở kinh tế - pháp lý của pháp luật chống độc quyền. Tác giả phân tích nguồn

gốc, động cơ, bản chất của TTHCCT xuất phát từ đặc điểm của thị trường độc

quyền nhóm làm xuất hiện khả năng tập trung quyền lực thị trường vào một nhóm

người để có thể hành xử "như độc quyền" và đề xuất các ý tưởng xây dựng pháp

luật phá vỡ mối liên hệ gắn bó giữa các thành viên tham gia thỏa thuận, đó là quy

chế tuân thủ, là chính sách khoan hồng... Luận án đã tiếp thu nhiều ý tưởng về xây

dựng và hoàn thiện pháp luật từ công trình nghiên cứu này.

Bộ sách: "Chính sách và thực tiễn pháp luật cạnh tranh của Cộng hòa

Pháp" của tác giả Dominique (Ủy ban quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế thực

hiện dịch thuật) [3] đã cung cấp thông tin những tương đồng, khác biệt với pháp

luật về kiểm soát TTHCCT của Pháp với EU, kinh nghiệm của các cơ quan cạnh

tranh Pháp và EU trong giải quyết vụ việc TTHCCT.

Sách tham khảo: "Fundamentals Of American Law" (Những vấn đề cơ bản

của luật pháp Mỹ) của Alan B.Morrison ( [78], trong Phần 16 tác giả Harry First

trình bày cái nhìn tổng quan về các đạo luật chống độc quyền của Hoa Kỳ, trong

đó có kiểm soát TTHCCT và việc thi hành pháp luật. Tác giả đã trình bày chi tiết

về những nguyên tắc chung, áp dụng án lệ, việc thi hành pháp luật ở cấp chính

quyền và ở khu vực tư nhân, phạm vi tài phán, các xu hướng thi hành pháp luật,

phân tích các những thỏa thuận theo chiều ngang và cách thức kiểm soát các

TTHCCT này của Hoa Kỳ, quan điểm của Hoa Kỳ về kiểm soát TTHCCT và vai

trò của luật chống độc quyền.

Từ các công trình tiêu biểu như trên, đề tài đã tiếp nhận kiến thức về pháp

luật chống độc quyền của EU và Hoa Kỳ.

1.2.3. Các nghiên cứu về thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận

hạn chế cạnh tranh

- Có rất nhiều sách đã xuất bản nghiên cứu về vấn đề thực hiện pháp luật về

kiểm soát TTHCCT trên thế giới, trong đó công trình liên quan mật thiết tới nội

dung và phạm vi nghiên cứu của đề tài cũng như gợi mở nhiều vấn đề nghiên

cứu là sách: "Global Price Fixing" (Thỏa thuận ấn định giá toàn cầu) của tác giả

John M.Connor [98]. Công trình đã tập trung vào một loại TTHCCT nghiêm

trọng, đó là thỏa thuận ấn định giá. Giá trị tham khảo lớn mà công trình này đem

21

lại đó là thông qua nghiên cứu và phân tích ba vụ việc là vụ Citric Acid, vụ

Vitamin và vụ Lysine, được coi là "điển hình cho hàng trăm trường hợp các-ten

quốc tế khác bị truy tố trong thập kỷ qua. Lysine, Acid citric và Vitamin là

những vụ việc hàng đầu của một đại dịch trên toàn thế giới chưa từng thấy kể từ

những năm 1940" [98], đã "vươn tầm ở hai ba châu lục" [98], tác giả đối chiếu,

phân tích và bình luận về pháp luật chống các-ten của Hoa Kỳ, EU, Canađa, các

nỗ lực của Diễn đàn Thương mại và Phát triển Liên Hiệp quốc (UNCTAD) và

Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) và các quốc gia trong thực thi

chống các-ten. Công trình này nhận định các-ten đang biến dạng và phát triển

theo những chiều hướng mà trước đây chỉ một thập kỷ không ai có thể ngờ tới,

đòi hỏi việc phát hiện, nghiên cứu, phân tích và đề xuất những biện pháp xử lý

thích ứng hơn nữa với thực tiễn đang diễn ra. Những câu hỏi đặt ra để tiếp tục

nghiên cứu là: các yếu tố tạo điều kiện làm phát sinh các-ten hiện nay? Tác hại

của các-ten cho nền kinh tế và chi phí xã hội đã hao tổn với các-ten? Giải pháp

tăng cường thực thi pháp luật và hoàn thiện pháp luật về chống các-ten?.

Nghiên cứu rõ hơn về pháp luật chống các-ten của Hoa Kỳ có sách:

"Antitrust law developments" (Sự phát triển của luật chống độc quyền) của tác

giả Jonathan M Jacobson [97] trình bày khá chi tiết về thực thi pháp luật cạnh

tranh Hoa Kỳ, việc áp dụng nguyên tắc per se (vi phạm mặc nhiên) cho các

TTHCCT nghiêm trọng (hard-core cartels), việc áp dụng các hình phạt bao gồm

hình phạt tù cho các cá nhân vi phạm pháp luật, việc tuân thủ nghiêm chỉnh pháp

luật chống độc quyền vì nếu vi phạm mặc nhiên doanh nghiệp sẽ không/rất hiếm

được xin miễn trừ khi bị phát hiện.

Sách: "Legitimacy in EU Cartel Control" (Tính pháp lý trong kiểm soát

TTHCCT của EU) của Ingeborg Simonsson [119] đã trình bày về các vấn đề

pháp lý về điều chỉnh TTHCCT theo pháp luật EU. Ngoài các nội dung về kết

cấu của pháp luật, các quy định về hành vi, các quy định cấm và cho phép, biện

pháp cưỡng chế của EU, các thủ tục và biện pháp trừng phạt, cuốn sách còn bao

gồm một danh mục của hơn 150 quyết định giải quyết vụ việc cartel của EU,

cũng như phân tích các vấn đề mới nảy sinh như TTHCCT xuyên biên giới,

TTHCCT hỗn hợp gồm cả thỏa thuận ngang và dọc... cũng như so sánh chuyên

22

sâu với luật pháp Hoa Kỳ để chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa hai

hệ thống.

Các tài liệu này có giá trị tham khảo rất lớn cho nghiên cứu sinh cả về

khung lý thuyết xây dựng pháp luật chống độc quyền cũng như kinh nghiệm

thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT của Hoa Kỳ, EU và một số quốc gia

trên thế giới.

- Về tài liệu của các tổ chức quốc tế:

Mạng lưới Cạnh tranh Quốc tế (ICN) đã phát hành tài liệu Anti-Cartel

Enforcement Manual (Hướng dẫn thực thi pháp luật về chống TTHCCT). Cẩm

nang hiện có 10 chương, chương đầu tiên viết từ năm 2008 và cho đến nay vẫn

tiếp tục được ICN viết tiếp, mỗi chương nghiên cứu, phân tích các kỹ thuật được

áp dụng ở các giai đoạn thực thi pháp luật khác nhau và xác định các phương

pháp đã được chứng minh có hiệu quả và thành công dựa trên thực tiễn thực thi

pháp luật kiểm soát TTHCCT của các cơ quan cạnh tranh thành viên ICN trên

toàn thế giới. Cẩm nang này là tài liệu tham khảo rất hữu ích cho nghiên cứu

sinh về các kỹ thuật, phương pháp mới trong tiếp cận tìm kiếm, thăm dò và khám

phá các TTHCCT ngầm, thu thập chứng cứ số, bắt đầu vụ việc cartel, chiến lược

điều tra, kỹ thuật lấy lời khai, thực hiện chương trình khoan hồng một cách hiệu

quả..., đồng thời là một cơ sở để so sánh các phương pháp thực thi pháp luật

kiểm soát TTHCCT của cơ quan cạnh tranh Việt Nam.

Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) đã khởi động một chương

trình từ năm 1998 với tài liệu: "Recommendation of the OECD Council on hard

core cartels" (Khuyến nghị về TTHCCT nghiêm trọng của Hội đồng OECD)

[111] đã góp phần xây dựng, thống nhất khái niệm và đánh giá tác hại của

TTHCCT ngang nghiêm trọng. Các Báo cáo do Ủy ban Cạnh tranh của Tổ chức

Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) xây dựng, như: "Report on the nature and

impact of hard core cartels and sanctions against cartels under national

competition laws" (Báo cáo về bản chất và tác động của TTHCCT nghiêm trọng

và các biện pháp trừng phạt đối với TTHCCT theo luật cạnh tranh các quốc gia)

[112]; "Prosecuting cartels without direct evidence of agreement" (Khởi tố

23

TTHCCT khi không có bằng chứng thỏa thuận trực tiếp) [116] chi tiết hơn về

bản chất và tác động của các-ten, các phương thức điều tra, các hình thức xử

phạt trong luật cạnh tranh các quốc gia, sử dụng tối ưu các biện pháp chế tài để

ngăn chặn hoạt động của các-ten... Báo cáo năm 2014 "Challenges of

International Co-operation in Competition Law Enforcement" (Những thách

thức trong công tác hợp tác quốc tế trong thực thi luật cạnh tranh) [107] cung cấp

nhiều kinh nghiệm thực hiện pháp luật kiểm soát TTHCCT, tình hình TTHCCT

quốc tế, thực tiễn phối hợp giữa các quốc gia chống TTHCCT quốc tế. Cũng như

các Tài liệu của ICN, Khuyến nghị và Báo cáo của OECD được nghiên cứu sinh

tham khảo để tiếp cận những thành công và hạn chế trong thực hiện pháp luật về

kiểm soát TTHCCT trên thế giới.

Đặc biệt, tài liệu "Đánh giá của OECD về Luật và Chính sách Cạnh tranh"

phần đánh giá về Việt Nam xuất bản năm 2018 nhận định rằng có bốn hạn chế

cần giải quyết để pháp luật và chính sách cạnh tranh được thực hiện toàn diện và

đủ hiệu quả, đó là: Khung khổ quy định hiện nay không tạo thuận lợi cạnh tranh;

Cấu trúc thị trường còn chưa cạnh tranh; Khung khổ thể chế của các cơ quan

cạnh tranh, các cơ quan quản lý có liên quan và tòa án nơi tiếp nhận hồ sơ kháng

cáo còn hạn chế tính hiệu quả của hệ thống thực thi; và Nội dung kỹ thuật

chuyên ngành trong các văn bản Luật Cạnh tranh còn nhiều hạn chế [62, tr.15-

16]. Các vấn đề về khung khổ thể chế và nội dung kỹ thuật chuyên ngành trong

văn bản quy phạm pháp luật là những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả thực thi

được nghiên cứu sinh tiếp thu để từ đó đi sâu vào phân tích, đánh giá tìm ra

nguyên nhân của những hạn chế trong thực hiện pháp luật về kiểm soát

TTHCCT ở Việt Nam hiện nay.

- Về các bài viết nghiên cứu:

Bài nghiên cứu "Deterrence and detection of cartels: Using all the tools

and sanctions" (Phát hiện và ngăn chặn TTHCCT: Sử dụng tất cả các công cụ và

chế tài) của các tác giả Gregory J. Werden, Scott D. Hammond and Belinda A.

Barnett [91] đã đánh giá những thành công trong thực hiện pháp luật chống độc

quyền của Hoa Kỳ trong thời gian qua và tổng kết những yếu tố đã làm nên

24

thành công đó, đặc biệt là áp dụng hình phạt tù cho các cá nhân tổ chức, tham gia

vào TTHCCT là một kinh nghiệm rất đáng tham khảo cho nhiều cơ quan quản lý

cạnh tranh, trong đó có Việt Nam.

Bài tham luận: "Fighting cartels in Europe and the US: different systems,

common goals" (Chống TTHCCT tại châu Âu và Hoa Kỳ: Khác biệt về hệ

thống nhưng chung một mục tiêu) của Alexander Italianer [80] đã nhấn mạnh

vai trò và mục tiêu kiểm soát TTHCCT của các nhà nước và so sánh, đánh giá

công tác thực thi pháp luật của EU và Hoa Kỳ trong lĩnh vực này. Những ý

tưởng về nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật kiểm soát TTHCCT đã được

nghiên cứu sinh tham khảo.

Bài viết: "The rise of ROW Anti-cartel Enforcement" (Sự nổi lên của ROW

trong thực thi pháp luậtt về chống TTHCCT) của John M. Connor [99] nghiên cứu về

việc phát triển của công tác thực thi chống lại các-ten ở Châu Phi, Châu Á và Châu

Mỹ La tinh (gọi chung là phần còn lại của thế giới "ROW") với những tiến bộ vượt

bậc nhanh chóng trong việc xử lý thỏa thuận ấn định giá quốc tế nhờ tiếp nhận những

thành tựu pháp lý từ EU và Hoa Kỳ. Bài viết của tác giả nghiên cứu chi tiết về việc

thực thi chống các-ten của ROW trong 25 năm qua, kể từ tháng 1/1990, trong đó Việt

Nam cũng đã được thống kê với vụ việc xử lý TTHCCT vào năm 2010. Những đề

xuất tác giả đưa ra được nghiên cứu sinh tham khảo nhằm đề ra giải pháp đảm bảo

thực hiện pháp luật kiểm soát TTHCCT Việt Nam.

1.2. ĐÁNH GIÁ TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG

VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU

1.2.1. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu

Từ các công trình nghiên cứu trong nước và ở nước ngoài nước, có thể đưa

ra các đánh giá như sau:

Thứ nhất, các nghiên cứu kinh tế học trong nước và quốc tế đã nghiên cứu

về TTHCCT từ rất sớm về các góc độ như: những nguyên nhân và cơ chế dẫn

đến hình thành các TTHCCT; cơ chế vận hành các TTHCCT; những tác hại mà

TTHCCT gây ra cho nền kinh tế và cho người tiêu dùng; vai trò kiểm soát của

nhà nước để đảm bảo vận hành nền KTTT hiệu quả. Các nghiên cứu luật học sau

đó đã sử dụng các lý thuyết kinh tế này để xây dựng cơ sở lý luận của pháp luật

25

kiểm soát TTHCCT. Các vấn đề lý luận về pháp luật kiểm soát TTHCCT như

khái niệm, đặc điểm, mục tiêu, vai trò, học thuyết đánh giá hợp pháp và bất hợp

pháp, các quy tắc pháp lý, chủ thể... cũng đã được các công trình nghiên cứu

trong và ngoài nước nghiên cứu khá nhiều, phong phú, đa dạng, các quan điểm

đưa ra cơ bản là thống nhất với nhau.

Vì thế nghiên cứu sinh tiếp thu những kết quả nghiên cứu này, lựa chọn

những luận thuyết liên quan để làm cơ sở nghiên cứu chuyên sâu về đề tài của

mình, không tiến hành nghiên cứu sâu thêm.

Thứ hai, nghiên cứu về pháp luật thực định khá phong phú. Các tổ chức như

Mạng lưới Cạnh tranh quốc tế (ICN) hay Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế

(OECD) có nhiều nghiên cứu, tổng kết, báo cáo về sự tiến bộ trong xây dựng

pháp luật cạnh tranh của các quốc gia trên thế giới. Với những kinh nghiệm và

thành tích trong xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật chống độc quyền, pháp

luật của Hoa Kỳ và EU được nhiều nhà nghiên cứu tập trung phân tích và bình

luận, bao gồm những nghiên cứu riêng pháp luật của EU hoặc Hoa Kỳ và những

nghiên cứu so sánh hai hệ thống pháp luật với nhau, từ những nghiên cứu đó đã

tìm ra rất nhiều tương đồng của hai hệ thống trong quá trình xây dựng và thực

hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT. Các nhà nghiên cứu cũng có mục đích

cùng đi đến thống nhất khái niệm, học thuyết... nhằm xây dựng cơ sở lý luận về

pháp luật kiểm soát TTHCCT. Tuy thế do tính phức tạp của vấn đề nghiên cứu,

các tranh luận xoay quanh xác định thế nào là "thỏa thuận", TTHCCT ngầm và

chứng cứ chứng minh, chủ thể của TTHCCT, TTHCCT hoàn toàn là phản cạnh

tranh hay có thể có ích lợi cho cạnh tranh vẫn chưa ngã ngũ.

Do đề tài nghiên cứu về thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt

Nam nên nghiên cứu sinh chú trọng đến kinh nghiệm thực hiện pháp luật về

kiểm soát TTHCCT của EU và Hoa Kỳ để rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt

Nam, không bình luận về các vấn đề lý luận còn đang tranh luận.

Thứ ba, về pháp luật về kiểm soát TTHCCT Việt Nam và Luật Cạnh tranh

2004, cũng đã có một số công trình nghiên cứu với mục tiêu chung là đóng góp

các luận giải, đánh giá, định hướng góp phần hoàn thiện pháp luật. Trong những

26

công trình nghiên cứu đó nổi bật là tài liệu "Báo cáo rà soát các quy định của

Luật Cạnh tranh Việt Nam" [15].

Tuy những nghiên cứu trên đã phân tích và bình luận pháp luật về kiểm soát

TTHCCT Việt Nam dưới nhiều góc nhìn, nhưng vẫn chưa bao quát hết thực

trạng pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam hiện nay, đặc biệt là chưa so

sánh với Luật Cạnh tranh (sửa đổi) 2018 sẽ có hiệu lực thi hành từ 01/7/2019.

Do đó nghiên cứu sinh kế thừa những kết quả nghiên cứu trên, hệ thống hóa các

vấn đề cần nghiên cứu sâu hơn và bổ sung những nội dung còn thiếu để hoàn

chỉnh về mặt lý luận và thực trạng pháp luật về kiểm soát TTHCCT Việt Nam.

Thứ tư, nghiên cứu thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam

khá ít, chỉ rải rác và nghiên cứu theo một vài lát cắt, không mang tính tổng quát.

Có thể kể đến một luận văn Thạc sĩ nghiên cứu về áp dụng pháp luật trong công

tác giải quyết khiếu nại vụ việc hạn chế cạnh tranh, những nghiên cứu bình luận

một số khía cạnh của thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam qua

các vụ việc xử lý TTHCCT vi phạm pháp luật cụ thể, một luận án tiến sĩ kinh tế

nghiên cứu về hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam nói chung và

đánh giá dưới góc độ hiệu quả của kinh tế học, không đi vào các hình thức thực

hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT.

Qua tổng quan tình hình nghiên cứu có thể khẳng định hiện chưa có công

trình nghiên cứu nào toàn diện về thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở

Việt Nam hiện nay dưới góc độ của chuyên ngành Lý luận và lịch sử về Nhà

nước và pháp luật. Có rất nhiều vấn đề về nội dung và hình thức thực hiện pháp

luật, về chủ thể… cần được tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn.

1.2.2. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, giả thuyết, câu hỏi nghiên cứu

1.2.2.1. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu

Về lý luận, luận án cần tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ:

- Khái niệm thống nhất về TTHCCT nêu lên được bản chất, đặc trưng của

một TTHCCT trên cơ sở kinh tế - pháp lý, các đặc điểm;

- Các vấn đề lý luận về vai trò và điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về

kiểm soát TTHCCT;

27

- Tổng kết kinh nghiệm thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT của

nước ngoài và những giá trị tham khảo cho Việt Nam hiện nay;

Về thực tiễn, luận án cần tập trung làm rõ:

- Thực trạng pháp luật về kiểm soát TTHCCT, những kết quả và những bất

cập, thiếu sót đã tác động đến thực trạng thực hiện pháp luật.

- Thực trạng thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam. Những

thành tựu, hạn chế và nguyên nhân, những bài học kinh nghiệm trong việc thực hiện

pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam hiện nay.

Về giải pháp để giải quyết vấn đề: Từ việc phân tích cơ sở lý luận và thực

tiễn thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam hiện nay, xây dựng

luận cứ đề xuất các quan điểm và giải pháp bảo đảm cho việc thực hiện pháp luật

về kiểm soát TTHCCT.

1.2.2.2. Giả thuyết và câu hỏi nghiên cứu

- Giả thuyết nghiên cứu:

Trên cơ sở tổng quan tình hình nghiên cứu và căn cứ vào các lý thuyết có

liên quan đến chủ đề nghiên cứu, luận án đặt ra giả thuyết nghiên cứu như sau:

Thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT có vai trò quan trọng trong việc

bảo vệ cạnh tranh tự do và bình đẳng, góp phần bảo vệ môi trường kinh doanh

lành mạnh trong nền KTTT. Thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt

Nam hiện nay tuy đã đạt được một số thành tựu nhưng vẫn còn rất nhiều hạn chế,

bất cập, vi phạm pháp luật về kiểm soát TTHCCT đã không còn "công khai" như

thời gian đầu Luật Cạnh tranh mới có hiệu lực, nhưng TTHCCT không giảm đi,

trái lại tăng về số lượng và hành vi được che dấu một cách tinh vi dưới nhiều

hình thức khác nhau ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh. Cần nâng cao nhận

thức của cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp và toàn xã hội,

hoàn thiện hệ thống pháp luật về kiểm soát TTHCCT, tăng thẩm quyền của cơ

quan quản lý cạnh tranh và nâng cao trình độ của điều tra viên vụ việc hạn chế

cạnh tranh để bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam

hiện nay.

- Câu hỏi nghiên cứu:

Luận án hướng tới việc trả lời các câu hỏi nghiên cứu như sau:

28

Thế nào là TTHCCT và thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT? Nội

dung, hình thức và chủ thể thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT? Vai trò

và các điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT?

Thực trạng thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam hiện

nay? Những hạn chế, bất cập và các nguyên nhân của hạn chế, bất cập đó?

Những quan điểm và giải pháp nào cần đặt ra nhằm bảo đảm thực hiện pháp

luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam hiện nay?

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Trong chương này luận án đã tiến hành tổng quan các công trình nghiên

cứu trên các sách, báo, tạp chí, đề tài khoa học cấp nhà nước, cấp bộ, các luận

văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ, các hội thảo khoa học, bài viết của các tác giả trong và

ngoài nước về những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến đề tài "Thực hiện

pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay".

Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài được chia thành các nhóm chính:

- Những công trình nghiên cứu về TTHCCT.

- Những công trình nghiên cứu về pháp luật về kiểm soát TTHCCT.

- Những công trình nghiên cứu liên quan tới lý thuyết và thực tiễn thực hiện

pháp luật về kiểm soát TTHCCT trong nước và quốc tế.

Các công trình theo những nhóm trên, có công trình nghiên cứu khái quát,

có công trình nghiên cứu chi tiết, cụ thể và dựa trên đánh giá tổng quan về kết

quả nghiên cứu, tác giả nêu lên những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu trong luận

án trên các phương diện lý luận thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT, phân

tích đánh giá thực trạng và đề xuất các quan điểm, giải pháp thực hiện pháp luật

về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam hiện nay.

Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan tới đề tài, đánh giá kết

quả đạt được, những kết quả mà luận án kế thừa, chỉ ra được những vấn đề cần

tiếp tục nghiên cứu của luận án là vô cùng quan trọng. Thông qua đó, luận án

xác định cụ thể phạm vi nghiên cứu, đặt ra các giả thuyết nghiên cứu, những câu

hỏi nghiên cứu cụ thể để tiếp tục giải quyết vấn đề, để từ đó nghiên cứu có hệ

thống, toàn diện về thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam hiện

nay ở cấp độ luận án tiến sỹ.

29

Chương 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT

VỀ KIỂM SOÁT THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH

2.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ

KIỂM SOÁT THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH

2.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế

cạnh tranh

Để xây dựng khái niệm thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế

cạnh tranh cần phải làm rõ thế nào là TTHCCT, kiểm soát TTHCCT, pháp luật

về kiểm soát TTHCCT và thực hiện pháp luật.

2.1.1.1. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hình thành và phát triển trong nền KTTT, từ

thế kỷ 17, nhà kinh tế học nổi tiếng Adam Smith nhận định rằng những người

cùng kinh doanh một ngành hàng hiếm khi gặp nhau, thậm chí chỉ để giải trí và

tiêu khiển, nhưng đã trò chuyện với nhau thì kết quả sẽ là một sự thông đồng bất

lợi cho công chúng, hoặc một mưu kế nào đó để tăng giá [77]. Nhận định này

được xem là nền tảng để hình thành nên các khái niệm, quan điểm, lý thuyết về

TTHCCT sau này [79] và đã nêu lên những dấu hiệu đặc thù của một TTHCCT:

Là hành vi thông đồng, của các đối thủ cạnh tranh và hành vi đó sẽ gây ra thiệt

hại cho khách hàng, cho xã hội.

Sau đó đã có rất nhiều lý thuyết bổ sung cho khái niệm TTHCCT như

George Stigler "với bài viết kinh điển của mình về Lý thuyết TTHCCT hiện đại

năm 1964" [98, tr.22], xác định điểm khởi đầu và đích đến của các đối thủ cạnh

tranh khi tham gia TTHCCT là để tránh những tổn thất do cạnh tranh gây ra và

tối đa hóa lợi nhuận kinh doanh..." Từ đó, một hệ thống lý thuyết về TTHCCT

đã được xây dựng và phát triển trên nền tảng này" [86, tr.446], như

Với mục đích thống nhất các khái niệm cơ bản của kinh tế vi mô hiện đại, Tổ

chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đã xây dựng Từ điển về Kinh tế học

công nghiệp và Pháp luật cạnh tranh vào năm 1993, trong đó định nghĩa rằng:

30

Một TTHCCT là một hình thức thỏa thuận giữa các chủ thể kinh

doanh trong một ngành độc quyền nhóm. Thành viên TTHCCT có thể

thoả thuận về những vấn đề như giá cả, tổng sản lượng ngành, phân chia

thị trường, phân bổ khách hàng, phân bổ các vùng lãnh thổ, thông thầu,

thiết lập các đại lý thương mại và phân chia lợi nhuận hoặc kết hợp

những việc này... Thỏa thuận được hình thành vì lợi ích chung của các

thành viên... Nói chung, TTHCCT hay hành vi TTHCCT là nỗ lực đi

đến trạng thái độc quyền bằng cách hạn chế sản lượng trong ngành,

nâng cao hoặc ấn định giá để kiếm được lợi nhuận cao hơn [110, tr.18].

Định nghĩa này có thể được xem là tiếp nối, tổng hợp được những khái

niệm từ trước về TTHCCT, và trên cơ sở kế thừa và phát triển, đã mở rộng các

dấu hiệu đặc thù của TTHCCT: Thứ nhất, chủ thể tham gia là các đối thủ cạnh

tranh; thứ hai, hành vi thực hiện là hành vi TTHCCT - "đề cập đến một sự dàn

xếp công khai hoặc ngầm giữa các chủ thể kinh doanh vốn là các đối thủ cạnh

tranh với nhau để cùng có lợi của họ" [62, tr.11]; thứ ba, nội dung là thoả thuận

về những vấn đề như giá cả, tổng sản lượng ngành, phân chia thị trường, phân bổ

khách hàng, phân bổ các vùng lãnh thổ, thông thầu, thiết lập các đại lý thương

mại và phân chia lợi nhuận hoặc kết hợp những việc này; thứ tư, mục đích thực

hiện là vì lợi ích chung của những thành viên tham gia và thứ năm, hậu quả

trước mắt là hạn chế sản lượng, nâng giá... và cuối cùng là độc quyền hóa.

Cũng có nội dung tương đồng với định nghĩa của OECD, Từ điển Bách

khoa về Kinh tế nhấn mạnh thêm về hình thức một TTHCCT, có thể là một văn

bản thỏa thuận rõ ràng, công khai để phối hợp giá cả, một sự ngầm hiểu bất

thành văn để hạn chế cạnh tranh, hoặc chỉ đơn giản là một sự chấp nhận lẫn nhau

rằng tốt hơn là kiềm chế cạnh tranh và ổn định giá cả [84]. Định nghĩa của Từ

điển cho ta thấy TTHCCT có thể tồn tại dưới rất nhiều hình thức khác nhau, kể

cả thành văn, bất thành văn, công khai ý chí hay ngầm hiểu hoặc có khi là một sự

phối hợp ăn ý cùng hành động.

Các nhà lý luận của Việt Nam cũng đã tiếp cận TTHCCT từ góc độ kinh tế

học và luật học, qua đó TTHCCT mang các dấu hiệu sau: Thứ nhất, về chủ thể,

31

TTHCCT diễn ra giữa các doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh của nhau; thứ hai,

hình thức của thỏa thuận là sự thống nhất cùng hành động giữa các doanh nghiệp,

có thể công khai hoặc không công khai; thứ ba, nội dung của TTHCCT thường tập

trung vào các yếu tố cơ bản của quan hệ thị trường mà các doanh nghiệp đang cạnh

tranh nhau như giá, thị trường, trình độ kỹ thuật công nghệ, điều kiện ký kết hợp

đồng và nội dung hợp đồng; thứ tư, hậu quả là làm giảm, làm sai lệch và cản trở

cạnh tranh trên thị trường [73, tr.267-269]. Tuy nhiên, điểm cần lưu ý ở đây là "sự

thống nhất cùng hành động giữa các doanh nghiệp, có thể công khai hoặc không

công khai" thực chất là dấu hiệu của "hành vi TTHCCT" chứ không hẳn là dấu hiệu

"hình thức TTHCCT". Hành vi TTHCCT là hành vi thống nhất ý chí với nhau, sự

thống nhất cùng hành động hoặc cùng không hành động, các hành động phối hợp

hay hành vi ăn ý với nhau là kết quả của sự thống nhất ý chí đó, còn TTHCCT "có

thể tồn tại dưới hình thức chính thức công khai, và các điều khoản và điều kiện

được viết ra một cách rõ ràng; hoặc chúng có thể tiềm ẩn, tuy thế chúng vẫn được

hiểu và tuân theo giữa các thành viên khác nhau bởi sự quy ước" [110, tr.11].

Theo Giáo trình Luật Thương mại của Đại học Luật Hà Nội thì:

Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh (Các-ten) là hành vi cấu kết giữa hai hay

nhiều doanh nghiệp để thủ tiêu sự cạnh tranh giữa chúng và ngăn cản sự

tham gia thị trường của các đối thủ cạnh tranh khác cũng như sự nhập cuộc

của các doanh nghiệp tiềm năng. Về hình thức, Các-ten có thể được hình

thành thông qua các hợp đồng, các nghị quyết, các thỏa thuận ngầm giữa

các doanh nghiệp. Hiện nay, thông thường các Các-ten được thể hiện dưới

dạng thỏa thuận ngầm để tránh bị phát hiện và sự trừng phạt của pháp luật.

Thỏa thuận nhằm hạn chế cạnh tranh có thể hình thành theo chiều ngang

hoặc chiều dọc của các quy trình kinh doanh [30, tr.336].

Định nghĩa này cho rằng TTHCCT là các-ten, nhưng thực chất các-ten là

thuật ngữ của kinh tế học để chỉ các thỏa thuận theo chiều ngang, là "thỏa thuận

giữa các chủ thể kinh doanh trong cùng ngành hàng và cùng khâu của quá trình

kinh doanh (ví dụ: thỏa thuận giữa các nhà sản xuất, những người bán buôn với

nhau, giữa những người bán lẻ với nhau)" [15, tr.6], khác với những "thỏa thuận

32

theo chiều dọc (vertical agreement/vertical restraints) là thỏa thuận hợp tác giữa

hai hoặc nhiều doanh nghiệp hoạt động ở những khâu khác nhau trong quá trình

sản xuất, hoặc phân phối trên thị trường" [15, tr.11].

Nhìn chung, dù chỉ đưa ra một nhận định như: "Hành vi phối hợp của người

mua hoặc người bán mà với mục tiêu chính là tăng hoặc duy trì sức mạnh thị

trường của họ được gọi là thông đồng trong kinh tế học và là TTHCCT theo

pháp luật cạnh tranh của hầu hết các nước công nghiệp hiện đại" [102, tr.54] hay

xây dựng thành các định nghĩa một cách chi tiết, tổng quát lại có thể thấy một

TTHCCT (các-ten) bao gồm các dấu hiệu đặc thù sau: Thứ nhất, chủ thể tham

gia TTHCCT là các doanh nghiệp kinh doanh trên cùng một thị trường liên quan,

nói cách khác, đó là các đối thủ cạnh tranh của nhau trên thị trường; thứ hai,

hành vi thực hiện là hành vi dàn xếp, thông đồng để đi đến sự thống nhất cùng

hành động/cùng không hành động giữa các bên tham gia thỏa thuận; thứ ba, nội

dung thoả thuận là các vấn đề về giá cả, tổng sản lượng ngành, phân chia thị

trường, phân bổ khách hàng, phân bổ các vùng lãnh thổ, thông thầu, thiết lập các

đại lý thương mại và phân chia lợi nhuận hoặc kết hợp những việc này để đạt

được lợi ích chung cho các thành viên tham gia; thứ tư, hình thức của TTHCCT

có thể là văn bản, lời nói hoặc thậm chí là những cử chỉ thể hiện sự đồng thuận

lẫn nhau; thứ năm, TTHCCT luôn có khả năng làm giảm, làm sai lệch, làm hạn

chế, làm triệt tiêu cạnh tranh trên thị trường.

Từ những phân tích trên có thể kết luận, Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

(các-ten) là sự thống nhất ý chí được thể hiện công khai hoặc ngầm dưới bất kỳ

hình thức nào giữa các đối thủ cạnh tranh về những vấn đề như giá cả, sản

lượng, phân chia thị trường, khách hàng, đấu thầu... nhằm hạn chế hoặc loại bỏ

cạnh tranh giữa các thành viên tham gia thỏa thuận với mục đích tối đa hóa lợi

nhuận của họ, có tác động làm giảm, làm sai lệch, làm cản trở hoặc thủ tiêu

cạnh tranh trên thị trường.

2.1.1.2. Kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

Kinh tế thị trường là kiểu tổ chức nền kinh tế dựa trên các nguyên tắc và

tuân thủ những quy luật của thị trường. Xây dựng và phát triển nền KTTT đòi

33

hỏi phải coi trọng và tuân thủ các quy luật vận động, điều tiết của thị trường, tôn

trọng tự do cạnh tranh, tự do hợp tác, tự do tham gia và rút khỏi thị trường…

Các nhà nước trong nền KTTT đều phải bảo hộ cạnh tranh như là một quy luật

kinh tế tất yếu để thị trường tồn tại và phát triển, và tạo điều kiện cho các chủ thể

kinh doanh cạnh tranh trong khuôn khổ trật tự mà nhà nước định ra. Khi bảo vệ

cạnh tranh, các lợi ích mà cạnh tranh mang lại không chỉ giới hạn ở việc duy trì

giá cả cận biên có lợi cho người tiêu dùng, mà còn ở chỗ tạo ra một môi trường

kinh doanh có hiệu quả để gia nhập và phát triển trong khi đó thúc ép các doanh

nghiệp đã có mặt trên thị trường phải tiếp tục cải thiện công việc kinh doanh tốt

hơn, "tăng cường cạnh tranh ở Anh đã được được coi là một yếu tố quan trọng

trong việc giải thích thu hẹp trong khoảng cách về năng suất sản xuất giữa Anh

và Đức" [108], vì thế nhà nước chỉ cần tôn trọng và bảo vệ cạnh tranh đúng đắn

trên thị trường, lợi ích của người tiêu dùng, nhà sản xuất, khách hàng trung gian,

công nhân... đều sẽ được bảo đảm.

Cạnh tranh là động lực của phát triển trong nền KTTT, trong khi những

hành vi như TTHCCT sẽ làm hạn chế, sai lệch thậm chí triệt tiêu cạnh tranh trên

thị trường, dẫn đến độc quyền hóa nền kinh tế. Do đó, "bàn tay hữu hình" của

nhà nước cần được thể hiện qua vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể

chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh và

"sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng

và điều tiết kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực

hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển" [29,

tr.25-26], trong đó pháp luật là "công cụ chính" [38, tr.361]. Sự can thiệp của

nhà nước là cần thiết nhưng ở mức độ nào là điều mà các nhà nước phải quan

tâm để vẫn tôn trọng quyền thiết lập các thỏa thuận của các chủ thể kinh doanh

mà vẫn đảm bảo loại trừ được những thỏa thuận làm phương hại đến cạnh tranh

trên trị trường. Ngoài ra, về bản chất kinh tế một TTHCCT luôn gây tác động

hạn chế cạnh tranh trên thị trường, nhưng cũng có trường hợp những thỏa thuận

giữa các đối thủ cạnh tranh về nghiên cứu, phát triển sản phẩm chung (R&D),

34

thỏa thuận hợp tác giữa các đối thủ cạnh tranh trong việc bán, phân phối và quảng

bá sản phẩm, thống nhất về điều kiện kinh doanh, cung ứng, thanh toán... tuy vẫn

làm hạn chế cạnh tranh nhưng lại có thể góp phần thúc đẩy các tiến bộ kỹ thuật,

công nghệ, tăng hiệu quả kinh tế, năng động hóa thị trường... lợi ích mang lại lớn

hơn mức gây bất lợi mà các nhà nước cũng luôn cân nhắc cấm hay không.

Do đó, đối với TTHCCT, nhà nước cần can thiệp để điều chỉnh hành vi của

các doanh nghiệp, cấm những hành vi gây nguy hại cho thị trường tự nhiên và

trừng phạt những chủ thể vi phạm nhưng đồng thời cũng vẫn bảo vệ được quyền

thiết lập thỏa thuận của doanh nghiệp cũng như có thể cho phép các TTHCCT

mang lại lợi ích cho nền kinh tế tồn tại. Việc cấm, cho phép, miễn trừ... đều thể

hiện vai trò của nhà nước trong nền KTTT và nhằm thực hiện chức năng kiểm

soát hành vi TTHCCT của nhà nước.

Theo Đại từ điển tiếng Việt, kiểm soát là "kiểm tra, xem xét nhằm ngăn

ngừa những sai phạm các quy định, hoặc đặt trong phạm vi, quyền hành và trách

nhiệm" [76, tr.842], trên cơ sở khái niệm kiểm soát trên, có thể hình dung: Kiểm

soát TTHCCT là nhà nước sử dụng các công cụ như pháp luật, chính sách, kế

hoạch, công cụ kinh tế… để định hướng hành vi TTHCCT của các chủ thể, đặt

các chủ thể trong phạm vi, quyền hành và trách nhiệm, kiểm tra việc thực hiện

trong thực tiễn, xác định và xử lý hành vi vi phạm đồng thời tiến hành các điều

chỉnh nhằm đạt được mục tiêu bảo vệ cạnh tranh trong nền KTTT. Như vậy

kiểm soát TTHCCT mà nhà nước tiến hành không chỉ có cấm đoán mà còn có

định hướng, cho phép, không chỉ dành cho những TTHCCT đã xảy ra và đã kết

thúc mà còn là cho những TTHCCT đang và sắp diễn ra (chẳng hạn cho những

trường hợp đăng ký miễn trừ). Những yếu tố tác động chính đến hiệu quả kiểm

soát, đó là nhận thức và thái độ của các chủ thể và phương pháp, cách thức được

thực hiện để kiểm soát TTHCCT.

2.1.1.3. Pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

Pháp luật là một trong những công cụ cơ bản được nhà nước ssử dụng để

kiểm soát TTHCCT, các quốc gia có nền KTTT phát triển đều xác định mục tiêu

cơ bản của pháp luật về kiểm soát TTHCCT là bảo vệ tự do kinh tế và đảm bảo

35

cơ hội cho mọi người bằng cách thúc đẩy cạnh tranh tự do và công bằng trên thị

trường. Có ba mục tiêu cơ bản mà pháp luật và chính sách cạnh tranh của các quốc

gia hướng tới, đó là thúc đẩy và bảo vệ quá trình cạnh tranh, đạt được hiệu quả kinh

tế cao hơn và bảo vệ lợi ích công cộng, tuy nhiên các quốc gia đều diễn giải rằng

hiệu quả kinh tế cao hơn hay bảo vệ lợi ích công cộng đều chỉ đạt được bằng cách

kiềm chế hoặc ngăn chặn các hành vi hạn chế cạnh tranh hoặc lạm dụng sức mạnh

kinh tế [106], có thể nói pháp luật về kiểm soát TTHCCT là công cụ để nhà nước

chủ động ngăn chặn và kiểm soát các nguy cơ có thể làm hạn chế cạnh tranh bằng

cách thiết lập hành lang pháp lý cần thiết cho hành vi thỏa thuận của các chủ thể

kinh doanh và bằng những biện pháp nhằm trừng phạt các hành vi vi phạm. Pháp

luật kiểm soát TTHCCT là để bảo vệ cạnh tranh tự do trên thị trường, thúc đẩy các

doanh nghiệp đã có mặt trên thị trường phải tiếp tục cải thiện công việc kinh doanh

tốt hơn, tạo ra một môi trường kinh doanh có hiệu quả để doanh nghiệp mới gia

nhập và phát triển đồng thời duy trì giá cả có lợi cho người tiêu dùng. Do đó, pháp

luật vừa là công cụ hữu hiệu để bảo vệ cạnh tranh, vừa là công cụ bảo vệ quyền tự

do kinh doanh của doanh nghiệp và quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng.

Nhà nước sử dụng pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa

các tổ chức, cá nhân kinh doanh, các hiệp hội ngành nghề, giữa cơ quan nhà

nước có thẩm quyền với các tổ chức, cá nhân kinh doanh, các hiệp hội ngành

nghề nhằm bảo vệ cạnh tranh, đảm bảo trật tự thị trường, đảm bảo quyền tự do

kinh doanh và cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật của các chủ thể, từ đó bảo

vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh

nghiệp, của người tiêu dùng được quy định trong Hiến pháp, Bộ luật dân sự,

Luật Cạnh tranh và các văn bản quy phạm pháp luật khác.

Pháp luật về kiểm soát TTHCCT mang tính chất là pháp luật "canh cửa"

cho nền KTTT, là nhân tố bảo đảm tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh trong

khuôn khổ pháp luật, thực hiện phát triển nền KTTT trong một nhà nước pháp

quyền. Pháp luật về kiểm soát TTHCCT là phương tiện để Nhà nước trao quyền

cho các chủ thể cạnh tranh trong khuôn khổ trật tự mà nhà nước định ra, kiểm

36

soát các TTHCCT theo định hướng của Nhà nước, buộc thực thi các nghĩa vụ và

xử lý những hành vi vi phạm, cũng là phương tiện để các chủ thể phát huy quyền

tự do kinh doanh, thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trên thực tế.

Như vậy, Pháp luật về kiểm soát TTHCCT là hệ thống các quy tắc xử sự do

Nhà nước thừa nhận, ban hành và bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan

hệ xã hội phát sinh trong việc kiểm soát TTHCCT để bảo vệ cạnh tranh và bảo

đảm trật tự thị trường trong nền KTTT, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích

công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp và của người tiêu dùng.

2.1.1.4. Thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

Quá trình thực hiện pháp luật được diễn ra tiếp nối với quá trình xây dựng

và hoàn thiện pháp luật. Pháp luật về kiểm soát TTHCCT chỉ có thể có tác dụng

điều chỉnh các quan hệ xã hội khi được thực hiện trong thực tiễn.

Lý luận về nhà nước và pháp luật đưa ra khái niệm "Thực hiện pháp luật là

hành vi thực tế, hợp pháp có mục đích của các chủ thể pháp luật nhằm hiện thực

hóa các quy định của pháp luật, làm cho chúng đi vào cuộc sống, trở thành

những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật" [33, tr.396] hay là

"Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động mang tính ý thức, có chủ định

của con người để làm cho các quy phạm pháp luật đi vào cuộc sống trở thành

những hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật" [37, tr.155]. Có thể nhận

thấy tuy cách diễn đạt khác nhau nhưng các khái niệm trên đều có nội hàm tương

đối giống nhau, theo đó, thực hiện pháp luật là hoạt động có ý thức, có mục đích

của các chủ thể pháp luật nhằm hiện thực hóa các quy định của pháp luật. Đối

với chủ thể nhà nước đó là hoạt động để thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý

nhà nước đối với xã hội, đối với các cá nhân, tổ chức khác thực hiện pháp luật là

hoạt động sử dụng các quyền và thi hành các nghĩa vụ pháp lý theo luật định.

Thực hiện pháp luật có thể mang tính tự giác, tự ý thức của chủ thể pháp luật

hoặc cũng có thể do ý chí của Nhà nước buộc các chủ thể phải thực hiện.

Thực hiện pháp luật "được biểu hiện ra bên ngoài bằng các hành vi hợp pháp

của chủ thể pháp luật" [37, tr.155], vì thế có thể nói các hành vi của mỗi cá nhân,

các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức phù hợp với quy định pháp luật đều

được coi là biểu hiện của thực hiện pháp luật. Như vậy, thực hiện pháp luật về kiểm

37

soát TTHCCT là hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật về

kiểm soát TTHCCT đi vào thực tiễn đời sống xã hội, chuyển từ nhận thức thành

hành vi pháp luật thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật, nhằm bảo vệ cạnh

tranh tự do, lành mạnh trên thị trường, từ đó góp phần tạo lập môi trường kinh

doanh lành mạnh và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia thị

trường cũng như của toàn xã hội. Mục đích của Nhà nước khi xây dựng và hoàn

thiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT sẽ đạt được khi các nội dung điều chỉnh của

pháp luật về kiểm soát TTHCCT được các chủ thể pháp luật tôn trọng và thực hiện

nghiêm minh, biểu hiện thành những hành vi hợp pháp của các chủ thể pháp luật.

Từ những phân tích về TTHCCT, vai trò của nhà nước trong kiểm soát

TTHCCT, pháp luật về kiểm soát TTHCCT và thực hiện pháp luật như trên, có thể

đưa ra khái niệm: Thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT là một quá trình hoạt

động có ý thức, có chủ định của các chủ thể pháp luật để đưa các quy định của pháp

luật về kiểm soát TTHCCT vào thực tiễn cuộc sống trở thành những hoạt động thực

tế của các chủ thể pháp luật nhằm bảo vệ cạnh tranh tự do, bình đẳng trên thị

trường, góp phần tạo lập môi trường kinh doanh lành mạnh và bảo vệ quyền, lợi ích

hợp pháp của các chủ thể tham gia thị trường cũng như của toàn xã hội.

2.1.2. Đặc điểm của thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn

chế cạnh tranh

Theo góc độ và phạm vi tiếp cận như trên, thực hiện pháp luật về kiểm soát

TTHCCT có các đặc điểm như sau:

2.1.2.1. Thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

được tiến hành bởi nhiều chủ thể có địa vị pháp lý khác nhau

Xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT là thực hiện

vai trò của nhà nước trong điều tiết vĩ mô nền KTTT, là đảm bảo mạnh mẽ của nhà

nước trong bảo vệ cạnh tranh, đảm bảo cho nền kinh tế vận hành hiệu quả theo các

quy luật của nó và đúng với định hướng của nhà nước. Các nhà nước kiến tạo phát

triển hiện nay xác định "chức năng bảo đảm bình đẳng, công bằng, chống các hành

vi kinh doanh bất hợp pháp, chống độc quyền, bảo vệ người tiêu dùng… trở thành

một nội dung quan trọng trong hoạt động của nhà nước [35, tr.377].

38

Do đó, khi tham gia vào quan hệ pháp luật kiểm soát TTHCCT, các chủ thể

pháp luật có địa vị pháp lý không bình đẳng với nhau, trong đó cơ quan cạnh

tranh là chủ thể thực thi quyền lực nhà nước, là chủ thể tổ chức thực hiện pháp

luật và sử dụng phương pháp quyền uy, mệnh lệnh đối với các chủ thể còn lại.

Doanh nghiệp và hiệp hội doanh nghiệp là chủ thể thực hiện pháp luật về kiểm

soát TTHCCT trên cơ sở tuân thủ sự tổ chức thực hiện của chủ thể nhà nước,

được thực hiện các quyền và phải thi hành các nghĩa vụ do pháp luật quy định.

Tuy có địa vị pháp lý khác nhau nhưng thực hiện pháp luật về kiểm soát

TTHCCT cần phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa các chủ thể pháp luật để đạt được

mục tiêu kiểm soát TTHCCT trong nền KTTT

Hiện nay, theo quy định của pháp luật Việt Nam, các hiệp hội không phải là

chủ thể trực tiếp thực hiện TTHCCT và hiện cũng không có biện pháp chế tài

trong trường hợp hiệp hội tổ chức cho các thành viên thực hiện một TTHCCT.

Chính vì thế, việc xác định địa vị pháp lý cho hiệp hội trong thực hiện pháp luật về

kiểm soát TTHCCT càng phải được chú ý để hiệp hội đảm bảo tuân thủ pháp luật,

phát huy được các quyền và tích cực thi hành các nghĩa vụ do pháp luật quy định.

Do điều kiện lịch sử, ở Việt Nam trước đây các cơ quan quản lý nhà nước

trong các ngành, lĩnh vực cũng là các cơ quan chủ quản các doanh nghiệp nhà

nước. Tuy hiện nay, cùng với tiến trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước mạnh

mẽ mà Đảng và Nhà nước ta đang thực hiện, các cơ quan quản lý nhà nước đã

chuyển giao nhiệm vụ chủ quản, chỉ còn tập trung vào nhiệm vụ quản lý nhà

nước nhưng điểm đặc thù này khiến việc thực hiện pháp luật về kiểm soát

TTHCCT ở Việt Nam có thể gặp những trở ngại nếu các chủ thể không rành

mạch giữa địa vị pháp lý của cơ quan nhà nước và địa vị pháp lý của doanh

nghiệp để xác lập đúng các quyền và nghĩa vụ của mỗi bên.

2.1.2.2. Thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

luôn thể hiện rõ nét ý chí của nhà nước nhưng vẫn đặt ra yêu cầu cao về sự tự

giác của các chủ thể khác

Pháp luật về kiểm soát TTHCCT là công cụ quan trọng để nhà nước điều

tiết thị trường, bảo vệ cạnh tranh. Về mặt lý luận, pháp luật về kiểm soát

39

TTHCCT không xây dựng dưới góc độ quy định cách xử sự mà quy định những

loại thỏa thuận bị cấm và cách thức xử lý nên "phải được thực hiện theo phương

pháp của luật công" [31, tr.34]. Trong thực hiện pháp luật về kiểm soát

TTHCCT, các cơ quan có thẩm quyền đại diện cho ý chí của nhà nước vừa tự

thực hiện pháp luật vừa tổ chức cho các chủ thể khác thực hiện pháp luật, tiến

hành theo ý chí đơn phương, không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể bị áp dụng

để tuyên bố các thỏa thuận là bị cấm, buộc chấm dứt hoạt động TTHCCT, xử

phạt vi phạm, thậm chí có thể áp dụng các biện pháp hình sự để xử lý hành vi vi

phạm. Chủ thể nhà nước có thẩm quyền sử dụng pháp luật làm công cụ cơ bản

và sử dụng phương pháp hành chính, tố tụng với đặc trưng là quyền uy mệnh

lệnh, có tính chất bắt buộc và bảo đảm bằng cưỡng chế của Nhà nước. Cơ quan

quản lý cạnh tranh có thể quyết định điều tra tiền tố tụng đối với các trường hợp

nhận thấy có dấu hiệu TTHCCT mà không cần phải có đơn kiện hay sự tố giác.

Khi cơ quan quản lý cạnh tranh điều tra, xét xử vụ việc TTHCCT, các chủ thể

khác phải tuân thủ các yêu cầu, quyết định của các cơ quan này và các quyết

định của cơ quan quản lý cạnh tranh có giá trị bắt buộc thi hành và được đảm

bảo bằng cưỡng chế Nhà nước.

Tuy thể hiện rõ nét ý chí của chủ thể nhà nước, hiệu quả thực hiện pháp luật

về kiểm soát TTHCCT phụ thuộc rất nhiều vào bản thân các doanh nghiệp, các

hiệp hội doanh nghiệp có sự tự giác cao trong tuân thủ pháp luật, có ý thức chấp

hành pháp luật thì sẽ không tham gia TTHCCT bị cấm dù có sự cám dỗ của lợi

ích khi tham gia TTHCCT.

Trong nền KTTT định hướng XHCN Việt Nam, Nhà nước công nhận và

đảm bảo quyền tự do kinh doanh, tự do thỏa thuận, quyền lập và tham gia hiệp

hội trong khuôn khổ pháp luật của các cá nhân, tổ chức kinh doanh. Doanh

nghiệp được quyền quyết định đối với hoạt động kinh doanh của mình mà không

phải chịu sự can thiệp hành chính từ cơ quan nhà nước nên càng đòi hỏi sự ý

thức, tự giác cao để thực hiện hoạt động kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật.

Mặc dù Việt Nam chưa xây dựng được chính sách khoan hồng hoàn chỉnh để

khuyến khích sự tự giác của doanh nghiệp trong việc tố giác hành vi TTHCCT,

40

nhưng khi đã tham gia vào TTHCCT, nếu doanh nghiệp ý thức tự giác cao chủ

động khai báo, cung cấp tài liệu chứng cứ chứng minh sự tồn tại của TTHCCT

và hợp tác với cơ quan điều tra trong suốt quá trình điều tra thì có thể được miễn

trừ hoặc giảm nhẹ mức chế tài và làm cho việc điều tra, xử lý của cơ quan điều

tra nhanh chóng, hiệu quả hơn. Đồng thời, các quy định về tăng nặng chế tài

cũng là cảnh báo nhằm yêu cầu cao sự tự giác của doanh nghiệp.

2.1.2.3. Thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

luôn thể hiện sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý cạnh tranh với các

cơ quan khác và với các cơ quan quản lý cạnh tranh trên toàn thế giới

Về bản chất kinh tế, một TTHCCT thành công hay không phụ thuộc vào

khả năng chi phối thị trường của nó. Do kiểm soát TTHCCT trong các lĩnh vực

của nền kinh tế, nên trong quá trình thực thi cơ quan quản lý cạnh tranh luôn có

sự phối hợp chặt chẽ với cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực để giám sát mức độ chi

phối thị trường của các doanh nghiệp nhằm phát hiện sớm dấu hiệu TTHCCT.

Quá trình điều tra, xử lý vi phạm, áp dụng chế tài của cơ quan quản lý cạnh tranh

cũng luôn có sự phối hợp của nhiều cơ quan quản lý nhà nước khác.

Quá trình hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa hiện nay hầu như không để quốc

gia nào đứng ngoài cuộc, đường biên giới tự nhiên ngày càng trở nên mờ nhạt,

các công ty đa quốc gia hình thành và phát triển, sự chi phối của công ty mẹ đối

với các công ty con trên toàn thế giới... làm cho sức mạnh thị trường của doanh

nghiệp không còn bó hẹp trong phạm vi lãnh thổ một quốc gia mà có thể hướng

tới phạm vi khu vực, châu lục và thậm chí toàn cầu. Số TTHCCT xuyên biên

giới đã tăng rất nhanh "Dữ liệu cho TTHCCT xuyên biên giới giai đoạn 2007-2011

tăng 527% so với giai đoạn năm 1990-1994" [118, tr.26]. Để giải quyết những

thách thức mà các TTHCCT xuyên biên giới đem lại, các cơ quan quản lý cạnh

tranh trên thế giới đã có nhiều hành động hợp tác với nhau để tăng cường năng lực

pháp lí của các cơ quan quản lí cạnh tranh trong việc kiểm soát TTHCCT quốc tế,

để phối hợp cung cấp thông tin, phối hợp điều tra và xử lý vi phạm.

Các quốc gia đều bị thiệt hại do TTHCCT xuyên biên giới, "tuy nhiên do sự

chưa hoàn thiện về thể chế, chính sách, sự hạn chế về trình độ phát triển, kinh

41

nghiệm... các quốc gia đang phát triển dường như sẽ chịu nhiều tác động nặng nề

hơn" [55, tr.68], đó là một cảnh báo cho Việt Nam. Thực hiện chủ trương của

Đảng về chủ động hội nhập quốc tế, nền kinh tế Việt Nam ngày càng gia nhập

sâu và rộng vào nền kinh tế toàn cầu, điều đó tạo nên đặc điểm quốc tế hóa

trong hoạt động thực hiện pháp luật nói chung và cũng đặt ra yêu cầu cơ quan

quản lý cạnh tranh Việt Nam cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan quản lý nhà

nước khác và với các cơ quan quản lý cạnh tranh trên toàn thế giới trong thực

hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT.

2.2. NỘI DUNG PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT THỎA THUẬN HẠN CHẾ

CẠNH TRANH, HÌNH THỨC VÀ CHỦ THỂ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ

KIỂM SOÁT THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH

2.2.1. Nội dung pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

2.2.1.1. Cơ sở kinh tế - pháp lý của pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn

chế cạnh tranh

Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là hành vi của các chủ thể kinh doanh trong

nền KTTT, các lý thuyết của kinh tế học được sử dụng để lý giải cơ chế hình

thành, bản chất và cơ chế phá vỡ một TTHCCT.

- Theo Lý thuyết về cấu trúc thị trường, kinh tế học phân loại thị trường

thành thị trường cạnh tranh hoàn hảo và thị trường cạnh tranh không hoàn hảo, thị

trường cạnh tranh không hoàn hảo lại được chia thành thị trường độc quyền, thị

trường cạnh tranh độc quyền và thị trường độc quyền nhóm [4, tr.149]. Trong thị

trường độc quyền nhóm, hành vi của mỗi doanh nghiệp đều tạo ra những tác động

đến thị trường, và như thế tác động đến đối thủ cạnh tranh, sự ảnh hưởng lẫn nhau

đó làm cho các doanh nghiệp trong thị trường độc quyền nhóm sẽ phải quan tâm

đến những phản ứng có thể của các đối thủ cạnh tranh của mình. Chẳng hạn khi

muốn tăng giá, một doanh nghiệp độc quyền nhóm sẽ phải dự đoán xem các đối

thủ cạnh tranh có tăng giá theo không, còn khi doanh nghiệp muốn giảm giá để

mở rộng thị phần, doanh nghiệp cũng sẽ phải dự đoán xem các đối thủ cạnh tranh

có giảm giá theo để giữ khách hàng không. Sự phụ thuộc lẫn nhau trên thị trường

độc quyền nhóm đã khiến cho doanh nghiệp phải lựa chọn giữa hai phương án:

42

hoặc chúng cạnh tranh với nhau để gạt dần đối thủ cạnh tranh ra khỏi thị trường

(cuộc chiến này sẽ rất khốc liệt), hoặc cấu kết với nhau nhằm tránh những tổn thất

do cạnh tranh gây ra (cho cả đôi bên) [38, tr.216]. Khi đã kinh doanh, các doanh

nghiệp đều muốn có sức mạnh thị trường, muốn có khả năng khống chế được thị

trường để từ đó thu lợi nhuận nhiều nhất có thể, cũng luôn mong muốn không phải

đương đầu với những cuộc cạnh tranh khốc liệt mà có thể gây tổn thất cho mình.

Do đó, động cơ thúc đẩy doanh nghiệp thực hiện hành vi TTHCCT luôn tồn tại

sẵn. Khi các doanh nghiệp chọn phương án cấu kết với nhau, TTHCCT hình

thành, cơ chế cạnh tranh giữa họ đã bị triệt tiêu, tính chất "hạn chế cạnh tranh" đã

xuất hiện ngay khi có hành vi hợp tác. Và như thế bản thân hành vi hợp tác giữa

các đối thủ cạnh tranh đã luôn làm sai lệch, làm giảm, làm cản trở cạnh tranh thậm

chí triệt tiêu cạnh tranh giữa các bên thỏa thuận. Với đặc điểm của thị trường độc

quyền nhóm, TTHCCT luôn tác động đến thị trường, trong trường hợp sức mạnh

thị trường đủ lớn, nó còn có thể đem lại cho các thành viên thỏa thuận khả năng

"ứng xử như một nhà độc quyền" [38, tr.224], từ đó độc quyền hóa thị trường và

cạnh tranh trên thị trường lúc này có thể nói là đã bị triệt tiêu. Lúc này, thị trường

mất khả năng tự điều tiết theo quy luật các quy luật cung cầu hay quy luật cạnh

tranh và phải cần đến vai trò điều tiết của nhà nước.

Lý thuyết về thị trường độc quyền nhóm của kinh tế học lý giải về cơ chế hạn

chế cạnh tranh của một TTHCCT và phân tích cơ chế hạn chế cạnh tranh này cho

thấy tác hại hạn chế cạnh tranh đã hình thành ngay khi doanh nghiệp lựa chọn hợp

tác thay vì cạnh tranh. Do đó bản thân hành vi TTHCCT luôn gây hạn chế cạnh

tranh tự do trong thị trường, nghĩa là gây tác hại cho môi trường kinh doanh cho

dù thiệt hại trực tiếp cho người tiêu dùng hay các doanh nghiệp khác có thể chưa

diễn ra. Chính vì tác hại hạn chế cạnh tranh của hành vi TTHCCT, hành vi này

luôn xâm hại đến những quan hệ xã hội mà pháp luật cạnh tranh bảo vệ, đây là cơ

sở lý luận để xây dựng các quy định pháp luật cấm đối với TTHCCT.

- Lý thuyết trò chơi được kinh tế học sử dụng để phân tích những tương tác

chiến lược giữa các bên tham gia TTHCCT. Lý thuyết trò chơi nghiên cứu các

tình huống ra quyết định có liên quan tới nhiều bên và các quyết định của mỗi bên

43

ảnh hưởng tới lợi ích và quyết định của các bên khác [1, tr.1], trong Lý thuyết trò

chơi có mô hình "Thế tiến thoái lưỡng nan của người tù", một bài toán điển hình

của Lý thuyết trò chơi phân tích về chiến lược hợp tác hay không hợp tác của

doanh nghiệp, qua phân tích mỗi một chiến lược cho chúng ta các thông số tương

ứng về người chơi, hành vi chiến lược và kết quả.

Xác định hành vi TTHCCT là hành vi hợp tác giữa các đối thủ cạnh tranh

có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đó là "nó ngăn cấm một suy luận về thỏa thuận

trong các trường hợp mà ở đó các hành động của mỗi bị cáo là do ý thích cá

nhân của mình, bất kể các bị cáo khác đã có những hoạt động giống như thế"

[126]. Kết quả cuối cùng của trò chơi mà các bên nhận được do hành vi hợp tác

của mình đó là tránh được cuộc chiến cạnh tranh, chỉ cần sản xuất ở mức sản

lượng đã cam kết và vẫn thu được lợi nhuận tối đa. Tuy thế, mỗi một bên tham

gia TTHCCT đều rơi vào tình thế không dám đặt niềm tin vào người cấu kết

với mình, họ luôn không chắc tất cả đều trung thành với thỏa thuận và luôn e

ngại một bên phá vỡ thỏa thuận để chiếm lợi ích… do đó "tiến thoái lưỡng nan"

trong chiến lược của mình.

Trên cơ sở những lý giải về cơ chế tồn tại một TTHCCT của Lý thuyết trò

chơi, có thể nhận thấy hành vi cấu kết, thông đồng giữa những đối thủ cạnh tranh

(người chơi) chính là mấu chốt, để từ đó pháp luật xác định "hành vi thỏa thuận

chính nó đã là những gì cấu thành hành vi phạm tội; những hành vi công khai để

thực hiện… không phải là yếu tố thiết yếu và không cần phải được biện hộ hoặc

chứng minh..." [125]. Ngoài ra, chính tình thế "tiến thoái lưỡng nan" của các bên

tham gia thỏa thuận là cơ sở để các nhà lập pháp xây dựng các cơ chế phá vỡ

TTHCCT như miễn trừ hay khoan hồng.

2.2.1.2. Kết cấu và nội dung chủ yếu của pháp luật về kiểm soát thỏa thuận

hạn chế cạnh tranh

Từ cơ sở kinh tế - pháp lý như trên, pháp luật về kiểm soát TTHCCT thường

được xây dựng theo kết cấu hành vi-cấm-xử lý vi phạm-miễn trừ/khoan hồng,

chủ yếu gồm các nội dung sau:

- Quy định về hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.

44

Trong phần này, pháp luật về kiểm soát TTHCCT phải làm rõ được thế nào

là hành vi TTHCCT. Hành vi TTHCCT là hành vi mang tính kết hợp của ít nhất

là hai chủ thể kinh doanh trên thị trường được thực hiện bởi sự dàn xếp. Chính vì

thế, quy định về hành vi TTHCCT đều phải thể hiện được "tính tập thể" và "tính

dàn xếp" khi quy định về hành vi TTHCCT. Ngoài ra, hành vi mang "tính tập

thể" và "tính dàn xếp" đó diễn ra trong hoạt động kinh doanh, thương mại và gây

ra "hạn chế thương mại" [89] hoặc là "hạn chế cạnh tranh" [87] trên thị trường.

Những hành vi TTHCCT thường liên quan đến giá cả, thị phần trên thị

trường, đấu thầu… như là thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách

trực tiếp hoặc gián tiếp, thoả thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp

hàng hoá, cung ứng dịch vụ, thoả thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối

lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá, dịch vụ, thoả thuận tẩy chay doanh nghiệp

khác, thông đồng để một hoặc các bên của thoả thuận thắng thầu trong việc cung

cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ.

- Các quy định cấm.

Các quy định cấm thể hiện mức độ kiểm soát của nhà nước đối với hành vi

TTHCCT. Cấm TTHCT ở mức độ nào tùy thuộc vào quan điểm của mỗi nhà

nước về mức độ nguy hiểm của hành vi TTHCCT. Pháp luật về kiểm soát

TTHCCT thông thường quy định cấm hành vi TTHCCT theo hai mức độ: cấm

tuyệt đối và cấm có điều kiện.

+ Quy định về cấm tuyệt đối đối với TTHCCT nghĩa là các chủ thể tuyệt

đối không được thực hiện hành vi TTHCCT đó. Nhiều quốc gia xây dựng quy

định cấm theo nguyên tắc "per-se", hay nói cách khác là cấm mặc nhiên. Cơ

quan nhà nước có thẩm quyền chỉ cần xác định có hành vi TTHCCT là xác định vi

phạm pháp luật mà không cần điều tra gì thêm. Pháp luật kiểm soát TTHCCT Hoa

Kỳ có nguyên tắc "per-se" hay nguyên tắc xác định TTHCCT có "bản chất hạn chế

cạnh tranh" của EU chính là thể hiện nội dung quy định cấm tuyệt đối này.

+ Quy định cấm có điều kiện thường được áp dụng cho các hành vi

TTHCCT không nằm trong nhóm bị cấm tuyệt đối. Pháp luật nêu lên các điều

kiện cụ thể và chỉ cấm khi TTHCCT rơi vào điều kiện này. Một số hệ thống

45

pháp luật sử dụng điều kiện đánh giá tác động của TTHCCT bằng cách cân nhắc

giữa lợi ích tích cực và tác động hạn chế cạnh tranh mà chúng mang lại, ví dụ

như Nhật Bản xem xét "tác động hạn chế cạnh tranh đáng kể" [25, tr.210], cơ quan

quản lý cạnh tranh cân nhắc giữa lợi ích tích cực và tác động tiêu cực mà hành vi

đó mang lại để xác định TTHCCT đó có vi phạm pháp luật hay không.

- Quy định về xử lý vi phạm pháp luật về kiểm soát TTHCCT.

Các chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật về kiểm soát TTHCCT có

thể phải gánh chịu các chế tài hành chính, dân sự và kể cả hình sự. Các hình thức

xử lý vi phạm pháp luật về kiểm soát TTHCCT thường là: Phạt tiền; Thu hồi

giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, tước quyền sử dụng giấy phép, chứng

chỉ hành nghề…; Các biện pháp khắc phục hậu quả như buộc cải chính công

khai, buộc sử dụng hoặc bán lại các sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công

nghiệp đã mua nhưng không sử dụng, buộc loại bỏ những biện pháp ngăn cản,

kìm hãm doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh…;

Một số quốc gia còn quy định phạt tù đối với các cá nhân có hành vi vi phạm

pháp luật về kiểm soát TTHCCT.

- Quy định về miễn trừ đối với TTHCCT vi phạm pháp luật.

Miễn trừ là một nội dung đặc biệt của pháp luật về kiểm soát TTHCCT vì quy

định miễn trách nhiệm pháp lý cho các TTHCCT vi phạm pháp luật. Miễn trừ là

"ngoại lệ" bởi vì theo quy định của pháp luật, đã vi phạm pháp luật thì phải gánh

chịu trách nhiệm pháp lý tương ứng nhưng với các trường hợp miễn trừ, nhà nước

vẫn cho phép hành vi vốn là bị cấm có thể được tiếp tục thực hiện, không áp dụng

các biện pháp pháp lý để xử lý và cũng không áp dụng chế tài đối với các chủ thể vi

phạm pháp luật.

Điều kiện để hưởng miễn trừ thường hướng tới các giá trị như "thỏa thuận

này phải mang đến những hiệu quả tích cực, như là góp phần nâng cao sản xuất,

phân phối sản phẩm hoặc góp phần thúc đẩy những tiến bộ kỹ thuật, tiến bộ kinh tế"

[87], hay là "hạ giá thành, có lợi cho người tiêu dùng …

- Ngoài ra, pháp luật về kiểm soát TTHCCT cũng quy định về những điều

kiện để giảm nhẹ hoặc miễn hình phạt cho các cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật

46

về kiểm soát TTHCCT đã tố cáo vụ việc TTHCCT đến các cơ quan thẩm quyền

trước hoặc ngay khi các cơ quan này phát hiện vi phạm. Đó là "chính sách khoan

hồng" trong nội dung pháp luật về kiểm soát TTHCCT của nhiều quốc gia.

2.2.2. Hình thức thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế

cạnh tranh

Hình thức thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT là cách thức hoạt

động có ý thức, có chủ định của các chủ thể pháp luật để đưa các quy định của

pháp luật về kiểm soát TTHCCT vào thực tiễn cuộc sống trở thành những hoạt

động thực tế của các chủ thể pháp luật. Theo Lý luận về Nhà nước và pháp luật,

căn cứ vào tính chất của các hoạt động thực hiện pháp luật có thể chia thành bốn

hình thức thực hiện pháp luật: Tuân thủ pháp luật; chấp hành pháp luật; sử dụng

pháp luật và áp dụng pháp luật. Từ phương diện lý luận chung, hình thức thực

hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT thể hiện như sau:

2.2.2.1. Tuân thủ pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

Tuân thủ pháp luật về kiểm soát TTHCCT là hình thức thực hiện pháp luật,

trong đó, các chủ thể pháp luật tự kiềm chế để không thực hiện những hành vi,

hoạt động mà pháp luật về kiểm soát TTHCCT nghiêm cấm thực hiện.

Các chủ thể kiểm chế để không thực hiện những hành vi mà pháp luật về

kiểm soát TTHCCT quy định cấm như thực hiện các hành vi TTHCCT bị cấm,

thực hiện những hành vi mang tính cản trở cạnh tranh trên thị trường, tổ chức, ép

buộc, yêu cầu, khuyến nghị các thành viên liên kết với nhau nhằm hạn chế cạnh

tranh trên thị trường...

2.2.2.2. Thi hành pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

Thi hành pháp luật về kiểm soát TTHCCT là một hình thức thực hiện pháp

luật, trong đó, các chủ thể pháp luật thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ pháp lý của

mình bằng các hành động tích cực. Hình thức thi hành pháp luật được thực hiện

đối với những điều luật quy định về nguyên tắc và trách nhiệm thực hiện về kiểm

soát TTHCCT.

Đối với chủ thể doanh nghiệp và hiệp hội, đó là chấp hành nguyên tắc việc

cạnh tranh phải trung thực, không xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích

47

công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, của người tiêu dùng và

phải tuân theo các quy định của pháp luật cạnh tranh, đó là tích cực thực hiện các

nghĩa vụ trong tố tụng cạnh tranh, tích cực khắc phục hậu quả do hành vi

TTHCCT vi phạm pháp luật gây ra.

Đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, ngoài việc chấp hành nguyên tắc

tôn trọng quyền cạnh tranh theo pháp luật của doanh nghiệp, hình thức thi hành

pháp luật được thực hiện đối với các điều luật quy định về trách nhiệm của các

chủ thể trong việc quản lý nhà nước về cạnh tranh nói chung, kiểm soát

TTHCCT nói riêng.

Pháp luật về kiểm soát TTHCCT mang tính chất của luật công bởi đây là

công cụ quan trọng để Nhà nước thực hiện lý thuyết "bàn tay hữu hình", can thiệp

và điều tiết thị trường. Vì thế trách nhiệm quản lý nhà nước về cạnh tranh mang ý

nghĩa quan trọng, khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện tốt chấp hành

pháp luật về kiểm soát TTHCCT, việc kiểm soát TTHCCT được thực hiện một

cách chủ động, tích cực cũng sẽ góp phần giảm thiểu các TTHCCT vi phạm pháp

luật, bớt đi các TTHCCT ngầm, cạnh tranh tự do và bình đẳng được bảo đảm.

2.2.2.3. Sử dụng pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

Sử dụng pháp luật về kiểm soát TTHCCT là hình thức thực hiện pháp luật,

theo đó, các chủ thể pháp luật thực hiện quyền của mình một cách tự giác và tích

cực, nghĩa là thực hiện các hành vi mà pháp luật về kiểm soát TTHCCT cho phép.

Tuy pháp luật về kiểm soát TTHCCT tiếp cận từ khía cạnh "kiểm soát" với

những quy định về cho phép, cấm, xử lý vi phạm nhưng vẫn trao cho các chủ thể

nhiều loại quyền, trong đó cơ bản nhất là quyền tự do cạnh tranh, tự do kinh

doanh, tự do thiết lập những thỏa thuận giữa các đối thủ kinh doanh với nhau, trừ

những TTHCCT bị cấm. Các quyền được trao là nền tảng để các doanh nghiệp

tích cực thực hiện các hành vi kinh doanh, tạo ra, vận hành và phát triển thị

trường, đóng góp cho xã hội và cũng là cơ sở để các doanh nghiệp cạnh tranh với

nhau, tạo nên động lực phát triển. Các chủ thể còn có các quyền cụ thể trong quá

trình thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT như Quyền đề nghị hưởng miễn

trừ, Quyền khiếu nại hành vi TTHCCT của các chủ thể khác khi cho rằng quyền

48

và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại, Quyền tự nguyện khai báo về hành vi

vi phạm trước khi cơ quan có thẩm quyền phát hiện, tự nguyện ngăn chặn, làm

giảm bớt tác hại của hành vi vi phạm hoặc tự nguyện khắc phục hậu quả, bồi

thường thiệt hại, tự nguyện cung cấp chứng cứ để được giảm nhẹ hình phạt…

Khi doanh nghiệp sử dụng những quyền trên là đã thể hiện ý chí, quan điểm

của mình một cách chủ động, thể hiện được quyền tự do kinh doanh, tự do cạnh

tranh trong nền KTTT, thể hiện được sự bình đẳng giữa Nhà nước và các chủ thể

khác trong nhà nước pháp quyền cùng hướng tới mục tiêu cuối cùng là tạo lập và

giữ gìn môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng. Đây cũng là tiêu chí quan

trọng để đánh giá tính hiệu quả của hoạt động thực hiện hiện pháp luật về kiểm

soát TTHCCT.

2.2.2.4. Áp dụng pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

Áp dụng pháp luật về kiểm soát TTHCCT là một hình thức thực hiện pháp

luật đặc biệt, theo đó, cơ quan có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể pháp luật

thực hiện các quy định của pháp luật về kiểm soát TTHCCT hoặc tự mình căn cứ

vào các quy định của pháp luật để tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi,

đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể trong lĩnh vực kiểm soát

TTHCCT theo những thủ tục, trình tự luật định. Áp dụng pháp luật là hoạt động

mang tính tổ chức, thể hiện quyền lực nhà nước, được thực hiện thông qua các

cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách hoặc các tổ chức được Nhà

nước trao quyền nhằm cá biệt hóa các quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ

thể đối với cá nhân, tổ chức cụ thể.

Để tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện các quy định của pháp luật

về kiểm soát TTHCCT, cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện các hoạt

động trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cụ thể như sau: Hướng dẫn,

kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, quy

hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án đã được phê duyệt về kiểm soát TTHCCT;

Tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật và các chính sách có liên quan đến

kiểm soát TTHCCT; Xây dựng, quản lý hệ thống thông tin về các doanh nghiệp;

Thẩm định hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ; Thụ lý, tổ chức điều tra các vụ việc

49

TTHCCT; Áp dụng các biện pháp ngăn chặn hành chính, các hình thức xử phạt vi

phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả theo quy định của pháp

luật; Xử lý vi phạm pháp luật về TTHCCT; Giải quyết khiếu nại đối với các

quyết định xử lý vụ việc TTHCCT; Theo dõi việc thi hành các Quyết định xử lý

vụ việc cạnh tranh.

Bên cạnh việc tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện pháp luật về

kiểm soát TTHCCT, cơ quan quản lý cạnh tranh áp dụng pháp luật để xử lý các

TTHCCT vi phạm pháp luật, giải quyết khiếu nại liên quan đến xử lý vụ việc

TTHCCT. Ngoài ra, cơ quan quản lý cạnh tranh còn tham gia ý kiến đối với các

văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, quy hoạch ngành, lĩnh vực, văn bản

hành chính có liên quan; Xây dựng cơ sở dữ liệu, tài liệu liên quan đến chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình; Hợp tác quốc tế về kiểm soát TTHCCT.

2.2.3. Chủ thể thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế

cạnh tranh

Thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT là hoạt động được tiến hành bởi

nhiều chủ thể, mỗi chủ thể có vị trí pháp lý khác nhau.

2.2.3.1. Chủ thể nhà nước

Thực hiện kiểm soát TTHCCT là chức năng của nhà nước trong nền

KTTT, để thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT, nhà nước thiết lập cơ

quan quản lý cạnh tranh để thực thi pháp luật cạnh tranh của mỗi quốc gia.

Do tính chất của hoạt động kiểm soát TTHCCT, cơ quan quản lý cạnh

tranh vừa thực hiện các hoạt động hành chính như quản lý, hướng dẫn, cho

phép, kiểm tra, giám sát… vừa thực hiện các hoạt động như điều tra, xét xử và

áp dụng các biện pháp chế tài đối với các bên có hành vi vi phạm pháp luật. Sự

kết hợp hai đặc tính "hành chính" và "tư pháp" là để cơ quan quản lý cạnh tranh

có thể đảm bảo thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT. Do tính chất hành

chính bán tư pháp của cơ quan quản lý cạnh tranh, cơ quan này cần có sự độc

lập, cần được đảm bảo để các yếu tố chính trị hay các yếu tố kinh tế không tác

động đến hoạt động thực hiện pháp luật của mình, cần có địa vị pháp lý độc lập

để không chịu chi phối hay can thiệp bởi các cơ quan khác trong quá trình kiểm

50

soát hoạt động cạnh tranh trên thị trường, để đảm bảo độc lập, khách quan, công

bằng trong quá trình điều tra, xét xử và áp dụng chế tài, cần có quyền hạn để

yêu cầu sự phối hợp, hỗ trợ của các cơ quan có liên quan trong quá trình thực

thi nhiệm vụ.

Ở Việt Nam, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về cạnh tranh, Bộ

Công thương chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về

cạnh tranh và các bộ, cơ quan ngang bộ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực

thuộc trung ương trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm

phối hợp với Bộ Công thương thực hiện quản lý nhà nước về cạnh tranh. Cơ

quan nhà nước trực tiếp tham gia thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT

gồm có Cục quản lý Cạnh tranh (hiện đổi tên là Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người

tiêu dùng - Cục CT&BVNTD) và Hội đồng Cạnh tranh. Hai cơ quan này đều có

tính "lưỡng tính", Cục CT&BVNTD là một cơ quan thuộc Bộ Công thương

nhưng lại có chức năng điều tra và đưa vụ việc ra trước Hội đồng Cạnh tranh để

Hội đồng cạnh tranh xử lý, Hội đồng Cạnh tranh là một cơ quan hành chính

nhưng lại có chức năng "xét xử" độc lập, là một cơ quan tài phán vì có thẩm

quyền áp dụng pháp luật để ra phán quyết và tuân theo thủ tục tố tụng cạnh

tranh. Quyết định của Hội đồng Cạnh tranh chỉ bị xét lại bởi hệ thống toà án.

2.2.3.2. Chủ thể doanh nghiệp

Doanh nghiệp là chủ thể chủ yếu thực hiện pháp luật về kiểm soát

TTHCCT. Doanh nghiệp là tên gọi chung cho các thực thể kinh doanh, có thể là

tổ chức kinh doanh hay cá nhân kinh doanh, bao gồm cả doanh nghiệp sản xuất,

cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, doanh nghiệp hoạt động trong các ngành,

lĩnh vực thuộc độc quyền nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước

ngoài… không phân biệt sở hữu, cơ cấu tổ chức hay là lĩnh vực kinh doanh.

Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang (các-ten) chỉ diễn ra cho

các doanh nghiệp kinh doanh trên cùng một thị trường, hay nói cách khác, đây là

các đối thủ cạnh tranh. Một số quốc gia không những xem xét các đối thủ cạnh

tranh hiện hữu mà còn xem xét cả các đối thủ cạnh tranh tiềm năng [89, tr.2],

một đối thủ cạnh tranh tiềm năng là một đối thủ hiện chưa gia nhập nhưng có

khả năng và "khi mà chỉ cần có một sự thay đổi nhỏ nhưng thường xuyên về giá

51

cả trong thị trường, chủ thể này sẵn sàng thực hiện ngay những sự đầu tư cần

thiết hoặc điều chỉnh giá cả cần thiết để gia nhập vào thị trường liên quan mà chủ

thể kinh doanh kia đang hoạt động" [87]. Pháp luật cạnh tranh Việt Nam quy

định cấm các TTHCCT giữa các doanh nghiệp "trên cùng thị trường liên quan",

do đó để trở thành chỉ có các doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh hiện hữu mới

trở thành chủ thể của thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam.

Chủ thể thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT phải là các thực thể kinh

tế độc lập, có khả năng tự lựa chọn được cách xử sự cho mình và có lợi ích riêng

biệt, bởi chỉ khi là các thực thể kinh tế độc lập thì doanh nghiệp mới có quyền

quyết định về hành vi mà mình thực hiện, mới có thể trở thành một bên tham gia

thỏa thuận. Vì thế đối với những trường hợp như công ty con thực hiện

TTHCCT do công ty mẹ lập, các công ty con của cùng một công ty mẹ thực hiện

TTHCCT do quyết định của công ty mẹ, quyết định thống nhất ấn định giá hay

phân chia thị trường trong một liên doanh, thỏa thuận giữa doanh nghiệp với các

nhà lãnh đạo hay nhân viên của mình... các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần

xem xét từng trường hợp cụ thể xem các bên tham gia TTHCCT có được quyền

quyết định, độc lập trong hành động và có lợi ích kinh tế riêng biệt hay không để

xác định chủ thể của thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT.

2.2.3.3. Chủ thể hiệp hội

Các hiệp hội đều không phải là cá nhân, tổ chức kinh doanh nên không phải

là một bên tham gia TTHCCT. Tuy nhiên hiệp hội là một tổ chức được thành lập

vì lợi ích chung của các thành viên, có thể phối hợp hoạt động giữa các thành viên,

rất thuận lợi cho những hoạt động hợp tác, có lẽ vì thế mà "một số lượng lớn các

trường hợp TTHCCT được xử lý bởi cơ quan cạnh tranh trên thế giới trực tiếp hoặc

gián tiếp liên quan đến một hiệp hội thương mại" [117, tr.15]. Do đó, hiệp hội có

vai trò rất đặc biệt trong thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT.

Chính vì ràng buộc với nhau bằng sự tự nguyện trên cơ sở lợi ích chung,

hiệp hội có nhiều điều kiện thuận lợi để liên kết các doanh nghiệp trong cùng

ngành, lĩnh vực, đại diện cho các thành viên trong hiệp hội và tuy hiệp hội không

có sức mạnh thị trường, nhưng có khả năng liên kết các doanh nghiệp để có sức

mạnh thị trường tổng hợp. Các hiệp hội cũng có khả năng đưa ra các quy định

52

mang tính nội quy để ràng buộc các thành viên của mình. Trong thực hiện pháp

luật về kiểm soát TTHCCT, ở hướng tích cực, hiệp hội có thể đưa ra các nội quy

nêu rõ tiêu chí tuân thủ các quy định pháp luật về kiểm soát TTHCCT, yêu cầu các

thành viên không tham gia vào TTHCCT, yêu cầu các thành viên chấp hành pháp

luật nghiêm chỉnh, đại diện cho các thành viên của mình để bảo vệ các quyền và lợi

ích hợp pháp của thành viên. Ở hướng ngược lại, hiệp hội có thể là người điều phối

hoặc là tạo điều kiện cho những thành viên của mình, vốn là các đối thủ cạnh tranh

trên thị trường liên quan tham gia và thực hiện TTHCCT, kinh nghiệm của EU cho

thấy "Một quyết định đưa ra bởi hiệp hội của các doanh nghiệp: thay thế thỏa thuận

giữa các doanh nghiệp thành viên của hiệp hội, phù hợp cam kết chung của hiệp hội

đó" [5, tr.14] chính là một TTHCCT. Pháp luật cạnh tranh Việt Nam cũng xác định

hiệp hội là chủ thể đặc biệt của thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT.

Tóm lại, thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT được tiến hành bởi

nhiều chủ thể theo từng nội dung pháp luật và dưới các hình thức: Tuân thủ pháp

luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Tuy trong thực

tiễn sự phân định bốn hình thực thực hiện pháp luật chỉ mang tính tương đối

nhưng thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT luôn trên cơ sở nguyên tắc

pháp chế XHCN, đảm bảo tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật, góp phần

đảm bảo kỷ cương thị trường theo đúng định hướng xây dựng nền KTTT định

hướng XHCN của Đảng và Nhà nước ta.

2.3. VAI TRÒ VÀ ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ

KIỂM SOÁT THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH

2.3.1. Vai trò của thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế

cạnh tranh

2.3.1.1. Thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh góp

phần xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Đảng và Nhà nước chủ trương xây dựng nền KTTT định hướng XHCN

Việt Nam, ở đó "Mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều phải hoạt

động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật" [29, tr.41].

Trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp tự quyết gia nhập thị trường và cạnh

tranh với nhau, doanh nghiệp thất bại phải gánh chịu tổn thất, thậm chí là phải

53

rời bỏ thị trường. Các TTHCCT phá vỡ nguyên tắc này, tạo ra "vòng an toàn"

cho các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận, tạo lập môi trường kinh doanh bất

bình đẳng. Do đó thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT là sự vào cuộc của

Nhà nước để bảo vệ nguyên tắc chọn lọc tự nhiên của thị trường, chỉ những

doanh nghiệp đổi mới, sáng tạo, tuân thủ pháp luật, có văn hóa kinh doanh văn

minh mới có thể tồn tại trong thị trường, đây là những nhân tố góp phần xây

dựng một môi trường kinh doanh lành mạnh.

Thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT là kiểm soát các thỏa thuận

hợp tác của các chủ thể kinh doanh, xử lý và trừng phạt các hành vi TTHCCT

vi phạm pháp luật, bảo vệ các chủ thể kinh doanh khác trước những chiêu

thức kinh doanh "bẩn", đảm bảo quyền gia nhập thị trường của các chủ thể

kinh doanh mới, bảo vệ cơ chế thị trường, trật tự thị trường. Đảm bảo thực

hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT là kiểm soát tình trạng độc quyền hóa

thị trường, kể cả độc quyền từ các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, đảm

bảo quyền bình đẳng kinh doanh và bình đẳng gia nhập thị trường của các chủ

thể kinh doanh bất kể hình thức sở hữu. Điều này rất quan trọng trong xây

dựng nền KTTT bởi về nguyên tắc, các chủ thể sở hữu và các hình thức sở

hữu trong nền KTTT phải độc lập và bình đẳng với nhau trước pháp luật và

trong hoạt động kinh doanh.

2.3.1.2. Thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

góp phần bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp, của

người tiêu dùng, của xã hội

Thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT góp phần hiện thực hóa các

quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, bảo vệ lợi ích công cộng trong nền KTTT

định hướng XHCN Việt Nam.

Thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT mang tính "kiểm soát", bao gồm

những quy định cho phép, cấm, xử lý vi phạm... tưởng như không đem lại lợi ích

cho các doanh nghiệp, nhưng với mục tiêu bảo vệ cạnh tranh tự do trên thị trường,

bảo vệ trật tự thị trường và môi trường kinh doanh bình đẳng, thực hiện pháp luật về

54

kiểm soát TTHCCT đem lại lợi ích cho mọi chủ thể kinh doanh chân chính, luôn sử

dụng, thi hành và tuân thủ pháp luật. Việc xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp

luật về kiểm soát TTHCCT là để lập lại trật tự thị trường, bảo vệ lợi ích hợp pháp

của các doanh nghiệp trước những hành vi bất chính. Thực hiện pháp luật về kiểm

soát TTHCCT cũng góp phần nâng cao nhận thức của doanh nghiệp về hành vi kinh

doanh đúng pháp luật, thái độ kinh doanh hiện đại, khích lệ sự năng động, tự chủ,

bảo vệ quyền lợi chính đáng của các doanh nghiệp.

Đối với người tiêu dùng, một số TTHCCT thoạt tiên có vẻ đem lại lợi ích cho

người tiêu dùng, chẳng hạn như "Thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một

cách trực tiếp hoặc gián tiếp" ban đầu thường là ấn định giá thấp để loại bỏ các

doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận, và người tiêu dùng được hưởng lợi ngắn

hạn, tuy nhiên, không lâu sau đó, khi đã kiểm soát được thị trường, giá sẽ được ấn

định cao mà người tiêu dùng thì buộc phải chấp nhận vì không còn lựa chọn khác.

Tất cả các TTHCCT đều tương tự, kết quả cuối cùng luôn là hạn chế hoặc triệt

tiêu quyền lựa chọn của người tiêu dùng. Quyền lợi của người tiêu dùng thể hiện ở

việc được lựa chọn hàng hoá và dịch vụ có chất lượng, phù hợp với nhu cầu và túi

tiền của mình, quyền lựa chọn đem lại cho người tiêu dùng vị trí trung tâm, bất cứ

doanh nghiệp nào cũng phải hết sức "chiều chuộng" quyền lựa chọn của người

tiêu dùng để tồn tại và phát triển. Thế nhưng, khi thị trường xuất hiện TTHCCT và

bị chi phối bởi "quyền lực độc quyền nhóm", người tiêu dùng bị mất hoặc hạn chế

khả năng lựa chọn, cũng bị hạn chế quyền được đáp ứng nhu cầu của mình. Thực

hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT có vai trò bảo vệ người tiêu dùng thông qua

việc kiểm soát những thỏa thuận có thể tạo ra quyền lực độc quyền trên thị trường,

bảo vệ quyền lựa chọn của người tiêu dùng, khuyến khích đối với những

TTHCCT có tác dụng tích cực, mang lại lợi ích cho người tiêu dùng.

Thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT góp phần bảo vệ lợi ích xã hội

thông qua việc tăng cường hiệu quả của nền kinh tế. Thực hiện pháp luật về

kiểm soát TTHCCT góp phần bảo vệ cạnh tranh, chính là động lực cho sự đổi

mới và phát triển. Kiểm soát TTHCCT hữu hiệu trong thực tế là bảo vệ tự do

cạnh tranh, giúp nền kinh tế phân bổ hiệu quả hơn các nguồn lực, tận dụng tối đa

55

nguồn lực để phát triển, tránh tình trạng trì trệ, lãng phí mà kết quả cuối cùng là

tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội. Thực hiện pháp luật về kiểm soát

TTHCCT cũng cho phép các TTHCCT được miễn trừ khi "Thúc đẩy tiến bộ kỹ

thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch vụ; Tăng cường sức cạnh

tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa; Tăng cường sức cạnh tranh của doanh

nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế..." (Điều 10 Luật Cạnh tranh 2004) sẽ

giúp bảo vệ các ngành công nghiệp trong nước, tăng sức cạnh tranh cho nền kinh

tế. Việc góp phần xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh, văn minh cũng là

góp phần thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển.

2.3.1.3. Thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

góp phần hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa

Trên thế giới, các nước có nền KTTT phát triển đã ban hành và thực thi

pháp luật về kiểm soát TTHCCT từ rất sớm và hiện nay trên thế giới đã có hơn

120 quốc gia ban hành và thực thi pháp luật về kiểm soát TTHCCT. Hội nhập

kinh tế quốc tế đòi hỏi các nền kinh tế phải chấp nhận "luật chơi chung" trong

sân chơi thế giới và phải có cách hành xử tương đồng. Việt Nam trong giai đoạn

đầu gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), từ trước khi gia nhập và cho

tới bây giờ, việc xây dựng và đảm bảo thực hiện các thiết chế pháp lý của nền

KTTT là cần thiết và bắt buộc.

Quá trình toàn cầu hóa kinh tế thúc đẩy sự hình thành nên nhiều vùng thị

trường khu vực và thế giới rộng lớn và cũng làm bùng nổ các TTHCCT xuyên

quốc gia. Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa, các quốc gia đang phát triển

như Việt Nam rất dễ gặp trường hợp các thế lực kinh tế quốc tế dùng sức mạnh

tài chính, dùng kinh nghiệm kinh doanh... để thao túng thị trường và chiếm đoạt

thị phần của các doanh nghiệp nội địa. Trong bối cảnh đó, đảm bảo thực hiện

pháp luật về kiểm soát TTHCCT vừa góp phần giúp Việt Nam hội nhập với

"cách chơi chung trên sân chơi chung", vừa góp phần loại bỏ các TTHCCT vi

phạm pháp luật để bảo vệ nền kinh tế nội địa theo đúng pháp luật quốc tế. Những

hiệu quả này góp phần thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế và tiến trình toàn cầu

hoá diễn ra nhanh chóng, hiệu quả hơn.

56

2.3.1.4. Thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

góp phần rèn luyện năng lực, kỹ năng kinh doanh văn minh, hiện đại cho

doanh nghiệp và năng lực, kỹ năng quản lý nền kinh tế thị trường trong bối

cảnh hội nhập quốc tế cho cơ quan quản lý nhà nước

Nền KTTT định hướng XHCN mà chúng ta đang xây dựng bắt đầu từ tinh

thần đổi mới của Đảng tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI với chủ trương xây

dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, tuy đã có thời gian hơn 30 năm

nhưng các vấn đề về KTTT vẫn còn nhiều điều mới mẻ đòi hỏi chúng ta không

ngừng học hỏi tri thức, nắm bắt quy luật, rèn luyện kỹ năng.

Do điều kiện lịch sử nước ta, trước đó trong xã hội đã có tầng lớp tư sản và

các yếu tố sơ khai của nền KTTT nhưng chưa đáng kể, có thể nói ý thức, năng

lực, kỹ năng kinh doanh văn minh, hiện đại của các chủ thể kinh doanh hiện vẫn

còn nhiều hạn chế. Pháp luật về kiểm soát TTHCCT Việt Nam ra đời muộn so với

pháp luật về doanh nghiệp hay pháp luật về hợp đồng, tuy nhiên đã thể chế hoá

quyền tự do cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật, kiểm soát các hành vi TTHCCT

theo hướng tiệm cận với pháp luật kiểm soát TTHCCT trên thế giới. Thực hiện

pháp luật về kiểm soát TTHCCT góp phần rèn luyện kỹ năng kinh doanh văn minh,

hiện đại cho chủ thể kinh doanh để có thể tham gia vào sân chơi chung quốc tế, thực

hiện chủ trương hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta.

Thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT là con đường để Nhà nước

"kiểm nghiệm" pháp luật trong thực tiễn, giúp cho Đảng, Nhà nước có cơ sở

thực tiễn để hoạch định đường lối chính sách, hoàn thiện pháp luật, cũng góp

phần để các cơ quan quản lý nhà nước rèn luyện kỹ năng quản lý nền KTTT.

Quản lý nền KTTT vẫn là khá mới đối với các cơ quan quản lý nhà nước của

Việt Nam và quản lý nhà nước về cạnh tranh còn mới hơn thế, việc trau dồi

nâng cao kỹ năng quản lý nền KTTT là cấp thiết. Đảm bảo thực thi và nâng

cao hiệu quả thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT góp phần trau dồi kỹ

năng cho các cán bộ, công chức, các cơ quan quản lý nhà nước, triển khai

thực hiện tốt chủ trương "Nâng cao nhận thức và năng lực pháp lý, đặc biệt là

luật pháp quốc tế, thương mại quốc tế, trước hết là của cán bộ chủ chốt các

ngành và chính quyền các cấp, doanh nghiệp, cán bộ làm công tác tố tụng, đội

57

ngũ luật sư và những người trực tiếp làm công tác hội nhập kinh tế quốc tế"

của Nghị quyết số 06-NQ/TW Hội nghị lần thứ tư BCH Trung ương Đảng

khóa XII "Về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ

vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định

thương mại tự do thế hệ mới".

2.3.2. Những điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa

thuận hạn chế cạnh tranh

2.3.2.1. Các bảo đảm về chính trị

Bảo đảm về chính trị là sự bảo đảm về định hướng chính trị của Đảng Cộng

sản Việt Nam đối với pháp luật và thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT.

Pháp luật về kiểm soát TTHCCT ra đời và phát triển trong nền KTTT và thực

hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT là thực thi những quy định pháp luật trong

thực tiễn với mục tiêu bảo vệ trật tự thị trường. Vì thế bảo đảm về chính trị đối

với thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT thể hiện qua chủ trương, đường

lối chính sách của Đảng về xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN

ở Việt Nam từ sau đổi mới đến nay. Định hướng chính trị của Đảng Cộng sản

Việt Nam đối với pháp luật và thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT thể

hiện qua quyết tâm hình thành đồng bộ cơ chế quản lý nền KTTT định hướng

XHCN, quản lý nền kinh tế bằng công cụ pháp luật "tạo môi trường cạnh tranh

bình đẳng, minh bạch và lành mạnh" [29, tr.28].

Các quan điểm của Đảng về những vấn đề đó được thể hiện trong các văn

kiện của Đảng trong từng thời kỳ phát triển của đất nước, mức độ đề cập theo

từng thời kỳ có thể đậm nhạt khác nhau nhưng luôn nhất quán. Kể từ những

bước đổi mới tư duy của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), đến Đại hội

Đảng toàn quốc lần thứ IX (2001), Đảng Cộng sản Việt Nam xác định nền

KTTT định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ

quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành

quan trọng của nền KTTT định hướng XHCN, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và

cạnh tranh lành mạnh, Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược,

quy hoạch, kế hoạch, chính sách, sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình

58

thức kinh tế và phương pháp quản lý của KTTT để kích thích sản xuất, giải

phóng sức sản xuất, Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho

các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển. Thể chế hóa chủ trương,

đường lối của Đảng, các văn bản luật đã được ban hành, trở thành công cụ quản

lý hữu hiệu nền KTTT định hướng XHCN, trong đó có Luật Cạnh tranh được

ban hành năm 2004. Định hướng chính trị của Đảng tiếp tục được thể hiện nhất

quán qua các kỳ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, XI và XII về phát triển nền

KTTT định hướng XHCN. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII xác định "Tiếp

tục hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh, tăng cường tính minh bạch đối với độc

quyền nhà nước và độc quyền doanh nghiệp, kiểm soát độc quyền kinh doanh"

[29, tr.41]. Định hướng chính trị của Đảng về xây dựng nền KTTT định hướng

XHCN trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là cơ sở để

xây dựng và hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh nói chung, là đảm bảo về mặt

chính trị để thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT trong thực tế.

Định hướng chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với pháp luật và

thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT luôn nhất quán, xuyên suốt. Tuy

nhiên, kết quả còn phụ thuộc vào nhận thức và hành động của của các cấp ủy

Đảng trong các cơ quan nhà nước trong quá trình xây dựng, ban hành pháp luật

cạnh tranh, của cấp ủy Đảng trong các cơ quan quản lý cạnh tranh trong quá

trình thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT, sự gương mẫu, thực hiện

nghiêm minh pháp luật về kiểm soát TTHCCT của các doanh nghiệp nhà nước,

các tổng công ty, tập đoàn nhà nước và sự ủng hộ của toàn xã hội.

2.3.2.2. Các bảo đảm về kinh tế

Cùng với bảo đảm về chính trị, thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT

cần được bảo đảm về kinh tế. Đó là bảo đảm về xây dựng các thiết chế kinh tế và

bảo đảm về cơ sở vật chất, kinh phí và hạ tầng kỹ thuật cho các hoạt động triển

khai pháp luật về kiểm soát TTHCCT trong thực tiễn cuộc sống.

Để bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT cần xây dựng các

thiết chế về tài chính, về thuế, về thống kê…. Nếu thiếu các thiết chế về thuế, tài

chính và thống kê, cơ quan quản lý cạnh tranh rất khó khăn khi muốn kiểm soát thị

59

trường, phân tích thị trường nhằm phát hiện hành vi TTHCCT vi phạm pháp luật.

Sau khi phát hiện hành vi vi phạm, để phục vụ điều tra, xử lý vụ việc TTHCCT

các điều tra viên cần phân tích kinh tế về thị phần, tỷ lệ phần trăm (%) tổng thị phần

các bên tham gia thỏa thuận trên thị trường liên quan, doanh thu... nếu các thiết chế

về tài chính, về thuế, về thống kê... thiếu và yếu không chỉ là rào cản cho công tác

của các cơ quan quản lý cạnh tranh mà còn gây trở ngại cho việc kiểm soát từ phía

người tiêu dùng trong thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT.

Pháp luật về kiểm soát TTHCCT là một nội dung pháp luật mới ở Việt

Nam. Để thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT, cần thực hiện nhiều hoạt

động cung cấp các thông tin nhận diện TTHCCT, phổ biến các quy định của

pháp luật về kiểm soát TTHCCT đồng thời hướng dẫn thực hiện pháp luật và

việc phát hành tài liệu hướng dẫn, tổ chức các hội thảo, hội nghị, các khóa tập

huấn... đều cần có các điều kiện đảm bảo về kinh tế. Đối với các cơ quan nhà

nước có thẩm quyền và cán bộ trực tiếp làm công tác kiểm soát TTHCCT cũng

cần được nghiên cứu, học tập, tập huấn qua các khóa bồi dưỡng nghiệp vụ, các

lớp tập huấn ngắn hạn và dài hạn, tham gia các hội thảo trong nước và quốc tế để

có cơ hội chia sẻ, trao đổi và học tập kinh nghiệm trong việc phát hiện, điều tra

và xử lý các hành vi TTHCCT. Việt Nam cũng cần tham dự vào các diễn đàn

quốc tế như Mạng lưới cạnh tranh ICN... Những hạn chế về cơ sở vật chất và

nguồn kinh phí có thể khiến công tác tuyên truyền, hỗ trợ pháp lý cho doanh

nghiệp và cộng đồng cũng như việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực làm công

tác kiểm soát TTHCCT bị gián đoạn, thiếu toàn diện.

Thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT cũng sẽ được bảo đảm khi mà

các chủ thể kinh doanh có điều kiện kinh tế để tiếp cận thông tin, tự trang bị kiến

thức và mở rộng phạm vi kinh doanh từ nội địa ra thị trường quốc tế, tích lũy

kinh nghiệm, kiến thức kinh doanh... là những điều kiện để nâng cao ý thức chấp

hành pháp luật về kiểm soát TTHCCT.

2.3.2.3. Các bảo đảm về văn hoá - xã hội

Thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT còn chịu sự tác động của yếu tố

về văn hóa - xã hội. Trình độ nhận thức của các chủ thể kinh doanh, đạo đức

60

kinh doanh, văn hoá kinh doanh cũng như tập quán, quan niệm xã hội đều có tác

động không nhỏ đến thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT.

Từ sau công cuộc đổi mới đất nước, cùng với phát triển nền KTTT, văn hoá

kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nhân được khơi dậy, phát huy, hướng đến

các chuẩn mực tốt đẹp như: Kinh doanh đúng pháp luật, tạo được uy tín đối với

khách hàng, tạo việc làm cho người lao động... những chuẩn mực văn hóa kinh

doanh tốt đẹp đó là cơ sở để doanh nghiệp tuân thủ, chấp hành pháp luật. Trình

độ nhận thức của các chủ thể kinh doanh được nâng cao, có khả năng sử dụng

các quyền mà pháp luật về kiểm soát TTHCCT quy định, từ đó không chỉ bảo vệ

quyền lợi hợp pháp của mình mà còn góp phần bảo vệ lợi ích công cộng thông

qua việc cùng tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng.

Song cũng phải nhìn nhận ở một bộ phận đạo đức kinh doanh, văn hoá kinh

doanh còn thấp, những cách kinh doanh trái pháp luật như thông thầu, thông đồng để

ngăn chặn doanh nghiệp mới gia nhập thị trường, thông đồng để ép giá... vẫn tồn tại

khá phổ biến, bất chấp kỷ cương, xâm phạm những chuẩn mực kinh doanh truyền

thống. Ngoài ra, những quan niệm xã hội, tập quán lâu đời như "buôn có bạn, bán có

phường" có thể khiến chủ thể kinh doanh vô tình có những thỏa thuận, những hành

động phối hợp kinh doanh phản cạnh tranh vi phạm pháp luật. Tất cả những hạn chế

đó đều làm giảm hiệu quả thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT.

Vì vậy, cần đẩy mạnh việc xây dựng môi trường văn hoá - xã hội, bồi dưỡng

đạo đức kinh doanh, tạo cho các chủ thể kinh doanh và toàn xã hội có quan niệm

đúng về văn hoá kinh doanh, nâng cao trình độ, nhận thức của các chủ thể về pháp

luật về kiểm soát TTHCCT, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Việc

học hỏi, tiếp thu tinh hoa văn hoá kinh doanh của các dân tộc trên thế giới như tôn

trọng luật lệ, sự cam kết, tầm nhìn xa trông rộng, phương pháp, năng lực tổ chức,

quản lý hiện đại là rất cần thiết, đặc biệt là pháp luật và tập quán kinh doanh, ý thức

cạnh tranh lành mạnh, tôn trọng khách hàng và ý thức trách nhiệm xã hội.

2.3.2.4. Các bảo đảm về pháp luật

Để thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT thực sự đạt hiệu quả, bên

cạnh bảo đảm các điều kiện về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, các đảm bảo

61

về pháp luật rất quan trọng. Thực hiện pháp luật là đưa pháp luật vào cuộc sống,

điều kiện đầu tiên cần có là một hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện.

Chất lượng của hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về thực hiện pháp

luật về kiểm soát TTHCCT là một trong những cơ sở đảm bảo cho việc thực hiện

pháp luật đạt được kết quả, đồng thời cho phép dự báo được khả năng hiện thực hóa

các quy định pháp luật này trong thực tiễn. Đánh giá mức độ hoàn thiện của hệ

thống pháp luật về kiểm soát TTHCCT dựa vào các tiêu chí cơ bản, đó là: tính toàn

diện, tính thống nhất đồng bộ, tính phù hợp và trình độ kỹ thuật pháp lý.

Tính toàn diện thể hiện ở chỗ pháp luật về kiểm soát TTHCCT có cấu trúc

chặt chẽ, có đủ các chế định cần thiết, mỗi chế định có đủ quy phạm pháp luật để

điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực kiểm soát TTHCCT,

không có khoảng trống. Tính toàn diện cũng được thể hiện qua việc ban hành

đầy đủ các văn bản hướng dẫn chi tiết cho văn bản luật để khi văn bản luật cạnh

tranh có hiệu lực thì cũng có đủ các điều kiện để có thể được tổ chức thực hiện.

Tính toàn điện đòi hỏi bất cứ một quan hệ xã hội nào phát sinh trong lĩnh vực

kiểm soát TTHCCT đều phải được điều chỉnh bởi pháp luật, tuy thế bản thân

pháp luật dù hoàn thiện đến mấy cũng không thể dự liệu được tất cả các tình

huống xảy ra trong thực tiễn, vì vậy đòi hỏi pháp luật về kiểm soát TTHCCT

phải có tính bao quát trên nền tảng các nguyên tắc cơ bản để có thể áp dụng cho

những trường hợp thực tiễn chưa có quy phạm pháp luật điều chỉnh.

Tính đồng bộ thể hiện ở chỗ các bộ phận cấu thành hệ thống pháp luật về kiểm

soát TTHCCT không được có sự trùng lặp, chồng chéo và mâu thuẫn với nhau;

đồng thời các bộ phận này phải có mối quan hệ chặt chẽ với nhau tạo thành một thể

thống nhất. Pháp luật về kiểm soát TTHCCT phải được thực hiện thống nhất trong

cả nước, không có sự phân biệt vùng, miền, phù hợp với các quy định của Bộ luật

dân sự và Hiến pháp 2013. Pháp luật về kiểm soát TTHCCT phải có tính ổn định

tương đối, không sửa đổi liên tục, không thay thế bất ngờ nhằm góp phần tạo sự

thống nhất, ổn định cho việc điều chỉnh các quan hệ xã hội.

Tính phù hợp thể hiện ở chỗ pháp luật về kiểm soát TTHCCT phải phản

ánh đúng trình độ phát triển kinh tế - xã hội, pháp luật về kiểm soát TTHCCT

62

chỉ ra đời và phát triển khi nền KTTT Việt Nam hình thành với các thành phần

kinh tế đa dạng và quyền tự do kinh doanh và tự do cạnh tranh được Nhà nước

bảo hộ. Các quy phạm pháp luật về kiểm soát TTHCCT không mâu thuẫn với

truyền thống kinh doanh, quy phạm đạo đức tốt đẹp của dân tộc cũng như các

quy phạm xã hội khác.

Hệ thống pháp luật về kiểm soát TTHCCT phải bảo đảm tính hiện đại, phù

hợp với trình độ pháp lý của khu vực và quốc tế, đồng thời phải được xây dựng ở

một trình độ kỹ thuật pháp lý cao, ngôn ngữ pháp lý phải chính xác, thống nhất

cách diễn đạt, rõ ràng, dễ hiểu, không chung chung, không quy định lại nội dung

đã quy định ở văn bản quy phạm pháp luật khác.

Hệ thống pháp luật về kiểm soát TTHCCT toàn diện, đồng bộ, phù hợp, và

được xây dựng ở trình độ kỹ thuật pháp lý cao là cơ sở đảm bảo thực hiện pháp

luật về kiểm soát TTHCCT được triệt để, thông suốt và hiệu quả.

2.4. THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT THỎA THUẬN HẠN

CHẾ CẠNH TRANH TRÊN THẾ GIỚI VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ THAM KHẢO

CHO VIỆT NAM

Nhận thức được tầm quan trọng của kiểm soát TTHCCT, các quốc gia đã ban

hành và thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT như là một phương thức hữu hiệu

để bảo vệ thị trường. Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật cạnh tranh ghi nhận

Hoa Kỳ là quốc gia đầu tiên xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật về kiểm soát

TTHCCT với Đạo luật Sherman (Sherman Act) vào năm 1890 và cho tới hiện nay,

Hoa Kỳ vẫn được coi là quốc gia đi đầu trong cuộc chiến chống lại các-ten [112, tr.4].

Pháp luật về kiểm soát TTHCCT của Liên minh châu Âu (EU) ra đời muộn hơn, bắt

đầu bằng sự hình thành Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC) và Hiệp ước Roma 1957,

trong đó Điều 85 (sau đó là Điều 81 và hiện nay là Điều 101TFEU) quy định về kiểm

soát các TTHCCT và kể từ đó cho đến nay, EU đã có những bước tiến mạnh mẽ

trong việc thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT, chỉ đứng sau Hoa Kỳ về thành

tích xử lý TTHCCT ngang vi phạm pháp luật [112, tr.21-22-23].

Do đó nghiên cứu thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT của Hoa Kỳ

và EU là cần thiết để học hỏi kinh nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện

pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam.

63

2.4.1. Kinh nghiệm của Hoa Kỳ

Điều 1 Đạo luật Sherman (1890) quy định rằng mọi hợp đồng, mọi sự kết

hợp dưới hình thức tổ chức kinh doanh độc quyền hoặc hình thức khác, hoặc sự

thông đồng, nhằm hạn chế buôn bán hoặc thương mại giữa các Bang khác nhau,

hoặc với nước ngoài, bị tuyên bố là bất hợp pháp. Điều 1 đã được chỉnh sửa

nhiều lần, chủ yếu là phần quy định về hình phạt theo hướng tăng nặng thêm (15

U.S.C §1) và trở thành quốc gia nghiêm khắc nhất đối với hành vi TTHCCT khi

kết hợp các biện pháp trách nhiệm dân sự với biện pháp phạt tù. Án lệ cũng là

một trong những cơ sở pháp lý quan trọng tại Hoa Kỳ.

Mục tiêu của Hoa Kỳ trong xây dựng và thực hiện pháp luật về kiểm soát

TTHCCT là "duy trì và thúc đẩy cạnh tranh, đây là nguyên tắc cốt lõi để tổ chức

nền KTTT tự do của chúng ta" [120, tr.2]. Cơ quan thực thi pháp luật về kiểm

soát TTHCCT là Ủy ban chống độc quyền thuộc Bộ Tư pháp (DOJ) và Hội đồng

thương mại liên bang (FTC). DOJ ban hành ra Đạo luật Sherman và tổ chức thực

thi luật, sử dụng các thủ tục tư pháp để điều tra, xác định có hay không có vi

phạm pháp luật về kiểm soát TTHCCT, chọn hình phạt áp dụng và đưa vụ việc

ra truy tố tại Tòa án. FTC điều tra và xử lý vụ việc TTHCCT với các thủ tục

hành chính và quyết định thông qua thảo luận tập thể. Hai cơ quan này thường

hợp tác trong quá trình thực thi pháp luật hơn là "giẫm chân lên nhau" nhưng

cũng có những vụ việc cơ quan này từ chối thụ lý nhưng cơ quan kia lại điều tra,

và vì thế các nguyên đơn có thêm lựa chọn [36, tr.659-660].

Thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT của Hoa Kỳ có những điểm nổi

bật như sau:

Thứ nhất, yêu cầu tuân thủ nghiêm pháp luật về kiểm soát TTHCCT.

Quan điểm của Hoa Kỳ là cấm và chống các-ten, vì thế yêu cầu tuân thủ

pháp luật rất cao. Để đảm bảo cho sự tuân thủ, pháp luật Hoa Kỳ quy định

những hình phạt nghiêm khắc, bao gồm phạt tiền, phạt tù (có thể cả hai) cùng

với bồi thường thiệt hại lên tới mức gấp ba lần số thiệt hại cho nguyên đơn kèm

khoản tiền chi phí luật sư thỏa đáng. Tuy nhiên, mức độ tuân thủ có khác nhau

cho các TTHCCT. Hoa Kỳ chia TTHCCT thành hai nhóm: 1) Nhóm TTHCCT

nghiêm trọng, đó là những thỏa thuận giữa các đối thủ cạnh tranh nhằm ấn định

64

giá, hạn chế sản lượng, thông thầu hay phân chia thị trường, được coi hiển nhiên

là hạn chế cạnh tranh và áp dụng nguyên tắc vi phạm pháp luật mặc nhiên

(nguyên tắc per-se). Đối với nhóm này, yêu cầu tuân thủ pháp luật tuyệt đối bởi

khi phát hiện có TTHCCT là cơ quan có thẩm quyền tuyên vi phạm pháp luật và

áp dụng trách nhiệm pháp lý mà không cần xem xét gì thêm. 2) Nhóm còn lại là

các TTHCCT được đánh giá tác động hợp lý (nguyên tắc rule of reason), mức

độ tuân thủ có thể ít nghiêm ngặt hơn vì sẽ được xem xét mức độ gây hại và có

lợi của thỏa thuận để xét mức độ vi phạm [89, tr.3-4].

Để việc tuân thủ pháp luật về kiểm soát TTHCCT đạt hiệu quả, cả DOJ và

FTC đều khuyến khích các doanh nghiệp xây dựng chương trình tuân thủ pháp

luật cho doanh nghiệp nhằm kiểm soát doanh nghiệp và nhân viên của mình, coi

đây là một trong những biện pháp cần thiết để kiểm soát TTHCCT từ gốc và tạo

điều kiện để doanh nghiệp tham gia vào các chương trình khoan hồng "Các

chương trình tuân thủ giúp ngăn ngừa các công ty phạm tội từ ban đầu. Ngay cả

khi không làm được như vậy, phần thành công của chương trình tuân thủ là

cũng có thể giúp các công ty đủ điều kiện cho việc khoan hồng" [83, tr.3]. Tuy

rất khuyến khích doanh nghiệp xây dựng chương trình tuân thủ pháp luật, Hoa

Kỳ xác định việc tuân thủ pháp luật là trách nhiệm của doanh nghiệp, không coi

là yếu tố giảm nhẹ khi xử lý vụ việc TTHCCT [82, tr.7].

Áp dụng pháp luật của cơ quan thẩm quyền có tác dụng rất lớn đối với việc

tuân thủ pháp luật của cá nhân, tổ chức "Tuân thủ là đặc biệt quan trọng bởi vì

nguy cơ bị phát hiện và trừng phạt chưa bao giờ cao hơn" [83, tr.2].

Thứ hai, khuyến khích sử dụng quyền xin hưởng khoan hồng.

Chính sách khoan hồng là chính sách mà nhà nước dành quyền miễn trừ

khỏi các chế tài "cho các thành viên tham gia TTHCCT chủ động khai báo, cung

cấp tài liệu chứng cứ chứng minh sự tồn tại của TTHCCT và hợp tác với cơ quan

điều tra" [68, tr.6]. Hoa Kỳ là nước đầu tiên trên thế giới có chính sách khoan

hồng cho doanh nghiệp vào năm 1978 và được sửa đổi vào năm 1993, sau đó,

vào năm 1994 Bộ Tư pháp Hoa Kỳ tiếp tục ban hành chính sách khoan hồng

dành cho cá nhân (giám đốc, lãnh đạo và những người lao động trong doanh

nghiệp) tham gia TTHCCT, chính sách khoan hồng đã được sửa đổi nhiều lần để

65

khuyến khích sự chủ động khai báo, cung cấp tài liệu chứng cứ cho cơ quan điều

tra. Không chỉ doanh nghiệp mà các thành viên Ban giám đốc, nhân viên, người

làm thuê của doanh nghiệp đều có thể sử dụng quyền khoan hồng. Nếu trước kia

chỉ được quyền xin hưởng miễn trừ khi cơ quan có thẩm quyền chưa phát hiện ra

TTHCCT thì hiện nay pháp luật đã được sửa đổi rất nhiều để có thể xin miễn trừ

ngay khi DOJ đã thu thập được thông tin cho thấy sự tồn tại của TTHCCT. Từ

đó, "tỷ lệ đơn xin hưởng khoan hồng của doanh nghiệp tăng từ mức một đơn mỗi

năm theo theo quy định ban đầu lên con số xấp xỉ một đơn mỗi tháng theo quy

định mới" [58, tr.88].

Khi doanh nghiệp, các nhà lãnh đạo, nhân viên, người làm thuê của doanh

nghiệp sử dụng quyền đề nghị khoan hồng, những thông tin và chứng cứ được

cung cấp đã hỗ trợ rất đắc lực cho các cơ quan cạnh tranh trong thực thi pháp

luật, đặc biệt khi tình trạng "ngầm hóa" TTHCCT đang diễn ra ngày một tinh vi

hơn "Hơn chín mươi phần trăm số tiền phạt áp dụng cho hành vi vi phạm Đạo

luật Sherman kể từ năm 1996 bắt nguồn từ các cuộc điều tra được khởi nguồn từ

đơn xin khoan hồng..." [91, tr.14]. Có thể thấy việc khuyến khích hình thức sử

dụng pháp luật này đã tác động rất nhiều đến hiệu quả áp dụng pháp luật của cơ

quan quản lý cạnh tranh Hoa Kỳ.

Thứ ba, áp dụng pháp luật với tất cả các công cụ pháp lý.

Hoa Kỳ cam kết thực thi pháp luật về kiểm soát TTHCCT với tất cả công

cụ pháp lý để đạt hiệu quả cao nhất, trong đó ba trụ cột là: Tăng các biện pháp

trừng phạt, thúc đẩy chương trình khoan hồng và khuyến khích chương trình

tuân thủ được sử dụng đồng thời.

- Tăng cường áp dụng các biện pháp trừng phạt, đặc biệt là xử phạt tù với cá

nhân: Nguyên đơn có thể yêu cầu mức bồi thường thiệt hại lên đến gấp ba lần thiệt

hại thực tế xảy ra cùng với phí luật sư, như trong vụ việc Mitsubishi Motors Corp.

v. Soler Chrysler-Plymouth, Inc (1985), tòa án nhận định rằng "Điều khoản bồi

thường thiệt hại do nguyên đơn là một công cụ chính trong chương trình thực thi

pháp luật chống độc quyền, tạo ra một sự cản trở cần thiết cho những kẻ vi phạm

tiềm năng". Về mặt hình sự, ngoài việc phạt tiền các công ty, DOJ còn truy tố cá

nhân có lỗi với hình phạt tù ngày càng tăng, giai đoạn 2000-2010 số cá nhân bị truy

66

tố án tù hai năm đã tăng gấp đôi giai đoạn 1990-1999 [91, tr.11-12]. Hoa Kỳ cho

rằng thậm chí nếu các doanh nghiệp không e ngại khoản tiền phạt thì mối đe dọa

của án tù sẽ làm chùn chân các cá nhân, do đó việc ngăn chặn TTHCCT vẫn có thể

thành công. Việc tăng cường áp dụng các biện pháp trừng phạt dân sự và hình sự

sẽ hỗ trợ cho nhau, tác động ngăn chặn của các biện pháp dân sự sẽ bị giảm sút rất

nhiều nếu không có sự trợ giúp của thực thi hình sự.

- Áp dụng chương trình khoan hồng với nhiều mục đích: Tại Hoa Kỳ,

chương trình khoan hồng được coi là công cụ điều tra hữu hiệu nhất của cơ quan

cạnh tranh và cũng là biện pháp ngăn ngừa các hành vi TTHCCT vi phạm pháp

luật. Trong các vụ truy tố thành công của cơ quan cạnh tranh có trên 90% được

phát hiện từ đơn xin hưởng khoan hồng và có những lợi thế điều tra đáng kể nhờ

các thông tin do người xin hưởng khoan hồng cung cấp [122]. Khi cơ quan cạnh

tranh khuyến khích và phát triển chương trình khoan hồng, những ai có ý định

tham gia vào một TTHCCT đều biết rằng một trong những người đồng mưu

hoặc những nhân viên, người lao động của họ có thể dễ dàng nộp đơn xin khoan

hồng [91, tr.15], nên chương trình khoan hồng còn tạo ra tác dụng ngăn ngừa

TTHCCT một cách hữu hiệu. Hiệu quả của chương trình khoan hồng được tăng

cường khi kết hợp với các biện pháp hình phạt nghiêm khắc bởi Hoa Kỳ cho

rằng trước nguy cơ phải chịu một hình thức xử phạt nặng trong trường hợp bị

phát hiện đã thúc đẩy các doanh nghiệp và cá nhân khai báo với cơ quan cạnh

tranh để được hưởng khoan hồng.

- Áp dụng các công cụ điều tra đa dạng: Điểm nổi bật trong điều tra các vụ

việc TTHCCT của Hoa Kỳ là pháp luật cho phép cơ quan cạnh tranh được thực

hiện quyền khám xét và thu giữ các tài liệu liên quan để tránh khả năng bị hủy tài

liệu và để xử lý các trường hợp doanh nghiệp không tuân thủ giấy triệu tập làm

việc. Các cuộc điều tra của DOJ được trợ giúp rất nhiều bằng cách ghi lại âm thanh

hoặc video của các cuộc thảo luận TTHCCT nếu được một trong các bên tham gia

thỏa thuận đồng ý và không cần xin lệnh từ tòa án; nếu có lệnh tòa, Ủy ban có thể

ghi lại các cuộc đối thoại mà không cần sự đồng ý. Ủy ban cũng được quyền quy

tội hình sự cho các cá nhân, tổ chức khai báo trái phép, sai lệch và quy tội cho các

hành vi nhằm can thiệp vào một cuộc điều tra hình sự của Ủy ban [91, tr.13].

67

Ngoài ra, cơ quan cạnh tranh Hoa Kỳ tích cực tuyên truyền pháp luật và công

tác thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT bằng nhiều hoạt động như phát hành

các báo cáo chi tiết về chính sách chống độc quyền của Hoa Kỳ, đại diện của cơ

quan cạnh tranh Hoa Kỳ tham gia hội thảo để giải thích về thực thi pháp luật, xuất

bản những cuốn hướng dẫn kỹ năng điều tra xử lý vụ việc dựa trên sự tổng hợp

kinh nghiệm quốc tế. Các báo cáo, tham luận đều công khai trên trang web của cơ

quan này. Với những nỗ lực trên, thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT tại

Hoa Kỳ đã đạt được nhiều thành tựu, trong giai đoạn 10 năm từ 2007 đến 2016, Bộ

Tư pháp Hoa Kỳ đã truy tố 575 doanh nghiệp và 199 cá nhân ra tòa vì tham gia

TTHCCT vi phạm pháp luật. Số tiền phạt năm 2015 cao tới mức kỷ lục là 3,5 tỷ đô

la và năm 2016 là 399 triệu đô la Mỹ. Mức phạt tù trung bình đối với cá nhân vi

phạm trong khoảng thời gian 10 năm trở lại đây dao động từ 1 đến 2 năm [124].

2.4.2. Thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

của Liên minh Châu Âu

Mục tiêu hàng đầu của pháp luật về kiểm soát TTHCCT EU là đảm bảo tự

do thương mại, đảm bảo cạnh tranh trên toàn khu vực thị trường chung không bị

hạn chế, bóp méo. Cơ quan thực thi pháp luật kiểm soát TTHCCT của EU là Ủy

ban châu Âu, "hệ thống thực thi của EU là một hệ thống hành chính, được xây

dựng dựa trên các biện pháp trừng phạt tài chính đối với các doanh nghiệp chứ

không phải (trừng phạt) cá nhân" [80, tr.2]. Mối liên hệ giữa Ủy ban Châu Âu và

các cơ quan cạnh tranh ở các nước thành viên dựa trên nguyên tắc: Cả Ủy ban và

các quốc gia thành viên có thể phạt các doanh nghiệp, nhưng các quốc gia thành

viên vẫn được tự do thiết lập các biện pháp trừng phạt khác để chống lại hành vi

hạn chế cạnh tranh.

Thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT của EU có một số đặc điểm nổi

bật như sau:

Thứ nhất, yêu cầu cao về tuân thủ pháp luật.

Điều 85 Hiệp ước Rome 1957, nay là Điều 101 TFEU cấm tất cả các thỏa

thuận giữa các bên, các quyết định của hiệp hội và các hành động phối hợp gây

ảnh hưởng đến thương mại giữa các nước thành viên và có mục tiêu hoặc hiệu

ứng ngăn chặn, hạn chế hoặc bóp méo cạnh tranh trên thị trường nội khối.

68

Doanh nghiệp phải tuân thủ tuyệt đối, không được tham gia vào những

TTHCCT "có mục đích là gây hạn chế cạnh tranh" như thỏa thuận ấn định giá,

thỏa thuận kiểm soát hoặc hạn chế sản lượng, thỏa thuận phân chia thị trường và

thông thầu bởi vì một khi Ủy ban xác định thỏa thuận có mục đích là gây hạn

chế cạnh tranh sẽ coi đó là vi phạm pháp luật mà không cần thiết phải xem xét

tác động thực tế hoặc tiềm năng của thỏa thuận đó trên thị trường [87] Đối với

các TTHCCT còn lại, mức độ tuân thủ của doanh nghiệp có thể bớt nghiêm ngặt

hơn vì có thể đó là những thỏa thuận "có tác dụng gây hạn chế cạnh tranh" [87],

Ủy ban có thể cân nhắc giữa mức độ có lợi và gây hại của thỏa thuận để xác định

biện pháp xử lý, thậm chí có thể được hưởng ngoại lệ hợp pháp theo Khoản 3

của Điều 101 TFEU.

EU cho rằng tuân thủ pháp luật có vai trò quan trọng, ngày càng nhiều

doanh nghiệp thiết lập và thực hiện chương trình tuân thủ như một phần của một

chiến lược có ý thức để hạn chế nguy cơ vi phạm, về phía doanh nghiệp cũng

nhận thấy rằng các cơ quan công quyền "ở vị trí lý tưởng" để khuyến khích và

tạo điều kiện tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp... và điều này có lợi cho cả

doanh nghiệp và cơ quan công quyền [80, tr.6]. Tuy cơ quan cạnh tranh không

giảm tiền phạt cho các doanh nghiệp có chương trình tuân thủ, nhưng việc tuân

thủ pháp luật luôn đem lại lợi ích, đó là có thể giúp doanh nghiệp tránh được

việc tham gia vào một TTHCCT, hoặc giúp phát hiện ra một TTHCCT sớm và

do đó có thể xin khoan hồng. EU cho rằng đây là một động lực rất mạnh mẽ để

doanh nghiệp tuân thủ pháp luật.

Thứ hai, sử dụng rộng rãi quyền miễn trừ trong chính sách khoan hồng và

lựa chọn điều đình.

Doanh nghiệp được quyền xin hưởng miễn trừ khi tố cáo với Ủy ban và cung

cấp bằng chứng về việc tham gia TTHCCT. Để có được toàn bộ quyền miễn trừ

theo chính sách khoan hồng, doanh nghiệp phải là người đầu tiên thông báo cho Ủy

ban về TTHCCT và cung cấp đầy đủ thông tin để Ủy ban có thể khởi động điều tra

vụ việc TTHCCT, nếu vụ việc đã bị Ủy ban phát giác, doanh nghiệp phải cung cấp

bằng chứng để Ủy ban chứng minh được TTHCCT vi phạm pháp luật đồng thời

chấm dứt ngay vi phạm và hợp tác đầy đủ với Ủy ban trong suốt quá trình giải

69

quyết vụ việc. Nếu không phải là doanh nghiệp đầu tiên tố giác, doanh nghiệp vẫn

có thể sử dụng quyền xin miễn trừ một phần bằng cách cung cấp các bằng chứng có

giá trị cho Ủy ban và chấm dứt sự tham gia vào TTHCCT. Sử dụng quyền miễn trừ

trong chính sách khoan hồng hay không là quyền của doanh nghiệp, tuy nhiên khi

doanh nghiệp lựa chọn quyền này đã đem lại nhiều lợi ích: Doanh nghiệp được

miễn giảm tiền phạt, công tác thực thi pháp luật của Ủy ban thuận lợi do có công cụ

để khám phá ra các TTHCCT ngầm, đồng thời cũng hạn chế việc hình thành các

TTHCCT vì gây nghi ngờ giữa các bên tham gia thỏa thuận.

Trong quá trình thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT, doanh nghiệp

có thể sử dụng điều đình - một quyền rất đặc biệt trong thủ tục tố tụng, đó là khi

Ủy ban đã kết thúc giai đoạn điều tra ban đầu và quyết định xử lý vụ việc

TTHCCT, doanh nghiệp tham gia thỏa thuận đề nghị điều đình, theo đó doanh

nghiệp thừa nhận sự tham gia của mình vào TTHCCT trước khi Ủy ban kết luận

vụ việc, kết quả là thủ tục nhanh hơn và doanh nghiệp được giảm đến 10% số

tiền phạt. Sử dụng quyền này cũng giúp cho việc áp dụng pháp luật của Ủy ban

nhanh hơn, hợp lý hơn và phân bổ các nguồn lực cho các trường hợp khác.

Thứ ba, phối hợp áp dụng pháp luật về tiền phạt với áp dụng chính sách

khoan hồng để tăng cường hiệu quả thực hiện pháp luật.

Trừng phạt tài chính với các doanh nghiệp vi phạm pháp luật gồm tiền phạt

và tiền bồi thường thiệt hại cho các nạn nhân. Việc bồi thường thiệt hại được

dựa trên nguyên tắc bồi thường đầy đủ, đã được thừa nhận trong luật pháp và

được thực hiện theo thủ tục dân sự tại Tòa án. Kể từ năm 2006, EU áp dụng mức

tiền phạt dựa trên tính toán một số yếu tố: giá trị doanh thu có liên quan liên

quan đến hành vi vi phạm, và mức độ nghiêm trọng và thời gian vi phạm, và từ

đó mức phạt đã tăng lên nhiều. Tuy nghiêm khắc, nhưng nếu mức phạt tiền cao

đến mức doanh nghiệp phải phá sản, các doanh nghiệp có thể xin giảm tiền phạt,

như trong vụ việc thỏa thuận ấn định giá bị phạt tổng cộng 86 triệu euro (Case

COMP/39.452 - Mountings for windows and window doors), Ủy ban đã giảm

45% tiền phạt cho một công ty.

Quan điểm của EU là không phải là mức phạt quá lớn hay quá nhỏ, mà

quan trọng là khả năng ngăn chặn hành vi vi phạm của hình phạt. Tuy nhiên EU

70

cũng nhận thấy chỉ áp dụng phạt tiền không đủ sức ngăn chặn, minh chứng là

trong mười vụ việc TTHCCT, sau đó đã có mười lăm doanh nghiệp tái phạm,

một số doanh nghiệp phạm tội lần thứ ba, thậm chí có doanh nghiệp lần thứ bốn

[80, tr.4], do đó áp dụng phạt tiền chỉ đặc biệt hiệu quả khi kết hợp với chương

trình khoan hồng.

Ủy ban Châu Âu đã áp dụng chính sách khoan hồng kể từ năm 1996, chính

sách được điều chỉnh năm 2002 và 2006, theo đó doanh nghiệp đầu tiên báo cáo

Ủy ban về TTHCCT có thể nhận được miễn trừ hoàn toàn, những doanh nghiệp

sau có thể được giảm đến 50% tiền phạt, tùy thuộc vào thứ tự mà họ báo cáo về

Ủy ban. Kết quả kể từ khi sửa đổi chương trình khoan hồng năm 2002, EU đã có

tổng cộng 291 đơn xin miễn trừ và 278 đơn xin giảm tiền phạt, trung bình, Ủy

ban nhận được hai đơn xin miễn trừ và hai đơn xin khoan hồng mỗi tháng [80,

tr.5]. Theo quan điểm của EU, bản thân việc phạt tiền, dù ở mức cao vẫn không

đủ sức ngăn chặn nếu doanh nghiệp vẫn tin rằng mình đủ sức che dấu vi phạm,

khi kết hợp với chính sách khoan hồng, niềm tin này không còn nữa, vì thế có đủ

khả năng ngăn chặn hành vi vi phạm.

Kể từ khi ra quyết định đầu tiên vào năm 1969, cho đến nay Ủy ban châu

Âu đã phạt 820 doanh nghiệp với hơn 19 tỷ euro tiền phạt [80, tr.3]. EU nhận

định rằng Ủy ban, các quốc gia thành viên và các doanh nghiệp đều đóng vai trò

quan trọng trong cuộc đấu tranh chống lại các-ten, mỗi chủ thể có vai trò khác

nhau nhưng các hình thức thực hiện pháp luật về tuân thủ, điều đình, khoan hồng và

áp dụng hình phạt có tác dụng tương tác lẫn nhau, là những nền tảng tạo nên thành

công trong việc thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT của EU hiện nay.

2.4.3. Những giá trị tham khảo cho Việt Nam

Thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT của Hoa Kỳ và EU tuy thuộc

hai hệ thống khác nhau nhưng cùng một đích đến đó là kiểm soát TTHCCT để

bảo vệ môi trường cạnh tranh và cả hai đều đạt được những thành tựu to lớn. Từ

đó rút ra những bài học kinh nghiệm có giá trị tham khảo cho việc thực hiện

pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam như sau:

- Cả Hoa Kỳ và EU đều sử dụng "phương pháp cây gậy - củ cà rốt", song

song với các biện pháp chế tài là chương trình khoan hồng và điều đình (EU)

71

hoặc thương lượng miễn tố (Hoa Kỳ). Phương pháp này tạo điều kiện cho doanh

nghiệp được sử dụng quyền có lợi cho mình và chính là cũng tạo điều kiện thuận

lợi cho công tác áp dụng pháp luật của cơ quan quản lý cạnh tranh.

Kinh nghiệm này có thể áp dụng ở Việt Nam. Chế tài theo pháp luật về

kiểm soát TTHCCT của Việt Nam đã đủ mạnh, chỉ cần xây dựng chương trình

khoan hồng tốt nhằm khuyến khích các bên tham gia tự mình phá vỡ TTHCCT

cũng như chủ động phối hợp với cơ quan cạnh tranh trong quá trình điều tra giải

quyết vụ việc. Nghiên cứu kinh nghiệm này rất cần khi mà các TTHCCT ngầm,

TTHCCT xuyên biên giới đang ngày một phổ biến đe dọa nền KTTT non trẻ và

thách thức cơ quan cạnh tranh còn mới mẻ của Việt Nam.

- Trong thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT, tuân thủ nghiêm pháp

luật là rất cần thiết vì hạn chế vi phạm pháp luật ở ngay bước đầu tiên. Cả EU và

Hoa Kỳ đều khuyến khích các doanh nghiệp xây dựng chương trình tuân thủ

dành cho các lãnh đạo, nhân viên và cả người làm công của mình. Việt Nam có

thể khuyến khích các doanh nghiệp xây dựng và vận hành chương trình tuân thủ

pháp luật về kiểm soát TTHCCT trước hết là vì lợi ích của chính mình. Kinh

nghiệm cho thấy động lực để doanh nghiệp xây dựng và vận hành chương trình

tuân thủ pháp luật chính là việc áp dụng pháp luật nghiêm minh, doanh nghiệp

nhận thức được rằng mọi hành vi TTHCCT vi phạm pháp luật đều sẽ bị xử lý và

xử lý nghiêm.

- Hoa Kỳ và EU đều cho rằng cần phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc đủ

để trừng phạt và ngăn ngừa, và thực tiễn đã áp dụng những hình phạt nặng đối

với các doanh nghiệp vi phạm. Ngoài thiệt hại là khoản tiền phạt, doanh nghiệp

còn phải chi trả khoản bồi thường thiệt hại cho các nạn nhân của TTHCCT và

khoản này có thể lên đến mức gấp ba lần của thiệt hại thực tế đã xảy ra, áp dụng

bồi thường thiệt hại trở thành một công cụ chính trong kiểm soát TTHCCT, vì

thế có thể mang lại tác dụng ngăn chặn những vi phạm tiềm năng.

Kinh nghiệm cho thấy bên cạnh những quy định chung về bồi thường thiệt

hại dân sự, Việt Nam cần có những quy định bồi thường thiệt đặc biệt cho các vụ

việc TTHCCT để tăng tác dụng trừng phạt. Bộ luật Hình sự 2015 đã quy định

biện pháp trách nhiệm hình sự cho hành vi TTHCCT vi phạm pháp luật, cần đẩy

72

mạnh áp dụng kinh nghiệm của Hoa Kỳ bởi vì: 1) Phạt tù cho cá nhân có tác

động không cần bàn cãi bởi án phạt tù thì người bị kết án phải trực tiếp chịu

"miễn là bạn chỉ nói về tiền, công ty có thể chăm sóc tôi sau... Nhưng một khi

bạn bắt đầu nói về việc lấy đi tự do của tôi, không có gì công ty có thể làm cho tôi"

[91, tr.6]; 2) Áp dụng trách nhiệm hình sự cho doanh nghiệp mang lại hiệu quả theo

nhiều cách riêng biệt: Thứ nhất, trách nhiệm hình sự cho doanh nghiệp có thể làm

"ô danh" doanh nghiệp, Thứ hai, nó hỗ trợ với bồi thường thiệt hại dân sự để tăng

tác dụng ngăn ngừa, Thứ ba, trách nhiệm hình sự tác động đến người tham gia

TTHCCT để họ tố cáo những người đồng mưu nhằm hưởng khoan hồng.

- Trong thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT cần kết hợp các hình thức

thực hiện pháp luật bởi mỗi hình thức thực hiện pháp luật đều tương tác với những

hình thức khác, kinh nghiệm cho thấy để đạt hiệu quả cao trong thực hiện pháp luật

về kiểm soát TTHCCT cần phát huy vai trò của doanh nghiệp, hiệp hội kết hợp với

nỗ lực của cơ quan cạnh tranh. Qua chương trình tuân thủ pháp luật của EU và Hoa

Kỳ hay qua việc sử dụng quyền đề nghị khoan hồng, điều đình của doanh nghiệp

đều cho thấy sự tương tác giữa các hình thức thực hiện pháp luật của các chủ thể

khác nhau. Việt Nam cần học tập kinh nghiệm này để xây dựng một chiến lược

đồng bộ bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT không chỉ từ sự nỗ lực

của cơ quan cạnh tranh mà còn là phát huy vai trò của doanh nghiệp, của hiệp hội,

của người tiêu dùng trong xã hội.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Chương 2 của Luận án có tiêu đề: Cơ sở lý luận của thực hiện pháp luật về

kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.

Phù hợp với tiêu đề trên, tại Chương 2 đã sử dụng các Lý thuyết của kinh tế học

và luật học để nghiên cứu và xây dựng khái niệm và đặc điểm thực hiện pháp luật

về kiểm soát TTHCCT. Khái niệm và đặc điểm thực hiện pháp luật về kiểm soát

TTHCCT thể hiện những điểm đặc thù của lĩnh vực kiểm soát TTHCCT trên nền

tảng chung của thực hiện pháp luật. Từ cơ sở kinh tế - pháp lý của pháp luật về

kiểm soát TTHCCT, luận án cũng đã xác định cơ cấu và những nội dung điều

chỉnh mà pháp luật về kiểm soát TTHCCT cần phải có. Bốn hình thức thực hiện

pháp luật về kiểm soát TTHCCT là tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và áp

73

dụng pháp luật cũng được nghiên cứu và phân tích trên nền tảng lý luận nhà

nước và pháp luật về thực hiện pháp luật.

Các Lý thuyết của kinh tế học và luật học cũng được sử dụng để luận thuyết về

mục tiêu và vai trò kiểm soát của nhà nước đối với TTHCCT là nhằm bảo vệ cạnh

tranh tự do và bình đẳng theo pháp luật để thiết lập môi trường kinh doanh lành mạnh

trong nền KTTT, từ đó mới bảo vệ được lợi ích của doanh nghiệp, người tiêu cùng và

lợi ích xã hội. Đó là cơ sở, là yêu cầu để nhà nước cần phải xây dựng pháp luật với

các nội dung điều chỉnh phù hợp với bản chất và cơ chế vận hành của một TTHCCT,

chú trọng những bảo đảm về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội trong thực hiện pháp

luật về kiểm soát TTHCCT để phát huy thuận lợi, khắc phục rào cản nhằm phát huy

vai trò của thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT trong thực tiễn xây dựng nền

KTTT định hướng XHCN Việt Nam.

Chương 2 của luận án cũng đã nghiên cứu thực hiện pháp luật về kiểm soát

TTHCCT của Liên minh châu Âu và Hoa Kỳ, chọn lọc những kinh nghiệm nổi bật

đó là xây dựng chương trình khoan hồng, thiết lập chương trình tuân thủ pháp luật

tại doanh nghiệp, áp dụng chế tài nghiêm minh và kết hợp nhiều phương pháp cách

thức thực hiện pháp luật, qua phân tích cho thấy những ưu điểm nổi bật và khả năng

hoàn toàn có thể áp dụng tại Việt Nam.

Những nội dung lý luận mà chương 2 nghiên cứu là cơ sở để đánh giá khách

quan, toàn diện thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về kiểm soát

TTHCCT tại Việt Nam tại Chương 3, cũng là cơ sở cho việc đề xuất và luận

chứng các quan điểm, giải pháp thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT được

trình bày ở Chương 4 của luận án.

74

Chương 3

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT

VỀ KIỂM SOÁT THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH

3.1. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT THỎA THUẬN HẠN

CHẾ CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1.1. Quá trình hình thành, phát triển pháp luật về kiểm soát thỏa

thuận hạn chế cạnh tranh

Trong lĩnh vực pháp luật kinh tế, pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam ra đời

khá muộn. Văn bản luật đầu tiên trực tiếp ghi nhận và bảo vệ quyền tự do cạnh

tranh là Luật Thương mại năm 1997, tuy nhiên Luật Thương mại 1997 chỉ điều

chỉnh các hành vi cạnh tranh không lành mạnh như bán phá giá, đầu cơ, gièm

pha thương nhân khác... Luật Các tổ chức tín dụng 1997 cũng ghi nhận "Các tổ

chức hoạt động ngân hàng được hợp tác và cạnh tranh hợp pháp" tại Điều 16

nhưng tương tự như Luật Thương mại 1997, các hành vi luật nghiêm cấm cũng

là những hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Thời điểm này việc kiểm soát

hành vi hạn chế cạnh tranh vẫn còn hoàn toàn xa lạ với pháp luật Việt Nam.

Pháp lệnh Giá số 40/2002/PL-UBTVQH có thể được xem là văn bản quy

phạm pháp luật đầu tiên quy định về kiểm soát TTHCCT khi cấm các tổ chức, cá

nhân sản xuất, kinh doanh "Cấu kết với tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh

khác để liên kết độc quyền về giá, gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức,

cá nhân sản xuất, kinh doanh khác, của người tiêu dùng và lợi ích của Nhà nước"

(Điều 28, Khoản 1). Đây là các hành vi thỏa thuận ấn định giá sau này đã được

Luật Cạnh tranh 2004 điều chỉnh, tuy nhiên, chỉ một điều khoản nhỏ trong Pháp

lệnh Giá chưa đủ hình thành chế định pháp luật về kiểm soát TTHCCT.

Xuất phát từ những yêu cầu khách quan của đời sống kinh tế xã hội, cũng là

từ yêu cầu hoàn thiện khung pháp lý về KTTT nhằm gia nhập Tổ chức Thương

mại thế giới (WTO), đến năm 2003 Chính phủ chính thức giao Bộ Thương mại

chủ trì xây dựng Dự thảo Luật Cạnh tranh và ngày 03/12/2004 Quốc hội khóa XI

đã thông qua Luật Cạnh tranh 2004. Đây là văn bản luật chính thức và đầy đủ

75

nhất về pháp luật cạnh tranh, gồm cả luật nội dung và luật hình thức, điều chỉnh

hai loại hành vi: Cạnh tranh không lành mạnh và hạn chế cạnh tranh. Với sự ra

đời của Luật Cạnh tranh 2004, pháp luật về kiểm soát TTHCCT được hình thành

tương đối đầy đủ, có vị trí là luật chung. Bên cạnh đó, các văn bản luật khác như

Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Đấu thầu, Luật Giá, Luật Chứng khoán… có quy định

về kiểm soát TTHCCT trong lĩnh vực mà mình điều chỉnh được coi là luật

chuyên ngành.

Năm 2015, với tinh thần cần phải quy định là tội phạm đối với những hành

vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội,

khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế, Bộ luật Hình sự (sửa đổi) đã bổ sung

một điều luật mới "Tội vi phạm các quy định về cạnh tranh" với quy định hình

phạt chính là phạt tiền và phạt tù, mức phạt tiền có thể lên tới 3 tỷ đồng, mức

phạt tù có thể lên tới 05 năm cùng với các hình phạt bổ sung cho những chủ thể

trực tiếp tham gia hoặc thực hiện các hành vi TTHCCT bị cấm (Điều 217). Bộ

luật Hình sự 2015 có hiệu lực thi hành đánh dấu mốc lần đầu tiên Việt Nam áp

dụng biện pháp hình sự cho hành vi TTHCCT vi phạm pháp luật nhằm đảm bảo

kiểm soát TTHCCT.

Bối cảnh kinh tế - xã hội của Việt Nam thời gian qua đã có nhiều thay đổi,

đặc biệt khi hội nhập sâu, rộng hơn với nền kinh tế thế giới. Tình hình đó đã

khiến một số nội dung của Luật Cạnh tranh không còn phù hợp. Do vậy, Quốc

hội khóa XIV đã quyết định sửa đổi Luật Cạnh tranh 2004, tại kỳ họp thứ 5 Dự

thảo Luật Cạnh tranh (sửa đổi) đã được thông qua và sẽ có hiệu lực từ 01/7/2019

với nhiều nội dung liên quan đến kiểm soát TTHCCT, đưa pháp luật về kiểm

soát TTHCCT đến những bước phát triển mới.

3.1.2. Những thành tựu của pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế

cạnh tranh

Thứ nhất, sự hình thành pháp luật về kiểm soát TTHCCT đánh dấu lần đầu

tiên Việt Nam có được một hệ thống pháp luật tương đối toàn diện gồm cả luật

nội dung và luật hình thức về kiểm soát TTHCCT. Vị thế pháp lý của Việt Nam

trong lĩnh vực này là khá cao so với các nước trong khu vực ASEAN, chỉ sau

76

Thái Lan, Indonesia (năm 1999) và cùng thời điểm với Singapore. Pháp luật về

kiểm soát TTHCCT của Việt Nam đã thể hiện được tinh thần bảo vệ cạnh tranh

tự do và công bằng, về cơ bản tương đồng với pháp luật cạnh tranh của nhiều

quốc gia trên thế giới, đáp ứng phần nào yêu cầu hội nhập quốc tế của Việt Nam.

Thứ hai, pháp luật về kiểm soát TTHCCT được xây dựng theo cấu trúc quy

định hành vi/cấm/miễn trừ. Quy định về xử lý vi phạm và quy định về trình tự,

thủ tục điều tra và xử lý vụ việc TTHCCT được thiết kế ở một chương riêng

(chương V Điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh ở Luật Cạnh tranh 2004). Đây là

một cấu trúc hợp lý, chặt chẽ, tạo điều kiện tiếp cận nội dung của pháp luật một

cách dễ dàng.

Thứ ba, pháp luật về kiểm soát TTHCCT đã điều chỉnh tương đối đầy đủ

các quan hệ phát sinh từ hành vi TTHCCT:

- Xác định được các hành vi TTHCCT và bản chất của TTHCCT. Khoản 3,

Điều 3 Luật Cạnh tranh 2004 đã giải thích rõ ràng về "hành vi hạn chế cạnh

tranh", là hành vi của doanh nghiệp "làm giảm, làm sai lệch, cản trở cạnh tranh

trên thị trường". Luật Cạnh tranh 2004 và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng

đã định hình về một loại hành vi mới mà trước đó chưa từng được điều chỉnh, về

cơ bản đã xác định được những TTHCCT cần kiểm soát trên thị trường.

- Đã xây dựng "khung pháp lý" cơ bản về kiểm soát TTHCCT, bao gồm:

Các quy định kiểm soát TTHCCT theo hai nhóm bị cấm tuyệt đối và bị cấm có

điều kiện; quy định về xử lý vi phạm với các biện pháp xử lý đa dạng như cảnh

cáo, phạt tiền, phạt bổ sung, cùng các biện pháp khắc phục hậu quả và các tình

tiết giảm nhẹ, tăng nặng; các quy định về miễn trừ. Có thể thấy, khung pháp lý

này bước đầu đáp ứng yêu cầu kiểm soát TTHCCT. Trên thực tế cơ quan quản lý

cạnh tranh cũng đã áp dụng để xử lý hai vụ việc TTHCCT vào năm 2010 và năm

2013 và đánh giá các quy định pháp luật về kiểm soát hành vi TTHCCT, các quy

định về xử lý vi phạm, trình tự, thủ tục điều tra và xử lý vụ việc "được thực thi

khá hiệu quả" [15, tr.30].

Thứ tư, pháp luật cạnh tranh đã tạo cơ sở pháp lý để xây dựng và tổ chức

hoạt động đối với các cơ quan thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT là Hội

77

đồng cạnh tranh và Cục CT&BVNTD. Trên thực tế, hoạt động của các cơ quan

này đã đạt được những thành tích đáng ghi nhận.

3.1.3. Những hạn chế của pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế

cạnh tranh

Bên cạnh những kết quả đạt được, pháp luật về kiểm soát TTHCCT đã và

đang bộc lộ những hạn chế nhất định.

Một là, các quy định về hành vi TTHCCT hiện nay vẫn chưa đầy đủ, và

chưa bao quát hết các dạng thức TTHCCT trong thực tiễn. Xác định một

TTHCCT cần phải có ít nhất hai yếu tố, một là "thỏa thuận", hai là "hạn chế cạnh

tranh". Pháp luật hiện hành đã làm rõ về "hạn chế cạnh tranh" tại Khoản 3 Điều 3

Luật Cạnh tranh 2004 nhưng yếu tố "thỏa thuận" đã bị bỏ sót. Bên cạnh đó, pháp

luật hiện hành quy định theo kiểu liệt kê cụ thể các loại TTHCCT đã làm thu hẹp

phạm vi điều chỉnh của pháp luật. Cách xây dựng quy định về hành vi TTHCCT

cứng nhắc và hẹp của pháp luật Việt Nam hoàn toàn không theo kịp thực tiễn, có

thể bỏ sót những TTHCCT gây tác dụng tiêu cực, cũng như gây khó khăn cho cơ

quan thực thi pháp luật khi nhận thấy có biểu hiện TTHCCT nhưng không có

công cụ pháp lý để điều tra và xử lý vi phạm.

Hai là, các quy định về cấm TTHCCT còn nhiều hạn chế, quy định về

nhóm TTHCCT bị cấm có điều kiện sử dụng thị phần là cơ sở duy nhất để xác

định điều kiện cấm chưa hợp lý, quy định về nhóm TTHCCT bị cấm tuyệt đối

bất cập và không tương thích với pháp luật nhiều quốc gia trên thế giới.

Pháp luật kiểm soát TTHCCT của Việt Nam chia thành hai nhóm: Nhóm

TTHCCT bị cấm tuyệt đối và nhóm TTHCCT bị cấm có điều kiện. Quy định

như vậy là phù hợp, bởi lẽ tuy cùng là TTHCCT nhưng mức độ tác động hạn chế

cạnh tranh là khác nhau.

Những TTHCCT bị cấm tuyệt đối là những thỏa thuận mang bản chất hạn

chế cạnh tranh, thường áp dụng với các TTHCCT nghiêm trọng như thỏa thuận

ấn định giá hàng hóa một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, thỏa thuận hạn chế hoặc

kiểm soát sản lượng, thỏa thuận phân chia thị trường, khu vực, khách hàng và

thông đồng đấu thầu [15, tr.13]. Trong các TTHCCT thuộc nhóm bị cấm tuyệt

78

đối theo Luật Cạnh tranh 2004 không có thỏa thuận ấn định giá, thỏa thuận hạn

chế sản lượng hoặc hạn ngạch, thỏa thuận phân chia thị trường. Thay vào đó,

thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường

hoặc phát triển kinh doanh và thoả thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh

nghiệp, không phải là các bên của thỏa thuận được xem là TTHCCT nghiêm

trọng. Trong điều kiện riêng của nền KTTT Việt Nam, những thỏa thuận ngăn

cản, kìm hãm, loại bỏ mang lại tác hại nghiêm trọng nên cần cấm tuyệt đối,

nhưng cũng cần xem xét đánh giá những TTHCCT mà nhiều quốc gia xếp vào

nhóm TTHCCT nghiêm trọng, chẳng hạn thỏa thuận giữa các đối thủ cạnh tranh

về giá là một trong những TTHCCT nghiêm trọng "Sở dĩ như vậy vì giá cả là

một trong những yếu tố cơ bản của thị trường" [38, tr.55], ngoài gây tác hại

nghiêm trọng cho nền kinh tế còn tác hại lớn đến người tiêu dùng "Hoa Kỳ cho

rằng giá đã tăng lên đến 60 -70% do thỏa thuận ấn định giá" [115, tr.25]. Nếu

không cấm tuyệt đối với những TTHCCT này, pháp luật về kiểm soát TTHCCT

Việt Nam sẽ thiếu tương đồng với thế giới, gây bất cập trong thực thi đối với

những thỏa thuận ấn định giá, thỏa thuận hạn chế sản lượng hoặc hạn ngạch,

thỏa thuận phân chia thị trường xuyên biên giới hiện đang rất phổ biến.

Đối với nhóm bị cấm có điều kiện, Luật Cạnh tranh 2004 quy định điều

kiện để xem xét duy nhất là mức thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ

30% trở lên của nhóm doanh nghiệp tham gia thỏa thuận, trong khi nhiều quốc

gia khác xem xét trên cơ sở đánh giá, cân nhắc giữa các tác động tích cực và tiêu

cực của hành vi. Lý thuyết kinh tế đã xác định rằng tác hại của một TTHCCT

phụ thuộc vào sức mạnh thị trường của nhóm doanh nghiệp tham gia thỏa thuận

[38, tr.224]. Sức mạnh thị trường được xác định dựa trên nhiều yếu tố như cấu

trúc thị trường, thị phần, tỷ lệ tập trung, rào cản gia nhập thị trường... trong đó

mức thị phần kết hợp trên thị trường liên quan chỉ là một trong những yếu tố

phản ánh khả năng chi phối thị trường của nhóm doanh nghiệp tham gia thỏa

thuận, không đánh giá hoàn toàn được khả năng gây hạn chế cạnh tranh. Ngoài

ra, trong nền kinh tế, mỗi một ngành lại có đặc điểm thị trường riêng, có thể có

những thị trường mà ngưỡng thị phần kết hợp tới 30% vẫn chưa đủ tạo hệ quả

79

tác động đến thị trường. Do đó, chỉ sử dụng thị phần là cơ sở duy nhất và quy

định chung về một ngưỡng thị phần kết hợp 30% cho tất cả các thị trường, các

ngành nghề, lĩnh vực là bất cập của pháp luật về kiểm soát TTHCCT Việt Nam.

Ba là, quy định về xử lý vi phạm pháp luật chưa phân định rõ hình thức xử

lý đối với từng nhóm TTHCCT bị cấm, căn cứ để xác định mức phạt chưa chính

xác và những quy định về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ chưa đầy đủ.

Mặc dù pháp luật quy định hai nhóm TTHCCT bị cấm tuyệt đối và bị cấm

có điều kiện nhưng lại quy định cùng các hình thức xử lý khi vi phạm pháp luật.

Hình phạt chính là cảnh cáo và phạt tiền, trong đó phạt tiền được xác định theo

mức "đến 10% tổng doanh thu trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi

vi phạm" đối với từng doanh nghiệp tham gia TTHCCT.

Tuy nhiên, pháp luật chỉ quy định về tổng doanh thu một cách chung chung

chứ không quy định rõ tổng doanh thu để xác định mức phạt phải là doanh thu

trên thị trường liên quan, trong khi "một trong những ý nghĩa quan trọng của

việc xác định thị trường liên quan là nhằm xác định mức độ, phạm vi tác động,

gây hạn chế cạnh tranh của hành vi thỏa thuận" [15, tr.42].

Các quy định về xử lý vi phạm đối với TTHCCT quy định mức phạt tiền tối

đa đến 10% tổng doanh thu của năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi

phạm, nhưng lại không quy định về mức phạt tiền tối thiểu.

Tuy có quy định nhiều tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng nhưng pháp luật

chưa có quy định về giảm nhẹ cho những người vô tình tham gia hoặc những

người đã ngưng ngay hành vi TTHCCT khi cơ quan quản lý cạnh tranh can thiệp

cũng như chưa có tình tiết tăng nặng cho những người khởi xướng, những người

tổ chức, những người đóng vai trò chủ chốt trong một TTHCCT.

Bốn là, các quy định về miễn trừ thiếu bao quát, cách tiếp cận về các điều

kiện miễn trừ còn đơn giản chưa thực sự đi vào bản chất của TTHCCT.

Luật Cạnh tranh 2004 qui định chỉ áp dụng miễn trừ đối với các TTHCCT

bị cấm có điều kiện. Trường hợp được xem xét miễn trừ có thời hạn phải đáp

ứng một trong các điều kiện sau đây nhằm hạ giá thành, có lợi cho người tiêu

dùng: hợp lý hoá cơ cấu tổ chức, mô hình kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh

80

doanh; thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch

vụ; thúc đẩy việc áp dụng thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ

thuật của chủng loại sản phẩm; thống nhất các điều kiện kinh doanh, giao hàng,

thanh toán nhưng không liên quan đến giá và các yếu tố của giá; tăng cường sức

cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa và tăng cường sức cạnh tranh của doanh

nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế. Như vậy, quy định để được miễn trừ

bao gồm hai điều kiện: 1) Phải đáp ứng một trong sáu điều kiện cụ thể luật định,

2) Phải đạt được mục đích cuối cùng là hạ giá thành, có lợi cho người tiêu dùng.

Quy định về miễn trừ được xây dựng theo phương thức liệt kê nên có kết cấu

khép kín. Ưu điểm của liệt kê là cụ thể, rõ ràng nhưng nhược điểm chính là khả

năng bỏ sót những trường hợp TTHCCT có thể "hạ giá thành, có lợi cho người tiêu

dùng" nhưng không chứng minh được là thuộc một trong sáu điều kiện xác định

trên. Luật Cạnh tranh 2018 (sửa đổi) vẫn tiếp tục theo phương thức liệt kê này.

Về tiêu chí, "hạ giá thành, có lợi cho người tiêu dùng" là các tiêu chí tích

cực, nhưng tích cực đến mức nào đi nữa cũng không bù lại được tác hại của một

TTHCCT có thể gây ra, bởi bản chất của TTHCCT là luôn làm hạn chế cạnh

tranh trên thị trường, khi đó hạ giá thành, có lợi cho người tiêu dùng chỉ là lợi

ích ngắn hạn, về lâu dài khi thị trường bị hạn chế cạnh tranh thì chính người tiêu

dùng sẽ phải chịu tác hại từ giá độc quyền. Pháp luật cạnh tranh của Liên minh

Châu Âu (EU) về miễn trừ cũng đề cao yếu tố "chia sẻ lợi ích cho người tiêu

dùng", nhưng đó chỉ là "điều kiện cần", để được hưởng miễn trừ phải kèm theo

"điều kiện đủ", đó là những điều khoản về hạn chế trong thỏa thuận phải là

những điều khoản cần thiết, không thể thiếu được để đạt được những hiệu quả

tích cực trên và thỏa thuận phải không loại bỏ cạnh tranh trên thị trường liên

quan [64, tr.48]. Kinh nghiệm của EU có thể là bài học để Việt Nam tham khảo

trong quá trình hoàn thiện pháp luật về miễn trừ đối với TTHCCT.

Năm là, một số nội dung quan trọng chưa được pháp luật điều chỉnh, dẫn

đến pháp luật về kiểm soát TTHCCT Việt Nam thiếu hoàn thiện. Cụ thể như sau:

- Chính sách khoan hồng là nội dung phổ biến trong pháp luật về kiểm soát

TTHCCT của nhiều nước, được sử dụng như một công cụ quan trọng trong cuộc

81

chiến chống các-ten, nhưng vắng bóng ở Việt Nam. Luật Cạnh tranh 2018 (sửa

đổi) đã khắc phục thiếu sót này, nhưng Luật chưa có hiệu lực thi hành.

- Thiếu các quy định về trách nhiệm pháp lý cho các cá nhân là quản lý,

lãnh đạo doanh nghiệp tham gia TTHCCT và trách nhiệm pháp lý cho hiệp hội.

Theo quy định tại Luật Cạnh tranh 2004, đối tượng bị xử lý vi phạm pháp luật

về kiểm soát TTHCCT là các doanh nghiệp, bao gồm cả doanh nghiệp sản xuất,

cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, doanh nghiệp hoạt động trong các ngành,

lĩnh vực thuộc độc quyền nhà nước và doanh nghiệp nước ngoài hoạt động ở Việt

Nam. Tuy Bộ luật Hình sự đã quy định hình phạt cho cá nhân tham gia TTHCCT vi

phạm nhưng pháp luật cạnh tranh chưa cụ thể hóa về biện pháp xử phạt dành riêng

cho lãnh đạo, quản lý của doanh nghiệp để có tác dụng ngăn chặn cao hơn.

Luật Cạnh tranh 2004 quy định hiệp hội ngành nghề bao gồm hiệp hội

ngành hàng và hiệp hội nghề nghiệp, là đối tượng áp dụng của Luật, tuy nhiên

hiện quy định về xử lý vi phạm đối với TTHCCT chưa xem xét chế tài đối với

đối tượng hiệp hội ngành nghề. Bộ luật Hình sự 2015 cũng chỉ áp dụng cho đối

tượng cá nhân và pháp nhân thương mại. Do đó, chủ thể đặc biệt hiệp hội đã bị

bỏ sót trong các quy định về chế tài của pháp luật về kiểm soát TTHCCT.

- Quy định về bồi thường thiệt hại trong vụ việc TTHCCT quá chung

chung, không đủ cơ sở pháp lý để thực hiện.

Tại Điều 117 Luật Cạnh tranh 2004 về các hình thức xử phạt vi phạm pháp

luật về cạnh tranh và các biện pháp khắc phục hậu quả có quy định rằng "Tổ

chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh gây thiệt hại đến lợi

ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác thì phải

bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật" và Nghị định số 71/2014/NĐ-

CP cũng quy định việc bồi thường thiệt hại được thực hiện theo các quy định của

pháp luật về dân sự. Tuy nhiên bồi thường thiệt hại trong vụ việc TTHCCT có

điểm khác biệt so với bồi thường thiệt hại của pháp luật dân sự, đó là bồi thường

thiệt hại không phải cho các bên tham gia thỏa thuận, mà cho bên thứ ba bị thiệt

hại, có thể là người tiêu dùng, các doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận,

khách hàng và thậm chí là nhà nước; xác định thiệt hại để yêu cầu bồi thường

82

trong vụ việc TTHCCT rất khó vì đòi hỏi phải có phân tích thực tế và kinh tế

phức tạp... nên nếu chỉ trên cơ sở các quy định của pháp luật về dân sự thì không

đủ để có thể áp dụng bồi thường thiệt hại trong thực tế, hay nói cách khác, hiện

đang thiếu một quy định về bồi thường thiệt hại mang tính "chuyên ngành" khi

áp dụng bồi trường thiệt hại trong vụ việc TTHCCT.

Tóm lại, pháp luật về kiểm soát TTHCCT của Việt Nam chỉ mới hình thành

và phát triển trong hơn một thập kỷ qua, nhưng đã có được những kết quả bước

đầu trong việc tạo dựng hành lang pháp lý để góp phần bảo vệ môi trường cạnh

tranh công bằng, lành mạnh, bảo vệ quyền cạnh tranh tự do bình đẳng, quyền và

lợi ích hợp pháp của các chủ thể hoạt động trên thị trường. Những phân tích về

các hạn chế, bất cập sẽ là cơ sở để góp phần hoàn thiện pháp luật về kiểm soát

TTHCCT Việt Nam. Thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT là quá trình

đưa pháp luật về kiểm soát TTHCCT vào thực tiễn. Những thành tựu, những hạn

chế của pháp luật về kiểm soát TTHCCT như trên đều có những tác động tích

cực và tiêu cực đến thực trạng thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt

Nam hiện nay.

3.2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT THỎA

THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Thực trạng thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT được đánh giá thông

qua việc thực hiện các nội dung pháp luật với các hình thức thực hiện đa dạng như

tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật.

3.2.1. Thực trạng thực hiện các quy định về hành vi thỏa thuận hạn chế

cạnh tranh và những thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm

3.2.1.1. Thực trạng triển khai thực hiện các quy định về hành vi thỏa

thuận hạn chế cạnh tranh và những thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm

- Về phía cơ quan quản lý cạnh tranh:

Kể từ khi Luật Cạnh tranh 2004 có hiệu lực thi hành, cơ quan quản lý cạnh

tranh đã có nhiều nỗ lực để đưa pháp luật về kiểm soát TTHCCT đi vào thực tiễn

và tăng cường sự tiếp cận của cộng đồng và doanh nghiệp với các quy định về

hành vi TTHCCT và những TTHCCT bị cấm. Chính các chủ thể kinh doanh

83

"cũng đánh giá cao nỗ lực của các cơ quan thực thi pháp luật về cạnh tranh, mà

cụ thể là Bộ Công Thương và Cục CT&BVNTD, trong việc đưa các quy định

luật vào đời sống doanh nghiệp" [50, tr.43].

+ Trong bối cảnh pháp luật về kiểm soát TTHCCT là lĩnh vực hoàn toàn

mới mẻ ở Việt Nam, cơ quan quản lý cạnh tranh đã đặc biệt chú trọng đến công

tác tuyên truyền phổ biến pháp luật nhằm tăng cường sự tiếp cận của cộng đồng

và doanh nghiệp.

Cơ quan quản lý cạnh tranh đã phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước ở

địa phương, với các tổ chức khác để tổ chức nhiều hội thảo, hội nghị và các khóa

tập huấn với chủ đề đa dạng, phong phú nhằm trao đổi kiến thức, chia sẻ kinh

nghiệm về pháp luật cạnh tranh cho cộng đồng, doanh nghiệp và các cơ quan quản

lý nhà nước khác. Các hội thảo, tập huấn này không chỉ được tổ chức ở Hà Nội và

Thành phố Hồ Chí Minh, mà còn được tổ chức ở nhiều địa phương khác như Thanh

Hóa, Hải Phòng, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Cần Thơ. Đặc biệt, cơ quan quản lý cạnh

tranh đã có sáng kiến thực thi những hoạt động tuyên truyền phổ biến pháp luật tập

trung hướng tới những doanh nghiệp trong ngành nhất định, đó là các hội thảo về

thực thi pháp luật cạnh tranh trong ngành xây dựng (ba hội thảo năm 2012), ngành

dược phẩm (2012, 2013), vận tải biển (2013), truyền hình trả tiền (2013), ngành vật

liệu xây dựng (2014) và hai hội thảo với chủ đề "10 năm thực thi Luật Cạnh tranh -

Góc nhìn từ phía doanh nghiệp" tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh vào tháng

11/2015 đều được nhiều doanh nghiệp quan tâm tham dự. Những hội thảo theo từng

chuyên đề để đóng góp cho việc sửa đổi Luật Cạnh tranh 2004 được cơ quan quản

lý cạnh tranh tích cực triển khai đã trở thành vấn đề thời sự đối với các nhà nghiên

cứu, các hiệp hội và doanh nghiệp thời gian qua.

Cơ quan quản lý cạnh tranh cũng rất chú trọng việc thông tin trên trang

web. Trang web của Cục CT&BVNTD ra đời từ tháng 4/2007, thông tin rất đa

dạng và phong phú, từ phổ biến pháp luật cơ bản, nghiên cứu nâng cao, thông tin

hợp tác quốc tế... đến các chuyên đề chuyên sâu về các-ten, các hành vi thông

đồng đấu thầu, kỹ năng điều tra và kinh nghiệm xử lý TTHCCT vi phạm pháp

luật và đã được doanh nghiệp đánh giá rằng "Trang web của Cục CT&BVNTD,

với kết cấu hợp lý và lượng thông tin đa dạng, thực sự là một nguồn tư liệu hữu

84

ích cho chúng tôi trong quá trình nghiên cứu về pháp luật cạnh tranh và thực tiễn

thi hành pháp luật" [50, tr.43].

Ngoài ra, các ấn phẩm cũng là công cụ tuyên truyền phổ biến về pháp luật

cạnh tranh hữu hiệu của cơ quan quản lý cạnh tranh. Cơ quan quản lý cạnh tranh

đã rất nỗ lực để mà trong bối cảnh một số quy định của luật vẫn còn chưa được

quy định cụ thể hóa, thì "các báo cáo thường niên về thực thi luật cạnh tranh... và

gần đây nhất là báo cáo rà soát các quy định của luật cạnh tranh của Cục

CT&BVNTD đã cung cấp các thông tin bổ ích, và quan trọng cho doanh nghiệp

trong việc định hướng và theo dõi các thể chế luật cạnh tranh" [67, tr.16]. Một số

ấn phẩm chuyên sâu về kiểm soát TTHCCT như Bộ tài liệu đào tạo "Kỹ năng

điều tra cạnh tranh", Sổ tay hướng dẫn quy trình điều tra vụ việc hạn chế cạnh

tranh, Báo cáo "Pháp luật cạnh tranh điều chỉnh hành vi phản cạnh tranh trong hệ

thống Dược phẩm tại thị trường Việt Nam"... chứa đựng nhiều thông tin bổ ích.

Bản tin cạnh tranh cũng "dần dần đã được cộng đồng độc giả đánh giá cao, mang

tính thiết thực trong việc phổ biến pháp luật và chính sách cạnh tranh tới các cơ

quan quản lý và cộng đồng xã hội" [68, tr.106].

+ Cơ quan quản lý cạnh tranh cũng tích cực thực thi trách nhiệm của mình

trong hoạt động tư vấn, hỗ trợ doanh nghiệp. Về hoạt động tư vấn, hỗ trợ gián

tiếp, cơ quan quản lý cạnh tranh đã tiến hành nghiên cứu và công bố rất nhiều

báo cáo có giá trị tham vấn, như báo cáo tình hình cạnh tranh trong các ngành,

lĩnh vực kinh tế năm 2010-2015, các báo cáo rà soát Luật Cạnh tranh các năm

2011, 2012, báo cáo rà soát pháp luật cạnh tranh với pháp luật chuyên ngành

năm 2014... Những báo cáo đánh giá này cung cấp cho các chủ thể kinh doanh

bức tranh tổng quan về các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế, về cấu trúc thị

trường, thực tiễn cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường, khung pháp lý,

từ đó có thể hỗ trợ cho doanh nghiệp trong xây dựng và thực hiện chiến lược

kinh doanh của mình. Hoạt động tư vấn, hỗ trợ trực tiếp đã được Cục

CT&BVNTD tích cực triển khai, tuy nhiên do phía doanh nghiệp chưa chú trọng

sử dụng quyền của mình nên cơ quan quản lý cạnh tranh hiện chủ yếu thực hiện

tham vấn, tư vấn cho các lĩnh vực cạnh tranh khác.

85

+ Để giám sát hành vi TTHCCT trên thị trường, chấn chỉnh hành vi

TTHCCT của doanh nghiệp trong giới hạn pháp luật cho phép, phát hiện các

TTHCCT bị cấm, Cục CT&BVNTD đã có rất nhiều nỗ lực trong việc nghiên

cứu cấu trúc thị trường, nghiên cứu hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong

thực tiễn, từ kết quả hoạt động giám sát tình hình cạnh tranh có thể nhắc nhở

chấn chỉnh doanh nghiệp và cũng có thể tiến hành điều tra tiền tố tụng với các

hành vi nghi vấn vi phạm pháp luật. Những hoạt động nổi bật như nhắc nhở Hiệp

hội Thép Việt Nam về thỏa thuận thống nhất giữ giá thép, phối hợp với Cục

Hàng hải (Bộ Giao thông vận tải) rà soát, giám sát việc các hãng tàu biển nước

ngoài thu các loại phụ phí đối với hàng hóa xuất nhập khẩu, tham gia đoàn công

tác liên ngành về hiện tượng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thao túng

thị trường thức ăn thủy sản tại Việt Nam, nghiên cứu vụ việc liên quan đến giá

sữa trên thị trường, phối hợp và tổ chức làm việc với các cơ quan, đơn vị có liên

quan về tình trạng một số doanh nghiệp bảo hiểm có dấu hiệu thỏa thuận trên thị

trường bảo hiểm tàu cá, giám sát các doanh nghiệp truyền hình trả tiền có hành

vi thống nhất giá đàm phán mua bản quyền phát sóng chương trình giải bóng đá

ngoại hạng Anh, thu thập thông tin để báo cáo Lãnh đạo Cục ra văn bản khuyến

cáo Hiệp hội Mía đường Việt Nam về văn bản của Hiệp hội gởi cho các thành

viên khuyến cáo không tự ý tăng giá thu mua mía nguyên liệu...

Khi cơ quan quản lý cạnh tranh tích cực thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của

mình, kết quả là đã góp phần nâng cao ý thức của cộng đồng, giảm thiểu các hành

vi TTHCCT vi phạm pháp luật, môi trường cạnh tranh được lành mạnh hơn.

- Về phía doanh nghiệp và hiệp hội doanh nghiệp

Để thực hiện hành vi TTHCCT đúng pháp luật, tránh thực hiện các

TTHCCT bị cấm, nhiều doanh nghiệp đã có ý thức chủ động trang bị kiến thức

pháp luật, tích cực tham gia các khóa tập huấn, hội thảo về pháp luật cạnh tranh

"Chúng tôi đã được tham gia cũng như được biết về hàng loạt các cuộc hội thảo,

seminar, trao đổi, thảo luận sôi nổi về Luật Cạnh tranh trong nhiều năm qua" [50,

tr.43], qua đó doanh nghiệp không những tham gia để nâng cao kiến thức pháp luật

mà còn đóng góp ý kiến để hoàn thiện pháp luật, thể hiện trách nhiệm của mình.

86

Để thực hiện các hành vi TTHCCT theo đúng quy định pháp luật, không rơi

vào các TTHCCT bị cấm, trong giai đoạn đầu thực hiện Luật Cạnh tranh 2004,

rất ít doanh nghiệp nhận thức và thực hiện theo các quy định này, tuy thế tình

hình đã có sự thay đổi rõ rệt trong những năm gần đây, khi nhận thức của doanh

nghiệp tăng lên, từ sau năm 2012 đến nay doanh nghiệp đã chủ động tìm hiểu,

nhận tư vấn, tham vấn từ các công ty luật, luật sư, bộ phận pháp chế… "Chúng

tôi cũng đã sắp xếp cho nhiều khách hàng có những buổi làm việc, tham vấn ý

kiến của Cục CT&BVNTD về các quy định pháp luật có liên quan" [50, tr.44].

Một số doanh nghiệp đã có ý thức phổ biến pháp luật, xây dựng quy chế

tuân thủ pháp luật về kiểm soát TTHCCT ngay trong nội bộ của mình, kết quả

điều tra xã hội học của tác giả cho thấy có 18,5% doanh nghiệp sử dụng chuyên

gia pháp lý/luật sư tư vấn để thông tin pháp luật cho Hội đồng quản trị, ban giám

đốc, tập huấn cho nhân viên về pháp luật cạnh tranh.

Tuy nhiên, con số đó còn rất khiêm tốn, thực tế thì "tỷ lệ các doanh nghiệp

không biết, không quan tâm đến Luật Cạnh tranh cao, việc áp dụng Luật Cạnh

tranh trong kinh doanh chưa được chú trọng..." [50, tr.46]. Vào năm 2009, trong

Chiến dịch truyền thông về các hành vi p7hản cạnh tranh do Phòng Thương mại và

công nghiệp Việt Nam phối hợp với Dự án Hỗ trợ Thương mại Đa biên EU-Việt

Nam tổ chức từ ngày 14-22/9, tại Hội thảo "Pháp luật điều chỉnh hành vi hạn chế

cạnh tranh: Kinh nghiệm EU và bài học cho Việt Nam", Cục CT&BVNTD cho biết

01 năm sau khi Luật Cạnh tranh có hiệu lực, Cục có làm một cuộc điều tra và kết

quả cho thấy, chỉ có 30% doanh nghiệp biết là có Luật Cạnh tranh, 70% doanh

nghiệp không hề biết gì về luật này [26]. Sau 07 năm, 92,8% trong số 500 doanh

nghiệp được khảo sát vẫn "chưa hiểu rõ" về Luật Cạnh tranh, chưa kể một lượng

lớn doanh nghiệp đã được loại bỏ ra khỏi cuộc khảo sát do "không biết gì", không

sẵn sàng trả lời các câu hỏi hoặc từ chối tham gia khảo sát [18].

87

Đơn vị tính: %

Biểu đồ 3.1: Tỷ lệ doanh nghiệp "hiểu về Luật Cạnh tranh

Nguồn: Báo cáo khảo sát doanh nghiệp và phỏng vấn chuyên gia về pháp luật

cạnh tranh Việt Nam [18].

Kết quả điều tra xã hội học của tác giả cũng cho thấy dù đã qua hơn 13 năm

thi hành pháp luật, vẫn còn có 9,2% doanh nghiệp chưa biết về Luật Cạnh tranh

2004, cho thấy số doanh nghiệp chủ động trang bị kiến thức pháp luật, chấp hành

các quy định pháp luật về hành vi TTHCCT và TTHCCT bị cấm rất hạn chế.

3.2.1.2. Thực trạng thực hiện các quy định về hành vi thỏa thuận hạn chế

cạnh tranh và những thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm qua những vụ

việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh vi phạm pháp luật đã được xử lý

Bên cạnh những động thái tích cực triển khai thực hiện pháp luật về kiểm soát

TTHCCT của cơ quan quản lý cạnh tranh, hiệp hội và doanh nghiệp như trên, thực

tiễn cho thấy vẫn có rất nhiều hành vi công khai hoặc ngầm từ phía doanh nghiệp, từ

các chủ thể khác không đảm bảo tuân thủ pháp luật về kiểm soát TTHCCT.

Trong thời gian qua, Cục CT&BVNTD đã ra quyết định điều tra với 04 vụ

việc TTHCCT, trong đó có 02 vụ việc đã được Hội đồng Cạnh tranh ra quyết

định xử lý.

- Vụ việc Thỏa thuận hợp tác giữa các doanh nghiệp bảo hiểm trong lĩnh

vực bảo hiểm xe cơ giới vào năm 2008.

Ngày 15 tháng 9 năm 2008, tại Resort Sài Gòn - Mũi Né, số 56, Nguyễn

Đình Chiểu, Hàm Tiến, Phan Thiết, Bình Thuận, Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam

88

(HHBHVN) đã chủ trì tổ chức Hội nghị các Tổng Giám đốc Phi nhân thọ lần thứ

VI (Hội nghị CEO PNT VI). Đây là Hội nghị định kỳ, được tổ chức 6 tháng/lần

với nội dung, thời gian được xác định trên cơ sở Nghị quyết Hội nghị CEO PNT

trước đó.

Tại Hội nghị CEO PNT VI nêu trên, sau khi nghiên cứu và thảo luận về

dự thảo các văn bản thỏa thuận hợp tác, 15 doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) phi

nhân thọ tham gia Hội nghị đã thống nhất ký Bản Thỏa thuận hợp tác giữa các

DNBH trong lĩnh vực bảo hiểm xe cơ giới và Điều khoản Biểu phí bảo hiểm vật

chất xe ô tô (sau đây gọi chung là Bản Thoả thuận).

Tiếp sau đó, trên cơ sở văn bản của HHBHVN số 226/HHBH/2008 ngày

18 tháng 9 năm 2008 về việc ký kết các văn bản thỏa thuận, thêm 04 DNBH phi

nhân thọ khác đã tham gia ký Bản Thỏa thuận nêu trên, nâng tổng số DNBH phi

nhân thọ tham gia ký Bản Thỏa thuận lên 19 doanh nghiệp. Bản Thỏa thuận nêu

trên có hiệu lực kể từ 01 tháng 10 năm 2008.

Cơ quan quản lý cạnh tranh đã vào cuộc và đây là vụ việc TTHCCT đầu

tiên được xử lý ở Việt Nam sau khi Luật Cạnh tranh 2004 có hiệu lực thi hành.

Hội đồng Cạnh tranh đã quyết định xử phạt các doanh nghiệp tham gia vào Thỏa

thuận [41]. Trong vụ việc trên, các doanh nghiệp bảo hiểm chính là các đối thủ

cạnh tranh trên cùng một thị trường liên quan, hành vi của các bên thống nhất ký

Bản Thỏa thuận hợp tác giữa các DNBH trong lĩnh vực bảo hiểm xe cơ giới và

Điều khoản Biểu phí bảo hiểm vật chất xe ô tô chính là hành vi thỏa thuận có sự

thống nhất ý chí giữa các bên, do đó có thể xác định đây là một TTHCCT, cụ thể

được quy định tại Khoản 1 Điều 8 Luật Cạnh tranh 2004 "Thoả thuận ấn định giá

hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp". Cơ quan quản lý cạnh tranh chỉ

cần xác định thị phần kết hợp của các bên ký kết thỏa thuận, nếu "các bên tham

gia thoả thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên" như

quy định tại Khoản 2 Điều 9 Luật Cạnh tranh 2004 là đủ để xác định các bên đã

thực hiện một hành vi TTHCCT bị cấm.

Có bốn điều đáng lưu ý từ việc các doanh nghiệp thực hiện hành vi

TTHCCT vi phạm pháp luật trên:

89

Thứ nhất, hành vi không tuân thủ pháp luật là công khai, bản Thỏa thuận

được công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng và các thành viên

tham gia thỏa thuận đều không hề nhận biết đây là hành vi vi phạm;

Thứ nhất, vai trò tổ chức của Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam trong việc

không tuân thủ pháp luật của các doanh nghiệp thành viên là rõ ràng, tuy nhiên

không có chế tài áp dụng để xử lý hiệp hội;

Thứ ba, có một số doanh nghiệp (chủ yếu là các hãng bảo hiểm nước ngoài)

cũng là thành viên của Hiệp hội Bảo hiểm như AIG, Groupama, UIC, VNI,

ACE, Fubon, Liberty và QBE chưa ký vào Bản Thỏa thuận dù Tổng thư ký Hiệp

hội Bảo hiểm Việt Nam đã có văn bản nhắc nhở, lý do từ chối ký vào Bản thỏa

thuận được đưa ra là các doanh nghiệp này nhận thấy Bản thoả thuận có dấu hiệu

vi phạm Luật Cạnh tranh.

Thứ tư, các doanh nghiệp bảo hiểm tham gia TTHCCT trên có “nhiều

doanh nghiệp bảo hiểm liên đới là doanh nghiệp nhà nước, trực thuộc Bộ Tài

chính. Một số doanh nghiệp bảo hiểm đã đến Bộ Tài chính để xin được hỗ trợ”

[62, tr.45]. Cơ quan chủ quản của doanh nghiệp, cụ thể là Bộ Tài chính đã

không can thiệp vào quá trình phát hiện, điều tra và xử lý vi phạm trong vụ việc

TTHCCT này, nhưng qua đó có thể cảnh báo khả năng có sự can thiệp hành

chính của các cơ quan chủ quản doanh nghiệp trong thực hiện pháp luật về kiểm

soát TTHCCT ở Việt Nam hiện nay.

Như vậy có thể nhận thấy rằng 19 doanh nghiệp bảo hiểm vi phạm các quy

định về hành vi TTHCCT và cấm TTHCCT là do nhận thức. Trong khi các

doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài đã có quá trình, kinh nghiệm tuân thủ pháp

luật về kiểm soát TTHCCT thì các doanh nghiệp Việt Nam, trong đó có những

doanh nghiệp hàng đầu, hiểu biết về lĩnh vực pháp luật này rất hạn chế, đó là lý do

chính dẫn tới vụ việc vi phạm trên. Vụ việc cũng cho thấy vai trò rất lớn của một

hiệp hội trong việc thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT, tuy nhiên chính

bản thân Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam cũng không am hiểu pháp luật về kiểm soát

TTHCCT cũng như chưa làm đúng vai trò, chức năng của mình.

90

- Vụ việc TTHCCT trong bảo hiểm học sinh vào năm 2011 tại Khánh Hòa.

Vào năm 2011, nhằm tránh cạnh tranh với nhau, các doanh nghiệp bảo hiểm

phi nhân thọ tại Khánh Hòa đã cùng thống nhất thực hiện một số chế độ và chính

sách bảo hiểm học sinh trên toàn địa bàn tỉnh Khánh Hòa, trong đó có mức phí

bảo hiểm học sinh, mức trách nhiệm bảo hiểm và chính sách chiết khấu đối với

đại lý bảo hiểm và nhà trường.

Xuất phát từ thông tin trong bài báo "Hoa hồng bảo hiểm vào trường học"

trên báo Tuổi trẻ online ngày 25/9/2011 về việc đại diện công ty, chi nhánh 12

doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa đã cùng thỏa

thuận tăng phí bảo hiểm học sinh từ 60.000 đồng lên 80.000 đồng. Cục Quản lý

cạnh tranh đã tiến hành điều tra và xử lý vụ việc. Kết quả là Quyết định đình chỉ

vụ việc TTHCCT do các thành viên tham gia thỏa thuận đã tự nguyện chấm dứt

hành vi và khắc phục thiệt hại [42].

Việc "cùng thống nhất thực hiện một số chế độ và chính sách bảo hiểm học

sinh trên toàn địa bàn tỉnh Khánh Hòa" của các doanh nghiệp bảo hiểm cho thấy

hành vi thỏa thuận giữa các bên thể hiện qua việc các bên thống nhất ý chí với

nhau để cùng thực hiện một mức phí bảo hiểm trên cùng một thị trường và các

bên cũng chính là các đối thủ cạnh tranh trên cùng một thị trường liên quan, hành

vi của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nêu trên có liên quan đến các quy

định tại Khoản 1 Điều 8 Luật Cạnh tranh 2004 về "Thỏa thuận ấn định giá hàng hóa,

dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp".

Trong quá trình xử lý vụ việc, đáng lưu ý là nhiều doanh nghiệp cho biết

không biết việc ký Bản thỏa thuận của chi nhánh, phòng kinh doanh của mình.

Tuy thế, hành vi ký bản Thỏa thuận là vi phạm pháp luật và chính doanh nghiệp

phải chịu trách nhiệm về việc chi nhánh, phòng kinh doanh đã làm.

Vụ việc trên cho thấy một "khoảng trống" trong việc thực hiện pháp luật về

kiểm soát TTHCCT tại Việt Nam, đó là mặc dù là chủ thể thực hiện pháp luật về

kiểm soát TTHCCT, việc doanh nghiệp nắm vững pháp luật và tổ chức phổ biển,

tập huấn pháp luật trong toàn hệ thống doanh nghiệp rất còn hạn chế, cho dù vào

91

năm 2008 đã có một vụ việc TTHCCT trong lĩnh vực bảo hiểm đã được cơ quan

quản lý cạnh tranh xử lý vi phạm.

Vụ việc trên cũng cho thấy nếu như doanh nghiệp không có một phương

thức cần thiết để đảm bảo tất cả cán bộ, nhân viên có nhận thức đầy đủ về pháp

luật và có chế độ giám sát trong toàn thể hệ thống thì vi phạm pháp luật gây hậu

quả về vật chất và ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp. Nếu có một chương

trình tuân thủ pháp luật về kiểm soát TTHCCT được xây dựng và triển khai

trong doanh nghiệp có thể tránh được vi phạm dạng như trên.

3.2.1.2. Những dấu hiệu nghi vấn về việc không tuân thủ các quy định về

hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và những thỏa thuận hạn chế cạnh

tranh bị cấm

Qua hơn 13 năm thực hiện pháp luật, chỉ hai vụ việc TTHCCT bị đưa ra xử

lý không thể hiện được rằng pháp luật về kiểm soát TTHCCT đã được bảo đảm

thực hiện. Các hành vi có dấu hiệu nghi vấn vi phạm các quy định cấm của pháp

luật về kiểm soát TTHCCT vẫn diễn ra một cách ngấm ngầm hoặc công khai ở

nhiều chủ thể pháp luật.

- Về phía các cơ quan nhà nước, Luật Cạnh tranh 2004 đã quy định rõ tại Điều

6 về cấm cơ quan quản lý nhà nước thực hiện những hành vi để cản trở cạnh tranh

trên thị trường. Quá trình thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT chưa phát hiện

trường hợp nào vi phạm Điều 6, tuy nhiên có những hoạt động của cơ quan nhà nước

có thể vô tình tạo điều kiện thuận lợi cho hành vi TTHCCT diễn ra.

Vào năm 2013, 3 nhà mạng lớn VinaPhone, MobiFone và Viettel đã đồng

loạt tăng 40% cước 3G gói "không giới hạn" từ ngày 16/10. Cục Quản lý cạnh

tranh đã vào cuộc xác minh và công bố kết quả xác minh đợt điều chỉnh giá từ

ngày 16/10/2013 của Viettel, MobiFone và VinaPhone là thực hiện theo chủ

trương, định hướng điều chỉnh giá cước viễn thông nêu tại Quyết định số

32/2012/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch phát

triển viễn thông quốc gia đến năm 2020 ngày 27/7/2012 (Quyết định số

32/2012/QĐ-TTg) và theo yêu cầu tuân thủ pháp luật về giá cước dịch vụ viễn

thông của cơ quan quản lý nhà nước về viễn thông, do đó “Cục Quản lý cạnh

92

tranh, Bộ Công Thương chưa phát hiện thấy các dấu hiệu bất thường của sự cấu

kết bắt tay hay thỏa thuận giữa 3 doanh nghiệp Viettel, MobiFone và VinaPhone

trong đợt điều chỉnh giá cước từ ngày 16/10/2013 vừa qua” [6]. Doanh nghiệp

không bị coi là TTHCCT vi phạm pháp luật, tuy nhiên, không thể nói rằng hành

vi này không gây tổn hại thị trường và tổn hại cho lợi ích người tiêu dùng.

Một trường hợp khác là Báo Nhân dân điện tử ngày 05/4/2017 đưa tin về

việc ngày 17/3/2017, Vụ Vận tải (thuộc Bộ Giao thông vận tải) tổ chức lấy ý

kiến về Dự thảo Quyết định khung giá dịch vụ vận chuyển hàng không hạng vé

phổ thông cơ bản trên các đường bay nội địa thay thế Quyết định 3282/QĐ-BTC

ngày 19/12/2014. Góp ý cho Dự thảo, Hãng Hàng không Quốc gia Việt Nam

(VNA) và Công ty cổ phần Hàng không Jetstar Pacific Airlines (JPA) đều đề

xuất cần có thêm mức giá sàn vé máy bay trong khi Công ty cổ phần Hàng

không VietJet (VietJet Air) cho rằng việc quy định giá sàn đó dù hình thức nào

cũng không phù hợp với quy định của Luật Cạnh tranh [47].

Dự thảo này nhận được nhiều phản biện từ dư luận và sau đó đã không

được ban hành. Tuy nhiên, giả sử việc đề xuất giá sàn đó được thông qua, hai đối

thủ cạnh tranh sẽ dễ dàng phối hợp hành động để "Mua, bán hàng hóa, dịch vụ

với mức giá đủ để doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận không thể mở rộng

thêm quy mô kinh doanh", chính là một hành vi cụ thể của "Thoả thuận ngăn cản,

kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh

doanh" quy định tại Điều 19 Nghị định 116/NĐ-CP ngày 15/9/2005 Quy định chi

tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh. Tuy thế, hai đối thủ cạnh tranh đó

sẽ không vi phạm điều 9 Luật Cạnh tranh 2004 vì sự phối hợp hành động ấn định

mức giá đó không xuất phát từ thỏa thận của họ mà tới từ quyết định của một cơ

quan quản lý nhà nước. Cơ quan ban hành quyết định trên cũng sẽ không bị coi là vi

phạm pháp luật vì không vi phạm Điều 6 Luật Cạnh tranh 2004 dù quyết định đó có

thể tiếp tay cho doanh nghiệp thực hiện hành vi TTHCCT và vi phạm quy định cấm

của pháp luật về kiểm soát TTHCCT.

Trong lĩnh vực đấu thầu cũng xuất hiện những dấu hiệu cho thấy hành vi ngầm

tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thông thầu xuất phát từ chính phía cơ quan nhà

93

nước. Tại một hội thảo do Cục CT&BVNTD tổ chức, có đánh giá từ phía doanh

nghiệp cho rằng trong thị trường bảo hiểm đã có hiện tượng thông thầu trong các dự

án sử dụng ngân sách nhà nước, "hành vi thông thầu thường là chủ đầu tư hoặc ban

quản lý dự án đại diện Bộ, ban, ngành, chính quyền địa phương làm lộ bài với

người thắng thầu" [45, tr.21]. Trong nghiên cứu của Thanh tra Chính phủ và Nhóm

Ngân hàng Thế giới vào năm 2016 có kết luận rằng đấu thầu là một trong hai hoạt

động có nhiều xung đột lợi ích nhất (những tình huống cụ thể phát sinh khi cán bộ

công chức có thể đưa ra quyết định hoặc thực hiện hành vi có lợi cho mình trong

hoạt động công vụ) với biểu hiện phổ biến nhất là tặng/nhận quà, tiền và giúp đỡ

doanh nghiệp sân sau, có tới 38% ý kiến từ phía doanh nghiệp cho rằng "có

"chạy chọt" thông đồng để thắng thầu" [56, tr.57].

Cho tới hiện nay cơ quan quản lý cạnh tranh chưa xử lý hay nhắc nhở cụ thể

cơ quan nhà nước nào nhưng những dấu hiệu, những nghi vấn trên là cảnh báo

cho việc một hành vi, một quyết định của cơ quan nhà nước có khả năng tạo điều

kiện cho chủ thể pháp luật khác thực hiện hành vi TTHCCT vi phạm pháp luật.

Do đó, chính các cơ quan quản lý nhà nước cũng cần nâng cao nhận thức, trang

bị hiểu biết đối với pháp luật về kiểm soát TTHCCT. Những phản ứng từ phía

dư luận, từ phía doanh nghiệp như các trường hợp trên cũng cho thấy nhận thức

của doanh nghiệp cũng đã được nâng lên qua thời gian thực hiện pháp luật về

kiểm soát TTHCCT.

- Về phía các hiệp hội ngành nghề hoạt động ở Việt Nam, trong thời gian

qua, có rất nhiều nghi vấn về việc chính hiệp hội đã tổ chức cho các thành viên

thực hiện hành vi TTHCCT và vi phạm những quy định cấm TTHCCT.

Vào năm 2006, khi Hiệp hội các nhà sản xuất ôtô Việt Nam (VAMA) gửi

thông báo cho các cơ quan báo chí khẳng định giá ôtô năm 2006 sẽ tăng mạnh đã

làm dấy lên nghi vấn ""thoả thuận ngầm" hay "cộng hưởng" (concerted practice)

giữa các nhà sản xuất xe để nâng giá" [17, tr.289]. Dù chưa thể kết luận chính

xác có "thoả thuận ngầm" hay "cộng hưởng" giữa các nhà sản xuất xe để nâng

giá hay không, nhưng cơ quan quản lý cạnh tranh vẫn cho rằng cần giám sát chặt

chẽ bởi thông báo của VAMA có thể là thông tin thống nhất cùng hành động

94

tăng giá cho thành viên VAMA, là hành vi thỏa thuận ấn định giá theo quy định

tại Khoản 1 Điều 8 Luật Cạnh tranh 2004.

Vào năm 2008, Ban Điều tra vụ việc hạn chế cạnh tranh (Cục

CT&BVNTD) đã phải tìm hiểu xung quanh vấn đề các thành viên của Hiệp hội

thép Việt Nam (VSA) thống nhất ngừng giảm giá bán thép theo yêu cầu của

Hiệp hội. Đại diện Hiệp hội cho rằng cần phải hành động để cứu ngành thép,

nhưng lại không hướng dẫn thành viên làm thủ tục miễn trừ. "Ngay sau khi có

thông tin về cuộc họp và nhận thấy các nội dung thống nhất có dấu hiệu vi phạm

quy định của Luật Cạnh tranh, Cục CT&BVNTD đã vào cuộc và có yêu cầu

VSA chính thức thông báo bãi bỏ thỏa thuận" [12, tr.130].

Ngày 05/4/2011 Cục Quản lý cạnh tranh nhận được bản sao văn bản của Hiệp

hội tấm lợp Việt Nam về việc yêu cầu các doanh nghiệp thành viên điều chỉnh giá

bán tấm lợp (Phụ lục 2). Lý do Hiệp hội đưa ra là số lượng các doanh nghiệp, nhà

máy sản xuất tấm lợp tăng nhanh đã dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt về giá trên thị

trường và một số doanh nghiệp thuộc Hiệp hội tấm lợp Việt Nam đã chủ trương

cùng thống nhất trong việc tăng, giảm giá bán sản phẩm trên thị trường. Hành vi

ban hành văn bản yêu cầu các thành viên điều chỉnh giá bán hàng hóa chính là khởi

điểm cho các hành động phối hợp (concerted practice) giữa các đối thủ cạnh tranh

trên thị trường vốn được xem là những chỉ dấu của các TTHCCT ngầm.

Năm 2013, trong Báo cáo đánh giá cạnh tranh của cơ quan quản lý đã

khuyến nghị là việc các doanh nghiệp cùng tham gia vào Hiệp hội Mía đường

Việt Nam giúp cho ngành mía đường trong nước có sức mạnh hơn và các

doanh nghiệp có cơ hội để hỗ trợ nhau và nhận được sự hỗ trợ từ nhà nước.

"Tuy nhiên đây cũng là nguy cơ tiềm ẩn cho các thỏa thuận nhằm triệt tiêu

cạnh tranh giữa các doanh nghiệp và gây thiệt hại cho người tiêu dùng cũng

như nền kinh tế" [17, tr.219]. Đến năm 2016, Hiệp hội đã gửi văn bản cho các

thành viên khuyến cáo không tự ý tăng giá thu mua mía nguyên liệu và Cục

CT&BVNTD đã thu thập thông tin để báo cáo Lãnh đạo Cục ra văn bản

khuyến cáo Hiệp hội và doanh nghiệp [23, tr.10]. Việc thống nhất không tăng

giá thu mua mía nguyên liệu là hành vi thỏa thuận ấn định giá có khả năng vi

phạm pháp luật cạnh tranh.

95

Ngoài ra, những dấu hiệu như giá xăng giảm 16-17% song giá cước taxi

vẫn giữ nguyên hay Hiệp hội Truyền hình trả tiền Việt Nam gửi Đề án quản lý

giá sàn dịch vụ truyền hình trả tiền lên Bộ Thông tin-Truyền thông kiến nghị áp

dụng giá sàn cước dịch vụ truyền hình trả tiền... là những trường hợp dấy lên

nghi vấn về vai trò tổ chức của các hiệp hội trong việc tổ chức TTHCCT.

- Về phía các doanh nghiệp, vẫn có nhiều biểu hiện chỉ dấu cho việc thực

hiện pháp luật về hành vi TTHCCT và cấm hành vi TTHCCT không nghiêm dù

cho nhận thức về pháp luật kiểm soát TTHCCT đã dần tăng lên.

Từ những năm đầu khi Luật Cạnh tranh mới ban hành, các ngân hàng đã có

thỏa thuận về mức lãi suất tiền gởi, và "dưới góc độ pháp lý, thỏa thuận về lãi suất

giữa các ngân hàng như vậy thực chất là TTHCCT về giá giữa các đối thủ cạnh

tranh - TTHCCT theo chiều ngang" [69, tr.57]. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh này

vi phạm pháp luật một cách công khai (công khai mức lãi suất tiền gởi ấn định).

Cục CT&BVNTD nhận định "qua các nguồn tài liệu khác (các nghiên cứu

của Cục CT&BVNTD về thị trường sữa trong thời gian gần đây; các nghiên cứu

của VCCI về môi trường cạnh tranh và đặc biệt là qua một số nguồn tin mà

nhóm nghiên cứu thu thập được" [12, tr.37] thì hiện tượng TTHCCT đã tồn tại

trong thị trường Việt Nam. Một số trường hợp TTHCCT "ngầm" được nhận diện

như: Hành vi liên kết về giá trong ngành sữa, qua biểu hiện cụ thể là giá sữa bột

ngoại nhập ở Việt Nam hiện nay cao hơn mức trung bình trên thế giới gần gấp

đôi; Ấn định giá dược phẩm, qua phản ánh có một số doanh nghiệp có dự định

cùng nhau điều chỉnh giá một số mặt hàng thuốc thông thường và thực phẩm

chức năng; Thông đồng trong đấu thầu thuốc; Thỏa thuận thống nhất giá sàn phí

phát hành và phí rút tiền nội mạng "nhóm nghiên cứu ghi nhận phản ánh của

doanh nghiệp cho biết đã có hiện tượng một số tổ chức phát hành thẻ dự kiến

thỏa thuận với nhau để thống nhất giá sàn phí phát hành và phí rút tiền nội

mạng" [17, tr.377]... Tuy cơ quan quản lý cạnh tranh chưa tìm ra những dấu hiệu

vi phạm pháp luật về kiểm soát TTHCCT nhưng cũng cho thấy khả năng đang

tồn tại những hành vi không tuân thủ pháp luật về kiểm soát TTHCCT.

Như vậy, qua thực tiễn cho thấy việc tuân thủ pháp luật về kiểm soát

TTHCCT của các chủ thể, bao gồm cơ quan quản lý nhà nước, hiệp hội và doanh

96

nghiệp chưa nghiêm, những vi phạm các quy định mang tính chất "ngăn cấm"

của pháp luật về kiểm soát TTHCCT đang vẫn diễn ra một cách ngấm ngầm và

công khai, gây ảnh hưởng xấu đến môi trường kinh doanh.

3.2.2. Thực trạng thực hiện các quy định về xử lý vi phạm pháp luật về

kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

Thực hiện các quy định về xử lý vi phạm pháp luật về kiểm soát TTHCCT

bao gồm công tác điều tra và xử lý vụ việc TTHCCT vi phạm pháp luật, thực

hiện các quy định về tố tụng cạnh tranh, áp dụng các biện pháp chế tài và thi

hành quyết định xử lý vụ việc.

- Điều tra tiền tố tụng là một hoạt động rất đặc thù của Cục CT&BVNTD

trong công tác kiểm soát TTHCCT. Trên cơ sở tích cực đẩy mạnh công tác giám

sát hoạt động cạnh tranh, xây dựng hệ thống thông tin về cấu trúc thị trường

trong các ngành kinh tế, Cục đã thu thập được nhiều thông tin về hành vi có nghi

vấn vi phạm quy định của pháp luật về kiểm soát TTHCCT để từ đó điều tra

nhanh, làm cơ sở để cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi xướng điều tra

hoặc không khởi xướng điều tra. Thông qua hoạt động điều tra tiền tố tụng, cơ

quan quản lý cạnh tranh một mặt thu thập các số liệu cần thiết để xây dựng cơ sở

dữ liệu về ngành, mặt khác tìm hiểu các nghi vấn để kịp thời áp dụng các biện

pháp ngăn ngừa và xử lý các hành vi vi phạm.

Về điều tra tiền tố tụng về hạn chế cạnh tranh, nếu tính trong giai đoạn 10 năm 2006-2016 thì số vụ việc điều tra tiền tố tụng về TTHCCT đã chiếm hơn 50% trong tổng số.

Tập trung kinh tế

3

Các hành vi lạm dụng

40

TTHCTT

44

0

5

10

15

20

25

30

35

40

45

50

Đơn vị tính: %

Biểu đồ 3.2: Số vụ việc hạn chế cạnh tranh điều tra tiền tố tụng

giai đoạn 2006 - 2016 Nguồn: Báo cáo hoạt động thường niên Cục Quản lý cạnh tranh năm 2010,

2011, 2012, 2013, 2014, 2015, 2016 [13; 14; 16; 19; 20; 22].

97

Nếu tính theo trung bình, mỗi năm cơ quan quản lý cạnh tranh điều tra tiền tố

tụng 3-4 vụ việc nghi vấn, nhưng có những năm 2011, 2012, 2013, 2014 số vụ việc

TTHCCT điều tra tiền tố tụng chiếm đa số. Giai đoạn 2011-2016, số vụ TTHCCT điều

tra tiền tố tụng chiếm đa số trong tổng số vụ hạn chế cạnh tranh điều tra tiền tố tụng.

14

12

10

8

Tổng số vụ hạn chế cạnh tranh điều tra tiền tố tụng

6

Số vụ TTHCCT điều tra tiền tố tụng

4

2

0

2011

2012

2013

2014

2015

2016

Đơn vị tính: %

Biểu đồ 3.3: Các vụ việc hạn chế cạnh tranh điều tra tiền tố tụng giai đoạn 2011-2016 Nguồn: Báo cáo hoạt động thường niên Cục Quản lý cạnh tranh năm 2010,

2011, 2012, 2013, 2014, 2015, 2016 [13; 14; 16; 19; 20; 22].

- Về điều tra và xử lý vụ việc TTHCCT, cơ quan quản lý cạnh tranh Việt

Nam đã tổ chức điều tra chính thức 04 vụ việc, trong đó đã chuyển 02 hồ sơ vụ

việc sang Hội đồng Cạnh tranh để xử lý theo quy định của pháp luật. Cả 04 vụ

việc đều do Cục CT&BVNTD tự khởi xướng điều tra theo quy định tại Khoản 2

Điều 86 Luật Cạnh tranh (bảng 3.1).

Quá trình điều tra của Cục CT&BVNTD đảm bảo về trình tự, thủ tục. Hồ sơ

chuyển sang Hội đồng Cạnh tranh xử lý đúng theo quy định. Thông qua quá

trình điều tra, xử lý 04 vụ việc, đã có 71 doanh nghiệp bị điều tra, cơ quan quản

lý cạnh tranh đã ra quyết định xử lý 31 doanh nghiệp, thu về ngân sách nhà nước

tổng số tiền phạt và phí xử lý vụ việc cạnh tranh là 1.807.182.000 (một tỷ tám

trăm lẻ bảy triệu một trăm tám hai ngàn đồng). Trong hai vụ việc đã xử lý, việc

98

áp dụng pháp luật để điều tra và xử lý thành công vụ việc TTHCCT đầu tiên ở

Việt Nam (vụ 19 doanh nghiệp bảo hiểm) khi Cơ quan quản lý cạnh tranh Việt

Nam còn non trẻ, chưa hề có kinh nghiệm, nguồn lực hạn chế có ý nghĩa rất quan

trọng, vừa có tác dụng nâng cao nhận thức của doanh nghiệp vừa cho thấy Việt

Nam hoàn toàn có khả năng áp dụng pháp luật về kiểm soát TTHCCT để quản lý

thị trường, bảo vệ môi trường cạnh tranh bình đẳng.

Bảng 3.1: Số vụ việc hạn chế cạnh tranh đã điều tra, xử lý đến hết năm 2018

CÁC MỐC THỜI GIAN

STT

VỤ VIỆC

QUYẾT ĐỊNH

QUYẾT ĐỊNH

QUYẾT

ĐIỀU TRA SƠ

ĐIỀU TRA

ĐỊNH XỬ LÝ

BỘ

CHÍNH THỨC

VỤ VIỆC

18/11/2008

28/11/2008

29/7/2010

1

05/5/2011

14/7/2011

2

29/9/2011

08/11/2011

12/8/2013

3

2012

2012

4

Thỏa thuận ấn định mức phí bảo hiểm vật chất xe ô tô của 19 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất tấm lợp fibro xi măng Thỏa thuận ấn định mức phí bảo hiểm học sinh của 12 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ tại Khánh Hòa Thỏa thuận ấn định giá vé giữa 03 doanh nghiệp vận tải hành khách bằng tàu cánh ngầm tuyến TP.HCM - Vũng Tàu

Nguồn: Báo cáo hoạt động thường niên Cục Quản lý cạnh tranh năm 2010,

2011, 2012, 2013, 2014, 2015, 2016 [13; 14; 16; 19; 20; 22].

- Bên cạnh hoạt động thực thi pháp luật của cơ quan có thẩm quyền, các

doanh nghiệp cũng thực hiện tích cực các nghĩa vụ pháp lý của mình trong tố

tụng cạnh tranh.

Qua 04 vụ việc Cục CT&BVNTD điều tra về hành vi TTHCCT và 02 vụ

việc Hội đồng cạnh tranh ra quyết định xử lý, các cơ quan quản lý nhà nước đều

đánh giá cao sự tích cực trong việc phối hợp làm việc với cơ quan thẩm quyền,

ngăn chặn hành vi vi phạm, khắc phục hậu quả. Trong vụ việc TTHCCT phí bảo

hiểm xe cơ giới năm 2008, Cục CT&BVNTD đánh giá tích cực việc 18/19

99

doanh nghiệp bảo hiểm đã có "động thái dừng thực hiện thỏa thuận" khi có

Quyết định điều tra sơ bộ, ngoại trừ Samsung-Vina, các doanh nghiệp đã "phối

hợp cung cấp nhiều thông tin, chứng cứ mà Nhóm điều tra viên trước đó chưa

biết" [41, tr.24]. Tương tự, trong vụ việc TTHCCT phí bảo hiểm học sinh 2011,

các doanh nghiệp bảo hiểm đã thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả là:

Thông báo nội bộ về việc hủy Bản Thỏa thuận, thông báo cho khách hàng về

việc hủy Bản Thỏa thuận, chấn chỉnh đối với đơn vị bảo hiểm, cán bộ, nhân viên

của mình, và động thái tích cực đó đã được Hội đồng cạnh tranh đánh giá, xác

định là cơ sở để đình chỉ vụ việc, không tiến hành xử phạt với các bên tham gia

thỏa thuận [42, tr.2]. Do thi hành pháp luật về kiểm soát TTHCCT tốt, các doanh

nghiệp đã hạn chế thấp nhất hậu quả về vật chất và uy tín của mình.

Điều tra và xử lý một vụ việc TTHCCT vi phạm pháp luật là công việc

phức tạp, khó khăn, đòi hỏi nhiều thời gian và công sức của cơ quan quản lý

cạnh tranh cũng như chuyên môn sâu của điều tra viên và thành viên Hội đồng

xử lý vụ việc. Do đó kết quả đạt được cho thấy nỗ lực của cơ quan quản lý cạnh

tranh trong công tác điều tra tiền tố tụng, điều tra và xử lý vụ việc TTHCCT.

Mặc dù vậy, với hình thức xử phạt là phạt tiền với 19 doanh nghiệp bảo hiểm

thỏa thuận ấn định giá, mức xử phạt là quá thấp khi Hội đồng cạnh tranh chỉ áp

dụng mức phạt là 0,025% tổng doanh thu năm tài chính 2007 của các doanh nghiệp

bảo hiểm này (thấp hơn đề nghị của nhóm điều tra - đề nghị mức 0,1%). Tuy đây là

những vi phạm lần đầu và các doanh nghiệp có động thái tích cực phối hợp với cơ

quan có thẩm quyền trong xử lý vụ việc, nhưng mức phạt này chưa nghiêm khắc

tương xứng với mức nguy hại cho thị trường mà hành vi TTHCCT gây ra, do đó

mức phạt này được cho là chưa hợp lý và không đủ sức răn đe.

3.2.3. Thực trạng khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong quá trình thực

hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

Về thực hiện quyền khiếu nại hành vi TTHCCT của các chủ thể khác khi

cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại do hành vi vi phạm

pháp luật về kiểm soát TTHCCT, trong thời gian qua, các doanh nghiệp đã rất ít

sử dụng quyền này. Bốn vụ việc TTHCCT mà cơ quan quản lý cạnh tranh có

100

quyết định điều tra chính thức đều do cơ quan này tự khởi xướng chứ không phải

từ khiếu nại của doanh nghiệp. Theo hồ sơ của Cục CT&BVNTD, trong các năm

2008, 2012 và 2013, có 04 doanh nghiệp thực hiện quyền khiếu nại "Tuy nhiên,

sau khi cơ quan quản lý cạnh tranh xem xét và yêu cầu doanh nghiệp bổ sung hồ

sơ thì các doanh nghiệp đã không cung cấp thông tin theo yêu cầu hoặc tự nguyện

rút đơn khiếu nại" [68, tr.90]. Cục CT&BVNTD nhận định rằng nguyên nhân là

do "tâm lý ngại khiếu nại va chạm từ cộng đồng doanh nghiệp" [58, tr.13].

Do doanh nghiệp rất ít thực hiện quyền khiếu nại, công tác giải quyết khiếu

nại của Cục CT&BVNTD trong thời gian qua chỉ mới ở các bước tiếp nhận

khiếu nại, tiến hành đánh giá các thông tin khiếu nại và yêu cầu doanh nghiệp bổ

sung hồ sơ. Tuy Cục CT&BVNTD chưa giải quyết vụ việc khiếu nại nào từ phía

doanh nghiệp nhưng những thông tin khiếu nại vẫn được coi là những chỉ dấu để

Cục CT&BVNTD theo dõi hoạt động cạnh tranh trên thị trường để có biện pháp

can thiệp trong trường hợp cần thiết.

Thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại chủ yếu tập trung ở Hội đồng

Cạnh tranh, với nội dung giải quyết khiếu nại đối với các quyết định xử lý vụ

việc TTHCCT và đối với các quyết định khác của Hội đồng Cạnh tranh, Chủ tịch

Hội đồng Cạnh tranh, Hội đồng Xử lý vụ việc cạnh tranh, Chủ tọa Phiên điều

trần. Trong quá trình xử lý hai vụ việc TTHCCT vi phạm pháp luật, Hội đồng

cạnh tranh đều nhận được đơn khiếu nại của doanh nghiệp. Trong vụ việc 19

doanh nghiệp bảo hiểm thỏa thuận ấn định mức phí bảo hiểm, đã có 03 doanh

nghiệp khiếu nại đối với Quyết định số 14/QĐ-HĐXL Về việc giải quyết vụ việc

cạnh tranh KNCT-HCCT 0009 và trong vụ việc 12 doanh nghiệp bảo hiểm tại

Khánh Hòa thỏa thuận ấn định giá, đã có khiếu nại của Công ty Cổ phần Bảo

hiểm Toàn Cầu GIC đối với Quyết định số 07/QĐ-HĐCT Đình chỉ giải quyết vụ

việc cạnh tranh. Công tác giải quyết khiếu nại của Hội đồng Cạnh tranh trong cả

hai trường hợp đảm bảo xem xét cặn kẽ nội dung khiếu nại, đúng trình tự, thủ

tục nên sau đó bên khiếu nại đã chấp nhận quyết định giải quyết khiếu nại này và

sau đó thực hiện nghiêm túc các quyết định xử lý vụ việc TTHCCT vi phạm

pháp luật (Phụ lục 02). Cũng như công tác xử lý vụ việc TTHCCT, loại khiếu nại

101

này chưa có tiền lệ nhưng giải quyết thỏa đáng khiếu nại đã thể hiện rõ trách

nhiệm và vai trò của Hội đồng Cạnh tranh trong việc thực hiện chức năng nhiệm

vụ giải quyết khiếu nại được giao.

Tuy nhiên Báo cáo tổng kết công tác năm 2013 của Ban Thư ký Hội đồng

Cạnh tranh cho biết Ban Thư ký đã nhận được nhiều Đơn khiếu nại liên quan đến

giải quyết, xử lý vụ việc cạnh tranh nhưng gửi vượt cấp, không đúng trình tự quy

định của pháp luật, Cục CT&BVNTD cũng nhận được đơn khiếu nại nhưng không

được bên khiếu nại cung cấp đủ hồ sơ, từ đó cho thấy cơ quan quản lý cạnh tranh

cần tăng cường tuyên truyền, hướng dẫn doanh nghiệp thực hiện đúng quy định của

Luật Cạnh tranh và Luật Khiếu nại để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

3.2.4. Thực trạng thực hiện các quy định về miễn trừ và giảm nhẹ hình phạt

- Thực hiện tốt các quy định về miễn trừ trong quá trình thực hiện hành vi

TTHCCT đem lại cho doanh nghiệp khả năng không phải chịu các biện pháp trách

nhiệm pháp lý khi tham gia TTHCCT vi phạm pháp luật, tuy thế, từ khi Luật Cạnh

tranh có hiệu lực từ 01/7/2005 đến năm 2017 không có trường hợp đề nghị miễn trừ

trong thực hiện TTHCCT.

Chỉ trong năm 2018 đã có hai trường hợp đề nghị và được hưởng miễn trừ đối

với TTHCCT, đó là thoả thuận hợp tác của Tổng công ty hàng không Việt Nam

(Vietnam Airlines) với Công ty Societe Air France (Air France) và thỏa thuận hợp

tác của Công ty Hàng không Jetstar Pacific Airlines với Công ty Jetstar Asia

Airways PTE.LTD. Ngày 04/6/2018, Cục CT&BVNTD đã tiến hành thẩm định

Hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ TTHCCT của Công ty Hàng không Jetstar Pacific

Airlines và ngày 30/8/2018, Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định số

3105/QĐ-BCT cho hưởng miễn trừ với Công ty Hàng không Jetstar Pacific

Airlines và Công ty Jetstar Asia Airways PTE.LTD trong "Thỏa thuận phối hợp

liên doanh" trong phạm vi dịch vụ vận chuyển hành khách bằng đường hàng

không giữa các tuyến bay Đà Nẵng - Singapore với thời hạn miễn trừ là 3 năm

kể từ ngày Quyết định có hiệu lực. Đến tháng 10/2018, trên cơ sở Bộ hồ sơ đề

nghị hưởng miễn trừ đối với TTHCCT của Tổng công ty hàng không Việt Nam

(Vietnam Airlines) với Công ty Societe Air France (Air France), Bộ Công Thương

102

đã ban hành Quyết định số 3872/QĐ-BCT ngày 09/10/2018 cho Tổng Công ty

Hàng không Việt nam và Công ty Societe Air France được thực hiện "Hợp đồng

liên doanh" trong phạm vi dịch vụ vận chuyển hành khách bằng đường hàng

không giữa các tuyến bay HN- SDG và tuyến bay HCM-SDG trong thời hạn 03

năm. Cả hai trường hợp trên đều đảm bảo thực hiện đúng các quy định về miễn

trừ trong pháp luật về kiểm soát TTHCCT Việt Nam. Hai trường hợp miễn trừ

năm 2018 đều dành cho các doanh nghiệp hoạt động trong ngành hàng không và

trong cả hai trường hợp doanh nghiệp Việt Nam đều có sự hợp tác rất tốt của đối

tác (là doanh nghiệp nước ngoài) trong việc thảo luận, tư vấn, thống nhất hồ sơ

xin miễn trừ.

Tuy hai trường hợp miễn trừ trong năm 2018 cho thấy những động thái tích

cực trong cộng đồng doanh nghiệp nhưng từ đó cũng có thể thấy các doanh nghiệp

Việt Nam và hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn thờ ơ, đã không thực hiện

các quy định miễn trừ trong pháp luật về kiểm soát TTHCCT mặc dù có những

trường hợp hiệp hội doanh nghiệp cho rằng cần thiết lập TTHCCT để cứu cả ngành

trước sự cạnh tranh khốc liệt từ các doanh nghiệp nước ngoài.

- Pháp luật về kiểm soát TTHCCT Việt Nam chưa có các quy định về

chương trình khoan hồng, nhưng vẫn có các quy định nhằm giảm nhẹ hình phạt

cho các bên tham gia TTHCCT vi phạm pháp luật. Trong vụ việc 19 doanh

nghiệp bảo hiểm tham gia thỏa thuận phí bảo hiểm xe cơ giới, có 18 doanh

nghiệp đã thực hiện quyền tự nguyện ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của hành

vi vi phạm, tự nguyện khắc phục hậu quả, tự nguyện cung cấp chứng cứ để được

giảm nhẹ hình phạt, chỉ trừ Samsung-Vina. Chính nhờ đó, 18/19 doanh nghiệp tham

gia bảo hiểm đã được Hội đồng xử lý vụ việc HCCT cho hưởng tình tiết giảm nhẹ

và được hưởng mức phạt thấp hơn so với mức phạt mà nhóm điều tra vụ việc

HCCT đề xuất [41, tr.25]. Tương tự như vậy, trong vụ việc TTHCCT ở Khánh Hòa,

12 doanh nghiệp tham gia thỏa thuận đã tự nguyện hủy thỏa thuận, khắc phục hậu

quả, do đó Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh đã quyết định đình chỉ vụ việc, các

doanh nghiệp không bị áp dụng biện pháp xử lý vi phạm (Phụ lục 4).

103

Tuy nhiên, tại Khoản 1 Điều 85 của Nghị định 116/2005/NĐ-CP ban hành

ngày 15/9/2005 Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh có

quy định về "Tự nguyện khai báo về hành vi vi phạm trước khi cơ quan có

thẩm quyền phát hiện" và "Đối tượng vi phạm tự nguyện cung cấp chứng cứ,

thông tin liên quan đến hành vi vi phạm mà cơ quan có thẩm quyền trước đó

chưa biết" tuy chưa đủ hình thành nên chính sách khoan hồng nhưng cũng vẫn

có tác dụng giảm nhẹ hình phạt cho doanh nghiệp đã có hành vi TTHCCT vi

phạm pháp luật, tuy nhiên trong suốt quá trình thực hiện pháp luật thời gian,

đã không có doanh nghiệp nào thực hiện quy định này. Về bản chất, đây chính

là một quy định khoan hồng, và việc thực hiện quy định khoan hồng này vừa

giúp cơ quan quản lý cạnh tranh sớm phát hiện và xử lý vụ việc TTHCCT vi

phạm, tiết kiệm thời gian và tiền bạc vừa giúp chính doanh nghiệp có đường

thoát cho hành vi vi phạm pháp luật đồng thời cũng hạn chế những tổn thất

của mình. Pháp luật về kiểm soát TTHCCT trao quyền tự nguyện khai báo

cho doanh nghiệp, và khi doanh nghiệp sử dụng quyền của mình cũng là góp

phần cùng cơ quan quản lý nhà nước tạo dựng và bảo vệ môi trường cạnh

tranh bình đẳng, lành mạnh.

Tóm lại, qua thực trạng thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt

Nam trong thời gian qua có thể nhận thấy rằng các quy định pháp luật về kiểm soát

TTHCCT hầu hết đều đã được thực thi trong thực tiễn. Tuy nhiên bức tranh thực

hiện đậm nhạt khác nhau. Thực hiện quy định về hành vi TTHCCT và các

TTHCCT bị cấm tuy có những dấu hiệu tích cực nhưng vẫn tồn tại nhiều biểu hiện

TTHCCT ngầm, nhiều hành vi vi phạm pháp luật, các hoạt động chủ động chủ yếu

do cơ quan quản lý cạnh tranh tích cực thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.

Thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm trong kiểm soát TTHCCT, thực hiện pháp

luật về khiếu nại và giải quyết khiếu nại, miễn trừ và thực hiện các quy định pháp

luật về giảm nhẹ hình phạt chưa được chú trọng và có rất ít dấu ấn. Chính vì thế

thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam hiện nay chưa phát huy

được vai trò trong thực tiễn đời sống của nền KTTT nước ta.

104

3.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM

SOÁT THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.3.1. Các ưu điểm và hạn chế

3.3.1.1. Về ưu điểm

So với nhiều quốc gia trên thế giới, Luật Cạnh tranh là nội dung khá mới và

Cơ quan Quản lý cạnh tranh Việt Nam còn rất non trẻ, thực hiện pháp luật về

kiểm soát TTHCCT là những hoạt động chưa có tiền lệ, chưa có kinh nghiệm từ

trước đến nay đối với cộng đồng, với các chủ thể kinh doanh và với cơ quan

quản lý nhà nước. Thế nhưng thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT vẫn đạt

được những kết quả đáng khích lệ.

- Nhận thức của doanh nghiệp, hiệp hội, cơ quan nhà nước, của toàn xã hội

về pháp luật kiểm soát TTHCCT và yêu cầu thực hiện pháp luật về kiểm soát

TTHCCT đã từng bước nâng cao. Trong thời gian qua, pháp luật về kiểm soát

TTHCCT đã dần đi vào thực tiễn, công tác kiểm soát TTHCCT của cơ quan

quản lý dần đi vào nề nếp. Qua hoạt động tuyên truyền phổ biến cùng với các vụ

việc đã được Cục CT&BVNTD, Hội đồng Cạnh tranh xem xét, điều tra và xử lý

"đã phần nào nâng cao nhận thức và sự quan tâm của cộng đồng doanh nghiệp,

các cơ quan hữu quan cũng như toàn xã hội đối với pháp luật cũng như hành vi

vi phạm cạnh tranh" [23, tr.60]. Theo khảo sát của tác giả, có 90,7% doanh

nghiệp tham gia khảo sát biết về Luật Cạnh tranh 2004, cao gấp 3 lần khảo sát

vào những năm 2005-2010 (30%). Ý thức pháp luật của cộng đồng và tổ chức,

cá nhân kinh doanh cũng dần được thiết lập, nếu như trong giai đoạn 2005-2010

còn ít doanh nghiệp có nhận thức về pháp luật cạnh tranh thì hiện nay ngày càng

có nhiều doanh nghiệp chủ động liên hệ với Cục CT&BVNTD để được tư vấn,

hỗ trợ giải quyết một số vấn đề có liên quan đến cạnh tranh phát sinh trong quá

trình hoạt động kinh doanh, khảo sát của tác giả đã cho thấy có 3,6% doanh

nghiệp tự nghiên cứu, tìm hiểu về Luật Cạnh tranh.

- Về phía cộng đồng doanh nghiệp, bước đầu đã có hành vi tích cực tuân

thủ, thi hành và sử dụng pháp luật về kiểm soát TTHCCT. Đã có một số doanh

nghiệp không tham gia thống nhất mức phí bảo hiểm xe ô tô vì sự thỏa thuận đó vi

105

phạm pháp luật, 12 doanh nghiệp bảo hiểm ở Khánh Hòa đã tự mình ngừng thực

hiện bản thỏa thuận tăng phí bảo hiểm học sinh trước khi cơ quan thẩm quyền phát

hiện và ngăn chặn, các doanh nghiệp bị Hội đồng cạnh tranh ra quyết định xử lý

hành vi vi phạm pháp luật về kiểm soát TTHCCT đã chủ động đóng tiền phạt và

đóng phí xử lý vụ việc đúng thời hạn, các doanh nghiệp cũng chú trọng thực hiện

những quyền mà pháp luật trao cho như quyền khiếu nại, quyền xin hưởng miễn

trừ, các quyền trong tố tụng... cũng như đã dần chú ý tham gia các hội thảo, tọa

đàm, tập huấn liên quan đến pháp luật về kiểm soát TTHCCT. Các hiệp hội doanh

nghiệp cũng đã chú ý đến thực hiện pháp luật cạnh tranh, điển hình như Hiệp hội

bảo hiểm rút ra bài học kinh nghiệm sau vụ việc thỏa thuận ấn định giá của 19

doanh nghiệp bảo hiểm để phổ biến cho các thành viên trong thực hiện pháp luật về

kiểm soát TTHCCT. Giới luật sư đã có nhiều nỗ lực trong việc tư vấn, giải thích

pháp luật cho khách hàng, tư vấn cho khách hàng tham vấn Cục CT&BVNTD về

thực hiện pháp luật đồng thời tích cực đóng góp ý kiến về pháp luật cạnh tranh và

công tác thực thi pháp luật trong thời gian qua thông qua những Hội thảo "Mười

năm thực thi Luật Cạnh tranh - Góc nhìn từ phía doanh nghiệp" tổ chức năm 2015

tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.

Những ưu điểm đó đã góp phần bảo vệ cạnh tranh, góp phần xây dựng một

môi trường kinh doanh tự do và bình đẳng. Cơ quan thẩm quyền nhận định nhờ

những kết quả đó mà "có thể nói môi trường kinh doanh tại Việt Nam cũng được

cải thiện trong những năm gần đây" [23, tr.60].

- Về phía cơ quan quản lý cạnh tranh, với một lĩnh vực mới và chưa có tiền

lệ hay kinh nghiệm, cơ quan quản lý cạnh tranh đã không ngừng nghiên cứu, tìm

tòi các phương thức triển khai đa dạng và phù hợp với nền KTTT của Việt Nam

kể từ khi Luật Cạnh tranh 2004 có hiệu lực. Một số ưu điểm cụ thể như sau:

+ Một ưu điểm nổi bật của cơ quan quản lý cạnh tranh trong công tác thực

hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT thời gian qua đó là nỗ lực trong công tác

tập huấn và tuyên truyền, phổ biến pháp luật về kiểm soát TTHCCT. Những hoạt

động đa dạng, phong phú bao gồm tổ chức hội thảo, diễn đàn, xuất bản sách,

phát hành các báo cáo đánh giá ngành kinh tế, báo cáo rà soát pháp luật cạnh

106

tranh và đều đặn mở các khóa tập huấn đã có tác dụng cung cấp kiến thức, hình

thành nhận thức và nâng cao hiểu biết của cộng đồng doanh nghiệp cũng như của

các cơ quan quản lý nhà nước, khảo sát của tác giả cho thấy có 70,4% doanh

nghiệp biết tới Luật Cạnh tranh 2004 là "qua các hoạt động tuyên truyền, phổ

biến pháp luật", trong số các doanh nghiệp "có liên hệ/làm việc với Cơ quan

quản lý cạnh tranh" thì có 99,3% là liên hệ qua các hội thảo, khóa đào tạo, tập

huấn. Trong các hoạt động trên, nhiều hoạt động nhận được sự hỗ trợ từ các tổ

chức quốc tế, những dự án phối hợp giữa cơ quan quản lý cạnh tranh và các tổ

chức quốc tế được triển khai đều đặn cho thấy sự tích cực chủ động trong phối

hợp của cơ quan quản lý cạnh tranh.

+ Hoạt động giám sát môi trường cạnh tranh cũng đã được cơ quan quản lý

cạnh tranh tập trung thực hiện, từ khi cơ quan quản lý cạnh tranh được thành lập

đến nay đã tiến hành đánh giá cạnh tranh ở nhiều ngành, lĩnh vực, phối hợp cùng

công tác điều tra tiền tố tụng, có những năm từ 2011-2013, chỉ với hơn 20 điều

tra viên nhưng Cục CT&BVNTD đã tiến hành điều tra tiền tố tụng lên đến 10 vụ

việc có nghi vấn thực hiện TTHCCT vi phạm pháp luật.

+ Trong quá trình triển khai thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT nói

riêng và pháp luật cạnh tranh nói chung, Hội đồng cạnh tranh và Cục

CT&BVNTD thường xuyên rà soát, tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm kịp thời,

các Báo cáo thường niên được xây dựng công phu, trách nhiệm, công khai

những thành tựu cũng như những hạn chế yếu kém và đề ra các giải pháp khắc

phục. Những hoạt động đó cũng góp phần ngăn chặn những hành vi sai lệch,

đồng thời nâng cao nhận thức cho chính cán bộ, công chức của mình cũng như

nhận thức cộng đồng doanh nghiệp, qua đó ít nhiều đã tạo được sự tương tác

giữa chủ thể quản lý nhà nước với cộng đồng doanh nghiệp để tạo nên sự đồng

bộ, đồng thuận trong việc thực hiện các hoạt động kiểm soát TTHCCT.

Những nỗ lực thi hành chức năng, nhiệm vụ của cơ quan quản lý cạnh tranh

đã nhận được đánh giá phản hồi tích cực từ phía cộng đồng doanh nghiệp, đó là:

Hoạt động thực thi pháp luật cạnh tranh của cơ quan quản lý cạnh tranh trải đều

các vấn đề, đa dạng về hành vi và lĩnh vực ngành nghề, luật và các văn bản

107

hướng dẫn ổn định, nhận thức của xã hội và doanh nghiệp tăng đáng kể nhờ cơ

quan quản lý cạnh tranh chú trọng hoạt động phổ biến pháp luật và doanh nghiệp

nhận được hỗ trợ tốt từ phía cơ quan cạnh tranh trong việc giải đáp các câu hỏi,

thắc mắc về giải thích pháp luật.

3.3.1.2. Về những hạn chế

Tuy có thành tựu nhưng những kết quả đạt được như trên là rất khiêm tốn,

chưa tương xứng với vị trí, vai trò của thực hiện pháp luật về kiểm soát

TTHCCT. Những hạn chế, bất cập tồn tại cụ thể như sau:

- Doanh nghiệp đã không còn vi phạm pháp luật một cách "công khai" như

thời gian đầu Luật Cạnh tranh mới có hiệu lực, nhưng những dấu hiệu thể hiện

trên thị trường và qua công tác giám sát cạnh tranh của cơ quan quản lý đã cho

thấy rằng TTHCCT không giảm đi, trái lại tăng về số lượng và hành vi được che

dấu một cách tinh vi dưới nhiều hình thức khác nhau. Sau vụ việc Hiệp hội Bảo

hiểm và các thành viên tổ chức TTHCCT năm 2008, những hoạt động của các hiệp

hội có thể dẫn đến hình thành một TTHCCT vẫn không hề giảm đi, tiềm ẩn nhiều

khả năng vi phạm pháp luật về kiểm soát TTHCCT. Điều đáng lo ngại nữa đến từ

phía các cơ quan quản lý nhà nước, trong quá trình thực hiện hoạt động quản lý của

mình, do chưa nắm vững pháp luật về kiểm soát TTHCCT mà có thể có những

quyết định quản lý tạo tiền đề cho doanh nghiệp thực hiện các hành vi TTHCCT.

- Dù nghĩa vụ của doanh nghiệp là cạnh tranh phải trung thực, không xâm

phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của

doanh nghiệp, của người tiêu dùng và phải tuân theo các quy định của pháp luật

về kiểm soát TTHCCT nhưng bản thân doanh nghiệp không chủ động trang bị

kiến thức pháp luật, không có giải pháp chủ động tích cực thi hành nghĩa vụ này.

Báo cáo Khảo sát doanh nghiệp và phỏng vấn chuyên gia về pháp luật cạnh tranh

Việt Nam do Cục CT&BVNTD công bố năm 2013 cho thấy có tới 73,2% doanh

nghiệp không có bộ phận pháp chế, chỉ 26,8% có đơn vị riêng phụ trách việc

tuân thủ pháp luật nói chung, bao gồm Luật Cạnh tranh. Điều tra xã hội học của

tác giả cũng cho thấy có 18,5% doanh nghiệp sử dụng chuyên gia pháp lý/luật sư

tư vấn để thông tin pháp luật cho Hội đồng quản trị, Ban giám đốc, tập huấn cho

108

nhân viên về pháp luật cạnh tranh nhưng chủ yếu là các doanh nghiệp có vốn đầu

tư nước ngoài và một số doanh nghiệp có quy mô tương đối lớn của Việt Nam.

- Quá trình thực hiện pháp luật kiểm soát TTHCCT thời gian qua ở Việt

Nam cho thấy chỉ khi vướng vào một vụ việc TTHCCT đang bị cơ quan có thẩm

quyền xem xét, các doanh nghiệp mới chú ý đến các quyền trong tố tụng cạnh tranh

và cố gắng sử dụng tốt nhất quyền của mình, tuy qua đó cũng đã thể hiện được sự

bình đẳng giữa Nhà nước và các chủ thể khác trong thực hiện pháp luật về kiểm

soát TTHCCT, nhưng tính chủ động tích cực rất ít. Còn nhiều quy định trao quyền

cho doanh nghiệp nhưng chưa hoặc rất ít được thực hiện, cụ thể là quyền khiếu nại,

quyền đề nghị hưởng miễn trừ, quyền tự nguyện khai báo về hành vi vi phạm trước

khi cơ quan có thẩm quyền phát hiện để được giảm nhẹ hình phạt.

Theo kết quả điều tra xã hội học của tác giả, với câu hỏi doanh nghiệp làm

gì khi phát hiện thấy các doanh nghiệp khác thực hiện những hành vi thỏa thuận

như nêu trên mà xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình, có 33,2%

chọn phương án tự dàn xếp, chỉ có 17,3% chọn phương án khiếu nại theo Luật

Cạnh tranh, đáng nói là có tới 29,4% chọn phương án kiện ra Tòa án. Điều này

một lần nữa khẳng định nhiều doanh nghiệp rất mơ hồ về pháp luật kiểm soát

TTHCCT khi chọn Tòa án là phương thức giải quyết của mình.

- Những thành tựu của cơ quan thẩm quyền trong thực hiện pháp luật là

đáng ghi nhận, nhưng hạn chế, bất cập cũng còn rất nhiều.

Cơ quan quản lý cạnh tranh chưa chú trọng ban hành các văn bản triển khai

thực hiện pháp luật, hướng dẫn chi tiết để thi hành, cụ thể không có một văn bản

nào (như một Thông tư chẳng hạn) để hướng dẫn thực hiện pháp luật về kiểm

soát TTHCCT trong khi đây là một vấn đề rất phức tạp và đòi hỏi nhiều hướng

dẫn rất cụ thể mới có thể thực hiện tốt. Cụ thể như trong vụ việc TTHCCT của

19 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, hành vi được phát hiện từ năm 2008,

hành vi vi phạm đơn giản và công khai, nhưng sau Quyết định số 99/QĐ-QLCT

của Cục trưởng Cục CT&BVNTD về việc việc điều tra chính thức vụ việc, cơ

quan điều tra cũng đã phải gia hạn thời hạn điều tra và sau khi Cục CT&BVNTD

chuyển Hồ sơ vụ việc lên Hội đồng Cạnh tranh thì Hội đồng Cạnh tranh lại phải

109

trả hồ sơ để điều tra bổ sung chỉ vì thiếu những hướng dẫn thi hành cụ thể về xác

định thị phần của doanh nghiệp vi phạm.

Việc triển khai thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT của cơ quan

quản lý cạnh tranh còn thiếu thường xuyên. Trong thời gian đầu và sau vụ việc

19 doanh nghiệp bảo hiểm, việc triển khai thực hiện pháp luật về kiểm soát

TTHCCT khá tập trung nhưng thời gian sau này cơ quan quản lý cạnh tranh chỉ

còn duy trì, ít đẩy mạnh những hoạt động mang tính chuyên đề, chuyên sâu.

Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật được cơ quan quản lý cạnh tranh triển

khai thực hiện rộng khắp, nhưng hiệu quả thực tế đạt được không cao, doanh

nghiệp vẫn mơ hồ về hành vi TTHCCT, theo khảo sát của tác giả, có 6/8 hành vi

TTHCCT rất ít doanh nghiệp nhận biết rằng đó là TTHCCT, trong đó đặc biệt

hành vi "Thoả thuận với đối thủ kinh doanh của mình cùng nhau hạn chế hoặc

kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá, dịch vụ để tránh

cạnh tranh lẫn nhau" có 5,2% doanh nghiệp biết, hành vi "Thoả thuận với đối thủ

kinh doanh của mình cùng nhau hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế

đầu tư" là 5%, hành vi "Thoả thuận với đối thủ kinh doanh của mình cùng nhau

ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát

triển kinh doanh" chỉ có 1,58% doanh nghiệp biết đó là hành vi TTHCCT mặc

dù khảo sát diễn ra ở các thành phố lớn của cả nước, không phải ở vùng sâu,

vùng xa. Mức độ hiểu biết về hành vi cũng không cao, theo khảo sát của tác giả,

không doanh nghiệp nào cho rằng mình "hiểu biết rõ" về TTHCCT, chỉ có 4,5%

"hiểu biết khá rõ" hay 91,1% "hiểu biết" nhưng chủ yếu là về hành vi rất phổ

biến là thông thầu. Như vậy, có thể đánh giá việc triển khai thực hiện pháp luật

về kiểm soát TTHCCT chưa thực sự có hiệu quả trong thực tế.

Công tác xây dựng nguồn lực đã được quan tâm, tuy nhiên, như chính cơ

quan quản lý cạnh tranh nhận thấy "nguồn lực điều tra viên của Cục Quản lý

Cạnh tranh còn hạn chế cả về mặt số lượng và chất lượng.." và "phần lớn các cán

bộ trong Cục Quản lý Cạnh tranh là những cán bộ trẻ, mới tham gia công tác

trong thời gian ngắn, chưa thể chủ động xử lý công việc" [23, tr.61]. Theo Báo

cáo Mô hình cơ quan cạnh tranh - Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam

110

của Bộ Công thương vào năm 2017, năm 2014 Cục Quản lý Cạnh tranh có 33

điều tra viên, năm 2015 tăng lên 35 và tuổi đời trung bình là 32.

Bảng 3.2: Nguồn nhân lực Cục Quản lý cạnh tranh giai đoạn 2005 - 2015

Đơn vị tính: người

Nguồn nhân lực 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015

Số lượng cán bộ

40

60

85

92

99

102

104

104

95

Tuổi trung bình

32

30

29

31

32

31

31

31

32

Chuyên

Luật

10

20

30

18

25

25

26

26

24

ngành

Kinh

20

35

40

57

56

59

60

60

57

tế

Khác

10

15

15

17

15

15

15

15

14

Số điều tra viên

03

12

12

21

21

21

33

33

35

Nguồn: [23].

Mặc dù đã có sự quan tâm của Chính phủ, của Bộ Công thương về đào tạo

điều tra viên cho Cục CT&BVNTD nhưng tiêu chuẩn điều tra viên là tiêu chuẩn

chung cho điều tra vụ việc cạnh tranh, không chuyên sâu cho vụ việc TTHCCT. Do

số lượng điều tra viên còn quá ít nên điều tra viên được sắp xếp, bố trí giải quyết tất

cả các lĩnh vực quản lý cạnh tranh, từ điều tra vụ việc cạnh tranh không lành mạnh,

chống phá giá, bán hàng đa cấp, lạm dụng vị trí thống lĩnh... vì vậy ảnh hưởng

không nhỏ tới chất lượng cũng như tiến độ điều tra vụ việc TTHCCT nói riêng cũng

như triển khai thực hiện các công tác khác về kiểm soát TTHCCT nói chung.

Đối với công tác giải quyết khiếu nại, chỉ có 02 vụ việc khiếu nại được thụ

lý và đã giải quyết thành công. Việc khiếu nại vượt cấp, không đúng trình tự quy

định của pháp luật, không cung cấp đủ hồ sơ khiếu nại... đã diễn ra. Những

trường hợp khiếu nại không thành đồng nghĩa với việc người khiếu nại không có

cơ hội được trình bày ý kiến với cơ quan quản lý cạnh tranh, được xử lý những

vướng mắc, những thiệt hại... trong quá trình thực hiện pháp luật về kiểm soát

TTHCCT, vấn đề chưa được giải quyết sẽ thành vấn đề tồn đọng. Bên cạnh đó

cơ quan quản lý cạnh tranh cũng mất đi cơ hội nắm bắt tình hình về những hành

vi của doanh nghiệp có thể gây ảnh hưởng đến môi trường cạnh tranh.

111

Đối với công tác điều tra xử lý vụ việc TTHCCT vi phạm pháp luật, qua

công tác điều tra tiền tố tụng cho thấy một số thị trường đang có vấn đề về cạnh

tranh và có khả năng xảy ra các hành vi vi phạm pháp luật về kiểm soát

TTHCCT. Tuy thế, cho đến năm 2017 chỉ có 04 vụ việc khởi xướng điều tra, trong

đó 02 vụ đã được xử lý là 02 vụ có hành vi vi phạm quá rõ ràng và công khai trên

các phương tiện truyền thông, 02 vụ còn lại hiện vẫn chưa có kết luận, và trong các

Báo cáo thường niên của Cục CT&BVNTD các năm sau đó cũng không cung cấp

thông tin gì thêm (Phụ lục 2). Xét trong tổng thể chung về nhận thức doanh nghiệp

và cộng đồng về kiểm soát TTHCCT, ý thức chấp hành pháp luật, khả năng sử dụng

pháp luật... như trình bày trên, có thể thấy rằng nhiều hành vi TTHCCT đã tồn tại

ngầm, biến tướng tinh vi, cơ quan quản lý có nghi vấn nhưng chưa khám phá được.

Điều này cho thấy rằng cơ quan quản lý cạnh tranh đã rất chú trọng công tác điều

tra và nỗ lực nhưng kết quả thu được không khả quan.

Tóm lại, thực trạng thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam

trong thời gian qua cho thấy những kết quả đạt được chỉ là những thành công bước

đầu, bất cập và hạn chế còn rất nhiều, cho thấy thực hiện pháp luật về kiểm soát

TTHCCT chưa phát huy được vai trò bảo vệ cạnh tranh bình đẳng trên thị trường,

bảo vệ môi trường kinh doanh, chưa bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các

chủ thể kinh doanh, của người tiêu dùng, của toàn xã hội.

3.3.2. Nguyên nhân của những ưu điểm và hạn chế trong thực hiện

pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam

3.3.2.1. Nguyên nhân của những ưu điểm

Quá trình triển khai, thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam

thu được những kết quả nêu trên là do những nguyên nhân sau:

- Thứ nhất, thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT là hiện thực hóa chủ

trương xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh, hợp pháp, văn minh mà

Đảng đề ra và Hiến pháp 2013 đã khẳng định tại Điều 52: "Nhà nước xây

dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, điều tiết nền kinh tế trên cơ sở tôn trọng

các quy luật thị trường". Do đó kiểm soát những hành vi làm hạn chế, làm sai

lệch cạnh tranh trên thị trường, bảo đảm cạnh tranh tự do, bình đẳng, chống

độc quyền là tôn trọng các quy luật thị trường, là yêu cầu cấp thiết, không chỉ

112

đáp ứng đòi hỏi về một môi trường kinh doanh lành mạnh trong nước mà còn

đáp ứng yêu cầu về hội nhập quốc tế của Việt Nam khi mà theo các cam kết

khi gia nhập vào Tổ chức Thương mại Thế giới WTO thì không muộn hơn

31/12/2018 kinh tế Việt Nam phải hoàn toàn hoạt động theo cơ chế thị trường.

Thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT không chỉ đóng góp vào việc phát

triển kinh tế trong nước mà còn khẳng định Việt Nam đã và đang xây dựng

một chính sách cạnh tranh minh bạch, ổn định, làm tiền đề cho việc gia nhập,

tham gia vào các diễn đàn hay tổ chức kinh tế thế giới và khu vực. Do đó,

thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT nói riêng, pháp luật cạnh tranh nói

chung là chủ trương đúng đắn của Đảng, đã được Chính phủ, các cơ quan

thẩm quyền và cộng đồng doanh nghiệp nhận thức đúng, đón nhận, hưởng

ứng và coi như là một động lực quan trọng để phát triển nền KTTT định

hướng XHCN của Việt Nam.

- Thứ hai, quá trình triển khai, thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT

được sự quan tâm, theo dõi và chỉ đạo sát sao của Chính phủ, sự chỉ đạo điều

hành quyết liệt của Bộ Công thương và sự thực thi đầy trách nhiệm và nỗ lực của

Hội đồng cạnh tranh và đặc biệt là Cục CT&BVNTD. Trước yêu cầu của Đảng

và Nhà nước giao cho, Chính phủ đã chỉ đạo sát sao quá trình xây dựng và ban

hành Luật Cạnh tranh 2004 cũng như văn bản hướng dẫn thi hành, nhanh chóng

thành lập và kiện toàn Hội đồng cạnh tranh cũng như quy định chức năng, nhiệm

vụ quản lý cạnh tranh của Bộ Công thương. Thực hiện nhiệm vụ của mình, Bộ

Công thương nhanh chóng và quyết liệt hoàn thiện về bộ máy, bổ sung nhân lực

cho Cục CT&BVNTD tạo điều kiện cho cơ quan này nhanh chóng đi vào hoạt

động phát huy hết vai trò của mình. Tuy chưa hề có kinh nghiệm hay tiền lệ thực

hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT, Hội đồng cạnh tranh và Cục

CT&BVNTD đã có nhiều nỗ lực, tìm tòi các phương thức hiệu quả để triển khai

thực hiện pháp luật, chú trọng nâng cao nhận thức, định hình văn hoá cạnh tranh

trong kinh doanh của doanh nghiệp cũng như của các cơ quan quản lý nhà nước

và toàn thể xã hội. Chính nhờ những nỗ lực đó mà pháp luật về kiểm soát

TTHCCT đã dần đi vào thực tiễn.

113

- Thứ ba, thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT đã có được sự chung tay

của các cơ quan, tổ chức trong nước và các tổ chức quốc tế. Trong quá trình xây

dựng pháp luật và sau đó là triển khai thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT,

Việt Nam đã nhận được sự hỗ trợ rất thiết thực và sự đồng hành của các tổ chức

quốc tế thông qua các dự án hỗ trợ thương mại và thông qua những hoạt động hợp

tác cụ thể về kinh nghiệm xây dựng và triển khai thực thi pháp luật, về hỗ trợ đào

tạo chuyên môn, về truyền thông cải tiến nhận thức của cộng đồng... Về phía cộng

đồng doanh nghiệp, các hiệp hội ngành nghề, sau những bỡ ngỡ bước đầu đã có

nhiều động thái tích cực để nâng cao nhận thức cùng cơ quan quản lý cạnh tranh

xây dựng văn hóa cạnh tranh lành mạnh. Các cơ quan quản lý nhà nước khác, các tổ

chức như Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam VCCI cũng đã phối hợp

cùng Hội đồng cạnh tranh và Cục CT&BVNTD trong công tác hội thảo, tập huấn,

phản biện chính sách cũng như triển khai thực hiện pháp luật.

3.3.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế

- Thứ nhất, một cách khách quan, do bản chất kinh tế của một TTHCCT,

kiểm soát TTHCCT luôn là một vấn đề khó, nhiều thử thách, ngay cả đối với

những người đi trước giàu kinh nghiệm như Hoa Kỳ hay EU chứ không chỉ là

vấn đề riêng có của Việt Nam. Những lợi ích thu được từ một TTHCCT luôn

thôi thúc các doanh nghiệp tham gia vào thỏa thuận, thách thức việc tuân thủ

pháp luật của họ và để tránh sự trừng phạt của pháp luật, họ càng ngày càng tìm

ra tìm nhiều cách thức "ngầm hóa" che dấu một cách tinh vi gây rất nhiều khó

khăn cho việc phát hiện và xử lý của cơ quan quản lý cạnh tranh. Trong khi đó,

do tính chất phức tạp và thường bị che dấu của TTHCCT, người tiêu dùng, cộng

đồng cũng khó phát hiện ra một TTHCCT để lên tiếng nhằm nhắc nhở doanh

nghiệp điều chỉnh hành vi của mình. Ngay cả khi có dấu hiệu nghi vấn, cơ quan

quản lý cạnh tranh cũng gặp nhiều khó khăn để phá vỡ bí mật của một TTHCCT,

càng ngày "các chủ thể kinh doanh trên thị trường sử dụng những phương thức

cạnh tranh mới, hiện đại, vượt ra khỏi ranh giới của các kỹ thuật, công cụ, biện

pháp truyền thống" [24, tr.16]. Do đó để điều tra và xử lý thành công một

TTHCCT vi phạm pháp luật là không dễ dàng.

114

- Thứ hai, pháp luật về kiểm soát TTHCCT của Việt Nam còn nhiều bất

cập, hạn chế. Các quy định về hành vi TTHCCT, các quy định cấm, các quy định

xử lý vi phạm pháp luật về kiểm soát TTHCCT, các quy định miễn trừ vẫn nặng

tính mô tả, cứng nhắc, chưa thực sự thấu đáo bản chất phản cạnh tranh của một

TTHCCT. Nhiều quy định mang tính liệt kê nên thiếu linh hoạt, không bắt kịp

được các biến động thường xuyên, liên tục của thị trường. Ngoài ra, có một số

nội dung quan trọng như chính sách khoan hồng, trách nhiệm của người đứng

đầu doanh nghiệp tham gia TTHCCT, trách nhiệm của hiệp hội, bồi thường thiệt

hại do hành vi TTHCCT gây ra chậm được sửa đổi bổ sung trong pháp luật về

kiểm soát TTHCCT Việt Nam.

- Thứ ba, pháp luật về kiểm soát TTHCCT là vấn đề mới và thực hiện pháp

luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam chưa hề có kinh nghiệm, tiền lệ nhưng

công tác hướng dẫn thi hành chưa được quan tâm đúng mức. Tuy rất tích cực,

chủ động truyên truyền phổ biến pháp luật, nhưng cả Hội đồng Cạnh tranh và

Cục CT&BVNTD đều không có chức năng ban hành văn bản quy phạm pháp

luật để hướng dẫn, giải thích thực hiện pháp luật. Do đó các tài liệu, thông tin,

báo cáo của hai cơ quan này là tài liệu tham khảo rất hữu ích cho doanh nghiệp

nhưng không phải là các hướng dẫn chính thức mang tính pháp lý để thi hành.

- Thứ tư, nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp về thực hiện pháp luật về

kiểm soát TTHCCT còn rất hạn chế cộng thêm tâm lý e ngại dẫn đến sự thiếu

tích cực của các chủ thể kinh doanh. Tuy "các doanh nghiệp trong nước và nước

ngoài hoạt động tại Việt Nam ngày càng có ý thức chấp hành và tuân thủ các quy

định về pháp luật cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh" [23, tr.6], nhưng thực tế

số lượng doanh nghiệp hiểu biết pháp luật về kiểm soát TTHCCT và có ý thức chủ

động thực hiện pháp luật không nhiều. Dưới 1/3 số doanh nghiệp được khảo sát có

chương trình tuân thủ nội bộ và còn ít doanh nghiệp hơn số này điều chỉnh hoạt

động kinh doanh của mình nhằm đảm bảo tuân thủ được theo Luật Cạnh tranh [62,

tr.60]. Một phần do nhận thức hạn chế, một phần do tâm lý ngại va chạm, khiếu nại

và kiện tụng nên ngay cả trong việc bảo vệ cho quyền lợi chính đáng của mình cũng

115

rất ít được doanh nghiệp thực hiện và doanh nghiệp cũng chưa hợp tác thật tích cực

và đầy đủ với cơ quan thẩm quyền.

- Thứ năm, trong quá trình thực hiện pháp luật, cơ quan quản lý cạnh tranh

gặp những trở ngại trong việc phối hợp thực hiện từ các cơ quan, tổ chức và các

cá nhân liên quan, trong đó có cả một số cơ quan quản lý nhà nước. Ngoài

nguyên nhân các cơ quan này thiếu hiểu biết về pháp luật cạnh tranh, hoạt động

phối hợp còn gặp trở ngại do mâu thuẫn chồng chéo giữa luật cạnh tranh và luật

chuyên ngành và đặc biệt do sự can thiệp hành chính từ các cơ quan quản lý

chuyên ngành mà thiếu các thiết chế bắt buộc cần thiết và cơ quan quản lý cạnh

tranh không đủ thẩm quyền bắt buộc phối hợp thực thi. Do điều kiện lịch sử để

lại, tuy Đảng và Nhà nước đã quyết liệt trong việc đổi mới doanh nghiệp nhà

nước, nhưng tình trạng cơ quan quản lý nhà nước là chủ quản doanh nghiệp nhà

nước vẫn còn tồn tại, và thực trạng đã cho thấy có những quyết định hành chính

từ các cơ quan chủ quản tác động vào thực hiện pháp luật kiểm soát TTHCCT.

- Thứ sáu, địa vị và mô hình cơ quan cạnh tranh chưa hợp lý, chưa củng cố

được vị thế để đảm bảo thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình. Hội đồng

Cạnh tranh không rõ là cơ quan cấp nào, dù được quy định là là cơ quan tiến

hành tố tụng cạnh tranh độc lập do Chính phủ thành lập nhưng cũng không

tương đương với địa vị pháp lý của Bộ, cơ quan ngang Bộ, từ đó không thể ban

hành được văn bản quy phạm pháp luật để hướng dẫn áp dụng pháp luật về kiểm

soát TTHCCT. Cục CT&BVNTD trực thuộc Bộ Công thương, địa vị pháp lý còn

thấp hơn các cơ quan chủ quản doanh nghiệp nhà nước khác, lại có quá nhiều

chức năng, đó là giúp Bộ trưởng Bộ Công thương thực hiện quản lý nhà nước về

cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp, áp dụng các biện pháp tự vệ đối

với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam; bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; phối

hợp với các doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng trong việc đối phó với các vụ

kiện trong thương mại quốc tế liên quan đến bán phá giá, trợ cấp và áp dụng các

biện pháp tự vệ, điều tra các vụ việc hạn chế cạnh tranh... với mô hình này các

cán bộ của Cục, các điều tra viên không thể tập trung thời gian hợp lý vào công

tác kiểm soát TTHCCT.

116

- Thứ bảy, là những khó khăn về nhân sự, về trình độ chuyên môn. Hội đồng

Cạnh tranh có chức năng tổ chức xử lý, giải quyết khiếu nại đối với các vụ việc

TTHCCT nên thành viên Hội đồng cạnh tranh đều là những chuyên gia, những nhà

quản lý giàu kinh nghiệm trong các lĩnh vực nhưng phần lớn là công tác kiêm

nhiệm theo vụ việc, do đó không thể tập trung hoàn toàn cho công tác thực hiện

pháp luật về kiểm soát TTHCCT. Nhân viên, viên chức của Cục CT&BVNTD đa

phần trẻ, còn thiếu kinh nghiệm, tuy được đào tạo, tập huấn về chuyên môn nhưng

phải thực hiện công tác quản lý trong nhiều lĩnh vực của pháp luật cạnh tranh nên

không thể tập trung chuyên sâu vào pháp luật về kiểm soát TTHCCT.

- Thứ tám, kinh phí dành cho quá trình triển khai, thực hiện pháp luật về

kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam chưa phù hợp. Kinh phí dành cho tuyên truyền,

phổ biến pháp luật, kinh phí dành cho tập huấn cán bộ thực hiện quản lý nhà

nước về cạnh tranh và kinh phí cho trang thiết bị, cơ sở vật chất... đều hạn chế,

trong khi phải chia ra cho nhiều nội dung hoạt động chứ không phải chỉ dành cho

thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT. Cơ quan quản lý cạnh tranh vừa thực

hiện chức năng quản lý nhà nước vừa thực hiện chức năng điều tra, xử lý vi

phạm nhưng lại áp dụng quản lý kinh phí hành chính sự nghiệp nên không phù

hợp, thậm chí là bất cập, khó thực hiện trong thực tế. Từ đó đã ảnh hưởng đến

kết quả thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam.

3.3.3. Bài học kinh nghiệm trong thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa

thuận hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam

Từ thực tiễn thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam trong

thời gian qua, rút ra một số kinh nghiệm sau:

Một là, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật là rất cần thiết, và càng

đặc biệt cần thiết đối với một lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ như pháp luật về kiểm

soát TTHCCT. Nội dung tuyên truyền, phổ biến pháp luật không chỉ tập trung

vào các quy định tại Luật Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn thi hành mà còn

phải kết hợp các văn bản pháp luật chuyên ngành khác. Về phương thức cần đa

đạng và linh hoạt thật sự. Về đối tượng tuyên truyền, phổ biến pháp luật cần phải

rất chú trọng những đối tượng liên quan mật thiết như đội ngũ luật sư tư vấn, các

117

chuyên viên pháp chế, các hiệp hội doanh nghiệp trên phạm vi toàn quốc. Đặc

biệt các cơ quan quản lý nhà nước cũng rất cần được tuyên truyền, phổ biến pháp

luật để đảm bảo tuân thủ, thi hành trong quá trình quản lý nhà nước.

Hai là, phải chú trọng đến việc hỗ trợ doanh nghiệp tăng cường khả năng

tuân thủ, thi hành và sử dụng pháp luật về kiểm soát TTHCCT. Bên cạnh việc

thường xuyên hệ thống hóa, pháp điển hóa pháp luật về kiểm soát TTHCCT, cần

tạo điều kiện cho doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận với pháp luật, với các quy định

mang tính thể chế, thông tin về thực hiện pháp luật kiểm soát TTHCCT và sự hỗ

trợ tư vấn của các cơ quan quản lý nhà nước. Cơ quan quản lý nhà nước không

phải là chỉ chú trọng đến việc "kiểm soát", mà trên hết là tạo điều kiện tốt nhất

cho doanh nghiệp phát triển vững mạnh, tự giác tuân thủ pháp luật, có ý thức xây

dựng văn hóa kinh doanh và có trách nhiệm với cộng đồng. Đây chính là một

biện pháp phòng ngừa nhằm hạn chế trường hợp doanh nghiệp tham gia vào các

TTHCCT mà pháp luật cấm.

Ba là, thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT cần sự nỗ lực không chỉ

của cơ quan quản lý cạnh tranh và cộng đồng doanh nghiệp, của hiệp hội mà còn

cần sự chung tay của các cơ quan quản lý nhà nước khác, của toàn thể các tổ

chức, cá nhân khác trong xã hội. Mỗi chủ thể pháp luật về kiểm soát TTHCCT,

thông qua các hình thức thực hiện pháp luật để đưa pháp luật vào thực tiễn, các

hình thức thực hiện pháp luật luôn có sự tương tác lẫn nhau, mỗi hình thức thực

hiện pháp luật đều gây ảnh hưởng thúc đẩy hoặc kiềm chế kết quả thực hiện

pháp luật trong thực tiễn, do đó để đảm bảo thực hiện pháp luật về kiểm soát

TTHCCT cần xây dựng hệ thống pháp luật với các quy định nội dung và cơ chế

phù hợp để đảm bảo các chủ thể pháp luật tuân thủ, thi hành, sử dụng và áp dụng

pháp luật. Ngoài ra, sự chung tay của toàn thể các cá nhân, tổ chức trong xã hội

góp phần hình thành và hoàn thiện các điều kiện đảm bảo thực hiện pháp luật về

kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam.

Bốn là, để đảm bảo thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT, cơ quan

quản lý cạnh tranh phải đủ mạnh, đủ công cụ pháp lý để triển khai thực hiện

pháp luật, có khả năng phát hiện và xử lý nghiêm minh các hành vi TTHCCT vi

118

phạm pháp luật. Bộ máy nhân sự của cơ quan quản lý cạnh tranh phải được đảm

bảo về số lượng và chất lượng, có năng lực triển khai thực hiện pháp luật về

kiểm soát TTHCCT. Cơ quan quản lý cạnh tranh cũng cần được quy định vị trí

pháp lý rõ ràng, được trao cho đủ các quyền năng cần thiết. Pháp luật về kiểm

soát TTHCCT là lĩnh vực luật công, trong đó cơ quan quản lý cạnh tranh đóng

vai trò trung tâm, là chủ thể quản lý xã hội, tạo lập, duy trì và bảo vệ lợi ích công

cộng, vai trò này được thể hiện thông qua vai trò, sức mạnh của cơ quan thực thi

pháp luật về cạnh tranh. Do đó, cơ quan quản lý cạnh tranh phải đủ khả năng

giám sát cạnh tranh trên thị trường, các hành vi vi phạm pháp luật phải được

phát hiện và xử lý nghiêm minh, vừa đảm bảo tính răn đe, vừa đảm bảo ngăn

ngừa các hành vi tương tự.

Năm là, thiết lập hệ thống phương tiện thông tin đại chúng để thông tin một

cách kịp thời cho người tiêu dùng, doanh nghiệp và các cơ quan, tổ chức về pháp

luật cạnh tranh là rất cần thiết. Minh bạch hóa thông tin về chính sách cạnh tranh và

hoạt động xử lý vụ việc TTHCCT. Cơ quan quản lý cạnh tranh đã thực hiện tốt việc

thông tin và minh bạch hóa thông tin và đây là một trong những nguyên nhân của

những thành tựu trong quá trình thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT thời

gian qua. Việc đa dạng hóa kênh thông tin và minh bạch hóa thông tin về chính

sách cạnh tranh, về hoạt động xử lý vụ việc TTHCCT cần được tiếp tục phát huy để

tất cả các chủ thể pháp luật và các cá nhân, tổ chức khác nâng cao nhận thức về thực

hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT của Việt Nam cũng như tham gia cùng cơ

quan quản lý cạnh tranh kiểm soát TTHCCT đồng thời giám sát việc thực hiện pháp

luật của cơ quan quản lý nhà nước, đảm bảo dân chủ XHCN.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

1. Xác định hoàn thiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT Việt Nam hướng

tới tính toàn diện, đồng bộ, khả thi... là cơ sở để nâng cao hiệu quả thực hiện

pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam hiện nay nên trong chương 3, luận

án đã khái quát quá trình hình thành và phát triển, đánh giá những thành tựu và

phân tích cặn kẽ những hạn chế, bất cập cần được sửa đổi và bổ sung của pháp

luật về kiểm soát TTHCCT Việt Nam. Những hạn chế, bất cập của pháp luật về

119

kiểm soát TTHCCT là một trong những nguyên nhân của hạn chế, bất cập trong

thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam hiện nay. Phân tích

những hạn chế, bất cập đó là cơ sở để nêu ra các đề xuất trong nội dung giải

pháp ở Chương 4.

2. Bằng việc nghiên cứu các báo cáo thực trạng, nghiên cứu các vụ việc

trong thực tiễn, phân tích các dấu hiệu nghi vấn kết hợp với kết quả điều tra xã

hội học, chương 3 đã đánh giá thực trạng thực hiện các quy định về hành vi

TTHCCT và những TTHCCT bị cấm, thực trạng thực hiện các quy định về xử lý

vi phạm pháp luật về kiểm soát TTHCCT, thực trạng khiếu nại và giải quyết

khiếu nại trong quá trình thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT, thực trạng

thực hiện các quy định về miễn trừ và giảm nhẹ hình phạt. Qua phân tích thực trạng

ở chương 3 cho thấy rằng tuy đã có một số dấu hiệu tích cực, thực hiện pháp luật về

kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam hiện nay còn rất nhiều bất cập, hạn chế.

3. Bám sát mục tiêu nghiên cứu, qua phân tích thực trạng, chương 3 đã đưa

ra những đánh giá chung mang tính lý luận và thực tiễn về ưu điểm, hạn chế và

nguyên nhân của ưu điểm, hạn chế trong thực hiện pháp luật về kiểm soát

TTHCCT ở Việt Nam hiện nay. Chương 3 cũng rút ra năm bài học kinh nghiệm

về quá trình triển khai thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam

hiện nay để làm cơ sở đề xuất các giải pháp nhằm đảm bảo hiệu quả thực hiện

pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam góp phần bảo vệ môi trường cạnh

tranh, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong nền

KTTT định hướng XHCN Việt Nam và để đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.

120

Chương 4

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ

KIỂM SOÁT THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM

4.1. QUAN ĐIỂM BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT

THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM

4.1.1. Bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế

cạnh tranh phải quán triệt sâu sắc quan điểm về xây dựng nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng Cộng sản Việt Nam

Chủ trương xây dựng nền KTTT định hướng XHCN của Đảng Cộng sản

Việt Nam là nhất quán từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đến nay. Đại

hội Đảng toàn quốc lần thứ XII tiếp tục khẳng định nền KTTT định hướng XHCN

nước ta là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của KTTT, điều

đó có nghĩa là nền KTTT Việt Nam mang đầy đủ các đặc trưng phổ biến của

KTTT, như: tự do kinh doanh và cạnh tranh, mở cửa và hướng tới tự do hóa, đa

dạng hóa các hình thức sở hữu, lấy quy luật giá trị và quan hệ cung cầu để xác định

giá cả, coi cạnh tranh là động lực phát triển, phân bổ nguồn lực phát triển và xử lý

những yếu kém nội tại của nền kinh tế theo các nguyên tắc của thị trường [59,

tr.11]. Nền KTTT định hướng XHCN Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh

đạo, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, Nhà nước thực hiện quản lý

bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác trên cơ sở tôn trọng các

quy luật thị trường, phù hợp nguyên tắc thị trường.

Từ đó, xác định bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt

Nam trên cơ sở các quan điểm sau đây:

Thứ nhất, quán triệt quan điểm xây dựng nền KTTT vận hành theo đúng

các quy luật nội tại của mình trong khuôn khổ nhà nước pháp quyền XHCN Việt

Nam. Thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT chỉ diễn ra trong nền KTTT,

khi nền kinh tế vận hành theo các quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh…

nhưng để bảo đảm thực hiện thì phải trong khuôn khổ pháp luật, các chủ thể dù

là cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp, hiệp hội hay người tiêu dùng đều

cần phải thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình để thiết lập, bảo vệ và

121

vận hành khuôn khổ đó nhằm đảm bảo các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền.

Thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT được bảo đảm khi các chủ thể quán

triệt quan điểm này, mỗi chủ thể đều xác định và thực hiện đúng, đủ quyền và

nghĩa vụ của mình, tự do kinh doanh và cạnh tranh trên cơ sở thượng tôn pháp

luật và bình đẳng trước pháp luật. Các chủ thể kinh doanh được quyền thiết lập

các thỏa thuận, được quyền cạnh tranh, được sử dụng các quyền mà pháp luật

trao cho và không được gây tác động xấu đến môi trường kinh doanh, gây thiệt

hại đến lợi ích của các chủ thể khác, phải tuân thủ pháp luật cũng như thi hành

các nghĩa vụ của mình. Thực hiện vai trò của mình, Nhà nước quy định, kiểm

soát, hướng dẫn cạnh tranh, tạo cơ hội cho các chủ thể kinh tế được cạnh tranh tự

do và bình đẳng và bảo vệ cạnh tranh trong nền KTTT bằng cách xử lý các hành

vi gây vi phạm để bảo vệ cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng. Trên cơ sở các quy

định pháp luật về kiểm soát TTHCCT, các chủ thể kinh doanh có thể điều chỉnh

hành vi kinh doanh của mình theo đúng chuẩn mực luật định, xây dựng văn hóa

kinh doanh lành mạnh, vừa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình vừa tác

động tích cực đến môi trường kinh doanh, bảo vệ lợi ích công cộng.

Thứ hai, quán triệt quan điểm phải bảo vệ cạnh tranh tự do, bình đẳng để

xây dựng nền KTTT và Nhà nước có trách nhiệm ngăn chặn các hành vi làm hạn

chế, làm cản trở, làm triệt tiêu cạnh tranh trong thị trường. Bảo đảm thực hiện

pháp luật về kiểm soát TTHCCT trên cơ sở thực hiện tinh thần "kiểm soát" ấy.

Nhà nước áp dụng pháp luật để cấm và xử lý hành vi gây hạn chế, gây triệt tiêu

cạnh tranh trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường, không làm méo mó thị

trường. Tự do thỏa thuận giữa các chủ thể kinh doanh, dù có là đối thủ cạnh

tranh hay không, đều là quyền của các chủ thể và Nhà nước tôn trọng. Nhà nước

chỉ cấm những TTHCCT gây hại cho cạnh tranh, làm hạn chế, làm sai lệnh cạnh

tranh trên thị trường mà những lợi ích khác do thỏa thuận đó đem lại không thể

cứu chuộc được. Do đó việc chủ thể Nhà nước thực hiện hình thức áp dụng pháp

luật phải trên cơ sở quan điểm này để lựa chọn mức độ và hình thức theo dõi các

dấu hiệu, điều tra tiền tố tụng, điều tra, xử lý các TTHCCT sao cho tối ưu nhất,

không can thiệp vào công việc kinh doanh của doanh nghiệp nhưng vẫn đảm bảo

tính răn đe, tính nghiêm minh trong xử lý vi phạm pháp luật. Ngoài ra các hoạt

122

động tham vấn, tuyên truyền cũng cần được đẩy mạnh khuyến khích tự do thỏa

thuận, tự do cạnh tranh một cách văn minh và đúng pháp luật là điều cần phải

quán triệt khi thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam hiện nay.

4.1.2. Bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế

cạnh tranh phải tập trung mục tiêu bảo vệ cạnh tranh tự do và bình đẳng,

duy trì và bảo vệ môi trường cạnh tranh lành mạnh, hiệu quả

Khi xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật và chính sách cạnh tranh, có

ba mục tiêu mà các quốc gia hướng tới, đó là: Thúc đẩy và bảo vệ quá trình cạnh

tranh, đạt được hiệu quả kinh tế cao hơn và bảo vệ lợi ích công cộng. Tuy nhiên

các quốc gia đều diễn giải rằng hiệu quả kinh tế cao hơn hay bảo vệ lợi ích công

cộng đều chỉ đạt được bằng cách kiềm chế hoặc ngăn chặn các hành vi hạn chế

cạnh tranh hoặc lạm dụng sức mạnh kinh tế [114]. Do đó mục tiêu của thực hiện

pháp luật về kiểm soát TTHCCT là bảo vệ tự do kinh tế và đảm bảo cơ hội cho

mọi người bằng cách thúc đẩy cạnh tranh tự do và công bằng trên thị trường.

Pháp luật về kiểm soát TTHCCT mang tính chất là pháp luật "canh cửa"

cho nền KTTT và bảo vệ lợi ích công cộng. Khi thị trường tồn tại TTHCCT, các

vấn đề quan trọng của thị trường như giá cả, sản lượng, khách hàng… bị khống

chế bởi nhóm các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận, tạo ra cho nhóm quyền lực

thị trường, có thể dẫn đến độc quyền hóa thị trường. Vì thế TTHCCT ngoài việc

làm hạn chế, sai lệch cạnh tranh còn có thể mang tính chất trục lợi từ khách

hàng, người tiêu dùng hoặc loại bỏ các đối thủ cạnh tranh khác hoặc ngăn chặn

đối thủ mới. Xây dựng và thực hiện pháp luật kiểm soát TTHCCT là để bảo vệ

cạnh tranh tự do trên thị trường, thúc đẩy các doanh nghiệp đã có mặt trên thị

trường phải tiếp tục cải thiện công việc kinh doanh tốt hơn, tạo ra một môi

trường kinh doanh có hiệu quả để doanh nghiệp mới gia nhập và phát triển đồng

thời duy trì giá cả có lợi cho người tiêu dùng.

Thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT không tập trung vào mục tiêu

bảo vệ một doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp cụ thể nào trên thị trường mà

hướng tới bảo vệ lợi ích chung, thông qua thực hiện các quy định pháp luật về

kiểm soát TTHCCT để bảo vệ cạnh tranh, là động lực của sự phát triển, là

phương tiện giúp phân bổ hiệu quả các nguồn lực, tăng cường hiệu quả của toàn

123

bộ nền kinh tế từ đó mang lại cho người tiêu dùng nhiều lựa chọn về sản phẩm,

dịch vụ với chất lượng tốt hơn và giá cả hợp lý. Thực hiện pháp luật về kiểm

soát TTHCCT là thực hiện quyền tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh trong

khuôn khổ pháp luật, thực hiện phát triển nền KTTT trong một nhà nước pháp

quyền. Thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT cũng là cách thức để các chủ

thể kinh doanh phát huy quyền tự do kinh doanh, tích cực thực hiện các nghĩa vụ

góp phần xây dựng môi trường kinh doanh tốt đẹp.

Do đó, thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT cần quán triệt mục tiêu

quan trọng nhất là: Bảo vệ cạnh tranh, bảo vệ môi trường cạnh tranh bình đẳng

giữa các doanh nghiệp trên thị trường, thông qua đó tăng cường hiệu quả của nền

kinh tế, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, người tiêu dùng

và toàn xã hội.

4.1.3. Thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

phải bảo đảm phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia,

ký kết hoặc phê chuẩn

Hợp tác quốc tế trong thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT là yêu cầu

tất yếu của thời đại. Ngày nay, sự tấn công của các TTHCCT không dừng lại ở

biên giới một quốc gia, TTHCCT đang ngày càng phát triển nhanh chóng cả về

số lượng và quy mô, trở thành đại dịch ở tầm xuyên quốc gia, xuyên châu lục

"chỉ trong một thập kỷ qua đã có hàng trăm vụ việc thỏa thuận ấn định giá quốc

tế bị truy tố" [61, tr.3], đại dịch này chắc chắn không bỏ qua Việt Nam, nhất là

khi chúng ta đang chủ động hội nhập quốc tế. Các quốc gia đều bị thiệt hại do

TTHCCT xuyên biên giới, "tuy nhiên do sự chưa hoàn thiện về thể chế, chính

sách, sự hạn chế về trình độ phát triển, kinh nghiệm... các quốc gia đang phát

triển dường như sẽ chịu nhiều tác động nặng nề hơn" [55, tr.68].

Ở Việt Nam, thể chế hóa quan điểm của Đảng trong Nghị quyết số 22-NQ/TW

ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế, Thủ tướng Chính phủ đã ban

hành Quyết định số 40/QĐ-TTg ngày 07/01/2016 về việc phê duyệt Chiến lược

tổng thể hội nhập quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Đại hội Đảng

toàn quốc lần thứ XII đã xác định "nền KTTT định hướng XHCN của nước ta là

nền KTTT hiện đại và hội nhập quốc tế" [29, tr.28], quan điểm này phù hợp với

124

thực tiễn phát triển của đất nước hiện nay, phản ánh tiến trình hội nhập quốc tế sâu,

rộng trên nhiều cấp độ của Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối

tác chiến lược toàn diện, đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, và quan hệ đặc biệt

với nhiều nước, ngoài khuôn khổ Tổ chức Thương mại thế giới WTO, nội khối

ASEAN, Việt Nam đã đẩy mạnh đàm phán và ký kết nhiều hiệp định thương mại

với nhiều đối tác và năm 2016 đã ký Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương

(TPP). Các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia, ký kết hoặc phê chuẩn là cơ

sở pháp lý và tiền đề, điều kiện quan trọng để nền kinh tế nước ta hội nhập ngày

càng sâu rộng và toàn diện vào nền kinh tế quốc tế.

Do đó, thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT quán triệt quan điểm bảo

đảm phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia, ký kết hoặc phê

chuẩn. Thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam hướng tới mục

tiêu cụ thể mà Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 3/6/2017, Hội nghị lần thứ năm

Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về hoàn thiện thể chế KTTT định

hướng XHCN đặt ra đến năm 2020 là phấn đấu hoàn thiện một bước đồng bộ

hơn hệ thống thể chế KTTT định hướng XHCN theo các chuẩn mực phổ biến

của nền KTTT hiện đại và hội nhập quốc tế.

4.1.4. Thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

trên tinh thần kế thừa, học hỏi có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế và phù hợp

với điều kiện cụ thể của Việt Nam

Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 3/6/2017, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp

hành Trung ương Đảng khóa XII về hoàn thiện thể chế KTTT định hướng

XHCN xác định hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN là quá trình phát

triển liên tục; kế thừa có chọn lọc thành tựu phát triển KTTT của nhân loại và

kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn đổi mới ở nước ta.

Thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT chỉ diễn ra trong nền KTTT,

Việt Nam đang trong tiến trình xây dựng nền KTTT, hoàn thiện thể chế thị

trường XHCN, do đó tiếp thu, học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia khác là tất

yếu, nhất là những kinh nghiệm thuần túy về kinh tế, kỹ thuật, như nghiệp vụ

điều tra hay là vận hành chương trình khoan hồng. Tuy thế, nền KTTT định

125

hướng XHCN ở nước ta là một mô hình hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ trong lịch

sử với thời gian phát triển chỉ hơn 30 năm, do đó các thiết chế kinh tế - pháp lý

đang trên bước xây dựng và hoàn thiện, cũng như các đặc thù văn hóa, xã hội Việt

Nam, chẳng hạn tâm lý ngại khiếu nại, ngại khởi kiện, ngại tố giác… sẽ tác động

đến thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT. Do đó thực hiện pháp luật về kiểm

soát TTHCCT ở Việt Nam cần quán triệt quan điểm học hỏi kinh nghiệm quốc tế

đồng thời tổng kết kinh nghiệm Việt Nam, tiếp thu trên tinh thần có chọn lọc và

phù hợp với những đặc trưng riêng của Việt Nam.

4.2. GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT

THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM

4.2.1. Nhóm giải pháp nâng cao nhận thức về thực hiện pháp luật về

kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

4.2.1.1. Nâng cao nhận thức về thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa

thuận hạn chế cạnh tranh cho doanh nghiệp

Doanh nghiệp là chủ thể chủ yếu của thực hiện pháp luật về kiểm soát

TTHCCT, là đối tượng mà cơ quan quản lý cạnh tranh tích cực thực hiện các

hoạt động tuyên truyền phổ biến nhưng kết quả lại hạn chế. Trong thời gian tới,

nhằm nâng cao nhận thức về thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT cho

doanh nghiệp, cần tập trung các giải pháp sau:

- Mở rộng và đổi mới các hình thức tuyên truyền về pháp luật và thực hiện

pháp luật.

Trong thời gian qua, Cơ quan cạnh tranh đã tổ chức nhiều hoạt động như

các hội thảo, tọa đàm, tập huấn và xây dựng góc pháp luật về kiểm soát

TTHCCT trên website của cơ quan quản lý cạnh tranh, nhưng nghiên cứu thực

trạng đã cho thấy các hoạt động đó chỉ tác động đến một nhóm các doanh nghiệp

vừa và lớn, có bộ phận pháp chế hoặc luật gia/luật sư nghiên cứu và tư vấn.

Để nâng cao nhận thức của doanh nghiệp trong thực hiện pháp luật về kiểm

soát TTHCCT, cơ quan cạnh tranh cần chú trọng biên soạn các ấn phẩm và tờ

rơi, phát hành tới tận tay các doanh nghiệp để trước tiên là để doanh nghiệp có

thể "biết", thì sau đó mới có thể tìm kiếm các tài liệu hướng dẫn trên website,

hay hội thảo... để "hiểu" về nội dung này.

126

Cơ quan cạnh tranh cũng cần đẩy mạnh hơn nữa vai trò của các cơ quan

truyền thông báo chí trong việc tuyên truyền, chuyển tải thông tin về pháp luật

và thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT đến với doanh nghiệp bằng cách

kịp thời cung cấp những thông tin về các dấu hiệu vi phạm, hành vi vi phạm bị

xử lý để thông qua đó lồng ghép về tuyên truyền pháp luật.

- Phát huy vai trò của các Hiệp hội ngành, nghề trong công tác nâng cao

nhận thức về thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT.

Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã có rất nhiều hoạt

động phối hợp với cơ quan cạnh tranh nhưng chưa lan tỏa tới các hiệp hội ngành,

nghề khác và các hiệp hội ở địa phương. Do đó, về phía Cơ quan quản lý cạnh

tranh, sau khi xây dựng chuyên đề về pháp luật và thực hiện pháp luật về kiểm

soát TTHCCT, cần phối hợp cùng VCCI và thông qua các Sở Công thương trên

địa bàn các tỉnh, thành phố trong cả nước để có các hoạt động kết nối rộng khắp

với các hiệp hội doanh nghiệp tại địa phương, phối hợp cùng các hiệp hội phát

hành ấn phẩm, tổ chức hội thảo nhằm nâng cao nhận thức cho doanh nghiệp là

thành viên của hiệp hội. Phương thức này sẽ giúp việc thực hiện pháp luật về

kiểm soát TTHCCT được tuyên truyền rộng khắp chứ không chỉ giới hạn trong

một số tỉnh, thành lớn như thời gian vừa qua, không chỉ cho doanh nghiệp mà

cho chính cả các hiệp hội vì đây cũng là đối tượng có thể dễ dàng tham gia tổ

chức hoặc tạo điều kiện cho việc hình thành và phát triển các hành vi TTHCCT.

Về phía các Hiệp hội, bản thân các hiệp hội cũng cần chú trọng và nỗ lực

trong việc thực hiện các chức năng quan trọng của mình như tư vấn chính sách,

pháp luật và hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện pháp luật nghiêm chỉnh. Nếu hiệp hội

không có bộ phận chuyên môn về chính sách, pháp luật cần duy trì việc liên kết

với các tổ chức, đơn vị tư vấn pháp lý tại địa phương và VCCI để thực hiện tốt

vai trò của mình. Quan trọng hơn, trong quá trình thực hiện vai trò kết nối các

doanh nghiệp thành viên và thảo luận để cùng thống nhất chủ trương hoạt động

cho ngành, nghề của mình, nếu không nắm vững quy định pháp luật, các hiệp hội

rất dễ tạo ra các TTHCCT. Vì thế, các hiệp hội cũng cần xây dựng các quy định

khung cho các hoạt động này trên cơ sở pháp luật về kiểm soát TTHCCT để

tránh tình trạng vi phạm pháp luật.

127

- Xây dựng và vận hành các chương trình tuân thủ pháp luật tại doanh nghiệp.

Tuân thủ pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật rất quan trọng đối với

doanh nghiệp vì nó góp phần ngăn chặn vi phạm ngay từ đầu. Kinh nghiệm thực

hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT của EU và Hoa Kỳ đã cho thấy rằng cần

có rất nhiều hình thức để tuyên truyền phổ biến pháp luật đến doanh nghiệp đồng

thời kèm theo đó là các chương trình khuyến khích các doanh nghiệp tự mình

xây dựng và vận hành các chương trình tuân thủ pháp luật về kiểm soát

TTHCCT để nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật. Khi doanh nghiệp xây dựng

và vận hành các chương trình tuân thủ có hiệu quả sẽ có tác dụng thúc đẩy các

doanh nghiệp khác vận hành theo cũng như nâng cao nhận thức chung của cộng

đồng doanh nghiệp về thực hiện pháp luật kiểm soát TTHCCT.

Chương trình tuân thủ pháp luật về kiểm soát TTHCCT chưa xuất hiện tại

Việt Nam. Để doanh nghiệp nắm bắt được những nội dung pháp luật về kiểm

soát TTHCCT và xây dựng chương trình tuân thủ phù hợp với đặc thù của mình,

cần có sự hỗ trợ và khuyến khích của cơ quan cạnh tranh. Cơ quan quản lý cạnh

tranh cần xây dựng chương trình hỗ trợ doanh nghiệp tuân thủ pháp luật về kiểm

soát TTHCCT. Các việc cần làm là: Xây dựng bản Hướng dẫn tuân thủ pháp luật

về kiểm soát TTHCCT; Lựa chọn doanh nghiệp và vận động doanh nghiệp thực

hiện thí điểm chương trình tuân thủ; Hỗ trợ xây dựng và giám sát vận hành

chương trình tuân thủ ở doanh nghiệp thí điểm đồng thời tuyên truyền sâu rộng

về tác dụng của chương trình tuân thủ tại doanh nghiệp; Lập và triển khai kế

hoạch nhân rộng mô hình tuân thủ pháp luật về kiểm soát TTHCCT cho cộng

đồng doanh nghiệp.

Các chuyên gia về chống TTHCCT theo chiều ngang vi phạm pháp luật ở

EU và Hoa Kỳ đều cho rằng không có một chương trình tuân thủ mẫu mà "Các

chương trình tuân thủ phải được thiết kế để tùy thuộc bản chất hoạt động

kinh doanh của công ty và phù hợp với thị trường mà công ty hoạt động" [83,

tr.5], tuy nhiên có những gợi ý mà doanh nghiệp và cơ quan cạnh tranh Việt

Nam có thể tham khảo: Đầu tiên, chương trình này phải có sự đồng thuận, hỗ trợ

và nỗ lực tham gia từ cấp lãnh đạo của doanh nghiệp; Thứ hai, doanh nghiệp cần

đảm bảo tất cả các bộ phận của mình, từ công ty con tới chi nhánh, các phòng

128

ban, các nhân viên, thậm chí các đại lý đều cam kết nỗ lực tuân thủ và có thể

tham gia vào chương trình. Khi thực hiện được như vậy, doanh nghiệp sẽ tránh

được tình trạng các chi nhánh tham gia vào TTHCCT vi phạm pháp luật do

không hiểu biết pháp luật cạnh tranh gây anh hưởng đến uy tín doanh nghiệp như

vụ việc thỏa thuận phí bảo hiểm học đường thời gian qua; Thứ ba, doanh nghiệp

chủ động vận hành chương trình tuân thủ, bao gồm tập huấn về pháp luật và

chương trình tuân thủ, tạo kênh phát hiện và báo cáo vi phạm, theo dõi và kiểm

soát các hoạt động có khả năng dẫn đến một TTHCCT vi phạm pháp luật và

thường xuyên kiểm tra, đánh giá chương trình tuân thủ để điều chỉnh cho phù

hợp hơn. Doanh nghiệp giao nhiệm vụ cho một nhân viên/một bộ phận trong

doanh nghiệp chịu trách nhiệm về tuân thủ pháp luật về kiểm soát TTHCCT

trong doanh nghiệp; Thứ tư, có biện pháp khuyến khích các nhân viên, các bộ

phận thực hiện tốt chương trình tuân thủ cũng như nghiêm khắc kỷ luật những cá

nhân vi phạm. Đưa các nội dung này vào chính sách nhân sự của doanh nghiệp;

Thứ năm, doanh nghiệp đã vi phạm pháp luật về kiểm soát TTHCCT nên chuẩn

bị các bước cần thiết để ngăn chặn vi phạm tái diễn.

4.2.1.2. Nâng cao nhận thức của cơ quan quản lý nhà nước

Do pháp luật kiểm soát hạn chế cạnh tranh nói chung, pháp luật về kiểm

soát TTHCCT có liên quan đến mọi ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế, vì thế, để

nâng cao nhận thức của các cơ quan quản lý nhà nước, cần xây dựng được một

cơ chế phối hợp, chia sẻ thông tin, chính sách giữa cơ quan cạnh tranh với các cơ

quan điều tiết ngành.

- Trong Nghị định quy định về cơ cấu, tổ chức và chức năng nhiệm vụ của

Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia sắp được xây dựng, Chính phủ cần trao quyền cho

Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia tham gia những phiên họp của Chính phủ

về tổng kết công tác định kỳ để có sự trao đổi thông tin và tăng cường sự phối

hợp giữa lãnh đạo Cơ quan cạnh tranh với các cơ quan điều tiết ngành.

- Quy định cho Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia được tham vấn các chính sách

ngành trước khi ban hành hoặc được mời tham gia vào quá trình soạn thảo để

đảm bảo các chính sách này phù hợp với pháp luật cạnh tranh, đồng thời quy

định các Bộ, cơ quan ngang bộ phải tham vấn với cơ quan cạnh tranh khi xây

129

dựng chính sách ngành; giao cơ quan cạnh tranh xây dựng quy trình tham vấn cụ

thể. Trên cơ sở các quy định của Chính phủ, công tác tham vấn sẽ trở thành pháp

định, là nhiệm vụ của cơ quan quản lý cạnh tranh, là một hoạt động mang ý

nghĩa chiến lược trong công cuộc xây dựng chính sách cho nền kinh tế.

- Trao cho cơ quan quản lý cạnh tranh quyền phát hiện, kiến nghị các cơ

quan quản lý nhà nước ngừng ngay các hoạt động vi phạm Khoản 1 Điều 8 Luật

Cạnh tranh 2018, kiến nghị sửa đổi, thu hồi các văn bản ban hành có nội dung

không phù hợp với quy định của pháp luật cạnh tranh. Chính phủ có biện pháp

xử lý nghiêm các trường hợp cơ quan quản lý nhà nước vi phạm Khoản 1 Điều 8

Luật Cạnh tranh 2018 cũng là giải pháp nâng cao nhận thức của cơ quan quản lý

nhà nước nhằm đảm bảo thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT.

Cơ quan quản lý cạnh tranh cũng cần có sự phối hợp tốt với Ủy ban nhân

dân cấp tỉnh để hỗ trợ công tác triển khai thực hiện pháp luật và tăng cường hoạt

động giám sát theo hệ thống, giám sát gắn với địa bàn, tăng cường quản lý thị

trường bằng cách phối hợp với các Sở Công thương ở địa phương và các cơ quan

hữu quan có liên quan.

4.2.1.3. Nâng cao nhận thức của cộng đồng về thực hiện pháp luật về

kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

Thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT chủ yếu là các chủ thể doanh

nghiệp, hiệp hội và cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Người tiêu dùng, các tổ

chức, cộng đồng không phải là chủ thể thực hiện pháp luật nhưng là đối tượng

chịu tổn thất rất lớn từ các hành vi TTHCCT vi phạm pháp luật và ở chiều ngược

lại, hành vi của người tiêu dùng và động thái của cộng đồng có tác động ngăn

ngừa được các hành vi TTHCCT vi phạm pháp luật như phát hiện và nêu nghi

vấn để cơ quan cạnh tranh vào cuộc, đánh giá thấp doanh nghiệp có hành vi vi

phạm, thẩm chí tẩy chay để răn đe... Do đó, nâng cao nhận thức của cộng đồng

về thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT là góp phần bảo đảm thực hiện

pháp luật về kiểm soát TTHCCT.

Để nâng cao nhận thức của cộng đồng đối với thực hiện pháp luật về kiểm soát

TTHCCT, cơ quan quản lý cạnh tranh cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:

130

- Tuyên truyền về các hành vi TTHCCT bị cấm, các dấu hiệu chỉ dấu hành

vi TTHCCT và những thiệt hại mà người tiêu cùng, cộng đồng phải gánh chịu

khi TTHCCT hoàn thành. Hình thức tuyên truyền là pano quảng cáo, tờ rơi và

chương trình trên các phương tiện truyền thông.

- Kêu gọi sự chung tay vào cuộc của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, giới

luật gia... bằng cách tạo góc nghiên cứu trao đổi về thực hiện pháp luật về kiểm

soát TTHCCT trên website của cơ quan cạnh tranh nhằm trao đổi các thông tin,

các nghiên cứu một cách rộng rãi nhất.

- Kết hợp với các Hội Bảo vệ người tiêu dùng để tuyên truyền về quyền

được yêu cầu bồi thường thiệt hại do các hành vi TTHCCT gây ra đồng thời làm

tốt công tác tư vấn về bồi thường thiệt hại khi có yêu cầu. Bồi thường thiệt hại là

một biện pháp rất hiệu quả để phối hợp với các chế tài, nâng cao tính trừng phạt

với các hành vi TTHCCT vi phạm pháp luật.

Bên cạnh những nỗ lực của cơ quan quản lý cạnh tranh, các Hội bảo vệ

người tiêu dùng cần phát huy vai trò của mình, thực hiện tốt các chức năng của

mình như tuyên truyền, phổ biến pháp luật về kiểm soát TTHCCT để nhận biết

hành vi, tác hại của các TTHCCT; hướng dẫn để nâng cao nhận thức cho người tiêu

dùng về quyền được yêu cầu bồi thường thiệt hại và tư vấn, hỗ trợ người tiêu dùng

thực hiện quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi TTHCCT của doanh

nghiệp; khảo sát thực tế, tập hợp ý kiến người tiêu dùng góp tiếng nói để đánh giá,

cho điểm thấp các doanh nghiệp có hành vi vi phạm nhằm tăng tính răn đe.

Các cơ quan, tổ chức, người tiêu dùng là những nhân tố quan trọng cùng cơ

quan quản lý cạnh tranh giám sát hoạt động cạnh tranh trên thị trường, đặc biệt

tiếp tục phát huy vai trò của các cơ quan truyền thông trong việc phát hiện, thông

tin và phản biện về tình hình cạnh tranh đã được thể hiện rất tốt trong thời gian

qua. Các hiệp hội doanh nghiệp cần chung tay với cơ quan quản lý nhà nước để

tạo điều kiện hỗ trợ tốt nhất cho thành viên của mình cũng như thực hiện vai trò

phổ biến, giáo dục pháp luật cho thành viên. Bản thân các doanh nghiệp cũng

cần có ý thức phối hợp tốt nhất cùng cơ quan quản lý cạnh tranh không chỉ khi

xảy ra tình huống vi phạm pháp luật mà còn trong quá trình tuân thủ, thi hành

131

hay sử dụng pháp luật, doanh nghiệp cũng xây dựng mối quan hệ tương tác,

trách nhiệm với cộng đồng, với người tiêu dùng trong xã hội.

4.2.2. Nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận

hạn chế cạnh tranh

4.2.2.1. Khẳng định vị trí luật chung của pháp luật về kiểm soát thỏa

thuận hạn chế cạnh tranh trong mối quan hệ với các văn bản pháp luật

chuyên ngành

Trong tư duy xây dựng pháp luật của Quốc hội, pháp luật về kiểm soát

TTHCCT được coi là luật chung, là "luật nền" điều chỉnh các quan hệ pháp luật

về kiểm soát TTHCCT. Quan điểm này đã được thể hiện tại Luật Cạnh tranh

2004 "Trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của Luật này với quy định của

luật khác về hành vi hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh thì áp dụng

quy định của Luật này" (Điều 5), và càng rõ ràng hơn ở Luật Cạnh tranh (sửa đổi)

2018 "Luật này điều chỉnh chung về các quan hệ cạnh tranh. Việc điều tra, xử lý vụ

việc cạnh tranh, miễn trừ đối với TTHCCT bị cấm và thông báo tập trung kinh tế

phải áp dụng quy định của Luật này" (Khoản 1 Điều 4).

Khi đã xác định vị trí "luật chung" của pháp luật về kiểm soát TTHCCT,

pháp luật về kiểm soát TTHCCT phải được ưu tiên áp dụng để xử lý các vụ việc

vi phạm. Bên cạnh đó, các văn bản quy phạm pháp luật khác nếu có các quy định

về hành vi TTHCCT trong lĩnh vực chuyên ngành phải được xây dựng trên cơ sở

những quy định của pháp luật cạnh tranh, không trái với các quy định của pháp

luật cạnh tranh. Xác định vị trí "luật chung" của pháp luật về kiểm soát TTHCCT

còn liên quan trực tiếp đến cơ quan áp dụng pháp luật.

Trong thực tế hiện cho thấy có khá nhiều văn bản luật chuyên ngành như

Luật Đấu thầu 2013 quy định về hành vi thông thầu bị cấm tại Điều 89, Điều

10 Luật Giá 2012 quy định cấm đối với các hành vi thông đồng về giá dưới mọi

hình thức để trục lợi... là những hành vi TTHCCT do Luật Cạnh tranh điều

chỉnh. Chính phủ cũng đã ban hành các Nghị định để xử lý vi phạm hành chính

trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư, quản lý giá, phí... với thẩm quyền xử lý của

cơ quan có thẩm quyền. Như vậy trong thực hiện pháp luật, hiện có hai cơ quan

có thẩm quyền áp dụng pháp luật là cơ quan quản lý cạnh tranh áp dụng Luật

132

Cạnh tranh và cơ quan quản lý chuyên ngành áp dụng pháp luật chuyên ngành

cho cùng một hành vi vi phạm. Đây là sự bất cập, xung đột về thẩm quyền trong

thực hiện pháp luật.

Giải pháp đặt ra là cần khẳng định vị trí, vai trò luật chung của pháp luật về

kiểm soát TTHCT. Luật Cạnh tranh (sửa đổi) 2018 đã được ban hành, cần bổ

sung quy định mang tính nguyên tắc vào Nghị định hướng dẫn thi hành Luật

Cạnh tranh (sửa đổi) 2018, đó là "Các văn bản luật khác điều chỉnh hành vi hạn

chế cạnh tranh trong các lĩnh vực cụ thể không được trái với các quy định của

Luật Cạnh tranh " và "Cơ quan quản lý cạnh tranh là cơ quan có thẩm quyền cao

nhất trong việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về kiểm soát TTHCCT" để

đảm bảo tính đồng bộ giữa các văn bản quy phạm pháp luật, giải quyết xung đột

trong thẩm quyền của cơ quan quản lý nhà nước và phù hợp với vị trí vai trò của

Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia trong Luật Cạnh tranh 2018.

4.2.2.2. Hoàn thiện các quy định hiện hành của pháp luật về kiểm soát

thỏa thuận hạn chế cạnh tranh Việt Nam

Mặc dù Luật Cạnh tranh (sửa đổi) 2018 đã được ban hành và sẽ thay thế

Luật Cạnh tranh 2004 từ ngày 01/7/2019, vẫn tồn tại những hạn chế cần sửa đổi,

bổ sung nhằm hoàn thiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT Việt Nam.

- Với quy định về hành vi TTHCCT, Luật Cạnh tranh 2018 đã quy định các

tiêu chí cơ bản: Một là, phải là hành vi thỏa thuận của các bên; Hai là, phải gây

tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh trên thị trường; Ba

là, TTHCCT có thể được tồn tại dưới mọi hình thức. Quy định của Luật Cạnh

tranh 2018 đã khắc phục yếu điểm không có tiêu chí xác định của Luật Cạnh

tranh 2004 trước đây.

Tuy nhiên, để xác định một TTHCCT cần phải làm rõ thế nào là hành vi

thỏa thuận, bởi trong thực tiễn thương mại có rất nhiều hành vi tương đồng, hành

vi song song của các đối thủ cạnh tranh do tác động của thị trường. Do đó, cần

có quy định trong Nghị định hướng dẫn thi hành để hướng dẫn chi tiết cho

Khoản 4 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2018, đó là: Thỏa thuận là sự thống nhất ý chí

của các bên bất kể phương thức thể hiện sự thống nhất ý chí đó, bao gồm mọi

133

hợp đồng, cam kết, dàn xếp, câu kết hay hành vi thông đồng giữa các doanh

nghiệp và quyết định của hiệp hội.

Tuy đã khắc phục yếu điểm không có tiêu chí xác định của Luật Cạnh tranh

2004 nhưng Luật Cạnh tranh 2018 vẫn sử dụng phương thức liệt kê hành vi để

liệt kê 10 (mười) loại TTHCCT tại Điều 11. Cho dù đã có một điều khoản là

"Thỏa thuận khác gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh

tranh" để ngỏ nhưng chính từ đó sẽ phát sinh vấn đề về cơ quan nào có thẩm

quyền xác định "thỏa thuận khác" trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Cơ quan

quản lý cạnh tranh là cơ quan phát hiện, điều tra các "thỏa thuận khác" này,

nhưng rất khó để giao thẩm quyền xác định hành vi TTHCCT ngoài 10 hành vi

Luật liệt kê cho Ủy ban Cạnh tranh quốc gia trong áp dụng pháp luật, vì đây chỉ

là một cơ quan thuộc Bộ theo Luật Cạnh tranh 2018.

- Với các quy định cấm, Luật Cạnh tranh (sửa đổi) 2018 đã tiếp cận theo hai

nhóm là nhóm TTHCCT bị cấm tuyệt đối và nhóm TTHCCT bị cấm khi thỏa thuận

đó gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng

kể trên thị trường. Các TTHCCT giữa các doanh nghiệp trên cùng thị trường liên

quan (theo chiều ngang) gồm thỏa thuận ấn định giá, thỏa thuận hạn chế sản lượng

hoặc hạn ngạch, thỏa thuận phân chia thị trường đã được đưa vào nhóm cấm tuyệt

đối nhằm đưa pháp luật về kiểm soát TTHCCT Việt Nam tiệm cận với quy định của

pháp luật thế giới. Đối với nhóm bị cấm khi thỏa thuận đó gây tác động hoặc có khả

năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường, đề nghị

Nghị định hướng dẫn thi hành bổ sung nội dung về tiêu chí "Cân nhắc giữa hậu quả

hạn chế cạnh tranh với tác dụng thúc đẩy cạnh tranh của thỏa thuận".

- Với các quy định xử lý vi phạm pháp luật về kiểm soát TTHCCT.

+ Luật Cạnh tranh (sửa đổi) 2018 quy định "Mức phạt tiền tối đa đối với

hành vi vi phạm quy định về TTHCCT... là 10% tổng doanh thu của doanh

nghiệp có hành vi vi phạm trên thị trường liên quan trong năm tài chính liền kề

trước năm thực hiện hành vi vi phạm" (Điều 111), quy định này áp dụng chung

cho tất cả các TTHCCT. Để các quy định xử lý vi phạm pháp luật về kiểm soát

TTHCCT khả thi hơn, giải pháp đề xuất hoàn thiện là:

134

Thứ nhất, đa dạng hóa các hình thức xử lý vi phạm, quy định về các mức

phạt khác nhau đối với nhóm TTHCCT bị cấm tuyệt đối và nhóm TTHCCT bị

cấm do đánh giá tác động;

Thứ hai, quy định tiêu chí để xác định cụ thể hơn, chính xác hơn tỷ lệ phần

trăm tiền phạt trong hạn mức tối đa đến 10%... để tránh tình trạng khung hạn

mức quá chung chung, quá rộng;

Thứ ba, quy định về mức phạt tiền tối thiểu trong trường hợp doanh nghiệp

có tổng doanh thu trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm của

doanh nghiệp tham gia TTHCCT là bằng 0 hay là con số âm;

Thứ tư, quy định tình tiết tăng nặng dành cho những người khởi xướng,

những người tổ chức, những người đóng vai trò chủ chốt trong một TTHCCT vi

phạm pháp luật.

+ Bộ luật Hình sự 2015 quy định tại Điều 217. Tội vi phạm quy định về

cạnh tranh, trong đó áp dụng các biện pháp xử lý hình sự cho các hành vi TTHCCT.

Tuy nhiên, các nội dung của Điều 217 xây dựng trên cơ sở xác định hành vi vi

phạm của Luật Cạnh tranh 2004. Do đó, Điều 217 của Bộ luật Hình sự cũng cần

phải sửa đổi theo các nội dung mới của Luật Cạnh tranh (sửa đổi) 2018.

- Với các quy định miễn trừ, Luật Cạnh tranh (sửa đổi) 2018 đã có những

quy định mới về miễn trừ, tuy nhiên quy định mới này lại tồn tại những mâu

thuẫn, bất cập.

+ Các TTHCCT quy định tại các khoản 1, 2, 3 của Điều 11 bị cấm theo quy

định tại Điều 12 là các TTHCCT bị cấm tuyệt đối mà không cần cân nhắc về tác

động hoặc khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị

trường bởi tác hại quá lớn cho cạnh tranh mà chúng gây ra, thế nhưng các

TTHCCT này lại được cho miễn trừ có thời hạn theo quy định tại Khoản 1 Điều

14. Các tiêu chí để được hưởng miễn trừ là "Có lợi cho người tiêu dùng và đáp

ứng một trong các điều kiện sau đây: a) Tác động thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, công

nghệ, nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ; b) Tăng cường sức cạnh tranh của

doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế; c) Thúc đẩy việc áp dụng thống

nhất tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ thuật của chủng loại sản phẩm; d)

Thống nhất các điều kiện thực hiện hợp đồng, giao hàng, thanh toán nhưng

135

không liên quan đến giá và các yếu tố của giá" dù có những lợi ích nhất định

cũng không thể cân bằng với tác hại to lớn mà các TTHCCT này gây ra bởi

chúng là con đường dẫn tới độc quyền thị trường, trước mắt có thể có lợi cho

người tiêu dùng nhưng sau đó chính người tiêu dùng sẽ thiệt thòi cũng như ảnh

hưởng tới lợi ích toàn xã hội khi tác hại sâu xa sau đó là phá hủy môi trường

cạnh tranh công bằng, triệt tiêu động lực của sự phát triển. Một trong những

nguyên nhân làm hiệu quả thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT của Việt

Nam trong thời gian qua thấp chính bởi do quy định pháp luật không đủ sức răn

đe để ngăn chặn hành vi thỏa thuận, quy định về miễn trừ này đã góp phần làm

vô hiệu tính nghiêm khắc của quy định cấm bên trên.

Thái độ không nhất quán của các nhà làm luật còn gây ảnh hưởng đến quá trình

hội nhập quốc tế khi mà các TTHCCT bị cấm tuyệt đối đều được ứng xử với thái độ rất

nghiêm khắc trên phạm vi toàn cầu thì Việt Nam lại có thái độ khoan dung. Khi những

TTHCCT gây hậu quả nghiêm trọng này có thể được miễn trừ ở Việt Nam, Việt Nam

có thể trở thành nơi tập trung cho những doanh nghiệp có âm mưu TTHCCT mà với hệ

thống cơ quan cạnh tranh còn non trẻ và ít kinh nghiệm, nhận thức của doanh nghiệp

và cộng đồng chưa cao thì rất khó phát hiện, ngăn chặn và xử lý.

Do đó, dù chỉ vừa mới ban hành, nội dung miễn trừ cho các TTHCCT tại

Khoản 1,2,3 Điều 11 Luật Cạnh tranh (sửa đổi) 2018 cần được đề xuất bãi bỏ.

+ Luật Cạnh tranh (sửa đổi) 2018 vẫn sử dụng phương pháp liệt kê các điều

kiện miễn trừ chứ không quy định các tiêu chí "mở", do đó văn bản hướng dẫn

thi hành cần bổ sung một tiêu chí miễn trừ mang tính khái quát, đó là bên cạnh

đề cao các điều kiện như "chia sẻ lợi ích cho người tiêu dùng, tác động tích cực

đối với nền kinh tế, bảo vệ nền kinh tế trong nước" thì còn phải đáp ứng điều

kiện đủ "những điều khoản về hạn chế cạnh tranh trong thỏa thuận phải là những

điều khoản cần thiết, không thể thiếu được để đạt được những hiệu quả tích cực

và thỏa thuận có tác động gây hạn chế cạnh tranh không đáng kể".

4.2.2.3. Bổ sung các quy định pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế

cạnh tranh

Pháp luật về kiểm soát TTHCCT là một lĩnh vực mới đối với Việt Nam nên

trong quá trình xây dựng pháp luật không thể tránh khỏi những thiếu sót gây ảnh

136

hưởng đến tính toàn diện của pháp luật về kiểm soát TTHCCT Việt Nam. Do đó,

nhằm hoàn thiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT Việt Nam, trên tinh thần

nghiên cứu, tiếp thu tinh hoa của pháp luật thế giới và nhu cầu phát sinh từ thực

tiễn thực hiện pháp luật, Việt Nam cần xây dựng các quy định về trách nhiệm

của hiệp hội trong một vụ việc TTHCCT, về trách nhiệm của người đứng đầu

doanh nghiệp tham gia TTHCCT, về sự tham gia của cộng đồng, của khách hàng

trong yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi TTHCCT gây ra.

- Xây dựng quy định về trách nhiệm pháp lý cho cá nhân giữ vai trò quản

lý, điều hành doanh nghiệp tham gia TTHCCT trong mối quan hệ phối hợp với

các quy định của Bộ luật Hình sự 2015.

Pháp luật về kiểm soát TTHCCT hiện hành đã có quy định về trách nhiệm

pháp lý của tổ chức kinh doanh khi tham gia vào một TTHCCT vi phạm pháp

luật với những biện pháp xử lý đa dạng từ hình phạt chính tới các biện pháp xử

phạt bổ sung. Tuy nhiên, khi một tổ chức tham gia vào TTHCCT thì không thể

không có vai trò của những cá nhân trong tổ chức đó, có thể là người lãnh đạo có

quyền quyết định hoặc là những người điều hành, thực hiện. Do đó, việc cá thể hóa

hình phạt có thể mang tác dụng răn đe mạnh hơn, góp phần ngăn ngừa vi phạm.

Bộ luật Hình sự 2015 đã quy định biện pháp phạt tiền và phạt tù đối với cá

nhân bên cạnh trừng phạt pháp nhân thương mại, mức phạt tù có thể lên tới 05

(năm) năm cho người nào trực tiếp tham gia hoặc thực hiện các hành vi

TTHCCT vi phạm pháp luật và Bộ luật này đã có hiệu lực từ ngày 01/01/2018.

Pháp luật cạnh tranh cần xây dựng một quy định kết nối với Bộ luật hình sự, nội

dung gồm những điều khoản xác định rõ mức độ gây tác động hạn chế cạnh

tranh như thế nào thì áp dụng các biện pháp trách nhiệm pháp lý của pháp luật

cạnh tranh và mức độ nào sẽ áp dụng trách nhiệm hình sự đối với cá nhân lãnh

đạo, điều hành doanh nghiệp tham gia vào TTHCCT vi phạm pháp luật.

- Về trách nhiệm pháp lý đối với hiệp hội:

Luật Cạnh tranh 2004 và Luật Cạnh tranh (sửa đổi) 2018 đều coi Hiệp hội

ngành, nghề hoạt động tại Việt Nam là đối tượng áp dụng của mình. Thực tiễn

trong và ngoài nước đều đã cho thấy vai trò quan trọng của hiệp hội ngành nghề

trong các vụ việc TTHCCT.

137

Với địa vị pháp lý của mình, hiệp hội ngành nghề không thể là một trong

các bên tham gia TTHCCT, nhưng pháp luật Việt Nam cần xây dựng quy định

quy trách nhiệm pháp lý của hiệp hội với vai trò "tạo điều kiện để hình thành và

thực hiện TTHCCT giữa các thành viên hiệp hội", trong đó quy định rõ "Quyết

định của hiệp hội về việc hợp tác kinh doanh giữa các thành viên hiệp hội được

các thành viên tự nguyện thi hành, hoặc không thi hành nhưng cũng không tuyên

bố phản đối được coi là một TTHCCT". Tương ứng với quy định này, các biện

pháp trách nhiệm pháp lý cũng cần được xây dựng để xử lý các trường hợp chủ

thể hiệp hội vi phạm pháp luật.

- Xây dựng các quy định về bồi thường thiệt hại trong vụ việc TTHCCT

cho người tiêu dùng, cho khách hàng, cho cộng đồng.

Luật Cạnh tranh 2004 và Luật Cạnh tranh (sửa đổi) 2018 đều quy định cá

nhân tổ chức có hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh nếu gây thiệt hại đến

lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì phải bồi

thường thiệt hại theo quy định của pháp luật. Nền tảng của quy định về bồi

thường thiệt hại là pháp luật dân sự.

Tuy nhiên, một vụ việc TTHCCT có những tính chất riêng biệt, như là

TTHCCT có thể tác động xấu đến môi trường kinh doanh, đến các đối thủ kinh

doanh khác trên thị trường, đến người tiêu dùng không trực tiếp tiêu dùng sản

phẩm của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận nên bồi thường thiệt hại trong

vụ việc TTHCCT nếu chỉ dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật về dân sự thì

không đủ.

Việt Nam có thể tiếp thu kinh nghiệm của các quốc gia đi trước như EU hay

Hoa Kỳ để xây dựng một quy định riêng về Bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực

kiểm soát TTHCCT. Các nội dung cụ thể có thể bao gồm: Tòa dân sự được

quyền thừa nhận các quyết định xử lý vụ việc TTHCCT của cơ quan quản lý

cạnh tranh; thiết lập một bộ quy tắc nhằm mục đích duy trì sự bổ sung lẫn nhau

trong thực thi pháp luật hành chính (giải quyết vụ việc TTHCCT) và dân sự (bồi

thường thiệt hại) giữa tòa án quốc gia và cơ quan quản lý cạnh tranh cả trong

lĩnh vực công bố bằng chứng và định lượng các thiệt hại; có thể quy định mức

bồi thường thiệt hại cao hơn mức thiệt hại thực tế để góp phần thúc đẩy sự tham

138

gia của cộng đồng trong việc phát hiện và trừng phạt các doanh nghiệp tham gia

vào TTHCCT vi phạm pháp luật.

Như vậy, để đảm bảo thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt

Nam cần hoàn thiện các quy định pháp luật, sửa đổi những quy định thiếu khả

khi, bổ sung để hoàn chỉnh các quy định hiện hành và bãi bỏ những quy định

thiếu toàn đồng bộ, bất cập, thậm chí là trái tinh thần chung của pháp luật

cạnh tranh.

4.2.3. Nhóm giải pháp bảo đảm hoạt động của cơ quan thực hiện pháp

luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

Một trong những nguyên nhân của hạn chế trong thực hiện pháp luật về

kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam trong thời gian qua là địa vị và mô hình cơ quan

cạnh tranh chưa hợp lý, chưa củng cố được vị thế để đảm bảo thực hiện tốt chức

năng nhiệm vụ của mình.

Luật Cạnh tranh (sửa đổi) 2018 đã xây dựng Uỷ ban cạnh tranh Quốc gia

trên cơ sở sáp nhập hai cơ quan Hội đồng cạnh tranh, Văn phòng Hội đồng cạnh

tranh và Cục CT&BVNTD, cơ quan này trực thuộc Bộ Công Thương. Với vị trí

là cơ quan trực thuộc Bộ Công thương, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia vừa là cơ

quan "Tham mưu giúp Bộ trưởng Bộ Công Thương thực hiện chức năng quản lý

nhà nước về cạnh tranh" theo quy định tại điểm a, khoản 2, điều 46, vừa là cơ

quan thực hiện tố tụng cạnh tranh, thực hiện điều tra, xét xử trong quá trình xử lý

các vụ việc TTHCCT vi phạm pháp luật.

4.2.3.1. Xây dựng mô hình tổ chức hoạt động của Ủy ban Cạnh tranh

Quốc gia đảm bảo tính độc lập, đủ thẩm quyền theo luật định, hoạt động tuân

theo pháp luật

- Về mô hình tổ chức hoạt động của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia, trong quá

trình dự thảo Luật Cạnh tranh (sửa đổi), từ kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, đại

diện của nhiều cơ quan nhà nước, các Bộ, ban, ngành…, đại diện của doanh

nghiệp, hiệp hội, các trường đại học, viện nghiên cứu, các công ty, văn phòng

luật... đều "có quan điểm nhất trí đối với phương án mà cơ quan chủ trì soạn thảo

đã đề ra trong dự thảo Luật Cạnh tranh (sửa đổi), đó là xây dựng mô hình Uỷ ban

cạnh tranh Quốc gia là cơ quan nhà nước thuộc Chính phủ, do Chính phủ thành

139

lập, chịu trách nhiệm trước Chính phủ" [8] nhưng theo Báo cáo số 277/BC-

UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 21/5/2018 Báo cáo giải trình,

tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật Cạnh tranh (sửa đổi) thì việc không quy định Cơ

quan cạnh tranh thuộc Chính phủ hoặc Quốc hội là "giúp thu gọn đầu mối các cơ

quan thực thi pháp luật cạnh tranh, không làm phát sinh đầu mối cơ quan thuộc

Chính phủ hoặc Quốc hội, phù hợp với tinh thần giảm đầu mối cơ quan, tổ chức,

đổi mới, sắp xếp lại bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo chủ

trương chung của Đảng và Nhà nước".

Đây được cho là phương án phù hợp nhất trong bối cảnh hiện nay, nhưng

mô hình Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia theo Luật Cạnh tranh (sửa đổi) 2018 tiếp

nối những bất cập của mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh theo Luật Cạnh tranh

2004: Thứ nhất, về địa vị pháp lý, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia vẫn là một tổ

chức hành chính trực thuộc Bộ Công Thương nên địa vị pháp lý không tương

xứng so với chức năng, nhiệm vụ mà đáng ra Ủy ban này nên có, bởi vì chính

sách và pháp luật cạnh tranh là một phần quan trọng của chính sách kinh tế, thực

thi pháp luật cạnh tranh liên quan đến nhiều lĩnh vực của nền kinh tế chứ không

phải chỉ là thực thi chính sách của một ngành, một lĩnh vực; Thứ hai, vị trí pháp

lý thấp, tính độc lập bị hạn chế nên không đủ thẩm quyền để thực thi pháp luật

hiệu quả; Thứ ba, khó đảm bảo khách quan, minh bạch, do chịu sự quản lý của

Bộ Công thương, là cơ quan tham mưu cho Bộ Công thương, khi Ủy ban Cạnh

tranh Quốc gia thực hiện chức năng nhiệm vụ, trong tham mưu văn bản quản lý

cạnh tranh, trong xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh... có thể gặp những trường

hợp xung đột giữa chính sách cạnh tranh và chính sách ngành, có thể gặp những

vi phạm của chính cơ quan chủ quản là Bộ Công Thương, về tổ chức nhân sự,

Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia có tối đa 15 ủy viên do Thủ tướng Chính phủ bổ

nhiệm miễn nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công Thương, ủy viên là

công chức Bộ Công Thương, cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh là một cơ quan

chuyên môn trong cơ cấu tổ chức của Bộ thì khó có thể có được sự độc lập,

khách quan, minh bạch thực sự mà các cơ quan này cần phải có.

Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia là một cơ quan đặc biệt khi vừa đảm nhiệm

nhiệm vụ quản lý nhà nước về cạnh tranh vừa giám sát hoạt động cạnh tranh trên thị

140

trường, điều tra và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh. Khi đảm nhiệm

vai trò quản lý nhà nước về cạnh tranh, đây là một cơ quan hành chính nhưng khi

thực hiện điều tra, xét xử vụ việc TTHCCT vi phạm pháp luật, đây là một cơ

quan tư pháp, vì vậy việc đảm bảo tính độc lập là nhu cầu khách quan. Do đó cần

tiếp tục kiến nghị để Quốc hội xem xét về địa vị pháp lý của Ủy ban Cạnh tranh

Quốc gia, xác định một vị trí pháp lý tương xứng, vị thế đủ mạnh, được đảm bảo

tính độc lập, được thành lập và có đủ thẩm quyền theo luật định, hoạt động tuân

theo pháp luật để cơ quan này hoàn thành vai trò, nhiệm vụ của mình, đảm bảo

thực hiện hiệu quả pháp luật về cạnh tranh nói chung và đặc biệt là pháp luật về

kiểm soát TTHCCT.

- Trong khi kiến nghị và chờ xem xét về vị trí pháp lý của Ủy ban Cạnh tranh

Quốc gia, hiện tại, khi Điều 46 Luật Cạnh tranh (sửa đổi) 2018 giao Chính phủ quy

định chi tiết nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ủy ban Cạnh tranh Quốc

gia thì Chính phủ cần thiết kế để Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia có được sự độc lập

tương đối trong hoạt động cũng như về nhiệm vụ, quyền hạn của mình.

+ Về tổ chức, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch

và các thành viên. Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia là người đứng đầu, chịu

trách nhiệm trước pháp luật về tổ chức, hoạt động của Ủy ban Cạnh tranh Quốc

gia. Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia có tối đa 15 ủy viên do Thủ tướng Chính phủ

bổ nhiệm miễn nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công Thương. Thành viên

Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia là công chức của Bộ Công Thương, các Bộ, ngành

có liên quan, các chuyên gia và nhà khoa học.

Theo quy định này các thành viên Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia có thể chỉ

làm việc bán chuyên trách (do đã là công chức các Bộ ngành khác, nhà khoa học

ở các đơn vị khác). Do đó cần quy định Chủ tịch và các Phó Chủ tịch phải làm

việc chuyên trách. Để tăng tính độc lập trong hoạt động của Ủy ban Cạnh tranh,

đề nghị tạo cơ chế để Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh tham gia đề xuất danh sách

các thành viên Ủy ban cũng như đề xuất việc miễn nhiệm họ. Chủ tịch Ủy ban

Cạnh tranh cũng cần được Thủ tướng Chính phủ ủy quyền thực hiện quản lý các

thành viên của Ủy ban trong suốt 5 năm của nhiệm kỳ để có thể tăng sự tự chủ

và độc lập cho cơ quan này.

141

+ Về cơ chế, Điều 47 đã quy định Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia là

người đứng đầu, chịu trách nhiệm trước pháp luật về tổ chức, hoạt động của Ủy

ban Cạnh tranh Quốc gia. Đồng thời Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia cũng

là người quyết định bổ nhiệm, miễm nhiệm Thủ trưởng cơ quan điều tra và Điều

tra viên cũng như tổ chức hoạt động của Cơ quan điều tra vụ việc TTHCCT. Do

đó, tuy tên gọi là Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia, vị trí này cần được xây

dựng cho cơ chế làm việc thủ trưởng, chỉ chịu trách nhiệm trướcc pháp luật và trước

người ra quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm mình (Thủ tướng Chính phủ) nhằm hạn

chế/triệt tiêu sự can thiệp bằng mệnh lệnh hành chính từ cơ quan chủ quản.

+ Về thẩm quyền, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia trực thuộc Bộ Công Thương

nên chỉ có thể đề xuất Bộ trưởng Bộ Công thương ban hành các Thông tư để

hướng dẫn thi hành pháp luật chứ không thể tự ban hành hoặc được quy định cho

quyền ban hành vì trái các quy định của Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp

luật. Trong khi đó, quá trình thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT có rất

nhiều quy định về xác định hành vi thỏa thuận, xác định thị trường liên quan,

đánh giá tác hại của TTHCCT... chỉ mang tính "khung", không có hướng dẫn rất

khó áp dụng pháp luật. Do đó, một mặt Ủy ban Quản lý Cạnh tranh Quốc gia cần

nỗ lực thực hiện vai trò tham mưu, đề xuất Bộ trưởng Bộ Công thương ban hành

các văn bản hướng dẫn áp dụng luật, một mặt Chính phủ cần quy định thẩm

quyền cho Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia tham gia tổ chức pháp chế của Bộ Công

Thương, cũng như bổ sung Nghị định số 34/2016/NĐ-CP của Chính phủ: Quy

định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm

pháp luật về đề xuất, soạn thảo, thẩm định Thông tư trong lĩnh vực quản lý cạnh

tranh phù hợp đặc thù của quản lý cạnh tranh.

Trong quá trình thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT có thực trạng là

doanh nghiệp rất khó hiểu tường tận các quy định pháp luật do tính chuyên môn sâu

của nội dung pháp luật này, các thông tin về vụ việc cạnh tranh dù có công khai các

doanh nghiệp cũng không hiểu được cách vận dụng quy định luật cạnh tranh của cơ

quan quản lý cạnh tranh. Do đó cần trao quyền cho Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia

ban hành các văn bản hướng dẫn các quy định pháp luật và công nhận các án lệ, tuy

142

không phải là văn bản quy phạm pháp luật nhưng trong thực hiện pháp luật cũng có

thể dẫn chiếu các thông tin này như nguồn tham khảo chính thức.

Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia cũng cần được trao các thẩm quyền cần thiết

để đề nghị các cơ quan có liên quan điều chỉnh các văn bản, chính sách trái với

luật và chính sách cạnh tranh.

+ Về kinh phí hoạt động của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia, là cơ quan trực

thuộc Bộ Công Thương, được bố trí theo dự toán ngân sách hàng năm của Bộ

Công Thương và theo chế độ quản lý kinh phí hành chính sự nghiệp, do đó sẽ

khó phù hợp khi Ủy ban Cạnh tranh quốc gia là cơ quan "lưỡng tính", vừa là cơ

quan hành chính vừa là cơ quan tiến hành điều tra, tố tụng. Nghị định hướng dẫn

của Chính phủ cần xây dựng cơ sở pháp lý để Ủy ban Cạnh tranh quốc gia có thể

sử dụng một số loại kinh phí dành cho cơ quan tư pháp, cơ quan điều tra và cơ

quan tòa án, chẳng hạn như kinh phí kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật mà

Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của Bộ Tư pháp, các tổ chức pháp chế

của Bộ, cơ quan ngang Bộ đang được cấp bởi Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia vẫn

thực hiện nhiệm vụ giám sát cạnh tranh.

Bên cạnh đó, Chính phủ có thể quy định cho Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia

có những hoạt động có thu như thu phí tham vấn cho doanh nghiệp cũng như

trích lại một tỷ lệ phần trăm các khoản xử phạt vi phạm để tạo nguồn ngân sách

nhằm tăng thêm tính tự chủ cho cơ quan quản lý cạnh tranh.

4.2.3.2. Tăng thẩm quyền cho cơ quan điều tra vụ việc thỏa thuận hạn

chế cạnh tranh

Để đảm bảo thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT, cơ quan điều tra vụ

việc cạnh tranh cần được trao cho các quyền hạn cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ.

Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến hạn chế trong quá trình thực

hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT trong thời gian qua là có nhiều vụ việc

Cục CT&BVNTD nhận thấy có dấu hiệu TTHCCT vi phạm pháp luật, đã tiến

hành điều tra tiền tố tụng nhưng sau đó đã không đủ chứng cứ để quyết định

điều tra chính thức. Dự báo hiện nay TTHCCT đang càng ngày càng phát

triển đa dạng và chiêu thức tinh vi, đó là "ngầm hóa" TTHCCT dưới dạng các

hội nghị, TTHCCT "xuyên quốc gia và xuyên biên giới", "thỏa thuận nan hoa

143

xe đạp - bao gồm cả thỏa thuận ngang lẫn dọc trong một TTHCCT", thì cơ

quan điều tra cần được giao đủ thẩm quyền để có thể phát hiện được

TTHCCT, thu thập chứng cứ, chứng minh thiệt hại, xác định thành phần tham

gia... Đó là các quyền cơ bản sau:

- Quyền yêu cầu các doanh nghiệp và các cá nhân, cơ quan hay tổ chức

khác trên thị trường giải trình, cung cấp thông tin cần thiết.

- Quyền khám nghiệm, khám xét, thu giữ, tạm giữ và bảo quản vật chứng,

tài liệu liên quan trực tiếp đến vụ việc, trưng cầu giám định khi cần thiết, quyền

niêm phong văn phòng, trụ sở của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

- Quyền lấy lời khai tại chỗ và trong suốt quá trình điều tra.

- Quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn, cưỡng chế.

- Quyền xử phạt đối với các bên bất hợp tác.

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy các cơ quan điều tra vụ việc hạn chế cạnh

tranh đều có các quyền tố tụng này, chẳng hạn cơ quan điều tra của EU được trao

thẩm quyền điều tra (Điều 17), thẩm quyền yêu cầu cung cấp thông tin (Điều

18), thẩm quyền thực hiện lấy lời khai (Điều 19), và thẩm quyền thực hiện khám

xét (Điều 20) [39]. Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự 2015 cũng quy định

cho các cơ quan như Hải Quan, Kiểm Lâm, khi được giao nhiệm vụ tiến hành

một số hoạt động điều tra có đầy đủ các thẩm quyền này (Chương V).

Hiện tại thì cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh cũng được giao một vài

thẩm quyền trên như quyền khám xét tại Điều 94 của Mục 7, Chương III, Nghị

định số 116/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 19 tháng 5 năm 2005 nhưng nặng

về khám xét trong quản lý hành chính hơn là hoạt động khám xét của cơ quan

điều tra trong vụ việc TTHCCT.

Bộ luật Hình sự 2015 đã có Điều 217. Tội vi phạm quy định về cạnh tranh

và Điều 222. Tội vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng quy

định xử lý hình sự đối với hành vi thông thầu, do đó có đủ cơ sở pháp lý để giao

cho Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia, cụ thể là Cơ quan điều tra vụ việc hạn chế

cạnh tranh của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia nhiệm vụ tiến hành một số hoạt

động điều tra. Từ đó, Cơ quan Điều tra vụ việc cạnh tranh sẽ được trao các thẩm

quyền về khám xét, lấy lời khai, áp dụng biện pháp cưỡng chế... phù hợp với

144

chức năng điều tra cũng như có thẩm quyền áp dụng các biện pháp điều tra

tương ứng, từ đó tăng hiệu quả khám phá và điều tra vụ việc TTHCCT, đảm bảo

hiệu quả thực hiện pháp luật.

Đề xuất bổ sung vào chương V Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự 2015

nội dung "Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia là cơ quan được giao thực hiện một số

nhiệm vụ điều tra" và nội dung quy định về nhiệm vụ, quyền hạn tương ứng

trong điều tra vụ việc hạn chế cạnh tranh.

Cùng với bổ sung đó, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia cũng sẽ có các quyền

quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, kết thúc điều tra và chuyển hồ

sơ vụ án cho Viện kiểm sát có thẩm quyền trong trường hợp phạm tội ít nghiêm

trọng hay chuyển hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền trong trường

hợp phạm tội nghiêm trọng. Tất cả các quy định này sẽ nâng cao thẩm quyền

thực hiện pháp luật cho cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh, đảm bảo thực thi

nghiêm pháp luật về kiểm soát TTHCCT.

4.2.3.3. Nâng cao chất lượng hoạt động của thành viên Ủy ban Cạnh

tranh Quốc gia, tiếp tục xây dựng và phát triển đội ngũ điều tra viên vụ việc

thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

- Thành viên Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia, theo quy định phải đủ các tiêu

chuẩn: Là công dân Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung

thực; Có bằng tốt nghiệp từ đại học trở lên thuộc một trong các chuyên ngành

luật, kinh tế, tài chính; Có tổng thời gian công tác thực tế ít nhất là 09 năm trong

một hoặc một số lĩnh vực trên. Thành viên Ủy ban Cạnh tranh quốc gia sẽ tham

gia vào Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh để thực hiện các hoạt động tố

tụng cạnh tranh. Tuy nhiên trong các tiêu chuẩn trên, không đặt ra tiêu chuẩn về

trình độ, kinh nghiệm tố tụng. Do đó, cần tổ chức các hoạt động nhằm nâng cao

kiến thức, trình độ của thành viên Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia theo hai hướng:

+ Một là, tổ chức các buổi bồi dưỡng ngắn hạn (1-3 ngày) do Học viện Tòa

án phụ trách, nhằm nâng cao kiến thức về "nghề thẩm phán" cho các Thành viên

Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia.

+ Hai là, tổ chức các buổi tọa đàm chuyên sâu với các thẩm phán, các

chuyên gia đến từ các Bộ ngành khác về kinh nghiệm khi thực hiện tố tụng.

145

- Điều tra viên vụ việc TTHCCT phải có các tiêu chuẩn: Là công dân Việt

Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết, trung thực; Là công chức của Cục

CT&BVNTD (Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia sau này); Có bằng tốt nghiệp từ đại

học trở lên thuộc một trong các chuyên ngành luật, kinh tế, tài chính và công

nghệ thông tin; Có tổng thời gian công tác thực tế ít nhất là 05 năm trong một

hoặc một số lĩnh vực này; và Được đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp

vụ điều tra. Trong thực tế, tuổi đời trung bình của cán bộ, nhân viên của Cục

CT&BVNTD hiện nay là 32, do đó nhiều cán bộ không đủ 5 năm kinh nghiệm.

Ngoài ra tiêu chuẩn "Được đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ điều

tra" cũng là một thách thức với các vấn đề là đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn,

nghiệp vụ điều tra ở đâu, trong khoảng thời gian bao lâu thì đạt chuẩn. Vì vậy cơ

quan điều tra vụ việc hạn chế cạnh tranh hiện chỉ có trên 30 điều tra viên đảm

nhiệm mọi loại vụ việc hạn chế cạnh tranh, chưa đảm bảo cả về số lượng và chất

lượng. Cần xây dựng và tổ chức thực hiện Chiến lược phát triển đội ngũ điều tra

viên vụ việc hạn chế cạnh tranh một cách hiệu quả.

+ Thứ nhất, tập trung vào đào tạo, bồi dưỡng toàn diện cho các công chức

của cơ quan quản lý cạnh tranh có khả năng bổ nhiệm điều tra viên và các điều

tra viên vụ việc hạn chế cạnh tranh hiện có:

Giao nhiệm vụ cho Trung tâm đào tạo điều tra viên mở các lớp bồi dưỡng

kiến thức về pháp luật, về kỹ năng, phương pháp điều tra cho công chức của cơ

quan quản lý cạnh tranh, đảm bảo sau 05 năm tăng chất lượng và số lượng công

chức được đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ điều tra.

Nỗ lực phối hợp với các tổ chức quốc tế, các cơ quan cạnh tranh nước ngoài

tổ chức các khoá đào tạo ngắn hạn về kỹ năng điều tra cho các điều tra viên của

cơ quan quản lý cạnh tranh.

Tích cực và tạo điều kiện để điều tra viên và công chức của cơ quan quan lý

cạnh tranh tham gia các hội thảo, tọa đàm trong và ngoài nước.

Chú trọng bồi dưỡng kiến thức về ngoại ngữ và tin học bên cạnh kiến thức

chuyên môn.

+ Thứ hai, định hướng xây dựng và phát triển đội ngũ điều tra viên trong

tương lai:

146

Ủy ban Cạnh tranh quốc gia cần có những kiến nghị để đưa nội dung về

pháp luật cạnh tranh nói chung, pháp luật về kiểm soát TTHCCT nói riêng vào

chương trình giảng dạy tại các trường đại học chuyên ngành luật, tài chính, kinh tế...

để tạo nguồn nhân lực có chất lượng cho cơ quan quản lý cạnh tranh sau này.

Định hướng và xây dựng đề án để đề xuất cho đội ngũ điều tra viên được

hưởng các chế độ, điều kiện ưu đãi như điều tra viên trong Cơ quan điều tra

nhằm thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao.

4.2.4. Nhóm giải pháp tăng cường hợp tác quốc tế trong thực hiện pháp

luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

Tăng cường hợp tác quốc tế trong việc hoàn thiện thể chế KTTT, hội nhập

kinh tế quốc tế là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Thời gian qua, hợp

tác quốc tế trong thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT là một nguyên nhân

quan trọng để đem lại những thành tựu cho Việt Nam. Để bảo đảm thực hiện

pháp luật về kiểm soát TTHCCT cần tăng cường, đẩy mạnh hơn nữa các hoạt

động hợp tác quốc tế.

- Trước hết, Việt Nam cần thực hiện có trách nhiệm các điều ước quốc tế đã

tham gia. Trong cam kết với Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, trong khuôn

khổ Phụ lục 1B - Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) yêu cầu các

quốc gia phải kiểm soát độc quyền cũng như kiểm soát sự hạn chế đáng kể cạnh

tranh giữa những người cung cấp dịch vụ, hay như Hiệp định Thương mại tự do

Việt Nam - Liên minh Kinh tế Á Âu và các quốc gia thành viên, Hiệp định

Thương mại tự do Việt Nam - Nhật Bản Điều 99 quy định "Mỗi Bên sẽ, phù hợp

với luật và quy định của mình, thúc đẩy cạnh tranh thông qua xử lý các hành vi

phản cạnh tranh để tạo thuận lợi cho việc vận hành hiệu quả thị trường của

mình"... Việt Nam cần thực hiện nghiêm túc các quy định này, trước hết là để

đảm bảo thực hiện cam kết quốc tế, sau đó là tạo nền tảng để đẩy mạnh hợp tác

song phương và đa phương nhằm tăng cường trao đổi thông tin, hỗ trợ công tác

điều tra, xử lý các vụ việc TTHCCT như điều 101 Hiệp định Thương mại Việt

Nam - Nhật Bản thống nhất: Hai Bên sẽ, phù hợp với các luật và quy định của

mình, hợp tác trong lĩnh vực thúc đẩy cạnh tranh bằng cách giải quyết các hành

vi phản cạnh tranh tùy theo nguồn lực sẵn có của mình,... Hoạt động hợp tác đó

147

có thể được tiến hành dưới hình thức trao đổi thông tin, thông báo và phối hợp

các hoạt động thực thi và tham vấn.

Thực hiện tốt các cam kết song phương và đa phương đã ký kết cũng là cơ

hội để Việt Nam tích lũy kinh nghiệm và uy tín cho các hoạt động hợp tác quốc

tế về thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT thông qua ký kết các biên bản

ghi nhớ, biên bản hợp tác với các cơ quan cạnh tranh nước ngoài.

- Do tầm quan trọng của thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT không

chỉ trong phạm vi quốc gia mà ở tầm quốc tế, hiện có nhiều diễn đàn quốc tế về

pháp luật và chính sách cạnh tranh như diễn đàn của Hội nghị của Liên hiệp quốc

về thương mại và phát triển UNCTAD, Mạng lưới Cạnh tranh Quốc tế ICN, đặc

biệt Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế OECD thường xuyên có những hoạt

động nghiên cứu, hội thảo, trao đổi kinh nghiệm về thực thi kiểm soát TTHCCT.

Việt Nam mới bắt đầu xây dựng và thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT, do

đó cơ quan cạnh tranh cần tích cực tham gia các diễn đàn quốc tế để học hỏi kinh

nghiệm và tìm kiếm sự hợp tác từ các cơ quan cạnh tranh quốc tế.

- Thay đổi nhận thức về hợp tác quốc tế trong thực hiện pháp luật về kiểm

soát TTHCCT. Nhận thức về hợp tác quốc tế về thực hiện pháp luật cạnh tranh nói

chung, về kiểm soát TTHCCT nói riêng có lúc có nơi còn chưa thật sự đầy đủ, còn

tồn tại quan điểm cho rằng hợp tác quốc tế đơn thuần là tìm kiếm nguồn tài trợ và

do đó đã làm hạn chế tính chiến lược trong một số hoạt động hợp tác quốc tế thời

gian qua. Do nhận thức này còn tồn tại và do cơ quan quản lý cạnh tranh Việt Nam

còn non trẻ nên các hoạt động hợp tác quốc tế hiện nay vẫn chủ yếu là tiếp nhận và

tìm kiếm sự hỗ trợ từ các đối tác. Để tăng cường hợp tác quốc tế về thực hiện pháp

luật về kiểm soát TTHCCT trong thời gian tới, cơ quan cạnh tranh Việt Nam cần

xác định tư duy chủ động cùng tham gia và chia sẻ về thông tin, tham vấn liên quan

đến thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT, và ngay cả chuẩn bị tư duy cũng

như các điều kiện cần thiết để phối hợp với các cơ quan điều tra các nước khác

trong việc điều tra các TTHCCT xuyên biên giới.

Điểm đặc biệt của thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT đó là những

hoạt động thực hiện pháp luật có thể không gói gọn trong phạm vi một quốcc gia

mà thường mang tính khu vực, tính toàn cầu theo chân các công ty đa quốc gia

148

và những hoạt động kinh doanh xuyên biên giới. Do đó Luật Cạnh tranh (sửa

đổi) 2018 đã điều chỉnh cả các hành vi xảy ra bên ngoài lãnh thổ Việt Nam

nhưng gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh tại Việt

Nam. Chính vì thế Cơ quan cạnh tranh Việt Nam cần chuẩn bị tư duy và điều

kiện để tiến hành các hoạt động hợp tác với các cơ quan cạnh tranh nước ngoài

trong quá trình tố tụng cạnh tranh để kịp thời phát hiện, điều tra và xử lý đối với

các hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật nhằm đảm bảo thực hiện pháp luật về

kiểm soát TTHCCT.

- Cơ quan cạnh tranh cần xây dựng chiến lược hợp tác quốc tế trong thực

hiện pháp luật cạnh tranh.

Chiến lược hợp tác quốc tế trong lĩnh vực cạnh tranh cần xác định mục tiêu

của hợp tác quốc tế trong giai đoạn sắp tới đó là: Chuyển từ các hoạt động hỗ trợ

xây dựng pháp luật sang hỗ trợ hoàn thiện và thực hiện pháp luật.

Cụ thể, xác định định hướng hợp tác chiến lược là thực thi pháp luật chống

các hành vi phản cạnh tranh để phù hợp với định hướng của các quốc gia về bảo

vệ môi trường cạnh tranh bình đẳng trong nước và tạo điều kiện thuận lợi nhất

để các cơ quan quản lý cạnh tranh ở các quốc gia cùng chung tay chống lại

TTHCCT đã trở thành đại dịch toàn cầu.

Tập trung vào những vấn đề vừa giải quyết nhu cầu trong nước vừa đóng

góp giải quyết các vấn đề thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT khu vực và

toàn cầu, đó là phương thức điều tra các TTHCCT ngầm, tăng chế tài để tăng

tính trừng phạt và răn đe, hợp tác điều tra TTHCCT xuyên biên giới.

Chiến lược hợp tác quốc tế trong thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT

cần có sự chung tay của nhiều bộ, ngành và đặc biệt là Bộ Tư pháp để công tác hợp

tác quốc tế về thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT đúng quy trình và quy

định của pháp luật cũng như các cam kết song phương và đa phương của Việt Nam.

Chiến lược cũng cần có sự ủng hộ của Chính phủ và các doanh nghiệp để đảm bảo

tính hiệu quả và bền vững, như vậy mới đưa Việt Nam hội nhập sâu vào sân chơi

khu vực và thế giới, góp phần đảm bảo thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT.

- Trong giai đoạn Việt Nam đang nhận được sự hỗ trợ từ các tổ chức quốc

tế để xây dựng và thực hiện pháp luật cạnh tranh nói chung, cần tập trung sử

149

dụng hiệu quả sự hỗ trợ này cho ba nội dung chính: Tuyên truyền về pháp luật

kiểm soát TTHCCT đến doanh nghiệp và cộng đồng; hội thảo chuyên sâu liên

quan đến xây dựng pháp luật và các hoạt động thực hiện pháp luật; Đào tạo điều

tra viên vụ việc hạn chế cạnh tranh.

Chú trọng hợp tác quốc tế với các cơ quan cạnh tranh nước ngoài thông qua

các hình thức đào tạo, thực tập tại chỗ là rất cần thiết cho nhân lực của cơ quan

cạnh tranh Việt Nam.

Chú trọng các khóa bồi dưỡng về ngoại ngữ, về pháp luật quốc tế và tập

quán quốc tế, án lệ quốc tế trong thực thi pháp luật về kiểm soát TTHCCT.

Đồng thời cũng cần chú trọng bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác

hợp tác quốc tế của cơ quan cạnh tranh quốc gia.

- Để tăng cường hợp tác quốc tế nhằm đảm bảo thực hiện pháp luật về kiểm

soát TTHCCT, Chính phủ và Bộ Công thương cần ưu tiên bố trí nguồn kinh phí

để cơ quan cạnh tranh có thể tham gia các diễn đàn quốc tế, có thể tổ chức một

số hoạt động như phối hợp đào tạo điều tra viên quốc tế với các quốc gia trong

khu vực ASEAN nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cũng như có điều

kiện nghiên cứu thực tiễn thực thi từ các cơ quan cạnh tranh nổi tiếng kinh

nghiệm trên thế giới là Cơ quan quản lý cạnh tranh của EU và Hoa Kỳ.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 4

Kể thời điểm xây dựng và tổ chức thực hiện Luật Cạnh tranh 2004 đến giai

đoạn sửa đổi Luật Cạnh tranh vào năm 2018 và chuẩn bị để thực hiện vào năm

2019, thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam đã có những bước

tiến quan trọng, góp phần bảo vệ môi trường cạnh tranh bình đẳng trong nền

KTTT định hướng XHCN Việt Nam. Với ý nghĩa đó, việc đảm bảo thực hiện

pháp luật về kiểm soát TTHCCT trong giai đoạn hiện nay cần dựa trên các quan

điểm có tính chất chỉ đạo, cụ thể như sau: Bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm

soát TTHCCT phải quán triệt sâu sắc quan điểm về xây dựng nền KTTT định

hướng XHCN của Đảng Cộng sản Việt Nam; Bảo đảm thực hiện pháp luật về

kiểm soát TTHCCT phải quán triệt mục tiêu bảo vệ cạnh tranh tự do và bình

đẳng, duy trì và bảo vệ môi trường cạnh tranh lành mạnh, hiệu quả; Thực hiện

pháp luật về kiểm soát TTHCCT phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam

150

đã tham gia, ký kết hoặc phê chuẩn; Thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT

trên tinh thần học hỏi những kinh nghiệm quốc tế và phù hợp với điều kiện cụ

thể của Việt Nam.

Trên cơ sở luận giải các quan điểm cần quán triệt trong quá trình thực hiện

các quy định pháp luật về kiểm soát TTHCCT, Chương 4 đã đưa ra hệ thống giải

pháp mang tính đặc thù, bao gồm: 1) Nhóm giải pháp về nâng cao nhận thức của

các chủ thể cũng như cộng đồng, gồm: Nâng cao nhận thức về thực hiện pháp

luật về kiểm soát TTHCCT cho doanh nghiệp, Nâng cao nhận thức của cơ quan

quản lý nhà nước, Nâng cao nhận thức của cộng đồng về thực hiện pháp luật về

kiểm soát TTHCCT; 2) Nhóm giải pháp về hoàn thiện hệ thống pháp luật, gồm:

Khẳng định vị trí luật chung của pháp luật về kiểm soát TTHCCT trong mối

quan hệ với các văn bản pháp luật chuyên ngành, Hoàn thiện các quy định hiện

hành của pháp luật về kiểm soát TTHCCT Việt Nam, Bổ sung các quy định pháp

luật về kiểm soát TTHCCT; 3) Nhóm giải pháp về củng cố về tổ chức và tăng

cường sức mạnh cho cơ quan cạnh tranh quốc gia, gồm: Xây dựng mô hình tổ

chức hoạt động của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia đảm bảo tính độc lập, đủ thẩm

quyền theo luật định, hoạt động tuân theo pháp luật, Tăng thẩm quyền cho cơ

quan điều tra vụ việc TTHCCT, Nâng cao chất lượng hoạt động của thành viên

Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia, tiếp tục xây dựng và phát triển đội ngũ điều tra

viên vụ việc TTHCCT; và 4) Nhóm giải pháp về tăng cường hợp tác quốc tế

nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam hiện nay.

151

KẾT LUẬN

1. Pháp luật về kiểm soát TTHCCT là pháp luật mang tính chất "canh cửa"

cho thị trường và lợi ích công cộng, thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT

là một trong ba trụ cột của thực hiện pháp luật về kiểm soát hạn chế cạnh tranh

hướng tới mục tiêu bảo vệ cạnh tranh - là động lực của sự phát triển, bảo vệ môi

trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp, thông qua đó bảo vệ lợi ích

của xã hội, của doanh nghiệp và của người tiêu dùng.

2. Thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT về bản chất là kiểm soát các

hành vi thông đồng, cấu kết, phối hợp của các đối thủ cạnh tranh trên thị trường

bởi vì những hành vi đó có khả năng làm hạn chế, làm sai lệch thậm chí triệt tiêu

cạnh tranh trên thị trường. Do đó thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT

luôn thể hiện rõ quan điểm, thái độ của Nhà nước đối với hành vi TTHCCT của

doanh nghiệp, quy định và tạo điều kiện để các doanh nghiệp tuân thủ pháp luật,

thi hành pháp luật đồng thời cũng sử dụng pháp luật để bảo vệ lợi ích hợp pháp

của mình mà đích đến cuối cùng là bảo đảm xây dựng nền KTTT định hướng

XHCN Việt Nam.

3. Thực tiễn thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam thời

gian qua cho thấy còn nhiều hạn chế bên cạnh những thành tựu bước đầu đạt

được. Chính vì thế việc nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc vấn đề thực hiện

pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam trên cả phương diện lý luận và thực

tiễn, đưa ra hệ thống các giải pháp cụ thể nhằm phát huy những thành tựu và

khắc phục hạn chế là hết sức cần thiết.

4. Trên cơ sở nghiên cứu thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt

Nam, rút ra một số kết luận như sau:

- Bằng những khái niệm, phạm trù của khoa học lý luận về Nhà nước và

pháp luật, luận án đã xây dựng và phân tích được một số vấn đề lý luận pháp

luật như: khái niệm về TTHCCT, khái niệm pháp luật về TTHCCT, khái niệm

thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT, đặc điểm, nội dung, hình thức và

chủ thể thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT; vai trò và những điều kiện

152

bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT; kinh nghiệm thực hiện

pháp luật về kiểm soát TTHCCT của EU và Hoa Kỳ cùng với các giá trị tham

khảo cho Việt Nam.

- Trên cơ sở nền tảng của các vấn đề lý luận, luận án đã đánh giá khá toàn

diện về quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở

Việt Nam, phân tích, đánh giá các thành tựu và hạn chế của nội dung pháp luật

này; phân tích, đánh giá những ưu và nhược điểm của thực trạng thực hiện pháp

luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam trong thời gian qua, xác định những

nguyên nhân cơ bản dẫn đến các ưu điểm và hạn chế đó. Trên cơ sở nghiên cứu,

phân tích và đánh giá thực trạng, luận án đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm trong

việc thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam.

- Để khắc phục những tồn tại, bất cập, đảm bảo thực hiện pháp luật về kiểm

soát TTHCCT ở Việt Nam, luận án đề xuất các quan điểm chỉ đạo là: Bảo đảm

thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT phải quán triệt sâu sắc quan điểm về

xây dựng nền KTTT định hướng XHCN của Đảng Cộng sản Việt Nam; Bảo đảm

thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT phải quán triệt mục tiêu bảo vệ cạnh

tranh tự do và bình đẳng, duy trì và bảo vệ môi trường cạnh tranh lành mạnh,

hiệu quả; Thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHC cạnh tranh phù hợp với các

cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia, ký kết hoặc phê chuẩn; Thực hiện

pháp luật về kiểm soát TTHCCT trên tinh thần học hỏi những kinh nghiệm quốc

tế và phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.

- Nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam,

luận án đề xuất các nhóm giải pháp khả thi, đó là: Các giải pháp góp phần hoàn

thiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT, các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả

hoạt động của cơ quan thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT, các giải pháp

nhằm nâng cao nhận thức về thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT, các giải

pháp nhằm tăng cường hợp tác quốc tế trong công tác thực hiện pháp luật về

kiểm soát TTHCCT. Các giải pháp cần được tiến hành thực hiện một cách đồng

bộ mới có thể mang lại những hiệu quả thiết thực, góp phần bảo vệ môi trường

kinh doanh của Việt Nam ổn định và bình đẳng.

153

5. Thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT một cách nghiêm chỉnh và

toàn diện là để hiện thực hóa chủ trương của Đảng về tôn trọng và bảo vệ cạnh

tranh tự do và công bằng trong nền KTTT định hướng XHCN của Việt Nam, để

bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong nhà nước

pháp quyền XHCN Việt Nam, bảo vệ lợi ích cộng đồng và để đáp ứng yêu cầu

hội nhập quốc tế./.

154

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ

ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Nguyễn Thị Trâm (2015), “Miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh -

So sánh pháp luật cạnh tranh EU và Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu

châu Âu, (1), tr.46-56.

2. Nguyễn Thị Trâm (2016), "Quy định mới của Bộ luật hình sự năm 2015:

Áp dụng biện pháp xử phạt hình sự đối với hành vi thỏa thuận hạn chế

cạnh tranh", Tạp chí Khoa học chính trị, (5), tr.52-57.

3. Nguyễn Thị Trâm (2017), "Các điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về

kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam", Tạp chí Sinh

hoạt Lý luận, (8), tr.32-36.

4. Nguyễn Thị Trâm (2018), "Pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh

tranh ở Việt Nam", Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, (01), tr.43-49.

155

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tham khảo bằng tiếng Việt

1. Vũ Thành Tự Anh (2011), Bài giảng kinh tế học vi mô - Nhập môn Lý

thuyết trò chơi, Chương trình giảng dạy kinh tế Fullbright niên khóa 2011-

2012, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Nguyễn Thị Vân Anh (2011), "Một số bất cập trong pháp luật điều chỉnh hành

vi hạn chế cạnh tranh của Việt Nam", Tạp chí Luật học, (4), tr.3-9.

3. Dominique Brault (2006), Chính sách và thực tiễn pháp luật cạnh tranh của

Cộng hòa Pháp, (Nhà pháp luật Việt - Pháp dịch từ nguyên bản tiếng Pháp

"Politique et pratique du droit de la concurrence en France"), Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

4. David Begg, Stanley Fisher, Rudiger Dornbusch (2007), Kinh tế học, Nxb

Thống kê, Hà Nội.

5. Bộ Công thương (2009), Sổ tay hành vi hạn chế cạnh tranh - Một số vụ việc

điển hình của châu Âu, Dự án hỗ trợ thương mại đa biên III do Bộ Công

thương phối hợp cùng Liên minh châu Âu, Hà Nội.

6. Bộ Công thương (2014), Tăng giá cuộc 3G nhà mạng không áp đặt giá gây

thiệt hại cho khách hàng, tại trang http://www. moit.gov.vn/tin-chi-tiet/-/chi-

tiet/tang-gia-cuoc-3g-nha-mang-khong-ap-%C4%91at-gia-gay-thiet-hai-cho-

khach-hang-102660-22.html, [truy cập ngày 19/2/2019].

7. Bộ Công thương (2017), Báo cáo mô hình cơ quan cạnh tranh - Kinh

nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam, Hà Nội.

8. Bộ Công Thương, Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng (2017), Mô

hình cơ quan cạnh tranh trong Dự thảo Luật Cạnh tranh (sửa đổi), Hội

thảo khoa học, Hà Nội.

9. Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP), Viện Nghiên cứu quản

lý Trung ương (CIEM) (2002), Các vấn đề pháp lý và thể chế về chính

sách cạnh tranh và kiểm soát độc quyền kinh doanh - Dự án hoàn thiện

môi trường kinh doanh VIE/97/016, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội.

156

10. CUTS Hanoi Resource Centre (2010), Hồ sơ cạnh tranh Việt Nam, Ấn

phẩm của Tổ chức Consumer Unity & Trust Society (CUTS) Hanoi

Resource Centre, Hà Nội.

11. Cục Quản lý cạnh tranh (2009), Báo cáo pháp luật cạnh tranh điều chỉnh

hành vi phản cạnh tranh trong hệ thống phân phối dược phẩm tại thị

trường Việt Nam, Hà Nội.

12. Cục Quản lý cạnh tranh (2010), Báo cáo đánh giá cạnh tranh trong 10 lĩnh

vực của nền kinh tế, Hà Nội.

13. Cục Quản lý cạnh tranh (2010), Báo cáo hoạt động thường niên Cục Quản

lý cạnh tranh năm 2010, Hà Nội.

14. Cục Quản lý cạnh tranh (2012), Báo cáo hoạt động Cục Quản lý cạnh tranh

năm 2011, Hà Nội.

15. Cục Quản lý cạnh tranh (2012), Báo cáo rà soát các quy định của Luật

Cạnh tranh Việt Nam, Hà Nội.

16. Cục Quản lý cạnh tranh (2013), Báo cáo hoạt động thường niên Cục Quản

lý cạnh tranh năm 2012, Hà Nội.

17. Cục Quản lý cạnh tranh (2013), Báo cáo đánh giá cạnh tranh trong 10

ngành, Hà Nội.

18. Cục Quản lý cạnh tranh (2013), Báo cáo Khảo sát doanh nghiệp và phỏng

vấn chuyên gia về pháp luật cạnh tranh Việt Nam

19. Cục Quản lý cạnh tranh (2014), Báo cáo thường niên 2013, Hà Nội.

20. Cục Quản lý cạnh tranh (2015), Báo cáo thường niên 2014, Hà Nội.

21. Cục Quản lý cạnh tranh (2015), Đánh giá 10 năm thực thi luật và chính

sách cạnh tranh tại Việt Nam, Hà Nội.

22. Cục Quản lý cạnh tranh (2016), Báo cáo thường niên 2015, Hà Nội.

23. Cục Quản lý cạnh tranh (2017), Báo cáo thường niên 2016, Hà Nội.

24. Cục Quản lý cạnh tranh (2018), Báo cáo thường niên 2017, Hà Nội.

25. Nguyễn Văn Cương (2006), Tiêu chí đánh giá tính cạnh tranh bất hợp pháp

của một số nước và một số bình luận về luật cạnh tranh của Việt Nam, Nxb

Tư pháp, Hà Nội.

157

26. Dự án Hỗ trợ Thương mại Đa biên (EU-VN MUTRAP III), Phòng Thương

mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) (2009), Pháp luật điều chỉnh hành vi

hạn chế cạnh tranh: Kinh nghiệm EU và bài học cho Việt Nam, Hà Nội.

27. Dự án Hỗ trợ Thương mại Đa biên (EU - Việt Nam MUTRAP III) (2009), Hành

vi hạn chế cạnh tranh: Một số vụ việc điển hình của châu Âu, Hà Nội.

28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.

30. Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật Thương mại, Nxb Công an

nhân dân, Hà Nội.

31. Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Pháp luật về cạnh

tranh và giải quyết tranh chấp thương mại, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.

32. Nguyễn Minh Đoan (2010), Thực hiện và áp dụng pháp luật ở Việt Nam,

Nxb Chính trị quốc gia xuất bản, Hà Nội.

33. Nguyễn Minh Đoan (2014), Giáo trình lý luận về nhà nước và pháp luật,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

34. Nguyễn Ngọc Điện (2006), Một số vấn đề lý luận về các phương pháp phân

tích luật viết, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

35. Vũ Công Giao, Trịnh Quốc Toản (2017), Nhà nước kiến tạo phát triển - Lý

luận, thực tiễn trên thế giới và ở Việt Nam, Nxb Lý Luận chính trị, Hà Nội.

36. Harry First (2007), Luật chống độc quyền, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

37. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2015), Giáo trình Cao cấp lý

luận chính trị, Tập 11, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

38. Phí Mạnh Hồng (2010), Giáo trình kinh tế vi mô, Nxb Đại học Quốc gia Hà

Nội, Hà Nội.

39. Hội đồng Châu Âu (2002), Quy chế số 1/2003 ngày 16 tháng 12 năm 2002

của Hội đồng Châu Âu nhằm thực thi các điều khoản về cạnh tranh trong

Hiệp ước hoạt động của Liên minh Châu Âu, Châu Âu.

158

40. Hội đồng cạnh tranh Việt Nam (VCC), Dự án Hỗ trợ thương mại đa biên

giai đoạn III (EU- Viet Nam MUTRAP III) (2010), 5 năm thực thi pháp

luật cạnh tranh trong kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam,

Hội thảo khoa học, Hà Nội.

41. Hội đồng Cạnh tranh (2010), Quyết định số 14/QĐ-HĐXL về việc xử lý vụ

việc cạnh tranh KNCT-HCCT-0009 của Hội đồng Cạnh tranh ngày

29/7/2010, Hà Nội.

42. Hội đồng Cạnh tranh (2013), Quyết định số 07/QĐ-HĐCT Đình chỉ giải quyết

vụ việc cạnh tranh của Hội đồng Cạnh tranh ngày 12/8/2013, Hà Nội.

43. Nguyễn Hữu Huyên (2004), Luật Cạnh tranh của Pháp và Liên minh châu

Âu, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

44. Lê Bảo Lâm, Nguyễn Như Ý, Trần Thị Bích Dung, Trần Bá Thọ (2017),

Kinh tế vi mô, Nxb Kinh tế, Thành phố Hồ Chí Minh.

45. Phùng Đắc Lộc (2015), 10 năm thực hiện Luật Cạnh tranh trong lĩnh vực

kinh doanh bảo hiểm, Hội thảo 10 năm thực thi luật cạnh tranh - Góc nhìn

từ phía doanh nghiệp, Cục Quản lý cạnh tranh, Hà Nội.

46. Lưu Hương Ly (2012), Đánh giá sức mạnh thị trường trong Luật cạnh

tranh năm 2004, tại trang http://vnclp.gov.vn/ct/cms/tintuc/Lists/

thuctienphapluat/View_Detail.aspx?ItemID=84, [truy cập ngày 15/6/2018].

47. Trang Ly (2017), Áp sàn vé máy bay không bao giờ đặt lợi ích cho một

hãng hàng không, tại trang http://www.nhandan.com.vn/nation_news

/item/32521402-ap-gia-san-ve-may-bay-khong-bao-gio-dat-loi-ich-cho-

mot-hang-hang-khong.html, [truy cập ngày 25/12/2018].

48. Nguyễn Văn Mạnh (Chủ biên) (2010), Thực hiện pháp luật - những vấn đề

lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

49. F.Naert (2014), Xử lý cartel, Hội thảo 10 năm thực thi Luật Cạnh tranh ở

Việt Nam và những bài học kinh nghiệm của châu Âu, Hội đồng Cạnh tranh

Việt Nam và Dự án hỗ trợ Chính sách thương mại và đầu tư của châu Âu

(EU-MUTRAP), Thành phố Hồ Chí Minh.

159

50. Diệp Hoài Nam (2015), Một số vướng mắc trong việc thực thi các quy định

liên quan đến hành vi Hạn chế Cạnh tranh: Từ thực tiễn tư vấn luật, Hội

thảo "10 năm thực thi luật cạnh tranh - Góc nhìn từ phía doanh nghiệp",

Cục Quản lý cạnh tranh, Hà Nội.

51. Ngân hàng thế giới (2017), Vai trò của Nhà nước trong phát triển kinh tế

Việt Nam, Hà Nội.

52. Tăng Văn Nghĩa (Chủ nhiệm) (2007), Những vấn đề đặt ra và giải pháp

thực thi có hiệu quả Luật Cạnh tranh trong thực tiễn, Đề tài nghiên cứu

khoa học cấp Bộ, Trường Đại học Ngoại thương, Hà Nội.

53. Trần Thị Nguyệt (2008), "Về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh", Tạp chí Nhà

nước và pháp luật, (1), tr.47-54.

54. Nguyễn Thị Nhung (2011), Điều chỉnh pháp luật đối với thỏa thuận hạn

chế cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện

Khoa học xã hội, Hà Nội.

55. Alice Phạm (2008), Cẩm nang về Luật Cạnh tranh Việt Nam (Hoàng Lệ

Quyên lược dịch), Ấn phẩm của Tổ chức Consumer Unity & Trust Society

(CUTS) Hanoi Resource Centre, Hà Nội.

56. Thanh tra Chính phủ, Nhóm Ngân hàng Thế giới (2016), Kiểm soát xung

đột lợi ích trong khu vực công - Quy định và thực tiễn ở Việt Nam, Nxb

Hồng Đức, Hà Nội.

57. Phùng Văn Thành (2013), Vấn đề thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo pháp

luật nước ngoài, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà

Nội.

58. Phùng Văn Thành (2015), Tổng quan về các hoạt động và tình hình thực

thi giai đoạn 2005 - 2015, Hội thảo 10 năm thực thi luật cạnh tranh - Góc

nhìn từ phía doanh nghiệp, Cục Quản lý cạnh tranh, Thành phố Hồ Chí

Minh.

59. Nguyễn Xuân Thắng (2016), "Một số luận điểm mới về phát triển nền kinh

tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay", Tạp chí Lý

luận chính trị, (8), tr10-14.

160

60. Lê Thị Bích Thọ (Chủ nhiệm) (2002), Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng

Luật Cạnh tranh, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Trường Đại học Luật

thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

61. Nguyễn Thị Tình (2015), Pháp luật về hạn chế cạnh tranh trong hoạt động

nhượng quyền thương mại ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Đại học

Luật Hà Nội, Hà Nội.

62. Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) (2018), Đánh giá của OECD

về Luật và Chính sách Cạnh tranh, tại trang http://oe.cd/vtn, [truy cập ngày

10/04/2019].

63. Tổng cục Thống kê (2016), Niên giám thống kê 2016, Nxb Thống kê, Hà Nội.

64. Nguyễn Thị Trâm (2015), "Miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

vi phạm pháp luật - so sánh pháp luật cạnh tranh EU và Việt Nam", Tạp chí

Nghiên cứu châu Âu, (1), tr.46-56.

65. Nguyễn Thị Trâm, Nguyễn Quốc Khánh (2016), "Quy định mới của Bộ luật

Hình sự năm 2015: Áp dụng biện pháp xử phạt hình sự đối với hành vi thỏa

thuận hạn chế cạnh tranh", Tạp chí Khoa học Chính trị, (5), tr.47-57.

66. Trung tâm Thông tin cạnh tranh (2008), Chính sách khoan hồng và tác

động phá vỡ Các-ten, Cục Quản lý Cạnh tranh, Hà Nội.

67. Nguyễn Anh Tuấn (2015), Một số vướng mắc trong việc thực thi các quy

định liên quan đến hành vi hạn chế Cạnh tranh: Từ thực tiễn tư vấn luật,

Hội thảo 10 năm thực thi luật cạnh tranh - Góc nhìn từ phía doanh nghiệp,

Cục Quản lý cạnh tranh, Thành phố Hồ Chí Minh.

68. Trịnh Anh Tuấn (2015), Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật

cạnh tranh của Việt Nam, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Viện Nghiên cứu Thương

mại - Bộ Công Thương, Hà Nội.

69. Nguyễn Thanh Tú (2005), "Thỏa thuận về lãi suất giữa các ngân hàng và

pháp luật cạnh tranh", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (2), tr.56-64.

70. Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Nhóm Tư vấn chính sách kinh tế vĩ mô

(MAG) (2014), Báo cáo kinh tế vĩ mô 2014 - Cải cách thể chế kinh tế: Chìa

khóa cho tái cơ cấu, Nxb Tri thức, Hà Nội.

161

71. Nguyễn Thị Hồng Vân (2011), "Cạnh tranh và các dạng thức thoả thuận

hạn chế cạnh tranh", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (11), tr.51-54.

72. Lê Thành Vinh (2010), "Tư duy phát triển và vấn đề thực thi luật cạnh tranh

ở Việt Nam", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (176), tr.42-47.

73. Lê Danh Vĩnh, Hoàng Xuân Bắc, Nguyễn Ngọc Sơn (2006), Pháp luật

cạnh tranh tại Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

74. Lê Danh Vĩnh (2009), Hoàn thiện thể chế về môi trường kinh doanh của

Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

75. Lê Quang Vy (2015), Thực tiễn vận dụng Luật Cạnh tranh ở một số doanh

nghiệp - những khó khăn, vướng mắc và một số khuyến nghị hoàn thiện

Luật Cạnh tranh, Hội thảo "10 năm thực thi luật cạnh tranh - Góc nhìn từ

phía doanh nghiệp", Cục Quản lý cạnh tranh, Thành phố Hồ Chí Minh.

76. Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (2010), Đại Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đại học

Quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh.

Tài liệu tham khảo bằng tiếng nước ngoài

77. Adam Smith, Laurence Dickey (2008), Wealth of Nations, Oxford

University Press, English.

78. Alan B.Morrison (2007), Fundamentals Of American Law, English.

79. Angela Huyue Zhang (2011), "The Enforcement of the Anti-Monopoly Law

in China: An Institutional Design Perspective", Antitrust Bulletin, (3),

p.630-663.

80. Alexander Italianer (2013), Fighting cartels in Europe and the US: different

systems, common goals, International Bar Association, Boston.

81. Ann O’Brien (2008), Cartel Settlements in the U.S. and EU: Similarities,

Differences & Remaining Questions, European, Italia.

82. Bill Baer (2014), Prosecuting Antitrust Crimes, Georgetown, NewYork.

83. Brent Snyder (2014), Compliance is a Culture, Not Just a Policy,

International Chamber of Commerce and the U.S. Council for International

Business, NewYork.

162

84. David R.Henderson (Edited) (2008), The Concise Encyclopedia Of

Economic (2nd), Liberty Fund, Inc., NewYork.

85. Einer Elhauge (2012), Research Handbook on the Economics of Antitrust

Law, Edward Elgar Publishing, NewYork.

86. Espen Storli (2014), "Cartel Theory and Cartel Practice: The Case of the

International Aluminum Cartels 1901-1940", Harvard Business school -

Business History Review, (3), p.445-467.

87. EU Commission (2011), Communication from the Commission - Guidelines

on the applicability of Article 101 of the Treaty on the Functioning of the

European Union to horizontal co-operation agreements, 2011/C 11/01.

88. Federico Ghezzi and Mariateresa Maggiolino (2009), "EU Concerted

Practices & US Concerted Actions: Beyond William H. Page's Proposal",

Bocconi Legal Studies Research Paper, (2302535).

89. Federal Trade Commission and the U.S. Department of Justice (2000),

Antitrust Guidelines for Collaborations Among Competitors.

90. Federal Trade Commission (2012), FTC Guide to the Antitrust Laws:

Dealings with Competitors: Price Fixing.

91. Gregory J. Werden, Scott D. Hammond, Belinda A. Barnett (2011),

"Deterrence and detection of cartels: Using all the tools and sanctions",

Antitrust Bulletin, (56), p.207-234.

92. Ingeborg Simonsson (2010), Legitimacy in EU Cartel Control, Hart

Publishing, NewYork.

93. International Competion Network (ICN) (2005), Defining Hard Core Cartel

Conduct - Effective Institutions - Effective Penalties, International

Competion Network.

94. International Competion Network (ICN) (2010), Trends and Developments in

Cartel Enforcement: Supplemental Excerpts from Surveyed Competition

Authorities, International Competition Network.

95. International Competition Network (ICN) (2017), Setting of fines for cartels

in ICN jurisdictions, International Competion.

163

96. Jonathan Baker, Steven Salop (2015), "Antitrust, Competition Policy and

Inequality", The Georgetown Law Journal Online, (104), p.1-28.

97. Jonathan M Jacobson (2007), Antitrust law developments (sixth), Chicago,

NewYork.

98. John M.Connor (2008), Global Price Fixing (second edition), Springer-

Verlag Berlin Heidelberg.

99. John M. Connor (2015), "The rise of ROW Anti-cartel Enforcement", Tạp

chí online CPI Antitrust Chronicle, (1), p.1-15.

100. Joseph E. Harrington Jr (2006), How Do Cartels Operate, trong bộ sách

Foundations and Trends® in Microeconomics, Zac Rolnik, NewYork.

101. John B. Kirkwood & Robert H. Lande (2008), "The Fundamental Goal of

Antitrust: Protecting Consumers, Not Increasing Efficiency", Legal Studies

Paper, (02).

102. John M. Connor (2008), Global Price Fixing, (Second Edition), Springer.

103. Julian M. Joshua & Sarah Jordan (2004), "Combinations, Concerted

Practices and Cartels: Adopting the Concept of Conspiracy in European

Community Competition Law", Northwestern Journal of International Law

& Business, (3).

104. Metin Topcuoglu (2006), "The Concept of Concerted Practice and Its Scope

from the Perspective of Turkish and European Competition Law", Review

of International Law and Politics, (5).

105. OECD (1993), Glossary of Industrial Organisation Economics and

Competition Law, OECD Publishing.

106. OECD (2003), Global Forumon Competition, The Objectives of

Competition Law and Policy.

107. OECD (2014), Challenges of International Co-operation in Competition

Law Enforcement, http://www.oecd.org/daf/competition/Challenges-

Competition-Internat-Coop-2014.pdf.

108. Office of Fair Trading (UK) (2009), Government in markets - Why

competition matters-a guide for policy makers,

164

https://www.gov.uk/government/uploads/system/uploads/attachment_data/f

ile/284451/OFT1113.pdf, tr7.

109. Oliver Black (2005), Conceptual Foundation of Antitrust, Cambridge

University, English.

110. Organisation For Economic Co-Operation And Development (OECD)

(1993), Glossary of Industrial Organisation Economics and Competition

Law, OECD Publishing.

111. Organisation For Economic Co-Operation And Development (OECD)

(1998), Recommendation of the OECD Council Concerning Effective

Action Against Hard Core Cartels.

112. Organisation For Economic Co-Operation And Development (OECD)

(2002), Report on the nature and impact of hard core cartels and sanctions

against cartels under national competition laws.

113. Organisation For Economic Co-Operation And Development (OECD)

(2003), Hard Core Cartels - Recent progress and challenges ahead.

114. Organisation For Economic Co-Operation And Development (OECD)

(2003), The Objectives of Competition Law and Policy.

115. Organisation For Economic Co-Operation And Development (OECD)

(2005), Hard Core Cartels: Third Report On The Implementation Of The

1998 Recommendation.

116. Organisation For Economic Co-Operation And Development (OECD) -

Global Forum on Competition (2006), Prosecuting cartels without direct

evidence of agreement.

117. Organisation For Economic Co-Operation And Development (OECD)

(2007), Potential pro-competitive and anti-competitive aspects of

trade/business associations.

118. Organisation For Economic Co-Operation And Development (OECD)

(2014), International Co-operation in Competition Law Enforcement.

119. Ingeborg Simonsson (2010), Legitimacy in EU Cartel Control, Hart Publishing.

120. Renata Hesse (2016), Protecting Competition Across 50 United States: Advocacy

and Cooperation in Antitrust Enforcement, Fall Forum, NewYork.

165

121. Richard Whish, David Bailey (2015), Competition Law (Eight Edition),

Oxford University, English.

122. Scott D. Hammond, (2010), The Evolution of Criminal Antitrust

Enforcement Over the Last Two Decades, at page

https://www.justice.gov/atr/file/518241/download, [date 27/5/2018].

123. US Department of Justice, Corporate Leniency Policy, at page

https://www.justice.gov/atr/corporate-leniency-policy, [dat 15/3/2018].

124. US Department of Justice (2016), Criminal Enforcement Trends Charts

Through Fiscal Year 2016, at page https://www.justice.gov/atr/ criminal-

enforcement-fine-and-jail-charts, [date 9/6/2018].

125. US Attorneys (U.S. Department of Justice), Manual in Antitrust Law,

http://www.justice.gov/usao/eousa/foia_reading_room/usam/title7/ant00007

.htm

126. William H. Page (2008), Facilitating practices and concerted action under

Section 1 of the Sherman Act, http://papers.ssrn.com/sol3/papers.c

fm?abstract_id=1117667.

127. William H. Page (2009), "Objective and Subjective Theories of Concerted

Action và The Gary Dinners and the Meaning of Concerted Action" SMU

Law Review, (597).

166

PHỤ LỤC Phụ lục 1 BẢNG TỔNG HỢP KẾT QUẢ KHẢO SÁT DOANH NGHIỆP

1. Tên Doanh nghiệp: .................................................................................................. 2. Địa chỉ Doanh nghiệp: .............................................................................................

Tần số

Phần trăm

Trước ngày 1/7/2006 Sau ngày 1/7/2006 Tổng

191 252 443

43.12 56.88 100.00

3. Thời điểm thành lập doanh nghiệp

4. Loại hình doanh nghiệp

Tần số

Phần trăm

1.58 1.13 8.13 60.72 11.96 16.03 0.45 100.00

7 5 36 269 53 71 2 443

Doanh nghiệp Nhà nước do Trung ương quản lý Doanh nghiệp Nhà nước do địa phương quản lý Doanh nghiệp tư nhân Công ty TNHH Công ty Cổ phần Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Hợp tác xã Tổng

5. Lĩnh vực hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp

Tần số

Phần trăm

Công nghiệp chế biến, chế tạo Xây dựng, bất động sản Vận tải, Giao nhận Y tế, Giáo dục, đào tạo Du lịch, Ăn uống Công nghệ thông tin, Truyền thông Năng lượng/Khóang sản Nông, Lâm, Thủy sản Bán buôn, Bán lẻ Giải trí Tài chính, Ngân hàng Tổng

0.23 7.22 8.80 5.19 24.38 17.16 0.00 2.03 20.99 4.29 9.71 100.00

1 32 39 23 108 76 0 9 93 19 43 443

167

6. Tổng số lao động của doanh nghiệp

Tần số

Phần trăm

Dưới 10 Từ 10 đến dưới 200 Từ 200 đến dưới 300 Trên 300 Tổng

28 405 9 1 443

6.32 91.42 2.03 0.23 100.00

7. Doanh nghiệp có biết đến Luật Cạnh tranh 2004

Tần số

Phần trăm

402 41 443

90.74 9.26 100.00

Có biết Không biết Tổng 8. Kênh thông tin biết đến Luật Cạnh tranh 2004

Phần trăm

Tần số

312

41.32

312 33

41.32 4.37

82 16 0 755

10.86 2.12 0.00 100.00

Qua phương tiện thông tin đại chúng Qua các hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật Qua các vụ việc cạnh tranh Được chuyên gia pháp lý/luật sư tư vấn: (trong đó có 49 doanh nghiệp FDI) Tự nghiên cứu, tìm hiểu Qua kênh thông tin khác Tổng 9. Mức độ hiểu biết đối với các hành vi Luật Cạnh tranh 2004 điều chỉnh

MỨC ĐỘ HIỂU BIẾT ĐỐI VỚI HÀNH VI 3

1

2

Hành vi

4

5

Tần số

0

19

404

20

0

0

4,29% 91,2% 4,51%

0

1. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh (thỏa thuận ấn định giá, thỏa thuận phân chia thị trường, thông đồng đấu thầu…)

Phần trăm

Tần số

0

367

61

2

13

0

13,8% 0,45%

Phần trăm

82,8%

2,93 %

2. Lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền trên thị trường (doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường áp đặt giá mua, giá bán, ngăn cản đối thủ cạnh tranh mới...)

168

81

208

110

44

Tần số

0

3. Tập trung kinh tế (mua lại, hợp nhất, sáp nhập doanh nghiệp...)

18,3% 47%

24,8% 9,9%

0

Phần trăm

Tần số

10

389

44

4. Cạnh tranh không lành mạnh (chỉ dẫn gây nhầm lẫn; gièm pha doanh nghiệp khác …)

2,3%

87,8% 9,9%

Phần trăm

10. Vi phạm luật Cạnh tranh

Phần trăm

Tần số

21 381 41 443

4.74 86.00 9.26 100.00

Đã từng Chưa từng Không biết Tổng 11. Làm việc với cơ quan quản lý cạnh tranh

Tần số

Phần trăm

144 299

32.51 67.49

Có liên hệ/làm việc Chưa liên hệ/làm việc 12. Các hình thức liên hệ với cơ quan quản lý cạnh tranh

Tần số

Phần trăm

143 0 0 1 144

99.31 0.00 0.00 0.69 100.00

Các hội thảo, khóa đào tạo, tập huấn Có liên quan đến vụ việc cạnh tranh Xin ý kiến tham vấn về các vấn đề cạnh tranh Qua các hoạt động khác: Mua ấn phẩm Tổng 13. Nhận biết những hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

Hoạt động

Có biết Tổng

Không biết

Tần số

119

324

443

1. Thỏa thuận với đối thủ kinh doanh của mình cùng ấn định một mức giá mua/bán hàng hóa, dịch vụ để tránh cạnh tranh lẫn nhau

27%

73%

Phần trăm

1

169

Tần số

355

88

443

2. Thoả thuận với đối thủ kinh doanh của mình cùng nhau phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ để tránh cạnh tranh lẫn nhau

80,1%

19,9%

Phần trăm

0

Tần số

420

23

443

3. Thoả thuận với đối thủ kinh doanh của mình cùng nhau hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá, dịch vụ để tránh cạnh tranh lẫn nhau

94,8%

5,2%

Phần trăm

100

Tần số

421

22

443

4. Thoả thuận với đối thủ kinh doanh của mình cùng nhau hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư

95%

5%

Phần trăm

100

Tần số

352

91

443

79,5%

20,5%

Phần trăm

100

Tần số

436

7

443

98,4%

1,6%

Phần trăm

5. Thoả thuận với đối thủ kinh doanh của mình cùng nhau áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng 6. Thoả thuận với đối thủ kinh doanh của mình cùng nhau ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh

100

Tần số

376

67

443

84,9%

15,1%

7. Thoả thuận với đối thủ kinh doanh của mình cùng nhau loại bỏ những doanh nghiệp khác ra khỏi thị trường

39

404

100 443

8. Thông đồng để thắng thầu

8,8%

91,2%

Phần trăm Tần số Phần trăm

100

14. Hoạt động doanh nghiệp đang/đã thực hiện

Hoạt động

Không

Tần số

Đang thực hiện 3

Đã thực hiện 16

0,67%

3,6%

Phần trăm

Tần số

Phần trăm

Tần số

Phần trăm

1. Thỏa thuận với đối thủ kinh doanh của mình cùng ấn định một mức giá mua/bán hàng hóa, dịch vụ để tránh cạnh tranh lẫn nhau 2. Thoả thuận với đối thủ kinh doanh của mình cùng nhau phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ để tránh cạnh tranh lẫn nhau 3. Thoả thuận với đối thủ kinh doanh của mình cùng nhau hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá, dịch vụ để tránh

170

cạnh tranh lẫn nhau

Tần số Phần trăm

Tần số

Phần trăm

Tần số

Phần trăm

4. Thoả thuận với đối thủ kinh doanh của mình cùng nhau hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư 5. Thoả thuận với đối thủ kinh doanh của mình cùng nhau áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng 6. Thoả thuận với đối thủ kinh doanh của mình cùng nhau ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh 7. Thoả thuận với đối thủ kinh doanh của mình cùng nhau loại bỏ những doanh nghiệp khác ra khỏi thị trường

9

139

8. Thông đồng để thắng thầu

2%

31,4%

Tần số Phần trăm Tần số Phần trăm

15. Nếu được khẳng định việc thực hiện một hoặc một số hành động trên có thể vi phạm Luật Cạnh tranh, Doanh nghiệp có điều chỉnh phương án kinh doanh không?

Tần số

Phần trăm

4

0.90

2.03

9

11.06

49

83.75 97.74

371 433

Không, Doanh nghiệp vẫn giữ nguyên vì từ trước đến nay vẫn làm như thế Không, Doanh nghiệp vẫn giữ nguyên vì việc này luôn được giữ bí mật, chỉ có các bên biết với nhau Có, Doanh nghiệp sẽ điều chỉnh để tránh vi phạm pháp luật Có, Doanh nghiệp sẽ điều chỉnh để tránh bị Nhà nước phạt Tổng 16. Về việc "các đối thủ cạnh tranh ngồi lại thỏa thuận với nhau về phương án kinh doanh", nhận định nào dưới đây phù hợp nhất với Doanh nghiệp?

Phần trăm

Tần số

5

1.13

Không thể, vì là đối thủ cạnh tranh của nhau, ganh đua gay gắt Không thể, vì là đối thủ cạnh tranh của nhau, ngồi lại thỏa thuận có thể sẽ bị lộ bí mật kinh doanh, bất lợi của mình Khó, nhưng vẫn có thể nếu tình thế kinh doanh buộc phải làm

29 197

6.55 44.47

171

19

4.29

8.80 59.59

39 264

4.51

20

Khó, nhưng vẫn có thể nếu thu được lợi cho mình Có thể, nếu có lợi, miễn không ảnh hưởng đến lợi ích doanh nghiệp khác Có thể, nếu có lợi, miễn không vi phạm pháp luật Sẽ làm hoặc đã làm, nếu có lợi, miễn không ảnh hưởng đến lợi ích doanh nghiệp khác và không vi phạm pháp luật 17. Khi được yêu cầu, mức độ sẵn sàng cung cấp thông tin để phục vụ công tác điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh

Tần số

Phần trăm

87.81 2.93 0.45 91.20

389 13 2 404

Cung cấp thông tin theo đúng yêu cầu Tuỳ trường hợp Không cung cấp Tổng 18. Khi phát hiện thấy các doanh nghiệp khác thực hiện những hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh mà xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình, doanh nghiệp xử lý thế nào?

Tần số

Phần trăm

Tự dàn xếp

148

33.41

31 77 131 387

7.00 17.38 29.57 87.36

Công khai yêu cầu các doanh nghiệp chấm dứt việc thỏa thuận đó và bồi thường thiệt hại cho mình Khiếu nại theo quy định của Luật Cạnh tranh Phương án xử lý khác: Kiện ra Tòa án Tổng 19. Nếu phối hợp với Cơ quan quản lý cạnh tranh có thể được giảm mức hình phạt, Doanh nghiệp ông/bà có sẵn sàng làm không

Tần số

Phần trăm

Có phối hợp Tuỳ trường hợp Không phối hợp Tổng

211 226 6 443

47.63 51.02 1.35 100.00

20. Trong quá trình thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh vào thực tiễn kinh doanh, Doanh nghiệp của Ông/bà đã gặp những khó khăn, vướng mắc nào được liệt kê sau đây

Tần số

Phần trăm

Hiểu biết về pháp luật cạnh tranh của Doanh nghiệp hạn chế

113

25.51

172

377

85.10

74.49

330

12.87 0

57 0

Quy định của pháp luật khó hiểu, khó nắm bắt Khó khăn về nguồn lực (cán bộ chuyên trách, pháp chế, luật sư..) Quy định của pháp luật cạnh tranh chưa phù hợp với thực tiễn kinh doanh của doanh nghiệp Khó khăn, vướng mắc khác 21. Đánh giá mức độ ưu tiên đối với các biện pháp tăng cường hiệu quả thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong thời gian tới

5

2

1

4

3

443

Tần số

Phần trăm

100%

Tần số Phần trăm Tần số

9 2,1% 41

430 97% 1

4 0,9% 401

0,2% 9,3%

Phần trăm

90,5%

Tần số

3

440

Phần trăm

0,7%

99,3

Tần số

322

29

12

75

5

Phần trăm 2,7% 6,5% 72,7% 16,9%

1,1%

Biện pháp 1. Triển khai rộng khắp và nâng cao chất lượng việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh 2. Kiện toàn hệ thống cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh 3. Nâng cao năng lực điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh của cơ quan thực thi pháp luật 4. Sửa đổi các quy định của pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh 5. Nâng cao vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp trong việc phổ biến, giáo dục các hội viên không tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh 22. Các giải pháp để "Nâng cao nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp về thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh"

Tần số Phần trăm 22.12

98

Tăng cường việc tổ chức các hội thảo, tập huấn chuyên đề Tạo điều kiện để doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận quy định pháp luật bằng cách Lập Sổ tay về "Kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh", in phát cho doanh nghiệp và công khai trên website của Bộ Công thương Phát huy trách nhiệm xã hội trong kinh doanh của doanh nghiệp

399 27

90.07 6.09

68

15.35

Tăng cường vai trò của Hiệp hội, phát huy trách nhiệm của Hiệp hội trong việc tuyên truyền, giáo dục, tổ chức cho doanh nghiệp tuân thủ, chấp hành pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh Tăng nặng mức phạt tiền, áp dụng hình phạt tù cho hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh vi phạm cá nhân tổ chức/tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh để có tính răn đe Giải pháp khác

341 0

76.98 0.00

Nguồn: [18; 24].

173

Phụ lục 2 TÓM TẮT CÁC VỤ VIỆC THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH BỊ ĐIỀU TRA VÀ XỬ LÝ GIAI ĐOẠN 2005-2017

1. Vụ việc Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực bảo hiểm xe

cơ giới

a. Thông tin vụ việc: Ngày 15 tháng 9 năm 2008, tại Resort Sài Gòn - Mũi Né, số 56, Nguyễn

Đình Chiểu, Hàm Tiến, Phan Thiết, Bình Thuận, Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam (HHBHVN) đã chủ trì tổ chức Hội nghị các Tổng Giám đốc Phi nhân thọ lần

thứ VI (Hội nghị CEO PNT VI). Đây là Hội nghị định kỳ, được tổ chức 6 tháng/lần với nội dung, thời gian được xác định trên cơ sở Nghị quyết Hội nghị CEO PNT trước đó.

Tại Hội nghị CEO PNT VI nêu trên, sau khi nghiên cứu và thảo luận về dự thảo các văn bản thỏa thuận hợp tác, 15 doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) phi nhân thọ tham gia Hội nghị đã thống nhất ký Bản Thỏa thuận hợp tác giữa các DNBH trong lĩnh vực bảo hiểm xe cơ giới và Điều khoản Biểu phí bảo hiểm vật chất xe ô tô (sau đây gọi chung là Bản Thoả thuận).

Tiếp sau đó, trên cơ sở văn bản của HHBHVN số 226/HHBH/2008 ngày 18 tháng 9 năm 2008 về việc ký kết các văn bản thỏa thuận, thêm 04 DNBH phi nhân thọ khác đã tham gia ký Bản Thỏa thuận nêu trên, nâng tổng số DNBH phi nhân thọ tham gia ký Bản Thỏa thuận lên 19 doanh nghiệp. Bản Thỏa thuận nêu trên có hiệu lực kể từ 01 tháng 10 năm 2008.

b. Điều tra và xử lý vụ việc: Ngày 18 tháng 11 năm 2008, Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh ra Quyết định số 93/QĐ-QLCT về việc điều tra sơ bộ vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh quy định tại Điều 8 Luật Cạnh tranh.

Căn cứ kết quả điều tra sơ bộ, ngày 28 tháng 11 năm 2008, Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh ra Quyết định số 99/QĐ-QLCT về việc việc điều tra chính thức vụ việc cạnh tranh đối với 19 DNBH.

Ngày 18 tháng 5 năm 2009, Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh ra Quyết định

số 35/QĐ-QLCT về việc gia hạn thời hạn điều tra chính thức vụ việc cạnh tranh.

Ngày 02 tháng 10 năm 2009, Cục Quản lý cạnh tranh chuyển Hồ sơ vụ việc KNCT-HCCT-0009 lên Hội đồng Cạnh tranh. Hội đồng Cạnh tranh thụ lý hồ sơ vụ việc vào ngày 02 tháng 10 năm 2009.

174

Ngày 15 tháng 01 năm 2010, Hội đồng Cạnh tranh ra Quyết định số

02/QĐ-HĐXL về việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

Ngày 22 tháng 4 năm 2010, Nhóm Điều tra viên hoàn thành Báo cáo điều

tra sơ bộ vụ việc KNCT-HCCT-0009.

Ngày 29 tháng 4 năm 2010, Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh có Kết

luận điều tra chính thức vụ việc KNCT-HCCT-0009.

Cục Quản lý cạnh tranh chuyển Hồ sơ vụ việc KNCT-HCCT-0009 lên Hội đồng Cạnh tranh và Hội đồng Cạnh tranh thụ lý hồ sơ bổ sung vụ việc

KNCT-HCCT-0009 ngày 30 tháng 6 năm 2010.

Ngày 29 tháng 7 năm 2010, Hội đồng Cạnh tranh ban hành Quyết định số

14/QĐ-HĐXL Về việc xử lý vụ việc cạnh tranh KNCT-HCCT-0009 quyết định xử lý 19 DNBH tham gia ký bản thỏa thuận trên.

2. Vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trên thị trường tấm lợp a. Thông tin vụ việc: Tại Việt Nam, ngành sản xuất tấm lợp fibro-xi-măng được hình thành từ những năm 60 với chỉ 02 doanh nghiệp. Tính đến năm 2008, toàn quốc có 44 doanh nghiệp, nhà máy sản xuất tấm lợp fibro xi-măng (trong đó có 37 doanh nghiệp, nhà máy là thành viên của Hiệp hội tấm lợp Việt Nam). Do số lượng các doanh nghiệp, nhà máy tăng nhanh đã dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt về giá trên thị trường tấm lợp. Trong bối cảnh đó, một số doanh nghiệp thuộc Hiệp hội tấm lợp Việt Nam đã chủ trương cùng thống nhất trong việc tăng, giảm giá bán sản phẩm trên thị trường.

Ngày 5 tháng 4 năm 2011, Cục Quản lý cạnh tranh đã nhận được bản sao văn bản của Hiệp hội tấm lợp Việt Nam về việc yêu cầu các doanh nghiệp thành viên điều chỉnh giá bán tấm lợp.

b. Điều tra và xử lý vụ việc: Xuất phát từ nội dung văn bản nêu trên, Cục Quản lý cạnh tranh đã tiến

hành điều tra tiền tố tụng để tìm hiểu thêm các thông tin về vụ việc.

Trên cơ sở điều tra tiền tố tụng, Cục Quản lý cạnh tranh đã ra Quyết định

điều tra sơ bộ ngày 05 tháng 5 năm 2011.

Ngày 14 tháng 7 năm 2011 Cục Quản lý cạnh tranh ra quyết định điều tra chính thức đối với vụ việc liên quan đến hành vi thỏa thuận ấn định giá của các doanh nghiệp trên thị trường tấm lợp.

Hiện tại, nhóm điều tra viên đang hoàn tất quá trình điều tra, tổng hợp,

phân tích chứng cứ để viết Báo cáo điều tra.

175

3. Vụ việc Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực phí bảo

hiểm học sinh

a. Thông tin vụ việc:

Bảo hiểm học sinh (BHHS) là một trong các sản phẩm bảo hiểm không

bắt buộc thuộc nghiệp vụ bảo hiểm sức khỏe. Trong những năm gần đây, các

doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) kinh doanh sản phẩm BHHS đang gặp phải

nhiều khó khăn do sự cạnh tranh gay gắt từ các đối thủ. Chính vì vậy, nhằm

tránh cạnh tranh với nhau, các DNBH phi nhân thọ tại Khánh Hòa đã có ý tưởng

cùng thống nhất thực hiện một số chế độ và chính sách bảo hiểm học sinh trên

toàn địa bàn tỉnh Khánh Hòa, trong đó có mức phí bảo hiểm học sinh, mức trách

nhiệm bảo hiểm và chính sách chiết khấu đối với đại lý bảo hiểm và nhà trường.

Xuất phát từ thông tin trong bài báo "Hoa hồng bảo hiểm vào trường học"

trên báo Tuổi trẻ online ngày 25/9/2011 về việc đại diện công ty, chi nhánh 12

DNBH phi nhân thọ trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa đã cùng thỏa thuận tăng phí

bảo hiểm học sinh từ 60.000 đồng lên 80.000 đồng, Cục Quản lý cạnh tranh đã

tiến hành điều tra tiền tố tụng để tìm hiểu thêm thông tin về vụ việc.

b. Điều tra và xử lý vụ việc:

Qua điều tra tiền tố tụng, trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ ban đầu thu thập

được, Cục Quản lý cạnh tranh cho rằng hành vi của các doanh nghiệp bảo hiểm phi

nhân thọ nêu trên có liên quan đến các quy định của pháp luật cạnh tranh về "thỏa

thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp".

Ngày 29 tháng 9 năm 2011, Cục Quản lý cạnh tranh ban hành Quyết định số

151/QĐ-QLCT về việc điều tra sơ bộ vụ việc cạnh tranh mã số 11KX HCT 02.

Ngày 08 tháng 11 năm 2011, Cục Quản lý cạnh tranh ban hành Quyết

định số 185/QĐ-QLCT về việc điều tra chính thức vụ việc.

Ngày 20 tháng 8 năm 2012, Nhóm điều tra vụ việc có Báo cáo điều tra vụ việc.

Ngày 29 tháng 8 năm 2012, Cục Quản lý cạnh tranh có Văn bản số

04/KLDT Kết luận điều tra vụ việc, gửi Hội đồng Cạnh tranh.

Ngày 12 tháng 8 năm 2013, Hội đồng Cạnh tranh ban hành Quyết định số

07/HĐCT quyết định đình chỉ giải quyết vụ việc cạnh tranh 11KX HCT 02. Mỗi

Doanh nghiệp bị điều tra phải chịu mức phí xử lý vụ việc cạnh tranh là:

8.333.000 đồng (bằng chữ: Tám triệu ba trăm ba ba ngàn đồng).

176

Hội đồng Cạnh tranh cũng giải quyết khiếu nại của Công ty cổ phần Bảo

hiểm Toàn Cầu, bác khiếu nại của Công ty cổ phần Bảo hiểm Toàn Cầu, giữ

nguyên Quyết định số 07/QĐ-HĐCT ngày 12 tháng 8 năm 2013 của Hội đồng

Xử lý về việc xử lý vụ việc cạnh tranh 11KX HCT 02.

4. Vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trên thị trường vận tải

hành khách bằng tàu cánh ngầm tàu cánh ngầm

a. Thông tin vụ việc: Tháng 6 năm 2012, Cục Quản lý cạnh tranh nhận được thông tin về việc 03 doanh nghiệp kinh doanh vận tải hành khách bằng tàu cao tốc cánh ngầm tuyến Thành phố Hồ Chí Minh - Vũng Tàu cùng ký thoả thuận ấn định mức giá vé.

Nhận thấy vụ việc có dấu hiệu vi phạm quy định của pháp luật cạnh tranh

về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, Cục Quản lý cạnh tranh đã tiến hành điều tra để làm rõ các thông tin liên quan đến vụ việc.

b. Điều tra và xử lý vụ việc: Hiện nay, vụ việc đang tiếp tục được Cục Quản lý cạnh tranh điều tra.

Nguồn: [24].