VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ----------------
PHẠM THỊ CHUYỀN
PHẬT GIÁO THỜI LÊ SƠ
QUA TƢ LIỆU HÁN NÔM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÔN GIÁO HỌC
Hà Nội – 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ----------------
PHẠM THỊ CHUYỀN
PHẬT GIÁO THỜI LÊ SƠ
QUA TƢ LIỆU HÁN NÔM
Ngành: Tôn giáo học
Mã số: 9 22 90 09
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÔN GIÁO HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Đinh Khắc Thuân
2. TS. Nguyễn Ngọc Quỳnh
Hà Nội – 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS. Đinh Khắc Thuân và TS.Nguyễn Ngọc Quỳnh. Các
tư liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực. Kết quả trình bày của luận án
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ chương trình nào khác.
Hà Nội, ngày … tháng … năm 2020
Nghiên cứu sinh
Phạm Thị Chuyền
LỜI CẢM ƠN
Luận án này được thực hiện và hoàn thành trước hết nhờ sự hướng dẫn
nhiệt tình của PGS.TS. Đinh Khắc Thuân và TS.Nguyễn Ngọc Quỳnh.
Đồng thời, luận án liên tục nhận được sự góp ý của các Thầy, Cô giáo
trong Hội đồng nhận xét các cấp như PGS.TS.Nguyễn Hồng Dương,
PGS.TS.Chu Văn Tuấn, TS.Lê Tâm Đắc, PGS.TS.Nguyễn Hùng Hậu,
PGS.TS.Nguyễn Thị Minh Ngọc, PGS.TS.Hoàng Thị Lan, .v.v.
Đặc biệt, luận án đã được PGS.TS.Phạm Thị Thùy Vinh góp những ý
kiến quý báu và kịp thời về tư liệu Hán Nôm và tư liệu nghiên cứu, TS.Hoàng
Văn Chung tư vấn thiết thực về phương pháp luận.
Sau cùng, do nhiều lý do NCS đã nhiều lần muốn bỏ cuộc giữa chừng.
Nhưng chính TS.Nguyễn Quốc Tuấn là người đã động viên kịp thời và tư vấn
nhiệt tình cho NCS về tri thức Sử học và Tôn giáo học từ buổi đầu thực hiện
Luận án cho tới những ngày cuối cùng Thầy nằm trên giường bệnh. Do đó,
luận án này được hoàn thành và sau này sẽ cố gắng in thành sách chuyên
khảo là món quà đặc biệt NCS tri ân vị Thầy tận tâm này.
Kính cảm ơn tất cả các Thầy, các Cô! Chúc các Thầy, các Cô thân
không bệnh tận, tâm không phiền não, ngày ngày an vui không gặp chướng
ngại!
Nghiên cứu sinh
Phạm Thị Chuyền
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN NGUỒN TƢ LIỆU, TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU PHẬT GIÁO THỜI LÊ SƠ ................. 11
1.1. Nguồn tƣ liệu Hán Nôm sử dụng trong Luận án ........................................... 11
1.1.1. Tư liệu chính sử thời Lê sơ ....................................................................... 11
1.1.2. Tư liệu bi ký thời Lê sơ ............................................................................ 13
1.1.3. Tư liệu văn chương thời Lê sơ .................................................................. 17
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu những vấn đề liên quan tới Phật giáo thời
Lê sơ ........................................................................................................................................ 20
1.2.1. Các công trình liên quan tới bối cảnh Phật giáo hiện diện ở Đại Việt
thời Lê sơ ............................................................................................................ 20
1.2.2. Các công trình nghiên cứu liên quan tới sinh hoạt của Phật giáo thời Lê sơ ... 25
1.2.3. Các công trình nghiên cứu liên quan tới ảnh hưởng của Phật giáo trong
văn hóa Đại Việt thời Lê sơ ................................................................................ 29
1.3.Khung lý thuyết nghiên cứu ............................................................................. 32
1.3.1.Câu hỏi nghiên cứu ..................................................................................... 32
1.3.2.Giả thuyết nghiên cứu ................................................................................ 32
1.3.3.Cơ sở lý luận .............................................................................................. 32
1.4. Một số thuật ngữ sử dụng trong Luận án ...................................................... 38
Chương 2: BỐI CẢNH PHẬT GIÁO HIỆN DIỆN Ở ĐẠI VIỆT THỜI LÊ SƠ ... 43
2.1. Đặc điểm Phật giáo ở Đại Việt trước thời Lê sơ ................................................ 43
2.1.1. Nền Phật giáo thống nhất và được quý tộc hóa thời Trần ........................ 44
2.1.2. Cơ sở thờ tự Phật giáo thời Trần .............................................................. 47
2.1.3. Mật tông trong dòng chảy Phật giáo thời Trần ......................................... 49
2.1.4. Phật giáo ở Đại Việt dưới thời thuộc Minh .............................................. 53
2.2. Bối cảnh xã hội Đại Việt thời Lê sơ (1428 – 1527) ........................................ 56
2.2.1. Tình hình chính trị, kinh tế, xã hội thời Lê sơ .......................................... 57
2.2.2. Đời sống văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng thời Lê sơ .................................. 60
Chƣơng 3: ĐỜI SỐNG PHẬT GIÁO THỜI LÊ SƠ QUA TƢ LIỆU HÁN
NÔM ......................................................................................................................... 72
3.1. Niềm tin Phật giáo thời Lê sơ qua tƣ liệu Hán Nôm ..................................... 72
3.2. Thực hành Phật giáo thời Lê sơ qua tƣ liệu Hán Nôm ................................. 84
3.2.2. Tu tạo cơ sở thờ tự Phật giáo thời Lê sơ qua tư liệu Hán Nôm ................ 93
3.2.3. Một số hoạt động khác của Phật giáo thời Lê sơ qua tư liệu Hán Nôm ... 97
3.3. Cộng đồng Phật giáo thời Lê sơ qua tƣ liệu Hán Nôm ................................. 99
3.3.1. Tu sĩ Phật giáo thời Lê sơ qua tư liệu Hán Nôm ...................................... 99
3.3.2. Giới quý tộc thời Lê sơ với Phật giáo qua tư liệu Hán Nôm .................. 103
3.3.3. Giới quan lại và trí thức thời Lê sơ với Phật giáo qua tư liệu Hán Nôm 109
3.3.4 Thiện nam tín nữ Phật giáo thời Lê sơ qua tư liệu Hán Nôm ................. 113
Chƣơng 4: ẢNH HƢỞNG CỦA PHẬT GIÁO TRONG VĂN HÓA ĐẠI
VIỆT THỜI LÊ SƠ QUA TƢ LIỆU HÁN NÔM ............................................... 117
4.1. Ảnh hƣởng của Phật giáo trong văn hóa tƣ tƣởng thời Lê sơ qua tƣ liệu
Hán Nôm ................................................................................................................ 117
4.2. Ảnh hƣởng của Phật giáo trong văn hóa kiến trúc qua tƣ liệu Hán Nôm 122
4.3. Ảnh hƣởng của Phật giáo trong lối sống của ngƣời thời Lê sơ qua tƣ liệu
Hán Nôm ................................................................................................................ 127
4.4. Ảnh hƣởng của Phật giáo trong đời sống tôn giáo, tín ngƣỡng thời Lê sơ
qua tƣ liệu Hán Nôm ............................................................................................. 133
4.4.1. Phật giáo trong đời sống tam giáo thời Lê sơ qua tư liệu Hán Nôm ............. 134
4.4.2. Ảnh hưởng của Phật giáo đối với tín ngưỡng bản địa qua tư liệu Hán Nôm .. 139
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 145
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 148
PHỤ LỤC 1: VĂN BIA LÊ SƠ, TUYỂN TẬP
PHỤ LỤC 2: VĂN BIA PHẬT GIÁO THỜI LÊ SƠ
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đề tài “Phật giáo thời Lê sơ qua tư liệu Hán Nôm” được triển khai nghiên cứu
trong phạm vi một Luận án tiến sĩ chuyên ngành Tôn giáo học với những lý do sau:
Thứ nhất, Phật giáo trước khi du nhập vào Việt Nam được biết đến là một sản
phẩm của văn hóa Ấn Độ. Sau khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo nhanh chóng
trở thành một trong ba tôn giáo lớn, phát triển mạnh mẽ ở thời Lý – Trần, chi phối
hầu hết mọi phương diện của đời sống chính trị - văn hóa – xã hội. Cũng như ở
nhiều nơi trên thế giới như Nhật Bản, Trung Hoa, Miến Điện, Hàn Quốc, .v.v., Phật
giáo ở Việt Nam không những tồn tại lâu dài mà còn tiếp nhận những yếu tố văn
hóa của người Việt, mang thêm cho mình những màu sắc khác biệt so với Phật giáo
ở những nơi khác và ngày càng bám rễ sâu vào tâm thức người Việt. Phật giáo thời
Lê sơ không nằm ngoài tình hình đó.
Thứ hai, xã hội thời Lê Sơ đã để lại những dấu ấn đặc biệt trong tiến trình lịch
sử Việt Nam. Trong 100 năm từ năm 1428 đến năm 1527, nước Đại Việt bước vào
thời kỳ phát triển cực thịnh và được coi là một quốc gia thịnh trị của chế độ quân
chủ tập quyền. Theo nhận định của Nguyễn Hải Kế thì : “Không nghi ngờ gì thời Lê
Sơ mà tập trung là giai đoạn Lê Thánh Tông trị vì, chế độ phong kiến nhà nước
quan liêu đã đạt tới sự ổn định, kỷ cương và thịnh trị thường vẫn được coi vào bậc
nhất trong chế độ phong kiến Việt Nam. Thế kỷ thứ XV như là thế kỷ cổ điển của
chế độ nhà nước quân chủ phong kiến quan liêu. Đương thời cũng như hậu thế, các
sử gia phong kiến hay hiện đại đều có chung một đánh giá về sự ổn định và thành
tựu của nhiều lĩnh vực trong giai đoạn Lê Thánh Tông” [19, Tr.25]. Do đó, việc
nghiên cứu tôn giáo thời Lê sơ nói chung, Phật giáo thời Lê sơ nói riêng là hết sức
cần thiết để làm rõ hơn những yếu tố hiện hữu trong xã hội tham góp vào sự ổn định
và thành tựu đó của thời Lê sơ
Thứ ba, kho tư liệu Hán Nôm có rất nhiều tài liệu cung cấp các thông tin giá
trị về Phật giáo giai đoạn Lê sơ nhưng hầu như chưa được khai thác một cách rộng
rãi, có hệ thống để làm rõ về tôn giáo này. Việc tìm hiểu những thông tin đó dưới
1
dạng ký tự Hán Nôm là một cản trở lớn đối với người nghiên cứu nếu không đọc
được loại chữ này. Đồng thời, các thông tin đó nằm rải rác ở nhiều loại văn bản
khác nhau. Việc tập hợp các tài liệu đó, xử lý chúng, và chắt lọc thành các báo cáo
tiếng Việt sẽ giúp ích cho những ai quan tâm tìm hiểu về Phật giáo giai đoạn này, từ đó
có thể triển khai các nghiên cứu khác nhau tùy theo mục đích và nhu cầu cụ thể. Do đó,
việc nghiên cứu Phật giáo thời Lê sơ từ việc khảo cứu trực tiếp tư liệu Hán Nôm là việc
làm hết sức cần thiết và tránh được những sai biệt từ bản dịch, do có thể đọc thông tin
trực tiếp từ tư liệu Hán mà không phụ thuộc vào bản dịch tiếng Việt.
Thứ tư, Mặc dù Phật giáo thời Lê Sơ đã được đề cập đến một số công trình
thuộc về ngành khoa học như: triết học, sử học, .v.v. mà chúng tôi sẽ trình bày trong
phần tổng quan tình hình nghiên cứu, nhưng Phật giáo thời Lê sơ chưa được nghiên
cứu như một công trình nghiên cứu độc lập trên nguồn tư liệu được hệ thống hóa,
đặc biệt là một nghiên cứu tiếp cận Tôn giáo học. Nghiên cứu Phật giáo thời Lê sơ
dưới cách tiếp cận của triết học hay tư tưởng cũng là những đóng góp quý báu. Tuy
nhiên, Phật giáo không chỉ có hệ thống triết thuyết mà trước hết nó là một tôn giáo,
nó cần thiết được diễn giải là một tôn giáo với những thành phần cấu thành, với
năng lực tồn tại và diễn tiến, với một diện mạo với những màu sắc đặc trưng của
từng thời kỳ và với những đóng góp thiết thực của nó trong xã hội. Phật giáo thời
Lê sơ cũng cần phải được hiểu và diễn giải theo cách đó.
Thứ năm, xuất phát từ nhu cầu nhận thức và tiếp thu các giá trị của lịch sử và
đương đại về tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng nhằm đáp ứng nhu cầu của
công cuộc xây dựng và phát triển đất nước bền vững trong giai đoạn hiện nay. Một
trong những cơ sở phát triển bền vững đất nước là phải hiểu thấu đáo những đặc
điểm truyền thống của dân tộc trong lịch sử, phải nắm chắc được những yếu tố
thuộc về sức mạnh nội sinh, trong đó có Phật giáo thời Lê sơ, phải thấy được những
điểm mạnh cũng như những hạn chế mà lịch sử để lại và tiếp tục gây ảnh hưởng
trong hiện tại nhằm hình thành một định hướng đúng để từ đó có nhận thức đúng
đắn và có những điều chỉnh phù hợp, vừa chứa đựng trong nó những di sản tốt đẹp
của truyền thống dân tộc, vừa mang giá trị của thời đại.
2
Như vậy, việc đi sâu nghiên cứu lịch sử tôn giáo, trước hết là tôn giáo tồn tại
trong các giai đoạn phát triển cực thịnh của đất nước, trong đó có Phật giáo thời Lê
sơ, là một việc làm cần thiết nhằm góp phần khẳng định những giá trị và chỉ ra
những hạn chế của tôn giáo Việt Nam trong lịch sử, một mặt, bổ sung cơ sở để nhận
thức đời sống Phật giáo trong quá khứ, mặt khác, quan trọng hơn, tiếp thu những
giá trị trong truyền thống Phật giáo của dân tộc nhằm củng cố thêm cơ sở khoa học
để có thêm những nhận thức và điều chỉnh cho công cuộc phát triển đất nước bền
vững hiện nay. Do vậy, từ góc độ của ngành Tôn giáo học, luận án tập trung giải
đáp câu hỏi nghiên cứu: Qua khảo cứu tư liệu Hán Nôm, đời sống và ảnh hưởng
của Phật giáo như thế nào?
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Thông qua khảo cứu các nguồn tư liệu Hán Nôm, luận án góp phần làm rõ đời
sống và ảnh hưởng của Phật giáo trong xã hội Đại Việt thời Lê sơ (1428-1527).
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, luận án trước hết cần tìm kiếm, khảo cứu, đối
chiếu, phân loại, hệ thống hóa các tư liệu Hán-Nôm liên quan đến Phật giáo thời Lê
sơ. Đồng thời đánh giá giá trị các văn bản thu thập được về các phương diện lịch sử
và tôn giáo. Tiếp đó, luận án thực hiện ba nhiệm vụ chính:
Xử lý và phân tích các tư liệu thu thập được nhằm làm rõ bối cảnh cho
sự hiện diện của Phật giáo thời Lê sơ;
Nhận diện đời sống Phật giáo thời Lê sơ bao gồm những thành tố cấu
thành nên Phật giáo với tư cách là một tôn giáo.
Làm rõ ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống xã hội Đại Việt thời Lê
sơ từ các tư liệu đã xử lý và đặt trong tương quan với Phật giáo giai
đoạn trước đó;
Ngoài ra, luận án còn gợi ý các hướng nghiên cứu chuyên sâu trong tương lai
để tiếp tục làm sáng rõ hơn Phật giáo thời Lê sơ từ phương diện tư liệu Hán-Nôm.
3
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận án là “Phật giáo thời Lê sơ”. Đó là một trong
ba tôn giáo lớn (Nho, Phật, Đạo) tồn tại trong xã hội Đại Việt thời Lê sơ (1428-
1527).. Trong đó, luận án đi sâu nghiên cứu những thành tố cơ bản bao gồm: cộng
đồng Phật giáo, đối tượng thờ, tư tưởng Phật học, thực hành Phật giáo và những cơ
sở vật chất. Tuy nhiên, Phật giáo thời Lê sơ không tồn tại độc lập, mà tồn tại trong
bối cảnh xã hội Đại Việt thời đó. Vì vậy, luận án còn nghiên cứu ảnh hưởng của
Phật giáo trong đời sống văn hóa Đại Việt thời Lê sơ, như: văn hóa tư tưởng, văn
hóa kiến trúc, lối sống và trong đời sống tôn giáo, tín ngưỡng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung nghiên cứu: Luận án trên cơ sở xử lý các nguồn tư liệu Hán
Nôm, đi sâu chủ yếu làm rõ 3 vấn đề chính:
Thứ nhất là bối cảnh đưa tới sự hiện diện của Phật giáo ở Đại Việt thời
Lê sơ.
Thứ hai là đời sống Phật giáo thời Lê sơ. Tư liệu Hán Nôm thời kỳ này cho
phép Luận án trình bày những phương diện tiêu biểu như: cộng đồng Phật
giáo, tư tưởng và đối tượng thờ và một số thực hành của Phật giáo.
Thứ ba là ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống văn hóa Đại Việt
thời Lê sơ. Tư liệu Hán Nôm thời kỳ này cho phép Luận án trình bày về
ảnh hưởng của Phật giáo trong văn hóa tư tưởng, văn hóa kiến trúc, lối
sống và đời sống tín ngưỡng, tôn giáo thời Lê sơ.
Tuy nhiên, trong mỗi vấn đề nghiên cứu, luận án không chỉ mô tả tình hình
Phật giáo thời Lê sơ, mà còn chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt so với Phật
giáo ở Việt Nam trước đó.
Phạm vi tư liệu nghiên cứu:
Về tư liệu Hán Nôm, luận án khảo cứu tư liệu Hán Nôm chứa sử liệu Phật giáo
thời Lê sơ chủ yếu trên ba nhóm: chính sử, bi ký và văn chương. Trong đó, Chính
sử là một nguồn thông tin chính thống, quan phương của chính quyền quản trị đất
4
nước, có độ tin cậy cao. Với nhóm tư liệu này, luận án có thể tìm thấy sử liệu Phật
giáo thời Lê sơ thông qua những diễn giải liên quan tới Phật giáo, đặc biệt là liên
quan tới hoạt động của Phật giáo cấp quốc gia và những quy định của nhà nước về
Phật giáo thời kỳ này. Bi ký là một nguồn thông tin chính thống của cộng đồng một
cơ sở tự viện Phật giáo, hoặc một nhân vật sở hữu niềm tin Phật giáo có sức ảnh
hưởng. Với nhóm tư liệu này, luận án có cơ hội tìm thấy sử liệu về niềm tin, thực
hành Phật giáo của một cộng đồng gần tương đương với một đạo tràng, một địa
phương sinh hoạt tại một ngôi tự viện Phật giáo nào đó, tức là một cấp cộng đồng
nhỏ hơn quốc gia, nhưng lớn hơn các gia đình. Văn chương là một nguồn diễn giải
niềm tin, quan điểm, tư tưởng, hành vi của cá nhân người sáng tác. Niềm tin Phật
giáo, tư tưởng Phật học, hành vi Phật giáo của cá nhân vì thế bộc lộ rõ nhất trong
nhóm tư liệu này. Với nhóm tư liệu này, luận án có thể tìm thấy sử liệu về niềm tin,
tình cảm và thực hành Phật giáo của những cá nhân. Đối với cá nhân sở hữu niềm
tin Phật giáo, văn chương là nơi cá nhân họ dễ dàng thể hiện tình cảm và niềm tin
tôn giáo của họ hơn trong không gian bi ký hay chính sử.
Bên cạnh đó, chúng tôi tham khảo những bản dịch sang tiếng Việt của các cá
nhân và tập thể dịch thuật, chú thích đã xuất bản thành sách, bài tạp chí. Tuy nhiên,
trong những tư liệu trích dẫn, chúng tôi đọc trực tiếp văn bản Hán Nôm và sử dụng
bản dịch có hiệu chỉnh theo tri thức tôn giáo học trong văn bản.
Với từng nhóm tư liệu, chúng ta khó có thể đi tới nghiên cứu cả diện mạo hay
ảnh hưởng của Phật giáo thời Lê sơ, có thể góp phần làm rõ từng mảng trong đời
sống và ảnh hưởng đó. Do vậy, tổng hợp cả 3 nhóm tư liệu này cho phép Luận án
có thể nghiên cứu đời sống và ảnh hưởng của Phật giáo thời Lê sơ tương đối toàn
diện và rõ ràng hơn những công trình nghiên cứu liên quan trước.
Phạm vi về mặt thời gian: Thời Lê sơ, hay còn gọi là “Hậu Lê sơ kỳ” (theo
cách gọi của Lê Quý Đôn [107], phân biệt với thời Tiền Lê và thời Lê Trung Hưng),
bắt đầu từ năm 1428 khi Lê Lợi lên ngôi Thái Tổ Cao Hoàng đế nhà Hậu Lê [78,
q.10, tr.1a] đến ngày 11 tháng 6 năm 1527 (Đinh Hợi, niên hiệu Thống Nguyên 6)
khi Mạc Đăng Dung từ Cổ Trai vào kinh thành ép vua Lê Cung Hoàng nhường ngôi,
lập lên nhà Mạc [78, q.15, tr.67b].
5
4. Phƣơng pháp luận và Phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Hướng tiếp cận của Luận án
Luận án tiếp cận Phật giáo thời Lê sơ từ tiếp cận liên ngành khoa học xã hội,
bao gồm Hán Nôm học, Sử học, Tôn giáo học.
Thứ nhất, tiếp cận Hán Nôm học được lựa chọn đầu tiên do Luận án nghiên cứu
đối tượng trên phạm vi tư liệu là tư liệu Hán Nôm thời kỳ này. Do vậy, tiếp cận văn bản
Hán Nôm trên các chất liệu là công việc đầu tiên. Mỗi loại hình văn bản Hán Nôm thể
hiện những phạm vi diễn giải khác nhau về sự kiện lịch sử, quan điểm và tâm thức của cá
nhân và cộng đồng. Các văn bản Hán Nôm tùy vào chất liệu và loại hình văn bản cũng
có tính lịch sử khác nhau. Chính sử thường được Nhà nước bảo lưu và quan tâm. Những
trước tác văn chương thường sao chép và biên tập nhiều hơn Sử.
Thứ hai, luận án tiếp cận Phật giáo thời Lê sơ theo hướng tiếp cận Sử học. Về
mặt lý thuyết, nghiên cứu lịch sử tôn giáo là một mối quan tâm của Tôn giáo học từ
sơ kỳ. Hướng tiếp cận này tập trung làm giàu tri thức về lịch sử tồn tại và diễn biến
mà tôn giáo đã trải qua và từ đó làm rõ nhận thức về nội tại cũng như vị trí và vai
trò của tôn giáo đó. Nhiệm vụ của ngành này được khái quát ngắn gọn là vạch ra
con đường phát triển của mỗi loại tôn giáo cụ thể. Ngành này có mối liên hệ chặt
chẽ với các ngành Sử học, Ngôn ngữ học và Khảo cổ học, do đó chú ý mô tả lịch sử,
khảo sát ngôn ngữ và khai thác các dữ liệu khảo cổ học [2, tr.221]. Từ tiếp cận này,
luận án đi tới những hướng khảo sát thông tin về Phật giáo thời Lê Sơ. Thời Lê sơ
(1428 – 1527) là thời kỳ đã lùi sâu vào quá khứ. Phật giáo thời Lê sơ vì thế chỉ còn
có thể tìm thấy qua những tài liệu lịch sử. Một phần rất đáng kể các nguồn sử liệu
về thời kỳ này có thể thấy trong các nguồn tư liệu Hán Nôm. Từ các nguồn tài liệu
Hán Nôm, luận án sẽ khảo cứu theo trình tự thời gian và hệ thống hóa những tư liệu
Phật giáo thời Lê sơ theo các nhóm vấn đề đời sống và ảnh hưởng. Tuy nhiên sự
kiện, hiện tượng liên quan đến diễn trình lịch sử của Phật giáo trong tài liệu Hán
Nôm luôn nằm dưới sự luận giải và trình bày của người tạo ra tư liệu đó, do vậy,
luận án cần sử dụng những thông tin liên quan tới người diễn giải để giải mã những
luận giải đó, lấy ra những thông tin có tính lịch sử gần với sự thực nhất.
6
Thứ ba, luận án sử dụng hướng tiếp cận Tôn giáo học. Tiếp cận Tôn giáo học
đề cao cách nhìn về tôn giáo với cốt lõi là tư tưởng tôn giáo hay niềm tin tôn giáo.
Tư tưởng tôn giáo sẽ thể hiện ra những hành vi tôn giáo hay còn gọi là thực hành
tôn giáo. Từ những người có tư tưởng tôn giáo, thực hiện những hành vi tôn giáo
hình thành nên cộng đồng tôn giáo. Trong điều kiện sống nhất định, con người với
niềm tin Phật giáo sẽ bộc lộ ra lời nói hoặc hành vi được chỉ đạo từ niềm tin đó.
Thực hành thuần túy Phật giáo hay thực hành hướng đích xã hội cũng được chỉ đạo
từ niềm tin đó. Phương diện vật chất hay phi vật chất liên quan tới Phật giáo cũng
được tạo ra nhằm thể hiện niềm tin và mong muốn của họ [45]. Vì thế, trong bất kỳ
vấn đề nội dung nào Luận án cũng đều diễn giải theo tiêu chí từ tư tưởng đến hành
vi, hay từ niềm tin đến thực hành.
Trong nhiệm vụ nhận diện Phật giáo thời Lê sơ, luận án tìm hiểu những tư
tưởng Phật học được đề cập đến trong tư liệu Hán Nôm thời Lê sơ không thể không
sử dụng tới tiếp cận Triết học. Trong đó, có giáo lý về thế giới quan: mọi hiện hữu
đều luôn thay đổi (vô thường), không có tự tính riêng biệt (vô ngã), mọi sự vật hiện
tượng đều do duyên mà có, do duyên mà mất (duyên khởi).v.v. , về nhân sinh quan
như tiếp xúc mọi sự vật hiện tượng với sự trong sáng hoặc không phản ứng (vô tâm),
ứng xử hòa hợp với cộng đồng (lục hòa), năm sức mạnh trong tu tập (còn gọi là ngũ
viên hoặc ngũ lực viên thông), điều tốt lành (thiện), ... phải được diễn giải theo logic
của Triết học. Tuy nhiên, tiếp cận này chỉ sử dụng trong một nội dung cụ thể liên
quan tới Tư tưởng Phật học.
Để làm rõ ảnh hưởng của Phật giáo trong mối tương tác với các thiết chế xã
hội khác, luận án cần sử dụng tiếp cận xã hội học. Từ góc tiếp cận này, luận án thấy
ra những vấn đề về nền tảng lịch sử, những thực hành, ảnh hưởng của Phật giáo
trong xã hội. Ví dụ như vị trí của nghi lễ Phật giáo trong an ninh tinh thần, ảnh
hưởng của Phật giáo trong cố kết cộng đồng, hay ảnh hưởng của Phật giáo trong
quản trị xã hội.
Do đó, về bản chất, luận án là một nghiên cứu liên ngành khoa học xã hội, bao
gồm: Hán Nôm học, Sử học, Tôn giáo học, Xã hội học và Triết học, trong đó tiếp
cận Tôn giáo học là trọng tâm.
7
4.2. Phương pháp nghiên cứu sử dụng trong Luận án
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, luận án sử dụng hai phương
pháp nghiên cứu chủ yếu là văn bản học và sử liệu học,
Thứ nhất, những phương pháp văn bản học luôn cần được sử dụng trong
những thao tác xác định đó. Đối với những tư liệu đã được xác định văn bản, dịch
và giới thiệu, chúng tôi kế thừa. Đối với những tư liệu sưu tầm, chúng tôi trực tiếp
sử dụng phương pháp văn bản học để xác định.
Thứ hai, vì Luận án nghiên cứu vấn đề trên cơ sở sử liệu hiện nay có thể tiếp
cận được, cho nên tác giả cần phải sử dụng phương pháp định bản để xác định niên
đại và độ chân xác của văn bản chứa sử liệu.
Ngoài ra, phương pháp tổng hợp và so sánh được sử dụng để xâu chuỗi những
sự kiện lịch sử được trình bày tản mạn ở các nguồn tư liệu thành một hệ thống,
đồng thời tổng hợp những nghiên cứu của các nhà nghiên cứu đi trước về những
vấn đề liên quan tới đề tài, để từ đó phát hiện ra được những giá trị tích cực về đời
sống và ảnh hưởng của Phật giáo thời Lê sơ. Phương pháp so sánh được sử dụng để
so sánh diện mạo Phật giáo thời Lê sơ với Phật giáo thời Lý Trần và Phật giáo thời
Mạc để làm nổi bật nên đặc trưng và ảnh hưởng của Phật giáo thời Lê sơ.
5. Đóng góp mới về khoa học của Luận án
Luận án “Phật giáo thời Lê sơ qua tư liệu Hán Nôm” là công trình nghiên cứu
Phật giáo thời Lê sơ chuyên ngành Tôn giáo học độc lập đầu tiên chỉ ra những điểm
mới như sau:
Thứ nhất, luận án nghiên cứu Phật giáo thời Lê sơ từ cách tiếp cận liên ngành
sử học - tôn giáo học và triết học.
Thứ hai, luận án nghiên cứu Phật giáo thời Lê sơ không chỉ trên cơ sở nguồn
sử liệu chính sử thời Lê sơ như một sống công trình nghiên cứu đi trước, mà trên cơ
sở khảo cứu và hệ thống hóa sử liệu từ những nguồn tư liệu Hán Nôm căn bản của
thời Lê sơ như: chính sử, bi ký và văn chương.
Thứ ba, luận án làm rõ sinh hoạt của Phật giáo thời Lê sơ ở những phương
diện rất cơ bản, như: Cộng đồng Phật giáo thời Lê sơ, tư tưởng và đối tượng thờ
Phật giáo thời Lê sơ, một số thực hành Phật giáo thời Lê sơ. Trong đó, luận án phân
8
tích và lý giải theo logic niềm tin là cốt lõi của Phật giáo và là yếu tố mang tính
quyết định thực hành Phật giáo, từ đó xác lập vai trò của niềm tin Phật giáo trong cá
nhân, thực hành và cộng đồng Phật giáo trong xã hội Đại Việt thời Lê sơ.
Thứ tư, luận án làm rõ ảnh hưởng của Phật giáo trong xã hội Đại Việt thời Lê
sơ trên căn bản những gì đã được trình bày về diện mạo Phật giáo thời Lê sơ. Từ
những nguồn tư liệu Hán Nôm căn bản thời Lê sơ, luận án làm rõ ảnh hưởng của
Phật giáo trong đời sống chính trị, văn hóa và tín ngưỡng, tôn giáo thời Lê sơ.
Tóm lại, luận án trên cơ sở khảo cứu những nguồn tư liệu Hán Nôm căn bản,
góp phần lý giải một số vấn đề còn thiếu thống nhất và chưa thỏa đáng trong không
ít các công trình nghiên cứu đi trước về Phật giáo thời Lê sơ, cho thấy một diện mạo
căn bản và ảnh hưởng của Phật giáo trong những lĩnh vực trọng yếu của Đại Việt
thời Lê sơ.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án Phật giáo thời Lê sơ qua tư liệu Hán Nôm có những ý nghĩa lý luận sau:
Thứ nhất, mỗi nguồn sử liệu Hán Nôm có thể cho ta biết về một hoặc nhiều
phương diện của Phật giáo ở một thời kỳ nào đó trong lịch sử, nhưng để có cái nhìn
tương đối toàn diện thì cần khảo sát tổng hợp những nguồn sử liệu căn bản. Luận án
cho thấy, sử liệu từ tổng hợp những nguồn chính sử, bi ký và văn chương cho phép
nhận diện khái quát hơn, gần với sự thực hơn, chi tiết hơn về Phật giáo thời Lê sơ cũng
như nhận định rõ ràng hơn về ảnh hưởng của nó trong xã hội Đại Việt thời Lê sơ.
Thứ hai, luận án cho thấy khi nghiên cứu tâm thức và thực hành Phật giáo từ
cấp độ cá nhân tới gia đình tới cộng đồng thời Lê sơ phụ thuộc rất nhiều vào cách
khảo cứu nguồn tư liệu khác nhau. Ở cấp độ cá nhân, chúng ta sẽ tìm thấy nhiều dấu
hiệu trong văn chương. Ở cấp độ gia đình, chúng ta sẽ tìm thấy nhiều dấu hiệu trong
văn chương và bi ký. Ở cấp độ cộng đồng, chúng ta sẽ tìm thấy nhiều dấu hiệu trong
bi ký và chính sử. Do đó, sự phân tích, tổng hợp và hệ thống hóa thông tin để làm rõ
nội dung vấn đề nghiên cứu không chỉ đơn giản là định bản, đọc lấy thông tin, mà
còn cần thiết phải đối chiếu, phê phán sử liệu bên trong văn bản cũng như bên ngoài
văn bản và giữa các nguồn văn bản khác nhau.
9
Thứ ba, luận án không chỉ mô tả diện mạo, nhận định ảnh hưởng của Phật giáo
thời Lê sơ, mà còn so sánh với đời sống và ảnh hưởng của Phật giáo trong xã hội
thời kỳ trước đó. Trong sự so sánh, những đặc điểm về đời sống và ảnh hưởng của
Phật giáo thời Lê sơ được nhấn mạnh, nhờ vậy chúng trở nên nổi bật hơn.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án Phật giáo thời Lê sơ qua tư liệu Hán Nôm có những ý nghĩa thực tiễn sau:
Thứ nhất, luận án làm rõ thêm thời Lê sơ khi Phật giáo không được lựa chọn làm
nền tảng tư tưởng để quản trị đất nước, không nhận được sự hậu thuẫn của triều đình,
Phật giáo lặng lẽ đi vào dân chúng và hệ quả từ sự hòa nhập của Phật giáo vào dân gian
tạo ra mối liên hệ giữa Phật giáo với một số loại hình tôn giáo, tín ngưỡng khác.
Thứ hai, luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà quản lý, các cán bộ
làm công tác nghiên cứu và giảng dạy tôn giáo học, các nghiên cứu sinh, học viên
cao học, sinh viên các học viện theo học các chuyên ngành tôn giáo học, sử học và
những ai quan tâm đến vấn đề này.
7. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung
chính của Luận án gồm 4 chương.
Chương 1: Tổng quan nguồn tư liệu Hán Nôm, tình hình nghiên cứu những
vấn đề liên quan tới Phật giáo thời Lê sơ
Chương 2: Bối cảnh Phật giáo hiện diện ở Đại Việt thời Lê sơ
Chương 3: Đời sống Phật giáo thời Lê sơ qua tư liệu Hán Nôm
Chương 4: Ảnh hưởng của Phật giáo trong văn hóa Đại Việt thời Lê sơ qua tư
liệu Hán Nôm
10
Chƣơng 1
TỔNG QUAN NGUỒN TƢ LIỆU, TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ
LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU PHẬT GIÁO THỜI LÊ SƠ
1.1. Nguồn tƣ liệu Hán Nôm sử dụng trong Luận án
1.1.1. Tư liệu chính sử thời Lê sơ
Tư liệu chính sử ở đây được hiểu là những tư liệu do nhà nước chỉ đạo biên
soạn và ban hành, như các bộ sử và luật lệ. Tư liệu này khác biệt với các nguồn tư
liệu do cộng đồng ở địa phương hoặc cá nhân tạo ra hoặc biên soạn.
a) Tư liệu sử
Luận án khảo sát thông tin Phật giáo thời Lê sơ trong những bộ sử căn bản sau:
大 越 史 記 全 書(Đại Việt sử ký toàn thư) [78] là bộ chính sử lớn của nước ta,
do nhiều nhà chép sử (sử quan) nhiều đời, trong đó Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên và
Vũ Quỳnh là những người sống trong thời Lê sơ, vì thế Luận án quan tâm khảo cứu
bộ sử này trước tiên. Nội dung trình bày lịch sử nước ta từ khởi thủy đến hết đời Lê
Gia Tông Mỹ Hoàng Đế (1675), trong đó sự kiện lịch sử thời Lê sơ được chép từ
Quyển 10 đến Quyển 15. Hiện nay, tại kho sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm có
nhiều bản, luận án sử dụng bản ký hiệu A. 3/1-4 (2462 tr, khổ giấy 26 x 16) vì bản
này là bản đầy đủ nhất và được làm căn cứ cho các bản dịch sang tiếng Việt. Ngoài
ra, luận án tham khảo thêm bản dịch Việt của nhóm Phan Huy Lê [28].
藍 山 實 錄 (Lam sơn thực lục) do Lê Lợi, lấy hiệu là Lam Sơn Động Chủ (藍
山洞 主) đề tựa năm Thuận Thiên 4 (1431), được Hồ Sĩ Dương (胡 士 楊) đề tựa
cho lần trùng san năm Vĩnh Trị thứ nhất (1676). Đây là một bản ghi chép lại cuộc
khởi nghĩa Lam Sơn đánh đuổi quân Minh: nguồn gốc, tiểu sử và sự nghiệp cứu
nước của Lê Lợi. Trong phần đầu có ghi chép về sự kiện Lê Lợi tiếp thu lời khuyên
của một tu sĩ Phật giáo. Luận án tham khảo bản dịch của Mạc Bảo Thần (1945)[57].
大越通史 (Đại Việt thông sử) [107] là bộ sử do Lê Quí Đôn (黎貴惇, 1726 -
1784) biên soạn theo lối kể chuyện (kỷ sự). Bài tựa viết năm Lê Cảnh Hưng 10
(1749). Hiện nay, tại kho sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm có nhiều bản, luận án
11
chọn bản ký hiệu A. 1389 (608 tr, 31 x 21) để khảo cứu. Nội dung có phần Bản kỉ
chỉ còn Kỉ Lê Thái Tổ, phần Chí chỉ còn Nghệ văn chí, phần Liệt truyện có truyện
các Hậu phi, chư thần, nghịch thần .v.v. Thông tin liên quan tới Phật giáo thời Lê sơ
cơ bản giống với Đại Việt sử ký toàn thư ở trên. Luận án còn tham khảo bản dịch
Việt của Ngô Thế Long [30].
歷 朝 憲 章 類 誌 (Lịch triều hiến chương loại chí) [110] do Phan Huy Chú
(潘 輝 注, 1782 –1840) biên soạn. Nội dung gồm Địa dư (Q1-5), nhân vật (Q6-12),
quan chức (Q13-19), lễ nghi (Q20-25), khoa mục (Q26-28), quốc dụng (Q29-32),
hình luật (Q33-38), binh chế (Q39-41), văn tịch (Q42-45), bang giao (Q46-49) của
các triều đại Việt Nam từ Hùng Vương đến cuối Lê. Thông tin về Phật giáo thời Lê
sơ chủ yếu có trong phần hình luật và văn tịch. Hiện nay, tại kho sách Viện Nghiên
cứu Hán Nôm có nhiều bản, luận án sử dụng bản ký hiệu A.1551/1-8 (2346 tr., 19 x
17), tham khảo bản dịch Việt của Viện Sử học [47].
Ngoài ra, bộ 欽定越史通鑑綱目(Khâm định Việt sử thông giám cương mục)
[111]do Quốc sử quán triều Nguyễn chủ trì vịêc biên tập, Phan Thanh Giản (潘清澗)
chủ biên và bộ 越史綱目節要 (Việt sử cương mục tiết yếu) bản ký hiệu VHv.2383
(khảo cứu, bình luận một số sự kiện lịch sử Việt Nam từ đời Hùng Vương đến đời Tây
Sơn, theo bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục) .v.v. cũng được khai thác
phục vụ cho Luận án. Trong nguồn tư liệu này, luận án khảo sát được những thông tin
về sự kiện liên quan tới Phật giáo thời Lê sơ ở quy mô quốc gia, hoặc liên quan tới triều
đình và chính trị. Những thông tin này rất quan trọng trong việc nghiên cứu ảnh hưởng
của Phật giáo trong tương tác với thiết chế chính trị thời Lê sơ.
Bên cạnh những tư liệu sử của Việt Nam, luận án đặc biệt tham cứu sử liệu
Phật giáo thời Lê sơ trong 安南志原 (An Nam chí nguyên) [106], đó là tài liệu ghi
chép của một vị quan người Trung Quốc tên là Cao Hùng Trưng. Trong đó, xuất
hiện những thông tin về chùa, người tu Phật tiêu biểu ở Đại Việt thời thuộc Minh,
và thời Lê sơ và thời Mạc. Đây là một tài liệu đặc biệt quan trọng, nhất là phần khảo
cứu về Phật giáo ở nước ta thời thuộc Minh.
12
b) Tư liệu luật
Những thông tin chính sách của nhà nước Lê sơ về quản lý thực hành Phật
giáo có trong những văn bản luật, lệ, do đó, luận án lựa chọn khảo cứu chủ yếu
những bộ sau:
國 朝 刑律 (Quốc triều hình luật)[69] hay còn gọi là Luật Hồng Đức là bộ luật
của triều Lê sơ về tội hình thuộc các lĩnh vực hôn nhân, điền sản, trộm cướp, gian
dâm, bội phản .v.v. Những thông tin liên quan tới Phật giáo thời Lê sơ nằm quyển 1,
2, 3, 4, 5 tại các mục Hộ hôn, Đạo tặc, Tạp luật; các điều 5, 6, 11, 18, 23, 79. Luận
án sử dụng bản A. 341 (258 tr., 20 x 14) lưu tại kho sách Viện Nghiên cứu Hán
Nôm, tham khảo thêm bản dịch Việt của Viện Sử học [49]. Luận án khai thác
những thông tin về những điều chỉnh của nhà nước Lê sơ đối với Phật giáo, như
chuẩn hóa tăng sĩ, chế độ xây dựng chùa chiền, cư trú tại chùa chiền, bảo vệ cơ sở
vật chất nơi chùa Phật.v.v.
Những vấn đề trên cũng được chép trong 天南餘暇集(Thiên Nam dư hạ tập)
[64], bản ký hiệu A.334/1 – 10 và 洪 德 善 政 (Hồng Đức thiện chính) bản ký hiệu
A. 330. Đặc biệt, Thiên Nam dư hạ tập là tư liệu chép thơ, văn, điển lệ, điều luật,
chinh chiến, quan chức, thiên văn, địa lí, lịch sử… của nhà Lê, từ Lê Thánh Tông
trở về trước. Do đó, luận án không chỉ khảo cứu được thông tin đến điều chỉnh của
nhà nước Lê sơ đối với Phật giáo trong mục Điều luật, mà còn khảo cứu được
những thông tin về niềm tin và thực hành Phật giáo của các cá nhân thời Lê sơ trong
các mục Bình thi văn (A.334/2), Liệt truyện, Tạp thức (A.334/3), Thi tập; Đối liên
(A.334/5).
Cả ba bộ này đều ra đời vào thời Lê sơ, vì thế thông tin tương đối gần với sự
kiện thời Lê sơ hơn những bộ luật sau này. Do đó, luận án ưu tiên khảo sát như một
nguồn thông tin chính thống.
1.1.2. Tư liệu bi ký thời Lê sơ
Nghiên cứu về Phật giáo thời Lê sơ qua tư liệu bi ký đã được nghiên cứu sinh
thực hiện đề tài cấp viện của cá nhân năm 2015 do Viện Nghiên cứu Tôn giáo chủ
trì. Ở đây xin sử dụng tại kết quả nghiên cứu đó. Văn bia chứa sử liệu Phật giáo thời
13
Lê sơ được sưu tầm ở đây chủ yếu từ “Tổng tập thác bản văn khắc Hán Nôm Việt
Nam” và một số văn bia mới sưu tầm được từ các địa phương. Những văn bia này
không chỉ là bia ở chùa, mà còn là bia ở lăng, bến đò và cầu. Mỗi văn bia cùng với
thời gian tạo dựng và nơi chúng thuộc về đã cung cấp cho nghiên cứu những thông
tin hữu ích về nhiều phương diện khác nhau của Phật giáo thời Lê sơ.
Về giới thiệu và dịch thuật, hiện nay đã có một số công trình giới thiệu, dịch
sang tiếng Việt và chú thích về bi ký có chứa sử liệu Phật giáo thời Lê sơ. Tiêu biểu
trong số đó là công trình Văn bia Lê sơ tuyển tập, Nxb.KHXH năm 2014, do
PGS.TS. Phạm Thị Thùy Vinh (chủ biên, cán bộ Viện Nghiên cứu Hán Nôm) dịch
và chú giải. Đây là công trình tập hợp đầu tiên về văn bia Lê Sơ của nước ta, từ Cao
Bằng, Lai Châu, Hòa Bình, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Hà Nội... kéo dài đến hết
Thanh Hóa. Trong đó, nhóm dịch giả giới thiệu khái quát về văn bia Lê Sơ, như một
số đặc điểm về địa điểm tạo dựng văn bản, hình thức cấu tạo văn bản và nội dung
văn bản, và một phần quan trọng hơn là phiên âm dịch nghĩa 67 bản văn bia Lê Sơ.
Trong số đó, có 19 văn bia có chứa sử liệu Phật giáo thời Lê sơ [Xem chi tiết ở
phần PHỤ LỤC 1]. Luận án một mặt tham cứu thác bản, một mặt tham khảo bản
dịch của công trình này, chi tiết từng trích dẫn Luận án có chú thích trong phần tài
liệu tham khảo.
Năm 2017, một công trình giới thiệu 46 văn bia chùa Phật thời Lê sơ, đó là
Văn bia chùa Phật thời Lê sơ, do Thích Đức Thiện và Đinh Khắc Thuân đồng chủ
biên. Tuy nhiên, chỉ có 34 văn bia có chứa sử liệu Phật giáo thời Lê sơ. Trong 34
văn bia này, có bản dịch 19 văn bia có tư liệu Phật giáo thời Lê sơ đã giới thiệu
trong Văn bia Lê sơ, tuyển tập của nhóm dịch giả Phạm Thị Thùy Vinh [Xem chi
tiết ở PHỤ LỤC 2]. Luận án trên cơ bản tham cứu thác bản và thực địa, đồng thời
tham khảo một số bản dịch của công trình này, chi tiết từng trích dẫn Luận án có
chú thích trong phần tài liệu tham khảo.
Ngoài ra, còn có thể tìm thấy bản dịch và giới thiệu một số bi ký có chứa sử
liệu Phật giáo thời Lê sơ trong công trình sưu tập, biên dịch văn bia địa phương như
Tuyển tập văn bia Thanh Hóa; tập Hai Văn bia thời Lê Sơ (Lê Văn Toan-Nguyễn
14
Văn Hải tổ chức bản thảo, Đinh Khắc Thuân- Phạm Thùy Vinh hiệu đính, Nxb
Thanh Hóa, 2013). Tập sách giới thiệu 48 văn bia Thanh hóa thời Lê Sơ, trong đó
có 6 văn bia liên quan đến Phật giáo. Cùng những bản lược thuật và trong công
trình biên dịch theo chiều dài lịch đại Văn khắc Hán Nôm Việt Nam: tuyển chọn –
lược thuật (Nguyễn Quang Hồng chủ biên, 1992) [22] hay trong nghiên cứu về bi
ký hiện hữu trên một địa bàn cụ thể như Nghiên cứu văn bia Phật giáo xứ Đoài
(Nguyễn Lê Sáu, 2015) [35] .v.v. Trong những nghiên cứu này, tuy rằng Phật giáo
thời Lê sơ không được diễn giải nhiều, nhưng đã có những phân tích có liên quan,
có thể giúp ích cho Luận án trong quá trình biện giải những vấn đề liên quan tới
Phật giáo thời Lê sơ.
Bi ký sớm nhất hiện còn là Bảo Lai tự phụng Phật bệ (Ký hiệu số 17733), tạo
năm Thiệu Bình 1 (1434) đời vua Lê Thái Tông, tại chùa Bảo Lai (thôn Đồng Duệ)
xã Quảng Nạp, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Văn bia muộn nhất trong đó là
Trùng tu Hưng Phúc tự bi (Ký hiệu số 11883), tạo năm Sùng Khang 5 (1572), đời
vua Mạc Mậu Hợp, tại chùa Hưng Phúc, xã Xuân Cầu, huyện Văn Giang, tỉnh Bắc
Ninh (nay thuộc tỉnh Hưng Yên).
Trong 33 văn bia thời Lê sơ lại có 1 văn bia đời Lê Thái Tông, 13 văn bia
thuộc đời vua Lê Thánh Tông, 6 văn bia đời vua Lê Hiến Tông, 2 văn bia đời Lê Uy
Mục, 6 văn bia đời vua Lê Tương Dực, 1 văn bia đời vua Lê Chiêu Tông và 2 văn
bia đời vua Lê Cung Hoàng. Số lượng văn bia được tập trung tạo dựng nhiều vào
nửa sau thời kỳ Lê sơ.
Về thể loại: vì Luận án cần thu thập những sử liệu có thông tin về “Phật giáo
thời Lê sơ”, cho nên Luận án không dừng lại ở các văn bia ở các chùa, mà khảo sát
cả những văn bia không phải ở chùa nhưng có thông tin liên quan tới Phật giáo như
bia ở đình, bến đò hoặc trong lăng thờ hoàng tộc nhà Lê sơ. Vậy cụ thể Luận án đã
„thu lượm‟ được thông tin Phật giáo thời Lê sơ từ những bia gì? Văn bia chùa Phật
được ưu tiên khảo cứu trước, chiếm số lượng nhiều nhất, có những thông tin về xây
dựng mới, trùng tu, xây dựng thêm chùa và am Phật, tôn tạo và tô lại tượng Phật,
những thông tin về người đóng góp/công đức và số tiền của họ, cùng những thông
tin về việc cúng ruộng vào chùa, giỗ Hậu ở chùa, .v.v.
15
Tuy nhiên, ở đây còn có thể thấy có nhiều văn bia có tính ngự đề hay ngự chế,
tức là hoàng đế nhà Lê sơ tới thăm chùa, động có chùa hoặc trên vách núi (ma nhai)
và đề thơ ở đó. Vua Lê Thánh Tông đã từng đề thơ ở chùa Long Đọi xã Đọi Sơn
huyện Duy Tiên tỉnh Hà Nam (Ký hiệu số 7968, năm 1467), ở núi Dục Thúy (Ninh
Bình), ở chùa Quang Khánh xã Dưỡng Mông huyện Kim Môn tỉnh Hải Dương (Ký
hiệu số 11765, năm 1486), ở chùa Dương Nham động Kính Chủ (Ký hiệu số 12007).
Vua Lê Hiến Tông đã từng „ngự chế‟ thơ ở ma nhai xã Nga Phú huyện Nga Sơn
tỉnh Thanh Hóa (Ký hiệu số 47304, năm 1501), trên vách đá núi Dục Thúy ở Ninh
Bình (Ký hiệu số 257; 11913; 2814, năm 1501). Vua Lê Tương Dực cũng từng để
lại thơ tại vách đá trên núi Dục Thúy ở Ninh Bình (năm 1511) và trong văn bia chùa
Quang Khánh ở Hải Dương (Ký hiệu số 11788, năm 1515), ngoài ra còn đề thơ ở
chùa Kim Âu thôn Kim Phát xã Hà Đông huyện Hà Trung tỉnh Thanh Hóa (Ký hiệu
số 47102, năm 1511). Đây là những tư liệu rất có giá trị để nghiên cứu về tâm tư,
quan điểm cũng như ứng xử của các hoàng đế với Phật giáo thời Lê sơ. Cùng với đó,
xuất hiện một số văn bia về tự điền – ruộng thờ cung cấp thông tin về ruộng được
cúng vào chùa làm ruộng Tam Bảo hoặc để giỗ Hậu.
Bên cạnh đó, luận án còn đặc biệt chú ý tới những văn bia ở lăng của hoàng
tộc. Kết quả cho thấy, đã có 3 văn bia lăng có chứa thông tin về Phật giáo thời Lê sơ.
Bia Khôi Nguyên chí đức chi bi (Ký hiệu số 1919) ở lăng Quang Thục Hoàng thái
hậu, trong đó đã cung cấp thông tin về đạo đức Phật giáo của bà. Bia Đại Việt Lam
Sơn Chiêu Lăng bi (Ký hiệu số 1373) ở Chiêu Lăng (thờ Lê Thánh Tông) ở xã Lam
Sơn, huyện Thọ Xuân tỉnh Thanh Hóa. Trong đó nhắc tới mẹ Lê Thánh Tông là
Quang Thục Hoàng thái hậu có những điềm mộng liên quan tới Phật giáo. Bia Đại
Việt Lam Sơn Dụ lăng bi (Ký hiệu số 10556) trong lăng thờ vua Lê Hiến Tông ở
Lam Sơn tỉnh Thanh Hóa cung cấp thông tin liên quan tới niềm tin Phật giáo của
Quang Thụ Hoàng thái hậu. Đây là những văn bia có thể giúp ích cho việc nghiên
cứu về niềm tin và thực hành Phật giáo của một số bà hậu, bà phi triều Lê sơ.
Ngoài ra, luận án còn chú ý tới một số văn bia không thuộc bia chùa hay bia
lăng nhưng lại có thể cung cấp những thông tin hữu ích về hoạt động hướng đích xã
16
hội của người có niềm tin Phật giáo thời Lê sơ. Đó là những bia bến đò và cầu. Văn
bia Vạn Thọ (Ký hiệu số 2557, năm 1522) ở thôn Thuần Thọ, tổng Ngọc Xuyến,
huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa là bia đề cập tới vấn đề người sở hữu niềm tin
Phật giáo thời Lê sơ với vấn đề xây dựng cầu. Hoặc là văn bia Cù Sơn độ ký (Ký
hiệu số 1737, năm 1525) ở đình xã Phượng Cách, tổng Hoàng Xá, phủ Quốc Oai,
tỉnh Sơn Tây, nay là thị trấn Hoàng Xá, huyện Quốc Oai, Hà Nội là văn bia đề cập
tới hoạt động bố thí của người theo Phật giáo.
Nhìn chung, 40 văn bia này tuy có nhiều chữ bị mờ, khó đọc nhưng về cơ bản
đều có thể đọc dịch nội dung tương đối đầy đủ. Sử liệu trong văn bia cung cấp
thông tin về các hoạt động xây dựng, trùng tu chùa, am thờ Phật; tôn tạo tượng Phật,
bệ thờ; cúng ruộng vào chùa; vua đề thơ; dân xây dựng cơ sở thờ tự .v.v. Tuy nhiên,
nghiên cứu này ưu tiên tìm hiểu Phật giáo thời Lê sơ từ chiều kích người sở hữu
niềm tin Phật giáo.
1.1.3. Tư liệu văn chương thời Lê sơ
Về tư liệu văn chương, luận án đã thực hiện khảo cứu trong đề tài cấp viện
năm 2017 do Viện Nghiên cứu Tôn giáo chủ trì. Ở đây chúng tôi sử dụng kết quả
nghiên cứu đó. Chúng tôi căn cứ vào tình hình thực tế của tư liệu văn chương bằng
chữ Hán Nôm hiện còn, khảo cứu thấy sử liệu Phật giáo trong những nhóm tư liệu
sau:
Về tổng tập thơ văn thời Lê sơ, tuyển tập thơ phú nhiều tác giả thời Lê sơ, thứ
nhất chúng ta có thể khảo trong Việt âm thi tập [越 音 詩 集] Phan Phu Tiên 潘孚
先 biên tập; Nguyễn Tử Tấn (阮子晉) phê điểm. Bài tựa của Phan Phu Tiên viết
năm Thuận Thiên Quý Sửu (1433). Bài tựa của Nguyễn Tử Tấn viết năm Diên Ninh
6 (1459). Tư liệu gồm 1 bản in, 1 bản viết (6 Q). Bản A.1925 in lại vào năm Bảo
Thái Kỉ Dậu (1729), 136 tr., 24 x 16 (Q 1, Q 2, Q 3; Bổ di Q 3). Bản A.3038: chép
lại năm Tự Đức 34 (1881), 148 tr., 26 x 15 (phiếu Q 0, Q 5, Q 6). Toàn bộ tư liệu
này gồm hơn 500 bài thơ của tác giả đời Trần, đời Hồ và đời Lê: Trần Nhân Tông,
Hồ Quý Ly. Trong đó có thơ của Lê Thái Tổ, Phan Phu Tiên…
17
Thứ hai là Thiên Nam dư hạ tập [天南餘暇集] do Lê Thánh Tông 黎 聖 宗
chủ biên. Đỗ Nhuận 杜 潤, Nguyễn Trực 阮 直 biên soạn. Tư liệu gồm 2 bản viết,
có mục lục, có chữ Nôm, ký hiệu A.334/1 – 10: 10 T, 1676 tr., 31 x 22 (tập 9 khổ
27 * 16); VHv.1313/a – b: 2 T, 392 tr., 27 * 15; MF. 1 (A. 334/1 – 10); Paris. EFEO.
MF. II/6/985 (A.334/1 – 10). Tư liệu này bao gồm thơ, văn, điển lệ, điều luật, chinh
chiến, quan chức, thiên văn, địa lí, lịch sử… của nhà Lê, từ Lê Thánh Tông trở về
trước, chia thành 10 quyển. Trong đó tư liệu văn chương có trong Quyển 2 (Bình thi
văn, ký hiệu A.334/2), Quyển 5 (Thi tập; Đối liên, ký hiệu A.334/5), Quyển 6 (Phú
tập, ký hiệu A.334/6), Quyển 7 (Thi tiền tập; Chinh tây kỉ hành; Minh lương cẩm tú
và Quỳnh uyển cửu ca, ký hiệu A.334/7 và VHv.1313/a), và một phần Quyển 9
(Điển lệ; Phú tập ký hiệu A.334/9).
Hồng Đức quốc âm thi tập [洪 德國音詩集] có 1 bản viết, 152 tr. 30 x 21, ký
hiệu AB. 292 và MF. 1877. Đây là tập thơ Quốc âm (thơ viết bằng chữ Nôm) được
sáng tác vào thời Hồng Đức (1470-1497) thuộc thời kỳ Lê Thánh Tông trị vì. Trong
đó, chúng ta có thể tìm thấy sử liệu Phật giáo thời Lê sơ trong phần Phong cảnh
môn, mục Vịnh cảnh đền chùa.
Chúng ta cũng có thể tìm thấy thơ phú của tác giả thời Lê trong tuyển tập do
Lê Quý Đôn (黎貴惇), tước Dĩnh Thành Bá (穎成伯), sinh năm 1726, mất năm
1784) biên dịch sau này. Đó là Toàn Việt thi lục [全越詩錄] gồm 11 bản viết, 1 lệ
ngôn, 1 mục lục, ký hiệu A.3200/1-4: 815 tr., 29.5 x 21 (16Q). Nội dung tổng tập
thơ Việt Nam gồm 2303 bài, của 173 tác giả (theo A.3200/1-4), thuộc các triều Lí,
Trần, Hồ, Lê: đề vịnh phong cảnh, tiễn tặng, mừng viếng, họa đáp lẫn nhau…
Nhiều bài có kèm theo tiểu dẫn.
Về Tuyển tập thơ phú của cá nhân chúng ta có thể khảo trong Ức trai di tập
[抑齋遺集, ỨC TRAI THI TẬP 抑齋詩集] được đặc biệt chú ý, bao gồm 3 bản in,
9 bản viết (bộ : 7Q). Trong đó có A.131: Ức trai thi tập, 153 tr., 26 x 16 (Q1, Q2,
Q3, Q4, Q5), bản viết tay và A.2232 Ức Trai Tiên Sinh thi tập, 27 tr., 23 x 14 (Q1,
Q2). Toàn bộ tư liệu này là tác phẩm của Nguyễn Trãi (có một phần của Nguyễn
18
Phi Khanh và một số người khác), gồm 7 quyển. Đặc biệt, sử liệu Phật giáo được
tìm thấy trong quyển 1 (Thi loại: 110 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi, phần lớn
trích từ Tinh tuyển, Việt âm thi tập, Toàn Việt thi lục. Có phụ lục 1 bài ca, 1 bài hát)
và Quyển 7 (Quốc âm thi tập: trên 250 bài thơ Nôm của Nguyễn Trãi). Niềm tin với
Bụt của Nguyễn Trãi chủ yếu thể hiện ở trong những tác phẩm này. Hiện nay, tác
phẩm này đã có nhiều bản dịch Việt, tuy nhiên Luận án sử dụng bản dịch của Trần
Trọng Dương [13] vì tác giả bản dịch đã có sự giải thích xác thực từng chữ Nôm
trong tác phẩm này.
Nếu trong tài liệu sử, bi ký, luật cho chúng ta thấy sử liệu về tình hình Phật
giáo ở cấp độ gia đình, cộng đồng và quốc gia, thì trong tài liệu văn chương cho
chúng ta thấy sử liệu về niềm tin và thực hành Phật giáo ở cấp độ cá nhân một cách
chi tiết và sống động. Trong khi đó, niềm tin và thực hành Phật giáo của cá nhân rất
khó có thể bộc lộ ở những tài liệu mang tính quan phương như sử, luật và những tài
liệu mang tính cộng đồng như bi ký.
Trên đây là những nguồn tài liệu chính yếu mà Luận án căn cứ để khảo cứu sử
liệu Phật giáo thời Lê sơ. Ngoài ra, có thể đâu đó còn tư liệu Hán Nôm liên quan
đang tồn tại ở các địa phương, nhưng trong điều kiện thời gian, chúng tôi không thể
quét một cách triệt để được. Sau này, nếu phát hiện thêm những tư liệu liên quan,
chúng tôi sẽ có sự bổ sung chi tiết.
Như vậy, tư liệu Hán Nôm về Phật giáo thời Lê sơ được Luận án chú trọng
khai thác chủ yếu là tư liệu sử, luật, bi ký, văn chương. Rất nhiều tài liệu đã được
dịch Việt. Mỗi nguồn tư liệu cung cấp một dạng thông tin cần thiết cho từng khía
cạnh của Phật giáo thời Lê sơ. Sử và luật chủ yếu cho thông tin liên quan tới nhà
nước, quản trị quốc gia. Bi ký chủ yếu cho thông tin về thực hành Phật giáo của
cộng đồng từ hoàng tộc tới bình dân. Văn chương chủ yếu cho thông tin về những
cá nhân có cảm tình với Phật giáo. Khi khai thác những nguồn tư liệu này, luận án
đều gặp những khó khăn nhất định, cụ thể sẽ trình bày ở phần 1.4.
19
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu những vấn đề liên quan tới Phật giáo
thời Lê sơ
“Phật giáo thời Lê sơ qua tư liệu Hán Nôm” là đề tài nghiên cứu thuộc lĩnh
vực tôn giáo học, chuyên ngành lịch sử Phật giáo. Do vậy, nguồn tư liệu Luận án
dùng để thực hiện đề tài này có hai cấp độ: tài liệu cấp 1 là tài liệu Hán Nôm và tài
liệu nghiên cứu có liên quan. Trong phần này, luận án trình bày về những vấn đề
liên quan tới Phật giáo thời Lê sơ đã được đề cập trong các công trình nghiên cứu
đã được xã hội hóa. Tài liệu Hán Nôm được trình bày trong phần đầu của chương 3
trong Luận án.
Ở cấp độ thứ hai - cấp độ tài liệu tham khảo phục vụ cho Luận án gồm các
công trình nghiên cứu như: sách chuyên khảo, bài tạp chí, luận văn, Luận án, đề tài
cấp viện. Chúng tôi sẽ nêu chi tiết trong tình hình nghiên cứu.
1.2.1. Các công trình liên quan tới bối cảnh Phật giáo hiện diện ở Đại Việt thời
Lê sơ
a) Bối cảnh xã hội Đại Việt thời Lê sơ
Về kinh tế, Đại Việt cuối Trần và sang thời Lê được Phan Đại Doãn [14] nhận
xét rằng, hình thái kinh tế thái ấp, điền trang và kinh doanh của quý tộc Trần làm
cho kinh tế tiểu nông bị suy yếu, kinh tế hàng hóa bị kìm hãm, ruộng đất công ở các
làng xã bị lấn chiếm nghiêm trọng. Sang thời Lê, đặc biệt là dưới thời Lê Thánh
Tông, nhà nước hoàn thiện chế độ lộc điền và quân điền. Nông dân làng xã cày
ruộng quân điền phải nộp đủ tô thế cho nhà nước. Từ đó làng xã trở thành cơ sở
kinh tế - xã hội của chế độ quân chủ chuyên chế. Chế độ quân điền cũng phải theo
một nguyên tắc “ruộng công của làng nào thì làng đó sử dụng”. Từ đó, tồn tại sự tự
trị làng xã, mà triều đình Lê sơ không thể chi phối. Nền văn hóa dân gian với phong
tục, tín ngưỡng ... được duy trì và phát triển trên mức độ sự tự trị tương đối này.
Cũng trong tác phẩm này, Phan Huy Lê [29, tr.16-17] cho rằng, từ cuối Trần sang
Lê, kinh tế điền trang bị phá vỡ, nhưng kinh tế hàng hóa vẫn chưa phát triển đến
mức độ tạo lập ra một cơ sở kinh tế xã hội mới cho sự thống nhất quốc gia và thống
nhất dân tộc. Trong điều kiện kinh tế xã hội như vậy thì chế độ chính trị chuyển
20
sang chế độ quân chủ theo mô hình Nho giáo là điều tất nhiên và cần được đánh giá
là một bước phát triển. Và từ đó, Nho giáo phục vụ đắc lực cho thể chế chính trị này
được nêu cao và tôn sùng là điều tất nhiên, khi mà nước ta gần Trung Quốc và nằm
trong khu vực ảnh hưởng của Trung Quốc. Như vậy, việc chuyển đổi kinh tế cơ bản
ít nhiều ảnh hưởng tới Phật giáo trong thế đối sánh với Nho giáo và trong môi
trường làng xã được gia cố thêm tính tự trị cao. Thời Lê sơ sẽ khó có thể tìm thấy
hiện tượng một người hay tư nhân cúng vài mẫu ruộng cho chùa như như thời Trần.
Phương diện vật chất và những hoạt động tạo dựng cơ sở thờ tự cho chùa Phật thời
Lê sơ cũng vì thế mà có biến đổi và khác biệt nhất định so với thời Trần, ít nhất là ở
số lượng vật chất (ruộng, tiền, gạo .v.v.), số lượng chùa được tạo dựng, tu sửa, chi
phí cho sinh hoạt Phật giáo.
Về xã hội, Viện Triết học [50, tr.243] đưa ra luận điểm rằng, chế độ tuyển lựa
quan lại bằng quân công và khoa cử tạo ra một bộ máy quan liêu hành chính. Thời
đầu Lê sơ, võ tướng khá đông, từ Lê Thánh Tông về sau thì văn thần khoa cử chiếm
vị trí quan trọng. Cách tuyển lựa bằng khoa cử tạo nên một tầng lớp sĩ phu – thường
gọi là „kẻ sĩ‟. Kẻ sĩ có khi là những người bình thường, thậm chí nghèo khổ, bằng
nỗ lực cá nhân có thể tham gia vào bộ máy chính quyền, có địa vị xã hội và hưởng
quyền lợi kinh tế tương ứng. Cho nên tạo ra sự sùng bài chức vụ, sùng bái khoa cử
và tạo ra tâm lý say sưa học hành khoa cử để tìm danh, tìm vị, tìm lợi. Năm 1998,
Phan Đại Doãn [14, tr.85] nhận định “cơ cấu chung của xã hội Việt Nam từ thế kỷ
XV về sau là nhà - làng - nước. Thể hiện mô hình vận hành tổng thể là Gia đình -
Làng xã - Đất nước. ..”. Nguyễn Hùng Hậu [19, tr.233] nhận xét, “Lê Lợi lên ngôi,
một tầng lớp địa chủ quan liêu mới ra đời, chế độ quân điền ức thương được thi
hành. Kinh tế xã hội chủ yếu vẫn là nông nghiệp – nông thôn – làng xã. Khác với
thời Trần, các công thần thời Lê sơ được trao chức, chứ không phong tước, chia đất;
nho sĩ chiếm số lượng lớn trong hàng ngũ quan lại, từ đó tạo ra bộ máy quan liêu
hành chính”. Số người theo Nho học ngày một tăng, và đại bộ phận là nam giới.
Thời gian đầu tư cho Nho học không kể tháng ngày mà tính vài năm cho tới hàng
chục năm. Gánh nặng kinh tế gia đình đặt gần như trọn vẹn lên vai người phụ nữ có
21
con, có chồng theo Nho học. Tình hình này không những đưa tới sự biến đổi về
niềm tin Phật giáo, cũng đưa tới sự biến đổi về thực hành và cộng đồng thực hành
Phật giáo thời Lê sơ. Đôi khi, trước áp lực của kinh tế gia đình, người ta thường
hướng tới Tam bảo để cầu nguyện cho được vật chất, cho được bình an hơn là để
học theo Phật thực tập buông bỏ tham, sân, si.
Liên quan tới văn hóa thời Lê sơ, trong bài viết về Nguyễn Trãi, Nhóm nghiên
cứu do Trần Quốc Vượng đứng đầu có luận điểm rằng “Nguyễn Trãi sống trong
một thời kỳ quá độ, thời kỳ bản lề của hai chặng đường lịch sử văn hóa Việt Nam.
Trước Nguyễn Trãi là một văn hóa Đại Việt được cấu trúc theo mô hình Phật giáo;
sau Nguyễn Trãi là một văn hóa Đại Việt được cấu trúc theo mô hình Nho giáo
(Tống Nho, hay Tân Nho giáo theo quan niệm của các học giả phương Tây. Mô
hình, thì chẳng bao giờ đóng khuôn được hết những tràn bờ của tư tưởng, văn hóa
Việt Nam. Nguyễn Trãi tắm mình trong một bầu không khí văn hóa, ở đó đang diễn
tiến cuộc đấu tranh gay gắt giữa truyền thống và đổi mới, cuộc đấu tranh gay gắt
giữa Trung Quốc hóa với xu hướng giải Trung Quốc hóa trong nội bộ thế lực cầm
quyền và giới trí thức, văn hóa Đại Việt” [52, tr.1057-1058]. Tâm thức trong nếp
sống chi phối bởi hệ tư tưởng Nho giáo khiến con người luôn đặt mình vào trách
nhiệm tề gia, trị quốc, bình thiên hạ theo những mô thức tiêu chuẩn có phần cố định
theo gương mẫu từ thời cổ. Tâm thức này có sự tương đồng nhưng cũng có sự dị
biệt với tâm thức từ bi, trí tuệ của tâm thức trong nếp sống chi phối bởi tư tưởng
Phật giáo. Người có thể nhận thức chân thực về sự đồng nguyên của Nho và Phật,
cũng như lựa chọn ứng xử hài hòa giữa Nho và Phật thực sự phải có sự am hiểu và
thực hành cả hai tôn giáo này. Tình hình này đưa tới sự biến đổi về niềm tin đa tôn
giáo có Phật giáo ở một con người, về cộng đồng thực hành Phật giáo và về thực
hành Phật giáo thời Lê sơ
b) Điều kiện chính trị
Sang thời Lê sơ, đi đôi với số lượng ngày càng đông đảo kẻ sĩ trong lực lượng
chính trị, tư tưởng chính trị đã có sự thay đổi rõ rệt. Một trong những nhận định
sớm nhất về vấn đề này, Nhà nghiên cứu Phan Huy Lê và Trần Quốc Vượng [29,
22
tr.173-174] có quan điểm cho rằng: “Nhà Lê cũng hạn chế Phật và Đạo, vì hai tôn
giáo này làm người ta thoát ly trần tục tức là thoát ly sự kiềm chế của chế độ quân
chủ độc đoán”. Phan Đại Doãn [14, tr.103] đã tổng kết về tư tưởng chính trị của
thời Trần và thời Lê sơ rằng “Ở thời Trần, tầng lớp cầm quyền là quý tộc học trần,
quý tộc + võ sĩ + Nho sĩ, có chính quyền cơ sở là cấp hương với xã quan (ngũ, lục
phẩm), hệ tư tưởng là Phật - Nho - Đạo. Lê sơ có tầng lớp cầm quyền là Địa chủ
bình dân, có chính quyền cơ sở là cấp xã với xã trưởng, có hệ tư tưởng là Nho -
Phật - Đạo.” Nhận định như vậy rõ ràng cho thấy sự hoán đổi vị trí ưu tiên trên địa
hạt chính trị giữa Nho và Phật đã xảy ra. Sự hoán đổi này có thể tạo ra điểm mờ dần
trong bức tranh Phật giáo thời Lê sơ, mà không làm mờ tất cả bức tranh đó. Nói như
Hà Văn Tấn [37, tr.186]: "Nhà Lê lấy Nho giáo làm nền tảng tư tưởng của xã hội,
song Phật giáo không mất đi vị trí của nó". Trần Bá Trí [43, tr.151] nói rõ hơn nữa
về luận điểm này: “Nhìn chung, nhà nước thời Lê sơ có hạn chế sự phát triển của
Phật giáo, Đạo giáo nhưng vẫn công nhận sự tồn tại của nó là một tín ngưỡng rất
quan trọng của dân chúng”. Luận điểm này cũng được Doãn Chính [4, tr.494] kế
thừa. Tuy nhiên, Đào Duy Anh [1, tr.224 - 225] đã nâng tầm quan trọng của Nho
giáo thời Lê sơ lên mà nhận định rằng: “Ở thời Lê sơ, Nho giáo là độc tôn, nên Đạo
giáo và Phật giáo đều bị hạn chế và bị xem là tà giáo”. Chữ “tà giáo” ở đây có thể
hiểu là „không phải là tôn giáo chính thống mà Nhà nước trọng dụng‟. Tính chất
“độc tôn” này được thể hiện trên bình diện toàn đời sống xã hội hay chỉ trên một
bình diện đời sống tôn giáo, tác giả không chỉ rõ điều đó? Trước đó khá xa, năm
1998, Phan Huy Lê [27, tr.16] đã chỉ rõ sự „độc tôn‟ đó là trên bình diện chính trị:
“Triều Lê thành lập sau thắng lợi vẻ vang của sự nghiệp Bình Ngô, mở ra một thời
kỳ phát triển mới của đất nước và của chế độ quân chủ tập quyền. Thể chế chính trị
chuyển sang chế độ quân chủ quan liêu theo mô hình Nho giáo, lấy Nho giáo làm hệ
tư tưởng chính thống và độc tôn.” Cũng từ quan điểm độc tôn này, Nguyễn Hùng
Hậu đưa ra luận điểm “Do yêu cầu muốn độc tôn Nho giáo nên Phật giáo ngày càng
đi xuống, phân tán về những vùng nông thôn làng xã….” [19, tr.233-234]. Có thể
trong lực lượng Nho sĩ, nhiều người có tư tưởng “độc tôn Nho giáo” nhưng trên
23
bình diện xã hội chung, Nho giáo ở thời kỳ đầu của thời Lê sơ chưa có có sức chi
phối mạnh, mà phải tới thời Lê Thánh Tông mới có vị thế cao chi phối chủ yếu về
mặt chính trị và giáo dục. Như vậy, quan điểm cho rằng thời Lê sơ, Nho giáo độc
tôn, Phật giáo là tà giáo và bị triều đình hạn chế là chưa phù hợp, bởi vì Phật giáo
vẫn có vị trícủa nó trong xã hội, nơi mà Nho giáo hoặc tư tưởng chủ đạo của triều
đình khó chi phối được.
Liên quan tới các biện pháp quản lý tôn giáo của Nhà nước Lê sơ, Mật Thể
[40, tr.172] từ năm 1942 (Nxb. Đuốc Tuệ, in lần đầu) đã nhắc tới việc khảo hạch
tăng sĩ đầu thời Lê sơ (năm 1429) như sau: “Việc ấy càng tỏ ra một số Tăng đồ đầu
đời Hậu Lê phần nhiều là hạng ít học, tu hành chỉ là theo hình thức chớ không hiểu
đạo gốc nữa. Vả có kinh điển đâu mà nghiên cứu. Triều đình dẫu có hòa với nhà
Minh nhưng cũng không có ý ủng hộ Phật giáo, thì ai nghĩ đến sự cầu kinh”. Phan
Đại Doãn [14, tr.93] sau đó cho rằng, đó là sự đả kích Phật giáo đầu tiên là từ phía
chính quyền Lê sơ. Việc này là việc làm tổn hại cho Phật giáo. Viện Triết học [50,
tr.246] đã kế thừa quan điểm của Phan Đại Doãn, và cho rằng đó là do nhu cầu độc
tôn Nho giáo. Viện Triết học có thêm luận điểm “Chính quyền phê phán Phật giáo
không phải về nhận thức luận, về vũ trụ quan mà chủ yếu trên quan điểm đạo đức
nhân luân, trên góc độ cai trị.” Lê Văn Quán [32, tr.239] cho rằng, đến thế kỷ XV,
sau khi triều Lê thành lập, phương châm, chính sách đều chống lại tam giáo đồng
hành của mấy triều đại trước, Nho giáo độc tôn, đề xướng tôn Khổng, đọc kinh sách,
đẩy mạnh Lý học Trình Chu, tiến hành bài xích Phật giáo hoặc quản lý Phật giáo
nghiêm ngặt hơn. Những luận điểm trên đây về cơ bản được đưa ra từ quan điểm
cho rằng “nhà nước Lê sơ có nhu cầu độc tôn Nho giáo”. Tuy nhiên, Nguyễn Thanh
Tuấn [46, tr.15] lại cho rằng “Từ thế kỷ XV, Phật giáo suy yếu dần, tuy các thế lực
cầm quyền vẫn luôn dùng Phật giáo để làm dịu sự phẫn nộ của nhân dân. Từng lúc
một, đạo Phật cũng được triều đình chăm sóc, đền chùa thỉnh thoảng được tu bổ, lễ
bái được khuyến khích.”
Trên thực tế, vẫn diễn ra một số thực hành Phật giáo do Nhà nước Lê sơ thực
hiện. Mật Thể [40, tr.173] nhận xét về sự kiện triều đình cho rước tượng Phật ở
24
chùa Pháp Vân về Kinh làm lễ cầu mưa năm 1434 thời vua Lê Thái Tông là việc
làm chứng tỏ “từ vua đến dân đã yên trí Phật là phép thần thông như một vị thần
của Lạc-Ma-giáo hay Phù-chú-giáo”, về sự kiện mời sư Huệ Hồng điểm nhãn cho
tượng bà Hoàng Thái Hậu năm 1435 là “Thiền sư đã nghiễm nhiên là một thầy phù
thủy ở chùa, đọc kinh Phật làm sư”. Những thực hành Phật giáo từ phía Nhà nước
chưa được nhiều nghiên cứu phân tích từ khía cạnh tư tưởng hoặc quản lý đất nước.
c) Tâm thức truyền thống
Đời sống Phật giáo thời Lê sơ tồn tại một phần vì nhu cầu tâm linh của người
Đại Việt đương thời. Liên quan tới vấn đề này hiện nay có một số ít tác giả nghiên
cứu. Hà Văn Tấn [37, tr.218] với những minh chứng về việc xây dựng và tu bổ cơ
sở thờ tự Phật giáo của thời Lê sơ đã đưa ra nhận định chắc chắn: "Các ông vua
triều Lê đã đưa Khổng giáo lên làm quốc giáo, lấy Tống Nho làm cơ sở cho hệ ý
thức và phương pháp cai trị đất nước. Song không phải vì thế mà Phật giáo bị loại
bỏ. Nền tảng tư tưởng Phật giáo đã cắm rễ hàng nghìn năm không dễ gì có thể gạt
bỏ khỏi đời sống tâm linh của người Việt.” Lê Văn Quán [32, tr.239] bổ sung rõ
hơn với luận điểm: (ở thời Lê sơ) “Phật giáo và Đạo giáo tuy mất quyền lực chính
trị về mặt pháp lý, nhưng lại nắm được đời sống tâm linh huyền bí của con người
trong xã hội phong kiến còn nặng về thần học”. Như vậy, yếu tố Phật giáo trong tâm
thức người Đại Việt đã có từ nhiều năm trước đó. Tới Lê sơ, cho dù Nho giáo có
sức phát triển tới đâu thì những khoảng trống mà Nho giáo không với tới được vẫn
là nơi Phật giáo và các tôn giáo khác tiếp tục tồn tại và diễn tiến. Khoảng trống đó
là nhu cầu tâm linh của người Đại Việt.
1.2.2. Các công trình nghiên cứu liên quan tới sinh hoạt của Phật giáo thời Lê sơ
a) Liên quan tới cộng đồng Phật giáo thời Lê sơ
Về hoàng tộc thời Lê sơ với Phật giáo, có một số nhà nghiên cứu như Nguyễn
Tài Thư, Doãn Chính, Vũ Ngọc Khánh, Nguyễn Hùng Hậu đã nghiên cứu. Các nhà
nghiên cứu này dựa vào tác phẩm Thập giới cô hồn quốc ngữ văn tương truyền do
Lê Thánh Tông sáng tác để nói về quan điểm của ông về Phật giáo. Nguyễn Tài
Thư [41tr.279] cho rằng đây là một kết quả của yếu tố chủ quan là lòng nhân từ của
25
Lê Thánh Tông và tinh thần từ bi của đạo Phật, yếu tố khách quan là sự tồn tại của
“Khoa mông sơn thí thực khoa nghi” và yếu tố chính trị là những khó khăn của Phật
giáo lúc bấy giờ. Nguyễn Hùng Hậu [19, tr.245] lại có quan điểm khác, ông cho
rằng Lê Thánh Tông hoài nghi vấn đề tâm truyền và đốn ngộ của Thiền tông, và vì
thế ông vua này chủ trương độc tôn Nho giáo. Doãn Chính [4, tr.494] trong nghiên
cứu của mình chỉ ra rằng việc Lê Thánh Tông đau xót trước nỗi khổ của dân chúng
là do ảnh hưởng của triết lý Phật giáo, tuy nhiên ông vua này lại phê phán Phật giáo
và Đạo giáo trong việc cứu độ con người, về thiên đường và địa ngục. Như vậy,
trong các nghiên cứu trên chưa thấy có luận điểm nào nói về việc Lê Thánh Tông có
sở hữu niềm tin Phật giáo. Ngoài Lê Thánh Tông, hiện nay chưa thấy những nghiên
cứu đề cập tới những vị vua hay người trong hoàng tộc nhà Lê sơ sở hữu niềm tin
Phật giáo.
Trong tầng lớp quan lại (bao gồm cả Nho sĩ tiêu biểu) có sở hữu niềm tin Phật
giáo hay không? Đã có một số công trình đã đề cập tới. Viện Triết học [50, tr.246-
247] cho biết rằng, Lương Thế Vinh là một hiện tượng đặc biệt về một Nho sĩ tiêu
biểu biên soạn những sách chuyên về Phật giáo, thậm chí là những sách có tính phổ
biến và truyền bá Phật giáo như Thiền môn khoa giáo, Nam Tông tự pháp đồ.
Ngược lại, Trần Mạnh Quang [33] với bằng chứng được trích dẫn trong bài văn
sách đình đối của Lương Thế Vinh cho rằng, Lương Thế Vinh phê phán tệ lậu của
Phật giáo, làm mờ tối “thiên lý”.
Khác với Lương Thế Vinh, vấn đề Nguyễn Trãi với Phật giáo cũng đã có một
số nhà nghiên cứu, nhưng không có những nhận xét trái chiều nhau. Nguyễn Tài
Thư [41, tr.276] cũng với những quan sát trong Quốc âm thi tập cho rằng Nguyễn
Trãi viết về giáo lý Phật giáo hết sức căn bản và sâu sắc, tiếp thu lý bất nhị của
Thiền Đại Thừa, và chính cái ảnh hưởng Phật học đã làm cho tâm hồn thơ Nguyễn
Trãi phong phú hơn, đồng thời tâm từ bi đã hun đúc trong Nguyễn Trãi lòng yêu
nước thương dân. Đàm Văn Chí [3, tr.377] trên cơ sở tư liệu văn chương cho rằng
trong triết lý của Nguyễn Trãi có „ngẫu nhiên‟, vấn đề mệnh của Nguyễn Trãi còn
gần với Phật giáo trong một số phạm trù, ví dụ như „nghiệp‟. Nguyễn Hùng Hậu [19,
26
tr.240-244] cũng dựa vào một số tác phẩm thơ của Nguyễn Trãi như Thuật Hứng,
Hạ Nhật Mạn Thành, Lâm Cảng Dạ Bạc … mà có luận điểm rằng: “yếu tố Phật giáo
trong tư tưởng Nguyễn Trãi còn thể hiện ở tư tưởng xem cuộc đời như ảo hóa”.
Doãn Chính [86, tr.472] cũng trên cơ sở khảo cứu Quốc âm thi tập đã đưa ra nhận
xét “Nguyễn Trãi còn thấm nhuần triết lý Phật giáo với đức hiếu sinh, khoan dung,
bác ái và từ bi”. Các tác giả này khai thác sử liệu về Nguyễn Trãi với Phật giáo chủ
yếu trên nguồn sử liệu trong tư liệu văn chương, không đề cập tới những nguồn sử
liệu khác.
Đánh giá chung về Nhà nho tiêu biểu thời Lê sơ với Phật giáo, Nguyễn Tài
Thư [41, tr.276] chỉ rõ: “Có những nhà Nho trong khi hăm hở tạo sự nghiệp thì bài
bác Phật giáo, nhưng đáo đầu lại trở về quy y cửa Phật như Trương Hán Siêu là một
trường hợp. Chính vì thế, mà các tác phẩm của giới bác học thời Lê sơ, ảnh hưởng
của Phật giáo trong sáng tác hết sức hạn chế. Tiêu biểu có thể kể trường hợp
Nguyễn Trãi, Lương Thế Vinh và Lê Thánh Tôn.” Sau này, Nguyễn Thừa Hỷ [24,
tr.301] đã có thêm một minh chứng về điều này, đó là “Một số cá nhân quan liêu
nho sĩ cũng vẫn xây dựng, trùng tu chùa chiền như các chùa Báo Thiên, Thanh Đàm,
Chiêu Độ. Bản thân trạng nguyên Lương Thế Vinh đã viết văn bia cho chùa, soạn
sách giáo khoa Phật giáo.” Đây là những luận điểm có bằng chứng rất thuyết phục,
tuy nhiên còn có thể tìm căn cứ trong những nguồn sử liệu khác về vấn đề này.
b) Liên quan tới tư tưởng Phật giáo thời Lê sơ
Về sự đa dạng trong niềm tin Phật giáo của con người thời quân chủ chuyên
chế ở Việt Nam, từ năm 1984, nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu [23, tr.110] đã có
nhận định: “trong một số người – kể cả Nho sĩ và người dân, họ chịu chi phối của tư
tưởng Nho giáo, nhưng về mặt con người, về đạo đức, tính người, cách sống nhiều
khi họ chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Đạo giáo còn nhiều hơn.” G.Condominas
[114] phân tích cụ thể hơn nữa: “Một công dân hay một cá nhân, anh ta theo lời dạy
của Khổng Tử, nhưng khi đối diện với số phận, anh ta quay sang khái niệm của Đạo
giáo. Thậm chí nếu Phật giáo Đại Thừa đã có ảnh hưởng đến các mối quan hệ của
anh ta với thế giới khác, cách ứng xử cá nhân của anh ta sẽ còn thấm đậm chất Đạo
27
giáo. Thực tế này là chứng cứ cẩn trọng của anh ta nhằm tuân theo sự hài hòa của
vũ trụ để quan tâm đầy đủ đến nguồn gốc và dòng chảy năng lượng khắp trong vũ
trụ. Những mối quan tâm ở đây được khuyếch đại trong sự mong muốn của anh ta
lui về sống với thiên nhiên cũng như sự trông cậy của anh ta vào phép địa bốc và
các thủ tục bói toán đa dạng khác, thậm chí là phép thuật. Tuy nhiên, chủ yếu là
Khổng giáo và Phật giáo ảnh hưởng đến ứng xử luân lí của anh ta.” Trong trường
hợp Việt Nam thời Lê sơ, niềm tin Phật giáo hỗn dung với các niềm tin khác được
nghiên cứu với trường hợp Lê Thánh Tông. Mai Xuân Hải [16] khi nghiên cứu về
thơ chữ Hán của Lê Thánh Tông đã có nhận định: “Lê Thánh Tông cũng tin vào
quỷ thần, cho rằng con người có thể "xin" quỷ thần tạo ra mây mưa giúp cuộc sống
con người. Trong tư tưởng triết học của mình, Lê Thánh Tông cũng ảnh hưởng quan
điểm của Lão giáo và Phật giáo. Ông cho rằng núi sông, thành quách là do quỷ thần
tạo ra. Trong quá trình trị vì, Lê Thánh Tông nhiều lần thực hiện cũng như sai các
quan cầu đảo, tế âm hồn.” Quan điểm này được Doãn Chính [4, tr.494] kế thừa trọn
vẹn. Doãn Chính nhấn mạnh Lê Thánh Tông lấy Nho giáo làm tư tưởng chính thống
trên phương diện chính trị, nhưng trên phương diện chính trị đạo đức, ông tiếp thu
ảnh hưởng tư tưởng của Phật giáo và Đạo giáo.
c) Liên quan tới một số thực hành Phật giáo thời Lê sơ
Về thực hành nghi lễ Phật giáo thời Lê sơ, hiện chưa có những công trình đề
cập cụ thể. Tuy nhiên, có hai nhà nghiên cứu là Nguyễn Tài Thư và Hà Văn Tấn đã
phát biểu một cách khái quát về nghi lễ Phật giáo của thời Trần, Lê, Nguyễn. Hà
Thúc Minh tổng hợp lại thành "Sinh hoạt tinh thần và văn hóa của Phật giáo suốt từ
thời độc tôn, qua sử liệu, phần lớn tập trung vào những việc đoán điềm, giải mộng,
cầu tự cho có con nối dõi, cầu sống lâu, đảo vũ cầu mưa, phù phép chữa bệnh.” Hà
Văn Tấn qua kết quả thám sát ở chùa Đậu và những minh chứng khác nhận định về
Phật giáo Trần, Lê, Nguyễn là đã có “một sơn môn riêng (sơn môn Dâu) mang đậm
sắc thái Việt Nam bao gồm Phật điện riêng (các tượng tứ Pháp và tượng Thạch
Cuông), một hệ thống kinh kệ riêng (kinh Tứ Pháp), một nghi thức cúng tế riêng
(nghi lễ rước các tượng Tứ Pháp cầu mưa)”. Đây là những luận điểm hữu ích cho
28
nghiên cứu Phật giáo thời quân chủ chuyên chế ở Việt Nam, tuy nhiên, với nghiên
cứu nghi lễ Phật giáo thời Lê sơ thì cần có những bằng chứng xác thực hơn và một
sự tìm hiểu chuyên sâu.
Về vấn đề xây dựng và trùng tu cơ sở thờ tự Phật giáo thời Lê sơ, Nguyễn Duy
Hinh và Lê Đức Hạnh [21, tr.532 - 580] đã có sự tổng kết trên cơ sở so sánh Phật
giáo thời Lê với Phật giáo thời Lý – Trần: “Thời Lê nói chung là thời Nho giáo.
Văn miếu, văn chỉ và bia tiến sĩ thay vì chùa tháp. Chùa tháp vẫn còn đó, thậm chí
xuất hiện chùa tháp mới trong dân gian nhưng không còn sôi động như thời Lý-
Trần”. Tuy nhiên, năm 2002, nhà nghiên cứu Hà Văn Tấn [37, tr.218] đã có những
luận điểm khác với Nguyễn Tài Thư. Ông cho rằng: “Các công trình kiến trúc Phật
giáo của thời kỳ trước như Bối Khê, Chùa Thầy, Chùa Dâu không ngừng được tu bổ,
mở mang. Nhiều công trình Phật giáo có quy mô to lớn đã được xây dựng bằng tiền
của của vương hầu quý tộc và của thập phương như : chùa Bút Tháp (Bắc Ninh),
chùa Trăm Gian, chùa Mía (Hà Tây), chùa Keo (Thái Bình), chùa Keo Hành Thiện
(Nam Định), chùa Phẩm (Hải Dương)…”. Vấn đề đặt ra là Nguyễn Tài Thư dựa
trên sử liệu của chính sử, Hà Văn Tấn dựa trên kết quả khảo sát cơ sở thờ tự, vậy
trên nguồn tư liệu khác như văn chương, bi ký có thể cho những luận điểm nào khác
không? Điều này đặt ra những vấn đề nghiên cứu của Luận án.
1.2.3. Các công trình nghiên cứu liên quan tới ảnh hưởng của Phật giáo trong
văn hóa Đại Việt thời Lê sơ
Vấn đề ảnh hưởng của Phật giáo thời Lê sơ đã được đề cập trong những công
trình nghiên cứu của Nguyễn Tài Thư, Bùi Thanh Chương, Thiên Chí Từ, Chu
Quang Trứ, Nguyễn Thừa Hỷ, Đinh Khắc Thuân, Nguyễn Đức Sự, Phan Huy Lê và
Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Phan Đại Doãn, Lê Văn Quán, Trần Đình Hượu,
Bồ Đề Tân Thanh – Nguyễn Đại Đồng, Phạm Thị Thùy Vinh, Nguyễn Thanh Tuấn,
Nguyễn Duy Hinh, Nguyễn Lê Sáu. Những luận điểm khu biệt về hai nhóm. Nhóm
thứ nhất bàn tới vấn đề Phật giáo trong đời sống cá nhân. Nhóm thứ hai bàn luận
nhiều về vấn đề Phật giáo trong đời sống chính trị - xã hội.
29
Thứ nhất, bàn về Phật giáo trong đời sống cá nhân thời Lê sơ có hai tác giả là
Nguyễn Tài Thư và Bùi Thanh Chương. Nguyễn Tài Thư [41, tr.286] qua nghiên
cứu tác phẩm văn chương của Nguyễn Trãi và Lê Thánh Tông đã có nhận xét rằng,
một điều nữa được chứng tỏ là Phật giáo bị loại khỏi ảnh hưởng và vị trí xã hội thì
lại sống trong tâm tư tình cảm và thể hiện trong nhiều tác phẩm bác học cũng như
dân gian. Sau đó, Bùi Thanh Chương [8] nhấn mạnh, “nhiều nhà tư tưởng và chính
Lê Thánh Tông ngoài việc sử dụng Nho giáo như công cụ hữu hiệu để quản trị đất
nước trên phương diện chính trị đất nước, vẫn không bỏ qua đời sống tâm linh của
mình, của con người. Về phương diện này Phật giáo và Đạo giáo có ưu thế hơn cả”.
Hai tác giả này nhìn nhận Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông và nhiều nhà tư tưởng khác
thời Lê sơ có hai phương diện đời sống của bản thân là con người chính trị và con
người cá nhân. Khi họ làm chính trị, họ cần những ưu điểm của Nho giáo, nhưng
khi lui về với đời sống cá nhân họ cần tới những ưu điểm của Phật giáo và Đạo giáo
mà Nho giáo không đáp ứng được.
Thứ hai, bàn về Phật giáo trong đời sống chính trị - xã hội thời Lê sơ gồm
những tác giả còn lại. Trong nhóm này đã phân thành hai quan điểm tương đối khác
nhau. Phân nhóm thứ nhất cho rằng Phật giáo thời Lê sơ không chỉ “vắng bóng trên
sân khấu tư tưởng của thời đại” (Nguyễn Đức Sự [36, tr.54] mà còn bị đả kích tới
mức phải trở về “nương náu và lan tỏa trong quần chúng bình dân” (Nguyễn Thừa
Hỷ [24, tr.300]), “ngày càng đi xuống, phân tán về những vùng nông thôn làng xã”
(Nguyễn Hùng Hậu [19, tr.233]), thậm chí “Phật giáo thời Lê sơ còn kém hơn Đạo
giáo Lê sơ” (Đinh Khắc Thuân [42, tr.52]). Về tăng sĩ Phật giáo thời Lê sơ, “thế lực
của nhà sư về mọi mặt – kinh tế, chính trị, văn hóa – bị sa sút hẳn” (Phan Huy Lê –
Trần Quốc Vượng [29, tr.173-174]), thậm chí “đã thành những tay sai đáng thương
hại của vua quan hoặc các nhà có tiền khi muốn cầu tự cầu tài, mặc dầu bề ngoài
như tưởng họ vẫn tôn kính” (Mật Thể [40, tr.174]). Cơ sở cho những luận điểm trên
là triều đình Lê sơ chủ trương “độc tôn” Nho giáo, hạn chế Phật giáo.
Phân nhóm thứ hai nghiêng về quan điểm cho rằng tự thân Phật giáo vẫn có
những ưu thế đáp ứng được nhu cầu tín ngưỡng và tình cảm của con người thời Lê
30
sơ. Bồ Đề Tân Thanh – Nguyễn Đại Đồng [15, tr.152-155] cho rằng “Phật giáo bị
thất sủng nơi cung đình, nhưng do tinh thần cởi mở, hòa hợp và từ bi của Phật giáo
cho nên dòng chảy Phật giáo dân gian thời Lê sơ vẫn không ngừng tuôn chảy”.
Trong khi đó, Lê Văn Quán [32, tr.222] thấy rằng “Phật giáo không được thịnh
hành như ở thời Lý Trần nữa, nhưng quần chúng nhân dân vẫn âm thầm đi theo
Phật giáo. Bởi vì, họ tin rằng Phật sẽ phù hộ, độ trì cho họ sống lâu, ấm nó và giàu sang”. Từ nghiên cứu về văn bia, Phạm Thị Thùy Vinh [51, tr.33] nhận định “dù
triều đình Lê sơ khi ấy có ngăn cấm Phật giáo thì trong dân gian vẫn có một dòng
chảy âm thầm để nuôi dưỡng tâm Phật, dân chúng vẫn mộ đạo Phật và hướng về
đạo Phật”. Vì thế, Phật giáo thời Lê sơ tuy không làm nền tảng tư tưởng của xã hội,
nhưng “không mất đi vị trí của nó” (Hà Văn Tấn [37, tr.186]) cũng như Đạo giáo
“vẫn còn ảnh hưởng rộng rãi trong nhân dân” (Trần Đình Hượu [23, tr.108]) “vẫn
phát triển và gắn với dân” (Chu Quang Chứ [5, tr.461-463], Nguyễn Duy Hinh [20,
tr.333] nhấn mạnh hơn nữa “Phật giáo thế kỷ XV, XVI tiềm ẩn chứ không phải bị
tiêu diệt hay tiêu vong”. Nguyễn Thanh Tuấn [46, tr.60] thêm một vế nữa “Phật
giáo vẫn phát triển trong nhân dân và tồn tại như một lực lượng xã hội không nhỏ”.
Cuối cùng Nguyễn Thừa Hỷ [24, tr.301] tổng kết lại “Phật giáo thời Lê sơ tuy
đã bị hạn chế, tách khỏi nhà nước, mất đi tính quan phương trong hệ tư tưởng,
nhưng vẫn tiếp tục phát triển thầm lặng, trở thành một tôn giáo phi chính thống,
đậm tố chất dân gian”. Khác với phân nhóm thứ nhất, phân nhóm này dựa trên cơ
sở những ưu điểm của Phật giáo, ở khả năng Phật giáo có thể đáp ứng nhu cầu tâm
linh, tình cảm của người thời Lê sơ. Sự “suy thoái” trên phương diện chính trị hay
tư tưởng và sự “phát triển thầm lặng” trong dân gian của Phật giáo còn cần thêm
nữa những chứng cứ thuyết phục hơn.
Những vấn đề đặt ra đối với Luận án:
Thứ nhất, vấn đề Phật giáo còn tồn tại ở Đại Việt thời Lê sơ, nhiều nghiên cứu
đã khẳng định, nhưng những điều kiện cho sự tồn tại đó thì Luận án cần phải làm rõ.
Thứ hai, thời Lê sơ Phật giáo hiện diện ở Đại Việt như thế nào ít nhiều đã
được đề cập tới trong một số nghiên cứu dựa trên tư liệu sử và một số ít tư liệu văn
31
chương, nhưng sự hiện diện này trong các tầng lớp, trong từng lĩnh vực, phạm vi xã
hội ra sao thì chưa được làm rõ. Do vậy, luận án cần thiết nghiên cứu vấn đề này từ
phương diện con người, tư tưởng cho tới những thực hành và kết quả của những thực
hành ấy để lại dấu ấn trên văn hóa vật chất và tinh thần của Phật giáo thời kỳ này.
Thứ ba, một số nghiên cứu chỉ ra thời Lê sơ Phật giáo có vị trí nhất định, đặc
biệt là trong dân gian. Nhưng với vị trí đó, Phật giáo có ảnh hưởng như thế nào
trong từng lĩnh vực của đời sống xã hội như: chính trị, văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo
chưa được làm rõ, và đây chính là nhiệm vụ Luận án cần phải làm rõ.
1.3. Khung lý thuyết nghiên cứu
1.3.1. Câu hỏi nghiên cứu
Luận án tập trung trả lời câu hỏi: Thông qua xử lý các nguồn tư liệu Hán Nôm,
chúng ta có thể nhận biết những gì về đời sống và ảnh hưởng của Phật giáo thời Lê sơ?
Cụ thể Luận án thông qua xử lý các tư liệu Hán Nôm đi tới giải quyết những
vấn đề cụ thể sau:
a) Bối cảnh đưa tới sự hiện diện của Phật giáo thời Lê sơ?
b) Đời sống Phật giáo thời Lê sơ như thế nào?
c) Thời Lê sơ, Phật giáo có ảnh hưởng như thế nào trong văn hóa Đại Việt?
1.3.2. Giả thuyết nghiên cứu
Thời Lê sơ, Phật giáo ở Đại Việt không suy vi mà biểu hiện ra một diện mạo
mới, có sự kế thừa truyền thống và có sự điều chỉnh về tâm thức cũng như hành vi
để phù hợp với bối cảnh mới. Điều này cũng có thể khiến cho ảnh hưởng của Phật
giáo đối với xã hội thời Lê sơ không còn giống như giai đoạn lịch sử trước đó nữa.
1.3.3. Cơ sở lý luận
a) Liên quan tới diện mạo Phật giáo thời Lê sơ
Nhìn vào các thành tố cơ bản hợp thành Phật giáo thời Lê sơ, chúng ta thấy có
yếu tố con người, yếu tố tư tưởng, yếu tố hành vi và yếu tố vật chất. Về yếu tố con
người, thời Lê sơ đặc biệt là giai đoạn đầu, trong lực lượng xã hội phần lớn là “con
người cũ” đã từng sống ở thời kỳ trước đó, mang theo vốn văn hóa, thói quen, lối
sống và tâm thức tới thời kỳ này. Do vậy, yếu tố đời sống tôn giáo tín ngưỡng trước
32
thời Lê sơ được đặc biệt chú ý nghiên cứu và phân tích như một tiền đề quan trọng
cho sự diện mạo và những diễn biến của Phật giáo thời Lê sơ.
Yếu tố tư tưởng Phật giáo có liên hệ mật thiết với yếu tố tư tưởng của Nhà
nước (cụ thể ở đây là triều đình Lê sơ). Yếu tố tư tưởng của Nhà nước luôn là yếu tố
trọng yếu, cần được quan tâm trước nhất cho sự ra đời của một Nhà nước độc lập tự
chủ. Nền kinh tế - chính trị Đại Việt thời Lê sơ là sự biểu hiện sống động của yếu tố tư
tưởng đó. Việc triều đình lựa chọn hay không lựa chọn triết lý Phật giáo làm tư tưởng
chủ đạo trong quản trị quốc gia có ý nghĩa quyết định cho một diện mạo mới của Phật
giáo, từ đó đưa tới mức độ ảnh hưởng cũng như phương thức ảnh hưởng của Phật giáo
trong đời sống xã hội. Tiền đề tư tưởng, kinh tế, chính trị vì thế được đặc biệt diễn giải
như một điều kiện cần cho sự diện mạo của Phật giáo ở Đại Việt thời Lê sơ.
Yếu tố hành vi mà cộng đồng thực hiện với niềm tin Phật giáo (còn gọi là thực
hành Phật giáo) trước hết phụ thuộc vào chính niềm tin Phật giáo đó. Đồng thời,
những hành vi đó ít nhiều bị ước thúc bởi chế độ, luật lệ của xã hội do tư tưởng Nhà
nước chỉ đạo. Bên cạnh đó, vị thế xã hội của cá nhân ảnh hưởng nhiều tới sự biểu
hiện của những hành vi này. Ví dụ: Một vị vua đang trị vì khi sở hữu niềm tin Phật
giáo thì hành vi Phật giáo có sự biểu hiện rõ nét và sức ảnh hưởng lớn; Một người
sở hữu niềm tin Phật giáo nhưng làm quan ở triều đình đang có chủ trương hạn chế
Phật giáo thì hành vi Phật giáo của người đó cũng bị ức thúc bởi chính chủ trương
đó, và ít công khai trên thư tịch hoặc để lộ ra trong phạm vi công cộng. Do vậy, tiền
đề tư tưởng, chính trị và cộng đồng Phật giáo (chủ thể hành vi Phật giáo) được diễn
giải như một điều kiện chỉ đạo hành vi Phật giáo trong đời sống Phật giáo ở Đại
Việt thời Lê sơ.
Yếu tố vật chất trong đời sống Phật giáo của một thời kỳ có liên quan tới rất
nhiều yếu tố: từ chính sách tôn giáo của Nhà nước, điều kiện kinh tế của đất nước
và cá nhân, nhu cầu sử dụng của cộng đồng cho đến niềm tin Phật giáo của chính cá
nhân và cộng đồng Phật giáo đó. Do vậy, tiền đề kinh tế, niềm tin Phật giáo cũng
được phân tích như một điều kiện cho sự xuất hiện những cơ sở thờ tự, những sản
phẩm phục vụ sinh hoạt và hoạt động Phật giáo thời kỳ này.
33
b) Liên quan tới ảnh hưởng của Phật giáo đối với văn hóa thời Lê sơ
Lý luận về “kết cấu bên trong của văn hóa”, nhà nghiên cứu Trác Tân Bình [2,
tr.63], văn hóa được chia thành ba cơ tầng: tầng diện vật chất, tầng diện kết cấu,
tầng diện tinh thần. Trong đó, ông xếp tín ngướng, tôn giáo vào tầng diện tinh thần.
Xét từ kết cấu bên trong và sự phát triển bên ngoài của văn hóa, tôn giáo và văn hóa
quả thực có mối liên hệ rất khác với các quan hệ bình thường khác. Về ý nghĩa bên
trong, bản thân tôn giáo thể hiện là một loại kết cấu văn hóa cực kỳ điển hình. Nếu
xét mối liên hệ giữa Phật giáo và văn hóa thời Lê sơ, thì quan niệm về thế giới và
nhân sinh với tư cách là hạt nhân của Phật giáo là thuộc về tinh thần và tâm lý của
văn hóa. Tư tưởng Phật giáo thuộc về tầng sâu nhất trong kết cấu của văn hóa. Cộng
đồng Phật giáo có quan hệ mật thiết với tầng bậc của kết cấu văn hóa, bởi vì nếu
một người có tư tưởng Phật giáo thì hành vi của người đó ít nhiều được định hướng
bởi tư tưởng Phật giáo đó. Những hoạt động Phật giáo như biên soạn kinh sách,
nghiên cứu trao đổi về giáo lý, thực hiện nghi lễ, triển khai các hoạt động tôn giáo,
đến các hoạt động từ thiện và phúc lợi xã hội cũng đều thuộc về thực tiễn văn hóa
thời Lê sơ. Như vậy, nội dung mà tôn giáo nói chung, Phật giáo thời Lê sơ nói riêng
thể hiện có chức năng văn hóa. [2, tr.74].
Nhìn một cách tổng thể, tôn giáo thuộc về lĩnh vực tinh thần của văn hóa. Tuy
nhiên, theo biện giải của nhà nghiên cứu Nguyễn Hồng Dương, nhìn một cách tổng
thể thì tôn giáo thuộc về lĩnh vực tinh thần của văn hóa. Tuy nhiên, là sản phẩm của
tinh thần, nhưng khi biểu hiện “bằng xương bằng thịt”, thì tôn giáo lại tỏ bày cả
dưới dạng vật thể và phi vật thể đến mức có dạng khó phân biệt đâu là chính đâu là
phụ [12, tr.27]. Vì thế, tuy niềm tin, thực hành, nghi lễ, nội dung kinh sách tôn giáo
là sản phẩm của tinh thần, nhưng những cơ sở thờ tự như tượng, chuông, chùa, bản
thân quyển kinh sách là hiện thân của văn hóa vật thể. Do vậy, tôn giáo ảnh hưởng
tới văn hóa cả hai phương diện: tinh thần và vật chất. Phật giáo lúc thoát thai chịu
ảnh hưởng của nền văn hóa Ấn Độ cổ đại. Nho giáo và Đạo giáo là con đẻ của nền
văn hóa Hán. Nhưng khi Phật giáo vào Việt Nam, và sau này cùng đồng hành với
Nho giáo và Đạo giáo thì Phật giáo dần thoát ra khỏi nền văn hóa Ấn Độ, mang trên
34
mình màu sắc của nền văn hóa mới – văn hóa Việt. Phật giáo Việt Nam thời Lê sơ
là sản phẩm văn hóa kết hợp từ cơ tầng văn hóa truyền thống tiếp nối từ thời cuối
Trần và hoàn cảnh xã hội mới thời Lê sơ. Niềm tin, thực hành, nghi lễ, nội dung
kinh sách Phật giáo thời Lê sơ là sản phẩm tinh thần của những cộng đồng từ vua
quan, trí thức tới bình dân của Đại Việt. Đồng thời, sự hiện diện của nó lại tác động
tới đời sống tinh thần và đời sống vật chất ở nơi này.
Từ đó, luận án đi tới lý giải ảnh hưởng của Phật giáo trong văn hóa Đại Việt
thời Lê sơ với một số luận điểm của trường phái Chức năng luận (functionalism) về
chức năng của tôn giáo. Trường phái này xem xã hội là một hệ thống tổng thể được
cấu thành từ những bộ phận có chức năng riêng biệt nhưng tương hỗ và ảnh hưởng
lẫn nhau. Tôn giáo được xem là một bộ phận trong xã hội, có chức năng riêng biệt, và
có ảnh hưởng tới hệ thống xã hội tổng thể, đồng thời ảnh hưởng tới các bộ phận khác
của xã hội như văn hóa, chính trị, giáo dục, luật pháp, v.v... Một xã hội muốn duy trì
được sự ổn định cần có sự vận hành nhịp nhàng của các bộ phận cấu thành nên nó
[113, p.473] (dẫn theo Hoàng Văn Chung [7, tr.78]). Theo lý thuyết này, Phật giáo
một khi còn tồn tại ở Đại Việt thời Lê sơ thì chắc chắn nó có những vai trò và đóng
góp cho sự ổn định và phát triển của tổng thể xã hội, đồng thời có những ảnh hưởng
nhất định đối với lĩnh vực khác như chính trị, văn hóa và tôn giáo. Đây là một trong
các định hướng để chúng tôi tìm kiếm, khảo cứu và phân tích tư liệu.
Để lý giải ảnh hưởng của Phật giáo đối với chính trị đầu thời Lê sơ qua việc
Nhà nước sử dụng nghi lễ Phật giáo, luận án còn sử dụng luận điểm của
Bronislaw Malinowski cũng thuộc trường phái Chức năng luận khi ông nhìn tôn giáo
như là lực lượng có chức năng tăng cường các quy phạm và giá trị xã hội, đồng
thời thúc đẩy sự cố kết và trật tự xã hội. Malinowski nêu rõ một số lĩnh vực cụ thể mà
xã hội cần đến tôn giáo, đó là những tình huống căng thẳng về mặt cảm xúc vốn
đe dọa cố kết xã hội. Đặc biệt, ông lý luận rằng, các niềm tin tôn giáo có thể được sử
dụng như là những cách thức ứng phó với những "khủng hoảng của cuộc sống" vốn
nằm ngoài tầm kiểm soát của con người. Các nghi lễ tôn giáo được xem là một nỗ
lực tái hợp xã hội, giúp giảm thiểu đi lo lắng trước những khủng hoảng bằng cách
35
mang lại cho mọi người sự tự tin và cảm giác có được sự kiểm soát đối với tình
hình. Do vậy, nghi lễ được Malinowski xem như là các sự kiện xã hội tại đó các cá
nhân cùng gắn kết lại với nhau để ứng phó với những tình huống căng thẳng hay sự
khủng hoảng [113, p.474] (dẫn theo Hoàng Văn Chung [7, tr.79]). Do đó, đề tài cần
chú ý phân tích các nghi lễ Phật giáo được ghi chép trong tư liệu Hán Nôm, với sự tập
trung vào mục đích, ý nghĩa và cả kỳ vọng mà chính quyền và người dân thời Lê Sơ
dành cho những hoạt động này.
1.3.4. Khung phân tích
Đối tượng nghiên cứu của Luận án là “Phật giáo thời Lê sơ”. Tuy nhiên, phạm
vi tư liệu nghiên cứu không phải là toàn bộ tư liệu lịch sử Phật giáo thời kỳ này, mà
chỉ trên cơ sở những tư liệu Hán Nôm có chứa sử liệu Phật giáo thời kỳ này. Do vậy,
luận án giải quyết vấn đề “Qua nguồn tư liệu Hán Nôm, Phật giáo thời Lê sơ có
diện mạo như thế nào và có ảnh hưởng ra sao?”. Phật giáo với tư cách là một tôn
giáo luôn có diện mạo ít nhất bao gồm những thành tố cơ bản: cộng đồng (sở hữu
niềm tin, thực hành), đối tượng thờ, tư tưởng (giáo lý), thực hành và những cơ sở
vật chất (cơ sở thờ tự, ruộng đất, vật thờ, biểu tượng, v.v...).
Tuy nhiên, những thành tố tạo nên Phật giáo thời Lê sơ xuất hiện và diễn biến
tùy thuộc vào những điều kiện mang tính tiền đề. Trước hết, Phật giáo thời Lê sơ có
thể xuất hiện theo xu hướng tiếp nối, kế thừa hoặc cũng có thể là phản ứng lại với
truyền thống Phật giáo đã hiện diện ở đây trước thời Lê sơ, cụ thể là Phật giáo từ
cuối Trần tính từ sau Huyền Quang tới khi Lê Lợi lập nên Nhà nước Lê sơ năm
1428. Phật giáo giai đoạn này đã có những biểu hiện đáng chú ý để đưa tới một
khúc quanh mới cho sự chuyển hướng của Phật giáo thời Lê sơ. Chính những biểu
hiện này là một trong những điều kiện quan trọng đưa tới sự lựa chọn xu hướng tư
tưởng cũng như sự điều chỉnh hoạt động tôn giáo của Nhà nước Lê sơ mà họ cho là
hợp lý.
Mặc dù Phật giáo thời Lê sơ có thể có sự kế thừa, hoặc phản ứng lại với truyền
thống Phật giáo trước đó thì nó vẫn chịu sự chi phối mật thiết với môi trường trực
tiếp sản sinh và nuôi dưỡng nó, đó là bối cảnh xã hội Đại Việt thời Lê sơ, bao gồm
36
cả bối cảnh kinh tế - chính trị và văn hóa – xã hội. Trong đó, Phật giáo còn chịu ảnh
hưởng và có ảnh hưởng trong không gian hẹp hơn và mật thiết hơn nữa, đó là đời
sống tôn giáo, tín ngưỡng ở Đại Việt thời kỳ này. Do vậy, luận án cần thiết phải
diễn giải về bối cảnh xã hội và đời sống tôn giáo, tín ngưỡng ở Đại Việt thời Lê sơ
như những điều kiện trọng yếu cho sự hình thành một diện mạo Phật giáo sống
động thời Lê sơ.
Khi Phật giáo thời Lê sơ được cấu thành bởi những thành tố cơ bản, hiện hữu
một cách sống động và như là một sự tồn tại tất yếu trong bối cảnh mới, nó có ảnh
hưởng nhất định trong chính môi trường sản sinh và bảo dưỡng nó. Với những tư
tưởng tích cực và tiến bộ, cùng những ưu thế về mặt phương tiện (điều kiện giúp đỡ
chúng sinh) Phật giáo ảnh hưởng ít nhiều tới những giải pháp của Nhà nước Lê sơ
trong lĩnh vực chính trị. Với cộng đồng Phật tử (đệ tử Phật, bao gồm cả người xuất
gia và tại gia) là một bộ phận của cộng đồng xã hội, Phật giáo ảnh hưởng rõ nét
trong đời sống văn hóa thời Lê sơ. Với tư cách là một trong những tôn giáo lớn, có
lịch sử tồn tại ở đây hơn một ngàn năm, Phật giáo có ảnh hưởng không nhỏ tới đời
sống tôn giáo, tín ngưỡng ở Đại Việt thời Lê sơ.
Khung phân tích của Luận án có thể được mô hình hóa như sau:
37
1.4. Một số thuật ngữ sử dụng trong Luận án
Tư tưởng Phật giáo: là những quan niệm về thế giới quan và nhân sinh quan
theo giáo lý Phật giáo. Theo lý giải về “tư tưởng tôn giáo” của Trác Tân Bình [2,
tr.22], thì tư tưởng tôn giáo thuộc về kết cấu tầng sâu của Phật giáo, nhưng nội hàm
của nó nhỏ hơn tôn giáo, ngoại diên lớn hơn tôn giáo. Từ đó, có thể hiểu rằng, tư
tưởng Phật giáo là cốt lõi của Phật giáo; một người là tín đồ Phật giáo trước hết là
người có tư tưởng Phật giáo, nhưng cũng có những người có tư tưởng Phật giáo
nhưng chưa hẳn người đó đã trở thành một tín đồ Phật giáo. “Tư tưởng Phật giáo”
cũng có thể được hiểu như khái niệm “niềm tin Phật giáo”, tức là niềm tin vào giáo
lý, phương pháp hoặc thế giới thiêng của Phật giáo.
Đối tượng thờ của Phật giáo: là vị Phật, Bồ Tát và Hiền Thánh Tăng (còn gọi
là “Tam bảo” – ba ngôi báu) được cộng đồng Phật tử, thiện nam tín nữ tôn kính, thờ
phụng và nguyện làm theo hạnh nguyện của các vị đó.
Phật: còn gọi là “Phật bảo”, là những vị đã tu hành theo Phật giáo, đạt tới trí
tuệ siêu việt, khả năng yêu thương rộng lớn, được giải thoát khỏi vòng quay của
sống chết, không còn sinh khởi lòng tham lam, sân hận và si mê. Với Phật giáo Bắc
truyền, Phật không chỉ có Phật Thích Ca Mâu Ni, mà còn chỉ cho các vị Phật trong
ba đời (quá khứ, hiện tại và tương lai). Do vậy, có Phật lịch sử là Thích Ca Mâu Ni
với thân thế, sự nghiệp và thành tựu tu hành của một con người cụ thể. Thứ hai là
Phật hóa thân, tức là sự hiện thân của những tâm niệm sáng suốt, toàn tri trong một
hình thể vật chất. Những hóa thân đó chính là các vị Phật với tuệ giác viên mãn có
khả năng thấu suốt mọi hiện tượng tồn tại. Các vị Phật thành tựu khả năng này nhờ
vào sự phát triển toàn diện năng lực trí tuệ và từ bi, từ đó đoạn trừ mọi phiền não.
Tương tự như vậy, nhiều vị đã giác ngộ trong Phật giáo có thể được nhìn nhận như
những hóa thân qua những tâm thức sáng suốt hoàn toàn. Ví dụ, Bồ-tát Quán Thế
Âm là hiện thân về lòng từ bi của chư Phật. Mặc dù bất kỳ một vị Phật nào cũng
đều đầy đủ từ bi và trí tuệ, nhưng sự xuất hiện đặc biệt của Bồ -tát Quán Thế Âm là
để nhấn mạnh về lòng từ bi. Thứ ba là Phật bản thể, đó là sự hiện thân của Phật tính
trong hình thái phát triển viên mãn trọn vẹn của mỗi người.
38
Pháp: Pháp trong tam bảo còn gọi là “Pháp bảo”, là quan niệm về thế giới, con
người và những phương thức thực hành của Phật giáo, do Thích Ca Mâu Ni và
những đệ tử của ông nhận thức, thể nghiệm và truyền bá. Phật giáo cho rằng thế
giới (trong đó có con người) vận hành theo quy luật duyên khởi (nhân duyên, nhân
quả). Mọi sự việc, mọi vật do đủ các điều kiện mà được tạo thành, và do điều kiện
mà thay đổi hoặc mất đi. Con người cũng chịu sự chi phối bởi những quy luật của
thế giới tự nhiên và cộng đồng mình đang sống. Từ nhận thức đó, Phật giáo đi tới
những sự thực tập mà cốt lõi là từ bỏ những ý nghĩ, lời nói và hành động tiêu cực,
tạo những ý nghĩ, lời nói và hành động tích cực và những đức tính hoàn hảo, chuyển
hóa tâm thức.
Tăng: hay còn gọi là tăng sĩ, tu sĩ Phật giáo, là những tín đồ Phật giáo đồng
thời là người rời bỏ gia đình để dành trọn vẹn thời gian cho tu hành theo Phật giáo.
Tăng bảo là những người xuất gia tu hành Phật giáo một cách chuẩn chỉnh, xứng
đáng là tấm gương cho cộng đồng noi theo.
Cộng đồng Phật giáo: ở đây được hiểu là tập hợp những người có niềm tin
Phật giáo và cùng thực hành Phật giáo. Họ có thể là những người có niềm tin Phật
giáo và rời khỏi gia đình để trở thành tu sĩ Phật giáo và dành trọn vẹn cuộc đời cho
sự tu hành và cống hiến cộng đồng, được cộng đồng gọi là Phật tử xuất gia, tăng, ni,
sư, thầy (hay còn gọi là tăng sĩ, xuất sĩ). Họ có thể là những người có niềm tin Phật
giáo, vẫn sống với gia đình nhưng giữ một số ít giới nhất định (5 giới, 8 giới), được
cộng đồng gọi là Phật tử, Phật tử tại gia (hay còn gọi là cư sĩ). Tất nhiên họ không
phải là một tập hợp rời rạc, mà thường họ gắn kết lại với nhau theo một cách nào đó.
Thực hành Phật giáo: là những thực hành (hành vi, hoạt động) được những cá
nhân, gia đình và cộng đồng thực hiện với niềm tin Phật giáo. Thực hành Phật giáo
trước hết là thực hành thuần túy Phật giáo như tu tập, hoằng pháp, nghi lễ, xây dựng
trùng tu cơ sở thờ tự của Phật giáo. Tiếp đó, thực hành Phật giáo còn bao gồm
những thực hành hướng đích xã hội, tức là chủ thể với niềm tin Phật giáo của họ
thực hiện những việc làm có ích cho cộng đồng (bao gồm cả những người không
theo Phật giáo), cho môi trường sống của họ.
39
Cơ sở thờ tự của Phật giáo: là những gì hiện hữu bằng vật chất có ý nghĩa
biểu tượng và ý nghĩa sử dụng trong đời sống Phật giáo, như: chùa, tượng, am, thất,
tiền cúng dường, kinh, sách, ruộng, v.v...
Diện mạo Phật giáo: là những đặc điểm biểu lộ ra bên ngoài có thể quan sát
được của Phật giáo.
Ảnh hưởng của Phật giáo: là nói tới sự chi phối hay tác động của niềm tin
Phật giáo đến lời nói và hành vi của một cá nhân, gia đình hoặc cộng đồng nào đó.
Tư liệu Hán Nôm: là những thông tin được ghi chép lại bằng chữ Hán Nôm
trên bất kỳ một chất liệu nào như giấy, gỗ, đá, đồng .v.v.
Sử liệu: là những chứng cứ ghi trong tư liệu lịch sử về một việc gì đó đã xảy ra
trong quá khứ. Sử liệu Phật giáo vì thế là những sử kiện có thể làm dẫn chứng,
chứng minh cho sự hiện hữu của một điều gì đó trong diện mạo và nói lên sự ảnh
hưởng của Phật giáo ở Đại Việt thời Lê sơ.
Tam giáo: Ở Việt Nam và Trung Quốc, “tam giáo” thông thường được hiểu là
tập hợp gồm ba tôn giáo lớn bao gồm: Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo, hoặc gọi
Nho, Thích, Đạo. Tam giáo gặp nhau ở “làm việc lành” (trạch thiện, vi thiện, chúng
thiện phụng hành): Nho giáo đưa ra tiêu chuẩn thiện và ác, Phật giáo đưa ra thuyết
nhân quả, Đạo giáo đưa ra phả hệ quỷ thần giám sát từng hành vi, lời nói và suy
nghĩ của con người. Ba tôn giáo kết hợp nhau trong giai tầng văn hóa phù hợp với
đại chúng bình dân. Tuy nhiên mỗi tôn giáo lại thể hiện chí thú cuộc đời và những
thái độ nhập thế khác nhau. Phật và Nho còn gặp nhau ở tinh thần “đi vào đời”
(nhập thế), Phật và Đạo gặp nhau ở thái độ nhân sinh siêu việt (xuất thế). Ý thức
văn hóa tự giác, nhu cầu hòa thiện nhân cách, bảo vệ luân lý cương thường và lối
sống thanh nhàn tao nhã này lại thích hợp với tầng lớp thượng lưu, trí thức, lớp sĩ
đại phu [2, tr.47]. Từ đó, tam giáo thể hiện trong đời sống khác nhau, ảnh hưởng tới
văn hóa những chiều kích khác nhau. Do đó, ở đây, chúng tôi không bàn về Tam
giáo như là các truyền thống tôn giáo có tính tách rời và biệt lập. Tam giáo được
hiểu như một tổng thể tư tưởng, triết lý, thế giới quan, nhân sinh quan, và lối ứng xử
với các vấn đề phát sinh trong cuộc sống. Mỗi người Việt Nam, như một số nghiên
40
cứu đã chỉ ra, có thể đồng thời khai thác hay sử dụng những thành tố nhất định của
từng truyền thống này mà không có sự phân biệt dứt khoát rành mạch về sự tuân
thuộc. Họ có thể linh động sử dụng các triết thuyết cũng như phương tiện của các
truyền thống này mà không có sự mâu thuẫn hay loại trừ.
Tín ngưỡng bản địa: còn được nhiều nhà nghiên cứu gọi là “tín ngưỡng truyền
thống”, hay gần đây được Viện Nghiên cứu Tôn giáo gọi là “tôn giáo truyền thống”.
Tuy nhiên, luận án sử dụng thuật ngữ tín ngưỡng bản địa để chỉ cho những hình
thức thực hành tâm linh nội sinh, chưa phát triển thành một tôn giáo hoàn chỉnh,
như tín ngưỡng thờ thần, tín ngưỡng thờ thành hoàng, tín ngưỡng thờ Mẫu .v.v.
41
Tiểu kết chƣơng 1
Qua tổng quan các nguồn tư liệu Hán Nôm và tình hình nghiên cứu về những
vấn đề có liên quan đến Phật giáo Lê sơ, có thể rút ra một số kết luận như sau:
Thứ nhất, Tư liệu Hán Nôm thời Lê sơ mặc dù theo thời gian đến nay đã mai
một rất nhiều, nhưng những tư liệu Hán Nôm cơ bản có sử liệu về đời sống và ảnh
hưởng của Phật giáo thời Lê sơ hiện nay vẫn có thể tiếp cận được và còn đủ để
minh chứng cho một số vấn đề cơ bản của Phật giáo thời Lê sơ. Tư liệu Hán Nôm
có chứa sử liệu Phật giáo thời Lê sơ có mặt trong các lĩnh vực tư liệu: sử, luật, bi ký,
văn chương. Trong đó, một số lượng lớn đã được các nhà nghiên cứu dịch sang
tiếng Việt.
Thứ hai, trong những nhân tố đưa tới sự tồn tại và diễn biến của Phật giáo thời
Lê sơ, luận án phải làm rõ những vấn đề về xã hội đưa tới diện mạo Phật giáo thời
kỳ này, đồng thời làm rõ đối tượng thờ và giáo lý của Phật giáo, cộng đồng Phật
giáo, tu học và tạo dựng cơ sở vật chất. Tuy nhiều tác giả đã đề cập tới ảnh hưởng
của Phật giáo thời Lê sơ nhưng chưa thỏa đáng, vì thế Luận án cần phải làm rõ ảnh
hưởng của Phật giáo đối với từng mặt cụ thể của văn hóa xã hội thời Lê sơ
Thứ ba, những nghiên cứu liên quan đến Phật giáo thời Lê sơ trước đây mới
chỉ tiếp cận riêng lẻ từ Hán Nôm học, Sử học, Triết học đưa tới những tri thức về
Phật giáo chưa có tính hệ thống và toàn diện, do vậy Luận án tiếp cận liên ngành
Hán Nôm học - Sử học – Tôn giáo học – Triết học, đồng thời sử dụng những lý luận
về tôn giáo học, chức năng luận để làm rõ đời sống và ảnh hưởng của Phật giáo thời
Lê sơ.
42
Chƣơng 2
BỐI CẢNH PHẬT GIÁO HIỆN DIỆN Ở ĐẠI VIỆT THỜI LÊ SƠ
Chương này Luận án nghiên cứu những nguyên nhân đưa tới đời sống và ảnh
hưởng của Phật giáo ở Đại Việt thời Lê sơ. Phật giáo thời Lê sơ tồn tại được có
nhiều lý do, nhưng có thể khu biệt thành hai lý do chính. Lý do thứ nhất, ở Đại Việt
trước thời Lê sơ, Phật giáo không những đã từng tồn tại mà còn kinh qua một thời
kỳ vàng son rực rỡ, đó là Phật giáo thời Trần. Vì thế, Phật giáo thời Lê sơ có thể đã
có những kế thừa hoặc có những phản ứng với truyền thống Phật giáo thời Trần và
thời thuộc Minh. Lý do thứ hai, Phật giáo, với tư cách là một phần của văn hóa Đại
Việt thời Lê sơ, sẽ chịu ảnh hưởng bởi bối cảnh văn hóa của Đại Việt thời Lê sơ,
bởi nó chính là sản phẩm từ niềm tin, thực hành và cộng đồng – là chủ thể của văn
hóa Đại Việt thời kỳ này. Vì thế, trong chương này, chúng tôi sử dụng lý luận về
thực thể tôn giáo mà Nguyễn Quốc Tuấn đã triển khai để thuyết minh về tình hình
Phật giáo trước thời Lê sơ và sử dụng lý luận về văn hóa mà Trác Tân Bình đã chỉ
ra để trình bày về kết cấu văn hóa Đại Việt thời Lê sơ. Điều này không chỉ dùng để
nêu lên các nguyên nhân hiện diện mà còn đảm bảo sự thống nhất về mặt logic và
phạm vi nghiên cứu với chương 4 của Luận án.
2.1. Đặc điểm Phật giáo ở Đại Việt trƣớc thời Lê sơ
Luận án phân kỳ Phật giáo từ thời Trần đến hết thời thuộc Minh là bởi vì hai
lý do chính. Thứ nhất, Phật giáo đến thời Trần được coi là đạt tới đỉnh cao của sự
phát triển với sự kiện quan trọng không thể phủ nhận được là vua Trần Nhân Tông
xuất gia kế thừa truyền thống và hoàn bị Phật giáo Trúc Lâm mang màu sắc dân tộc
rõ rệt nhất. Phật giáo giai đoạn này là đại biểu cho truyền thống Phật giáo của dân
tộc – một nhân tố quan trọng cần được nhà Lê sơ xem xét trong quá trình xây dựng
và phát triển đất nước và sự tiếp nối của sinh hoạt Phật giáo của đông đảo quần
chúng nhân dân thời Lê sơ. Tuy nhiên, sự hiện diện của triều đình nhà Minh là một
thế lực chính trị ngoại xâm đối với Đại Việt. Tình hình văn hóa Đại Việt mọi mặt
đều chi phối bởi thế lực chính tị này, Phật giáo cũng không ngoại lệ. Do đó, tình
hình Phật giáo tại Đại Việt thời thuộc Minh ít nhiều có “màu sắc ngoại xâm”. Điều
43
này không thể không ảnh hưởng tới sự lựa chọn thái độ độc lập của triều đình Lê sơ
khi xây dựng chính sách quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, trong đó có
Phật giáo, và sự lựa chọn thực hành Phật giáo của quần chúng nhân dân. Tuy nhiên,
Luận án không trình bày hết những vấn đề của Phật giáo trước Lê sơ, mà chỉ trình
bày những vấn đề liên đới tới đời sống và ảnh hưởng của Phật giáo trong văn hóa
Đại Việt thời Lê sơ, gồm bốn vấn đề: nền Phật giáo thống nhất và quý tộc hóa thời
Trần; cơ sở thờ tự Phật giáo thời Trần; Mật giáo trong dòng chảy Phật giáo thời
Trần và Phật giáo ở Đại Việt thời thuộc Minh.
2.1.1. Nền Phật giáo thống nhất và được quý tộc hóa thời Trần
„Phật giáo thống nhất‟ ở đây được hiểu là một phái Phật giáo duy nhất được
hình thành bởi sự thống nhất các tông phái Phật giáo tồn tại trước đó. Nhiều nhà
nghiên cứu Phật giáo Việt Nam cho rằng, Phật giáo Trúc Lâm thời Trần định hình
và phát triển trên nền tảng từ Thiền phái Phật giáo Yên Tử. Thiền phái Phật giáo
Yên Tử là kết quả của sự thống nhất giữa ba dòng thiền có mặt tại nước ta thời Lý
là Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường. Tuy nhiên, Phật giáo Trúc
Lâm thống nhất ba dòng thiền lớn tại đại Việt đầu thời Trần với tên gọi rất phổ
thông là Thiền phái Trúc Lâm hình thành từ núi Yên Tử [26, tr.205]. Mặc dù, thiền
phái này hoàn thiện với vai trò của Trần Nhân Tông, nhưng trước đó đã được những
thiền sư ở thiền phái Yên Tử như Hiện Quang, Trúc Lâm, Đại Đăng, Tiêu Diêu, vua
Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ đặt những mảnh ghép nền tảng.
Sự thống nhất đó không đơn giản là sự hợp nhất về mặt hình thức để tiến tới
nền Phật giáo mang tính dân tộc của thời Trần, mà những tinh hoa, những nội dung
chú trọng hay những khuynh hướng ảnh hưởng của cả ba dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu
Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường đều hội tụ trong Thiền phái Trúc Lâm – Phật
giáo thống thời Trần. Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi bắt nguồn từ tư tưởng Bát Nhã, Tam
Luận và Hoa Nghiêm, có ảnh hưởng của Mật tông, đồng thời vừa chú trọng tư
tưởng “tính không”, coi trọng tâm ấn, nhưng vẫn nghiên cứu kinh luận và nhập thế
cứu đời, đặc biệt chịu ảnh hưởng của Phật giáo Ấn Độ hơn là Phật giáo Trung Hoa
[26, tr.145]. Trong khi đó, phái Vô Ngôn Thông được truyền vào từ Trung Hoa sau
44
khi đã có phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Thiền phái này thay vì chỉ sử dụng các kinh Bát
Nhã, đã sử dụng rất nhiều kinh Viên Giác, Pháp Hoa, nhấn mạnh chủ trương đống
ngộ, nhưng rất gần gũi với đời sống xã hội và tham dự vào đời sống nhập thế [26,
tr.176]. Cả hai phái này đều chịu ảnh hưởng Mật tông rất rõ nét. Phái Thảo Đường
chịu ảnh hưởng của tư tưởng trong Tuyết Đậu ngữ lục. Các sư Minh Trí (mất năm
1190) và sư Quảng Nghiêm (mất năm 1190) của phái Vô Ngôn Thông, sư Viên
chiếu (mất 1090), sư Chân Không (mất 1100) của phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi và sau
này phái Trúc Lâm cũng còn tiếp tục chịu ảnh hưởng tư tưởng của Tuyết Đậu, thiên
trọng trí thức và văn chương. Trong 10 vị sư Thảo Đường được ghi lại trong sách
Thiền uyển tập anh, thì có ba vị Bát Nhã, Không Lộ và Định Giác có khuynh hướng
Mật tông [26, tr.182-183]. Vậy tư tưởng Thiền học cũng như tư tưởng Mật tông và
Tịnh Độ giáo có trong ba phái đó cũng đã lưu truyền trong Phật giáo thống nhất của
thời Trần.
Việc Trần Nhân Tông vừa là vị Tăng thành lập Phật giáo Trúc Lâm vừa là một
vị vua quản trị đất nước đã đưa tới những đặc điểm của Phật giáo ở thời Trần không
giống với đặc điểm của Phật giáo ở nước ta trong bất cứ thời kỳ nào. Đáng chú ý
nhất trong những đặc điểm đó là Phật giáo “được quý tộc hóa”. Giới quý tộc bao
gồm những vị trong hoàng tộc, quan lại ủng hộ Phật giáo hơn bao giờ hết. Nhiều
người trong số họ xuất gia, quy y theo Phật. Thậm chí nhiều cư sĩ ở thời Pháp Loa
đảm trách vai trò lãnh đạo Phật giáo Trúc Lâm, như Hoài Linh hầu, Tư Đồ Văn Huệ
vương và Uy Huệ vương, Quốc Phụ thượng tể của Trần Anh Tông .v.v. không chỉ
thọ ngũ giới mà còn thọ Bồ Tát giới (một loại giới dành cho cả tăng sĩ và cư sĩ, gồm
48 giới trọng và 48 giới nhẹ) [55]. Điều đó có nghĩa rằng, ngay cả khi họ ở vị trí cư
sĩ tại gia thì họ vẫn muốn mình có những phẩm chất và phát huy vai trò như một tu
sĩ xuất gia. Như vậy, trong cộng đồng tu sĩ và cư sĩ Phật giáo thời Trần, những
người thuộc giới quý tộc chiếm con số rất đông. Đây cũng chính là một nguồn lực
hỗ trợ chính cho chính trị, là nguồn chủ lực cho văn hóa thời Trần.
Một phương diện khác cho thấy, Phật giáo thời Trần không chỉ được hỗ trợ về
mặt ủng hộ tinh thần của triều đình và dân chúng, mà còn được triều đình và giới
45
quý tộc hết sức hộ trì về mặt vật chất. Những tự viện và những đại tùng lâm thời
Trần hầu hết được xây dựng bởi tiền của của triều đình và giới quý tộc. Nơi nào có
hành cung của vua thì ở đó có chùa, ví dụ như ở phủ Thiên Trường hay phủ Long
Hưng [78, q.V]. Từ năm 1266, Bính Dần, Thiệu Long 9, vua Trần “xuống chiếu cho
vương hầu, công chúa, phò mã, cung tần chiêu tập dân phiêu tán không có sản
nghiệp làm nô tỳ để khai khẩn ruộng bỏ hoang, lập thành điền trang [thái ấp].
Vương hầu có trang thực bắt đầu từ đấy, [chùa thuộc điền trang cũng bắt đầu từ đây]
[78, q.V]. Không những thế, vua quan và giới quý tộc thời Trần còn cung cấp cho tự
viện Phật giáo những “Tam Bảo nô” (người nô lệ giúp việc, hầu hạ trong tự viện).
Điển hình là sự kiện năm 1324 (Giáp Tý, Khai Thái 1) “Tư Đồ Văn Huệ vương
cúng 300 mẫu ruộng ở Gia Lâm và 1000 mẫu có dư ở Động Gia trang và An Lưu
trang cùng hơn 1000 gia nô vào chùa Quỳnh Lâm cho ngôi thường trụ”[55]. Sự ủng
hộ về vật chất và nhân lực một mặt tạo điều kiện cho sự tạo dựng nơi tu tập, sinh
hoạt, thực hành Phật giáo, một mặt cũng tạo điều kiện lợi dưỡng cho cộng đồng
tăng ni. Điều kiện lợi dưỡng là chướng ngại thử thách lớn nhất cho phẩm chất tu sĩ
và cũng là một trong những nguyên nhân kích thích sự muốn xuất gia hưởng của
không ít những người muốn trốn lính, trốn phu thời Trần. Tình hình đó đưa tới một
số lượng khổng lồ tu sĩ Phật giáo thời cuối Trần như Trương Hán Siêu đã phản ánh
trong bi ký chùa Khai Nghiêm (Yên Phong, Bắc Ninh) “số lượng sư bằng nửa số
dân thường” [53]. Bên cạnh nhiều vị sư phạm hạnh, đắc đạo thì cũng có rất nhiều vị
sư chỉ dựa vào Tam Bảo như một chốn dung thân để hưởng sự lợi dưỡng. Số lượng
tăng sĩ khổng lồ và sự xuống cấp về phẩm chất của tăng sĩ như vậy đã đưa tới sự
mất quân bình lực lượng giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự kiện “đốc suất”
tu sĩ Phật giáo không có độ điệp, khỏe mạnh đi nhập ngũ đánh Chiêm Thành của
triều đình nhà Trần năm 1382 (Nhâm Tuất, Xương Phù 6) [78, q.VIII] là một động
thái nhằm giảm lượng tăng sĩ, bổ sung số lượng cho quân đội để đối trị với tình hình
kinh tế và an ninh quốc gia. Chưa dừng lại ở đó, năm 1386 (Bính Tý, Quang Thái 9),
vua Trần thực hiện sa thải những tu sĩ làm việc trong Tăng Đạo có tuổi đời dưới 50.
Đồng thời vua Trần cho sát hạch những tu sĩ 50 tuổi trở lên, ai đạt tiêu chuẩn sẽ
46
đảm nhiệm người đứng đầu Tăng đường, trụ trì chùa quán, còn lại làm người hầu
cho người tu hành [28, q.8]. Hành động này giúp loại bỏ những vị tu sĩ chưa đến
tuổi “tri thiên mệnh” khỏi những vị trí có chức năng quyết định các Phật sự trong
các chùa quán, vừa duy trì một số lượng người hầu cho những vị tu sĩ trên 50 tuổi
có trình độ đạo học đạt tiêu chuẩn.
Như vậy, ở thời Trần, Phật giáo về tư tưởng Phật học thì có xu hướng nhập thế,
vì dân hơn trước, nhưng về cộng đồng thực hành Phật giáo và đời sống sinh hoạt thì
có xu hướng quý tộc hóa bên cạnh dòng chảy đời sống sinh hoạt Phật giáo của cộng
đồng bình dân.
2.1.2. Cơ sở thờ tự Phật giáo thời Trần
Về nguyên nhân hình thành cơ sở thờ tự Phật giáo thời Trần, chúng ta có thể
thấy có ba nguyên nhân chính. Đó là kế thừa và trùng tu chùa chiền đã có từ trước,
chuyển đổi chức năng sử dụng của cơ sở công cộng và tạo dựng mới những cơ sở
thờ tự Phật giáo trong các điền trang của giới quý tộc.
Chùa Phật có từ trước, tức là chùa đã có từ thời Lý, theo Nguyễn Lang, ngoài
tự viện do triều đình, giới quý tộc xây dựng, còn có chùa do dân chúng tự xây cất ở
địa phương. Số lượng chùa tăng lên cùng với sự tăng lên của số tu sĩ xuất gia. Thời
này, chùa đã được phân cấp thành đại danh lam, trung danh lam và tiểu danh lam
[26, tr.202]. Sang thời Trần, việc trùng tu chùa cũ luôn được chú ý với cả ba loại đó
[78, q.V]. Không chỉ thế, những đợt trùng tu thường có tạo dựng thêm các hạng
mục mới, ví dụ như “làm thêm điện ở phía đông chùa, làm nhà ở phía sau chùa để
cúng lễ tổ tiên thần thánh” [78, q.VII]. Như vậy, trong khuôn viên chùa Phật đã có
thêm những hạng mục có chức năng thờ cúng tổ tiên của những người quý tộc, thờ
thần thánh ngoài những vị thuộc thế giới thiêng của Phật giáo. Do vậy, chùa đã
không chỉ có chức năng phục vụ sinh hoạt và thực hành Phật giáo, mà còn đáp ứng
nhu cầu tín ngưỡng, thể hiện văn hóa hiếu kính tổ tiên của người thời Trần.
Thời Trần, bên cạnh những chùa cũ có thêm chức năng mới như trên, thì còn
có thêm một lượng lớn chùa mới được hình thành từ sự chuyển đổi chức năng của
đình trạm – một loại công trình công cộng phổ biến ở thời Trần. Theo chính sử,
47
ngay từ năm 1231 (Tân Mão, Kiến Trung 7), vua Trần Thái Tông đã “xuống chiếu
rằng trong nước hễ chỗ nào có đình trạm đều phải đắp tượng Phật để thờ” [78, q.V].
Dù với nguyên nhân như Ngô Sĩ Liên cho rằng sự kiện này có mầm mống từ việc
sùng Phật thời Lý hay nguyên nhân để tránh cho việc các đình trạm phát triển thành
những nơi thờ tự những thế giới thiêng không phải của Phật giáo, thì số lượng đình
trạm này đã chuyển hóa thành chùa Phật một cách hợp pháp và có hệ thống trên cả
nước. Sự chuyển đổi một cách quan phương như vậy đã đưa những cơ sở không
chính ngạch Phật giáo trở thành cơ sở thờ tự chính ngạch của Phật giáo. Tính riêng
chùa cũ và chùa mới chuyển đổi này đã tăng thêm một số lượng khá lớn chùa chiền
Phật giáo chính ngạch.
Cùng với những chùa chiền được xây dựng và bảo hộ trong các điền trang của
giới quý tộc như đã nói ở trên, cơ sở thờ tự Phật giáo thời Trần với quy mô và số
lượng lớn đã trở thành một tiêu chuẩn để người ta đánh giá về sự hưng thịnh của
Phật giáo thời kỳ này. Không chỉ thế, ngoài chức năng thờ Phật và đáp ứng tín
ngưỡng của người Việt, chùa còn là nơi tổ chức những kỳ thi quan trọng của quốc
gia để tuyển chọn nhân tài cho đất nước. Chẳng hạn tháng 2 năm Giáp Tý, niên hiệu
Xương Phù 8 (1384) chùa Vạn Phúc trên núi Tiên Du (tỉnh Bắc Ninh) được chọn
làm nơi tổ chức thi Thái học sinh, năm đó lấy đỗ 30 người (trong đó có Đoàn Xuân
Lôi và Hoàng Hối Khanh) [78, q.VIII].
Một mặt vì quy mô những ngôi chùa như chùa Vạn Phúc lúc đó khá lớn và các
hạng mục rất bề thế. Mặt khác vì triều đình còn coi trọng sự hiện diện của Phật
trong đời sống giáo dục và tuyển chọn nhân tài. Theo chính sử, thời Trần tổ chức thi
Tam giáo, trong đó giáo lý Phật giáo được đưa vào nội dung của bài thi. Đại Việt sử
ký toàn thư ghi lại sự kiện chọn những người thông thạo đồng thời tư tưởng của
Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo trong cuộc thi “Tam giáo tử” năm 1227 (niên hiệu
Kiến Trung 3) và cuộc thi “thông Tam giáo” vào tháng 8 năm 1247 (niên hiệu
Thiên Ứng Chính Bình 16) [78, q.5]. Tình hình này không có trong thời Lý, cũng
chưa thấy có trong thời kỳ thuộc Minh, nhưng có dấu hiệu xuất hiện ở thời Lê sơ
qua tư liệu Lê triều đình đối văn của Lê Ích Mộc với 100 câu hỏi về Phật giáo [90].
48
Như vậy, có thể nói cơ sở tu học của Phật giáo thời Trần có quy mô lớn và số
lượng lớn với sự đầu tư chủ yếu của triều đình và giới quý tộc. Ở những cơ sở đó, triều
đình và cộng đồng được đáp ứng những nhu cầu tôn giáo, tín ngưỡng và giáo dục.
2.1.3. Mật tông trong dòng chảy Phật giáo thời Trần
Theo nghiên cứu của Nguyễn Lang (2000), Mật tông là giai đoạn phát triển
thứ ba của tư tưởng Phật Giáo đại thừa ở Ấn Ðộ. Trong truyền thống đó, giáo lý
nhấn mạnh tới “trực giác bồ đề” (năng lực giác ngộ giải thoát phi ngôn ngữ) cùng
với hình ảnh cụ thể và “mật ngữ” (ngôn ngữ bí mật) và phương pháp thực hành
nhấn mạnh tới “thiền tọa” (thiền ngồi), coi trọng “bồ đề tâm”, thường thực hành “lễ
quán đỉnh”. Chúng ta dễ dàng tìm thấy sự kết hợp tư tưởng thâm sâu của Bát Nhã
và tín ngưỡng nhân gian Ấn Độ. Trong sự thờ phụng đó, chấp nhận sự có mặt của
một số thần trong dân gian. Chính điều này khiến cho Phật giáo mang màu sắc Mật
tông nhanh chóng phát triển trong dân gian, và “ở Giao Châu khuynh hướng này rất
phù hợp với sinh hoạt tín ngưỡng và phong tục người Việt, vì vậy cho nên Mật tông
đã trở nên một yếu tố khá quan trọng trong sinh hoạt thiền môn” [26, tr.126].
Trong mục 2.1.1, luận án đã trình bày về Phật giáo thời Trần là nền Phật giáo
thống nhất trên nền tảng thống nhất ba phái Phật giáo hiện diện ở Đại Việt thời Lý, đó
là các phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường. Tuy rằng, nhiều nhà
nghiên cứu gọi ba phái Phật giáo này là Thiền phái, nhưng bên trong tư tưởng và thực
hành của họ không thuần túy là Thiền. Hai trong ba phái đó đã có màu sắc Mật tông rõ
nét trong tư tưởng và thực hành, đó là Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông.
Về tư tưởng của Tỳ Ni Đa Lưu Chi, theo ghi chép của soạn giả Kim Sơn
(Thiền phái Trúc Lâm) năm 1337, Tỳ Ni Đa Lưu Chi “Chùa Pháp Vân, làng Cổ
châu, Long Biên. Người nước Nam Thiên Trúc, dòng Bà la môn. Từ nhỏ đã mang
chí xuất tục, đi khắp Tây trúc, cầu tâm ấn Phật. Nhân duyên đạo chưa gặp, bèn cầm
gậy sang Đông Nam”[54, tr.94-95]. Ông đến Trung Quốc gặp sư Tăng Xán, rồi
nghe lời sư Tăng Xán đi về phương Nam hành đạo. Tới chùa Chế Chi ở Quảng
Châu, ông dịch Kinh Tượng Đầu và kinh Nghiệp báo sai biệt. Qua Đại Việt đến
chùa Pháp Vân, làng Cổ Châu (Long Biên) ông dịch các Kinh Ðại thừa phương
49
quảng tổng trì. Kinh Ðại thừa phương quảng tổng trì là bộ kinh mang tư tưởng của
Mật tông Ấn Độ. Sự dịch kinh Phật sang ngôn ngữ bản địa luôn bắt nguồn từ nhu
cầu sử dụng để truyền bá lý thuyết và thực hành theo tư tưởng đó. Như vậy, bên
cạnh dịch cuốn Kinh Tượng Đầu Tinh Xá có tính chất Thiền học và văn học Bát
Nhã để làm căn bản cho sự hành thiền ở Giao Châu, ông còn dịch một cuốn kinh
mang lý thuyết và cách thực hành Mật tông như một phương thức bổ sung cho sự
thực hành Phật giáo ở đây. Cũng trong nghiên cứu của Nguyễn Lang [26], Tỳ Ni Đa
Lưu Chi là người dùng từ “tâm ấn” sớm nhất trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.
Ngày nay trong cộng đồng thực hành Mật tông, Kinh Đại Nhật được xem là một
kinh quan trọng nhất và phổ biến nhất, bộ kinh này có nội dung nói về tâm ấn. Như
vậy có thể nói, màu sắc Mật tông xuất hiện cả trong tư tưởng và thực hành của Tổ
sư phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Những đệ tử của phái này đã có không ít người mang tư
tưởng và thực hành sâu về Mật tông. Trong đó, sư Đạo Hạnh (tên đầy đủ là Từ Đạo
Hạnh, còn gọi là Từ Công, mất 1112) thuộc thế hệ thứ 12 của phái này là một điển
hình. Bản sắc Mật tông trong dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã chảy tự nhiên vào
sinh hoạt Phật giáo của thời Trần ngay trong Phật giáo Trúc Lâm biểu hiện ở sự thực
tập của sư Pháp Loa (Tổ thứ hai Phật giáo Trúc Lâm) và Huyền Quang (Tổ thứ ba của
Phật giáo Trúc Lâm) và Phật giáo nhân gian biểu hiện qua sự thờ phụng và cầu đảo nơi
thờ tự sư Đạo Hạnh ở thời Trần sau này. Đặc biệt, vào thời Trần Anh Tông, thời kỳ
trong nước nhiều người sùng chuộng Mật tông, ông đã ra thánh chỉ về việc cấp ruộng
thờ Thiền sư Từ Đạo Hạnh ở chùa Thiên Phúc (chùa Thầy), núi Sài [108].
Một thành viên hợp nhất trong dòng chảy của Phật giáo Trúc Lâm nữa là tư
tưởng và thực hành của phái Vô Ngôn Thông. Bản thân phái này cũng có ảnh
hưởng Mật tông. Sư Không Lộ và sư Giác Hải thuộc phái Vô Ngôn Thông, là bạn
của sư Đạo Hạnh, đều là những nhân vật tiêu biểu ảnh hưởng Mật tông. Họ đã từng
đến Ấn Độ học Mật tông, đạt tới “lục trí thần thông” [26, tr.172]. Một trong bốn tác
phẩm nghệ thuật lớn thời Lý được gọi là “tứ đại khí” mà sư Không Lộ đã tạo ra, là
tháp chùa Báo Thiên sau này được xem như một nơi quan trọng trong nghi lễ Phật
giáo cấp quốc gia của thời Lý Trần và thời Lê sơ.
50
Ngoài ra, sự xuất hiện những vị sư Mật tông người nước ngoài cũng là một
yếu tố làm rõ hơn màu sắc Mật tông trong đời sống Phật giáo ở Đại Việt thời Trần.
Ngay khi Phật hoàng Trần Nhân Tông còn tại thế, triều đình đã tiếp đón những vị
sư tu theo Mật tông từ nước ngoài đến. Tiêu biểu là sư Du Già sang Đại Việt năm
1302 (Giáp Thìn, Hưng Long 12) với đặc điểm “chỉ ăn sữa bò”[78, q.VI]. Cũng
trong quyển VI này, ghi lại sự kiện vào năm 1311 (nhằm năm Tân Hợi, niên hiệu
Hưng Long 19) vua Trần nhận con gái của sư Du Chi Bà Lam (một vị sư người Ấn
Độ tu theo Mật tông) vào làm cung nhân. Vị sư này “đã sang vào thời Nhân Tông,
vẻ người già nua, tự nói là 300 tuổi, có thể ngồi xếp bằng nổi trên mặt nước, lại có
thể thu cả ngũ tạng lên ngực, làm cho trong bụng lép kẹp chỉ còn da bụng và xương
sống thôi. Sư chỉ ăn lưu hoàng, mật, rau dưa, ở mấy năm thì về nước, đến nay lại
sang ta. Vua lấy con gái sư là Đa La Thanh vào cung. Nhà sư sau mất ở kinh sư”
[78, q.VI]. Sau đó không lâu vào thời Trần Minh Tông, chính sử cũng ghi lại sự
kiện sư Bồ Đề Thất Lý (người Ấn Độ, tu theo Mật tông) sang Đại Việt cũng có khả
năng đi trên mặt nước [78, q.VI]. Ngay việc ghi chép của nhóm sử quan Ngô Sĩ
Liên thời Lê sơ cũng chú ý tới khía cạnh thần thông của các vị sư này như một dấu
ấn tiêu biểu không thể không ghi lại. Có thể thấy, tới đây, từ Mật tông trong phái Tỳ
Ni Đa Lưu Chi, đến Vô Ngôn Thông đến sư Du Chi Bà Lam hay Bồ Đề Thất Lý
đều có nguồn từ Ấn Độ, đa số là du nhập trực tiếp. Với khoảng thời gian những vị
sư này ở đây đã ít nhiều truyền bá tư tưởng và thực hành Mật tông cho những người
trong cung đình và nhân gian.
Đặc biệt nhất là, chính hai trong ba phái Phật giáo sáp nhập thành Phật giáo
thống nhất thời Trần và sự xuất hiện của những sư Mật tông người nước ngoài đã
đưa vào dòng chảy của Phật giáo Trúc Lâm và Phật giáo nhân gian ở Đại Việt
những tư tưởng và thực hành ảnh hưởng của Mật tông. Mặc dù, tư tưởng “cư trần
lạc đạo” – điểm mà Thiền gần với Nho nhất - chi phối toàn bộ văn chương và toàn
bộ nhân cách của vị tổ thứ nhất Phật giáo Trúc Lâm – Trần Nhân Tông, nhưng
người ta thấy trong thực hành Phật giáo của những đệ tử của Ngài mang nhiều màu
sắc Mật tông. Chẳng hạn, chính sử còn ghi chép về người đệ tử phụng hầu sát bên
51
cạnh Phật hoàng Trần Nhân Tông là Trí Thông vào lúc Nhân Tông xuất gia, đã có
năng lực “tự đốt cánh tay mình, từ bàn tay đến tận khuỷu tay, vẫn ung dung không
biến sắc” và nói “Thần tăng đốt đèn đó! Đốt đèn xong, về viện ngủ kỹ, ngủ dậy, chỗ
bỏng lửa phồng lên sẽ khỏi hết!” [78, q.VI]. Tư liệu bi ký còn ghi về sự thực tập “trì
chú, lễ Phật chẳng ngơi” của sư Pháp Loa (đệ tử chân truyền của Phật Hoàng Trần
Nhân Tông) vào khoảng từ những năm 1310 (Canh Tuất, Hưng Long 18). Và có lẽ
đến chừng những năm 1320 trở đi, khi sự thực thành Mật tông đã có chiều sâu, sư
Pháp Loa đã bắt đầu “truyền thụ Tâm giới Bồ đề”[55] theo nhu cầu của Huệ Nhân
đại vương ở chùa trên núi Vũ Ninh (ngày 16 tháng 3 năm 1320) và mở hội “quán
đỉnh” theo sự thỉnh mời của Bảo Từ thái hậu [78, q.VI], trao truyền Bồ tát giới cùng
phép quán đỉnh cho Tư Đồ Huệ Vương và Uy Huệ Vương ở chùa Siêu Loại (tháng
9, năm 1323), là lễ quán đỉnh ở chùa Tư Phúc trong Đại Nội (ngày 1 tháng 5 năm
1326 – Bính Dần, Khai Thái 3). Bên cạnh đó, năm 1321, sư Pháp Loa còn đúc một
tòa tượng Thiên Thủ Đại Bi – tòa tượng mô phỏng thế giới thiêng của Mật tông.
Ngay trong tháng 12 của năm đó, Phật giáo Trúc Lâm cho thi tăng nhân, đề bài hỏi
về kinh Kim Cương mang tư tưởng Mật tông rõ nét [55]. Như vậy, ngay trong thời
gian sư Pháp Loa “điều hành” Phật giáo Trúc Lâm, Ông đã khiến Mật tông hiện
diễn rõ hơn trong đời sống Phật giáo Đại Việt cả ở niềm tin, thực hành và thờ phụng,
riêng trong giới cư sĩ chủ yếu là giới quý tộc.
Mặt khác, theo nghiên cứu của Lê Mạnh Thát, Phật Hoàng Trần Nhân Tông
chủ trương đặt gánh nặng truyền bá và bảo vệ Phật giáo lên hẳn vai của các tầng lớp
cư sĩ Phật tử tại gia: “Việc duy trì Phật pháp là nằm ở quốc vương đại thần” [38,
chương 1]. Trong cộng đồng cư sĩ Phật tử tại gia là quốc vương đại thần từ thời
Pháp Loa cho tới hết thời Trần bao gồm những vị đã hướng theo niềm tin và thực
hành Phật giáo có màu sắc Mật tông như Trần Anh Tông, Bảo Từ Thái Hậu, Huệ
Nhân vương, Tư Đồ Huệ Vương và Uy Huệ Vương .v.v. Nhiệm vụ quan trọng đó
khi được thực hiện một cách tự nhiên truyền bá yếu tố Mật tông ra khắp cộng đồng
không phân biệt tầng lớp, địa vị.
52
Như vậy, có thể nói rằng, theo tư liệu Hán Nôm, ngay trong giai đoạn phát
triển rực rỡ nhất của Phật giáo ở Đại Việt, màu sắc Mật tông đã hình thành rõ nét
trong đời sống của dòng Trúc Lâm và trong đời sống Phật giáo nhân gian. Điều này
cơ bản gợi ý những lý giải về niềm tin và nghi lễ Phật giáo thời Lê sơ sau này.
2.1.4. Phật giáo ở Đại Việt dưới thời thuộc Minh
Theo tư liệu Hán Nôm, nhà Minh không chỉ quan tâm tới Phật giáo Đại Việt
từ khi chính thức quản trị vùng đất này, mà ngay từ thời Trần đã có những động thái
nhằm sử dụng tu sĩ Phật giáo của Đại Việt để phục vụ cho đời sống Phật giáo ở đất
nước của họ.
Với quyền bảo hộ của một nước lớn đối với một nước nhỏ, nhà Minh nhiều
lần yêu cầu nhà Trần phải cống nạp những nhân lực có kỹ năng sang phục vụ cho
“thiên triều”. Tư liệu Chính sử ghi nhận ít nhất hai lần yêu cầu đó. Vào tháng ba
năm 1385 (nhằm năm Ất Sửu, niên hiệu Xương Phù thứ 9), 20 tu sĩ Phật giáo Đại
Việt đã được đưa sang Trung Quốc theo yêu cầu của vua Minh Thái Tổ (tên thật là
Chu Nguyên Chương, làm vua từ 1368-1398) với lý do rất rõ ràng “Tăng nhân nước
Nam biết dựng đạo tràng giỏi hơn tăng nhân phương Bắc” [78, q.VIII]. Tuy có sự
nhận định tu sĩ Phật giáo nhà Trần giỏi hơn tu sĩ Phật giáo nhà Minh, nhưng lý do
chính để họ cần tu sĩ Phật giáo nhà Trần không phải ở sự tu “chứng đắc” quả vị nào
đó hoặc có đời sống phạm hạnh, mà là ở khả năng “gây dựng đạo tràng”, khả năng
tạo dựng và tổ chức một cộng đồng Phật giáo. Việc gây dựng đạo tràng cho phép
mở rộng và gắn kết cộng đồng Phật giáo. Mỗi cộng đồng đó là một lực lượng xã hội
sẵn sàng góp phần vào sự lớn mạnh triều đình và sự quản trị quốc gia của Minh
Thái Tổ. Cũng với lý do như trên, tháng 6 năm 1395 (nhằm năm Ất Hợi, niên hiệu
Quang Thái thứ 8), Minh Thái Tổ tiếp tục yêu cầu nhà Trần cống nạp tu sĩ Phật giáo,
những phụ nữ giỏi xoa bóp, những hoạn quan [78, q.VIII]. Điều đáng lưu ý rằng,
đối với nhà Minh, ở thời kỳ này, tu sĩ Phật giáo Đại Việt chỉ có ích khi phục vụ cho
những ý đồ chính trị của họ. Đây là yếu tố ảnh hưởng không nhỏ tới sự “điều chỉnh”
của triều đình Lê sơ sau này đối với tu sĩ Phật giáo.
53
Khi Đại Việt bước vào thời kỳ thuộc Minh cũng chính là lúc Minh Thành Tổ
(lúc đầu gọi là Minh Thái Tông, tên thật là Chu Đệ, trị vì từ năm 1404 – 1424) vừa
lên ngôi. Động thái của nhà Minh với Phật giáo Đại Việt lúc này đã thay đổi. Việc
Chu Đệ làm đầu tiên sau khi chiếm được Đại Việt không phải là đưa tu sĩ Phật giáo
về Trung Nguyên mà là “Binh lính vào nước ấy, ngoại trừ sách kinh và ván in của
đạo Phật, đạo Lão không thiêu hủy; tất cả thư tịch, ván in cho đến những loại giấy
trẻ con quê mùa tập viết như “Thượng đại nhân, Khưu ất dĩ”, một mảnh một chữ
đều phải hủy hết” (tháng 6 năm 1406) [103]. Việc hủy thư tịch nước Nam không
hẳn như nhận xét của nhiều nhà nghiên cứu là “hủy hết”, mà riêng thư tịch và ván in
Phật giáo và Đạo giáo đều được giữ nguyên.
Ngay sau sự kiện trên, cư dân trên lãnh thổ nước Nam thời thuộc Minh còn
chứng kiến một cảnh tượng hủy hoại biểu tượng tôn giáo kinh hoàng hơn hủy thư
tịch. Đó là “xác Thiền sư Từ Đạo Hạnh ở chùa núi Thạch Thất [và Thiền sư Nguyễn
Bình An ở chùa Quảng Nghiêm] bị giặc đốt cháy [78, q.III]”. Đây là hai vị tu sĩ
Phật giáo đắc đạo thời Lý, đã và đang có ảnh hưởng rất lớn trong đời sống văn hóa
và tâm linh trên lãnh thổ Đại Việt. Cộng đồng người Đại Việt từ lâu đã hướng về
biểu tượng tâm linh này với một niềm tin sâu sắc. Rất nhiều chùa đã thờ vị Thánh
tăng này. Chắc hẳn sự kiện này đã gây ra một cuộc khủng hoảng tâm linh lớn. Có lẽ
sự hủy diệt này nhằm phá vỡ tâm thức văn hóa cũ của người Nam, và chuẩn bị cho
một sự thiết lập biểu tượng và đời sống văn hóa mới mang màu sắc “thuộc Minh”
trên lãnh thổ Đại Việt.
Vì chỉ nhằm lật đổ hình tượng văn hóa Phật giáo và tâm linh của người Việt,
Minh Thành Tổ chỉ đốt xác hai thiền sư từ thời Lý mà không động ra lệnh giết hại
những tu sĩ Phật giáo Đại Việt. Chẳng hạn, vào tháng 10 mùa đông năm 1414
(nhằm năm Giáp Ngọ, niên hiệu Minh Vĩnh Lạc thứ 12), bên cạnh việc mở trường
học và tìm những Nho sĩ bản địa để vào dạy ở các trường đó, Hữu tham tri Bành
Đạo Tường (quan lại của nhà Minh) đã hạ lệnh cho các phủ, châu, huyện ở nước
Nam phải “lấy lễ mà thỉnh mời các nhà sư và đạo sỹ” [78, q.IX]. Những người này
được đưa về Yên Kinh (Trung Quốc) trao cho chức quan rồi lại trở về địa phương
54
làm việc (tháng 9 năm 1415, Ất Mùi, Minh Vĩnh Lạc thứ 13). Đây cũng chính là lực
lượng truyền bá tư tưởng, tôn giáo, và phổ cập văn hóa mới ở Đại Việt theo chủ
trương của nhà Minh. Vì vậy, tới thời điểm này, biểu tượng Phật giáo Đại Việt bị
hủy, nhưng thư tịch, ván in Phật giáovà tu sĩ Phật giáo chưa bị đàn áp tính mạng.
Sau đó chừng bốn năm, vào khoảng đầu năm 1419 (nhằm năm Kỷ Hợi, niên
hiệu Vĩnh Lạc thứ 17, kỷ thuộc Minh), ở khắp các phủ, châu, huyện trên lãnh thổ
nước Nam xuất hiện các sách Ngũ kinh, Tứ thư, Tính lý đại toàn, Vi thiện âm chất,
Hiếu thuận sự thực được đưa từ Trung Nguyên sang. Đồng thời, nhà Minh “sai
Tăng học truyền giảng kinh Phật tại Tăng Đạo ty” [78, q.X]. Hiện nay chưa có đủ
chứng cứ để chỉ rõ những kinh Phật được truyền giảng cụ thể là những kinh gì,
nhưng với chủ trương phổ cập văn hóa Hoa Hạ ở trên thì có lẽ là những bộ kinh
Phật được đưa sang cùng với những sách Ngũ kinh, Tứ thư, Tính lý đại toàn, Vi
thiện âm chất, Hiếu thuận sự thực này. Chúng tôi cũng chưa thấy cứ liệu về việc
đưa Tăng sĩ người Trung Quốc sang, cho nên tạm thời có thể nói những vị tu sĩ
truyền giảng kinh Phật này là tu sĩ Phật giáo nước Nam, mà chính là những vị đã
được “thỉnh mời” sang Yên Kinh nhận chức vào tháng 9 năm 1415. Mặt khác theo
thống kê của Cao Hùng Trưng thì thời kỳ này ở Đại Việt có 11 người gương mẫu về
đạo Phật (gọi là Ty tăng cương), có 24 người đứng đầu trong giới tăng chúng (gọi là
Ty tăng chánh), có tới 63 hội tập hợp những người tu đạo (gọi là Ti tăng hội) [106,
tr.226-227]. Đây là một lực lượng tu sĩ Phật giáo khá đông đảo và phổ khắp lãnh
thổ Đại Việt thời thuộc Minh. Nội dung truyền bá đã có và lực lượng truyền giảng
không hề mỏng.
Về chùa Phật thời thuộc Minh, Cao Hùng Trưng [106, tr.231] thống kê ở Đại
Việt có tới 469 ngôi chùa (trong khi đó quán Đạo giáo chỉ có khoảng 92 ngôi). Tiêu
biểu như chùa Tự Phúc, am biện Tài, am Cực Lạc trên núi Tiên Tích (núi Thầy, Sài
Sơn, nay là Hà Nội); chùa Vạn Phúc, chùa Vĩnh Phúc, am Nguyệt Thường, chùa
Kim Ngưu trên núi Lạn Kha (nay là xã Phật Tích, Bắc Ninh); chùa Đại Lãm, chùa
Thần Quang ở huyện Từ Sơn (Bắc Ninh); chùa Long Khánh, chùa Thê Nhân ở Bắc
Giang; chùa Long Động, chùa Hoa Đăng, am Tử Tiêu, chùa Linh Khánh, Quỳnh
55
Lâm, Thiên Liêu, Cam Lộ, Sơn Nham (núi Yên Tử); trên núi Côn Sơn (Hải Dương)
có chùa Tư Phúc, động Thanh Hư, am Bạch Vân; trên núi Long Đại có động Khế
Long, chùa Du Anh; chùa Phổ Minh (Nam Định ngày nay); trên núi Tam Đảo (Vĩnh
Phúc ngày nay) có có am Vân Tiêu, am Song Tuyền, am Lưỡng Phong; ở Diễn
Châu (Nghệ An) có động Ngọc Hoa thờ Phật. Xét về nghệ thuật kiến trúc, Cao
Hùng Trưng đánh giá một đặc điểm chung của những ngôi chùa này rất đẹp, lạ, u kỳ,
huyền ảo. Số lượng và vai trò của những ngôi chùa này là nơi tu học lý tưởng cho
cộng đồng tăng sĩ Phật giáo và là nơi nương tựa cho những tín đồ Phật giáo tại gia
thời kỳ này.
Vì thế, từ tư liệu Hán Nôm có thể nhận định rằng, về mặt chính trị, nhà Minh
thực hiện chính sách hủy diệt văn hóa Đại Việt, đồng hóa văn hóa bằng chính người
Đại Việt, nhưng về mặt tôn giáo đã được duy trì phần nào Phật giáo và Đạo giáo.
Cho nên, nếu nói Phật giáo ở Đại Việt thời thuộc Minh bị hủy hoại và gián đoạn là
không hoàn toàn hợp lý, mà phải nói rằng Phật giáo vẫn tiếp tục hiện diện ở Đại
Việt thời thuộc Minh với đầy đủ những phương diện cần phải có của một tôn giáo
(tu sĩ, kinh, cơ sở thờ tự). Đời sống Phật giáo ở đây đang đi theo một lộ trình mới.
Chính điều này đã là một tiền đề quan trọng cho sự hiện diện của Phật giáo ở thời
Lê sơ.
2.2. Bối cảnh xã hội Đại Việt thời Lê sơ (1428 – 1527)
Phật giáo với tư cách là một hệ thống văn hoá xã hội, luôn phát triển cùng với
bối cảnh xã hội, đồng thời không thể tách rời với cuộc đời của mỗi cá nhân, gia đình
và cộng đồng [2, tr.42]. Trong Phật giáo thời Lê sơ luôn bao hàm nhân tố luân lý,
pháp luật và tư tưởng, triết học .v.v. Sự nổi bật hay mờ nhạt của mỗi phương diện
nào đó của Phật giáo có liên quan đến các khía cạnh của đời sống xã hội. Cho nên
trong phần này, Luận án lựa chọn trình bày khái quát về những khía cạnh nổi bật
như, tình hình kinh tế - chính trị, văn hoá và giáo dục, đời sống tín ngưỡng, tôn giáo
thời Lê sơ để làm cơ sở cho những phân tích về đời sống Phật giáo thời Lê sơ ở
chương 3, cũng như ảnh hưởng của nó trong đời sống văn hoá ở chương 4.
56
2.2.1. Tình hình chính trị, kinh tế, xã hội thời Lê sơ
Tình hình kinh tế - chính trị thời Lê sơ có thể được chia thành ba giai đoạn. Đó
là giai đoạn khôi phục đất nước sau chiến tranh, giai đoạn phát triển đất nước thành
một quốc gia cường thịnh trong khu vực thời kỳ đó và giai đoạn suy thoái. Giai
đoạn khôi phục đất nước bao gồm ba đời vua: Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông và Lê
Nhân Tông, bắt đầu tính từ khi Lê Lợi lên ngôi cho tới khi Lê Thánh Tông lên ngôi
thay cha, anh lãnh đạo đất nước. Giai đoạn phát triển quốc gia gồm các đời: Lê
Thánh Tông, Lê Hiến Tông, Lê Túc Tông, Lê Tương Dực. Giai đoạn suy thoái có
thể tính từ khi Lê Tương Dực bị giết cho tới khi Mạc Đăng Dung chiếm ngôi (năm
1527), lập lên nhà Mạc.
Ở giai đoạn đầu, Lê Lợi (黎利, sinh năm 1385, mất năm 1433), với sự phò tá
đắc lực của Nguyễn Trãi (阮廌, sinh năm 1380, mất ngày 19 tháng 9 năm 1442) và
một số vị khác, sau khi thực hiện cuộc kháng chiến chống Minh thành công, đã lên
ngôi làm vua Lê Thái Tổ và bắt đầu tiến hành công cuộc khôi phục đất nước sau
chiến tranh trên các tầng diện: vật chất, kết cấu và tinh thần.
Về tình hình chính trị, ngay sau chiến thắng quân Minh, nhà cầm quyền nhà
nước Lê sơ non trẻ đối mặt với sự lựa chọn tư tưởng quản trị quốc gia. Dường như
chỉ có hai lựa chọn trong bối cảnh này là tư tưởng Nho giáo và tư tưởng Phật giáo.
Phật giáo ở nước ta từ thời Đinh, Lê, Lý đến Trần đã đóng vai trò là hệ tư tưởng chủ
đạo trong quản trị quốc gia. Tuy nhiên, Phật giáo cuối Trần do nhận được sự ủng hộ
quá nhiều của nhà nước và nhân dân, đã bộc lộ nhiều tệ đoan và trở thành gánh
nặng cho xã hội. Phật giáo tới cuối Trần dường như đã hoàn thành chức năng nhập
thế của nó ở lĩnh vực trực tiếp tham gia chính trị ở Đại Việt. Dưới thời thuộc Minh,
Phật giáo ở Đại Việt đã bị Minh hóa cả ở kinh điển và cung cách sinh hoạt. Trong
khi đó, Nho giáo ngay từ cuối thời Trần với cộng đồng Nho sĩ ngày một đông đảo
đã trở thành một tôn giáo được ưa chuộng tại Đại Việt. Nhân cách lý tưởng của con
người theo tư tưởng Nho giáo là “nhập thế”, “hữu vi”, thực hiện tiến thủ trong
“nhân trị” để đạt tới “nhân”, “lễ”. Tiến trình hoàn thành nhân cách đó là “cách vật,
trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” [2]. Đó là những lý
57
do chính đưa tới sự kiện tư tưởng Nho giáo được lựa chọn làm hệ tư tưởng chính trị,
hoàn toàn thay thế sự ảnh hưởng trực tiếp của tu sĩ Phật giáo trên lĩnh vực này.
Trước sự chưa ổn định của mô hình nhà nước đầu thời Lê sơ, Lê Thánh Tông
đã tiến hành những cải cách quan trọng. Ông thực hiện mô hình nhà nước quân chủ
trung ương tập quyền trên nền tảng tư tưởng Nho giáo. Từ đó, chính sách đối với
nho sĩ được đặc biệt quan tâm như: xây dựng trường học, tổ chức khoa thi. Vật chất,
phép quân điền thời Lê Thánh Tông, dành cho tầng lớp học sinh, kẻ sĩ những ưu ái
đặc biệt về ruộng đất như nho sinh ở Sùng Văn Quán được 7 phần, sinh đồ được 5,5
phần … khẩu phần cao hơn nhiều so với nông dân (3,5 phần); miễn binh dịch, lao
dịch cho nho sĩ (1434 định lệ tuyển binh lính, các giám sinh ở Quốc tử giám đều
được miễn. Năm 1488, Lê Thánh Tông ban chiếu khuyến học, “từ nay các sĩ nhân
từng đi học, biết làm văn, có hạnh kiểm, đã thi đỗ và được miễn tuyển được miễn
nửa phần thuế và sai dịch, để mở rộng phần ý nghĩa nuôi dưỡng nhân tài của triều
đình [48, tr.502]. Với động thái này, Nho giáo được mở rộng hơn nữa trong văn hóa
giáo dục của thời Lê sơ. Một mặt Nho giáo nữa đầy lùi vai trò của Phật giáo trên
lĩnh vực giáo dục.
Cùng với mô hình nhà nước quân chủ trung ương tập quyền, Lê Thánh Tông
chủ trương xây dựng và sử dụng pháp luật để khuyến thiện trừng ác cho dân, giữ an
ninh quốc gia đã đưa tới sự ra đời của Quốc triều hình luật [69]. Những quy định
trong bộ luật này không chỉ bao quát về vĩ mô của đời sống xã hội, mà còn đi vào
chi tiết cụ thể rõ ràng đối với các cơ tầng của văn hóa, từ tầng diện vật chất đến tầng
diện kết cấu và tầng diện tinh thần, thiết lập kỷ cương xã hội bằng pháp luật. Trong
những quy định đối với tầng diện tinh thần, các tôn giáo, tín ngưỡng đều chịu sự
điều chỉnh của luật rất cụ thể và chi tiết. Mọi hoạt động của Phật giáo vì thế cũng
phải nằm trong khuôn khổ của những quy định này.
Theo Trương Vĩnh Khang [25, tr.61], mô hình nhà nước quân chủ tập quyền
quan liêu dựa trên nền tảng tư tưởng chính trị - pháp lý Nho giáo đã đáp ứng được
yêu cầu đó của lịch sử. Trong những lý do, có lý do là “sự khủng hoảng về thiết chế
chính trị trong quá trình chuyển từ thiết chế chính trị phong kiến quý tộc Phật giáo
58
sang thiết chế chính trị phong kiến quan liêu Nho giáo”. Do vậy, thiết chế chính trị -
pháp lý này đưa tới sự thay đổi mạnh mẽ cục diện giữa các tôn giáo, đặc biệt là giữa
Nho giáo và Phật giáo, trong đó diện mạo của Phật giáo sẽ thay đổi rất lớn so với
diện mạo Phật giáo trước thời kỳ này.
Về tình hình kinh tế, từ triều Trần sang triều Lê sơ, trải qua khủng hoảng cuối
Trần và chiến tranh chống quân Minh, kinh tế điền trang đã bị phá vỡ, nhưng kinh
tế hàng hóa chưa phát triển. Nền kinh tế - xã hội sau chiến tranh không đáp ứng
được cơ sở nền tảng cho sự thống nhất quốc gia và dân tộc. Điều kiện lịch sử này
đặt ra vấn đề phải có chính sách kinh tế phù hợp. Theo tư liệu chính sử [78, q.8],
ngay sau chiến tranh, Lê Thái Tổ cùng với các công thần tiến hành quá trình xây
dựng và phát triển đất nước. Một trong những việc quan trọng hàng đầu là triều đình
thiết lập lại làng xã, giải quyết vấn đề dân lưu tán. Nhà nước Lê sơ tịch thu ruộng
đất từ quân xâm lược, từ những kẻ làm tay sai cho giặc, từ những quý tộc khai khẩn
đất hoang, thu gom ruộng đất chia sẻ cho những người có công trong cuộc chiến
theo chế độ lộc điền, cho những người lao động theo chế độ tỉnh điền (chia làm 9
phần), thúc đẩy sản xuất nông nghiệp. Hành động nhằm ổn định làng xã này là một
tiền đề quan trọng cho một nền sản xuất nông nghiệp ổn định để khôi phục kinh tế
đất nước sau chiến tranh. Bởi vì, nền kinh tế thời Lê sơ chủ yếu dựa trên kỹ thuật
canh tác nông nghiệp. Đồng thời, trong nửa đầu thời Lê sơ, nhiều lần nhà nước phải
giảm nhẹ tô thuế, cứu tế dân nghèo để ổn định đời sống vật chất cho nhân dân. Sự
ổn định làng xã, cứu tế xã hội của các vua đầu thời Lê sơ có ảnh hưởng rất lớn tới
sự khôi phục sinh hoạt của chùa Phật và tình hình sở hữu vật chất của cơ sở thờ tự
Phật giáo ở các làng xã.
Cũng theo tư liệu chính sử [78, q.8], kinh tế Đại Việt vào nửa sau thời Lê sơ
có sự chuyển biến vượt bậc. Lê Thánh Tông trên cơ sở ổn định làng xã nói trên đã
triển khai triệt để chính sách “tỉnh điền” trong phân bổ ruộng đất tại địa phương rất
hiệu quả. Cùng với sự ổn định làng xã và chính sách “ủ binh ư nông”, nền kinh tế
nông nghiệp Đại Việt dần dần không những được phục hồi mà còn phát triển đặc
biệt thịnh vượng vào thời Hồng Đức. Tiềm lực kinh tế trong nhân dân đã phát triển
59
mạnh mẽ đủ sức không chỉ đáp ứng đời sống vật chất mà còn đầu tư vào những cơ
sở thờ tự phục vụ nhu cầu tinh thần, đời sống tâm linh. Tình hình này đã đưa tới
những biểu hiện về tình hình xây dựng chùa Phật giáo tư nhân ở nhiều địa phương
như đã được gián tiếp đề cập trong Quốc triều hình luật [69].
Cùng với phát triển nông nghiệp, thời Lê sơ các ngành nghề thủ công gia đình
cũng có điều kiện phát triển. Mặc dù trọng nông thì ức thương, nhưng nhiều nghề
truyền thống ở từng địa phương như dệt vải, đan lát, dệt chiếu, làm nón, v.v... cũng
đã làm xuất hiện ngày càng nhiều. Ví dụ, Kinh Bắc có làng gốm ở Bát Tràng,
nhuộm vải ở Văn Giang, nung vôi ở Yên Thế, làm the ở Sơn Nam.v.v. Thăng Long
có 36 phường thủ công, như: làm kiệu, áo giáo và lọng ở phường Tàng Kiến, làm
giấy ở phường Yên Thái, dệt lụa dệt vải ở phường Thụy Chương và Nghi Tàm .v.v.
[34, tr.31-32]. Như vậy, đi liền với chính trị và kinh tế, thời Lê sơ có bốn tầng lớp
xã hội cơ bản: sĩ, nông, công, thương. Cùng với tình hình văn hóa – giáo dục, các
tầng lớp xã hội này có những biến động đáng kể so với thời Trần, và trong xã hội
đương dại. Cộng đồng Phật giáo cũng vì thế có những biến động đáng kể so với
trước thời Lê sơ và có sự giao lưu với các thực thể xã hội khác. Tuy nhiên, với
nghiên cứu của Phan Đại Doãn [14,tr.78-85] và Phan Huy Lê [29, tr.16-17] chúng
ta có thể thấy rằng, thời Lê sơ việc chuyển đổi kinh tế cơ bản từ điền trang sang
quân điền đã đưa tới sự ảnh hưởng đối với Phật giáo trong thế đối sánh với Nho
giáo và trong môi trường làng xã được gia cố thêm tính tự trị cao.
2.2.2. Đời sống văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng thời Lê sơ
2.2.2.1. Đời sống văn hóa thời Lê sơ
Thời Lê sơ, chính trị với tư tưởng chủ đạo không phải là Phật giáo mà là Nho
giáo, xã hội với lực lượng chủ đạo không phải từ tăng sĩ Phật giáo mà là Nho sĩ,
kinh tế với thành phần chủ đạo không phải là kinh tế điền trang mà là quân điền.
Bối cảnh chính trị, xã hội và kinh tế đó là những điều kiện quan trọng đưa tới cục
diện văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng ở Đại Việt thời Lê sơ.
Về văn hóa vật thể, sau 20 năm thống trị của giặc Minh (1407-1427), văn hóa
dân tộc bị phá hoại nặng nề, những nghệ sỹ nhân dân bị bắt đưa về Trung Quốc.
60
Sau khi khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, nhà Lê phải tiếp thu một di sản văn hóa vật
thể có nhiều phần hư hoại. Nhưng cùng với sự khôi phục nền độc lập của Đại Việt
thì những văn hóa vật thể cũng dần dần được phục hồi. Vì thế, thời Lê sơ vẫn còn
nhiều cơ sở thờ tự tôn giáo từ thời Trần, đặc biệt là chùa thờ Phật, quán thờ Tiên
Thánh và đền thờ Thần.
Tại Thăng Long tồn tại Thăng Long Tứ Trấn. Trong đó, Trấn Nam – Đền Kim
Liên năm Hồng Thuận 3 (1510) bi ký Cao Sơn Đại Vương thần từ bi minh tính tự
(bài minh và bài văn bia đền thần Cao Sơn Đại Vương) đền được dựng ở bên trái
của đình làng Kim Liên. Văn bia cho biết Cao Sơn Đại Vương là một trong số trăm
con của Lạc Long Quân và Âu Cơ đã từng đánh thắng Thủy Tinh, đầu thế kỷ 16 lại
giúp vua Lê dẹp loạn giữ yên đất nước [6, tr.169]. Cùng với Trấn Nam là đền Voi
Phục, Trấn Bắc là đền Quán Thánh, Trấn Đông là đền Bạch Mã trở thành những nơi
hội tụ linh khí đảm bảo an ninh cho kinh thành luôn ở thế rồng bay lên.
Bên cạnh việc thờ Thăng Long Tứ Trấn, Nhà Lê sơ còn coi trọng việc thờ thần
núi. Hàng năm vào đầu mùa xuân các vua đều tổ chức đi bái yết sơn lăng ở những
vùng núi thiêng như núi Tản, núi Đọi, núi Dục Thúy, .v.v. Chính những chuyến đi
này là một trong những nhân duyên đưa tới sự ra đời của những tác phẩm văn học
về Phật giáo của một số vị vua thời Lê sơ, chúng tôi sẽ giới thiệu những tác phẩm
này ở trong các chương sau.
Nhà nước Lê sơ trọng việc xây dựng các lăng thờ tiên đế, cho nên hầu hết các
di tích thuộc thế kỷ 15 còn lại đến ngày nay đều là những trung tâm xây dựng của
nhà nước như Đông Kinh, Nam Kinh. Những kiểu cách pha tạp với bố cục lăng mộ
của các vua nhà Minh bên Trung Quốc [6, tr.141].
Tại làng xã, thời kỳ này đã xuất hiện những ngôi đình làng. Sự kiện Lê Chiêu
Tông bị Mạc Đăng Dung đánh phải “hốt hoảng chạy lánh đến đình làng Nhân Mục
Cục” [107]. Vậy đầu thế kỷ 16 chắc chắn đã có đình làng. Theo Chu Quang Chứ [6,
tr.118], theo kiểu thức kiến trúc và phong cách những hình chạm khắc, trang trí kiến
trúc trên đình Thụy Phiêu (Hà Tây), đình Tây Đằng (Hà Tây), đình Lỗ Hạnh, có thể
khẳng định đình làng có từ thế kỷ XV, lúc đầu đơn sơ. Đình làng ra đời thời kỳ này
61
là phù hợp với tính chất nhà nước phong kiến Lê sơ: mỗi làng cần có một triều đình
thu nhỏ với “ông vua” tinh thần riêng là thành hoàng.
Về văn hóa giáo dục, khi nhà nước Lê sơ lựa chọn thiết chế chính trị - pháp lý,
quan điểm kinh tế mang đậm dấu ấn tư tưởng Nho giáo để tổ chức đời sống xã hội
và quản trị quốc gia, thì trong lĩnh vực văn hóa thời Lê với tư cách là một mạng lưới
những ý nghĩa, văn hóa Nho giáo cũng trở nên nổi bật hơn. Nhiều người trong xã
hội tìm thấy ý nghĩa ở Nho giáo, đặc biệt là những nam giới trẻ tuổi đang trên con
đường tìm kiếm công danh (hoạn lộ), tìm kiếm vị trí trong xã hội. Thời Lê sơ không
còn xuất hiện những kỳ thi Tam giáo như kỳ “Tam giáo tử” năm 1227 [78, q.5], kỳ
“thông Tam giáo” tháng 8 năm 1247 thời Trần [78, q.5]. Hầu hết, nội dung học và
thi đều là kinh điển Nho giáo. Những năm đầu thời Lê sơ đã có những kỳ thi quy
mô lớn. Ngày 4 tháng 2 năm 1434 “thi học sinh trong cả nước. Lấy đỗ hơn 1.000
người, chia làm ba bậc. Bậc nhất và bậc nhì thì đưa về Quốc tử giám, bậc ba thì cho
về học tại nhà học các lộ, đều cho miễn lao dịch” [78, q.11, tr.4a]. Từ năm 1438
(Thiệu Bình 5) định lệ về thi cử: cứ 3 năm một lần thi lớn, thi hương ở các đạo, năm
thứ 6 thi hội ở sảnh đường tại kinh đô. “Tất cả khoa mục của các kỳ thi quy định
như sau: Kỳ thứ nhất: 1 bài kinh nghĩa, Tứ thư mỗi sách một bài, mỗi bài đều 300
chữ trở lên. Kỳ thứ hai: Chế, biếu, biểu. Kỳ thứ 3: thi, phú. Kỳ thứ 4: 1 bài văn sách
từ 1000 chữ trở lên [78, q.11, tr.14a]. Chế độ khoa cử này không những là nhân tố
cốt lõi thổi vào thôn cùng ngõ hẻm của xã hội Đại Việt những luồng tư tưởng và
văn hóa của Nho giáo, mà còn là một điều kiện để giảm bớt một phương tiện để
Phật giáo tham gia vào khoa cử cũng như hoạt động trên địa hạt chính trị. Trong
những không gian diễn giải từ cá nhân tới cộng đồng, những ý nghĩa về văn hóa
Nho giáo vẫn được diễn giải nhiều hơn. Có thể thấy, trong bối cảnh văn hóa – giáo
dục có sự “nổi trội lên” của Nho giáo dường như đã ít nhiều giảm bớt sự “ồn ào”
của những diễn giải về Phật giáo và hướng cộng đồng thực hành Phật giáo tập trung
hơn vào tu hành.
Về mỹ thuật, từ cuối thời Trần, khi số lượng Nho sĩ tăng lên nhiều và trực tiếp
tham gia chính trị, vai trò của Nho giáo trên lĩnh vực chính trị trở nên mạnh hơn,
62
ngày càng lấn át Phật giáo, điều này nhanh chóng tạo ra sự biến động về tư tưởng,
sự phân hóa xã hội. Văn hóa nói chung, mỹ thuật nói riêng bắt đầu có một nhánh
của dân gian, bám lấy làng xóm, hướng theo thẩm mỹ của nhân dân. Những gì còn
lại của di tích mỹ thuật thời Trần ở công trình của nhà nước và quý tộc vẫn cơ bản
thống nhất với chùa làng. Sang thời Lê sơ, khi Phật giáo ở trong thế bị điều chỉnh,
song số đông Nho sĩ vẫn sống ở làng quê, các nghệ nhân vẫn không được nhà
trường của nhà nước đào tạo mà từ thực thế làm nghề để trưởng thành, cho nên mỹ
thuật chính thống vẫn chưa nâng lên tầm bác học, cơ bản thể hiện theo thẩm mỹ của
nhân dân ở cả quy mô, quan niệm, kỹ thuật diễn tả và đề tài [6, tr.107].
2.2.2.2. Đời sống tôn giáo, tín ngưỡng thời Lê sơ
Về đời sống tôn giáo, tín ngưỡng thời Lê sơ những tôn giáo, tín ngưỡng có
mặt từ thời Trần tiếp tục hiện diện ở thời Lê sơ, như Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo,
tín ngưỡng thờ Thần, thờ Mẫu. Với sự hiện diện của đình làng thì bắt đầu manh nha
tín ngưỡng thờ Thành Hoàng làng. Trong phần này, Luận án trên cơ sở tư liệu Hán
Nôm, trình bày tổng quát về một số hoạt động văn hóa liên quan đến Nho giáo, Đạo
giáo và tín ngưỡng thờ Thần ở Đại Việt thời Lê sơ, có kế thừa kết quả nghiên cứu
của Phạm Thị Chuyền [10]. Những hoạt động văn hóa có liên quan đến Phật giáo
thời kỳ này sẽ được trình bày cụ thể và chi tiết trong chương 3.
a) Hoạt động văn hóa liên quan đến Nho giáo thời Lê sơ
Vì tư tưởng Nho giáo được triều đình Lê sơ sử dụng làm hệ tư tưởng chủ đạo
trong quản trị quốc gia, cho nên những hoạt động văn hóa liên quan đến Nho giáo
thời này chủ yếu là những hoạt động của triều đình và được ghi chép lại chủ yếu
trong tư liệu chính sử. Đại Việt sử ký toàn thư ghi nhận một số sự kiện mang tính
Nho giáo của triều đình Lê sơ, như: tế lễ Khổng Tử ở Văn Miếu; dựng bia đá vinh
danh những vị đỗ tiến sĩ qua các kỳ thi; sử dụng Nho giáo trên tinh thần Đại Việt.
Việc xây dựng Văn Miếu, dựng tượng Khổng Tử và các học trò tiêu biểu nhất
của ông đã được thực hiện từ thời Lý – Trần, nhưng việc tế lễ chưa trở thành một
thường lệ và chưa được định hình chế độ chuẩn mực. Thời Lê sơ, cùng với sự hưng
thịnh vượt bậc của Nho giáo, cộng đồng Nho sĩ trở thành một lực lượng xã hội chủ
63
yếu và quan trọng thì nhu cầu tế tự Khổng Tử một cách thường xuyên và theo chuẩn
mực chế độ đặt ra vô cùng cấp thiết. Ngay sau khi đánh thắng giặc Minh không lâu,
năm 1435, Lê Thái Tông đã có phát biểu trong bài chiếu về khoa thi tuyển nhân tài
rằng: “Tổ ta buổi đầu dựng nước, mở mang nhà học, dùng cỗ Thái lao để tế Khổng
Tử, rất mực sùng Nho, trọng đạo. Nhưng vì nước mới dựng nên chưa kịp đặt khoa
thi. Trẫm theo chí hướng người xưa, lo được nhân tài để thoả lòng mong đợi” [78,
q.11, tr.13b-14a] . Ngay sau đó, Thiếu bảo Lê Quốc Hưng được sai thực hiện nhiệm
vụ quan trọng là tế lễ Khổng Tử. Và từ đó trở đi, lễ tế Khổng Tử và các vị tiên hiền
được thực hiện thường xuyên và định kỳ vào mùa xuân trước khi [78, q.11, tr.23a].
Việc xây dựng Văn Miếu chính là việc tạo dựng cơ sở thờ tự cho Nho giáo tại Đại
Việt. Việc xác lập chế độ tế lễ trong Văn Miếu là xác lập chế độ thực hành nghi lễ
cho Nho giáo trên lãnh thổ này. Hiện tượng này cũng có nghĩa rằng, nhà Lý - Trần
đã xác lập vị trí quan trọng mang tính tôn giáo của các tín đồ Nho học ở nước ta bên
cạnh Phật giáo, Đạo giáo và tín ngưỡng bản địa.
Việc dựng bia vinh danh những sĩ tử đỗ tiến sĩ ở Đại Việt chưa được thực hiện
trước thời Lê sơ. Sự kiện dựng bia ghi danh tiến sĩ đầu tiên được chính sử ghi chép
vào năm 1442 (năm trị vì cuối cùng của vua Lê Thái Tông). Tháng 3, năm đó cuộc
thi Hội được tổ chức. Triều đình chọn ra 3 người đỗ tiến sĩ cập đệ; 7 người đỗ tiến
sĩ xuất thân; 23 người đỗ đồng tiến sĩ xuất thân, trong đó có Ngô Sĩ Liên. Lê Thái
Tông sai người khắc văn bia để vinh danh 33 vị đó. Bia ghi danh tiến sĩ bắt đầu có
từ đây [78, q.11, tr.55a]. Như vậy, bên cạnh việc Nho giáo được xác lập vị trí qua
tạo dựng cơ sở thờ tự và định chế độ nghi lễ, thì những vị Tiến sĩ – những trí thức
tinh hoa của Nho giáo – được biểu tượng hóa trên bia đá đặt ở Quốc Tử Giám. Họ
là tấm gương, là đích hướng đến của rất nhiều người trẻ tuổi theo con đường khoa
cử trong xã hội Lê sơ. Đến năm 1442, ở Đại Việt, Nho giáo không đơn giản chỉ là
hệ tư tưởng, chỉ là giáo dục Nho học, mà còn là một tôn giáo hoàn chỉnh, có đủ giáo
lý, giáo luật, cơ sở thờ tự, nghi lễ, cộng đồng tín đồ, hệ thống biểu tượng .v.v.
Tuy nhiên, việc sử dụng Nho giáo ở Đại Việt trên thực tế không phải là một sự
dập khuôn máy móc Nho giáo từ truyền thống văn hoá Trung Hoa, mà là sự dung
64
nạp trên tinh thần văn hoá tư tưởng dân tộc Đại Việt. Điều này có thể được minh
chứng qua những ví dụ sau đây.
Thứ nhất là biểu hiện tư tưởng của Lê Lợi khi nói về việc đánh giặc cứu nước.
Vị vua đầu tiên của nhà Lê sơ tuy là một trí thức Nho học, con một gia đình có sản
nghiệp không nhỏ ở hương Lam Sơn, nhưng ông không theo thuyết chính danh,
khắc kỷ phục lễ vi nhân của Khổng Tử. Ông bày tỏ lý do dẹp giặc rằng: “Trẫm xưa
kia gặp buổi loạn lạc, nương mình ở Lam Sơn vốn chỉ mong giữ được mạng mình
thôi, chứ không có ý muốn lấy thiên hạ. Đến khi giặc tàn ngược quá quắt, dân
không sống nổi, những ai có tri thức đều bị chúng giết hại, trẫm tuy đem hết của cải
để thờ phụng chúng, mong khỏi tai hoạ, nhưng tim đen của chúng muốn hại trẫm
vẫn không ngớt chút nào. Việc dấy binh thực là bất đắc dĩ thôi” [78, q.10, tr.75a].
Đây chính là tư tưởng của một trí thức yêu nước, thực hành “việc nhân nghĩa cốt ở
yên dân, quân điếu phạt trước lo trừ bạo” [78, q.10, tr.48a].
Thứ hai là việc triều Lê sơ luôn duy trì lễ tế giao đầu xuân theo truyền thống lễ
nghi quan trọng của tổ tông. Lễ này đã có từ trước thời Lê sơ. Đến khi Lê Thái Tổ
(Lê Lợi lên ngôi sai Nguyễn Trãi san định ra quy chế trang phục, lễ nhạc, trong đó
về nhạc đã có nhạc tế giao riêng của Đại Việt [78, q.11, tr.38b]. Sau này khi Ngỗ Sĩ
Liên và Nghiên Nhân Thọ vì quá sùng Nho giáo phương bắc mà cho rằng lễ tế giao
đó không đáng theo, Lê Thánh Tông đã trách mắng họ rằng: "Ta mới coi chính sự,
sửa mới đức độ, tuân theo điển cũ của thánh tổ thần tông, nên mới tế giao vào đầu
mùa xuân. Các ngươi lại bảo tổ tông tế giao cũng không đáng theo!. [8b] Các ngươi
bảo nước ta đời xưa là hàng phiên bang, thế là các ngươi theo đạo chết, mang lòng
không vua” [78, q.12, tr.8a-8b]. Tuy những Nho thần như Ngô Sĩ Liên hay Nghiên
Nhân Thọ can gián nên bỏ, nhưng lễ tế giao vẫn được thực hiện hàng năm, mà sau
này những năm Đoan Khánh (1509), chính sử vẫn còn nhắc tới sự kiện Lê Tương
Dực “nhân khi đi tế Giao trở về cung, cưỡi trên đầu voi Viện Vân vào cửa Đông
Hoa” [78, q.14, tr.46b]. Cả phần lễ và phần nhạc đều không phải như lễ nhạc trong
Luận ngữ của Khổng Tử, mà theo thể thức riêng của Đại Việt. Việc tế giao của nhà
Lê sơ vào mỗi đầu mùa xuân ngay tại lãnh thổ Đại Việt là một sự khẳng định chủ
quyền quốc gia và độc lập dân tộc, theo tinh thần văn hoá của Đại Việt.
65
Thứ ba là việc sử dụng danh hiệu tự xưng của các vua nhà Lê sơ. Tư liệu
chính sử và bi ký thời Lê sơ đều ghi nhận rằng, các vua nhà Lê sơ chưa bao giờ tự
xưng mình là “hoàng đế”, mà thường xưng là “động chủ” (chủ nhân của một động).
Lê Thái Tổ tự xưng là Lam Sơn động chủ [78, q.10, tr.73b]. Lê Thái Tông tự xưng
là Quế Lâm động chủ [78, q.11, tr.1b]. Lê Thánh Tông tự xưng là Thiên Nam động
chủ [78, q.12, tr.2a]. Lê Hiến Tông là Thượng Dương động chủ [78, q.14, tr.1b]. Lê
Uy Mục tự xưng là Quỳnh Đô động chủ [78, q.14, tr.39b]. Lê Tương Dực tự xưng
là Nhân Hải động chủ. Việc xưng “động chủ” mang màu sắc “tiêu dao, tự do” theo
tinh thần Đạo giáo, hoàn toàn khác biệt với cách xưng hô của những ông hoàng đế
theo truyền thống văn hoá Nho giáo Trung Hoa. Nếu như lễ tế giao khẳng định chủ
quyền độc lập quốc gia và độc lập về văn hoá quốc gia, thì việc tự xưng “động chủ”
này vừa khẳng định một lần nữa sự độc lập của người đứng đầu triều đình Lê sơ,
vừa khẳng định bản sắc văn hoá của cá nhân mỗi ông vua đó trong tương quan với
văn hoá Nho giáo phương Bắc.
Như vậy, có thể nhận định rằng, thời Lê sơ Nho giáo ở Đại Việt mặc dù đã
được định vị và hoàn thiện trở thành một tôn giáo hoàn chỉnh với giáo lý, giáo luật,
cơ sở thờ tự, chế độ nghi lễ, hệ thống biểu tượng, nhưng đó không hoàn toàn là Nho
giáo theo truyền thống văn hoá Trung Hoa, mà là Nho giáo mang màu sắc văn hoá
Đại Việt, được sử dụng với tinh thần độc lập dân tộc sâu sắc.
b) Hoạt động văn hóa liên quan đến Đạo giáo thời Lê sơ
Đạo giáo hiện diện ở Đại Việt cho dù là thời Trần hay thời Lê sơ đều có nguồn
gốc từ Đạo giáo Trung Hoa. Đây là một tôn giáo có thể “không hẹn mà hợp” [2,
tr.47] với Phật giáo ở quan điểm hư tĩnh, không màng danh lợi, phiêu dật siêu thoát,
hướng tới cảnh giới người và vật dung hoà vào nhau (vật ngã giao dung). Đồng thời,
nó cũng có thể đáp ứng một số nhu cầu của tầng lớp trí thức Nho học và giới bình
dân. Với Nho sĩ, Đạo giáo vừa thoả mãn nhu cầu hoàn thiện bản thân, vừa là chỗ
nương náu khi xa cơ lỡ vận hoặc lúc về hưu. Thuyết “quả dục dưỡng khí thủ thần”
của Đạo giáo giúp tầng lớp sĩ đại phu hình thành nên một loại ý thức tự giác theo
đuổi hoàn thiện nhân cách, bảo vệ luân lý cương thường, lối sống yêu thích tự nhiên.
66
Với phả hệ thần quỷ, Đạo giáo trở thành một loại sức mạnh mới, vừa có tác dụng
khiến cho người ta sợ làm điều ác, vừa kích thích sự cầu lạc, cầu phúc của cả giới sĩ
đại phu và giới bình dân [2, tr.51]. Đặc biệt với giới sĩ đại phu, khi mà lý tưởng theo
đuổi của họ bị thất bại, lý tưởng chính trị không thực hiện được, trong lòng họ bị
giày vò, cảm thấy thất vọng và đau khổ, họ đã bất đắc chí vượt ra khỏi tinh thần
Nho giáo đi vào tinh thần của Đạo giáo, đi vào tinh thần lánh đời, thoả mãn khí chất
tiêu dao để tự giải thoát cho mình [2, tr.67].
Thời Lê sơ, Đạo giáo ở Đại Việt không phải là hệ tư tưởng chính trị của nhà
nước, cho nên nó cũng chịu sự điều chỉnh của luật lệ không khác gì Phật giáo. Lệnh
sát hạch tu sĩ Phật giáo và tu sĩ Đạo giáo ban hành ngày 10 tháng 6 năm 1429 [78,
q.10, tr.68a] cho thấy đã có nhiều vị đạo sĩ không thông hiểu giáo lý và phẩm hạnh
đang hiện diện bên cạnh những vị đạo sĩ thông hiểu giáo lý và có phẩm hạnh. Có
thể, cộng đồng tín đồ của Đạo giáo hiện có tại nước ta thời điểm này không hề nhỏ
về mặt số lượng, và nhờ sự điều chỉnh này đã được nâng lên về mặt chất lượng.
Chính sử cũng ghi lại sự kiện Lê Thánh Tông ra lệnh cấm tự tiện xây dựng cơ sở
thờ tự và tu tập của Đạo giáo (mở Đạo quán) ngày 11 tháng 7 năm 1461 [78, q.12,
tr.7b]. Điều này có thể chứng tỏ hai điều: thứ nhất là người dân đã có nguồn lực
kinh tế để chi cho việc xây dựng cơ sở thờ tự của Đạo quán, thứ hai là một lượng
không nhỏ người dân Đại Việt có nhu cầu nương theo, thực hành theo Đạo giáo.
Bởi vì, khi nhà nước phải dùng tới luật lệnh để điều chỉnh thì tình hình đời sống
Đạo giáo đang thực sự hưng thịnh và có nguy cơ ảnh hưởng tới sự quân bình kinh tế
và quân bình văn hóa, xã hội.
Trên thực tế, hoạt động của các đạo sĩ xuất hiện khắp nơi, từ trong dân gian
cho tới cung đình. Trong triều đình, một số quan lại đã bộc lộ niềm tin Đạo giáo rõ
rệt, như Thái sử Bùi Thì Hanh, Lễ bộ thị lang Trình Toàn Dương, Đại Tư đồ Lê Sát,
Đại đô đốc Lê Ngân, .v.v. Luận án trình bày một số sự kiện tiêu biểu. Sự kiện liên
quan tới Đạo giáo đầu tiên thời Lê sơ trong cung đình được chính sử ghi lại là sự
kiện ngày mồng một tháng năm năm 1434. Trong sự kiện đó, Thái sử Bùi Thì Hanh
(vốn là đạo sĩ), được sự tin theo và ủng hộ của Lê Sát, cùng với Lễ bộ thị Lang
67
Trình Toàn Dương (trước là đạo sĩ) làm phép trấn yểm trong cung cấm để giải tai
biến cho nước nhà khi hiện tượng nhật thực xảy ra. Hai người đều được thưởng rất
hậu [78, q.11, tr.9a]. Sau đó không lâu là sự kiện thầy phù thủy Trần Văn Phương
làm phép thuật trong nghi lễ tại nhà của Lê Ngân [78, q.11, tr.50a] là một ví dụ khá
rõ nét. Tiếp theo là sự kiện “[vua] sai đạo sĩ cúng trừ sâu lúa” tháng 9 năm 1467 [78,
q.12, tr.41a]. Điều đáng chú ý ở đây là “phép thuật, bùa chú” được trọng dụng để
đáp ứng nhu cầu tránh tai ương khi có nhật thực, thu hút sự yêu thương của vua
(cho con gái Lê Ngân), trừ sâu bệnh hại mùa màng. Đó là đặc trưng của Đạo giáo
phù thuỷ. Những vị đạo sĩ dùng phép thuật đã tu luyện nhiều năm để phục vụ những
mục đích rất đời thường của những vị quan lại trong triều đình. Trong khi đó, trái
ngược với Đạo giáo phù thuỷ, Đạo giáo thần tiên hấp dẫn giới trí thức Nho học một
cách đặc biệt tự nhiên trong đời sống tinh thần cá nhân tách khỏi trách nhiệm của trí
sĩ ở chốn quan trường đầy hiểm nguy và khó khăn. Nhiều tác phẩm trong Hồng Đức
quốc âm thi tập [67] thể hiện rất rõ tinh thần này.
Như vậy, thời Lê sơ, Đạo giáo hiện diện trong đời sống tinh thần của nhiều
tầng lớn trong xã hội. Trong khi Đạo giáo thần tiên ảnh hưởng mạnh mẽ đến tinh
thần tự do tự tại của giới trí thức Nho học, thì Đạo giáo phù thuỷ lại đáp ứng nhu
cầu tín ngưỡng tâm linh của một số quan lại và quần chúng nhân dân.
c) Hoạt động văn hóa liên quan đến tín ngưỡng thờ Thần thời Lê sơ
Thờ Thần vốn là tín ngưỡng bản địa của cư dân Đại Việt từ xưa. Mặc dù
những tôn giáo lớn như Nho, Phật, Đạo hay sau này là Công giáo, .v.v. có du nhập
và mở rộng phạm vi ảnh hưởng trên lãnh thổ này đến đâu thì tín ngưỡng thờ Thần
vẫn hiện diện như một dòng chảy xuyên suốt nhiều thế kỷ từ xa xưa tới ngày nay.
Chỉ có điều qua mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ, diện mạo tín ngưỡng đó có sự thay đổi
đáng kể.
Thời Lê sơ, tín ngưỡng thờ Thần được các vua đặc biệt quan tâm. Các vua Lê
Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông, Lê Thánh Tông .v.v. đã từng bước gia tăng
những nhân tố mới cho tín ngưỡng thờ thần đồng thời với việc sử dụng tư tưởng
Nho giáo làm hệ tư tưởng chính trị và điều chỉnh Phật giáo và Đạo giáo. Thái Tổ
68
nhà Lê sơ từng tuyên bố “Ta là chúa tể của bách thần”. Phát biểu này là một sự
khẳng định mạnh mẽ vị thế của bản thân và độc lập dân tộc, độc lập và có thần
quyền riêng. Vì vậy, vua Lê Thái Tổ và các vua sau này đều rất quan tâm tới việc tế
lễ thần ở sơn lăng, miếu mạo trong nước.
Không dừng lại ở việc tế lễ thần, bái yết sơn lăng, Lê Thái Tông còn đẩy mạnh
phong thần như một phương thức mượn uy danh thần linh để bảo vệ vương quyền.
Chính sử ghi lại sự kiện ngày Ất Hợi tháng 2 năm 1437, Lê Thái Tông cho tiến
hành “gia phong thần từ các xứ trong nước, sai quan đến tế” [78, q.11, tr.37a]. Các
bức “sắc phong” đồng thời được biên soạn. Trong nội dung sắc phong, mỗi vị thần
đều được phong tước hiệu kèm với bản ghi công trạng lớn lao. Có thể nói, nhiều
thần từ trạng thái vô danh nhờ sự gia phong này trở nên trạng thái có danh hiệu,
được thần tích hoá và đôi khi được nhân thần hoá. Điều này nhằm nâng cao vị trí
của các thần linh trong nước trong thế tương quan với những tôn giáo lớn như Nho,
Phật, Đạo. Phương diện niềm tin vào các thần của cư dân Đại Việt vì thế được nâng
lên rõ rệt so với trước khi phong thần.
Tiếp nối Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông cho “bắt đầu lập đàn thờ thần Đô đại
thành hoàng, đàn thờ thần Gió, Mây, Sấm, Mưa và đàn thờ ma quỷ không ai tế tự để
tứ thời cúng lễ” vào ngày Quý Mùi tháng 4 năm 1449 [78, q.11, tr.79b]. Từ đây, chế
độ tế tự bách thần được san định quy củ. Vì vị thế các Thần đã được nâng lên hẳn
một bậc so với trước, cho nên một chế độ tế tự xứng tầm là một nhu cầu cần thiết.
Việc này không chỉ là một sự gia cố về mặt hình thức mà là một sự đi sâu vào nội
dung thực hành thờ cúng bách thần. Phương diện thực hành thờ tự các thần vì thế
một lần nữa được chú trọng và được chuẩn mực hoá hơn trước.
Điều vô cùng đặc biệt trong đời sống tín ngưỡng thờ Thần thời Lê sơ là sự
kiện Lê Thánh Tông năm 1496 đã giao cho làng quản lý đình tư nhân để ổn định
tình trạng rối loạn xã hội ở cấp thấp. Quyết định này không chỉ có tác dụng làm yên
ổn xóm làng, mà còn phát triển một cơ cấu thần linh ở làng xã – đó là thành hoàng
làng. Từ đó, việc thờ cúng, tế tự thành hoàng làng đã tạo ra một tâm lý, một ý thức
riêng biệt trong mỗi làng xã còn lưu giữ đến hiện nay ở miền Bắc Việt Nam [44,
69
tr.164]. Đi kèm với thờ cúng thành hoàng làng là một “lệ làng” độc lập, dường như
không ảnh hưởng nhiều bởi “phép vua”. Điều đó có nghĩa là, thêm một lần các thần
độc lập và không phụ thuộc vào những lề thói của Nho giáo – hệ tư tưởng thống trị
thời Lê sơ.
Thậm chí, đến ngày 4 tháng 2 năm 1496, đích thân vua Lê Thánh Tông cầu Thần
cho mưa xuống và tự tay viết bài thơ dán trên tường miếu Hoằng Hựu. Thơ rằng:
Cựu linh anh khi chấn dao thiên,
Uy lực nghiêm đề tạo hóa quyền.
Khấu vấn sơn linh năng nhuận vật.
Thông vi cam vũ tác phong niên.
Tạm dịch là:
Khí thiêng lừng lẫy dậy trời cao,
Tạo hóa quyền uy nắm chắc sao.
Sơn thần nếu biết nhuần muôn vật,
Hãy tuôn mưa ngọt, lúa vàng trao. [78, q.13, tr.72b]
Điều này rất khác với lễ cầu mưa thời kỳ đầu Lê sơ. Thời Lê Thái Tổ, Lê Thái
Tong và Lê Nhân Tông mỗi khi cầu mưa đều cần tới tăng sĩ Phật giáo và việc rước
tượng Phật chùa Pháp Vân về kinh thành là một nơi nương tựa vững chắc. Nhưng
Lê Thánh Tông đã thể hiện sự nương tựa của mình vào sự linh thiêng của sơn thần –
vị thần bản địa. Từ góc độ tinh thần dân tộc, đây là một bước độc lập hơn nữa. Từ
tôn giáo, vai trò bảo hộ của các thần bản địa được nâng cao, được tin tưởng hơn
những đối tượng thờ của Phật giáo hay Đạo giáo trong việc đưa tới mưa thuận gió
hoà, đảm bảo an ninh tinh thần cho con người trong bối cảnh thiên tai.
Như vậy, có thể nhận định rằng, thời Lê sơ tín ngưỡng thờ Thần ngày càng
được củng cố về niềm tin và thực hành, ngày càng độc lập giữa các địa phương và
dần thoát khỏi sự ảnh hưởng phủ trùm của Nho giáo.
70
Tiểu kết chƣơng 2
Vì mọi hiện hữu đều có điều kiện của nó, cho nên Phật giáo tồn tại với một
diện mạo và vị trí như thế nào trong xã hội Đại Việt thời Lê sơ cũng cần có những
điều kiện nhất định. Điều kiện đó từ hai chiều kích, đó là lịch sử và đương thời. Qua
nghiên cứu chúng tôi rút ra những kết luận sau:
Thứ nhất, Đời sống Phật giáo Trần và thời thuộc Minh là những ngọn nguồn
sâu xa dẫn tới sự hiện diện của Phật giáo ở Đại Việt thời Lê sơ. Cuối Trần, Tam
giáo ngày càng định hình rõ nét. Trong tương quan đó, Nho giáo ngày càng lớn
mạnh, Phật giáo với hai dòng chảy xuất thế và nhập thế song song tồn tại, và ở vào
thời hậu kỳ “thịnh quá hóa suy”, đã bộc lộ không ít những hạn chế làm ảnh hưởng
tới văn hóa xã hội. Những đặc điểm hữu ích là những nhân tố có thể sẽ được kế
thừa, những bộc lộ hạn chế là những nguyên nhân có thể bị điều chỉnh hoặc phản
ứng lại trong bối cảnh mới.
Thứ hai, trong bối cảnh xã hội thời Lê sơ, với tình hình kinh tế chính trị sau
kháng chiến chống Minh, nhà Lê sơ có sự lựa chọn về tư tưởng chính trị mang tính
tất yếu lịch sử khác với thời Trần, lấy tư tưởng Nho giáo làm tư tưởng chủ đạo quản
trị đất nước. Vị trí của Phật giáo vì thế không còn là vị trí chủ đạo trong tư tưởng
chính trị như thời Lý – Trần. Sự hoán đổi vị trí này đưa tới những đặc điểm mới
trong đời sống và ảnh hưởng của Phật giáo thời Lê sơ.
71
Chƣơng 3
ĐỜI SỐNG PHẬT GIÁO THỜI LÊ SƠ QUA TƢ LIỆU HÁN NÔM
Diện mạo Phật giáo thời Lê sơ ở đây có thể được hiểu là tổng quan hay bức
tranh tổng thể về Phật giáo ở Đại Việt thời Lê sơ, được định hình bởi những thành
tố cấu thành cơ bản là niềm tin, thực hành, cộng đồng và một số khía cạnh khác,
màu sắc của nó là những đặc điểm về mặt bản chất cũng như hiện tượng của Phật
giáo thời kỳ này.
Cho đến nay, chưa có một công trình nghiên cứu đầy đủ và có sức thuyết phục
về diện mạo Phật giáo thời Lê sơ. Dựa vào một số khảo sát của khảo cổ học, sử học,
có thể đoán định rằng thời Lê sơ Phật giáo vẫn tồn tại, mà ít nhất sử liệu trong Đại
Việt sử ký toàn thư là một minh chứng. Nhưng tổng quan về diện mạo của Phật giáo
thời này như thế nào, chúng có đặc điểm gì thì vẫn chưa thật rõ. Điều chắc chắn là:
với ghi chép trong chính sử, Phật giáo thời Lê sơ có một diện mạo khác rất nhiều so
với Phật giáo trước đó, đặc biệt là với Phật giáo thời Trần.
Trong chương này, luận án trình bày về diện mạo Phật giáo thời Lê sơ, nhưng
không chỉ trên cơ sở khảo sát nguồn tư liệu chính sử như những nhà nghiên cứu đi
trước, mà còn khảo sát các nguồn tư liệu cơ bản khác như luật lệ, bi ký, văn
chương .v.v. Điều chắc chắn là những nguồn tư liệu Hán Nôm này hiện nay đã hao
hụt nhiều so với thời Lê sơ, không thể phản ánh hết các phương diện của diện mạo
sống động như sự thực lịch sử đã diễn ra. Luận án vì vậy chỉ trình những gì được
phản ánh trong những nguồn tư liệu Hán Nôm hiện nay có thể tiếp cận được như đã
trình bày trong mục 1.1. Những phương diện đó là: niềm tin, một số thực hành,
cộng đồng Phật giáo thời Lê sơ.
3.1. Niềm tin Phật giáo thời Lê sơ qua tƣ liệu Hán Nôm
Niềm tin tôn giáo có thể được thể hiện ở nhiều phương diện khác nhau, tuy
nhiên thường được thể hiện rõ nhất ở tư tưởng, đối tượng phụng thờ và kinh điển
của tôn giáo đó. Vì thế, trong phần này, chúng tôi lựa chọn trình bày một cách tổng
quát về tư tưởng Phật giáo, đối tượng thờ Phật giáo và kinh điển Phật giáo thời kỳ
này.
72
3.1.1. Tư tưởng Phật giáo thời Lê sơ qua tư liệu Hán Nôm
Nếu như tư tưởng Phật giáo thời Trần như “tu dưỡng đạo đức - minh tâm kiến
tính”, “Chỉn Bụt là lòng” .v.v, chỉ có thể tìm thấy trong tư liệu văn chương của
Thần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ - Trần Tung, Trần Nhân Tông .v.v và tư liệu
bi ký, thì cứ liệu về tư tưởng Phật học thời Lê sơ cũng chỉ có thể được tìm thấy
trong tư liệu bi ký và văn chương được biên soạn và sáng tác vào thời kỳ này. Đó là
tư tưởng về “bản thể”, về bản chất của mọi hiện hữu, tư tưởng về tu hành khai mở
trí tuệ và phương pháp khởi phát từ bi.
Thứ nhất là về vấn đề bản thể, chúng tôi tìm thấy mệnh đề “Bụt là lòng” trong
thơ của Nguyễn Trãi (1380 – 1442), và Nguyễn Trãi không chỉ phát biểu mệnh đề
này một lần. Trong Quốc âm thi tập [63], Nguyễn Trãi xác quyết “Bụt ấy là lòng,
Bụt há cầu” (Mạn Thuật 8) [63, tr.436]. Bụt là lòng cũng có thể hiểu là dịch từ
“Phật tức tâm” trong kinh điển của truyền thống Phật giáo Bắc truyền, đặc biệt
trong tư tưởng “tức tâm tức Phật” của Huệ Năng. Bụt ở đây không phải là đối tượng
thờ bên ngoài như chư Phật, chư Bồ tát, mà là bản thể của Tâm. Giác ngộ theo Phật
thực ra là “trở lại quan sát tâm mình” để “thấy ra”, không phải là “đi tìm” hoặc
“luyện mà thành”. Vậy “Bụt là lòng” là thế nào? Nguyễn Trãi diễn giải: “Thân đà
hết lụy, thân nên nhẹ” (Mạn thuật 8) [63, tr.436], “vẩn nhơ chẳng bén” (Mộc Cận)
[63, tr.463]. Thân hết lụy ý nói tâm không lụy theo những sự đến đi. Vẩn nhơ chẳng
bén là hoàn toàn thanh tịnh. Như vậy, Tâm hoàn toàn thanh tịnh chính là Bụt.
Thông thường con người không hiểu biết (vô minh) về bản chất của mọi hiện hữu là
vô thường, vô ngã cho nên dẫn tới luôn tham lam, sân hận và si mê (tham, sân, si).
Khi các tạp nhiễm của tham và sân càng lắng dịu thì sự thanh tịnh của tâm càng
biểu hiện. Khi tâm hoàn toàn thanh tịnh vô nhiễm thì có thể thấy Bụt. Trong một bài
thơ Nôm khác, Nguyễn Trãi nhắc tới khái niệm vô tâm. Theo truyền thống Phật
giáo Bắc truyền, vô tâm thường được ví như mặt hồ tĩnh lặng, giác ngộ được ví như
mặt trăng (nguyệt). Khi mặt hồ trở nên tĩnh lặng, thì mặt trăng dần hiện ra nơi đáy
nước. Nguyễn Trãi trong tác phẩm thơ bằng chữ Nôm của mình nhiều lần nhắc tới
“vô tâm” và “nguyệt”: “Sách cũ ngày tìm người hữu đạo, Đìa thanh đêm quyến
73
nguyệt vô tâm”(thuật hứng 25)[63, tr.441]; Vô tâm đìa có trăng bạc, Đắc thú, kho
đầy gió thanh. (tự thán 8) )[63, tr.443]; “Lọ chi Tiên, Bụt nhọc tìm phương, Được
thú an nhàn ngày tháng trường” (tự thán 12) [63, tr.443]. Trong kinh Kim Cương,
Phật nói: “ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” (khi không trụ vào đâu cả thì khi đó sẽ
thấy ra bản lai diện mục của tâm)[109]. Từ đây đưa tới lý vô tâm, tức là tâm “vô sở
cầu” (không tìm cầu). Bụt vốn trong tâm nên không cần phải đi tìm, chỉ cần thấy ra
(giác ngộ). Vạn pháp do duyên mà vô thường, cho nên không mong cầu sở hữu bất
cứ cái gì. Không mong cầu sở hữu thì không tham, không sân. Đó là lý đưa tới đời
sống an nhiên tự tại (hiện tại lạc trú) trước bao nhiêu sóng gió của cuộc đời của
Nguyễn Trãi cũng như những người có cùng niềm tin này. Sau này trong bi ký Vạn
Thọ (萬 壽) [100] tại đình thôn Thuần Thọ, tổng Ngọc Xuyến, huyện Hoằng Hóa,
tỉnh Thanh Hóa, chúng ta vẫn còn thấy tác giả bi ký viết rằng “Thường nghe nói
rằng: người lấy bản thể của Phật làm cái tâm của mình”. Đây chính là nói về nền
tảng căn bản của tu hành Phật giáo. Minh tâm kiến tính chính là con đường thực tập
đưa tới phát sinh trí tuệ hay còn gọi là “giác ngộ”. Với mệnh đề này, Nguyễn Trãi
cũng như Trần Thái Tông hay Trần Nhân Tông đã trả lời câu hỏi cơ bản nhất trong
Phật học là “Phật/Bụt là gì? và “Làm thế nào để thấy Phật/Bụt?”
Theo truyền thống kinh điển Phật giáo Bắc truyền cũng như Nam truyền, bản
chất của mọi hiện hữu đều là luôn thay đổi (vô thường) và không có tự tính (vô ngã).
Tư liệu văn chương thời Lê sơ cũng cho người đọc thấy về lý vô thường, vô ngã này.
Về lý vô thường, Nguyễn Trãi khi thận trọng, chú tâm quan sát hoa mộc cận (hoa
dâm bụt) từ lúc nở cho tới lúc tàn, đã thấy ra rằng: Chiều mai nở, chiều hôm rụng.”
(Mộc Cận) [63, tr.463]. Khoảng thời gian từ chiều mai (sáng) tới chiều hôm (chiều)
mắt thường chỉ thấy sự thay đổi của hình tướng nở và rụng của bông hoa. Thực tế,
trong hiện tượng nở và rụng đã có sự liên tục thay đổi, bởi từng tế bào trong bông
hoa luôn sinh diệt trong từng khoảnh khắc. Hoa mộc cận là một pháp. Nguyễn Trãi
thấy ra lý vô thường trong hiện tượng hoa mộc cận thì cũng chính là thấy ra lý vô
thường trong các pháp. Lý vô thường sau đó ít nhất cũng được nhắc tới trong một
tác phẩm văn học của Lê Thánh Tông cũng nói về sự vô thường: “Đời có phế hưng
74
kim giống cổ. Việc đừng phân biệt đúng hay sai” (代 有 廢 興 今 亦 昔, 事 無 記
載 是 耶 非)[84]. Chỉ có điều, lý vô thường được Lê Thánh Tông nhìn ra từ quan
sát sự hưng thịnh và suy tàn của các vương triều. Trong cái lý vô thường đã tiềm
tàng nguyên lý nhân duyên – quả báo. Vì sự cũng do duyên mà xuất hiện rồi cũng
do duyên mà mất đi, cho nên một triều đại cũng do nhân duyên hội đủ mới có thể
hưng thịnh, thiếu đi duyên thuận chiều thì ắt suy tàn. Do vậy mà không có đúng hay
sai trong sự hưng phế đó.
Thứ hai là triết lý vô ngã, hệ kinh điển Phật giáo Bắc truyền diễn giải thành
tính “không” (空). Thời Lê sơ, triết lý “không” có lẽ cũng được tìm thấy sớm nhất
trong thơ quốc âm của Nguyễn Trãi. Cũng trong bài Mộc cận ông phát biểu rằng
“sự lạ cho hay tuyệt sắc không”. Sắc không có nghĩa là “có có, có không”. Hay nói
cách khác, hoa dâm bụt về mặt hiện tượng là có hiện hữu, nhưng về mặt bản chất là
không có tự tính “hoa dâm bụt” riêng biệt. Ở đây, Nguyễn Trãi nói rằng mọi sự
(không trừ bất cứ cái gì) đều về hiện tượng thì có hiện hữu nhưng về bản chất thì
không có tự tính riêng biệt. Hoa dâm bụt Nguyễn Trãi quan sát thấy cũng như thế.
Sự hưng phế của triều đại mà Lê Thánh Tông suy ngẫm thấy cũng như thế. Cho tới
cuối thời Lê sơ, giáo lý tính không không chỉ được tìm thấy mà còn được phát biểu
một cách tổng quát như sự phát biểu của Nguyễn Trãi. Trong bài ký khắc trên bia
bến đò Cù Sơn làng Phượng Cách (phủ Quốc Oai, nay thuộc thị trấn Hoàng Xá,
huyện Quốc Oai, Hà Nội) năm 1525, tác giả bài ký là Hoàng Nam Kim [101] phát
biểu rằng: “Kiếp phù sinh mọi sự đều không cả”, có nghĩa là trong kiếp sống này,
mọi sự đều không có tự tính, không có cái “bản ngã” riêng biệt, là giả hợp của nhiều
thành phần/bộ phận, đều “vô ngã”.
Thứ ba là dụng tâm. Bên cạnh những tư tưởng thuộc về bản thể của tâm, về vô
thường, vô ngã, tư liệu Hán Nôm thời Lê sơ cũng ghi lại những phát biểu về
phương diện “dụng tâm” của người có niềm tin Phật giáo. Năm 1509, nhân sự kiện
ông Nguyễn Liệu hiệu Phát Tâm, là người xã Đông Sơn, huyện Đông Sơn, phủ
Thiệu Thiên và vợ là bà Nguyễn Thị Lê hiệu Hướng Đạo ham làm điều thiện mà
bàn về việc tu phước, thực hành bố thí, cũng như ứng dụng giáo lý vào chăm sóc
75
đời sống cộng đồng. Tác giả bài ký luận rằng: “Đem sự điêu tàn của tạo hoá để bồi
bổ lại thì đó cũng là thiện duyên, há chỉ giữ đến ngày nay mà thôi đâu! Vì thế lấy
phát tâm ấy là dụng tâm, lấy hướng đạo là sở nguyện của kẻ có đạo.” (將 凋 殘 者
培 補 之 則 其 為 善 緣 豈 持 今 日 而 已 哉 是 乃 發 心 所 用 心 向 道 之 所 願
道 者)[92]. Cũng vậy, trong bài ký tại đình thôn Thuần Thọ, huyện Hoằng Hoá, tỉnh
Thanh Hoá năm 1522, tác giả soạn rằng: “Thường nghe nói rằng: Phật lấy việc cứu
người làm việc trọng. Người lấy bản thể của Phật làm cái tâm của mình. Bởi thế,
ruộng phúc là biểu trưng của thắng địa, dẫu đi ngàn dặm đường chẳng chỗ nào
không có cái nguyên do này.” (嘗 謂 佛 以 濟 人 為 事, 人 當 体 佛 為 心. 睠 此
福 田 素 稱 勝 地, 行 千 里 之 路 莫 不 由 斯)[100]. Nếu trên kia Nguyễn Trãi cho
chúng ta biết bản thể của tâm là gì thì ở đây hai tác giả của hai bài ký cho ta biết
dụng tâm như thế nào. Làm trong sạch tâm ý mình trở về với bản thể thanh tịnh là
con đường đưa tới sự hiểu biết (trí tuệ). Cứu giúp người khác (độ nhân) bằng cách
tạo thiện duyên, gieo nhân lành là cách thức khởi phát tình yêu thương (từ bi).
Từ bi và trí tuệ là hai phương diện căn cốt của giáo lý Phật giáo, như hai mặt
của một bàn tay, không thể tách rời. Tác giả bài ký bến đò Cù Sơn làng Phượng
Cách (phủ Quốc Oai, nay thuộc thị trấn Hoàng Xá, huyện Quốc Oai, Hà Nội) đã
viết về “tùy duyên phương tiện” trong việc dụng tâm làm việc thiện của người sở
hữu niềm tin Phật giáo. Ông nói rằng: “Gieo trồng việc thiện ở đời là tùy duyên, tùy
điều kiện” (種種隨緣方便間)[101]. Hiểu được nhân duyên mới biết tùy vào nhân
duyên mà gieo duyên lành. Biết rõ điều kiện mới biết tùy vào điều kiện mà làm việc
thiện. Điều đó chứng tỏ để làm việc thiện (thể hiện lòng yêu thương, từ bi) là phải
dựa trên sự hiểu biết về nhân duyên, thấu tỏ điều kiện thực tế.
Đặc biệt, trong bài ký khắc trên bia chủa Nga My năm 1497, Tiến sĩ Nguyễn
Giản trình bày một cách ngắn gọn súc tích và tổng quát về giáo lý Phật giáo: “Thiền
gia dòng phái, nối dõi Tây thiên. Giáo lý gốc ở từ bi, diệt dục quý người. Trang
phục thô sơ, ăn uống đạm bạc. Nghiệp thiện khuyến tu, nghiệp ác răn giới. Sắc tức
thị không, vật luỵ là nợ. Lòng ôm cùm kẹp, phóng sinh [thoát loài]. Quả báo luân
76
hồi, muôn lời nghìn giải” (禪家者流, 西天衍 派.教本慈悲, 息欲弘愛. 衣則葛麻,
食則蔬菜. 白業勸趨, 黑業飭戒. 色即是空, 物累為債. 梏止心懷, 放生住 . 果報
輪迴, 千言萬話)[85]. Ở đây, Nguyễn Giản nhấn mạnh về phẩm chất từ bi của
người tu thiền. Người tu thiền Phật giáo thực hiện hạnh biết đủ (tri túc) ít hoặc
không mong cầu (thiểu dục, diệt dục), nếp sống giản dị, khuyến khích làm việc
thiện, răn không làm việc ác, luôn thực tập buông xả vì bản thân và mọi hiện hữu có
hiện tượng mà không có tự tính và luôn đổi thay. Nguyễn Giản tuy bàn về giáo lý
Phật giáo nhưng cũng là về sự tu hành chân chính theo Phật và phẩm chất của người
tu hành Phật giáo.
Ngoài ra, trong tư liệu Hán Nôm còn thấy có đề cập tới bốn ơn (tứ trọng ân),
sáu cách ứng xử hòa hợp giữa người với người (lục hòa), năm phẩm chất (hay còn
gọi là 5 quyền lực) của người tu hành Phật giáo (ngũ viên), .v.v. Luận án sẽ đề cập
trong những nội dung sau.
Nhìn chung, mặc dù thời Lê sơ chính sử không ghi chép những thông tin về về
tư tưởng Phật giáo nhưng tư liệu bi ký và văn chương đã bộc lộ những tư tưởng rất
căn bản của Phật giáo. Trong đó, có sự kế thừa từ tư tưởng “Bụt là lòng” từ thời
Trần, có sự nhấn mạnh và diễn giải khá cụ thể về vô thường, vô ngã, từ bi, trí tuệ,
tùy duyên phương tiện, về mô thức chuẩn mực của con đường tu hành đi tới giác
ngộ bản thân và người khác của cộng đồng tu hành Phật giáo. Đó cũng chính là biểu
hiện niềm tin vào giáo lý của Phật giáo, hay còn gọi là niềm tin vào Pháp bảo.
3.1.2. Đối tượng thờ Phật giáo thời Lê sơ qua tư liệu Hán Nôm
Qua khảo cứu tư liệu Hán Nôm, cộng đồng Phật giáo thời Lê sơ đặt niềm tin
sâu sắc vào một số vị Phật, Bồ tát và Thánh Tăng.
Hình tượng Phật ở Đại Việt thời Lê sơ đầu tiên được nhắc đến là Phật Pháp
Vân. Vị Phật này được thờ ở chùa Pháp Vân, thuộc khu vực Cát Châu, Bắc Ninh.
Tính theo thời gian, Phật Pháp Vân được nhắc lần đầu tiên trong Đại Việt sử ký bản
kỷ toàn thư [q.3, tờ 6b8] và Khâm định Việt sử thông giám cương mục [q.3, tờ 31b6]
trong sự kiện năm 1073 (Đại Việt sử lược [q.2, tờ 15a7] và Trong Cổ Châu Pháp
Vân Phật bản hạnh ngữ lục [tờ 1301-3] đều ghi là năm 1072), ở Đại Việt mưa dầm
77
không ngớt, vua Lý Nhân Tông sai người lập đàn cầu tạnh tại chùa Pháp Vân. Lần
thứ hai Phật Pháp Vân được Đại Việt sử ký toàn thư nhắc tới trong sự kiện cầu mưa
vào tháng 5 năm 1188 thời nhà Lý [78, q.4, tr.21a]. Trong bi ký chùa Thanh Mai
[55] có nhắc tới hai lần lễ cầu mưa của Hoà thượng Thu Tử ở thời Trần (Pháp Loa
nhận lệnh từ vua Trần, giao nhiệm vụ cho đệ tử của mình là Thụ Tử). Và có thể
nghi lễ này cũng được thực hiện với Phật Pháp Vân. Chính sử thời Lê sơ ghi chép
sự kiện rước tượng Phật Pháp Vân về kinh thành cầu mưa vào ngày 1 tháng 4 năm
1434 vua Lê Thái Tông (thời Lê sơ) [78, q.11, tr.7a], và vào tháng 6 năm 1448 đời
vua Lê Nhân Tông [78, q.11, tr.68a]. Cả ba đoạn chép đều có thông tin về tình hình
hạn hán kéo dài, ảnh hưởng nghiêm trọng tới sản xuất và đời sống dân sinh. Trong
tâm thức của vua thời Lý, Phật Pháp Vân có vai trò là vị thần có khả năng hô phong
hoán vũ, có uy lực xoay chuyển tình hình khí hậu không thuận lợi, giúp con người
có được mưa thuận gió hòa. Trong những năm đầu giành độc lập từ sự đô hộ của
nhà Minh, triều đinh Lê sơ thời vua Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông trị vì đã nương
tựa vào lệ cũ, vào tâm thức truyền thống. Trong sự kiện năm 1434, mặc dù Nho
thần Nguyễn Thiên Hựu, dựa trên triết thuyết “lấy đức để động lòng Trời” của Nho
giáo để phản ứng lại với niềm tin vào Phật Pháp Vân một cách rất thẳng thắn “chỉ
rước Phật tụng chú thì không thể cầu mưa”, nhưng sự phản ứng đó không có hiệu
lực. Trong Đại Việt sử ký toàn thư, trong đoạn ghi về thời Lê Thái Tông có xuất
hiện cụm từ “miếu thờ Phật”[78, q.11, tr.49b] mà trước đây chưa từng thấy. Thông
thường, Phật được thờ ờ chùa, Thần được thờ ở miếu, do đó “miếu thờ Phật” cũng
có thể hiểu là Phật được thờ như Thần. Hơn nữa, đoạn sau còn còn có đoạn “vì để ô
uế nên xảy ra tại hoạ”. Như vậy, trong trường hợp diễn giải này, chắc chắn Phật
được thờ như một vị Thần có năng lực ban phúc giáng họa. Về sự hiện diện của
Phật Pháp Vân ở thời Lê sơ thế kỷ XV, Lê Mạnh Thát (1999, tập 1, chương 3) cho
rằng, đó là một sự hiện diện vừa gần gũi vừa vĩ đại, và là một trong những hành
động thể hiện sự dân tộc hoá về văn hoá của triều đình Lê sơ, chống trả lại sự
“Minh hoá văn hoá Đại Việt” của triều đình nhà Minh trước đó.
78
Về tôn thờ Phật A Di Đà, theo tư liệu bi ký, năm 1434 xuất hiện sự kiện một
vị quan địa phương “một lòng công đức phụng thờ Phật A Di Đà” (一 功 德 生 常
逢 阿 彌 陀 佛)[60]. Vì có niềm tin sâu sắc vào Phật A Di Đà, nên ông đã phát tâm
bỏ tiền của nhà ra để tôn tượng Phật A Di Đà cho chùa xã Quảng Nạp, huyện Đông
Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Cũng như vậy, tại chùa chùa Chuyết Sơn xã Cấp Tiến, huyện
Tiên Lãng, Hải Phòng những năm 1491 "Chùa cũ càng thêm huy hoàng, nhưng
tượng đức Di Đà lại chưa có" (舊跡增 輝然彌陀尊佛) [81]. Dân trong xã đã cùng
nhau công đức tiền của để tôn tượng Phật A Di Đà. Tư liệu văn khắc chùa Khám xã
Khám Lạng huyện Lục Ngạn tỉnh Bắc Giang [82] cũng lưu giữ dấu vết về Phật Tam
Tôn (佛 三 尊) được nhắc đến trong sự kiện một nhóm Phật tử có pháp danh Thiện
Duyên, Thuận Tâm, Ngộ Ông, Hữu Duyên, Vô Tâm tôn tạo tượng Phật Tam Tôn
năm 1494. Phật Tam Tôn hay còn gọi là Tam tôn hay Di Đà tam tôn, Tây Phương
Tam Thánh, đó là Phật A Di Đà ở giữa, Bồ-tát Quán Thế Âm bên trái, tay cầm
nhành dương liễu và bình tịnh thủy; và Bồ-tát Đại Thế Chí bên phải tay cầm cành
hoa sen màu xanh. Theo giải thích của Trần Nhân Tông thì “Di Đà là tự tính sáng
soi, mựa phải nhọc tìm về Cực Lạc”, ý nói Di Đà là tự tính thấy biết sáng suốt của
tâm. Nhưng có lẽ hình tượng Phật A Di Đà và đặc biệt là hình tượng bộ ba Phật
Tam Tôn ở thời Lê sơ được tôn thờ theo niềm tin của cộng đồng tu Tịnh Độ với ý
nghĩa: Phật A Di Đà biểu tượng cho Thanh Tịnh-Giải Thoát; Bồ-tát Quán Thế Âm
biểu tượng cho Từ Bi cao thượng; Bồ-tát Đại Thế Chí biểu tượng cho Trí Tuệ siêu
việt. Ba vị thường tiếp dẫn chúng sinh từ 10 phương thế giới tu hành vãng sinh về
Tây Phương Cực Lạc.
Về tôn thờ Bồ Tát, tư liệu bi ký chùa thôn Cung Kiệm, xã Nhân Hòa, huyện
Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh cũng cho thấy dấu vết về hình tượng Bồ tát Quan Âm được
người dân ở đây thời Lê sơ tôn thờ độc lập, không nằm trong bộ Tam tôn như trình
bày ở trên. Đó là pho tượng Quan Âm chùa thôn Cung Kiệm xã Nhân Hòa huyện
Quế Võ tỉnh Bắc Ninh. Bệ tượng và tượng bằng đá, chữ khắc cả trên lưng tượng và
bệ tượng, nội dung dịch ra như sau: "Năm Kỷ Tỵ niên hiệu Thái Hòa thứ 7 (1449)
đời vua thứ ba triều Lê. Các thí chủ ở xã Kiệm, huyện Vũ Ninh, lộ Bắc Giang Trung
79
là: Đào Ngân, Nguyễn Thị Biên, Nguyễn Lăng, Đào Thị Điều, Nguyễn Bế, Nguyễn
Thị Thiếu”[65]. Tín ngưỡng Quan Âm thời Lê sơ khá phổ biến, nhưng vị trí đặt
tượng thường không ở cùng trên Phật điện mà là ở gian bên, hoặc ở bên ngoài như
trường hợp tượng Quan Âm chùa Cung Kiệm này.
Dấu vết về sự kiện tạo tượng Diệu Thiện thời Lê sơ hiện nay còn có thể khảo
trong bi ký tại chùa Sùng Khánh thôn Thọ Ích, xã Vũ Điện, huyện Nam Xương, tỉnh
Hà Nam “Vào ngày lành tiết Gia bình năm Thống Nguyên thứ tư (1525) khởi công,
sửa sang cảnh quan, tạo tượng Diệu Thiện” (迺於統元四年嘉平節觸穀日集鳩工,
運風斤揮月斧增新制度,改觀規模并造妙相) [102]. Diệu Thiện theo truyền thuyết
là công chúa con vua Sở Trang Vương, say mê kinh kệ, lớn lên quy y xuất gia đầu
Phật, chứng quả trở về cứu độ cha mẹ, các chị em và nhiều muông thú. Bà được tôn
xưng là Quan Âm Diệu Thiện, được tôn thờ như một vị Bồ tát giáng trần. Mặc dù là
truyền thuyết, nhưng hình tượng Diệu Thiện cho thấy trong tâm thức của một cộng
đồng thời Lê sơ có niềm tin về một người phàm có thể tu hành chứng quả, đủ năng
lực thực hiện hạnh nguyện Bồ tát đi cứu độ cho chúng sinh.
Điều đặc biệt, khi khảo cứu Đại Việt thông sử ở phần chép về Lê Thái Tổ (Lê
Lợi), chúng tôi thấy xuất hiện chi tiết “Bạch Y Thần Tăng” (白衣神僧) xuất hiện chỉ
cho Lê Lợi vị trí an táng tổ tiên [107]. Trong Lam sơn thực lục [3, tr.27-28], Nguyễn
Trãi ghi (Lê Thái Tổ đề tựa, Mạc Bao Thần dịch sang tiếng Việt) chép về sự kiện
Lê Lợi sai người nhà cấy ruộng ở xứ Phật hoàng động Chiêu Nghi. Người nhà thấy
một nhà sư già mặc áo trắng từ thôn Đức Tề đi ra, thở dài mà than: “Quý hóa thay
phiến đất này! Không có ai đáng dặn”. Lê Lợi bèn chạy tìm nhà Sư hỏi chuyện. Nhà
sư mặc áo trắng đó nói “Tôi từ bên Lào xuống đây, họ Trịnh, tên là sư núi Đá Trắng.
Hôm thấy ông khí tượng khác thường, có thê làm nên việc lớn”. Nhà sư chỉ cho Lê
Lợi nơi táng mộ tổ tiên của Lê Lợi vào huyệt đất phát vận đế vương. Xong việc nhà
sư hoá về trời. Như vậy vị sư áo trắng từ Lào qua không chỉ có năng lực thần thông
mà còn có năng lực quan sát về phong thủy để chỉ chỗ an táng mộ tổ tiên của Lê
Lợi, từ đó làm căn cứ tâm linh cho sự phát vương của Lê Lợi cũng như dòng họ Lê.
Sự kiện này như một dấu mốc quan trọng cho một vận mệnh lớn được mở ra. Một
80
vị tăng sĩ thành “thần” cũng bởi những năng lực siêu phàm này. Nói cách khác,
năng lực quan sát phong thủy siêu phàm của một vị tăng được xem như một chỗ
dựa tinh thần đưa tới quyết định cho sự thay đổi cả một dòng họ và một quốc gia.
Về tôn thờ Hiền Thánh Tăng, trong tư liệu bi ký thời Lê sơ xuất hiện những sử
liệu minh chứng sự tôn thờ các vị Tăng sĩ Phật giáo sống ở Đại Việt thời kỳ Lý –
Trần đắc đạo quả, có năng lực siêu phàm, được tôn xưng là Phật, Thánh, như Từ
Đạo Hạnh (còn gọi là Từ Công), Trần Nhân Tông (còn gọi là Phật Hoàng, Tĩnh Tuệ
Giác Vương), Thánh Bối (Chân Nhân Nguyễn Lữ) .v.v.
Từ Công (Từ Đạo Hạnh) – một tăng sĩ Phật giáo xuất chúng thời Lý. Theo
nghiên cứu của Nguyễn Thị Dung và Trường Phong, căn cứ tư liệu văn chuông tại
chùa do sa môn Thích Huệ Hưng soạn, Từ Đạo Hạnh tới chùa Thiên Phúc (còn gọi
là chùa Thầy, chùa Phật Tích) từ khoảng năm 1106 – 1116. Ông là bậc cao tăng đắc
pháp, có nhiều tài phép và thuật lạ và được ví như Phật sống [11]. Cho đến nay,
trong số 25 ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh Tổ (Từ Đạo Hạnh, Dương Không Lộ,
Nguyễn Minh Không, Nguyễn Giác Hải) ở châu thổ đồng bằng Bắc Bộ, có tới 3/5
số chùa thờ Ông [17]. Theo văn bia tại chùa này, có thể thấy Ông đã trở thành nhân
vật được nhắc đến nhiều ở thời Lê Thánh Tông và Lê Hiến Tông với sự kiện năm
1460 Trinh Quốc công (bố vợ của vua Lê Thánh Tông) cầu tự cho con gái mình là
Hoàng hậu Trường Lạc ở am thờ Từ Công chùa Thầy. Sự kiện này được Nguyễn
Bảo ghi trong bi ký am Hiển Thụy [87] và Phan Huy Chú chép lại trong Lịch triều
hiến chương loại chí [110, tập 1, tr.246-247]: “Trinh quốc công vì bà, đến cầu đảo
ở am ông Từ trong chùa ấy. Đương khi làm lễ, chợt có hòn đá bay xuống trước mặt,
ông bọc kỹ mang về. Rồi sai tạc tượng, cho hòn đá vào trong tượng, làm riêng một
cái am để thờ. Việc đó không ai biết cả.”. Chùa ấy ở đây là chùa Thầy trên núi Sài
Sơn (Hà Nội ngày nay). Trinh Quốc Công không cầu tự nơi Tam Bảo, mà tới am
thờ Từ Đạo Hạnh để cầu xin với vị tăng tương truyền đã đắc thần thông, hoằng
pháp độ sinh nổi tiếng một thời. Dấu hiệu “đá bay” đã khiến cho sự cầu xin trở lên
linh thiêng. Ngay sau đó Hoàng hậu Trường Lạc hạ sinh ra người con trái khôi ngô
tuấn tú là Lê Hiến Tông sau này thêm một lần xác quyết về sự linh thiêng của Từ
81
Đạo Hạnh. Tất nhiên, niềm tin này không phải để đưa tới tu hành đắc pháp với pháp
môn mà Từ Đạo Hạnh đã tu, mà là để đáp ứng một nhu cầu có được vị thế xã hội
của con gái và gia tộc Trinh Quốc Công. Như vậy, có thể thời Lê sơ đã có nhiều
chùa thờ các vị Thánh Tổ này, trong đó Từ Đạo Hạnh được tôn thờ nhiều nhất.
Trần Nhân Tông cũng là một nhân vật Phật giáo được người thời Lê sơ hướng
về. Trong bi ký chùa Minh Khánh [95], những thực hành thuần túy Phật giáo ở đây
đều xuất phát từ lý do quan trọng nhất là chùa “vốn là nơi Trúc Lâm Đại Phật Tĩnh
Tuệ Giác vương Điều ngự chủ Trần Nhân Tông trước kia tu hành và đặt tên cho”.
Sự hiện diện của Trúc Lâm Đại Sĩ trong lịch sử vốn đã thiêng hóa nơi này. Không
những thế, sự kiện khi Lê Tương Dực dấy quân ở Tây Đô, “Viên cựu thần nơi Tiềm
để là Đặng Mai về bản chùa dập đầu khẩn cầu, hết lòng ngầm xin trước bài vị
Hoàng đế Trần Nhân Tông” (其潛邸臣鄧歸于本寺頓首懇祇盡心默禱于陳仁
宗皇帝位). Việc dấy quân thắng lợi. Sau này, vì muốn trùng tu lại chùa nên ông đã cầu
xin trước bàn thờ của Trúc Lâm Đại Sĩ, sau đó ông được vua cho phép trùng tu đã
khiến cho niềm tin của Đặng Mai và cộng đồng tứ chúng chùa Minh Khánh vào
Trần Nhân Tông càng được củng cố hơn nữa.
Tại chùa Bối Khê (nay thuộc Thanh Oai, thành phố Hà Nội), bi ký trong chùa
ghi sự kiện năm 1453 (Thái Hòa thứ 11)[68] cộng đồng khắc ghi sự tích Thánh Bối
(Chân Nhân Nguyễn Lữ) vào bia đá dựng tại chùa. Ông vốn là một vị Tăng sĩ Phật
giáo sống thời Trần, trụ trì chùa Trường An, tu tập đến mức đắc được 6 phép thần
thông (lục thần thông). Sau khi qua đời thường linh ứng giúp cho người cầu tự, giúp
cho quan dân cầu mưa được mưa. Sự tích về ông đã được ghi chép trong Nhất thống
chí, Công dư tiệp ký và Quốc âm truyện nhưng vẫn được khắc vào bi ký như một
nguồn thông tin cho cộng đồng dễ tiếp cận và con cháu nhiều đời sau có cơ hội biết
đến sự tích hiển thánh và những sự kiện linh ứng của Thánh. Trong trường hợp này,
vị Thánh Bối được tô tượng thờ cúng trước hết bởi năng lực thần thông, khả năng
ban phúc giáng họa cho cộng đồng.
Như vậy, nếu chỉ nhìn sử liệu trong chính sử và những dấu vết về đối tượng
thờ của Phật giáo thời Lê sơ thì chúng ta dễ dàng đồng ý với Mật Thể khi nhận xét
82
ở Đại Việt thời Lê sơ “từ vua đến dân đã yên trí Phật là phép thần thông như một vị
thần của Lạc-Ma-giáo hay Phù-chú-giáo” [40, tr.173]. Nhưng khi xét tới tư tưởng
Phật học được trình bày trong tư liệu bi ký và văn chương thì chúng ta phải nhận
định lại rằng, thời Lê sơ bên cạnh niềm tin các vị Phật, Bồ tát và Hiền Thánh Tăng
là những vị thần có khả năng ban phúc giáng họa, còn có niềm tin về Phật là một vị
thầy chỉ đạo về sự giác ngộ giải thoát qua giáo lý về vô thường, vô ngã, về tính và
dụng của tâm, tùy duyên phương tiện, bố thí, báo ấn .v.v. Trong đó, một phần tư
tưởng đó được kế thừa từ tư tưởng Phật giáo thời Trần.
3.1.3. Đôi nét về kinh điển, thư tịch Phật giáo thời Lê sơ qua tư liệu Hán Nôm
Về kinh Phật thời Lê sơ, hiện nay chưa có tư liệu Hán Nôm nào ghi chép. Tuy
nhiên, căn cứ vào nghiên cứu của Hoàng Thị Ngọ (1999), vào tình hình Phật giáo
Đại Việt thời thuộc Minh và đối tượng thờ của Phật giáo thời Lê sơ, Luận án trình
bày khái lược về tình hình kinh Phật thời Lê sơ như sau:
Thứ nhất, theo nghiên cứu của Hoàng Thị Ngọ (1999, tr.20), thời Lê sơ có một
bản kinh Phật khắc in và thịnh hành đó là Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng
kinh. Bản này vốn bắt nguồn từ bản Phụ mẫu ân trọng kinh của Trung Quốc, được
xếp vào mục 85 của bộ Đại chính tạng. Hiện nay bản chữ Hán có mặt ở ba quốc gia,
đó là Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam. Hiện nay, bản giải âm này được lưu giữ
tại Hội Châu Á học, địa chỉ 52 Rue du Cardinal Lemoine, 75005, Paris với ký hiệu
PD 2350 (nhà nghiên cứu quá cố Tạ Trọng Hiệp đã đưa một bản về Việt Nam). Về
nội dung, bản giải âm này nói về tứ trọng ân, rất gần gũi với Hiếu kinh của Nho
giáo. Điều đáng lưu ý là, ở Đại Việt thời Lê sơ, bản kinh chữ Hán này được dịch ra
chữ Nôm và khắc in lưu hành rộng rãi. Điều đó chứng tỏ rằng, nhu cầu đọc tụng
kinh này rất rộng rãi, và phổ biến trong giới bình dân.
Thứ hai, như đã trình bày ở phần 2.1.4, trong chính sách quản lý của triều
Minh có sự phổ biến Phật giáo, trọng dụng nhà sư, coi trọng việc phổ biến giáo lý
Phật giáo. Do chính sách đồng hoá văn hoá của triều đình nhà Minh, thư tịch Phật
giáo ở Đại Việt thời Trần có thể không bị thiêu huỷ, nhưng chưa hẳn đã được phổ
biến ở thời thuộc Minh và thời Lê sơ. Kinh Phật thời thuộc Minh ở nước ta khả
83
năng cao là kinh được đưa sang từ Trung Quốc. Những kinh sử dụng trong sinh
hoạt của Thiền tông, Tịnh Độ Tông, Mật tông ở nước ta thời Lê sơ có lẽ cũng nằm
trong tình hình đó.
Thứ ba, đầu thời Lê sơ, việc xuất hiện những nghi lễ liên quan tới niềm tin
mạnh mẽ vào Phật Pháp Vân cho phép luận án dự đoán rằng, tại tổ đình chùa Dâu
lúc đó đã có một nghi quỹ riêng, đã có một hệ thống thư tịch riêng sử dụng cho nghi
lễ, cho sinh hoạt Phật giáo ở đây, mà không liên quan tới kinh điển và thư tịch Phật
giáo do nhà Minh đưa từ Trung Quốc sang. Hiện nay, chúng ta còn có thể tiếp cận
được với bản Cổ Châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục (古 珠 法 雲 拂 版 行 語
錄, ký hiệu A.818) Viên Hùng dịch ra chữ Nôm, in lại năm Lê Cảnh Hưng 13
(1752). Trong đó, không chỉ ghi chi tiết về sự tích mà còn có chế độ khoa nghi.
Thứ tư, sau này khi Thiền phái Trúc Lâm phục hưng với Hoà thượng Thiện
Hoa, Thiện Hoà, Thanh Từ ở giữa thế kỷ XX, chúng ta vẫn còn tiếp cận được với
những văn bản chữ Hán của Thiền phái này mà sau này tập hợp thành Trúc Lâm
Yên Tử Phật giáo tùng thư (Nxb.KHXH in năm 2018). Điều đó chứng tỏ, triều
Minh đã không thể tịch thu và thiêu huỷ hết thư tịch của Đại Việt thời đó. Trong các
sơn môn, tổ đình hoặc trong dân gian vẫn lưu giữ những thư tịch của thời Trần. Vì
thế, trong sinh hoạt Phật giáo thời Lê sơ chắc chắn vẫn có những sơn môn, tổ đình,
chùa vẫn sử dụng những kinh điển, thư tịch Phật giáo thời Trần.
Tóm lại, trên cơ sở khảo cứu tư liệu Hán Nôm, ngoài trường hợp cụ thể là bản
kinh Phật về tứ ân có nội dung gần gũi với Nho giáo như trên đã trình bày, thì thời
Lê sơ, cộng đồng Phật giáo có thể vừa sử dụng những kinh điển, thư tịch khác được
đưa từ Trung Quốc sang từ thời thuộc Minh, vừa sử dụng những kinh điển, thư tịch
còn sót lại trong các sơn môn, tổ đình từ thời Trần.
3.2. Thực hành Phật giáo thời Lê sơ qua tƣ liệu Hán Nôm
Thời Lê sơ, thực hành Phật giáo ở Đại Việt có thể đã được thực hiện rất phong
phú ở cả hai phương diện: thuần túy Phật giáo và hướng đích xã hội. Tuy nhiên,
trên cơ sở tư liệu Hán Nôm, Luận án đi sâu trình bày một số thực hành tiêu biểu,
như thờ phụng, tu học, tu tạo cơ sở thờ tự, .v.v. như những sự kiện tiêu biểu được
ghi chép lại.
84
3.2.1. Thờ phụng và tu học Phật giáo thời Lê sơ qua tư liệu Hán Nôm
a) Thờ tự và nghi lễ Phật giáo thời Lê sơ
Ở quy mô quốc gia, ngay từ giai đoạn đầu thời Lê sơ, xuất phát từ niềm tin
Phật Pháp Vân là một vị thần có thể cứu giúp triều đình và dân chúng khi gặp nguy
nan, cho nên Lê Thái Tông và triều đình ông trị vì đã chăm sóc những ngôi quốc tự
(chùa do nhà nước xây dựng) tạo điều kiện cho việc thờ Phật với mục đích quan
trọng nhất là thực hành những nghi lễ quốc gia khi xuất hiện những việc trọng đại.
Theo chính sử [78, q.11], mặc dù kinh tế đất nước sau chiến tranh chống Minh chưa
đạt đến độ thịnh vượng, nhưng những ngôi chùa Thanh Đàm, Chiêu Độ (năm 1434)
với quy mô 90 gian ở kinh thành vẫn được triều đình xây dựng. Đặc biệt, việc thờ
Phật ở chùa Pháp Vân (Cổ Châu, Kinh Bắc), chùa Báo Ân và chùa Báo Thiên ở
kinh thành được triều đình rất quan tâm, bởi vì lễ cầu mưa đầu thời Lê sơ thường
thực hiện bằng cách rước tượng Phật từ chùa Pháp Vân về đàn lễ ở chùa Báo Thiên
hoặc chùa Báo Ân ở kinh thành. Sư Huệ Hồng cũng được phong Sa môn và ban áo
tía. Từ Sa môn đã xuất hiện từ thời Lý – Trần. Với chi tiết “ban áo tía” (tứ tử), theo quy
chế Đường – Tống, quan từ nhị phẩm trở lên được ban áo tía. Như vậy, sư Huệ Hồng là
một tăng quan có chức vị khá cao trong hệ thống chính trị và Phật giáo thời Lê sơ. Các
chùa này đều được ban thưởng tịnh tài khi có nghi lễ diễn ra. Việc thực hiện nghi lễ
Phật giáo cấp quốc gia này có tác dụng an dân hơn là hướng cộng đồng tới việc tu tập
theo giáo lý Phật giáo. Sau này Hà Văn Tấn qua kết quả thám sát ở chùa Đậu và những
minh chứng khác nhận định về Phật giáo Trần, Lê, Nguyễn là đã có “một sơn môn
riêng (sơn môn Dâu) mang đậm sắc thái Việt Nam bao gồm Phật điện riêng (các tượng
tứ Pháp và tượng Thạch Cuông), một hệ thống kinh kệ riêng (kinh Tứ Pháp), một nghi
thức cúng tế riêng (nghi lễ rước các tượng Phật Tứ Pháp cầu mưa)”.
Thời Lê sơ, Thờ Phật và nghi lễ Phật giáo không chỉ xuất hiện với chủ ý của
triều đình mà còn xuất hiện ở nơi hậu cung. Đặc biệt trong tài liệu bi ký có ghi về sự
kiện thờ Phật rất siêng năng của mẹ vua Lê Thánh Tông. Bi ký sơn lăng thờ Bà có
đoạn viết: “Thái hậu thường ngày rất năng thờ Phật, già lại càng chăm, cho nên
cuối cùng đã được báo đáp như vậy”[86]. Báo đáp ở đây là nói về việc khi bà càng
85
về cuối đời dung mạo càng đẹp, lúc lâm chung thân thể thơm tho. Khi còn là tiệp dư
(một chức nữ quan trong triều), đang mang thai Lê Thánh Tông, vì biến động nội
cung, Bà phải lánh nạn ra chùa Huy Văn (Hà Nội). Bà đã tiếp xúc sâu với việc thờ
Phật từ đó. Việc thờ Phật của Bà trước hết có lẽ là do báo ân Tam Bảo đã che chở
cho mẹ con bà. Hơn nữa, những tháng ngày chăm sóc Tam Bảo và cuộc sống trong
chùa đã khiến cho niềm tin Phật giáo trong bà càng về sau càng trở nên sâu dày.
Mặc dù, bà cũng từng thực hiện lễ cầu tự cho con trai là vua Lê Thánh Tông, nhưng
cộng đồng quanh bà vẫn gọi bà là “Phật sống”. Có lẽ, việc thờ Phật của Bà không
chỉ là để báo ơn hay vì niềm tin vào sự linh thiêng của Tam Bảo, mà sự thờ Phật của
Bà đã đi vào thực hành trong đời sống với những hành xử rất vị tha. Việc thờ Phật
đưa tới thân tâm thanh tịnh đích thực là một phương tiện tu tâm. Có lẽ những thực
hành Phật giáo này là một trong những lý do đã đưa Bà vào vị trí quan trọng trong
sinh hoạt cung đình.
Việc thờ Phật và nghi lễ Phật giáo cũng xuất hiện trong nhiều gia đình quan
lại. Gia đình Thái phó Lê Văn Linh là một trong số đó. Năm 1448, ông chết, thọ 72
tuổi, được truy tặng Khai phủ, tên thụy là Trung Hiến. “Ông là người chỉ tin thờ
đạo Phật, đinh ninh dặn lại con mình kính mời các bậc cao tăng tụng kinh ba tuần
chay, bảy tuần giới, đừng làm đám linh đình mà thôi.” [78, q.11, tr.65b]. Điều đó
chứng tỏ, trong niềm tin tôn giáo của ông chỉ có niềm tin Phật giáo. Cho nên, ngay
cả nghi lễ tang ma của mình, ông cũng muốn thực hành theo Phật giáo.
Trường hợp bí mật lập am thờ Phật của Trinh Quốc Công Nguyễn Đức Trung
như đã đề cập đến ở trên không hẳn từ lý do tin vào Phật giáo như Lê Văn Linh, mà
còn có liên quan tới việc cầu tự, nghĩ là mong cầu có được điều gì đó mà Phật có
thể ban cho. Dấu hiệu đá thiêng đã củng cố thêm niềm tin Phật giáo của Trinh Quốc
Công đưa tới việc ông quyết định lập am thờ Phật, mặc dù không được công khai.
Việc thờ Phật tuy là vì mục đích cầu tự, nhưng phần nhiều là do bị thuyết phục bởi
dấu hiệu linh thiêng của thánh tăng Từ Đạo Hạnh. Năm sau (1461), Trường Lạc
Hoàng hậu sinh ra Lê Hiến Tông nối ngôi cha Lê Thánh Tông. Và chính Lê Hiến
Tông là người công khai việc thờ Phật trong bi ký.
86
Cũng là bí mật lập am thờ Phật, nhưng trường hợp thờ Phật trong gia đình Đại
đô đốc Lê Ngân có màu sắc khác biệt về niềm tin. Chính sử ghi sự kiện Đại đô đốc
Lê Ngân bị tố giác tội tự lập am thờ Phật Quan Âm trong nhà vì tin rằng Phật Quan
Âm có thể giúp cho con gái mình là Huệ Phi Chiêu nghi Lê Nhật Lệ được vua yêu.
Qua lời khai của Lê Ngân, lý do là xưa kia từng là nơi thờ Phật nên nay phải lập am
thờ cho trang nghiêm. Tuy nhiên, có lẽ đó là cái cớ để biện hộ cho hành vi tham gia
của thầy phù thủy Trần Văn Phương và thanh đồng họ Nguyễn, cho nên kết quả con
gái bị giáng xuống làm Tư dung, thanh đồng họ Nguyễn thị bị đày ra châu xa, còn
thầy phù thủy bị đồ làm lính ở phường nuôi voi [78, q.11, tr.49a]. Nếu tôn Phật lên
thờ để làm bình phong cho thực hành tín ngưỡng khác như bói toán, hầu đồng thì đó
không phải là thực hành trên cơ sở niềm tin đúng đắn vào Tam Bảo, hoặc là đã diễn
giải Phật Quan Âm theo cách thần thánh hóa hoặc thế tục hóa.
Với một số quan lại ở địa phương, việc thờ Phật xuất hiện như một yếu tố
quan trọng trong đời sống cá nhân. Chẳng hạn như, vị Xa kỵ vệ Thiết đột hậu
Thánh Dực quân Chính ngũ trưởng, người phường Đồng Dặc, xã An Hoạch, huyện
Đông Sơn tỉnh Thanh Hóa là quan lại đầu thời Lê sơ (1434) là một ví dụ. Ông chỉ
“thờ Phật A Di Đà” (常 逢 阿 彌 陀 佛) [59].
Qua ghi chép trong bi ký tại chùa Nga My trong kinh thành (nay thuộc Hoàng
Mai, Hà Nội), Tiến sĩ Nguyễn Bảo năm 1497 đã quan sát tình hình thờ Phật và thực
hành nghi lễ tại chùa Nga My: “Tiên tử gõ cửa, thi khách vãng lai. Triều quan thôn
dã, xe mũ đi về. Sớm trống chiều chuông, hương đàm nghi ngút” (浪仙敲門, 坡公
流帶. 朝野未曚, 駢集冠蓋. 暮鼓晨鍾, 香壇 杏)[85]. Nhìn vào đó, người đọc có
thể hình dung về một không khí thờ tự trang nghiêm, ấp áp, nhộn nhịp ở những ngôi
chùa thuộc kinh thành. Cũng theo ghi chép trong bi ký này, ở vào thời điểm khắc
bia, tại chùa Nga My đang tồn tại một cộng đồng tu thiền do sư Thanh Xán làm trụ
trì. Điều đó có nghĩa là nhiều quan lại và người dân ưa thích tới thăm viếng thực
hành nghi lễ ở ngôi chùa có hình thức thờ tự và nghi lễ theo Thiền tông.
Hiện nay chưa tìm thấy tư liệu Hán Nôm nào ghi chép về lễ quán đỉnh thụ
pháp như ở thời Trần. Lễ quán đỉnh thụ pháp vốn là một nghi lễ thường do phái Mật
87
tông thực hiện. Thời Trần những vị nhận lễ này đều thuộc hoàng tộc. Không có ghi
chép về lễ quán đỉnh thụ pháp không có nghĩa là thời Lê sơ không có nghi lễ đó
cũng như không phải Mật tông không có mặt, mà do hệ tư tưởng của triều đình Lê
sơ và tâm thức cộng đồng Đại Việt đang hướng tới phương diện khác của Phật giáo.
Nhìn chung, thờ tự và nghi lễ Phật giáo thời Lê sơ được thực hiện từ quy mô
nhà nước tới gia đình quan lại. Các vị Phật, Bồ Tát, Hiền Thánh Tăng được thờ
phụng trước hết bởi tính thiêng thông qua những ứng nghiệm qua việc cầu đảo được
ghi chép lại trong chính sử và bi ký như một hiện tượng nổi bật, thu hút nhiều sự
chú ý. Bên cạnh đó, việc thờ tự và nghi lễ Phật giáo ở địa phương tuy không được
nhắc tới một cách trực tiếp, nhưng một cách gián tiếp qua việc trùng tu, tôn tạo cơ
sở thờ tự ở các chùa, am đều phản ánh về một tình hình thờ Phật không hề trầm lặng.
b) Tu học Phật giáo thời Lê sơ
Học Phật là sự truyền và nhận những tri thức căn bản trong giáo lý Phật giáo
và những nguyên tắc căn bản trong thực hành bát chính đạo để hướng tới mục đích
thấu rõ bốn sự thật (tứ diệu đế), 12 nhân duyên đi tới giác ngộ, giải thoát. Trong
nguồn tài liệu Hán Nôm thời Lê sơ, chưa thấy ghi chép về những pháp hội Phật giáo
quy mô quốc gia như thời Trần đã nói ở chương trước. Điều này hạn chế cơ hội
tham gia học Phật quy mô lớn của cộng đồng. Cũng có thể vẫn có việc giảng học ở
cộng đồng nhỏ thuộc các chùa ở địa phương, nơi có những vị tăng sĩ có sở học và
sở hành tốt. Nhưng về cơ bản, các cá nhân sở hữu niềm tin Phật giáo phải tự chủ
động trong việc nghiên cứu và tiếp nhận giáo lý Phật giáo.
Thông tin về Tam tạng kinh điển và sách về Phật giáo cũng vắng bóng trong
các nguồn tài liệu Hán Nôm. Tình hình này có lẽ một phần do sự kiện tháng 6 năm
1406 sau khi chiếm được Đại Việt, Minh Thành Tổ Chu Đệ ra lệnh “Binh lính vào
nước ấy, ngoại trừ sách kinh và ván in của đạo Phật, đạo Lão không thiêu hủy; tất
cả thư tịch, ván in cho đến những loại giấy trẻ con quê mùa tập viết như “Thượng
đại nhân, Khưu ất dĩ”, một mảnh một chữ đều phải hủy hết”[103]. Tuy nhiên,
Hoàng Thị Ngọ [31] đã phát hiện một bản dịch Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân
trọng kinh bằng chữ Nôm ra đời vào thời kỳ này. Chứng tích niên đại nằm ở hiện
88
tượng kiêng húy chữ Lợi chữ Trần, tức là kiêng tên Lê Lợi và vợ của ông là Phạm
Thị Ngọc Trần. Không những thế bản này còn được khắc in để ấn tống rộng rãi.
Bản chữ Hán Phụ mẫu ân trọng kinh được tìm thấy ở Đôn Hoàng, hiện nay được
xếp trong tập 85 bộ Đại Chính tạng [112, tr.1503]. Đây là kinh Phật nói về báo hiếu
cha mẹ - một trong bốn ơn trọng của giáo lý Phật giáo, có lẽ được dùng để tụng và
giảng trong dịp Vu Lan. Giáo lý này có sự tương giao với giáo lý “hiếu đễ” ghi
trong Hiếu kinh của Nho giáo. Nho giáo thời Lê sơ có nhiều mặt thịnh hành, vì thế,
đây có thể là một văn bản Phật giáo nhận được sự ủng hộ và tiếp nhận của nhiều
tầng lớp trong xã hội.
Sự vắng bóng những pháp hội Phật giáo đã thúc đẩy những pháp đàm quy mô
nhỏ thường là giữa hai cá nhân, giống như Pháp Loa và Huyền Quang ở thời Trần.
Nguyễn Trãi khi lui về ở ẩn đã “Giơ tay áo đến tùng lâm” và ở đó diễn ra sự giao
lưu “chủ vô tâm ỷ khách vô tâm” tới mức “nừng mỗ sơn tăng làm bạn ngâm” [63,
tr.432], tức là hai bên đã thành bạn tri âm với nhau. Cụ thể hơn nữa, bài tiễn sư Đạo
Khiêm về núi đã bộc lộ ra nội dung mà Nguyễn Trãi và sư Đạo Khiêm đàm đạo chủ
yếu về thiền. Quá trình hai người giảng học, chia sẻ về giáo lý căn bản của Phật
giáo, về sự thực đời sống kéo dài suốt hơn mười năm. Có lẽ chính những dịp này
Nguyễn Trãi đã tiếp nhận những giáo lý căn bản như thể và dụng của tâm với căn
cốt là “Bụt là lòng” như đã nói ở trên. Không chỉ dừng ở việc tiếp nhận, Nguyễn
Trãi đã diễn giải những điều đó ra tác phẩm thơ Nôm để chia sẻ rộng rãi với những
người có duyên. Ngoài giáo lý về thể và dụng của tâm, ông còn chia sẻ về tri túc
(Huấn tử nam), về giới dâm (giới sắc) và vô sân (giới nộ) [63, tr.459]. Với sự diễn
giải này, Nguyễn Trãi vô hình trung đã tham gia vào việc hoằng pháp Phật giáo cho
cộng đồng.
Trong bi ký chùa Quang Khánh[70] ghi chép về cuộc đàm đạo giữa Lê Thánh
Tông và sư chùa Quang Khánh. Trong đó, nhiều nội dung giáo lý rất quan trọng của
Phật giáo được đề cập tới, như: đại giác là cảnh giới cao của sự giác ngộ; vô cùng
môn lý nói về thế giới trần tục (còn gọi ta bà, tích môn), là cõi ta bà; ngũ viên là
“ngũ lực viên thông” tức là 5 sức mạnh của người tu Phật; lục độ là 6 pháp môn tu
89
hành hoàn toàn thanh tịnh (ba la mật) của Bồ tát gồm bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh
tiến, thiền định và trí tuệ; tam sinh hay “tam thế” là ba đời chư Phật. Người có thể
đàm đạo những nội dung này chắc chắn không phải có tri kiến tầm thường. Trong khi
đó, người thuyết ở đây là sư trụ trì, còn người nghe mà mãnh tỉnh (bỗng nhiên tỉnh ngộ)
lại là Lê Thánh Tông. Với chi tiết này cũng có thể hiểu là chính sư trụ trì đã thuyết
pháp cho vua Lê Thánh Tông nghe, mà không chỉ dừng ở chuyện pháp đàm.
Thời Lê Thánh Tông, còn có một tác phẩm khá đặc biệt, đó là Thập giới cô
hồn quốc ngữ văn [67, tr.285]. Tương truyền bản này do Lê Thánh Tông soạn. Tuy
nhiên, dù do Lê Thánh Tông soạn hay do Hội Tao đàn soạn thì nội dung phần Giới
thiền tăng là một sự kiện đặc biệt trong bối cảnh Nho giáo thịnh hành. Với tinh thần
khuyên răn (giới) tăng sĩ Phật giáo nên học cái gì, tu thế nào, giữ giới ra sao, thì
người khuyên đã là người cực kỳ thấu hiểu giáo lý Phật giáo và đời sống Phật giáo.
Tuy nhiên, xét kỹ thì thấy đối tượng ở đây không phải là tăng sĩ Phật giáo bình
thường mà là một trong 10 loại cô hồn. Tại sao như vậy? Doãn Chính [4, tr.494]
cho rằng tác giả phê phán Phật giáo trong việc cứu độ con người, về thiên đường và
địa ngục, vì cuối bài có câu “Pháp đâu chẳng độ được mình ta?” Tuy nhiên, ở đây
có thể hiểu rằng, tác giả thấy ra sự giác ngộ phải ở ngay đời thực, ở ngay trong đời
sống với cộng đồng, không phải ở nơi thanh vắng. Thiên đường hay địa ngục cũng
ở ngay đời này. Giác ngộ theo Phật giáo trước hết là tự giác ngộ ngay trong đời thực.
Do đó, việc than “không độ được mình ta” là lời than của người tu Phật mà không
hiểu lý giác ngộ tới nơi tới chốn, cho nên tu hoài mà không tâm an lý đắc, rồi nghi
ngờ giáo pháp của Như Lai. Đây chính là một nội dung khuyến giới rất quan trọng
đối với giới tu hành Phật giáo.
Trên đây chính là nói về pháp học trong Phật giáo. Dù là truyền thống Phật
giáo Nam truyền hay Bắc truyền, pháp học và pháp hành luôn được khuyến khích
thực hiện song hành. Tư liệu Hán Nôm thời Lê sơ cho chúng ta thấy nhiều những
hình ảnh tu thiền, bao gồm cả thiền chỉ (thiền định) và thiền quán (tuệ quán).
Tu thiền hay tham thiền là thuật ngữ Phật giáo biểu thị sự thực tập thiền của
những người sở hữu niềm tin cho rằng Phật nằm ngay trong tâm mình, và thiền có
90
thể đưa tới sự thanh tịnh tâm, hướng tới giác ngộ và giải thoát. Trong tài liệu bi ký
và văn chương thời Lê sơ xuất hiện những hình ảnh thiền định của tăng sĩ Phật giáo.
Nếu như Lê Thiếu Dĩnh (đời Lê Thái Tổ) khi tới thăm chùa Lễ Đễ thấy hình ảnh
“Khách chí tăng vô ngữ, tùng phong tự khải quan” (khách đến sư không nói, Gió từ
cây tùng tự mở cửa ra” thì trong thơ đề vách đá am Hương Hải chùa Phật Tích của
Nguyễn Thì Trung có hình ảnh: “Nhất tăng thiền định cửu, Vân trọng lãi hồi đầu”
(một nhà sư ngồi thiện định lâu ngày, mây sà xuống mà không ngoảnh đầu lại)[110,
tập 2, tr.72]. Sự “vô ngữ‟ và “thiền định” là những hình thức của trì giới và tham
thiền. Sự tu hành thiền định nơi thâm sơn cùng cốc là một truyền thống lâu đời của
Phật giáo Bắc truyền. Sự chú tâm vào việc của mình, lặng lẽ thiền định biểu hiện
một xu hướng quay vào nội tâm của người tu hành Phật giáo. Xu hướng này hoàn
toàn đối lập với xu hướng hướng ra ngoài tìm sự hộ trì từ tha lực như qua các sự
kiện lễ cầu đảo như đã trình bày ở trên.
Nguyễn Trãi có lẽ sau khi “Giũ bao nhiêu bụi bụi lầm, giơ tay áo đến tùng lâm”
[63, tr.432] học hỏi với sơn tăng, tự nghiên cứu Phật pháp đã quyết định: “Chặm tự
nhiên một thảo am, Dầu lòng đi bắc lẫn về nam. Chường thiền định hùm nằm chực,
Trái thì trai, vượn nhọc đam” [63, tr.441]. Thực tập thiền định có lẽ đã nuôi dưỡng
định lực trong ông. Sau này, với định lực, Nguyễn Trãi thực tập vào thiền quán. Ví
dụ, từ việc quan sát sự nở và tàn cũng như sự sinh diệt của hoa dâm bụt (mộc cận),
Nguyễn Trãi thấy ra nguyên lý vô thường và vô ngã của vạn pháp [63, tr.463]. Cũng
trong tư liệu văn chương do Nguyễn Trãi sáng tác, chúng ta có thấy cụm từ “thượng
thừa thiền” (Tống Tăng Đạo Khiêm quy sơn) [63]. Trong Phật giáo không có
truyền thống nào là thượng thừa hay hạ thừa, cho nên ở đây có thể hiểu thượng
thừa thiền là một thái độ thiền cao cấp, vượt lên trên những hệ phái, vượt lên mọi
phương pháp. Bởi vì, có nhiều dấu hiệu cho thấy Nguyễn Trãi không chỉ thực tập
thiền mà ông đã sống thiền với tinh thần vô tâm và vô ngã. Vì Phật ở trong tâm (Bụt
là lòng) cho nên không phải tìm cầu (Bụt khá cầu), không cần phải mang danh tu sĩ,
cư sĩ theo một phương pháp nào đó, thuộc một hệ phái Phật giáo nào, “Thiêu hương,
đọc sách, quét con am, Chẳng Bụt, chẳng tiên, cũng chẳng phàm” [63, tr.445]. Ông
91
vẫn sống cuộc sống của cá nhân ông, nhưng nhất cử nhất động luôn có ý thiền trong
đó. Cho nên ông diễn giải:“cảnh tựa chùa chiến, lòng tựa sày” [63, tr.433] và
“Cảnh ở tựa chiền, lòng tựa sàng” [63, tr.448]. Ý thiền được truyền thống Phật
giáo Bắc truyền diễn giải là vô tâm, tức là tâm không (vô sở cầu), là tâm trọn vẹn
trong sáng:“Đìa thanh đêm quyến nguyệt vô tâm” [63, tr.441];“Vô tâm đìa có trăng
bạc, đắc thú kho đầy gió trăng” [63, tr.443]. Tiếp xúc đời sống với chính niệm,
không tìm về quá khứ, không tưởng tới tương lai. Bởi vì quá khứ đã không còn,
tương lai còn chưa tới. Cứ thận trọng, chú tâm, quan sát mọi sự đến đi trong giây
phút hiện tại, thì sẽ thấy ra sự thật của đời sống, đó chính là giác ngộ. Cho nên, ông
diễn giải rằng:“Hỏi làm chi sự cổ câm … Sen nào có bén trong lầm”[63, tr.441]. Từ
lựa chọn sống với thái độ thiền mà không phải là thực hành/thực tập thiền cho thành
Phật, thành Tiên, cho nên ông nói “Dầu Bụt dầu Tiên ai kẻ hỏi, Ông này đã có thú
ông này” [63, tr.435]. Ông thấy ra sự thật chân thật trong bản thân mình, từ đó mở
được cánh cửa đi vào cõi thiền lồng lộng: “Rừng thiền ắt thấy nên đầm ấm” [63,
tr.438]. Có lẽ vì đi vào cõi thiền, nếm được đạo vị thiền, cho nên ông cảm thán mà
rằng: “Gẫm hay mùi đạo cực chưng ngon, nghìn kiếp dầu ăn vuỗn hãy còn” [63,
tr.444]. Nếu sự thực như thế thì đây là một quả vị (cảnh giới đạt được) cao quý “cư
trần lạc đạo” giống như Trần Nhân Tông đã từng thấy.
Thời Lê sơ, sự xuất hiện thờ Phật A Di Đà chùa Kiệm (Bắc Ninh), tượng Phật
Tam Tôn tại chùa Khám (Bắc Giang).v.v. là những dấu hiệu cho thấy bên cạnh
những cá nhân và cộng đồng tu thiền, trong dân gian còn phổ biến hình thức tu tập
theo pháp môn Tịnh Độ.
Bên cạnh những cộng đồng thờ Phật, cộng đồng tu học Phật giáo trên nền tảng
niềm tin vào giáo lý “Bụt là lòng”, vô thương, vô ngã, nhân duyên, cộng mà lựa
chọn việc tu thiền để thanh lọc tâm ý, hay tụng kinh niệm Phật để được vãng sinh.
Dữ liệu trong tư liệu Hán Nôm ghi chép về tu thiền có vẻ nhiều hơn tu theo Tịnh Độ
không có nghĩa là đời sống Phật giáo thời Lê sơ như thế. Bởi vì tu thiền vốn phù
hợp với những người có năng lực tuệ giác cao, và thường phù hợp với giới trí thức,
mà trí thức thời Lê sơ chủ yếu là tác giả của thư tịch và văn khắc, cho nên bây giờ
92
chúng ta thấy tu thiền được ghi chép nhiều hơn. Thực tế, ở những ngôi chùa tôn tạo
tượng A Di Đà, Phật Tam Tôn như đã nói ở phần [3.1.2] chính là những nơi cộng
đồng tu học pháp môn Tịnh Độ.
3.2.2. Tu tạo cơ sở thờ tự Phật giáo thời Lê sơ qua tư liệu Hán Nôm
Tu tạo cơ sở thờ tự Phật giáo ở đây được hiểu là những hoạt động tu tạo tự
viện, chùa, am nhằm phục vụ sinh hoạt Phật giáo và đáp ứng tín ngưỡng của quần
chúng nhân dân. Tư liệu Hán Nôm thời Lê sơ ghi chép nhiều sự kiện xây dựng và
trùng tu chùa chiền, tôn tượng, đúc chuông và cúng ruộng hương hỏa vào Tam Bảo.
Về cơ sở thờ tự Phật giáo, ít nhất cộng đồng Phật giáo thời Lê sơ đã dựng và
trùng tu chùa Phúc Nương (1428), dựng chùa Thanh Đàm và Chiêu Độ (1434) [78,
q.11, tr.12b], trùng tu chùa Hưng Phúc (1457)[105], trùng tu chùa Nga My
(1463)[85], chùa Đại Bi (1490, 1495)[80], chùa Thích Ca 32 gian (1496), chùa
Thiên Phúc (1499) [78, q.14], chùa Quang Khánh (1500), chùa Động Ngọ (1504),
chùa Minh Khánh (1509, 1511) [95], chùa Đại Bi (1515) [97], dựng 10 am cho chùa
Vô Vi (1515) [98], dựng am Phật Huệ Vân chùa Diên Phúc (1516)[99], trùng tu
chùa Sùng Khánh (1525)[102].v.v. Đi cùng với trùng tu chùa là tạo tượng thờ. Quan
viên, tăng sĩ, cư sĩ và cộng đồng thời Lê sơ tạo bệ tượng Phật chùa Bảo Lai (1434)
[60], tạo tượng Phật Quán Thế Âm chùa thôn Cung Kiệm (1449) [39], tạo tượng
Phật A Di Đà chùa Chuyết Sơn (1491)[81] tạo tượng Phật Quán Thế Âm chùa Khôi
Khê (1507) [104], tạo tượng Phật chùa Báo Ứng (1525) [101].v.v. Bên cạnh đó, còn
xuất hiện sự kiện đúc chuông chùa Quang Khánh (1473), đúc chuông chùa Diên
Khánh (1479) [77].
Trong đó, chùa Thanh Đàm và Chiêu Độ là những ngôi quốc tự do nhà nước
xây dựng, quy mô hơn 90 gian [78, q.11]. Tuy nhiên, theo Quốc triều hình luật ra
đời và có hiệu lực từ năm 1460, người ta lại thấy một điều luật quy định “xây dựng
chùa, quán mà đúc chuông đúc tượng riêng thì biếm hai tư”[69, q.3, điều 6]. Chỉ
riêng ngạch cũ thời Trần như Trương Hán Siêu và Lê Quát tổng hợp lại thì số chùa
chiền đã quá nhiều so với nhu cầu của người dân. Khi nhà nước phải ra luật cấm
những hoạt động tự ý xây dựng chùa chiền không có nền móng từ trước đủ thấy tình
93
hình xây dựng, trùng tu chùa chiền nở rộ ở chính vào thời Lê Thánh Tông trị vì. Tư
liệu bi ký có nhiều sử liệu minh chứng cho tình hình đó. Ví dụ, tại Hưng Yên năm
1496, chùa Thích Ca 32 gian nay là chùa Hòa Lạc ở xã Hành Lạc, huyện Văn Lâm,
tỉnh Hưng Yên đã được một vị Thanh Hoa Đô Tổng binh sứ, Ty Tổng binh Thiêm
sự, Trì Uy Tướng quân là người quê ở đây bỏ tiền của nhà ra xây dựng (青華都統
兵使司總僉事馳威將軍之行樂人)[91]. Bi ký không ghi về lịch sử của chùa Thích
Ca, nhưng do dùng chữ “tạo” (造釋迦寺三十二間) cho nên có thể nói ngôi chùa
thời điểm này được xây dựng mới hoàn toàn. Năm 1463 (Quang Thuận 4) xây dựng
lại (須舉) chùa Nga My (nay thuộc phường Hoàng Văn Thụ, Hà Nội); đến năm
1497 trùng tu lại (重修)[85]. Năm 1473, chùa Diên Khánh thôn Môn Ái, xã Lãng
Ngâm, nay là thôn Hương Vinh, xã Hương Vinh, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh.
Tháng 9 năm 1473 tu tạo Phật điện, tháng 11 năm 1479 đúc chuông (時洪德肆年癸
巳九月修造佛殿至洪德十年十一月鑄鍾) [77]. Năm 1490, Chùa Đại Bi, xã Ngọc
Xuyên, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh “quy mô vốn rất tráng lệ, rộng lớn. Chùa
được xây dựng từ thời Lý - Trần, dấu tích đến nay đã hơn trăm năm. Tuy đã trải qua
nạn binh đao, nhưng không hề mất mát, nguyên khí lại về, lân tượng còn đó, bách
linh phù trì, đợi thời ấy vậy.” Đến năm 1490 được “xây dựng điện Phật, tô tượng
Phật, gác báu. Tu sửa hết thảy mới tươi, tráng lệ. Mọi người đến chiêm ngưỡng,
nhìn vào, thấy công thợ tô vẽ, nét chạm trổ tinh xảo, vô cùng tinh tế.” (佛 殿 講 堂
金 身 寶 閣 一 發 重 新 壯 觀 人 天 玄 耀 眾 目 繪 盡 丹 鎪之 工 效 技 翰 巧 極
其 精 緻 竣)[80]. Năm 1491, Chùa Chuyết Sơn xã Cấp Tiến, huyện Tiên Lãng, Hải
Phòng là “Chùa được xây dựng từ thủy tổ đời nhà Lương, trải qua đời Lý, đời Trần
có Quản Lão Tử vân du vãn cảnh, sau cho dựng tháp, mở rộng chùa, đến đời cháu
hiệu Chính Tín cùng sư trụ trì và các vị trưởng lão người làng Chuyết là các ông
Hợi, Tử, Mạch, Liễn lại dấy việc thờ Phật.” (創自梁家之始祖歷李陳為管老子郎
閑遊後造浮屠廣開寺宇孫散正信與住持長老拙里人亥紫陌輦等再興佛事舊跡
增輝然彌陀尊佛)[81]
94
Sau thời Lê Thánh Tông, tình hình tu tạo chùa chiền vẫn không hề vắng lặng.
Năm 1510, chùa Hạ thôn Thượng Khánh, xã Hợp Đồng, huyện Chương Mỹ (thuộc
Hà Nội ngày nay) được xây dựng từ triều Trần, kiến trúc đã bị đổ nát, tượng Phật bị
hỏng. Đầu thời Lê sơ, “các sãi vãi cùng nhau quyên góp ngói gạch, tu sửa lại, lập
bia đá. Sơn môn tráng lệ, hết thảy mới mẻ, đẹp đẽ.” (同 列 社 士 娓 [][]心 乃 拾 瓦
竹 鳩 材 召 工 乃 廢 興 修 建 立 石 碑. 山 門 壯 觀 為 之 一 新 功 未 就 緒 而 公
相 館 矣). Cuối thời Lê sơ, “năm Canh Ngọ, các sãi vãi lại quyên tiền của tư gia, tu
sửa dựng lại tăng phòng, hành lang thật hoàn hảo” (至 庚 午 年 其 士 娓 等 閔 善
男 [] 慨 九 原 之 不 作 又 捐 家 貲 嗣 葺 僧 房 輪 奐 完 美 不 贊 前 功) [93].
Năm 1515, quan và dân trùng tu chùa Vô Vi, xã Long Châu, huyện Quốc Oai, tỉnh
Hà Tây, nay thuộc xã Phụng Châu, huyện Chương Mỹ, Hà Nội. Chùa Trác Sơn là
một danh lam cổ tích được một vị đại sĩ xây dựng ở thời Trần. Trải qua binh đao bị
hủy hoại hoàn toàn. “Ngẫm nền cũ chẳng còn như xưa, nhưng thấy đất này vẫn là
thắng tích linh thiêng, bèn phát cây sửa lợp, cưa gỗ xẻ đá” (仰靈勝之猶存剷笑劌
葺斷材碣石) xây dựng lại thành hai tầng gồm 1 tầng là am thờ, một tầng là đại điện
[98]. Năm 1515 Trong thời Lê sơ, chùa Đại Bi, làng Bối Khê, xã Tam Hưng, huyện
Thanh Oai, thành phố Hà Nội được trùng tu ít nhất hai lần. Lần thứ nhất vào đời
Hoàng đế Nhân Tông niên hiệu Thái Hòa năm thứ 7 (1449) (逮仁宗皇帝朝太和柒
年), bao gồm những hạng mục lầu gác hoặc dựng núi Bổ Đà. Lần thứ hai, vào mùa
xuân năm Ất Hợi niên hiệu Hồng Thuận thứ 7 (1515) (洪順柒年乙亥仲春)[97].
Năm 1525, chùa Sùng Khánh Thọ Ích, tổng Vũ Điện, huyện Nam Xương, phủ Lý
Nhân, nay thuộc tỉnh Hà Nam: “Vào ngày lành tiết Gia bình năm Thống Nguyên
thứ tư (1525) khởi công, vung rìu, phạt mộc làm mới quy mô, sửa sang cảnh quan,
tạo tượng Diệu Thiện” (迺於統元四年嘉平節觸穀日集鳩工,運風斤揮月斧增新
制度,改觀規模并造妙相) [102].
Bên cạnh hoạt động tạo dựng cơ sở thờ tự, thời Lê sơ hoạt động cúng ruộng
vào chùa Phật cũng được ghi chép nhiều trong tư liệu bi ký. Ví dụ, năm 1487 tại
chùa Thiên Phúc xã Thạch Lôi, huyện Thạch Thất, phủ Quốc Oai có các tín chủ là
95
“Nguyễn Liêm hiệu là Ông Tây Phương và vợ là Nguyễn Thị Tứ hiệu là Bà Thiện
Tâm tự nguyện phát tâm sáng lập bia đá và cúng ba thửa ruộng làm của Tam bảo
chùa Thiên Phúc của bản thôn” (阮廉號曰西方翁並妻阮氏四諡曰善心婆自願發
心創石碑並田三所施與本村天福寺為三寶物田)[79]. Việc cúng ruộng vào chùa
với mục đích gửi giỗ vì không có con nối dõi đã có từ thời Trần: Trong bi ký chùa
Diên Khánh [77] (huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh) ghi lại sự kiện ông Ngộ Đạo bà
Ngộ Thiện năm Thiệu Long 3 (1260). Từ đó về sau, những vợ chồng cô quả, không
có con cái ở gần đó đều noi theo gương ông bà cúng ruộng vào chùa, nương theo
cửa Phật để được cúng giỗ hàng năm. Tuy rằng ở thời Lê sơ, không thấy có ghi
chép về việc cúng ruộng vào chùa Diên Khánh với mục đích như thế, nhưng đây
cũng là một trong những tiền lệ cho sự cúng ruộng gửi giỗ ở chùa ở những nơi khác.
Thời Lê sơ, chính sách ruộng đất theo chế độ tỉnh điền và lộc điền có nhiều
khác biệt so với thời Trần, sở hữu ruộng đất có sự giảm về số lượng trên một hộ gia
đình, do đó, số ruộng cúng vào chùa vì thế cũng ít hơn. Ví dụ, tài liệu bi ký cho thấy
sự kiện dân cúng ruộng vào nhà chùa Diên Khánh (1448, 1470) người xã Huề Trì
cúng ruộng vào chùa Trà Sơn (1476)[74], vợ chồng ông Tây Phương Nguyễn Liêm
và bà Thiện Tâm Nguyễn Thị Tứ cúng 3 thửa ruộng vào chùa Thiên Phúc
(1487)[79], cộng đồng cúng ruộng vào chùa Pháp Vân (1479)[76], công chúa Mạc
Thị Ngọc Ỷ và quận chúa Đỗ Dương cúng ruộng cho chùa Phúc Thắng (1487)[73],
vợ chồng Nguyễn Khoa cúng ruộng vào chùa Khám (1508). Việc cúng ruộng vốn là
một truyền thống từ trước thời Lê sơ. Cùng với niềm tin cúng ruộng làm của thường
trụ có thể đưa tới phúc báu thì những người hiếm con còn mong cầu được nhà chùa
cúng giỗ. Với cả những sự kiện đó đã hình thành nên lệ Hậu Phật. Cúng ruộng và
chùa thời Lê sơ cũng không ngoại lệ. Nếu việc tạo dựng cơ sở thờ tự có nhiều ý
nghĩa vì lợi ích cho cộng đồng Phật giáo họ thuộc về, thì trong thâm sâu của việc
cúng ruộng gửi giỗ hàm chứa một ý nghĩa vị ngã, vì lợi ích của người cúng ruộng
hơn là vì cộng đồng đó.
Xét về mặt tổng thể số lượng cơ sở thờ tự Phật giáo thời Lê sơ được xây dựng
trong thời Lê sơ thì đúng như Nguyễn Duy Hinh và Lê Đức Hạnh [21, tr.532-580]
96
đã nhận xét: “Thời Lê nói chung là thời Nho giáo. Văn miếu, văn chỉ và bia tiến sĩ
thay vì chùa tháp. Chùa tháp vẫn còn đó, thậm chí xuất hiện chùa tháp mới trong
dân gian nhưng không còn sôi động như thời Lý-Trần”. Tuy nhiên, đi sâu vào thực
tế của các hoạt động tạo dựng cơ sở thờ tự Phật giáo thời Lê sơ thì đúng như Hà
Văn Tấn nói: “Các công trình kiến trúc Phật giáo của thời kỳ trước như Bối Khê,
Chùa Thầy, Chùa Dâu ... không ngừng được tu bổ, mở mang. Nhiều công trình Phật
giáo có quy mô to lớn đã được xây dựng bằng tiền của của vương hầu quý tộc và
của thập phương như: chùa Bút Tháp (Bắc Ninh), chùa Trăm Gian, chùa Mía (Hà
Tây), chùa Keo (Thái Bình), chùa Keo Hành Thiện (Nam Định), chùa Phẩm (Hải
Dương)…”. Do vậy, tuy thời Lê sơ là thời Nho giáo phát triển, nhưng từ triều đình
cho tới dân chúng, từ cá nhân cho tới cộng đồng vẫn có nhu cầu tạo dựng chùa
chiền để phục vụ nhu cầu sinh hoạt Phật giáo, nhu cầu thể hiện niềm tin Phật giáo,
nhu cầu an ninh tinh thần.
3.2.3. Một số hoạt động khác của Phật giáo thời Lê sơ qua tư liệu Hán Nôm
Theo tinh thần Bố thí của Phật giáo, tức là chia sẻ những gì mình có, mình tiếp
nhận được để giúp người bớt khổ, giúp người thấy ra sự thật của đời sống, chân lý
của vạn pháp, thì toàn bộ hoạt động tôn tạo cơ sở vật chất Phật giáo cũng được xem
là hành vi tài thí (bố thí vật chất); việc thực hành chia sẻ giáo lý (pháp đàm) được
xem là pháp thí (chia sẻ hiêu biết về Phật pháp).
Tài thí của người sở hữu niềm tin vào Tam Bảo thời Lê sơ còn hướng tới cộng
đồng nói chung như: xóa nợ cho người nghèo, làm bến đò, làm cầu. Về vấn đề này,
tư liệu bi ký có nhiều sử liệu minh chứng. Năm 1496, Thanh Hoa Đô Tổng binh sứ,
Ty Tổng binh Thiêm sự, Trì Uy Tướng quân ... không chỉ làm chùa Thích Ca 32
gian mà còn xây dựng cầu dân sinh Nghĩa Trụ 9 gian cho dân đi lại nay là xã Hành
Lạc, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên[91]. Năm 1500, vì tôn sùng Đạo Phật, cho
nên trong tâm thức ông Nguyễn Liệu hiệu Phát Tâm, là người xã Đông Sơn, huyện
Đông Sơn, phủ Thiệu Thiên và vợ là bà Nguyễn Thị Lê hiệu Hướng Đạo đã có niềm
tin sâu sắc vào sự thực hành cúng dường, bố thí của Phật giáo. Không giống như
những người khác tôn tạo cơ sở thờ tự cho chùa, mà ông bà làm những việc hướng
97
đích đến cộng đồng. “Vào tháng 9 năm Canh Thân, niên hiệu Cảnh Thống thứ 3
(1500), ông bà đã xây cầu đá, khơi nước đồng Cách thôn Đông Kiều. Ngày 13 tháng
6 năm Tân Dậu, niên hiệu Cảnh Thống thứ 4 (1501) xây cầu, thông bến Bạch Hạc,
ngày 26 tháng 3 năm Quý Hợi niên hiệu Cảnh Thống thứ 6 (1503) dựng am sinh,
trồng cây đa chùa Đông Kiều. Nhân ngày khánh thành, thân mẫu dự lễ đã đem
khoán ước cho vạy đốt hết đi. Ngày 13 tháng 5 năm Mậu Thìn niên hiệu Đoan
Khánh thứ 4 (1508) làm trạm dịch Thổ Sơn, xây giếng đá gồm 200 khối đá .... Ngày
23 tháng 6 năm Kỷ Tỵ Đoan Khánh thứ 5 (1509), nhân lễ khánh thành, lại xoá bỏ
các loại vay nợ riêng, vui vẻ vì mối thiện duyên đã hoàn thành.”(於 景 統 三 年 庚
申 九 月 作 東 橋 村 同 決 水 石 橋 四 年 辛 酉 六 月 十 三 日 作 白 鶴 通 濱 橋
六 年 癸 亥 三 月 二 十 六 日 種 東 橋 村 龕 寺 生 化並 白 榕 親 母 己 慶 讚 焚
券 放 債. 端 慶 四 年 茂 辰 五 月 十 三 日 作 土 山 驛 納 石 井 並 坐 石 二 十
塊 ... 五 年 己 巳 六 月 十 三 日 慶 而 讚 之 又 放 別 債 樂 善 緣 之 成 也)[92].
Năm 1522, tại thôn Thuần Thọ, huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá năm 1522 ông
Lê Khắc Nhượng bởi trong tâm thức sở hữu niềm tin rằng “Phật lấy việc cứu người
làm trọng” nên “xuất phát từ tấm lòng, khuyên nhủ người thân hưng công tu tạo cầu
đá”[100]. Năm 1525, tại bến Cù Sơn làng Phượng Cách, phủ Quốc Oai, nay thuộc
thị trấn Hoàng Xá, huyện Quốc Oai, Hà Nội thời Lê sơ “có vị Tổng chính đã phát
lòng cư sĩ, phát tâm trồng cây, lập bến đò, xóa nợ cho thuyền bè. Lại xây đền Thần
cổ tích, tôn tạo các tượng Phật trong Tam bảo. Việc đó là do xuất phát từ sự đồng
cảm nhất mực của một tấm lòng. Cổ nhân từng nói: Người sinh lòng thiện niệm, trời
tất sẽ biết. Kinh Tạng nói: "Người nào thường làm việc bố thí thì đều được trường
thọ", là ý nói như vậy[101].
Hoạt động bố thí vật chất như trên theo Phật học chính là phương diện dụng
tâm, khởi phát tâm thiện lành thực hiện những hành vi đem lại lợi ích cho mọi
người, mọi loài. Nhìn từ góc độ tôn giáo học thì đó chính là những thực hành dựa
trên niềm tin Phật giáo không chỉ giúp tạo phúc báu cho bản thân mà còn hướng đến
đem lại lợi ích cho cộng đồng nói chung.
98
3.3. Cộng đồng Phật giáo thời Lê sơ qua tƣ liệu Hán Nôm
3.3.1. Tu sĩ Phật giáo thời Lê sơ qua tư liệu Hán Nôm
a) Tình hình tăng sĩ Phật giáo thời Lê sơ
Về số lượng tăng sĩ, tăng sĩ Phật giáo thời Lê sơ trước hết là một cộng đồng
trải qua chuẩn hóa theo lệ sát hạnh do triều đình chế định. Ngay từ đầu thời Lê sơ
(1429), triều đình đã lệnh cho Tăng Đạo duyệt cho tăng sĩ và đạo sĩ “thông kinh
điển, trong sạch, giữ tiết hạnh” [78, q.10, tr.68a] tham gia thi cấp độ điệp. Tăng sĩ
Đại Việt đã trải qua sự thanh lọc về tuổi (từ 50 trở lên), trình độ thông hiểu giáo lý
và giới hạnh có từ thời Trần. Bắt đầu từ tháng 3 năm 1310 Trần Anh Tông đã đặt lệ
3 năm khảo cấp độ điệp cho tăng sĩ 1 lần. Tới năm 1386 thì quy định rõ ràng về tuổi
từ 50 trở lên mới được tham gia khảo hạch cấp độ điệp [78, q.7]. Tới thời Lê sơ, khi
đất nước vừa trải qua chiến tranh, thì sự thiếu hụt về lực lượng sản xuất và sự nở
rộng biên giới ảnh hưởng của Nho giáo đã trở thành lý do quan trọng để triều đình Lê
sơ thực hiện triệt để lệ này. Thậm chí, tới thời Lê Thánh Tông, với sự ra đời của Quốc
triều hình luật, thì lệ đã đưa lên thành luật, thì qui định về xử phạt những tăng sĩ không
đúng quy chế càng nghiêm ngặt. Vì thế, có thể nói số lượng tăng sĩ ở cuối Trần đã
giảm nhiều so với trước, thì số lượng tăng sĩ thời Lê sơ còn giảm nhiều hơn nữa.
Về chất lượng tăng sĩ, khi khảo hạch càng khắt khe, hình thức xử phạt càng
nghiêm minh thì hiểu biết của tăng sĩ cũng sâu rộng hơn và giới hạnh cũng thanh
tịnh hơn. Trong khi đó, tư liệu Hán Nôm thời Lê sơ không cho thấy có những pháp
hội giảng pháp quy mô cộng đồng lớn. Như vậy, cá nhân mỗi tăng sĩ thời Lê sơ chủ
yếu tự nghiên cứu, tự học tại các tổ đình, những chùa. Sự hiểu biết hay thông kinh
điển của một một tăng sĩ có thể đạt được từ học Phật, nhưng giới hạnh thanh tịnh thì
chỉ có được bởi sự thực tu, thực chứng. Như vậy, một người muốn xuất gia đầu Phật
thời Lê sơ thì luôn phải ý thức vấn đề hiểu biết và thực hành song song với nhau
(hành và giải song song). Có thể chính vì thế nên xuất hiện những hiện tượng tăng
sĩ có sự trú trọng vào thực hành, biểu hiện ở những hình ảnh như sư không nói (僧
無語) ở chùa Lễ Đễ và thiền định lâu ngày (禪定久) ở chùa Thiên Phúc. Đối với
một tăng sĩ đích thực dù để qua sát hạch hay sống đời tu hành thì họ đều phải nói
99
lên cho thời đại thấy pháp môn tu chứng thích hợp và diễn giải bằng ngôn ngữ
chứng ngộ của mình. Sư trụ trì chùa Quang Khánh thời Lê sơ là một đại biểu. Nếu
không có sự thực hành chuẩn chỉnh, nghiêm ngặt và có chứng ngộ, thì vị sư đó
không thể nói về ba đời chư Phật, về năm năng lực trọn vẹn, về sáu phương tiện đưa
con người đến bến bờ giải thoát tới mức khiến Lê Thánh Tông bỗng nhiên tỉnh ngộ
như vậy[70].
Về tùy duyên phương tiện trong thực hành của tăng sĩ, chúng ta còn thấy thời
Lê sơ có hiện tượng tăng sĩ tham gia thực hành những nghi lễ không thuần túy Phật
giáo, như lễ cầu mưa thời Lê Thái Tổ [78, q.11, tr.7a], lễ điểm nhãn tượng Lê Thái
Tổ và Quốc Mẫu [78, q.11, tr.29a], lễ cầu mưa thời Lê Nhân Tông [78, q.11, tr.68a].
Những nghi lễ này do vua và triều đình chủ trương thực hiện, cho mời tăng sĩ Phật
giáo tới tụng kinh. Thời Trần, những hiện tượng này đã xuất hiện. Khi đó, Pháp Loa
vẫn chấp hành lệnh nhưng cho đệ tử trực tiếp thực hiện [55]. Tăng sĩ thời Lê sơ vẫn
tiếp lệnh triều đình thực hiện những nghi lễ này. Hà Văn Tấn [37, tr.28] cho rằng đã
có một sơn môn riêng ở chùa Đậu vì có một nghi thức cúng tế riêng (nghi lễ rước
các tượng Tứ Pháp cầu mưa). Điều này có thể xảy ra. Tuy nhiên, nói như Hà Thúc
Minh [41, tr.272]: "Sinh hoạt tinh thần và văn hóa của Phật giáo suốt từ thời độc tôn,
qua sử liệu, phần lớn tập trung vào những việc đoán điềm, giải mộng, cầu tự cho có
con nối dõi, cầu sống lâu, đảo vũ cầu mưa, phù phép chữa bệnh” mới chỉ diễn giải
về mặt hiện tượng. Về phía tăng sĩ Phật giáo, trong tu hành Phật giáo luôn có
nguyên tắc tùy duyên phương tiện. Thực hiện một nghi lễ đáp ứng nhu cầu tín
ngưỡng cho cộng đồng cũng có thể là một phương tiện tùy duyên. Thực sự xem
giác ngộ là mục đích cứu cánh hay xem đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng là mục đích
cứu cánh thì chỉ những vị tăng sĩ đó biết, người ngoài không thể biết.
Về giới hạnh của tăng sĩ, thời Lê Thánh Tông còn thấy có hiện tượng nhà
nước đưa điều luật xử tội những vị sư phạm giới uống rượu, ăn mặn, dâm vào
những điều đầu tiên của Luật. Năm 1474, triều đình tiếp tục xuống chiếu cấm tăng
sĩ lấy vợ, vợ lẽ [62, q.9] như một sự bổ sung cho Luật đã ban hành. Như vậy, hiện
tượng tăng sĩ không nghiêm trì giới luật đã xuất hiện ở mức có thể coi là nghiêm
100
trọng, ảnh hưởng tới an ninh tinh thần của cộng đồng. Hiện tượng này ít nhiều đưa
tới sự giảm sút niềm tin cộng đồng Phật giáo nói riêng, cộng đồng xã hội nói chung
vào tăng sĩ Phật giáo. Thậm chí, đây có thể là một trong những điều kiện khiến
nhiều người hướng về những tôn giáo khác. Tuy nhiên, nhờ những luật lệ này mà
cộng đồng tăng sĩ Phật giáo được thanh lọc đáng kể.
b) Một số vị tăng sĩ Phật giáo tiêu biểu thời Lê sơ
Từ tư liệu Đại Việt sử ký toàn thư, chúng ta dễ dàng nhận thấy, sư Huệ Hồng
là một trong những vị sư tiêu biểu có nhiều sự kiện được ghi nhận ở đầu thời Lê sơ.
Ông bắt đầu được triều đình bổ nhiệm trụ trì chùa Báo Thiên ngày 7 tháng 7 năm
1435 (nhằm năm Ất Mão, niên hiệu Thiệu Bình 2) [78, q.11]. Chùa Báo Thiên là
một nơi vô cùng quan trọng nằm ở điểm trọng yếu của kinh thành Thăng Long (mời
xem Phụ Lục 3), và là nơi diễn ra một số nghi lễ quan trọng của triều đình liên quan
tới Phật giáo. Cũng trong ngày bổ nhiệm đó, triều đình ban cho sư áo tía – một loại
trang phục quan chức vào hàng cao cấp của triều đình. Như vậy, Huệ Hồng vì nhiều
lý do được triều đình trọng dụng và là một Tăng quan. Người thời Lê sơ còn thấy
ông chủ trì những đàn tràng lớn, trì trú tụng kinh cầu cho mưa thuận gió hòa, cứu
cho nhân dân thoát khỏi hậu quả do hạn hán gây ra. Điều đó có nghĩa là sư đã là
người có vai trò chính trong những tăng sĩ Phật giáo tham gia thực hiện một số sự
kiện quốc gia. Phương diện thực hành nghi lễ cầu đảo và thậm chí là năng lực cầu
đảo linh nghiệm của ông đã được ghi nhận và tin tưởng.
Tư liệu Hán Nôm thời Lê sơ ghi chép dấu tích của sư Đạo Khiêm, sư chùa
Minh Khánh, sư Thanh Xán và một số vị tăng sĩ ở địa phương khác. Trong đó, sư
Đạo Khiêm được nhắc tới trong bài thơ Tiễn tăng Đạo Khiêm quy sơn (送 僧 道 謙
歸 山) chép trong tập Ức Trai thi tập [63]. Bài thơ được Nguyễn Trãi sáng tác khi
ông tiễn biệt sư Đạo Khiêm. Thông tin trong bài thơ cho thấy sư Đạo Khiêm và
Nguyễn Trãi sống cùng thời. Sư và Nguyễn Trãi kẻ giảng người học với nhau suốt
hơn mười năm. Khi đó, sư trụ trì chùa Côn Sơn (Chí Linh). Mỗi khi hai người họ ở
bên nhau, cùng nhau chia sẻ Phật pháp, an vui quên hết nỗi khổ niềm đau nơi trần
tục. Mười năm tiếp xúc nhau, thấu hiểu nhau, tới mức Nguyễn Trãi phải thốt lên
101
rằng: “Lâm kỳ ngã diệc Thượng thừa thiền” (臨岐我亦上乘襌) (Từ biệt nhau đây
rồi ta cũng sẽ đi theo Thượng thừa thiền). Như vậy, có thể đoán định rằng, sư Đạo
Khiêm khi đó tu tập theo thiền thượng thừa. Thượng thừa ở đây không phải là một
tông phái (thừa) Phật giáo nào tương tự như Đại thừa hay Tiểu thừa, hoặc Bắc tông
hay Nam tông. Thượng thừa ở đây có lẽ nên hiểu là phương pháp thiền tập vượt
thoát lên trên những tông phái thiền Đại thừa cũng như Tiểu thừa (hay Phật giáo
phát triển và Phật giáo nguyên thủy, Bắc tông hay Nam tông), một lối thiền phù hợp
với những người có khả năng tuệ giác (ba-la-mật) cao, nó có thể tương đương với
sống thiền. Chùa Côn Sơn tên chữ là chùa Ân Tứ (nay là chùa Tư Phúc), còn gọi là
chùa Hun, nơi Trúc Lâm thiền sư (vua Trần Nhân Tông) từng dựng am tu hành, sau
Lý Đạo Tái - Huyền Quang thiền sư về trụ trì. Như vậy, sư Đạo Khiêm là vị trụ trì
chùa Côn Sơn ở giai đoạn đầu thời Lê sơ, làm người trụ trì hậu duệ sau sư Huyền
Quang, và có lẽ sư thực hành theo lối thiền cần khả năng tuệ giác cao.
Vào niên hiệu Quang Thuận thời Lê Thánh Tông, tư liệu văn chương nhắc tới
một vị sư rất đáng chú ý, đó là sư trụ trì chùa Quang Khánh (Dưỡng Mông, Kim
Thành, Hải Dương). Trong bài thơ Lê Thánh Tông đề tại chùa này Quang Thuận
thứ 6 (1465), vị sư trụ trì chùa này được Lê Thánh Tông đánh giá là “trong biển đại
giác Thầy dễ vượt qua” (大 覺 海 中 君 易 度). Câu này ý nói, trên con đường tu
hành giác ngộ theo Phật, vị sư này đi một cách dễ dàng. Tu hành theo Phật vốn là
một việc không dễ, người đi trên con đường tu hành theo Phật một cách dễ dàng
chứng tỏ là một người có năng lực tuệ giác (ba-la-mật) cao, có độ dày kinh nghiệm
trong tu tập và có trình độ cao về thấu hiểu Phật pháp. Chính trong buổi đàm luận
Phật pháp với Lê Thánh Tông đó, sư đã thuyết cho vua nghe về “ngũ viên” (五 圓)
về “lục độ” (六 度) về “tam sinh” (三 生) . Ngũ viên còn gọi là “ngũ lực viên
thông”, là sự vẹn tròn của 5 năng lực đưa tới giác ngộ đó là niềm tin (tín), sự tinh
tấn (tấn), chính niệm (niệm), sự vững chãi (định), trí tuệ hay là tư duy đúng đắn
(tuệ). Lục độ còn gọi là “lục độ ba-la-mật”, gồm hạnh nguyện của một vị Bồ-tát,
bao gồm bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định và trí tuệ. Tam sinh là nói
về các vị Phật trong 3 đời [70].
102
Sau sư trụ trì chùa Quang Khánh, tư liệu bi ký nhắc tới sư Thanh Xán trụ trì
chùa Nga Mi (ngày nay thuộc Hoàng Mai, Hà Nội) nhân sự kiện trùng tu chùa năm
1497. Bi ký chép: “Nay có sư thầy Thanh Xán và Thanh Nhàn cư sĩ đề xướng
quyên góp tài vật trùng tu lại chùa, chẳng thẹn với bậc tiền bối” (今則僧清燦及清
閑居士同率重修貨力不淺跂輩). Cũng trong bi ký, tác giả Nguyễn Giản ghi rõ đây
là nơi lưu chảy của dòng Thiền Đại thừa[85]. Nhìn vào không khí sớm chiêng tối
trống, triều quan thôn dã hoan hỷ đi về, có thể đoán định sư trụ trì Thanh Xán là
một người tu thiền và cũng là người có sức ảnh hưởng.
Ngoài ra, tư liệu bi ký thời Lê sơ còn nhắc tới nhiều vị tăng ở địa phương khác
như tăng nhân Nguyễn Văn Lạc chùa Chuyết Sơn, tăng nhân Đào Khuyến chùa Đại
Bi (Bối Khê, Thanh Oai, Hà Nội), tăng nhân chùa Sùng Khánh, .v.v. họ đều có ảnh
hưởng trong cộng đồng Phật giáo những nơi đó.
Nhìn chung, với tư liệu Hán Nôm thời Lê sơ, tăng sĩ Phật giáo thời Lê sơ
không trực tiếp tham gia chính sự như những thời kỳ trước. Họ phải đáp ứng được
tiêu chuẩn do Nhà nước đề ra về tuổi, giới hạnh, trình độ tri thức thế gian và Phật
học. Giai đoạn đầu thời Lê sơ, tăng sĩ Phật giáo còn thực hiện nghi lễ cho Nhà nước
như một giải pháp an ninh tinh thần cho Nhà nước và quốc gia. Giai đoạn giữa và
cuối thời Lê sơ, hành trạng của họ được ghi chép chủ yếu về vấn đề tu tập, pháp
đàm và tạo dựng cơ sở thờ tự Phật giáo. Có thể nói, tăng sĩ Phật giáo thời Lê sơ tuy
số lượng ít hơn thời Trần nhưng về trình độ khá cao, đặc biệt là đời sống tu tập
tương đối đi vào thực tu, thực chứng.
3.3.2. Giới quý tộc thời Lê sơ với Phật giáo qua tư liệu Hán Nôm
Quan sát tư liệu Hán Nôm thời Lê sơ, có thể thấy rõ hai xu hướng hay hai mức
độ tương đối khác biệt về niềm tin Phật giáo của các vua thời Lê sơ. Xu hướng thứ
nhất hướng tới nghi lễ, chú ý tới sự linh thiêng của các vị Phật, Bồ tát và Hiền
Thánh Tăng hơn là giáo lý Phật giáo. Sau khi dành được độc lập, ngay từ tháng 6
năm 1429 đã cho sát hạch tăng sĩ Phật giáo theo tiêu chuẩn của Nhà nước. Từ Lê
Thái Tổ, Lê Thái Tông đến Lê Nhân Tông tuy trong tâm thức có niềm tin Phật giáo,
nhưng về mặt hiện tượng mới biểu hiện chú trọng ở những phương tiện. Chính sử
103
ghi chép về những sự kiện đó chủ yếu vào những năm 1434-1435 nghi lễ cầu mưa
[78, q.11, tr.7a và 68a], lập đàn chay ở điện Chính Cần, phong Sa Môn cho sư Huệ
Hồng, lễ điểm nhãn tượng cho Thái Tổ và Quốc Thái Mẫu [78, q.11, tr.29a], dựng
chùa, mở hội Vu Lan, thậm chí là thả tù tội nhẹ nhân mùa Vu Lan. Những sự kiện
này có thể khiến chúng ta nghĩ tới những vị vua tin vào sự thiêng liêng của Tam
Bảo có thể giúp gìn giữ hoặc tạo lập an ninh tinh thần cho cá nhân cũng như quốc
gia. Đặc điểm này tương đối giống với thời Trần
Xu hướng thứ hai là những vị vua từ nhu cầu muốn hiểu rõ giáo lý Phật giáo
nên đã có những hành động đi sâu nghiên cứu và đàm luận giáo lý với những người
am tường Phật giáo. Người tiên phong theo xu hướng này chính là Lê Thánh Tông.
Ngoài việc thông qua Luật Hồng Đức bao gồm những điều luật quy định về tiêu
chuẩn tăng sĩ Phật giáo và những hành vi đối với cơ sở thờ tự và văn hóa phẩm Phật
giáo, Lê Thánh Tông còn dành thời gian đến thăm những ngôi chùa để nghiên cứu
về Phật giáo. Tư liệu văn khắc Hán Nôm ghi lại sự kiện nhân đi bái yết sơn lăng, tới
thăm những ngôi chùa cổ, tìm hiểu về Phật giáo trong lịch sử qua những dấu tích
còn lại. Năm 1467, tới thăm chùa trên núi Dục Thúy: “Ngược gió chèo lên cao, tìm
ra ngôi chùa cũ, Say sưa đọc tấm bia hoang phế, tối mịt mới quay về” (尋來廢寺凌
風上, 覽盡荒碑帶暝 還)[71]. Cũng năm đó, trên đường bái yết sơn lăng ông tới
thăm chùa Sùng Thiện Diên Linh trên núi Long Đọi, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam:
“Trèo lên theo bậc đá tới gõ cửa chùa, Việc quái đản của vua tôi nhà Lý, duy tấm bia
còn đó”(攀 緣 石 磴 扣 禪 扃, 李 皇 怪 誕 碑 空 在) [72]. Trong sự nghiên cứu Phật
giáo trong lịch sử, Lê Thánh Tông có sự phê phán những gì ông chưa tin là có thực.
Năm 1477, ông tới thăm chùa trong động Bạch Ác (còn gọi là Bạch Á) thuộc
xã Nga Thiện, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa những năm 1477, khi Lê Thánh
Tông về thăm là một ngôi “Chùa cổ hang mây như khóa kín mịt mùng” (雲 鎖 岩
扃 老 梵 宮) nằm giữa “Ngàn ngọn núi xanh biếc tựa vào tầng không” (千 山 騰 翠
倚 層 空). Ông phải thốt lên rằng: “Cảm tạ Oa Hoàng để dành chỗ đẹp này, để ta có
nơi khắc lại công lao trị bình” (謾 說 媧 皇 留 未 用, 好 將 勒 我 治 平 功)[75].
104
Ông nói về trí vô phân biệt “Đời có phế hưng kim giống cổ. Việc đừng phân biệt
đúng hay sai” (代 有 廢 興 今 亦 昔, 事 無 記 載 是 耶 非. 閒 中 自 有 閒 中 樂,
付 與 僧 童 意 自 知)[83]. Tới dây, chúng ta có thể thấy rằng, quan điểm Nguyễn
Hùng Hậu [19, tr.245] cho rằng “Lê Thánh Tông hoài nghi vấn đề tâm truyền và
đốn ngộ của Thiền tông, và vì thế ông vua này chủ trương độc tôn Nho giáo” cần
phải được bổ sung thêm nữa. Có lẽ chủ trương “độc tôn Nho giáo” có nội hàm là
“lấy tư tưởng Nho giáo làm chủ đạo trong quản trị và điều hành quốc gia” hơn là
“coi Nho giáo là quốc giáo” hoặc “chỉ quan tâm và phát triển Nho giáo”. Trên thực
tế, cùng với pháp đàm với sư chùa Quang Khánh đã trình bày ở trên, Lê Thánh
Tông đã dành một sự quan tâm đặc biệt cho Phật giáo, không phải ở phương tiện là
những hoạt động xây chùa, tạo tượng, đúc chuông, mở hội, thực hành nghi lễ Phật
giáo như ông cha đã làm. Với những việc ban hành Luật để chuẩn hóa tu sĩ, hạn chế
sự xây dựng cơ sở thờ tự tràn lan và chế định chế độ bảo vệ cơ sở vật chất của Phật
giáo cho đến việc nghiên cứu lịch sử, tìm hiểu giáo lý Phật giáo, Lê Thánh Tông vô
hình trung đã góp phần bảo vệ và gìn giữ Phật giáo một cách đúng đắn.
Sau này, con trai Lê Thánh Tông là Lê Hiến Tông cũng trong xu hướng đó.
Trong tư liệu văn sách đình đối thời Lê sơ có bản Lê triều đình đối sách văn [90].
Văn bản này dù là bài thi Đình hay không cũng vẫn phản ánh một cuộc đàm luận
với 100 câu hỏi về giáo lý Phật giáo giữa Lê Hiến Tông và Lê Ích Mộc. Với 100
câu hỏi đó bao quát rất nhiều vấn đề từ những giáo lý căn bản cho tới việc thực
hành chi tiết, và những chủ thể thực hành tiêu biểu. Người hỏi hỏi chi tiết, người
đáp trả lời cặn kẽ. Do đó, không dừng lại những vấn đề giáo lý cơ bản và ứng dụng
giáo lý cũng rất cơ bản như Lê Thánh Tông, mà ở đây, cụ thể là Lê Hiến Tông đã có
nhu cầu đi sâu vào ngọn ngành, tinh thông chi tiết từng khía cạnh của Phật giáo.
Không những thế, Lê Hiến Tông đặc biệt dành thời gian tới thăm những ngôi chùa
Phật. Tại động Bạch Ác (白 噁 洞), ông thấy cảm xúc về một nơi “song cao khóa kín,
mây tịnh lặng, (ngôi) phạm vũ treo cao, lánh xa miền tục lợi” (高 窗 深 鎖 雲 霞 靜,
梵 宇 憑 虛 俗 利 空). Trong khung cảnh ấy, ông than rằng: “Há chẳng quay mặt
105
vào vách để giữ gìn tâm ấn?” (豈 無 面 壁 存 心 印) [88]. Đây là một biểu tượng về
tu thiền có lẽ khởi nguồn từ sự tích chín năm quay mặt vào vách đá tọa thiền bất
động (cửu niên diện bích) từ Tổ Bồ Đề Đạt Ma người Ấn Độ sang truyền bá thiền
vào Trung Hoa thế kỷ V. Tới cửa biền Thần Phù ông cảm hứng mà miêu tả về núi
Chích Trợ ở đây như: “cõi Đâu Suất như nổi lên trên mặt nước ở phía tây, phía trái
cảnh Bồng Lai ở ngay cõi nhân gian” (兜 率 西 蓮 连 浮 水 上, 蓬 來 左 股 在 人
間). Tuy là tả cảnh núi non, cửa biển nhưng lại dùng biểu tượng Phật giáo làm hình
tượng miêu tả. Điều này càng cho thấy trong tâm thức ông, Phật giáo có một vị trí
đặc biệt. Qua động Lục Vân [89] thuộc địa phận xã Nga Điền, huyện Nga Sơn, tỉnh
Thanh Hóa, ông cảm hứng mà đề rằng: “Sóng lớn lênh đênh lớp lớp dồn về phía
chân mây. Muốn vươn cánh tay vạch cõi tiên để hỏi đức Thế Tôn: Tại sao trên mặt
đất cùng chung đôi vầng nhật nguyệt. Mà trong bầu lại riêng chiếm một cõi đất trời?”
(汎 瀾 闔 闔 潟 雲 根, 手 擘 煙 霞 訪 世 尊: 地 上 雖 同 雙 日 月, 壺 中 别 是 壹
乾 坤?) “Đâu chỉ chùa Phật mới là nơi lạc cảnh, đến bến này ta thấy nhân dân đang
bước lên đài xuân hưởng cảnh thái bình” (豈 必 梵 宮 稱 樂 士, 率 濱 赤 子 上 春
台). Rõ ràng, ông không chỉ muốn thấu hiểu giáo lý Phật mà còn có cảm xúc đặc
biệt khi tới với những chốn tùng lâm, những danh lam cổ tự của Phật giáo.
Theo tư liệu Hán Nôm, sự kiện những người trong hoàng tộc nhà Lê sơ có
thực hành Phật giáo không nhiều. Tuy nhiên, có một nhân vật rất đặc biệt trong
hoàng cung nhà Lê sơ thực hành Phật giáo, đó là Hoàng Thái Hậu Ngô Thị Ngọc
Dao. Bà là vợ vua Lê Thái Tông, mẹ của vua Lê Thánh Tông, bà nội của vua Lê
Nhân Tông. Tư liệu bi ký còn ghi lại toàn bộ hành trạng, phẩm hạnh của Bà. Vào
thời điểm “Thánh Tông Hoàng đế mới sinh được vài tháng thì Thái Tông Văn
Hoàng đế qua đời, Nhân Tông Hoàng đế nối ngôi, Thánh Tông Hoàng đế được
phong làm Phiên vương ra ở ngoài dân gian” (聖 宗 皇 帝 降 誕 纔 數 月 而 太 宗
文 皇 帝 厭 世, 仁 宗 皇 帝 嗣 位. 聖 宗 皇 帝 為 藩 王 胙 于 平 原. 宣 慈 皇 太
后 臨 朝 以 太 後 親 王 之 母, 特 陞 充 媛 奉 事 太 廟) [86] là lúc Bà và Lê
Thánh Tông tạm trú ở chùa Huy Văn (kinh Thành), cũng là lúc niềm tin Phật giáo
106
của Bà được nuôi dưỡng và hạt giống giá trị Phật giáo được gieo vào tâm thức Lê
Thánh Tông. Từ đó, Bà huân tập nếp sống giới hạnh “không làm việc trái lẽ phải,
không ở nơi không chính đáng”, trung đạo “nghiêm mà không ác”, tri túc “giản dị
mà trang nhã lịch sự”, “hòm tủ thường trống rỗng, không có của cải dành riêng”,
thực hành bố thí vật chất “Khi được vua cung cấp vàng lụa thì đem ban phát cho
mọi người xung quanh và giúp đỡ kẻ nghèo khó”, thực hành bố thí giáo lý “Duy có
lời hay nết tốt của người thì mọi người đều tai nghe mắt thấy, ơn dày nghĩa nặng
của người thì thấm nhuần da thịt mọi người.”, Vì thế cho nên kẻ sang người hèn đều
tôn là Phật sống. (皇 太 后 ... 非 里 不 行, 非 正 不 處 嚴 而 不 惡, 簡 而 有 文, 勤
尊 禮 法, 罕 出 房 闈. 宫 中 人 無 貴 賤 咸 以 生 佛 稱 之. 少 府 供 級 金 帛 必
頒 賜 左 右, 周 恤 困 貧, 帑 藏 常 虚, 別 無 蓄 積. 惟 嘉 言 善 行 著 人 耳 目, 至
仁 厚 惠 妾 人 肌 膚). Hiện nay chúng tôi chưa thấy có tư liệu ghi lại việc cộng
đồng bình dân ca ngợi Bà ra sao, nhưng đã thấy có những chứng cứ về việc quan lại
trí thức đương thời ca ngợi đạo đức phạm hạnh từ thực hành Phật giáo của Bà. Hữu
Hàn lâm viện Kiểm thảo Tiến công lang thần Lê Tô (黎蘇) ca ngợi : “Phật hiện đức
âm xứng lưu vào vũ trụ” (生佛徽稱留宇宙) ; Hữu Lại bộ Thượng thư, Thông
chương đại phu là Vũ Duệ (武 睿) ca ngợi “Lòng từ bi mãn nguyện đã hóa vào
thiên thu” ( 願 滿 慈 悲 化 大 千); Hình bộ Thượng thư, Gia hạnh đại phu thần
Nguyễn Hoằng Thạc ( 阮 弘 碩): “Nghìn năm muôn kiếp Phật hóa vào xác thân”
(億 千 萬 劫 佛 生 身); Lễ bộ Hữu thị lang, Đạt tín đại phu kiêm Hàn lâm viện thị
thư, thần Phạm Đôn Lễ (范 敦 禮): “Người là Hậu Phật của nước Nam, lưu danh muôn
thuở” (南 朝 佛 后 名 長 在); Ngự sử đài thiêm đô ngự sử, Hiển cung đại phu, thần
Bùi Xương Trạch (裴昌澤) ca ngợi: “Người là bậc chân tiên, là Phật sống, thanh danh
còn đó” (真仙生佛徽名着); Hữu Đông các Hiệu thư kiêm Cẩn sự lang thần Đàm
Thận Huy (譚慎徽): “Người là bậc mẫu nghi thiên hạ, là Phật giữa thế gian” (母儀
天下佛彊中); Cẩn sự tá lang, Hàn lâm viện Hiệu thảo thần Phạm Dương (范洋):
“Như Phật giữa cõi đời, cung kính với người thân” (壺中天佛翕尊親) . Những lời
107
trên đã là minh chứng chân thật cho lời ghi “kẻ sang người hèn đều tôn là Phật sống”
của Nguyễn Bảo ở trên. Cuối đời bà hưởng phúc báu của người thực hành theo Phật
giáo tinh tấn và chuyên cần. Biểu hiện của phúc báu đó là ở chỗ “tuổi cao mà tóc
không bạc, răng không rụng, mắt không mờ, nhan sắc không kém sút, vẫn đẹp như
người trạc tuổi 40. Tuy danh vị sang mà làm việc thiện không biết mỏi, tuổi tác cao
mà tinh thần càng sáng suốt. Ngọc thể bất an, phải nằm giường bệnh hơn một tháng
mà không hề có tiếng kêu rên xuýt xoa. Khi mất rồi, năm ngày mới liệm, đúng giữa
mùa nóng mà tuyệt nhiên không có mùi hôi hám” (其 尤 異 於 人 者, 老 而 發 不
白, 齒 不 落, 目 不 昏, 貌 不 衰. 自 有 殊 色 如 四 十 許 人. 雖 名 位 素 崇 而 作
善 之 倦, 春 秋 愈 邁 而 精 氣 益 強. 玉 體 不 安, 伏 枕 與 月 略 無 欷 歑 之 苦.
既 崩 五 日 而 斂, 時 方 向 熱, 絕 聞 臭 穢 之 嫌. 豈 非 神 遊 戶 解 之 仙 耶! 太
后 平 時 素 能 奉 道 事 彿 老 而 愈 篤 故 其 终 報 如 此)[86]. Phúc báu ở đây
biểu hiện trên hai phương diện thân và tâm trí. Phiền não ít cho nên thân trẻ lâu, tâm
tĩnh lặng nhiều thì trở nên sáng suốt. Khi chết rồi, thân vẫn thơm tho, không hôi
hám là phúc báu do sự thanh tịnh mà có. Theo quan niệm dân gian về thực hành
Phật giáo, đó cũng là biểu hiện của sự siêu thoát. Cho tới thời điểm này, chưa có đủ
cứ liệu để xác định Bà thực hành Phật giáo theo pháp môn hay tông phái nào, nhưng
những cứ liệu ở trên đã chứng tỏ Bà cơ bản đã thực hành theo lời dạy của Phật:
“không làm những điều ác, làm tất cả điều lành, giữ tâm ý thanh tịnh”. Và vì thế, có
thể xác định Bà là một cư sĩ Phật giáo thuần thành thời Lê sơ.
Như vậy, không có vị vua triều Lê sơ nào xuất gia thành tu sĩ Phật giáo như
thời Trần, mà họ chỉ bộc lộ sự quan tâm và có niềm tin Phật giáo. Trong mười một
vị vua thời Lê sơ, có ít nhất sáu vị vua có niềm tin và sự quan tâm đến Phật giáo. Đó
là Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông, Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông, Lê
Tương Dực. Ba vị vua đầu tham gia thực hành nghi lễ Phật giáo để cầu cho mưa
thuận gió hòa, quốc thái dân an. Đặc biệt, với những buổi pháp đàm với nội dung
sâu sắc ở chùa Quang Khánh, Lê Thánh Tông không chỉ là người quan tâm Phật
giáo mà còn đi tiên phong trong việc nghiên cứu tư tưởng và giá trị Phật giáo đương
thời cũng như trong lịch sử. Lê Hiến Tông tiếp tục đi sâu hơn nữa những gì Lê
108
Thánh Tông đã quan tâm và thực hiện thông qua việc đưa 100 câu hỏi về Phật giáo
trong nội dung thi Đình qua bài văn sách đình đối của Lê Ích Mộc.
Như vậy, cho đến thời điểm này, chưa có tư liệu Hán Nôm nào ghi chép về
việc một vị vua thời Lê sơ xuất gia thành tu sĩ Phật giáo như một số vua Trần.
Trong hoàng tộc, hiện tượng các bà hậu, phi xuất gia cũng chưa thấy có. Tuy nhiên,
trong số họ có nhiều người quan tâm và có niềm tin Phật giáo.
3.3.3. Giới quan lại và trí thức thời Lê sơ với Phật giáo qua tư liệu Hán Nôm
a) Quan lại nhà Lê sơ với Phật giáo
Tư liệu Hán Nôm thời Lê sơ không ghi chép về những sự kiện quan lại thọ
giới, quy y hay xuất gia thành tăng sĩ Phật giáo như thời Trần, nhưng ở cả ba nguồn
tư liệu chính sử, bi ký và văn chương đều có ghi chép về những sự kiện quan lại
thời Lê sơ thực hành Phật giáo với tư cách là người sở hữu niềm tin Phật giáo hoặc
có cảm tình với Phật giáo.
Với tư liệu chính sử, chúng ta đã thấy có ít nhất ba sự kiện quan lại thực hành
Phật giáo: Thứ nhất là Đại Tư đồ Lê Sát tham gia xây dựng chùa Thanh Đàm và
Chiêu Độ; thứ hai là Đại đô đốc Lê Ngân thờ Phật trong phủ riêng; thứ ba là sự kiện
Thái phó Lê Văn Linh (1448) [78, q.11]; Trường hợp Lê Sát làm chùa là thực hiện
theo ý chí của triều đình. Trường hợp Lê Ngân thờ Phật phần nhiều là do cần một
bình phong cho những thực hành của đồng cốt và phù thủy. Lê Văn Linh làm tới
chức Thái phó ở thời Nho giáo thịnh hành, nhưng trong tâm thức chỉ có niềm tin
Phật giáo là một điều rất đặc biệt.
Tư liệu bi ký thời Lê sơ còn ghi lại rất nhiều sự kiện quan lại tham gia vào
việc tạo dựng cơ sở vật chất cho Phật giáo. Tiêu biểu có những trường hợp sau:
Năm 1428, tại thôn Thị, xã An Thường, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, đạo Kinh
Bắc (Bắc Ninh) Khai quốc công thần gồm Thái sư Lương Quốc công Trung Dũng
vương Lê Thạch và Bảo chính Suy trung Uy dũng Đoan nhã Tản trị Khai quốc
Công thần Thái úy Tản Quốc công Mục Chiêu Trưng vương Lê Khôi cùng đứng ra
hưng công trùng tu chùa Phúc Nương[56]. Năm1432, tại xã Khám Lạng huyện Lục
Ngạn, tỉnh Bắc Giang, có Lưu Câu chức Hạ phẩm người xã Khám và vợ là Đỗ Xú ở
109
cúng dường làm tượng Phật[58]. Năm 1434, tại phường Đồng Dặc, xã An Hoạch,
huyện Đông Sơn, Thanh Hóa, có vị Xa kỵ vệ Thiết đột hậu Thánh Dực quân Chính
ngũ trưởng tôn tượng Phật A Di Đà [59]. Năm 1441, Quang lộc đại phu, ban quốc
tính, Đái thượng khinh xa Đô úy Á hầu – chồng bà Lê Thị Ngọc Biểu Ông trùng tu
chùa Đại Bi ở Kim Liên, Nghi Tàm, Quảng An (nay thuộc Hà Nội) (乃 拾 瓦 竹 鳩
材召 工 百 廢興 修 并 鑄 洪 鍾 建 立 鍾 碑 山 門 壯 觀 為 之 一 新 功 未 就 緒
而 公 相 館 矣)[61]. Năm 1449, có quan Điện nội giám tri Giám sự kiêm Bảo tàng
giám Bùi công, tên là Hùng (殿內監知監事兼寶藏監裴公名,雄) trùng tu chùa Đại
Bi, làng Bối Khê, xã Tam Hưng, huyện Thanh Oai (nay thuộc Hà Nội)[97]. Năm
1491, huyện thừa huyện Đại An, phủ Kiến Hưng cùng các vị quan địa phương khắc
tô tượng Phật thân cao sáu trượng (玄孫仙為見興府大安縣丞居官暇日堂構不忘
爰與司禮阮文思校尉阮文慮同鄉人梁文粹阮文漫等率諸檀越及住持僧阮文樂
料出家資掄材備匠克為佛相金身丈六) cho chùa Chuyết Sơn xã Cấp Tiến, huyện
Tiên Lãng, Hải Phòng [81]. Năm 1496, Thanh Hoa Đô Tổng binh sứ, Ty Tổng binh
Thiêm sự, Trì Uy Tướng quân - một vị quan văn võ kiêm toàn, do cha mẹ cầu tự mà
sinh ra, cho nên sau khi trưởng thành, trở về làng quê bỏ của nhà làm chùa Thích Ca
32 gian nay là chùa Hòa Lạc ở xã Hành Lạc, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên[91].
Trong bi ký không ghi rõ việc cầu tự diễn ra ở chùa thuộc xã này hay không, nhưng
chúng tôi đoán định rằng việc cầu tự đó là một trong những nguyên nhân dẫn tới
việc ông xây dựng chùa Thích Ca cho xã này. Có lẽ chi phí xây dựng 32 gian chùa
là một chi phí lớn nhất trong những chi phí ông sử dụng để bố thí cho dân nghèo
trong xã và xây dựng công trình công cộng. Năm 1510, thiêm tổng tri Đỗ Xưởng ở
thôn Thượng Khánh, xã Hợp Đồng, huyện Chương Mỹ, Hà Nội hưng công tu sửa
chùa Hạ trong thôn [93]. Năm 1515, Trì uy tướng quân Lôi Thành vệ thiêm Tổng tri
Vân kị úy Đỗ công, tên Điều, là người bản xã hơn bảy mươi tuổi vâng mệnh từ
quan về, thấy cảnh tượng quê cũ, muốn xây dựng lại chùa. Lại có vị Minh tướng
quân Cẩm Y vệ Xá nhân, Chỉ huy sứ Đô Chỉ huy Đồng tri Lê Đình Thụy, Tri huyện
huyện Thanh Oai là Đồng Diệp, Huyện thừa Lê Thận, Nguyễn Tịnh, Đề lại Nguyễn
110
Thiêm Hựu, Vương Văn Lãng, Phạm Dần Lượng, Hà Văn cùng nhau tu sửa lại chùa
Đại Bi, làng Bối Khê, xã Tam Hưng, huyện Thanh Oai (Nay thuộc Hà Nội). Năm
1515, Trì Uy Tướng quân Bảo Uy ty Hiệu uý Trực Quang Thiên điện Tạ Văn Công
là “trưởng sãi” (長士) . Vì gặp buổi thịnh thời “Thánh Thiên tử (vua Lê Tương Dực)
trung hưng vận hội, ưu bát đàm lại lần nữa nở hoa. Phúc ấm chở che sinh linh, điều
nhân thấm nhuần rộng khắp” (聖天子中興運會優钵曇又一開花福庇蒼生仁沾白
蓋) muốn “trồng thiện căn, kết diệu quả” (種善根結妙果) tụ họp quan dân tổ chức
xây dựng lại chùa Vô Vi (xã Long Châu, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây, nay thuộc
xã Phụng Châu, huyện Chương Mỹ, Hà Nội). Việc trở thành trưởng sãi có nghĩa là
đã quy y Tam Bảo, trở thành Phật tử. Năm 1525, vị Tổng chính đã phát lòng cư sĩ,
tôn tạo các tượng Phật trong Tam bảo cho chùa ở làng Phượng Cách, phủ Quốc Oai,
nay thuộc thị trấn Hoàng Xá, huyện Quốc Oai (nay thuộc Hà Nội) [101].v.v. Trong
những sự kiện trên, có vị quan thực hành Phật giáo với tư cách cá nhân, nhưng có
những vị thực hành với tư cách cộng đồng, một nhóm. Việc tạo tượng, đúc chuông,
trùng tu chùa chiền trước hết thỏa mãn niềm tin Phật giáo, đồng thời cũng giúp họ tạo
phúc báu bằng cách gieo những duyên lành cho cộng đồng và cho đời sau kiếp khác.
b) Trí thức thời Lê sơ với Phật giáo
Trí thức ở đây được hiểu là người thực hành Phật giáo với tư cách là một trí
thức, không với tư cách là quan, có nghĩa là có thể trước khi ra làm quan, đã từ quan
về ở ẩn hoặc vẫn đang làm quan nhưng không lấy tư cách quan lại. Do vậy, trường
hợp như Nguyễn Trãi và Lương Thế Vinh chúng tôi xếp vào nhóm trí thức thực
hành Phật giáo.
Theo tư liệu Hán Nôm thời Lê sơ, Nguyễn Trãi khi về ở ẩn trên núi Côn Sơn
mới chuyên tâm nghiên cứu Phật giáo với sư Đạo Khiêm và thực hành tu thiền
trong suốt những năm tháng còn lại. Tác phẩm Quốc âm thi tập hàm chứa những tư
tưởng Phật học cũng ra đời vào giai đoạn sau khi từ quan về ở ẩn này. Sau và khác
với Nguyễn Trãi, Lương Thế Vinh ngay khi còn là sĩ tử đã “có ứng chế bài thi với
tên Diên Hựu tự ký” ở cấp thi Đình tại khoa thi Tiến sỹ năm 1463 và đạt danh hiệu
Tiến sĩ bậc cao nhất trong kỳ thi [78, q.12]. Bản thân ông khi đang làm quan cũng là
111
biên soạn Thiền môn khoa giáo và đề tựa cho Nam tông tự pháp đồ với tư cách là
một trí thức. Cả hai ông đều là những trí thức lớn hướng đến đời sống Phật giáo cả
về trí tuệ và về thực hành. Nhu cầu đó không hề bị tri thức và tư tưởng Nho giáo
khỏa lấp.
Trong tư liệu bi ký thời Lê sơ, có nhiều tác giả soạn bi ký là trí thức có những
phát biểu thể hiện cảm tình hoặc sự ngưỡng mộ với Phật giáo. Tiêu biểu như tác giả
bi ký chùa Đại Bi xã Ngọc Xuyên, huyện Gia Bình (nay thuộc Bắc Ninh) : “tôi nay
được thấm nhuần nguồn ánh lớn, mà biết danh tiếng chùa Đại Bi và ánh sáng Phật
luôn sáng suốt.” (吾 大 悲 寺 之 名 與 佛 日 常 明 也) [80]. Giám sinh Quốc Tử
Giám (mờ tên) (國子監國子生) soạn bi ký cho chùa Chuyết Sơn xã Cấp Tiến,
huyện Tiên Lãng, Hải Phòng [81]. Hoặc như Tiến sĩ Nguyễn Giản với những nội
dung ông soạn trong bi ký chùa Nga My, ông là người rất am tường giáo lý Phật
giáo và không ngần ngại diễn giải quan điểm của mình trong trang sử đá. Với 7 câu
ngắn gọn, ông diễn giải tổng quan về toàn bộ những điều cốt yếu nhất của Phật giáo,
từ lấy từ bi làm gốc, diệt dục quý người, khuyến thiện, trừng ác, bố thí, quả báo luân
hồi[85]. Cũng với sự hiểu biết và lòng mến mộ Phật giáo, Hoàng Nam Kim người
Điều Nham, Sơn Tây đỗ Giải nguyên khoa Quý Mão, chức Trung trinh đại phu,
Thận hình Thanh sứ ty Viên ngoại lang ở làng Phượng Cách (phủ Quốc Oai, nay
thuộc thị trấn Hoàng Xá, huyện Quốc Oai, Hà Nội) năm 1525 soạn bi ký cho bến đò
Cù Sơn. Trong đó, ông đặc biệt bàn luận về Phật giáo: “Gieo trồng việc thiện ở đời
là tùy duyên, tùy điều kiện. Nên biết rằng, lời nói thì dễ mà việc làm thật mới khó.
Kiếp phù sinh mọi sự đều là hư không cả. Chỉ có sử sách là còn lại muôn đời.” (種
種隨緣方便. 應知言易實行. 浮生萬事皆空了. 惟有青編久遠看) [ 1 0 1 ]
Chắc hẳn trong 40 bi ký thời Lê sơ có chứa sử liệu Phật giáo hầu hết đều là do
trí thức thời Lê sơ soạn. Những dòng họ viết về Phật giáo đã thể hiện họ là những
người am tường Phật giáo, hiểu Phật giáo là một tôn giáo có con đường hành trì
đúng đắn đưa tới an vui và giải thoát.
Như vậy, trong diện mạo Phật giáo thời Lê sơ, quan lại và trí thức đã tạo nên
những điểm nhấn rất đặc biệt. Họ không hoặc chưa có nhu cầu thọ nhận những nghi
112
lễ Phật giáo như thời Trần, nhưng nhiều người trong số họ luôn quan tâm và sẵn
sàng góp năng lực văn chương và thậm chí là tham gia vào đời sống Phật giáo như
một thành viên trong cộng đồng Phật giáo.
3.3.4. Thiện nam tín nữ Phật giáo thời Lê sơ qua tư liệu Hán Nôm
Thiện nam tín nữ ở đây được hiểu là những người không thuộc tầng lớp hoàng
tộc, quan lại và trí thức kể trên. Tư liệu Hán Nôm thời Lê sơ ghi nhận về những
cộng đồng bình dân sở hữu niềm tin Phật giáo thời Lê sơ thường tụ họp lại nhân
một sự kiện Phật sự xảy ra, có thể được tổ chức bởi một vị hoặc một nhóm quan lại,
hoặc một tu sĩ hoặc một cư sĩ Phật giáo hoặc có thể là tự phát.
Bi ký chùa Đại Bi (Bối Khê, xã Tam Hưng, huyện Thanh Oai, thành phố Hà
Nội) ghi nhận cộng đồng bình dân cùng hưng công trùng tu chùa năm 1449 với
quan Điện nội giám tri Giám sự kiêm Bảo tàng giám Bùi Công Hùng[97]. Trong bi
ký chùa Hạ (thôn Thượng Khánh, xã Hợp Đồng, huyện Chương Mỹ, Hà Nội) cũng
ghi nhận năm 1510, hưởng ứng việc quan Thiêm tổng tri Đỗ Xưởng hưng công tu
sửa chùa Hạ trong thôn, hơn 30 bình dân gồm các sãi vãi trong thôn, cùng với một
vị phu nhân của nha quan và một vị phu nhân của tri huyện đã cùng nhau cúng
dường tịnh tài để hoàn thành việc tu tạo đó. Họ tập hợp lại thành cộng đồng để thực
hành Phật giáo, vì họ mong rằng: “Xã quan cùng sãi vãi được hưởng phúc thái bình.
Rồng xanh từ trời xuống, rùa vàng dưới đỡ lên. Chùa chiền cùng biển hiệu, bia đá
rạng công danh” (社 官 共 仕 娓, 福 及 課 太 平. 綠 龍 天 上 到 , 金 龜 下 足 擎.
監 廚 共 帖 孛, 碑 低 皚 功 名) [93]. Cũng như vậy, sau Cẩm Y vệ Chỉ huy sứ Tri
Hiệu lệnh, Ty Lực sĩ Trực Kim Quang điện Đặng Mai trùng tu chùa Minh Khánh
năm 1511 (thôn Cổ Duệ viện Đại Bi, xã Hương Đại, huyện Thanh Hà, phủ Nam
Sách), có sự tham góp tiền của và công sức của 55 thái ông, lão bà, thiện nam, tín
nữ trong thôn [95]. Xem trong bi ký chùa Vô Vi (xã Long Châu, huyện Quốc Oai,
tỉnh Hà Tây, nay thuộc xã Phụng Châu, huyện Chương Mỹ, Hà Nội) [98], dưới sự
hưng công xây dựng chùa Vô Vi của trưởng sãi Trì Uy Tướng quân Bảo Uy ty Hiệu
uý Trực Quang Thiên điện Tạ Văn Công năm 1511 là một cộng đồng sãi vãi, nhân
dân quyên góp tiền và ruộng bao gồm hơn 40 vị. Trong lần trùng tu chùa Đại Bi (xã
113
Tam Hưng, huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội) năm 1515 sau Trì uy tướng quân
Lôi Thành vệ thiêm Tổng tri Vân kị úy Đỗ công Điều, ngoài cộng đồng các quan
địa phương, còn có cộng đồng hơn 40 người bình dân gồm “Bản tự tăng nhân Đào
Khuyến cùng mọi người trong làng nam nữ, thái ông lão bà” trong xã Tam Hưng
cùng góp công góp gạo cho công trình [97].
Tư liệu bi ký cũng ghi nhận có cộng đồng bình dân thực hành Phật giáo được
tổ chức bởi một tăng sĩ Phật giáo hoặc một cư sĩ Phật giáo. Chẳng hạn, cộng đồng
“Thiện nam tín nữ cùng người có tâm đức đến đây đều ngưỡng mộ mà dốc tâm trợ
giúp làm điều thiện.” (男信女共依德德皆景仰憑嘉其用心之篤與夫助人為善)
trong sự kiện trùng tu chùa Nga My (kinh thành) năm 1497 dưới sự chủ trì của sư
Thanh Xán [85]. Vợ chồng Ông Nguyễn Liệu hiệu Phát Tâm, là người xã Đông Sơn,
huyện Đông Sơn, phủ Thiệu Thiên và vợ là bà Nguyễn Thị Lê hiệu Hướng Đạo ở
làng Đông Tác, huyện Đông Sơn, Thanh Hoá là những người khởi xướng cộng
đồng thực hành trên cơ sở niềm tin Phật giáo hướng đích cộng đồng như đã trình
bày ở trên vào năm 1509 là một cộng đồng bình dân gồm hơn 40 người [92].v.v.
Ngoài ra, còn rất nhiều sự kiện về cộng đồng bình dân tự tụ họp lại với nhau,
không theo sự tổ chức của quan lại hay cư sĩ. Ví dụ, trong sự kiện “tạo tượng Quan
Âm chùa thôn Cung Kiệm, xã Nhân Hòa, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh năm 1449,
các tín chủ Đào Ngân, Nguyễn Thị Biên, Nguyễn Lăng, Đào Thị Điều, Nguyễn Bế
(Bé), Nguyễn Thị Thiểu cùng nhau cúng dường [65]. Trong sự kiện tu tạo cầu đá ở
thôn Thuần Thọ, huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá năm 1522 có cộng đồng bình
dân gồm “Ông Lê Khắc Nhượng cùng toàn thể thái ông lão bà các xã Đống Hà, Tây
Phụ huyện Hoằng Hoá phủ Hà Trung” (河 中 府 弘 化 縣 西 阜 凍 河 等 社 太翁
老 婆 黎 克 讓 等) [100]. Gần cuối thời Lê sơ, còn thấy những sự kiện như toàn dân
thôn Đồng Vũ và thôn Đông xã Thụ Ích (今受益社同武村東村) gồm hơn 30 người
tụ họp sửa sang quy mô, tạo tượng, đúc chuông cho chùa Sùng Khánh (Lý Nhân,
Hà Nam)[102].
Dù cộng động bình dân được tổ chức dưới sự hưng công của một vị quan, một
vị cư sĩ hay tự phát thì cũng đều có đặc điểm: Thứ nhất, khi một sự kiện xuất hiện
114
liên quan tới ngôi chùa trên địa bàn họ đang sống, họ cùng nhau thực hiện; Thứ hai,
họ không tham góp về mặt tri thức, hiểu biết giáo lý như trí thức mà họ quyên góp
tiền và công sức lao động; Thứ ba, số tiền, gạo và ruộng họ cúng vào Tam bảo
thường không nhiều, nhưng họ lại chính là những thành tố chính và thường xuyên
tham gia sinh hoạt ở đây cũng như giữ gìn những nơi cơ sở thờ tự này.
115
Tiểu kết chƣơng 3
Tuy tư liệu Hán Nôm chứa sử liệu Phật giáo thời Lê sơ không nhiều và phong
phú bằng thời Trần, nhưng với những tư liệu hiện nay có thể tiếp cận được có thể
làm toát lên một diện mạo Phật giáo với những hình thái tương đối hoàn chỉnh và
màu sắc khá sống động.
Thứ nhất, về cộng đồng Phật giáo, cũng giống như thời Trần, người có tư
tưởng Phật giáo, thực hành Phật giáo thời Lê sơ có mặt trong các tầng lớp từ vua,
quan tới thiện nam tín nữ bình dân. Trong đó, vua quan Lê sơ không chính thức
xuất gia, nhận lễ quy y, thọ giới Phật giáo như thời Trần, mà chủ yếu thể hiện ở tư
tưởng và hành vi. Ở địa phương, các thiện nam tín nữ cùng với một số quan lại vẫn
tiếp tục duy trì niềm tin vào Phật giáo, tiếp nối truyền thống tạo dựng cơ sở thờ tự
và duy trì đạo tràng sinh hoạt.
Thứ hai, về tư tưởng Phật giáo và thế giới thiêng, thời Lê sơ vẫn tồn tại hai xu
hướng: một là thờ Phật như thờ thần có năng lực ban phước giáng họa, có khả năng
ban phúc giáng họa với những thực hành mang tính hướng ngoại như tôn tạo cơ sở
thờ tự và cầu đảo mang tính cầu mong tha lực, hai là thờ Phật như thầy với những
thực hành mang tính hướng nội như thiền định, nghiên cứu giáo lý... Cả hai xu
hướng đều song song tồn tại. Xu hướng thứ nhất vẫn bộc lộ rõ hơn, được đại chúng
chú ý hơn. Xu hướng thứ hai tiềm ẩn và chủ yếu được chú ý bởi những bậc trí thức
hoặc những người có năng lực trí tuệ cao.
Thứ ba, về hành vi hay thực hành Phật giáo, giống như cuối Trần, tăng sĩ thời
Lê sơ ngoài tu học theo pháp môn của mình còn phải bổ túc tri thức căn bản về giáo
lý và văn hóa nói chung để qua các kỳ sát hạch cấp độ điệp; nhà nước Lê sơ vẫn sử
dụng nghi lễ Phật giáo trong giai đoạn đầu, nhưng giai đoạn từ Lê Thánh Tông về
sau lại chú ý đến những giá trị mang tính trí tuệ và đạo đức của Phật giáo; từ kinh
thành cho tới địa phương những hoạt động tạo dựng cơ sở thờ tự và từ thiện xã hội
vẫn được duy trì, mặc dù về số lượng đã giảm rất nhiều so với thời Trần.
116
Chƣơng 4
ẢNH HƢỞNG CỦA PHẬT GIÁO TRONG VĂN HÓA ĐẠI VIỆT
THỜI LÊ SƠ QUA TƢ LIỆU HÁN NÔM
Chương này nghiên cứu về sự ảnh hưởng của Phật giáo trong văn hóa Đại Việt
thời Lê sơ. Sự ảnh hưởng này thể hiện trong các lĩnh vực văn hóa tư tưởng, văn hóa
kiến trúc, lối sống, và đời sống tôn giáo, tín ngưỡng thời Lê sơ.
Tư liệu Hán Nôm đã cho chúng ta biết về sự tồn tại liên tục, chưa từng gián
đoạn của Phật giáo ở Đại Việt thời Lê sơ. Nói như tác giả bài ký bia chùa Đại Bi, xã
Ngọc Xuyên, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh năm 1490: “Vận có lúc bĩ lúc thái, cho
nên cảnh lúc phế hưng. Giòng chảy Phật giáo, danh thắng đạo tràng từ xưa đến nay
chưa từng gián đoạn vậy” [80]. Diện mạo của Phật giáo là phần thể hiện ra hình
tướng, là hiện tượng. Để bộc lộ ra được diện mạo ấy, Phật giáo đã xác lập được vị
trí khó có thể thay thế, đồng thời thể hiện của mình trong xã hội ở những phương
diện khác nhau. Trong chương này, chúng tôi trình bày một số phương diện cơ bản
cho thấy ảnh hưởng của Phật giáo trong xã hội thời bấy giờ, bao gồm: chính trị, văn
hóa và tín ngưỡng, tông giáo.
4.1. Ảnh hƣởng của Phật giáo trong văn hóa tƣ tƣởng thời Lê sơ qua tƣ liệu
Hán Nôm
Không giống như thời Trần, thời Lê sơ không xuất hiện bất cứ vị thiền sư nào
làm Quốc sư, cũng không có bất cứ vị vua nào xuất gia tu hành Phật giáo hoặc làm
lễ quy y thành cư sĩ Phật giáo. Do đó, nhiều nhà nghiên cứu trước đây cho rằng Phật
giáo hoàn toàn không có vị trí vai trò gì trong lĩnh vực chính trị. Tuy nhiên, tư liệu
Hán Nôm cho thấy Phật giáo vẫn tiếp tục thể hiện vai trò đối với chính trị dù đã trở
nên ngầm ẩn và mờ nhạt đi nhiều so với chính nó ở giai đoạn lịch sử trước đó. Tư
liệu Hán Nôm thời Lê sơ cho phép Luận án diễn giải về hai khía cạnh ảnh hưởng
của Phật giáo trong chính trị thời Lê sơ: Thứ nhất là vai trò của nghi lễ và sư thực
hiện nghi lễ Phật giáo; Thứ hai là vai trò cố vấn chính trị của cộng đồng Phật giáo.
Về vai trò thứ nhất – nghi lễ Phật giáo, chính sử cho biết, đầu thời Lê sơ, mỗi
khi gặp khó khăn do thiên tai, hạn hán, trong nhiều cách giải quyết, triều đình Lê sơ
117
tìm đến nương nhờ “oai lực” của Phật và chư Tăng. Ngày 1 tháng 4 năm 1434 (Giáp
Dần, niên hiệu Thiệu Bình 1), Lê Thái Tông “sai các quan rước Phật chùa Pháp
Vân ở Cát Châu về Đông kinh để cầu mưa” [78, q.11, tr.7a]. Khi đó, Nguyễn Thiên
Hựu – một vị đại thần theo Nho giáo dâng sớ can gián: “Bệ hạ sửa đức, tha tù oan,
thả bớt cung nữ mà trời không mưa thì xin chém đầu thần để tạ trời đất” [78, q.11,
tr.7a], tức là nếu chỉ tụng chú cầu đảo thì không thể có mưa, mà phải làm việc nhân
đức mới cảm lòng Trời. Cái “hướng nội tu đức” mà Nguyễn Thiên Hựu không hẳn
không có sự tương giao với con đường Phật dạy, nhưng nó quá yếu để thay thế cho
một “nề nếp” cầu mưa mang tính truyền thống này. Hơn nữa, mưa đã tới kinh thành,
các lộ như Thanh Hóa, Tuyên Quang liền sau nghi lễ không lâu, do vậy niềm tin
vào “oai lực” của Phật Pháp Vân và chư Tăng lần nữa được xác nhận trong quan
điểm của vua tôi nhà Lê sơ. Chùa Báo Thiên ở kinh thành một phần vì là nơi thực
hiện nghi lễ này, cho nên đã được Lê Thái Tông cho trùng tu, xây dựng với quy mô
rất lớn. Công việc thổ mộc rất nặng nề, sư Đãng phải làm lụng vất vả mà nổi sân
rằng: “Thiên tử không có đức, để đến nỗi hạn hán. Đại thần ăn của đút, cử dùng kẻ
vô công, có gì là thiện đâu mà phải làm chùa to thế" [78, q.11, tr.10b]. Sự kiện này
phần nào cho thấy, đến một người thợ mộc cũng thấm Nho giáo, trong khi đó, triều
đình trong một số sự việc vẫn đặt niềm tin nơi oai lực của Phật và Tăng.
Nghi lễ này còn tiếp tục được triều đình thực hiện vào tháng 6 năm 1448
(Mậu Thìn, Đại Hòa 6) khi Lê Nhân Tông: “xuống chiếu cho các quan văn võ phải
trai giới đến chùa Báo Ân ở cung Cảnh Linh làm lễ cầu mưa. Vua đích thân tới vái
xin. Sai Thái uý Lê Khả đến xã Cổ Châu rước tượng Phật Pháp Vân về chùa Báo
Thiên ở kinh thành. Xuống chiếu cho các nhà sư tụng kinh cầu đảo. Vua và Hoàng
hậu cùng đến làm lễ” [78, q.11, tr.68b]. Ở đây vẫn có sự hướng ra ngoài, về phía
“oai lực” của Phật và chư Tăng trong sự đích thân tham gia nghi lễ và tấm lòng
thành kính của vua và hoàng hậu. Tuy nhiên, Lê Nhân Tông cũng “ngày hôm ấy tha
24 tù nhân tội còn ngờ”, đồng thời muốn nghe về “nguyên nhân dẫn tới hạn hán”
[78, q.11, tr.68b]. Động thái thả tù nhân ảnh hưởng bởi niềm tin Nho giáo ở việc
“sửa đức của tự thân” để cảm lòng Trời. Việc tìm hiểu nguyên nhân là biểu hiện của
118
ý chí tìm hiểu nhân duyên đưa tới hạn hán, cũng có nghĩa muốn biết kết quả bây giờ
phải xem nhân duyên trước đây. Phật giáo và Nho giáo cùng có vị trí bệ đỡ tinh
thần trong tâm thức của Lê Nhân Tông nói riêng, và trong quan điểm của triều đình
Lê sơ do Lê Nhân Tông trị vì nói chung. Việc sửa đức nơi tự thân của Nho giáo và
việc “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, thanh tịnh kỳ ý” (Không làm tất cả
các việc ác, làm tất cả các việc lành, giữ tâm ý thanh tịnh) của Phật giáo không
những không đối chọi mà còn có sự tương giao chặt chẽ. Đó là lý do khiến Phật
giáo và Nho giáo có thể cùng đứng một vị trí trong quan điểm của triều đình Lê sơ
từ Lê Nhân Tông về trước. Từ Lê Thánh Tông về sau, Phật giáo về sự kiện tư liệu
liên quan tới chính trị và xã hội có biểu hiện tương đối khác. Hơn nữa, triều đình
vẫn khai thác những giá trị của Phật giáo về nhận thức và về đạo đức cho hoạt động
quản trị xã hội và lãnh đạo đất nước.
Về vai trò thứ hai – cố vấn chính trị, thời Lê sơ, chưa có tư liệu Hán Nôm nào
ghi chép về việc cố vấn chính trị một cách trực tiếp cho triều đình của tu sĩ Phật
giáo như ở thời Lý và thời Trần. Nhưng như thế không có nghĩa là Phật giáo không
có ảnh hưởng tới chính trị thời Lê sơ.
Lê Thánh Tông, ông vua trị vì nhà Lê sơ ở thời kỳ thịnh trị nhất của Nho giáo,
nhưng không hẳn đã “độc tôn Nho giáo”, mà như Bùi Thanh Chương [8, tr.28-34]
nhấn mạnh, “chính Lê Thánh Tông ngoài việc sử dụng Nho giáo như công cụ hữu
hiệu để quản trị đất nước trên phương diện chính trị đất nước, vẫn không bỏ qua đời
sống tâm linh của mình, của con người. Về phương diện này Phật giáo và Đạo giáo
có ưu thế hơn cả”. Cơ sở tâm thức đầu tiên là Lê Thánh Tông được bà mẹ sinh ra và
nuôi dạy những năm đầu ở chùa Huy Văn (kinh thành). Điều đó có nghĩa là âm
thanh của chuông mõ và lời kinh tiếng kệ Phật giáo đã đi vào tâm thức của ông từ
khi mới lọt lòng. Hơn nữa, Bà còn là một tấm gương tiêu biểu của sự siêng năng thờ
Phật. Bà được người đương thời tôn vinh là “Phật sống”[86] bởi nếp sống theo
chiều hướng tâm linh đạo đức Phật giáo. Nếp sống này chắc chắn đã chảy qua sự
nuôi dạy của Bà tới Lê Thánh Tông. Những hạt giống của trí tuệ và tư bi Phật giáo
đã ươm mầm nơi ông vua nổi tiếng nhất thời Lê sơ này. Học tập theo Trần Thái
119
Tông “học thêm đạo Nho để làm chính trị, học thêm đạo Phật để làm đạo đức” [18,
tr.170], Lê Thánh Tông dùng Nho để trị nước, nghiên cứu Phật để thấy ra “cơ mầu
vẫn chẳng vong”. Những giáo lý Phật giáo căn bản “五 圓 湛 湛 元 非 色 , 六 度
澄 澄 亦 有 情”(Ngũ viên vằng vặc vốn không phải là sắc, Lục độ ngời ngời cũng
thật có tình) có lẽ đã giúp Lê Thánh Tông vượt thắng được những tuyệt vọng, những
khổ đau của mình trong “nơi cửa vô cùng”[70] để trở thành một nhà chính trị giỏi, một
vị vua lớn trong triều đại nhà Lê sơ. Như vậy, Phật giáo vừa nằm trong con người tâm
linh đạo đức và vừa nằm trong con người chính trị của Lê Thánh Tông.
Không dừng lại ở mức “lệnh chỉ” đối với Phật giáo như Lê Thái Tổ năm 1429
[78, q.10, tr.68a], với Lê Thánh Tông và triều đình do ông trị vì, dường như Phật
giáo là một tôn giáo có sức ảnh hưởng lớn đối với xã hội, cho nên Phật giáo tồn tại
và diễn biến đúng mức cần phải được điều chỉnh cho đúng với chuẩn mực của Phật
giáo. Do đó, cùng với Đạo giáo, Phật giáo đã trở thành đối tượng được điều chỉnh
và bảo vệ với những điều luật trong Quốc triều hình luật[69]. Chuẩn mực tăng sĩ
được quy định ở điều 5: “tuổi từ 50 trở lên” là tuổi tri thiên mệnh, có sự định tĩnh
sáng suốt trong việc quyết định ở yên với sự nghiệp tu hành, “thông kinh sử” là việc
học Phật và học tri thức ngoài Phật đạt kết quả; “có đạo hạnh” là việc tu Phật đã có
thành tựu; “không phạm tội uống rượu, ăn mặn” là giới đức thanh tịnh. Chùa – cơ
sở thờ tự của Phật giáo được quy định ở điều 6. Quy định về tu tạo chùa chiền này
vừa đảm bảo “tính thiêng” của ngôi chùa với một bề dày lịch sử sinh hoạt, tu tập
của cộng đồng Phật giáo, vừa hạn chế sự bùng phát của những cơ sở thờ tự Phật
giáo không theo quy định của triều đình, chỉ mang tính hình thức, không hướng tới
mục đích giác ngộ và giải thoát. Tượng Phật và chùa Phật được bảo vệ nghiêm ngặt
ở điều 23 và điều 79. Sự lưu trú tại chùa Phật được quy định chặt chẽ tại điều 11 và
18. Những quy định này giúp cho sinh hoạt Phật giáo được chuẩn mực, đúng đắn và
bền vững. Hay nói cách khác, sự can thiệp sâu vào chuẩn mực tăng sĩ cho đến bảo
vệ cơ sở thờ tự Phật giáo nói lên tinh thần trách nhiệm cao của Lê Thánh Tông và
triều đình trong việc tạo điều kiện và phát triển bền vững góp một phần không nhỏ
cho sự phát triển bền vững của xã hội Đại Việt. Phật giáo đã từ tâm thức của người
120
bà nội chảy sang người bố, hòa nhập cùng tâm thức tôn giáo của ông ngoại ngoại là
Trinh Quốc Công [87] chảy vào tâm thức của người con là Lê Hiến Tông. Cho nên,
chính Lê Hiến Tông là người cho dựng bia bà nội mình, ca ngợi như một vị Phật
sống đặt ở lăng thờ Bà[86], và cũng chính ông cho sửa Thiên Phúc (nơi có am Hiển
Thụy) và cho dựng bia kể lại sự kiện ông ngoại mình đã làm lễ cầu tự cho con gái
mình[87]. Phật giáo, cụ thể là sự linh thiêng của vị thánh tăng - Từ Đạo Hạnh, tới
đây có thêm vị trí quan trọng trong việc nối dõi của gia đình hoàng tộc, trong việc
tạo điều kiện ra đời của một vị vua kế nhiệm ưu tú. Nếu giả thuyết đề thi Đình năm
1502 [90] gồm 100 câu hỏi về Phật giáo [9] là đúng sự thực, thì giáo lý và thực
hành Phật giáo đã trở thành vấn đề đáng quan tâm nhất của Lê Hiến Tông trong kỳ
thi cấp cao nhất này. Đồng thời, lựa chọn một người giỏi về Phật giáo nhất để trao
danh hiệu trạng nguyên là một sự tôn vinh lớn đối với Phật giáo. Tuy rằng, từ thời
Lý – Trần đã có thi Tam giáo, nhưng giữa thời Nho giáo thịnh hành, việc lựa chọn
một trạng nguyên tinh thông Phật giáo là một hiện tượng đặc biệt. Tuy nhiên trong
100 câu hỏi đó, không có câu nào đề cập tới yếu tố chính trị của Phật giáo. Có nghĩa
là, Phật giáo được coi trọng nhất khi nó là chính nó một cách sâu sắc. Phật giáo thực
hiện trách nhiệm chính trị chỉ là phương tiện tùy duyên, không phải là cốt yếu. Thế
nhưng, nếu một ông vua quan tâm tới những vấn đề căn cốt nhất và sâu sắc nhất của
Phật giáo thì chứng tỏ Phật giáo đã trở thành bệ đỡ tinh thần chính yếu của vị vua này.
Tóm lại, nói như Lê Tương Dực – vị vua cuối thời Lê sơ nhận định về ảnh
hưởng của Phật giáo đối với chính trị trên bia ma nhai trên vách núi Dục Thúy
(Ninh Bình) năm Hồng Thuận 3 (1511) rằng: “Vài pho tượng vàng vẫn như cũ,
ngầm giúp Hoàng gia mãi thái bình” (幾 多 金 像 依 然 在, 默 佑 皇 家 助 太
平)[96]. Trong bi ký dựng tại núi Kim Âu, thuộc thôn Trung, xã Kim Âu, huyện
Vĩnh Lộc (nay xây dựng nhà bia bảo vệ thuộc về địa danh xã Hà Đông huyện Hà
Trung, tỉnh Thanh Hoá) ghi lại sự kiện ngày 25 tháng 2 năm 1511 cũng nhân đi bái
yết sơn lăng, Lê Tương Dực tới thăm chùa Kim Âu quan sát cảnh “người vật vô tâm”
( 物 我 心 無) mà khởi lên cảm xúc “Đáng khen sự nghiệp nhà Trần nghìn năm khó
mờ” (嘉 陳 朝 之 事 業 千 載 難 名)[94]. Sự nghiệp nhà Trần ở đây ý nói tới sự nghiệp
121
dựng nước, nhưng cũng là sự nghiệp xây dựng một nền tâm linh tinh thần từ nền tảng tư
tưởng Phật học.
Như vậy, Phật giáo đã ở vị trí một bệ đỡ tinh thần ưu việt hơn so với Nho giáo
trong quan điểm của triều đình đầu thời Lê sơ, có vai trò giúp cho triều đình an
được lòng dân khi có thiên tai hạn hán. Sang nửa sau thời Lê sơ, Phật giáo không
hiện diện trong sự kiện cấp quốc gia do triều đình tổ chức, nhưng lại có mặt ở vị trí
rất quan trọng trong tâm thức của một số vị hoàng đế ưu tú nhất của triều Lê sơ,
được chính những ông vua này xác định một vai trò nền tảng chìm ngầm và nâng đỡ
cho một nền thái bình bền vững của quốc gia.
4.2. Ảnh hƣởng của Phật giáo trong văn hóa kiến trúc qua tƣ liệu Hán Nôm
Giữa tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng với văn hóa có mối quan hệ đa
chiều. Thửa ban đầu, Phật giáo hình thành từ nền văn hóa Ấn Độ cổ đại. Trong quá
trình được truyền bá, Phật giáo lại bổ sung, đóng góp cho nền văn hóa nơi nó có
mặt. Đồng thời, Phật giáo trong những tín ngưỡng, tôn giáo khác của văn hóa cũng
có những mối liên hệ nhất định.
Từ khi du nhập vào Việt Nam cho tới nay, cơ sở thờ tự của Phật giáo đã hiện
diện là một trong những thành tố văn hóa vật thể đặc biệt quan trọng. Những cơ sở
thờ tự đó cùng với những biểu tượng của Phật giáo là cả một kho tàng văn hóa đồ sộ
cho đến ngày nay con người vẫn chưa khám phá ra hết, mặc dù chính con người
sáng tạo ra chúng. Phật giáo cũng như tôn giáo khác khuyên con người làm lành,
tránh dữ, tích đức hành thiện, ứng xử hài hòa giữa người với người, những triết lý
trong giáo lý Phật giáo trở thành những chuẩn mực, mô phạm điều chỉnh hành vi
của con người. Lễ hội, nghi lễ đóng góp cho văn hóa các hình thức diễn xướng. Phật
giáo cũng trở thành nguồn cảm hứng, sáng tạo của văn học nghệ thuật [12, tr.38-40].
Trong nền văn hóa Đại Việt thời Lê sơ yếu tố văn hóa Nho giáo làm chủ đạo,
Phật giáo không những vẫn hiện diện mà còn có vai trò rất đặc biệt. Tư liệu Hán
Nôm thời Lê sơ cho biết, Phật giáo thời kỳ này thể hiện vai trò quan trọng và ý
nghĩa trong cả hai lĩnh vực văn hóa vật thể và phi vật thể. Tư liệu Hán Nôm thời Lê
sơ chỉ ra hai phương diện cơ bản: thứ nhất về vai trò của cơ sở thờ tự Phật giáo
122
trong văn hóa vật thể thời Lê sơ; thứ hai về ảnh hưởng của Phật giáo trong nếp sống
của cá nhân, gia đình và cộng đồng thời Lê sơ.
Với tư liệu Hán Nôm ở cả bốn nguồn tư liệu chính là sử, luật, bi ký và văn
chương đều cho thấy rằng, cơ sở thờ tự và tu học Phật giáo có mặt khắp nơi trong
lãnh thổ Đại Việt thời Lê sơ, có quy mô từ quốc gia tới gia đình.
Ở cấp quốc gia, Đại Việt sử ký toàn thư [q.11] cho biết, cùng với những nghi
lễ Phật giáo được triều đình tổ chức, thì một số ngôi chùa nhà nước quy mô lớn
được xây dựng và trùng tu vào thời Lê sơ. Chẳng hạn, năm 1434 thời vua Lê Thái
Tông, làm chùa Báo Thiên và dựng xong các chùa Thanh Đàm và Chiêu Độ. Các
công trình này có nhiều hạng mục làm bằng gỗ. Vụ làm chùa Báo Thiên, công việc
thổ mộc quá nặng nề, cho nên mới xảy ra vụ chém đầu thợ mộc Cao sư Đãng vì lao
động khổ nhọc mà phát ngôn phạm thượng với vua. Còn chùa Thanh Đàm và Chiêu
Độ, mỗi chùa tới hơn 90 gian. So với chùa Phật nhà nước thời Trần thì có lẽ những
ngôi chùa này chưa phải là lớn, nhưng xét trong điều kiện đất nước vừa trải qua 20
năm chiến tranh tàn phá và điều kiện kinh tế khó khăn sau chiến tranh, thì những
ngôi chùa với quy mô như thế có vai trò đặc biệt quan trọng trong cả chính trị và
văn hóa.
Ở cấp địa phương, tư liệu bi ký thời Lê sơ cho biết khắp nơi trên lãnh thổ Đại
Việt nhiều ngôi chùa được xây dựng từ thời trước hoặc còn nền móng cũ được xây
dựng lại hoặc được trùng tu các hạng mục khác nhau. Theo ghi chép trong hơn 40
bi ký mà chúng tôi trình bày trong phần phụ lục, có ghi chép ít nhất 38 ngôi chùa
được trùng tu, xây dựng lại hoặc bổ sung những hạng mục còn thiếu trong thời kỳ
này. Trong đó, ở khu vực trong và ngoài kinh thành, ngoài chùa Báo Thiên, Thanh
Đàm, Chiêu Độ, còn có những ngôi tùng lâm nổi tiếng như chùa Nga Mi, phường
Hoàng Văn Thụ, quận Hoàng Mai, Hà Nội; chùa Đại Bi, nay là Kim Liên, làng
Nghi Tàm, phường Quảng An, quận Tây Hồ; chùa Thiên Phúc xã Thạch Lôi, huyện
Tùng Thiện tỉnh Sơn Tây, nay thuộc huyện Thạch Thất, .v.v. Bắc Giang được nhắc
tới với chùa Khám xã Khám Lạng huyện Lục Ngạn. Bắc Ninh được nhắc đến với
chùa Diên Khánh thôn Môn Ái, xã Lãng Ngâm, nay là thôn Hương Vinh, xã Hương
123
Vinh và chùa Đại Bi, xã Ngọc Xuyên, huyện Gia Bình. Khu vực Hải Dương có ngôi
thiền tự có bề dày lịch sử thờ phụng và tu tập như chùa Côn Sơn, huyện Chí Linh.
Hưng Yên nổi tiếng với chùa Hòa Lạc, xã Hành Lạc, huyện Văn Lâm. Hải Phòng
nổi tiếng có chùa Chuyết Sơn xã Cấp Tiến, huyện Tiên Lãng .v.v.
Cũng như Phật giáo thời Trần, qua tư liệu bi ký và văn chương, ở Đại Việt
thời Lê sơ vẫn tồn tại những ngôi danh lam cổ tự, từng là nguồn cảm hứng của văn
học thời Lý – Trần và tới thời Lê sơ lại tiếp tục là nguồn cảm hứng của những tác
phẩm thơ, ký và ngự chế. Trong số đó phải kể tới chùa Thầy (Sài Sơn tự), nay thuộc
huyện Quốc Oai, Hà Nội được Lê Thánh Tông miêu tả như một chốn lánh xa trần
tục, chỉ cần bước vào đó con người thấy mình thật thong dong, thấy trời đất và con
người hòa làm một (偶 因 乘 興 到 岩 前, 隱 步 雲 衢 上 坦 然. 鳥 語 喚 迎 松 下
客, 花 容 靜 對 洞 中 仙. 足 超 塵 世 三 天 界, 手 摘 星 辰 第 一 天. 試 掃 石 苔
描 此 景, 詩 成 筆 已 動 山 耑川)[84].
Chùa trên núi Côn Sơn (Chí Linh, Hải Dương) cũng đi vào thơ Lê Thánh
Tông như một lâu đài Tịnh Độ. Đây là chốn mà dù một ông vua khi bước vào cũng
cảm thấy chuyện thế sự trở nên không quan trọng nhất, thậm chí bối cảnh những
triều đại thay thế nhau cũng được đẩy ra xa như một bức tranh bên ngoài cổng chùa
vậy (凈 土 樓 臺 景 致 奇, 古 人 塵 蹟 甚 依 稀. 一 天 草 木 供 吟 賞, 四 顧 江 山
入 指 揮. 代 有 廢 興 今 亦 昔, 事 無 記 載 是 耶 非. 閒 中 自 有 閒 中 樂, 付 與
僧 童 意 自 知)[83].
Cũng ở Hải Dương, năm 1511, bi ký ghi lại sự kiện trùng tu chùa Minh Khánh,
xã Hương Đại, huyện Thanh Miện (thời Lê sơ là tu viện Đại Bi, xã Hương Đại,
huyện Thanh Hà, phủ Nam Sách) là nơi vua Trần Nhân Tông từng ở đó tu hành.
Trong chùa có thần vị đề là “Trúc Lâm Đại Phật Tĩnh Tuệ Giác Vương Điều Ngự”
(神位曰竹林大佛凈慧覺王調御主). Tác giả miêu tả chùa từng được mệnh danh là
Tiểu Tây Phương, xứng là thắng tích của một vùng. Nhưng trải qua chiến tranh binh
đao, chùa viện hư hoại nhiều. Tới năm 1511 được tu sửa lại trang hoàng, người
người hâm mộ (成之日人歆慕)[95].
124
Chùa Vô Vi, xã Long Châu, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây, nay thuộc xã
Phụng Châu, huyện Chương Mỹ, Hà Nội thời Trần “là một cổ tích vậy. Xưa kia có
Vô Vi Đại sĩ cùng gia thất quyên góp tiền của gia tư, phát lòng thành, lên núi Trác
Sơn dựng chùa thờ phật, rồi xuất gia tín phụng, sống trọn tuổi già ở đây” (古跡也
昔無為大士與其室內捐家貲發肯心登棹山造寶剎出家信奉終老于此). Trải qua
binh đao, chùa bị hủy hoại. Thời vua Lê Tương Dực, chùa được quan và dân đồng
lòng xây dựng lại, trở thành một danh lam cổ tự có “bậc bậc lên cao như thang mây,
mái cong cánh nguyệt, ngói lợp ken dày như vẩy cá, chân tảng vững chãi lưng rùa.
Trên tầng thứ nhất dựng một am nhỏ, trên tầng thứ hai xây một đại điện. Cửa song
sáng rạng rỡ ...” (層磴以梯雲揭飛龍異月鱗瓦星次鰲礎霧磨第一層峰起一 小
庵第二層峰構一大殿窗牖輝映岩谷玡青蓮飛香白毫放彩). Vì ở vị trí vô cùng
đẹp “phía trước phía sau nhà cửa xóm thôn la liệt. Bên phải bên trái có sông có núi
cảnh trí thanh u. Sông Đàm chảy vòng về phía Đông, uốn quanh ôm núi Tam Thần
vào chính giữa. Núi Tử Cực sừng sững phía Bắc thu gọn mây ngũ sắc vào trong tầm
nhìn. Liếc sang bên Tây, núi Tiên Sơn xa xa tựa như rồng cuộn, trông về phía Nam
suối Phương Tuyền lóng lánh như ngọc nữ treo gương. Sản vật tốt tươi, địa linh
nhân kiệt, bốn bề phẳng lặng, chẳng nhuốm bụi trần” (况甲宅乙第村羅列左山右
水景政詡 清幛川繞其東宛然三神山中央也紫極峙其北概然五色雲在目也眄其
西仙山迢迢有如真龍之盤地望其南芳泉濯濯有如玉女之捧鏡物華星寶人傑地
靈四顧朗平纖塵不宛) cho nên chùa trở thành nơi “hội tinh anh của Tam giới, tụ
phúc thọ của thập phương. Chùa cao ngang núi, núi thiêng cùng Phật” (簇三界之精
英萃十方之福壽寺與山齊屹山與佛)[98].
Chùa Hạ ở kinh thành Thăng Long cũng được xây dựng từ triều trước, là đất
tư phúc, nhưng đã bị đổ nát, tượng Phật hư hại (夏 寺 自 前 朝 建 立 以 為 資 福
之 地 毀 于 頹 弊 佛 相 [] 容). Đầu thời Lê sơ, “các sãi vãi cùng nhau quyên góp
ngói gạch, tu sửa lại, lập bia đá. Sơn môn tráng lệ, hết thảy mới mẻ, đẹp đẽ.” (同 列
社 士 娓 [][]心 乃 拾 瓦 竹 鳩 材 召 工 乃 廢 興 修 建 立 石 碑. 山 門 壯 觀 為
125
之 一 新 功 未 就 緒 而 公 相 館 矣). Cuối thời Lê sơ, chùa được nhân dân xây
dựng thêm phòng tăng và hành lang khiến cho khuôn viên sinh hoạt đầy đủ hơn và
khang trang hơn[93].
Chùa Đại Bi, xã Ngọc Xuyên, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh “quy mô vốn rất
tráng lệ, rộng lớn. Chùa được xây dựng từ thời Lý - Trần, dấu tích đến nay đã hơn
trăm năm. Tuy đã trải qua nạn binh đao, nhưng không hề mất mát, nguyên khí lại về,
lân tượng còn đó, bách linh phù trì, đợi thời ấy vậy.” Đến năm 1490 được “xây
dựng điện Phật, tô tượng Phật, gác báu. Tu sửa hết thảy mới tươi, tráng lệ. Mọi
người đến chiêm ngưỡng, nhìn vào, thấy công thợ tô vẽ, nét chạm trổ tinh xảo, vô
cùng tinh tế.” (佛 殿 講 堂 金 身 寶 閣 一 發 重 新 壯 觀 人 天 玄 耀 眾 目 繪 盡
丹 鎪之 工 效 技 翰 巧 極 其 精 緻 竣) [80].
Đặc biệt, thời Lê sơ có những ngôi chùa đã bị hư hoại ít nhiều qua chiến tranh
nhưng lại dung chứa những nhà sư đạo hạnh thâm hậu, nói cách khác, chùa Phật dù
đơn sơ nhưng mang sức sống của sự tu hành và sinh hoạt Phật giáo. Chùa Quang
Khánh những năm 1465 khi Lê Thánh Tông về thăm vẫn trong trạng thái “nhà cửa
chốn kê điền đã nửa phần đổ nát” (雞 田 棟 宇 半 推 頹). Ấy vậy mà đối với tăng sĩ
Phật giáo “trong biển đại giác thày dễ vượt qua” (大 覺 海 中 君 易 度), nhưng lại
là nơi khiến cho vua Lê Thánh Tông – một “người khách cúi đầu trong vòng phải
trái nay chợt ngộ ra” (猛 省 是 非 低 首 客)[70].
Ở các địa phương, đặc biệt là vùng núi cao vẫn tồn tại những ngôi chùa cũ,
hoang phế đồ nát phần vì chiến tranh, phần vì thời gian. Chùa trên núi Dục Thúy
tỉnh Ninh Bình năm 1467 là một ngôi chùa hoang (廢寺) năm ở nơi “Lên đến tầng
cao, chợt thấy mây nước bao la. Cảnh núi non vẫn vẹn như cũ, không hề thay
đổi[71]. Chùa Sùng Thiện Diên Linh trên núi Long Đọi, huyện Duy Tiên tỉnh Hà
Nam đổ nát, hoang phế vào những năm 1467 “Bọn giặc Minh hung tàn, ngôi chùa
đã đổi thay. Đường ít dấu chân người, rêu biếc phủ kín” (明 寇 凶 殘 寺 已 更. 路
少 人 蹤 苔 甲 緣)[72]. Chùa trong động Bạch Ác (còn gọi là Bạch Á) thuộc xã
Nga Thiện, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa những năm 1477, khi Thiên Nam động
126
chủ Lê Thánh Tông về thăm là một ngôi “Chùa cổ hang mây như khóa kín mịt
mùng” (雲 鎖 岩 扃 老 梵 宮) nằm giữa “Ngàn ngọn núi xanh biếc tựa vào tầng
không” (千 山 騰 翠 倚 層 空). Ông phải thốt lên rằng: “Cảm tạ Oa Hoàng để dành
chỗ đẹp này, để ta có nơi khắc lại công lao trị bình” (謾 說 媧 皇 留 未 用, 好 將 勒
我 治 平 功)[75]. Chùa Sùng Khánh Thọ Ích, tổng Vũ Điện, huyện Nam Xương,
phủ Lý Nhân, nay thuộc tỉnh Hà Nam “từ xưa đến nay (1525) vốn rất linh ứng, bốn
mùa đèn nhang, cúng lễ không quên. Người dân trong ấp ơn nhờ âm phù. Nhưng vì
lâu ngày vật đổi sao dời, mưa nắng dãi dầm, tường xiêu mái dột”. Tới năm Thống
Nguyên thứ tư (1525) chùa được sửa sang cảnh quan, tạo tượng, đúc chuông, trở
nên “hết thảy như thấy trời mở tịnh độ, đất cách phàm trần, ngói phô sắc mới, góc
mái đuôi phượng, sen vàng lộng lẫy, lớp lớp bảo tòa, khói hương ngào ngạt, đẹp đẽ
như lâu đài nơi Thiên Trúc vậy. Lại có chuông đồng vang xa tiếng kình, tháp nhạn
lưu danh đón khách đến giáo huấn. Cảnh sắc thật thi vị, thanh tịnh làm sao, chẳng
khác gì lâu đài Phượng Dực thời Đường” (殆見天開凈土地隔凡塵鵷瓦鋪鸞牙簷
矯鳳金蓮塵鶖,層層寶鴨香浮梟裊,苑然天竺之樓臺也。亦有鐘 吼畢鯨茶舊宿,鶴
塔媒客興名來偉訓之題樓起僧銜卷遇宣宗之奪.這般風味清何如耶。視其梁之
同泰唐之鳳翊等岑樓寸木也)[102].v.v. Nhìn chung, ở phương diện vật thể, Phật
giáo vẫn thể hiện một vai trò quan trọng bởi các ngôi chùa đều là những không gian
thờ cúng và thưởng ngoạn phong cảnh được lựa chọn và đầu tư xây dựng có quy mô
nhất, có bề dày lịch sử nhất ở thời Lê sơ. Việc những không gian Phật giáo như thế
được các vị vua quan tôn tạo, thăm viếng và ngợi ca chắc chắc có tác động sâu sắc
đến quần chúng nhân dân.
4.3. Ảnh hƣởng của Phật giáo trong lối sống của ngƣời thời Lê sơ qua tƣ liệu
Hán Nôm
Về nếp sống, tư liệu Hán Nôm cho thấy thời Lê sơ Phật giáo đã thể hiện vai
trò cả trực tiếp và gián tiếp. Chúng ta biết rằng, giá trị đạo đức được đan xen vào kết
cấu giáo lý của Phật giáo, và không có tông phái Phật giáo chính thống nào không
nhấn mạnh về tầm quan trọng của đời sống đạo đức. Cốt lõi này được tạo bởi những
127
nguyên lý và giới luật, giá trị và phẩm hạnh được Phật giải nghĩa và dẫn dắt hành vi
của người sở hữu niềm tin Phật giáo. Những lời dạy cơ bản đó là nhân duyên nghiệp
báo, nhẫn nại, bố thí, giữ giới, tri túc .v.v. Trong nếp sống thời Lê sơ, bên cạnh
những giá trị đạo đức Nho giáo, còn hiện diện những giá trị Phật giáo thấm vào nếp
sống của cá nhân, gia đình và cộng đồng. Ở phần này, luận án tùy vào sử liệu trong
tư liệu Hán Nôm mà trình bày về 3 nếp sống có ảnh hưởng Phật giáo theo ba tư
cách khác nhau: Thứ nhất, tự thân cá nhân tiếp nhận giáo lý và thực hành, sau khi
có kinh nghiệm thì truyền dạy cho người đời và cho con cháu; Thứ hai, Việc thực
hành Phật giáo trong gia đình như là một cách để con cháu tiếp nối truyền thống của
ông cha, người vợ làm tiếp những việc thiện của người chồng.
Với tư cách Thứ nhất, thời Lê sơ có thể có nhiều, nhưng tư liệu Hán Nôm thời
Lê sơ cho thấy hai hiện tượng nổi bật, đó là Nguyễn Trãi và Hoàng Thái Hậu Ngô
Thị Ngọc Dao và một số vị quan lại khác.
Về hiện tượng Nguyễn Trãi, chúng ta biết đến ông thường với tư cách là nhà
chính trị lỗi lạc, nhà văn hóa lớn để lại cho đời những thành tựu bất hủ. Nhưng
chúng ta chưa biết rằng, trong những di sản Nguyễn Trãi để lại có những bài học
thấm nhuần niềm tin và thực hành Phật giáo. Tư liệu văn chương thời Lê sơ đã cho
thấy một Nguyễn Trãi tích cực học hỏi, nghiên cứu giáo lý, tự mình thực tập thiền
định, thiền quán và đã có sự giác ngộ mức độ nhất định về mặt bản thể và hiện
tượng của thế giới như giáo lý Phật giáo trình bày. Tuy nhiên, ông không theo tinh
thần rốt ráo theo kiểu Thiền tông là không để lại dấu vết gì cho đời, mà ông ghi lại
những gì mình đã kinh nghiệm bằng những tác phẩm viết bằng chữ Nôm để phổ
biến về những giá trị đạo đức Phật giáo đó cho người đương thời và cho con cháu.
Với Bảo kính cảnh giới (bài thơ số 49) Nguyễn Trãi khuyên con người không nói
điều tổn hại đến mình và mọi người mọi loài. Đây cũng là phòng hộ về khẩu nghiệp,
nhẫn nại để bảo tồn năng lượng, tránh tạo ra những nghiệp bất thiện từ lời nói:
“Việc ngoài hương đảng chớ đôi co, Thấy kẻ yên hùng hãy dịn cho.
Dợ nọ có dùi nào có dứt, Cây kia toan đắn lại toan đo.
Chớ đua huyết khí nên hận, Làm trật lòng người những lo.
128
Hễ kẻ làm khôn thì phải khó, Chẳng bằng vô sự ngáy pho pho.”[13, tr.457]
Vô sự ở đây là nói về trạng thái của tâm không phản ứng, không sân hận,
không tham ái khi tiếp xúc với bối cảnh thực tại. Sự dịn (nhịn, nhẫn nại) từ người vô
sự vì thế không phải là đè nén cảm xúc khó chịu, mà sự nhẫn nhịn được bộc lộ từ sự
hiểu biết về đôi co bắt nguồn từ tâm tham và sân. Những lời nói ra với tham và sân
là lời nói không đúng đắn (không chính ngữ). Đôi co vì thế thuộc về nghiệp bất
thiện và nó làm tổn hại tới khí huyết cũng như hòa ái của cả hai bên. Trong bài Giới
nộ, Nguyễn Trãi nói về sự giận dữ (sân):
“Chận (giận) làm chi tổn khí hòa, Nào từng hữu ích nhọc mình ta.
Nẻo đua khí huyết quên nhân nghĩa, Hòa thất nhân tâm nát cửa nhà.
Mấy phút om thòm đường tích lịch, Một cơn lừng lẫy tựa phong ba.
Đến khi tịch mới ăn năn lại, Dịn xong thì mọi sự qua.” [13, tr.459]
Nếu ở bài trên Nguyễn Trãi khuyên người ta không nên đôi co ở ngoài gia
đình, thì ở bài này Nguyễn Trãi khuyên người ta không nhẫn nhịn trong gia đình.
Sự phản ứng của tâm theo chiều giận dữ, sân hận luôn tác động trực tiếp tới thân thể.
Cơn giận xuất hiện, khí huyết tăng áp suất, thân nhiệt tăng mạnh, làm cho tâm trí rối
loạn, tạo ra xu hướng muốn bộc lộ thành lời nói với nội dung không còn chính xác
và âm sắc, giọng điệu tiêu cực và cường độ cao, có tính sát thương vô hình. Nhưng
sự phản ứng của tâm cũng luôn vô thường, cảm xúc (thọ) dù tiêu cực hay tích cực
khi tới ngưỡng thì tự giảm đi. Do đó, sự dịn (nhẫn nhịn) là một phương cách thiết
yếu để giữ giới không nói điều sai trái, tránh được nghiệp bất thiện do lời nói đưa
tới, đồng thời bảo hộ sự quân bình thân tâm và hòa khí trong gia đình.
Cũng trong Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi sáng tác bài Giới sắc:
“Sắc là giặc, đam làm chi, Khưở trọng còn phong có khưở suy.
Trụ trật quốc gia vì Đát Kỷ, Ngô lìa thiên hạ bởi Tây Thi.
Bại tan gia thất đời từng ấy, Tổn hại tinh thần sự ích chi.
Phu phụ đạo thường chăng được chớ, Nối tông hòa phải một đôi khi.” [13,
tr.459]. Giới sắc ở đây được hiểu là giới tà dâm. Giới dâm dành cho tăng sĩ Phật
giáo thì không có chính hay tà, ở người sở hữu niềm tin Phật giáo tại gia thì có
129
chính có tà. Ở đây nhắc tới vợ chồng (phu phụ), vì thế giới dâm ở đây dành cho
người tại gia. Nếu như phẫn nộ làm tổn hại về khí, thì đam mê sắc dục (tà dâm) làm
tổn hại đến tinh và thần. Cả hai đều có thể làm cho bản thân tổn hại tinh, khí, thần
và khiến cho tan cửa nát nhà.
Tuy nhiên, con người không chỉ tham trong vấn đề tình dục tình cảm, con
người còn tham với đời sống vật chất (ăn, ở, mặc). Vì thế, Nguyễn Trãi cũng có bài
thơ khuyên về sự biết đủ (tri túc) để đối trị với tâm tham của con người, đó là bài
Huấn nam tử:
“Nhắn bảo phô bay đạo cái con, Nghe lượm lấy lọ chi đòn
Xa hoa lơ lửng nhiều hay hết, Hà tiện đâu đang ít hãy còn.
Áo mặc miễn là cho ấm cật, Cơm ăn chẳng lọ kén mùi ngon.
Xưa đà có câu truyền bảo: “Làm biếng hay ăn lở non”. [13, tr.459]
Bản thân sự biết đủ về tình cảm, tình dục và vật chất có liên hệ với tất cả 5
giới cơ bản theo giáo lý Phật giáo. Điều đặc biệt là mặc dù truyền đạt nội dung thể
hiện giá trị đạo đức Phật giáo, Nguyễn Trãi không sử dụng thuật ngữ Phật học mà
dùng từ ngữ Nho học nghiêng về bình dân, ví dụ ông dùng “giới sắc” thay cho “giới
tà dâm”, “giới nộ” thay cho “giới không sân hận”, “huấn tử nam” (dạy bảo con trai)
thay cho “tri túc”... Nguyễn Trãi hiểu rõ rằng, khi trình bày những giá trị đạo đức
của Phật giáo bằng ngôn ngữ hòa hợp với hệ tư tưởng có ảnh hưởng đương thời
chắc chắn đã giúp thêm cho sự lan tỏa của những giá trị này ở đương thời và về sau.
Về hiện tượng bà Ngô Thị Ngọc Dao, xét về chính trị thì Bà là cố vấn về mặt
tư tưởng, nhưng xét về nếp sống trong gia đình thì Bà có vai trò là người Mẹ, người
Bà khêu lên và duy trì ngọn lửa tinh thần, tạo dựng một nếp sống thiện lành cho gia
đình từ sở hữu niềm tin Phật giáo. Ở đây, chúng tôi muốn nói thêm rằng, qua bi ký
Khôn Nguyên chí đức chi lăng [86] thì xung quanh Bà Ngọc Dao không chỉ có
những vị vua lãnh đạo nhà nước là chồng, con trai và cháu trai của Bà, mà còn một
cộng đồng những hoàng thân quốc thích và những ai bà liên hệ, giao tiếp nhiều. Bà
không chỉ tiếp nhận, thực hành, trải nghiệm giáo lý Phật giáo mà còn làm lan tỏa
những giá trị đạo đức vào cộng đồng. Việc bà được tôn làm Phật sống là kết quả
của một nếp sống thuần thành và sâu dày theo tinh thần cốt lõi của Phật giáo.
130
Về hiện tượng quan lại thực hành Phật giáo làm gương cho đời sau, chúng tôi
đã tìm thấy những sự kiện trong tư liệu bi ký thời Lê sơ. Năm 1490, khi việc tôn tạo
chùa Đại Bi xã Ngọc Xuyên, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh “đã xong xuôi, mọi
người bảo tôi ghi lại. Tôi mong được báo đáp, nhưng nếu không có bài văn khắc
vào bia thì khó để lại lâu dài, bất hủ. Tôi vốn cũng có mong muốn đó, nếu không
làm rõ ra, thì những việc thiện khó có minh chứng cho đời sau. Hơn nữa, xét về đạo,
thì phải đợi người có tâm chí để mở rộng vậy.” (事 既人 謂 吾 願 雖 酬 而 無 文
勒 諸 碑 以 壽不 朽 則 吾 之 素 志 無 以 明 白 後 來 之 善 繼 無 以 憑 籍 且 道
審 器 待 人 而 弘 未 嘗 不 相 對 待 也)[80]. Qua đây, chúng ta thấy ý chí tạo dựng
bi ký với những lời ghi chép về một sự kiện tôn tạo cơ sở thờ tự Phật giáo vốn đã
thuộc về chủ thể tôn tạo, đồng thời cũng được người biên soạn (cụ thể là một trí
thức Nho học) đồng thuận. Việc thực hành tạo dựng vốn đã có chủ đích làm gương,
nhưng việc văn bản hóa của tác giả bi ký thêm một lần nữa dựng cái gương ấy cho
người đời và đời sau bằng một phiến đá có thể lưu trữ nhiều trăm năm.
Cũng với tư cách ấy, trường hợp vị quan võ Thanh Hoa Đô Tổng binh sứ, Ty
Tổng binh Thiêm sự, Trì Uy Tướng quân tôn tạo cơ sở thờ tự Phật giáo 1496 cũng
là một trường hợp đặc biệt. Ông và các con trai, con gái đều là những trí thức Nho
học, ra làm quan cho triều đình Lê sơ. Bản thân ông đi làm quan xa quê, nhưng cuối
đời trở về quê xây dựng chùa Phật. Nói theo Tiến sĩ Nguyễn Quang Bật – tác giả
soạn bi ký tại chùa thì việc dựng chùa là một trong nhiều việc thiện của ông:
“Người làm điều thiện, tất được điều lành, ấy là bởi trời giúp thần trợ, nên được
hưởng nhiều phúc thọ. Ngài mất đi công đức được khắc vào đá cứng lưu truyền mãi
mãi” (作善降祥是以天佑之神相之克享多福壽考令終宜勒貞以傳不朽)[91].
Xét về đời sống tâm linh thì do ông xét thấy mình được cha mẹ đi cầu tự mới sinh
ra ông, cho nên ông làm những việc thiện đó. Dù nhìn ở góc độ nào cũng thấy rằng,
việc dựng chùa của ông chứng tỏ trong tâm thức của ông, Phật giáo có ảnh hưởng
hết sức đặc biệt. Nếu không phải vì ông tin thờ Phật thì ông cũng thấy ngôi chùa
Phật có vai trò rất quan trọng với đời sống tinh thần của cộng đồng trong xã Hành
Lạc – nơi ông sống những năm cuối đời.
131
Với tư cách thứ hai, thời Lê sơ có nhiều người là con cháu tiếp nối truyền
thống thực hành Phật giáo theo ông cha. Ngay trong những quan hệ cha ông thực
hành Phật giáo làm gương cho con cháu đã có hiện tượng con cháu nối triếp cha
ông thực hành Phật giáo. Nối tiếp Lê Thái Tông là Lê Nhân Tông thực hành nghi lễ
Phật giáo cấp quốc gia. Bản thân thực hành Phật giáo của Nguyễn Trãi cũng là sự
nối tiếp những thực hành Phật giáo của ông ngoại Trần Nguyên Đán ở chùa Côn
Sơn trước đó. Nối tiếp Hoàng Thái Hậu Ngô Thị Ngọc Dao là Lê Thánh Tông và Lê
Hiến Tông nghiên cứu và ứng dụng giáo lý Phật giáo vào đời sống thực tại. Ở cấp
địa phương dưới thời Lê sơ, người ta có thể thấy những hiện tượng như huyện thừa
huyện Đại An, phủ Kiến Hưng năm 1491 hưng công đem cúng của nhà, mua gỗ
thuê thợ, khắc tô tượng Phật thân cao sáu trượng cho chùa Chuyết Sơn, xã Cấp Tiến,
huyện Tiên Lãng, Hải Phòng, dấy lên việc thờ Phật là bởi vì từ thời Trần ông nội
của ông là “Quản Lão Tử vân du vãn cảnh, sau cho dựng tháp, mở rộng ngôi chùa
này” (陳為管老子郎閑遊後造浮屠廣開寺). Người soạn bài ký nhận xét: “Công
đức cha ông và người làng được rõ ràng, đạo Phật truyền bá ngày càng sáng tỏ” (前
人之業益彰佛事之傳光顯). Thực hành Phật giáo truyền từ thế hệ này sang thế hệ
sau theo nguồn mạch “Giáo lý nhà Phật lưu truyền nghìn năm, tỏ rõ ý nghĩa từ ông
đến cháu” (佛氏之教流億斯年, 能明厥義 性祖及孫)[81]. Việc này không chỉ
được thực hiện bởi niềm tin tôn giáo của cá nhân, mà còn được thực hiện bởi ý chí
về một sự tiếp nối truyền thống, bồi đắp theo công đức của ông cha, và làm gương
sáng và vun bồi nếp sống gia đình, dòng tộc cho đời sau.
Với tư cách thứ ba, tư liệu Hán Nôm thời Lê sơ cũng cho thấy những người vợ
thực hành Phật giáo theo gương chồng. Trong những bi ký hưng công tu sửa, tôn
tạo cơ sở thờ tự Phật giáo thời Lê sơ, chúng ta thường thấy tên tuổi của những gia
đình trong danh sách người đóng góp. Tuy nhiên, thời Lê sơ có những người vợ
được đặc biệt nhắc tới như những tấm gương tiêu biểu cho việc những người vợ
thực hành Phật giáo tiếp nối theo chồng. Bi ký chùa Đại Bi, nay là Kim Liên, làng
Nghi Tàm, phường Quảng An, quận Tây Hồ, Hà Nội ghi về sự kiện năm 1441:
“Chùa Đại Bi được xây dựng từ triều trước, làm thành đất phúc, nhưng đã bị hủy
132
hoại bởi binh đao Ông quyên góp ngói gạch, mời thợ tu sửa lại, rồi đúc chuông lớn
và dựng lầu chuông, nhà bia. Sơn môn tráng lệ, hết thảy mới mẻ, đẹp đẽ. Đến năm
Tân Dậu (1441), phu nhân ông là bà Trinh nhân Lê Thị Ngọc Biểu lo chưa tròn quả
thiện, sợ không làm được khi về nơi cửu tuyền. Vì thế mà bà lại quyên tiền của gia
tư, sửa chữa tăng phòng, hành lang thật hoàn hảo. Lại dựng đạo tràng để làm lễ lạc
thành, đã dựng bia, nhưng chưa có minh văn.”( 大 悲 寺 自 前 朝 含 葺 刱 進 以
為 資 福 之 地 毀 于 兵 蠡 佛 相 頹 弊 . 乃 拾 瓦 竹 鳩 材召 工 百 廢興 修 并 鑄
洪 鍾 建 立 鍾 碑 山 門 壯 觀 為 之 一 新 功 未 就 緒 而 公 相 館 矣.至 辛 酉 年
其 夫 人 貞 人 黎 氏 玉 表 閔 善 果 之 未 間 慨 九 原 之 不 作 又 捐 家 貲 嗣 葺
僧 房 輪 奐 完 美 不 贊 前 功 又 崇 建 慶 讚 道 場 以 落 廠). Hoặc trường hợp bà
Trinh nhân Lê Thị Ngọc Biểu đã nêu gương tốt đẹp trên đời về việc việc người vợ
thấy gương chồng con mà thành vợ hiền kế nối công đức, bằng cách hưng công xây
dựng chùa Đại Bi [61].
Như vậy, trong lĩnh vực văn hóa phi vật thể thời Lê sơ, tư liệu Hán Nôm cho
thấy Phật giáo thời Lê sơ thể hiện vai trò quan trọng trong nếp sống của nhiều cá
nhân. Tuy nhiên, các cá nhân đó không sở hữu niềm tin và thực hành Phật giáo với
ý chí độc lập. Họ luôn gửi gắm vào những thực hành đó ý nghĩa đạo đức trong quan
hệ gia đình hoặc giữa các thế hệ. Một khi họ đã sở hữu niềm tin Phật giáo trong tâm
thức, thì chỉ với một hành vi Phật giáo như tu tuệ (qua nghiên cứu, học hỏi giáo lý,
tu tập, thực hành thiền) hay tu phúc qua tạo dựng cơ sở thờ tự, bố thí .v.v. một cá
nhân thời Lê sơ có thể vừa đáp ứng nhu cầu quân bình thân tâm của bản thân, vừa
có thể thỏa mãn sự gắn kết gia đình, giữa các thế hệ. Đó cũng chính là cách Phật
giáo có thể chảy từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ thời Lý – Trần sang thời Lê sơ
và từ Lê sơ sang thời đại sau, mà không dễ gì bị ngắt mạch bởi sự hưng phế của các
triều đại cũng như sự thay đổi tư tưởng chủ đạo của Nhà nước.
4.4. Ảnh hƣởng của Phật giáo trong đời sống tôn giáo, tín ngƣỡng thời Lê sơ
qua tƣ liệu Hán Nôm
Trong tư liệu Hán Nôm thời Lê sơ hiếm thấy có những trường hợp chỉ tin thờ
Phật giáo như Thái phó Lê Văn Linh[78], mà chủ yếu là bên cạnh niềm tin vào Phật
133
giáo, cộng đồng Phật giáo còn sở hữu niềm tin vào tín ngưỡng, tôn giáo khác. Theo
khảo sát từ các nguồn từ liệu Hán Nôm, chúng tôi thấy có hai hiện tượng cơ bản:
Phật giáo trong tâm thức sở hữu niềm tin “tam giáo tịnh hành” và Phật giáo trong
tâm thức có sở hữu niềm tin vào tín ngưỡng bản địa.
4.4.1. Phật giáo trong đời sống tam giáo thời Lê sơ qua tư liệu Hán Nôm
Ở đây, chúng tôi không bàn về Tam giáo như là các truyền thống tôn giáo có
tính tách rời và biệt lập. Tam giáo ở đây được hiểu như một tổng thể tư tưởng, triết
lý, thế giới quan, nhân sinh quan, và lối ứng xử với các vấn đề phát sinh trong cuộc
sống. Mỗi người Việt Nam, như một số nghiên cứu đã chỉ ra (Cadiere;
Condominas), có thể đồng thời khai thác hay sử dụng những thành tố nhất định của
từng truyền thống này mà không có sự phân biệt dứt khoát rành mạch về sự tuân
thuộc. Họ có thể linh động sử dụng các triết thuyết cũng như phương diện của các
truyền thống này mà không có sự mâu thuẫn hay loại trừ. Tư liệu Hán Nôm thời Lê
sơ cho chúng tôi thấy hai phạm vi: Thứ nhất là ảnh hưởng của Phật giáo trong tư
tưởng của triều đình Lê sơ; Thứ hai là ảnh hưởng của Phật giáo trong phạm vi tâm
thức cá nhân.
Trong phạm vi thứ nhất – tư tưởng “Tam giáo tịnh hành” của triều đình Lê sơ,
chúng tôi đã đề cập tới một phần trong mục [4.1]. Ở đây, chúng tôi muốn nhấn
mạnh thêm rằng, ngay từ đầu thời Lê sơ, Nho giáo đã được lựa chọn là tư tưởng chủ
đạo trong quản trị quốc gia, Đạo giáo cũng đã hiện diện ở Đại Việt từ trước đó một
thời gian dài. Toàn bộ khung chính trị - pháp lý, cơ cấu đều theo chế định từ tư
tưởng Nho giáo. Ở chốn triều đình hoàn toàn không có bóng dáng của các vị quốc
sư, trong khi đó Nho sĩ được cơ cấu hầu khắp các bộ từ trung ương tới địa phương.
Nhưng khi đất nước có những sự kiện bất ngờ như thiên tai, địch họa ở thời Lê Thái
Tổ, Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông thì triều đình tìm đến với phương tiện nghi lễ của
Phật giáo như một biện pháp cần kíp nhất. Câu hỏi đặt ra là: nhà Lê sơ trọng dụng
Nho giáo, hạn chế Phật giáo và Đạo giáo như nhiều nhà nghiên cứu nhận định, thì
tại sao triều đình lại sử dụng nghi lễ liên quan tới Phật giáo như vậy? Khả năng cao
là trong giai đoạn đầu khi chính trị và kinh tế chưa ổn định, nghi lễ và tăng sĩ Phật
134
giáo có sức thuyết phục hơn Nho giáo và Đạo giáo trong niềm tin của họ. Bản thân
Nho giáo, Đạo giáo cũng như phương cách của Nho giáo, Đạo giáo ở Đại Việt giai
đoạn này không đủ sức thuyết phục trong những tình huống cấp thiết như vậy.
Trên bình diện chính sách Nhà nước về quản lý tôn giáo, trong sự kiện triều
đình Lê Thánh Tông trị vì cho ban hành Quốc triều hình luật năm 1460 với nhiều
điều luật liên quan cùng lúc tới Phật giáo và Đạo giáo, chúng tôi thấy rằng triều
đình đặt ra sát hạch tăng sĩ có thể hạn chế số lượng tăng sĩ, nhưng cũng thanh lọc
những thành phần không đủ trình độ về thế học cũng như Phật học ra khỏi cộng
đồng tăng sĩ Phật giáo. Từ góc độ này, chúng tôi cho rằng triều đình đã gián tiếp
nâng cao niềm tin của cộng đồng vào Tăng sĩ Phật giáo sau khi họ đã trải qua sát
hạch và đánh giá cao vai trò của tăng sĩ Phật giáo trong xã hội. Một vị tăng sĩ có
phạm hạnh, có trình độ Phật học cũng có nghĩa là ngoài học hỏi (văn), suy ngẫm (tư)
họ phải có thực hành (tu) chuẩn chỉnh. Với chừng phẩm chất từ giới học, định học
và tuệ học, vị đó đã tham gia vào nguồn mạch chính đưa triết thuyết, giáo lý Phật
giáo chân chính lưu truyền và lan tỏa. Một vi tăng sĩ có trình độ học vấn của thế
gian như triết thuyết của Nho giáo và những phương diện khác cũng đồng nghĩa với
việc vị đó có đủ phương tiện để nhập thế, để trở thành một điểm tựa tinh thần, gỡ
rối những khó khăn về tâm lý, tinh thần cho người khác và cho cộng đồng. Chính
họ là những người có vai trò đặc biệt quan trọng giúp quân bình trong tâm thức của
cá nhân và cộng đồng. Mặt khác, chúng ta thấy bên cạnh những điều luật về thanh
lọc tăng sĩ, Quốc triều hình luật còn có những điều luật về điều chỉnh việc xây dựng
và bảo vệ cơ sở thờ tự, kinh sách Phật giáo (điều 6, 11, 18, 23, 79). Nếu không thấy
cơ sở thờ tự Phật giáo và kinh sách Phật giáo không thực sự có vai trò quan trọng
đối với cộng đồng thì triều đình không càn phải ban hành những điều khoản đó.
Trong phạm vi thứ hai – tâm thức cá nhân thời Lê sơ, chúng tôi thấy trong tâm
thức rất nhiều người từ vua, quan tới người bình dân cùng lúc sở hữu cả ba niềm tin
Nho – Phật – Đạo. Tùy vào từng bối cảnh, phương diện của đời sống họ thực hiện
hành vi theo chỉ đạo của niềm tin nào. Điều đáng chú ý nhất là tâm thức những vị
vua thời Lê sơ. Họ ở vị trí lãnh đạo triều đình điều hành đất nước dựa trên chế độ
135
chính trị - pháp lý theo tư tưởng Nho giáo. Hay nói cách khác, Nho giáo sẽ phát huy
vai trò của nó mạnh mẽ trong việc lo toan triều chính. Bên cạnh đó, tên hiệu của họ
mang đặc trưng của những chủ thể thực hành Đạo giáo: Lê Thái Tổ hiệu là Lam Sơn
động chủ ([78], q.10, tr.73b); Lê Thái Tông hiệu là Quế Lâm động chủ (ĐVSKTT,
q.11, tr.1b); Lê Thánh Tông là Thiên Nam động chủ (ĐVSKTT, q.12, tr.2a); Lê
Hiến Tông là Thượng Dương động chủ (ĐVSKTT, q.14, tr.1b) .v.v. Khi sáng tác
thơ phú, văn chương, họ sử dụng tên hiệu này. Trong những tác phẩm văn chương
của họ, những ngôn từ mang phong thái tiêu dao, tự tại cũng được sử dụng rất nhiều.
Dường như với những vị vua này, yếu tố Đạo giáo đậm hơn ở phần làm cho tinh
thần buông thư sau những lo toan triều chính. Trong khi đó, yếu tố Phật giáo lại đặc
biệt quan trọng trong phạm vi an ninh tinh thần và đáp ứng nhu cầu hiểu biết chính
mình của họ. Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông đều tìm đến với nghi lễ Phật giáo trong
những tình huống cấp thiết hoặc đặc biệt quan trọng như đã nói ở trên. Lê Thánh
Tông, Lê Hiến Tông, Lê Tương Dực đều tìm đến với Phật giáo với nhu cầu để hiểu
về một Phật giáo nguyên bản, muốn hiểu rõ con đường giác ngộ cũng như ứng dụng
giáo lý đó trong đời sống thực tại. Theo xu hướng này, cũng có những vị đại thần
như Lê Khắc Phục lấy hiệu là Thao Sơn động sĩ nhưng có cảm hứng với Phật giáo
mà đặt tên là Suối Bát Nhã (般若泉) [66].
Như trong phần [3.3.3], chúng ta thấy trong tâm thức nhiều vị quan lại thời Lê
sơ có hiện diện của niềm tin Phật giáo. Điều đáng nói là, trong tâm thức của họ
cũng đồng thời hiện diện niềm tin của Nho giáo hoặc cả Nho giáo và Đạo giáo,
chẳng hạn như Nguyễn Trãi, Lương Thế Vinh và một số vị trí thức khác. Khi
Nguyễn Trãi còn làm quan, chính sử không hề ghi về những sự kiện ông có liên
quan tới Phật giáo, nhưng với tư liệu văn chương, chúng ta lại thấy xuất hiện rất
nhiều những nội dung giáo lý Phật giáo và thực hành Phật giáo của ông. Trong Ức
Trai di tập của Nguyễn Trãi, màu sắc Nho – Phật – Đạo hòa trộn một cách khó
phân biệt. Ngoài cái lõi chung căn bản của 3 triết thuyết này là “thiện” thì còn có
những cặp phạm trù tương ứng. Ví dụ: trách nhiệm với quốc gia của một Nguyễn
Trãi theo Nho giáo cũng tương đồng với ơn quốc gia trong tứ ân của Phật giáo; cái
136
thong dong tự tại của Đạo giáo cũng tương đồng với an lạc của Phật giáo; xuất xử
của một Nho sĩ đôi khi tương ứng với tùy duyên thuận pháp của Phật giáo và thuận
theo tự nhiên của Lão Trang. Chính những yếu tố tương đồng này đã khiến cho màu
sắc Tam giáo rất khó tách bạch trong Nguyễn Trãi. Thậm chí, trong những bài thơ
khuyên răn người đời và con cháu như mục [4.2.2] chúng tôi đã trình bày thì nội
dung là giới luật là giáo lý Phật giáo nhưng Nguyễn Trãi diễn giải bằng điển tích
của Nho giáo, với ngôn từ mang màu sắc Nho giáo. Điều đáng chú ý là yếu tố Nho
giáo giúp Nguyễn Trãi hoàn thành được trách nhiệm của mình với quốc gia, dân tộc,
yếu tố tư tưởng Lão Trang giúp Nguyễn Trãi có thể thong dong khi rời xa chính sự,
vui với nếp sống khi của một trí sĩ (quan đã về hưu), nhưng cái làm cho Nguyễn
Trãi đạt độ vững chãi chính là thiền định, cái làm Nguyễn Trãi giác ngộ ra bản chất
và hiện tượng của mọi hiện hữu là thiền quán của Phật giáo. Trên tất cả, Nguyễn
Trãi có thể làm một kẻ không phải Tiên, không phải Bụt, cũng chẳng phải phàm,
được làm chính mình đó là cảnh giới vô sự, tùy duyên thuận pháp mà theo Nguyễn
Trãi Thiền Thượng thừa Phật giáo có thể giúp chứng nghiệm cảnh giới đó. Như vậy,
cái mũ tư tưởng Phật giáo có sức nở rộng biên giới trong tâm thức những người như
Nguyễn Trãi, thậm chí bao trùm lên những yếu tố tư tưởng của Nho giáo và Đạo giáo.
Khác với Nguyễn Trãi, Lương Thế Vinh thể hiện sự quan tâm tới Phật giáo
ngay từ khi ông còn là một sĩ tử đi thi kỳ thi của Nho giáo thời Lê Thánh Tông trị vì.
Với bài ký về chùa Diên Hựu, Lương Thế Vinh đỗ Trạng Nguyên. Vua (Lê Thánh
Tông) phê rằng “Ý thật thông, lời thật tỏ, sức chuyển ngàn quân, chẳng phải là cự
phách sao nên?” (ĐVSKTT, q.12). Trong sự kiện này, chúng ta có thể thấy, Lương
Thế Vinh đã lựa chọn một chủ đề về cơ sở thờ tự của Phật giáo để làm bài văn thi
Đình của mình mà không phải là một chủ đề khác. Nếu không phải là người thấu tỏ
về chùa Diên Hựu cũng như những nội dung giáo lý Phật giáo liên quan thì khó có
thể có được lời phê như thế của vua. Viện Triết học [50, tr.246-247] cho biết rằng,
Lương Thế Vinh là một hiện tượng đặc biệt về một Nho sĩ tiêu biểu biên soạn
những sách chuyên về Phật giáo, thậm chí là những sách có tính phổ biến và truyền
bá Phật giáo như Thiền môn khoa giáo, Nam Tông tự pháp đồ. Thậm chí, Nguyễn
137
Lang [26] còn cho rằng, xét về mặt tri thức và xúc cảm, yếu tố Phật giáo có phần
lấn át yếu tố Nho giáo trong tâm thức Lương Thế Vinh.
Trong tâm thức của những trí thức soạn bi ký liên quan tới cộng đồng sở hữu
niềm tin Phật giáo thời Lê sơ, tư tưởng Nho và Phật được diễn giải vừa tách riêng
vừa hòa hợp. Chẳng hạn, Tiến sĩ Nguyễn Giản soạn bi ký chùa Nga My năm 1497.
Bản thân ông giữ chức Cẩn sự lang Thái Thường tự, là một trí thức Nho học, thi đậu
Tiến sĩ. Nhưng ông không chỉ am tường tư tưởng Nho giáo, mà còn thấu tỏ tư tưởng
Phật học. Do đó, khi trong vị trí là người biên soạn bi ký chùa Nga My phường
Hoàng Văn Thụ, quận Hoàng Mai, Hà Nội, ông đã bình luận về vai trò của Nho và
Phật như sau: “Giáo lý của Thánh nhân (ý nói Khổng Tử) không gì ngoài nhân
nghĩa cương thường. Còn lời của nhà Phật thì bản tính vốn từ bi thanh tịnh, lại chỉ
ra phép tu Giới Huệ Định để sửa trị Tham Sân Si. Còn có lời giảng □□□ về thiên
đường, địa ngục khiến người ta bỏ xa điều ác, nghiêng theo về việc khuyến thiện,
sùng đức. Đạo Phật thuở ban đầu không có ý du nhập vào Trung Quốc, nên nhà vua
đã tự sai sứ giả nghênh đón. Mệnh cho các bậc sĩ đại phu thường đến kính cẩn tín
thí bảo phúc, giữ cho dân an lành. Như thế thì như gió qua mà không để dấu tích”.
(聖人之教不外乎仁義綱常佛家之言性生乎慈悲清淨又舉戒惠定三言為治貪嗔
癡之要法有天堂地獄之現之論其所以使民去惡遷善勸戒崇德其初非有意於
入中國也明帝自遣使迎之耳士大夫往往敬信寶福定命之民則皆風靡影從奔走
服事之不暇)[85] Hay trường hợp Hoàng Nam Kim người Điều Nham, Sơn Tây đỗ
Giải nguyên khoa Quý Mão, chức Trung trinh đại phu, Thận hình Thanh sứ ty Viên
ngoại lang ở làng Phượng Cách (phủ Quốc Oai, nay thuộc thị trấn Hoàng Xá, huyện
Quốc Oai, Hà Nội) năm 1525 soạn bi ký cho bến đò Cù Sơn, ông tỏ ra am tường
giáo lý tính không và tùy duyên của Phật giáo, nhưng vẫn có quan điểm rằng “Chỉ
có sử sách là còn lại muôn đời” (惟有青編久遠看) [101]. Sử sách đó chính là văn
bản ghi chép những việc hành xử của người đời. Đó vẫn là hơi hướng của tư tưởng
Nho giáo. Thậm chí, ngay tên bia cũng thể hiện sự hòa hợp này. Ví dụ bia chùa Đại
Bi, nay là Kim Liên, làng Nghi Tàm, phường Quảng An, quận Tây Hồ, Hà Nội
138
“Hoàng đồ Phật đạo, sáng cùng trăng sao” (皇 圖 佛 道 日 星 昭 垂)[61] hay tên bi
ký Bia chùa Chuyết Sơn xã Cấp Tiến, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng là “皇圖鞏固拙
山寺彌陀佛碑”[81] .v.v. Nói như Trần Đình Hượu [23, tr.110], “trong một số
người – kể cả Nho sĩ và người dân, họ chịu chi phối của tư tưởng Nho giáo, nhưng
về mặt con người, về đạo đức, tính người, cách sống nhiều khi họ chịu ảnh hưởng
của Phật giáo và Đạo giáo còn nhiều hơn.”
Tóm lại, thời Lê sơ, Phật giáo dù ở trong phạm vi tư tưởng của triều đình hay
tâm thức của cá nhân đều đã đóng những vai trò rất đặc biệt. Phật giáo không đóng
vai trò là người đứng ra dàn xếp trật tự xã hội như Nho giáo, không giải quyết
những vấn đề hiện sinh, an vui tự tại như Đạo giáo, mà Phật giáo thể hiện vai trò
trong những vấn đề an ninh tinh thần, vấn đề thế giới quan, nhân sinh quan và phát
triển giá trị đạo đức khởi phát từ từ bi và trí tuệ.
4.4.2. Ảnh hưởng của Phật giáo đối với tín ngưỡng bản địa qua tư liệu Hán Nôm
Tín ngưỡng bản địa mà chúng tôi trình bày ở đây là tôn giáo do người Việt
sáng tạo nên, không phải tôn giáo du nhập từ bên ngoài. Trong tư liệu Hán Nôm
thời Lê sơ, nhiều dấu hiệu cho thấy về một tín ngưỡng bản địa của người Việt có sự
dung hợp trong hình thức thờ phụng của Phật giáo.
Trường hợp thời Lê sơ có hiện tượng rước tượng Phật chùa Pháp Vân về làm
lễ cầu mưa ở cung Cảnh Linh hoặc chùa Báo Thiên ở kinh thành, Chu Quang Chứ
[6, tr.605] cho rằng đó chính là tín ngưỡng thờ Mẫu gắn với sinh hoạt Phật giáo. Tín
ngưỡng này là của dân gian, có nguồn gốc bản địa từ rất xa xưa. Ngay ở những thế
kỷ đầu của Phật giáo Việt Nam, với chuyện Tứ Pháp thì Phật giáo đã nhập cuộc với
tín ngưỡng thờ Mẫu để Mẫu trở thành Phật. Mẫu Man Nương và con của Mẫu trở
thành các Phật tổ Pháp Vân – Pháp Vũ – Pháp Lôi – Pháp Điện. Như vậy, lớp trước
của tín ngưỡng thờ Mẫu Man Nương phải là tín ngưỡng thờ thần tự nhiên (Mây,
Mưa, Sấm, Chớp). Đó mới là những giả thuyết. Tuy nhiên, điều có thể dễ dàng thấy
rằng dù là Thần hay Mẫu Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện đã được khoác
lên mình một lớp áo Phật. Đó có thể là một hình thức hợp thức hóa tín ngưỡng bản
địa đã có từ trước thời Lê sơ. Sự ban phúc giáng họa qua thực hành nghi lễ vốn
139
không phù hợp với giáo lý Phật giáo. Việc cầu nguyện qua nghi lễ mà bỏ qua nền
tảng thực hành tu tâm cũng không phải là chủ trương của Phật giáo. Phải chăng hiện
tượng này có phần giống với hiện tượng công chúa Liễu Hạnh và công chúa Diệu
Thiện đều quy y cửa Phật sau này?
Hiện tượng thứ hai chúng tôi thấy là hiện tượng Lê Ngân thờ Phật Quan Âm ở
trong phủ. Đại Việt sử ký toàn thư , q.11 chép rằng: “Đinh Tỵ, Thiệu Bình 4 (1437) ,
tháng 11, có người cáo giác Đại Đô đốc Lê Ngân thờ Phật Quan Âm trong nhà để
cầu mong cho con gái mình là Huệ phi được vua yêu. Vua ngự ra cửa Đông thành,
sai Thái giám Đỗ Khuyển dẫn 50 võ sỹ lục soát nhà Ngân, bắt được tượng Phật và
các thứ vàng bạc, tơ lụa. Ngày hôm sau, Ngân vào chầu, bỏ mũ ra để tạ tội. Vua sai
bắt nô tỳ nhà Ngân để tra hỏi. Lê Ngân trút mũ mà tâu rằng: „Trước kia thần theo
khởi nghĩa ở Lam Kinh, nay thần cũng nhiều bệnh, thầy bói bảo là trong chỗ nhà
thần ở, trước đây có miếu thờ Phật, vì để ô uế nên xảy ra tại hoạ. Cho nên thần làm
lại để thờ cúng. Nhưng vì người vợ lẽ đã bị bỏ của thần là Nguyễn thị và người vợ
lẽ của Lê Sát là Trần thị đã ban cho thần, cả hai đứa đều thù oán thần, cùng với
đứa gia nô điêu ngoa của thần thêu dệt bày đặt cho ra chuyện đó. Tiên đế biết rõ
lòng thần, thường vẫn ưu ái bao dung. Nay gân sức của thần đã mỏi mệt lắm rồi,
xin cho được về quê để sống hết tuổi tàn còn lại. Nếu nghe những người xung
quanh mà tra tấn người nhà của thần, khi bị đánh đau quá, nhất định chúng sẽ sai
khác đi, thì thân thần sợ không giữ được, xin bệ hạ nghĩ lại cho‟... Vua giáng Huệ
phi Nhật Lệ, con gái của Lê Ngân làm Tư dung. Mụ đồng Nguyễn thị bị đày ra châu
xa. Thầy phù thuỷ Trần Văn Phương bị đồ làm lính ở phường nuôi voi”. Vấn đề
đáng chú ý ở đây là sự xuất hiện của thanh đồng (mụ đồng) họ Nguyễn và thầy phù
thủy Trần Văn Phương. Thanh đồng là tín đồ thờ Mẫu. Thầy phù thủy là tín đồ Đạo
giáo. Với hai nhân vật này hẳn đã xuất hiện những thực hành bói toán và nghi lễ sử
dụng bùa chú, phép thuật. Sự can thiệp để thay đổi hiện thực vốn không phù hợp
với triết thuyết về nhân duyên của Phật giáo, vì thế bói toán và nghi lễ sử dụng bùa
chú, phép thuật vốn không thuộc về Phật giáo. Nhìn vào lời tâu bày của Lê Ngân,
chúng ta có thể đoán định rằng, yếu tố Phật giáo xuất hiện ở đây như một bức bình
140
phong cho một thực thể tín ngưỡng phức hợp giữa tín ngưỡng thờ Mẫu và Đạo giáo.
Hay nói cách khác, tín ngưỡng phức hợp ấy núp dưới hình tướng thờ Phật. Ở khía
cạnh nào đó, hình tướng thờ Phật có vai trò bảo hộ an toàn cho sự tồn tại của một
thực thể tín ngưỡng khác.
Ở trong tư liệu bi ký, chúng tôi còn thấy dấu vết dung hợp giữa niềm tin Phật
giáo với niềm tin thờ Thần. Trong bi ký chùa Vô Vi, xã Long Châu, huyện Quốc
Oai, tỉnh Hà Tây, nay thuộc xã Phụng Châu, huyện Chương Mỹ, Hà Nội, kí hiệu
thác bản 1942 ghi rằng: “Đất phúc Ninh Sơn có hai hang động tự nhiên nối liền với
núi, la liệt dấu tích Phật, nên gọi là núi tiên rất linh nghiệm. Sự linh nghiệm đó
chính là ở chỗ: núi nổi danh chẳng vì cao mà bởi có tiên, sông linh thiêng chẳng tại
sâu mà nhờ có rồng.” (寧山福地洞天有二與山相列彿跡以彿名仙山以德名而尤
有驗意者山不在高有仙則名水不在深有龍則靈) [98]. Chi tiết đáng chú ý là “núi
có nhiều dấu tích Phật nên được gọi là núi tiên” và rất “linh nghiệm”. Đích thị Phật
trong tâm thức của cộng đồng ở đây là một vị Thần núi. Và họ đã từng có những
nghi lễ “cầu xin” và đã cảm thấy có sự “ứng nghiệm” nào đó.
Cả ba hiện tượng trên đều có một điểm rất chung là sự “linh thiêng”. Theo tinh
thần Tứ diệu đế, Bát chính đạo và thập nhị nhân duyên của Phật giáo, không có cái
gọi là “linh thiêng” từ sự “cầu xin”. Trọng tâm của những hiện tượng này là “linh
thiêng” đến từ thực hiện cầu đảo. Do vậy, có thể thấy yếu tố Phật giáo trong những
hiện tượng này trong vai trò của một yếu tố bảo hộ cho sự tồn tại của thực thể tín
ngưỡng, tín ngưỡng bản địa.
Chúng tôi có phần đồng thuận với nhận định của G.Condominas[114] đã có
nhận định khá sát thực khi cho rằng một cá nhân nào đó sống trong thời đại mà tư
tưởng Nho giáo thịnh hành, người đó có thể sống theo lời dạy của Khổng Tử.
Nhưng khi phải đối diện với bối cảnh thực đi ngược lại với lợi ích của mình thì
người đó sẽ tìm kiếm những phương thức của Đạo giáo hay những tín ngưỡng bản
địa. Nhưng về mặt luân lý đạo đức thì Phật giáo và Nho giáo mới là những yếu tố
ảnh hưởng nhất.
141
Tóm lại, tư liệu Hán Nôm cho thấy rõ sự tương tác hai chiều giữa Phật giáo và
tín ngưỡng bản địa ở thời Lê sơ. Một mặt, Phật giáo tỏ ra cởi mở và tiếp nhận thêm
vào mình một số yếu tố của tín ngưỡng bản địa, đặc biệt là niềm tin vào linh hồn
vạn vật, truyền thống thờ cúng tổ tiên, và các thực hành nghi lễ nhằm giải quyết
những vấn đề người ta đối mặt thường ngày.
142
Tiểu kết chƣơng 4
Từ khảo cứu tư liệu Hán Nôm, chúng ta có thể đi tới một số nhận định về ảnh
hưởng của Phật giáo đối với văn hóa thời Lê sơ như sau:
Thứ nhất, nhìn chung trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng Phật giáo không được
triều đình sử dụng làm hệ tư tưởng chủ đạo trong quản trị đất nước, Phật giáo vì thế
không ảnh hưởng mạnh tới giới cầm quyền như thời Trần. Tuy nhiên, ở đầu thời Lê
sơ, Phật giáo đã có những lúc thể hiện vai trò của một bệ đỡ tinh thần ưu việt hơn so
với Nho giáo trong quan điểm của triều đình, có vai trò giúp cho triều đình an được
lòng dân khi có thiên tai hạn hán. Nửa sau thời Lê sơ, Phật giáo không hiện diện
trong sự kiện cấp quốc gia do triều đình tổ chức, nhưng lại có vị trí rất quan trọng
trong tâm thức của một số vị hoàng đế ưu tú nhất của triều Lê sơ, được chính những
ông vua này xác định một vai trò nền tảng chìm ngầm và nâng đỡ cho một nền thái
bình bền vững của quốc gia.
Thứ hai, trong văn hóa ứng xử, tư tưởng Phật giáo cùng với tư tưởng Lão
Trang ít nhiều đã giúp cho không ít người có được sự ứng xử hài hòa và cân bằng
trong đời sống cá nhân: khi đảm nhiệm trọng trách trị quốc, họ chọn Nho giáo, khi
trở lui về ở ẩn họ chọn Phật giáo hoặc Lão giáo để cân bằng thân tâm. Nhiều vị
quan lại ở chốn triều đình họ ứng xử với quy tắc của Nho giáo, trở về quê hương,
địa phương họ tham gia một số hoạt động Phật giáo như một sự bồi đắp bệ đỡ tinh
thần sau cùng của mình. Đồng thời, cộng đồng Phật giáo với những thực hành dựa
trên cơ sở niềm tin Phật giáo đã tạo nên một nếp sống có kế thừa có truyền tiếp, có
sự linh hoạt nhưng cũng có sự vững chãi.
Thứ ba, trong văn hóa kiến trúc, thời Lê sơ cơ sở thờ tự của Phật giáo vẫn
chiếm đại đa số những di sản văn hóa vật thể. Nhiều ngôi chùa xây dựng từ thời Lý,
thời Trần tiếp tục được trùng tu và giữ gìn trong thời Lê sơ. Nhiều những ngôi phạm
vũ vẫn là nơi cho vua, quan, trí thức thời Lê sơ thăm viếng, thưởng lãm và thư giãn
trên con đường tuần du, bái yết sơn lăng, và cả khi trở thành trí sĩ (người về hưu).
Thứ tư, trong lĩnh vực giáo dục, thời Lê sơ, bên cạnh tầng lớp Nho sĩ là chủ
thể của giáo dục khoa cử, thì cộng đồng Phật giáo là lực lượng giáo dục cơ bản về
143
nếp sống tâm linh, tinh thần. Bản thân họ là những người truyền tải những giá trị
của Phật giáo cho những thế hệ kế tiếp, trong đó tiêu biểu là Nguyễn Trãi với những
nội dung giáo dục sâu sắc liên quan tới giáo lý Phật giáo.
Thứ năm, trong đời sống tín ngưỡng, tôn giáo, Phật giáo thể hiện vai trò của
một thành tố nền tảng, gắn kết những nhân tố cốt lõi của ba tôn giáo lớn (Nho, Phật
và Đạo), đồng thời dung hợp với tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống.
144
KẾT LUẬN
Từ những sử liệu Phật giáo trong tư liệu Hán Nôm thời Lê sơ hiện nay có thể
tiếp cận được, từ cách tiếp cận liên ngành Hán Nôm học - Tôn giáo học – Sử học,
với các phương phương pháp tương ứng, chúng tôi đưa tới những kết luận như sau:
Thứ nhất, Phật giáo thời Lê sơ được hình thành từ hai nguyên nhân cơ bản:
đời sống Phật giáo từ cuối Trần đến năm 1427 và bối cảnh xã hội Đại Việt thời Lê
sơ. Phật giáo cuối Trần, bên cạnh những tư tưởng Phật học thâm sâu như một dòng
chảy ngầm, đã bộc lộ những mặt tiêu cực như hệ quả của sự phát triển quá thịnh
không thể quản lý tốt về hoạt động cũng như không phát triển về chiều sâu một cách
toàn diện. Vấn đề này ảnh hưởng không nhỏ tới niềm tin của cộng đồng đối với
Phật giáo. Về mặt con người và hoạt động Phật giáo đều đặt ra nhu cầu về một sự
điều chỉnh mạnh mẽ trong bối cảnh triều đình Lê sơ phục hồi và xây dựng đất nước
trên nền tảng đất nước vừa trải qua chiến tranh.
Thứ hai, về diện mạo Phật giáo thời Lê sơ vẫn tồn tại hai hướng: một là cộng
đồng những người theo Phật giáo kiểu Niềm tin như một tôn giáo dân gian, xem
Phật như Thần; hai là những người thoát khỏi Niềm tin đi vào con đường Trí Tuệ,
xem Phật như Thầy. Với xu hướng thứ nhất, Phật giáo bộc lộ rõ nét ở bề nổi với
nhiều hình thức nghi lễ cầu đảo. Với xu hướng thứ hai, Phật giáo Lê sơ như một sự
tiếp nối mạch ngầm truyền thống Phật giáo thâm sâu từ thời Lý - Trần với chủ yếu
là thực hành thiền định trí tuệ.
Thứ ba. với hai xu hướng cũng như hai nguồn mạch diễn tiến nói trên, Phật
giáo đã có những ảnh hưởng nhất định trong đời sống xã hội và đời sống tôn giáo
thời Lê sơ. Trong lĩnh vực quản trị đất nước, Phật giáo không thể hiện vai trò trực
tiếp như Phật giáo thời Trần, mà âm thầm hỗ trợ. Trong lĩnh vực văn hóa thời Lê sơ,
tư tưởng Phật giáo tiếp tục có vai trò trong đạo đức và lối sống của cá nhân, gia
đình và cộng đồng. Những cơ sở thờ tự Phật giáo vẫn là nơi trở về, lui tới, nơi quần
tụ của cộng đồng, là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa truyền thống và riêng biệt.
Trong đời sống tín ngưỡng, tôn giáo, Phật giáo vẫn giữ vai trò của một trong ba
chân kiềng lớn của đời sống tôn giáo, tín ngưỡng thời Lê sơ. Không những thế, Phật
145
giáo còn đóng vai trò khá quan trọng trong sự dung thông giữa Tam giáo và giữa
Phật giáo với tín ngưỡng truyền thống.
Thứ tư, luận án dù cố gắng khảo cứu tư liệu Hán Nôm nhằm dựng lại bức
tranh hay sinh hoạt của Phật giáo thời Lê sơ, vẫn còn có những điểm cần tiếp tục
khảo cứu, bổ sung và làm rõ. Chẳng hạn như thời Lê sơ: việc đào tạo tăng sĩ Phật
giáo như thế nào? Tông phái truyền thừa và phát triển ra sao? Thiền phái Trúc Lâm
diễn biến tiếp ở thời Lê sơ như thế nào? Tình hình những ngôi chùa ngoại ngạch (tư
nhân, không có nền móng từ thời Trần) ra sao? Có sự giao lưu với tăng sĩ Phật giáo
nước ngoài hay không? Bởi vì hiện nay do thiếu tư liệu hoặc thiếu cơ sở nhận định
chắc chắn. Do đó, các nghiên cứu trong tương lai cùng với hướng của đề tài cần ưu
tiên trả lời các câu hỏi ấy, để sau cùng, việc khai thác các nguồn tài liệu sẵn có đạt
hiệu quả cao nhất nhằm phục dựng lại một giai đoạn lịch sử quan trọng của Phật
giáo.
Thứ năm, Nghiên cứu này cũng cho thấy tiếp cận Tôn giáo học mang lại
những khả năng to lớn trong việc làm rõ những dấu hiệu chắc chắn cho sự tồn tại,
tiếp tục phát triển và sức ảnh hưởng bền lâu và sâu sắc của Phật giáo. Những phân
tích qua các thành tố cốt lõi, gồm niềm tin, thực hành, và cộng đồng đủ giúp dựng
lại một bức tranh đáng tin cậy của một tôn giáo. Đồng thời, sự chú ý đến các chiều
kích về lịch sử, tài liệu, tương tác xã hội của tôn giáo cho thấy rõ vị trí hay vai trò
của tôn giáo trong bối cảnh xã hội tổng thể nơi nó vận hành./.
146
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Phạm Thị Chuyền (2016), “Sử liệu Phật giáo thời Lê sơ trong tư liệu bi ký”
trên Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 02 (152), tr.34-62;
2. Phạm Thị Chuyền (2017), “Khảo cứu Lê triều đình đối văn” trên Tạp chí
Nghiên cứu Tôn giáo, số 09 (165), tr.32-57;
3. Phạm Thị Chuyền (2018), “Một số vấn đề về Phật giáo thời Lê sơ (1428-
1527) qua nghiên cứu tư liệu văn chương” trên Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo,
số 07 (175), tr.31-51 và số 08 (176) tr.19-36;
147
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tham khảo Tiếng Việt (sắp xếp theo tên tác giả)
1. Đào Duy Anh (2006), Lịch sử Việt Nam: từ nguồn gốc đến cuối thế kỷ XIX,
tái bản lần 1,Nxb. Văn hóa, Hà Nội.
2. Trác Tân Bình (2007), Lý giải tôn giáo, (Trần Nghĩa Phương dịch ra tiếng
Việt), Nxb.Hà Nội, Hà Nội.
3. Đàm Văn Chí (1992), Lịch sử văn hóa Việt Nam: sinh hoạt trí thức, Nxb.Trẻ,
Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Doãn Chính (2013), Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam từ thời kỳ dựng
nước đến đầu thế kỷ XX, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Chu Quang Chứ (2001), "Bàn thờ phật và tượng phật bằng đá có niên đại
tuyệt đối thời Lê ở chùa Khám Lạng", Những phát hiện mới về khảo cổ học
năm 2001.
6. Chu Quang Chứ (2010), Văn hóa Việt Nam nhìn từ mỹ thuật, Nxb.Thời Đại,
Hà Nội
7. Hoàng văn Chung (2019), Giá trị và chức năng cơ bản của tôn giáo,
Nxb.Khoa học xã hội, Hà Nội.
8. Bùi Thanh Chương (2005), "Mối quan hệ Tam giáo trong thơ chữ Hán của
Lê Thánh Tông", Tạp chí Triết học, 6 (169).
9. Phạm Thị Chuyền (2017), "Khảo cứu "Lê triều đình đối văn"", Nghiên cứu
Tôn giáo, số 09 (165).
10. Phạm Thị Chuyền, Nguyễn Đức Dũng (2014), "Đời sống tín ngưỡng, tôn
giáo Đại Việt thời Lê sơ", Khoa học Xã hội, số 10 (194), tr.83-89.
11. Nguyễn Thị Dung - Trường Phong (2013), Chùa Thầy và Thiền sư Từ Đạo
Hạnh qua di văn Hán Nôm thời Lý - Trần, trong kỷ yếu hội thảo Chùa Thầy
và Chư Thánh tổ sư , tổ chức vào chủ nhật ngày 25-03-2012 tại Chùa Thầy
(Thiên Phúc Tự) xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, Tp. Hà Nội.
12. Nguyễn Hồng Dương (2013), Tôn giáo trong văn hóa Việt Nam, Nxb.Văn
hóa - Thông tin, Hà Nội.
148
13. Trần Trọng Dương (2014), Nguyễn Trãi quốc âm từ điển, Nxb. Từ điển Bách
khoa, Hà Nội.
14. Phan Đại Doãn (1998), "Mấy ý kiến về cải cách của Lê Thánh Tông".
15. Nguyễn Đại Đồng (2012), Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên đến 1981,
Nxb.Văn học, Hà Nội.
16. Mai xuân Hải (2003), Thơ chữ Hán Lê Thánh Tông, Nxb.Văn học, Hà Nội.
17. Nguyễn Thị Mỹ Hạnh (2013), Thiền sư Từ Đạo Hạnh trong tâm thức và
trong ứng xử của người Việt, trong kỷ yếu hội thảo Chùa Thầy và Chư
Thánh tổ sư , tổ chức vào chủ nhật ngày 25-03-2012 tại Chùa Thầy (Thiên
Phúc Tự) xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, Tp. Hà Nội, .
18. Thích Nhất Hạnh (2014), Cho đất nước đi lên, Nxb. Hồng Đức, thành phố
Hồ Chí Minh.
19. Nguyễn Hùng Hậu (2005), Đại cương triết học Việt Nam, Nxb.Thuận Hóa,
thành phố Hồ Chí Minh.
20. Nguyễn Duy Hinh (2007), Một số bài viết tôn giáo học, Nxb.Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
21. Nguyễn Duy Hinh, Lê Đức Hạnh (2012), Về hội nhập văn hóa trong lịch sử
Việt Nam, Nxb.Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
22. Nguyễn Quang Hồng (1992), Văn khắc Hán Nôm Việt Nam : tuyển chọn -
lược thuật, Nxb.Khoa học Xã hội, Hà Nội.
23. Trần Đình Hượu (1984), "Về đặc điểm tư tưởng Việt Nam" trong Viện Triết
học (1984), Một số vấn đề lý luận về lịch sử tư tưởng Việt Nam do Ủy ban
Khoa học Xã hội Việt Nam in, Hà Nội.
24. Nguyễn Thừa Hỷ (2015), Văn hóa Việt Nam truyền thống, Nxb. Thông tin và
Truyền thông, Hà Nội.
25. Trương Vĩnh Khang (2017), Thiết chế chính trị - pháp lý thời Lê sơ, Luận án
Tiến sĩ Luật học, Học viện KHXH, Hà Nội,.
26. Nguyễn Lang (2000), Việt Nam Phật giáo sử luận, Nhà xuất bản Văn học,
Hà Nội, 1162.
149
27. Phan Huy Lê (1998), "Lê Thánh Tông (1442 – 1497) con người và sự
nghiệp", trong 1997), trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học kỷ niệm 500 năm ngày
mất Lê Thánh Tông (1497 – Book Title|, Publisher|, Place Published|, tr.
Pages|.
28. Phan Huy Lê (2011), Đại Việt sử ký toàn thư Bản in Nội các quan bản. Mộc
bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697), Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
29. Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng (1971), Lịch sử Việt Nam, Nxb. Trường Đại
học Tổng hợp, Hà Nội.
30. Ngô Thế Long (2013), Đại Việt thông sử, Nxb.Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
31. Hoàng Thị Ngọ (1999), Chữ Nôm và Tiếng Việt qua bản giải âm Phật thuyết
đại báo phụ mẫu ân trọng kinh, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
32. Lê Văn Quán (2007), Nguồn văn hóa truyền thống Việt Nam, Nxb.Lao động,
Hà Nội.
33. Trần Mạnh Quang (2011), "Ứng xử của chính quyền phong kiến Việt Nam
thế kỷ 15 đối với các tôn giáo qua tìm hiểu Đại Việt sử kí toàn thư", Nghiên
cứu Tôn giáo, số 9 (2011).
34. Trương Hữu Quýnh (1980), Lịch sử Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
35. Nguyễn Lê Sáu - Thích Minh Tín (2015), Nghiên cứu văn bia Phật giáo xứ
Đoàikho Luận án Tiến sĩ Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội
36. Nguyễn Đức Sự (1986), "Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam", Mấy vấn
đề Phật giáo với lịch sử tư tưởng Việt Nam(Sự).
37. Hà Văn Tấn (2002), Khảo cổ học Việt Nam, tập III "Khảo cổ học lịch sử Việt
Nam", Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
38. Lê Mạnh Thát (1999), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập 1 Từ khởi nguyên đến
Lý Nam Đế, Nxb.Thuận Hoá, Hà Nội.
39. Lê Mạnh Thát (2005), Phật giáo thời đại mới cơ hội và thách thức, Nxb
Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
40. Mật Thể (1960), Việt Nam Phật giáo sử lược, Nxb. Minh Đức, Huế.
150
41. Nguyễn Tài Thư (1989), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb.Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
42. Đinh Khắc Thuân (2010), Văn bia thời Mạc, Nxb.Hải Phòng, Hải Phòng.
43. Trần Bá Trí (2003), Tấm lòng và trí tuệ, Nxb. Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội.
44. Tạ Chí Đại Trường (1988), Thần, người và đất Việt, Nxb. Văn nghệ, Hà Nội.
45. Nguyễn Quốc Tuấn (2014), "Triển khai lý thuyết thực thể tôn giáo", Nghiên
cứu Tôn giáo, số 10 (136).
46. Nguyễn Thanh Tuấn (2009), Phật giáo với văn hóa Việt Nam và Nhật Bản
qua một cách tham chiếu, Nxb.Từ điển Bách khoa và Viện Văn hóa, Hà Nội.
47. Viện Sử học dịch Việt (1992), Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb.Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
48. Viện Sử học dịch Việt Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, Nxb.Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
49. Viện Sử học dịch Việt (2013), Quốc triều hình luật - Luật hình triều Lê,
Nxb.Tư pháp, Hà Nội.
50. Viện Triết học (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
51. Phạm Thị Thùy Vinh (2014), Văn bia Lê sơ tuyển tập, Nxb.Khoa học xã hội,
Hà Nội.
52. Trần Quốc Vượng chủ biên (2015), Văn hóa Việt Nam - những tiếp cận liên
ngành, Nxb. Văn học, Hà Nội.
II. Tài liệu tham khảo chữ Hán Nôm (sắp xếp theo năm biên soạn, năm in)
53. Trương Hán Siêu (1339), 開 嚴 寺 碑 記 (Khai Nghiêm tự bi ký) do Trương
Hán Siêu soạn năm 1339, đặt tại chùa Khai Nghiêm thôn Vọng Nguyệt xã
Tam Giang huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, kí hiệu thác bản 23637-38 lưu
tại Kho sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm, 183 Đặng Tiến Đông, Hà Nội, Thơ
văn Lý Trần tập IIa,, Văn bia được giới thiệu trong Viện Văn học (1988),
Nxb.Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. tr. 748.
151
54. Kim Sơn (1337), 禪 苑 集 英(Thiền uyển tập anh), lưu kho sách Viện
Nghiên cứu Hán Nôm ký hiệu A.3144, có bản dịch của Lê Mạnh Thát (2001),
Nghiên cứu về thiền uyển tập anh, Nxb.Tp.Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí
Minh.
55. Trung Minh (1362 - Đại Trị 5), 青梅圓通塔碑 (Thanh Mai Viên Thông tháp
bi), văn bia chùa Thanh Mai, núi Tam Bảo (xưa là núi Phật Tích), xã Hoàng
Hoa Thám, huyện Chí Linh, Tỉnh Hải Dương.
56. Nguyễn Thạc Đức (1428), 重 修 福 娘 寺 碑(Trùng tu Phúc Nương tự bi),
văn bia chùa Phúc Nương, thôn Thị, xã An Thường, huyện Đông Ngàn, phủ
Từ Sơn, đạo Kinh Bắc (Bắc Ninh ngày nay) có bản dịch trong Phạm Thị
Thùy Vinh (chủ biên, 2010) Tư liệu văn hiến Thăng Long - Hà Nội, Tuyển
tập văn khắc Hán Nôm, Nxb.Hà Nội, Hà Nội, tr.91-98.
57. Nguyễn Trãi ghi, Lê Thái Tổ đề tựa (1431), 藍 山 實 錄 (Lam Sơn thực lục),
lưu kho Viện Nghiên cứu Hán Nôm ký hiệu A. 26, có bản dịch của Mạc Bao
Thần (1945), Lam Sơn thực lục, Nxb.Tân Việt, Hà Nội.
58. (Không ghi tác giả) (1432), [VÔ ĐỀ], khắc trên bệ tượng Phật chùa Khám xã
Khám Lạng huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang, do Đinh Khắc Thuân sưu tầm,
có bản dịch tại Thích Đức Thiện - Đinh Khắc Thuân (2017), Văn bia Phật
giáo Việt Nam, tập III: Văn bia Phật giáo thời Lê sơ, Nxb.Khoa học Xã hội,
Hà Nội, tr.116-117
59. (Không ghi người soạn) (1434), [VÔ ĐỀ], văn khắc trên bệ Phật chùa xã
Quảng Nạp, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa, có thác bản lưu kho Viện
Nghiên cứu Hán Nôm ký hiệu No.17773, có bản dịch trong Thích Đức Thiện
– Đinh Khắc Thuân (2017), Văn bia Phật giáo Việt Nam, Tập 3, Văn bia
Phật giáo thời Lê sơ, Nxb.KHXH, Hà Nội, tr. tr.43 - 44.
60. (Không ghi người soạn) (1434), 寶來寺奉佛座 (Bảo Lai tự phụng Phật tòa),
lưu kho Viện Nghiên cứu Hán Nôm ký hiệu No 17733, có bản dịch tại
152
Nguyễn Quang Hồng chủ biên (1992), Văn khắc Hán Nôm Việt Nam, Nxb.
Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 541.
61. (Không ghi người soạn) (1441), 佛 (Phật), văn bia chùa Đại Bi, nay là Kim
Liên, làng Nghi Tàm, phường Quảng An, quận Tây Hồ, Hà Nội
62. Lê Thánh Tông (1442 - 1497), 天 南 餘 暇 集 (Thiên nam dư hạ tập), lưu
kho sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm ký hiệu A.334/1 – 10.
63. Nguyễn Trãi (1442), 抑齋詩集 (Ức Trai thi tập), lưu kho sách Viện Nghiên
cứu Hán Nôm ký hiệu A.131, q7, Xem bản dịch tại Trần Trọng Dương
(2014), Nguyễn Trãi quốc âm từ điển, Nxb.Từ Điển Bách Khoa, Hà Nội.
64. Lê Thánh Tông (1442 - 1497), 天 南 餘 暇 集 (Thiên nam dư hạ tập) [ký
hiệu A.334], A.334/1 – 10, là tập thơ, văn, điển lệ, điều luật, chinh chiến,
quan chức, thiên văn, địa lí, lịch sử của nhà Lê, từ Lê Thánh Tông trở về
trước.
65. (Không ghi người soạn) (1449 - Thái Hòa 7), [VÔ ĐỀ], được khắc trên bệ
tượng Quan Âm chùa thôn Cung Kiệm, xã Nhân Hòa, huyện Quế Võ, tỉnh
Bắc Ninh, có bản dịch trong Phạm Thị Thùy Vinh (2014), Văn bia thời Lê sơ
tuyển tập, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.71-72.
66. (Không ghi người soạn) (1450), [Vô đề], văn khắc trên vách núi khu di tích
Tây Thiên, huyện Tam Đảo, Vĩnh Phúc (1450), được giới thiệu lần đầu trong
Nguyễn Hữu Mùi (2012), "Bia ma nhai mang niên đại Lê sư ở khu di tích
Tây Thiên - Tam Đảo - Vĩnh Phúc", Tạp chí Hán Nôm số 5 (113), sau có bản
dịch được in trong Phạm Thị Thùy Vinh (2014, chủ biên), Văn bia Lê sơ
tuyển tập, Nxb.Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.95-97.
67. Hội Tao đàn (1450), 洪德國音詩集 (Hồng Đức quốc âm thi tập)phần
"Phong cảnh môn", , xem trong Viện Văn học (1962), Hồng Đức quốc âm thi
tập.
68. (Không ghi người soạn) (1453 - Thái Hòa 11), 背 洞 聖 跡 碑 記 (Bối động
Thánh tích bi ký), văn bia chùa Đại Bi, xã Bối Khê, huyện Thanh Oai, tỉnh
153
Hà Đông (Hà Nội ngày nay), có bản dịch tại Nguyễn Quang Hồng (1992),
Văn khắc Hán Nôm Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 222.
69. Triều đình Lê sơ (1460 - Quang Thuận 1), 國 朝 刑律 (Quốc triều hình luật),
lưu tại kho sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm ký hiệu A.341, có bản dịch
trong Viện Sử học (2013), Quốc triều hình luật : Luật hình Triều Lê ,
Nxb.Tư Pháp, Hà Nội.
70. Lê Thánh Tông (1465 - Quang Thuận 6), [VÔ ĐỀ], thơ đề chùa Quang
Khánh, xã Dưỡng Mông, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương, có bản dịch tại
Thích Đức Thiện - Đinh Khắc Thuân (2017), Văn bia Phật giáo Việt Nam,
tập 3: Văn bia Phật giáo thời Lê sơ, Nxb.Khoa học Xã Hội, Hà Nội, tr.68.
71. Lê Thánh Tông (1467 - ), 題 浴 翠 山 (Đề Dục Thúy Sơn), bài thơ khắc ở núi
Dục Thúy, được ghi lại trong các sách 珠 璣 勝賞 (Châu Cơ thắng thưởng)
ký hiệu A.254 và 浴翠山靈濟塔記 (Dục Thúy Sơn Linh tế Tháp kí), A1351,
寧平全省地誌考瓣 (Ninh Bình toàn tỉnh địa chí khảo biện) A.922 và 大 南
一 统 誌 (Đại Nam nhất thống chí ) A.69/1, có bản dịch trong Thích Đức
Thiện - Đinh Khắc Thuân (2017), Văn bia Phật giáo Việt Nam, tập 3: Văn
bia chùa Phật thời Lê sơ, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. tr. 71 - 74.
72. Lê Thánh Tông (1467 - Quang Thuận 8), 登 龍 隊 山 (Đăng Long Đọi sơn),
bi ký ở tháp Sùng Thiện Diên Linh, chùa Long Đọi, xã Đọi Sơn, huyện Duy
Tiên, tỉnh Hà Nam có bản dịch trong Thích Đức Thiện - Đinh Khắc Thuân
(2017), Văn bia Phật giáo Việt Nam, tập 3: Văn bia Phật giáo thời Lê sơ,
Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. tr.75 - 77.
73. Vũ Quang Tuấn (1470 - Hồng Đức 1), 福 勝 寺 碑 (Phúc Thắng tự bi), văn
bia chùa Phúc Thắng, xã Thúy Lai, huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây, có thác
bản lưu kho Viện Nghiên cứu Hán Nôm ký hiệu No 18185-86, đã được giới
thiệu trong Nguyễn Quang Hồng (1992), Văn khắc Hán Nôm Việt Nam, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. tr.255.
154
74. (Không ghi tác giả) (1476 - Hồng Đức 7), [VÔ ĐỀ], văn bia am Phúc Diên,
chùa Trà Sơn, xã Huề Trì, huyện Giáp Sơn, phủ Kinh Môn, Hải Dương, có
thác bản lưu kho Viện Nghiên cứu Hán Nôm số No 12038 - 39.
75. Lê Thánh Tông (1477 - Hồng Đức 8), [VÔ ĐỀ], thơ đề chùa Bạch Ác xã
Nga Thiện, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, có thác bản lưu kho Viện
Nghiên cứu Hán Nôm ký hiệu No.47323 có bản dịch trong Đinh Khắc Thuân
(2014), Văn bia Thanh Hóa thời Lê sơ, Nxb.Thanh Hóa, Thanh Hóa, tr.649-
654, Thanh Hóa.
76. (Không ghi người soạn) (1479 - Hồng Đức 10 ), 三 寶 田 (Tam Bảo điền),
văn bia Pháp Vân, xã Vân Lâm, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam, có thác bản
lưu kho Viện Nghiên cứu Hán Nôm ký hiệu No.10324, có bản dịch trong
Nguyễn Quang Hồng (1992), Văn khắc Hán Nôm Việt Nam, Nxb. Khoa học
Xã hội, Hà Nội, tr. tr.525.
77. (Không ghi tác giả) (1479 - Hồng Đức 10), 延慶寺碑 (Diên Khánh tự bi), ký
hiệu kho sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm số No.4486, văn bia chùa Diên
Khánh thôn Môn Ái, xã Lãng Ngâm, nay là thôn Hương Vinh, xã Hương
Vinh, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, có bản dịch trong Phạm Thùy Vinh
(2014), Văn bia thời Lê sơ tuyển tập, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.168-
178.
78. Ngô Sĩ Liên (1479 - Hồng Đức 10), 大 越 史 記 全 書 (Đại Việt sử ký toàn
thư), ký hiệu kho sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm No.A. 3/1-4, Ngô Sĩ Liên
viết tựa và soạn tờ biểu dâng sách năm Hồng Đức 10 (1479). Phạm Công
Trứ viết tựa năm Cảnh Trị 3 (1665). Lê Hỉ, Nguyễn Quí Đức viết tựa năm
Chính Hòa 18 (1697). Lê Tung viết Tổng luận. Nhiều bản do Quốc tử giám
đời Nguyễn khắc in theo bản in năm Chính Hòa 18 (1697)
79. (Không ghi tác giả) (1487 - Hồng Đức 18), 佛 (Phật), văn bia chùa Thiên
Phúc xã Thạch Lôi, huyện Tùng Thiện tỉnh Sơn Tây, nay thuộc huyện Thạch
Thất, Hà Nội, có thác bản lưu kho sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm ký hiệu
155
No.7208, có bản dịch tại Phạm Thùy Vinh (2014), Văn bia thời Lê Sơ tuyển
tập, Nxb.Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.246-251.
80. (Không ghi người soạn) (1490 - Hồng Đức 21), 佛 法 三 寶 (Phật pháp Tam
Bảo), văn bia chùa Đại Bi, xã Ngọc Xuyên, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh,
có thác bản lưu tại kho sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm ký hiệu No.4579 có
bản dịch của nhóm dịch thuật Đề tài cấp Bộ "Di văn Hán Nôm thời Lê sơ"
của Viện Nghiên cứu Tôn giáo, và được in trong Thích Đức Thiện - Đinh
Khắc Thuân (2017), Văn bia Phật giáo Việt Nam, tập 3 Văn bia Phật giáo
thời Lê sơ, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. tr.103 - 109.
81. Giám sinh Quốc Tử Giám [mờ tên] (1491 - Hồng Đức 22), 皇圖鞏固 拙山
寺彌陀佛碑 (Hoàng đồ củng cố Chuyết Sơn tự Di Đà Phật bi)[No.9571],
chùa Chuyết Sơn xã Cấp Tiến, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng, , xem bản dịch
tại Phạm Thùy Vinh (2014), Văn bia thời Lê sơ tuyển tập, Nxb.Khoa học xã
hội, Hà Nội, tr.246-251.
82. (Không ghi người soạn) (1494 - ), [VÔ ĐỀ], văn khắc trên bệ tượng chùa
Khám, xã Khám Lạng huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang, Tư liệu do Đinh
Khắc Thuân sưu tầm và giới thiệu và dịch trong Thích Đức Thiện – Đinh
Khắc Thuân (2017), Văn bia Phật giáo Việt Nam, tập 3: Văn bia chùa Phật
thời Lê sơ, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. tr.116 - 117.
83. Lê Thánh Tông (1497), 御 題 崑 山 寺 (Ngự đề Côn Sơn tự), được khắc tại
chùa Côn Sơn, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, được chép trong Công dư
tiệp ký, kí hiệu A.44, có bản dịch trong Mai Xuân Hải (2003), Thơ chữ Hán
Lê Thánh Tông, Nxb. Văn học, tr. 718-719, và trong Phạm Thị Thùy Vinh
(2014), Văn bia Lê sơ, tuyển tập, Nxb.KHXH, Hà Nội, tr.370-398.
84. Lê Thánh Tông (1497), 題 柴 山 寺 (Đề Sài Sơn tự), văn khắc tại chùa Thầy,
nay thuộc huyện Quốc Oai, Hà Nội, được chép trong sách Châu cơ thắng
thưởng thi tập, có bản dịch trong Mai Xuân Hải (2003), Thơ chữ Hán Lê
Thánh Tông, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2003, tr. 118.
156
85. Nguyễn Giản (1497 - Hồng Đức 28), 峨眉寺碑 (Nga Mi tự bi) [No.50702],
bi ký chùa Nga Mi, phường Hoàng Văn Thụ, quận Hoàng Mai, Hà Nội, xem
bản dịch trong Phạm Thùy vinh (2014), Văn bia thời Lê sơ tuyển tập, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.300-311.
86. Nguyễn Bảo (1498 - Cảnh Thống 1), 坤元至德之陵 (Khôn Nguyên chí đức
chi lăng), văn bia dựng hướng Tây, ở lăng Hoàng Thái hậu Ngô Thị Ngọc
Dao thuộc khu Di tích Lịch sử Lam Kinh, xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân,
tỉnh Thanh Hoá, có thác bản lưu kho Viện Nghiên cứu Hán Nôm ký hiệu
No.1919, 48224-25 có bản dịch trong Phạm Thị Thùy Vinh (chủ biên, 2017),
Văn bia Lê sơ, tuyển tập, Nxb.Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.370-398.
87. Nguyễn Bảo (1500 - Cảnh Thống 3), 顯瑞庵碑 (Hiển Thụy am bi), văn khắc
trên vách đá chùa Thày, xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, Hà Nội, có thác bản
lưu kho Viện Nghiên cứu Hán Nôm ký hiệu No.1223, có bản dịch tại Phạm
Thùy Vinh (2014), Văn bia thời Lê sơ tuyển tập, Nxb.Khoa học xã hội, Hà
Nội, tr. 447-464.
88. Lê Hiến Tông (1501 - Cảnh Thống 4), 御 製 題 白 鵶 洞 二 首 (Ngự chế đề
Bạch Ác động nhị thủ), lưu kho sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm ký hiệu thác
bản No.47321, văn bia được khắc trên vách đá động Bạch Ác, còn có tên là
Bạch Á, hay Bạch Nha, nay thuộc xã Nga Thiện, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh
Hoá, Xem bản dịch trong Đinh Khắc Thuân (2014), Văn bia Thanh Hóa thời
Lê sơ, Nxb.Thanh Hóa, Thanh Hóa, .
89. Lê Hiến Tông (1501 - Cảnh Thống 4), 御 製 题 綠 雲 洞 二 首 (Ngự chế đề
Lục Vân động nhị thủ), có bản dịch trong Thích Đức Thiện - Đinh Khắc
Thuân (2017), Văn bia Phật giáo Việt Nam, tập 3: Văn bia chùa Phật thời Lê
sơ, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. tr.234-238.
90. Lê Ích Mộc (1502 - Cảnh Thống 2), 黎 朝 庭 對 文 (Lê triều Đình đối văn),
được chép trong 黎 朝 會 試 庭 對 策 文 (Lê triều Hội thí Đình đối sách văn)
157
là tài liệu tập hợp 17 bài văn sách thi Hội từ năm Lê Hồng Đức 6 (1475) đến
năm Lê Vĩnh Thọ 4 (1661).
91. Nguyễn Quang Bật (1505 - Đoan Khánh 1), 和樂寺碑 (Hòa Lạc tự bi), văn
bia chùa Hòa Lạc, xã Hành Lạc, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, có thác
bản lưu kho Viện Nghiên cứu Hán Nôm ký hiệu No. 5304, có bản dịch tại
Phạm Thùy Vinh (2014), Văn bia thời Lê sơ tuyển tập, Nxb.Khoa học xã hội,
Hà Nội, tr. 528-531.
92. Lương Thế Vinh (1509 - Đoan Khánh 5), 三 寶 (Tam Bảo), văn bia chùa
làng Đông Tác, huyện Đông Sơn, Thanh Hoá, có thác bản lưu kho Viện
Nghiên cứu Hán Nôm ký hiệu No. 17324, có bản dịch trong Đinh Khắc
Thuân (2013), Văn bia Thanh Hóa thời Lê sơ, Nxb.Thanh Hóa, Thanh Hoá,
729-736
93. (Không ghi người soạn) (1510), 夏 寺 碑 (Hạ tự bi), lưu kho sách Viện
Nghiên cứu Hán Nôm ký hiệu thác bản No.24322, văn bia chùa Hạ, thôn
Thượng Khánh, xã Hợp Đồng, huyện Chương Mỹ, Hà Nội, có bản dịch Việt
của nhóm thực hiện Đề tài cấp Bộ "Di văn Hán Nôm thời Lê sơ" của Viện
Nghiên cứu Hán Nôm được in trong Thích Đức Thiện - Đinh Khắc Thuân
(2017), Văn bia Phật giáo Việt Nam, tập 3: Văn bia Phật giáo thời Lê sơ,
Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. tr.258-261.
94. (Không ghi tác giả) (1511 - Hồng Thuận 3), 御 製 金 甌 寺 并 敘 (Ngự chế
Kim Âu tự tính tự), ký hiệu kho sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm A.2060, văn
bia tại núi Kim Âu, thuộc thôn Trung xã Kim Âu, huyện Vĩnh Lộc (nay là
địa danh xã Hà Đông huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá), có bản dịch trong
Đinh Khắc Thuân (1983), Những phát hiện mới Khảo cổ học năm 1983,
Viện Khảo cổ học , Viện KHXH Việt Nam, Hà Nội.
95. (Không ghi tác giả) (1511 - Hồng Thuận 3), 明慶大名藍碑 (Minh Khánh đại
danh lam bi), ký hiệu kho Viện Nghiên cứu Hán Nôm No. 11417, văn bia
chùa Minh Khánh, làng Hương Đại, xã Thanh Bình, huyện Thanh Hà, tỉnh
158
Hải Dương, có bản dịch trong Phạm Thùy Vinh (2014), Văn bia thời Lê Sơ
tuyển tập, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.544-552.
96. Lê Tương Dực (1511 - Hồng Thuận 3), [Vô Đề] bia ma nhai tại núi Dục
Thúy, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình,, xem bản dịch tại Phạm Thị
Thuỳ Vinh (2014), Văn bia Lê sơ tuyển tập, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội,
tr.576-579
97. (Không ghi tác giả) (1515 - Hồng Thuận 7), 大悲寺 (Đại Bi tự), ký hiệu kho
sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm No.2102, văn bia tại chùa Đại Bi, xã Bối
Khê, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (Hà Nội ngày nay), có bản dịch trong
Nguyễn Quang Hồng (1992), Văn khắc Hán Nôm Việt Nam, Nxb. Khoa học
xã hội, Hà Nội, tr.222.
98. Đỗ Toàn Nhân (1515 - Hồng Thuận 7), 無為寺碑 (Vô Vi tự bi) [No.1942],
văn bia chùa Vô Vi, xã Long Châu, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây, nay thuộc
xã Phụng Châu, huyện Chương Mỹ, Hà Nội, có bản dịch tại Phạm Thùy
Vinh (2014), Văn bia thời Lê sơ tuyển tập, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội,
tr.544-552.
99. (Không ghi tác giả) (1516 - Quang Thiệu 1), 慧雲佛座碑記 (Huệ Vân Phật
tòa bi ký , văn bia tại chùa xã Phí Gia, huyện Kim Thành, phủ Kinh Môn,
Hải Dương, có thác bản lưu kho Viện Nghiên cứu Hán Nôm ký hiệu
No.11813, có bản dịch trong Đinh Khắc Thuân (2010), Văn bia thời Mạc,
Nxb.Hải Phòng, Hải Phòng, tr.117.
100. (Không ghi tác giả) (1522 - Quang Thiệu 7), 萬 壽 (Vạn Thọ) [No.2557], Bia
để tại đình thôn Thuần Thọ, huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá, xem bản
dịch tại Phạm Thị Thùy Vinh (2014), Văn bia Lê sơ tuyển tập, Nxb. Khoa
học Xã hội, tr.594.
101. Hoàng Nam Kim (1525 - Thống Nguyên 4), 虬山渡記 (Cù Sơn độ ký), văn
bia bến đò, để tại đình xã Phượng Cách phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây, nay
thuộc xã Hoàng Xá, huyện Quốc Oai, Hà Nội, có thác bản lưu kho Viện
159
Nghiên cứu Hán Nôm ký hiệu No20118; 1737, có bản dịch trong Phạm Thùy
Vinh (2014), Văn bia thời Lê sơ tuyển tập, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.
598-602.
102. Phạm Dương (1527 - Thống Nguyên 6), 崇 慶 寺 碑 (Sùng Khánh tự bi), văn
bia chùa Sùng Khánh (thôn Đồng Vũ), xã Thọ Ích, huyện Nam Xương (nay
thuộc huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam, lưu kho sách Viện Nghiên cứu Hán
Nôm ký hiệu thác bản số No.8644, có bản dịch tóm tắt trong Nguyễn Quang
Hồng (1992), Văn khắc Hán Nôm Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội,
tr.523 và bản dịch đầy đủ của nhóm dịch thuật Đề tài cấp Bộ "Di văn Hán
Nôm thời Lê sơ" của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, in trong Thích Đức Thiện -
Đinh Khắc Thuân (2017), Văn bia Phật giáo Việt Nam, tập 3: Văn bia chùa
Phật thời Lê sơ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. tr.320-324.
103. Lý Văn Phượng (李文鳳) (1540), 越嶠書 (Việt Kiệu Thư), (四庫全書存目
叢書·史部遺一六二. 齊魯出書社.1996 年).
104. (Không ghi người soạn) (1564 - Thuần Phúc 3), 新 造 佛 碑 (Tân tạo Phật
bi), lưu kho Viện Nghiên cứu Hán Nôm ký hiệu thác bản No.6272, bi ký
chùa xã Phí Gia, huyện Kim Thành, Kim Môn, Hải Dương, có bản dịch trong
Nguyễn Quang Hồng (1992), Văn khắc Hán Nôm Việt Nam, Nxb. Khoa học
xã hội, Hà Nội, tr. tr.510.
105. Nguyễn Kiên (1572), 重 修興 福 寺 碑 (Trùng tu Hưng Phúc tự bi), văn bia
chùa Hưng Phúc, xã Xuân Cầu, huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc
tỉnh Hưng Yên), có thác bản lưu kho Viện Nghiên cứu Hán Nôm ký hiệu
No.11883.
106. Cao Hùng Trưng (1700), 安南志原 (An Nam chí nguyên), lưu kho sách Viện
Nghiên cứu Hán Nôm mang ký hiệu AC.2739 có bản dịch trong Hoa Bằng
(2017), An Nam chí nguyên, Nxb.Đại học Sư Phạm, Hà Nội.
160
107. Lê Quý Đôn (1749 - Lê Cảnh Hưng 10), 大越通史 (Đại Việt thông sử), lưu
kho sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm ký hiệu A. 1389, có bản dịch trong Ngô
Thế Long (2013), Đại Việt thông sử, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
108. Lê Quý Đôn (1777), 見 聞 小 錄 (Kiến văn tiểu lục), có bản dịch Việt của
Nguyễn Trọng Điểm (Viện Sử học), Nhà xuất bản Trẻ, thành phố Hồ Chí
Minh.
109. (Không ghi người biên tập) (in năm 1826), 金 剛 經 (Kinh Kim Cương), lưu
kho Viện Nghiên cứu Hán Nôm ký hiệu AC131.
110. Phan Huy Chú (1782 - 1840), 歷 朝 憲 章 類 誌 (Lịch triều hiến chương loại
chí), lưu kho Viện Nghiên cứu Hán Nôm ký hiệu A.1358/1-10, có bản dịch
tại Viện Sử học Việt Nam (1992), Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb.
Khoa học Xã hội, Hà Nội. .
111. Quốc sử quán triều Nguyễn (1856/Tự Đức 9 -1881 Tự Đức 34), 欽定越史通
鑑綱目 (Khâm Định Việt sử thông giám cương mục), lưu kho Viện Nghiên
cứu Hán Nôm ký hiệu A.1/1-9, có bản dịch trong Viện Sử học (1998), Khâm
Định Việt sử thông giám cương mục, tập 1, 2, 3, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
112. Từ Di (1988), 佛光大辭典 (Phật Quang Đại từ điển), Phật Quang xuất bản
xã, Trung Quốc.
III. Tài liệu tham khảo tiếng Anh, có bản dịch Việt
113. Robert van Krieken, Philip Smith, Daphe Habibis, Kevin Mc Donald,
Michael Haralambos, Martin Holborn, (2000), Sociology: Themes and
Perspectives, Peason Education Australia
114. G.Condominas (2003), "Tôn giáo Việt Nam", Nghiên cứu Tôn giáo, số 2.
115. Thubten Chodron (2018), Tôi tự hỏi vì sao (I wonder why), Thích Nguyên
Hòa dịch Việt, Nxb.Hồng Đức, Hà Nội.
161
PHỤ LỤC 1: VĂN BIA LÊ SƠ, TUYỂN TẬP
Bi ký chứa sử liệu Phật giáo thời Lê sơ đã đƣợc giới thiệu trong “Văn bia Lê sơ, tuyển tập” (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà
Nội – 2014) do PGS.TS. Phạm Thị Thùy Vinh giới thiệu, tổ chức biên dịch và hiệu đính
STT TÊN BI KÝ Ký hiệu NĂM TẠO NƠI PHÁT HIỆN Chú thích Trang
thác bản
1 Chưa có 1449 lưng pho tượng Phật Đã được giới thiệu trong Phạm 70-72 [Vô đề]
Quan Thế Âm chùa Thị Vinh (1993), “Văn bản chữ Thái Hòa 7
thôn Cung Kiệm, xã Hán trên lưng pho tượng Phật thế
Nhân Hòa, huyện Quế kỷ XV vừa mới phát hiện tại Hà
Võ, tỉnh Bắc Ninh Bắc”, Tạp chí Hán Nôm số 4
năm 1993.
2 Chưa có 1450 vách núi khu di tích Đã được giới thiệu trong Nguyễn 95-97 [bia đá chữ]
Tây Thiên, huyện Hữu Mùi (2012), “Bia ma nhai Thái Hòa 8
Tam Đảo, Vĩnh Phúc mang niên đại Lê sơ ở khu di tích
Tây Thiên – Tam Đảo – Vĩnh
Phúc”, Tạp chí Hán Nôm số 5
(113)
3 No.11766 1465 chùa Quang Khánh xã 119- [Vô đề]
Pl.1
STT TÊN BI KÝ Ký hiệu NĂM TẠO NƠI PHÁT HIỆN Chú thích Trang
thác bản
122
Quang Thuận 6 Dưỡng Mông huyện Kim Thành tỉnh Hải
Dương
4 Chưa có 1467 núi Dục Thúy, thành Ảnh chụp do Đặng Công Nga 123- [Vô đề]
phố Ninh Bình, tỉnh cung cấp cho Nguyễn Kim 127 Quang Thuận 8
Ninh Bình. Măng, nhóm tác giả sử dụng lại
ảnh của Nguyễn Kim Măng.
5 No.04486 1479 Đình thôn Môn Ải, xã 168- Diên Khánh tự
178 Lãng Ngâm, tổng bi ký Hồng Đức 10
Đông Cứu, huyện Gia
Bình, nay là thôn
Hương Vinh, xã
Hương Vinh huyện
Gia Bình, Bắc Ninh
6 No.07208 1487 Chùa Thiên Phúc xã được giới thiệu lần đầu tiên trong 246- Phật
Thạch Lôi, huyện Phạm Thị Thùy Vinh (chủ biên, 249 Hồng Đức 18
Pl.2
STT TÊN BI KÝ Ký hiệu NĂM TẠO NƠI PHÁT HIỆN Chú thích Trang
thác bản
Tùng Thiện tỉnh Sơn 2010), Tư liệu văn hiến Thắng
Tây cũ (nay thuộc Long-Hà Nội, Tuyển tập văn
huyện Thạch Thất, Hà khắc Hán Nôm, Nxb.Hà Nội, Hà
Nội) Nội, tr.1185-1187.
No.09571 1491 Chùa Chuyết Sơn, xã 265- 7 Hoàng đồ củng
Cấp Tiến, huyện Tiên 270 cố Chuyết Sơn Hồng Đức 22
Lãng, Hải Phòng tự Di Đà Phật
Bi
8 No.50702 1497 Chùa Nga My, đã được giới thiệu lần đầu tiên 300- Nga My tự bi
phường Hoàng Văn trong Phạm Thị Thùy Vinh (chủ 311 Hồng Đức 28
Thụ, quận Hoàng Mai, biên, 2010), Tư liệu văn hiến
Hà Nội. Thắng Long-Hà Nội, Tuyển tập
văn khắc Hán Nôm, Nxb.Hà Nội,
Hà Nội, tr.60-69.
370- No.01919 1498 Xã Lam Sơn, huyện 9 Khôn Nguyên
398 Thọ Xuân, tỉnh Thanh chí đức chi bi Cảnh Thống 1
Pl.3
STT TÊN BI KÝ Ký hiệu NĂM TẠO NƠI PHÁT HIỆN Chú thích Trang
thác bản
Hóa
No.01223 1500 Xã Đa Phúc tổng Lật được giới thiệu lần đầu tiên trong 447- 10 Hiển Thụy am
Sài, phủ Quốc Oai, Phạm Thị Thùy Vinh (chủ biên, 464 bi Cảnh Thống 3
Sơn Tây, nay là xã Sài 2010), Tư liệu văn hiến Thắng
Sơn, huyện Quyết Long-Hà Nội, Tuyển tập văn
Oai, thành phố Hà khắc Hán Nôm, Nxb.Hà Nội, Hà
Nội. Nội, tr.1188-1203,
No.47304 1501 Xã Nga Phú, huyện Vương Thị Hường (2003), “Phát 469- 11 Ngự chế phiềm
Nga Sơn, Thanh Hóa hiện dị bản một bài thơ của vua 472 Thần Phù hải Cảnh Thống 4
Lê Hiến Tông đề ở núi Chính đăng Chích
Trợ” trong Thông báo Hán Nôm Trợ sơn lƣu đề
học 2002, Nxb.Khoa học xã hội, nhất thủ
Hà Nội, tr.247-250.
Hồng Phi dịch và giới thiệu trong
Những bút tích Hán Nôm hiện
còn ở các hang động vách núi xứ
Pl.4
STT TÊN BI KÝ Ký hiệu NĂM TẠO NƠI PHÁT HIỆN Chú thích Trang
thác bản
Thanh, Nxb.Giáo dục, Hà Nội,
2007.
No.05304 1505 Chùa Hòa Lạc, xã 527- 12 Hòa Lạc tự bi
Hành Lạc, tổng Như 531 Đoan Khánh 1
Quỳnh, huyện Văn
Lâm, tỉnh Hưng Yên
No.17324 1509 Chùa làng Đông Tác, 536- 13 Tam bảo
xã Đông Sơn, huyện 542 Đoan Khánh 5
Đông Sơn, Thanh Hóa
No.11417 1511 Chùa Minh Khánh, xã 543- 14 Minh Khánh
Hương Đại, huyện 552 đại danh lam bi Hồng Thuận 3
Thanh Hà, tỉnh Hải
Dương
No.47102 1511 Chùa Kim Âu, thôn 553- 15 Ngự chế Kim
Kim Phát, xã Hà 558 Âu tự thi tính Hồng Thuận 3
Đông, huyện Hà tự
Pl.5
STT TÊN BI KÝ Ký hiệu NĂM TẠO NƠI PHÁT HIỆN Chú thích Trang
thác bản
Trung, Thanh Hóa
16 1511 Núi Dục Thúy, thành 575- [Vô đề]
phố Ninh Bình, tỉnh 579 Hồng Thuận 3
Ninh Bình
No.01942 1515 Chùa Vô Vi, xã Long được giới thiệu lần đầu tiên trong 588- 17 Vô Vi tự bi
Châu, Quốc Oai, Sơn Phạm Thị Thùy Vinh (chủ biên, 593 Hồng Thuận 7
Tây, nay là xã Phụng 2010), Tư liệu văn hiến Thắng
Châu, huyện Chương Long-Hà Nội, Tuyển tập văn
Mĩ, Hà Nội khắc Hán Nôm, Nxb.Hà Nội, Hà
Nội, tr.1223-1227.
No.02557 1522 Đình thôn Thuần Thọ, 594- 18 Vạn Thọ
tổng Ngọc Xuyết, 597 Quang Thiệu 7
huyện Hoằng Hóa,
Thanh Hóa
No.01737 1525 Đình xã Phượng Cách, được giới thiệu lần đầu tiên trong 598- 19 Cù Sơn độ ký
tổng Hoàng Xá, phủ Phạm Thị Thùy Vinh (chủ biên, 602
Pl.6
STT TÊN BI KÝ Ký hiệu NĂM TẠO NƠI PHÁT HIỆN Chú thích Trang
thác bản
Quốc Oai, Sơn Tây, 2010), Tư liệu văn hiến Thắng Thống Nguyên
nay là thị trấn Hoàng Long-Hà Nội, Tuyển tập văn 4
Xá, huyện Quốc Oai, khắc Hán Nôm, Nxb.Hà Nội, Hà
Hà Nội Nội, tr.11228-1231.
Pl.7
PHỤ LỤC 2: VĂN BIA PHẬT GIÁO THỜI LÊ SƠ
Bi ký chứa sử liệu Phật giáo thời Lê sơ đã đƣợc giới thiệu trong “Văn bia Phật giáo Việt Nam, tập 3, Văn bia Phật giáo
thời Lê sơ” (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội – 2017) do Thích Đức Thiện và Đinh Khắc Thuân đồng chủ biên
STT TÊN BI KÝ Ký hiệu NĂM TẠO NƠI PHÁT HIỆN Chú thích Trang
thác bản
1 Chưa có 1432 Minh văn trên bệ tượng chùa Tư liệu do Đinh Khắc Thuân sưu 42-43 [Vô đề]
Khám xã Khám Lạng, huyện tầm và giới thiệu Thuận Thiên
Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang 5
2 No.17773 1434 [vô đề] soạn năm 1434, khắc 43-44 [Vô đề]
trên bệ Phật chùa xã Quảng
Nạp, huyện Đông Sơn, tỉnh
Thanh Hóa, ký hiệu thác bản
No.17773, lưu tại kho bia
Viện Nghiên cứu Hán Nôm,
183 Đặng Tiến Đông, Hà Nội
3 Chưa có 1445 Bia chùa Đại Bi, nay là chùa Tư liệu do Đinh Khắc Thuân sưu 45-50 Phật
Kim Liên, làng Nghi Tàm, tầm và giới thiệu
Pl.8
STT TÊN BI KÝ Ký hiệu NĂM TẠO NƠI PHÁT HIỆN Chú thích Trang
thác bản
phường Quảng An, quận Tây Thái Hòa 3
Hồ, Hà Nội
4 Chưa có 1449 lưng pho tượng Phật Quan Đã được giới thiệu trong “Văn bia 52-53 [Vô đề]
Thế Âm chùa thôn Cung Lê sơ, tuyển tập” (Nxb. Khoa học Thái Hòa 7
Kiệm, xã Nhân Hòa, huyện Xã hội, Hà Nội – 2014) do PGS.TS.
Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh Phạm Thị Thùy Vinh giới thiệu, tổ
chức biên dịch và hiệu đính, tr.70-
72
5 1450Thái Hòa vách núi khu di tích Tây Đã được giới thiệu trong “Văn bia 53-55 [bia đá chữ] Chưa có
8 Thiên, huyện Tam Đảo, Vĩnh Lê sơ, tuyển tập” (Nxb. Khoa học
Phúc Xã hội, Hà Nội – 2014) do PGS.TS.
Phạm Thị Thùy Vinh giới thiệu, tổ
chức biên dịch và hiệu đính, tr. 95-
97
No.02105- 1453 Bia chùa Bối Khê, xã Tam 56-67 6 Bối Khê
06 Hưng, huyện Thanh Oai, Hà thánh tích Thái Hòa 11
Pl.9
STT TÊN BI KÝ Ký hiệu NĂM TẠO NƠI PHÁT HIỆN Chú thích Trang
thác bản
Nội bi ký
7 No.11766 1465 chùa Quang Khánh xã Đã được giới thiệu trong “Văn bia 68-71 [Vô đề]
Dưỡng Mông huyện Kim Lê sơ, tuyển tập” (Nxb. Khoa học Quang Thuận
Thành tỉnh Hải Dương Xã hội, Hà Nội – 2014) do PGS.TS. 6
Phạm Thị Thùy Vinh giới thiệu, tổ
chức biên dịch và hiệu đính, tr.119-
122
8 Chưa có 1467 núi Dục Thúy, thành phố Đã được giới thiệu trong “Văn bia 71-75 [Vô đề]
Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. Lê sơ, tuyển tập” (Nxb. Khoa học Quang Thuận
Xã hội, Hà Nội – 2014) do PGS.TS. 8
Phạm Thị Thùy Vinh giới thiệu, tổ
chức biên dịch và hiệu đính, tr. 123-
127
Chưa có 1467 Bia chùa Long Đọi, xã Đọi 75-78 9 Đăng Long
Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Đọi sơn Quang Thuận
Hà Nam. 8
Pl.10
STT TÊN BI KÝ Ký hiệu NĂM TẠO NƠI PHÁT HIỆN Chú thích Trang
thác bản
No.47323 1477 Bài thơ khắc trước cửa động 89-91 10 Ngự chế
Bạch Ác (còn gọi là Bạch Á) Bạch Ác thi Hồng Đức 8
thuộc xã Nga Thiện, huyện
Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa
No.04486 1479 Đình thôn Môn Ải, xã Lãng Đã được giới thiệu trong “Văn bia 78-88 11 Diên Khánh
Ngâm, tổng Đông Cứu, Lê sơ, tuyển tập” (Nxb. Khoa học tự bi ký Hồng Đức 10
huyện Gia Bình, nay là thôn Xã hội, Hà Nội – 2014) do PGS.TS.
Hương Vinh, xã Hương Vinh Phạm Thị Thùy Vinh giới thiệu, tổ
huyện Gia Bình, Bắc Ninh chức biên dịch và hiệu đính, tr. 168-
178
No.07208 1487 Chùa Thiên Phúc xã Thạch Đã được giới thiệu trong “Văn bia 99-102 12 Phật
Lôi, huyện Tùng Thiện tỉnh Lê sơ, tuyển tập” (Nxb. Khoa học Hồng Đức 18
Sơn Tây cũ (nay thuộc huyện Xã hội, Hà Nội – 2014) do PGS.TS.
Thạch Thất, Hà Nội) Phạm Thị Thùy Vinh giới thiệu, tổ
chức biên dịch và hiệu đính, tr. 246-
249
Pl.11
STT TÊN BI KÝ Ký hiệu NĂM TẠO NƠI PHÁT HIỆN Chú thích Trang
thác bản
No.4579 1490 Chùa Đại Bi, xã Ngọc 103- 13 Phật Pháp
Xuyên, huyện Gia Bình, tỉnh 109 Tam Bảo Hồng Đức 21
Bắc Ninh
No.09571 1491 Chùa Chuyết Sơn, xã Cấp Đã được giới thiệu trong “Văn bia 110- 14 Hoàng đồ
Tiến, huyện Tiên Lãng, Hải Lê sơ, tuyển tập” (Nxb. Khoa học 115 củng cố Hồng Đức 22
Phòng Xã hội, Hà Nội – 2014) do PGS.TS. Chuyết Sơn
Phạm Thị Thùy Vinh giới thiệu, tổ tự Di Đà
chức biên dịch và hiệu đính, tr. 265- Phật Bi
270
15 Chưa có 1494 Minh văn trên bệ tượng Phật Tư liệu do Đinh Khắc Thuân sưu 116- [Vô đề]
chùa Khám, xã Khám Lạng, tầm và giới thiệu 117 Hồng Đức 25
huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc
Giang
No.50702 1497 Chùa Nga My, phường Đã được giới thiệu trong “Văn bia 118- 16 Nga My tự
Hoàng Văn Thụ, quận Hoàng Lê sơ, tuyển tập” (Nxb. Khoa học 129 bi Hồng Đức 28
Mai, Hà Nội. Xã hội, Hà Nội – 2014) do PGS.TS.
Pl.12
STT TÊN BI KÝ Ký hiệu NĂM TẠO NƠI PHÁT HIỆN Chú thích Trang
thác bản
Phạm Thị Thùy Vinh giới thiệu, tổ
chức biên dịch và hiệu đính, tr. 300-
311
Hồng Đức Lê Thánh Tông soạn khi đến Văn bản chép trong Châu cơ thắng 131- 17 Đề Sài Sơn
vãn cảnh chùa Thày, nay thưởng thi tập, Mai Xuân Hải dịch, 133 tự
thuộc huyện Quốc Oai, Hà giới thiệu trong Thơ chữ Hán Lê
Nội Thánh Tông, Nxb.Văn học, Hà Nội,
2003, tr.118-119
Hồng Đức Lê Thánh Tông soạn khi đến Văn bản chép trong Công dư tiệp 133- 18 Ngự đề Côn
thăm chùa Côn Sơn, huyện ký, ký hiệu A.44, được giới thiệu 134 Sơn tự
Chí Linh, tỉnh Hải Dương trong Thơ chữ Hán Lê Thánh Tông,
Nxb.Văn học, Hà Nội, 2003, tr.718-
719
No.01919 1498 ở lăng thờ Hoàng Thái Hậu Đã được giới thiệu trong “Văn bia 134- 19 Khôn
Ngô Thị Ngọc Dao thuộc khu Lê sơ, tuyển tập” (Nxb. Khoa học 167 Nguyên chí Cảnh Thống 1
di tích lịch sử Lam Kinh, xã Xã hội, Hà Nội – 2014) do PGS.TS. đức chi bi
Pl.13
STT TÊN BI KÝ Ký hiệu NĂM TẠO NƠI PHÁT HIỆN Chú thích Trang
thác bản
Xuân Lam, huyện Thọ xuân Phạm Thị Thùy Vinh giới thiệu, tổ
Thanh Hóa chức biên dịch và hiệu đính, tr. 370-
398
No.1919 1498 Thơ khắc sau bi ký Khôn 168- 20 Quang
199 nguyên chí đức chi bi, ở lăng Thục Chân Cảnh Thống 1
thờ Hoàng Thái Hậu Ngô Thị Huệ Khiêm
Ngọc Dao thuộc khu di tích Tiết Hòa
lịch sử Lam Kinh, xã Xuân Xung Nhân
Lam, huyện Thọ xuân Thanh Thánh
Hóa Hoàng Thái
Hậu vãn thi
No.01223 1500 Xã Đa Phúc tổng Lật Sài, Đã được giới thiệu trong “Văn bia 200- 21 Hiển Thụy
phủ Quốc Oai, Sơn Tây, nay Lê sơ, tuyển tập” (Nxb. Khoa học 217 am bi Cảnh Thống 3
là xã Sài Sơn, huyện Quyết Xã hội, Hà Nội – 2014) do PGS.TS.
Oai, thành phố Hà Nội. Phạm Thị Thùy Vinh giới thiệu, tổ
chức biên dịch và hiệu đính, tr. 447-
Pl.14
STT TÊN BI KÝ Ký hiệu NĂM TẠO NƠI PHÁT HIỆN Chú thích Trang
thác bản
464
No.47304 1501 Xã Nga Phú, huyện Nga Sơn, Đã được giới thiệu trong “Văn bia 231- 22 Ngự chế
Thanh Hóa Lê sơ, tuyển tập” (Nxb. Khoa học 233 phiềm Thần Cảnh Thống 4
Xã hội, Hà Nội – 2014) do PGS.TS. Phù hải
Phạm Thị Thùy Vinh giới thiệu, tổ đăng Chích
chức biên dịch và hiệu đính, tr. 469- Trợ sơn lƣu
472 đề nhất thủ
No.05304 1505 Chùa Hòa Lạc, xã Hành Lạc, Đã được giới thiệu trong “Văn bia 243- 23 Hòa Lạc tự
tổng Như Quỳnh, huyện Văn Lê sơ, tuyển tập” (Nxb. Khoa học 247 bi Đoan Khánh
Lâm, tỉnh Hưng Yên Xã hội, Hà Nội – 2014) do PGS.TS. 1
Phạm Thị Thùy Vinh giới thiệu, tổ
chức biên dịch và hiệu đính, tr. 527-
531
No.17324 1509 Chùa làng Đông Tác, xã Đã được giới thiệu trong “Văn bia 251- 24 Tam bảo
Đông Sơn, huyện Đông Sơn, Lê sơ, tuyển tập” (Nxb. Khoa học 257 Đoan Khánh
Thanh Hóa Xã hội, Hà Nội – 2014) do PGS.TS. 5
Pl.15
STT TÊN BI KÝ Ký hiệu NĂM TẠO NƠI PHÁT HIỆN Chú thích Trang
thác bản
Phạm Thị Thùy Vinh giới thiệu, tổ
chức biên dịch và hiệu đính, tr. 536-
542
1509 Khắc trên núi Tặng Sơn, Đã được Hồng Phi giới thiệu trong 248- 25 Tam bảo
chùa Ngọc Châu, thuộc xã Những bút tích Hán Nôm hiện còn ở 251 Đoan Khánh
Cẩm Sơn huyện Cẩm Thủy các hang động, vách núi xứ Thanh, 5
tỉnh Thanh Hóa. Nxb.Giáo dục, 2007,
Đã được giới thiệu trong Văn bia
Thanh Hóa thời Lê sơ, Nxb.Thanh
Hóa, 2013
No.24322 1510 Bia chùa Hạ thôn Thượng Nhóm dịch thuật đề tài “Di văn Hán 258- 26 Hạ tự bi
Khánh, xã Hợp Đồng, huyện Nôm thời Lê sơ” của Viện Nghiên 262 Hồng Thuận 2
Chương Mỹ, Hà Nội. cứu Hán Nôm sưu tầm và dịch
thuật.
No.11417 1511 Chùa Minh Khánh, xã Hương Đã được giới thiệu trong “Văn bia 266- 27 Minh
Đại, huyện Thanh Hà, tỉnh Lê sơ, tuyển tập” (Nxb. Khoa học 276 Khánh đại
Pl.16
STT TÊN BI KÝ Ký hiệu NĂM TẠO NƠI PHÁT HIỆN Chú thích Trang
thác bản
Xã hội, Hà Nội – 2014) do PGS.TS. danh lam bi Hồng Thuận 3 Hải Dương
Phạm Thị Thùy Vinh giới thiệu, tổ
chức biên dịch và hiệu đính, tr. 543-
552
No.47102 1511 Chùa Kim Âu, thôn Kim Đã được giới thiệu trong “Văn bia 277- 28 Ngự chế
Phát, xã Hà Đông, huyện Hà Lê sơ, tuyển tập” (Nxb. Khoa học 288 Kim Âu tự Hồng Thuận 3
Trung, Thanh Hóa Xã hội, Hà Nội – 2014) do PGS.TS. thi tính tự
Phạm Thị Thùy Vinh giới thiệu, tổ
chức biên dịch và hiệu đính, tr. 553-
558
29 1511 Núi Dục Thúy, thành phố Đã được giới thiệu trong “Văn bia 262- [Vô đề]
Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình Lê sơ, tuyển tập” (Nxb. Khoa học 265 Hồng Thuận 3
Xã hội, Hà Nội – 2014) do PGS.TS.
Phạm Thị Thùy Vinh giới thiệu, tổ
chức biên dịch và hiệu đính, tr. 575-
579
Pl.17
STT TÊN BI KÝ Ký hiệu NĂM TẠO NƠI PHÁT HIỆN Chú thích Trang
thác bản
1515 Chùa Vô Vi, xã Long Châu, Đã được giới thiệu trong “Văn bia 300- 30 Vô Vi tự bi No.01942
Quốc Oai, Sơn Tây, nay là xã Lê sơ, tuyển tập” (Nxb. Khoa học 305 Hồng Thuận 7
Phụng Châu, huyện Chương Xã hội, Hà Nội – 2014) do PGS.TS.
Mĩ, Hà Nội Phạm Thị Thùy Vinh giới thiệu, tổ
chức biên dịch và hiệu đính, tr. 588-
593
306- No.2013 1515 Chùa Đại Bi, làng Bối Khê, 31 Đại Bi tự
312 xã Tam Hưng, huyện Thanh Hồng Thuận 7
Oai, thành phố Hà Nội
No.02557 1522 Đình thôn Thuần Thọ, tổng Đã được giới thiệu trong “Văn bia 313- 32 Vạn Thọ
Ngọc Xuyết, huyện Hoằng Lê sơ, tuyển tập” (Nxb. Khoa học 315 Quang Thiệu
Hóa, Thanh Hóa Xã hội, Hà Nội – 2014) do PGS.TS. 7
Phạm Thị Thùy Vinh giới thiệu, tổ
chức biên dịch và hiệu đính, tr. 594-
597
1525 Đình xã Phượng Cách, tổng Đã được giới thiệu trong “Văn bia 316- 33 Cù Sơn độ No.01737
Pl.18
STT TÊN BI KÝ Ký hiệu NĂM TẠO NƠI PHÁT HIỆN Chú thích Trang
thác bản
Hoàng Xá, phủ Quốc Oai, Lê sơ, tuyển tập” (Nxb. Khoa học 319 ký Thống
Sơn Tây, nay là thị trấn Xã hội, Hà Nội – 2014) do PGS.TS. Nguyên 4
Hoàng Xá, huyện Quốc Oai, Phạm Thị Thùy Vinh giới thiệu, tổ
Hà Nội chức biên dịch và hiệu đính, tr. 598-
602
No.8644 1527 Chùa Sùng Khánh, xã Thọ Nhóm dịch thuật Đề tài cấp Bộ “Di 320- 34 Sùng
Ích, tổng Vũ Điện, huyện văn Hán Nôm thời Lê sơ” sưu tầm 324 Khánh tự bi Thống
Nam Xương, phủ Lý Nhân, và dịch thuật. Nguyên 6
nay là huyện Lý Nhân, tỉnh
Hà Nam
Pl.19
PHỤ LỤC 3: BẢN ĐỒ KINH THÀNH THĂNG LONG CÓ VẼ THÁP BẢO
THIÊN TRONG QUẦN THỂ CHÙA BÁO THIÊN NĂM 1490 THỜI HỒNG ĐỨC
Pl.20
Pl.21