ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
Nguyễn Thị Gấm
HOÀN THIỆN CHỨC NĂNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA CÁC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUÂN ĐỘI NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
QUÂN SỰ TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ
LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Hà Nội - 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
Nguyễn Thị Gấm
HOÀN THIỆN CHỨC NĂNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA CÁC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUÂN ĐỘI NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
QUÂN SỰ TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ
Chuyên ngành: Quản lý Khoa học và Công nghệ
Mã số: Thí điểm
LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ KH&CN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. Phạm Huy Tiến
2. TS. Nguyễn Như Quỳnh
Hà Nội - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi dưới sự hướng dẫn của
PGS.TS Phạm Huy Tiến và TS. Nguyễn Như Quỳnh.
Các thông tin trích dẫn trong luận án đều có nguồn trích dẫn cụ thể, chính xác,
có thể kiểm chứng. Các số liệu dẫn chứng là trung thực, khách quan, khoa học.
Các kết quả nghiên cứu tài liệu, điều tra, phỏng vấn do tôi trực tiếp thực hiện.
Hà Nội, ngày tháng năm 2020
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Gấm
LỜI CẢM ƠN
Tôi là Nguyễn Thị Gấm, Nghiên cứu sinh khóa QH-2015-X, chuyên ngành Quản
lý Khoa học và Công nghệ. Sau một thời gian học tập, nghiên cứu, tôi đã hoàn thành
luận án với đề tài: “Hoàn thiện chức năng nghiên cứu khoa học của các trường đại học
quân đội nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực khoa học và công nghệ
quân sự trong bối cảnh hội nhập quốc tế”. Luận án được thực hiện dưới sự hướng dẫn
trực tiếp của PGS.TS Phạm Huy Tiến và TS. Nguyễn Như Quỳnh. Trong quá trình học
tập và làm luận án, tác giả đã luôn nhận được sự định hướng nghiên cứu đúng đắn, sự
hướng dẫn tận tình của thầy, cô hướng dẫn và các nhà khoa học trong lĩnh vực Quản lý
Khoa học và Công nghệ. Tác giả xin được bày tỏ sự biết ơn chân thành và sâu sắc đến
PGS.TS Phạm Huy Tiến và TS. Nguyễn Như Quỳnh, các thầy, cô giáo trong khoa Khoa
học Quản lý và các nhà khoa học chuyên ngành Quản lý Khoa học và Công nghệ.
Tác giả xin chân thành cảm ơn các đơn vị, các nhà quản lý, các nhà khoa học
trong Học viện Kỹ thuật Quân sự đã tạo điều kiện giúp đỡ và hỗ trợ tác giả thực hiện
khảo sát thực tiễn và thu thập các dữ liệu phục vụ nghiên cứu.
Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, đồng nghiệp, bạn bè đã
hết lòng giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện trong quá trình học tập, nghiên cứu hoàn thành
luận án.
Xin trân trọng cảm ơn!
Nghiên cứu sinh
Nguyễn Thị Gấm
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC ..................................................................................................................... 1
DANH MỤC CÁC BẢNG ........................................................................................... 7
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ ..................................................................................... 9
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ ....................................................................................11
MỞ ĐẦU .......................................................................................................................12
1. Lý do chọn đề tài .....................................................................................................12
2. Mục tiêu nghiên cứu ...............................................................................................13
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .........................................................................14
4. Câu hỏi nghiên cứu .................................................................................................15
5. Giả thuyết nghiên cứu ............................................................................................15
6. Cách tiếp cận và Phương pháp nghiên cứu .........................................................15
7. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài...................................................19
8. Tính mới của Luận án ............................................................................................20
9. Kết cấu của Luận án ...............................................................................................20
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU .......................................22
1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài ......................................................23
1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước .........................................................32
1.2.1. Các công trình nghiên cứu trong nước về nghiên cứu khoa học của các
trường đại học ................................................................................................... 32
1.2.2. Các công trình nghiên cứu về nghiên cứu khoa học của các trường đại
học quân đội ...................................................................................................... 38
1.3. Tiểu kết chương 1 .............................................................................................45
Chương 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ TÁC ĐỘNG CỦA CHỨC NĂNG NGHIÊN
CỨU KHOA HỌC ĐẾN CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO CỦA CÁC TRƯỜNG ĐẠI
HỌC QUÂN ĐỘI.........................................................................................................47
1
2.1. Một số khái niệm cơ bản dùng trong luận án ..............................................47
2.1.1. Nghiên cứu khoa học ............................................................................. 47
2.1.1.1. Khái niệm .............................................................................................. 47
2.1.1.2. Phân loại ............................................................................................... 49
2.1.1.3. Kết quả .................................................................................................. 51
2.1.2. Chức năng ............................................................................................... 52
2.1.3. Nhân lực khoa học và công nghệ quân sự ............................................ 54
2.1.4. Hội nhập quốc tế ..................................................................................... 57
2.1.5. Chính sách khoa học và công nghệ ....................................................... 60
2.2. Chức năng nghiên cứu khoa học của các trường đại học quân đội ..........61
2.2.1. Chức năng nghiên cứu khoa học của trường đại học .......................... 61
2.2.2. Đặc điểm chức năng nghiên cứu khoa học của các trường đại học quân
đội ...................................................................................................................... 66
2.3. Chất lượng đào tạo của các trường đại học quân đội .................................70
2.3.1. Khái niệm chất lượng đào tạo của trường đại học ............................... 70
2.3.2. Các yếu tố đo lường chất lượng đào tạo của trường đại học quân đội 75
2.4. Quan hệ giữa nghiên cứu khoa học và chất lượng đào tạo của các trường đại
học quân đội trong bối cảnh hội nhập quốc tế ....................................................78
2.4.1. Nghiên cứu khoa học ảnh hưởng tích cực đến giảng viên và hoạt động
giảng dạy ........................................................................................................... 78
2.4.2. Ảnh hưởng của nghiên cứu khoa học đối với chương trình đào tạo, giáo
trình, tài liệu, học cụ ......................................................................................... 80
2.4.3. Ảnh hưởng của nghiên cứu khoa học đối với sinh viên, học viên ....... 81
2.5. Tiểu kết chương 2 .............................................................................................84
Chương 3. THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA NGHIÊN CỨU KHOA HỌC ĐẾN
CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
QUÂN SỰ CỦA CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUÂN ĐỘI (NGHIÊN CỨU
TRƯỜNG HỢP HỌC VIỆN KỸ THUẬT QUÂN SỰ) .........................................86
3.1. Một số nét cơ bản về chức năng nghiên cứu khoa học của các trường đại học
quân đội .....................................................................................................................86
.....................................................................................................................................95
2
3.2. Thực trạng chức năng nghiên cứu khoa học của Học viện Kỹ thuật Quân sự
3.2.1. Tổng quan về Học viện Kỹ thuật Quân sự ............................................ 95
3.2.2. Kết quả nghiên cứu khoa học của Học viện Kỹ thuật Quân sự ........... 97
3.2.2.1. Số lượng đề tài nghiên cứu khoa học đã thực hiện .............................. 97
3.2.2.2. Số lượng bài báo đã công bố .............................................................. 105
3.2.2.3. Sản phẩm nghiên cứu khoa học đăng ký sáng chế ............................. 109
3.2.2.4. Hoạt động dịch vụ khoa học và công nghệ của Học viện Kỹ thuật Quân sự
......................................................................................................................... 111
3.2.3. Các nguồn lực khoa học và công nghệ của Học viện Kỹ thuật Quân sự
......................................................................................................................... 112
3.2.3.1. Nhân lực .............................................................................................. 112
3.2.3.2. Tài chính ............................................................................................. 116
3.2.3.3. Cơ sở hạ tầng phục vụ nghiên cứu khoa học ...................................... 121
3.2.3.4. Hệ thống thông tin Khoa học và Công nghệ ...................................... 122
3.3. Tác động của nghiên cứu khoa học đến chất lượng đào tạo nguồn nhân lực
khoa học và công nghệ quân sự của Học viện Kỹ thuật Quân sự .................. 125
3.3.1. Nghiên cứu khoa học tác động đến giảng viên và hoạt động giảng dạy125
3.3.2. Nghiên cứu khoa học tác động đến giáo trình, tài liệu, học cụ ......... 127
3.3.3. Tác động của nghiên cứu khoa học đối với học viên.......................... 131
................................................................................................................................... 135
3.4. Nhận xét về chức năng nghiên cứu khoa học của Học viện Kỹ thuật Quân sự
3.4.1. Những kết quả đã đạt được .................................................................. 135
3.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân .......................................................... 137
3.4.3. Phân tích SWOT đối với chức năng nghiên cứu khoa học của Học viện
Kỹ thuật Quân sự ............................................................................................ 138
3.5. Tiểu kết chương 3 ........................................................................................... 140
Chương 4. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHỨC NĂNG NGHIÊN CỨU KHOA
HỌC NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ QUÂN SỰ CỦA CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC
QUÂN ĐỘI ................................................................................................................. 141
4.1. Yêu cầu khách quan và các yếu tố chi phối việc hoàn thiện chức năng nghiên
3
cứu khoa học của các trường đại học quân đội ................................................. 141
4.1.1. Yêu cầu khách quan của việc hoàn thiện chức năng nghiên cứu khoa học
của các trường đại học quân đội .................................................................... 141
4.1.2. Các yếu tố chi phối việc hoàn thiện chức năng nghiên cứu khoa học của
các trường đại học quân đội ........................................................................... 144
4.2. Đa dạng hóa hoạt động khoa học và công nghệ ......................................... 147
4.3. Phát triển các nguồn lực phục vụ nghiên cứu khoa học ........................... 150
4.3.1. Giải pháp phát triển nhân lực .............................................................. 150
4.3.1.1. Chính sách đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ giảng viên,
nghiên cứu viên. ............................................................................................... 150
4.3.1.2. Chính sách thu hút và sử dụng nhân lực khoa học và công nghệ ...... 153
4.3.2. Giải pháp về tài chính ........................................................................... 156
4.3.2.1. Chính sách đa dạng hóa nguồn tài chính đầu tư cho hoạt động KH&CN
của các trường đại học quân đội ..................................................................... 156
4.3.2.2. Chính sách hỗ trợ cho hoạt động khoa học và công nghệ của các trường
đại học quân đội .............................................................................................. 158
4.3.2.3. Đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với hoạt động khoa học và công nghệ
......................................................................................................................... 160
4.3.3. Cơ sở vật chất phục vụ nghiên cứu khoa học ..................................... 160
4.3.4. Thông tin khoa học và công nghệ ........................................................ 163
4.4. Hình thành và phát triển các tổ chức khoa học và công nghệ trong trường
đại học quân đội ..................................................................................................... 164
4.4.1. Khoa, bộ môn ........................................................................................ 164
4.4.2. Viện nghiên cứu, trung tâm nghiên cứu trong trường đại học quân đội
......................................................................................................................... 165
4.4.3. Tổ chức Spin-off ................................................................................... 167
4.4.4. Trung tâm giới thiệu và hỗ trợ chuyển giao công nghệ ...................... 168
4.4.5. Xây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh, hoạt động hiệu quả ............. 169
4.4.6. Xây dựng phòng thí nghiệm trọng điểm, liên ngành .......................... 170
4.4.7. Đề xuất thay đổi cơ cấu tổ chức để hoàn thiện chức năng nghiên cứu
4
khoa học của các trường đại học quân đội ................................................... 171
4.5. Những điều kiện cần thiết để thực hiện các giải pháp hoàn thiện chức năng
NCKH nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực khoa học và công nghệ
quân sự của các trường đại học quân đội .......................................................... 174
4.5.1. Xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa đào tạo và nghiên cứu trong các
trường đại học quân đội ................................................................................. 174
4.5.2. Xây dựng mối liên kết giữa các trường đại học quân đội với các viện
nghiên cứu và các đơn vị sản xuất ................................................................. 176
4.5.3. Xây dựng định hướng đổi mới sáng tạo trong các trường đại học quân đội
......................................................................................................................... 177
4.5.4. Tăng cường hợp tác quốc tế ................................................................. 179
4.6. Tiểu kết chương 4 ............................................................................................ 180
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ .......................................................................... 182
Kết luận ................................................................................................................... 182
Khuyến nghị ............................................................................................................ 185
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN .......................................................................................................... 187
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 188
5
PHỤ LỤC .................................................................................................................... 200
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
NCKH: Nghiên cứu khoa học
KH&CN: Khoa học và công nghệ
R&D: Nghiên cứu và triển khai
CGCN: Chuyển giao công nghệ
HVKTQS: Học viện Kỹ thuật Quân sự
GDĐH: Giáo dục đại học
GD&ĐT: Giáo dục và Đào tạo
ThS: Thạc sĩ
TS: Tiến sĩ
TSKH: Tiến sĩ khoa học
PGS: Phó giáo sư
6
GS: Giáo sư
DANH MỤC CÁC BẢNG, HỘP
Bảng 2.1: So sánh chức năng NCKH giữa các trường đại học quân đội với các trường
đại học thuộc khối dân sự
Bảng 2.2 : Tiêu chí và các yếu tố đo lường sự tác động của NCKH đến chất lượng đào
tạo của các trường đại học quân đội
Bảng 3.1: Các loại hình nghiên cứu mà người được hỏi thực hiện
Bảng 3.2: Bảng thống kê phạm vi áp dụng của đề tài nghiên cứu (%)
Bảng 3.3: Tình trạng pháp lý các sáng chế đã nộp đơn đăng ký bảo hộ của HVKTQS
Bảng 3.4: Số lượng và giá trị hợp đồng dịch vụ KH&CN của HVKTQS giai đoạn 2010 – 2019
Bảng 3.5: Các đặc điểm của các nhóm nghiên cứu trong HVKTQS
Bảng 3.6. Kinh phí ngân sách thường xuyên cho NCKH của HVKTQS
Bảng 3.7: Số lượng đề tài và kinh phí thực hiện các nhiệm vụ KH&CN của HVKTQS
giai đoạn 2011-2015
Bảng 3.8: So sánh kinh phí thực hiện nhiệm vụ KH&CN giai đoạn 2011-2015 của
HVKTQS và Đại học Bách khoa Hà Nội (triệu đồng)
Bảng 3.9: Định mức hỗ trợ kinh phí các công bố khoa học và văn bằng sở hữu trí tuệ
Bảng 3.10: Mức hỗ trợ công bố quốc tế của Đại học Quốc gia Hà Nội
Bảng 3.11. Cán bộ nghiên cứu tiếp cận các thông tin từ hệ thống thông tin KH&CN của
nhà trường
Bảng 3.12: Tình hình nắm thông tin định hướng nghiên cứu của Nhà nước, Bộ Quốc
phòng và các cơ quan, đơn vị của giảng viên, cán bộ nghiên cứu tại HVKTQS
Bảng 3.13: Tỷ lệ nắm được định hướng nghiên cứu các cấp của người giữ chức vụ và
người không giữ chức vụ trong HVKTQS
Bảng 3.14: Các giảng viên, nghiên cứu viên ở HVKTQS sử dụng kết quả NCKH vào
công tác giảng dạy
Bảng 3.15: Số lượng học viên đào tạo cao học và đào tạo nghiên cứu sinh của HVKTQS
giai đoạn 2010-2019
Bảng 3.16: Tỷ lệ cán bộ, giảng viên chưa có sản phẩm đào tạo gắn với các đề tài nghiên cứu
Bảng 3.17: Số lượng công bố khoa học của nghiên cứu sinh tại HVKTQS trong giai
7
đoạn 2015-2018
Bảng 3.18: Xếp loại kỹ sư dân sự tốt nghiệp các ngành đào tạo của các đơn vị trong
HVKTQS giai đoạn 2014-2017 (%)
Bảng 3.19: Phân tích SWOT đối với chức năng NCKH của HVKTQS
Bảng 4.2: Số lượng viện nghiên cứu ở một số trường đại học nghiên cứu trên thế giới
Hộp 3.1. Kinh phí thấp gây khó khăn cho hoạt động nghiên cứu
Hộp 3.2. Định hướng nghiên cứu ảnh hưởng đến xét duyệt và thực hiện đề tài
Hộp 3.3. Nghiên cứu khoa học ảnh hưởng tích cực đến giảng dạy của giảng viên
Hộp 3.4. Đánh giá của học viên về vai trò của NCKH
Hộp 3.5. Đánh giá của học viên cao học và nghiên cứu sinh về vai trò của NCKH trong
đào tạo sau đại học
Hộp 4.1. Phát triển nhóm nghiên cứu mạnh, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế
Hộp 4.2. Đề xuất của các nhà khoa học về các tổ chức KH&CN trong trường đại học
quân đội
Hộp 4.3. Liên kết trường đại học quân đội, viện nghiên cứu và doanh nghiệp, nhà máy
quốc phòng để hỗ trợ NCKH và đào tạo
Hộp 4.4. Ý kiến của lãnh đạo Cục Cán bộ, Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam
Hộp 4.5. Ý kiến của lãnh đạo Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng
Hộp 4.6. Đề xuất của cán bộ quản lý, nhà nghiên cứu về hợp tác quốc tế
8
Hộp 4.7. Ý kiến của lãnh đạo Viện Chiến lược Quốc phòng
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1: Tỷ lệ giảng viên có trình độ sau đại học và trình độ tiến sĩ của một số trường
đại học quân đội (%)
Biểu đồ 3.2: Số lượng đề tài, sáng kiến cấp Bộ Tổng tham mưu do các trường đại học
quân đội thực hiện trong giai đoạn 2011-2016
Biểu đồ 3.3: Số lượng đề tài nghiên cứu các cấp của HVKTQS giai đoạn 2013-2019
Biểu đồ 3.4: Số lượng đề tài nghiên cứu các cấp từng năm của HVKTQS giai đoạn 2013-2019
Biểu đồ 3.5: Lĩnh vực áp dụng kết quả NCKH của HVKTQS (%)
Biểu đồ 3.6: Số lượng các công trình nghiên cứu phục vụ phát triển kinh tế - xã hội giai
đoạn 2010-2019
Biểu đồ 3.7: Số lượng đề tài nghiên cứu của các đơn vị trong HVKTQS giai đoạn 2013 - 2017
Biểu đồ 3.8: Số lượng đề tài nghiên cứu các cấp của các đơn vị trong HVKTQS năm 2016
Biểu đồ 3.9: Số lượng bài báo khoa học của HVKTQS giai đoạn 2010-2019
Biểu đồ 3.10: Số lượng bài báo của HVKTQS đăng trên các Tạp chí ISI và SCOPUS
giai đoạn 2015-2019
Biểu đồ 3.11: Số lượng bài viết tham gia các Hội thảo khoa học trong nước và quốc tế
của HVKTQS
Biểu đồ 3.12: Số lượng bài báo công bố trên các tạp chí của các đơn vị trong HVKTQS
giai đoạn 2015-2017
Biểu đồ 3.13: Tương quan số lượng đề tài nghiên cứu và số bài báo của các đơn vị trong
HVKTQS giai đoạn 2015-2017
Biểu đồ 3.14: Kết quả đăng ký sáng chế của Học viện Kỹ thuật Quân sự
Biểu đồ 3.15: So sánh việc đăng ký sáng chế giữa HVKTQS và Học viện Quân y
Biểu đồ 3.16: Biểu đồ giá trị hợp đồng dịch vụ KH&CN của HVKTQS giai đoạn
2015 – 2019 (triệu đồng)
Biểu đồ 3.17: Trình độ cán bộ, giảng viên của HVKTQS (%)
Biểu đồ 3.18: Tỷ lệ cán bộ, giảng viên tham gia vào các nhóm nghiên cứu
Biểu đồ 3.19: Hệ thống cơ sở kỹ thuật phục vụ đào tạo, nghiên cứu
9
Biểu đồ 3.20: Đánh giá của cán bộ giảng dạy về sự cần thiết của việc liên kết chặt chẽ
giữa hoạt động nghiên cứu và hoạt động đào tạo trong các trường đại học quân đội
Biểu đồ 3.21: Tỷ lệ giảng viên, nghiên cứu viên của HVKTQS đã sử dụng kết quả nghiên
cứu vào giảng dạy
Biểu đồ 3.22: Các sản phẩm nghiên cứu của đội ngũ giảng viên HVKTQS giai
đoạn 2010-2019
Biểu đồ 3.23. Số lượng ngành đào tạo, chuyên ngành đào tạo, giáo trình, tài liệu, bài thí
nghiệm mới được biên soạn cho đào tạo đại học trong giai đoạn 2010-2017
Biểu đồ 3.24: Sản phẩm đào tạo từ các công trình NCKH tính trung bình cho một giảng
viên HVKTQS
Biểu đồ 3.25: Số lượng đề tài NCKH của học viên HVKTQS giai đoạn 2010-2019
10
Biểu đồ 3.26: Xếp loại học lực của học viên quân sự HVKTQS giai đoạn 2010-2018(%)
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Hình 2.1. Mô hình chung về quá trình nghiên cứu
Hình 2.2. Khung phân tích chức năng NCKH của các trường đại học quân đội
Hình 2.3: Mô hình đánh giá hoạt động đào tạo của trường Đại học
Hình 2.4: Sự tác động của chức năng NCKH tới chất lượng đào tạo của các trường đại
học quân đội
Hình 4.1: Sơ đồ các yếu tố chi phối việc hoàn thiện chức năng NCKH của các trường
đại học quân đội
Hình 4.2: Mô hình cơ cấu tổ chức của HVKTQS để thực hiện tốt các chức năng đào tạo,
11
NCKH và phục vụ quân đội, xã hội
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là xu hướng tất yếu trong xã hội đương đại và
Việt Nam không nằm ngoài quy luật đó. Trong những năm qua, Việt Nam đã tham gia
hội nhập ngày càng sâu và rộng trên nhiều lĩnh vực. Trong quá trình này, Việt Nam đang
ở vào vị thế của một nước đi sau, đang phát triển, nỗ lực bước vào thời kì đổi mới toàn
diện, đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Để hội nhập thành công,
GDĐH và KH&CN Việt Nam phải đi tiên phong trong việc thu hẹp khoảng cách tụt
hậu, tức là phải gấp rút đào tạo cho đất nước một đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ
đạt trình độ cao, có đủ năng lực tiếp nhận thành tựu KH&CN tiên tiến, đồng thời có thể
sáng tạo ra những sản phẩm, công trình khoa học hiện đại, ngang tầm khu vực và trên
thế giới.
Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ Xã hội
Chủ nghĩa... trong mọi điều kiện. Điều đó đặt ra yêu cầu phải xây dựng tiềm lực quốc
phòng-an ninh đủ sức bảo vệ các vùng (đất, biển, trời) cho toàn diện nhưng phải có trọng
tâm, trọng điểm, nhất là ở các địa bàn xung yếu, dễ bị chia cắt chiến lược; trong đó, cần
ưu tiên vùng biển, vùng trời, nhằm đáp ứng yêu cầu chống chiến tranh bằng vũ khí công
nghệ cao; chủ động phòng, ngừa thiên tai khi môi trường có nhiều biến đổi khác thường.
Tình hình thế giới hiện nay và sự phát triển của cuộc cách mạng KH&CN hiện đại đang
đặt ra cho chúng ta nhiệm vụ quan trọng là phải đẩy mạnh phát triển KH&CN quân sự,
nâng cao tiềm lực quốc phòng, đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa quân đội. Từ đây, công tác
nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu KH&CN, đặc biệt là các lĩnh vực công nghệ mũi
nhọn cho quân sự giữ một vai trò, vị trí hết sức quan trọng. Để xây dựng tiềm lực quốc
phòng vững mạnh cần có vai trò rất lớn của các trường đại học quân đội.
Trong những năm qua, nhận thức được xu thế, yêu cầu của thời đại, các trường đại
học trong quân đội đã quan tâm đến NCKH bên cạnh hoạt động đào tạo. Tuy nhiên,
NCKH trong các trường đại học quân đội cũng còn những mặt hạn chế, chưa phát huy
hết năng lực nghiên cứu, cụ thể:
12
- Hoạt động nghiên cứu tập trung chủ yếu ở đội ngũ các giảng viên, nghiên cứu
viên lâu năm, các nhà khoa học đầu ngành trong các lĩnh vực;
- Các hướng nghiên cứu liên kết đa ngành, đa lĩnh vực còn ít;
- Còn hiện tượng giảng viên làm nghiên cứu vì nghĩa vụ, để phục vụ cho các tiêu
chuẩn chức danh chứ chưa xuất phát từ niềm đam mê và nhu cầu giảng dạy, nhu cầu
thực tiễn;
- Các nghiên cứu liên kết, hợp tác quốc tế, đạt trình độ tiên tiến của thế giới
chưa nhiều;
- Các sản phẩm nghiên cứu ứng dụng cho quân đội chưa nhiều...
Những mặt hạn chế trên do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có cả mặt
khách quan và chủ quan. Những quy định, những chính sách chưa thực sự phù hợp với
hoạt động nghiên cứu, chưa tạo được động lực cho các giảng viên, nhà khoa học.
Đứng trước yêu cầu hiện đại hóa quân đội trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế, các trường đại học quân đội đóng vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp
nguồn nhân lực KH&CN chất lượng cao cho toàn quân cũng như nghiên cứu, chế tạo
các trang thiết bị, vũ khí, công nghệ hiện đại cho quốc phòng, nghiên cứu các vấn đề
chính trị, nghệ thuật quân sự phù hợp với yêu cầu mới. Do đó, NCKH trong các trường
đại học quân đội cần phải được đẩy mạnh hơn nữa để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn
nhân lực KH&CN quân sự và phục vụ tiềm lực quốc phòng. Một nghiên cứu về những
hạn chế và đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện chức năng NCKH của các trường
đại học quân đội hiện nay là cần thiết. Đề tài: “Hoàn thiện chức năng NCKH của các
trường đại học quân đội nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực KH&CN
quân sự trong bối cảnh hội nhập quốc tế” sẽ làm rõ hệ thống lý luận về chức năng
NCKH của các trường đại học nói chung và các trường đại học quân đội nói riêng, phân
tích những ảnh hưởng của NCKH đến chất lượng đào tạo của các trường đại học quân
đội. Luận án cũng sẽ phân tích thực trạng chức năng NCKH của các trường đại học quân
đội (với nghiên cứu trường hợp là HVKTQS) và đề xuất các giải pháp hoàn thiện chức
năng NCKH của các trường đại học quân đội nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn
nhân lực KH&CN trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
2. Mục tiêu nghiên cứu
13
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài nhằm phân tích chức năng NCKH của các trường
đại học quân đội, đánh giá tác động của NCKH đến chất lượng đào tạo của các trường
đại học quân đội và đề xuất các giải pháp hoàn thiện chức năng NCKH trong các trường
đại học quân đội để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực KH&CN quân sự trong
xu thế hội nhập quốc tế.
Để thực hiện được mục tiêu trên, nghiên cứu cần làm những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Làm rõ các chức năng của các trường đại học quân đội trong thời kì hội nhập
quốc tế;
- Phân tích chức năng NCKH của các trường đại học quân đội;
- Phân tích tác động của NCKH đối với chất lượng đào tạo nguồn nhân lực khoa
học và công nghệ quân sự trong xu thế hội nhập quốc tế;
- Phân tích, đánh giá khái quát thực trạng chức năng NCKH của trường đại học
quân đội;
- Khuyến nghị giải pháp để hoàn thiện chức năng NCKH của các trường đại học
quân đội.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Chức năng nghiên cứu khoa học của các trường đại học quân đội.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu về chức năng NCKH của các
trường đại học quân đội và những tác động của nó đối với chất lượng đào tạo của các
trường đại học quân đội trong xu thế hội nhập quốc tế.
- Phạm vi về không gian: Luận án giới hạn trường hợp nghiên cứu tại Học viện Kỹ
thuật Quân sự (HVKTQS). HVKTQS là trường đại học trọng điểm của quân đội và của
Nhà nước, đào tạo các chuyên ngành về kỹ thuật cho quân đội và xã hội, thực hiện các chức
năng của trường đại học quân đội. Trong những năm qua, HVKTQS đã thực hiện khá tốt
chức năng NCKH và có nhiều sản phẩm phục vụ quân đội và phục vụ phát triển kinh tế, xã
hội. Do đó, khảo sát tại HVKTQS sẽ cho thấy được những đặc trưng của chức năng NCKH
trong trường đại học quân đội và những tác động của NCKH đến chất lượng đào tạo.
- Phạm vi về thời gian: từ 2010 – 2019. Trong giai đoạn này, NCKH trong các
14
trường đại học quân đội ngày càng được quan tâm và đẩy mạnh thực hiện trong thực tế.
Bên cạnh đó, hợp tác quốc tế cũng được đẩy mạnh trong các trường đại học quân đội
để đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa quân đội, hội nhập quốc tế.
4. Câu hỏi nghiên cứu
Câu hỏi thứ nhất: Chức năng NCKH của các trường đại học quân đội là gì?
Câu hỏi thứ hai: Chức năng NCKH tác động như thế nào đến chất lượng đào tạo
của các trường đại học quân đội trong bối cảnh hội nhập quốc tế?
Câu hỏi thứ ba: Giải pháp nào để hoàn thiện chức năng NCKH của các trường
đại học quân đội nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực KH&CN quân sự
trong bối cảnh hội nhập quốc tế?
5. Giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết thứ nhất: Chức năng NCKH của các trường đại học quân đội là những
đóng góp về NCKH của các trường đại học quân đội đối với quân đội và xã hội, thể hiện
thông qua các nhiệm vụ, hoạt động nghiên cứu và những tác động của các hoạt động,
nhiệm vụ này đối với quân đội và xã hội.
Giả thuyết thứ hai: NCKH tác động tích cực đến chất lượng đào tạo của các
trường đại học quân đội, thể hiện ở việc góp phần nâng cao trình độ, kỹ năng nghiên
cứu cho giảng viên; nâng cao chất lượng giáo trình, tài liệu tham khảo và nâng cao kiến
thức, kỹ năng nghiên cứu cho học viên, đáp ứng các tiêu chuẩn của hội nhập quốc tế.
Giả thuyết thứ ba: Để hoàn thiện chức năng NCKH thì các trường đại học quân
đội cần phải tiến hành đa dạng hóa các hoạt động KH&CN, tăng cường các nguồn lực
phục vụ nghiên cứu và tái cấu trúc nhà trường theo hướng hoàn thiện chức năng NCKH.
6. Cách tiếp cận và Phương pháp nghiên cứu
6.1. Cách tiếp cận
Đề tài nghiên cứu đã sử dụng các cách tiếp cận sau:
- Cách tiếp cận hệ thống: Đây là cách tiếp cận phức hợp các yếu tố có liên quan
với nhau một cách nhân quả tạo ra chỉnh thể thống nhất, xem xét các yếu tố tác động
đến việc thực hiện chức năng nghiên cứu của trường đại học quân đội.
- Cách tiếp cận phát triển: chức năng nghiên cứu của trường đại học quân đội
phải được xem xét trong sự chuyển đổi của xã hội Việt Nam, yêu cầu nhiệm vụ quốc
15
phòng và bối cảnh hội nhập quốc tế, từ đó thấy được những mặt đã đạt được và những
mặt còn hạn chế, chưa phù hợp để có biện pháp điều chỉnh để chức năng này ngày càng
phát triển.
- Cách tiếp cận so sánh: Nghiên cứu tiến hành phân tích và so sánh chức năng
NCKH giữa một số trường đại học quân đội, giữa trường đại học quân đội với các trường
đại học thuộc khu vực dân sự.
- Cách tiếp cận thực tiễn: Hoàn thiện chức năng NCKH trong các trường đại học
quân đội đang là một yêu cầu thực tiễn đặt ra khi Việt Nam hội nhập quốc tế ngày càng
sâu và rộng. Luận án nghiên cứu nhằm làm rõ thực trạng chức năng NCKH của các
trường đại học quân đội và đề xuất giải pháp để hoàn thiện chức năng NCKH của các
trường đại học quân đội trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
Để khảo sát và phân tích tình hình thực hiện chức năng NCKH của các trường
đại học quân đội nói chung và của HVKTQS nói riêng, cũng như những tác động của
NCKH đến chất lượng đào tạo nguồn nhân lực KH&CN quân sự, tác giả đã sử dụng
nhiều phương pháp khác nhau để thu thập thông tin và xử lý số liệu. Cụ thể là các phương
pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
Phân tích tài liệu thứ cấp: Phân tích các nguồn tư liệu, số liệu sẵn có về chức
năng NCKH của trường đại học, NCKH trong các trường đại học quân đội, về nhân lực
KH&CN, về chính sách đối với NCKH trong các trường đại học quân đội.
Phân tích tài liệu sơ cấp: Tác giả trực tiếp đi thu thập các số liệu, tài liệu sơ cấp
về nhân lực KH&CN, hoạt động KH&CN, chất lượng đào tạo của HVKTQS bằng
phương pháp định tính, phương pháp định lượng và phân tích các tài liệu, số liệu đó.
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Để phân tích sâu về chức năng NCKH
cũng như những tác động của NCKH đối với chất lượng đào tạo của các trường đại học
quân đội, tác giả đã tiến hành nghiên cứu thực tế tại HVKTQS. Tác giả đã xây dựng
bảng hỏi để khảo sát về hoạt động NCKH của các giảng viên, nghiên cứu viên của
HVKTQS. Bảng hỏi tập trung tìm hiểu về 3 mảng nội dung chính:
Thứ nhất, tìm hiểu những thông tin cá nhân của các nhà khoa học: độ tuổi, số
16
năm công tác, học hàm, học vị, chức vụ.
Thứ hai, tìm hiểu về hoạt động NCKH của các nhà khoa học: kết quả NCKH (số
đề tài đã thực hiện, số bài báo đã công bố, số sản phẩm NCKH đã được áp dụng) và
những tác động của NCKH đối với công tác đào tạo, giảng dạy của họ (kết quả nghiên
cứu được áp dụng vào các hoạt động đào tạo nào).
Thứ ba, tìm hiểu về những đánh giá và những đề xuất của họ đối với việc thực
hiện chức năng NCKH trong các trường đại học quân đội: những khó khăn mà các nhà
khoa học đang gặp phải trong quá trình làm nghiên cứu, thực trạng các nguồn lực phục
vụ hoạt động nghiên cứu của tổ chức và những đề xuất, khuyến nghị liên quan đến hoạt
động nghiên cứu.
Khi tiến hành khảo sát, tác giả đã phát đi 110 phiếu. Số phiếu thu về là 86 phiếu.
Mẫu khảo sát cụ thể như sau:
Các tiêu chí Số lượng Tỷ lệ (%)
Dưới 35 16 18,6 Độ tuổi
Từ 35-45 54 62,8
Trên 45 16 18,6
1 1,2 Học hàm, học vị GS
PGS 15 17,4
TS/TSKH 53 64,0
ThS 15 17,4
Đại học 2 2,4
42 48,8 Chức vụ quản lý Giữ chức vụ
Không giữ chức vụ 44 51,2
Khoa 58 67,4 Đơn vị công tác
Viện, trung tâm 21 24,5
nghiên cứu
Phòng ban chức 7 8,1
năng
Phương pháp điều tra là phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên. Phiếu được phát
17
ngẫu nhiên cho các giảng viên, nghiên cứu viên ở các Khoa, các Viện, Trung tâm nghiên
cứu và cán bộ quản lý ở các phòng ban chức năng trong HVKTQS, đảm bảo tính đại
điện về đơn vị công tác, vị trí công tác, lĩnh vực nghiên cứu.
(Phiếu điều tra được đính kèm ở phần phụ lục)
- Phương pháp phỏng vấn sâu: Để thu thập thông tin định tính và hiểu sâu hơn
về quá trình thực hiện chức năng NCKH cũng như những ảnh hưởng của nó đến chức
năng đào tạo của HVKTQS, những khó khăn mà nhà khoa học đang gặp phải trong quá
trình tiến hành nghiên cứu và gắn kết nghiên cứu với đào tạo, tác giả đã tiến hành phỏng
vấn sâu 10 người. Đối tượng phỏng vấn sâu là cán bộ quản lý ở các phòng ban chức
năng, chỉ huy các Khoa, Viện, Trung tâm nghiên cứu, chủ nhiệm Bộ môn, thành viên
nhóm nghiên cứu mạnh và các giảng viên, nghiên cứu viên, đảm bảo tính đại diện về vị
trí, đơn vị công tác, chức vụ quản lý, cán bộ nghiên cứu. Cụ thể:
- Phỏng vấn cán bộ phòng Hợp tác quốc tế và quản lý lưu học sinh quân sự;
- Phỏng vấn cán bộ phòng Khoa học quân sự;
- Phỏng vấn chỉ huy khối Khoa, Viện, Trung tâm nghiên cứu;
- Phỏng vấn chủ nhiệm Bộ môn;
- Phỏng vấn trưởng nhóm nghiên cứu mạnh;
- Phỏng vấn các giảng viên, nghiên cứu viên.
Bên cạnh đó, tác giả cũng đã tiến hành phỏng vấn sâu 05 học viên ở các bậc đào
tạo: đào tạo đại học, cao học và nghiên cứu sinh để thấy rõ những ảnh hưởng của NCKH
đến quá trình học tập và chất lượng của học viên.
Yêu cầu của phỏng vấn sâu: Mỗi cuộc phỏng vấn sâu đều có bảng câu hỏi phát
trước cho từng đối tượng. Tác giả trực tiếp phỏng vấn sâu.
- Phương pháp hội nghị khoa học: Trong quá trình thực hiện nghiên cứu, tác
giả đã tham dự một số hội thảo khoa học có chủ đề liên quan rất gần đến vấn đề nghiên
cứu của luận án, nghe và ghi nhận các quan điểm và các ý kiến thảo luận của các nhà
khoa học, các chuyên gia và các nhà quản lý trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, quản lý
khoa học và công nghệ ở trong và ngoài quân đội về NCKH và đào tạo của các trường
đại học quân đội nói riêng và các trường đại học nói chung. Cụ thể là:
- Hội thảo: “HVKTQS – 50 năm công tác đào tạo và NCKH đáp ứng yêu cầu
18
thực tiễn” do HVKTQS tổ chức, tháng 9/2016.
- Hội thảo: “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những vấn đề đặt ra đối với hệ
thống Nhà trường quân đội”, do Cục Nhà trường – Bộ Tổng tham mưu tổ chức, 12/2017.
- Hội thảo: “HVKTQS – 40 năm đào tạo tiến sĩ và 26 năm đào tạo sau đại học”,
do HVKTQS tổ chức, 12/2019.
- Tọa đàm khoa học: “Chính sách khoa học và giáo dục của Việt Nam trong xu
thế hội nhập quốc tế” do Viện Chính sách và Quản lý – Trường Đại học KHXH&NV
và Viện Rosa Luxemburg Cộng hòa Liên bang Đức tổ chức, 12/2016.
- Phương pháp so sánh: Tác giả tiến hành so sánh chức năng NCKH của các
trường đại học quân đội với chức năng NCKH của các trường đại học dân sự để thấy
được nét đặc trưng và sự khác biệt trong NCKH của các trường đại học quân đội. Đồng
thời, luận án cũng tiến hành so sánh một số yếu tố trong NCKH của HVKTQS với các
trường đại học khác ở trong và ngoài quân đội để thấy rõ được những đặc điểm của chức
năng NCKH của Nhà trường.
- Phương pháp xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS: Tác giả đã sử dụng phần
mềm SPSS để phân tích các số liệu thu thập được bằng bảng hỏi. SPSS là phần mềm
được sử dụng phổ biến và rất hiệu quả trong phân tích thống kê trong khoa học xã hội.
Khi sử dụng phần mềm này vào xử lý số liệu trong luận án, tác giả đã thống kê, phân
tích được thực trạng của từng yếu tố, từng biến liên quan đến hoạt động NCKH của các
giảng viên HVKTQS. Bên cạnh đó, khi sử dụng phần mềm, tác giả còn phân tích được
mối tương quan giữa các yếu tố, các biến, đánh giá được mức độ ảnh hưởng của các yếu
tố với nhau. Từ đó rút ra được những đặc điểm của chức năng NCKH của HVKTQS và
các trường đại học quân đội và có những căn cứ thực tiễn để đề xuất các giải pháp nhằm
thúc đẩy chức năng NCKH của các trường đại học quân đội.
- Áp dụng kỹ thuật tin học trong việc mô tả, trình bày các thông tin, kết quả thu
được (lập bảng, biểu, vẽ biểu đồ, đồ thị...), nhằm chuyển tải đầy đủ và dễ hiểu nhất kết
quả nghiên cứu tới người đọc.
7. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
7.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án đã có những đóng góp vào hệ thống lý luận liên quan đến chức năng
19
NCKH của các trường đại học nói chung và các trường đại học quân đội nói riêng, những
ảnh hưởng của NCKH đến chất lượng đào tạo của các trường đại học quân đội và nội
dung hoàn thiện chức năng NCKH của các trường đại học quân đội.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án đã tiến hành khảo sát thực tiễn tại HVKTQS, đưa ra những minh chứng
cụ thể về chức năng NCKH của Học viện, sự tác động của NCKH đến chất lượng đào
tạo của nhà trường, phân tích SWOT đối với chức năng NCKH của HVKTQS. Luận án
cũng đã đề xuất những nội dung giải pháp và những chính sách để hoàn thiện chức năng
NCKH của các trường đại học quân đội để nâng cao chất lượng đào tạo của các trường
đại học quân đội, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
8. Tính mới của luận án
Những điểm mới của Luận án:
- Đã thực hiện so sánh chức năng NCKH của các trường đại học quân đội với
chức năng NCKH của các trường đại học thuộc khối dân sự;
- Phân tích sự tác động của NCKH đến chất lượng đào tạo của các trường đại học
quân đội với những tiêu chí cụ thể;
- Đề xuất hình thành và phát triển các tổ chức khoa học và công nghệ trong trường
đại học quân đội để hoàn thiện chức năng NCKH.
9. Kết cấu của Luận án
Luận án gồm có Phần Mở đầu, Phần Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục và 4
chương nội dung chính của Luận án, cụ thể:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương này khảo sát, phân tích các công trình nghiên cứu đã thực hiện ở trong
và ngoài nước về: lý luận chức năng NCKH của các trường đại học; thực trạng thực hiện
chức năng NCKH và những giải pháp đã được nghiên cứu, đề xuất để các trường đại
học dân sự và quân sự thực hiện tốt chức năng này. Trên cơ sở đó, luận án rút ra những
khoảng trống mà các nghiên cứu đi trước chưa đề cập đến để xác định cụ thể những nội
dung mà luận án sẽ làm rõ.
Chương 2: Cơ sở lý luận về sự tác động của chức năng nghiên cứu khoa học
đến chất lượng đào tạo của các trường đại học quân đội
20
Chương này làm rõ cơ sở lý luận về chức năng NCKH của các trường đại học
quân đội, chất lượng đào tạo của các trường đại học và mối quan hệ giữa NCKH với
chất lượng đào tạo của các trường đại học quân đội với những tiêu chí cụ thể.
Chương 3: Thực trạng tác động của nghiên cứu khoa học đến chất lượng
đào tạo nguồn nhân lực khoa học và công nghệ quân sự của các trường đại học
quân đội (Nghiên cứu trường hợp Học viện Kỹ thuật Quân sự)
Chương này tiến hành khảo sát, phân tích thực trạng thực hiện chức năng NCKH
của các trường đại học quân đội với mẫu khảo sát là HVKTQS. Nội dung của chương
sẽ làm rõ thực trạng thực hiện chức năng NCKH của HVKTQS ở các điểm: các kết quả
đã đạt được trong hoạt động NCKH, các nguồn lực phục vụ NCKH và sự tác động của
NCKH đối với chất lượng đào tạo của HVKTQS.
Chương 4: Giải pháp hoàn thiện chức năng nghiên cứu khoa học nhằm nâng
cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực khoa học và công nghệ quân sự của các
trường đại học quân đội
Nội dung của chương sẽ đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện chức năng NCKH
của các trường đại học quân đội để nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường trong
bối cảnh hội nhập quốc tế. Các giải pháp sẽ tập trung vào 3 nhóm nội dung: đa dạng hóa
hoạt động KH&CN, phát triển các nguồn lực phục vụ NCKH và phát triển các tổ chức
21
KH&CN trong trường đại học.
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
NCKH có vai trò rất quan trọng trong các trường đại học. Điều này lại càng được
khẳng định khi thế giới đang bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Chức
năng này cần phải được gắn bó chặt chẽ với chức năng đào tạo của các trường đại học
vì NCKH ảnh hưởng lớn đến chất lượng đào tạo của các trường đại học. Thực tế, trên
thế giới đã chứng minh, các trường đại học được xếp thứ hạng cao, nổi tiếng trên thế
giới đều là những trường thực hiện NCKH tốt và gắn nghiên cứu với đào tạo.
Các trường đại học của Việt Nam trong những năm gần đây đã chú trọng đến
chức năng nghiên cứu bên cạnh chức năng đào tạo. Tuy nhiên, kết quả đạt được còn rất
khiêm tốn. NCKH của các trường đại học Việt Nam trong đó có các trường đại học quân
đội còn rất hạn chế cả về số lượng và chất lượng. Các trường đại học trong quân đội có
những đặc điểm chung nhưng cũng có những đặc thù riêng so với các trường đại học
thuộc khối dân sự. Vậy thì làm thế nào để hoàn thiện được chức năng NCKH của các
trường đại học quân đội? Với mong muốn tìm câu trả lời cho câu hỏi đó, tác giả nghiên
cứu Luận án với tên đề tài: “Hoàn thiện chức năng NCKH của các trường đại học quân
đội nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực KH&CN quân sự trong bối cảnh
hội nhập quốc tế”.
Để thực hiện được nghiên cứu, tác giả tiến hành khảo sát tổng quan tình hình
nghiên cứu trong và ngoài nước để làm cơ sở cho việc xây dựng cơ sở lý luận và cơ sở
thực tiễn của đề tài.
Nghiên cứu Tổng quan tình hình nghiên cứu nhằm các mục tiêu sau đây:
- Phân tích các nghiên cứu đã công bố ở nước ngoài và trong nước liên quan đến
NCKH của các trường đại học nói chung và các trường đại học quân đội nói riêng;
- Đánh giá kết quả đạt được của các nghiên cứu đã công bố ở nước ngoài và trong
nước liên quan đến NCKH của các trường đại học trong và ngoài quân đội;
- Phân tích những vấn đề mà các nghiên cứu đã công bố ở nước ngoài và trong nước
chưa đề cập đến nhằm hoàn thiện chức năng NCKH của các trường đại học quân đội;
22
- Chỉ ra những vấn đề, nội dung mà Luận án cần giải quyết.
1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài
NCKH đã trở thành chức năng quan trọng đối với các trường đại học trên thế
giới. Đã có nhiều bài viết nghiên cứu về vấn đề này ở các nước tiên tiến trên thế giới.
Hầu hết các trường đại học được xếp hạng cao và có uy tín trên thế giới là những trường
đại học có NCKH mạnh. Ở nhiều quốc gia, đặc biệt là các nước phương Tây, các trường
đại học chịu trách nhiệm cho hầu hết các hoạt động nghiên cứu cơ bản, các nghiên cứu lớn.
Nghiên cứu của Sara Guri và cộng sự cũng chỉ ra rằng, trước những năm 1990,
các Viện Hàn lâm khoa học ở các nước Trung và Đông Âu có vai trò độc tôn đối với
hoạt động NCKH, trong khi các trường đại học chỉ tập trung vào hoạt động giảng dạy.
Tuy nhiên, hiện nay quan điểm này đã thay đổi cơ bản. NCKH được yêu cầu như một
hoạt động không thể thiếu, một phần nhiệm vụ của trường đại học. Các Viện Hàn lâm
khoa học vẫn tiếp tục là các tổ chức nghiên cứu độc lập với trường đại học. Ngày nay
cũng có nhiều công ty đa quốc gia kết hợp với các tổ chức nghiên cứu để tiến hành các
nghiên cứu liên quan đến nhu cầu của công ty. Nhiều doanh nghiệp mạo hiểm cũng được
hình thành do sự kết hợp của khu vực doanh nghiệp và hàn lâm [Sara, 2004].
Nghiên cứu của Gibbon và cộng sự đã chỉ ra rằng các mẫu hình nghiên cứu đang
thay đổi. Sự thay đổi này đang ảnh hưởng đến sự hợp tác của các trường đại học và cấu
trúc bên trong của các tổ chức nghiên cứu truyền thống, đặc biệt trong việc đào tạo
nghiên cứu sinh. Gibbon gọi hoạt động nghiên cứu truyền thống là mô hình 1. Mô hình
nghiên cứu này là nền tảng của một cấu trúc chặt chẽ và dựa vào các quy ước nghiên
cứu đã hình thành bởi cộng đồng hàn lâm khoa học. Theo thời gian, hoạt động nghiên
cứu đã xuất hiện hình thức mới. Gibbon và cộng sự gọi đó là mô hình 2. Trong mô hình
2, các quy định cho hoạt động nghiên cứu đã có những thay đổi, từ đó hình thành các
nhóm nghiên cứu. Các nhóm nghiên cứu được hình thành dựa trên việc kết hợp các
thành viên từ rất nhiều tổ chức khác nhau gồm các trường đại học, các viện nghiên cứu.
Các nhóm nghiên cứu sẽ giải tán khi nhiệm vụ nghiên cứu đã hoàn thành. Các thành
viên của các nhóm có thể tham gia nhiều nhóm khác nhau, thực hiện các nhiệm vụ khác
nhau và ở các địa điểm khác nhau. Mô hình 2 là mô hình nghiên cứu mà các trường đại
học trên thế giới đang hướng tới [Gibbon, 1995]. Trong những thập kỷ qua, thực tế đã
23
cho thấy khuynh hướng đang tăng lên của các hoạt động nghiên cứu trong nhiều lĩnh
vực khác nhau đã dẫn đến sự hợp tác của nhiều tổ chức trong trường đại học cũng như
ngoài trường đại học. Việc thay đổi mô hình nghiên cứu ảnh hưởng đến cơ sở hạ tầng
nghiên cứu của các trường đại học. Cùng với việc xuất hiện các hướng nghiên cứu mới
trong khoa học kỹ thuật (công nghệ nano, công nghệ sinh học,…), trong khoa học xã hội,
các lĩnh vực khoa học khác đã thay đổi cấu trúc hành chính của các bộ môn, khoa/trường
đại học và ảnh hưởng đến thực tiễn hoạt động nghiên cứu và giảng dạy. Ngoài ra, sự thay
đổi của thực tiễn nghiên cứu cũng dẫn đến những tranh luận cho con đường nào là hiệu quả
để có thể có được các nhà nghiên cứu cho trường đại học trong tương lai.
Nghiên cứu của các tác giả Brundenius, Lundvall và Sutz, cũng đã phân tích vai
trò của trường đại học trong hệ thống đổi mới quốc gia. Các tác giả đã chỉ ra hai nhiệm
vụ quan trọng của trường đại học tại các nước đang phát triển: là nơi tiến hành giáo dục
cấp đại học trở lên trong các hệ thống đổi mới và tiến hành các nghiên cứu. Nghiên cứu
đã nhấn mạnh NCKH của các trường đại học đóng vai trò quan trọng trong hệ thống đổi
mới của các quốc gia đang phát triển. Nghiên cứu trong trường đại học nhận được nhiều
sự quan tâm vì dường như đây chính là cơ chế xây dựng những cây cầu nối đại học với
các ngành công nghiệp và xã hội. Nghiên cứu cũng đã đề cập đến những thách thức đối
với các trường đại học tại các nước đang phát triển: thiếu nguồn tài chính, thiếu nguồn
lực, chảy máu chất xám, …[ Brundenius, 2009].
Trong cuốn sách “Universities in Transition: the changing role and Challenges
for Academic Institutions” (Tạm dịch: Các trường đại học trong quá trình chuyển đổi:
sự thay đổi vai trò và những thách thức đối với các cơ sở giáo dục hàn lâm), tác giả
Goranson và Brundenius đã mô tả trường đại học trong quá trình chuyển đổi. Công trình
này chủ yếu tập trung vào việc nhận dạng vai trò của trường đại học trong phát triển và
tăng trưởng kinh tế, vị trí của trường đại học trong hệ thống đổi mới - sáng tạo vùng,
quốc gia, đóng góp của trường đại học cho đổi mới và phát triển, phân tích liên kết giữa
trường đại học và công nghiệp. Công trình đã đề cập đến chuỗi xoắn kép ba thể hiện sự
tương tác giữa cơ sở GDĐH, ngành công nghiệp và Nhà nước trong việc thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội [Goranson, 2011].
Trong cuốn sách “Research quality and the role of the University leadership”
24
(Tạm dịch: Chất lượng nghiên cứu và vai trò của lãnh đạo trường đại học) của tác giả
Håkan Carlsson và các cộng sự đã cho thấy chất lượng nghiên cứu khoa học có ý nghĩa
rất lớn không chỉ đối với các trường đại học mà đối với cả chính phủ các quốc gia và
các nhà đầu tư trong việc xếp hạng trường đại học, phân bổ ngân sách và đầu tư cho
nghiên cứu. Nghiên cứu đã đưa ra khái niệm nghiên cứu chất lượng cao và các yếu tố
liên quan đến một nghiên cứu có chất lượng cao đó là môi trường bên trong các trường
đại học, vai trò của lãnh đạo, vai trò của trưởng nhóm nghiên cứu (lãnh đạo về học
thuật), kích thước nhóm,… Và nghiên cứu cũng đã phân tích vai trò và những việc mà
lãnh đạo trường đại học cần phải làm để có được những nghiên cứu chất lượng cao trong
ngôi trường của mình [Carlsson, 2014].
Nghiên cứu “Research-Based Academic Studies: Promotion of the Quality of
Learning Outcomes in Higher Education?” (Tạm dịch: NCKH – dựa trên những nghiên
cứu hàn lâm: nâng cao chất lượng đầu ra của quá trình học tập trong giáo dục đại học)
của các tác giả Dr.paed. Andra Fernate và các cộng sự đã phân tích về cách học chuyên
ngành thông qua nghiên cứu khoa học sẽ nâng cao chất lượng đầu ra của GDĐH. Nghiên
cứu đã tiến hành thực nghiệm trên một nhóm học viên cao học học tập bằng phương
pháp NCKH và kết quả thu được cho thấy, phương pháp này đem lại nhiều lợi ích cho
học viên như: thúc đẩy người học đưa ra các ý tưởng khoa học sáng tạo, khả năng giải
quyết vấn đề và sử dụng các chiến lược phân tích và công cụ kỹ thuật khác. Điều đó sẽ
phát triển khả năng nghiên cứu khoa học của người học [Fernate, 2009].
Tác giả Michael Mintrom đã có bài viết rất bổ ích về quản lý chức năng nghiên
cứu của trường đại học. Bài viết với nhan đề: “Managing the research function of the
university: pressures and dilemmas” (Tạm dịch: Quản lý chức năng nghiên cứu của
trường đại học: sức ép và những khó khăn). Bài báo đã tập trung làm rõ những áp lực
và những khó khăn mà các nhà quản lý phải đối mặt khi họ tìm cách quản lý chức năng
nghiên cứu của trường đại học hiệu quả hơn. Bài báo đã cung cấp một mô hình chung
của quá trình nghiên cứu và cách thức để nghiên cứu liên kết với các chức năng khác và
các nhu cầu của các bên liên quan của trường đại học. Từ mô hình quá trình nghiên cứu,
bài báo cũng đề xuất các giải pháp quản lý hiệu quả chức năng NCKH của các trường
đại học bao gồm: quản lý các nguồn lực đầu vào, quản lý quá trình nghiên cứu, quản lý
25
sản phẩm nghiên cứu, quản lý quá trình phát triển sản phẩm và dịch vụ [Mintrom, 2008].
Về chủ đề NCKH trong các trường đại học, các nhà nghiên cứu của nước Nga
cũng đã có những công trình công bố. Cụ thể như sau:
Luận án tiến sĩ “Формирование подходов к повышению эффективности
управления инновационной деятельностью вуза” (Tạm dịch “Đề xuất giải pháp nâng
cao hiệu quả quản lý đổi mới công nghệ của trường đại học”) do Bovkun A.S. thực hiện.
Nghiên cứu đã phân tích các vấn đề ảnh hưởng đến sự thành công của hoạt động quản
lý đổi mới công nghệ trong trường đại học và đề xuất giải pháp nhằm đạt được kết quả
cao nhất. Những nội dung chủ yếu đề cập trong nghiên cứu:
- Đưa ra khái niệm về quản lý đổi mới công nghệ trong trường đại học;
- Phân tích hoạt động quản lý công nghệ trong các trường đại học ở các vùng
khác nhau của Liên bang Nga;
- Phân tích quá trình quản lý công nghệ và đề xuất cơ chế tối ưu quản lý công
nghệ của trường đại học theo tiêu chí hiệu quả ứng dụng công nghệ;
- Xây dựng chương trình tự động hóa các quá trình bảo hộ và ứng dụng các kết
quả nghiên cứu tạo ra trong trường đại học;
- Đề xuất biện pháp thương mại hóa các kết quả nghiên cứu [Bovkun A.S, 2014].
Với chủ đề gắn kết đào tạo với NCKH, tác giả Appalonova N.A. đã có bài nghiên
cứu “ВУЗ в системе интеграции научной и образовательной деятельности:
проблемы и перспективы” (Tạm dịch: Trường đại học trong hệ thống tích hợp đào tạo
và NCKH: các vấn đề và triển vọng). Bài báo đã khẳng định vấn đề nâng cao tính cạnh
tranh của đội ngũ cán bộ khoa học trong điều kiện nền kinh tế hiện đại là cấp thiết. Bài
báo phân tích các nguyên nhân lạc hậu của nền khoa học Nga so với thế giới và đề xuất
các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động nghiên cứu của giảng viên và sinh viên, trong
đó tập trung đến một số giải pháp:
- Nâng cao mức lương cho nhà khoa học;
- Tạo điều kiện để giảng viên phát triển các chức danh khoa học;
- Đổi mới các trang thiết bị để phục vụ nghiên cứu;
- Khuyến khích các giảng viên trẻ và sinh viên tham gia NCKH thông qua các
hội nghị NCKH, hội thảo khoa học quốc tế,…. để họ am hiểu và đam mê nghiên cứu
26
[Appalonova N.A., 2012].
Iusova V.V. với nghiên cứu “Методы оценки эффективности научно-
исследовательской деятельности высших учебных заведений” (Tạm dịch: Các
phương pháp đánh giá hiệu quả hoạt động nghiên cứu của các trường đại học). Nghiên
cứu đã tập trung vào nội dung đánh giá hiệu quả nghiên cứu của các trường đại học,
trong đó đề cập đến các vấn đề cơ bản sau:
- Tài chính cho hoạt động NCKH tại Nga và nước ngoài nửa cuối thế kỷ XX;
- Phương pháp đánh giá hiệu quả NCKH trong các trường đại học;
- Đưa ra các đề xuất về việc hoàn thiện các phương pháp đánh giá hiệu quả NCKH
[Iusova V.V., 2004].
Bên cạnh hệ thống các trường đại học dân sự, các nước trên thế giới đều có các
trường đại học quân sự. NCKH trong các trường đại học quân sự cũng rất quan trọng và
cũng đã có những bài viết về vấn đề này. Chúng ta có thể đề cập đến một số bài viết
nghiên cứu sau:
Học viện Quân sự của Mỹ tại West Point là một trong những trường đại học danh
tiếng của Mỹ. NCKH đã trở thành chức năng trọng tâm của nhà trường. Trong mục giới
thiệu về các trung tâm và hoạt động nghiên cứu: “Centers and Research activities”, Học
viện đã nhấn mạnh đến vai trò của NCKH đối với hoạt động của nhà trường. NCKH
được thực hiện thông qua các trung tâm nghiên cứu. Các trung tâm nghiên cứu sẽ đưa
nội dung nghiên cứu vào giảng dạy. Các trung tâm này sẽ quyết định đến sự năng động
và tiên phong của các Khoa. Các trung tâm nghiên cứu cũng là cây cầu kết nối nhà
trường với quân đội và quốc gia. Các sinh viên và các nhà khoa học sẽ phát triển năng
lực và làm việc tốt nhất ở các trung tâm nghiên cứu [USMA].
Trong bài viết “Science in Military” (Tạm dịch: Khoa học quân sự), tác giả Roz
Pitcock đã đề cập đến những người làm công tác KH&CN trong quân đội. Trong số hơn
1,4 triệu người hoạt động trong quân đội Mỹ thì có hơn 200.000 người thực hiện vai trò
là nhà khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Họ có đặc điểm chung đó là: trước hết họ là
quân nhân, thứ hai họ là nhà khoa học. Bài báo cũng giới thiệu về hoạt động đào tạo của
một số trường đại học quân sự của Mỹ như Học viện Hải quân Hoa Kỳ, Học viện Quân
sự và Học viện Không quân. Việc đào tạo ở các trường đại học quân đội Mỹ sẽ cung
27
cấp cho học viên khối kiến thức và kỹ năng toàn diện, giúp họ có thể đảm nhận nhiều vị
trí công tác khác nhau sau khi ra trường [Pitcock, 2011].
Trong tác phẩm “The Army University White Paper” (Tạm dịch: Sách trắng
trường đại học Quân đội), Quân đội Mỹ đã trình bày về vai trò, sứ mệnh, tầm nhìn chiến
lược và cấu trúc trường đại học Quân đội. Trường đại học quân đội sẽ hiện thực hóa triết
lý sứ mệnh của quân đội trong tổ chức giáo dục. Đại học Quân đội sẽ trở thành một tổ
chức học tập hàng đầu cho quân đội, phát triển các nhà lãnh đạo cho quân sự và dân sự
để giành chiến thắng trong môi trường an ninh trong tương lai. Để duy trì tính cạnh tranh
và phù hợp trong tương lai, Quân đội phải phát triển một tổ chức giáo dục kết hợp các
yếu tố hiệu quả nhất của các chương trình học tập hiện tại với cấu trúc và thực hành tốt
nhất của các trường đại học hàng đầu của Mỹ. Bộ Chỉ huy Huấn luyện và Giáo dục Quân
đội đang tổ chức các chương trình giáo dục quân sự theo một cấu trúc trường đại học
duy nhất. Theo đó, Đại học Quân đội tích hợp tất cả các trường trực thuộc Bộ Chỉ huy
Huấn luyện và Giáo dục Quân đội thành một cấu trúc giáo dục duy nhất được mô phỏng
theo nhiều hệ thống đại học quốc gia của nước Mỹ. Cấu trúc này bao gồm tất cả các
nhân tố của hệ thống giáo dục sĩ quan, sĩ quan bảo đảm, hạ sĩ quan và hệ thống giáo dục
dân sự. Các trường đại học quân đội chịu sự chỉ đạo, quản lý, giao nhiệm vụ trực tiếp từ
quân đội, có sự liên kết với nhau và cũng có sự hợp tác với các trường đại học dân sự
(công lập và tư thục) và các doanh nghiệp tư nhân [U.S.Army, 2015].
Về vai trò của nghiên cứu khoa học quân sự đã được phân tích trong nghiên cứu:
The Role of Scientific Research in Weapon Development: What is Military R&D and
How does It Work? (Tạm dịch: Vai trò của NCKH trong phát triển vũ khí: R&D quân
sự là gì và nó được thực hiện như thế nào?). Nghiên cứu đã phân tích vai trò quan trọng
của NCKH trong việc phát triển vũ khí của các quốc gia. Ngày nay, chiến tranh công
nghệ cao dựa trên các thành tựu của KH&CN nên vai trò của các nhà khoa học tài năng rất
quan trọng đối với các quốc gia để phát triển vũ khí tối tân, tạo dựng thế mạnh quân sự.
Nghiên cứu cũng chỉ ra, nguồn lực tài chính đầu tư cho R&D quân sự của Hoa Kì tập trung
phần lớn cho công nghiệp quốc phòng, phần dành cho các trường đại học là ít nhất [FAS].
Nghiên cứu được công bố 1998: “Implications for the United States Military
Academy” về vai trò của Học viện quân sự Hoa Kỳ trong thế kỷ 21. Nghiên cứu đã đề
28
cập đến xu hướng cải cách giáo dục và cách mạng giáo dục, đồng thời cũng đã đưa ra
những phân tích và khuyến nghị đối với vai trò của Học viện quân sự Hoa Kì trong
tương lai. Trong môi trường hội nhập quốc tế trong tương lai. Các sĩ quan trẻ mà Học
viện quân sự West Point đào tạo và giáo dục phải hiểu đa dạng các nền văn hóa và sự
khác biệt ngôn ngữ. Phát triển và giáo dục các sĩ quan trẻ trong các nhiệm vụ hội nhập
quốc tế đồng thời không được lơ là các nhiệm vụ chính. Học viên tốt nghiệp Học viện
quân sự được kì vọng tham gia kinh doanh nhiều hơn để đáp ứng những thách thức tài
chính. Các sĩ quan trong tương lai phải hiểu biết về sự tiến bộ công nghệ. Các nhà lãnh
đạo quân sự tương lai phải nhuần nhuyễn nhiều kỹ năng chung, đồng thời phải nắm
vững các lợi thế của các công nghệ mới [Whiteman, 1998].
Tác giả Steinbock với nghiên cứu: “The Challenges for America’s Defense
Innovation” đã chỉ ra, quân đội Mỹ vượt trội về ngân sách, sự tham gia toàn cầu và khả
năng công nghệ so với quân đội các quốc gia khác. Tuy nhiên, đầu tư cho quốc phòng
của Mỹ trong những năm gần đây có sự suy giảm tương đối. Việc cắt giảm hỗ trợ cho
phát triển công nghệ quốc phòng sẽ dẫn đến mất khả năng cạnh tranh dựa trên đổi mới
và làm xói mòn ưu thế quốc phòng của Hoa Kỳ. Vì vậy, cần có một chiến lược sản xuất
và đổi mới quốc phòng toàn diện để giữ vững ưu thế của quân đội Mỹ về công nghệ và
khả năng cạnh tranh thương mại toàn cầu của Hoa Kì [Steinbock, 2014].
Kỷ yếu hội thảo quốc tế về Quản lý R&D an ninh và quốc phòng do Trường Đại
học Kinh tế quốc gia và thế giới, Bungaria công bố với chủ đề: “Security and Defence
R&D Management: Policy, Concepts and Models” (Tạm dịch: Quản lý R&D trong lĩnh
vực an ninh và quốc phòng: chính sách, quan điểm và mô hình). Kỷ yếu hội thảo đã tập
hợp nhiều bài viết của các nhà khoa học trên thế giới về vấn đề quản lý R&D trong lĩnh
vực an ninh và quốc phòng. Các nhà khoa học đã bàn về các vấn đề chính sau: các khái
niệm và các mô hình cho quản lý R&D an ninh và quốc phòng, các chính sách cho quản
lý R&D và thực tiễn hoạt động quản lý R&D trong lĩnh vực an ninh – quốc phòng của
một số quốc gia trên thế giới. Các nghiên cứu đã tập trung đưa ra các giải pháp về mô
hình và các chính sách mới để quản lý hiệu quả hơn R&D trong lĩnh vực quốc phòng,
an ninh cho phù hợp với những thay đổi của thực tiễn, như: xây dựng và phát triển phần
mềm cơ sở dữ liệu trong R&D quốc phòng, gia tăng sản phẩm đổi mới và thương mại
29
hóa trong công nghiệp quốc phòng, khung quản lý rủi ro cho các dự án và các phương
pháp... Các bài nghiên cứu trong kỷ yếu đã cung cấp nhiều bài học kinh nghiệm của các
quốc gia trên thế giới cũng như các phương pháp và mô hình mới được đề xuất để quản
lý R&D trong lĩnh vực an ninh – quốc phòng được hiệu quả hơn [University of National
and World Economy, 2009].
Nghiên cứu “The Impact of Military Research and Development Priorities on the
Evolution of the Civil Economy in Capitalist States” của Barry Buzan and Gautam Sen
đã chỉ ra những ưu tiên R&D quân sự ảnh hưởng đến sự phát triển của các lĩnh vực chính
của nền kinh tế dân sự ở các nước tư bản. Các ưu tiên quân sự chiếm một tỷ lệ đáng kể
các nguồn lực mà các xã hội tư bản dành cho R&D, ví dụ, đối với Hoa Kỳ trong giai
đoạn 1982 -1984, R&D quân sự chiếm tới 28,9% tổng chi phí trong nước cho R&D. Các
ưu tiên quân sự thường ưu tiên phát triển công nghệ ở một số lĩnh vực so với các lĩnh
vực khác và khi các lĩnh vực này được mở ra cho mục đích quân sự, thường cũng có thể
xây dựng một ngành công nghiệp dân sự lớn dựa trên kết quả công nghệ đó, ví dụ như
năng lượng hạt nhân, hàng không dân dụng, vệ tinh không gian và máy tính. Do đó, một
số đỉnh cao của các nền kinh tế dân sự được định hình mạnh mẽ bởi các cơ hội được tạo
ra từ R&D quân sự. Bài báo đã phác họa một cách rộng nhất sự phát triển sản phẩm từ
R&D quân sự vào khu vực dân sự [Buzan, 1990].
Tác giả Bates Gill and James Mulvenon đã có bài viết: “Chinese Military-Related
Think Tanks and Research Institutions”, phân tích về mối liên kết giữa các tổ chức
nghiên cứu và các tổ chức cố vấn cấp cao với quân đội Trung Quốc. Sự phát triển và
chuyên nghiệp hóa của các tổ chức cố vấn cấp cao Trung Quốc, kết hợp với mức độ
tương tác ngày càng mở rộng giữa các nhà nghiên cứu quân đội Trung Quốc và người
nước ngoài đưa ra một loạt thách thức và cơ hội mới cho nghiên cứu học thuật. Bài viết
đã phân tích vai trò, nhiệm vụ và thành phần của các đơn vị trong hệ thống này, đánh
giá ảnh hưởng, quyền hạn và sự hữu ích của đầu ra từ các cơ quan này và đưa ra một số
hàm ý sơ bộ cho nghiên cứu phương Tây của quân đội Trung Quốc [Bates Gill, 2002].
Cách đào tạo nhân lực cho quân đội Anh đã được trình bày trong bài viết “The
university route into a career in the armed forces”. Nhân lực quân đội Anh có thể được
đào tạo trực tiếp từ các trường đại học quân đội Anh hoặc cũng có thể được đào tạo từ
30
các trường đại học dân sự. Sinh viên các trường đại học dân sự muốn làm việc trong
quân đội có thể đăng ký và trải qua cuộc tuyển chọn. Khi đã được lựa chọn, sinh viên sẽ
được cung cấp, hỗ trợ về các kiến thức quân sự bên cạnh các kiến thức chuyên môn tại
trường đại học và được hỗ trợ tài chính trong quá trình học tập. Người học phải cam kết
phục vụ quân đội sau khi tốt nghiệp đại học [Targetcareers].
Trong bài viết “Army University, CGSC1 welcome new leader” (Tạm dịch: Đại
học quân sự, CGSC bổ nhiệm lãnh đạo mới), Christopher Burnett đã viết về những quan
điểm của Kirby Brown (phó tổng giám đốc Trung tâm vũ khí kết hợp) về vai trò của
trường đại học quân đội và những yêu cầu mới đối với trường đại học quân đội Mỹ. Hệ
thống trường đại học quân đội là kênh chính để đào tạo những người lính và để phát
triển các chuyên gia quân sự và dân sự để đáp ứng các yêu cầu nhiệm vụ đương đại.
Việc gia tăng sự khắt khe của các chương trình giáo dục của quân đội thông qua việc
công nhận rộng rãi hơn, thúc đẩy hợp tác nhiều hơn với các trường đại học và cao đẳng
hàng đầu của quốc gia, và cải thiện hội nhập giữa các trường quân đội là rất quan trọng
trong điều kiện mới.
Trong bài viết “Army Science and Technology” (Tạm dịch: KH&CN quân sự) đã
giới thiệu về vai trò của hoạt động KH&CN quân sự. KH&CN quân sự cung cấp những
sáng tạo để giữ vững sức mạnh quân đội và là chìa khóa để phát triển các công nghệ và
chiến lược giúp cho quân đội thần tốc, viễn chinh và lợi hại hơn. Chương trình KH&CN
quân sự thực hiện một số vai trò cơ bản sau:
- Nghiên cứu cơ bản;
- Nghiên cứu công nghệ;
- Lựa chọn công nghệ đổi mới;
- Chế tạo vật mẫu thực nghiệm và hoàn thiện hệ thống hiện hành.
Hiện nay, hoạt động nghiên cứu là tiêu chí quan trọng xác định vị trí thứ bậc của
trường đại học trong bất kì một hệ thống GDĐH của quốc gia và quốc tế. Trong bảng
tiêu chí xếp hạng trường đại học của các tổ chức xếp hạng đại học uy tín nhất trên thế
giới, NCKH là một yếu tố bắt buộc và chiếm một tỷ trọng cao trong bảng tiêu chí. Ví
dụ, trong bộ tiêu chí của THE (Times Higher Education), NCKH chiếm trọng số 30%
1 CGSC: the Command and General Staff College
31
[THE, 2017]. Trong bộ tiêu chí đánh giá của QS (Quacquarelli Symonds), danh tiếng
học thuật (chất lượng giảng dạy và nghiên cứu) chiếm 40%, số trích dẫn khoa học trên
mỗi giảng viên chiếm 20% [QS, 2018]. Hay trong bộ tiêu chí của ARWU (Shanghai
Academic Ranking of World Universities), tiêu chí nghiên cứu khoa học cũng chiếm trọng
số 40% [ARWU, 2017]. Do đó, các trường đại học uy tín và được xếp hạng cao trên thế
giới đều là trường đại học rất mạnh trong nghiên cứu và có các kết quả nghiên cứu tốt.
Như vậy, qua phần tổng quan các công trình nghiên cứu được công bố ở nước
ngoài có liên quan đến đề tài luận án cho thấy, các nhà nghiên cứu ở nước ngoài đều
khẳng định, NCKH là chức năng quan trọng trong các trường đại học. NCKH là hoạt
động bắt buộc và có quan hệ chặt chẽ với chức năng đào tạo trong các trường đại học
và khẳng định vị trí của các trường đại học. Các trường đại học thực hiện tốt NCKH sẽ
là những trường đại học có chất lượng đào tạo tốt và có danh tiếng, vị trí cao trong bảng
xếp hạng các trường đại học trên thế giới.
Trong các công trình nghiên cứu của mình, các tác giả cũng đã đề xuất những
giải pháp để phát triển NCKH trong các trường đại học, trong đó có các biện pháp:
- Cung cấp các nguồn lực phục vụ cho nghiên cứu;
- Tạo điều kiện cho giáo viên và sinh viên, người học trong hoạt động nghiên cứu;
- Thương mại hóa các kết quả nghiên cứu;
- Bảo hộ các sản phẩm nghiên cứu được tạo ra trong trường đại học đặc biệt là
về mặt sở hữu trí tuệ;
- Hoàn thiện phương pháp đánh giá hiệu quả NCKH trong trường đại học.
Đây là những bài học tốt để Việt Nam có thể học hỏi, rút kinh nghiệm và vận
dụng linh hoạt, phù hợp vào điều kiện đất nước mình.
1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước
1.2.1. Các công trình nghiên cứu trong nước về nghiên cứu khoa học của các trường
đại học
Các tác giả Việt Nam cũng có nhiều công trình nghiên cứu về NCKH của các
trường đại học ở các nước trên thế giới cũng như các trường đại học của Việt Nam.
Tác giả Đặng Văn Huấn trong bài viết “Giao đại học quyền tự chủ: Kinh nghiệm từ
Hàn Quốc” đã chỉ rõ các giai đoạn cải cách GDĐH Hàn Quốc và những bài học kinh
32
nghiệm cho cải cách GDĐH ở Việt Nam. Một trong những cải cách đột phá trong GDĐH
Hàn Quốc là trao quyền tự chủ cho các trường đại học và thay đổi cơ chế quản lý của Nhà
nước khi giao quyền tự chủ cho các trường quyết định chỉ tiêu tuyển sinh và quản lý trường
cũng như tạo hệ thống hỗ trợ đặc biệt cho NCKH. Và cho đến nay, GDĐH Hàn Quốc đã
đạt được nhiều thành tựu to lớn trong đó có thành tựu về NCKH [Đặng Văn Huấn, 2011].
Tác giả Hoàng Xuân Long với bài viết: “Kinh nghiệm thế giới về đầu tư cho
NCKH và phát triển công nghệ” đã trình bày những kinh nghiệm đầu tư cho hoạt động
NCKH và phát triển công nghệ của các quốc gia tiên tiến trên thế giới. Bài viết đã chỉ
ra lượng đầu tư tài chính cho hoạt động NCKH và phát triển công nghệ của các quốc gia
trên thế giới, các nguồn tài trợ, đầu tư cho hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển
công nghệ cũng như vai trò quan trọng của các doanh nghiệp trong việc đầu tư, phát
triển hoạt động này [Hoàng Xuân Long, 2014] .
Tác giả Phan Quốc Nguyên với bài viết “mô hình doanh nghiệp Spin-0ff trong
các trường đại học trên thế giới” đã cho thấy mô hình các doanh nghiệp hoạt động hiệu
quả của một số trường đại học trên thế giới. Tác giả cho rằng, việc xây dựng và phát
triển các doanh nghiệp KH&CN là một trong những hướng đi chính để chuyển giao và
thương mại hóa các kết quả nghiên cứu từ các phòng thí nghiệm, trường đại học và viện
nghiên cứu vào hoạt động sản xuất kinh doanh mà spin – off là loại hình khá phổ biến.
Theo mô hình chung, doanh nghiệp spin-off được hình thành do một nhóm nhà khoa
học có tinh thần và đầu óc kinh doanh rời khỏi tổ chức KH&CN (trường đại học, viện
nghiên cứu, phòng thí nghiệm quốc gia hay thậm chí là một cơ sở R&D của doanh
nghiệp) để bắt đầu công việc kinh doanh mới, độc lập với tổ chức KH&CN tiền thân.
Tổ chức KH&CN tiền thân sẽ hỗ trợ cho doanh nghiệp spin-off bằng cách chuyển giao
bí quyết công nghệ và hỗ trợ các phương tiện trực tiếp khác [Phan Quốc Nguyên, 2010].
Các công trình nghiên cứu của các tác giả Việt Nam về hoạt động NCKH trên
thế giới đã cung cấp cho chúng ta những cách làm của các quốc gia trên thế giới để làm
cho hoạt động KH&CN của các trường đại học trở nên sôi động và hiệu quả. Trong đó,
đặc biệt nhấn mạnh đến việc liên kết giữa trường đại học và doanh nghiệp trong hoạt động
nghiên cứu. Đây cũng là những bài học để Việt Nam có thể học hỏi và áp dụng vào thực
tiễn quản lý KH&CN của quốc gia nói chung cũng như các trường đại học nói riêng.
33
NCKH trong các trường đại học ở Việt Nam có thể coi là vấn đề nóng, được thảo luận,
nghiên cứu khá nhiều trong thời gian vừa qua và đã có nhiều công trình, bài viết về vấn đề này.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế: “Chính sách nghiên cứu và đào tạo trong quá
trình chuyển đổi ở Việt Nam” do trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại
học Quốc gia Hà Nội tổ chức với các báo cáo khoa học trình bày về hoạt động nghiên
cứu trong các trường đại học và hình thành mô hình đại học nghiên cứu ở Việt Nam.
Các báo cáo đã đề cập đến nhiều vấn đề như giải pháp nâng cao năng lực nghiên cứu
trong trường đại học và chính sách gắn nghiên cứu với đào tạo, giải pháp xây dựng mô
hình đại học nghiên cứu,… Các báo cáo đều hướng đến nhu cầu xây dựng những luận
cứ khoa học xác đáng cho việc đổi mới chính sách trong công tác đào tạo và nghiên cứu
ở các trường đại học Việt Nam.
Cuốn sách: “Nghịch lý và lối thoát – Bàn về triết lý khoa học và giáo dục Việt
Nam” [Vũ Cao Đàm, 2014] là một cuốn sách rất hữu ích đối với các nhà hoạch định
chính sách, các nhà quản lý giáo dục và khoa học, các nhà nghiên cứu, các nhà giáo, nhà
khoa học. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả đặc biệt nhấn mạnh đến mối quan
hệ hữu cơ, không thể tách rời giữa khoa học và giáo dục. Tác giả cho rằng, sự phân ly
giữa hai hoạt động này là một khuyết tật trong hệ thống KH&CN, gây ra rất nhiều lãng
phí cho cộng đồng khoa học và giáo dục nói riêng cũng như cho xã hội nói chung. Trong
biện pháp về tái cấu trúc hệ thống khoa học và giáo dục, tác giả nhấn mạnh mô hình ấy
phải chấm dứt sự ngăn cách giữa đào tạo với nghiên cứu và sản xuất, cụ thể:
- Tái hội nhập nghiên cứu và đào tạo trong khuôn khổ một loại hình tổ chức như
tên gọi truyền thống là “University” (Đại học).
- Tái hội nhập nghiên cứu và sản xuất trong khuôn khổ các doanh nghiệp, trong đó,
hoạt động nghiên cứu và triển khai (R&D) thực sự đóng vai trò là một hoạt động thúc đẩy
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Và một điều cực kì quan trọng là chúng ta cần hướng
tới một thể chế “Nhà nước thực sự quản lý vĩ mô về khoa học và giáo dục”.
Cuốn sách chuyên khảo “Tổ chức và hoạt động CGCN: Kinh nghiệm của
Australia và đề xuất cho Việt Nam” do tác giả Trần Văn Hải làm chủ biên đã đề cập đến
nhiều vấn đề về hoạt động CGCN trong đó có hoạt động CGCN trong các trường đại
học. Công trình đã cho thấy, các trường đại học của Australia cũng như ở các quốc gia
34
phát triển trên thế giới sở hữu số lượng bằng sáng chế khá lớn. Các sáng chế này là kết
quả của hoạt động nghiên cứu trong các trường đại học và sau đó chúng sẽ được chuyển
giao vào áp dụng trong thực tiễn. Vì vậy, các trường đại học ở các quốc gia phát triển
đóng vai trò quan trọng trong hoạt động CGCN của các nước này. Bên cạnh đó, công
trình đã cung cấp những thông tin và kinh nghiệm về hoạt động CGCN của một số
trường đại học của Việt Nam như Đại học Bách Khoa Hà Nội, Đại học Thái Nguyên.
Nghiên cứu cũng đã đề xuất: tăng cường liên kết giữa trường đại học – viện nghiên cứu
– doanh nghiệp để gia tăng khả năng CGCN cũng như việc áp dụng kết quả nghiên cứu
của các trường đại học của Việt Nam vào thực tiễn [Trần Văn Hải, 2017].
Trong sách chuyên khảo “Kỹ năng đánh giá chính sách”, tác giả Trịnh Ngọc
Thạch đã đề cập đến chính sách giáo dục của Mỹ và một số quốc gia khác trên thế giới
nhằm phát triển NCKH và gắn với đào tạo trong các trường đại học, đặc biệt là đại học
nghiên cứu. Các trường đại học nghiên cứu trên thế giới đều thực hiện đồng bộ ba chức
năng: đào tạo, NCKH – CGCN và phục vụ cộng đồng. Để thực hiện tốt các chức năng
này, mô hình cơ cấu tổ chức của các trường đại học thường chú trọng đến ba hệ thống
có mối quan hệ hữu cơ, gắn bó với nhau là: đào tạo, nghiên cứu và dịch vụ [Trịnh Ngọc
Thạch, 2017]. Mô hình này cũng được các tác giả nhắc tới trong cuốn “Mô hình đại học
doanh nghiệp – Kinh nghiệm quốc tế và gợi ý cho Việt Nam”. Qua đó, tác giả cũng đã
nêu những gợi mở cho chính sách phát triển nghiên cứu khoa học trong các trường đại
học của Việt Nam, chú trọng tới chính sách trao quyền tự chủ và đầu tư tài chính cho
NCKH của các trường đại học [Trần Anh Tài, 2014].
Một nghiên cứu lớn về NCKH của các trường đại học cũng đã được thực hiện đó
là đề tài: “Nghiên cứu hiện trạng và định hướng phát triển hoạt động NCKH và phát
triển công nghệ của các trường đại học phù hợp với xu hướng đổi mới quản lý hoạt
động KH&CN của Việt Nam trong tiến trình hội nhập KH&CN quốc tế” do TS. Trịnh
Ngọc Thạch làm chủ nhiệm đề tài. Báo cáo tổng kết của đề tài đã đề cập đến nhiều vấn
đề: vai trò của trường đại học đối với sự phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng
tạo, kinh nghiệm về phát triển hoạt động nghiên cứu và triển khai trong các trường đại
học, thực trạng hoạt động nghiên cứu và triển khai trong các trường đại học Việt Nam.
Đề tài này đã chỉ ra, hoạt động nghiên cứu ở các trường đại học của Việt Nam hiện nay
35
còn nặng về nghiên cứu lý thuyết, khả năng áp dụng thấp. Việc bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ đối với các kết quả nghiên cứu trong trường đại học cũng chưa được quan tâm, chú
trọng. Điều này được thể hiện bằng việc số lượng bằng độc quyền sáng chế và giải pháp
hữu ích đến từ các trường đại học của Việt Nam rất thấp và chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong
tổng số bằng độc quyền sáng chế được cấp tại Việt Nam. Đề tài cũng đã đề ra những
giải pháp để phát triển hoạt động nghiên cứu trong các trường đại học của Việt Nam như
giải pháp đối với kết quả nghiên cứu, giải pháp hành chính – tổ chức, giải pháp về tài
chính và nhân lực [Trịnh Ngọc Thạch, 2017]. Trong đề tài này, các tác giả chưa đề cập
đến mô hình cơ cấu tổ chức cho các trường đại học của Việt Nam để thực hiện tốt các
chức năng đào tạo, NCKH và phục vụ xã hội.
Bên cạnh các đề tài nghiên cứu, các sách chuyên khảo, nhiều bài viết trên các tạp
chí cũng đã đề cập đến NCKH của các trường đại học Việt Nam.
Hiệu quả NCKH trong các trường đại học của Việt Nam hiện nay chưa cao là vấn
đề được tác giả Nguyễn Bích Thủy nhắc đến trong bài viết: “Thúc đẩy NCKH trong các
trường đại học”. Bài viết đã chỉ ra nguyên nhân của hiện tượng trên do các giảng viên của
các trường đại học của Việt Nam có một tỷ lệ lớn là các giảng viên trẻ, có trình độ đại học
và thạc sĩ, thời gian dành cho NCKH còn ít. Chính điều này đã có ảnh hưởng không tích
cực đến chất lượng đào tạo đại học. Muốn đào tạo một đội ngũ cán bộ KH&CN tốt, các
trường đại học cần chú trọng và ưu tiên cho công tác nghiên cứu [Nguyễn Bích Thủy, 2014].
Bài viết với nhan đề “NCKH – Yêu cầu bắt buộc đối với đội ngũ giảng viên trong
các trường đại học” của tác giả Lê Hữu Ái, Lâm Bá Hòa đã chỉ ra NCKH của đội ngũ
giảng viên là tiêu chí để đánh giá chất lượng đào tạo đại học. Bài báo phác họa thực
trạng công tác NCKH của đội ngũ giảng viên trong các trường đại học ở Việt Nam hiện
nay và đề xuất một số giải pháp để xây dựng đại học nghiên cứu ở Việt Nam như:
- Phát huy mạnh mẽ vai trò của đội ngũ cán bộ khoa học; tôn vinh cán bộ khoa
học bằng cả vật chất và tinh thần;
- Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực khoa học;
- Tạo dựng đội ngũ cán bộ khoa học đông đảo về số lượng nhưng phải gắn liền
với chất lượng [Lê Hữu Ái, 2010].
Tác giả Nguyễn Bính với bài viết “NCKH góp phần nâng cao trình độ giảng viên
36
đại học” đã khẳng định, NCKH và CGCN góp phần quan trọng vào việc nâng cao trình
độ khoa học của giảng viên, nâng cao chất lượng đào tạo, đồng thời khẳng định vị thế
và uy tín của trường với xã hội. Tác giả cũng nêu ra hai vấn đề lớn đang gặp phải trong
công tác NCKH của giảng viên. Thứ nhất, năng lực tham gia NCKH và CGCN của bộ
phận lớn giảng viên còn hạn chế. Thứ hai, các giảng viên trẻ gặp nhiều khó khăn trong
công tác NCKH như khó khăn về tài chính và kinh nghiệm nghiên cứu. Bài viết cũng đã
chỉ ra những điều kiện cần thiết để giúp một giảng viên đại học có thể thành công trong
công tác NCKH kết hợp hài hòa với giảng dạy [Nguyễn Bính, 2010].
Tác giả Hiên Kiều với bài viết “NCKH trong trường đại học: Gắn nhà trường
với doanh nghiệp” đã nêu quan điểm gắn trường đại học với doanh nghiệp để nâng cao
hiệu quả NCKH của trường đại học. Trong điều kiện nguồn kinh phí dành cho NCKH
còn nhiều hạn chế thì việc hợp tác với doanh nghiệp là giải pháp quan trọng, tối ưu,
mang lại lợi ích cho cả nhà nghiên cứu, trường đại học và các doanh nghiệp. Công tác
sở hữu trí tuệ ở các trường cần được quan tâm đúng mức để quản lý và khai thác hiệu
quả các kết quả nghiên cứu [Hiên Kiều, 2014].
Nguyễn Huy Sự với bài viết “Tự chủ tài chính NCKH tại các trường cao đẳng,
đại học”. Tác giả đã đưa ra một số giải pháp để phát huy NCKH trong điều kiện tự chủ
tài chính của các trường đại học như các trường cần cân đối đầu tư kinh phí thích đáng
cho hoạt động này, mở rộng nguồn thu và khoán chi; hoàn thiện quy chế chi tiêu nội bộ;
đào tạo nâng cao năng lực quản lý tài chính cho các đơn vị trong trường, đầu tư hiệu quả
nhằm hiện đại hóa trung tâm thông tin tư liệu, các cơ sở thực hành, phòng thực nghiệm...
Nhưng nhìn chung những giải pháp mà tác giả đề xuất còn quá chung chung và khó triển
khai [Nguyễn Huy Sự, 2017].
Tác giả Hà Phương với bài viết “Hoạt động khoa học công nghệ ở trường đại
học thay đổi thế nào?” đã cho thấy, những năm qua, hoạt động KH&CN trong các
trường đại học ngày càng được chú trọng đầu tư, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo.
Kết quả NCKH vì thế có trọng số rất cao trong xếp hạng các trường đại học thế giới.
Bài viết cũng đã chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong NCKH của các trường
đại học hiện nay là: sự quan tâm của lãnh đạo các trường đại học về vai trò của hoạt
động KH&CN trong các trường đại học là chưa cao; tiềm lực KH&CN của các trường
37
đại học quá mỏng; đầu tư cho hoạt động KH&CN còn rất hạn chế, dàn trải, thiếu quy
hoạch đồng bộ; thiếu các vườn ươm công nghệ, thiếu các trung tâm sản xuất thử nghiệm
và thiếu các khu thương mại hóa sản phẩm KH&CN; cách thức tổ chức hoạt động
KH&CN trong các trường đại học còn mang nặng tính thủ tục hành chính và quy
trình…[Hà Phương, 2017].
Tác giả Phạm Huy Tiến với nghiên cứu: “Tái cấu trúc các viện nghiên cứu để
thực hiện chức năng đào tạo” đã cho thấy tính lịch sử của sự phân ly giữa khoa học và
GDĐH. Về mối quan hệ giữa khoa học và giáo dục, tác giả cho rằng, sự phân ly giữa
khoa học với sản xuất và đào tạo nói chung hay sự phân ly giữa khoa học và GDĐH nói
riêng mang tính chất lịch sử và trong điều kiện ngày nay thì sự phân ly này không còn
phù hợp nữa. Kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế tạo động lực cho sự gắn kết khoa
học và GDĐH. Hội nhập quốc tế là cơ hội cho các nhà lãnh đạo, quản lý tiếp cận với
nền khoa học và giáo dục thế giới sâu sắc hơn và sẽ là tác nhân quan trọng cho hoạch
định chính sách phát triển đất nước, sẽ hiểu được những bất cập của phân ly khoa học
và GDĐH và tìm cách khắc phục nó. Hội nhập quốc tế không cho phép “một mình một
chợ” mà phải chấp thuận luật lệ chung cũng như tính hợp chuẩn của hoạt động và kết
quả hoạt động, vì vậy sẽ là động lực thúc đẩy, khắc phục dần sự phân ly giữa khoa học
và GDĐH [Phạm Huy Tiến, 2016].
Như vậy, hiện nay có khá nhiều các công trình nghiên cứu đã công bố ở trong
nước có liên quan tới NCKH trong trường đại học. Các công trình nghiên cứu này đã
tập trung phân tích vai trò của NCKH đối với các trường đại học, phân tích thực trạng
và đề xuất những giải pháp để giúp cho các trường đại học thực hiện tốt hơn chức năng
này. Các nghiên cứu đều khẳng định NCKH nâng cao chất lượng đào tạo nhưng sự tác
động này thể hiện cụ thể như thế nào thì lại chưa được phân tích. Các giải pháp mà các
công trình nghiên cứu trên đã đề xuất tập trung chủ yếu đến tăng cường các nguồn lực
cho hoạt động nghiên cứu như tài chính, nhân lực, cơ sở vật chất,… và mở rộng mối
quan hệ với doanh nghiệp để đẩy mạnh CGCN trong các trường đại học. Cơ cấu tổ chức
của các trường đại học Việt Nam đã phù hợp để thực hiện chức năng nghiên cứu hay
chưa thì chưa được đề cập cụ thể.
1.2.2. Các công trình nghiên cứu về nghiên cứu khoa học của các trường đại học
quân đội
38
Các trường đại học quân đội trong những năm qua cũng đã quan tâm và chú trọng
đến chức năng NCKH bên cạnh chức năng đào tạo. Hiện nay, cũng đã có những công
trình nghiên cứu về thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả của NCKH trong các
trường đại học quân đội.
Trong Kỷ yếu hội thảo khoa học “Gắn kết NCKH với đào tạo tiến sĩ trong các cơ sở
đào tạo Sau đại học” do Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) tổ chức 7/2009, đã có một số
bài viết về gắn kết NCKH với đào tạo sau đại học của các trường đại học quân đội.
Tác giả Phạm Thế Long với bài viết: “Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực
NCKH của nghiên cứu sinh trong đào tạo tiến sĩ” đã chỉ ra những việc đã làm được và
những hạn chế trong việc gắn NCKH với đào tạo tiến sĩ tại Học viện Kỹ thuật Quân sự
và đề xuất một số biện pháp để nâng cao năng lực NCKH của nghiên cứu sinh. Học viện
đã đưa hoạt động sinh hoạt khoa học của các nghiên cứu sinh thành hoạt động thường
niên. Mỗi năm nghiên cứu sinh phải có ít nhất 2 lần báo cáo kết quả nghiên cứu của mình
trong các hội nghị seminar, yêu cầu các nghiên cứu sinh tham gia báo cáo tại: “Hội nghị
các nhà nghiên cứu trẻ” được tổ chức hàng năm. Với mục đích gắn đào tạo tiến sĩ với
NCKH, Học viện luôn tạo điều kiện và giúp đỡ nghiên cứu sinh tham gia đề tài các cấp.
Nhiều kết quả nghiên cứu của nghiên cứu sinh là sản phẩm đã được đưa vào trang bị của
quân đội. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, NCKH trong đào tạo nghiên cứu sinh của
Học viện Kỹ thuật Quân sự cũng còn những hạn chế như về cơ sở trang thiết bị, về tổ chức
quản lý, về công bố kết quả nghiên cứu trên các tạp chí quốc tế [Phạm Thế Long, 2009].
Tác giả Hoàng Văn Lương với bài nghiên cứu: “Học viện quân y trong việc gắn
kết NCKH với đào tạo tiến sĩ” đã trình bày việc gắn NCKH với nhiệm vụ đào tạo nói
chung và đào tạo tiến sĩ nói riêng, đồng thời cũng đưa ra một số bài học kinh nghiệm.
NCKH của Học viện luôn hướng tới những vấn đề mới của ngành y tế nhằm góp phần
nâng cao năng lực nghiên cứu của cán bộ, giảng viên, học viên sau đại học. Học viện
luôn xác định các luận án, luận văn của học viên sau đại học là một sản phẩm nghiên
cứu của đề tài, dự án. Nhiều sản phẩm KH&CN của Học viện được ứng dụng vào công
tác đào tạo…Để đạt được những kết quả rất tốt trong hoạt động này, Học viện Quân y
đã có những bài học kinh nghiệm quý báu như giao cho các nghiên cứu sinh và học viên
cao học thực hiện các đề tài nghiên cứu ở các bộ môn, trung tâm nghiên cứu; chủ nhiệm
39
đề tài nghiên cứu phối hợp với các giáo viên hướng dẫn để tạo điều kiện cho nghiên cứu
sinh tham gia và thực hiện từng phần các công trình NCKH có liên quan đến luận án
của nghiên cứu sinh [Hoàng Văn Lương, 2009].
Trong bài nghiên cứu: “Gắn kết NCKH với đào tạo tiến sĩ ở Học viện Lục quân”,
tác giả Nguyễn Hữu Mão đã khẳng định, NCKH góp phần nâng cao chất lượng đào tạo
nghiên cứu sinh. Tác giả cũng đã phân tích thực trạng tình hình gắn NCKH với đào tạo
tiến sĩ tại Học viện Lục quân. Qua đó, tác giả đã đề xuất một số biện pháp để thực hiện
tốt công tác NCKH và đào tạo tiến sĩ, như tăng cường gắn kết NCKH với hoạt động
thực tiễn huấn luyện, chiến đấu; cải thiện điều kiện làm việc, nghiên cứu cho cán bộ
khoa học, tăng kinh phí cho NCKH hàng năm,…[Nguyễn Hữu Mão, 2009].
Trong các công trình luận án, luận văn của Khoa Khoa học quản lý, trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội cũng có một số công trình
nghiên cứu bàn về NCKH và đào tạo có liên quan đến đến các trường đại học quân đội.
Tác giả Đặng Huy Hiếu với nghiên cứu: “Khắc phục những rào cản trong quá
trình chuyển đổi hoạt động theo hướng tự chủ tại các Viện nghiên cứu thuộc Tổng cục
Công nghiệp Quốc phòng” đã khuyến nghị một số giải pháp khắc phục rào cản trong
quá trình chuyển đổi hoạt động theo xu hướng tự chủ của các Viện nghiên cứu trong
Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng gồm: Nhà nước, Bộ Quốc phòng hạn chế giao đề
tài nhiệm vụ KH&CN; khuyến khích, tạo điều kiện thực hiện các đề tài KH&CN theo
đề xuất của các tổ chức KH&CN; xóa bỏ phân cấp đề tài nghiên cứu KH&CN và giảm
thiểu các thủ tục hành chính trong hoạt động KH&CN; tập trung nguồn kinh phí phục
vụ cho hoạt động KH&CN của các viện nghiên cứu và có chính sách trả công xứng đáng
cho các nhà khoa học; đảm bảo đầy đủ điều kiện về cơ sở hạ tầng để các Viện nghiên
cứu triển khai các hoạt động KH&CN. Đây có thể là những gợi ý tham khảo đối với các
viện nghiên cứu trong các trường đại học quân đội khi thực hiện quá trình tự chủ [Đặng
Huy Hiếu, 2017].
Tác giả Nguyễn Thị Thu Hà đã thực hiện nghiên cứu: “Tạo môi trường làm việc
thân thiện nhằm thu hút nguồn nhân lực KHCN về công nghệ sinh học trong y học
(Nghiên cứu trường hợp Học viện Quân y)”. Nghiên cứu đã làm rõ những tác động của
môi trường làm việc đối với việc thu hút nhân lực KH&CN nói chung và nhân lực
40
KH&CN về công nghệ sinh học và đã trình bày các học thuyết tạo động lực để thu hút
nhân lực KH&CN. Đề tài đã phân tích thực trạng môi trường làm việc trong lĩnh vực
công nghệ sinh học tại Học viện Quân y như cơ sở hạ tầng, nhân lực, kết quả hoạt động.
Trên cơ sở đó, tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng môi trường làm việc
thân thiện để thu hút nhân lực KH&CN vào hoạt động trong lĩnh vực công nghệ sinh học
tại Học viện Quân y như: tạo cơ hội thăng tiến, tạo mối quan hệ tốt đẹp giữa các thành
viên, trang bị cơ sở vật chất, ghi danh và tôn vinh những đóng góp của nhà khoa học
[Nguyễn Thị Thu Hà, 2010].
Tác giả Nguyễn Khắc Bảo với nghiên cứu: “Đổi mới chính sách đào tạo để nâng
cao chất lượng nhân lực khoa học công nghệ của nhà máy X51”. Nghiên cứu đã chỉ ra
các hình thức và chính sách đào tạo nhân lực KH&CN tại nhà máy X51, trong đó có
hình thức cử người đi học tại các trường chính quy. Nghiên cứu đã đánh giá tính hiệu
quả cao của hình thức đào tạo này đối với việc nâng cao kiến thức lý thuyết và thực hành
cho cán bộ, nhân viên của nhà máy. Vì vậy việc liên kết giữa trường đại học và các đơn
vị trong quân đội trong việc đào tạo cán bộ là quan trọng để phát triển đội ngũ nhân lực
KH&CN chất lượng cao cho quân đội [Nguyễn Khắc Bảo, 2013].
Cũng bàn về vấn đề đào tạo nhân lực cho doanh nghiệp quốc phòng, tác giả Lê
Quang Đạo có nghiên cứu: “Đào tạo nhân lực khoa học và công nghệ trong doanh
nghiệp thông qua liên kết với trường đại học (nghiên cứu trường hợp doanh nghiệp
Viettel)”. Tác giả đã làm rõ vai trò của trường đại học trong đào tạo và phát triển nhân
lực KH&CN, mối quan hệ giữa trường đại học với doanh nghiệp trong đào tạo nhân lực
KH&CN cho doanh nghiệp. Tác giả đã tìm hiểu tổng quan mô hình doanh nghiệp Viettel
và Đại học Quốc gia Hà Nội, nêu lên các nhận xét đánh giá sự liên kết đào tạo giữa hai
đơn vị. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất các giải pháp về chia sẻ nguồn lực, hình thành các
cách thức phối hợp khác nhau, liên kết xây dựng nội dung chương trình đào tạo và
nghiên cứu môi trường, chính sách, hành lang pháp lý để việc liên kết giữa trường dại
học và các doanh nghiệp (trong đó có các doanh nghiệp quân đội) trong việc đào tạo
nhân lực đạt hiệu quả hơn [Lê Quang Đạo, 2013].
Bên cạnh đó, trên các tạp chí khoa học chuyên ngành, nhiều tác giả đã có những
bài viết về NCKH của các trường đại học trong quân đội.
41
Tác giả Liêu Quốc Thắng với bài viết: “NCKH – một nhiệm vụ quan trọng của
người giảng viên trong các nhà trường quân đội” đã khẳng định NCKH rất có ý nghĩa
đối với giảng viên trong các nhà trường quân đội. NCKH giúp giảng viên hoàn thiện tri
thức, hoàn thiện kỹ năng và nâng cao vị thế của giảng viên và nhà trường với xã hội.
Chính vì vậy, các giảng viên cần nhận thức đúng về tầm quan trọng của hoạt động này,
tích cực chủ động trong NCKH để nâng cao trình độ của bản thân và nâng cao chất
lượng giảng dạy [Liêu Quốc Thắng, 2014].
Tác giả Nguyễn Quốc Đoàn với bài viết: “Nội dung và hình thức hoạt động
nghiên cứu khoa học quân sự” đã trình bày khái niệm về hoạt động NCKH quân sự và
đồng thời khẳng định hoạt động NCKH quân sự được xác định là nhiệm vụ trọng tâm,
xuyên suốt của tất cả các cấp, các ngành trong Quân đội nói chung và trong các học
viện, nhà trường Quân đội nói riêng. Chất lượng, hiệu quả NCKH quân sự ngày một
nâng cao, góp phần quan trọng vào nhiệm vụ xây dựng Quân đội "cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại". Bài báo cũng đã trình bày về nội dung và các hình
thức hoạt động NCKH quân sự [Nguyễn Quốc Đoàn, 2015].
“Một số biện pháp đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, kết hợp giáo dục, đào tạo với
nghiên cứu khoa học trong nhà trường quân đội hiện nay” là bài viết của tác giả Phan
Văn Lương và Lê Văn Huấn. Bài viết đã khẳng định NCKH của các nhà trường quân
đội là cần thiết nhưng hiện nay còn nhiều hạn chế. Bài báo đã đề xuất một số giải pháp
để đẩy mạnh NCKH, gắn NCKH với đào tạo như nâng cao nhận thức, trách nhiệm của
các cơ quan, đơn vị trong nhà trường quân đội về sự cần thiết phải đẩy mạnh NCKH;
xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách và đầu tư cho NCKH; chuẩn hóa đội ngũ giảng
viên, cán bộ quản lý khoa học…[Phan Văn Lương, 2015].
Tác giả Vũ Xuân Dân đã có bài nghiên cứu về hiệu quả NCKH của đội ngũ nhà
giáo quân đội. Bài viết đã khẳng định nhiệm vụ NCKH, sáng kiến cải tiến kỹ thuật là
một trong những nhiệm vụ quan trọng của đội ngũ nhà giáo trong các nhà trường quân
đội. Tác giả đã trình bày một số kết quả NCKH của đội ngũ nhà giáo trong các trường
đại học quân đội. Các trường đại học trong quân đội căn cứ vào đặc điểm, tình hình
nhiệm vụ, yêu cầu thực tiễn, mỗi trường đều đã phát huy thế mạnh của mình vào từng
lĩnh vực nghiên cứu cụ thể. NCKH thời gian qua đã góp phần bồi dưỡng, nâng cao chất
42
lượng đội ngũ nhà giáo trong các nhà trường để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của quân
đội trong tình hình mới. Để tiếp tục phát huy vai trò của đội ngũ nhà giáo trong hoạt
động khoa học quân sự, các trường đại học quân đội đẩy mạnh công tác lãnh đạo, chỉ
đạo trong NCKH, sáng kiến cải tiến kỹ thuật, cần khuyến khích, hỗ trợ đội ngũ nhà giáo
cả về tinh thần và vật chất, kinh phí, tạo môi trường, điều kiện thuận lợi để các nhà giáo
nghiên cứu [Vũ Xuân Dân, 2016].
Vấn đề chất lượng của các sản phẩm NCKH ở các nhà trường quân đội cũng cần
được quan tâm và cải thiện. Trong bài viết “Góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm
NCKH ở các nhà trường quân đội”, tác giả Bùi Tiến Lợi đã nhận định chất lượng sản
phẩm NCKH của các nhà trường quân đội vẫn còn hạn chế, khả năng ứng dụng vào thực
tiễn còn ít [Bùi Tiến Lợi, 2014]. Điều này cũng đã được tác giả Đoàn Hùng Minh nêu
lên trong bài viết “Nâng cao hiệu quả kết nối tiềm lực NCKH – kỹ thuật công nghệ quân
sự”. Do đó, các nhà trường quân đội cần chú ý trong công tác quản lý, tổ chức thực hiện
đề tài nghiên cứu để nâng cao chất lượng của sản phẩm [Đoàn Hùng Minh, 2014].
Các trường đại học trong quân đội hầu hết đều nhận thức được tầm quan trọng
của NCKH trong công tác của nhà trường để nâng cao chất lượng đào tạo và đáp ứng
yêu cầu của thực tiễn. Điều này đã được phản ánh trong các bài nghiên cứu sau:
Tác giả Hoàng Trung Kiên với bài viết: “Nghiên cứu phục vụ giảng dạy và huấn
luyện vấn đề: lực lượng tăng thiết giáp đánh trả vũ khí công nghệ cao của địch trong giai
đoạn đầu của cuộc chiến tranh hiện đại” đã cho biết, trong chiến tranh hiện đại, địch có
thể sử dụng rộng rãi vũ khí công nghệ cao. Chính vì vậy, nghiên cứu về khả năng đánh
trả các đòn tấn công bằng vũ khí công nghệ cao của địch là vấn đề cấp thiết được đặt ra
và cần đưa vào áp dụng trong giảng dạy. Trước yêu cầu đó, trường sỹ quan Tăng thiết
giáp đã tiến hành nghiên cứu, từng bước đưa vào giảng dạy cho các đối tượng đào tạo và
phục vụ công tác huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu của các đơn vị tăng thiết giáp trong toàn
quân. Điều đó, thêm một lần nữa khẳng định, NCKH là hoạt động vô cùng cần thiết đối
với các trường đại học quân đội trong thời kì hiện nay [Hoàng Trung Kiên, 2014].
Trong bài viết “Một số biện pháp nâng cao chất lượng đào tạo và xây dựng Học
viện Hải quân vững mạnh toàn diện”, tác giả Lương Mạnh Cường cũng đã khẳng định
đẩy mạnh NCKH, biên soạn giáo trình, giáo khoa, tài liệu, xây dựng cơ sở vật chất phục
43
vụ huấn luyện là một nhiệm vụ trọng tâm, phải được quan tâm, chỉ đạo thực hiện nghiêm
túc để nâng cao chất lượng đào tạo của Học viện [Lương Mạnh Cường, 2011] .
Trong bài viết “Nâng cao chất lượng NCKH của đội ngũ giảng viên Trường Sỹ
quan Lục quân 1”, tác giả Nguyễn Hương Thảo đã chỉ ra một số hạn chế trong NCKH
của Trường Sỹ quan Lục quân 1 và đưa ra một số giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt
động này như: nâng cao nhận thức, trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ NCKH của đội ngũ
giảng viên; phát huy tính tích cực, chủ động của đội ngũ giảng viên; tăng cường năng
lực, cơ sở vật chất cho NCKH [Nguyễn Hương Thảo, 2014]. Cùng bàn về NCKH của
Trường Sỹ quan Lục quân 1, một tác giả khác cũng đã có bài viết công bố: “Nâng cao
chất lượng NCKH góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ giáo dục, đào tạo ở Trường
Sỹ quan Lục quân 1” [Đỗ Thanh Minh, 2016]. Bên cạnh đó, bàn về NCKH của Học
viện Lục quân, tác giả Trần Khắc Đào đã có bài viết “Học viện Lục quân đẩy mạnh
NCKH đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới” [Trần Khắc Đào, 2015].
Tác giả Hoàng Mạnh Hưng với bài viết: “Gắn NCKH với giáo dục và đào tạo ở
Học viện Chính trị” đã khẳng định NCKH góp phần nâng cao trình độ chuyên môn,
năng lực giảng dạy của đội ngũ giảng viên, chất lượng học tập của học viên. Ngược lại,
giáo dục, đào tạo là cơ sở, điều kiện để NCKH phát triển. Trong những năm qua, Học
viện Chính trị đã quan tâm, đẩy mạnh NCKH. Các kết quả NCKH trực tiếp góp phần
đổi mới nội dung, phương pháp dạy học. Tác giả cũng đề xuất một số giải pháp để phát
huy hoạt động này của Học viện như: phát huy hoạt động NCKH trong giảng viên, học
viên, hoàn thiện tổ chức và cơ chế hoạt động NCKH [Hoàng Mạnh Hưng, 2013].
Để thực hiện tốt được chức năng đào tạo và NCKH, Học viện Chính trị đã phối
hợp với Viện Khoa học Xã hội Nhân văn Quân sự trong công tác đào tạo và NCKH.
Điều này đã được thể hiện trong bài viết của tác giả Nguyễn Phương Đông: “Phối hợp
NCKH và đào tạo giữa Viện Khoa học Xã hội Nhân văn Quân sự với phòng Sau Đại
học ở Học viện Chính trị” [Nguyễn Phương Đông, 2015].
Tác giả Tăng Văn Đài và Lê Công Lịnh với bài viết: “Một số giải pháp nâng cao
chất lượng, hiệu quả thông tin khoa học quân sự phục vụ lãnh đạo, chỉ huy, quản lý giáo
dục - đào tạo, nghiên cứu khoa học tại các học viện, nhà trường Quân đội” đã khẳng
định thông tin khoa học quân sự là nguồn nguyên liệu quan trọng cho hoạt động NCKH
- công nghệ quân sự. Đối với các học viện, nhà trường Quân đội, là những trung tâm
44
giáo dục – đào tạo và NCKH nên thông tin khoa học quân sự rất quan trọng. Thông tin
khoa học quân sự cung cấp những cơ sở lý luận và thực tiễn, giúp lãnh đạo, chỉ huy các
học viện, nhà trường đề ra chủ trương, biện pháp trong lãnh đạo, quản lý và là nguồn tài
liệu chính phục vụ công tác đào tạo, NCKH. Tác giả đã đề xuất một số giải pháp để nâng
cao chất lượng, hiệu quả thông tin khoa học quân sự ở các học viện, nhà trường Quân
đội như: kiện toàn tổ chức, biên chế cơ quan thông tin khoa học quân sự; xây dựng và
phát triển nguồn nhân lực làm công tác thông tin khoa học quân sự; mở rộng trao đổi,
giao lưu liên kết, hợp tác thông tin; tích cực đầu tư mua sắm trang thiết bị, đẩy mạnh
ứng dụng công nghệ thông tin [Tăng Văn Đài, 2015].
Cùng bàn về vấn đề thông tin khoa học quân sự, tác giả Lê Văn Chung đã có bài
viết “Phát huy vai trò của các tạp chí ở các nhà trường quân đội đối với giáo dục, đào
tạo và NCKH”. Bài báo đã khẳng định, tạp chí ở các nhà trường quân đội có vị trí, vai
trò vô cùng quan trọng trong hoạt động giáo dục, đào tạo và NCKH. Các bài báo nghiên
cứu đăng trên các tạp chí là nguồn thông tin tin cậy, có giá trị khoa học cao, giúp đội
ngũ cán bộ, giảng viên, học viên trong hoạt động NCKH. Chính vì vậy, các cơ quan,
nhà trường quân đội cần phát huy tốt vai trò của các tạp chí nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục, đào tạo và NCKH [Lê Văn Chung, 2014].
Như vậy, các trường đại học quân đội cũng đã quan tâm phát triển chức năng
nghiên cứu bên cạnh chức năng đào tạo. Đã có khá nhiều nghiên cứu phân tích về vấn
đề này, các tác giả đều khẳng định NCKH là cần thiết đối với các trường đại học quân
đội trong thời kỳ hội nhập hiện nay. Nhưng sự đặc trưng và khác biệt trong chức năng
NCKH của các trường đại học quân đội so với các trường đại học dân sự lại chưa thấy
được đề cập và phân tích. Nhiều giải pháp đã được các tác giả đề xuất để khắc phục
những điểm hạn chế hiện có và đẩy mạnh hoạt động này trong các trường đại học quân
đội. Tuy nhiên, những giải pháp vẫn còn chung chung, chủ yếu tập trung vào khuyến
nghị sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, giảng viên cần chủ động, tích cực trong hoạt
động này, tăng nguồn kinh phí, cơ sở vật chất,… Các nghiên cứu chưa đề cập được đầy
đủ, hệ thống các yếu tố để hoàn thiện chức năng NCKH của các trường đại học quân
đội, đặc biệt là vấn đề cơ cấu tổ chức và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với các kết quả
nghiên cứu trong các trường đại học quân đội.
1.3. Tiểu kết chương 1
45
Hiện nay, ở phạm vi trong và ngoài nước, nhiều công trình nghiên cứu về chức
năng NCKH của các trường đại học đã được thực hiện. Các công trình nghiên cứu của
các tác giả đi trước đã tập trung vào các hướng sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về chức năng, chức năng NCKH của các trường đại học;
- Nghiên cứu về thực trạng thực hiện chức năng NCKH của các trường đại học
nói chung và các trường đại học quân đội nói riêng;
- Nghiên cứu đề xuất giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động NCKH của các trường
đại học nói chung và các trường đại học quân đội nói riêng.
Các nghiên cứu đi trước đã đạt nhiều kết quả, làm rõ nhiều nội dung về chức năng
NCKH của các trường đại học như: làm rõ nội hàm của chức năng, chức năng NCKH
của trường đại học; đã phân tích khá sâu và khá đa dạng về các nguyên nhân dẫn đến
NCKH của các trường đại học chưa tốt và đã đề xuất được khá nhiều biện pháp để cải
thiện hoạt động này, trong đó tập trung nhiều nhất vào mảng các nguồn lực phục vụ cho
hoạt động nghiên cứu.
Tuy nhiên, vẫn còn những vấn đề, những khoảng trống mà các nghiên cứu trên
chưa đề cập đến, chưa trả lời, đó là:
- Chưa phân biệt sự khác biệt giữa chức năng NCKH trong trường đại học quân
đội với các trường đại học thuộc khối dân sự;
- Chưa đánh giá một cách hệ thống sự tương tác giữa chức năng đào tạo và chức
năng nghiên cứu trong trường đại học, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc tế;
- Chưa hệ thống hóa nội dung hoàn thiện chức năng NCKH của các trường đại
học quân đội.
Từ tổng quan các công trình đã phân tích trên đây, tác giả rút ra những nội dung
mà Luận án cần tập trung làm rõ, bao gồm:
- Phân tích sự tương tác giữa chức năng đào tạo và chức năng nghiên cứu trong
trường đại học, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc tế;
- Chỉ ra đặc trưng trong chức năng NCKH của trường đại học quân đội và sự
khác biệt trong chức năng NCKH giữa các trường đại học quân đội với các trường đại
học thuộc khối dân sự;
- Khảo sát thực tế tình hình thực hiện chức năng NCKH trong các trường đại học
quân đội và khuyến nghị các giải pháp để hoàn thiện chức năng NCKH trong các trường
46
đại học quân đội.
Chương 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ TÁC ĐỘNG CỦA CHỨC NĂNG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC ĐẾN CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO
CỦA CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUÂN ĐỘI
2.1. Một số khái niệm cơ bản dùng trong luận án
2.1.1. Nghiên cứu khoa học
2.1.1.1. Khái niệm
NCKH là hoạt động quan trọng, rất có ý nghĩa trong cuộc sống của loài người.
NCKH đã tạo ra những đột phá và những sự phát triển vượt bậc cho xã hội. Hiện nay,
có khá nhiều định nghĩa khác nhau về NCKH.
NCKH, tiếng Anh là “Research” hay “Scientific Research”, được từ điển Oxford
giải thích có nguồn gốc từ tiếng Pháp, được bắt đầu sử dụng từ thế kỷ thứ 16. Theo từ
điển Oxford: “Nghiên cứu là điều tra một cách có hệ thống các yếu tố và các nguồn tài
liệu để xác lập các sự kiện và đạt được những kết luận mới” [Oxford].
Tổ chức OECD cũng đưa ra khái niệm nghiên cứu: "nghiên cứu là hoạt động
sáng tạo được thực hiện một cách có hệ thống nhằm làm giàu tri thức, bao gồm tri thức
về con người, văn hóa và xã hội, và sử dụng vốn tri thức này để tạo ra những ứng dụng
mới"[OECD, 2015].
Martyn Shuttleworth cho rằng: "nghiên cứu bao hàm bất cứ sự thu thập dữ liệu,
thông tin, và dữ kiện thực tế nào nhằm thúc đẩy tri thức” [Martyn Shuttleworth, 2008].
John W. Creswell đưa ra định nghĩa: "Nghiên cứu là một quá trình có các bước
thu thập và phân tích thông tin nhằm gia tăng sự hiểu biết của chúng ta về một chủ đề
hay một vấn đề" [Creswell, 2008].
Từ điển Trực tuyến Merriam-Webster thì đưa ra định nghĩa chi tiết hơn: “Nghiên
cứu là một truy vấn hay khảo sát cẩn thận; đặc biệt sự khảo sát hay thể nghiệm nhắm
đến việc phát hiện và diễn giải dữ kiện, sự thay đổi những lý thuyết hay định luật đã
được chấp nhận dựa trên những dữ kiện mới, hay sự ứng dụng vào thực tiễn những lý
thuyết hay định luật mới hay đã được thay đổi đó"[ Merriam-Webster].
Các nhà khoa học của Việt Nam cũng đã có những nghiên cứu và đưa ra những
khái niệm về NCKH.
47
Trong cuốn “Phương pháp luận NCKH”, tác giả Nguyễn Duy Bảo cũng đề cập
đến khái niệm NCKH: “NCKH là một hoạt động xã hội nhằm vào việc tìm kiếm những
điều chưa biết, như khám phá một sự vật, một hiện tượng, tìm hiểu bản chất của các sự
vật trong tự nhiên hay hiện tượng xã hội, tìm ra các quy luật vận động của sự vật, hiện
tượng, phát triển và hoàn thiện sự hiểu biết của con người hay sáng tạo ra các nguyên
lý giải pháp, các mô hình kỹ thuật,… để ứng dụng trong thực tiễn, phục vụ lợi ích con
người”[Nguyễn Duy Bảo, 2006].
Trong cuốn Từ điển Tiếng Việt, tác giả Hoàng Phê và cộng sự đã đưa ra định
nghĩa: “nghiên cứu là xem xét, tìm hiểu kỹ lưỡng để nắm vững vấn đề, giải quyết vấn đề
hay để rút ra những hiểu biết mới” [Hoàng Phê, 2003].
Tác giả Vũ Cao Đàm đã đưa ra khái niệm về NCKH như sau: “NCKH là sự phát hiện
bản chất sự vật, phát triển nhận thức khoa học về thế giới hoặc là sáng tạo phương pháp mới
và phương tiện kỹ thuật mới để làm biến đổi sự vật phục vụ cho mục tiêu hoạt động của con
người”[Vũ Cao Đàm, 2011]. Đây là khái niệm mà tác giả sử dụng trong luận án.
Như vậy, các tác giả có những cách diễn đạt khác nhau trong định nghĩa của mình
về NCKH nhưng có điểm chung là đều nhấn mạnh đến tính mới trong NCKH. NCKH là
tìm tòi, sáng tạo ra các tri thức mới nhằm hoàn thiện những tri thức khoa học, làm phong
phú thêm sự hiểu biết của loài người và tìm kiếm, sáng tạo ra các biện pháp, giải pháp
mới để áp dụng những tri thức vào thực tiễn, phục vụ lợi ích con người. Đó là đặc điểm
chung nhất của NCKH. Đặc điểm này dẫn đến hàng loạt đặc điểm khác nhau của NCKH
mà người nghiên cứu cần quan tâm khi xử lý những vấn đề cụ thể về mặt phương pháp
luận nghiên cứu và tổ chức nghiên cứu. Các đặc điểm đó bao gồm [Vũ Cao Đàm, 2011]:
- Tính mới
- Tính tin cậy
- Tính thông tin
- Tính khách quan
- Tính rủi ro
- Tính kế thừa
- Tính cá nhân
- Tính trễ trong áp dụng
48
- Tính phi kinh tế trong hoạt động.
2.1.1.2. Phân loại
Có nhiều cách tiếp cận phân loại NCKH như phân loại theo chức năng của nghiên
cứu, phân loại theo tính chất của sản phẩm nghiên cứu,… Ở đây, ta xem xét cách tiếp
cận phân loại NCKH theo tính chất của sản phẩm nghiên cứu và phân loại theo lĩnh vực
khoa học của nghiên cứu.
a, Phân loại theo tính chất của sản phẩm nghiên cứu
Theo cách tiếp cận này, nghiên cứu được phân loại thành nghiên cứu cơ bản,
nghiên cứu ứng dụng và triển khai [Vũ Cao Đàm, 2011, tr. 48]. Các loại nghiên cứu này
có những đặc điểm cơ bản như sau:
- Nghiên cứu cơ bản
Nghiên cứu cơ bản là những nghiên cứu phân tích các thuộc tính, cấu trúc, hiện
tượng các sự vật nhằm phát triển bản chất và quy luật của các sự vật hoặc hiện tượng
trong tự nhiên, xã hội và con người.
Nghiên cứu cơ bản có thể thực hiện trên cơ sở những nghiên cứu thuần túy lý
thuyết. Nghiên cứu cơ bản cũng có thể thực hiện dựa trên cơ sở những quan sát hoặc thí
nghiệm, đo đạc những biểu hiện, ảnh hưởng và tác động của một quy luật chưa biết nào
đó để xây dựng nên những lý thuyết về sự vật.
Kết quả nghiên cứu cơ bản luôn là những phân tích lý luận, những kết luận về
quy luật, những định luật, định lý… Cuối cùng trên cơ sở những nghiên cứu này, người
nghiên cứu đưa ra được những phát hiện.
Nghiên cứu cơ bản được phân thành 2 loại: nghiên cứu cơ bản thuần túy hoặc
nghiên cứu cơ bản tự do và nghiên cứu cơ bản định hướng. Sản phẩm của nghiên cứu
cơ bản có thể là các phát hiện, phát minh và thường dẫn đến việc hình thành một hệ
thống lý thuyết có ảnh hưởng đến một hoặc nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau.
- Nghiên cứu ứng dụng
Nghiên cứu ứng dụng là sự vận dụng các quy luật từ trong nghiên cứu cơ bản
(nghiên cứu cơ bản định hướng) để đưa ra những mô tả, giải thích, dự báo hoặc những
nguyên lý về các giải pháp, có thể bao gồm công nghệ, sản phẩm, vật liệu, thiết bị;
nghiên cứu áp dụng các kết quả nghiên cứu ứng dụng vào một môi trường mới của sự
49
vật và hiện tượng. Điều cần lưu ý là, mặc dù loại hình này có tên gọi là nghiên cứu ứng
dụng, nhưng kết quả của nó chưa ứng dụng được. Để có thể đưa kết quả của nghiên cứu
ứng dụng vào sử dụng trong thực tế thì còn phải tiến hành một loại nghiên cứu khác có
tên gọi là triển khai, nhằm hiện thực hóa các nguyên lý thu được từ kết quả nghiên cứu
về mặt lý thuyết thành công nghệ vận hành được trong sản xuất công nghiệp.
- Triển khai
Triển khai còn được gọi là triển khai thực nghiệm là sự vận dụng các lý thuyết
để đưa ra các hình mẫu (prototype) với những tham số khả thi về kỹ thuật. Hoạt động
triển khai gồm 3 giai đoạn:
+ Tạo vật mẫu (prototype) là giai đoạn thực nghiệm nhằm tạo ra được sản phẩm,
chưa quan tâm đến quy trình sản xuất.
+ Tạo công nghệ còn gọi là giai đoạn “làm pilot” là giai đoạn tìm kiếm và thử nghiệm
công nghệ để sản xuất ra sản phẩm theo mẫu vừa thành công trong giai đoạn thứ nhất.
+ Sản xuất thử loạt nhỏ, còn gọi là sản xuất “serie 0” (loạt 0). Đây là giai đoạn
kiểm chứng độ tin cậy của công nghệ trên quy mô nhỏ, còn gọi là quy mô sản xuất bán
công nghiệp.
Khái niệm triển khai được áp dụng không chỉ trong NCKH tự nhiên hoặc kỹ thuật
mà cũng áp dụng cả trong khoa học xã hội. Chẳng hạn, trong nghiên cứu quản lý học,
hoạt động triển khai được áp dụng trong trường hợp thử nghiệm một mô hình quản lý
mới tại cơ sở thí điểm với một quy mô nào đó, ví dụ ở quy mô một xí nghiệp.
b, Phân loại theo lĩnh vực khoa học và công nghệ của nghiên cứu
Việc phân loại lĩnh vực KH&CN đã được OECD thảo luận nhiều lần và đưa ra bản
phân loại đầu tiên năm 2002, sửa đổi năm 2007. Theo cách phân loại của OECD, KH&CN
được chia thành 6 lĩnh vực: khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ, khoa học
y dược và sức khỏe, khoa học nông nghiệp, khoa học xã hội, nhân văn [OECD, 2007].
Như vậy, khi phân loại theo lĩnh vực KH&CN thì NCKH cũng sẽ được chia thành 6 loại:
- Nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên
- Nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa học kỹ thuật và công nghệ
- Nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa học y dược và sức khỏe
- Nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa học nông nghiệp
50
- Nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa học xã hội
- Nghiên cứu thuộc lĩnh vực nhân văn.
2.1.1.3. Kết quả
Kết quả NCKH là sản phẩm của quá trình nghiên cứu. Kết quả NCKH có một số
đặc điểm đặc trưng sau:
a, Bản chất thông tin của kết quả nghiên cứu
Kết quả NCKH dù được thể hiện dưới dạng nào thì cũng là những tri thức khoa
học, tức thông tin chứa đựng các tri thức khoa học: thông tin về một quy luật của đối
tượng mà khoa học nghiên cứu, thông tin về một nguyên lý công nghệ được tìm ra sau
quá trình NCKH, thông tin về một vật liệu mới, công nghệ mới,…
b, Vật mang tri thức khoa học
Chúng ta không thể tiếp xúc trực tiếp với các tri thức khoa học mà chỉ có thể tiếp
xúc được với các tri thức khoa học đã được mã hóa dưới dạng chữ viết, âm thanh, hình
ảnh và được chứa đựng trong các vật mang tri thức khoa học. Về cơ bản có 3 loại vật
mang tri thức khoa học. Đó là vật mang vật lý, vật mang công nghệ và vật mang xã hội.
* Vật mang vật lý:
- Các loại bài báo, báo cáo khoa học
- Mẫu vật thu được từ trong các công cuộc tìm kiếm, điều tra
- Mẫu vật thu được từ các di chỉ khảo cổ
- Băng âm, băng hình, đĩa âm, đĩa hình.
* Vật mang công nghệ: Đây là những hình mẫu thu được từ kết quả triển khai
thực nghiệm, chẳng hạn:
- Mẫu của một vật liệu mới
- Mẫu của một sản phẩm mới
- Mẫu của một công cụ, máy móc, phương tiện mới
- Mẫu của một nguyên lý công nghệ mới
* Vật mang xã hội.
Vật mang xã hội có thể là cá nhân một chuyên gia, một người thợ được huấn
luyện tay nghề, một nhóm thợ chuyên môn hoặc một nhóm chuyên gia.
c, Một số sản phẩm đặc biệt của NCKH
51
Một số sản phẩm đặc biệt của NCKH như phát hiện, phát minh, sáng chế.
Phát minh là sự khám phá ra những quy luật, những tính chất hoặc những hiện
tượng của thế giới vật chất tồn tại một cách khách quan mà trước đó chưa ai biết, nhờ
đó làm thay đổi cơ bản nhận thức con người. Phát minh là khám phá về quy luật khách
quan, chưa có ý nghĩa áp dụng trực tiếp vào sản xuất hoặc đời sống. Vì vậy, phát minh
không có giá trị thương mại, không có khái niệm cấp và mua bán patent đối với phát
minh và không được bảo hộ pháp lý.
Phát hiện là sự khám phá ra những vật thể, những quy luật xã hội đang tồn tại
một cách khách quan. Phát hiện cũng chỉ là sự khám phá các vật thể hoặc các quy luật
xã hội, làm thay đổi nhận thức, chưa thể áp dụng trực tiếp, chỉ có thể được áp dụng thông
qua các giải pháp.
Sáng chế là loại thành tựu trong khoa học kỹ thuật và công nghệ. Sáng chế là giải
pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết một vấn đề xác định
bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên. Vì sáng chế có thể áp dụng được nên có ý
nghĩa thương mại và được bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Chủ sở hữu có thể chuyển
nhượng quyền sở hữu hoặc chuyển giao quyền sử dụng sáng chế cho người khác và sẽ
thu được lợi ích kinh tế từ các hợp đồng chuyển giao này.
2.1.2. Chức năng
Quan niệm về chức năng và những đặc điểm chính của chức năng được các nhà
xã hội học nghiên cứu và trình bày trong thuyết chức năng hay còn gọi là chức năng
luận và thuyết cấu trúc – chức năng.
Trong một thời gian dài thời trung cổ châu Âu, ngành giải phẫu học phát triển
mạnh, có lẽ do nhu cầu của chiến tranh và hội họa. Việc chạy chữa cho thương binh
cũng như việc vẽ tranh đều khiến người ta cần hiểu biết tốt hơn về cấu tạo cơ thể người,
muốn thế phải tiến hành giải phẫu cơ thể, nên ngành giải phẫu học đã có những bước
tiến rất sớm. Giải phẫu có nghĩa là đặt ra những câu hỏi nghiên cứu chủ chốt: có những
cơ quan nào trong cơ thể, các cơ quan đó làm cái gì, hoạt động như thế nào, chúng có
chức năng gì đối với toàn cơ thể. Việc trả lời những câu hỏi trên đã làm hình thành nên
quan điểm chức năng hay còn gọi là chức năng luận. Với thời gian, nó được sử dụng
trong rất nhiều ngành khoa học.
52
Theo Parsons, xã hội là một kiểu hay loại hệ thống xã hội đáp ứng được tất cả
các đòi hỏi chức năng cơ bản của một sự tồn tại lâu bền từ các nguồn lực bên trong của
nó. Hệ thống xã hội là hệ thống của các quá trình tương tác giữa các tác nhân. Cấu trúc
của hệ thống xã hội về cơ bản là cấu trúc của các mối liên hệ giữa các tác nhân tham gia
vào quá trình tương tác [Parsons, 1951]. Chức năng là vai trò, nhiệm vụ mà mỗi một
thành phần của hệ thống xã hội phải thực hiện để đảm bảo cho cả hệ thống xã hội tồn
tại, vận động và phát triển một cách phù hợp với môi trường xung quanh [Lê Ngọc
Hùng, 2016]. Đây cũng là khái niệm chức năng được sử dụng trong luận án. Các bộ
phận khác nhau của mỗi xã hội đóng góp tích cực vào hoạt động của hệ thống xã hội.
Mỗi xã hội có những nhu cầu nhất định trong đó có một số hoạt động phải được thực
hiện để đời sống xã hội tồn tại và phát triển. Trong mô hình cấu trúc chức năng, các cá
nhân thực hiện từng nhiệm vụ này trong các thể chế và vai trò khác nhau phù hợp với
các cấu trúc và chuẩn mực của xã hội.
Thuyết cấu trúc – chức năng được bổ sung và phát triển nhờ những đóng góp lý
luận quan trọng của Robert K. Merton. Một đóng góp lớn của Merton đối với chủ thuyết
này là việc phát hiện ra sự loạn phản chức năng, còn gọi là phi chức năng hay phản chức
năng. Khác với Parsons luôn coi mọi hệ quả của một thiết chế xã hội là chức năng với
nghĩa là những tác dụng tốt, có lợi cho toàn bộ cấu trúc xã hội, Merton chỉ ra những
phản chức năng của thiết chế xã hội. Phản chức năng là những hệ quả làm cản trở, thậm
chí gây rối loạn, làm giảm khả năng tồn tại, thích ứng của cấu trúc. Để nhận diện sự loạn
chức năng hay phản chức năng, cần trả lời câu hỏi: hệ quả của một hiện tượng xã hội
đem lại lợi ích hay gây tổn hại tới lợi ích của ai? Một đóng góp quan trọng khác của
Merton là đưa ra các cấu trúc chức năng thay thế. Giống như nhiều nhà chức năng luận,
Merton chỉ ra những nhu cầu chức năng cần phải đáp ứng để xã hội vận hành một cách
bình thường và gọi chúng là “những điều kiện tiên quyết về mặt chức năng đối với xã
hội”. Nhưng khác với họ, Merton cho rằng không nhất thiết mỗi thiết chế xã hội chỉ đáp
ứng một loại nhu cầu xã hội. Mà trên thực tế, trong xã hội luôn có “các cấu trúc chức
năng thay thế nhau” để thoả mãn các yêu cầu chức năng mà xã hội đặt ra. Một chức
năng có thể do hai hay nhiều hơn các tổ chức, thiết chế xã hội cùng có khả năng thực
hiện [Lê Ngọc Hùng, 2016].
53
Theo Spencer, theo thời gian, hệ thống xã hội tăng lên về kích cỡ và cấu trúc, trở
nên phức thể và khác biệt hóa. Khác biệt hóa của các cấu trúc đi liền với khác biệt hóa
các chức năng. Mỗi cấu trúc được khác biệt hóa phục vụ cho những chức năng nhất định
để duy trì đời sống, sự tồn tại của cái tổng thể. Các cấu trúc và chức năng được khác
biệt hóa đòi hỏi sự liên kết thông qua sự phụ thuộc lẫn nhau. Mọi cấu trúc chỉ có thể tồn
tại và vận hành thông qua sự phụ thuộc của chúng vào những cấu trúc khác. Mỗi cấu
trúc đã khác biệt hóa, đến lượt nó, lại cũng là một tổng thể riêng biệt bao gồm những
thành tố tạo nên nó. Mỗi tổng thể lớn hơn bao giờ cũng chịu sự tác động của những quá
trình diễn ra trong các thành tố của nó.
Như vậy, có thể nói quan điểm chức năng hay còn gọi là chức năng luận là một
phương thức phân tích cổ nhất và phổ biến nhất trong khoa học xã hội. Có thể tóm tắt
tư tưởng cơ bản của chức năng luận như sau: bất kỳ một hệ thống ổn định nào cũng bao
gồm những bộ phận khác nhau nhưng liên hệ với nhau, chúng cùng nhau vận hành để
tạo nên cái toàn bộ, tạo nên sự ổn định hệ thống. Sự đóng góp của mỗi bộ phận vào việc
vận hành ổn định của hệ thống được gọi là chức năng. Các bộ phận có tầm quan trọng
chức năng khác nhau đối với hệ thống.
2.1.3. Nhân lực khoa học và công nghệ quân sự
Khái niệm nhân lực KH&CN là một phạm trù mà từ lâu đã được nhiều tổ chức
quốc tế và các quốc gia quan tâm. Thực tế hiện nay, có khá nhiều quan niệm khác nhau
về nhân lực KH&CN. Trong đó, quan niệm của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế
(OECD) và Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO) là
khá thông dụng và được nhiều quốc gia áp dụng.
Theo quan điểm của OECD thì nguồn nhân lực KH&CN bao gồm những người
đáp ứng được một trong những điều kiện sau đây:
- Đã tốt nghiệp một chương trình giáo dục ở trình độ 3 về một lĩnh vực KH&CN;
- Không được đào tạo chính thức nhưng làm một việc trong lĩnh vực KH&CN
2 Human resources in science and technology, abbreviated as HRST, refers to those persons who fulfil one or the other of the following conditions:
successfully completed education at the third level not formally qualified as above, but employed in a S&T occupation where the above qualifications are normally required.
54
đòi hỏi trình độ trên [OECD, 1995]2.
Đây chính là khái niệm nguồn nhân lực KH&CN theo nghĩa rộng. Như vậy,
nguồn nhân lực KH&CN bao gồm tất cả những người có trình độ nhất định (trình độ 3
theo phân loại giáo dục theo tiêu chuẩn quốc tế), đủ để đảm bảo cho họ có khả năng và
sẵn sàng thực hiện được một công việc nào đó trong một lĩnh vực KH&CN. Trình độ
của họ có thể đạt được thông qua đào tạo chính thức và không chính thức. Họ có thể làm
việc trong lĩnh vực KH&CN hoặc không. Những người chưa tham gia vào hoạt động
KH&CN được gọi là những người tiềm năng, khi cần thiết xã hội có thể huy động họ
vào các hoạt động KH&CN. Như vậy, khi thống kê theo khái niệm này, chúng ta sẽ biết
được tiềm năng về nhân lực KH&CN của một tổ chức, một quốc gia nhưng lại không
biết được chính xác số lượng người đang trực tiếp tham gia vào các hoạt động KH&CN.
Theo phân loại giáo dục theo tiêu chuẩn quốc tế thì trình độ 3 sẽ tương ứng với
trình độ cao đẳng và tương đương ở Việt Nam. Như vậy, nguồn nhân lực KH&CN của
Việt Nam bao gồm những người sau:
- Đã tốt nghiệp đại học và cao đẳng và làm việc trong một ngành KH&CN;
- Đã tốt nghiệp đại học và cao đẳng, nhưng không làm việc trong một ngành
KH&CN nào;
- Chưa tốt nghiệp đại học và cao đẳng, nhưng làm một công việc trong một lĩnh
vực KH&CN đòi hỏi trình độ tương đương [Trần Văn Ngợi, 2017].
Vậy, các trường đại học của Việt Nam chính là nơi đào tạo phần lớn nguồn nhân
lực KH&CN cho đất nước.
Cũng tiếp cận theo nghĩa rộng, UNESCO đã đưa ra khái niệm liên quan đến nhân
lực trong lĩnh vực KH&CN. “Nhân lực KH&CN là những người trực tiếp tham gia vào
hoạt động KH&CN trong một cơ quan, tổ chức và được trả lương hay thù lao cho lao
động của họ bao gồm các nhà khoa học và kỹ sư, kỹ thuật viên và nhân lực phù trợ”
[OECD, 1995]3.
Theo UNESCO, nhân lực KH&CN là những người đang trực tiếp tham gia vào
hoạt động KH&CN (trực tiếp thực hiện các hoạt động KH&CN và cả những người phụ
3 UNESCO defines scientific and technical (S&T) personnel as: "... the total number of people participating directly in S&T activities in an institution or unit, and, as a rule paid for their services. This group should include scientists and engineers, technicians and auxiliary personnel...
55
giúp, hỗ trợ thực hiện các công việc đó nữa) và không cần quan tâm đến trình độ của họ.
Tuy nhiên, qua phần liệt kê (gồm các nhà khoa học và kỹ sư, kỹ thuật viên và nhân lực
phù trợ), chúng ta thấy rằng, nhân lực KH&CN theo quan niệm của UNESCO cũng đa
phần là những người đã tốt nghiệp đại học, cao đẳng và tương đương. Trường đại học
là nơi đào tạo chủ yếu nhân lực KH&CN. Những người tốt nghiệp đại học, cao đẳng
chính là nguồn nhân lực KH&CN.
Như vậy, nguồn nhân lực KH&CN là những người có trình độ nhất định (trình
độ 3 theo phân loại giáo dục theo tiêu chuẩn quốc tế), đạt được thông qua đào tạo chính
thức hoặc không chính thức, có đủ năng lực để làm một công việc nào đó trong các hoạt
động KH&CN. Trường đại học là nơi đào tạo chủ yếu nguồn nhân lực KH&CN. Chất
lượng đào tạo của các trường đại học sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng nguồn nhân
lực KH&CN của các quốc gia và thế giới.
Nhân lực KH&CN quân sự là một bộ phận cấu thành của nhân lực KH&CN quốc
gia. Họ là những người thuộc quân đội, thực hiện hoặc tham gia thực hiện hoạt động
KH&CN [Roz Pitcock, 2011; Bộ Quốc phòng, 2011]. Như vậy, nhân lực KH&CN quân sự
trước hết phải là người thuộc lực lượng quân đội, thứ hai là phải tham gia vào hoạt động
KH&CN. Theo tác giả, khái niệm nhân lực KH&CN quân sự có thể được viết như sau:
Nhân lực KH&CN quân sự là những người thuộc quân đội, trực tiếp tham gia
vào hoạt động KH&CN trong một cơ quan, tổ chức và được trả lương hay thù lao cho
lao động của họ bao gồm các nhà khoa học và kỹ sư, kỹ thuật viên và nhân lực phù trợ”.
Nhân lực KH&CN quân sự mang những đặc điểm của nhân lực KH&CN nói
chung, đó là: có trình độ, năng lực và đang tham gia vào hoạt động KH&CN. Ngoài ra,
họ cần phải có những đặc điểm đặc trưng trong lĩnh vực quân sự, đó là: sự am hiểu kiến
thức chuyên ngành quân sự, có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, đáp
ứng yêu cầu xây dựng Quân đội và bảo vệ Tổ quốc [Bộ Quốc phòng, 2016]. Vậy, nguồn
nhân lực KH&CN quân sự là những người có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất
đạo đức tốt, đủ trình độ chuyên môn, am hiểu kiến thức chuyên ngành quân sự để tham
gia vào hoạt động KH&CN, phục vụ quân đội và an ninh, quốc phòng của đất nước. Các
trường đại học của quân đội là nơi đào tạo chủ yếu nguồn nhân lực KH&CN quân sự.
Chất lượng đào tạo của các trường đại học quân đội sẽ ảnh hưởng lớn đến chất lượng
56
nguồn nhân lực KH&CN quân sự của quốc gia.
Nhân lực KH&CN quân sự đóng vai trò rất quan trọng đối với hoạt động KH&CN
quân sự nói riêng và đối với nền quốc phòng nói chung. Sự nghiệp xây dựng quân đội
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và hiện đại đang đặt ra cho đội ngũ nhân lực KH&CN
quân đội những nhiệm vụ mới rất quan trọng. Đó là chế tạo vũ khí, công nghệ mới, hiện
đại; cải tiến, hiện đại hóa vũ khí trang bị kỹ thuật hiện có, xây dựng nền công nghiệp
quốc phòng độc lập, tự chủ, từng bước tiếp cận với những thành tựu KH&CN mới;
nghiên cứu, phòng chống chiến tranh công nghệ cao, kết hợp quốc phòng với kinh tế,
đặc biệt những ngành có tính lưỡng dụng cao và công nghệ tiên tiến… Do đó, công tác
đào tạo nguồn nhân lực KH&CN quân sự cần chú trọng đến chất lượng đào tạo, nâng
cao chất lượng đào tạo, đáp ứng yêu cầu và mục tiêu hiện đại hóa quân đội.
2.1.4. Hội nhập quốc tế
Thuật ngữ “hội nhập quốc tế” trong tiếng Việt có nguồn gốc dịch từ tiếng nước
ngoài (tiếng Anh là “international integration”, tiếng Pháp là “intégration
internationale”). Hiện nay, có nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau về khái niệm
“hội nhập quốc tế”. Trong đó, có ba cách tiếp cận chủ yếu sau [Phạm Quốc Trụ, 2014]:
Cách tiếp cận thứ nhất, thuộc về trường phái theo chủ nghĩa liên bang, tác giả
Theodore A. Couloumbis & James H. Wolfe cho rằng hội nhập là một sản phẩm cuối
cùng hơn là một quá trình. Sản phẩm đó là sự hình thành một Nhà nước liên bang kiểu
như Hoa Kỳ hay Thụy Sỹ. Cách tiếp cận này khó áp dụng để phân tích và giải thích thực
tiễn của quá trình hội nhập diễn ra với nhiều hình thức và mức độ khác nhau như hiện
nay trên thế giới.
Cách tiếp cận thứ hai, với Karl W. Deutsch là trụ cột, xem hội nhập trước hết là
sự liên kết các quốc gia thông qua phát triển các luồng giao lưu như thương mại, đầu tư,
thư tín, thông tin, du lịch, di trú, văn hóa… từ đó hình thành dần các cộng đồng an ninh.
Theo Deutsch, có hai loại cộng đồng an ninh: loại cộng đồng an ninh hợp nhất như kiểu
Hoa Kỳ, và loại cộng đồng an ninh đa nguyên như kiểu Tây Âu. Như vậy, cách tiếp cận
thứ hai này xem xét hội nhập vừa là một quá trình vừa là một sản phẩm cuối cùng.
Cách tiếp cận thứ ba, xem xét hội nhập dưới góc độ là hiện tượng/hành vi các
nước mở rộng và làm sâu sắc hóa quan hệ hợp tác với nhau trên cơ sở phân công lao
57
động quốc tế có chủ đích, dựa vào lợi thế của mỗi nước và mục tiêu theo đuổi. Cách tiếp
cận này tập trung vào hành vi của hiện tượng, không quan tâm xem xét góc độ thể chế
cũng như kết quả cuối cùng của hội nhập, do vậy, thiếu tính toàn diện và hạn chế trong
khả năng giải thích bản chất của quá trình hội nhập.
Ở Việt Nam, những năm gần đây, cụm từ “hội nhập quốc tế” (thậm chí nói ngắn
gọn là “hội nhập”) được sử dụng ngày càng phổ biến hơn. Mặc dầu vậy, cho đến nay
vẫn không có một định nghĩa nào về “hội nhập quốc tế” giành được sự nhất trí hoàn toàn
trong giới học thuật và cả giới làm chính sách ở Việt Nam.
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Hội nhập là hòa mình vào trong một cộng đồng lớn”
[Hoàng Phê, 2013]. Tức là, khi hội nhập quốc tế thì các quốc gia phải hòa mình với thế
giới. Các quốc gia phải có sự gắn kết, hợp tác với nhau, phải tuân theo các quy định,
nguyên tắc chung và phải chia sẻ giá trị, lợi ích, nguồn lực với nhau cũng như phải biết
giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn.
Tác giả Phạm Quốc Trụ đã nhận định: ở Việt Nam hiện nay có 2 cách hiểu chính
về hội nhập quốc tế là:
- Thứ nhất, cách hiểu hẹp coi “hội nhập quốc tế” là sự tham gia vào các tổ chức
quốc tế và khu vực.
- Thứ hai, cách hiểu rộng, coi “hội nhập quốc tế” là sự mở cửa và tham gia vào mọi
mặt của đời sống quốc tế, đối lập với tình trạng đóng cửa, cô lập hoặc ít giao lưu quốc tế.
Sau đó, ông đã đưa ra định nghĩa về hội nhập quốc tế như sau:
“Hội nhập quốc tế được hiểu như là quá trình các nước tiến hành các hoạt động
tăng cường sự gắn kết họ với nhau dựa trên sự chia sẻ về lợi ích, mục tiêu, giá trị,
nguồn lực, quyền lực (thẩm quyền định đoạt chính sách) và tuân thủ các luật chơi
chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế.”[Phạm Quốc Trụ, 2011].
Như vậy, khác với hợp tác quốc tế (hành vi các chủ thể quốc tế đáp ứng lợi ích
hay nguyện vọng của nhau, không chống đối nhau), hội nhập quốc tế vượt lên trên sự
hợp tác quốc tế thông thường: nó đòi hỏi sự chia sẻ và tính kỷ luật cao của các chủ thể
tham gia. Nhìn ở góc độ thể chế, quá trình hội nhập hình thành nên và củng cố các định
chế/tổ chức quốc tế, thậm chí là các chủ thể mới của quan hệ quốc tế. Chủ thể của hội
nhập quốc tế trước hết là các quốc gia, chủ thể chính của quan hệ quốc tế có đủ thẩm
quyền và năng lực đàm phán, ký kết và thực hiện các cam kết quốc tế. Bên cạnh chủ thể
58
chính này, các chủ thể khác cùng hợp thành lực lượng tổng hợp tham gia vào quá trình
hội nhập quốc tế.
Hội nhập quốc tế diễn ra ở nhiều lĩnh vực hoạt động của con người như kinh tế,
chính trị, an ninh – quốc phòng, KH&CN ,… Trong nghiên cứu này, xin được đề cập
sâu đến vấn đề hội nhập KH&CN và hội nhập an ninh- quốc phòng.
Hội nhập quốc tế về KH&CN là quá trình phát triển KH&CN quốc gia và tích
hợp để trở thành bộ phận cấu thành tích cực của hệ thống KH&CN quốc tế với thể chế
được thống nhất, đảm bảo lợi ích lâu dài cho các quốc gia và các cộng đồng khoa học.
Hội nhập quốc tế về KH&CN đã trở thành một yếu tố không thể thiếu trong chính sách
đối ngoại và chính sách phát triển KH&CN của mỗi nước và là một thành tố quan trọng
trong hội nhập quốc tế, một phương thức quan hệ giữa các đối tác trên thế giới. Hội nhập
quốc tế về KH&CN có thể được thực hiện theo 3 hình thức chủ yếu sau [Mai Hà, 2015]:
- Phối hợp hoạt động NCKH và phát triển công nghệ toàn cầu hoặc trong khu
vực để giải quyết một hoặc một nhóm các vấn đề trong thời gian nhất định nào đó. Hình
thức này thường được triển khai theo nguyên tắc phát huy ưu thế từng nước và hợp lý
hóa mục tiêu chung để đạt hiệu quả cao nhất.
- Tham gia các diễn đàn quốc tế với tư cách thành viên đầy đủ, tích cực và chủ
động tham gia hoạt động KH&CN, sử dụng những phương thức tổ chức nghiên cứu
KH&CN theo nguyên tắc mở và bình đẳng, trong đó các nước tham gia phải tuân thủ
các quy chế, thể thức, tiêu chuẩn chung.
- Hội nhập về KH&CN trên cơ sở hội nhập quốc tế chung của quốc gia: các Ủy
ban liên chính phủ định kỳ hội nghị và điều phối hoạt động KH&CN theo chiến lược,
định hướng phát triển chung của cộng đồng hội nhập, theo các chuẩn mực chung của
thế giới, đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ đối với các kết quả NCKH và phát triển công
nghệ; cùng đóng góp nguồn lực và chia sẻ lợi ích theo các cam kết cùng thoả thuận.
Hội nhập về an ninh - quốc phòng là sự tham gia của quốc gia vào quá trình
gắn kết họ với các nước khác trong mục tiêu duy trì hòa bình và an ninh. Điều này đòi
hỏi các nước hội nhập phải tham gia vào các thỏa thuận song phương hay đa phương về
an ninh-quốc phòng trên cơ sở các nguyên tắc chia sẻ và liên kết: mục tiêu chung, đối
tượng/kẻ thù chung, tiến hành các hoạt động chung về đảm bảo an ninh-quốc phòng...
Có nhiều kiểu liên kết an ninh-quốc phòng khác nhau, trong đó nổi lên những
hình thức chủ yếu được nhiều nước sử dụng như sau: hiệp ước phòng thủ chung, hiệp
59
ước liên minh quân sự song phương, các dàn xếp an ninh tập thể, các dàn xếp về an ninh
hợp tác [Phạm Quốc Trụ, 2014],… Nhìn chung, hội nhập trong lĩnh vực an ninh - quốc
phòng là tiến trình khó khăn hơn cả, vì nó liên quan trực tiếp tới những vấn đề nhạy
cảm nhất - cốt lõi tồn tại của quốc gia, đó là hòa bình, độc lập và chủ quyền.
Hiện nay, Việt Nam chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại và nâng cao hiệu quả
hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Trọng tâm là hợp tác huấn luyện,
đào tạo, trao đổi kinh nghiệm và học thuật với các nước khác, hợp tác quốc tế về công
nghiệp quốc phòng và tiếp tục mua vũ khí, trang thiết bị quân sự từ các nước bạn hàng
truyền thống, đồng thời quan tâm mở rộng thương mại quốc phòng với các nước khác
khi nền công nghiệp quốc phòng chưa phát triển. Việt Nam chủ trương mở rộng hợp tác
quốc tế trong đào tạo sĩ quan, nhân viên kỹ thuật có trình độ chuyên môn cao, nhất là
trên lĩnh vực đào tạo ngoại ngữ, quân y và các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật quân sự khác.
Ngoài việc cử cán bộ đi học, đào tạo ở nước ngoài, một số nhà trường quân đội cũng mở
rộng đào tạo cho các nước khác. Mua vũ khí và nâng cao năng lực ngành công nghiệp
quốc phòng là để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu bảo đảm kỹ thuật cũng như trang
thiết bị quân sự và vũ khí cho các lực lượng vũ trang. Trong đó, nâng cao năng lực công
nghiệp quốc phòng dựa trên cơ sở thực hiện nghiêm túc các cam kết quốc tế về kiểm soát
vũ khí. Công nghiệp quốc phòng Việt Nam ưu tiên hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực nghiên
cứu, CGCN, sản xuất, sửa chữa trang thiết bị quân sự và vũ khí, đào tạo nhân lực.
Ngày nay, hội nhập quốc tế đã trở thành một quá trình tất yếu. Hội nhập đồng
thời đưa lại cả lợi ích lẫn bất lợi đối với các nước. Các lợi ích và bất lợi nhìn chung ở
dạng tiềm năng và đối với mỗi nước một khác, do các nước không giống nhau về điều
kiện, hoàn cảnh, trình độ phát triển… Việc khai thác được lợi ích đến đâu và hạn chế
các bất lợi, thách thức thế nào phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó đặc biệt quan trọng
là năng lực của mỗi nước, trước hết là chiến lược/chính sách, biện pháp hội nhập và việc
tổ chức thực hiện. Mặc dù vậy, suy cho cùng lợi ích mà hầu hết các nước đã thu được
trên thực tế từ quá trình hội nhập vẫn lớn hơn cái giá mà họ phải trả cho những tác động
tiêu cực xét trên phương diện tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội. Điều này giải
thích tại sao hội nhập quốc tế trở thành lựa chọn chính sách của hầu hết các nước trên
thế giới hiện nay, trong đó có Việt Nam.
2.1.5. Chính sách khoa học và công nghệ
60
“Chính sách là một tập hợp biện pháp được thể chế hóa mà một chủ thể quyền lực
hoặc chủ thể quản lý đưa ra, trong đó tạo sự ưu đãi một hoặc một số nhóm xã hội, kích thích
vào động cơ hoạt động của họ, định hướng hoạt động của họ nhằm thực hiện một mục tiêu
ưu tiên nào đó trong chiến lược phát triển của một hệ thống xã hội” [Vũ Cao Đàm, 2011].
Như vậy, chính sách là tập hợp những biện pháp mà chủ thể quyền lực hoặc chủ thể quản
lý đưa ra, được thể chế hóa thành những quy định có giá trị pháp lý, nhằm thực hiện chiến
lược phát triển của hệ thống theo mục đích mà chủ thể quyền lực mong đợi.
Chính sách KH&CN là tập hợp những biện pháp mà chủ thể quản lý đưa ra để
phát triển hoạt động KH&CN. Chính sách phát triển KH&CN của một đất nước, một
địa phương hoặc một tổ chức nhằm ưu tiên phát triển những lĩnh vực nghiên cứu và
những công nghệ, những loại hình tổ chức KH&CN nhất định, theo hai hướng:
- KH&CN phục vụ những mục tiêu ngắn hạn về phát triển kinh tế và xã hội, đặc
biệt là công nghệ phải phục vụ cho mục tiêu nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống
sản xuất.
- Mặt khác, KH&CN phải được phát triển đi trước, chuẩn bị cho những mục tiêu dài
hạn của tổ chức hoặc mục tiêu dài hạn của kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, bên cạnh
những lĩnh vực phải đáp ứng trực tiếp nhu cầu cạnh tranh của sản xuất [Vũ Cao Đàm, 2011].
Chính sách KH&CN bao gồm tập hợp các chính sách như chính sách tài chính
cho KH&CN, chính sách nhân lực KH&CN, chính sách thuế cho KH&CN,… Chính
sách KH&CN sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển KH&CN. Vì vậy, mỗi quốc gia,
mỗi ngành nghề, mỗi tổ chức, mỗi trường đại học cần xây dựng được những chính sách
KH&CN đúng đắn, phù hợp với từng giai đoạn phát triển để thúc đẩy sự phát triển của
KH&CN, đóng góp vào sự phát triển của tổ chức và của đất nước.
2.2. Chức năng nghiên cứu khoa học của các trường đại học quân đội
2.2.1. Chức năng nghiên cứu khoa học của trường đại học
Các trường đại học ngày nay có ba chức năng cơ bản là đào tạo, NCKH và phục
vụ xã hội [Bộ GD&ĐT, 2012]. Chức năng NCKH ngày càng quan trọng, thiết yếu đối
với các trường đại học.
Đối với hầu hết mọi người, các trường đại học đại diện cho các tổ chức giảng
dạy, nơi kiến thức chuyên ngành được truyền đạt cho sinh viên thông qua việc kết hợp
các bài giảng, bài đọc, buổi thí nghiệm, hướng dẫn, bài tập viết và kiểm tra. Đây là một
61
điều hợp lý, bởi vì, rõ ràng, giảng dạy là nhiệm vụ trung tâm của bất kỳ trường đại học
nào. Cho đến gần đây, thông thường các trường đại học vẫn nhận được nguồn kinh phí
lớn từ các chính phủ dựa trên số lượng sinh viên được tuyển. Mặc dù việc truyền đạt tri
thức là rất quan trọng đối với phát triển kinh tế và xã hội nhưng sự phát triển về tri thức
lại do kết quả nghiên cứu cơ bản mang lại. Đây là lý do tại sao chức năng nghiên cứu
của các trường đại học quan trọng. Thông qua nghiên cứu, các trường đại học bổ sung
vào kho tri thức chung của con người [Mintrom, 2008]. Chức năng nghiên cứu phân biệt
trường đại học với tất cả các tổ chức giảng dạy khác trong xã hội.
Chức năng NCKH không hình thành ngay từ khi xuất hiện trường đại học. Chức
năng này xuất hiện theo quá trình phát triển của các trường đại học cùng với sự phát
triển của xã hội. Trong giai đoạn đầu, các trường đại học chỉ tập trung vào chức năng
đào tạo. Trong từ điển Bách khoa Larousse (Pháp) xuất bản năm 1948 đưa ra định nghĩa
về université (trường đại học) chưa thấy có yếu tố “nghiên cứu” và université được định
nghĩa là “Groupe d’escole, nommées facultés ou collèges suivant le pays, qui donnent
l’enseignement supérieur”, tạm dịch là “Trường đại học là một nhóm các đơn vị thành
viên gọi tên là khoa hoặc trường tùy quốc gia có chức năng đào tạo, giáo dục cao đẳng”
[Vũ Cao Đàm, 2014]. Những ngôi trường đầu tiên của nhân loại như “Hạnh đàn” của
Khổng Tử (thế kỷ thứ V trước công nguyên) hoặc Academia của Platon (thế kỷ IV trước
công nguyên) nằm trong triết lý này. Quốc Tử Giám của Việt Nam được thành lập vào
thế kỷ XI là trường đại học theo mô hình này [Vũ Cao Đàm, 2014, tr.16].
Cùng với sự phát triển của xã hội, trường đại học thực hiện nhiều chức năng hơn.
Trường đại học thực hiện chức năng giáo dục, NCKH, chuyển giao tri thức và công nghệ
sang khu vực công nghiệp và đóng vai trò tích cực trong hệ thống đổi mới vùng và quốc
gia [Franz Tödtling, 2006]. Chức năng NCKH đã trở thành chức năng cơ bản của các
trường đại học bên cạnh chức năng đào tạo và phục vụ xã hội. Các trường đại học không
chỉ là trung tâm đào tạo mà đã thực sự trở thành trung tâm NCKH, sản xuất, phân phối,
xuất khẩu tri thức và CGCN mới, hiện đại. Các trường đại học không chỉ tiếp thu tri
thức KH&CN để truyền đạt cho người học mà đây cũng là nơi tiến hành nghiên cứu,
sản sinh ra tri thức, sản phẩm, công nghệ mới, đóng góp vào sự phát triển tri thức khoa
học và sự phát triển kinh tế - xã hội.
62
Bên cạnh đó, hiện nay, trong bộ tiêu chí để đánh giá, xếp hạng các trường đại học
trên thế giới của các tổ chức xếp hạng uy tín quốc tế như THE, QS, ARWU, NCKH là
một yếu tố bắt buộc và chiếm một tỷ trọng cao trong bảng tiêu chí.
Để làm rõ chức năng nghiên cứu của trường đại học, tác giả Mintrom đã đưa ra
mô hình quá trình nghiên cứu của trường đại học.
Các bên liên quan Đầu vào nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu
Sản phẩm nghiên cứu
Phát triển sản phẩm và dịch vụ Đào tạo, Phục vụ và Quản lý
Hình 2.1. Mô hình chung về quá trình nghiên cứu [Mintrom, 2008]
Mô hình gồm có bốn thành phần chính của quá trình nghiên cứu: các đầu vào của
nghiên cứu; quá trình biến đổi – quá trình nghiên cứu; kết quả nghiên cứu và sản phẩm
phụ và phát triển sản phẩm và dịch vụ. Mô hình cũng đưa ra sự tương tác giữa chức
năng nghiên cứu với các chức năng khác của trường đại học (giảng dạy, quản trị, phục
vụ) và mối quan hệ với các bên liên quan. Mô hình đã cho thấy những yếu tố và những
vấn đề mà các nhà lãnh đạo, quản lý các trường đại học cần quan tâm để thực hiện hiệu
quả chức năng NCKH.
Đầu vào của nghiên cứu (Research inputs)
Nghiên cứu chỉ có thể được thực hiện khi nó được cung cấp các nguồn lực đầu
vào khác nhau, bao gồm: nhân lực khoa học và công nghệ (các những người nắm giữ
chuyên môn và kiến thức), cơ sở vật chất (như sự đầy đủ về văn phòng, phòng thí
nghiệm, cơ sở thư viện và hệ thống máy tính…), tài chính (tài chính ảnh hưởng lớn đến
số lượng và chất lượng của các nguồn lực khác), thông tin KH&CN (bao gồm hệ thống
63
tư liệu, tài liệu, học liệu, báo tạp, chí, các quy định chính thức và không chính thức, các
chính sách KH&CN, thông tin về nhu cầu của các đơn vị về các sản phẩm KH&CN …).
Quá trình biến đổi – quá trình nghiên cứu (Transformations)
Quá trình biến đổi là quá trình phối hợp các yếu tố đầu vào, thực hiện nghiên cứu
để tạo ra sản phẩm đầu ra của nghiên cứu. Các phương pháp và hoạt động nghiên cứu
được thực hiện sẽ biến các đầu vào nghiên cứu thành các sản phẩm đầu ra. Tuy nhiên,
quá trình nghiên cứu thường có độ rủi ro. Vì vậy, các trường đại học cần có những biện
pháp để làm tăng chất lượng và hiệu suất nghiên cứu. Các trường đại học có biện pháp
thúc đẩy và đảm bảo các giảng viên, nghiên cứu viên gắn kết giảng dạy và nghiên cứu,
tránh trường hợp nghiên cứu bị cô lập. Ở cấp Khoa, Viện, Bộ môn cần xây dựng môi
trường làm việc thuận lợi cho nghiên cứu để hoạt động nghiên cứu được thực hiện liên
tục và trở nên thú vị. Đồng thời, các trường đại học tăng cường hợp tác nghiên cứu, thúc
đẩy quan hệ với các đối tác bên ngoài để nâng cao hiệu quả quá trình nghiên cứu, đảm
bảo sản phẩm đầu ra.
Kết quả nghiên cứu và sản phẩm phụ (Research outputs and byproducts)
Đối với phần lớn các nhà nghiên cứu ở các trường đại học, xuất bản các bài báo
trên các tạp chí học thuật, các chương trong sách và các nghiên cứu chuyên khảo là kết
quả nghiên cứu chính. Khi kết quả nghiên cứu ở các dạng khác như sáng chế, chương
trình máy tính, thiết bị y tế hoặc vật liệu mới, việc sản xuất chúng liên quan tới một số
hình thức công bố nghiên cứu. Định nghĩa chính xác về sản phẩm nghiên cứu thay đổi
theo các tiêu chuẩn ngành học. Sản phẩm nghiên cứu đóng góp vào kho tri thức của các
ngành khoa học. Đầu ra nghiên cứu thường mang theo những sản phẩm phụ quan trọng.
Đầu tiên, làm việc trong các dự án nghiên cứu có thể hỗ trợ phát triển các kiến thức và
kỹ năng mới, và mạng lưới liên kết các nhà khoa học làm việc cùng nhau. Theo cách
này, kết quả nghiên cứu có thể góp phần xây dựng năng lực của tổ chức. Thứ hai, khi
sinh viên được tham gia vào quá trình nghiên cứu, NCKH góp phần thực hiện nhiệm vụ
giảng dạy, đào tạo của trường đại học. Thứ ba, sản phẩm nghiên cứu có thể ảnh hưởng
đến nhận định của các bên liên quan về cá nhân các nhà nghiên cứu, nhóm nghiên cứu,
các đơn vị trong trường đại học và trường đại học. Do đó, tác động danh tiếng là một
64
sản phẩm phụ khác của đầu ra nghiên cứu.
Phát triển sản phẩm và dịch vụ (Product and Service Development)
Kết quả nghiên cứu có thể trở thành cơ sở để phát triển ứng dụng các sản phẩm
và dịch vụ. Nhiều trường đại học ở Hoa Kỳ từ lâu đã cung cấp dịch vụ cho cộng đồng
địa phương và các hội nông nghiệp như là một phần không thể thiếu trong sứ mệnh của
họ. Ở các nước khác, trong lịch sử, ít nhất đã có một số trường đại học làm việc với các
bên liên quan bên ngoài và đáp ứng nhu cầu kinh doanh và nhu cầu của cộng đồng. Đồng
thời, với nỗ lực thương mại hóa kết quả nghiên cứu, các trường đại học tìm kiếm bằng
sáng chế cho các sáng chế, cấp phép license, thành lập công ty spin-off hoặc start-up để
thúc đẩy phát triển sản phẩm và ký kết hợp đồng dịch vụ.
Quan hệ với các bên liên quan (Stakeholder Relations)
Các trường đại học, cả công và tư, là những tổ chức phụ thuộc cao ở chỗ họ không
thể duy trì hoặc phát triển mà không có sự hỗ trợ của các nhà tài trợ và Chính phủ. Các
nhà quản lý các trường đại học phải liên tục quảng bá và duy trì hình ảnh đẹp, danh tiếng
của nhà trường. Chức năng nghiên cứu có khả năng tạo nên danh tiếng cho trường đại
học. Danh tiếng tốt về chất lượng nghiên cứu và chuyển giao các sản phẩm và dịch vụ
hữu ích cho xã hội sẽ giúp các nhà lãnh đạo các trường đại học tăng khả năng tìm kiếm
và thu hút các khoản tài trợ và hỗ trợ nhiều hơn. Đổi lại, sự hỗ trợ từ bên ngoài này sẽ
giúp các trường đại học phát triển các nguồn đầu vào nghiên cứu có chất lượng cao. Mối
quan hệ mạnh mẽ với các bên liên quan sẽ giúp cho các trường đại học phát triển một
cách hiệu quả các sản phẩm và dịch vụ dựa trên các kết quả nghiên cứu.
Giảng dạy, quản trị và phục vụ (Teaching, Administration, Service)
Chức năng NCKH tương tác với các chức năng khác của trường đại học, gồm:
giảng dạy, quản trị và phục vụ. Các cá nhân nhà khoa học thường có xung đột trong bản
thân họ khi phải cân nhắc dành thời gian cho các công việc giảng dạy, nghiên cứu, quản trị
và phục vụ cộng đồng. Tuy nhiên, ở cấp độ tổ chức rộng hơn, các chức năng này có thể
hiệp đồng được với nhau. Các trường đại học cần quy định thời lượng dành cho từng chức
năng và sự gắn kết giữa các chức năng để nhà trường hoạt động một cách hiệu quả nhất.
Như vậy, có thể khẳng định, trong xã hội hiện đại, NCKH là chức năng quan
trọng, không thể thiếu đối với các trường đại học. Các trường đại học thực hiện tốt chức
65
năng này thì mới khẳng định được vị trí của mình và mới phát triển được. NCKH trong
các trường đại học bao gồm nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và triển khai để
tạo ra tri thức và sản phẩm KH&CN mới. Đồng thời tiến hành ứng dụng các kết quả
nghiên cứu, CGCN vào thực tiễn sản xuất và đời sống. NCKH của các trường đại học
trước hết là để phục vụ và nâng cao chất lượng GDĐH, năng lực nghiên cứu và khả năng
ứng dụng KH&CN của giảng viên, nghiên cứu viên, cán bộ quản lý, viên chức. Đồng
thời, NCKH trong trường đại học sẽ hình thành và phát triển năng lực nghiên cứu cho
người học, phát hiện và bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu đào tạo nhân lực trình độ
cao. Đây chính là điểm đặc trưng, là sự khác biệt của chức năng NCKH của các trường
đại học so với chức năng nghiên cứu của các loại hình tổ chức khác như viện nghiên
cứu hay doanh nghiệp. Bên cạnh đó, NCKH trong các trường đại học còn thực hiện các
nghiên cứu để giải quyết các vấn đề trong công tác quản lý của trường đại học và tạo ra
các sản phẩm đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn thông qua hệ thống các nhiệm vụ nghiên
cứu được giao và tuyển chọn.
Thông qua NCKH, các trường đại học ngày càng khẳng định vai trò rất quan
trọng của mình trong các hoạt động KH&CN của các quốc gia, đặc biệt là nghiên cứu
cơ bản với ba thế mạnh như: tiềm năng chất xám của đội ngũ cán bộ, giảng viên cao;
lực lượng triển khai các đề tài NCKH thường trực và hùng hậu; tạo ra hiệu quả kép (sản
phẩm KH&CN và sản phẩm đào tạo). Ở các nước tiên tiến, nhiều thành tựu KH&CN
lớn gắn liền với tên tuổi của các giáo sư đại học. Các trường đại học lớn thường là chỗ
dựa tin cậy và là nơi tư vấn tốt cho việc hoạch định các đường lối chính sách lớn của
nhà nước cả về mặt đối nội và đối ngoại và tạo ra nhiều sản phẩm KH&CN hữu dụng
phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội. Khi chức năng nghiên cứu được thực hiện nghiêm
túc, các trường đại học lựa chọn cẩn thận giảng viên, nghiên cứu viên dựa trên năng lực
nghiên cứu của họ (nhưng không loại trừ các năng lực khác của họ), các trường đại học
cũng cung cấp các ưu đãi phù hợp để thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu hiệu quả, và
cung cấp thời gian và cơ sở hạ tầng cần thiết để hỗ trợ nghiên cứu [Mintrom, 2008].
2.2.2. Đặc điểm chức năng nghiên cứu khoa học của các trường đại học quân đội
Trường đại học quân đội hay còn được gọi là các trường đại học quân sự là các
trường đại học thuộc quân đội. Mục tiêu của các trường đại học quân đội là đào tạo đội
66
ngũ cán bộ quân đội có trình độ cao đẳng, đại học, thạc sĩ, tiến sĩ theo các chuyên ngành
quân sự; có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, tuyệt đối trung thành
với Tổ quốc; có trình độ kiến thức, năng lực toàn diện, đáp ứng yêu cầu xây dựng quân
đội và bảo vệ Tổ quốc [USMA; Bộ Quốc Phòng, 2016].
Các trường đại học quân đội thực hiện các nhiệm vụ giáo dục, đào tạo, NCKH [Bộ
Quốc phòng, 2016, Điều 9]. NCKH là một chức năng cơ bản của các trường đại học quân
đội [USMA]. Chức năng NCKH trong các trường đại học quân đội có các vai trò sau:
- Nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, năng lực nghiên cứu và khả năng ứng
dụng KH&CN của giảng viên, nghiên cứu viên và cán bộ quản lý giáo dục trong các
trường đại học quân đội;
- Hình thành và phát triển năng lực nghiên cứu cho người học; phát hiện và bồi
dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu đào tạo nhân lực cho quân đội và nền kinh tế quốc dân;
- Tạo ra tri thức, công nghệ, giải pháp mới để phát triển khoa học giáo dục, hiện
đại hóa quân đội, góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước và phát triển kinh
tế xã hội; từng bước xây dựng các trường đại học quân đội thành các trung tâm nghiên
cứu, phát triển KH&CN của quân đội [USMA; Bộ Quốc phòng, 2016].
Các trường đại học quân đội sẽ tiến hành các nghiên cứu phù hợp các lĩnh vực và
chuyên ngành đào tạo của mình. Đồng thời, các trường đại học quân đội cũng thực hiện
ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào giáo dục, đào tạo, xây dựng, hiện đại hóa quân
đội, sản xuất phát triển kinh tế, phục vụ đời sống xã hội [USMA]. NCKH trong các
trường đại học quân đội bao gồm nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và triển khai
thực nghiệm để tạo ra tri thức và sản phẩm mới. NCKH trong các trường đại học quân
đội tập trung và ưu tiên trước hết vào lĩnh vực quân sự. Hoạt động NCKH quân sự là tập
hợp toàn bộ các hoạt động có hệ thống, có kế hoạch, với mục tiêu tìm tòi, khám phá,
phát hiện ra các hiện tượng mới, tính chất mới, quy luật mới hoặc sáng tạo ra các giá trị
nhận thức mới, giải pháp mới, phương pháp (phương thức) tác chiến mới, công nghệ
mới... trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh, quân sự, nhằm bổ sung, phát triển tri thức
khoa học quân sự và ứng dụng vào thực tiễn bảo vệ Tổ quốc [Nguyễn Quốc Đoàn, 2015].
Quá trình xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và hiện đại trong điều
kiện KH&CN phát triển mạnh mẽ như hiện nay đang đặt ra cho đội ngũ cán bộ KH&CN
67
trong quân đội những nhiệm vụ mới rất quan trọng. Đó là nghiên cứu, chế tạo vũ khí
mới; cải tiến, hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện có, khai thác làm chủ vũ khí
trang bị kỹ thuật, nghiên cứu phòng chống chiến tranh công nghệ cao, kết hợp quốc
phòng với kinh tế đặc biệt là những ngành có tính lưỡng dụng cao và công nghệ tiên
tiến. Đó cũng là các nhiệm vụ trọng tâm, những đóng góp quan trọng trong công tác
NCKH của các trường đại học quân đội hiện nay.
Qua phân tích chức năng NCKH của các trường đại học và chức năng NCKH của
các trường đại học quân đội, chúng ta thấy rằng, NCKH của trường đại học quân đội và
các trường đại học dân sự có những điểm tương đồng nhưng đồng thời cũng có những
nét riêng, rất đặc trưng. Điều này được thể hiện trong bảng so sánh sau:
Bảng 2.1: So sánh chức năng NCKH giữa các trường đại học quân đội với
các trường đại học thuộc khối dân sự
Trường đại học quân đội Trường đại học dân sự
- Nâng cao chất lượng giáo - Phục vụ và nâng cao chất Mục tiêu
dục, đào tạo, năng lực nghiên lượng GDĐH, năng lực
cứu và khả năng ứng dụng nghiên cứu và khả năng ứng
KH&CN của giảng viên, dụng KH&CN của giảng
nghiên cứu viên và cán bộ viên, nghiên cứu viên, cán bộ
quản lý giáo dục trong các quản lý trong các trường đại
trường đại học quân đội; học dân sự;
- Hình thành và phát triển - Hình thành và phát triển
năng lực nghiên cứu cho năng lực nghiên cứu cho
người học trong các trường người học trong các trường
đại học quân đội; đại học dân sự;
- Phát hiện và bồi dưỡng nhân - Phát hiện và bồi dưỡng
tài, đáp ứng yêu cầu đào tạo nhân tài, đáp ứng yêu cầu đào
nhân lực cho quân đội và nền tạo nhân lực trình độ cao cho
kinh tế quốc dân; xã hội;
- Tạo ra tri thức, công nghệ, - Tạo ra tri thức, công nghệ,
68
giải pháp mới. giải pháp mới.
- Nghiên cứu cơ bản, nghiên - Nghiên cứu cơ bản, nghiên Loại hình nghiên
cứu ứng dụng, triển khai cứu ứng dụng, triển khai cứu
- Tính mới - Tính mới Đặc điểm
- Ưu tiên lĩnh vực quân sự - Chủ yếu là lĩnh vực dân sự, Lĩnh vực nghiên
phát triển kinh tế, xã hội cứu và ứng dụng
- Bên cạnh đó, có thể áp dụng - Một số ít có thể áp dụng vào
vào lĩnh vực dân sự, phát an ninh – quốc phòng
triển kinh tế, xã hội
Phần lớn các kết quả nghiên Yêu cầu bảo mật Các kết quả nghiên cứu thuộc
lĩnh vực quân sự hầu hết đều cứu được khuyến khích công
yêu cầu được giữ bí mật, ít bố rộng rãi, trừ các sản phẩm kỹ
được công bố công khai thuật thuộc dạng “no patent”.
- Phát triển tri thức khoa học - Phát triển tri thức khoa học Kết quả đóng góp
- Phát triển tri thức khoa học của nhân loại
quân sự
- Vận dụng tri thức khoa học - Vận dụng tri thức khoa học
vào điều kiện thực tiễn quân vào thực tiễn xã hội
sự và đời sống xã hội
(Nguồn: Kết quả phân tích của luận án)
Dựa trên mô hình chung về quá trình nghiên cứu của Mintrom (hình 2.1), quá
trình phân tích và đánh giá chức năng NCKH cũng như đề xuất giải pháp hoàn thiện
chức năng NCKH của các trường đại học quân đội trong bối cảnh hội nhập quốc tế được
thực hiện ở trong luận án sẽ bám sát vào khung phân tích dưới đây (hình 2.2). Theo đó,
hoạt động NCKH của các trường đại học quân đội gồm 4 giai đoạn: các yếu tố đầu vào,
quá trình nghiên cứu, sản phẩm nghiên cứu và phát triển sản phẩm, dịch vụ. Cả 4 giai
đoạn của quá trình nghiên cứu đều tác động đến hoạt động đào tạo, quản lý và phục vụ
của các trường đại học quân đội. Các sản phẩm nghiên cứu và quá trình phát triển các
sản phẩm nghiên cứu và dịch vụ KH&CN để cung cấp sản phẩm, phục vụ nhu cầu của
các bên liên quan, trước hết là các đơn vị trong Quân đội và các tổ chức ngoài dân sự.
69
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, chức năng NCKH của các trường đại học
quân đội cũng phải tuân theo và đáp ứng được những tiêu chuẩn, chuẩn mực chung của
thế giới trong toàn bộ quá trình nghiên cứu cũng như những đóng góp của nghiên cứu
đối với quân đội và xã hội. Quá trình nhận xét, đánh giá thực trạng chức năng NCKH
của các trường đại học quân đội sẽ áp dụng mô hình phân tích SWOT (S: Điểm mạnh
(Strengths), W: Weaknesses (Điểm yếu), O: Opportunities (Cơ hội), T: Threats (Thách
thức)) để có cái nhìn khái quát và đầy đủ về thực trạng và làm cơ sở để đề xuất các giải
pháp phù hợp và khả thi nhằm hoàn thiện chức năng NCKH của các trường đại học quân
đội trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
Môi trường hội nhập quốc tế
Các bên liên quan Đầu vào nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu
Sản phẩm nghiên cứu
Phát triển sản phẩm và dịch vụ Đào tạo, Phục vụ và Quản lý
Hình 2.2. Khung phân tích chức năng NCKH của các trường đại học quân đội
(Nguồn:[Mintrom, 2008]; Kết quả bổ sung của luận án)
2.3. Chất lượng đào tạo của các trường đại học quân đội
2.3.1. Khái niệm chất lượng đào tạo của trường đại học
70
Trong xu thế hội nhập thế giới hiện nay, chất lượng đào tạo đang là vấn đề nóng
và quyết định đến sự tồn tại và phát triển của các trường đại học trên toàn thế giới. Vậy,
chất lượng đào tạo của các trường đại học là gì và được đo bằng cái gì?
Đào tạo là một hoạt động cơ bản của giáo dục đại học (GDĐH). Vì vậy, chất
lượng đào tạo của một trường đại học sẽ được thể hiện thông qua chất lượng giáo dục
của trường đại học đó. Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về chất lượng GDĐH.
Chất lượng GDĐH được định nghĩa như thế nào sẽ phụ thuộc vào thời điểm đưa ra định
nghĩa và phụ thuộc vào đối tượng quan tâm là: người học, giảng viên, người sử dụng lao
động, các tổ chức tài trợ và các cơ quan kiểm định. Ngoài ra, quan điểm về chất lượng
GDĐH còn còn phụ thuộc vào tình trạng phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước. Trên
thế giới hiện nay, nhiều học giả đã đưa ra các khái niệm khác nhau về chất lượng GDĐH.
Đầu tiên phải kể đến quan điểm về chất lượng GDĐH của Harvey và Green. Harvey
và Green đã đề cập đến năm khía cạnh chất lượng GDĐH, bao gồm [Harvey, 1993]:
- Chất lượng là sự vượt trội nghĩa là phải đạt được tiêu chuẩn cao, ưu việt, xuất sắc;
- Chất lượng là sự hoàn hảo nghĩa là không có lỗi trong quá trình đào tạo. Các
quy trình và chuẩn đào tạo phải được đáp ứng hoàn toàn trong đó bao gồm cả những
chuẩn mực do bên ngoài yêu cầu;
- Chất lượng là sự phù hợp với mục tiêu nghĩa là chất lượng chỉ có ý nghĩa khi
nó được đặt trong mối quan hệ với mục tiêu của một trường đại học. Trong GDĐH, quan
điểm này có nghĩa là sự đáp ứng yêu cầu của các bên có lợi ích liên quan: người học,
người sử dụng lao động, nhà nước…;
- Chất lượng là sự đáng giá về đồng tiền, nghĩa là xem xét chất lượng GDĐH
tương ứng với chi phí bỏ ra trong quá trình đào tạo. Chất lượng GDĐH được xem xét
trên lập trường hiệu quả kinh tế và sự tự chịu trách nhiệm;
- Chất lượng là sự chuyển đổi nghĩa là GDĐH mang lại những thay đổi quan trọng
cho người học. GDĐH cần phải nâng cao giá trị và nâng cao năng lực cho người học.
Có nghĩa là, trong quá trình đào tạo, người học có cơ hội dung nạp những kiến thức, kỹ
năng chưa có để hoàn thiện mình hơn. Người học được trang bị những khả năng giúp
điều chỉnh quá trình biến đổi của chính mình như tự quyết định, tự chủ trong môi trường
học, tăng khả năng phân tích vấn đề và tăng sự nhạy bén đối với các vấn đề xung quanh.
Nói cách khác, một trường sẽ được xem là có chất lượng cao hơn một trường khác nếu
sinh viên tốt nghiệp trường đó có thể xoay sở cuộc sống tương lai của mình với những
kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo học được ở trường tốt hơn [Lê Hữu Nghĩa, 2011].
71
Tiếp đến, trong nghiên cứu What is Quality in Higher Education?, Green cũng đã
lập luận rằng, để xác định được chất lượng của GDĐH thì cần thiết phải xác định rõ ràng
các tiêu chí mà các bên có lợi ích liên quan sử dụng để đánh giá chất lượng của GDĐH, và
đưa tất cả các tiêu chí này vào xem xét [Green, 1994]. Srikanthan và Dalrymymple đưa ra
bốn nhóm có lợi ích liên quan đến GDĐH theo như gợi ý của Green. Đó là:
- Các nhà tài trợ cho hoạt động GDĐH (các tổ chức cung cấp tài chính và xã hội).
Đối nhóm người này, GDĐH được xem là có chất lượng khi nó tạo ra được giá trị tương
xứng với tài trợ của họ. Hay nói cách khác, họ quan tâm đến tỷ suất sinh lợi trên vốn
đầu tư;
- Nhóm người sử dụng dịch vụ giáo dục (sinh viên đang theo học và tiềm năng).
Chất lượng được xem là sự xuất sắc bởi lẽ chỉ có sự xuất sắc mới đảm bảo mang lại lợi
thế so sánh cho họ trên thị trường lao động trong tương lai;
- Nhóm người sử dụng đầu ra của GDĐH (người sử dụng lao động). Chất lượng
được xem là phù hợp với mục đích của họ. Lý do là những người sử dụng lao động luôn
tìm kiếm người lao động sở hữu các năng lực làm việc phù hợp với nhu cầu của tổ chức
và đem lại hiệu quả cho tổ chức của họ;
- Người lao động trong khu vực GDĐH (giảng viên và nhân viên hành chính). Nhóm
này xem chất lượng là sự hoàn hảo. Theo đó, các tiêu chuẩn hành vi, các giá trị đạo đức
phải được tuân thủ nhằm đem lại sự hài lòng trong công việc của họ [Srikanthan, 2003].
Khách hàng cuối cùng (sau khi SV tốt nghiệp)
Khách hàng bên trong
Quá trình đào tạo
Đánh giá
Đánh giá
Tự kiểm tra và đánh giá
Cộng đồng doanh nghiệp (người sử dụng lao động)
Các trường PTTH Phụ huynh Sinh viên tiềm năng
Đánh giá
Các khách hàng bên trong Sinh viên Giảng viên Nhân viên hành chính
Khách hàng tiềm năng (trước khi vào đại học)
Hình 2.3: Mô hình đánh giá hoạt động đào tạo của trường Đại học [Akao, 1996]
72
Quan điểm của Srikanthan và Dalrymymple cũng tương đồng với tác giả Akao
và các cộng sự. Các tác giả này cho rằng khách hàng của GDĐH có thể được chia thành
hai nhóm: khách hàng bên ngoài, gồm khách hàng tiềm năng và khách hàng sử dụng kết
quả của GDĐH; khách hàng bên trong, gồm sinh viên đang theo học và giảng viên, nhân
viên hành chính của nhà trường.
Ở Úc, một trong những định nghĩa về chất lượng GDĐH được nhiều người đồng
ý nhất là: “một đánh giá về mức độ mục tiêu đạt được và các giá trị, sự xứng đáng với
mức độ đạt được đó... Chất lượng là sự đánh giá về mức độ đạt được của các đặc điểm
mong muốn từ các hoạt động và kết quả có được theo một số chuẩn mực và đối chiếu
với một số các tiêu chí hay mục tiêu cụ thể nào đó”[Nguyễn Quang Giao, 2010]..
Ở Việt Nam, khi bàn về khái niệm chất lượng GDĐH, các nhà nghiên cứu chủ
yếu tiếp cận và phân tích các khái niệm của các tác giả trên thế giới.
Theo tác giả Nguyễn Đức Chính, hiện nay trên thế giới có sáu quan điểm về chất
lượng GDĐH như sau [Nguyễn Đức Chính, 2002]:
- Thứ nhất, chất lượng được đánh giá bằng “đầu vào”: Theo quan điểm này, một
trường ĐH có chất lượng cao nếu tuyển được nhiều sinh viên giỏi, có đội ngũ cán bộ
giảng dạy có uy tín, có cơ sở vật chất tốt và trang thiết bị hiện đại...
-Thứ hai, chất lượng được đánh giá bằng “đầu ra”: Trường đại học có chất lượng
cao nếu đào tạo được nhiều sinh viên tốt nghiệp giỏi, thực hiện được nhiều công trình
khoa học có giá trị, nhiều khóa học thu hút người học.
- Thứ ba, chất lượng được đánh giá bằng “giá trị gia tăng”: Trường đại học có
chất lượng cao nếu tạo được sự khác biệt lớn trong sự phát triển về trí tuệ và cá nhân
sinh viên sau quá trình đào tạo tại trường.
- Thứ tư, chất lượng được đánh giá bằng “giá trị học thuật”: Trường đại học có
chất lượng cao nếu có được đội ngũ cán bộ giảng dạy, các nhà khoa học có uy tín lớn.
- Thứ năm, chất lượng được đánh giá bằng “văn hoá tổ chức riêng”: Trường đại
học có chất lượng cao nếu có được một truyền thống tốt đẹp về hoạt động không ngừng
nâng cao chất lượng đào tạo.
- Thứ sáu, chất lượng được đánh giá bằng “kiểm toán”: Trường đại học có chất
lượng cao nếu kết quả kiểm toán chất lượng cho thấy nhà trường có thu thập đủ thông
tin cần thiết và những người ra các quyết định có đủ thông tin cần thiết, sự hợp lý và
73
hiệu quả của quá trình thực hiện các quyết định về chất lượng.
Trên cơ sở phân tích sáu quan điểm nêu trên, tác giả Nguyễn Đức Chính nêu rõ
“chất lượng là một khái niệm tương đối, động, đa chiều” và “chất lượng là sự phù hợp
với mục đích - hay đạt được các mục đích đề ra trước đó”.
Về mặt quản lý Nhà nước trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, Bộ GD&ĐT cũng
đã đề cập đến khái niệm chất lượng GDĐH trong Quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất
lượng giáo dục trường đại học. Cụ thể :
Chất lượng GDĐH là sự đáp ứng mục tiêu đề ra của cơ sở giáo dục, đáp ứng các
yêu cầu của Luật giáo dục, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục,
Luật GDĐH, phù hợp với nhu cầu sử dụng nhân lực cho sự phát triển kinh tế - xã
hội của địa phương và của cả nước [Bộ GD&ĐT, 2012].
Quy định trên đã được thay thế theo Thông tư số 12/2017/TT-BGDĐT quy định
về Kiểm định chất lượng cơ sở GDĐH, cụ thể được thay thế bằng quy định sau:
Chất lượng của cơ sở GDĐH là sự đáp ứng mục tiêu do cơ sở giáo dục đề ra, đảm
bảo các yêu cầu về mục tiêu giáo dục của Luật GDĐH, phù hợp với yêu cầu đào
tạo nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và cả nước
[Bộ GD&ĐT, 2017].
Như vậy, hiện nay, trên thế giới có nhiều cách tiếp cận và nhiều khái niệm khác
nhau về chất lượng GDĐH. Trong đó, chiếm ưu thế hơn hẳn là quan điểm: chất lượng
là phù hợp với mục tiêu. Quan điểm này đã bao hàm trong nó nhiều quan điểm khác.
Tác giả cũng đồng thuận với quan điểm này. Như vậy, chất lượng GDĐH là sự phù hợp
với mục tiêu của cơ sở GDĐH. Vấn đề quan trọng là cần phải xác định một cách chính
xác và rõ ràng mục tiêu của các trường đại học, phù hợp với yêu cầu của các bên liên
quan và trình độ phát triển của xã hội. Những mục tiêu này phải được thể hiện bằng
những tiêu chí cụ thể, có thể đo lường và đánh giá được.
Mục tiêu quan trọng nhất của GDĐH của một quốc gia nói chung được xác định
là đào tạo nguồn nhân lực KH&CN chất lượng cao cho xã hội nhằm thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chất lượng đào tạo của trường đại học sẽ được thể
hiện thông qua toàn bộ quá trình đào tạo nhằm đạt được chuẩn đầu ra đáp ứng yêu cầu
của xã hội. Mẫu người được đào tạo trong xu thế hội nhập quốc tế phải là mẫu người
lao động sáng tạo, biết khám phá tương lai và biết tìm biện pháp thích ứng với tương lai
74
luôn biến đổi [Vũ Cao Đàm, 2014]. Quá trình đào tạo của các trường đại học có chất
lượng khi nó đạt được mục tiêu đó. Người lao động đã tốt nghiệp đại học chính là nguồn
nhân lực KH&CN. Như vậy, quá trình đào tạo đại học chính là quá trình đào tạo nguồn
nhân lực KH&CN và sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng nguồn nhân lực KH&CN
của một quốc gia và thế giới.
Vậy theo tác giả, chất lượng đào tạo của trường đại học được thể hiện thông qua
toàn bộ quá trình đào tạo, đảm bảo cho đầu ra của quá trình đào tạo là nguồn nhân lực
KH&CN sáng tạo, biết khám phá tương lai và biết tìm biện pháp thích ứng với tương lai
luôn biến đổi trong một lĩnh vực KH&CN mà họ được đào tạo.
2.3.2. Các yếu tố đo lường chất lượng đào tạo của trường đại học quân đội
Như đã phân tích ở trên, để đo lường chất lượng GDĐH thì cần phải có những
tiêu chí cụ thể trong từng hoạt động của trường đại học quân đội. Đối với hoạt động đào
tạo, để đánh giá chất lượng, chúng ta sẽ đánh giá các yếu tố tham gia vào quá trình đào
tạo của trường đại học quân đội với những tiêu chuẩn nhất định, cụ thể là: tiêu chuẩn về
tuyển sinh và nhập học, tiêu chuẩn về thiết kế và rà soát chương trình dạy học, tiêu chuẩn
về giảng dạy và học tập, tiêu chuẩn về đánh giá người học, tiêu chuẩn về phục vụ và hỗ
trợ người học, tiêu chuẩn về kết quả đào tạo [Bộ GD&ĐT, 2017]. Trong quá trình hội
nhập quốc tế, các tiêu chuẩn này phải được các trường đại học quân đội xây dựng theo
tiêu chuẩn quốc tế và hướng đến đạt được các tiêu chuẩn quốc tế này.
Thứ nhất, tiêu chuẩn về tuyển sinh và nhập học: Các trường đại học quân đội xây
dựng kế hoạch, chính sách và truyền thông để tuyển sinh cho các chương trình đào tạo khác
nhau của mình và đồng thời xây dựng các tiêu chí để lựa chọn người học có chất lượng cho
mỗi chương trình đào tạo. Tiêu chí để tuyển chọn đầu vào cho các trường đại học quân đội
là những người có đủ sức khỏe, có tư cách, phẩm chất đạo đức tốt và có năng lực tốt. Các
trường đại học quân đội xây dựng quy trình và có các biện pháp giám sát việc tuyển sinh
và nhập học để đảm bảo tính phù hợp và hiệu quả của công tác tuyển sinh.
- Thứ hai, tiêu chuẩn về thiết kế và rà soát chương trình dạy học: Các trường
đại học quân đội xây dựng các chương trình đào tạo tiên tiến, phù hợp với trình độ
KH&CN trên thế giới và điều kiện thực tiễn. Khi xây dựng chương trình cho tất cả các
chương trình đào tạo và các môn học/học phần, trường đại học quân đội phải căn cứ vào
trình độ phát triển của ngành khoa học đó trên thế giới. Bên cạnh đó, các trường đại học
75
cần phải lấy ý kiến đóng góp và phản hồi của các bên liên quan về chương trình đào tạo,
để xây dựng các chương trình đào tạo vừa đáp ứng được trình độ khoa học tiên tiến trên
thế giới, vừa phù hợp với điều kiện thực tiễn của người sử dụng. Các bên liên quan chính
là những người học và những người sẽ sử dụng người học sau khi tốt nghiệp (phần lớn
là các đơn vị trong quân đội). Chính vì vậy, chương trình đào tạo cần phải được xây
dựng dựa trên các ý kiến của họ để đáp ứng nhu cầu, mong muốn của họ và để việc đào
tạo gắn với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu công việc. Các chương trình đào tạo phải thường
xuyên được cải tiến để đảm bảo sự phù hợp với sự phát triển của KH&CN, với xu thế
phát triển đại học trên thế giới và đáp ứng nhu cầu luôn thay đổi của các bên liên quan.
- Thứ ba, tiêu chuẩn về giảng dạy và học tập: Các trường đại học quân đội cần
phải thu hút, tuyển chọn đội ngũ giảng viên tốt, có trình độ chuyên môn và là chuyên
gia trong lĩnh vực giảng dạy và phân công nhiệm vụ dựa trên trình độ chuyên môn, năng
lực và kinh nghiệm của họ. Giảng viên trong các trường đại học quân đội cần phải hướng
đến đạt được các tiêu chuẩn của giảng viên quốc tế về trình độ chuyên môn, khả năng
ngoại ngữ, khả năng nghiên cứu và hợp tác nghiên cứu quốc tế. Việc giảng dạy và học
tập hướng tới việc cung cấp cho người học những kiến thức và kỹ năng đáp ứng yêu cầu
của chuẩn đầu ra, đáp ứng với yêu cầu của thực tế công việc và phù hợp với xu hướng
học tập suốt đời. Quá trình dạy và học phải cung cấp cho người học những tri thức mới
nhất mà khoa học trên thế giới đã nghiên cứu và tìm ra, những vấn đề cấp bách cần giải
quyết của thực tiễn. Người học được khuyến khích suy nghĩ đa chiều, được khuyến
khích tư duy phản biện và tự tin đưa ra quan điểm sáng tạo của mình. Để làm được điều
đó, họ cần được trang bị tốt các kỹ năng: kỹ năng thu thập và xử lý thông tin, kỹ năng
ra quyết định, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng làm việc nhóm…
- Thứ tư, tiêu chuẩn về đánh giá người học: Việc đánh giá người học được
thiết kế phù hợp với mục tiêu chuẩn đầu ra. Các phương pháp đánh giá và kết quả đánh
giá người học phải đảm bảo độ chính xác, tin cậy, công bằng và hướng tới đạt được
chuẩn đầu ra. Ngày nay, việc đánh giá người học phải tập trung vào đánh giá các kỹ
năng phân tích và giải quyết vấn đề, khả năng sáng tạo của người học chứ không chỉ là
hệ thống kiến thức thuần túy trong bài giảng, trong giáo trình, tài liệu.
- Thứ năm, tiêu chuẩn về các hoạt động phục vụ và hỗ trợ người học: Các
hoạt động phục vụ và hỗ trợ người học cũng như hệ thống giám sát người học được triển
76
khai để đáp ứng nhu cầu của các bên liên quan. Và hệ thống này cũng cần được cải tiến
để đáp ứng với sự thay đổi của xã hội. Các trường đại học quân đội cần xây dựng và
cung cấp đầy đủ hệ thống giáo trình, tài liệu, học cụ cho người học. Hệ thống tài liệu
học tập cần được xây dựng đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế và hỗ trợ người học tiếp cận
và sử dụng thuận lợi và hiệu quả.
- Thứ sáu, tiêu chuẩn về kết quả đào tạo: chất lượng đào tạo của trường đại
học quân đội được đánh giá cao khi nhà trường có tỷ lệ người học đạt yêu cầu cao, khả
năng hòa nhập và đáp ứng yêu cầu công việc thực tiễn tốt và các bên liên quan rất hài
lòng về chất lượng của người học. Yêu cầu của xã hội ngày nay đối với những người tốt
nghiệp đại học phải là những người vững chuyên môn, năng động, sáng tạo, có khả năng
ra quyết định, xử lý tình huống, có khả năng làm việc độc lập đồng thời cũng phải có
khả năng liên kết với những người khác và làm việc nhóm hiệu quả. GDĐH cần phải
đảm bảo cho người học có đầy đủ các kỹ năng đó khi tốt nghiệp.
Bên cạnh đó, đối với các học viên sau khi tốt nghiệp tại các trường đại học quân
đội, họ sẽ trở thành các sỹ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, nên họ phải có đầy đủ
các tiêu chuẩn của người sỹ quan và các tiêu chuẩn này phải được rèn luyện và tích lũy
trong các trường đại học quân đội. Người sỹ quan Quân đội nhân dân hiện nay phải có
đầy đủ các tiêu chuẩn sau:
- Có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân,
với Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; có
tinh thần cảnh giác cách mạng cao, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh, hoàn hành tốt mọi nhiệm
vụ được giao;
- Có phẩm chất đạo đức cách mạng; cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; gương
mẫu chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;
phát huy dân chủ, giữ nghiêm kỷ luật quân đội; tôn trọng và đoàn kết với nhân dân, với
đồng đội; được quần chúng tín nhiệm;
- Có trình độ chính trị, khoa học quân sự và khả năng vận dụng sáng tạọ chủ nghĩa
Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng và
Nhà nước vào nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng quân đội nhân
dân; có kiến thức về văn hoá, kinh tế, xã hội, pháp luật và các lĩnh vực khác; có năng
lực hoạt động thực tiễn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao; tốt nghiệp chương trình
77
đào tạo theo quy định đối với từng chức vụ;
- Có lý lịch rõ ràng, tuổi đời và sức khoẻ phù hợp với chức vụ, cấp bậc quân hàm
mà sĩ quan đảm nhiệm.
Do đó, ngoài việc có trình độ chuyên môn tốt, các học viên tốt nghiệp các trường đại
học quân đội phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với tổ quốc, với
nhân dân; luôn có tinh thần cảnh giác cách mạng cao, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh, hoàn
hành tốt mọi nhiệm vụ được giao; có phẩm chất đạo đức cách mạng, gương mẫu chấp hành
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy dân chủ, giữ
nghiêm kỷ luật quân đội; tôn trọng và đoàn kết với nhân dân, với đồng đội. Đó cũng là các
yếu tố, tiêu chí để đánh giá chất lượng đào tạo của các trường đại học quân đội.
2.4. Quan hệ giữa nghiên cứu khoa học và chất lượng đào tạo của các trường đại
học quân đội trong bối cảnh hội nhập quốc tế
NCKH và đào tạo là hai chức năng cơ bản của các trường đại học quân đội nói
riêng và các trường đại học nói chung. Hai chức năng này có sự tác động mạnh mẽ đến
nhau và cần được gắn kết chặt chẽ với nhau. NCKH có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng
đào tạo nguồn nhân lực KH&CN quân sự của các trường đại học quân đội trong xu thế
hội nhập quốc tế hiện nay. NCKH là phương tiện (học qua nghiên cứu), vừa là mục đích
(học cho nghiên cứu) để đào tạo, nhất là đào tạo chất lượng cao. Tiêu chí đánh giá sự
tác động của NCKH đến chất lượng đào tạo của các trường đại học quân đội được thể
hiện tập trung ở các nội dung sau: NCKH ảnh hưởng tích cực đến giảng viên và hoạt
động giảng dạy; giúp cải tiến chương trình đào tạo, giáo trình, tài liệu, học cụ và ảnh
hưởng tích cực đến quá trình học tập và rèn luyện kỹ năng của sinh viên, học viên.
2.4.1. Nghiên cứu khoa học ảnh hưởng tích cực đến giảng viên và hoạt động giảng dạy
NCKH có ảnh hưởng rất lớn đến giảng viên và chất lượng giảng dạy của họ.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, NCKH sẽ nâng cao trình độ của giảng viên, đáp ứng
theo các tiêu chuẩn quốc tế. Điều này được thể hiện thông qua các kết quả NCKH: số
lượng bài báo công bố, đặc biệt là các bài báo quốc tế; số bài báo tham gia các hội nghị
khoa học, hội thảo quốc tế; số bằng sáng chế, giải pháp hữu ích; số lượng các nghiên
cứu cùng hợp tác với nước ngoài, số giải thưởng khoa học... NCKH giúp cho giảng viên
thay đổi phương pháp giảng dạy, phương pháp đánh giá người học theo hướng để người
học thể hiện được năng lực, quan điểm cá nhân, phát huy được sự sáng tạo, chủ động
78
của bản thân và vận dụng được kiến thức vào thực tiễn. Mỗi giảng viên ở bậc đào tạo
đại học và sau đại học chỉ có thể đảm nhiệm và hoàn thành tốt nhiệm vụ đào tạo khi họ
thực hiện tốt nhiệm vụ NCKH. Bởi vì:
Thứ nhất, NCKH giúp giảng viên tự nâng cao trình độ, kỹ năng, phát triển vững
chắc trong chuyên môn. Quá trình tham gia NCKH cũng đồng thời là quá trình giúp
giảng viên tự “update” thông tin, kiến thức một cách thực sự hiệu quả. NCKH giúp cho
giảng viên tiếp nhận thêm lượng kiến thức mới từ những nguồn khác nhau để đánh giá
và hoàn thiện những kiến thức của chính bản thân mình. Qua quá trình NCKH, giảng
viên có điều kiện đào sâu hơn, nắm bắt chặt chẽ hơn kiến thức chuyên môn mà mình
đang trực tiếp giảng dạy, kịp thời điều chỉnh, bổ sung những nội dung kiến thức mới,
cần thiết trong bài giảng của mình. Nếu không NCKH, bản thân giảng viên luôn lạc hậu
về kiến thức, kinh nghiệm và không thể hoàn thành tốt nhiệm vụ với tư cách là người
hướng dẫn, truyền thụ tri thức, kỹ năng và kinh nghiệm đối với người học. NCKH cũng
là cơ sở cần thiết để giảng viên tiến hành đổi mới phương pháp giảng dạy. Điều này sẽ
góp phần nâng cao chất lượng đào tạo.
Quá trình tham gia NCKH sẽ góp phần phát triển tư duy, năng lực sáng tạo, khả
năng làm việc độc lập, khả năng làm việc nhóm, trau dồi tri thức và các phương pháp
nhận thức khoa học của giảng viên. Đồng thời hình thành ở giảng viên những phẩm chất
của nhà nghiên cứu. Thông qua việc NCKH, sẽ tăng thêm sự hiểu biết về ngành nghề,
góp phần hình thành và bồi dưỡng tình cảm nghề nghiệp cho giảng viên. Thiết nghĩ, đây
là điều cần thiết và quan trọng trong quá trình giảng dạy và hoạt động chuyên môn của
giảng viên. Điều này sẽ giúp giảng viên có thể hòa nhập tốt hơn, chủ động hơn trong
công việc của mình.
Thứ hai, quá trình thực hiện chức năng NCKH là cơ hội tốt để giảng viên có cơ
hội tiếp xúc, thiết lập mối quan hệ với cộng đồng khoa học trong nước và quốc tế và bồi
dưỡng năng lực NCKH. Thông qua NCKH, các giảng viên sẽ biết đến các đồng nghiệp,
các chuyên gia trong cùng lĩnh vực và từ đó có thể có những liên kết, trao đổi và cùng
hợp tác làm việc. Giảng viên sẽ có cơ hội tham gia các hội thảo khoa học trong nước và
quốc tế. Tại đây, các giảng viên, nhà nghiên cứu sẽ có cơ hội trao đổi tri thức, kinh
nghiệm và qua đó sẽ bồi dưỡng năng lực nghiên cứu cho các giảng viên. Họ cũng sẽ có
cơ hội tiếp xúc, làm quen, tạo lập mối quan hệ để tiếp tục cộng tác lâu dài trong công
tác giảng dạy và nghiên cứu.
Thứ ba, NCKH sẽ đem lại lợi ích kinh tế cho giảng viên, giúp giảng viên nâng
cao đời sống của mình và gia đình. NCKH là một hoạt động chân chính, ý nghĩa, giảng
79
viên sẽ được trả công cho công sức mà mình đã bỏ ra để thực hiện hoạt động này. Hơn
nữa khi kết quả nghiên cứu được thương mại hóa thì người nghiên cứu sẽ được hưởng
lợi ích từ nguồn thu này. Điều này rất quan trọng vì nó sẽ đảm bảo cho giảng viên có
cuộc sống tốt, sống được bằng nghề, yêu nghề và yên tâm cống hiến với nghề. Từ đó,
họ mới có được những bài giảng hay, những bài giảng chất lượng.
Một điều đặc biệt quan trọng nữa là NCKH sẽ ảnh hưởng tích cực đến công tác
xây dựng chương trình, biên soạn giáo trình, tài liệu, bài giảng của giảng viên mà chúng
ta sẽ cùng phân tích trong mục 2.4.2. sau đây.
2.4.2. Ảnh hưởng của nghiên cứu khoa học đối với chương trình đào tạo, giáo trình,
tài liệu, học cụ
Các giảng viên sẽ tiếp cận được những tri thức mới nhất, sẽ khám phá ra những
điều mới thông qua NCKH, từ đó thấy rằng cần phải bổ sung, thay đổi, điều chỉnh các
ngành nghề đào tạo, chương trình đào tạo, giáo trình, tài liệu phục vụ hoạt động đào tạo.
Việc viết mới, chỉnh sửa, bổ sung các chương trình đào tạo, giáo trình, tài liệu tham
khảo đối với các trường đại học quân đội là rất cần thiết và quan trọng. Đối với các
trường đại học dân sự, các chuyên ngành đào tạo dân sự thì có thể sử dụng hệ thống giáo
trình, tài liệu chung, tham khảo lẫn nhau. Nhưng đối với các trường đại học quân đội,
đặc biệt là các chuyên ngành đào tạo quân sự thì không thể sử dụng hệ thống giáo trình,
tài liệu chung, mà phải có hệ thống giáo trình, tài liệu viết riêng, phù hợp với đặc điểm
của từng lĩnh vực quân sự.
Chương trình đào tạo là một trong các yếu tố ảnh hưởng lớn đến chất lượng đào
tạo của các ngành học trong trường đại học quân đội. Chương trình đào tạo sẽ cung cấp
hệ thống kiến thức và kĩ năng cho người học. Vì vậy, chương trình đào tạo cần thường
xuyên được rà soát và điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu và tình hình thực tế. Điều
này chỉ có thể được thực hiện thông qua NCKH. Qua quá trình thực hiện chức năng
NCKH, các giảng viên sẽ phát hiện được những vấn đề mới xuất hiện, những vấn đề cần
thiết đối với điều kiện thực tế của Việt Nam, của quân đội để thay đổi chương trình đào
tạo, tiếp cận với trình độ quốc tế và phục vụ quốc phòng - an ninh và sự phát triển kinh
tế - xã hội của Việt Nam.
Qua quá trình NCKH, giảng viên cập nhật được các nguồn tri thức mới cũng như
sáng tạo ra những tri thức mới. Trên cơ sở đó, họ sẽ nhận ra hệ thống giáo trình, tài liệu
tham khảo, học cụ trong lĩnh vực mình giảng dạy có những kiến thức đã trở nên lạc hậu,
có những cái mới cần phải được bổ sung và cập nhật cho phù hợp với điều kiện thực tế.
Qua đó, họ sẽ tiến hành viết mới, bổ sung, chỉnh sửa, nâng cao chất lượng hệ thống giáo
80
trình, tài liệu tham khảo, bài giảng phục vụ hoạt động đào tạo. Những bài giảng không
còn chỉ gồm những lý thuyết kinh điển khô khan mà nó sẽ được lồng vào những vấn đề
thực tiễn của thế giới và Việt Nam giúp cho người học dễ dàng tiếp nhận tri thức, gắn
tri thức với thực tiễn và có khả năng sử dụng tri thức. Từ đó, các trường đại học sẽ có
hệ thống tư liệu học tập tốt, đảm bảo chất lượng và phù hợp với sự phát triển KH&CN
trong thực tế, tương đồng với trình độ KH&CN trên thế giới. Điều này rất quan trọng vì
nó cung cấp cho người học những hiểu biết sát thực tế và không bị hẫng khi đi làm việc.
Chúng ta có thể khẳng định, việc này chỉ có thể làm được khi các giảng viên và các
trường đại học thực hiện tốt chức năng NCKH.
Bên cạnh đó, các trang thiết bị, cơ sở vật chất phục vụ NCKH cũng có thể đồng
thời sử dụng vào mục đích học tập, đào tạo, giúp người học có thể trải nghiệm thực tế
thông qua hoạt động quan sát, thực hành thí nghiệm và thực hiện các nghiên cứu trên
chính các thiết bị đó. Điều này là vô cùng hữu ích đối với người học, góp phần quan
trọng vào việc nâng cao chất lượng học tập.
Sự tác động của NCKH đến chất lượng chương trình đào tạo, hệ thống giáo trình,
tài liệu, học cụ được thể hiện cụ thể bằng: số lượng và chất lượng chương trình đào tạo
mới được xây dựng; số học phần được điều chỉnh, bổ sung; số lượng sách chuyên khảo,
giáo trình, tài liệu được biên soạn; số bài thí nghiệm được xây dựng phục vụ đào tạo.
2.4.3. Ảnh hưởng của nghiên cứu khoa học đối với sinh viên, học viên
Từ việc ảnh hưởng của NCKH đến giảng viên thì chúng ta thấy, NCKH sẽ giúp
cho học viên, sinh viên tiếp cận được những bài giảng tốt, cập nhật được những kiến
thức mới, chuyên sâu, bắt kịp được tri thức của nền KH&CN hiện đại trên thế giới.
Người học sẽ được sử dụng những tài liệu, giáo trình, bài giảng chứa đựng kết quả
nghiên cứu nên cập nhật được những thông tin, tri thức mới nhất và gợi mở được nhiều
hướng nghiên cứu mới cho người học. Người học cũng được tiếp cận và học hỏi kỹ năng
nghiên cứu từ chính những người thầy của mình.
NCKH trong trường đại học không chỉ là hoạt động của người thầy mà người học
cũng tham gia vào hoạt động này. Người học sẽ trực tiếp làm NCKH, học tập thông qua
việc NCKH. Hoạt động này sẽ mang lại rất nhiều lợi ích cho người học.
Thứ nhất, NCKH rèn luyện kỹ năng tư duy logic, khoa học, sáng tạo cho người
học [Nguyễn Văn Tuân, 2017, tr.6]. NCKH là tìm tòi, khám phá những cái mới. Người
học sẽ rèn luyện cho mình khả năng sáng tạo, yêu thích tìm tòi những cái mới. Người
học sẽ rèn luyện được kỹ năng tư duy logic vì tính logic là một yêu cầu bắt buộc của
hoạt động NCKH. Từ việc chọn vấn đề nghiên cứu, đưa ra các luận điểm, luận cứ, lựa
81
chọn phương pháp nghiên cứu cần logic với nhau. Các luận điểm, luận cứ chứng minh
phải được đưa ra dựa trên cơ sở khoa học, khách quan chứ không phải là những nhận
định chủ quan của người nghiên cứu.
Thứ hai, NCKH giúp người học có cơ hội được học và thực hành các phương
pháp nghiên cứu [Nguyễn Văn Tuân, 2017, tr.6]. Trong quá trình làm NCKH, người học
phải học và trực tiếp thực hiện các phương pháp thu thập và xử lý thông tin, phương
pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, phương pháp điều tra khảo sát, phỏng vấn và phương
pháp dự báo,… để lấy được các luận cứ chứng minh cho luận điểm nghiên cứu của mình.
Và một trong những kỹ năng rất quan trọng mà người học có thể rèn luyện được qua
hoạt động NCKH đó là cách sử dụng văn phong khoa học và trình bày một công trình
khoa học. Không ai tự nhiên có thể trình bày một bài báo khoa học, một đề tài nghiên
cứu đầy đủ, trọn vẹn mà điều đó chỉ có thể có được qua quá trình rèn luyện. Đây là
những kỹ năng rất cần thiết đối với người học không chỉ trong quá trình học tập mà
trong thực tế cuộc sống sau này.
Thứ ba, NCKH giúp sinh viên củng cố kiến thức, mở rộng kiến thức và vận dụng
kiến thức vào thực tế. Khi NCKH, người học thêm một lần nữa củng cố kiến thức mình
đã học, tư duy phản biện lại xem những kiến thức đó đã đúng hay chưa, còn có cách tiếp
cận nào khác hay không, có phù hợp với thực tế hay không. Điều đó sẽ mở ra những
hướng nghiên cứu mới cho người học.
Sự tác động tích cực của NCKH giúp nâng cao trình độ và kỹ năng của người
học được thể hiện cụ thể thông qua các tiêu chí sau: số lượng sinh viên, học viên tham
gia các đề tài nghiên cứu, là sản phẩm đào tạo của các đề tài nghiên cứu, các giải thưởng
NCKH của học viên, kết quả tốt nghiệp của học viên và đánh giá của đơn vị sử dụng
học viên sau khi tốt nghiệp.
Bảng 2.2 : Tiêu chí và các yếu tố đo lường sự tác động của NCKH đến chất
lượng đào tạo của các trường đại học quân đội
Tiêu chí đánh giá Yếu tố đo lường
- Kiến thức thường xuyên được cập nhật, đổi mới, tiếp cận Nâng cao trình độ, kỹ
với trình độ quốc tế; năng cho giảng viên,
- Số lượng bài báo công bố, đặc biệt là các bài báo quốc tế; đáp ứng tiêu chuẩn
- Số bài báo tham gia các hội nghị khoa học, hội thảo quốc tế; quốc tế
- Số bằng sáng chế, giải pháp hữu ích;
- Số lượng các nghiên cứu cùng hợp tác với nước ngoài;
82
- Số giải thưởng khoa học;
- Thay đổi phương pháp giảng dạy;
- Số lượng và chất lượng chương trình đào tạo mới được Tăng cường số lượng
xây dựng; và chất lượng chương
- Số học phần được điều chỉnh, bổ sung; trình đào tạo, giáo
- Số lượng sách chuyên khảo, giáo trình, tài liệu được biên soạn; trình, tài liệu tham
- Số bài thí nghiệm được xây dựng phục vụ đào tạo. khảo, học cụ
- Số lượng sinh viên, học viên tham gia các đề tài nghiên Nâng cao trình độ và
cứu, là sản phẩm đào tạo của các đề tài nghiên cứu; kỹ năng cho học viên,
- Các giải thưởng NCKH của học viên; sinh viên
- Kết quả tốt nghiệp của học viên;
- Kết quả đánh giá của đơn vị sử dụng học viên sau khi tốt nghiệp.
Quyết định chất lượng nhân lực nghiên cứu
(Nguồn: Kết quả phân tích của luận án)
Giảng viên: Có trình độ, kỹ năng nghiên cứu, giảng dạy theo phương pháp nghiên cứu, gợi mở vấn đề, liên hệ thực tế, kiến thức cập nhật theo trình độ quốc tế
NCKH
Chất lượng đào tạo
Sinh viên: Học tập theo phương pháp nghiên cứu, rèn kỹ năng nghiên cứu, xử lý thông tin, sáng tạo, chủ động, kiến thức cập nhật và có khả năng vận dụng kiến thức vào thực tế
Chương trình, giáo trình, tài liệu: Cập nhật, đổi mới theo trình độ giáo dục đại học quốc tế và sự phát triển của KH&CN
Gợi mở vấn đề nghiên cứu mới
Hình 2.4: Sự tác động của chức năng NCKH tới chất lượng đào tạo của các
trường đại học quân đội
83
(Nguồn: Kết quả nghiên cứu của luận án)
Những lợi ích mà NCKH mang lại cho giảng viên, cho người học, cho hệ thống
giáo trình, tài liệu tham khảo, học cụ là vô cùng cần thiết và quan trọng đối với hoạt
động đào tạo của các trường đại học quân đội, đặc biệt là trong xã hội hiện đại và hội
nhập thế giới ngày nay. Đó sẽ là những yếu tố căn bản tạo nên chất lượng của người học
– yếu tố đo lường chất lượng đào tạo của trường đại học quân đội.
2.5. Tiểu kết chương 2
Trong Chương 2, luận án đã làm rõ cơ sở lý luận về sự tác động của NCKH đến chất
lượng đào tạo của các trường đại học quân đội. Tác giả đã phân tích các khái niệm cơ bản
liên quan đến luận án như: NCKH, chức năng, nhân lực KH&CN quân sự, hội nhập quốc
tế, chính sách KH&CN. Nội dung của chương cũng đã làm rõ chức năng NCKH, chất lượng
đào tạo và mối quan hệ giữa NCKH với chất lượng đào tạo của các trường đại học quân đội
trong bối cảnh hội nhập quốc tế, được thể hiện ở các điểm chính sau:
Chức năng NCKH của các trường đại học quân đội là tạo ra tri thức, sản phẩm
mới, đóng góp vào kho tri thức của nhân loại, phục vụ hoạt động đào tạo của nhà trường,
phục vụ quân đội và phát triển kinh tế - xã hội. NCKH sẽ là cây cầu gắn kết và hỗ trợ
tích cực đối với chức năng đào tạo và sản xuất (phục vụ quân đội và xã hội) của các
trường đại học quân đội. Chức năng NCKH trong các trường đại học quân đội có những
đặc điểm giống với chức năng NCKH của các trường đại học thuộc khối dân sự nhưng
cũng có những đặc điểm đặc trưng, riêng biệt của mình như: ưu tiên các nghiên cứu ứng
dụng trong lĩnh vực quân sự; nhiều kết quả nghiên cứu có tính bảo mật, không được
công bố rộng rãi công khai; phát triển tri thức khoa học quân sự,…
Chất lượng đào tạo của các trường đại học quân đội cũng được đo lường bởi các
tiêu chí: tuyển sinh và nhập học, thiết kế và rà soát chương trình dạy học, giảng dạy và
học tập, đánh giá người học, hoạt động phục vụ và hỗ trợ người học, kết quả đào tạo.
Tuy nhiên, do đối tượng sử dụng nhân lực đầu ra của các trường đại học quân đội là các
cơ quan, đơn vị trong quân đội – những nơi trực tiếp thực hiện nhiệm vụ bảo đảm an
ninh quốc phòng cho đất nước, nên yêu cầu về chất lượng đào tạo của các trường đại
học quân đội có những nét đặc thù so với các trường đại học thuộc khối dân sự. Đối với
các học viên sau khi tốt nghiệp tại các trường đại học quân đội, họ sẽ trở thành các sỹ
quan Quân đội nhân dân Việt Nam, nên họ phải có đầy đủ các tiêu chuẩn của người sỹ
quan và các tiêu chuẩn này phải được rèn luyện và tích lũy trong các trường đại học
84
quân đội. Ngoài việc có trình độ chuyên môn tốt, các học viên tốt nghiệp các trường đại
học quân đội phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với tổ quốc, với
nhân dân; luôn có tinh thần cảnh giác cách mạng cao, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh, hoàn
hành tốt mọi nhiệm vụ được giao; có phẩm chất đạo đức cách mạng, gương mẫu chấp
hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy dân
chủ, giữ nghiêm kỷ luật quân đội; tôn trọng và đoàn kết với nhân dân, với đồng đội.
NCKH tác động rất lớn đến chất lượng đào tạo của các trường đại học quân đội,
đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Điều này được thể hiện trong các tiêu chí:
- NCKH sẽ nâng cao trình độ, kỹ năng của giảng viên, đạt được trình độ quốc tế,
đáp ứng các tiêu chuẩn của giảng viên quốc tế. Điều này được thể hiện thông qua các
bài báo công bố, đặc biệt là các bài báo quốc tế; các bằng sáng chế, giải pháp hữu ích;
các đề tài nghiên cứu hợp tác với các tổ chức nghiên cứu, trường đại học quốc tế; các
giải thưởng khoa học của các giảng viên trong các trường đại học quân đội;
- NCKH sẽ nâng cao chất lượng các chương trình đào tạo, giáo trình, tài liệu tham
khảo, sách chuyên khảo và các trang thiết bị phục vụ đào tạo, đáp ứng các tiêu chuẩn
quốc tế và phù hợp với sự phát triển của KH&CN trên thế giới. Tiêu chí này được thể
hiện ở: các chương trình đào tạo được mở mới; các học phần được thay đổi, bổ sung;
các sách chuyên khảo, giáo trình, tài liệu tham khảo, học cụ thường xuyên được cập
nhật, đổi mới, theo trình độ phát triển KH&CN trên thế giới.
- Sinh viên, người học được tiếp nhận những kiến thức tiên tiến, rèn kỹ năng tự
học, tự giải quyết vấn đề và đưa ra những cách xử lý vấn đề trên cơ sở những kiến thức
đã học nên có chất lượng tốt thể hiện ở các giải thưởng của sinh viên, người học; kết
quả tốt nghiệp; khả năng đáp ứng yêu cầu công việc sau khi ra trường và phát triển hoạt
động nghiên cứu.
Những phân tích trên đây là cơ sở để tác giả đánh giá thực trạng tác động của NCKH
đến chất lượng đào tạo nguồn nhân lực KH&CN của các trường đại học quân đội, đề xuất
các giải pháp hoàn thiện chức năng NCKH để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực
85
KH&CN quân sự của các trường đại học quân đội trong các chương tiếp theo của luận án.
Chương 3
THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA NGHIÊN CỨU KHOA HỌC ĐẾN CHẤT
LƯỢNG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
QUÂN SỰ CỦA CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUÂN ĐỘI
(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP HỌC VIỆN KỸ THUẬT QUÂN SỰ)
3.1. Một số nét cơ bản về chức năng nghiên cứu khoa học của các trường đại học
quân đội
Hiện nay, Bộ Quốc phòng Việt Nam có hệ thống các trường đại học đáp ứng
được cơ bản yêu cầu đào tạo sĩ quan, nhân viên nghiệp vụ ở mọi cấp cho các quân, binh
chủng; đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ, đào tạo kỹ sư, cử nhân khoa học, nhân viên kỹ thuật. Hiện
nay, hệ thống các trường đại học quân đội gồm có 23 học viện, trường đại học. Cụ thể:
- Học viện Quốc phòng
- Học viện Kỹ thuật Quân sự
- Học viện Chính trị Quân sự
- Học viện Lục quân
- Học viện Quân y
- Học viện Hậu cần
- Trường Sĩ quan Lục quân 1
- Trường Sĩ quan Lục quân 2
- Học viện Hải quân
- Học viện Khoa học Quân sự
- Học viện Phòng không - Không quân
- Học viện Biên phòng
- Trường Đại học Văn hóa - Nghệ thuật quân đội:
- Trường Sĩ quan Không quân
- Trường Sỹ quan Kỹ thuật Quân sự
- Trường Sĩ quan Tăng-Thiết giáp
- Trường Đại học Thông tin Liên lạc
- Trường Sĩ quan Đặc công
86
- Trường Sĩ quan Công binh
- Trường Sĩ quan Phòng hóa
- Trường Sĩ quan Pháo binh
- Trường Sĩ quan Chính trị
- Học viện Kỹ thuật Mật mã.
Các trường đại học quân đội ngày nay thực hiện nhiệm vụ giáo dục, đào tạo,
NCKH, phục vụ quân đội và phục vụ xã hội. Bên cạnh công tác đào tạo, các trường đại
học quân đội ngày nay còn là các trung tâm NCKH và công nghệ, đặc biệt là KH&CN
quân sự. Chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo trong Quân đội giai đoạn 2011 - 2020
xác định: "Công tác NCKH phải trở thành nền nếp ở các học viện, nhà trường. Đến năm
2020, có 100% nhà giáo ở các học viện, trường sĩ quan, đại học, cao đẳng có báo cáo khoa
học cấp bộ môn (khoa) trở lên, chủ trì (hoặc tham gia) đề tài cấp trường, cấp ngành, cấp
Bộ, cấp Nhà nước". Các trường đại học quân đội thực hiện các NCKH quân sự, khoa học
cơ bản, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học giáo dục, khoa học quản lý, tổ chức các
hoạt động sáng kiến, cải tiến kỹ thuật… để tạo ra tri thức và sản phẩm mới. Các trường
đại học quân đội thực hiện ứng dụng các kết quả nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, kinh
nghiệm thực tiễn chiến đấu vào giáo dục, đào tạo, xây dựng quân đội, sản xuất, phát triển
kinh tế phục vụ đời sống xã hội. Bên cạnh đó, các trường đại học quân đội còn tham gia
tuyển chọn, tư vấn, phản biện khoa học, thực hiện nhiệm vụ hợp đồng KH&CN, NCKH
theo đơn đặt hàng. Trong NCKH của các trường đại học quân đội, Bộ Quốc phòng ưu tiên
phát triển NCKH ứng dụng, nghệ thuật quân sự, khoa học xã hội và nhân văn quân sự.
Nòng cốt trong NCKH của các trường đại học quân đội chính là đội ngũ giảng
viên. Giảng viên trong các trường đại học quân đội là những người có phẩm chất đạo
đức tốt, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực sư phạm và có sức khỏe phù hợp
với yêu cầu, nhiệm vụ giảng dạy và NCKH. Họ là người trực tiếp làm nhiệm vụ giảng
dạy, NCKH, ứng dụng KH&CN trong giáo dục, đào tạo, phục vụ quân đội, quốc phòng
và phát triển kinh tế xã hội. Cùng với công tác giảng dạy, các giảng viên trong các trường
đại học quân đội còn tích cực NCKH, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, tạo nhiều
sản phẩm đưa vào ứng dụng có hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào
tạo, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và các nhiệm vụ khác của quân đội. Đội ngũ giảng
viên các trường đại học quân đội ngày càng hoàn thiện trình độ, chuyên môn, nghiệp
87
vụ, chức danh khoa học để phù hợp với sự phát triển của KH&CN và những yêu cầu
mới mà xã hội đặt ra. Tính đến tháng 8/2016, tỷ lệ giảng viên ở các học viện, trường đại
học quân đội có trình độ sau đại học đạt 50%. Từ năm 2010 đến 2015, Quân đội có 347
nhà giáo được công nhận đạt tiêu chuẩn giáo sư, phó giáo sư, trong đó: giáo sư là 21 và
phó giáo sư là 326 [Trần Ngọc Thanh, 2015]. Trong Chiến lược phát triển giáo dục và
đào tạo trong Quân đội giai đoạn 2011-2020 đã đề ra mục tiêu: “Phấn đấu đến năm 2020,
100% các giảng viên ở các học viện, trường sĩ quan, trường đại học có trình độ đại học,
trong đó có trên 60% trình độ sau đại học, 25% trở lên là tiến sĩ”. Công tác đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao trình độ, hoàn thiện học hàm, học vị cho đội ngũ giảng viên cũng luôn
được các trường đại học quân đội quan tâm, coi trọng. Một số học viện, trường đại học
quân đội đã có số lượng giảng viên có trình độ tiến sĩ trở lên khá cao, nhưng bên cạnh
đó, một số trường có tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ còn thấp. Cụ thể:
Tại HVKTQS, tính đến năm 2016, có 72,39% số giảng viên có trình độ sau đại học,
trong đó, 34,52% (340 người) có trình độ tiến sĩ, 7,41% là GS,PGS (73 người) [Trần Tấn
Hùng, 2016]. Học viện đề ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2020, có trên 80% giảng viên có
trình độ sau đại học, trong đó 42%-45% có trình độ tiến sĩ, 8%-10% là GS, PGS; trên 50%
giảng viên đạt chuẩn ngoại ngữ tiếng Anh B2 Châu Âu (IELTS 5.5 hoặc TOEFL 6.1).
Học viện Quân y, có trên 90% cán bộ, giảng viên đạt trình độ sau đại học, trong
đó có 18 giáo sư, 106 phó giáo sư, 116 tiến sĩ…; 5 Nhà giáo được tặng Danh hiệu Nhà
giáo Nhân dân; 03 Thầy thuốc được tặng Danh hiệu Thầy thuốc Nhân dân; 29 Nhà giáo
được tặng Danh hiệu Nhà giáo Ưu tú; 64 thầy thuốc được tặng Danh hiệu Thầy thuốc
Ưu tú; 10 chuyên viên đầu ngành [Học viện Quân y, 2018].
Học viện Chính trị, 100% giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục có trình độ đại
học và sau đại học, trong đó có 52 giáo sư, phó giáo sư, 114 tiến sĩ, 187 thạc sĩ, đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục và đào tạo, nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng khoa học
xã hội và nhân văn trong lĩnh vực quân sự, giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt
ra phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [Học viện Chính trị, 2013].
Trường Sỹ quan Công binh đã luôn coi trọng việc xây dựng đội ngũ giảng viên.
Đến năm 2016, 100% giảng viên của Trường Sỹ quan Công binh có trình độ đại học, tỉ
lệ sau đại học đạt trên 70%, tỷ lệ tiến sĩ đạt trên 10% và có 03 đồng chí đạt chuẩn chức
danh phó giáo sư, trên 90% giảng viên đã qua đào tạo bồi dưỡng giảng viên hoặc chứng
88
chỉ sư phạm, hơn 50% giảng viên có trình độ ngoại ngữ B,C [Lê Văn Cường, 2016].
Học viện Hải quân, tại thời điểm năm 2017, có 64,7% giảng viên có trình độ sau
đại học, trong đó 13,7% đạt trình độ tiến sĩ. Học viện đề ra mục tiêu đến 2030, 100%
giảng viên có trình độ sau đại học, 15-20% đạt trình độ tiến sĩ, 10-15% là giáo sư, phó
giáo sư; 100% cán bộ Khoa và 70% các chủ nhiệm bộ môn các khoa chuyên ngành đã
qua thực tế tại đơn vị để nắm sát các yêu cầu thực tiễn, phục vụ cho việc định hướng
công tác giáo dục và đào tạo [Phan Văn Vân, 2017].
Đối với Học viện Hậu cần, trong nhiều năm qua, đã luôn tập trung xây dựng,
bồi dưỡng và phát triển tiềm lực đội ngũ giảng viên, cán bộ NCKH nhằm tạo ra những
bước đột phá quan trọng trong công tác giảng dạy và NCKH. Tính đến năm 2016, 100%
cán bộ, giảng viên của Học viện có trình độ đại học trở lên, trong đó, gần 70% có trình
độ sau đại học, 16,3% là tiến sĩ, 7 phó giáo sư, 50 phó giáo sư, 2 nhà giáo nhân dân, 18
nhà giáo ưu tú [Phạm Đức Dũng, 2016].
Trường Sỹ quan Lục quân 2, tại thời điểm 2016, 100% giảng viên có trình độ
đại học, trong đó có 48 tiến sĩ, trên 300 thạc sĩ, 17 phó giáo sư [Từ Ngọc Lương, 2016].
Học viện Biên phòng, 100% có trình độ đại học, trong đó, 5,74% có học vị tiến
sĩ, 38,77% có trình độ thạc sĩ, 1,83% có chức danh phó giáo sư [Trần Đức Uẩn, 2015].
Biểu đồ 3.1: Tỷ lệ giảng viên có trình độ sau đại học và trình độ tiến sĩ của
90
72,39
100
70
70
64,7
80
44,51
60
40
34,5
40
16,3
13,7
10
5,74
20
0
HVKTQS Học viện
Quân y
Học viện Hải quân
Học viện Hậu cần
Trường Sỹ quan Công binh
Học viện Biên phòng
Tiến sĩ
Sau đại học
một số trường đại học quân đội (%)
(Nguồn: Kết quả thống kê của luận án)
89
Nguồn tài chính cho hoạt động KH&CN của các trường đại học quân đội chủ yếu là từ
ngân sách nhà nước bao gồm [Điều lệ Công tác KH&CN Quân đội nhân dân Việt Nam, 2016]:
(1) Ngân sách do Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp:
- Ngân sách sự nghiệp bảo đảm cho các nhiệm vụ KH&CN trong quân đội;
- Vốn đầu tư phát triển bảo đảm cho các nhiệm vụ chủ yếu liên quan đến xây
dựng cơ bản trong các trường đại học quân đội (mua sắm trang thiết bị khoa học, xây
dựng phòng thí nghiệm).
(2) Ngân sách do Bộ KH&CN cấp:
- Ngân sách sự nghiệp bảo đảm cho các mặt hoạt động KH&CN trong các trường
đại học quân đội (bao gồm nhiệm vụ cấp Nhà nước, nhiệm vụ cấp Bộ, hỗ trợ cấp cơ sở);
- Ngân sách tăng cường năng lực các tổ chức nghiên cứu và phát triển;
- Ngân sách khác bảo đảm cho các nhiệm vụ KH&CN.
(3) Ngân sách Quốc phòng:
- Ngân sách bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ KH&CN cấp Bộ Quốc phòng;
- Ngân sách hỗ trợ các nhiệm vụ KH&CN cấp cơ sở;
- Ngân sách bảo đảm ứng dụng và phát triển công nghệ;
- Ngân sách bảo đảm xây dựng các phòng thí nghiệm;
- Ngân sách sửa chữa, nâng cấp trang thiết bị thí nghiệm;
- Ngân sách nghiệp vụ KH&CN;
- Ngân sách chi cho các công nghệ mũi nhọn;
- Kinh phí trang thiết bị KH&CN cơ quan quản lý ngành;
- Kinh phí biên soạn tài liệu, từ điển quân sự;
- Kinh phí đầu tư sản xuất loạt “0”;
- Các nguồn kinh phí khác: Kinh phí bổ sung từ các hoạt động dịch vụ KH&CN,
quỹ phát triển KH&CN, các khoản tài trợ của các tổ chức, cá nhân.
Trong những năm qua, thực hiện chủ trương hiện đại hóa quân đội, nguồn tài
chính dành cho hoạt động KH&CN của quân đội, trong đó có các trường đại học quân
đội đã được tăng lên, nhiều hoạt động KH&CN đã được cung cấp, hỗ trợ tài chính để
triển khai thực hiện, tạo ra nhiều sản phẩm KH&CN.
Thực tế, tại các trường đại học quân đội, phong trào NCKH của đội ngũ giảng
90
viên đã khá phát triển, đồng đều, rộng khắp, nội dung nghiên cứu phong phú, đa dạng
trên nhiều lĩnh vực, từ cấp cơ sở đến cấp Bộ, Ngành và cấp Nhà nước. Căn cứ vào đặc
điểm, tình hình nhiệm vụ, yêu cầu thực tiễn, mỗi trường đều đã phát huy thế mạnh đội
ngũ nhà giáo vào từng lĩnh vực nghiên cứu cụ thể.
Ví dụ, các giảng viên của Trường Sĩ quan Lục quân 1 và Trường Sĩ quan Lục
quân 2 phát huy thế mạnh nghiên cứu tài liệu, giáo trình phục vụ “chuẩn hóa” tài liệu
huấn luyện điều lệnh, kỹ thuật, chiến thuật cho toàn quân. Các giảng viên của Học viện
Quân y, Học viện Hậu cần, Học viện Kỹ thuật quân sự... lại đi sâu nghiên cứu về y học,
bảo đảm hậu cần, kỹ thuật quân sự, rất có hiệu quả.
Các giảng viên còn hướng dẫn, giúp đỡ học viên, sinh viên thực hiện hàng nghìn
đề tài, sáng kiến, trong đó có nhiều sản phẩm đạt giải cao trong các cuộc thi toàn quân,
toàn quốc. Trong 5 năm (2011-2016), riêng ở cấp Bộ Tổng tham mưu, các giảng viên
của các trường đại học quân đội đã nghiên cứu thành công 248 đề tài, 182 sáng kiến,
trong đó có 80,24% số đề tài và 78,57% số sáng kiến được hội đồng nghiệm thu đánh
giá xuất sắc [Khuất Đức Hòa, 2016]. Tại Hội thi sáng kiến, cải tiến mô hình, trang thiết
bị huấn luyện toàn quân năm 2016, các trường đại học quân đội đã có 26 sản phẩm từ
các đề tài NCKH, sáng kiến cải tiến kỹ thuật được trao giải thưởng.
Biểu đồ 3.2: Số lượng đề tài, sáng kiến cấp Bộ Tổng tham mưu do các trường
300
248
250
200
182
150
100
50
0
Đề tài
Sáng kiến
đại học quân đội thực hiện trong giai đoạn 2011-2016
(Nguồn: Kết quả thống kê của luận án)
Các đề tài, sáng kiến cấp ngành được tập trung nghiên cứu đổi mới chương trình,
91
nội dung, phương pháp dạy và học; ứng dụng công nghệ thông tin, kỹ thuật mô phỏng
trong quá trình tổ chức dạy học, quản lý, điều hành quá trình đào tạo. Các đề tài, sáng
kiến nghiên cứu có giá trị thực tiễn cao, được áp dụng ngay tại các cơ sở đào tạo, góp
phần nâng cao chất lượng đào tạo toàn diện của các nhà trường, đồng thời, góp phần bồi
dưỡng đội ngũ giảng viên quân đội có đủ các điều kiện để xét, công nhận các chức danh
khoa học, Nhà giáo Giỏi cấp Bộ, Nhà giáo Nhân dân, Nhà giáo ưu tú, các chức danh sĩ
quan chuyên môn - kỹ thuật - nghiệp vụ. NCKH của các giảng viên luôn gắn liền với
việc biên soạn tài liệu, giáo trình dạy học. Từ năm 2010 - 2015, các học viện, nhà trường
toàn quân đã được giao nhiệm vụ biên soạn, chỉnh sửa 1342 tài liệu, giáo trình, 95 giáo
trình điện tử và in ấn 1670 giáo trình, tài liệu dạy học. Bên cạnh đó, các nhà giáo có
thâm niên công tác cao và thường là các chuyên gia đầu ngành có trình độ sau đại học
đã chủ trì biên soạn các tài liệu dạy học, huấn luyện thuộc lĩnh khoa học quân sự, khoa
học xã hội và nhân văn quân sự [Trần Ngọc Thanh, 2015].
Tại các trường đại học quân đội, chức năng NCKH đã được chú trọng và tổ chức
triển khai thực hiện, cụ thể ở một số trường như sau:
Học viện Quân y là một trong số các trường đại học quân đội thực hiện tốt
NCKH, với số lượng lớn đề tài nghiên cứu đã hoàn thành và chất lượng các công trình
nghiên cứu được đánh giá cao. Tính đến nay, Học viện đã hoàn thành trên 900 đề tài
khoa học và trên 200 sáng kiến cải tiến kỹ thuật từ cấp cơ sở đến cấp Nhà nước. Nhiều
công trình khoa học được tặng thưởng như: giải thưởng Hồ Chí Minh, giải thưởng
VIFOTEC và giải thưởng WIPO. Từ năm 1996 đến 2018, Học viện liên tục được Bộ
GD&ĐT tặng bằng khen về thành tích xuất sắc trong phong trào sinh viên NCKH [Học
viện Quân y, 2018].
Học viện Hậu cần, tính đến năm 2018, đã nghiên cứu thành công hơn 3.000 đề
tài các cấp, trong đó có 15 đề tài cấp Bộ Quốc phòng, 208 đề tài cấp ngành, 1.729 đề tài
cấp Học viện, hàng nghìn đề tài tuổi trẻ sáng tạo và nhiều đề tài, sáng kiến cấp cơ sở.
Biên soạn được 3.006 giáo trình, tài liệu, 3.880 bài giảng, 447 chuyên đề, bài tập, 9 bộ
văn kiện diễn tập, 66 giáo trình điện tử [Nguyễn Tuấn, 2018].
Tại Trường Sĩ quan Pháo binh, NCKH luôn được Đảng ủy, Ban Giám hiệu
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Nhà trường đã tổ chức tập huấn bồi dưỡng kỹ năng NCKH
92
cho cán bộ, giảng viên; tích cực theo dõi, kiểm tra đôn đốc các đề tài, chuyên đề, sáng
kiến đảm bảo đúng tiến độ, chất lượng, trong đó tập trung vào các đề tài cấp Bộ Tổng
Tham mưu, cấp Binh chủng Pháo binh. Trong giai đoạn 5 năm (2011- 2016), Nhà trường
đã thực hiện được 17 đề tài cấp Ngành (do Cục Nhà trường, Bộ Tổng Tham mưu và
Tổng cục Chính trị giao); 11 đề tài, 04 công trình tổng kết cấp Binh chủng Pháo binh;
96 chuyên đề, sáng kiến, phim huấn luyện cấp trường; 342 chuyên đề, sáng kiến cấp
phòng, khoa, tiểu đoàn. Nhà trường đã biên soạn 61 giáo trình, tập bài giảng, phối hợp
nghiên cứu biên soạn 07 tài liệu pháo binh, tên lửa, hỏa khí đi cùng bộ binh; in ấn 64 đầu
giáo trình, tài liệu các loại (6.852 cuốn); biên soạn 12 tập bài giảng; in ấn, nhân bản 480
cuốn tài liệu, tập bài giảng cho các đối tượng học viên quốc tế [Nhữ Đình Lưu, 2017].
Trường Sỹ quan Lục quân 2, năm 2015, Nhà trường thực hiện 2 đề tài cấp Bộ,
2 đề tài cấp Tỉnh (Đồng Nai), 5 đề tài, sáng kiến, 26 tài liệu cấp ngành và 29 đề tài, sáng
kiến, giáo trình, tài liệu cấp cơ sở, cấp trường. Triển khai ứng dụng hiệu quả 100% đề
tài, sáng kiến, tài liệu, giáo trình vào trong giáo dục, đào tạo. Năm 2016, Nhà trường
tiếp tục triển khai thực hiện 1 đề tài cấp Bộ, 4 đề tài, sáng kiến cấp Ngành, 3 đề tài cấp
Tỉnh (thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Đồng Nai), 21 tài liệu, giáo trình cấp Bộ, 23 đề tài,
sáng kiến cấp trường, 29 đề tài, sáng kiến cấp cơ sở, đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng
công nghệ mô phỏng, công nghệ thông tin phục vụ tốt cho quản lý, chỉ huy và nhiệm vụ
giáo dục, đào tạo, luôn bảo đảm an ninh, an toàn thông tin, tích cực nghiên cứu trận đánh
để vận dụng trong huấn luyện.
Trường Sỹ quan Lục quân 1, trong giai đoạn 2010-2016, đã thực hiện nghiên
cứu thành công 103 đề tài, đề án khoa học, 134 cải tiến, sáng kiến; biên soạn 230 tài
liệu, giáo trình; tổ chức 66 hội thảo các cấp. Các sản phẩm khoa học do đội ngũ cán bộ,
giảng viên, học viên nghiên cứu bảo đảm chất lượng tốt, được ứng dụng vào thực tiễn
dạy học và đạt hiệu quả cao [Đỗ Thanh Minh, 2016].
NCKH có ảnh hưởng tích cực đến việc nâng cao chất lượng đào tạo của các trường
đại học quân đội. Nhờ triển khai và thực hiện nghiêm túc công tác NCKH nên kết quả đào
tạo của các trường đại học quân đội đạt kết quả khá tốt trong thời gian vừa qua. Cụ thể:
Học viện Quân y, từ khi thành lập đến 11/2018, đã đào tạo được gần 90 nghìn
cán bộ, nhân viên y tế, gồm: hơn 900 tiến sỹ; hơn 8000 thạc sỹ, bác sỹ chuyên khoa I, II
93
và bác sỹ nội trú; hơn 25 nghìn bác sỹ đa khoa, dược sỹ đại học, cử nhân cao đẳng điều
dưỡng, cử nhân cao đẳng kỹ thuật y học, sỹ quan dự bị y dược và trên 55 nghìn nhân viên
y dược (trong đó có cả đào tạo lực lương y tế cho các vùng sâu vùng xa và các nước bạn
Lào, Campuchia). Các cán bộ được đào tạo dưới mái trường Học viện Quân y có năng lực
chuyên môn tốt, đạo đức tốt và ý chí phấn đấu không ngừng, đóng góp nhiều cho Quân
đội và đất nước. Tính đến nay, đã có 16 cá nhân từng học tập, công tác tại Học viện được
phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, hàng nghìn lượt tập thể và
cá nhân được tặng huân chương các loại [Học viện Quân y, 2018].
Học viện Hậu cần, kể từ khi thành lập đến 9-2017, Học viện đã đào tạo được
tổng số 47.231 học viên tất cả các đối tượng. Nhà trường đã đào tạo được 109 tiến sĩ và
389 thạc sĩ chuyên ngành hậu cần quân sự; 7 tiến sĩ và 778 thạc sĩ chuyên ngành tài
chính ngân hàng. Bên cạnh việc đào tạo nhân lực cho quân đội Việt Nam và phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nhà trường còn tham gia hoạt động đào
tạo quốc tế. Học viện đã đào tạo được 1.332 học viên cho Quân đội nhân dân Lào và
767 học viên cho Quân đội Hoàng gia Campuchia.
Trường Sỹ quan Phòng hóa, trong giai đoạn 2010-2014, chất lượng đào tạo luôn
được cải thiện, trên 75% số học viên tốt nghiệp đạt kết quả khá, giỏi. Kết quả hậu kiểm ở
các đơn vị cho thấy, học viên tốt nghiệp ở trường về các đơn vị đã đảm nhiệm được chức
vụ ban đầu, tỷ lệ hoàn thành tốt nhiệm vụ ở mức cao [Nguyễn Văn Thinh, 2014].
Triển khai thực hiện nhiệm vụ NCKH tại các trường đại học quân đội thời gian
qua đã góp phần bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên. Quá trình NCKH
giúp cho các giảng viên có điều kiện thực nghiệm, hình thành kỹ năng, rèn luyện tác
phong công tác, tư duy khoa học, tích lũy kinh nghiệm, nâng cao năng lực, trình độ
chuyên môn trong giảng dạy, NCKH và góp phần vào việc nâng cao chất lượng đào tạo
nguồn nhân lực KH&CN cho quân đội và đất nước. Quá trình đó đã từng bước xây dựng,
bổ sung, phát triển đội ngũ cán bộ, chuyên gia NCKH chuyên sâu, đầu ngành trong nhiều
lĩnh vực, phục vụ thiết thực yêu cầu, nhiệm vụ của quân đội...
Để có thể hiểu rõ hơn về chức năng NCKH của trường đại học quân đội và những
tác động của chức năng này đối với chất lượng đào tạo của nhà trường, tác giả đã tiến hành
nghiên cứu trường hợp HVKTQS với những kết quả được trình bày ở mục 3.2 dưới đây.
Lựa chọn nghiên cứu trường hợp HVKTQS đảm bảo tính đại diện của mẫu khảo sát, vì:
94
- HVKTQS có chức năng NCKH như các trường đại học quân đội khác;
- HVKTQS thực hiện các nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và triển khai
thực nghiệm như các trường đại học quân đội khác;
- Các nghiên cứu của HVKTQS không chỉ tập trung nhiều ở lĩnh vực khoa học
tự nhiên và khoa học kỹ thuật và công nghệ (trong đó nhiều giải pháp kỹ thuật phục vụ
lĩnh vực y, dược học), mà còn tiến hành các nghiên cứu ở lĩnh vực khoa học xã hội và
nhân văn. Những nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn được thực hiện
bởi các đơn vị trực thuộc Học viện: Khoa Quân sự, Khoa Ngoại ngữ, Khoa Công tác
Đảng, công tác chính trị, Khoa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Như vậy, HVKTQS là một trường đại học đa ngành, đa lĩnh vực, các loại hình
nghiên cứu và lĩnh vực nghiên cứu của Học viện đã bao quát được các loại hình nghiên
cứu và lĩnh vực nghiên cứu của các trường đại học quân đội.
3.2. Thực trạng chức năng nghiên cứu khoa học của Học viện Kỹ thuật Quân sự
3.2.1. Tổng quan về Học viện Kỹ thuật Quân sự
HVKTQS là một trung tâm đào tạo, NCKH trọng điểm của Quân đội và đất nước.
Học viện chuyên đào tạo kỹ sư, kỹ sư trưởng, thạc sĩ, tiến sĩ và nghiên cứu các ngành
khoa học kỹ thuật, công nghệ quân sự, công nghiệp quốc phòng, công nghệ dân dụng
phục vụ sự nghiệp "công nghiệp hóa, hiện đại hóa" quân đội và các ngành kinh tế quốc
dân. Là một nhà trường trực thuộc Bộ Quốc phòng, đào tạo cán bộ cho Quân đội và đào
tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu xã hội, HVKTQS tuyên bố sứ mạng hiện nay là
đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, nghiên cứu phát triển, sản xuất chế thử, chuyển
giao công nghệ tiên tiến và hội nhập quốc tế, góp phần đắc lực vào sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, phát triển ngành khoa học kỹ thuật quân sự Việt Nam.
Mục tiêu của Nhà trường trong giai đoạn hiện nay là: xây dựng nhà trường thành
trường Đại học nghiên cứu, đa ngành, đa lĩnh vực hàng đầu của Quân đội và Nhà nước,
đạt trình độ và chất lượng quốc tế; đào tạo nguồn nhân lực KH&CN trình độ cao cho an
ninh quốc phòng và kinh tế xã hội, đáp ứng tốt yêu cầu xây dựng nền công nghiệp quốc
phòng hiện đại, xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại
và xây dựng Việt Nam thành nước công nghiệp phát triển.
HVKTQS được giao nhiệm vụ chính trong công tác đào tạo và NCKH như sau:
- Đào tạo cán bộ kỹ thuật và quản lý kỹ thuật có trình độ đại học, sau đại học.
95
- NCKH, phát triển và chuyển giao công nghệ phục vụ các yêu cầu: an ninh -
quốc phòng và kinh tế - xã hội.
Trải qua hơn 50 năm xây dựng và phát triển, Học viện đã phát triển với quy mô
lớn, nhiều trình độ đào tạo, loại hình đa dạng: 12 chuyên ngành đào tạo tiến sĩ, 17 chuyên
ngành đào tạo thạc sĩ, 42 chuyên ngành đào tạo kỹ sư quân sự dài hạn, 07 chuyên ngành
đào tạo kỹ sư quân sự hệ chuyển cấp đại học, 25 chuyên ngành đào tạo đại học, cao đẳng
hệ dân sự, 07 chương trình đào tạo liên thông, văn bằng 2, bồi dưỡng kiến thức về vũ
khí, trang bị kỹ thuật mới đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa quân đội, đào tạo cán bộ kỹ
thuật cho nước bạn Lào, Campuchia, đào tạo cho Bộ Công an,… Tính đến 2016, Học
viện đã đào tạo gần 2 vạn cán bộ kỹ thuật có trình độ đại học, sau đại học cho Quân đội;
gần 1 vạn cử nhân, kỹ sư, thạc sĩ và tiến sĩ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Những kết quả đó đã đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây dựng Quân đội
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại [Trần Hữu Phúc, 2016].
Hằng năm, bên cạnh việc đảm nhiệm đào tạo cho một lượng lớn học viên thuộc
các đối tượng khác nhau, Nhà trường còn thực hiện một khối lượng đề tài nghiên cứu
đồ sộ phục vụ an ninh, quốc phòng và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong những năm qua, Nhà trường đã luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đào tạo và
NCKH của mình. Đội ngũ học viên sau khi ra trường có trình độ chuyên môn, phẩm
chất đạo đức tốt, bắt kịp được với công việc, có khả năng phát triển trong chuyên môn,
góp phần bảo vệ an ninh, quốc phòng của tổ quốc và phát triển kinh tế xã hội. Các công
trình nghiên cứu của Nhà trường luôn có giá trị khoa học rất lớn, gắn liền với thực tiễn,
giải quyết nhiều vấn đề bức thiết trong công tác an ninh quốc phòng và phát triển kinh
tế xã hội, góp phần phát triển bền vững xã hội.
Để đảm nhiệm được khối lượng công việc rất lớn như vậy, HVKTQS có đội ngũ
nhân lực khoa học và công nghệ có trình độ và chất lượng. Học viện có đội ngũ giảng
viên đồng bộ, trình độ chuyên môn cao, có bề dày kinh nghiệm trong đào tạo và NCKH:
gần 1000 giảng viên với 100% có trình độ đại học trở lên, 74,62% có trình độ sau đại
học [Nguyễn Công Định, 2017].
Hệ thống tổ chức của Học viện hiện nay gồm:
- Ban Giám đốc;
- Các phòng ban, trung tâm chức năng (Phòng Chính trị, Phòng Đào tạo, Phòng
96
Hậu cần, Văn phòng, Phòng Kỹ thuật, Phòng Khoa học Quân sự, Phòng Sau đại học,
Phòng Thông tin khoa học quân sự, Ban Tài chính, Ban Quản lý dự án, Phòng Hợp tác
Quốc tế và quản lý lưu học sinh quân sự, Phòng Khảo thí và đảm bảo chất lượng Giáo
dục Đào tạo);
- 14 khoa (Khoa Hóa – Lý kỹ thuật; Khoa Công nghệ thông tin; Khoa Ngoại ngữ;
Khoa Cơ khí; Khoa Vũ khí; Khoa Động lực; Khoa Hàng không vũ trụ; Khoa Vô tuyến
điện tử; Khoa Kỹ thuật điều khiển; Khoa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; Khoa
Công tác Đảng, công tác Chính trị; Khoa Quân sự; Khoa Chỉ huy tham mưu kỹ thuật;
Khoa Giáo dục Quốc phòng biệt phái tại Đại học Xây dựng);
- 3 viện nghiên cứu (Viện Công nghệ Mô phỏng, Viện Kỹ thuật Công trình đặc
biệt, Viện Tích hợp hệ thống);
- 2 trung tâm (Trung tâm Công nghệ, Trung tâm Công nghệ thông tin);
- 1 trung tâm huấn luyện thực hành tổng hợp.
HVKTQS luôn xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, vai trò của mình và luôn có tinh
thần trách nhiệm cao trong công tác nhằm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ và góp phần
mang lại lợi ích lớn nhất cho cán bộ, học viên, các đơn vị sử dụng sản phẩm đào tạo và
NCKH, góp phần vào sự phát triển bền vững của Quân đội và đất nước.
Bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, với sự đòi hỏi cao của thực tiễn bảo vệ an
ninh, quốc phòng của đất nước, sự phát triển của KH&CN quân sự và kinh tế xã hội, đang
đặt ra những yêu cầu mới đối với chức năng NCKH của HVKTQS: định hướng hoạt động
nghiên cứu cho phù hợp với xu hướng phát triển KH&CN tiên tiến trên thế giới; tăng
cường hợp tác quốc tế về KH&CN; chuẩn bị các nguồn lực nghiên cứu đáp ứng yêu cầu
hội nhập; các kết quả nghiên cứu đạt tiêu chuẩn quốc tế và giải quyết được các vấn đề
KH&CN quân sự đang đặt ra cũng như góp phần xây dựng kinh tế xã hội của đất nước.
HVKTQS đang cố gắng và từng bước hoàn thiện chức năng NCKH để đáp ứng các yêu
cầu và tiêu chuẩn hội nhập.
3.2.2. Kết quả nghiên cứu khoa học của Học viện Kỹ thuật Quân sự
3.2.2.1. Số lượng đề tài nghiên cứu khoa học đã thực hiện
Ngay từ khi thành lập, cùng với công tác đào tạo, NCKH luôn được xác định là
nhiệm vụ trung tâm của HVKTQS, luôn bám sát định hướng của Nhà nước, Bộ Quốc
phòng và gắn liền với thực tiễn. Nhà trường xây dựng kế hoạch hoạt động KH&CN sát
97
với các chương trình KH&CN trọng điểm của Quân đội và Nhà nước. Các giảng viên,
nhà nghiên cứu trong Học viện đã chủ động khai thác thông tin, nắm bắt nhu cầu của
các đơn vị, các cơ sở sản xuất trong và ngoài quân đội, đẩy mạnh nghiên cứu chế tạo,
ứng dụng, cải tiến, có chính sách khuyến khích đề tài tạo ra các sản phẩm phục vụ an
ninh - quốc phòng và kinh tế xã hội. Học viện đã đăng ký và thực hiện nhiều đề tài, dự
án trong các chương trình KH&CN trọng điểm của Quân đội và Nhà nước, trên các lĩnh
vực mà nhà trường có thế mạnh như: thiết kế, chế tạo phụ tùng, vũ khí bộ binh, vũ khí
có điều khiển, công nghệ thông tin, kỹ thuật viễn thông, tự động hoá và kỹ thuật điều
khiển, các công trình xây dựng đặc biệt... Đầu tư các cơ sở đủ mạnh để phục vụ chế thử,
thử nghiệm và hoàn thiện sản phẩm nghiên cứu…Tích cực, chủ động mở rộng quan hệ
hợp tác KH&CN với các cơ sở đào tạo, nghiên cứu trong và ngoài nước...”
Với vai trò là một Trung tâm đào tạo và NCKH lớn của Quân đội và Nhà nước,
hoạt động KH&CN của HVKTQS luôn bám sát các nhiệm vụ chính trị, góp phần xây
dựng nền quốc phòng vững mạnh, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp bảo vệ tổ quốc, đồng
thời, tham gia tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc xây
dựng và triển khai kế hoạch hoạt động KH&CN được tiến hành chu đáo, có tính khả thi
cao trên cơ sở khảo sát nhu cầu thực tiễn của các đơn vị trong và ngoài Quân đội và bám
sát chiến lược KH&CN của Nhà nước, Bộ Quốc phòng. Trong thời gian qua, NCKH của
Nhà trường đã tạo ra được nhiều công trình khoa học có giá trị và giải quyết nhiều vấn đề
của thực tiễn quốc phòng, an ninh và sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
138
117
713
Đề tài cấp cơ sở
Đề tài cấp Bộ
Đề tài cấp Nhà nước
Biểu đồ 3.3: Số lượng đề tài nghiên cứu các cấp của HVKTQS giai đoạn 2013-2019
98
(Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án)
Trong giai đoạn 2013-2019, nhà trường đã thực hiện 982 đề tài nghiên cứu, trong
đó có: 713 đề tài cấp cơ sở, 117 đề tài cấp Bộ, 138 đề tài cấp Nhà nước (trong đó có 52
đề tài Nafosted). Như vậy, trong những năm gần đây, Nhà trường đã thực hiện được một
khối lượng các công trình nghiên cứu đồ sộ và rất có giá trị đối với công tác giảng dạy,
ứng dụng thực tế, bảo vệ an ninh quốc phòng của đất nước cũng như quan hệ đối ngoại
với các đối tác nước ngoài. Bên cạnh đó, số lượng đề tài nghiên cứu các cấp của
HVKTQS có xu hướng ngày càng tăng. Kết quả khảo sát của luận án cũng cho thấy, số
lượng đề tài nghiên cứu mà giảng viên HVKTQS đã thực hiện phụ thuộc vào số năm
công tác (hệ số Pearson Correlation = 0,273, Sig.(2-tailed) = 0,021), tuổi (hệ số Pearson
Correlation = 0,284, Sig.(2-tailed) = 0,011) và chức vụ (hệ số Pearson Correlation = -
0,318, Sig.(2-tailed) = 0,006) của họ. Như vậy, số lượng đề tài nghiên cứu của giảng
viên sẽ tăng lên theo số năm công tác và theo tuổi của họ, nhưng sẽ tỷ lệ nghịch với chức
vụ của họ. Những người càng giữ vị trí, chức vụ cao thì sẽ càng có ít thời gian dành cho
việc nghiên cứu.
Biểu đồ 3.4: Số lượng đề tài nghiên cứu các cấp từng năm của HVKTQS
200
188
180
177
160
155
137
140
130
120
124
120
116
107
109
100
100
89
86
74
80
60
34
40
25
24
23
20
17
15
15
15
13
12
12
20
11
10
10
7
7
7
6
2
1
0
Năm 2013
Năm 2014
Năm 2015
Năm 2016
Năm 2017
Năm 2018
Năm 2019
Naforted
Cấp cơ sở
Cấp Bộ
Cấp Nhà nước
Tổng số đề tài các cấp
giai đoạn 2013-2019
(Nguồn: Kết quả thống kê của luận án)
99
Các giảng viên của HVKTQS thực hiện nghiên cứu ở nhiều loại hình khác nhau
bao gồm: nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và triển khai thực nghiệm. Trong đó,
các nghiên cứu tập trung nhiều nhất vào mảng nghiên cứu ứng dụng. Thực hiện các
nghiên cứu để ứng dụng vào hoạt động huấn luyện, chiến đấu là một trong những yêu
cầu, nhiệm vụ trọng tâm của nhà trường. Do đó, số lượng các đề tài nghiên cứu ứng
dụng chiếm số lớn trong các công trình nghiên cứu của HVKTQS.
Bảng 3.1: Các loại hình nghiên cứu mà người được hỏi thực hiện
Loại hình nghiên cứu Tỷ lệ (%)
Nghiên cứu cơ bản 36,0
Nghiên cứu ứng dụng 83,7
Triển khai thực nghiệm 27,9
(Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án)
Kết quả khảo sát cho thấy, có 83,7% số người được hỏi có tham gia loại hình
nghiên cứu ứng dụng, 36% số người được hỏi có tham gia loại hình nghiên cứu cơ bản
và 27,9% số người được hỏi tham gia hoạt động triển khai thực nghiệm. Trong đó, có
những nhà nghiên cứu tham gia nhiều loại hình nghiên cứu như tham gia cả loại hình
nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng hay tham gia cả nghiên cứu ứng dụng và
triển khai thực nghiệm. Loại hình nghiên cứu ứng dụng chiếm ưu thế trong hoạt động
NCKH của các giảng viên, nghiên cứu viên tại HVKTQS.
70
60,5
60
50
39,5
40
25,6
30
20
10
0
Quân sự
Lưỡng dụng
Dân sự
Biểu đồ 3.5: Lĩnh vực áp dụng kết quả NCKH của HVKTQS (%)
(Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án)
100
Các sản phẩm nghiên cứu của HVKTQS được ứng dụng vào trong cả lĩnh vực
quân sự, dân sự và lưỡng dụng, trong đó ứng dụng vào lĩnh vực quân sự là chủ yếu. Để
tìm hiểu về lĩnh vực áp dụng kết quả NCKH, tác giả đã tiến hành khảo sát với câu hỏi:
“Kết quả NCKH của anh/chị được áp dụng vào lĩnh vực nào?” Kết quả thu được như
sau: có 60,5% số người được hỏi có sản phẩm nghiên cứu áp dụng trong lĩnh vực quân
sự, 39,5% số người được hỏi có sản phẩm nghiên cứu có thể được áp dụng cho cả lĩnh
vực quân sự và dân sự (lưỡng dụng) và 25,6% số người được hỏi có sản phẩm nghiên
cứu được áp dụng cho lĩnh vực dân sự. Có những nhà nghiên cứu có nhiều sản phẩm
nghiên cứu được áp dụng ở nhiều lĩnh vực khác nhau: họ vừa có sản phẩm áp dụng ở
lĩnh vực quân sự, vừa có sản phẩm áp dụng ở lĩnh vực dân sự hay có cả những sản phẩm
áp dụng lưỡng dụng.
Việc áp dụng các kết quả nghiên cứu vào thực tiễn đang ngày càng được quan
tâm và là yêu cầu thiết yếu đối với các đề tài nghiên cứu ứng dụng. Các đề tài nghiên
cứu của HVKTQS trong những năm gần đây đã được đưa vào áp dụng trong thực tiễn
dưới dạng phục vụ giảng dạy, nghiên cứu tại nhà trường và áp dụng tại các quân, binh
chủng trong toàn quân. Điều này cũng phù hợp với quy định của Bộ Quốc phòng về việc
các đề tài nghiên cứu khi được phê duyệt cần có địa chỉ áp dụng kết quả nghiên cứu
hoặc có đơn vị đặt hàng. Tuy nhiên, lượng đề tài ứng dụng tại HVKTQS vẫn chiếm tỷ
lệ lớn khoảng 70%, số đề tài ứng dụng tại các quân binh chủng trong toàn quân mới
chiếm khoảng 30%.
Bảng 3.2: Bảng thống kê phạm vi áp dụng của đề tài nghiên cứu (%)
Khả năng ứng dụng
Nghiên cứu ứng Ứng dụng cho Cấp thực hiện Tổng dụng tại các Quân binh
Học viện chủng
Đề tài cấp Nhà nước 95 5 100
Đề tài cấp Bộ 64 36 100
Đề tài cấp Ngành 51 49 100
(Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo thống kê kết quả hoạt động KH&CN của HVKTQS)
Phần lớn các đề tài NCKH cấp Nhà nước và Bộ Quốc phòng do Học viện thực
101
hiện trong những năm qua theo định hướng quân sự, trực tiếp phục vụ các chương trình
thiết kế, chế tạo, cải tiến, hiện đại hoá, khai thác hiệu quả các vũ khí trang bị kỹ thuật
(tên lửa, ra đa, súng, pháo, đạn, thuốc phóng - thuốc nổ, khí tài quang học, thông tin liên
lạc, xe tăng-thiết giáp, tàu chiến, các công trình quân sự (công trình ngầm, cầu cảng, sân
bay, công trình biển đảo…), thiết kế, chế tạo các thiết bị mô phỏng phục vụ huấn luyện
bộ đội của các quân, binh chủng (lục quân, hải quân, phòng không-không quân…) và
các nghiên cứu về đảm bảo kỹ thuật, khoa học xã hội nhân văn quân sự. Thông qua thực
hiện chức năng NCKH, các nhà khoa học của Nhà trường đã làm chủ được các công
nghệ, phục vụ đắc lực cho công tác khai thác vũ khí trang bị kỹ thuật mới và sản xuất
các vật tư kỹ thuật phục vụ sửa chữa các vũ khí khí tài trong các quân, binh chủng.
Cùng với các đề tài NCKH phục vụ quốc phòng, các nhà khoa học của nhà trường
cũng đã thực hiện các đề tài khoa học phục vụ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước và
quá trình hội nhập quốc tế. Trong giai đoạn 2010-2019, HVKTQS đã thực hiện 5 nhiệm vụ
hợp tác quốc tế theo nghị định thư, 14 đề tài hợp tác quốc tế về KH&CN được tài trợ từ các
quỹ quốc tế, 52 đề tài nghiên cứu cơ bản cấp quốc gia, 2 nhiệm vụ thuộc chương trình quốc
gia ứng phó với biến đổi khí hậu, 20 đề tài Bộ Công thương, 29 đề tài Bộ Xây dựng.
Biểu đồ 3.6: Số lượng các công trình nghiên cứu phục vụ phát triển
60
kinh tế - xã hội giai đoạn 2010-2019
50
40
52
30
29
20
20
10
14
0
Đề tài Bộ Công thương
Đề tài Bộ Xây dựng
Nghiên cứu cơ bản cấp quốc gia
Nhiệm vụ hợp tác quốc tế theo Nghị định thư
Đề tài hợp tác quốc tế được tài trợ từ các quỹ quốc tế
Nhiệm vụ thuộc chương trình quốc gia ứng phó biến đổi khí hậu
5 2
(Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo thống kê kết quả hoạt động KH&CN của HVKTQS)
102
Như vậy, trong những năm qua, NCKH của HVKTQS luôn bám sát định hướng
của Nhà nước, Bộ Quốc phòng và đặc biệt luôn gắn liền với thực tiễn, giải quyết nhiều
vấn đề trong công tác an ninh, quốc phòng và sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước.
Hội nhập quốc tế về NCKH cũng đã được thực hiện, thể hiện thông qua các đề tài nghiên
cứu hợp tác chung với các đối tác nước ngoài (14 đề tài): tham gia các đề tài NCKH
chung trong khuôn khổ Quỹ Newton, Quỹ Hội đồng Anh – Bristich Council, đã tham
gia nhiều đề tài do các nhà khoa học đại học Greenwich, Đại học Queensland, Đại học
Liverpool John Moore chủ trì. HVKTQS cũng đã gia nhập 03 mạng lưới hợp tác quốc
tế về NCKH gồm “Hội Công nghệ thông tin và truyền thông ASIAN-IVO”, “Hiệp hội
kỹ thuật ăng ten và truyền sóng Nhật Bản”, “Phòng nghiên cứu toàn cầu GAL”.
Tuy nhiên, NCKH ở HVKTQS vẫn có sự chênh lệch, không đồng đều giữa các
đơn vị trực thuộc. Để phân tích NCKH cụ thể của từng đơn vị trong HVKTQS, tác giả kí
hiệu các Khoa là K, các Viện là V và các trung tâm là TT. Đối với từng loại hình, các đơn
vị sẽ được đánh số thứ tự một cách ngẫu nhiên từ 1 đến hết. Như vậy, trong HVKTQS có
13 Khoa, được kí hiệu là K1, K2, K3, K4, K5,K6, K7, K8, K9, K10, K11, K12, K13; 1
trung tâm nghiên cứu được kí hiệu là TT; 3 viện nghiên cứu được kí hiệu là V1, V2, V3.
Biểu đồ 3.7: Số lượng đề tài nghiên cứu của các đơn vị trong HVKTQS
35
30
25
20
15
10
5
0
Năm 2013
Năm 2014
Năm 2015
Năm 2016
Năm 2017
K2
K1
K3
K4
K5
K6
K7
K9
K10
K11
K12
K13
TT
V1
V2
V3
giai đoạn 2013 - 2017
(Nguồn: Kết quả thống kê của luận án)
Qua quá trình nghiên cứu, phân tích, tác giả nhận thấy, trong HVKTQS, NCKH
103
ở một số đơn vị rất mạnh, thực hiện rất nhiều đề tài nghiên cứu các cấp và tạo ra nhiều
sản phẩm có giá trị, đưa vào áp dụng, triển khai trong thực tiễn như K1, K2, K4, K8,
V2. Bên cạnh đó, vẫn còn những đơn vị chưa mạnh về NCKH, số lượng đề tài nghiên
cứu còn thấp như K3, K11, K12, V3, TT. Những đơn vị có hoạt động nghiên cứu chưa
mạnh là những Khoa giảng dạy những môn thuộc khối kiến thức chung như ngoại ngữ,
công tác đảng, công tác chính trị, triết học… Bên cạnh đó, cũng có một viện nghiên cứu
còn hạn chế trong công tác NCKH, đó là đơn vị V3. Trong 5 năm gần đây, số lượng đề
tài nghiên cứu các cấp của đơn vị này còn rất khiêm tốn. Nguyên nhân một phần do yếu
tố khách quan, do đây là giai đoạn đầu tiên kể từ khi Viện được thành lập nên hoạt động
chưa đi vào ổn định. Nhưng đây cũng là một thực tế mà chúng ta cần xem xét để có biện
pháp điều chỉnh kịp thời, giúp cho đơn vị này thực hiện hiệu quả các chức năng của
mình. Cũng qua biểu đồ, chúng ta thấy, kết quả NCKH ở các đơn vị trong những năm
gần đây đều có xu hướng gia tăng.
Số lượng đề tài nghiên cứu các cấp ở các đơn vị cũng khác nhau. Có những đơn
vị NCKH rất mạnh, số lượng đề tài nghiên cứu nhiều và ở các cấp quản lý khác nhau từ
cấp Nhà nước, cấp Bộ, Ngành và Cơ sở như các đơn vị K1, K2, K8 và V2. Trong 4 đơn
vị này, có V2 là viện nghiên cứu, ba đơn vị còn lại là các khoa chuyên ngành mà lĩnh
vực có khả năng ứng dụng cho cả quân sự và dân sự.
Biểu đồ 3.8: Số lượng đề tài nghiên cứu các cấp của các đơn vị
trong HVKTQS năm 2016
ị v n ơ Đ
V3 V2 V1 TT k13 K12 K11 K10 K9 K8 K7 K6 K5 K4 K3 K2 K1
0
2
4
6
12
14
16
18
8 10 Số lượng
Đề tài Nafosted
Đề tài cấp Nhà nước
Đề tài cấp Bộ
Đề tài cấp cơ sở
104
(Nguồn: Kết quả thống kê của luận án)
Nhưng bên cạnh đó vẫn còn những đơn vị chỉ thường xuyên thực hiện những đề
tài ở cấp cơ sở như đơn vị K3, K7, K10, K11, K12, V3. Cán bộ giảng dạy và nghiên cứu
của các đơn vị này thực hiện nghiên cứu đề tài cấp cơ sở để đủ tiêu chuẩn, điều kiện xét
chức danh chuyên môn - kỹ thuật - nghiệp vụ. Sự chủ động, tích cực trong NCKH của
cán bộ ở các đơn vị này là chưa cao. Trong đó, đặc biệt chú ý là đơn vị V3 cũng là một
viện nghiên cứu, được thành lập khoảng 5 năm trên cơ sở sát nhập một số đơn vị của
HVKTQS nhưng đến nay vẫn còn hạn chế trong NCKH. Số lượng đề tài nghiên cứu các
cấp và số lượng công bố khoa học còn rất khiêm tốn.
3.2.2.2. Số lượng bài báo đã công bố
Viết báo và công bố trên các tạp chí trong và ngoài nước là hoạt động thường
xuyên của các cán bộ, giảng viên HVKTQS. Hàng năm, các cán bộ, giảng viên
HVKTQS công bố một số lượng khá lớn công trình trên các tạp chí khoa học trong và
ngoài nước, tại các hội thảo khoa học trong và ngoài nước. Trong giai đoạn 2010 – 2019,
đội ngũ cán bộ HVKTQS đã công bố 3715 bài báo khoa học trên các tạp chí trong nước và
1096 bài báo khoa học trên các tạp chí quốc tế. Như vậy, tính trung bình, mỗi năm các nhà
khoa học của HVKTQS công bố 412 bài báo trong nước và 121 bài báo quốc tế.
3715
4000
3500
3000
2500
2000
1500
1096
1000
500
0
Bài báo trong nước
Bài báo quốc tế
Biểu đồ 3.9: Số lượng bài báo khoa học của HVKTQS giai đoạn 2010-2019
(Nguồn: Tổng hợp từ Thống kê hoạt động KH&CN của HVKTQS)
Trong những năm gần đây, số lượng bài báo của HVKTQS công bố trên các tạp
chí ISI và SCOPUS ngày càng tăng và ở mức cao so với mặt bằng chung của các trường
đại học Việt Nam. Số bài báo đăng trên các tạp chí ISI và SCOPUS của HVKTQS trong
giai đoạn 2015-2019 là 409 bài báo, trong đó, số lượng cụ thể của các năm 2015, 2016,
105
2017, 2018, 2019 lần lượt là 43, 80, 106, 101 và 79. Tính trung bình trong 5 năm gần
đây, mỗi năm, HVKTQS có 81 bài đăng trên các tạp chí ISI và SCOPUS. Như vậy, tính
trung bình, mỗi năm, mỗi cán bộ giảng dạy/nghiên cứu của HVKTQS công bố 0,09 bài
báo ISI hoặc SCOPUS (0,09 bài báo/người/năm).
Biểu đồ 3.10: Số lượng bài báo của HVKTQS đăng trên các
120
106
101
100
80
79
80
60
43
40
20
0
Năm 2015
Năm 2016
Năm 2017
Năm 2018
Năm 2019
Tạp chí ISI và SCOPUS giai đoạn 2015-2019
(Nguồn: Tổng hợp từ Thống kê hoạt động KH&CN của HVKTQS)
Bên cạnh việc thực hiện các đề tài nghiên cứu và viết báo khoa học, các cán bộ,
giảng viên, nghiên cứu viên của HVKTQS đã tích cực tham gia các hội thảo trong nước
và quốc tế. Trong giai đoạn 2015-2019, HVKTQS đã tổ chức 10 hội thảo quốc tế, 200
buổi xê-mi-na, tọa đàm quốc tế để tăng cường giao lưu, trao đổi học thuật với các nhà
khoa học ở các trường đại học, viện nghiên cứu trên thế giới.
Biểu đồ 3.11: Số lượng bài viết tham gia các Hội thảo khoa học
250
199
200
155
150
109
100
77
73
71
50
0
Năm 2015
Năm 2016
Năm 2017
Hội thảo trong nước
Hội thảo quốc tế
trong nước và quốc tế của HVKTQS
106
(Nguồn: Tổng hợp từ thống kê hoạt động KH&CN, HVKTQS)
Số lượng bài báo công bố trên các tạp chí trong nước và quốc tế ở các đơn vị
trong HVKTQS cũng có sự chênh lệch đáng kể. Các đơn vị có số lượng bài báo công
bố lớn là V2, K4, K1, K8. Các đơn vị có số lượng công bố hạn chế là V3, K3, K12, V1.
Công bố trên các tạp chí quốc tế, đặc biệt là các tạp chí SCOPUS và ISI tập trung ở một
số đơn vị như K1, K2, K4, K8 và V2. Các đơn vị K10, K11, K12, K13, V3 còn rất hạn
chế trong việc công bố quốc tế.
Biểu đồ 3.12: Số lượng bài báo công bố trên các tạp chí của các đơn vị
200
180
160
140
120
g n ợ ư
100
l
ố S
80
Tạp chí ISI
Tạp chí SCOPUS
60
Tạp chí quốc tế
40
Tạp chí trong nước
20
0
3 K
1 K
2 K
4 K
5 K
6 K
7 K
8 K
9 K
T T
1 V
2 V
3 V
0 1 K
1 1 K
2 1 K
3 1 K
Đơn vị
trong HVKTQS giai đoạn 2015-2017
(Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo thống kê hoạt động KH&CN của HVKTQS)
Qua quá trình phân tích về số lượng đề tài nghiên cứu và số bài báo công bố trên
các tạp chí của các đơn vị trong HVKTQS, tác giả nhận thấy có mối quan hệ rất chặt
chẽ giữa số lượng đề tài nghiên cứu và số bài báo công bố. Mối quan hệ này là quan hệ
tỷ lệ thuận, quan hệ tương sinh. Các đơn vị có số lượng đề tài nghiên cứu các cấp nhiều
thì cũng có số lượng bài báo công bố lớn. Các đơn vị K1, K2, K4, K8, V2 là những đơn
vị có số lượng đề tài nghiên cứu lớn và đồng thời cũng là những đơn vị có số bài báo
công bố lớn ở cả tạp chí trong nước, tạp chí quốc tế, tạp chí ISI và tạp chí SCOPUS. Các
đơn vị có số lượng đề tài nghiên cứu các cấp ít thì cũng đồng thời có số lượng bài báo
thấp. Điều đó, thêm một lần nữa chứng minh rằng, muốn có công trình công bố trên các
107
tạp chí thì cần phải tiến hành nghiên cứu. Các bài báo công bố chính là kết quả của quá
trình nghiên cứu được thực hiện thông qua hệ thống các đề tài, dự án, nhiệm vụ KH&CN.
Biểu đồ 3.13: Tương quan số lượng đề tài nghiên cứu và số bài báo của các
200
150
100
50
0
K1 K2 K3 K4 K5 K6 K7 K8 K9 K10 K11 K12 K13 TT V1 V2 V3
Số lượng đề tài
Số lượng bài báo
đơn vị trong HVKTQS giai đoạn 2015-2017
(Nguồn: Kết quả thống kê của luận án)
Kết quả phân tích bằng SPSS cũng cho thấy có mối tương quan chéo giữa 2 yếu
tố này. Khi phân tích tương quan giữa số lượng đề tài đã thực hiện và số bài báo trong
nước đã công bố của đội ngũ giảng viên HVKTQS, hệ số Pearson Correlation = 0,457,
Sig.(2-tailed) = 0,000 thể hiện sự liên kết khá chặt chẽ giữa hai yếu tố này. Và một điều
đặc biệt là, kết quả phân tích cho thấy không có sự tương quan giữa số lượng đề tài
nghiên cứu đã thực hiện với số lượng bài báo quốc tế đã công bố (hệ số Pearson
Correlation = 0,157, Sig.(2-tailed) = 0,153), nhưng lại có sự tương quan khá chặt giữa
số lượng đề tài nghiên cứu cấp quốc gia mà giảng viên đã làm chủ nhiệm với số lượng
bài báo quốc tế đã công bố của họ (hệ số Pearson Correlation = 0,373, Sig.(2-tailed) =
0,000). Điều này được giải thích như sau: những kết quả nghiên cứu thuộc lĩnh vực quân
sự rất khó để công bố quốc tế, còn những đề tài nghiên cứu cấp quốc gia bao gồm cả các
đề tài nghiên cứu cơ bản, đề tài Nafosted thì có yêu cầu về công bố quốc tế và kết quả
nghiên cứu cũng thuận lợi để công bố quốc tế rộng rãi. Kết quả phân tích cũng cho thấy,
các nhà khoa học có công bố quốc tế tập trung nhiều ở nhóm những nhà khoa học thực
hiện từ 2 – 5 đề tài trong giai đoạn 2012-2017 tức là những nhà khoa học thường xuyên
108
có đề tài nghiên cứu.
3.2.2.3. Sản phẩm nghiên cứu khoa học đăng ký sáng chế
HVKTQS là tổ chức đào tạo, nghiên cứu chủ yếu về lĩnh vực kỹ thuật. Do đó,
các sản phẩm nghiên cứu tạo ra sẽ có nhiều sáng chế. Việc đăng ký bảo hộ sáng chế là
rất cần thiết để bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu, các tác giả tạo ra sáng chế và nâng cao
khả năng thương mại hóa các sáng chế được tạo ra từ các công trình nghiên cứu. Khi
truy vấn số liệu sáng chế do HVKTQS nộp đơn đăng ký trong giai đoạn 2010-2018, có
21 đơn đăng ký sáng chế đã được nộp tại Cục SHTT trong đó có 7 văn bằng đã được
cấp, 5 đơn đang trong quá trình thẩm định và 9 đơn đã có quyết định từ chối cấp văn
bằng bảo hộ do không đáp ứng được các điều kiện để được cấp văn bằng bảo hộ.
Biểu đồ 3.14: Kết quả đăng ký sáng chế của Học viện Kỹ thuật Quân sự
5 7
Số đơn được cấp văn bằng Số đơn bị từ chối cấp văn bằng Số đơn đang thẩm định
9
(Nguồn: Thư viện số về Sở hữu Công nghiệp, Cục sở hữu trí tuệ)
Như vậy, số lượng đơn đăng ký sáng chế của HVKTQS vẫn còn ít. Số lượng đơn
bị từ chối cấp văn bằng bảo hộ vẫn chiếm tỷ lệ lớn (chiếm 43% so với tổng số đơn đã nộp,
chiếm 56% so với tổng số đơn đã có quyết định cấp văn bằng và không cấp văn bằng bảo
hộ). Việc nộp đơn đăng ký sáng chế của HVKTQS đều được thực hiện thông qua đại diện
sở hữu công nghiệp. Hầu hết các đơn đăng ký sáng chế của HVKTQS đều được nộp trong
giai đoạn từ năm 2010 đến nay. Điều đó cho thấy, trong những năm gần đây, vấn đề SHTT
đã được quan tâm và coi trọng trong NCKH của HVKTQS, cũng như chất lượng các công
trình nghiên cứu đã được nâng lên. Các sáng chế đã đáp ứng được tính mới so với thế giới
và đạt được trình độ sáng tạo trong lĩnh vực kỹ thuật trên phạm vi toàn cầu.
109
Trong số 7 văn bằng bảo hộ đã được cấp, có 5 bằng độc quyền sáng chế và 2
bằng độc quyền giải pháp hữu ích. Các sáng chế được cấp văn bằng bảo hộ ở cả dạng
vật thể, chất thể và quy trình trong đó có 2 sáng chế vật thể, 1 sáng chế chất thể và 4
sáng chế dưới dạng vật thể và quy trình (phương pháp).
Bảng 3.3: Tình trạng pháp lý các sáng chế đã nộp đơn đăng ký
bảo hộ của HVKTQS
Tình trạng pháp lý Số lượng TT
1 Cấp bằng độc quyền sáng chế 5
2 Cấp bằng độc quyền giải pháp hữu ích 2
3 Từ chối cấp bằng 9
4 Đang thẩm định 5
(Nguồn: Thư viện số về Sở hữu Công nghiệp, Cục sở hữu trí tuệ)
Mặc dù, số lượng đơn đăng ký sáng chế của HVKTQS chưa nhiều nhưng so với
các trường đại học khác trong quân đội, HVKTQS vẫn là trường có số đơn đăng ký sáng
chế và số văn bằng bảo hộ được cấp ở mức cao. Ví dụ như trường hợp Học viện Quân
y - cũng là một đơn vị rất mạnh trong NCKH. Hiện nay, Học viện Quân y có số đơn
đăng ký sáng chế đã được nộp là 20, số văn bằng bảo hộ được cấp là 6 (trong đó có 4
bằng độc quyền sáng chế và 2 bằng độc quyền giải pháp hữu ích).
8
8
7
6
6
6
8 7 6 5 4 3 2 1 0
Số đơn được cấp văn bằng
Số đơn bị từ chối cấp văn bằng
Số đơn đang thẩm định
HVKTQS
Học viện Quân y
Biểu đồ 3.15: So sánh việc đăng ký sáng chế giữa HVKTQS và Học viện Quân y
(Nguồn: Thư viện số về Sở hữu Công nghiệp, Cục sở hữu trí tuệ)
Nhưng có một điểm đặc trưng đó là việc đăng ký sáng chế của Học viện Quân y
không thông qua đại diện sở hữu trí tuệ, mà họ trực tiếp tiến hành và việc đăng ký sáng
110
chế của Học viện Quân y được tiến hành sớm hơn, từ những năm đầu của thế kỷ XXI.
Điều đó chứng tỏ, Học viện Quân y đã sớm ý thức được tầm quan trọng của SHTT và
đã chủ động trong việc bảo vệ các tài sản trí tuệ của mình nhằm thúc đẩy việc thương
mại hóa các kết quả nghiên cứu.
3.2.2.4. Hoạt động dịch vụ khoa học và công nghệ của Học viện Kỹ thuật Quân sự
Hoạt động dịch vụ KH&CN của HVKTQS cũng rất được chú trọng và liên tục
phát triển trong giai đoạn 2010-2019 đặc biệt là về giá trị của các hợp đồng. Hoạt động
dịch vụ KH&CN mà HVKTQS thực hiện là các hoạt động tư vấn, đào tạo, chuyển giao
công nghệ và bán sản phẩm. Đó chính là các hoạt động ứng dụng các kết quả nghiên
cứu vào thực tiễn, phục vụ quân đội và xã hội, đóng góp vào sự nghiệp gìn giữ hòa bình,
an ninh - quốc phòng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Điều này đã đem lại
nguồn thu cho HVKTQS và những cá nhân tham gia nghiên cứu.
Bảng 3.4: Số lượng và giá trị hợp đồng dịch vụ KH&CN của HVKTQS
giai đoạn 2010 – 2019
Số lượng hợp đồng Giá trị hợp đồng (Triệu đồng) Giai đoạn
2010-2015 1.006 377.780
2015 – 2016 233 281.804
2016 – 2017 266 198.236
2017 – 2018 215 221.262
2018 – 2019 180 261.342
Tổng 1.900 1.340.424
(Nguồn: [HVKTQS, 2015]; Tổng hợp kết quả KH&CN của HVKTQS)
Như vậy, chúng ta thấy rằng, trong giai đoạn 2010 – 2019, HVKTQS đã thực hiện
một khối lượng dịch vụ KH&CN khá lớn. Điều này được thể hiện bằng số lượng dịch vụ
KH&CN và giá trị các hợp đồng dịch vụ KH&CN. Trong 4 năm học gần đây (2015-2019),
nhà trường đã kí 894 hợp đồng cung cấp các dịch vụ KH&CN đạt giá trị 962.644 triệu đồng.
Hoạt động dịch vụ KH&CN thực sự góp phần nâng cao năng lực thực tiễn của đội ngũ
cán bộ khoa học trong Nhà trường, cải thiện đáng kể cuộc sống của một bộ phận cán bộ
111
khoa học và có những đóng góp cho trường.
Biểu đồ 3.16: Biểu đồ giá trị hợp đồng dịch vụ KH&CN của HVKTQS
281.804
300.000
261.342
250.000
221.262
198.236
200.000
150.000
giai đoạn 2015 – 2019 (triệu đồng)
) g n ồ đ u ệ i r t ( ị r t
100.000
á i G
50.000
0
2015-2016
2016-2017
2018-2019
2017-2018 Năm học
(Nguồn: [HVKTQS, 2015]; Tổng hợp kết quả KH&CN của HVKTQS)
Qua bảng số liệu trên, chúng ta thấy rằng NCKH và chuyển giao công nghệ của
Nhà trường trong những năm qua mang lại hiệu quả rõ rệt về mặt kinh tế. Thông qua
các hoạt động dịch vụ KH&CN, đặc biệt là các hoạt động tư vấn cho các dự án đầu tư
quan trọng của Bộ Quốc phòng, uy tín của Nhà trường được nâng lên, các nhà khoa học
có điều kiện tiếp xúc với công nghệ tiên tiến trong quân sự, góp phần nâng cao chất
lượng giảng dạy và NCKH.
3.2.3. Các nguồn lực khoa học và công nghệ của Học viện Kỹ thuật Quân sự
3.2.3.1. Nhân lực
Nhân lực là yếu tố rất quan trọng trong các tổ chức đặc biệt là trình độ và chất
lượng nguồn nhân lực. Trình độ của các giảng viên và nghiên cứu viên trong các trường
đại học sẽ ảnh hưởng lớn đến chất lượng NCKH và chất lượng đào tạo của nhà trường.
Nhận thức được điều này, trong những năm qua, HVKTQS luôn coi trọng hoạt động
đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng cho các giảng viên và nghiên
cứu viên. Số lượng cán bộ đạt chức danh GS, PGS, đạt học vị TSKH,TS ngày càng tăng
và đóng vai trò chủ chốt trong NCKH và đào tạo của nhà trường. Tại thời điểm năm
2019, 77,6% cán bộ, giảng viên của HVKTQS có trình độ sau đại học, trong đó, GS,
PGS chiếm 7,0%; TS, TSKH chiếm 27,2%; ThS chiếm 43,4%. Số cán bộ, giảng viên có
112
trình độ đại học chiếm 22,4%. Tỷ lệ này còn khá lớn là do lực lượng cán bộ, giảng viên
của HVKTQS đa phần là học viên của trường được giữ lại. Sau khi được giữ lại trường
làm giảng viên, lực lượng này phải mất vài năm tham gia huấn luyện, học tập nâng cao
trình độ, hoàn thành chương trình đào tạo sau đại học.
7
22,4
27,2
43,4
GS,PGS
TSKH,TS
ThS
ĐH
Biểu đồ 3.17: Trình độ cán bộ, giảng viên của HVKTQS (%)
(Nguồn: Báo cáo số lượng nhân lực KH&CN của HVKTQS)
HVKTQS luôn chú trọng tăng cường hợp tác quốc tế trong công tác đào tạo, bồi
dưỡng trình độ, kỹ năng cho đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên. Hiện nay, HVKTQS
có quan hệ hợp tác với gần 200 trường đại học trên thế giới trong công tác đào tạo và
NCKH. Hàng năm, Học viện có mời các chuyên gia nước ngoài sang đào tạo về ngoại
ngữ, chuyên môn cho học viên và cán bộ, đón tiếp nhiều đoàn chuyên gia nước ngoài
đến làm việc, trao đổi học thuật, hợp tác đào tạo và NCKH. Học viện cũng thường xuyên
cử cán bộ đi công tác, học tập ở nước ngoài để học hỏi kinh nghiệm, trao đổi học thuật
và mở ra các hướng hợp tác mới trong hoạt động đào tạo và NCKH theo xu hướng phát
triển của KH&CN và thực hiện các nhiệm vụ trong tình hình mới. Số lượng TS được
đào tạo ở nước ngoài chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng TS của HVKTQS (trên 50%). Lực
lượng TS này được đào tạo ở các nước tiên tiến trên thế giới như Nga, Úc, Nhật Bản,
Anh, Pháp, Mỹ, Séc, Trung Quốc,… nên có trình độ chuyên môn và kỹ năng tốt, đặc
biệt là trong NCKH. Như vậy, so với mức chung của cả nước (khoảng 20% tổng số giảng
viên trên cả nước có trình độ TS trở lên), HVKTQS có tỷ lệ cán bộ, giảng viên có trình
113
độ TS ở mức cao nhưng nếu so với Đại học Bách Khoa Hà Nội - một trường đại học kỹ
thuật thuộc khối dân sự - thì tỷ lệ này vẫn còn rất khiêm tốn. Hiện nay, đại học Bách Khoa
Hà Nội có hơn 60% giảng viên có trình độ TS trở lên (740 người), số lượng giáo sư: 23
và số lượng PGS là 221 [Trường Đại học Bách khoa Hà Nội].
Trong NCKH, việc hình thành và phát triển các nhóm nghiên cứu là rất quan
trọng. Trong những năm qua, các cán bộ, giảng viên của HVKTQS đã hình thành các
nhóm nghiên cứu để thực hiện các đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu. Để tìm hiểu về việc
tham gia vào các nhóm nghiên cứu của giảng viên, cán bộ nghiên cứu, tác giả đã đặt câu
hỏi “Anh/chị có tham gia vào các nhóm nghiên cứu không?”. Kết quả thu được là phần
lớn các cá nhân đều đã tham gia vào các nhóm nghiên cứu (70,2%).
29,8
Có
Không
70,2
Biểu đồ 3.18: Tỷ lệ cán bộ, giảng viên tham gia vào các nhóm nghiên cứu
(Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án)
Các nhóm nghiên cứu của HVKTQS đã mang những đặc điểm của những nhóm
nghiên cứu hoạt động hiệu quả, tuy nhiên ở một số đặc điểm, tỷ lệ vẫn chưa được cao.
Bảng 3.5: Các đặc điểm của các nhóm nghiên cứu trong HVKTQS
Đặc điểm Có (%) Không
(%)
Có hướng nghiên cứu chuyên sâu 76,7 23,3
Có người lãnh đạo học thuật giỏi, tâm huyết, tích cực 64,4 35,6
Có sự trao đổi liên tục, thường xuyên giữa các thành 72,9 27,1
114
viên trong nhóm
Không có sự phân biệt vị trí, thứ bậc, tuổi tác giữa các 61,0 39,0
thành viên trong nhóm khi trao đổi chuyên môn
Các nhà nghiên cứu trẻ trong nhóm được tôn trọng và 69,5 30,5
được tạo điều kiện, cơ hội phát huy năng lực, ý tưởng
sáng tạo
Các thành viên trong nhóm đều thuộc cùng Bộ môn 25,4 74,6
Các thành viên trong nhóm thuộc các Bộ môn, các 42,4 57,6
Khoa khác nhau trong cùng trường đại học
Các thành viên trong nhóm thuộc các đơn vị, tổ chức 50,8 49,2
khác nhau cả ở trong và ngoài trường
(Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án)
Một nhóm nghiên cứu hoạt động hiệu quả và thành công thì phải có hướng nghiên
cứu chuyên sâu. Theo kết quả khảo sát, 76,7% cho rằng nhóm nghiên cứu của họ có
hướng nghiên cứu chuyên sâu. Đây là một tỷ lệ khá cao. 64,4% người được hỏi cho rằng
nhóm của họ có người lãnh đạo học thuật giỏi, tâm huyết, tích cực. Một người lãnh đạo
học thuật giỏi, tâm huyết, tích cực sẽ có ý nghĩa quyết định đến thành công của nhóm
nghiên cứu. Do đó, cần phải có những chính sách hỗ trợ phù hợp để hỗ trợ, đào tạo, bồi
dưỡng để các trưởng nhóm nghiên cứu đều là những người giỏi chuyên môn, được cả
nhóm tín nhiệm và tâm huyết, nhiệt tình với công việc nghiên cứu của nhóm. Trong các
nhóm nghiên cứu của HVKTQS đã có sự trao đổi thường xuyên, liên tục giữa các thành
viên trong nhóm. Điều này là rất tốt trong việc giúp các nhà nghiên cứu hiểu nhau hơn
cũng như cùng nhau thảo luận về các vấn đề nghiên cứu. Trong khi trao đổi chuyên môn,
các nhóm nghiên cứu đã hướng đến việc bình đẳng, không có sự phân biệt vị trí, thứ
bậc, tuổi tác giữa các giữa các thành viên, tuy nhiên tỷ lệ này vẫn chưa cao (61%). Các
nhóm nghiên cứu của HVKTQS cũng đã hướng đến việc liên kết mở rộng, đa dạng thành
viên để triển khai những đề tài nghiên cứu đa ngành. Do đó, các nhóm nghiên cứu có
các thành viên trong nhóm thuộc các đơn vị, tổ chức khác nhau cả ở trong và ngoài
trường chiếm tỷ lệ cao nhất (50,8%).
Hiện nay, HVKTQS đã có 16 nhóm nghiên cứu được công nhận là nhóm nghiên
115
cứu mạnh của Học viện trong đó có 2 nhóm nghiên cứu cơ bản và 14 nhóm nghiên cứu
ứng dụng. Các nhóm nghiên cứu mạnh của HVKTQS đã hoạt động khá tốt trong thời
gian vừa qua. 02 nhóm nghiên cứu cơ bản có tổng biên chế là 19 người, trong đó có 03
PGS.TS, 09 TS và 07 Thạc sĩ. Nhiệm vụ của nhóm nghiên cứu cơ bản là thực hiện những
nghiên cứu nền, nghiên cứu lý thuyết. Trong năm 2017, hai nhóm nghiên cứu cơ bản đã
tham gia đào tạo 14 nghiên cứu sinh, 15 học viên cao học trong đó có 4 nghiên cứu sinh
và 10 học viên cao học đã bảo vệ thành công; đã xây dựng và triển khai 04 đề tài nghiên
cứu (02 đề tài Nafosted); công bố 18 bài báo khoa học, trong đó có 05 bài ISI. Trong
năm, hai nhóm nghiên cứu cơ bản cũng đã tổ chức 03 đoàn công tác ra nước ngoài và
05 đoàn vào để kết nối, hợp tác trong đào tạo và NCKH. 12 nhóm nghiên cứu ứng dụng
gồm 111 người, trong đó có 02 GS, 13 PGS, 47 TS, 39 ThS, 10 Kĩ sư. Nhiệm vụ chính
của các nhóm này là nghiên cứu, triển khai kết quả ứng dụng vào các lĩnh vực kỹ thuật
phục vụ quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế - xã hội. Trong năm 2017, các nhóm
nghiên cứu ứng dụng đã đào tạo 41 nghiên cứu sinh, 52 học viên cao học trong đó có 16
nghiên cứu sinh và 46 học viên cao học đã bảo vệ thành công. Các nhóm nghiên cứu đã
xây dựng và triển khai 38 đề tài (02 cấp nhà nước, 04 Nafosted, 32 cấp Bộ), công bố
129 bài báo, trong đó có 20 bài báo quốc tế. Các nhóm nghiên cứu đã tổ chức 5 đoàn
công tác ra nước ngoài để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và kết nối với các chuyên gia, các
tổ chức trong lĩnh vực đào tạo và NCKH.
Như vậy, các nhóm nghiên cứu mạnh đều có những người trưởng nhóm giỏi, có
định hướng chuyên sâu và có hoạt động hiệu quả, nổi trội. Do đó cần phải có sự quan
tâm để phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh trong Nhà trường.
3.2.3.2. Tài chính
Tài chính cấp cho NCKH của HVKTQS chủ yếu là từ ngân sách nhà nước bao
gồm: nguồn tài chính đầu tư phát triển của Nhà nước do Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp;
nguồn kinh phí sự nghiệp khoa học cho các nhiệm vụ KH&CN cấp Nhà nước, cấp Bộ,
ngành, tỉnh, thành phố; ngân sách quốc phòng: bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ KH&CN
cấp Bộ Quốc phòng và hỗ trợ nhiệm vụ KH&CN cấp cơ sở, đảm bảo xây dựng phòng
thí nghiệm, đầu tư sản xuất loạt “0”,… Bên cạnh đó, tài chính cho NCKH của HVKTQS
còn được cung cấp bởi các nguồn khác như kinh phí bổ sung từ các hoạt động dịch vụ
116
KH&CN, quỹ phát triển KH&CN, các khoản tài trợ của các tổ chức, cá nhân.
Nguồn kinh phí cho hoạt động KH&CN của HVKTQS ngày càng được cải thiện,
tuy nhiên, nguồn kinh phí thường xuyên cho hoạt động này vẫn còn ở mức thấp. Kinh
phí ngân sách thường xuyên cho hoạt động KH&CN tính trung bình cho 1 giảng viên,
nghiên cứu viên của HVKTQS là 1,6 triệu đồng/năm.
Bảng 3.6. Kinh phí ngân sách thường xuyên cho NCKH của HVKTQS
Năm Kinh phí (triệu đồng)
2015 1.560
2016 1.847
2017 1.528
(Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án)
Bên cạnh nguồn kinh phí thường xuyên, còn có kinh phí cấp cho các đề tài, nhiệm
vụ KH&CN các cấp.
Bảng 3.7: Số lượng đề tài và kinh phí thực hiện các nhiệm vụ KH&CN của
HVKTQS giai đoạn 2011-2015
Số lượng (đề tài) Kinh phí (triệu đồng) Đề tài cấp
Nhà nước 94.797 29
Nghị định thư 8.166 4
Bộ 187.825 56
Ngành 11.318 35
Cơ sở 4.918 352
(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ danh sách kết quả đề tài nghiên cứu của HVKTQS)
Trong 5 năm 2011-2015, kinh phí thực hiện nhiệm vụ KH&CN các cấp của
HVKTQS đạt 307.024 triệu đồng (khoảng 307 tỷ đồng). Trung bình 1 năm, kinh phí cấp
cho các nhiệm vụ KH&CN các cấp của nhà trường là 61.404 triệu đồng. Kinh phí cho
các đề tài cấp cơ sở còn tương đối thấp, tính trung bình khoảng 14 triệu đồng/đề tài,
trong đó, một số đề tài định hướng có kinh phí cao hơn, còn lại nhiều đề tài vẫn có kinh
phí dưới 10 triệu đồng/đề tài. Kinh phí cho hoạt động KH&CN của HVKTQS đã tăng
khá nhiều so với giai đoạn 5 năm trước đó (2006-2010), nhưng so với một số trường kỹ
thuật thuộc khối dân sự (ví dụ như Đại học Bách khoa Hà Nội) thì kinh phí thực hiện
117
các nhiệm vụ KH&CN còn thấp hơn khá nhiều đặc biệt là ở mảng đề tài cấp Nhà nước
và đề tài cấp cơ sở (đề tài cấp cơ sở của Đại học Bách khoa Hà Nội có kinh phí khoảng
50 triệu đồng/đề tài). Một trong những yếu tố ảnh hưởng mạnh đến vấn đề này là do
HVKTQS là một trường quân đội nên tập trung nghiên cứu các đề tài ứng dụng trong
lĩnh vực quân sự, thuộc Bộ Quốc phòng nhiều hơn.
Bảng 3.8: So sánh kinh phí thực hiện nhiệm vụ KH&CN giai đoạn 2011-2015
của HVKTQS và Đại học Bách khoa Hà Nội (triệu đồng)
Đề tài cấp Đại học Bách Khoa Hà Nội HVKTQS
Nhà nước 311.980 94.797
Bộ 104.380 187.825
(Nguồn: Báo cáo KH&CN của trường Đại học Bách khoa Hà Nội giai đoạn
2006-2015 và báo cáo hoạt động KH&CN của HVKTQS giai đoạn 2011-2015)
Khi tiến hành khảo sát thực tế, tác giả đã đặt câu hỏi với những nhà khoa học của
HVKTQS về những khó khăn mà họ đang gặp phải trong quá trình làm nghiên cứu. Kết
quả có tới 68,6% số người được hỏi cho rằng nguồn kinh phí thực hiện đề tài còn thấp
là một trong những khó khăn mà họ đang gặp phải hiện nay.
Hộp 3.1. Kinh phí thấp gây khó khăn cho hoạt động nghiên cứu
“Kinh phí thực hiện đề tài NCKH hiện nay tại HVKTQS vẫn còn thấp, đặc biệt
là các đề tài cấp cơ sở (cấp Học viện), nhiều đề tài có kinh phí khoảng 3-5 triệu/đề
tài. Với nguồn kinh phí hạn hẹp như vậy thực sự là rất khó khăn cho các tác giả khi
thực hiện nghiên cứu”. (Nữ, 33 tuổi, Thạc sĩ, Giảng viên)
“Hiện nay, mức hỗ trợ các công bố quốc tế của Học viện vẫn còn thấp. Nếu so
với mức hỗ trợ của một số trường đại học dân sự thì mức hỗ trợ của Học viện còn
thấp hơn khá nhiều. Điều này nhiều khi cũng gây ra tâm lý so sánh trong đội ngũ các
nhà nghiên cứu”.( Nam, 42 tuổi, Tiến sĩ, Giảng viên chính)
(Nguồn: Kết quả phỏng vấn sâu của luận án)
Để thúc đẩy NCKH, HVKTQS đã có chính sách hỗ trợ kinh phí cho các công bố
khoa học và văn bằng sở hữu trí tuệ đề tên HVKTQS hoặc Đại học Kỹ thuật Lê Quý
Đôn (tên khác của HVKTQS, sử dụng trong giao dịch, hợp tác với dân sự và quốc tế).
118
Chính sách hỗ trợ này áp dụng cho các tác giả là cán bộ cơ hữu của HVKTQS và cán bộ
của Học viện được cử đi học, đi công tác. Các công trình khoa học được hỗ trợ phải là
các công trình không thuộc danh mục sản phẩm bắt buộc phải có khi nghiệm thu các đề
tài, nhiệm vụ KH&CN.
Bảng 3.9: Định mức hỗ trợ kinh phí các công bố khoa học và văn bằng sở
hữu trí tuệ
TT Nội dung hỗ trợ Định mức kinh phí hỗ trợ
(đồng)
Mức A Mức B
Bài báo đăng trên các Tạp chí thuộc 4.000.000 2.500.000 1
danh mục ISI
Bài báo đăng trên các Tạp chí thuộc 2.000.000 1.500.000 2
danh mục Scopus
Bài báo đăng trên các Tạp chí, Tuyển tập 1.200.000 900.000 3
Hội nghị quốc tế không thuộc danh mục
ISI, Scopus nhưng có mã chuẩn ISSN
4 Bài báo bằng tiếng Anh, đăng trên các 700.000 0
Tạp chí, Tuyển tập Hội nghị trong nước,
có mã chuẩn ISSN
Bằng độc quyền sáng chế tại nước ngoài 8.000.000 5.000.000 5
Bằng độc quyền sáng chế tại Việt Nam 4.000.000 2.500.000 6
Giải pháp hữu ích 2.000.000 1.500.000 7
(Nguồn: Quyết định về việc hỗ trợ kinh phí công bố khoa học, văn bằng sở hữu
trí tuệ tại HVKTQS)
Các tác giả là người của HVKTQS ở vị trí thứ nhất trên công trình công bố thì
công trình sẽ được hỗ trợ kinh phí theo định mức A. Các tác giả là người của HVKTQS
không ở vị trí thứ nhất trên công trình công bố thì công trình khoa học đó được hỗ trợ
kinh phí theo định mức B. Nếu các tác giả trong 1 năm có tổng số từ 10 bài báo trở lên,
đề tên HVKTQS hoặc Đại học Kỹ thuật Lê Quý Đôn, đăng trên các Tạp chí thuộc danh
mục ISI thì ngoài số tiễn hỗ trợ từng bài báo như trên, tác giả sẽ được hỗ trợ thêm 15
119
triệu đồng. Định mức kinh phí hỗ trợ như trên được áp dụng từ năm 2017, 2018. Năm
2019, 2020 áp dụng mức hỗ trợ bằng 75% và từ năm 2021 trở đi, áp dụng mức hỗ trợ
bằng 50% định mức nêu trên. Việc hỗ trợ công bố khoa học và văn bằng sở hữu trí tuệ
của Học viện đã phần nào động viên tinh thần và tạo động lực cho cán bộ tích cực nghiên
cứu, làm tăng số lượng và hiệu quả của hoạt động nghiên cứu.
HVKTQS đã rất cố gắng để có được nguồn kinh phí hỗ trợ nghiên cứu như trên
cho các nhà khoa học. Tuy nhiên, khi so sánh với chính sách của một số trường đại học
khác thì thấy rằng mức hỗ trợ kinh phí của HVKTQS là còn rất khiêm tốn.
Ví dụ, Đại học Quốc gia Hà nội (ĐHQGHN) có chính sách hỗ trợ công bố công
trình khoa học quốc tế dành cho cán bộ, giảng viên, nghiên cứu viên, nghiên cứu sinh,
học viên cao học, sinh viên đang học tập, nghiên cứu và làm việc tại ĐHQGHN và là
thành viên Câu lạc bộ Nhà Khoa học ĐHQGHN. Mức hỗ trợ mà ĐHQGHN dành cho
các công bố quốc tế cao hơn rất nhiều so với HVKTQS.
Bảng 3.10: Mức hỗ trợ công bố quốc tế của Đại học Quốc gia Hà Nội
STT Công trình Mức hỗ trợ/1 công bố quốc tế
Tác giả chính/ Tác giả phụ
tác giả liên hệ
1 Công trình công bố trên tạp chí khoa học 30.000.000 16.000.000
thuộc danh mục cơ sở dữ liệu của ISI hoặc
SCOPUS và được SCImago xếp hạng Q1.
2 Công trình công bố trên tạp chí khoa học 20.000.000 12.000.000
thuộc danh mục cơ sở dữ liệu của ISI hoặc
SCOPUS và được SCImago xếp hạng Q2.
3 Công trình công bố trên tạp chí khoa học 16.000.000 8.000.000
thuộc danh mục cơ sở dữ liệu của ISI hoặc
SCOPUS và được SCImago xếp hạng Q3, Q4.
4 Các chuyên san thuộc tạp chí khoa học 16.000.000 8.000.000
ĐHQGHN được index trong CSDL
ScienceDirect
120
(Nguồn: Tiêu chí Hỗ trợ công bố công trình khoa học quốc tế, ĐHQGHN)
3.2.3.3. Cơ sở hạ tầng phục vụ nghiên cứu khoa học
Trong những năm gần đây, cơ sở vật chất, trang thiết bị nghiên cứu đã không
ngừng được quan tâm đầu tư. HVKTQS hiện có 31 phòng thí nghiệm cơ bản, cơ sở, 38
phòng thí nghiệm chuyên ngành, 35 phòng học trang bị, phòng học chuyên dùng, 13
trạm, xưởng, 1 trung tâm huấn luyện, thực hành tổng hợp. Học viện đã trang bị hơn 1000
trang thiết bị thí nghiệm, hàng nghìn phương tiện đo lường phục vụ đào tạo và NCKH.
38
40
35
31
35
30
25
20
13
15
10
1
5
0
Trạm, xưởng
Phòng thí nghiệm cơ bản
Phòng thí nghiệm chuyên ngành
Trung tâm huấn luyện, thực hành
Phòng học trang bị/chuyên dùng
Biểu đồ 3.19: Hệ thống cơ sở kỹ thuật phục vụ đào tạo, nghiên cứu
(Nguồn: Đề cương tuyên truyền 50 năm Học viện Kỹ thuật Quân sự)
Các phòng thí nghiệm, phòng học chuyên dùng của HVKTQS đã tham gia tích
cực vào công tác đào tạo đại học, sau đại học và NCKH. Các cơ sở kỹ thuật được đầu
tư đã gia tăng tiềm lực KH&CN cho HVKTQS, tạo điều kiện cho các đơn vị trong Học
viện hoàn thành nhiều đề tài cấp Nhà nước, cấp Bộ, là tiền đề để các phòng thí nghiệm
được đầu tư tham gia vào công tác thẩm định, đánh giá vũ khí, trang bị kỹ thuật trong
quân đội, góp phần quan trọng nâng cao chất lượng đào tạo cả ở bậc đào tạo đại học và
sau đại học. Trình độ chuyên môn, năng lực NCKH của đội ngũ cán bộ kỹ thuật, giảng
viên, học viên đã được nâng cao qua việc xây dựng và khai thác các phòng thí nghiệm.
Nhiều công nghệ mới, các thiết bị có kỹ thuật tiên tiến đã được đội ngũ giảng viên của
Học viện từng bước làm chủ như: công nghệ mô phỏng, công nghệ gia công cơ khí
CNC… Từ đó đã xây dựng được nhiều phần mềm mô phỏng phục vụ đào tạo và NCKH.
Sử dụng hệ thống cơ sở kỹ thuật vào công tác giảng dạy đã khắc phục tình trạng học
121
chay của học viên, sinh viên. Học viên, sinh viên được tiếp xúc nhiều hơn với vũ khí,
trang bị kỹ thuật và nâng cao kỹ năng thực hành thông qua các bài thí nghiệm. Các bài
thí nghiệm chuyên ngành được bổ sung, chất lượng huấn luyện, thực hành được nâng
cao do học viên, sinh viên có điều kiện thực tập tốt hơn tại trạm, xưởng của các ngành.
Trước năm 2010, nội dung thực tập cuối khóa, thực tập tốt nghiệp của học viên, sinh
viên tại nhà máy, đơn vị gặp nhiều khó khăn, nhiều khi không thực hiện được. Đến nay,
nhờ đầu tư xây dựng cơ sở kỹ thuật nên hầu hết các khoa chuyên ngành kỹ thuật đều có
thể đảm bảo tổ chức thực tập cuối khóa cho học viên tại các trạm xưởng và phòng thí
nghiệm chuyên ngành của Học viện. Hệ thống cơ sở kỹ thuật của Học viện cơ bản đã
đáp ứng được nhiệm vụ đào tạo, NCKH của nhà trường. Tuy nhiên, đối với những
nghiên cứu chuyên sâu, những nghiên cứu hiện đại, đòi hỏi yêu cầu và tiêu chuẩn cao
thì hệ thống cơ sở kỹ thuật của HVKTQS phần nào vẫn chưa đáp ứng được.
Bên cạnh đó, hiện nay, HVKTQS cũng đã xây dựng hệ thống phòng hội thảo đáp
ứng tiêu chuẩn tổ chức các hội thảo trong nước và quốc tế. Mỗi khoa đều được trang bị
một phòng hội thảo, sinh hoạt học thuật để chủ động tổ chức các hoạt động chuyên môn.
3.2.3.4. Hệ thống thông tin Khoa học và Công nghệ
Hiện nay, HVKTQS có 1 tạp chí chuyên ngành thuộc danh mục các tạp chí được
tính điểm theo quy định của Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước. Đó là Tạp chí Khoa
học và Kỹ thuật – HVKTQS được tính 0-0,5 điểm. Đây là nơi để các nhà khoa học trong
trường công bố các công trình khoa học thường xuyên của mình. Là nơi để các nhà khoa
học tiếp cận với các nghiên cứu của nhau và sử dụng tri thức – các sản phẩm nghiên cứu -
vào quá trình giảng dạy và nghiên cứu của bản thân. Bên cạnh đó, nhà trường đã sử dụng
công nghệ thông tin để đưa các thông tin về hoạt động KH&CN lên mạng nội bộ. Mạng nội
bộ của nhà trường đã kết nối với hệ thống thông tin KH&CN của quân đội, trong đó có các
tạp chí chuyên ngành online và các thông tin về KH&CN của quốc tế, Nhà nước và Bộ
Quốc phòng. Do đó, việc tra cứu thông tin KH&CN, cũng như tiếp cận với những bài báo
của các tạp chí trong toàn quân rất thuận tiện.
Tuy nhiên, hiện nay, hệ thống thông tin KH&CN của HVKTQS còn những hạn chế
như chưa cập nhật thông tin về tên và nội dung các bài báo ISI, SCOPUS của nhà trường
lên mạng nội bộ. Hệ thống thông tin KH&CN của nhà trường chưa đưa đầy đủ thông tin về
định hướng hoạt động KH&CN của Nhà nước, quân đội; chưa đưa ra các nhu cầu thực tế
về các sản phẩm KH&CN tại các quân, binh chủng, đơn vị trong toàn quân và xã
122
hội,…khiến cho việc tiếp cận với các thông tin này của các giảng viên, nghiên cứu viên
chưa được thuận lợi và còn khó khăn. Dó đó, vẫn còn giảng viên, nghiên cứu viên chưa tiếp
cận được những thông tin quan trọng từ hệ thống thông tin KH&CN của nhà trường.
Bảng 3.11. Cán bộ nghiên cứu tiếp cận các thông tin từ hệ thống thông tin
KH&CN của nhà trường
Thông tin Tỷ lệ (%)
Định hướng nghiên cứu của Nhà nước, các Bộ, Ngành và các cơ 77,9
quan trong và ngoài quân đội
Nhu cầu thực tế về các sản phẩm KH&CN của các đơn vị trong 46,5
quân đội
Nhu cầu thực tế về các sản phẩm KH&CN của các tổ chức ngoài 24,4
quân đội
Hệ thống các đề tài nghiên cứu do cán bộ, giảng viên của nhà 60,5
trường đã và đang thực hiện
Nội dung các bài báo của cán bộ, giảng viên nhà trường đăng trên 50,0
các ấn phẩm khoa học trong và ngoài nước
(Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án)
Như vậy, kết quả khảo sát cho thấy, chưa đến 50% nhà nghiên cứu của HVKTQS
nắm được nhu cầu của các đơn vị về các sản phẩm KH&CN từ hệ thống thông tin
KH&CN của nhà trường. Và cũng chỉ có 50% số cán bộ nghiên cứu cho rằng có thể tiếp
cận được nội dung các bài báo của cán bộ, giảng viên nhà trường đăng trên các ấn phẩm
khoa học trong và ngoài nước từ hệ thống thông tin KH&CN của Học viện. Và họ cũng
cho rằng, việc cập nhật tên và nội dung các bài báo là chưa đầy đủ.
Những thông tin trên là rất quan trọng trong quá trình làm nghiên cứu vì các đề tài
NCKH cần bám sát các định hướng nghiên cứu của Nhà nước, Bộ Quốc phòng và phải
sát với nhu cầu thực tế của các đơn vị thì sản phẩm nghiên cứu mới có thể được chuyển
giao, áp dụng trong thực tiễn. Hiện nay, việc tìm hiểu định hướng, thị trường, nhu cầu của
quân đội và xã hội đối với các sản phẩm nghiên cứu hầu hết đều do các cá nhân nhà khoa
học tự thực hiện thông qua các mối quan hệ của mình nên còn nhiều khó khăn. Những
nhà nghiên cứu nào có nhiều mối quan hệ, nhiều nguồn thông tin thì sẽ dễ dàng tiếp cận
123
và đề xuất các đề tài hơn. Do đó, hầu hết các nhà nghiên cứu trẻ sẽ gặp khó khăn.
Hộp 3.2. Định hướng nghiên cứu ảnh hưởng đến xét duyệt và thực hiện đề tài
“Đề tài nghiên cứu phù hợp với định hướng nghiên cứu của các cấp sẽ có nhiều thuận
lợi trong việc xét duyệt và tổ chức thực hiện đề tài. Do đó, các nhà khoa học cần phải
nắm được các thông tin về các định hướng nghiên cứu các cấp để hình thành ý tưởng
nghiên cứu và tổ chức triển khai thực hiện đề tài” (Nam, 38 tuổi, Cán bộ quản lý)
(Nguồn: Kết quả phỏng vấn của luận án)
Bảng 3.12: Tình hình nắm thông tin định hướng nghiên cứu của Nhà nước, Bộ
Quốc phòng và các cơ quan, đơn vị của giảng viên, cán bộ nghiên cứu tại HVKTQS
Mức độ nắm được thông tin Tỷ lệ (%)
Nắm đầy đủ các định hướng nghiên cứu 36,0
Nắm được một số thông tin về định hướng nghiên cứu 54,7
Không biết các định hướng nghiên cứu các cấp 9,3
(Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án)
Việc nắm thông tin định hướng NCKH chịu ảnh hưởng nhiều của chức vụ của
người được hỏi. Những người có giữ chức vụ quản lý sẽ nắm rõ các thông tin về định
hướng nghiên cứu của Nhà nước, Bộ Quốc phòng và các cơ quan, đơn vị hơn là các cá
nhân không giữ chức vụ quản lý.
Bảng 3.13: Tỷ lệ nắm được định hướng nghiên cứu các cấp của người giữ
chức vụ và người không giữ chức vụ trong HVKTQS
Mức độ nắm được thông tin Giữ chức vụ quản lý Không giữ chức vụ
quản lý (%) (%)
29,7 Nắm đầy đủ các định hướng 47,4
nghiên cứu
59,5 Nắm được một số thông tin về 47,4
định hướng nghiên cứu
10,8 Không biết các định hướng 5,2
nghiên cứu các cấp
(Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án)
Như vậy, các cá nhân giữ chức vụ quản lý thì hầu hết đều nắm được định hướng
nghiên cứu các cấp. Cụ thể, trong số những người có chức vụ, có 47,4% nắm đầy đủ định
124
hướng nghiên cứu các cấp, 47,4% nắm được một số thông tin về định hướng nghiên cứu
và chỉ có 5,2% không biết định hướng nghiên cứu các cấp. Các cá nhân không giữ chức
vụ quản lý thì chủ yếu nắm được một số thông tin về định hướng nghiên cứu (59,5%) và
có khoảng 30% nắm được đầy đủ các định hướng nghiên cứu. Điều này là do ảnh hưởng
của vị trí công tác. Những người có chức vụ được tiếp xúc, tiếp nhận các thông tin, văn
bản để điều hành, quản lý đơn vị nên họ sẽ nắm được các định hướng nghiên cứu. Những
người không giữ chức vụ quản lý thì chủ yếu dựa vào hệ thống thông tin KH&CN của
nhà trường để nắm được định hướng nghiên cứu. Do đó, hệ thống thông tin KH&CN càng
đầy đủ, dễ tiếp cận thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho những nhà khoa học.
3.3. Tác động của nghiên cứu khoa học đến chất lượng đào tạo nguồn nhân lực
khoa học và công nghệ quân sự của Học viện Kỹ thuật Quân sự
3.3.1. Nghiên cứu khoa học tác động đến giảng viên và hoạt động giảng dạy
Hiện nay, đa số các giảng viên, cán bộ nghiên cứu của HVKTQS đã tham gia
đồng thời cả công việc nghiên cứu và giảng dạy. Khi tham gia đồng thời cả công việc
nghiên cứu và giảng dạy, các giảng viên, nghiên cứu viên đều có nhận định chung là
NCKH ảnh hưởng tích cực đến công tác giảng dạy và 98,8% số người được hỏi cho rằng
việc liên kết giữa NCKH và giảng dạy là cần thiết trong các trường đại học quân đội
(Biểu đồ 3.20 và Hộp 3.3).
Biểu đồ 3.20: Đánh giá của cán bộ giảng dạy về sự cần thiết của việc liên kết chặt chẽ
1,2
98,8
Có
Không
giữa hoạt động nghiên cứu và hoạt động đào tạo trong các trường đại học quân đội
125
(Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án)
Hộp 3.3. Nghiên cứu khoa học ảnh hưởng tích cực đến giảng dạy của giảng viên
“Cung cấp nhiều thông tin cụ thể, thực tiễn, làm phong phú thêm bài giảng” (Nam,
42 tuổi, Giảng viên chính)
“Hoạt động nghiên cứu có tác dụng rất tốt đối với công tác giảng dạy. Qua nghiên
cứu, giáo viên tích lũy được kinh nghiệm làm cho bài giảng phong phú hơn và cập
nhật hơn” (Nam, 45 tuổi, TS, Chủ nhiệm bộ môn)
“Hỗ trợ tích cực, đặc biệt là giảng dạy sau đại học” (Nam, 43 tuổi, Giảng viên)
“Hoạt động nghiên cứu có ý nghĩa rất lớn đối với công tác giảng dạy. Nghiên cứu
nhằm làm rõ hơn các vấn đề giữa lý luận và thực tiễn, làm sinh động thêm cho bài
giảng, tăng sự tương tác với người học, giúp người học có kiến thức thực tế, tránh lý
thuyết suông” (Nam, 43 tuổi, PGS.TS, Trưởng phòng thí nghiệm)
(Nguồn: Kết quả phỏng vấn sâu của luận án)
Hầu hết các giảng viên, nghiên cứu viên (92,2%) của HVKTQS đã sử dụng kết
quả nghiên cứu vào giảng dạy.
Biểu đồ 3.21: Tỷ lệ giảng viên, nghiên cứu viên của HVKTQS đã sử dụng
7,8
92,2
Có
Không
kết quả nghiên cứu vào giảng dạy
(Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án)
Từ phân tích kết quả nghiên cứu của HVKTQS tại mục 3.2.2. đã cho thấy,
HVKTQS đã thực hiện một khối lượng khá lớn các công trình nghiên cứu và hàng năm
có nhiều sản phẩm nghiên cứu được công bố. Việc thực hiện các hoạt động nghiên cứu
đã giúp nâng cao chất lượng, trình độ, kỹ năng của đội ngũ giảng viên, hướng tới đạt được
các chuẩn mực của giảng viên quốc tế. Điều này, được thể hiện và khẳng định qua các sản
126
phẩm nghiên cứu của đội ngũ giảng viên HVKTQS như: số lượng đề tài nghiên cứu đã
thực hiện, các bài báo đã công bố, đặc biệt là các bài báo quốc tế, các bài báo ISI/SCOPUS,
số lượng văn bằng sáng chế được cấp, các giải thưởng NCKH.
Biểu đồ 3.22: Các sản phẩm nghiên cứu của đội ngũ giảng viên HVKTQS
4000
3715
3500
3000
2500
2000
1500
1096
982
1000
409
500
7
0
Số lượng đề tài nghiên cứu
Số lượng bài báo trong nước
Số lượng bài báo quốc tế
Số lượng bài báo ISI,SCOPUS
Số bằng sáng chế, giải pháp hữu ích
giai đoạn 2010-2019
(Nguồn: Kết quả thống kê của luận án)
Các giải thưởng NCKH là sự ghi nhận kết quả nghiên cứu của giảng viên, nghiên
cứu viên HVKTQS và đồng thời cũng thể hiện và khẳng định trình độ của đội ngũ giảng
viên. Trong thời gian qua, HVKTQS đã có 07 giải thưởng Hồ Chí Minh, 06 giải thưởng
VIFOTEC, 57 giải thưởng tuổi trẻ sáng tạo trong quân đội, 35 bằng khen của Bộ Quốc
phòng, Bộ Tổng Tham mưu dành cho các tập thể và cá nhân có thành tích tốt trong NCKH.
Sự tác động của NCKH đến hoạt động giảng dạy của giảng viên còn được thể hiện
thông qua việc viết giáo trình, tài liệu, bài thí nghiệm phục vụ hoạt động đào tạo và hướng
dẫn sinh viên, học viên NCKH, làm khóa luận, luận văn và luận án tốt nghiệp.
3.3.2. Nghiên cứu khoa học tác động đến giáo trình, tài liệu, học cụ
NCKH đã có nhiều ảnh hưởng tích cực đến hoạt động giảng dạy của các giảng
viên trong HVKTQS. Các giảng viên đã sử dụng các kết quả NCKH để đề xuất thay đổi
chương trình đào tạo; viết mới, bổ sung giáo trình, tài liệu tham khảo, bài thí nghiệm,
thực hành; hướng dẫn học viên, sinh viên NCKH và hướng dẫn khóa luận tốt nghiệp,
127
luận văn cao học và luận án tiến sĩ…
Bảng 3.14: Các giảng viên, nghiên cứu viên ở HVKTQS sử dụng kết quả
NCKH vào công tác giảng dạy
Hoạt động Tỷ lệ (%)
Hướng dẫn luận án, luận văn, khóa luận tốt nghiệp 76,7
Hướng dẫn sinh viên, học viên NCKH 64,0
Xây dựng các bài thí nghiệm, thực hành 45,3
Viết mới, bổ sung bài giảng 36,0
Đổi mới phương pháp giảng dạy 29,1
Viết mới giáo trình, tài liệu tham khảo 27,9
Đề xuất thay đổi, bổ sung các môn học, học phần 23,3
Sửa đổi, bổ sung giáo trình, tài liệu tham khảo 22,1
(Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án)
Như vậy, kết quả NCKH được các giảng viên HVKTQS sử dụng nhiều nhất vào
việc hướng dẫn luận án, luận văn, khóa luận tốt nghiệp (76,7%) và hướng dẫn học viên,
sinh viên NCKH (64%). Do đó, mặc dù số lượng học viên, sinh viên, nghiên cứu sinh
của nhà trường tốt nghiệp hàng năm là khá lớn, nhưng HVKTQS vẫn luôn chủ động
được đội ngũ cán bộ hướng dẫn khóa luận, luận văn, luận án với chất lượng cao và cập
nhật trình độ KH&CN tiên tiến trên thế giới.
Bảng 3.15: Số lượng học viên đào tạo cao học và đào tạo nghiên cứu sinh
của HVKTQS giai đoạn 2010-2019
Giai đoạn Đào tạo nghiên cứu sinh Đào tạo cao học
2010-2015 263 4082
2015-2019 224 2504
(Nguồn: [HVKTQS,2015]; Báo cáo kết quả đào tạo của HVKTQS)
Việc sử dụng kết quả NCKH vào xây dựng các bài thí nghiệm, thực hành và viết
mới, bổ sung bài giảng cũng được chú ý, thực hiện khá nhiều với tỷ lệ lần lượt là 45,3%
và 36%. Trong giai đoạn 2010-2015, Học viện đã xây dựng mới trên 237 bài thí nghiệm
để đưa vào giảng dạy. Từ đó, học viên không còn phải học chay, mà đã có sự kết hợp
giữa lý thuyết và thí nghiệm thực hành để tiếp thu một cách chủ động, trực quan và rèn
128
kỹ năng thực hành.
Bên cạnh đó, các kết quả NCKH cũng được các giảng viên sử dụng vào việc thay
đổi chương trình giảng dạy (23,3%), viết mới bổ sung giáo trình, tài liệu tham khảo
(27,9%), sửa đổi, bổ sung giáo trình, tài liệu tham khảo (22,1%) và đổi mới phương
pháp giảng dạy (29,1%). Trong giai đoạn 2010-2017, HVKTQS đã biên soạn 245 giáo
trình, tài liệu tham khảo mới. Các giáo trình, tài liệu tham khảo được viết mới, sửa đổi
bổ sung là kết quả của cả một quá trình nghiên cứu, tích lũy của các giảng viên
HVKTQS. Là một trường đào tạo trong lĩnh vực kỹ thuật quân sự của Việt Nam nên hệ
thống giáo trình, tài liệu tham khảo sẽ có những đặc trưng riêng và cần được viết riêng
cho từng chương trình đào tạo. Do đó, việc biên soạn các giáo trình, tài liệu tham khảo
cho các học phần và các chương trình đào tạo là rất quan trọng và cần thiết đối với nhà
trường. Trong giai đoạn 2010-2017, HVKTQS cũng đã mở mới 07 ngành đào tạo và xây
dựng mới 12 chuyên ngành. Các ngành đào tạo mới, các chuyên ngành đào tạo mới là
kết quả của quá trình nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo và là sản phẩm của các đề tài, công
trình nghiên cứu. Ví dụ, chương trình đào tạo “Bồi dưỡng sau đại học về Quản lý
KH&CN” dành cho cán bộ Quản lý khoa học quân sự được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở
kết quả đề tài nghiên cứu cấp Học viện: “Nghiên cứu đổi mới chương trình, nội dung
bồi dưỡng Sau đại học về Quản lý KH&CN”. Hay chương trình đào tạo cao học Quản
lý KH&CN đã được sửa đổi và bổ sung trên cơ sở kết quả đề tài nghiên cứu cấp ngành:
“Nghiên cứu đổi mới chương trình và phương pháp đào tạo cao học chuyên ngành quản
lý KH&CN đáp ứng yêu cầu cải cách giáo dục của Nhà nước”. Kết quả nghiên cứu đã
chỉ ra những điểm chưa hợp lý, không còn phù hợp với điều kiện thực tiễn của chương
trình cũ và những yêu cầu mới của thực tế, của các đơn vị sử dụng nhân lực đối với
chương trình đào tạo để đề xuất sửa đổi chương trình đào tạo cho phù hợp. Trên cơ sở
đó, chương trình đào tạo mới đã bỏ một số học phần không còn phù hợp, sửa đổi tên
một số học phần, thay đổi thời lượng của một số học phần cho phù hợp và đặc biệt bổ
sung một số học phần mới đáp ứng yêu cầu mới của thực tiễn và phù hợp với trình độ
129
KH&CN tiên tiến của thế giới.
Biểu đồ 3.23. Số lượng ngành đào tạo, chuyên ngành đào tạo, giáo trình, tài liệu,
bài thí nghiệm mới được biên soạn cho đào tạo đại học trong giai đoạn 2010-2017
245
237
250
200
150
100
50
12
7
0
Số ngành đào tạo mới
Số chuyên ngành đào tạo mới
Số bài thí nghiệm được xây dựng mới
Số giáo trình, tài liệu được biên soạn mới
(Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án)
Việc sử dụng kết quả NCKH vào công tác đào tạo của các giảng viên HVKTQS
còn được thể hiện ở số lượng sản phẩm đào tạo từ các đề tài nghiên cứu của họ. Tính
đến nay, trung bình mỗi giảng viên HVKTQS có 0,5 nghiên cứu sinh, 2,74 học viên cao
học và 4,14 học viên đại học là sản phẩm đào tạo từ các công trình nghiên cứu của mình.
Biểu đồ 3.24: Sản phẩm đào tạo từ các công trình NCKH tính trung bình
4,5
4,14
4
3,5
3
2,74
2,5
2
1,5
1
0,5
0,5
0
Nghiên cứu sinh
Cao học
Đại học
cho một giảng viên HVKTQS
130
(Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án)
Như vậy, chúng ra thấy rằng, số lượng sản phẩm đào tạo từ các đề tài nghiên cứu
tính trung bình cho 1 giảng viên HVKTQS còn khá ít. Bên cạnh đó, việc có sản phẩm
đào tạo gắn với các công trình nghiên cứu tập trung ở một bộ phận nhỏ cán bộ giảng
viên, nghiên cứu viên.
Bảng 3.16: Tỷ lệ cán bộ, giảng viên chưa có sản phẩm đào tạo gắn với
các đề tài nghiên cứu
Nội dung Tỷ lệ (%)
Giảng viên chưa có nghiên cứu sinh là sản phẩm của đề tài nghiên cứu 75,6
Giảng viên chưa có học viên cao học là sản phẩm của đề tài nghiên cứu 36,0
Giảng viên chưa có sinh viên đại học là sản phẩm của đề tài nghiên cứu 44,2
(Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án)
Theo kết quả khảo sát, có tới 75,6% số giảng viên chưa có nghiên cứu sinh là sản
phẩm đào tạo gắn với các đề tài nghiên cứu của mình, 36% số giảng viên chưa có học
viên cao học là sản phẩm đào tạo gắn với các đề tài nghiên cứu, và 44,2% số giảng viên
chưa có học viên, sinh viên đại học là sản phẩm đào tạo gắn với các đề tài nghiên cứu
của mình. Điều đó cho thấy, việc gắn kết và huy động học viên, nghiên cứu sinh tham
gia trực tiếp vào quá trình thực hiện các nghiên cứu cùng với giảng viên là chưa cao.
3.3.3. Tác động của nghiên cứu khoa học đối với học viên
NCKH của học viên, sinh viên là hoạt động điển hình cho việc gắn kết NCKH và
đào tạo. HVKTQS là một trong các trường đại học có truyền thống về NCKH của học
viên, sinh viên (hoạt động này được triển khai từ năm 1979). Trong giai đoạn 2010 –
2019, các giảng viên của HVKTQS đã hướng dẫn 1886 đề tài NCKH của học viên (Biểu
đồ 3.25). Nhiều công trình nghiên cứu của học viên, sinh viên đã nhận được các giải thưởng
nghiên cứu khoa học của quân đội và của đất nước. Trong thời gian qua, học viên, và sinh
viên HVKTQS đã đạt được: 05 giải nhì, 04 giải ba, 02 giải khuyến khích tại giải thưởng
“Sáng tạo Kỹ thuật VIFOTEC”; 05 giải nhất, 10 giải nhì, 18 giải ba, 21 giải khuyến khích
tại giải thưởng “Tuổi trẻ sáng tạo trong quân đội”. Bên cạnh đó, học viên, sinh viên
HVKTQS còn tích cực tham gia vào hoạt động thi Olimpic sinh viên toàn quốc các môn
học và đạt được thành tích tốt với: 28 giải nhất, 16 giải nhì, 18 giải ba (đồng đội); 05 giải
đặc biệt, 64 giải nhất, 120 giải nhì, 138 giải ba, và 150 giải khuyến khích (cá nhân)
131
[HVKTQS, 2019]. Đặc biệt, các học viên của HVKTQS đã giành 02 chức vô địch “Cuộc
đua số 2017 và 2019 trong tổng số 03 lần giải được tổ chức. Cuộc đua số là cuộc thi lập
trình công nghệ thường niên do Tập đoàn FPT tổ chức dành cho các sinh viên yêu thích
công nghệ trên toàn quốc, được sự bảo trợ của Bộ KH&CN, sự đồng hành của 02 nhà tài
trợ: Tập đoàn HP và Lenovo.
235
250
216
214
204
187
200
175
165
165
151
150
100
50
0
2011
2012
2013
2014
2016
2017
2018
2019
2015 Năm
Biểu đồ 3.25: Số lượng đề tài NCKH của học viên HVKTQS giai đoạn 2010-2019
(Nguồn: [HVKTQS, 2015]; Báo cáo kết quả hoạt động KH&CN của HVKTQS)
Với sự nỗ lực của thầy và trò trong quá trình học tập, kết hợp với những ảnh
hưởng tích cực của NCKH, các học viên của HVKTQS đã đạt được kết quả học tập khá
tốt. Điều này một phần được thể hiện trong kết quả học tập của học viên khi tốt nghiệp.
Khá
Trung bình khá
Trung bình
Xuất sắc, Giỏi
2,2
12
33,7
52
Biểu đồ 3.26: Xếp loại học lực của học viên quân sự HVKTQS giai đoạn 2010-2018 (%)
(Nguồn: [HVKTQS, 2015; HVKTQS, 2019])
132
NCKH không chỉ giúp cho học viên nắm vững kiến thức hơn, đạt kết quả học tập
tốt hơn, luôn gắn kiến thức trên giảng đường với thực tiễn, mà còn giúp họ trưởng thành
hơn rất nhiều về khả năng tư duy, phát hiện vấn đề và chủ động giải quyết các vấn đề
mới đặt ra một cách tốt nhất và tự tin trình bày quan điểm của mình.
Hộp 3.4. Đánh giá của học viên về vai trò của NCKH
“Trong quá trình học tập đại học, tôi nhận thấy hoạt động NCKH có vai trò hết sức
quan trọng, giúp cho học viên, sinh viên phát triển và trưởng thành hơn về nhiều khía
cạnh, nhất là rèn luyện tính chủ động trong học tập, hình thành nên cách thức phát
hiện vấn đề, cách giải quyết vấn đề và trình bày sao cho logic và hợp lí nhất.” (Nam,
21 tuổi, Học viên)
(Nguồn: Kết quả phỏng vấn sâu của luận án)
Các nghiên cứu sinh và học viên cao học cũng đóng góp tích cực vào NCKH của
nhà trường như: viết báo đăng trên các tạp chí khoa học, tham gia hội nghị NCKH của
các nhà nghiên cứu trẻ và trực tiếp tham gia các đề tài NCKH các cấp. Việc tham gia
NCKH vừa là yêu cầu bắt buộc đối với nghiên cứu sinh, nhưng đồng thời cũng nâng cao
trình độ và kỹ năng của nghiên cứu sinh, theo các tiêu chuẩn chung của quốc tế (Bảng
3.17 và Hộp 3.5).
Bảng 3.17: Số lượng công bố khoa học của nghiên cứu sinh tại HVKTQS
trong giai đoạn 2015-2018
Năm Tổng số bài báo, Số công trình Số công trình
công trình khoa học công bố bằng thuộc danh mục
tiếng Anh ISI-SCOPUS
193 39 8 2015
272 57 12 2016
212 35 8 2017
198 31 16 2018
(Nguồn: Báo cáo kết quả đào tạo và rút kinh nghiệm công tác đào tạo nghiên
133
cứu sinh trong những năm gần đây của HVKTQS)
Hộp 3.5. Đánh giá của học viên cao học và nghiên cứu sinh về vai trò của NCKH
trong đào tạo sau đại học
“Nghiên cứu khoa học thực sự là cần thiết và quan trọng trong đào tạo đại học và
đặc biệt là đào tạo sau đại học. Nghiên cứu khoa học giúp cho người học làm chủ
được tri thức và khám phá ra những cái mới, sáng tạo ra những sản phẩm mới. Trên
cơ sở đó, họ sẽ có những công bố trên các ấn phẩm khoa học, đặc biệt là các ấn phẩm
khoa học uy tín trên thế giới, đảm bảo chất lượng đào tạo sau đại học phù hợp với
các tiêu chuẩn chung của thế giới” (Nữ, 33 tuổi, Nghiên cứu sinh)
“Nghiên cứu khoa học sẽ giúp học viên hình thành và rèn luyện được nhiều kỹ năng
nghiên cứu. Khi tham gia nghiên cứu khoa học với giáo viên hướng dẫn, tôi đã học
hỏi được nhiều kinh nghiệm và kỹ năng nghiên cứu từ thầy giáo của mình. Điều đó,
giúp ích rất nhiều cho tôi trong quá trình học tập, làm luận văn và cả trong công việc”
(Nam, 30 tuổi, Học viên cao học)
(Nguồn: Kết quả phỏng vấn của luận án)
Các đơn vị thực hiện tốt NCKH thì cũng có xếp loại học lực của học viên đào tạo
tốt. K1, K2, K8, V2 là những đơn vị có hoạt động nghiên cứu mạnh mà chúng ta đã phân
tích ở trên thì cũng có kết quả đào tạo nổi trội hơn các đơn vị khác.
Bảng 3.18: Xếp loại kỹ sư dân sự tốt nghiệp các ngành đào tạo của các đơn
vị trong HVKTQS giai đoạn 2014-2017 (%)
Ngành đào tạo Khoa đào tạo Xếp loại tốt nghiệp
Xuất Giỏi Khá TB khá Trung
sắc bình
0,0 7,0 74,4 16,3 2,3 K1 Công nghệ kỹ
thuật hóa học
0,76 13,1 56,6 14,4 15,2 K2 Công nghệ thông
tin
K7 0,0 1,2 43,2 18,2 37,5 Kỹ thuật cơ điện
tử
134
K4 0,0 3,1 42,7 26,3 27,9 Kỹ thuật cơ khí
K8 + K9 0 6,9 54,4 16,1 22,6 Kỹ thuật điện,
điện tử
V2 0,24 2,2 41,2 16,8 39,5 Kỹ thuật xây
dựng
(Nguồn: Kết quả thống kê của luận án)
Bên cạnh đó, chất lượng đào tạo của Học viện còn được phản ánh qua đánh giá
của các đơn vị sử dụng sản phẩm đào tạo. Trong công tác đào tạo và NCKH, Học viện
luôn quan tâm chú trọng đến nhu cầu, lợi ích của các bên liên quan và cố gắng để đáp
ứng được các nhu cầu một cách tốt nhất. Do đó, nhà trường đã luôn nhận được sự tín
nhiệm, đánh giá cao của các đơn vị sử dụng sản phẩm đào tạo, NCKH và các đối tác
trong và ngoài nước. Các mối quan hệ đào tạo, hợp tác NCKH của Nhà trường với các
đơn vị trong và ngoài quân đội, trong và ngoài nước ngày càng được củng cố và mở
rộng. Nhằm đánh giá sâu sát hơn chất lượng đào tạo, Học viện đã tổ chức lấy ý kiến
đánh giá của các đơn vị sử dụng học viên đã tốt nghiệp từ nhà trường. Qua phân tích các
ý kiến phản hồi, hầu hết các cơ quan, đơn vị quân đội đều có đánh giá chung là chương
trình và chất lượng đào tạo của Nhà trường cơ bản đáp ứng tốt các yêu cầu, nhiệm vụ
chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu của đơn vị quân đội. Đội ngũ kỹ sư quân sự của Học
viện ra trường về các cơ quan, đơn vị trong toàn quân có trình độ chuyên môn tốt, quản
lý, khai thác và làm chủ được vũ khí trang bị, khí tài mới tại đơn vị, hoàn thành tốt chức
trách, nhiệm vụ trên các cương vị công tác.
3.4. Nhận xét về chức năng nghiên cứu khoa học của Học viện Kỹ thuật Quân sự
3.4.1. Những kết quả đã đạt được
Như vậy, trong giai đoạn vừa qua, hoạt động KH&CN của HVKTQS đã đạt được
nhiều kết quả, thành tựu. Số lượng đề tài nghiên cứu các cấp đã thực hiện là khá lớn và
tăng nhiều so với giai đoạn trước đó, trong đó, có nhiều đề tài thuộc các dự án, chương
trình lớn của Nhà nước và Quân đội. Cụ thể, trong giai đoạn 2013-2019, nhà trường đã
thực hiện 982 đề tài nghiên cứu, trong đó có: 713 đề tài cấp cơ sở, 117 đề tài cấp Bộ, 138
đề tài cấp Nhà nước (trong đó có 52 đề tài Nafosted). Số lượng đề tài nghiên cứu thực
hiện hàng năm lớn và tăng lên trong những năm gần đây: năm 2013 thực hiện 109 đề tài,
135
2014 thực hiện 116 đề tài, 2015 thực hiện 124 đề tài, 2016 thực hiện 188 đề tài, 2017 thực
hiện 155 đề tài, năm 2018 thực hiện 177 đề tài, năm 2019 thực hiện 130 đề tài.
Số lượng bài báo khoa học được công bố ở các tạp chí chuyên ngành trong và
ngoài nước đều tăng khá nhiều, trong đó đặc biệt là sự gia tăng số bài công bố trên các
tạp chí ISI và SCOPUS. Trong giai đoạn 2010 – 2019, đội ngũ cán bộ HVKTQS đã công
bố 3715 bài báo khoa học trên các tạp chí trong nước và 1096 bài báo khoa học trên các
tạp chí quốc tế. Như vậy, tính trung bình, mỗi năm các nhà khoa học của HVKTQS công
bố 412 bài báo trong nước và 121 bài báo quốc tế. Số lượng bài báo SCOPUS và ISI
tăng lên theo hằng năm. Trong 5 năm gần đây (2015-2019), HVKTQS đã có 409 bài
báo đăng trên các tạp chí thuộc danh mục ISI và SCOPUS.
Số lượng bài viết tham gia các hội thảo trong nước và quốc tế của đội ngũ giảng
viên của HVKTQS cũng tương đối nhiều. Từ năm 2015-2017, Học viện đã có 431 bài
viết tham gia hội thảo trong nước và 253 bài viết tham gia hội thảo quốc tế.
Chất lượng đề tài, nhiệm vụ KH&CN các cấp được chú trọng, đã có nhiều sản
phẩm nộp đơn đăng ký và được cấp bằng độc quyền sáng chế và bằng độc quyền giải
pháp hữu ích. Từ năm 2007 đến 5/2018, HVKTQS đã có 21 đơn đăng ký sáng chế được
nộp, 5 bằng độc quyền sáng chế và 2 bằng độc quyền giải pháp hữu ích được cấp. Nhiều
sản phẩm, dịch vụ được các đơn vị trong toàn quân đón nhận và đưa vào sử dụng có
hiệu quả, phục vụ quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế xã hội.
NCKH của Học viện đã gắn kết được với việc xây dựng đội ngũ và đào tạo nguồn
nhân lực, xây dựng nguồn lực KH&CN cho đơn vị, Quân đội và Đất nước. NCKH đã
hỗ trợ tích cực cho đào tạo, nâng cao trình độ, kỹ năng cho giảng viên, phát triển chương
trình đào tạo, giáo trình, tài liệu tham khảo phục vụ đào tạo, phát triển các tri thức và kĩ
năng cho học viên đáp ứng các yêu cầu của người quân nhân trong bối cảnh hội nhập
quốc tế. Kết quả đào tạo của Nhà trường trong giai đoạn 2010-2018 khá tốt, với 33,7%
học viên quân sự xếp loại giỏi, xuất sắc; 52% xếp loại khá, 12% xếp loại trung bình khá
và 2,2% xếp loại trung bình. NCKH của học viên, sinh viên khá sôi nổi với số lượng đề
tài ngày càng tăng và chất lượng đề tài được khẳng định với nhiều giải thưởng NCKH.
Học viên sau khi tốt nghiệp về nhận nhiệm vụ tại các đơn vị được đánh giá tốt về năng
136
lực chuyên môn, khả năng đáp ứng các yêu cầu thực tiễn.
3.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả đáng ghi nhận đã đạt được, chức năng NCKH của
HVKTQS cũng vẫn còn những hạn chế, cần được quan tâm, điều chỉnh để chức năng
này ngày càng hoàn thiện. Cụ thể:
- Kết quả NCKH tuy đã tăng trưởng nhưng vẫn chưa tương xứng với năng lực
đội ngũ nhân lực KH&CN của Học viện. Vẫn còn những giảng viên, nghiên cứu viên
chưa thực sự quan tâm, tâm huyết với NCKH.
- Có sự chênh lệch trong NCKH giữa các đơn vị trong HVKTQS. Sự chênh lệch này
thể hiện ở kết quả NCKH của các đơn vị. Có những đơn vị rất mạnh trong NCKH nhưng
bên cạnh đó, vẫn còn có đơn vị chưa tâm huyết với nhiệm vụ này, kết quả nghiên cứu chưa
cao, trong đó có cả viện nghiên cứu. Vì vậy, nhà trường cần có sự quan tâm, tìm hiểu và có
chính sách tác động phù hợp để đẩy mạnh NCKH ở tất cả các đơn vị trong toàn trường.
- Cán bộ, giảng viên có trình độ TS trở lên chiếm tỷ lệ chưa cao (34,2%). Số
lượng GS, PGS cũng chưa nhiều. Tỷ lệ nhân lực KH&CN có trình độ đại học của Học
viện vẫn còn khá lớn (gần 22,4%).
- Hoạt động nghiên cứu tập trung ở đội ngũ trung niên. Độ tuổi hoạt động NCKH
mạnh nhất là từ 35-45 tuổi – đây là độ tuổi ổn định về công việc, cuộc sống và trình độ
chuyên môn nên có kết quả NCKH cao nhất. Đội ngũ trẻ chưa tích cực, chưa khẳng định
được vai trò trong NCKH. Họ thường đóng vai trò là người tham gia, thực hiện các công
việc do trưởng nhóm, chủ nhiệm đề tài phân công. Số lượng cán bộ nghiên cứu trẻ giữ
vai trò là chủ nhiệm đề tài các cấp vẫn ít, đặc biệt là các đề tài cấp ngành trở lên.
- Hệ thống thông tin KH&CN chưa đề cập đầy đủ các thông tin về hoạt động
KH&CN của nhà trường, của quân đội nên vẫn chưa tạo được điều kiện thuận lợi tối ưu
cho cán bộ trong quá trình thực hiện nghiên cứu, tìm kiếm thông tin, tài liệu nghiên cứu.
Cụ thể, hệ thống thông tin KH&CN của nhà trường chưa cung cấp được đầy đủ định
hướng nghiên cứu của Nhà nước, của Quân đội; chưa cung cấp được đầy đủ thông tin
về nhu cầu của các đơn vị trong quân đội đối với các sản phẩm KH&CN; chưa cung cấp
đầy đủ các nội dung bài báo khoa học của cán bộ, giảng viên trong trường,…
- Nguồn kinh phí đầu tư dài hạn cho các hướng nghiên cứu còn thiếu. Điều này
137
gây ra những khó khăn cho những nhà nghiên cứu khi triển khai các hướng nghiên cứu
lâu dài. Bên cạnh đó, chính sách hỗ trợ đối với các công bố khoa học còn thấp.
- Trang thiết bị nghiên cứu, thí nghiệm, thực hành ở một số lĩnh vực, chuyên
ngành còn lạc hậu, thiếu trang thiết bị hiện đại để phục vụ những nghiên cứu, phép đo
thí nghiệm tiên tiến, đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế.
- Các nhóm nghiên cứu còn những điểm chưa phù hợp để hoạt động hiệu quả và
thành công như: thiếu người lãnh đạo học thuật giỏi, tâm huyết, tích cực; trong trao đổi
chuyên môn vẫn còn sự phân biệt vị trí, vai trò, chức vụ giữa các thành viên trong nhóm…
- Nhiều thủ tục hành chính trong quá trình làm nghiên cứu, đặc biệt là khâu quyết
toán đề tài. Đây là khó khăn không chỉ những nhà nghiên cứu của HVKTQS gặp phải mà
là khó khăn chung của các nhà nghiên cứu ở Việt Nam hiện nay. Theo kết quả khảo sát
của đề tài, có tới 74,4% cán bộ nghiên cứu của Học viện đang gặp phải khó khăn này.
- Lượng sinh viên, học viên sau đại học gắn với các chương trình, đề tài nghiên
cứu còn ít.
- Nhiều sản phẩn nghiên cứu mới dừng ở sản phẩm mẫu, chưa hoàn thiện để đưa
vào sử dụng, phục vụ quân đội và chuyển giao vào thị trường. Tỷ lệ sản phẩm nghiên
cứu đưa vào ứng dụng, phục vụ quân đội và xã hội chưa cao.
3.4.3. Phân tích SWOT đối với chức năng nghiên cứu khoa học của Học viện Kỹ
thuật Quân sự
Qua phân tích, đánh giá thực trạng cho thấy, NCKH của HVKTQS có khá nhiều
điểm mạnh với những kết quả khá tốt. Bên cạnh đó, chức năng này vẫn còn những hạn chế,
những điểm yếu cần khắc phục. Trong quá trình hội nhập hiện nay, NCKH của HVKTQS
cũng đang có nhiều cơ hội để hợp tác với các đối tác trong và ngoài nước để phát triển,
nhưng cũng phải đối mặt với nhiều nguy cơ, thách thức. Dựa trên kết quả đã phân tích,
chúng ta có bảng phân tích SWOT đối với chức năng NCKH của HVKTQS như sau:
Bảng 3.19: Phân tích SWOT đối với chức năng NCKH của HVKTQS
S: Điểm mạnh W: Điểm yếu
- Kết quả nghiên cứu hàng năm khá tốt: - Hoạt động nghiên cứu đang tập trung
số lượng đề tài nghiên cứu, số bài báo nhiều vào nghiên cứu ứng dụng, nghiên
đăng trên tạp chí trong nước và quốc tế cứu cơ bản chưa phát triển và chưa được
138
khá nhiều; quan tâm nhiều;
- Nhiều sản phẩm nghiên cứu đã nộp đơn - Số lượng công trình nghiên cứu cùng
đăng ký sáng chế và có những sản phẩm phối hợp, hợp tác với các viện nghiên cứu,
đã được cấp bằng độc quyền sáng chế và các trường đại học nước ngoài chưa
bằng độc quyền giải pháp hữu ích; nhiều;
- Đã có nhiều sản phẩm được áp dụng hiệu - Hoạt động nghiên cứu có sự chênh lệch
quả vào thực tiễn hoạt động của các đơn giữa các đơn vị;
vị trong và ngoài quân đội, khẳng định - Tỷ lệ giảng viên có học hàm giáo sư, phó
thương hiệu; giáo sư chưa cao;
- Thực hiện các dịch vụ KH&CN mang lại - Trình độ ngoại ngữ (tiếng Anh) của
nguồn thu cho HVKTQS và các cá nhân giảng viên chưa cao, chưa đồng đều nên
thực hiện; còn khó khăn trong hợp tác và cùng
- Nguồn nhân lực KH&CN được đào tạo nghiên cứu với các đối tác nước ngoài;
bài bản, có trình độ. Tỷ lệ giảng viên có - Đội ngũ giảng viên trẻ tham gia nghiên
trình độ tiến sĩ khá cao so với mức trung cứu chưa mạnh;
bình của cả nước; - Hệ thống thông tin KH&CN còn thiếu,
- NCKH đã gắn với đào tạo và tác động chưa hỗ trợ tích cực cho hoạt động
tích cực đến hoạt động đào tạo. KH&CN.
- Lượng sinh viên, học viên sau đại học gắn
với các chương trình, đề tài nghiên cứu còn ít.
- Tỷ lệ sản phẩm nghiên cứu hoàn thiện,
đưa vào ứng dụng, chuyển giao cho các
đơn vị, tổ chức trong và ngoài quân đội
chưa cao.
O: Cơ hội T: Thách thức
- Nhà nước, Bộ Quốc phòng khuyến khích - Kinh phí nghiên cứu còn thấp;
các trường đại học, trong đó có HVKTQS - Nhiều thủ tục hành chính trong quá trình
tích cực tham gia vào hoạt động KH&CN; làm nghiên cứu;
- Nhà nước, Bộ Quốc phòng cho phép - Yêu cầu về trình độ chuyên môn, ngoại
tham gia hợp tác với nước ngoài, đặc biệt ngữ, kỹ năng hợp tác quốc tế cao đối với
139
trong hoạt động nghiên cứu để tiếp cận, của giảng viên, nghiên cứu viên;
làm chủ KH&CN hiện đại, tiên tiến; làm - Quy định trong lĩnh vực quân sự yêu cầu
chủ, sáng tạo ra các trang thiết bị, vũ khí rất khắt khe và chặt chẽ nên sẽ khó khăn
hiện đại, công nghệ cao; trong việc hợp tác với đối tác nước ngoài.
- Đã xây dựng mối quan hệ hợp tác với
khá nhiều trường đại học, viện nghiên cứu
trên thế giới;
- Hướng hợp tác nghiên cứu tập trung vào
các lĩnh vực tiên tiến, lĩnh vực mới.
(Nguồn: Kết quả phân tích của luận án)
3.5. Tiểu kết chương 3
Trong chương 3 đã phân tích thực trạng thực hiện chức năng NCKH của HVKTQS
trong thời gian qua. Kết quả cho thấy, HVKTQS đã thực hiện khá tốt chức năng NCKH,
đã có nhiều sản phẩm phục vụ cho quân đội và sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Đặc biệt, NCKH của HVKTQS đã có những tác động tích cực đối với hoạt động đào tạo,
góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, cung cấp nguồn nhân lực KH&CN chất lượng cao
cho quân đội và cho đất nước. Điều này được thể hiện cụ thể ở các khía cạnh: nâng cao
trình độ của đội ngũ giảng viên theo những chuẩn mực chung của thế giới; gia tăng số
lượng và chất lượng chương trình đào tạo, giáo trình, tài liệu tham khảo, học cụ; nâng cao
trình độ và kỹ năng cho học viên. Trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay, NCKH của
HVKTQS cũng có nhiều cơ hội để phát triển: Nhà nước và Bộ Quốc phòng khuyến khích
và sẵn sàng tạo cơ hội, điều kiện, đã xây dựng được mối quan hệ hợp tác với nhiều đối
tác trên thế giới... Bên cạnh đó, NCKH của HVKTQS hiện nay còn những hạn chế và
đang phải đối mặt với nhiều thách thức trong quá trình hội nhập: còn hạn chế về các nguồn
lực nghiên cứu, nhiều thủ tục hành chính trong quá trình nghiên cứu, yếu tố đặc thù quân
sự...
Kết quả khảo sát thực tế đã cung cấp những luận cứ thực tiễn, làm cơ sở cho việc
đề xuất những giải pháp phù hợp nhằm hoàn thiện chức năng NCKH của HVKTQS,
giúp nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực KH&CN quân sự trong bối cảnh hội
140
nhập quốc tế.
Chương 4
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHỨC NĂNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NHẰM
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC KHOA HỌC VÀ
CÔNG NGHỆ QUÂN SỰ CỦA CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUÂN ĐỘI
4.1. Yêu cầu khách quan và các yếu tố chi phối việc hoàn thiện chức năng nghiên
cứu khoa học của các trường đại học quân đội
Trong các chương trước, tác giả luận án đã trình bày cơ sở lý luận và thực trạng
thực hiện chức năng NCKH của các trường đại học quân đội (qua trường hợp cụ thể của
Học viện Kỹ thuật quân sự), đây là những cơ sở quan trọng để đề xuất các giải pháp
hoàn thiện chức năng NCKH của các trường đại học quân đội. Tuy nhiên, để đề xuất
được các giải pháp cụ thể, có tính khả thi cao, trong phần này tác giả luận án sẽ tiến
hành phân tích các yêu cầu khách quan và các yếu tố chi phối đến việc hoàn thiện chức
năng NCKH của các trường đại học quân đội, làm cơ sở cho việc đề xuất các nhóm giải
pháp trong các mục tiếp theo của Chương 4.
4.1.1. Yêu cầu khách quan của việc hoàn thiện chức năng nghiên cứu khoa học của
các trường đại học quân đội
4.1.1.1. Xuất phát từ yêu cầu của xã hội đối với các trường đại học quân đội
Xã hội ngày càng đặt ra những yêu cầu cao, khắt khe đối với hoạt động của các
trường đại học, trong đó có các trường đại học quân đội nhằm sử dụng hiệu quả các
nguồn lực của xã hội.
Thứ nhất là yêu cầu về chất lượng đào tạo, đặc biệt là vấn đề chuẩn đầu ra của
nguồn nhân lực do các trường đào tạo. Như ở trên đã phân tích, NCKH ảnh hưởng rất
tích cực đến chất lượng đào tạo của các trường đại học. NCKH sẽ giúp cho các trường
đại học quân đội đào tạo được nguồn nhân lực năng động, sáng tạo, biết khám phá và
tìm biện pháp thích ứng với tương lai luôn biến đổi, có kiến thức chuyên môn sát với
thực tiễn và có khả năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn để xã hội không phải đào tạo
lại, tránh lãng phí nguồn lực.
Thứ hai, các trường đại học là nơi tập trung đội ngũ nhân lực KH&CN có trình
độ cao chiếm tỷ lệ lớn so với các ngành nghề khác, đặc biệt là đội ngũ giảng viên. Đội
141
ngũ này vừa có khả năng giảng dạy, vừa có khả năng nghiên cứu. Nếu các giảng viên
chỉ tập trung chủ yếu cho hoạt động đào tạo mà chưa quan tâm, chú trọng đến công tác
NCKH và cung cấp các dịch vụ đáp ứng yêu cầu của xã hội thì năng lực của họ chưa
được phát huy hết và xã hội ít được thụ hưởng thành quả NCKH. Điều này không những
lãng phí chất xám mà còn lãng phí kinh phí của đất nước đầu tư cho hoạt động này. Vì
vậy, xã hội ngày nay yêu cầu các trường đại học cần phải thực hiện tốt cả chức năng
NCKH, phục vụ xã hội bên cạnh chức năng đào tạo.
4.1.1.2. Xuất phát từ yêu cầu hiện đại hóa quân đội
Hiện đại hóa quân đội là một trong những yêu cầu quan trọng đối với các quốc
gia. Trước sự phát triển mạnh mẽ của KH&CN trên thế giới, hình thái chiến tranh luôn
có thay đổi to lớn, vũ khí trang bị và dạng thức tác chiến truyền thống sẽ không thể thích
hợp với yêu cầu bảo vệ Tổ quốc và tác chiến trong tương lai. Bên cạnh đó, trong công
tác chính trị, tư tưởng, dân vận xuất hiện nhiều diễn biến mới với việc sử dụng các công
nghệ cao của các đối tượng thù địch, chống phá trong và ngoài nước. Như vậy, yêu cầu
hiện đại hóa quân đội đang được đặt ra trên tất cả các mặt: lý luận, tổ chức, biên chế,
nhân lực, vũ khí, trang bị, huấn luyện, ... Yêu cầu này đang đặt ra những nhiệm vụ mới
cho công tác khoa học quân sự, đòi hỏi có nhiều nghiên cứu mới về nghệ thuật quân sự,
về thiết kế, chế tạo vũ khí trang bị kỹ thuật hiện đại cho quân đội. Đó cũng là nhiệm vụ
KH&CN của các trường đại học quân đội.
Hai nhân tố cơ bản cần phải giải quyết để xây dựng quân đội hiện đại, tạo nên
sức mạnh quốc phòng của một quốc gia là con người và vũ khí trang bị, trong đó con
người là yếu tố quyết định, vũ khí trang bị là yếu tố rất quan trọng. Hiện đại hóa quân
đội không đơn thuần chỉ là hiện đại hóa vũ khí trang bị mà còn phải thông qua giáo dục,
huấn luyện để giải quyết mối quan hệ giữa con người với vũ khí trang bị. Một quân đội
dù vũ khí trang bị có hiện đại đến đâu chăng nữa nhưng nếu thiếu những con người vững
vàng về lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị, ý chí cách mạng, hiện đại về tri thức,...
thì cũng trở thành vô nghĩa [Phùng Kim Lân, 2014]. Do đó, vai trò của các trường đại
học quân đội trong quá trình hiện đại hóa quân đội là rất quan trọng. Các trường đại học
này cần phải thực hiện tốt chức năng NCKH để có thể đáp ứng được các yêu cầu trong
142
quá trình hiện đại hóa quân đội.
4.1.1.3. Xuất phát từ nhu cầu của các trường đại học quân đội
Việc hoàn thiện chức năng NCKH không chỉ xuất phát từ yêu cầu của xã hội mà
còn là nhu cầu của chính các trường đại học, trong đó có các trường đại học quân đội.
Điều này được thể hiện ở các điểm nổi bật sau:
Thứ nhất, ngày nay, tốc độ đổi mới tri thức và công nghệ đã tăng lên gấp nhiều
lần so với một vài thập kỷ trước đây, nhất là đổi mới công nghệ trong lĩnh vực quân sự
- vốn luôn đi trước công nghệ phục vụ dân sinh. Do vậy, nếu không tiến hành NCKH
thì các trường đại học quân đội không những không thể đi tiên phong mà còn luôn luôn
lạc hậu về mặt tri thức và công nghệ. Khi đó, các trường đại học này sẽ không thể đào
tạo ra những sinh viên và học viên tốt nghiệp với năng lực và trình độ tiên tiến, đáp ứng
yêu cầu ngày càng tăng của xã hội và quân đội.
Thứ hai, khối lượng tri thức tích lũy được ở tất cả các lĩnh vực chuyên môn đã
đã đạt đến mức khổng lồ. Vì vậy, triết lý giáo dục đã chuyển mạnh sang việc lấy người
học làm trung tâm và mục đích của đào tạo chủ yếu là nhằm giúp cho người học hình
thành năng lực tự lựa chọn và thâu nạp cho mình những tri thức và kỹ năng, kinh nghiệm
mà họ cần, tức là hướng tới việc trang bị và trau dồi phương pháp NCKH hơn là trang
bị kiến thức khoa học. Muốn làm được điều này thì các giảng viên của các trường đại
học quân đội phải làm tốt và có kinh nghiệm trong NCKH.
Thứ ba, NCKH sẽ khẳng định vị thế và uy tín của các trường đại học quân đội.
Kết quả NCKH tốt sẽ là yếu tố quan trọng, góp phần nâng cao vị thế và uy tín của chính
bản thân giảng viên, đồng thời khẳng định vị thế và uy tín của trường đại học với xã hội.
Một trong những tiêu chí để đánh giá, xếp hạng các trường đại học trên thế giới là hoạt
động NCKH. Một trường đại học có kết quả NCKH tốt sẽ được đánh giá và xếp hạng
cao. Kết quả hoạt động NCKH của trường đại học quân đội thể hiện thông qua các đề
tài, chương trình, sản phẩm nghiên cứu, các công bố khoa học trên các tạp chí uy tín và
ảnh hưởng của các công trình nghiên cứu đối với nền KH&thế giới và những sản phẩm
ứng dụng phục vụ quân đội và phát triển kinh tế-xã hội.
Thứ tư, NCKH sẽ góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của các trường đại học
quân đội. NCKH sẽ nâng cao trình độ chuyên môn và kỹ năng của đội ngũ giảng viên
và học viên, từ đó chất lượng đào tạo được nâng lên. Bên cạnh đó, NCKH trong các
143
trường đại học quân đội phát triển sẽ giúp có nhiều trang thiết bị hiện đại phục vụ NCKH
và đào tạo. Những trang thiết bị này vừa phục vụ hoạt động nghiên cứu nhưng đồng thời
cũng được huy động phục vụ cho hoạt động đào tạo, góp phần nâng cao chất lượng đào
tạo của các trường đại học quân đội.
Vai trò của NCKH là rất quan trọng đối với các trường đại học nhưng thực tế
hiện nay, NCKH của các trường đại học quân đội còn chưa tương xứng với tiềm lực đội
ngũ và cơ sở vật chất. Vì vậy, từ các yêu cầu khách quan trên, chúng ta thấy rằng, các
trường đại học quân đội muốn hoàn thành nhiệm vụ, muốn phát triển, không đánh mất
cơ hội trong bối cảnh KH&CN phát triển như vũ bão và khẳng định được vị thế của
mình thì phải hoàn thiện chức năng NCKH và phải gắn NCKH với đào tạo. Việc hoàn
thiện chức năng NCKH của các trường đại học quân đội sẽ giúp nâng cao chất lượng
đào tạo nguồn nhân lực KH&CN quân sự và hiện đại hóa vũ khí trang bị kỹ thuật quân
sự cũng như đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước.
4.1.2. Các yếu tố chi phối việc hoàn thiện chức năng nghiên cứu khoa học của các
trường đại học quân đội
Hầu hết các trường đại học quân đội đều nhận thức được vai trò của việc hoàn
thiện chức năng NCKH, tuy nhiên việc triển khai các giải pháp của các trường vẫn gặp
nhiều khó khăn và hiệu quả tác động đến NCKH còn chưa cao. Một trong những nguyên
nhân đó là các giải pháp đề ra không dựa trên việc đánh giá các yếu tố chi phối đến hoàn
thiện chức năng NCKH của nhà trường, dẫn đến tính khả thi của các giải pháp không cao.
Hiện nay, có ba yếu tố đang chi phối mạnh mẽ việc hoàn thiện chức năng NCKH
của các trường đại học quân đội đó là: (1) các chính sách của Đảng và Nhà nước; (2)
năng lực của các trường đại học quân đội; (3) môi trường hoạt động của các trường đại
học quân đội.
Các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước: Các trường đại học quân
đội có nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu là phục vụ quân đội, đảm bảo an ninh, quốc phòng của
đất nước. Do đó, các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước có ảnh hưởng rất lớn
đến các hoạt động của các trường đại học quân đội. Các trường muốn định hướng phát
triển NCKH đúng, nắm bắt được thời cơ thì phải bám sát chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước, đặc biệt là về lĩnh vực giáo dục đào tạo, KH&CN và quốc phòng, an ninh.
Năng lực của các trường đại học quân đội: Bên cạnh việc nắm bắt chủ trương,
144
chính sách của Đảng và Nhà nước để nhận được sự đầu tư và đặt hàng nghiên cứu của
Nhà nước và các đối tác, các trường đại học quân đội cần phải có sự chủ động, tích cực
chuẩn bị về nguồn lực con người, cơ sở vật chất, năng lực thực hiện nhiệm vụ để sẵn
sàng cho việc hoàn thiện chức năng NCKH. Vai trò của lãnh đạo, quản lý các trường
đại học quân đội trong việc này là rất lớn. Họ cần phải có sự am hiểu sâu sắc, tư duy
nhạy bén, tâm huyết với hoạt động KH&CN và phải xây dựng môi trường làm việc tốt
để các nhà khoa học phát huy được hết khả năng. Họ phải tạo cho các giảng viên, nhà
nghiên cứu trong các trường đại học sự chủ động trong cập nhật tri thức mới, tâm huyết,
không ngại khó, ngại khổ và hăng say NCKH.
Môi trường hoạt động: Môi trường hoạt động cũng là một yếu tố ảnh hưởng lớn,
nó sẽ chi phối nội dung và biện pháp để hoàn thiện chức năng NCKH của các trường
đại học quân đội. Việc hoàn thiện chức năng NCKH của các trường đại học quân đội
hiện nay được đặt trong điều kiện hội nhập quốc tế mạnh mẽ, sự phát triển của cách
mạng công nghiệp 4.0 và nền kinh tế thị trường.
Hội nhập quốc tế: Việt Nam đang hội nhập sâu rộng với thế giới trên tất cả các
lĩnh vực trong đó có giáo dục, KH&CN và an ninh - quốc phòng. Để tận dụng được thời
cơ do hội nhập quốc tế mang lại, các trường đại học nói chung, các trường đại học quân
đội nói riêng cần có sự điều chỉnh về chức năng, đặc biệt là chức năng NCKH để phù
hợp với thông lệ quốc tế - vốn luôn coi NCKH là một nhiệm vụ trọng tâm, cốt yếu,
không thể tách rời chức năng đào tạo. Các trường đại học quân đội cũng phải định hướng
hoạt động nghiên cứu cho phù hợp với xu hướng phát triển KH&CN tiên tiến trên thế
giới và chuẩn bị các nguồn lực đáp ứng yêu cầu hội nhập. Trong quá trình hội nhập quốc
tế hiện nay, các trường đại học quân đội có thuận lợi là Nhà nước, Bộ Quốc phòng cho
phép tham gia hợp tác với nước ngoài, đặc biệt trong hoạt động nghiên cứu để tiếp cận
với trình độ KH&CN tiên tiến trên thế giới. Bên cạnh đó, cũng có nhiều khó khăn mà
các trường đại học quân đội gặp phải khi tham gia vào quá trình hội nhập, cụ thể: những
quy định về hợp tác trong lĩnh vực quân sự rất khắt khe và chặt chẽ nên sẽ khó khăn
trong việc hợp tác với đối tác nước ngoài; yêu cầu cao về trình độ chuyên môn, ngoại
ngữ, kỹ năng hợp tác quốc tế đối với giảng viên, nghiên cứu viên và nhiều trường đại
học quân đội hiện nay chưa xây dựng được mối quan hệ, hợp tác với các trường đại học,
viện nghiên cứu trên thế giới.
145
Sự phát triển của cách mạng công nghiệp 4.0: Cách mạng công nghiệp 4.0 hiện
nay đang phát triển như vũ bão đòi hỏi các trường đại học phải thích ứng với sự thay đổi
đó nếu không sẽ lỡ cơ hội phát triển. Ảnh hưởng của cách mạng công nghiệp 4.0 tác
động đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó bao gồm tất cả các ngành
khoa học quân sự: nghệ thuật quân sự, KH&CN quân sự, khoa học xã hội nhân văn quân
sự… Do đó, các trường cần có sự đánh giá và cập nhật trong chiến lược phát triển của
mình, đặc biệt là về NCKH và đào tạo.
Kinh tế thị trường: Các trường đại học quân đội hiện nay không chỉ phục vụ quân
đội mà còn tham gia phát triển kinh tế - xã hội thông qua việc cung cấp các sản phẩm,
dịch vụ vào khu vực dân sự. Do đó, các trường đại học này cũng chịu sự tác động của
yếu tố kinh tế thị trường, chịu sự canh tranh của các trường đại học thuộc khối dân sự
và các tổ chức KH&CN khác trong hoạt động đào tạo và cung cấp các sản phẩm, dịch
vụ KH&CN. Các trường đại học quân đội phải xây dựng và thực hiện quyết liệt chiến
lược thương hiệu để phát huy danh tiếng, cạnh tranh, thu hút nhiều nguồn lực khác nhau
phục vụ cho quá trình phát triển của mình. Trong chiến lược cạnh tranh đó thì tiêu chí
và năng lực cạnh tranh quan trọng nhất chính là các sản phẩm đầu ra của trường đại học,
bao gồm nguồn nhân lực chất lượng cao, các sản phẩm KH&CN tiên phong và các dịch
vụ tri thức đáp ứng yêu cầu xã hội. Để đạt được ba loại sản phẩm đầu ra chất lượng cao
này thì giải pháp bền vững duy nhất chính là các trường đại học quân đội phải tích cực
NCKH và kết hợp nhuần nhuyễn giữa đào tạo và NCKH.
Môi trường Hội nhập quốc tế, Cách mạng công nghiệp 4.0, Kinh tế thị trường
Hệ thống Chính sách
Hoàn thiện chức năng NCKH
Năng lực của trường đại học
Hình 4.1: Sơ đồ các yếu tố chi phối việc hoàn thiện chức năng NCKH của các
trường đại học quân đội
146
(Nguồn: Kết quả nghiên cứu của luận án)
Đó là ba yếu tố chính chi phối việc hoàn thiện chức năng NCKH của các trường
đại học quân đội. Dưới sự tác động của các yếu tố trên, thêm một lần nữa khẳng định,
việc hoàn thiện chức năng NCKH của các trường đại học là một yêu cầu bắt buộc trong
xu thế hội nhập hiện nay.
Vậy các trường đại học quân đội cần làm gì để hoàn thiện chức năng NCKH? Trên
cơ sở nghiên cứu lý luận, thực trạng NCKH, xu thế khách quan và các yếu tố chi phối đến
việc hoàn thiện chức năng NCKH của các nhà trường quân đội, tác giả luận án đề xuất 03
giải pháp chính để hoàn thiện chức năng NCKH của các trường đại học quân đội như sau:
- Giải pháp về đa dạng hóa hoạt động KH&CN.
- Giải pháp về phát triển nguồn lực phục vụ NCKH.
- Giải pháp về tổ chức.
Các giải pháp này có mối quan hệ hữu cơ với nhau, việc thực hiện đồng bộ cả ba
giải pháp sẽ giúp các trường đại học quân đội hoàn thiện chức năng NCKH một cách
nhanh chóng, hiệu quả. Nội dung các giải pháp này sẽ được trình bày chi tiết trong các
mục 4.2, 4.3, 4.4 của chương.
4.2. Đa dạng hóa hoạt động khoa học và công nghệ
Việc đa dạng hóa các hoạt động KH&CN trong các trường đại học quân đội sẽ tạo
ra nhiều hoạt động nghiên cứu cho đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên, cũng như tạo ra
nhiều sản phẩm NCKH, vừa để khẳng định uy tín, thương hiệu của nhà trường, vừa có
thể đưa vào sử dụng trong thực tế, phục vụ quân sự, an ninh, quốc phòng và kinh tế, xã
hội của đất nước. Đồng thời khai thác được thế mạnh của từng cán bộ, giảng viên, từng
nhóm nghiên cứu, khac thác được nhiều nhu cầu của thị trường, nhu cầu của các đơn vị
quân đội. Đa dạng hóa hoạt động KH&CN có thể triển khai theo các nội dung cụ thể sau:
- Đa dạng hóa các loại hình nghiên cứu: nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng
và triển khai thực nghiệm;
- Đa dạng hóa lĩnh vực nghiên cứu: lĩnh vực dân sự, lĩnh vực lưỡng dụng, lĩnh
vực đặc thù quân sự;
- Đa dạng hóa sản phẩm hoạt động KH&CN: công bố khoa học, thiết kế chế tạo
sản phẩm mới, phát triển, cải tiến sản phẩm theo đặt hàng, dịch vụ tư vấn KH&CN, dịch
147
vụ chuyển giao công nghệ, ...
Về loại hình nghiên cứu, cần phải thực hiện cả 3 loại hình: nghiên cứu cơ bản,
nghiên cứu ứng dụng và triển khai thực nghiệm. Việc khuyến khích triển khai cả 3 loại
hình nghiên cứu sẽ giúp khai thác thế mạnh của giảng viên, nghiên cứu viên, tận dụng
được kinh phí nghiên cứu từ các nguồn khác nhau: các quỹ hỗ trợ nghiên cứu cơ bản (ví
dụ Quỹ hỗ trợ nghiên cứu cơ bản quốc gia Nafosted, Quỹ FIRST của Việt Nam, Quỹ
Newton của Vương quốc Anh, …), kinh phí từ các chương trình nghiên cứu khoa học,
các dự án KH&CN của Nhà nước, Bộ Quốc phòng (ví dụ các chương trình KC, KX,
chương trình hợp tác song phương, đa phương, chương trình tìm kiếm công nghệ quốc
gia,…), kinh phí từ các quỹ của doanh nghiệp (quỹ hỗ trợ nghiên cứu của tập đoàn
Vingroup, tập đoàn Phenikaa…). Đồng thời, việc đa dạng hóa loại hình nghiên cứu cũng
sẽ giúp khẳng định được uy tín học thuật quốc tế (thông qua công bố khoa học quốc tế),
khẳng định được thương hiệu của nhà trường thông qua các sản phẩm NCKH được ứng
dụng trong thực tế. Trong 3 loại hình nghiên cứu nói trên, sản phẩm của nghiên cứu cơ
bản chủ yếu là công bố khoa học (trong nước và quốc tế), chưa có thể thương mại hoặc
ứng dụng được, nhưng lại có tác động lớn đối với uy tín học thuật, phục vụ đào tạo và
xếp hạng của nhà trường. Do đó, ngoài việc khai thác kinh phí từ các quỹ tài trợ thì các
trường đại học quân đội cần có chính sách hỗ trợ các nghiên cứu cơ bản (hỗ trợ kinh phí
đăng báo hoặc tài trợ cho các đề tài nghiên cứu cơ bản…).
Về lĩnh vực nghiên cứu, ngoài nghiên cứu cho các ứng dụng đặc thù quân sự, các
trường đại học quân đội cũng giống như các trường đại học dân sự khác với lực lượng
giảng viên, nghiên cứu viên có trình độ chuyên môn và năng lực nghiên cứu giỏi của
mình cần tham gia vào lĩnh vực nghiên cứu lưỡng dụng như an toàn thông tin, cứu hộ
cứu nạn,… nghiên cứu phục vụ dân sinh: về y học, phòng chống thiên tai, các sản phẩm
KH&CN phục vụ phát triển kinh tế…, Ví dụ Học viện KTQS đã tham gia thiết kế chế
tạo thiết bị chế áp flycam theo đặt hàng của thành phố Hồ Chí Minh, Học viện Quân y
nghiên cứu, sản xuất tỏi đen và các loại thực phẩm chức năng… Việc tham gia vào các
lĩnh vực nghiên cứu này sẽ giúp khai thác được thế mạnh của đội ngũ giảng viên, nghiên
cứu viên của các nhà trường quân đội, đồng thời giúp khẳng định uy tín, thương hiệu,
cũng như đóng góp của nhà trường và quân đội đối với xã hội.
Về đa dạng hóa sản phẩm hoạt động KH&CN, các trường đại học quân đội muốn
148
phát triển NCKH và tham gia sâu rộng vào lĩnh vực KH&CN cần đa dạng hóa các sản
phẩm KH&CN, từ việc tăng số lượng công bố khoa học trong nước và quốc tế, đến thiết
kế, chế tạo các sản phẩm khoa học công nghệ, cải tiến, cải hoán vũ khí trang bị kỹ thuật,
cũng như cung cấp các dịch vụ tư vấn KH&CN, chuyển giao công nghệ. Sản phẩm
NCKH càng đa dạng, càng phát huy được thế mạnh của giảng viên, nghiên cứu viên, cơ
sở vật chất và thu hút được đông đảo lực lượng giảng viên, nghiên cứu viên tham gia.
Để đa dạng hóa hoạt động KH&CN, các trường đại học quân đội tùy vào đặc
điểm cụ thể của trường mình, cần xây dựng kế hoạch phát triển KH&CN gắn với định
hướng ưu tiên cho các lĩnh vực nghiên cứu và gắn với đặc điểm đội ngũ. Lãnh đạo nhà
trường phải nắm vững chủ trương, định hướng phát triển KH&CN, chiến lược phát triển
của Đảng, Nhà nước, Quân đội để xây dựng chiến lược phát triển KH&CN cho nhà
trường. Các khoa, viện, trung tâm và giảng viên, nghiên cứu viên, song song với việc
nắm vững chiến lược phát triển KH&CN của nhà trường, cũng phải bám sát các chương
trình NCKH của Nhà nước, quân đội, nhu cầu của các quân, binh chủng, cơ quan quản
lý chuyên ngành của Quân đội và các cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương để xây dựng
kế hoạch phát triển KH&CN của cấp mình, đồng thời đề xuất đề tài, dự án NCKH, cũng
như các sản phẩm dịch vụ KH&CN. Nhà trường, cơ quan quản lý KH&CN cấp trường
cần xây dựng, phát triển các mối quan hệ với đối tác trong và ngoài quân đội, đồng thời
tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục hành chính trong việc đăng ký, xét duyệt, thanh quyết
toán các đề tài, dự án, hợp đồng KH&CN… cho giảng viên, nghiên cứu viên.
Nói tóm lại, đa dạng hóa hoạt động KH&CN sẽ giúp các trường đại học quân đội
hoàn thiện chức năng NCKH của mình, đào tạo được đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên,
phát huy được thế mạnh của họ và cơ sở vật chất của nhà trường, đồng thời cũng giúp nâng
cao chất lượng đào tạo. Để việc đa dạng hóa hoạt động KH&CN đóng góp nhiều hơn cho
việc nâng cao chất lượng đào tạo, các trường đại học quân đội cũng cần chú ý tới việc thu
hút các học viên đại học năm cuối, học viên cao học, nghiên cứu sinh tham gia các hoạt
động KH&CN như một lực lượng NCKH chính. Thông qua việc tham gia này, học viên sẽ
nâng cao được kỹ năng NCKH, nâng cao được tay nghề và năng lực chuyên môn.
Tuy nhiên, việc đa dạng hóa hoạt động KH&CN cũng đòi hỏi các trường đại học
quân đội phải có sự đầu tư phát triển các nguồn lực và sự điều chỉnh các tổ chức nhằm
149
phát huy tốt nhất lợi thế của mình.
4.3. Phát triển các nguồn lực phục vụ nghiên cứu khoa học
Việc hoàn thiện chức năng NCKH của các trường đại học quân đội không thể
thực hiện được nếu thiếu các nguồn lực phục vụ NCKH. Các nguồn lực đó gồm: nhân
lực, tài chính, cơ sở hạ tầng và thông tin KH&CN. Trong mục này tác giả luận án sẽ
trình bày những nội dung của giải pháp phát triển đối với từng nguồn lực: nhân lực, tài
chính, cơ sở hạ tầng và thông tin KH&CN.
4.3.1. Giải pháp phát triển nhân lực
Nhân lực có thể xem là yếu tố quan trọng nhất đối với tất cả các tổ chức, trong
đó có trường đại học quân đội. Chất lượng nguồn nhân lực quyết định chất lượng và
hiệu quả hoạt động đào tạo và NCKH của các trường đại học quân đội. Các trường đại
học quân đội muốn hoàn thiện chức năng NCKH phải tập trung nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực giảng dạy, NCKH của mình, tức là phải có được một đội ngũ giảng viên,
nghiên cứu viên có trình độ chuyên môn giỏi, có kinh nghiệm, kỹ năng nghiên cứu tốt
và có thời gian dành cho việc nghiên cứu. Các quốc gia trên thế giới đặc biệt là các quốc
gia phát triển, các trường đại học thường có đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên rất
mạnh, đa số có trình độ tiến sĩ trở lên, có ngoại ngữ giỏi, có kinh nghiệm, năng lực tổ
chức NCKH tốt và họ thường dành rất nhiều thời gian cho hoạt động NCKH.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu thực tế cho thấy, trình độ đội ngũ giảng viên, nghiên
cứu viên trong các trường đại học quân đội hiện nay vẫn còn hạn chế, tỷ lệ giảng viên
có trình độ tiến sĩ chưa cao, phần lớn chỉ đáp ứng được yêu cầu về mặt kỹ năng sư phạm
và phục vụ hoạt động giảng dạy là chính. Kỹ năng tổ chức và triển khai NCKH của đội
ngũ này còn hạn chế. Để khắc phục được tồn tại này, các trường đại học quân đội cần
có chính sách về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên có trình độ cao,
đáp ứng yêu cầu của việc hoàn thiện chức năng NCKH và yêu cầu phát triển của nhà
trường. Bên cạnh đó, cũng cần đầu tư cho công tác thu hút nguồn nhân lực chất lượng
cao vào làm việc trong các trường đại học quân đội. Phần dưới đây sẽ trình bày các giải
pháp về chính sách đào tạo, bồi dưỡng nhân lực và chính sách thu hút nguồn nhân lực
chất lượng cao vào làm việc tại các trường quân đội.
4.3.1.1. Chính sách đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ giảng viên, nghiên
cứu viên.
150
Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên
gồm 3 nội dung: đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ học vấn, chức danh; đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao các kỹ năng NCKH, bao gồm kỹ năng tổ chức và triển khai hoạt động
NCKH, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng viết công bố khoa học; đào tạo tài năng
KH&CN, … Về đào tạo, nâng cao trình độ học vấn cho giảng viên, nghiên cứu viên,
các trường đại học quân đội cần đặt mục tiêu có ít nhất 50% giảng viên phải đạt trình độ
tiến sĩ trở lên. Để đạt được điều này, cần làm tốt công tác xây dựng và tổ chức thực hiện
kế hoạch đào tạo. Kế hoạch đào tạo giảng viên phải được xây dựng đến từng cá nhân,
từng năm học. Việc đào tạo trình độ tiến sĩ có thể thực hiện ở trong nước và ngoài nước,
trong đó cần ưu tiên cho việc gửi đào tạo ở nước ngoài. Nhà trường phải tạo điều kiện
thuận lợi cho giảng viên khai thác triệt để các nguồn học bổng trong và ngoài nước (ví dụ
các chương trình học bổng đào tạo ở nước ngoài bằng ngân sách Nhà nước như 911, học
bổng diện hiệp định của Việt Nam với các nước, học bổng của tập đoàn Vingroup, học
bổng MEXT của Nhật Bản, các chương trình học bổng dành cho các nước thế giới thứ ba,
học bổng của giáo sư các trường nước ngoài…). Mỗi cá nhân giảng viên, nghiên cứu viên
cũng phải coi việc đào tạo, bồi dưỡng đạt trình độ TS là một nhiệm vụ bắt buộc và phải
chủ động chuẩn bị những điều kiện cần thiết về ngoại ngữ, bài báo khoa học, lựa chọn
định hướng nghiên cứu theo lộ trình đã lập ra trong kế hoạch đào tạo được phê duyệt.
Ngoài đào tạo về trình độ học vấn, để phát triển NCKH, các trường quân đội phải
chú ý đến việc đào tạo các kỹ năng NCKH cho đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên. Do
đặc thù của mình, nên từ trước đến nay trong hầu hết các trường đại học quân đội, các
giảng viên, dù có trình độ tiến sĩ, cũng chỉ làm nhiệm vụ giảng dạy là chính, chưa quan
tâm nhiều đến NCKH. Đào tạo và bồi dưỡng kỹ năng NCKH cho giảng viên, nghiên
cứu viên cần tập trung vào kỹ năng tổ chức và triển khai hoạt động NCKH, kỹ năng làm
việc nhóm, kỹ năng công bố khoa học, ngoại ngữ chuyên ngành, …. Trong đó, kỹ năng
tổ chức và triển khai hoạt động NCKH rất quan trọng, nó là những kỹ năng cơ bản mà
bất cứ nhà nghiên cứu nào cũng phải được trang bị như kỹ năng xây dựng nhiệm vụ
nghiên cứu, kế hoạch tổ chức nghiên cứu, xây dựng mô hình nghiên cứu, thiết lập thí
nghiệm, xử lý kết quả thí nghiệm, … Đồng thời, việc bồi dưỡng kỹ năng làm việc nhóm
cũng rất quan trọng bởi vì muốn hoạt động NCKH phát triển, các giảng viên, nghiên
151
cứu viên phải tham gia vào các nhóm nghiên cứu, nhóm nghiên cứu chỉ có thể phát huy
được hiệu quả khi các cá nhân tham gia nhóm có kỹ năng làm việc nhóm, cụ thể là biết
phân công nhiệm vụ, phối hợp với thành viên khác, khả năng thuyết trình và dẫn dắt
nhóm,… Bên cạnh đó, cần bồi dưỡng cho đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên về ngoại
ngữ chuyên ngành và kỹ năng công bố khoa học, đó là kỹ năng viết các bài báo khoa
học để đăng trên các tạp chí chuyên ngành trong nước và tạp chí quốc tế, đặc biệt là các
tạp chí thuộc danh mục ISI, Scopus… Việc đào tạo, bồi dưỡng các kỹ năng NCKH cho
giảng viên, nghiên cứu viên có thể thực hiện theo 4 cách:
Một là, mời các giáo sư, chuyên gia NCKH có uy tín của các trường đại học tiên
tiến trên thế giới và Việt Nam đến giảng dạy, tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng nghiên cứu
tại các trường đại học quân sự.
Hai là, gửi các giảng viên của các trường đại học quân đội sang các trường đại
học tiên tiến của thế giới để học tập, bồi dưỡng, thực tập nghiên cứu, tiếp thu kiến thức
và kinh nghiệm giảng dạy, nghiên cứu.
Ba là, các giảng viên tham gia vào các nghiên cứu hợp tác cùng các trường đại
học và các tổ chức KH&CN trên thế giới.
Bốn là, đào tạo kỹ năng NCKH thông qua các nhóm nghiên cứu mạnh của nhà trường.
Trong xu thế hội nhập quốc tế, việc giao lưu, hợp tác trong NCKH và giảng dạy
giữa các trường đại học quân đội với các trường đại học và các viện nghiên cứu ở trong
và ngoài nước là rất quan trọng để bồi dưỡng giảng viên. Nó sẽ giúp cho các giảng viên
học tập lẫn nhau và trao đổi tri thức, kết quả nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu. Từ
đó, các giảng viên của các trường đại học quân đội sẽ tiếp cận được với trình độ và
phương pháp nghiên cứu tiên tiến trên thế giới. Để tăng cường hoạt động hợp tác với
các đối tác nước ngoài, các trường đại học quân đội hàng năm cần xây dựng và tổ chức
thực hiện các kế hoạch đoàn ra và đoàn vào để đội ngũ cán bộ của nhà trường được giao
lưu và hợp tác với các nhà nghiên cứu, giảng viên ở các quốc gia khác đặc biệt là các
nước phát triển. Đồng thời học hỏi các mô hình và cách thức triển khai NCKH tiên tiến
trên thế giới để vận dụng một cách hợp lý vào môi trường các trường đại học quân đội.
Bên cạnh hoạt động hợp tác với các đối tác nước ngoài, các trường đại học quân
đội cũng tăng cường hợp tác với trường đại học và viện nghiên cứu trong nước để tăng
152
cường trao đổi học thuật, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, hợp tác sử dụng các trang thiết bị
nghiên cứu, cùng phối hợp thực hiện các công trình nghiên cứu. Thông qua các hoạt
động hợp tác trên, cán bộ nghiên cứu, giảng viên trong các trường đại học quân đội sẽ
học hỏi được nhiều kinh nghiệm thực tế, được cọ sát chuyên môn và trình độ sẽ nâng
lên rất nhanh, đáp ứng được yêu cầu về hội nhập KH&CN.
Kết quả khảo sát đã cho thấy, các giảng viên, nghiên cứu viên của HVKTQS
cũng rất mong muốn được tạo các điều kiện đi đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn
ở trong và ngoài nước để có thể thực hiện tốt hơn nhiệm vụ NCKH và giảng dạy. Cụ
thể, họ đang mong muốn được: đi khảo sát, bồi dưỡng ở nước ngoài (59,3%), trao đổi
nghiên cứu ở trong và ngoài nước (58,1%), thực tập ngắn hạn ở trong và ngoài nước
(45,3%) và hỗ trợ tham gia các hội thảo trong nước và quốc tế (62,8%) .
Thông qua việc đào tạo, bồi dưỡng nói trên, các trường đại học quân đội cần có
cơ chế phát hiện các tài năng NCKH để bồi dưỡng thành các cán bộ chủ trì học thuật,
trưởng nhóm nghiên cứu, chuyên gia đầu ngành. Đây là những cá nhân có sứ mệnh dẫn
dắt hoạt động giảng dạy và NCKH của nhà trường. Kinh nghiệm của các trường đại học
trên thế giới cho thấy, vai trò của đội ngũ các nhà khoa học chủ trì học thuật, chủ trì các
nhóm nghiên cứu, chuyên gia đầu ngành rất quan trọng, chính họ là những người chủ trì
xây dựng các PTN trọng điểm, trung tâm nghiên cứu xuất sắc, tư vấn chính sách
KH&CN, tham mưu các giải pháp KH&CN cho các vấn đề cấp thiết của đất nước, thu
hút tài trợ của các quỹ nghiên cứu, thúc đẩy số lượng và chất lượng công bố khoa học
(có nhiều công bố trên các tạp chí thuộc danh mục Q1, Q2,…). Đối với các tài năng này,
trường đại học quân đội cần có chính sách ưu tiên, hỗ trợ họ nguồn lực KH&CN, tạo
điều kiện để họ phát huy tốt nhất tài năng của mình. Làm được điều này, các trường đại
học quân đội có thể mong đợi những phát triển đột phá về NCKH.
4.3.1.2. Chính sách thu hút và sử dụng nhân lực khoa học và công nghệ
Chính sách thu hút và sử dụng nhân lực KH&CN rất quan trọng để đảm bảo được
nguồn nhân lực chất lượng cao, hoạt động hiệu quả trong các trường đại học quân đội.
Chính sách thu hút và sử dụng nhân lực KH&CN có mối quan hệ tương sinh, gắn kết
chặt chẽ với nhau. Khi thu hút nhân lực chất lượng cao về thì phải có chính sách sử dụng
hợp lý để họ phát huy được năng lực của mình, cống hiến cho tổ chức. Đồng thời, có
153
chính sách sử dụng nhân lực tốt sẽ là điều kiện cần thiết để tổ chức thu hút được đội ngũ
các nhà khoa học trình độ cao về công tác.
Để thu hút được các cá nhân có trình độ, năng lực vào làm việc và đồng thời phát
huy được năng lực của họ trong quá trình làm việc tại các trường đại học quân đội thì
cần có những chính sách hợp lý. Một trong những chính sách quan trọng đó là tạo điều
kiện và môi trường làm việc thuận lợi đối với đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên trong
các trường đại học quân đội. Tạo môi trường làm việc thuận lợi cho từng cá nhân và tập
thể phát huy năng lực sáng tạo của mình đặc biệt là trong NCKH là điều vô cùng quan
trọng. Môi trường thuận lợi sẽ động viên, khuyến khích các nhà khoa học say mê nghiên
cứu. Đó cũng sẽ là điều kiện tiên quyết để thu hút được nguồn nhân lực KH&CN chất
lượng cao vào làm việc tại các trường đại học quân đội. Môi trường làm việc tốt của các
giảng viên, nghiên cứu viên cần những gì?
Thứ nhất, môi trường đó phải tạo cho giảng viên được tự do trong công việc
chuyên môn [Håkan Carlsson, 2014, 18]. Họ được tự do lựa chọn những người có cùng
chuyên môn, cùng niềm đam mê, có thể phối kết hợp tốt với nhau trong công việc để
tạo thành nhóm nghiên cứu mạnh. Việc hình thành các nhóm nghiên cứu ảnh hưởng lớn
đến sự sáng tạo và chất lượng nghiên cứu. Mối liên kết mạnh mẽ giữa các thành viên
trong nhóm nghiên cứu và bầu không khí làm việc mang tinh thần tìm tòi, sáng tạo và
hăng say ảnh hưởng lớn đến chất lượng nghiên cứu. Sự tin tưởng giữa các thành viên
trong nhóm sẽ khuyến khích sự sáng tạo và sẵn sàng chấp nhận rủi ro để sáng tạo [Håkan
Carlsson, 2014, 19].
Thứ hai, môi trường nghiên cứu tốt luôn có sự hỗ trợ, tạo điều kiện để các nhà
nghiên cứu trẻ thể hiện và phát huy được năng lực của mình. Các môi trường nghiên
cứu thành công luôn có sự quan tâm tới các nhà nghiên cứu trẻ. Các nhà nghiên cứu trẻ
cần được quan tâm, định hướng, giúp đỡ và đãi ngộ xứng đáng trong hoạt động NCKH.
Các nhà lãnh đạo nghiên cứu, các trưởng nhóm nghiên cứu cần chủ động hỗ trợ các nhà
nghiên cứu trẻ tuổi. Nhiều nhà nghiên cứu thành công đã khẳng định, có một nhà nghiên
cứu cao cấp đóng vai trò là người cố vấn và mở đường cho họ là rất quan trọng. Những
người cố vấn này đóng vai trò như là những hình mẫu, mang lại hứng khởi chia sẻ kiến
thức và sự nhiệt huyết của họ, cho họ danh tiếng tốt và giúp họ hòa nhập vào những
mạng lưới nghiên cứu quan trọng. Các nhà nghiên cứu trẻ cần sự giúp đỡ để tạo ra các
154
mạng lưới trong các chủ đề nghiên cứu cốt lõi của họ, cũng như trong môi trường đại
học. Các trường đại học quân đội cần phối hợp với các trường đại học trong và ngoài
nước để giúp đỡ các nhà nghiên cứu trẻ của các trường đại học xây dựng mạng lưới cho
các mục đích nghiên cứu cụ thể ở cấp quốc gia hoặc quốc tế, tạo ra các mạng lưới liên
ngành, đa ngành, … Việc cho phép các nhà nghiên cứu trẻ tham gia các khóa đào tạo
liên kết và sử dụng cơ sở hạ tầng chung giữa các trường đại học sẽ làm tăng cường các
mối liên hệ và hỗ trợ hình thành các nghiên cứu tiềm năng.
Bên cạnh đó, các trường đại học quân đội cần khuyến khích sự năng động của
các nhà nghiên cứu trẻ. Các trường đại học quân đội cũng cần phải luôn ghi nhận tích
cực các kết quả nghiên cứu tốt, xuất sắc của các nhà nghiên cứu trẻ. Nhà trường cũng
nên sẵn sàng cung cấp các cơ hội nghề nghiệp, cơ hội thăng tiến cho các nhà nghiên cứu
trẻ tài năng để khuyến khích họ theo đuổi đam mê, cải thiện cơ hội thành công của các
nhà nghiên cứu trẻ và đảm bảo sự công bằng trong nghiên cứu. Các trường đại học quân
đội cũng nên khuyến khích các trường hợp thực tập sinh sau tiến sĩ. Các nghiên cứu sau
tiến sĩ cung cấp cho các nhà nghiên cứu trẻ một quan điểm mới và tạo động lực thúc đẩy
sau khi tốt nghiệp.
Thứ ba, môi trường nghiên cứu tốt phải cung cấp cơ sở hạ tầng tốt cho hoạt động
nghiên cứu bao gồm các nguồn lực kỹ thuật và là nơi tổ chức các cuộc hội thảo có sự
liên kết giữa các nhà nghiên cứu từ các khu vực khác nhau [Håkan Carlsson, 2014, 31].
Môi trường đó được đầu tư các trang thiết bị chuyên môn, đáp ứng nhu cầu giảng dạy,
nghiên cứu của giảng viên, nghiên cứu viên.
Thứ tư, trong một môi trường nghiên cứu tốt, các giảng viên và nghiên cứu viên
ít bị ràng buộc bởi các thủ tục hành chính. Các thủ tục hành chính liên quan đến nghiên
cứu rất minh bạch, đơn giản và tinh gọn. Gánh nặng thủ tục hành chính sẽ được bộ phận
hành chính chuyên nghiệp hỗ trợ, giải quyết [Håkan Carlsson, 2014, 31].
Thứ năm, nghiên cứu và giảng dạy được gắn kết chặt chẽ với nhau trong mối
quan hệ tương sinh ở trong một trường đại học có môi trường nghiên cứu tốt [Håkan
Carlsson, 2014, 31]. Các trường đại học quân đội cần quy định cụ thể lượng thời gian
dành cho nghiên cứu của giảng viên để đảm bảo sự cân bằng giữa công việc giảng dạy
và nghiên cứu của giảng viên. Từ đó, hoạt động nghiên cứu được chú trọng và chất
155
lượng nghiên cứu được nâng lên.
4.3.2. Giải pháp về tài chính
Tài chính cũng là một yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng lớn đến số lượng và chất
lượng NCKH. Mức đầu tư cho NCKH và phát triển công nghệ thường được nêu lên như
là một trong những căn cứ quan trọng nhất trong đánh giá các nền KH&CN và là chỉ
tiêu hàng đầu trong mục tiêu của chiến lược phát triển KH&CN các nước [Hoàng Xuân
Long, 2014]. Các quốc gia có nền KH&CN phát triển và hiện đại thì thường có lượng
đầu tư tài chính lớn cho lĩnh vực này, trong đó có nghiên cứu công nghệ hàng không vũ
trụ quân sự, quốc phòng, an ninh. Nguồn tài chính cho KH&CN của các quốc gia là từ
ngân sách nhà nước và sự đầu tư của các doanh nghiệp [Hoàng Xuân Long, 2014]. Các
trường đại học nổi tiếng, có hoạt động nghiên cứu mạnh trên thế giới cũng là những nơi
có lượng kinh phí đầu tư hàng năm cho KH&CN rất lớn. Đối với các trường đại học
quân đội Việt Nam, hiện nay, nguồn tài chính cung cấp cho hoạt động NCKH chủ yếu
là từ ngân sách Nhà nước. Ngoài ra, còn có kinh phí bổ sung từ hoạt động dịch vụ
KH&CN, quỹ phát triển KH&CN, các khoản tài trợ của các tổ chức, cá nhân [Bộ Quốc
phòng, 2011]. Qua phân tích thực trạng, kinh phí dành cho NCKH của các trường đại
học quân đội hiện nay còn thấp nên việc đầu tư cho hoạt động nghiên cứu của các giảng
viên, nghiên cứu viên gặp nhiều khó khăn.
Vì vậy, để hoạt động KH&CN của các trường đại học quân đội phát triển thì cần
phải tăng nguồn kinh phí cho hoạt động này. Trước hết, là tăng ngân sách Nhà nước cho
hoạt động KH&CN, đồng thời cần tìm và huy động, cũng như có cơ chế để thu hút các
nguồn đầu tư khác cho hoạt động KH&CN của các trường đại học quân đội, trong đó có
việc hợp tác với các doanh nghiệp trong và ngoài quân đội đặc biệt là đối với các công
nghệ lưỡng dụng. Ngoài ra, cần có cơ chế chi cho hoạt động NCKH linh hoạt và hợp lý.
Vậy làm thế nào để huy động được nguồn tài chính đầu tư cho hoạt động KH&CN, cũng
như quản lý tốt được hoạt động này? Các chính sách để tăng nguồn tài chính cho
KH&CN của các trường đại học quân đội sẽ được đề cập và phân tích cụ thể dưới đây.
4.3.2.1. Chính sách đa dạng hóa nguồn tài chính đầu tư cho hoạt động KH&CN của các
trường đại học quân đội
Để tăng nguồn tài chính cho hoạt động KH&CN của các trường đại học quân đội
156
thì việc quan trọng và cần thiết là phải đa dạng hóa nguồn tài chính cho hoạt động này.
Việc đa dạng hóa nguồn tài chính có thể tập trung vào các hoạt động sau:
Thứ nhất, cần tăng ngân sách Nhà nước cho hoạt động KH&CN của các trường
đại học quân đội. Như phân tích trong phần thực trạng, ngân sách thường xuyên cho
hoạt động KH&CN của các trường đại học quân đội còn rất thấp. Do đó, rất cần Nhà
nước, quân đội quan tâm để tăng lượng ngân sách thường xuyên cho hoạt động KH&CN
của các trường đại học quân đội.
Thứ hai, cần phải ưu tiên kinh phí đầu tư cho hoạt động KH&CN bên cạnh việc
đầu tư cho hoạt động đào tạo. Đầu tư kinh phí cho việc xây dựng và thực hiện các nhiệm
vụ KH&CN dưới các dạng đề tài, dự án KH&CN ở tất cả các loại hình: nghiên cứu cơ
bản, nghiên cứu ứng dụng, triển khai thực nghiệm, sản xuất thử nghiệm. Đặc biệt, các
hoạt động nghiên cứu thăm dò để làm nền tảng xây dựng các nhiệm vụ nghiên cứu tiếp
theo là rất cần thiết và quan trọng. Tuy nhiên, hoạt động này lại có nhiều rủi ro. Vì vậy,
các trường đại học quân đội cần được hỗ trợ tài chính, đầu tư cho hoạt động này để định
hướng, xây dựng các nhiệm vụ KH&CN. Bên cạnh đó, các trường đại học quân đội cũng
rất cần được đầu tư dài hạn cho các hướng nghiên cứu tiềm năng để tạo ra được các sản
phẩm chiến lược phục vụ sự nghiệp hiện đại hóa quân đội và xây dựng đất nước hiện
đại. Việc tăng cường đầu tư tài chính cho các hoạt động KH&CN sẽ góp phần làm đa
dạng hóa hoạt động KH&CN của các trường đại học quân đội và làm cho hoạt động
NCKH của các trường đại học này ngày càng phát triển. Hơn thế nữa, việc thực hiện
nhiều hoạt động KH&CN sẽ mang lại nguồn thu chính đáng cho các trường đại học quân
đội và đội ngũ các nhà nghiên cứu, từ đó sẽ khuyến khích họ tham gia vào công việc
nghiên cứu và giảng dạy, gắn bó với nhà trường. Kết quả khảo sát thực tiễn tại HVKTQS
cho thấy, có tới 69,8% số giảng viên, nghiên cứu viên được hỏi mong muốn được tăng
kinh phí NCKH và 59,3% số nhà khoa học được hỏi có mong muốn được đầu tư dài hạn
để phát triển hướng nghiên cứu. Thực tế hiện nay, cơ chế quản lý tài chính cho KH&CN
chưa chú trọng đến việc đầu tư dài hạn cho các hướng nghiên cứu. Điều này cũng sẽ gây
khó khăn cho các nhà khoa học theo đuổi các hướng nghiên cứu lâu dài.
Thứ ba, các trường đại học quân đội tăng cường hợp tác cùng nghiên cứu và sản
xuất theo đơn đặt hàng của các tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài quân đội. Các đơn
157
vị đặt hàng sẽ cung cấp kinh phí phục vụ cho quá trình nghiên cứu và sản xuất sản phẩm.
Hình thức này sẽ huy động được thêm nguồn tài chính đầu tư cho hoạt động KH&CN
của các trường đại học quân đội và đồng thời sản phẩm nghiên cứu sẽ được áp dụng vào
thực tiễn. Hiệu quả đầu tư cho hoạt động KH&CN sẽ được nâng lên. Các giảng viên sẽ
có thêm nhiều hoạt động nghiên cứu, các đơn vị có sản phẩm tốt để áp dụng vào sản
xuất, hoạt động. Để hoạt động hợp tác này ngày càng phát triển và hiệu quả thì giảng
viên, nghiên cứu viên của các trường đại học quân đội phải có sự am hiểu, cọ sát với
thực tiễn để nắm bắt được nhu cầu của thực tiễn cũng như trau dồi kiến thức chuyên
môn phù hợp với điều kiện KH&CN trong thực tiễn. Do đó, việc bồi dưỡng giảng viên
qua thực tiễn tại các đơn vị trong và ngoài quân đội là rất cần thiết.
Thứ tư, bổ sung nguồn tài chính cho hoạt động KH&CN từ hoạt động dịch vụ
KH&CN của nhà trường. Các trường đại học quân đội tạo ra được các sản phẩm, dịch
vụ hữu dụng từ hoạt động nghiên cứu của mình và tiến hành thương mại hóa các sản
phẩm và dịch vụ đó. Các sản phẩm, dịch vụ được thương mại hóa của các trường đại
học quân đội bao gồm: các dịch vụ đào tạo chuyên môn, dịch vụ tư vấn, chuyển giao
công nghệ, bán sản phẩm KH&CN…cho các đơn vị, tổ chức, cá nhân trong và ngoài
quân đội. Các dịch vụ này không chỉ góp phần phục vụ hữu ích cho quân đội và xã hội
mà còn mang lại một nguồn thu đáng kể hàng năm cho các trường đại học quân đội và
các nhà nghiên cứu. Nguồn thu này cũng sẽ được trích lại một phần vào quỹ phát triển
KH&CN để tái đầu tư cho hoạt động KH&CN của nhà trường.
4.3.2.2. Chính sách hỗ trợ cho hoạt động khoa học và công nghệ của các trường đại học
quân đội
Để đẩy mạnh chức năng NCKH, khuyến khích các giảng viên, nghiên cứu viên
tham gia tích cực hoạt động KH&CN, các trường đại học quân đội cần có chính sách tài
chính hỗ trợ hoạt động KH&CN, trong đó chú ý một số nội dung sau đây.
Thứ nhất, nên có quỹ đầu tư rủi ro. NCKH là tìm tòi, khám phá những quy luật
mới, sáng tạo các sản phẩm mới, do đó có thể thành công và không thành công. Việc
nghiên cứu thiết kế, chế tạo các sản phẩm có hàm lượng chất xám cao, cũng như các sản
phẩm đặc thù phục vụ quân đội thường có tỷ lệ rủi ro cao. Điều này khiến nhiều giảng
viên, nhà khoa học thường chọn thực hiện các nghiên cứu an toàn, không dám mạo hiểm
158
thực hiện các nghiên cứu đột phá vì nếu không thành công, họ phải trả giá bằng những
khoản đầu tư kinh tế lớn, thậm chí là cả sự nghiệp. Do đó, các trường đại học nói chung,
trường đại học quân đội nói riêng, nếu muốn thúc đẩy NCKH phát triển, muốn tạo ra
các sản phẩm nghiên cứu mang tính đột phá cần chia sẻ rủi ro với các nhà khoa học bằng
cách lập các quỹ đầu tư rủi ro để cấp kinh phí cho các hoạt động nghiên cứu. Quỹ này
có thể huy động từ các nhà tài trợ, từ nguồn kinh phí thương mại hóa các sản phẩm, dịch
vụ KH&CN…
Thứ hai, hỗ trợ hoạt động thương mại hóa kết quả nghiên cứu của các trường
đại học quân đội. Từ sản phẩm nghiên cứu đến hàng hóa đưa ra ngoài thị trường cần
một quá trình, trong đó có sự đầu tư đáng kể về mặt tài chính để hoàn thiện sản phẩm
và xây dựng quy trình sản xuất và quy trình thương mại. Các nhà khoa học sẽ không thể
hoặc rất khó có đủ tiềm lực tài chính, điều kiện và năng lực để tự mình thực hiện được
quá trình này nên họ rất cần sự hỗ trợ từ các trường đại học quân đội và các tổ chức
chuyên nghiệp để đưa sản phẩm nghiên cứu ra thị trường, đưa vào áp dụng thực tế. Hình
thức hỗ trợ tài chính trong trường hợp này có thể là cho vay ưu đãi hoặc bảo lãnh thực
hiện hợp đồng.
Ngoài ra, để khuyến khích các nhà khoa học tăng cường thương mại hóa các sản
phẩm NCKH, các trường đại học quân đội cần xây dựng và ban hành quy chế quản lý
đối với sáng chế được tạo ra trong nhà trường. Quy chế cần quy định cụ thể về quyền
lợi kinh tế của tác giả, chủ sở hữu sáng chế khi tiến hành khai thác, thương mại hóa sáng
chế, vừa nhằm động viên tác giả sáng chế, vừa tránh các trường hợp tranh chấp trong
quá trình khai thác. Bên cạnh đó, các trường đại học quân đội cũng cần phải tăng cường
quảng bá, giới thiệu các sáng chế của mình đến thị trường để tăng cường thương mại
hóa các sáng chế, đem lại lợi ích kinh tế cho nhà trường, nhà khoa học, xã hội và đồng
thời có nguồn lực tài chính để tái đầu tư cho hoạt động nghiên cứu.
Thứ ba, hỗ trợ việc công bố, xuất bản các kết quả nghiên cứu. Việc công bố, xuất
bản các kết quả nghiên cứu là việc làm cần thiết trong nền KH&CN hiện đại, hội nhập
ngày nay đặc biệt là các công bố khoa học quốc tế. Nó vừa là hoạt động khẳng định vị
trí, uy tín của các nhà khoa học và các tổ chức, vừa là để chia sẻ, trao đổi học thuật, tri
thức. Để có được các công bố khoa học quốc tế, các nhà khoa học phải dành nhiều thời
159
gian, công sức và cả kinh phí cho việc này. Do đó, họ rất cần sự hỗ trợ, động viên từ các
trường đại học quân đội nơi mình công tác, học tập. Sự hỗ trợ tài chính của các trường
đại học quân đội đối với việc công bố quốc tế vừa là hoạt động san sẻ chi phí cùng các
nhà khoa học, trả công cho hoạt động nghiên cứu xứng đáng của họ đồng thời sẽ tạo ra
động lực thôi thúc các nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu. Vì thành quả nghiên cứu của
họ được công nhận, uy tín của họ được khẳng định và công sức của họ được trả công
xứng đáng. Kết quả khảo sát thực tiễn tại HVKTQS cho thấy, chính sách hỗ trợ cho các
công bố khoa học đặc biệt là các công bố khoa học quốc tế của HVKTQS so với các
trường đại học của Việt Nam hiện nay là còn thấp. Vì vậy, 57% số cán bộ khoa học được
hỏi mong muốn nhà trường tăng cường hỗ trợ kinh phí cho công bố khoa học để khuyến
khích và tạo động lực cho họ thực hiện tốt hơn hoạt động này.
4.3.2.3. Đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với hoạt động khoa học và công nghệ
Thủ tục tài chính khi thanh, quyết toán các đề tài, dự án thực hiện bằng ngân sách
Nhà nước luôn là một khó khăn, vướng mắc lớn đối với các nhà khoa học. Các nhà khoa
học phải dành quá nhiều thời gian để hoàn thiện hồ sơ quyết toán đề tài, trong đó có cả
những giấy tờ mang tính chất đối phó, điền cho đủ hồ sơ chứ chưa phản ánh hoạt động
thực tế. Do đó, các nhà khoa học đều mong muốn cơ chế quản lý tài chính đối với hoạt
động KH&CN tiếp tục được đổi mới để họ được thuận lợi hơn trong công việc nghiên
cứu, dành nhiều thời gian hơn cho NCKH thay vì hoàn thiện hồ sơ, giấy tờ mang tính
hành chính. Theo đó, cơ quan chủ quản chỉ phê duyệt dự toán đề tài, nhiệm vụ khoa học
với một số hạng mục chi ngân sách như: nhân công, vật tư, hóa chất tiêu hao, mua sắm
thiết bị... Trên cơ sở đó, đơn vị thực hiện nhiệm vụ dự án, đề tài có toàn quyền chủ động
quyết định các khoản chi.
4.3.3. Cơ sở vật chất phục vụ nghiên cứu khoa học
Cơ sở vật chất là yếu tố cần thiết và quan trọng đối với NCKH của các trường đại
học quân đội, là công cụ, phương tiện để triển khai hoạt động nghiên cứu. Cơ sở hạ tầng
tốt sẽ thu hút các nhà nghiên cứu và thúc đẩy sự phát triển của các nghiên cứu [Håkan
Carlsson, 2014]. Cơ sở vật chất phục vụ NCKH bao gồm các phòng thí nghiệm, phòng
nghiên cứu phát triển, các xưởng sản xuất, chế thử, phòng hội nghị, hội thảo khoa học.
Hiện nay, với sự phát triển như vũ bão của KH&CN, trong đó có KH&CN quân
160
sự, đòi hỏi các trường đại học quân đội phải có sự đổi mới theo hướng hiện đại về cơ sở
vật chất phục vụ đào tạo và NCKH, đặc biệt là về các trang thiết bị nghiên cứu, thực
nghiệm, các phòng thí nghiệm, phòng nghiên cứu phát triển, xưởng chế thử để đáp ứng
yêu cầu trong tình hình mới. Để sử dụng hiệu quả, đáp ứng yêu cầu NCKH, các trường
đại học quân đội nên đầu tư cơ sở vật chất phục vụ NCKH theo các nhóm sau.
Nhóm thứ nhất, các cơ sở vật chất vừa phục vụ đào tạo vừa phục vụ NCKH.
Thông thường, những trang thiết bị thí nghiệm, thực nghiệm vừa phục vụ đào tạo vừa
phục vụ NCKH là những trang thiết bị không đòi hỏi độ chính xác cao, kỹ năng vận
hành phức tạp, có tuổi thọ, độ tin cậy hoạt động tốt. Việc dùng chung cho cả đào tạo và
NCKH sẽ giúp tiết kiệm kinh phí đầu tư, nâng cao hiệu quả khai thác.
Nhóm thứ hai, các cơ sở vật chất phục vụ nghiên cứu chuyên sâu. Đây thường là
những trang thiết bị đắt tiền, có độ chính xác cao, đòi hỏi người sử dụng phải có kỹ năng
vận hành. Nằm trong nhóm cơ sở vật chất này là các phòng thí nghiệm nghiên cứu chuyên
sâu với các trang thiết bị đo đạc hiện đại, đạt chuẩn quốc tế, các phòng nghiên cứu phát
triển sản phẩm, các xưởng sản xuất, chế thử mẫu, sản phẩm pilot. Các cơ sở vật chất này
giúp các nhà khoa học tìm ra các quy luật mới phục vụ công bố khoa học quốc tế, chế tạo
các sản phẩm có hàm lượng chất xám cao. Nhu cầu sử dụng cơ sở vật chất thuộc nhóm
này là các nhóm nghiên cứu mạnh, các nhà khoa học có khả năng công bố khoa học quốc
tế, các nhóm phát triển sản phẩm công nghệ cao phục vụ quân đội và đất nước. Đối với
các trường đại học kỹ thuật, công nghệ quân đội, các phòng thí nghiệm với các trang thiết
bị hiện đại là rất quan trọng để thực hiện các nghiên cứu. Kết quả khảo sát của đề tài tại
HVKTQS, có một tỷ lệ rất cao người được hỏi mong muốn được trang bị phòng thí
nghiệm hiện đại để hỗ trợ tốt hơn cho hoạt động nghiên cứu của họ (52,3%).
Nhóm thứ ba, đó là các phòng hội nghị, hội thảo khoa học phục vụ tổ chức các
hoạt động hội thảo, xemina, tọa đàm khoa học… Các phòng hội nghị, hội thảo khoa học
đáp ứng được yêu cầu tổ chức các hội thảo khoa học trong nước và quốc tế là cần thiết
và quan trọng trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay [Håkan Carlsson, 2014, 31].
Nhóm cơ sở vật chất này không đòi hỏi những khoản kinh phí đầu tư lớn, nhưng cần
được các trường đại học quân đội quan tâm, đầu tư đạt chuẩn quốc tế.
Khi điều kiện còn khó khăn, kinh phí đầu tư cho hoạt động KH&CN còn thấp,
161
các trường đại học quân đội không có đủ nguồn tài chính để đầu tư cơ sở vật chất phục
vụ nghiên cứu thì có thể lựa chọn các giải pháp như: liên kết với các phòng thí nghiệm
của các trường đại học, viện nghiên cứu trong nước hoặc nước ngoài, sử dụng trang thiết
bị của các nhà máy, viện nghiên cứu của quân đội, nhất là để triển khai thực nghiệm,
chế tạo pilot, đặc biệt là phục vụ các nghiên cứu thuộc lĩnh vực quân sự. Tăng cường
hợp tác với các tổ chức trong và ngoài quân đội, trong và ngoài nước là một giải pháp
hiệu quả để khai thác, sử dụng trang thiết bị nghiên cứu mà không phải đầu tư nhiều về
mặt tài chính. Đối với các nghiên cứu cơ bản, thông thường sản phẩm là các công bố
khoa học nên có thể hợp tác với các trường đại học nước ngoài có trang thiết bị thí
nghiệm hiện đại để cùng tiến hành các nghiên cứu và công bố khoa học chung. Hiện
nay, hợp tác quốc tế là một trong những tiêu chí xếp hạng trường đại học nên các trường
đại học nước ngoài rất có thiện chí triển khai các hoạt động NCKH chung.
Bên cạnh đó, các trường đại học quân đội cần nâng cao hiệu quả quản lý, khai
thác các cơ sở kỹ thuật phục vụ NCKH. Các trường đại học quân đội cần chú trọng triển
khai một số giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao hiệu quả khai thác, sử dụng các cơ sở kỹ
thuật, vũ khí, trang bị kỹ thuật đã được đầu tư. Cụ thể:
- Hoàn thiện hệ thống cơ sở kỹ thuật nhằm nâng cao khả năng sử dụng chung
giữa các đơn vị trong nhà trường và phát huy tối đa hiệu quả khai thác, sử dụng.
- Bổ sung, hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thực hiện công tác kỹ thuật tại nhà
trường, trong đó thực hiện nghiêm “Quy chế khai thác chung các cơ sở kỹ thuật” và sửa
đổi, hoàn thiện “Tiêu chí đánh giá hiệu quả khai thác các cơ sở kỹ thuật” trên cơ sở đánh
giá lưu lượng đào tạo, các sản phẩm của cơ sở kỹ thuật (bài báo, bài thí nghiệm, sản
phẩm nghiên cứu, chế thử). Các đơn vị trong các trường đại học quân đội phải xây dựng
kế hoạch khai thác cơ sở kỹ thuật chặt chẽ, tỉ mỉ.
- Các trường đại học quân đội cần quản lý chặt chẽ được số lượng và chất lượng
trang thiết bị nghiên cứu và đội ngũ nhân viên chuyên môn kỹ thuật, cần xây dựng và
phát triển phần mềm quản lý trang bị kỹ thuật để quản lý chất lượng, số lượng, tình trạng
trang thiết bị của các cơ sở kỹ thuật, phòng thí nghiệm. Mọi thông tin về tình trạng của
các trang thiết bị nghiên cứu phải được cập nhật liên tục lên mạng thông tin nội bộ của
nhà trường để các nhà nghiên cứu và các đơn vị trong nhà trường có thể phối hợp, liên
162
kết để sử dụng hiệu quả.
4.3.4. Thông tin khoa học và công nghệ
Thông tin cũng là một nguồn lực quan trọng phục vụ cho hoạt động KH&CN của
các trường đại học quân đội, do đó hệ thống thông tin KH&CN tốt sẽ là công cụ hỗ trợ
đắc lực cho hoạt động nghiên cứu. Vì vậy các nhà trường quân đội cần đầu tư xây dựng
và hoàn thiện hệ thống thông tin KH&CN, đặc biệt là kênh thông tin điện tử trên mạng
nội bộ của nhà trường để phục vụ đắc lực cho hoạt động nghiên cứu của các nhà khoa
học. Hệ thống thông tin KH&CN trên mạng nội bộ của các trường đại học quân đội cần
đảm bảo đầy đủ các nội dung sau:
- Thư viện điện tử: Hệ thống thư viện của nhà trường cần được đầu tư trang bị
nhiều và đa dạng các loại giáo trình, tài liệu tham khảo phục vụ các chuyên ngành đào
tạo của nhà trường. Hệ thống giáo trình, tài liệu được số hóa, có thể sử dụng dưới dạng
file điện tử và được cung cấp trên mạng nội bộ của nhà trường. Điều này sẽ điều kiện
thuận lợi cho việc truy cập và sử dụng tài liệu, giáo trình của giảng viên, học viên trong
trường. Thư viện sẽ phục vụ được số lượng lớn độc giả cùng một lúc.
- Hoạt động nghiên cứu và chuyển giao công nghệ: Trong mục này cần cung
cấp thông tin về: các định hướng nghiên cứu của Nhà nước và Bộ Quốc phòng; các chương
trình nghiên cứu; các nhóm nghiên cứu và hoạt động của các nhóm nghiên cứu; danh mục
các bài báo đã công bố trong nước và ngoài nước; danh mục đề tài, dự án đã nghiệm thu;
danh mục đề tài, dự án đang thực hiện; các hội đồng khoa học ngành và liên ngành.
- Tạp chí KH&CN: cung cấp các thông tin liên quan đến tạp chí của nhà trường
với các nội dung chính: thể lệ gửi bài đăng Tạp chí, bản online các số Tạp chí đã xuất
bản. Để phục vụ tốt nhất NCKH, cũng như nâng cao uy tín của nhà trường, các trường
đại học quân đội cũng cần được đầu tư để nâng cấp các tạp chí của trường đạt các tiêu
chuẩn quốc tế, nằm trong danh mục ISI, SCOPUS. Ngoài ra, cần cung cấp thông tin về
các tạp chí trong nước và quốc tế.
- Tiềm năng hợp tác: cung cấp các thông tin về các đối tác sẵn sàng hợp tác với
trường trong hoạt động NCKH, nhu cầu của các đối tác đối với các sản phẩm KH&CN
mà nhà trường có thể cung cấp,…
- Quỹ hỗ trợ NCKH: cung cấp thông tin về các quỹ hỗ trợ NCKH trong nước
163
và quốc tế cũng như quy chế hoạt động của các quỹ này để các nhà khoa học có thể tiếp
cận và nhận được tài trợ của các quỹ cho hoạt động nghiên cứu.
- Sở hữu trí tuệ: cung cấp các thông tin về các sản phẩm đăng ký SHTT của nhà
trường, các văn bản, biểu mẫu liên quan đến SHTT, hỏi đáp về SHTT để giúp các nhà
khoa học tra cứu thông tin và chủ động tìm hiểu các thông tin về SHTT liên quan đến
sản phẩm sáng tạo của mình.
- Các đơn vị nghiên cứu: cung cấp thông tin về các đơn vị nghiên cứu và thế
mạnh nghiên cứu của các đơn vị này.
- Văn bản – Quy chế: cung cấp các văn bản quy định trong lĩnh vực quản lý KH&CN.
- Kho dữ liệu KH&CN: cần có sự kết nối với kho dữ liệu của Trung tâm thông tin
KH&CN quốc gia và Trung tâm Thông tin Khoa học Quân sự của Bộ Quốc phòng, các
trung tâm thông tin khoa học của các trường đại học, các viện nghiên cứu, các đơn vị trong
và ngoài quân đội để cập nhật, trao đổi thông tin KH&CN liên tục. Các trường đại học quân
đội cũng cần được đầu tư mua cơ sở dữ liệu các bài báo đăng trên các tạp chí uy tín của thế
giới về các hướng chuyên ngành, các hướng học thuật của trường mình để các giảng viên,
nghiên cứu viên, học viên có thể tra cứu, tham khảo phục vụ cho các NCKH của họ.
4.4. Hình thành và phát triển các tổ chức khoa học và công nghệ trong trường đại
học quân đội
Mỗi một tổ chức đều có chức năng cụ thể. Các chức năng sẽ hoạt động hiệu quả
khi tổ chức có mô hình cơ cấu tổ chức phù hợp để thực hiện các chức năng đó. Các
trường đại học quân đội có các chức năng: đào tạo, NCKH và phục vụ quân đội và xã
hội. Do đó, cơ cấu tổ chức của các trường đại học quân đội phải phù hợp để thực hiện
tốt cả 3 chức năng này. Trong đó, để thúc đẩy chức năng NCKH, thì các trường đại học
trên thế giới thường có một hệ thống các tổ chức KH&CN trực thuộc bao gồm các khoa,
bộ môn, tổ chức nghiên cứu và triển khai, doanh nghiệp spin-off, phòng thí nghiệm,
trung tâm giới thiệu và chuyển giao công nghệ. Vì vậy, để thực hiện tốt chức năng
NCKH, các trường đại học quân đội cần phải hình thành và phát triển các tổ chức nghiên
cứu và triển khai, các R&D Spin-off, phòng thí nghiệm trọng điểm, trung tâm giới thiệu
và chuyển giao công nghệ bên cạnh các khoa và bộ môn như truyền thống đã có.
4.4.1. Khoa, bộ môn
164
Ở trường đại học quân đội, bộ môn là đơn vị cơ sở, vừa có chức năng đào tạo,
vừa có chức năng NCKH. Khoa là đơn vị chuyên môn trực thuộc trường đại học có chức
năng lập kế hoạch và tổ chức thực hiện các hoạt động giáo dục, đào tạo, các hoạt động
KH&CN [Thủ tướng Chính phủ, 2014; Bộ Quốc phòng, 2016]. Tuy nhiên, trong thời
gian vừa qua, vẫn có những khoa và bộ môn trong các trường đại học quân đội chưa
quan tâm đến NCKH mà vẫn chỉ là những tổ chức thuần túy đào tạo. Vì vậy cần phải
tăng cường hoạt động NCKH ở tất cả các khoa và bộ môn trong các trường đại học quân
đội bởi đây là hạt nhân của nhà trường, nơi các giảng viên, các nhà khoa học có mối
quan hệ chặt chẽ về học thuật và công tác chuyên môn với nhau, cũng là nơi có thể xuất
hiện những ý tưởng khoa học, là nơi mà mối quan hệ giữa NCKH và đào tạo được thể
hiện rõ nhất. Trường đại học quân đội nếu chú ý tốt đến việc tổ chức hoạt động KH&CN
từ cấp bộ môn, khoa sẽ là nền tảng cho sự thành công trong phát triển KH&CN. Để tăng
cường NCKH của khoa, bộ môn, nhà trường cần làm tốt một số nội dung sau:
Một là, cần phát huy vai trò của chủ nhiệm khoa, bộ môn. Đây là những cá nhân
trực tiếp chịu trách nhiệm tổ chức hoạt động NCKH và đào tạo của khoa, bộ môn, nắm
được thế mạnh của từng giảng viên, nên vừa có thể hỗ trợ trực tiếp cho các giảng viên
trong hoạt động nghiên cứu khoa học, vừa tham mưu, đề xuất xây dựng, điều chỉnh các
chính sách về KH&CN của nhà trường để đạt hiệu quả cao nhất.
Hai là, cần phát huy vai trò của Hội đồng khoa học và đào tạo khoa trong việc tư
vấn lựa chọn định hướng nghiên cứu, xây dựng các nhiệm vụ nghiên cứu, định hướng
xây dựng cơ sơ vật chất phục vụ nghiên cứu của khoa, từng bộ môn trong khoa. Thực
tiễn chứng minh, ở nơi nào Hội đồng khoa học và đào tạo của Khoa hoạt động tốt, nơi
đó hoạt động KH&CN sẽ phát triển.
4.4.2. Viện nghiên cứu, trung tâm nghiên cứu trong trường đại học quân đội
Các tổ chức nghiên cứu và triển khai trong trường đại học quân đội được tổ chức
dưới hình thức viện nghiên cứu, trung tâm nghiên cứu, phòng thí nghiệm để triển khai
các hoạt động KH&CN và áp dụng tiến bộ KH&CN để nâng cao chất lượng đào tạo,
phục vụ nhiệm vụ quân sự, an ninh, quốc phòng và phát triển kinh tế - xã hội. Các trường
đại học quân đội cần phải có các viện, trung tâm nghiên cứu trực thuộc. Viện nghiên
cứu vừa có chức năng nghiên cứu, vừa có chức năng đào tạo, trong đó, chức năng nghiên
165
cứu rất được chú trọng. Ngoài ra, viện và trung tâm cũng sẽ là nơi thực hiện các đơn đặt
hàng của khách hàng. Các kết quả nghiên cứu sẽ gắn với đào tạo, phục vụ đào tạo và
sản xuất. Vì vậy, đào tạo sẽ cập nhật được những thông tin, tri thức mới nhất và sát với
yêu cầu thực tiễn. Trong các trường đại học lớn trên thế giới, đặc biệt là các trường đại
học nghiên cứu thì số lượng các viện nghiên cứu thường chiếm tỷ trọng khá lớn trong
cơ cấu tổ chức của trường.
Bảng 4.2: Số lượng viện nghiên cứu ở một số trường đại học nghiên cứu trên thế giới
Tên trường đại học Số viện nghiên cứu (Institute)
Đại học Seoul 60
Đại học Myong Ji 18
Đại học Kangwon 36
Đại học North Carolina 50
Đại học Tsinghua 37 viện + 23 trung tâm + 15 phòng thí nghiệm
(Nguồn: [Trịnh Ngọc Thạch, 2017])
Các trường đại học quân đội của các quốc gia trên thế giới cũng có số viện nghiên
cứu rất lớn. Ví dụ: Học viện Quân sự Hoa Kỳ có 21 trung tâm nghiên cứu và đồng thời
hợp tác với 2 trung tâm nghiên cứu khác [USMA]. Trường Đại học Công nghệ Quốc
phòng Trung Quốc có 10 trường đại học/học viện thành viên với hơn 40 Khoa/Bộ môn,
Viện R&D và phòng thí nghiệm, trong đó có 4 phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia
Trung Quốc và 1 phòng thí nghiệm trọng điểm cấp Bộ Giáo dục Trung Quốc [QS
Topuniversities].
Do đó, để thúc đẩy NCKH trong trường đại học quân đội thì việc hình thành và
phát triển các viện, trung tâm nghiên cứu trong trường đại học quân đội là một lẽ tất
nhiên. Để hình thành các viện nghiên cứu trực thuộc các trường đại học quân đội có thể
có nhiều cách làm khác nhau.
Thứ nhất, có thể chuyển đổi các khoa thành các viện. Mô hình này, một số trường
đại học của Việt Nam cũng đã thực hiện gần đây, trong đó phải kể đến Đại học Bách
Khoa Hà Nội với việc chuyển đổi các khoa chuyên ngành thành các viện. HVKTQS
cũng đã chuyển đổi Khoa Công trình thành Viện Kỹ thuật công trình đặc biệt. Việc
chuyển đổi này rất thuận lợi vì không bị xáo trộn nhiều về mặt nguồn lực. Hoạt động
166
NCKH sẽ được đẩy mạnh lên trong khi hoạt động đào tạo vẫn được thực hiện tốt.
Thứ hai, hình thành các viện nghiên cứu mới trực thuộc trường, đặc biệt là đối
với các lĩnh vực nghiên cứu mới.
Thứ ba, sáp nhập các viện nghiên cứu trong quân đội có cùng hướng chuyên môn
nghiên cứu vào các trường đại học quân đội. Cách làm này sẽ khó và đòi hỏi có sự đồng
thuận của nhiều bên liên quan hơn nhưng nếu triển khai được thì sẽ sử dụng hiệu quả
nhiều nguồn lực.
4.4.3. Tổ chức Spin-off
Đây là một tổ chức rất cần thiết trong các trường đại học quân đội để chuyển giao
kết quả nghiên cứu vào thực tiễn. Spin-off trong các trường đại học quân đội là tổ chức
kế thừa kết quả nghiên cứu và triển khai, hoàn thiện sản phẩm nghiên cứu và đưa sản
phẩm vào sử dụng trong thực tiễn.
Theo mô hình chung, Spin-off được hình thành do trường đại học cùng với các nhà
khoa học đang sở hữu bằng sáng chế, công nghệ tự xây dựng và phát triển (“tự khởi
nghiệp”) để thương mại hóa kết quả NCKH. Các Spin-off được hiểu là các công ty công
nghệ triển khai các kết quả nghiên cứu ứng dụng của các nhà khoa học với hình thức đồng
sở hữu của cơ sở nghiên cứu và nhà phát minh, và được quản lý độc lập với cơ sở nghiên
cứu. Công ty này phát triển và sản xuất sản phẩm từ công nghệ được phát triển bởi nhà
nghiên cứu, và bán sản phẩm ra thị trường thông qua các kênh phân phối thích hợp. Hoặc
ở quy mô thấp hơn, công ty spin-off có thể là một kênh trung gian để tiếp tục phát triển
công nghệ nhằm chuyển giao tới các doanh nghiệp sản xuất lớn hơn [Ngô Đức Thế, 2014].
Spin – off là hình thức tổ chức phát triển KH&CN rất thành công trên thế giới, đặc biệt ở
các nước phát triển. Nó xuất phát từ một thực tế là các thành tựu KH&CN cao cần phải
nhanh chóng đưa vào ứng dụng, nhưng theo các phương pháp chuyển giao, mua bán công
nghệ thông thường thì khó hoặc không thể thực hiện được vì những lý do:
- Công nghệ còn quá mới mẻ, xã hội và nhà đầu tư chưa có điều kiện hiểu hết để
đầu tư. Mặt khác, chính bản thân công nghệ cũng cần được tiếp tục hoàn thiện trong quá
trình đưa vào sử dụng;
- Công nghệ là một phát kiến mới hoặc trình độ quá cao đến mức các doanh
nghiệp không đủ trình độ để nhận chuyển giao;
167
- Điều kiện rủi ro cao chưa thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư;
- Công nghệ thuộc lĩnh vực kinh tế tri thức, kinh tế số rất cần phát triển nhanh để
chiếm lĩnh thị trường, nhưng đòi hỏi hàm lượng chất xám cao nên không thể tách khỏi
người sáng tạo ở ngay thời điểm đó [Phạm Huy Tiến, 2006].
Spin-off thỏa mãn được những yêu cầu rất khó thực hiện của cơ chế quản lý
KH&CN đó là vừa đưa kết quả khoa học vào ứng dụng, vừa phát triển được KH&CN.
Spin-off và trường đại học gắn với nhau để tận dụng lợi thế của hai loại hình tổ chức
này. Trong trường đại học quân đội, các Spin-off rất cần thiết để phát triển và khai thác
các sản phẩm nghiên cứu ứng dụng.
4.4.4. Trung tâm giới thiệu và hỗ trợ chuyển giao công nghệ
Đây là một tổ chức rất cần thiết trong việc đưa kết quả nghiên cứu vào trang bị
cho quân đội, đến thị trường và phục vụ đời sống nhân dân. Trung tâm sẽ hỗ trợ các đơn
vị nghiên cứu trong trường đại học quân đội tăng hiệu quả của quá trình chuyển giao
các kết quả nghiên cứu vào thực tiễn sản xuất. Trung tâm có nhiệm vụ tìm kiếm, tuyển
chọn ở các khoa, các bộ môn, các phòng thí nghiệm, các viện nghiên cứu trong trường
danh sách đề tài, dự án nghiên cứu đã được nghiệm thu ở giai đoạn nghiên cứu cơ bản
và có tiềm năng ứng dụng cao để đưa vào ươm tạo, nâng cao giá trị và chuyển giao vào
thực tiễn. Trung tâm này sẽ có các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Tư vấn xây dựng hồ sơ tìm kiếm nguồn tài trợ của Chính phủ, tổ chức quốc tế,
các cấp chính quyền địa phương nhằm hoàn thiện công nghệ đến quy mô công nghiệp
để có thể thương mại hóa hoặc chuyển qua giai đoạn ươm tạo doanh nghiệp (đặc biệt là
đối với các công nghệ lưỡng dụng);
- Tư vấn xác lập, khai thác và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ: Trung tâm là nơi hỗ
trợ các nhà khoa học của các trường đại học tiến hành các thủ tục đăng kí các sáng chế,
giải pháp hữu ích, xác lập quyền sở hữu trí tuệ của nhà trường đối với các sản phẩm
KH&CN. Trong xã hội mà công nghệ thông tin, mạng internet phát triển mạnh mẽ như
hiện nay và nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt thì vấn đề sở hữu trí tuệ rất quan
trọng. Việc xác lập quyền sở hữu trí tuệ đối với các kết quả nghiên cứu được tạo ra trong
trường đại học sẽ giúp bảo vệ các thành quả sáng tạo của các giảng viên, cá nhân trong
trường đại học, bảo vệ lợi ích chính đáng của các chủ thể sáng tạo và chủ thể đầu tư cho
168
sự sáng tạo đó. Từ đó, sẽ tạo động lực, khuyến khích các cá nhân, tổ chức tích cực tham
gia vào hoạt động NCKH và phát triển công nghệ, cung cấp dịch vụ phục vụ nhu cầu
của xã hội. Trung tâm cũng là nơi hỗ trợ để khai thác hiệu quả các tài sản trí tuệ được
tạo ra từ quá trình nghiên cứu, đặc biệt là thông qua hoạt động thương mại hóa kết quả
nghiên cứu và bảo vệ các tài sản nghiên cứu.
- Thương thảo các hợp đồng chuyển giao công nghệ: Trung tâm sẽ là nơi kết nối
các sản phẩm KH&CN với thị trường. Trung tâm sẽ có nhiệm vụ giới thiệu về các sản
phẩm KH&CN của trường đại học quân đội, tìm kiếm đối tác, khách hàng trong và ngoài
quân đội. Đồng thời, tìm hiểu thị trường để đặt hàng các đơn vị nghiên cứu trong trường
đại học quân đội.
4.4.5. Xây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh hoạt động hiệu quả
Các trường đại học quân đội không thể nằm ngoài xu thế hiện nay của các trường
đại học trong nước và quốc tế, đó là cần tập trung nguồn lực xây dựng và hỗ trợ các
nhóm nghiên cứu mạnh, hoạt động hiệu quả. Đây là giải pháp phổ biến, hiệu quả được
áp dụng thành công ở nhiều trường đại học trên thế giới.
Để hình thành và phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh, các trường đại học quân
đội cần xây dựng quy chế hoạt động của nhóm nghiên cứu mạnh, trong đó quy định các
các tiêu chí cụ thể, cũng như xác định các hình thức hỗ trợ, ưu tiên của nhà trường đối
với nhóm nghiên cứu mạnh. Các nhóm nghiên cứu muốn được công nhận là nhóm
nghiên cứu mạnh cần xây dựng đề án, trong đó xác định rõ mục tiêu, định hướng nghiên
cứu, kế hoạch hành động của nhóm. Các nhóm nghiên cứu mạnh trong các trường đại
học quân đội nên bám sát các hướng hiện đại hóa quân đội, bám sát các định hướng phát
triển vũ khí trang bị kỹ thuật của quân đội, đáp ứng yêu cầu thực tiễn hiện nay và định
hướng tương lai. Lãnh đạo, chỉ huy các cấp trong nhà trường cần quan tâm, định hướng
xây dựng, tạo môi trường hoạt động cho các nhóm nghiên cứu để các nhóm nghiên cứu
hoạt động hiệu quả, sáng tạo, đóng góp nhiều cho hoạt động KH&CN của nhà trường.
Một trong những vấn đề quan tâm đầu tiên là phải lựa chọn được những nhà lãnh đạo
học thuật, trưởng nhóm nghiên cứu, chuyên gia đầu ngành đủ tài năng, đủ uy tín và tâm
huyết, nhiệt tình với công tác nghiên cứu và giảng dạy. Thứ hai, cần định hướng để các
nhóm nghiên cứu không quá đông, số lượng từ 6-10 người là hợp lý. Số lượng nhà
169
nghiên cứu trong nhóm quá đông sẽ hạn chế sự trao đổi giữa các thành viên trong nhóm
và làm giảm sự sáng tạo của nhóm. Các thành viên trong nhóm có sự tôn trọng, học hỏi
lẫn nhau, tư vấn hiệu quả cho nhau và không có sự phân biệt vị trí. Thứ ba, khuyến
khích các giảng viên, nghiên cứu viên tham gia vào các nhóm nghiên cứu đa ngành,
trong đó các thành viên đến từ nhiều tổ chức khác nhau để các cá nhân trong nhóm sẽ
bổ trợ kiến thức và kỹ năng cho nhau để thực hiện được những đề tài rộng hơn.
Hiện nay, một số trường đại học quân đội đã xác định rõ được tầm quan trọng
của các nhóm nghiên cứu mạnh trong xu thế hội nhập quốc tế. Ví dụ, HVKTQS đã xây
dựng được 16 nhóm nghiên cứu mạnh, phụ trách các hướng nghiên cứu khác nhau.
Trong những năm qua, các nhóm nghiên cứu mạnh này đã khẳng định được vai trò và
hiệu quả làm việc của họ thông qua số lượng các công trình nghiên cứu và các bài báo
công bố. Tuy nhiên, số lượng nhóm nghiên cứu mạnh này là còn ít so với đội ngũ cán
bộ KH&CN của Học viện. Vì vậy, trong thời gian tới, nhà trường cần định hướng, hỗ
trợ để có nhiều nhóm nghiên cứu trở thành nhóm nghiên cứu mạnh của Học viện và của
Quân đội. Các nhà nghiên cứu cũng rất mong muốn phát triển các nhóm nghiên cứu
mạnh để hỗ trợ tốt hơn cho hoạt động NCKH và hội nhập quốc tế.
Hộp 4.1. Phát triển nhóm nghiên cứu mạnh, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế
“Để tham gia vào hợp tác hiệu quả với các đối tác nước ngoài thì phải phát triển các nhóm
nghiên cứu mạnh gắn với các chuyên gia đầu ngành, được đầu tư trang thiết bị hiện đại, tài
chính để tiếp cận trình độ thế giới” (Nam, 42 Tuổi, PGS.TS, Cán bộ quản lý)
(Nguồn: Kết quả phỏng vấn sâu của luận án)
4.4.6. Xây dựng phòng thí nghiệm trọng điểm, liên ngành
Xây dựng các phòng thí nghiệm trọng điểm, sử dụng liên ngành là một điều cần
thiết đối với các trường đại học quân đội đặc biệt là các trường đại học kỹ thuật, công
nghệ. Các phòng thí nghiệm trọng điểm được đầu tư các nguồn lực phục vụ nghiên cứu:
nhân lực trình độ cao, tài chính, cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại phục vụ nghiên
cứu. Các phòng thí nghiệm trọng điểm cần phải có tính mở tức là nó không chỉ phục vụ
nội bộ phòng thí nghiệm mà nó còn phục vụ các khoa, viện khác trong trường đại học
và cả các đơn vị khác ở bên ngoài khi họ có nhu cầu sử dụng các trang thiết bị nghiên
cứu của phòng thí nghiệm. Điều này sẽ hình thành được mạng lưới nghiên cứu liên
170
ngành và liên kết các nhà khoa học một cách linh hoạt theo các nhiệm vụ nghiên cứu. Như
chúng ta đã biết, hiện nay các lĩnh vực đa ngành, các nghiên cứu đa ngành đã xuất hiện và
ngày càng nhiều. Vì vậy, những phòng thí nghiệm trực thuộc bộ môn, trực thuộc khoa, chỉ
phục vụ riêng cho một chuyên ngành sẽ không thể phát huy được hiệu quả đối với những
lĩnh vực nghiên cứu mới đó. Và khi đầu tư xây dựng các phòng thí nghiệm trọng điểm, liên
ngành thì các nguồn lực sẽ được sử dụng hiệu quả hơn. Các trường đại học lớn, xếp hạng
cao, có hoạt động nghiên cứu mạnh trên thế giới đều có hệ thống các phòng thí nghiệm
được đầu tư lớn và rất hiện đại, nhiều khoa, viện có thể cùng khai thác và sử dụng.
4.4.7. Đề xuất thay đổi cơ cấu tổ chức để hoàn thiện chức năng nghiên cứu khoa học
của các trường đại học quân đội
Đa dạng hóa chức năng thì cần có cơ cấu tổ chức phù hợp để thực hiện các chức
năng đó. Do đó, các trường đại học quân đội cần phải thay đổi cơ cấu tổ chức cho phù
hợp để thực hiện tốt và liên kết chặt chẽ ba chức năng: đào tạo, NCKH và phục vụ xã
hội và quân đội với nhau. Bên cạnh các khoa, phòng ban chức năng, các trường đại học
quân đội phải hình thành một số tổ chức KH&CN khác để thuận lợi cho hoạt động
KH&CN, đó là: các viện; trung tâm nghiên cứu; các spin-off; các nhóm nghiên cứu các
phòng thí nghiệm trọng điểm, liên ngành; trung tâm giới thiệu và chuyển giao công
nghệ. Bộ Quốc phòng cần định hướng và điều chỉnh quy định về cơ cấu tổ chức của các
trường đại học quân đội trong “Điều lệ các trường đại học quân đội” cho phù hợp. Tùy
theo đặc điểm, lĩnh vực nghiên cứu và đào tạo, các trường đại học quân đội có thể hình
thành và phát triển một số hoặc tất cả các loại hình tổ chức KH&CN nói trên.
Ví dụ như đối với HVKTQS và các trường đại học quân đội đào tạo, nghiên cứu
các ngành kỹ thuật thì mô hình cơ cấu tổ chức nên được xây dựng như mô hình 4.2.
Trong cơ cấu tổ chức của HVKTQS và các trường đại học quân đội thuộc lĩnh vực kỹ
thuật, Hội đồng khoa học và đào tạo của Nhà trường sẽ có chức năng tư vấn cho Ban
Giám đốc (Ban Giám hiệu) về các hoạt động đào tạo, nghiên cứu và chuyển giao tri
thức, công nghệ. Ban Giám đốc (Ban Giám hiệu) sẽ chỉ đạo các hoạt động của các đơn
vị trực thuộc trong trường. Các đơn vị trực thuộc trong trường đại học quân đội có quan
hệ phối hợp với nhau trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ đào tạo, nghiên cứu và
phục vụ xã hội. Các Khoa, các viện, trung tâm nghiên cứu và các phòng thí nghiệm trực
171
thuộc trường vừa thực hiện chức năng nghiên cứu, vừa thực hiện đào tạo và thường
xuyên phối hợp, liên kết với nhau trong hoạt động đào tạo và nghiên cứu, cùng sử dụng,
khai thác các trang thiết bị nghiên cứu, trong đó chú trọng sự liên kết để phát huy sức
mạnh tổng hợp, đa ngành, đa lĩnh vực của nhà trường và nhằm tạo ra các sản phẩm có
độ tích hợp cao. Các khoa, viện, trung tâm nghiên cứu và các phòng thí nghiệm phối
hợp với các tổ chức spin-off để hoàn thiện sản phẩm nghiên cứu và đưa sản phẩm vào
sử dụng trong thực tiễn. Trung tâm giới thiệu và chuyển giao công nghệ sẽ phối hợp với
các khoa, viện, trung tâm nghiên cứu và các phòng thí nghiệm để giới thiệu và đưa các
kết quả nghiên cứu đến thị trường, bảo vệ các quyền lợi chính đáng của chủ thể đối với
Ban Giám đốc
Hội đồng khoa học và đào tạo
(Ban Giám hiệu)
Khoa
Viện, trung tâm nghiên cứu
kết quả nghiên cứu.
Phòng thí nghiệm trọng điểm
Bộ môn
Nhóm nghiên cứu mạnh
Các Spin-off
Trung tâm giới thiệu và CGCN
Các phòng, ban chức năng
Ghi chú: Các quan hệ: Chỉ đạo Tư vấn Phối hợp
Hình 4.2: Mô hình cơ cấu tổ chức của HVKTQS để thực hiện tốt các chức
năng đào tạo, NCKH và phục vụ quân đội, xã hội
(Nguồn: Kết quả nghiên cứu của luận án)
172
Kết quả khảo sát của đề tài cho thấy, tỷ lệ rất cao các nhà khoa học của HVKTQS
đồng ý rằng các trường đại học quân đội muốn thực hiện tốt chức năng NCKH thì cần
có các tổ chức KH&CN sau: viện nghiên cứu (50%), trung tâm nghiên cứu (64%), trung
tâm giới thiệu và chuyển giao công nghệ (51,2%), phòng thí nghiệm trọng điểm (54,7%).
Việc đầu tư phòng thí nghiệm trọng điểm được các giảng viên, nhà nghiên cứu trong
HVKTQS rất ủng hộ, để hỗ trợ tốt hơn cho hoạt động nghiên cứu. Họ cũng mong muốn,
phòng thí nghiệm trọng điểm được đầu tư theo yêu cầu của nhiệm vụ nghiên cứu, tránh
đầu tư dàn trải, không đúng mục đích. Việc thành lập trung tâm giới thiệu và chuyển
giao công nghệ cũng được các giảng viên, nhà nghiên cứu trong HVKTQS ủng hộ để
hỗ trợ việc đăng ký bảo hộ Sở hữu trí tuệ các sản phẩm nghiên cứu và tăng cường chuyển
giao công nghệ, khai thác hiệu quả các sản phẩm nghiên cứu.
Hộp 4.2. Đề xuất của các nhà khoa học về các tổ chức KH&CN trong trường đại
học quân đội
“Phòng thí nghiệm trọng điểm hỗ trợ rất tốt cho nghiên cứu. Tuy nhiên việc đầu tư
phải xuất phát từ yêu cầu thực tế, tránh việc đầu tư dàn trải, không đúng mục đích”
(Nam, 45 tuổi, TS, Giảng viên)
“…Cần có hỗ trợ để xây dựng các phòng thí nghiệm có chất lượng, có khả năng
nghiên cứu và công bố quốc tế, có khả năng nghiên cứu ứng dụng với các phép đo
chính xác” (Nam, 43 tuổi, PGS.TS, Trưởng phòng thí nghiệm)
“…Nên lựa chọn các nhóm nghiên cứu có tổ chức tốt, tiềm lực nghiên cứu mạnh để
đầu tư trang thiết bị nghiên cứu hiện đại gắn với giao nhiệm vụ đào tạo sau đại học
và NCKH cụ thể” (Nam, 43 tuổi, PGS.TS, Chủ nhiệm khoa)
“…Trung tâm giới thiệu và chuyển giao công nghệ sẽ thúc đẩy việc đăng ký sáng chế,
ngoài ra còn có tác dụng tâm lý nhằm làm cho các cán bộ, giáo viên tự tin và mạnh
dạn hơn trong đăng ký cũng như khai thác tốt hơn các sản phẩm nghiên cứu” (Nam,
45 tuổi, TS, Chủ nhiệm bộ môn)
173
(Nguồn: Kết quả phỏng vấn sâu của luận án)
4.5. Những điều kiện cần thiết để thực hiện các giải pháp hoàn thiện chức năng
NCKH nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực khoa học và công nghệ
quân sự của các trường đại học quân đội
4.5.1. Xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa đào tạo và nghiên cứu trong các trường
đại học quân đội
Các trường đại học quân đội cần xác định, NCKH là một nhiệm vụ bắt buộc,
quan trọng bên cạnh chức năng đào tạo truyền thống. NCKH trong các trường đại học
quân đội luôn gắn bó chặt chẽ và phục vụ hoạt động đào tạo, nhằm nâng cao chất lượng
đào tạo của nhà trường. Các trường đại học quân đội cần tăng cường quán triệt để mỗi
cán bộ, giảng viên nhận thức rõ trách nhiệm của mình trong hoạt động KH&CN. Mỗi
cá nhân giảng viên, nghiên cứu viên trong các trường đại học quân đội cần phải xác định
hoạt động NCKH là nhiệm vụ bắt buộc. Mỗi giảng viên cần chủ động xác định hướng
nghiên cứu chính của bản thân và tham gia vào các nhóm nghiên cứu có hoạt động
nghiên cứu phù hợp. Các nhà khoa học có học hàm, học vị cao chủ động nắm bắt định
hướng NCKH của cấp trên, nhu cầu thực tiễn của đơn vị để tổ chức nhóm nghiên cứu,
xác định hướng nghiên cứu và xây dựng kế hoạch thực hiện.
Để thực hiện tốt được điều này, các trường đại học quân đội cần hoàn thiện quy
định hành chính về nhiệm vụ NCKH, coi NCKH là nhiệm vụ quan trọng và bắt buộc
đối với các giảng viên. Hàng năm, giảng viên phải có công trình khoa học công bố dưới
dạng: đề tài nghiên cứu, bài báo khoa học đăng trên các tạp chí chuyên ngành, báo cáo
tham gia tại các hội nghị, hội thảo khoa học trong và ngoài nước, sáng kiến cải tiến kỹ
thuật, xây dựng bài thí nghiệm, viết sách giáo trình, tài liệu tham khảo…Theo lộ trình,
từng bước, cần quy định tăng lượng thời gian dành cho NCKH của giảng viên trong các
trường đại học quân đội. Tỷ lệ thời gian dành cho các hoạt động đào tạo – NCKH – học
tập, bồi dưỡng các nhiệm vụ chuyên môn khác của giảng viên trong các trường đại học
quân đội hiện nay là 5-3-2, từng bước nâng tỷ lệ này lên thành 4-4-2 (đặc biệt là đối với
các trường đại học quân đội định hướng xây dựng thành đại học nghiên cứu).
Bên cạnh đó, các trường đại học quân đội cần tiếp tục đẩy mạnh hoạt động NCKH
ở học viên, sinh viên để tăng cường việc gắn kết đào tạo với NCKH. Các học viên, sinh
174
viên đặc biệt là học viên sau đại học phải trở thành lực lượng tham gia vào các nghiên
cứu cùng với đội ngũ giảng viên. Các định hướng nghiên cứu, chủ đề luận văn, luận án
cần bám sát các hướng nghiên cứu đang được triển khai của các giảng viên, nghiên cứu
viên. Việc gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu và đào tạo mang lại rất nhiều lợi ích tiềm
năng. Học viên được đào tạo cả về kiến thức, năng lực cho nghề nghiệp tương lai, được
cung cấp những hiểu biết sâu sắc về nghiên cứu và sẽ là nguồn tuyển dụng thuận lợi cho
hoạt động nghiên cứu. Nghiên cứu sẽ tạo kinh nghiệm cho sinh viên đối với kiến thức
môn học và giúp sinh viên, học viên đạt được các kỹ năng nghiên cứu chuẩn mực. Ngược
lại, sinh viên, học viên có thể đóng góp nhiều hơn cho các nghiên cứu theo nhiều cách
khác nhau. Những ý tưởng nghiên cứu mới nổi có thể được thử nghiệm trong bối cảnh
giáo dục và sinh viên, học viên có thể tích cực tham gia vào các hoạt động nghiên cứu
một cách rộng rãi hơn. Do đó, đào tạo có thể cung cấp một "môi trường thí nghiệm" cho
các ý tưởng nghiên cứu, và các sinh viên, học viên đặc biệt là học viên sau đại học là
một phần của các nỗ lực nghiên cứu.
Tuy nhiên, để có thể thực hiện được liên kết chặt chẽ giữa nghiên cứu và đào tạo
thì đòi hỏi các trường đại học quân đội phải có sự lãnh đạo học thuật mạnh mẽ. Điều
này phải trở thành mục tiêu, một nét văn hóa của các trường đại học quân đội. Các giảng
viên cần phải xác định làm tốt cả công việc giảng dạy và nghiên cứu. Họ luôn có ý thức
gắn nghiên cứu với giảng dạy, thực hiện giảng dạy theo phong cách NCKH và truyền
cảm hứng, đam mê, kinh nghiệm nghiên cứu cho học viên, sinh viên. Bên cạnh đó, các
giảng viên phải luôn sẵn sàng đón nhận và tạo điều kiện để các sinh viên, học viên có
năng lực tham gia vào các nghiên cứu của mình. Hơn nữa, các trường đại học quân đội
cần có cơ chế khuyến khích học viên tham gia vào hoạt động nghiên cứu. Một trong
những cơ chế đó là sẵn sàng tạo cơ hội nghề nghiệp tại trường hoặc các đơn vị tốt cho
những học viên, sinh viên có năng lực và đam mê nghiên cứu và có thành tích tốt trong
hoạt động nghiên cứu.
Kết quả điều tra thực tế tại HVKTQS, cho thấy, hầu hết các giảng viên, nhà
nghiên cứu được hỏi (98,8%) đều có quan điểm cho rằng: việc gắn kết giữa nghiên cứu
và đào tạo trong các trường đại học quân đội là cần thiết. Điều đó, chứng tỏ, các giảng
viên, nghiên cứu viên đều nhận thức rõ được tác động của hoạt động nghiên cứu đối với
175
đào tạo và tầm quan trọng của việc gắn kết chặt chẽ giữa hai hoạt động này trong các
trường đại học quân đội. Do đó, khi kết hợp với sự quan tâm, chỉ đạo của lãnh đạo, chỉ
huy, điều này hoàn toàn có thể thực hiện tốt ở các trường đại học quân đội.
4.5.2. Xây dựng mối liên kết giữa các trường đại học quân đội với các viện nghiên
cứu và các đơn vị sản xuất
Việc xây dựng và phát triển các mối liên kết giữa các trường đại học quân đội
với các viện nghiên cứu và các đơn vị sản xuất nhằm tăng cường việc gắn kết giữa đào
tạo với nghiên cứu và sản xuất. Trường đại học quân đội hợp tác với các viện nghiên
cứu sẽ sử dụng hiệu quả các nguồn lực khoa học và công nghệ, đặc biệt là các trang thiết
bị nghiên cứu tiên tiến, hiện đại, cần đầu tư lớn. Điều này là cực kì quan trọng trong
hoạt động NCKH của các trường đại học quân đội vì các trang thiết bị quân sự thường
có sự kết hợp rất nhiều công nghệ tiên tiến, hiện đại mà máy móc, trang thiết bị đi thuê
bên ngoài khó có thể đạt được và liên quan đến yếu tố bí mật quân sự.
Việc gắn kết giữa các trường đại học và các đơn vị sản xuất đặc biệt là các doanh
nghiệp, nhà máy sản xuất quốc phòng giúp hoạt động đào tạo, nghiên cứu của trường
đại học quân đội phù hợp và phục vụ hiệu quả cho sản xuất. Tham gia vào hoạt động
sản xuất trực tiếp tại các doanh nghiệp, nhà máy quốc phòng, các đơn vị trong toàn quân
sẽ giúp cho các giảng viên của các trường đại học quân đội nắm được các yêu cầu của
thực tiễn về các kiến thức và kỹ năng cần thiết đối với đội ngũ nhân lực KH&CN quân
sự để xây dựng chương trình đào tạo phù hợp. Bên cạnh đó, các giảng viên cũng biết
được hoạt động sản xuất đang cần gì để thực hiện các nghiên cứu đáp ứng nhu cầu đó.
Sự cần thiết và tầm quan trọng của việc xây dựng mối liên kết giữa các trường đại học
quân đội với các viện nghiên cứu và các đơn vị sản xuất đã được khẳng định qua các ý
kiến phỏng vấn sâu và các ý kiến của các nhà lãnh đạo các tổ chức trong quân đội tại
các hội thảo khoa học (Hộp 4.3, Hộp 4.4, Hộp 4.5).
Hộp 4.3. Liên kết trường đại học quân đội, viện nghiên cứu và doanh nghiệp, nhà
máy quốc phòng để hỗ trợ NCKH và đào tạo
“…Việc tăng cường hợp tác với các viện nghiên cứu của quân đội và các nhà máy
quốc phòng sẽ rất tốt để cùng sử dụng các trang thiết bị nghiên cứu và làm tăng hàm
lượng công nghệ cao trong sản phẩm nghiên cứu bằng việc kết hợp nhiều ý kiến của
176
các chuyên gia” (Nam, 43 tuổi, TS, Giảng viên)
“…Sự hợp tác này mang ý nghĩa to lớn nhằm xây dựng nguồn nhân lực chất lượng
cao, phối hợp cùng giải quyết các bài toán nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả khai
thác, sử dụng các trang thiết bị, góp phần tự chủ trong sản xuất, tránh nhập khẩu,
nhất là trong tình hình biến động của thế giới hiện nay” (Nam, 44 tuổi, PGS.TS,
trưởng phòng thí nghiệm)
“… Đội ngũ cán bộ có trình độ và hiểu rõ nhu cầu đơn vị” (Nam, PGS.TS, 43 tuổi,
Trưởng Trung tâm, trưởng nhóm nghiên cứu mạnh)
“…Rất tốt. Hiện nay nhiều viện nghiên cứu, nhà máy được đầu tư trang thiết bị rất hiện
đại, nếu có cơ chế thích hợp sẽ nâng cao hiệu quả khai thác và tránh để hư hỏng, xuống
cấp” (Nam, 42 tuổi, PGS.TS, Cán bộ quản lý)
(Nguồn: Kết quả phỏng vấn sâu của luận án)
Hộp 4.4. Ý kiến của lãnh đạo Cục Cán bộ, Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân
dân Việt Nam
“Thực hiện tốt công tác liên kết trong đào tạo giữa nhà trường với các viện nghiên
cứu, cơ sở kỹ thuật, đơn vị để giảng viên, giáo viên, học viên được tiếp cận với các
loại vũ khí, trang bị kỹ thuật, các công nghệ mới, hiện đại mà nhà trường chưa được
trang bị, góp phần nâng cao kiến thức thực tiễn, năng lực thực hành cho người học”
(Nguồn: Báo cáo tại Hội thảo:“Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những vấn đề
đặt ra đối với hệ thống Nhà trường Quân đội”)
Hộp 4.5. Ý kiến của lãnh đạo Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng
“… Tạo điều kiện để đội ngũ cán bộ trẻ của Tổng cục có trình độ tiến sĩ và kinh
nghiệm thực tiễn được tham gia giảng dạy, hướng dẫn luận án tại HVKTQS; mở các
đề tài nghiên cứu có nhân sự tham gia của các thầy và các kĩ sư tại nhà máy công
nghiệp Quốc phòng”
(Nguồn: Báo cáo tại Hội thảo: “HVKTQS – 50 năm công tác đào tạo và NCKH đáp ứng yêu cầu thực tiễn)
4.5.3. Xây dựng định hướng đổi mới sáng tạo trong các trường đại học quân đội
Xây dựng hệ thống khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (STI) là yêu cầu cần
177
thiết đối với các quốc gia hiện nay. Trong đó, các trường đại học (bao gồm cả các trường
đại học quân đội) là một nhân tố quan trọng trong hệ thống này. Vì vậy, các trường đại học
quân đội cần tăng cường các hoạt động đổi mới sáng tạo, bám sát các chương trình, chính
sách đổi mới - sáng tạo của quốc gia. Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện một số chính sách
nổi bật về đổi mới – sáng tạo, trong đó có “Chương trình Đổi mới – sáng tạo” (IPP) và Đề
án “Hỗ trợ Hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới, sáng tạo quốc gia đến năm 2025”.
“Chương trình Đổi mới – sáng tạo” làm việc với các doanh nghiệp, công sở
và các tổ chức đào tạo tri thức như các trường đại học và các viện nghiên cứu với
mục đích tăng cường các hoạt động đổi mới - sáng tạo ở Việt Nam. Các trường đại học
quân đội tham gia vào các hoạt động của chương trình để học hỏi, biết làm như thế nào
trong quá trình đổi mới sáng tạo và tăng cường năng lực đổi mới sáng tạo của tổ chức.
Bên cạnh đó, Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới, sáng tạo quốc gia
đến năm 2025” nhằm tạo lập môi trường thuận lợi để thúc đẩy, hỗ trợ quá trình
hình thành và phát triển loại hình doanh nghiệp có khả năng tăng trưởng nhanh
dựa trên khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ, mô hình kinh doanh mới. Đề án này
đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 844/QĐ-TTg ngày 18
tháng 05 năm 2016. Đề án nhằm khẩn trương hoàn thiện hệ thống pháp lý hỗ trợ
khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, thiết lập được Cổng thông tin khởi nghiệp đổi mới
sáng tạo quốc gia. Mục tiêu của Đề án nhằm hỗ trợ được 800 dự án, 200 doanh
nghiệp khởi nghiệp, trong đó 50 doanh nghiệp gọi được vốn thành công từ các
nhà đầu tư mạo hiểm, thực hiện mua bán và sáp nhập, với tổng giá trị ước tính
khoảng 1.000 tỷ đồng. Đến năm 2025, Đề án sẽ:
- Hỗ trợ phát triển 2.000 dự án khởi nghiệp đổi mới sáng tạo;
- Hỗ trợ phát triển 600 doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo;
- 100 doanh nghiệp tham gia Đề án gọi được vốn đầu tư từ các nhà đầu tư mạo
hiểm;
Các trường đại học quân đội cần bám sát Đề án để sử dụng Ngân sách Nhà nước
hỗ trợ hình thành và phát triển các doanh nghiệp khởi nghiệp dựa trên các kết quả nghiên
cứu của nhà trường để đưa sản phẩm nghiên cứu ra thị trường, phục vụ quân đội và đời
sống thực tiễn, đồng thời mang lại lợi ích kinh tế cho các nhà khoa học và các trường
178
đại học quân đội.
4.5.4. Tăng cường hợp tác quốc tế
Trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu và rộng hiện nay, các trường đại học quân đội
cần tiếp tục đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong hoạt động đào tạo và NCKH. Trong hoạt
động hợp tác quốc tế, ngoài các đối tác truyền thống như Liên bang Nga, các nước thuộc
khối SNG, Đông Âu, Trung Quốc, Nhật Bản,… các trường đại học quân đội cần mở
rộng hợp tác với các đối tác có nền giáo dục, khoa học, công nghệ phát triển như Úc,
Hàn Quốc, Đức, Pháp,… nhằm tận dụng các cơ hội hợp tác, các chỉ tiêu học bổng cho
cán bộ, giáo viên và học viên đi học tập, bồi dưỡng ở nước ngoài. Trong quan hệ hợp
tác quốc tế, các trường đại học quân đội ưu tiên lựa chọn những chuyên ngành mà Quân
đội đang có nhu cầu và các nước đối tác lại sẵn sàng phối hợp, hỗ trợ triển khai. Các
trường đại học quân đội cần chủ động xây dựng các nhiệm vụ hợp tác quốc tế sử dụng
kinh phí từ các chương trình hợp tác quốc tế về KH&CN của Nhà nước…Về hình thức
hợp tác, các trường đại học quân đội nên đa dạng hóa các hình thức hợp tác với các đối
tác nước ngoài như: thực hiện các nghiên cứu chung, cùng hướng dẫn nghiên cứu sinh,
học viên, cùng tổ chức hội thảo, cùng tổ chức các ngành đào tạo, cùng tổ chức khóa bồi
dưỡng ngắn hạn và dài hạn,…
Để quá trình hợp tác quốc tế thuận lợi và hiệu quả thì các trường đại học quân đội
phải chuẩn bị tốt các tiềm lực, tương đồng với đối tác. Các cá nhân giảng viên, nhà nghiên
cứu phải chuẩn bị đủ năng lực để tham gia vào quá trình hợp tác trong đó có năng lực ngoại
ngữ và năng lực chuyên môn. Trong mỗi lĩnh vực, các trường đại học quân đội cần xây
dựng các nhóm nghiên cứu mạnh gắn với các chuyên gia đầu ngành, có trình độ chuyên
môn sâu, khả năng tổ chức, trình độ ngoại ngữ tốt, được đầu tư cơ sở vật chất hiện đại phục
vụ nghiên cứu, luôn sẵn sàng triển khai các hoạt động nghiên cứu, dự án sản xuất chung
hoặc tổ chức các hội nghị khoa học quốc tế…Các trường đại học quân đội cần chủ động
báo cáo, chủ động phát hiện các hướng, lĩnh vực hợp tác để đề xuất đưa vào các chương
trình, đề án của Bộ Quốc phòng để thuận lợi cho quá trình triển khai.
Bên cạnh đó, quy trình, thủ tục hợp tác ngày càng được chuẩn hóa, giúp rút ngắn
thời gian và thuận lợi cho các bên trong hợp tác đào tạo và nghiên cứu. Việc tăng cường
tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các trường đại học quân đội trong vấn đề hợp tác
179
quốc tế liên quan đến các hướng nghiên cứu cơ bản và các công nghệ lưỡng dụng là rất
cần thiết để việc hợp tác diễn ra thuận lợi và hiệu quả. Các ý kiến phỏng vấn sâu và quan
điểm của các nhà lãnh đạo tổ chức trong quân đội cũng đều khẳng định cần mở rộng
hợp tác với nước ngoài trong công tác đào tạo và NCKH cả về nội dung và các hình thức
hợp tác (Hộp 4.6 và Hộp 4.7).
Hộp 4.6. Đề xuất của cán bộ quản lý, nhà nghiên cứu về hợp tác quốc tế
“…Hiện nay, các ngành đặc thù quân sự thì nhiều đối tác nước ngoài chưa đáp ứng,
chưa sẵn sàng để hợp tác sâu. Do đó, các trường đại học quân đội cần mở rộng và
đa dạng hóa các đối tác, lĩnh vực hợp tác theo cả kênh quân sự và dân sự, tích cực
tìm kiếm các đối tác có nhiều thiện chí để hợp tác nghiên cứu và đào tạo” (Nam, 42
tuổi, PGS.TS, Cán bộ quản lý).
“Tăng cường và đa dạng hóa các hình thức hợp tác như cùng thực hiện các nghiên
cứu chung; cùng hướng dẫn luận án, luận văn; cùng tổ chức các hội thảo khoa học;
cùng đào tạo các ngành, chuyên ngành sẽ giúp cho quá trình hợp tác thuận lợi và
hiệu quả hơn và sẽ phục vụ nhiều cho hoạt động đào tạo” (Nam, 43 tuổi, PGS.TS,
Giảng viên chính).
(Nguồn: Kết quả phỏng vấn sâu của luận án)
Hộp 4.7. Ý kiến của lãnh đạo Viện Chiến lược Quốc phòng
“Nội dung hợp tác quốc tế bao gồm: trao đổi thông tin, nội dung, chương trình, tài
liệu đào tạo; trao đổi, hợp tác bồi dưỡng giáo viên tại nước ngoài và tại Việt Nam;
hợp tác, hỗ trợ xây dựng nhà trường, trung tâm giảng dạy công nghệ cao về quân sự;
hợp tác nghiên cứu, sản xuất sản phẩm công nghệ cao, lưỡng dụng của các trung tâm,
cơ sở của Nhà trường Quân đội”.
(Nguồn: Báo cáo tại Hội thảo:“Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những vấn đề
đặt ra đối với hệ thống Nhà trường Quân đội”).
4.6. Tiểu kết chương 4
Quá trình hội nhập quốc tế đang đặt ra những yêu cầu mới đối với các trường đại
học quân đội. Để đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao của Quân đội và Nhà nước trong giai
đoạn hiện nay, các trường đại học quân đội cần phải thực hiện tốt được cả 3 chức năng: đào
180
tạo, NCKH, phục vụ quân đội và xã hội. NCKH sẽ là cây cầu gắn kết và hỗ trợ tích cực đối
với hoạt động đào tạo và sản xuất (phục vụ quân đội và xã hội) của các trường đại học quân
đội. Vì vậy, hoàn thiện chức năng NCKH của các trường đại học quân đội là yêu cầu tất
yếu. Để hoàn thiện chức năng NCKH, các trường đại học quân đội cần tiến hành đồng bộ
ba nội dung:
Thứ nhất, đa dạng hóa hoạt động KH&CN, tức là đa dạng hóa các loại hình
nghiên cứu: nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và triển khai thực nghiệm; đa dạng
hóa lĩnh vực nghiên cứu: lĩnh vực dân sự, lĩnh vực lưỡng dụng, lĩnh vực đặc thù quân
sự và đa dạng hóa sản phẩm hoạt động KH&CN: công bố khoa học, thiết kế chế tạo sản
phẩm mới, phát triển, cải tiến sản phẩm theo đặt hàng, dịch vụ tư vấn KHCN, dịch vụ
chuyển giao công nghệ, ...
Thứ hai, tăng cường các nguồn lực phục vụ hoạt động KH&CN: nhân lực, tài
chính, cơ sở vật chất, thông tin KH&CN. Trong đó, nhân lực KH&CN có vai trò quan
trọng nhất, quyết định sự thành công của việc hoàn thiện chức năng NCKH của trường
đại học quân đội.
Thứ ba, hình thành và phát triển các tổ chức khoa học và công nghệ trong các
trường đại học quân đội hay nói cách khác là thay đổi cơ cấu tổ chức của các trường đại
học quân đội. Việc xây dựng và phát triển các viện nghiên cứu, các trung tâm nghiên
cứu, nhóm nghiên cứu mạnh, phòng thí nghiệm trọng điểm, trung tâm giới thiệu và
chuyển giao công nghệ trong các trường đại học quân đội là rất cần thiết để phát triển
hoạt động NCKH và hoàn thiện chức năng NCKH của các trường đại học quân đội.
Để NCKH phục vụ tốt hoạt động đào tạo, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo
thì các trường đại học quân đội phải luôn định hướng NCKH gắn với đào tạo, lực lượng
giảng viên, nghiên cứu viên vừa tham gia đào tạo vừa trực tiếp NCKH. Việc thực hiện
tốt cả 2 nhiệm vụ giảng dạy và nghiên cứu đối với giảng viên, nghiên cứu viên nên được
xây dựng như một nét văn hóa trong các trường đại học quân đội.
Đối với mỗi trường đại học quân đội, tùy thuộc vào điều kiện hiện tại của mình
và những đặc điểm của lĩnh vực đào tạo và nghiên cứu mà có những biện pháp, chính
sách cụ thể để hoàn thiện chức năng NCKH của mình dựa trên 3 nội dung trên. Chức
năng NCKH được hoàn thiện sẽ ảnh hưởng tích cực đến chất lượng đào tạo, nâng cao
181
chất lượng đào tạo của các trường đại học quân đội trong xu thế hội nhập quốc tế.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Kết luận
NCKH trong các trường đại học (bao gồm cả các trường đại học quân đội và các
trường đại học dân sự) là một chức năng quan trọng và luôn được quan tâm phát triển.
Hiện nay, trên thế giới đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về chức năng NCKH của
các trường đại học. Các tác giả đã phân tích khá sâu và khá đa dạng về các nguyên nhân
dẫn đến NCKH của các trường đại học chưa tốt và đã đề xuất được khá nhiều biện pháp
để cải thiện hoạt động này, trong đó tập trung nhiều nhất vào mảng các nguồn lực phục
vụ cho nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, vẫn còn những vấn đề, những khoảng trống mà
các nghiên cứu đi trước chưa đề cập đến, chưa trả lời, đó là:
- Chưa so sánh sự khác biệt giữa chức năng NCKH trong trường đại học quân
đội với các trường đại học thuộc khối dân sự;
- Chưa đánh giá một cách hệ thống sự tương tác giữa chức năng đào tạo và chức
năng nghiên cứu trong trường đại học quân đội, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc tế;
- Chưa có những biện pháp cụ thể nhằm hoàn thiện chức năng NCKH của các
trường đại học quân đội.
Từ phân tích tổng quan các công trình đi trước, tác giả rút ra những nội dung mà
Luận án cần tập trung làm rõ, bao gồm:
- Chỉ ra đặc trưng của trường đại học quân đội và sự khác biệt trong NCKH giữa
các trường đại học quân đội với các trường đại học thuộc khối dân sự;
- Phân tích sự tương tác giữa chức năng nghiên cứu và chức năng đào tạo trong
trường đại học đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc tế;
- Khảo sát thực tế tình hình thực hiện chức năng NCKH trong các trường đại học quân
đội và sự tác động của NCKH đến chất lượng đào tạo của các trường đại học quân đội;
- Khuyến nghị các giải pháp để hoàn thiện chức năng NCKH trong các trường
đại học quân đội nhằm nâng cao chất lượng đào tạo.
Qua quá trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn, các kết quả chính của luận án có
thể được tóm tắt như sau:
Thứ nhất, quá trình hội nhập quốc tế đang đặt ra những yêu cầu mới đối với giáo
182
dục đại học Việt Nam, trong đó có các trường đại học quân đội. Các trường đại học quân
đội hiện nay cần phải thực hiện tốt được cả 3 chức năng: đào tạo, NCKH, phục vụ quân
đội và xã hội. NCKH sẽ là cây cầu gắn kết và hỗ trợ tích cực đối với hoạt động đào tạo
và sản xuất (phục vụ quân đội và xã hội) của các trường đại học quân đội. NCKH trong
các trường đại học quân đội có những đặc điểm giống với NCKH của các trường đại
học thuộc khối dân sự nhưng cũng có những đặc điểm đặc trưng, riêng biệt của mình
như: ưu tiên các nghiên cứu ứng dụng trong lĩnh vực quân sự, nhiều kết quả nghiên cứu
không được công bố rộng rãi công khai, phục vụ phát triển tri thức khoa học quân sự,…
Thứ hai, chất lượng đào tạo của các trường đại học quân đội rất được quan tâm
và chú trọng trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Các tiêu chí đo lường chất lượng đào tạo
của các trường đại học quân đội bao gồm: tuyển sinh và nhập học, thiết kế và rà soát
chương trình dạy học, giảng dạy và học tập, đánh giá người học, hoạt động phục vụ và
hỗ trợ người học, kết quả đào tạo. Chất lượng đào tạo của các trường đại học quân đội
cũng có những nét đặc thù so với các trường đại học thuộc khối dân sự nên việc đánh
giá chất lượng đào tạo của các trường đại học quân đội cũng có những tiêu chí riêng.
Sản phẩm đào tạo của các trường đại học quân đội là các sỹ quan Quân đội nhân dân Việt
Nam, nên họ phải có đầy đủ các tiêu chuẩn của người sỹ quan và các tiêu chuẩn này phải
được rèn luyện và tích lũy trong các trường đại học quân đội. Ngoài việc có trình độ chuyên
môn tốt, các học viên tốt nghiệp các trường đại học quân đội phải có bản lĩnh chính trị vững
vàng, tuyệt đối trung thành với tổ quốc, với nhân dân; luôn có tinh thần cảnh giác cách
mạng cao, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh, hoàn hành tốt mọi nhiệm vụ được giao; có phẩm
chất đạo đức cách mạng, gương mẫu chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy dân chủ, giữ nghiêm kỷ luật quân đội; tôn trọng và
đoàn kết với nhân dân, với đồng đội.
Thứ ba, NCKH tác động rất lớn đến chất lượng đào tạo của các trường đại học quân
đội, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Điều này được thể hiện trong các tiêu chí:
- NCKH sẽ nâng cao trình độ, kỹ năng của giảng viên, đạt được trình độ quốc tế,
đáp ứng các tiêu chuẩn của giảng viên quốc tế. Điều này được thể hiện thông qua các
bài báo khoa học được công bố, đặc biệt là các bài báo đăng trên các tạp chí uy tín quốc
tế; các bằng sáng chế, giải pháp hữu ích; các đề tài nghiên cứu hợp tác với các tổ chức
183
nghiên cứu, trường đại học quốc tế; các giải thưởng khoa học của các giảng viên trong
các trường đại học quân đội;
- NCKH sẽ nâng cao chất lượng các chương trình đào tạo, giáo trình, tài liệu tham
khảo, sách chuyên khảo và các trang thiết bị phục vụ đào tạo, đáp ứng các tiêu chuẩn
quốc tế và phù hợp với sự phát triển của KH&CN trên thế giới. Tiêu chí này được thể
hiện ở: các chương trình đào tạo được mở mới; các học phần được thay đổi, bổ sung;
các sách chuyên khảo, giáo trình, tài liệu tham khảo, học cụ thường xuyên được cập
nhật, đổi mới, theo trình độ phát triển KH&CN trên thế giới.
- Sinh viên, người học được tiếp nhận những kiến thức tiên tiến, rèn kỹ năng tự
học, tự giải quyết vấn đề và đưa ra những cách xử lý vấn đề trên cơ sở những kiến thức
đã học nên có chất lượng tốt thể hiện ở các giải thưởng của sinh viên, người học; kết
quả tốt nghiệp; khả năng đáp ứng yêu cầu công việc sau khi ra trường và phát triển hoạt
động nghiên cứu.
NCKH đã khẳng định được vai trò của mình đối với các trường đại học quân đội nói
riêng và các trường đại học nói chung. Do đó, trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, các
trường đại học quân đội cần hoàn thiện chức năng NCKH để khẳng định vị trí của mình và
để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực KH&CN quân sự cho đất nước.
Thứ tư, kết quả khảo sát thực tế tại HVKTQS cho thấy, trong thời gian qua, Học
viện đã thực hiện khá tốt chức năng NCKH, là một trong số các trường dẫn đầu về
NCKH và đào tạo trong các trường đại học quân đội. Học viện đã có nhiều sản phẩm
phục vụ cho quân đội và sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Đặc biệt, NCKH
của HVKTQS đã có những tác động tích cực đối với hoạt động đào tạo, góp phần nâng
cao chất lượng đào tạo, cung cấp nguồn nhân lực KH&CN chất lượng cao cho quân đội
và cho đất nước. Trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay, NCKH của HVKTQS có
nhiều cơ hội để phát triển. Bên cạnh đó, chức năng này vẫn còn những điểm hạn chế và
đang phải đối mặt với nhiều thách thức trong quá trình hội nhập. Do đó, Học viện cần
có những biện pháp, chính sách tác động phù hợp để phát huy được thế mạnh, tận dụng
được các cơ hội, đồng thời khắc phục những hạn chế, những điểm yếu và những thách
thức để tiếp tục hoàn thiện chức năng NCKH và sẵn sàng tham gia hội nhập quốc tế.
Thứ năm, hoàn thiện chức năng NCKH của các trường đại học quân đội là yêu
184
cầu tất yếu. Để hoàn thiện chức năng NCKH, các trường đại học quân đội cần tiến hành
đồng bộ ba nội dung:
Một là, phải đa dạng hóa hoạt động KH&CN, tức là đa dạng hóa các loại hình
nghiên cứu: nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và triển khai thực nghiệm; đa dạng
hóa lĩnh vực nghiên cứu: lĩnh vực dân sự, lĩnh vực lưỡng dụng, lĩnh vực đặc thù quân
sự và đa dạng hóa sản phẩm hoạt động KH&CN: công bố khoa học, thiết kế chế tạo sản
phẩm mới, phát triển, cải tiến sản phẩm theo đặt hàng, dịch vụ tư vấn KHCN, dịch vụ
chuyển giao công nghệ, ...
Hai là, cần tăng cường các nguồn lực phục vụ hoạt động KH&CN: nhân lực, tài
chính, cơ sở vật chất, thông tin KH&CN. Trong đó, nhân lực KH&CN có vai trò quan
trọng nhất, quyết định sự thành công của việc hoàn thiện chức năng NCKH của trường
đại học quân đội.
Ba là, cần hình thành và phát triển các tổ chức khoa học và công nghệ trong các
trường đại học quân đội hay nói cách khác là thay đổi cơ cấu tổ chức của các trường đại
học quân đội. Việc xây dựng và phát triển các viện nghiên cứu, các trung tâm nghiên
cứu, nhóm nghiên cứu mạnh, phòng thí nghiệm trọng điểm, trung tâm giới thiệu và
chuyển giao công nghệ trong các trường đại học quân đội là rất cần thiết để hoàn thiện
chức năng NCKH.
Để NCKH phục vụ tốt hoạt động đào tạo, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo
thì các trường đại học quân đội phải luôn định hướng NCKH gắn với đào tạo, lực lượng
giảng viên, nghiên cứu viên vừa tham gia đào tạo, vừa trực tiếp NCKH. Việc thực hiện
tốt cả 2 nhiệm vụ giảng dạy và nghiên cứu đối với giảng viên, nghiên cứu viên nên được
xây dựng như một nét văn hóa trong các trường đại học quân đội.
Khuyến nghị
Thứ nhất, trong nghiên cứu đã chỉ ra, để thực hiện được tốt chức năng NCKH thì
các trường đại học cần phải được cung cấp các nguồn lực đầu vào chất lượng cao cho
nghiên cứu. Vì vậy, khi đã xác định và quy định chức năng NCKH là một chức năng
quan trọng đối với các trường đại học quân đội thì Nhà nước và Quân đội cần phải cung
cấp và hỗ trợ đầy đủ các nguồn lực đầu vào cho hoạt động nghiên cứu của các trường
đại học quân đội.
185
Thứ hai, các kết quả nghiên cứu trong luận án có thể là khung tham chiếu hữu
ích cho các nhà hoạch định chính sách và các trường đại học quân đội, đặc biệt là
HVKTQS tham khảo trong việc hoàn thiện chức năng NCKH nhằm nâng cao chất lượng
đào tạo nguồn nhân lực KH&CN quân sự trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Để hoàn thiện
chức năng NCKH, các trường đại học quân đội cần triển khai tổng thể các nội dung: đa
dạng hóa các hoạt động KH&CN, tăng cường các nguồn lực cho nghiên cứu và tái cấu
trúc nhà trường theo hướng hoàn thiện chức năng nghiên cứu. Tuy nhiên, việc vận dụng
các kết quả nghiên cứu trên vào thực tiễn của các trường đại học quân đội còn phụ thuộc
vào điều kiện cụ thể của từng trường đại học quân đội nên khi triển khai áp dụng thì cần
có những lựa chọn chi tiết cụ thể trong từng nội dung cho phù hợp nhất với đặc điểm
của tổ chức mình, để thực hiện chức năng nghiên cứu một cách tốt nhất.
Thứ ba, cần có thêm các nghiên cứu tiếp theo theo hướng nghiên cứu của luận án
để có thể triển khai một cách hiệu quả các giải pháp nhằm hoàn thiện chức năng NCKH
của các trường đại học quân đội trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Chức năng NCKH
được hoàn thiện sẽ góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của các trường đại học quân
186
đội trong xu thế hội nhập quốc tế.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Thị Gấm (2015), “Gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học chuyên ngành
Quản lý Khoa học và Công nghệ tại Học viện Kỹ thuật Quân sự, Tạp chí Nhà
trường Quân đội (2), tr. 47-49.
2. Nguyễn Thị Gấm (2016), “Những vấn đề đặt ra trong hoạt động chuyển giao
công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế”, Tổ
chức và hoạt động chuyển giao công nghệ: Kinh nghiệm của Australia và đề xuất
cho Việt Nam, NXB Thế giới, tr. 387-394.
3. Nguyễn Thị Gấm (2017), “Sử dụng Lý thuyết trò chơi trong chính sách thu hút
nhân lực khoa học và công nghệ”, Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn T.
III(1b), tr. 74-83.
4. Nguyễn Thị Gấm (2017), “Trách nhiệm xã hội của các trường đại học trong xu
thế hội nhập quốc tế”, Đào tạo, nghiên cứu chính sách và quản lý ở Việt Nam:
Thành tựu và triển vọng, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Khoa Khoa học quản lý, Viện
Chính sách và Quản lý, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
5. Nguyễn Thị Gấm (2018), “Hoàn thiện chức năng nghiên cứu khoa học nhằm
nâng cao chất lượng đào tạo của các trường đại học tại Việt Nam trong xu thế hội
nhập quốc tế”, Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn T.IV(4), tr. 450-462.
6. Nguyễn Thị Gấm (2018), “Đào tạo, nghiên cứu ngành Quản lý Khoa học và Công
nghệ trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0”, Khoa học Xã hội và Nhân văn Việt
Nam trong quá trình toàn cầu hóa, Kỷ yếu hội nghị khoa học cán bộ trẻ và học
viên Sau đại học năm 2017, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.50-61.
7. Nguyễn Thị Gấm (2020), “Giải pháp đẩy mạnh nghiên cứu khoa học của giảng viên
187
trẻ tại Học viện Kỹ thuật Quân sự”, Tạp chí Quân sự Quốc phòng (25), tr.77-79.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1. Lê Hữu Ái, Lâm Bá Hòa (2010), “NCKH – Yêu cầu bắt buộc đối với đội ngũ
giảng viên trong các trường đại học”, Tạp chí KH&CN, Đại học Đà Nẵng (4),
tr.109-116.
2. Nguyễn Khắc Bảo (2013), Đổi mới chính sách đào tạo để nâng cao chất lượng
nhân lực khoa học công nghệ của nhà máy X51, Luận văn Thạc sĩ Quản lý
KH&CN, Đại học KHXH&NV – Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
3. Trần Văn Bình (2010), “Hoạt động CGCN trong các trường đại học tại Pháp”,
Tạp chí KH&CN Việt Nam (2), tr.49-50.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Quyết định 65/2007/QĐ-BGDĐT Ban hành Quy
định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường đại học, Hà Nội.
5. Bộ GD&ĐT (2012), Thông tư 62/2012/TT-BGDĐT về quy trình và chu kỳ kiểm
định chất lượng giáo dục trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp,
Hà Nội.
6. Bộ GD&ĐT (2017), Thông tư 12/2017/TT-BGDÐT, Quy định về kiểm định chất
lượng cơ sở GDĐH, Hà Nội.
7. Bộ Quốc Phòng (2016), Điều lệ Công tác Nhà trường Quân đội nhân dân Việt
Nam, Hà Nội.
8. Bộ Quốc Phòng (2016), Điều lệ Công tác KH&CN Quân đội nhân dân Việt Nam,
NXB Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
9. Nguyễn Đức Chính (2002), Kiểm định chất lượng trong GDĐH, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
10. Lê Văn Chung (2014), “Phát huy vai trò của các tạp chí ở các nhà trường quân đội
đối với giáo dục, đào tạo và NCKH”, Tạp chí Nhà trường quân đội (3), tr.18-21.
11. Lương Mạnh Cường (2011), “Một số biện pháp nâng cao chất lượng đào tạo và
xây dựng Học viện hải quân vững mạnh toàn diện”, Tạp chí Nhà trường quân
đội (2), tr.29-31.
12. Phạm Đức Dũng (2016), “Bước phát triển mới trong công tác đào tạo và nghiên
188
cứu khoa học ở Học viện Hậu cần”, Tạp chí Nhà trường Quân đội (3), tr. 8-12.
13. Vũ Cao Đàm (2014), Nghịch lý và lối thoát – Bàn về triết lý khoa học và giáo
dục Việt Nam, NXB Thế Giới, Hà Nội.
14. Vũ Cao Đàm, Trịnh Ngọc Thạch, Đào Thanh Trường (2017), Kỹ năng đánh giá
chính sách, NXB Thế giới, Hà Nội.
15. Vũ Cao Đàm (2011), Đánh giá NCKH, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
16. Trần Khắc Đào (2015), “Học viện Lục quân đẩy mạnh NCKH đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ trong tình hình mới”, Tạp chí nghiên cứu chiến thuật, chiến dịch (5), tr.8-11.
17. Lê Quang Đạo (2017), Đào tạo nhân lực khoa học và công nghệ trong doanh
nghiệp thông qua liên kết với trường đại học (nghiên cứu trường hợp doanh
nghiệp Viettel), Luận văn Thạc sĩ Quản lý KH&CN, Đại học KHXH&NV – Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
18. Nguyễn Công Định (2017), “Xây dựng HVKTQS phát triển theo mô hình trường
đại học nghiên cứu”, Tạp chí Nhà trường quân đội (5), tr. 16-19.
19. Nguyễn Phương Đông (2015), “Phối hợp NCKH và đào tạo giữa Viện Khoa học
Xã hội Nhân văn Quân sự với phòng Sau Đại học ở Học viện Chính trị”, Tạp chí
Giáo dục Lý luận Chính trị quân sự (4), tr.71-73.
20. Vũ Minh Giang (2009), “Tích hợp NCKH và đào tạo tiến sĩ ở Đại học Quốc gia
Hà Nội”, Gắn kết NCKH với đào tạo tiến sĩ trong các cơ sở đào tạo sau đại học,
Kỷ yếu hội thảo khoa học Bộ Giáo dục và Đào tạo, tr.10-25.
21. Nguyễn Quang Giao (2010), “Khái niệm chất lượng GDĐH với cách tiếp cận
thông qua khách hàng”, Tạp chí KH&CN, Đại học Đà Nẵng (3), tr.129-135.
22. Mai Hà (2015), “Hội nhập quốc tế về KH&CN của Việt Nam trong giai đoạn
mới”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam (7), tr. 108-112.
23. Nguyễn Thị Thu Hà (2010), Tạo môi trường làm việc thân thiện nhằm thu hút
nguồn nhân lực KHCN về công nghệ sinh học trong y học (Nghiên cứu trường
hợp Học viện Quân y), Luận văn Thạc sĩ Quản lý KH&CN, Đại học KHXH&NV
– Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
24. Trần Văn Hải (2017), Tổ chức và hoạt động CGCN: Kinh nghiệm của Australia
và đề xuất cho Việt Nam, NXB Thế Giới, Hà Nội.
189
25. Đặng Huy Hiếu (2017), Khắc phục những rào cản trong quá trình chuyển đổi
hoạt động theo hướng tự chủ tại các Viện nghiên cứu thuộc tổng cục công nghiệp
quốc phòng, Luận văn Thạc sĩ Quản lý KH&CN, Đại học KHXH&NV – Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
26. Khuất Đức Hòa (2016), “Nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu đề tài khoa
học, sáng kiến cải tiến mô hình học cụ dạy học cấp Bộ Tổng tham mưu trong các
nhà trường quân đội”, Tạp chí Nhà trường quân đội (3), tr. 41-43.
27. HVKTQS (2015), “Những con số ấn tượng về đào tạo và NCKH gia đoạn 2010
-2015”, Thông tin Giáo dục – Đào tạo, Khoa học – Công nghệ (86), tr. 134-136.
28. HVKTQS, Báo cáo tổng hợp kết quả KH&CN, Hà Nội.
29. HVKTQS (2017), Quyết định về việc hỗ trợ kinh phí công bố khoa học, văn bằng
sở hữu trí tuệ tại HVKTQS, Hà Nội.
30. HVKTQS (2012), Quỹ hỗ trợ ươm tạo tiềm năng của HVKTQS, Hà Nội.
31. HVKTQS (2016), Quyết định ban hành quy định tạm thời về chế độ làm việc
của cán bộ nghiên cứu tại HVKTQS, Hà Nội.
32. HVKTQS (2018), Báo cáo kết quả hoạt động của nhóm nghiên cứu mạnh năm
2017 và định hướng hoạt động năm 2018, Hà Nội.
33. HVKTQS (2018), Quyết định Ban hành quy định về tiêu chuẩn và quy trình xét
duyệt chức danh cán bộ giảng dạy tại HVKTQS, Hà Nội.
34. HVKTQS, Danh mục đề tài, nhiệm vụ cấp Quốc gia, cấp Bộ đã và đang thực
hiện giai đoạn 2010-2015, Hà Nội.
35. HVKTQS (2017), Tổng hợp nhân lực tham gia giảng dạy và NCKH, Hà Nội.
36. HVKTQS (2016), Đề cương tuyên truyền 50 năm Học viện Kỹ thuật Quân sự,
Hà Nội.
37. HVKTQS, Báo cáo Tổng kết công tác thi đua, khen thưởng và phong trào thi
đua quyết thắng (giai đoạn 2014-2019), Hà Nội.
38. Trần Tấn Hùng (2016), “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của đảng bộ
HVKTQS đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới”, Tạp chí Nhà trường
quân đội (1), tr. 3-7.
39. Hoàng Mạnh Hưng (2013), “Gắn NCKH với giáo dục và đào tạo ở Học viện
190
Chính trị”, Tạp chí Nhà trường quân đội (2), tr.34-37.
40. Trung tâm xử lý và phân tích thông tin (2010), Các chiến lược và chính sách của
Trung Quốc nhằm thúc đẩy đổi mới GDĐH và đào tạo nhân công tay nghề cao,
Cục Thông tin KH&CN quốc gia.
41. Hoàng Trung Kiên (2010), “Nghiên cứu phục vụ giảng dạy và huấn luyện vấn đề:
lực lượng tăng thiết giáp đánh trả vũ khí công nghệ cao của địch trong giai đoạn đầu
của cuộc chiến tranh hiện đại”, Tạp chí Nhà trường quân đội (6), tr.28-30.
42. Đinh Ái Linh (2014), “Kinh nghiệm 8 quốc gia xây dựng đại học đẳng cấp thế
giới”, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Nghiên cứu Giáo dục T. 30
(1), tr. 61-70.
43. Phạm Thế Long (2009), “Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực NCKH của
nghiên cứu sinh trong đào tạo tiến sĩ”, Gắn kết NCKH với đào tạo tiến sĩ trong các
cơ sở đào tạo sau đại học, Kỷ yếu hội thảo Bộ Giáo dục và Đào tạo, tr.161-166.
44. Bùi Tiến Lợi (2014), “Góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm NCKH ở các
nhà trường quân đội”, Tạp chí Nhà trường quân đội (1), tr.16-18.
45. Từ Ngọc Lương (2016), “Những kinh nghiệm rút ra từ giáo dục, đào tạo năm học 2015-
2016 của trường sỹ quan lục quân 2”, Tạp chí Nhà trường quân đội (4), tr. 16-18.
46. Hoàng Văn Lương (2009), “Học viện quân y trong việc gắn kết NCKH với đào
tạo tiến sĩ”, Gắn kết NCKH với đào tạo tiến sĩ trong các cơ sở đào tạo sau đại
học, Kỷ yếu hội thảo Bộ Giáo dục và Đào tạo, tr.167-172.
47. Phan Văn Lương, Lê Văn Huấn (2015), “Một số biện pháp đẩy mạnh nghiên cứu
khoa học, kết hợp giáo dục, đào tạo với nghiên cứu khoa học trong nhà trường
quân đội hiện nay”, Tạp chí Nhà trường quân đội (5), tr.53-56.
48. Võ Sĩ Mạnh (2017), Đảm bảo chất lượng bên trong cơ sở GDĐH, Tài liệu tập
huấn đầu năm học Học Viện Kỹ thuật Quân sự, Hà Nội.
49. Nguyễn Hữu Mão (2009), “Gắn kết NCKH với đào tạo tiến sĩ ở học viện lục
quân”, Gắn kết NCKH với đào tạo tiến sĩ trong các cơ sở đào tạo sau đại học,
Kỷ yếu hội thảo Bộ Giáo dục và Đào tạo, tr.153-160.
50. Đỗ Thanh Minh (2016), “Nâng cao chất lượng NCKH góp phần thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ giáo dục, đào tạo ở trường sỹ quan lục 1”, Tạp chí Nhà trường quân
191
đội (6), tr.14-16.
51. Lê Hữu Nghĩa (2011), “Những quan niệm về chất lượng GDĐH”, Bản tin Đại
học Quốc gia Hà Nội (242), tr. 26-30.
52. Phan Quốc Nguyên (2010), “Mô hình doanh nghiệp Spin 0ff trong các trường
đại học trên thế giới”, Tạp chí KH&CN Việt Nam (6), tr.59-60.
53. Trần Hữu Phúc (2016), “HVKTQS với nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao cho quân đội và đất nước”, Tạp chí nhà trường quân đội (6), tr.4-6.
54. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Luật KH&CN.
55. Trần Anh Tài, Trịnh Ngọc Thạch (2013), Mô hình đại học doanh nghiệp – Kinh
nghiệm quốc tế và gợi ý cho Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
56. Trịnh Ngọc Thạch (2017), Nghiên cứu hiện trạng và định hướng phát triển hoạt
động NCKH và phát triển công nghệ của các trường đại học phù hợp với xu
hướng đổi mới quản lý hoạt động KH&CN của Việt Nam trong tiến trình hội
nhập KH&CN quốc tế, Báo cáo tổng hợp đề tài, Hà Nội.
57. Trần Ngọc Thanh (2015), “Đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ khoa học có
trình độ cao đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ thời kỳ mới”, Tạp chí Nhà trường Quân
đội (5), tr. 18-21.
58. Nguyễn Hương Thảo (2014), “Nâng cao chất lượng NCKH của đội ngũ giảng
viên trường sỹ quan lục quân I”, Tạp chí Nhà trường quân đội (6), tr.35-37.
59. Liêu Quốc Thắng (2014), “NCKH – một nhiệm vụ quan trọng của người giảng
viên trong các nhà trường quân đội”, Tạp chí quân huấn (565), tr.27-29.
60. Nguyễn Văn Thinh (2014), “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và Đào tạo ở
trường Sỹ quan phòng hóa”, Tạp chí Nhà trường quân đội (3), tr. 3-5.
61. Thủ tướng Chính phủ (2014), Điều lệ trường đại học.
62. Phạm Huy Tiến (2016), “Tái cấu trúc các viện nghiên cứu để thực hiện chức
năng đào tạo”, Phát huy tiềm lực đội ngũ cán bộ khoa học thực hiện công tác đào
tạo sau đại học, Diễn đàn khoa học công nghệ chuyên nghiệp năm 2016, Viện
Hàn lâm KH&CN Việt Nam, Học viện KH&CN, tr.61-67.
63. Nguyễn Văn Tuân (2017), “Vai trò của hoạt động NCKH đối với sinh viên”,
Thông tin giáo dục – đào tạo, khoa học- công nghệ (97), tr 5-9.
192
64. Trần Đức Uẩn (2015), “Xây dựng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục đáp
ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo ở Học viện Biên
Phòng”, Tạp chí Nhà trường quân đội (1), tr. 16-19.
65. Phan Văn Vân (2017), “Đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo của Học viện Hải
Quân hiện nay”, Tạp chí Nhà trường Quân đội (6), tr. 32-34.
Tiếng Anh
66. Akao, Y., Nagai, K. and Maki, N. (1996), “QFD concept for improving higher
education”, Proceedings of ASQC’s 50th Annual Quality Congress, pp. 12-20
67. Gill, B. and Mulvenon, J. (2002), “Chinese Military-Related Think Tanks and
Research Institutions”, The China Quarterly, Vol. 171, pp. 617-624.
68. Brundenius, C., Lundvall, BA. And Sutz, J. (2009), The role of universities in
innovation systems in developing countries: development university systems –
empirical analytical and normative perspectives, Handbook of innovation systems
and developing countries: building domestic capabilities in a Global setting.
69. Buzan, B., Sen, G. (1990), “The Impact of Military Research and Development
Priorities on the Evolution of the Civil Economy in Capitalist States”, Review of
International Studies, Vol. 16 (4), pp. 321-339.
70. Carlsson H., Kettis A., Söderholm A. (2014), Research quality and the role of
the University leadership, The Swedish Association of Higher Education
(SUHF)/ Experts´Committee on Quality, Stockholm.
71. Creswell, J. W. (2008), Educational Research: Planning, conducting, and evaluating
quantitative and qualitative research (3rd ed.), Upper Saddle River: Pearson.
72. Fernate A., Surikova1 S., Kalnina D., Romero C.S. (2009), “Research-Based
Academic Studies: Promotion of the Quality of Learning Outcomes in Higher
Education?”, Paper presented at the European Conference on Educational
Research, University of Vienna.
73. Gibbons, M., Limoges, C., Nowtry, H., Schwartzman, S., Scott, P and Trow, M.
(1995), The new production of knowledge: the Dynamics of Science and
Research in Contemporary Societies, Sage Publications, London.
193
74. Goransson, B. and Brundenius (2011), Universities in Transition: the changing
role and Challenges for Academic Institutions.
75. Green, D. (1994), What is Quality in Higher Education?, SRHE and Open
University Press, Buckingham.
76. Harvey, L and Green, D. (1993), “Defining quality”, Assessment and Evaluation
in Higher Education, Vol. 18 (1), pp. 9-34.
77. Mintrom, M. (2008), “Managing the research function of the university:
pressures and dilemmas”, Journal of Higher Education Policy and Management,
Vol. 30 (3), pp. 231–244.
78. OECD (1995), The measurement of scientific and technological activities
manual on the measurement of human resources devoted to S&T, Canberra
manual, Pari.
79. OECD (2007), Revised Field of Science and Technology (FOS) Classification in
The Frascati Manual.
80. OECD (2015), Guidelines for Collecting and Reporting Data on Research and
Experimental Development, Frascati Manual.
81. Parsons, T. (1951), The Social System, Glencoe, III. Free Press.
82. Sara, Guri-Rosenblit and Helena Sebkova (2004), Diversification of higher
Education Systems: Patterns, Trends and Impact, Diversification of Higher
Education and the Changing Role of knowledge and Research, paper Presented
at the Second Scientific Committee Meeting for Europe and North America.
Forum Occasional paper series paper N0.6. UNESCO.
83. Srikanthan, G. and Dalrymymple, J. (2003), “Developing alternative
perspectives for quality in higher education”, The International Journal of
Education Management, Vol. 17 (3), pp. 126-136.
84. Steinbock, D. (2014), The Challenges for America’s Defense Innovation, The
Information Technology & Innovation Foundation
85. Tödtling F. (2006), The role of universities in innovation systems and regional
economies, Expert meeting on The future of academic research Vienna, Vienna
University of Economics and Business Administration.
194
86. University of National and World Economy (2009), Security and Defence R&D
Management: Policy, Concepts and Models, Conference: University of National
and World Economy, Sofia.
87. U.S. Army (2015), The Army University White Paper.
88. Whiteman, E. (1998), Training and Educating Army Officers for The 21st
Century: Implication for The United States Military Academy, U.S. Army War
College Carlisle Barracks, Pennsylvania 17013.
Tiếng Nga
89. Бовкун А. С. (2014), Формирование подходов к повышению эффективности
управления инновационной деятельностью вуза. Диссертация
кандидата экономических наук, Иркут. гос. техн. ун-т, г.Иркутск.
90. Аппалонова Н.А. (2012), “ВУЗ в системе интеграции научной и
образовательной деятельности: проблемы и перспективы”, Вестник
Университета управления «ТИСБИ» (3), с.174-180.
91. Юсова В.В. (2004), Методы оценки эффективности научно-
исследовательской деятельности высших учебных заведений. Автореф.
дис. канд. экон. наук, С.-Петерб. торгово-экон. ин-т, г. Санкт-Петербург.
Website
92. Nguyễn Bính (2010), NCKH góp phần nâng cao trình độ giảng viên đại học,
https://nhandan.com.vn/khoahoc/khoa-hoc/item/13792502-.html. Truy cập
tháng 4.2018.
93. Cục Sở hữu trí tuệ, Thư viện số về Sở hữu công nghiệp,
http://iplib.noip.gov.vn/WebUI/WSearchPAT.php. Truy cập tháng 5 năm 2018.
94. Vũ Xuân Dân (2016), Nâng cao hiệu quả NCKH của đội ngũ nhà giáo quân đội,
https://www.qdnd.vn/quoc-phong-an-ninh/xay-dung-quan-doi/nang-cao-hieu-
qua-nghien-cuu-khoa-hoc-cua-doi-ngu-nha-giao-quan-doi-493074. Truy cập
tháng 5 năm 2018.
95. Tăng Văn Đài, Lê Công Lịnh (2015), Một số giải pháp nâng cao chất lượng,
hiệu quả thông tin khoa học quân sự phục vụ lãnh đạo, chỉ huy, quản lý giáo dục
195
- đào tạo, nghiên cứu khoa học tại các học viện, nhà trường Quân đội, Tạp chí
Khoa học quân sự (6), misten.bqp.vn, truy cập tháng 4 năm 2018.
96. Nguyễn Quốc Đoàn (2015), Nội dung và hình thức hoạt động nghiên cứu khoa học
quân sự, Tạp chí khoa học quân sự (12), misten.bqp.vn. Truy cập tháng 3 năm 2018.
97. Nguyễn Thúy Hà (2013), Chính sách phát triển nguồn nhân lực KH&CN, Cổng
thông tin điện tử Viện nghiên cứu lập pháp,
http://vnclp.gov.vn/ct/cms/tintuc/Lists/chinhsach/View_Detail.aspx?ItemID=17
9. Truy cập tháng 8 năm 2017.
98. Hiên Kiều (2013), NCKH trong trường ĐH: Gắn nhà trường với doanh nghiệp,
https://baomoi.com/nghien-cuu-khoa-hoc-trong-truong-dh-gan-nha-truong-voi-
doanh-nghiep/c/12400418.epi. Truy cập tháng 4.2018.
99. Học viện Chính trị (2013), Truyền thống Học viện Chính trị,
http://hocvienchinhtribqp.edu.vn/index.php/lich-su-hoc-vien-chinh-tri/truyen-
thong-hoc-vien-chinh-tri.html. Truy cập tháng 10.2018.
100. Học viện Quân y (2018), Một số nét chính về lịch sử, truyền thống của
Học viện Quân y, http://hocvienquany.edu.vn/multiweb/LTT-Portal/WS25-
DV15047-
mot_so_net_chinh_ve_lich_su_truyen_thong_cua_hoc_vien_quan_y.html. Truy
cập tháng 9.2018.
101. Đặng Văn Huấn (2011), Giao đại học quyền tự chủ: Kinh nghiệm từ Hàn Quốc,
http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/giao-dh-quyen-tu-chu-kinh-nghiem-tu-han-
quoc-50854.html. Truy cập tháng 5.2018.
102. Lê Ngọc Hùng (2016), Tổng quan về lý thuyết cấu trúc – chức năng,
http://viennccspt.hcma1.vn/ly-thuyet/tong-quan-ve-ly-thuyet-cau-truc-chuc-
nang:-gs-.ts-le-ngoc-hung-a379.html. Truy cập tháng 02.2020.
103. Trung Kiên, Nghiên cứu và phát triển KH&CN trong các trường đại học Mỹ,
http://www.nistpass.gov.vn/vi/tin-tuc/tin-quoc-te/1504-nghien-cuu-va-phat-trien-
khoa-hoc-va-cong-nghe-trong-cac-truong-dai-hoc-my. Truy cập tháng 5.2018.
104. Phùng Kim Lân (2014), Hiện đại hóa Quân đội đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới, http://www.qdnd.vn/quoc-phong-an-ninh/xay-dung-
196
quan-doi/hien-dai-hoa-quan-doi-dap-ung-yeu-cau-bao-ve-to-quoc-trong-tinh-
hinh-moi-434757. Truy cập tháng 5.2018.
105. Hoàng Xuân Long (2014), Kinh nghiệm thế giới về đầu tư cho NCKH và phát
triển công nghệ, http://www.nistpass.gov.vn/vi/tin-tuc/tin-quoc-te/1497-kinh-
nghiem-the-gioi-ve-dau-tu-cho-nghien-cuu-khoa-hoc-va-phat-trien-cong-nghe.
Truy cập tháng 5.2018.
106. Đoàn Hùng Minh (2014), Nâng cao hiệu quả kết nối tiềm lực NCKH – kỹ thuật
công nghệ quân sự, http://tapchiqptd.vn/vi/nghien-cuu-tim-hieu/nang-cao-hieu-
qua-ket-noi-tiem-luc-nghien-cuu-khoa-hoc-ky-thuat-cong-nghe-quan-
su/5563.html. Truy cập tháng 5.2018.
107. Trần Văn Ngợi (2017), Thực trạng nhân lực khoa học công nghệ trong các cơ
quan nhà nước ở Việt Nam hiện nay,
http://isos.gov.vn/Thongtinchitiet/tabid/84/ArticleId/1493/language/vi-VN/Th-
c-tr-ng-nhan-l-c-khoa-h-c-cong-ngh-trong-cac-c-quan-nha-n-c-Vi-t-Nam-hi-n-
nay.aspx. Truy cập tháng 5.2018.
108. Hà Phương (2017), Hoạt đông khoa học công nghệ ở trường đại học thay đổi
thế nào?, http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/khoa-hoc/hoat-dong-khoa-hoc-cong-
nghe-o-truong-dai-hoc-thay-doi-the-nao-373590.html. Truy cập tháng 5.2018.
109. Nguyễn Huy Sự (2017), Tự chủ tài chính NCKH tại các trường cao đẳng, đại học,
http://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-kinh-doanh/tai-chinh-doanh-nghiep/tu-chu-tai-
chinh-nghien-cuu-khoa-hoc-tai-cac-truong-cao-dang-dai-hoc-111783.html.
110. Ngô Đức Thế (2014), Mô hình công ty Spin-off,
https://www.thesaigontimes.vn/117628/Mo-hinhcong-ty-spin-off.html. Truy cập
tháng 02.2020.
111. Nguyễn Bích Thủy (2014), Thúc đẩy NCKH trong các trường đại học,
http://www.vietnamplus.vn/thuc-day-nghien-cuu-khoa-hoc-trong-cac-truong-
dai-hoc/247416.vnp. Truy cập tháng 5.2018.
112. Thanh Thủy (2014), Tài chính cho khoa học – công nghệ: Kinh nghiệm từ Hàn
Quốc, http://baochinhphu.vn/Hoat-dong-Bo-nganh/Tai-chinh-cho-khoa-
hoccong-nghe-Kinh-nghiem-tu-Han-Quoc/211451.vgp. Truy cập tháng 4.2018.
197
113. Nguyễn Tuấn, Hoàng Hà, Văn Phong, Học viện Hậu cần: Không ngừng phát triển để
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong từng giai đoạn cách mạng, https://www.qdnd.vn/quoc-
phong-an-ninh/xay-dung-quan-doi/khong-ngung-phat-trien-de-dap-ung-yeu-cau-
nhiem-vu-trong-tung-giai-doan-cach-mang-541332. Truy cập tháng 8.2018.
114. Phạm Quốc Trụ (2014), Hội nhập quốc tế: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn,
http://nghiencuubiendong.vn/toan-cau-hoa-hoi-nhap-kinh-te/2014-hoi-nhap-
quoc-te-mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien. Truy cập tháng 4.2018.
115. Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Đội ngũ cán bộ, https://www.hust.edu.vn/-
oi-ngu-can-bo. Truy cập tháng 2. 2019.
116. ARWU (2017), Methodology, http://www.shanghairanking.com/ARWU-
Methodology-2017.html. Truy cập tháng 5. 2018.
117. Burnett C. (2017), Army University, CGSC welcome new leader,
http://www.ftleavenworthlamp.com/news/20170914/army-university-cgsc-
welcome-new-leader. Truy cập tháng 5.2018.
118. FAS, The Role of Sciencetific Research in Weapon Development: What is
Military R&D and How Does It Work?,
https://fas.org/man/eprint/leitenberg/intro.pdf. Truy cập tháng 2.2020.
119. Martyn Shuttleworth, Lyndsay T Wilson (2008) , Definition of Research,
https://explorable.com/definition-of-research. Truy cập tháng 5 năm 2018.
120. Merriam-Webster, Dictionary, https://www.merriam-
webster.com/dictionary/research. Truy cập tháng 5 năm 2018.
121. Office of the Deputy Assistant Secretary of the Army for Research and
Technology (2017), Army Science and Technology,
https://www.army.mil/standto/2017-09-26. Truy cập tháng 5.2018.
122. OECD, Gross domestic spending on R&D, https://data.oecd.org/rd/gross-
domestic-spending-on-r-d.htm. Truy cập tháng 2 năm 2018.
123. Oxford, Dictionary, https://www.lexico.com/en/definition/research. Truy cập
tháng 5 năm 2018.
124. Pitcock R. (2011), Science in Military,
http://www.sciencemag.org/careers/2011/12/science-military. Truy cập tháng
198
4.2018.
125. QS (2018), Methodology, https://www.topuniversities.com/qs-world-
university-rankings/methodology. Truy cập tháng 5 năm 2018.
126. QS, National University of Defense Technology,
https://www.topuniversities.com/universities/national-university-defense-
technology. Truy cập tháng 5 năm 2018.
127. Targetcareers, The university route into a career in the armed forces,
https://targetcareers.co.uk/career-sectors/public-sector-and-charity/334-the-
university-route-into-a-career-in-the-armed-forces. Truy cập tháng 5 năm 2018.
128. THE (2017), World University Rankings 2018 methodology,
https://www.timeshighereducation.com/world-university-rankings/methodology-
world-university-rankings-2018. Truy cập tháng 5 năm 2018.
129. United States Military Academy (USMA), Centers and Research Activities,
199
https://westpoint.edu/centers-and-research. Truy cập tháng 5 năm 2018.
PHỤ LỤC
PHIẾU THU THẬP THÔNG TIN
Xin chào Anh/Chị!
Nhằm thu thập thông tin đánh giá về vai trò của hoạt động nghiên cứu khoa
học trong các trường đại học quân đội và đề xuất những giải pháp để hoạt động
này ngày càng tốt hơn, chúng tôi thực hiện nghiên cứu này. Chúng tôi rất mong
nhận được ý kiến đóng góp của các Anh/Chị về thực tiễn hoạt động nghiên cứu
khoa học hiện nay cũng như những mong muốn của bản thân Anh/Chị liên quan
đến hoạt động này. Ý kiến của Anh/Chị có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc
đánh giá khách quan về vai trò của hoạt động nghiên cứu trong các trường đại học
quân đội và để khuyến nghị các chính sách liên quan đến hoạt động này. Chúng
tôi cam đoan rằng:
- Thông tin do Anh/Chị cung cấp chỉ phục vụ mục đích nghiên cứu;
- Quý danh của Anh/Chị sẽ được giữ bí mật.
Xin trân trọng cám ơn sự hợp tác của Anh/Chị!
Hướng dẫn cách trả lời:
Với mỗi câu hỏi, Anh/Chị lựa chọn phương án trả lời nào phù hợp với ý kiến của
mình và đánh dấu chọn (dấu X hoặc V) vào ô bên phải phương án đó.
Với các phương án trả lời mở, Anh/Chị vui lòng viết câu trả lời vào dòng gạch
chấm bên cạnh.
Lưu ý: Một số câu hỏi có thể có nhiều phương án lựa chọn, do đó Anh/Chị có
thể chọn nhiều phương án trả lời cho cùng một câu hỏi, chỉ cần chúng không
mâu thuẫn với nhau.
I. THÔNG TIN CÁ NHÂN
1. Tuổi:…………………………………………………………………………………………
2. Giới tính: ……………………………………………………………………………………
3. Đơn vị công tác:……………………………………………………………………………..
4. Chức vụ:……………………………………………………………………………………..
5. Số năm công tác:……………………………………………………………………………
6. Chức danh:………………………………………………………………………………….
7. Học hàm:
Phó giáo sư
Giáo sư
8. Học vị:
Tiến sĩ
Tiến sĩ khoa học
Thạc sĩ
Kỹ sư/Cử nhân
Khác…………………………………………………………………………………….
II. THÔNG TIN VỀ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ GIẢNG DẠY CỦA CÁ NHÂN
1. Số bài báo khoa học quốc tế mà anh/chị đã công bố trong giai đoạn 2012-2017:
0 1 2
3 4 5
Trên 5
2. Số bài báo trong nước mà anh/chị đã công bố trong giai đoạn 2012-2017:
0 1-3 4-5
5-8 9-10 trên 10
3. Số lượng đề tài nghiên cứu khoa học các cấp mà anh/chị đã chủ nhiệm hoặc tham gia
trong giai đoạn 2012-2017:
STT
Cấp đề tài
Tham gia
Chủ nhiệm
1
Đề tài cấp Quốc gia
……………………. ……………………
2
Đề tài cấp Bộ
……………………. ……………………..
3
Đề tài cấp Ngành
……………………… ……………………..
4
Đề tài cấp Cơ sở
………………………. ……………………..
4. Số lượng sản phẩm nghiên cứu khoa học mà anh/chị (hoặc nhóm của anh/chị) thực hiện
đã được chuyển giao công nghệ hoặc ứng dụng trong thực tiễn:
0 1 2
3 4 5
Trên 5
5. Số lượng sản phẩm nghiên cứu khoa học của anh/chị(hoặc nhóm của anh/chị)đã nộp
đơn đăng ký quyền Sở hữu trí tuệ:
0 1 2
3 4 5
Trên 5
6. Số lượng sản phẩm nghiên cứu khoa học của anh/chị (hoặc nhóm của anh/chị)đã được
cấp văn bằng bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ:
0 1 2
3 4 5
Trên 5
7. Sản phẩm của các đề tài nghiên cứu mà anh/chị (hoặc nhóm của anh/chị)đã thực hiện
được sử dụng trong lĩnh vực nào: (vui lòng ghi cụ thể số lượng từng loại)
Quân sự
Số lượng…………………
Dân sự
Lưỡng dụng (cả quân sự và dân sự)
Số lượng…………………… Số lượng……………………
8. Các đề tài nghiên cứu mà anh/chị thực hiện thuộc loại hình nào? Những yếu tố ảnh
hưởng đến quá trình lựa chọn và thực hiện từng loại đề tài của anh/chị?
Loại hình nghiên cứu
Yếu tố ảnh hưởng
Nghiên cứu
Kinh phí phù hợp
cơ bản
Phù hợp với lĩnh vực chuyên môn
Thế mạnh của cá nhân và nhóm nghiên cứu
Yêu cầu về sản phẩm nghiên cứu phù hợp
Điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường đảm bảo để thực
hiện nghiên cứu
Cá nhân và nhóm nghiên cứu có mối quan hệ tốt với các cá
nhân, tổ chức trong và ngoài nước thuận lợi cho quá trình
nghiên cứu
Yếu tố khác ………………………………………
……………………………………………………
Kinh phí phù hợp
Phù hợp với lĩnh vực chuyên môn
Nghiên cứu
Thế mạnh của cá nhân và nhóm nghiên cứu
ứng dụng
Yêu cầu về sản phẩm nghiên cứu phù hợp
Điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường đảm bảo để thực
hiện nghiên cứu
Thuận lợi trong việc phối hợp với các tổ chức khác trong
quá trình thực hiện nghiên cứu
Yếu tố khác ………………………………………
……………………………………………………
Triển khai
Kinh phí phù hợp
thực nghiệm
Phù hợp với lĩnh vực chuyên môn
Thế mạnh của cá nhân và nhóm nghiên cứu
Yêu cầu về sản phẩm nghiên cứu phù hợp
Điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường đảm bảo để thực
hiện nghiên cứu
Thuận lợi trong việc phối hợp với các đơn vị khác để thực
nghiệm đề tài nghiên cứu
Yếu tố khác ………………………………………
9. Kinh phí các đề tài nghiên cứu mà anh/chị thực hiện có từ nguồn nào:
Ngân sách Nhà nước
Doanh nghiệp tư nhân
Tổ chức nước ngoài
Tổ chức khác……………………………………………………………………………
10. Anh/chị có tham gia vào các nhóm nghiên cứu không? (Nếu “có” xin mời trả lời tiếp từ
câu 11, nếu “không” xin mời trả lời tiếp từ câu 12)
Có Không
11. Nhóm nghiên cứu của anh/chị có các đặc điểm nào sau đây:
Có hướng nghiên cứu chuyên sâu
Có người lãnh đạo học thuật giỏi, tâm huyết, tích cực
Có sự trao đổi liên tục, thường xuyên giữa các thành viên trong nhóm
Không có sự phân biệt vị trí, thứ bậc, tuổi tác giữa các thành viên trong
nhóm khi trao đổi chuyên môn
Các nhà nghiên cứu trẻ trong nhóm được tôn trọng và được tạo điều kiện,
cơ hội phát huy năng lực, ý tưởng sáng tạo
Các thành viên trong nhóm đều thuộc cùng Bộ môn
Các thành viên trong nhóm thuộc các Bộ môn, các Khoa khác nhau trong
cùng trường đại học
Các thành viên trong nhóm thuộc các đơn vị, tổ chức khác nhau cả ở trong
và ngoài trường
Đặc điểm khác: ……………………………………………………………..
12. Anh/chị có tham gia giảng dạy không? (Nếu “có” xin mời trả lời tiếp từ câu 13, nếu
“không” xin mời trả lời tiếp từ câu 15)
Có Không
13. Các đề tài nghiên cứu mà anh/chị đã thực hiện liên quan như thế nào đến lĩnh vực
giảng dạy của anh/chị?
Đúng lĩnh vực giảng dạy
Gần với lĩnh vực giảng dạy
Không liên quan đến lĩnh vực giảng dạy
14. Kết quả các đề tài nghiên cứu mà anh/chị đã thực hiện có được sử dụng vào công tác
giảng dạy của anh/chị:
Có Không
15. Kết quả nghiên cứu khoa học của anh/chị được sử dụng vào những hoạt động nào
sau đây:
Đề xuất thay đổi, bổ sung các môn học, học phần
Viết mới giáo trình, tài liệu tham khảo
Sửa đổi, bổ sung giáo trình, tài liệu tham khảo
Viết mới, bổ sung bài giảng
Xây dựng các bài thí nghiệm, thực hành
Hướng dẫn luận án, luận văn, khóa luận tốt nghiệp
Hướng dẫn sinh viên, học viên nghiên cứu khoa học
Đổi mới phương pháp giảng dạy
Hình thức khác……………………………………………………
16. Số lượng sản phẩm đào tạo từ các đề tài nghiên cứu của anh/chị (là hướng dẫn thành
công đồ án tốt nghiệp, luận văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ liên quan đến đề tài nghiên cứu):
Nghiên cứu sinh………………………………………………………………………...
Cao học…………………………………………………………………………………
Đại học………………………………………………………………………………….
17. Theo anh/chị, trong các trường đại học quân đội, việc liên kết chặt chẽ giữa hoạt động
nghiên cứu và hoạt động đào tạo có cần thiết hay không?
Có Không
III. ĐÁNH GIÁ VÀ ĐỀ XUẤT
18. Anh/chị có biết các định hướng nghiên cứu của Nhà nước, Bộ Quốc phòng và các cơ
quan, đơn vị khác:
Nắm đầy đủ các định hướng nghiên cứu
Nắm được một số thông tin về định hướng nghiên cứu
Không biết các định hướng nghiên cứu các cấp
19. Anh/chị có biết thông tin và quy chế hoạt động của những Quỹ sau đây của Nhà trường
nơi anh/chị đang công tác:
Quỹ Hỗ trợ nghiên cứu khoa học
Quỹ Đầu tư và phát triển
Quỹ Hỗ trợ ươm tạo tiềm năng
20. Hệ thống thông tin về khoa học và công nghệ của nhà trường cung cấp cho anh/chị
những thông tin nào sau đây:
Định hướng nghiên cứu của Nhà nước, các Bộ, Ngành và các cơ quan
trong và ngoài quân đội
Nhu cầu thực tế về các sản phẩm khoa học và công nghệ của các
đơn vị trong quân đội
Nhu cầu thực tế về các sản phẩm khoa học và công nghệ của các tổ chức
ngoài quân đội
Hệ thống các đề tài nghiên cứu do cán bộ, giảng viêncủa nhà trường
đã và đang thực hiện
Nội dung các bài báo của cán bộ, giảng viên nhà trường đăng trên các
ấn phẩm khoa học trong và ngoài nước
21. Anh/chị thường gặp những khó khăn nào trong quá trình nghiên cứu khoa học:
Nguồn kinh phí thực hiện đề tài còn thấp
Thiếu nguồn kinh phí hỗ trợ dài hạn để phát triển hướng nghiên cứu
Nhiều thủ tục hành chính trong quá trình làm nghiên cứu
Thiếu những người cộng tác chuyên môn ăn ý
Ít có cơ hội chủ nhiệm đề tài các cấp do còn ít kinh nghiệm và thành tích nghiên
cứu khoa học
Thiếu cơ sở vật chất để thực hiện nghiên cứu (phòng thí nghiệm, trang thiết bị)
Thiếu thời gian thực hiện nghiên cứu
Thiếu mối quan hệ hợp tác quốc tế trong nghiên cứu
Thiếu sự hỗ trợ tích cực từ phía cơ quan quản lý khoa học và công nghệ
Thiếu thông tin về nhu cầu thực tế tại các đơn vị, tổ chức trong và ngoài quân
đội đối với các loại sản phẩm nghiên cứu
Khó đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm nghiên cứu
Thiếu tổ chức hỗ trợ để đưa sản phẩm nghiên cứu vào áp dụng trong thực tiễn
Khó khăn khác:………………………………………………………………..
22. Anh/ chị mong muốn được tạo điều kiện nào sau đây để thực hiện tốt hơn nhiệm vụ
nghiên cứu khoa học:
Đi khảo sát, bồi dưỡng ở nước ngoài
Đi khảo sát, bồi dưỡng ở trong nước
Trao đổi nghiên cứu ở trong và ngoài nước
Thực tập ngắn hạn ở trong và ngoài nước
Hỗ trợ tham gia các hội thảo khoa học trong nước và quốc tế
Trang bị phòng thí nghiệm hiện đại
Tăng kinh phí nghiên cứu khoa học
Hỗ trợ tài chính dài hạn để phát triển hướng nghiên cứu
Tăng kinh phí hỗ trợ công bố khoa học
Hỗ trợ đăng ký bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm
nghiên cứu
Có tổ chức hỗ trợ hoàn thiện sản phẩm nghiên cứu và đưa sản
phẩm áp dụng vào thực tế
Được cung cấp hệ thống thông tin về định hướng nghiên cứu của
` ` ` ` ` ` ` ` ` ` ` ` ` ` ` ` ` ` ` ` ` ` ` ` ` ` ` ` `
Nhà nước, các Bộ, Ngành, Đơn vị
Được cung cấp hệ thống thông tin về nhu cầu thực tế của các đơn
vị, tổ chức đối với các sản phẩm khoa học và công nghệ
Khác:………………………………………. ……………………
23. Theo anh/chị, để hoạt động nghiên cứu khoa học được thực hiện tốt, các trường đại
học quân đội cần phải có những tổ chức nào sau đây:
Viện nghiên cứu
Trung tâm nghiên cứu
Trung tâm giới thiệu và chuyển giao công nghệ
Doanh nghiệp khoa học và công nghệ
Phòng thí nghiệm trọng điểm
Tổ chức khác…………………………………………………………………………
Một lần nữa xin chân thành cảm ơn sự hợp tác và giúp đỡ của Anh/Chị !
-------------------------------------------------------------------------------------------------------
HƯỚNG DẪN NỘI DUNG PHỎNG VẤN DÀNH CHO
LÃNH ĐẠO VIỆN, TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU
Tôi muốn cảm ơn anh/chị đã dành thời gian gặp gỡ tôi hôm nay! Giới thiệu
Tôi tên là ……………………………….. và tôi muốn hỏi ý kiến
anh/chị về một số vấn đề liên quan đến hoạt động nghiên cứu của
đơn vị anh/chị. Tôi xin phép được ghi chép lại nội dung của cuộc
phỏng vấn để làm tư liệu, phục vụ cho nghiên cứu. Tất cả các câu trả
lời của anh/chị sẽ được đảm bảo bí mật thông tin và chỉ phục vụ mục
đích nghiên cứu. Anh/chị không cần phải trả lời những thông tin mà
anh/chị không muốn nhắc đến.
1. Xin anh/chị vui lòng cho biết, Viện/Trung tâm hiện nay có thường Bộ câu hỏi
(sử dụng câu xuyên hợp tác nghiên cứu với các khoa, các viện trong Học viện Kỹ
hỏi gợi mở thuật Quân sự hay không? Hình thức hợp tác cụ thể của đơn vị với
nếu thấy cần các khoa, các viện đó? Quá trình hợp tác có gặp khó khăn gì không?
thiết) 2. Ngoài các đơn vị trong Học viện, Viện/Trung tâm hiện nay có hợp
tác nghiên cứu với các đơn vị khác trong quân đội hay không? Hình
thức hợp tác với các đối tác đó cụ thể như thế nào?
3. Các sản phẩm nghiên cứu của Viện/Trung tâm có được đưa vào
ứng dụng, cung cấp cho các đơn vị trong quân đội và ngoài quân đội
hay không? Cách thức cung cấp sản phẩm cho các đơn vị đó được
thực hiện như thế nào? Quá trình đưa sản phẩm vào ứng dụng hoặc
thương mại hóa sản phẩm có khó khăn gì hay không?
4. Hiện nay, trong quá trình hoạt động, Viện/Trung tâm có gặp phải
khó khăn gì không (về cơ chế, về nguồn lực, về cơ sở hạ tầng phục
vụ nghiên cứu)? Nguyên nhân của những khó khăn đó?
5. Viện/Trung tâm có mong muốn, đề xuất, khuyến nghị gì để thuận
lợi hơn trong quá trình hoạt động, phát huy được vai trò, chức năng
của mình? (về cơ chế, về nguồn lực, về cơ sở hạ tầng phục vụ nghiên
cứu, về các tổ chức hỗ trợ,…)
Anh/chị muốn bổ sung thêm gì không? Kết thúc
Xin chân thành cảm ơn sự hỗ trợ, hợp tác của anh/chị! phỏng vấn
HƯỚNG DẪN NỘI DUNG PHỎNG VẤN DÀNH CHO
GIẢNG VIÊN, NGHIÊN CỨU VIÊN
Tôi muốn cảm ơn anh/chị đã dành thời gian gặp gỡ tôi hôm nay! Giới thiệu
Tôi tên là ……………………………….. và tôi muốn hỏi ý kiến
anh/chị về một số vấn đề liên quan đến hoạt động nghiên cứu của
anh/chị và nhóm nghiên cứu mà anh/chị tham gia. Tôi xin phép
được ghi chép lại nội dung của cuộc phỏng vấn để làm tư liệu, phục
vụ cho nghiên cứu. Tất cả các câu trả lời của anh/chị sẽ được đảm
bảo bí mật thông tin và chỉ phục vụ mục đích nghiên cứu. Anh/chị
không cần phải trả lời những thông tin mà anh/chị không muốn nhắc
đến.
1. Hiện nay, anh/chị có tham gia vào các nhóm nghiên cứu không? Bộ câu hỏi
(sử dụng câu Nhóm nghiên cứu của anh/chị có phải là nhóm nghiên cứu mạnh?
hỏi gợi mở nếu 2. Vai trò của anh/chị trong nhóm nghiên cứu?
thấy cần thiết) 3. Để nhóm nghiên cứu hoạt động hiệu quả, Nhóm nghiên cứu của
anh/chị có những quy định và cách thức tổ chức hoạt động như thế
nào?
4. Hiện nay, anh/chị hoặc nhóm nghiên cứu của anh/chị có hợp tác
nghiên cứu với các đối tác ở trong nước như: Viện nghiên cứu của
quân đội, nhà máy quốc phòng, các viện nghiên cứu dân sự, các
trường đại học,..? Anh/chị vui lòng cho biết hình thức hợp tác cụ
thể của nhóm với các đối tác? Quá trình hợp tác này có những thuận
lợi và khó khăn gì?
5. Hiện nay, anh/chị hoặc nhóm nghiên cứu của anh/chị có hợp tác
nghiên cứu với các đối tác nước ngoài? Việc hợp tác nghiên cứu với
các đối tác nước ngoài có gặp khó khăn gì không? (về cơ chế, quy
định, về năng lực của đội ngũ nghiên cứu, về trang thiết bị nghiên
cứu)
6. Anh/chị đánh giá như thế nào về trình độ, trang thiết bị nghiên
cứu hiện nay của Học viện? Trang thiết bị nghiên cứu có đáp ứng
được yêu cầu thực hiện các đề tài thuộc các lĩnh vực nghiên cứu
tiên tiến hiện nay hay không?
7. Trong quá trình làm nghiên cứu, anh/chị hoặc nhóm nghiên cứu
của anh/chị có phải thuê trang thiết bị nghiên cứu không? Hình thức
thuê cụ thể như thế nào?
8. Theo anh/chị, đối với các đề tài nghiên cứu thuộc lĩnh vực quân
sự mà phải thuê trang thiết bị nghiên cứu thì có thể gặp phải những
khó khăn nào và ảnh hưởng như thế nào đến quá trình nghiên cứu?
9. Theo anh/chị, việc đầu tư, xây dựng phòng thí nghiệm trọng điểm
tại Học viện Kỹ thuật quân sự sẽ hỗ trợ như thế nào đối với hoạt
động nghiên cứu và đào tạo của nhà trường? Phòng thí nghiệm trọng
điểm nên được xây dựng và vận hành như thế nào để đạt được hiệu
quả cao nhất?
10. Anh/chị đánh giá như thế nào về việc HVKTQS tăng cường hợp
tác với các Viện nghiên cứu của quân đội, các nhà máy quốc phòng
để cùng thực hiện các hoạt động nghiên cứu và cùng sử dụng các
trang thiết bị nghiên cứu?
11. Anh/chị có mong muốn, đề xuất gì để hoạt động nghiên cứu của
nhóm nói riêng và hoạt động nghiên cứu của Học viện nói chung
được thuận lợi và hiệu quả hơn?
12. Xin anh/chị cho biết, hoạt động nghiên cứu của anh/chị đã có
những tác động, hỗ trợ như thế nào đối với công tác giảng dạy của
anh/chị?
Anh/chị muốn bổ sung thêm gì không? Kết thúc
Xin chân thành cảm ơn sự hỗ trợ, hợp tác của anh/chị! phỏng vấn
HƯỚNG DẪN NỘI DUNG PHỎNG VẤN DÀNH CHO
TÁC GIẢ SÁNG CHẾ/GIẢI PHÁP HỮU ÍCH
Tôi muốn cảm ơn anh/chị đã dành thời gian gặp gỡ tôi hôm nay! Giới thiệu
Tôi tên là ……………………………….. và tôi muốn hỏi ý kiến
anh/chị về một số vấn đề liên quan đến việc đăng ký, quản lý và
khai thác sáng chế mà anh/chị đã sáng tạo ra. Tôi xin phép được
ghi chép lại nội dung của cuộc phỏng vấn để làm tư liệu, phục vụ
cho nghiên cứu. Tất cả các câu trả lời của anh/chị sẽ được đảm
bảo bí mật thông tin và chỉ phục vụ mục đích nghiên cứu. Anh/chị
không cần phải trả lời những thông tin mà anh/chị không muốn
nhắc đến.
1. Sáng chế/giải pháp hữu ích (GPHI) của anh/chị được cấp văn Bộ câu hỏi
(sử dụng câu bằng bảo hộ năm nào?
hỏi gợi mở nếu 2. Lý do anh/chị đăng ký bảo hộ sáng chế/giải pháp hữu ích?
thấy cần thiết) 3. Xin anh/chị vui lòng cho biết, sáng chế/GPHI của anh/chị có
thể được sử dụng trong lĩnh vực nào? (quân sự, dân sự, cả quân sự
và dân sự)
4. Xin anh/chị vui lòng cho biết, quá trình đăng ký sáng chế/GPHI
của anh/chị, ai là người thực hiện các thủ tục đăng ký?
5. Trong quá trình đăng ký SC/GPHI, anh/chị có gặp khó khăn gì
không? Anh/chị có mong muốn, đề xuất gì để quá trình đăng ký
sáng chế/GPHI được thuận lợi hơn?
6. Xin anh/chị vui lòng cho biết, vai trò của Cơ quan quản lý Khoa
học quân sự trong quá trình đăng ký sáng chế/GPHI của anh/chị?
7. Sáng chế/GPHI của anh/chị có được thương mại hóa, áp dụng
vào thực tiễn (sản xuất, cung cấp sản phẩm cho quân đội và ngoài
thị trường; chuyển giao cho tổ chức khác sản xuất sản phẩm….)
không?
8. Tại sao sáng chế/GPHI của anh/chị chưa được thương mại hóa,
áp dụng vào thực tiễn? (do thị trường không có nhu cầu, do quy
định không được thương mại, do thiếu tổ chức hỗ trợ hoàn thiện
sản phẩm, quảng bá và tìm kiếm đối tác,…)
9. Anh/chị vui lòng cho biết cụ thể cách thức thương mại hóa, áp
dụng SC/GPHI của mình?
10. Xin anh/chị cho biết, vai trò của Học viện khi thương mại hóa
sáng chế/GPHI của anh/chị?
11. Xin anh/chị cho biết những quyền lợi mà anh/chị được hưởng
khi sáng chế/GPHI của anh/chị được thương mại hóa, áp dụng vào
thực tiễn?
12. Anh/chị có mong muốn, đề xuất gì để quá trình thương mại
hóa sáng chế/GPHI được thuận lợi và hiệu quả hơn?
13. Theo anh/chị, hình thành và phát triển tổ chức có chức năng
hỗ trợ đăng ký bảo hộ Sở hữu trí tuệ và giới thiệu, hỗ trợ chuyển
giao công nghệ đối với các sản phẩm nghiên cứu (ví dụ như Trung
tâm giới thiệu và chuyển giao công nghệ) sẽ tác động như thế nào
đối với hoạt động nghiên cứu và chuyển giao công nghệ của Học
viện?
Anh/chị muốn bổ sung thêm gì không? Kết thúc
Xin chân thành cảm ơn sự hỗ trợ, hợp tác của anh/chị! phỏng vấn
HƯỚNG DẪN NỘI DUNG PHỎNG VẤN DÀNH CHO
HỌC VIÊN ĐẠI HỌC VÀ SAU ĐẠI HỌC
Tôi muốn cảm ơn anh/chị đã dành thời gian gặp gỡ tôi hôm nay! Giới thiệu
Tôi tên là ……………………………….. và tôi muốn hỏi ý kiến
anh/chị về một số vấn đề liên quan đến hoạt động nghiên cứu khoa
học của học viên, đặc biệt là những tác động của nghiên cứu khoa
học đối với kết quả học tập và những kĩ năng của người học. Tôi
xin phép được ghi chép lại nội dung của cuộc phỏng vấn để làm tư
liệu, phục vụ cho nghiên cứu. Tất cả các câu trả lời của anh/chị sẽ
được đảm bảo bí mật thông tin và chỉ phục vụ mục đích nghiên cứu.
Anh/chị không cần phải trả lời những thông tin mà anh/chị không
muốn nhắc đến.
1. Anh/chị đã từng tham gia nghiên cứu khoa học chưa? Các loại Bộ câu hỏi
(sử dụng câu hình nghiên cứu mà anh/chị đã thực hiện? Các sản phẩm nghiên cứu
hỏi gợi mở nếu của anh/chị là gì?
thấy cần thiết) 2. Các thành viên trong lớp học của anh/chị có tham gia nghiên cứu
khoa học không?
3. Theo anh/chị, nghiên cứu khoa học có phải là hoạt động cần thiết
đối với người học ở bậc đại học và sau đại học không? Nghiên cứu
khoa học có ảnh hưởng như thế nào đến quá trình học tập và các kỹ
năng của người học?
4. Anh/chị đã từng tham gia vào thực hiện các đề tài nghiên cứu
cùng với các thầy/cô của mình hay chưa? (Các thầy/cô là người chủ
trì đề tài?) Quá trình tham gia đó đã mang lại cho anh/chị những lợi
ích và trải nghiệm gì?
5. Trong quá trình tham gia nghiên cứu khoa học, anh/chị có gặp
khó khăn gì không?
6. Anh/chị có mong muốn đề xuất gì đối với hoạt động nghiên cứu
khoa học của học viên?
Anh/chị muốn bổ sung thêm gì không? Kết thúc
Xin chân thành cảm ơn sự hỗ trợ, hợp tác của anh/chị! phỏng vấn