BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
BÙI THỊ VÂN
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BÁO CHÍ ĐỐI NGOẠI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ BÁO CHÍ HỌC
HÀ NỘI - 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
BÙI THỊ VÂN
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BÁO CHÍ ĐỐI NGOẠI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành : Báo chí học
Mã số : 9 32 01 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ BÁO CHÍ HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS,TS. Lưu Văn An
2. PGS,TS. Đinh Thị Thu Hằng
HÀ NỘI - 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn
khoa học của PGS, TS. Lưu Văn An; PGS, TS. Đinh Thị Thu Hằng. Các số liệu
thống kê, kết quả nghiên cứu, phát hiện mới của luận án là trung thực và chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học nào trước đây. Luận án
có sử dụng, phát triển, kế thừa một số tư liệu, số liệu, kết quả nghiên cứa từ các sách,
giáo trình, tài liệu… liên quan đến nội dung luận án.
Hà Nội, ngày … tháng …. năm 2021
Tác giả luận án
Bùi Thị Vân
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
LUẬN ÁN ..................................................................................................................... 12
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BÁO CHÍ ĐỐI NGOẠI .... 36
1.1. Một số vấn đề lý luận về báo chí đối ngoại ................................................. 36
1.2. Các yếu tố của quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ............................... 47
1.3. Đặc điểm và vai trò của quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ................. 62
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BÁO CHÍ ĐỐI NGOẠI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY ............................................................................................... 67
2.1. Khái quát về hoạt động của báo chí và báo chí đối ngoại ở Việt Nam
hiện nay .............................................................................................................. 67
2.2. Những thành tựu trong quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại và
nguyên nhân....................................................................................................... 70
2.3. Một số hạn chế và nguyên nhân ................................................................ 107
Chương 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN
LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BÁO CHÍ ĐỐI NGOẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............... 119
3.1. Một số vấn đề đặt ra trong quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại .......... 119
3.2. Xu hướng quản lý báo chí đối ngoại của Việt Nam trong những năm tới .... 129
3.3. Một số giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại trong
thời gian tới ....................................................................................................... 132
3.4. Một số khuyến nghị ................................................................................... 156
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 161
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .................................................................................................... 165
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 166
PHỤ LỤC
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1. Thực trạng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại của chủ thể quản lý ....... 70
Biểu đồ 2.2. Thành tựu của đối tượng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ............ 72
Biểu đồ 2.3. Quản lý việc xây dựng, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch phát triển báo chí đối ngoại ......................................................... 76
Biểu đồ 2.4. Quản lý việc ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp
luật về báo chí, xây dựng chế độ, chính sách về báo chí đối ngoại ......... 80
Biểu đồ 2.5. Quản lý tổ chức thông tin và quản lý thông tin của báo chí đối ngoại ..... 83
Biểu đồ 2.6. Quản lý đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị, nghiệp vụ,
đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ người làm báo của các cơ quan báo chí
và cán bộ quản lý báo chí đối ngoại ........................................................ 86
Biểu đồ 2.7. Quản lý hợp tác quốc tế về báo chí đối ngoại .......................................... 91
Biểu đồ 2.8. Quản lý chỉ đạo, thực hiện chế độ thông tin, báo cáo, thống kê và công
tác khen thưởng, kỷ luật trong hoạt động báo chí đối ngoại ................... 95
Biểu đồ 2.9. Phương thức quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại thông qua các công
cụ quản lý là các văn bản qui phạm pháp luật ......................................... 97
Biểu đồ 2.10. Phương thức quản lý nhà nhà nước về báo chí đối ngoại thông qua các
cơ quan quản lý nhà nước về báo chí ...................................................... 99
Biểu đồ 2.11. Phương thức quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại thông qua thanh tra,
kiểm tra, giám sát và đề xuất khen thưởng, kỷ luật các hành vi vi phạm
pháp luật về báo chí đối ngoại ............................................................... 101
Biểu đồ 2.12. Quản lý thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về báo chí
đối ngoại ............................................................................................... 105
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh hội nhập thông tin quốc tế, ngoài việc cung cấp thông tin cho
môi trường truyền thông trong nước, mỗi quốc gia trên thế giới đều xây dựng cho
mình một chiến lược truyền thông đối ngoại để phát triển, với mục tiêu nâng cao sức
ảnh hưởng và bảo vệ quyền lợi trên trường quốc tế. Điều 4 Luật Báo chí (năm 2016)
khẳng định: Báo chí ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phương tiện thông
tin thiết yếu đối với đời sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của cơ quan Đảng, cơ quan
nhà nước, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức chính trị-xã hội-nghề nghiệp, tổ chức xã
hội, tổ chức xã hội-nghề nghiệp; là diễn đàn của nhân dân [116]. Nội dung được xác
định rõ trong Luật Báo chí cho thấy, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng vai trò, vị trí
và tầm quan trọng của báo chí trong đời sống xã hội.
Báo chí đối ngoại là một bộ phận quan trọng trên mặt trận đối ngoại, có vai trò
to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trước vai trò to
lớn của báo chí đối ngoại, Đảng luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của báo chí đối ngoại
như một công cụ quan trọng trên mặt trận tư tưởng, thông tin, giải thích để thế giới
hiểu rõ tính chính nghĩa của sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, bảo vệ chủ
quyền quốc gia; xác lập vị thế, biểu tượng, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam
trên trường quốc tế. Hoạt động báo chí đối ngoại có những đặc điểm khá riêng biệt so
với hoạt động báo chí nói chung, cả về đối tượng tác động, địa điểm - không gian cho
đến phương pháp, cách thức. Hoạt động báo chí đối ngoại ở nước ta được thực hiện
đồng bộ từ cấp quốc gia đến cấp địa phương. Trong đó, các tỉnh biên giới đã tổ chức
hoạt động báo chí đối ngoại với các quốc gia giáp ranh lãnh thổ với nhiều nét đặc thù,
sáng tạo. Có thể khẳng định, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, báo
chí nước ta có những bước phát triển nhanh về số lượng ấn phẩm, số kênh phát thanh,
truyền hình, loại hình và chất lượng thông tin, nguồn nhân lực theo hướng hội tụ, tích
hợp truyền thông đa loại hình, đa phương tiện, song những nghiên cứu về việc phát
triển báo chí đối ngoại còn hạn chế, mặt khác cũng chưa có nhiều nghiên cứu về quản
lý báo chí đối ngoại, chính vì vậy đây là lĩnh vực còn khá mới mẻ về lý luận và thực
tiễn quản lý báo chí đối ngoại của nước ta.
Hệ thống báo chí đối ngoại của Việt Nam bao gồm các cơ quan báo chí tiêu
biểu như: các kênh phát thanh-truyền hình tiếng nước ngoài của Đài Tiếng nói Việt
2
Nam (VOV5), Đài Truyền hình Việt Nam (VTV4) và Truyền hình Thông tấn của
Thông tấn xã Việt Nam; các tờ báo thuộc Thông tấn xã Việt Nam như nhật báo tiếng
Anh Việt Nam News, nhật báo tiếng Pháp Le Courrier du Vietnam, Báo ảnh Việt Nam,
tạp chí Vietnam Law and Legal Forum; các kênh báo mạng điện tử Quê hương,
Vietnam plus…; các bản tin tiếng nước ngoài của Bộ Ngoại giao; khoảng 40 báo và
tạp chí đối ngoại bằng tiếng Anh, Pháp, Nga, Hoa… Hiện nay, có 30 văn phòng báo
chí nước ngoài đăng ký thường trú tại Việt Nam. Mỗi năm trung bình có khoảng 230
đoàn với hơn 1000 phóng viên nước ngoài vào nước ta tác nghiệp. Đồng thời, Việt
Nam có 5 cơ quan báo chí (Thông tấn xã Việt Nam, Báo Nhân Dân, Đài Truyền hình
Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Báo Thanh niên) đặt 53 văn phòng đại diện ở
nước ngoài.
Trong bối cảnh báo chí truyền thông nói chung, báo chí đối ngoại nói riêng,
Đảng và Nhà nước ta đã tăng cường công tác lãnh đạo, quản lý, đảm bảo báo chí
truyền thông phát huy tối đa vai trò tiên phong trên mặt trận tư tưởng, thực hiện đúng
chức năng, nhiệm vụ, tôn chỉ mục đích của mình. Nhiều nghị quyết của Đảng, văn bản
của Nhà nước được ban hành nhằm định hướng, quy định, yêu cầu các cơ quan báo chí
đối ngoại thực hiện, giảm thiểu những hiện tượng tiêu cực trong hoạt động báo chí.
Đặc biệt, năm 2016, Quốc hội đã ban hành Luật báo chí mới. Năm 2016 Thủ tướng
Chính phủ ban hành Quyết định số 2434/QĐ-TTg, phê duyệt quy hoạch hệ thống báo
chí đối ngoại đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Năm 2019, Chính phủ phê
duyệt Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025 với mục tiêu
sắp xếp hệ thống báo chí gắn với đổi mới mô hình tổ chức, nâng cao hiệu quả lãnh
đạo, quản lý nhà nước về báo chí để phát triển hệ thống báo in, báo hình, báo nói, báo
điện tử, xây dựng một số cơ quan báo chí chủ lực, đa phương tiện làm nòng cốt, có vai
trò định hướng dư luận xã hội, thông tin đối ngoại, sắp xếp hệ thống báo chí, khắc
phục tình trạng chồng chéo, đầu tư dàn trải, buông lỏng quản lý, hoạt động xa rời tôn
chỉ, mục đích; gắn với việc xác định rõ trách nhiệm lãnh đạo, quản lý nhà nước về báo
chí của các cấp ủy Đảng, chính quyền, nhất là của người đứng đầu cơ quan chủ quản
và cơ quan báo chí, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý, phóng viên, biên tập viên có đủ
phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu phát triển báo chí trong tình hình mới.
Tuy nhiên, công tác quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại đã bộc lộ nhiều bất
cập: hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật còn chưa đầy đủ, các cơ quan quản lý
3
nhà nước về báo chí còn thiếu chuyên nghiệp trong xử lý các vấn đề phát sinh, lúc thì
lỏng lẻo, lúc lại thắt chặt, hạn chế sự sáng tạo của báo chí đối ngoại, dẫn đến tình trạng
một số cơ quan báo chí thực hiện nghiêm chỉnh tôn chỉ, mục đích nhưng lại chậm đổi
mới về hình thức, nội dung, tính hấp dẫn chưa cao, hiệu quả thông tin thấp. Trong tác
nghiệp, không ít phóng viên thiếu thận trọng trong việc chọn lựa, kiểm chứng nguồn
tin, thông tin một chiều. Tình trạng bị động lúng túng, chậm chạp đối phó trong đấu
tranh với các thông tin xuyên tạc và luận điểm sai trái vẫn chưa được khắc phục. Báo
chí đối ngoại chưa phản ánh đầy đủ, đa dạng, kịp thời những thành tựu của nước ta
trong các lĩnh vực dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tự do tín ngưỡng, thiếu sức thuyết
phục cả về lý luận và thực tiễn. Các thế lực cơ hội, thù địch ở trong và ngoài nước
chống phá quyết liệt với những thủ đoạn ngày càng tinh vi. Các thế lực thù địch, các
phần tử cơ hội chính trị trong và ngoài nước đã lợi dụng báo chí xuyên tạc, bôi nhọ
hình ảnh Việt Nam, chia rẽ Việt Nam với bạn bè quốc tế.
Bên cạnh số lượng, loại hình cơ quan báo chí, chất lượng nội dung thông tin, còn
là vấn đề tổ chức nhân sự cơ quan báo chí đối ngoại, sự phối hợp giữa các cơ quan báo
chí đối ngoại, cơ chế chính sách đối với hoạt động báo chí đối ngoại…Tất cả đã đặt ra
nhu cầu cần thiết phải có những giải pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng quản lý nhà
nước về báo chí đối ngoại trên cả phương diện lý luận, pháp lý và thực tiễn. Với những
tính cấp thiết như trên, nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề “Quản lý nhà nước về báo chí
đối ngoại ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ ngành Báo chí học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn, tác giả luận án khảo sát,
phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở Việt Nam hiện
nay, từ đó nêu rõ những vấn đề đặt ra, đề xuất một số giải pháp, khuyến nghị nhằm
tăng cường quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, đề tài tập trung thực hiện những nhiệm vụ sau đây:
Nghiên cứu, hệ thống hóa, làm rõ các khái niệm công cụ: Quản lý, quản lý nhà
nước, báo chí đối ngoại; làm rõ vai trò, nhiệm vụ, nguyên tắc, nội dung, phương thức
quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại, nghiên cứu khái quát về tình hình hoạt động
của báo chí đối ngoại ở Việt Nam
4
Khảo sát thực trạng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở Việt Nam, chỉ ra
thành tựu, hạn chế và nguyên nhân.
Nêu rõ những vấn đề đặt ra, xu hướng và đề xuất một số giải pháp, khuyến nghị
nhằm tăng cường quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi vấn đề nghiên cứu: Xuất phát từ điều kiện thực tế, đề tài tập trung khảo
sát, nghiên cứu các nội dung liên quan đến quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại của
chủ thể quản lý bao gồm các cơ quan quản lý nhà nước về thông tin đối ngoại: Cục
thông tin đối ngoại thuộc Bộ Thông tin - Truyền thông, Bộ Ngoại giao. Ngoài ra tác
giả nghiên cứu đối tượng quản lý là các cơ quan báo chí đối ngoại chủ lực ở Trung
ương bao gồm Thông tấn xã Việt Nam, Đài truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt
Nam. Đây là cơ quan báo chí đối ngoại chịu sự quản lý nhà nước của cơ quan có thẩm
quyền theo quy định.
Phạm vi thời gian nghiên cứu: trong khoảng thời gian từ năm 2016 đến tháng
12/2019. Đây là khoảng thời gian dễ tiếp cận các nguồn tài liệu, đảm bảo tính cập
nhật; đồng thời có nhiều nội dung, chuyên môn đáp ứng được những tiêu chí cơ bản
của đề tài đặt ra.
Phạm vi địa bàn nghiên cứu: Thực hiện tại Hà Nội
4. Giả thuyết nghiên cứu
Quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở Việt Nam không những có vai trò
quan trọng trong công tác thông tin đối ngoại mà còn là chiến lược để xây dựng một
nền báo chí cách mạng phục vụ cho sự lãnh đạo của Đảng. Trước vai trò và nhiệm vụ
quan trọng như vậy, các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại luôn có sự phối hợp chặt
chẽ với các cơ quan báo chí đối ngoại để giữ vững tôn chỉ, mục đích góp phần quan
trọng trở thành lực lượng của công tác thông tin đối ngoại, là một bộ phận trong công
tác tuyên truyền và công tác tư tưởng của Đảng, là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài của
cả hệ thống chính trị.
Quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ngoài những đặc điểm chung về phương
thức, nội dung như quản lý các loại hình báo chí khác. Quản lý nhà nước về báo chí
5
đối ngoại có những đặc thù riêng, bởi báo chí đối ngoại không chỉ là một bộ phận
trong công tác tuyên truyền và công tác tư tưởng của Đảng, mà còn để phục vụ triển
khai các chính sách phát triển kinh tế - xã hội - văn hóa, an ninh, quốc phòng bảo vệ
lợi ích quốc gia, dân tộc, chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo, với những đặc thù
của một loại hình báo chí chủ yếu hướng ra bên ngoài lãnh thổ Việt Nam. Điều này
xuất phát từ yêu cầu, tôn chỉ, mục đích của báo chí đối ngoại.
Quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở Việt Nam hiện nay đã phần nào đáp
ứng được mục đích, yêu cầu của Đảng và Nhà nước ta đặt ra. Tuy nhiên, thực tế vẫn
còn một số hạn chế như hệ thống các văn bản pháp luật còn thiếu, trình độ, kỹ năng
quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại chưa đáp ứng được yêu cầu mới. Điều này dẫn
đến thực trạng còn một số cơ quan báo chí đối ngoại hoạt động chưa thực sự đáp ứng
tốt sự nhiệm vụ quan trọng của công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới. Nội
dung thông tin trên báo chí đối ngoại chưa thực sự phong phú, hấp dẫn, sinh động, ảnh
hưởng không nhỏ đến việc xây dựng, quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận án là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về báo chí truyền thông, về quản lý nhà nước, về
quản lý báo chí truyền thông.
Theo Mác-Ăngghen, báo chí có hai chức năng chính là tuyên truyền và cổ vũ
tinh thần của công chúng. Lênin kế thừa nguyên tắc của Mác và bổ sung thêm nguyên
tắc tổ chức tập thể. Báo chí là cơ quan ngôn luận của Đảng, Đảng lãnh đạo tập thể nên
báo chí xem là người tổ chức tập thể.
Hồ Chí Minh cho rằng, nhiệm vụ của tờ báo là tuyên truyền cổ động, huấn
luyện, giáo dục và tổ chức dân chúng để đưa dân chúng đến mục đích chung.
Theo quan điểm của Đảng ta, báo chí có vai trò tổ chức xã hội và tham gia vào
đời sống xã hội. Báo chí được xem như một diễn đàn xã hội qua đó công chúng không
phân biệt đẳng cấp, không phân biệt giàu sang đều có thể tham gia thảo luận các sự
kiện chính trị xã hội.
Trên cơ sở đó, quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại dựa trên cơ sở lý luận là
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về báo chí, tuyên truyền đối ngoại, thông tin đối ngoại, quản lý nhà nước về báo
6
chí đối ngoại… Đồng thời, trong quá trình nghiên cứu, tác giả lựa chọn và sử dụng
một số lý thuyết truyền thông để thực hiện đề tài luận án.
5.2. Cơ sở lý thuyết
Việc xây dựng cơ sở lý thuyết của luận án được dựa trên một số lý thuyết chính sau:
5.2.1. Lý thuyết “Quản lý tổng quát”
Lý thuyết này cũng đã chỉ ra rằng, tất cả các nhà quản lý đều phải thực hiện
năm chức năng là: kế hoạch - tổ chức - chỉ huy - phối hợp - kiểm soát. Hiện nay, trong
các sách về khoa học quản lý, năm chức năng đó được rút gọn thành bốn chức năng
căn bản là: hoạch định - tổ chức - lãnh đạo - kiểm soát. Cùng với Ph.W.Taylo, H.
Phayon được thừa nhận là nhà đồng sáng lập ra khoa học quản lý hiện đại và đã đưa
khả năng áp dụng tới các loại hình tổ chức khác. Đến nay, mười bốn nguyên tắc quản
lý chung của ông vẫn còn giá trị đối với lý luận và thực tiễn quản lý. Ví dụ, bốn
nguyên tắc đầu tiên là: Phân chia công việc; thẩm quyền và trách nhiệm thống nhất; kỷ
luật cao; thống nhất lãnh đạo/chỉ huy...
5.2.2. Lý thuyết lãnh đạo dựa trên cơ sở tố chất
Theo lý thuyết này (được công bố vào những năm 1930 - 1940), các nhà lãnh
đạo sinh ra đã có các tố chất hay đặc tính tự nhiên, có tính bản năng, năng lực sẵn có
(có tố chất siêu phàm, có những giá trị vượt trội so với người khác), chứ không phải
chỉ do luyện tập hay cố gắng mà đạt được. Lý thuyết đã tìm ra những đặc điểm, tính
cách của nhà lãnh đạo có liên hệ mật thiết tới thành công của tổ chức. Tuy nhiên, khi
các lý thuyết về lãnh đạo khác xuất hiện và các cuộc tranh luận, phản biện về lãnh đạo
có sự tham gia rộng rãi của xã hội, nhất là khi phần lớn những nhà lãnh đạo thành đạt
cũng không thừa nhận họ thừa hưởng những tố chất đặc biệt, thì quan điểm về tố chất
lãnh đạo cũng có sự thay đổi. Đây cũng chính là lý do dẫn tới việc các nhà nghiên cứu
chuyển hướng tới học thuyết lãnh đạo dựa trên cơ sở hành vi ở giai đoạn 1950.
5.2.3. Lý thuyết lãnh đạo dựa trên cơ sở hành vi
Lý thuyết tập trung vào hành động, công việc cụ thể mà một nhà lãnh đạo thực
hiện. Hành vi của nhà lãnh đạo lại phụ thuộc vào đặc điểm tính cách và kỹ năng của nhà
lãnh đạo đó. Có thể coi lý thuyết lãnh đạo dựa trên cơ sở hành vi là một bước phát triển
của lý thuyết lãnh đạo dựa trên cơ sở tố chất, lấy lý thuyết này làm nền tảng. Có hai vấn
đề quan trọng trong hành vi của nhà lãnh đạo: sự quan tâm tới công việc và con người
trong tổ chức, đây cũng chính là hai nhân tố quyết định tới hiệu quả lãnh đạo.
7
5.2.4. Lý thuyết hội tụ truyền thông
Lý thuyết này được phát triển vào những năm 70 của thế kỷ XX bắt đầu tư khái
niệm hội tụ của tác giả Nicholas Negropronte đưa ra khái niệm hội tụ, kể từ đây những
nghiên cứu về lý thuyết này được phát triển mạnh mẽ. Hội tụ truyền thông tích hợp các
loại truyền thông mới và truyền thông truyền thống, cung cấp cho công chúng nhiều cơ
hội lựa chọn cách tiếp cận. Các loại phương tiện truyền thông tích hợp với nhau. Môi
trường hội tụ truyền thông, người làm truyền thông sử dụng mọi phương tiện để
chuyển tải nội dung truyền thông và công chúng được tự do lựa chọn cách tiến cận nội
dung thông tin. Quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại có thể áp dụng lý thuyết này ở
các khía cạnh như quản lý tòa soạn hội tụ, quản lý phát triển hệ thống nhà báo làm báo
chí đối ngoại cũng như quản lý sử dụng các phương tiện truyền thông.
5.2.5. Lý thuyết truyền thông và truyền thông đại chúng
Cuốn sách “Truyền thông, lý thuyết và kỹ năng cơ bản” [57] có tổng kết lại một
số lý thuyết truyền thông. Với lý thuyết thâm nhập xã hội, báo chí sẽ tìm hiểu, nghiên
cứu, phân tích đối tượng địa bàn, thời gian để phổ biến nội dung và hình thức cho phù
hợp. Lý thuyết hành động lý tính và lý thuyết thuyết phục, khả năng tác động của
truyền thông trong việc thay đổi đáng kể nhận thức của đối tượng cả về phương diện
nhận thức, thái độ, hành vi. Các lý thuyết này có thể được vận dụng trong việc chuyển
tải các nội dung “đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, sai trái của các thế lực cơ
hội, thù địch”. Lý thuyết này có thể áp dụng vào việc xây dựng nội dung báo chí đối
ngoại qua sự thuyết phục công chúng về mặt lý trí và cảm xúc, quản lý góp phần quản
lý nội dung báo chí đối ngoại.
5.2.6. Lý thuyết đóng khung
Lý thuyết này được Gregory Bateson ghi nhận là người đầu tiên đưa ra lý
thuyết này vào năm 1972. Lý thuyết đóng khung được xem như một lý thuyết về
truyền thông đại chúng, đề cập đến cách truyền thông và trình bày thông tin cho công
chúng. Các phương tiện truyền thông nhấn mạnh một số sự kiện và sau đó đặt công
chúng trong một bối cảnh cụ thể để khuyến khích hoặc không khuyến khích một số
giải thích. Theo cách này, các phương tiện truyền thông thực hiện một ảnh hưởng có
chọn lọc đối với cách mọi người nhìn nhận thực tế. Các nhà báo lựa chọn những sự
kiện, giá trị và quan điểm nào sẽ được đề cập hoặc đưa ra thực sự nổi bật. Điều này có
nghĩa là các nhà báo áp dụng các khung diễn giải riêng của họ khi đóng khung các
8
thông điệp. Các nhà báo cũng bị ảnh hưởng bởi các chuẩn mực xã hội, thói quen báo
chí và định hướng chính trị hoặc tư tưởng của họ. Với lý thuyết đóng khung, việc quản
lý báo chí đối ngoại nhấn mạnh vào quản lý tôn chỉ, mục đích mà một tờ báo đối ngoại
cũng như cơ quan báo chí đối ngoại phải tuân thủ.
Bên cạnh các lý thuyết nêu trên còn có các lý thuyết như:
5.2.7. Lý thuyết quản lý tâm trạng (Mood management theory), các thông điệp
và thông tin truyền thông có thể làm thay đổi tâm trạng của các cá nhân. Lý thuyết đưa
ra giả định trạng thái tâm lý của một cá nhân sử dụng ảnh hưởng của phương tiện
truyền thông và các lựa chọn có sẵn để tối ưu hóa tâm trạng. Ngoài ra còn có một số
suy luận lý thuyết gợi ý và hỗ trợ tiếp xúc với nội dung thông điệp để đưa đến những
kết quả tác động theo mong muốn.
5.2.8. Lý thuyết hiệu ứng hạn chế (Limited effects theory), được đề xuất bởi nhà
xã hội học người Mỹ gốc Áo Paul Lazarsfeld. Lý thuyết này cho rằng ngay cả khi có
một hiệu ứng được tạo ra bởi các phương tiện truyền thông về suy nghĩ và ý kiến của
các cá nhân, hiệu ứng này có thể đạt ở mức tối thiểu hoặc có thể tác động theo cách tốt
nhất. Tất cả các phương tiện truyền thống đều có ảnh hưởng đến những suy nghĩ, quan
điểm và thái độ của công chúng.
5.2.9. Lý thuyết tiếp nhận (Reception theory), thường được gọi là “Lý thuyết đối
tượng hoặc lý thuyết tiếp nhận của người đọc được Stuart Hall phát triển vào năm
1973. Lý thuyết tập trung vào mã hóa và giải mã nội dung thông điệp được phổ biến
cho người đọc bất kể dưới hình thức truyền thông nào như như tạp chí in, truyền hình,
radio, trò chơi,... Ngày nay các nhà lý thuyết thực hiện phân tích phương tiện thông
qua lý thuyết tiếp nhận thường rút ra kết quả từ trải nghiệm của độc giả.
5.3. Phương pháp luận
Luận án áp dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng để xem xét: thực trạng hoạt
động quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở Việt Nam hiện nay được đặt trong bối
cảnh hội nhập thông tin quốc tế như hiện nay. Ngoài việc cung cấp thông tin cho môi
trường truyền thông trong nước, mỗi quốc gia trên thế giới đều xây dựng cho mình
một chiến lược truyền thông đối ngoại để phát triển, với mục tiêu nâng cao sức ảnh
hưởng và bảo vệ quyền lợi thiết thực của mình trên trường quốc tế. Với khả năng tác
động, ảnh hưởng sâu sắc tới nhận thức công chúng, báo chí là phương tiện hiệu quả và
tích cực nhất để đưa những chủ trương, chính sách, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta
9
đến với người dân trong nước, đồng bào ở nước ngoài, bạn bè quốc tế; đồng thời mang
những thông tin quốc tế tới công chúng Việt Nam.
Luận án áp dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử để xem xét ứng với mỗi thời kỳ, mỗi
giai đoạn nhận thức của con người có những thay đổi nhất định. Vì vậy nên quản lý
nhà nước về báo chí đối ngoại ở Việt Nam hiện nay sẽ có những thay đổi nhất định.
5.4. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành: khoa học quản lý, quản lý
nhà nước, báo chí học, xã hội học để trình bày các nội dung nghiên cứu nhằm đạt mục
đích, nhiệm vụ đặt ra.
Các phương pháp chung: lô gic và lịch sử, phân tích và tổng hợp, quy nạp và
diễn dịch, so sánh, nghiên cứu tài liệu, khảo sát thực tiễn, điều tra xã hội học.
5.4.1. Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu
Luận án sử dụng phương pháp phân tích tài liệu để xây dựng cơ sở dữ liệu cho
đề tài nghiên cứu. Trong khuôn khổ đề tài, nghiên cứu sinh đã chọn lọc, hệ thống các
tài liệu bao gồm (sách, bài báo, đề tài khoa học …) về báo chí nói chung, báo chí đối
ngoại. Ngoài ra, tác giả cũng thu thập các văn kiện của Đảng và Nhà nước, các số liệu
tại các buổi giao ban báo chí toàn quốc hàng tuần do Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ
Thông tin và Truyền thông, các công trình trong và ngoài nước đã nghiên cứu về quản
lý nhà nước về báo chí đối ngoại.
Mục đích của phương pháp phân tích tài liệu là tìm hiểu lịch sử nghiên cứu về
báo chí đối ngoại, nắm bắt những nội dung của các nghiên cứu đi trước. Trong quá
trình phân tích tài liệu, nghiên cứu sinh sẽ thực hiện các công việc cụ thể như phân tích
nguồn, phân tích nội dung và tổng hợp tài liệu.
5.4.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Quy mô điều tra xã hội học thông qua phỏng vấn bằng bảng hỏi với cỡ mẫu
400 người. Thực hiện với các nhà báo công tác tại các cơ quan báo chí khác nhau bao
gồm cán bộ lãnh đạo, quản lý các cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động báo chí ở
Trung ương và địa phương và các nhà báo đang trực tiếp thực hiện làm các nhiệm vụ
thực tiễn như biên tập, sản xuất nội dung báo chí đối ngoại, phóng viên, giảng viên
và sinh viên báo chí, truyền thông. Mục đích của phương pháp này là tìm hiểu hiệu
quả, đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở Việt Nam
hiện nay.
10
Việc chọn mẫu điều tra được tính toán theo phương pháp chọn chủ định và
chọn mẫu ngẫu nhiên nhằm đảm bảo tính đại diện và tính khoa học của các thông tin
cần thu thập tại các cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động báo chí ở Trung ương và
các cơ quan chủ quản báo chí đối ngoại.
Khách thể điều tra là 400 cán bộ quản lý báo chí, biên tập viên, phóng viên tại
Thông tấn xã Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, cán bộ
quản lý báo chí tại Bộ Thông tin và Truyền thông.
5.4.3. Phương pháp phỏng vấn sâu
Để làm rõ những vấn đề chuyên sâu trong nội dung nghiên cứu, đề tài tiến hành
phỏng vấn sâu, lấy ý kiến của một số lãnh đạo quản lý báo chí, nhà khoa học, nhà
hoạch định chính sách, nhà báo, phóng viên tại các cơ quan báo chí, truyền thông đối
ngoại về công tác công tác quản lý báo chí đối ngoại.
Khách thể tham gia phỏng vấn: 6 người, trong đó 4 cán bộ báo chí và cán bộ
quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại tại Bộ Thông tin và Truyền thông; 1 cán bộ Đài
Truyền hình Việt Nam; 1 cán bộ Đài Tiếng nói Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án góp phần làm rõ lý luận cơ bản về quản lý nhà nước về báo chí nói
chung và quản lý báo chí đối ngoại nói riêng; đưa ra một số khái niệm, nguyên
tắc, nội dung, phương thức quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại góp phần nâng
cao chất lượng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại; đánh giá thực trạng quản lý
nhà nước về báo chí đối ngoại từ năm 2016 đến năm 2019, chỉ rõ những kết quả,
hạn chế và nguyên nhân. Trên cơ sở đó nêu lên những vấn đề đặt ra, đề xuất giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở Việt Nam
hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ giúp các cơ quan, tổ chức, đẩy mạnh hơn nữa
hoạt động báo chí và quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại của mình.
Kết quả nghiên cứu của đề tài là tài liệu phục vụ giảng dạy, học tập và nghiên
cứu các môn học của chuyên ngành quan hệ quốc tế và thông tin đối ngoại tại Học
viện báo chí và Tuyên truyền cũng như ở các cơ sở đào tạo về quan hệ quốc tế. Đồng
thời làm tài liệu phục vụ công tác bồi dưỡng cán bộ báo chí đối ngoại.
11
Kết quả nghiên cứu cũng có thể làm tài liệu tham khảo cho những người quan
tâm đến vấn đề quản lý báo chí nói chung và quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại
nói riêng.
7. Đóng góp mới của luận án
7.1. Đóng góp về lý luận
Luận án góp phần làm rõ hơn những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý nhà nước
về báo chí nói chung và quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại nói riêng. Luận án đưa
ra một số khái niệm, nội dung, phương thức, nguyên tắc quản lý nhà nước về báo chí
đối ngoại góp phần tăng cường quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại.
7.2. Đóng góp về thực tiễn
Luận án khảo sát, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại từ
năm 2016 đến 2019. Trên cơ sở kết quả khảo sát, chỉ rõ những kết quả, nguyên nhân
những kết quả đã đạt được, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế đó và những vấn đề
đặt ra trong quản lý báo chí đối ngoại ở nước ta.
Luận án nêu lên một số vấn đề đặt ra, dự báo xu hướng quản lý nhà nước về báo
chí đối ngoại của Việt Nam trong những năm tiếp theo, trên cơ sở đó đưa ra một số
giải pháp và khuyến nghị nhằm tăng cường quản lý về báo chí đối ngoại ở Việt Nam
trong thời gian tới.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài mở đầu, tổng quan tình hình nghiên cứu, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục, luận án gồm 3 chương:
Chương 1. Lý luận chung quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở Việt Nam.
Chương 2. Thực trạng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3. Một số vấn đề đặt ra và giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà
nước về báo chí đối ngoại ở Việt Nam trong thời gian tới.
12
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước về các vấn đề liên quan đến báo chí đối
ngoại, quản lý báo chí, quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại
Ở nước ngoài, nghiên cứu về hoạt động thông tin báo chí, báo chí đối ngoại và
quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại được đề cập và nghiên cứu ở những nước phát
triển, nhất là ở những nước có nền báo chí phát triển mạnh mẽ như Mỹ, Nhật Bản, Hàn
Quốc, Anh, Pháp, Thụy Điển, Trung Quốc,...
Cuốn sách Truyền thông với thế giới: Ngoại giao của Hoa Kỳ với các nước
[187] của tác giả Martin F.Herz (1990) luận giải sự xung đột ý thức hệ, sự phụ thuộc
lẫn nhau của các quốc gia như một trong những lý do đưa đến sự phát triển của cuộc
cách mạng truyền thông trên toàn thế giới. Tác giả thể hiện trách nhiệm của các nhà
ngoại giao công chúng để tư vấn cho về các tác động liên văn hóa của truyền thông đối
ngoại của Hoa Kỳ và ảnh hưởng của họ đối với dư luận nước ngoài. Ông đưa ra sự phê
phán các hoạt động ngoại giao công chúng hiện tại của Hoa Kỳ được rút ra từ kinh
nghiệm ba mươi lăm năm của ông trong quá trình hoạt động đối ngoại. Cũng nghiên
cứu về xã hội thông tin, nhóm tác giả G.Bechmann G, J.Fecker, U.Huws,
G.V.Hootergem, M.L.Mirabile, A.B.Moniz, S.Siochru (1999) trong cuốn sách Xã hội
thông tin, công việc và các hình thức xã hội mới [179] chỉ ra sự phát triển của báo chí
sẽ tạo ra nhiều việc làm mới và để đáp ứng với những yêu cầu ngày càng cao của xã
hội, nội dung các tờ báo cũng thay đổi về các tổ chức, đưa tin, viết bài và tham gia vào
định hướng dư luận xã hội.
Cuốn sách Những vấn đề cơ bản của đạo đức nghề nghiệp nhà báo (2003) [96]
của tác giả G.V.Ladutina mặc dù không trực tiếp đề cấp đến vấn đề quản lý nhà nước về
báo chí hay quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại song tác giả đã gián tiếp nói về vấn
đề này khi đề cập đến trách nhiệm xã hội của nhà báo đối ngoại cũng như hoạt động
nghề nghiệp, trong đó có vấn đề sa sút đạo đức nghề báo, sự thúc đẩy của lợi ích kinh tế,
các vấn đề thuộc về cơ chế. Tác giả đưa ra một số định hướng như tôn trọng khách quan,
định hướng dư luận và bản thân mỗi nhà báo không ngừng tự hoàn thiện bản thân.
Cuốn sách Nghệ thuật thông tin” [97] tác giả Line Ross (2004), Chủ nhiệm các
Chương trình thông tin công cộng tại Khoa Thông tin và Tuyên truyền Đại học Tổng
13
hợp Laval, Canada tập trung vào các nội dung tri thức, kinh nghiệm cơ bản trong thu
thập, lựa chọn, sắp xếp, bố cục, viết bài và biên tập tin, những kỹ năng mà mỗi nhà báo
cần có để đứng vững trong nghề. Bên cạnh đó, tác giả còn đề cập đến vấn đề thông cáo
báo chí, một loại hình thông tin mà các tập đoàn kinh doanh, cơ quan, tổ chức chính trị -
xã hội đang sử dụng rộng rãi trong những năm gần đây để tiếp cận với công chúng.
Cuốn sách Nghiệp vụ báo chí lý luận và thực tiễn [167] của tác giả
V.V.Vôrôsilốp (2004), nhà báo người Nga tập trung làm rõ những vấn đề lý luận
nghiệp vụ và kinh nghiệm thực tiễn trong hoạt động báo chí của nước Nga và thế giới.
Tác giả đã điểm lại lịch sử báo chí một số nước trên thế giới ở cả 5 châu lục cùng sự
phát triển của kỹ thuật công nghệ thông tin, các loại hình và chức năng, kết quả hoạt
động truyền thông. Ngoài ra, tác giả phân tích sâu về chuẩn mực pháp lý, đạo đức,
quan hệ tiếp thị và vấn đề nghiệp vụ tại các tòa soạn. Tuy nhiên, nhiều vấn đề lý luận
và thực tiễn trong cuốn sách gắn với điều kiện và hoàn cảnh của nước Nga song cũng
có một số điểm cơ bản để người làm báo và các cơ quan báo chí cũng như cơ quan
quản lý nhà nước về báo chí có thể tham khảo, nhằm thúc đẩy sự phát triển báo chí
nước ta trong thời kỳ mới.
Cuốn sách Tổ chức và quản lý báo chí [181] của hai tác giả Herbert Lee
Williams và Frank Warren Rucker đề cập đến cơ cấu chức năng của một tòa soạn báo,
những trang thiết bị cần thiết và cách bố trí, sắp xếp để các trang thiết bị trong một tòa
soạn và quy trình in ấn. Đây chỉ là quy trình về việc tổ chức bộ máy và tổ chức sản
xuất một tờ báo, song đó cũng là gợi ý giúp các nhà quản lý báo chí nắm được quy
trình sản xuất một tờ báo.
Cuốn sách Báo chí và xã hội [182] của hai tác giả người Mỹ George L.Bird và
E.Merwwin chỉ ra tầm ảnh hưởng của báo chí đến công chúng và báo chí tham gia vào
rất nhiều quá trình xã hội. Ngược lại, vai trò của công chúng với sự phát triển của báo
chí và một trong những động lực thúc đẩy báo chí phát triển chính là nắm vững thị
hiếu của độc giả, song tác giả cũng chỉ ra báo chí cần có tôn chỉ, mục đích để đảm bảo
định hướng cho công chúng, làm cho báo chí phản ánh đúng thực tiễn.
Cuốn sách Truyền thông đại chúng - những kiến thức cơ bản [49] của tác giả
người Đức Claudia đề cập những vấn đề lý luận cơ bản mang tính nghiệp vụ truyền
thông như các vấn đề về thông tin, phương tiện thông tin, hoạt động thông tin, đối
tượng thông tin, trách nhiệm, nghĩa vụ đạo đức của người làm báo, nghề nghiệp báo
14
chí và hoạt động truyền thông trong cơ chế thị trường. Với cách tiếp cận như vậy chủ
yếu phục vụ cho những người nghiên cứu nghiệp vụ báo chí, song cũng là tài liệu cần
thiết cho những người làm công tác quản lý báo chí để hiểu về truyền thông trong thế
giới hiện đại.
Cuốn sách Xã hội thông tin (2006) [179] của tác giả Frank Webster cho rằng sự
phát triển mạnh mẽ mọi mặt của xã hội làm cho nhu cầu tìm hiểu, khai thác thông tin
của con người gia tăng với tốc độ nhanh chóng. Vì lí do này nhiều loại hình báo chí,
các trang mạng xã hội mới ra đời, ban đầu nó chỉ nhằm vào mục đích thông tin nhưng
giờ đây người ta còn xây dựng nó trở thành một hoạt động kinh tế đem lại lợi nhuận
cao. Cũng nghiên cứu về xã hội thông tin, nhóm tác giả G.Bechmann G, J.Fecker,
U.Huws, G.V.Hootergem, M.L.Mirabile, A.B.Moniz, S.Siochru trong cuốn sách Xã
hội thông tin, công việc và các hình thức xã hội mới (1999) [179] còn chỉ ra sự phát
triển của báo chí sẽ tạo ra nhiều việc làm mới và để đáp ứng với những yêu cầu ngày
càng cao của xã hội, nội dung các tờ báo cũng thay đổi về các tổ chức, đưa tin, viết bài
và tham gia vào định hướng dư luận xã hội.
Trong cuốn sách Báo chí quốc tế [185], tác giả Kevin Williams (tại chương 1:
Toàn cầu hóa và báo chí quốc tế và chương 5: Kỹ thuật tiêu chuẩn: Quản lý tin tức và
báo chí quốc tế) cho rằng, quản lý báo chí là một trong những phương thức lãnh đạo
của mọi quốc gia. Báo chí phải hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, việc đưa báo chí
trong nước ra nước ngoài đều phải đảm bảo theo những tiêu chuẩn, quy định về báo
chí nói chung của mỗi nước cũng như đội ngũ nhà báo trong quá trình tác nghiệp cũng
phải được quản lý theo những quy định chung của mỗi nước. Đây dường như là điều
kiện bắt buộc giúp cho các cơ quan quản lý báo chí tập trung chỉ đạo việc đưa các nội
dung thông tin lên báo chí và quản lý đội ngũ nhà báo.
Cuốn sách Sức mạnh của truyền thông trong chính trị (2006) [51] của Doris
A.Graber thuộc trường Đại học Illinois, Mỹ và cuốn sách Sức mạnh của tin tức truyền
thông [103] của tác giả Michael Schudson (2003) chỉ ra những thay đổi của đời sống
chính trị ở châu Mỹ với sự tác động của truyền, sự động này có tầm ảnh hưởng sâu
rộng giữa người làm báo với các nhà chính trị. Ngoài ra, tác giả đưa ra những dự đoán
về sự phát triển của truyền thông trong tương lai, tác động của truyền thông kiểu cũ và
mới vào chính trường và vai trò của các nhà báo trong vận động hành lang có thể dẫn
đến hậu quả làm chệch hướng các luật và quy định về truyền thông. Những dự đoán
15
này ngày càng được thực tiễn kiểm chứng tính đúng đắn trong đời sống chính trị và
những gợi ý cho việc quản lý truyền thông đang trở thành vấn đề cấp thiết.
Cuốn sách Hội tụ truyền thông và mô hình kinh doanh truyền thông phát triển:
Cơ hội tổng quan và chiến lược [191] của tác giả Simon McPhillips (2008), Giám đốc
Truyền thông tại Sprint Nextel Corp, Hoa Kỳ và Omar Merlo thuộc Đại học
Cambridge, Anh nhận định: Sự hội tụ truyền thông đem đến nhiều cơ hội song nhiều
nhà quan sát trong ngành công nghiệp truyền thông lại bi quan về những thay đổi như
vậy. Tuy nhiên, bằng chứng cho thấy ngành công nghiệp truyền thông có thể nắm lấy
cơ hội này, vì có rất nhiều mô hình kinh doanh truyền thông đang phát triển. Các tác
giả cung cấp một cái nhìn tổng quan toàn diện về những thay đổi ảnh hưởng đến ngành
công nghiệp truyền thông, xác định cách thức mô hình kinh doanh truyền thông đang
phát triển, với những hậu quả và cuối cùng, xác định và thảo luận các cơ hội chính cho
những người tham gia vào quá trình kinh doanh truyền thông.
Cuốn sách Sổ tay quản lý truyền thông: Cẩm nang cho các học viên truyền hình
và phát thanh ở các nước trong quá trình chuyển đổi (2009) [177] của tác giả John
Prescott Thomas, cung cấp một số kinh nghiệm cho việc quản lý các tổ chức truyền
thông về cơ cấu và tổ chức bộ máy, kế hoạch chiến lược và quản trị tài chính, kế hoạch
và quản lý nguồn nhân lực… ở nhiều bối cảnh truyền thông khác nhau và đặc biệt liên
quan đến các quốc gia đang phát triển. Trong đó tác giả đưa ra một số nghiên cứu
trường hợp tại một số cơ quan truyền thông nhằm gợi ý cho về cách tổ chức quản lý
truyền hình trong bối cảnh thế giới thay đổi.
Cuốn sách Quản lý phóng viên báo chí nước ngoài trong quá khứ, hiện tại và
tương lai trước xu thế toàn cầu báo chí của Dannika Lewis (2010) thuộc đại học Elon
(Mỹ) cho rằng, sự kết nối của báo chí đối ngoại ngày càng phức tạp. Vì lẽ đó, sự thăng
trầm và phát triển của báo chí đối ngoại nước ngoài trong suốt lịch sử, hiện tại và tương
lai cần phải được quan tâm. Tuy nhiên, các nội dung đăng tải trên báo chí đối ngoại cần
phải được xác minh nhằm tránh sự sai lệch dẫn đến việc tiếp nhận và hiểu sai vấn đề. Các
nhà báo có thể cung cấp nhiều kiến thức và thông tin với ngôn ngữ và văn hóa ra thế giới
nhưng cách họ thể hiện đôi khi lại chưa hoàn toàn đáp ứng các yêu cầu của nơi cần cung
cấp thông tin cũng như yêu cầu của các quốc gia có tờ báo đối ngoại. Khi các văn phòng
thường trú và phóng viên hoạt động ở nước ngoài có thể không hiệu quả trong việc đưa
tin các vấn đề toàn cầu phức tạp họ cần phải được hướng dẫn, quản lý [174].
16
Cuốn sách Truyền thông đại chúng trong một thế giới đang thay đổi [181], tác
giả George R. Rodman(2011), chủ nhiệm khoa Phát thanh Truyền hình thuộc Đại học
Brooklyn, New York giới thiệu về thế giới truyền thông đại chúng dưới dạng một kết
cấu có tổ chức. Trong đó tập trung vào các vấn đề về lịch sử truyền thông, công nghệ
truyền thông và những tranh luận xung quanh vấn đề truyền thông trong thế giới đang
thay đổi. Ngoài ra, tác giả còn cung cấp thông tin về các phương tiện truyền thông mới
và tầm quan trọng của truyền thông di động trong truyền thông đại chúng, sự hội tụ
kinh tế của ngành công nghiệp trực tuyến và phương tiện di động. Song cách tổ chức
quản lý truyền thông đại chúng trong một thế giới thay đổi hầu như không được đề cập
đến, trong khi đó việc quản lý truyền thông đại chúng như một phương tiện báo chí đối
ngoại rất cần thiết lại ít được chú trọng.
Cuốn sách Những vấn đề cơ bản của báo chí [171] của hai nhà báo người Mỹ
Bill Kovach và Tom Rosenstiel (2014) đã tập hợp nhiều ý kiến của các nhà báo có liên
quan để đặt câu hỏi báo chí là gì, vai trò của báo chí trong đời sống xã hội như tôn
trọng sự thật, trung thành với các ý kiến của người dân, phải là quyền lực mềm, là diễn
đàn cho những chỉ trích công khai và thỏa hiệp, các vấn đề về tự do báo chí và là diễn
đàn của công chúng. Đưa ra nhiều nguyên tắc như những luận điểm về vai trò của báo
chí trong đời sống xã hội nhưng các tác giả hầu như không nhắc đến vấn đề phải quản
lý báo chí như thế nào và ai sẽ đứng ra quản lý.
Cuốn sách Vai trò của đội ngũ cán bộ quản lý báo chí đối ngoại của tác giả
Jørgen Skrubbeltrang (2015) cho rằng, trong xã hội hiện đại đội ngũ cán bộ quản lý
báo chí đối ngoại đóng vai trò thiết yếu trong việc thẩm định cũng như đưa ra những
đánh giá để đi đến quyết định cho phép xuất bản hay từ chối. Người viết bài rất đa
dạng, họ đến từ nhiều nền văn hóa nên có thể không hình dung hết những chuẩn mực
báo chí mà một nước đặt ra, do đó đội ngũ cán bộ quản lý báo chí trở thành một lực
lượng tin cậy cho các xuất bản đến với độc giả ở các nền văn hóa khác nhau [178].
Như vậy, có thể thấy những nghiên cứu về vấn đề quản lý báo chí ở nước ngoài
đã được đề cập đến nhưng chưa nhiều. Mỗi nước có cách thức khác nhau, song tập
trung chủ yếu vào vấn đề tự do báo chí và phát triển báo chí theo định hướng thông tin
nhanh, kịp thời, tôn trọng sự thật và là một diễn đàn không thể thiếu trong đời sống xã
hội. Xu hướng nghiên cứu chính hiện nay về quản lý báo chí nói chung ở nước ngoài
tương đối đa dạng, nhiều loại hình báo chí nhưng thường gắn với hoạt động thương
17
mại, nhất là báo điện tử. Tuy nhiên, những nghiên cứu về quản lý báo chí đối ngoại
hầu như chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống. Trong khi đó quản lý báo chí đối
ngoại cần được quan tâm và được thể chế hóa bằng các văn bản quy phạm pháp luật rõ
ràng, chi tiết để tạo điều kiện cho quản lý báo chí đối ngoại phát triển.
2. Tình hình nghiên cứu trong nước về quản lý báo chí và quản lý báo chí
đối ngoại
Hiện nay, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, mạng xã hội làm cho
báo chí trong nước xuất hiện một số xu hướng nghiên cứu mới:
Thứ nhất, những công trình nghiên cứu về quản lý báo chí
Ở Việt Nam, báo chí đang có sự phát triển mạnh mẽ cả về loại hình và cách tổ
chức nội dung. Chính vì vậy, công tác quản lý báo chí cũng được nghiên cứu khá đa
dạng, với nhiều công trình khác nhau, có thể chỉ ra các công trình nghiên cứu có liên
quan đến quản lý báo chí gồm:
Tác giả Trần Bá Dung (2001) có bài viết Các quan điểm chỉ đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam về báo chí trong thời kỳ đổi mới introng cuốn sách Báo chí những
điểm nhìn từ thực tiễn [53]. Tác giả đã đưa ra đánh giá báo chí cách mạng ngày càng
lớn về quy mô, khoa học hơn về tính chất, ngày càng khẳng định vị trí, vai trò, tầm
quan trọng trong đời sống xã hội, được xã hội đón nhận. Trên thực tế, với sự phát triển
mạnh mẽ của các loại hình thông tin, báo chí như hiện nay tác giả cho rằng cần cơ cơ
chế, chính sách quản lý báo chí để báo chí cách mạng luôn giữ vững lập trường, tôn
chỉ mục đích và gắn bó chặt chẽ với sự phát triển của đất nước.
Cuốn sách Tăng cường lãnh đạo, quản lý tạo điều kiện để báo chí Việt Nam
phát triển mạnh mẽ, vững chắc trong thời gian tới [16] do Ban Tuyên giáo Trung ương
biên soạn (2007) cho rằng, cần tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp trong quản lý
báo chí trong thời gian tới để phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiêp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
Trong đề tài cấp Bộ Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất các giải
pháp quản lý Nhà nước về báo chí ở nước ta trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế do
Vũ Thanh Sơn (2008) làm chủ nhiệm [133]; bài báo Quản lý nhà nước về báo mạng
điện tử ở Việt Nam hiện nay của tác giả Trịnh Xuân Thắng (2013) đăng trên trên tạp
chí Thông tin đối ngoại [140]; bài báo Nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với
báo chí của tác giả Nguyễn Vũ Tiến (2002) đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị [153]
18
các tác giả thống nhất cho rằng, báo chí nước ta hiện nay rất đa dạng về chủng loại, nội
dung thông tin rất phong phú, chính vì vậy cần có nhiều biện pháp linh hoạt để quản lý
báo chí trong tình hình mới, nhất là tính cập nhật, nhạy bén của báo điện tử cần phải
kiểm soát chặt chẽ về thông tin, cần có sự quản lý thường xuyên, sát sao của các cơ
quan chức năng. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí cần quyết liệt, sâu sát hơn
với các nội dung thông tin.
Cuốn sách Lãnh đạo và quản lý hoạt động báo chí ở Việt Nam hiện nay [20]
của tác giả Hoàng Quốc Bảo (2010) tập trung vào việc luận giải sự cần thiết phải nâng
cao vai trò của báo chí trong hoạt động tham mưu, vào chức năng thông tin giúp cho
công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng thực hiện hoạt động quản lý nhà nước đối với báo
chí. Tác giả Đỗ Quý Doãn (2014) trong cuốn sách Quản lý và phát triển thông tin báo
chí ở Việt Nam [52] tập hợp các bài viết về những vấn đề xung quanh công tác quản lý,
chỉ đạo và phát triển báo chí cách mạng Việt Nam tham gia vào sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Tác giả khẳng định, các thông tin trên
báo chí cần được kiểm soát chặt chẽ, báo chí phải trở thành công cụ quan trọng, là một
kênh thông tin, giáo dục, giải trí phù hợp với quan điểm, đường lối của Đảng.
Cuốn sách Công tác lãnh đạo, quản lý báo chí trong 25 năm tiến hành sự
nghiệp đổi mới [94] của tác giả Nguyễn Thế Kỷ (2012) đi sâu nghiên cứu sự lãnh đạo
của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với hoạt động báo chí sau 25 năm tiến hành
đổi mới đất nước. Tác giả chỉ ra những ưu điểm và hạn chế cơ bản đó là báo chí nước
ta có sự phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng nhưng việc quản lý báo chí chưa
sát với yêu cầu thực tiễn, các chức năng của báo chí hiện đang thiên về giải trí hơn là
chức năng định hướng. Tác giả đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý báo
chí đáp ứng với yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước, trở thành công cụ quan trọng
phục vụ cho việc tuyên truyền các quan điểm của Đảng và góp phần đấu tranh chống
lại các quan điểm sai trái.
Bài báo Tăng cường quản lý nhà nước về pháp luật đối với báo chí [5] của tác
giả Hoàng Anh (2012) đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử cho rằng, báo chí Việt Nam
về thể thức được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật. Nội dung các văn
bản quản lý báo chí bao quát nhiều vấn đề cơ bản của hoạt động báo chí, thể hiện được
sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đối với báo chí. Tác giả đã chỉ ra một số hạn chế
trong quản lý báo chí đó là những tác động của cơ chế thị trường các cơ quan quản lý
19
còn lúng túng, thậm chí buông lỏng trong quản lý. Công tác tổ chức thông tin và quản
lý thông tin chưa thực sự sát với thực tế, chưa ngăn chặn, phòng ngừa được các vi
phạm pháp luật trong hoạt động báo chí. Vì vậy, tác giả đưa ra một số biện pháp cơ
bản trong quản lý báo chí đó là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, tiếp
tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về báo chí, tổ chức tốt việc thực
hiện quản lý nhà nước bằng pháp luật, tăng cường hợp tác quốc tế trong quản lý nhà
nước về báo chí và thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong hoạt
động báo chí một cách nghiêm khắc.
Tác giả Đoàn Thế Hanh (2013) trong bài viết Quản lý nhà nước đối với báo chí
ở nước ta đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử, chỉ ra những điểm lý luận cơ bản về
quản lý nhà nước đối với báo chí như xác định rõ chủ thể, khách thể, đối tượng cũng
như mục đích của hoạt động quản lý nhà nước đối với báo chí. Mặt khác, tác giả đã
khái quát quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đối với công tác quản lý nhà nước về
báo chí trên năm phương diện: công tác báo chí là bộ phận cấu thành hữu cơ trong
hoạt động của Đảng ta; báo chí phải góp phần tích cực vào tuyên truyền lý luận của
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm của Đảng, pháp
luật, chính sách của Nhà nước; báo chí là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, của tổ chức
chính trị-xã hội và là diễn đàn của nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng,
sự quản lý của Nhà nước và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật; Đảng lãnh đạo báo
chí bằng việc định hướng chính trị và thông qua Nhà nước và cán bộ báo chí cũng là
chiến sĩ cách mạng. Trên cơ sở đó tác giả chỉ ra những nguyên tắc căn bản trong quản
lý nhà nước để báo chí hoạt động sáng tạo, cơ sở pháp lý cho hoạt động quản lý nhà
nước đối với báo chí và cơ quan quản lý nhà nước về báo chí [71].
Bài báo Tăng cường công tác quản lý báo chí trong giai đoạn hiện nay của tác
giả Nguyễn Quang Vinh (2014) đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử phân tích những
hạn chế của báo chí hiện nay: cơ quan báo chí thiếu nhạy bén chính trị, chưa làm tốt
chức năng tư tưởng, văn hoá, có biểu hiện xa rời sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý
của Nhà nước, xa rời tôn chỉ, mục đích. Khắc phục những hạn chế trên, tác giả cho
rằng cần xây dựng, bổ sung các quy định, quy chế tạo cơ sở chính trị cho công tác
lãnh đạo, chỉ đạo báo chí; xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch và phát triển sự nghiệp báo chí; đề cao vai trò, trách nhiệm trong chỉ đạo hoạt
động của cơ quan báo chí và tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra các cơ quan báo
20
chí, xuất bản để báo chí cách mạng phát triển không ngừng, phục vụ Tổ quốc và
nhân dân [166].
Bài báo Quản lý nhà nước về báo chí trong thời kỳ đổi mới [6] của tác giả
Nguyễn Thị Mai Anh (2016), đăng trên Tạp chí Tổ chức nhà nước và Vấn đề quản lý
báo chí của các tổ chức chính trị-xã hội [87] của Nguyễn Thị Thu Hương (2017) đăng
trên Tạp chí Người làm báo nhận xét: Với quan điểm hiện nay số lượng cơ quan báo
chí nhiều nhưng chất lượng chưa tương xứng, có xu hướng “thương mại hóa” trong
hoạt động báo chí, một số cơ quan báo chí còn buông lỏng công tác quản lý, giáo dục
chính trị cho đội ngũ cán bộ, phóng viên, biên tập viên. Ngoài ra, hoạt động thanh
tra, kiểm tra báo chí truyền thông còn hạn chế. Vì vậy, các tác giả cho rằng cần nâng
cao trách nhiệm, năng lực của các cơ quan quản lý hoạt động báo chí, hoàn thiện cơ
chế quản lý, đổi mới phương thức quản lý báo chí, tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử
lý vi phạm trong hoạt động báo chí. Tuy nhiên, cơ chế xử lý những sai phạm trong
quản lý báo chí, cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của báo chí chưa được
đề cập rõ.
Luận án tiến sĩ Quản lý công Quản lý nhà nước về báo chí ở Việt Nam hiện nay
[7] của tác giả Nguyễn Thị Mai Anh (2016) đã chỉ rõ cơ sở khoa học của quản lý nhà
nước về báo chí, trong đó tập trung chỉ rõ lý luận chung về báo chí, quản lý nhà nước
về báo chí, kinh nghiệm của một số quốc gia về quản lý báo chí. Trong chương 3 đã
nêu lên thực trạng quản lý nhà nước về báo chí thời kỳ đổi mới ở Việt Nam. Trên cơ
sở chỉ ra thực trạng thực hiện các nội dung quản lý nhà nước về báo chí, những ưu
điểm và hạn chế. Để khắc phục những hạn chế tác giả đã đưa ra những giải pháp góp
phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về báo chí. Nghiên cứu chủ yếu đề cập đến
báo chí nói chung mà không bàn đến vấn đề quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại,
đây là lĩnh vực tương đối cần thiết vì báo chí đối ngoại là một bộ phận trong nền báo
chí cách mạng Việt Nam.
Năm 2017, tác giả Doãn Thị Thuận công bố nghiên cứuQuản lý báo chí điện tử
ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay [152]. Tác giả đã chỉ ra thực trạng quản lý báo
chí điện tử từ năm 2011 đến năm 2015 còn bị buông lỏng, tôn chỉ mục đích còn trùng
chéo, chưa thực hiện đúng “tôn chỉ mục đích của mình, thông tin lấn sân sang của
ngành khác, chưa quản lý chặt chẽ nội dung thông tin, xuất bản, công tác xử lý vi
phạm. Trên cơ sở đánh giá thực trạng quản lý báo chí điện tử, tác giả cho rằng việc
21
quản lý nội dung thông tin, rà soát nội dung đăng tải trên các trang tin điện tử và mạng
xã hội, nhằm tạo điều kiện cho báo chí có thể cung cấp thông tin với chất lượng cao
hơn, góp phần quan trọng vào việc tuyên truyền các chủ trương, quan điểm của Đảng,
tham gia vào việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trước tình hình và yêu cầu mới.
Tác giả Trương Ngọc Nam (2018) qua nghiên cứu Đào tạo nguồn nhân lực báo
chí, truyền thông ở Việt Nam trong tình hình mới [108] chỉ rõ trong bối cảnh cuộc
Cách mạng công nghiệp 4.0, công nghệ làm báo có nhiều thay đổi, với sự hỗ trợ mạnh
mẽ của các thiết bị thông minh, điều đó kéo theo điện tử, mạng xã hội cũng phát triển
và quá trình hội nhập quốc tế về báo chí đòi hỏi phải có nguồn nhân lực báo chí chất
lượng cao. Tác giả đã đề ra các giải pháp đó là đổi mới mô hình đào tạo nguồn nhân
lực báo chí; tăng cường xây dựng cơ sở thực hành, đổi mới phương pháp đào tạo; coi
trọng giáo dục phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp, trách nhiệm xã hội, kỹ năng công
nghệ thông tin; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan báo chí, truyền thông theo hướng xã
hội hóa quá trình đào tạo; tăng cường nghiên cứu khoa học lĩnh vực báo chí và tăng
cường hội nhập quốc tế.
Thứ hai, những công trình nghiên cứu về lãnh đạo, quản lý báo chí
Trong bài viết Vấn đề lãnh đạo quản lý báo chí trong thời kỳ đổi mới [91], tác
giả Bùi Đình Khôi (1997) đã chỉ ra một số thực trạng về việc quản lý báo chí từ sau
khi nước ta tiến hành đổi mới có sự quan tâm chỉ đạo tích cực của Đảng, sự quản lý
của nhà nước nhưng nội dung thông tin còn nghèo, hình thức trình bày thiếu hấp dẫn,
bắt đầu chạy theo xu hướng thương mại, chưa đảm bảo hoạt động theo tôn chỉ, mục
đích. Do vậy, tác giả cho rằng đã đến lúc báo chí phải được quản lý, lãnh đạo phù hợp
với những yêu cầu của thời kỳ đổi mới, tránh chạy theo xu hướng thương mại hóa,
việc đưa tin, viết bài phải thể hiện được tính trung thực, khách quan. Cùng nghiên cứu
về lĩnh vực này còn có bài viết Nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về báo chí
trong tình hình hiện nay [99] của tác giả Mai Linh (2012), bài viết Quản lý nhà nước
về báo chí trong thời kỳ đổi mới [3] của tác giả Nguyễn Thị Mai Anh (2015), hai tác
giả khá thống nhất khi cho rằng báo chí ở nước ta hiện nay có xu hướng thương mại
hóa, một số tờ báo đưa tin theo hướng câu khách nên đưa tin giật gân, nội dung nghèo
nàn, thiếu sự sáng tạo trong cách đưa tin, viết bài, hình thức thể hiện đơn điệu, do đó
cần phải tăng cường sự chỉ đạo, sự lãnh đạo đối với các cơ quan báo chí, chấn chỉnh
hiện tượng đưa tin thiếu trung thực, không theo tôn chỉ mục đích.
22
Cuốn sách Truyền thông đại chúng [136] của tác giả Tạ Ngọc Tấn (2004) đánh
giá cao sức mạnh của báo chí, cho rằng công tác truyền thông có sự lan tỏa mạnh mẽ
cả những thông tin trái chiều, đặc biệt là những vấn đề được dư luận quan tâm. Với
những tác động như vậy của báo chí, tác giả cho rằng, việc đưa tin trên báo chí cần có
định hướng, trong đó tập trung truyền thông về khía cạnh pháp lý, biểu dương những
điển hình tiên tiến và đấu tranh, phê phán cái sai, cái tiêu cực, tránh thái độ nôn nóng,
phê bình gay gắt.
Bài báo Một số vấn đề về phát triển báo chí nước ta hiện nay [138] của tác giả
Tạ Ngọc Tấn (2007) đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử chỉ ra rằng, báo chí tạo ra ảnh
hưởng to lớn về văn hóa, lối sống xã hội, ảnh hưởng ngày càng to lớn đến việc thúc
đẩy hình thành các sự kiện kinh tế, chính trị, ảnh hưởng đến quá trình hoạch định các
chính sách kinh tế-xã hội của đất nước. Ngoài những tác động xã hội tích cực, tác giả
cho rằng báo chí cũng là nguyên nhân của không ít hệ quả xã hội phức tạp, nhất là
những ảnh hưởng tiêu cực về tâm lý xã hội, những băn khoăn, lo lắng, thậm chí sụt
giảm niềm tin của người dân về sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước
trước tình hình tham nhũng, lãng phí. Từ đó tác giả chỉ ra những hạn chế về quản lý
báo chí: chưa có sự thống nhất trong nhận thức về vai trò, chức năng xã hội của hệ
thống báo chí nói riêng và hệ thống truyền thông đại chúng nói chung; hệ thống luật
định về báo chí chưa đủ để giải quyết nhiều tình huống đặt ra trong thực tế hoạt động
báo chí; bộ máy quản lý chưa xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động và
người làm báo chưa được giáo dục đầy đủ về luật pháp, đạo đức và trách nhiệm công
dân của nhà báo.
Cuốn sách Từ lý luận đến thực tiễn báo chí [134] và cuốn Truyền thông đại
chúng – động lực phát triển của xã hội hiện đại [135] của tác giả Tạ Ngọc Tấn khẳng
định, báo chí là phương tiện giao tiếp quan trọng đóng góp vào sự phát triển của xã
hội, đồng thời là công cụ quản lý xã hội, công cụ thực hiện dịch vụ xã hội. Tác giả
Hoàng Đình Cúc, Đức Dũng (2007) trong cuốn Những vấn đề của báo chí hiện đại
[50] bàn về nguyên tắc hoạt động báo chí, trong đó nêu bật các nguyên tắc đảm bảo
tính khuynh hướng, tính quần chúng, tính khách quan, chân thật và tính nhân văn của
báo chí... những yếu tố này là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Song trong các nghiên cứu đều không đề cập đến phải quản lý báo chí như thế nào để
báo chí hiện đại thực sự phát triển theo đúng tôn chỉ, mục đích.
23
Bài viết Những nhiệm vụ chủ yếu của công tác thông tin đối ngoại nhằm thực
hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng [86]của tác
giả Phạm Gia Khiêm (2011) đăng trên Tạp chí Thông tin đối ngoại cho rằng, báo chí
không chỉ định hướng dư luận mà còn tham gia vào việc đưa tin, cổ động, tuyên truyền
các quan điểm của Đảng, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu của Đảng đã đề ra.
Bên cạnh đó, công tác ngoại giao không thể không có sự góp mặt của báo chí, đặc biệt
ngày nay công tác ngoại giao có sự tham gia, hỗ trợ tích cực của báo chí, dường như
nội dung phản ánh khá rõ vai trò của báo chí trong tình hình hiện nay. Song vấn đề
quản lý để các bài viết có trọng tâm, trọng điểm, phản ánh được thực chất của vấn đề
lại chưa được giải quyết thỏa đáng trong các nghiên cứu này.
Cuốn sách Báo chí và dư luận xã hội [56] của tác giả Nguyễn Văn Dững (2011)
bàn về bản chất của hoạt động truyền thông, hoạt động báo chí, đặc điểm của thông tin
báo chí; cơ chế tác động của báo chí đến xã hội. Giữa báo chí và dư luận xã hội có
quan hệ chặt chẽ, mỗi khi có dư luận xã hội thì báo chí kịp thời phản ánh, cung cấp
thông tin cho việc quản lý xã hội. Vì vậy, báo chí không chỉ cung cấp thông tin mà còn
gián tiếp tham gia vào quản lý xã hội.
Bài viết Quan hệ của truyền thông đại chúng với ngành tư pháp ở các nước tư
bản phát triển [104] của tác giả Đỗ Đức Minh (2014) cho rằng truyền thông đại chúng
và ngành tư pháp là hai thiết chế độc lập, cùng tham gia vào việc kiểm tra, giám sát
hoạt động của bộ máy nhà nước, đồng thời truyền thông đại chúng và các cơ quan tư
pháp giám sát lẫn nhau. Thông qua hoạt động điều tra, truyền thông đại chúng là người
phát hiện, tạo tiền đề cho các cơ quan tư pháp tiến hành các hoạt động tố tụng cần
thiết. Mặt khác, truyền thông đại chúng còn có vai trò tham gia theo dõi, hỗ trợ các cơ
quan tư pháp trong quá trình khởi tố, điều tra, xét xử để truyền thông đại chúng thực
hiện vai trò và sứ mệnh của mình. Bên cạnh đó, truyền thông đại chúng trở thành đối
tượng của hoạt động tư pháp. Sự tự do báo chí là một trong những điều kiện thiết yếu
để thực hiện chức năng xã hội cơ bản của truyền thông song các nước đều đặt ra những
văn bản luật để kiểm tra, giám sát, quản lý nền báo chí và có những hình thức xử lý rất
chặt chẽ cho những nhà báo vượt giới hạn cho phép trong đưa tin, tuyên truyền. Đó
cũng là những gợi ý cho Việt Nam trong quản lý báo chí.
Cuốn sách Các loại hình báo chí truyền thông [121] của tác giả Dương Xuân
Sơn (2014) chỉ rõ đặc trưng, đặc điểm của truyền thông và truyền thông đại chúng
24
hiện đại, trong đó tác giả trình bày lịch sử ra đời và phát triển một số loại hình báo
chí, những ưu điểm và hạn chế, nguyên tắc và phương pháp sáng tạo, xu hướng phát
triển riêng của từng loại hình báo chí, nhất là báo chí điện tử nhằm phát huy tốt vai
trò, sức mạnh của các loại hình báo chí truyền thông với công cuộc xây dựng và phát
triển đất nước.
Cuốn sách Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với báo chí trong giai
đoạn hiện nay [112] của tác giả Lưu Đình Phúc (2016) đã chỉ rõ, trong những năm gần
đây, báo chí Việt Nam ngày càng phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng, số
cơ quan báo chí cũng tăng nhanh, cách tổ chức thông tin cũng đa dạng, ngày càng
chuyên sâu về cách tổ chức xây dựng nội dung. Tuy nhiên, trước sự phát triển mạnh
mẽ của công nghệ thông tin, các loại hình truyền thông mới ra đời, báo chí truyền
thống Việt Nam đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, do đó yêu cầu phải tăng
cường hơn nữa và đổi mới phương thức lãnh đạo và quản lý báo chí của Đảng và Nhà
nước, để báo chí giữ vững bản chất cách mạng. Để giữ vững được bản chất cách mạng
của báo chí, tác giả đã luận giải những vấn đề lý luận và tính tất yếu của việc đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, phân tích, đánh giá những thành tựu
và hạn chế của báo chí, từ đó đưa ra quan điểm và đề xuất giải pháp đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, giúp báo chí có những bước phát triển mới
phù hợp với yêu cầu thực tiễn.
Tác giả Vũ Ngọc Hoàng (2016) qua nghiên cứu Báo chí với sự phát triển bền
vững kinh tế-xã hội [77] đăng trên Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ,
trong kỷ nguyên thông tin thì thông tin tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất và
quản trị quốc gia, quyết định nhận thức, tạo ra những con người với một trình độ, kỹ
năng cao hơn và để làm được điều này báo chí phải cung cấp thông tin một cách trung
thực nhất để giúp cộng đồng xã hội hiểu đúng thực trạng, qua đó tham gia tích cực vào
việc chỉ rõ những yếu kém và giải pháp khắc phục; đấu tranh chống “lợi ích nhóm”,
tiêu cực và tham nhũng, lãng phí hướng đến xây dựng xã hội phát triển.
Đề tài Nâng cao hiệu quả tuyên truyền của Ban Biên tập tin Đối ngoại Thông
Tấn xã Việt Nam đáp ứng nhiệm vụ chính trị trong tình hình mới [82]do tác giả Đỗ
Văn Hợp (2016) làm chủ nhiệm, đã chỉ ra thực trạng thông tin chuyên ngữ bằng văn
bản của Ban Biên tập tin đối ngoại, một số thành tựu cơ bản đó là chú ý nhiều hơn tới
các chủ đề văn hóa, thể thao, du lịch, lượng truy cập ngày càng tăng góp phần không
25
nhỏ vào việc tăng cường quan hệ hợp tác nhiều mặt với các nước bạn bè, đối tác trên
thế giới. Một số hạn chế được chỉ ra lượng tin tiếng Anh chưa xứng tầm với một hãng
thông tấn quốc gia, nội dung các bản tin chuyên ngữ vẫn chủ yếu phản ánh “một
chiều”, tin chính trị ngoại giao chất lượng tin còn khuôn mẫu, nặng về tuyên truyền,
hàm lượng thông tin chưa cao; tin kinh tế, xã hội, văn hóa thể thao thiếu chuyên sâu,
nội dung còn nghèo nàn, thông tin cũ. Các chương trình truyền hình bằng tiếng nước
ngoài của Ban Thông tin Đối ngoại, chất lượng các bản tin từ khâu biên tập, biên dịch,
đọc off, dựng hình đến dẫn chương trình ngày càng được được nâng cao, đội ngũ dẫn
chương trình được đào tạo chuyên nghiệp và bài bản, các bản tin truyền hình đối ngoại
ngày càng được nâng cao về chất lượng. Tuy nhiên, tin bài, phóng sự tự sản xuất hiện
vẫn chỉ chiếm tỷ trọng khá chưa nhiều trong thời lượng các bản tin truyền hình của
Ban Thông tin Đối ngoại, công tác quảng bá các bản tin truyền hình đối ngoại tới khán
giả trong và ngoài nước vẫn chưa được quan tâm thỏa đáng, chưa tạo được sự hấp dẫn
về nội dung, rập khuôn về cách thức thể hiện.
Cuốn sách Thông tin báo chí với công tác lãnh đạo, quản lý [100] của các tác
giả Nguyễn Đức Lợi và Lưu Văn An (2017) (Đồng chủ biên) đã phân tích làm rõ cơ sở
lý luận và thực tiễn của vấn đề thông tin báo chí với công tác lãnh đạo, quản lý ở Việt
Nam trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế. Các tác giả đã chỉ ra một số kinh
nghiệm về việc phát huy vai trò của thông tin báo chí đối với công tác lãnh đạo, quản
lý ở một số nước trên thế giới. Trên cơ sở đó đưa ra quan điểm và giải pháp nâng cao
hiệu quả của thông tin báo chí phục vụ và kiểm tra, giám sát công tác lãnh đạo, quản lý
và đổi mới công tác lãnh đạo, quản lý đối với thông tin báo chí, đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp đổi mới toàn diện và đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong thời gian tới. Tác giả
đã đưa ra kiến nghị với các ban Đảng Trung ương, các cơ quan Nhà nước ở Trung
ương, cơ quan quản lý báo chí ở các địa phương, Hội Nhà báo Việt Nam, các cơ quan
chủ quản và cơ quan báo chí để nâng cao chất lượng, hiệu quả thông tin báo chí phục
vụ công tác lãnh đạo, quản lý và tăng cường công tác lãnh đạo, quản lý báo chí.
Bài báo “Giải pháp phát huy vai trò của báo chí- truyền thông đối với công tác
lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam” [1] của tác giả Lưu Văn An (2017) đăng trên Tạp chí
Lý luận chính trị khẳng định, báo chí phải được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự
quản lý chặt chẽ của Nhà nước. Các cấp quản lý cần coi báo chí là công cụ quan trọng
như một phương tiện để phản biện xã hội cũng như phản biện một cách khoa học với
26
những quan điểm, chủ trương. Mặt khác, báo chí phải luôn bám sát tôn chỉ, mục đích
phục vụ cho sự phát triển mọi mặt đời sống xã hội.
Thứ ba, những công trình nghiên cứu về về báo chí đối ngoại và thông tin
đối ngoại
Cuốn sách Báo chí với thông tin quốc tế [69] của tác giả Đỗ Xuân Hà (1997)
nêu lên một số vấn đề lý luận về báo chí quốc tế, các vấn đề thông tin quốc tế của báo
chí trong thời kỳ mở cửa, góp phần giáo dục nhân cách con người trên cơ sở kế thừa
truyền thống dân tộc, làm cho thế giới biết đến Việt Nam với những giá trị văn hóa
tiêu biểu. Việt Nam cũng tiếp thu, học hỏi được những giá trị tinh hoa của văn hóa thế
giới nhà tin tức, truyền thông. Nội dung chủ yếu tập trung vào chức năng thông tin của
báo chí mà chưa đề cập đến những đánh giá, nhận định về vai trò của báo chí Việt
Nam hiện nay trên trường quốc tế.
Cuốn sách Báo chí và ngoại giao [114] của tác giả Dương Văn Quảng (2002)
đề cập đến một số vấn đề giao tiếp và thông tin tuyên truyền đối ngoại, bao gồm
những kiến thức cơ bản về báo chí và mối quan hệ giữa báo chí với ngoại giao và công
tác tuyên truyền đối ngoại của nước ta hiện nay. Báo chí hiện là một kênh ngoại giao
quan trọng, do đó cần quan tâm nhiều hơn đến báo chí đối ngoại cũng như kiểm soát
các thông tin đối ngoại, làm cho báo chí đối ngoại trở thành phương tiện hữu ích trong
đời sống chính trị của nước ta.
Đề tài khoa học cấp Bộ Đẩy mạnh hoạt động thông tin đối ngoại trong quá trình
hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay” [127] của tác giả Phạm Minh Sơn (2008) đã
phân tích, xem xét một cách đầy đủ, tổng hợp hoạt động thông tin đối ngoại trong quá
trình hội nhập quốc tế với những ưu điểm và hạn chế, trên cơ sở đó đề xuất một số biện
pháp góp phần đẩy mạnh hoạt động thông tin đối ngoại của Việt Nam hiện nay.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế Báo chí và truyền thông đại chúng – đào tạo
và bồi dưỡng trong thời kỳ hội nhập [81] của Học viện Báo chí và Tuyên truyền
(2008) có nhiều bài viết về thông tin đối ngoại, như: Toàn cầu hóa, những cơ hội và
thách thức đối với báo chí truyền thông đại chúng Việt Nam của tác giả Nguyễn Đức
Dũng, Cơ hội, thách thức và những yêu cầu cơ bản của báo chí truyền thông đại
chúng trong thời kỳ hội nhập quốc tế của tác giả Phạm Xuân Mỹ, Báo chí Việt Nam
trong hội nhập quốc tế của tác giả Nguyễn Vũ Tiến… Những bài viết này nói lên bức
tranh chung về sự phong phú của báo chí, truyền thông đối ngoại của nước ra trong
27
thời kỳ hội nhập quốc tế vừa có những thuận lợi như sự phát triển mạnh mẽ hệ thống
cơ sở hạ tầng, thuận tiện trong khai thác thông tin, nhưng cũng đặt ra thách thức cho
các nhà quản lý báo chí khi kiểm soát các nội dung thông tin.
Cuốn sách Báo chí thế giới và xu hướng phát triển [72] của tác giả Đinh Thúy
Hằng (2008) đã cung cấp hệ thống lý luận về báo chí thế giới, về nghề báo, về vấn đề
tự do báo chí và xu thế phát triển của báo chí thế giới, trong đó báo in có thể giảm
nhưng báo chí điện tử, báo hình có chiều hướng phát triển mạnh do sự phát triển của
hệ thống internet. Tuy nhiên, với sự phát triển mạnh của phương tiện truyền thông
nhưng cuốn sách không đề cập đến quản lý vấn đề này.
Hai tác giả Phạm Minh Sơn và Nguyễn Thị Quế (2009) công bố cuốn sách
Truyền thông đại chúng trong công tác thông tin đối ngoại của Việt Nam hiện nay
[129]. Nội dung cuốn sách chỉ rõ thực trạng hoạt động truyền thông đại chúng trong
công tác thông tin đối ngoại hiện nay rất phong phú và đa dạng, với nhiều loại hình
báo chí, thông tin kịp thời, đa chiều nhưng cũng bộc lộ một số điểm yếu như việc tuân
theo tôn chỉ mục đích, chạy theo xu hướng thương mại khá rõ và để khắc phục tình
trạng này, các tác giả cho rằng cần đẩy mạnh hoạt động và nâng cao hiệu quả thiết
thực của truyền thông đại chúng trong công tác thông tin đối ngoại, đặc biệt là trong
bối cảnh đất nước ta đang chủ động và tích cực hội nhập với khu vực và thế giới.
Cuốn sách“Truyền thông Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa [106] do tác
giả Lê Hồng Minh (2009) chủ biên tập hợp các bài viết gồm ba phần: những vấn đề
chung, tiếp cận truyền thông đại chúng và công chúng, nhu cầu tiếp cận và hiệu quả
truyền thông đại chúng, trong đó có bài viết Xu hướng phát triển nội dung thông tin và
loại hình truyền thông đại chúng Việt Nam dưới tác động của toàn cầu hoá tác giả
Đặng Vũ Cảnh Linh cho rằng, nội dung thông tin trên báo chí hiện nay rất đa dạng,
tính thương mại cao, chạy theo thị hiếu. Tác giả chỉ ra tỷ lệ chênh lệch khá lớn giữa số
bài viết phản ánh các vấn đề trong nước chiếm số lượng lớn so với các bài về quốc tế,
việc đưa tình hình Việt Nam chiếm số lượng rất nhỏ, thông tin quốc tế thường là tin
nhanh. Bên cạnh đó, những tác động của quá trình toàn cầu hóa, báo chí nước ta có sự
phát triển mạnh mẽ, song cần có sự kiểm soát cả về nội dung, kiểm soát vấn đề an ninh
mạng, đồng thời kiểm soát các cơ quan báo chí.
Cuốn sách Thông tin đối ngoại Việt Nam – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
[131] của tác giả Phạm Minh Sơn (2011) và bài viết Một số vấn đề cần quan tâm trong
28
Thông tin đối ngoại trên báo chí hiện nay [165] của tác giả Nguyễn Hồng Vinh (2011)
đăng trên Tạp chí Thông tin đối ngoại đã nêu bật tầm quan trọng của báo chí đối
ngoại, nhất là trong giai đoạn đổi mới sự phản ánh kịp thời của báo chí kịp thời của
báo chí góp phần củng cố và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Tác
giả cũng chỉ ra một số hạn chế cho rằng công tác quản lý báo chí đối ngoại hiện nay
còn bộc lộ khiếm khuyết, chưa nhạy bén với tình hình thế giới, thông tin chưa phong
phú. Cùng nghiên cứu về vấn đề thông tin đối ngoại, tác giả Phạm Minh Sơn (2011)
công bố nghiên cứu Tăng cường công tác thông tin đối ngoại trong thời kỳ mới [132]
đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, trên có sở phân tích rõ tầm quan trọng của
công tác thông tin đối ngoại trong thời kỳ mới như tích cực, kịp thời tuyên truyền quan
điểm, chủ trương của Đảng; thông tin đối ngoại giúp xây dựng hình ảnh Việt Nam hòa
bình, ổn định, hợp tác và phát triển. Tuy nhiên, tác giả cho rằng thông tin đối ngoại
cần được tăng cường, đổi mới về mọi mặt, trong đó trọng tâm là đổi mới về nội dung,
tăng cường lực lượng tham gia công tác thông tin đối ngoại, phục vụ đúng đối tượng.
Đề tài nghiên cứu Nâng cao chất lượng hiệu quả công tác thông tin đối ngoại
trong một số cơ quan thông tấn báo chí chủ lực ở nước ta hiện nay – thực trạng và
giải pháp (2010)[98] do Phạm Văn Linh làm chủ nhiệm. Nghiên cứu cho rằng công
tác thông tin đối ngoại ở nước ta hiện có bước phát triển vượt bậc, đồng bộ và toàn
diện, với nhiều hình thức đa dạng, nội dung ngày càng phong phú, đóng góp vào thành
công của các hoạt động đối ngoại quan trọng. Tuy nhiên, công tác thông tin đối ngoại
bộc lộ một số hạn chế. Việc chỉ đạo, điều hành, thông tin, phối hợp còn lúng túng, nhất
là trước những vấn đề phức tạp. Nhận thức về vị trí, vai trò của thông tin đối ngoại còn
chậm và chưa đầy đủ. Nội dung thông tin chưa phong phú, thiếu hấp dẫn, sức thuyết
phục chưa cao. Thông tin về thế giới vào Việt Nam còn thiếu chọn lọc, chưa có sự gắn
kết chặt chẽ giữa thông tin đối nội và thông tin đối ngoại. Mặt khác, chưa đẩy mạnh
ứng dụng các công nghệ mới vào thông tin đối ngoại, cán bộ làm công tác thông tin
đối ngoại chưa đồng đều về năng lực công tác. Tuy nhiên, công trình nghiên cứu chưa
chỉ rõ trách nhiệm quản lý báo chí của các cơ quan quản lý nhà nước cả ở Trung ương
và địa phương. Trên cơ nghiên cứu thực tiễn, các tác giả đã đưa ra một số giải pháp
như tăng cường vai trò quản lý thông tin đối ngoại của Nhà nước ở Trung ương như
Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông cần xây dựng cơ chế phối
hợp kiểm soát, kiểm duyệt chặt chẽ các thông tin đối ngoại, nhất là các thông tin trái
29
chiều, và định hướng hiện đại hóa hệ thống trang thiết bị hiện đại để quản lý thông tin
đối ngoại có hiệu quả.
Đề tài nghiên cứu khoa học Tổ chức sản xuất các sản phẩm báo chí đối ngoại
[110] của Nguyễn Ngọc Oanh (2011) đề cập đến quy trình tổ chức sản xuất các sản
phẩm báo chí đối ngoại cần được chuyên nghiệp hóa, người làm báo cần được đào tạo,
bồi dưỡng về báo chí đối ngoại, quy trình xuất bản cần được chuẩn hóa, làm cho các
sản phẩm báo chí đối ngoại thực sự là công cụ, là phương tiện truyền thông có uy tín
mạnh mẽ với thế giới.
Cuốn sách Báo chí và thông tin đối ngoại [26] và cuốn Tổng quan truyền thông
quốc tế [25] của tác giả Lê Thanh Bình (2012) chủ yếu dành cho đào tạo chuyên sâu
về công tác báo chí và quản lý báo chí. Tác giả đã lược khảo sâu về tình hình báo chí
thế giới với các tổ chức thông tin đa dạng, có tính chuyên sâu, đảm bảo phục vụ nhiều
đối tượng và công tác ngoại giao. Trong cuốn sách Tổng quan truyền thông quốc tế,
tác giả đã cung cấp những quan niệm về đường lối đối ngoại về chính trị, phục vụ phát
triển kinh tế đối ngoại, phục vụ ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa, hệ thống hóa
các yêu cầu mang tính lý luận của truyền thông quốc tế, xây dựng hệ thống tiêu chí
đánh giá hiệu quả, nguồn lực của truyền thông quốc tế đối với công chúng và xã hội,
xây dựng hệ thống tiêu chuẩn đối với nhà báo quốc tế đồng thời đánh giá một số sản
phẩm về truyền thông quốc tế.
Cuốn sách Truyền thông quốc tế [161] của tác giả Vũ Thanh Vân (2014) đã
khái quát về lịch sử hình thành báo chí thế giới và tình hình báo chí thế giới trong giai
đoạn hiện nay, xu thế toàn cầu hóa tác động đến truyền thông và nắm bắt cơ hội này
truyền thông thế giới trở thành một ngành kinh doanh, song cần có sự quản lý các cơ
quan truyền thông.
Bài viết Báo điện tử với hoạt động Thông tin đối ngoại - Cơ hội và thách thức
của tác giả Doãn Thị Thuận trong cuốn sách Báo chí truyền thông – Những vấn đề
đương đại [109] do Nguyễn Trí Nhiệm (2015) chủ biên, đã phân tích những ưu thế của
báo điện tử trong hoạt động thông tin đối ngoại như việc đưa tin nhanh chóng, kịp
thời, người đọc dễ tiếp cận nhưng cũng đặt ra không ít thách thức đối với hoạt động
thông tin đối ngoại, trong đó có vấn đề đạo đức và trách nhiệm báo chí. Để khắc phục
những hạn chế đó tác giả đưa ra một số giải pháp như hoàn thiện khung pháp lý và bộ
máy quản lý báo chí để triển khai có hiệu quả công tác chỉ đạo báo chí điện tử cũng
30
như triển khai có hiệu quả Chiến lược phát triển thông tin đối ngoại, tạo ra những kênh
thông tin, công cụ hữu hiệu nâng cao hiệu quả của công tác thông tin đối ngoại và đấu
tranh phản bác quan điểm sai trái.
Cuốn sách iáo tr nh đại cương truyền thông quốc tế [163] của tác giả Phạm
Thái Việt (2016) đã trình bày khái lược về truyền thông quốc tế; vai trò, chức năng của
truyền thông quốc tế; lịch sử phát triển truyền thông quốc tế. Tác giả đã làm nổi bật
trật tự truyền thông quốc tế mới và các lý thuyết truyền thông quốc tế hiện nay, đồng
thời chỉ rõ mối quan hệ giữa toàn cầu hóa và truyền thông quốc tế; sức mạnh của thông
tin và truyền thông trong kỷ nguyên toàn cầu hóa cũng như xu hướng phát triển của
truyền thông quốc tế.
Bài viết Báo chí đối ngoại Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát
triển đất nước [86]của tác giả Đặng Thị Thu Hương (2016) in trong cuốn Báo chí
truyền thông - Những vấn đề đương đại đã bàn về hoạt động báo chí đối ngoại trong
các thời kỳ trước và sau những năm đổi mới, với nhiều thành tựu đạt được, góp phần
đắc lực vào việc tuyên truyền quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước. Từ khi
đất nước tiến hành đổi mới báo chí nước ta gặp phải không ít thách thức và để vượt
qua những thách tác giả đưa ra một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của
báo chí đối ngoại trong tương lai, trong đó có nhóm giải pháp về công tác định hướng
quản lý báo chí đối ngoại với chiến lược tập trung phát triển báo chí đối ngoại trở
thành một phương tiện quan trọng nhằm nâng cao vị thế báo chí cách mạng Việt Nam
trên trường quốc tế.
Cuốn sách Một số xu hướng mới của báo chí truyền thông hiện đại [90] của
nhóm tác giả Phan Văn Kiền, Phan Quốc Hải, Phạm Chiến Thắng và Nguyễn Đình
Hậu (2016) đề cập đến một số xu hướng mới và những xu hướng chủ đạo của báo chí
truyền thông hiện đại cả trên thế giới và ở Việt Nam, cả trên lĩnh vực báo chí và truyền
thông. Trước xu hướng phát triển mạnh mẽ của báo chí và truyền thông, của quảng cáo
hiện đại nhưng nội dung cuốn sách không đề cập đến việc quản lý các hoạt động này
nhằm đảm bảo cho báo chí hoạt động diễn ra trong khuôn khổ.
Cuốn sách Sức mạnh của các nhóm lợi ích truyền thông trong nền chính trị Mỹ
hiện đại [2] của tác giả Phan Duy Anh (2016) cho rằng, từ cuối thể kỷ XX đến nay,
truyền thông đại chúng ngày càng nâng cao vị trí của mình trong hoạt động của chính
phủ Mỹ. Các nhà lập pháp Mỹ nhận thức được sức mạnh to lớn của ngành công nghiệp
31
truyền thông. Bằng những phương thức khác nhau, chúng tác động đến chính trị và
chính sách nhằm bảo vệ cho lợi ích của các thành viên. Nhưng điều quan trọng, các
hoạt động của nó đều nằm trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật Hoa Kỳ.
Thứ tư, những nghiên cứu về quản lý báo chí đối ngoại
Những công trình nghiên cứu về sách, tạp chí; về hoạt động quản lý báo chí đối
ngoại ở Việt Nam còn ít, chỉ có những nghiên cứu ở các góc độ, khía cạnh khác nhau
qua các bài viết trong sách, tạp chí, tiêu biểu như:
Đề tài nghiên cứu khoa học Thông tấn xã Việt Nam với công tác tuyên truyền về
biển, đảo trong thông tin đối ngoại bằng tiếng nước ngoài [67]của tác giả Ngô Thái
Hà (2015) đã chỉ ra thực trạng tuyên truyền về biển đảo trong thông tin đối ngoại bằng
tiếng nước ngoài ở Thông tấn xã Việt Nam đã chỉ ra những kết quả hoạt động của các tờ
báo đối ngoại có tính chuyên sâu như báo VietnamNews, báo Le Courrier du Vietnam,
Tạp chí VietnamLaw & Legal Forum, Tuần báo Thời báo Việt-Hàn, báo điện tử
VietnamPlus. Cùng với đó, công tác tuyên truyền biển đảo đã khái quát bức tranh toàn
cảnh công tác tuyên truyền về biển, đảo bằng tiếng nước ngoài ở Thông tấn xã Việt
Nam, trong đó hoạt động của khối thông tin thông tấn, đã góp phần quan trọng vào
chiến dịch tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo của Việt Nam, phản ánh tinh thần tích
cực, chủ động sáng tạo của Việt Nam tại các diễn đàn quốc tế về vấn đề Biển Đông. Đề
tài cũng chỉ rõ kết quả Hợp tác giữa Thông tấn xã Việt Nam và các cơ quan trong nước
và quốc tế trong thông tin, tuyên truyền về biển, đảo đã đạt được những kết quả tích cực.
Đề tài cũng chỉ ra một số hạn chế như nội dung tuyên truyền về cơ chế chỉ đạo, điều
hành, thông tin, phối hợp có lúc còn bị động, nhất là trước những vấn đề phức tạp mới
nảy sinh; phân công trách nhiệm giữa các đơn vị làm tin và xử lý thông tin còn có có lúc
chưa rõ ràng dẫn đến còn có sự chồng chéo, thông tin chưa phong phú, chưa có nhiều
thông tin mang tính đánh giá, phân tích, bình luận các sự kiện mà dư luận quan tâm.
Bài báo Một số vấn đề trong công tác quản lý hoạt động thông tin đối ngoại ở
Việt Nam hiện nay [160] của tác giả Bùi Thị Vân đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị
năm 2016 đã phân tích và đưa ra cơ sở pháp lý của công tác quản lý hoạt động thông
tin đối ngoại và những kết quả trong công tác quản lý hoạt động thông tin đối ngoại.
Trong đó khẳng định trong lĩnh vực báo chí, các cơ quan, bộ phận báo chí đối ngoại đã
có những đóng góp quan trọng; thực hiện tốt vai trò vừa là cơ quan ngôn luận của tổ
chức Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội, là diễn đàn của nhân dân.
32
Bài báo Quản lý nội dung thông tin đối ngoại tại các đài phát thanh-truyền
h nh địa phương [159] của tác giả Phan Lê Tùng (2017) đăng trên Tạp chí Thông tin
đối ngoại cho rằng, hoạt động của báo chí đối ngoại có những đặc điểm khá riêng biệt
so với hoạt động báo chí nói chung, cả về đối tượng tác động, địa điểm - không gian
cho đến phương pháp, cách thức quản lý nội dung. Do đó, việc tổ chức sản xuất các
sản phẩm báo chí đối ngoại, việc đào tạo những phóng viên, biên tập viên chuyên trách
mảng báo chí đối ngoại cũng đòi hỏi những kỹ năng, quy trình đặc trưng riêng.
Bài báo Lãnh đạo, quản lý báo chí - truyền thông trong thời đại công nghiệp
4.0 [113] của tác giả Hà Huy Phượng (2018) cho rằng, cách thức tổ chức mô hình tòa
soạn sẽ theo hướng của lý thuyết truyền thông hội tụ, trong đó có vấn đề tòa soạn hội
tụ. Hệ thống tòa soạn sẽ hoạt động với những không gian chung, phương thức quản lý
tổ chức sản xuất báo chí sẽ có những điều chỉnh khi người làm báo sẽ sử dụng đến mọi
phương tiện để chuyển tải nội dung, nhất là trong thời đại ngày nay phương tiện thông
minh sẽ ngày càng có nhiều ứng dụng trong sản xuất và quản lý báo chí.
Bài báo Cách mạng công nghiệp 4.0: Vấn đề đặt ra và giải pháp đối với công
tác quản lý truyền thông ở Việt Nam hiện nay [73] của tác giả Đỗ Thị Thu Hằng
(2018) trình bày quan điểm: trong thời đại hiện nay, công nghệ tác động đến mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội, trong đó báo chí được thừa hưởng và có thể vận dụng công
nghệ hiện đại vào làm báo cũng như các cấp quản lý cũng cần đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ hiện đại, nhất là công nghệ số để quản lý báo chí. Để quản lý báo chí-
truyền thông đạt hiệu quả cao, tác giả cho rằng cần có sự đổi mới quy trình tổ chức sản
xuất, tăng cường hệ thống cơ sở vật chất hiện đại, thúc đẩy mô hình tòa soạn hội tụ và
đi liền với đó là đổi mới về phương pháp quản lý nội dung báo chí, thay đổi cách quản
trị và phát hành.
Có thể nói, những công trình nghiên cứu, sách, bài báo, báo cáo, tham luận
khoa học nêu trên sẽ là những cơ sở khoa học quý báu để thực hiện đề tài, góp phần
đẩy mạnh hoạt động báo chí đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế,
góp phần thực hiện thành công đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác
và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hoá các quan hệ
quốc tế của Việt Nam. Các nghiên cứu góp phần vào việc nâng cao hiệu quả quản lý
báo chí đối ngoại ở nước ta, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế, góp phần nâng cao vị thế của đất nước, uy tín của Việt Nam trên
33
trường quốc tế, các Chính phủ, tổ chức quốc tế, các doanh nhân, người dân các nước
trên thế giới cũng như các cá nhân người nước ngoài đang sinh sống và học tập tại
Việt Nam hiểu biết đúng đắn và đầy đủ về Việt Nam.
3. Khái quát kết quả các công trình nghiên cứu có liên quan và những vấn
đề luận án tập trung nghiên cứu
3.1. Khái quát kết quả các công trình nghiên cứu có liên quan
Những nghiên cứu được đề cập đến trong luận án đã chỉ ra nhiều khía cạnh về
vấn đề báo chí, báo chí với sự phát triển của đất nước, vấn đề quản lý báo chí nói
chung và quản lý báo chí đối ngoại nói riêng. Những kết quả nghiên cứu đó có ý nghĩa
quan trọng với việc giải quyết các vấn đề trọng tâm mà luận án tập trung làm rõ. Các
vấn đề này được khái quát như sau:
Một là, báo chí là một trong những lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội.
Ngày nay, báo chí đang tích cực góp phần vào việc cung cấp thông tin, tham gia
phản biện xã hội. Mặt khác, để làm tốt vai trò của mình báo chí cũng phải không
ngừng tự hoàn thiện, đổi mới về nội dung, hình thức, nhất là trong thời gian gần đây
báo điện tử phát triển mạnh mẽ, tạo nên sự cạnh tranh gay gắt với báo chí truyền
thống, do vậy báo chí có xu hướng chạy theo thị trường, tính thương mại hóa cao
song các cấp quản lý đã có những chế tài làm cho các cơ quan báo chí đảm bảo được
tôn chỉ, mục đích.
Hai là, đội ngũ những người làm báo trước yêu cầu của thực tiễn đã chủ động
đổi mới về cách tổ chức thông tin, nhất là thông tin đối ngoại, đưa những thông tin
trong nước đến với thế giới một cách nhanh chóng và kịp thời. Để thực hiện tốt các
công việc này, nhiều nghiên cứu liên quan đến các vấn đề lý luận báo chí, nghiệp vụ
báo chí đã được tổ chức làm cho đội ngũ những người làm báo vừa nắm vững chuyên
môn vừa xây dựng đạo đức nghề nghiệp trong sáng, có bản lĩnh chính trị và quyết tâm
nghề nghiệp rất cao.
Ba là, trong những năm qua, báo chí Việt Nam có sự chỉ đạo sát sao, sự định
hướng rõ ràng và cụ thể cho nên các cơ quan báo chí đã thực hiện tốt sự chỉ đạo này.
Các cơ quan quản lý báo chí đã chủ động nắm bắt tình hình thực tiễn để tăng cường
vai trò quản lý sát với mỗi lĩnh vực báo chí trên cơ sở thượng tôn pháp luật, việc đưa
tin, viết bài đảm bảo tính trung thực, khách quan. Mặt khác, các cơ quan báo chí đã
cung cấp nhiều thông tin cho các cơ quan quản lý nhà nước phát hiện, ngăn chặn, đấu
34
tranh chống lại các hiện tượng tiêu cực, góp phần làm lành mạnh hóa xã hội, đồng thời
tham gia vào việc tuyên truyền các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà
nước đến với đông đảo người dân trên mọi miền của đất nước.
Bốn là, từ kinh nghiệm về quản lý báo chí nói chung và quản lý báo chí đối
ngoại nói riêng ngày càng được phát huy mạnh mẽ, những vấn đề lý luận và thực tiễn
này có ý nghĩa quan trọng cho việc quản lý báo chí đối ngoại ở nước ta, đó là:
– Xác định rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc quản lý báo chí đối
ngoại để đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ báo chí có đủ phẩm chất, năng lực làm
báo, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội
nhập quốc tế, bảo vệ vững chắc chế độ xã hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội.
– Nâng cao vai trò, vị thế của các cơ quan quản lý báo chí, có cơ chế khuyến
khích báo chí thông tin đối ngoại kịp thời tình hình trong nước đến với thế giới, đồng
thời tăng tường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực báo chí đối ngoại, đảm bảo
cho việc xuất bản các ấn phẩm, các bài viết luôn đúng tôn chỉ, mục đích.
– Xây dựng hệ thống các văn bản pháp luật chặt chẽ về báo chí đối ngoại, từ đó
việc quản lý cũng như thông tin đối ngoại phải có sự giám sát chặt chẽ của người dân
cũng như các cơ quan chuyên môn.
– Đa dạng hóa các loại hình báo chí đối ngoại song không được chệch với tôn
chỉ, mục đích. Tránh tình trạng do quá chú trọng vào tính thương mại làm cho thông
tin đối ngoại mất đi bản sắc.
– Có cơ chế, chính sách để việc quản lý báo chí đối ngoại trở thành một động
lực cho sự phát triển của đất nước.
3.2. Những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu
Cho đến nay thế giới và Việt Nam chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu
quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại, do vậyhiện nay thiếu những công trình làm cơ
sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng hệ thống các kinh nghiệm cho quản lý báo
chí đối ngoại ở Việt Nam. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để việc quản lý nhà nước về
báo chí đối ngoại ở Việt Nam thiết thực, hiệu quả, nâng cao vai trò và vị thế của báo
chí đối ngoại, đáp ứng yêu cầu của đất nước trong tình hình mới. Đây là một trong
những nội dung và cũng là nhiệm vụ quan trọng mà luận án cần tập trung làm rõ cả về
mặt lý luận và thực tiễn.
35
* Về lý luận
Luận án tập trung làm rõ các nội dung sau:
Khái niệm báo chí, báo chí đối ngoại, khái niệm về truyền thông quốc tế và khái
niệm quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại. Đồng thời chỉ rõ các đặc điểm, vai trò của
báo chí đối ngoại, vai trò của quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại.
Phân tích, đánh giá về các nguyên tắc quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại,
đặc điểm và vai trò của quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại
Chủ thể quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại, đối tượng của quản lý nhà nước
về báo chí đối ngoại như các cơ quan báo chí đối ngoại, người làm báo chí đối ngoại,
nội dung thông tin trên báo chí đối ngoại, các nguyên tắc quản lý báo chí, phương thức
quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại.
* Về thực tiễn
Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại từ năm
2016-2019. Về nội dung quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại bao gồm: Xây dựng,
chỉ đạo và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển báo chí đối
ngoại; Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về báo chí; xây
dựng chế độ, chính sách về báo chí đối ngoại; Tổ chức thông tin và quản lý thông tin
của báo chí đối ngoại; Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ, đạo
đức nghề nghiệp cho đội ngũ người làm báo của các cơ quan và cán bộ quản lý báo chí
đối ngoại; Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về báo chí đối ngoại; Chỉ đạo, thực hiện chế độ
thông tin, báo cáo, thống kê và công tác khen thưởng, kỷ luật trong hoạt động báo chí
đối ngoại; Thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về báo chí đối ngoại.
Phân tích thực trạng về phương thức quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại. Chỉ
ra một số vấn đề đặt ra trong quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại như đội ngũ cán
bộ quản lý báo chí đối ngoại, nội dung quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại, phương
thức quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại và nguồn lực quản lý nhà nước về báo chí
đối ngoại.
Nghiên cứu làm rõ xu hướng phát triển báo chí đối ngoại và những vấn đề đặt
ra đối với quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại.
Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về báo
chí đối ngoại ở nước ta trong thời gian tới
36
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BÁO CHÍ ĐỐI NGOẠI
1.1. Một số vấn đề lý luận về báo chí đối ngoại
1.1.1. Khái niệm báo chí đối ngoại
Trên thế giới, chưa có thuật ngữ nào tương đương với thuật ngữ “báo chí đối
ngoại” khi dịch ra tiếng Việt. Tại Trung Quốc, thuật ngữ “duiwai chuanbo” được xem
là có nhiều nét tương đồng với thuật ngữ “báo chí đối ngoại”, nhưng một số tác giả
cho rằng có gần với nghĩa truyền thông đối ngoại [156, tr.60], thuật ngữ này có hàm
nghĩa tuyên truyền, nâng cao hình ảnh, vị thế của Trung Quốc với thế giới. Theo cách
hiểu như vậy thì đây không phải chỉ là nhiệm vụ riêng của báo chí đối ngoại và có
nhiều kênh, nhiều cơ quan, tổ chức có cùng nhiệm vụ tuyên truyền, quảng bá hình ảnh
của một nước ra bên ngoài phạm vi lãnh thổ quốc gia như báo nói, báo hình, bản tin,
các trang mạng,... và một điều đặc trưng báo chí đối ngoại của các nước không có
nhiệm vụ cung cấp thông tin thế giới vào trong nước [156, tr.62].
Ở Việt Nam, thuật ngữ “báo chí đối ngoại” chưa được sử dụng phổ biến, bên
cạnh đó, các văn bản pháp quy của Nhà nước cho đến nay chưa đưa ra một định nghĩa
rõ ràng về “báo chí đối ngoại” một cách chính thức. Nội hàm của nó có thể được suy
luận dựa trên một số phương diện tiếp cận và vấn đề này có thể được xem xét dựa trên
cơ sở thuật ngữ thông tin đối ngoại và truyền thông quốc tế:
Thông tin đối ngoại được xem xét ở khía cạnh một loại hình thông tin, hay
thông báo về các sự kiện, hiện tượng xảy ra trong cuộc sống, tuy nhiên mục đích chính
của thông tin đối ngoại được dùng trong quá trình hoạt động đối ngoại. Thông tin đối
ngoại được xem xét ở khía cạnh một lĩnh vực hoạt động: Trong công tác đối ngoại, nó
có vai trò rất quan trọng của Đảng, Nhà nước ta. Quy chế Quản lý nhà nước về thông
tin đối ngoại (Ban hành kèm theo Quyết định số 79/2010/QĐ-TTg ngày 30 tháng 11
năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ) khẳng định “thông tin quảng bá hình ảnh đất
nước, con người, lịch sử, văn hoá, truyền thống của dân tộc Việt Nam; thông tin về
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước Việt Nam ra
thế giới và thông tin về thế giới vào Việt Nam. Bên cạnh đó, cũng theo Quy chế này,
thông tin đối ngoại còn góp phần vào việc giới thiệu, quảng bá hình ảnh đất nước, con
người, lịch sử, văn hóa, tiềm năng hợp tác và phát triển của Việt Nam [144].
37
Tiếp cận từ lĩnh vực này, tác giả Phạm Minh Sơn đưa ra quan niệm:
“Thông tin đối ngoại là một bộ phận quan trọng trong công tác tư tưởng và
đối ngoại của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta nhằm làm cho thế giới hiểu
rõ đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, những thành tựu trong công
cuộc đổi mới của Việt Nam, đất nước, con người, lịch sử, văn hóa, những
giá trị vật chất và tinh thần của dân tộc Việt Nam; đấu tranh chống lại
những luận điệu xuyên tạc, chống phá Việt Nam; làm cho nhân dân ta hiểu
rõ về thế giới; đồng thời tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, hợp tác, giúp đỡ
của bạn bè quốc tế, sự đồng thuận và đóng góp của đồng bào ta ở nước
ngoài đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [130].
Trên cơ sở các quan niệm trên cho thấy, thông tin đối ngoại không chỉ là sự
phổ biến thông tin ra ngoài lãnh thổ Việt Nam, mà nó có tính tương tác hai chiều, với
phạm vi rất rộng, gắn với hoạt động cụ thể như tuyên truyền, nghiên cứu lý luận,
bình luận những tin tức, các sự kiện quốc tế, những vấn đề có liên quan đến quan hệ
quốc tế,… [84].
- Truyền thông quốc tế: Trong thế giới phẳng như hiện nay và với sự phát triển
mạnh mẽ của các phương tiện truyền thông hiện đại, góp phần quan trọng vào đời
sống quan hệ quốc tế. Hơn lúc nào hết, các nghiên cứu về truyền thông giữa các quốc
gia được quan tâm nhiều hơn và thuật ngữ “truyền thông quốc tế” được dùng rộng rãi
và ngày càng trở nên phổ biến, và thuật ngữ này gắn với nhiều chủ thể như nhà báo
quốc tế, nhà truyền thông quốc tế, và gắn với các chủ đề, các vấn đề quốc tế. Vấn đề
này được tác giả Lê Thanh Bình quan niệm “Truyền thông quốc tế là hoạt động truyền
thông giữa các quốc gia chủ yếu bằng các phương tiện thông tin đại chúng, do sự tác
nghiệp của các nhà báo quốc tế chuyên nghiệp/nhà truyền thông quốc tế [25, tr.24].
Thuật ngữ báo chí đối ngoại được đề cập đến trong một số văn bản của Nhà
nước trong những năm gần đây. Ngày 28/02/2013, Thủ tướng Chính phủ ban hành
Quyết định số 368/QĐ-TTg, phê duyệt chương trình hành động của Chính phủ về
thông tin đối ngoại giai đoạn 2013-2020. Trong Quyết định số 2434/QĐ-TTg ngày
13/12/2016 của Thủ tướng Chính phủ về quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến
năm 2020, định hướng đến năm 2030, thuật ngữ “báo chí đối ngoại” được sử dụng một
cách chính thức: “Báo chí đối ngoại là một trong những lực lượng quan trọng của
công tác thông tin đối ngoại, là một bộ phận trong công tác tuyên truyền và công tác
38
tư tưởng của Đảng…” [148]. Với đặc trưng này, báo chí đối ngoại được coi là lực
lượng của thông tin đối ngoại.
Khái niệm báo chí đối ngoại cũng đã được sử dụng trong nghiên cứu của một số
tác giả. Tiếp cận dưới góc độ thông tin đối ngoại, một số quan niệm cho rằng, báo chí
đối ngoại gồm mọi hoạt động truyền, nhận, xử lý tin tức và giải thích các thông tin
hướng tới các quốc gia, người nước ngoài (bao gồm cả người nước ngoài đang sinh
sống và làm việc tại Việt Nam), người Việt Nam đang sinh sống và làm việc ở nước
ngoài về đất nước, con người Việt Nam, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước ta nhằm tạo ra sự hiểu biết và xây dựng hình ảnh về đất nước, con người
Việt Nam [43].
Cùng tiếp cận dưới góc độ này, tác giả Lê Văn Nghiêm cho rằng, báo chí đối
ngoại là phương tiện cung cấp thông tin có định hướng nhằm phổ biến các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước về chính sách đối ngoại, văn hóa, lịch sử, đất nước
và con người… của một quốc gia, một dân tộc [195].
Tác giả Đoàn Công Huynh cho rằng, khái niệm thông tin đối ngoại hay truyền
thông đối ngoại là sử dụng truyền thông để xây dựng, duy trì, phát triển các mối quan
hệ với các nhóm công chúng mục tiêu, trong đó có nhóm công chúng đối ngoại, tức là
người nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài để xây dựng hình ảnh tăng cường
lòng tin [85].
Theo tác giả Nguyễn Thị Thu Hà,
Báo chí đối ngoại là một bộ phận của nền báo chí, thực hiện nhiệm vụ là
làm cho các nước, người nước ngoài (bao gồm cả người nước ngoài đang
sinh sống, làm việc tại Việt Nam), người Việt Nam đang sinh sống, làm
việc tại nước ngoài hiểu về đất nước, con người Việt Nam, đường lối, chủ
trương, chính sách và thành tựu đổi mới của đất nước, trên cơ sở đó tranh
thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới, sự đóng góp của cộng đồng người Việt
Nam ở nước ngoài cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [66, tr.19].
Theo tác giả Lưu Trần Toàn,
Báo chí đối ngoại Việt Nam là một bộ phận của nền báo chí cách mạng Việt
Nam, cung cấp các nội dung thông tin về Việt Nam cho công chúng quốc tế
ở nước ngoài, ở Việt Nam và người Việt Nam ở nước ngoài, nhằm tranh thủ
sự ủng hộ của họ trong công cuộc phát triển và bảo vệ Việt Nam, do các cơ
39
quan báo chí của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã
hội ở trung ương và địa phương thực hiện [156, tr.62].
Theo tác giả Nguyễn Thị Thương Huyền,
Báo chí đối ngoại hướng ra ngoài biên giới quốc gia, hướng tới những đối
tượng công chúng là người nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài.
Báo chí đối ngoại mang tính mục đích rõ ràng, được xuất bản bằng nhiều
thứ tiếng khác nhau phù hợp với những đối tượng đó. Phần lớn báo chí đối
ngoại đều hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích, phản ánh kịp thời tâm tư
nguyện vọng của nhân dân, biểu dương phong trào thi đua yêu nước, đấu
tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liên và các tệ nạn xã hội,
chống “diễn biến hòa bình”... góp phần tích cực vào thành tựu chung của
đất nước [84, tr.39].
Nhìn chung, các quan niệm nêu trên có những điểm chung:
Một là, báo chí đối ngoại thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến các quan
điểm, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước và các mặt đời sống kinh tê-xã
hội có định hướng của Việt Nam ra thế giới.
Hai là, báo chí đối ngoại là phương tiện quan trọng xây dựng vị thế, hình ảnh của
Việt Nam với thế giới, khẳng định vai trò to lớn của nhà nước Việt Nam trước thế giới.
Ba là, báo chí đối ngoại tham gia vào việc tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế
giới đối với Việt Nam.
Bốn là, báo chí đối ngoại góp phần đấu tranh với các quan điểm thù địch, các
quan điểm sai trái chống lại nhà nước Việt Nam trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Từ những quan niệm trên có thể thấy: Báo chí đối ngoại là một bộ phận của
nền báo chí Việt Nam tham gia vào việc tuyên truyền, tiếp nhận, xử lý thông tin và giải
thích thông tin ra nước ngoài và người nước ngoài tại Việt Nam về chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của
thế giới đối với Việt Nam và đấu tranh với luận điệu sai trái chống đối nhà nước Việt
Nam của các thế lực thù địch, nhằm tạo ra sự hiểu biết và xây dựng hình ảnh về đất
nước, con người Việt Nam.
1.1.2. Đặc điểm của báo chí đối ngoại
Báo chí đối ngoại có những đặc điểm khác với các đặc điểm của các loại báo
chí khác, điều này được thể hiện ở những khía cạnh sau:
40
* Đối tượng phục vụ
Báo chí đối ngoại là một phương tiện quan trọng đóng góp vào sự phát triển
quan hệ đối ngoại của Việt Nam với thế giới, tuy nhiên, đối tượng phục vụ của báo chí
đối ngoại có đặc điểm khác biệt so với báo chí đối nội, với báo chí đối nội phục vụ cho
nhu cầu thông tin của người Việt Nam. Tuy nhiên, báo chí đối ngoại đối tượng phục
vụ có những đặc điểm riêng, cụ thể:
Một là: Chính phủ, người dân các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước Việt
Nam có quan hệ ở tầm đối tác chiến lược, các nước láng giềng, các và các tổ chức mà
Việt Nam có thiết lập quan hệ.
Việt Nam hiện nay có quan hệ ngoại giao với 197 nước và khu vực trên thế
giới, nhưng do nguồn lực cả về vật chất và con người đều có những hạn chế, nhất là
hạn chế về kinh phí, nên đối tượng phục vụ chủ yếu hiện nay các nhà hoạt động chính
trị, các doanh nghiệp, tầng lớp trí thức, đội ngũ văn nghệ sĩ, những người tìm hiểu và
nghiên cứu về Việt Nam, những người là bạn, là đối tác tin cậy có thiện chí với nhân
dân Việt Nam và đặc điểm chung của đối tượng phục vụ của báo chí đối ngoại là họ
đến từ nhiều nền văn hóa khác nhau, cho nên nhu cầu về thông tin của họ về tình hình
Việt Nam rất đa dạng, phong phú và có trình độ rất cao. Chính vì vậy, cách tổ chức nội
dung báo chí đối ngoại phải có những phương pháp, cách thức khai thác thông tin đến
với từng đối tượng phải phù hợp, cách xử lý và phổ biến nội dung cũng phải nhanh
chóng, kịp thời, có tính thuyết phục cao, với những lập luận cụ thể, bởi đối tượng phục
vụ của báo chí đối ngoại là lực lượng quan trọng, là đối tác quan trọng góp phần thiết
lập mối quan hệ và đưa hình ảnh của Việt Nam đến với các nước, các khu vực và tổ
chức trên thế giới, với lực lượng đông đảo là người dân các nước trên thế giới, người
dân ở các nước láng giềng, người dân ở những nước Việt Nam có quan hệ đối tác
chiến lược.
Hai là: Đối tượng phục vụ của báo chí đối ngoại còn có người nước ngoài cư
trú, sinh sống, làm việc, học tập, đi du lịch ở Việt Nam, đội ngũ doanh nhân, đặc biệt
là đội ngũ phóng viên nước ngoài, các cơ quan đại diện thường trú của nước ngoài,
các tổ chức quốc tế tại Việt Nam.
Đối tượng của báo chí đối ngoại không chỉ là các Chính phủ, tổ chức, người dân
ở các nước trên thế giới, mà đối tượng phục vụ của báo chí đối ngoại còn có một lực
lượng khá đông đảo là người nước ngoài đang sinh sống, cư trú có thể ngắn hạn hoặc
41
dài hạn tại Việt Nam. Trong số này có một bộ phận có nhu cầu tìm hiểu, nghiên cứu về
Việt Nam phục vụ cho các hoạt động nghiên cứu, giải trí, tìm hiểu thông tin để đầu
tư,... còn có một bộ phận có nhu cầu khai thác thông tin về tình hình Việt Nam để
truyền tải về nước họ cho các mục đích khác nhau. Vì lẽ đó, thông tin và nội dung của
báo chí đối ngoại phải được kiểm chứng chặt chẽ, do có tác động lớn đến người dân,
dư luận quốc tế về tình hình Việt Nam. Khi nội dung báo chí đối ngoại được xây dựng
một cách chặt chẽ thì báo chí đối ngoại sẽ tạo điều kiện quan trọng cho các hoạt động
đối ngoại của Việt Nam trên diễn đàn và các hoạt động quốc tế khác. Hơn nữa, khi các
phóng viên, các cơ quan đại diện nước ngoài thường trú ở Việt Nam đưa tin về trong
nước làm cho việc thích ứng văn hóa cũng trở nên thuận lợi hơn rất nhiều so với việc
người Việt Nam phổ biến và thông tin về tình hình Việt Nam ra bên ngoài.
Ba là: Đối tượng của báo chí đối ngoại còn gồm cộng đồng người Việt Nam ở
nước ngoài.
Theo thông tin của Bộ Ngoại giao, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài
hiện có khoảng hơn 5 triệu người, sinh sống tại hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ,
trong đó một số quốc gia có nhiều người Việt sinh sống là Mỹ, Canada, Pháp, Đức, Ba
Lan, Nga,... một bộ phận trong đó có vị trí và vai trò quan trọng tại địa bàn định cư cả
về mặt kinh tế và chính trị. Đảng và Nhà nước ta luôn coi cộng đồng “Người Việt Nam
định cư ở nước ngoài là bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam”. Vì
vậy, những thông tin kịp thời của báo chí đối ngoại đến cộng đồng người Việt Nam ở
nước ngoài hiểu và thấy rằng họ là một bộ phận khăng khít của dân tộc Việt Nam, qua
báo chí đối ngoại, cộng đồng này cũng góp phần vào việc “giới thiệu hình ảnh đất
nước, con người, các tiềm năng thế mạnh, các thành tựu về mọi mặt của Việt Nam đến
với bạn bè quốc tế” [147]. Hiện nay, vị trí xã hội của người Việt Nam ở nước ngoài
được nâng lên rõ rệt, nhiều người trong số đó trở thành những nhà khoa học lớn, chính
khách, người Việt cũng thành lập được những Hội khoa học, trí thức, trở thành cầu nối
giữa nước sở tại với Việt Nam, trong đó có có đóng góp không nhỏ của báo chí đối
ngoại, để cộng đồng người Việt Nam hiểu về hình trong nước, quan tâm và tiếp tục
cống hiến, đóng góp cho sự phát triển của Việt Nam.
* Địa bàn phổ biến thông tin
Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 197 nước và vùng lãnh thổ, do
vậy địa bàn để phổ biến thông tin của báo chí đối ngoại rất rộng lớn, ở hầu hết các
42
quốc gia trên thế giới, đặc biệt những nước trong khu vực ASEAN, các nước Việt
Nam có quan hệ đối tác chiến lược, những nước có số lượng lớn cộng đồng người Việt
Nam sinh sống và làm việc, học tập, nghiên cứu. Đồng thời, trong tiến trình hội nhập
của Việt Nam với thế giới ngày càng sâu rộng như hiện nay, thế giới cần biết rõ về
Việt Nam để mời gọi đầu tư cũng như sự mở rộng quan hệ hợp tác với thế giới và Việt
Nam cũng cần chủ động cho thế giới biết về tình hình Việt Nam. Hơn lúc nào hết, báo
chí đối ngoại là phương tiện quan trọng “trong tiến trình hội nhập quốc tế, nâng cao vị
thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế, làm cho thế giới hiểu rõ và
hiểu đúng về Việt Nam, qua đó tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế phục vụ sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [146].
Hơn nữa, cùng với tiến trình hội nhập quốc tế, báo chí đối ngoại còn có nhiệm
vụ chính trị quan trọng trong việc kết nối, phổ biến nội dung thông tin về tình hình
trong nước đến các nước như Lào, Cuba... nhằm tiếp tục xây dựng mối quan hệ chiến
lược với các nước này và với các Đảng cộng sản. Đặc biệt, với sự phát triển nhanh
chóng của báo điện tử đối ngoại, các kênh truyền hình đối ngoại thì việc phổ biến nội
dung và địa bàn sẽ ngày càng được mở rộng.
* Nội dung thông tin
Chỉ thị số 26/CT-TW ngày 10 tháng 9 năm 2008 của Ban Bí thư đã chỉ rõ các
nội dung của báo chí đối ngoại [13] như sau:
– Tăng cường tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, luật pháp, chính
sách của Nhà nước, thành tựu đổi mới của đất nước ta để bạn bè quốc tế và đồng bào
ta ở nước ngoài có hiểu biết nhiều hơn, đầy đủ và đúng đắn hơn về sự nghiệp đổi mới,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta.
Đẩy mạnh tuyên truyền, giới thiệu, quảng bá hình ảnh đất nước, lịch sử, văn hóa
và con người Việt Nam, tiềm năng phát triển và hợp tác của Việt Nam với cộng đồng
quốc tế trên các lĩnh vực.
Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái của các phần tử cơ hội, các thế lực
thù địch một cách chủ động, có tính thuyết phục và hiệu quả hơn.
Tăng cường công tác nắm bắt tình hình, nghiên cứu, dự báo để hoạt động thông
tin đối ngoại chủ động, kịp thời và hiệu quả hơn.
Ngày 6/5/2019, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành Thông tư
03/2019/TT-BTTTT quy định việc đăng, phát nội dung thông tin đối ngoại trên báo
43
chí, quy định nội dung thông tin đối ngoại trên báo chí; việc đăng, phát nội dung thông
tin đối ngoại trên báo chí; quyền và trách nhiệm của cơ quan báo chí, trách nhiệm của
tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc đăng, phát nội dung thông tin đối ngoại trên
báo chí. Theo đó, việc đăng, phát nội dung thông tin phải đúng chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phù hợp lợi ích của đất nước và của
nhân dân Việt Nam. Không đăng, phát nội dung thông tin ảnh hưởng tiêu cực đến vị
thế, hình ảnh Việt Nam; gây phương hại đến quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế giữa
Việt Nam và các nước; kích động bạo lực, tuyên truyền chiến tranh xâm lược, gây hận
thù giữa các dân tộc và nhân dân các nước [39]
Theo tác giả Đặng Thị Thu Hương, báo chí đối ngoại cần phải làm cho các
nước, người nước ngoài, người Việt Nam đang sống và làm việc ở nước ngoài hiểu
về đất nước, con người Việt Nam, đường lối, chủ trương, chính sách và thành tựu đổi
mới của Việt Nam, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới và sự đóng góp của
cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
[83, tr.69].
Nội dung của báo chí đối ngoại bao gồm:
Các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước trên
các lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội.
Các vấn đề về quốc phòng, an ninh, kinh tế, chính trị, văn hóa; quan điểm của
Việt Nam trước các vấn đề được thế giới quan tâm,...
Báo chí đối ngoại góp phần vào việc nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực
và trên trường quốc tế, làm cho thế giới hiểu rõ và hiểu đúng về Việt Nam, qua đó tranh
thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [146].
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế của Việt Nam với thế giới đang diễn ra mạnh
mẽ, báo chí đối ngoạiđược phổ biến đến nhiều vùng, nhiều khu vực và quốc gia trên
thế giới, nhiều châu lục, mỗi châu lục, khu vực, quốc gia có nền văn hóa, bản sắc rất
riêng. Cho nên cùng với việc phát hành bằng nhiều thứ tiếng, nội dung báo chí đối
ngoại còn phải thích nghi với văn hóa của nước sở tại, mục đích là độc giả có thể tiếp
nhận ngay được các nội dung mà báo chí đối ngoại đăng tải, trong khi đó, với báo chí
đối nội, người Việt Nam có thể hiểu được những ẩn ý, những cách nói, cách ứng xử
mà báo chí đưa tin. Tuy nhiên, đối tượng phục vụ của báo chí đối ngoại thường không
có sẵn vốn hiểu biết hoặc cách nói, các diễn đạt, văn hóa của Việt Nam, nên nội dung
44
của báo chí đối ngoại cần gạt bỏ những yếu tố được xem có tính bản địa, mà hướng tới
tính toàn cầu và tính đa dạng về văn hóa. Tình hình Việt Nam được phổ biến ra thế
giới phụ thuộc rất nhiều vào các cách thể hiện trong nội dung, cách đưa tin. Trước tầm
quan trọng của các nội dung thông tin trên báo chí đối ngoại, Chính phủ đã đưa ra yêu
cầu đến năm 2020 có 100% cán bộ lãnh đạo quản lý cấp phòng trở lên và cán bộ làm
báo chí đối ngoại thuộc các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các Sở,
ban, ngành cấp tỉnh, các tổ chức chính trị - xã hội và các cơ quan báo chí, xuất bản
được tập huấn, trang bị kiến thức cơ bản về báo chí đối ngoại [147].
* Phương thức hoạt động
Nhiệm vụ đặt ra cho báo chí đối ngoại là phải tích cực đóng góp vào sự nghiệp
đổi mới, quá trình hội nhập quốc tế, quảng bá các giá trị văn hóa đặc trưng của đất
nước và con người Việt Nam đến với nhân dân các nước trên thế giới, điều này được
thể hiện qua các phương thức hoạt động cơ bản sau:
Một là, sử dụng ưu thế đa dạng của nhiều loại hình báo chí. Với sự phát triển
mạnh mẽ của các loại hình báo chí như báo in, thông tấn, họa báo, phát thanh, truyền
hình, nhật báo, tuần báo, tập san, tạp chí, bản tin, các loại chương trình phát thanh
truyền hình rất phong phú, đa dạng [138]. Sự đa dạng của báo chí đối ngoại ngày càng
tăng, những thông tin trong nước được truyền tải kịp thời, nhanh chóng ra các nước,
các khu vực trên thế giới, độc giả nước ngoài ở mọi lĩnh vực, từ những người có nhu
cầu tìm hiểu thông tin giải trí, những người có nhu cầu đầu tư, các học giả... có thể tìm
thấy thông tin về tình hình Việt Nam trên nhiều loại hình báo chí đối ngoại. Hơn nữa,
sự phát triển của báo chí đối ngoại điện tử đang phát triển rất mạnh mẽ bằng nhiều thứ
tiếng, tốc độ truyền tải thông tin nhanh chóng càng tạo được sự thu hút, hấp dẫn với
độc giả nước ngoài. Các loại hình báo chí đối ngoại tuy phát triển đa dạng song phải
quán triệt sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí đối ngoại toàn diện, đồng bộ trên cả 4
khâu: định hướng phát triển, định hướng nội dung, công tác cán bộ, công tác kiểm tra,
giám sát.
Hai là, sử dụng nhiều thể loại, chuyên mục, chương trình báo chí làm cho người
đọc dễ nhận diện và dễ tìm thấy thông tin, các nội dung đăng tải trên báo chí theo
những khu vực nhất định, mỗi khu vực sẽ có những chuyên mục chuyên sâu hoặc
những chuyên mục theo đối tượng, theo thị hiếu, nhu cầu riêng rất linh hoạt. Với sự đa
dạng của các thể loại báo chí dễ dàng huy động mọi lực lượng, mọi lực lương trong
45
nhân dân tham gia vào việc đưa tin, viết bài. Chính sự đa dạng trong thể loại cũng đòi
hỏi nhà báo, những người viết bài nắm được tâm lý, thị hiếu của độc giả, tăng cường
khả năng lao động sáng tạo của nhà báo, người làm báo phải có sự chắt lọc và liên kết
các chi tiết, sự kiện để có thể tạo lập hệ thống thông tin dữ liệu tin cậy và thú vị, có sự
thuyết phục cao [56].
Ba là, sử dụng ngôn ngữ báo chí đa dạng, linh hoạt. Mỗi loại hình báo chí đối
ngoại sử dụng ngôn ngữ riêng như báo nói, báo hình, báo in,... để tác động vào nhận
thức, thái độ và hành vi của độc giả. Văn phong, ngôn ngữ trên báo chí đối ngoại đòi
hỏi tính chặt chẽ rất cao, bởi đối tượng phục vụ chủ yếu là người dân ở các nước trên
thế giới, những nước có nền báo chí phát triển, hơn nữa ngôn ngữ phải được thích nghi
hóa với văn hóa, tập quán, trình độ của người dân. Điều này đặt ra yêu cầu cao với báo
chí đối ngoại vừa phải nắm vững những yêu cầu hoạt động báo chí của một nhà báo
trong việc đưa tin, viết bài quảng bá, giới thiệu hình ảnh Việt Nam với bạn bè quốc tế,
song phải phù hợp, đáp ứng tốt nhất các yêu cầu thực tiễn nhu cầu báo chí của người
dân nơi nhà báo đối ngoại tác nghiệp, phục vụ. “Tính phong phú và đa dạng bắt nguồn
từ cuộc sống muôn màu muôn vẻ. Nhu cầu và mong đợi, tâm lý và thị hiếu tiếp nhận
của các nhóm công chúng cũng rất đa dạng” [55, tr.172]
Bốn là, sử dụng nhiều phương pháp tác động đến nhận thức, tâm lý và thái độ
của độc giả. Báo chí đối ngoại hiện có nhiều loại hình như báo nói, báo hình. Căn cứ
tình hình cụ thể trong từng thời gian, từng địa bàn để hoạt động báo chí đối ngoại xây
dựng định hướng phát triển một cách linh hoạt, sát hợp với từng nhóm đối tượng, hấp
dẫn và hiệu quả. Công chúng của mỗi loại hình báo chí rất đa dạng, hơn nữa mỗi loại
hình báo chí có những đặc điểm tiếp nhận khác nhau. Tăng cường phương thức hoạt
động của báo chí đối ngoại thông qua các diễn đàn song phương và đa phương, các
đoàn ra ra nước ngoài công tác; các đoàn khách đến Việt Nam; các hoạt động đối
ngoại của Đảng, Nhà nước, đối ngoại nhân dân; các hoạt động triển lãm, hội chợ, tham
quan, du lịch của người Việt Nam ra nước ngoài và người nước ngoài vào Việt Nam;
qua các đối tác kinh tế, văn hóa, giáo dục nước ngoài của Việt Nam, người Việt Nam ở
nước ngoài về thăm Tổ quốc, cơ quan đại diện của Việt Nam tại nước ngoài, các ấn
phẩm báo chí đối ngoại và các phương tiện thông tin đại chúng quốc tế, nhất là truyền
hình, thông tấn và các tờ báo uy tín của nước ngoài… để tổ chức nội dung, phương
thức phát hành.
46
* Vai trò
Thứ nhất, giới thiệu h nh ảnh, đất nước, con người, lịch sử, những thành tựu
trong phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế của Việt Nam
Báo chí đối ngoại giúp bạn bè quốc tế tiếp cận với các thông tin về Việt Nam
một cách đầy đủ và chính xác nhất, qua đó hiểu đúng về đất nước, con người Việt
Nam trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Đồng chí Võ Văn Thưởng chỉ ra báo chí đối
ngoại đã trở thành cầu nối hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân tiến bộ, yêu
chuộng hòa bình và bạn bè trên khắp thế giới, thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế
[200]. Tác giả Đặng Thị Thu Hương cho rằng: “Trách nhiệm của báo chí đối ngoại là
phản ánh sự thật theo đúng bản chất của vấn đề để định hướng dư luận công chúng”
[83, tr.71]. Trên cơ sở tăng cường sự hiểu biết của thế giới đối với Việt Nam, giúp Việt
Nam thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ
quốc tế, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới, cũng như sự đóng góp
của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài với quê hương, đất nước. Mặt khác, qua
báo chí đối ngoại để thu hút sự quan tâm, ủng hộ và đầu tư của các Chính phủ, các nhà
kinh doanh đến Việt Nam đầu tư, kinh doanh, thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế của nước ta ngày càng sâu rộng.
– Thứ hai, thông tin về các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước.
Trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng luôn coi báo chí là phương tiện quan
trọng để đưa và phổ biến thông tin trong nước ra nước ngoài, trong đó thể hiện các
quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, các chính sách về ngoại giao, kinh tế đối
ngoại và hội nhập quốc tế. Đồng thời thông tin về các chính sách, pháp luật của Nhà
nước, về sự nghiệp xây dựng đất nước, quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện
đại hóa đất nước, những thành tựu đổi mới của Việt Nam trên mọi lĩnh vực như chính
trị, văn hóa, khoa học công nghệ, quá trình đấu tranh bảo vệ chủ quyền biên giới trên
đất liền, trên biển, trên không gian mạng,... để nhân dân thế giới thấy được chính sách
cởi mở, hòa bình, hữu nghị, thân thiện của Việt Nam. Mặt khác, giúp các doanh nhân,
các nhà đầu tư yên tâm với tình hình chính trị và sự ổn định mọi mặt của Việt Nam để
có thể đầu tư dài lâu, hợp tác phát triển kinh tế với Việt Nam. Tác giả Vũ Ngọc Hoàng
chỉ rõ: “Báo chí nói riêng và truyền thông nói chung, tham gia tích cực việc chỉ rõ
những yếu kém, lối ra và giải pháp khắc phục; đấu tranh chống “lợi ích nhóm”, tiêu
cực và tham nhũng, lãng phí; thực hiện minh bạch hóa thông tin” [77].
47
– Thứ ba, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, chống phá Đảng, Nhà nước
và nhân dân.
Ngăn chặn âm mưu “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa cũng
như các hoạt động phá hoại an ninh quốc gia của các phần tử chống đối, đồng
thời giảm thiểu những thông tin sai lệch, bịa đặt về Việt Nam. Báo chí đối ngoại góp
phần vào việc khẳng định vị thế của đất nước trên trường quốc tế, định hướng dư luận
quốc tế về quan điểm đúng đắn của Đảng và Nhà nước, đồng thời phản bác những luận
điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.
Lợi dụng vào sức mạnh và sự lan tỏa nhanh chóng của báo chí, các thế lực thù
địch từng bước lợi dụng vào những điểm sơ hở của các cơ quan quản lý báo chí cũng
như việc đưa tin, viết bài trên báo chí có lúc chạy theo xu hướng thương mại hóa khai
thác và lấy chính các thông tin đó để bôi xấu, làm tổn hại đến hình ảnh, anh ninh quốc
gia. Cho nên báo chí đối ngoại có vai trò quan trọng trong việc đấu tranh với những tư
tưởng sai trái của các thế lực phản động.
1.2. Các yếu tố của quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại
1.2.1. Khái niệm và các nguyên tắc quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại
1.2.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại
* Khái niệm quản lý nhà nước
Theo Từ điển tiếng Việt, quản lý nhà nước là tổ chức, điều hành các hoạt
động kinh tế-xã hội theo pháp luật [162, tr.801]. Quản lý nhà nước là sự tác động
có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với quá trình xã hội và hành
vi hoạt động của công dân do các cơ quan hành pháp từ Trung ương đến cơ sở tiến
hành để thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước, phát triển các mối
quan hệ xã hội, duy trì trật tự an ninh, thỏa mãn những nhu cầu hằng ngày của nhân
dân [99, tr.19].
Từ đây có thể hiểu: Quản lý nhà nước là việc tổ chức, điều hành các hoạt động
trong đời sống xã hội đảm bảo cho các hoạt động đó thực hiện theo khung khổ pháp
luật. Chủ thể quản lý nhà nước là các cá nhân hoặc tổ chức được nhà nước giao nhiệm
vụ. Đối tượng của quản lý nhà nước là mọi lĩnh vực trong đời sống như kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng... Phương pháp quản lý nhà nước dựa trên việc
sử dụng các công cụ về mặt pháp lý gồm: Các văn bản quy phạm pháp luật như Hiến
pháp, luật, pháp lệnh, Lệnh Chủ tịch nước,….
48
* Khái niệm quản lý nhà nước về báo chí
Cho đến nay trong lĩnh vực nghiên cứu về quản lý báo chí chưa có khái niệm
chính thống về quản lý nhà nước đối với báo chí, vì vậy tiếp cận từ góc độ quản lý nhà
nước về báo chí, có một số quan niệm như sau:
Tác giả Nguyễn Thế Kỷ cho rằng:
Quản lý nhà nước về báo chí bao gồm các hoạt động lập pháp, lập quy của
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm đề ra các chính sách, pháp luật
điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi của công dân liên quan đến báo
chí và hoạt động báo chí” [94, tr.76].
Theo tác giả Đặng Đình Huân,
“Quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí là tổng thể những hoạt động
của bộ máy Nhà nước trên cơ sở những quy định của pháp luật đảm bảo cho
báo chí thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình” [83, tr.31].
Theo tác giả Đoàn Thế Hanh,
Quản lý nhà nước đối với báo chí là những hoạt động của bộ máy chính
quyền hướng tới sự bảo đảm để báo chí hoạt động ổn định và phù hợp với
xu thế phát triển chung của xã hội. Cũng như bất kỳ dạng quản lý xã hội
nào khác, quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí là dạng quản lý công vụ
quốc gia của bộ máy nhà nước, là công việc của bộ máy hành pháp. Nó là
sự tác động của các tổ chức và được điều chỉnh bằng pháp luật trên cơ sở
quyền lực nhà nước đối với các hoạt động báo chí do các cơ quan có thẩm
quyền trong bộ máy hành pháp từ Trung ương đến cơ sở, để thực hiện chức
năng và nhiệm vụ của nhà nước, phát triển các mối quan hệ xã hội thỏa mãn
nhu cầu tự do báo chí của nhân dân [71].
Tác giả Nguyễn Mai Anh cho rằng:
Quản lý nhà nước về báo chí là hoạt động của bộ máy nhà nước được giao
trách nhiệm, quyền hạn quản lý nhà nước về báo chí; là hoạt động thể chế
hóa và hiện thực hóa cương lĩnh, đường lối, nghị quyết của Đảng về báo chí
thành pháp luật, chính sách, cơ chế của Nhà nước; thông qua đó, các chủ
thể quản lý tổ chức, điều khiển, kiểm tra, giám sát có tổ chức các hoạt động
liên quan đến báo chí của các đối tượng quản lý là báo chí, các cơ quan báo
chí, nhà báo theo những yêu cầu nhất định, trong khuôn khổ pháp luật,
49
nhằm phù hợp với thực tiễn hoạt động báo chí trong nước cũng như xu thế
hội nhập với báo chí thế giới; bảo đảm cho báo chí thực hiện tốt nhiệm vụ
thông tin theo mục tiêu, yêu cầu đề ra [4, tr.49].
Tác giả Đinh Văn Mậu và Phạm Hồng Thái viết:
Quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí cũng như bất kỳ một dạng quản
lý xã hội nào khác là dạng quản lý công vụ quốc gia của bộ máy Nhà nước,
là công việc của bộ máy hành pháp. Nó là sự tác động có tổ chức và được
điều chỉnh bằng pháp luật, trên cơ sở quyền lực nhà nước đối với quá trình
xã hội và hoạt động báo chí do các cơ quan có thẩm quyền trong hệ thống
hành pháp từ trung ương đến địa phương tiến hành để thực hiện chức năng
và nhiệm vụ của nhà nước, phát triển các mối quan hệ xã hội, thỏa mãn nhu
cầu tự do báo chí của công dân” [99, tr.19].
Theo tác giả Trần Thu Hằng,
Quản lý nhà nước về báo chí là hoạt động của các chủ thể quản lý được nhà
nước trao quyền thực hiện hoạt động quản lý nhà nước nhằm đảm bảo thực
hiện tốt vai trò điều tiết vĩ mô đối với báo chí trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [74, tr.17-18].
Cả hai cách hiểu đầu tiên nhấn mạnh đến vai trò của pháp luật trong quản lý báo
chí, nhằm đảm bảo cho báo chí thực hiện đúng chức năng, tôn chỉ, mục đích. Các tác
giả Đinh Văn Mậu và Phạm Hồng Thái không chỉ đề cập đến góc độ pháp lý trong
quản lý báo chí mà còn đề cập đến khía cạnh quan hệ xã hội trong quản lý báo chí, nhu
cầu tự do báo chí; nhấn mạnh khía cạnh quản lý nhà nước về báo chí chủ yếu được
thực hiện qua quan hệ điều hành giữa cơ quan cấp trên với cơ quan cấp dưới mà không
nhấn mạnh vào mặt pháp lý như các quan niệm nêu trên, và còn mở rộng ra cả góc độ
báo chí tham gia vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Từ các ý kiến trên đây, có thể thấy quản lý báo chí cần nhấn mạnh đến khía
cạnh pháp lý, sự điều hành bằng pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền, đồng thời
quản lý báo chí còn góp phần mở rộng quyền tự do báo chí của người dân. Do vậy, có
thể hiểu: Quản lý nhà nước đối với báo chí là hoạt động của các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền trong việc đảm bảo cho báo chí hoạt động theo chủ trương của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nước về báo chí, nhằm thỏa mãn nhu cầu tự do báo
chí của người dân.
50
* Khái niệm quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại
Từ cách hiểu về quản lý nhà nước, báo chí đối ngoại, quản lý nhà nước về báo
chí, có thể hiểu: Quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại là những hoạt động của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền trên cơ sở sử dụng quyền lực nhà nước trong việc quản
lý công tác tuyên truyền, công tác tư tưởng về t nh h nh trong nước ra nước ngoài và
cho các tổ chức, cá nhân người nước ngoài đang sinh sống, học tập tại Việt Nam về
tình hình của Việt Nam theo chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước.
* Khái niệm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại
Quản lý nhà nước là được thực hiện bằng quyền lực nhà nước và do cơ quan
nhà nước. Hiệu quả quản lý nhà nước được thể hiện trên các phương diện: Đạt mục
tiêu quản lý nhà nước tối đa với mức độ chi phí các nguồn lực nhất định; Đạt mục tiêu
nhất định với mức độ chi phí các nguồn lực tối thiểu và đạt được mục tiêu trong quan
hệ với chi phí nguồn lực và trong quan hệ với hiệu quả chính trị, hiệu quả xã hội. Xét
về bản chất, hiệu quả quản lý nhà nước là kết quả hoạt động của các chủ thể quản lý
hành chính nhà nước trong mối tương quan với mức độ chi phí các nguồn lực. Hiệu
quả quản lý nhà nước là kết quả thực hiện các hoạt động gắn liền với chức năng chấp
hành và điều hành của các cơ quan hành chính nhà nước và hoạt động của người thực
thi công vụ theo quy định của pháp luật. Nội dung quản lý nhà nước trong từng giai
đoạn khác nhau nên việc xem xét hiệu quả quản lý nhà nước tương ứng với mỗi giai
đoạn cũng không giống nhau. Trong khi đó, hiệu lực quản lý nhà nước chỉ mức độ
pháp luật được tuân thủ và mức độ hiện thực quyền lực chỉ huy và phục tùng trong
mối quan hệ giữa chủ thể quản lý với đối tượng quản lý trong những điều kiện lịch sử,
xã hội nhất định.
Tóm lại: Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại chỉ hoạt
động được thực hiện bằng quyền lực nhà nước, do nhà nước thực hiện trong mối quan
hệ giữa chủ thể quản lý báo chí đối ngoại với đối tượng quản lý, nhằm đạt mục tiêu
quản lý nhà nước, hiệu quả chính trị, hiệu quả xã hội trong những điều kiện lịch sử, xã
hội nhất định.
1.2.1.2. Nguyên tắc quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại
Theo Luật Báo chí năm 2016, Chính phủ thống nhất về quản lý báo chí. Tuy
nhiên, ở Trung ương, Chính phủ giao cho Bộ Thông tin và Truyền thông là cơ quan
51
chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về báo chí. Bên cạnh đó,
các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm
phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông thực hiện quản lý nhà nước về báo chí.
Ở địa phương, theo Khoản 4, Điều 7, Luật Báo chí, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách
nhiệm quản lý nhà nước về báo chí tại địa phương.
Quản lý nhà nước về báo chí ở nước ta dựa trên nguyên tắc hoạt động báo chí
đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự thống nhất quản lý của Nhà nước. Việc nắm vững
và quán triệt những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về quản lý báo chí là yêu cầu
cấp thiết và không thể thiếu, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế về kinh tế ngày
càng sâu rộng. Từ đó có thể hiểu, nguyên tắc quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại
bao gồm:
Nhà nước thống nhất quản lý báo chí đối ngoại, có sự phân công và phối hợp
chặt chẽ giữa các cơ quan nhằm bảo đảm hiệu quả công tác quản lý nhà nước về báo
chí đối ngoại.
Phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, tất cả các cấp, các ngành,
địa phương, các tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện quản lý nhà nước về báo chí đối
ngoại; các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm quản lý nhà nước về
báo chí đối ngoại trong phạm vi quản lý của mình.
Quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại cần được triển khai chủ động, toàn diện,
thường xuyên, song có trọng tâm, trọng điểm theo từng giai đoạn; kết hợp chặt chẽ
quản lý nhà nước vềbáo chí đối ngoại với quản lý báo chí đối nội; giữa hoạt động quản
lý nhà nước về báo chí đối ngoại với các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hoá đối
ngoại; giữa ngoại giao nhà nước với đối ngoại của Đảng, đối ngoại nhân dân nhằm mở
rộng hợp tác quốc tế trên tinh thần cùng có lợi, bảo đảm lợi ích quốc gia.
1.2.2. Chủ thể, đối tượng, nội dung, phương thức quản lý nhà nước về báo
chí đối ngoại
1.2.2.1. Chủ thể quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại
Chủ thể quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại vừa bao gồm các cơ quan
chuyên trách, vừa bao gồm các cơ quan quản lý hành chính nhà nước về báo chí, trong
đó vai trò chính là các cơ quan được giao nhiệm vụ chuyên trách quản lý nhà nước về
báo chí đối ngoại.
52
Điều 7, Luật Báo chí năm 2016 chỉ rõ, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước
về báo chí và Bộ Thông tin và Truyền thông chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực
hiện quản lý nhà nước về báo chí, trong đó có báo chí đối ngoại [116]. Bộ Thông tin và
Truyền thông có nhiệm vụ hướng dẫn, chỉ đạo, tổ chức thực hiện quy hoạch mạng lưới
báo chí, các văn phòng đại diện cơ quan thường trú ở nước ngoài, đồng thời có nhiệm
vụ quản lý các loại hình báo chí gồm báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử, thông tấn
và thông tin trên mạng. Có thể thấy, chủ thể quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại
thống nhất ở Trung ương và ở cấp Bộ, song khác nhau về đối tượng, nội dung, phương
thức quản lý, nội dung thông tin trên báo chí đối ngoại... trong đó Bộ Thông tin và
Truyền thông trực tiếp quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại.
Bên cạnh đó, Bộ Thông tin và Truyền thông là cơ quan quản lý thông tin của
báo chí đối ngoại theo quy định của pháp luật về báo chí, cung cấp thông tin cho báo
chí theo phân cấp, quy định về báo lưu chiểu, quản lý kho lưu chiểu báo chí đối ngoại.
Cấp, gia hạn, tạm đình chỉ, đình chỉ, thu hồi giấy phép hoạt động báo chí, thẻ nhà báo,
cấp phép cho báo chí, xuất bản phẩm ra nước ngoài. Phối hợp với các cơ quan có liên
quan quản lý hoạt động của báo chí đối ngoại đồng thời quản lý về bổ nhiệm, miễn
nhiệm Tổng biên tập, Phó tổng biên tập, Tổng giám đốc, Phó tổng giám đốc, Giám
đốc, Phó giám đốc các cơ quan báo chí và quy định tiêu chuẩn, chuyên môn, nghiệp vụ
người đứng đầu cơ quan báo chí. Các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông thực
hiện quản lý nhà nước về báo chí.
Luật Báo chí cũng chỉ rõ Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của mình có trách nhiệm quản lý nhà nước về báo chí tại địa phương. Sở
Thông tin và Truyền thông là cơ quan quản lý báo chí ở địa phương có nhiệm vụ xây
dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển báo chí đối ngoại, kiểm tra việc thực hiện pháp
luật, chính sách, chế độ về báo chí đối ngoại ở địa phương. Thanh tra, hoặc phối hợp
kiểm tra, xử lý vi phạm đối với các hoạt động báo chí đối ngoại theo quy định của
pháp luật, của Đảng.
Như vậy, chủ thể quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại cao nhất là Chính phủ
quản lý chung, Bộ Thông tin và Truyền thông quản lý báo chí đối ngoại ở Trung ương.
Đồng thời, ở các tỉnh có các cơ quan báo chí đối ngoại chịu sự quản lý của Ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
53
1.2.2.2. Đối tượng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại
Đối tượng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại là cơ quan, tổ chức hoạt động
trong lĩnh vực báo chí đối ngoại;các phóng viên, biên tập viên và cả đội ngũ các chuyên
gia nước ngoài được thuê để biên tập, biên dịch từ tiếng Việt ra tiếng nước ngoài.
Về quản lý cơ quan báo chí đối ngoại: Theo Quyết định số 2434/QĐ-TTg về
việc Phê duyệt Quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2020, định hướng đến
năm 2030 [148], ngày 13/12/2016 của Thủ tướng Chính phủ về quy hoạch, điều chỉnh
báo in, tạp chí in, báo điện tử đối ngoại, đồng thời phát triển một báo điện tử đối ngoại
chuyên biệt với các thứ tiếng chính: tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Trung Quốc, tiếng
Tây Ban Nha, tiếng Nga nằm trong nhóm 10 báo điện tử có lượng truy cập cao nhất từ
Việt Nam và nhóm 05 báo điện tử có lượng truy cập cao nhất từ nước ngoài đối với tờ
báo điện tử của Việt Nam. Mặt khác, phát triển một số tờ báo in, tạp chí in đối ngoại
chuyên biệt với các ngôn ngữ chính: Tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Trung Quốc, tiếng
Tây Ban Nha, tiếng Nga mang tầm khu vực và thế giới. Cùng với việc quy hoạch phát
triển báo chí đối ngoại ở trung ương, quy hoạch phát triển báo chí đối ngoại ở các địa
phương cũng được chú trọng, nhấn mạnh vào tính hiệu quả trong việc tuyên truyền,
thông tin về tình hình của địa phương ra nước ngoài.
Từ đó có thể thấy việc quản lý các cơ quan báo chí hoạt động đảm bảo tính hiệu
quả và đảm bảo đúng tôn chỉ, mục đích, tránh chạy theo xu hướng thương mại hóa.
Tăng cường việc dùng chung cơ sở hạ tầng, dữ liệu trong và ngoài nước để thực hiện
các nhiệm vụ thông tin đối ngoại, tiết kiệm, hiệu quả.
Về quản lý người làm báo chí đối ngoại: Người làm báo chí đối ngoại không
chỉ nắm vững về chuyên môn mà còn phải nắm vững quan điểm, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đồng thời người làm báo chí đối ngoại phải có
lập trường tư tưởng vững vàng, bởi phạm vi hoạt động của họ có thể ở trong nước
hoặc có thể ở nước ngoài và dễ bị tác động bởi những tư tưởng tiêu cực. Bên cạnh đó,
để báo chí đối ngoại phục vụ tốt nhất cho độc giả, các Chính phủ có chủ trương cho
phép các cơ quan báo chí đối ngoại tăng cường hợp tác với các đối tác nước ngoài
triển khai các hoạt động báo chí đối ngoại bằng cách mời phóng viên báo chí nước
ngoài vào Việt Nam để đưa tin viết, bài, mời cộng tác viên nước ngoài làm phóng viên
và biên tập viên. Hơn nữa các cơ quan báo chí còn được phép hợp tác với các cơ quan
báo chí nước ngoài để xây dựng các bài viết, phóng sự quảng bá hình ảnh Việt Nam.
54
Vì vậy, quản lý người làm báo chí đối ngoại không chỉ là các nhà báo của Việt Nam
mà còn quản lý các phóng viên, biên tập viên, các cơ quan báo chí nước ngoài được
hợp tác để làm báo chí đối ngoại.
Về quản lý nội dung thông tin trên báo chí đối ngoại: Báo chí đối ngoại góp phần
vào việc thông tin tuyên truyền về thành tựu của phát triển của đất nước, về chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, các giá trị văn hóa và con
người Việt Nam, các hoạt động thông tin về kinh tế đối ngoại, các hoạt động thương mại
của Việt Nam ra nước ngoài. Do vậy, việc quản lý các nội dung thông tin trên báo chí đối
ngoại làm cho các bài viết phản ảnh trên báo chí đối ngoại phải trung thực, có sức thuyết
phục để người nước ngoài, người Việt Nam ở nước hiểu đúng về mọi mặt cần đăng tải.
Bên cạnh đó, để có thể đưa tin kịp thời, phù hợp với nhu cầu của độc giả, các cơ
quan báo chí còn quản lý công tác dự báo, các hoạt động nghiên cứu khoa học, các bài
viết, chuyên mục có sức thuyết phục không chỉ các vấn đề văn hóa xã hội mà còn các
vấn đề tồn tại và nảy sinh trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước. Để đáp ứng tốt
nhu cầu của khán giả nước ngoài, các cơ quan báo chí luôn tìm kiếm các ý tưởng sáng
tạo nhằm xây dựng hình thức, nội dung báo chí đối ngoại làm cho thông tin đối ngoại
dễ dàng đến được với độc giả ở trong nước và ngoài nước.
Với sự bùng nổ của các hình thức truyền thông, các cơ quan báo chí có thể liên
kết với các tập đoàn truyền thông, các tập đoàn công nghệ để đưa các nội dung thông
tin lên các nền tảng ứng dụng mới để cung cấp thông tin nhanh chóng, kịp thời và độc
giả cũng dễ tiếp cận. Nhưng đi liền với những tiện lợi đó việc sử dụng các phương tiện
truyền thông hiện đại, các cơ quan truyền thông của nước ngoài cũng gây nên những
bất lợi. Cho nên không chỉ quản lý về nội dung thông tin mà còn quản lý việc phối
hợp, liên kết giữa cơ quan báo chí với các đối tác.
1.2.2.3. Nội dung quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại
Nội dung quản lý nhà nước đối với báo chí đối ngoại là những công việc mà các cơ
quan quản lý nhà nước cần phải làm để đảm bảo báo chí đối ngoại thực hiện đúng chức
năng, nhiệm vụ, tôn chỉ, mục đích của mình, phục vụ lợi ích của quốc gia - dân tộc. Cụ thể:
Thứ nhất, xây dựng, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phát triển báo chí đối ngoại.
Nhà nước quản lý xây dựng định hướng chiến lược phát triển các cơ quan báo
chí đối ngoại. Trong thời gian gần đây, Chính phủ đã ban hành một số văn bản về quản
55
lý báo chí đối ngoại cũng như định hướng phát triển như Nghị định 72/2015/NĐ-CP
của Chính phủ về quản lý hoạt động thông tin đối ngoại ngày 13 tháng 12 năm 2016,
Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2434/QĐ-TTg về việc Phê duyệt Quy
hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.
Quản lý việc xây dựng kế hoạch phát triển báo chí đối ngoại. Nghị định
72/2015/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý hoạt động thông tin đối ngoại nêu rõ mục
tiêu đến năm 2020 phát triển một báo điện tử đối ngoại chuyên biệt, chủ lực đồng
thời phát triển một số tờ báo in, tạp chí đối ngoại chuyên biệt và xác định cơ quan
báo chí đối ngoại chủ lực quốc gia là Thông Tấn xã Việt Nam và định hướng đến
năm 2030 mở rộng khu vực phát hành của báo chí đối ngoại Việt Nam nhất là các địa
bàn trọng điểm là các nước láng giềng, các nước lớn, các nước trong khối ASEAN,...
và xây dựng đội ngũ cán bộ báo chí đủ về số lượng, mạnh về chất lượng và đồng bộ
về cơ cấu.
Quản lý cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ các cơ quan báo chí đối ngoại
đảm bảo cho các cơ quan báo chí đối ngoại hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích, đúng
định hướng thông tin về tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, các hoạt động đối
ngoại của Việt Nam,... ra nước ngoài. Bên cạnh đó, trong quá trình quy hoạch, phát
triển các cơ quan báo chí đối ngoại cần xác định rõ về cơ cấu tổ chức, chức năng và
nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.
Quản lý việc quy hoạch, sắp xếp hệ thống các cơ quan báo chí đối ngoại như
truyền hình đối ngoại VTV4, VTC10 của Đài Truyền hình Việt Nam; Ban Đối ngoại
của đài VOV5; các báo đối ngoại của Thông tấn xã Việt Nam như Báo Vietnam News,
Báo Le Courrier du Vietnam, Báo điện tử Vietnam Plus, Báo Ảnh Việt Nam. Hiện 4
cơ quan, bao gồm Thông tấn xã Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Báo Nhân Dân và
Đài Truyền hình Việt Nam có 52 văn phòng thường trú ở nước ngoài.
Quản lý việc phân công, phối hợp trong chỉ đạo các cơ quan báo chí đối ngoại,
tránh sự chồng chéo, trùng lắp trong việc đưa tin, đặc biệt là việc xây dựng các ấn
phẩm, chuyên mục, chuyên đề, bài viết, phóng sự,… đối ngoại bằng tiếng nước ngoài.
Quản lý sự hiệp đồng phối hợp giữa các cơ quan báo chí đối ngoại, tạo kênh kết
nối các cơ quan báo chí để đưa tin, viết bài cũng như việc thuê các cơ quan báo chí,
các cá nhân nước ngoài đưa tin, viết bài, tuyên truyền hình ảnh, đất nước và con người
Việt Nam một cách có trật tự.
56
Thứ hai, ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về báo
chí; xây dựng chế độ, chính sách về báo chí đối ngoại.
Nhà nước quản lý việc phối hợp xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật trong lĩnh vực báo chí đối ngoại, làm cho việc ban hành các văn bản có tính
toàn diện, tránh sự chồng chéo, tạo sự liên thông giữa các cơ quan báo chí cũng như
các cơ quan quản lý báo chí. Mặt khác, khi xây dựng các văn bản quản lý báo chí đối
ngoại cần chú trọng đến quản lý việc tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp
luật về báo chí đối ngoại với việc đánh giá những tác động sau một thời gian nhất
định, rút kinh nghiệm để sửa đổi, bổ sung trong trường hợp cần thiết. Tuy nhiên, việc
sửa đổi bổ sung các văn bản quản lý báo chí đối ngoại cũng phải đảm bảo các yêu cầu
về mặt thực tiễn.
Cùng với việc quản lý các văn bản quy phạm pháp luật về báo chí đối ngoại,
các cơ quan quản lý xây dựng và thực hiện chế độ, chính sách về tài chính, con người,
cơ sở vật chất cho cơ quan báo chí phục vụ hoạt động báo chí đối ngoại, làm cho báo
chí đối ngoại ngày càng phát triển theo đúng xu thế của thời đại.
Quản lý tập huấn triển khai phổ biến các văn bản pháp luật cho cán bộ quản lý
của các cơ quan báo chí đối ngoại. Sau khi ban hành các văn bản về quản lý báo chí
đối ngoại, các cơ quan ban hành văn bản và cơ quan quản lý báo chí, cơ quan báo chí
tiến hành tập huấn phổ biến các văn bản một cách sâu rộng, nhất là với những người
làm báo chí đối ngoại phải am hiểu pháp luật về báo chí cũng như báo chí đối ngoại.
Quản lý việc đề xuất, kiến nghị, xây dựng văn bản liên quan đến báo chí đối
ngoại. Các văn bản quản lý báo chí đối ngoại có thể được bổ sung, sửa đổi, nhưng phải
đảm bảo dựa trên đề xuất, kiến nghị từ những cơ quan chức năng, người làm báo,...
song vấn đề này cần có sự quản lý chặt chẽ, khách quan.
Thứ ba, tổ chức thông tin và quản lý thông tin của báo chí đối ngoại.
Nhà nước quản lý hoạt động tổ chức nội dung thông tin và đổi mới nội dung
báo chí đối ngoại. Cách tổ chức thông tin và đổi mới nội dung thông tin của báo chí
đối ngoại là yêu cầu thiết yếu để đáp ứng yêu cầu của độc giả cũng như sự phát triển
mạnh mẽ của các loại hình truyền thông hiện đại. Mặt khác, đi liền với quản lý tổ chức
nội dung thông tin là việc quản lý cách thức tổ chức sản xuất và hình thức của sản
phẩm báo chí đối ngoại, tạo sự sinh động, hấp dẫn để đưa được thông tin của Việt
Nam ra nước ngoài hiệu quả.
57
Quản lý việc thông tin về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đến cộng
đồng người Việt Nam ở nước ngoài, cộng đồng quốc tế; quảng bá hình ảnh đất nước,
con người, lịch sử, văn hóa và những giá trị vật chất và tinh thần của dân tộc, quảng bá
các hoạt động về kinh tế đối ngoại, thu hút đầu tư nước ngoài, các hoạt động du lịch,
hội nhập quốc tế của Việt Nam. Các thông tin cần được quản lý chặt chẽ nhằm bảo
đảm tính chính xác, trung thực, khách quan về nội dung của thông tin đã đưa.
Các hoạt động của báo chí đối ngoại hiện nay rất đa dạng, có sự hỗ trợ của các
công nghệ hiện đại, do đó việc quản lý hình thức, cách thức nhằm tăng cường việc cung
cấp thông tin của các tờ báo phục vụ đối ngoại thông qua hình thức truyền thông xã hội
vừa có tính cập nhật và thu hút được số lượng khán giả. Đồng thời, trong quá trình tổ
chức thông tin trên báo chí đối ngoại có thể có tình trạng vi phạm bản quyền nên các cơ
quan chức năng cần quản lý việc khai thác, sử dụng tin, bài, chi tiết, hình ảnh.
Xác định đối tượng thông tin của báo chí đối ngoại có trọng tâm, trọng điểm
nhất, đặc biệt là các nước láng giềng, các nước lớn, các nước trong khối ASEAN, Mỹ,
Liên minh Châu Âu, Nhật Bản, đồng bào ta ở nước ngoài, đặc biệt là giới trẻ… Đối
tượng ngoài nước, bao gồm: Các cơ quan chính phủ, các tổ chức quốc tế, chính giới,
học giả, các cơ quan thông tấn báo chí, nhà kinh doanh,... và đối tượng trong nước, bao
gồm: Cộng đồng người nước ngoài ở Việt Nam, các cơ quan đại diện ngoại giao, cơ
quan lãnh sự của các nước, cơ quan đại diện các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ
tại Việt Nam,...
Thứ tư, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao tr nh độ chính trị, nghiệp vụ, đạo đức
nghề nghiệp cho đội ngũ người làm báo và cán bộ quản lý báo chí đối ngoại.
Nhà nước quản lý việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ cho
cán bộ làm báo chí đối ngoại. Sự ra đời của công nghệ truyền thông hiện đại và sự thay
đổi của mô hình, phương thức hoạt động của báo chí đồi hỏi báo chí phải nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực. Trong tác nghiệp, các nhà báo cần phải đa kỹ năng để sử
dụng các phương tiện, cách thức tác nghiệp. Do đó đòi hỏi phải đổi mới nhanh chóng
mô hình đào tạo nguồn nhân lực báo chí đối ngoại có tính chuyên biệt. Các cơ sở đào
tạo phải đổi mới chương trình, phương thức đào tạo, tăng cường đầu tư công nghệ
truyền thông hiện đại và đi liền với yêu cầu này việc quản lý đào tạo, bồi dưỡng nhân
lực báo chí đối ngoại cũng phải được quản lý đáp ứng theo chuẩn, tránh việc đào tạo tự
phát và thiếu đồng bộ.
58
Quản lý đào tạo, bồi dưỡng về trình độ ngoại ngữ cho cán bộ làm báo chí đối
ngoại. Đối với cán bộ báo chí đối ngoại không chỉ đặt ra yêu cầu cao về chuyên môn
mà còn yêu cầu cao về ngoại ngữ, song trong các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ
báo chí hiện nay lại chưa thực sự coi trọng đào tạo, bồi dưỡng về ngoại ngữ, do đó
việc quản lý đào tạo, bồi dưỡng về ngoại ngữ cho cán bộ báo chí đối ngoại cũng phải
được đặt ra để cán bộ báo chí đủ khả năng tác nghiệp, nhất là một số ngoại ngữ mà các
cơ quan báo chí dự định thành lập văn phòng đại diện.
Bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, góp phần nâng cao bản lĩnh chính trị,
nhất là đội ngũ những người làm báo ở nước ngoài luôn thấm nhuần quan điểm,
đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của nhà nước. Cùng với đó là việc bồi
dưỡng tác phong, đạo đức nghề nghiệp của người làm báo đối ngoại cũng phải được
quản lý một cách thường xuyên, những người làm báo chí đối ngoại phải thật sự có
đạo đức cách mạng.
Bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý cho đội ngũ cán bộ quản lý báo chí đối
ngoại bởi đây là lực lượng quan trọng tham gia vào việc chỉ đạo các hoạt động báo chí
từ việc khai thác tin, tổ chức nội dung thông tin đến phát hành và quan trọng các thông
tin phải đảm bảo tính đảng, tính trung thực.
Có cơ chế, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ làm báo chí đối ngoại, tuy đã có
những chính sách đãi ngộ nhất định song trên thực tế, đội ngũ báo chí đối ngoại hiện
làm việc trong môi trường tương đối rộng, tính phức tạp cao nên cần có những cơ chế,
chính sách có tính đặc thù từ phía các cơ quan chức năng.
Thứ năm, đẩy mạnh hợp tác quốc tế về báo chí đối ngoại.
Hợp tác với các đối tác nước ngoài triển khai các hoạt động báo chí đối ngoại
như: mời phóng viên báo chí nước ngoài vào Việt Nam để đưa tin viết, bài, thuê khoán
cộng tác viên nước ngoài làm phóng viên và biên tập viên tin phù hợp với các đối
tượng; hợp tác với các cơ quan báo chí nước ngoài để viết bài, phóng sự quảng bá hình
ảnh Việt Nam, để đáp ứng tốt nhất nhu cầu của đông đảo độc giả trên toàn thế giới.
Quản lý hợp tác sản xuất các sản phẩm báo in, báo điện tử thuộc các lĩnh vực
khoa học, công nghệ, kinh tế, văn hóa, thể thao, giải trí, quảng cáo, an sinh xã hội vừa
tiếp thu được thành tựu khoa học song cũng tiếp thu được kinh nghiệm làm báo về lĩnh
vực khoa học và công nghệ. Các nội dung, chương trình liên kết phù hợp với quy định
của pháp luật Việt Nam.
59
Phát hành, truyền dẫn, phát sóng sản phẩm báo chí ra nước ngoài; ủy thác cho tổ
chức, cá nhân in lại, truyền dẫn, phát sóng sản phẩm báo chí Việt Nam ở nước ngoài để
vừa tiết kiệm chí phí vừa tăng tính hiệu quả khi báo chí đối ngoại Việt Nam có thể được
truyền phát trên các nền tảng công nghệ hiện đại của các nước. Bên cạnh đó, việc thuê
chuyên gia, cộng tác viên nước ngoài đưa tin, viết bài cũng là cách tiết kiệm chi phí và có
được đội ngũ những người làm báo chuyên nghiệp, không phải tuyển dụng thêm người.
Cử nhà báo hoạt động báo chí ở nước ngoài, tham gia tác nghiệp đưa tin, viết
bài, thông tin ra nước ngoài về tình hình trong nước. Hiện nay nhiều cơ quan báo chí
đã thành lập văn phòng đại diện ở nước ngoài, đưa các phóng viên Việt Nam sang đó
tác nghiệp và mời nhà báo nước ngoài đến khai thác, tìm kiếm thông tin về Việt Nam.
Thứ sáu, chỉ đạo, thực hiện chế độ thông tin, báo cáo, thống kê và công tác
khen thưởng, kỷ luật trong hoạt động báo chí đối ngoại.
Quản lý thực hiện chế độ thông tin, báo cáo định kỳ hàng tháng, hàng quý dưới
hình thức văn bản và file điện tử, theo địa chỉ e-mail, đồng thời chỉ đạo việc ra soát các
quy định về chế độ thông tin, báo cáo hoạt động báo chí đối ngoại theo quy định của
hoạt động báo chí và các quy định của pháp luật.
Quản lý nội dung báo cáo, có đánh giá về kết quả công việc cũng như chất
lượng và tiến độ báo cáo để có hướng đổi mới cách tổ chức thông tin, khai thác thông
tin có chất lượng ngày càng cao. Cùng với đó, việc quản lý đổi mới công tác thông tin,
báo cáo phù hợp với yêu cầu của tình hình mới, đổi mới việc thực hiện công tác thông
tin, báo cáo trong phạm vi quản lý nhằm kịp thời nắm bắt được các yêu cầu đặt ra cho
báo chí đối ngoại phát triển.
Trong việc quản lý khen thưởng, cơ quan báo chí, nhà báo, tổ chức và công dân có
thành tích và cống hiến trong hoạt động báo chí được khen thưởng theo quy định của pháp
luật về thi đua, khen thưởng. Việc xét tặng danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng được
thực hiện công khai, dân chủ, đề nghị theo trình tự từ cơ sở, chú trọng cá nhân, tập thể có
nhiều thành tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ, bảo đảm đúng đối tượng, tiêu chuẩn.
1.2.2.4. Phương thức quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại
Thứ nhất, Nhà nước quản lý báo chí đối ngoại thông qua các công cụ quản lý là
các văn bản qui phạm pháp luật.
Quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại bằng pháp luật và thông qua pháp luật.
Cho đến nay Nhà nước đã ban hành một hệ thống văn bản pháp luật về quản lý báo chí
60
tương đối đầy đủ và toàn diện, trong đó Hiến pháp là đạo luật cơ bản, Luật Báo Chí
năm 2016, Nghị định số 72/2015/NĐ-CP, Nghị định số 88/2012/NĐ-CP, Chỉ thị số
10/2000/CT-TTg, Quyết định số 388/QĐ-TTg, Quyết định 79/2010/QĐ-TTg, Quy chế
Quản lý nhà nước về thông tin đối ngoại (Ban hành kèm theo Quyết định số
79/2010/QĐ-TTg, ngày 30 tháng 11 năm 2010), Quyết định số 2434/QĐ-TTG Phê
duyệt quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2020, định hướng đến năm
2030,... những văn bản pháp luật đảm bảo cho các cơ quan quản lý báo chí đủ thẩm
quyền, trách nhiệm trong việc quản lý báo chí đối ngoại.
Báo chí đối ngoại là một lĩnh vực thu hút được sự quan tâm của đông đảo
người dân khắp nơi trên thế giới. Với sự phát triển mạnh mẽ của mạng xã hội, những
vấn đề rất nhỏ đến những vấn đề lớn của đất nước đều có thể được thông tin đến nhiều
nước trên thế giới, thậm chí cả những mặt tiêu cực, mặt trái, đưa tin không trung thực,
khách quan. Cùng với việc mở rộng và tăng cường thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa
trong lĩnh vực ngôn luận, những thông tin trái chiều có thể gây ảnh hưởng bất lợi cho
sự phát triển kinh tế, xã hội trong nước. Công tác quản lý báo chí đối ngoại ngày càng
trở nên khó khăn, phức tạp hơn và việc quản lý nhà nước đối với báo chí đối ngoại
bằng pháp luật càng đầy đủ, chi tiết, sẽ càng có tác dụng ngăn ngừa các sai phạm của
hoạt động báo chí đối ngoại và thuận lợi cho việc khắc phục những sai sót, vì đã có
những quy định, các chế tài pháp lý để vận dụng.
Thứ hai, Nhà nước quản lý báo chí đối ngoại thông qua các cơ quan quản lý
nhà nước về báo chí.
Điều 7 Luật Báo chí năm 2016 qui định Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước
về báo chí, Bộ Thông tin và Truyền thông chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện
quản lý nhà nước về báo chí. Tương tự như vậy, ở địa phương Sở Thông tin và Truyền
thông chịu trách nhiệm trước Ủy ban nhân dân tỉnh thống nhất quản lý báo chí đối
ngoại. Các cơ quan này có trách nhiệm hướng dẫn chỉ đạo và tổ chức thực hiện hoạt
động báo chí đối ngoại, việc qui hoạch, mở văn phòng đại diện ở nước ngoài, quản lý
các loại hình báo chí đối ngoại, quản lý việc tổ chức nội dung và cung cấp thông tin
cho báo chí đối ngoại, đồng thời xem xét việc bổ nhiệm, miễn nhiệm đối với cán bộ
quản lý các cơ quan báo chí đối ngoại.
Các cơ quan có liên quan đến quản lý báo chí đối ngoại ở Trung ương như Bộ
Ngoại giao phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông thực hiện quản lý thông tin và
61
tổ chức thông tin, nội dung thông tin, quản lý đội ngũ những người làm báo chí đối
ngoại, nhằm làm cho báo chí đối ngoại thực sự là phương tiện hiệu quả trong việc đưa
tin bài, hình ảnh đất nước và con người Việt Nam ra thế giới cũng như người nước
ngoài sinh sống và làm việc tại Việt Nam. Sự phối hợp quản lý trên nhiều phương diện
như quản lý nguồn lực con người, quản lý về việc đưa tin, viết bài,... các cơ quan có
liên quan trong quản lý báo chí đối ngoại ở địa phương phối hợp với Sở Thông tin và
Truyền thông quản lý xác định tôn chỉ, loại hình báo chí được xuất bản, đối tượng
phục vụ,... nhằm xây dựng đội ngũ nhân lực mạnh về công tác chuyên môn, sự chủ
động trong việc huy động đội ngũ nhân lực tham gia vào việc quản lý báo chí đối
ngoại. Mặt khác, các cơ quan này còn tham gia vào việc thanh tra, kiểm tra hoạt động
của các cơ quan báo chí đối ngoại; xét khen thưởng, kiến nghị xử lý các hành vi vi
phạm pháp luật về báo chí đối ngoại.
Thứ ba,quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại thông qua công tác thanh tra,
kiểm tra, giám sát hoạt động của báo chí đối ngoại.
Thanh tra báo chí đối ngoại được thực hiện theo quy định của pháp luật về
thanh tra. Ở nước ta hiện nay có nhiều loại hình báo chí như: báo in, báo mạng điện tử,
báo nói, báo hình, đặc biệt với sự phát triển của khoa học và công nghệ thì hoạt động
báo điện tử, thông tin điện tử phát triển mạnh mẽ, có tính thông tin nhanh, cập nhật,...
song cũng dễ phát sinh những mặt tiêu cực ảnh hưởng đến an ninh, an toàn, trật tự của
quốc gia. Vì vậy, để tránh hiện tượng đưa tin viết bài sai sự thật, việc thanh tra, quản
lý cần bám sát theo các quy định của pháp luật và các văn bản pháp luật về quản lý báo
chí nói nhung, quản lý báo chí đối ngoại nói riêng. Chính vì vậy, việc quản lý báo chí
đối ngoại cần chủ động, tích cực làm tốt công tác thanh tra, kiểm tra thường xuyên các
hoạt động báo chí đối ngoại, đồng thời thanh tra, kiểm tra định kỳ các hoạt động báo
chí đối ngoại. Mặt khác, tùy theo yêu cầu, tính chất của nhiệm vụ để có thể thực hiện
hoạt động thanh tra, kiểm tra đột xuất các hoạt động báo chí đối ngoại. Việc này cần
có sự bắt tay tích cực nhất của Bộ Thông tin và Truyền thông.
Với những sai phạm, cần tổ chức quản lý việc xử lý vi phạm pháp luật về báo
chí đối ngoại theo đúng tinh thần thượng tôn của pháp luật, tránh để tình trạng vi phạm
lặp lại, đồng thời tuyên truyền cho các cơ quan báo chí, các cá nhân trong việc xử lý
các sai phạm liên quan đến các hoạt động báo chí đối ngoại. Các nội dung cơ bản mà
Bộ Thông tin và Truyền thông thường thanh tra, kiểm tra các cơ quan báo chí đối
62
ngoại theo quy định của Luật Báo chí năm 2016 [116] và các văn bản hướng dẫn: Một
là, việc thực hiện giấy phép hoạt động báo chí. Hai là, công tác tổ chức, quy trình biên
tập nội dung gồm: thực hiện các quy định về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng,
kỷ luật của cơ quan báo chí; thực hiện các quy định về tiêu chuẩn nghề nghiệp, đạo
đức nhà báo; công tác tổ chức lực lượng cộng tác viên; thu thập nguồn tin, biên tập,
kiểm chứng thông tin. Ba là, việc thực hiện tôn chỉ mục đích của cơ quan báo chí đối
ngoại, gồm: Việc thực hiện các quy định đã ghi trong giấy phép báo xuất bản; thực
hiện các quy định về những điều không được thông tin trên báo chí; tính trung thực,
khách quan trong hoạt động cơ quan báo chí. Bốn là, việc chấp hành các quy định
pháp luật về quyền tác giả trong hoạt động báo chí. Bài viết được bảo vệ như sử dụng
tin bài từ các cơ quan báo chí khác hoặc của các tác giả nước ngoài. Năm là, việc thực
hiện các quy định của pháp luật về cải chính trên báo chí. Sáu là, việc chấp hành quy
định lưu chiểu báo chí, phương thức phát hành, hợp tác quốc tế về báo chí đối ngoại.
1.3. Đặc điểm và vai trò của quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại
1.3.1. Đặc điểm quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại
Trước khi đi vào tìm hiểu đặc điểm quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại, có thể
thấy quản lý nhà nước về báo chí đối nội hay báo chí bản địa có một số đặc điểm cơ
bản, nhà báo viết và sản xuất bài chủ yếu dành cho độc giả trong nước, do vậy Nhà
nước xây dựng một hệ thống văn bản pháp luật để quản lý các cơ quan báo chí, người
làm báo phục vụ cho nhân dân trong một nước. Do đó, việc chỉ đạo, thực hiện chế độ
thông tin, báo cáo, thống kê và công tác khen thưởng, kỷ luật trong hoạt động báo chí,
công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về báo chí của báo chí đối nội
cũng khác với cách thức thực hiện quản lý báo chí đối ngoại. Hơn nữa, quản lý báo chí
đối nội cũng thực hiện theo chương trình, kế hoạch song việc quản lý hướng đến cung
cấp các nội dung thông tin những vấn đề trong nước. Đối với những sự kiện tiêu cực,
báo chí đối nội đưa tất cả các thông tin xảy ra, bao gồm cả thông tin tích cực và tiêu cực.
Đối tượng phục vụ của báo chí đối nội là người Việt Nam đang sinh sống trên
lãnh thổ Việt Nam, do vậy cách thức tổ chức quản lý sản xuất, cơ chế phối hợp giữa
các cơ quan báo chí cũng như cơ quan quản lý báo chuyển tải đúng tinh thần của
những sự kiện, trong khi đó báo chí đối ngoại cân bằng, hài hòa các nội dung đối
tượng phục vụ vừa nắm được đủ thông tin, nhưng vẫn thấy được sự tích cực của sự
kiện, gây được cảm tình của công chúng quốc tế đối với đất nước mình.
63
Quản lý nhà nước về báo chí đối nội nhấn mạnh tính ổn định tương đối, phù
hợp với quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước. Cách thức tổ chức
quản lý nội dung thông tin báo chí, chỉ đạo, thực hiện chế độ thông tin, báo cáo phụ
thuộc khá nhiều vào đời sống xã hội, điều kiện kinh tế, văn hóa, nhận thức của người
dân trong nước, đồng thời góp phần định hướng, hướng dẫn người dân thực hiện các
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Trên cơ sở đó,
có thể thấy quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại có một số đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại thể hiện tính quyền lực nhà
nước thông qua pháp luật. Pháp luật về quản lý báo chí là một bộ phận của pháp luật
hành chính và hệ thống pháp luật nước ta. Do vậy, quản lý nhà nước trong lĩnh vực
báo chí do các cơ quan có thẩm quyền tiến hành trên cơ sở pháp luật được thực hiện
thống nhất từ Trung ương đến địa phương, qua đó giúp cho báo chí xác định được
phạm vi hoạt động, đồng thời cũng thể hiện trách nhiệm của nhà nước đối với báo chí.
Mặt khác, tính quyền lực của nhà nước trong quản lý báo chí đảm bảo không cho các
cá nhân, tổ chức không được lạm dụng tự do báo chí, tự do ngôn luận để xâm phạm lợi
ích quốc gia, dân tộc.
Báo chí phục vụ cho sự phát triển của Đảng, Nhà nước và nhân dân, do vậy
Nhà nước xây dựng một hệ thống văn bản pháp luật để quản lý báo chí có đối tượng
phục vụ chủ yếu là người nước ngoài. Trên thực tế hệ thống văn bản quản lý báo chí
đối ngoại chưa có những văn bản riêng và hiện chủ yếu được thực hiện theo văn bản
quản lý nhà nước về báo chí nói chung, các văn bản này ngày càng hoàn thiện, từng
bước đáp ứng tốt việc quản lý báo chí, tránh mọi những nguy cơ các đối tượng là
người nước ngoài lợi dụng tự do báo chí để thực hiện các hoạt động mưu cầu lợi ích
riêng, xâm hại đến an ninh quốc gia, đảm bảo cho việc quản lý báo chí đối ngoại thông
suốt, thống nhất trên cơ sở có sự phân công và phối hợp chặt chẽ.
Thứ hai, quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại là hoạt động có chương trình,
có kế hoạch để thực hiện mục tiêu đặt ra. Quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại
hướng tới mục tiêu giúp cho việc cung cấp thông tin ra nước ngoài theo đúng định
hướng, đúng tôn chỉ, mục đích và đảm bảo hiệu quả về tổ chức nhân sự trong hệ thống
cơ quan báo chí, xây dựng nguồn nhân lực đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, đồng
bộ về cơ cấu, giỏi về ngoại ngữ, nhất là ngoại ngữ của nước sở tại. Trong từng năm,
các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí đều xây dựng chương trình, kế hoạch hoạt
64
động và dựa trên cơ sở đó các cơ quan chức năng ban hành quyết định quản lý theo
chương trình, kế hoạch đã đề ra, từ việc quản lý xây dựng kế hoạch, quản lý việc phân
công, phối hợp giữa các cơ quan quản lý.
Thứ ba, quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại mang tính chất chủ động, linh
hoạt và sáng tạo. Báo chí đối ngoại có đối tượng phục vụ chủ yếu là người nước ngoài,
người Việt Nam ở nước ngoài cho nên việc tổ chức hoạt động cho báo chí đối ngoại có
nhiều khó khăn, tính phức tạp cao, do vậy, quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại luôn
phải thể hiện được tính chủ động, tính linh hoạt và tính sáng tạo cao để vừa chuyển tải
được thông tin ra bên ngoài vừa thỏa mãu nhu cầu thông tin của độc giả ở nhiều độ
tuổi, trình độ, nhiều khu vực trên thế giới. Trong quá trình quản lý, các cơ quan quản
lý báo chí không ngừng tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm, tìm ra những hạn chế để
khắc phục và tiếp tục phát huy những ưu điểm để chuyển tải và phục vụ tốt nhất nhu
cầu của độc giả, đồng thời trong quá trình tổng kết, rút kinh nghiệm còn góp phần vào
việc tham mưu cho các cơ quan ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý
báo chí trong việc hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, làm cho hệ thống pháp luật
về quản lý báo chí đối ngoại ngày càng đầy đủ, làm hành lang cho báo chí đối ngoại
hoạt động tốt nhất, tránh được mọi hiện tượng tiêu cực. Hơn nữa, tính linh hoạt, sáng
tạo còn cho phép việc quản lý báo chí đối ngoại theo sát với tình hình thực tiễn trong
nước và trên thế giới.
Thứ tư, quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại có sự kết hợp chặt chẽ giữa tính
ổn định tương đối và tính phát triển. Báo chí Việt Nam là báo chí cách mạng nên phải
thể hiện được quan điểm lãnh đạo của Đảng, tiếng nói của nhân dân, do vậy báo chí ở
Việt Nam nói chung và các loại hình báo chí có tính ổn định khá cao về mặt chủ
trương, về tôn chỉ, mục đích. Tuy nhiên, sự thay đổi nhanh chóng của thời cuộc, sự
phát triển mọi mặt của đời sống xã hội làm cho định hướng phát triển báo chí cần có
sự thay đổi, đổi mới về cách tổ chức nội dung thông tin, thay đổi cách thức thông tin,...
đảm bảo các nội dung thông tin vừa đáp ứng tốt nhu cầu của độc giả, đồng thời đảm
bảo việc thông tin ra bên ngoài về tình hình trong nước là việc làm rất cần thiết. Để
đảm bảo cho tính ổn định và tính phát triển của báo chí đối ngoại trong tình hình mới
là một trong những đặc điểm quan trọng, làm cho báo chí đối ngoại giữ được bản sắc,
giữ vững quan điểm, lập trường cách mạng, tính đảng nhưng đáp ứng tốt yêu cầu của
thực tiễn đặt ra cho cơ quan báo chí.
65
1.3.2. Vai trò của quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại
Báo chí nói chung và báo chí đối ngoại nói riêng có tác động ngày càng sâu sắc
đến mọi mặt của đời sống xã hội. Vì vậy, quản lý báo chí nói chung và quản lý nhà
nước về báo chí đối ngoại nói riêng là một trong những nhiệm vụ góp phần vào việc
huy động một nguồn lực quan trọng vào việc tuyên truyền, quảng bá hình ảnh đất nước
và con người Việt Nam ra thế giới, đảm bảo cho báo chí đối ngoại hoạt động đúng
định hướng, đúng tôn chỉ và mục đích.
Thứ nhất, quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại nhằm tạo môi trường pháp lý
thuận lợi giúp báo chí đối ngoại hoạt động ổn định, phát triển phù hợp với xu thế
chung của xã hội, ngăn chặn các hoạt động ảnh hưởng tiêu cực đến quan điểm, đường
lối hòa bình, hữu nghị của Đảng và Nhà nước, thúc đẩy mối quan hệ của Việt Nam với
các nước trên thế giới, giúp cho người dân trên thế giới nắm bắt tình hình Việt Nam,
quan điểm, đường lối đối ngoại, hòa bình, hữu nghị của Việt Nam với nhân dân các
nước trên thế giới. Mặt khác, quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại làm cho báo chí
hoạt động và phát triển theo đúng đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà
nước. Cho đến nay, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản về quản lý báo chí,
điều đó góp phần tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại, đấu
tranh chống lại âm mưu của các thế lực thù địch, khẳng định sự lãnh đạo của Đảng đối
với báo chí.
Thứ hai, quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại nhằm bảo đảm cho báo chí phát
huy vai trò định hướng thông tin không chỉ ra nước ngoài mà còn định hướng thông tin
cho các tổ chức, cá nhân người nước ngoài sinh sống và làm việc tại Việt Nam. Báo
chí có quyền đưa tin, viết bài phản ánh trung thực về tình hình trong nước ra nước
ngoài trong khuôn khổ pháp luật. Các cá nhân, tổ chức nước ngoài đưa tin, viết bài về
Việt Nam cần có định hướng, tránh làm sai lệch sự thật. Trước tình hình diễn biến phức
tạp như hiện nay, cần quản lý chặt chẽ để báo chí giữ đúng tôn chỉ, mục đích.
Thứ ba, quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại đảo đảm quyền tự do báo chí,
quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân, quyền tiếp cận thông tin. Điều 25,
Hiến pháp năm 2013 chỉ rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận
thông tin, lập hội, biểu tình”. Tại Điều 10, Luật Báo chí năm 2016, công dân được “sáng
tạo tác phẩm báo chí; cung cấp thông tin cho báo chí; phản hồi thông tin trên báo chí;
tiếp cận thông tin báo chí; liên kết với cơ quan báo chí thực hiện sản phẩm báo chí; in,
66
phát hành báo chí” [116]. Cũng tại Luật Báo chí năm 2016, Điều 11 đã khẳng định
quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân: “Phát biểu ý kiến về tình hình đất
nước; tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước; góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên
báo chí đối với các tổ chức Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội, tổ chức
chính trị, xã hội, nghề nghiệp và các tổ chức cá nhân khác [116]. Quản lý nhà nước về
báo chí góp phần mở đường cho tự do sáng tạo các tác phẩm báo chí, báo chí trở thành
diễn đàn để người dân có thể chia sẻ quan điểm, đưa ý kiến của mình ra thế giới về tình
phát triển đất nước, đấu tranh chống lại các âm mưu, thủ đoạn chia rẽ đoàn kết dân tộc.
Tiểu kết chương 1
Báo chí đối ngoại là một bộ phận của nền báo chí Việt Nam tham gia vào việc
tuyên truyền, tiếp nhận, xử lý thông tin và giải thích thông tin ra nước ngoài và người
nước ngoài tại Việt Nam về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của thế giới đối với Việt Nam và đấu tranh với
luận điệu sai trái chống đối nhà nước Việt Nam của các thế lực thù địch, nhằm tạo ra sự
hiểu biết và xây dựng hình ảnh về đất nước, con người Việt Nam. Trong đó khái niệm
công cụ chính của luận án là: Quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại là những hoạt động
của cơ quan có thẩm quyền trên cơ sở sử dụng quyền lực nhà nước trong việc quản lý
công tác tuyên truyền, công tác tư tưởng về tình hình trong nước ra nước ngoài cho các tổ
chức, cá nhân người nước ngoài đang sinh sống, học tập tại Việt Nam về tình hình của
Việt Nam theo chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Các nội dung chính của quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại là: Xây dựng, chỉ
đạo và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển báo chí đối ngoại;
Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về báo chí đối ngoại;
Tổ chức thông tin và quản lý thông tin báo chí đối ngoại; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao
trình độ chính trị, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ báo chí đối
ngoại; Tổ chức quản lý hoạt động khoa học, công nghệ trong lĩnh vực báo chí đối
ngoại; Cấp, thu hồi các loại giấy phép trong hoạt động; hợp tác quốc tế; Kiểm tra báo
chí lưu chiểu và quản lý hệ thống lưu chiểu báo chí đối ngoại; Chỉ đạo, thực hiện chế
độ thông tin, báo cáo, thống kê... Các phương thức chủ yếu của quản lý nhà nước về
báo chí đối ngoại là các văn bản nhà nước, các cơ quan báo chí, công tác kiểm tra,
giám sát và khen thưởng, kỷ luật đối với các hoạt động báo chí đối ngoại.
67
Chương 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ BÁO CHÍ ĐỐI NGOẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Khái quát về hoạt động của báo chí và báo chí đối ngoại ở Việt Nam
hiện nay
2.1.1. Về hoạt động báo chí
Hiện nay, nước ta đã có đầy đủ các loại hình báo chí, gồm báo in, báo nói, báo
hình, báo mạng điện tử. Tính đến tháng 6 năm 2020 cả nước có 838 cơ quan báo chí với
hơn 1.100 loại ấn phẩm; 67 đài phát thanh, truyền hình cấp Trung ương và tỉnh, trên 500
đài truyền thanh, truyền hình cấp huyện; hơn 19.166 nhà báo được cấp thẻ [197].
Về tạp chí, cả nước có 664 tạp chí, trung ương có 530 và địa phương 134. Về
báo mạng điện tử, cả nước có 195 cơ quan báo mạng điện tử được cấp phép hoạt
động, trong đó có 171 cơ quan báo, đài, tạp chí thực hiện loại hình báo mạng điện
tử. Cụ thể là 6 báo mạng điện tử và hơn 100 tờ báo in đưa lên mạng Internet với
nhiều thứ tiếng. Bên cạnh đó, Bộ Thông tin và Truyền thông đã cấp 178 giấy phép
hoạt động cho các trang thông tin điện tử tổng hợp cho các cơ quan báo chí in, phát
thanh, truyền hình nhằm đáp ứng với yêu cầu thực tiễn để khai thác thế mạnh của
loại hình thông tin hiện đại. Về phát thanh và truyền hình, cả nước có 67 đài phát
thanh và truyền hình trong đó Trung ương có 2 đài truyền hình là VTV, VTC, 5
đơn vị hoạt động truyền hình, tổng số kênh phát thanh, truyền hình trong nước
được cấp phép đến thời điểm hết năm 2017 là 281 kênh, trong đó có 33 doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền và 1 hãng thông tấn quốc gia là Thông
tấn xã Việt Nam.
Đội ngũ người làm báo gồm cán bộ báo chí, phóng viên, biên tập viên gần
20.000 người. Bên cạnh đó, cơ quan báo chí có tôn chỉ, mục đích thông tin đối ngoại
với đội ngũ phóng viên, biên tập viên khoảng gần 1.000 người. Các cơ quan báo chí
đối ngoại chủ lực và cơ quan quản lý báo chí bao gồm Thông tấn xã Việt Nam, Đài
Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam; Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ
Ngoại giao, Bộ Văn hóa, Bộ Thông tin và Truyền thông [197].
Bên cạnh sự phát triển mạnh mẽ của báo chí, nội dung thông tin báo chí cũng
có nhiều đổi mới, tạo được sự sinh động, ngày càng hấp dẫn, thông tin được đăng tải
68
nhanh chóng và kịp thời để người dân có thể nắm bắt được tình hình trong nước và
quốc tế, đáp ứng nhu cầu thông tin, giải trí và những nhu cầu khác của người dân. Báo
chí ngày càng trở thành công cụ quan trọng trong việc tuyên truyền, cổ vũ, động viên
nhân dân tham gia tích cực vào quá trình xây dựng đất nước.
2.1.2. Về hoạt động báo chí đối ngoại
Trước đây, báo chí đối ngoại chủ yếu gồm những cơ quan báo chí chuyên trách
thực hiện nhiệm vụ thông tin đối ngoại, thì hiện nay với sự phát triển mạnh mẽ của các
phương tiện truyền thông, của internet, của mạng xã hội,... các cơ quan báo mạng điện
tử đều trực tiếp hoặc gián tiếp trở thành báo chí đối ngoại. Tuy nhiên, để làm tốt công
tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới đòi hỏi phải có bộ phận báo chí chuyên về
hoạt động đối ngoại giữ vai trò chủ đạo nhằm định hướng thông tin và định hướng cho
các hoạt động tuyên truyền của Việt Nam ra nước ngoài. Vì vậy, đã có khoảng 100 cơ
quan báo chí đại diện của Việt Nam tại nước ngoài, các cơ quan này ngày càng đóng
vai trò quan trọng vào hoạt động của báo chí đối ngoại nước ta.
Đi liền với sự phát triển của các cơ quan báo chí đối ngoại ở nước ngoài là sự
phát triển của các sản phẩm báo chí. Cho đến nay, báo chí đối ngoại ở nước ta có bước
phát triển mạnh mẽ cả về nội dung và hình thức. Cụ thể, Thông tấn xã Việt Nam có 9
sản phẩm thông tin nguồn, 8 báo, tạp chí bằng nhiều ngữ được đăng trên báo in và báo
mạng điện tử,… Số lượng báo chí phát hành bằng tiếng Anh, Pháp, Tây Ban Nha và
tiếng Trung ngày càng tăng và được phát hành đến nhiều nước và khu vực trên thế
giới, góp phần mạnh mẽ vào công cuộc hội nhập và đoàn kết quốc tế của Việt Nam.
Các loại hình báo chí đối ngoại từng bước được nâng cao cả về chất lượng nội dung và
hình thức thông tin, trong đó nổi bật là một số kênh truyền hình đối ngoại của Đài
Truyền hình Việt Nam (VTV4), VTC10, truyền hình công an nhân dân của Bộ Công
an (ANTV), truyền hình thông tấn của Thông tấn xã Việt Nam (VNEWS), kênh truyền
hình của Báo Nhân dân. Bên cạnh đó, các chương trình phát thanh bằng tiếng nước
ngoài cũng được Nhà nước quan tâm và đang hoạt động khá hiệu quả như Đài Tiếng
nói Việt Nam qua Ban Đối ngoại VOV5.
Cùng với các kênh truyền hình, đài phát thanh đối ngoại thì một số tạp chí như
Tạp chí đối ngoại của của Ban Đối ngoại Trung ương, Tạp chí Thông tin đối ngoại của
Ban Tuyên giáo Trung ương. Một số tờ báo đối ngoại được phát hành tương đối lâu như
báo Vietnam News, Vietnam Law & Legal Forum bản tiếng Anh của Thông tấn xã Việt
69
Nam. Thông tấn xã Việt Nam còn một số tờ báo đối ngoại xuất bản bằng tiến Pháp như
Le Courrier du Vietnam (tiếng Pháp); báo Sài Gòn giải phóng bằng tiếng Hoa của
Thành phố Hồ Chí Minh; báo Vietnam Economic Times của Hội Kinh tế Việt Nam; báo
Saigon Times của Sở Công thương Thành phố Hồ Chí Minh; Bộ Kế hoạch và Đầu tư có
báo Vietnam Investment Review, báo điện tử Vietnam Plus, Báo ảnh Việt Nam bằng 10
thứ tiếng. Hiện có 52 văn phòng thường trú ở nước ngoài của 4 cơ quan báo chí, gồm
Thông tấn xã Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam và Báo
Nhân Dân.
Kể từ khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế 79 Quản lý nhà nước về
thông tin đối ngoại năm 2010, hoạt động của báo chí đối ngoại diễn ra ổn định và phát
triển mạnh mẽ. Cùng với đó là Ban Chỉ đạo về báo chí đối ngoại được kiện toàn thống
nhất ở Trung ương và các tỉnh. Cục Thông tin đối ngoại được phân công và chịu trách
nhiệm toàn diện về công tác khai thác và phổ biến thông tin. Theo thống kê của Cục
Báo chí, năm 2010, chỉ có khoảng 10% tỉnh, thành phố có cán bộ làm báo chí đối
ngoại, thì đến giữa năm 2015, 100% tỉnh, thành phố trên cả nước có cán bộ kiêm
nhiệm và chuyên trách hoạt động trong lĩnh vực báo chí đối ngoại [144]. Mặt khác,
các địa phương đã tích cực mời gọi đầu tư của nước ngoài đã góp phần trực tiếp thúc
đẩy sự tham gia của báo chí đối ngoại. Vì vậy, chương trình hành động về thông tin
đối ngoại giai đoạn 2013-2020 ở các địa phương trên cả nước được triển khai đồng
bộ. Từ năm 2012, 63 tỉnh thành phố trên cả nước đã có kế hoạch hành động về báo
chí đối ngoại và được bố trí kinh phí hoạt động thường xuyên. Các cán bộ tham gia
hoạt động báo chí đối ngoại ở địa phương được cử đi đào tạo, bồi dưỡng nâng cao
trình độ nghiệp vụ, chuyên môn, ngoại ngữ, do đó số nhà báo hoạt động trong lĩnh
vực báo chí đối ngoại có sự phát triển mạnh mẽ và có khả năng tốt về ngoại ngữ.
Hiện số người làm báo chí đối ngoại tốt nghiệp đại học ngoại ngữ chiếm 46,3%,
trong đó có 21,7% người làm báo chí đối ngoại tốt nghiệp đại học hoặc sau đại học ở
nước ngoài [17], ngày càng có nhiều đóng góp cho công cuộc đổi mới của đất nước.
Bộ máy hoạt động báo chí đối ngoại được triển khai tích cực, đồng bộ từ Trung ương
đến địa phương.
Bên cạnh sự phát triển của báo chí đối ngoại trong thời gian qua và những kết
quả đạt được, việc qui hoạch phát triển báo chí đối ngoại cũng được chú trọng, trong
đó ưu tiêu phát triển báo điện tử và một số báo in sử dụng một số ngôn ngữ phổ biến
70
như tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Trung Quốc,... Mặt khác, các cơ quan báo chí đối
ngoại chủ lực ở Trung ương như Thông tấn xã Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam,
Đài Tiếng nói Việt Nam tích cực đưa tin, viết bài về tình hình phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội, những thành tựu của Việt Nam sau hơn 30 năm đổi mới.
2.2. Những thành tựu trong quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại và
nguyên nhân
2.2.1. Thành tựu của các chủ thể và đối tượng quản lý nhà nước
Các ý kiến khảo sát thực trạng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại của các
70
65,6
60
52,6
47,2
50
45,6
38
40
Tốt
Khá
30
24,8
TB
20
9,6
7,2
10
2,8
0
Trách nhiệm quản lý chung của Bộ Thông tin và Truyền
Quản lý của Cục Thông tin đối ngoại
Quản lý của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
chủ thể quản lý được thể hiện qua biểu đồ 2.1.
Biểu đồ 2.1. Thực trạng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại của chủ thể quản lý
(Nguồn: Kết quả khảo sát năm 2018)
Số liệu tại biểu đồ trên chỉ ra thực trạng quản lý báo chí đối ngoại được đánh
giá chung ở mức khá cao, với tỷ lệ 56,8% ở mức tốt và 36,7% ở mức khá. Tuy nhiên
vẫn còn một tỷ lệ 6,5% ý kiến đánh giá ở mức trung bình. Song khi xem xét các ý kiến
đánh giá ở từng chủ thể cho thấy “Quản lý chung của Bộ Thông tin và Truyền thông
trong thực hiện quản lý nhà nước về báo chí” có kết quả ở mức tốt nổi trội, với 65,6%
ý kiến, nhưng trong từng biểu hiện cụ thể thì ở biểu hiện “Nghiên cứu, đề xuất và thực
hiện việc xây dựng dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý báo chí đối
ngoại” với 77,6% ý kiến. Có thể nhận thấy đây không chỉ là trách nhiệm nổi bật của
Cục Thông tin đối ngoại, Bộ Thông tin và Truyền thông trực tiếp quản lý báo chí đối
ngoại, hơn nữa trong thời gian gần đây, với nhiệm vụ “Chủ trì, phối hợp với các cơ
quan có liên quan về việc cung cấp các thông tin, làm rõ, phản bác các thông tin sai
71
lệch về Việt Nam trên các lĩnh vực” cũng được đánh giá khá cao, với 68,8% ý kiến.
Ngoài ra còn có “Phối hợp, cung cấp, chia sẻ nội dung báo chí đối ngoại giữa các cơ
quan nhà nước với các cơ quan báo chí” với 62,4% ý kiến ở mức tốt và các biểu hiện
này không có ý kiến đánh giá ở mức trung bình.
Bên cạnh trách nhiệm nổi bật của Bộ Thông tin và Truyền thông, cơ quan
chủ quan được Chính phủ giao quản lý báo chí đối ngoại và Cục Thông tin đối
ngoại là cơ quan trực tiếp quản lý báo chí đối ngoại ở Trung ương được đánh giá
khá cao thì vai trò quản lý báo chí đối ngoại ở cấp tỉnh cũng đạt được những kết
quả khá khả quan, với 45,6% ý kiến ở mức tốt, song ý kiến đánh giá ở mức khá tới
47,2% ý kiến, cùng với những kết quả đạt được một số ý kiến cho rằng thực trạng
quản lý báo chí đối ngoại ở địa phương còn có những hạn chế, do vậy có 7,2% ý
kiến đánh giá ở mức trung bình. Ý kiến phỏng vấn của đồng chí Nguyễn T - Trung
Tâm truyền thông tỉnh Quảng Ninh đã chỉ ra nét khái quát chung về thực trạng nêu
trên: “Mặc dù các thông tin chỉ đạo, định hướng đã được các cơ quan cấp bộ gửi
tới lãnh đạo các cơ quan báo chí ở địa phương nhưng phần lớn là các thông tin về
những vụ việc trong nước có tính phức tạp, nhạy cảm. Các thông tin chỉ đạo, định
hướng thông tin đối ngoại chưa nhiều và chưa đều. Trước đây phần kinh phí chưa
phải tự chủ, chúng tôi mua tin tức của các hãng Reuters, sau này chúng tôi sử dụng
các gói tin của Thông tấn xã”. Hơn nữa, tại địa phương, Sở Thông tin và Truyền
thông là cơ quan trực tiếp quản lý báo chí đối ngoại, nhưng khó khăn khá lớn hiện
tại đặt ra cho các địa phương là năng lực và trình độ ngoại ngữ chủ yếu là tiếng
Anh, tiếng Pháp, tiếng Trung Quốc, tiếng Nga, rất ít cán bộ biết các ngoại ngữ khác
như tiếng Ả Rập đây cũng là khó khăn trong việc xây dựng xây dựng, phát triển
mạng lưới báo chí đối ngoại ở địa phương, và cũng là hạn chế chung trong việc
phát hiện, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý báo chí đối ngoại và người làm báo đối
ngoại cần tố chất, khả năng nhạy bén với chuyên môn, nghiệp vụ báo chí và nghiệp
vụ quản lý báo chí đối ngoại.
Đối tượng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại
Tỷ lệ ý kiến đánh giá chung đối tượng của quản lý nhà nước về báo chí đối
ngoại khá cao. Với 76,3% ý kiến, cho thấy trách nhiệm của các chủ thể quản lý nhà
nước về báo chí đối ngoại trước yêu cầu thực tiễn, điều này được thể hiện qua biểu đồ
2.2 dưới đây:
100
90,4
90
80
72,8
65,6
70
60
Tốt
50
Khá
40
29,6
TB
27,2
30
20
9,6
4,8
10
0
0
0
Quản lý cơ quan báo chí đối ngoại
Quản lý người làm báo chí đối ngoại
Quản lý nội dung thông tin trên báo chí đối ngoại
72
Biểu đồ 2.2. Thành tựu của đối tượng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại
(Nguồn: Kết quả khảo sát năm 2018)
Trong số các đối tượng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại thì “Quản lý nội
dung thông tin trên báo chí đối ngoại” có kết quả nổi trội với 90,4% ý kiến đánh giá ở
mức tốt, ngoài ra kết quả “Quản lý cơ quan báo chí đối ngoại” cũng ý kiến khá cao với tỷ
lệ 72,8%. Mặt khác, các đối tượng quản lý này đồng thời đều không có ý kiến đánh giá ở
mức trung bình. Trái lại, công tác quản lý người làm báo có 4,8% ý kiến đánh giá ở mức
trung bình, sở dĩ có kết quả như trên vì thực tế số lượng cán bộ trực tiếp làm báo đối
ngoại số lượng còn ít cũng như sinh sống, tác nghiệp ở nhiều nước, nhiều vũng lãnh thổ
nên ít nhiều việc chỉ đạo trực tiếp có những hạn chế nhất định, song với 65,6% ý kiến
khẳng định việc quản lý đối tượng này đạt mức tốt, chứng tỏ đội ngũ cán bộ người làm
báo chí đối ngoại có lập trường, sự kiên định với đường lối lãnh đạo của Đảng với công
tác báo chí nói chung cũng như với báo chí đối ngoại nói riêng. Mặt khác, việc quản lý
cán bộ báo chí cũng có những khó khăn hơn do chúng ta có chủ trương cho phép hợp tác
với các cơ quan báo chí, phóng viên nước ngoài nên việc quản lý đội ngũ báo chí đối
ngoại có những khó khăn nhất định. Đặc biệt sự bùng nổ của các hình thức truyền thông,
người làm báo chí đối ngoại có thể tác nghiệp trên mọi mặt trận, nhất là trên các trang
mạng, báo mạng điện tử việc quản lý để thúc đẩy họ mạnh dạn ứng dụng công nghệ vào
để tác nghiệp, đảm bảo tính hiệu quả, tránh chạy theo xu hướng thương mại hóa. Điều
này là dựa trên cơ sở, thành tựu của lý thuyết hội tụ truyền thông, cho phép các phóng
viên, các cơ quan quản lý báo chí nói chung có thể phối hợp tác nghiệp xây dựng mối
quan hệ hợp tác giữa trong nước và ngoài nước, đảm bảo sự quản lý liên thông.
73
Khẳng định về những kết quả trên, qua ý kiến phỏng vấn đồng chí lãnh đạo Cục
Thông tin đối ngoại chỉ ra: “Kết quả như khảo sát ở trên rất phù hợp với thực tế đối tượng
quản lý báo chí đối ngoại mà chúng tôi đang thực hiện. Quản lý cơ quan báo chí có nhiều
thuận lợi hơn so với quản lý nội dung báo chí đối ngoại và với sự phát triển mạnh mẽ
trong việc hợp tác làm báo, trong cuộc cách mạng công nghệ hiện nay th quản lý nội
dung và quản lý đội ngũ cán bộ báo chí đặt ra những yêu cầu cao hơn rất nhiều và quản
lý tốt cán bộ báo chí sẽ góp phần làm tốt quản lý nội dung báo chí đối ngoại”..
2.2.2. Thành tựu nội dung quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại
Thứ nhất, trong xây dựng, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch phát triển báo chí đối ngoại.
Trong những năm vừa qua, các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại đã chủ động
xây dựng định hướng phát triển báo chí đối ngoại. Chẳng hạn, trước năm 2015, Cục
Thông tin đối ngoại đã có các văn phòng thường trú đặt tại Ả rập Xê ut (Châu Á),
Thụy Điển (Châu Âu), Braxin (Châu Mỹ), song cho đến nay chưa có cơ quan báo chí
nào được thành lập văn phòng thường trú tại các nước trên. Trước năm 2020 đặt thêm
ở Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ mỗi nước một quốc gia. Tại Châu Á, đài truyền hình
Việt Nam đã thành lập văn phòng thường trú tại các nước tiểu vương quốc Ả rập
(UAE) năm 2017. Ở Châu Âu, Đài truyền hình Việt Nam đã thành lập văn phòng
thường trú tại Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai Len (năm 2015). Theo đề xuất,
kiến nghị của các cơ quan báo chí, Đài tiếng nói Việt Nam đề nghị đặt thêm văn phòng
thường trú tại Indonesia, Ấn Độ (Châu Á). Tại Châu Âu, Thông tấn xã Việt Nam đề
xuất nâng cấp một số cơ quan thường trú ở nước ngoài thành cơ quan thường trú khu
vực tại Bỉ... Ở Châu Đại Dương Đài Tiếng nói Việt Nam đề nghị đặt thêm văn phòng
thường trú tại Ô-xtrây-li-a. Châu Mỹ: Đài tiếng nói Việt Nam đề xuất mở thêm văn
phòng thường trú tại Mê-hi-cô. Thông tấn xã Việt Nam đề xuất thành cơ quan thường
trú khu vực tại NewYork. Ngoài ra, từ nay đến năm 2020, Thông tấn xã Việt Nam đề
nghị được mở thêm các cơ quan thường trú tại Philippines, Myanmar (những quốc gia
thuộc ASEAN mà Thông tấn xã Việt Nam chưa đặt cơ quan thường trú) và Ảrập Xêút
để đảm bảo thông tin về Trung Đông và khối các nước nói tiếng Ảrập tại công văn số
1378/TTX-BTK ngày 23 tháng 12 năm 2016 của Thông Tấn xã Việt Nam.
Theo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại thông báo kết luận số 290/TB-
VPVP ngày 05 tháng 7 năm 2017, đồng ý về chủ trương thành lập Cơ quan thường trú
74
khu vực tại New York (Mỹ) và Brúc-xen (Bỉ) trên cơ sở kiện toàn lại các Cơ quan
thường trú tại địa bàn. Trước mắt điều phối biên chế nội bộ, không làm tăng tổng biên
chế trong các năm 2017-2019 đã được phê duyệt; về kinh phí tự cân đối trong phạm vi
dự toán chi ngân sách nhà nước được giao hàng năm và các quy định hiện hành. Đồng
ý thành lập cơ quan thường trú Đài Tiếng nói Việt Nam tại Ốt-xtray-lia. Đài Tiếng nói
Việt Nam chủ động cân đối, bố trí kinh phí cho cơ quan thường trú trong phạm vi dự
toán chi ngân sách nhà nước được giao hàng năm và các nguồn kinh phí hợp pháp khác.
Về tình hình thực hiện Quy hoạch phát thanh, truyền hình đối ngoại đến năm
2020. Đối với kênh truyền hình đối ngoại quốc gia, theo Quy hoạch phát thanh truyền
hình đối ngoại đến năm 2015, từng bước hình thành 01 kênh truyền hình đối ngoại
quốc gia với thời lượng tự sản xuất tối thiểu 8giờ/ngày phục vụ nhiệm vụ đối ngoại;
sau năm 2015 thay thế bằng kênh VTV World, định hướng phát triển kênh truyền
hình đối ngoại bằng tiếng nước ngoài với chất lượng quốc tế. Hiện nay, Đài Truyền
hình Việt Nam chưa triển khai đề án nâng cấp kênh VTV4 thành kênh truyền hình đối
ngoại quốc gia VTV World. Thời lượng sản xuất mới đến nay chỉ đạt 3giờ/ngày;
trong đó, phát mới 1 lần và phát lại 2 lần/ngày, còn lại khai thác các kênh chương
trình sản xuất trong nước bù vào thời lượng kênh trống. Như vậy, so với Quy hoạch,
thời lượng sản xuất mới đạt tối thiểu 8giờ/ngày.
Theo Quy hoạch phát thanh, truyền hình đối ngoại đến năm 2020, kênh VTC10
sẽ trở thành kênh chương trình truyền hình phục vụ cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài. Hiện Kênh VTC10 được phát 8giờ/ngày, trong đó ½ thời lượng (4giờ) là các
chương trình do Nhà nước đặt hàng thực hiện nhiệm vụ thông tin đối ngoại và đang
được đưa vào hạ tầng của 46 đối tác với khoảng 50 triệu thuê bao tại 31 quốc gia và
vùng lãnh thổ trên thế giới.
Kênh Truyền hình Thông tấn xã Việt Nam, theo quy hoạch là một trong những
cơ quan phát thanh, truyền hình thực hiện nhiệm vụ thông tin đối ngoại phục vụ từng
đối tượng, địa bàn cụ thể.
Quy hoạch mạng lưới đại diện của các cơ quan thông tấn, báo chí Việt Nam ở
nước ngoài đến năm 2020 của một số cơ quan báo chí chủ lực. Hiện tại, các cơ quan
báo chí đã mở 53 văn phòng thường trú tại nước ngoài, cụ thể: Đài Truyền hình Việt
Nam mở 09 văn phòng thường trú tại nước ngoài; Đài Tiếng nói Việt Nam mở 10 văn
phòng thường trú, Báo Nhân dân mở 4 văn phòng thường trú và Thông tấn xã Việt
75
Nam mở 30 văn phòng thường trú. Các cơ quan báo chí thực hiện đúng “Quy hoạch
mạng lưới đại diện của các cơ quan thông tấn, báo chí Việt Nam ở nước ngoài đến
năm 2020”, tập trung vào các nước láng giềng, các nước ASEAN, các nước có phạm
vi ảnh hưởng về kinh tế, chính trị toàn cầu, những nước có đông người Việt Nam sinh
sống, những nước gắn liền với an ninh quốc gia và lợi ích của Việt Nam, điểm nóng và
tập trung lợi ích của các nước lớn. Việc phát triển mạng lưới các cơ quan báo chí, xây
dựng hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại đòi hỏi các chủ thể
quản lý phải có sự thống nhất, do vậy cần chú ý vận dụng lý thuyết hành vi thống nhất
trong quản lý và tổ chức thực hiện của các cơ quan báo chí, làm cho hoạt động của báo
chí đối ngoại thông suốt, hiệu quả.
Hiện nay, Đài Tiếng nói Việt Nam đề xuất mở thêm văn phòng thường trú ở
một số nước không thuộc Quy hoạch; Thông tấn xã Việt Nam đề xuất nâng cấp một số
văn phòng thường trú thành cơ quan thường trú khu vực. Về việc này, Bộ Thông tin và
Truyền thông đã có các công văn số 2259/BTTTT-TTĐN ngày 06 tháng 7 năm 2016
về việc Đài Tiếng nói Việt Nam xin lập cơ quan thường trú tại Ôxtrâylia và công văn
số 3667/BTTTT-TTĐN ngày 18 tháng 10 năm 2016 về việc Thông tấn xã Việt Nam
mở Cơ quan thường trú khu vực, trong đó nêu rõ quan điểm không mở thêm các văn
phòng thường trú đối với các nước không nằm trong Quy hoạch.
Bên cạnh đó, việc quy hoạch mạng lưới đại diện của các cơ quan thông tấn, báo
chí Việt Nam ở nước ngoài đến năm 2020. Cụ thể Đài Truyền hình Việt Nam hiện có 9
Văn phòng thường trú đang hoạt động tại 9 quốc gia và các địa bàn quan trọng trên thế
giới. Trong quá trình hoạt động, Đài Truyền hình Việt Nam tại nước ngoài đã đảm bảo
công tác chuyên môn; kịp thời phản ánh các sự kiện, chính sách, vấn đề chính trị, kinh
tế, xã hội, văn hóa của các nước thuộc khu vực do văn phòng thường trú đảm nhiệm;
bình luận theo quan điểm chính thống của Việt Nam về quan hệ giữa Việt Nam với các
nước đó, các hoạt động đối ngoại của Việt Nam và hoạt động của cộng đồng người Việt
Nam tại các đại diện văn phòng thường trú phụ trách; đóng góp tích cực và hiệu quả vào
công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại. Đài Tiếng Nói Việt Nam đã thành lập và đưa
vào hoạt động 10 Văn phòng thường trú nước ngoài tại Liên Bang Nga, Cộng hoà Pháp,
Thái Lan, Trung Quốc, Ai Cập, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Lào, Cămpuchia và Cộng hòa Séc.
Các cơ quan thường trú của Đài sau khi đi vào hoạt động đã phát huy hiệu quả cao. Chất
lượng tin, bài phản ánh kịp thời và chính xác những sự kiện của Việt Nam tại nước sở
76
tại. Thông tấn xã Việt Nam là đơn vị chủ lực trong mạng lưới đại diện của các cơ quan
báo chí Việt Nam ở nước ngoài, tham gia tích cực vào hoạt động thông tin đối ngoại;
cung cấp thông tin bằng các loại hình cho các cơ quan thông tin đại chúng ra nước ngoài
cho công chúng cả người Việt Nam và nước ngoài.
Cùng với việc xây dựng chiến lược phát triển báo chí đối ngoại, kết quả khảo
sát ý kiến của các khách thể về quản lý xây dựng, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển báo chí đối ngoại của các khách thể được thể
Tỷ lệ %
100
0
0
5,2
7,5
12,4
16,3
27,9
34
80
31,3
32
39,4
37
60
40
72,1
66
63,5
60,5
48,2
46,7
20
0
ND1
ND2
ND3
ND4
ND5
ND6
Tốt
Khá
Trung bình
hiện qua biểu đồ sau:
Ghi chú:
ND1: Quản lý xây dựng và định hướng, chiến lược phát triển các cơ quan báo chí đối ngoại ND2: Quản lý việc xây dựng kế hoạch phát triển báo chí đối ngoại ND3: Quản lý cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ các cơ quan báo chí đối ngoại ND4: Quản lý việc quy hoạch, sắp xếp hệ thống các cơ quan báo chí đối ngoại ND5: Quản lý việc phân công, phối hợp trong chỉ đạo các cơ quan báo chí đối ngoại ND6: Quản lý sự hiệp đồng phối hợp giữa các cơ quan báo chí đối ngoại
Biểu đồ 2.3. Quản lý việc xây dựng, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch phát triển báo chí đối ngoại (Nguồn: Kết quả khảo sát năm 2018)
Kết quả khảo sát cho thấy việc thực hiện “Quản lý xây dựng và định hướng,
chiến lược phát triển các cơ quan báo chí đối ngoại” nổi trội với 72,1% ý kiến đánh
giá ở mức tốt và 27,9% ý kiến đánh giá ở mức trung bình. Bên cạnh đó, kết quả khảo
sát việc thực hiện “Quản lý cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ các cơ quan báo chí
đối ngoại” với 66% ý kiến ở mức tốt và 34% ý kiến khẳng định hiệu quả quản lý báo
chí đối ngoại ở mức khá. Hai công việc này không có ý kiến đánh giá ở mức trung
bình. Do đó việc thực hiện sự chỉ đạo quy hoạch phát triển hệ thống báo chí đối ngoại
đang được thực hiện tương đối hiệu quả. Minh họa ý kiến về những thành tích như
77
trên, lãnh đạo cục Thông tin đối ngoại – Bộ Thông tin và Truyền thông nhận định:
“Cho đến năm 2020 VTV4 sẽ trở thành kênh truyền h nh đối ngoại quốc gia, tỷ lệ
phát lại là bao nhiêu đều có quy định ở trong quy hoạch. Ngoài ra còn có kênh truyền
h nh đối ngoại dành cho cộng đồng người Việt ở nước ngoài là kênh VTC 10 của đài
truyền hình VTC, có kênh của Đài tiếng nói Việt Nam – VOV5 dành cho đồng bào
Việt Nam ở xa tổ quốc. Đấy là về báo nói, báo hình, báo viết có Vietnamnews,
Vietnamplus, bản tiếng Anh, Báo ảnh của Thông tấn xã Việt Nam” (Phụ lục 4 – B1).
Ngược lại, các công việc “Quản lý việc phân công, phối hợp trong chỉ đạo các
cơ quan báo chí đối ngoại” với 48,2% đánh giá ở mức tốt, 12,4% ý kiến đánh giá kết
quả thực hiện ở mức trung bình. Công việc “Quản lý sự hiệp đồng phối hợp giữa các
cơ quan báo chí đối ngoại” với 46,6% ý kiến đánh giá kết quả ở mức tốt, trong khi đó
kết quả đánh giá ở mức trung bình với 16,3% ý kiến. Trên thực tế, việc phân công phối
hợp trong quản lý chỉ đạo thực hiện báo chí đối ngoại giữa các cơ quan quản lý ở Trung
ương cũng như giữa Trung ương với địa phương, giữa các cơ quan quản lý báo chí đối
ngoại chưa có sự phối hợp hiệp đồng chặt chẽ, làm cho việc cung cấp thông tin cho các
cơ quan quản lý chỉ đạo có lúc chưa kịp thời, nhất là trước những vấn đề nhạy cảm. Điều
này còn được chỉ ra trong Công văn số 1075/TTX-BTK của Thông tấn xã Việt Nam
ngày 23 tháng 11 năm 2018. Minh họa ý kiến về quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại
tại Thông Tấn xã Việt Nam, lãnh đạo ban biên tập tin đối ngoại, chỉ ra: “Ngày 13 tháng
12 năm 2016, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 2434/QĐ-TTg phê duyệt Qui
hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Qui hoạch
đặt mục tiêu phát triển 1 báo điện tử đối ngoại và một số tờ báo in, tạp chí đối ngoại
chuyên biệt, chủ lực, có tầm cỡ khu vực và thế giới. Đặc biệt, ngoài việc được xác định
là cơ quan báo chí đối ngoại chủ lực quốc gia, Thông Tấn xã Việt Nam được giao nhiệm
vụ đề xuất, phát triển các báo, tạp chí in và báo điện tử nói trên, cũng như hỗ trợ các
đơn vị khác để làm lực lượng bổ sung. Để triển khai nhanh chóng và có hiệu quả Quy
hoạch, chúng tôi đề xuất Đảng và Nhà nước quan tâm xây dựng, hoàn thiện các cơ chế,
chính sách, cũng như tập trung đầu tư nguồn lực thích đáng để tạo điều kiện cho Thông
Tấn xã Việt Nam làm nòng cốt cho lực lượng báo chí đối ngoại quốc gia, đồng thời phục
vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước” (Phụ lục 5 - M1).
Có thể khẳng định việc quản lý xây dựng, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển báo chí đối ngoại ở công việc xây dựng và định
78
hướng, chiến lược phát triển các cơ quan báo chí đối ngoại và quản lý cơ cấu tổ chức,
chức năng, nhiệm vụ các cơ quan báo chí đối ngoại đang được thực hiện khá hiệu quả,
đồng thời cần chú trọng nâng cao hiệu quả quản lý việc phân công, phối hợp trong chỉ
đạo các cơ quan báo chí đối ngoại và hiệu quả quản lý sự hiệp đồng phối hợp giữa các
cơ quan báo chí đối ngoại.
Thứ hai, trong ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật
về báo chí; xây dựng chế độ, chính sách về báo chí đối ngoại.
Nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển và nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà
nước về báo chí đối ngoại, ngày 2 tháng 3 năm 2005 Bộ Chính trị đã ban hành Thông
báo số 162-TB/TW về “Một số biện pháp tăng cường quản lý báo chí trong tình hình
hiện nay”, Thông báo kết luận số 41-TB/TW ngày 11 tháng 10 năm 2006 của Bộ
Chính trị về một số biện pháp tăng cường lãnh đạo và quản lý báo chí. Từ sự chỉ đạo
của Trung ương, ngày 29 tháng 11 năm 2006 Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị
số 37/2006/CT-TTg về việc thực hiện kết luận của Bộ Chính trị về một số biện pháp
tăng cường lãnh đạo và quản lý báo chí. Tiếp đó, ngày 30 tháng 3 năm 2007, Bộ Chính
trị ban hành Thông báo Kết luận số 68-TB/TW tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với báo chí và đến ngày 9 tháng 5 năm 2007, Ban
Bí thư ban hành Kế hoạch 03-KH/TW, trong đó chỉ rõ một số biện pháp nhằm thực
hiện Thông báo kết luận 68-TB/TW. Điều đó chứng tỏ Đảng luôn chỉ đạo sát sao với
công tác báo chí nói chung và báo chí đối ngoại nói riêng.
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về báo chí được xây dựng tương đối bộ
và toàn diện. Ngày 2 tháng 12 năm 2008 của Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban
hành Quyết định số 52/2008/QĐ-BTTTT về việc ban hành Quy chế xác định nguồn tin
trên báo chí. Ngày 28 tháng 8 năm 2008, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
97/2008/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin điện tử
trên internet. Ngày 18 tháng 12 năm 2008, Bộ Thông tin và Truyền thông ban hành
Thông tư số 07/2008/TT-BTTTT hướng dẫn một số nội dung về hoạt động cung cấp
thông tin trên trang điện tử cá nhân trong Nghị định số 97/2008/NĐ-CP. Tiếp đến,
ngày 20 tháng 3 năm 2009, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số
28/2009/NĐ-CP về quy định xử phạt hành chính trong quản lý, cung cấp, sử dụng dịch
vụ internet và thông tin điện tử trên internet. Ngày 30 tháng 11 năm 2010, Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Quy chế quản lý nhà nước về thông tin đối ngoại theo Quyết định
79
số 79/2010/QĐ-TTg. Ngày 12 tháng 11 năm 2013 Chính phủ đã ban hành Nghị định số
159/2013/NĐ-CP Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí, xuất
bản. Tiếp đó ngày 5 tháng 8 năm 2014, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành văn
bản số 2204/BTTTT-CBC đề nghị các Bộ, ngành, đoàn thể, Ủy ban nhân dân các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương và các cơ quan báo chí tổ chức tổng kết 15 năm thi
hành Luật Báo chí và ngày 7 tháng 9 năm 2015, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 72/2015/NĐ-CP về quản lý hoạt động thông tin đối ngoại. Trong đó xác định rõ
trách nhiệm quản lý hoạt động thông tin đối ngoại của Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ
Ngoại giao, Bộ Công an, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và một số Bộ có liên quan.
Ngày 26 tháng 12 năm 2016 Bộ Thông tin và Truyền thông ban hành Thông tư
số 38/2016/TT-BTTTT, quy định chi tiết các nguyên tắc, biện pháp và cơ chế phối hợp
xử lý thông tin vi phạm trên mạng. Gần đây nhất, Bộ Thông tin và Truyền thông ban
hành Dự thảo Thông tư hướng dẫn về quản lý hoạt động thông tin đối ngoại của các Bộ,
cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ ngày 21 tháng 11, trong đó quy định rõ
trách nhiệm của các Bộ, trách nhiệm của cơ quan chuyên môn đầu mối về thông tin đối
ngoại của các Bộ. Theo Dự thảo, các bộ, cơ quan có trách nhiệm xây dựng kế hoạch
xuất bản, phát hành xuất bản phẩm đối ngoại nhằm cung cấp thông tin chính thức về
Việt Nam, quảng bá hình ảnh Việt Nam tới cộng đồng quốc tế và người Việt Nam ở
nước ngoài. Khi tổ chức các hoạt động sự kiện ở nước ngoài, các bộ, cơ quan có trách
nhiệm phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông và các cơ quan liên quan để thực
hiện tốt các hoạt động của công tác quản lý báo chí đối ngoại. Các nội dung quản lý theo
Dự thảo gồm quản lý thông tin chính thức về Việt Nam, quảng bá hình ảnh Việt Nam.
Trong việc quản lý ban hành các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến
báo chí đối ngoại, Bộ Thông tin và Truyền thông đã trình Thủ tướng Chính phủ ký ban
hành: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1378/QĐ-TTg ngày 12 tháng 8
năm 2013 phê duyệt quy hoạch mạng lưới đại diện của các cơ quan thông tấn, báo chí
Việt Nam ở nước ngoài đến năm 2020 (Quyết định số 32/QĐ-TTg ngày 09 tháng 1
năm 2018); Kế hoạch tuyên truyền về quan hệ hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn
diện Việt Nam - Campuchia trong tình hình mới (Quyết định số 70/QĐ-TTg ngày 13
tháng 11 năm 2018). Bên cạnh đó, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành Kế
hoạch thông tin đối ngoại năm 2018 (Quyết định số 105/QĐ-BTTTT ngày 10 tháng 4
năm 2018); Quyết định Ban hành quy chế quản lý thống nhất hoạt động đối ngoại của
Bộ Thông tin và Truyền thông, số 1191/QĐ-BTTTT, ngày 17 tháng 7 năm 2018.
80
Tới nay, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành một số văn bản có liên
quan đến việc hướng dẫn quản lý hoạt động báo chí đối ngoại của các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương. Các văn bản trên đều chỉ ra việc quản lý báo chí đối ngoại trên
nhiều phương diện. Tuy nhiên, hoạt động quản lý hướng đến các khía cạnh về xây
dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, tổ chức thực hiện, sửa đổi, bổ sung
các văn bản quản lý báo chí đối ngoại, xây dựng và thực hiện chế độ, chính sách về tài
chính, con người, cơ sở vật chất cho cơ quan báo chí, tập huấn triển khai nội dung các
văn bản pháp luật cho cán bộ quản lý và đề xuất, kiến nghị, xây dựng văn bản liên
quan đến báo chí đối ngoại.
Kết quả khảo sát thực trạng quản lý việc ban hành và tổ chức thực hiện các văn
bản quy phạm pháp luật về báo chí, xây dựng chế độ, chính sách về báo chí đối ngoại
Tỷ lệ %
100
0
3,8
5,2
6,4
13,2
17,5
34,8
80
32,9
44
41,8
38,8
35,4
60
40
65,2
60,7
53
52,2
48
47,1
20
0
ND3
ND4
ND1
ND2
ND5
ND6
Tốt
Khá
Trung bình
thể hiện qua biểu đồ sau:
Ghi chú: ND1: Quản lý việc phối hợp xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực báo chí đối ngoại ND2: Quản lý việc tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, sự chỉ đạo về báo chí đối ngoại ND3: Quản lý việc sửa đổi, bổ sung các văn bản quản lý báo chí đối ngoại ND4: Quản lý việc xây dựng và thực hiện chế độ, chính sách về tài chính, con người, cơ sở vật chất cho hoạt động báo chí đối ngoại ND5: Tập huấn triển khai nội dung các văn bản pháp luật cho cán bộ quản lý báo chí đối ngoại ND6: Đề xuất, kiến nghị, xây dựng văn bản liên quan đến quản lý nhà nước đối với báo chí đối ngoại
Biểu đồ 2.4. Quản lý việc ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về báo chí, xây dựng chế độ, chính sách về báo chí đối ngoại
(Nguồn: Kết quả khảo sát năm 2018) Từ thực trạng khảo sát như trên chỉ ra việc “Đề xuất, kiến nghị, xây dựng văn
bản liên quan đến quản lý nhà nước đối với báo chí đối ngoại” đang được triển khai
khá tốt, với 65,2% ý kiến đánh giá ở mức tốt và 34,8% ý kiến đánh giá ở mức khá. Bên
cạnh đó hiệu quả “Quản lý việc phối hợp xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm
81
pháp luật trong lĩnh vực báo chí đối ngoại” với 60,7% ý kiến ở mức khá, song vẫn còn
6,4% ý kiến đánh giá ở mức trung bình. Lãnh đạo Ban Đối ngoại của Đài Tiếng nói
Việt Nam cho rằng “Đối với với Thông tin đối ngoại, tiêu chí đầu tiên của chúng tôi
phải là thông tin an toàn, độ an toàn cao nhất có thể và đúng định hướng thông tin
bên cạnh những tiêu chí khác như hấp dẫn, nhanh nhạy”.Hoạt động báo chí đối ngoại
trong thời gian vừa qua ít mắc những sai sót nghiêm trọng phải xử lý kỷ luật, có được
điều này chủ yếu là do bản thân cán bộ báo chí đối ngoại luôn ý thức khá rõ về trách
nhiệm chính trị, cán bộ quản lý báo chí luôn ý thức được tôn chỉ, mục đích của tờ báo
được xuất bản, do vậy những kết quả như trên là có căn cứ thực tiễn.
Bên cạnh các công việc trên được thực hiện khá hiệu quả thì việc “Quản lý việc
sửa đổi, bổ sung các văn bản quản lý báo chí đối ngoại” và “Quản lý việc xây dựng và
thực hiện chế độ, chính sách về tài chính, con người, cơ sở vật chất cho hoạt động báo chí
đối ngoại” tuy đáp ứng được một số yêu cầu thực tiễn đặt ra nhưng vẫn còn số lượng khá
lớn ý kiến đánh giá ở mức trung bình, trong đó quản lý việc thực hiện chế độ chính sách
về tài chính, cơ sở vật chất có tới 17,5% ý kiến đánh giá ở mức trung bình. Tại Báo cáo
kết quả kiểm tra các Quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại và Quy hoạch mạng lưới đại
diện của các cơ quan thông tấn, báo chí Việt Nam ở nước ngoài, số 01/BC-BTTTT, ngày
7 tháng 1 năm 2019 chỉ ra trong khó khăn, tồn tại: “Việc phát hành báo ra nước ngoài rất
khó khăn do cước phí tăng cao, kinh phí nhà nước cấp có hạn, doanh thu từ quảng cáo,
phát hành báo của đơn vị rất thấp nên báo buộc phải cắt giảm số lượng địa chỉ nhận báo ở
nước ngoài” [43, tr.2]. Báo cáo của Thông Tấn xã Việt Nam, số 1075/TTX-BTK về tình
hình triển khai Quy hoạch báo chí đối ngoại và Quy hoạch mạng lưới đại diện cơ quan
thông tấn ở nước ngoài cũng chỉ ra khó khăn tương tự ở đội ngũ cán bộ báo chí: “Mức
sinh hoạt phí mà phóng viên thường trú nước ngoài được hưởng chưa tăng kịp với sinh
hoạt phí ở các địa bàn, khiến đời sống của phóng viên và gia đình gặp khó khăn” [139].
Trước những kết quả đạt được về đề xuất, kiến nghị, xây dựng văn bản liên
quan đến quản lý nhà nước đối với báo chí đối ngoại làm cho việc quy hoạch và quản
lý báo chí đối ngoại có sự phát triển ổn định, song kết quả về xây dựng và thực hiện
chế độ, chính sách về tài chính, con người, cơ sở vật chất cho hoạt động báo chí đối
ngoại hiện đang gặp những khó khăn nhất định cả về điều kiện vật chất phục vụ cho
hoạt động báo chí cũng như quản lý nhà nước đối với báo chí đối ngoại, nguồn kinh
phí cho hoạt động tác nghiệp củc cán bộ báo chí cần được bổ sung.
82
Thứ ba, trong tổ chức thông tin và quản lý thông tin của báo chí đối ngoại.
Công tác quản lý tổ chức thông tin và quản lý thông tin báo chí đối ngoại được
thực hiện thường xuyên, liên tục, kịp thời nhằm giải quyết tốt các yêu cầu của thực
tiễn. Việc quản lý thông tin báo chí đối ngoại được kiểm soát chặt chẽ, sát với thực
tiễn hoạt động báo chí, giúp cho cơ quan báo chí báo chí đối ngoại cũng như việc đưa
tin, viết bài của các nhà báo hoạt động đúng với yêu cầu tuyên truyền, giới thiệu hình
ảnh, con người và đất nước Việt Nam ra thế giới, đúng với pháp luật. Các cơ quan
quản lý báo chí thường xuyên tổ chức các cuộc họp giao ban hằng tháng, nội dung các
cuộc họp tập trung vào việc phát triển báo chí đối ngoại, quản lý chặt chẽ việc tổ chức
thông tin và cung cấp thông tin cho các cơ quan báo chí đối ngoại. Mặt khác, các hoạt
động quản lý cũng chỉ ra định hướng cho báo chí tích cực tuyên truyền các chủ trương
của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội.
Bên cạnh đó, Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương
tích cực tổ chức thông tin trên các báo, đài phát thanh, đài truyền hình, nhất là việc quản
lý định hướng thông tin liên quan các lĩnh vực và các vấn đề quan trọng. Trong đó chú
trọng quản lý việc tổ chức thông tin về các sự kiện và vụ việc phức tạp, nhạy cảm, chỉ đạo
báo chí đối ngoại tích cực tham gia vào công tác đấu tranh vạch trần luận điệu vu cáo,
xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, các vụ việc liên quan đến tôn giáo, dân chủ,
nhân quyền nhằm giúp cộng đồng quốc tế hiểu đúng về đường lối, chủ trương của Đảng
cũng như sự ủng hộ của quốc tế với những chính sách đúng đắn trong xây dựng và phát
triển đất nước của Việt Nam thời gian qua cũng như trong các giai đoạn tiếp theo.
Ngày 9 tháng 2 năm 2017 Chính phủ đa ban hành Nghị định số 09/2017/NĐ-CP
quy định chi tiết việc phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí của các cơ quan
hành chính nhà nước [47]. Nghị định định hướng việc phát ngôn và cung cấp thông tin
cho báo chí của các bộ, ngành, địa phương trong đó có việc cung cấp thông tin cho báo
chí đối ngoại rõ ràng, tạo cơ hội cho báo chí đối ngoại tiếp cận và có đầy đủ thông tin
để phục vụ cho việc thông tin ra bên ngoài chính xác, khách quan, trung thực. Từ đó
làm cho người dân ở các nước kịp thời nắm bắt được những thông tin về tình hình ở
Việt Nam. Hiện nay, các cuộc họp giao ban hàng tháng của các cơ quan quản lý báo
chí đối ngoại ở trung ương đều mời các đại diện của các cơ quan báo chí đối ngoại ở
địa phương đến dự họp, nhất là khi có các sự kiện chính trị lớn, các vấn đề được dư
luận nước ngoài quan tâm.
Tỷ lệ %
100
0
6,3
6,8
7,1
8,4
14,8
34,4
80
31,5
29,8
35,6
39,2
34,2
60
40
65,6
62,2
61,8
57,3
54
51
20
0
ND1
ND2
ND3
ND4
ND5
ND6
Tốt
Khá
Trung bình
83
Ghi chú: ND 1: Quản lý hoạt động tổ chức nội dung thông tin và đổi mới nội dung báo chí đối ngoại ND 2: Quản lý cách thức tổ chức sản xuất, qui trình và hình thức của sản phẩm báo chí đối ngoại ND 3: Quản lý việc thông tin về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đến cộng đồng người Việt Nam ở
nước ngoài, cộng đồng quốc tế; quảng bá hình ảnh đất nước, con người, văn hóa Việt Nam
ND 4: Quản lý hình thức, cách thức, phương pháp cung cấp thông tin chính thống, thông tin của các tờ báo phục
vụ đối ngoại thông qua truyền thông xã hội
ND 5: Quản lý việc khai thác, sử dụng tin, bài, chi tiết, hình ảnh ND 6: Xác định đối tượng thông tin của báo chí đối ngoại có trọng tâm, trọng điểm nhất, các nước láng giềng,
các nước lớn, người Việt Nam ở nước ngoài, giới trẻ
Biểu đồ 2.5. Quản lý tổ chức thông tin và quản lý thông tin của báo chí đối ngoại
(Nguồn: Kết quả khảo sát năm 2018)
Qua số liệu ở biểu đồ 2.5 chỉ ra các công việc liên quan đến quản lý tổ chức
thông tin và quản lý thông tin của báo chí đối ngoại đều được thực hiện tương đối hiệu
quả, trong đó mức tốt ở các công việc đều có trên 50% ý kiến đánh giá.
Công việc được khẳng định có hiệu quả rõ nhất là “Quản lý việc thông tin về chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đến cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài,
cộng đồng quốc tế; quảng bá hình ảnh đất nước, con người, văn hóa Việt Nam” với
65,6% ý kiến đánh giá ở mức tốt, 34,4% ý kiến đánh giá ở mức khá, không có ý kiến
đánh giá ở mức trung bình. Phó Ban Đối ngoại của Đài Tiếng nói Việt Nam cho biết:
“Ban Đối ngoại của Đài Tiếng nói Việt Nam là một trong những binh chủng thông tin
đối ngoại của Đảng và Nhà nước, Ban Đối ngoại cũng như kênh VTV4 hay là một số tờ
báo đối ngoại khác đều thực hiện theo sự quản lý của Bộ thông tin và truyền thông và
cao hơn nữa về mặt định hướng tư tưởng chính trị là Ban Tuyên giáo Trung ương. V
vậy, tiêu chí hàng đầu của chúng tôi làm đúng tôn chỉ mục đích mà Đảng và Nhà nước
giao phó. Làm báo đối ngoại là đưa cái hay cái đẹp của đất nước con người Việt Nam
84
để thông qua giới thiệu của mình thế giới hiểu hơn về văn hoá, đất nước, con người Việt
Nam, từ đó họ ủng hộ Việt Nam”. Có được kết quả như trên là nhờ sự quan tâm chỉ đạo
tích cực ngay từ khâu tiếp nhận tin bài được kiểm duyệt chặt chẽ, đảm bảo cho báo chí
đối ngoại thể hiện rõ tôn chỉ, mục đích, đúng quan điểm, đường lối lãnh đạo của Đảng,
pháp luật của Nhà nước về báo chí đối ngoại, góp phần vào việc xây dựng vị thế, hình
ảnh Việt Nam với thế giới, đồng thời các nội dung thông tin phù hợp với lợi ích quốc
gia, dân tộc, tăng cường quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế giữa Việt Nam và các nước.
Để có được những kết quả đáng khích lệ như trong báo cáo tổng kết về hoạt
động của báo chí đối ngoại trong các năm vừa qua, các công việc “Quản lý cách thức
tổ chức sản xuất, quy trình và hình thức của sản phẩm báo chí đối ngoại” và “Xác định
đối tượng thông tin của báo chí đối ngoại có trọng tâm, trọng điểm nhất, các nước láng
giềng, các nước lớn, người Việt Nam ở nước ngoài, giới trẻ” được quan tâm chỉ đạo
khá sát, song việc sản xuất báo chí đối ngoại đang có những khó khăn về nhiều mặt,
như vấn đề tài chính, vấn đề nguồn nhân lực đáp ứng với yêu cầu trong tình hình mới
của báo chí đối ngoại, nên còn có ý kiến đánh giá ở mức trung bình. Những khó khăn
nêu trên ảnh hưởng không nhỏ đến việc đổi mới nội dung của báo chí đối ngoại, vì vậy
kết quả đánh giá công việc “Quản lý hoạt động tổ chức nội dung thông tin và đổi mới
nội dung báo chí đối ngoại” có tới 14,8% ý kiến đánh giá ở mức trung bình, số ý kiến
đánh giá ở mức khá là 34,2% và số ý kiến đánh giá ở mức tốt chỉ 51%. Đánh giá về kết
quả thực hiện chế độ thông tin, báo cáo, thống kê, lãnh đạo ban biên tập tin đối ngoại –
Thông tấn xã Việt Nam cho rằng: “Hiện hầu hết hoạt động chỉ đạo thông tin được thực
hiện thông qua các cuộc giao ban trong đơn vị. Đây là cơ chế chỉ đạo mang tính xương
sống, xuyên suốt nhằm chỉ đạo và truyền đạt chỉ đạo thông tin từ cấp trên, tiếp nhận ý
kiến đề xuất từ cấp dưới để tham mưu cho lãnh đạo. Chế độ giao ban trong đơn vị bao
gồm giao ban thông tin hàng ngày, giao ban công tác hàng tuần và các cuộc giao ban
đột xuất khi nảy sinh vấn đề cần được giải quyết kịp thời để giữ đúng định hướng thông
tin, ý đồ tuyên truyền. Các cuộc giao ban hàng ngày diễn ra vào 8 giờ sáng với thời gian
không quá 15 phút, gồm Ban phụ trách, các Trợ lý Trưởng Ban, các Trưởng và Phó
Trưởng phòng hoặc Trưởng ca. Nội dung là trao đổi thông tin đầu giờ, dự kiến công
việc thực hiện trong ngày và thống nhất ý kiến về những thông tin quan trọng. Đại diện
các Phòng có trách nhiệm báo cáo kết quả thực hiện thông tin của ngày hôm trước, nắm
bắt và truyền đạt chỉ đạo đầu giờ tới các biên tập viên. Nhìn chung, công tác chỉ đạo cơ
85
bản đáp ứng được yêu cầu, giúp định hướng hoạt động sản xuất thông tin hàng ngày
hoặc theo chuyên đề của Ban Thông tin đối ngoại. Tuy nhiên, cơ chế này đang bộc lộ
một số hạn chế cần được khắc phục trong thời gian tới như còn lúng túng khi xử lý các
chỉ đạo thông tin chồng chéo giữa các cấp lãnh đạo; hoặc bị động khi phát sinh những
vấn đề nhạy cảm vượt quá thẩm quyền xử lý của Ban Phụ trách” (Phụ lục 5 - M1).
Những kết quả như trên chỉ ra thực trạng chung trong việc quản lý tổ chức
thông tin và quản lý thông tin của báo chí đối ngoại đã đáp ứng được những yêu cầu
theo đúng định hướng của Đảng đối với báo chí cách mạng, song cần có sự đổi mới để
tạo sự hấp dẫn, sinh động cho độc giả, nhằm thu hút ngày càng nhiều đối tượng theo
dõi, góp phần trực tiếp thực hiện đường lối đối ngoại của nước ta.
Thứ tư, trong đào tạo, bồi dưỡng nâng cao tr nh độ chính trị, nghiệp vụ, đạo đức nghề
nghiệp cho đội ngũ người làm báo của các cơ quan và cán bộ quản lý báo chí đối ngoại.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng trình độ chính trị, chuyên môn và nghiệp vụ, đạo
đức nghề nghiệp cho cán bộ quản lý báo chí và đội ngũ cán bộ làm báo đối ngoại được
các cơ quan chủ quan cũng như Cơ quan quản lý báo chí cao nhất là Bộ Thông tin và
Truyền thông tích cực thực hiện.
Bộ Thông tin và Truyền thông đã chủ trì mở nhiều lớp đào tạo, bồi dưỡng kỹ
năng quản lý cho cán bộ quản lý báo chí đối ngoại; bồi dưỡng kiến thức thi nâng ngạch
cho các phóng viên, biên tập viên. Đồng thời tổ chức các lớp tập huấn ngắn hạn về
quản lý báo chí, kỹ năng phối hợp với các cơ quan báo chí nước ngoài, các tổ chức nội
dung thông tin trên báo chí đối ngoại và cách phổ biến thông tin sao cho đúng đối
tượng phát hành, khảo sát nắm bắt nhu cầu và thị hiếu của độc giả.
Từ sau khi dự án “Đào tạo nâng cao báo chí Việt Nam” do Thụy Điển tài trợ được
thực hiện trong giai đoạn 2010-2013, 2 khoá đào tạo quản lý báo chí, 4 khoá đào tạo
ngắn hạn cơ bản, 2 khoá ngắn hạn nâng cao cho cán bộ quản lý báo chí được đánh giá
cao, trong đó có nhiều cán bộ quản lý báo chí cũng như cán bộ làm báo chí đối ngoại
được trực tiếp tham gia học tập, nghiên cứu. Chỉ tính riêng năm 2013 có hơn 300 lãnh
đạo cơ quan báo chí, phóng viên, biên tập viên được đào tạo nâng cao nghiệp vụ qua
các lớp bồi dưỡng ngắn hạn của Trung tâm đào tạo báo chí của Bộ Thông tin và
Truyền thông, tuy nhiên, dự án cũng kết thúc trong cùng năm. Bên cạnh đó năm 2013,
Bộ Thông tin và Truyền thông đã tổ chức 55 cuộc hội thảo và tập huấn cho lãnh đạo
các cơ quan báo chí trung ương và địa phương phóng viên, biên tập viên, về Quy chế
86
phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí, các hoạt động đưa tin, viết bài thuộc các
lĩnh an ninh, phòng chống các hành vi phạm tội,... nhằm nâng cao kiến thức, kỹ năng
và nghiệp vụ cho cán bộ quản lý báo chí đối ngoại cũng như những người làm báo chí.
Từ năm 2014 đến nay, Cục quản lý báo chí – Bộ Thông tin và Truyền thông đã
tích cực tham gia vào đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng quản lý báo chí cho các bộ quản lý
báo chí, đồng thời chỉ đạo các cơ quan báo chí đối ngoại ở các địa phương cử cán bộ
tham gia đào tạo, tập huấn về kỹ năng, nghiệp vụ quản lý báo chí cũng như quản lý
nghiệp vụ, chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp của người làm báo đối ngoại. Cho đến
nay, về cơ bản đội ngũ cán bộ quản lý báo chí đối ngoại và cán bộ báo chí đối ngoại
được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ báo chí, nâng cao nhận thức
chính trị, trình độ chuyên môn đáp ứng được mặt bằng chung theo các tiêu chuẩn
chung của người làm báo, góp phần quan trọng vào việc đưa tin, viết bài tuyên truyền,
quảng bá, giới thiệu hình ảnh, đất nước, con người, những thành tựu đổi mới của Việt
Nam, cũng như góp phần vào việc đưa đất nước hội nhập với thế giới ngày càng sâu
Tỷ lệ %
100
5,3
8,5
12
14,7
18
23,3
80
37,5
35,5
31,7
39,3
36,2
60
40,7
40
57,2
56
53,6
48,7
45,8
20
36
0
ND1
ND2
ND3
ND4
ND5
ND6
Tốt
Khá
Trung bình
rộng trên các lĩnh vực trọng yếu.
Ghi chú:
ND1: Quản lý việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ làm báo cho cán bộ làm báo và cán bộ
quản lý báo chí đối ngoại
ND2: Quản lý đào tạo, bồi dưỡng về tr nh độ ngoại ngữ cho cán bộ làm báo và cán bộ quản lý báo chí đối ngoại ND3: Quản lý đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị làm báo và cán bộ quản lý báo chí đối ngoại ND4: Quản lý đào tạo, bồi dưỡng tác phong, đạo đức nghề nghiệp của người làm báo và cán bộ quản lý báo chí đối ngoại ND5: Quản lý đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý báo chí đối ngoại cho đội ngũ cán bộ quản lý ND6: Quản lý cơ chế, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ làm báo chí đối ngoại và cho cán bộ quản lý
Biểu đồ 2.6. Quản lý đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ người làm báo của các cơ quan báo chí và cán bộ quản lý báo chí đối ngoại
(Nguồn: Kết quả khảo sát năm 2018)
87
Dễ nhận thấy kết quả đánh giá ở mức tốt giữa các công việc có sự chênh lệch
khá rõ. Cụ thể “Quản lý việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ làm
báo cho cán bộ làm báo và cán bộ quản lý báo chí đối ngoại” số lượng ý kiến đánh giá
ở mức tốt có tỷ lệ cao hơn so với các công việc khác, với 57,2%. Thực chất đây không
phải là kết quả đáp ứng được mong muốn, cán bộ làm báo chí đối ngoại đa phần được
đào tạo đa phần từ chuyên ngành báo chí, nhưng sau khi được tuyển dụng ít được tham
gia các khóa đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ làm báo, có thể được đào tạo trong nước
nhưng với cán bộ báo chí đối ngoại môi trường tác nghiệp, địa bàn, đối tượng thông
tin rất đặc thù cần được đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài nhưng hầu như vấn đề này ít
được chú trọng, cho nên số ý kiến đánh giá ở mức trung bình vẫn chiếm 5,3%. Hơn
nữa, các công việc trên đều cho thấy có các ý kiến đánh giá kết quả thực hiện quản lý
đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho
người làm báo của các cơ quan báo chí và cán bộ quản lý báo chí đối ngoại đều có ý
kiến ở mức trung bình. Đánh giá về những hạn chế như trên đã được Bộ Thông tin và
Truyền thông chỉ ra trong báo cáo kết quả kiểm tra Quy hoạch hệ thống báo chí đối
ngoại năm 2018 chỉ ra nguồn nhân lực làm báo chí đối ngoại còn hạn chế về năng lực
ngoại ngữ cũng như việc đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng làm báo chưa đáp ứng được nhu
cầu thực tế. Đội ngũ cán bộ quản lý báo chí đối ngoại cũng phải được đào tạo về kỹ
năng lãnh đạo, quản lý báo chí chuyên nghiệp hơn.
Về thực trạng “Quản lý đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ luận chính trị làm
báo và cán bộ quản lý báo chí đối ngoại” có kết quả đánh giá mức tốt thấp hơn, với
45,8%, trong khi đó số ý kiến đánh giá kết quả thực hiện ở mức trung bình với 18%.
Trên thực tế việc đào tạo nâng cao trình độ lý luận chính trị cho nhà báo đã được Ban
Bí thư nêu trong Kết luận số 57-KL/TW, ngày 08 tháng 3 năm 2013 về “Tiếp tục đẩy
mạnh côngtác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý các
cấp”, sau đó được Ban Tổ chức Trung ương nêu trong công văn số 4741-CV/BTCTW
về một số vấn đề về đào tạo cao cấp lý luận chính trị chỉ rõ nhà báo khi đi học hệ
không tập trung có thể được đi học trẻ hơn 5 tuổi so với quy định. Tuy nhiên, do điều
kiện tác nghiệp cũng như nguồn lực bổ sung cho cán bộ báo chí đối ngoại cũng như
cán bộ quản lý báo chí còn thiếu nên việc này còn những khó khăn vướng mắc chậm
được khắc phục, điều này cũng ảnh hưởng đến kết quả thực hiện quy hoạch báo chí
đối ngoại đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030. Đánh giá về thực trạng công tác
88
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ báo chí đối ngoại, lãnh đạo quản lý Ban Biên tập tin đối
ngoại khẳng định: “Lực lượng tham gia công tác báo chí đối ngoại bằng tiếng nước
ngoài ở Thông Tấn xã Việt Nam vào hàng mạnh nhất nước nhưng vẫn còn một số hạn
chế nhất định. Số lượng biên tập viên, biên dịch viên còn mỏng do phân tán ở nhiều
đơn vị. Nhân lực của Ban Thông tin đối ngoại – đơn vị chủ lực trong báo chí đối ngoại
bằng tiếng nước ngoài ở Việt Nam – hiện chỉ gồm 67 người. Do thường xuyên có
nhiều cán bộ, BTV nghỉ chế độ thai sản, đi luân chuyển hoặc đi học nghiệp vụ và
chính trị, số người thực chiến còn khoảng 50 người, phân bố tại 5 Phòng. Với sản
lượng hơn 180 đầu tin mỗi ngày (kể cả tin văn bản, tin đồ họa và tin ảnh) cùng 04
bản tin truyền hình với tổng thời lượng 245 phút/tuần, cỗ máy Ban Thông tin đối
ngoại đang hoạt động với công suất cao, có dấu hiệu bị quá tải ở một vài nhánh. Bên
cạnh đó, 2/3 số BTV trong Ban còn non cả về tuổi đời lẫn tuổi nghề, một số hiệu đính
của Ban còn ít kinh nghiệm trong khi chuyên gia nước ngoài lại thiếu hụt. Những tồn
tại này ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng của các sản phẩm thông tin. Để khắc
phục tình trạng này, qua đầu mối là Trung tâm Bồi dưỡng nghiệp vụ Thông tấn,
Thông Tấn xã Việt Nam thường xuyên tổ chức các khóa học nghiệp vụ về mọi loại
h nh thông tin như báo in, báo điện tử, ảnh báo chí, truyền h nh, cũng như các khóa
bồi dưỡng về công tác phóng viên, biên tập và kỹ năng viết tin bài phản bác, phản
biện” (Phụ lục 5 – M1).
Như vậy, công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ báo
chí và cán bộ quản lý báo chí đối ngoại đạt được những kết quả nhất định về chuyên
môn, nghiệp vụ song cũng còn những hạn chế, có thể thấy rõ nhất điều này qua việc
đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị.
Thứ năm, trong đẩy mạnh hợp tác quốc tế về báo chí đối ngoại.
Quản lý báo chí đối ngoại được Bộ Thông tin và Truyền thông luôn coi trọng.
Trong những năm gần đây, hợp tác quốc tế về liên kết với các cơ quan báo chí nước
ngoài, thuê các phóng viên nước ngoài đưa tin, viết bài quảng bá, giới thiệu về đất
nước Việt Nam. Hoạt động này được thực hiện khá sớm với các nước trong khu vực
ASEAN và các nước có mối quan hệ chặt chẽ với Việt Nam như Nga, Nhật Bản, Hàn
Quốc,... Trong năm 2014, Việt Nam đã mời và đón hàng trăm nhà báo, các cơ quan
quản lý báo chí của các nước Lào và Campuchia tham gia viết bài, làm các phóng sự
về Việt Nam, nhân dịp này chúng ta đã tổ chức cho các nhà báo, các cơ quan quản lý
89
báo chí ra Biển Đông tác nghiệp, qua đó lên án các hành vi vi phạm chủ quyền của
Trung Quốc xâm phạm đến vùng biển, lãnh thổ của Việt Nam, qua đó cùng lên án, kêu
gọi cộng đồng quốc tế chung sức lên tiếng phê phán các hành vi vi phạm đó.
Nhằm tăng cường hơn nữa hiệu quả hoạt động quản lý hợp tác về báo chí đối
ngoại, Việt Nam đã cử nhiều đoàn cán bộ quản lý báo chí và cán bộ báo chí tham dự
các khóa bồi dưỡng tại các nước có nền báo chí phát triển, đồng thời Bộ Thông tin và
Truyền thông còn cử các cán bộ quản lý báo chí tham dự các hội thảo khoa học, tọa
đàm về các nội dung liên quan đến quản lý báo chí, các hoạt động liên quan đến kỷ
niệm các ngày lễ lớn ở các nước như Pháp, Anh, Hoa Kỳ, Tây Ban Nha, Hàn Quốc,
Trung quốc,... Ở khu vực Đông Nam Á, các cán bộ quản lý báo chí của Việt Nam và
các đoàn cán bộ quản lý báo của các thường xuyên có các cuộc tiếp xúc qua họp báo,
trao đổi chuyên môn, học tập kinh nghiệm khá thường xuyên. Mặt khác, trước các hoạt
động lớn, Việt Nam cũng thường xuyên mời các nhà báo cũng như các cán bộ quản lý
báo chí đến Việt Nam viết bài, đưa tin, đồng thời có các cuộc trao đổi, tiếp nhằm chia
sẻ kinh nghiệm cũng như tìm hiểu về đất nước, con người, những thành tựu phát triển
của Việt Nam sau hơn 30 năm tiến hành đổi mới. Đây được xem là kênh thông tin rất
hiệu quả để đưa thông tin của nước ta đến với bạn bè quốc tế từ chính công tác tuyên
truyền, viết bài của các nhà báo nước ngoài.
Trong những năm qua, Việt Nam đã tích cực, chủ động cử nhiều đoàn cán bộ
quản lý báo chí tham gia các hội nghị quốc tế về báo chí như Hội thảo truyền thông
Asean, Hội nghị tiểu ban Văn hóa - Thông tin Asean, Hội thảo về triển khai phát thanh
truyền hình số, Hội thảo truyền thông Châu Á,... Mặt khác, các cán bộ quản lý của Bộ
Thông tin và Truyền thông, Ban Tuyên giáo Trung ương đã trực tiếp tham gia các cuộc
đối thoại nhân quyền hàng năm với các bên đối thoại nhân quyền như EU, Nauy, Thụy
Sỹ, Autralia, Hoa Kỳ.
Bên cạnh việc hợp tác quốc tế về báo chí qua mời nhà báo, cán bộ quản lý báo
chí đến Việt Nam, Bộ Thông tin và Truyền thông đã chủ động tổ chức các hoạt động
hợp tác quốc tế về báo chí ở nước ngoài như triển lãm hình ảnh đất nước, con người
Việt Nam qua báo chí tổ chức tại Italia năm 2015, triển lãm ảnh “Việt Nam - đất nước,
con người” do Hiệp hội các nhà báo Nga cùng Hội hữu nghị Nga - Việt, Hội cựu chiến
binh Nga chiến đấu tại Việt Nam và tổ chức Hợp tác quốc tế Nga cùng tổ chức năm
2017, triển lãm ảnh với chủ đề “Việt Nam: Đất nước, con người” do Đại sứ quán Việt
90
Nam phối hợp với nhóm Nghị sĩ hữu nghị Ukraine - Việt Nam và Hội hữu nghị
Ukraine - Việt Nam tổ chức, triển lãm ảnh và tư liệu “Việt Nam đất nước, con người
nhìn từ biển, đảo” diễn ra tại thành phố Mátxcơva, Liên Bang Nga từ ngày 22 tháng11
đến ngày 25 tháng 11 năm 2018, đồng thời tổ chức 5 khóa bồi dưỡng cho đội ngũ
phóng viên, biên tập viên của Lào.
Theo số liệu thống kê của Bộ Ngoại giao, các cơ quan báo chí nước ngoài đã
thiết lập 30 Văn phòng báo chí tại Việt Nam với 35 phóng viên đăng ký thường trú
thường xuyên tại Việt Nam và trung bình hàng năm có khoảng 230 đoàn cán bộ quản
lý báo chí và hơn 1.000 phóng viên nước ngoài đến Việt Nam tác nghiệp. Hiện nước ta
có 5 cơ quan thông tấn, báo chí đã mở cơ quan thường trú ở nước ngoài là Thông tấn
xã Việt Nam, Báo Nhân dân, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam và
Báo Thanh Niên với tổng số 53 cơ quan thường trú. Riêng Thông tấn xã Việt Nam và
Đài Truyền hình Việt Nam có cơ quan thường trú ở cả 5 châu lục với 30 cơ quan
thường trú. Đài Truyền hình Việt Nam và Đài Tiếng nói Việt Nam với cùng 11 cơ
quan thường trú ở nước ngoài. Trong khuôn khổ hợp tác quản lý báo chí với nước
ngoại, tại các sự kiện lớn của nhiều nước, lãnh đạo các cơ quan báo chí Việt Nam đều
cử các nhà báo sang tác nghiệp. Năm 2018, Bộ Thông tin và Truyền thông đã tổ chức 3
lớp đào tạo bồi dưỡng cho các nhà báo Lào và Campuchia. Khẳng định về kết quả hợp
tác quốc tế của Đài Tiếng nói Việt Nam, trong Báo cáo về Kết quả thực hiện quy hoạch
phát thanh, truyền hình đối ngoại đến 2020, tháng 11 năm 2018 đã chỉ rõ: Theo các
thỏa thuận hợp tác giữa ĐàiTiếng nói Việt Nam và các đối tác quốc tế, hàng tháng, Đài
Tiếng nói Việt Nam gửi tin bài, chương trình trao đổi với các đài như Đài Phát thanh
Quốc gia Thái Lan, Hãng thông tấn quốc gia Thái Lan, Đài Phát thanh Gyeonggi của
Hàn Quốc (KFM). Bên cạnh đó, Đài Tiếng nói Việt Nam cũng tham gia dự án Tiếng
nói vượt ASEAN vượt biên giới trong khuôn khổ hợp tác đa phương ASEAN COCI.
Theo đó, Đài Tiếng nói Việt Nam gửi chương trình phát thanh lên thị trường trao đổi
chung với các nước ASEAN và đồng thời khai thác các chương trình của các nước và
phát trên sóng của Đài Tiếng nói Việt Nam.
Nghị định số 88/2012/NĐ-CP ngày 23 tháng 10 năm 2012 của Chính phủ Quy
định về hoạt động thông tin, báo chí của báo chí nước ngoài, cơ quan đại diện nước
ngoài, tổ chức nước ngoài tại Việt Nam, đã được các cơ quan báo chí, cơ quan quản lý
nhà nước về báo chí chủ động thực hiện nghiêm túc.
Tỷ lệ %
100
0
7,2
18,6
23,3
0 26,4
3,3 26,5
37,2
80
29,4
39,7
60
42,5
40
73,6
70,2
63,4
62,8
41,7
20
34,2
0
ND1
ND2
ND3
ND4
ND5
ND6
Tốt
Khá
Trung bình
91
ND1: Hợp tác với các đối tác nước ngoài triển khai các hoạt động báo chí đối ngoại như: mời phóng viên báo chí nước ngoài vào Việt Nam để đưa tin viết, bài, thuê khoán cộng tác viên nước ngoài làm phóng viên và biên tập viên tin phù hợp với các đối tượng; hợp tác với các cơ quan báo chí nước ngoài để viết bài, phóng sự quảng bá hình ảnh Việt Nam
ND2: Quản lý hợp tác sản xuất các loại h nh báo chí đối ngoại ND3: Quản lý hợp tác quốc tế về sản xuất các nội dung các chương tr nh liên kết phù hợp với quy định của pháp
luật Việt Nam và pháp luật nước sở tại
ND4: Phát hành, truyền dẫn, phát sóng sản phẩm báo chí ra nước ngoài; ủy thác cho tổ chức, cá nhân in lại,
truyền dẫn, phát sóng sản phẩm báo chí Việt Nam ở nước ngoài
ND5: Hợp tác trong quản lý nhà báo tác nghiệp ở nước ngoài ND6: Thành lập văn phòng đại diện ở nước ngoài
Ghi chú:
Biểu đồ 2.7. Quản lý hợp tác quốc tế về báo chí đối ngoại
(Nguồn: Kết quả khảo sát năm 2018)
Báo chí đối ngoại có đối tượng phục vụ là người nước ngoài và người Việt Nam
ở nước ngoài, nên phạm vi phát hành là rất lớn, cho nên rất cần có sự hợp tác trong
quản lý hợp tác quốc tế về báo chí, quản lý hoạt động của cơ quan báo chí Việt Nam
liên quan đến nước ngoài và hoạt động của báo chí nước ngoài tại Việt Nam đối ngoại,
chính vì vậy kết quả thực hiện “Quản lý hợp tác quốc tế về sản xuất các nội dung các
chương trình liên kết phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam” và “Hợp tác trong
quản lý nhà báo tác nghiệp ở nước ngoài” là hai công việc đạt được nhiều kết quả đáng
khích lệ với trên 70% ý kiến đánh giá ở mức tốt. Có được kết quả này là do các cán bộ
báo chí được cử đi tác nghiệp ở nước ngoài đều được tập huấn, nghiên cứu các quy
định pháp luật báo chí của nước sở tại nên thực hiện theo quy định khá tốt, nhưng tin
bài, nội dung được đăng tải đảm bảo đúng với chủ trương của Đảng, đúng với quy
định của các nước báo chí đối ngoại phát hành. Khi thành lập các cơ quan báo chí đại
diện ở nước ngoài đã có những cam kết chặt chẽ vì có liên quan đến nhiều chủ thể
quản lý, do vậy kết quả thực hiện “Thành lập văn phòng đại diện ở nước ngoài” cũng
92
đạt được hiệu quả tích cực theo đúng lộ trình quy hoạch báo chí đối ngoại đến năm
2020 và tầm nhìn đến năm 2030 của Thủ tướng Chính phủ và Đề án phát triển một số
báo in và báo điện tử đối ngoại quốc gia của Thông Tấn xã Việt Nam đến năm 2020,
tầm nhìn đến năm 2030.
Sự hợp tác quốc tế về báo chí đối ngoại qua việc mời phóng viên, nhà báo nước
ngoài đến Việt Nam cũng được đẩy mạnh. Chẳng hạn năm 2015 Việt Nam đã đón 204
đoàn gồm 613 phóng viên nước ngoài vào đưa tin, viết bài về Việt Nam; năm 2018 số
lượng phóng viên nước ngoài đến Việt Nam tác nghiệp, đưa tin viết bài có sự tăng
mạnh, thể hiện rõ qua kết quả đánh giá các công việc “Quản lý hợp tác quốc tế về sản
xuất các nội dung các chương trình liên kết phù hợp với quy định của pháp luật Việt
Nam và pháp luật nước sở tại”, “Hợp tác trong quản lý nhà báo tác nghiệp ở nước
ngoài” và “Thành lập văn phòng đại diện ở nước ngoài”. Nhưng khó khăn rất lớn đặt
ra cho các cơ quan báo chí đối ngoại cũng như việc quản lý báo chí đối ngoại là vấn đề
kinh phí, cho nên kết quả hợp tác trong “Quản lý hợp tác sản xuất các loại hình báo chí
đối ngoại” đạt được kết quả không cao, trong đó số ý kiến đánh giá ở mức trung bình
tới 23,3%, số ý kiến đánh giá ở mức tốt là 34,2%. Nói về kết quả hợp tác quốc tế về
báo chí đối ngoại, trong tham luận của Bộ Thông tin và Truyền thông tại Hội nghị toàn
quốc tổng kết công tác báo chí đối ngoại, tuyên truyền biển đảo, phân giới cắm mốc,
quản lý biên giới năm 2018 với chủ đề: Kết quả nổi bật của công tác quản lý nhà nước
về báo chí đối ngoại chỉ rõ: Tổ chức đón các đoàn phóng viên nước ngoài, tạo điều
kiện hỗ trợ các cơ quan thông tấn, báo chí vào đưa tin, viết bài quảng bá về Việt Nam
trên các loại hình thông tin: Đoàn phóng viên AOI Production (Nhật Bản), Đoàn
truyền hình Hanagumi Production (Nhật Bản), Đoàn Phóng viên truyền hình quốc gia
Campuchia; Đoàn truyền hình NHK (Nhật Bản); Đoàn phóng viên của Nga; đón đoàn
nhà báo Lào và Campuchia vào thăm và học tập trao đổi kinh nghiệm quản lý hoạt
động báo chí... (Bộ Thông tin và Truyền thông, 2018).
Như vậy, thực trạng hợp tác quốc tế về quản lý báo chí đối ngoại, hoạt động của cơ
quan báo chí Việt Nam ở nước ngoài và hoạt động của báo chí nước ngoài tại Việt Nam
được tăng cường đẩy mạnh, rõ nhất là trong sản xuất nội dung chương trình và trong quản
lý nhà báo. Tuy nhiên hợp tác về sản xuất các loại hình báo chí chưa đạt kết quả như
mong muốn, nguyên nhân của vấn đề chính là nguồn kinh phí từ ngân sách được cấp có
hạn, chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp của các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại.
93
Thứ sáu, trong chỉ đạo, thực hiện chế độ thông tin, báo cáo, thống kê và công
tác khen thưởng, kỷ luật trong hoạt động báo chí đối ngoại.
Mọi hoạt động thông tin, báo chí của báo chí nước ngoài, cơ quan đại diện nước
ngoài, tổ chức nước ngoài tại Việt Nam luôn có sự quản lý chặt chẽ và phải được sự
chấp thuận của Bộ Thông tin và Truyền thông, đồng thời bản thân các cơ quan báo chí,
các nhà báo nước ngoài tác nghiệp ở Việt Nam luôn phải tuân thủ các nguyên tắc cũng
như pháp luật trong hoạt động báo chí của Việt Nam.
Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đạo các cơ quan báo chí cung cấp thông tin
cho báo chí đối ngoại một cách trực tiếp cho các cơ quan báo chí, phóng viên nước
ngoài và phóng viên Việt Nam ở nước ngoài. Trong đó, Thông Tấn xã Việt Nam là cơ
quan báo chí được chỉ định là cơ quan báo chí cung cấp thông tin cho báo chí đối
ngoại thường xuyên và chủ yếu với nhiều loại hình. Tại các buổi làm việc với các cơ
quan, tổ chức có liên quan của các nước trên thế giới, các đoàn công tác của các cơ
quan báo chí đã tận dụng cơ hội để cung cấp và chia sẻ thông tin về tình hình báo chí
cũng như về tình hình của Việt Nam ra bên ngoài.
Thực hiện Quyết định 368/QĐ-TTg ngày 28 tháng 2 năm 2013 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Chương trình hành động của Chính phủ về thông tin đối ngoại
giai đoạn 2013-2020. Năm 2018 Bộ Thông tin và Truyền thông yêu cầu sở thông tin
và truyền thông các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tích cực nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về các hoạt động báo chí đối ngoại;
Hướng dẫn xây dựng kế hoạch số 3616/BTTTT-TTĐN ngày 6 tháng 10 năm 2017
của Bộ Thông tin và Truyền thông và đề xuất các giải pháp đổi mới hình thức, nội
dung báo chí đối ngoại, góp phần nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động báo chí
đối ngoại của các tỉnh, thành phố, với trọng tâm tích cực đổi mới, nâng cao hiệu quả
công tác thông tin quảng bá, giới thiệu hình ảnh đất nước, con người Việt Nam ra
nước ngoài. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo, các hoạt động
vì biển đảo.
Triển khai thực hiện Quyết định số 252/QĐ-TTg ngày 17 tháng 2 năm 2016
của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tăng cường công tác thông tin đối ngoại
với Lào trong tình hình mới. Quyết định số 273/QĐ-TTg ngày 6 tháng 3 năm 2018
của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển hệ thống thông tin đối
ngoại khu vực cửa khẩu quốc tế phục vụ nhiệm vụ thông tin đối ngoại đến năm
94
2020, định hướng đến năm 2030, theo hướng tuyên truyền, củng cố mối quan hệ
hữu nghị truyền thống giữa Việt Nam với các nước láng giềng Trung Quốc, Lào,
Campuchia và các nước ASEAN; tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước về công tác biên giới, lãnh thổ, ý nghĩa của công tác phân giới, cắm mốc
trên thực địa và nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia. Đấu tranh phản bác các luận
điệu xuyên tạc, lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, chủ quyền biên giới quốc gia
nhằm kích động, chia rẽ tình hữu nghị, hợp tác giữa Việt Nam với Trung Quốc, Lào
và Campuchia.
Về công tác thi đua khen thưởng trong hoạt động báo chí đối ngoại
Cùng với việc chỉ ra những hạn chế trong quản lý chỉ đạo, thực hiện chế độ
thông tin, báo cáo về báo chí đối ngoại, Bộ Thông tin và Truyền thông, Ban Tuyên
giáo Trung ương, Hội Nhà báo Việt Nam đã kịp thời biểu dương các cơ quan báo chí
thực hiện tốt công tác tuyên truyền về các chủ trương, chính sách của Đảng, đường lối
đổi mới, những thành tựu của Việt Nam, những bài viết đấu tranh với luận điệu xuyên
tạc của các thế lực thù địch ra quốc tế
Sau gần 20 năm có Luật Báo chí, Bộ Thông tin và Truyền thông đã xét tặng Cờ
thi đua của Chính phủ, Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, tặng Huân chương lao
động các loại cho hơn 200 cơ quan báo chí cả nước, đồng thời nhiều cá nhân được xét
tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, Huân chương lao động các loại cho hàng trăm cá
nhân là tổng biên tập, phó tổng biên tập. Hàng trăm cơ quan báo chí, phóng viên, biên
tập viên làm báo chí đối ngoại đã được Bộ Thông tin và Truyền thông trao tặng cờ thi
đua, bằng khen. Ngày báo chí cách mạng Việt Nam 21 tháng 6 hàng năm, cùng với các
cơ quan quản lý báo chí, các nhà báo làm việc trong lĩnh vực báo chí đối ngoại ở các
thể loại: báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử được vinh danh. Năm 2017 có 20 tập
thể và 14 cá nhân đạt thành tích xuất sắc trong hoạt động báo chí đối ngoại; tuyên
truyền biển đảo, phân giới cắm mốc và quản lý biên giới trên đất liền được Ban Tuyên
giáo Trung ương tặng bằng khen.
Có thể thấy công tác khen thưởng trong hoạt động báo chí đối ngoại đảm bảo
chính xác, công khai, minh bạch, đúng quy định, thực sự có tác dụng động viên, nêu
gương, qua đó đã góp phần phát hiện những điển hình tiên tiến, các tập thể, cá nhân có
thành tích tiêu biểu để kịp thời biểu dương, khen thưởng, tạo sự lan tỏa trong hoạt
động báo chí đối ngoại cả ở Trung ương và các địa phương.
Tỷ lệ %
100
0
4,2
4,7
5,8
10,5
12,7
28,1
6,3 25,7
38,3
80
31,2
38,5
33,1
36,5
60
40
68
67,2
63
61,7
57,3
56,4
50,8
20
0
ND1
ND2
ND3
ND4
ND5
ND6
ND7
Tốt
Khá
Trung bình
95
Ghi chú:
ND1: Quản lý việc đưa nội dung thông tin bảo đảm tính chính xác, trung thực, khách quan
ND2: Quản lý thực hiện chế độ thông tin, báo cáo định kỳ hàng tháng, hàng quý dưới hình thức văn bản và file
điện tử, theo địa chỉ e-mail
ND3: Chỉ đạo việc ra soát các quy định về chế độ thông tin, báo cáo hoạt động báo chí đối ngoại theo kế hoạch
ND4: Quản lý nội dung báo cáo, có đánh giá về kết quả công việc cũng như chất lượng và tiến độ báo cáo
ND5: Đổi mới công tác quản lý báo chí đối ngoại phù hợp với yêu cầu của tình hình mới và các công tác khác
trong phạm vi quản lý
ND6: Cơ quan báo chí, nhà báo, tổ chức và công dân có thành tích và cống hiến trong hoạt động báo chí được
khen thưởng theo quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng
ND7: Việc xét tặng danh hiệu thi đua, h nh thức khen thưởng được thực hiện công khai, dân chủ, đề nghị theo
trình tự từ cơ sở, chú trọng cá nhân, tập thể có nhiều thành tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ, bảo
đảm đúng đối tượng, tiêu chuẩn
Biểu đồ 2.8. Quản lý chỉ đạo, thực hiện chế độ thông tin, báo cáo, thống kê và
công tác khen thưởng, kỷ luật trong hoạt động báo chí đối ngoại
(Nguồn: Kết quả khảo sát năm 2018)
Trong số các công việc về quản lý, chỉ đạo thực hiện chế độ thông tin, báo cáo,
khen thưởng, kỷ luật trong hoạt động báo chí đối ngoại thì “Quản lý việc đưa nội dung
thông tin bảo đảm tính chính xác, trung thực, khách quan” và “Chỉ đạo việc ra soát các
quy định về chế độ thông tin, báo cáo hoạt động báo chí đối ngoại theo kế hoạch”
được đánh giá nổi trội, với số ý kiến đánh giá ở mức tốt lần lượt là 67,2% và 68%, số ý
kiến đánh giá ở mức trung bình lần lượt là 4,7% và 6,3%. Đây là nội dung có kết quả
thực hiện được đánh giá tương đối cao và trên thực tế báo chí đối ngoại luôn có sự
quản lý về mặt nội dung thông tin rất chặt chẽ, nhằm đảm bảo tính đảng cũng như tính
xác thực của nội dung thông tin. Một số hạn chế chậm được khắc phục cho vấn đề này
chính là nguồn kinh phí, chẳng hạn số lượng báo in của Thông Tấn xã Việt Nam trong
96
những năm qua bị sụt giảm do gặp khó khăn về ngân sách và từ những khó khăn
chung dẫn đến những bất lợi cho việc “Đổi mới công tác quản lý báo chí đối ngoại phù
hợp với yêu cầu của tình hình mới và các công tác khác trong phạm vi quản lý” có tới
12,7% ý kiến đánh giá ở mức trung bình. Nguyên nhân nêu trên được lãnh đạo Biên
tập tin đối ngoại, Thông Tấn xã Việt Nam chỉ ra qua ý kiến phỏng vấn: “Kinh phí đầu
tư cho hoạt động của báo chí đối ngoại trong những năm gần đây không tăng, làm cho
việc đầu tư đổi mới nội dung thông tin, làm cho tiến độ, hiệu quả hoạt động của báo
chí đối ngoại ảnh hưởng không nhỏ. Song yêu cầu quan trọng nhất là việc đảm bảo
tính khách quan, tính trung thực luôn được đảm bảo. Chính vì vậy, báo chí đối ngoại
không xảy ra hiện tượng cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật đến mức chịu thi hành kỷ
luật” (Phụ lục 5 – M1).
Cùng với những kết quả nêu trên, công tác khen thưởng đối với công tác báo
chí đối ngoại được thực hiện theo quy định Nghị định số 91/2017/NĐ – CP, ngày
31/7/2017 của Chính phủ. Năm 2018, có 28 tập thể và 9 cá nhân đã có thành tích xuất
sắc trong hoạt động báo chí đối ngoại tuyên truyền biển, đảo; phân giới cắm mốc, quản
lý biên giới đã được tặng Bằng khen theo Quyết định số 1817-QĐ/BTGTW ngày 24
tháng 12 năm 2018. Năm 2019 có 27 tập thể và 11 cá nhân được tặng bằng khen của
Ban Tuyên Giáo Trung ương, song công tác này theo đa số ý kiến được phỏng vấn cho
rằng cần có sự quan tâm và nhân rộng hơn nữa.
Tóm lại, kết quả thực hiện quản lý chỉ đạo, thực hiện chế độ thông tin, báo
cáo, thống kê và công tác khen thưởng, kỷ luật trong hoạt động báo chí đối ngoại đạt
được nhiều kết quả tích cực về mặt quan điểm, đường lối được đảm bảo, một số hạn
chế như việc chậm đổi mới nội dung, chế độ khen thưởng, nên khó tạo ra đột phá, sự
sáng tạo để thúc đẩy sự phát triển của báo chí đối ngoại trong quá trình hội nhập
quốc tế của đất nước.
2.2.3. Thành tựu phương thức quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại
Những thành tựu về phương thức quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại được
thể hiện qua các điểm sau:
Thứ nhất,quản lýthông qua các công cụ quản lý là các văn bản qui phạm
pháp luật.
Thực trạng phương thức quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại thông qua các
công cụ quản lý là các văn bản qui phạm pháp luật thể hiện qua biểu đồ sau:
76,8
80
72,8
69,6
68
67,2
70
60,8
57,6
60
52
50
Tốt
41,6
37,6
36,8
40
32,8
Khá
30,4
28,8
27,2
30
23,2
TB
20
6,4
10
4,8
3,2
2,4
0
0
0
0
0
PTQL1
PTQL2
PTQL3
PTQL4
PTQL5
PTQL6
PTQL7
PTQL8
97
PTQL1: Việc quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại luôn bám sát theo các quy định của Hiến pháp và pháp luật PTQL2: Quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại luôn xác định rõ các hành vi bị nghiêm cấm trong quản lý nhà
nước về báo chí nói chung và báo chí đối ngoại nói riêng
PTQL3: Quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại luôn đảm bảo thực hiện quyền tự do báo chí của công dân trên
báo chí đối ngoại
PTQL4: Quản lý nhà nước về thực hiện quyền tự do ngôn luận trên báo chí đối ngoại của công dân PTQL5:Quản lý nhà nước về việc thưc hiện các quy định đối với đối tượng được thành lập cơ quan báo chí đối
ngoại
PTQL6: Quản lý chặt chẽ việc cấp giấy phép hoạt động báo chí đối ngoại PTQL7: Việc bổ nhiệm người đứng đầu cơ quan báo chí đối ngoại luôn đảm bảo đầy đủ các tiêu chuẩn theo quy
định của pháp luật báo chí
PTQL8: Quản lý chặt chẽ việc thực hiện cũng cấp thông tin cho báo chí đối ngoại
Ghi chú:
Biểu đồ 2.9. Phương thức quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại thông qua các
công cụ quản lý là các văn bản qui phạm pháp luật
(Nguồn: Kết quả khảo sát năm 2018)
Qua số liệu khảo sát ở biểu đồ trên chỉ ra phương thức quản lý nhà nước về báo
chí đối ngoại thông qua các công cụ quản lý là các văn bản qui phạm pháp luật ở mức
tốt đạt kết quả tương đối cao, với 65,6% ý kiến, ngược lại, số lượng ý kiến đánh giá ở
mức thấp chỉ với 2,1%. Điều này có cơ sở thực tiễn để khẳng định thực trạng quản lý
nhà nước về báo chí đối ngoại qua phương thức là các công cụ quản lý là các văn bản
qui phạm pháp luật đã có những tác động tích cực đến kết quả hoạt động của báo chí
đối ngoại trong thời gian qua cũng như trong những năm tiếp theo.
Trong số các phương thức quản lý thông qua các công cụ quản lý là các văn bản
qui phạm pháp luật “Việc quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại luôn bám sát theo các
quy định của Hiến pháp và pháp luật” với 76,8% ý kiến ở mức tốt và “Quản lý chặt chẽ
việc cấp giấy phép hoạt động báo chí đối ngoại” với 72,8% ý kiến ở mức tốt, đồng thời
không có ý kiến đánh giá kết quả đánh giá các nội dung này ở mức trung bình. Bên cạnh
98
đó, các phương thức quản lý như “Quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại luôn xác định
rõ các hành vi bị nghiêm cấm trong quản lý nhà nước về báo chí nói chung và báo chí
đối ngoại nói riêng” với 69,6% và “Quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại luôn đảm bảo
thực hiện quyền tự do báo chí của công dân trên báo chí đối ngoại” với 67,2% ý kiến
đánh giá ở mức tốt và không có ý kiến đánh giá ở mức trung bình.
Cùng với những phương thức trên, các phương thức khác như “Quản lý nhà
nước về thực hiện quyền tự do ngôn luận trên báo chí đối ngoại của công dân” với
2,4% ý kiến, “Quản lý nhà nước về việc thưc hiện các quy định đối với đối tượng được
thành lập cơ quan báo chí đối ngoại” với 6,4% ý kiến, “Việc bổ nhiệm người đứng đầu
cơ quan báo chí đối ngoại luôn đảm bảo đầy đủ các tiêu chuẩn theo quy định của pháp
luật báo chí” với 3,2% ý kiến và “Quản lý chặt chẽ việc thực hiện cũng cấp thông tin
cho báo chí đối ngoại” với 4,8% ý kiến và đều là những ý kiến đánh giá ở mức trung
bình. Với tỷ lệ ý kiến đánh giá ở mức trung bình khá ít như trên có thể nhận định
phương thức quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại thông qua các công cụ quản lý là
các văn bản qui phạm pháp luật đạt được nhiều kết quả tích cực, luôn đảm bảo được
tôn chỉ, mục đích, song trên thực tế hiện nay số lượng các cơ quan báo chí đối ngoại
cũng như số lượng các tờ báo đối ngoại cả về báo in, báo nói, báo hình và báo điện tử
chưa có sự phát triển mạnh mẽ, nhưng việc quản lý như trên cũng tạo điều kiện để các
báo vừa ổn định vừa có sự phát triển trong các giai đoạn tiếp theo.
Bên cạnh các kết quả khảo sát thực tiễn như trên, các văn bản pháp luật như
Hiến pháp năm 2013, tại Điều 25 khẳng định công dân có quyền tự do báo chí, tiếp
cận thông tin, tuy nhiên việc thực hiện các quyền này đều phải dựa trên các quy định
của pháp luật. Mặt khác, Luật Báo Chí năm 2016 đã nêu lên nhiệm vụ tuyên truyền,
phổ biến, góp phần xây dựng và bảo vệ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, thành tựu của đất nước, đồng thời góp phần ổn định chính trị,
phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu văn hóa lành mạnh của
Nhân dân. Bên cạnh đó, với việc ban hành Quy chế quản lý nhà nước về thông tin đối
ngoại (Ban hành kèm theo Quyết định số 79/2010/QĐ-TTg, ngày 30 tháng 11 năm
2010); Thông tư quy định việc đăng, phát nội dung thông tin đối ngoại trên báo chí
ngày 6/5/2019; Nghị định số 72/2015/NĐ-CP về quản lý hoạt động thông tin đối ngoại
ngày 7 tháng 9 năm 2015, và đặc biệt là Quyết định số 2434/QĐ-TTG Phê duyệt quy
hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Đây là
99
văn bản duy nhất đến thời điểm này đề cập trực tiếp đến báo chí đối ngoại. Nhưng dựa
trên hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại góp
phần phát triển hệ thống báo chí đối ngoại đạt được nhiều thành tựu, cho đến nay
không có tình trạng báo chí đối ngoại xuất bản sai mục tiêu, tôn chỉ... những văn bản
pháp luật đảm bảo cho các cơ quan quản lý báo chí đủ thẩm quyền, trách nhiệm trong
việc quản lý báo chí đối ngoại.
65,6
70
64
57,6
60
52,8
48,8
50
44,8
41,6
38,4
Tốt
40
34,4
31,2
Khá
30
TB
20
6,4
5,6
10
4
3,2
1,6
0
PTQL1
PTQL2
PTQL3
PTQL4
PTQL5
Thứ hai, quản lý thông qua các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí.
Ghi chú:
PTQL1: Bộ Thông tin và Truyền thông tích cực chỉ đạo và phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước về báo
chí đối ngoại ở trung ương và các địa phương
PTQL2: Cục Thông tin và Đối ngoại chủ động, tích cực, sâu sát trong quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại
một cách toàn diện
PTQL3: Các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có thể hiện rõ trách nhiệm
trong phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông thực hiện quản lý nhà nước về báo chí
PTQL4: Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thể hiện đầy đủ trách nhiệm
quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại tại địa phương
PTQL5: Các cơ quan quản lý báo chí ở Trung ương thường xuyên có sự chỉ đạo và phối hợp chặt chẽ, thường
xuyên với các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở các địa phương
Biểu đồ 2.10. Phương thức quản lý nhà nhà nước về báo chí đối ngoại thông qua
các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí
(Nguồn: Kết quả khảo sát năm 2018)
Từ thực tiễn biểu đồ trên cho thấy, có 57,8% ý kiến đánh giá phương thức quản lý
nhà nhà nước về báo chí đối ngoại thông qua các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí.
Đây là kết quả khá tích cực trước bối cảnh quản lý báo chí ở nước ta nói chung và báo
chí đối ngoại nói riêng đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức không nhỏ trước sự
tác động của xu hướng thương mại hóa báo chí, làm cho nhiều cơ quan báo chí không
100
giữ vững tôn chỉ, mục đích, chạy theo xu hướng thương mại hóa, trong khi đó với vai trò
là một bộ phận trong công tác tuyên truyền và công tác tư tưởng của Đảng nên phương
thức quản lý này đang được phát huy khá hiệu quả, song vẫn còn 4,2% ý kiến đánh giá ở
mức trung bình. Qua một số ý kiến từ các kết quả phỏng vấn chúng tôi nhận thấy sự chủ
động của các cơ quan quản lý báo chí được cho rằng cơ quan quản lý báo chí có lúc, có
nơi chưa sát sao với việc chỉ đạo phát triển nội dung cũng như đổi mới về hình thức tổ
chức thông tin nên báo chí đối ngoại chưa thực sự hấp dẫn đối tượng phục vụ.
Có thể thấy rõ vai trò chỉ đạo chung của Bộ Thông tin và Truyền thông cũng như
của Cục Thông tin đối ngoại trong quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại qua các đánh
giá “Bộ Thông tin và Truyền thông tích cực chỉ đạo và phối hợp với các cơ quan quản lý
nhà nước về báo chí đối ngoại ở trung ương và các địa phương” với 65,6% và “Cục
Thông tin và Đối ngoại chủ động, tích cực, sâu sát trong quản lý nhà nước về báo chí
đối ngoại một cách toàn diện” với 64% ý kiến ở mức tốt. Ngược lại, ở phương thức
“Các cơ quan quản lý báo chí ở Trung ương thường xuyên có sự chỉ đạo và phối hợp
chặt chẽ, thường xuyên với các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở các
địa phương” với 48,8% ý kiến đánh giá ở mức tốt trong khi đó đánh giá ở mức trung
bình với 6,4% ý kiến. Ngoài việc cơ quan quản lý báo chí đối ngoại chưa thực sự sát
sao với các cơ quan báo chí còn có mặt hạn chế khác đó là sự phối hợp giữa cơ quan
quản lý báo chí đối ngoại ở trung ương và cơ quan quản lý báo chí đối ngoại ở các địa
phương chưa có sự phối hợp nhịp nhàng. Một phần là do hiện nay chưa có những văn
bản chỉ đạo riêng về công tác quản lý nên các cơ quan quản lý chủ yếu dựa vào các
văn bản chỉ đạo chung nên đây cũng là trở ngại đáng kể vì quản lý báo chí đối ngoại
có những đặc thù riêng và địa bàn hoạt động trải rộng ở nhiều quốc gia và vùng lãnh
thổ trên khắp thế giới.
Đánh giá về những khó khăn và thuận lợi nói trên, qua ý kiến phỏng vấn lãnh
đạo Cục thông tin đối ngoại cho rằng: “Thực tế quản lý báo chí đối ngoại ngày
càng khó khăn v địa bàn trải rộng ở 28 quốc gia, việc quản lý không chỉ diễn ra
với cơ quan báo chí mà còn cả với phóng viên, các biên tập viên người nước ngoài,
quản lý về nội dung trên báo chí,... đồng thời chỉ đạo, định hướng cho sự phát triển
của báo chí trước bối cảnh tác động chung của báo chí thế giới đặt ra yêu cầu
quản lý báo chí đối ngoại cần có phương thức phù hợp với yêu cầu hiện nay và
trong tương lai”.
101
Theo Luật Báo chí năm 2016, Bộ Thông tin và Truyền thông là cơ quan
chuyên trách quản lý báo chí nói chung và trực tiếp là Cục Thông tin đối ngoại trực
tiếp chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại. Đây là những cơ quan
quản lý trực tiếp hệ thống các văn phòng đại diện của Đài Truyền hình Việt Nam với
10 văn phòng thường trú ở 10 quốc gia. Năm 2017 Đài Truyền hình Việt Nam đã
thành lập văn phòng đại diện ở Các Tiểu vương quốc Ả rập thống nhất theo văn bản
số 6600/VPCP-QHQT ngày 10/8/2016. Đài Tiếng nói Việt Nam có 10 văn phòng đại
diện và Thông tấn xã Việt Nam có 30 văn phòng đại diện đặt ở 28 quốc gia và báo
Nhân dân có 6 văn phòng thường trú, trong giai đoạn 2026-2030 Báo nhân dân sẽ mở
thêm văn phòng đại diện tại Ấn Độ và Hàn Quốc. Theo báo cáo của Cục Thông tin
đối ngoại các cơ quan báo chí đối ngoại hiện đang hoạt động với hiệu quả khá tích
cực, chất lượng tin bài của các cơ quan thường trú phản ánh kịp thời và chính xác
những sự kiện, tình hình Việt Nam, đảm bảo đúng định hướng tuyên truyền của
Đảng, Nhà nước.
Bên cạnh đó, với vai trò quản lý của mình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh mà trực
tiếp là Sở thông tin và truyền thông các tỉnh có các đài phát thanh, truyền hình phát ra
nước ngoài trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình đang thực hiện tốt trách
nhiệm quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại tại địa phương.
Thứ ba, quản lý thông qua thanh tra, kiểm tra, giám sát và đề xuất khen thưởng,
kỷ luật các hành vi vi phạm pháp luật về báo chí đối ngoại.
Kết quả điều tra, khảo sát về thực trạng phương thức quản lý nhà nước về báo
chí đối ngoại thông qua thanh tra, kiểm tra, giám sát và đề xuất khen thưởng, kỷ luật
80
72,8
67,2
70
63,2
62,4
60
52
48,8
46,4
45,6
50
44,8
43,2
Tốt
36,8
40
34,4
Khá
28,8
27,2
30
TB
20
8,8
5,6
10
4,8
4
3,2
0
0
0
PTQL1
PTQL2
PTQL3
PTQL4
PTQL5
PTQL6
PTQL7
các hành vi vi phạm pháp luật về báo chí đối ngoại thể hiện qua biểu đồ sau:
102
PTQL1: Các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí ở trung ương và các địa phương chủ tr phân tích đánh giá đúc rút kinh nghiệm về nghiệp vụ thanh tra trong lĩnh vực báo chí đối ngoại thuộc phạm vi và địa bàn quản lý
PTQL2: Các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở trung ương và ở các địa phương thường xuyên
kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan báo chí đối ngoại
PTQL3: Các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí ở trung ương và các địa phương xây dựng chương tr nh kế
hoạch công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động của báo chí đối ngoại hàng năm
PTQL4: Các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí ở trung ương và các địa phương chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan để thanh tra kiểm tra việc chấp hành pháp luật đối với các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực báo chí đối ngoại
PTQL5: Phát hiện, áp dụng các biện pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời hoặc kiến nghị với các cơ quan chức năng xử lý đối với các hành vi vi phạm hành chính của các cơ quan, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực báo chí đối ngoại
PTQL6: Các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí ở trung ương và các địa phương chủ trì xử lý các khiếu nại,
tố cáo trong lĩnh vực quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại thuộc phạm vi và địa bàn mình phụ trách
PTQL7: Cơ quan báo chí, nhà báo, tổ chức và công dân có thành tích và cống hiến trong hoạt động báo chí đối
ngoại được khen thưởng theo quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng
Ghi chú:
Biểu đồ 2.11. Phương thức quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại thông qua
thanh tra, kiểm tra, giám sát và đề xuất khen thưởng, kỷ luật các hành vi vi
phạm pháp luật về báo chí đối ngoại
(Nguồn: Kết quả khảo sát năm 2018)
Thực trạng phương thức quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại thông qua
thanh tra, kiểm tra, giám sát và đề xuất khen thưởng, kỷ luật các hành vi vi phạm
pháp luật về báo chí đối ngoại qua kết quả khảo sát chỉ ra 58,7% ý kiến khảo sát ở
mức tốt, đây là kết quả khá cao, song vẫn còn 3,8% ý kiến đánh giá ở mức trung
bình. Sở dĩ có thực trạng trên là do các ý kiến đánh giá cho rằng “Các cơ quan quản
lý nhà nước về báo chí ở trung ương và các địa phương chủ trì phối hợp với các cơ
quan liên quan để thanh tra kiểm tra việc chấp hành pháp luật đối với các tổ chức, cá
nhân hoạt động trong lĩnh vực báo chí đối ngoại”, việc này chưa diễn ra thường
xuyên nên số lượng ý kiến này với 8,8% và “Các cơ quan quản lý nhà nước về báo
chí ở trung ương và các địa phương xây dựng chương trình kế hoạch công tác thanh
tra, kiểm tra hoạt động của báo chí đối ngoại hàng năm” với 5,6% ý kiến ở mức
trung bình. Thực tế việc thanh tra trong công tác quản lý nhà nước về báo chí đối
ngoại được thực hiện theo Luật Thanh tra năm 2010, công tác thanh tra đều được tiến
hành trước ngày 15 tháng 11 hằng năm, song với số lượng lớn các văn phòng đại
diện ở nước ngoài của 4 cơ quan báo chí có mở văn phòng đại diện nên hiện chủ yếu
103
thực hiện qua các báo cáo nên cũng gặp nhiều khó khăn và kết quả đánh giá như trên
chỉ ra những bất cập do thực tế đặt ra.
Bên cạnh một số hạn chế nêu trên, việc “Phát hiện, áp dụng các biện pháp ngăn
chặn, xử lý kịp thời hoặc kiến nghị với các cơ quan chức năng xử lý đối với các hành
vi vi phạm hành chính của các cơ quan, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực báo chí đối
ngoại” được thực hiện khá kịp thời, do vậy có tới 63,2% ý kiến đánh giá ở mức tốt và
“Cơ quan báo chí, nhà báo, tổ chức và công dân có thành tích và cống hiến trong hoạt
động báo chí đối ngoại được khen thưởng theo quy định của pháp luật về thi đua, khen
thưởng” với 72,8% ý kiến đánh giá ở mức tốt. Thực tế trong những năm vừa qua hoạt
động của các cơ quan báo chí đối ngoại tương đối ổn định, không có những sai phạm
trên mọi lĩnh vực, chính vì vậy hàng năm nhiều phóng viên được khen thưởng, thông
thường mỗi năm, TTXVN đóng góp khoảng 200 tác phẩm trong tổng số 900 - 1.000
tác phẩm dự thi và cũng đoạt trên dưới 20 giải thưởng, chiếm khoảng 1/4 tổng số giải
của Giải thưởng toàn quốc về thông tin đối ngoại. Lãnh đạo Cục Thông tin đối ngoại
nêu lên ý kiến về thực trạng trên: “Công tác thanh tra, kiểm tra được thực hiện theo
đúng quy định của Luật Thanh tra năm 2010 và của Luật Báo chí và các văn bản có
liên quan, song hiện chưa có quy định riêng về thanh tra, kiểm tra hoạt động của báo
chí đối ngoại, song việc thanh tra, kiểm tra vẫn khá tích cực, các hoạt động của báo
chí được chỉ ra khá cụ thể trong các đợt thanh tra, nên không có hiện tượng vi phạm
các quy định của pháp luật”.
Công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của đã chỉ ra những hạn chế và khắc
phục kịp thời. Chính vì vậy báo chí đối ngoại đã có những phát triển vượt trội và nhiều
cán bộ các cơ quan báo chí đối ngoại, phóng viên, biên tập viên được khen thưởng kịp
thời, tạo sự khích lệ, động viên lớn để họ tiếp tục có những hoạt động cho sự phát triển
đường lối đối ngoại của Đảng.
Trong những năm gần đây, hoạt động thanh tra, kiểm tra báo chí đối ngoại luôn
được tăng cường. Kết quả thanh tra, kiểm tra báo chí đối ngoại đã chỉ rõ nhiều cơ quan
báo chí chưa xác định được các nội dung trọng tâm để thông tin trên báo chí. Các nội
dung còn nhiều hạn chế, sai sót, nhất là thông tin tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo,
lãnh thổ, biên giới quốc gia; thông tin về tình hình nhân quyền, về các vụ việc tiêu cực,
nổi cộm của đất nước. Trên thực tế, những thông tin sai sót trên báo chí Việt Nam vô
tình làm chất liệu cho các báo tiếng Việt ở nước ngoài, truyền thông quốc tế, các thế
104
lực xấu lợi dụng bóp méo, xuyên tạc, kích động tình hình, làm ảnh hưởng đến hình ảnh
Việt Nam ra thế giới.
Thông tin về tình hình nhân quyền, thông tin giải thích, làm rõ chưa thể hiện
được tính thuyết phục, hiệu quả, do phần lớn chưa phân biệt được đối tượng nào thì
cần cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời, đối tượng nào cần phải đấu tranh, đối tượng
nào cần phản bác. Việc rút tít còn nhiều bất cập và sai sót, vẫn còn hiện tượng rút tít
theo kiểu câu khách, thông tin thiếu kiểm chứng, thiếu khách quan và thận trọng, làm
ảnh hưởng đến quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế của Việt Nam. Việc đăng, phát nội
dung trên báo chí đối ngoại chưa được chú trọng, từ vị trí đăng phát, thời gian đăng
phát đến ngôn ngữ thể hiện, dẫn đến hiệu quả chưa cao.
Thêm vào đó, mặc dù các cơ quan báo chí đã và đang thực hiện việc đăng, phát
nội dung trên các phương tiện truyền thông nước ngoài thông qua hoạt động hợp tác
của cơ quan báo chí Việt Nam với nước ngoài, song vẫn chưa quy định nhóm cơ quan
báo chí nào thì có trách nhiệm chủ động đăng, phát các tin, bài, chương trình phát
thanh, truyền hình để quảng bá hình ảnh Việt Nam trên báo chí của người Việt ở nước
ngoài, trên các phương tiện truyền thông nước ngoài, nhóm nào thì khuyến khích, do
đó, chưa thúc đẩy được cơ quan báo chí, đặc biệt là báo chí đối ngoại trong việc thực
hiện trách nhiệm báo chí đối ngoại, quảng bá hình ảnh quốc gia.
Trong vòng 5 năm trở lại đây, Bộ Thông tin và Truyền thông đã tiếp nhận và xử
lý khoảng gần 300 đơn thư khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực báo chí, chủ yếu là khiếu
nại nội dung thông tin trên báo chí, trong đó có một số sự việc liên quan đến hoạt động
của báo chí đối ngoại.
Qua việc đọc báo lưu chiểu, xử lý các vi phạm trên báo và các nguồn thông tin
khác, Bộ Thông tin và Truyền thông đã phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh các vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực báo chí đối ngoại. Theo Báo cáo của Cục Phát thanh
truyền hình và Thông tin điện tử, từ đầu năm 2017 đến nay, Bộ Thông tin và Truyền
thông đã triển khai các hoạt động cụ thể, thiết thực trong đấu tranh với các doanh
nghiệp nước ngoài, cung cấp dịch vụ xuyên biên giới vào Việt Nam, trong đó Google
đã ngăn chặn, gỡ bỏ được 4.466 video có nội dung không phù hợp trên mạng Youtube
theo yêu cầu của Bộ Thông tin và Truyền thông. Facebook đã gỡ bỏ khoảng
3.000/4.500 đường link có nội dung vi phạm pháp luật Việt Nam, gỡ bỏ 165 tài khoản
giả mạo tuyên truyền chống phá Đảng, Nhà nước.
105
Tỷ lệ %
100
0 23
0 26,4
3,6 25,9
0 38,1
5,2 29,5
50
77
73,6
70,5
65,3
61,9
0
ND3
ND2
ND4
ND5
ND1
Tốt
Khá
Trung bình
Có thể thấy rõ về thực trạng nêu trên qua biểu đồ sau:
ND1: Thanh tra báo chí đối ngoại được thực hiện theo quy định của pháp luật về thanh tra báo chí
ND2: Thanh tra, kiểm tra thường xuyên các hoạt động báo chí đối ngoại
ND3: Thanh tra, kiểm tra định kỳ các hoạt động báo chí đối ngoại
ND4: Thanh tra, kiểm tra đột xuất các hoạt động báo chí đối ngoại
ND5: Quản lý việc xử lý vi phạm pháp luật về báo chí đối ngoại
Ghi chú:
Biểu đồ 2.12 . Quản lý thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về báo chí
đối ngoại
(Nguồn: Kết quả khảo sát năm 2018)
Kết quả khảo sát thực tế công tác quản lý thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm
pháp luật về báo chí đối ngoại được thực sát với yêu cầu thực tế, do vậy không để xảy
ra những sai sót hay các vụ việc, cá nhân bị kỷ luật mà chủ yếu là nhắc nhở do nội
dung thông tin chậm hoặc lúng túng, bị động trước các vấn đề phức tạp, nhạy cảm, do
đó các kết quả trên chỉ ra ý kiến đánh giá ở mức tốt đều trên 60%, trong đó công việc
“Thanh tra báo chí đối ngoại được thực hiện theo quy định của pháp luật về thanh tra
báo chí” và “Quản lý việc xử lý vi phạm pháp luật về báo chí đối ngoại” đều có trên
70% ý kiến đánh giá từ tốt trở lên, không có ý kiến đánh giá ở mức trung bình. Điều
đó góp phần quan trọng trực tiếp vào thành tựu và kết quả đối ngoại của Đảng. Bên
cạnh đó, công việc “Thanh tra, kiểm tra đột xuất các hoạt động báo chí đối ngoại” mặc
dù ít được thực hiện nhưng các ý kiến khá thống nhất cho rằng kết quả thực hiện đều ở
mức khá và mức tốt.
Đáng chú ý hai hoạt động “Thanh tra, kiểm tra thường xuyên các hoạt động báo
chí đối ngoại” và “Thanh tra, kiểm tra định kỳ các hoạt động báo chí đối ngoại” có
một tỷ lệ nhỏ ý kiến đánh giá ở mức trung bình. Thực tế kết quả kiểm tra trong các
106
năm gần đầy đều khẳng định báo chí đối ngoại hoạt động đúng với tôn chỉ, mục đích,
nhưng khâu kiểm tra, thanh tra thường xuyên cũng như định kỳ còn chậm. Cũng tại
báo cáo kết quả kiểm tra các Quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại và Quy hoạch
mạng lưới đại diện của các cơ quan thông tấn, báo chí Việt Nam ở nước ngoài, số
01/BC-BTTTT, ngày 7 tháng 1 năm 2019, sự chậm trễ như trên là do lực lượng làm
công tác báo chí đối ngoại cũng như cán bộ quản lý báo chí đối ngoại còn mỏng, chưa
tận dụng, khai thác được thế mạnh của công nghệ thông tin vào công tác quản lý.
Khẳng định về kết quả thanh tra, kiểm tra của báo chí đối ngoại, lãnh đạo Cục Thông
tin đối ngoại – Bộ Thông tin và Truyền thông cho biết: “Thông thường thì các báo chí
đối ngoại thì ít xảy ra các vi phạm, có thể làm nhiều hay chưa nhiều, có thể làm tốt
hay chưa xuất xắc, thường thì không bị vi phạm. Bởi v báo chí đối ngoại có nguồn tin
chính thức và có địa chỉ rõ ràng” (Phụ lục 4 – B1). Về công tác khen thưởng báo chí
đối ngoại, đồng chí chia sẻ: “Trong công tác khen thưởng thì mình làm tốt, hàng năm
mình có giải thưởng về hoạt động báo chí thông tin đối ngoại. Như vậy biện pháp
quản lý về thưởng chúng ta làm tốt. Còn về phạt thì có lẽ mình phải thúc đẩy hơn.
Nhìn chung, các vi phạm th chưa đến mức bị phạt mà thường chúng ta khuyến khích
động viên báo chí đối ngoại đưa tin” (Phụ lục 4 – B1).
Có thể thấy, từ kết quả khảo sát và kết quả phân tích thực tiễn việc thanh tra,
kiểm tra và xử lý vi phạm hoạt động của báo chí đối ngoại đạt được nhiều kết quả tích
cực, trong những năm gần đây không có trường hợp nào vi phạm đến mức chịu thi
hành kỷ luật, song kết quả công tác thanh tra, kiểm tra cần được đẩy mạnh hơn nhằm
tăng cường chất lượng, hiệu quả các nội dung trên báo chí đối ngoại.
2.2.4. Nguyên nhân của những thành tựu
Một là, các chủ thể quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại có sự chủ động, tích
cực trong thực hiện các hoạt động quản lý đối với đối tượng quản lý là các cơ quan
báo chí, người làm báo chí đối ngoại và nhất là có sự quản lý chặt chẽ về nội dung báo
chí đối ngoại, làm cho báo chí đối ngoại thực sự trở thành phương tiện quan trọng của
Đảng và Nhà nước trong việc tuyên truyền, đưa các chủ trương của Đảng, chính sách
của Nhà nước Việt Nam ra thế giới một cách chính xác, khách quan, làm cho nhân dân
thế giới biết đến Việt Nam đầy đủ nhất.
Hai là, nội dung quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại đạt được nhiều kết quả
quan trọng. Trong công tác xây dựng, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chiến lược, quy
107
hoạch, kế hoạch phát triển báo chí đối ngoại đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Mặc
dù còn nhiều khó khăn về kinh phí nhưng các cơ quan báo chí lớn như Thông tấn xã
Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Báo Nhân dân đã
thành lập các văn phòng đại diện ở nhiều nước. Đồng thời, việc ban hành Luật Báo chí
năm 2016 làm cho việc ban hành các văn bản về quản lý báo chí đối ngoại thuận lợi
hơn. Mặt khác, dựa trên Luật báo chí năm 2016 việc xây dựng chế độ và thực hiện chế
độ, chính sách về báo chí đối ngoại cũng có nhiều chuyển biến tích cực. Trong tổ chức
thông tin và quản lý thông tin của báo chí đối ngoại được kiểm soát chặt chẽ với đầy
đủ các bước, các khâu. Trong đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, nghiệp
vụ, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ người làm báo của các cơ quan và cán bộ quản lý
báo chí đối ngoại cũng như trong công tác hợp tác quốc tế về báo chí đối ngoại ngày
càng được tăng cường. Các cơ quan quản lý báo chí luôn bám sát và kịp thời chỉ đạo
việc thực hiện chế độ thông tin, báo cáo.
Ba là, phương thức quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại không ngừng được
tăng cường qua việc kịp thời ban hành các văn bản qui phạm pháp luật. Hơn nữa, các
cơ quan quản lý báo chí đối ngoại từ Trung ương đến cơ sở có sự thống nhất cao trong
việc tổ chức thực hiện các phương thức quản lý và làm tốt công tác khen thưởng, kỷ
luật trong hoạt động báo chí đối ngoại. Do vậy, không có trường hợp cơ quan hay cá
nhân người làm báo vi phạm kỷ luật.
2.3. Một số hạn chế và nguyên nhân
2.3.1. Hạn chế của các chủ thể và đối tượng quản lý nhà nước về báo chí
đối ngoại
* Hạn chế của các chủ thể quản lý
Thứ nhất, số lượng cán bộ trực tiếp được phân công quản lý nhà nước về báo
chí đối ngoại còn hạn chế, trong khi đó số văn phòng đại diện của các cơ quan báo chí
đối ngoại tương đối đông, trải rộng ở nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ. Hiện có 4 cơ
quan báo chí đối ngoại lớn trong đó Thông tấn xã Việt Nam với 30 văn phòng đại
diện, Đài Truyền hình Việt Nam có 10 văn phòng, Đài Tiếng nói Việt Nam cũng có 10
văn phòng và Báo Nhân dân với 4 văn phòng. Vì vậy để quản lý kịp thời, thường
xuyên là điều khá khó khăn.
Thứ hai, sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại hiện chủ yếu
dựa trên các văn bản về quản lý, thanh tra báo chí nói chung, chưa có quy định riêng
108
về thanh tra, giám sát và quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại nói riêng. Cho đến nay
mới chỉ có văn bản về phát triển hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2025 và tầm nhìn
đến năm 2030 của Chính phủ, do đó sự phối hợp trong quản lý nhà nước về báo chí
đối ngoại với tính chất, đặc thù riêng khó được thể hiện đầy đủ.
Thứ ba, báo chí đối ngoại hoạt động ở nhiều quốc gia và chịu sự giám sát, quản
lý không chỉ của Việt Nam mà còn của nước sở tại. Cho nên cần có sự phối hợp chặt
chẽ dựa trên khuôn khổ luật pháp giữa các nước và khuôn khổ quản lý nhà nước về
báo chí đối ngoại. Mặt khác, ở các nước, sự tự do hóa, xu hướng thương mại hóa báo
chí được phát triển mạnh mẽ, vì vậy sự phối hợp giữa Việt Nam và các nước sở tại gặp
phải những khó khăn, thách thức không nhỏ.
Thứ tư, sự phát triển mạnh mẽ của các hình thức truyền thông đặt ra cho chủ thể
quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại phải đảm bảo giữ vững sự phát triển ổn định
của báo chí truyền thống, đồng thời còn phải chủ động ứng dụng và phát triển các loại
hình báo chí mới như báo điện tử...Điều này dẫn đến công việc của quản lý nhà nước
về báo chí đối ngoại của đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước, lãnh đạo các
cơ quan báo chí vừa đa dạng, vừa phức tạp.
* Hạn chế của đối tượng quản lý
Thứ nhất, các cơ quan sản xuất sản phẩm báo chí đối ngoại hoạt động ở nhiều
quốc gia, đòi hỏi phải có sự thống nhất, phối hợp chặt chẽ trong việc tổ chức khai thác
và phổ biến thông tin, trong khi đó ở mỗi nước có nền văn hóa khác nhau đòi hỏi các
cơ quan báo chí phải thường xuyên xin ý kiến chỉ đạo thống nhất từ các cơ quan quản
lý nhà nước về báo chí đối ngoại trong khi phạm vi hoạt động rộng khắp là một khó
khăn không nhỏ.
Thứ hai,người làm báo chí đối ngoại hiện nay không chỉ có đội ngũ cán bộ
phóng viên, biên tập viên là người Việt Nam làm việc ở nước ngoài mà trong lực
lượng đông đảo phóng viên, biên tập viên còn có lực lượng là các nhà khoa học, đội
ngũ biên tập viên được thuê để tham gia hiệu đính, biên tập các bài viết nên việc quản
lý nhà nước về báo chí đối ngoại đối với đội ngũ cán bộ này cũng có nhiều hạn chế do
không làm việc trực tiếp mà thông qua các cơ quan báo chí. Hơn nữa, việc cho phép
các tổ chức, cá nhân là người Việt Nam ở nước ngoài tham gia vào việc sản xuất báo
chí đối ngoại nên cũng có những khó khăn không nhỏ khi phải quản lý chặt chẽ các tờ
báo đối ngoại do các cá nhân, tổ chức này sản xuất luôn đảm bảo tôn chỉ, mục đích,
109
đúng định hướng của Đảng là công việc quản lý với áp lực rất lớn. Làm báo đối ngoại
khác báo đối nội ở góc độ tiếp cận ở các đặt vấn đề, cách nhìn vấn đề. Ở VOV5, khâu
biên dịch nếu chỉ dừng lại ở góc độ biên dịch thì rất là đơn giản, chưa đạt được khả
năng đối tượng hoá. Lãnh đạo phòng Đông Bắc Á, VOV5 cho biết:“Phòng Thư kí biên
tập không thể hiểu phổ quát được 13 đối tượng, 13 ngôn ngữ, thông tin khi biên dịch
phải được đối tượng hoá, không phải nói những cái chúng ta muốn mà phải nói những
cái chúng ta muốn nói theo cách đối tượng muốn nghe”. Cán bộ báo chí đối ngoại
phải hiểu rất sâu về đối tượng, sự am hiểu văn hoá, tập quán của từng nước, những thứ
tiếng của một nhóm đối tượng sử dụng như Nhật Bản, Ả Rập…
Đội ngũ cán bộ làm báo chí đối ngoại tuy có sự phát triển nhanh về số lượng
cũng như chất lượng, giỏi ngoại ngữ nhưng kỹ năng làm báo đối ngoại còn hạn chế là
do công tác quản lý đào tạo chưa kịp thời và thường xuyên, hoặc thiếu tham gia những
khóa đào tạo, bồi dưỡng báo chí nói chung cũng như báo chí đối ngoại nói riêng, chưa
chú ý đến tính đồng đều về năng lực, trình độ cũng như tính chuyên nghiệp chưa khi
sắp xếp, bố trí công việc phù hợp với năng lực, sở trường nên thiếu sự hiệp đồng trong
tác nghiệp, đưa tin làm cho việc quản lý đội ngũ nhân lực, quản lý tổ chức nội dung
thông tin giữa các báo có những khó khăn. Trong công văn về triển khai Quy hoạch
báo chí đối ngoại và Quy hoạch mạng lưới đại diện cơ quan thông tấn ở nước ngoài, số
1075 /TTX-BTK của Thông Tấn xã Việt ngày 23 tháng 11 năm 2018 đã chỉ ra đặc thù
của báo đối ngoại trong bối cảnh hiện nay đòi hỏi biên tập viên, phóng viên phải đồng
thời giỏi ngoại ngữ và có kiến thức chuyên môn, kỹ năng ở trình độ cao. Nhưng chính
sách tuyển dụng, đào tạo bồi dưỡng kiến thức, lý luận chính trị, nghiệp vụ báo chí…
cho phóng viên, biên tập viên còn thiếu đồng bộ, chế độ đãi ngộ thấp sẽ gây nên những
bất lợi lớn đến chất lượng của Vietnamnews trong thời gian tới.
Thứ ba, nội dung thông tin trên báo chí đối ngoại hiện nay được đánh giá
chưa thực sự phong phú, đa dạng cả về cách tổ chức thông tin, hình thức,... do hạn
chế về nguồn kinh phí để đầu tư cho việc phát triển hệ thống trang thiết bị để có thể
cho ra các tờ báo đẹp về hình thức, phong phú về nội dung. Thậm chí, do khó khăn
về kinh phí nên việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ sản xuất, tổ chức nội
dung cho các tờ báo đối ngoại cũng ảnh hưởng không nhỏ. Bản thân các cơ quan
báo chí đối ngoại cũng chưa thực sự dành nhiều công sức đầu tư cho việc tổ chức
nội dung thông tin để đổi mới về cách thức sản xuất, cách thức xây dựng hình thức
110
để có thể tạo sự hấp dẫn với đối tượng độc giả có trình độ nhận thức và yêu cầu rất
cao với báo chí đối ngoại.
2.3.2. Hạn chế về nội dung quản lý
Thứ nhất, hạn chế trong xây dựng, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch phát triển báo chí đối ngoại.
Trên thực tế, công tác xây dựng, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch phát triển báo chí đối ngoại còn chậm, do cả nguyên nhân khách quan
và nguyên nhân chủ quan. Theo Qui hoạch phân bố các văn phòng thường trú đến năm
2020 của Cục Thông tin đối ngoại, ở Châu Á phấn đấu đặt văn phòng đại diện ở 1
quốc gia, Châu Âu 1 quốc gia, Châu Mỹ 1 quốc gia, song việc đặt văn phòng ở những
nước theo qui hoạch trong khi quan hệ giữa Việt Nam với các nước này chưa sâu sắc,
nên có những khó khăn về thủ tục pháp lý cần có sự thống nhất cao giữa hai bên.
Ngoài ra kế hoạch trong xây dựng, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch phát triển báo chí đối ngoại đã được thông qua cần có ý kiến chỉ đạo của
Quốc hội theo đề nghị của Thủ tướng Chỉnh phủ nên thường mất nhiều thời gian, qua
nhiều vòng, nhiều khâu, thậm chí khi không kịp tiến độ có thể dẫn đến điều chỉnh quy
hoạch, điều này lại liên quan đến việc đề xuất Viện Chiến lược Thông tin truyền thông
chủ trì, phối hợp với Cục Thông tin đối ngoại rà soát, điều chỉnh qui hoạch.
Thứ hai, hạn chế trong ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm
pháp luật về báo chí; xây dựng chế độ, chính sách về báo chí đối ngoại.
Hiện nay mới chỉ có một văn bản là Quyết định số 2434/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủngày 13 tháng 12 năm 2016 phê duyệt quy hoạch hệ thống báo chí
đối ngoại đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 đề cập một cách trực diện đến báo
chí đối ngoại, và cũng trong văn bản này đề cập đến việc phát triển một báo điện tử,
một số tờ báo in, tạp chí in đối ngoại chuyên biệt đối ngoại chuyên biệt, chủ lực, đồng
thời khuyến khích các cơ quan báo chí sử dụng các phương thức truyền thông mới,
mạng xã hội để đưa các thông tin đến các đối tượng thông tin đối ngoại và huy động
các nguồn lực từ xã hội phục vụ hoạt động báo chí đối ngoại cũng như cung cấp thông
tin đối ngoại lên mạng xã hội, thậm chí cho phép mời phóng viên báo chí nước ngoài
vào Việt Nam để đưa tin viết, bài, hợp tác với các cơ quan báo chí nước ngoài để xây
dựng các bài viết, phóng sự quảng bá hình ảnh Việt Nam. Tuy nhiên, hiện cơ chế cho
các hoạt động này chưa rõ ràng mà vẫn thực hiện theo luật pháp của Việt Nam nói
111
chung. Cũng vì vậy, việc tổ chức các văn bản qui phạm pháp luật với lĩnh vực báo chí
đối ngoại luôn đặt ra nhiều khó khăn.
Ngoài ra, việc nghiên cứu đề xuất xây dựng cơ chế, chính sách về tài chính phục
vụ hoạt động báo chí đối ngoại hiện vẫn dựa hoàn toàn vào ngân sách nhà nước nên khó
có thể phát triển đồng bộ và có chất lượng tốt để đáp ứng được nhu cầu thông tin của độc
giả. Đời sống của phóng viên, biên tập viên Việt Nam hoạt động cho các cơ quan báo chí
đối ngoại cũng gặp không ít khó khăn như phải thuê nhà, hoặc hạn chế trong chính sách
đào tạo, bồi dưỡng cũng là những hạn chế cho sự phát triển báo chí đối ngoại.
Thứ ba, hạn chế trong tổ chức thông tin và quản lý thông tin của báo chí đối ngoại.
Với tính chất của một lĩnh vực báo chí có nhiều đặc thù, nên cách thức tổ chức
thông tin đòi hỏi nhiều yêu cầu chặt chẽ, tạo sự hấp dẫn đối với công chúng là người
nước ngoài nhưng cho đến nay báo chí đối ngoại vẫn được đánh giá cách tổ chức thông
tin chưa sinh động, mặc dù có sự quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại khá chặt chẽ,
không để xảy ra những sai phạm về đưa, phát thông tin. Nhưng hiện phần lớn việc quản
lý nhà nước về báo chí đối ngoại qua tổ chức thông tin và quản lý thông tin dựa trên các
quy định chi tiết việc phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí của các cơ quan hành
chính nhà nước dựa trên Nghị định số 09/2017/NĐ-CP [47]. Gần đây, với việc ban hành
Thông tư số 03/2019/TT-BTTTT ngày 6 tháng 5 năm 2019 của Bộ Thông tin và Truyền
thông quy định đăng, phát nội dung thông tin đối ngoại trên báo chí, quản lý nhà nước
về báo chí đối ngoại trong phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí của các bộ,
ngành, địa phương, nhưng cách quản lý phần nhiều dựa vào quản lý nhà nước về thông
tin đối ngoại nên khó có thể phát huy được thế mạnh, sở trường của một lĩnh vực báo
chí được xem là bộ phận quan trọng trong công tác tuyên truyền của Đảng.
Thứ tư, hạn chế trong đào tạo, bồi dưỡng nâng cao tr nh độ chính trị, nghiệp
vụ, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ người làm báo của các cơ quan và cán bộ quản
lý báo chí đối ngoại.
Các chính sách cho đào tạo, bồi dưỡng đội cán bộ quản lý nhà nước về báo chí
đối ngoại cũng như cán bộ báo chí đối ngoại chưa tương xứng với yêu cầu và nhiệm
vụ quản lý cũng như nhiệm vụ làm báo trong giai đoạn hiện nay. Những khó khăn như
trên phần nhiều là do các chính sách không thay đổi, trong khi đó những yêu cầu về
làm báo nói chung cũng như báo chí đối ngoại có nhiều đổi mới. Do đó đội ngũ cán bộ
báo chí cũng như đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại phải không
112
ngừng được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ, đạo đức nghề
nghiệp nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ báo chí đối ngoại và đội ngũ cán bội quản lý
nhà nước về báo chí đối ngoại không chỉ có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định với
đường lối đổi mới và tích cực đóng góp vào đường lối đối ngoại của Đảng, có đầy đủ
phẩm chất đạo đức của nhà báo cách mạng để có thể kịp thời phát hiện, ngăn chặn mọi
âm mưu, thủ đoạn lợi dụng báo chí đối ngoại làm tổn hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc.
Chính sách cho đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý nhà nước về báo chí đối
ngoại và cán bộ báo chí đối ngoại còn khó khăn bởi hiện nay với sự phát triển mạnh
mẽ của công nghệ làm báo hiện đại, cán bộ quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại rất
cần được đào tạo về nghiệp vụ quản lý, nâng cao trình độ ngoại ngữ và cán bộ báo chí
đối ngoại cũng cần được đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ làm báo
cũng có nhiều hạn chế không nhỏ.
Thứ năm, hạn chế trong đẩy mạnh hợp tác quốc tế về báo chí đối ngoại.
Trong Quyết định số 2434/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 13 tháng 12
năm 2016 phê duyệt quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2020, định hướng
đến năm 2030 cho phép đẩy mạnh hợp tác quốc tế về báo chí đối ngoại, nhưng thực tế
hiện nay như đã nêu ở trên do khó khăn về kinh phí nên ngân sách cho hợp tác quốc tế
về báo chí đối ngoại cũng gặp nhiều khó khăn. Quyết định đã đặt ra định hướng cho
phép thuê nhà báo nước ngoài đến Việt Nam đưa tin viết bài, đồng thời đưa tin, viết
bài trên báo chí của nước sở tại, song nhiều khó khăn đặt ra như kinh phí, cơ chế,
chính sách cho việc thuê khoán chuyên gia làm báo cũng như cách thức tổ chức sản
xuất báo chí, nội dung thông tin trên báo chí đối ngoại có những điểm khác biệt nên sự
phối hợp chưa thực sự hiệu quả.
Mặt khác, báo chí nước ngoài có sự thương mại hóa mạnh mẽ cũng như hệ
thống luật pháp báo chí và luật pháp quản lý báo chí đối ngoại có nhiều điểm không
tương đồng với luật pháp báo chí và luật pháp quản lý báo chí về đối ngoại của Việt
Nam. Vì vậy, sự phối hợp nhằm đẩy mạnh hợp tác quốc tế về báo chí đối ngoại lâu
nay chưa đạt được nhiều kết quả tích cực.
Thứ sáu, hạn chế trong chỉ đạo, thực hiện chế độ thông tin, báo cáo, thống kê
và công tác khen thưởng, kỷ luật trong hoạt động báo chí đối ngoại.
Có thể khẳng định việc chỉ đạo, thực hiện chế độ thông tin, báo cáo, thống kê
trong quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại được thực hiện theo định kỳ. Đây là hoạt
113
động được thực hiện đầy đủ theo chế độ thông tin báo cáo nói chung, trong các văn
bản quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại đều không chỉ rõ về hình thức, nội dung,
phương thức báo cáo. Vì vậy, báo cáo chủ yếu được thực hiện cuối năm, dẫn đến có
những cơ quan báo chí đối ngoại cũng như các cá nhân có nhiều thành tích trong công
tác báo chí đối ngoại cần được biểu dương, khen thưởng, hoặc xây dựng thành những
điển hình tiên tiến. Mặt khác, công tác khen thưởng thường được thực hiện vào cuối
năm cùng với việc trao giải thưởng báo chí, trong khi đó với những phóng viên, biên
tập viên được thuê để viết bài, đưa tin cho các cơ quan báo chí đối ngoại lại hầu như
không được đề xuất khen thưởng, cho nên công tác thông tin, báo cáo hiện vẫn theo cơ
chế hành chính nên khó khuyến khích được tính chủ động, sáng tạo của các cơ quan
báo chí cũng như các cá nhân tham gia làm báo. Mặt khác, vì công tác thông tin, báo
cáo được thực hiện vào cuối năm nên vấn đề này hoàn toàn có thể ảnh hưởng đến việc
bình xét, khen thưởng hoặc kỷ luật trong hoạt động báo chí đối ngoại. Thực tế trong
những năm qua không có cán bộ và cơ quan báo chí đối ngoại bị kỷ luật nhưng việc
xây dựng các tiêu chí, tiêu chuẩn được qui định rõ sẽ làm cho việc quản lý nhà nước
về báo chí đối ngoại được ý thức rõ thẩm quyền cả về phía cơ quan báo chí đối ngoại
cũng như cơ quan quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại.
2.3.3. Hạn chế về phương thức quản lý
Thứ nhất,hạn chế trong quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại thông qua các
công cụ quản lý là các văn bản quy phạm pháp luật.
Việc quản lý báo chí đối ngoại tuy đã có sự bám sát với các văn bản qui phạm
pháp luật về quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại, quản lý thông tin; quản lý việc
đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ báo chí đối ngoại về chính trị, chuyên môn,
nghiệp vụ; công tác khen thưởng đối với cán bộ báo chí đối ngoại vẫn chủ yếu được
thực hiện qui định chung mà chưa tính đến tính đặc thù. Hơn nữa, công tác thanh tra,
kiểm tra, việc quản lý hoạt động chuyên môn của các cơ quan báo chí đối ngoại, cách
thanh tra, kiểm tra còn nặng về qui trình, cho nên trước những diễn biến mới, kể cả
mặt tích cực cũng như những vấn đề phức tạp các cơ quan quản lý dễ bị động, bởi
thiếu những qui định cụ thể, nên trước những tình huống mới phát sinh đội ngũ cán
bộ quản lý không mạnh dạn xử lý. Đó cũng là nguyên nhân đáng kể làm cho sự phát
triển của báo chí đối ngoại chưa theo kịp với sự phát triển mạnh mẽ của báo chí
truyền thông hiện đại.
114
Thứ hai, hạn chế trong quản lý thông qua các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí.
Cơ chế chỉ đạo, điều hành, sự phối kết hợp, gắn kết giữa các cơ quan báo chí ở
trung ương, các địa phương và lực lượng trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực báo chí đối
ngoại chưa chặt chẽ, trước những vấn đề mới nảy sinh còn lúng túng, bị động làm cho
việc tổ chức nội dung thông tin ít nhiều có những ảnh hưởng bất lợi, mặc dù hiệu quả
quản lý nhà nước đối với báo chí đối ngoại trong thời gian vừa qua được đánh giá có
nhiều thành tựu nổi bật song việc đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn chậm được khắc phục.
Nhận thức của các cấp các ngành, các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại chưa
ngang tầm nhiệm vụ, nhất là trong việc tuyên truyền, phổ biến các nội dung thông tin
trên báo chí đối ngoại tuy có nhấn mạnh những chuyển biến mạnh mẽ của Việt Nam
về kinh tế nhưng chưa thực sự tạo được sự hấp dẫn, thu hút được sự quan tâm của các
nhà đầu tư lớn ở nước ngoài. Điều này phần lớn là do cách tổ chức nội dung thông tin
chưa phong phú, chưa sinh động, chưa đáp ứng được thị hiếu của đông đảo người dân,
nhất là giới doanh nhân, những người có ý định đầu tư vào Việt Nam. Mặt khác, việc
phân định đối tượng thông tin chưa rõ nên những vấn đề cần tuyên truyền, phổ biến
còn dàn trải. Chính vì vậy, cách tổ chức phổ biến thông tin của báo chí đối ngoại cần
được chú trọng hơn.
Thứ ba,hạn chế trong quản lý thông qua thanh tra, kiểm tra, giám sát và đề
xuất khen thưởng, kỷ luật các hành vi vi phạm pháp luật về báo chí đối ngoại.
Công tác thanh tra, kiểm tra trong quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại hiện
được thực hiện theo Luật Thanh tra năm 2010, Luật Báo chí năm 2016, song theo Luật
Báo chí cũng không nêu rõ những qui định về thanh tra, kiểm tra, giám sát và tại Điều
58 qui định về thanh tra chuyên ngành báo chí nhưng khá chung chung và chỉ gợi ý về
thanh tra chuyên ngành báo chí thực hiện theo quy định của pháp luật về thanh tra.
Điều này có nghĩa thực hiện theo quy định của Luật Thanh tra năm 2010. Tuy nhiên,
với đặc thù là lĩnh vực báo chí đối ngoại, với đối tượng chủ yếu là phục vụ công chúng
ở ngoài nước, đối tượng rất đa dạng, từ các nhà chính trị, các doanh nhân, nhà đầu tư,
nhà nghiên cứu,... và địa bàn phổ biến nội dung thông tin ở nước ngoài, và hoạt động
của báo chí đối ngoại cũng vì thế mà chủ yếu tác nghiệp ở nước ngoại. Cũng vì vậy,
đánh giá về những hạn chế của việc quản lý báo chí đối ngoại năm 2018, đồng chí Võ
Văn Thưởng đã chỉ rõ “Nhận thức của một bộ phận cấp ủy, cán bộ quản lý chưa đầy
đủ, chưa tương xứng với tầm quan trọng vốn có của công tác này và nhất là ngày càng
115
yêu cầu cao trong tình hình mới. Công tác nghiên cứu, dự báo, phối hợp hành động,
nhất là xử lý các vấn đề đột xuất, phức tạp, nhạy cảm có lúc còn bị động, lúng túng.
Nội dung, phương thức thông tin tuyên truyền còn chưa đáp ứng được nhu cầu của
từng đối tượng, từng địa bàn cụ thể. Chưa khai thác hết được lợi thế từ các điều kiện
công nghệ, truyền thông hiện nay để triển khai công tác hiệu quả hơn” [17].
Trước những hạn chế trong công tác thanh tra, kiểm tra thiếu những căn cứ cụ
thể về các văn bản chỉ đạo, nên thiếu những tiêu chí, tiêu chuẩn cụ thể để có thể bình
xét, khen thưởng kịp thời cho những cá nhân điển hình, có nhiều đóng góp cho sự phát
triển của báo chí đối ngoại. Mặt khác, do thiếu những qui định cụ thể nên khó có
những căn cứ để kịp thời khen thưởng cho các cá nhân có thành tích trong quản lý nhà
nước về báo chí đối ngoại qua các hoạt động phát hiện, đấu tranh ngăn chặn với những
sai phạm trong hoạt động của báo chí đối ngoại.
2.3.4. Nguyên nhân của những hạn chế
Một là, sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại chưa thực sự
linh hoạt để đáp ứng tốt những yêu cầu của thực tiễn đặt ra, dẫn đến việc phát huy sức
mạnh tổng hợp của các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại chưa đồng bộ, làm cho việc
huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội bị hạn chế. Đảng và Nhà nước
đã có sự quan tâm chỉ đạo sát sao qua việc ban hành sự phát triển báo chí đối ngoại,
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Qui hoạch phát triển hệ thống báo chí đối ngoại và
Qui hoạch mạng lưới đại diện các cơ quan thông tấn, báo chí Việt Nam ở nước ngoài,
song sự phối hợp trong triển khai thực hiện phát triển hệ thống báo chí đối ngoại chưa
thống nhất, nhất là sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại cùng cấp.
Hơn nữa, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan báo chí đối ngoại ở địa phương chưa đồng
bộ, chưa có sự gắn kết chặt chẽ làm cho hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước chưa thể
hiện được tính ràng buộc, chưa quy định rõ trách nhiệm phối hợp, thiếu chế tài điều
chỉnh cơ chế phối hợp liên ngành giữa các Bộ, ngành với cơ quan chủ trì là Bộ Thông
tin và Truyền thông và giữa các Sở Thông tin và Truyền thông, do đó công tác quản lý
báo chí đối ngoại chưa theo kịp được thực tiễn.
Hai là, việc quản lý xây dựng phát triển nội dung báo chí đối ngoại chưa thể
hiện tính sáng tạo và đôi khi còn bị động. Các cơ quan báo chí chưa chủ động trong
xây dựng định hướng phát triển của các tờ báo, nên việc tiếp nhận bài viết và cho đăng
tải các bài viết có nội dung mới, cập nhật thông tin còn chậm. Thêm vào đó, các cơ
116
quan quản lý báo chí đối ngoại chậm đổi mới trong xây dựng chế độ chính sách về báo
chí đối ngoại. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ lý
luận chính trị cho cán bộ báo chí và cán bộ quản lý báo chí đối ngoại chưa được triển
khai mạnh mẽ. Hạn chế trong hợp tác quốc tế trong quản lý báo chí đối ngoại có
nguyên nhân chính từ những khó khăn về nguồn kinh phí và một số khiếm khuyết
trong hoạt động báo chí được phát hiện và kịp thời xử lý.
Ba là, kinh phí cho công tác nghiên cứu khoa học, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển
nguồn nhân lực báo chí đối ngoại cũng như kinh phí cho đổi mới và hiện đại hóa cơ sở
vật chất, kỹ thuật của các cơ quan báo chí đối ngoại còn hạn chế. Trước những khó
khăn chung của tình hình kinh tế thế giới cũng như khó khăn về tình hình kinh tế trong
nước nên nguồn ngân sách dành cho hoạt động báo chí đối ngoại không tăng và đều từ
ngân sách nhà nước, chưa bố trí nguồn kinh phí riêng cho hoạt động báo chí đối ngoại
mà chủ yếu mới chỉ được bố trí trong phần kinh phí hoạt động chung của Bộ, ngành,
địa phương giao cho các đơn vị trực tiếp triển khai hoạt động báo chí đối ngoại. Mặt
khác, hoạt động của báo chí đối ngoại đòi hỏi kinh phí tương đối lớn cho công tác duy
trì, nâng cấp cơ sở dữ liệu, các trang thông tin điện tử, các hoạt động, sự kiện quảng bá
hình ảnh,... nên chậm đổi mới và hiện đại hóa cơ sở vật chất, kỹ thuật, trong khi nguồn
ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, do đó kinh phí dành cho công tác quản lý bị hạn chế.
Do tính đặc thù nên việc quản lý báo chí đối ngoại gặp khó khăn trong việc huy động
nguồn lực xã hội, tài trợ nước ngoài.
Bốn là, việc xây dựng cơ cấu bộ máy quản lý nhà nước đối với báo chí đối ngoại
chưa thực sự hợp lý, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý báo chí chưa thống nhất
và chưa đồng bộ dẫn đến công tác quản lý còn bị động, chưa phát huy được sức mạnh
tổng hợp trong hệ thống báo chí đối ngoại. Do chưa có những qui định về sự phối hợp
chưa thống nhất nên sự phối kết hợp giữa các cơ quan chức năng kể cả ở Trung ương và
các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại ở các địa phương thiếu sự nhịp nhàng, điều này
còn gây ra những khó khăn cho việc định hướng phát triển của báo chí đối ngoại trong
tương lai, nội dung báo chí đối ngoại chưa thật phong phú, thiếu chiều sâu nên khó đáp
ứng được nhu cầu thông tin của độc giả đòi hỏi có những nội dung chuyên sâu.
Năm là, thiếu nguồn kinh phí đầu tư nâng cấp cho việc hiện đại hóa hoạt động
báo chí đối ngoại cũng như quản lý báo chí đối ngoại. Do khó khăn về vấn đề kinh phí
nên việc đầu tư phương tiện, thiết bị công nghệ cao để tăng cường quản lý đối với báo
117
chí, nhất là báo điện tử chưa được chú trọng. Cũng do vấn đề kinh phí hạn chế do đó
việc xây dựng nội dung trên báo chí đối ngoại thiếu sự phong phú, khó đáp ứng được
những đòi hỏi ngày càng cao của công chúng, dẫn đến việc xây dựng và quảng bá hình
ảnh thiếu sự sinh động, chưa thể hiện được tính sáng tạo. Nguyên nhân khác là mức
sinh hoạt phí ở các nước mà phóng viên, nhà báo tác nghiệp có chi phí rất cao song
mức được hưởng chưa tương xứng. Việc sửa chữa, cải tạo trụ sở, phương tiện làm việc
của cán bộ báo chí và cán bộ quản lý báo chí vừa phải tuân theo qui định của nước sở
tại và của Việt Nam nên gặp nhiều khó khăn.
Sáu là, mặc dù đa số cán bộ báo chí đối ngoại cũng như cán bộ quản lý báo chí
đối ngoại được đào tạo đúng với chuyên môn song trước tình hình phát triển mạnh mẽ
của báo chí đối ngoại thế giới cũng như cách thức làm báo chí công tác đào tạo, bồi
dưỡng chuyên sâu về kỹ năng làm báo cũng như kỹ năng lãnh đạo, quản lý báo chí đối
ngoại của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa được quan tâm đúng mức, trong đó có
đào tạo, bồi dưỡng nâng cao về năng lực, trình độ ngoại ngữ. Do hạn chế về khả năng
sử dụng ngoại ngữ, chưa làm chủ được ngôn ngữ của nước sở tại làm cho phóng viên
và cán bộ quản lý báo chí khó thâm nhập đời sống địa bàn, làm giảm hiệu quả tác
nghiệp của phóng viên và cán bộ quản lý.
Bảy là, công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý các sai phạm và nâng cao hiệu lực
quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại hiện được thực hiện chủ yếu theo kế hoạch,
chưa có những hoạt động thường xuyên hoặc đột xuất, nên các cơ quan báo chí chưa
chủ động trong việc đổi mới nội dung thông tin hoặc thay đổi cách tổ chức nội dung,
điều này có thể gia tăng sơ hở để các thế lực thù địch lợi dụng vào những mưu đồ xấu,
làm giảm hiệu quả hoạt động của báo chí đối ngoại. Đồng thời trước sự phát triển
mạnh mẽ của báo điện tử, công nghệ làm báo hiện đại làm cho báo chí đối ngoại có
nhiều thay đổi thì những sơ suất có thể gây nên những tác động tiêu cực rất lớn, song
những sai sót tuy nhỏ dù được chỉ ra nhưng các cơ quan báo chí vẫn chậm khắc phục.
Tiểu kết chương 2
Báo chí đối ngoại ở Việt Nam hiện nay có sự phát triển mạnh mẽ, nhất là từ khi có
Quyết định Phê duyệt quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2020, định hướng
đến năm 2030 của Thủ tướng Chính phủ. Các loại hình báo chí đối ngoại gia tăng, nhất là
báo điện tử, các tờ báo đều thực hiện tốt tôn chỉ, mục đích, nhưng việc tổ chức nội dung
thông tin còn đơn điệu, chưa xây dựng được những chuyên mục chuyên sâu.
118
Thực trạng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại trong quản lý xây dựng, chỉ
đạo và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển báo chí đối ngoại
đạt được nhiều thành tựu, nổi trội là quản lý xây dựng và định hướng, chiến lược phát
triển các cơ quan báo chí đối ngoại theo sự chỉ đạo của Chính phủ. Việc ban hành và
tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật quản lý nhà nước về báo chí đối
ngoại được thực hiện tương đối hiệu quả, rõ nhất là qua kết quả thực hiện đề xuất, kiến
nghị, xây dựng văn bản liên quan đến quản lý nhà nước đối với báo chí đối ngoại.
Song việc xây dựng chế độ, chính sách về báo chí đối ngoại còn chậm và chưa đáp
ứng được yêu cầu trong tình hình mới, đời sống cán bộ báo chí đối ngoại chậm được
cải thiện. Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị làm báo chưa tương xứng với yêu cầu
thực tiễn.
Cách thức tổ chức thông tin và quản lý tổ chức thông tin của báo chí đối ngoại
đã đáp ứng được những yêu cầu cơ bản về về chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách của Nhà nước đến cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, cộng đồng quốc tế,
góp phần quan trọng vào việc quảng bá hình ảnh đất nước, con người, văn hóa Việt
Nam. Trong công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ, đạo
đức nghề nghiệp cho người làm báo và cán bộ quản lý báo chí đối ngoại tuy được quan
tâm song chưa đồng bộ, chưa có sự đầu tư thường xuyên. Về hợp tác quốc tế về báo
chí đối ngoại được thực hiện khá tốt, có thể thấy rõ điều này qua hợp tác quốc tế về
sản xuất các nội dung các chương trình liên kết theo quy định của pháp luật Việt Nam
và pháp luật nước sở tại.
Quản lý nhà báo tác nghiệp ở nước ngoài được thực hiện chặt chẽ, không có
hiện tượng vi phạm pháp luật. Trong quản lý chỉ đạo, thực hiện chế độ thông tin, báo
cáo, thống kê theo sát với kế hoạch đã đặt, nhưng công tác thi đua, khen thưởng chưa
được thực hiện thường xuyên, do vậy chưa tạo được động lực tích cực cho cán bộ làm
báo và cán bộ quản lý báo chí. Trong những năm qua không có hiện tượng vi phạm
pháp luật về báo chí đối ngoại do công tác thanh tra, kiểm tra được thực hiện tương đối
hiệu quả.
119
Chương 3
MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BÁO CHÍ ĐỐI NGOẠI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Một số vấn đề đặt ra trong quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại
3.1.1. Đội ngũ cán bộ quản lý báo chí đối ngoại có bản lĩnh chính trị vững
vàng nhưng chưa mạnh về nghiệp vụ chuyên môn quản lý báo chí đối ngoại trong
tình hình mới, nhất là trong xu hướng hội tụ truyền thông
Cán bộ quản lý báo chí đối ngoại có vai trò quan trọng trong việc xây dựng các
loại hình báo chí đối ngoại ổn định và đưa ra định hướng phát triển. Đội ngũ cán bộ
quản lý báo chí hiện nay có lập trường vững vàng, có bản lĩnh chính trị, song trước sự
phát triển mạnh mẽ của công nghệ làm báo hiện đại, sự phát triển vượt bậc của các loại
phương tiện truyền thông, trong khi đó chúng ta chưa có nhiều cán bộ quản lý báo chí
đối ngoại giỏi về sử dụng công nghệ làm báo hiện đại, chưa có nhiều kinh nghiệm
quản lý báo chí trong một môi trường nhiều thách thức như hiện nay, chưa có nhiều
cán bộ quản lý báo chí giỏi về nhiều ngoại ngữ, vừa là một nhà báo vừa có thể đồng
thời là một cán bộ quản lý báo chí. Do vậy, trong Quyết định số 2434/QĐ-TTg của
Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2020,
định hướng đến năm 2030, ngày 13 tháng 12 năm 2016 đã chỉ rõ phải tiếp tục phát
triển lực lượng báo chí đối ngoại chuyên trách [148]. Do vậy, hiện tại và trong những
năm tới vấn đề đặt ra cho quản lý báo chí đối ngoại là phải khắc phục những hạn chế
của đội ngũ cán bộ quản lý báo chí đối ngoại, tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý
báo chí đối ngoại có khả năng sử dụng tốt các công cụ, phương tiện công nghệ báo chí
hiện đại, am hiểu chuyên môn, ngoại ngữ.
3.1.1.1. Đội ngũ cán bộ quản lý báo chí chưa mạnh về nghiệp vụ quản lý báo
chí đối ngoại
Đội ngũ cán bộ quản lý báo chí đối ngoại hiện nay tuy hiểu chuyên môn, nắm
vững quan điểm chỉ đạo của Đảng, hệ thống văn bản pháp luật của Nhà nước về báo
chí đối ngoại và quản lý báo chí đối ngoại, song nghiệp vụ quản lý báo chí, làm cho
báo chí đối ngoại phát triển mạnh thì điều này chưa thực sự là ưu thế. Báo chí đối
ngoại có yêu cầu rất đặc thù về sự chặt chẽ trong tổ chức nội dung thông tin, đi liền
120
với đó là yêu cầu cao của độc giả, cho nên quản lý báo chí đối ngoại không chỉ ở
chỗ sự ổn định mà còn thúc đẩy sự phát triển cả ở hiện tại và về lâu dài. Chính vì
vậy, đến nay Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao với 197 quốc gia và vùng lãnh
thổ nhưng chúng ta mới chỉ đặt được 30 cơ quan báo chí đối ngoại thường trú ở 28
quốc gia.
Trước sự cạnh tranh mạnh mẽ của các loại hình báo chí, rõ nhất là ở các nước
có nền báo chí phát triển ngày càng trở nên quyết liệt hơn, đội ngũ cán bộ quản lý đối
ngoại cần am hiểu nghiệp vụ bên cạnh việc duy trì sự ổn định. Yêu cầu đặt ra cho các
nhà quản lý về việc phát triển các ý tưởng sáng tạo trong công tác xây dựng hình thức,
nội dung báo chí đối ngoại để thông tin đối ngoại dễ dàng đến được với độc
giả ở trong và ngoài nước. Sử dụng hiệu quả các mối quan hệ với các tập đoàn truyền
thông, tập đoàn công nghệ trên thế giới để đưa nội dung lên các nền tảng mới như các
ứng dụng mạng xã hội [148]. Rõ ràng vấn đề này hiện nay công tác quản lý báo chí đối
ngoại chưa thực sự làm tốt để góp phần vào việc cùng với các cơ quan báo chí ở nước
ngoài không chỉ đưa tin, phản bác đấu tranh với các luận điệu sai trái mà còn làm tốt
công tác quảng bá, mời gọi các nhà đầu tư nước ngoài đến với Việt Nam. Ngoài ra,
trước sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ truyền thông, đội ngũ cán bộ quản lý báo
chí đối ngoại chưa triệt để khai thác được thế mạnh này để đưa tin, viết bài trên nền
tảng công nghệ mới, những trang mạng có lượng lớn độc giả, nhằm thu hút ngày càng
đông đảo bạn đọc ở nước ngoài, người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài biết đến Việt
Nam, hiểu Việt Nam.
3.1.1.2. Đội ngũ cán bộ quản lý báo chí đối ngoại chưa nhạy bén với sự phát
triển của các xu hướng báo chí quốc tế hiện đại
Cơ quan báo chí đối ngoại chủ lực ở Việt Nam đến nay vẫn là Thông tấn xã
Việt Nam và cơ quan quản lý báo chí đối ngoại ở Trung ương với cơ quan chủ lực là
Cục Thông tin đối ngoại, trực thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông, thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về thông tin đối ngoại và đội ngũ cán bộ của Cục Thông tin đối
ngoại là lưc lượng chủ đạo. Như trong phê duyệt quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại
đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 với chủ trương khuyến khích các cơ quan báo
chí sử dụng các phương thức truyền thông mới, mạng xã hội để đưa các thông tin đến
các đối tượng thông tin đối ngoại chưa được quan tâm đúng mức, điều này làm cho việc
xây dựng các ấn phẩm, chuyên mục, chuyên đề, bài viết, phóng sự,... đối ngoại bằng
121
tiếng nước chưa đáp ứng tốt yêu cầu thực tế như định hướng của Thủ tướng Chính phủ
như trong Quyết định số 2434/QĐ-TTg, ngày 13 tháng 12 năm 2016 [148].
Do chưa nhạy bén với các xu hướng phát triển của báo chí đối ngoại, cho nên
trong quy hoạch báo chí đối ngoại, Thủ tướng Chính phủ cũng chưa đặt ra nhiều tham
vọng để có thể phát triển hệ thống báo chí đối ngoại cũng như vận dụng được xu hướng
phát triển của báo chí quốc tế vào quản lý phát triển báo chí đối ngoại, nên trong mục
tiêu Quy hoạch chỉ nhấn mạnh vào việc phát triển một báo điện tử đối ngoại và phát
triển một số tờ báo in, tạp chí in đối ngoại chuyên biệt, chủ lực với một số tiếng chính là
tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Trung Quốc, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Nga và cơ quan báo
chí đối ngoại chủ lực tiếp tục được xác định là Thông tấn xã Việt Nam.
Có thể nói sự nhạy bén của đội ngũ cán bộ quản lý báo chí đối ngoại ở nước ta
còn chậm, chưa thể hiện rõ sự sáng tạo trong việc dự báo sự phát triển của báo chí thế
giới để tham mưu, tư vấn cho các cơ quan quản lý trong việc nắm bắt, tận dụng các cơ
hội phát triển của báo chí thế giới, để xây dựng, hợp tác theo cách thức của xu hướng
hội tụ truyền thông, toà soạn hội tụ, thậm chí có những hoạt động thường xuyên hơn
để có thể mời phóng viên báo chí nước ngoài vào Việt Nam để đưa tin viết, bài, hay
hợp tác với các cơ quan báo chí nước ngoài để xây dựng các bài viết, phóng sự quảng
bá hình ảnh Việt Nam nhưng do quản lý chưa tốt nên các cơ quan quản lý báo chí cũng
như đội ngũ cán bộ quản lý báo chí đối ngoại chưa đầu tư mạnh mẽ vào các xu hướng
này trong khi đó thế giới ngày càng phát triển mạnh các xu hướng làm báo hiện đại, để
chiếm lĩnh được ngày càng đông đảo độc giả, mà không làm mất đi vai trò của cách
quản lý báo chí đối ngoại truyền thống.
3.1.1.3. Đội ngũ cán bộ quản lý báo chí chưa thực sự có nhiều kinh nghiệm,
hiểu biết sâu sắc về địa bàn để định hướng cho hoạt động của báo chí đối ngoại
Người quản lý báo chí chắc chắn phải am hiểu về nội dung thông tin để có thể
đăng tải trên báo chí đúng với tôn chỉ, mục đích; phù hợp với quan điểm, đường lối
của Đảng trong việc đưa tin, viết bài; phù hợp với những quy định của pháp luật, thể
chế báo chí đối ngoại. Hơn nữa, trong một thế giới có nhiều biến chuyển như hiện nay,
việc lựa chọn thông tin để phổ biến, tuyên tuyền có nhiều khó khăn. Điều này đòi hỏi
yêu cầu rất cao ở cán bộ quản lý báo chí không chỉ giỏi chuyên môn mà còn phải có
nhiều kinh nghiệm, hiểu biết sâu sắc về địa bàn để chỉ đạo, định hướng cho hoạt động
của báo chí đối ngoại. Nhưng hiện nay chúng ta chưa có nhiều cán bộ quản lý báo chí
122
đối ngoại có những năng lực này, thậm chí sự trải nghiệm thực tiễn của cán bộ quản lý
để có hiểu biết về văn hóa, về tập quán ở các quốc gia chưa nhiều nên đây là bất lợi rất
lớn để chỉ đạo đội ngũ cán bộ báo chí đưa tin, viết bài, tổ chức nội dung báo chí đối
ngoại đáp ứng tốt nhu cầu của độc giả.
Thực tế hiện nay đội ngũ cán bộ quản lý đa phần phát triển từ cán bộ chuyên
môn, đây cũng là thuận lợi song khó khăn đặt ra cho chính đội ngũ này là kinh nghiệm
thực tiễn trong việc chuyển tải nội dung báo chí đối ngoại đến các địa bàn, quốc gia
quan việc thích ứng văn hóa, tạo được sự cuốn hút với mọi đối tượng như chính khách,
các nhà đầu tư, đội ngũ trí thức,... có nhu cầu tìm hiểu và đến với Việt Nam. Hơn nữa,
tính “chủ động tạo điều kiện tiếp xúc, giao lưu, hợp tác quốc tế, phát huy thế mạnh của
cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài trong hoạt động báo chí đối ngoại” [148] của
đội ngũ cán bộ quản lý báo chí đối ngoại chưa thể hiện hết khả năng, trách nhiệm và
tính sáng tạo của đội ngũ cán bộ quản lý với tư cách là chủ thể quản lý báo chí đối
ngoại. Những hạn chế nêu trên làm cho báo chí đối ngoại Việt Nam chưa thực sự thâm
nhập vào đời sống báo chí thế giới, các tờ báo điện tử, báo in tuy được Chính phủ chỉ
đạo xây dựng thành tờ báo điện tử, báo in chủ lực nhưng chưa gây được tiếng vang
ngay trong chính lĩnh vực báo chí đối ngoại. Một phần của những hạn chế này là chưa
có nhiều kinh nghiệm quản lý để dẫn dắt, chỉ đạo các cơ quan báo chí đối ngoại thực
sự vươn tầm ảnh hưởng, đội ngũ phóng viên có khả năng tác nghiệp tốt trong xu
hướng hội tụ truyền thông. Cũng vì những hạn chế về tập quán, truyền thống nên
chúng ta vẫn sử dụng đến lực lượng là nhà báo, phóng viên, chuyên gia nước ngoài
trong việc thuê vào việc hiệu đính nội dung, việc này bên cạnh những ưu điểm song có
thể cách chuyển tải thông điệp có thể theo chủ quan.
3.1.1.4. Chưa có nhiều cán bộ quản lý báo chí đối ngoại có tr nh độ ngoại ngữ giỏi
Vấn đề rất lớn đặt ra hiện nay cho chủ thể quản lý báo chí đối ngoại là địa bàn,
phạm vi hoạt động của báo chí đối ngoại ở nhiều nước, nhiều khu vực và nền văn hóa
trên thế giới, và lực lượng phóng viên, biên tập viên, đội ngũ chuyên gia nước ngoài
tham gia hiệu đính tương đối đông đảo và đội ngũ này tác nghiệp bằng nhiều thứ tiếng
khác nhau, trong khi đó lực lượng cán bộ quản lý báo chí, nhất là ở Trung ương ở hai
đơn vị, trong đó đơn vị chủ lực là Cục Thông tin đối ngoại thuộc Bộ Thông tin và
Truyền thông và Vụ Báo chí-Xuất bản thuộc Ban Tuyên giáo Trung ương và ở địa
phương là Sở Thông tin và Truyền thông đều mỏng và trình độ, năng lực còn hạn chế,
123
thiếu cán bộ quản lý báo chí biết nhiều ngoại ngữ để có thể chủ động thực hiện các
nghiệp vụ quản lý, để tìm hiểu, nghiên cứu cũng như định hướng cho sự phát triển của
báo chí đối ngoại
Việc chuyển ngữ giữa tiếng Việt ra tiếng nước ngoài thường có nhiều khó khăn
do sự khác biệt về văn hóa, sự khác biệt về ngữ nghĩa,... cho nên đội ngũ cán bộ quản
lý báo chí đối ngoại phải tinh thạo không chỉ một ngoại ngữ mà còn phải sử dụng
thành thạo nhiều ngôn ngữ khác nhau. Chuẩn mực văn phong, cách tổ chức nội dung
thông tin ở báo chí đối ngoại luôn được xem là một trong những điểm nhấn quan trọng
để người đọc sẵn sàng tiếp nhận. Như vậy, năng lực, trình độ ngoại ngữ cũng là thách
thức khá lớn với việc quản lý báo chí đối ngoại, một phương tiện quan trọng góp phần
phục vụ triển khai các chính sách phát triển kinh tế - xã hội - văn hóa, an ninh, quốc
phòng bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo [148],
cán bộ quản lý cần có năng lực ngoại ngữ, am hiểu nghiệp vụ quản lý báo chí đối ngoại.
3.1.2. Nội dung quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại chưa phong phú,
chưa đa dạng, còn đơn đơn điệu nên thiếu tính hấp dẫn
Cho đến nay, Chính phủ mới có duy nhất một Quyết định về Phê duyệt Quy
hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 số
2434/QĐ-TTg ngày 13 tháng 12 năm 2016, và trong Quyết định này, tại Điều 1 cho
rằng “Báo chí đối ngoại là một trong những lực lượng quan trọng của công tác thông
tin đối ngoại” [148], cho nên ranh giới giữa quản lý báo chí đối ngoại và quản lý thông
tin đối ngoại vẫn chưa được phân định rõ ràng. Điều này gây những khó khăn nhất
định cho việc xây dựng các nội dung quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại.
Với sự ra đời của Quyết định số 2434/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về
Phê duyệt Quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2020, định hướng đến năm
2030, đặt nền móng quan trọng cho sự phát triển của báo chí đối ngoại. Trong Quyết
định này không nêu lên quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại, thay vào đó là giải
pháp tăng cường xây dựng nội dung, do vậy, cho đến nay việc quản lý báo chí đối
ngoại vẫn chủ yếu dựa trên các nội dung quản lý nhà nước về báo chí nói chung theo
Luật Báo chí năm 2016, với 10 nội dung.
Với việc thực hiện quản lý báo chí theo Luật Báo chí năm 2016 sẽ bao gồm báo
chí nói chung, trong đó có cả thông tin đối ngoại và báo chí đối ngoại, nhưng báo chí
đối ngoại là lĩnh vực khá đặc thù, với nhiều đặc điểm riêng so với quản lý báo chí nói
124
chung. Trong số các nội dung quản lý nhà nước về báo chí, báo chí đối ngoại đã thực
hiện khá hiệu quả nội dung xây dựng, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch phát triển báo chí. Các nội dung còn lại hầu như còn đang trên kế
hoạch, nên khi đi vào thực hiện quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại đang gặp không
ít khó khăn và có thể thấy khó khăn khá rõ là hiện nay chưa có văn bản cụ thể và trực
tiếp quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại.
Do chưa có những văn bản quy định nội dung quản lý nhà nước về báo chí đối
ngoại, nên khi thực hiện theo các nội dung đã nêu trong Luật Báo chí năm 2016, như
thực hiện chế độ, chính sách về báo chí chưa thỏa đáng vì cán bộ báo chí đối ngoại có
địa bàn hoạt động lớn, phương tiện phục vụ cho việc tác nghiệp cần hiện đại dường như
nội dung này chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế, và xu hướng tòa soạn hội tụ đang dần
trở nên phổ biến chúng ta lại chưa đáp ứng tốt, cho nên nội dung tổ chức thông tin cho
báo chí có thể không kịp thời hoặc cách tổ chức thông tin chưa sinh động để đáp ứng tốt
với yêu cầu của đối tượng của báo chí đối ngoại vốn rất nhạy cảm thông tin.
Nội dung quản lý về đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ,
đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ người làm báo của các cơ quan báo chí và cán bộ
quản lý báo chí đang được thực hiện như cán bộ báo chí nói chung, chưa có sự phân
biệt. Có thể thấy đội ngũ phóng viên, biên tập viên làm công tác báo chí đối ngoại phải
có khả năng am hiểu ngoại ngữ, họ cần có trải nghiệm thực tiễn để nội dung bài viết có
sự thích ứng văn hóa lại không được quan tâm thỏa đáng. Ngoài ra, những nội dung
quản lý về nghiên cứu, đầu tư cho hoạt hoạt động khoa học, công nghệ cũng được thực
hiện đồng thời với báo chí nói chung. Với đặc thù cả về tổ chức nội dung, về đội ngũ
cán bộ làm báo, cán bộ làm báo được xem như những nhà báo quốc tế thì họ vẫn nằm
trong phạm vi của các nội dung quản lý báo chí nói chung. Nội dung quản lý về công
tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về báo chí hiện cũng chưa có những
tiêu chí cụ thể, dẫn đến những khó khăn khi xem xét trách nhiệm trong việc quản lý
đội ngũ phóng viên, nhà báo, nhất là quản lý việc thuê đội ngũ cán bộ biên tập, hiệu
đính là người nước ngoài, nên thực tế các văn phòng đại diện ở nước ngoài hiện cũng
chưa mạnh dạn thuê, mời các phóng viên, biên tập viên người nước ngoài tham gia vào
các khâu để cho ra đời một tờ báo đối ngoại cả báo in và báo điện tử đối ngoại.
Theo như Quyết định số 2434/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt
Quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, về cơ
125
chế chính sách đề cập đến việc cho phép cung cấp thông tin đối ngoại lên mạng xã hội và
khuyến khích đầu tư cho các sáng kiến, dự án nâng cao hiệu quả thông tin đối ngoại,
nhưng khó khăn đặt ra là nội dung về quản lý chính sách này chưa có. Ngoài ra, quản lý
“chính sách khuyến khích, hỗ trợ người Việt Nam ở nước ngoài xuất bản báo, tạp chí cho
người Việt bảo đảm trao đổi nội dung thông tin, phù hợp với định hướng thông tin đối
ngoại” [148]. Tuy vấn đề này được Chính phủ rất quan tâm, nhưng thực tế vấn đề nội
dung quản lý đội ngũ người Việt Nam ở nước ngoài được phép xuất bản báo chí ở nước
ngoài, cách thức quản lý về nội dung thông tin trên các báo được người Việt Nam ở nước
ngoài tham gia sản xuất còn chưa thực hiện được mặc dù Nhà nước đã có chủ trương.
Trong bối cảnh thông tin đang phát triển mạnh mẽ như hiện nay, chủ trương
khuyến khích, hỗ trợ người Việt Nam ở nước ngoài xuất bản báo, tạp chí cho người
Việt ở chủ trương đúng đắn, thể hiện quan điểm của Đảng về sự tự do báo chí, song
khó khăn lớn ở đây không có nghĩa chỉ có người Việt ở nước ngoài mới đọc, mà sẽ có
cả người nước ngoài đọc. Vì vậy, khi được phép hoạt động, họ không chỉ xuất bản
bằng tiếng Việt mà hoàn toàn có thể xuất bản bằng các thứ tiếng khác dẫn đến vấn đề
quản lý cũng trở nên khó khăn hơn. Chính vì vậy, chúng ta có quy hoạch phát triển báo
chí đối ngoại đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 và để quy hoạch này đạt được
về thực chất là khó khăn lớn, do thiếu các nội dung quản lý báo chí đối ngoại, là cản
trở lớn để báo chí đối ngoại thực sự là một bộ phận trong công tác tuyên truyền và
công tác tư tưởng của Đảng.
3.1.3. Phương thức quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại còn thiếu các văn
bản chỉ đạo cụ thể trong hoạt động của báo chí đối ngoại, các cơ quan quản lý chưa
kịp thời, sát sao cũng như công tác thanh tra, kiểm tra còn chậm do thiếu cơ chế cụ thể
Cho đến nay Việt Nam đã có Luật báo chí (2016), trong đó có nội dung quản lý
báo chí nhưng không có phương thức quản lý báo chí và trong Quyết định
số 2434/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt quy hoạch hệ thống báo chí đối
ngoại đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 và gần đây nhất, ngày 03 tháng 4 na m
2019 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 362/QĐ-TTg Phe duyẹ t Quy
hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến na m 2025. Cùng với những văn bản
trực tiếp chỉ đạo quản lý hoạt động của báo chí nói chung và quản lý báo chí đối ngoại
nói riêng còn có một số văn bản về quản lý thông tin đối ngoại như Quy chế Quản lý
nhà nước về thông tin đối ngoại Thủ tướng Chính phủ (Ban hành kèm theo Quyết định
126
số 79/2010/QĐ-TTg ngày 30 tháng 11 năm 2010),... cùng với các văn bản trên còn có
những văn bản khác ít nhiều có liên quan đến quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại
nhưng điểm chung của các văn bản này đều không đề cập đến phương thức quản lý
báo chí nói chung cũng như phương thức quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại, trong
khi phương thức quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại phải thông qua các công cụ
quản lý là các văn bản quy phạm pháp luật. Đây có thể được xem như một trong
những vấn đề đặt ra rất lớn cho các cơ quan quản lý báo chí cũng như đội ngũ cán bộ
quản lý báo chí đối ngoại, do thiếu công cụ là văn bản chỉ dẫn về phương thức quản lý
đối với báo chí đối ngoại.
Quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại bằng pháp luật và thông qua pháp luật.
Cho đến nay Nhà nước đã ban hành một hệ thống văn bản pháp luật về quản lý báo chí
tương đối đầy đủ và toàn diện, trong đó Hiến pháp là đạo luật cơ bản, Luật Báo Chí
năm 2016, Nghị định số 72/2015/NĐ-CP, Nghị định số 88/2012/NĐ-CP, Chỉ thị số
10/2000/ CT-TTg, Quyết định số 388/QĐ-TTg, Quyết định 79/2010/QĐ-TTg, Quy
chế Quản lý nhà nước về thông tin đối ngoại (Ban hành kèm theo Quyết định số
79/2010/QĐ-TTg, ngày 30 tháng 11 năm 2010), Quyết định số 2434/QĐ-TTG Phê
duyệt quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2020, định hướng đến năm
2030,... những văn bản pháp luật đảm bảo cho các cơ quan quản lý báo chí đủ thẩm
quyền, trách nhiệm trong việc quản lý báo chí đối ngoại.
Do thiếu phương thức quản lý báo chí đối ngoại nên mặc dù Chính phủ đã phê
duyệt quy hoạch phát triển hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2025 và tầm nhìn đến
năm 2030 và khẳng định báo chí đối ngoại là bộ phận trong công tác tuyên truyền và
công tác tư tưởng của Đảng, song các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại vẫn lúng túng
trong việc cho phép người Việt sinh sống ở nước ngoài được xuất bản các tạp chí phục
vụ cho cộng đồng người Việt, thuê phóng viên, biên tập viên nước ngoài tham gia hiệu
đính. Mặt khác, có thể có nhiều cơ quan có đủ năng lực tham gia vào lĩnh vực sản xuất
báo chí đối ngoại, nhưng thiếu phương thức quản lý, thiếu những định chế nên đến nay
Thông tấn xã Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam vẫn là
các cơ quan chủ lực. Các báo, tạp chí in, báo điện tử đối ngoại khác được coi là
lực lượng bổ sung cho các cơ quan báo chí đối ngoại. Vì vậy, công tác quản lý báo chí
đối ngoại ngày càng trở nên khó khăn, phức tạp hơn và nếu phương thức quản lý nhà
nước đối với báo chí đối ngoại với các định chế được xác định rõ ràng, chi tiết sẽ làm
127
cho báo chí đối ngoại ngày càng phát triển, đóng góp tích cực vào đường lối đối ngoại
của Đảng, đấu tranh với những luận điệu sai trái, xuyên tạc đường lối của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đất nước.
Mặt khác, các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại từ Trung ương đến địa
phương, đó là Bộ Thông tin và Truyền thông chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực
hiện quản lý nhà nước về báo chí, Sở Thông tin và Truyền thông chịu trách nhiệm
trước Ủy Ban nhân dân tỉnh thống nhất quản lý báo chí đối ngoại nhưng do thiếu
những chế định đó là phương thức quản lý báo chí cụ thể nên đang dựa vào các văn
bản chỉ đạo chung về quản lý báo chí. Vì vậy, trong định hướng của Chính phủ cho
phép mở văn phòng đại diện ở nước ngoài như hiện tại chúng ta mới có 30 văn phòng
đại diện ở 28 nước, ở địa phương mới có một số tỉnh có một số chương trình phát sóng
đối ngoại, trong khi đó thế giới đang có sự phát triển mạnh của báo điện tử, nhưng hầu
như chúng ta chưa đẩy mạnh các hoạt động này do thiếu phương thức quản lý với
chính các cơ quan sản xuất báo chí. Việc quản lý các văn phòng đại diện ở nước ngoài
hiện có nhiều bất cập, ngoài việc quản lý theo pháp luật Việt Nam chúng ta còn tuân
thủ theo pháp luật của nước sở tại.
Do chưa có những phương thức quản lý báo chí đối ngoại một cách cụ thể nên
trong công tác kiểm tra, giám sát hiện tuân theo quy định và thủ tục nói chung theo các
quy định của đảng về giám sát đảng viên và giám sát các hoạt động chuyên môn, nên
ngay cả khi các cơ quan và cá nhân làm báo chí đối ngoại có thành tích xuất sắc hoặc
được đánh giá cao cần được biểu dương, tôn vinh vì có những thành tích quan trọng
vào việc “tuyên truyền, giới thiệu, quảng bá hình ảnh đất nước, lịch sử, văn hóa, và
con người Việt Nam, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, đặc biệt trong các lĩnh
vực biên giới, lãnh thổ, dân chủ, nhân quyền của Việt Nam” [38], thì các cơ quan quản
lý báo chí cũng không mạnh dạn biểu dương vì thiếu những căn cứ.
Thực chất trách nhiệm quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại không chỉ là trách
nhiệm riêng của Bộ Thông tin và Truyền thông mà có sự phối hợp giữa các cơ quan
khác ở Trung ương như Ban Tuyên giáo Trung ương, Văn phòng Chính phủ, Bộ Ngoại
giao, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Công an trong các hoạt động thanh tra, kiểm tra
hoạt động của các cơ quan báo chí đối ngoại; xét khen thưởng, kiến nghị xử lý các
hành vi vi phạm pháp luật về báo chí đối ngoại nhưng chúng ta cũng chưa có cơ chế
phối hợp cụ thể.
128
1.3.4. Nguồn lực quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại còn hạn chế, làm cho
hoạt động của báo chí đối ngoại khó phát triển trước bối cảnh ứng dụng mạnh mẽ
của công nghệ hiện đại, điều này đòi hỏi sự đầu tư lớn về kinh phí
Báo chí đối ngoại được xác định là một trong những lực lượng quan trọng trong
công tác tuyên truyền các chủ trương, đường lối của Đảng ra thế giới, đồng thời tuyên
truyền, giới thiệu, quảng bá hình ảnh đất nước, lịch sử, văn hóa, và con người Việt
Nam với bạn bè quốc tế. Mặt khác, báo chí đối ngoại góp phần tích cực vào công cuộc
đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, đặc biệt trong các lĩnh vực biên giới, lãnh
thổ, dân chủ, nhân quyền của Việt Nam. Muốn vậy, báo chí đối ngoại phải không
ngừng mở rộng địa bàn hoạt động, tăng cường mở các văn phòng đại diện, mở rộng
đội ngũ cộng tác viên, phóng viên, chuyên gia nước ngoài tham gia vào quy trình sản
xuất, nhưng hiện tại tiềm lực và khả năng dành cho hoạt động của báo chí đối ngoại
còn hạn chế.
Trước tầm quan trọng như vậy của báo chí đối ngoại, Chính phủ với chủ trương
đầu tư có hiệu quả về tài chính, con người, cơ sở vật chất cho cơ quan báo chí phục vụ
nhiệm vụ đối ngoại, đặc biệt ứng dụng các phương thức truyền thông điện tử mới để
xây dựng và phát triển báo điện tử phục vụ mục tiêu đối ngoại. Nhưng thực tế hiện
nay, việc làm báo có sự biến chuyển mạnh mẽ, đó là những ứng dụng trên các nền tảng
công nghệ hiện đại, song chi phí lớn và đi liền với chi phí để hoạt động còn có chi phí
để quản lý, bảo trì, nâng cấp cũng cần đến nguồn ngân sách không nhỏ. Mặt khác, để
nâng cao hiệu quả hoạt động của báo chí đối ngoại. Chính phủ cũng khuyến khích các
cơ quan báo chí đối ngoại tăng cường sử dụng các phương thức truyền thông mới. Với
tiềm lực, ngân sách của các cơ quan báo chí đối ngoại hiện còn hạn chế nên khó có thể
đáp ứng được chủ trương mà Chính phủ đề ra cho các cơ quan báo chí đối ngoại từ nay
đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 có hệ thống cơ sở vật chất hiện đại.
Đi liền với hệ thống cơ sở vật chất làm báo hiện đại không thể không có ngân
sách để đầu tư cho việc đào tạo đội ngũ cán bộ báo chí về ngoại ngữ, tin học, cách
thức tác nghiệp trên các phương tiện này.Vì vậy giải pháp về tài chính mà Chính phủ
đưa ra theo Quyết định số 2434/QĐ-TTg Phê duyệt quy hoạch hệ thống báo chí đối
ngoại đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 từ năm 2016 đó là “Tăng cường đầu
tư ngân sách cho nghiên cứu khoa học, đào tạo, bồi dưỡng báo chí đối ngoại, tăng
cường đầu tư, đổi mới và hiện đại hóa cơ sở vật chất, kỹ thuật của các cơ quan báo chí
129
đối ngoại, đặc biệt là các cơ quan báo chí đối ngoại chuyên biệt” [148]. Kể từ đó đến
nay ngân sách đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất được tăng cường đáng kể, nhưng sự
chuyển biến và đầu tư của các nước cho công nghệ làm báo cũng gia tăng mạnh mẽ
nên việc đầu tư các nguồn lực cho làm báo hiện còn khoảng cách khá xa với những
yêu cầu mà thực tế đặt ra cho các cơ quan báo chí đối ngoại.
Đầu tư nguồn lực cho các cơ quan báo chí đối ngoại đã khó khăn nên đầu tư cho
việc quản lý báo chí đối ngoại cũng khó khăn không nhỏ. Khác với đầu tư cho quản lý
báo chí đối nội chủ yếu diễn ra ở phạm vi trong nước, quản lý báo chí đối ngoại không
chỉ ở ở một văn phòng đại diện mà chúng ta có nhiều văn phòng đại diện, đội ngũ cán
bộ báo chí đối ngoại tác nghiệp ở nhiều nước, nhiều châu lục và cả với đội ngũ phóng
viên, biên tập viên, chuyên gia nước ngoài được thuê để tham gia vào sản xuất báo chí
đối ngoại.
Những khó khăn, rào cản về nguồn lực đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự chuyển
đổi công nghệ làm báo cũng như cho công tác quản lý báo chí đối ngoại, khó khăn về
kinh phí có thể tác động đến sự tăng cường sự phối hợp với các cơ quan có liên quan
trong quản lý báo chí đối ngoại. Không những vậy, nguồn lực đầu tư cho hoạt động
nghiên cứu, dự báo để phát triển báo chí đối ngoại cũng đang gặp nhiều khó khăn.
Việc tăng cường nguồn lực cho báo chí đối ngoại là một chiến lược truyền thông khôn
ngoan mà nhiều quốc gia trên thế giới đang áp dụng và ngày càng xây dựng thành
những đế chế hùng mạnh, các nước có nền báo chí phát triển đang tích cực xây dựng
những tập đoàn báo chí trở thành những tập đoàn kinh tế lớn, nổi trội nhất là ở các
quốc gia có nền kinh tế phát triển, để quảng bá cho quốc gia mình, thể hiện rõ quan
điểm, đường lối lãnh đạo, trách nhiệm và vị trí quốc gia trong môi trường chính trị
toàn cầu.
3.2. Xu hướng quản lý báo chí đối ngoại của Việt Nam trong những năm tới
Trong thời đại bùng nổ thông tin và xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng
của Việt Nam với thế giới như hiện nay, báo chí đối ngoại càng trở nên quan trọng hơn
bao giờ hết nhất là Việt Nam đang được coi là điểm đến an toàn cho các nhà đầu tư
nước ngoài. Báo chí đối ngoại là công cụ quan trọng cho các nhà đầu tư và cộng đồng
người Việt Nam đang sinh sống, có mặt tại nhiều nước trên thế giới muốn tìm kiếm
thông tin. Trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng luôn coi báo chí đối ngoại là
phương tiện quan trọng chuyển tải những thông điệp lãnh đạo của Đảng về những
130
thành tựu sau hơn 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới của đất nước, kêu gọi sự đồng
tình, ủng hộ của nhân dân thế giới, vừa bảo vệ nền độc lập, vừa từng bước phá thế bao
vây cấm vận, chống quan điểm thù địch nhằm xây dựng một nước Việt Nam hòa bình,
hữu nghị. Để đạt được những thành tựu trên, có thể thấy một số xu hướng phát triển
của báo chí đối ngoại trong thời gian tới:
- Hiện tại và trong những năm tới, quản lý báo chí đối ngoại tiếp tục phát triển
theo hướng làm tốt công tác tham mưu cho Đảng, Nhà nước về đường lối đối ngoại.
Tham mưu, định hướng về tầm nhìn dài hạn của đất nước, đưa ra những dự báo về tình
hình khu vực và thế giới để có chiến lược, sách lược đúng đắn về đường đối ngoại
phục vụ sự phát triển, hội nhập của Việt Nam với thế giới. Xác định trọng tâm, trọng
điểm trong công tác đưa tin, viết bài phù hợp với nhu cầu ngày càng cao của người dân
các nước cũng như người Việt Nam ở nước ngoài. Báo chí đối ngoại còn tham gia vào
thúc đẩy và gia tăng mối quan hệ nhiều mặt của Việt Nam với các nước, giữa hội nhập
quốc tế với độc lập chủ quyền nhưng kiên định và giữ vững bản sắc dân tộc, về
phương châm chỉ đạo hoạt động đối ngoại của Đảng, khuyến khích các báo, tạp chí
xây dựng các chuyên mục, bài viết phục vụ nhiệm vụ đối ngoại; kiên quyết đấu tranh,
làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị của
đất nước, bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của nhà nước
đối với các hoạt động đối ngoại [64].
- Chỉ đạo và xây dựng và phát triển các ấn phẩm báo chí đối ngoại hấp dẫn,
hiện đại, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người đọc, đồng thời thiết lập mối quan
hệ với các cơ quan quản lý báo chí, các hãng thông tấn, cơ quan truyền thông lớn của
nước ngoài. Theo Quyết định số 2434/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê
duyệt quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2020 và định hướng đến năm
2030, xây dựng hệ thống báo chí đối ngoại Việt Nam có trọng tâm, trọng điểm nhất,
đặc biệt là các nước láng giềng, các nước lớn, các nước trong khối ASEAN, Mỹ, Liên
minh Châu Âu, Nhật Bản, các nước khu vực Mỹ Latinh, cộng đồng người Việt Nam
đang sinh sống, học tập ở nước ngoài, công tác bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, chủ
quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo. Để có thể tạo nên các ấn phẩm báo chí đối ngoại
sinh động, hấp dẫn công tác nghiên cứu thị hiếu của người đọc, hình thức trình bày,...
sẽ được quan tâm đầu tư nhiều hơn. Trong Báo cáo toàn cầu về đổi mới sáng tạo trong
131
báo chí 2010 - 2021 đề cập rất chi tiết về sự sáng tạo trong thiết kế và nội dung trên
báo chí: Sáng tạo trong video, tương tác với độc giả, dữ liệu. Nancy Gauss giám đốc
điều hành phụ trách mảng video của The New York Times cho biết “Chúng tôi cố
gắng trở thành đối tác của phía chuyên về nội dung cho báo in để phát triển các ý
tưởng từ dưới lên, để thực sự có thể tận dụng được sức mạnh của video” [88]. Việc
đầu tư nhiều hơn về con người, cơ sở vật chất cho cơ quan báo chí đối ngoại, ứng dụng
các phương thức truyền thông điện tử mới để xây dựng và phát triển báo điện tử ngày
càng trở nên phổ biến. Một số báo điện tử đối ngoại chuyên biệt, chủ lực được phát
hành bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Trung Quốc, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Nga sẽ
được ưu tiên tăng cường để trở thành báo điện tử mạnh có lượng truy cập lớn. Cùng
với đó, một số tờ báo in, tạp chí in đối ngoại chuyên biệt phát hành bằng Tiếng Anh,
tiếng Pháp, tiếng Trung Quốc, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Nga được đầu tư mang tầm
khu vực và thế giới.
Quản lý báo chí đối ngoại ngày càng chú trọng sâu hơn vào những tiềm năng,
thế mạnh của Việt Nam, đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo, giữ vững an ninh chính
trị, ổn định đất nước. Xây dựng chuyên đề chuyên sâu về đấu tranh chống âm mưu
“diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, phản bác các luận điệu sai trái,
xuyên tạc của các thế lực thù địch. Với sự phát triển của báo chí đối ngoại hiện nay,
các nước có nền kinh tế phát triển luôn gây ảnh hưởng bằng việc đưa thông tin lên báo
chí, đó cũng là chiến lược khôn ngoan bởi phạm vi tác động lớn, tính hiệu quả cao. Do
đó, các tập đoàn truyền thông sẽ ngày càng khai thác sâu hơn vào xu hướng này và
ngày càng vươn tầm ảnh hưởng ra thế giới với nhiều hoạt động khác nhau, cách quảng
bá khác nhau nhằm vào nhiều nhu cầu khác nhau của con người. Báo chí đối ngoại của
Việt Nam cũng không đứng ngoài cuộc mà cần phải thay đổi về nội dung, chiến lược.
- Những ứng dụng của công nghệ thông tin và những nền tảng công nghệ hiện
đại vào quản lý báo chí đối ngoại được đẩy mạnh
Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, nhất là trong giai đoạn cách mạng công
nghiệp 4.0 đang tác động trực tiếp đến cách chúng ta sống và làm việc, điều này tất
yếu tác động đến việc ứng dụng công nghệ vào quản lý báo chí đối ngoại.
Khẳng định công nghệ số sẽ thay đổi báo chí và ảnh hưởng đến báo chí trong
một chặng đường dài, “Chúng ta có niềm tin vững chắc rằng, công nghệ số sẽ giúp cho
báo chí thực hiện sứ mạng của mình tốt hơn. Thế nhưng, chúng ta phải thay đổi, trước
132
khi công nghệ chuyển sứ mạng cho một lực lượng thay thế khác” (Thái An, 2019).
Chính vì vậy, việc ứng dụng công nghệ số sẽ góp phần nâng cao hiệu quả quản lý báo
chí mọi lúc, mọi nơi, đặc biệt là tính tương tác nhanh, việc phổ biến các chủ trương,
chính sách quản lý báo chí đến các cá nhân làm báo chí đối ngoại nhanh và thuận lợi.
Tại Ban đối ngoại của VOV5, lãnh đạo Ban chia sẻ rằng: “Chúng tôi có hệ thống khi
thiết kế trang website, comment của độc giả gửi đến chỉ hiện thị ở mục phản hồi của
thính giả, không hiển thị trên trang web. Sau đó lãnh đạo chương tr nh mới là người
duyệt những comment đó”.
Bên cạnh sự chủ động của các cấp lãnh đạo trong việc ứng dụng công nghệ số
vào quản lý báo chí, trước sự tác động của công nghệ cũng đặt ra cho các cấp lãnh đạo
phải đổi mới tư duy và phong cách quản lý báo chí đối ngoại, nhạy bén với cách quản
lý báo chí đối ngoại để không chỉ đáp ứng vai trò của cơ quan lãnh đạo mà còn thích
ứng với xu hướng quản lý báo chí mới của thế giới. Điều này tạo cũng góp phần vào
việc hội nhập công tác quản lý đối với báo chí đối ngoại ngày càng sâu rộng với quản
lý báo chí đối ngoại của thế giới. Mặt khác, báo chí điện tử đang có xu hướng phát
triển mạnh mẽ, nếu chỉ chú trọng vào quản lý báo chí theo cách truyền thống sẽ khó
theo kịp được với các sự phát triển của báo chí đối ngoại hiện đại. Vì vậy, xu hướng
chung trong quản lý báo chí đối ngoại ngày càng ứng dụng mạnh mẽ những thành tựu
của những nền tảng công nghệ hiện đại, nhất là công nghệ số.
3.3. Một số giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại
trong thời gian tới
3.3.1. Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của công tác quản lý nhà nước
về báo chí đối ngoại
3.3.1.1. Nâng cao nhận thức của các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại
Nhận thức đúng là cơ sở để thực hiện đúng đắn quan điểm, đường lối lãnh đạo
của Đảng và sự quản lý của Nhà nước về báo chí đối ngoại hành động đúng. Do vậy,
cơ quan quản lý nhà nước về báo chí phải tìm hiểu, nắm vững chuyên môn trong lĩnh
vực công tác, tạo vốn kiến thức và kinh nghiệm thuận lợi cho quá trình công tác (Vụ
Thông tin báo chí - Bộ Ngoại giao, 2007).
Để các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại thực hiện tốt nghiệm vụ quản lý báo
chí đối ngoại, việc nâng cao nhận thức về việc chấp hành đúng chủ trương, sự lãnh đạo
của Đảng của Đảng về công tác báo chí là nhiệm vụ trọng tâm. Đảng luôn xác định
133
báo chí là một mặt trận trong công tác tuyên truyền chủ trương, về đường lối hòa bình,
hữu nghị và mở rộng hợp tác quốc tế. Chính vì vậy, các cơ quan quản lý báo chí cần
nắm vững định hướng của Đảng, giúp các cơ quan báo chí thực hiện tốt nhiệm vụ
trong việc đưa đường lối của Đảng đến với người dân ở các nước, vùng lãnh thổ và
khu vực trên thế giới, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, làm cho họ thực sự
hiểu đúng đắn về chủ trương tốt đẹp của Đảng và Nhà nước trong việc thiết lập và xây
dựng các mối quan hệ cùng có lợi, vì các mục tiêu chung.
Các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại từ Trung ương tới địa phương có sự phối
hợp chặt chẽ, thống nhất trong chỉ đạo các cơ quan báo chí đối ngoại luôn đảm bảo tôn
chỉ, mục đích. Sự phối hợp giúp cho các cơ quan báo chí cũng như hoạt động của báo
chí đối ngoại ngày càng phát triển, đặc biệt là hình thức đưa tin ngày càng phong phú,
đa dạng. Hơn nữa, có thể thông qua công tác quản lý để góp phần chỉ đạo, định hướng
các cơ quan báo chí đối ngoại ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin, sử dụng công
nghệ số và việc xuất bản, thực sự làm cho báo chí đối ngoại trở thành phương tiện
quan trọng của Đảng, của Nhà nước về phát triển đường lối đối ngoại, đưa thông tin
trong nước ra ngoài nước một cách hiệu quả.
Mặt khác, các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại cần nhạy bén trong việc nắm
bắt nhu cầu thông tin của độc giả ngoài nước, và hướng dẫn cách tổ chức thông tin
hiệu quả trên báo chí đối ngoại. Như vậy, các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại không
chỉ nắm vững nghiệp vụ quản lý báo chí mà còn cần có nhận thức đầy đủ, nhạy bén
trong việc hướng dẫn cách tổ chức nội dung báo chí đối ngoại đáp ứng tốt yêu cầu của
việc cung cấp thông tin về tình hình Việt Nam ra thế giới.
3.3.1.2. Nâng cao nhận thức của các cơ quan báo chí đối ngoại
Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư, dẫn đến sự ra đời và phổ
biến nhiều phương tiện truyền thông hiện đại, điều này làm cho báo chí đối ngoại cũng
có những tác động tích cực, tạo nên những ưu thế mới như tương tác trực tiếp, cá nhân
hóa thông tin, làm thay đổi mạnh mẽ cách thức tổ chức, quy trình sản xuất và phổ biến
nội dung, cho phép ra đời nhiều sản phẩm báo chí đối ngoại có chất lượng cao. Đặc
biệt với sự hỗ trợ của trí tuệ nhân tạo làm cho báo chí đối ngoại có thể có những tương
tác thường xuyên với độc giả. Tuy nhiên, trước những thuận lợi cũng đặt ra không ít
khó khăn cho báo chí đối ngoại bởi sự ra đời của các loại hình báo chí, truyền thông
hiện đại,... có thể làm cho báo chí đối ngoại truyền thống đối mặt với cạnh tranh với
134
các loại hình báo chí mới. Do vậy, các cơ quan báo chí đối ngoại cần sớm cập nhật
công nghệ mới trong làm báo, đổi mới phương thức tổ chức sản xuất, trong quá trình
tổ chức nội dung kịp thời nắm bắt tình hình trong nước để cung cấp ra nước ngoài một
cách nhanh chóng. Mặt khác, việc đưa những ứng dụng hiện đại vào để nâng cao hoạt
động của báo chí đối ngoại cần đội ngũ cán bộ báo chí, xuất bản đối ngoại đáp ứng yêu
cầu của tình hình mới, nhất là hiểu biết về nhận thức, nhu cầu thông tin của người dân
ở các quốc gia đặt văn phòng đại diện, làm cho báo chí đối ngoại ngày càng đóng góp
quan trọng vào công cuộc đối ngoại của Đảng với nhân dân thế giới.
Những tác động của khoa học và công nghệ làm báo, các cơ quan báo chí đối
ngoại không thể đứng ngoài cuộc khi tiếp tục tổ chức sản xuất báo chí theo cách truyền
thống. Ngày nay, xu hướng truyền thông đa phương tiện, truyền thông hội tụ,... báo chí
đối ngoại có nhiều điều kiện để tiếp cận. Với sự phổ biến của các trang mạng xã hội
khiến báo chí đối ngoại cũng phải cạnh tranh gay gắt. Nội dung của báo chí đối ngoại
luôn được kiểm chứng và khẳng định chắc chắn. Trong khi đó với ưu thế nhanh, nhạy,
tính tương tác cao và sự lan tỏa lớn..., mạng xã hội đang ngày càng cạnh tranh quyết
liệt với báo chí truyền thống. Mạng xã hội đã trở thành môi trường để một số người
truyền bá luận điệu sai trái, đưa ra thông tin xấu độc, gây hại làm cho thông tin chính
thống bị nhiễu loạn. Vì vậy, trước những xu hướng phát triển của báo chí, mạng xã
hội, các cơ quan báo chí đối ngoại cần nhận thức rõ hơn xu hướng phát triển của báo chí
nói chung cũng như báo chí đối ngoại nói riêng trong bối cảnh của cuộc cách mạng công
nghệ, về việc tổ chức khai thác và phổ biến thông tin, nắm bắt sự chỉ đạo của Đảng, hệ
thống các văn bản quản lý nhà nước với báo chí đối ngoại. Mặt khác, các cơ quan báo
chí đối ngoại cần đẩy mạnh sự hợp tác tổ chức và sản xuất báo chí đối ngoại của Việt
Nam với các cơ quan báo chí đối ngoại ở các nước trên thế giới mà Việt Nam có đặt văn
phòng đại diện. Qua đó thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị cũng như thực hiện công tác
đối ngoại của Đảng, của Nhà nước, là cầu nối quan trọng trong việc khai thác thông tin
đầy đủ, kịp thời về tình hình trong nước và phổ biến sớm nhất đến độc giả.
3.3.2. Đổi mới nội dung và phương thức quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại
Luật Báo chí và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về báo chí hiện hành dù
đã bao quát được khá đầy đủ các nội dung quản lý nhưng vẫn còn một số vấn đề chưa
được quy định hoặc quy định thiếu cụ thể, cần bổ sung (Nguyễn Minh Thuyết, 2015).
Các công cụ pháp lý không thể thay thế chỉ đạo chính trị đối với báo chí nói chung
135
cũng như báo chí đối ngoại nói riêng. Công cụ pháp lý được xem là công cụ chủ yếu,
cơ bản trong chỉ đạo hoạt động báo chí đối ngoại cũng như việc quản lý báo chí đối
ngoại, nhất là báo chí ngày càng trở thành phương tiện quan trọng trong việc chuyển
tải các thông điệp đến người dân, trong mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, cũng như
vấn đề tự do trong báo chí được pháp luật qui định. Đến nay, hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật trong lĩnh vực báo chí đã cơ bản có đủ các hình thức, gồm: Hiến pháp,
Luật Báo chí, Pháp lệnh, Lệnh của Chủ tịch nước, các nghị quyết, nghị định của Chính
phủ, quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, quyết định, chỉ thị, thông tư của Bộ
Thông tin và Truyền thông, thông tư liên tịch,... cùng với đó pháp luật về quản lý báo
chí đối ngoại đã được ban hành nhưng chưa nhiều mà chủ yếu tập trung và lĩnh vực
thông tin đối ngoại, chính vì vậy cần có giải pháp về việc hoàn thiện các văn bản, các
qui định đối với lĩnh vực báo chí đối ngoại, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động cũng
như hiệu quả quản lý báo chí đối ngoại ở nước ta hiện nay và trong những giai đoạn
tiếp theo.
Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý báo chí đối ngoại,
chú trọng đến công tác tổng kết hoạt động quản lý nhà nước bằng pháp luật, đồng thời
chú ý đến điều tra dư luận xã hội, khảo sát thực tiễn để có cơ sở thực tiễn trong cho
việc ban hành các văn bản quản lý tốt hệ thống báo chí đối ngoại theo phương châm
phát triển ổn định đi đôi với quản lý tốt. Đây vừa là định hướng mà còn là phương
châm trong quản lý báo chí đối ngoại. Việc hoàn thiện hệ thống các qui định pháp luật
quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại mà còn đi liền với việc xây dựng các chính sách
về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ báo chí đối ngoại cũng như cán bộ quản lý báo chí
đối ngoại đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Cụ thể, thường xuyên chú trọng đến hoạt
động bồi dưỡng, nâng cao trình độ, kiến thức pháp luật về quản lý báo chí đối ngoại cho
đội ngũ cán bộ báo chí đối ngoại cũng như cán bộ tham gia quản lý, để ngay từ khâu đưa
tin, viết bài cán bộ báo chí đã ý thức được những giới hạn mà pháp luật cho phép. Các
quy định pháp lý đối với quản lý hoạt động của báo chí đối ngoại càng đầy đủ, chi tiết,
thì càng có tác dụng ngăn ngừa các sai phạm. Ngoài ra, khi cần chấn chỉnh sai sót sẽ
thuận tiện và nhanh chóng được khắc phục hơn vì đã có các quy định pháp lý đồng bộ,
có sự minh bạch trong xử lý các vấn đề của hoạt động quản lý để vận dụng.
Việc hoàn thiện quy định pháp luật quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại trong
đó cần chú ý đến trách nhiệm, thẩm quyền các chủ thể tham gia quản lý báo chí đối
136
ngoại và hoạt động báo chí đối ngoại, quy định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của cơ
quan báo chí và người đứng đầu các cơ quan quản lý báo chí. Mặt khác, việc hoàn
thiện các quy định này còn phải chú ý đến cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý ở
Trung ương với các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại ở địa phương, sự phối hợp trong
quản lý việc đưa tin, viết bài giữa các cơ quan báo chí đối ngoại các địa phương, tránh
được trường hợp có những vấn đề mà cấp dưới có thể xử lý nhưng lại được đẩy lên
cho cơ quan ở cấp trên hoặc cấp dưới ngại xử lý. Xác định rõ thẩm quyền và trách
nhiệm giữa cơ quan quản lý nhà nước đối với báo chí đối ngoại.
Ban hành các quy định cụ thể để quản lý tốt hơn lĩnh vực báo chí phát thanh
truyền hình đối ngoại, báo điện tử vì đây là lĩnh vực mới và được dự đoán sẽ có xu
hướng phát triển mạnh mẽ trong tương lai. Do vậy, những quy định về nghiệp vụ báo
chí đối ngoại hiện đại có những thay đổi căn bản, dẫn đến sự thay đổi trong phương
pháp, cách thức, quản lý hoạt động báo chí đối ngoại.
Các qui định của pháp luật với báo chí đối ngoại còn thể hiện ở việc ban hành
những quy định về cơ chế, chính sách cho các cơ quan báo chí đối ngoại ở Trung ương
cũng như ở các địa phương trong huy động các nguồn lực từ xã hội hoạt động xã hội
hóa phục vụ hoạt động báo chí đối ngoại cũng như công tác quản lý báo chí đối ngoại.
Trong Đề án qui hoạch báo chí đối ngoại đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 có
đề cập đến xây dựng chính sách khuyến khích, hỗ trợ người Việt Nam ở nước ngoài
xuất bản báo chí cho người Việt Nam, việc thuê phóng viên người nước ngoài viết bài
trên báo chí đối ngoại song những qui định riêng về vấn đề bày chưa có những văn bản
cụ thể, nên cách áp dụng, triển khai chưa nhất quán, vì vậy việc xây dựng các cơ chế,
chính sách, pháp luật về việc khuyến khích, động viên các tổ chức người Việt Nam ở
nước ngoài cũng như người nước ngoài viết bài cho báo chí đối ngoại rất cần thiết.
Hoàn thiện các cơ chế, chính sách, pháp luật để từng bước nâng cao hiệu quả quản lý
hoạt động của báo chí cũng như quản lý báo chí đối ngoại trong tình hình hiện nay và
trong thời gian tới là công việc có ý nghĩa thực tiễn.
Hiện nay, các quy định về quản lý báo chí ở nước ta cần có sự hoàn thiện, đồng
bộ hơn nữa, làm cho việc tổ chức thực thi pháp luật báo chí đối ngoại của các cơ quan
quản lý Nhà nước tránh được sự chồng chéo, tạo sự thống nhất, xây dựng được cơ chế
phối hợp giữa các cơ quan trong quản lý Nhà nước về báo chí đối ngoại, hướng đến
thông lệ chung có tính phổ biến với quản lý báo chí đối ngoại ở các nước có nền báo
137
chí phát triển, giúp cho báo chí đối ngoại ngày càng phát triển cũng như công tác quản
lý ngày càng hiệu quả.
Báo chí đối ngoại cũng như báo chí trong nước, việc tiếp nhận bài viết, đăng
bài, ảnh đều có những qui định riêng phù hợp với tôn chỉ mục đích của tờ báo đó.
Trước hết, nội dung các bài viết trên báo chí đối ngoại phải đúng quan điểm, đường lối
của Đảng, pháp luật của Nhà nước về đối ngoại, góp phần vào việc tạo dựng ảnh
hưởng, vị thế, hình ảnh Việt Nam ra thế giới, các bài viết phải góp phần vào việc duy
trì lợi ích quốc gia, dân tộc, đồng thời không gây phương hại đến quan hệ đối ngoại,
hợp tác quốc tế giữa Việt Nam với các nước trên thế giới, các thông tin đăng tải không
gây kích động bạo lực, không tuyên truyền chiến tranh xâm lược gây hận thù giữa các
dân tộc và nhân dân các nước [39]. Những điều này cũng là tôn chỉ chung mà các báo
chí đối ngoại phải thực hiện và đã được Bộ Thông tin và Truyền thông đưa vào Dự
thảo lần 2 Thông tư quy định việc đăng, phát nội dung thông tin đối ngoại trên báo chí.
Mặt khác, trong giấy phép xuất bản của từng tờ báo đối ngoại, chẳng hạn ở Trung
ương là Báo VietnamNews, Báo ảnh Việt Nam, Báo điện tử Việt Nam thuộc Thông
Tấn xã Việt Nam; Ban Đối ngoại (VOV5), Kênh chương trình truyền hình phục vụ
cộng đồng người Viêt Nam ở nước ngoài VTC10 của Đài tiếng nói Việt Nam; Kênh
chương trình truyền hình đối ngoại quốc gia (VTV4) của Đài truyền hình Việt Nam,...
ở các địa phương, trên kênh phát thanh truyền hình đều có mục đối ngoại, trong đó xác
định rõ tôn chỉ mục đích.
Việc tiếp nhận, đăng các tin bài, ảnh có nội dung phù hợp với tôn chỉ, mục đích
được cấp phép tập trung và các nội dung gồm: Các nội dung bài viết về chính thức về
Việt Nam; nội dung quảng bá hình ảnh Việt Nam trên mọi lĩnh vực; hội nhập quốc tế;
chủ quyền biển, đảo, lãnh thổ, biên giới quốc gia; tình hình nhân quyền; công tác bảo hộ
công dân; cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài; tình hình quốc tế; giải thích, làm rõ,
đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về Việt Nam trên các lĩnh vực… các
nội dung tiếp nhận, đăng tải phải chính xác, kịp thời có kiểm chứng. Người làm báo đối
ngoại cũng như cán bộ quản lý báo chí đối ngoại phải thường xuyên, chủ động luôn đấu
tranh phản bác những thông tin sai sự thật, luận điệu xuyên tạc về Việt Nam.
Cũng theo Dự thảo Thông tư quy định việc đăng, phát nội dung thông tin đối
ngoại trên báo chí đối ngoại năm 2018, qui định việc đăng, phát nội dung thông tin
trên báo chí đối ngoại phải đảm bảo đăng, phát nhanh, kịp thời, chính xác quan điểm
138
của Nhà nước Việt Nam về các vấn đề quan trọng của Việt Nam và thế giới ở trang
nhất đối với báo in, trang chủ đối với báo điện tử, bản tin thời sự đối với kênh phát
thanh, truyền hình đối ngoại. Thời gian đăng, phát và ngôn ngữ được thể hiện trên báo
chí đối ngoại được xác định rõ, đồng thời việc sản xuất tin, bài trực tiếp bằng ngôn
ngữ tiếng nước ngoài. Ngoài ra, việc tiếp nhận, đăng các tin bài, ảnh có nội dung phù
hợp với tôn chỉ, mục đích được cấp phép trên các phương tiện truyền thông nước
ngoài chủ động đăng, phát các tin, bài, chương trình phát thanh, truyền hình quảng bá
hình ảnh Việt Nam trên các báo in, báo điện tử, kênh phát thanh, kênh truyền hình của
người Việt Nam ở nước ngoài.
Như vậy, các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại dựa trên tôn chỉ mục đích được
cấp phép để kiểm tra, quản lý hoạt động của nhà báo, phóng viên, cơ quan báo chí về
tiếp nhận, đăng các tin bài, ảnh. Có như vậy, báo chí đối ngoại sẽ luôn giữ được vai trò
lãnh đạo của Đảng, sự thống nhất quản lý của Nhà nước, các nội dung bài viết đáp ứng
được tính thời sự, tính đối ngoại, các vấn đề về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa trong
nước cũng như đời sống của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.
3.3.3. Tăng cường đầu tư ngân sách cho công tác nghiên cứu khoa học và
đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực; quan tâm đầu tư, đổi mới và hiện
đại hóa cơ sở vật chất, kỹ thuật của các cơ quan báo chí đối ngoại, đặc biệt là các cơ
quan báo chí đối ngoại chuyên biệt, báo điện tử
3.3.3.1. Đầu tư ngân sách cho nghiên cứu khoa học là một trong những giải
pháp quan trọng nhằm thực hiện tốt công tác dự báo xu hướng phát triển của báo chí
đối ngoại, chủ động nắm bắt tư tưởng, dư luận xã hội trong việc tiếp nhận thông tin
trên báo chí đối ngoại nhằm xử lý nhanh chóng, hiệu quả các vấn đề phức tạp nảy sinh
liên quan. Việc đầu tư ngân sách cho công tác nghiên cứu khoa học về quản lý báo chí
đối ngoại để kịp thời nhận diện rõ những biến chuyển, xu hướng phát triển của báo chí
đối ngoại, từ đó xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý báo chí có đủ năng lực làm việc
trong môi trường quốc tế, những hạn chế xuất phát từ vấn đề chất lượng quản lý báo
chí đối ngoại. Đồng thời công tác nghiên cứu khoa học quản lý báo chí đối ngoại sẽ
đưa ra những gợi ý về đường lối đối ngoại của Đảng về chiến lược, sách lược xây
dựng nền báo chí đối ngoại mang tính cách mạng cao. Đây là nhiệm vụ quan trọng của
cơ quan lãnh đạo quản lý báo chí các cấp, đảm bảo sự lãnh đạo sâu sát của Đảng đối
với báo chí đối ngoại, giúp các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại nhanh chóng cập
139
nhật được tình hình thực tiễn của đất nước, dư luận xã hội để kịp thời thông tin đến các
nước trên thế giới, người Việt Nam ở các châu lục.
Đối với cơ quan báo chí đối ngoại, cần có những qui định rõ về nhiệm vụ công
tác đối với cán bộ báo chí thuộc cơ quan mình. Với cán bộ mới tuyển dụng yêu cầu
cán bộ báo chí xây dựng bảng mô tả về công việc, các năng lực, sở trường, sở đoản để
phân công bố trí công việc phù hợp. Với cán bộ đang công tác nếu chưa đủ đáp ứng đủ
các tiêu chuẩn đối với cán bộ báo chí cần được đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn về chuyên
môn, nghiệp vụ. Cùng với công tác nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ, cán bộ báo chí
còn được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị để chủ động đấu tranh
với những hành vi tiêu cực, nắm vững đường lối lãnh đạo của Đảng, thực hiện tốt
nhiệm vụ được giao.
3.3.3.2. Phát triển nguồn nhân lực báo chí đối ngoại
Đối với cán bộ quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại, phải xây dựng tiêu chuẩn
đầu vào chặt chẽ, cần xây dựng tiêu chuẩn tuyển dụng trong đó qui định rõ về trình độ
nghiệp vụ báo chí, năng lực sử dụng công nghệ thông tin, trình độ ngoại ngữ, kiến thức
về quản lý, pháp luật và pháp luật trong lĩnh vực báo chí, có tư tưởng đổi mới trong
quản lý báo chí đối ngoại.
Sử dụng hình thức thi tuyển cán bộ quản lý báo chí đối ngoại từ trung ương đến
địa phương với sự đánh giá chặt chẽ, có sự tham gia đánh giá từ nhiều phía. Nội dung
thi tuyển cần linh hoạt, đa dạng, tập trung vào khía cạnh quản lý phát triển báo chí đối
ngoại. Đồng thời cần có sự qui hoạch để đào tạo, bồi dưỡng tạo nguồn cán bộ quản lý.
Kiên quyết không đưa vào bộ máy những người không đảm bảo về những tiêu chuẩn
về đạo đức, chính trị, thiếu kỹ năng lãnh đạo, quản lý, những cán bộ không có tư tưởng
đổi mới trong việc xây dựng và phát triển vững mạnh báo chí đối ngoại. Đưa ra khỏi
bộ máy những cán bộ được bổ nhiệm lâu nhưng thiếu tính sáng tạo, không có tham
mưu cho công tác lãnh đạo, quản lý báo chí.
Quyết định Phê duyệt quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2020, định
hướng đến năm 2030 của Thủ tướng Chính phủ ngày 13 tháng 12 năm 2016 chỉ rõ giải
pháp về nhân lực “Xây dựng, hoàn thiện và thực hiện chương trình đào tạo, bồi dưỡng
lực lượng cán bộ, các phóng viên của các cơ quan báo chí đối ngoại, đặc biệt là các
chuyên gia viết bài đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, sai trái của các thế lực
cơ hội, thù địch” [149].
140
3.3.3.3. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ báo chí đối ngoại
Trước hết cần tiến hành đổi mới công tác đào tạo cán bộ báo chí. Người làm báo
phải có khả năng phân tích, tổng hợp, đánh giá để có thể viết báo và cho ra những bài
báo có chất lượng, ngay từ khâu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ báo chí ngay từ việc tuyển
sinh cần có những qui định cụ thể, rõ ràng về phẩm chất chính trị, thái độ đối với nghề
nghiệp. Nội dung, chương trình đào tạo cần theo hướng phát triển năng lực thực tiễn làm
báo, kỹ năng viết báo, kỹ năng phản biện trên cơ sở khoa học, kỹ năng sử dụng ngoại
ngữ, tin học. Để nâng cao chất lượng đào tạo bồi dưỡng, ngoài đội ngũ giảng viên ở các
cơ sở đào tạo báo chí, có thể mời báo cáo viên, các nhà báo, những nhà quản lý báo chí
tham gia giảng dạy cũng, ngoài ra có thể mời báo cáo viên là những nhà báo nước ngoài
có kinh nghiệm trong làm báo chí đối ngoại, vừa xây dựng mối quan hệ hợp tác, vừa có
thể huy động đội ngũ này tham gia viết bài trên báo chí đối ngoại.
Đi liền với chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ báo chí về chuyên môn, nghiệp
vụ làm báo, với sự hội nhập quốc tế trong lĩnh vực báo chí, và sự phát triển mạnh của
báo chí điện tử, internet, truyền thông, hoạt động báo chí đối ngoại có những đổi mới,
bản thân đội ngũ báo cáo viên, giảng viên giảng dạy trong các cơ sở đào tạo cán bộ
báo chí phải được thường xuyên tập huấn, bồi dưỡng cập kỹ năng và công nghệ làm
báo hiện đại.
Quá trình hội nhập quốc tế đòi hỏi đội ngũ cán bộ quản lý báo chí phải có năng
lực đáp ứng được yêu cầu này. Nghị quyết số 26/NQ-TW, ngày 19 tháng 5 năm 2018,
Ban Chấp hành Trung ương 7 khóa XII đã xác định các mục tiêu, yêu cầu, lộ trình xây
dựng đội ngũ cán bộ có các cấp trong hệ thống chính trị có năng lực làm việc trong
môi trường quốc tế. Do đó các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại cần có giải pháp đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ báo chí đối ngoại trước hết về tư tưởng, lập trường, bản
lĩnh chính trị, đặc biệt là cán bộ quản lý các cơ quan báo chí đối ngoại ở Trung ương
thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng.
Hội nhập quốc tế luôn đặt ra yêu cầu cao cho đội ngũ cán bộ quản lý báo chí cách
mạng trình độ hiểu biết sâu rộng, năng lực chuyên môn báo chí cũng như năng lực,
trình độ quản lý báo chí đối ngoại, do đó, cán bộ quản lý báo chí thường xuyên phải
được bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ quản lý báo chí, định chế
luật pháp báo chí của các nước. Giải pháp về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản
lý báo chí đối ngoại cần tiến hành đồng bộ theo qui trình chặt chẽ, từ lập quy hoạch,
141
xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng; cử cán bộ đi học; chính sách hỗ trợ trong đòa
tạo, bồi dưỡng; nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng; bố trí, sử dụng cán bộ sau quá
trình đào tạo, bồi dưỡng có tính đến chất lượng sau đào tạo, bồi dưỡng.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý báo chí đối ngoại ngoài việc được
tiến hành theo cách hình thức tại chỗ và để có thể trao đổi, học hỏi kinh nghiệm quản
lý báo chí đối ngoại của các nước có nền báo chí phát triển, cách tổ chức và phương
thức đào tạo, bồi dưỡng được tiến hành theo hình thức giao lưu, hợp tác, trao đổi kinh
nghiệm đào tạo cán bộ quản lý báo chí. Xây dựng chính sách, chế độ ưu tiên cho các
lĩnh vực chuyên công nghệ làm báo trên nền tảng công nghệ hiện đại, công tác quản lý
chuyên sâu,...
3.3.3.4. Đầu tư, đổi mới và hiện đại hóa cơ sở vật chất, kỹ thuật của các cơ
quan báo chí đối ngoại.
Cùng với giải pháp đầu tư cho nghiên cứu khoa học, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ báo chí cũng như cán bộ quản lý báo chí đối ngoại còn phải chú trọng đến giải
pháp đầu tư, đổi mới và hiện đại hóa cơ sở vật chất, kỹ thuật của các cơ quan báo chí
đối ngoại, đặc biệt là các cơ quan báo chí đối ngoại chuyên biệt, báo điện tử. Với việc
qui hoạch hệ thống báo chí đối ngoại bằng nhiều thứ tiếng trên các loại hình, nhất là
báo điện tử nên việc đẩy mạnh đầu tư trang thiết bị kỹ thuật để quản lý báo chí đối
ngoại là môt giải pháp quan trọng, có tính cần thiết cao.
Đầu tư xây dựng nền tảng công nghệ kỹ thuật phục vụ công tác quản lý và khai
thác thông tin cho báo chí đối ngoại.Việc xây dựng nền tảng công nghệ làm báo hiện
đại vừa để bảo đảm khả năng khai thác thông tin, vừa để tổ chức xây dựng hình ảnh,
diện mạo báo chí đẹp tạo sự hấp dẫn, đồng thời cơ quan quản lý báo chí kịp thời phát
hiện ra những khiếm khuyết trong việc chỉnh sửa nội dung thông tin, rõ nhất là với báo
điện tử. Hiện nay với sự hỗ trợ mạnh mẽ của tin học các cơ quan quản lý đã viết những
chương trình phần mềm quản lý báo chí để kịp thời phát hiện ra những bài viết có nội
dung nhạy cảm, các phần mềm có thể phân tích, đánh giá về các nội dung thông tin,
thuận lợi cho viêc nhận bài, đăng bài, tạo thuận lợi cho việc lưu trữ khối lượng lớn
thông tin quản lý báo chí.
Để ngăn chặn tình trạng vi phạm bản quyền báo chí, các cơ quan báo chí sử
dụng công nghệ hiện đại, tiên tiến đồng thời tạo sự liên thông, liên kết giữa các cơ
quan báo chí đối ngoại trong việc tiếp nhận bài và đưa các nội dung thông tin lên báo
142
chí, tránh sự trùng lặp, giúp cơ quan quản lý báo chí kiểm soát được vấn đề bản quyền.
Đầu tư kinh phí để các cơ quan quản lý báo chí có thể mua một số phần mềm quản lý
báo chí, chẳng hạn như phần mền Grammarly, Hemingway App, Tone Analyzer,... các
phần mềm này có thể hỗ trợ các nhà báo, các cơ quan báo chí trong khâu sản xuất nội
dung mà còn giúp các cơ quan quan quản lý phát hiện các sai phạm trong tác phẩm
báo chí.
Công tác lưu chiểu báo chí đối ngoại cũng đóng vai trò quan trọng trong quản lý
báo chí, do đó cần đầu tư kinh phí, trang thiết bị cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động
thanh tra, kiểm tra, chú trọng vào việc hiện đại hóa hệ thống lưu chiểu. Với báo in, báo
nói, báo hình có thể được số hóa vừa tiết kiệm kinh phí, vừa dễ quản lý, với báo chí
điện tử sẽ có những thuận lợi hơn trong lưu chiểu. Mặt khác, các cơ quan quản lý báo
chí có hể huy động các nguồn lực xã hội tham gia công tác quản lý báo chí đối ngoại.
Trong quá trình quản lý, cần phải thường xuyên theo dõi, tổng hợp, đánh giá, rút kinh
nghiệm để ngày càng nâng cao hiệu quả quản lý báo chí đối ngoại, đáp ứng tốt nhu cầu
ngày càng cao của độc giả quốc tế và người Việt Nam ở nước ngoài.
3.3.4. Đổi mới tổ chức, bộ máy, cơ sở vật chất của các cơ quan quản lý báo
chí đối ngoại
3.3.4.1. Xây dựng cơ cấu bộ máy quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại hợp lý
Trong công tác xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm
pháp luật về báo chí, Quốc hội đã ban hành Luật Báo chí năm 2016, Thủ tướng Chính
phủ đã ban hành Quyết định phê duyệt quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến năm
2020, định hướng đến năm 2030; Đề án Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí đến
năm 2025 đang là cơ sở để sắp xếp tổ chức lại bộ máy các cơ quan báo chí đối ngoại
trong nước cũng như việc thiết lập các văn phòng báo chí đối ngoại đại diện ở các
nước trên thế giới, khắc phục những hạn chế trong quản lý hoạt động xuất bản, phát
hành cũng như việc chấp hành tôn chỉ, mục đích trước yêu cầu ngày càng cao của thực
tiễn trong tình hình mới.
Mục tiêu chính của giải pháp này là quy hoạch, là sắp xếp hệ thống các cơ quan
quản lý báo chí đối ngoại gắn với đổi mới mô hình tổ chức, nâng cao hiệu quả lãnh
đạo, quản lý theo tôn chỉ, mục đích nhằm phát triển triển đầy đủ các loại hình báo chí
gồm: báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử. Trên cơ sở Quyết định phê duyệt quy
hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 thực hiện
143
xây dựng một số cơ quan báo chí đối ngoại chủ lực, đa phương tiện làm nòng cốt gồm
Thông Tấn xã Việt Nam, Đài truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam. Các cơ
quan này có vai trò định hướng thông tin cho các loại hình báo chí đối ngoại. Việc qui
hoạch sẽ sắp xếp lại các cơ quan báo chí đối ngoại hiện tại, khắc phục tình trạng quản
lý nhà nước về báo chí đối ngoại hiện hành hiệu lực về mặt pháp lý không cao, trách
nhiệm phối hợp giữa các cơ quan báo chí chưa chặt chẽ, thiếu chế tài điều chỉnh cơ
chế phối hợp liên ngành giữa các Ban, Bộ, ngành với cơ quan chủ trì là Bộ Thông tin
và Truyền thông. Việc xác định rõ trách nhiệm lãnh đạo, quản lý báo chí đối ngoại của
người đứng đầu cơ quan quản lý báo chí cũng như cơ quan báo chí trong việc nâng cao
hiệu quả quản lý báo chí đối ngoại cũng như trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan
báo chí trong qui hoạch, xây dựng kế hoạch phát triển đội ngũ cán bộ quản lý, phóng
viên, biên tập viên có đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu phát triển báo chí đối
ngoại trong tình hình mới.
Để xây dựng được cơ cấu bộ máy quản lý nhà nước với báo chí đối ngoại trong
thời gian tới các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại cần chủ động xây dựng bộ máy
quản lý có chất lượng, đội ngũ cán bộ quản lý có năng lực chuyên môn, có kinh
nghiệm quản lý báo chí, hiểu biết pháp luật về quản lý báo chí trong nước cũng như
pháp luật về quản lý báo chí của nước ngoài. Cùng với đó cần xây dựng cơ chế phối
hợp giữa các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại ở địa phương và Trung ương đồng bộ,
thống nhất. Vì theo qui hoạch hệ thống báo chí đối ngoại từ nay đến năm 2030, sẽ có
thêm nhiều văn phòng của các cơ quan báo chí đối ngoại được mở ở nhiều nước trên
thế giới, do vậy ngay từ đầu cần xây dựng cơ cấu bộ máy quản lý các cơ quan báo chí,
văn phòng đại diện hợp lý, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, tôn chỉ, mục đích của
từng loại hình báo chí.
Xây dựng cơ cấu bộ máy quản lý báo chí đối ngoại đáp ứng với yêu cầu của
tình hình mới còn phải chú trọng đến vấn đề kinh phí, vì trên thực tế nguồn kinh phí
cho hoạt động báo còn gặp nhiều khó khăn, do vậy ảnh hưởng rất lớn đến kinh phí cho
việc xây dựng bộ máy, nâng cấp và hiện đại hóa cơ sở vật chất cho việc vận hành bộ
máy như việc duy trì, nâng cấp cơ sở dữ liệu báo chí, xây dựng các ấn phẩm điện tử,
các nội dung quảng bá hình ảnh đất nước,... trong khi nguồn ngân sách đầu tư cho việc
mở các cơ quan đại diện cũng như việc xây dựng nội dung, phát triển nguồn lực làm
báo còn gặp nhiều khó khăn và việc huy động nguồn lực xã hội, tài trợ cho việc làm
144
báo chí đối ngoại cũng cũng có những khó khăn rất lớn. Vì vậy cần xây dựng đội ngũ
cán bộ quản lý không chỉ có năng lực chuyên môn mà đòi hỏi cần có khả năng huy
động, xây dựng tiềm lực tài chính cho hoạt động của báo chí đối ngoại. Do đó có thể
xây dựng nguồn kinh phí hỗ trợ cho hoạt động của báo chí đối ngoại từ các nguồn
khác nhau mà không phải lấy từ nguồn chi cho đầu tư của cơ quan. Nguồn kinh phí
này cũng phải được sử dụng thống nhất cho các cơ quan báo chí và có cơ chế kiểm
soát kinh phí công khai, minh bạch.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu khoá XII, Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới,
sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả,
số 18-NQ/TW, ngày 25 tháng 10 năm 2017 của Ban Chấp hành Trung ương chỉ ra “Cơ
chế, chính sách khuyến khích việc sắp xếp tinh gọn tổ chức, biên chế chưa phù hợp,
thiếu mạnh mẽ” do vậy, việc xây dựng cơ cấu bộ máy quản lý nhà nước đối với báo
chí đối ngoại hợp lý theo quan điểm chỉ đạo “Thực hiện nguyên tắc một cơ quan thực
hiện nhiều việc và một việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì thực hiện và chịu trách
nhiệm chính. Mô hình và quy mô tổ chức bộ máy phải phù hợp với tính chất, đặc
điểm, chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị, địa phương” [14] và để xây dựng
cơ cấu bộ máy đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của báo chí đối ngoại trong tình hình
mới Nghị quyết đã đề ra giải pháp “rà soát, sắp xếp, kiện toàn, tinh gọn đầu mối bên
trong các tổ chức của hệ thống chính trị gắn với tinh giản biên chế, cơ cấu lại và nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ” [14], làm cho bộ máy quản lý báo chí đối ngoại tinh
gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, có sự phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ từ Trung ương
tới các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại ở các địa phương. Để tiếp tục hiện thực hóa
sự chỉ đạo của Đảng về tinh gọn, sắp xếp lại bộ máy, ngày 24 tháng 01 năm 2018
Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 08/NQ-CP về chương trình hành động của
Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25 tháng 10 năm 2017 của Hội
nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ
chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp
công lập, trong đó xác định rõ nhiệm vụ “Sắp xếp lại các cơ quan báo chí thuộc và trực
thuộc theo Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí đến năm 2025 đã được Bộ Chính
trị khóa XI thông qua và kế hoạch của Chính phủ” [48]. Sự chỉ đạo của Đảng và Chính
phủ đều hướng đến thực hiện thành công giải pháp trong thời gian tới là xây dựng cơ
cấu bộ máy quản lý nhà nước đối với báo chí đối ngoại hợp lý.
145
3.3.4.2. Phối kết hợp giữa các cơ quan chức năng có liên quan trong việc quản
lý báo chí đối ngoại
Trong bối cảnh tình hình kinh tế, chính trị, xã hội thế giới có nhiều thay đổi
nhanh chóng, bất ngờ, bản thân báo chí đối ngoại khó có thể thông tin nhanh chóng và
kịp thời cũng như việc khai thác, phổ biến thông tin cho người dân ở các nước đáp ứng
được những yêu cầu trên. Để thực hiện được những điều này, yêu cầu đặt ra cho báo
chí đối ngoại là phải phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với các cơ quan quản lý báo chí
nói chung, các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại nói riêng trong công tác phát ngôn,
cung cấp và xử lý thông tin báo chí đối ngoại hiệu quả. Các cơ quan quản lý báo chí ở
trung ương như Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông, các Bộ
có liên quan; các cơ quan quản lý báo chí ở địa phương thực hiện phân công cụ thể,
qui định rõ quyền hạn và trách nhiệm của người phát ngôn, và xử lý kịp thời thông tin
báo chí đối ngoại, nhất là trước những tình huống phức tạp, nhạy cảm. Các cơ quan
quản lý báo chí cần chủ động, tích cực định hướng cho cơ quan báo chí trong việc
cung cấp, xử lý thông tin, quản lý hoạt động tác nghiệp của phóng viên Việt Nam và
đội ngũ cộng tác viên nước ngoài được thuê để hiệu đính viết bài, nhằm quảng bá, xây
dựng hình ảnh đất nước.
Kết hợp giữa các cơ quan quản lý báo chí với các cơ quan chức năng có liên
quan nhằm xây dựng và nâng cao hiệu quả phối hợp trong việc cung cấp, quản lý
thông tin cho báo chí đúng với các quy định của Luật Báo chí, các văn bản khác có
liên quan theo đúng qui trình, vừa nâng cao hiệu quả của báo chí đối ngoại, vừa làm
tốt công tác thành tra, kiểm tra, xác minh, xử lý thông tin khi phát hiện ra những sai
sót cũng như việc giải quyết sẽ thuận lợi và hiệu quả, góp phần nâng cao vị thế, hình
ảnh Việt Nam.
Để thực hiện được giải pháp này, cơ quan chủ quản báo chí đối ngoại hiện nay
là Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp với các cơ quan có liên quan trong quản lý
báo chí đối ngoại ở Trung ương, đồng thời chỉ đạo sự phối hợp trong quản lý hoạt
động báo chí đối ngoại ở các địa phương phối hợp thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích,
thực hiện đúng định hướng của báo chí đối ngoại trong về tình hình chính thức, thành
tựu phát triển của Việt Nam, về quá trình hội nhập quốc tế, đấu tranh phản bác các
quan điểm không đúng về chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước,... đảm bảo các nội dung đăng tải trên báo chí đối ngoại kịp thời,
146
chính xác, tạo được thiện cảm, sự ủng hộ, đồng tình của nhân dân thế giới và cộng
đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Sự phối hợp thường xuyên giữa các cơ quan quản
lý báo chí, các cơ quan báo chí còn góp phần xây dựng sự gắn bó, hiểu biết lẫn nhau
trong công tác phối hợp giữa sự lãnh đạo của Đảng và hoạt động quản lý của nhà nước
đối với báo chí đối ngoại trong thực hiện các nhiệm vụ chính trị, phục vụ phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước cũng như phát triển kinh tế-xã hội của các địa phương.
Hàng tháng, các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại ở Trung ương và các địa
phương chủ động mời đại diện các cơ quan quản lý báo chí và cơ quan báo chí đối
ngoại giao ban để trao đổi, cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác cho các cơ quan báo
chí, phục vụ nhiệm vụ tuyên truyền, quảng bá về Việt Nam cũng như những thành tựu
trong lãnh đạo phát triển kinh tế, văn hóa của các địa phương, nhằm đánh giá kết quả
công tác trong tháng về các hoạt động quản lý báo chí, việc thực hiện các qui định của
pháp luật về quản lý báo chí đối ngoại, đánh giá về những thành tựu, hạn chế và
nguyên nhân, kinh nghiệm trong quản lý báo chí đối ngoại. Trong các hoạt động trao
đổi phối hợp các cơ quan quản lý và cơ quan báo chí thẳng thắn trao đổi, thảo luận về
những vấn đề cần được tuyên truyền, những vấn đề phục vụ cho công tác đối ngoại.
Việc phối hợp giữa các cơ quan trong quản lý báo chí đối ngoại làm cho nội dung, chất
lượng đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong hội nhập quốc tế cũng như tham gia vào
việc xây dựng vị thế, hình ảnh của Việt Nam trước thế giới.
Phối hợp quản lý báo chí đối ngoại còn được thể hiện trên phương diện quản lý
đội ngũ phóng viên, cán bộ báo chí người Việt Nam và cán bộ báo chí, phóng viên
người nước ngoài được thuê phục vụ cho việc phát triển nội dung báo chí đối ngoại.
Hiện nay vấn đề này đã được đưa ra trong Luật Báo chí năm 2016 tại Mục b, c, Khoản
1, Điều 55, cơ quan báo chí có thể thuê chuyên gia, cộng tác viên nước ngoài; cử nhà
báo hoạt động báo chí ở nước ngoài. Do vậy, cần có sự phối hợp không chỉ với các cơ
quan quản lý báo chí, cơ quan báo chí đối ngoại trong nước, mà còn phối hợp với các
cơ quan báo chí và cơ quan quản lý báo chí nước ngoài phục vụ cho việc định hướng
nội dung trên báo chí cũng như thực hiện các qui định của pháp luật về quản lý báo chí
và quản lý cán bộ báo chí. Phối kết hợp giữa cơ quan quản lý báo chí với các cơ quan
chức năng khác trong việc định hướng quản lý báo chí đối ngoại góp phần tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng về tư tưởng chính trị, nâng cao hiệu quả, chất lượng quản lý của
Nhà nước đối với các cơ quan báo chí đối ngoại. Qua đó thực hiện tốt những vấn đề về
147
nguyên tắc, phạm vi, cơ chế phối hợp giữa cơ quan chỉ đạo báo chí ở Trung ương, cơ
quan quản lý nhà nước về báo chí ở địa phương.
3.3.4.3. Đầu tư phương tiện, thiết bị công nghệ cao để tăng cường quản lý đối
với báo chí điện tử
Sự phát triển mạnh mẽ của các loại hình báo chí hiện đại đã tạo ra cuộc chạy
đua về công nghệ làm báo, nhằm thu hút số lượng lớn người đọc, đòi hỏi các cơ quan
nhà nước đối với báo chí nói chung, báo chí đối ngoại nói riêng phải đổi mới phương
thức quản lý. Hiện nay, các tờ báo điện tử có lượng người theo dõi đông đảo do dễ
dàng tiếp cận từ các thiết bị công nghệ, điện thoại, máy tính cá nhân, trái lại người đọc
hoàn toàn có thể chia sẻ ý kiến, quan điểm riêng, do đó những bài viết chia sẻ đang tạo
ra “thế hệ thông tin toàn cầu” chưa từng có để chia sẻ và tham gia vào những gì đang
diễn ra của cuộc sống ở mọi nơi trên thế giới. Mặt khác, sự phát triển mạnh mẽ của các
phương tiện truyền thông, các thiết bị này đều có thể kết nối internet và có khả năng tự
chia sẻ, cập nhật thông tin, các ứng dụng thông minh có thể tự phân tích và trao đổi dữ
liệu với nhau. Từ đây các thông tin được cung cấp, đăng tải khó kiểm soát làm ảnh
hưởng tiêu cực đến quan hệ giữa Việt Nam với các nước, các tổ chức nước ngoài, tới
cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Trước sự phát triển mạnh mẽ của loại hình
báo điện tử như vậy, các nhà quản lý, cơ quan quản lý báo điện tử đối ngoại phải thay
đổi cách thức kiểm tra, giám sát vừa để báo điện tử đối ngoại phát triển đúng tôn chỉ,
mục đích, đồng thời ngăn chặn những hành vi lợi dụng báo điện tử để tuyên truyền
những tư tưởng, quan điểm sai trái với đường lối lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà
nước. Để thực hiện tốt sự quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại trước sự phát triển của
báo điện tử đối ngoại đòi hỏi phải có cơ sở hạ tầng – kỹ thuật, công nghệ, nguồn lực
quản lý hiện đại, đồng bộ gắn liền với sự phát triển và từng bước hiện đại hóa công
nghệ, trang thiết bị làm báo và quản lý báo điện tử đối ngoại, đồng thời trên cơ sở đầu tư
cơ sở vật chất, thiết bị công nghệ cao các chương trình truyền hình, ấn phẩm báo chí,
xuất bản, văn hoá bằng tiếng nước ngoài được tăng cường trên tinh thần phát triển mạnh
hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2030 theo sự chỉ đạo của Chính phủ.
Trong công tác quản lý báo chí đối ngoại, cần tiếp tục đầu tư xây dựng nền tảng
công nghệ, kỹ thuật hiện đại, đồng bộ nhằm quản lý chặt chẽ mọi hoạt động của báo
chí đối ngoại điện tử, bởi xu thế phát triển mạnh mẽ về công nghệ, sự lan truyền mạnh
mẽ của thông tin… báo điện tử đối ngoại là được cập nhập rất nhanh. Do đó, đi liền
148
với quản lý cần có sự đầu tư phương tiện, thiết bị công nghệ cao, qua đó kịp thời kiểm
soát và làm chủ thông tin báo điện tử đối ngoại.
Đầu tư phương tiện, thiết bị công nghệ cao vào các quy trình tiếp nhận bài viết,
xử lý và phổ biến các nội dung trên báo điện tử đối ngoại phụ thuộc vào nhiều công
nghệ thông tin và mạng internet. Để thực hiện được giải pháp này một cách hiệu quả,
cần có kinh phí cho đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý các cơ quan báo điện tử đối
ngoại, người làm báo phải hiểu biết, nắm vững công nghệ thông tin, kỹ năng, nghiệp
vụ báo chí trên nền tảng ứng dụng công nghệ cao đáp ứng được các yêu cầu làm báo
của thời kỳ hội nhập quốc tế.
Ngoài việc đầu tư phương tiện, thiết bị công nghệ cao để tăng cường quản lý
đối với báo điện tử đối ngoại truyền thống thì yêu cầu mới trong giai đoạn hiện nay là
đầu tư kinh phí, trang thiết bị cho bảo vệ không gian mạng của báo chí đối ngoại, trong
đó xác định nguồn kinh phí từ chủ yếu là từ ngân sách nhà nước cho các công tác bảo
đảm an toàn, an ninh thông tin trên không gian mạng, phòng chống tội phạm công
nghệ cao có liên quan đến báo chí điện tử đối ngoại. Đồng thời, nghiên cứu xây dựng
và mở rộng cơ sở hạ tầng cho các cơ quan chuyên trách về quản lý báo chí đối ngoại ở
cả Trung ương và địa phương. Bên cạnh nguồn kinh phí ổn định từ ngân sách nhà
nước, các cơ quan quản lý báo điện tử đối ngoại cần chủ động, sáng tạo trong việc
thành lập quỹ đầu tư, quỹ nghiên cứu, quỹ phát triển các giải pháp bảo vệ chủ quyền
báo điện tử đối ngoại trong không gian mạng. Các cơ quan quản lý báo chí có thể có
mở rộng các hoạt động hợp tác quốc tế để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, tiếp
thu công nghệ quản lý báo chí trên không gian mạng. Đầu tư hệ thống cơ sở vật chất,
hạ tầng kỹ thuật cần có tính chiến lược và lộ trình cụ thể phù hợp với chiến lược phát
triển hạ tầng quản lý báo điện tử đối ngoại trong bối cảnh cách mạng công nghệ 4.0.
3.3.4.4. Thực hiện nghiêm túc tôn chỉ mục đích, đảm bảo tính định hướng và
đáp ứng nhu cầu thông tin của công chúng
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với báo chí đối
ngoại tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt. Sự phối hợp đồng bộ, thống nhất và phù hợp
giữa các cơ quan, tổ chức quản lý trong quản lý báo chí đối ngoại gồm Bộ Thông tin
và Truyền thông, các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại có liên quan ở Trung ương,
các Ban, Bộ, ngành; sự chỉ đạo trong quản lý báo chí của các cơ quan Trung ương đối
với các cơ quan báo chí và cơ quan quản lý báo chí ở địa phương đảm bảo tính thống
149
nhất, kịp thời. Xây dựng cơ chế kiểm soát, giám sát hoạt động quản lý báo chí đối
ngoại của người đứng đầu các cấp, trong đó có những đánh giá về ưu điểm, hạn chế
khách quan, thẳng thắn, trung thực trong việc xuất bản báo chí đối ngoại đúng tôn chỉ,
mục đích đã được cấp phép. Trong quản lý báo chí đối ngoại ở địa phương, các sở
thông tin và truyền thông phối hợp với Ban, Sở, Ngành rà soát lại hệ thống báo chí đối
ngoại thuộc quyền quản lý, trên cơ sở đó đánh giá lại về hiệu quả hoạt động về tôn chỉ
mục đích. Từ sự chỉ đạo của Đảng và quy hoạch phát triển báo chí đối ngoại đến năm
2030, chỉ đạo các cơ quan báo chí và các tỉnh, thành phố tiếp tục nâng cao hiệu quả đã
đạt được theo đúng tôn chỉ, mục đích đã được ghi trong giấy phép xuất bản.
Thứ nhất, các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại ở Trung ương là Bộ Thông tin
và Truyền thông, Vụ Báo chí xuất bản thuộc Ban Tuyên giáo Trung ương nghiêm túc
chỉ đạo các cơ quan báo chí ở Trung ương và các cơ quan báo chí ở địa phương tiếp
tục thực hiện xuất bản báo chí theo đúng tôn chỉ, mục đích, kể cả trong quản lý các cơ
quan đại diện, phóng viên, cộng tác viên thường trú tại nước ngoài, nhà báo, phóng
viên nước ngoài được thuê làm báo đối ngoại. Xử lý nghiêm minh các nhà báo, phóng
viên báo chí đối ngoại vi phạm đạo đức nghề nghiệp. Người đứng đầu cơ quan báo chí
đối ngoại cần nêu cao tinh thần, trách nhiệm của chủ quản và người đứng đầu. Bên
cạnh đó, cơ quan quản lý báo chí cần chủ động phối hợp với các cơ quan báo chí có
liên quan đánh giá kết quả thực hiện theo tôn chỉ, mục đích, khuyến khích, biểu dương
mặt tích cực, chỉ ra những hạn chế và có thể công khai những cơ quan báo chí đối
ngoại có sai phạm. Những hành vi vi phạm đạo đức nghề nghiệp nhà báo để đưa tin,
viết bài không đúng sự thật, đưa tin thiếu khách quan, thiếu trung thực phải được ngăn
chặn và xử lý nghiêm khắc, qua đó chỉ đạo, kiến nghị các cơ quan báo chí khắc phục
những biểu hiện của việc xa rời tôn chỉ, mục đích.
Thứ hai, tập trung tuyên truyền các nhiệm vụ chính trị của đất nước, tuyên
truyền triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng. Tăng cường các bài viết với nội
dung về đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; đấu tranh phê phán những quan
điểm sai trái của các thế lực thù địch chống phá Đảng, Nhà nước; chủ động, sáng tạo
trong công tác tuyên truyền về cách làm hay trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo
dục, văn hóa, quốc phòng – an ninh, đối ngoại… trên báo chí đối ngoại. Phát biểu tại
Hội nghị Báo chí toàn quốc tổng kết công tác năm 2018, triển khai nhiệm vụ năm
2018, đồng chí Võ Văn thưởng chỉ rõ: “Các cơ quan báo chí cần bám sát định hướng,
150
tôn chỉ, mục đích, các vấn đề, sự kiện chính trị quan trọng của đất nước, thực hiện tốt
nhiệm vụ thông tin tuyên truyền, đẩy mạnh công tác tuyên truyền về giáo dục chính trị
tư tưởng, tích cực phát hiện, cổ vũ nhân tố mới, điển hình tiên tiến, thành tựu trong
công cuộc đổi mới”. Quyết định phê duyệt quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến
năm 2020, định hướng đến năm 2030, đã đưa ra giải pháp về đổi mới, tăng cường xây
dựng nội dung “Tích cực, chủ động kịp thời thông tin tuyên truyền về thành tựu của
công cuộc đổi mới, về chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nước, tiềm năng phát triển và hợp tác của Việt Nam, về đất nước, con người, lịch
sử, văn hóa và những giá trị vật chất và tinh thần của dân tộc” [149].
Thứ ba, sắp xếp, tinh gọn hệ thống các cơ quan báo chí đối ngoại theo quy
hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025 và theo Quyết định
số 2434/QĐ-TTg phê duyệt quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2020, định
hướng đến năm 2030 của Thủ tướng Chính phủ, ngày 13 tháng 12 năm 2016. Bám sát
định hướng, tôn chỉ, mục đích, cơ quan báo chí các vấn đề sự kiện chính trị quan trọng
của đất nước, thông tin chính thức về Việt Nam, thực hiện tốt nhiệm vụ thông tin tuyên
truyền, quảng bá hình ảnh Việt Nam đổi mới, hội nhập, ổn định, hiếu khách và giàu bản
sắc; các bài viết về tiến trình hội nhập quốc tế, về chủ quyền biển đảo, công tác bảo hộ
công dân và công tác người Việt Nam ở nước ngoài. Năm 2018, các cơ quan đại diện đã
bảo hộ cho 10.378 công dân trong đó có 1.589 ngư dân, vận động đối xử nhân đạo cho
các công dân, ngư dân bị nước ngoài bắt giữ. Kết quả này có vai trò rất lớn của báo chí
đối ngoại. Hơn nữa, việc thực hiện đúng tôn chỉ mục đích là giải pháp quan trọng để báo
chí đối ngoại có thể làm tốt việc phản bác một cách sắc bén các thông tin sai lệch, những
luận điệu của các thế lực nhằm xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước ta, cũng như làm
tan rã những đồn đoán, suy diễn, thiếu căn cứ về tình hình Việt Nam.
3.3.4.5. Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao tr nh độ chuyên môn nghiệp vụ đội ngũ
quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, internet vạn vật và những biến
đổi mau lẹ mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, trong bối cảnh
chung đó báo chí đối ngoại thế giới có những bước phát triển vượt bậc, đòi hỏi trình
độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ quản lý báo chí đối ngoại phải không ngừng được
rèn luyện, bổ sung để đáp ứng với yêu cầu của thời đại và đáp ứng với yêu cầu của
thực tiễn quản lý báo chí đối ngoại.
151
Thực tế, việc học tập của cán bộ quản lý báo chí đối ngoại chưa hoàn toàn đáp
ứng với yêu cầu xây dựng nền báo chí cách mạng hiện đại. “Các cơ quan báo chí cần
tạo điều kiện cho các nhà báo được tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm xã
hội” [15, tr.614-615]. Do vậy, nội dung, chương trình, hình thức và phương pháp đào
tạo, bồi dưỡng hiện tại cần có sự điều chỉnh để đáp ứng yêu cầu thực tiễn quản lý nhà
nước đối với báo chí đối ngoại. Theo đánh giá chung chương trình đào tạo, bồi dưỡng
hiện tại còn dàn trải và nặng về lý thuyết, có sự trùng lặp về nội dung, chưa đi sâu vào
rèn luyện kỹ năng, nghiệp vụ công tác cho cán bộ quản lý báo chí đối ngoại. Cho nên
sau khi được đào tạo, bồi dưỡng, cán bộ quản lý báo chí còn lúng túng trong việc thực
hiện chỉ đạo xây dựng, phát triển báo chí đối ngoại theo định hướng qui hoạch cũng như
năng lưc điều hành, giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra chưa đáp ứng được yêu cầu
nhiệm vụ tuyên truyền, quảng bá mọi mặt về Việt Nam, những thành tựu trong giai đoạn
mới. Để đáp ứng yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao năng lực quản lý báo chí
đối ngoại của đội ngũ cán bộ quản lý, cần chú trọng các nôi dung cụ thể sau:
Một là, đổi mới phương thức và nội dung các chương trình đào tạo, bồi dưỡng
Đổi mới hệ thống chương trình đào tạo, bồi dưỡng cập nhật kiến thức mới cho
cán bộ lãnh đạo, quản lý báo chí đối ngoại các cấp theo hướng nâng cao chất lượng,
chú trọng tính hiệu quả và phù hợp với từng loại hình, từng nhóm đối tượng phục vụ,
ngôn ngữ được xuất bản. Chương trình đào tạo, bồi dưỡng cần sát với thực tế quản lý
báo chí, các vấn đề thiết thực đặt ra từ quá trình xây dựng và thực hiện trong thời gian
qua và những vấn đề cần phát triển trong thời gian tới. Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng
chuyên môn, nghiệp vụ báo chí cần được chú trọng trước khi đào tạo, bồi dưỡng kỹ
năng, nghiệp vụ quản lý hành chính báo chí đối ngoại. Xây dựng cơ chế đào tạo, bồi
dưỡng theo định kỳ bắt buộc hàng năm cả về chuyên môn, nghiệp vụ cũng như kỹ
năng lãnh đạo, quản lý. Để có có căn cứ đào tạo, bồi dưỡng theo chức danh cần bám
sát và thực hiện nghiêm túc Nghị định 36/2013/NĐ-CP ngày 22 tháng 04 năm 2013 về
vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức, qua đó xây dựng chương trình, nội dung,
hình thức, phương pháp, biện pháp đào tạo, bồi dưỡng, tránh hiện tượng đào tạo, bồi
dưỡng không gắn với vị trí việc làm.
Nội dung đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý báo chí đối
ngoại gồm kiến thức về khoa học lãnh đạo, trong đó đi sâu về kỹ năng lãnh đạo, nghệ
152
thuật lãnh đạo quản lý báo chí đối ngoại gắn với những yêu cầu, nhiệm vụ của thể
trong bối cảnh hội nhập và sự phát triển mạnh của báo điện tử đối ngoại. Nội dung đào
tạo, bồi dưỡng có sự kết hợp hợp lý, khoa học giữa nghiên cứu lý luận và tổng kết thực
tiễn quản lý báo chí của thế giới và Việt Nam, đồng thời xây dựng những tình huống
và giải quyết những tình huống cụ thể thường xảy ra trong quản lý báo chí đối ngoại,
nhằm nâng cao năng lực, trình độ của cán bộ quản lý báo chí đối ngoại đáp ứng với
yêu cầu, nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn hội nhập.
Nội dung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý báo chí đối ngoại gồm các nội
dung về thế giới quan duy vật biện chứng, phương pháp luận khoa học cách mạng,
nâng cao năng lực tư duy lý luận, năng lực tổ chức thực tiễn, tổng kết thực tiễn,
phương pháp nghiên cứu, phát hiện, xử lý và giải quyết các vấn đề thực tiễn nảy sinh
trong lãnh đạo, quản lý báo chí đối ngoại để khi gặp những tình huống cụ thể có thể xử
lý nhanh, kịp thời, hiệu quả. Những nội dung này cần gắn với yêu cầu công việc đang
đảm nhiệm hoặc công việc đang được qui hoạch. Cán bộ có thể được lựa chọn chương
trình đào tạo, bồi dưỡng, chọn thời gian thích hợp.
Nội dung đào tạo cán bộ quản lý báo chí đối ngoại hiện nay còn phải chú trọng
đến đào tạo về vấn đề bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia trên không gian mạng.
Nghiên cứu, bảo vệ bí mật nhà nước, chủ quyền quốc gia, an ninh quốc gia để phản
bác, chống lại sự lợi dụng không gian mạng của các thế lực thù địch để làm mất an
ninh, an toàn quốc gia.
Phương pháp đào tạo bồi dưỡng, nâng cao tr nh độ chuyên môn nghiệp vụ cho
cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại cần theo hướng nâng cao năng
lực lãnh đạo, quản lý gắn với vị trí và trách nhiệm tương ứng của cán bộ. Dựa trên nội
dung của môn học để lựa chọn phương pháp học tập, nghiên cứu, giảng viên, báo cáo
viên gợi ý hướng vận dụng gắn với các yêu cầu của thực tiễn, theo hướng phát triển
năng lực chuyên môn, năng lực quản lý của cán bộ quản lý báo chí đối ngoại ở từng vị
trí công tác.
Trên thực tế, cán bộ lãnh đạo quản lý báo chí đối ngoại tham gia đào tạo, bồi
dưỡng đa phần nắm khá vững kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ làm báo, do vậy
hướng đào tạo, bồi dưỡng nên tập trung vào các tình huống thực tiễn xử lý những vấn
đề phức tạp, nhạy cảm, những vấn đề về tuyên truyền và phát triển đường lối đối ngoại
của Đảng, qua đó dẫn dắt, gợi mở định hướng phát triển kỹ năng lãnh đạo, quản lý,
153
phương pháp xử lý tình huống, đảm bảo tính khoa học, tính thực tiễn, vừa để kích
thích tính sáng tạo, chủ động của cán bộ tham gia đào tạo, bồi dưỡng.
Hình thức đào tạo, bồi dưỡng, cán bộ lãnh đạo quản lý báo chí đối ngoại do
công việc nhiều nên ít có thời gian theo học tập theo hình thức tập trung trong thời
gian dài và bản thân đã có những kinh nghiệm thực tiễn, cho nên hình thức phù hợp
nhất với đối tượng này là vừa làm vừa học, kết hợp giữa học trên lớp và nghiên cứu
thực tế để xử lý tình huống để phát triển năng lực xử lý các vấn đề phức tạp, những
vấn đề nổi cộm và các dự báo, xu hướng phát triển báo chí đối ngoại.
Chương trình, giáo trình, tài liệu cho đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý báo
chí đối ngoại phải sát với thực tiễn công việc, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của từng đối
tượng, phù hợp với thời gian đào tạo, bồi dưỡng. Chương trình, giáo trình được biên
soạn phải được chuẩn hóa, có phản biện khoa học, tránh sự trùng lặp, dàn trải. Nội
dung chương trình, giáo trình tăng hướng ứng dụng, giải quyết tình huống thực tiễn,
tránh sự dàn trải mà phải có trọng tâm, trọng điểm.
Kiểm tra, đánh giá kết quả đào tạo, bồi dưỡng cần có sự đa dạng, linh hoạt. Nên
chọn hướng viết bài luận hoặc viết đề án, cần căn cứ vào vị trí việc làm. Nội dung bàn
luận hoặc đề án phải thể hiện ý tưởng mới trong việc giải quyết các tình huống của thực
tiễn mà cá nhân tham gia đào tạo, bồi dưỡng đang đảm nhiệm hoặc được qui hoạch, các
ý tưởng phải có tính khả thi và có thể áp dụng ngay vào công tác lãnh đạo, quản lý báo
chí đối ngoại, tránh hiện tượng cũng nêu ra ý tưởng mới song thiếu tính hiện thực,
không thiết thực cho việc khắc phục những hạn chế, các vấn đề nổi cộm. Có thể lấy kết
quả đào tạo, bồi dưỡng làm một tiêu chí để làm căn cứ đề bạt, bổ nhiệm công tác.
Hai là, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên
Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý báo chí đối ngoại phải được đào
tạo chuyên sâu về lĩnh vực tham gia giảng dạy hoặc báo cáo, có nhiều kinh nghiệm
thực tiễn quản lý báo chí đối ngoại. Hoạt động giảng dạy của giảng viên phải theo
hướng tích cực hóa hoạt động học tập, nghiên cứu, phương pháp giải quyết các vấn đề
liên quan đến quyền hạn, nhiệm vụ, vị trí, chức năng đang đảm nhiệm của cán bộ tham
gia đào tạo, bồi dưỡng, chú trọng phát triển năng lực thực tiễn. Đội ngũ giảng viên nên
được xây dựng theo hướng kiêm chức và có cơ chế để cử giảng viên đi nghiên cứu
thực tế, sau khi kết thúc thời gian đi thực tế phải có báo cáo về kết quả nghiên cứu
thực tế.
154
Ba là, tăng cường hợp tác quốc tế về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý báo chí
đối ngoại. Cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý báo chí đối ngoại nên mời chuyên
gia của nước ngoài ở một số chuyên đề. Trong đó có thể yêu cầu giảng viên của cơ sở
tham gia nghe giảng, cùng trao đổi, thảo luận vừa để đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ
quản lý báo chí đối ngoại, đồng thời đào tạo cho giảng viên những kiến thức, kỹ năng
về quản lý báo chí đối ngoại, qua đó có thể học tập những kiến thức về quản lý báo chí
đối ngoại của nước ngoài.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý báo chí đối ngoại cần được thực
hiện liên tục, thường xuyên, từng bước xây dựng được đội ngũ cán bộ quản lý báo chí
đối ngoại giỏi về chuyên môn, thành thạo về kỹ năng quản lý báo chí, đáp ứng các yêu
cầu của thời kỳ hội nhập quốc tế. Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá chất lượng
cán bộ sau đào tạo, điều tra khảo sát thực trạng đội ngũ cán bộ quản lý báo chí đối
ngoại, trên cơ sở đó có căn cứ thực tiễn để xác định nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng, xây
dựng chương trình, nội dung đào tạo, phương pháp, hình thức đào tạo cụ thể, khắc
phục tình trạng đào tạo không theo nhu cầu, nhằm đạt được yêu cầu, mục đích đặt ra
của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý báo chí đối ngoại đáp ứng yêu cầu thực
tiễn và nhiệm vụ quản lý báo chí đối ngoại của nước ta.
3.3.4.6. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý các sai phạm và nâng
cao hiệu lực quản lý báo chí đối ngoại
Tiến hành hoạt động thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong hoạt động báo chí
đối ngoại, qua đó đánh giá được chính xác việc chấp hành quy định pháp luật báo chí
nói chung và báo chí đối ngoại của các cơ quan báo chí đối ngoại cũng như các cá nhân
có liên quan đến các khâu trong quá trình sản xuất báo chí đối ngoại, nhằm khắc phục
những sai sót đáp ứng yêu cầu quản lý báo chí đối ngoại phù hợp với thực tiễn. Trên
thực tế việc sai phạm của các cơ quan báo chí đối ngoại rất ít và không đáng kể, các cơ
quan quản lý báo chí ít phải vào cuộc để xác minh vì bản thân các cơ quan báo chí đối
ngoại đã chủ động và kịp thời khắc phục những thiếu sót, mặc dù đã có một số khiếm
khuyết đã được chỉ ra nhưng phần lớn ở mức độ nhắc nhở. Vì vậy, việc tăng cường công
tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm của cơ quan quản lý báo chí đối ngoại là một biện
pháp rất quan trọng ngay từ khâu đầu tiên để xây dựng nền báo chí đối ngoại lành mạnh,
đúng với tôn chỉ, mục đích. Trong bài viết “Thực trạng, quan điểm, giải pháp ngăn
chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự
155
chuyển hóa” của cán bộ phóng viên các cơ quan báo chí” đã chỉ rõ: “Mỗi cơ quan báo
chí cần có chế độ kiểm tra, giám sát chặt chẽ; thường xuyên thanh tra, kiểm tra, giám
sát về kỷ luật, kỷ cương hành chính và tác nghiệp” [15, tr.611].
Thanh tra, kiểm tra để có cơ sở xem xét, tháo gỡ những khó khăn về cơ chế tài
chính của các cơ quan báo chí, chế độ đãi ngộ với cán bộ báo chí đối ngoại, vấn đề đào
tạo nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ lý luận chính trị cho phóng viên thường trú
ở nước ngoài. Thanh tra, kiểm tra kết quả thực hiện pháp luật trong hoạt động báo chí
của phóng viên, nhà báo cũng như việc hiện đại hóa trang thiết bị kỹ thuật phục vụ
việc tác nghiệp, truyền tin, bài, hình ảnh ra nước ngoài.
Công tác kiểm tra để nắm được kết quả thực hiện các Quy hoạch hệ thống báo
chí đối ngoại và Quy hoạch mạng lưới đại diện của các cơ quan báo chí đối ngoại của
Việt Nam ở nước ngoài nhằm nâng cao hiệu quả và mở rộng việc tuyên truyền, quảng
bá hình ảnh, đất nước, con người Việt Nam ra với thế giới, về những thành tựu của
Việt Nam trong phát triển kinh tế, văn hoá,... công tác thanh tra, kiểm tra còn góp phần
chỉ ra mối quan hệ, hợp tác giữa các cơ quan thông tấn, báo chí và sự phối hợp giữa
các cơ quan có liên quan trong quản lý báo chí đối ngoại như Bộ Ngoại giao, Đại sứ
quán Việt Nam ở nước ngoài. Ngoài ra, việc thanh tra, kiểm tra thường xuyên sẽ thúc
đẩy việc thực hiện nghiêm túc Quy hoạch và Đề án phát triển hệ thống các cơ quan và
hệ thống báo chí đối ngoại đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, đồng thời nâng
cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập theo tinh thần Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XII.
Khi phát hiện ra các sai phạm từ công tác thanh tra, kiểm tra cần chỉ ra các
nguyên nhân, mức độ sai phạm để từ đó đưa ra các hướng xử lý. Trong công tác thanh
tra, kiểm tra hoạt động của báo chí đối ngoại không chỉ phối hợp với các cơ quan quản
lý có liên quan ở Trung ương, các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại ở nước ngoài mà
còn chỉ đạo, phối hợp với các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại ở các địa phương,
tăng cường trao đổi thông tin, trao đổi kinh nghiệm, công tác quản lý báo chí… góp
phần nâng cao hiệu quả quản lý báo chí đối ngoại, thúc đẩy sự hiểu biết, giao lưu và
tăng cường hợp tác giữa Việt Nam với các nước trong quản lý báo chí đối ngoại, đáp
ứng yêu cầu và thực tiễn phát triển Quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại từ nay đến
năm 2030. Tham luận của Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ ra kết quả nổi bật của
công tác quản lý nhà nước về Thông tin đối ngoại tại Hội nghị toàn quốc tổng kết công
156
tác báo chí đối ngoại, tuyên truyền biển đảo, phân giới cắm mốc, quản lý biên giới
năm 2018 cũng nêu lên giải pháp này: “Đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra, chấn chỉnh, xử
lý nghiêm các vi phạm trong hoạt động báo chí đối ngoại nhằm hạn chế các thông tin
tiêu cực ảnh hưởng xấu đến hình ảnh Việt Nam ra thế giới, góp phần nâng cao hiệu
quả báo chí đối ngoại” (Bộ Thông tin và Truyền thông, 2018).
Công tác đôn đốc, xử lý sau thanh tra cũng phải được quan tâm đẩy mạnh bằng
việc theo dõi, đôn đốc, kiểm tra sau thanh tra có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là một
trong những điều kiện quan trọng đảm bảo cho quản lý báo chí đối ngoại hoạt động
đúng tôn chỉ, mục đích, đồng thời quyết định hiệu lực của hoạt động thanh tra, xác
định hoạt động thanh tra có đạt kết quả đề ra hay không.
Các giải pháp nêu trên có mối quan hệ thống nhất chặt chẽ, các giải pháp
trước mắt là tiền đề cho việc thực hiện các giải pháp lâu dài, đảm bảo hoàn thành tốt
nhiệm vụ quản lý báo chí đối ngoại được thực hiện thống nhất, từ các khâu trong sản
xuất, phổ biến báo chí, trong quản lý từ các cơ quan báo chí đối ngoại ở địa phương
đến các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại ở Trung ương. Việc thực hiện các giải
pháp cần có tính thống nhất hữu cơ, tính đồng bộ, tùy theo nhiệm vụ, tôn chỉ, mục
đích để lựa chọn giải pháp ưu tiên trong chiến lược quản lý nhà nước đối với báo chí
đối ngoại.
3.4. Một số khuyến nghị
3.4.1. Với các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại Trung ương
Các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại ở Trung ương gồm Cục Thông tin đối
ngoại, Cục Báo chí, Cục Phát thanh truyền hình và Thông tin điện tử – Bộ Thông tin và
Truyền thông, Vụ Báo chí – Xuất bản (Ban Tuyên giáo Trung ương); Vụ Khoa giáo –
Văn xã (Văn phòng Chính phủ); Vụ Thông tin báo chí (Bộ Ngoại giao), Vụ Lao động,
Văn hóa, xã hội (Bộ Kế hoạch và Đầu tư); Phòng An ninh Báo chí, Xuất bản (Cục An
ninh chính trị nội bộ – Bộ Công an) cần tăng cường hơn nữa trong việc tham mưu với
Chính phủ hoàn thiện hệ thống văn bản về quản lý báo chí đối ngoại, trước hết là các
văn bản cụ thể hóa Quyết định số 2434/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.
Các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại ở Trung ương tích cực hơn nữa trong
việc chỉ đạo các cơ quan báo chí xây dựng định hướng phát triển báo chí đối ngoại để
đáp ứng được những yêu cầu của tình hinh mới, tích cực tham gia vào việc quy hoạch
157
phát triển hệ thống báo chí đối ngoại đồng thời đẩy mạnh việc quản lý thông tin trên
báo chí đối ngoại để tránh việc các thế lực thù địch tìm cách lợi dụng những sơ suất
trong các nội dung của báo chí đối ngoại để đưa ra những phán xét, đánh giá sai lệch
sự thật, làm ảnh hưởng tiêu cực, bất lợi đến đường lối đối ngoại của Đảng, những
chính sách tốt đẹp của Nhà nước.
Tăng cường hợp tác quốc tế về quản lý báo chí đối ngoại, nhằm tranh thủ tiềm
lực, kinh nghiệm làm báo của các nước có nền báo chí phát triển cũng như hợp tác
trong đào tạo cán bộ quản lý báo chí, nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý báo chí đối
ngoại mạnh không chỉ giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ mà còn có năng lực tốt trong lãnh
đạo, quản lý báo chí đối ngoại, qua đó còn góp phần nâng cao trình độ ngoại ngữ cho
cán bộ đến tác nghiệp tại nước sở tại. Mặt khác, hợp tác quốc tế về báo chí đối ngoại
Việt Nam còn tham gia vào việc đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ và năng lực
lãnh đạo, quản lý báo chí đối ngoại cho cán bộ báo chí đối ngoại của Lào và Campuchia.
Các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại ở Trung ương cần phối hợp cũng như
xây dựng chiến lược đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực làm báo cho cán bộ báo chí
cũng như đào tạo, bồi dưỡng năng lực lãnh đạo, quản lý cho cán bộ quản lý báo chí đối
ngoại ở Trung ương cũng như ở các địa phương. Đồng thời đẩy mạnh việc đầu tư cơ
sở vật chất, kinh phí cho hoạt động báo chí đối ngoại.
Tăng cường công tác thi đua, khen thưởng kịp thời cho cán bộ báo chí và cán bộ
quản lý báo chí nhanh chóng và kịp thời. Qua đó động viên và phát huy được trí sáng
tạo của cán bộ quản lý báo chí đối ngoại để báo chí đối ngoại ngày càng đóng góp to
lớn vào đường lối đối ngoại của Việt Nam, nâng cao vị thế và tầm ảnh hưởng của Việt
Nam với thế giới.
3.4.2. Với các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại địa phương
Tham mưu, đề xuất với cơ quan quản lý báo chí đối ngoại ở Trung ương và Ủy
ban nhân dân các tỉnh xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển báo chí đối
ngoại, đồng thời xây dựng các văn bản quản lý, văn bản thực hiện chế độ chính sách
cho cán bộ báo chí đối ngoại, đồng thời làm tốt công tác tham mưu cử cán bộ báo chí
và cán bộ quản lý báo chí đi đào tạo nâng cao trình độ, nghiệp vụ báo chí chuyên sâu ở
một số lĩnh vực còn thiếu và yếu và đẩy mạnh việc thực hiện chế độ thi đua, khen
thưởng với những cán nhân có nhiều đóng góp cho việc tuyên truyền, quảng bá xây
dựng hình ảnh, vị thế của địa phương và thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài đầu
158
tư vào địa phương. Các địa phương cần chủ động tham mưu, đề xuất với Trung ương
chiến lược phát triển báo chí đối ngoại cũng như cách thức quản lý theo hướng đồng
bộ, để kịp thời giới thiệu, quảng bá hình ảnh của địa phương ra nước ngoài, không thụ
động chờ Trung ương.
Các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại ở các địa phương cần chủ động trong
việc xây dựng những cơ chế phối hợp trong hoạt động báo chí đối ngoại, nhằm thống
nhất trong cách tổ chức sản xuất, quản lý, xây dựng chiến lược phát triển hệ thống báo
chí đối ngoại đặc sắc, tránh sự trùng lặp về nội dung, thống nhất trong cách tổ chức
quản lý, điều hành.
Tham mưu, đề xuất với các cơ quan quản lý về việc ổn định đời sống vật chất
và tinh thần cho cán bộ báo chí đối ngoại, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết
bị làm việc để nâng cao hiệu quả, chất lượng của báo chí đối ngoại xứng tầm nhiệm vụ
trong bối cảnh hội nhập thế giới.
3.4.3. Với các cơ quan báo chí đối ngoại ở Trung ương và địa phương
Các cơ quan báo chí đối ngoại ở Trung ương và địa phương tích cực tổ chức
họp giao ban theo hình thức trực tuyến để kịp thời có thông tin chính thống, thống nhất
về nội dung đăng phát. Các đơn vị tham gia họp giao ban trực tuyến gồm các cơ quan
báo chí đối ngoại, cơ quan quản lý báo chí ở địa phương, các cơ quan có liên quan đến
quản lý báo chí nhằm phối hợp thống nhất trong chỉ đạo quản lý tạo nên sự đồng bộ,
tránh sự trùng lặp về nội dung thông tin. Mặt khác, việc tổ chức giao ban trực tuyến
vừa tiết kiệm kinh phí vừa tăng cường hiệu quả phối hợp trong học tập, nghiên cứu
kinh nghiệm làm báo chí đối ngoại giữa các địa phương để có thể vận dụng vào hoạt
động báo chí đối ngoại vào từng địa bàn cụ thể.
Chủ động đề xuất, tham mưu cho các cấp quản lý cung cấp kinh phí, điều kiện
cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của các tờ
báo cũng như nội dung, hình thức, tạo nên sự hấp dẫn, sinh động. Các cơ quan báo chí
đối ngoại Trung ương và địa phương tích cực trong việc xây dựng báo chí đối ngoại
điện tử. Đây là xu hướng báo chí đang được ứng dụng ngày càng rộng rãi và trở thành
loại hình báo chí phổ biến trên thế giới do dễ tiếp cận từ các thiết bị công nghệ hiện
đại. Mặt khác, bản thân các cơ quan báo chí có thể tham mưu với các cấp quản lý
trong việc thuê phóng viên, nhà báo nước ngoài đưa tin, viết bài ở một số lĩnh vực mà
báo chí Việt Nam không có thế mạnh.
159
Các cơ quan báo chí đối ngoại ở địa phương tăng cường vào một số thế mạnh
chủ lực của địa phương để quảng bá, giới thiệu vừa có tác dụng xây dựng hình ảnh, uy
tín, đặc sắc của tờ báo vừa góp phần vào việc mời gọi các nhà tài trợ, các doanh nhân
đến nghiên cứu, tìm hiểu và đầu tư vào một số lĩnh vực mà địa phương có thế mạnh
hoặc có tiềm năng.
3.4.4. Với cán bộ quản lý báo chí đối ngoại
Cán bộ quản lý báo chí đối ngoại chủ động học tập, nghiên cứu nâng cao năng
lực, trình độ làm báo cũng như quản lý báo chí đối ngoại. Chủ động tham mưu, đề
xuất, xây dựng định hướng chiến lược phát triển báo chí đối ngoại trong những giai
đoạn tiếp theo. Với những cán bộ được cử ra nước ngoài tác nghiệp cần linh hoạt, sáng
tạo trong việc nghiên cứu, nâng cao trình độ ngoại ngữ, tích cực tìm hiểu pháp luật báo
chí tại nước sở tại, học tập kinh nghiệm quản lý báo chí của các nước đó.
Cùng với việc nâng cao trình độ chuyên môn, cán bộ quản lý báo chí cần tích
cực rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị, không ngừng học tập nâng cao trình độ lý
luận chính trị, đạo đức người làm báo, không dao động trước mọi diễn biến để chỉ đạo
việc đưa tin, viết bài nhằm xây dựng hình ảnh, vị thế của Việt Nam với thế giới.
Tiểu kết chương 3
Trước thực trạng quản lý báo chí đối ngoại còn những hạn chế, bất cập như
trên, vấn đề đặt ra với quản lý báo chí đối ngoại đó là cần xây dựng đội ngũ cán bộ
quản lý báo chí đối ngoại có bản lĩnh chính trị, am hiểu chuyên môn và giỏi về ngoại
ngữ, giỏi về nghiệp vụ báo chí, nắm vững tình hình trong nước và quốc tế, đồng thời
hiểu biết sâu sắc về nội dung báo chí đối ngoại và đối tượng phục vụ. Để xây dựng báo
chí đối ngoại mạnh cần chú trọng đến việc đầu tư các nguồn lực cho quản lý hoạt động
báo chí đối ngoại. Ngoài ra cần quan tâm đến công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh
nghiệm việc thực hiện quản lý cũng như triển khai thực hiện các văn bản quản lý báo
chí đối ngoại và đẩy mạnh việc mở rộng quan hệ hợp tác về quản lý báo chí đối ngoại
giữa các cơ quan báo chí đối ngoại trong nước cũng như trên thế giới.
Báo chí đối ngoại thế giới đang biến đổi mạnh mẽ, trước những tác động đó báo
chí đối ngoại trong nước có những xu hướng phát triển theo hướng làm tốt công tác
tham mưu cho Đảng, Nhà nước về đường lối đối ngoại; tích cực, chủ động xây dựng
và phát triển các ấn phẩm thông tin đối ngoại hấp dẫn, hiện đại, đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của người đọc, đồng thời thiết lập mối quan hệ với các cơ quan quản lý báo
160
chí, các hãng thông tấn, cơ quan truyền thông lớn của nước ngoài và xu hướng hướng
đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền quảng bá, giới thiệu tiềm năng, thế mạnh của đất
nước, các hoạt động phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
Một số giải pháp đặt ra cho nhằm nâng cao hiệu quả quản lý báo chí đối ngoại
trong thời gian tới gồm nhóm giải pháp dài hạn và nhóm giải pháp trong ngắn hạn. Cụ
thể nhóm giải pháp dài hạn: Về phía nhà nước sớm hoàn thiện quy định pháp luật quản
lý nhà nước về báo chí đối ngoại, nhất là có các quy định cụ thể cho các cơ quan quản
lý nhà nước về báo chí đối ngoại; các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại
cần tăng cường quản lý ngay từ khâu tiếp nhận, đăng các tin bài, ảnh có nội dung phù
hợp với tôn chỉ, mục đích được cấp phép và tăng cường đầu tư ngân sách cho công tác
nghiên cứu khoa học và đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực; quan tâm đầu
tư, đổi mới và hiện đại hóa cơ sở vật chất, kỹ thuật của các cơ quan báo chí đối ngoại,
đặc biệt là các cơ quan báo chí đối ngoại chuyên biệt, báo đối ngoại điện tử.
Nhóm giải pháp trước mắt tập trung vào việc xây dựng cơ cấu bộ máy quản lý
nhà nước đối với báo chí đối ngoại từ Trung ương tới địa phương hợp lý. Phối kết hợp
với các cơ quan có liên quan trong việc định hướng quản lý báo chí đối ngoại và để
làm tốt được sự phát triển của báo chí đối ngoại cần quan tâm đầu tư phương tiện, thiết
bị công nghệ cao để tăng cường quản lý đối với báo chí điện tử. Mặt khác, cần tăng
cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại, xây dựng bộ máy quản
lý đủ mạnh, hệ thống các cơ sở pháp lý vững chắc. Thực hiện nghiêm túc tôn chỉ mục
đích, đảm bảo tính định hướng và đáp ứng nhu cầu thông tin của công chúng, hơn nữa
cần quan tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ đội
ngũ quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại và một giải pháp quan trọng khác là tăng
cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý các sai phạm và nâng cao hiệu lực quản lý báo
chí đối ngoại. Các giải pháp trên có mối quan hệ chặt chẽ, đồng bộ và thống nhất.
161
KẾT LUẬN
1. Cho đến nay, thế giới và Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu về báo
chí, thông tin báo chí, quản lý báo chí nhưng chưa có công trình nghiên cứu về quản lý
báo chí đối ngoại. Những công trình đi trước đã chỉ ra nhiều vấn đề lý luận về báo chí,
quản lý thông tin báo chí,... điều này góp phần quan trọng vào việc xây dựng cơ sở lý
luận về quản lý báo chí đối ngoại ở nước ta.
Luận án đã xây dựng một hệ thống lý luận về báo chí, các đặc điểm của báo chí đó
là tính lịch sử, tính quần chúng, tính chính trị-xã hội và tính kinh tế-dịch vụ. Báo chí có
vai trò quan trọng trong các lĩnh vực chính trị, phát triển kinh tế và trong đời sống văn
hóa xã hội. Hiện nay có nhiều loại hình báo chí nhưng theo Luật Báo chí năm 2016, có 4
loại hình báo chí: báo in, báo nói, báo hình và báo điện tử. Xây dựng khái niệm báo chí
đối ngoại, đặc điểm của báo chí đối ngoại, đó là tính chính trị - xã hội, cung cấp những
thông tin về tình hình mọi mặt trong nước ra thế giới để thế giới biết về tình hình Việt
Nam, báo chí đối ngoại góp phần vào việc bảo vệ an ninh quốc gia và chủ quyền của đất
nước, báo chí đối ngoại ngày càng có khuynh hướng chuyên môn hóa và báo chí đối
ngoại có nhiều hình thức thể hiện khác nhau. Nội dung của báo chí đối ngoại tập trung
vào việc quảng bá, giới thiệu về hình ảnh Việt Nam với thế giới, đấu tranh, phản bác lại
các quan điểm sai trái, thù địch về Việt Nam. Đối tượng phục vụ của báo chí đối ngoại
rất đa dạng trong đó tập trung vào hai nhóm là nhóm đối tượng ngoài nước và nhóm đối
tượng trong nước là người nước ngoài công tác, sinh sống, học tập tại Việt Nam.
Cùng với đó, luận án đã xây dựng khái niệm và các nguyên tắc quản lý nhà
nước đối với báo chí đối ngoại. Báo chí đối ngoại có các vai trò đó là tạo môi trường
pháp lý thuận lợi giúp báo chí đối ngoại hoạt động ổn định, bảo đảm cho báo chí phát
huy vai trò định hướng thông tin ra nước ngoài và định hướng thông tin cho các tổ
chức, cá nhân người nước ngoài sinh sống và làm việc tại Việt Nam; bảo đảm quyền tự
do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân, quyền tiếp cận thông tin.
Quản lý báo chí đối ngoại có các đặc điểm: thể hiện tính quyền lực nhà nước thông
qua pháp luật; là hoạt động có chương trình, có kế hoạch để thực hiện mục tiêu đặt ra;
hoạt động mang tính chất chủ động, linh hoạt và sáng tạo và có sự kết hợp chặt chẽ
giữa tính ổn định tương đối và tính phát triển.
Quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại tập trung vào các nội dung: Xây dựng,
chỉ đạo và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển báo chí đối
162
ngoại; Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật và xây dựng
chế độ, chính sách; Tổ chức thông tin và quản lý thông tin; Đào tạo, bồi dưỡng nâng
cao trình độ chính trị, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ người làm báo của
các cơ quan và cán bộ quản lý; Hợp tác quốc tế; chỉ đạo, thực hiện chế độ thông tin,
báo cáo, thống kê và công tác khen thưởng, kỷ luật và thanh tra, kiểm tra và xử lý vi
phạm pháp luật trong hoạt động báo chí đối ngoại.
2. Báo chí ở Việt Nam có sự phát triển mạnh mẽ trong những năm qua, trong đó
báo chí đối ngoại ngày càng được quan đầu tư ở cả bốn loại hình báo in, báo nói, báo
hình và báo chí điện tử. Theo Qui hoạch báo chí đối ngoại đến năm 2020 và tầm nhìn
đến năm 2030 báo chí đối ngoại chú trọng đến việc phát triển một số tờ báo in, tạp chí
đối ngoại chủ lực, nhưng nhấn mạnh vào việc phát triển báo chí đối ngoại điện tử với
sự đầu tư lớn về nguồn lực vật chất, con người. Góp phần quan trọng vào đường lối
đối ngoại của Việt Nam, xây dựng vị thế và ảnh hưởng của Việt Nam với thế giới.
Thực trạng quản lý nhà nước về công tác báo chí đối ngoại trong việc xây dựng,
chỉ đạo và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển báo chí đối
ngoại cho thấy việc qui hoạch báo chí đối ngoại đã đạt được nhiều kết quả tích cực.
Kết quả khảo sát chỉ ra thực trạng xây dựng và định hướng, chiến lược phát triển các
cơ quan báo chí đối ngoại được đánh giá khá cao, song trong quản lý sự hiệp đồng
phối hợp giữa các cơ quan báo chí đối ngoại chưa chặt chẽ. Điều này là do những cơ
chế, văn văn bản quy định trách nhiệm và sự ràng buộc chưa cao.
Kết quả ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về báo
chí, xây dựng chế độ, chính sách về báo chí đối ngoại trên thực tế đạt được nhiều kết
quả tích cực, như việc đề xuất, kiến nghị, xây dựng văn bản liên quan đến quản lý nhà
nước đối với báo chí đối ngoại. Điều này cho thấy hệ thống văn bản về quản lý báo chí
đối ngoại ngày càng được bổ sung thành một lĩnh vực riêng. Tuy nhiên, kết quả thực
hiện quản lý việc sửa đổi, bổ sung các văn bản quản lý báo chí đối ngoại cũng như
quản lý việc xây dựng và thực hiện chế độ, chính sách về tài chính, con người, cơ sở
vật chất cho hoạt động báo chí đối ngoại còn chậm, chưa thể hiện được tính đồng bộ.
Quản lý tổ chức thông tin báo chí đối ngoại khá tốt. Kết quả khảo sát chỉ ra các
công việc được thực hiện tương đối đồng bộ, trong đó trội nhất phải kể đến hiệu quả
quản lý nhà nước trong thông tin về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đến
cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, cộng đồng quốc tế; quảng bá hình ảnh đất
163
nước, con người, văn hóa Việt Nam ra nước ngoài được coi trọng. Bên cạnh đó, hiệu
quả quản lý đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ, đạo đức nghề
nghiệp cho cán bộ quản lý báo chí đối ngoại chưa có sự đồng đều ở các công việc. Cụ
thể việc quản lý việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ làm báo cho
cán bộ làm báo và cán bộ quản lý tuy có được quan tâm song chưa thật rõ ràng, điều
này có thể có những tác động bất lợi đến kết quả thực hiện quản lý cơ chế, chính sách
đãi ngộ đối với cán bộ quản lý báo chí đối ngoại chưa đạt kết quả như mong muốn.
Quản lý hợp tác quốc tế trong hoạt động báo chí đối ngoại được đánh giá khá
cao qua các tổng kết, báo cáo của Bộ Thông tin và Truyền Thông, các Sở Thông tin và
Truyền thông, các tỉnh có báo chí đối ngoại trong sản xuất các nội dung các chương
trình liên kết phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật nước sở tại.
Đặc biệt trong hợp tác trong quản lý nhà báo tác nghiệp ở nước ngoài cho nên không
có hiện tượng vi phạm pháp luật báo chí. Tuy nhiên hợp tác trong sản xuất các loại
hình báo chí đối ngoại chưa đa dạng, thiếu sự linh hoạt.
Chỉ đạo, thực hiện chế độ thông tin, báo cáo, thống kê và công tác khen thưởng,
kỷ luật trong hoạt động báo chí đối ngoại tương đối đồng bộ giữa các công việc và đạt
được nhiều kết quả tương đối cao, nổi trội là sự chỉ đạo việc ra soát các quy định về
chế độ thông tin, báo cáo hoạt động báo chí đối ngoại theo kế hoạch.
Những kết quả đạt được như trên có sự đóng góp quan trọng từ việc quản lý
thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về báo chí đối ngoại. Trong những năm
qua, công tác thanh tra, kiểm tra không phát hiện các sai phạm đến mức phải thi hành
kỷ luật, đó là do toàn bộ qui trình thanh tra được thực hiện theo quy định của pháp luật
về thanh tra báo chí.
3. Mặc dù báo chí đối ngoại có sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Đảng, sự quản
lý của Nhà nước, song trước sự phát triển của các loại hình báo chí đối ngoại thế giới
đã tác động đến xu hướng vào sự phát triển báo chí đối ngoại của Việt Nam. Điều này
đặt ra một số vấn đề đặt ra về quản lý báo chí đối ngoại, đó là xây dựng đội ngũ cán bộ
quản lý báo chí đối ngoại có bản lĩnh chính trị, am hiểu chuyên môn và giỏi về ngoại
ngữ, am hiểu nghiệp vụ báo chí và nghiệp vụ quản lý báo chí đối ngoại, nắm vững tình
hình trong nước và quốc tế, hiểu biết sâu sắc về nội dung của báo chí đối ngoại, đối
tượng phục vụ. Mặt khác, cần tăng cường đầu tư các nguồn lực cho quản lý hoạt động
báo chí đối ngoại, chú trọng công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm việc thực hiện
164
quản lý báo chí đối ngoại cũng như triển khai thực hiện các văn bản quản lý báo chí
đối ngoại và tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác về quản lý báo chí đối ngoại giữa
các địa phương và với các nước trên thế giới.
Một số xu hướng phát triển của báo chí đối ngoại ở Việt Nam trong thời gian
tới đó là báo chí đối ngoại tiếp tục làm tốt công tác tham mưu cho Đảng, Nhà nước về
đường lối đối ngoại; xây dựng và phát triển các ấn phẩm báo chí đối ngoại hấp dẫn,
hiện đại, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người đọc, đồng thời thiết lập mối quan
hệ với các cơ quan quản lý báo chí, các hãng thông tấn, cơ quan truyền thông lớn của
nước ngoài và xu hướng hướng đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền quảng bá, giới
thiệu tiềm năng, thế mạnh của đất nước, các hoạt động phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội, đường lối đối ngoại,...
Về phía nhà nước sớm hoàn thiện quy định pháp luật quản lý nhà nước về báo
chí đối ngoại. Về phía các cơ quan quản lý báo chí cần chủ động, sáng tạo trong tiếp
nhận, đăng các tin bài, ảnh có nội dung phù hợp với tôn chỉ, mục đích được cấp phép
và tăng cường đầu tư ngân sách cho công tác nghiên cứu khoa học và đào tạo, bồi
dưỡng, phát triển nguồn nhân lực quản lý báo chí, quan tâm đầu tư, đổi mới và hiện
đại hóa cơ sở vật chất, kỹ thuật của các cơ quan báo chí đối ngoại, đặc biệt là các cơ
quan báo chí đối ngoại chuyên biệt, báo điện tử.
Xây dựng cơ cấu bộ máy quản lý nhà nước đối với báo chí đối ngoại hợp lý;
phối kết hợp với các cơ quan chức năng khác trong việc định hướng quản lý báo chí
đối ngoại; chú trọng đầu tư phương tiện, thiết bị công nghệ cao để tăng cường quản lý
đối với báo chí đối ngoại điện tử; thực hiện nghiêm túc tôn chỉ mục đích, đảm bảo tính
định hướng và đáp ứng nhu cầu thông tin của công chúng; đào tạo, bồi dưỡng, nâng
cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ đội ngũ quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại và
tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý các sai phạm và nâng cao hiệu lực quản
lý báo chí đối ngoại.
165
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Bùi Thị Vân (2017). Công tác quản lý phóng viên nước ngoài tại Việt Nam, Tạp chí
Thông tin đối ngoại, số (158) 5, 2017. ISSN: 1859 – 0543
2. Bùi Thị Vân (2018). Quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về báo chí đối
ngoại, Tạp chí Thông tin đối ngoại, số (169) 4, 2018. ISSN: 1859 - 0543.
3. Bùi Thị Vân (2018). iải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý báo chí đối
ngoại ở Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ 4, Hội thảo
khoa học quốc gia: Quản lý truyền thông trong bối cảnh CMCN lần thứ 4, Học
viện Báo chí và Tuyên truyền
4. Bùi Thị Vân (2019). iải pháp nâng cao chất lượng quản lý báo chí đối ngoại ở
Việt Nam hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, số 5, 2019, ISSN:
1859- 1485.
5. Bùi Thị Vân (2019). Nội dung quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở Việt nam hiện
nay, Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, số 10, 2019, ISSN: 1859 - 1485.
6. Bùi Thị Vân (2020). Phát huy vai trò của quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở
Việt Nam hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, số 9, 2020, ISSN:
1859- 1485.
7. Bùi Thị Vân (2020). Giải pháp quản lý sử dụng mạng xã hội trong hoạt động chính
trị, ngoại giao của Việt Nam hiện nay”, Hội thảo khoa học quốc tế: Quản lý
thông tin trên mạng xã hội trong bối cảnh bùng nổ thông tin, Học viện Báo chí
và Tuyên truyền
8. Bùi Thị Vân (Biên soạn) (2020). iáo tr nh lao động nhà báo đối ngoại, Nxb Lao
Động, Hà Nội
166
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tiếng Việt
1. Lưu Văn An (2017), Giải pháp phát huy vai trò của báo chí Truyền thông đối với
công tác lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam, Tạp chí Lý luận chính trị, số
11/2017, tr.74-80.
2. Phan Duy Anh (2016), Sức mạnh của các nhóm lợi ích truyền thông trong nền
chính trị Mỹ hiện đại, Tạp chí Lý luận chính trị số 5-2016.
3. Nguyễn Thị Mai Anh (2015), Quản lý nhà nước về báo chí trong thời kỳ đổi mới,
Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số 6 (6/2015), tr. 41-43.
4. Nguyễn Thị Mai Anh (2016), Quản lý nhà nước về báo chí ở Việt Nam hiện nay,
Học viện Hành chính quốc gia, Luận án tiến sĩ quản lý công.
5. Hoàng Anh (2012), Tăng cường quản lý nhà nước về pháp luật đối với báo chí,
http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/2012/18400/
Tang-cuong-quan-ly-nha-nuoc-ve-phap-luat-doi-voi-bao.aspx.
6. Nguyễn Thị Mai Anh (2016), Quản lý nhà nước về báo chí trong thời k đổi mới,
Tạp chí Tổ chức nhà nước, Tại trang http://tcnn.vn/Plus.aspx/vi/News
/126/0/1010070/0/33671/Quan_ly_nha_nuoc_ve_bao_chi_trong_thoi_ki_do
i_moi.
7. Nguyễn Thị Mai Anh (2016), Quản lý nhà nước về báo chí ở Việt Nam hiện nay,
Luận án tiến sĩ quản lý công,Học viện Hành chính quốc gia, Hà Nội.
8. Phan Duy Anh (2017), Sức mạnh của các nhóm lợi ích truyền thông trong nền
chính trị Mỹ hiện đại, http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/quoc-
te/item/1842-suc-manh-cua-cac-nhom-loi-ich-truyen-thong-trong-nen-
chinh-tri-my-hien-dai.html.
9. Anya Schiffin, Amer Bisat (2004), Đưa tin thời toàn cầu hóa, Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
10. Đào Vân Anh (2006), Sử dụng Internet trong công tác thông tin đối ngoại ở
Trung Quốc, Tạp chí Thông tin đối ngoại, số (29) 8-2006.
11. Ban Bí thư, Quyết định về việc thành lập Ban chỉ đạo công tác thông tin đối
ngoại, số 16 ngày 26 tháng 12 năm 2001 kèm theo Quy chế phối hợp chỉ
đạo hoạt động thông tin đối ngoại ban hành cùng Quyết định số 16.
12. Ban Bí thư, Chỉ thị số 52 - CT/TW về phát triển và quản lý báo điện tử ở nước ta
hiện nay, ngày 22 tháng 7 năm 2005.
167
13. Ban Bí thư, Chỉ thị số 26/CT-TW về tiếp tục đổi mới và tăng cường công tác
thông tin đối ngoại trong tình hình mới, ngày 10 tháng 9 năm 2008.
14. Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết số 18-NQ/TW Hội nghị lần thứ sáu khoá
XII, Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống
chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả,ngày 25 tháng 10 năm 2017.
15. Ban Tổ chức Trung ương (2018), Ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ,
công chức, viên chức ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
16. Ban Tuyên giáo Trung (2007), Tăng cường lãnh đạo, quản lý tạo điều kiện để
báo chí Việt Nam phát triển mạnh mẽ, vững chắc trong thời gian tới, Nxb
Lý luận chính trị, Hà Nội.
17. Ban Tuyên giáo Trung ương, Báo cáo tổng kết công tác thông tin đối ngoại,
tuyên truyền biển, đảo và phân giới, cắm mốc, quản lý biên giới năm 2018,
triển khai nhiệm vụ năm 2019, ngày 28 tháng 12 năm 2018.
18. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Bộ Văn hóa - Thông tin (1997), Tiếp tục đổi
mới và tăng cường lãnh đạo quản lý công tác báo chí, Nxb Sự thật, Hà Nội.
19. Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương, Bộ Văn hóa – Thông tin, Hội Nhà báo
Việt Nam (2002), Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 22-CT/TW của Bộ Chính trị
khóa VIII về đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí,
xuất bản, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
20. Hoàng Quốc Bảo (chủ biên) (2010), Lãnh đạo và quản lý hoạt động báo chí ở
Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
21. Nguyễn Phú Bình (2006), Tiếp tục thực hiện tốt hơn nữa công tác vận động người
Việt Nam ở nước ngoài, Tạp chí Thông tin đối ngoại, số 23, tháng 2/2006.
22. Lê Thanh Bình (2004), Quản lý và phát triển Báo chí-xuất bản, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
23. Lê Thanh Bình (2005), Báo chí truyền thông và kinh tế, văn hóa-xã hội, Nxb.
Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
24. Lê Thanh Bình, Phí Thị Thanh Tâm (2009), Quản lý nhà nước và pháp luật về
báo chí, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
25. Lê Thanh Bình (2012), Tổng quan truyền thông quốc tế, Nxb Thông tin và
Truyền thông, Hà Nội.
168
26. Lê Thanh Bình (2012), Báo chí và thông tin đối ngoại, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
27. Lê Thanh Bình (2012), iáo tr nh đại cương truyền thông quốc tế, Nxb Thông
tin và Truyền thông, Hà Nội
28. Bộ Chính trị, Chỉ thị số 37/2006/CT-TTg về việc thực hiện kết luận của về một số biện
pháp tăng cường lãnh đạo và quản lý báo chí, ngày 29 tháng 11 năm 2006.
29. Bộ Chính trị (2012), Kết luận số 16-KL/TW về Chiến lược phát triển thông tin
đối ngoại giai đoạn 2011-2020, ngày 14 tháng 02 năm 2012.
30. Bộ Tài chính, Thông tư Quy định chế độ thù lao cho người đọc, nghe, xem để
kiểm tra báo chí lưu chiểu, số 81/2017/TT-BTC, ngày 09 tháng 8 năm 2017.
31. Bộ Thông tin và Truyền thông-Bộ Ngoại giao, Thông tư liên tịch số34/2011/TTLT-
BTTTT-BN Hướng dẫn việc phối hợp thi hành Quy chế quản lý nhà nước về
thông tin đối ngoại ban hành kèm theo Quyết định số 79/2010/QĐ-TTG, ngày
30 tháng 11 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ.
32. Bộ Thông tin và truyền thông, Báo cáo tổng kết 8 năm thi hành Luật báo chí;
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí, tháng 12 năm 2007.
33. Bộ Thông tin và Truyền thông, Thông tư số 04/2014/TT-BTTTT Quy định chi tiết
và hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 88/2012/NĐ-CP ngày
23 tháng 10 năm 2012 của Chính phủ về hoạt động thông tin, báo chí của
báo chí nước ngoài, cơ quan đại diện nước ngoài, tổ chức nước ngoài tại
Việt Nam, ngày 19 tháng 3 năm 2014.
34. Bộ Thông tin và Truyền thông, Báo cáo Tổng kết 15 năm thi hành Luật Báo chí, Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí, ngày 12 tháng 11 năm 2014.
35. Bộ Thông tin và Truyền thông (2015), Hệ thống các văn bản pháp luật về thông
tin đối ngoại, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
36. Bộ Thông tin và Truyền thông (9/2015),Đề án quy hoạch phát triển và quản lý
báo chí toàn quốc đến năm 2025, Hà Nội.
37. Bộ Thông tin và Truyền thông, Thông tư Hướng dẫn quản lý hoạt động thông tin
đối ngoại của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, số 22/2016/TT-
BTTTT, ngày 19 tháng 10 năm 2016.
38. Bộ Thông tin và Truyền thông (2017), Quyết định số 939/QĐ-BTTTT Quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cục thông tin đối
ngoại,ngày 16 tháng 06 năm 2017.
169
39. Bộ Thông tin và Truyền thông, Dự thảo lần 2 Thông tư qui định việc đăng, phát
nội dung thông tin đối ngoại trên báo chí, Hà Nội, 2018.
40. Bộ Thông tin và Truyền thông, Quyết định số 1191/QĐ-BTTTT,Ban hành quy
chế quản lý thống nhất hoạt động đối ngoại, ngày 17 tháng 7 năm 2018.
41. Bộ Thông tin và Truyền thông (2018), Kết quả nổi bật của công tác quản lý nhà
nước về thông tin đối ngoại, Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác báo chí đối
ngoại, tuyên truyền biển đảo, phân giới cắm mốc, quản lý biên giới năm 2018.
42. Bộ Thông tin và Truyền thông, Dự thảo Thông tư hướng dẫn về quản lý hoạt
động thông tin đối ngoại của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ, ngày 21 tháng 11 năm 2018.
43. Bộ Thông tin và Truyền thông, Báo cáo kết quả kiểm tra các Qui hoạch hệ thống
báo chí đối ngoại và Qui hoạch mạng lưới đại diện của các cơ quan thông tấn,
báo chí Việt Nam ở nước ngoài, số 01/BC-BTTTT, ngày 7 tháng 1 năm 2019.
44. Bộ Tư pháp, Nhận thức chung về công tác thông tin đối ngoại,
http://hoptacquocte.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/gioi-thieu-thong-tin-doi-
ngoai.aspx?ItemID=37, ngày 26 tháng 5 năm 2018.
45. Chính phủ, Nghị định số 88/2012/NĐ-CP Quy định về hoạt động thông tin, báo
chí của báo chí nước ngoài, cơ quan đại diện nước ngoài, tổ chức nước
ngoài tại Việt Nam, ngày 23 tháng 10 năm 2012.
46. Chính phủ, Nghị định số 72/2015/NĐ-CP về Quản lý hoạt động thông tin đối
ngoại, ngày 7 tháng 9 năm 2015.
47. Chính phủ, Nghị định số 09/2017/NĐ-CP quy định chi tiết việc phát ngôn và
cung cấp thông tin cho báo chí của các cơ quan hành chính nhà
nước,ngày 9 tháng 2 năm 2017.
48. Chính phủ, Nghị quyết số 08/NQ-CP về chương tr nh hành động của Chính phủ
thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25 tháng 10 năm 2017 của Hội
nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tiếp tục đổi mới
hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động
của các đơn vị sự nghiệp công lập,ngày 24 tháng 01 năm 2018.
49. Claudia Mast (2004), Truyền thông đại chúng – Những kiến thức cơ bản, người
dịch Trần Hậu Thái, Nxb Thông tấn, Hà Nội
50. Hoàng Đình Cúc, Đức Dũng (2007), Những vấn đề của báo chí hiện đại, Nxb Lý
luận chính trị, Hà Nội.
170
51. Doris A.Graber (2006) Sức mạnh của truyền thông trong chính trị (Media Power
in Politics), Khoa Quan hệ quốc tế, Học viện Báo chí và Tuyên truyền dịch.
52. Đỗ Quý Doãn (2014), Quản lý và Phát triển Thông tin báo chí ở Việt Nam, Nxb
Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
53. Trần Bá Dung (2001), Các quan điểm chỉ đạo của Đảng cộng sản Việt Nam về
báo chí trong thời kỳ đổi mới trong cuốn sách Báo chí những điểm nhìn từ
thực tiễn, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
54. Nguyễn Văn Dững (2002), Báo chí những điểm nhìn từ thực tiễn, Nxb Văn hóa-
Thông tin, Hà Nội.
55. Nguyễn Văn Dững (2011), Cơ sở lý luận báo chí, Nxb Lao động, Hà Nội.
56. Nguyễn Văn Dững (2011), Báo chí và dư luận xã hội, Nxb Lao động, Hà Nội.
57. Nguyễn Văn Dững, Đỗ Thị Thu Hằng (2018), Truyền thông lý thuyết và kỹ năng
cơ bản, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
58. Đài Tiếng nói Việt Nam, Báo cáo Kết quả thực hiện Qui hoạch phát thanh,
truyền h nh đối ngoại đến 2020, số /BC-TNVN Hà Nội, tháng 11 năm 2018.
59. Đảng Cộng sản Việt Nam, Chỉ thị số 11-CT/TW về đổi mới và tăng cường công
tác thông tin đối ngoại, ngày 13 tháng 6 năm 1992.
60. Đảng Cộng sản Việt Nam, Thông báo Kết luận số 41-TB/TW của Bộ Chính trị
khóa X, ngày 11 tháng 10 năm 2006.
61. Đảng Cộng sản Việt Nam, Thông báo số 162-TB/TW, Kết luận của Bộ Chính trị
khóa IX về công tác lãnh đạo và quản lý báo chí, ngày 1 tháng 12 năm 2004.
62. Đảng Cộng sản Việt Nam, Thông báo số 188-TB/TW ý kiến của Thường vụ Bộ
Chính trị về công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới, ngày 29 tháng
12 năm 1998.
63. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 10
khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
64. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
65. Hà Minh Đức (2010), C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh với báo chí,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
66. Nguyễn Thị Trường Giang (2017), Báo chí và truyền thông đa phương tiện, Nxb
Đại học quốc gia, Hà Nội.
171
67. Ngô Thái Hà (2015), Thông tấn xã Việt Nam với công tác tuyên truyền về biển,
đảo trong thông tin đối ngoại bằng tiếng nước ngoài, Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp ngành, Thông Tấn xã Việt Nam, Hà Nội.
68. Nguyễn Thị Thu Hà (2015), Vai trò của báo chí đối ngoại với việc thông tin bảo
vệ chủ quyền, biển đảo Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Báo chí học,
Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
69. Đỗ Xuân Hà (1997), Báo chí với thông tin quốc tế. Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
70. Lê Hải (2013), Xây dựng tập đoàn truyền thông giải pháp chiến lược trong phát
triển nền báo chí Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội.
71. Đoàn Thế Hanh (2013), Quản lý nhà nước đối với báo chí ở nước ta,
http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/PrintStory.aspx?distribution=2218
3&print=true.
72. Đinh Thúy Hằng (2008), Báo chí thế giới và xu hướng phát triển, Nxb Thông
tấn, Hà Nội.
73. Đỗ Thị Thu Hằng (2018), Cách mạng công nghiệp 4.0: Vấn đề đặt ra và giải
pháp đối với công tác quản lý truyền thông ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Lý
luận chính trị và truyền thông, số 6/2018, tr.14-19.
74. Trần Thu Hằng (2015), Quản lý nhà nước cấp tỉnh về báo chí khu vực đồng bằng
Sông Hồng, Luận văn thạc sĩ Báo chí học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
75. Việt Hoàng (2005), Cần đổi mới mạnh mẽ hơn nữa công tác thông tin, tuyên
truyền đối với người Việt Nam ở nước ngoài, Tạp chí Thông tin đối ngoại,
số 19, tháng 10/2005.
76. Việt Hoàng (2005), Thông tin đối ngoại qua báo chí – kênh quan trọng để Việt
Nam hội nhập quốc tế, Tạp chí Thông tin đối ngoại, số (16) 7 - 2005.
77. Vũ Ngọc Hoàng (2016), Báo chí với sự phát triển bền vững kinh tế-xã hội,
http://dangcongsan.vn/tieu-diem/bao-chi-voi-su-phat-trien-ben-vung-kinh-
te-xa-hoi-394203.html
78. Vũ Đình Hòe (2000), Truyền thông đại chúng trong công tác lãnh đạo quản lý,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
79. Học viện Báo chí và Tuyên truyền (2000), Báo chí – những điểm nhìn từ thực
tiễn, Tập 1, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
80. Học viện Báo chí và Tuyên truyền (2006), Những vấn đề lý luận chính trị và
truyền thông-nhận thức và vận dụng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
172
81. Học viện Báo chí và Tuyên truyền (2008), Báo chí và truyền thông đại chúng - đào
tạo và bồi dưỡng trong thời kỳ hội nhập, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế.
82. Đỗ Văn Hợp (2016) Nâng cao hiệu quả tuyên truyền của Ban Biên tập tin Đối
ngoại Thông Tấn xã Việt Nam đáp ứng nhiệm vụ chính trị trong tình hình
mới, Đề tài khoa học cấp Bộ, Thông Tấn xã Việt Nam, Hà Nội.
83. Đặng Đình Huân (2015), Vấn đề quản lý nhà nước về hoạt động báo chí ở Cần Thơ
hiện nay, Luận văn thạc sĩ báo chí học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
84. Nguyễn Thị Thương Huyền (2018), Quy trình sản xuất sản phẩm báo chí đối
ngoại ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Báo chí học, Học viện Báo chí
và Tuyên truyền, Hà Nội.
85. Đoàn Công Huynh, tham luận “Công tác thông tin truyền thông đối với cộng
đồng người Việt Nam ở nước ngoài”
86. Đặng Thị Thu Hương (2016), Báo chí đối ngoại Việt Nam trong sự nghiệp xây
dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, in trong cuốn sách Báo chí truyền
thông - Những vấn đề đương đại, Nxb Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội.
87. Nguyễn Thị Thu Hương (2017), Vấn đề quản lý báo chí của các tổ chức chính trị
- xã hội, Tạp chí Người làm báo điện tử, http://nguoilambao.vn/van-de-
quan-ly-bao-chi-cua-cac-to-chuc-chinh-tri-xa-hoi-n6549.html
88. John Wilpers Juan Senor (2020), Báo cáo toàn cầu - Đổi mới sáng tạo trong báo
chí 2020 – 2021, Thông tấn xã Việt Nam
89. Phạm Gia Khiêm (2011), Những nhiệm vụ chủ yếu của công tác thông tin đối
ngoại nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI của Đảng, Tạp chí Thông tin đối ngoại, số (85) 4/2011).
90. Phan Văn Kiền, Phan Quốc Hải, Phạm Chiến Thắng và Nguyễn Đình Hậu
(2016), Một số xu hướng mới của báo chí truyền thông hiện đại, Nxb Thông
tin và Truyền thông, Hà Nội.
91. Bùi Đình Khôi (1997), Vấn đề lãnh đạo quản lý báo chí trong thời kỳ đổi mới,
Tạp chí Người làm báo số tháng 6/1997.
92. Trương Thị Kiên (2015), Trách nhiệm của báo chí đối với chính trị,Tạp chí
Người Làm báo số 382, tháng 12/2015.
93. Nguyễn Thế Kỷ, Nguyễn An Tiêm, Doãn Thị Thuận (2011), Nghiệp vụ Công tác
báo chí - xuất bản, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
173
94. Nguyễn Thế Kỷ (chủ biên) (2012), Công tác lãnh đạo quản lý báo chí trong 25
năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội.
95. Nguyễn Thế Kỷ (2012), Quản lý, phát huy tốt vai trò của báo điện tử, trang tin
điện tử, mạng xã hội trước yêu cầu mới, Tạp chí Quốc phòng toàn dân,
tháng 6/2012.
96. G.V.Ladutina (2003), Những vấn đề cơ bản của đạo đức nghề nghiệp nhà báo,
Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
97. Line Ross (2004), Nghệ thuật thông tin, người dịch Ngọc Kha, Hạnh Ngân, Nxb
Thông tấn, Hà Nội.
98. Phạm Văn Linh (2010), Nâng cao chất lượng hiệu quả công tác thông tin đối
ngoại trong một số cơ quan thông tấn báo chí chủ lực ở nước ta hiện nay –
thực trạng và giải pháp, Đề tài khoa học cấp Bộ.
99. Mai Linh (2012), Nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về báo chí trong tình
hình hiện nay, Tạp chí Tạp chí Cộng sản, số 68 (8/2012), tr. 38-40.
100. Nguyễn Đức Lợi, Lưu Văn An (2017), Thông tin báo chí với công tác lãnh đạo,
quản lý, Nxb Thông tấn, Hà Nội.
101. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
102. Đinh Văn Mậu, Phạm Hồng Thái (2005), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam,
Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
103. Michael Schudson (2003), Sức mạnh của tin tức truyền thông, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
104. Đỗ Đức Minh (2014), Quan hệ của truyền thông đại chúng với ngành tư pháp ở
các nước tư bản phát triển, Tạp chí Khoa học Đại học quốc gia Hà Nội:
Luật học, Tập 30, Số 2 (2014) 51‐67.
105. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
106. Lê Hồng Minh (chủ biên) (2009), Truyền thông Việt nam trong bối cảnh toàn
cầu hóa, Nxb Dân trí, Hà Nội.
107. Michael Schudson (2003), Sức mạnh của tin tức truyền thông, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
108. Trương Ngọc Nam (2018), Đào tạo nguồn nhân lực báo chí, truyền thông ở Việt
Nam trong t nh h nh mới, Tạp chí Cộng sản điện tử,
http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/xay-dung-dang/2018/51817/Dao-
tao-nguon-nhan-luc-bao-chi-truyen-thong-o-Viet-Nam.aspx
174
109. Nguyễn Trí Nhiệm (chủ biên) (2015), Báo chí truyền thông – những vấn đề
đương đại, Nxb Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội.
110. Nguyễn Ngọc Oanh (2011), Tổ chức sản xuất các sản phẩm báo chí đối ngoại,
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
111. Tô Phán, Đảng lãnh đạo báo chí trong giai đoạn hiện nay,
http://hanoimoi.com.vn/Tin-tuc/Suy-ngam/563174/dang-lanh-dao-bao-chi-
trong-giai-doan-hien-nay.
112. Lưu Đình Phúc (2016), Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với báo chí
trong giai đoạn hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
113. Hà Huy Phượng (2018), Lãnh đạo, quản lý báo chí - truyền thông trong thời đại
công nghiệp 4.0, Tạp chí Lý luận Chính trị và Truyền thông, số 6/2018, tr.9-13.
114. Dương Văn Quảng (2002), Báo chí và ngoại giao, Nxb Thế giới, Hà Nội.
115. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngày 28
tháng 11 năm 2013.
116. Quốc hội (2016), Luật Báo chí, Luật số 103/2016/QH13, ngày 5 tháng 4 năm 2016.
117. Nguyễn Duy Quyền (2004), Công tác thông tin đối ngoại của các Đảng bộ, Chi
bộ ngoài nước, Tạp chí Thông tin đối ngoại, số (4) 2004.
118. Nguyễn Bắc Son (2014), Tăng cường công tác quản lý báo chí trong giai đoạn
hiện nay, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 30 tháng 7 năm 2014.
119. Nguyễn Bắc Son (2015), Quản lý, quy hoạch Báo chí – Nhiệm vụ quan trọng của
Đảng trong giai đoạn tới, Tạp chí Tài chính, ngày 2 tháng 2 năm 2015.
120. Nguyễn Bắc Son (2015), Báo chí đối ngoại – Động lực phát triển đất nước trong
thời kỳ hội nhập, Tạp chí Thông tin đối ngoại số 138/2015.
121. Dương Xuân Sơn (2014), Các loại hình báo chí truyền thông, Nxb Thông tin và
Truyền thông, Hà Nội.
122. Phạm Minh Sơn (2004), Thông tin đối ngoại – Ngành học thời đại toàn cầu hóa,
Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền, số 3 (5 - 6)/2004.
123. Phạm Minh Sơn (2006), Công tác đào tạo cán bộ thông tin đối ngoại ở Học viện Báo
chí và Tuyền truyền, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, số 12/2006.
124. Phạm Minh Sơn (2006), Hoạt động truyền thông đại chúng trong công tác thông
tin đối ngoại của Việt Nam hiện nay, Đề tài cấp bộ năm 2007, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
175
125. Phạm Minh Sơn (2008), Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ thông tin
đối ngoại trong thời kỳ mới, Tạp chí Thông tin đối ngoại, số 9/2008.
126. Phạm Minh Sơn (2008), Thông tin đối ngoại Việt Nam trong quá trình hội nhập
quốc tế, Tổng quan đề tài khoa học cấp bộ năm 2008.
127. Phạm Minh Sơn (2008), Đẩy mạnh hoạt động thông tin đối ngoại trong quá trình
hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay, Đề tài cấp Bộ, Học viện Báo chí
và Tuyên truyền.
128. Phạm Minh Sơn (2009), Đào tạo cử nhân chuyên ngành thông tin đối ngoại – kết
quả và những vấn đề đặt ra, Tạp chí Thông tin đối ngoại, số 2/2009.
129. Phạm Minh Sơn, Nguyễn Thị Quế (2009), Truyền thông đại chúng trong công
tác thông tin đối ngoại của Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị-Hành chính,
Hà Nội
130. Phạm Minh Sơn (2009), Phương châm chính xác, sinh động, kịp thời, hợp đối
tượng trong hoạt động thông tin đối ngoại, Tạp chí Thông tin đối ngoại, số
10/2009.
131. Phạm Minh Sơn (chủ biên) (2011), Thông tin đối ngoại Việt Nam – Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị-Hành chính, Hà Nội.
132. Phạm Minh Sơn (2011), Tăng cường công tác thông tin đối ngoại trong thời kỳ
mới, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu - European studies review, số 03 (126),
tr.69-74.
133. Vũ Thanh Sơn (2008), Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất các giải
pháp quản lý Nhà nước về báo chí ở nước ta trong xu thế hội nhập kinh tế
quốc tế, Đề tài cấp bộ, Cục Báo chí, Bộ Thông tin và Truyền thông.
134. Tạ Ngọc Tấn (1999), Từ lý luận đến thực tế báo chí, Nxb Văn hóa-Thông tin, Hà Nội.
135. Tạ Ngọc Tấn (2001), Truyền thông đại chúng – động lực phát triển của xã hội
hiện đại trong cuốn sách Báo chí những điểm nhìn từ thực tiễn, Nxb Văn
hóa-Thông tin, Hà Nội.
136. Tạ Ngọc Tấn (2004), Truyền thông đại chúng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
137. Tạ Ngọc Tấn (chủ biên) (2007), Cơ sở lý luận báo chí, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
138. Tạ Ngọc Tấn (2007), Một số vấn đề về phát triển báo chí nước ta hiện nay,
http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-
Traodoi/2007/1580/Mot-so-van-de-ve-phat-trien-bao-chi-nuoc-ta-hien.aspx
176
139. Thông Tấn xã Việt Nam, V/v tình hình triển khai Qui hoạch báo chí đối ngoại và
Qui hoạch mạng lưới đại diện cơ quan thông tấn ở nước ngoài, số
1075/TTX-BTK, ngày 23 tháng 11 năm 2018.
140. Trịnh Xuân Thắng (2013), Quản lý nhà nước về báo mạng điện tử ở Việt Nam
hiện nay, Tạp chí Thông tin đối ngoại số tháng 7/2013.
141. Lưu Trần Toàn (2019), Tuyên truyền hình ảnh việt nam ra thế giới qua báo chí đối
ngoại trong giai đoạn hiện nay (Qua khảo sát các chuyên mục của kênh
VTV4, báo mạng điện tử Vietnam Plus và tạp chí in Vietnam Economic
Times), Luận án tiến sĩ Chính trị học, Học viện Báo chí và Tuyên tryền, Hà
Nội.
142. Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị số 10/2000/ CT-TTgvề tăng cường quản lý và đẩy
mạnh công tác thông tin đối ngoại, ngày 26 tháng 4 năm 2000.
143. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 388/QĐ-TTgvề Kế hoạch thực hiện Thông
báo số 162 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác quản lý báo chí, ngày
13 tháng 5 năm 2005.
144. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định 79/2010/QĐ-TTg ban hành Quy chế quản lý
nhà nước về thông tin đối ngoại, ngày 30 tháng 10 năm 2010.
145. Thủ tướng Chính phủ, Quy chế Quản lý nhà nước về thông tin đối ngoại (Ban
hành kèm theo Quyết định số 79/2010/QĐ-TTg), ngày 30 tháng 11 năm
2010.
146. Thủ tướng Chính phủ (2012), Chỉ thị số 21/CT-TTg về việc triển khai thực hiện
Chiến lược phát triển thông tin đối ngoại giai đoạn 2011 - 2020,ngày 06
tháng 8 năm 2012.
147. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 368/QĐ-TTg Phê duyệt chương
tr nh hành động của chính phủ về thông tin đối ngoại giai đoạn 2013 -
2020,ngày 28 tháng 02 năm 2013.
148. Thủ tướng Chính phủ, Quyết địnhsố 2434/QĐ-TT Phê duyệt quy hoạch hệ
thống báo chí đối ngoại đến năm 2020, định hướng đến năm 2030,ngày
13 tháng 12 năm 2016.
149. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định phê duyệt Đề án quản lý hoạt động truyền
thanh - truyền h nh cấp huyện đến năm 2020,số 308/QĐ-TTg, ngày 13
tháng 3 năm 2018.
177
150. Doãn Thị Thuận (2015), Kinh nghiệm quản lý báo chí, báo chí điện tử ở một số
quốc gia, Tạp chí Người làm báo, số 90, tháng 11 và số 91, tháng 12/2015.
151. Doãn Thị Thuận (2015), Một số giải pháp tăng cường quản lý báo chí điện tử
trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Tuyên giáo, tháng 12/2015.
152. Doãn Thị Thuận (2017), Quản lý báo chí điện tử ở nước tatrong giai đoạn hiện
nay, Luận án tiến sĩ Báo chí học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
153. Nguyễn Vũ Tiến (2002), Nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với báo chí,
Tạp chí Lý luận chính trị, số 9/2002.
154. Đào Xuân Tiến (2010), Đổi mới nâng cao chất lượng tạp chí Thông tin đối ngoại
trong tình hình mới, Đề tài khoa học cấp Bộ.
155. Lê Minh Toàn (chủ biên) (2009), Quản lý Nhà nước về thông tin và truyền thông,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
156. Lưu Trần Toàn (2019), Tuyên truyền hình ảnh việt nam ra thế giới qua báo chí
đối ngoại trong giai đoạn hiện nay (Qua khảo sát các chuyên mục của
kênh VTV4, báo mạng điện tử Vietnam Plus và tạp chí in Vietnam
Economic Times), Luận án tiến sĩ Chính trị học, Học viện Báo chí và
Tuyên tryền, Hà Nội.
157. Trần Đăng Tuấn (2007), Một số vấn đề lãnh đạo, quản lý báo chí trong tình hình
hiện nay, Tạp chí Cộng sản số 6/2007.
158. Trương Minh Tuấn (2014), Tăng cường công tác quản lý nhà nước về báo chí
trong tình hình hiện nay, Tạp chí quốc phòng toàn dân điện tử,
http://tapchiqptd.vn/vi/van-de-chung/tang-cuong-cong-tac-quan-ly-nha-nuoc-
ve-bao-chi-trong-tinh-hinh-hien-nay/5780.html, ngày 20 tháng 6, năm 2014.
159. Phan Lê Tùng (2017),Quản lý nội dung thông tin đối ngoại tại các đài phát
thanh-truyền h nh địa phương, http://nguoilambao.vn/quan-ly-noi-dung-
thong-tin-doi-ngoai-tai-cac-dai-pt-th-dia-phuong-n5672.html.
160. Bùi Thị Vân (2016), Một số vấn đề trong công tác quản lý hoạt động thông tin
đối ngoại ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị, số 6/2016.
161. Vũ Thanh Vân (2014), Truyền thông quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
162. Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
163. Phạm Thái Việt (2016), iáo tr nh đại cương truyền thông quốc tế, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
178
164. Hồng Vinh (2004), Công tác thông tin đối ngoại ở một số nước Đông Âu, Tạp
chí Thông tin đối ngoại, số (3) 2004.
165. Nguyễn Hồng Vinh (2011), Một số vấn đề cần quan tâm trong Thông tin đối
ngoại trên báo chí hiện nay, Tạp chí Thông tin đối ngoại, số (87) 6/2011.
166. Nguyễn Quang Vinh (2014), Tăng cường công tác quản lý báo chí trong giai đoạn
hiện nay, http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Binh-luan/2014/28413/
Tang-cuong-cong-tac-quan-ly-bao-chi-trong-giai-doan-hien.aspx.
167. V.V.Vôrôsilốp (2004), Nghiệp vụ báo chí: Lý luận và thực tiễn, người dịch Lê
Tâm Hằng, Trần Phú Tuyết, Nxb Thông tấn, Hà Nội
168. Vụ Báo chí - Xuất bản, Ban Tuyên giáo Trung (2008), Quản lý báo chí trong tình
hình hiện nay (2007-2008), Đề tài cấp Bộ.
169. Ngô Đình Xây (2015), Quan hệ giữa báo chí với chính trị ở Việt Nam, Tạp chí
Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 (95), tr.11-16.
170. Anh Xuân (2005), Báo chí với cuộc đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc thù
địch trong âm mưu “diễn biến hòa b nh”, Tạp chí Thông tin đối ngoại, số
(16) 7-2005.
II. Tài liệu tiếng Anh
171. A. J. Wefald & J. P. Katz (2007): Leaders: The Strategies for Taking Charge,
Academy of Management Learning and Education
172. Bechmann G., J. Fecker, U. Huws, G.V. Hootergem, M.L. Mirabile, A.B. Moniz,
S. Siochru (1999). Information Society, Work and the Generation of New
Forms of Social Exclusion (SOWING). First Interim Report (Literature
Review), Tampere, p 8-9.
173. Bill Kovach, Tom Rosenstiel (2014), The Elements of Journalism,ISBN-
10: 0804136785, ISBN-13: 978-0804136785.
174. Dannika Lewis (2010), Foreign Correspondents in a Modern World The past,
present and possible future of global journalism, The Elon Journal of
undergraduate research in communications, Vol. 1, No. 1, p.119-127.
175. Doris A. Graber: Media Power in Polities, Congressional Quarterly Inc.,
Washsington, 2000.
176. James Willsson, Stan Le Roy Willlsson: Mass Media Mass Culture, McGraw –
Hill, Inc 1999.
179
177. John Prescott Thomas (2009), Media Management Manual: A Handbook for in Transition, in Countries Information Sector, United Nations Educational
Television and Radio Practitioners Communication and Scientific & Cultural Organization.
178. Jørgen Skrubbeltrang (2015), Research: The role of the fixer in foreign news,
https://en.ejo.ch/research/research-role-fixer-foreign-news.
179. Judith and William Serrin: The Journalis that changed America, The New Press,
New York, 2002.
180. Frank Webster (2006), Theories of the information society, Third Edition,
Routlege Publisher, Master e-book.p.8-9.
181. George R.Rodman (2011), Mass Media in a changing world, ISBN 0073053090,
9780073053097.
182. George L.Bird and E.Merwwin (1955), The press and society, Prentice-Hall, Inc,
New York
183. Herbert Lee Williams and Frank Warren Rucker (1955), Newspaper Organization and Management, 5th Edition, ISBN-13: 978-0813811505, ISBN-10: 0813811503
184. House R. J. & R.N.Aditya (1997): The Social Scientific Study of Leadership:
Quo Vadis? Journal of Management
185. Islam R, S. Djankov, C. McLiesh: The Right to Tell: The Role of Mass Media in
Economic Development, World Bank Publication, NY. 2002. Journalism, International (2011), 186. Kevin Williams Sage Press,
http://dx.doi.org/10.4135/9781446251133
187. Martin F.Herz (1990), Communicating with the World: U. S. Public Diplomacy
Overseas, St Martin’s Press, Newyork.
188. McCombs, M; Reynolds, A (2002). “News influence on our pictures of the
world”. Media Effects: Advances in Theory and Research.
189. Olasunkanmi Arowolo (2017), Understanding framing theory, School of
Communication, Lagos State University, Ojo, Lagos.
190. Rusell J. Danlton: Citizen Politics, Chatham House Publishers of Seven Bridges
Press, LLC. 2002.
191. Simon McPhillips, Omar Merlo (2008), Media convergence and the evolving media business model: an overview and strategic opportunities, The Marketing Review, Vol. 8, No.3.
180
III. Các trang Website
192. http://www.businessdictionary.com/definition/newspaper.html.
193. https://dictionary.cambridge.org/dictionary/english/newspaper.
194. https://en.oxforddictionaries.com/definition/newspaper
195. http://baodongkhoi.vn/tam-quan-trong-cua-thong-tin-doi-ngoai-09052013-
a27318.html, Tầm quan trọng của thông tin đối ngoại.
196. http://tuyengiaobinhphuoc.org.vn/tong-quan-cong-tac-thong-tin-doi-ngoai,
Tổng quan công tác thông tin đối ngoại.
197. http://www.nhandan.com.vn/chinhtri/item/35111602-hoi-nghi-bao-chi-toan-
quoc-nam-2017.html.
198. https://baomoi.com/7-nha-bao-bi-thu-hoi-the-do-sai-pham/c/29112230.epi.
199. http://www.isl.vass.gov.vn/thong-tin-phap-ly/nghien-cuu-trao-doi/He-thong-van-
ban-quy-pham-phap-luat-ve-bao-chi-Nhieu-nhung-van-thieu-3597.18.
200. http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Binh-luan/2017/46999/Vai-tro-lanh-
dao-cua-Dang-doi-voi-cong-tac-bao-chi.aspx.
201. Communication Theory; Mass Communication: Magic bullet or hypodermic
needle theory of communication, http://communicationtheory.org/magic-
bullet-or-hypodermic-needle-theory-of-communication
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1: PHIẾU XIN Ý KIẾN
PHỤ LỤC 2: KẾT QUẢ KHẢO SÁT
PHỤ LỤC 3: BIÊN BẢN TRẢ LỜI PHỎNG VẤN CỤC THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI
BỘ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG
PHỤ LỤC 4: PHỎNG VẤN SÂU LÃNH ĐẠO CỤC THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI (B1)
PHỤ LỤC 5: PHỎNG VẤN SÂU LÃNH ĐẠO BAN BIÊN TẬP TIN ĐỐI NGOẠI –
THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (M1)
PHỤ LỤC 6: PHỎNG VẤN SÂU LÃNH ĐẠO BAN ĐỐI NGOẠI VOV5, ĐÀI
TIẾNG NÓI VIỆT NAM (N1)
PHỤ LỤC 7: QUYẾT ĐỊNH KHEN THƯỞNG
PHỤ LỤC 1
Để có số liệu phục vụ Luận án Tiến sĩ “Quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở Việt
Nam hiện nay”, nghiên cứu sinh trân trọng đề nghị ông (bà) trả lời các câu hỏi được nêu ra dưới
đây. Mỗi câu hỏi có kèm theo các phương án trả lời khác nhau, phương án nào phù hợp với suy
nghĩ của mình, ông (bà) hãy đánh dấu (x) vào ô bên cạnh Những thông tin mà ông (bà) cung
cấp chỉ được sử dụng cho mục đích nghiên cứu. Ông (bà) không cần ghi tên, địa chỉ của mình
vào phiếu. Xin cảm ơn!
PHIẾU XIN Ý KIẾN
Câu hỏi 1. Thời gian qua, những việc làm dưới đây đã được cơ quan quản lý nhà nước
về báo chí đối ngoại thực hiện như thế nào?
Thực
Thực
Không
hiện
hiện
thực hiện
tốt
chưa tốt
1. Công tác định hướng, xây dựng chiến lược phát triển các
cơ quan báo chí đối ngoại
2. Công tác quy hoạch, sắp xếp hệ thống các cơ quan báo
chí đối ngoại
3. Công tác phối hợp giữa các cơ quan báo chí đối ngoại
với nhau trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao
4. Công tác xây dựng kế hoạch phát triển cơ quan báo chí
đối ngoại
5. Việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan
chức năng báo chí đối ngoại
6. Khác (ghi rõ)...................................................................
Câu hỏi 2. Ông (bà) hài lòng như thế nào về các văn bản quy phạm pháp luật về báo chí
đối ngoại?
Rất hài
Hài
Bình
lòng
lòng
thường
1. Số lượng các văn bản quy phạm pháp luật về báo chí đối
ngoại
2. Chất lượng các văn bản quy phạm pháp luật về báo chí
đối ngoại
Câu hỏi 3. Ông (bà) đánh giá như thế nào về công tác xây dựng các văn bản quy phạm
pháp luật về báo chí đối ngoại thời gian qua?
Thực hiện tốt
Không thực hiện
Thực hiện chưa tốt
1. Công tác phối hợp xây dựng và ban hành các văn bản pháp
luật về báo chí đối ngoại
2. Việc thi hành pháp luật về báo chí đối ngoại
3. Công tác sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật về báo
chí đối ngoại
4. Công tác xây dựng chế độ, chính sách về tài chính, cơ sở vật
chất và con người cho hoạt động báo chí đối ngoại
5. Công tác tuyên truyền, tập huấn cho cán bộ quản lý các cơ
quan báo chí đối ngoại về các văn bản luật pháp
6. Tiếp thu, lắng nghe các đề xuất kiến nghị trong xây dựng văn
bản pháp luật liên quan đến báo chí đối ngoại
Câu hỏi 4. Ông (bà) đánh giá như thế nào về công tác quản lý thông tin báo chí đối ngoại
thời gian qua?
Thực hiện tốt
Không thực hiện
Thực hiện chưa tốt
1. Đổi mới nội dung viết trên báo chí đối ngoại
2.Đổi mới phương thức sản xuất, nội dung và hình thức các sản
phẩm báo chí đối ngoại
3. Thông tin tuyên truyền về chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài
4. Thông tin tuyên truyền về hình ảnh đất nước con người, văn hóa
Việt Nam đến cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài
5. Đấu tranh với những thông tin sai lệch, luận điệu xuyên tạc
về Việt Nam, kiên quyết bảo vệ độc lập,chủ quyền toàn vẹn
lãnh thổ quốc gia
6. Thông tin các vấn đề quốc tế
Câu hỏi 5. Ông (bà) đánh giá như thế nào về công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình
độ chính trị, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ người làm báo ở các cơ quan
báo chí đối ngoại hiện nay?
Thực hiện tốt
Không thực hiện
Thực hiện chưa tốt
1. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao phẩm chất chính trị
cho người làm báo chí đối ngoại
2. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao phẩm chất đạo đức
nghề nghiệp, lối sống cho người làm báo chí đối ngoại
3. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ cho những người làm báo chí đối ngoại
4. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ ngoại ngữ cho
người làm báo chí đối ngoại
5. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao việc ứng xử văn hóa,
văn minh cho những người làm báo chí đối ngoại
6. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý cho
đội ngũ cán bộ quản lý báo chí đối ngoại
7. Công tác thi đua, khen thưởng đối với những người làm báo
chí đối ngoại (khen công tâm, công bằng, khách quan, trung
thực)
8. Công tác xử phạt đối với những cán bộ làm báo chí đối ngoại
vi phạm luật pháp
Câu hỏi 6. Ông (bà) đánh giá như thế nào về công tác hợp tác quốc tế trên lĩnh vực báo chí
giữa cơ quan báo chí Việt Nam và hoạt động của báo chí nước ngoài tại Việt Nam?
Thực hiện tốt
Không thực hiện
Thực hiện chưa tốt
1. Mời phóng viên báo chí nước ngoài vào Việt Nam để đưa tin
viết, bài
2. Hợp tác với cơ quan báo chí nước ngoài để viết bài quảng bá
hình ảnh Việt Nam
3. Nội dung các chương trình phối hợp giữa cơ quan báo chí
trong nước với cơ quan báo chí nước ngoài
4. Phát hành, truyền dẫn phát sóng các sản phẩm báo chí ra
nước ngoài
5. Thành lập các cơ quan thường trú, văn phòng đại diện báo
chí nước ta ở nước ngoài
6. Việc cử nhà báo hoạt động báo chí ở nước ngoài
Câu hỏi 7. Ông (bà) đánh giá như thế nào về công tác thông tin, báo cáo, thống kê trong
hoạt động báo chí đối ngoại?
Không đồng ý
Hoàn toàn đồng ý
Đồng ý một phần
1. Thông tin báo chí đối ngoại đảm bảo tính chính xác, trung
thực, khách quan
2. Cơ quan báo chí đối ngoại đã thực hiện tốt việc báo cáo định
kỳ hàng tháng, hàng quý dưới các hình thức khác nhau
3. Cơ quan báo chí đối ngoại đã chỉ đạo tốt việc rà soát các quy
định về chế độ thông tin và báo cáo hoạt động của báo chí đối
ngoại
4. Cơ quan báo chí đối ngoại đã thực hiện tốt việc đánh giá kết
quả công việc
5. Khác (ghỉ rõ)
Câu hỏi 8. Ông (bà) đồng ý với những nhận định nào dưới đây?
1. Công tác thanh tra, kiểm tra báo chí đối ngoại được thực hiện một cách thường xuyên
2. Công tác thanh tra, kiểm tra báo chí đối ngoại được thực hiện đúng theo quy định của
luật pháp
3. Xử lý sai phạm đối với báo chí đối ngoại được thực hiện nghiêm minh, công khai,
minh bạch
4. Phương thức thanh tra, kiểm tra đa dạng phong phú, thanh tra đúng trọng tâm trọng
điểm
5. Khác (ghi rõ)
Câu hỏi 9. Ông bà có nhận định như thế nào về phương thức quản lý nhà nước về báo
chí đối ngoại thông qua các công cụ quản lý là các văn bản qui phạm pháp luật được
nêu dưới đây:
Mức độ thực hiện
Phương thức quản lý thông qua các công cụ quản lý là
TT
các văn bản qui phạm pháp luật
Tốt
Khá TB
1. Việc quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại luôn bám sát
theo các quy định của Hiến pháp và pháp luật
2. Quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại luôn xác định rõ các
hành vi bị nghiêm cấm trong quản lý nhà nước về báo chí
nói chung và báo chí đối ngoại nói riêng
3. Quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại luôn đảm bảo thực hiện
quyền tự do báo chí của công dân trên báo chí đối ngoại
4. Quản lý nhà nước về thực hiện quyền tự do ngôn luận trên
báo chí đối ngoại của công dân
5. Quản lý nhà nước về việc thưc hiện các quy định đối với đối
tượng được thành lập cơ quan báo chí đối ngoại
6. Quản lý chặt chẽ việc cấp giấy phép hoạt động báo chí đối
ngoại
7. Việc bổ nhiệm người đứng đầu cơ quan báo chí đối ngoại
luôn đảm bảo đầy đủ các tiêu chuẩn theo quy định của pháp
luật báo chí
8. Quản lý chặt chẽ việc thực hiện cũng cấp thông tin cho báo
chí đối ngoại
Câu hỏi 10. Ông bà có nhận định như thế nào về phương thức quản lý nhà nước về báo
chí đối ngoại thông qua các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí được nêu dưới đây:
Mức độ thực hiện
Quản lý thông qua các cơ quan quản lý nhà nước
TT
về báo chí
Tốt
Khá
TB
1. Bộ Thông tin và Truyền thông tích cực chỉ đạo và phối hợp
với các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở
trung ương và các địa phương
2. Cục Thông tin và Đối ngoại chủ động, tích cực, sâu sát trong
quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại một cách toàn diện
3. Các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền
hạn của mình có thể hiện rõ trách nhiệm trong phối hợp với
Bộ Thông tin và Truyền thông thực hiện quản lý nhà nước về
báo chí
4. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền
hạn của mình thể hiện đầy đủ trách nhiệm quản lý nhà nước
về báo chí đối ngoại tại địa phương
5. Các cơ quan quản lý báo chí ở Trung ương thường xuyên có sự
chỉ đạo và phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với các cơ quan
quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở các địa phương
Câu 11. Phương thức quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại thông qua thanh tra, kiểm
tra, giám sát và đề xuất khen thưởng, kỷ luật các hành vi vi phạm pháp luật về báo chí
đối ngoại
Quản lý thông qua thanh tra, kiểm tra, giám sát và đề
Mức độ thực hiện
TT
xuất khen thưởng, kỷ luật các hành vi vi phạm pháp luật
Tốt
Khá
TB
về báo chí đối ngoại
1. Các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí ở trung ương và
các địa phương chủ trì phân tích đánh giá đúc rút kinh
nghiệm về nghiệp vụ thanh tra trong lĩnh vực báo chí đối
ngoại thuộc phạm vi và địa bàn quản lý
2. Các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở trung
ương và ở các địa phương thường xuyên kiểm tra, giám sát
hoạt động của các cơ quan báo chí đối ngoại
3. Các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí ở trung ương và các
địa phương xây dựng chương trình kế hoạch công tác thanh tra,
kiểm tra hoạt động của báo chí đối ngoại hàng năm
4. Các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí ở trung ương và các
địa phương chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan để thanh
tra kiểm tra việc chấp hành pháp luật đối với các tổ chức, cá
nhân hoạt động trong lĩnh vực báo chí đối ngoại
5. Phát hiện, áp dụng các biện pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời
hoặc kiến nghị với các cơ quan chức năng xử lý đối với các
hành vi vi phạm hành chính của các cơ quan, cá nhân hoạt
động trong lĩnh vực báo chí đối ngoại
6. Các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí ở trung ương và
các địa phương chủ trì xử lý các khiếu nại, tố cáo trong lĩnh
vực quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại thuộc phạm vi và
địa bàn mình phụ trách
7. Cơ quan báo chí, nhà báo, tổ chức và công dân có thành tích và
cống hiến trong hoạt động báo chí đối ngoại được khen thưởng
theo quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng
Câu hỏi 12. Theo ông (bà) thành tựu nổi bật của công tác quản lý báo chí đối ngoại thời
gian qua là gì?
1. Truyền tải hình ảnh, đất nước, con người Việt Nam với bạn bè quốc tế
2. Thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế
3. Hỗ trợ tích cực cho các hoạt động của cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài
(bảo vệ ngư dân, công dân Việt Nam ở nước ngoài)
4. Đấu tranh ngoại giao, đấu tranh dư luận trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo
5. Đấu tranh hiệu quả các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, biên giới, lãnh thổ
với các thế lực thù địch ngoài nước
6. Khác (ghi rõ)
Câu hỏi 13. Theo Ông (bà) đâu là những nguyên nhân hạn chế trong công tác quản lý
báo chí đối ngoại thời gian qua?
1. Trình độ quản lý báo chí đối ngoại của lãnh đạo quản lý còn hạn chế
2. Chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước về báo chí đối ngoại chưa đầy đủ,
rõ ràng
3. Thái độ, nhiệt huyết của phóng viên báo chí đối ngoại còn hạn chế
4. Trình độ chuyên môn của người làm báo chí đối ngoại còn hạn chế
5. Nội dung, số lượng và chất lượng thông tin được cung cấp, chia sẻ chưa phong phú
đa dạng
6. Trình độ ngoại ngữ của đội ngũ cán bộ quản lý báo chí đối ngoại còn hạn chế
7. Công tác phối hợp giữa các cơ quan báo chí đối ngoại chưa được thực hiện tốt
8. Cán bộ làm công tác báo chí đối ngoại thiếu và yếu về kinh nghiệm nghề nghiệp và
thực tiễn
9. Ngân sách dành cho báo chí đối ngoại và cơ sở vật chất, trang thiết bị phương tiện
hoạt động báo chí đối ngoại còn hạn chế
10. Khác (ghi rõ)
Câu hỏi 14. Theo Ông (bà) để nâng cao chất lượng công tác quản lý báo chí đối ngoại,
trong thời gian tới, chúng ta sẽ phải làm gì?
1. Tăng cường thông tin, tuyên truyền nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân
về công tác báo chí đối ngoại
2. Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy trong công tác quản lý báo chí đối ngoại
3. Đổi mới về cơ chế tổ chức các đơn vị tham gia báo chí đối ngoại
4. Đổi mới nội dung, hình thức, hiện đại hóa các phương tiện báo chí đối ngoại
5. Sử dụng hiệu quả các thành tựu khoa học công nghệ, đặc biệt là internet trong hoạt
động báo chí đối ngoại
6. Tăng cường đầu tư tài chính, cơ sở vật chất cho hoạt động báo chí đối ngoại
7. Nâng cao năng lực quản lý báo chí đối ngoại cho đội ngũ cán bộ quản lý
8. Có các cơ chế chính sách, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp
vụ cho người làm báo chí đối ngoại
9. Khen thưởng đúng người đúng việc, minh bạch rõ ràng đối với những người làm tốt
công tác báo chí đối ngoại
10. Kỷ luật thật nghiêm đối với những cá nhân, tổ chức vi phạm hoạt động báo chí đối
ngoại
11. Giải pháp khác (ghi rõ)............................................................
Xin ông (bà) vui lòng cho biết một số đặc điểm của bản thân:
6. Hiện đang công tác tại 6.1. Cơ quan báo chí khối
các cơ quan Đảng
3. Trình độ lý luận chính trị 3.1. Sơ cấp, trung cấp 3.2. Cao cấp, cử nhân
1. Tuổi(ghi rõ số tuổi)…….. 2. Trình độ học vấn 2.1. Trung cấp, cao đẳng 2.2. Đại học
6.2. Cơ quan báo chí ở
Chính phủ
2.3. Sau đại học
4. Là cán bộ lãnh đạo, quản lý 5. Là cấp uỷ viên
6.3. Cơ quan báo chí ở cơ quan dân cử (Quốc hội, HĐND) 6.4. Cơ quan báo chí ở các tổ chức chính trị - xã hội 6.5. Cơ quan báo chí khác
Một lần nữa xin cảm ơn sự cộng tác của ông (bà)!
PHỤ LỤC 2
KẾT QUẢ KHẢO SÁT
Bảng mô tả các biến
Các biến
Giới tính
Độ tuổi
Vị trí công tác
Số lượng 283 117 116 189 95 125
% 70,75 29,25 29 47,25 23,75 31,25
275
68,75
185
46,25
Tốt nghiệp đại học ngoại ngữ và ngành khác
215
53,75
314
78,3
Số người tốt nghiệp đại học trong và ngoài nước
86
21,7
Nam Nữ 25-35 36-50 Trên 50 Cán bộ quản lý Cán bộ báo chí không giữ chức vụ quản lý Số người tốt nghiệp đại học ngoại ngữ Số tốt nghiệp ở ngành khác Số người tốt nghiệp đại học, sau đại học trong nước Số người tốt nghiệp đại học, sau đại học ở ngoài nước
1. Thực trạng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại của chủ thể quản lý báo chí
Mức độ thực hiện
TT
Vai trò của chủ thể quản lý
Tốt
Khá
Trung bình
SL %
SL %
SL %
1.
262
65,6
99
24,8
38
9,6
Trách nhiệm chung của Bộ Thông tin và Truyền thông trong thực hiện quản lý nhà nước về báo chí
2.
Quản lý của Cục Thông tin đối ngoại
210
52,6
152
38
11
2,8
a.
310
77,6
89
22,4
0
0
Nghiên cứu, đề xuất và thực hiện việc xây dựng dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý báo chí đối ngoại
b.
240
0,60
147
36,8
12
3,2
Chủ trì, phối hợp xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển các vấn đề về báo chí đối ngoại
c.
198
49,6
176
44
25
6,4
Hướng dẫn, tổ chức, kiểm tra việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về chiến lược phát triển báo chí đối ngoại
d.
188
47,2
195
48,8
16
4
Tổng hợp, phân tích, đánh giá dư luận báo chí nước ngoài về Việt Nam và khi có các sự kiện trong nước, quốc tế quan trọng
e.
265
66,4
124
31,2
9
2,4
Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan về việc cung cấp các thông tin, làm rõ, phản bác các thông tin sai lệch về Việt Nam trên các lĩnh vực
f.
249
62,4
150
37,6
0
0
Phối hợp, cung cấp, chia sẻ nội dung báo chí đối ngoại giữa các cơ quan nhà nước với các cơ quan báo chí
g.
204
51,2
176
44
19
4,8
Phối hợp thực hiện các hoạt động báo chí đối ngoại với các Bộ, Ngành, địa phương, các cơ quan báo chí, các tổ chức trong và ngoài nước
h.
198
49,6
185
46,4
16
4
Phối hợp với các tổ chức có liên quan quản lý hoạt động báo chí đối ngoại
i.
275
68,8
124
31,2
0
0
Tham mưu, đề xuất và thực hiện các hoạt động báo chí đối ngoại nhằm giới thiệu về tình hình Việt Nam, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái trên các lĩnh vực của Việt Nam
j
182
45,6
188
47,2
28
7,2
Quản lý của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn trong thưc hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại tại địa phương
2. Đối tượng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại
Mức độ thực hiện
TT
Tốt
Khá
Trung bình
Đối tượng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại
SL %
SL %
SL %
Quản lý cơ quan báo chí đối ngoại
291
72,8
108
27,2
0
0
1.
Quản lý người làm báo chí đối ngoại
262
65,6
118
29,6
19
4,8
2.
3.
361
90,4
38
9,6
0
0
Quản lý nội dung thông tin trên báo chí đối ngoại
3. Quản lý việc xây dựng, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển báo chí đối ngoại
Mức độ thực hiện
TT
Các nội dung quản lý
Tốt
Khá
TB
SL %
SL %
SL %
1.
288 72,1
111
27,9
0
0
Quản lý xây dựng và định hướng, chiến lược phát triển các cơ quan báo chí đối ngoại
2.
254 63,5
125
31,3
20
5,2
Quản lý việc xây dựng kế hoạch phát triển báo chí đối ngoại
3.
264
66
136
34
0
0
Quản lý cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ các cơ quan báo chí đối ngoại
4.
242 60,5
128
32
30
7,5
Quản lý việc quy hoạch, sắp xếp hệ thống các cơ quan báo chí đối ngoại
5.
192 48,2
157
39,4
49
12,3
Quản lý việc phân công, phối hợp trong chỉ đạo các cơ quan báo chí đối ngoại
6.
186 46,7
148
37
65
16,3
Quản lý sự hiệp đồng phối hợp giữa các cơ quan báo chí đối ngoại
4. Quản lý việc ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về báo chí, xây dựng chế độ, chính sách về báo chí đối ngoại
Mức độ thực hiện
TT
Các nội dung quản lý
Tốt
Khá
TB
SL %
SL %
SL %
1.
242 60,7
131
32,9
25
6,4
Quản lý việc phối hợp xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực báo chí đối ngoại
2.
208 52,2
176
44
15
3,8
Quản lý việc tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về báo chí đối ngoại
3.
192
48
155
38,8
52
13,2
Quản lý việc sửa đổi, bổ sung các văn bản quản lý báo chí đối ngoại
4.
188 47,1
141
35,4
70
17,5
Quản lý việc xây dựng và thực hiện chế độ, chính sách về tài chính, con người, cơ sở vật chất cho cơ quan báo chí phục vụ hoạt động báo chí đối ngoại
5.
212
53
167
41,8
20
5,2
Quản lý tập huấn triển khai nội dung các văn bản pháp luật cho cán bộ quản lý của các cơ quan báo chí đối ngoại
6.
260 65,2
139
34,8
0
0
Quản lý việc đề xuất, kiến nghị, xây dựng văn bản liên quan đến báo chí đối ngoại
5. Quản lý tổ chức thông tin và quản lý thông tin của báo chí đối ngoại
Mức độ thực hiện
TT
Các nội dung quản lý
Tốt
Khá
TB
SL %
SL %
SL %
1.
Quản lý hoạt động tổ chức nội dung thông
204
51
136
34,2
59
14,8
tin và đổi mới nội dung báo chí đối ngoại
2.
Quản lý cách thức tổ chức sản xuất, nội
dung và hình thức của sản phẩm báo chí
247 61,8
119
29,8
33
8,4
đối ngoại
3.
Quản lý việc thông tin về chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước đến cộng
đồng người Việt Nam ở nước ngoài, cộng
262 65,6
137
34,4
0
0
đồng quốc tế; quảng bá hình ảnh đất nước,
con người, văn hóa Việt Nam
4.
Quản lý hình thức, cách thức nhằm tăng
cường việc cung cấp thông tin chính
thống, thông tin của các tờ báo phục vụ
216
54
156
39,2
27
6,8
đối ngoại thông qua hình thức truyền
thông xã hội
5.
Quản lý việc khai thác, sử dụng tin, bài,
229 57,3
142
35,6
28
7,1
chi tiết, hình ảnh
6.
Xác định đối tượng thông tin của báo chí
đối ngoại có trọng tâm, trọng điểm nhất,
đặc biệt là các nước láng giềng, các nước
248 62,2
126
31,5
25
6,3
lớn, các nước trong khối ASEAN, Mỹ,
Liên minh Châu Âu, Nhật Bản, đồng bào
ta ở nước ngoài, đặc biệt là giới trẻ…
6. Quản lý đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ người làm báo của các cơ quan báo chí và cán bộ quản lý báo chí đối ngoại
Mức độ thực hiện
TT
Các nội dung quản lý
Tốt
Khá
TB
SL %
SL %
SL %
1.
228 57,2
150
37,5
21
5,3
Quản lý việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ làm báo chí đối ngoại
2.
214 53,6
126
31,7
58
14,7
Quản lý đào tạo, bồi dưỡng về trình độ ngoại ngữ cho cán bộ làm báo chí đối ngoại
Bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị
183 45,8
144
36,2
72
18
3.
4.
224
56
142
35,5
34
8,5
Bồi dưỡng tác phong, đạo đức nghề nghiệp của người làm báo đối ngoại
5.
194 48,7
157
39,3
48
12
Bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý cho đội ngũ cán bộ quản lý báo chí đối ngoại
6.
144
36
162
40,7
93
23,3
Có cơ chế, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ làm báo chí đối ngoại
7. Quản lý hợp tác quốc tế về báo chí, quản lý hoạt động của cơ quan báo chí Việt Nam liên quan đến nước ngoài và hoạt động của báo chí nước ngoài tại Việt Nam đối ngoại
Mức độ thực hiện
Các nội dung quản lý
Tốt
Khá
TB
TT
SL %
SL %
SL %
1.
166 41,7
158
39,7
74
18,6
Hợp tác với các đối tác nước ngoài triển khai các hoạt động báo chí đối ngoại như: mời phóng viên báo chí nước ngoài vào Việt Nam để đưa tin viết, bài, thuê khoán cộng tác viên nước ngoài làm phóng viên và biên tập viên tin phù hợp với các đối tượng; hợp tác với các cơ quan báo chí nước ngoài để viết bài, phóng sự quản bá hình ảnh Việt Nam
2.
136 34,2
170
42,5
93
23,3
Quản lý hợp tác sản xuất các sản phẩm báo in, báo điện tử thuộc các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kinh tế, văn hóa, thể thao, giải trí, quảng cáo, an sinh xã hội
3.
294 73,6
105
26,4
0
0
Nội dung các chương trình liên kết phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam
4.
251 62,8
148
37,2
0
0
Phát hành, truyền dẫn, phát sóng sản phẩm báo chí ra nước ngoài; ủy thác cho tổ chức, cá nhân in lại, truyền dẫn, phát sóng sản phẩm báo chí Việt Nam ở nước ngoài
Thuê chuyên gia, cộng tác viên nước ngoài 280 70,2
106
26,5
13
3,3
5.
6.
253 63,4
117
29,4
28
7,2
Thành lập văn phòng đại diện ở nước ngoài
8. Quản lý chỉ đạo thực hiện chế độ thông tin, báo cáo, thống kê và công tác khen thưởng, kỷ luật trong hoạt động báo chí đối ngoại
Mức độ thực hiện
TT Các nội dung quản lý
Tốt
Khá
TB
SL %
SL %
SL %
1.
268 67,2
112
28,1
18
4,7
Quản lý việc đưa tin bảo đảm tính chính xác, trung thực, khách quan về nội dung của thông tin đã đưa
2.
252
63
124
31,2
23
5,8
Quản lý thực hiện chế độ thông tin, báo cáo định kỳ hàng tháng, hàng quý dưới hình thức văn bản và file điện tử, theo địa chỉ e- mail
3.
272
68
110
27,5
25
6,3
Chỉ đạo việc ra soát các quy định về chế độ thông tin, báo cáo hoạt động báo chí đối ngoại
4.
225 56,4
132
33,1
42
10,5
Quản lý nội dung báo cáo, có đánh giá về kết quả công việc cũng như chất lượng và tiến độ báo cáo
5.
203 50,8
146
36,5
50
12,7
Quản lý đổi mới công tác thông tin, báo cáo phù hợp với yêu cầu của tình hình mới, đổi mới việc thực hiện công tác thông tin, báo cáo trong phạm vi quản lý
6.
229 57,3
154
38,5
16
4,2
Cơ quan báo chí, nhà báo, tổ chức và công dân có thành tích và cống hiến trong hoạt động báo chí được khen thưởng theo quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng
7.
246 61,7
153
38,3
0
0
Việc xét tặng danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng được thực hiện công khai, dân chủ, đề nghị theo trình tự từ cơ sở, chú trọng cá nhân, tập thể có nhiều thành tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ, bảo đảm đúng đối tượng, tiêu chuẩn
9. Quản lý thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về báo chí đối ngoại
Mức độ thực hiện
TT
Các nội dung quản lý
Tốt
Khá
TB
SL %
SL %
SL %
1.
308
77
92
23
0
0
Thanh tra báo chí đối ngoại được thực hiện theo quy định của pháp luật về thanh tra
2.
261 65,3
118
29,5
20
5,2
Thanh tra, kiểm tra thường xuyên các hoạt động báo chí đối ngoại
3.
282 70,5
103
25,9
14
3,6
Thanh tra, kiểm tra định kỳ các hoạt động báo chí đối ngoại
4.
247 61,9
152
38,1
0
0
Thanh tra, kiểm tra đột xuất các hoạt động báo chí đối ngoại
5.
294 73,6
105
26,4
0
0
Quản lý việc xử lý vi phạm pháp luật về báo chí đối ngoại
10. Phương thức quản lý thông qua các công cụ quản lý là các văn bản qui phạm pháp luật
Mức độ thực hiện
TT
Tốt
Khá
Trung bình
Phương thức quản lý thông qua các công cụ quản lý là các văn bản qui phạm pháp luật
SL %
SL %
SL %
307
76,8
92
23,2
0
0
1. Việc quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại luôn bám sát theo các quy định của Hiến pháp và pháp luật
278
69,6
121
30,4
0
0
2. Quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại luôn xác định rõ các hành vi bị nghiêm cấm trong quản lý nhà nước về báo chí nói chung và báo chí đối ngoại nói riêng
268
67,2
131
32,8
0
0
3. Quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại luôn đảm bảo thực hiện quyền tự do báo
chí của công dân trên báo chí đối ngoại
243
60,8
147
36,8
9
2,4
4. Quản lý nhà nước về thực hiện quyền tự do ngôn luận trên báo chí đối ngoại của công dân
208
52
166
41,6
25
6,4
5. Quản lý nhà nước về việc thưc hiện các quy định đối với đối tượng được thành lập cơ quan báo chí đối ngoại
6. Quản lý chặt chẽ việc cấp giấy phép hoạt
291
72,8
108
27,2
0
0
động báo chí đối ngoại
272
68
115
28,8
12
3,2
7. Việc bổ nhiệm người đứng đầu cơ quan báo chí đối ngoại luôn đảm bảo đầy đủ các tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật báo chí
8. Quản lý chặt chẽ việc thực hiện cũng cấp
230
57,6
150
37,6
19
4,8
thông tin cho báo chí đối ngoại
11. Quản lý thông qua các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí
Mức độ thực hiện
TT
Tốt
Khá
Trung bình
Quản lý thông qua các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí
SL %
SL %
SL %
262
65,6
124
31,2
12
3,2
1. Bộ Thông tin và Truyền thông tích cực chỉ đạo và phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở trung ương và các địa phương
256
64
137
34,4
6
1,6
2. Cục Thông tin và Đối ngoại chủ động, tích cực, sâu sát trong quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại một cách toàn diện
211
52,8
166
41,6
22
5,6
3. Các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có thể hiện rõ trách nhiệm trong phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông thực hiện quản lý nhà nước về báo chí
230
57,6
153
38,4
16
4
4. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thể hiện đầy đủ trách nhiệm quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại tại địa phương
5. Các cơ quan quản lý báo chí ở Trung 195
48,8
179
44,8
25
6,4
ương thường xuyên có sự chỉ đạo và phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở các địa phương
12. Quản lý thông qua thanh tra, kiểm tra, giám sát và đề xuất khen thưởng, kỷ luật các hành vi vi phạm pháp luật về báo chí đối ngoại
Mức độ thực hiện
Tốt
Khá
Trung bình
TT
SL %
SL %
SL %
Quản lý thông qua thanh tra, kiểm tra, giám sát và đề xuất khen thưởng, kỷ luật các hành vi vi phạm pháp luật về báo chí đối ngoại
208
52
172
43,2
19
4,8
1. Các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí ở trung ương và các địa phương chủ trì phân tích đánh giá đúc rút kinh nghiệm về nghiệp vụ thanh tra trong lĩnh vực báo chí đối ngoại thuộc phạm vi và địa bàn quản lý
249
62,4
137
34,4
12
3,2
2. Các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở trung ương và ở các địa phương thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan báo chí đối ngoại
195
48,8
182
45,6
22
5,6
3. Các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí ở trung ương và các địa phương xây dựng chương trình kế hoạch công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động của báo chí đối ngoại hàng năm
179
44,8
185
46,4
35
8,8
4. Các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí ở trung ương và các địa phương chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan để thanh tra kiểm tra việc chấp hành pháp luật đối với các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực báo chí đối ngoại
252
63,2
147
36,8
0
0
5. Phát hiện, áp dụng các biện pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời hoặc kiến nghị với các cơ quan chức năng xử lý đối với các hành vi vi phạm hành chính của các cơ
quan, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực báo chí đối ngoại
268
67,2
115
28,8
16
4
6. Các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí ở trung ương và các địa phương chủ trì xử lý các khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại thuộc phạm vi và địa bàn mình phụ trách
291
72,8
108
27,2
0
0
7. Cơ quan báo chí, nhà báo, tổ chức và công dân có thành tích và cống hiến trong hoạt động báo chí đối ngoại được khen thưởng theo quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng
PHỤ LỤC 3 BIÊN BẢN TRẢ LỜI PHỎNG VẤN CỤC THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI BỘ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG Phỏng vấn sâu cán bộ phòng Thông tin, Báo chí – Xuất bản (A1)
Câu hỏi 1: Chị đánh giá như thế nào về công tác quản lý nhà nước về báo chí đối
ngoại ở nước ta thời gian qua?
Về cá nhân chị đánh giá, quản lý thông tin đối ngoại nói chung và báo chí đối ngoại nói riêng mặc dù chưa đáp ứng được yêu cầu, còn những hạn chế nhất định nhưng đã có tiến bộ hơn trước rất nhiều. Đặc biệt là nhận thức về thông tin đối ngoại của báo chí, bộ ngành đã được nâng cao. Hành lang pháp lý về thông tin đối ngoại tiếp tục được hoàn thiện.
Câu hỏi 2: Chị đánh giá thê nào về công tác quy hoạch, sắp xếp hệ thống các cơ
quan báo chí đối ngoại?
Về cơ bản, các cơ quan báo chí thực hiện đúng yêu cầu của các Quy hoạch và Đề án đề ra,
bám sát các mục tiêu của Quy hoạch; tiếp tục giữ vững vai trò là cơ quan đối ngoại quốc gia.
Câu hỏi 3: Công tác phối hợp giữa các cơ quan báo chí đối ngoại với nhau trong
việc thực hiện nhiệm vụ được giao?
Sự phối hợp giữa các cơ quan báo chí đối ngoại với các binh chủng làm báo chí đối
ngoại khá chặt chẽ, tạo điều kiện hỗ trợ nhau trong việc đăng, phát nội dung báo chí đối ngoại.
Tiêu biểu như tại TTXVN, bên cạnh nhiệm vụ thông tin, các CQTTNN đã tích cực hưởng ứng các hoạt động của cơ quan đại diện Việt Nam ở nước sở tại, phối hợp tốt với các cơ quan đại điện trong công tác tuyên truyền đối ngoại tại địa bàn cũng như các công tác khác. Năm 2018, các CQ báo chí đối ngoại của TTXVN tiếp tục triển khai thực hiện “Quy chế về việc phối hợp giữa Bộ Ngoại giao và các Cơ quan trong nước về công tác thông tin đối ngoại của các Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài”. Bằng những sản phẩm thông tin của mình, các phóng viên thường trú ngoài nước của TTXVN đã trở thành cầu nối người Việt Nam ở nước ngoài và bạn bè quốc tế với người dân và các cơ quan, tổ chức ở trong nước: kịp thời phản ánh hoạt động của các cộng đồng người Việt ở nước ngoài.
Về việc cung cấp thông tin cho các cơ quan quản lý, chỉ đạo: Các CQ báo chí đối ngoại của TTXVN thực hiện việc cung cấp thông tin theo đúng các quy định tại Điều 17, Nghị định số 72/2015/NĐ-CP về quản lý Nhà nước về thông tin đối ngoại. Theo đó, các CQTTNN cung cấp thông tin từ địa bàn cho cơ quan chủ quản là TTXVN để cung cấp cho hệ thống cơ quan báo chí và công chúng trong, ngoài nước.
Câu hỏi 4: Chị đánh giá như thế nào về công tác quản lý thông tin báo chí đối
ngoại thời gian qua?
Nội dung thông tin hiện nay đảm bảo đúng định hướng, phản ánh rõ nét quan điểm, đường lối đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhà nước ra thế giới, phản ánh sâu rộng tình hình
Việt Nam trên mọi lĩnh vực đến cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài và bạn bè quốc tế, tổ chức nhiều tin/bài/ chương trình tuyên truyền đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo, phân giới cắm mốc của đất nước, các vấn đề nhân quyền, tôn giáo, việc đăng phát nội dung báo chí đối ngoại trên cơ quan báo chí đối ngoại ít sai sót.
Bộ TTTT giao đơn vị chức năng tổ chức nắm bắt dư luận trong và ngoài nước về tình hình Việt Nam, chú trọng theo dõi các ý kiến đánh giá, nhận định của Chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế, giới học giả, chuyên gia nước ngoài, hằng tuần thực hiện báo cáo “Điểm dư luận báo chí nước ngoài về Việt Nam” làm tài liệu tham khảo cho Lãnh đạo Đảng, Nhà nước; nắm bắt sát thông tin để chỉ đạo báo chí trong việc giải thích, làm rõ, đấu tranh, bác bỏ các thông tin sai trái, xuyên tạc về tình hình Việt Nam.
Tổ chức theo dõi, đánh giá việc đăng, phát nội dung báo chí đối ngoại trên báo chí Việt Nam để nắm bắt, kịp thời chỉ đạo thông tin trên báo chí góp phần tăng cường quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới, hạn chế các thông tin tiêu cực ảnh hưởng đến quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế của Việt Nam với các nước.
Câu hỏi 5: Theo chị để nâng cao chất lượng công tác quản lý báo chí đối ngoại,
trong thời gian tới chúng ta sẽ phải làm gì?
Để phát huy có hiệu quả chức năng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại, trong năm
2019, Bộ TTTT sẽ tập trung triển khai các nhiệm vụ trọng tâm sau:
Một là, tiếp tục rà soát, hoàn thiện việc xây dựng cơ chế, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật, các đề án, kế hoạch trong lĩnh vực BCĐN đảm bảo đáp ứng yêu cầu của công tác TTĐN; triển khai thực hiện tốt các thỏa thuận hợp tác giữa Bộ Thông tin và Truyền thông Việt Nam và Bộ Thông tin và Truyền thông các nước.
Hai là, tiếp tục triển khai hiệu quả các đề án, chương trình, quy hoạch, kế hoạch trong
lĩnh vực BCĐN đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao.
Ba là, tăng cường hiệu quả phối hợp với Ban Chỉ đạo công tác TTĐN, các thành viên Ban Chỉ đạo công tác TTĐN, cácbộ, ban, ngành, địa phương trong công tác TTĐN; phối hợp với Ban Chỉ đạo công tác TTTĐN và Ban Tuyên giáo Trung ương thực hiện tốt việc chỉ đạo, quản lý, định hướng công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại trên báo chí.
PHỤ LỤC 4 PHỎNG VẤN SÂU LÃNH ĐẠO CỤC THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI (B1)
Câu hỏi 1. Thưa ông, công tác quy hoạch sắp xếp hệ thống báo chí đối ngoại hiện
nay được thực hiện như thế nào?
Quy hoạch sắp xếp hệ thống báo chí đối ngoại hiện nay được thực hiện từ năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ.Mục tiêu của Quy hoạch là xây dựng và phát triển một báo điện tử đối ngoại chuyên biệt, chủ lực với các thứ tiếng chính (Tiếng Anh, Tiếng Pháp, Tiếng Trung Quốc, Tiếng Tây Ban Nha, Tiếng Nga) nằm trong top 10 lượng người truy cập từ Việt Nam và top 5 lượng người truy cập từ nước ngoài đối với tờ báo điện tử của Việt Nam. Đồng thời, xây dựng và phát triển một tờ báo in đối ngoại, một tạp chí đối ngoại chuyên biệt, chủ lực với các thứ tiếng chính (Tiếng Anh, Tiếng Pháp, Tiếng Trung Quốc, Tiếng Tây Ban Nha, Tiếng Nga) mang tầm khu vực và thế giới, đồng thời khuyến khích các cơ quan báo chí có số phụ, phụ trương và chuyên mục phục vụ nhiệm vụ đối ngoại.
Cách đây mấy năm Thủ tướng Chính phủ có quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại trong đó quy định là báo chí đối ngoại chủ lực là Thông tấn xã Việt Nam và một số báo chí đối ngoại như Kênh truyền hình đối ngoại quốc giá, được quy hoạch từ kênh VTV4. Cho đến năm 2020 VTV4 sẽ trở thành kênh truyền hình đối ngoại quốc gia, tỷ lệ phát lại là bao nhiêu đều có quy định ở trong quy hoạch. Ngoài ra còn có kênh truyền hình đối ngoại dành cho cộng đồng người Việt ở nước ngoài là kênh VTC 10 của đài truyền hình VTC, có kênh của Đài tiếng nói Việt Nam – VOV5 dành cho đồng bào Việt Nam ở xa tổ quốc. Đấy là về báo nói, báo hình, báo viết có Vietnamnews, vietnamplus, bản tiếng Anh, Báo ảnh của Thông tấn xã Việt Nam.
Câu hỏi 2. Thưa ông việc quản lý thông tin báo chí đối ngoại được thực hiện như thế nào? Các cơ quan báo chí đối ngoại có thực hiện tốt việc báo cáo cho các cơ quan quản lý?
Đối với cơ quan nhà nước thì họ báo cáo quy củ hơn còn các đơn vị báo chí thì họ cũng có báo cáo, báo cáo hàng năm. Vì trong quy định của kế hoạch TTĐN Chính phủ là các cơ quan báo chí đối ngoại phải báo cáo cho Bộ Thông tin Truyền thông tổng hợp, báo cáo để tổng hợp cho Bộ Thông tin truyền thông trình Chính phủ.
Câu hỏi 3. Báo chí đối ngoại có xảy ra các vi phạm về mặt thông tin không? Thông thường thì các báo chí đối ngoại thì họ ít xảy ra các vi phạm, có thể họ làm nhiều hay chưa nhiều, có thể làm tốt hay chưa xuất xắc, thường thì họ không bị vi phạm. Bởi vì báo chí làm công tác thông tin đối ngoại có nguồn tin chính thức thì họ tuân thủ. Còn những báo chạy theo thông tin chưa được kiểm chứng, thông tin vội vàng, hay chưa bảo đảm định hướng thì thường dễ bị sai hơn.
Câu hỏi 4. Vậy tức là từ trước đến nay, các vi phạm thông tin của báo chí đối ngoại cũng chưa được đưa vào văn bản chính thức mà hầu hết là nhắc nhở trong các cuộc giao ban?
Đúng rồi, vi phạm của báo chí đối ngoại không chỉ được nhắc nhở mà còn có phạt, thường là chúng ta thấy như là các thông tin in bản đồ Việt Nam mà không thể hiện đầy đủ chủ quyền đối với biển đảo chẳng hạn, như vậy cũng bị phạt với khung có ghi rõ. Ngoài ra còn các đơn vị báo chí thuộc hệ thống ở bên ngoài quốc gia, nếu họ vi phạm chúng ta cũng xử lý thậm chí là ngăn chặn. Còn những trường hợp khác thì nhắc nhở. Nhưng có thể nói là báo chí làm công tác thông tin đối ngoại hiện nay vẫn còn trong khuynh hướng là thúc đẩy, động viên. Thế còn khung chế tài mà xử phạt thì phải đi vào những chi tiết của những hành vi vi phạm cụ thể và được luật hóa. Hiện nay chưa được luật hóa chặt chẽ, bởi vì mình vẫn mang tính động viên thúc đẩy, chứ chưa phải sự quản lý và ngăn chặn theo hướng là phạt.
Trong công tác khen thưởng thì mình làm tốt, hàng năm mình có giải thưởng về hoạt động báo chí thông tin đối ngoại. Như vậy biện pháp quản lý về thưởng chúng ta làm tốt. Còn về phạt thì có lẽ mình phải thúc đẩy hơn. Nhìn chung, các vi phạm thì chưa đến mức bị phạt mà thường chúng ta khuyến khích động viên báo chí đối ngoại đưa tin.
Xin cảm ơn ông đã chia sẻ!
PHỤ LỤC 5 PHỎNG VẤN SÂU LÃNH ĐẠO BAN BIÊN TẬP TIN ĐỐI NGOẠI – THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (M1)
Câu hỏi 1. Anh có thể cho biết về cơ cấu tổ chức và hoạt động của Ban BTTĐN nơi
anh trực tiếp quản lý?
Về cơ cấu tổ chức và hoạt động, Ban BTTĐN hiện có 67 cán bộ, BTV tác nghiệp tại 05 Phòng, gồm Phòng tin tiếng Anh, Phòng tin tiếng Pháp, Phòng tin tiếng Tây Ban Nha, Phòng tin tiếng Trung, và Phòng tin Đa phương tiện.Các Phòng này thực hiện nhiệm vụ cung cấp thông tin về Việt Nam, thông tin liên quan đến Việt Nam và khu vực bằng bốn ngữ nói trên cung cấp cho các đơn vị, cơ quan thông tin trong và ngoài ngành, đồng thời trực tiếp phục vụ công chúng trong và ngoài nước.
Hiện nay, Ban BTTĐN biên soạn, xuất bản và cung cấp các sản phẩm thông tin văn bản chuyên ngữ phát qua cổng thông tin dịch vụ vnanet.vn của TTXVN, website www.vietnamplus.vn và các bản tin truyền hình 15 phút hàng ngày (tiếng Anh và tiếng Trung), 15 phút hàng tuần (tiếng Pháp và Tây Ban Nha) phát trên Truyền hình Thông tấn.
Nội dung thông tin của Ban tập trung tuyên truyền về các lĩnh vực: Hoạt động của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các bộ, ban, ngành; chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về ngoại giao, kinh tế đối ngoại và hội nhập quốc tế; đất nước con người Việt Nam; thành tựu trong công cuộc Đổi mới; bảo vệ chủ quyền biển đảo; cung cấp thông tin và tham gia đấu tranh phản bác những luận điệu tuyên truyền có ý đồ xấu, thông tin xuyên tạc của các thế lực thù địch…
Câu hỏi 2. Thưa anh, vậy công tác phối hợp giữa cơ quan báo chí đối ngoại với
nhau trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao được thực hiện như thê nào?
Cùng với việc tăng cường phối hợp công tác, cung cấp, chia sẻ tin bài với 8 đơn vị thông tin bằng tiếng nước ngoài còn lại của TTXVN, Ban BTTĐN còn phối hợp với các đơn vị liên quan của nhiều Bộ, ngành như Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Tài Chính, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Hãng hàng không Vietjet Air, và một số tỉnh thành như Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, Bắc Giang, Phú Thọ, Ninh Bình, Thanh Hóa, Quảng Ninh, Quảng Ngãi, Hưng Yên… nhằm phản ánh hoạt động mọi mặt của các Bộ, ngành và địa phương nói riêng và của đất nước nói chung.
Hiện Ban BTTĐN đang phối hợp với một số đơn vị trong và ngoài ngành như Trung tâm Phát triển Truyền thông Thông tấn, Báo ảnh Dân tộc và Miền Núi (TTXVN), Tạp chí TTĐN (Ban Tuyên giáo Trung ương), Báo Bắc Giang… xây dựng các ấn phẩm, website tiếng Trung và tiếng Anh, phục vụ tuyên truyền đối ngoại của Đảng, Nhà nước và địa phương.
Bên cạnh đó, các sản phẩm thông tin của Ban được các báo đối ngoại, các trang web trong nước trích dẫn, sử dụng rộng rãi. Đặc biệt, tin văn bản và tin truyền hình chuyên ngữ của Ban
BTTĐN đang được trao đổi với hơn 40 cơ quan thông tấn báo chí quốc tế và khu vực như mạng NNN của Phong trào Không liên kết, mạng Tổ chức các hãng thông tấn châu Á-Thái Bình Dương (OANA), Acquire Media (Mỹ), Hãng Thông tấn Quốc gia Thái Lan NNT, Cục Quan hệ Công chúng Thái Lan (PRD), kênh truyền hình CNC của Tân Hoa Xã (Trung Quốc), các hãng thông tấn Prensa Latina (Cuba), Notimex (Mexico), APS (Algeria)…
Ban BTTĐN còn hợp tác với Hãng thông tấn Prensa Latina trong việc trao đổi chuyên gia và đào tạo. Trong khi đó, Notimex và Đảng Lao động (PT) của Mexico hiện cung cấp học bổng báo chí cho các PV, BTV trẻ của Ban.
Câu hỏi 3. Anh đánh giá như thế nào về công tác quản lý thông tin tại ban biên
tập tin đối ngoại thời gian qua?
Việc chỉ đạo thông tinlà những hoạt động được thực hiện nhằm đảm bảo các sản phẩm thông tin được sản xuất theo đúng định hướng về mặt nội dung, hình thức chuyển tải và thời gian xuất bản.
Công tác TTĐN, trong đó có thông tin bằng tiếng nước ngoài, được thực hiện trên cơ sở các văn bản, chỉ thị của Đảng, cũng như các văn bản pháp quy của Nhà nước liên quan đến việc quản lý và thực hiện công tác TTĐN.
Hoạt động chỉ đạo sản xuất thông tin tại Ban BTTĐN còn tuân thủ theo Nghị định số 88/2013/NĐ-CP ngày 1/8/2013 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của TTXVN; Quyết định số 40/QĐ-TTX ngày 16/1/2014 về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ban BTTĐN của Tổng Giám đốc TTXVN; và Quy chế công tác của Ban BTTĐN do Tổng Giám đốc TTXVN ban hành ngày 21/5/2014 kèm theo Quyết định số 620-QĐ/TTX của Tổng giám đốc TTXVN. Ban lãnh đạo TTXVN cũng phân công một Phó Tổng giám đốc trực tiếp chỉ đạo công tác TTĐN trong toàn ngành.
Theo Quy chế công tác của Ban BTTĐN do Tổng Giám đốc TTXVN ban hành, Ban phụ trách Ban BTTĐN thực hiện việc chỉ đạo, điều hành công việc theo chế độ Thủ trưởng, đảm bảo nguyên tắc tập trung, dân chủ. Trưởng ban chịu trách nhiệm trước Tổng Giám đốc về toàn bộ hoạt động của Ban.
Hiện hầu hết hoạt động chỉ đạo thông tin được thực hiện thông qua các cuộc giao ban trong đơn vị. Đây là cơ chế chỉ đạo mang tính xương sống, xuyên suốt nhằm chỉ đạo và truyền đạt chỉ đạo thông tin từ cấp trên, tiếp nhận ý kiến đề xuất từ cấp dưới để tham mưu cho lãnh đạo.
Chế độ giao ban trong đơn vị bao gồm giao ban thông tin hàng ngày, giao ban công tác hàng tuần và các cuộc giao ban đột xuất khi nảy sinh vấn đề cần được giải quyết kịp thời để giữ đúng định hướng thông tin, ý đồ tuyên truyền. Các cuộc giao ban hàng ngày diễn ra vào 8h00 sáng với thời gian không quá 15 phút, gồm Ban phụ trách, các Trợ lý Trưởng Ban, các Trưởng và Phó Trưởng phòng hoặc Trưởng ca. Nội dung là trao đổi thông tin đầu giờ, dự kiến
công việc thực hiện trong ngày và thống nhất ý kiến về những thông tin quan trọng. Đại diện các Phòng có trách nhiệm báo cáo kết quả thực hiện thông tin của ngày hôm trước, nắm bắt và truyền đạt chỉ đạo đầu giờ tới các BTV.
Khác với giao ban hàng ngày, giao ban vào thứ Hai hàng tuần gồm toàn thể cán bộ, PV, BTV nhằm phổ biến các chỉ đạo của Ban lãnh đạo cơ quan; trao đổi, rút kinh nghiệm công tác tuần trước; tổ chức triển khai thông tin trong tuần, công tác xây dựng Đảng, xây dựng đơn vị và các sự vụ khác.
Giao ban đột xuất có thành phần và thời gian do Trưởng ban quyết định, tùy thuộc vào nội dung, tính chất của sự việc. Ví dụ, ngay sau khi có thông tin Chính phủ công bố nguyên nhân gây cá chết hàng loạt ở miền Trung vào chiều 30/6/2016, Ban phụ trách đã triệu tập họp đột xuất với các Trưởng phòng để truyền đạt ý kiến chỉ đạo của cấp trên, phân tích năng lực, khả năng thông tin của các Phòng trong bối cảnh sự việc diễn ra vào cuối giờ hành chính và chỉ đạo công tác thông tin của từng loại hình văn bản và truyền hình. Giao ban đột xuất được tiến hành nhằm chuyển tải kịp thời những chỉ đạo thông tin trước những diễn biến mau lẹ, như trong thời gian 75 ngày Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ở Biển Đông vào năm 2014.
Sau giao ban đầu giờ sáng, 01 cán bộ đại diện cho đơn vị tham gia giao ban cấp ngành, báo cáo công tác của Ban, xin ý kiến về những vấn đề thông tin nhạy cảm và tiếp nhận chỉ đạo chuyển tới các Phòng biên tập.
Nhìn chung, công tác chỉ đạo cơ bản đáp ứng được yêu cầu, giúp định hướng hoạt động sản xuất thông tin hàng ngày hoặc theo chuyên đề của Ban BTTĐN. Tuy nhiên, cơ chế này đang bộc lộ một số hạn chế cần được khắc phục trong thời gian tới như còn lúng túng khi xử lý các chỉ đạo thông tin chồng chéo giữa các cấp lãnh đạo; hoặc bị động khi phát sinh những vấn đề nhạy cảm vượt quá thẩm quyền xử lý của Ban Phụ trách.
Câu hỏi 4. Anh đánh giá như thế nào về công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ người làm báo ở các cơ quan báo chí đối ngoại hiện nay?
Lực lượng tham gia công tác TTĐN bằng tiếng nước ngoài ở TTXVN vào hàng mạnh nhất nước nhưng vẫn còn một số hạn chế nhất định. Số lượng BTV, biên dịch viên còn mỏng do phân tán ở nhiều đơn vị. Nhân lực của Ban BTTĐN – đơn vị chủ lực trong TTĐN bằng tiếng nước ngoài ở Việt Nam – hiện chỉ gồm 67 người. Do thường xuyên có nhiều cán bộ, BTV nghỉ chế độ thai sản, đi luân chuyển hoặc đi học nghiệp vụ và chính trị, số người "thực chiến" còn khoảng 50 người, phân bố tại 5 Phòng. Với sản lượng hơn 180 đầu tin mỗi ngày (kể cả tin văn bản, tin đồ họa và tin ảnh) cùng 04 bản tin truyền hình với tổng thời lượng 245 phút/tuần, cỗ máy Ban BTTĐN đang hoạt động với công suất cao, có dấu hiệu bị quá tải ở một vài nhánh. Bên cạnh đó, 2/3 số BTV trong Ban còn non cả về tuổi đời lẫn tuổi nghề, một số hiệu đính của Ban còn ít kinh nghiệm trong khi chuyên gia nước
ngoài lại thiếu hụt. Những tồn tại này ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng của các sản phẩm thông tin.
Vì vậy, để khắc phục tình trạng này, qua đầu mối là Trung tâm Bồi dưỡng nghiệp vụ Thông tấn, TTXVN đã thường xuyên tổ chức các khóa học nghiệp vụ về mọi loại hình thông tin như báo in, báo điện tử, ảnh báo chí, truyền hình, cũng như các khóa bồi dưỡng về công tác PV, biên tập và kỹ năng viết tin bài phản bác, phản biện.
Câu hỏi 5. Thưa anh,"Quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2020, định
hướng đến năm 2030"đã đang được triển khai như thế nào?
Ngày 13/12/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 2434/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Quy hoạch đặt mục tiêu phát triển 01 báo điện tử đối ngoại và một số tờ báo in, tạp chí đối ngoại chuyên biệt, chủ lực, có tầm cỡ khu vực và thế giới. Đặc biệt, ngoài việc được xác định là cơ quan báo chí đối ngoại chủ lực quốc gia, TTXVN được giao nhiệm vụ đề xuất phát triển các báo, tạp chí in và báo điện tử nói trên, cũng như hỗ trợ các đơn vị khác để làm lực lượng bổ sung.
Để triển khai nhanh chóng và có hiệu quả Quy hoạch, chúng tôi đề xuất Đảng và Nhà nước quan tâm xây dựng, hoàn thiện các cơ chế, chính sách, cũng như tập trung đầu tư nguồn lực thích đáng để tạo điều kiện cho TTXVN thực hiện sứ mạng cao cả nói trên, làm nòng cốt cho lực lượng báo chí đối ngoại quốc gia, đồng thời phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
PHỤ LỤC 6 PHỎNG VẤN SÂU LÃNH ĐẠO BAN ĐỐI NGOẠI VOV5, ĐÀI TIẾNG NÓI VIỆT NAM (N1)
Câu hỏi 1.:Ông (bà) đánh giá như thế nào về công tác quản lý nhà nước về báo
chí đối ngoại ở nước ta thời gian qua?
Công tác quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở Việt Nam thời gian qua tương đối tốt. Hệ thống báo chí đối ngoại được tổ chức trong hệ thống báo chí Việt Nam, hoạt động theo Luật báo chí và các Luật khác trong hệ thống luật pháp của VN. Đơn vị chủ quản là Bộ thông tin và Truyền thông cũng có đầy đủ bộ máy quản lý hoạt động của các đơn vị báo chí đối ngoại.
Câu hỏi 2:Công tác quy hoạch, sắp xếp hệ thống các cơ quan báo chí đối ngoại? Công tác quy hoạch, sắp xếp hệ thống các cơ quan báo chí đối ngoại cũng được các cấp liên quan quan tâm đúng mực. Tuy nhiên, việc quy hoạch đúng và đủ thì cũng cần phải bàn. Hiện đã có tờ báo điện tử đối ngoại là Vietnamplus, kênh truyền hình đối ngoại là vtv4, trong khi phát thanh với hiệu quả rộng rãi là 13 chương trình phát thanh đối ngoại có bề dày lịch sử 74 năm hoạt động và trang thông tin điện tử 13 thứ ngữ của VOV5 chưa trở thành Đài phát thanh đối ngoại và báo điện tử đối ngoại lớn nhất ở Việt Nam. Việc quy hoạch đúng và đủ không chỉ tạo điều kiện để các cơ quan báo chí đối ngoại hoạt động, phát triển mà còn tạo mạng lưới thông tin đối ngoại rộng khắp và đầy đủ cho Việt Nam.
Câu hỏi 3: Công tác phối hợp giữa các cơ quan báo chí đối ngoại với nhau trong
việc thực hiện nhiệm vụ được giao?
Các cơ quan báo chí đối ngoại có sự hợp tác trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao
Câu hỏi 4: Ông (bà) đánh giá như thế nào về công tác xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật về báo chí đối ngoại thời gian qua? (Việc thi hành pháp luật về báo chí đối ngoại, Công tác tuyên truyền, tập huấn cho cán bộ quản lý các cơ quan báo chí đối ngoại về các văn bản luật pháp)
Công tác xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật về báo chí đối ngoại được các cơ quan hữu quan chú trọng, có sự phối hợp nghiên cứu, hợp tác giữa các ban ngành, đoàn thể và lấy ý kiến đóng góp của các cơ quan báo chí đối ngoại.
Câu hỏi 5. Ông (bà) đánh giá như thế nào về công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ người làm báo ở các cơ quan báo chí đối ngoại hiện nay?
Gần đây mới có nhiều trường đào tạo về công tác thông tin đối ngoại. Chưa có nhiều giáo trình chuyên biệt về công tác thông tin đối ngoại. Việc đào tạo trong trường chỉ là trang bị kiến thức nền, những người làm báo đối ngoại phải tự trang bị hoặc nâng cao trình độ nghiệp vụ trong quá trình làm việc.
Câu hỏi 6. Ông (bà) đánh giá như thế nào về công tác thông tin, báo cáo, thống kê trong hoạt động báo chí đối ngoại? (Cơ quan báo chí đối ngoại đã thực hiện tốt việc báo cáo định kỳ hàng tháng, hàng quý dưới các hình thức khác nhau)
Đài TNVN thực hiện đầy đủ công tác thông tin, báo cáo, thống kê về hoạt động cho các cơ quan chủ quản là Bộ Thông tin Truyền thông, Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban đối ngoại Trung ương.
Câu hỏi 7: Việc thành lập các cơ quan thường trú, văn phòng đại diện báo chí đối ngoại ở nước ngoài của Đài Tiếng Nói Việt Nam (hợp tác quốc tế, quản lý phóng viên thường trú, quản lý sản xuất nội dung được thực hiện như thế nào?)
Hiện Đài TNVN đã có 12 cơ quan thường trú tại nước ngoài. Phóng viên thường trú hoạt động như một phóng viên địa bàn của Đài. Phóng viên trao đổi công việc trực tiếp với Lãnh đạo Đài tùy theo tính chất công việc. Việc sản xuất nội dung là theo sự chỉ đạo của Lãnh đạo Đài, theo đặt hàng của các đơn vị trong Đài và một phần ở sự chủ động của các phóng viên thường trú.