BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA

HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

BÙI THỊ VÂN

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BÁO CHÍ ĐỐI NGOẠI

Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ BÁO CHÍ HỌC

HÀ NỘI - 2021

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA

HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

BÙI THỊ VÂN

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BÁO CHÍ ĐỐI NGOẠI

Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành : Báo chí học

Mã số : 9 32 01 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ BÁO CHÍ HỌC

Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS,TS. Lưu Văn An

2. PGS,TS. Đinh Thị Thu Hằng

HÀ NỘI - 2021

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn

khoa học của PGS, TS. Lưu Văn An; PGS, TS. Đinh Thị Thu Hằng. Các số liệu

thống kê, kết quả nghiên cứu, phát hiện mới của luận án là trung thực và chưa từng

được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học nào trước đây. Luận án

có sử dụng, phát triển, kế thừa một số tư liệu, số liệu, kết quả nghiên cứa từ các sách,

giáo trình, tài liệu… liên quan đến nội dung luận án.

Hà Nội, ngày … tháng …. năm 2021

Tác giả luận án

Bùi Thị Vân

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

LUẬN ÁN ..................................................................................................................... 12

Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BÁO CHÍ ĐỐI NGOẠI .... 36

1.1. Một số vấn đề lý luận về báo chí đối ngoại ................................................. 36

1.2. Các yếu tố của quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ............................... 47

1.3. Đặc điểm và vai trò của quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ................. 62

Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BÁO CHÍ ĐỐI NGOẠI Ở

VIỆT NAM HIỆN NAY ............................................................................................... 67

2.1. Khái quát về hoạt động của báo chí và báo chí đối ngoại ở Việt Nam

hiện nay .............................................................................................................. 67

2.2. Những thành tựu trong quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại và

nguyên nhân....................................................................................................... 70

2.3. Một số hạn chế và nguyên nhân ................................................................ 107

Chương 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN

LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BÁO CHÍ ĐỐI NGOẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............... 119

3.1. Một số vấn đề đặt ra trong quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại .......... 119

3.2. Xu hướng quản lý báo chí đối ngoại của Việt Nam trong những năm tới .... 129

3.3. Một số giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại trong

thời gian tới ....................................................................................................... 132

3.4. Một số khuyến nghị ................................................................................... 156

KẾT LUẬN ................................................................................................................ 161

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN

ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .................................................................................................... 165

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 166

PHỤ LỤC

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1. Thực trạng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại của chủ thể quản lý ....... 70

Biểu đồ 2.2. Thành tựu của đối tượng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ............ 72

Biểu đồ 2.3. Quản lý việc xây dựng, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch,

kế hoạch phát triển báo chí đối ngoại ......................................................... 76

Biểu đồ 2.4. Quản lý việc ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp

luật về báo chí, xây dựng chế độ, chính sách về báo chí đối ngoại ......... 80

Biểu đồ 2.5. Quản lý tổ chức thông tin và quản lý thông tin của báo chí đối ngoại ..... 83

Biểu đồ 2.6. Quản lý đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị, nghiệp vụ,

đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ người làm báo của các cơ quan báo chí

và cán bộ quản lý báo chí đối ngoại ........................................................ 86

Biểu đồ 2.7. Quản lý hợp tác quốc tế về báo chí đối ngoại .......................................... 91

Biểu đồ 2.8. Quản lý chỉ đạo, thực hiện chế độ thông tin, báo cáo, thống kê và công

tác khen thưởng, kỷ luật trong hoạt động báo chí đối ngoại ................... 95

Biểu đồ 2.9. Phương thức quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại thông qua các công

cụ quản lý là các văn bản qui phạm pháp luật ......................................... 97

Biểu đồ 2.10. Phương thức quản lý nhà nhà nước về báo chí đối ngoại thông qua các

cơ quan quản lý nhà nước về báo chí ...................................................... 99

Biểu đồ 2.11. Phương thức quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại thông qua thanh tra,

kiểm tra, giám sát và đề xuất khen thưởng, kỷ luật các hành vi vi phạm

pháp luật về báo chí đối ngoại ............................................................... 101

Biểu đồ 2.12. Quản lý thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về báo chí

đối ngoại ............................................................................................... 105

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong bối cảnh hội nhập thông tin quốc tế, ngoài việc cung cấp thông tin cho

môi trường truyền thông trong nước, mỗi quốc gia trên thế giới đều xây dựng cho

mình một chiến lược truyền thông đối ngoại để phát triển, với mục tiêu nâng cao sức

ảnh hưởng và bảo vệ quyền lợi trên trường quốc tế. Điều 4 Luật Báo chí (năm 2016)

khẳng định: Báo chí ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phương tiện thông

tin thiết yếu đối với đời sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của cơ quan Đảng, cơ quan

nhà nước, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức chính trị-xã hội-nghề nghiệp, tổ chức xã

hội, tổ chức xã hội-nghề nghiệp; là diễn đàn của nhân dân [116]. Nội dung được xác

định rõ trong Luật Báo chí cho thấy, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng vai trò, vị trí

và tầm quan trọng của báo chí trong đời sống xã hội.

Báo chí đối ngoại là một bộ phận quan trọng trên mặt trận đối ngoại, có vai trò

to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trước vai trò to

lớn của báo chí đối ngoại, Đảng luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của báo chí đối ngoại

như một công cụ quan trọng trên mặt trận tư tưởng, thông tin, giải thích để thế giới

hiểu rõ tính chính nghĩa của sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, bảo vệ chủ

quyền quốc gia; xác lập vị thế, biểu tượng, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam

trên trường quốc tế. Hoạt động báo chí đối ngoại có những đặc điểm khá riêng biệt so

với hoạt động báo chí nói chung, cả về đối tượng tác động, địa điểm - không gian cho

đến phương pháp, cách thức. Hoạt động báo chí đối ngoại ở nước ta được thực hiện

đồng bộ từ cấp quốc gia đến cấp địa phương. Trong đó, các tỉnh biên giới đã tổ chức

hoạt động báo chí đối ngoại với các quốc gia giáp ranh lãnh thổ với nhiều nét đặc thù,

sáng tạo. Có thể khẳng định, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, báo

chí nước ta có những bước phát triển nhanh về số lượng ấn phẩm, số kênh phát thanh,

truyền hình, loại hình và chất lượng thông tin, nguồn nhân lực theo hướng hội tụ, tích

hợp truyền thông đa loại hình, đa phương tiện, song những nghiên cứu về việc phát

triển báo chí đối ngoại còn hạn chế, mặt khác cũng chưa có nhiều nghiên cứu về quản

lý báo chí đối ngoại, chính vì vậy đây là lĩnh vực còn khá mới mẻ về lý luận và thực

tiễn quản lý báo chí đối ngoại của nước ta.

Hệ thống báo chí đối ngoại của Việt Nam bao gồm các cơ quan báo chí tiêu

biểu như: các kênh phát thanh-truyền hình tiếng nước ngoài của Đài Tiếng nói Việt

2

Nam (VOV5), Đài Truyền hình Việt Nam (VTV4) và Truyền hình Thông tấn của

Thông tấn xã Việt Nam; các tờ báo thuộc Thông tấn xã Việt Nam như nhật báo tiếng

Anh Việt Nam News, nhật báo tiếng Pháp Le Courrier du Vietnam, Báo ảnh Việt Nam,

tạp chí Vietnam Law and Legal Forum; các kênh báo mạng điện tử Quê hương,

Vietnam plus…; các bản tin tiếng nước ngoài của Bộ Ngoại giao; khoảng 40 báo và

tạp chí đối ngoại bằng tiếng Anh, Pháp, Nga, Hoa… Hiện nay, có 30 văn phòng báo

chí nước ngoài đăng ký thường trú tại Việt Nam. Mỗi năm trung bình có khoảng 230

đoàn với hơn 1000 phóng viên nước ngoài vào nước ta tác nghiệp. Đồng thời, Việt

Nam có 5 cơ quan báo chí (Thông tấn xã Việt Nam, Báo Nhân Dân, Đài Truyền hình

Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Báo Thanh niên) đặt 53 văn phòng đại diện ở

nước ngoài.

Trong bối cảnh báo chí truyền thông nói chung, báo chí đối ngoại nói riêng,

Đảng và Nhà nước ta đã tăng cường công tác lãnh đạo, quản lý, đảm bảo báo chí

truyền thông phát huy tối đa vai trò tiên phong trên mặt trận tư tưởng, thực hiện đúng

chức năng, nhiệm vụ, tôn chỉ mục đích của mình. Nhiều nghị quyết của Đảng, văn bản

của Nhà nước được ban hành nhằm định hướng, quy định, yêu cầu các cơ quan báo chí

đối ngoại thực hiện, giảm thiểu những hiện tượng tiêu cực trong hoạt động báo chí.

Đặc biệt, năm 2016, Quốc hội đã ban hành Luật báo chí mới. Năm 2016 Thủ tướng

Chính phủ ban hành Quyết định số 2434/QĐ-TTg, phê duyệt quy hoạch hệ thống báo

chí đối ngoại đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Năm 2019, Chính phủ phê

duyệt Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025 với mục tiêu

sắp xếp hệ thống báo chí gắn với đổi mới mô hình tổ chức, nâng cao hiệu quả lãnh

đạo, quản lý nhà nước về báo chí để phát triển hệ thống báo in, báo hình, báo nói, báo

điện tử, xây dựng một số cơ quan báo chí chủ lực, đa phương tiện làm nòng cốt, có vai

trò định hướng dư luận xã hội, thông tin đối ngoại, sắp xếp hệ thống báo chí, khắc

phục tình trạng chồng chéo, đầu tư dàn trải, buông lỏng quản lý, hoạt động xa rời tôn

chỉ, mục đích; gắn với việc xác định rõ trách nhiệm lãnh đạo, quản lý nhà nước về báo

chí của các cấp ủy Đảng, chính quyền, nhất là của người đứng đầu cơ quan chủ quản

và cơ quan báo chí, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý, phóng viên, biên tập viên có đủ

phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu phát triển báo chí trong tình hình mới.

Tuy nhiên, công tác quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại đã bộc lộ nhiều bất

cập: hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật còn chưa đầy đủ, các cơ quan quản lý

3

nhà nước về báo chí còn thiếu chuyên nghiệp trong xử lý các vấn đề phát sinh, lúc thì

lỏng lẻo, lúc lại thắt chặt, hạn chế sự sáng tạo của báo chí đối ngoại, dẫn đến tình trạng

một số cơ quan báo chí thực hiện nghiêm chỉnh tôn chỉ, mục đích nhưng lại chậm đổi

mới về hình thức, nội dung, tính hấp dẫn chưa cao, hiệu quả thông tin thấp. Trong tác

nghiệp, không ít phóng viên thiếu thận trọng trong việc chọn lựa, kiểm chứng nguồn

tin, thông tin một chiều. Tình trạng bị động lúng túng, chậm chạp đối phó trong đấu

tranh với các thông tin xuyên tạc và luận điểm sai trái vẫn chưa được khắc phục. Báo

chí đối ngoại chưa phản ánh đầy đủ, đa dạng, kịp thời những thành tựu của nước ta

trong các lĩnh vực dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tự do tín ngưỡng, thiếu sức thuyết

phục cả về lý luận và thực tiễn. Các thế lực cơ hội, thù địch ở trong và ngoài nước

chống phá quyết liệt với những thủ đoạn ngày càng tinh vi. Các thế lực thù địch, các

phần tử cơ hội chính trị trong và ngoài nước đã lợi dụng báo chí xuyên tạc, bôi nhọ

hình ảnh Việt Nam, chia rẽ Việt Nam với bạn bè quốc tế.

Bên cạnh số lượng, loại hình cơ quan báo chí, chất lượng nội dung thông tin, còn

là vấn đề tổ chức nhân sự cơ quan báo chí đối ngoại, sự phối hợp giữa các cơ quan báo

chí đối ngoại, cơ chế chính sách đối với hoạt động báo chí đối ngoại…Tất cả đã đặt ra

nhu cầu cần thiết phải có những giải pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng quản lý nhà

nước về báo chí đối ngoại trên cả phương diện lý luận, pháp lý và thực tiễn. Với những

tính cấp thiết như trên, nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề “Quản lý nhà nước về báo chí

đối ngoại ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ ngành Báo chí học của mình.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn, tác giả luận án khảo sát,

phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở Việt Nam hiện

nay, từ đó nêu rõ những vấn đề đặt ra, đề xuất một số giải pháp, khuyến nghị nhằm

tăng cường quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại trong thời gian tới.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nêu trên, đề tài tập trung thực hiện những nhiệm vụ sau đây:

Nghiên cứu, hệ thống hóa, làm rõ các khái niệm công cụ: Quản lý, quản lý nhà

nước, báo chí đối ngoại; làm rõ vai trò, nhiệm vụ, nguyên tắc, nội dung, phương thức

quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại, nghiên cứu khái quát về tình hình hoạt động

của báo chí đối ngoại ở Việt Nam

4

Khảo sát thực trạng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở Việt Nam, chỉ ra

thành tựu, hạn chế và nguyên nhân.

Nêu rõ những vấn đề đặt ra, xu hướng và đề xuất một số giải pháp, khuyến nghị

nhằm tăng cường quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại trong thời gian tới.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở Việt Nam.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi vấn đề nghiên cứu: Xuất phát từ điều kiện thực tế, đề tài tập trung khảo

sát, nghiên cứu các nội dung liên quan đến quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại của

chủ thể quản lý bao gồm các cơ quan quản lý nhà nước về thông tin đối ngoại: Cục

thông tin đối ngoại thuộc Bộ Thông tin - Truyền thông, Bộ Ngoại giao. Ngoài ra tác

giả nghiên cứu đối tượng quản lý là các cơ quan báo chí đối ngoại chủ lực ở Trung

ương bao gồm Thông tấn xã Việt Nam, Đài truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt

Nam. Đây là cơ quan báo chí đối ngoại chịu sự quản lý nhà nước của cơ quan có thẩm

quyền theo quy định.

Phạm vi thời gian nghiên cứu: trong khoảng thời gian từ năm 2016 đến tháng

12/2019. Đây là khoảng thời gian dễ tiếp cận các nguồn tài liệu, đảm bảo tính cập

nhật; đồng thời có nhiều nội dung, chuyên môn đáp ứng được những tiêu chí cơ bản

của đề tài đặt ra.

Phạm vi địa bàn nghiên cứu: Thực hiện tại Hà Nội

4. Giả thuyết nghiên cứu

Quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở Việt Nam không những có vai trò

quan trọng trong công tác thông tin đối ngoại mà còn là chiến lược để xây dựng một

nền báo chí cách mạng phục vụ cho sự lãnh đạo của Đảng. Trước vai trò và nhiệm vụ

quan trọng như vậy, các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại luôn có sự phối hợp chặt

chẽ với các cơ quan báo chí đối ngoại để giữ vững tôn chỉ, mục đích góp phần quan

trọng trở thành lực lượng của công tác thông tin đối ngoại, là một bộ phận trong công

tác tuyên truyền và công tác tư tưởng của Đảng, là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài của

cả hệ thống chính trị.

Quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ngoài những đặc điểm chung về phương

thức, nội dung như quản lý các loại hình báo chí khác. Quản lý nhà nước về báo chí

5

đối ngoại có những đặc thù riêng, bởi báo chí đối ngoại không chỉ là một bộ phận

trong công tác tuyên truyền và công tác tư tưởng của Đảng, mà còn để phục vụ triển

khai các chính sách phát triển kinh tế - xã hội - văn hóa, an ninh, quốc phòng bảo vệ

lợi ích quốc gia, dân tộc, chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo, với những đặc thù

của một loại hình báo chí chủ yếu hướng ra bên ngoài lãnh thổ Việt Nam. Điều này

xuất phát từ yêu cầu, tôn chỉ, mục đích của báo chí đối ngoại.

Quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở Việt Nam hiện nay đã phần nào đáp

ứng được mục đích, yêu cầu của Đảng và Nhà nước ta đặt ra. Tuy nhiên, thực tế vẫn

còn một số hạn chế như hệ thống các văn bản pháp luật còn thiếu, trình độ, kỹ năng

quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại chưa đáp ứng được yêu cầu mới. Điều này dẫn

đến thực trạng còn một số cơ quan báo chí đối ngoại hoạt động chưa thực sự đáp ứng

tốt sự nhiệm vụ quan trọng của công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới. Nội

dung thông tin trên báo chí đối ngoại chưa thực sự phong phú, hấp dẫn, sinh động, ảnh

hưởng không nhỏ đến việc xây dựng, quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Cơ sở lý luận của luận án là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan

điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về báo chí truyền thông, về quản lý nhà nước, về

quản lý báo chí truyền thông.

Theo Mác-Ăngghen, báo chí có hai chức năng chính là tuyên truyền và cổ vũ

tinh thần của công chúng. Lênin kế thừa nguyên tắc của Mác và bổ sung thêm nguyên

tắc tổ chức tập thể. Báo chí là cơ quan ngôn luận của Đảng, Đảng lãnh đạo tập thể nên

báo chí xem là người tổ chức tập thể.

Hồ Chí Minh cho rằng, nhiệm vụ của tờ báo là tuyên truyền cổ động, huấn

luyện, giáo dục và tổ chức dân chúng để đưa dân chúng đến mục đích chung.

Theo quan điểm của Đảng ta, báo chí có vai trò tổ chức xã hội và tham gia vào

đời sống xã hội. Báo chí được xem như một diễn đàn xã hội qua đó công chúng không

phân biệt đẳng cấp, không phân biệt giàu sang đều có thể tham gia thảo luận các sự

kiện chính trị xã hội.

Trên cơ sở đó, quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại dựa trên cơ sở lý luận là

chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt

Nam về báo chí, tuyên truyền đối ngoại, thông tin đối ngoại, quản lý nhà nước về báo

6

chí đối ngoại… Đồng thời, trong quá trình nghiên cứu, tác giả lựa chọn và sử dụng

một số lý thuyết truyền thông để thực hiện đề tài luận án.

5.2. Cơ sở lý thuyết

Việc xây dựng cơ sở lý thuyết của luận án được dựa trên một số lý thuyết chính sau:

5.2.1. Lý thuyết “Quản lý tổng quát”

Lý thuyết này cũng đã chỉ ra rằng, tất cả các nhà quản lý đều phải thực hiện

năm chức năng là: kế hoạch - tổ chức - chỉ huy - phối hợp - kiểm soát. Hiện nay, trong

các sách về khoa học quản lý, năm chức năng đó được rút gọn thành bốn chức năng

căn bản là: hoạch định - tổ chức - lãnh đạo - kiểm soát. Cùng với Ph.W.Taylo, H.

Phayon được thừa nhận là nhà đồng sáng lập ra khoa học quản lý hiện đại và đã đưa

khả năng áp dụng tới các loại hình tổ chức khác. Đến nay, mười bốn nguyên tắc quản

lý chung của ông vẫn còn giá trị đối với lý luận và thực tiễn quản lý. Ví dụ, bốn

nguyên tắc đầu tiên là: Phân chia công việc; thẩm quyền và trách nhiệm thống nhất; kỷ

luật cao; thống nhất lãnh đạo/chỉ huy...

5.2.2. Lý thuyết lãnh đạo dựa trên cơ sở tố chất

Theo lý thuyết này (được công bố vào những năm 1930 - 1940), các nhà lãnh

đạo sinh ra đã có các tố chất hay đặc tính tự nhiên, có tính bản năng, năng lực sẵn có

(có tố chất siêu phàm, có những giá trị vượt trội so với người khác), chứ không phải

chỉ do luyện tập hay cố gắng mà đạt được. Lý thuyết đã tìm ra những đặc điểm, tính

cách của nhà lãnh đạo có liên hệ mật thiết tới thành công của tổ chức. Tuy nhiên, khi

các lý thuyết về lãnh đạo khác xuất hiện và các cuộc tranh luận, phản biện về lãnh đạo

có sự tham gia rộng rãi của xã hội, nhất là khi phần lớn những nhà lãnh đạo thành đạt

cũng không thừa nhận họ thừa hưởng những tố chất đặc biệt, thì quan điểm về tố chất

lãnh đạo cũng có sự thay đổi. Đây cũng chính là lý do dẫn tới việc các nhà nghiên cứu

chuyển hướng tới học thuyết lãnh đạo dựa trên cơ sở hành vi ở giai đoạn 1950.

5.2.3. Lý thuyết lãnh đạo dựa trên cơ sở hành vi

Lý thuyết tập trung vào hành động, công việc cụ thể mà một nhà lãnh đạo thực

hiện. Hành vi của nhà lãnh đạo lại phụ thuộc vào đặc điểm tính cách và kỹ năng của nhà

lãnh đạo đó. Có thể coi lý thuyết lãnh đạo dựa trên cơ sở hành vi là một bước phát triển

của lý thuyết lãnh đạo dựa trên cơ sở tố chất, lấy lý thuyết này làm nền tảng. Có hai vấn

đề quan trọng trong hành vi của nhà lãnh đạo: sự quan tâm tới công việc và con người

trong tổ chức, đây cũng chính là hai nhân tố quyết định tới hiệu quả lãnh đạo.

7

5.2.4. Lý thuyết hội tụ truyền thông

Lý thuyết này được phát triển vào những năm 70 của thế kỷ XX bắt đầu tư khái

niệm hội tụ của tác giả Nicholas Negropronte đưa ra khái niệm hội tụ, kể từ đây những

nghiên cứu về lý thuyết này được phát triển mạnh mẽ. Hội tụ truyền thông tích hợp các

loại truyền thông mới và truyền thông truyền thống, cung cấp cho công chúng nhiều cơ

hội lựa chọn cách tiếp cận. Các loại phương tiện truyền thông tích hợp với nhau. Môi

trường hội tụ truyền thông, người làm truyền thông sử dụng mọi phương tiện để

chuyển tải nội dung truyền thông và công chúng được tự do lựa chọn cách tiến cận nội

dung thông tin. Quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại có thể áp dụng lý thuyết này ở

các khía cạnh như quản lý tòa soạn hội tụ, quản lý phát triển hệ thống nhà báo làm báo

chí đối ngoại cũng như quản lý sử dụng các phương tiện truyền thông.

5.2.5. Lý thuyết truyền thông và truyền thông đại chúng

Cuốn sách “Truyền thông, lý thuyết và kỹ năng cơ bản” [57] có tổng kết lại một

số lý thuyết truyền thông. Với lý thuyết thâm nhập xã hội, báo chí sẽ tìm hiểu, nghiên

cứu, phân tích đối tượng địa bàn, thời gian để phổ biến nội dung và hình thức cho phù

hợp. Lý thuyết hành động lý tính và lý thuyết thuyết phục, khả năng tác động của

truyền thông trong việc thay đổi đáng kể nhận thức của đối tượng cả về phương diện

nhận thức, thái độ, hành vi. Các lý thuyết này có thể được vận dụng trong việc chuyển

tải các nội dung “đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, sai trái của các thế lực cơ

hội, thù địch”. Lý thuyết này có thể áp dụng vào việc xây dựng nội dung báo chí đối

ngoại qua sự thuyết phục công chúng về mặt lý trí và cảm xúc, quản lý góp phần quản

lý nội dung báo chí đối ngoại.

5.2.6. Lý thuyết đóng khung

Lý thuyết này được Gregory Bateson ghi nhận là người đầu tiên đưa ra lý

thuyết này vào năm 1972. Lý thuyết đóng khung được xem như một lý thuyết về

truyền thông đại chúng, đề cập đến cách truyền thông và trình bày thông tin cho công

chúng. Các phương tiện truyền thông nhấn mạnh một số sự kiện và sau đó đặt công

chúng trong một bối cảnh cụ thể để khuyến khích hoặc không khuyến khích một số

giải thích. Theo cách này, các phương tiện truyền thông thực hiện một ảnh hưởng có

chọn lọc đối với cách mọi người nhìn nhận thực tế. Các nhà báo lựa chọn những sự

kiện, giá trị và quan điểm nào sẽ được đề cập hoặc đưa ra thực sự nổi bật. Điều này có

nghĩa là các nhà báo áp dụng các khung diễn giải riêng của họ khi đóng khung các

8

thông điệp. Các nhà báo cũng bị ảnh hưởng bởi các chuẩn mực xã hội, thói quen báo

chí và định hướng chính trị hoặc tư tưởng của họ. Với lý thuyết đóng khung, việc quản

lý báo chí đối ngoại nhấn mạnh vào quản lý tôn chỉ, mục đích mà một tờ báo đối ngoại

cũng như cơ quan báo chí đối ngoại phải tuân thủ.

Bên cạnh các lý thuyết nêu trên còn có các lý thuyết như:

5.2.7. Lý thuyết quản lý tâm trạng (Mood management theory), các thông điệp

và thông tin truyền thông có thể làm thay đổi tâm trạng của các cá nhân. Lý thuyết đưa

ra giả định trạng thái tâm lý của một cá nhân sử dụng ảnh hưởng của phương tiện

truyền thông và các lựa chọn có sẵn để tối ưu hóa tâm trạng. Ngoài ra còn có một số

suy luận lý thuyết gợi ý và hỗ trợ tiếp xúc với nội dung thông điệp để đưa đến những

kết quả tác động theo mong muốn.

5.2.8. Lý thuyết hiệu ứng hạn chế (Limited effects theory), được đề xuất bởi nhà

xã hội học người Mỹ gốc Áo Paul Lazarsfeld. Lý thuyết này cho rằng ngay cả khi có

một hiệu ứng được tạo ra bởi các phương tiện truyền thông về suy nghĩ và ý kiến của

các cá nhân, hiệu ứng này có thể đạt ở mức tối thiểu hoặc có thể tác động theo cách tốt

nhất. Tất cả các phương tiện truyền thống đều có ảnh hưởng đến những suy nghĩ, quan

điểm và thái độ của công chúng.

5.2.9. Lý thuyết tiếp nhận (Reception theory), thường được gọi là “Lý thuyết đối

tượng hoặc lý thuyết tiếp nhận của người đọc được Stuart Hall phát triển vào năm

1973. Lý thuyết tập trung vào mã hóa và giải mã nội dung thông điệp được phổ biến

cho người đọc bất kể dưới hình thức truyền thông nào như như tạp chí in, truyền hình,

radio, trò chơi,... Ngày nay các nhà lý thuyết thực hiện phân tích phương tiện thông

qua lý thuyết tiếp nhận thường rút ra kết quả từ trải nghiệm của độc giả.

5.3. Phương pháp luận

Luận án áp dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng để xem xét: thực trạng hoạt

động quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở Việt Nam hiện nay được đặt trong bối

cảnh hội nhập thông tin quốc tế như hiện nay. Ngoài việc cung cấp thông tin cho môi

trường truyền thông trong nước, mỗi quốc gia trên thế giới đều xây dựng cho mình

một chiến lược truyền thông đối ngoại để phát triển, với mục tiêu nâng cao sức ảnh

hưởng và bảo vệ quyền lợi thiết thực của mình trên trường quốc tế. Với khả năng tác

động, ảnh hưởng sâu sắc tới nhận thức công chúng, báo chí là phương tiện hiệu quả và

tích cực nhất để đưa những chủ trương, chính sách, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta

9

đến với người dân trong nước, đồng bào ở nước ngoài, bạn bè quốc tế; đồng thời mang

những thông tin quốc tế tới công chúng Việt Nam.

Luận án áp dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử để xem xét ứng với mỗi thời kỳ, mỗi

giai đoạn nhận thức của con người có những thay đổi nhất định. Vì vậy nên quản lý

nhà nước về báo chí đối ngoại ở Việt Nam hiện nay sẽ có những thay đổi nhất định.

5.4. Phương pháp nghiên cứu cụ thể

Tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành: khoa học quản lý, quản lý

nhà nước, báo chí học, xã hội học để trình bày các nội dung nghiên cứu nhằm đạt mục

đích, nhiệm vụ đặt ra.

Các phương pháp chung: lô gic và lịch sử, phân tích và tổng hợp, quy nạp và

diễn dịch, so sánh, nghiên cứu tài liệu, khảo sát thực tiễn, điều tra xã hội học.

5.4.1. Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu

Luận án sử dụng phương pháp phân tích tài liệu để xây dựng cơ sở dữ liệu cho

đề tài nghiên cứu. Trong khuôn khổ đề tài, nghiên cứu sinh đã chọn lọc, hệ thống các

tài liệu bao gồm (sách, bài báo, đề tài khoa học …) về báo chí nói chung, báo chí đối

ngoại. Ngoài ra, tác giả cũng thu thập các văn kiện của Đảng và Nhà nước, các số liệu

tại các buổi giao ban báo chí toàn quốc hàng tuần do Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ

Thông tin và Truyền thông, các công trình trong và ngoài nước đã nghiên cứu về quản

lý nhà nước về báo chí đối ngoại.

Mục đích của phương pháp phân tích tài liệu là tìm hiểu lịch sử nghiên cứu về

báo chí đối ngoại, nắm bắt những nội dung của các nghiên cứu đi trước. Trong quá

trình phân tích tài liệu, nghiên cứu sinh sẽ thực hiện các công việc cụ thể như phân tích

nguồn, phân tích nội dung và tổng hợp tài liệu.

5.4.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi

Quy mô điều tra xã hội học thông qua phỏng vấn bằng bảng hỏi với cỡ mẫu

400 người. Thực hiện với các nhà báo công tác tại các cơ quan báo chí khác nhau bao

gồm cán bộ lãnh đạo, quản lý các cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động báo chí ở

Trung ương và địa phương và các nhà báo đang trực tiếp thực hiện làm các nhiệm vụ

thực tiễn như biên tập, sản xuất nội dung báo chí đối ngoại, phóng viên, giảng viên

và sinh viên báo chí, truyền thông. Mục đích của phương pháp này là tìm hiểu hiệu

quả, đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở Việt Nam

hiện nay.

10

Việc chọn mẫu điều tra được tính toán theo phương pháp chọn chủ định và

chọn mẫu ngẫu nhiên nhằm đảm bảo tính đại diện và tính khoa học của các thông tin

cần thu thập tại các cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động báo chí ở Trung ương và

các cơ quan chủ quản báo chí đối ngoại.

Khách thể điều tra là 400 cán bộ quản lý báo chí, biên tập viên, phóng viên tại

Thông tấn xã Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, cán bộ

quản lý báo chí tại Bộ Thông tin và Truyền thông.

5.4.3. Phương pháp phỏng vấn sâu

Để làm rõ những vấn đề chuyên sâu trong nội dung nghiên cứu, đề tài tiến hành

phỏng vấn sâu, lấy ý kiến của một số lãnh đạo quản lý báo chí, nhà khoa học, nhà

hoạch định chính sách, nhà báo, phóng viên tại các cơ quan báo chí, truyền thông đối

ngoại về công tác công tác quản lý báo chí đối ngoại.

Khách thể tham gia phỏng vấn: 6 người, trong đó 4 cán bộ báo chí và cán bộ

quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại tại Bộ Thông tin và Truyền thông; 1 cán bộ Đài

Truyền hình Việt Nam; 1 cán bộ Đài Tiếng nói Việt Nam.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận án góp phần làm rõ lý luận cơ bản về quản lý nhà nước về báo chí nói

chung và quản lý báo chí đối ngoại nói riêng; đưa ra một số khái niệm, nguyên

tắc, nội dung, phương thức quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại góp phần nâng

cao chất lượng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại; đánh giá thực trạng quản lý

nhà nước về báo chí đối ngoại từ năm 2016 đến năm 2019, chỉ rõ những kết quả,

hạn chế và nguyên nhân. Trên cơ sở đó nêu lên những vấn đề đặt ra, đề xuất giải

pháp nhằm nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở Việt Nam

hiện nay.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án

Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ giúp các cơ quan, tổ chức, đẩy mạnh hơn nữa

hoạt động báo chí và quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại của mình.

Kết quả nghiên cứu của đề tài là tài liệu phục vụ giảng dạy, học tập và nghiên

cứu các môn học của chuyên ngành quan hệ quốc tế và thông tin đối ngoại tại Học

viện báo chí và Tuyên truyền cũng như ở các cơ sở đào tạo về quan hệ quốc tế. Đồng

thời làm tài liệu phục vụ công tác bồi dưỡng cán bộ báo chí đối ngoại.

11

Kết quả nghiên cứu cũng có thể làm tài liệu tham khảo cho những người quan

tâm đến vấn đề quản lý báo chí nói chung và quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại

nói riêng.

7. Đóng góp mới của luận án

7.1. Đóng góp về lý luận

Luận án góp phần làm rõ hơn những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý nhà nước

về báo chí nói chung và quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại nói riêng. Luận án đưa

ra một số khái niệm, nội dung, phương thức, nguyên tắc quản lý nhà nước về báo chí

đối ngoại góp phần tăng cường quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại.

7.2. Đóng góp về thực tiễn

Luận án khảo sát, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại từ

năm 2016 đến 2019. Trên cơ sở kết quả khảo sát, chỉ rõ những kết quả, nguyên nhân

những kết quả đã đạt được, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế đó và những vấn đề

đặt ra trong quản lý báo chí đối ngoại ở nước ta.

Luận án nêu lên một số vấn đề đặt ra, dự báo xu hướng quản lý nhà nước về báo

chí đối ngoại của Việt Nam trong những năm tiếp theo, trên cơ sở đó đưa ra một số

giải pháp và khuyến nghị nhằm tăng cường quản lý về báo chí đối ngoại ở Việt Nam

trong thời gian tới.

8. Kết cấu của luận án

Ngoài mở đầu, tổng quan tình hình nghiên cứu, kết luận, danh mục tài liệu tham

khảo và phụ lục, luận án gồm 3 chương:

Chương 1. Lý luận chung quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở Việt Nam.

Chương 2. Thực trạng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở Việt Nam hiện nay.

Chương 3. Một số vấn đề đặt ra và giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà

nước về báo chí đối ngoại ở Việt Nam trong thời gian tới.

12

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước về các vấn đề liên quan đến báo chí đối

ngoại, quản lý báo chí, quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại

Ở nước ngoài, nghiên cứu về hoạt động thông tin báo chí, báo chí đối ngoại và

quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại được đề cập và nghiên cứu ở những nước phát

triển, nhất là ở những nước có nền báo chí phát triển mạnh mẽ như Mỹ, Nhật Bản, Hàn

Quốc, Anh, Pháp, Thụy Điển, Trung Quốc,...

Cuốn sách Truyền thông với thế giới: Ngoại giao của Hoa Kỳ với các nước

[187] của tác giả Martin F.Herz (1990) luận giải sự xung đột ý thức hệ, sự phụ thuộc

lẫn nhau của các quốc gia như một trong những lý do đưa đến sự phát triển của cuộc

cách mạng truyền thông trên toàn thế giới. Tác giả thể hiện trách nhiệm của các nhà

ngoại giao công chúng để tư vấn cho về các tác động liên văn hóa của truyền thông đối

ngoại của Hoa Kỳ và ảnh hưởng của họ đối với dư luận nước ngoài. Ông đưa ra sự phê

phán các hoạt động ngoại giao công chúng hiện tại của Hoa Kỳ được rút ra từ kinh

nghiệm ba mươi lăm năm của ông trong quá trình hoạt động đối ngoại. Cũng nghiên

cứu về xã hội thông tin, nhóm tác giả G.Bechmann G, J.Fecker, U.Huws,

G.V.Hootergem, M.L.Mirabile, A.B.Moniz, S.Siochru (1999) trong cuốn sách Xã hội

thông tin, công việc và các hình thức xã hội mới [179] chỉ ra sự phát triển của báo chí

sẽ tạo ra nhiều việc làm mới và để đáp ứng với những yêu cầu ngày càng cao của xã

hội, nội dung các tờ báo cũng thay đổi về các tổ chức, đưa tin, viết bài và tham gia vào

định hướng dư luận xã hội.

Cuốn sách Những vấn đề cơ bản của đạo đức nghề nghiệp nhà báo (2003) [96]

của tác giả G.V.Ladutina mặc dù không trực tiếp đề cấp đến vấn đề quản lý nhà nước về

báo chí hay quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại song tác giả đã gián tiếp nói về vấn

đề này khi đề cập đến trách nhiệm xã hội của nhà báo đối ngoại cũng như hoạt động

nghề nghiệp, trong đó có vấn đề sa sút đạo đức nghề báo, sự thúc đẩy của lợi ích kinh tế,

các vấn đề thuộc về cơ chế. Tác giả đưa ra một số định hướng như tôn trọng khách quan,

định hướng dư luận và bản thân mỗi nhà báo không ngừng tự hoàn thiện bản thân.

Cuốn sách Nghệ thuật thông tin” [97] tác giả Line Ross (2004), Chủ nhiệm các

Chương trình thông tin công cộng tại Khoa Thông tin và Tuyên truyền Đại học Tổng

13

hợp Laval, Canada tập trung vào các nội dung tri thức, kinh nghiệm cơ bản trong thu

thập, lựa chọn, sắp xếp, bố cục, viết bài và biên tập tin, những kỹ năng mà mỗi nhà báo

cần có để đứng vững trong nghề. Bên cạnh đó, tác giả còn đề cập đến vấn đề thông cáo

báo chí, một loại hình thông tin mà các tập đoàn kinh doanh, cơ quan, tổ chức chính trị -

xã hội đang sử dụng rộng rãi trong những năm gần đây để tiếp cận với công chúng.

Cuốn sách Nghiệp vụ báo chí lý luận và thực tiễn [167] của tác giả

V.V.Vôrôsilốp (2004), nhà báo người Nga tập trung làm rõ những vấn đề lý luận

nghiệp vụ và kinh nghiệm thực tiễn trong hoạt động báo chí của nước Nga và thế giới.

Tác giả đã điểm lại lịch sử báo chí một số nước trên thế giới ở cả 5 châu lục cùng sự

phát triển của kỹ thuật công nghệ thông tin, các loại hình và chức năng, kết quả hoạt

động truyền thông. Ngoài ra, tác giả phân tích sâu về chuẩn mực pháp lý, đạo đức,

quan hệ tiếp thị và vấn đề nghiệp vụ tại các tòa soạn. Tuy nhiên, nhiều vấn đề lý luận

và thực tiễn trong cuốn sách gắn với điều kiện và hoàn cảnh của nước Nga song cũng

có một số điểm cơ bản để người làm báo và các cơ quan báo chí cũng như cơ quan

quản lý nhà nước về báo chí có thể tham khảo, nhằm thúc đẩy sự phát triển báo chí

nước ta trong thời kỳ mới.

Cuốn sách Tổ chức và quản lý báo chí [181] của hai tác giả Herbert Lee

Williams và Frank Warren Rucker đề cập đến cơ cấu chức năng của một tòa soạn báo,

những trang thiết bị cần thiết và cách bố trí, sắp xếp để các trang thiết bị trong một tòa

soạn và quy trình in ấn. Đây chỉ là quy trình về việc tổ chức bộ máy và tổ chức sản

xuất một tờ báo, song đó cũng là gợi ý giúp các nhà quản lý báo chí nắm được quy

trình sản xuất một tờ báo.

Cuốn sách Báo chí và xã hội [182] của hai tác giả người Mỹ George L.Bird và

E.Merwwin chỉ ra tầm ảnh hưởng của báo chí đến công chúng và báo chí tham gia vào

rất nhiều quá trình xã hội. Ngược lại, vai trò của công chúng với sự phát triển của báo

chí và một trong những động lực thúc đẩy báo chí phát triển chính là nắm vững thị

hiếu của độc giả, song tác giả cũng chỉ ra báo chí cần có tôn chỉ, mục đích để đảm bảo

định hướng cho công chúng, làm cho báo chí phản ánh đúng thực tiễn.

Cuốn sách Truyền thông đại chúng - những kiến thức cơ bản [49] của tác giả

người Đức Claudia đề cập những vấn đề lý luận cơ bản mang tính nghiệp vụ truyền

thông như các vấn đề về thông tin, phương tiện thông tin, hoạt động thông tin, đối

tượng thông tin, trách nhiệm, nghĩa vụ đạo đức của người làm báo, nghề nghiệp báo

14

chí và hoạt động truyền thông trong cơ chế thị trường. Với cách tiếp cận như vậy chủ

yếu phục vụ cho những người nghiên cứu nghiệp vụ báo chí, song cũng là tài liệu cần

thiết cho những người làm công tác quản lý báo chí để hiểu về truyền thông trong thế

giới hiện đại.

Cuốn sách Xã hội thông tin (2006) [179] của tác giả Frank Webster cho rằng sự

phát triển mạnh mẽ mọi mặt của xã hội làm cho nhu cầu tìm hiểu, khai thác thông tin

của con người gia tăng với tốc độ nhanh chóng. Vì lí do này nhiều loại hình báo chí,

các trang mạng xã hội mới ra đời, ban đầu nó chỉ nhằm vào mục đích thông tin nhưng

giờ đây người ta còn xây dựng nó trở thành một hoạt động kinh tế đem lại lợi nhuận

cao. Cũng nghiên cứu về xã hội thông tin, nhóm tác giả G.Bechmann G, J.Fecker,

U.Huws, G.V.Hootergem, M.L.Mirabile, A.B.Moniz, S.Siochru trong cuốn sách Xã

hội thông tin, công việc và các hình thức xã hội mới (1999) [179] còn chỉ ra sự phát

triển của báo chí sẽ tạo ra nhiều việc làm mới và để đáp ứng với những yêu cầu ngày

càng cao của xã hội, nội dung các tờ báo cũng thay đổi về các tổ chức, đưa tin, viết bài

và tham gia vào định hướng dư luận xã hội.

Trong cuốn sách Báo chí quốc tế [185], tác giả Kevin Williams (tại chương 1:

Toàn cầu hóa và báo chí quốc tế và chương 5: Kỹ thuật tiêu chuẩn: Quản lý tin tức và

báo chí quốc tế) cho rằng, quản lý báo chí là một trong những phương thức lãnh đạo

của mọi quốc gia. Báo chí phải hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, việc đưa báo chí

trong nước ra nước ngoài đều phải đảm bảo theo những tiêu chuẩn, quy định về báo

chí nói chung của mỗi nước cũng như đội ngũ nhà báo trong quá trình tác nghiệp cũng

phải được quản lý theo những quy định chung của mỗi nước. Đây dường như là điều

kiện bắt buộc giúp cho các cơ quan quản lý báo chí tập trung chỉ đạo việc đưa các nội

dung thông tin lên báo chí và quản lý đội ngũ nhà báo.

Cuốn sách Sức mạnh của truyền thông trong chính trị (2006) [51] của Doris

A.Graber thuộc trường Đại học Illinois, Mỹ và cuốn sách Sức mạnh của tin tức truyền

thông [103] của tác giả Michael Schudson (2003) chỉ ra những thay đổi của đời sống

chính trị ở châu Mỹ với sự tác động của truyền, sự động này có tầm ảnh hưởng sâu

rộng giữa người làm báo với các nhà chính trị. Ngoài ra, tác giả đưa ra những dự đoán

về sự phát triển của truyền thông trong tương lai, tác động của truyền thông kiểu cũ và

mới vào chính trường và vai trò của các nhà báo trong vận động hành lang có thể dẫn

đến hậu quả làm chệch hướng các luật và quy định về truyền thông. Những dự đoán

15

này ngày càng được thực tiễn kiểm chứng tính đúng đắn trong đời sống chính trị và

những gợi ý cho việc quản lý truyền thông đang trở thành vấn đề cấp thiết.

Cuốn sách Hội tụ truyền thông và mô hình kinh doanh truyền thông phát triển:

Cơ hội tổng quan và chiến lược [191] của tác giả Simon McPhillips (2008), Giám đốc

Truyền thông tại Sprint Nextel Corp, Hoa Kỳ và Omar Merlo thuộc Đại học

Cambridge, Anh nhận định: Sự hội tụ truyền thông đem đến nhiều cơ hội song nhiều

nhà quan sát trong ngành công nghiệp truyền thông lại bi quan về những thay đổi như

vậy. Tuy nhiên, bằng chứng cho thấy ngành công nghiệp truyền thông có thể nắm lấy

cơ hội này, vì có rất nhiều mô hình kinh doanh truyền thông đang phát triển. Các tác

giả cung cấp một cái nhìn tổng quan toàn diện về những thay đổi ảnh hưởng đến ngành

công nghiệp truyền thông, xác định cách thức mô hình kinh doanh truyền thông đang

phát triển, với những hậu quả và cuối cùng, xác định và thảo luận các cơ hội chính cho

những người tham gia vào quá trình kinh doanh truyền thông.

Cuốn sách Sổ tay quản lý truyền thông: Cẩm nang cho các học viên truyền hình

và phát thanh ở các nước trong quá trình chuyển đổi (2009) [177] của tác giả John

Prescott Thomas, cung cấp một số kinh nghiệm cho việc quản lý các tổ chức truyền

thông về cơ cấu và tổ chức bộ máy, kế hoạch chiến lược và quản trị tài chính, kế hoạch

và quản lý nguồn nhân lực… ở nhiều bối cảnh truyền thông khác nhau và đặc biệt liên

quan đến các quốc gia đang phát triển. Trong đó tác giả đưa ra một số nghiên cứu

trường hợp tại một số cơ quan truyền thông nhằm gợi ý cho về cách tổ chức quản lý

truyền hình trong bối cảnh thế giới thay đổi.

Cuốn sách Quản lý phóng viên báo chí nước ngoài trong quá khứ, hiện tại và

tương lai trước xu thế toàn cầu báo chí của Dannika Lewis (2010) thuộc đại học Elon

(Mỹ) cho rằng, sự kết nối của báo chí đối ngoại ngày càng phức tạp. Vì lẽ đó, sự thăng

trầm và phát triển của báo chí đối ngoại nước ngoài trong suốt lịch sử, hiện tại và tương

lai cần phải được quan tâm. Tuy nhiên, các nội dung đăng tải trên báo chí đối ngoại cần

phải được xác minh nhằm tránh sự sai lệch dẫn đến việc tiếp nhận và hiểu sai vấn đề. Các

nhà báo có thể cung cấp nhiều kiến thức và thông tin với ngôn ngữ và văn hóa ra thế giới

nhưng cách họ thể hiện đôi khi lại chưa hoàn toàn đáp ứng các yêu cầu của nơi cần cung

cấp thông tin cũng như yêu cầu của các quốc gia có tờ báo đối ngoại. Khi các văn phòng

thường trú và phóng viên hoạt động ở nước ngoài có thể không hiệu quả trong việc đưa

tin các vấn đề toàn cầu phức tạp họ cần phải được hướng dẫn, quản lý [174].

16

Cuốn sách Truyền thông đại chúng trong một thế giới đang thay đổi [181], tác

giả George R. Rodman(2011), chủ nhiệm khoa Phát thanh Truyền hình thuộc Đại học

Brooklyn, New York giới thiệu về thế giới truyền thông đại chúng dưới dạng một kết

cấu có tổ chức. Trong đó tập trung vào các vấn đề về lịch sử truyền thông, công nghệ

truyền thông và những tranh luận xung quanh vấn đề truyền thông trong thế giới đang

thay đổi. Ngoài ra, tác giả còn cung cấp thông tin về các phương tiện truyền thông mới

và tầm quan trọng của truyền thông di động trong truyền thông đại chúng, sự hội tụ

kinh tế của ngành công nghiệp trực tuyến và phương tiện di động. Song cách tổ chức

quản lý truyền thông đại chúng trong một thế giới thay đổi hầu như không được đề cập

đến, trong khi đó việc quản lý truyền thông đại chúng như một phương tiện báo chí đối

ngoại rất cần thiết lại ít được chú trọng.

Cuốn sách Những vấn đề cơ bản của báo chí [171] của hai nhà báo người Mỹ

Bill Kovach và Tom Rosenstiel (2014) đã tập hợp nhiều ý kiến của các nhà báo có liên

quan để đặt câu hỏi báo chí là gì, vai trò của báo chí trong đời sống xã hội như tôn

trọng sự thật, trung thành với các ý kiến của người dân, phải là quyền lực mềm, là diễn

đàn cho những chỉ trích công khai và thỏa hiệp, các vấn đề về tự do báo chí và là diễn

đàn của công chúng. Đưa ra nhiều nguyên tắc như những luận điểm về vai trò của báo

chí trong đời sống xã hội nhưng các tác giả hầu như không nhắc đến vấn đề phải quản

lý báo chí như thế nào và ai sẽ đứng ra quản lý.

Cuốn sách Vai trò của đội ngũ cán bộ quản lý báo chí đối ngoại của tác giả

Jørgen Skrubbeltrang (2015) cho rằng, trong xã hội hiện đại đội ngũ cán bộ quản lý

báo chí đối ngoại đóng vai trò thiết yếu trong việc thẩm định cũng như đưa ra những

đánh giá để đi đến quyết định cho phép xuất bản hay từ chối. Người viết bài rất đa

dạng, họ đến từ nhiều nền văn hóa nên có thể không hình dung hết những chuẩn mực

báo chí mà một nước đặt ra, do đó đội ngũ cán bộ quản lý báo chí trở thành một lực

lượng tin cậy cho các xuất bản đến với độc giả ở các nền văn hóa khác nhau [178].

Như vậy, có thể thấy những nghiên cứu về vấn đề quản lý báo chí ở nước ngoài

đã được đề cập đến nhưng chưa nhiều. Mỗi nước có cách thức khác nhau, song tập

trung chủ yếu vào vấn đề tự do báo chí và phát triển báo chí theo định hướng thông tin

nhanh, kịp thời, tôn trọng sự thật và là một diễn đàn không thể thiếu trong đời sống xã

hội. Xu hướng nghiên cứu chính hiện nay về quản lý báo chí nói chung ở nước ngoài

tương đối đa dạng, nhiều loại hình báo chí nhưng thường gắn với hoạt động thương

17

mại, nhất là báo điện tử. Tuy nhiên, những nghiên cứu về quản lý báo chí đối ngoại

hầu như chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống. Trong khi đó quản lý báo chí đối

ngoại cần được quan tâm và được thể chế hóa bằng các văn bản quy phạm pháp luật rõ

ràng, chi tiết để tạo điều kiện cho quản lý báo chí đối ngoại phát triển.

2. Tình hình nghiên cứu trong nước về quản lý báo chí và quản lý báo chí

đối ngoại

Hiện nay, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, mạng xã hội làm cho

báo chí trong nước xuất hiện một số xu hướng nghiên cứu mới:

Thứ nhất, những công trình nghiên cứu về quản lý báo chí

Ở Việt Nam, báo chí đang có sự phát triển mạnh mẽ cả về loại hình và cách tổ

chức nội dung. Chính vì vậy, công tác quản lý báo chí cũng được nghiên cứu khá đa

dạng, với nhiều công trình khác nhau, có thể chỉ ra các công trình nghiên cứu có liên

quan đến quản lý báo chí gồm:

Tác giả Trần Bá Dung (2001) có bài viết Các quan điểm chỉ đạo của Đảng

Cộng sản Việt Nam về báo chí trong thời kỳ đổi mới introng cuốn sách Báo chí những

điểm nhìn từ thực tiễn [53]. Tác giả đã đưa ra đánh giá báo chí cách mạng ngày càng

lớn về quy mô, khoa học hơn về tính chất, ngày càng khẳng định vị trí, vai trò, tầm

quan trọng trong đời sống xã hội, được xã hội đón nhận. Trên thực tế, với sự phát triển

mạnh mẽ của các loại hình thông tin, báo chí như hiện nay tác giả cho rằng cần cơ cơ

chế, chính sách quản lý báo chí để báo chí cách mạng luôn giữ vững lập trường, tôn

chỉ mục đích và gắn bó chặt chẽ với sự phát triển của đất nước.

Cuốn sách Tăng cường lãnh đạo, quản lý tạo điều kiện để báo chí Việt Nam

phát triển mạnh mẽ, vững chắc trong thời gian tới [16] do Ban Tuyên giáo Trung ương

biên soạn (2007) cho rằng, cần tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp trong quản lý

báo chí trong thời gian tới để phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiêp hóa, hiện đại

hóa đất nước.

Trong đề tài cấp Bộ Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất các giải

pháp quản lý Nhà nước về báo chí ở nước ta trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế do

Vũ Thanh Sơn (2008) làm chủ nhiệm [133]; bài báo Quản lý nhà nước về báo mạng

điện tử ở Việt Nam hiện nay của tác giả Trịnh Xuân Thắng (2013) đăng trên trên tạp

chí Thông tin đối ngoại [140]; bài báo Nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với

báo chí của tác giả Nguyễn Vũ Tiến (2002) đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị [153]

18

các tác giả thống nhất cho rằng, báo chí nước ta hiện nay rất đa dạng về chủng loại, nội

dung thông tin rất phong phú, chính vì vậy cần có nhiều biện pháp linh hoạt để quản lý

báo chí trong tình hình mới, nhất là tính cập nhật, nhạy bén của báo điện tử cần phải

kiểm soát chặt chẽ về thông tin, cần có sự quản lý thường xuyên, sát sao của các cơ

quan chức năng. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí cần quyết liệt, sâu sát hơn

với các nội dung thông tin.

Cuốn sách Lãnh đạo và quản lý hoạt động báo chí ở Việt Nam hiện nay [20]

của tác giả Hoàng Quốc Bảo (2010) tập trung vào việc luận giải sự cần thiết phải nâng

cao vai trò của báo chí trong hoạt động tham mưu, vào chức năng thông tin giúp cho

công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng thực hiện hoạt động quản lý nhà nước đối với báo

chí. Tác giả Đỗ Quý Doãn (2014) trong cuốn sách Quản lý và phát triển thông tin báo

chí ở Việt Nam [52] tập hợp các bài viết về những vấn đề xung quanh công tác quản lý,

chỉ đạo và phát triển báo chí cách mạng Việt Nam tham gia vào sự nghiệp công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Tác giả khẳng định, các thông tin trên

báo chí cần được kiểm soát chặt chẽ, báo chí phải trở thành công cụ quan trọng, là một

kênh thông tin, giáo dục, giải trí phù hợp với quan điểm, đường lối của Đảng.

Cuốn sách Công tác lãnh đạo, quản lý báo chí trong 25 năm tiến hành sự

nghiệp đổi mới [94] của tác giả Nguyễn Thế Kỷ (2012) đi sâu nghiên cứu sự lãnh đạo

của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với hoạt động báo chí sau 25 năm tiến hành

đổi mới đất nước. Tác giả chỉ ra những ưu điểm và hạn chế cơ bản đó là báo chí nước

ta có sự phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng nhưng việc quản lý báo chí chưa

sát với yêu cầu thực tiễn, các chức năng của báo chí hiện đang thiên về giải trí hơn là

chức năng định hướng. Tác giả đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý báo

chí đáp ứng với yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước, trở thành công cụ quan trọng

phục vụ cho việc tuyên truyền các quan điểm của Đảng và góp phần đấu tranh chống

lại các quan điểm sai trái.

Bài báo Tăng cường quản lý nhà nước về pháp luật đối với báo chí [5] của tác

giả Hoàng Anh (2012) đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử cho rằng, báo chí Việt Nam

về thể thức được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật. Nội dung các văn

bản quản lý báo chí bao quát nhiều vấn đề cơ bản của hoạt động báo chí, thể hiện được

sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đối với báo chí. Tác giả đã chỉ ra một số hạn chế

trong quản lý báo chí đó là những tác động của cơ chế thị trường các cơ quan quản lý

19

còn lúng túng, thậm chí buông lỏng trong quản lý. Công tác tổ chức thông tin và quản

lý thông tin chưa thực sự sát với thực tế, chưa ngăn chặn, phòng ngừa được các vi

phạm pháp luật trong hoạt động báo chí. Vì vậy, tác giả đưa ra một số biện pháp cơ

bản trong quản lý báo chí đó là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, tiếp

tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về báo chí, tổ chức tốt việc thực

hiện quản lý nhà nước bằng pháp luật, tăng cường hợp tác quốc tế trong quản lý nhà

nước về báo chí và thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong hoạt

động báo chí một cách nghiêm khắc.

Tác giả Đoàn Thế Hanh (2013) trong bài viết Quản lý nhà nước đối với báo chí

ở nước ta đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử, chỉ ra những điểm lý luận cơ bản về

quản lý nhà nước đối với báo chí như xác định rõ chủ thể, khách thể, đối tượng cũng

như mục đích của hoạt động quản lý nhà nước đối với báo chí. Mặt khác, tác giả đã

khái quát quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đối với công tác quản lý nhà nước về

báo chí trên năm phương diện: công tác báo chí là bộ phận cấu thành hữu cơ trong

hoạt động của Đảng ta; báo chí phải góp phần tích cực vào tuyên truyền lý luận của

chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm của Đảng, pháp

luật, chính sách của Nhà nước; báo chí là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, của tổ chức

chính trị-xã hội và là diễn đàn của nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng,

sự quản lý của Nhà nước và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật; Đảng lãnh đạo báo

chí bằng việc định hướng chính trị và thông qua Nhà nước và cán bộ báo chí cũng là

chiến sĩ cách mạng. Trên cơ sở đó tác giả chỉ ra những nguyên tắc căn bản trong quản

lý nhà nước để báo chí hoạt động sáng tạo, cơ sở pháp lý cho hoạt động quản lý nhà

nước đối với báo chí và cơ quan quản lý nhà nước về báo chí [71].

Bài báo Tăng cường công tác quản lý báo chí trong giai đoạn hiện nay của tác

giả Nguyễn Quang Vinh (2014) đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử phân tích những

hạn chế của báo chí hiện nay: cơ quan báo chí thiếu nhạy bén chính trị, chưa làm tốt

chức năng tư tưởng, văn hoá, có biểu hiện xa rời sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý

của Nhà nước, xa rời tôn chỉ, mục đích. Khắc phục những hạn chế trên, tác giả cho

rằng cần xây dựng, bổ sung các quy định, quy chế tạo cơ sở chính trị cho công tác

lãnh đạo, chỉ đạo báo chí; xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế

hoạch và phát triển sự nghiệp báo chí; đề cao vai trò, trách nhiệm trong chỉ đạo hoạt

động của cơ quan báo chí và tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra các cơ quan báo

20

chí, xuất bản để báo chí cách mạng phát triển không ngừng, phục vụ Tổ quốc và

nhân dân [166].

Bài báo Quản lý nhà nước về báo chí trong thời kỳ đổi mới [6] của tác giả

Nguyễn Thị Mai Anh (2016), đăng trên Tạp chí Tổ chức nhà nước và Vấn đề quản lý

báo chí của các tổ chức chính trị-xã hội [87] của Nguyễn Thị Thu Hương (2017) đăng

trên Tạp chí Người làm báo nhận xét: Với quan điểm hiện nay số lượng cơ quan báo

chí nhiều nhưng chất lượng chưa tương xứng, có xu hướng “thương mại hóa” trong

hoạt động báo chí, một số cơ quan báo chí còn buông lỏng công tác quản lý, giáo dục

chính trị cho đội ngũ cán bộ, phóng viên, biên tập viên. Ngoài ra, hoạt động thanh

tra, kiểm tra báo chí truyền thông còn hạn chế. Vì vậy, các tác giả cho rằng cần nâng

cao trách nhiệm, năng lực của các cơ quan quản lý hoạt động báo chí, hoàn thiện cơ

chế quản lý, đổi mới phương thức quản lý báo chí, tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử

lý vi phạm trong hoạt động báo chí. Tuy nhiên, cơ chế xử lý những sai phạm trong

quản lý báo chí, cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của báo chí chưa được

đề cập rõ.

Luận án tiến sĩ Quản lý công Quản lý nhà nước về báo chí ở Việt Nam hiện nay

[7] của tác giả Nguyễn Thị Mai Anh (2016) đã chỉ rõ cơ sở khoa học của quản lý nhà

nước về báo chí, trong đó tập trung chỉ rõ lý luận chung về báo chí, quản lý nhà nước

về báo chí, kinh nghiệm của một số quốc gia về quản lý báo chí. Trong chương 3 đã

nêu lên thực trạng quản lý nhà nước về báo chí thời kỳ đổi mới ở Việt Nam. Trên cơ

sở chỉ ra thực trạng thực hiện các nội dung quản lý nhà nước về báo chí, những ưu

điểm và hạn chế. Để khắc phục những hạn chế tác giả đã đưa ra những giải pháp góp

phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về báo chí. Nghiên cứu chủ yếu đề cập đến

báo chí nói chung mà không bàn đến vấn đề quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại,

đây là lĩnh vực tương đối cần thiết vì báo chí đối ngoại là một bộ phận trong nền báo

chí cách mạng Việt Nam.

Năm 2017, tác giả Doãn Thị Thuận công bố nghiên cứuQuản lý báo chí điện tử

ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay [152]. Tác giả đã chỉ ra thực trạng quản lý báo

chí điện tử từ năm 2011 đến năm 2015 còn bị buông lỏng, tôn chỉ mục đích còn trùng

chéo, chưa thực hiện đúng “tôn chỉ mục đích của mình, thông tin lấn sân sang của

ngành khác, chưa quản lý chặt chẽ nội dung thông tin, xuất bản, công tác xử lý vi

phạm. Trên cơ sở đánh giá thực trạng quản lý báo chí điện tử, tác giả cho rằng việc

21

quản lý nội dung thông tin, rà soát nội dung đăng tải trên các trang tin điện tử và mạng

xã hội, nhằm tạo điều kiện cho báo chí có thể cung cấp thông tin với chất lượng cao

hơn, góp phần quan trọng vào việc tuyên truyền các chủ trương, quan điểm của Đảng,

tham gia vào việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trước tình hình và yêu cầu mới.

Tác giả Trương Ngọc Nam (2018) qua nghiên cứu Đào tạo nguồn nhân lực báo

chí, truyền thông ở Việt Nam trong tình hình mới [108] chỉ rõ trong bối cảnh cuộc

Cách mạng công nghiệp 4.0, công nghệ làm báo có nhiều thay đổi, với sự hỗ trợ mạnh

mẽ của các thiết bị thông minh, điều đó kéo theo điện tử, mạng xã hội cũng phát triển

và quá trình hội nhập quốc tế về báo chí đòi hỏi phải có nguồn nhân lực báo chí chất

lượng cao. Tác giả đã đề ra các giải pháp đó là đổi mới mô hình đào tạo nguồn nhân

lực báo chí; tăng cường xây dựng cơ sở thực hành, đổi mới phương pháp đào tạo; coi

trọng giáo dục phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp, trách nhiệm xã hội, kỹ năng công

nghệ thông tin; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan báo chí, truyền thông theo hướng xã

hội hóa quá trình đào tạo; tăng cường nghiên cứu khoa học lĩnh vực báo chí và tăng

cường hội nhập quốc tế.

Thứ hai, những công trình nghiên cứu về lãnh đạo, quản lý báo chí

Trong bài viết Vấn đề lãnh đạo quản lý báo chí trong thời kỳ đổi mới [91], tác

giả Bùi Đình Khôi (1997) đã chỉ ra một số thực trạng về việc quản lý báo chí từ sau

khi nước ta tiến hành đổi mới có sự quan tâm chỉ đạo tích cực của Đảng, sự quản lý

của nhà nước nhưng nội dung thông tin còn nghèo, hình thức trình bày thiếu hấp dẫn,

bắt đầu chạy theo xu hướng thương mại, chưa đảm bảo hoạt động theo tôn chỉ, mục

đích. Do vậy, tác giả cho rằng đã đến lúc báo chí phải được quản lý, lãnh đạo phù hợp

với những yêu cầu của thời kỳ đổi mới, tránh chạy theo xu hướng thương mại hóa,

việc đưa tin, viết bài phải thể hiện được tính trung thực, khách quan. Cùng nghiên cứu

về lĩnh vực này còn có bài viết Nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về báo chí

trong tình hình hiện nay [99] của tác giả Mai Linh (2012), bài viết Quản lý nhà nước

về báo chí trong thời kỳ đổi mới [3] của tác giả Nguyễn Thị Mai Anh (2015), hai tác

giả khá thống nhất khi cho rằng báo chí ở nước ta hiện nay có xu hướng thương mại

hóa, một số tờ báo đưa tin theo hướng câu khách nên đưa tin giật gân, nội dung nghèo

nàn, thiếu sự sáng tạo trong cách đưa tin, viết bài, hình thức thể hiện đơn điệu, do đó

cần phải tăng cường sự chỉ đạo, sự lãnh đạo đối với các cơ quan báo chí, chấn chỉnh

hiện tượng đưa tin thiếu trung thực, không theo tôn chỉ mục đích.

22

Cuốn sách Truyền thông đại chúng [136] của tác giả Tạ Ngọc Tấn (2004) đánh

giá cao sức mạnh của báo chí, cho rằng công tác truyền thông có sự lan tỏa mạnh mẽ

cả những thông tin trái chiều, đặc biệt là những vấn đề được dư luận quan tâm. Với

những tác động như vậy của báo chí, tác giả cho rằng, việc đưa tin trên báo chí cần có

định hướng, trong đó tập trung truyền thông về khía cạnh pháp lý, biểu dương những

điển hình tiên tiến và đấu tranh, phê phán cái sai, cái tiêu cực, tránh thái độ nôn nóng,

phê bình gay gắt.

Bài báo Một số vấn đề về phát triển báo chí nước ta hiện nay [138] của tác giả

Tạ Ngọc Tấn (2007) đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử chỉ ra rằng, báo chí tạo ra ảnh

hưởng to lớn về văn hóa, lối sống xã hội, ảnh hưởng ngày càng to lớn đến việc thúc

đẩy hình thành các sự kiện kinh tế, chính trị, ảnh hưởng đến quá trình hoạch định các

chính sách kinh tế-xã hội của đất nước. Ngoài những tác động xã hội tích cực, tác giả

cho rằng báo chí cũng là nguyên nhân của không ít hệ quả xã hội phức tạp, nhất là

những ảnh hưởng tiêu cực về tâm lý xã hội, những băn khoăn, lo lắng, thậm chí sụt

giảm niềm tin của người dân về sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước

trước tình hình tham nhũng, lãng phí. Từ đó tác giả chỉ ra những hạn chế về quản lý

báo chí: chưa có sự thống nhất trong nhận thức về vai trò, chức năng xã hội của hệ

thống báo chí nói riêng và hệ thống truyền thông đại chúng nói chung; hệ thống luật

định về báo chí chưa đủ để giải quyết nhiều tình huống đặt ra trong thực tế hoạt động

báo chí; bộ máy quản lý chưa xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động và

người làm báo chưa được giáo dục đầy đủ về luật pháp, đạo đức và trách nhiệm công

dân của nhà báo.

Cuốn sách Từ lý luận đến thực tiễn báo chí [134] và cuốn Truyền thông đại

chúng – động lực phát triển của xã hội hiện đại [135] của tác giả Tạ Ngọc Tấn khẳng

định, báo chí là phương tiện giao tiếp quan trọng đóng góp vào sự phát triển của xã

hội, đồng thời là công cụ quản lý xã hội, công cụ thực hiện dịch vụ xã hội. Tác giả

Hoàng Đình Cúc, Đức Dũng (2007) trong cuốn Những vấn đề của báo chí hiện đại

[50] bàn về nguyên tắc hoạt động báo chí, trong đó nêu bật các nguyên tắc đảm bảo

tính khuynh hướng, tính quần chúng, tính khách quan, chân thật và tính nhân văn của

báo chí... những yếu tố này là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của xã hội.

Song trong các nghiên cứu đều không đề cập đến phải quản lý báo chí như thế nào để

báo chí hiện đại thực sự phát triển theo đúng tôn chỉ, mục đích.

23

Bài viết Những nhiệm vụ chủ yếu của công tác thông tin đối ngoại nhằm thực

hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng [86]của tác

giả Phạm Gia Khiêm (2011) đăng trên Tạp chí Thông tin đối ngoại cho rằng, báo chí

không chỉ định hướng dư luận mà còn tham gia vào việc đưa tin, cổ động, tuyên truyền

các quan điểm của Đảng, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu của Đảng đã đề ra.

Bên cạnh đó, công tác ngoại giao không thể không có sự góp mặt của báo chí, đặc biệt

ngày nay công tác ngoại giao có sự tham gia, hỗ trợ tích cực của báo chí, dường như

nội dung phản ánh khá rõ vai trò của báo chí trong tình hình hiện nay. Song vấn đề

quản lý để các bài viết có trọng tâm, trọng điểm, phản ánh được thực chất của vấn đề

lại chưa được giải quyết thỏa đáng trong các nghiên cứu này.

Cuốn sách Báo chí và dư luận xã hội [56] của tác giả Nguyễn Văn Dững (2011)

bàn về bản chất của hoạt động truyền thông, hoạt động báo chí, đặc điểm của thông tin

báo chí; cơ chế tác động của báo chí đến xã hội. Giữa báo chí và dư luận xã hội có

quan hệ chặt chẽ, mỗi khi có dư luận xã hội thì báo chí kịp thời phản ánh, cung cấp

thông tin cho việc quản lý xã hội. Vì vậy, báo chí không chỉ cung cấp thông tin mà còn

gián tiếp tham gia vào quản lý xã hội.

Bài viết Quan hệ của truyền thông đại chúng với ngành tư pháp ở các nước tư

bản phát triển [104] của tác giả Đỗ Đức Minh (2014) cho rằng truyền thông đại chúng

và ngành tư pháp là hai thiết chế độc lập, cùng tham gia vào việc kiểm tra, giám sát

hoạt động của bộ máy nhà nước, đồng thời truyền thông đại chúng và các cơ quan tư

pháp giám sát lẫn nhau. Thông qua hoạt động điều tra, truyền thông đại chúng là người

phát hiện, tạo tiền đề cho các cơ quan tư pháp tiến hành các hoạt động tố tụng cần

thiết. Mặt khác, truyền thông đại chúng còn có vai trò tham gia theo dõi, hỗ trợ các cơ

quan tư pháp trong quá trình khởi tố, điều tra, xét xử để truyền thông đại chúng thực

hiện vai trò và sứ mệnh của mình. Bên cạnh đó, truyền thông đại chúng trở thành đối

tượng của hoạt động tư pháp. Sự tự do báo chí là một trong những điều kiện thiết yếu

để thực hiện chức năng xã hội cơ bản của truyền thông song các nước đều đặt ra những

văn bản luật để kiểm tra, giám sát, quản lý nền báo chí và có những hình thức xử lý rất

chặt chẽ cho những nhà báo vượt giới hạn cho phép trong đưa tin, tuyên truyền. Đó

cũng là những gợi ý cho Việt Nam trong quản lý báo chí.

Cuốn sách Các loại hình báo chí truyền thông [121] của tác giả Dương Xuân

Sơn (2014) chỉ rõ đặc trưng, đặc điểm của truyền thông và truyền thông đại chúng

24

hiện đại, trong đó tác giả trình bày lịch sử ra đời và phát triển một số loại hình báo

chí, những ưu điểm và hạn chế, nguyên tắc và phương pháp sáng tạo, xu hướng phát

triển riêng của từng loại hình báo chí, nhất là báo chí điện tử nhằm phát huy tốt vai

trò, sức mạnh của các loại hình báo chí truyền thông với công cuộc xây dựng và phát

triển đất nước.

Cuốn sách Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với báo chí trong giai

đoạn hiện nay [112] của tác giả Lưu Đình Phúc (2016) đã chỉ rõ, trong những năm gần

đây, báo chí Việt Nam ngày càng phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng, số

cơ quan báo chí cũng tăng nhanh, cách tổ chức thông tin cũng đa dạng, ngày càng

chuyên sâu về cách tổ chức xây dựng nội dung. Tuy nhiên, trước sự phát triển mạnh

mẽ của công nghệ thông tin, các loại hình truyền thông mới ra đời, báo chí truyền

thống Việt Nam đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, do đó yêu cầu phải tăng

cường hơn nữa và đổi mới phương thức lãnh đạo và quản lý báo chí của Đảng và Nhà

nước, để báo chí giữ vững bản chất cách mạng. Để giữ vững được bản chất cách mạng

của báo chí, tác giả đã luận giải những vấn đề lý luận và tính tất yếu của việc đổi mới

phương thức lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, phân tích, đánh giá những thành tựu

và hạn chế của báo chí, từ đó đưa ra quan điểm và đề xuất giải pháp đổi mới phương

thức lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, giúp báo chí có những bước phát triển mới

phù hợp với yêu cầu thực tiễn.

Tác giả Vũ Ngọc Hoàng (2016) qua nghiên cứu Báo chí với sự phát triển bền

vững kinh tế-xã hội [77] đăng trên Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ,

trong kỷ nguyên thông tin thì thông tin tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất và

quản trị quốc gia, quyết định nhận thức, tạo ra những con người với một trình độ, kỹ

năng cao hơn và để làm được điều này báo chí phải cung cấp thông tin một cách trung

thực nhất để giúp cộng đồng xã hội hiểu đúng thực trạng, qua đó tham gia tích cực vào

việc chỉ rõ những yếu kém và giải pháp khắc phục; đấu tranh chống “lợi ích nhóm”,

tiêu cực và tham nhũng, lãng phí hướng đến xây dựng xã hội phát triển.

Đề tài Nâng cao hiệu quả tuyên truyền của Ban Biên tập tin Đối ngoại Thông

Tấn xã Việt Nam đáp ứng nhiệm vụ chính trị trong tình hình mới [82]do tác giả Đỗ

Văn Hợp (2016) làm chủ nhiệm, đã chỉ ra thực trạng thông tin chuyên ngữ bằng văn

bản của Ban Biên tập tin đối ngoại, một số thành tựu cơ bản đó là chú ý nhiều hơn tới

các chủ đề văn hóa, thể thao, du lịch, lượng truy cập ngày càng tăng góp phần không

25

nhỏ vào việc tăng cường quan hệ hợp tác nhiều mặt với các nước bạn bè, đối tác trên

thế giới. Một số hạn chế được chỉ ra lượng tin tiếng Anh chưa xứng tầm với một hãng

thông tấn quốc gia, nội dung các bản tin chuyên ngữ vẫn chủ yếu phản ánh “một

chiều”, tin chính trị ngoại giao chất lượng tin còn khuôn mẫu, nặng về tuyên truyền,

hàm lượng thông tin chưa cao; tin kinh tế, xã hội, văn hóa thể thao thiếu chuyên sâu,

nội dung còn nghèo nàn, thông tin cũ. Các chương trình truyền hình bằng tiếng nước

ngoài của Ban Thông tin Đối ngoại, chất lượng các bản tin từ khâu biên tập, biên dịch,

đọc off, dựng hình đến dẫn chương trình ngày càng được được nâng cao, đội ngũ dẫn

chương trình được đào tạo chuyên nghiệp và bài bản, các bản tin truyền hình đối ngoại

ngày càng được nâng cao về chất lượng. Tuy nhiên, tin bài, phóng sự tự sản xuất hiện

vẫn chỉ chiếm tỷ trọng khá chưa nhiều trong thời lượng các bản tin truyền hình của

Ban Thông tin Đối ngoại, công tác quảng bá các bản tin truyền hình đối ngoại tới khán

giả trong và ngoài nước vẫn chưa được quan tâm thỏa đáng, chưa tạo được sự hấp dẫn

về nội dung, rập khuôn về cách thức thể hiện.

Cuốn sách Thông tin báo chí với công tác lãnh đạo, quản lý [100] của các tác

giả Nguyễn Đức Lợi và Lưu Văn An (2017) (Đồng chủ biên) đã phân tích làm rõ cơ sở

lý luận và thực tiễn của vấn đề thông tin báo chí với công tác lãnh đạo, quản lý ở Việt

Nam trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế. Các tác giả đã chỉ ra một số kinh

nghiệm về việc phát huy vai trò của thông tin báo chí đối với công tác lãnh đạo, quản

lý ở một số nước trên thế giới. Trên cơ sở đó đưa ra quan điểm và giải pháp nâng cao

hiệu quả của thông tin báo chí phục vụ và kiểm tra, giám sát công tác lãnh đạo, quản lý

và đổi mới công tác lãnh đạo, quản lý đối với thông tin báo chí, đáp ứng yêu cầu của

sự nghiệp đổi mới toàn diện và đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong thời gian tới. Tác giả

đã đưa ra kiến nghị với các ban Đảng Trung ương, các cơ quan Nhà nước ở Trung

ương, cơ quan quản lý báo chí ở các địa phương, Hội Nhà báo Việt Nam, các cơ quan

chủ quản và cơ quan báo chí để nâng cao chất lượng, hiệu quả thông tin báo chí phục

vụ công tác lãnh đạo, quản lý và tăng cường công tác lãnh đạo, quản lý báo chí.

Bài báo “Giải pháp phát huy vai trò của báo chí- truyền thông đối với công tác

lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam” [1] của tác giả Lưu Văn An (2017) đăng trên Tạp chí

Lý luận chính trị khẳng định, báo chí phải được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự

quản lý chặt chẽ của Nhà nước. Các cấp quản lý cần coi báo chí là công cụ quan trọng

như một phương tiện để phản biện xã hội cũng như phản biện một cách khoa học với

26

những quan điểm, chủ trương. Mặt khác, báo chí phải luôn bám sát tôn chỉ, mục đích

phục vụ cho sự phát triển mọi mặt đời sống xã hội.

Thứ ba, những công trình nghiên cứu về về báo chí đối ngoại và thông tin

đối ngoại

Cuốn sách Báo chí với thông tin quốc tế [69] của tác giả Đỗ Xuân Hà (1997)

nêu lên một số vấn đề lý luận về báo chí quốc tế, các vấn đề thông tin quốc tế của báo

chí trong thời kỳ mở cửa, góp phần giáo dục nhân cách con người trên cơ sở kế thừa

truyền thống dân tộc, làm cho thế giới biết đến Việt Nam với những giá trị văn hóa

tiêu biểu. Việt Nam cũng tiếp thu, học hỏi được những giá trị tinh hoa của văn hóa thế

giới nhà tin tức, truyền thông. Nội dung chủ yếu tập trung vào chức năng thông tin của

báo chí mà chưa đề cập đến những đánh giá, nhận định về vai trò của báo chí Việt

Nam hiện nay trên trường quốc tế.

Cuốn sách Báo chí và ngoại giao [114] của tác giả Dương Văn Quảng (2002)

đề cập đến một số vấn đề giao tiếp và thông tin tuyên truyền đối ngoại, bao gồm

những kiến thức cơ bản về báo chí và mối quan hệ giữa báo chí với ngoại giao và công

tác tuyên truyền đối ngoại của nước ta hiện nay. Báo chí hiện là một kênh ngoại giao

quan trọng, do đó cần quan tâm nhiều hơn đến báo chí đối ngoại cũng như kiểm soát

các thông tin đối ngoại, làm cho báo chí đối ngoại trở thành phương tiện hữu ích trong

đời sống chính trị của nước ta.

Đề tài khoa học cấp Bộ Đẩy mạnh hoạt động thông tin đối ngoại trong quá trình

hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay” [127] của tác giả Phạm Minh Sơn (2008) đã

phân tích, xem xét một cách đầy đủ, tổng hợp hoạt động thông tin đối ngoại trong quá

trình hội nhập quốc tế với những ưu điểm và hạn chế, trên cơ sở đó đề xuất một số biện

pháp góp phần đẩy mạnh hoạt động thông tin đối ngoại của Việt Nam hiện nay.

Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế Báo chí và truyền thông đại chúng – đào tạo

và bồi dưỡng trong thời kỳ hội nhập [81] của Học viện Báo chí và Tuyên truyền

(2008) có nhiều bài viết về thông tin đối ngoại, như: Toàn cầu hóa, những cơ hội và

thách thức đối với báo chí truyền thông đại chúng Việt Nam của tác giả Nguyễn Đức

Dũng, Cơ hội, thách thức và những yêu cầu cơ bản của báo chí truyền thông đại

chúng trong thời kỳ hội nhập quốc tế của tác giả Phạm Xuân Mỹ, Báo chí Việt Nam

trong hội nhập quốc tế của tác giả Nguyễn Vũ Tiến… Những bài viết này nói lên bức

tranh chung về sự phong phú của báo chí, truyền thông đối ngoại của nước ra trong

27

thời kỳ hội nhập quốc tế vừa có những thuận lợi như sự phát triển mạnh mẽ hệ thống

cơ sở hạ tầng, thuận tiện trong khai thác thông tin, nhưng cũng đặt ra thách thức cho

các nhà quản lý báo chí khi kiểm soát các nội dung thông tin.

Cuốn sách Báo chí thế giới và xu hướng phát triển [72] của tác giả Đinh Thúy

Hằng (2008) đã cung cấp hệ thống lý luận về báo chí thế giới, về nghề báo, về vấn đề

tự do báo chí và xu thế phát triển của báo chí thế giới, trong đó báo in có thể giảm

nhưng báo chí điện tử, báo hình có chiều hướng phát triển mạnh do sự phát triển của

hệ thống internet. Tuy nhiên, với sự phát triển mạnh của phương tiện truyền thông

nhưng cuốn sách không đề cập đến quản lý vấn đề này.

Hai tác giả Phạm Minh Sơn và Nguyễn Thị Quế (2009) công bố cuốn sách

Truyền thông đại chúng trong công tác thông tin đối ngoại của Việt Nam hiện nay

[129]. Nội dung cuốn sách chỉ rõ thực trạng hoạt động truyền thông đại chúng trong

công tác thông tin đối ngoại hiện nay rất phong phú và đa dạng, với nhiều loại hình

báo chí, thông tin kịp thời, đa chiều nhưng cũng bộc lộ một số điểm yếu như việc tuân

theo tôn chỉ mục đích, chạy theo xu hướng thương mại khá rõ và để khắc phục tình

trạng này, các tác giả cho rằng cần đẩy mạnh hoạt động và nâng cao hiệu quả thiết

thực của truyền thông đại chúng trong công tác thông tin đối ngoại, đặc biệt là trong

bối cảnh đất nước ta đang chủ động và tích cực hội nhập với khu vực và thế giới.

Cuốn sách“Truyền thông Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa [106] do tác

giả Lê Hồng Minh (2009) chủ biên tập hợp các bài viết gồm ba phần: những vấn đề

chung, tiếp cận truyền thông đại chúng và công chúng, nhu cầu tiếp cận và hiệu quả

truyền thông đại chúng, trong đó có bài viết Xu hướng phát triển nội dung thông tin và

loại hình truyền thông đại chúng Việt Nam dưới tác động của toàn cầu hoá tác giả

Đặng Vũ Cảnh Linh cho rằng, nội dung thông tin trên báo chí hiện nay rất đa dạng,

tính thương mại cao, chạy theo thị hiếu. Tác giả chỉ ra tỷ lệ chênh lệch khá lớn giữa số

bài viết phản ánh các vấn đề trong nước chiếm số lượng lớn so với các bài về quốc tế,

việc đưa tình hình Việt Nam chiếm số lượng rất nhỏ, thông tin quốc tế thường là tin

nhanh. Bên cạnh đó, những tác động của quá trình toàn cầu hóa, báo chí nước ta có sự

phát triển mạnh mẽ, song cần có sự kiểm soát cả về nội dung, kiểm soát vấn đề an ninh

mạng, đồng thời kiểm soát các cơ quan báo chí.

Cuốn sách Thông tin đối ngoại Việt Nam – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

[131] của tác giả Phạm Minh Sơn (2011) và bài viết Một số vấn đề cần quan tâm trong

28

Thông tin đối ngoại trên báo chí hiện nay [165] của tác giả Nguyễn Hồng Vinh (2011)

đăng trên Tạp chí Thông tin đối ngoại đã nêu bật tầm quan trọng của báo chí đối

ngoại, nhất là trong giai đoạn đổi mới sự phản ánh kịp thời của báo chí kịp thời của

báo chí góp phần củng cố và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Tác

giả cũng chỉ ra một số hạn chế cho rằng công tác quản lý báo chí đối ngoại hiện nay

còn bộc lộ khiếm khuyết, chưa nhạy bén với tình hình thế giới, thông tin chưa phong

phú. Cùng nghiên cứu về vấn đề thông tin đối ngoại, tác giả Phạm Minh Sơn (2011)

công bố nghiên cứu Tăng cường công tác thông tin đối ngoại trong thời kỳ mới [132]

đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, trên có sở phân tích rõ tầm quan trọng của

công tác thông tin đối ngoại trong thời kỳ mới như tích cực, kịp thời tuyên truyền quan

điểm, chủ trương của Đảng; thông tin đối ngoại giúp xây dựng hình ảnh Việt Nam hòa

bình, ổn định, hợp tác và phát triển. Tuy nhiên, tác giả cho rằng thông tin đối ngoại

cần được tăng cường, đổi mới về mọi mặt, trong đó trọng tâm là đổi mới về nội dung,

tăng cường lực lượng tham gia công tác thông tin đối ngoại, phục vụ đúng đối tượng.

Đề tài nghiên cứu Nâng cao chất lượng hiệu quả công tác thông tin đối ngoại

trong một số cơ quan thông tấn báo chí chủ lực ở nước ta hiện nay – thực trạng và

giải pháp (2010)[98] do Phạm Văn Linh làm chủ nhiệm. Nghiên cứu cho rằng công

tác thông tin đối ngoại ở nước ta hiện có bước phát triển vượt bậc, đồng bộ và toàn

diện, với nhiều hình thức đa dạng, nội dung ngày càng phong phú, đóng góp vào thành

công của các hoạt động đối ngoại quan trọng. Tuy nhiên, công tác thông tin đối ngoại

bộc lộ một số hạn chế. Việc chỉ đạo, điều hành, thông tin, phối hợp còn lúng túng, nhất

là trước những vấn đề phức tạp. Nhận thức về vị trí, vai trò của thông tin đối ngoại còn

chậm và chưa đầy đủ. Nội dung thông tin chưa phong phú, thiếu hấp dẫn, sức thuyết

phục chưa cao. Thông tin về thế giới vào Việt Nam còn thiếu chọn lọc, chưa có sự gắn

kết chặt chẽ giữa thông tin đối nội và thông tin đối ngoại. Mặt khác, chưa đẩy mạnh

ứng dụng các công nghệ mới vào thông tin đối ngoại, cán bộ làm công tác thông tin

đối ngoại chưa đồng đều về năng lực công tác. Tuy nhiên, công trình nghiên cứu chưa

chỉ rõ trách nhiệm quản lý báo chí của các cơ quan quản lý nhà nước cả ở Trung ương

và địa phương. Trên cơ nghiên cứu thực tiễn, các tác giả đã đưa ra một số giải pháp

như tăng cường vai trò quản lý thông tin đối ngoại của Nhà nước ở Trung ương như

Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông cần xây dựng cơ chế phối

hợp kiểm soát, kiểm duyệt chặt chẽ các thông tin đối ngoại, nhất là các thông tin trái

29

chiều, và định hướng hiện đại hóa hệ thống trang thiết bị hiện đại để quản lý thông tin

đối ngoại có hiệu quả.

Đề tài nghiên cứu khoa học Tổ chức sản xuất các sản phẩm báo chí đối ngoại

[110] của Nguyễn Ngọc Oanh (2011) đề cập đến quy trình tổ chức sản xuất các sản

phẩm báo chí đối ngoại cần được chuyên nghiệp hóa, người làm báo cần được đào tạo,

bồi dưỡng về báo chí đối ngoại, quy trình xuất bản cần được chuẩn hóa, làm cho các

sản phẩm báo chí đối ngoại thực sự là công cụ, là phương tiện truyền thông có uy tín

mạnh mẽ với thế giới.

Cuốn sách Báo chí và thông tin đối ngoại [26] và cuốn Tổng quan truyền thông

quốc tế [25] của tác giả Lê Thanh Bình (2012) chủ yếu dành cho đào tạo chuyên sâu

về công tác báo chí và quản lý báo chí. Tác giả đã lược khảo sâu về tình hình báo chí

thế giới với các tổ chức thông tin đa dạng, có tính chuyên sâu, đảm bảo phục vụ nhiều

đối tượng và công tác ngoại giao. Trong cuốn sách Tổng quan truyền thông quốc tế,

tác giả đã cung cấp những quan niệm về đường lối đối ngoại về chính trị, phục vụ phát

triển kinh tế đối ngoại, phục vụ ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa, hệ thống hóa

các yêu cầu mang tính lý luận của truyền thông quốc tế, xây dựng hệ thống tiêu chí

đánh giá hiệu quả, nguồn lực của truyền thông quốc tế đối với công chúng và xã hội,

xây dựng hệ thống tiêu chuẩn đối với nhà báo quốc tế đồng thời đánh giá một số sản

phẩm về truyền thông quốc tế.

Cuốn sách Truyền thông quốc tế [161] của tác giả Vũ Thanh Vân (2014) đã

khái quát về lịch sử hình thành báo chí thế giới và tình hình báo chí thế giới trong giai

đoạn hiện nay, xu thế toàn cầu hóa tác động đến truyền thông và nắm bắt cơ hội này

truyền thông thế giới trở thành một ngành kinh doanh, song cần có sự quản lý các cơ

quan truyền thông.

Bài viết Báo điện tử với hoạt động Thông tin đối ngoại - Cơ hội và thách thức

của tác giả Doãn Thị Thuận trong cuốn sách Báo chí truyền thông – Những vấn đề

đương đại [109] do Nguyễn Trí Nhiệm (2015) chủ biên, đã phân tích những ưu thế của

báo điện tử trong hoạt động thông tin đối ngoại như việc đưa tin nhanh chóng, kịp

thời, người đọc dễ tiếp cận nhưng cũng đặt ra không ít thách thức đối với hoạt động

thông tin đối ngoại, trong đó có vấn đề đạo đức và trách nhiệm báo chí. Để khắc phục

những hạn chế đó tác giả đưa ra một số giải pháp như hoàn thiện khung pháp lý và bộ

máy quản lý báo chí để triển khai có hiệu quả công tác chỉ đạo báo chí điện tử cũng

30

như triển khai có hiệu quả Chiến lược phát triển thông tin đối ngoại, tạo ra những kênh

thông tin, công cụ hữu hiệu nâng cao hiệu quả của công tác thông tin đối ngoại và đấu

tranh phản bác quan điểm sai trái.

Cuốn sách iáo tr nh đại cương truyền thông quốc tế [163] của tác giả Phạm

Thái Việt (2016) đã trình bày khái lược về truyền thông quốc tế; vai trò, chức năng của

truyền thông quốc tế; lịch sử phát triển truyền thông quốc tế. Tác giả đã làm nổi bật

trật tự truyền thông quốc tế mới và các lý thuyết truyền thông quốc tế hiện nay, đồng

thời chỉ rõ mối quan hệ giữa toàn cầu hóa và truyền thông quốc tế; sức mạnh của thông

tin và truyền thông trong kỷ nguyên toàn cầu hóa cũng như xu hướng phát triển của

truyền thông quốc tế.

Bài viết Báo chí đối ngoại Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát

triển đất nước [86]của tác giả Đặng Thị Thu Hương (2016) in trong cuốn Báo chí

truyền thông - Những vấn đề đương đại đã bàn về hoạt động báo chí đối ngoại trong

các thời kỳ trước và sau những năm đổi mới, với nhiều thành tựu đạt được, góp phần

đắc lực vào việc tuyên truyền quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước. Từ khi

đất nước tiến hành đổi mới báo chí nước ta gặp phải không ít thách thức và để vượt

qua những thách tác giả đưa ra một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của

báo chí đối ngoại trong tương lai, trong đó có nhóm giải pháp về công tác định hướng

quản lý báo chí đối ngoại với chiến lược tập trung phát triển báo chí đối ngoại trở

thành một phương tiện quan trọng nhằm nâng cao vị thế báo chí cách mạng Việt Nam

trên trường quốc tế.

Cuốn sách Một số xu hướng mới của báo chí truyền thông hiện đại [90] của

nhóm tác giả Phan Văn Kiền, Phan Quốc Hải, Phạm Chiến Thắng và Nguyễn Đình

Hậu (2016) đề cập đến một số xu hướng mới và những xu hướng chủ đạo của báo chí

truyền thông hiện đại cả trên thế giới và ở Việt Nam, cả trên lĩnh vực báo chí và truyền

thông. Trước xu hướng phát triển mạnh mẽ của báo chí và truyền thông, của quảng cáo

hiện đại nhưng nội dung cuốn sách không đề cập đến việc quản lý các hoạt động này

nhằm đảm bảo cho báo chí hoạt động diễn ra trong khuôn khổ.

Cuốn sách Sức mạnh của các nhóm lợi ích truyền thông trong nền chính trị Mỹ

hiện đại [2] của tác giả Phan Duy Anh (2016) cho rằng, từ cuối thể kỷ XX đến nay,

truyền thông đại chúng ngày càng nâng cao vị trí của mình trong hoạt động của chính

phủ Mỹ. Các nhà lập pháp Mỹ nhận thức được sức mạnh to lớn của ngành công nghiệp

31

truyền thông. Bằng những phương thức khác nhau, chúng tác động đến chính trị và

chính sách nhằm bảo vệ cho lợi ích của các thành viên. Nhưng điều quan trọng, các

hoạt động của nó đều nằm trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật Hoa Kỳ.

Thứ tư, những nghiên cứu về quản lý báo chí đối ngoại

Những công trình nghiên cứu về sách, tạp chí; về hoạt động quản lý báo chí đối

ngoại ở Việt Nam còn ít, chỉ có những nghiên cứu ở các góc độ, khía cạnh khác nhau

qua các bài viết trong sách, tạp chí, tiêu biểu như:

Đề tài nghiên cứu khoa học Thông tấn xã Việt Nam với công tác tuyên truyền về

biển, đảo trong thông tin đối ngoại bằng tiếng nước ngoài [67]của tác giả Ngô Thái

Hà (2015) đã chỉ ra thực trạng tuyên truyền về biển đảo trong thông tin đối ngoại bằng

tiếng nước ngoài ở Thông tấn xã Việt Nam đã chỉ ra những kết quả hoạt động của các tờ

báo đối ngoại có tính chuyên sâu như báo VietnamNews, báo Le Courrier du Vietnam,

Tạp chí VietnamLaw & Legal Forum, Tuần báo Thời báo Việt-Hàn, báo điện tử

VietnamPlus. Cùng với đó, công tác tuyên truyền biển đảo đã khái quát bức tranh toàn

cảnh công tác tuyên truyền về biển, đảo bằng tiếng nước ngoài ở Thông tấn xã Việt

Nam, trong đó hoạt động của khối thông tin thông tấn, đã góp phần quan trọng vào

chiến dịch tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo của Việt Nam, phản ánh tinh thần tích

cực, chủ động sáng tạo của Việt Nam tại các diễn đàn quốc tế về vấn đề Biển Đông. Đề

tài cũng chỉ rõ kết quả Hợp tác giữa Thông tấn xã Việt Nam và các cơ quan trong nước

và quốc tế trong thông tin, tuyên truyền về biển, đảo đã đạt được những kết quả tích cực.

Đề tài cũng chỉ ra một số hạn chế như nội dung tuyên truyền về cơ chế chỉ đạo, điều

hành, thông tin, phối hợp có lúc còn bị động, nhất là trước những vấn đề phức tạp mới

nảy sinh; phân công trách nhiệm giữa các đơn vị làm tin và xử lý thông tin còn có có lúc

chưa rõ ràng dẫn đến còn có sự chồng chéo, thông tin chưa phong phú, chưa có nhiều

thông tin mang tính đánh giá, phân tích, bình luận các sự kiện mà dư luận quan tâm.

Bài báo Một số vấn đề trong công tác quản lý hoạt động thông tin đối ngoại ở

Việt Nam hiện nay [160] của tác giả Bùi Thị Vân đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị

năm 2016 đã phân tích và đưa ra cơ sở pháp lý của công tác quản lý hoạt động thông

tin đối ngoại và những kết quả trong công tác quản lý hoạt động thông tin đối ngoại.

Trong đó khẳng định trong lĩnh vực báo chí, các cơ quan, bộ phận báo chí đối ngoại đã

có những đóng góp quan trọng; thực hiện tốt vai trò vừa là cơ quan ngôn luận của tổ

chức Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội, là diễn đàn của nhân dân.

32

Bài báo Quản lý nội dung thông tin đối ngoại tại các đài phát thanh-truyền

h nh địa phương [159] của tác giả Phan Lê Tùng (2017) đăng trên Tạp chí Thông tin

đối ngoại cho rằng, hoạt động của báo chí đối ngoại có những đặc điểm khá riêng biệt

so với hoạt động báo chí nói chung, cả về đối tượng tác động, địa điểm - không gian

cho đến phương pháp, cách thức quản lý nội dung. Do đó, việc tổ chức sản xuất các

sản phẩm báo chí đối ngoại, việc đào tạo những phóng viên, biên tập viên chuyên trách

mảng báo chí đối ngoại cũng đòi hỏi những kỹ năng, quy trình đặc trưng riêng.

Bài báo Lãnh đạo, quản lý báo chí - truyền thông trong thời đại công nghiệp

4.0 [113] của tác giả Hà Huy Phượng (2018) cho rằng, cách thức tổ chức mô hình tòa

soạn sẽ theo hướng của lý thuyết truyền thông hội tụ, trong đó có vấn đề tòa soạn hội

tụ. Hệ thống tòa soạn sẽ hoạt động với những không gian chung, phương thức quản lý

tổ chức sản xuất báo chí sẽ có những điều chỉnh khi người làm báo sẽ sử dụng đến mọi

phương tiện để chuyển tải nội dung, nhất là trong thời đại ngày nay phương tiện thông

minh sẽ ngày càng có nhiều ứng dụng trong sản xuất và quản lý báo chí.

Bài báo Cách mạng công nghiệp 4.0: Vấn đề đặt ra và giải pháp đối với công

tác quản lý truyền thông ở Việt Nam hiện nay [73] của tác giả Đỗ Thị Thu Hằng

(2018) trình bày quan điểm: trong thời đại hiện nay, công nghệ tác động đến mọi lĩnh

vực của đời sống xã hội, trong đó báo chí được thừa hưởng và có thể vận dụng công

nghệ hiện đại vào làm báo cũng như các cấp quản lý cũng cần đẩy mạnh ứng dụng

công nghệ hiện đại, nhất là công nghệ số để quản lý báo chí. Để quản lý báo chí-

truyền thông đạt hiệu quả cao, tác giả cho rằng cần có sự đổi mới quy trình tổ chức sản

xuất, tăng cường hệ thống cơ sở vật chất hiện đại, thúc đẩy mô hình tòa soạn hội tụ và

đi liền với đó là đổi mới về phương pháp quản lý nội dung báo chí, thay đổi cách quản

trị và phát hành.

Có thể nói, những công trình nghiên cứu, sách, bài báo, báo cáo, tham luận

khoa học nêu trên sẽ là những cơ sở khoa học quý báu để thực hiện đề tài, góp phần

đẩy mạnh hoạt động báo chí đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế,

góp phần thực hiện thành công đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác

và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hoá các quan hệ

quốc tế của Việt Nam. Các nghiên cứu góp phần vào việc nâng cao hiệu quả quản lý

báo chí đối ngoại ở nước ta, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa

và hội nhập quốc tế, góp phần nâng cao vị thế của đất nước, uy tín của Việt Nam trên

33

trường quốc tế, các Chính phủ, tổ chức quốc tế, các doanh nhân, người dân các nước

trên thế giới cũng như các cá nhân người nước ngoài đang sinh sống và học tập tại

Việt Nam hiểu biết đúng đắn và đầy đủ về Việt Nam.

3. Khái quát kết quả các công trình nghiên cứu có liên quan và những vấn

đề luận án tập trung nghiên cứu

3.1. Khái quát kết quả các công trình nghiên cứu có liên quan

Những nghiên cứu được đề cập đến trong luận án đã chỉ ra nhiều khía cạnh về

vấn đề báo chí, báo chí với sự phát triển của đất nước, vấn đề quản lý báo chí nói

chung và quản lý báo chí đối ngoại nói riêng. Những kết quả nghiên cứu đó có ý nghĩa

quan trọng với việc giải quyết các vấn đề trọng tâm mà luận án tập trung làm rõ. Các

vấn đề này được khái quát như sau:

Một là, báo chí là một trong những lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội.

Ngày nay, báo chí đang tích cực góp phần vào việc cung cấp thông tin, tham gia

phản biện xã hội. Mặt khác, để làm tốt vai trò của mình báo chí cũng phải không

ngừng tự hoàn thiện, đổi mới về nội dung, hình thức, nhất là trong thời gian gần đây

báo điện tử phát triển mạnh mẽ, tạo nên sự cạnh tranh gay gắt với báo chí truyền

thống, do vậy báo chí có xu hướng chạy theo thị trường, tính thương mại hóa cao

song các cấp quản lý đã có những chế tài làm cho các cơ quan báo chí đảm bảo được

tôn chỉ, mục đích.

Hai là, đội ngũ những người làm báo trước yêu cầu của thực tiễn đã chủ động

đổi mới về cách tổ chức thông tin, nhất là thông tin đối ngoại, đưa những thông tin

trong nước đến với thế giới một cách nhanh chóng và kịp thời. Để thực hiện tốt các

công việc này, nhiều nghiên cứu liên quan đến các vấn đề lý luận báo chí, nghiệp vụ

báo chí đã được tổ chức làm cho đội ngũ những người làm báo vừa nắm vững chuyên

môn vừa xây dựng đạo đức nghề nghiệp trong sáng, có bản lĩnh chính trị và quyết tâm

nghề nghiệp rất cao.

Ba là, trong những năm qua, báo chí Việt Nam có sự chỉ đạo sát sao, sự định

hướng rõ ràng và cụ thể cho nên các cơ quan báo chí đã thực hiện tốt sự chỉ đạo này.

Các cơ quan quản lý báo chí đã chủ động nắm bắt tình hình thực tiễn để tăng cường

vai trò quản lý sát với mỗi lĩnh vực báo chí trên cơ sở thượng tôn pháp luật, việc đưa

tin, viết bài đảm bảo tính trung thực, khách quan. Mặt khác, các cơ quan báo chí đã

cung cấp nhiều thông tin cho các cơ quan quản lý nhà nước phát hiện, ngăn chặn, đấu

34

tranh chống lại các hiện tượng tiêu cực, góp phần làm lành mạnh hóa xã hội, đồng thời

tham gia vào việc tuyên truyền các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà

nước đến với đông đảo người dân trên mọi miền của đất nước.

Bốn là, từ kinh nghiệm về quản lý báo chí nói chung và quản lý báo chí đối

ngoại nói riêng ngày càng được phát huy mạnh mẽ, những vấn đề lý luận và thực tiễn

này có ý nghĩa quan trọng cho việc quản lý báo chí đối ngoại ở nước ta, đó là:

– Xác định rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc quản lý báo chí đối

ngoại để đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ báo chí có đủ phẩm chất, năng lực làm

báo, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội

nhập quốc tế, bảo vệ vững chắc chế độ xã hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc gắn liền với

chủ nghĩa xã hội.

– Nâng cao vai trò, vị thế của các cơ quan quản lý báo chí, có cơ chế khuyến

khích báo chí thông tin đối ngoại kịp thời tình hình trong nước đến với thế giới, đồng

thời tăng tường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực báo chí đối ngoại, đảm bảo

cho việc xuất bản các ấn phẩm, các bài viết luôn đúng tôn chỉ, mục đích.

– Xây dựng hệ thống các văn bản pháp luật chặt chẽ về báo chí đối ngoại, từ đó

việc quản lý cũng như thông tin đối ngoại phải có sự giám sát chặt chẽ của người dân

cũng như các cơ quan chuyên môn.

– Đa dạng hóa các loại hình báo chí đối ngoại song không được chệch với tôn

chỉ, mục đích. Tránh tình trạng do quá chú trọng vào tính thương mại làm cho thông

tin đối ngoại mất đi bản sắc.

– Có cơ chế, chính sách để việc quản lý báo chí đối ngoại trở thành một động

lực cho sự phát triển của đất nước.

3.2. Những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu

Cho đến nay thế giới và Việt Nam chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu

quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại, do vậyhiện nay thiếu những công trình làm cơ

sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng hệ thống các kinh nghiệm cho quản lý báo

chí đối ngoại ở Việt Nam. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để việc quản lý nhà nước về

báo chí đối ngoại ở Việt Nam thiết thực, hiệu quả, nâng cao vai trò và vị thế của báo

chí đối ngoại, đáp ứng yêu cầu của đất nước trong tình hình mới. Đây là một trong

những nội dung và cũng là nhiệm vụ quan trọng mà luận án cần tập trung làm rõ cả về

mặt lý luận và thực tiễn.

35

* Về lý luận

Luận án tập trung làm rõ các nội dung sau:

Khái niệm báo chí, báo chí đối ngoại, khái niệm về truyền thông quốc tế và khái

niệm quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại. Đồng thời chỉ rõ các đặc điểm, vai trò của

báo chí đối ngoại, vai trò của quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại.

Phân tích, đánh giá về các nguyên tắc quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại,

đặc điểm và vai trò của quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại

Chủ thể quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại, đối tượng của quản lý nhà nước

về báo chí đối ngoại như các cơ quan báo chí đối ngoại, người làm báo chí đối ngoại,

nội dung thông tin trên báo chí đối ngoại, các nguyên tắc quản lý báo chí, phương thức

quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại.

* Về thực tiễn

Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại từ năm

2016-2019. Về nội dung quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại bao gồm: Xây dựng,

chỉ đạo và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển báo chí đối

ngoại; Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về báo chí; xây

dựng chế độ, chính sách về báo chí đối ngoại; Tổ chức thông tin và quản lý thông tin

của báo chí đối ngoại; Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ, đạo

đức nghề nghiệp cho đội ngũ người làm báo của các cơ quan và cán bộ quản lý báo chí

đối ngoại; Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về báo chí đối ngoại; Chỉ đạo, thực hiện chế độ

thông tin, báo cáo, thống kê và công tác khen thưởng, kỷ luật trong hoạt động báo chí

đối ngoại; Thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về báo chí đối ngoại.

Phân tích thực trạng về phương thức quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại. Chỉ

ra một số vấn đề đặt ra trong quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại như đội ngũ cán

bộ quản lý báo chí đối ngoại, nội dung quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại, phương

thức quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại và nguồn lực quản lý nhà nước về báo chí

đối ngoại.

Nghiên cứu làm rõ xu hướng phát triển báo chí đối ngoại và những vấn đề đặt

ra đối với quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại.

Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về báo

chí đối ngoại ở nước ta trong thời gian tới

36

Chương 1

LÝ LUẬN CHUNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BÁO CHÍ ĐỐI NGOẠI

1.1. Một số vấn đề lý luận về báo chí đối ngoại

1.1.1. Khái niệm báo chí đối ngoại

Trên thế giới, chưa có thuật ngữ nào tương đương với thuật ngữ “báo chí đối

ngoại” khi dịch ra tiếng Việt. Tại Trung Quốc, thuật ngữ “duiwai chuanbo” được xem

là có nhiều nét tương đồng với thuật ngữ “báo chí đối ngoại”, nhưng một số tác giả

cho rằng có gần với nghĩa truyền thông đối ngoại [156, tr.60], thuật ngữ này có hàm

nghĩa tuyên truyền, nâng cao hình ảnh, vị thế của Trung Quốc với thế giới. Theo cách

hiểu như vậy thì đây không phải chỉ là nhiệm vụ riêng của báo chí đối ngoại và có

nhiều kênh, nhiều cơ quan, tổ chức có cùng nhiệm vụ tuyên truyền, quảng bá hình ảnh

của một nước ra bên ngoài phạm vi lãnh thổ quốc gia như báo nói, báo hình, bản tin,

các trang mạng,... và một điều đặc trưng báo chí đối ngoại của các nước không có

nhiệm vụ cung cấp thông tin thế giới vào trong nước [156, tr.62].

Ở Việt Nam, thuật ngữ “báo chí đối ngoại” chưa được sử dụng phổ biến, bên

cạnh đó, các văn bản pháp quy của Nhà nước cho đến nay chưa đưa ra một định nghĩa

rõ ràng về “báo chí đối ngoại” một cách chính thức. Nội hàm của nó có thể được suy

luận dựa trên một số phương diện tiếp cận và vấn đề này có thể được xem xét dựa trên

cơ sở thuật ngữ thông tin đối ngoại và truyền thông quốc tế:

Thông tin đối ngoại được xem xét ở khía cạnh một loại hình thông tin, hay

thông báo về các sự kiện, hiện tượng xảy ra trong cuộc sống, tuy nhiên mục đích chính

của thông tin đối ngoại được dùng trong quá trình hoạt động đối ngoại. Thông tin đối

ngoại được xem xét ở khía cạnh một lĩnh vực hoạt động: Trong công tác đối ngoại, nó

có vai trò rất quan trọng của Đảng, Nhà nước ta. Quy chế Quản lý nhà nước về thông

tin đối ngoại (Ban hành kèm theo Quyết định số 79/2010/QĐ-TTg ngày 30 tháng 11

năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ) khẳng định “thông tin quảng bá hình ảnh đất

nước, con người, lịch sử, văn hoá, truyền thống của dân tộc Việt Nam; thông tin về

chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước Việt Nam ra

thế giới và thông tin về thế giới vào Việt Nam. Bên cạnh đó, cũng theo Quy chế này,

thông tin đối ngoại còn góp phần vào việc giới thiệu, quảng bá hình ảnh đất nước, con

người, lịch sử, văn hóa, tiềm năng hợp tác và phát triển của Việt Nam [144].

37

Tiếp cận từ lĩnh vực này, tác giả Phạm Minh Sơn đưa ra quan niệm:

“Thông tin đối ngoại là một bộ phận quan trọng trong công tác tư tưởng và

đối ngoại của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta nhằm làm cho thế giới hiểu

rõ đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, những thành tựu trong công

cuộc đổi mới của Việt Nam, đất nước, con người, lịch sử, văn hóa, những

giá trị vật chất và tinh thần của dân tộc Việt Nam; đấu tranh chống lại

những luận điệu xuyên tạc, chống phá Việt Nam; làm cho nhân dân ta hiểu

rõ về thế giới; đồng thời tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, hợp tác, giúp đỡ

của bạn bè quốc tế, sự đồng thuận và đóng góp của đồng bào ta ở nước

ngoài đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [130].

Trên cơ sở các quan niệm trên cho thấy, thông tin đối ngoại không chỉ là sự

phổ biến thông tin ra ngoài lãnh thổ Việt Nam, mà nó có tính tương tác hai chiều, với

phạm vi rất rộng, gắn với hoạt động cụ thể như tuyên truyền, nghiên cứu lý luận,

bình luận những tin tức, các sự kiện quốc tế, những vấn đề có liên quan đến quan hệ

quốc tế,… [84].

- Truyền thông quốc tế: Trong thế giới phẳng như hiện nay và với sự phát triển

mạnh mẽ của các phương tiện truyền thông hiện đại, góp phần quan trọng vào đời

sống quan hệ quốc tế. Hơn lúc nào hết, các nghiên cứu về truyền thông giữa các quốc

gia được quan tâm nhiều hơn và thuật ngữ “truyền thông quốc tế” được dùng rộng rãi

và ngày càng trở nên phổ biến, và thuật ngữ này gắn với nhiều chủ thể như nhà báo

quốc tế, nhà truyền thông quốc tế, và gắn với các chủ đề, các vấn đề quốc tế. Vấn đề

này được tác giả Lê Thanh Bình quan niệm “Truyền thông quốc tế là hoạt động truyền

thông giữa các quốc gia chủ yếu bằng các phương tiện thông tin đại chúng, do sự tác

nghiệp của các nhà báo quốc tế chuyên nghiệp/nhà truyền thông quốc tế [25, tr.24].

Thuật ngữ báo chí đối ngoại được đề cập đến trong một số văn bản của Nhà

nước trong những năm gần đây. Ngày 28/02/2013, Thủ tướng Chính phủ ban hành

Quyết định số 368/QĐ-TTg, phê duyệt chương trình hành động của Chính phủ về

thông tin đối ngoại giai đoạn 2013-2020. Trong Quyết định số 2434/QĐ-TTg ngày

13/12/2016 của Thủ tướng Chính phủ về quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến

năm 2020, định hướng đến năm 2030, thuật ngữ “báo chí đối ngoại” được sử dụng một

cách chính thức: “Báo chí đối ngoại là một trong những lực lượng quan trọng của

công tác thông tin đối ngoại, là một bộ phận trong công tác tuyên truyền và công tác

38

tư tưởng của Đảng…” [148]. Với đặc trưng này, báo chí đối ngoại được coi là lực

lượng của thông tin đối ngoại.

Khái niệm báo chí đối ngoại cũng đã được sử dụng trong nghiên cứu của một số

tác giả. Tiếp cận dưới góc độ thông tin đối ngoại, một số quan niệm cho rằng, báo chí

đối ngoại gồm mọi hoạt động truyền, nhận, xử lý tin tức và giải thích các thông tin

hướng tới các quốc gia, người nước ngoài (bao gồm cả người nước ngoài đang sinh

sống và làm việc tại Việt Nam), người Việt Nam đang sinh sống và làm việc ở nước

ngoài về đất nước, con người Việt Nam, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,

Nhà nước ta nhằm tạo ra sự hiểu biết và xây dựng hình ảnh về đất nước, con người

Việt Nam [43].

Cùng tiếp cận dưới góc độ này, tác giả Lê Văn Nghiêm cho rằng, báo chí đối

ngoại là phương tiện cung cấp thông tin có định hướng nhằm phổ biến các chủ trương,

chính sách của Đảng và Nhà nước về chính sách đối ngoại, văn hóa, lịch sử, đất nước

và con người… của một quốc gia, một dân tộc [195].

Tác giả Đoàn Công Huynh cho rằng, khái niệm thông tin đối ngoại hay truyền

thông đối ngoại là sử dụng truyền thông để xây dựng, duy trì, phát triển các mối quan

hệ với các nhóm công chúng mục tiêu, trong đó có nhóm công chúng đối ngoại, tức là

người nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài để xây dựng hình ảnh tăng cường

lòng tin [85].

Theo tác giả Nguyễn Thị Thu Hà,

Báo chí đối ngoại là một bộ phận của nền báo chí, thực hiện nhiệm vụ là

làm cho các nước, người nước ngoài (bao gồm cả người nước ngoài đang

sinh sống, làm việc tại Việt Nam), người Việt Nam đang sinh sống, làm

việc tại nước ngoài hiểu về đất nước, con người Việt Nam, đường lối, chủ

trương, chính sách và thành tựu đổi mới của đất nước, trên cơ sở đó tranh

thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới, sự đóng góp của cộng đồng người Việt

Nam ở nước ngoài cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [66, tr.19].

Theo tác giả Lưu Trần Toàn,

Báo chí đối ngoại Việt Nam là một bộ phận của nền báo chí cách mạng Việt

Nam, cung cấp các nội dung thông tin về Việt Nam cho công chúng quốc tế

ở nước ngoài, ở Việt Nam và người Việt Nam ở nước ngoài, nhằm tranh thủ

sự ủng hộ của họ trong công cuộc phát triển và bảo vệ Việt Nam, do các cơ

39

quan báo chí của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã

hội ở trung ương và địa phương thực hiện [156, tr.62].

Theo tác giả Nguyễn Thị Thương Huyền,

Báo chí đối ngoại hướng ra ngoài biên giới quốc gia, hướng tới những đối

tượng công chúng là người nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài.

Báo chí đối ngoại mang tính mục đích rõ ràng, được xuất bản bằng nhiều

thứ tiếng khác nhau phù hợp với những đối tượng đó. Phần lớn báo chí đối

ngoại đều hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích, phản ánh kịp thời tâm tư

nguyện vọng của nhân dân, biểu dương phong trào thi đua yêu nước, đấu

tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liên và các tệ nạn xã hội,

chống “diễn biến hòa bình”... góp phần tích cực vào thành tựu chung của

đất nước [84, tr.39].

Nhìn chung, các quan niệm nêu trên có những điểm chung:

Một là, báo chí đối ngoại thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến các quan

điểm, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước và các mặt đời sống kinh tê-xã

hội có định hướng của Việt Nam ra thế giới.

Hai là, báo chí đối ngoại là phương tiện quan trọng xây dựng vị thế, hình ảnh của

Việt Nam với thế giới, khẳng định vai trò to lớn của nhà nước Việt Nam trước thế giới.

Ba là, báo chí đối ngoại tham gia vào việc tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế

giới đối với Việt Nam.

Bốn là, báo chí đối ngoại góp phần đấu tranh với các quan điểm thù địch, các

quan điểm sai trái chống lại nhà nước Việt Nam trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Từ những quan niệm trên có thể thấy: Báo chí đối ngoại là một bộ phận của

nền báo chí Việt Nam tham gia vào việc tuyên truyền, tiếp nhận, xử lý thông tin và giải

thích thông tin ra nước ngoài và người nước ngoài tại Việt Nam về chủ trương, đường

lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của

thế giới đối với Việt Nam và đấu tranh với luận điệu sai trái chống đối nhà nước Việt

Nam của các thế lực thù địch, nhằm tạo ra sự hiểu biết và xây dựng hình ảnh về đất

nước, con người Việt Nam.

1.1.2. Đặc điểm của báo chí đối ngoại

Báo chí đối ngoại có những đặc điểm khác với các đặc điểm của các loại báo

chí khác, điều này được thể hiện ở những khía cạnh sau:

40

* Đối tượng phục vụ

Báo chí đối ngoại là một phương tiện quan trọng đóng góp vào sự phát triển

quan hệ đối ngoại của Việt Nam với thế giới, tuy nhiên, đối tượng phục vụ của báo chí

đối ngoại có đặc điểm khác biệt so với báo chí đối nội, với báo chí đối nội phục vụ cho

nhu cầu thông tin của người Việt Nam. Tuy nhiên, báo chí đối ngoại đối tượng phục

vụ có những đặc điểm riêng, cụ thể:

Một là: Chính phủ, người dân các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước Việt

Nam có quan hệ ở tầm đối tác chiến lược, các nước láng giềng, các và các tổ chức mà

Việt Nam có thiết lập quan hệ.

Việt Nam hiện nay có quan hệ ngoại giao với 197 nước và khu vực trên thế

giới, nhưng do nguồn lực cả về vật chất và con người đều có những hạn chế, nhất là

hạn chế về kinh phí, nên đối tượng phục vụ chủ yếu hiện nay các nhà hoạt động chính

trị, các doanh nghiệp, tầng lớp trí thức, đội ngũ văn nghệ sĩ, những người tìm hiểu và

nghiên cứu về Việt Nam, những người là bạn, là đối tác tin cậy có thiện chí với nhân

dân Việt Nam và đặc điểm chung của đối tượng phục vụ của báo chí đối ngoại là họ

đến từ nhiều nền văn hóa khác nhau, cho nên nhu cầu về thông tin của họ về tình hình

Việt Nam rất đa dạng, phong phú và có trình độ rất cao. Chính vì vậy, cách tổ chức nội

dung báo chí đối ngoại phải có những phương pháp, cách thức khai thác thông tin đến

với từng đối tượng phải phù hợp, cách xử lý và phổ biến nội dung cũng phải nhanh

chóng, kịp thời, có tính thuyết phục cao, với những lập luận cụ thể, bởi đối tượng phục

vụ của báo chí đối ngoại là lực lượng quan trọng, là đối tác quan trọng góp phần thiết

lập mối quan hệ và đưa hình ảnh của Việt Nam đến với các nước, các khu vực và tổ

chức trên thế giới, với lực lượng đông đảo là người dân các nước trên thế giới, người

dân ở các nước láng giềng, người dân ở những nước Việt Nam có quan hệ đối tác

chiến lược.

Hai là: Đối tượng phục vụ của báo chí đối ngoại còn có người nước ngoài cư

trú, sinh sống, làm việc, học tập, đi du lịch ở Việt Nam, đội ngũ doanh nhân, đặc biệt

là đội ngũ phóng viên nước ngoài, các cơ quan đại diện thường trú của nước ngoài,

các tổ chức quốc tế tại Việt Nam.

Đối tượng của báo chí đối ngoại không chỉ là các Chính phủ, tổ chức, người dân

ở các nước trên thế giới, mà đối tượng phục vụ của báo chí đối ngoại còn có một lực

lượng khá đông đảo là người nước ngoài đang sinh sống, cư trú có thể ngắn hạn hoặc

41

dài hạn tại Việt Nam. Trong số này có một bộ phận có nhu cầu tìm hiểu, nghiên cứu về

Việt Nam phục vụ cho các hoạt động nghiên cứu, giải trí, tìm hiểu thông tin để đầu

tư,... còn có một bộ phận có nhu cầu khai thác thông tin về tình hình Việt Nam để

truyền tải về nước họ cho các mục đích khác nhau. Vì lẽ đó, thông tin và nội dung của

báo chí đối ngoại phải được kiểm chứng chặt chẽ, do có tác động lớn đến người dân,

dư luận quốc tế về tình hình Việt Nam. Khi nội dung báo chí đối ngoại được xây dựng

một cách chặt chẽ thì báo chí đối ngoại sẽ tạo điều kiện quan trọng cho các hoạt động

đối ngoại của Việt Nam trên diễn đàn và các hoạt động quốc tế khác. Hơn nữa, khi các

phóng viên, các cơ quan đại diện nước ngoài thường trú ở Việt Nam đưa tin về trong

nước làm cho việc thích ứng văn hóa cũng trở nên thuận lợi hơn rất nhiều so với việc

người Việt Nam phổ biến và thông tin về tình hình Việt Nam ra bên ngoài.

Ba là: Đối tượng của báo chí đối ngoại còn gồm cộng đồng người Việt Nam ở

nước ngoài.

Theo thông tin của Bộ Ngoại giao, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài

hiện có khoảng hơn 5 triệu người, sinh sống tại hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ,

trong đó một số quốc gia có nhiều người Việt sinh sống là Mỹ, Canada, Pháp, Đức, Ba

Lan, Nga,... một bộ phận trong đó có vị trí và vai trò quan trọng tại địa bàn định cư cả

về mặt kinh tế và chính trị. Đảng và Nhà nước ta luôn coi cộng đồng “Người Việt Nam

định cư ở nước ngoài là bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam”. Vì

vậy, những thông tin kịp thời của báo chí đối ngoại đến cộng đồng người Việt Nam ở

nước ngoài hiểu và thấy rằng họ là một bộ phận khăng khít của dân tộc Việt Nam, qua

báo chí đối ngoại, cộng đồng này cũng góp phần vào việc “giới thiệu hình ảnh đất

nước, con người, các tiềm năng thế mạnh, các thành tựu về mọi mặt của Việt Nam đến

với bạn bè quốc tế” [147]. Hiện nay, vị trí xã hội của người Việt Nam ở nước ngoài

được nâng lên rõ rệt, nhiều người trong số đó trở thành những nhà khoa học lớn, chính

khách, người Việt cũng thành lập được những Hội khoa học, trí thức, trở thành cầu nối

giữa nước sở tại với Việt Nam, trong đó có có đóng góp không nhỏ của báo chí đối

ngoại, để cộng đồng người Việt Nam hiểu về hình trong nước, quan tâm và tiếp tục

cống hiến, đóng góp cho sự phát triển của Việt Nam.

* Địa bàn phổ biến thông tin

Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 197 nước và vùng lãnh thổ, do

vậy địa bàn để phổ biến thông tin của báo chí đối ngoại rất rộng lớn, ở hầu hết các

42

quốc gia trên thế giới, đặc biệt những nước trong khu vực ASEAN, các nước Việt

Nam có quan hệ đối tác chiến lược, những nước có số lượng lớn cộng đồng người Việt

Nam sinh sống và làm việc, học tập, nghiên cứu. Đồng thời, trong tiến trình hội nhập

của Việt Nam với thế giới ngày càng sâu rộng như hiện nay, thế giới cần biết rõ về

Việt Nam để mời gọi đầu tư cũng như sự mở rộng quan hệ hợp tác với thế giới và Việt

Nam cũng cần chủ động cho thế giới biết về tình hình Việt Nam. Hơn lúc nào hết, báo

chí đối ngoại là phương tiện quan trọng “trong tiến trình hội nhập quốc tế, nâng cao vị

thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế, làm cho thế giới hiểu rõ và

hiểu đúng về Việt Nam, qua đó tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế phục vụ sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [146].

Hơn nữa, cùng với tiến trình hội nhập quốc tế, báo chí đối ngoại còn có nhiệm

vụ chính trị quan trọng trong việc kết nối, phổ biến nội dung thông tin về tình hình

trong nước đến các nước như Lào, Cuba... nhằm tiếp tục xây dựng mối quan hệ chiến

lược với các nước này và với các Đảng cộng sản. Đặc biệt, với sự phát triển nhanh

chóng của báo điện tử đối ngoại, các kênh truyền hình đối ngoại thì việc phổ biến nội

dung và địa bàn sẽ ngày càng được mở rộng.

* Nội dung thông tin

Chỉ thị số 26/CT-TW ngày 10 tháng 9 năm 2008 của Ban Bí thư đã chỉ rõ các

nội dung của báo chí đối ngoại [13] như sau:

– Tăng cường tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, luật pháp, chính

sách của Nhà nước, thành tựu đổi mới của đất nước ta để bạn bè quốc tế và đồng bào

ta ở nước ngoài có hiểu biết nhiều hơn, đầy đủ và đúng đắn hơn về sự nghiệp đổi mới,

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta.

Đẩy mạnh tuyên truyền, giới thiệu, quảng bá hình ảnh đất nước, lịch sử, văn hóa

và con người Việt Nam, tiềm năng phát triển và hợp tác của Việt Nam với cộng đồng

quốc tế trên các lĩnh vực.

Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái của các phần tử cơ hội, các thế lực

thù địch một cách chủ động, có tính thuyết phục và hiệu quả hơn.

Tăng cường công tác nắm bắt tình hình, nghiên cứu, dự báo để hoạt động thông

tin đối ngoại chủ động, kịp thời và hiệu quả hơn.

Ngày 6/5/2019, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành Thông tư

03/2019/TT-BTTTT quy định việc đăng, phát nội dung thông tin đối ngoại trên báo

43

chí, quy định nội dung thông tin đối ngoại trên báo chí; việc đăng, phát nội dung thông

tin đối ngoại trên báo chí; quyền và trách nhiệm của cơ quan báo chí, trách nhiệm của

tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc đăng, phát nội dung thông tin đối ngoại trên

báo chí. Theo đó, việc đăng, phát nội dung thông tin phải đúng chủ trương, đường lối

của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phù hợp lợi ích của đất nước và của

nhân dân Việt Nam. Không đăng, phát nội dung thông tin ảnh hưởng tiêu cực đến vị

thế, hình ảnh Việt Nam; gây phương hại đến quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế giữa

Việt Nam và các nước; kích động bạo lực, tuyên truyền chiến tranh xâm lược, gây hận

thù giữa các dân tộc và nhân dân các nước [39]

Theo tác giả Đặng Thị Thu Hương, báo chí đối ngoại cần phải làm cho các

nước, người nước ngoài, người Việt Nam đang sống và làm việc ở nước ngoài hiểu

về đất nước, con người Việt Nam, đường lối, chủ trương, chính sách và thành tựu đổi

mới của Việt Nam, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới và sự đóng góp của

cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

[83, tr.69].

Nội dung của báo chí đối ngoại bao gồm:

Các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước trên

các lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội.

Các vấn đề về quốc phòng, an ninh, kinh tế, chính trị, văn hóa; quan điểm của

Việt Nam trước các vấn đề được thế giới quan tâm,...

Báo chí đối ngoại góp phần vào việc nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực

và trên trường quốc tế, làm cho thế giới hiểu rõ và hiểu đúng về Việt Nam, qua đó tranh

thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [146].

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế của Việt Nam với thế giới đang diễn ra mạnh

mẽ, báo chí đối ngoạiđược phổ biến đến nhiều vùng, nhiều khu vực và quốc gia trên

thế giới, nhiều châu lục, mỗi châu lục, khu vực, quốc gia có nền văn hóa, bản sắc rất

riêng. Cho nên cùng với việc phát hành bằng nhiều thứ tiếng, nội dung báo chí đối

ngoại còn phải thích nghi với văn hóa của nước sở tại, mục đích là độc giả có thể tiếp

nhận ngay được các nội dung mà báo chí đối ngoại đăng tải, trong khi đó, với báo chí

đối nội, người Việt Nam có thể hiểu được những ẩn ý, những cách nói, cách ứng xử

mà báo chí đưa tin. Tuy nhiên, đối tượng phục vụ của báo chí đối ngoại thường không

có sẵn vốn hiểu biết hoặc cách nói, các diễn đạt, văn hóa của Việt Nam, nên nội dung

44

của báo chí đối ngoại cần gạt bỏ những yếu tố được xem có tính bản địa, mà hướng tới

tính toàn cầu và tính đa dạng về văn hóa. Tình hình Việt Nam được phổ biến ra thế

giới phụ thuộc rất nhiều vào các cách thể hiện trong nội dung, cách đưa tin. Trước tầm

quan trọng của các nội dung thông tin trên báo chí đối ngoại, Chính phủ đã đưa ra yêu

cầu đến năm 2020 có 100% cán bộ lãnh đạo quản lý cấp phòng trở lên và cán bộ làm

báo chí đối ngoại thuộc các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các Sở,

ban, ngành cấp tỉnh, các tổ chức chính trị - xã hội và các cơ quan báo chí, xuất bản

được tập huấn, trang bị kiến thức cơ bản về báo chí đối ngoại [147].

* Phương thức hoạt động

Nhiệm vụ đặt ra cho báo chí đối ngoại là phải tích cực đóng góp vào sự nghiệp

đổi mới, quá trình hội nhập quốc tế, quảng bá các giá trị văn hóa đặc trưng của đất

nước và con người Việt Nam đến với nhân dân các nước trên thế giới, điều này được

thể hiện qua các phương thức hoạt động cơ bản sau:

Một là, sử dụng ưu thế đa dạng của nhiều loại hình báo chí. Với sự phát triển

mạnh mẽ của các loại hình báo chí như báo in, thông tấn, họa báo, phát thanh, truyền

hình, nhật báo, tuần báo, tập san, tạp chí, bản tin, các loại chương trình phát thanh

truyền hình rất phong phú, đa dạng [138]. Sự đa dạng của báo chí đối ngoại ngày càng

tăng, những thông tin trong nước được truyền tải kịp thời, nhanh chóng ra các nước,

các khu vực trên thế giới, độc giả nước ngoài ở mọi lĩnh vực, từ những người có nhu

cầu tìm hiểu thông tin giải trí, những người có nhu cầu đầu tư, các học giả... có thể tìm

thấy thông tin về tình hình Việt Nam trên nhiều loại hình báo chí đối ngoại. Hơn nữa,

sự phát triển của báo chí đối ngoại điện tử đang phát triển rất mạnh mẽ bằng nhiều thứ

tiếng, tốc độ truyền tải thông tin nhanh chóng càng tạo được sự thu hút, hấp dẫn với

độc giả nước ngoài. Các loại hình báo chí đối ngoại tuy phát triển đa dạng song phải

quán triệt sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí đối ngoại toàn diện, đồng bộ trên cả 4

khâu: định hướng phát triển, định hướng nội dung, công tác cán bộ, công tác kiểm tra,

giám sát.

Hai là, sử dụng nhiều thể loại, chuyên mục, chương trình báo chí làm cho người

đọc dễ nhận diện và dễ tìm thấy thông tin, các nội dung đăng tải trên báo chí theo

những khu vực nhất định, mỗi khu vực sẽ có những chuyên mục chuyên sâu hoặc

những chuyên mục theo đối tượng, theo thị hiếu, nhu cầu riêng rất linh hoạt. Với sự đa

dạng của các thể loại báo chí dễ dàng huy động mọi lực lượng, mọi lực lương trong

45

nhân dân tham gia vào việc đưa tin, viết bài. Chính sự đa dạng trong thể loại cũng đòi

hỏi nhà báo, những người viết bài nắm được tâm lý, thị hiếu của độc giả, tăng cường

khả năng lao động sáng tạo của nhà báo, người làm báo phải có sự chắt lọc và liên kết

các chi tiết, sự kiện để có thể tạo lập hệ thống thông tin dữ liệu tin cậy và thú vị, có sự

thuyết phục cao [56].

Ba là, sử dụng ngôn ngữ báo chí đa dạng, linh hoạt. Mỗi loại hình báo chí đối

ngoại sử dụng ngôn ngữ riêng như báo nói, báo hình, báo in,... để tác động vào nhận

thức, thái độ và hành vi của độc giả. Văn phong, ngôn ngữ trên báo chí đối ngoại đòi

hỏi tính chặt chẽ rất cao, bởi đối tượng phục vụ chủ yếu là người dân ở các nước trên

thế giới, những nước có nền báo chí phát triển, hơn nữa ngôn ngữ phải được thích nghi

hóa với văn hóa, tập quán, trình độ của người dân. Điều này đặt ra yêu cầu cao với báo

chí đối ngoại vừa phải nắm vững những yêu cầu hoạt động báo chí của một nhà báo

trong việc đưa tin, viết bài quảng bá, giới thiệu hình ảnh Việt Nam với bạn bè quốc tế,

song phải phù hợp, đáp ứng tốt nhất các yêu cầu thực tiễn nhu cầu báo chí của người

dân nơi nhà báo đối ngoại tác nghiệp, phục vụ. “Tính phong phú và đa dạng bắt nguồn

từ cuộc sống muôn màu muôn vẻ. Nhu cầu và mong đợi, tâm lý và thị hiếu tiếp nhận

của các nhóm công chúng cũng rất đa dạng” [55, tr.172]

Bốn là, sử dụng nhiều phương pháp tác động đến nhận thức, tâm lý và thái độ

của độc giả. Báo chí đối ngoại hiện có nhiều loại hình như báo nói, báo hình. Căn cứ

tình hình cụ thể trong từng thời gian, từng địa bàn để hoạt động báo chí đối ngoại xây

dựng định hướng phát triển một cách linh hoạt, sát hợp với từng nhóm đối tượng, hấp

dẫn và hiệu quả. Công chúng của mỗi loại hình báo chí rất đa dạng, hơn nữa mỗi loại

hình báo chí có những đặc điểm tiếp nhận khác nhau. Tăng cường phương thức hoạt

động của báo chí đối ngoại thông qua các diễn đàn song phương và đa phương, các

đoàn ra ra nước ngoài công tác; các đoàn khách đến Việt Nam; các hoạt động đối

ngoại của Đảng, Nhà nước, đối ngoại nhân dân; các hoạt động triển lãm, hội chợ, tham

quan, du lịch của người Việt Nam ra nước ngoài và người nước ngoài vào Việt Nam;

qua các đối tác kinh tế, văn hóa, giáo dục nước ngoài của Việt Nam, người Việt Nam ở

nước ngoài về thăm Tổ quốc, cơ quan đại diện của Việt Nam tại nước ngoài, các ấn

phẩm báo chí đối ngoại và các phương tiện thông tin đại chúng quốc tế, nhất là truyền

hình, thông tấn và các tờ báo uy tín của nước ngoài… để tổ chức nội dung, phương

thức phát hành.

46

* Vai trò

Thứ nhất, giới thiệu h nh ảnh, đất nước, con người, lịch sử, những thành tựu

trong phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế của Việt Nam

Báo chí đối ngoại giúp bạn bè quốc tế tiếp cận với các thông tin về Việt Nam

một cách đầy đủ và chính xác nhất, qua đó hiểu đúng về đất nước, con người Việt

Nam trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Đồng chí Võ Văn Thưởng chỉ ra báo chí đối

ngoại đã trở thành cầu nối hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân tiến bộ, yêu

chuộng hòa bình và bạn bè trên khắp thế giới, thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế

[200]. Tác giả Đặng Thị Thu Hương cho rằng: “Trách nhiệm của báo chí đối ngoại là

phản ánh sự thật theo đúng bản chất của vấn đề để định hướng dư luận công chúng”

[83, tr.71]. Trên cơ sở tăng cường sự hiểu biết của thế giới đối với Việt Nam, giúp Việt

Nam thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ

quốc tế, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới, cũng như sự đóng góp

của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài với quê hương, đất nước. Mặt khác, qua

báo chí đối ngoại để thu hút sự quan tâm, ủng hộ và đầu tư của các Chính phủ, các nhà

kinh doanh đến Việt Nam đầu tư, kinh doanh, thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc

tế của nước ta ngày càng sâu rộng.

– Thứ hai, thông tin về các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước.

Trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng luôn coi báo chí là phương tiện quan

trọng để đưa và phổ biến thông tin trong nước ra nước ngoài, trong đó thể hiện các

quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, các chính sách về ngoại giao, kinh tế đối

ngoại và hội nhập quốc tế. Đồng thời thông tin về các chính sách, pháp luật của Nhà

nước, về sự nghiệp xây dựng đất nước, quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện

đại hóa đất nước, những thành tựu đổi mới của Việt Nam trên mọi lĩnh vực như chính

trị, văn hóa, khoa học công nghệ, quá trình đấu tranh bảo vệ chủ quyền biên giới trên

đất liền, trên biển, trên không gian mạng,... để nhân dân thế giới thấy được chính sách

cởi mở, hòa bình, hữu nghị, thân thiện của Việt Nam. Mặt khác, giúp các doanh nhân,

các nhà đầu tư yên tâm với tình hình chính trị và sự ổn định mọi mặt của Việt Nam để

có thể đầu tư dài lâu, hợp tác phát triển kinh tế với Việt Nam. Tác giả Vũ Ngọc Hoàng

chỉ rõ: “Báo chí nói riêng và truyền thông nói chung, tham gia tích cực việc chỉ rõ

những yếu kém, lối ra và giải pháp khắc phục; đấu tranh chống “lợi ích nhóm”, tiêu

cực và tham nhũng, lãng phí; thực hiện minh bạch hóa thông tin” [77].

47

– Thứ ba, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, chống phá Đảng, Nhà nước

và nhân dân.

Ngăn chặn âm mưu “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa cũng

như các hoạt động phá hoại an ninh quốc gia của các phần tử chống đối, đồng

thời giảm thiểu những thông tin sai lệch, bịa đặt về Việt Nam. Báo chí đối ngoại góp

phần vào việc khẳng định vị thế của đất nước trên trường quốc tế, định hướng dư luận

quốc tế về quan điểm đúng đắn của Đảng và Nhà nước, đồng thời phản bác những luận

điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.

Lợi dụng vào sức mạnh và sự lan tỏa nhanh chóng của báo chí, các thế lực thù

địch từng bước lợi dụng vào những điểm sơ hở của các cơ quan quản lý báo chí cũng

như việc đưa tin, viết bài trên báo chí có lúc chạy theo xu hướng thương mại hóa khai

thác và lấy chính các thông tin đó để bôi xấu, làm tổn hại đến hình ảnh, anh ninh quốc

gia. Cho nên báo chí đối ngoại có vai trò quan trọng trong việc đấu tranh với những tư

tưởng sai trái của các thế lực phản động.

1.2. Các yếu tố của quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại

1.2.1. Khái niệm và các nguyên tắc quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại

1.2.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại

* Khái niệm quản lý nhà nước

Theo Từ điển tiếng Việt, quản lý nhà nước là tổ chức, điều hành các hoạt

động kinh tế-xã hội theo pháp luật [162, tr.801]. Quản lý nhà nước là sự tác động

có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với quá trình xã hội và hành

vi hoạt động của công dân do các cơ quan hành pháp từ Trung ương đến cơ sở tiến

hành để thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước, phát triển các mối

quan hệ xã hội, duy trì trật tự an ninh, thỏa mãn những nhu cầu hằng ngày của nhân

dân [99, tr.19].

Từ đây có thể hiểu: Quản lý nhà nước là việc tổ chức, điều hành các hoạt động

trong đời sống xã hội đảm bảo cho các hoạt động đó thực hiện theo khung khổ pháp

luật. Chủ thể quản lý nhà nước là các cá nhân hoặc tổ chức được nhà nước giao nhiệm

vụ. Đối tượng của quản lý nhà nước là mọi lĩnh vực trong đời sống như kinh tế, chính

trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng... Phương pháp quản lý nhà nước dựa trên việc

sử dụng các công cụ về mặt pháp lý gồm: Các văn bản quy phạm pháp luật như Hiến

pháp, luật, pháp lệnh, Lệnh Chủ tịch nước,….

48

* Khái niệm quản lý nhà nước về báo chí

Cho đến nay trong lĩnh vực nghiên cứu về quản lý báo chí chưa có khái niệm

chính thống về quản lý nhà nước đối với báo chí, vì vậy tiếp cận từ góc độ quản lý nhà

nước về báo chí, có một số quan niệm như sau:

Tác giả Nguyễn Thế Kỷ cho rằng:

Quản lý nhà nước về báo chí bao gồm các hoạt động lập pháp, lập quy của

các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm đề ra các chính sách, pháp luật

điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi của công dân liên quan đến báo

chí và hoạt động báo chí” [94, tr.76].

Theo tác giả Đặng Đình Huân,

“Quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí là tổng thể những hoạt động

của bộ máy Nhà nước trên cơ sở những quy định của pháp luật đảm bảo cho

báo chí thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình” [83, tr.31].

Theo tác giả Đoàn Thế Hanh,

Quản lý nhà nước đối với báo chí là những hoạt động của bộ máy chính

quyền hướng tới sự bảo đảm để báo chí hoạt động ổn định và phù hợp với

xu thế phát triển chung của xã hội. Cũng như bất kỳ dạng quản lý xã hội

nào khác, quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí là dạng quản lý công vụ

quốc gia của bộ máy nhà nước, là công việc của bộ máy hành pháp. Nó là

sự tác động của các tổ chức và được điều chỉnh bằng pháp luật trên cơ sở

quyền lực nhà nước đối với các hoạt động báo chí do các cơ quan có thẩm

quyền trong bộ máy hành pháp từ Trung ương đến cơ sở, để thực hiện chức

năng và nhiệm vụ của nhà nước, phát triển các mối quan hệ xã hội thỏa mãn

nhu cầu tự do báo chí của nhân dân [71].

Tác giả Nguyễn Mai Anh cho rằng:

Quản lý nhà nước về báo chí là hoạt động của bộ máy nhà nước được giao

trách nhiệm, quyền hạn quản lý nhà nước về báo chí; là hoạt động thể chế

hóa và hiện thực hóa cương lĩnh, đường lối, nghị quyết của Đảng về báo chí

thành pháp luật, chính sách, cơ chế của Nhà nước; thông qua đó, các chủ

thể quản lý tổ chức, điều khiển, kiểm tra, giám sát có tổ chức các hoạt động

liên quan đến báo chí của các đối tượng quản lý là báo chí, các cơ quan báo

chí, nhà báo theo những yêu cầu nhất định, trong khuôn khổ pháp luật,

49

nhằm phù hợp với thực tiễn hoạt động báo chí trong nước cũng như xu thế

hội nhập với báo chí thế giới; bảo đảm cho báo chí thực hiện tốt nhiệm vụ

thông tin theo mục tiêu, yêu cầu đề ra [4, tr.49].

Tác giả Đinh Văn Mậu và Phạm Hồng Thái viết:

Quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí cũng như bất kỳ một dạng quản

lý xã hội nào khác là dạng quản lý công vụ quốc gia của bộ máy Nhà nước,

là công việc của bộ máy hành pháp. Nó là sự tác động có tổ chức và được

điều chỉnh bằng pháp luật, trên cơ sở quyền lực nhà nước đối với quá trình

xã hội và hoạt động báo chí do các cơ quan có thẩm quyền trong hệ thống

hành pháp từ trung ương đến địa phương tiến hành để thực hiện chức năng

và nhiệm vụ của nhà nước, phát triển các mối quan hệ xã hội, thỏa mãn nhu

cầu tự do báo chí của công dân” [99, tr.19].

Theo tác giả Trần Thu Hằng,

Quản lý nhà nước về báo chí là hoạt động của các chủ thể quản lý được nhà

nước trao quyền thực hiện hoạt động quản lý nhà nước nhằm đảm bảo thực

hiện tốt vai trò điều tiết vĩ mô đối với báo chí trong công cuộc xây dựng chủ

nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [74, tr.17-18].

Cả hai cách hiểu đầu tiên nhấn mạnh đến vai trò của pháp luật trong quản lý báo

chí, nhằm đảm bảo cho báo chí thực hiện đúng chức năng, tôn chỉ, mục đích. Các tác

giả Đinh Văn Mậu và Phạm Hồng Thái không chỉ đề cập đến góc độ pháp lý trong

quản lý báo chí mà còn đề cập đến khía cạnh quan hệ xã hội trong quản lý báo chí, nhu

cầu tự do báo chí; nhấn mạnh khía cạnh quản lý nhà nước về báo chí chủ yếu được

thực hiện qua quan hệ điều hành giữa cơ quan cấp trên với cơ quan cấp dưới mà không

nhấn mạnh vào mặt pháp lý như các quan niệm nêu trên, và còn mở rộng ra cả góc độ

báo chí tham gia vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Từ các ý kiến trên đây, có thể thấy quản lý báo chí cần nhấn mạnh đến khía

cạnh pháp lý, sự điều hành bằng pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền, đồng thời

quản lý báo chí còn góp phần mở rộng quyền tự do báo chí của người dân. Do vậy, có

thể hiểu: Quản lý nhà nước đối với báo chí là hoạt động của các cơ quan nhà nước có

thẩm quyền trong việc đảm bảo cho báo chí hoạt động theo chủ trương của Đảng,

chính sách và pháp luật của Nhà nước về báo chí, nhằm thỏa mãn nhu cầu tự do báo

chí của người dân.

50

* Khái niệm quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại

Từ cách hiểu về quản lý nhà nước, báo chí đối ngoại, quản lý nhà nước về báo

chí, có thể hiểu: Quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại là những hoạt động của cơ

quan nhà nước có thẩm quyền trên cơ sở sử dụng quyền lực nhà nước trong việc quản

lý công tác tuyên truyền, công tác tư tưởng về t nh h nh trong nước ra nước ngoài và

cho các tổ chức, cá nhân người nước ngoài đang sinh sống, học tập tại Việt Nam về

tình hình của Việt Nam theo chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật

của Nhà nước.

* Khái niệm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại

Quản lý nhà nước là được thực hiện bằng quyền lực nhà nước và do cơ quan

nhà nước. Hiệu quả quản lý nhà nước được thể hiện trên các phương diện: Đạt mục

tiêu quản lý nhà nước tối đa với mức độ chi phí các nguồn lực nhất định; Đạt mục tiêu

nhất định với mức độ chi phí các nguồn lực tối thiểu và đạt được mục tiêu trong quan

hệ với chi phí nguồn lực và trong quan hệ với hiệu quả chính trị, hiệu quả xã hội. Xét

về bản chất, hiệu quả quản lý nhà nước là kết quả hoạt động của các chủ thể quản lý

hành chính nhà nước trong mối tương quan với mức độ chi phí các nguồn lực. Hiệu

quả quản lý nhà nước là kết quả thực hiện các hoạt động gắn liền với chức năng chấp

hành và điều hành của các cơ quan hành chính nhà nước và hoạt động của người thực

thi công vụ theo quy định của pháp luật. Nội dung quản lý nhà nước trong từng giai

đoạn khác nhau nên việc xem xét hiệu quả quản lý nhà nước tương ứng với mỗi giai

đoạn cũng không giống nhau. Trong khi đó, hiệu lực quản lý nhà nước chỉ mức độ

pháp luật được tuân thủ và mức độ hiện thực quyền lực chỉ huy và phục tùng trong

mối quan hệ giữa chủ thể quản lý với đối tượng quản lý trong những điều kiện lịch sử,

xã hội nhất định.

Tóm lại: Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại chỉ hoạt

động được thực hiện bằng quyền lực nhà nước, do nhà nước thực hiện trong mối quan

hệ giữa chủ thể quản lý báo chí đối ngoại với đối tượng quản lý, nhằm đạt mục tiêu

quản lý nhà nước, hiệu quả chính trị, hiệu quả xã hội trong những điều kiện lịch sử, xã

hội nhất định.

1.2.1.2. Nguyên tắc quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại

Theo Luật Báo chí năm 2016, Chính phủ thống nhất về quản lý báo chí. Tuy

nhiên, ở Trung ương, Chính phủ giao cho Bộ Thông tin và Truyền thông là cơ quan

51

chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về báo chí. Bên cạnh đó,

các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm

phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông thực hiện quản lý nhà nước về báo chí.

Ở địa phương, theo Khoản 4, Điều 7, Luật Báo chí, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh,

thành phố trực thuộc trung ương trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách

nhiệm quản lý nhà nước về báo chí tại địa phương.

Quản lý nhà nước về báo chí ở nước ta dựa trên nguyên tắc hoạt động báo chí

đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự thống nhất quản lý của Nhà nước. Việc nắm vững

và quán triệt những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về quản lý báo chí là yêu cầu

cấp thiết và không thể thiếu, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế về kinh tế ngày

càng sâu rộng. Từ đó có thể hiểu, nguyên tắc quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại

bao gồm:

Nhà nước thống nhất quản lý báo chí đối ngoại, có sự phân công và phối hợp

chặt chẽ giữa các cơ quan nhằm bảo đảm hiệu quả công tác quản lý nhà nước về báo

chí đối ngoại.

Phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, tất cả các cấp, các ngành,

địa phương, các tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện quản lý nhà nước về báo chí đối

ngoại; các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm quản lý nhà nước về

báo chí đối ngoại trong phạm vi quản lý của mình.

Quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại cần được triển khai chủ động, toàn diện,

thường xuyên, song có trọng tâm, trọng điểm theo từng giai đoạn; kết hợp chặt chẽ

quản lý nhà nước vềbáo chí đối ngoại với quản lý báo chí đối nội; giữa hoạt động quản

lý nhà nước về báo chí đối ngoại với các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hoá đối

ngoại; giữa ngoại giao nhà nước với đối ngoại của Đảng, đối ngoại nhân dân nhằm mở

rộng hợp tác quốc tế trên tinh thần cùng có lợi, bảo đảm lợi ích quốc gia.

1.2.2. Chủ thể, đối tượng, nội dung, phương thức quản lý nhà nước về báo

chí đối ngoại

1.2.2.1. Chủ thể quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại

Chủ thể quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại vừa bao gồm các cơ quan

chuyên trách, vừa bao gồm các cơ quan quản lý hành chính nhà nước về báo chí, trong

đó vai trò chính là các cơ quan được giao nhiệm vụ chuyên trách quản lý nhà nước về

báo chí đối ngoại.

52

Điều 7, Luật Báo chí năm 2016 chỉ rõ, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước

về báo chí và Bộ Thông tin và Truyền thông chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực

hiện quản lý nhà nước về báo chí, trong đó có báo chí đối ngoại [116]. Bộ Thông tin và

Truyền thông có nhiệm vụ hướng dẫn, chỉ đạo, tổ chức thực hiện quy hoạch mạng lưới

báo chí, các văn phòng đại diện cơ quan thường trú ở nước ngoài, đồng thời có nhiệm

vụ quản lý các loại hình báo chí gồm báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử, thông tấn

và thông tin trên mạng. Có thể thấy, chủ thể quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại

thống nhất ở Trung ương và ở cấp Bộ, song khác nhau về đối tượng, nội dung, phương

thức quản lý, nội dung thông tin trên báo chí đối ngoại... trong đó Bộ Thông tin và

Truyền thông trực tiếp quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại.

Bên cạnh đó, Bộ Thông tin và Truyền thông là cơ quan quản lý thông tin của

báo chí đối ngoại theo quy định của pháp luật về báo chí, cung cấp thông tin cho báo

chí theo phân cấp, quy định về báo lưu chiểu, quản lý kho lưu chiểu báo chí đối ngoại.

Cấp, gia hạn, tạm đình chỉ, đình chỉ, thu hồi giấy phép hoạt động báo chí, thẻ nhà báo,

cấp phép cho báo chí, xuất bản phẩm ra nước ngoài. Phối hợp với các cơ quan có liên

quan quản lý hoạt động của báo chí đối ngoại đồng thời quản lý về bổ nhiệm, miễn

nhiệm Tổng biên tập, Phó tổng biên tập, Tổng giám đốc, Phó tổng giám đốc, Giám

đốc, Phó giám đốc các cơ quan báo chí và quy định tiêu chuẩn, chuyên môn, nghiệp vụ

người đứng đầu cơ quan báo chí. Các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ,

quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông thực

hiện quản lý nhà nước về báo chí.

Luật Báo chí cũng chỉ rõ Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ,

quyền hạn của mình có trách nhiệm quản lý nhà nước về báo chí tại địa phương. Sở

Thông tin và Truyền thông là cơ quan quản lý báo chí ở địa phương có nhiệm vụ xây

dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển báo chí đối ngoại, kiểm tra việc thực hiện pháp

luật, chính sách, chế độ về báo chí đối ngoại ở địa phương. Thanh tra, hoặc phối hợp

kiểm tra, xử lý vi phạm đối với các hoạt động báo chí đối ngoại theo quy định của

pháp luật, của Đảng.

Như vậy, chủ thể quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại cao nhất là Chính phủ

quản lý chung, Bộ Thông tin và Truyền thông quản lý báo chí đối ngoại ở Trung ương.

Đồng thời, ở các tỉnh có các cơ quan báo chí đối ngoại chịu sự quản lý của Ủy ban

nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

53

1.2.2.2. Đối tượng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại

Đối tượng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại là cơ quan, tổ chức hoạt động

trong lĩnh vực báo chí đối ngoại;các phóng viên, biên tập viên và cả đội ngũ các chuyên

gia nước ngoài được thuê để biên tập, biên dịch từ tiếng Việt ra tiếng nước ngoài.

Về quản lý cơ quan báo chí đối ngoại: Theo Quyết định số 2434/QĐ-TTg về

việc Phê duyệt Quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2020, định hướng đến

năm 2030 [148], ngày 13/12/2016 của Thủ tướng Chính phủ về quy hoạch, điều chỉnh

báo in, tạp chí in, báo điện tử đối ngoại, đồng thời phát triển một báo điện tử đối ngoại

chuyên biệt với các thứ tiếng chính: tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Trung Quốc, tiếng

Tây Ban Nha, tiếng Nga nằm trong nhóm 10 báo điện tử có lượng truy cập cao nhất từ

Việt Nam và nhóm 05 báo điện tử có lượng truy cập cao nhất từ nước ngoài đối với tờ

báo điện tử của Việt Nam. Mặt khác, phát triển một số tờ báo in, tạp chí in đối ngoại

chuyên biệt với các ngôn ngữ chính: Tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Trung Quốc, tiếng

Tây Ban Nha, tiếng Nga mang tầm khu vực và thế giới. Cùng với việc quy hoạch phát

triển báo chí đối ngoại ở trung ương, quy hoạch phát triển báo chí đối ngoại ở các địa

phương cũng được chú trọng, nhấn mạnh vào tính hiệu quả trong việc tuyên truyền,

thông tin về tình hình của địa phương ra nước ngoài.

Từ đó có thể thấy việc quản lý các cơ quan báo chí hoạt động đảm bảo tính hiệu

quả và đảm bảo đúng tôn chỉ, mục đích, tránh chạy theo xu hướng thương mại hóa.

Tăng cường việc dùng chung cơ sở hạ tầng, dữ liệu trong và ngoài nước để thực hiện

các nhiệm vụ thông tin đối ngoại, tiết kiệm, hiệu quả.

Về quản lý người làm báo chí đối ngoại: Người làm báo chí đối ngoại không

chỉ nắm vững về chuyên môn mà còn phải nắm vững quan điểm, đường lối của Đảng,

chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đồng thời người làm báo chí đối ngoại phải có

lập trường tư tưởng vững vàng, bởi phạm vi hoạt động của họ có thể ở trong nước

hoặc có thể ở nước ngoài và dễ bị tác động bởi những tư tưởng tiêu cực. Bên cạnh đó,

để báo chí đối ngoại phục vụ tốt nhất cho độc giả, các Chính phủ có chủ trương cho

phép các cơ quan báo chí đối ngoại tăng cường hợp tác với các đối tác nước ngoài

triển khai các hoạt động báo chí đối ngoại bằng cách mời phóng viên báo chí nước

ngoài vào Việt Nam để đưa tin viết, bài, mời cộng tác viên nước ngoài làm phóng viên

và biên tập viên. Hơn nữa các cơ quan báo chí còn được phép hợp tác với các cơ quan

báo chí nước ngoài để xây dựng các bài viết, phóng sự quảng bá hình ảnh Việt Nam.

54

Vì vậy, quản lý người làm báo chí đối ngoại không chỉ là các nhà báo của Việt Nam

mà còn quản lý các phóng viên, biên tập viên, các cơ quan báo chí nước ngoài được

hợp tác để làm báo chí đối ngoại.

Về quản lý nội dung thông tin trên báo chí đối ngoại: Báo chí đối ngoại góp phần

vào việc thông tin tuyên truyền về thành tựu của phát triển của đất nước, về chủ trương,

đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, các giá trị văn hóa và con

người Việt Nam, các hoạt động thông tin về kinh tế đối ngoại, các hoạt động thương mại

của Việt Nam ra nước ngoài. Do vậy, việc quản lý các nội dung thông tin trên báo chí đối

ngoại làm cho các bài viết phản ảnh trên báo chí đối ngoại phải trung thực, có sức thuyết

phục để người nước ngoài, người Việt Nam ở nước hiểu đúng về mọi mặt cần đăng tải.

Bên cạnh đó, để có thể đưa tin kịp thời, phù hợp với nhu cầu của độc giả, các cơ

quan báo chí còn quản lý công tác dự báo, các hoạt động nghiên cứu khoa học, các bài

viết, chuyên mục có sức thuyết phục không chỉ các vấn đề văn hóa xã hội mà còn các

vấn đề tồn tại và nảy sinh trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước. Để đáp ứng tốt

nhu cầu của khán giả nước ngoài, các cơ quan báo chí luôn tìm kiếm các ý tưởng sáng

tạo nhằm xây dựng hình thức, nội dung báo chí đối ngoại làm cho thông tin đối ngoại

dễ dàng đến được với độc giả ở trong nước và ngoài nước.

Với sự bùng nổ của các hình thức truyền thông, các cơ quan báo chí có thể liên

kết với các tập đoàn truyền thông, các tập đoàn công nghệ để đưa các nội dung thông

tin lên các nền tảng ứng dụng mới để cung cấp thông tin nhanh chóng, kịp thời và độc

giả cũng dễ tiếp cận. Nhưng đi liền với những tiện lợi đó việc sử dụng các phương tiện

truyền thông hiện đại, các cơ quan truyền thông của nước ngoài cũng gây nên những

bất lợi. Cho nên không chỉ quản lý về nội dung thông tin mà còn quản lý việc phối

hợp, liên kết giữa cơ quan báo chí với các đối tác.

1.2.2.3. Nội dung quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại

Nội dung quản lý nhà nước đối với báo chí đối ngoại là những công việc mà các cơ

quan quản lý nhà nước cần phải làm để đảm bảo báo chí đối ngoại thực hiện đúng chức

năng, nhiệm vụ, tôn chỉ, mục đích của mình, phục vụ lợi ích của quốc gia - dân tộc. Cụ thể:

Thứ nhất, xây dựng, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế

hoạch phát triển báo chí đối ngoại.

Nhà nước quản lý xây dựng định hướng chiến lược phát triển các cơ quan báo

chí đối ngoại. Trong thời gian gần đây, Chính phủ đã ban hành một số văn bản về quản

55

lý báo chí đối ngoại cũng như định hướng phát triển như Nghị định 72/2015/NĐ-CP

của Chính phủ về quản lý hoạt động thông tin đối ngoại ngày 13 tháng 12 năm 2016,

Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2434/QĐ-TTg về việc Phê duyệt Quy

hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.

Quản lý việc xây dựng kế hoạch phát triển báo chí đối ngoại. Nghị định

72/2015/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý hoạt động thông tin đối ngoại nêu rõ mục

tiêu đến năm 2020 phát triển một báo điện tử đối ngoại chuyên biệt, chủ lực đồng

thời phát triển một số tờ báo in, tạp chí đối ngoại chuyên biệt và xác định cơ quan

báo chí đối ngoại chủ lực quốc gia là Thông Tấn xã Việt Nam và định hướng đến

năm 2030 mở rộng khu vực phát hành của báo chí đối ngoại Việt Nam nhất là các địa

bàn trọng điểm là các nước láng giềng, các nước lớn, các nước trong khối ASEAN,...

và xây dựng đội ngũ cán bộ báo chí đủ về số lượng, mạnh về chất lượng và đồng bộ

về cơ cấu.

Quản lý cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ các cơ quan báo chí đối ngoại

đảm bảo cho các cơ quan báo chí đối ngoại hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích, đúng

định hướng thông tin về tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, các hoạt động đối

ngoại của Việt Nam,... ra nước ngoài. Bên cạnh đó, trong quá trình quy hoạch, phát

triển các cơ quan báo chí đối ngoại cần xác định rõ về cơ cấu tổ chức, chức năng và

nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.

Quản lý việc quy hoạch, sắp xếp hệ thống các cơ quan báo chí đối ngoại như

truyền hình đối ngoại VTV4, VTC10 của Đài Truyền hình Việt Nam; Ban Đối ngoại

của đài VOV5; các báo đối ngoại của Thông tấn xã Việt Nam như Báo Vietnam News,

Báo Le Courrier du Vietnam, Báo điện tử Vietnam Plus, Báo Ảnh Việt Nam. Hiện 4

cơ quan, bao gồm Thông tấn xã Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Báo Nhân Dân và

Đài Truyền hình Việt Nam có 52 văn phòng thường trú ở nước ngoài.

Quản lý việc phân công, phối hợp trong chỉ đạo các cơ quan báo chí đối ngoại,

tránh sự chồng chéo, trùng lắp trong việc đưa tin, đặc biệt là việc xây dựng các ấn

phẩm, chuyên mục, chuyên đề, bài viết, phóng sự,… đối ngoại bằng tiếng nước ngoài.

Quản lý sự hiệp đồng phối hợp giữa các cơ quan báo chí đối ngoại, tạo kênh kết

nối các cơ quan báo chí để đưa tin, viết bài cũng như việc thuê các cơ quan báo chí,

các cá nhân nước ngoài đưa tin, viết bài, tuyên truyền hình ảnh, đất nước và con người

Việt Nam một cách có trật tự.

56

Thứ hai, ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về báo

chí; xây dựng chế độ, chính sách về báo chí đối ngoại.

Nhà nước quản lý việc phối hợp xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm

pháp luật trong lĩnh vực báo chí đối ngoại, làm cho việc ban hành các văn bản có tính

toàn diện, tránh sự chồng chéo, tạo sự liên thông giữa các cơ quan báo chí cũng như

các cơ quan quản lý báo chí. Mặt khác, khi xây dựng các văn bản quản lý báo chí đối

ngoại cần chú trọng đến quản lý việc tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp

luật về báo chí đối ngoại với việc đánh giá những tác động sau một thời gian nhất

định, rút kinh nghiệm để sửa đổi, bổ sung trong trường hợp cần thiết. Tuy nhiên, việc

sửa đổi bổ sung các văn bản quản lý báo chí đối ngoại cũng phải đảm bảo các yêu cầu

về mặt thực tiễn.

Cùng với việc quản lý các văn bản quy phạm pháp luật về báo chí đối ngoại,

các cơ quan quản lý xây dựng và thực hiện chế độ, chính sách về tài chính, con người,

cơ sở vật chất cho cơ quan báo chí phục vụ hoạt động báo chí đối ngoại, làm cho báo

chí đối ngoại ngày càng phát triển theo đúng xu thế của thời đại.

Quản lý tập huấn triển khai phổ biến các văn bản pháp luật cho cán bộ quản lý

của các cơ quan báo chí đối ngoại. Sau khi ban hành các văn bản về quản lý báo chí

đối ngoại, các cơ quan ban hành văn bản và cơ quan quản lý báo chí, cơ quan báo chí

tiến hành tập huấn phổ biến các văn bản một cách sâu rộng, nhất là với những người

làm báo chí đối ngoại phải am hiểu pháp luật về báo chí cũng như báo chí đối ngoại.

Quản lý việc đề xuất, kiến nghị, xây dựng văn bản liên quan đến báo chí đối

ngoại. Các văn bản quản lý báo chí đối ngoại có thể được bổ sung, sửa đổi, nhưng phải

đảm bảo dựa trên đề xuất, kiến nghị từ những cơ quan chức năng, người làm báo,...

song vấn đề này cần có sự quản lý chặt chẽ, khách quan.

Thứ ba, tổ chức thông tin và quản lý thông tin của báo chí đối ngoại.

Nhà nước quản lý hoạt động tổ chức nội dung thông tin và đổi mới nội dung

báo chí đối ngoại. Cách tổ chức thông tin và đổi mới nội dung thông tin của báo chí

đối ngoại là yêu cầu thiết yếu để đáp ứng yêu cầu của độc giả cũng như sự phát triển

mạnh mẽ của các loại hình truyền thông hiện đại. Mặt khác, đi liền với quản lý tổ chức

nội dung thông tin là việc quản lý cách thức tổ chức sản xuất và hình thức của sản

phẩm báo chí đối ngoại, tạo sự sinh động, hấp dẫn để đưa được thông tin của Việt

Nam ra nước ngoài hiệu quả.

57

Quản lý việc thông tin về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đến cộng

đồng người Việt Nam ở nước ngoài, cộng đồng quốc tế; quảng bá hình ảnh đất nước,

con người, lịch sử, văn hóa và những giá trị vật chất và tinh thần của dân tộc, quảng bá

các hoạt động về kinh tế đối ngoại, thu hút đầu tư nước ngoài, các hoạt động du lịch,

hội nhập quốc tế của Việt Nam. Các thông tin cần được quản lý chặt chẽ nhằm bảo

đảm tính chính xác, trung thực, khách quan về nội dung của thông tin đã đưa.

Các hoạt động của báo chí đối ngoại hiện nay rất đa dạng, có sự hỗ trợ của các

công nghệ hiện đại, do đó việc quản lý hình thức, cách thức nhằm tăng cường việc cung

cấp thông tin của các tờ báo phục vụ đối ngoại thông qua hình thức truyền thông xã hội

vừa có tính cập nhật và thu hút được số lượng khán giả. Đồng thời, trong quá trình tổ

chức thông tin trên báo chí đối ngoại có thể có tình trạng vi phạm bản quyền nên các cơ

quan chức năng cần quản lý việc khai thác, sử dụng tin, bài, chi tiết, hình ảnh.

Xác định đối tượng thông tin của báo chí đối ngoại có trọng tâm, trọng điểm

nhất, đặc biệt là các nước láng giềng, các nước lớn, các nước trong khối ASEAN, Mỹ,

Liên minh Châu Âu, Nhật Bản, đồng bào ta ở nước ngoài, đặc biệt là giới trẻ… Đối

tượng ngoài nước, bao gồm: Các cơ quan chính phủ, các tổ chức quốc tế, chính giới,

học giả, các cơ quan thông tấn báo chí, nhà kinh doanh,... và đối tượng trong nước, bao

gồm: Cộng đồng người nước ngoài ở Việt Nam, các cơ quan đại diện ngoại giao, cơ

quan lãnh sự của các nước, cơ quan đại diện các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ

tại Việt Nam,...

Thứ tư, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao tr nh độ chính trị, nghiệp vụ, đạo đức

nghề nghiệp cho đội ngũ người làm báo và cán bộ quản lý báo chí đối ngoại.

Nhà nước quản lý việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ cho

cán bộ làm báo chí đối ngoại. Sự ra đời của công nghệ truyền thông hiện đại và sự thay

đổi của mô hình, phương thức hoạt động của báo chí đồi hỏi báo chí phải nâng cao

chất lượng nguồn nhân lực. Trong tác nghiệp, các nhà báo cần phải đa kỹ năng để sử

dụng các phương tiện, cách thức tác nghiệp. Do đó đòi hỏi phải đổi mới nhanh chóng

mô hình đào tạo nguồn nhân lực báo chí đối ngoại có tính chuyên biệt. Các cơ sở đào

tạo phải đổi mới chương trình, phương thức đào tạo, tăng cường đầu tư công nghệ

truyền thông hiện đại và đi liền với yêu cầu này việc quản lý đào tạo, bồi dưỡng nhân

lực báo chí đối ngoại cũng phải được quản lý đáp ứng theo chuẩn, tránh việc đào tạo tự

phát và thiếu đồng bộ.

58

Quản lý đào tạo, bồi dưỡng về trình độ ngoại ngữ cho cán bộ làm báo chí đối

ngoại. Đối với cán bộ báo chí đối ngoại không chỉ đặt ra yêu cầu cao về chuyên môn

mà còn yêu cầu cao về ngoại ngữ, song trong các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ

báo chí hiện nay lại chưa thực sự coi trọng đào tạo, bồi dưỡng về ngoại ngữ, do đó

việc quản lý đào tạo, bồi dưỡng về ngoại ngữ cho cán bộ báo chí đối ngoại cũng phải

được đặt ra để cán bộ báo chí đủ khả năng tác nghiệp, nhất là một số ngoại ngữ mà các

cơ quan báo chí dự định thành lập văn phòng đại diện.

Bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, góp phần nâng cao bản lĩnh chính trị,

nhất là đội ngũ những người làm báo ở nước ngoài luôn thấm nhuần quan điểm,

đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của nhà nước. Cùng với đó là việc bồi

dưỡng tác phong, đạo đức nghề nghiệp của người làm báo đối ngoại cũng phải được

quản lý một cách thường xuyên, những người làm báo chí đối ngoại phải thật sự có

đạo đức cách mạng.

Bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý cho đội ngũ cán bộ quản lý báo chí đối

ngoại bởi đây là lực lượng quan trọng tham gia vào việc chỉ đạo các hoạt động báo chí

từ việc khai thác tin, tổ chức nội dung thông tin đến phát hành và quan trọng các thông

tin phải đảm bảo tính đảng, tính trung thực.

Có cơ chế, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ làm báo chí đối ngoại, tuy đã có

những chính sách đãi ngộ nhất định song trên thực tế, đội ngũ báo chí đối ngoại hiện

làm việc trong môi trường tương đối rộng, tính phức tạp cao nên cần có những cơ chế,

chính sách có tính đặc thù từ phía các cơ quan chức năng.

Thứ năm, đẩy mạnh hợp tác quốc tế về báo chí đối ngoại.

Hợp tác với các đối tác nước ngoài triển khai các hoạt động báo chí đối ngoại

như: mời phóng viên báo chí nước ngoài vào Việt Nam để đưa tin viết, bài, thuê khoán

cộng tác viên nước ngoài làm phóng viên và biên tập viên tin phù hợp với các đối

tượng; hợp tác với các cơ quan báo chí nước ngoài để viết bài, phóng sự quảng bá hình

ảnh Việt Nam, để đáp ứng tốt nhất nhu cầu của đông đảo độc giả trên toàn thế giới.

Quản lý hợp tác sản xuất các sản phẩm báo in, báo điện tử thuộc các lĩnh vực

khoa học, công nghệ, kinh tế, văn hóa, thể thao, giải trí, quảng cáo, an sinh xã hội vừa

tiếp thu được thành tựu khoa học song cũng tiếp thu được kinh nghiệm làm báo về lĩnh

vực khoa học và công nghệ. Các nội dung, chương trình liên kết phù hợp với quy định

của pháp luật Việt Nam.

59

Phát hành, truyền dẫn, phát sóng sản phẩm báo chí ra nước ngoài; ủy thác cho tổ

chức, cá nhân in lại, truyền dẫn, phát sóng sản phẩm báo chí Việt Nam ở nước ngoài để

vừa tiết kiệm chí phí vừa tăng tính hiệu quả khi báo chí đối ngoại Việt Nam có thể được

truyền phát trên các nền tảng công nghệ hiện đại của các nước. Bên cạnh đó, việc thuê

chuyên gia, cộng tác viên nước ngoài đưa tin, viết bài cũng là cách tiết kiệm chi phí và có

được đội ngũ những người làm báo chuyên nghiệp, không phải tuyển dụng thêm người.

Cử nhà báo hoạt động báo chí ở nước ngoài, tham gia tác nghiệp đưa tin, viết

bài, thông tin ra nước ngoài về tình hình trong nước. Hiện nay nhiều cơ quan báo chí

đã thành lập văn phòng đại diện ở nước ngoài, đưa các phóng viên Việt Nam sang đó

tác nghiệp và mời nhà báo nước ngoài đến khai thác, tìm kiếm thông tin về Việt Nam.

Thứ sáu, chỉ đạo, thực hiện chế độ thông tin, báo cáo, thống kê và công tác

khen thưởng, kỷ luật trong hoạt động báo chí đối ngoại.

Quản lý thực hiện chế độ thông tin, báo cáo định kỳ hàng tháng, hàng quý dưới

hình thức văn bản và file điện tử, theo địa chỉ e-mail, đồng thời chỉ đạo việc ra soát các

quy định về chế độ thông tin, báo cáo hoạt động báo chí đối ngoại theo quy định của

hoạt động báo chí và các quy định của pháp luật.

Quản lý nội dung báo cáo, có đánh giá về kết quả công việc cũng như chất

lượng và tiến độ báo cáo để có hướng đổi mới cách tổ chức thông tin, khai thác thông

tin có chất lượng ngày càng cao. Cùng với đó, việc quản lý đổi mới công tác thông tin,

báo cáo phù hợp với yêu cầu của tình hình mới, đổi mới việc thực hiện công tác thông

tin, báo cáo trong phạm vi quản lý nhằm kịp thời nắm bắt được các yêu cầu đặt ra cho

báo chí đối ngoại phát triển.

Trong việc quản lý khen thưởng, cơ quan báo chí, nhà báo, tổ chức và công dân có

thành tích và cống hiến trong hoạt động báo chí được khen thưởng theo quy định của pháp

luật về thi đua, khen thưởng. Việc xét tặng danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng được

thực hiện công khai, dân chủ, đề nghị theo trình tự từ cơ sở, chú trọng cá nhân, tập thể có

nhiều thành tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ, bảo đảm đúng đối tượng, tiêu chuẩn.

1.2.2.4. Phương thức quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại

Thứ nhất, Nhà nước quản lý báo chí đối ngoại thông qua các công cụ quản lý là

các văn bản qui phạm pháp luật.

Quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại bằng pháp luật và thông qua pháp luật.

Cho đến nay Nhà nước đã ban hành một hệ thống văn bản pháp luật về quản lý báo chí

60

tương đối đầy đủ và toàn diện, trong đó Hiến pháp là đạo luật cơ bản, Luật Báo Chí

năm 2016, Nghị định số 72/2015/NĐ-CP, Nghị định số 88/2012/NĐ-CP, Chỉ thị số

10/2000/CT-TTg, Quyết định số 388/QĐ-TTg, Quyết định 79/2010/QĐ-TTg, Quy chế

Quản lý nhà nước về thông tin đối ngoại (Ban hành kèm theo Quyết định số

79/2010/QĐ-TTg, ngày 30 tháng 11 năm 2010), Quyết định số 2434/QĐ-TTG Phê

duyệt quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2020, định hướng đến năm

2030,... những văn bản pháp luật đảm bảo cho các cơ quan quản lý báo chí đủ thẩm

quyền, trách nhiệm trong việc quản lý báo chí đối ngoại.

Báo chí đối ngoại là một lĩnh vực thu hút được sự quan tâm của đông đảo

người dân khắp nơi trên thế giới. Với sự phát triển mạnh mẽ của mạng xã hội, những

vấn đề rất nhỏ đến những vấn đề lớn của đất nước đều có thể được thông tin đến nhiều

nước trên thế giới, thậm chí cả những mặt tiêu cực, mặt trái, đưa tin không trung thực,

khách quan. Cùng với việc mở rộng và tăng cường thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa

trong lĩnh vực ngôn luận, những thông tin trái chiều có thể gây ảnh hưởng bất lợi cho

sự phát triển kinh tế, xã hội trong nước. Công tác quản lý báo chí đối ngoại ngày càng

trở nên khó khăn, phức tạp hơn và việc quản lý nhà nước đối với báo chí đối ngoại

bằng pháp luật càng đầy đủ, chi tiết, sẽ càng có tác dụng ngăn ngừa các sai phạm của

hoạt động báo chí đối ngoại và thuận lợi cho việc khắc phục những sai sót, vì đã có

những quy định, các chế tài pháp lý để vận dụng.

Thứ hai, Nhà nước quản lý báo chí đối ngoại thông qua các cơ quan quản lý

nhà nước về báo chí.

Điều 7 Luật Báo chí năm 2016 qui định Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước

về báo chí, Bộ Thông tin và Truyền thông chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện

quản lý nhà nước về báo chí. Tương tự như vậy, ở địa phương Sở Thông tin và Truyền

thông chịu trách nhiệm trước Ủy ban nhân dân tỉnh thống nhất quản lý báo chí đối

ngoại. Các cơ quan này có trách nhiệm hướng dẫn chỉ đạo và tổ chức thực hiện hoạt

động báo chí đối ngoại, việc qui hoạch, mở văn phòng đại diện ở nước ngoài, quản lý

các loại hình báo chí đối ngoại, quản lý việc tổ chức nội dung và cung cấp thông tin

cho báo chí đối ngoại, đồng thời xem xét việc bổ nhiệm, miễn nhiệm đối với cán bộ

quản lý các cơ quan báo chí đối ngoại.

Các cơ quan có liên quan đến quản lý báo chí đối ngoại ở Trung ương như Bộ

Ngoại giao phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông thực hiện quản lý thông tin và

61

tổ chức thông tin, nội dung thông tin, quản lý đội ngũ những người làm báo chí đối

ngoại, nhằm làm cho báo chí đối ngoại thực sự là phương tiện hiệu quả trong việc đưa

tin bài, hình ảnh đất nước và con người Việt Nam ra thế giới cũng như người nước

ngoài sinh sống và làm việc tại Việt Nam. Sự phối hợp quản lý trên nhiều phương diện

như quản lý nguồn lực con người, quản lý về việc đưa tin, viết bài,... các cơ quan có

liên quan trong quản lý báo chí đối ngoại ở địa phương phối hợp với Sở Thông tin và

Truyền thông quản lý xác định tôn chỉ, loại hình báo chí được xuất bản, đối tượng

phục vụ,... nhằm xây dựng đội ngũ nhân lực mạnh về công tác chuyên môn, sự chủ

động trong việc huy động đội ngũ nhân lực tham gia vào việc quản lý báo chí đối

ngoại. Mặt khác, các cơ quan này còn tham gia vào việc thanh tra, kiểm tra hoạt động

của các cơ quan báo chí đối ngoại; xét khen thưởng, kiến nghị xử lý các hành vi vi

phạm pháp luật về báo chí đối ngoại.

Thứ ba,quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại thông qua công tác thanh tra,

kiểm tra, giám sát hoạt động của báo chí đối ngoại.

Thanh tra báo chí đối ngoại được thực hiện theo quy định của pháp luật về

thanh tra. Ở nước ta hiện nay có nhiều loại hình báo chí như: báo in, báo mạng điện tử,

báo nói, báo hình, đặc biệt với sự phát triển của khoa học và công nghệ thì hoạt động

báo điện tử, thông tin điện tử phát triển mạnh mẽ, có tính thông tin nhanh, cập nhật,...

song cũng dễ phát sinh những mặt tiêu cực ảnh hưởng đến an ninh, an toàn, trật tự của

quốc gia. Vì vậy, để tránh hiện tượng đưa tin viết bài sai sự thật, việc thanh tra, quản

lý cần bám sát theo các quy định của pháp luật và các văn bản pháp luật về quản lý báo

chí nói nhung, quản lý báo chí đối ngoại nói riêng. Chính vì vậy, việc quản lý báo chí

đối ngoại cần chủ động, tích cực làm tốt công tác thanh tra, kiểm tra thường xuyên các

hoạt động báo chí đối ngoại, đồng thời thanh tra, kiểm tra định kỳ các hoạt động báo

chí đối ngoại. Mặt khác, tùy theo yêu cầu, tính chất của nhiệm vụ để có thể thực hiện

hoạt động thanh tra, kiểm tra đột xuất các hoạt động báo chí đối ngoại. Việc này cần

có sự bắt tay tích cực nhất của Bộ Thông tin và Truyền thông.

Với những sai phạm, cần tổ chức quản lý việc xử lý vi phạm pháp luật về báo

chí đối ngoại theo đúng tinh thần thượng tôn của pháp luật, tránh để tình trạng vi phạm

lặp lại, đồng thời tuyên truyền cho các cơ quan báo chí, các cá nhân trong việc xử lý

các sai phạm liên quan đến các hoạt động báo chí đối ngoại. Các nội dung cơ bản mà

Bộ Thông tin và Truyền thông thường thanh tra, kiểm tra các cơ quan báo chí đối

62

ngoại theo quy định của Luật Báo chí năm 2016 [116] và các văn bản hướng dẫn: Một

là, việc thực hiện giấy phép hoạt động báo chí. Hai là, công tác tổ chức, quy trình biên

tập nội dung gồm: thực hiện các quy định về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng,

kỷ luật của cơ quan báo chí; thực hiện các quy định về tiêu chuẩn nghề nghiệp, đạo

đức nhà báo; công tác tổ chức lực lượng cộng tác viên; thu thập nguồn tin, biên tập,

kiểm chứng thông tin. Ba là, việc thực hiện tôn chỉ mục đích của cơ quan báo chí đối

ngoại, gồm: Việc thực hiện các quy định đã ghi trong giấy phép báo xuất bản; thực

hiện các quy định về những điều không được thông tin trên báo chí; tính trung thực,

khách quan trong hoạt động cơ quan báo chí. Bốn là, việc chấp hành các quy định

pháp luật về quyền tác giả trong hoạt động báo chí. Bài viết được bảo vệ như sử dụng

tin bài từ các cơ quan báo chí khác hoặc của các tác giả nước ngoài. Năm là, việc thực

hiện các quy định của pháp luật về cải chính trên báo chí. Sáu là, việc chấp hành quy

định lưu chiểu báo chí, phương thức phát hành, hợp tác quốc tế về báo chí đối ngoại.

1.3. Đặc điểm và vai trò của quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại

1.3.1. Đặc điểm quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại

Trước khi đi vào tìm hiểu đặc điểm quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại, có thể

thấy quản lý nhà nước về báo chí đối nội hay báo chí bản địa có một số đặc điểm cơ

bản, nhà báo viết và sản xuất bài chủ yếu dành cho độc giả trong nước, do vậy Nhà

nước xây dựng một hệ thống văn bản pháp luật để quản lý các cơ quan báo chí, người

làm báo phục vụ cho nhân dân trong một nước. Do đó, việc chỉ đạo, thực hiện chế độ

thông tin, báo cáo, thống kê và công tác khen thưởng, kỷ luật trong hoạt động báo chí,

công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về báo chí của báo chí đối nội

cũng khác với cách thức thực hiện quản lý báo chí đối ngoại. Hơn nữa, quản lý báo chí

đối nội cũng thực hiện theo chương trình, kế hoạch song việc quản lý hướng đến cung

cấp các nội dung thông tin những vấn đề trong nước. Đối với những sự kiện tiêu cực,

báo chí đối nội đưa tất cả các thông tin xảy ra, bao gồm cả thông tin tích cực và tiêu cực.

Đối tượng phục vụ của báo chí đối nội là người Việt Nam đang sinh sống trên

lãnh thổ Việt Nam, do vậy cách thức tổ chức quản lý sản xuất, cơ chế phối hợp giữa

các cơ quan báo chí cũng như cơ quan quản lý báo chuyển tải đúng tinh thần của

những sự kiện, trong khi đó báo chí đối ngoại cân bằng, hài hòa các nội dung đối

tượng phục vụ vừa nắm được đủ thông tin, nhưng vẫn thấy được sự tích cực của sự

kiện, gây được cảm tình của công chúng quốc tế đối với đất nước mình.

63

Quản lý nhà nước về báo chí đối nội nhấn mạnh tính ổn định tương đối, phù

hợp với quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước. Cách thức tổ chức

quản lý nội dung thông tin báo chí, chỉ đạo, thực hiện chế độ thông tin, báo cáo phụ

thuộc khá nhiều vào đời sống xã hội, điều kiện kinh tế, văn hóa, nhận thức của người

dân trong nước, đồng thời góp phần định hướng, hướng dẫn người dân thực hiện các

chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Trên cơ sở đó,

có thể thấy quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại có một số đặc điểm cơ bản sau:

Thứ nhất, quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại thể hiện tính quyền lực nhà

nước thông qua pháp luật. Pháp luật về quản lý báo chí là một bộ phận của pháp luật

hành chính và hệ thống pháp luật nước ta. Do vậy, quản lý nhà nước trong lĩnh vực

báo chí do các cơ quan có thẩm quyền tiến hành trên cơ sở pháp luật được thực hiện

thống nhất từ Trung ương đến địa phương, qua đó giúp cho báo chí xác định được

phạm vi hoạt động, đồng thời cũng thể hiện trách nhiệm của nhà nước đối với báo chí.

Mặt khác, tính quyền lực của nhà nước trong quản lý báo chí đảm bảo không cho các

cá nhân, tổ chức không được lạm dụng tự do báo chí, tự do ngôn luận để xâm phạm lợi

ích quốc gia, dân tộc.

Báo chí phục vụ cho sự phát triển của Đảng, Nhà nước và nhân dân, do vậy

Nhà nước xây dựng một hệ thống văn bản pháp luật để quản lý báo chí có đối tượng

phục vụ chủ yếu là người nước ngoài. Trên thực tế hệ thống văn bản quản lý báo chí

đối ngoại chưa có những văn bản riêng và hiện chủ yếu được thực hiện theo văn bản

quản lý nhà nước về báo chí nói chung, các văn bản này ngày càng hoàn thiện, từng

bước đáp ứng tốt việc quản lý báo chí, tránh mọi những nguy cơ các đối tượng là

người nước ngoài lợi dụng tự do báo chí để thực hiện các hoạt động mưu cầu lợi ích

riêng, xâm hại đến an ninh quốc gia, đảm bảo cho việc quản lý báo chí đối ngoại thông

suốt, thống nhất trên cơ sở có sự phân công và phối hợp chặt chẽ.

Thứ hai, quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại là hoạt động có chương trình,

có kế hoạch để thực hiện mục tiêu đặt ra. Quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại

hướng tới mục tiêu giúp cho việc cung cấp thông tin ra nước ngoài theo đúng định

hướng, đúng tôn chỉ, mục đích và đảm bảo hiệu quả về tổ chức nhân sự trong hệ thống

cơ quan báo chí, xây dựng nguồn nhân lực đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, đồng

bộ về cơ cấu, giỏi về ngoại ngữ, nhất là ngoại ngữ của nước sở tại. Trong từng năm,

các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí đều xây dựng chương trình, kế hoạch hoạt

64

động và dựa trên cơ sở đó các cơ quan chức năng ban hành quyết định quản lý theo

chương trình, kế hoạch đã đề ra, từ việc quản lý xây dựng kế hoạch, quản lý việc phân

công, phối hợp giữa các cơ quan quản lý.

Thứ ba, quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại mang tính chất chủ động, linh

hoạt và sáng tạo. Báo chí đối ngoại có đối tượng phục vụ chủ yếu là người nước ngoài,

người Việt Nam ở nước ngoài cho nên việc tổ chức hoạt động cho báo chí đối ngoại có

nhiều khó khăn, tính phức tạp cao, do vậy, quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại luôn

phải thể hiện được tính chủ động, tính linh hoạt và tính sáng tạo cao để vừa chuyển tải

được thông tin ra bên ngoài vừa thỏa mãu nhu cầu thông tin của độc giả ở nhiều độ

tuổi, trình độ, nhiều khu vực trên thế giới. Trong quá trình quản lý, các cơ quan quản

lý báo chí không ngừng tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm, tìm ra những hạn chế để

khắc phục và tiếp tục phát huy những ưu điểm để chuyển tải và phục vụ tốt nhất nhu

cầu của độc giả, đồng thời trong quá trình tổng kết, rút kinh nghiệm còn góp phần vào

việc tham mưu cho các cơ quan ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý

báo chí trong việc hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, làm cho hệ thống pháp luật

về quản lý báo chí đối ngoại ngày càng đầy đủ, làm hành lang cho báo chí đối ngoại

hoạt động tốt nhất, tránh được mọi hiện tượng tiêu cực. Hơn nữa, tính linh hoạt, sáng

tạo còn cho phép việc quản lý báo chí đối ngoại theo sát với tình hình thực tiễn trong

nước và trên thế giới.

Thứ tư, quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại có sự kết hợp chặt chẽ giữa tính

ổn định tương đối và tính phát triển. Báo chí Việt Nam là báo chí cách mạng nên phải

thể hiện được quan điểm lãnh đạo của Đảng, tiếng nói của nhân dân, do vậy báo chí ở

Việt Nam nói chung và các loại hình báo chí có tính ổn định khá cao về mặt chủ

trương, về tôn chỉ, mục đích. Tuy nhiên, sự thay đổi nhanh chóng của thời cuộc, sự

phát triển mọi mặt của đời sống xã hội làm cho định hướng phát triển báo chí cần có

sự thay đổi, đổi mới về cách tổ chức nội dung thông tin, thay đổi cách thức thông tin,...

đảm bảo các nội dung thông tin vừa đáp ứng tốt nhu cầu của độc giả, đồng thời đảm

bảo việc thông tin ra bên ngoài về tình hình trong nước là việc làm rất cần thiết. Để

đảm bảo cho tính ổn định và tính phát triển của báo chí đối ngoại trong tình hình mới

là một trong những đặc điểm quan trọng, làm cho báo chí đối ngoại giữ được bản sắc,

giữ vững quan điểm, lập trường cách mạng, tính đảng nhưng đáp ứng tốt yêu cầu của

thực tiễn đặt ra cho cơ quan báo chí.

65

1.3.2. Vai trò của quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại

Báo chí nói chung và báo chí đối ngoại nói riêng có tác động ngày càng sâu sắc

đến mọi mặt của đời sống xã hội. Vì vậy, quản lý báo chí nói chung và quản lý nhà

nước về báo chí đối ngoại nói riêng là một trong những nhiệm vụ góp phần vào việc

huy động một nguồn lực quan trọng vào việc tuyên truyền, quảng bá hình ảnh đất nước

và con người Việt Nam ra thế giới, đảm bảo cho báo chí đối ngoại hoạt động đúng

định hướng, đúng tôn chỉ và mục đích.

Thứ nhất, quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại nhằm tạo môi trường pháp lý

thuận lợi giúp báo chí đối ngoại hoạt động ổn định, phát triển phù hợp với xu thế

chung của xã hội, ngăn chặn các hoạt động ảnh hưởng tiêu cực đến quan điểm, đường

lối hòa bình, hữu nghị của Đảng và Nhà nước, thúc đẩy mối quan hệ của Việt Nam với

các nước trên thế giới, giúp cho người dân trên thế giới nắm bắt tình hình Việt Nam,

quan điểm, đường lối đối ngoại, hòa bình, hữu nghị của Việt Nam với nhân dân các

nước trên thế giới. Mặt khác, quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại làm cho báo chí

hoạt động và phát triển theo đúng đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà

nước. Cho đến nay, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản về quản lý báo chí,

điều đó góp phần tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại, đấu

tranh chống lại âm mưu của các thế lực thù địch, khẳng định sự lãnh đạo của Đảng đối

với báo chí.

Thứ hai, quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại nhằm bảo đảm cho báo chí phát

huy vai trò định hướng thông tin không chỉ ra nước ngoài mà còn định hướng thông tin

cho các tổ chức, cá nhân người nước ngoài sinh sống và làm việc tại Việt Nam. Báo

chí có quyền đưa tin, viết bài phản ánh trung thực về tình hình trong nước ra nước

ngoài trong khuôn khổ pháp luật. Các cá nhân, tổ chức nước ngoài đưa tin, viết bài về

Việt Nam cần có định hướng, tránh làm sai lệch sự thật. Trước tình hình diễn biến phức

tạp như hiện nay, cần quản lý chặt chẽ để báo chí giữ đúng tôn chỉ, mục đích.

Thứ ba, quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại đảo đảm quyền tự do báo chí,

quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân, quyền tiếp cận thông tin. Điều 25,

Hiến pháp năm 2013 chỉ rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận

thông tin, lập hội, biểu tình”. Tại Điều 10, Luật Báo chí năm 2016, công dân được “sáng

tạo tác phẩm báo chí; cung cấp thông tin cho báo chí; phản hồi thông tin trên báo chí;

tiếp cận thông tin báo chí; liên kết với cơ quan báo chí thực hiện sản phẩm báo chí; in,

66

phát hành báo chí” [116]. Cũng tại Luật Báo chí năm 2016, Điều 11 đã khẳng định

quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân: “Phát biểu ý kiến về tình hình đất

nước; tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của

Đảng, pháp luật của Nhà nước; góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên

báo chí đối với các tổ chức Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội, tổ chức

chính trị, xã hội, nghề nghiệp và các tổ chức cá nhân khác [116]. Quản lý nhà nước về

báo chí góp phần mở đường cho tự do sáng tạo các tác phẩm báo chí, báo chí trở thành

diễn đàn để người dân có thể chia sẻ quan điểm, đưa ý kiến của mình ra thế giới về tình

phát triển đất nước, đấu tranh chống lại các âm mưu, thủ đoạn chia rẽ đoàn kết dân tộc.

Tiểu kết chương 1

Báo chí đối ngoại là một bộ phận của nền báo chí Việt Nam tham gia vào việc

tuyên truyền, tiếp nhận, xử lý thông tin và giải thích thông tin ra nước ngoài và người

nước ngoài tại Việt Nam về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của

Nhà nước, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của thế giới đối với Việt Nam và đấu tranh với

luận điệu sai trái chống đối nhà nước Việt Nam của các thế lực thù địch, nhằm tạo ra sự

hiểu biết và xây dựng hình ảnh về đất nước, con người Việt Nam. Trong đó khái niệm

công cụ chính của luận án là: Quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại là những hoạt động

của cơ quan có thẩm quyền trên cơ sở sử dụng quyền lực nhà nước trong việc quản lý

công tác tuyên truyền, công tác tư tưởng về tình hình trong nước ra nước ngoài cho các tổ

chức, cá nhân người nước ngoài đang sinh sống, học tập tại Việt Nam về tình hình của

Việt Nam theo chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Các nội dung chính của quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại là: Xây dựng, chỉ

đạo và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển báo chí đối ngoại;

Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về báo chí đối ngoại;

Tổ chức thông tin và quản lý thông tin báo chí đối ngoại; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao

trình độ chính trị, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ báo chí đối

ngoại; Tổ chức quản lý hoạt động khoa học, công nghệ trong lĩnh vực báo chí đối

ngoại; Cấp, thu hồi các loại giấy phép trong hoạt động; hợp tác quốc tế; Kiểm tra báo

chí lưu chiểu và quản lý hệ thống lưu chiểu báo chí đối ngoại; Chỉ đạo, thực hiện chế

độ thông tin, báo cáo, thống kê... Các phương thức chủ yếu của quản lý nhà nước về

báo chí đối ngoại là các văn bản nhà nước, các cơ quan báo chí, công tác kiểm tra,

giám sát và khen thưởng, kỷ luật đối với các hoạt động báo chí đối ngoại.

67

Chương 2

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

VỀ BÁO CHÍ ĐỐI NGOẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. Khái quát về hoạt động của báo chí và báo chí đối ngoại ở Việt Nam

hiện nay

2.1.1. Về hoạt động báo chí

Hiện nay, nước ta đã có đầy đủ các loại hình báo chí, gồm báo in, báo nói, báo

hình, báo mạng điện tử. Tính đến tháng 6 năm 2020 cả nước có 838 cơ quan báo chí với

hơn 1.100 loại ấn phẩm; 67 đài phát thanh, truyền hình cấp Trung ương và tỉnh, trên 500

đài truyền thanh, truyền hình cấp huyện; hơn 19.166 nhà báo được cấp thẻ [197].

Về tạp chí, cả nước có 664 tạp chí, trung ương có 530 và địa phương 134. Về

báo mạng điện tử, cả nước có 195 cơ quan báo mạng điện tử được cấp phép hoạt

động, trong đó có 171 cơ quan báo, đài, tạp chí thực hiện loại hình báo mạng điện

tử. Cụ thể là 6 báo mạng điện tử và hơn 100 tờ báo in đưa lên mạng Internet với

nhiều thứ tiếng. Bên cạnh đó, Bộ Thông tin và Truyền thông đã cấp 178 giấy phép

hoạt động cho các trang thông tin điện tử tổng hợp cho các cơ quan báo chí in, phát

thanh, truyền hình nhằm đáp ứng với yêu cầu thực tiễn để khai thác thế mạnh của

loại hình thông tin hiện đại. Về phát thanh và truyền hình, cả nước có 67 đài phát

thanh và truyền hình trong đó Trung ương có 2 đài truyền hình là VTV, VTC, 5

đơn vị hoạt động truyền hình, tổng số kênh phát thanh, truyền hình trong nước

được cấp phép đến thời điểm hết năm 2017 là 281 kênh, trong đó có 33 doanh

nghiệp cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền và 1 hãng thông tấn quốc gia là Thông

tấn xã Việt Nam.

Đội ngũ người làm báo gồm cán bộ báo chí, phóng viên, biên tập viên gần

20.000 người. Bên cạnh đó, cơ quan báo chí có tôn chỉ, mục đích thông tin đối ngoại

với đội ngũ phóng viên, biên tập viên khoảng gần 1.000 người. Các cơ quan báo chí

đối ngoại chủ lực và cơ quan quản lý báo chí bao gồm Thông tấn xã Việt Nam, Đài

Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam; Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ

Ngoại giao, Bộ Văn hóa, Bộ Thông tin và Truyền thông [197].

Bên cạnh sự phát triển mạnh mẽ của báo chí, nội dung thông tin báo chí cũng

có nhiều đổi mới, tạo được sự sinh động, ngày càng hấp dẫn, thông tin được đăng tải

68

nhanh chóng và kịp thời để người dân có thể nắm bắt được tình hình trong nước và

quốc tế, đáp ứng nhu cầu thông tin, giải trí và những nhu cầu khác của người dân. Báo

chí ngày càng trở thành công cụ quan trọng trong việc tuyên truyền, cổ vũ, động viên

nhân dân tham gia tích cực vào quá trình xây dựng đất nước.

2.1.2. Về hoạt động báo chí đối ngoại

Trước đây, báo chí đối ngoại chủ yếu gồm những cơ quan báo chí chuyên trách

thực hiện nhiệm vụ thông tin đối ngoại, thì hiện nay với sự phát triển mạnh mẽ của các

phương tiện truyền thông, của internet, của mạng xã hội,... các cơ quan báo mạng điện

tử đều trực tiếp hoặc gián tiếp trở thành báo chí đối ngoại. Tuy nhiên, để làm tốt công

tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới đòi hỏi phải có bộ phận báo chí chuyên về

hoạt động đối ngoại giữ vai trò chủ đạo nhằm định hướng thông tin và định hướng cho

các hoạt động tuyên truyền của Việt Nam ra nước ngoài. Vì vậy, đã có khoảng 100 cơ

quan báo chí đại diện của Việt Nam tại nước ngoài, các cơ quan này ngày càng đóng

vai trò quan trọng vào hoạt động của báo chí đối ngoại nước ta.

Đi liền với sự phát triển của các cơ quan báo chí đối ngoại ở nước ngoài là sự

phát triển của các sản phẩm báo chí. Cho đến nay, báo chí đối ngoại ở nước ta có bước

phát triển mạnh mẽ cả về nội dung và hình thức. Cụ thể, Thông tấn xã Việt Nam có 9

sản phẩm thông tin nguồn, 8 báo, tạp chí bằng nhiều ngữ được đăng trên báo in và báo

mạng điện tử,… Số lượng báo chí phát hành bằng tiếng Anh, Pháp, Tây Ban Nha và

tiếng Trung ngày càng tăng và được phát hành đến nhiều nước và khu vực trên thế

giới, góp phần mạnh mẽ vào công cuộc hội nhập và đoàn kết quốc tế của Việt Nam.

Các loại hình báo chí đối ngoại từng bước được nâng cao cả về chất lượng nội dung và

hình thức thông tin, trong đó nổi bật là một số kênh truyền hình đối ngoại của Đài

Truyền hình Việt Nam (VTV4), VTC10, truyền hình công an nhân dân của Bộ Công

an (ANTV), truyền hình thông tấn của Thông tấn xã Việt Nam (VNEWS), kênh truyền

hình của Báo Nhân dân. Bên cạnh đó, các chương trình phát thanh bằng tiếng nước

ngoài cũng được Nhà nước quan tâm và đang hoạt động khá hiệu quả như Đài Tiếng

nói Việt Nam qua Ban Đối ngoại VOV5.

Cùng với các kênh truyền hình, đài phát thanh đối ngoại thì một số tạp chí như

Tạp chí đối ngoại của của Ban Đối ngoại Trung ương, Tạp chí Thông tin đối ngoại của

Ban Tuyên giáo Trung ương. Một số tờ báo đối ngoại được phát hành tương đối lâu như

báo Vietnam News, Vietnam Law & Legal Forum bản tiếng Anh của Thông tấn xã Việt

69

Nam. Thông tấn xã Việt Nam còn một số tờ báo đối ngoại xuất bản bằng tiến Pháp như

Le Courrier du Vietnam (tiếng Pháp); báo Sài Gòn giải phóng bằng tiếng Hoa của

Thành phố Hồ Chí Minh; báo Vietnam Economic Times của Hội Kinh tế Việt Nam; báo

Saigon Times của Sở Công thương Thành phố Hồ Chí Minh; Bộ Kế hoạch và Đầu tư có

báo Vietnam Investment Review, báo điện tử Vietnam Plus, Báo ảnh Việt Nam bằng 10

thứ tiếng. Hiện có 52 văn phòng thường trú ở nước ngoài của 4 cơ quan báo chí, gồm

Thông tấn xã Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam và Báo

Nhân Dân.

Kể từ khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế 79 Quản lý nhà nước về

thông tin đối ngoại năm 2010, hoạt động của báo chí đối ngoại diễn ra ổn định và phát

triển mạnh mẽ. Cùng với đó là Ban Chỉ đạo về báo chí đối ngoại được kiện toàn thống

nhất ở Trung ương và các tỉnh. Cục Thông tin đối ngoại được phân công và chịu trách

nhiệm toàn diện về công tác khai thác và phổ biến thông tin. Theo thống kê của Cục

Báo chí, năm 2010, chỉ có khoảng 10% tỉnh, thành phố có cán bộ làm báo chí đối

ngoại, thì đến giữa năm 2015, 100% tỉnh, thành phố trên cả nước có cán bộ kiêm

nhiệm và chuyên trách hoạt động trong lĩnh vực báo chí đối ngoại [144]. Mặt khác,

các địa phương đã tích cực mời gọi đầu tư của nước ngoài đã góp phần trực tiếp thúc

đẩy sự tham gia của báo chí đối ngoại. Vì vậy, chương trình hành động về thông tin

đối ngoại giai đoạn 2013-2020 ở các địa phương trên cả nước được triển khai đồng

bộ. Từ năm 2012, 63 tỉnh thành phố trên cả nước đã có kế hoạch hành động về báo

chí đối ngoại và được bố trí kinh phí hoạt động thường xuyên. Các cán bộ tham gia

hoạt động báo chí đối ngoại ở địa phương được cử đi đào tạo, bồi dưỡng nâng cao

trình độ nghiệp vụ, chuyên môn, ngoại ngữ, do đó số nhà báo hoạt động trong lĩnh

vực báo chí đối ngoại có sự phát triển mạnh mẽ và có khả năng tốt về ngoại ngữ.

Hiện số người làm báo chí đối ngoại tốt nghiệp đại học ngoại ngữ chiếm 46,3%,

trong đó có 21,7% người làm báo chí đối ngoại tốt nghiệp đại học hoặc sau đại học ở

nước ngoài [17], ngày càng có nhiều đóng góp cho công cuộc đổi mới của đất nước.

Bộ máy hoạt động báo chí đối ngoại được triển khai tích cực, đồng bộ từ Trung ương

đến địa phương.

Bên cạnh sự phát triển của báo chí đối ngoại trong thời gian qua và những kết

quả đạt được, việc qui hoạch phát triển báo chí đối ngoại cũng được chú trọng, trong

đó ưu tiêu phát triển báo điện tử và một số báo in sử dụng một số ngôn ngữ phổ biến

70

như tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Trung Quốc,... Mặt khác, các cơ quan báo chí đối

ngoại chủ lực ở Trung ương như Thông tấn xã Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam,

Đài Tiếng nói Việt Nam tích cực đưa tin, viết bài về tình hình phát triển kinh tế, văn

hóa, xã hội, những thành tựu của Việt Nam sau hơn 30 năm đổi mới.

2.2. Những thành tựu trong quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại và

nguyên nhân

2.2.1. Thành tựu của các chủ thể và đối tượng quản lý nhà nước

Các ý kiến khảo sát thực trạng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại của các

70

65,6

60

52,6

47,2

50

45,6

38

40

Tốt

Khá

30

24,8

TB

20

9,6

7,2

10

2,8

0

Trách nhiệm quản lý chung của Bộ Thông tin và Truyền

Quản lý của Cục Thông tin đối ngoại

Quản lý của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh

chủ thể quản lý được thể hiện qua biểu đồ 2.1.

Biểu đồ 2.1. Thực trạng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại của chủ thể quản lý

(Nguồn: Kết quả khảo sát năm 2018)

Số liệu tại biểu đồ trên chỉ ra thực trạng quản lý báo chí đối ngoại được đánh

giá chung ở mức khá cao, với tỷ lệ 56,8% ở mức tốt và 36,7% ở mức khá. Tuy nhiên

vẫn còn một tỷ lệ 6,5% ý kiến đánh giá ở mức trung bình. Song khi xem xét các ý kiến

đánh giá ở từng chủ thể cho thấy “Quản lý chung của Bộ Thông tin và Truyền thông

trong thực hiện quản lý nhà nước về báo chí” có kết quả ở mức tốt nổi trội, với 65,6%

ý kiến, nhưng trong từng biểu hiện cụ thể thì ở biểu hiện “Nghiên cứu, đề xuất và thực

hiện việc xây dựng dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý báo chí đối

ngoại” với 77,6% ý kiến. Có thể nhận thấy đây không chỉ là trách nhiệm nổi bật của

Cục Thông tin đối ngoại, Bộ Thông tin và Truyền thông trực tiếp quản lý báo chí đối

ngoại, hơn nữa trong thời gian gần đây, với nhiệm vụ “Chủ trì, phối hợp với các cơ

quan có liên quan về việc cung cấp các thông tin, làm rõ, phản bác các thông tin sai

71

lệch về Việt Nam trên các lĩnh vực” cũng được đánh giá khá cao, với 68,8% ý kiến.

Ngoài ra còn có “Phối hợp, cung cấp, chia sẻ nội dung báo chí đối ngoại giữa các cơ

quan nhà nước với các cơ quan báo chí” với 62,4% ý kiến ở mức tốt và các biểu hiện

này không có ý kiến đánh giá ở mức trung bình.

Bên cạnh trách nhiệm nổi bật của Bộ Thông tin và Truyền thông, cơ quan

chủ quan được Chính phủ giao quản lý báo chí đối ngoại và Cục Thông tin đối

ngoại là cơ quan trực tiếp quản lý báo chí đối ngoại ở Trung ương được đánh giá

khá cao thì vai trò quản lý báo chí đối ngoại ở cấp tỉnh cũng đạt được những kết

quả khá khả quan, với 45,6% ý kiến ở mức tốt, song ý kiến đánh giá ở mức khá tới

47,2% ý kiến, cùng với những kết quả đạt được một số ý kiến cho rằng thực trạng

quản lý báo chí đối ngoại ở địa phương còn có những hạn chế, do vậy có 7,2% ý

kiến đánh giá ở mức trung bình. Ý kiến phỏng vấn của đồng chí Nguyễn T - Trung

Tâm truyền thông tỉnh Quảng Ninh đã chỉ ra nét khái quát chung về thực trạng nêu

trên: “Mặc dù các thông tin chỉ đạo, định hướng đã được các cơ quan cấp bộ gửi

tới lãnh đạo các cơ quan báo chí ở địa phương nhưng phần lớn là các thông tin về

những vụ việc trong nước có tính phức tạp, nhạy cảm. Các thông tin chỉ đạo, định

hướng thông tin đối ngoại chưa nhiều và chưa đều. Trước đây phần kinh phí chưa

phải tự chủ, chúng tôi mua tin tức của các hãng Reuters, sau này chúng tôi sử dụng

các gói tin của Thông tấn xã”. Hơn nữa, tại địa phương, Sở Thông tin và Truyền

thông là cơ quan trực tiếp quản lý báo chí đối ngoại, nhưng khó khăn khá lớn hiện

tại đặt ra cho các địa phương là năng lực và trình độ ngoại ngữ chủ yếu là tiếng

Anh, tiếng Pháp, tiếng Trung Quốc, tiếng Nga, rất ít cán bộ biết các ngoại ngữ khác

như tiếng Ả Rập đây cũng là khó khăn trong việc xây dựng xây dựng, phát triển

mạng lưới báo chí đối ngoại ở địa phương, và cũng là hạn chế chung trong việc

phát hiện, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý báo chí đối ngoại và người làm báo đối

ngoại cần tố chất, khả năng nhạy bén với chuyên môn, nghiệp vụ báo chí và nghiệp

vụ quản lý báo chí đối ngoại.

Đối tượng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại

Tỷ lệ ý kiến đánh giá chung đối tượng của quản lý nhà nước về báo chí đối

ngoại khá cao. Với 76,3% ý kiến, cho thấy trách nhiệm của các chủ thể quản lý nhà

nước về báo chí đối ngoại trước yêu cầu thực tiễn, điều này được thể hiện qua biểu đồ

2.2 dưới đây:

100

90,4

90

80

72,8

65,6

70

60

Tốt

50

Khá

40

29,6

TB

27,2

30

20

9,6

4,8

10

0

0

0

Quản lý cơ quan báo chí đối ngoại

Quản lý người làm báo chí đối ngoại

Quản lý nội dung thông tin trên báo chí đối ngoại

72

Biểu đồ 2.2. Thành tựu của đối tượng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại

(Nguồn: Kết quả khảo sát năm 2018)

Trong số các đối tượng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại thì “Quản lý nội

dung thông tin trên báo chí đối ngoại” có kết quả nổi trội với 90,4% ý kiến đánh giá ở

mức tốt, ngoài ra kết quả “Quản lý cơ quan báo chí đối ngoại” cũng ý kiến khá cao với tỷ

lệ 72,8%. Mặt khác, các đối tượng quản lý này đồng thời đều không có ý kiến đánh giá ở

mức trung bình. Trái lại, công tác quản lý người làm báo có 4,8% ý kiến đánh giá ở mức

trung bình, sở dĩ có kết quả như trên vì thực tế số lượng cán bộ trực tiếp làm báo đối

ngoại số lượng còn ít cũng như sinh sống, tác nghiệp ở nhiều nước, nhiều vũng lãnh thổ

nên ít nhiều việc chỉ đạo trực tiếp có những hạn chế nhất định, song với 65,6% ý kiến

khẳng định việc quản lý đối tượng này đạt mức tốt, chứng tỏ đội ngũ cán bộ người làm

báo chí đối ngoại có lập trường, sự kiên định với đường lối lãnh đạo của Đảng với công

tác báo chí nói chung cũng như với báo chí đối ngoại nói riêng. Mặt khác, việc quản lý

cán bộ báo chí cũng có những khó khăn hơn do chúng ta có chủ trương cho phép hợp tác

với các cơ quan báo chí, phóng viên nước ngoài nên việc quản lý đội ngũ báo chí đối

ngoại có những khó khăn nhất định. Đặc biệt sự bùng nổ của các hình thức truyền thông,

người làm báo chí đối ngoại có thể tác nghiệp trên mọi mặt trận, nhất là trên các trang

mạng, báo mạng điện tử việc quản lý để thúc đẩy họ mạnh dạn ứng dụng công nghệ vào

để tác nghiệp, đảm bảo tính hiệu quả, tránh chạy theo xu hướng thương mại hóa. Điều

này là dựa trên cơ sở, thành tựu của lý thuyết hội tụ truyền thông, cho phép các phóng

viên, các cơ quan quản lý báo chí nói chung có thể phối hợp tác nghiệp xây dựng mối

quan hệ hợp tác giữa trong nước và ngoài nước, đảm bảo sự quản lý liên thông.

73

Khẳng định về những kết quả trên, qua ý kiến phỏng vấn đồng chí lãnh đạo Cục

Thông tin đối ngoại chỉ ra: “Kết quả như khảo sát ở trên rất phù hợp với thực tế đối tượng

quản lý báo chí đối ngoại mà chúng tôi đang thực hiện. Quản lý cơ quan báo chí có nhiều

thuận lợi hơn so với quản lý nội dung báo chí đối ngoại và với sự phát triển mạnh mẽ

trong việc hợp tác làm báo, trong cuộc cách mạng công nghệ hiện nay th quản lý nội

dung và quản lý đội ngũ cán bộ báo chí đặt ra những yêu cầu cao hơn rất nhiều và quản

lý tốt cán bộ báo chí sẽ góp phần làm tốt quản lý nội dung báo chí đối ngoại”..

2.2.2. Thành tựu nội dung quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại

Thứ nhất, trong xây dựng, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch,

kế hoạch phát triển báo chí đối ngoại.

Trong những năm vừa qua, các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại đã chủ động

xây dựng định hướng phát triển báo chí đối ngoại. Chẳng hạn, trước năm 2015, Cục

Thông tin đối ngoại đã có các văn phòng thường trú đặt tại Ả rập Xê ut (Châu Á),

Thụy Điển (Châu Âu), Braxin (Châu Mỹ), song cho đến nay chưa có cơ quan báo chí

nào được thành lập văn phòng thường trú tại các nước trên. Trước năm 2020 đặt thêm

ở Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ mỗi nước một quốc gia. Tại Châu Á, đài truyền hình

Việt Nam đã thành lập văn phòng thường trú tại các nước tiểu vương quốc Ả rập

(UAE) năm 2017. Ở Châu Âu, Đài truyền hình Việt Nam đã thành lập văn phòng

thường trú tại Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai Len (năm 2015). Theo đề xuất,

kiến nghị của các cơ quan báo chí, Đài tiếng nói Việt Nam đề nghị đặt thêm văn phòng

thường trú tại Indonesia, Ấn Độ (Châu Á). Tại Châu Âu, Thông tấn xã Việt Nam đề

xuất nâng cấp một số cơ quan thường trú ở nước ngoài thành cơ quan thường trú khu

vực tại Bỉ... Ở Châu Đại Dương Đài Tiếng nói Việt Nam đề nghị đặt thêm văn phòng

thường trú tại Ô-xtrây-li-a. Châu Mỹ: Đài tiếng nói Việt Nam đề xuất mở thêm văn

phòng thường trú tại Mê-hi-cô. Thông tấn xã Việt Nam đề xuất thành cơ quan thường

trú khu vực tại NewYork. Ngoài ra, từ nay đến năm 2020, Thông tấn xã Việt Nam đề

nghị được mở thêm các cơ quan thường trú tại Philippines, Myanmar (những quốc gia

thuộc ASEAN mà Thông tấn xã Việt Nam chưa đặt cơ quan thường trú) và Ảrập Xêút

để đảm bảo thông tin về Trung Đông và khối các nước nói tiếng Ảrập tại công văn số

1378/TTX-BTK ngày 23 tháng 12 năm 2016 của Thông Tấn xã Việt Nam.

Theo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại thông báo kết luận số 290/TB-

VPVP ngày 05 tháng 7 năm 2017, đồng ý về chủ trương thành lập Cơ quan thường trú

74

khu vực tại New York (Mỹ) và Brúc-xen (Bỉ) trên cơ sở kiện toàn lại các Cơ quan

thường trú tại địa bàn. Trước mắt điều phối biên chế nội bộ, không làm tăng tổng biên

chế trong các năm 2017-2019 đã được phê duyệt; về kinh phí tự cân đối trong phạm vi

dự toán chi ngân sách nhà nước được giao hàng năm và các quy định hiện hành. Đồng

ý thành lập cơ quan thường trú Đài Tiếng nói Việt Nam tại Ốt-xtray-lia. Đài Tiếng nói

Việt Nam chủ động cân đối, bố trí kinh phí cho cơ quan thường trú trong phạm vi dự

toán chi ngân sách nhà nước được giao hàng năm và các nguồn kinh phí hợp pháp khác.

Về tình hình thực hiện Quy hoạch phát thanh, truyền hình đối ngoại đến năm

2020. Đối với kênh truyền hình đối ngoại quốc gia, theo Quy hoạch phát thanh truyền

hình đối ngoại đến năm 2015, từng bước hình thành 01 kênh truyền hình đối ngoại

quốc gia với thời lượng tự sản xuất tối thiểu 8giờ/ngày phục vụ nhiệm vụ đối ngoại;

sau năm 2015 thay thế bằng kênh VTV World, định hướng phát triển kênh truyền

hình đối ngoại bằng tiếng nước ngoài với chất lượng quốc tế. Hiện nay, Đài Truyền

hình Việt Nam chưa triển khai đề án nâng cấp kênh VTV4 thành kênh truyền hình đối

ngoại quốc gia VTV World. Thời lượng sản xuất mới đến nay chỉ đạt 3giờ/ngày;

trong đó, phát mới 1 lần và phát lại 2 lần/ngày, còn lại khai thác các kênh chương

trình sản xuất trong nước bù vào thời lượng kênh trống. Như vậy, so với Quy hoạch,

thời lượng sản xuất mới đạt tối thiểu 8giờ/ngày.

Theo Quy hoạch phát thanh, truyền hình đối ngoại đến năm 2020, kênh VTC10

sẽ trở thành kênh chương trình truyền hình phục vụ cộng đồng người Việt Nam ở nước

ngoài. Hiện Kênh VTC10 được phát 8giờ/ngày, trong đó ½ thời lượng (4giờ) là các

chương trình do Nhà nước đặt hàng thực hiện nhiệm vụ thông tin đối ngoại và đang

được đưa vào hạ tầng của 46 đối tác với khoảng 50 triệu thuê bao tại 31 quốc gia và

vùng lãnh thổ trên thế giới.

Kênh Truyền hình Thông tấn xã Việt Nam, theo quy hoạch là một trong những

cơ quan phát thanh, truyền hình thực hiện nhiệm vụ thông tin đối ngoại phục vụ từng

đối tượng, địa bàn cụ thể.

Quy hoạch mạng lưới đại diện của các cơ quan thông tấn, báo chí Việt Nam ở

nước ngoài đến năm 2020 của một số cơ quan báo chí chủ lực. Hiện tại, các cơ quan

báo chí đã mở 53 văn phòng thường trú tại nước ngoài, cụ thể: Đài Truyền hình Việt

Nam mở 09 văn phòng thường trú tại nước ngoài; Đài Tiếng nói Việt Nam mở 10 văn

phòng thường trú, Báo Nhân dân mở 4 văn phòng thường trú và Thông tấn xã Việt

75

Nam mở 30 văn phòng thường trú. Các cơ quan báo chí thực hiện đúng “Quy hoạch

mạng lưới đại diện của các cơ quan thông tấn, báo chí Việt Nam ở nước ngoài đến

năm 2020”, tập trung vào các nước láng giềng, các nước ASEAN, các nước có phạm

vi ảnh hưởng về kinh tế, chính trị toàn cầu, những nước có đông người Việt Nam sinh

sống, những nước gắn liền với an ninh quốc gia và lợi ích của Việt Nam, điểm nóng và

tập trung lợi ích của các nước lớn. Việc phát triển mạng lưới các cơ quan báo chí, xây

dựng hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại đòi hỏi các chủ thể

quản lý phải có sự thống nhất, do vậy cần chú ý vận dụng lý thuyết hành vi thống nhất

trong quản lý và tổ chức thực hiện của các cơ quan báo chí, làm cho hoạt động của báo

chí đối ngoại thông suốt, hiệu quả.

Hiện nay, Đài Tiếng nói Việt Nam đề xuất mở thêm văn phòng thường trú ở

một số nước không thuộc Quy hoạch; Thông tấn xã Việt Nam đề xuất nâng cấp một số

văn phòng thường trú thành cơ quan thường trú khu vực. Về việc này, Bộ Thông tin và

Truyền thông đã có các công văn số 2259/BTTTT-TTĐN ngày 06 tháng 7 năm 2016

về việc Đài Tiếng nói Việt Nam xin lập cơ quan thường trú tại Ôxtrâylia và công văn

số 3667/BTTTT-TTĐN ngày 18 tháng 10 năm 2016 về việc Thông tấn xã Việt Nam

mở Cơ quan thường trú khu vực, trong đó nêu rõ quan điểm không mở thêm các văn

phòng thường trú đối với các nước không nằm trong Quy hoạch.

Bên cạnh đó, việc quy hoạch mạng lưới đại diện của các cơ quan thông tấn, báo

chí Việt Nam ở nước ngoài đến năm 2020. Cụ thể Đài Truyền hình Việt Nam hiện có 9

Văn phòng thường trú đang hoạt động tại 9 quốc gia và các địa bàn quan trọng trên thế

giới. Trong quá trình hoạt động, Đài Truyền hình Việt Nam tại nước ngoài đã đảm bảo

công tác chuyên môn; kịp thời phản ánh các sự kiện, chính sách, vấn đề chính trị, kinh

tế, xã hội, văn hóa của các nước thuộc khu vực do văn phòng thường trú đảm nhiệm;

bình luận theo quan điểm chính thống của Việt Nam về quan hệ giữa Việt Nam với các

nước đó, các hoạt động đối ngoại của Việt Nam và hoạt động của cộng đồng người Việt

Nam tại các đại diện văn phòng thường trú phụ trách; đóng góp tích cực và hiệu quả vào

công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại. Đài Tiếng Nói Việt Nam đã thành lập và đưa

vào hoạt động 10 Văn phòng thường trú nước ngoài tại Liên Bang Nga, Cộng hoà Pháp,

Thái Lan, Trung Quốc, Ai Cập, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Lào, Cămpuchia và Cộng hòa Séc.

Các cơ quan thường trú của Đài sau khi đi vào hoạt động đã phát huy hiệu quả cao. Chất

lượng tin, bài phản ánh kịp thời và chính xác những sự kiện của Việt Nam tại nước sở

76

tại. Thông tấn xã Việt Nam là đơn vị chủ lực trong mạng lưới đại diện của các cơ quan

báo chí Việt Nam ở nước ngoài, tham gia tích cực vào hoạt động thông tin đối ngoại;

cung cấp thông tin bằng các loại hình cho các cơ quan thông tin đại chúng ra nước ngoài

cho công chúng cả người Việt Nam và nước ngoài.

Cùng với việc xây dựng chiến lược phát triển báo chí đối ngoại, kết quả khảo

sát ý kiến của các khách thể về quản lý xây dựng, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chiến

lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển báo chí đối ngoại của các khách thể được thể

Tỷ lệ %

100

0

0

5,2

7,5

12,4

16,3

27,9

34

80

31,3

32

39,4

37

60

40

72,1

66

63,5

60,5

48,2

46,7

20

0

ND1

ND2

ND3

ND4

ND5

ND6

Tốt

Khá

Trung bình

hiện qua biểu đồ sau:

Ghi chú:

ND1: Quản lý xây dựng và định hướng, chiến lược phát triển các cơ quan báo chí đối ngoại ND2: Quản lý việc xây dựng kế hoạch phát triển báo chí đối ngoại ND3: Quản lý cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ các cơ quan báo chí đối ngoại ND4: Quản lý việc quy hoạch, sắp xếp hệ thống các cơ quan báo chí đối ngoại ND5: Quản lý việc phân công, phối hợp trong chỉ đạo các cơ quan báo chí đối ngoại ND6: Quản lý sự hiệp đồng phối hợp giữa các cơ quan báo chí đối ngoại

Biểu đồ 2.3. Quản lý việc xây dựng, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chiến lược,

quy hoạch, kế hoạch phát triển báo chí đối ngoại (Nguồn: Kết quả khảo sát năm 2018)

Kết quả khảo sát cho thấy việc thực hiện “Quản lý xây dựng và định hướng,

chiến lược phát triển các cơ quan báo chí đối ngoại” nổi trội với 72,1% ý kiến đánh

giá ở mức tốt và 27,9% ý kiến đánh giá ở mức trung bình. Bên cạnh đó, kết quả khảo

sát việc thực hiện “Quản lý cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ các cơ quan báo chí

đối ngoại” với 66% ý kiến ở mức tốt và 34% ý kiến khẳng định hiệu quả quản lý báo

chí đối ngoại ở mức khá. Hai công việc này không có ý kiến đánh giá ở mức trung

bình. Do đó việc thực hiện sự chỉ đạo quy hoạch phát triển hệ thống báo chí đối ngoại

đang được thực hiện tương đối hiệu quả. Minh họa ý kiến về những thành tích như

77

trên, lãnh đạo cục Thông tin đối ngoại – Bộ Thông tin và Truyền thông nhận định:

“Cho đến năm 2020 VTV4 sẽ trở thành kênh truyền h nh đối ngoại quốc gia, tỷ lệ

phát lại là bao nhiêu đều có quy định ở trong quy hoạch. Ngoài ra còn có kênh truyền

h nh đối ngoại dành cho cộng đồng người Việt ở nước ngoài là kênh VTC 10 của đài

truyền hình VTC, có kênh của Đài tiếng nói Việt Nam – VOV5 dành cho đồng bào

Việt Nam ở xa tổ quốc. Đấy là về báo nói, báo hình, báo viết có Vietnamnews,

Vietnamplus, bản tiếng Anh, Báo ảnh của Thông tấn xã Việt Nam” (Phụ lục 4 – B1).

Ngược lại, các công việc “Quản lý việc phân công, phối hợp trong chỉ đạo các

cơ quan báo chí đối ngoại” với 48,2% đánh giá ở mức tốt, 12,4% ý kiến đánh giá kết

quả thực hiện ở mức trung bình. Công việc “Quản lý sự hiệp đồng phối hợp giữa các

cơ quan báo chí đối ngoại” với 46,6% ý kiến đánh giá kết quả ở mức tốt, trong khi đó

kết quả đánh giá ở mức trung bình với 16,3% ý kiến. Trên thực tế, việc phân công phối

hợp trong quản lý chỉ đạo thực hiện báo chí đối ngoại giữa các cơ quan quản lý ở Trung

ương cũng như giữa Trung ương với địa phương, giữa các cơ quan quản lý báo chí đối

ngoại chưa có sự phối hợp hiệp đồng chặt chẽ, làm cho việc cung cấp thông tin cho các

cơ quan quản lý chỉ đạo có lúc chưa kịp thời, nhất là trước những vấn đề nhạy cảm. Điều

này còn được chỉ ra trong Công văn số 1075/TTX-BTK của Thông tấn xã Việt Nam

ngày 23 tháng 11 năm 2018. Minh họa ý kiến về quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại

tại Thông Tấn xã Việt Nam, lãnh đạo ban biên tập tin đối ngoại, chỉ ra: “Ngày 13 tháng

12 năm 2016, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 2434/QĐ-TTg phê duyệt Qui

hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Qui hoạch

đặt mục tiêu phát triển 1 báo điện tử đối ngoại và một số tờ báo in, tạp chí đối ngoại

chuyên biệt, chủ lực, có tầm cỡ khu vực và thế giới. Đặc biệt, ngoài việc được xác định

là cơ quan báo chí đối ngoại chủ lực quốc gia, Thông Tấn xã Việt Nam được giao nhiệm

vụ đề xuất, phát triển các báo, tạp chí in và báo điện tử nói trên, cũng như hỗ trợ các

đơn vị khác để làm lực lượng bổ sung. Để triển khai nhanh chóng và có hiệu quả Quy

hoạch, chúng tôi đề xuất Đảng và Nhà nước quan tâm xây dựng, hoàn thiện các cơ chế,

chính sách, cũng như tập trung đầu tư nguồn lực thích đáng để tạo điều kiện cho Thông

Tấn xã Việt Nam làm nòng cốt cho lực lượng báo chí đối ngoại quốc gia, đồng thời phục

vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước” (Phụ lục 5 - M1).

Có thể khẳng định việc quản lý xây dựng, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chiến

lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển báo chí đối ngoại ở công việc xây dựng và định

78

hướng, chiến lược phát triển các cơ quan báo chí đối ngoại và quản lý cơ cấu tổ chức,

chức năng, nhiệm vụ các cơ quan báo chí đối ngoại đang được thực hiện khá hiệu quả,

đồng thời cần chú trọng nâng cao hiệu quả quản lý việc phân công, phối hợp trong chỉ

đạo các cơ quan báo chí đối ngoại và hiệu quả quản lý sự hiệp đồng phối hợp giữa các

cơ quan báo chí đối ngoại.

Thứ hai, trong ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật

về báo chí; xây dựng chế độ, chính sách về báo chí đối ngoại.

Nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển và nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà

nước về báo chí đối ngoại, ngày 2 tháng 3 năm 2005 Bộ Chính trị đã ban hành Thông

báo số 162-TB/TW về “Một số biện pháp tăng cường quản lý báo chí trong tình hình

hiện nay”, Thông báo kết luận số 41-TB/TW ngày 11 tháng 10 năm 2006 của Bộ

Chính trị về một số biện pháp tăng cường lãnh đạo và quản lý báo chí. Từ sự chỉ đạo

của Trung ương, ngày 29 tháng 11 năm 2006 Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị

số 37/2006/CT-TTg về việc thực hiện kết luận của Bộ Chính trị về một số biện pháp

tăng cường lãnh đạo và quản lý báo chí. Tiếp đó, ngày 30 tháng 3 năm 2007, Bộ Chính

trị ban hành Thông báo Kết luận số 68-TB/TW tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của

Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với báo chí và đến ngày 9 tháng 5 năm 2007, Ban

Bí thư ban hành Kế hoạch 03-KH/TW, trong đó chỉ rõ một số biện pháp nhằm thực

hiện Thông báo kết luận 68-TB/TW. Điều đó chứng tỏ Đảng luôn chỉ đạo sát sao với

công tác báo chí nói chung và báo chí đối ngoại nói riêng.

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về báo chí được xây dựng tương đối bộ

và toàn diện. Ngày 2 tháng 12 năm 2008 của Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban

hành Quyết định số 52/2008/QĐ-BTTTT về việc ban hành Quy chế xác định nguồn tin

trên báo chí. Ngày 28 tháng 8 năm 2008, Chính phủ đã ban hành Nghị định số

97/2008/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin điện tử

trên internet. Ngày 18 tháng 12 năm 2008, Bộ Thông tin và Truyền thông ban hành

Thông tư số 07/2008/TT-BTTTT hướng dẫn một số nội dung về hoạt động cung cấp

thông tin trên trang điện tử cá nhân trong Nghị định số 97/2008/NĐ-CP. Tiếp đến,

ngày 20 tháng 3 năm 2009, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số

28/2009/NĐ-CP về quy định xử phạt hành chính trong quản lý, cung cấp, sử dụng dịch

vụ internet và thông tin điện tử trên internet. Ngày 30 tháng 11 năm 2010, Thủ tướng

Chính phủ đã ban hành Quy chế quản lý nhà nước về thông tin đối ngoại theo Quyết định

79

số 79/2010/QĐ-TTg. Ngày 12 tháng 11 năm 2013 Chính phủ đã ban hành Nghị định số

159/2013/NĐ-CP Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí, xuất

bản. Tiếp đó ngày 5 tháng 8 năm 2014, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành văn

bản số 2204/BTTTT-CBC đề nghị các Bộ, ngành, đoàn thể, Ủy ban nhân dân các tỉnh,

thành phố trực thuộc Trung ương và các cơ quan báo chí tổ chức tổng kết 15 năm thi

hành Luật Báo chí và ngày 7 tháng 9 năm 2015, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị

định số 72/2015/NĐ-CP về quản lý hoạt động thông tin đối ngoại. Trong đó xác định rõ

trách nhiệm quản lý hoạt động thông tin đối ngoại của Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ

Ngoại giao, Bộ Công an, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và một số Bộ có liên quan.

Ngày 26 tháng 12 năm 2016 Bộ Thông tin và Truyền thông ban hành Thông tư

số 38/2016/TT-BTTTT, quy định chi tiết các nguyên tắc, biện pháp và cơ chế phối hợp

xử lý thông tin vi phạm trên mạng. Gần đây nhất, Bộ Thông tin và Truyền thông ban

hành Dự thảo Thông tư hướng dẫn về quản lý hoạt động thông tin đối ngoại của các Bộ,

cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ ngày 21 tháng 11, trong đó quy định rõ

trách nhiệm của các Bộ, trách nhiệm của cơ quan chuyên môn đầu mối về thông tin đối

ngoại của các Bộ. Theo Dự thảo, các bộ, cơ quan có trách nhiệm xây dựng kế hoạch

xuất bản, phát hành xuất bản phẩm đối ngoại nhằm cung cấp thông tin chính thức về

Việt Nam, quảng bá hình ảnh Việt Nam tới cộng đồng quốc tế và người Việt Nam ở

nước ngoài. Khi tổ chức các hoạt động sự kiện ở nước ngoài, các bộ, cơ quan có trách

nhiệm phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông và các cơ quan liên quan để thực

hiện tốt các hoạt động của công tác quản lý báo chí đối ngoại. Các nội dung quản lý theo

Dự thảo gồm quản lý thông tin chính thức về Việt Nam, quảng bá hình ảnh Việt Nam.

Trong việc quản lý ban hành các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến

báo chí đối ngoại, Bộ Thông tin và Truyền thông đã trình Thủ tướng Chính phủ ký ban

hành: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1378/QĐ-TTg ngày 12 tháng 8

năm 2013 phê duyệt quy hoạch mạng lưới đại diện của các cơ quan thông tấn, báo chí

Việt Nam ở nước ngoài đến năm 2020 (Quyết định số 32/QĐ-TTg ngày 09 tháng 1

năm 2018); Kế hoạch tuyên truyền về quan hệ hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn

diện Việt Nam - Campuchia trong tình hình mới (Quyết định số 70/QĐ-TTg ngày 13

tháng 11 năm 2018). Bên cạnh đó, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành Kế

hoạch thông tin đối ngoại năm 2018 (Quyết định số 105/QĐ-BTTTT ngày 10 tháng 4

năm 2018); Quyết định Ban hành quy chế quản lý thống nhất hoạt động đối ngoại của

Bộ Thông tin và Truyền thông, số 1191/QĐ-BTTTT, ngày 17 tháng 7 năm 2018.

80

Tới nay, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành một số văn bản có liên

quan đến việc hướng dẫn quản lý hoạt động báo chí đối ngoại của các tỉnh, thành phố

trực thuộc Trung ương. Các văn bản trên đều chỉ ra việc quản lý báo chí đối ngoại trên

nhiều phương diện. Tuy nhiên, hoạt động quản lý hướng đến các khía cạnh về xây

dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, tổ chức thực hiện, sửa đổi, bổ sung

các văn bản quản lý báo chí đối ngoại, xây dựng và thực hiện chế độ, chính sách về tài

chính, con người, cơ sở vật chất cho cơ quan báo chí, tập huấn triển khai nội dung các

văn bản pháp luật cho cán bộ quản lý và đề xuất, kiến nghị, xây dựng văn bản liên

quan đến báo chí đối ngoại.

Kết quả khảo sát thực trạng quản lý việc ban hành và tổ chức thực hiện các văn

bản quy phạm pháp luật về báo chí, xây dựng chế độ, chính sách về báo chí đối ngoại

Tỷ lệ %

100

0

3,8

5,2

6,4

13,2

17,5

34,8

80

32,9

44

41,8

38,8

35,4

60

40

65,2

60,7

53

52,2

48

47,1

20

0

ND3

ND4

ND1

ND2

ND5

ND6

Tốt

Khá

Trung bình

thể hiện qua biểu đồ sau:

Ghi chú: ND1: Quản lý việc phối hợp xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực báo chí đối ngoại ND2: Quản lý việc tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, sự chỉ đạo về báo chí đối ngoại ND3: Quản lý việc sửa đổi, bổ sung các văn bản quản lý báo chí đối ngoại ND4: Quản lý việc xây dựng và thực hiện chế độ, chính sách về tài chính, con người, cơ sở vật chất cho hoạt động báo chí đối ngoại ND5: Tập huấn triển khai nội dung các văn bản pháp luật cho cán bộ quản lý báo chí đối ngoại ND6: Đề xuất, kiến nghị, xây dựng văn bản liên quan đến quản lý nhà nước đối với báo chí đối ngoại

Biểu đồ 2.4. Quản lý việc ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về báo chí, xây dựng chế độ, chính sách về báo chí đối ngoại

(Nguồn: Kết quả khảo sát năm 2018) Từ thực trạng khảo sát như trên chỉ ra việc “Đề xuất, kiến nghị, xây dựng văn

bản liên quan đến quản lý nhà nước đối với báo chí đối ngoại” đang được triển khai

khá tốt, với 65,2% ý kiến đánh giá ở mức tốt và 34,8% ý kiến đánh giá ở mức khá. Bên

cạnh đó hiệu quả “Quản lý việc phối hợp xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm

81

pháp luật trong lĩnh vực báo chí đối ngoại” với 60,7% ý kiến ở mức khá, song vẫn còn

6,4% ý kiến đánh giá ở mức trung bình. Lãnh đạo Ban Đối ngoại của Đài Tiếng nói

Việt Nam cho rằng “Đối với với Thông tin đối ngoại, tiêu chí đầu tiên của chúng tôi

phải là thông tin an toàn, độ an toàn cao nhất có thể và đúng định hướng thông tin

bên cạnh những tiêu chí khác như hấp dẫn, nhanh nhạy”.Hoạt động báo chí đối ngoại

trong thời gian vừa qua ít mắc những sai sót nghiêm trọng phải xử lý kỷ luật, có được

điều này chủ yếu là do bản thân cán bộ báo chí đối ngoại luôn ý thức khá rõ về trách

nhiệm chính trị, cán bộ quản lý báo chí luôn ý thức được tôn chỉ, mục đích của tờ báo

được xuất bản, do vậy những kết quả như trên là có căn cứ thực tiễn.

Bên cạnh các công việc trên được thực hiện khá hiệu quả thì việc “Quản lý việc

sửa đổi, bổ sung các văn bản quản lý báo chí đối ngoại” và “Quản lý việc xây dựng và

thực hiện chế độ, chính sách về tài chính, con người, cơ sở vật chất cho hoạt động báo chí

đối ngoại” tuy đáp ứng được một số yêu cầu thực tiễn đặt ra nhưng vẫn còn số lượng khá

lớn ý kiến đánh giá ở mức trung bình, trong đó quản lý việc thực hiện chế độ chính sách

về tài chính, cơ sở vật chất có tới 17,5% ý kiến đánh giá ở mức trung bình. Tại Báo cáo

kết quả kiểm tra các Quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại và Quy hoạch mạng lưới đại

diện của các cơ quan thông tấn, báo chí Việt Nam ở nước ngoài, số 01/BC-BTTTT, ngày

7 tháng 1 năm 2019 chỉ ra trong khó khăn, tồn tại: “Việc phát hành báo ra nước ngoài rất

khó khăn do cước phí tăng cao, kinh phí nhà nước cấp có hạn, doanh thu từ quảng cáo,

phát hành báo của đơn vị rất thấp nên báo buộc phải cắt giảm số lượng địa chỉ nhận báo ở

nước ngoài” [43, tr.2]. Báo cáo của Thông Tấn xã Việt Nam, số 1075/TTX-BTK về tình

hình triển khai Quy hoạch báo chí đối ngoại và Quy hoạch mạng lưới đại diện cơ quan

thông tấn ở nước ngoài cũng chỉ ra khó khăn tương tự ở đội ngũ cán bộ báo chí: “Mức

sinh hoạt phí mà phóng viên thường trú nước ngoài được hưởng chưa tăng kịp với sinh

hoạt phí ở các địa bàn, khiến đời sống của phóng viên và gia đình gặp khó khăn” [139].

Trước những kết quả đạt được về đề xuất, kiến nghị, xây dựng văn bản liên

quan đến quản lý nhà nước đối với báo chí đối ngoại làm cho việc quy hoạch và quản

lý báo chí đối ngoại có sự phát triển ổn định, song kết quả về xây dựng và thực hiện

chế độ, chính sách về tài chính, con người, cơ sở vật chất cho hoạt động báo chí đối

ngoại hiện đang gặp những khó khăn nhất định cả về điều kiện vật chất phục vụ cho

hoạt động báo chí cũng như quản lý nhà nước đối với báo chí đối ngoại, nguồn kinh

phí cho hoạt động tác nghiệp củc cán bộ báo chí cần được bổ sung.

82

Thứ ba, trong tổ chức thông tin và quản lý thông tin của báo chí đối ngoại.

Công tác quản lý tổ chức thông tin và quản lý thông tin báo chí đối ngoại được

thực hiện thường xuyên, liên tục, kịp thời nhằm giải quyết tốt các yêu cầu của thực

tiễn. Việc quản lý thông tin báo chí đối ngoại được kiểm soát chặt chẽ, sát với thực

tiễn hoạt động báo chí, giúp cho cơ quan báo chí báo chí đối ngoại cũng như việc đưa

tin, viết bài của các nhà báo hoạt động đúng với yêu cầu tuyên truyền, giới thiệu hình

ảnh, con người và đất nước Việt Nam ra thế giới, đúng với pháp luật. Các cơ quan

quản lý báo chí thường xuyên tổ chức các cuộc họp giao ban hằng tháng, nội dung các

cuộc họp tập trung vào việc phát triển báo chí đối ngoại, quản lý chặt chẽ việc tổ chức

thông tin và cung cấp thông tin cho các cơ quan báo chí đối ngoại. Mặt khác, các hoạt

động quản lý cũng chỉ ra định hướng cho báo chí tích cực tuyên truyền các chủ trương

của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội.

Bên cạnh đó, Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương

tích cực tổ chức thông tin trên các báo, đài phát thanh, đài truyền hình, nhất là việc quản

lý định hướng thông tin liên quan các lĩnh vực và các vấn đề quan trọng. Trong đó chú

trọng quản lý việc tổ chức thông tin về các sự kiện và vụ việc phức tạp, nhạy cảm, chỉ đạo

báo chí đối ngoại tích cực tham gia vào công tác đấu tranh vạch trần luận điệu vu cáo,

xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, các vụ việc liên quan đến tôn giáo, dân chủ,

nhân quyền nhằm giúp cộng đồng quốc tế hiểu đúng về đường lối, chủ trương của Đảng

cũng như sự ủng hộ của quốc tế với những chính sách đúng đắn trong xây dựng và phát

triển đất nước của Việt Nam thời gian qua cũng như trong các giai đoạn tiếp theo.

Ngày 9 tháng 2 năm 2017 Chính phủ đa ban hành Nghị định số 09/2017/NĐ-CP

quy định chi tiết việc phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí của các cơ quan

hành chính nhà nước [47]. Nghị định định hướng việc phát ngôn và cung cấp thông tin

cho báo chí của các bộ, ngành, địa phương trong đó có việc cung cấp thông tin cho báo

chí đối ngoại rõ ràng, tạo cơ hội cho báo chí đối ngoại tiếp cận và có đầy đủ thông tin

để phục vụ cho việc thông tin ra bên ngoài chính xác, khách quan, trung thực. Từ đó

làm cho người dân ở các nước kịp thời nắm bắt được những thông tin về tình hình ở

Việt Nam. Hiện nay, các cuộc họp giao ban hàng tháng của các cơ quan quản lý báo

chí đối ngoại ở trung ương đều mời các đại diện của các cơ quan báo chí đối ngoại ở

địa phương đến dự họp, nhất là khi có các sự kiện chính trị lớn, các vấn đề được dư

luận nước ngoài quan tâm.

Tỷ lệ %

100

0

6,3

6,8

7,1

8,4

14,8

34,4

80

31,5

29,8

35,6

39,2

34,2

60

40

65,6

62,2

61,8

57,3

54

51

20

0

ND1

ND2

ND3

ND4

ND5

ND6

Tốt

Khá

Trung bình

83

Ghi chú: ND 1: Quản lý hoạt động tổ chức nội dung thông tin và đổi mới nội dung báo chí đối ngoại ND 2: Quản lý cách thức tổ chức sản xuất, qui trình và hình thức của sản phẩm báo chí đối ngoại ND 3: Quản lý việc thông tin về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đến cộng đồng người Việt Nam ở

nước ngoài, cộng đồng quốc tế; quảng bá hình ảnh đất nước, con người, văn hóa Việt Nam

ND 4: Quản lý hình thức, cách thức, phương pháp cung cấp thông tin chính thống, thông tin của các tờ báo phục

vụ đối ngoại thông qua truyền thông xã hội

ND 5: Quản lý việc khai thác, sử dụng tin, bài, chi tiết, hình ảnh ND 6: Xác định đối tượng thông tin của báo chí đối ngoại có trọng tâm, trọng điểm nhất, các nước láng giềng,

các nước lớn, người Việt Nam ở nước ngoài, giới trẻ

Biểu đồ 2.5. Quản lý tổ chức thông tin và quản lý thông tin của báo chí đối ngoại

(Nguồn: Kết quả khảo sát năm 2018)

Qua số liệu ở biểu đồ 2.5 chỉ ra các công việc liên quan đến quản lý tổ chức

thông tin và quản lý thông tin của báo chí đối ngoại đều được thực hiện tương đối hiệu

quả, trong đó mức tốt ở các công việc đều có trên 50% ý kiến đánh giá.

Công việc được khẳng định có hiệu quả rõ nhất là “Quản lý việc thông tin về chủ

trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đến cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài,

cộng đồng quốc tế; quảng bá hình ảnh đất nước, con người, văn hóa Việt Nam” với

65,6% ý kiến đánh giá ở mức tốt, 34,4% ý kiến đánh giá ở mức khá, không có ý kiến

đánh giá ở mức trung bình. Phó Ban Đối ngoại của Đài Tiếng nói Việt Nam cho biết:

“Ban Đối ngoại của Đài Tiếng nói Việt Nam là một trong những binh chủng thông tin

đối ngoại của Đảng và Nhà nước, Ban Đối ngoại cũng như kênh VTV4 hay là một số tờ

báo đối ngoại khác đều thực hiện theo sự quản lý của Bộ thông tin và truyền thông và

cao hơn nữa về mặt định hướng tư tưởng chính trị là Ban Tuyên giáo Trung ương. V

vậy, tiêu chí hàng đầu của chúng tôi làm đúng tôn chỉ mục đích mà Đảng và Nhà nước

giao phó. Làm báo đối ngoại là đưa cái hay cái đẹp của đất nước con người Việt Nam

84

để thông qua giới thiệu của mình thế giới hiểu hơn về văn hoá, đất nước, con người Việt

Nam, từ đó họ ủng hộ Việt Nam”. Có được kết quả như trên là nhờ sự quan tâm chỉ đạo

tích cực ngay từ khâu tiếp nhận tin bài được kiểm duyệt chặt chẽ, đảm bảo cho báo chí

đối ngoại thể hiện rõ tôn chỉ, mục đích, đúng quan điểm, đường lối lãnh đạo của Đảng,

pháp luật của Nhà nước về báo chí đối ngoại, góp phần vào việc xây dựng vị thế, hình

ảnh Việt Nam với thế giới, đồng thời các nội dung thông tin phù hợp với lợi ích quốc

gia, dân tộc, tăng cường quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế giữa Việt Nam và các nước.

Để có được những kết quả đáng khích lệ như trong báo cáo tổng kết về hoạt

động của báo chí đối ngoại trong các năm vừa qua, các công việc “Quản lý cách thức

tổ chức sản xuất, quy trình và hình thức của sản phẩm báo chí đối ngoại” và “Xác định

đối tượng thông tin của báo chí đối ngoại có trọng tâm, trọng điểm nhất, các nước láng

giềng, các nước lớn, người Việt Nam ở nước ngoài, giới trẻ” được quan tâm chỉ đạo

khá sát, song việc sản xuất báo chí đối ngoại đang có những khó khăn về nhiều mặt,

như vấn đề tài chính, vấn đề nguồn nhân lực đáp ứng với yêu cầu trong tình hình mới

của báo chí đối ngoại, nên còn có ý kiến đánh giá ở mức trung bình. Những khó khăn

nêu trên ảnh hưởng không nhỏ đến việc đổi mới nội dung của báo chí đối ngoại, vì vậy

kết quả đánh giá công việc “Quản lý hoạt động tổ chức nội dung thông tin và đổi mới

nội dung báo chí đối ngoại” có tới 14,8% ý kiến đánh giá ở mức trung bình, số ý kiến

đánh giá ở mức khá là 34,2% và số ý kiến đánh giá ở mức tốt chỉ 51%. Đánh giá về kết

quả thực hiện chế độ thông tin, báo cáo, thống kê, lãnh đạo ban biên tập tin đối ngoại –

Thông tấn xã Việt Nam cho rằng: “Hiện hầu hết hoạt động chỉ đạo thông tin được thực

hiện thông qua các cuộc giao ban trong đơn vị. Đây là cơ chế chỉ đạo mang tính xương

sống, xuyên suốt nhằm chỉ đạo và truyền đạt chỉ đạo thông tin từ cấp trên, tiếp nhận ý

kiến đề xuất từ cấp dưới để tham mưu cho lãnh đạo. Chế độ giao ban trong đơn vị bao

gồm giao ban thông tin hàng ngày, giao ban công tác hàng tuần và các cuộc giao ban

đột xuất khi nảy sinh vấn đề cần được giải quyết kịp thời để giữ đúng định hướng thông

tin, ý đồ tuyên truyền. Các cuộc giao ban hàng ngày diễn ra vào 8 giờ sáng với thời gian

không quá 15 phút, gồm Ban phụ trách, các Trợ lý Trưởng Ban, các Trưởng và Phó

Trưởng phòng hoặc Trưởng ca. Nội dung là trao đổi thông tin đầu giờ, dự kiến công

việc thực hiện trong ngày và thống nhất ý kiến về những thông tin quan trọng. Đại diện

các Phòng có trách nhiệm báo cáo kết quả thực hiện thông tin của ngày hôm trước, nắm

bắt và truyền đạt chỉ đạo đầu giờ tới các biên tập viên. Nhìn chung, công tác chỉ đạo cơ

85

bản đáp ứng được yêu cầu, giúp định hướng hoạt động sản xuất thông tin hàng ngày

hoặc theo chuyên đề của Ban Thông tin đối ngoại. Tuy nhiên, cơ chế này đang bộc lộ

một số hạn chế cần được khắc phục trong thời gian tới như còn lúng túng khi xử lý các

chỉ đạo thông tin chồng chéo giữa các cấp lãnh đạo; hoặc bị động khi phát sinh những

vấn đề nhạy cảm vượt quá thẩm quyền xử lý của Ban Phụ trách” (Phụ lục 5 - M1).

Những kết quả như trên chỉ ra thực trạng chung trong việc quản lý tổ chức

thông tin và quản lý thông tin của báo chí đối ngoại đã đáp ứng được những yêu cầu

theo đúng định hướng của Đảng đối với báo chí cách mạng, song cần có sự đổi mới để

tạo sự hấp dẫn, sinh động cho độc giả, nhằm thu hút ngày càng nhiều đối tượng theo

dõi, góp phần trực tiếp thực hiện đường lối đối ngoại của nước ta.

Thứ tư, trong đào tạo, bồi dưỡng nâng cao tr nh độ chính trị, nghiệp vụ, đạo đức nghề

nghiệp cho đội ngũ người làm báo của các cơ quan và cán bộ quản lý báo chí đối ngoại.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng trình độ chính trị, chuyên môn và nghiệp vụ, đạo

đức nghề nghiệp cho cán bộ quản lý báo chí và đội ngũ cán bộ làm báo đối ngoại được

các cơ quan chủ quan cũng như Cơ quan quản lý báo chí cao nhất là Bộ Thông tin và

Truyền thông tích cực thực hiện.

Bộ Thông tin và Truyền thông đã chủ trì mở nhiều lớp đào tạo, bồi dưỡng kỹ

năng quản lý cho cán bộ quản lý báo chí đối ngoại; bồi dưỡng kiến thức thi nâng ngạch

cho các phóng viên, biên tập viên. Đồng thời tổ chức các lớp tập huấn ngắn hạn về

quản lý báo chí, kỹ năng phối hợp với các cơ quan báo chí nước ngoài, các tổ chức nội

dung thông tin trên báo chí đối ngoại và cách phổ biến thông tin sao cho đúng đối

tượng phát hành, khảo sát nắm bắt nhu cầu và thị hiếu của độc giả.

Từ sau khi dự án “Đào tạo nâng cao báo chí Việt Nam” do Thụy Điển tài trợ được

thực hiện trong giai đoạn 2010-2013, 2 khoá đào tạo quản lý báo chí, 4 khoá đào tạo

ngắn hạn cơ bản, 2 khoá ngắn hạn nâng cao cho cán bộ quản lý báo chí được đánh giá

cao, trong đó có nhiều cán bộ quản lý báo chí cũng như cán bộ làm báo chí đối ngoại

được trực tiếp tham gia học tập, nghiên cứu. Chỉ tính riêng năm 2013 có hơn 300 lãnh

đạo cơ quan báo chí, phóng viên, biên tập viên được đào tạo nâng cao nghiệp vụ qua

các lớp bồi dưỡng ngắn hạn của Trung tâm đào tạo báo chí của Bộ Thông tin và

Truyền thông, tuy nhiên, dự án cũng kết thúc trong cùng năm. Bên cạnh đó năm 2013,

Bộ Thông tin và Truyền thông đã tổ chức 55 cuộc hội thảo và tập huấn cho lãnh đạo

các cơ quan báo chí trung ương và địa phương phóng viên, biên tập viên, về Quy chế

86

phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí, các hoạt động đưa tin, viết bài thuộc các

lĩnh an ninh, phòng chống các hành vi phạm tội,... nhằm nâng cao kiến thức, kỹ năng

và nghiệp vụ cho cán bộ quản lý báo chí đối ngoại cũng như những người làm báo chí.

Từ năm 2014 đến nay, Cục quản lý báo chí – Bộ Thông tin và Truyền thông đã

tích cực tham gia vào đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng quản lý báo chí cho các bộ quản lý

báo chí, đồng thời chỉ đạo các cơ quan báo chí đối ngoại ở các địa phương cử cán bộ

tham gia đào tạo, tập huấn về kỹ năng, nghiệp vụ quản lý báo chí cũng như quản lý

nghiệp vụ, chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp của người làm báo đối ngoại. Cho đến

nay, về cơ bản đội ngũ cán bộ quản lý báo chí đối ngoại và cán bộ báo chí đối ngoại

được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ báo chí, nâng cao nhận thức

chính trị, trình độ chuyên môn đáp ứng được mặt bằng chung theo các tiêu chuẩn

chung của người làm báo, góp phần quan trọng vào việc đưa tin, viết bài tuyên truyền,

quảng bá, giới thiệu hình ảnh, đất nước, con người, những thành tựu đổi mới của Việt

Nam, cũng như góp phần vào việc đưa đất nước hội nhập với thế giới ngày càng sâu

Tỷ lệ %

100

5,3

8,5

12

14,7

18

23,3

80

37,5

35,5

31,7

39,3

36,2

60

40,7

40

57,2

56

53,6

48,7

45,8

20

36

0

ND1

ND2

ND3

ND4

ND5

ND6

Tốt

Khá

Trung bình

rộng trên các lĩnh vực trọng yếu.

Ghi chú:

ND1: Quản lý việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ làm báo cho cán bộ làm báo và cán bộ

quản lý báo chí đối ngoại

ND2: Quản lý đào tạo, bồi dưỡng về tr nh độ ngoại ngữ cho cán bộ làm báo và cán bộ quản lý báo chí đối ngoại ND3: Quản lý đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị làm báo và cán bộ quản lý báo chí đối ngoại ND4: Quản lý đào tạo, bồi dưỡng tác phong, đạo đức nghề nghiệp của người làm báo và cán bộ quản lý báo chí đối ngoại ND5: Quản lý đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý báo chí đối ngoại cho đội ngũ cán bộ quản lý ND6: Quản lý cơ chế, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ làm báo chí đối ngoại và cho cán bộ quản lý

Biểu đồ 2.6. Quản lý đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ người làm báo của các cơ quan báo chí và cán bộ quản lý báo chí đối ngoại

(Nguồn: Kết quả khảo sát năm 2018)

87

Dễ nhận thấy kết quả đánh giá ở mức tốt giữa các công việc có sự chênh lệch

khá rõ. Cụ thể “Quản lý việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ làm

báo cho cán bộ làm báo và cán bộ quản lý báo chí đối ngoại” số lượng ý kiến đánh giá

ở mức tốt có tỷ lệ cao hơn so với các công việc khác, với 57,2%. Thực chất đây không

phải là kết quả đáp ứng được mong muốn, cán bộ làm báo chí đối ngoại đa phần được

đào tạo đa phần từ chuyên ngành báo chí, nhưng sau khi được tuyển dụng ít được tham

gia các khóa đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ làm báo, có thể được đào tạo trong nước

nhưng với cán bộ báo chí đối ngoại môi trường tác nghiệp, địa bàn, đối tượng thông

tin rất đặc thù cần được đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài nhưng hầu như vấn đề này ít

được chú trọng, cho nên số ý kiến đánh giá ở mức trung bình vẫn chiếm 5,3%. Hơn

nữa, các công việc trên đều cho thấy có các ý kiến đánh giá kết quả thực hiện quản lý

đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho

người làm báo của các cơ quan báo chí và cán bộ quản lý báo chí đối ngoại đều có ý

kiến ở mức trung bình. Đánh giá về những hạn chế như trên đã được Bộ Thông tin và

Truyền thông chỉ ra trong báo cáo kết quả kiểm tra Quy hoạch hệ thống báo chí đối

ngoại năm 2018 chỉ ra nguồn nhân lực làm báo chí đối ngoại còn hạn chế về năng lực

ngoại ngữ cũng như việc đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng làm báo chưa đáp ứng được nhu

cầu thực tế. Đội ngũ cán bộ quản lý báo chí đối ngoại cũng phải được đào tạo về kỹ

năng lãnh đạo, quản lý báo chí chuyên nghiệp hơn.

Về thực trạng “Quản lý đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ luận chính trị làm

báo và cán bộ quản lý báo chí đối ngoại” có kết quả đánh giá mức tốt thấp hơn, với

45,8%, trong khi đó số ý kiến đánh giá kết quả thực hiện ở mức trung bình với 18%.

Trên thực tế việc đào tạo nâng cao trình độ lý luận chính trị cho nhà báo đã được Ban

Bí thư nêu trong Kết luận số 57-KL/TW, ngày 08 tháng 3 năm 2013 về “Tiếp tục đẩy

mạnh côngtác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý các

cấp”, sau đó được Ban Tổ chức Trung ương nêu trong công văn số 4741-CV/BTCTW

về một số vấn đề về đào tạo cao cấp lý luận chính trị chỉ rõ nhà báo khi đi học hệ

không tập trung có thể được đi học trẻ hơn 5 tuổi so với quy định. Tuy nhiên, do điều

kiện tác nghiệp cũng như nguồn lực bổ sung cho cán bộ báo chí đối ngoại cũng như

cán bộ quản lý báo chí còn thiếu nên việc này còn những khó khăn vướng mắc chậm

được khắc phục, điều này cũng ảnh hưởng đến kết quả thực hiện quy hoạch báo chí

đối ngoại đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030. Đánh giá về thực trạng công tác

88

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ báo chí đối ngoại, lãnh đạo quản lý Ban Biên tập tin đối

ngoại khẳng định: “Lực lượng tham gia công tác báo chí đối ngoại bằng tiếng nước

ngoài ở Thông Tấn xã Việt Nam vào hàng mạnh nhất nước nhưng vẫn còn một số hạn

chế nhất định. Số lượng biên tập viên, biên dịch viên còn mỏng do phân tán ở nhiều

đơn vị. Nhân lực của Ban Thông tin đối ngoại – đơn vị chủ lực trong báo chí đối ngoại

bằng tiếng nước ngoài ở Việt Nam – hiện chỉ gồm 67 người. Do thường xuyên có

nhiều cán bộ, BTV nghỉ chế độ thai sản, đi luân chuyển hoặc đi học nghiệp vụ và

chính trị, số người thực chiến còn khoảng 50 người, phân bố tại 5 Phòng. Với sản

lượng hơn 180 đầu tin mỗi ngày (kể cả tin văn bản, tin đồ họa và tin ảnh) cùng 04

bản tin truyền hình với tổng thời lượng 245 phút/tuần, cỗ máy Ban Thông tin đối

ngoại đang hoạt động với công suất cao, có dấu hiệu bị quá tải ở một vài nhánh. Bên

cạnh đó, 2/3 số BTV trong Ban còn non cả về tuổi đời lẫn tuổi nghề, một số hiệu đính

của Ban còn ít kinh nghiệm trong khi chuyên gia nước ngoài lại thiếu hụt. Những tồn

tại này ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng của các sản phẩm thông tin. Để khắc

phục tình trạng này, qua đầu mối là Trung tâm Bồi dưỡng nghiệp vụ Thông tấn,

Thông Tấn xã Việt Nam thường xuyên tổ chức các khóa học nghiệp vụ về mọi loại

h nh thông tin như báo in, báo điện tử, ảnh báo chí, truyền h nh, cũng như các khóa

bồi dưỡng về công tác phóng viên, biên tập và kỹ năng viết tin bài phản bác, phản

biện” (Phụ lục 5 – M1).

Như vậy, công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ báo

chí và cán bộ quản lý báo chí đối ngoại đạt được những kết quả nhất định về chuyên

môn, nghiệp vụ song cũng còn những hạn chế, có thể thấy rõ nhất điều này qua việc

đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị.

Thứ năm, trong đẩy mạnh hợp tác quốc tế về báo chí đối ngoại.

Quản lý báo chí đối ngoại được Bộ Thông tin và Truyền thông luôn coi trọng.

Trong những năm gần đây, hợp tác quốc tế về liên kết với các cơ quan báo chí nước

ngoài, thuê các phóng viên nước ngoài đưa tin, viết bài quảng bá, giới thiệu về đất

nước Việt Nam. Hoạt động này được thực hiện khá sớm với các nước trong khu vực

ASEAN và các nước có mối quan hệ chặt chẽ với Việt Nam như Nga, Nhật Bản, Hàn

Quốc,... Trong năm 2014, Việt Nam đã mời và đón hàng trăm nhà báo, các cơ quan

quản lý báo chí của các nước Lào và Campuchia tham gia viết bài, làm các phóng sự

về Việt Nam, nhân dịp này chúng ta đã tổ chức cho các nhà báo, các cơ quan quản lý

89

báo chí ra Biển Đông tác nghiệp, qua đó lên án các hành vi vi phạm chủ quyền của

Trung Quốc xâm phạm đến vùng biển, lãnh thổ của Việt Nam, qua đó cùng lên án, kêu

gọi cộng đồng quốc tế chung sức lên tiếng phê phán các hành vi vi phạm đó.

Nhằm tăng cường hơn nữa hiệu quả hoạt động quản lý hợp tác về báo chí đối

ngoại, Việt Nam đã cử nhiều đoàn cán bộ quản lý báo chí và cán bộ báo chí tham dự

các khóa bồi dưỡng tại các nước có nền báo chí phát triển, đồng thời Bộ Thông tin và

Truyền thông còn cử các cán bộ quản lý báo chí tham dự các hội thảo khoa học, tọa

đàm về các nội dung liên quan đến quản lý báo chí, các hoạt động liên quan đến kỷ

niệm các ngày lễ lớn ở các nước như Pháp, Anh, Hoa Kỳ, Tây Ban Nha, Hàn Quốc,

Trung quốc,... Ở khu vực Đông Nam Á, các cán bộ quản lý báo chí của Việt Nam và

các đoàn cán bộ quản lý báo của các thường xuyên có các cuộc tiếp xúc qua họp báo,

trao đổi chuyên môn, học tập kinh nghiệm khá thường xuyên. Mặt khác, trước các hoạt

động lớn, Việt Nam cũng thường xuyên mời các nhà báo cũng như các cán bộ quản lý

báo chí đến Việt Nam viết bài, đưa tin, đồng thời có các cuộc trao đổi, tiếp nhằm chia

sẻ kinh nghiệm cũng như tìm hiểu về đất nước, con người, những thành tựu phát triển

của Việt Nam sau hơn 30 năm tiến hành đổi mới. Đây được xem là kênh thông tin rất

hiệu quả để đưa thông tin của nước ta đến với bạn bè quốc tế từ chính công tác tuyên

truyền, viết bài của các nhà báo nước ngoài.

Trong những năm qua, Việt Nam đã tích cực, chủ động cử nhiều đoàn cán bộ

quản lý báo chí tham gia các hội nghị quốc tế về báo chí như Hội thảo truyền thông

Asean, Hội nghị tiểu ban Văn hóa - Thông tin Asean, Hội thảo về triển khai phát thanh

truyền hình số, Hội thảo truyền thông Châu Á,... Mặt khác, các cán bộ quản lý của Bộ

Thông tin và Truyền thông, Ban Tuyên giáo Trung ương đã trực tiếp tham gia các cuộc

đối thoại nhân quyền hàng năm với các bên đối thoại nhân quyền như EU, Nauy, Thụy

Sỹ, Autralia, Hoa Kỳ.

Bên cạnh việc hợp tác quốc tế về báo chí qua mời nhà báo, cán bộ quản lý báo

chí đến Việt Nam, Bộ Thông tin và Truyền thông đã chủ động tổ chức các hoạt động

hợp tác quốc tế về báo chí ở nước ngoài như triển lãm hình ảnh đất nước, con người

Việt Nam qua báo chí tổ chức tại Italia năm 2015, triển lãm ảnh “Việt Nam - đất nước,

con người” do Hiệp hội các nhà báo Nga cùng Hội hữu nghị Nga - Việt, Hội cựu chiến

binh Nga chiến đấu tại Việt Nam và tổ chức Hợp tác quốc tế Nga cùng tổ chức năm

2017, triển lãm ảnh với chủ đề “Việt Nam: Đất nước, con người” do Đại sứ quán Việt

90

Nam phối hợp với nhóm Nghị sĩ hữu nghị Ukraine - Việt Nam và Hội hữu nghị

Ukraine - Việt Nam tổ chức, triển lãm ảnh và tư liệu “Việt Nam đất nước, con người

nhìn từ biển, đảo” diễn ra tại thành phố Mátxcơva, Liên Bang Nga từ ngày 22 tháng11

đến ngày 25 tháng 11 năm 2018, đồng thời tổ chức 5 khóa bồi dưỡng cho đội ngũ

phóng viên, biên tập viên của Lào.

Theo số liệu thống kê của Bộ Ngoại giao, các cơ quan báo chí nước ngoài đã

thiết lập 30 Văn phòng báo chí tại Việt Nam với 35 phóng viên đăng ký thường trú

thường xuyên tại Việt Nam và trung bình hàng năm có khoảng 230 đoàn cán bộ quản

lý báo chí và hơn 1.000 phóng viên nước ngoài đến Việt Nam tác nghiệp. Hiện nước ta

có 5 cơ quan thông tấn, báo chí đã mở cơ quan thường trú ở nước ngoài là Thông tấn

xã Việt Nam, Báo Nhân dân, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam và

Báo Thanh Niên với tổng số 53 cơ quan thường trú. Riêng Thông tấn xã Việt Nam và

Đài Truyền hình Việt Nam có cơ quan thường trú ở cả 5 châu lục với 30 cơ quan

thường trú. Đài Truyền hình Việt Nam và Đài Tiếng nói Việt Nam với cùng 11 cơ

quan thường trú ở nước ngoài. Trong khuôn khổ hợp tác quản lý báo chí với nước

ngoại, tại các sự kiện lớn của nhiều nước, lãnh đạo các cơ quan báo chí Việt Nam đều

cử các nhà báo sang tác nghiệp. Năm 2018, Bộ Thông tin và Truyền thông đã tổ chức 3

lớp đào tạo bồi dưỡng cho các nhà báo Lào và Campuchia. Khẳng định về kết quả hợp

tác quốc tế của Đài Tiếng nói Việt Nam, trong Báo cáo về Kết quả thực hiện quy hoạch

phát thanh, truyền hình đối ngoại đến 2020, tháng 11 năm 2018 đã chỉ rõ: Theo các

thỏa thuận hợp tác giữa ĐàiTiếng nói Việt Nam và các đối tác quốc tế, hàng tháng, Đài

Tiếng nói Việt Nam gửi tin bài, chương trình trao đổi với các đài như Đài Phát thanh

Quốc gia Thái Lan, Hãng thông tấn quốc gia Thái Lan, Đài Phát thanh Gyeonggi của

Hàn Quốc (KFM). Bên cạnh đó, Đài Tiếng nói Việt Nam cũng tham gia dự án Tiếng

nói vượt ASEAN vượt biên giới trong khuôn khổ hợp tác đa phương ASEAN COCI.

Theo đó, Đài Tiếng nói Việt Nam gửi chương trình phát thanh lên thị trường trao đổi

chung với các nước ASEAN và đồng thời khai thác các chương trình của các nước và

phát trên sóng của Đài Tiếng nói Việt Nam.

Nghị định số 88/2012/NĐ-CP ngày 23 tháng 10 năm 2012 của Chính phủ Quy

định về hoạt động thông tin, báo chí của báo chí nước ngoài, cơ quan đại diện nước

ngoài, tổ chức nước ngoài tại Việt Nam, đã được các cơ quan báo chí, cơ quan quản lý

nhà nước về báo chí chủ động thực hiện nghiêm túc.

Tỷ lệ %

100

0

7,2

18,6

23,3

0 26,4

3,3 26,5

37,2

80

29,4

39,7

60

42,5

40

73,6

70,2

63,4

62,8

41,7

20

34,2

0

ND1

ND2

ND3

ND4

ND5

ND6

Tốt

Khá

Trung bình

91

ND1: Hợp tác với các đối tác nước ngoài triển khai các hoạt động báo chí đối ngoại như: mời phóng viên báo chí nước ngoài vào Việt Nam để đưa tin viết, bài, thuê khoán cộng tác viên nước ngoài làm phóng viên và biên tập viên tin phù hợp với các đối tượng; hợp tác với các cơ quan báo chí nước ngoài để viết bài, phóng sự quảng bá hình ảnh Việt Nam

ND2: Quản lý hợp tác sản xuất các loại h nh báo chí đối ngoại ND3: Quản lý hợp tác quốc tế về sản xuất các nội dung các chương tr nh liên kết phù hợp với quy định của pháp

luật Việt Nam và pháp luật nước sở tại

ND4: Phát hành, truyền dẫn, phát sóng sản phẩm báo chí ra nước ngoài; ủy thác cho tổ chức, cá nhân in lại,

truyền dẫn, phát sóng sản phẩm báo chí Việt Nam ở nước ngoài

ND5: Hợp tác trong quản lý nhà báo tác nghiệp ở nước ngoài ND6: Thành lập văn phòng đại diện ở nước ngoài

Ghi chú:

Biểu đồ 2.7. Quản lý hợp tác quốc tế về báo chí đối ngoại

(Nguồn: Kết quả khảo sát năm 2018)

Báo chí đối ngoại có đối tượng phục vụ là người nước ngoài và người Việt Nam

ở nước ngoài, nên phạm vi phát hành là rất lớn, cho nên rất cần có sự hợp tác trong

quản lý hợp tác quốc tế về báo chí, quản lý hoạt động của cơ quan báo chí Việt Nam

liên quan đến nước ngoài và hoạt động của báo chí nước ngoài tại Việt Nam đối ngoại,

chính vì vậy kết quả thực hiện “Quản lý hợp tác quốc tế về sản xuất các nội dung các

chương trình liên kết phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam” và “Hợp tác trong

quản lý nhà báo tác nghiệp ở nước ngoài” là hai công việc đạt được nhiều kết quả đáng

khích lệ với trên 70% ý kiến đánh giá ở mức tốt. Có được kết quả này là do các cán bộ

báo chí được cử đi tác nghiệp ở nước ngoài đều được tập huấn, nghiên cứu các quy

định pháp luật báo chí của nước sở tại nên thực hiện theo quy định khá tốt, nhưng tin

bài, nội dung được đăng tải đảm bảo đúng với chủ trương của Đảng, đúng với quy

định của các nước báo chí đối ngoại phát hành. Khi thành lập các cơ quan báo chí đại

diện ở nước ngoài đã có những cam kết chặt chẽ vì có liên quan đến nhiều chủ thể

quản lý, do vậy kết quả thực hiện “Thành lập văn phòng đại diện ở nước ngoài” cũng

92

đạt được hiệu quả tích cực theo đúng lộ trình quy hoạch báo chí đối ngoại đến năm

2020 và tầm nhìn đến năm 2030 của Thủ tướng Chính phủ và Đề án phát triển một số

báo in và báo điện tử đối ngoại quốc gia của Thông Tấn xã Việt Nam đến năm 2020,

tầm nhìn đến năm 2030.

Sự hợp tác quốc tế về báo chí đối ngoại qua việc mời phóng viên, nhà báo nước

ngoài đến Việt Nam cũng được đẩy mạnh. Chẳng hạn năm 2015 Việt Nam đã đón 204

đoàn gồm 613 phóng viên nước ngoài vào đưa tin, viết bài về Việt Nam; năm 2018 số

lượng phóng viên nước ngoài đến Việt Nam tác nghiệp, đưa tin viết bài có sự tăng

mạnh, thể hiện rõ qua kết quả đánh giá các công việc “Quản lý hợp tác quốc tế về sản

xuất các nội dung các chương trình liên kết phù hợp với quy định của pháp luật Việt

Nam và pháp luật nước sở tại”, “Hợp tác trong quản lý nhà báo tác nghiệp ở nước

ngoài” và “Thành lập văn phòng đại diện ở nước ngoài”. Nhưng khó khăn rất lớn đặt

ra cho các cơ quan báo chí đối ngoại cũng như việc quản lý báo chí đối ngoại là vấn đề

kinh phí, cho nên kết quả hợp tác trong “Quản lý hợp tác sản xuất các loại hình báo chí

đối ngoại” đạt được kết quả không cao, trong đó số ý kiến đánh giá ở mức trung bình

tới 23,3%, số ý kiến đánh giá ở mức tốt là 34,2%. Nói về kết quả hợp tác quốc tế về

báo chí đối ngoại, trong tham luận của Bộ Thông tin và Truyền thông tại Hội nghị toàn

quốc tổng kết công tác báo chí đối ngoại, tuyên truyền biển đảo, phân giới cắm mốc,

quản lý biên giới năm 2018 với chủ đề: Kết quả nổi bật của công tác quản lý nhà nước

về báo chí đối ngoại chỉ rõ: Tổ chức đón các đoàn phóng viên nước ngoài, tạo điều

kiện hỗ trợ các cơ quan thông tấn, báo chí vào đưa tin, viết bài quảng bá về Việt Nam

trên các loại hình thông tin: Đoàn phóng viên AOI Production (Nhật Bản), Đoàn

truyền hình Hanagumi Production (Nhật Bản), Đoàn Phóng viên truyền hình quốc gia

Campuchia; Đoàn truyền hình NHK (Nhật Bản); Đoàn phóng viên của Nga; đón đoàn

nhà báo Lào và Campuchia vào thăm và học tập trao đổi kinh nghiệm quản lý hoạt

động báo chí... (Bộ Thông tin và Truyền thông, 2018).

Như vậy, thực trạng hợp tác quốc tế về quản lý báo chí đối ngoại, hoạt động của cơ

quan báo chí Việt Nam ở nước ngoài và hoạt động của báo chí nước ngoài tại Việt Nam

được tăng cường đẩy mạnh, rõ nhất là trong sản xuất nội dung chương trình và trong quản

lý nhà báo. Tuy nhiên hợp tác về sản xuất các loại hình báo chí chưa đạt kết quả như

mong muốn, nguyên nhân của vấn đề chính là nguồn kinh phí từ ngân sách được cấp có

hạn, chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp của các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại.

93

Thứ sáu, trong chỉ đạo, thực hiện chế độ thông tin, báo cáo, thống kê và công

tác khen thưởng, kỷ luật trong hoạt động báo chí đối ngoại.

Mọi hoạt động thông tin, báo chí của báo chí nước ngoài, cơ quan đại diện nước

ngoài, tổ chức nước ngoài tại Việt Nam luôn có sự quản lý chặt chẽ và phải được sự

chấp thuận của Bộ Thông tin và Truyền thông, đồng thời bản thân các cơ quan báo chí,

các nhà báo nước ngoài tác nghiệp ở Việt Nam luôn phải tuân thủ các nguyên tắc cũng

như pháp luật trong hoạt động báo chí của Việt Nam.

Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đạo các cơ quan báo chí cung cấp thông tin

cho báo chí đối ngoại một cách trực tiếp cho các cơ quan báo chí, phóng viên nước

ngoài và phóng viên Việt Nam ở nước ngoài. Trong đó, Thông Tấn xã Việt Nam là cơ

quan báo chí được chỉ định là cơ quan báo chí cung cấp thông tin cho báo chí đối

ngoại thường xuyên và chủ yếu với nhiều loại hình. Tại các buổi làm việc với các cơ

quan, tổ chức có liên quan của các nước trên thế giới, các đoàn công tác của các cơ

quan báo chí đã tận dụng cơ hội để cung cấp và chia sẻ thông tin về tình hình báo chí

cũng như về tình hình của Việt Nam ra bên ngoài.

Thực hiện Quyết định 368/QĐ-TTg ngày 28 tháng 2 năm 2013 của Thủ tướng

Chính phủ phê duyệt Chương trình hành động của Chính phủ về thông tin đối ngoại

giai đoạn 2013-2020. Năm 2018 Bộ Thông tin và Truyền thông yêu cầu sở thông tin

và truyền thông các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tích cực nâng cao chất

lượng, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về các hoạt động báo chí đối ngoại;

Hướng dẫn xây dựng kế hoạch số 3616/BTTTT-TTĐN ngày 6 tháng 10 năm 2017

của Bộ Thông tin và Truyền thông và đề xuất các giải pháp đổi mới hình thức, nội

dung báo chí đối ngoại, góp phần nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động báo chí

đối ngoại của các tỉnh, thành phố, với trọng tâm tích cực đổi mới, nâng cao hiệu quả

công tác thông tin quảng bá, giới thiệu hình ảnh đất nước, con người Việt Nam ra

nước ngoài. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo, các hoạt động

vì biển đảo.

Triển khai thực hiện Quyết định số 252/QĐ-TTg ngày 17 tháng 2 năm 2016

của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tăng cường công tác thông tin đối ngoại

với Lào trong tình hình mới. Quyết định số 273/QĐ-TTg ngày 6 tháng 3 năm 2018

của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển hệ thống thông tin đối

ngoại khu vực cửa khẩu quốc tế phục vụ nhiệm vụ thông tin đối ngoại đến năm

94

2020, định hướng đến năm 2030, theo hướng tuyên truyền, củng cố mối quan hệ

hữu nghị truyền thống giữa Việt Nam với các nước láng giềng Trung Quốc, Lào,

Campuchia và các nước ASEAN; tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng,

Nhà nước về công tác biên giới, lãnh thổ, ý nghĩa của công tác phân giới, cắm mốc

trên thực địa và nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia. Đấu tranh phản bác các luận

điệu xuyên tạc, lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, chủ quyền biên giới quốc gia

nhằm kích động, chia rẽ tình hữu nghị, hợp tác giữa Việt Nam với Trung Quốc, Lào

và Campuchia.

Về công tác thi đua khen thưởng trong hoạt động báo chí đối ngoại

Cùng với việc chỉ ra những hạn chế trong quản lý chỉ đạo, thực hiện chế độ

thông tin, báo cáo về báo chí đối ngoại, Bộ Thông tin và Truyền thông, Ban Tuyên

giáo Trung ương, Hội Nhà báo Việt Nam đã kịp thời biểu dương các cơ quan báo chí

thực hiện tốt công tác tuyên truyền về các chủ trương, chính sách của Đảng, đường lối

đổi mới, những thành tựu của Việt Nam, những bài viết đấu tranh với luận điệu xuyên

tạc của các thế lực thù địch ra quốc tế

Sau gần 20 năm có Luật Báo chí, Bộ Thông tin và Truyền thông đã xét tặng Cờ

thi đua của Chính phủ, Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, tặng Huân chương lao

động các loại cho hơn 200 cơ quan báo chí cả nước, đồng thời nhiều cá nhân được xét

tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, Huân chương lao động các loại cho hàng trăm cá

nhân là tổng biên tập, phó tổng biên tập. Hàng trăm cơ quan báo chí, phóng viên, biên

tập viên làm báo chí đối ngoại đã được Bộ Thông tin và Truyền thông trao tặng cờ thi

đua, bằng khen. Ngày báo chí cách mạng Việt Nam 21 tháng 6 hàng năm, cùng với các

cơ quan quản lý báo chí, các nhà báo làm việc trong lĩnh vực báo chí đối ngoại ở các

thể loại: báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử được vinh danh. Năm 2017 có 20 tập

thể và 14 cá nhân đạt thành tích xuất sắc trong hoạt động báo chí đối ngoại; tuyên

truyền biển đảo, phân giới cắm mốc và quản lý biên giới trên đất liền được Ban Tuyên

giáo Trung ương tặng bằng khen.

Có thể thấy công tác khen thưởng trong hoạt động báo chí đối ngoại đảm bảo

chính xác, công khai, minh bạch, đúng quy định, thực sự có tác dụng động viên, nêu

gương, qua đó đã góp phần phát hiện những điển hình tiên tiến, các tập thể, cá nhân có

thành tích tiêu biểu để kịp thời biểu dương, khen thưởng, tạo sự lan tỏa trong hoạt

động báo chí đối ngoại cả ở Trung ương và các địa phương.

Tỷ lệ %

100

0

4,2

4,7

5,8

10,5

12,7

28,1

6,3 25,7

38,3

80

31,2

38,5

33,1

36,5

60

40

68

67,2

63

61,7

57,3

56,4

50,8

20

0

ND1

ND2

ND3

ND4

ND5

ND6

ND7

Tốt

Khá

Trung bình

95

Ghi chú:

ND1: Quản lý việc đưa nội dung thông tin bảo đảm tính chính xác, trung thực, khách quan

ND2: Quản lý thực hiện chế độ thông tin, báo cáo định kỳ hàng tháng, hàng quý dưới hình thức văn bản và file

điện tử, theo địa chỉ e-mail

ND3: Chỉ đạo việc ra soát các quy định về chế độ thông tin, báo cáo hoạt động báo chí đối ngoại theo kế hoạch

ND4: Quản lý nội dung báo cáo, có đánh giá về kết quả công việc cũng như chất lượng và tiến độ báo cáo

ND5: Đổi mới công tác quản lý báo chí đối ngoại phù hợp với yêu cầu của tình hình mới và các công tác khác

trong phạm vi quản lý

ND6: Cơ quan báo chí, nhà báo, tổ chức và công dân có thành tích và cống hiến trong hoạt động báo chí được

khen thưởng theo quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng

ND7: Việc xét tặng danh hiệu thi đua, h nh thức khen thưởng được thực hiện công khai, dân chủ, đề nghị theo

trình tự từ cơ sở, chú trọng cá nhân, tập thể có nhiều thành tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ, bảo

đảm đúng đối tượng, tiêu chuẩn

Biểu đồ 2.8. Quản lý chỉ đạo, thực hiện chế độ thông tin, báo cáo, thống kê và

công tác khen thưởng, kỷ luật trong hoạt động báo chí đối ngoại

(Nguồn: Kết quả khảo sát năm 2018)

Trong số các công việc về quản lý, chỉ đạo thực hiện chế độ thông tin, báo cáo,

khen thưởng, kỷ luật trong hoạt động báo chí đối ngoại thì “Quản lý việc đưa nội dung

thông tin bảo đảm tính chính xác, trung thực, khách quan” và “Chỉ đạo việc ra soát các

quy định về chế độ thông tin, báo cáo hoạt động báo chí đối ngoại theo kế hoạch”

được đánh giá nổi trội, với số ý kiến đánh giá ở mức tốt lần lượt là 67,2% và 68%, số ý

kiến đánh giá ở mức trung bình lần lượt là 4,7% và 6,3%. Đây là nội dung có kết quả

thực hiện được đánh giá tương đối cao và trên thực tế báo chí đối ngoại luôn có sự

quản lý về mặt nội dung thông tin rất chặt chẽ, nhằm đảm bảo tính đảng cũng như tính

xác thực của nội dung thông tin. Một số hạn chế chậm được khắc phục cho vấn đề này

chính là nguồn kinh phí, chẳng hạn số lượng báo in của Thông Tấn xã Việt Nam trong

96

những năm qua bị sụt giảm do gặp khó khăn về ngân sách và từ những khó khăn

chung dẫn đến những bất lợi cho việc “Đổi mới công tác quản lý báo chí đối ngoại phù

hợp với yêu cầu của tình hình mới và các công tác khác trong phạm vi quản lý” có tới

12,7% ý kiến đánh giá ở mức trung bình. Nguyên nhân nêu trên được lãnh đạo Biên

tập tin đối ngoại, Thông Tấn xã Việt Nam chỉ ra qua ý kiến phỏng vấn: “Kinh phí đầu

tư cho hoạt động của báo chí đối ngoại trong những năm gần đây không tăng, làm cho

việc đầu tư đổi mới nội dung thông tin, làm cho tiến độ, hiệu quả hoạt động của báo

chí đối ngoại ảnh hưởng không nhỏ. Song yêu cầu quan trọng nhất là việc đảm bảo

tính khách quan, tính trung thực luôn được đảm bảo. Chính vì vậy, báo chí đối ngoại

không xảy ra hiện tượng cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật đến mức chịu thi hành kỷ

luật” (Phụ lục 5 – M1).

Cùng với những kết quả nêu trên, công tác khen thưởng đối với công tác báo

chí đối ngoại được thực hiện theo quy định Nghị định số 91/2017/NĐ – CP, ngày

31/7/2017 của Chính phủ. Năm 2018, có 28 tập thể và 9 cá nhân đã có thành tích xuất

sắc trong hoạt động báo chí đối ngoại tuyên truyền biển, đảo; phân giới cắm mốc, quản

lý biên giới đã được tặng Bằng khen theo Quyết định số 1817-QĐ/BTGTW ngày 24

tháng 12 năm 2018. Năm 2019 có 27 tập thể và 11 cá nhân được tặng bằng khen của

Ban Tuyên Giáo Trung ương, song công tác này theo đa số ý kiến được phỏng vấn cho

rằng cần có sự quan tâm và nhân rộng hơn nữa.

Tóm lại, kết quả thực hiện quản lý chỉ đạo, thực hiện chế độ thông tin, báo

cáo, thống kê và công tác khen thưởng, kỷ luật trong hoạt động báo chí đối ngoại đạt

được nhiều kết quả tích cực về mặt quan điểm, đường lối được đảm bảo, một số hạn

chế như việc chậm đổi mới nội dung, chế độ khen thưởng, nên khó tạo ra đột phá, sự

sáng tạo để thúc đẩy sự phát triển của báo chí đối ngoại trong quá trình hội nhập

quốc tế của đất nước.

2.2.3. Thành tựu phương thức quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại

Những thành tựu về phương thức quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại được

thể hiện qua các điểm sau:

Thứ nhất,quản lýthông qua các công cụ quản lý là các văn bản qui phạm

pháp luật.

Thực trạng phương thức quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại thông qua các

công cụ quản lý là các văn bản qui phạm pháp luật thể hiện qua biểu đồ sau:

76,8

80

72,8

69,6

68

67,2

70

60,8

57,6

60

52

50

Tốt

41,6

37,6

36,8

40

32,8

Khá

30,4

28,8

27,2

30

23,2

TB

20

6,4

10

4,8

3,2

2,4

0

0

0

0

0

PTQL1

PTQL2

PTQL3

PTQL4

PTQL5

PTQL6

PTQL7

PTQL8

97

PTQL1: Việc quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại luôn bám sát theo các quy định của Hiến pháp và pháp luật PTQL2: Quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại luôn xác định rõ các hành vi bị nghiêm cấm trong quản lý nhà

nước về báo chí nói chung và báo chí đối ngoại nói riêng

PTQL3: Quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại luôn đảm bảo thực hiện quyền tự do báo chí của công dân trên

báo chí đối ngoại

PTQL4: Quản lý nhà nước về thực hiện quyền tự do ngôn luận trên báo chí đối ngoại của công dân PTQL5:Quản lý nhà nước về việc thưc hiện các quy định đối với đối tượng được thành lập cơ quan báo chí đối

ngoại

PTQL6: Quản lý chặt chẽ việc cấp giấy phép hoạt động báo chí đối ngoại PTQL7: Việc bổ nhiệm người đứng đầu cơ quan báo chí đối ngoại luôn đảm bảo đầy đủ các tiêu chuẩn theo quy

định của pháp luật báo chí

PTQL8: Quản lý chặt chẽ việc thực hiện cũng cấp thông tin cho báo chí đối ngoại

Ghi chú:

Biểu đồ 2.9. Phương thức quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại thông qua các

công cụ quản lý là các văn bản qui phạm pháp luật

(Nguồn: Kết quả khảo sát năm 2018)

Qua số liệu khảo sát ở biểu đồ trên chỉ ra phương thức quản lý nhà nước về báo

chí đối ngoại thông qua các công cụ quản lý là các văn bản qui phạm pháp luật ở mức

tốt đạt kết quả tương đối cao, với 65,6% ý kiến, ngược lại, số lượng ý kiến đánh giá ở

mức thấp chỉ với 2,1%. Điều này có cơ sở thực tiễn để khẳng định thực trạng quản lý

nhà nước về báo chí đối ngoại qua phương thức là các công cụ quản lý là các văn bản

qui phạm pháp luật đã có những tác động tích cực đến kết quả hoạt động của báo chí

đối ngoại trong thời gian qua cũng như trong những năm tiếp theo.

Trong số các phương thức quản lý thông qua các công cụ quản lý là các văn bản

qui phạm pháp luật “Việc quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại luôn bám sát theo các

quy định của Hiến pháp và pháp luật” với 76,8% ý kiến ở mức tốt và “Quản lý chặt chẽ

việc cấp giấy phép hoạt động báo chí đối ngoại” với 72,8% ý kiến ở mức tốt, đồng thời

không có ý kiến đánh giá kết quả đánh giá các nội dung này ở mức trung bình. Bên cạnh

98

đó, các phương thức quản lý như “Quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại luôn xác định

rõ các hành vi bị nghiêm cấm trong quản lý nhà nước về báo chí nói chung và báo chí

đối ngoại nói riêng” với 69,6% và “Quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại luôn đảm bảo

thực hiện quyền tự do báo chí của công dân trên báo chí đối ngoại” với 67,2% ý kiến

đánh giá ở mức tốt và không có ý kiến đánh giá ở mức trung bình.

Cùng với những phương thức trên, các phương thức khác như “Quản lý nhà

nước về thực hiện quyền tự do ngôn luận trên báo chí đối ngoại của công dân” với

2,4% ý kiến, “Quản lý nhà nước về việc thưc hiện các quy định đối với đối tượng được

thành lập cơ quan báo chí đối ngoại” với 6,4% ý kiến, “Việc bổ nhiệm người đứng đầu

cơ quan báo chí đối ngoại luôn đảm bảo đầy đủ các tiêu chuẩn theo quy định của pháp

luật báo chí” với 3,2% ý kiến và “Quản lý chặt chẽ việc thực hiện cũng cấp thông tin

cho báo chí đối ngoại” với 4,8% ý kiến và đều là những ý kiến đánh giá ở mức trung

bình. Với tỷ lệ ý kiến đánh giá ở mức trung bình khá ít như trên có thể nhận định

phương thức quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại thông qua các công cụ quản lý là

các văn bản qui phạm pháp luật đạt được nhiều kết quả tích cực, luôn đảm bảo được

tôn chỉ, mục đích, song trên thực tế hiện nay số lượng các cơ quan báo chí đối ngoại

cũng như số lượng các tờ báo đối ngoại cả về báo in, báo nói, báo hình và báo điện tử

chưa có sự phát triển mạnh mẽ, nhưng việc quản lý như trên cũng tạo điều kiện để các

báo vừa ổn định vừa có sự phát triển trong các giai đoạn tiếp theo.

Bên cạnh các kết quả khảo sát thực tiễn như trên, các văn bản pháp luật như

Hiến pháp năm 2013, tại Điều 25 khẳng định công dân có quyền tự do báo chí, tiếp

cận thông tin, tuy nhiên việc thực hiện các quyền này đều phải dựa trên các quy định

của pháp luật. Mặt khác, Luật Báo Chí năm 2016 đã nêu lên nhiệm vụ tuyên truyền,

phổ biến, góp phần xây dựng và bảo vệ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,

pháp luật của Nhà nước, thành tựu của đất nước, đồng thời góp phần ổn định chính trị,

phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu văn hóa lành mạnh của

Nhân dân. Bên cạnh đó, với việc ban hành Quy chế quản lý nhà nước về thông tin đối

ngoại (Ban hành kèm theo Quyết định số 79/2010/QĐ-TTg, ngày 30 tháng 11 năm

2010); Thông tư quy định việc đăng, phát nội dung thông tin đối ngoại trên báo chí

ngày 6/5/2019; Nghị định số 72/2015/NĐ-CP về quản lý hoạt động thông tin đối ngoại

ngày 7 tháng 9 năm 2015, và đặc biệt là Quyết định số 2434/QĐ-TTG Phê duyệt quy

hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Đây là

99

văn bản duy nhất đến thời điểm này đề cập trực tiếp đến báo chí đối ngoại. Nhưng dựa

trên hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại góp

phần phát triển hệ thống báo chí đối ngoại đạt được nhiều thành tựu, cho đến nay

không có tình trạng báo chí đối ngoại xuất bản sai mục tiêu, tôn chỉ... những văn bản

pháp luật đảm bảo cho các cơ quan quản lý báo chí đủ thẩm quyền, trách nhiệm trong

việc quản lý báo chí đối ngoại.

65,6

70

64

57,6

60

52,8

48,8

50

44,8

41,6

38,4

Tốt

40

34,4

31,2

Khá

30

TB

20

6,4

5,6

10

4

3,2

1,6

0

PTQL1

PTQL2

PTQL3

PTQL4

PTQL5

Thứ hai, quản lý thông qua các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí.

Ghi chú:

PTQL1: Bộ Thông tin và Truyền thông tích cực chỉ đạo và phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước về báo

chí đối ngoại ở trung ương và các địa phương

PTQL2: Cục Thông tin và Đối ngoại chủ động, tích cực, sâu sát trong quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại

một cách toàn diện

PTQL3: Các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có thể hiện rõ trách nhiệm

trong phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông thực hiện quản lý nhà nước về báo chí

PTQL4: Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thể hiện đầy đủ trách nhiệm

quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại tại địa phương

PTQL5: Các cơ quan quản lý báo chí ở Trung ương thường xuyên có sự chỉ đạo và phối hợp chặt chẽ, thường

xuyên với các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở các địa phương

Biểu đồ 2.10. Phương thức quản lý nhà nhà nước về báo chí đối ngoại thông qua

các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí

(Nguồn: Kết quả khảo sát năm 2018)

Từ thực tiễn biểu đồ trên cho thấy, có 57,8% ý kiến đánh giá phương thức quản lý

nhà nhà nước về báo chí đối ngoại thông qua các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí.

Đây là kết quả khá tích cực trước bối cảnh quản lý báo chí ở nước ta nói chung và báo

chí đối ngoại nói riêng đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức không nhỏ trước sự

tác động của xu hướng thương mại hóa báo chí, làm cho nhiều cơ quan báo chí không

100

giữ vững tôn chỉ, mục đích, chạy theo xu hướng thương mại hóa, trong khi đó với vai trò

là một bộ phận trong công tác tuyên truyền và công tác tư tưởng của Đảng nên phương

thức quản lý này đang được phát huy khá hiệu quả, song vẫn còn 4,2% ý kiến đánh giá ở

mức trung bình. Qua một số ý kiến từ các kết quả phỏng vấn chúng tôi nhận thấy sự chủ

động của các cơ quan quản lý báo chí được cho rằng cơ quan quản lý báo chí có lúc, có

nơi chưa sát sao với việc chỉ đạo phát triển nội dung cũng như đổi mới về hình thức tổ

chức thông tin nên báo chí đối ngoại chưa thực sự hấp dẫn đối tượng phục vụ.

Có thể thấy rõ vai trò chỉ đạo chung của Bộ Thông tin và Truyền thông cũng như

của Cục Thông tin đối ngoại trong quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại qua các đánh

giá “Bộ Thông tin và Truyền thông tích cực chỉ đạo và phối hợp với các cơ quan quản lý

nhà nước về báo chí đối ngoại ở trung ương và các địa phương” với 65,6% và “Cục

Thông tin và Đối ngoại chủ động, tích cực, sâu sát trong quản lý nhà nước về báo chí

đối ngoại một cách toàn diện” với 64% ý kiến ở mức tốt. Ngược lại, ở phương thức

“Các cơ quan quản lý báo chí ở Trung ương thường xuyên có sự chỉ đạo và phối hợp

chặt chẽ, thường xuyên với các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở các

địa phương” với 48,8% ý kiến đánh giá ở mức tốt trong khi đó đánh giá ở mức trung

bình với 6,4% ý kiến. Ngoài việc cơ quan quản lý báo chí đối ngoại chưa thực sự sát

sao với các cơ quan báo chí còn có mặt hạn chế khác đó là sự phối hợp giữa cơ quan

quản lý báo chí đối ngoại ở trung ương và cơ quan quản lý báo chí đối ngoại ở các địa

phương chưa có sự phối hợp nhịp nhàng. Một phần là do hiện nay chưa có những văn

bản chỉ đạo riêng về công tác quản lý nên các cơ quan quản lý chủ yếu dựa vào các

văn bản chỉ đạo chung nên đây cũng là trở ngại đáng kể vì quản lý báo chí đối ngoại

có những đặc thù riêng và địa bàn hoạt động trải rộng ở nhiều quốc gia và vùng lãnh

thổ trên khắp thế giới.

Đánh giá về những khó khăn và thuận lợi nói trên, qua ý kiến phỏng vấn lãnh

đạo Cục thông tin đối ngoại cho rằng: “Thực tế quản lý báo chí đối ngoại ngày

càng khó khăn v địa bàn trải rộng ở 28 quốc gia, việc quản lý không chỉ diễn ra

với cơ quan báo chí mà còn cả với phóng viên, các biên tập viên người nước ngoài,

quản lý về nội dung trên báo chí,... đồng thời chỉ đạo, định hướng cho sự phát triển

của báo chí trước bối cảnh tác động chung của báo chí thế giới đặt ra yêu cầu

quản lý báo chí đối ngoại cần có phương thức phù hợp với yêu cầu hiện nay và

trong tương lai”.

101

Theo Luật Báo chí năm 2016, Bộ Thông tin và Truyền thông là cơ quan

chuyên trách quản lý báo chí nói chung và trực tiếp là Cục Thông tin đối ngoại trực

tiếp chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại. Đây là những cơ quan

quản lý trực tiếp hệ thống các văn phòng đại diện của Đài Truyền hình Việt Nam với

10 văn phòng thường trú ở 10 quốc gia. Năm 2017 Đài Truyền hình Việt Nam đã

thành lập văn phòng đại diện ở Các Tiểu vương quốc Ả rập thống nhất theo văn bản

số 6600/VPCP-QHQT ngày 10/8/2016. Đài Tiếng nói Việt Nam có 10 văn phòng đại

diện và Thông tấn xã Việt Nam có 30 văn phòng đại diện đặt ở 28 quốc gia và báo

Nhân dân có 6 văn phòng thường trú, trong giai đoạn 2026-2030 Báo nhân dân sẽ mở

thêm văn phòng đại diện tại Ấn Độ và Hàn Quốc. Theo báo cáo của Cục Thông tin

đối ngoại các cơ quan báo chí đối ngoại hiện đang hoạt động với hiệu quả khá tích

cực, chất lượng tin bài của các cơ quan thường trú phản ánh kịp thời và chính xác

những sự kiện, tình hình Việt Nam, đảm bảo đúng định hướng tuyên truyền của

Đảng, Nhà nước.

Bên cạnh đó, với vai trò quản lý của mình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh mà trực

tiếp là Sở thông tin và truyền thông các tỉnh có các đài phát thanh, truyền hình phát ra

nước ngoài trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình đang thực hiện tốt trách

nhiệm quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại tại địa phương.

Thứ ba, quản lý thông qua thanh tra, kiểm tra, giám sát và đề xuất khen thưởng,

kỷ luật các hành vi vi phạm pháp luật về báo chí đối ngoại.

Kết quả điều tra, khảo sát về thực trạng phương thức quản lý nhà nước về báo

chí đối ngoại thông qua thanh tra, kiểm tra, giám sát và đề xuất khen thưởng, kỷ luật

80

72,8

67,2

70

63,2

62,4

60

52

48,8

46,4

45,6

50

44,8

43,2

Tốt

36,8

40

34,4

Khá

28,8

27,2

30

TB

20

8,8

5,6

10

4,8

4

3,2

0

0

0

PTQL1

PTQL2

PTQL3

PTQL4

PTQL5

PTQL6

PTQL7

các hành vi vi phạm pháp luật về báo chí đối ngoại thể hiện qua biểu đồ sau:

102

PTQL1: Các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí ở trung ương và các địa phương chủ tr phân tích đánh giá đúc rút kinh nghiệm về nghiệp vụ thanh tra trong lĩnh vực báo chí đối ngoại thuộc phạm vi và địa bàn quản lý

PTQL2: Các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở trung ương và ở các địa phương thường xuyên

kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan báo chí đối ngoại

PTQL3: Các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí ở trung ương và các địa phương xây dựng chương tr nh kế

hoạch công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động của báo chí đối ngoại hàng năm

PTQL4: Các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí ở trung ương và các địa phương chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan để thanh tra kiểm tra việc chấp hành pháp luật đối với các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực báo chí đối ngoại

PTQL5: Phát hiện, áp dụng các biện pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời hoặc kiến nghị với các cơ quan chức năng xử lý đối với các hành vi vi phạm hành chính của các cơ quan, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực báo chí đối ngoại

PTQL6: Các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí ở trung ương và các địa phương chủ trì xử lý các khiếu nại,

tố cáo trong lĩnh vực quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại thuộc phạm vi và địa bàn mình phụ trách

PTQL7: Cơ quan báo chí, nhà báo, tổ chức và công dân có thành tích và cống hiến trong hoạt động báo chí đối

ngoại được khen thưởng theo quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng

Ghi chú:

Biểu đồ 2.11. Phương thức quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại thông qua

thanh tra, kiểm tra, giám sát và đề xuất khen thưởng, kỷ luật các hành vi vi

phạm pháp luật về báo chí đối ngoại

(Nguồn: Kết quả khảo sát năm 2018)

Thực trạng phương thức quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại thông qua

thanh tra, kiểm tra, giám sát và đề xuất khen thưởng, kỷ luật các hành vi vi phạm

pháp luật về báo chí đối ngoại qua kết quả khảo sát chỉ ra 58,7% ý kiến khảo sát ở

mức tốt, đây là kết quả khá cao, song vẫn còn 3,8% ý kiến đánh giá ở mức trung

bình. Sở dĩ có thực trạng trên là do các ý kiến đánh giá cho rằng “Các cơ quan quản

lý nhà nước về báo chí ở trung ương và các địa phương chủ trì phối hợp với các cơ

quan liên quan để thanh tra kiểm tra việc chấp hành pháp luật đối với các tổ chức, cá

nhân hoạt động trong lĩnh vực báo chí đối ngoại”, việc này chưa diễn ra thường

xuyên nên số lượng ý kiến này với 8,8% và “Các cơ quan quản lý nhà nước về báo

chí ở trung ương và các địa phương xây dựng chương trình kế hoạch công tác thanh

tra, kiểm tra hoạt động của báo chí đối ngoại hàng năm” với 5,6% ý kiến ở mức

trung bình. Thực tế việc thanh tra trong công tác quản lý nhà nước về báo chí đối

ngoại được thực hiện theo Luật Thanh tra năm 2010, công tác thanh tra đều được tiến

hành trước ngày 15 tháng 11 hằng năm, song với số lượng lớn các văn phòng đại

diện ở nước ngoài của 4 cơ quan báo chí có mở văn phòng đại diện nên hiện chủ yếu

103

thực hiện qua các báo cáo nên cũng gặp nhiều khó khăn và kết quả đánh giá như trên

chỉ ra những bất cập do thực tế đặt ra.

Bên cạnh một số hạn chế nêu trên, việc “Phát hiện, áp dụng các biện pháp ngăn

chặn, xử lý kịp thời hoặc kiến nghị với các cơ quan chức năng xử lý đối với các hành

vi vi phạm hành chính của các cơ quan, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực báo chí đối

ngoại” được thực hiện khá kịp thời, do vậy có tới 63,2% ý kiến đánh giá ở mức tốt và

“Cơ quan báo chí, nhà báo, tổ chức và công dân có thành tích và cống hiến trong hoạt

động báo chí đối ngoại được khen thưởng theo quy định của pháp luật về thi đua, khen

thưởng” với 72,8% ý kiến đánh giá ở mức tốt. Thực tế trong những năm vừa qua hoạt

động của các cơ quan báo chí đối ngoại tương đối ổn định, không có những sai phạm

trên mọi lĩnh vực, chính vì vậy hàng năm nhiều phóng viên được khen thưởng, thông

thường mỗi năm, TTXVN đóng góp khoảng 200 tác phẩm trong tổng số 900 - 1.000

tác phẩm dự thi và cũng đoạt trên dưới 20 giải thưởng, chiếm khoảng 1/4 tổng số giải

của Giải thưởng toàn quốc về thông tin đối ngoại. Lãnh đạo Cục Thông tin đối ngoại

nêu lên ý kiến về thực trạng trên: “Công tác thanh tra, kiểm tra được thực hiện theo

đúng quy định của Luật Thanh tra năm 2010 và của Luật Báo chí và các văn bản có

liên quan, song hiện chưa có quy định riêng về thanh tra, kiểm tra hoạt động của báo

chí đối ngoại, song việc thanh tra, kiểm tra vẫn khá tích cực, các hoạt động của báo

chí được chỉ ra khá cụ thể trong các đợt thanh tra, nên không có hiện tượng vi phạm

các quy định của pháp luật”.

Công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của đã chỉ ra những hạn chế và khắc

phục kịp thời. Chính vì vậy báo chí đối ngoại đã có những phát triển vượt trội và nhiều

cán bộ các cơ quan báo chí đối ngoại, phóng viên, biên tập viên được khen thưởng kịp

thời, tạo sự khích lệ, động viên lớn để họ tiếp tục có những hoạt động cho sự phát triển

đường lối đối ngoại của Đảng.

Trong những năm gần đây, hoạt động thanh tra, kiểm tra báo chí đối ngoại luôn

được tăng cường. Kết quả thanh tra, kiểm tra báo chí đối ngoại đã chỉ rõ nhiều cơ quan

báo chí chưa xác định được các nội dung trọng tâm để thông tin trên báo chí. Các nội

dung còn nhiều hạn chế, sai sót, nhất là thông tin tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo,

lãnh thổ, biên giới quốc gia; thông tin về tình hình nhân quyền, về các vụ việc tiêu cực,

nổi cộm của đất nước. Trên thực tế, những thông tin sai sót trên báo chí Việt Nam vô

tình làm chất liệu cho các báo tiếng Việt ở nước ngoài, truyền thông quốc tế, các thế

104

lực xấu lợi dụng bóp méo, xuyên tạc, kích động tình hình, làm ảnh hưởng đến hình ảnh

Việt Nam ra thế giới.

Thông tin về tình hình nhân quyền, thông tin giải thích, làm rõ chưa thể hiện

được tính thuyết phục, hiệu quả, do phần lớn chưa phân biệt được đối tượng nào thì

cần cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời, đối tượng nào cần phải đấu tranh, đối tượng

nào cần phản bác. Việc rút tít còn nhiều bất cập và sai sót, vẫn còn hiện tượng rút tít

theo kiểu câu khách, thông tin thiếu kiểm chứng, thiếu khách quan và thận trọng, làm

ảnh hưởng đến quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế của Việt Nam. Việc đăng, phát nội

dung trên báo chí đối ngoại chưa được chú trọng, từ vị trí đăng phát, thời gian đăng

phát đến ngôn ngữ thể hiện, dẫn đến hiệu quả chưa cao.

Thêm vào đó, mặc dù các cơ quan báo chí đã và đang thực hiện việc đăng, phát

nội dung trên các phương tiện truyền thông nước ngoài thông qua hoạt động hợp tác

của cơ quan báo chí Việt Nam với nước ngoài, song vẫn chưa quy định nhóm cơ quan

báo chí nào thì có trách nhiệm chủ động đăng, phát các tin, bài, chương trình phát

thanh, truyền hình để quảng bá hình ảnh Việt Nam trên báo chí của người Việt ở nước

ngoài, trên các phương tiện truyền thông nước ngoài, nhóm nào thì khuyến khích, do

đó, chưa thúc đẩy được cơ quan báo chí, đặc biệt là báo chí đối ngoại trong việc thực

hiện trách nhiệm báo chí đối ngoại, quảng bá hình ảnh quốc gia.

Trong vòng 5 năm trở lại đây, Bộ Thông tin và Truyền thông đã tiếp nhận và xử

lý khoảng gần 300 đơn thư khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực báo chí, chủ yếu là khiếu

nại nội dung thông tin trên báo chí, trong đó có một số sự việc liên quan đến hoạt động

của báo chí đối ngoại.

Qua việc đọc báo lưu chiểu, xử lý các vi phạm trên báo và các nguồn thông tin

khác, Bộ Thông tin và Truyền thông đã phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh các vi

phạm pháp luật trong lĩnh vực báo chí đối ngoại. Theo Báo cáo của Cục Phát thanh

truyền hình và Thông tin điện tử, từ đầu năm 2017 đến nay, Bộ Thông tin và Truyền

thông đã triển khai các hoạt động cụ thể, thiết thực trong đấu tranh với các doanh

nghiệp nước ngoài, cung cấp dịch vụ xuyên biên giới vào Việt Nam, trong đó Google

đã ngăn chặn, gỡ bỏ được 4.466 video có nội dung không phù hợp trên mạng Youtube

theo yêu cầu của Bộ Thông tin và Truyền thông. Facebook đã gỡ bỏ khoảng

3.000/4.500 đường link có nội dung vi phạm pháp luật Việt Nam, gỡ bỏ 165 tài khoản

giả mạo tuyên truyền chống phá Đảng, Nhà nước.

105

Tỷ lệ %

100

0 23

0 26,4

3,6 25,9

0 38,1

5,2 29,5

50

77

73,6

70,5

65,3

61,9

0

ND3

ND2

ND4

ND5

ND1

Tốt

Khá

Trung bình

Có thể thấy rõ về thực trạng nêu trên qua biểu đồ sau:

ND1: Thanh tra báo chí đối ngoại được thực hiện theo quy định của pháp luật về thanh tra báo chí

ND2: Thanh tra, kiểm tra thường xuyên các hoạt động báo chí đối ngoại

ND3: Thanh tra, kiểm tra định kỳ các hoạt động báo chí đối ngoại

ND4: Thanh tra, kiểm tra đột xuất các hoạt động báo chí đối ngoại

ND5: Quản lý việc xử lý vi phạm pháp luật về báo chí đối ngoại

Ghi chú:

Biểu đồ 2.12 . Quản lý thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về báo chí

đối ngoại

(Nguồn: Kết quả khảo sát năm 2018)

Kết quả khảo sát thực tế công tác quản lý thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm

pháp luật về báo chí đối ngoại được thực sát với yêu cầu thực tế, do vậy không để xảy

ra những sai sót hay các vụ việc, cá nhân bị kỷ luật mà chủ yếu là nhắc nhở do nội

dung thông tin chậm hoặc lúng túng, bị động trước các vấn đề phức tạp, nhạy cảm, do

đó các kết quả trên chỉ ra ý kiến đánh giá ở mức tốt đều trên 60%, trong đó công việc

“Thanh tra báo chí đối ngoại được thực hiện theo quy định của pháp luật về thanh tra

báo chí” và “Quản lý việc xử lý vi phạm pháp luật về báo chí đối ngoại” đều có trên

70% ý kiến đánh giá từ tốt trở lên, không có ý kiến đánh giá ở mức trung bình. Điều

đó góp phần quan trọng trực tiếp vào thành tựu và kết quả đối ngoại của Đảng. Bên

cạnh đó, công việc “Thanh tra, kiểm tra đột xuất các hoạt động báo chí đối ngoại” mặc

dù ít được thực hiện nhưng các ý kiến khá thống nhất cho rằng kết quả thực hiện đều ở

mức khá và mức tốt.

Đáng chú ý hai hoạt động “Thanh tra, kiểm tra thường xuyên các hoạt động báo

chí đối ngoại” và “Thanh tra, kiểm tra định kỳ các hoạt động báo chí đối ngoại” có

một tỷ lệ nhỏ ý kiến đánh giá ở mức trung bình. Thực tế kết quả kiểm tra trong các

106

năm gần đầy đều khẳng định báo chí đối ngoại hoạt động đúng với tôn chỉ, mục đích,

nhưng khâu kiểm tra, thanh tra thường xuyên cũng như định kỳ còn chậm. Cũng tại

báo cáo kết quả kiểm tra các Quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại và Quy hoạch

mạng lưới đại diện của các cơ quan thông tấn, báo chí Việt Nam ở nước ngoài, số

01/BC-BTTTT, ngày 7 tháng 1 năm 2019, sự chậm trễ như trên là do lực lượng làm

công tác báo chí đối ngoại cũng như cán bộ quản lý báo chí đối ngoại còn mỏng, chưa

tận dụng, khai thác được thế mạnh của công nghệ thông tin vào công tác quản lý.

Khẳng định về kết quả thanh tra, kiểm tra của báo chí đối ngoại, lãnh đạo Cục Thông

tin đối ngoại – Bộ Thông tin và Truyền thông cho biết: “Thông thường thì các báo chí

đối ngoại thì ít xảy ra các vi phạm, có thể làm nhiều hay chưa nhiều, có thể làm tốt

hay chưa xuất xắc, thường thì không bị vi phạm. Bởi v báo chí đối ngoại có nguồn tin

chính thức và có địa chỉ rõ ràng” (Phụ lục 4 – B1). Về công tác khen thưởng báo chí

đối ngoại, đồng chí chia sẻ: “Trong công tác khen thưởng thì mình làm tốt, hàng năm

mình có giải thưởng về hoạt động báo chí thông tin đối ngoại. Như vậy biện pháp

quản lý về thưởng chúng ta làm tốt. Còn về phạt thì có lẽ mình phải thúc đẩy hơn.

Nhìn chung, các vi phạm th chưa đến mức bị phạt mà thường chúng ta khuyến khích

động viên báo chí đối ngoại đưa tin” (Phụ lục 4 – B1).

Có thể thấy, từ kết quả khảo sát và kết quả phân tích thực tiễn việc thanh tra,

kiểm tra và xử lý vi phạm hoạt động của báo chí đối ngoại đạt được nhiều kết quả tích

cực, trong những năm gần đây không có trường hợp nào vi phạm đến mức chịu thi

hành kỷ luật, song kết quả công tác thanh tra, kiểm tra cần được đẩy mạnh hơn nhằm

tăng cường chất lượng, hiệu quả các nội dung trên báo chí đối ngoại.

2.2.4. Nguyên nhân của những thành tựu

Một là, các chủ thể quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại có sự chủ động, tích

cực trong thực hiện các hoạt động quản lý đối với đối tượng quản lý là các cơ quan

báo chí, người làm báo chí đối ngoại và nhất là có sự quản lý chặt chẽ về nội dung báo

chí đối ngoại, làm cho báo chí đối ngoại thực sự trở thành phương tiện quan trọng của

Đảng và Nhà nước trong việc tuyên truyền, đưa các chủ trương của Đảng, chính sách

của Nhà nước Việt Nam ra thế giới một cách chính xác, khách quan, làm cho nhân dân

thế giới biết đến Việt Nam đầy đủ nhất.

Hai là, nội dung quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại đạt được nhiều kết quả

quan trọng. Trong công tác xây dựng, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chiến lược, quy

107

hoạch, kế hoạch phát triển báo chí đối ngoại đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Mặc

dù còn nhiều khó khăn về kinh phí nhưng các cơ quan báo chí lớn như Thông tấn xã

Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Báo Nhân dân đã

thành lập các văn phòng đại diện ở nhiều nước. Đồng thời, việc ban hành Luật Báo chí

năm 2016 làm cho việc ban hành các văn bản về quản lý báo chí đối ngoại thuận lợi

hơn. Mặt khác, dựa trên Luật báo chí năm 2016 việc xây dựng chế độ và thực hiện chế

độ, chính sách về báo chí đối ngoại cũng có nhiều chuyển biến tích cực. Trong tổ chức

thông tin và quản lý thông tin của báo chí đối ngoại được kiểm soát chặt chẽ với đầy

đủ các bước, các khâu. Trong đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, nghiệp

vụ, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ người làm báo của các cơ quan và cán bộ quản lý

báo chí đối ngoại cũng như trong công tác hợp tác quốc tế về báo chí đối ngoại ngày

càng được tăng cường. Các cơ quan quản lý báo chí luôn bám sát và kịp thời chỉ đạo

việc thực hiện chế độ thông tin, báo cáo.

Ba là, phương thức quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại không ngừng được

tăng cường qua việc kịp thời ban hành các văn bản qui phạm pháp luật. Hơn nữa, các

cơ quan quản lý báo chí đối ngoại từ Trung ương đến cơ sở có sự thống nhất cao trong

việc tổ chức thực hiện các phương thức quản lý và làm tốt công tác khen thưởng, kỷ

luật trong hoạt động báo chí đối ngoại. Do vậy, không có trường hợp cơ quan hay cá

nhân người làm báo vi phạm kỷ luật.

2.3. Một số hạn chế và nguyên nhân

2.3.1. Hạn chế của các chủ thể và đối tượng quản lý nhà nước về báo chí

đối ngoại

* Hạn chế của các chủ thể quản lý

Thứ nhất, số lượng cán bộ trực tiếp được phân công quản lý nhà nước về báo

chí đối ngoại còn hạn chế, trong khi đó số văn phòng đại diện của các cơ quan báo chí

đối ngoại tương đối đông, trải rộng ở nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ. Hiện có 4 cơ

quan báo chí đối ngoại lớn trong đó Thông tấn xã Việt Nam với 30 văn phòng đại

diện, Đài Truyền hình Việt Nam có 10 văn phòng, Đài Tiếng nói Việt Nam cũng có 10

văn phòng và Báo Nhân dân với 4 văn phòng. Vì vậy để quản lý kịp thời, thường

xuyên là điều khá khó khăn.

Thứ hai, sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại hiện chủ yếu

dựa trên các văn bản về quản lý, thanh tra báo chí nói chung, chưa có quy định riêng

108

về thanh tra, giám sát và quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại nói riêng. Cho đến nay

mới chỉ có văn bản về phát triển hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2025 và tầm nhìn

đến năm 2030 của Chính phủ, do đó sự phối hợp trong quản lý nhà nước về báo chí

đối ngoại với tính chất, đặc thù riêng khó được thể hiện đầy đủ.

Thứ ba, báo chí đối ngoại hoạt động ở nhiều quốc gia và chịu sự giám sát, quản

lý không chỉ của Việt Nam mà còn của nước sở tại. Cho nên cần có sự phối hợp chặt

chẽ dựa trên khuôn khổ luật pháp giữa các nước và khuôn khổ quản lý nhà nước về

báo chí đối ngoại. Mặt khác, ở các nước, sự tự do hóa, xu hướng thương mại hóa báo

chí được phát triển mạnh mẽ, vì vậy sự phối hợp giữa Việt Nam và các nước sở tại gặp

phải những khó khăn, thách thức không nhỏ.

Thứ tư, sự phát triển mạnh mẽ của các hình thức truyền thông đặt ra cho chủ thể

quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại phải đảm bảo giữ vững sự phát triển ổn định

của báo chí truyền thống, đồng thời còn phải chủ động ứng dụng và phát triển các loại

hình báo chí mới như báo điện tử...Điều này dẫn đến công việc của quản lý nhà nước

về báo chí đối ngoại của đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước, lãnh đạo các

cơ quan báo chí vừa đa dạng, vừa phức tạp.

* Hạn chế của đối tượng quản lý

Thứ nhất, các cơ quan sản xuất sản phẩm báo chí đối ngoại hoạt động ở nhiều

quốc gia, đòi hỏi phải có sự thống nhất, phối hợp chặt chẽ trong việc tổ chức khai thác

và phổ biến thông tin, trong khi đó ở mỗi nước có nền văn hóa khác nhau đòi hỏi các

cơ quan báo chí phải thường xuyên xin ý kiến chỉ đạo thống nhất từ các cơ quan quản

lý nhà nước về báo chí đối ngoại trong khi phạm vi hoạt động rộng khắp là một khó

khăn không nhỏ.

Thứ hai,người làm báo chí đối ngoại hiện nay không chỉ có đội ngũ cán bộ

phóng viên, biên tập viên là người Việt Nam làm việc ở nước ngoài mà trong lực

lượng đông đảo phóng viên, biên tập viên còn có lực lượng là các nhà khoa học, đội

ngũ biên tập viên được thuê để tham gia hiệu đính, biên tập các bài viết nên việc quản

lý nhà nước về báo chí đối ngoại đối với đội ngũ cán bộ này cũng có nhiều hạn chế do

không làm việc trực tiếp mà thông qua các cơ quan báo chí. Hơn nữa, việc cho phép

các tổ chức, cá nhân là người Việt Nam ở nước ngoài tham gia vào việc sản xuất báo

chí đối ngoại nên cũng có những khó khăn không nhỏ khi phải quản lý chặt chẽ các tờ

báo đối ngoại do các cá nhân, tổ chức này sản xuất luôn đảm bảo tôn chỉ, mục đích,

109

đúng định hướng của Đảng là công việc quản lý với áp lực rất lớn. Làm báo đối ngoại

khác báo đối nội ở góc độ tiếp cận ở các đặt vấn đề, cách nhìn vấn đề. Ở VOV5, khâu

biên dịch nếu chỉ dừng lại ở góc độ biên dịch thì rất là đơn giản, chưa đạt được khả

năng đối tượng hoá. Lãnh đạo phòng Đông Bắc Á, VOV5 cho biết:“Phòng Thư kí biên

tập không thể hiểu phổ quát được 13 đối tượng, 13 ngôn ngữ, thông tin khi biên dịch

phải được đối tượng hoá, không phải nói những cái chúng ta muốn mà phải nói những

cái chúng ta muốn nói theo cách đối tượng muốn nghe”. Cán bộ báo chí đối ngoại

phải hiểu rất sâu về đối tượng, sự am hiểu văn hoá, tập quán của từng nước, những thứ

tiếng của một nhóm đối tượng sử dụng như Nhật Bản, Ả Rập…

Đội ngũ cán bộ làm báo chí đối ngoại tuy có sự phát triển nhanh về số lượng

cũng như chất lượng, giỏi ngoại ngữ nhưng kỹ năng làm báo đối ngoại còn hạn chế là

do công tác quản lý đào tạo chưa kịp thời và thường xuyên, hoặc thiếu tham gia những

khóa đào tạo, bồi dưỡng báo chí nói chung cũng như báo chí đối ngoại nói riêng, chưa

chú ý đến tính đồng đều về năng lực, trình độ cũng như tính chuyên nghiệp chưa khi

sắp xếp, bố trí công việc phù hợp với năng lực, sở trường nên thiếu sự hiệp đồng trong

tác nghiệp, đưa tin làm cho việc quản lý đội ngũ nhân lực, quản lý tổ chức nội dung

thông tin giữa các báo có những khó khăn. Trong công văn về triển khai Quy hoạch

báo chí đối ngoại và Quy hoạch mạng lưới đại diện cơ quan thông tấn ở nước ngoài, số

1075 /TTX-BTK của Thông Tấn xã Việt ngày 23 tháng 11 năm 2018 đã chỉ ra đặc thù

của báo đối ngoại trong bối cảnh hiện nay đòi hỏi biên tập viên, phóng viên phải đồng

thời giỏi ngoại ngữ và có kiến thức chuyên môn, kỹ năng ở trình độ cao. Nhưng chính

sách tuyển dụng, đào tạo bồi dưỡng kiến thức, lý luận chính trị, nghiệp vụ báo chí…

cho phóng viên, biên tập viên còn thiếu đồng bộ, chế độ đãi ngộ thấp sẽ gây nên những

bất lợi lớn đến chất lượng của Vietnamnews trong thời gian tới.

Thứ ba, nội dung thông tin trên báo chí đối ngoại hiện nay được đánh giá

chưa thực sự phong phú, đa dạng cả về cách tổ chức thông tin, hình thức,... do hạn

chế về nguồn kinh phí để đầu tư cho việc phát triển hệ thống trang thiết bị để có thể

cho ra các tờ báo đẹp về hình thức, phong phú về nội dung. Thậm chí, do khó khăn

về kinh phí nên việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ sản xuất, tổ chức nội

dung cho các tờ báo đối ngoại cũng ảnh hưởng không nhỏ. Bản thân các cơ quan

báo chí đối ngoại cũng chưa thực sự dành nhiều công sức đầu tư cho việc tổ chức

nội dung thông tin để đổi mới về cách thức sản xuất, cách thức xây dựng hình thức

110

để có thể tạo sự hấp dẫn với đối tượng độc giả có trình độ nhận thức và yêu cầu rất

cao với báo chí đối ngoại.

2.3.2. Hạn chế về nội dung quản lý

Thứ nhất, hạn chế trong xây dựng, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chiến lược, quy

hoạch, kế hoạch phát triển báo chí đối ngoại.

Trên thực tế, công tác xây dựng, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chiến lược, quy

hoạch, kế hoạch phát triển báo chí đối ngoại còn chậm, do cả nguyên nhân khách quan

và nguyên nhân chủ quan. Theo Qui hoạch phân bố các văn phòng thường trú đến năm

2020 của Cục Thông tin đối ngoại, ở Châu Á phấn đấu đặt văn phòng đại diện ở 1

quốc gia, Châu Âu 1 quốc gia, Châu Mỹ 1 quốc gia, song việc đặt văn phòng ở những

nước theo qui hoạch trong khi quan hệ giữa Việt Nam với các nước này chưa sâu sắc,

nên có những khó khăn về thủ tục pháp lý cần có sự thống nhất cao giữa hai bên.

Ngoài ra kế hoạch trong xây dựng, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch,

kế hoạch phát triển báo chí đối ngoại đã được thông qua cần có ý kiến chỉ đạo của

Quốc hội theo đề nghị của Thủ tướng Chỉnh phủ nên thường mất nhiều thời gian, qua

nhiều vòng, nhiều khâu, thậm chí khi không kịp tiến độ có thể dẫn đến điều chỉnh quy

hoạch, điều này lại liên quan đến việc đề xuất Viện Chiến lược Thông tin truyền thông

chủ trì, phối hợp với Cục Thông tin đối ngoại rà soát, điều chỉnh qui hoạch.

Thứ hai, hạn chế trong ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm

pháp luật về báo chí; xây dựng chế độ, chính sách về báo chí đối ngoại.

Hiện nay mới chỉ có một văn bản là Quyết định số 2434/QĐ-TTg của Thủ

tướng Chính phủngày 13 tháng 12 năm 2016 phê duyệt quy hoạch hệ thống báo chí

đối ngoại đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 đề cập một cách trực diện đến báo

chí đối ngoại, và cũng trong văn bản này đề cập đến việc phát triển một báo điện tử,

một số tờ báo in, tạp chí in đối ngoại chuyên biệt đối ngoại chuyên biệt, chủ lực, đồng

thời khuyến khích các cơ quan báo chí sử dụng các phương thức truyền thông mới,

mạng xã hội để đưa các thông tin đến các đối tượng thông tin đối ngoại và huy động

các nguồn lực từ xã hội phục vụ hoạt động báo chí đối ngoại cũng như cung cấp thông

tin đối ngoại lên mạng xã hội, thậm chí cho phép mời phóng viên báo chí nước ngoài

vào Việt Nam để đưa tin viết, bài, hợp tác với các cơ quan báo chí nước ngoài để xây

dựng các bài viết, phóng sự quảng bá hình ảnh Việt Nam. Tuy nhiên, hiện cơ chế cho

các hoạt động này chưa rõ ràng mà vẫn thực hiện theo luật pháp của Việt Nam nói

111

chung. Cũng vì vậy, việc tổ chức các văn bản qui phạm pháp luật với lĩnh vực báo chí

đối ngoại luôn đặt ra nhiều khó khăn.

Ngoài ra, việc nghiên cứu đề xuất xây dựng cơ chế, chính sách về tài chính phục

vụ hoạt động báo chí đối ngoại hiện vẫn dựa hoàn toàn vào ngân sách nhà nước nên khó

có thể phát triển đồng bộ và có chất lượng tốt để đáp ứng được nhu cầu thông tin của độc

giả. Đời sống của phóng viên, biên tập viên Việt Nam hoạt động cho các cơ quan báo chí

đối ngoại cũng gặp không ít khó khăn như phải thuê nhà, hoặc hạn chế trong chính sách

đào tạo, bồi dưỡng cũng là những hạn chế cho sự phát triển báo chí đối ngoại.

Thứ ba, hạn chế trong tổ chức thông tin và quản lý thông tin của báo chí đối ngoại.

Với tính chất của một lĩnh vực báo chí có nhiều đặc thù, nên cách thức tổ chức

thông tin đòi hỏi nhiều yêu cầu chặt chẽ, tạo sự hấp dẫn đối với công chúng là người

nước ngoài nhưng cho đến nay báo chí đối ngoại vẫn được đánh giá cách tổ chức thông

tin chưa sinh động, mặc dù có sự quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại khá chặt chẽ,

không để xảy ra những sai phạm về đưa, phát thông tin. Nhưng hiện phần lớn việc quản

lý nhà nước về báo chí đối ngoại qua tổ chức thông tin và quản lý thông tin dựa trên các

quy định chi tiết việc phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí của các cơ quan hành

chính nhà nước dựa trên Nghị định số 09/2017/NĐ-CP [47]. Gần đây, với việc ban hành

Thông tư số 03/2019/TT-BTTTT ngày 6 tháng 5 năm 2019 của Bộ Thông tin và Truyền

thông quy định đăng, phát nội dung thông tin đối ngoại trên báo chí, quản lý nhà nước

về báo chí đối ngoại trong phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí của các bộ,

ngành, địa phương, nhưng cách quản lý phần nhiều dựa vào quản lý nhà nước về thông

tin đối ngoại nên khó có thể phát huy được thế mạnh, sở trường của một lĩnh vực báo

chí được xem là bộ phận quan trọng trong công tác tuyên truyền của Đảng.

Thứ tư, hạn chế trong đào tạo, bồi dưỡng nâng cao tr nh độ chính trị, nghiệp

vụ, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ người làm báo của các cơ quan và cán bộ quản

lý báo chí đối ngoại.

Các chính sách cho đào tạo, bồi dưỡng đội cán bộ quản lý nhà nước về báo chí

đối ngoại cũng như cán bộ báo chí đối ngoại chưa tương xứng với yêu cầu và nhiệm

vụ quản lý cũng như nhiệm vụ làm báo trong giai đoạn hiện nay. Những khó khăn như

trên phần nhiều là do các chính sách không thay đổi, trong khi đó những yêu cầu về

làm báo nói chung cũng như báo chí đối ngoại có nhiều đổi mới. Do đó đội ngũ cán bộ

báo chí cũng như đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại phải không

112

ngừng được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ, đạo đức nghề

nghiệp nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ báo chí đối ngoại và đội ngũ cán bội quản lý

nhà nước về báo chí đối ngoại không chỉ có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định với

đường lối đổi mới và tích cực đóng góp vào đường lối đối ngoại của Đảng, có đầy đủ

phẩm chất đạo đức của nhà báo cách mạng để có thể kịp thời phát hiện, ngăn chặn mọi

âm mưu, thủ đoạn lợi dụng báo chí đối ngoại làm tổn hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc.

Chính sách cho đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý nhà nước về báo chí đối

ngoại và cán bộ báo chí đối ngoại còn khó khăn bởi hiện nay với sự phát triển mạnh

mẽ của công nghệ làm báo hiện đại, cán bộ quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại rất

cần được đào tạo về nghiệp vụ quản lý, nâng cao trình độ ngoại ngữ và cán bộ báo chí

đối ngoại cũng cần được đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ làm báo

cũng có nhiều hạn chế không nhỏ.

Thứ năm, hạn chế trong đẩy mạnh hợp tác quốc tế về báo chí đối ngoại.

Trong Quyết định số 2434/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 13 tháng 12

năm 2016 phê duyệt quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2020, định hướng

đến năm 2030 cho phép đẩy mạnh hợp tác quốc tế về báo chí đối ngoại, nhưng thực tế

hiện nay như đã nêu ở trên do khó khăn về kinh phí nên ngân sách cho hợp tác quốc tế

về báo chí đối ngoại cũng gặp nhiều khó khăn. Quyết định đã đặt ra định hướng cho

phép thuê nhà báo nước ngoài đến Việt Nam đưa tin viết bài, đồng thời đưa tin, viết

bài trên báo chí của nước sở tại, song nhiều khó khăn đặt ra như kinh phí, cơ chế,

chính sách cho việc thuê khoán chuyên gia làm báo cũng như cách thức tổ chức sản

xuất báo chí, nội dung thông tin trên báo chí đối ngoại có những điểm khác biệt nên sự

phối hợp chưa thực sự hiệu quả.

Mặt khác, báo chí nước ngoài có sự thương mại hóa mạnh mẽ cũng như hệ

thống luật pháp báo chí và luật pháp quản lý báo chí đối ngoại có nhiều điểm không

tương đồng với luật pháp báo chí và luật pháp quản lý báo chí về đối ngoại của Việt

Nam. Vì vậy, sự phối hợp nhằm đẩy mạnh hợp tác quốc tế về báo chí đối ngoại lâu

nay chưa đạt được nhiều kết quả tích cực.

Thứ sáu, hạn chế trong chỉ đạo, thực hiện chế độ thông tin, báo cáo, thống kê

và công tác khen thưởng, kỷ luật trong hoạt động báo chí đối ngoại.

Có thể khẳng định việc chỉ đạo, thực hiện chế độ thông tin, báo cáo, thống kê

trong quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại được thực hiện theo định kỳ. Đây là hoạt

113

động được thực hiện đầy đủ theo chế độ thông tin báo cáo nói chung, trong các văn

bản quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại đều không chỉ rõ về hình thức, nội dung,

phương thức báo cáo. Vì vậy, báo cáo chủ yếu được thực hiện cuối năm, dẫn đến có

những cơ quan báo chí đối ngoại cũng như các cá nhân có nhiều thành tích trong công

tác báo chí đối ngoại cần được biểu dương, khen thưởng, hoặc xây dựng thành những

điển hình tiên tiến. Mặt khác, công tác khen thưởng thường được thực hiện vào cuối

năm cùng với việc trao giải thưởng báo chí, trong khi đó với những phóng viên, biên

tập viên được thuê để viết bài, đưa tin cho các cơ quan báo chí đối ngoại lại hầu như

không được đề xuất khen thưởng, cho nên công tác thông tin, báo cáo hiện vẫn theo cơ

chế hành chính nên khó khuyến khích được tính chủ động, sáng tạo của các cơ quan

báo chí cũng như các cá nhân tham gia làm báo. Mặt khác, vì công tác thông tin, báo

cáo được thực hiện vào cuối năm nên vấn đề này hoàn toàn có thể ảnh hưởng đến việc

bình xét, khen thưởng hoặc kỷ luật trong hoạt động báo chí đối ngoại. Thực tế trong

những năm qua không có cán bộ và cơ quan báo chí đối ngoại bị kỷ luật nhưng việc

xây dựng các tiêu chí, tiêu chuẩn được qui định rõ sẽ làm cho việc quản lý nhà nước

về báo chí đối ngoại được ý thức rõ thẩm quyền cả về phía cơ quan báo chí đối ngoại

cũng như cơ quan quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại.

2.3.3. Hạn chế về phương thức quản lý

Thứ nhất,hạn chế trong quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại thông qua các

công cụ quản lý là các văn bản quy phạm pháp luật.

Việc quản lý báo chí đối ngoại tuy đã có sự bám sát với các văn bản qui phạm

pháp luật về quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại, quản lý thông tin; quản lý việc

đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ báo chí đối ngoại về chính trị, chuyên môn,

nghiệp vụ; công tác khen thưởng đối với cán bộ báo chí đối ngoại vẫn chủ yếu được

thực hiện qui định chung mà chưa tính đến tính đặc thù. Hơn nữa, công tác thanh tra,

kiểm tra, việc quản lý hoạt động chuyên môn của các cơ quan báo chí đối ngoại, cách

thanh tra, kiểm tra còn nặng về qui trình, cho nên trước những diễn biến mới, kể cả

mặt tích cực cũng như những vấn đề phức tạp các cơ quan quản lý dễ bị động, bởi

thiếu những qui định cụ thể, nên trước những tình huống mới phát sinh đội ngũ cán

bộ quản lý không mạnh dạn xử lý. Đó cũng là nguyên nhân đáng kể làm cho sự phát

triển của báo chí đối ngoại chưa theo kịp với sự phát triển mạnh mẽ của báo chí

truyền thông hiện đại.

114

Thứ hai, hạn chế trong quản lý thông qua các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí.

Cơ chế chỉ đạo, điều hành, sự phối kết hợp, gắn kết giữa các cơ quan báo chí ở

trung ương, các địa phương và lực lượng trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực báo chí đối

ngoại chưa chặt chẽ, trước những vấn đề mới nảy sinh còn lúng túng, bị động làm cho

việc tổ chức nội dung thông tin ít nhiều có những ảnh hưởng bất lợi, mặc dù hiệu quả

quản lý nhà nước đối với báo chí đối ngoại trong thời gian vừa qua được đánh giá có

nhiều thành tựu nổi bật song việc đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn chậm được khắc phục.

Nhận thức của các cấp các ngành, các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại chưa

ngang tầm nhiệm vụ, nhất là trong việc tuyên truyền, phổ biến các nội dung thông tin

trên báo chí đối ngoại tuy có nhấn mạnh những chuyển biến mạnh mẽ của Việt Nam

về kinh tế nhưng chưa thực sự tạo được sự hấp dẫn, thu hút được sự quan tâm của các

nhà đầu tư lớn ở nước ngoài. Điều này phần lớn là do cách tổ chức nội dung thông tin

chưa phong phú, chưa sinh động, chưa đáp ứng được thị hiếu của đông đảo người dân,

nhất là giới doanh nhân, những người có ý định đầu tư vào Việt Nam. Mặt khác, việc

phân định đối tượng thông tin chưa rõ nên những vấn đề cần tuyên truyền, phổ biến

còn dàn trải. Chính vì vậy, cách tổ chức phổ biến thông tin của báo chí đối ngoại cần

được chú trọng hơn.

Thứ ba,hạn chế trong quản lý thông qua thanh tra, kiểm tra, giám sát và đề

xuất khen thưởng, kỷ luật các hành vi vi phạm pháp luật về báo chí đối ngoại.

Công tác thanh tra, kiểm tra trong quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại hiện

được thực hiện theo Luật Thanh tra năm 2010, Luật Báo chí năm 2016, song theo Luật

Báo chí cũng không nêu rõ những qui định về thanh tra, kiểm tra, giám sát và tại Điều

58 qui định về thanh tra chuyên ngành báo chí nhưng khá chung chung và chỉ gợi ý về

thanh tra chuyên ngành báo chí thực hiện theo quy định của pháp luật về thanh tra.

Điều này có nghĩa thực hiện theo quy định của Luật Thanh tra năm 2010. Tuy nhiên,

với đặc thù là lĩnh vực báo chí đối ngoại, với đối tượng chủ yếu là phục vụ công chúng

ở ngoài nước, đối tượng rất đa dạng, từ các nhà chính trị, các doanh nhân, nhà đầu tư,

nhà nghiên cứu,... và địa bàn phổ biến nội dung thông tin ở nước ngoài, và hoạt động

của báo chí đối ngoại cũng vì thế mà chủ yếu tác nghiệp ở nước ngoại. Cũng vì vậy,

đánh giá về những hạn chế của việc quản lý báo chí đối ngoại năm 2018, đồng chí Võ

Văn Thưởng đã chỉ rõ “Nhận thức của một bộ phận cấp ủy, cán bộ quản lý chưa đầy

đủ, chưa tương xứng với tầm quan trọng vốn có của công tác này và nhất là ngày càng

115

yêu cầu cao trong tình hình mới. Công tác nghiên cứu, dự báo, phối hợp hành động,

nhất là xử lý các vấn đề đột xuất, phức tạp, nhạy cảm có lúc còn bị động, lúng túng.

Nội dung, phương thức thông tin tuyên truyền còn chưa đáp ứng được nhu cầu của

từng đối tượng, từng địa bàn cụ thể. Chưa khai thác hết được lợi thế từ các điều kiện

công nghệ, truyền thông hiện nay để triển khai công tác hiệu quả hơn” [17].

Trước những hạn chế trong công tác thanh tra, kiểm tra thiếu những căn cứ cụ

thể về các văn bản chỉ đạo, nên thiếu những tiêu chí, tiêu chuẩn cụ thể để có thể bình

xét, khen thưởng kịp thời cho những cá nhân điển hình, có nhiều đóng góp cho sự phát

triển của báo chí đối ngoại. Mặt khác, do thiếu những qui định cụ thể nên khó có

những căn cứ để kịp thời khen thưởng cho các cá nhân có thành tích trong quản lý nhà

nước về báo chí đối ngoại qua các hoạt động phát hiện, đấu tranh ngăn chặn với những

sai phạm trong hoạt động của báo chí đối ngoại.

2.3.4. Nguyên nhân của những hạn chế

Một là, sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại chưa thực sự

linh hoạt để đáp ứng tốt những yêu cầu của thực tiễn đặt ra, dẫn đến việc phát huy sức

mạnh tổng hợp của các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại chưa đồng bộ, làm cho việc

huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội bị hạn chế. Đảng và Nhà nước

đã có sự quan tâm chỉ đạo sát sao qua việc ban hành sự phát triển báo chí đối ngoại,

Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Qui hoạch phát triển hệ thống báo chí đối ngoại và

Qui hoạch mạng lưới đại diện các cơ quan thông tấn, báo chí Việt Nam ở nước ngoài,

song sự phối hợp trong triển khai thực hiện phát triển hệ thống báo chí đối ngoại chưa

thống nhất, nhất là sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại cùng cấp.

Hơn nữa, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan báo chí đối ngoại ở địa phương chưa đồng

bộ, chưa có sự gắn kết chặt chẽ làm cho hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước chưa thể

hiện được tính ràng buộc, chưa quy định rõ trách nhiệm phối hợp, thiếu chế tài điều

chỉnh cơ chế phối hợp liên ngành giữa các Bộ, ngành với cơ quan chủ trì là Bộ Thông

tin và Truyền thông và giữa các Sở Thông tin và Truyền thông, do đó công tác quản lý

báo chí đối ngoại chưa theo kịp được thực tiễn.

Hai là, việc quản lý xây dựng phát triển nội dung báo chí đối ngoại chưa thể

hiện tính sáng tạo và đôi khi còn bị động. Các cơ quan báo chí chưa chủ động trong

xây dựng định hướng phát triển của các tờ báo, nên việc tiếp nhận bài viết và cho đăng

tải các bài viết có nội dung mới, cập nhật thông tin còn chậm. Thêm vào đó, các cơ

116

quan quản lý báo chí đối ngoại chậm đổi mới trong xây dựng chế độ chính sách về báo

chí đối ngoại. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ lý

luận chính trị cho cán bộ báo chí và cán bộ quản lý báo chí đối ngoại chưa được triển

khai mạnh mẽ. Hạn chế trong hợp tác quốc tế trong quản lý báo chí đối ngoại có

nguyên nhân chính từ những khó khăn về nguồn kinh phí và một số khiếm khuyết

trong hoạt động báo chí được phát hiện và kịp thời xử lý.

Ba là, kinh phí cho công tác nghiên cứu khoa học, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển

nguồn nhân lực báo chí đối ngoại cũng như kinh phí cho đổi mới và hiện đại hóa cơ sở

vật chất, kỹ thuật của các cơ quan báo chí đối ngoại còn hạn chế. Trước những khó

khăn chung của tình hình kinh tế thế giới cũng như khó khăn về tình hình kinh tế trong

nước nên nguồn ngân sách dành cho hoạt động báo chí đối ngoại không tăng và đều từ

ngân sách nhà nước, chưa bố trí nguồn kinh phí riêng cho hoạt động báo chí đối ngoại

mà chủ yếu mới chỉ được bố trí trong phần kinh phí hoạt động chung của Bộ, ngành,

địa phương giao cho các đơn vị trực tiếp triển khai hoạt động báo chí đối ngoại. Mặt

khác, hoạt động của báo chí đối ngoại đòi hỏi kinh phí tương đối lớn cho công tác duy

trì, nâng cấp cơ sở dữ liệu, các trang thông tin điện tử, các hoạt động, sự kiện quảng bá

hình ảnh,... nên chậm đổi mới và hiện đại hóa cơ sở vật chất, kỹ thuật, trong khi nguồn

ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, do đó kinh phí dành cho công tác quản lý bị hạn chế.

Do tính đặc thù nên việc quản lý báo chí đối ngoại gặp khó khăn trong việc huy động

nguồn lực xã hội, tài trợ nước ngoài.

Bốn là, việc xây dựng cơ cấu bộ máy quản lý nhà nước đối với báo chí đối ngoại

chưa thực sự hợp lý, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý báo chí chưa thống nhất

và chưa đồng bộ dẫn đến công tác quản lý còn bị động, chưa phát huy được sức mạnh

tổng hợp trong hệ thống báo chí đối ngoại. Do chưa có những qui định về sự phối hợp

chưa thống nhất nên sự phối kết hợp giữa các cơ quan chức năng kể cả ở Trung ương và

các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại ở các địa phương thiếu sự nhịp nhàng, điều này

còn gây ra những khó khăn cho việc định hướng phát triển của báo chí đối ngoại trong

tương lai, nội dung báo chí đối ngoại chưa thật phong phú, thiếu chiều sâu nên khó đáp

ứng được nhu cầu thông tin của độc giả đòi hỏi có những nội dung chuyên sâu.

Năm là, thiếu nguồn kinh phí đầu tư nâng cấp cho việc hiện đại hóa hoạt động

báo chí đối ngoại cũng như quản lý báo chí đối ngoại. Do khó khăn về vấn đề kinh phí

nên việc đầu tư phương tiện, thiết bị công nghệ cao để tăng cường quản lý đối với báo

117

chí, nhất là báo điện tử chưa được chú trọng. Cũng do vấn đề kinh phí hạn chế do đó

việc xây dựng nội dung trên báo chí đối ngoại thiếu sự phong phú, khó đáp ứng được

những đòi hỏi ngày càng cao của công chúng, dẫn đến việc xây dựng và quảng bá hình

ảnh thiếu sự sinh động, chưa thể hiện được tính sáng tạo. Nguyên nhân khác là mức

sinh hoạt phí ở các nước mà phóng viên, nhà báo tác nghiệp có chi phí rất cao song

mức được hưởng chưa tương xứng. Việc sửa chữa, cải tạo trụ sở, phương tiện làm việc

của cán bộ báo chí và cán bộ quản lý báo chí vừa phải tuân theo qui định của nước sở

tại và của Việt Nam nên gặp nhiều khó khăn.

Sáu là, mặc dù đa số cán bộ báo chí đối ngoại cũng như cán bộ quản lý báo chí

đối ngoại được đào tạo đúng với chuyên môn song trước tình hình phát triển mạnh mẽ

của báo chí đối ngoại thế giới cũng như cách thức làm báo chí công tác đào tạo, bồi

dưỡng chuyên sâu về kỹ năng làm báo cũng như kỹ năng lãnh đạo, quản lý báo chí đối

ngoại của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa được quan tâm đúng mức, trong đó có

đào tạo, bồi dưỡng nâng cao về năng lực, trình độ ngoại ngữ. Do hạn chế về khả năng

sử dụng ngoại ngữ, chưa làm chủ được ngôn ngữ của nước sở tại làm cho phóng viên

và cán bộ quản lý báo chí khó thâm nhập đời sống địa bàn, làm giảm hiệu quả tác

nghiệp của phóng viên và cán bộ quản lý.

Bảy là, công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý các sai phạm và nâng cao hiệu lực

quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại hiện được thực hiện chủ yếu theo kế hoạch,

chưa có những hoạt động thường xuyên hoặc đột xuất, nên các cơ quan báo chí chưa

chủ động trong việc đổi mới nội dung thông tin hoặc thay đổi cách tổ chức nội dung,

điều này có thể gia tăng sơ hở để các thế lực thù địch lợi dụng vào những mưu đồ xấu,

làm giảm hiệu quả hoạt động của báo chí đối ngoại. Đồng thời trước sự phát triển

mạnh mẽ của báo điện tử, công nghệ làm báo hiện đại làm cho báo chí đối ngoại có

nhiều thay đổi thì những sơ suất có thể gây nên những tác động tiêu cực rất lớn, song

những sai sót tuy nhỏ dù được chỉ ra nhưng các cơ quan báo chí vẫn chậm khắc phục.

Tiểu kết chương 2

Báo chí đối ngoại ở Việt Nam hiện nay có sự phát triển mạnh mẽ, nhất là từ khi có

Quyết định Phê duyệt quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2020, định hướng

đến năm 2030 của Thủ tướng Chính phủ. Các loại hình báo chí đối ngoại gia tăng, nhất là

báo điện tử, các tờ báo đều thực hiện tốt tôn chỉ, mục đích, nhưng việc tổ chức nội dung

thông tin còn đơn điệu, chưa xây dựng được những chuyên mục chuyên sâu.

118

Thực trạng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại trong quản lý xây dựng, chỉ

đạo và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển báo chí đối ngoại

đạt được nhiều thành tựu, nổi trội là quản lý xây dựng và định hướng, chiến lược phát

triển các cơ quan báo chí đối ngoại theo sự chỉ đạo của Chính phủ. Việc ban hành và

tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật quản lý nhà nước về báo chí đối

ngoại được thực hiện tương đối hiệu quả, rõ nhất là qua kết quả thực hiện đề xuất, kiến

nghị, xây dựng văn bản liên quan đến quản lý nhà nước đối với báo chí đối ngoại.

Song việc xây dựng chế độ, chính sách về báo chí đối ngoại còn chậm và chưa đáp

ứng được yêu cầu trong tình hình mới, đời sống cán bộ báo chí đối ngoại chậm được

cải thiện. Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị làm báo chưa tương xứng với yêu cầu

thực tiễn.

Cách thức tổ chức thông tin và quản lý tổ chức thông tin của báo chí đối ngoại

đã đáp ứng được những yêu cầu cơ bản về về chủ trương, đường lối của Đảng, chính

sách của Nhà nước đến cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, cộng đồng quốc tế,

góp phần quan trọng vào việc quảng bá hình ảnh đất nước, con người, văn hóa Việt

Nam. Trong công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ, đạo

đức nghề nghiệp cho người làm báo và cán bộ quản lý báo chí đối ngoại tuy được quan

tâm song chưa đồng bộ, chưa có sự đầu tư thường xuyên. Về hợp tác quốc tế về báo

chí đối ngoại được thực hiện khá tốt, có thể thấy rõ điều này qua hợp tác quốc tế về

sản xuất các nội dung các chương trình liên kết theo quy định của pháp luật Việt Nam

và pháp luật nước sở tại.

Quản lý nhà báo tác nghiệp ở nước ngoài được thực hiện chặt chẽ, không có

hiện tượng vi phạm pháp luật. Trong quản lý chỉ đạo, thực hiện chế độ thông tin, báo

cáo, thống kê theo sát với kế hoạch đã đặt, nhưng công tác thi đua, khen thưởng chưa

được thực hiện thường xuyên, do vậy chưa tạo được động lực tích cực cho cán bộ làm

báo và cán bộ quản lý báo chí. Trong những năm qua không có hiện tượng vi phạm

pháp luật về báo chí đối ngoại do công tác thanh tra, kiểm tra được thực hiện tương đối

hiệu quả.

119

Chương 3

MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BÁO CHÍ ĐỐI NGOẠI

Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1. Một số vấn đề đặt ra trong quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại

3.1.1. Đội ngũ cán bộ quản lý báo chí đối ngoại có bản lĩnh chính trị vững

vàng nhưng chưa mạnh về nghiệp vụ chuyên môn quản lý báo chí đối ngoại trong

tình hình mới, nhất là trong xu hướng hội tụ truyền thông

Cán bộ quản lý báo chí đối ngoại có vai trò quan trọng trong việc xây dựng các

loại hình báo chí đối ngoại ổn định và đưa ra định hướng phát triển. Đội ngũ cán bộ

quản lý báo chí hiện nay có lập trường vững vàng, có bản lĩnh chính trị, song trước sự

phát triển mạnh mẽ của công nghệ làm báo hiện đại, sự phát triển vượt bậc của các loại

phương tiện truyền thông, trong khi đó chúng ta chưa có nhiều cán bộ quản lý báo chí

đối ngoại giỏi về sử dụng công nghệ làm báo hiện đại, chưa có nhiều kinh nghiệm

quản lý báo chí trong một môi trường nhiều thách thức như hiện nay, chưa có nhiều

cán bộ quản lý báo chí giỏi về nhiều ngoại ngữ, vừa là một nhà báo vừa có thể đồng

thời là một cán bộ quản lý báo chí. Do vậy, trong Quyết định số 2434/QĐ-TTg của

Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2020,

định hướng đến năm 2030, ngày 13 tháng 12 năm 2016 đã chỉ rõ phải tiếp tục phát

triển lực lượng báo chí đối ngoại chuyên trách [148]. Do vậy, hiện tại và trong những

năm tới vấn đề đặt ra cho quản lý báo chí đối ngoại là phải khắc phục những hạn chế

của đội ngũ cán bộ quản lý báo chí đối ngoại, tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý

báo chí đối ngoại có khả năng sử dụng tốt các công cụ, phương tiện công nghệ báo chí

hiện đại, am hiểu chuyên môn, ngoại ngữ.

3.1.1.1. Đội ngũ cán bộ quản lý báo chí chưa mạnh về nghiệp vụ quản lý báo

chí đối ngoại

Đội ngũ cán bộ quản lý báo chí đối ngoại hiện nay tuy hiểu chuyên môn, nắm

vững quan điểm chỉ đạo của Đảng, hệ thống văn bản pháp luật của Nhà nước về báo

chí đối ngoại và quản lý báo chí đối ngoại, song nghiệp vụ quản lý báo chí, làm cho

báo chí đối ngoại phát triển mạnh thì điều này chưa thực sự là ưu thế. Báo chí đối

ngoại có yêu cầu rất đặc thù về sự chặt chẽ trong tổ chức nội dung thông tin, đi liền

120

với đó là yêu cầu cao của độc giả, cho nên quản lý báo chí đối ngoại không chỉ ở

chỗ sự ổn định mà còn thúc đẩy sự phát triển cả ở hiện tại và về lâu dài. Chính vì

vậy, đến nay Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao với 197 quốc gia và vùng lãnh

thổ nhưng chúng ta mới chỉ đặt được 30 cơ quan báo chí đối ngoại thường trú ở 28

quốc gia.

Trước sự cạnh tranh mạnh mẽ của các loại hình báo chí, rõ nhất là ở các nước

có nền báo chí phát triển ngày càng trở nên quyết liệt hơn, đội ngũ cán bộ quản lý đối

ngoại cần am hiểu nghiệp vụ bên cạnh việc duy trì sự ổn định. Yêu cầu đặt ra cho các

nhà quản lý về việc phát triển các ý tưởng sáng tạo trong công tác xây dựng hình thức,

nội dung báo chí đối ngoại để thông tin đối ngoại dễ dàng đến được với độc

giả ở trong và ngoài nước. Sử dụng hiệu quả các mối quan hệ với các tập đoàn truyền

thông, tập đoàn công nghệ trên thế giới để đưa nội dung lên các nền tảng mới như các

ứng dụng mạng xã hội [148]. Rõ ràng vấn đề này hiện nay công tác quản lý báo chí đối

ngoại chưa thực sự làm tốt để góp phần vào việc cùng với các cơ quan báo chí ở nước

ngoài không chỉ đưa tin, phản bác đấu tranh với các luận điệu sai trái mà còn làm tốt

công tác quảng bá, mời gọi các nhà đầu tư nước ngoài đến với Việt Nam. Ngoài ra,

trước sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ truyền thông, đội ngũ cán bộ quản lý báo

chí đối ngoại chưa triệt để khai thác được thế mạnh này để đưa tin, viết bài trên nền

tảng công nghệ mới, những trang mạng có lượng lớn độc giả, nhằm thu hút ngày càng

đông đảo bạn đọc ở nước ngoài, người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài biết đến Việt

Nam, hiểu Việt Nam.

3.1.1.2. Đội ngũ cán bộ quản lý báo chí đối ngoại chưa nhạy bén với sự phát

triển của các xu hướng báo chí quốc tế hiện đại

Cơ quan báo chí đối ngoại chủ lực ở Việt Nam đến nay vẫn là Thông tấn xã

Việt Nam và cơ quan quản lý báo chí đối ngoại ở Trung ương với cơ quan chủ lực là

Cục Thông tin đối ngoại, trực thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông, thực hiện chức

năng quản lý nhà nước về thông tin đối ngoại và đội ngũ cán bộ của Cục Thông tin đối

ngoại là lưc lượng chủ đạo. Như trong phê duyệt quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại

đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 với chủ trương khuyến khích các cơ quan báo

chí sử dụng các phương thức truyền thông mới, mạng xã hội để đưa các thông tin đến

các đối tượng thông tin đối ngoại chưa được quan tâm đúng mức, điều này làm cho việc

xây dựng các ấn phẩm, chuyên mục, chuyên đề, bài viết, phóng sự,... đối ngoại bằng

121

tiếng nước chưa đáp ứng tốt yêu cầu thực tế như định hướng của Thủ tướng Chính phủ

như trong Quyết định số 2434/QĐ-TTg, ngày 13 tháng 12 năm 2016 [148].

Do chưa nhạy bén với các xu hướng phát triển của báo chí đối ngoại, cho nên

trong quy hoạch báo chí đối ngoại, Thủ tướng Chính phủ cũng chưa đặt ra nhiều tham

vọng để có thể phát triển hệ thống báo chí đối ngoại cũng như vận dụng được xu hướng

phát triển của báo chí quốc tế vào quản lý phát triển báo chí đối ngoại, nên trong mục

tiêu Quy hoạch chỉ nhấn mạnh vào việc phát triển một báo điện tử đối ngoại và phát

triển một số tờ báo in, tạp chí in đối ngoại chuyên biệt, chủ lực với một số tiếng chính là

tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Trung Quốc, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Nga và cơ quan báo

chí đối ngoại chủ lực tiếp tục được xác định là Thông tấn xã Việt Nam.

Có thể nói sự nhạy bén của đội ngũ cán bộ quản lý báo chí đối ngoại ở nước ta

còn chậm, chưa thể hiện rõ sự sáng tạo trong việc dự báo sự phát triển của báo chí thế

giới để tham mưu, tư vấn cho các cơ quan quản lý trong việc nắm bắt, tận dụng các cơ

hội phát triển của báo chí thế giới, để xây dựng, hợp tác theo cách thức của xu hướng

hội tụ truyền thông, toà soạn hội tụ, thậm chí có những hoạt động thường xuyên hơn

để có thể mời phóng viên báo chí nước ngoài vào Việt Nam để đưa tin viết, bài, hay

hợp tác với các cơ quan báo chí nước ngoài để xây dựng các bài viết, phóng sự quảng

bá hình ảnh Việt Nam nhưng do quản lý chưa tốt nên các cơ quan quản lý báo chí cũng

như đội ngũ cán bộ quản lý báo chí đối ngoại chưa đầu tư mạnh mẽ vào các xu hướng

này trong khi đó thế giới ngày càng phát triển mạnh các xu hướng làm báo hiện đại, để

chiếm lĩnh được ngày càng đông đảo độc giả, mà không làm mất đi vai trò của cách

quản lý báo chí đối ngoại truyền thống.

3.1.1.3. Đội ngũ cán bộ quản lý báo chí chưa thực sự có nhiều kinh nghiệm,

hiểu biết sâu sắc về địa bàn để định hướng cho hoạt động của báo chí đối ngoại

Người quản lý báo chí chắc chắn phải am hiểu về nội dung thông tin để có thể

đăng tải trên báo chí đúng với tôn chỉ, mục đích; phù hợp với quan điểm, đường lối

của Đảng trong việc đưa tin, viết bài; phù hợp với những quy định của pháp luật, thể

chế báo chí đối ngoại. Hơn nữa, trong một thế giới có nhiều biến chuyển như hiện nay,

việc lựa chọn thông tin để phổ biến, tuyên tuyền có nhiều khó khăn. Điều này đòi hỏi

yêu cầu rất cao ở cán bộ quản lý báo chí không chỉ giỏi chuyên môn mà còn phải có

nhiều kinh nghiệm, hiểu biết sâu sắc về địa bàn để chỉ đạo, định hướng cho hoạt động

của báo chí đối ngoại. Nhưng hiện nay chúng ta chưa có nhiều cán bộ quản lý báo chí

122

đối ngoại có những năng lực này, thậm chí sự trải nghiệm thực tiễn của cán bộ quản lý

để có hiểu biết về văn hóa, về tập quán ở các quốc gia chưa nhiều nên đây là bất lợi rất

lớn để chỉ đạo đội ngũ cán bộ báo chí đưa tin, viết bài, tổ chức nội dung báo chí đối

ngoại đáp ứng tốt nhu cầu của độc giả.

Thực tế hiện nay đội ngũ cán bộ quản lý đa phần phát triển từ cán bộ chuyên

môn, đây cũng là thuận lợi song khó khăn đặt ra cho chính đội ngũ này là kinh nghiệm

thực tiễn trong việc chuyển tải nội dung báo chí đối ngoại đến các địa bàn, quốc gia

quan việc thích ứng văn hóa, tạo được sự cuốn hút với mọi đối tượng như chính khách,

các nhà đầu tư, đội ngũ trí thức,... có nhu cầu tìm hiểu và đến với Việt Nam. Hơn nữa,

tính “chủ động tạo điều kiện tiếp xúc, giao lưu, hợp tác quốc tế, phát huy thế mạnh của

cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài trong hoạt động báo chí đối ngoại” [148] của

đội ngũ cán bộ quản lý báo chí đối ngoại chưa thể hiện hết khả năng, trách nhiệm và

tính sáng tạo của đội ngũ cán bộ quản lý với tư cách là chủ thể quản lý báo chí đối

ngoại. Những hạn chế nêu trên làm cho báo chí đối ngoại Việt Nam chưa thực sự thâm

nhập vào đời sống báo chí thế giới, các tờ báo điện tử, báo in tuy được Chính phủ chỉ

đạo xây dựng thành tờ báo điện tử, báo in chủ lực nhưng chưa gây được tiếng vang

ngay trong chính lĩnh vực báo chí đối ngoại. Một phần của những hạn chế này là chưa

có nhiều kinh nghiệm quản lý để dẫn dắt, chỉ đạo các cơ quan báo chí đối ngoại thực

sự vươn tầm ảnh hưởng, đội ngũ phóng viên có khả năng tác nghiệp tốt trong xu

hướng hội tụ truyền thông. Cũng vì những hạn chế về tập quán, truyền thống nên

chúng ta vẫn sử dụng đến lực lượng là nhà báo, phóng viên, chuyên gia nước ngoài

trong việc thuê vào việc hiệu đính nội dung, việc này bên cạnh những ưu điểm song có

thể cách chuyển tải thông điệp có thể theo chủ quan.

3.1.1.4. Chưa có nhiều cán bộ quản lý báo chí đối ngoại có tr nh độ ngoại ngữ giỏi

Vấn đề rất lớn đặt ra hiện nay cho chủ thể quản lý báo chí đối ngoại là địa bàn,

phạm vi hoạt động của báo chí đối ngoại ở nhiều nước, nhiều khu vực và nền văn hóa

trên thế giới, và lực lượng phóng viên, biên tập viên, đội ngũ chuyên gia nước ngoài

tham gia hiệu đính tương đối đông đảo và đội ngũ này tác nghiệp bằng nhiều thứ tiếng

khác nhau, trong khi đó lực lượng cán bộ quản lý báo chí, nhất là ở Trung ương ở hai

đơn vị, trong đó đơn vị chủ lực là Cục Thông tin đối ngoại thuộc Bộ Thông tin và

Truyền thông và Vụ Báo chí-Xuất bản thuộc Ban Tuyên giáo Trung ương và ở địa

phương là Sở Thông tin và Truyền thông đều mỏng và trình độ, năng lực còn hạn chế,

123

thiếu cán bộ quản lý báo chí biết nhiều ngoại ngữ để có thể chủ động thực hiện các

nghiệp vụ quản lý, để tìm hiểu, nghiên cứu cũng như định hướng cho sự phát triển của

báo chí đối ngoại

Việc chuyển ngữ giữa tiếng Việt ra tiếng nước ngoài thường có nhiều khó khăn

do sự khác biệt về văn hóa, sự khác biệt về ngữ nghĩa,... cho nên đội ngũ cán bộ quản

lý báo chí đối ngoại phải tinh thạo không chỉ một ngoại ngữ mà còn phải sử dụng

thành thạo nhiều ngôn ngữ khác nhau. Chuẩn mực văn phong, cách tổ chức nội dung

thông tin ở báo chí đối ngoại luôn được xem là một trong những điểm nhấn quan trọng

để người đọc sẵn sàng tiếp nhận. Như vậy, năng lực, trình độ ngoại ngữ cũng là thách

thức khá lớn với việc quản lý báo chí đối ngoại, một phương tiện quan trọng góp phần

phục vụ triển khai các chính sách phát triển kinh tế - xã hội - văn hóa, an ninh, quốc

phòng bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo [148],

cán bộ quản lý cần có năng lực ngoại ngữ, am hiểu nghiệp vụ quản lý báo chí đối ngoại.

3.1.2. Nội dung quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại chưa phong phú,

chưa đa dạng, còn đơn đơn điệu nên thiếu tính hấp dẫn

Cho đến nay, Chính phủ mới có duy nhất một Quyết định về Phê duyệt Quy

hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 số

2434/QĐ-TTg ngày 13 tháng 12 năm 2016, và trong Quyết định này, tại Điều 1 cho

rằng “Báo chí đối ngoại là một trong những lực lượng quan trọng của công tác thông

tin đối ngoại” [148], cho nên ranh giới giữa quản lý báo chí đối ngoại và quản lý thông

tin đối ngoại vẫn chưa được phân định rõ ràng. Điều này gây những khó khăn nhất

định cho việc xây dựng các nội dung quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại.

Với sự ra đời của Quyết định số 2434/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về

Phê duyệt Quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2020, định hướng đến năm

2030, đặt nền móng quan trọng cho sự phát triển của báo chí đối ngoại. Trong Quyết

định này không nêu lên quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại, thay vào đó là giải

pháp tăng cường xây dựng nội dung, do vậy, cho đến nay việc quản lý báo chí đối

ngoại vẫn chủ yếu dựa trên các nội dung quản lý nhà nước về báo chí nói chung theo

Luật Báo chí năm 2016, với 10 nội dung.

Với việc thực hiện quản lý báo chí theo Luật Báo chí năm 2016 sẽ bao gồm báo

chí nói chung, trong đó có cả thông tin đối ngoại và báo chí đối ngoại, nhưng báo chí

đối ngoại là lĩnh vực khá đặc thù, với nhiều đặc điểm riêng so với quản lý báo chí nói

124

chung. Trong số các nội dung quản lý nhà nước về báo chí, báo chí đối ngoại đã thực

hiện khá hiệu quả nội dung xây dựng, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chiến lược, quy

hoạch, kế hoạch phát triển báo chí. Các nội dung còn lại hầu như còn đang trên kế

hoạch, nên khi đi vào thực hiện quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại đang gặp không

ít khó khăn và có thể thấy khó khăn khá rõ là hiện nay chưa có văn bản cụ thể và trực

tiếp quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại.

Do chưa có những văn bản quy định nội dung quản lý nhà nước về báo chí đối

ngoại, nên khi thực hiện theo các nội dung đã nêu trong Luật Báo chí năm 2016, như

thực hiện chế độ, chính sách về báo chí chưa thỏa đáng vì cán bộ báo chí đối ngoại có

địa bàn hoạt động lớn, phương tiện phục vụ cho việc tác nghiệp cần hiện đại dường như

nội dung này chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế, và xu hướng tòa soạn hội tụ đang dần

trở nên phổ biến chúng ta lại chưa đáp ứng tốt, cho nên nội dung tổ chức thông tin cho

báo chí có thể không kịp thời hoặc cách tổ chức thông tin chưa sinh động để đáp ứng tốt

với yêu cầu của đối tượng của báo chí đối ngoại vốn rất nhạy cảm thông tin.

Nội dung quản lý về đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ,

đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ người làm báo của các cơ quan báo chí và cán bộ

quản lý báo chí đang được thực hiện như cán bộ báo chí nói chung, chưa có sự phân

biệt. Có thể thấy đội ngũ phóng viên, biên tập viên làm công tác báo chí đối ngoại phải

có khả năng am hiểu ngoại ngữ, họ cần có trải nghiệm thực tiễn để nội dung bài viết có

sự thích ứng văn hóa lại không được quan tâm thỏa đáng. Ngoài ra, những nội dung

quản lý về nghiên cứu, đầu tư cho hoạt hoạt động khoa học, công nghệ cũng được thực

hiện đồng thời với báo chí nói chung. Với đặc thù cả về tổ chức nội dung, về đội ngũ

cán bộ làm báo, cán bộ làm báo được xem như những nhà báo quốc tế thì họ vẫn nằm

trong phạm vi của các nội dung quản lý báo chí nói chung. Nội dung quản lý về công

tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về báo chí hiện cũng chưa có những

tiêu chí cụ thể, dẫn đến những khó khăn khi xem xét trách nhiệm trong việc quản lý

đội ngũ phóng viên, nhà báo, nhất là quản lý việc thuê đội ngũ cán bộ biên tập, hiệu

đính là người nước ngoài, nên thực tế các văn phòng đại diện ở nước ngoài hiện cũng

chưa mạnh dạn thuê, mời các phóng viên, biên tập viên người nước ngoài tham gia vào

các khâu để cho ra đời một tờ báo đối ngoại cả báo in và báo điện tử đối ngoại.

Theo như Quyết định số 2434/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt

Quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, về cơ

125

chế chính sách đề cập đến việc cho phép cung cấp thông tin đối ngoại lên mạng xã hội và

khuyến khích đầu tư cho các sáng kiến, dự án nâng cao hiệu quả thông tin đối ngoại,

nhưng khó khăn đặt ra là nội dung về quản lý chính sách này chưa có. Ngoài ra, quản lý

“chính sách khuyến khích, hỗ trợ người Việt Nam ở nước ngoài xuất bản báo, tạp chí cho

người Việt bảo đảm trao đổi nội dung thông tin, phù hợp với định hướng thông tin đối

ngoại” [148]. Tuy vấn đề này được Chính phủ rất quan tâm, nhưng thực tế vấn đề nội

dung quản lý đội ngũ người Việt Nam ở nước ngoài được phép xuất bản báo chí ở nước

ngoài, cách thức quản lý về nội dung thông tin trên các báo được người Việt Nam ở nước

ngoài tham gia sản xuất còn chưa thực hiện được mặc dù Nhà nước đã có chủ trương.

Trong bối cảnh thông tin đang phát triển mạnh mẽ như hiện nay, chủ trương

khuyến khích, hỗ trợ người Việt Nam ở nước ngoài xuất bản báo, tạp chí cho người

Việt ở chủ trương đúng đắn, thể hiện quan điểm của Đảng về sự tự do báo chí, song

khó khăn lớn ở đây không có nghĩa chỉ có người Việt ở nước ngoài mới đọc, mà sẽ có

cả người nước ngoài đọc. Vì vậy, khi được phép hoạt động, họ không chỉ xuất bản

bằng tiếng Việt mà hoàn toàn có thể xuất bản bằng các thứ tiếng khác dẫn đến vấn đề

quản lý cũng trở nên khó khăn hơn. Chính vì vậy, chúng ta có quy hoạch phát triển báo

chí đối ngoại đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 và để quy hoạch này đạt được

về thực chất là khó khăn lớn, do thiếu các nội dung quản lý báo chí đối ngoại, là cản

trở lớn để báo chí đối ngoại thực sự là một bộ phận trong công tác tuyên truyền và

công tác tư tưởng của Đảng.

3.1.3. Phương thức quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại còn thiếu các văn

bản chỉ đạo cụ thể trong hoạt động của báo chí đối ngoại, các cơ quan quản lý chưa

kịp thời, sát sao cũng như công tác thanh tra, kiểm tra còn chậm do thiếu cơ chế cụ thể

Cho đến nay Việt Nam đã có Luật báo chí (2016), trong đó có nội dung quản lý

báo chí nhưng không có phương thức quản lý báo chí và trong Quyết định

số 2434/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt quy hoạch hệ thống báo chí đối

ngoại đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 và gần đây nhất, ngày 03 tháng 4 na m

2019 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 362/QĐ-TTg Phe duyẹ t Quy

hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến na m 2025. Cùng với những văn bản

trực tiếp chỉ đạo quản lý hoạt động của báo chí nói chung và quản lý báo chí đối ngoại

nói riêng còn có một số văn bản về quản lý thông tin đối ngoại như Quy chế Quản lý

nhà nước về thông tin đối ngoại Thủ tướng Chính phủ (Ban hành kèm theo Quyết định

126

số 79/2010/QĐ-TTg ngày 30 tháng 11 năm 2010),... cùng với các văn bản trên còn có

những văn bản khác ít nhiều có liên quan đến quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại

nhưng điểm chung của các văn bản này đều không đề cập đến phương thức quản lý

báo chí nói chung cũng như phương thức quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại, trong

khi phương thức quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại phải thông qua các công cụ

quản lý là các văn bản quy phạm pháp luật. Đây có thể được xem như một trong

những vấn đề đặt ra rất lớn cho các cơ quan quản lý báo chí cũng như đội ngũ cán bộ

quản lý báo chí đối ngoại, do thiếu công cụ là văn bản chỉ dẫn về phương thức quản lý

đối với báo chí đối ngoại.

Quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại bằng pháp luật và thông qua pháp luật.

Cho đến nay Nhà nước đã ban hành một hệ thống văn bản pháp luật về quản lý báo chí

tương đối đầy đủ và toàn diện, trong đó Hiến pháp là đạo luật cơ bản, Luật Báo Chí

năm 2016, Nghị định số 72/2015/NĐ-CP, Nghị định số 88/2012/NĐ-CP, Chỉ thị số

10/2000/ CT-TTg, Quyết định số 388/QĐ-TTg, Quyết định 79/2010/QĐ-TTg, Quy

chế Quản lý nhà nước về thông tin đối ngoại (Ban hành kèm theo Quyết định số

79/2010/QĐ-TTg, ngày 30 tháng 11 năm 2010), Quyết định số 2434/QĐ-TTG Phê

duyệt quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2020, định hướng đến năm

2030,... những văn bản pháp luật đảm bảo cho các cơ quan quản lý báo chí đủ thẩm

quyền, trách nhiệm trong việc quản lý báo chí đối ngoại.

Do thiếu phương thức quản lý báo chí đối ngoại nên mặc dù Chính phủ đã phê

duyệt quy hoạch phát triển hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2025 và tầm nhìn đến

năm 2030 và khẳng định báo chí đối ngoại là bộ phận trong công tác tuyên truyền và

công tác tư tưởng của Đảng, song các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại vẫn lúng túng

trong việc cho phép người Việt sinh sống ở nước ngoài được xuất bản các tạp chí phục

vụ cho cộng đồng người Việt, thuê phóng viên, biên tập viên nước ngoài tham gia hiệu

đính. Mặt khác, có thể có nhiều cơ quan có đủ năng lực tham gia vào lĩnh vực sản xuất

báo chí đối ngoại, nhưng thiếu phương thức quản lý, thiếu những định chế nên đến nay

Thông tấn xã Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam vẫn là

các cơ quan chủ lực. Các báo, tạp chí in, báo điện tử đối ngoại khác được coi là

lực lượng bổ sung cho các cơ quan báo chí đối ngoại. Vì vậy, công tác quản lý báo chí

đối ngoại ngày càng trở nên khó khăn, phức tạp hơn và nếu phương thức quản lý nhà

nước đối với báo chí đối ngoại với các định chế được xác định rõ ràng, chi tiết sẽ làm

127

cho báo chí đối ngoại ngày càng phát triển, đóng góp tích cực vào đường lối đối ngoại

của Đảng, đấu tranh với những luận điệu sai trái, xuyên tạc đường lối của Đảng, chính

sách pháp luật của Nhà nước, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đất nước.

Mặt khác, các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại từ Trung ương đến địa

phương, đó là Bộ Thông tin và Truyền thông chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực

hiện quản lý nhà nước về báo chí, Sở Thông tin và Truyền thông chịu trách nhiệm

trước Ủy Ban nhân dân tỉnh thống nhất quản lý báo chí đối ngoại nhưng do thiếu

những chế định đó là phương thức quản lý báo chí cụ thể nên đang dựa vào các văn

bản chỉ đạo chung về quản lý báo chí. Vì vậy, trong định hướng của Chính phủ cho

phép mở văn phòng đại diện ở nước ngoài như hiện tại chúng ta mới có 30 văn phòng

đại diện ở 28 nước, ở địa phương mới có một số tỉnh có một số chương trình phát sóng

đối ngoại, trong khi đó thế giới đang có sự phát triển mạnh của báo điện tử, nhưng hầu

như chúng ta chưa đẩy mạnh các hoạt động này do thiếu phương thức quản lý với

chính các cơ quan sản xuất báo chí. Việc quản lý các văn phòng đại diện ở nước ngoài

hiện có nhiều bất cập, ngoài việc quản lý theo pháp luật Việt Nam chúng ta còn tuân

thủ theo pháp luật của nước sở tại.

Do chưa có những phương thức quản lý báo chí đối ngoại một cách cụ thể nên

trong công tác kiểm tra, giám sát hiện tuân theo quy định và thủ tục nói chung theo các

quy định của đảng về giám sát đảng viên và giám sát các hoạt động chuyên môn, nên

ngay cả khi các cơ quan và cá nhân làm báo chí đối ngoại có thành tích xuất sắc hoặc

được đánh giá cao cần được biểu dương, tôn vinh vì có những thành tích quan trọng

vào việc “tuyên truyền, giới thiệu, quảng bá hình ảnh đất nước, lịch sử, văn hóa, và

con người Việt Nam, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, đặc biệt trong các lĩnh

vực biên giới, lãnh thổ, dân chủ, nhân quyền của Việt Nam” [38], thì các cơ quan quản

lý báo chí cũng không mạnh dạn biểu dương vì thiếu những căn cứ.

Thực chất trách nhiệm quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại không chỉ là trách

nhiệm riêng của Bộ Thông tin và Truyền thông mà có sự phối hợp giữa các cơ quan

khác ở Trung ương như Ban Tuyên giáo Trung ương, Văn phòng Chính phủ, Bộ Ngoại

giao, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Công an trong các hoạt động thanh tra, kiểm tra

hoạt động của các cơ quan báo chí đối ngoại; xét khen thưởng, kiến nghị xử lý các

hành vi vi phạm pháp luật về báo chí đối ngoại nhưng chúng ta cũng chưa có cơ chế

phối hợp cụ thể.

128

1.3.4. Nguồn lực quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại còn hạn chế, làm cho

hoạt động của báo chí đối ngoại khó phát triển trước bối cảnh ứng dụng mạnh mẽ

của công nghệ hiện đại, điều này đòi hỏi sự đầu tư lớn về kinh phí

Báo chí đối ngoại được xác định là một trong những lực lượng quan trọng trong

công tác tuyên truyền các chủ trương, đường lối của Đảng ra thế giới, đồng thời tuyên

truyền, giới thiệu, quảng bá hình ảnh đất nước, lịch sử, văn hóa, và con người Việt

Nam với bạn bè quốc tế. Mặt khác, báo chí đối ngoại góp phần tích cực vào công cuộc

đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, đặc biệt trong các lĩnh vực biên giới, lãnh

thổ, dân chủ, nhân quyền của Việt Nam. Muốn vậy, báo chí đối ngoại phải không

ngừng mở rộng địa bàn hoạt động, tăng cường mở các văn phòng đại diện, mở rộng

đội ngũ cộng tác viên, phóng viên, chuyên gia nước ngoài tham gia vào quy trình sản

xuất, nhưng hiện tại tiềm lực và khả năng dành cho hoạt động của báo chí đối ngoại

còn hạn chế.

Trước tầm quan trọng như vậy của báo chí đối ngoại, Chính phủ với chủ trương

đầu tư có hiệu quả về tài chính, con người, cơ sở vật chất cho cơ quan báo chí phục vụ

nhiệm vụ đối ngoại, đặc biệt ứng dụng các phương thức truyền thông điện tử mới để

xây dựng và phát triển báo điện tử phục vụ mục tiêu đối ngoại. Nhưng thực tế hiện

nay, việc làm báo có sự biến chuyển mạnh mẽ, đó là những ứng dụng trên các nền tảng

công nghệ hiện đại, song chi phí lớn và đi liền với chi phí để hoạt động còn có chi phí

để quản lý, bảo trì, nâng cấp cũng cần đến nguồn ngân sách không nhỏ. Mặt khác, để

nâng cao hiệu quả hoạt động của báo chí đối ngoại. Chính phủ cũng khuyến khích các

cơ quan báo chí đối ngoại tăng cường sử dụng các phương thức truyền thông mới. Với

tiềm lực, ngân sách của các cơ quan báo chí đối ngoại hiện còn hạn chế nên khó có thể

đáp ứng được chủ trương mà Chính phủ đề ra cho các cơ quan báo chí đối ngoại từ nay

đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 có hệ thống cơ sở vật chất hiện đại.

Đi liền với hệ thống cơ sở vật chất làm báo hiện đại không thể không có ngân

sách để đầu tư cho việc đào tạo đội ngũ cán bộ báo chí về ngoại ngữ, tin học, cách

thức tác nghiệp trên các phương tiện này.Vì vậy giải pháp về tài chính mà Chính phủ

đưa ra theo Quyết định số 2434/QĐ-TTg Phê duyệt quy hoạch hệ thống báo chí đối

ngoại đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 từ năm 2016 đó là “Tăng cường đầu

tư ngân sách cho nghiên cứu khoa học, đào tạo, bồi dưỡng báo chí đối ngoại, tăng

cường đầu tư, đổi mới và hiện đại hóa cơ sở vật chất, kỹ thuật của các cơ quan báo chí

129

đối ngoại, đặc biệt là các cơ quan báo chí đối ngoại chuyên biệt” [148]. Kể từ đó đến

nay ngân sách đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất được tăng cường đáng kể, nhưng sự

chuyển biến và đầu tư của các nước cho công nghệ làm báo cũng gia tăng mạnh mẽ

nên việc đầu tư các nguồn lực cho làm báo hiện còn khoảng cách khá xa với những

yêu cầu mà thực tế đặt ra cho các cơ quan báo chí đối ngoại.

Đầu tư nguồn lực cho các cơ quan báo chí đối ngoại đã khó khăn nên đầu tư cho

việc quản lý báo chí đối ngoại cũng khó khăn không nhỏ. Khác với đầu tư cho quản lý

báo chí đối nội chủ yếu diễn ra ở phạm vi trong nước, quản lý báo chí đối ngoại không

chỉ ở ở một văn phòng đại diện mà chúng ta có nhiều văn phòng đại diện, đội ngũ cán

bộ báo chí đối ngoại tác nghiệp ở nhiều nước, nhiều châu lục và cả với đội ngũ phóng

viên, biên tập viên, chuyên gia nước ngoài được thuê để tham gia vào sản xuất báo chí

đối ngoại.

Những khó khăn, rào cản về nguồn lực đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự chuyển

đổi công nghệ làm báo cũng như cho công tác quản lý báo chí đối ngoại, khó khăn về

kinh phí có thể tác động đến sự tăng cường sự phối hợp với các cơ quan có liên quan

trong quản lý báo chí đối ngoại. Không những vậy, nguồn lực đầu tư cho hoạt động

nghiên cứu, dự báo để phát triển báo chí đối ngoại cũng đang gặp nhiều khó khăn.

Việc tăng cường nguồn lực cho báo chí đối ngoại là một chiến lược truyền thông khôn

ngoan mà nhiều quốc gia trên thế giới đang áp dụng và ngày càng xây dựng thành

những đế chế hùng mạnh, các nước có nền báo chí phát triển đang tích cực xây dựng

những tập đoàn báo chí trở thành những tập đoàn kinh tế lớn, nổi trội nhất là ở các

quốc gia có nền kinh tế phát triển, để quảng bá cho quốc gia mình, thể hiện rõ quan

điểm, đường lối lãnh đạo, trách nhiệm và vị trí quốc gia trong môi trường chính trị

toàn cầu.

3.2. Xu hướng quản lý báo chí đối ngoại của Việt Nam trong những năm tới

Trong thời đại bùng nổ thông tin và xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng

của Việt Nam với thế giới như hiện nay, báo chí đối ngoại càng trở nên quan trọng hơn

bao giờ hết nhất là Việt Nam đang được coi là điểm đến an toàn cho các nhà đầu tư

nước ngoài. Báo chí đối ngoại là công cụ quan trọng cho các nhà đầu tư và cộng đồng

người Việt Nam đang sinh sống, có mặt tại nhiều nước trên thế giới muốn tìm kiếm

thông tin. Trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng luôn coi báo chí đối ngoại là

phương tiện quan trọng chuyển tải những thông điệp lãnh đạo của Đảng về những

130

thành tựu sau hơn 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới của đất nước, kêu gọi sự đồng

tình, ủng hộ của nhân dân thế giới, vừa bảo vệ nền độc lập, vừa từng bước phá thế bao

vây cấm vận, chống quan điểm thù địch nhằm xây dựng một nước Việt Nam hòa bình,

hữu nghị. Để đạt được những thành tựu trên, có thể thấy một số xu hướng phát triển

của báo chí đối ngoại trong thời gian tới:

- Hiện tại và trong những năm tới, quản lý báo chí đối ngoại tiếp tục phát triển

theo hướng làm tốt công tác tham mưu cho Đảng, Nhà nước về đường lối đối ngoại.

Tham mưu, định hướng về tầm nhìn dài hạn của đất nước, đưa ra những dự báo về tình

hình khu vực và thế giới để có chiến lược, sách lược đúng đắn về đường đối ngoại

phục vụ sự phát triển, hội nhập của Việt Nam với thế giới. Xác định trọng tâm, trọng

điểm trong công tác đưa tin, viết bài phù hợp với nhu cầu ngày càng cao của người dân

các nước cũng như người Việt Nam ở nước ngoài. Báo chí đối ngoại còn tham gia vào

thúc đẩy và gia tăng mối quan hệ nhiều mặt của Việt Nam với các nước, giữa hội nhập

quốc tế với độc lập chủ quyền nhưng kiên định và giữ vững bản sắc dân tộc, về

phương châm chỉ đạo hoạt động đối ngoại của Đảng, khuyến khích các báo, tạp chí

xây dựng các chuyên mục, bài viết phục vụ nhiệm vụ đối ngoại; kiên quyết đấu tranh,

làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc

lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị của

đất nước, bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của nhà nước

đối với các hoạt động đối ngoại [64].

- Chỉ đạo và xây dựng và phát triển các ấn phẩm báo chí đối ngoại hấp dẫn,

hiện đại, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người đọc, đồng thời thiết lập mối quan

hệ với các cơ quan quản lý báo chí, các hãng thông tấn, cơ quan truyền thông lớn của

nước ngoài. Theo Quyết định số 2434/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê

duyệt quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2020 và định hướng đến năm

2030, xây dựng hệ thống báo chí đối ngoại Việt Nam có trọng tâm, trọng điểm nhất,

đặc biệt là các nước láng giềng, các nước lớn, các nước trong khối ASEAN, Mỹ, Liên

minh Châu Âu, Nhật Bản, các nước khu vực Mỹ Latinh, cộng đồng người Việt Nam

đang sinh sống, học tập ở nước ngoài, công tác bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, chủ

quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo. Để có thể tạo nên các ấn phẩm báo chí đối ngoại

sinh động, hấp dẫn công tác nghiên cứu thị hiếu của người đọc, hình thức trình bày,...

sẽ được quan tâm đầu tư nhiều hơn. Trong Báo cáo toàn cầu về đổi mới sáng tạo trong

131

báo chí 2010 - 2021 đề cập rất chi tiết về sự sáng tạo trong thiết kế và nội dung trên

báo chí: Sáng tạo trong video, tương tác với độc giả, dữ liệu. Nancy Gauss giám đốc

điều hành phụ trách mảng video của The New York Times cho biết “Chúng tôi cố

gắng trở thành đối tác của phía chuyên về nội dung cho báo in để phát triển các ý

tưởng từ dưới lên, để thực sự có thể tận dụng được sức mạnh của video” [88]. Việc

đầu tư nhiều hơn về con người, cơ sở vật chất cho cơ quan báo chí đối ngoại, ứng dụng

các phương thức truyền thông điện tử mới để xây dựng và phát triển báo điện tử ngày

càng trở nên phổ biến. Một số báo điện tử đối ngoại chuyên biệt, chủ lực được phát

hành bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Trung Quốc, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Nga sẽ

được ưu tiên tăng cường để trở thành báo điện tử mạnh có lượng truy cập lớn. Cùng

với đó, một số tờ báo in, tạp chí in đối ngoại chuyên biệt phát hành bằng Tiếng Anh,

tiếng Pháp, tiếng Trung Quốc, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Nga được đầu tư mang tầm

khu vực và thế giới.

Quản lý báo chí đối ngoại ngày càng chú trọng sâu hơn vào những tiềm năng,

thế mạnh của Việt Nam, đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo, giữ vững an ninh chính

trị, ổn định đất nước. Xây dựng chuyên đề chuyên sâu về đấu tranh chống âm mưu

“diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, phản bác các luận điệu sai trái,

xuyên tạc của các thế lực thù địch. Với sự phát triển của báo chí đối ngoại hiện nay,

các nước có nền kinh tế phát triển luôn gây ảnh hưởng bằng việc đưa thông tin lên báo

chí, đó cũng là chiến lược khôn ngoan bởi phạm vi tác động lớn, tính hiệu quả cao. Do

đó, các tập đoàn truyền thông sẽ ngày càng khai thác sâu hơn vào xu hướng này và

ngày càng vươn tầm ảnh hưởng ra thế giới với nhiều hoạt động khác nhau, cách quảng

bá khác nhau nhằm vào nhiều nhu cầu khác nhau của con người. Báo chí đối ngoại của

Việt Nam cũng không đứng ngoài cuộc mà cần phải thay đổi về nội dung, chiến lược.

- Những ứng dụng của công nghệ thông tin và những nền tảng công nghệ hiện

đại vào quản lý báo chí đối ngoại được đẩy mạnh

Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, nhất là trong giai đoạn cách mạng công

nghiệp 4.0 đang tác động trực tiếp đến cách chúng ta sống và làm việc, điều này tất

yếu tác động đến việc ứng dụng công nghệ vào quản lý báo chí đối ngoại.

Khẳng định công nghệ số sẽ thay đổi báo chí và ảnh hưởng đến báo chí trong

một chặng đường dài, “Chúng ta có niềm tin vững chắc rằng, công nghệ số sẽ giúp cho

báo chí thực hiện sứ mạng của mình tốt hơn. Thế nhưng, chúng ta phải thay đổi, trước

132

khi công nghệ chuyển sứ mạng cho một lực lượng thay thế khác” (Thái An, 2019).

Chính vì vậy, việc ứng dụng công nghệ số sẽ góp phần nâng cao hiệu quả quản lý báo

chí mọi lúc, mọi nơi, đặc biệt là tính tương tác nhanh, việc phổ biến các chủ trương,

chính sách quản lý báo chí đến các cá nhân làm báo chí đối ngoại nhanh và thuận lợi.

Tại Ban đối ngoại của VOV5, lãnh đạo Ban chia sẻ rằng: “Chúng tôi có hệ thống khi

thiết kế trang website, comment của độc giả gửi đến chỉ hiện thị ở mục phản hồi của

thính giả, không hiển thị trên trang web. Sau đó lãnh đạo chương tr nh mới là người

duyệt những comment đó”.

Bên cạnh sự chủ động của các cấp lãnh đạo trong việc ứng dụng công nghệ số

vào quản lý báo chí, trước sự tác động của công nghệ cũng đặt ra cho các cấp lãnh đạo

phải đổi mới tư duy và phong cách quản lý báo chí đối ngoại, nhạy bén với cách quản

lý báo chí đối ngoại để không chỉ đáp ứng vai trò của cơ quan lãnh đạo mà còn thích

ứng với xu hướng quản lý báo chí mới của thế giới. Điều này tạo cũng góp phần vào

việc hội nhập công tác quản lý đối với báo chí đối ngoại ngày càng sâu rộng với quản

lý báo chí đối ngoại của thế giới. Mặt khác, báo chí điện tử đang có xu hướng phát

triển mạnh mẽ, nếu chỉ chú trọng vào quản lý báo chí theo cách truyền thống sẽ khó

theo kịp được với các sự phát triển của báo chí đối ngoại hiện đại. Vì vậy, xu hướng

chung trong quản lý báo chí đối ngoại ngày càng ứng dụng mạnh mẽ những thành tựu

của những nền tảng công nghệ hiện đại, nhất là công nghệ số.

3.3. Một số giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại

trong thời gian tới

3.3.1. Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của công tác quản lý nhà nước

về báo chí đối ngoại

3.3.1.1. Nâng cao nhận thức của các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại

Nhận thức đúng là cơ sở để thực hiện đúng đắn quan điểm, đường lối lãnh đạo

của Đảng và sự quản lý của Nhà nước về báo chí đối ngoại hành động đúng. Do vậy,

cơ quan quản lý nhà nước về báo chí phải tìm hiểu, nắm vững chuyên môn trong lĩnh

vực công tác, tạo vốn kiến thức và kinh nghiệm thuận lợi cho quá trình công tác (Vụ

Thông tin báo chí - Bộ Ngoại giao, 2007).

Để các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại thực hiện tốt nghiệm vụ quản lý báo

chí đối ngoại, việc nâng cao nhận thức về việc chấp hành đúng chủ trương, sự lãnh đạo

của Đảng của Đảng về công tác báo chí là nhiệm vụ trọng tâm. Đảng luôn xác định

133

báo chí là một mặt trận trong công tác tuyên truyền chủ trương, về đường lối hòa bình,

hữu nghị và mở rộng hợp tác quốc tế. Chính vì vậy, các cơ quan quản lý báo chí cần

nắm vững định hướng của Đảng, giúp các cơ quan báo chí thực hiện tốt nhiệm vụ

trong việc đưa đường lối của Đảng đến với người dân ở các nước, vùng lãnh thổ và

khu vực trên thế giới, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, làm cho họ thực sự

hiểu đúng đắn về chủ trương tốt đẹp của Đảng và Nhà nước trong việc thiết lập và xây

dựng các mối quan hệ cùng có lợi, vì các mục tiêu chung.

Các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại từ Trung ương tới địa phương có sự phối

hợp chặt chẽ, thống nhất trong chỉ đạo các cơ quan báo chí đối ngoại luôn đảm bảo tôn

chỉ, mục đích. Sự phối hợp giúp cho các cơ quan báo chí cũng như hoạt động của báo

chí đối ngoại ngày càng phát triển, đặc biệt là hình thức đưa tin ngày càng phong phú,

đa dạng. Hơn nữa, có thể thông qua công tác quản lý để góp phần chỉ đạo, định hướng

các cơ quan báo chí đối ngoại ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin, sử dụng công

nghệ số và việc xuất bản, thực sự làm cho báo chí đối ngoại trở thành phương tiện

quan trọng của Đảng, của Nhà nước về phát triển đường lối đối ngoại, đưa thông tin

trong nước ra ngoài nước một cách hiệu quả.

Mặt khác, các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại cần nhạy bén trong việc nắm

bắt nhu cầu thông tin của độc giả ngoài nước, và hướng dẫn cách tổ chức thông tin

hiệu quả trên báo chí đối ngoại. Như vậy, các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại không

chỉ nắm vững nghiệp vụ quản lý báo chí mà còn cần có nhận thức đầy đủ, nhạy bén

trong việc hướng dẫn cách tổ chức nội dung báo chí đối ngoại đáp ứng tốt yêu cầu của

việc cung cấp thông tin về tình hình Việt Nam ra thế giới.

3.3.1.2. Nâng cao nhận thức của các cơ quan báo chí đối ngoại

Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư, dẫn đến sự ra đời và phổ

biến nhiều phương tiện truyền thông hiện đại, điều này làm cho báo chí đối ngoại cũng

có những tác động tích cực, tạo nên những ưu thế mới như tương tác trực tiếp, cá nhân

hóa thông tin, làm thay đổi mạnh mẽ cách thức tổ chức, quy trình sản xuất và phổ biến

nội dung, cho phép ra đời nhiều sản phẩm báo chí đối ngoại có chất lượng cao. Đặc

biệt với sự hỗ trợ của trí tuệ nhân tạo làm cho báo chí đối ngoại có thể có những tương

tác thường xuyên với độc giả. Tuy nhiên, trước những thuận lợi cũng đặt ra không ít

khó khăn cho báo chí đối ngoại bởi sự ra đời của các loại hình báo chí, truyền thông

hiện đại,... có thể làm cho báo chí đối ngoại truyền thống đối mặt với cạnh tranh với

134

các loại hình báo chí mới. Do vậy, các cơ quan báo chí đối ngoại cần sớm cập nhật

công nghệ mới trong làm báo, đổi mới phương thức tổ chức sản xuất, trong quá trình

tổ chức nội dung kịp thời nắm bắt tình hình trong nước để cung cấp ra nước ngoài một

cách nhanh chóng. Mặt khác, việc đưa những ứng dụng hiện đại vào để nâng cao hoạt

động của báo chí đối ngoại cần đội ngũ cán bộ báo chí, xuất bản đối ngoại đáp ứng yêu

cầu của tình hình mới, nhất là hiểu biết về nhận thức, nhu cầu thông tin của người dân

ở các quốc gia đặt văn phòng đại diện, làm cho báo chí đối ngoại ngày càng đóng góp

quan trọng vào công cuộc đối ngoại của Đảng với nhân dân thế giới.

Những tác động của khoa học và công nghệ làm báo, các cơ quan báo chí đối

ngoại không thể đứng ngoài cuộc khi tiếp tục tổ chức sản xuất báo chí theo cách truyền

thống. Ngày nay, xu hướng truyền thông đa phương tiện, truyền thông hội tụ,... báo chí

đối ngoại có nhiều điều kiện để tiếp cận. Với sự phổ biến của các trang mạng xã hội

khiến báo chí đối ngoại cũng phải cạnh tranh gay gắt. Nội dung của báo chí đối ngoại

luôn được kiểm chứng và khẳng định chắc chắn. Trong khi đó với ưu thế nhanh, nhạy,

tính tương tác cao và sự lan tỏa lớn..., mạng xã hội đang ngày càng cạnh tranh quyết

liệt với báo chí truyền thống. Mạng xã hội đã trở thành môi trường để một số người

truyền bá luận điệu sai trái, đưa ra thông tin xấu độc, gây hại làm cho thông tin chính

thống bị nhiễu loạn. Vì vậy, trước những xu hướng phát triển của báo chí, mạng xã

hội, các cơ quan báo chí đối ngoại cần nhận thức rõ hơn xu hướng phát triển của báo chí

nói chung cũng như báo chí đối ngoại nói riêng trong bối cảnh của cuộc cách mạng công

nghệ, về việc tổ chức khai thác và phổ biến thông tin, nắm bắt sự chỉ đạo của Đảng, hệ

thống các văn bản quản lý nhà nước với báo chí đối ngoại. Mặt khác, các cơ quan báo

chí đối ngoại cần đẩy mạnh sự hợp tác tổ chức và sản xuất báo chí đối ngoại của Việt

Nam với các cơ quan báo chí đối ngoại ở các nước trên thế giới mà Việt Nam có đặt văn

phòng đại diện. Qua đó thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị cũng như thực hiện công tác

đối ngoại của Đảng, của Nhà nước, là cầu nối quan trọng trong việc khai thác thông tin

đầy đủ, kịp thời về tình hình trong nước và phổ biến sớm nhất đến độc giả.

3.3.2. Đổi mới nội dung và phương thức quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại

Luật Báo chí và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về báo chí hiện hành dù

đã bao quát được khá đầy đủ các nội dung quản lý nhưng vẫn còn một số vấn đề chưa

được quy định hoặc quy định thiếu cụ thể, cần bổ sung (Nguyễn Minh Thuyết, 2015).

Các công cụ pháp lý không thể thay thế chỉ đạo chính trị đối với báo chí nói chung

135

cũng như báo chí đối ngoại nói riêng. Công cụ pháp lý được xem là công cụ chủ yếu,

cơ bản trong chỉ đạo hoạt động báo chí đối ngoại cũng như việc quản lý báo chí đối

ngoại, nhất là báo chí ngày càng trở thành phương tiện quan trọng trong việc chuyển

tải các thông điệp đến người dân, trong mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, cũng như

vấn đề tự do trong báo chí được pháp luật qui định. Đến nay, hệ thống văn bản quy

phạm pháp luật trong lĩnh vực báo chí đã cơ bản có đủ các hình thức, gồm: Hiến pháp,

Luật Báo chí, Pháp lệnh, Lệnh của Chủ tịch nước, các nghị quyết, nghị định của Chính

phủ, quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, quyết định, chỉ thị, thông tư của Bộ

Thông tin và Truyền thông, thông tư liên tịch,... cùng với đó pháp luật về quản lý báo

chí đối ngoại đã được ban hành nhưng chưa nhiều mà chủ yếu tập trung và lĩnh vực

thông tin đối ngoại, chính vì vậy cần có giải pháp về việc hoàn thiện các văn bản, các

qui định đối với lĩnh vực báo chí đối ngoại, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động cũng

như hiệu quả quản lý báo chí đối ngoại ở nước ta hiện nay và trong những giai đoạn

tiếp theo.

Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý báo chí đối ngoại,

chú trọng đến công tác tổng kết hoạt động quản lý nhà nước bằng pháp luật, đồng thời

chú ý đến điều tra dư luận xã hội, khảo sát thực tiễn để có cơ sở thực tiễn trong cho

việc ban hành các văn bản quản lý tốt hệ thống báo chí đối ngoại theo phương châm

phát triển ổn định đi đôi với quản lý tốt. Đây vừa là định hướng mà còn là phương

châm trong quản lý báo chí đối ngoại. Việc hoàn thiện hệ thống các qui định pháp luật

quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại mà còn đi liền với việc xây dựng các chính sách

về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ báo chí đối ngoại cũng như cán bộ quản lý báo chí

đối ngoại đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Cụ thể, thường xuyên chú trọng đến hoạt

động bồi dưỡng, nâng cao trình độ, kiến thức pháp luật về quản lý báo chí đối ngoại cho

đội ngũ cán bộ báo chí đối ngoại cũng như cán bộ tham gia quản lý, để ngay từ khâu đưa

tin, viết bài cán bộ báo chí đã ý thức được những giới hạn mà pháp luật cho phép. Các

quy định pháp lý đối với quản lý hoạt động của báo chí đối ngoại càng đầy đủ, chi tiết,

thì càng có tác dụng ngăn ngừa các sai phạm. Ngoài ra, khi cần chấn chỉnh sai sót sẽ

thuận tiện và nhanh chóng được khắc phục hơn vì đã có các quy định pháp lý đồng bộ,

có sự minh bạch trong xử lý các vấn đề của hoạt động quản lý để vận dụng.

Việc hoàn thiện quy định pháp luật quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại trong

đó cần chú ý đến trách nhiệm, thẩm quyền các chủ thể tham gia quản lý báo chí đối

136

ngoại và hoạt động báo chí đối ngoại, quy định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của cơ

quan báo chí và người đứng đầu các cơ quan quản lý báo chí. Mặt khác, việc hoàn

thiện các quy định này còn phải chú ý đến cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý ở

Trung ương với các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại ở địa phương, sự phối hợp trong

quản lý việc đưa tin, viết bài giữa các cơ quan báo chí đối ngoại các địa phương, tránh

được trường hợp có những vấn đề mà cấp dưới có thể xử lý nhưng lại được đẩy lên

cho cơ quan ở cấp trên hoặc cấp dưới ngại xử lý. Xác định rõ thẩm quyền và trách

nhiệm giữa cơ quan quản lý nhà nước đối với báo chí đối ngoại.

Ban hành các quy định cụ thể để quản lý tốt hơn lĩnh vực báo chí phát thanh

truyền hình đối ngoại, báo điện tử vì đây là lĩnh vực mới và được dự đoán sẽ có xu

hướng phát triển mạnh mẽ trong tương lai. Do vậy, những quy định về nghiệp vụ báo

chí đối ngoại hiện đại có những thay đổi căn bản, dẫn đến sự thay đổi trong phương

pháp, cách thức, quản lý hoạt động báo chí đối ngoại.

Các qui định của pháp luật với báo chí đối ngoại còn thể hiện ở việc ban hành

những quy định về cơ chế, chính sách cho các cơ quan báo chí đối ngoại ở Trung ương

cũng như ở các địa phương trong huy động các nguồn lực từ xã hội hoạt động xã hội

hóa phục vụ hoạt động báo chí đối ngoại cũng như công tác quản lý báo chí đối ngoại.

Trong Đề án qui hoạch báo chí đối ngoại đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 có

đề cập đến xây dựng chính sách khuyến khích, hỗ trợ người Việt Nam ở nước ngoài

xuất bản báo chí cho người Việt Nam, việc thuê phóng viên người nước ngoài viết bài

trên báo chí đối ngoại song những qui định riêng về vấn đề bày chưa có những văn bản

cụ thể, nên cách áp dụng, triển khai chưa nhất quán, vì vậy việc xây dựng các cơ chế,

chính sách, pháp luật về việc khuyến khích, động viên các tổ chức người Việt Nam ở

nước ngoài cũng như người nước ngoài viết bài cho báo chí đối ngoại rất cần thiết.

Hoàn thiện các cơ chế, chính sách, pháp luật để từng bước nâng cao hiệu quả quản lý

hoạt động của báo chí cũng như quản lý báo chí đối ngoại trong tình hình hiện nay và

trong thời gian tới là công việc có ý nghĩa thực tiễn.

Hiện nay, các quy định về quản lý báo chí ở nước ta cần có sự hoàn thiện, đồng

bộ hơn nữa, làm cho việc tổ chức thực thi pháp luật báo chí đối ngoại của các cơ quan

quản lý Nhà nước tránh được sự chồng chéo, tạo sự thống nhất, xây dựng được cơ chế

phối hợp giữa các cơ quan trong quản lý Nhà nước về báo chí đối ngoại, hướng đến

thông lệ chung có tính phổ biến với quản lý báo chí đối ngoại ở các nước có nền báo

137

chí phát triển, giúp cho báo chí đối ngoại ngày càng phát triển cũng như công tác quản

lý ngày càng hiệu quả.

Báo chí đối ngoại cũng như báo chí trong nước, việc tiếp nhận bài viết, đăng

bài, ảnh đều có những qui định riêng phù hợp với tôn chỉ mục đích của tờ báo đó.

Trước hết, nội dung các bài viết trên báo chí đối ngoại phải đúng quan điểm, đường lối

của Đảng, pháp luật của Nhà nước về đối ngoại, góp phần vào việc tạo dựng ảnh

hưởng, vị thế, hình ảnh Việt Nam ra thế giới, các bài viết phải góp phần vào việc duy

trì lợi ích quốc gia, dân tộc, đồng thời không gây phương hại đến quan hệ đối ngoại,

hợp tác quốc tế giữa Việt Nam với các nước trên thế giới, các thông tin đăng tải không

gây kích động bạo lực, không tuyên truyền chiến tranh xâm lược gây hận thù giữa các

dân tộc và nhân dân các nước [39]. Những điều này cũng là tôn chỉ chung mà các báo

chí đối ngoại phải thực hiện và đã được Bộ Thông tin và Truyền thông đưa vào Dự

thảo lần 2 Thông tư quy định việc đăng, phát nội dung thông tin đối ngoại trên báo chí.

Mặt khác, trong giấy phép xuất bản của từng tờ báo đối ngoại, chẳng hạn ở Trung

ương là Báo VietnamNews, Báo ảnh Việt Nam, Báo điện tử Việt Nam thuộc Thông

Tấn xã Việt Nam; Ban Đối ngoại (VOV5), Kênh chương trình truyền hình phục vụ

cộng đồng người Viêt Nam ở nước ngoài VTC10 của Đài tiếng nói Việt Nam; Kênh

chương trình truyền hình đối ngoại quốc gia (VTV4) của Đài truyền hình Việt Nam,...

ở các địa phương, trên kênh phát thanh truyền hình đều có mục đối ngoại, trong đó xác

định rõ tôn chỉ mục đích.

Việc tiếp nhận, đăng các tin bài, ảnh có nội dung phù hợp với tôn chỉ, mục đích

được cấp phép tập trung và các nội dung gồm: Các nội dung bài viết về chính thức về

Việt Nam; nội dung quảng bá hình ảnh Việt Nam trên mọi lĩnh vực; hội nhập quốc tế;

chủ quyền biển, đảo, lãnh thổ, biên giới quốc gia; tình hình nhân quyền; công tác bảo hộ

công dân; cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài; tình hình quốc tế; giải thích, làm rõ,

đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về Việt Nam trên các lĩnh vực… các

nội dung tiếp nhận, đăng tải phải chính xác, kịp thời có kiểm chứng. Người làm báo đối

ngoại cũng như cán bộ quản lý báo chí đối ngoại phải thường xuyên, chủ động luôn đấu

tranh phản bác những thông tin sai sự thật, luận điệu xuyên tạc về Việt Nam.

Cũng theo Dự thảo Thông tư quy định việc đăng, phát nội dung thông tin đối

ngoại trên báo chí đối ngoại năm 2018, qui định việc đăng, phát nội dung thông tin

trên báo chí đối ngoại phải đảm bảo đăng, phát nhanh, kịp thời, chính xác quan điểm

138

của Nhà nước Việt Nam về các vấn đề quan trọng của Việt Nam và thế giới ở trang

nhất đối với báo in, trang chủ đối với báo điện tử, bản tin thời sự đối với kênh phát

thanh, truyền hình đối ngoại. Thời gian đăng, phát và ngôn ngữ được thể hiện trên báo

chí đối ngoại được xác định rõ, đồng thời việc sản xuất tin, bài trực tiếp bằng ngôn

ngữ tiếng nước ngoài. Ngoài ra, việc tiếp nhận, đăng các tin bài, ảnh có nội dung phù

hợp với tôn chỉ, mục đích được cấp phép trên các phương tiện truyền thông nước

ngoài chủ động đăng, phát các tin, bài, chương trình phát thanh, truyền hình quảng bá

hình ảnh Việt Nam trên các báo in, báo điện tử, kênh phát thanh, kênh truyền hình của

người Việt Nam ở nước ngoài.

Như vậy, các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại dựa trên tôn chỉ mục đích được

cấp phép để kiểm tra, quản lý hoạt động của nhà báo, phóng viên, cơ quan báo chí về

tiếp nhận, đăng các tin bài, ảnh. Có như vậy, báo chí đối ngoại sẽ luôn giữ được vai trò

lãnh đạo của Đảng, sự thống nhất quản lý của Nhà nước, các nội dung bài viết đáp ứng

được tính thời sự, tính đối ngoại, các vấn đề về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa trong

nước cũng như đời sống của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.

3.3.3. Tăng cường đầu tư ngân sách cho công tác nghiên cứu khoa học và

đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực; quan tâm đầu tư, đổi mới và hiện

đại hóa cơ sở vật chất, kỹ thuật của các cơ quan báo chí đối ngoại, đặc biệt là các cơ

quan báo chí đối ngoại chuyên biệt, báo điện tử

3.3.3.1. Đầu tư ngân sách cho nghiên cứu khoa học là một trong những giải

pháp quan trọng nhằm thực hiện tốt công tác dự báo xu hướng phát triển của báo chí

đối ngoại, chủ động nắm bắt tư tưởng, dư luận xã hội trong việc tiếp nhận thông tin

trên báo chí đối ngoại nhằm xử lý nhanh chóng, hiệu quả các vấn đề phức tạp nảy sinh

liên quan. Việc đầu tư ngân sách cho công tác nghiên cứu khoa học về quản lý báo chí

đối ngoại để kịp thời nhận diện rõ những biến chuyển, xu hướng phát triển của báo chí

đối ngoại, từ đó xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý báo chí có đủ năng lực làm việc

trong môi trường quốc tế, những hạn chế xuất phát từ vấn đề chất lượng quản lý báo

chí đối ngoại. Đồng thời công tác nghiên cứu khoa học quản lý báo chí đối ngoại sẽ

đưa ra những gợi ý về đường lối đối ngoại của Đảng về chiến lược, sách lược xây

dựng nền báo chí đối ngoại mang tính cách mạng cao. Đây là nhiệm vụ quan trọng của

cơ quan lãnh đạo quản lý báo chí các cấp, đảm bảo sự lãnh đạo sâu sát của Đảng đối

với báo chí đối ngoại, giúp các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại nhanh chóng cập

139

nhật được tình hình thực tiễn của đất nước, dư luận xã hội để kịp thời thông tin đến các

nước trên thế giới, người Việt Nam ở các châu lục.

Đối với cơ quan báo chí đối ngoại, cần có những qui định rõ về nhiệm vụ công

tác đối với cán bộ báo chí thuộc cơ quan mình. Với cán bộ mới tuyển dụng yêu cầu

cán bộ báo chí xây dựng bảng mô tả về công việc, các năng lực, sở trường, sở đoản để

phân công bố trí công việc phù hợp. Với cán bộ đang công tác nếu chưa đủ đáp ứng đủ

các tiêu chuẩn đối với cán bộ báo chí cần được đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn về chuyên

môn, nghiệp vụ. Cùng với công tác nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ, cán bộ báo chí

còn được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị để chủ động đấu tranh

với những hành vi tiêu cực, nắm vững đường lối lãnh đạo của Đảng, thực hiện tốt

nhiệm vụ được giao.

3.3.3.2. Phát triển nguồn nhân lực báo chí đối ngoại

Đối với cán bộ quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại, phải xây dựng tiêu chuẩn

đầu vào chặt chẽ, cần xây dựng tiêu chuẩn tuyển dụng trong đó qui định rõ về trình độ

nghiệp vụ báo chí, năng lực sử dụng công nghệ thông tin, trình độ ngoại ngữ, kiến thức

về quản lý, pháp luật và pháp luật trong lĩnh vực báo chí, có tư tưởng đổi mới trong

quản lý báo chí đối ngoại.

Sử dụng hình thức thi tuyển cán bộ quản lý báo chí đối ngoại từ trung ương đến

địa phương với sự đánh giá chặt chẽ, có sự tham gia đánh giá từ nhiều phía. Nội dung

thi tuyển cần linh hoạt, đa dạng, tập trung vào khía cạnh quản lý phát triển báo chí đối

ngoại. Đồng thời cần có sự qui hoạch để đào tạo, bồi dưỡng tạo nguồn cán bộ quản lý.

Kiên quyết không đưa vào bộ máy những người không đảm bảo về những tiêu chuẩn

về đạo đức, chính trị, thiếu kỹ năng lãnh đạo, quản lý, những cán bộ không có tư tưởng

đổi mới trong việc xây dựng và phát triển vững mạnh báo chí đối ngoại. Đưa ra khỏi

bộ máy những cán bộ được bổ nhiệm lâu nhưng thiếu tính sáng tạo, không có tham

mưu cho công tác lãnh đạo, quản lý báo chí.

Quyết định Phê duyệt quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2020, định

hướng đến năm 2030 của Thủ tướng Chính phủ ngày 13 tháng 12 năm 2016 chỉ rõ giải

pháp về nhân lực “Xây dựng, hoàn thiện và thực hiện chương trình đào tạo, bồi dưỡng

lực lượng cán bộ, các phóng viên của các cơ quan báo chí đối ngoại, đặc biệt là các

chuyên gia viết bài đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, sai trái của các thế lực

cơ hội, thù địch” [149].

140

3.3.3.3. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ báo chí đối ngoại

Trước hết cần tiến hành đổi mới công tác đào tạo cán bộ báo chí. Người làm báo

phải có khả năng phân tích, tổng hợp, đánh giá để có thể viết báo và cho ra những bài

báo có chất lượng, ngay từ khâu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ báo chí ngay từ việc tuyển

sinh cần có những qui định cụ thể, rõ ràng về phẩm chất chính trị, thái độ đối với nghề

nghiệp. Nội dung, chương trình đào tạo cần theo hướng phát triển năng lực thực tiễn làm

báo, kỹ năng viết báo, kỹ năng phản biện trên cơ sở khoa học, kỹ năng sử dụng ngoại

ngữ, tin học. Để nâng cao chất lượng đào tạo bồi dưỡng, ngoài đội ngũ giảng viên ở các

cơ sở đào tạo báo chí, có thể mời báo cáo viên, các nhà báo, những nhà quản lý báo chí

tham gia giảng dạy cũng, ngoài ra có thể mời báo cáo viên là những nhà báo nước ngoài

có kinh nghiệm trong làm báo chí đối ngoại, vừa xây dựng mối quan hệ hợp tác, vừa có

thể huy động đội ngũ này tham gia viết bài trên báo chí đối ngoại.

Đi liền với chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ báo chí về chuyên môn, nghiệp

vụ làm báo, với sự hội nhập quốc tế trong lĩnh vực báo chí, và sự phát triển mạnh của

báo chí điện tử, internet, truyền thông, hoạt động báo chí đối ngoại có những đổi mới,

bản thân đội ngũ báo cáo viên, giảng viên giảng dạy trong các cơ sở đào tạo cán bộ

báo chí phải được thường xuyên tập huấn, bồi dưỡng cập kỹ năng và công nghệ làm

báo hiện đại.

Quá trình hội nhập quốc tế đòi hỏi đội ngũ cán bộ quản lý báo chí phải có năng

lực đáp ứng được yêu cầu này. Nghị quyết số 26/NQ-TW, ngày 19 tháng 5 năm 2018,

Ban Chấp hành Trung ương 7 khóa XII đã xác định các mục tiêu, yêu cầu, lộ trình xây

dựng đội ngũ cán bộ có các cấp trong hệ thống chính trị có năng lực làm việc trong

môi trường quốc tế. Do đó các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại cần có giải pháp đào

tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ báo chí đối ngoại trước hết về tư tưởng, lập trường, bản

lĩnh chính trị, đặc biệt là cán bộ quản lý các cơ quan báo chí đối ngoại ở Trung ương

thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng.

Hội nhập quốc tế luôn đặt ra yêu cầu cao cho đội ngũ cán bộ quản lý báo chí cách

mạng trình độ hiểu biết sâu rộng, năng lực chuyên môn báo chí cũng như năng lực,

trình độ quản lý báo chí đối ngoại, do đó, cán bộ quản lý báo chí thường xuyên phải

được bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ quản lý báo chí, định chế

luật pháp báo chí của các nước. Giải pháp về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản

lý báo chí đối ngoại cần tiến hành đồng bộ theo qui trình chặt chẽ, từ lập quy hoạch,

141

xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng; cử cán bộ đi học; chính sách hỗ trợ trong đòa

tạo, bồi dưỡng; nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng; bố trí, sử dụng cán bộ sau quá

trình đào tạo, bồi dưỡng có tính đến chất lượng sau đào tạo, bồi dưỡng.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý báo chí đối ngoại ngoài việc được

tiến hành theo cách hình thức tại chỗ và để có thể trao đổi, học hỏi kinh nghiệm quản

lý báo chí đối ngoại của các nước có nền báo chí phát triển, cách tổ chức và phương

thức đào tạo, bồi dưỡng được tiến hành theo hình thức giao lưu, hợp tác, trao đổi kinh

nghiệm đào tạo cán bộ quản lý báo chí. Xây dựng chính sách, chế độ ưu tiên cho các

lĩnh vực chuyên công nghệ làm báo trên nền tảng công nghệ hiện đại, công tác quản lý

chuyên sâu,...

3.3.3.4. Đầu tư, đổi mới và hiện đại hóa cơ sở vật chất, kỹ thuật của các cơ

quan báo chí đối ngoại.

Cùng với giải pháp đầu tư cho nghiên cứu khoa học, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ

cán bộ báo chí cũng như cán bộ quản lý báo chí đối ngoại còn phải chú trọng đến giải

pháp đầu tư, đổi mới và hiện đại hóa cơ sở vật chất, kỹ thuật của các cơ quan báo chí

đối ngoại, đặc biệt là các cơ quan báo chí đối ngoại chuyên biệt, báo điện tử. Với việc

qui hoạch hệ thống báo chí đối ngoại bằng nhiều thứ tiếng trên các loại hình, nhất là

báo điện tử nên việc đẩy mạnh đầu tư trang thiết bị kỹ thuật để quản lý báo chí đối

ngoại là môt giải pháp quan trọng, có tính cần thiết cao.

Đầu tư xây dựng nền tảng công nghệ kỹ thuật phục vụ công tác quản lý và khai

thác thông tin cho báo chí đối ngoại.Việc xây dựng nền tảng công nghệ làm báo hiện

đại vừa để bảo đảm khả năng khai thác thông tin, vừa để tổ chức xây dựng hình ảnh,

diện mạo báo chí đẹp tạo sự hấp dẫn, đồng thời cơ quan quản lý báo chí kịp thời phát

hiện ra những khiếm khuyết trong việc chỉnh sửa nội dung thông tin, rõ nhất là với báo

điện tử. Hiện nay với sự hỗ trợ mạnh mẽ của tin học các cơ quan quản lý đã viết những

chương trình phần mềm quản lý báo chí để kịp thời phát hiện ra những bài viết có nội

dung nhạy cảm, các phần mềm có thể phân tích, đánh giá về các nội dung thông tin,

thuận lợi cho viêc nhận bài, đăng bài, tạo thuận lợi cho việc lưu trữ khối lượng lớn

thông tin quản lý báo chí.

Để ngăn chặn tình trạng vi phạm bản quyền báo chí, các cơ quan báo chí sử

dụng công nghệ hiện đại, tiên tiến đồng thời tạo sự liên thông, liên kết giữa các cơ

quan báo chí đối ngoại trong việc tiếp nhận bài và đưa các nội dung thông tin lên báo

142

chí, tránh sự trùng lặp, giúp cơ quan quản lý báo chí kiểm soát được vấn đề bản quyền.

Đầu tư kinh phí để các cơ quan quản lý báo chí có thể mua một số phần mềm quản lý

báo chí, chẳng hạn như phần mền Grammarly, Hemingway App, Tone Analyzer,... các

phần mềm này có thể hỗ trợ các nhà báo, các cơ quan báo chí trong khâu sản xuất nội

dung mà còn giúp các cơ quan quan quản lý phát hiện các sai phạm trong tác phẩm

báo chí.

Công tác lưu chiểu báo chí đối ngoại cũng đóng vai trò quan trọng trong quản lý

báo chí, do đó cần đầu tư kinh phí, trang thiết bị cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động

thanh tra, kiểm tra, chú trọng vào việc hiện đại hóa hệ thống lưu chiểu. Với báo in, báo

nói, báo hình có thể được số hóa vừa tiết kiệm kinh phí, vừa dễ quản lý, với báo chí

điện tử sẽ có những thuận lợi hơn trong lưu chiểu. Mặt khác, các cơ quan quản lý báo

chí có hể huy động các nguồn lực xã hội tham gia công tác quản lý báo chí đối ngoại.

Trong quá trình quản lý, cần phải thường xuyên theo dõi, tổng hợp, đánh giá, rút kinh

nghiệm để ngày càng nâng cao hiệu quả quản lý báo chí đối ngoại, đáp ứng tốt nhu cầu

ngày càng cao của độc giả quốc tế và người Việt Nam ở nước ngoài.

3.3.4. Đổi mới tổ chức, bộ máy, cơ sở vật chất của các cơ quan quản lý báo

chí đối ngoại

3.3.4.1. Xây dựng cơ cấu bộ máy quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại hợp lý

Trong công tác xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm

pháp luật về báo chí, Quốc hội đã ban hành Luật Báo chí năm 2016, Thủ tướng Chính

phủ đã ban hành Quyết định phê duyệt quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến năm

2020, định hướng đến năm 2030; Đề án Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí đến

năm 2025 đang là cơ sở để sắp xếp tổ chức lại bộ máy các cơ quan báo chí đối ngoại

trong nước cũng như việc thiết lập các văn phòng báo chí đối ngoại đại diện ở các

nước trên thế giới, khắc phục những hạn chế trong quản lý hoạt động xuất bản, phát

hành cũng như việc chấp hành tôn chỉ, mục đích trước yêu cầu ngày càng cao của thực

tiễn trong tình hình mới.

Mục tiêu chính của giải pháp này là quy hoạch, là sắp xếp hệ thống các cơ quan

quản lý báo chí đối ngoại gắn với đổi mới mô hình tổ chức, nâng cao hiệu quả lãnh

đạo, quản lý theo tôn chỉ, mục đích nhằm phát triển triển đầy đủ các loại hình báo chí

gồm: báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử. Trên cơ sở Quyết định phê duyệt quy

hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 thực hiện

143

xây dựng một số cơ quan báo chí đối ngoại chủ lực, đa phương tiện làm nòng cốt gồm

Thông Tấn xã Việt Nam, Đài truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam. Các cơ

quan này có vai trò định hướng thông tin cho các loại hình báo chí đối ngoại. Việc qui

hoạch sẽ sắp xếp lại các cơ quan báo chí đối ngoại hiện tại, khắc phục tình trạng quản

lý nhà nước về báo chí đối ngoại hiện hành hiệu lực về mặt pháp lý không cao, trách

nhiệm phối hợp giữa các cơ quan báo chí chưa chặt chẽ, thiếu chế tài điều chỉnh cơ

chế phối hợp liên ngành giữa các Ban, Bộ, ngành với cơ quan chủ trì là Bộ Thông tin

và Truyền thông. Việc xác định rõ trách nhiệm lãnh đạo, quản lý báo chí đối ngoại của

người đứng đầu cơ quan quản lý báo chí cũng như cơ quan báo chí trong việc nâng cao

hiệu quả quản lý báo chí đối ngoại cũng như trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan

báo chí trong qui hoạch, xây dựng kế hoạch phát triển đội ngũ cán bộ quản lý, phóng

viên, biên tập viên có đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu phát triển báo chí đối

ngoại trong tình hình mới.

Để xây dựng được cơ cấu bộ máy quản lý nhà nước với báo chí đối ngoại trong

thời gian tới các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại cần chủ động xây dựng bộ máy

quản lý có chất lượng, đội ngũ cán bộ quản lý có năng lực chuyên môn, có kinh

nghiệm quản lý báo chí, hiểu biết pháp luật về quản lý báo chí trong nước cũng như

pháp luật về quản lý báo chí của nước ngoài. Cùng với đó cần xây dựng cơ chế phối

hợp giữa các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại ở địa phương và Trung ương đồng bộ,

thống nhất. Vì theo qui hoạch hệ thống báo chí đối ngoại từ nay đến năm 2030, sẽ có

thêm nhiều văn phòng của các cơ quan báo chí đối ngoại được mở ở nhiều nước trên

thế giới, do vậy ngay từ đầu cần xây dựng cơ cấu bộ máy quản lý các cơ quan báo chí,

văn phòng đại diện hợp lý, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, tôn chỉ, mục đích của

từng loại hình báo chí.

Xây dựng cơ cấu bộ máy quản lý báo chí đối ngoại đáp ứng với yêu cầu của

tình hình mới còn phải chú trọng đến vấn đề kinh phí, vì trên thực tế nguồn kinh phí

cho hoạt động báo còn gặp nhiều khó khăn, do vậy ảnh hưởng rất lớn đến kinh phí cho

việc xây dựng bộ máy, nâng cấp và hiện đại hóa cơ sở vật chất cho việc vận hành bộ

máy như việc duy trì, nâng cấp cơ sở dữ liệu báo chí, xây dựng các ấn phẩm điện tử,

các nội dung quảng bá hình ảnh đất nước,... trong khi nguồn ngân sách đầu tư cho việc

mở các cơ quan đại diện cũng như việc xây dựng nội dung, phát triển nguồn lực làm

báo còn gặp nhiều khó khăn và việc huy động nguồn lực xã hội, tài trợ cho việc làm

144

báo chí đối ngoại cũng cũng có những khó khăn rất lớn. Vì vậy cần xây dựng đội ngũ

cán bộ quản lý không chỉ có năng lực chuyên môn mà đòi hỏi cần có khả năng huy

động, xây dựng tiềm lực tài chính cho hoạt động của báo chí đối ngoại. Do đó có thể

xây dựng nguồn kinh phí hỗ trợ cho hoạt động của báo chí đối ngoại từ các nguồn

khác nhau mà không phải lấy từ nguồn chi cho đầu tư của cơ quan. Nguồn kinh phí

này cũng phải được sử dụng thống nhất cho các cơ quan báo chí và có cơ chế kiểm

soát kinh phí công khai, minh bạch.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu khoá XII, Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới,

sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả,

số 18-NQ/TW, ngày 25 tháng 10 năm 2017 của Ban Chấp hành Trung ương chỉ ra “Cơ

chế, chính sách khuyến khích việc sắp xếp tinh gọn tổ chức, biên chế chưa phù hợp,

thiếu mạnh mẽ” do vậy, việc xây dựng cơ cấu bộ máy quản lý nhà nước đối với báo

chí đối ngoại hợp lý theo quan điểm chỉ đạo “Thực hiện nguyên tắc một cơ quan thực

hiện nhiều việc và một việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì thực hiện và chịu trách

nhiệm chính. Mô hình và quy mô tổ chức bộ máy phải phù hợp với tính chất, đặc

điểm, chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị, địa phương” [14] và để xây dựng

cơ cấu bộ máy đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của báo chí đối ngoại trong tình hình

mới Nghị quyết đã đề ra giải pháp “rà soát, sắp xếp, kiện toàn, tinh gọn đầu mối bên

trong các tổ chức của hệ thống chính trị gắn với tinh giản biên chế, cơ cấu lại và nâng

cao chất lượng đội ngũ cán bộ” [14], làm cho bộ máy quản lý báo chí đối ngoại tinh

gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, có sự phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ từ Trung ương

tới các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại ở các địa phương. Để tiếp tục hiện thực hóa

sự chỉ đạo của Đảng về tinh gọn, sắp xếp lại bộ máy, ngày 24 tháng 01 năm 2018

Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 08/NQ-CP về chương trình hành động của

Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25 tháng 10 năm 2017 của Hội

nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ

chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp

công lập, trong đó xác định rõ nhiệm vụ “Sắp xếp lại các cơ quan báo chí thuộc và trực

thuộc theo Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí đến năm 2025 đã được Bộ Chính

trị khóa XI thông qua và kế hoạch của Chính phủ” [48]. Sự chỉ đạo của Đảng và Chính

phủ đều hướng đến thực hiện thành công giải pháp trong thời gian tới là xây dựng cơ

cấu bộ máy quản lý nhà nước đối với báo chí đối ngoại hợp lý.

145

3.3.4.2. Phối kết hợp giữa các cơ quan chức năng có liên quan trong việc quản

lý báo chí đối ngoại

Trong bối cảnh tình hình kinh tế, chính trị, xã hội thế giới có nhiều thay đổi

nhanh chóng, bất ngờ, bản thân báo chí đối ngoại khó có thể thông tin nhanh chóng và

kịp thời cũng như việc khai thác, phổ biến thông tin cho người dân ở các nước đáp ứng

được những yêu cầu trên. Để thực hiện được những điều này, yêu cầu đặt ra cho báo

chí đối ngoại là phải phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với các cơ quan quản lý báo chí

nói chung, các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại nói riêng trong công tác phát ngôn,

cung cấp và xử lý thông tin báo chí đối ngoại hiệu quả. Các cơ quan quản lý báo chí ở

trung ương như Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông, các Bộ

có liên quan; các cơ quan quản lý báo chí ở địa phương thực hiện phân công cụ thể,

qui định rõ quyền hạn và trách nhiệm của người phát ngôn, và xử lý kịp thời thông tin

báo chí đối ngoại, nhất là trước những tình huống phức tạp, nhạy cảm. Các cơ quan

quản lý báo chí cần chủ động, tích cực định hướng cho cơ quan báo chí trong việc

cung cấp, xử lý thông tin, quản lý hoạt động tác nghiệp của phóng viên Việt Nam và

đội ngũ cộng tác viên nước ngoài được thuê để hiệu đính viết bài, nhằm quảng bá, xây

dựng hình ảnh đất nước.

Kết hợp giữa các cơ quan quản lý báo chí với các cơ quan chức năng có liên

quan nhằm xây dựng và nâng cao hiệu quả phối hợp trong việc cung cấp, quản lý

thông tin cho báo chí đúng với các quy định của Luật Báo chí, các văn bản khác có

liên quan theo đúng qui trình, vừa nâng cao hiệu quả của báo chí đối ngoại, vừa làm

tốt công tác thành tra, kiểm tra, xác minh, xử lý thông tin khi phát hiện ra những sai

sót cũng như việc giải quyết sẽ thuận lợi và hiệu quả, góp phần nâng cao vị thế, hình

ảnh Việt Nam.

Để thực hiện được giải pháp này, cơ quan chủ quản báo chí đối ngoại hiện nay

là Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp với các cơ quan có liên quan trong quản lý

báo chí đối ngoại ở Trung ương, đồng thời chỉ đạo sự phối hợp trong quản lý hoạt

động báo chí đối ngoại ở các địa phương phối hợp thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích,

thực hiện đúng định hướng của báo chí đối ngoại trong về tình hình chính thức, thành

tựu phát triển của Việt Nam, về quá trình hội nhập quốc tế, đấu tranh phản bác các

quan điểm không đúng về chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách pháp

luật của Nhà nước,... đảm bảo các nội dung đăng tải trên báo chí đối ngoại kịp thời,

146

chính xác, tạo được thiện cảm, sự ủng hộ, đồng tình của nhân dân thế giới và cộng

đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Sự phối hợp thường xuyên giữa các cơ quan quản

lý báo chí, các cơ quan báo chí còn góp phần xây dựng sự gắn bó, hiểu biết lẫn nhau

trong công tác phối hợp giữa sự lãnh đạo của Đảng và hoạt động quản lý của nhà nước

đối với báo chí đối ngoại trong thực hiện các nhiệm vụ chính trị, phục vụ phát triển

kinh tế - xã hội của đất nước cũng như phát triển kinh tế-xã hội của các địa phương.

Hàng tháng, các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại ở Trung ương và các địa

phương chủ động mời đại diện các cơ quan quản lý báo chí và cơ quan báo chí đối

ngoại giao ban để trao đổi, cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác cho các cơ quan báo

chí, phục vụ nhiệm vụ tuyên truyền, quảng bá về Việt Nam cũng như những thành tựu

trong lãnh đạo phát triển kinh tế, văn hóa của các địa phương, nhằm đánh giá kết quả

công tác trong tháng về các hoạt động quản lý báo chí, việc thực hiện các qui định của

pháp luật về quản lý báo chí đối ngoại, đánh giá về những thành tựu, hạn chế và

nguyên nhân, kinh nghiệm trong quản lý báo chí đối ngoại. Trong các hoạt động trao

đổi phối hợp các cơ quan quản lý và cơ quan báo chí thẳng thắn trao đổi, thảo luận về

những vấn đề cần được tuyên truyền, những vấn đề phục vụ cho công tác đối ngoại.

Việc phối hợp giữa các cơ quan trong quản lý báo chí đối ngoại làm cho nội dung, chất

lượng đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong hội nhập quốc tế cũng như tham gia vào

việc xây dựng vị thế, hình ảnh của Việt Nam trước thế giới.

Phối hợp quản lý báo chí đối ngoại còn được thể hiện trên phương diện quản lý

đội ngũ phóng viên, cán bộ báo chí người Việt Nam và cán bộ báo chí, phóng viên

người nước ngoài được thuê phục vụ cho việc phát triển nội dung báo chí đối ngoại.

Hiện nay vấn đề này đã được đưa ra trong Luật Báo chí năm 2016 tại Mục b, c, Khoản

1, Điều 55, cơ quan báo chí có thể thuê chuyên gia, cộng tác viên nước ngoài; cử nhà

báo hoạt động báo chí ở nước ngoài. Do vậy, cần có sự phối hợp không chỉ với các cơ

quan quản lý báo chí, cơ quan báo chí đối ngoại trong nước, mà còn phối hợp với các

cơ quan báo chí và cơ quan quản lý báo chí nước ngoài phục vụ cho việc định hướng

nội dung trên báo chí cũng như thực hiện các qui định của pháp luật về quản lý báo chí

và quản lý cán bộ báo chí. Phối kết hợp giữa cơ quan quản lý báo chí với các cơ quan

chức năng khác trong việc định hướng quản lý báo chí đối ngoại góp phần tăng cường

sự lãnh đạo của Đảng về tư tưởng chính trị, nâng cao hiệu quả, chất lượng quản lý của

Nhà nước đối với các cơ quan báo chí đối ngoại. Qua đó thực hiện tốt những vấn đề về

147

nguyên tắc, phạm vi, cơ chế phối hợp giữa cơ quan chỉ đạo báo chí ở Trung ương, cơ

quan quản lý nhà nước về báo chí ở địa phương.

3.3.4.3. Đầu tư phương tiện, thiết bị công nghệ cao để tăng cường quản lý đối

với báo chí điện tử

Sự phát triển mạnh mẽ của các loại hình báo chí hiện đại đã tạo ra cuộc chạy

đua về công nghệ làm báo, nhằm thu hút số lượng lớn người đọc, đòi hỏi các cơ quan

nhà nước đối với báo chí nói chung, báo chí đối ngoại nói riêng phải đổi mới phương

thức quản lý. Hiện nay, các tờ báo điện tử có lượng người theo dõi đông đảo do dễ

dàng tiếp cận từ các thiết bị công nghệ, điện thoại, máy tính cá nhân, trái lại người đọc

hoàn toàn có thể chia sẻ ý kiến, quan điểm riêng, do đó những bài viết chia sẻ đang tạo

ra “thế hệ thông tin toàn cầu” chưa từng có để chia sẻ và tham gia vào những gì đang

diễn ra của cuộc sống ở mọi nơi trên thế giới. Mặt khác, sự phát triển mạnh mẽ của các

phương tiện truyền thông, các thiết bị này đều có thể kết nối internet và có khả năng tự

chia sẻ, cập nhật thông tin, các ứng dụng thông minh có thể tự phân tích và trao đổi dữ

liệu với nhau. Từ đây các thông tin được cung cấp, đăng tải khó kiểm soát làm ảnh

hưởng tiêu cực đến quan hệ giữa Việt Nam với các nước, các tổ chức nước ngoài, tới

cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Trước sự phát triển mạnh mẽ của loại hình

báo điện tử như vậy, các nhà quản lý, cơ quan quản lý báo điện tử đối ngoại phải thay

đổi cách thức kiểm tra, giám sát vừa để báo điện tử đối ngoại phát triển đúng tôn chỉ,

mục đích, đồng thời ngăn chặn những hành vi lợi dụng báo điện tử để tuyên truyền

những tư tưởng, quan điểm sai trái với đường lối lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà

nước. Để thực hiện tốt sự quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại trước sự phát triển của

báo điện tử đối ngoại đòi hỏi phải có cơ sở hạ tầng – kỹ thuật, công nghệ, nguồn lực

quản lý hiện đại, đồng bộ gắn liền với sự phát triển và từng bước hiện đại hóa công

nghệ, trang thiết bị làm báo và quản lý báo điện tử đối ngoại, đồng thời trên cơ sở đầu tư

cơ sở vật chất, thiết bị công nghệ cao các chương trình truyền hình, ấn phẩm báo chí,

xuất bản, văn hoá bằng tiếng nước ngoài được tăng cường trên tinh thần phát triển mạnh

hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2030 theo sự chỉ đạo của Chính phủ.

Trong công tác quản lý báo chí đối ngoại, cần tiếp tục đầu tư xây dựng nền tảng

công nghệ, kỹ thuật hiện đại, đồng bộ nhằm quản lý chặt chẽ mọi hoạt động của báo

chí đối ngoại điện tử, bởi xu thế phát triển mạnh mẽ về công nghệ, sự lan truyền mạnh

mẽ của thông tin… báo điện tử đối ngoại là được cập nhập rất nhanh. Do đó, đi liền

148

với quản lý cần có sự đầu tư phương tiện, thiết bị công nghệ cao, qua đó kịp thời kiểm

soát và làm chủ thông tin báo điện tử đối ngoại.

Đầu tư phương tiện, thiết bị công nghệ cao vào các quy trình tiếp nhận bài viết,

xử lý và phổ biến các nội dung trên báo điện tử đối ngoại phụ thuộc vào nhiều công

nghệ thông tin và mạng internet. Để thực hiện được giải pháp này một cách hiệu quả,

cần có kinh phí cho đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý các cơ quan báo điện tử đối

ngoại, người làm báo phải hiểu biết, nắm vững công nghệ thông tin, kỹ năng, nghiệp

vụ báo chí trên nền tảng ứng dụng công nghệ cao đáp ứng được các yêu cầu làm báo

của thời kỳ hội nhập quốc tế.

Ngoài việc đầu tư phương tiện, thiết bị công nghệ cao để tăng cường quản lý

đối với báo điện tử đối ngoại truyền thống thì yêu cầu mới trong giai đoạn hiện nay là

đầu tư kinh phí, trang thiết bị cho bảo vệ không gian mạng của báo chí đối ngoại, trong

đó xác định nguồn kinh phí từ chủ yếu là từ ngân sách nhà nước cho các công tác bảo

đảm an toàn, an ninh thông tin trên không gian mạng, phòng chống tội phạm công

nghệ cao có liên quan đến báo chí điện tử đối ngoại. Đồng thời, nghiên cứu xây dựng

và mở rộng cơ sở hạ tầng cho các cơ quan chuyên trách về quản lý báo chí đối ngoại ở

cả Trung ương và địa phương. Bên cạnh nguồn kinh phí ổn định từ ngân sách nhà

nước, các cơ quan quản lý báo điện tử đối ngoại cần chủ động, sáng tạo trong việc

thành lập quỹ đầu tư, quỹ nghiên cứu, quỹ phát triển các giải pháp bảo vệ chủ quyền

báo điện tử đối ngoại trong không gian mạng. Các cơ quan quản lý báo chí có thể có

mở rộng các hoạt động hợp tác quốc tế để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, tiếp

thu công nghệ quản lý báo chí trên không gian mạng. Đầu tư hệ thống cơ sở vật chất,

hạ tầng kỹ thuật cần có tính chiến lược và lộ trình cụ thể phù hợp với chiến lược phát

triển hạ tầng quản lý báo điện tử đối ngoại trong bối cảnh cách mạng công nghệ 4.0.

3.3.4.4. Thực hiện nghiêm túc tôn chỉ mục đích, đảm bảo tính định hướng và

đáp ứng nhu cầu thông tin của công chúng

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với báo chí đối

ngoại tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt. Sự phối hợp đồng bộ, thống nhất và phù hợp

giữa các cơ quan, tổ chức quản lý trong quản lý báo chí đối ngoại gồm Bộ Thông tin

và Truyền thông, các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại có liên quan ở Trung ương,

các Ban, Bộ, ngành; sự chỉ đạo trong quản lý báo chí của các cơ quan Trung ương đối

với các cơ quan báo chí và cơ quan quản lý báo chí ở địa phương đảm bảo tính thống

149

nhất, kịp thời. Xây dựng cơ chế kiểm soát, giám sát hoạt động quản lý báo chí đối

ngoại của người đứng đầu các cấp, trong đó có những đánh giá về ưu điểm, hạn chế

khách quan, thẳng thắn, trung thực trong việc xuất bản báo chí đối ngoại đúng tôn chỉ,

mục đích đã được cấp phép. Trong quản lý báo chí đối ngoại ở địa phương, các sở

thông tin và truyền thông phối hợp với Ban, Sở, Ngành rà soát lại hệ thống báo chí đối

ngoại thuộc quyền quản lý, trên cơ sở đó đánh giá lại về hiệu quả hoạt động về tôn chỉ

mục đích. Từ sự chỉ đạo của Đảng và quy hoạch phát triển báo chí đối ngoại đến năm

2030, chỉ đạo các cơ quan báo chí và các tỉnh, thành phố tiếp tục nâng cao hiệu quả đã

đạt được theo đúng tôn chỉ, mục đích đã được ghi trong giấy phép xuất bản.

Thứ nhất, các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại ở Trung ương là Bộ Thông tin

và Truyền thông, Vụ Báo chí xuất bản thuộc Ban Tuyên giáo Trung ương nghiêm túc

chỉ đạo các cơ quan báo chí ở Trung ương và các cơ quan báo chí ở địa phương tiếp

tục thực hiện xuất bản báo chí theo đúng tôn chỉ, mục đích, kể cả trong quản lý các cơ

quan đại diện, phóng viên, cộng tác viên thường trú tại nước ngoài, nhà báo, phóng

viên nước ngoài được thuê làm báo đối ngoại. Xử lý nghiêm minh các nhà báo, phóng

viên báo chí đối ngoại vi phạm đạo đức nghề nghiệp. Người đứng đầu cơ quan báo chí

đối ngoại cần nêu cao tinh thần, trách nhiệm của chủ quản và người đứng đầu. Bên

cạnh đó, cơ quan quản lý báo chí cần chủ động phối hợp với các cơ quan báo chí có

liên quan đánh giá kết quả thực hiện theo tôn chỉ, mục đích, khuyến khích, biểu dương

mặt tích cực, chỉ ra những hạn chế và có thể công khai những cơ quan báo chí đối

ngoại có sai phạm. Những hành vi vi phạm đạo đức nghề nghiệp nhà báo để đưa tin,

viết bài không đúng sự thật, đưa tin thiếu khách quan, thiếu trung thực phải được ngăn

chặn và xử lý nghiêm khắc, qua đó chỉ đạo, kiến nghị các cơ quan báo chí khắc phục

những biểu hiện của việc xa rời tôn chỉ, mục đích.

Thứ hai, tập trung tuyên truyền các nhiệm vụ chính trị của đất nước, tuyên

truyền triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng. Tăng cường các bài viết với nội

dung về đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; đấu tranh phê phán những quan

điểm sai trái của các thế lực thù địch chống phá Đảng, Nhà nước; chủ động, sáng tạo

trong công tác tuyên truyền về cách làm hay trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo

dục, văn hóa, quốc phòng – an ninh, đối ngoại… trên báo chí đối ngoại. Phát biểu tại

Hội nghị Báo chí toàn quốc tổng kết công tác năm 2018, triển khai nhiệm vụ năm

2018, đồng chí Võ Văn thưởng chỉ rõ: “Các cơ quan báo chí cần bám sát định hướng,

150

tôn chỉ, mục đích, các vấn đề, sự kiện chính trị quan trọng của đất nước, thực hiện tốt

nhiệm vụ thông tin tuyên truyền, đẩy mạnh công tác tuyên truyền về giáo dục chính trị

tư tưởng, tích cực phát hiện, cổ vũ nhân tố mới, điển hình tiên tiến, thành tựu trong

công cuộc đổi mới”. Quyết định phê duyệt quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến

năm 2020, định hướng đến năm 2030, đã đưa ra giải pháp về đổi mới, tăng cường xây

dựng nội dung “Tích cực, chủ động kịp thời thông tin tuyên truyền về thành tựu của

công cuộc đổi mới, về chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của

Nhà nước, tiềm năng phát triển và hợp tác của Việt Nam, về đất nước, con người, lịch

sử, văn hóa và những giá trị vật chất và tinh thần của dân tộc” [149].

Thứ ba, sắp xếp, tinh gọn hệ thống các cơ quan báo chí đối ngoại theo quy

hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025 và theo Quyết định

số 2434/QĐ-TTg phê duyệt quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2020, định

hướng đến năm 2030 của Thủ tướng Chính phủ, ngày 13 tháng 12 năm 2016. Bám sát

định hướng, tôn chỉ, mục đích, cơ quan báo chí các vấn đề sự kiện chính trị quan trọng

của đất nước, thông tin chính thức về Việt Nam, thực hiện tốt nhiệm vụ thông tin tuyên

truyền, quảng bá hình ảnh Việt Nam đổi mới, hội nhập, ổn định, hiếu khách và giàu bản

sắc; các bài viết về tiến trình hội nhập quốc tế, về chủ quyền biển đảo, công tác bảo hộ

công dân và công tác người Việt Nam ở nước ngoài. Năm 2018, các cơ quan đại diện đã

bảo hộ cho 10.378 công dân trong đó có 1.589 ngư dân, vận động đối xử nhân đạo cho

các công dân, ngư dân bị nước ngoài bắt giữ. Kết quả này có vai trò rất lớn của báo chí

đối ngoại. Hơn nữa, việc thực hiện đúng tôn chỉ mục đích là giải pháp quan trọng để báo

chí đối ngoại có thể làm tốt việc phản bác một cách sắc bén các thông tin sai lệch, những

luận điệu của các thế lực nhằm xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước ta, cũng như làm

tan rã những đồn đoán, suy diễn, thiếu căn cứ về tình hình Việt Nam.

3.3.4.5. Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao tr nh độ chuyên môn nghiệp vụ đội ngũ

quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại

Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, internet vạn vật và những biến

đổi mau lẹ mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, trong bối cảnh

chung đó báo chí đối ngoại thế giới có những bước phát triển vượt bậc, đòi hỏi trình

độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ quản lý báo chí đối ngoại phải không ngừng được

rèn luyện, bổ sung để đáp ứng với yêu cầu của thời đại và đáp ứng với yêu cầu của

thực tiễn quản lý báo chí đối ngoại.

151

Thực tế, việc học tập của cán bộ quản lý báo chí đối ngoại chưa hoàn toàn đáp

ứng với yêu cầu xây dựng nền báo chí cách mạng hiện đại. “Các cơ quan báo chí cần

tạo điều kiện cho các nhà báo được tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình

độ chuyên môn, nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm xã

hội” [15, tr.614-615]. Do vậy, nội dung, chương trình, hình thức và phương pháp đào

tạo, bồi dưỡng hiện tại cần có sự điều chỉnh để đáp ứng yêu cầu thực tiễn quản lý nhà

nước đối với báo chí đối ngoại. Theo đánh giá chung chương trình đào tạo, bồi dưỡng

hiện tại còn dàn trải và nặng về lý thuyết, có sự trùng lặp về nội dung, chưa đi sâu vào

rèn luyện kỹ năng, nghiệp vụ công tác cho cán bộ quản lý báo chí đối ngoại. Cho nên

sau khi được đào tạo, bồi dưỡng, cán bộ quản lý báo chí còn lúng túng trong việc thực

hiện chỉ đạo xây dựng, phát triển báo chí đối ngoại theo định hướng qui hoạch cũng như

năng lưc điều hành, giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra chưa đáp ứng được yêu cầu

nhiệm vụ tuyên truyền, quảng bá mọi mặt về Việt Nam, những thành tựu trong giai đoạn

mới. Để đáp ứng yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao năng lực quản lý báo chí

đối ngoại của đội ngũ cán bộ quản lý, cần chú trọng các nôi dung cụ thể sau:

Một là, đổi mới phương thức và nội dung các chương trình đào tạo, bồi dưỡng

Đổi mới hệ thống chương trình đào tạo, bồi dưỡng cập nhật kiến thức mới cho

cán bộ lãnh đạo, quản lý báo chí đối ngoại các cấp theo hướng nâng cao chất lượng,

chú trọng tính hiệu quả và phù hợp với từng loại hình, từng nhóm đối tượng phục vụ,

ngôn ngữ được xuất bản. Chương trình đào tạo, bồi dưỡng cần sát với thực tế quản lý

báo chí, các vấn đề thiết thực đặt ra từ quá trình xây dựng và thực hiện trong thời gian

qua và những vấn đề cần phát triển trong thời gian tới. Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng

chuyên môn, nghiệp vụ báo chí cần được chú trọng trước khi đào tạo, bồi dưỡng kỹ

năng, nghiệp vụ quản lý hành chính báo chí đối ngoại. Xây dựng cơ chế đào tạo, bồi

dưỡng theo định kỳ bắt buộc hàng năm cả về chuyên môn, nghiệp vụ cũng như kỹ

năng lãnh đạo, quản lý. Để có có căn cứ đào tạo, bồi dưỡng theo chức danh cần bám

sát và thực hiện nghiêm túc Nghị định 36/2013/NĐ-CP ngày 22 tháng 04 năm 2013 về

vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức, qua đó xây dựng chương trình, nội dung,

hình thức, phương pháp, biện pháp đào tạo, bồi dưỡng, tránh hiện tượng đào tạo, bồi

dưỡng không gắn với vị trí việc làm.

Nội dung đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý báo chí đối

ngoại gồm kiến thức về khoa học lãnh đạo, trong đó đi sâu về kỹ năng lãnh đạo, nghệ

152

thuật lãnh đạo quản lý báo chí đối ngoại gắn với những yêu cầu, nhiệm vụ của thể

trong bối cảnh hội nhập và sự phát triển mạnh của báo điện tử đối ngoại. Nội dung đào

tạo, bồi dưỡng có sự kết hợp hợp lý, khoa học giữa nghiên cứu lý luận và tổng kết thực

tiễn quản lý báo chí của thế giới và Việt Nam, đồng thời xây dựng những tình huống

và giải quyết những tình huống cụ thể thường xảy ra trong quản lý báo chí đối ngoại,

nhằm nâng cao năng lực, trình độ của cán bộ quản lý báo chí đối ngoại đáp ứng với

yêu cầu, nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn hội nhập.

Nội dung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý báo chí đối ngoại gồm các nội

dung về thế giới quan duy vật biện chứng, phương pháp luận khoa học cách mạng,

nâng cao năng lực tư duy lý luận, năng lực tổ chức thực tiễn, tổng kết thực tiễn,

phương pháp nghiên cứu, phát hiện, xử lý và giải quyết các vấn đề thực tiễn nảy sinh

trong lãnh đạo, quản lý báo chí đối ngoại để khi gặp những tình huống cụ thể có thể xử

lý nhanh, kịp thời, hiệu quả. Những nội dung này cần gắn với yêu cầu công việc đang

đảm nhiệm hoặc công việc đang được qui hoạch. Cán bộ có thể được lựa chọn chương

trình đào tạo, bồi dưỡng, chọn thời gian thích hợp.

Nội dung đào tạo cán bộ quản lý báo chí đối ngoại hiện nay còn phải chú trọng

đến đào tạo về vấn đề bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia trên không gian mạng.

Nghiên cứu, bảo vệ bí mật nhà nước, chủ quyền quốc gia, an ninh quốc gia để phản

bác, chống lại sự lợi dụng không gian mạng của các thế lực thù địch để làm mất an

ninh, an toàn quốc gia.

Phương pháp đào tạo bồi dưỡng, nâng cao tr nh độ chuyên môn nghiệp vụ cho

cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại cần theo hướng nâng cao năng

lực lãnh đạo, quản lý gắn với vị trí và trách nhiệm tương ứng của cán bộ. Dựa trên nội

dung của môn học để lựa chọn phương pháp học tập, nghiên cứu, giảng viên, báo cáo

viên gợi ý hướng vận dụng gắn với các yêu cầu của thực tiễn, theo hướng phát triển

năng lực chuyên môn, năng lực quản lý của cán bộ quản lý báo chí đối ngoại ở từng vị

trí công tác.

Trên thực tế, cán bộ lãnh đạo quản lý báo chí đối ngoại tham gia đào tạo, bồi

dưỡng đa phần nắm khá vững kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ làm báo, do vậy

hướng đào tạo, bồi dưỡng nên tập trung vào các tình huống thực tiễn xử lý những vấn

đề phức tạp, nhạy cảm, những vấn đề về tuyên truyền và phát triển đường lối đối ngoại

của Đảng, qua đó dẫn dắt, gợi mở định hướng phát triển kỹ năng lãnh đạo, quản lý,

153

phương pháp xử lý tình huống, đảm bảo tính khoa học, tính thực tiễn, vừa để kích

thích tính sáng tạo, chủ động của cán bộ tham gia đào tạo, bồi dưỡng.

Hình thức đào tạo, bồi dưỡng, cán bộ lãnh đạo quản lý báo chí đối ngoại do

công việc nhiều nên ít có thời gian theo học tập theo hình thức tập trung trong thời

gian dài và bản thân đã có những kinh nghiệm thực tiễn, cho nên hình thức phù hợp

nhất với đối tượng này là vừa làm vừa học, kết hợp giữa học trên lớp và nghiên cứu

thực tế để xử lý tình huống để phát triển năng lực xử lý các vấn đề phức tạp, những

vấn đề nổi cộm và các dự báo, xu hướng phát triển báo chí đối ngoại.

Chương trình, giáo trình, tài liệu cho đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý báo

chí đối ngoại phải sát với thực tiễn công việc, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của từng đối

tượng, phù hợp với thời gian đào tạo, bồi dưỡng. Chương trình, giáo trình được biên

soạn phải được chuẩn hóa, có phản biện khoa học, tránh sự trùng lặp, dàn trải. Nội

dung chương trình, giáo trình tăng hướng ứng dụng, giải quyết tình huống thực tiễn,

tránh sự dàn trải mà phải có trọng tâm, trọng điểm.

Kiểm tra, đánh giá kết quả đào tạo, bồi dưỡng cần có sự đa dạng, linh hoạt. Nên

chọn hướng viết bài luận hoặc viết đề án, cần căn cứ vào vị trí việc làm. Nội dung bàn

luận hoặc đề án phải thể hiện ý tưởng mới trong việc giải quyết các tình huống của thực

tiễn mà cá nhân tham gia đào tạo, bồi dưỡng đang đảm nhiệm hoặc được qui hoạch, các

ý tưởng phải có tính khả thi và có thể áp dụng ngay vào công tác lãnh đạo, quản lý báo

chí đối ngoại, tránh hiện tượng cũng nêu ra ý tưởng mới song thiếu tính hiện thực,

không thiết thực cho việc khắc phục những hạn chế, các vấn đề nổi cộm. Có thể lấy kết

quả đào tạo, bồi dưỡng làm một tiêu chí để làm căn cứ đề bạt, bổ nhiệm công tác.

Hai là, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên

Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý báo chí đối ngoại phải được đào

tạo chuyên sâu về lĩnh vực tham gia giảng dạy hoặc báo cáo, có nhiều kinh nghiệm

thực tiễn quản lý báo chí đối ngoại. Hoạt động giảng dạy của giảng viên phải theo

hướng tích cực hóa hoạt động học tập, nghiên cứu, phương pháp giải quyết các vấn đề

liên quan đến quyền hạn, nhiệm vụ, vị trí, chức năng đang đảm nhiệm của cán bộ tham

gia đào tạo, bồi dưỡng, chú trọng phát triển năng lực thực tiễn. Đội ngũ giảng viên nên

được xây dựng theo hướng kiêm chức và có cơ chế để cử giảng viên đi nghiên cứu

thực tế, sau khi kết thúc thời gian đi thực tế phải có báo cáo về kết quả nghiên cứu

thực tế.

154

Ba là, tăng cường hợp tác quốc tế về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý báo chí

đối ngoại. Cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý báo chí đối ngoại nên mời chuyên

gia của nước ngoài ở một số chuyên đề. Trong đó có thể yêu cầu giảng viên của cơ sở

tham gia nghe giảng, cùng trao đổi, thảo luận vừa để đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ

quản lý báo chí đối ngoại, đồng thời đào tạo cho giảng viên những kiến thức, kỹ năng

về quản lý báo chí đối ngoại, qua đó có thể học tập những kiến thức về quản lý báo chí

đối ngoại của nước ngoài.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý báo chí đối ngoại cần được thực

hiện liên tục, thường xuyên, từng bước xây dựng được đội ngũ cán bộ quản lý báo chí

đối ngoại giỏi về chuyên môn, thành thạo về kỹ năng quản lý báo chí, đáp ứng các yêu

cầu của thời kỳ hội nhập quốc tế. Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá chất lượng

cán bộ sau đào tạo, điều tra khảo sát thực trạng đội ngũ cán bộ quản lý báo chí đối

ngoại, trên cơ sở đó có căn cứ thực tiễn để xác định nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng, xây

dựng chương trình, nội dung đào tạo, phương pháp, hình thức đào tạo cụ thể, khắc

phục tình trạng đào tạo không theo nhu cầu, nhằm đạt được yêu cầu, mục đích đặt ra

của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý báo chí đối ngoại đáp ứng yêu cầu thực

tiễn và nhiệm vụ quản lý báo chí đối ngoại của nước ta.

3.3.4.6. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý các sai phạm và nâng

cao hiệu lực quản lý báo chí đối ngoại

Tiến hành hoạt động thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong hoạt động báo chí

đối ngoại, qua đó đánh giá được chính xác việc chấp hành quy định pháp luật báo chí

nói chung và báo chí đối ngoại của các cơ quan báo chí đối ngoại cũng như các cá nhân

có liên quan đến các khâu trong quá trình sản xuất báo chí đối ngoại, nhằm khắc phục

những sai sót đáp ứng yêu cầu quản lý báo chí đối ngoại phù hợp với thực tiễn. Trên

thực tế việc sai phạm của các cơ quan báo chí đối ngoại rất ít và không đáng kể, các cơ

quan quản lý báo chí ít phải vào cuộc để xác minh vì bản thân các cơ quan báo chí đối

ngoại đã chủ động và kịp thời khắc phục những thiếu sót, mặc dù đã có một số khiếm

khuyết đã được chỉ ra nhưng phần lớn ở mức độ nhắc nhở. Vì vậy, việc tăng cường công

tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm của cơ quan quản lý báo chí đối ngoại là một biện

pháp rất quan trọng ngay từ khâu đầu tiên để xây dựng nền báo chí đối ngoại lành mạnh,

đúng với tôn chỉ, mục đích. Trong bài viết “Thực trạng, quan điểm, giải pháp ngăn

chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự

155

chuyển hóa” của cán bộ phóng viên các cơ quan báo chí” đã chỉ rõ: “Mỗi cơ quan báo

chí cần có chế độ kiểm tra, giám sát chặt chẽ; thường xuyên thanh tra, kiểm tra, giám

sát về kỷ luật, kỷ cương hành chính và tác nghiệp” [15, tr.611].

Thanh tra, kiểm tra để có cơ sở xem xét, tháo gỡ những khó khăn về cơ chế tài

chính của các cơ quan báo chí, chế độ đãi ngộ với cán bộ báo chí đối ngoại, vấn đề đào

tạo nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ lý luận chính trị cho phóng viên thường trú

ở nước ngoài. Thanh tra, kiểm tra kết quả thực hiện pháp luật trong hoạt động báo chí

của phóng viên, nhà báo cũng như việc hiện đại hóa trang thiết bị kỹ thuật phục vụ

việc tác nghiệp, truyền tin, bài, hình ảnh ra nước ngoài.

Công tác kiểm tra để nắm được kết quả thực hiện các Quy hoạch hệ thống báo

chí đối ngoại và Quy hoạch mạng lưới đại diện của các cơ quan báo chí đối ngoại của

Việt Nam ở nước ngoài nhằm nâng cao hiệu quả và mở rộng việc tuyên truyền, quảng

bá hình ảnh, đất nước, con người Việt Nam ra với thế giới, về những thành tựu của

Việt Nam trong phát triển kinh tế, văn hoá,... công tác thanh tra, kiểm tra còn góp phần

chỉ ra mối quan hệ, hợp tác giữa các cơ quan thông tấn, báo chí và sự phối hợp giữa

các cơ quan có liên quan trong quản lý báo chí đối ngoại như Bộ Ngoại giao, Đại sứ

quán Việt Nam ở nước ngoài. Ngoài ra, việc thanh tra, kiểm tra thường xuyên sẽ thúc

đẩy việc thực hiện nghiêm túc Quy hoạch và Đề án phát triển hệ thống các cơ quan và

hệ thống báo chí đối ngoại đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, đồng thời nâng

cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập theo tinh thần Nghị

quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XII.

Khi phát hiện ra các sai phạm từ công tác thanh tra, kiểm tra cần chỉ ra các

nguyên nhân, mức độ sai phạm để từ đó đưa ra các hướng xử lý. Trong công tác thanh

tra, kiểm tra hoạt động của báo chí đối ngoại không chỉ phối hợp với các cơ quan quản

lý có liên quan ở Trung ương, các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại ở nước ngoài mà

còn chỉ đạo, phối hợp với các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại ở các địa phương,

tăng cường trao đổi thông tin, trao đổi kinh nghiệm, công tác quản lý báo chí… góp

phần nâng cao hiệu quả quản lý báo chí đối ngoại, thúc đẩy sự hiểu biết, giao lưu và

tăng cường hợp tác giữa Việt Nam với các nước trong quản lý báo chí đối ngoại, đáp

ứng yêu cầu và thực tiễn phát triển Quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại từ nay đến

năm 2030. Tham luận của Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ ra kết quả nổi bật của

công tác quản lý nhà nước về Thông tin đối ngoại tại Hội nghị toàn quốc tổng kết công

156

tác báo chí đối ngoại, tuyên truyền biển đảo, phân giới cắm mốc, quản lý biên giới

năm 2018 cũng nêu lên giải pháp này: “Đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra, chấn chỉnh, xử

lý nghiêm các vi phạm trong hoạt động báo chí đối ngoại nhằm hạn chế các thông tin

tiêu cực ảnh hưởng xấu đến hình ảnh Việt Nam ra thế giới, góp phần nâng cao hiệu

quả báo chí đối ngoại” (Bộ Thông tin và Truyền thông, 2018).

Công tác đôn đốc, xử lý sau thanh tra cũng phải được quan tâm đẩy mạnh bằng

việc theo dõi, đôn đốc, kiểm tra sau thanh tra có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là một

trong những điều kiện quan trọng đảm bảo cho quản lý báo chí đối ngoại hoạt động

đúng tôn chỉ, mục đích, đồng thời quyết định hiệu lực của hoạt động thanh tra, xác

định hoạt động thanh tra có đạt kết quả đề ra hay không.

Các giải pháp nêu trên có mối quan hệ thống nhất chặt chẽ, các giải pháp

trước mắt là tiền đề cho việc thực hiện các giải pháp lâu dài, đảm bảo hoàn thành tốt

nhiệm vụ quản lý báo chí đối ngoại được thực hiện thống nhất, từ các khâu trong sản

xuất, phổ biến báo chí, trong quản lý từ các cơ quan báo chí đối ngoại ở địa phương

đến các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại ở Trung ương. Việc thực hiện các giải

pháp cần có tính thống nhất hữu cơ, tính đồng bộ, tùy theo nhiệm vụ, tôn chỉ, mục

đích để lựa chọn giải pháp ưu tiên trong chiến lược quản lý nhà nước đối với báo chí

đối ngoại.

3.4. Một số khuyến nghị

3.4.1. Với các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại Trung ương

Các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại ở Trung ương gồm Cục Thông tin đối

ngoại, Cục Báo chí, Cục Phát thanh truyền hình và Thông tin điện tử – Bộ Thông tin và

Truyền thông, Vụ Báo chí – Xuất bản (Ban Tuyên giáo Trung ương); Vụ Khoa giáo –

Văn xã (Văn phòng Chính phủ); Vụ Thông tin báo chí (Bộ Ngoại giao), Vụ Lao động,

Văn hóa, xã hội (Bộ Kế hoạch và Đầu tư); Phòng An ninh Báo chí, Xuất bản (Cục An

ninh chính trị nội bộ – Bộ Công an) cần tăng cường hơn nữa trong việc tham mưu với

Chính phủ hoàn thiện hệ thống văn bản về quản lý báo chí đối ngoại, trước hết là các

văn bản cụ thể hóa Quyết định số 2434/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt

quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.

Các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại ở Trung ương tích cực hơn nữa trong

việc chỉ đạo các cơ quan báo chí xây dựng định hướng phát triển báo chí đối ngoại để

đáp ứng được những yêu cầu của tình hinh mới, tích cực tham gia vào việc quy hoạch

157

phát triển hệ thống báo chí đối ngoại đồng thời đẩy mạnh việc quản lý thông tin trên

báo chí đối ngoại để tránh việc các thế lực thù địch tìm cách lợi dụng những sơ suất

trong các nội dung của báo chí đối ngoại để đưa ra những phán xét, đánh giá sai lệch

sự thật, làm ảnh hưởng tiêu cực, bất lợi đến đường lối đối ngoại của Đảng, những

chính sách tốt đẹp của Nhà nước.

Tăng cường hợp tác quốc tế về quản lý báo chí đối ngoại, nhằm tranh thủ tiềm

lực, kinh nghiệm làm báo của các nước có nền báo chí phát triển cũng như hợp tác

trong đào tạo cán bộ quản lý báo chí, nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý báo chí đối

ngoại mạnh không chỉ giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ mà còn có năng lực tốt trong lãnh

đạo, quản lý báo chí đối ngoại, qua đó còn góp phần nâng cao trình độ ngoại ngữ cho

cán bộ đến tác nghiệp tại nước sở tại. Mặt khác, hợp tác quốc tế về báo chí đối ngoại

Việt Nam còn tham gia vào việc đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ và năng lực

lãnh đạo, quản lý báo chí đối ngoại cho cán bộ báo chí đối ngoại của Lào và Campuchia.

Các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại ở Trung ương cần phối hợp cũng như

xây dựng chiến lược đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực làm báo cho cán bộ báo chí

cũng như đào tạo, bồi dưỡng năng lực lãnh đạo, quản lý cho cán bộ quản lý báo chí đối

ngoại ở Trung ương cũng như ở các địa phương. Đồng thời đẩy mạnh việc đầu tư cơ

sở vật chất, kinh phí cho hoạt động báo chí đối ngoại.

Tăng cường công tác thi đua, khen thưởng kịp thời cho cán bộ báo chí và cán bộ

quản lý báo chí nhanh chóng và kịp thời. Qua đó động viên và phát huy được trí sáng

tạo của cán bộ quản lý báo chí đối ngoại để báo chí đối ngoại ngày càng đóng góp to

lớn vào đường lối đối ngoại của Việt Nam, nâng cao vị thế và tầm ảnh hưởng của Việt

Nam với thế giới.

3.4.2. Với các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại địa phương

Tham mưu, đề xuất với cơ quan quản lý báo chí đối ngoại ở Trung ương và Ủy

ban nhân dân các tỉnh xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển báo chí đối

ngoại, đồng thời xây dựng các văn bản quản lý, văn bản thực hiện chế độ chính sách

cho cán bộ báo chí đối ngoại, đồng thời làm tốt công tác tham mưu cử cán bộ báo chí

và cán bộ quản lý báo chí đi đào tạo nâng cao trình độ, nghiệp vụ báo chí chuyên sâu ở

một số lĩnh vực còn thiếu và yếu và đẩy mạnh việc thực hiện chế độ thi đua, khen

thưởng với những cán nhân có nhiều đóng góp cho việc tuyên truyền, quảng bá xây

dựng hình ảnh, vị thế của địa phương và thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài đầu

158

tư vào địa phương. Các địa phương cần chủ động tham mưu, đề xuất với Trung ương

chiến lược phát triển báo chí đối ngoại cũng như cách thức quản lý theo hướng đồng

bộ, để kịp thời giới thiệu, quảng bá hình ảnh của địa phương ra nước ngoài, không thụ

động chờ Trung ương.

Các cơ quan quản lý báo chí đối ngoại ở các địa phương cần chủ động trong

việc xây dựng những cơ chế phối hợp trong hoạt động báo chí đối ngoại, nhằm thống

nhất trong cách tổ chức sản xuất, quản lý, xây dựng chiến lược phát triển hệ thống báo

chí đối ngoại đặc sắc, tránh sự trùng lặp về nội dung, thống nhất trong cách tổ chức

quản lý, điều hành.

Tham mưu, đề xuất với các cơ quan quản lý về việc ổn định đời sống vật chất

và tinh thần cho cán bộ báo chí đối ngoại, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết

bị làm việc để nâng cao hiệu quả, chất lượng của báo chí đối ngoại xứng tầm nhiệm vụ

trong bối cảnh hội nhập thế giới.

3.4.3. Với các cơ quan báo chí đối ngoại ở Trung ương và địa phương

Các cơ quan báo chí đối ngoại ở Trung ương và địa phương tích cực tổ chức

họp giao ban theo hình thức trực tuyến để kịp thời có thông tin chính thống, thống nhất

về nội dung đăng phát. Các đơn vị tham gia họp giao ban trực tuyến gồm các cơ quan

báo chí đối ngoại, cơ quan quản lý báo chí ở địa phương, các cơ quan có liên quan đến

quản lý báo chí nhằm phối hợp thống nhất trong chỉ đạo quản lý tạo nên sự đồng bộ,

tránh sự trùng lặp về nội dung thông tin. Mặt khác, việc tổ chức giao ban trực tuyến

vừa tiết kiệm kinh phí vừa tăng cường hiệu quả phối hợp trong học tập, nghiên cứu

kinh nghiệm làm báo chí đối ngoại giữa các địa phương để có thể vận dụng vào hoạt

động báo chí đối ngoại vào từng địa bàn cụ thể.

Chủ động đề xuất, tham mưu cho các cấp quản lý cung cấp kinh phí, điều kiện

cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của các tờ

báo cũng như nội dung, hình thức, tạo nên sự hấp dẫn, sinh động. Các cơ quan báo chí

đối ngoại Trung ương và địa phương tích cực trong việc xây dựng báo chí đối ngoại

điện tử. Đây là xu hướng báo chí đang được ứng dụng ngày càng rộng rãi và trở thành

loại hình báo chí phổ biến trên thế giới do dễ tiếp cận từ các thiết bị công nghệ hiện

đại. Mặt khác, bản thân các cơ quan báo chí có thể tham mưu với các cấp quản lý

trong việc thuê phóng viên, nhà báo nước ngoài đưa tin, viết bài ở một số lĩnh vực mà

báo chí Việt Nam không có thế mạnh.

159

Các cơ quan báo chí đối ngoại ở địa phương tăng cường vào một số thế mạnh

chủ lực của địa phương để quảng bá, giới thiệu vừa có tác dụng xây dựng hình ảnh, uy

tín, đặc sắc của tờ báo vừa góp phần vào việc mời gọi các nhà tài trợ, các doanh nhân

đến nghiên cứu, tìm hiểu và đầu tư vào một số lĩnh vực mà địa phương có thế mạnh

hoặc có tiềm năng.

3.4.4. Với cán bộ quản lý báo chí đối ngoại

Cán bộ quản lý báo chí đối ngoại chủ động học tập, nghiên cứu nâng cao năng

lực, trình độ làm báo cũng như quản lý báo chí đối ngoại. Chủ động tham mưu, đề

xuất, xây dựng định hướng chiến lược phát triển báo chí đối ngoại trong những giai

đoạn tiếp theo. Với những cán bộ được cử ra nước ngoài tác nghiệp cần linh hoạt, sáng

tạo trong việc nghiên cứu, nâng cao trình độ ngoại ngữ, tích cực tìm hiểu pháp luật báo

chí tại nước sở tại, học tập kinh nghiệm quản lý báo chí của các nước đó.

Cùng với việc nâng cao trình độ chuyên môn, cán bộ quản lý báo chí cần tích

cực rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị, không ngừng học tập nâng cao trình độ lý

luận chính trị, đạo đức người làm báo, không dao động trước mọi diễn biến để chỉ đạo

việc đưa tin, viết bài nhằm xây dựng hình ảnh, vị thế của Việt Nam với thế giới.

Tiểu kết chương 3

Trước thực trạng quản lý báo chí đối ngoại còn những hạn chế, bất cập như

trên, vấn đề đặt ra với quản lý báo chí đối ngoại đó là cần xây dựng đội ngũ cán bộ

quản lý báo chí đối ngoại có bản lĩnh chính trị, am hiểu chuyên môn và giỏi về ngoại

ngữ, giỏi về nghiệp vụ báo chí, nắm vững tình hình trong nước và quốc tế, đồng thời

hiểu biết sâu sắc về nội dung báo chí đối ngoại và đối tượng phục vụ. Để xây dựng báo

chí đối ngoại mạnh cần chú trọng đến việc đầu tư các nguồn lực cho quản lý hoạt động

báo chí đối ngoại. Ngoài ra cần quan tâm đến công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh

nghiệm việc thực hiện quản lý cũng như triển khai thực hiện các văn bản quản lý báo

chí đối ngoại và đẩy mạnh việc mở rộng quan hệ hợp tác về quản lý báo chí đối ngoại

giữa các cơ quan báo chí đối ngoại trong nước cũng như trên thế giới.

Báo chí đối ngoại thế giới đang biến đổi mạnh mẽ, trước những tác động đó báo

chí đối ngoại trong nước có những xu hướng phát triển theo hướng làm tốt công tác

tham mưu cho Đảng, Nhà nước về đường lối đối ngoại; tích cực, chủ động xây dựng

và phát triển các ấn phẩm thông tin đối ngoại hấp dẫn, hiện đại, đáp ứng nhu cầu ngày

càng cao của người đọc, đồng thời thiết lập mối quan hệ với các cơ quan quản lý báo

160

chí, các hãng thông tấn, cơ quan truyền thông lớn của nước ngoài và xu hướng hướng

đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền quảng bá, giới thiệu tiềm năng, thế mạnh của đất

nước, các hoạt động phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.

Một số giải pháp đặt ra cho nhằm nâng cao hiệu quả quản lý báo chí đối ngoại

trong thời gian tới gồm nhóm giải pháp dài hạn và nhóm giải pháp trong ngắn hạn. Cụ

thể nhóm giải pháp dài hạn: Về phía nhà nước sớm hoàn thiện quy định pháp luật quản

lý nhà nước về báo chí đối ngoại, nhất là có các quy định cụ thể cho các cơ quan quản

lý nhà nước về báo chí đối ngoại; các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại

cần tăng cường quản lý ngay từ khâu tiếp nhận, đăng các tin bài, ảnh có nội dung phù

hợp với tôn chỉ, mục đích được cấp phép và tăng cường đầu tư ngân sách cho công tác

nghiên cứu khoa học và đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực; quan tâm đầu

tư, đổi mới và hiện đại hóa cơ sở vật chất, kỹ thuật của các cơ quan báo chí đối ngoại,

đặc biệt là các cơ quan báo chí đối ngoại chuyên biệt, báo đối ngoại điện tử.

Nhóm giải pháp trước mắt tập trung vào việc xây dựng cơ cấu bộ máy quản lý

nhà nước đối với báo chí đối ngoại từ Trung ương tới địa phương hợp lý. Phối kết hợp

với các cơ quan có liên quan trong việc định hướng quản lý báo chí đối ngoại và để

làm tốt được sự phát triển của báo chí đối ngoại cần quan tâm đầu tư phương tiện, thiết

bị công nghệ cao để tăng cường quản lý đối với báo chí điện tử. Mặt khác, cần tăng

cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại, xây dựng bộ máy quản

lý đủ mạnh, hệ thống các cơ sở pháp lý vững chắc. Thực hiện nghiêm túc tôn chỉ mục

đích, đảm bảo tính định hướng và đáp ứng nhu cầu thông tin của công chúng, hơn nữa

cần quan tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ đội

ngũ quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại và một giải pháp quan trọng khác là tăng

cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý các sai phạm và nâng cao hiệu lực quản lý báo

chí đối ngoại. Các giải pháp trên có mối quan hệ chặt chẽ, đồng bộ và thống nhất.

161

KẾT LUẬN

1. Cho đến nay, thế giới và Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu về báo

chí, thông tin báo chí, quản lý báo chí nhưng chưa có công trình nghiên cứu về quản lý

báo chí đối ngoại. Những công trình đi trước đã chỉ ra nhiều vấn đề lý luận về báo chí,

quản lý thông tin báo chí,... điều này góp phần quan trọng vào việc xây dựng cơ sở lý

luận về quản lý báo chí đối ngoại ở nước ta.

Luận án đã xây dựng một hệ thống lý luận về báo chí, các đặc điểm của báo chí đó

là tính lịch sử, tính quần chúng, tính chính trị-xã hội và tính kinh tế-dịch vụ. Báo chí có

vai trò quan trọng trong các lĩnh vực chính trị, phát triển kinh tế và trong đời sống văn

hóa xã hội. Hiện nay có nhiều loại hình báo chí nhưng theo Luật Báo chí năm 2016, có 4

loại hình báo chí: báo in, báo nói, báo hình và báo điện tử. Xây dựng khái niệm báo chí

đối ngoại, đặc điểm của báo chí đối ngoại, đó là tính chính trị - xã hội, cung cấp những

thông tin về tình hình mọi mặt trong nước ra thế giới để thế giới biết về tình hình Việt

Nam, báo chí đối ngoại góp phần vào việc bảo vệ an ninh quốc gia và chủ quyền của đất

nước, báo chí đối ngoại ngày càng có khuynh hướng chuyên môn hóa và báo chí đối

ngoại có nhiều hình thức thể hiện khác nhau. Nội dung của báo chí đối ngoại tập trung

vào việc quảng bá, giới thiệu về hình ảnh Việt Nam với thế giới, đấu tranh, phản bác lại

các quan điểm sai trái, thù địch về Việt Nam. Đối tượng phục vụ của báo chí đối ngoại

rất đa dạng trong đó tập trung vào hai nhóm là nhóm đối tượng ngoài nước và nhóm đối

tượng trong nước là người nước ngoài công tác, sinh sống, học tập tại Việt Nam.

Cùng với đó, luận án đã xây dựng khái niệm và các nguyên tắc quản lý nhà

nước đối với báo chí đối ngoại. Báo chí đối ngoại có các vai trò đó là tạo môi trường

pháp lý thuận lợi giúp báo chí đối ngoại hoạt động ổn định, bảo đảm cho báo chí phát

huy vai trò định hướng thông tin ra nước ngoài và định hướng thông tin cho các tổ

chức, cá nhân người nước ngoài sinh sống và làm việc tại Việt Nam; bảo đảm quyền tự

do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân, quyền tiếp cận thông tin.

Quản lý báo chí đối ngoại có các đặc điểm: thể hiện tính quyền lực nhà nước thông

qua pháp luật; là hoạt động có chương trình, có kế hoạch để thực hiện mục tiêu đặt ra;

hoạt động mang tính chất chủ động, linh hoạt và sáng tạo và có sự kết hợp chặt chẽ

giữa tính ổn định tương đối và tính phát triển.

Quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại tập trung vào các nội dung: Xây dựng,

chỉ đạo và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển báo chí đối

162

ngoại; Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật và xây dựng

chế độ, chính sách; Tổ chức thông tin và quản lý thông tin; Đào tạo, bồi dưỡng nâng

cao trình độ chính trị, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ người làm báo của

các cơ quan và cán bộ quản lý; Hợp tác quốc tế; chỉ đạo, thực hiện chế độ thông tin,

báo cáo, thống kê và công tác khen thưởng, kỷ luật và thanh tra, kiểm tra và xử lý vi

phạm pháp luật trong hoạt động báo chí đối ngoại.

2. Báo chí ở Việt Nam có sự phát triển mạnh mẽ trong những năm qua, trong đó

báo chí đối ngoại ngày càng được quan đầu tư ở cả bốn loại hình báo in, báo nói, báo

hình và báo chí điện tử. Theo Qui hoạch báo chí đối ngoại đến năm 2020 và tầm nhìn

đến năm 2030 báo chí đối ngoại chú trọng đến việc phát triển một số tờ báo in, tạp chí

đối ngoại chủ lực, nhưng nhấn mạnh vào việc phát triển báo chí đối ngoại điện tử với

sự đầu tư lớn về nguồn lực vật chất, con người. Góp phần quan trọng vào đường lối

đối ngoại của Việt Nam, xây dựng vị thế và ảnh hưởng của Việt Nam với thế giới.

Thực trạng quản lý nhà nước về công tác báo chí đối ngoại trong việc xây dựng,

chỉ đạo và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển báo chí đối

ngoại cho thấy việc qui hoạch báo chí đối ngoại đã đạt được nhiều kết quả tích cực.

Kết quả khảo sát chỉ ra thực trạng xây dựng và định hướng, chiến lược phát triển các

cơ quan báo chí đối ngoại được đánh giá khá cao, song trong quản lý sự hiệp đồng

phối hợp giữa các cơ quan báo chí đối ngoại chưa chặt chẽ. Điều này là do những cơ

chế, văn văn bản quy định trách nhiệm và sự ràng buộc chưa cao.

Kết quả ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về báo

chí, xây dựng chế độ, chính sách về báo chí đối ngoại trên thực tế đạt được nhiều kết

quả tích cực, như việc đề xuất, kiến nghị, xây dựng văn bản liên quan đến quản lý nhà

nước đối với báo chí đối ngoại. Điều này cho thấy hệ thống văn bản về quản lý báo chí

đối ngoại ngày càng được bổ sung thành một lĩnh vực riêng. Tuy nhiên, kết quả thực

hiện quản lý việc sửa đổi, bổ sung các văn bản quản lý báo chí đối ngoại cũng như

quản lý việc xây dựng và thực hiện chế độ, chính sách về tài chính, con người, cơ sở

vật chất cho hoạt động báo chí đối ngoại còn chậm, chưa thể hiện được tính đồng bộ.

Quản lý tổ chức thông tin báo chí đối ngoại khá tốt. Kết quả khảo sát chỉ ra các

công việc được thực hiện tương đối đồng bộ, trong đó trội nhất phải kể đến hiệu quả

quản lý nhà nước trong thông tin về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đến

cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, cộng đồng quốc tế; quảng bá hình ảnh đất

163

nước, con người, văn hóa Việt Nam ra nước ngoài được coi trọng. Bên cạnh đó, hiệu

quả quản lý đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ, đạo đức nghề

nghiệp cho cán bộ quản lý báo chí đối ngoại chưa có sự đồng đều ở các công việc. Cụ

thể việc quản lý việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ làm báo cho

cán bộ làm báo và cán bộ quản lý tuy có được quan tâm song chưa thật rõ ràng, điều

này có thể có những tác động bất lợi đến kết quả thực hiện quản lý cơ chế, chính sách

đãi ngộ đối với cán bộ quản lý báo chí đối ngoại chưa đạt kết quả như mong muốn.

Quản lý hợp tác quốc tế trong hoạt động báo chí đối ngoại được đánh giá khá

cao qua các tổng kết, báo cáo của Bộ Thông tin và Truyền Thông, các Sở Thông tin và

Truyền thông, các tỉnh có báo chí đối ngoại trong sản xuất các nội dung các chương

trình liên kết phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật nước sở tại.

Đặc biệt trong hợp tác trong quản lý nhà báo tác nghiệp ở nước ngoài cho nên không

có hiện tượng vi phạm pháp luật báo chí. Tuy nhiên hợp tác trong sản xuất các loại

hình báo chí đối ngoại chưa đa dạng, thiếu sự linh hoạt.

Chỉ đạo, thực hiện chế độ thông tin, báo cáo, thống kê và công tác khen thưởng,

kỷ luật trong hoạt động báo chí đối ngoại tương đối đồng bộ giữa các công việc và đạt

được nhiều kết quả tương đối cao, nổi trội là sự chỉ đạo việc ra soát các quy định về

chế độ thông tin, báo cáo hoạt động báo chí đối ngoại theo kế hoạch.

Những kết quả đạt được như trên có sự đóng góp quan trọng từ việc quản lý

thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về báo chí đối ngoại. Trong những năm

qua, công tác thanh tra, kiểm tra không phát hiện các sai phạm đến mức phải thi hành

kỷ luật, đó là do toàn bộ qui trình thanh tra được thực hiện theo quy định của pháp luật

về thanh tra báo chí.

3. Mặc dù báo chí đối ngoại có sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Đảng, sự quản

lý của Nhà nước, song trước sự phát triển của các loại hình báo chí đối ngoại thế giới

đã tác động đến xu hướng vào sự phát triển báo chí đối ngoại của Việt Nam. Điều này

đặt ra một số vấn đề đặt ra về quản lý báo chí đối ngoại, đó là xây dựng đội ngũ cán bộ

quản lý báo chí đối ngoại có bản lĩnh chính trị, am hiểu chuyên môn và giỏi về ngoại

ngữ, am hiểu nghiệp vụ báo chí và nghiệp vụ quản lý báo chí đối ngoại, nắm vững tình

hình trong nước và quốc tế, hiểu biết sâu sắc về nội dung của báo chí đối ngoại, đối

tượng phục vụ. Mặt khác, cần tăng cường đầu tư các nguồn lực cho quản lý hoạt động

báo chí đối ngoại, chú trọng công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm việc thực hiện

164

quản lý báo chí đối ngoại cũng như triển khai thực hiện các văn bản quản lý báo chí

đối ngoại và tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác về quản lý báo chí đối ngoại giữa

các địa phương và với các nước trên thế giới.

Một số xu hướng phát triển của báo chí đối ngoại ở Việt Nam trong thời gian

tới đó là báo chí đối ngoại tiếp tục làm tốt công tác tham mưu cho Đảng, Nhà nước về

đường lối đối ngoại; xây dựng và phát triển các ấn phẩm báo chí đối ngoại hấp dẫn,

hiện đại, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người đọc, đồng thời thiết lập mối quan

hệ với các cơ quan quản lý báo chí, các hãng thông tấn, cơ quan truyền thông lớn của

nước ngoài và xu hướng hướng đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền quảng bá, giới

thiệu tiềm năng, thế mạnh của đất nước, các hoạt động phát triển kinh tế, văn hóa, xã

hội, đường lối đối ngoại,...

Về phía nhà nước sớm hoàn thiện quy định pháp luật quản lý nhà nước về báo

chí đối ngoại. Về phía các cơ quan quản lý báo chí cần chủ động, sáng tạo trong tiếp

nhận, đăng các tin bài, ảnh có nội dung phù hợp với tôn chỉ, mục đích được cấp phép

và tăng cường đầu tư ngân sách cho công tác nghiên cứu khoa học và đào tạo, bồi

dưỡng, phát triển nguồn nhân lực quản lý báo chí, quan tâm đầu tư, đổi mới và hiện

đại hóa cơ sở vật chất, kỹ thuật của các cơ quan báo chí đối ngoại, đặc biệt là các cơ

quan báo chí đối ngoại chuyên biệt, báo điện tử.

Xây dựng cơ cấu bộ máy quản lý nhà nước đối với báo chí đối ngoại hợp lý;

phối kết hợp với các cơ quan chức năng khác trong việc định hướng quản lý báo chí

đối ngoại; chú trọng đầu tư phương tiện, thiết bị công nghệ cao để tăng cường quản lý

đối với báo chí đối ngoại điện tử; thực hiện nghiêm túc tôn chỉ mục đích, đảm bảo tính

định hướng và đáp ứng nhu cầu thông tin của công chúng; đào tạo, bồi dưỡng, nâng

cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ đội ngũ quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại và

tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý các sai phạm và nâng cao hiệu lực quản

lý báo chí đối ngoại.

165

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ NGHIÊN CỨU

CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Bùi Thị Vân (2017). Công tác quản lý phóng viên nước ngoài tại Việt Nam, Tạp chí

Thông tin đối ngoại, số (158) 5, 2017. ISSN: 1859 – 0543

2. Bùi Thị Vân (2018). Quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về báo chí đối

ngoại, Tạp chí Thông tin đối ngoại, số (169) 4, 2018. ISSN: 1859 - 0543.

3. Bùi Thị Vân (2018). iải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý báo chí đối

ngoại ở Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ 4, Hội thảo

khoa học quốc gia: Quản lý truyền thông trong bối cảnh CMCN lần thứ 4, Học

viện Báo chí và Tuyên truyền

4. Bùi Thị Vân (2019). iải pháp nâng cao chất lượng quản lý báo chí đối ngoại ở

Việt Nam hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, số 5, 2019, ISSN:

1859- 1485.

5. Bùi Thị Vân (2019). Nội dung quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở Việt nam hiện

nay, Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, số 10, 2019, ISSN: 1859 - 1485.

6. Bùi Thị Vân (2020). Phát huy vai trò của quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở

Việt Nam hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, số 9, 2020, ISSN:

1859- 1485.

7. Bùi Thị Vân (2020). Giải pháp quản lý sử dụng mạng xã hội trong hoạt động chính

trị, ngoại giao của Việt Nam hiện nay”, Hội thảo khoa học quốc tế: Quản lý

thông tin trên mạng xã hội trong bối cảnh bùng nổ thông tin, Học viện Báo chí

và Tuyên truyền

8. Bùi Thị Vân (Biên soạn) (2020). iáo tr nh lao động nhà báo đối ngoại, Nxb Lao

Động, Hà Nội

166

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tài liệu tiếng Việt

1. Lưu Văn An (2017), Giải pháp phát huy vai trò của báo chí Truyền thông đối với

công tác lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam, Tạp chí Lý luận chính trị, số

11/2017, tr.74-80.

2. Phan Duy Anh (2016), Sức mạnh của các nhóm lợi ích truyền thông trong nền

chính trị Mỹ hiện đại, Tạp chí Lý luận chính trị số 5-2016.

3. Nguyễn Thị Mai Anh (2015), Quản lý nhà nước về báo chí trong thời kỳ đổi mới,

Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số 6 (6/2015), tr. 41-43.

4. Nguyễn Thị Mai Anh (2016), Quản lý nhà nước về báo chí ở Việt Nam hiện nay,

Học viện Hành chính quốc gia, Luận án tiến sĩ quản lý công.

5. Hoàng Anh (2012), Tăng cường quản lý nhà nước về pháp luật đối với báo chí,

http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/2012/18400/

Tang-cuong-quan-ly-nha-nuoc-ve-phap-luat-doi-voi-bao.aspx.

6. Nguyễn Thị Mai Anh (2016), Quản lý nhà nước về báo chí trong thời k đổi mới,

Tạp chí Tổ chức nhà nước, Tại trang http://tcnn.vn/Plus.aspx/vi/News

/126/0/1010070/0/33671/Quan_ly_nha_nuoc_ve_bao_chi_trong_thoi_ki_do

i_moi.

7. Nguyễn Thị Mai Anh (2016), Quản lý nhà nước về báo chí ở Việt Nam hiện nay,

Luận án tiến sĩ quản lý công,Học viện Hành chính quốc gia, Hà Nội.

8. Phan Duy Anh (2017), Sức mạnh của các nhóm lợi ích truyền thông trong nền

chính trị Mỹ hiện đại, http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/quoc-

te/item/1842-suc-manh-cua-cac-nhom-loi-ich-truyen-thong-trong-nen-

chinh-tri-my-hien-dai.html.

9. Anya Schiffin, Amer Bisat (2004), Đưa tin thời toàn cầu hóa, Nxb Văn hóa

Thông tin, Hà Nội.

10. Đào Vân Anh (2006), Sử dụng Internet trong công tác thông tin đối ngoại ở

Trung Quốc, Tạp chí Thông tin đối ngoại, số (29) 8-2006.

11. Ban Bí thư, Quyết định về việc thành lập Ban chỉ đạo công tác thông tin đối

ngoại, số 16 ngày 26 tháng 12 năm 2001 kèm theo Quy chế phối hợp chỉ

đạo hoạt động thông tin đối ngoại ban hành cùng Quyết định số 16.

12. Ban Bí thư, Chỉ thị số 52 - CT/TW về phát triển và quản lý báo điện tử ở nước ta

hiện nay, ngày 22 tháng 7 năm 2005.

167

13. Ban Bí thư, Chỉ thị số 26/CT-TW về tiếp tục đổi mới và tăng cường công tác

thông tin đối ngoại trong tình hình mới, ngày 10 tháng 9 năm 2008.

14. Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết số 18-NQ/TW Hội nghị lần thứ sáu khoá

XII, Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống

chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả,ngày 25 tháng 10 năm 2017.

15. Ban Tổ chức Trung ương (2018), Ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính

trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ,

công chức, viên chức ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

16. Ban Tuyên giáo Trung (2007), Tăng cường lãnh đạo, quản lý tạo điều kiện để

báo chí Việt Nam phát triển mạnh mẽ, vững chắc trong thời gian tới, Nxb

Lý luận chính trị, Hà Nội.

17. Ban Tuyên giáo Trung ương, Báo cáo tổng kết công tác thông tin đối ngoại,

tuyên truyền biển, đảo và phân giới, cắm mốc, quản lý biên giới năm 2018,

triển khai nhiệm vụ năm 2019, ngày 28 tháng 12 năm 2018.

18. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Bộ Văn hóa - Thông tin (1997), Tiếp tục đổi

mới và tăng cường lãnh đạo quản lý công tác báo chí, Nxb Sự thật, Hà Nội.

19. Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương, Bộ Văn hóa – Thông tin, Hội Nhà báo

Việt Nam (2002), Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 22-CT/TW của Bộ Chính trị

khóa VIII về đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí,

xuất bản, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

20. Hoàng Quốc Bảo (chủ biên) (2010), Lãnh đạo và quản lý hoạt động báo chí ở

Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

21. Nguyễn Phú Bình (2006), Tiếp tục thực hiện tốt hơn nữa công tác vận động người

Việt Nam ở nước ngoài, Tạp chí Thông tin đối ngoại, số 23, tháng 2/2006.

22. Lê Thanh Bình (2004), Quản lý và phát triển Báo chí-xuất bản, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

23. Lê Thanh Bình (2005), Báo chí truyền thông và kinh tế, văn hóa-xã hội, Nxb.

Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

24. Lê Thanh Bình, Phí Thị Thanh Tâm (2009), Quản lý nhà nước và pháp luật về

báo chí, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

25. Lê Thanh Bình (2012), Tổng quan truyền thông quốc tế, Nxb Thông tin và

Truyền thông, Hà Nội.

168

26. Lê Thanh Bình (2012), Báo chí và thông tin đối ngoại, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

27. Lê Thanh Bình (2012), iáo tr nh đại cương truyền thông quốc tế, Nxb Thông

tin và Truyền thông, Hà Nội

28. Bộ Chính trị, Chỉ thị số 37/2006/CT-TTg về việc thực hiện kết luận của về một số biện

pháp tăng cường lãnh đạo và quản lý báo chí, ngày 29 tháng 11 năm 2006.

29. Bộ Chính trị (2012), Kết luận số 16-KL/TW về Chiến lược phát triển thông tin

đối ngoại giai đoạn 2011-2020, ngày 14 tháng 02 năm 2012.

30. Bộ Tài chính, Thông tư Quy định chế độ thù lao cho người đọc, nghe, xem để

kiểm tra báo chí lưu chiểu, số 81/2017/TT-BTC, ngày 09 tháng 8 năm 2017.

31. Bộ Thông tin và Truyền thông-Bộ Ngoại giao, Thông tư liên tịch số34/2011/TTLT-

BTTTT-BN Hướng dẫn việc phối hợp thi hành Quy chế quản lý nhà nước về

thông tin đối ngoại ban hành kèm theo Quyết định số 79/2010/QĐ-TTG, ngày

30 tháng 11 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ.

32. Bộ Thông tin và truyền thông, Báo cáo tổng kết 8 năm thi hành Luật báo chí;

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí, tháng 12 năm 2007.

33. Bộ Thông tin và Truyền thông, Thông tư số 04/2014/TT-BTTTT Quy định chi tiết

và hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 88/2012/NĐ-CP ngày

23 tháng 10 năm 2012 của Chính phủ về hoạt động thông tin, báo chí của

báo chí nước ngoài, cơ quan đại diện nước ngoài, tổ chức nước ngoài tại

Việt Nam, ngày 19 tháng 3 năm 2014.

34. Bộ Thông tin và Truyền thông, Báo cáo Tổng kết 15 năm thi hành Luật Báo chí, Luật

sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí, ngày 12 tháng 11 năm 2014.

35. Bộ Thông tin và Truyền thông (2015), Hệ thống các văn bản pháp luật về thông

tin đối ngoại, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.

36. Bộ Thông tin và Truyền thông (9/2015),Đề án quy hoạch phát triển và quản lý

báo chí toàn quốc đến năm 2025, Hà Nội.

37. Bộ Thông tin và Truyền thông, Thông tư Hướng dẫn quản lý hoạt động thông tin

đối ngoại của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, số 22/2016/TT-

BTTTT, ngày 19 tháng 10 năm 2016.

38. Bộ Thông tin và Truyền thông (2017), Quyết định số 939/QĐ-BTTTT Quy định

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cục thông tin đối

ngoại,ngày 16 tháng 06 năm 2017.

169

39. Bộ Thông tin và Truyền thông, Dự thảo lần 2 Thông tư qui định việc đăng, phát

nội dung thông tin đối ngoại trên báo chí, Hà Nội, 2018.

40. Bộ Thông tin và Truyền thông, Quyết định số 1191/QĐ-BTTTT,Ban hành quy

chế quản lý thống nhất hoạt động đối ngoại, ngày 17 tháng 7 năm 2018.

41. Bộ Thông tin và Truyền thông (2018), Kết quả nổi bật của công tác quản lý nhà

nước về thông tin đối ngoại, Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác báo chí đối

ngoại, tuyên truyền biển đảo, phân giới cắm mốc, quản lý biên giới năm 2018.

42. Bộ Thông tin và Truyền thông, Dự thảo Thông tư hướng dẫn về quản lý hoạt

động thông tin đối ngoại của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc

Chính phủ, ngày 21 tháng 11 năm 2018.

43. Bộ Thông tin và Truyền thông, Báo cáo kết quả kiểm tra các Qui hoạch hệ thống

báo chí đối ngoại và Qui hoạch mạng lưới đại diện của các cơ quan thông tấn,

báo chí Việt Nam ở nước ngoài, số 01/BC-BTTTT, ngày 7 tháng 1 năm 2019.

44. Bộ Tư pháp, Nhận thức chung về công tác thông tin đối ngoại,

http://hoptacquocte.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/gioi-thieu-thong-tin-doi-

ngoai.aspx?ItemID=37, ngày 26 tháng 5 năm 2018.

45. Chính phủ, Nghị định số 88/2012/NĐ-CP Quy định về hoạt động thông tin, báo

chí của báo chí nước ngoài, cơ quan đại diện nước ngoài, tổ chức nước

ngoài tại Việt Nam, ngày 23 tháng 10 năm 2012.

46. Chính phủ, Nghị định số 72/2015/NĐ-CP về Quản lý hoạt động thông tin đối

ngoại, ngày 7 tháng 9 năm 2015.

47. Chính phủ, Nghị định số 09/2017/NĐ-CP quy định chi tiết việc phát ngôn và

cung cấp thông tin cho báo chí của các cơ quan hành chính nhà

nước,ngày 9 tháng 2 năm 2017.

48. Chính phủ, Nghị quyết số 08/NQ-CP về chương tr nh hành động của Chính phủ

thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25 tháng 10 năm 2017 của Hội

nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tiếp tục đổi mới

hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động

của các đơn vị sự nghiệp công lập,ngày 24 tháng 01 năm 2018.

49. Claudia Mast (2004), Truyền thông đại chúng – Những kiến thức cơ bản, người

dịch Trần Hậu Thái, Nxb Thông tấn, Hà Nội

50. Hoàng Đình Cúc, Đức Dũng (2007), Những vấn đề của báo chí hiện đại, Nxb Lý

luận chính trị, Hà Nội.

170

51. Doris A.Graber (2006) Sức mạnh của truyền thông trong chính trị (Media Power

in Politics), Khoa Quan hệ quốc tế, Học viện Báo chí và Tuyên truyền dịch.

52. Đỗ Quý Doãn (2014), Quản lý và Phát triển Thông tin báo chí ở Việt Nam, Nxb

Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.

53. Trần Bá Dung (2001), Các quan điểm chỉ đạo của Đảng cộng sản Việt Nam về

báo chí trong thời kỳ đổi mới trong cuốn sách Báo chí những điểm nhìn từ

thực tiễn, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

54. Nguyễn Văn Dững (2002), Báo chí những điểm nhìn từ thực tiễn, Nxb Văn hóa-

Thông tin, Hà Nội.

55. Nguyễn Văn Dững (2011), Cơ sở lý luận báo chí, Nxb Lao động, Hà Nội.

56. Nguyễn Văn Dững (2011), Báo chí và dư luận xã hội, Nxb Lao động, Hà Nội.

57. Nguyễn Văn Dững, Đỗ Thị Thu Hằng (2018), Truyền thông lý thuyết và kỹ năng

cơ bản, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.

58. Đài Tiếng nói Việt Nam, Báo cáo Kết quả thực hiện Qui hoạch phát thanh,

truyền h nh đối ngoại đến 2020, số /BC-TNVN Hà Nội, tháng 11 năm 2018.

59. Đảng Cộng sản Việt Nam, Chỉ thị số 11-CT/TW về đổi mới và tăng cường công

tác thông tin đối ngoại, ngày 13 tháng 6 năm 1992.

60. Đảng Cộng sản Việt Nam, Thông báo Kết luận số 41-TB/TW của Bộ Chính trị

khóa X, ngày 11 tháng 10 năm 2006.

61. Đảng Cộng sản Việt Nam, Thông báo số 162-TB/TW, Kết luận của Bộ Chính trị

khóa IX về công tác lãnh đạo và quản lý báo chí, ngày 1 tháng 12 năm 2004.

62. Đảng Cộng sản Việt Nam, Thông báo số 188-TB/TW ý kiến của Thường vụ Bộ

Chính trị về công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới, ngày 29 tháng

12 năm 1998.

63. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 10

khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

64. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

65. Hà Minh Đức (2010), C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh với báo chí,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

66. Nguyễn Thị Trường Giang (2017), Báo chí và truyền thông đa phương tiện, Nxb

Đại học quốc gia, Hà Nội.

171

67. Ngô Thái Hà (2015), Thông tấn xã Việt Nam với công tác tuyên truyền về biển,

đảo trong thông tin đối ngoại bằng tiếng nước ngoài, Đề tài nghiên cứu

khoa học cấp ngành, Thông Tấn xã Việt Nam, Hà Nội.

68. Nguyễn Thị Thu Hà (2015), Vai trò của báo chí đối ngoại với việc thông tin bảo

vệ chủ quyền, biển đảo Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Báo chí học,

Học viện Báo chí và Tuyên truyền.

69. Đỗ Xuân Hà (1997), Báo chí với thông tin quốc tế. Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.

70. Lê Hải (2013), Xây dựng tập đoàn truyền thông giải pháp chiến lược trong phát

triển nền báo chí Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội.

71. Đoàn Thế Hanh (2013), Quản lý nhà nước đối với báo chí ở nước ta,

http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/PrintStory.aspx?distribution=2218

3&print=true.

72. Đinh Thúy Hằng (2008), Báo chí thế giới và xu hướng phát triển, Nxb Thông

tấn, Hà Nội.

73. Đỗ Thị Thu Hằng (2018), Cách mạng công nghiệp 4.0: Vấn đề đặt ra và giải

pháp đối với công tác quản lý truyền thông ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Lý

luận chính trị và truyền thông, số 6/2018, tr.14-19.

74. Trần Thu Hằng (2015), Quản lý nhà nước cấp tỉnh về báo chí khu vực đồng bằng

Sông Hồng, Luận văn thạc sĩ Báo chí học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.

75. Việt Hoàng (2005), Cần đổi mới mạnh mẽ hơn nữa công tác thông tin, tuyên

truyền đối với người Việt Nam ở nước ngoài, Tạp chí Thông tin đối ngoại,

số 19, tháng 10/2005.

76. Việt Hoàng (2005), Thông tin đối ngoại qua báo chí – kênh quan trọng để Việt

Nam hội nhập quốc tế, Tạp chí Thông tin đối ngoại, số (16) 7 - 2005.

77. Vũ Ngọc Hoàng (2016), Báo chí với sự phát triển bền vững kinh tế-xã hội,

http://dangcongsan.vn/tieu-diem/bao-chi-voi-su-phat-trien-ben-vung-kinh-

te-xa-hoi-394203.html

78. Vũ Đình Hòe (2000), Truyền thông đại chúng trong công tác lãnh đạo quản lý,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

79. Học viện Báo chí và Tuyên truyền (2000), Báo chí – những điểm nhìn từ thực

tiễn, Tập 1, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

80. Học viện Báo chí và Tuyên truyền (2006), Những vấn đề lý luận chính trị và

truyền thông-nhận thức và vận dụng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

172

81. Học viện Báo chí và Tuyên truyền (2008), Báo chí và truyền thông đại chúng - đào

tạo và bồi dưỡng trong thời kỳ hội nhập, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế.

82. Đỗ Văn Hợp (2016) Nâng cao hiệu quả tuyên truyền của Ban Biên tập tin Đối

ngoại Thông Tấn xã Việt Nam đáp ứng nhiệm vụ chính trị trong tình hình

mới, Đề tài khoa học cấp Bộ, Thông Tấn xã Việt Nam, Hà Nội.

83. Đặng Đình Huân (2015), Vấn đề quản lý nhà nước về hoạt động báo chí ở Cần Thơ

hiện nay, Luận văn thạc sĩ báo chí học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.

84. Nguyễn Thị Thương Huyền (2018), Quy trình sản xuất sản phẩm báo chí đối

ngoại ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Báo chí học, Học viện Báo chí

và Tuyên truyền, Hà Nội.

85. Đoàn Công Huynh, tham luận “Công tác thông tin truyền thông đối với cộng

đồng người Việt Nam ở nước ngoài”

86. Đặng Thị Thu Hương (2016), Báo chí đối ngoại Việt Nam trong sự nghiệp xây

dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, in trong cuốn sách Báo chí truyền

thông - Những vấn đề đương đại, Nxb Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội.

87. Nguyễn Thị Thu Hương (2017), Vấn đề quản lý báo chí của các tổ chức chính trị

- xã hội, Tạp chí Người làm báo điện tử, http://nguoilambao.vn/van-de-

quan-ly-bao-chi-cua-cac-to-chuc-chinh-tri-xa-hoi-n6549.html

88. John Wilpers Juan Senor (2020), Báo cáo toàn cầu - Đổi mới sáng tạo trong báo

chí 2020 – 2021, Thông tấn xã Việt Nam

89. Phạm Gia Khiêm (2011), Những nhiệm vụ chủ yếu của công tác thông tin đối

ngoại nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XI của Đảng, Tạp chí Thông tin đối ngoại, số (85) 4/2011).

90. Phan Văn Kiền, Phan Quốc Hải, Phạm Chiến Thắng và Nguyễn Đình Hậu

(2016), Một số xu hướng mới của báo chí truyền thông hiện đại, Nxb Thông

tin và Truyền thông, Hà Nội.

91. Bùi Đình Khôi (1997), Vấn đề lãnh đạo quản lý báo chí trong thời kỳ đổi mới,

Tạp chí Người làm báo số tháng 6/1997.

92. Trương Thị Kiên (2015), Trách nhiệm của báo chí đối với chính trị,Tạp chí

Người Làm báo số 382, tháng 12/2015.

93. Nguyễn Thế Kỷ, Nguyễn An Tiêm, Doãn Thị Thuận (2011), Nghiệp vụ Công tác

báo chí - xuất bản, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.

173

94. Nguyễn Thế Kỷ (chủ biên) (2012), Công tác lãnh đạo quản lý báo chí trong 25

năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội.

95. Nguyễn Thế Kỷ (2012), Quản lý, phát huy tốt vai trò của báo điện tử, trang tin

điện tử, mạng xã hội trước yêu cầu mới, Tạp chí Quốc phòng toàn dân,

tháng 6/2012.

96. G.V.Ladutina (2003), Những vấn đề cơ bản của đạo đức nghề nghiệp nhà báo,

Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

97. Line Ross (2004), Nghệ thuật thông tin, người dịch Ngọc Kha, Hạnh Ngân, Nxb

Thông tấn, Hà Nội.

98. Phạm Văn Linh (2010), Nâng cao chất lượng hiệu quả công tác thông tin đối

ngoại trong một số cơ quan thông tấn báo chí chủ lực ở nước ta hiện nay –

thực trạng và giải pháp, Đề tài khoa học cấp Bộ.

99. Mai Linh (2012), Nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về báo chí trong tình

hình hiện nay, Tạp chí Tạp chí Cộng sản, số 68 (8/2012), tr. 38-40.

100. Nguyễn Đức Lợi, Lưu Văn An (2017), Thông tin báo chí với công tác lãnh đạo,

quản lý, Nxb Thông tấn, Hà Nội.

101. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

102. Đinh Văn Mậu, Phạm Hồng Thái (2005), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam,

Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

103. Michael Schudson (2003), Sức mạnh của tin tức truyền thông, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

104. Đỗ Đức Minh (2014), Quan hệ của truyền thông đại chúng với ngành tư pháp ở

các nước tư bản phát triển, Tạp chí Khoa học Đại học quốc gia Hà Nội:

Luật học, Tập 30, Số 2 (2014) 51‐67.

105. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

106. Lê Hồng Minh (chủ biên) (2009), Truyền thông Việt nam trong bối cảnh toàn

cầu hóa, Nxb Dân trí, Hà Nội.

107. Michael Schudson (2003), Sức mạnh của tin tức truyền thông, Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

108. Trương Ngọc Nam (2018), Đào tạo nguồn nhân lực báo chí, truyền thông ở Việt

Nam trong t nh h nh mới, Tạp chí Cộng sản điện tử,

http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/xay-dung-dang/2018/51817/Dao-

tao-nguon-nhan-luc-bao-chi-truyen-thong-o-Viet-Nam.aspx

174

109. Nguyễn Trí Nhiệm (chủ biên) (2015), Báo chí truyền thông – những vấn đề

đương đại, Nxb Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội.

110. Nguyễn Ngọc Oanh (2011), Tổ chức sản xuất các sản phẩm báo chí đối ngoại,

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.

111. Tô Phán, Đảng lãnh đạo báo chí trong giai đoạn hiện nay,

http://hanoimoi.com.vn/Tin-tuc/Suy-ngam/563174/dang-lanh-dao-bao-chi-

trong-giai-doan-hien-nay.

112. Lưu Đình Phúc (2016), Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với báo chí

trong giai đoạn hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

113. Hà Huy Phượng (2018), Lãnh đạo, quản lý báo chí - truyền thông trong thời đại

công nghiệp 4.0, Tạp chí Lý luận Chính trị và Truyền thông, số 6/2018, tr.9-13.

114. Dương Văn Quảng (2002), Báo chí và ngoại giao, Nxb Thế giới, Hà Nội.

115. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngày 28

tháng 11 năm 2013.

116. Quốc hội (2016), Luật Báo chí, Luật số 103/2016/QH13, ngày 5 tháng 4 năm 2016.

117. Nguyễn Duy Quyền (2004), Công tác thông tin đối ngoại của các Đảng bộ, Chi

bộ ngoài nước, Tạp chí Thông tin đối ngoại, số (4) 2004.

118. Nguyễn Bắc Son (2014), Tăng cường công tác quản lý báo chí trong giai đoạn

hiện nay, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 30 tháng 7 năm 2014.

119. Nguyễn Bắc Son (2015), Quản lý, quy hoạch Báo chí – Nhiệm vụ quan trọng của

Đảng trong giai đoạn tới, Tạp chí Tài chính, ngày 2 tháng 2 năm 2015.

120. Nguyễn Bắc Son (2015), Báo chí đối ngoại – Động lực phát triển đất nước trong

thời kỳ hội nhập, Tạp chí Thông tin đối ngoại số 138/2015.

121. Dương Xuân Sơn (2014), Các loại hình báo chí truyền thông, Nxb Thông tin và

Truyền thông, Hà Nội.

122. Phạm Minh Sơn (2004), Thông tin đối ngoại – Ngành học thời đại toàn cầu hóa,

Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền, số 3 (5 - 6)/2004.

123. Phạm Minh Sơn (2006), Công tác đào tạo cán bộ thông tin đối ngoại ở Học viện Báo

chí và Tuyền truyền, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, số 12/2006.

124. Phạm Minh Sơn (2006), Hoạt động truyền thông đại chúng trong công tác thông

tin đối ngoại của Việt Nam hiện nay, Đề tài cấp bộ năm 2007, Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

175

125. Phạm Minh Sơn (2008), Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ thông tin

đối ngoại trong thời kỳ mới, Tạp chí Thông tin đối ngoại, số 9/2008.

126. Phạm Minh Sơn (2008), Thông tin đối ngoại Việt Nam trong quá trình hội nhập

quốc tế, Tổng quan đề tài khoa học cấp bộ năm 2008.

127. Phạm Minh Sơn (2008), Đẩy mạnh hoạt động thông tin đối ngoại trong quá trình

hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay, Đề tài cấp Bộ, Học viện Báo chí

và Tuyên truyền.

128. Phạm Minh Sơn (2009), Đào tạo cử nhân chuyên ngành thông tin đối ngoại – kết

quả và những vấn đề đặt ra, Tạp chí Thông tin đối ngoại, số 2/2009.

129. Phạm Minh Sơn, Nguyễn Thị Quế (2009), Truyền thông đại chúng trong công

tác thông tin đối ngoại của Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị-Hành chính,

Hà Nội

130. Phạm Minh Sơn (2009), Phương châm chính xác, sinh động, kịp thời, hợp đối

tượng trong hoạt động thông tin đối ngoại, Tạp chí Thông tin đối ngoại, số

10/2009.

131. Phạm Minh Sơn (chủ biên) (2011), Thông tin đối ngoại Việt Nam – Một số vấn

đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị-Hành chính, Hà Nội.

132. Phạm Minh Sơn (2011), Tăng cường công tác thông tin đối ngoại trong thời kỳ

mới, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu - European studies review, số 03 (126),

tr.69-74.

133. Vũ Thanh Sơn (2008), Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất các giải

pháp quản lý Nhà nước về báo chí ở nước ta trong xu thế hội nhập kinh tế

quốc tế, Đề tài cấp bộ, Cục Báo chí, Bộ Thông tin và Truyền thông.

134. Tạ Ngọc Tấn (1999), Từ lý luận đến thực tế báo chí, Nxb Văn hóa-Thông tin, Hà Nội.

135. Tạ Ngọc Tấn (2001), Truyền thông đại chúng – động lực phát triển của xã hội

hiện đại trong cuốn sách Báo chí những điểm nhìn từ thực tiễn, Nxb Văn

hóa-Thông tin, Hà Nội.

136. Tạ Ngọc Tấn (2004), Truyền thông đại chúng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

137. Tạ Ngọc Tấn (chủ biên) (2007), Cơ sở lý luận báo chí, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

138. Tạ Ngọc Tấn (2007), Một số vấn đề về phát triển báo chí nước ta hiện nay,

http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-

Traodoi/2007/1580/Mot-so-van-de-ve-phat-trien-bao-chi-nuoc-ta-hien.aspx

176

139. Thông Tấn xã Việt Nam, V/v tình hình triển khai Qui hoạch báo chí đối ngoại và

Qui hoạch mạng lưới đại diện cơ quan thông tấn ở nước ngoài, số

1075/TTX-BTK, ngày 23 tháng 11 năm 2018.

140. Trịnh Xuân Thắng (2013), Quản lý nhà nước về báo mạng điện tử ở Việt Nam

hiện nay, Tạp chí Thông tin đối ngoại số tháng 7/2013.

141. Lưu Trần Toàn (2019), Tuyên truyền hình ảnh việt nam ra thế giới qua báo chí đối

ngoại trong giai đoạn hiện nay (Qua khảo sát các chuyên mục của kênh

VTV4, báo mạng điện tử Vietnam Plus và tạp chí in Vietnam Economic

Times), Luận án tiến sĩ Chính trị học, Học viện Báo chí và Tuyên tryền, Hà

Nội.

142. Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị số 10/2000/ CT-TTgvề tăng cường quản lý và đẩy

mạnh công tác thông tin đối ngoại, ngày 26 tháng 4 năm 2000.

143. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 388/QĐ-TTgvề Kế hoạch thực hiện Thông

báo số 162 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác quản lý báo chí, ngày

13 tháng 5 năm 2005.

144. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định 79/2010/QĐ-TTg ban hành Quy chế quản lý

nhà nước về thông tin đối ngoại, ngày 30 tháng 10 năm 2010.

145. Thủ tướng Chính phủ, Quy chế Quản lý nhà nước về thông tin đối ngoại (Ban

hành kèm theo Quyết định số 79/2010/QĐ-TTg), ngày 30 tháng 11 năm

2010.

146. Thủ tướng Chính phủ (2012), Chỉ thị số 21/CT-TTg về việc triển khai thực hiện

Chiến lược phát triển thông tin đối ngoại giai đoạn 2011 - 2020,ngày 06

tháng 8 năm 2012.

147. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 368/QĐ-TTg Phê duyệt chương

tr nh hành động của chính phủ về thông tin đối ngoại giai đoạn 2013 -

2020,ngày 28 tháng 02 năm 2013.

148. Thủ tướng Chính phủ, Quyết địnhsố 2434/QĐ-TT Phê duyệt quy hoạch hệ

thống báo chí đối ngoại đến năm 2020, định hướng đến năm 2030,ngày

13 tháng 12 năm 2016.

149. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định phê duyệt Đề án quản lý hoạt động truyền

thanh - truyền h nh cấp huyện đến năm 2020,số 308/QĐ-TTg, ngày 13

tháng 3 năm 2018.

177

150. Doãn Thị Thuận (2015), Kinh nghiệm quản lý báo chí, báo chí điện tử ở một số

quốc gia, Tạp chí Người làm báo, số 90, tháng 11 và số 91, tháng 12/2015.

151. Doãn Thị Thuận (2015), Một số giải pháp tăng cường quản lý báo chí điện tử

trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Tuyên giáo, tháng 12/2015.

152. Doãn Thị Thuận (2017), Quản lý báo chí điện tử ở nước tatrong giai đoạn hiện

nay, Luận án tiến sĩ Báo chí học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.

153. Nguyễn Vũ Tiến (2002), Nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với báo chí,

Tạp chí Lý luận chính trị, số 9/2002.

154. Đào Xuân Tiến (2010), Đổi mới nâng cao chất lượng tạp chí Thông tin đối ngoại

trong tình hình mới, Đề tài khoa học cấp Bộ.

155. Lê Minh Toàn (chủ biên) (2009), Quản lý Nhà nước về thông tin và truyền thông,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

156. Lưu Trần Toàn (2019), Tuyên truyền hình ảnh việt nam ra thế giới qua báo chí

đối ngoại trong giai đoạn hiện nay (Qua khảo sát các chuyên mục của

kênh VTV4, báo mạng điện tử Vietnam Plus và tạp chí in Vietnam

Economic Times), Luận án tiến sĩ Chính trị học, Học viện Báo chí và

Tuyên tryền, Hà Nội.

157. Trần Đăng Tuấn (2007), Một số vấn đề lãnh đạo, quản lý báo chí trong tình hình

hiện nay, Tạp chí Cộng sản số 6/2007.

158. Trương Minh Tuấn (2014), Tăng cường công tác quản lý nhà nước về báo chí

trong tình hình hiện nay, Tạp chí quốc phòng toàn dân điện tử,

http://tapchiqptd.vn/vi/van-de-chung/tang-cuong-cong-tac-quan-ly-nha-nuoc-

ve-bao-chi-trong-tinh-hinh-hien-nay/5780.html, ngày 20 tháng 6, năm 2014.

159. Phan Lê Tùng (2017),Quản lý nội dung thông tin đối ngoại tại các đài phát

thanh-truyền h nh địa phương, http://nguoilambao.vn/quan-ly-noi-dung-

thong-tin-doi-ngoai-tai-cac-dai-pt-th-dia-phuong-n5672.html.

160. Bùi Thị Vân (2016), Một số vấn đề trong công tác quản lý hoạt động thông tin

đối ngoại ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị, số 6/2016.

161. Vũ Thanh Vân (2014), Truyền thông quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

162. Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.

163. Phạm Thái Việt (2016), iáo tr nh đại cương truyền thông quốc tế, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

178

164. Hồng Vinh (2004), Công tác thông tin đối ngoại ở một số nước Đông Âu, Tạp

chí Thông tin đối ngoại, số (3) 2004.

165. Nguyễn Hồng Vinh (2011), Một số vấn đề cần quan tâm trong Thông tin đối

ngoại trên báo chí hiện nay, Tạp chí Thông tin đối ngoại, số (87) 6/2011.

166. Nguyễn Quang Vinh (2014), Tăng cường công tác quản lý báo chí trong giai đoạn

hiện nay, http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Binh-luan/2014/28413/

Tang-cuong-cong-tac-quan-ly-bao-chi-trong-giai-doan-hien.aspx.

167. V.V.Vôrôsilốp (2004), Nghiệp vụ báo chí: Lý luận và thực tiễn, người dịch Lê

Tâm Hằng, Trần Phú Tuyết, Nxb Thông tấn, Hà Nội

168. Vụ Báo chí - Xuất bản, Ban Tuyên giáo Trung (2008), Quản lý báo chí trong tình

hình hiện nay (2007-2008), Đề tài cấp Bộ.

169. Ngô Đình Xây (2015), Quan hệ giữa báo chí với chính trị ở Việt Nam, Tạp chí

Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 (95), tr.11-16.

170. Anh Xuân (2005), Báo chí với cuộc đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc thù

địch trong âm mưu “diễn biến hòa b nh”, Tạp chí Thông tin đối ngoại, số

(16) 7-2005.

II. Tài liệu tiếng Anh

171. A. J. Wefald & J. P. Katz (2007): Leaders: The Strategies for Taking Charge,

Academy of Management Learning and Education

172. Bechmann G., J. Fecker, U. Huws, G.V. Hootergem, M.L. Mirabile, A.B. Moniz,

S. Siochru (1999). Information Society, Work and the Generation of New

Forms of Social Exclusion (SOWING). First Interim Report (Literature

Review), Tampere, p 8-9.

173. Bill Kovach, Tom Rosenstiel (2014), The Elements of Journalism,ISBN-

10: 0804136785, ISBN-13: 978-0804136785.

174. Dannika Lewis (2010), Foreign Correspondents in a Modern World The past,

present and possible future of global journalism, The Elon Journal of

undergraduate research in communications, Vol. 1, No. 1, p.119-127.

175. Doris A. Graber: Media Power in Polities, Congressional Quarterly Inc.,

Washsington, 2000.

176. James Willsson, Stan Le Roy Willlsson: Mass Media Mass Culture, McGraw –

Hill, Inc 1999.

179

177. John Prescott Thomas (2009), Media Management Manual: A Handbook for in Transition, in Countries Information Sector, United Nations Educational

Television and Radio Practitioners Communication and Scientific & Cultural Organization.

178. Jørgen Skrubbeltrang (2015), Research: The role of the fixer in foreign news,

https://en.ejo.ch/research/research-role-fixer-foreign-news.

179. Judith and William Serrin: The Journalis that changed America, The New Press,

New York, 2002.

180. Frank Webster (2006), Theories of the information society, Third Edition,

Routlege Publisher, Master e-book.p.8-9.

181. George R.Rodman (2011), Mass Media in a changing world, ISBN 0073053090,

9780073053097.

182. George L.Bird and E.Merwwin (1955), The press and society, Prentice-Hall, Inc,

New York

183. Herbert Lee Williams and Frank Warren Rucker (1955), Newspaper Organization and Management, 5th Edition, ISBN-13: 978-0813811505, ISBN-10: 0813811503

184. House R. J. & R.N.Aditya (1997): The Social Scientific Study of Leadership:

Quo Vadis? Journal of Management

185. Islam R, S. Djankov, C. McLiesh: The Right to Tell: The Role of Mass Media in

Economic Development, World Bank Publication, NY. 2002. Journalism, International (2011), 186. Kevin Williams Sage Press,

http://dx.doi.org/10.4135/9781446251133

187. Martin F.Herz (1990), Communicating with the World: U. S. Public Diplomacy

Overseas, St Martin’s Press, Newyork.

188. McCombs, M; Reynolds, A (2002). “News influence on our pictures of the

world”. Media Effects: Advances in Theory and Research.

189. Olasunkanmi Arowolo (2017), Understanding framing theory, School of

Communication, Lagos State University, Ojo, Lagos.

190. Rusell J. Danlton: Citizen Politics, Chatham House Publishers of Seven Bridges

Press, LLC. 2002.

191. Simon McPhillips, Omar Merlo (2008), Media convergence and the evolving media business model: an overview and strategic opportunities, The Marketing Review, Vol. 8, No.3.

180

III. Các trang Website

192. http://www.businessdictionary.com/definition/newspaper.html.

193. https://dictionary.cambridge.org/dictionary/english/newspaper.

194. https://en.oxforddictionaries.com/definition/newspaper

195. http://baodongkhoi.vn/tam-quan-trong-cua-thong-tin-doi-ngoai-09052013-

a27318.html, Tầm quan trọng của thông tin đối ngoại.

196. http://tuyengiaobinhphuoc.org.vn/tong-quan-cong-tac-thong-tin-doi-ngoai,

Tổng quan công tác thông tin đối ngoại.

197. http://www.nhandan.com.vn/chinhtri/item/35111602-hoi-nghi-bao-chi-toan-

quoc-nam-2017.html.

198. https://baomoi.com/7-nha-bao-bi-thu-hoi-the-do-sai-pham/c/29112230.epi.

199. http://www.isl.vass.gov.vn/thong-tin-phap-ly/nghien-cuu-trao-doi/He-thong-van-

ban-quy-pham-phap-luat-ve-bao-chi-Nhieu-nhung-van-thieu-3597.18.

200. http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Binh-luan/2017/46999/Vai-tro-lanh-

dao-cua-Dang-doi-voi-cong-tac-bao-chi.aspx.

201. Communication Theory; Mass Communication: Magic bullet or hypodermic

needle theory of communication, http://communicationtheory.org/magic-

bullet-or-hypodermic-needle-theory-of-communication

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1: PHIẾU XIN Ý KIẾN

PHỤ LỤC 2: KẾT QUẢ KHẢO SÁT

PHỤ LỤC 3: BIÊN BẢN TRẢ LỜI PHỎNG VẤN CỤC THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI

BỘ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG

PHỤ LỤC 4: PHỎNG VẤN SÂU LÃNH ĐẠO CỤC THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI (B1)

PHỤ LỤC 5: PHỎNG VẤN SÂU LÃNH ĐẠO BAN BIÊN TẬP TIN ĐỐI NGOẠI –

THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (M1)

PHỤ LỤC 6: PHỎNG VẤN SÂU LÃNH ĐẠO BAN ĐỐI NGOẠI VOV5, ĐÀI

TIẾNG NÓI VIỆT NAM (N1)

PHỤ LỤC 7: QUYẾT ĐỊNH KHEN THƯỞNG

PHỤ LỤC 1

Để có số liệu phục vụ Luận án Tiến sĩ “Quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở Việt

Nam hiện nay”, nghiên cứu sinh trân trọng đề nghị ông (bà) trả lời các câu hỏi được nêu ra dưới

đây. Mỗi câu hỏi có kèm theo các phương án trả lời khác nhau, phương án nào phù hợp với suy

nghĩ của mình, ông (bà) hãy đánh dấu (x) vào ô  bên cạnh Những thông tin mà ông (bà) cung

cấp chỉ được sử dụng cho mục đích nghiên cứu. Ông (bà) không cần ghi tên, địa chỉ của mình

vào phiếu. Xin cảm ơn!

PHIẾU XIN Ý KIẾN

Câu hỏi 1. Thời gian qua, những việc làm dưới đây đã được cơ quan quản lý nhà nước

về báo chí đối ngoại thực hiện như thế nào?

Thực

Thực

Không

hiện

hiện

thực hiện

tốt

chưa tốt

1. Công tác định hướng, xây dựng chiến lược phát triển các

cơ quan báo chí đối ngoại

2. Công tác quy hoạch, sắp xếp hệ thống các cơ quan báo

chí đối ngoại

3. Công tác phối hợp giữa các cơ quan báo chí đối ngoại

với nhau trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao

4. Công tác xây dựng kế hoạch phát triển cơ quan báo chí

đối ngoại

5. Việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan

chức năng báo chí đối ngoại

6. Khác (ghi rõ)...................................................................

Câu hỏi 2. Ông (bà) hài lòng như thế nào về các văn bản quy phạm pháp luật về báo chí

đối ngoại?

Rất hài

Hài

Bình

lòng

lòng

thường

1. Số lượng các văn bản quy phạm pháp luật về báo chí đối

ngoại

2. Chất lượng các văn bản quy phạm pháp luật về báo chí

đối ngoại

Câu hỏi 3. Ông (bà) đánh giá như thế nào về công tác xây dựng các văn bản quy phạm

pháp luật về báo chí đối ngoại thời gian qua?

Thực hiện tốt

Không thực hiện

Thực hiện chưa tốt

1. Công tác phối hợp xây dựng và ban hành các văn bản pháp

luật về báo chí đối ngoại

2. Việc thi hành pháp luật về báo chí đối ngoại

3. Công tác sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật về báo

chí đối ngoại

4. Công tác xây dựng chế độ, chính sách về tài chính, cơ sở vật

chất và con người cho hoạt động báo chí đối ngoại

5. Công tác tuyên truyền, tập huấn cho cán bộ quản lý các cơ

quan báo chí đối ngoại về các văn bản luật pháp

6. Tiếp thu, lắng nghe các đề xuất kiến nghị trong xây dựng văn

bản pháp luật liên quan đến báo chí đối ngoại

Câu hỏi 4. Ông (bà) đánh giá như thế nào về công tác quản lý thông tin báo chí đối ngoại

thời gian qua?

Thực hiện tốt

Không thực hiện

Thực hiện chưa tốt 

1. Đổi mới nội dung viết trên báo chí đối ngoại

2.Đổi mới phương thức sản xuất, nội dung và hình thức các sản

phẩm báo chí đối ngoại

3. Thông tin tuyên truyền về chủ trương, chính sách của Đảng

và Nhà nước với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài

4. Thông tin tuyên truyền về hình ảnh đất nước con người, văn hóa

Việt Nam đến cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài

5. Đấu tranh với những thông tin sai lệch, luận điệu xuyên tạc

về Việt Nam, kiên quyết bảo vệ độc lập,chủ quyền toàn vẹn

lãnh thổ quốc gia

6. Thông tin các vấn đề quốc tế

Câu hỏi 5. Ông (bà) đánh giá như thế nào về công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình

độ chính trị, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ người làm báo ở các cơ quan

báo chí đối ngoại hiện nay?

Thực hiện tốt

Không thực hiện

Thực hiện chưa tốt

1. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao phẩm chất chính trị

cho người làm báo chí đối ngoại

2. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao phẩm chất đạo đức

nghề nghiệp, lối sống cho người làm báo chí đối ngoại

3. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn

nghiệp vụ cho những người làm báo chí đối ngoại

4. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ ngoại ngữ cho

người làm báo chí đối ngoại

5. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao việc ứng xử văn hóa,

văn minh cho những người làm báo chí đối ngoại

6. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý cho

đội ngũ cán bộ quản lý báo chí đối ngoại

7. Công tác thi đua, khen thưởng đối với những người làm báo

chí đối ngoại (khen công tâm, công bằng, khách quan, trung

thực)

8. Công tác xử phạt đối với những cán bộ làm báo chí đối ngoại

vi phạm luật pháp

Câu hỏi 6. Ông (bà) đánh giá như thế nào về công tác hợp tác quốc tế trên lĩnh vực báo chí

giữa cơ quan báo chí Việt Nam và hoạt động của báo chí nước ngoài tại Việt Nam?

Thực hiện tốt

Không thực hiện

Thực hiện chưa tốt

1. Mời phóng viên báo chí nước ngoài vào Việt Nam để đưa tin

viết, bài

2. Hợp tác với cơ quan báo chí nước ngoài để viết bài quảng bá

hình ảnh Việt Nam

3. Nội dung các chương trình phối hợp giữa cơ quan báo chí

trong nước với cơ quan báo chí nước ngoài

4. Phát hành, truyền dẫn phát sóng các sản phẩm báo chí ra

nước ngoài

5. Thành lập các cơ quan thường trú, văn phòng đại diện báo

chí nước ta ở nước ngoài

6. Việc cử nhà báo hoạt động báo chí ở nước ngoài

Câu hỏi 7. Ông (bà) đánh giá như thế nào về công tác thông tin, báo cáo, thống kê trong

hoạt động báo chí đối ngoại?

Không đồng ý

Hoàn toàn đồng ý

Đồng ý một phần

1. Thông tin báo chí đối ngoại đảm bảo tính chính xác, trung

thực, khách quan

2. Cơ quan báo chí đối ngoại đã thực hiện tốt việc báo cáo định

kỳ hàng tháng, hàng quý dưới các hình thức khác nhau

3. Cơ quan báo chí đối ngoại đã chỉ đạo tốt việc rà soát các quy

định về chế độ thông tin và báo cáo hoạt động của báo chí đối

ngoại

4. Cơ quan báo chí đối ngoại đã thực hiện tốt việc đánh giá kết

quả công việc

5. Khác (ghỉ rõ)

Câu hỏi 8. Ông (bà) đồng ý với những nhận định nào dưới đây?

1. Công tác thanh tra, kiểm tra báo chí đối ngoại được thực hiện một cách thường xuyên 

2. Công tác thanh tra, kiểm tra báo chí đối ngoại được thực hiện đúng theo quy định của

luật pháp

3. Xử lý sai phạm đối với báo chí đối ngoại được thực hiện nghiêm minh, công khai,

minh bạch

4. Phương thức thanh tra, kiểm tra đa dạng phong phú, thanh tra đúng trọng tâm trọng

điểm

5. Khác (ghi rõ)

Câu hỏi 9. Ông bà có nhận định như thế nào về phương thức quản lý nhà nước về báo

chí đối ngoại thông qua các công cụ quản lý là các văn bản qui phạm pháp luật được

nêu dưới đây:

Mức độ thực hiện

Phương thức quản lý thông qua các công cụ quản lý là

TT

các văn bản qui phạm pháp luật

Tốt

Khá TB

1. Việc quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại luôn bám sát

theo các quy định của Hiến pháp và pháp luật

2. Quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại luôn xác định rõ các

hành vi bị nghiêm cấm trong quản lý nhà nước về báo chí

nói chung và báo chí đối ngoại nói riêng

3. Quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại luôn đảm bảo thực hiện

quyền tự do báo chí của công dân trên báo chí đối ngoại

4. Quản lý nhà nước về thực hiện quyền tự do ngôn luận trên

báo chí đối ngoại của công dân

5. Quản lý nhà nước về việc thưc hiện các quy định đối với đối

tượng được thành lập cơ quan báo chí đối ngoại

6. Quản lý chặt chẽ việc cấp giấy phép hoạt động báo chí đối

ngoại

7. Việc bổ nhiệm người đứng đầu cơ quan báo chí đối ngoại

luôn đảm bảo đầy đủ các tiêu chuẩn theo quy định của pháp

luật báo chí

8. Quản lý chặt chẽ việc thực hiện cũng cấp thông tin cho báo

chí đối ngoại

Câu hỏi 10. Ông bà có nhận định như thế nào về phương thức quản lý nhà nước về báo

chí đối ngoại thông qua các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí được nêu dưới đây:

Mức độ thực hiện

Quản lý thông qua các cơ quan quản lý nhà nước

TT

về báo chí

Tốt

Khá

TB

1. Bộ Thông tin và Truyền thông tích cực chỉ đạo và phối hợp

với các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở

trung ương và các địa phương

2. Cục Thông tin và Đối ngoại chủ động, tích cực, sâu sát trong

quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại một cách toàn diện

3. Các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền

hạn của mình có thể hiện rõ trách nhiệm trong phối hợp với

Bộ Thông tin và Truyền thông thực hiện quản lý nhà nước về

báo chí

4. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền

hạn của mình thể hiện đầy đủ trách nhiệm quản lý nhà nước

về báo chí đối ngoại tại địa phương

5. Các cơ quan quản lý báo chí ở Trung ương thường xuyên có sự

chỉ đạo và phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với các cơ quan

quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở các địa phương

Câu 11. Phương thức quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại thông qua thanh tra, kiểm

tra, giám sát và đề xuất khen thưởng, kỷ luật các hành vi vi phạm pháp luật về báo chí

đối ngoại

Quản lý thông qua thanh tra, kiểm tra, giám sát và đề

Mức độ thực hiện

TT

xuất khen thưởng, kỷ luật các hành vi vi phạm pháp luật

Tốt

Khá

TB

về báo chí đối ngoại

1. Các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí ở trung ương và

các địa phương chủ trì phân tích đánh giá đúc rút kinh

nghiệm về nghiệp vụ thanh tra trong lĩnh vực báo chí đối

ngoại thuộc phạm vi và địa bàn quản lý

2. Các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở trung

ương và ở các địa phương thường xuyên kiểm tra, giám sát

hoạt động của các cơ quan báo chí đối ngoại

3. Các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí ở trung ương và các

địa phương xây dựng chương trình kế hoạch công tác thanh tra,

kiểm tra hoạt động của báo chí đối ngoại hàng năm

4. Các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí ở trung ương và các

địa phương chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan để thanh

tra kiểm tra việc chấp hành pháp luật đối với các tổ chức, cá

nhân hoạt động trong lĩnh vực báo chí đối ngoại

5. Phát hiện, áp dụng các biện pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời

hoặc kiến nghị với các cơ quan chức năng xử lý đối với các

hành vi vi phạm hành chính của các cơ quan, cá nhân hoạt

động trong lĩnh vực báo chí đối ngoại

6. Các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí ở trung ương và

các địa phương chủ trì xử lý các khiếu nại, tố cáo trong lĩnh

vực quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại thuộc phạm vi và

địa bàn mình phụ trách

7. Cơ quan báo chí, nhà báo, tổ chức và công dân có thành tích và

cống hiến trong hoạt động báo chí đối ngoại được khen thưởng

theo quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng

Câu hỏi 12. Theo ông (bà) thành tựu nổi bật của công tác quản lý báo chí đối ngoại thời

gian qua là gì?

1. Truyền tải hình ảnh, đất nước, con người Việt Nam với bạn bè quốc tế

2. Thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế

3. Hỗ trợ tích cực cho các hoạt động của cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài

(bảo vệ ngư dân, công dân Việt Nam ở nước ngoài)

4. Đấu tranh ngoại giao, đấu tranh dư luận trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo

5. Đấu tranh hiệu quả các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, biên giới, lãnh thổ

với các thế lực thù địch ngoài nước

6. Khác (ghi rõ)

Câu hỏi 13. Theo Ông (bà) đâu là những nguyên nhân hạn chế trong công tác quản lý

báo chí đối ngoại thời gian qua?

1. Trình độ quản lý báo chí đối ngoại của lãnh đạo quản lý còn hạn chế

2. Chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước về báo chí đối ngoại chưa đầy đủ,

rõ ràng

3. Thái độ, nhiệt huyết của phóng viên báo chí đối ngoại còn hạn chế

4. Trình độ chuyên môn của người làm báo chí đối ngoại còn hạn chế

5. Nội dung, số lượng và chất lượng thông tin được cung cấp, chia sẻ chưa phong phú

đa dạng

6. Trình độ ngoại ngữ của đội ngũ cán bộ quản lý báo chí đối ngoại còn hạn chế

7. Công tác phối hợp giữa các cơ quan báo chí đối ngoại chưa được thực hiện tốt

8. Cán bộ làm công tác báo chí đối ngoại thiếu và yếu về kinh nghiệm nghề nghiệp và

thực tiễn

9. Ngân sách dành cho báo chí đối ngoại và cơ sở vật chất, trang thiết bị phương tiện

hoạt động báo chí đối ngoại còn hạn chế

10. Khác (ghi rõ)

Câu hỏi 14. Theo Ông (bà) để nâng cao chất lượng công tác quản lý báo chí đối ngoại,

trong thời gian tới, chúng ta sẽ phải làm gì?

1. Tăng cường thông tin, tuyên truyền nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân

về công tác báo chí đối ngoại

2. Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy trong công tác quản lý báo chí đối ngoại

3. Đổi mới về cơ chế tổ chức các đơn vị tham gia báo chí đối ngoại

4. Đổi mới nội dung, hình thức, hiện đại hóa các phương tiện báo chí đối ngoại

5. Sử dụng hiệu quả các thành tựu khoa học công nghệ, đặc biệt là internet trong hoạt

động báo chí đối ngoại

6. Tăng cường đầu tư tài chính, cơ sở vật chất cho hoạt động báo chí đối ngoại

7. Nâng cao năng lực quản lý báo chí đối ngoại cho đội ngũ cán bộ quản lý

8. Có các cơ chế chính sách, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp

vụ cho người làm báo chí đối ngoại

9. Khen thưởng đúng người đúng việc, minh bạch rõ ràng đối với những người làm tốt

công tác báo chí đối ngoại

10. Kỷ luật thật nghiêm đối với những cá nhân, tổ chức vi phạm hoạt động báo chí đối

ngoại

11. Giải pháp khác (ghi rõ)............................................................

Xin ông (bà) vui lòng cho biết một số đặc điểm của bản thân:

6. Hiện đang công tác tại  6.1. Cơ quan báo chí khối 

các cơ quan Đảng

3. Trình độ lý luận chính trị 3.1. Sơ cấp, trung cấp 3.2. Cao cấp, cử nhân

1. Tuổi(ghi rõ số tuổi)…….. 2. Trình độ học vấn 2.1. Trung cấp, cao đẳng 2.2. Đại học

 6.2. Cơ quan báo chí ở

Chính phủ

2.3. Sau đại học

4. Là cán bộ lãnh đạo, quản lý 5. Là cấp uỷ viên

6.3. Cơ quan báo chí ở cơ quan dân cử (Quốc hội, HĐND) 6.4. Cơ quan báo chí ở các tổ chức chính trị - xã hội 6.5. Cơ quan báo chí khác 

Một lần nữa xin cảm ơn sự cộng tác của ông (bà)!

PHỤ LỤC 2

KẾT QUẢ KHẢO SÁT

Bảng mô tả các biến

Các biến

Giới tính

Độ tuổi

Vị trí công tác

Số lượng 283 117 116 189 95 125

% 70,75 29,25 29 47,25 23,75 31,25

275

68,75

185

46,25

Tốt nghiệp đại học ngoại ngữ và ngành khác

215

53,75

314

78,3

Số người tốt nghiệp đại học trong và ngoài nước

86

21,7

Nam Nữ 25-35 36-50 Trên 50 Cán bộ quản lý Cán bộ báo chí không giữ chức vụ quản lý Số người tốt nghiệp đại học ngoại ngữ Số tốt nghiệp ở ngành khác Số người tốt nghiệp đại học, sau đại học trong nước Số người tốt nghiệp đại học, sau đại học ở ngoài nước

1. Thực trạng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại của chủ thể quản lý báo chí

Mức độ thực hiện

TT

Vai trò của chủ thể quản lý

Tốt

Khá

Trung bình

SL %

SL %

SL %

1.

262

65,6

99

24,8

38

9,6

Trách nhiệm chung của Bộ Thông tin và Truyền thông trong thực hiện quản lý nhà nước về báo chí

2.

Quản lý của Cục Thông tin đối ngoại

210

52,6

152

38

11

2,8

a.

310

77,6

89

22,4

0

0

Nghiên cứu, đề xuất và thực hiện việc xây dựng dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý báo chí đối ngoại

b.

240

0,60

147

36,8

12

3,2

Chủ trì, phối hợp xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển các vấn đề về báo chí đối ngoại

c.

198

49,6

176

44

25

6,4

Hướng dẫn, tổ chức, kiểm tra việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về chiến lược phát triển báo chí đối ngoại

d.

188

47,2

195

48,8

16

4

Tổng hợp, phân tích, đánh giá dư luận báo chí nước ngoài về Việt Nam và khi có các sự kiện trong nước, quốc tế quan trọng

e.

265

66,4

124

31,2

9

2,4

Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan về việc cung cấp các thông tin, làm rõ, phản bác các thông tin sai lệch về Việt Nam trên các lĩnh vực

f.

249

62,4

150

37,6

0

0

Phối hợp, cung cấp, chia sẻ nội dung báo chí đối ngoại giữa các cơ quan nhà nước với các cơ quan báo chí

g.

204

51,2

176

44

19

4,8

Phối hợp thực hiện các hoạt động báo chí đối ngoại với các Bộ, Ngành, địa phương, các cơ quan báo chí, các tổ chức trong và ngoài nước

h.

198

49,6

185

46,4

16

4

Phối hợp với các tổ chức có liên quan quản lý hoạt động báo chí đối ngoại

i.

275

68,8

124

31,2

0

0

Tham mưu, đề xuất và thực hiện các hoạt động báo chí đối ngoại nhằm giới thiệu về tình hình Việt Nam, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái trên các lĩnh vực của Việt Nam

j

182

45,6

188

47,2

28

7,2

Quản lý của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn trong thưc hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại tại địa phương

2. Đối tượng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại

Mức độ thực hiện

TT

Tốt

Khá

Trung bình

Đối tượng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại

SL %

SL %

SL %

Quản lý cơ quan báo chí đối ngoại

291

72,8

108

27,2

0

0

1.

Quản lý người làm báo chí đối ngoại

262

65,6

118

29,6

19

4,8

2.

3.

361

90,4

38

9,6

0

0

Quản lý nội dung thông tin trên báo chí đối ngoại

3. Quản lý việc xây dựng, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển báo chí đối ngoại

Mức độ thực hiện

TT

Các nội dung quản lý

Tốt

Khá

TB

SL %

SL %

SL %

1.

288 72,1

111

27,9

0

0

Quản lý xây dựng và định hướng, chiến lược phát triển các cơ quan báo chí đối ngoại

2.

254 63,5

125

31,3

20

5,2

Quản lý việc xây dựng kế hoạch phát triển báo chí đối ngoại

3.

264

66

136

34

0

0

Quản lý cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ các cơ quan báo chí đối ngoại

4.

242 60,5

128

32

30

7,5

Quản lý việc quy hoạch, sắp xếp hệ thống các cơ quan báo chí đối ngoại

5.

192 48,2

157

39,4

49

12,3

Quản lý việc phân công, phối hợp trong chỉ đạo các cơ quan báo chí đối ngoại

6.

186 46,7

148

37

65

16,3

Quản lý sự hiệp đồng phối hợp giữa các cơ quan báo chí đối ngoại

4. Quản lý việc ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về báo chí, xây dựng chế độ, chính sách về báo chí đối ngoại

Mức độ thực hiện

TT

Các nội dung quản lý

Tốt

Khá

TB

SL %

SL %

SL %

1.

242 60,7

131

32,9

25

6,4

Quản lý việc phối hợp xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực báo chí đối ngoại

2.

208 52,2

176

44

15

3,8

Quản lý việc tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về báo chí đối ngoại

3.

192

48

155

38,8

52

13,2

Quản lý việc sửa đổi, bổ sung các văn bản quản lý báo chí đối ngoại

4.

188 47,1

141

35,4

70

17,5

Quản lý việc xây dựng và thực hiện chế độ, chính sách về tài chính, con người, cơ sở vật chất cho cơ quan báo chí phục vụ hoạt động báo chí đối ngoại

5.

212

53

167

41,8

20

5,2

Quản lý tập huấn triển khai nội dung các văn bản pháp luật cho cán bộ quản lý của các cơ quan báo chí đối ngoại

6.

260 65,2

139

34,8

0

0

Quản lý việc đề xuất, kiến nghị, xây dựng văn bản liên quan đến báo chí đối ngoại

5. Quản lý tổ chức thông tin và quản lý thông tin của báo chí đối ngoại

Mức độ thực hiện

TT

Các nội dung quản lý

Tốt

Khá

TB

SL %

SL %

SL %

1.

Quản lý hoạt động tổ chức nội dung thông

204

51

136

34,2

59

14,8

tin và đổi mới nội dung báo chí đối ngoại

2.

Quản lý cách thức tổ chức sản xuất, nội

dung và hình thức của sản phẩm báo chí

247 61,8

119

29,8

33

8,4

đối ngoại

3.

Quản lý việc thông tin về chủ trương,

chính sách của Đảng, Nhà nước đến cộng

đồng người Việt Nam ở nước ngoài, cộng

262 65,6

137

34,4

0

0

đồng quốc tế; quảng bá hình ảnh đất nước,

con người, văn hóa Việt Nam

4.

Quản lý hình thức, cách thức nhằm tăng

cường việc cung cấp thông tin chính

thống, thông tin của các tờ báo phục vụ

216

54

156

39,2

27

6,8

đối ngoại thông qua hình thức truyền

thông xã hội

5.

Quản lý việc khai thác, sử dụng tin, bài,

229 57,3

142

35,6

28

7,1

chi tiết, hình ảnh

6.

Xác định đối tượng thông tin của báo chí

đối ngoại có trọng tâm, trọng điểm nhất,

đặc biệt là các nước láng giềng, các nước

248 62,2

126

31,5

25

6,3

lớn, các nước trong khối ASEAN, Mỹ,

Liên minh Châu Âu, Nhật Bản, đồng bào

ta ở nước ngoài, đặc biệt là giới trẻ…

6. Quản lý đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ người làm báo của các cơ quan báo chí và cán bộ quản lý báo chí đối ngoại

Mức độ thực hiện

TT

Các nội dung quản lý

Tốt

Khá

TB

SL %

SL %

SL %

1.

228 57,2

150

37,5

21

5,3

Quản lý việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ làm báo chí đối ngoại

2.

214 53,6

126

31,7

58

14,7

Quản lý đào tạo, bồi dưỡng về trình độ ngoại ngữ cho cán bộ làm báo chí đối ngoại

Bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị

183 45,8

144

36,2

72

18

3.

4.

224

56

142

35,5

34

8,5

Bồi dưỡng tác phong, đạo đức nghề nghiệp của người làm báo đối ngoại

5.

194 48,7

157

39,3

48

12

Bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý cho đội ngũ cán bộ quản lý báo chí đối ngoại

6.

144

36

162

40,7

93

23,3

Có cơ chế, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ làm báo chí đối ngoại

7. Quản lý hợp tác quốc tế về báo chí, quản lý hoạt động của cơ quan báo chí Việt Nam liên quan đến nước ngoài và hoạt động của báo chí nước ngoài tại Việt Nam đối ngoại

Mức độ thực hiện

Các nội dung quản lý

Tốt

Khá

TB

TT

SL %

SL %

SL %

1.

166 41,7

158

39,7

74

18,6

Hợp tác với các đối tác nước ngoài triển khai các hoạt động báo chí đối ngoại như: mời phóng viên báo chí nước ngoài vào Việt Nam để đưa tin viết, bài, thuê khoán cộng tác viên nước ngoài làm phóng viên và biên tập viên tin phù hợp với các đối tượng; hợp tác với các cơ quan báo chí nước ngoài để viết bài, phóng sự quản bá hình ảnh Việt Nam

2.

136 34,2

170

42,5

93

23,3

Quản lý hợp tác sản xuất các sản phẩm báo in, báo điện tử thuộc các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kinh tế, văn hóa, thể thao, giải trí, quảng cáo, an sinh xã hội

3.

294 73,6

105

26,4

0

0

Nội dung các chương trình liên kết phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam

4.

251 62,8

148

37,2

0

0

Phát hành, truyền dẫn, phát sóng sản phẩm báo chí ra nước ngoài; ủy thác cho tổ chức, cá nhân in lại, truyền dẫn, phát sóng sản phẩm báo chí Việt Nam ở nước ngoài

Thuê chuyên gia, cộng tác viên nước ngoài 280 70,2

106

26,5

13

3,3

5.

6.

253 63,4

117

29,4

28

7,2

Thành lập văn phòng đại diện ở nước ngoài

8. Quản lý chỉ đạo thực hiện chế độ thông tin, báo cáo, thống kê và công tác khen thưởng, kỷ luật trong hoạt động báo chí đối ngoại

Mức độ thực hiện

TT Các nội dung quản lý

Tốt

Khá

TB

SL %

SL %

SL %

1.

268 67,2

112

28,1

18

4,7

Quản lý việc đưa tin bảo đảm tính chính xác, trung thực, khách quan về nội dung của thông tin đã đưa

2.

252

63

124

31,2

23

5,8

Quản lý thực hiện chế độ thông tin, báo cáo định kỳ hàng tháng, hàng quý dưới hình thức văn bản và file điện tử, theo địa chỉ e- mail

3.

272

68

110

27,5

25

6,3

Chỉ đạo việc ra soát các quy định về chế độ thông tin, báo cáo hoạt động báo chí đối ngoại

4.

225 56,4

132

33,1

42

10,5

Quản lý nội dung báo cáo, có đánh giá về kết quả công việc cũng như chất lượng và tiến độ báo cáo

5.

203 50,8

146

36,5

50

12,7

Quản lý đổi mới công tác thông tin, báo cáo phù hợp với yêu cầu của tình hình mới, đổi mới việc thực hiện công tác thông tin, báo cáo trong phạm vi quản lý

6.

229 57,3

154

38,5

16

4,2

Cơ quan báo chí, nhà báo, tổ chức và công dân có thành tích và cống hiến trong hoạt động báo chí được khen thưởng theo quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng

7.

246 61,7

153

38,3

0

0

Việc xét tặng danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng được thực hiện công khai, dân chủ, đề nghị theo trình tự từ cơ sở, chú trọng cá nhân, tập thể có nhiều thành tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ, bảo đảm đúng đối tượng, tiêu chuẩn

9. Quản lý thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về báo chí đối ngoại

Mức độ thực hiện

TT

Các nội dung quản lý

Tốt

Khá

TB

SL %

SL %

SL %

1.

308

77

92

23

0

0

Thanh tra báo chí đối ngoại được thực hiện theo quy định của pháp luật về thanh tra

2.

261 65,3

118

29,5

20

5,2

Thanh tra, kiểm tra thường xuyên các hoạt động báo chí đối ngoại

3.

282 70,5

103

25,9

14

3,6

Thanh tra, kiểm tra định kỳ các hoạt động báo chí đối ngoại

4.

247 61,9

152

38,1

0

0

Thanh tra, kiểm tra đột xuất các hoạt động báo chí đối ngoại

5.

294 73,6

105

26,4

0

0

Quản lý việc xử lý vi phạm pháp luật về báo chí đối ngoại

10. Phương thức quản lý thông qua các công cụ quản lý là các văn bản qui phạm pháp luật

Mức độ thực hiện

TT

Tốt

Khá

Trung bình

Phương thức quản lý thông qua các công cụ quản lý là các văn bản qui phạm pháp luật

SL %

SL %

SL %

307

76,8

92

23,2

0

0

1. Việc quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại luôn bám sát theo các quy định của Hiến pháp và pháp luật

278

69,6

121

30,4

0

0

2. Quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại luôn xác định rõ các hành vi bị nghiêm cấm trong quản lý nhà nước về báo chí nói chung và báo chí đối ngoại nói riêng

268

67,2

131

32,8

0

0

3. Quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại luôn đảm bảo thực hiện quyền tự do báo

chí của công dân trên báo chí đối ngoại

243

60,8

147

36,8

9

2,4

4. Quản lý nhà nước về thực hiện quyền tự do ngôn luận trên báo chí đối ngoại của công dân

208

52

166

41,6

25

6,4

5. Quản lý nhà nước về việc thưc hiện các quy định đối với đối tượng được thành lập cơ quan báo chí đối ngoại

6. Quản lý chặt chẽ việc cấp giấy phép hoạt

291

72,8

108

27,2

0

0

động báo chí đối ngoại

272

68

115

28,8

12

3,2

7. Việc bổ nhiệm người đứng đầu cơ quan báo chí đối ngoại luôn đảm bảo đầy đủ các tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật báo chí

8. Quản lý chặt chẽ việc thực hiện cũng cấp

230

57,6

150

37,6

19

4,8

thông tin cho báo chí đối ngoại

11. Quản lý thông qua các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí

Mức độ thực hiện

TT

Tốt

Khá

Trung bình

Quản lý thông qua các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí

SL %

SL %

SL %

262

65,6

124

31,2

12

3,2

1. Bộ Thông tin và Truyền thông tích cực chỉ đạo và phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở trung ương và các địa phương

256

64

137

34,4

6

1,6

2. Cục Thông tin và Đối ngoại chủ động, tích cực, sâu sát trong quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại một cách toàn diện

211

52,8

166

41,6

22

5,6

3. Các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có thể hiện rõ trách nhiệm trong phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông thực hiện quản lý nhà nước về báo chí

230

57,6

153

38,4

16

4

4. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thể hiện đầy đủ trách nhiệm quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại tại địa phương

5. Các cơ quan quản lý báo chí ở Trung 195

48,8

179

44,8

25

6,4

ương thường xuyên có sự chỉ đạo và phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở các địa phương

12. Quản lý thông qua thanh tra, kiểm tra, giám sát và đề xuất khen thưởng, kỷ luật các hành vi vi phạm pháp luật về báo chí đối ngoại

Mức độ thực hiện

Tốt

Khá

Trung bình

TT

SL %

SL %

SL %

Quản lý thông qua thanh tra, kiểm tra, giám sát và đề xuất khen thưởng, kỷ luật các hành vi vi phạm pháp luật về báo chí đối ngoại

208

52

172

43,2

19

4,8

1. Các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí ở trung ương và các địa phương chủ trì phân tích đánh giá đúc rút kinh nghiệm về nghiệp vụ thanh tra trong lĩnh vực báo chí đối ngoại thuộc phạm vi và địa bàn quản lý

249

62,4

137

34,4

12

3,2

2. Các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở trung ương và ở các địa phương thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan báo chí đối ngoại

195

48,8

182

45,6

22

5,6

3. Các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí ở trung ương và các địa phương xây dựng chương trình kế hoạch công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động của báo chí đối ngoại hàng năm

179

44,8

185

46,4

35

8,8

4. Các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí ở trung ương và các địa phương chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan để thanh tra kiểm tra việc chấp hành pháp luật đối với các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực báo chí đối ngoại

252

63,2

147

36,8

0

0

5. Phát hiện, áp dụng các biện pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời hoặc kiến nghị với các cơ quan chức năng xử lý đối với các hành vi vi phạm hành chính của các cơ

quan, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực báo chí đối ngoại

268

67,2

115

28,8

16

4

6. Các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí ở trung ương và các địa phương chủ trì xử lý các khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại thuộc phạm vi và địa bàn mình phụ trách

291

72,8

108

27,2

0

0

7. Cơ quan báo chí, nhà báo, tổ chức và công dân có thành tích và cống hiến trong hoạt động báo chí đối ngoại được khen thưởng theo quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng

PHỤ LỤC 3 BIÊN BẢN TRẢ LỜI PHỎNG VẤN CỤC THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI BỘ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG Phỏng vấn sâu cán bộ phòng Thông tin, Báo chí – Xuất bản (A1)

Câu hỏi 1: Chị đánh giá như thế nào về công tác quản lý nhà nước về báo chí đối

ngoại ở nước ta thời gian qua?

Về cá nhân chị đánh giá, quản lý thông tin đối ngoại nói chung và báo chí đối ngoại nói riêng mặc dù chưa đáp ứng được yêu cầu, còn những hạn chế nhất định nhưng đã có tiến bộ hơn trước rất nhiều. Đặc biệt là nhận thức về thông tin đối ngoại của báo chí, bộ ngành đã được nâng cao. Hành lang pháp lý về thông tin đối ngoại tiếp tục được hoàn thiện.

Câu hỏi 2: Chị đánh giá thê nào về công tác quy hoạch, sắp xếp hệ thống các cơ

quan báo chí đối ngoại?

Về cơ bản, các cơ quan báo chí thực hiện đúng yêu cầu của các Quy hoạch và Đề án đề ra,

bám sát các mục tiêu của Quy hoạch; tiếp tục giữ vững vai trò là cơ quan đối ngoại quốc gia.

Câu hỏi 3: Công tác phối hợp giữa các cơ quan báo chí đối ngoại với nhau trong

việc thực hiện nhiệm vụ được giao?

Sự phối hợp giữa các cơ quan báo chí đối ngoại với các binh chủng làm báo chí đối

ngoại khá chặt chẽ, tạo điều kiện hỗ trợ nhau trong việc đăng, phát nội dung báo chí đối ngoại.

Tiêu biểu như tại TTXVN, bên cạnh nhiệm vụ thông tin, các CQTTNN đã tích cực hưởng ứng các hoạt động của cơ quan đại diện Việt Nam ở nước sở tại, phối hợp tốt với các cơ quan đại điện trong công tác tuyên truyền đối ngoại tại địa bàn cũng như các công tác khác. Năm 2018, các CQ báo chí đối ngoại của TTXVN tiếp tục triển khai thực hiện “Quy chế về việc phối hợp giữa Bộ Ngoại giao và các Cơ quan trong nước về công tác thông tin đối ngoại của các Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài”. Bằng những sản phẩm thông tin của mình, các phóng viên thường trú ngoài nước của TTXVN đã trở thành cầu nối người Việt Nam ở nước ngoài và bạn bè quốc tế với người dân và các cơ quan, tổ chức ở trong nước: kịp thời phản ánh hoạt động của các cộng đồng người Việt ở nước ngoài.

Về việc cung cấp thông tin cho các cơ quan quản lý, chỉ đạo: Các CQ báo chí đối ngoại của TTXVN thực hiện việc cung cấp thông tin theo đúng các quy định tại Điều 17, Nghị định số 72/2015/NĐ-CP về quản lý Nhà nước về thông tin đối ngoại. Theo đó, các CQTTNN cung cấp thông tin từ địa bàn cho cơ quan chủ quản là TTXVN để cung cấp cho hệ thống cơ quan báo chí và công chúng trong, ngoài nước.

Câu hỏi 4: Chị đánh giá như thế nào về công tác quản lý thông tin báo chí đối

ngoại thời gian qua?

Nội dung thông tin hiện nay đảm bảo đúng định hướng, phản ánh rõ nét quan điểm, đường lối đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhà nước ra thế giới, phản ánh sâu rộng tình hình

Việt Nam trên mọi lĩnh vực đến cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài và bạn bè quốc tế, tổ chức nhiều tin/bài/ chương trình tuyên truyền đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo, phân giới cắm mốc của đất nước, các vấn đề nhân quyền, tôn giáo, việc đăng phát nội dung báo chí đối ngoại trên cơ quan báo chí đối ngoại ít sai sót.

Bộ TTTT giao đơn vị chức năng tổ chức nắm bắt dư luận trong và ngoài nước về tình hình Việt Nam, chú trọng theo dõi các ý kiến đánh giá, nhận định của Chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế, giới học giả, chuyên gia nước ngoài, hằng tuần thực hiện báo cáo “Điểm dư luận báo chí nước ngoài về Việt Nam” làm tài liệu tham khảo cho Lãnh đạo Đảng, Nhà nước; nắm bắt sát thông tin để chỉ đạo báo chí trong việc giải thích, làm rõ, đấu tranh, bác bỏ các thông tin sai trái, xuyên tạc về tình hình Việt Nam.

Tổ chức theo dõi, đánh giá việc đăng, phát nội dung báo chí đối ngoại trên báo chí Việt Nam để nắm bắt, kịp thời chỉ đạo thông tin trên báo chí góp phần tăng cường quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới, hạn chế các thông tin tiêu cực ảnh hưởng đến quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế của Việt Nam với các nước.

Câu hỏi 5: Theo chị để nâng cao chất lượng công tác quản lý báo chí đối ngoại,

trong thời gian tới chúng ta sẽ phải làm gì?

Để phát huy có hiệu quả chức năng quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại, trong năm

2019, Bộ TTTT sẽ tập trung triển khai các nhiệm vụ trọng tâm sau:

Một là, tiếp tục rà soát, hoàn thiện việc xây dựng cơ chế, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật, các đề án, kế hoạch trong lĩnh vực BCĐN đảm bảo đáp ứng yêu cầu của công tác TTĐN; triển khai thực hiện tốt các thỏa thuận hợp tác giữa Bộ Thông tin và Truyền thông Việt Nam và Bộ Thông tin và Truyền thông các nước.

Hai là, tiếp tục triển khai hiệu quả các đề án, chương trình, quy hoạch, kế hoạch trong

lĩnh vực BCĐN đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao.

Ba là, tăng cường hiệu quả phối hợp với Ban Chỉ đạo công tác TTĐN, các thành viên Ban Chỉ đạo công tác TTĐN, cácbộ, ban, ngành, địa phương trong công tác TTĐN; phối hợp với Ban Chỉ đạo công tác TTTĐN và Ban Tuyên giáo Trung ương thực hiện tốt việc chỉ đạo, quản lý, định hướng công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại trên báo chí.

PHỤ LỤC 4 PHỎNG VẤN SÂU LÃNH ĐẠO CỤC THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI (B1)

Câu hỏi 1. Thưa ông, công tác quy hoạch sắp xếp hệ thống báo chí đối ngoại hiện

nay được thực hiện như thế nào?

Quy hoạch sắp xếp hệ thống báo chí đối ngoại hiện nay được thực hiện từ năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ.Mục tiêu của Quy hoạch là xây dựng và phát triển một báo điện tử đối ngoại chuyên biệt, chủ lực với các thứ tiếng chính (Tiếng Anh, Tiếng Pháp, Tiếng Trung Quốc, Tiếng Tây Ban Nha, Tiếng Nga) nằm trong top 10 lượng người truy cập từ Việt Nam và top 5 lượng người truy cập từ nước ngoài đối với tờ báo điện tử của Việt Nam. Đồng thời, xây dựng và phát triển một tờ báo in đối ngoại, một tạp chí đối ngoại chuyên biệt, chủ lực với các thứ tiếng chính (Tiếng Anh, Tiếng Pháp, Tiếng Trung Quốc, Tiếng Tây Ban Nha, Tiếng Nga) mang tầm khu vực và thế giới, đồng thời khuyến khích các cơ quan báo chí có số phụ, phụ trương và chuyên mục phục vụ nhiệm vụ đối ngoại.

Cách đây mấy năm Thủ tướng Chính phủ có quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại trong đó quy định là báo chí đối ngoại chủ lực là Thông tấn xã Việt Nam và một số báo chí đối ngoại như Kênh truyền hình đối ngoại quốc giá, được quy hoạch từ kênh VTV4. Cho đến năm 2020 VTV4 sẽ trở thành kênh truyền hình đối ngoại quốc gia, tỷ lệ phát lại là bao nhiêu đều có quy định ở trong quy hoạch. Ngoài ra còn có kênh truyền hình đối ngoại dành cho cộng đồng người Việt ở nước ngoài là kênh VTC 10 của đài truyền hình VTC, có kênh của Đài tiếng nói Việt Nam – VOV5 dành cho đồng bào Việt Nam ở xa tổ quốc. Đấy là về báo nói, báo hình, báo viết có Vietnamnews, vietnamplus, bản tiếng Anh, Báo ảnh của Thông tấn xã Việt Nam.

Câu hỏi 2. Thưa ông việc quản lý thông tin báo chí đối ngoại được thực hiện như thế nào? Các cơ quan báo chí đối ngoại có thực hiện tốt việc báo cáo cho các cơ quan quản lý?

Đối với cơ quan nhà nước thì họ báo cáo quy củ hơn còn các đơn vị báo chí thì họ cũng có báo cáo, báo cáo hàng năm. Vì trong quy định của kế hoạch TTĐN Chính phủ là các cơ quan báo chí đối ngoại phải báo cáo cho Bộ Thông tin Truyền thông tổng hợp, báo cáo để tổng hợp cho Bộ Thông tin truyền thông trình Chính phủ.

Câu hỏi 3. Báo chí đối ngoại có xảy ra các vi phạm về mặt thông tin không? Thông thường thì các báo chí đối ngoại thì họ ít xảy ra các vi phạm, có thể họ làm nhiều hay chưa nhiều, có thể làm tốt hay chưa xuất xắc, thường thì họ không bị vi phạm. Bởi vì báo chí làm công tác thông tin đối ngoại có nguồn tin chính thức thì họ tuân thủ. Còn những báo chạy theo thông tin chưa được kiểm chứng, thông tin vội vàng, hay chưa bảo đảm định hướng thì thường dễ bị sai hơn.

Câu hỏi 4. Vậy tức là từ trước đến nay, các vi phạm thông tin của báo chí đối ngoại cũng chưa được đưa vào văn bản chính thức mà hầu hết là nhắc nhở trong các cuộc giao ban?

Đúng rồi, vi phạm của báo chí đối ngoại không chỉ được nhắc nhở mà còn có phạt, thường là chúng ta thấy như là các thông tin in bản đồ Việt Nam mà không thể hiện đầy đủ chủ quyền đối với biển đảo chẳng hạn, như vậy cũng bị phạt với khung có ghi rõ. Ngoài ra còn các đơn vị báo chí thuộc hệ thống ở bên ngoài quốc gia, nếu họ vi phạm chúng ta cũng xử lý thậm chí là ngăn chặn. Còn những trường hợp khác thì nhắc nhở. Nhưng có thể nói là báo chí làm công tác thông tin đối ngoại hiện nay vẫn còn trong khuynh hướng là thúc đẩy, động viên. Thế còn khung chế tài mà xử phạt thì phải đi vào những chi tiết của những hành vi vi phạm cụ thể và được luật hóa. Hiện nay chưa được luật hóa chặt chẽ, bởi vì mình vẫn mang tính động viên thúc đẩy, chứ chưa phải sự quản lý và ngăn chặn theo hướng là phạt.

Trong công tác khen thưởng thì mình làm tốt, hàng năm mình có giải thưởng về hoạt động báo chí thông tin đối ngoại. Như vậy biện pháp quản lý về thưởng chúng ta làm tốt. Còn về phạt thì có lẽ mình phải thúc đẩy hơn. Nhìn chung, các vi phạm thì chưa đến mức bị phạt mà thường chúng ta khuyến khích động viên báo chí đối ngoại đưa tin.

Xin cảm ơn ông đã chia sẻ!

PHỤ LỤC 5 PHỎNG VẤN SÂU LÃNH ĐẠO BAN BIÊN TẬP TIN ĐỐI NGOẠI – THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (M1)

Câu hỏi 1. Anh có thể cho biết về cơ cấu tổ chức và hoạt động của Ban BTTĐN nơi

anh trực tiếp quản lý?

Về cơ cấu tổ chức và hoạt động, Ban BTTĐN hiện có 67 cán bộ, BTV tác nghiệp tại 05 Phòng, gồm Phòng tin tiếng Anh, Phòng tin tiếng Pháp, Phòng tin tiếng Tây Ban Nha, Phòng tin tiếng Trung, và Phòng tin Đa phương tiện.Các Phòng này thực hiện nhiệm vụ cung cấp thông tin về Việt Nam, thông tin liên quan đến Việt Nam và khu vực bằng bốn ngữ nói trên cung cấp cho các đơn vị, cơ quan thông tin trong và ngoài ngành, đồng thời trực tiếp phục vụ công chúng trong và ngoài nước.

Hiện nay, Ban BTTĐN biên soạn, xuất bản và cung cấp các sản phẩm thông tin văn bản chuyên ngữ phát qua cổng thông tin dịch vụ vnanet.vn của TTXVN, website www.vietnamplus.vn và các bản tin truyền hình 15 phút hàng ngày (tiếng Anh và tiếng Trung), 15 phút hàng tuần (tiếng Pháp và Tây Ban Nha) phát trên Truyền hình Thông tấn.

Nội dung thông tin của Ban tập trung tuyên truyền về các lĩnh vực: Hoạt động của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các bộ, ban, ngành; chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về ngoại giao, kinh tế đối ngoại và hội nhập quốc tế; đất nước con người Việt Nam; thành tựu trong công cuộc Đổi mới; bảo vệ chủ quyền biển đảo; cung cấp thông tin và tham gia đấu tranh phản bác những luận điệu tuyên truyền có ý đồ xấu, thông tin xuyên tạc của các thế lực thù địch…

Câu hỏi 2. Thưa anh, vậy công tác phối hợp giữa cơ quan báo chí đối ngoại với

nhau trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao được thực hiện như thê nào?

Cùng với việc tăng cường phối hợp công tác, cung cấp, chia sẻ tin bài với 8 đơn vị thông tin bằng tiếng nước ngoài còn lại của TTXVN, Ban BTTĐN còn phối hợp với các đơn vị liên quan của nhiều Bộ, ngành như Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Tài Chính, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Hãng hàng không Vietjet Air, và một số tỉnh thành như Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, Bắc Giang, Phú Thọ, Ninh Bình, Thanh Hóa, Quảng Ninh, Quảng Ngãi, Hưng Yên… nhằm phản ánh hoạt động mọi mặt của các Bộ, ngành và địa phương nói riêng và của đất nước nói chung.

Hiện Ban BTTĐN đang phối hợp với một số đơn vị trong và ngoài ngành như Trung tâm Phát triển Truyền thông Thông tấn, Báo ảnh Dân tộc và Miền Núi (TTXVN), Tạp chí TTĐN (Ban Tuyên giáo Trung ương), Báo Bắc Giang… xây dựng các ấn phẩm, website tiếng Trung và tiếng Anh, phục vụ tuyên truyền đối ngoại của Đảng, Nhà nước và địa phương.

Bên cạnh đó, các sản phẩm thông tin của Ban được các báo đối ngoại, các trang web trong nước trích dẫn, sử dụng rộng rãi. Đặc biệt, tin văn bản và tin truyền hình chuyên ngữ của Ban

BTTĐN đang được trao đổi với hơn 40 cơ quan thông tấn báo chí quốc tế và khu vực như mạng NNN của Phong trào Không liên kết, mạng Tổ chức các hãng thông tấn châu Á-Thái Bình Dương (OANA), Acquire Media (Mỹ), Hãng Thông tấn Quốc gia Thái Lan NNT, Cục Quan hệ Công chúng Thái Lan (PRD), kênh truyền hình CNC của Tân Hoa Xã (Trung Quốc), các hãng thông tấn Prensa Latina (Cuba), Notimex (Mexico), APS (Algeria)…

Ban BTTĐN còn hợp tác với Hãng thông tấn Prensa Latina trong việc trao đổi chuyên gia và đào tạo. Trong khi đó, Notimex và Đảng Lao động (PT) của Mexico hiện cung cấp học bổng báo chí cho các PV, BTV trẻ của Ban.

Câu hỏi 3. Anh đánh giá như thế nào về công tác quản lý thông tin tại ban biên

tập tin đối ngoại thời gian qua?

Việc chỉ đạo thông tinlà những hoạt động được thực hiện nhằm đảm bảo các sản phẩm thông tin được sản xuất theo đúng định hướng về mặt nội dung, hình thức chuyển tải và thời gian xuất bản.

Công tác TTĐN, trong đó có thông tin bằng tiếng nước ngoài, được thực hiện trên cơ sở các văn bản, chỉ thị của Đảng, cũng như các văn bản pháp quy của Nhà nước liên quan đến việc quản lý và thực hiện công tác TTĐN.

Hoạt động chỉ đạo sản xuất thông tin tại Ban BTTĐN còn tuân thủ theo Nghị định số 88/2013/NĐ-CP ngày 1/8/2013 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của TTXVN; Quyết định số 40/QĐ-TTX ngày 16/1/2014 về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ban BTTĐN của Tổng Giám đốc TTXVN; và Quy chế công tác của Ban BTTĐN do Tổng Giám đốc TTXVN ban hành ngày 21/5/2014 kèm theo Quyết định số 620-QĐ/TTX của Tổng giám đốc TTXVN. Ban lãnh đạo TTXVN cũng phân công một Phó Tổng giám đốc trực tiếp chỉ đạo công tác TTĐN trong toàn ngành.

Theo Quy chế công tác của Ban BTTĐN do Tổng Giám đốc TTXVN ban hành, Ban phụ trách Ban BTTĐN thực hiện việc chỉ đạo, điều hành công việc theo chế độ Thủ trưởng, đảm bảo nguyên tắc tập trung, dân chủ. Trưởng ban chịu trách nhiệm trước Tổng Giám đốc về toàn bộ hoạt động của Ban.

Hiện hầu hết hoạt động chỉ đạo thông tin được thực hiện thông qua các cuộc giao ban trong đơn vị. Đây là cơ chế chỉ đạo mang tính xương sống, xuyên suốt nhằm chỉ đạo và truyền đạt chỉ đạo thông tin từ cấp trên, tiếp nhận ý kiến đề xuất từ cấp dưới để tham mưu cho lãnh đạo.

Chế độ giao ban trong đơn vị bao gồm giao ban thông tin hàng ngày, giao ban công tác hàng tuần và các cuộc giao ban đột xuất khi nảy sinh vấn đề cần được giải quyết kịp thời để giữ đúng định hướng thông tin, ý đồ tuyên truyền. Các cuộc giao ban hàng ngày diễn ra vào 8h00 sáng với thời gian không quá 15 phút, gồm Ban phụ trách, các Trợ lý Trưởng Ban, các Trưởng và Phó Trưởng phòng hoặc Trưởng ca. Nội dung là trao đổi thông tin đầu giờ, dự kiến

công việc thực hiện trong ngày và thống nhất ý kiến về những thông tin quan trọng. Đại diện các Phòng có trách nhiệm báo cáo kết quả thực hiện thông tin của ngày hôm trước, nắm bắt và truyền đạt chỉ đạo đầu giờ tới các BTV.

Khác với giao ban hàng ngày, giao ban vào thứ Hai hàng tuần gồm toàn thể cán bộ, PV, BTV nhằm phổ biến các chỉ đạo của Ban lãnh đạo cơ quan; trao đổi, rút kinh nghiệm công tác tuần trước; tổ chức triển khai thông tin trong tuần, công tác xây dựng Đảng, xây dựng đơn vị và các sự vụ khác.

Giao ban đột xuất có thành phần và thời gian do Trưởng ban quyết định, tùy thuộc vào nội dung, tính chất của sự việc. Ví dụ, ngay sau khi có thông tin Chính phủ công bố nguyên nhân gây cá chết hàng loạt ở miền Trung vào chiều 30/6/2016, Ban phụ trách đã triệu tập họp đột xuất với các Trưởng phòng để truyền đạt ý kiến chỉ đạo của cấp trên, phân tích năng lực, khả năng thông tin của các Phòng trong bối cảnh sự việc diễn ra vào cuối giờ hành chính và chỉ đạo công tác thông tin của từng loại hình văn bản và truyền hình. Giao ban đột xuất được tiến hành nhằm chuyển tải kịp thời những chỉ đạo thông tin trước những diễn biến mau lẹ, như trong thời gian 75 ngày Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ở Biển Đông vào năm 2014.

Sau giao ban đầu giờ sáng, 01 cán bộ đại diện cho đơn vị tham gia giao ban cấp ngành, báo cáo công tác của Ban, xin ý kiến về những vấn đề thông tin nhạy cảm và tiếp nhận chỉ đạo chuyển tới các Phòng biên tập.

Nhìn chung, công tác chỉ đạo cơ bản đáp ứng được yêu cầu, giúp định hướng hoạt động sản xuất thông tin hàng ngày hoặc theo chuyên đề của Ban BTTĐN. Tuy nhiên, cơ chế này đang bộc lộ một số hạn chế cần được khắc phục trong thời gian tới như còn lúng túng khi xử lý các chỉ đạo thông tin chồng chéo giữa các cấp lãnh đạo; hoặc bị động khi phát sinh những vấn đề nhạy cảm vượt quá thẩm quyền xử lý của Ban Phụ trách.

Câu hỏi 4. Anh đánh giá như thế nào về công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ người làm báo ở các cơ quan báo chí đối ngoại hiện nay?

Lực lượng tham gia công tác TTĐN bằng tiếng nước ngoài ở TTXVN vào hàng mạnh nhất nước nhưng vẫn còn một số hạn chế nhất định. Số lượng BTV, biên dịch viên còn mỏng do phân tán ở nhiều đơn vị. Nhân lực của Ban BTTĐN – đơn vị chủ lực trong TTĐN bằng tiếng nước ngoài ở Việt Nam – hiện chỉ gồm 67 người. Do thường xuyên có nhiều cán bộ, BTV nghỉ chế độ thai sản, đi luân chuyển hoặc đi học nghiệp vụ và chính trị, số người "thực chiến" còn khoảng 50 người, phân bố tại 5 Phòng. Với sản lượng hơn 180 đầu tin mỗi ngày (kể cả tin văn bản, tin đồ họa và tin ảnh) cùng 04 bản tin truyền hình với tổng thời lượng 245 phút/tuần, cỗ máy Ban BTTĐN đang hoạt động với công suất cao, có dấu hiệu bị quá tải ở một vài nhánh. Bên cạnh đó, 2/3 số BTV trong Ban còn non cả về tuổi đời lẫn tuổi nghề, một số hiệu đính của Ban còn ít kinh nghiệm trong khi chuyên gia nước

ngoài lại thiếu hụt. Những tồn tại này ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng của các sản phẩm thông tin.

Vì vậy, để khắc phục tình trạng này, qua đầu mối là Trung tâm Bồi dưỡng nghiệp vụ Thông tấn, TTXVN đã thường xuyên tổ chức các khóa học nghiệp vụ về mọi loại hình thông tin như báo in, báo điện tử, ảnh báo chí, truyền hình, cũng như các khóa bồi dưỡng về công tác PV, biên tập và kỹ năng viết tin bài phản bác, phản biện.

Câu hỏi 5. Thưa anh,"Quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2020, định

hướng đến năm 2030"đã đang được triển khai như thế nào?

Ngày 13/12/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 2434/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Quy hoạch đặt mục tiêu phát triển 01 báo điện tử đối ngoại và một số tờ báo in, tạp chí đối ngoại chuyên biệt, chủ lực, có tầm cỡ khu vực và thế giới. Đặc biệt, ngoài việc được xác định là cơ quan báo chí đối ngoại chủ lực quốc gia, TTXVN được giao nhiệm vụ đề xuất phát triển các báo, tạp chí in và báo điện tử nói trên, cũng như hỗ trợ các đơn vị khác để làm lực lượng bổ sung.

Để triển khai nhanh chóng và có hiệu quả Quy hoạch, chúng tôi đề xuất Đảng và Nhà nước quan tâm xây dựng, hoàn thiện các cơ chế, chính sách, cũng như tập trung đầu tư nguồn lực thích đáng để tạo điều kiện cho TTXVN thực hiện sứ mạng cao cả nói trên, làm nòng cốt cho lực lượng báo chí đối ngoại quốc gia, đồng thời phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.

PHỤ LỤC 6 PHỎNG VẤN SÂU LÃNH ĐẠO BAN ĐỐI NGOẠI VOV5, ĐÀI TIẾNG NÓI VIỆT NAM (N1)

Câu hỏi 1.:Ông (bà) đánh giá như thế nào về công tác quản lý nhà nước về báo

chí đối ngoại ở nước ta thời gian qua?

Công tác quản lý nhà nước về báo chí đối ngoại ở Việt Nam thời gian qua tương đối tốt. Hệ thống báo chí đối ngoại được tổ chức trong hệ thống báo chí Việt Nam, hoạt động theo Luật báo chí và các Luật khác trong hệ thống luật pháp của VN. Đơn vị chủ quản là Bộ thông tin và Truyền thông cũng có đầy đủ bộ máy quản lý hoạt động của các đơn vị báo chí đối ngoại.

Câu hỏi 2:Công tác quy hoạch, sắp xếp hệ thống các cơ quan báo chí đối ngoại? Công tác quy hoạch, sắp xếp hệ thống các cơ quan báo chí đối ngoại cũng được các cấp liên quan quan tâm đúng mực. Tuy nhiên, việc quy hoạch đúng và đủ thì cũng cần phải bàn. Hiện đã có tờ báo điện tử đối ngoại là Vietnamplus, kênh truyền hình đối ngoại là vtv4, trong khi phát thanh với hiệu quả rộng rãi là 13 chương trình phát thanh đối ngoại có bề dày lịch sử 74 năm hoạt động và trang thông tin điện tử 13 thứ ngữ của VOV5 chưa trở thành Đài phát thanh đối ngoại và báo điện tử đối ngoại lớn nhất ở Việt Nam. Việc quy hoạch đúng và đủ không chỉ tạo điều kiện để các cơ quan báo chí đối ngoại hoạt động, phát triển mà còn tạo mạng lưới thông tin đối ngoại rộng khắp và đầy đủ cho Việt Nam.

Câu hỏi 3: Công tác phối hợp giữa các cơ quan báo chí đối ngoại với nhau trong

việc thực hiện nhiệm vụ được giao?

Các cơ quan báo chí đối ngoại có sự hợp tác trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao

Câu hỏi 4: Ông (bà) đánh giá như thế nào về công tác xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật về báo chí đối ngoại thời gian qua? (Việc thi hành pháp luật về báo chí đối ngoại, Công tác tuyên truyền, tập huấn cho cán bộ quản lý các cơ quan báo chí đối ngoại về các văn bản luật pháp)

Công tác xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật về báo chí đối ngoại được các cơ quan hữu quan chú trọng, có sự phối hợp nghiên cứu, hợp tác giữa các ban ngành, đoàn thể và lấy ý kiến đóng góp của các cơ quan báo chí đối ngoại.

Câu hỏi 5. Ông (bà) đánh giá như thế nào về công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ người làm báo ở các cơ quan báo chí đối ngoại hiện nay?

Gần đây mới có nhiều trường đào tạo về công tác thông tin đối ngoại. Chưa có nhiều giáo trình chuyên biệt về công tác thông tin đối ngoại. Việc đào tạo trong trường chỉ là trang bị kiến thức nền, những người làm báo đối ngoại phải tự trang bị hoặc nâng cao trình độ nghiệp vụ trong quá trình làm việc.

Câu hỏi 6. Ông (bà) đánh giá như thế nào về công tác thông tin, báo cáo, thống kê trong hoạt động báo chí đối ngoại? (Cơ quan báo chí đối ngoại đã thực hiện tốt việc báo cáo định kỳ hàng tháng, hàng quý dưới các hình thức khác nhau)

Đài TNVN thực hiện đầy đủ công tác thông tin, báo cáo, thống kê về hoạt động cho các cơ quan chủ quản là Bộ Thông tin Truyền thông, Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban đối ngoại Trung ương.

Câu hỏi 7: Việc thành lập các cơ quan thường trú, văn phòng đại diện báo chí đối ngoại ở nước ngoài của Đài Tiếng Nói Việt Nam (hợp tác quốc tế, quản lý phóng viên thường trú, quản lý sản xuất nội dung được thực hiện như thế nào?)

Hiện Đài TNVN đã có 12 cơ quan thường trú tại nước ngoài. Phóng viên thường trú hoạt động như một phóng viên địa bàn của Đài. Phóng viên trao đổi công việc trực tiếp với Lãnh đạo Đài tùy theo tính chất công việc. Việc sản xuất nội dung là theo sự chỉ đạo của Lãnh đạo Đài, theo đặt hàng của các đơn vị trong Đài và một phần ở sự chủ động của các phóng viên thường trú.

PHỤ LỤC 7 QUYẾT ĐỊNH KHEN THƯỞNG