BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN VĂN MINH
PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
CHO CHÍNH QUYỀN PHƯỜNG TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Hà Nội, 2021
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN VĂN MINH
PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
CHO CHÍNH QUYỀN PHƯỜNG TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 9 34 04 03
LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ CÔNG
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. Nguyễn Hữu Hải 2. PGS.TS. Hoàng Mai
Hà Nội, 2021
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận án là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu được sử dụng trong Luận án là trung thực, các tài liệu
tham khảo, trích dẫn có xuất xứ rõ ràng.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu của tôi.
Hà Nội, ngày tháng 01 năm 2021
Tác giả
3
Nguyễn Văn Minh
CHỮ VIẾT TẮT
ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN
CCHC Cải cách hành chính
CP Chính phủ
CQĐP Chính quyền địa phương
CHXHCNVN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
CQĐT Chính quyền đô thị
CQP Chính quyền phường
HĐND Hội đồng nhân dân
NĐ Nghị định
NQ Nghị quyết
Nxb Nhà xuất bản
TP Thành phố
TTg Thủ tướng
QLNN Quản lý nhà nước
UBND Ủy ban nhân dân
UBTVQH Ủy ban Thường vụ Quốc Hội
UBMTTQVN Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
4
XHCN Xã hội chủ nghĩa
MỤC LỤC
1 13
MỞ ĐẦU Chương 1.TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ở nước ngoài 1.2. Tổng quan các công trình nghiên cứu ở trong nước 1.3. Đánh giá các công trình nghiên cứu và các nội dung cần tiếp tục 13 16 25
31
nghiên cứu của luận án Chương 2. CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CHO CHÍNH QUYỀN PHƯỜNG
2.1. Khái niệm, sự cần thiết phân cấp trong quản lý nhà nước 31
47
2.2. Nội dung, hình thức, phương pháp, nguyên tắc và điều kiện đảm bảo thực hiện phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền phường
2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến phân cấp cho chính quyền phường 2.4. Phân cấp quản lý nhà nước giữa chính quyền thành phố và chính 55 64
75
quyền cơ sở của một số quốc gia trên thế giới, bài học kinh nghiệm Chương 3. THỰC TRẠNG PHÂN CẤP CHO CHÍNH QUYỀN PHƯỜNG TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Thực trạng tổ chức, hoạt động của chính quyền phường tại Thành phố 75
Hà Nội
3.2. Thực trạng phân cấp cho chính quyền phường tại Thành phố Hà Nội 81
hiện nay
3.3. Đánh giá việc thực hiện phân cấp cho chính quyền phường tại Hà Nội 113
125
và nguyên nhân ưu điểm, hạn chế. Chương 4. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CHO CHÍNH QUYỀN PHƯỜNG TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI
4.1. Quan điểm phân cấp phù hợp về quản lý nhà nước giữa Thành phố, 125
chính quyền quận cho chính quyền phường ở Hà Nội
4.2. Giải pháp về phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền phường tại 132
Hà Nội
4.3. Các điều kiện đảm bảo thực hiện phân cấp quản lý nhà nước cho chính 145
5
quyền phường tại Thành phố Hà Nội KẾT LUẬN DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Phụ lục: PHIẾU ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC 154 156 157 167
DANH MỤC CÁC BẢNG
Tên bảng Trang
80 Số hiệu bảng 3.1
80 3.2
92 3.3
112 3.4
Số lượng và cơ cấu số lượng cơ cấu, chất lượng, trình độ đào tạo cán bộ phường của Thành phố Hà Nội Số lượng và cơ cấu chất lượng, trình độ đào tạo công chức phường của Thành phố Hà Nội Nhiệm vụ được giao của UBND phường thông qua văn bản hành chính của UBND quận Thể hiện các giải pháp đề xuất để thực hiện tốt nhiệm vụ phân cấp từ chính quyền cấp trên
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Tên biểu đồ Trang Số hiệu
biểu đồ
104 3.1
105 3.2
106 3.3
113 3.4
6
Thể hiện sự cần thiết về phân cấp thực hiện nhiệm vụ giữa TP Hà Nội và chính quyền phường ở Hà Nội Thể hiện sự hiểu biết của đối tượng được hỏi về chủ trương phân cấp giữa các cấp chính quyền địa phương Thể hiện nguyên nhân khó khăn khi thực hiện phân cấp giữa chính quyền TP Hà Nội cho chính quyền phường Thể hiện các giải pháp khi thực hiện phân cấp giữa chính quyền TP Hà Nội cho chính quyền phường
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự phát triển của nền hành chính tiên tiến hiện đại đặt ra nhiều yêu cầu
mới, trong đó có yêu cầu về phân cấp quản lý nhà nước giữa các cấp chính
quyền nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của mỗi cấp, góp phần nâng cao hiệu lực, quả hoạt động của nền hành
chính, nâng cao năng lực điều hành phát triển kinh tế - xã hội theo ngành và địa
phương.
Đối với mỗi quốc gia, không phân biệt hình thức cấu trúc nhà nước là
đơn nhất hay liên bang, đều xác định việc phân cấp quản lý nhà nước giữa các
cấp chính quyền là việc cần thiết. Phân cấp quản lý nhà nước thể hiện cơ quan
nhà nước cấp trên chuyển giao những nhiệm vụ cho cấp dưới thực hiện một
cách thường xuyên, liên tục thông qua sử dụng phương tiện là văn bản quy
phạm pháp luật quy định hoặc chuyển cho cấp dưới thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn bằng các quyết định.
Trong nhiều năm qua, Đảng ta luôn đã nhấn mạnh vai trò và tầm quan
trọng của cải cách hành chính, trong đó có đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà
nước. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X (2006) đề ra chính sách và giải pháp về
cơ cấu lại bộ máy Chính phủ theo hướng: “Giảm các đầu mối, phù hợp yêu cầu
đổi mới chức năng, nhiệm vụ…..phân cấp mạnh cho cấp dưới gắn với hướng
dẫn và thực hiện thanh tra, kiểm tra của cấp trên”[14, tr.254].
Nghị quyết số 17-NQ-TW ngày 01/8/2007 về đẩy mạnh cải cách hành
chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lí của bộ máy nhà nước, đề ra quan
điểm: “xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, phân định rõ trách nhiệm giữa các cơ
quan, giữa các cấp chính quyền, giữa chính quyền đô thị và chính quyền nông
thôn, giữa tập thể và người đứng đầu cơ quan hành chính”[2,tr.2].
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI (2011) đề ra nhiệm vụ, giải pháp chủ
7
yếu: “Thực hiện phân cấp hợp lý cho chính quyền địa phương đi đôi với nâng
cao chất lượng quy hoạch và tăng cường thanh tra, kiểm tra giám sát của trung
ương, gắn quyền hạn với trách nhiệm được giao” [15,tr.250], đồng thời yêu cầu
“Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban
nhân dân (UBND) các cấp, đảm bảo quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong
việc quyết định và tổ chức thực hiện những chính sách trong phạm vi được phân
cấp” [15,tr.251].
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII (2016) tiếp tục đề ra nhiệm vụ, giải
pháp: “Hoàn thiện cơ chế phân cấp, bảo đảm tính thống nhất, thông suốt trong
lãnh đạo, quản lý, điều hành từ trung ương đến cơ sở…Phân định rõ quyền hạn
và trách nhiệm trong quản lý kinh tế, xã hội giữa trung ương và địa phương,
bảo đảm sự tập trung thống nhất quản lý của trung ương và phát huy tính chủ
động, tự chịu trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương. Hoàn thiện cơ
chế phân cấp đầu tư, ngân sách, bảo đảm quản lý thống nhất về quy hoạch phát
triển và cân đối nguồn lực” [16, Tr.310,311].
Hiến pháp năm 2013 quy định tại Điều 112: “Nhiệm vụ, quyền hạn của
chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa
các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền
địa phương”.Theo đó, các quy định pháp luật hiện hành đã cụ thể hóa các quy
định của Hiến pháp về phân cấp quản lý giữa chính phủ với chính quyền cấp
dưới và giữa chính quyền các cấp với nhau. Việc phân quyền cho mỗi cấp chính
quyền địa phương phải được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật của
cơ quan nhà nước phân cấp. Theo đó, Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị quyết
về đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và chính quyền tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương.
Vấn đề phân cấp và phân cấp quản lý nhà nước đã được quy định tại
Luật, các Nghị quyết của Chính phủ, song trên thực tế thực hiện hiện nay vẫn
còn nhiều bất cập, hạn chế. Nhất là việc chính quyền các cấp còn lúng túng,
8
chưa có các giải pháp hữu hiệu, phù hợp thực tiễn khi triển khai thực hiện nhiệm
vụ phân cấp, dẫn đến kém hiệu quả trong quản lý nhà nước. Đối với phân cấp
quản lý nhà nước giữa chính quyền thành phố và chính quyền phường tại Thành
phố Hà Nội cũng đang đặt ra nhiều vấn đề cần nghiên cứu để có giải pháp tốt
đáp ứng yều cầu nhiệm vụ được giao, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, xây
dựng chính quyền phục vụ, vì lợi ích của người dân ở địa bàn đô thị. Nhất là
trong giai đoạn hiện nay, Thành phố Hà Nội chuẩn bị mọi nguồn lực để thực
hiện việc thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị bắt đầu từ ngày
01/7/2021.
Theo Nghị quyết số 97/2019/QH14 ngày 27/11/2019 của Quốc hội, chính
quyền địa phương ở các phường thuộc quận, thị xã tại Thành phố Hà Nội là Ủy
ban nhân dân phường nên việc phân cấp cho chính quyền phường tại Thành
phố Hà Nội đang đặt ra nhiều nội dung cần nghiên cứu, đề xuất để phù hợp
hoàn cảnh mới của Thủ đô. Theo đó, tính cấp thiết của vấn để được thể hiện
như sau:
Thứ nhất, việc thể chế hóa các quy định của Đảng được thực hiện nghiêm
túc và là căn cứ pháp lý để thực hiện phân cấp. Song trên thực tế, các quy định
cụ thể, chi tiết để triển khai trên thực tế chưa thực sự đầy đủ. Còn nhiều lỗ hổng
trong các quy định của pháp luật về phân cấp, nhất là phân cấp giữa chính quyền
thành phố và chính quyền phường, dẫn đến hiệu quả thấp trong quản lý nhà
nước ở các cấp chính quyền. Kéo theo hệ quả là khi thực hiện nhiệm vụ, chính
quyền cấp dưới chưa thể hiện được tính chủ động, sáng tạo, phát huy ưu điểm,
thế mạnh, còn phụ thuộc và bị chi phối bởi chính quyền cấp trên.
Thứ hai, xuất phát từ yêu cầu nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước từ
trung ương đến địa phương, trong đó có yêu cầu về nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước ở phường.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước là một trong những mục
tiêu của đổi mới, cải cách hành chính và Chính phủ trong những năm gần đây
9
đã có nhiều giải pháp tích cực, cụ thể để thực hiện mục tiêu này. Cụ thể là tăng
cường các giải pháp về đổi mới, sắp xếp lại tổ chức bộ máy; chú trọng phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao, trong đó có giải pháp về tăng cường phân
cấp rõ hơn về nhiệm vụ, thẩm quyền từ chính quyền cấp trên cho chính quyền
địa phương trên nhiều lĩnh vực như tài chính, ngân sách, xây dựng, đất đai, tài
nguyên, y tế, văn hóa, giáo dục…Đối với chính quyền địa phương ở tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương cũng đã có các giải pháp tích cực để thực hiện phân
cấp cho chính quyền cấp huyện, cấp xã để giải quyết các công việc, yêu cầu
của người dân được nhanh chóng, thuận lợi. Tuy nhiên, quản lý nhà nước trên
các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội chưa đạt hiệu quả cao, nhất là ở chính
quyền phường. Thể hiện ở mức thấp về tính chuyên nghiệp thấp khi giải quyết
nhu cầu của người dân. Văn hóa ứng xử, thái độ phục vụ của đội ngũ công chức
nhà nước chưa đảm bảo sự hài lòng của người dân. Khi công chức tiến hành xử
lý các tình huống cấp bách chưa nhanh nhạy, nhiều trường hợp cần sự can thiệp
trực tiếp của chính quyền cấp trên.
Một phần nguyên nhân là do chức năng, nhiệm vụ của chính quyền
phường bị trùng lắp với chức năng, nhiệm vụ của chính quyền quận. Các căn
cứ làm cơ sở pháp lý chưa đầy đủ để thực hiện phân cấp, bên cạnh đó năng lực
quản lý nhà nước của chính quyền phường chưa đồng đều, một số nơi chưa đủ
cơ sở vật chất, điều kiện để thực hiện phân cấp.
Thứ ba, do yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và đẩy mạnh cải cách hành
chính của đất nước, cần chú trọng giải quyết mạnh mẽ, tích cực vấn đề phân
cấp quản lý nhà nước giữa chính quyền trung ương với chính quyền địa phương
và giữa các cấp chính quyền địa phương với nhau.
Vấn đề phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền phường cần được
làm rõ về phương pháp, cách thức tiến hành, nội dung tiến hành phân cấp, cách
thức phân cấp và biện pháp để kiểm tra, giám sát, đánh giá hiệu quả phân cấp.
Đây cũng là yêu cầu cấp thiết trong việc minh bạch hóa hoạt động của các cấp
10
chính quyền, thể hiện trách nhiệm của từng cá nhân, tổ chức trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ. Đối với chính quyền phường, là cấp thấp nhất trong tổ chức
chính quyền địa phương ở đô thị, vấn đề phân cấp càng cần được minh bạch,
rõ ràng, cụ thể hơn, đáp ứng lâu dài yêu cầu phát triển kinh tế xã hội ở phường,
đồng thời đáp ứng yêu cầu của người dân thuộc trình độ nhận thức cao ở đô thị.
Thứ tư, xuất phát từ chính vai trò, vị trí của chính quyền phường là cấp
thấp nhất trong hệ thống chính quyền quản lý nhà nước ở đô thị. Hiệu quả hoạt
động của cấp chính quyền này có tác động trực tiếp đến đời sống của cư dân đô
thị, đây cũng là cấp có điều kiện tốt để thực hiện các nhiệm vụ do chính quyền
cấp trên chuyển giao.
Phường là một loại đơn vị hành chính ở địa bàn đô thị. Chính quyền ở
đô thị, phường là đơn vị thấp nhất, gần dân nhất, thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ quản lý nhà nước trên các mặt của đời sống xã hội, có tác động trực
tiếp đến người dân trên địa bàn phường. Cơ cấu tổ chức của chính quyền địa
phương ở phường theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương hiện hành gồm
HĐND phường và UBND phường. Tuy nhiên, trong tương lai, với xu hướng
thực hiện Nghị quyết số 97/2019/QH14 ngày 27/11/2019 của Quốc hội về thí
điểm mô hình chính quyền đô thị tại thành phố Hà Nội, thì “chính quyền địa
phương ở các phường thuộc quận, thị xã tại Thành phố Hà Nội là Ủy ban nhân
dân phường” và “Ủy ban nhân dân phường là cơ quan hành chính nhà nước ở
phường, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Nghị quyết và theo
phân cấp, ủy quyền của Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố
Hà Nội, Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận, thị xã”.
Hiện nay, ở Thành phố Hà Nội, phường thực hiện các chức năng, nhiệm
vụ mang đặc thù ở đô thị, có tính tập trung cao, dân cư đông đúc, nhiều mối
quan hệ đan xen và chính quyền phường luôn luôn phải xử lý nhiều công việc
với cường độ lớn, mức độ phức tạp ngày càng cao. Khi thực hiện nhiệm vụ, cần
có tính chủ động lớn, phản ứng nhanh nhạy mới đáp ứng được yêu cầu của
11
người dân sinh sống tại đô thị. Do đó, để nâng cao hiệu quả hoạt động của chính
quyền phường ở Thành phố Hà Nội, cần tăng cường các giải pháp quan trọng,
để chính quyền phường chủ động trong thực hiện nhiệm vụ, nhất là vấn đề về
phân cấp quản lý nhà nước từ chính quyền cấp trên, bao gồm chính quyền thành
phố và chính quyền quận cho chính quyền phường.
Thứ năm, phân cấp quản lý nhà nước giữa chính quyền cấp trên cho chính
quyền cấp dưới phù hợp xu thế của thế giới trong xây dựng, phát triển, tổ chức
nền hành chính nhà nước hiện nay. Nhiều quốc gia xây dựng Luật về phân
quyền, phân cấp và thực hiện có hiệu quả nguyên tắc: chính quyền cấp trên thực
hiện phân cấp các nhiệm vụ có thể phân cấp được cho chính quyền cấp dưới
nhằm phát huy sự chủ động, sáng tạo của chính quyền cấp dưới trong xử lý
công việc, đáp ứng yêu cầu của người dân tại chỗ. Việt Nam đang trên đà đổi
mới, cải cách hành chính mạnh mẽ bước đầu đã có những thành công nhất định
và phân cấp, phân quyền từ chính quyền cấp trên cho chính quyền cấp dưới là
xu thế tất yếu.
Khi thực hiện nhiệm vụ được phân cấp, chính quyền sẽ có sự phản hồi
về phù hợp, hoặc không phù hợp về chính sách, pháp luật, từ đó chính quyền
cấp trên có căn cứ để tiếp tục điều chỉnh tương ứng với thực tiễn.
Do vậy, vấn đề:“Phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền phường
tại Thành phố Hà Nội” được nghiên cứu với mục đích là trên cơ sở phân tích
những vấn đề lý luận về phân cấp, phân cấp quản lý nhà nước, thực tiễn phân
cấp quản lý nhà nước đối với chính quyền phường ở Thành phố Hà Nội, để đề
xuất các giải pháp nhằm phân cấp phù hợp về quản lý nhà nước đối với chính
quyền phường tại Thành phố Hà Nội trong bối cảnh thực hiện thí điểm tổ chức
mô hình chính quyền đô thị, đồng thời đáp ứng yêu cầu người dân ngày càng
cao về hiệu quả hoạt động quản lý của nhà nước ở địa phương.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
12
2.1. Mục đích nghiên cứu
Xây dựng cơ sở khoa học và đề xuất các giải pháp để thực hiện việc phân
cấp quản lý nhà nước phù hợp cho chính quyền phường, thực hiện chức năng,
nhiệm vụ được tốt hơn trong điều kiện thực hiện thí điểm tổ chức mô hình chính
quyền đô thị tại Thành phố Hà Nội.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu, luận án có các nhiệm vụ sau:
Một là, tìm hiểu tổng quan về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài,
đánh giá kết quả nghiên cứu của các công trình và xác định những vấn đề cần
tiếp tục nghiên cứu.
Hai là, làm rõ những vấn đề lý luận về chính quyền phường, về phân cấp
quản lý nhà nước cho chính quyền phường là tất yếu; nội dung, hình thức,
phương pháp phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền phường, các yếu tố
tác động đến phân cấp đồng thời tham khảo kinh nghiệm một số nước trên thế
giới về thực hiện phân cấp, rút ra những bài học có thể áp dụng cho Việt Nam
Ba là, khảo sát, đánh giá hệ thống thể chế chính trị, pháp lý về phân cấp
quản lý cho chính quyền phường, đánh giá việc thực hiện trên thực tế những
nội dung phân cấp qua thực tiễn và qua điều tra xã hội học.
Bốn là, đề xuất quan điểm, giải pháp để thực hiện phân cấp quản lý nhà
nước cho chính quyền phường tại Thành phố Hà Nội trong điều kiện hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu về phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền
phường tại Thành phố Hà Nội
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về thời gian: Vấn đề phân cấp quản lý nhà nước giữa chính
quyền Thành phố, chính quyền quận của Hà Nội cho chính quyền phường tại
Thành phố Hà Nội từ năm 2015 đến nay, nghĩa là từ khi có Luật tổ chức CQĐP
13
năm 2015 quy định về vấn đề phân cấp tại Luật.
Phạm vi về không gian: Khi thực hiện điều tra xã hội học để thực hiện
Luận án (năm 2019), phạm vi về không gian được xác định là chính quyền
phường tại Hà Nội, bao gồm: 177 phường thuộc 12 quận, trong đó có cả Thị xã
Sơn Tây và các phường của Thị xã Sơn Tây. Đến thời điểm tháng 02/2020,
Nghị quyết số 895/NQ-UBTVQH14 ngày 11/02/2020 về sắp xếp các đơn vị
hành chính cấp xã thuộc thành phố Hà Nội, số lượng phường của Thành phố
Hà Nội giảm còn 175 phường.
Đến thời điểm năm 2020, với xu hướng thực hiện thí điểm mô hình tổ
chức chính quyền đô thị tại thành phố Hà Nội theo Nghị quyết số
97/2019/QH14 của Quốc hội, thì chính quyền địa phương ở các phường thuộc
quận, thị xã tại Thành phố Hà Nội là Ủy ban nhân dân phường.
Phạm vi về nội dung: Luận án làm rõ về các nội dung được đề xuất để
phân cấp; Về phương thức thực hiện phân cấp được quy định tại các văn bản
quy phạm pháp luật của chính quyền Thành phố Hà Nội cho chính quyền cấp
dưới và điều kiện đảm bảo trên thực tế để thực hiện phân cấp.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp luận
Để giải quyết những nhiệm vụ đặt ra, luận án sử dụng phương phápluận
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin để nghiên cứu
đối tượng trong quá trình phân cấp đối với chính quyền phường.
Các nội dung nghiên cứu được luận giải theo quan điểm hệ thống nhằm
đảm bảo tính kết nối, logic trong phân tích các chế định pháp luật và quan điểm
lịch sử cụ thể để đảm bảo tính khách quan, hợp lý khi đề xuất các giải pháp.
Đồng thời, luận án cũng sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng để luận
giải về yêu cầu thực hiện phân cấp, tăng cường phân cấp giữa chính quyền cấp
trên và chính quyền cấp dưới, trong đó có phân cấp giữa chính quyền thành phố
Hà Nội đối với chính quyền phường.
14
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Một số phương pháp nghiên cứu được sử dụng cụ thể như:
Phương pháp so sánh được sử dụng để xem xét mối tương quan và quá
trình hoàn thiện hệ thống quy định pháp luật về phân cấp quản lý nhà nước đối
với chính quyền phường ở Hà Nội qua các giai đoạn phát triển, đồng thời so
sánh Việt Nam với một số quốc gia trên thế giới về thực hiện phân cấp. Phương
pháp trên được sử dụng chủ yếu tại Chương 1, Chương 2 của Luận án.
Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, được sử dụng để tập hợp các
dữ liệu, số liệu sơ cấp, thứ cấp. Trên cơ sở đó phân tích, đánh giá sự phù hợp
trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của
Nhà nước về phân cấp, tìm ra những nhân tố ảnh hưởng đến phân cấp đối với
chính quyền phường ở Hà Nội, đánh giá thực trạng quy định phân cấp của
Thành phố Hà Nội đối với chính quyền cơ sở và thực trạng thực hiện phân cấp
của chính quyền phường ở Hà Nội. Phương pháp trên được sử dụng chủ yếu tại
Chương 1, Chương 2 và Chương 4 của Luận án.
Phương pháp hệ thống được sử dụng để phân tích tổ chức và hoạt động
của chính quyền phường và phân cấp cho chính quyền phường tại Hà Nội trong
mối quan hệ với tổng thể hệ thống chính quyền từ trung ương tới địa phương
nước ta hiện nay.
Phương pháp điều tra xã hội học được áp dụng để điều tra, khảo sát thực
trạng thực hiện phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền phường tại các
phường ở Thành phố Hà Nội. Qua điều tra, khảo sát, Luận án thu được các số
liệu sơ cấp, làm căn cứ đánh giá thực trạng thực hiện phân cấp quản lý nhà nước
cho chính quyền phường, có cơ sở để đề xuất giải pháp nhằm đề xuất những
nội dung phân cấp quản lý nhà nước hợp lý đối với chính quyền phường ở Hà
Nội. Phương pháp trên được sử dụng chủ yếu tại Chương 3 của Luận án, với
250 phiếu điều tra xã hội học, được thực hiện ở thời điểm năm 2019, với 50/177
phường thuộc 12 quận, trong đó có cả Thị xã Sơn Tây và các phường của Thị
15
xã Sơn Tây.
Quá trình điều tra có 01 mẫu phiếu được phát ra cho đối tượng là cán bộ,
công chức và một số cá nhân làm công tác Mặt trận, Hội phụ nữ, Đoàn thanh
niên, Cựu chiến binh tại các phường thuộc 12 quận của Thành phố Hà Nội. Số
phiếu thu về được xử lý, làm sạch và tiến hành phân tích theo yêu cầu về thực
trạng thực hiện phân cấp tại Thành phố Hà Nội. Các phương án trả lời được thu
thập, phân tích và nhất là các kiến nghị, đề xuất của các phiếu điều tra xã hội
học được tổng hợp tối đa.
5. Giả thuyết khoa học và Câu hỏi nghiên cứu
5.1. Giả thuyết khoa học của luận án
Phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền phường một cách khoa học,
phù hợp thực tiễn, sẽ mang lại hiệu quả hoạt động và thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của chính quyền phường tại Thành phố Hà Nội tốt hơn trong điều
kiện tổ chức mô hình chính quyền đô thị.
5.2. Câu hỏi nghiên cứu của luận án
Tại sao phải thực hiện phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền
phường?
Yếu tố tác động đến phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền phường?
Kinh nghiệm quốc tế về vấn đề phân cấp?
Phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền phường ở Hà Nội hiện nay
đang được thực hiện như thế nào?
Khi thực hiện phân cấp cho chính quyền phường, sẽ ảnh hưởng như thế
nào đến hiệu lực, hiệu quả hoạt động chính quyền Thành phố Hà Nội?
Để phân cấp phù hợp về quản lý nhà nước cho chính quyền phường ở Hà
Nội cần có các giải pháp nào?
Các phương thức thực hiện phân cấp hiệu quả? Các điều kiện đảm bảo
thực hiện phân cấp?
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
16
6.1. Ý nghĩa lý luận của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần lý luận, lý giải về sự cần thiết
phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền phường ở Hà Nội. Từ đó đề xuất
xem xét về thực hiện phân cấp cho chính quyền phường ở Thành phố Hà Nội
trên thực tế, phù hợp xu thế phát triển của Thành phố, phù hợp chủ trương của
Đảng về thực hiện phân cấp, phù hợp Nghị quyết của Quốc hội, pháp luật của
Nhà nước về phân cấp, đảm bảo hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động của bộ máy
nhà nước.
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng làm cơ sở lý luận
cho việc xây dựng thực hiện nội dung, phương pháp phân cấp quản lý nhà nước
nói chung và phân cấp cho chính quyền phường nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ cho thấy toàn cảnh thực trạng phân
cấp quản lý nhà nước ở Hà Nội, trong đó cụ thể về phân cấp cho chính quyền
phường, giúp các nhà lãnh đạo, quản lý có thêm căn cứ thực hiện nhiệm vụ xây
dựng chính quyền ở cơ sở và áp dụng cho phân cấp đối với chính quyền phường
ở Hà Nội trong tương lai.
Kết quả nghiên cứu giúp tìm kiếm các giải pháp có tính khả thi, phù hợp
để thực hiện phân cấp, đồng thời đề xuất các nhiệm vụ cụ thể về phân cấp cho
chính quyền phường ở Hà Nội, phân biệt rõ nhiệm vụ của chính quyền ở đô thị
và nông thôn, phù hợp Hiến pháp năm 2013.
7. Đóng góp mới của luận án
7.1. Về lý luận
Luận án góp phần hoàn thiện lý luận chung về phân cấp quản lý trong
hành chính nhà nước nói chung và cho chính quyền phường ở Hà Nội nói riêng.
Từ đó, góp phần hoàn thiện lý thuyết về tổ chức, hoạt động của chính quyền
địa phương ở Việt Nam hiện nay.
17
7.2. Về thực tiễn
Trong xu thế thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm tổ chức mô
hình chính quyền đô thị tại Thành phố Hà Nội, chính quyền địa phương ở các
phường thuộc quận, thị xã tại Thành phố Hà Nội là UBND phường. Luận án đề
xuất giải pháp về phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền phường ở Hà Nội
trên mặt nhiệm vụ về: Quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; Về đầu
tư, giao thông, hạ tầng đô thị; Về tài chính – ngân sách; Về giáo dục, y tế; Xây
dựng; Văn hóa, thể thao, du lịch và an toàn vệ sinh thực phẩm.
Các kiến nghị từ kết quả nghiên cứu, góp phần vào xây dựng quan điểm,
chính sách và pháp luật của Nhà nước về phân cấp, nhất là trong điều kiện tổ
chức mô hình chính quyền đô thị tại Thành phố Hà Nội, đáp ứng yêu cầu cải
cách hành chính, đổi mới tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương; đẩy
mạnh phân cấp quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án kết
cấu làm 4 chương sau:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
Chương 2. Cơ sở khoa học về phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền
phường
Chương 3. Thực trạng phân cấp cho chính quyền phường tại Thành phố
Hà Nội
Chương 4. Quan điểm, giải pháp phân cấp cho chính quyền phường tại
Thành phố Hà Nội
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
18
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
1.1.1. Công trình nghiên cứu về chính quyền cơ sở
Theo Ann O’M. Bowman và Richard C. Kearney trong tác phẩm “State
and Local Government”, 8th ed, Boston, MA: Wadsworth (2011), ở các quốc
gia có tổ chức khác nhau thì quan niệm về chính quyền địa phương cũng không
giống nhau. Chẳng hạn, ở các quốc gia tổ chức theo mô hình liên bang, chính
quyền địa phương được coi là các loại chính quyền dưới cấp bang và liên bang.
Trong khi đó, chính quyền địa phương ở các quốc gia đơn nhất (chẳng hạn Anh,
Pháp...) lại được coi là chính quyền dưới cấp chính quyền trung ương.
DaviesK trong tác phẩm “Local government Law”, London (1983) cho
rằng chính trong tình trạng hiện nay của việc xây dựng Nhà nước đòi hỏi sự
can thiệp ngày càng sâu rộng vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội của
các cơ quan nhà nước trung ương, xuất hiện mối quan hệ ngày càng trở nên
chặt chẽ giữa nhà nước và địa phương tự quản, nên các cơ quan tự quản của địa
phương có xu hướng trở thành một bộ phận của chính quyền hành pháp. Tuy
vậy, tính tự quản của chính quyền địa phương vẫn được nhiều nhà luật học bảo
vệ, chủ yếu là từ phía hệ thống pháp luật Anglô-Sắc xông, chính quyền địa
phương chỉ có thể thực hiện được chức năng của mình ở đâu, mà ở đó chính
quyền trung ương không có điều kiện thực hiện quyền lực của mình. Việc tăng
cường quyền lực nhà nước cho chính quyền nhà nước địa phương là một trong
những biện pháp giảm quyền lực nhà nước cấp trên, tức là chịu trách nhiệm của
quyền lực nhà nước.
Trong tác phẩm “German Law & Legal System”, Blackstone Press
Limited, London, tác giả Niel Foste (1993), đã giới thiệu phân tích, đánh
giá, luận giải các vấn đề về hệ thống pháp luật chung của nhều quốc gia
trên thế giới và tập trung và pháp luật của Đức. Hilaire Barnett (1996) trong
tác phẩm “Constitutional and Administrative Law”, Lawman (India) Private
Limited, New Delhi cũng nghiên cứu về luật hành chính và các vấn đề về nhà
19
nước trong mối quan hệ với các cấp chính quyền địa phương.
Nhóm tác giả Richard Batley and Gerry Stoker, trong tác phẩm “Local
Government in Europe: Trends and Development”, GBC - Macmillan Press Ltd
(1991), đã cung cấp một cái nhìn tổng quan về các vấn đề và phát triển trong
chính quyền địa phương và châu Âu trong phân tích sâu về thay đổi trạng thái,
chức năng, quản lý và kiểm soát của nó trong mỗi quốc gia.
Governmet Decentralization Reforms in Developing Countries (2003),
Institute for Iternational Cooperation Japan Iternational Cooperation Agency nghiên
cứu vấn đề phân quyền đối với địa phương ở các nước phát triển. Tác giả chỉ ra
những đặc điểm trong cách thức phân quyền của các nước và khuyến nghị cơ chế
phân quyền hiệu quả. Công trình nghiên cứu cho thấy các nước theo truyền thống
của Anh, tổ chức chính quyền địa phương có xu hướng coi các chính quyền tự
quản địa phương là các cơ quan cung cấp dịch vụ công và xác định các chức
năng, nguồn tài chính, ranh giới lãnh thổ cũng như sự kiểm soát của chính
quyền trung ương. Trong khi đó, các nước theo hệ thống Common Law lại có
khuynh hướng quy định các chức năng khác nhau cho chính quyền địa phương
và chính quyền trung ương về quy mô chính quyền tự quản và năng lực cung
cấp dịch vụ công.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về phân cấp, phân quyền cho chính
quyền cơ sở
Dù đa dạng và khác biệt, pháp luật về tổ chức hành chính của các quốc
gia trên thế giới đều dành phần quan tâm lớn đến các địa phương, điều chỉnh
mối quan hệ giữa trung ương - địa phương. Mức độ phân cấp, phân quyền có
khác biệt tùy thuộc vào những đặc thù kinh tế, địa lý, xã hội của từng quốc gia.
Ở nhiều nước, tự quản địa phương đã phát triển đến trình độ cao.
Martine Lombard, Gilles Dumont trong “Pháp luật hành chính của Cộng
hòa Pháp”, Nhà pháp luật Việt Pháp - Organisation Internationale de la
Francophone, Nxb Tư pháp, (2007), cho rằng tiêu chí được quản lý bởi cơ quan
20
dân cử là điều kiện bắt buộc để xác định tư cách đơn vị hành chính lãnh thổ.
Điều này đã được diễn giải bởi một học giả người Pháp rằng: “kể từ năm 1958,
phương thức quản lý thông qua Hội đồng dân cử đã trở thành căn cứ pháp lý
của cơ chế tự chủ của các đơn vị hành chính - lãnh thổ. Do đó tất cả các cơ quan
ra quyết định của các đơn vị hành chính lãnh thổ đều phải được bầu ra theo
phương thức phổ thông đầu phiếu”. Như vậy, các thẩm quyền của địa phương
được trao cho địa phương đó - mà nhân dân địa phương chính là người nắm
giữ. Nhân dân địa phương thực hiện thẩm quyền của mình bằng hình thức dân
chủ gián tiếp là bầu ra cơ quan đại diện. Hội đồng dân cử phải là cơ quan có
thẩm quyền quyết định các công việc của địa phương chứ không phải là một cơ
quan nhà nước do cấp trên cử xuống.Với cơ quan đại diện do dân bầu ra, địa
phương sẽ thành lập các cơ quan hành chính theo nhiều cách khác nhau: hoặc
bầu từ chính cơ quan đại diện, hoặc bầu trực tiếp từ dân, thậm chí có thể là thuê
người điều hành bộ máy hành chính v.v.. Cơ quan đại diện và cơ quan hành
chính sẽ thực hiện quyền tự quản địa phương, thay mặt cho dân địa phương
trong các quan hệ pháp luật cụ thể. Với cơ cấu hoàn chỉnh, địa phương có tư
cách pháp nhân độc lập, riêng biệt so với chính quyền trung ương và các địa
phương khác.
Trong tác phẩm “Decentralization” (Phân quyền), Ine Neven, Institute
Alterra - Green World Research, Wageningen, The Netherland đề cập tới vấn
đề phân cấp cho chính quyền địa phương về quản lý rừng. Tác giả cho rằng các
chính phủ đang mở ra cơ hội thú vị và sáng tạo để đạt mục tiêu quản lý và bảo
tồn đa dạng sinh học bằng cách phân cấp quyền hạn và trách nhiệm quản lý tài
nguyên ở nhiều nơi trên thế giới. Trong chính sách chung, tại cấp quốc gia,
nhiều nhất thuộc tính quan trọng đến chất lượng quản lý rừng bền vững là sự
hoà giải giữa sinh thái, lợi ích kinh tế và xã hội trong các khu rừng. Trong chính
sách cụ thể ở cấp khu vực và thành phố, nhất thuộc tính quan trọng đến chất
lượng quản lý rừng bền vững là việc xem xét điều kiện lâm sinh, kinh tế-xã hội
21
và chính trị ở các cấp độ. Các cấp địa phương - chính quyền địa phương, các tổ
chức phi chính phủ (NGO), cộng đồng địa phương và các ngành công nghiệp -
có lợi thế là gần gũi hơn với các khu rừng so với những người đại diện các bộ
máy quan liêu của chính phủ trung ương xây dựng chính sách ở cấp quốc gia.
Địa phương thường tiếp xúc trực tiếp với các bên liên quan cư trú hoặc làm
việc trong các khu rừng và những người phụ thuộc vào mức độ khác nhau từ
tất cả các lâm sản đa dạng, làm việc cùng nhau sẽ nâng cao năng lực quản lý
rừng bền vững.
1.2. Tổng quan các công trình nghiên cứu ở trong nước
Từ khi Đảng và Nhà nước ta khởi xướng công cuộc cải cách nền hành chính
đến nay, vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền cơ sở đã thu hút
được sự quan tâm đặc biệt của nhiều nhà nghiên cứu lý luận và hoạt động thực
tiễn thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Các công trình nghiên cứu về chính quyền
cơ sở, về phân cấp cho chính quyền cơ sở có sự đa dạng về thể loại, phong phú về
các khía cạnh nhìn nhận và lớn nhỏ khác nhau về cấp độ.
1.2.1. Các công trình nghiên cứu về hoàn thiện tổ chức, hoạt động của
chính quyền địa phương
Đề tài KX 04.08 “Cải cách chính quyền địa phương đáp ứng các yêu cầu
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân” (2008), chủ nhiệm:
Lê Minh Thông. Đây là công trình lớn, thể hiện sự nghiên cứu sâu sắc và đã đề
xuất các giải pháp khả thi về đổi mới chính quyền địa phương ở nước ta hiện nay,
trong đó có CQĐT, chính quyền phường, UBND phường.
Cuốn sách: “Nhà nước và trách nhiệm của Nhà nước”, NXB Tư pháp,
(2006), của Nguyễn Đăng Dung, khẳng định cần đổi mới chính quyền địa
phương trong đó không tổ chức HĐND ở quận, phường và cải cách cơ quan
hành pháp ở quận, phường nhằm nâng cao trách nhiệm và đảm bảo sự quản lý,
điều hành thông suốt của các cơ quan hành pháp từ trung ương đến địa phương.
22
Ở đây, tác giả còn đưa ra mô hình tổ chức chính quyền ở thành phố lớn nhằm
xây dựng hệ thống tổ chức chính quyền ở đô thị phải khác với tổ chức chính
quyền ở nông thôn.
Các cuốn sách: “Về cải cách bộ máy nhà nước”; “Về cải cách bộ máy
hành chính nhà nước và xây dựng đội ngũ công chức nhà nước”; “Cải cách cơ
chế quản lý Nhà nước về kinh tế” của Học viện Hành chính Quốc gia, Nxb Sự
thật, (1994); “Mô hình tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam” do Đào Trí Úc chủ biên, Nxb Tư pháp (2006); “Chính quyền địa
phương trong nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân” do Lê
Minh Thông chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, (2006); “Hoàn thiện mô hình
tổ chức và quản lý đô thị Hà Nội” do Nguyễn Minh Ngọc và Nguyễn Minh
Đoan chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, (2010), ít nhiều cũng đề cập đến
CQĐT, chính quyền phường, UBND phường.
Cuốn sách: “Chính quyền địa phương với việc đảm bảo thi hành Hiến
pháp và pháp luật”của Trương Đắc Linh, NXB Chính trị Quốc gia, (2003). Tác
giả đã phân tích những vấn đề lý luận, đánh giá thực trang và đề xuất một số
giải pháp nhằm tăng cường va trò của chính quyền địa hương trong thực thi
hiến pháp và pháp luật ở Việt Nam...
Luận án tiến sĩ luật học:“Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động
của chính quyền cấp xã ở Việt Nam hiện nay”, Hà Nội, 2007 của tác giả Đàm
Bích Hiên. Luận án tập trung nghiên cứu sâu về giác độ luật pháp dành cho
chính quyền cấp xã, có đề cập đến việc cần đổi mới hệ thống chính quyền
phường ở đô thị phải khác với chính quyền cấp xã ở nông thôn và tác giả cũng
có đề xuất ở các thành phố nên tổ chức hai cấp chính quyền, cấp thành phố có
HĐND và UBND, cấp phường chỉ nên thiết lập UBND, Chủ tịch UBND
phường do nhân dân trực tiếp bầu và UBND thành phố phê chuẩn.
Luận án tiến sĩ luật học: “Chính quyền địa phương với việc đảm bảo thi
23
hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương”, Hà Nội, 2002, của tác giả Trương
Đắc Linh đã đưa ra quan điểm về thẩm quyền của UBND phường, xã trong việc
ban hành các văn bản pháp quy.
Cuốn sách: “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chính quyền địa
phương ở Việt Nam hiện nay” của tập thể các nhà khoa học Viện Nhà nước và
pháp luật – Trung tâm khoa học và nghiên cứu nhân văn quốc gia, Nxb Chính
trị quốc gia, (2002). Đây là công trình thể hiện sự nghiên cứu sâu sắc của tập
thể các nhà khoa học đầu ngành về chính quyền địa phương ở nước ta hiện nay.
Trong công trình này đã đề cập đến việc xây dựng mô hình CQĐT, tuy nhiên
cũng ít đề cập đến chính quyền phường, UBND phường.
Trong tác phẩm: “Đổi mới nội dung hoạt động của các cấp chính quyền
địa phương trong kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế” do Nguyễn
Ký, Nguyễn Hữu Đức, Đinh Xuân Hà đồng chủ biên (Nxb Chính trị quốc gia,
2006) đã đề cập tới mối quan hệ giữa điền kiện kinh tế - xã hội của đơn vị hành
chính với chính quyền ở các cấp địa phương. Trong đó, các tác giả đã chỉ ra
được mối quan hệ biện chứng giữa chủ thể QLNN (chính quyền địa phương) với
đối tượng quản lý và đã đưa ra những kiến nghị về các mô hình chính quyền địa
phương trước sự tác động của điều kiện xã hội biến đổi không ngừng và hội nhập
kinh tế quốc tế của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Lê Minh Thông trong cuốn: “Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam”, (Nxb
Chính trị quốc gia, 2011) đã trình bày một cách có hệ thống, có luận cứ khoa học
và thực tiễn về chính quyền địa phương nói chung, về mô hình CQĐT nói riêng.
Tuy vậy tác giả vẫn chưa đề cập chi tiết đến mô hình chính quyền phường, trong
đó có UBND phường. Trong cuốn sách “Chính quyền địa phương nước Cộng
hoà dân chủ Đức”của Nguyễn Hữu Đức (chủ biên) đã giới thiệu mô hình chính
quyền địa phương của Đức, những đặc điểm nổi bật, giới thiệu và đánh giá cơ
24
cấu tổ chức và cơ chế vận hành nội bộ.
Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ: “Đổi mới tổ chức và hoạt động của
chính quyền cấp xã trong tiến trình cải cách hành chính”, Nxb Chính trị quốc
gia, (2002).
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: “Xây dựng và kiện toàn tổ chức chính
quyền cơ sở (xã) trong điều kiện cải cách hành chính” của Vụ Chính quyền địa
phương, Bộ Nội vụ, 2005.
1.2.2. Các công trình nghiên cứu về chính quyền đô thị
Cuốn sách: “Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước trong giai đoạn hiện
nay” của Bùi Xuân Đức, Nxb Tư pháp, (2004) đề cập đến đổi mới cấp hành
chính bên dưới cấp thành phố và mô hình được tổ chức linh hoạt, không nhất
thiết cấp nào cũng như nhau, có thể có một hoặc hai cấp dưới cấp thành phố, có
thể là quận hoặc có thể là phường, nhưng bộ máy hành chính phải gọn nhẹ. Tác
giả đã khẳng định cấp chính quyền ở đô thị không nhất thiết phải là ba cấp như
hiện nay. Tác giả đã thể hiện tư duy khoa học, cũng như quan điểm, nhận thức
phù hợp với thực tiễn hiện nay đòi hỏi bộ máy nhà nước cần phải đổi mới cơ
quan quyền lực, cũng như UBND ở địa phương.
Cuốn sách: “Vấn đề quản lý nhà nước ở đô thị và phương hướng đổi mới
mô hình tổ chức CQĐT trong cải cách hành chính địa phương: Lý luận và thực
tiễn”, của Nguyễn Hữu Trị, Nxb Chính trị quốc gia, (1998). Tác giả đã xây
dựng được mô hình CQĐT có luận cứ khoa học và thực tiễn, cũng như đã đưa
được một số định hướng đổi mới mô hình CQĐT có tính thuyết phục cao. Tuy
nhiên trong cuốn sách này, tác giả vẫn chưa đề cập đến chính quyền phường
nói chung, UBND phường nói riêng một cách trực tiếp và cụ thể.
Đề tài khoa học cấp nhà nước KX02.14 “Sự phát triển xã hội và quản lý
phát triển xã hội ở các đô thị nước ta hiện nay – thực trạng và giải pháp”do
Nguyễn Hữu Khiển (2014) làm chủ nhiệm nghiên cứu về đời sống xã hội đô
25
thị và các phương pháp quản lý nhà nước về đô thị.
Luận án tiến sĩ luật học: “Đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan hành
chính nhà nước phường trong điều kiện cải cách hành chính ở nước ta”, Phan
Văn Hùng, (2012), đã làm rõ về những yêu cầu cần đổi mới và đưa ra các giải
pháp để đổi mới tổ chức, hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước phường
ở nước ta, trong những năm đầu Chính phủ đang tiến hành cải cách hành chính
mạnh mẽ.
Ngoài ra, liên quan đến CQĐT, chính quyền phường, UBND phường còn
có một số nhà khoa học quan tâm nghiên cứu như: Nguyễn Quang Ngọc, Đoàn
Minh Huấn, Bùi Xuân Dũng (đồng chủ biên): “Hoàn thiện mô hình tổ chức và
quản lý đô thị Hà Nội”, Nxb Chính trị quốc gia, (2010); Trần Thế Nhuận, Võ
Kim Sơn: “Quản lý hành chính đô thị nước ta những vấn đề bức xúc”, trong
sách: “Cải cách hành chính địa phương - Lý luận và thực tiễn”, (Nxb Chính trị
quốc gia, 1998); Nguyễn Văn Thảo: “Các giải pháp thúc đẩy cải cách hành
chính những năm đầu thế kỷ XXI”, Nxb Chính trị quốc gia, (1998); Nguyễn
Ninh Thực: “Tổ chức lại đơn vị hành chính và bộ máy hành CQĐT tại Việt
Nam”, Hội thảo Cơ sở khoa học tổ chức hợp lý chính quyền địa phương ở Việt
Nam hiện nay (2008); Vũ Thư: “Đổi mới mô hình tổ chức CQĐT”, trong sách
“Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện
nay” do Lê Minh Thông, Nguyễn Như Phát đồng chủ biên, Nxb Chính trị quốc
gia, (2002); Dương Quang Tung: “Bàn về mô hình tổ chức chính quyền địa
phương”, trong sách “Một số vấn đề hoàn thiện tổ chức và hoạt động bộ máy
nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, chủ biên Lê Minh Thông, Nxb
Khoa học xã hội, (2001); Đào Trí Úc: “Mô hình tổ chức và hoạt động của nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các giải pháp tiếp tục đẩy mạnh
cải cách hành chính ở nước ta”, Nxb Chính trị quốc gia, (2006); Viện Khoa học
tổ chức nhà nước: “Về đổi mới tổ chức và hoạt động của CQĐT”, Hội thảo khoa
học “Quản lý phát triển đô thị - Kinh nghiệm của CHLB Đức và thực tiễn Việt
26
Nam”, 2007; Nguyễn Thế Vịnh, Phan Văn Hùng (đồng chủ biên): “Giải đáp chế
độ, chính sách đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn”, Nxb Chính trị
quốc gia, (2010).
Các tạp chí chuyên ngành liên quan đến vấn đề cải cách chính quyền
phường, UBND phường như: “Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp
xã, phường” của Thái Vĩnh Thắng, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 4/2003;
Nguyễn Hữu Tám “Đổi mới bộ máy, nâng cao hiệu lực hành chính cấp xã: Suy
nghĩ và kiến nghị”, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số 4/2006; Vũ Đức Đán “Kiện
toàn tổ chức bộ máy chính quyền các cấp ở thành phố trực thuộc Trung ương”,
Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 3/1997; Lê Minh Thông “Nhà nước quản lý ở cấp
phường”, Tạp chí Luật học, 1986; Phan Văn Hùng, “Về Tổ chức và hoạt động của
Ủy ban nhân dân phường khi thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân
dân”, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số 4/2009...
Những bài viết, công trình ở cấp này đã đề cập một cách khái quát đến
những vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động của CQĐT, cũng như
đã đưa ra các nguyên tắc cơ bản cải cách CQĐT, nhưng chưa nghiên cứu sâu
đến vấn đề phân cấp giữa chính quyền thành phố và chính quyền phường.
Nghiên cứu các công trình nêu trên đã cho chúng ta thấy rằng, mặc dù
đã có nhiều công trình đề cập đến vấn đề hoàn thiện pháp luật, đến tổ chức và
hoạt động của chính quyền địa phương nói chung, CQĐT nói riêng. Nhưng cho
đến nay các công trình nghiên cứu về chính quyền phường, phân cấp cho chính
quyền phường là chưa tồn tại
Cuốn sách: “Cải cách chính quyền địa phương, lý luận và thực tiễn” của
tập thể tác giả Tô Tử Hạ, Nguyễn Hữu Trị, Nguyễn Hữu Đức đồng chủ biên,
Nxb Chính trị quốc gia, (1998), công trình đã nêu ra những cách thức cải cách
hành chính chính quyền địa phương ở nước ta, trong đó có chính quyền phường
về tổ chức bộ máy, thể chế, tài chính, ngân sách, cán bộ…Tuy nhiên, nội dung
có liên quan đến chính quyền phường còn ít, chưa đề cập sâu đến những nội
27
dung dành cho chính quyền phường ở đô thị.
Đặc điểm, tính chất của QLNN tại đô thị được chi phối một cách khách
quan bởi đặc điểm, tính chất của đô thị. Mỗi đô thị dù lớn hay nhỏ đều chỉ là
một đơn vị hành chính - lãnh thổ thống nhất. Các quận, phường, trong nội bộ
một đô thị thực chất chỉ là các đơn vị hành chính thuần tuý, có tính quy ước để
thực thi công việc quản lý hành chính ở đô thị. Phát triển đô thị đòi hỏi có sự
phân cấp, uỷ quyền giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương,
bộ máy chính quyền chuyên nghiệp, gọn nhẹ, trong sạch, vững mạnh, minh
bạch; khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh; sự tham gia của người dân, các
tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức phi chính phủ vào quản lý đô thị ngày
càng lớn. Ở đô thị có khối dân cư tập trung cao với nhiều thành phần, tầng lớp
khác nhau với các hoạt động đa dạng, có nhu cầu cao về nhiều mặt. Điều này
dẫn đến việc quản lý con người ở đô thị hết sức phức tạp so với nông thôn.Theo
đó, chính quyền phải quan tâm giải quyết nhiều vấn đề bức xúc hàng ngày như
cấp, thoát nước, rác thải sinh hoạt, vấn đề nhà ở, giao thông, ô nhiễm môi trường
sống, quản lý dân cư…
Các bài viết, công trình đề cập trên đã nghiên cứu bộ máy nhà nước nói
chung và chính quyền địa phương nói riêng trong đó có chính quyền xã,
phường, thị trấn. Nhưng về cơ bản, các công trình trên đây mới chỉ đề cập một
cách khái quát đến việc xây dựng chính quyền địa phương. Cho đến nay vẫn
chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện về vấn đề phân cấp cho
chính quyền phường ở đô thị trong điều kiện đổi mới ở nước ta hiện nay.
1.2.3. Các công trình nghiên cứu về phân cấp và phân cấp quản lý nhà
nước cho chính quyền phường
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: “Nghiên cứu mối quan hệ giữa chính
quyền thành phố với chính quyền quận, phường trong điều kiện không tổ chức
HĐND quận và phường” (2009) của chủ nhiệm Nguyễn Hữu Hải. Đề tài đặt ra
bối cảnh tổ chức chính quyền cơ sở có sự thay đổi về cơ cấu, nhiệm vụ, chức
28
năng là không tổ chức HĐND quận, phường, theo đó, cần thúc đẩy các mối
quan hệ giữa chính quyền thành phố với chính quyền quận, phường, nhất là mối
quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước cấp trên và cơ quan hành chính nhà
nước cấp dưới ở địa phương.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: “Nghiên cứu mô hình chính quyền
một cấp ở các đô thị Việt Nam” (2011) của chủ nhiệm Nguyễn Hữu Hải. Ở góc
độ nghiên cứu này, tác giả nhìn nhận về các đặc điểm, đặc thù của đô thị, các
hoạt động của các cấp chính quyền ở đô thị để từ đó đề xuất mô hình chính
quyền một cấp ở đô thị của Việt Nam hiện nay.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: “Cơ sở khoa học hoàn thiện cơ chế
phân cấp quản lý nhà nước đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính nhà nước”
(2014) của chủ nhiệm Nguyễn Minh Phương. Đề tài này phân tích sâu về cơ
chế phân cấp quản lý nhà nước trong bối cảnh hiện tại, làm rõ những vấn đề
thực tiễn khó khăn, vướng mắc khi thực hiện nhiệm vụ và nhất là đề xuất các
nội dung cơ bản cần được tiến hành phân cấp giữa cơ quan nhà nước ở trung
ương cho chính quyền địa phương nhằm tạo điều kiện, cơ hội để chính quyền
địa phương phát triển, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính nhà nước của nước
ta hiện nay.
Luận án tiến sĩ luật học: “Phân cấp quản lý và địa vị pháp lý của chính
quyền địa phương trong quá trình cải cách bộ máy nhà nước ở Việt Nam” của
Trần Thị Diệu Oanh (2012), Học viện Khoa học xã hội, đã đi sâu phân tích về
vấn đề phân cấp trong quản lý và đề xuất các giải pháp cụ thể về phân cấp quản
lý, địa vị pháp lý của chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay.
Luận án tiến sĩ hành chính “Phân cấp quản lý nhân sự hành chính nhà
nước ở Việt Nam” (2010) của Hoàng Mai, Học viện Hành chính, Hà Nội đã đi
sâu phân tích về vấn đề phân cấp trong quản lý nhân sự hành chính, một mảng
vấn đề quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ của cơ quan hành chính nhà nước.
Luận án cũng đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường phân cấp trong quản lý
29
nhân sự, đáp ứng yêu cầu đổi mới của đất nước.
Phạm Hồng Thái, Nguyễn Đăng Dung, Nguyễn Ngọc Chí (2011), Phân
cấp quản lý nhà nước, NXB Công an nhân dân, Hà Nội đã dành nhiều nội dung
phân tích về những vấn đề lý luận về phân cấp và phân cấp trong quản lý nhà
nước. Các tác giả chỉ ra những vấn đề còn khó khăn, vướng mắc trong phân cấp
quản lý nhà nước, có các đề xuất cụ thể để thực hiện phân cấp quản lý nhà nước
ở trung ương và địa phương.
Võ Kim Sơn (2004), “Phân cấp trong quản lý nhà nước – lý luận và thực
tiễn”, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội đã phân tích về những vấn đề lý luận của
phân cấp, thực tiễn chính sách phân cấp và thực hiện phân cấp trong quản lý
nhà nước ở nước ta hiện nay. Tác giả đặt ra nhiều vấn đề cần thiết tiến hành
phân cấp trong quản lý nhà nước của nước ta.
Một số công trình nghiên cứu được đăng tải trên các tạp chí chuyên
ngành như: Vũ Thư (2009) “Mấy vấn đề về lý luận và thực tiễn về phân cấp
quản lý cho chính quyền địa phương ở nước ta”, tạp chí Khoa học xã hội Việt
Nam 4 (35), trang 51-60.
Nguyễn Hữu Hải: “Quan hệ điều hành hành chính trong quản lý nhà
nước” (2007), tạp chí Quản lý nhà nước; “Về chế độ thủ trưởng trong mô hình
chính quyền đô thị” (2013), tạp chí Lý luận chính trị; “Tự quản địa phương ở
một số quốc gia và kinh nghiệm cho Việt Nam” (2018), Tạp chí tổ chức nhà
nước (Trịnh Thị Thủy; Nguyễn Hữu Hải).
Nguyễn Huyền Hạnh: “Một số vấn đề về phân cấp quản lý nhà nước ở
Cộng hòa liên bang Đức” (2001), Tạp chí Tổ chức nhà nước (8), tr 26-28; “Một
số vấn đề về phân cấp quản lý ở Cộng hòa Pháp” Tạp chí Tổ chức nhà nước
(9), tr 45-49.
Các công trình nghiên cứu về phân cấp cho chính quyền phường hiện
nay khá ít, gần như chưa có công trình lớn về mặt khoa học như đề tài cấp nhà
nước, đề tài cấp Bộ về phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền phường.
30
Qua quá trình tìm tòi, nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy rằng, đây là vấn đề cần
nghiên cứu, nhất là về vấn đề phân cấp quản lý nhà nước đối với chính quyền
phường ở Hà Nội trước những đòi hỏi của xã hội, người dân về xây dựng nhà
nước minh bạch trong cung cấp thông tin, hiệu quả trong hoạt động quản lý.
1.3. Đánh giá các công trình nghiên cứu và các nội dung cần tiếp tục
nghiên cứu của luận án
Đối với các công trình nghiên cứu trong nước và ở nước ngoài về chính
quyền cơ sở, chính quyền địa phương rất phong phú, đa dạng về thể loại, có độ
dày kinh nghiệm của các nhà khoa học, kết tinh nhiều giá trị lớn và có thể kế thừa
tại Luận án về các quan điểm, đánh giá, nhận định.
1.3.1. Đánh giá các công trình nghiên cứu
1.3.1.1. Các công trình nghiên cứu về chính quyền cơ sở
Qua các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy chính quyền
ở cơ sở chỉ có thể thực hiện được chức năng của mình ở nơi mà chính quyền
trung ương không có đầy đủ điều kiện thực hiện quyền lực tập trung của mình.
Việc tăng cường quyền lực nhà nước cho chính quyền nhà nước ở cơ sở là một
trong những biện pháp giảm tính tập quyền nhà nước cấp trên. Quá trình này
góp phần hình thành nên nhiều mô hình tổ chức chính quyền địa phương khác
nhau.
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng mô hình tổ chức và hoạt động của chính
quyền ở cơ sở rất đa dạng do việc tổ chức và hoạt động này phụ thuộc vào rất
nhiều yếu tố, như điều kiện lịch sử, văn hoá xã hội, tự nhiên cũng như những
quan điểm nhận thức của chính quyền nhà nước cấp trên. Đức, Camerun,
Senegan chia các cấp chính quyền địa phương thành 4 cấp; Italia, Ấn độ 3 cấp;
Đan Mạch, Phần Lan, Nhật Bản, Costa-Rica hai cấp... Thậm chí có nhà nước
tổ chức chính quyền địa phương 5 cấp như của Pháp.
Mối quan hệ giữa các cấp chính quyền với nhau trong hệ thống chính
quyền địa phương nhiều cấp được hình thành dần dần do các điều kiện lịch sử,
31
văn hoá, địa lý và truyền thống quyết định. Sau đó được nhà nước quy định
thành các quy phạm của pháp luật. Ví dụ sự tích cực của các tác động đến đời
sống của nhân dân địa phương của đại diện chính quyền cấp trên về đóng trên
địa bàn địa phương là một trong những đặc thù của mô hình Châu Âu lục địa.
Ở các nước đang phát triển thì tình trạng trực thuộc và chịu sự kiểm tra của
chính quyền cấp trên do người đại diện thực hiện càng được thực hiện một cách
chặt chẽ hơn.
1.3.1.2. Các công trình nghiên cứu về chính quyền ở đô thị, về phân cấp,
phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền phường
Các công trình nghiên cứu đã cho thấy vị trí, vai trò, tầm quan trọng của
chính quyền cấp cơ sở và sự cận thiết phải đổi mới tổ chức và hoạt động của
cấp cơ sở. Đây là nguồn tư liệu quí giá để luận án kế thừa một số khía cạnh lý
luận về chính quyền phường để hệ thống hóa khung lý luận.
Các nghiên cứu chỉ ra rằng cấp thấp nhất của chính quyền địa phương
thường được tổ chức ở những cộng đồng cư dân thành phố, làng, thôn. Cấp đơn
vị hành chính trung gian thường được tổ chức ở trên các cấp cơ sở (cấp thấp
nhất), và dưới cấp trung ương. Đó là các tỉnh, vùng như ở Nhật, Italia... và
không phải ở tất cả các cấp chính quyền đều phải tổ chức cơ quan đại diện.
Trong bối cảnh nước ta, Luật tổ chức CQĐP đã thể chế hóa chính thức
mô hình chính quyền địa phương ở đô thị trong đó có chính quyền phường. Từ
đó, có thể thấy quản lý đô thị đòi hỏi mang tính tập trung, thống nhất cao nhằm
bảo đảm sự chỉ đạo, điều hành thống nhất từ một đầu mối. Chính quyền phường
được tổ chức tương ứng với chức năng, nhiệm vụ, phạm vi quản lý được phân
công. Chính quyền phường trong kế hoạch thực hiện nhiệm vụ hàng năm đều có
chiến lược, quy hoạch thống nhất, mang tính khoa học thể hiện sự phối hợp chặt
chẽ, nhịp nhàng trong các hoạt động.
Những đặc trưng trong đời sống sinh hoạt của người dân, các yếu tố kinh
tế, xã hội khác đòi hỏi quản lý nhà nước ở đô thị cần chủ động, linh hoạt. Ngoài
32
ra, chính quyền phường ở đô thị phải xây dựng được một cơ chế điều chỉnh
hoạt động quản lý vừa ổn định, vừa chủ động, kịp thời ứng phó có hiệu quả với
mọi diễn biến của tình hình trên các mặt chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh
nhằm bảo đảm cho các cơ quan nhà nước có căn cứ để giải quyết kịp thời và hiệu
quả các tình huống nảy sinh trong thực tế, tránh rơi vào tình trạng bị động, lúng
túng, thậm chí bất động, khi sự việc xảy ra…
Một số công trình trong nước đề cập tới những bất cập của cơ chế lãnh
đạo và ra quyết định tại chính quyền địa phương dẫn tới những đổi mới theo
Hiến pháp 2013 và Luật tổ chức CQĐP năm 2015. Cùng với xu hướng hội nhập
quốc tế sau hơn 30 năm đổi mới, quá trình đô thị hóa ở nước ta đã và đang diễn
ra nhanh chóng dẫn đến nhiều khác biệt về hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội,
an ninh giữa đô thị và nông thôn. Tuy nhiên, mô hình tổ chức chính quyền địa
phương ở nước ta hiện nay theo Hiến pháp 2013 và Luật tổ chức CQĐP về cơ
bản giống nhau, đều tổ chức 3 cấp chính quyền (cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã)
không còn phù hợp với đặc điểm và yêu cầu quản lý của đơn vị hành chính ở
đô thị trong điều kiện mới. Nhiều vấn đề cấp thiết của đô thị như quy hoạch,
kiến trúc, xây dựng hạ tầng đô thị, thực hiện dự án dân sinh, xử lý ô nhiễm môi
trường, ùn tắc giao thông, trật tự an toàn xã hội,… không được giải quyết kịp
thời và cũng chưa phù hợp với nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và quản
lý theo lãnh thổ. Trong đó đô thị do kết cấu hạ tầng thống nhất đòi hỏi phải
quản lý theo ngành là chủ yếu khác với nông thôn quản lý theo lãnh thổ là chủ
yếu.
Vấn đề về phân cấp giữa các cấp chính quyền cũng là vấn đề được nhiều
nhà nghiên cứu, học giả quan tâm. Có các nghiên cứu sâu về khái niệm phân
cấp, đặc điểm, nguyên tắc trong phân cấp, đây là những tư liệu quý giá để tác
giả có thể kế thừa trong nghiên cứu của Luận án về phân cấp. Một vài tác giả
đề xuất về định hướng, nguyên tắc phân cấp trong quản lý nhà nước, phân cấp
thực hiện nhiệm vụ giữa trung ương và địa phương nhằm tăng cường hiệu lực,
33
hiệu quả hoạt động của nhà nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập, cải cách hành
chính của quốc gia. Đây cũng là tư liệu quý để Luận án có thể kế thừa phần lý
luận về vấn đề phân cấp quản lý nhà nước tại Chương 2.
1.3.2. Các nội dung tập trung nghiên cứu của luận án
Thứ nhất, những vấn đề lý luận về phân cấp cho chính quyền phường
Các công trình nghiên cứu có đề cập tới vấn đề phân cấp, song phân cấp
cho chính quyền phường, đặc biệt là phân cấp cho chính quyền phường ở Thành
phố Hà Nội còn khoảng trống trong nghiên cứu. Cụ thể là:
Khái niệm về phân cấp quản lý nhà nước; Vấn đề liên quan đến nội dung,
hình thức phân cấp cho chính quyền phường.
Chính quyền phường và vị trí, vai trò, đặc điểm của chính quyền phường
Nội dung, hình thức, phương pháp, nguyên tắc, điều kiện đảm bảo thực
hiện phân cấp cho chính quyền phường
Thứ hai, về thực trạng phân cấp quản lý nhà nước giữa các cấp chính
quyền thành phố ở Hà Nội và phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền
phường
Chưa có nhiều công trình nghiên cứu về chính quyền phường ở Hà Nội
với tính chất đặc thù về quản lý đô thị tại Thủ đô và là trung tâm kinh tế, chính
trị, xã hội của cả nước.
Vấn đề đặt ra là chưa có công trình nghiên cứu về thực trạng thực hiện
phân cấp quản lý nhà nước của chính quyền phường ở Hà Nội. Chưa có thực
trạng đánh giá về vấn đề phân cấp của chính quyền cấp trên cho chính quyền
phường ở Hà Nội. Và trên thực tế, chính quyền phường ở Hà Nội có thực hiện
các nhiệm vụ phân cấp không và chính quyền cấp trên có phân cấp nhiệm vụ
cho chính quyền phường không. Đây là khoảng trống trong nghiên cứu và là
vấn đề nghiên cứu mới, cần đánh giá trên thực tiễn lẫn điều tra xã hội học từ
các phường của TP Hà Nội.
Thứ ba, nghiên cứu đề xuất giải pháp, thực hiện phân cấp cho chính
34
quyền phường ở thành phố Hà Nội
Trên cơ sở các nội dung nghiên cứu lý luận về phân cấp, thực trạng phân
cấp quản lý nhà nước đối với chính quyền phường và thực trạng thực hiện phân
cấp của chính quyền phường, luận án tập trung đề xuất giải pháp kiến nghị về
thực hiện phân cấp cho chính quyền phường ở Thành phố Hà Nội. Các vấn đề
cần đề xuất như nội dung, hình thức, cách thức thực hiện phân cấp quản lý nhà
nước cho quyền phường trên các mặt khác nhau, phù hợp chức năng, nhiệm vụ,
đặc thù trong quản lý đô thị của chính quyền phường tại Thành phố Hà Nội.
Thứ ba, tập trung nghiên cứu các điều kiện đảm bảo việc thực hiện phân
cấp quản lý nhà nước cho chính quyền phường ở Thành phố Hà Nội
Để thực hiện tốt, có hiệu quả trên thực tế về mô hình chính quyền và các
nội dung, chính sách, cách thức thực hiện phân cấp quản lý nhà nước cho chính
quyền phường tại Thành phố Hà Nội cần nghiên cứu làm rõ các điều kiện đảm
bảo cho việc thực hiện phân cấp.
Các điều kiện được đảm bảo: Cơ sở vật chất, nguồn lực, nguồn nhân lực;
điều kiện về tự nhiên, kinh tế, xã hội; về vị trí địa lý, về phát triển ngành nghề
ở đô thị.
Một số điều kiện đảm bảo khác như việc tham gia của tổ chức, người dân
vào các hoạt động của cơ quan công quyền, khuyến khích nguồn tài chính từ
cộng đồng, khuyến khích đóng góp về vật chất và lao động.
Sự kết nối liên thông giữa chính quyền phường và tổ chức chính trị - xã
hội trên địa bàn để thực hiện nhiệm vụ thể hiện hiệu quả trong hoạt động của
chính quyền phường và gia tăng mối quan hệ bền chặt giữa các cơ quan trong
hệ thống chính trị.
Tiểu kết Chương 1
Sử dụng phương pháp nghiên cứu tổng hợp, phân tích, Chương tổng quan
đã tổng hợp tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án trên các phương
35
diện từ phạm vi nghiên cứu rộng đến hẹp. Tổng quan theo hướng các công trình
nghiên cứu ở nước ngoài và các công trình nghiên cứu ở trong nước để từ đó
chắt lọc thông tin, làm tư liệu kế thừa nghiên cứu cho luận án.
Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài về chính quyền cơ sở và phân
cấp cho chính quyền cơ sở có sự đa dạng, phong phú về góc nhìn. Bởi ở một số
quốc gia trên thế giới đã thực hiện nội dung phân cấp từ rất lâu, chính quyền cơ
sở được quyết định những nội dung, nhiệm vụ được phân cấp, chịu trách nhiệm
trước pháp luật về các vấn đề do chính quyền cơ sở quyết định.
Các công trình nghiên cứu ở trong nước được tách thành các phạm vi
nhỏ như: Các công trình nghiên cứu vấn đề tổ chức, hoạt động của chính quyền
địa phương; Về chính quyền đô thị; Về chính quyền cơ sở, chính quyền phường
và phân cấp, phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền phường.
Từ những công trình nghiên cứu được tiếp cận, rút ra các vấn đề đã được
nghiên cứu trước đề cập, nêu lên các nội dung tiếp tục nghiên cứu.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu của các tác giả lớn trong và ngoài
nước có độ phong phú về nội dung và mức độ về quy mô. Mỗi công trình có
mục đích nghiên cứu và đưa ra kết luận riêng. Luận án có phân tích về những
vấn đề kế thừa như lý luận về phân cấp, phân cấp quản lý nhà nước, những đặc
điểm của phân cấp.
Luận án đưa ra những vấn đề tiếp tục nghiên cứu gồm: những vấn đề lý
luận về chính quyền phường; phân cấp quản lý nhà nước giữa các cấp chính
quyền thành phố ở Hà Nội; đề xuất giải pháp, kiến nghị về phân cấp cho chính
quyền phường phù hợp với Thành phố Hà Nội; các điều kiện đảm bảo cho việc
phân cấp quản lý nhà nước đối với chính quyền địa phương nói chung, chính
quyền cơ sở nói riêng.
Chương 2. CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ PHÂN CẤP
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CHO CHÍNH QUYỀN PHƯỜNG
2.1. Khái niệm, sự cần thiết phân cấp quản lý nhà nước
36
2.1.1. Phân cấp trong quản lý nhà nước
2.1.1.1. Khái niệm có liên quan
- Phân cấp
Thuật ngữ phân cấp được nhiều quốc gia sử dụng và được định nghĩa,
hiểu từ nhiều góc độ khác nhau.
Theo Từ điển Tiếng Việt, phân cấp được hiểu là: “phân ra, chia thành các
cấp, các hạng”, từ “phân” có nghĩa là “chia ra từng phần, từng loại, từng hạng”,
từ “cấp” nghĩa là “loại, hạng cao thấp, thứ bậc nói chung”, phân cấp là: “Chia
một đối tượng nào đó ra theo loại, hạng cao thấp và có thứ bậc” [55]
Theo nghiên cứu của Tô Tử Hạ, phân cấp được hiểu là: “sự chuyển giao
quyền lực quản lý xuống các cấp dưới để thực hiện cho sát dân và sát tình hình
thực tiễn, đồng thời để giảm bớt khối lượng cho cấp trên khỏi phải trực tiếp giải
quyết những việc sự vụ. Sự phân cấp thực hiện cụ thể cho từng lĩnh vực, từng
cấp. Việc phân cấp phải gắn trách nhiệm với quyền hạn rõ ràng và phải bảo đảm
tính thống nhất từ Trung ương đến cơ sở” [54, Tr.90]. Cách tiếp cận này cho
thấy, phân cấp là sự chuyển giao quyền lực quản lý xuống cấp dưới, để giảm
tải nhiệm vụ cấp trên, đồng thời phát huy tính chủ động của cấp dưới trong thực
hiện nhiệm vụ.
Tại Luật tổ chức CQĐP năm 2015, mặc dù không có định nghĩa về phân
cấp tại điều khoản giải thích từ ngữ, song phân cấp được quy định là việc: “cơ
quan nhà nước ở trung ương và địa phương được quyền phân cấp cho chính
quyền địa phương hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện một cách liên tục,
thường xuyên một hoặc một số nhiệm vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền của
mình” [34, tr.17]. Quy định tại văn bản Luật này cho thấy, phân cấp chính là sự
chuyển giao nhiệm vụ (vốn là thuộc của chính quyền cấp trên) cho chính quyền
cấp dưới, hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện. Phân cấp có thể thực hiện
thường xuyên, liên tục, nhưng cũng có thể dừng lại không thực hiện phân cấp
khi hiệu quả thực hiện của chính quyền cấp dưới, hoặc cơ quan cấp dưới không
37
cao.
Theo phạm vi nghiên cứu của Luận án này, phân cấp được hiểu là sự
chuyển giao nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan nhà nước ở cấp trên cho cơ quan
nhà nước ở cấp dưới để thực hiện một hoặc một số nhiệm vụ, phục vụ nhiệm
vụ quản lý hành chính nhà nước. Phân cấp ở phạm vi này được hiểu là phân
cấp để quản lý, trong hoạt động của cơ quan nhà nước, trong bộ máy nhà nước
từ trung ương, đến địa phương và giữa các cơ quan nhà nước ở địa phương với
nhau.
Phân cấp quản lý nhà nước
Ở Việt Nam, phân cấp quản lý nhà nước theo quy định của pháp luật,
thường được dùng để chỉ việc cơ quan nhà nước cấp trên phân công, chuyển
giao cho cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện một số thẩm quyền nhất định mà
trước thời điểm có quyết định phân cấp thì thẩm quyền này vốn vẫn do cấp trên
thực hiện. Các đạo luật về tổ chức HĐND và UBND năm 1983, năm 1989, năm
1994 và Luật năm 2003 cũng sử dụng khái niệm phân cấp để hàm ý việc chuyển
giao thẩm quyền của trung ương cho địa phương và giữa các cấp chính quyền
địa phương với nhau.
Theo Nguyễn Cửu Việt và Trương Đắc Linh, phân cấp quản lý (hành
chính) là “sự phân chia các đơn vị hành chính - lãnh thổ và phân công thẩm
quyền hợp lý giữa các cấp chính quyền tương ứng cho phù hợp với chức năng,
nhiệm vụ và đặc điểm của mỗi cấp để nhằm thực thi hiệu quả hơn quyền lực
nhà nước”. Theo từ điển Luật học, và trong điều kiện hiện nay ở nước ta, phân
cấp quản lý được hiểu là “Chuyển giao nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản
lý nhà nước cấp trên cho cơ quan quản lý nhà nước cấp dưới thực hiện thường
xuyên, lâu dài, ổn định trên cơ sở pháp luật… thực chất của phân cấp quản lý
hành chính là xác định lại sự phân chia thẩm quyền theo các cấp hành chính
phù hợp với yêu cầu của tình hình mới.
Theo nhiều nhà nghiên cứu và công trình nghiên cứu được tổng hợp
38
chung, phân cấp quản lý nhà nước được hiểu là phân công chức năng, phân
định nhiệm vụ, quyền hạn cho từng cấp hành chính, là việc cấp trên chuyển
giao những nhiệm vụ, quyền hạn cho cấp dưới thực hiện một cách thường
xuyên, liên tục bằng phương thức ban hành văn bản quy phạm pháp luật, hoặc
bằng cách chuyển cho cấp dưới thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn bằng các quyết
định. Quá trình phân cấp có sự chuyển giao quyền quyết định trong hoạt động
quản lý hành chính nhà nước từ chính phủ trung ương, chính quyền cấp trên
xuống cho các cơ quan cấp dưới trong hệ thống hành chính nhà nước
Theo đó, khái niệm phân cấp quản lý nhà nước trong Luận án này được
xây dựng và quan niệm là: “Cơ quan nhà nước cấp trên chuyển giao một số
quyền hạn, nhiệm vụ cho cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện các nhiệm vụ
thuộc thẩm quyền của cơ quan nhà nước cấp trên, thực hiện một cách thường
xuyên, liên tục hoặc theo từng thời điểm và có kiểm tra, giám sát việc thực hiện
nhiệm vụ của cơ quan được phân cấp nhằm tăng cường chất lượng, hiệu lực và
hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước”. Việc phân cấp quản lý nhà nước
chỉ diễn ra trong nội bộ các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương,
giữa các cơ quan của các cấp chính quyền địa phương với nhau, có nghĩa là chỉ
ở khu vực công, không thực hiện nghiên cứu về phân cấp ở khu vực tư, khu vực
doanh nghiệp hoặc tổ chức, cá nhân nằm ngoài khu vực công.
2.1.1.2. Các cách tiếp cận phân cấp quản lý nhà nước
Thứ nhất, tiếp cận phân cấp dưới góc độ chính trị
Vấn đề phân cấp ở Việt Nam đã được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn
những năm gần đây. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI đã nêu yêu cầu: “Thực
hiện phân cấp hợp lý cho chính quyền địa phương đi đôi với nâng cao chất
lượng quy hoạch và tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát của trung ương,
gắn quyền hạn với trách nhiệm được giao”. Ngày 30/6/2004 Chính phủ đã ban
hành Nghị quyết số 08/2004/NQ-CP “Về tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý
nhà nước giữa Chính phủ và chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
39
ương”, tập trung vào phân cấp nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm giữa Chính
phủ và chính quyền cấp tỉnh trên các lĩnh vực chủ yếu: quản lý quy hoạch, kế
hoạch, đầu tư; ngân sách nhà nước; đất đai, tài nguyên, doanh nghiệp nhà nước;
hoạt động sự nghiệp, dịch vụ công; tổ chức bộ máy, cán bộ, công chức. Sau đó,
nhiều Nghị định quy định về quản lý ngành, lĩnh vực, quy định về tổ chức, hoạt
động của bộ máy hành chính để thực hiện phân cấp quản lý.
Nghị quyết số 21/NQ-CP của Chính phủ ngày 21/3/2016 về phân cấp
quản lý nhà nước giữa Chính phủ và UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương đặt ra mục tiêu phân cấp là: “Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước đối với ngành, lĩnh vực trên cơ sở thực hiện phân cấp hợp lý, rõ ràng về
nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm giữa Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,
các Bộ, cơ quan ngang Bộ và UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,
bảo đảm sự quản lý thống nhất của Chính phủ, phát huy tính chủ động, trách
nhiệm, tinh thần sáng tạo của chính quyền địa phương”.
Thứ hai, tiếp cận phân cấp dưới giác độ kinh tế và quản lý
Theo quan điểm của nhiều nhà khoa học Việt Nam thì phân cấp quản lý
được hiểu là “Chuyển giao nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước
cấp trên cho cơ quan quản lý nhà nước cấp dưới thực hiện thường xuyên, lâu
dài, ổn định trên cơ sở pháp luật... thực chất của phân cấp quản lý hành chính
là xác định lại sự phân chia thẩm quyền theo các cấp hành chính phù hợp với
yêu cầu của tình hình mới [57,Tr.612]. Cũng có ý kiến cho rằng, phân cấp quản
lý được hiểu là “sự phân chia các đơn vị hành chính - lãnh thổ và phân công
thẩm quyền hợp lý giữa các cấp chính quyền tương ứng cho phù hợp với chức
năng, nhiệm vụ và đặc điểm của mỗi cấp để nhằm thực thi hiệu quả hơn quyền
lực nhà nước” [73]. Như vậy, liên quan đến khái niệm phân cấp có hai nội dung
là xác định thẩm quyền của mỗi cấp hành chính trong các văn bản quy phạm
pháp luật và chuyển giao thẩm quyền, nhiệm vụ của cấp trên cho cấp dưới bằng
các quyết định cụ thể nhằm mục tiêu nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
40
nước.
Đặc trưng của phân cấp quản lý là việc cấp chính quyền bên trên chuyển
giao quyền hạn, nhiệm vụ nhất định cho cấp chính quyền bên dưới thực hiện
một cách thường xuyên, liên tục bằng phương thức ban hành văn bản quy phạm
pháp luật hoặc bằng các quyết định cụ thể. Những nhiệm vụ, quyền hạn được
phân cấp cho các cơ quan nhà nước mỗi cấp được xác định sao cho hợp pháp
và hợp lí, phù hợp với năng lực thực tế của mỗi cấp nhằm nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước. Nhiệm vụ, quyền hạn phân cấp vốn ban đầu thuộc
chính quyền cấp trên, song trong nhiều trường hợp tiến hành phân cấp cho chính
quyền hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện.
Khi tiến hành phân cấp, các cấp chính quyền hoặc cơ quan quản lý nhà
nước cấp dưới có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được trao tùy
theo khả năng thực tế của địa phương. Nhiệm vụ, quyền hạn đó được thực hiện
thông qua các pháp nhân công quyền như cơ quan đại diện, cơ quan hành
chính,.. Tuy nhiên, hoạt động của các cơ quan chính quyền địa phương vẫn luôn
phải đặt dưới sự kiểm tra, giám sát cần thiết của các cơ quan chính quyền Trung
ương.
2.1.2. Chính quyền phường trong hệ thống chính quyền đô thị
2.1.2.1. Chính quyền đô thị
Đô thị là trung tâm chính trị - hành chính, trung tâm kinh tế, trung tâm
văn hoá, thể thao, giáo dục, khoa học - công nghệ của cả nước, của một vùng,
một tỉnh hay của một huyện; là nơi tập trung chủ yếu các cơ sở kinh tế, hạ tầng
vật chất quan trọng như trung tâm tài chính, thương mại, dịch vụ, hệ thống giao
thông liên lạc, điện, nước, công trình xây dựng, khu vui chơi, giải trí với tốc độ
phát triển nhanh. Đô thị là nơi tập trung đông dân cư, có hoạt động chủ yếu
trong lĩnh vực kinh tế phi nông nghiệp và có thể bao gồm thị trấn, thị xã, thành
phố.
Chính quyền đô thị được hiểu là bộ máy để điều khiển, quản lý công việc
41
của nhà nước, quản lý hoạt động của đô thị. Bộ máy đó có cơ cấu, tổ chức, có
con người, công cụ để hỗ trợ con người làm việc phù hợp với đời sống kinh tế,
văn hóa, xã hội, điều kiện tự nhiên, ưu thế của đô thị.
Chính quyền đô thị cũng được hiểu là thuật ngữ sử dụng dùng để chỉ các
cơ quan có quyền lực trong một đơn vị hành chính lãnh thổ có các điều kiện và
đặc trưng khác với ở nông thôn, có mô hình quản lý hành chính dựa trên đặc
thù của đô thị. Tùy thuộc vào từng quốc gia mà có các căn cứ khác nhau để xác
định về chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn. Có thể căn cứ theo tính
chất kinh tế, chính trị, dịch vụ thương mại, mật độ dân số, tốc độ đô thị hóa,
các hoạt động vui chơi, giải trí, sinh hoạt cộng đồng, quy mô lớn, nhỏ để xác
định chính quyền đô thị, chính quyền nông thôn. Theo cách phân chia của một
số quốc gia, chính quyền đô thị được phân ra làm các loại khác nhau tùy thuộc
vào quy mô của đô thị đó. Ví dụ: Nhật Bản, Australia căn cứ vào loại đô thị để
xem xét tư cách chính quyền đô thị. Mặt khác, tùy thuộc vào cách phân chia
vùng lãnh thổ bao gồm cả đô thị và nông thôn, chính quyền đô thị gắn liền với
từng cấp hành chính lãnh thổ. Ví dụ, Trung Quốc phân chia đô thị gắn liền với
cấp lãnh thổ hành chính. Hiện nay Trung Quốc phân chia chính quyền đô thị
thành ba cấp (Tỉnh, huyện và thấp hơn).
Mặc dù còn có cách hiểu về chính quyền đô thị chưa thống nhất và tùy
thuộc điều kiện, hoàn cảnh mỗi quốc gia mà có cách thức khác nhau trong tổ
chức bộ máy chính quyền, cơ cấu tổ chức, chức năng nhiệm vụ. Nhưng thông
thường chính quyền đô thị có đặc điểm chung như: trực tiếp quản lý nhà nước
trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội; trực tiếp cung ứng dịch vụ công ở đô thị; thể
hiện chức năng đại diện, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho công dân trên địa
bàn đô thị. Thực hiện dịch vụ công như: Thu gom rác và xử lý chất thải; Cấp
nước và thoát nước; Dịch vụ môi trường, hệ thống chiếu sáng công cộng, công
viên và khu vui chơi giải trí; Dịch vụ y tế và giáo dục cơ bản; Một số phúc lợi
xã hội (chỗ ở cho người vô gia cư);Giao thông đô thị; Quy hoạch đô thị; Công
42
trình công cộng và nhà ở; Cứu hỏa và các dịch vụ khẩn cấp khác.
Ngoài ra, chính quyền đô thị còn thực hiện các chức năng, nhiệm vụ khác
theo quy định của pháp luật, kể cả các nhiệm vụ thuộc chức năng của chính
quyền cấp trên nhưng được phân cấp để chính quyền đô thị thực hiện.
Ở Việt Nam, chính quyền được hiểu là “Bộ máy điều khiển, quản lý công
việc của Nhà nước”[56, tr.157]. Theo Luật tổ chức CQĐP năm 2015, chính
quyền địa phương ở đô thị bao gồm: 1, Chính quyền địa phương ở thành phố
trực thuộc trung ương; 2, Chính quyền địa phương ở quận; 3, Chính quyền địa
phương ở thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc
trung ương; 4, Chính quyền địa phương ở phường và 5, Chính quyền địa
phương ở thị trấn (và theo quy định tại Luật, xã, phường, thị trấn là ngang cấp).
Tại các cấp chính quyền địa phương ở đô thị nói trên đều có tổ chức HĐND và
UBND. Và chính quyền địa phương ở phường cũng có cơ cấu tổ chức gồm có
HĐND phương và UBND phường
2.1.2.2. Đặc điểm của chính quyền đô thị
Thứ nhất, chính quyền đô thị là một đơn vị hành chính độc lập
Lãnh thổ đô thị là một thể thống nhất, liên hoàn, không thể chia cắt thành
các bộ phận riêng lẻ. Hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội là một chỉnh thể
liên quan, gắn bó trực tiếp với nhau trên phạm vi toàn đô thị, không thể chia cắt
theo từng địa bàn. Các công trình kinh tế, văn hoá, xã hội chỉ có thể được xây
dựng theo quy hoạch chung của cả đô thị và nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển
kinh tế và đời sống của dân cư toàn đô thị.
Do đó, chính quyền đô thị là nơi thực thi các chính sách, pháp luật nhằm
quản lý mọi mặt của đời sống xã hội thông qua việc sử dụng các công cụ, biện
pháp, phương tiện phù hợp. Muốn vậy, chính quyền đô thị phải tiến hành quản
lý các mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, môi trường…Trên phương diện
thực hiện quyền lực, chính quyền đô thị thực hiện nhiệm vụ lập quy, nghĩa là
ban hành các văn bản liên quan đến công tác qui hoạch, xây dựng và vận hành
43
bộ máy một cách tập trung, có trật tự, thông suốt, nhịp nhàng, có hiệu lực, hiệu
quả cao. Trên phương diện hành pháp, chính quyền đô thị giải quyết các mối
quan hệ giữa cá nhân và cá nhân, giữa cá nhân với tổ chức, giữa các tổ chức
với nhau khi tiến hành qui hoạch, xây dựng và vận hành đô thị. Trên phương
diện Tư pháp tức là đảm bảo pháp luật, pháp lệnh được thực thi đầy đủ, có hiệu
lực. Điều này cũng có nghĩa trong phạm vi một đô thị chỉ nên có một tổ chức
bộ máy thống nhất. Các đơn vị cấp dưới chỉ là cánh tay nối dài của chính quyền
đô thị, không có tư cách pháp nhân. Chính quyền ở đô thị thường hoạt động
độc lập, ít khi chịu sự chi phối trực tiếp bởi chính quyền cấp trên và chịu trách
nhiệm trước pháp luật, trước người dân ở vùng đô thị đó về các hoạt động,
quyết sách của chính quyền mình.
Thứ hai, chính quyền đô thị thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở đô
thị trên nhiều lĩnh vực khác nhau
Tổ chức bộ máy chính quyền đô thị thường được tổ chức khá chặt chẽ,
có chức năng, nhiệm vụ cụ thể và gắn với từng cá nhân. Tùy thuộc vào cấp độ,
tính chất của từng loại đô thị mà quy mô bộ máy chính quyền cũng lớn hoặc
nhỏ khác nhau. Không có mẫu chung cho tổ chức bộ máy chính quyền đô thị
cho tất cả các quốc gia, mà tùy thuộc vào cách thức tổ chức quyền lực nhà nước
của mỗi quốc gia mà tổ chức cấp độ chính quyền lớn, nhỏ, cao, thấp khác nhau.
Tuy nhiên, khi xây dựng chức năng, nhiệm vụ của cấp chính quyền đô
thị, cũng có thể có vài điểm trùng nhau về các lĩnh vực quản lý nhà nước. Ví
dụ như quản lý nhà nước về dân cư ở đô thị; quản lý nhà nước về hoạt động
kinh tế ở đô thị; hoạt động quản lý nhà nước về cơ sở hạ tầng của đô thị; môi
trường, cây xanh, không khí, nước sạch ở đô thị; quản lý nhà nước về trật tự đô
thị.
Thứ ba, chính quyền đô thị có chức năng trực tiếp phân phối, cung cấp
các dịch vụ công cộng đáp ứng nhu cầu phức tạp hơn của cư dân đô thị so với
44
nông thôn
Dân cư đô thị là tập trung từ nhiều vùng, miền khác nhau, có cuộc sống
khá độc lập với nhau, với lối sống hợp cư, luôn biến động, hầu như không có
sự liên kết về huyết thống, tập quán, truyền thống chặt chẽ theo dòng tộc, cộng
đồng tự quản như ở nông thôn. Đồng thời, dân cư đô thị có trình độ dân trí cao
hơn ở nông thôn, tôn trọng những chuẩn mực có tính pháp lý hơn là những quy
tắc có tính cộng đồng. Mặt khác,khối dân cư ở đô thị tập trung cao với nhiều
thành phần, tầng lớp khác nhau với các hoạt động đa dạng, có nhu cầu cao về
nhiều mặt. Điều này dẫn đến việc quản lý con người trong đô thị hết sức phức
tạp so với nông thôn nơi cư dân khá thuần nhất.Chính quyền ở đô thị phải quan
tâm giải quyết nhiều vấn đề bức xúc hàng ngày như cấp, thoát nước, rác thải
sinh hoạt, vấn đề nhà ở, giao thông, ô nhiễm môi trường, ô nhiễm không khí,
không gian sinh hoạt cộng đồng chung tại các khuôn viên cây xanh, công viên,
quản lý dân cư với nhiều tầng lớp, thành phần xã hội khác nhau.
Chính quyền ở đô thị khi giải quyết công việc cũng hết sức linh hoạt, bởi
đặc điểm dân cư đông đúc, tần suất giải quyết công việc lớn, nhu cầu của người
dân đa dạng, phức tạp. Điều này cũng tạo nên sức ép và căng thẳng cho chính
quyền đô thị. Do đó, chính quyền đô thị phải thể hiện được ý chí, nguyện vọng,
giải quyết kịp thời các vấn đề kinh tế - xã hội trên phạm vi toàn đô thị, phải có
tính chuyên nghiệp, linh hoạt, áp dụng công nghệ thông tin để phục vụ quản lý,
nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ công, đảm bảo sự hài lòng của người
dân.
2.1.3. Chính quyền phường và vị trí, vai trò, đặc điểm của chính quyền
phường
Chính quyền phường được hiểu là tổ chức trong nội bộ của đô thị hoặc
thuộc chính quyền thành phố. Mỗi một quốc gia, đều có quy định về cơ cấu tổ
chức, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của loại đơn vị hành chính này, có thể có
tên gọi khác nhau nhưng có đặc điểm chung là tổ chức này rất gần với địa
45
phương. Có nhiều quốc gia quy định đây là cấp hành chính thấp nhất của chính
quyền cơ sở (Philippin gọi là: Barangay (phường, xã); Trung quốc gọi là cấp
hương (cấp hương ở Trung quốc có hai loại hình đơn vị hành chính là hương
và trấn, tương đương cấp xã của Việt Nam); Hàn Quốc cấp thấp nhất trong bộ
máy chính quyền địa phương được gọi là: Dong, Eup, Myon, để dễ hiểu có thể
gọi là cấp xã). Đây cũng là tổ chức chính quyền có Hội đồng do người dân ở
vùng, địa phương, xã, phường đó trực tiếp bầu ra theo phương thức phổ thông
đầu phiếu, chịu trách nhiệm chính trong việc quyết định những công việc quản
lý hành chính, giữ gìn, bảo vệ an ninh trật tự, chăm lo đời sống người dân và
cung cấp dịch vụ công cộng cho người dân ở địa phương, trong phạm vi lãnh
thổ được xác định.
Ở Việt Nam, tại các văn bản Luật, dưới Luật không có quy định hoặc
khái niệm, định nghĩa về chính quyền phường, nhưng tại Điều 58, Luật Tổ chức
chính quyền địa phương năm 2015 có khái niệm về chính quyền địa phương ở
phường: “là cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân phường
và Ủy ban nhân dân phường”. Mới đây, Nghị quyết của Quốc hội đề xuất mô
hình thí điểm tổ chức chính quyền đô thị, việc quan niệm chính quyền địa
phương ở phường là cấp chính quyền địa phương gồm có HĐND phường và
UBND phường có sự thay đổi. Theo đó, tại Nghị quyết số 97/2019/QH14 của
Quốc hội, thì chính quyền địa phương ở các phường thuộc quận, thị xã tại
Thành phố Hà Nội là Ủy ban nhân dân phường; tại Nghị quyết số
119/2020/QH14 ngày 19/6/2020 của Quốc hội về thí điểm mô hình chính quyền
đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng, thì
chính quyền địa phương ở các phường thuộc quận tại thành phố Đà Nẵng là Ủy
ban nhân dân phường. Ủy ban nhân dân phường là cơ quan hành chính nhà
nước ở phường, thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo Nghị quyết và theo
phân cấp, ủy quyền của UBND, chủ tịch UBND thành phố, UBND quận.
46
Vị trí, vai trò của chính quyền phường:
Chính quyền phường đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền lợi của
nhân dân ở phường
Hội đồng nhân dân ở phường được xem là cơ quan đại diện cho ý chí của
nhân dân địa phương do nhân dân địa phương bầu ra một cách dân chủ. Hội
đồng nhân dân phường có quyền quyết định những vấn đề quan trọng trong
phạm vi phường như vấn đề dự toán thu ngân sách trên địa bàn phường, chi
ngân sách phường; xem xét thông qua các văn bản quy phạm pháp luật theo
thẩm quyền. Chính quyền phường có thể nhận khiếu nại của người dân trên địa
bàn, quản lý các vấn đề về xã hội như văn hóa, giáo dục, y tế theo thẩm quyền
và giám sát việc thực hiện các quyết định đó.
Chính quyền phường là nơi giải quyết các công việc trực tiếp với dân,
gần dân, hiểu dân nhất, quản lý những hoạt động gần gũi, thiết thực nhất của
nhân dân. Phường cũng là nơi quyền dân chủ trực tiếp của dân có điều kiện
thực hiện một cách rộng rãi và quyền dân chủ đại diện thông qua Hội đồng nhân
dân được người dân tín nhiệm bầu nên.
Chính quyền phường là bộ phận quan trọng trong bộ máy nhà nước, thực
hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước ở cơ sở
Trong cấu trúc của chính quyền phường, thường có Hội đồng nhân dân
và Ủy ban nhân dân. Hội đồng nhân dân ở phường có quyền quyết định các
biện, chính sách phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, y tế, giáo dục trên phạm vi
địa phương.Trong thực tế, địa giới hành chính phường chỉ có ý nghĩa trong
phân cấp quản lý hành chính nhà nước và khó có thể quyết định được tính độc
lập của một đơn vị hành chính. Và thực tế, chính quyền phường chỉ thực hiện
một số mặt quản lý hành chính nhà nước theo pháp luật, các nhiệm vụ cấp trên
giao. Nhưng phường đóng vai trò hết sức quan trọng ở địa phương và chịu trách
nhiệm trực tiếp trước chính quyền cấp trên trong việc thực hiện các chính sách
47
của nhà nước liên quan đến nhà ở. Chính quyền phường trực tiếp thực thi và có
các giải pháp thúc đẩy dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe, quản lý, phát triển giáo
dục, xúc tiến việc làm, cho người dân ở địa phương.
Đặc điểm của chính quyền phường
Chính quyền phường hoạt động trên địa bàn đô thị, có mật độ dân số
đông đúc và có tần suất thực hiện nhiệm vụ trên địa bàn lớn
Do đặc điểm dân cư ở đô thị có mật độ dân số đông, có nhu cầu đa dạng,
phức tạp nên chính quyền phường thường xuyên ứng phó với nhiều tình huống
phát sinh liên quan đến đời sống dân cư. Việc giải quyết nhiều nhiệm vụ liên
quan đến lợi ích trực tiếp của người dân trên địa bàn tạo áp lực lớn cho chính
quyền phường. Đây cũng là đặc điểm chung của nhiều đô thị lớn, về mật độ
dân số dày đặc, kéo theo nhiều nhu cầu khác nhau của xã hội. Do đó, các hình
thức sinh hoạt, kinh doanh của hộ dân trên địa bàn phường cũng đa dạng, phong
phú. Nhiều trường hợp có mâu thuẫn giữa các công dân, hộ gia đình, nhiều tình
huống cần phản ứng nhạy bén, cách thức xử lý khác nhau.
Nhiệm vụ của chính quyền phường thường thực thi, thừa hành là chính,
cán bộ, công chức áp lực lớn trong công việc và đôi khi quá tải trong thực hiện
nhiệm vụ
Các nhiệm vụ của chính quyền phường thường tuân thủ theo quy định
sẵn có, mang tính chất thực thi, thừa hành văn bản hướng dẫn của chính quyền
cấp trên. Có ít trường hợp chính quyền phường ban hành chính sách mới, phần
lớn là dựa vào quy định của cấp trên để ban hành các quy định phù hợp với tính
chất, hoạt động của chính quyền phường. Đối với cán bộ, công chức là những
đối tượng được trao quyền thực hiện nhiệm vụ tại chính quyền phường. Tuy
nhiên, với mật độ dân số đông như đã phân tích ở trên, nhiều nhu cầu đa dạng,
phong phú và có các lĩnh vực quản lý nhà nước tại phường liên quan trực tiếp
đến quyền, lợi ích của người dân, doanh nghiệp trên địa bàn. Với khối lượng
công việc nhiều, được lặp đi, lặp lại nhiều lần khiến cán bộ, công chức ở các
48
phường thuộc thành phố, thường có áp lực lớn hơn so với công việc của các
công chức ở chính quyền phường thuộc thành phố nhỏ. Điều này dẫn đến tâm
lý trong thực thi công vụ của một số cán bộ, công chức phường. Các quy định
pháp luật hiện nay vẫn đang quy định giống nhau về thẩm quyền, nhiệm vụ của
chính quyền phường ở đô thị, chưa có phân biệt về chức năng, nhiệm vụ, tính
đặc thù giữa chính quyền đô thị, nông thôn, hải đảo Vấn đề chưa đồng đều trong
quy định của pháp luật, tính cào bằng và quy định giống nhau về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn dẫn đến có nhiều bất cập trên triển khai thực tiễn thực thi
nhiệm vụ.
2.1.4. Phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền phường là tất yếu
khách quan
Phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền phường là nhu cầu khách
quan, phát triển lợi ích của mỗi địa phương, tăng cường dân chủ, tự chủ trong
quản lý hành chính.
Việc phân định rõ vị trí, thẩm quyền của cấp trung ương và các cấp địa
phương là vấn đề đang gặp phải khó khăn của nhiều quốc gia. Đối với mô hình
nền hành chính tập quyền, chính quyền trung ương tập trung trong tay mọi
quyền lực, được tổ chức theo cơ chế cơ quan trung ương được quyết định tất cả
mọi vấn đề quan trọng nhất và các cấp chính quyền thấp hơn bắt buộc phải tuân
thủ. Song hiện nay, vấn đề tập quyền trong quản lý nhà nước không còn phù
hợp, bởi trên thực tế, sự đa dạng và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của từng
địa phương trong cả nước là khác nhau. Chính quyền trung ương không thể
nắm bắt và tự ban hành quyết định, điều hành mọi vấn đề của chính quyền địa
phương. Do đó, một trong những biện pháp có lợi để phát huy được thế mạnh,
lợi ích của chính quyền địa phương, cần bổ trợ thêm biện pháp khác để quản lý
nhà nước có hiệu quả hơn, đó là phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền
địa phương, nhất là phân cấp cho chính quyền phường. Giải pháp này mang lại
lợi ích lớn cho chính quyền phường, gia tăng đáng kể sự chủ động, tự chủ của
49
chính quyền phường trong giải quyết các công việc, nhiệm vụ được phân cấp,
đồng thời chủ động quyết định các vấn đề có tác động trực tiếp tới người dân
thuộc quyền quản lý.
Có thể nói, phân cấp vừa là nhu cầu tất yếu của việc quản lí đất nước
rộng lớn, vừa là nhu cầu phát triển lợi ích của mỗi địa phương, nhất là những
địa phương có điều kiện phát triển mạnh, mong muốn phải có những quyền, lợi
ích nhất định trong quá trình phát triển. Việc phân cấp luôn phản ánh mối quan
hệ giữa trung ương và địa phương, giữa chính quyền cấp trên và chính quyền
cấp dưới. Việc phân cấp cho mỗi cấp mỗi địa phương và ở mỗi thời kỳ đòi hỏi
phải khác nhau. Tuy vậy, nó luôn được coi là vấn đề tất yếu của nhà nước và
phụ thuộc vào khả năng của chính quyền địa phương trong mỗi giai đoạn phát
triển. Trường hợp phân cấp, giao quá nhiều quyền có thể dẫn đến chính quyền
địa phương sẽ quá tải, không thể thực hiện hết nhiệm vụ. Ngược lại, nếu phân
cấp, giao quá ít quyền thì hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương sẽ
không cao. Xu hướng chung trong các nhà nước dân chủ hiện đại là khi xã hội
phát triển cao thì việc phân cấp diễn ra nhiều hơn, chính quyền các địa phương
được trao cho nhiều nhiệm vụ, quyền hạn hơn.
Bối cảnh kinh tế - xã hội phát triển, nhà nước cần có các biện pháp gia
tăng hiệu quả hoạt động quản lý, trong đó có giải pháp về phân cấp cho chính
quyền phường.
Hướng tới quản trị công hiện đại, đáp ứng được những thay đổi lớn
đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ của đời sống kinh tế, xã hội và khi đối
diện bởi những thay đổi nhanh chóng của công nghệ thông tin, nhà nước
cần có các biện pháp tích cực, nhằm gia tăng vị trí, vai trò quản lý, vừa thể
hiện sự phân phối lại quyền lực giữa các cấp chính quyền, đảm bảo hài hòa,
cân đối, phù hợp. Quản trị ở nền hành chính tập trung quyền lực không còn
phù hợp, thay vào đó có các thiết chế khác tồn tại như các tổ chức xã hội,
doanh nghiệp, công ty đa quốc gia…đặt ở nhiều địa phương khác nhau, dẫn
50
đến nhà nước cần điều tiết lại quyền lực của mình, tiến hành phân cấp cho
chính quyền cấp dưới để chủ động thực hiện nhiệm vụ, đáp ứng ngay các
yêu cầu của người dân, doanh nghiệp và các nhu cầu cơ bản khác trên địa
bàn lãnh thổ.
Công cụ mà nhà nước cần vận dụng trong trường hợp này, chính là
phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền cơ sở, cụ thể là chính quyền
phường. Theo đó, cơ quan nhà nước ở trung ương thực hiện ban hành chính
sách, pháp luật và định hướng thực hiện, giảm tải nhiệm vụ thực hiện trực
tiếp, tiến hành phân cấp khoa học, hợp lý đối với chính quyền phường trên
các mặt khác nhau của kinh tế - xã hội và cung ứng dịch vụ công. Vấn đề
phân cấp cho chính quyền phường, cũng là xu thế tất yếu, một mặt nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước ở trung ương, đồng thời phát huy
điều kiện vật chất, khả năng đáp ứng công việc, nhiệm vụ của chính quyền
cơ sở, trong phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước, quốc gia.
Việc phân cấp quản lý nhà nước giữa chính quyền cấp trên đối với chính
quyền phường một mặt, nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo, quyền tự chủ,
tự chịu trách nhiệm của chính quyền phường trên cơ sở phân định rõ, cụ thể
nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm trong bộ máy chính quyền nhà nước; mặt
khác, bảo đảm sự quản lý tập trung, thống nhất và thông suốt của chính quyền
trung ương, tăng cường kỷ luật, kỷ cương để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản
lý nhà nước. Phân cấp quản lý giữa chính quyền cấp trên với chính quyền
phường nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu, lợi ích của nhân dân, thúc đẩy kinh tế -
xã hội ở từng địa phương phát triển, trên cơ sở phát huy thế mạnh của mỗi địa
phương trong một nhà nước thống nhất. Do vậy, việc phân cấp hợp lý, chính
xác sẽ có những tác dụng tích cực như:
Thúc đẩy sự phát triển dân chủ thông qua việc cung cấp những cơ hội tốt
hơn để người dân tham gia tích cực và trực tiếp hơn vào các quá trình ra quyết
51
định của các cơ quan nhà nước các cấp.
Tăng cường hiệu quả của việc cung cấp các dịch vụ công cho nhân dân
thông qua phân cấp cho chính quyền phường thực thi chức năng cung cấp dịch
vụ công, từ đó hạn chế sự quan liêu và trì trệ của các cơ quan nhà nước cấp
trên, cơ quan trung ương.
Tạo điều kiện để nâng cao chất lượng của những dịch vụ công được cung
cấp cho người dân dựa trên trách nhiệm giải trình và sự nhạy cảm trong việc
nắm bắt, đáp ứng nhu cầu của dân chúng của chính quyền phường.
Tăng cường sự phát triển về kinh tế, xã hội dựa trên sự am hiểu chính
xác điều kiện kinh tế - xã hội và các đặc điểm về địa lý, dân cư… của chính
quyền phường, trên cơ sở đó đề ra các kế hoạch và có những chính sách đúng
đắn cho việc phát triển, phát huy thế mạnh của chính quyền phường.
Tăng cường sự chủ động, minh bạch, trách nhiệm giải trình và năng lực
giải quyết các công việc của các cơ quan chính trong chính quyền phường.
Cho phép đại điện đa dạng hơn về chính trị và sự tham gia của các nhóm
lợi ích như văn hóa, chính trị, tôn giáo, sắc tộc khác nhau… vào quá trình ra
quyết định của các cơ quan nhà nước liên quan đến các vấn đề của mỗi địa
phương.
Tăng cường sự ổn định chính trị và sự thống nhất của quốc gia thông qua
việc cho phép người dân quyền giám sát một cách trực tiếp và hiệu quả hơn các
chương trình, kế hoạch và hoạt động của chính quyền phường.
Tạo điều kiện cho những ý tưởng kinh tế, chính trị, xã hội… mới nảy
sinh, từ đó có được những chương trình, hoạt động quản lý nhà nước có tính
sáng tạo hơn đối với mỗi địa phương.
2.2. Nội dung, hình thức, phương pháp, nguyên tắc và điều kiện
đảm bảo thực hiện phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền phường
Việc phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền địa phương nói chung,
chính quyền phường nói riêng ở từng thời kỳ, đòi hỏi sự khác nhau về thẩm
52
quyền, nội dung, hình thức và phương pháp. Phân cấp quản lý nhà nước đối với
chính quyền phường, phụ thuộc khá lớn vào vai trò của nhà nước ở trung ương
và chính quyền cấp trên, được xác định bởi các văn bản quy phạm pháp luật
làm căn cứ pháp lý và tùy vào khả năng đáp ứng nhiệm vụ phân cấp, năng lực
của chính quyền phường.
2.2.1. Nội dung phân cấp
Mỗi một giai đoạn lịch sử và đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước mà
chính quyền nhà nước cấp trên xác định các nội dung phân cấp cho chính quyền
địa phương. Đối với địa phương nào có điều kiện phát triển tốt thì mong muốn
được phân cấp nhiều hơn. Tuy nhiên, có thể ở từng thời điểm, cơ quan nhà nước
cấp trên chưa thực hiện phân cấp vì việc phân cấp sẽ ảnh hưởng đến quyền lực,
lợi ích, thu nhập hợp pháp của chính quyền trung ương, của các cơ quan chủ
quản. Do vậy, có tồn tại tình trạng là các cơ quan trung ương, cơ quan cấp trên
có thẩm quyền nhưng không có khả năng giải quyết hết mọi công việc, còn các
cơ quan địa phương, cơ quan cấp dưới có khả năng giải quyết tốt công việc
nhưng không được phân cấp để thực hiện từ đó dẫn đến hiện tượng quan liêu,
bao cấp, kém hoặc không hiệu quả trong giải quyết các công việc nhà nước.
Ngược lại với tình trạng trên là việc phân cấp quá nhiều nhiệm vụ cho
chính quyền phường có thể dẫn đến tình trạng chính quyền đó không đủ năng
lực, trình độ, hoặc vượt quá khả năng giải quyết để thực hiện những nhiệm vụ,
quyền hạn được giao. Phân cấp cũng có thể dẫn đến sự tùy tiện sử dụng những
gì được phân cấp để làm lợi cục bộ cho chính quyền mình, bất chấp hoặc không
tính đến lợi ích của các cấp chính quyền khác khác hoặc lợi ích của quốc gia
trong tổng thể. Ở mỗi quốc gia đều có quy định về nội dung phân cấp và không
có sự giống nhau, thống nhất giữa các nước về vấn đề này. Ở Việt Nam, nội
dung phân cấp là trao cho mỗi cấp chính quyền những nhiệm vụ, quyền hạn để
giải quyết những công việc nhất định. Nhiệm vụ, quyền hạn được trao thể hiện
53
dưới dạng quyền đi liền với trách nhiệm. Trên cơ sở phân định thẩm quyền hành
chính của mỗi cấp, nội dung phân cấp được nhìn nhận ở các phương diện như
sau:
Một là, phân cấp về thẩm quyền quản lý nhà nước
Phân cấp về thẩm quyền quản lý nhà nước thực chất là việc làm rõ cấp
chính quyền nào được phép làm nhiệm vụ gì, được quyết định về nhiệm vụ đó
ở mức độ nào và cấp thẩm quyền đó có trách nhiệm, quyền hạn như thế nào đối
với nhiệm vụ được phân cấp.
- Phân cấp quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, quy hoạch, đầu tư
Ở lĩnh vực này, nội dung phân cấp có thể cho phép chính quyền phường
quyết định về chủ trương đầu tư, mức đầu tư; quản lý đầu tư cơ bản; quản lý về
các ngành, nghề sản xuất kinh doanh. Đối với vấn đề quy hoạch thường tuân
thủ theo quy hoạch vùng, quy hoạch lãnh thổ, quốc gia và thông thường vấn đề
này ít khi được phân cấp cho chính quyền phường quyết định.
- Phân cấp quản lý nhà nước trong lĩnh vực môi trường, đất đai, xây dựng,
giao thông đô thị; văn hóa, xã hội
Các nội dung tiến hành phân cấp có thể liên quan đến thẩm quyền giao
đất, cho thuê đất; thu hồi đất; quản lý trong lĩnh vực giải phóng mặt bằng, đền
bù cho người dân. Thực hiện quản lý nguồn tài nguyên, quản lý đất đai, cho
phép người dân xây dựng nhà ở riêng lẻ, về bảo vệ môi trường. Các nội dung
phân cấp quản lý khác như: các hoạt động văn hóa, tâm linh, trung tâm thể thao,
thư viện, bảo tàng, các hoạt động thể thao, vui chơi giải trí.
- Phân cấp quản lý nhà nước trong lĩnh vực y tế, giáo dục: Đối với nội
dung phân cấp này, chính quyền phường chịu trách nhiệm chăm sóc sức khỏe
cộng đồng; phụ trách giáo dục từ mẫu giáo đến phổ thông trung học.
- Phân cấp quản lý nhà nước về ngân sách: Chính quyền phường có thể
quyết định về lập dự toán, điều chỉnh mức độ mức thu, chi ngân sách, thu các
loại phí, mức phí, các khoản đóng góp của người dân trên địa bàn phường để
54
phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội, an sinh ở cấp chính quyền của mình.
- Phân cấp quản lý nhà nước về nhân sự: Đây là thẩm quyền thường được
cân nhắc khi tiến hành phân cấp. Một vài quốc gia cho phép chính quyền
phường, xã được tự chủ trong việc tuyển dụng nhân sự vào làm việc tại bộ máy
chính quyền địa phương ở phường. Đi kèm với thẩm quyền tự chủ tuyển dụng
nhân sự là sự chủ động trong việc khen thưởng, trả lương, các chế độ đãi ngộ,
trợ cấp, điều kiện làm việc cho họ trong môi trường thích hợp.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều quốc gia chưa tiến hành phân cấp nhiệm vụ
này, việc tuyển dụng nhân sự làm việc trong cơ quan hành chính nhà nước, phục
vụ nền công vụ vẫn phải được tiến hành bởi cơ quan nhà nước cấp tỉnh trở lên,
có thẩm quyền được quy định tại Luật hoặc văn bản hướng dẫn dưới Luật, tuân
thủ theo một trình tự, thủ tục nhất định, đảm bảo chặt chẽ trong khâu tuyển
dụng, đồng thời áp dụng thống nhất mức lương, ưu đãi và các đãi ngộ khác.
Hai là, phân cấp quản lý nhà nước về trực tiếp cung ứng dịch vụ công
trên địa bàn phường
Cung ứng dịch vụ công là lĩnh vực được nhà nước phân cấp nhiều hơn
cả, tùy thuộc vào khả năng đáp ứng của chính quyền phường, trên cơ sở cân
nhắc lợi ích giữa đối tượng hưởng thụ và chính quyền cung ứng dịch vụ. Các
dịch vụ công cộng được chú trọng phân cấp như: giao thông công cộng, nước
sạch; dịch vụ xử lý rác thải ô nhiễm; dịch vụ vệ sinh; dịch vụ sinh hoạt đi lại;
dịch vụ y tế.
Các loại dịch vụ công được chính quyền phường chủ động cung ứng trực
tiếp đến người dân, người dân là đối tượng được hưởng thụ và chính quyền
phường là cơ quan có nhiệm vụ cung ứng để phục vụ nhu cầu của họ.
Thông thường nội dung phân cấp được tiến hành theo nguyên tắc, nhà
nước nắm giữ những ngành chủ đạo, then chốt có tính quyết định trên cả nước
như đối ngoại, quốc phòng an ninh, còn lại các vấn đề khác có thể phân cấp cho
chính quyềnphường, có tính đến yếu tố khả năng đáp ứng của chính quyền
55
phường, điều kiện thực hiện nhiệm vụ phân cấp, khi thực hiện phân cấp không
hiệu quả, chính quyền cấp trên sẽ ngừng phân cấp và thu hồi các nhiệm vụ đã
được phân cấp.
2.2.2. Hình thức phân cấp
Có nhiều cách phân loại hình thức phân cấp bởi các tiêu chí để đưa
ra hình thức phân cấp chỉ mang tính tương đối, vì đây là hoạt động đặc biệt,
vừa mang tính chính trị, tính chuyên môn, vừa thể hiện sự kết hợp giữa quản
lý ngành và lãnh thổ. Do đó, trong khuôn khổ Luận án này, hình thức phân
cấp được nhìn nhận và phân chia tương đối, dựa trên mô hình hoạt động
của quản lý nhà nước, dựa vào chức năng, nhiệm vụ của cơ quan nhà nước.
Việc phân chia hình thức phân cấp thành các loại không có nghĩa là những
hình thức này đứng độc lập, riêng rẽ mà để nhìn nhận, nhấn mạnh từng khía
cạnh, từng lĩnh vực quản lý nhà nước. Theo đó, các hình thức phân cấp có
thể nhìn nhận ở ba góc độ: [50, tr 153 - 159]
- Hình thức tản quyền: Là hình thức phân công lại quyền ra quyết
định, trách nhiệm quản lý và tài chính giữa các bộ phận của bộ máy hành
chính. Nghĩa là cơ quan nhà nước của trung ương không chỉ đóng tại trung
phương mà còn có các chi nhánh tại địa phương tùy theo mức độ cần thiết
của hoạt động quản lý. Hình thức tản quyền này, một số nhiệm vụ được
chuyển giao cho những chi nhánh ở địa phương này, đồng thời cán bộ ở đây
là người xử lý trực tiếp. Thông qua hình thức này cũng góp phần phát huy
tính chủ động, sáng tạo của địa phương.
- Hình thức ủy quyền: Trường hợp này, Chính phủ chuyển giao quyền
ra quyết định và quản lý một số chức năng nhà nước cho một số cơ quan
khác thuộc hệ thống. Các tổ chức này, khi thực hiện quyền đó cần có báo
cáo đến chủ thể ủy quyền. Khi nhận ủy quyền, cơ quan hành chính đó được
quyền ra quyết định để quản lý nhà nước, quyền thu phí để trang trải hoạt
động theo quy định của nhà nước. Hình thức ủy quyền, quyền đó vẫn thuộc
56
cơ quan nhà nước cấp trên hoặc của cơ quan nhà nước ở trung ương. Trong
trường hợp cơ quan nhà nước cấp trên, địa phương nhận thấy không cần
thiết phải tiến hành ủy quyền, có thể thu hồi các quyền đã ủy bằng việc ra
văn bản thu hồi, điều chỉnh lại cho phù hợp.
- Hình thức trao quyền: Đây là hình thức giao quyền làm quyết định,
quyền quản lý cho cơ quan nhà nước cấp dưới. Theo đó, cơ quan chính
quyền cấp trên trao cho chính quyền địa phương các cấp trách nhiệm mới,
gắn với việc sử dụng quyền lực nhà nước, những trách nhiệm trước đây
thuộc về cơ quan cấp trên, nay được trao cho chính quyền cấp dưới, nhằm
phát huy lợi thế, tính chủ động, trách nhiệm của chính quyền cấp dưới đối
với người dân, cộng đồng.
Việc trao quyền đòi hỏi văn bản pháp lý phù hợp, khi nhận thấy không
cần thiết phải trao quyền, cơ quan nhà nước cấp trên ban hành văn bản pháp
lý để thu hồi quyền đã trao.
Ở Việt Nam, phân cấp quản lý không hẳn là ủy quyền, tản quyền hay
trao quyền mà là sự kết hợp giữa các hình thức này một cách hợp lý nhất.
Do đó, việc phân chia các hình thức phân cấp cũng chỉ là tương đối khi nhìn
nhận nó ở các góc độ, mức độ khác nhau.
2.2.3. Phương pháp phân cấp
Để thực hiện có hiệu quả phân cấp quản lý nhà nước, phương pháp
được lựa chọn là quy định tại văn bản quy phạm pháp luật làm căn cứ pháp
lý cho chính quyền phường thực hiện nhiệm vụ được phân cấp.
Về phân cấp quản lý nhà nước thường được quy định tại Hiến pháp
ở mức độ nguyên tắc chung và được quy định cụ thể tại văn bản Luật, hướng
dẫn dưới Luật. Để gia tăng hiệu quả quản lý nhà nước, khuyến khích sự
phát triển của chính quyền cơ sở, nhiều quốc gia có Luật quy định về phân
cấp (Pháp, Italia có Luật về phân quyền; Nhật bản có Luật tăng cường phân
57
cấp; Thái Lan ban hành Luật phân cấp năm 1999; Hàn Quốc có Luật Đặc
biệt về đẩy mạnh phân quyền năm 2004). Vấn đề phân cấp được quy định tại
Luật là phương pháp hữu hiệu, làm căn cứ pháp lý điều chỉnh mang tính
tuân thủ, bắt buộc chung.
Ngoài ra, để tổ chức thực hiện phân cấp có hiệu quả, có quốc gia tiến
hành thành lập cơ quan chuyên biệt về phân cấp thuộc Chính phủ hoặc Thủ
tướng Chính phủ (Thái Lan thành lập Ủy ban phân cấp quốc gia năm 2000
và ủy ban này chịu trách nhiệm lập kế hoạch, chỉ đạo hoạt động phân cấp,
quyết định tỉ lệ phân bổ thuế giữa các cấp chính quyền). Ở Việt Nam, chưa
thực hiện tổ chức cơ quan chuyên trách có nhiệm vụ phân cấp, song trong
chức năng, nhiệm vụ của nhiều cơ quan nhà nước có quy định về thực hiện
nhiệm vụ phân cấp khi được chính quyền cấp trên giao hoặc có thẩm quyền
phân cấp nhiệm vụ của mình cho chính quyền cấp dưới một cách thường
xuyên, liên tục. Trường hợp nhận thấy không cần thiết tiến hành phân cấp,
có văn bản thu hồi vấn đề này.
Một số quốc gia đang phát triển, việc tiến hành phân cấp chưa thực
sự mạnh dạn, theo đó chưa ban hành Luật về phân cấp, song có lồng ghép
vấn đề này trong quá trình chuyển đổi, cải cách hệ thống chính trị, cải cách
hành chính, đổi mới mô hình tổ chức, hoạt động của hệ thống cơ quan nhà
nước từ trung ương đến địa phương. Thông thường việc lồng ghép các quy
định về phân cấp tại các Luật chuyên ngành, văn bản hướng dẫn dưới Luật
đồng thời có cơ chế tài chính và tạo điều kiện đảm bảo cho việc thực hiện
phân cấp.
2.2.4. Nguyên tắc thực hiện phân cấp
Thực hiện nguyên tắc phân cấp nhằm phát huy điều kiện vốn có của
địa phương, gắn với trách nhiệm của địa phương trong việc thực hiện nhiệm
vụ quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực và yêu cầu phát triển kinh tế -
xã hội ở địa phương. Để thực hiện phân cấp có hiệu quả, nguyên tắc thực
58
hiện phân cấp cần được lưu ý, cụ thể như sau:
Đảm bảo nguyên tắc sự thống nhất quản lý chung của Chính phủ về
thể chế, chiến lược, quy hoạch, thanh tra, kiểm tra trong vận hành bộ máy
nhà nước. Thực hiện phân cấp cho chính quyền cấp dưới, song vẫn cần đảm
bảo được sự xuyên suốt, nhất quán trong chỉ đạo, điều hành chung của
Chính phủ.
Đảm bảo nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành lĩnh vực và quản lý
theo lãnh thổ. Khi thực hiện phân cấp cần đảm bảo các nguyên tắc này vẫn
được duy trì, phối kết hợp, hỗ trợ lẫn nhau mang lại hiệu quả chung trong
hoạt động của bộ máy nhà nước.
Bảo đảm nguyên tắc phân cấp hiệu quả. Cấp nào thực hiện nhiệm vụ
được tốt hơn thì tiến hành phân cấp cho cấp đó, và phân cấp phải rõ nhiệm
vụ, thời gian thực hiện, điều kiện thực hiện và khi cấp thực hiện phân cấp
không có hiệu quả trên thực tế cần bảo đảm nguyên tắc thu hồi nhiệm vụ đã
tiến hành phân cấp. Khi thực hiện phân cấp phải phát huy quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm của cấp đó trên địa bàn quản lý nhà nước, đảm bảo một
nhiệm vụ không phân cấp cho 02 cấp hành chính thực hiện quản lý.
Bảo đảm nguyên tắc tương ứng, cân đối về nguồn lực, điều kiện kinh
tế, xã hội của chính quyền phân cấp và chính quyền cấp được phân cấp để
có khả năng thực hiện trên thực tế.
Tăng cường tính công khai, minh bạch, trách nhiệm thanh tra, kiểm
tra của cơ quan nhà nước phân cấp, trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà
nước được phân cấp trong việc thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước đối
với ngành, lĩnh vực ở địa phương.
2.2.5. Điều kiện đảm bảo thực hiện phân cấp
Phân cấp là xu thế tất yếu trong xã hội hiện đại, nhằm phát huy nguồn
lực của chính quyền địa phương, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội. Các
điều kiện đảm bảo thực hiện phân cấp cần nhìn nhận ở hai phía.
59
Điều kiện từ chính quyền tiến hành phân cấp
Ở chính quyền tiến hành phân cấp (cấp trên), cần có đủ công cụ kiểm
soát hữu hiệu việc thực hiện nhiệm vụ đã được phân cấp. Bởi có kiểm soát
chặt chẽ, có đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ phân cấp, chính quyền
cấp trên mới có cơ sở để tiếp tục phân cấp, thôi phân cấp hoặc chuyển giao
thẩm quyền, nhiệm vụ cho cấp chính quyền khác.
Ngoài ra, cần có đủ hệ thống chế tài nghiêm minh, minh bạch để xử
lý vi phạm do cơ quan hành chính cấp dưới gây ra, xử lý các cá nhân có liên
quan khi có sai phạm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ phân cấp. Xây
xựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật mang tính bắt buộc áp dụng
chung để quy định rõ những nhiệm vụ, thẩm quyền phân cấp.
Ở chính quyền nhận nhiệm vụ phân cấp
Ở chính quyền được nhận nhiệm vụ phân cấp, cần trang bị các điều
kiện cần thiết như cơ sở vật chất, nguồn lực, đảm bảo đủ năng lực thực thi
nhiệm vụ. Chuẩn bị nguồn nhân lực, là những cá nhân có đủ kinh nghiệm,
trình độ, hiểu biết đối với nhiệm vụ được phân cấp để thực hiện nhiệm vụ
có hiệu quả. Chuẩn bị các tình huống ứng phó, xử lý trực tiếp khi thực hiện
nhiệm vụ phân cấp gặp khó khăn, vướng mắc. Nhiều trường hợp cần tiến
hành xin ý kiến cấp trên và sự phối kết hợp giữa các cơ quan, đơn vị trong
thực hiện nhiệm vụ. Do đó, cần chuẩn bị cơ sở vật chất, con người, là điều
kiện đảm bảo quan trọng. Khi thực hiện nhiệm vụ phân cấp, chính quyền
phường cần được liên kết chặt chẽ với nguồn lực về tài chính để có điều
kiện thực hiện đầy đủ, có hiệu quả.
Cần tính đến sự tham gia của người dân thông qua các hoạt động quần
chúng, cơ quan đại diện. Đây là thước đo thể hiện sự công khai, minh bạch
trong quá trình thực hiện phân cấp. Hiệu quả quản lý nhà nước về phân cấp
được phản ánh thông qua ý kiến của người dân, thông qua các hoạt động và
sự hài lòng của người dân. Ngoài ra, cần có điều kiện đảm bảo về cơ chế
60
phù hợp để người dân được có ý kiến dân chủ, công khai, bày tỏ những
mong muốn để cấp chính quyền trực tiếp giải quyết, đây cũng là cách thức
để người dân tham gia các hoạt động quản lý.
2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến phân cấp cho chính quyền phường
2.3.1. Yếu tố thể chế
Với tư cách là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội, thể chế có tác động
và ảnh hưởng mạnh mẽ tới các quan hệ xã hội nói chung, cũng như tới tất cả
các yếu tố của thượng tầng chính trị - pháp lý nói riêng. Sự tác động và ảnh
hưởng của thể chế ở nhiều mức độ khác nhau tùy thuộc vào từng loại đối tượng
và từng loại quan hệ cụ thể. Yếu tố thể chế có ảnh hưởng trong giai đoạn xây
dựng thể chế, thiết kế bộ máy chính quyền phường. Theo đó, cơ cấu tổ chức,
chức năng nhiệm vụ, thẩm quyền, về thực hiện phân cấp, phân quyền...đều được
quy định tại thể chế.
Chế định về chính quyền địa phương trong các văn bản luật và hướng
dẫn dưới luật sẽ xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của các cấp
chính quyền địa phương và xác định những quan hệ mang tính nguyên tắc giữa
các cấp chính quyền với nhau.
Do đó, khi các quy định pháp lý thay đổi sẽ làm ảnh hưởng đến mối quan
hệ này và mức độ, nội dung, hình thức giữa các cấp chính quyền địa phương.
Yếu tố thể chế cũng là cơ sở để thực hiện quá trình phân cấp giữa chính quyền
thành phố, chính quyền quận và phường. Nhờ khung thể chế mà chính quyền
thành phố, quận có khả năng quản lý thống nhất các hoạt động tại các phường.
Sự thay đổi của thể chế sẽ dẫn tới thay đổi ý thức, hành vi của con người trong
nhận thức, tác động mạnh mẽ và kéo theo những thay đổi trong phát triển xã
hội.
2.3.2. Yếu tố môi trường xã hội – văn hóa truyền thống
Dân cư đô thị nói chung, ở phường nói riêng rất đa dạng, phức tạp. Là
một khu vực tập hợp dân cư đông đúc, tập trung với mật độ cao, dân cư ở
61
phường có nguồn gốc rất khác nhau mang theo những phong tục, tập quán và
lối sống khác nhau. Dân cư ở phường có trình độ học thức và dân trí nhìn chung
cao hơn khu vực nông thôn, thành phần dân cư không thuần nhất. Cơ sở hạ tầng
ở phường phức tạp và đồ sộ hơn nhiều so với nông thôn. Các công trình trên
địa bàn có tính liên hoàn, có nhiều mạng lưới xuyên suốt, không phụ thuộc vào
địa giới hành chính, đòi hỏi quản lý tập trung theo chuyên ngành, không thể
phân tán, cắt khúc trong quản lý. Các cơ sở hạ tầng xã hội và phúc lợi công
cộng được xây dựng theo một quy hoạch thống nhất chung và phục vụ cho đại
đa số nhân dân. Do vậy việc quản lý dân cư của chính quyền phường gặp khó
khăn và phức tạp hơn nhiều so với nông thôn.
Văn hóa, truyền thống của cộng đồng lãnh thổ thể hiện những giá trị,
chuẩn mực để điều chỉnh hành vi con người, thể hiện thông qua dư luận xã hội.
Dân cư ở đô thị có văn hóa lối sống, hành xử phong phú, do sự đa dạng về dân
cư, do dịch chuyển lao động từ nông thôn ra thành thị, nên việc định hướng,
thực hiện văn hóa thống nhất trong các khu, cụm, tổ dân phố là vấn đề khó
khăn.
Yếu tố lịch sử, truyền thống còn tạo nên sự gắn kết giữa các cộng đồng
dân cư, tạo nên truyền thống, tập quán làm ăn, sinh sống và quan hệ xã hội riêng
có của mỗi địa phương, và là một chỗ dựa vững chắc về tinh thần. Các yếu tố
lịch sử, truyền thống còn tạo nên cách nghĩ, nếp sinh hoạt và thói quen tư duy
cũng như trong hành động của người dân, của đội ngũ cán bộ, công chức tại địa
phương. Vì thế các chủ trương, cơ chế, chính sách không phù hợp với lòng dân,
vi phạm yếu tố lịch sử, truyền thống của địa phương sẽ khó lòng mang tính khả
thi và khó đi vào đời sống xã hội trên địa bàn lãnh thổ.
Về môi trường xã hội còn có yếu tố môi trường quốc tế trong đó có hội
nhập và toàn cầu hóa.Toàn cầu hoá là một xu thế khách quan của quá trình phát
triển lực lượng sản xuất và tạo ra những bước tiến nhảy vọt dưới sự tác động
của cách mạng khoa học công nghiệp 4.0. Toàn cầu hoá tác động đến toàn bộ
62
nền kinh tế và quản lý nhà nước của tất cả các quốc gia buộc các Nhà nước và
chính quyền địa phương phải hướng hoạt động của mình vào việc hội nhập với
các tổ chức kinh tế trong khu vực và toàn cầu, tận dụng triệt để những lợi thế
mà mình có để biến tiềm năng thành hiện thực, giải quyết những thách thức của
quá trình toàn cầu hoá, với những nguy cơ tụt hậu bằng việc các Nhà nước phải
thích ứng nhanh với các xu thế phát triển. Điều đó đòi hỏi các đô thị phải có cơ
cấu tổ chức bộ máy thích ứng linh hoạt đáp ứng sự vận động, phát triển của tình
hình mới.
2.3.3. Yếu tố lãnh thổ và cộng đồng dân cư của phường
Mỗi đơn vị hành chính được xác định tương ứng với một quy mô lãnh
thổ và một cộng đồng dân cư nhất định, được hình thành do sự gắn bó từ trong
các điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội nhất định. Mỗi cộng đồng dân cư trên
một địa bàn lãnh thổ nhất định được hình thành dựa trên các mối liên kết mang
tính lịch sử, bắt nguồn từ mối liên hệ mật thiết, gắn bó, hỗ trợ tương tác lẫn
nhau giữa dân cư đô thị và dân cư nông thôn ở các làng mạc lân cận xung quanh
một đô thị. Trong một cộng đồng lãnh thổ thường có một đô thị trung tâm (thị
trấn, thị xã, thành phố) và các vùng nông thôn bao quanh, hình thành nên một
đơn vị hành chính - lãnh thổ nhất định (tỉnh, huyện, xã). Mối liên hệ về giá trị
cũng như về lợi ích chung của cộng đồng tạo nên sự liên kết bền vững của cộng
đồng trong tiến trình lịch sử. Đây chính là hình thức định cư chủ yếu của các
cộng đồng trên một quy mô không gian xác định. Vì vậy, đó chính là yếu tố địa
xã hộicủa việc xác lập đơn vị hành chính và xác định địa giới hành chính.
Các đô thị là nơi tập trung đông dân cư, mật độ dân số cao, nặng tính hợp
cư hơn là quần cư như các vùng khác. Dân số đông là một thế mạnh của các đô
thị trong việc tiến hành công nghiệp hóa trên địa bàn đô thị bởi sẽ đáp ứng được
nhu cầu về nguồn lực lao động sống tại chỗ cho sản xuất công nghiệp. Tuy
nhiên, cũng do mật độ dân số cao cũng sẽ gây nên rất nhiều khó khăn cho hoạt
động quản lý của chính quyền thành phố trong việc giải quyết công ăn việc làm,
63
việc bảo vệ an ninh trật tự xã hội, và các vấn đề đời sống khác của nhân dân,
trong bảo vệ cảnh quan, môi trường đô thị, giải quyết vấn đề giao thông, văn
hóa xã hội… Tại khu vực đô thị, nơi ở và nơi làm việc của dân cư đô thị thường
không cùng trên cùng một địa bàn. Các cư dân đô thị chỉ gắn liền với nơi cư trú
về một số mặt sinh hoạt, còn chủ yếu họ gắn liền với nơi công tác, nơi sản xuất
kinh doanh về thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi chính trị, kinh tế, văn hóa, đời
sống. Cộng đồng đô thị gắn bó chặt chẽ với nhau về nhu cầu và lợi ích (vật
chất, văn hóa, giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội…) các yếu tố này thống nhất trong
quy mô cả một đô thị mà không phải theo ranh giới hành chính, khác hẳn với
vùng nông thôn nơi mà cộng đồng dân cư gắn kết với nhau theo đơn vị làng xã
là chủ yếu.Các đô thị là các trung tâm chính trị - hành chính, kinh tế, văn hóa-
xã hội của cả nước, của địa phương. Bộ máy chính quyền các cấp ở các đô thị
gần nhau, tập trung trên địa bàn hẹp. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc chỉ
đạo thực hiện nhiệm vụ của cấp trên đối với cấp dưới, tuy nhiên điều này cũng
dễ dẫn đến tình trạng bao biện giải quyết các vấn đề thuộc lĩnh vực đời sống
thành phố của cấp trên đối với cấp dưới; sự đùn đẩy, ỷ lại trách nhiệm giữa cấp
dưới và cấp trên; hoặc sự chồng chéo giải quyết vụ việc, nếu sự phân cấp quản
lý không rõ ràng.
Trình độ dân trí ở các đô thị cao hơn ở vùng nông thôn. Đây cũng xuất
phát từ những điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội cao hơn các vùng nông thôn.
Từ nhận thức về các mặt xã hội, người dân ý thức được quyền hạn, nghĩa vụ,
trách nhiệm của bản thân nhưng đồng thời cũng đòi hỏi về dịch vụ đáp ứng yêu
cầu của người dân cũng cao hơn.
Trình độ dân trí của cộng đồng dân cư thể hiện sự hiểu biết của người
dân về pháp luật, văn hóa – xã hội, kinh tế, khoa học, kỹ thuật và công nghệ
ngày càng được nâng cao. Vì vậy, khi tham gia vào các công việc lien quan đến
quản lý Nhà nước người dân đỡ lung túng, nắm bắt nhanh chóng các quy trình,
thủ tục hành chính do Pháp luật quy định. Người dân có yêu cầu, đánh giá cao
64
đối với người thực thi quyền lực Nhà nước tại địa phương. Đòi hỏi cơ quan
quản lý nhà nước ở địa phương phải không ngừng nâng cao trình độ quản lý,
chất lượng đội ngũ cán bộ phải được nâng cao hơn nữa nhằm đáp ứng được yêu
cầu này của người dân. Người dân hiểu rõ được vị trí, quyền hạn của mình trong
quản trị ở địa phương đòi hỏi được tôn trọng quyền công dân. Sự tác động này
thể hiện ở việc tích cực tham gia vào kiểm tra, giám sát thực hiện Quy chế dân
chủ ở cơ sở. Vì vậy, trong quản trị địa phương cần chú ý tới tổ chức các hình
thức, phương thức tham gia của người dân thực hiện khoa học. Nhiều văn bản
quy phạm pháp luật được tổ chức xin ý kiến của người dân chưa thật sự hướng
vào các đối tượng bị điều chỉnh. Việc tiếp thu giải quyết các vấn đề mà nhân
dân nêu ra chậm và luôn bị tránh, né làm giảm lòng tin và nhiệt tình của người
dân. Trình độ sử dụng công nghệ thông tin để tham gia góp ý cho các văn bản
pháp luật của nhân dân đã được nâng cao. Người dân có khả năng truy cập được
báo chí điện tử và mong muốn được cập nhật các văn bản của Nhà nước, địa
phương thông qua các trang thông tin điện tử. Hiện nay sự phổ cập báo chí điện
tử mới giới hạn ở các thành phố và một số đối tượng – thường đã là cán bộ,
công chức nhà nước. Trình độ dân cư có những tác động tích cực đến quản trị
địa phương nhưng thực tế cho thấy cũng có những tác động tiêu cực ở một số
nội dung: số lượng nông dân có trình độ học vấn thấp chiếm tỷ lệ lớn tập trung
ở khu vực nông thôn, miền núi và lao động có trình độ cao tập trung ở các đô
thị; sự hiểu biết về pháp luật của dân còn nhiều hạn chế. Điều này cho thấy cơ
cấu dân cư về trình độ chưa đồng đều vì vậy việc quản lý tại những địa phương
có sự đa dạng về cơ cấu dân cư như vậy cần đưa ra những biện pháp khắc phục
những hạn chế này. Sự thiếu hiểu biết về pháp luật sẽ hạn chế việc tuyên truyền
đường lối, chính sách, pháp luật trong nhân dân.Những đặc điểm về kinh tế,
chính trị, xã hội và cộng đồng dân cư đô thị đặt ra yêu cầu đối với chính quyền
đô thị cần phải có cơ cấu tổ chức hợp lý, thống nhất, bảo đảm sự thông suốt,
65
nhanh nhạy và hiệu lực cao phù hợp với những đặc thù riêng, với cơ chế quản
lý thích hợp bảo đảm cho quyền lực nhà nước tác động trực tiếp tới các quan
hệ kinh tế xã hội ở các đô thị.
2.3.4. Yếu tố kinh tế trên địa bàn lãnh thổ
Mỗi đơn vị hành chính lãnh thổ đều gắn với một điều kiện tự nhiên nhất
định: ruộng đất, rừng, núi, sông suối, hồ ao, tài nguyên, khoáng sản,... Những
yếu tố này là cơ sở, là nguồn lực tự nhiên cho phát triển sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ,…của mỗi đơn vị hành chính. Đối với đơn vị hành chính cấp tỉnh, yếu
tố địa kinh tế có ý nghĩa quan trọng, làm cơ sở để phát triển kinh tế tương đối
độc lập với cơ cấu công, nông nghiệp, thương mại, dịch vụ…tạo tiềm lực kinh
tế riêng của mỗi địa phương, đồng thời là một bộ phận cấu thành nền kinh tế
đất nước.
Tuy nhiên, không phải tất cả các đơn vị hành chính cấp tỉnh đều phải
phát triển kinh tế hoàn chính với đầy đủ các ngành, nghề khác nhau mà có thể
chỉ tập trung phát triển một số ngành, lĩnh vực nhất định, tùy theo đặc điểm, thế
mạnh, tiềm năng của từng địa phương. Các tỉnh đồng bằng thì chủ yếu là phát
triển nông nghiệp, còn công nghiệp và dịch vụ là cần thiết nhưng không phải là
chủ lực, trong khi đó các tỉnh trung du và miền núi thì chủ yếu nên phát triển
công nghiệp vì có lợi thế đất đai rộng, nhưng độ phì thấp, năng suất, sản lượng
sản phẩm nông nghiệp không cao…Tình trạng lấy đât “bờ xôi, ruộng mật” đề
phát triển công nghiệp là một sự lãng phí lớn hiện nay, xét về mặt địa kinh tế.
Đối với các đơn vị hành chínhcấp huyện hay cấp xã thì yếu tố địa kinh tế
có phần chi phối ít hơn đến việc xác lậpđơn vị hành chính. Không thể mỗi huyện,
mỗi xã đều là một đơn vị kinh tế với cơ cấu công- nông nghiệp - dịch vụ, với đủ
các ngành nghề khác nhau, mà chỉ là những đơn vị bộ phận của cơ cấu kinh tế
của tỉnh. Trong một tỉnh thì huyện này phát triển ngành nghề này, huyện khác
phát triển ngành nghề khác. Có huyện, thị chủ yếu là phát triển công nghiệp, có
huyện chủ yếu là nông nghiệp, tùy theo đặc điểm, thế mạnh của mỗi địa phương.
66
Tương tự như vậy, các xã trong một huyện cũng chỉ là những đơn vị kinh tế bộ
phận của một huyện, chỉ phát triển một số ít ngành nghề theo thế mạnh, tiềm
năng của từng cơ sở.
Yếu tố địa kinh tế chi phối sự phát triển không đồng đều của mỗiđơn vị
hành chính. Những địa phương có điều kiện tự nhiên thuận lợi, có nguồn tài
nguyên khoáng sản, đất, nước phong phú, giàu có hơn, có giao thông thuận lợi
hơn, có khí hậu ôn hòa thuận lợi hơn… thì có trình độ phát triển kinh tế cao hơn,
nhất là đối với cấp tỉnh. Điều này cần được xem xét ở mức độ nhất định khi xác
lập đơn vị hành chínhđể có cơ chế, chính sách phù hợp với từng loại đơn vị hành
chínhvới những điều kiện khó khăn, thuận lợi và trình độ phát triển kinh tế khác
nhau.
Yếu tố địa kinh tế còn được xem xét ở góc độ bảo tồn và phát huy các
ngành nghề truyền thống của mỗi địa phương, bởi phần lớn các cơ sở kinh tế
của địa phương tập trung tại các đô thị. Các công trình kinh tế, văn hóa xã hội
ở vùng đô thị được xây dựng và thiết lập theo quy hoạch chung của cả đô thị
nhằm đáp ứng thuận lợi nhất nhu cầu và lợi ích của dân cư mà không theo ý đồ
riêng của từng vùng đô thị. Sự tập trung cao về kinh tế địa bàn đô thị cũng tạo
ra những khó khăn cho hoạt động quản lý của chính quyền đô thị. Sự cạnh
tranh, những vi phạm pháp luật, vi phạm về an ninh môi trường, sử dụng vật
lực, tài lực… luôn có nguy cơ xảy ra đòi hỏi chính quyền thành phố phải quan
tâm can thiệp kịp thời để tránh những lộn xộn có thể xảy ra.
2.3.5. Yếu tố năng lực của chính quyền phường
2.3.5.1. Năng lực tổ chức bộ máy và các nguồn lực
Việc tổ chức và quản trị bộ máy chính quyền địa phương luôn phải dựa trên
cơ sở của quá trình phân cấp giữa trung ương – địa phương cũng như giữa các chính
quyền địa phương. Sự phân cấp quản lý trong bộ máy nhà nước có mục tiêu chung
là nhằm vào phát triển kinh tế xã hội, giải phóng sức lao động, các tiềm năng kinh
67
tế, đòi hỏi công dân phải tuân thủ pháp luật; mọi công dân được nhà nước bảo đảm
về mặt quyền lợi nhưng phải thực hiện các nghĩa vụ đối với nhà nước theo quy định
của pháp luật.
Chính quyền địa phương cần phải chịu trách nhiệm về lập kế hoạch phát
triển và cung cấp tài chính cho cơ sở hạ tầng kinh tế, như đường sá, công trình
thủy lợi ở địa phương, các công việc quản lý và thu thuế. Như vậy, các chính
quyền địa phương sẽ là trọng tâm của hàng loạt những hoạt động về đầu tư, tài
chính và pháp lý và tác động lên tốc độ và sự phát triển cân bằng của nền kinh
tế.Sự phân quyền cho chính quyền phường cũng có thể gây ra những rủi ro kinh
tế vĩ mô đối với chính quyền cấp trên. Nếu hoạt động tài chính ngoài ngân sách
của địa phương không được kiểm soát một cách chặt chẽ, đặc biệt là đối với
các trách nhiệm phát sinh, trong khi quyền tự chủ sâu hơn, tiếp cận rộng mở
hơn với thị trường vốn trong nước và quốc tế sẽ làm trầm trọng hơn những rủi
ro đối với nền kinh tế dài hạn. Do đó, cần phải cải thiện hệ thống giám sát, hoạt
động quản lý và thể chế nhà nước về lĩnh vực này.
2.3.5.2. Năng lực cung ứng dịch vụ công
Trong quá trình phân cấp quản lý, dịch vụ công là một trong những nội
dung được trao quyền nhiều nhất cho chính quyền địa phương. Tuy nhiên, vấn
đề đặt ra là liệu chính quyền địa phương có đảm đương nổi nhiệm vụ, chức
năng mới được phân cấp. Tuy lý do chính của phân cấp là dựa trên ưu thế của
chính quyền địa phương gần dân, sát dân hơn, có thể đưa ra các quyết định phù
hợp với nguyện vọng của cử tri hơn chính quyền trung ương, nhưng không có
gì bảo đảm là chính quyền địa phương khai thác được thế mạnh đó của mình
để đưa ra được các quyết định quản lý hiệu quả. Một số chính quyền địa phương
quy mô nhỏ có thể thiếu kinh nghiệm, thiếu khả năng chuyên môn, thiếu được
đào tạo để có thể quản lý một ngân sách lớn hơn trước. Chủ trương chung của
phân cấp là sự phân công chính quyền trung ương chú trọng đến các vấn đề
chiến lược tổng thể và tạo ra môi trường thuận lợi cho chính quyền địa phương
68
triển khai các mô hình cung ứng dịch vụ công phù hợp nhất với nguyện vọng
của nhân dân và hoàn cảnh thực tế địa phương. Tuy nhiên, trong thực tế, mức
độ phân cấp, phân quyền đến đâu là tuỳ thuộc chủ yếu vào năng lực của cộng
đồng địa phương (bao gồm của chính quyền địa phương, các tổ chức xã hội,
đoàn thể, các doanh nghiệp thuộc khu vực tư trên địa bàn). Tuy nhiên, đánh giá
năng lực của địa phương không dễ dàng. Trung ương có thể viện lý do địa
phương kém về năng lực nên không phân cấp. Do vậy, cần có kỹ năng đánh giá
năng lực của địa phương nói chung, của chính quyền địa phương nói riêng.
Khi đẩy mạnh cung ứng dịch vụ công xuống cho chính quyền địa phương
(chẳng hạn như dịch vụ giáo dục, y tế căn bản, cung cấp nước sạch..) trong khi
chính quyền địa phương còn nghèo nàn về cơ cấu tổ chức và năng lực kỹ thuật
thấp thì những vấn đề bất cấp sẽ nảy sinh.
Trường hợp các cơ quan địa phương không đủ năng lực để đảm nhận và
hoàn thành thành tốt công việc thì chính phủ trung ương nói chung sẽ khó có
thể giữ được hướng cung cấp dịch vụ tốt. Vấn đề đặt ra là phải đẩy mạnh chuyển
giao nguồn lực giữa trung ương với địa phương và giữa các cấp địa phương với
nhau. Nếu không duy trì và đẩy mạnh hoạt động này thì chính quyền địa phương
sẽ đối mặt với sự bất bình đẳng trong cung cấp dịch vụ giữa các khu vực quản
lý. Đây sẽ là một rào cản của quá trình phân cấp quản lý các dịch vụ công xuống
cho chính quyền địa phương.
Chính vì vậy, cần thiết phải đẩy mạnh phân cấp nhưng phân cấp quản lý
phải đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ của chính quyền cấp trên, theo dõi, đánh
giá hiệu quả của quá trình thực hiện phân cấp để từ đó có phương hướng tiếp
tục hoặc chấm dứt việc phân cấp, đồng thời nâng cao năng lực, trang bị đủ các
điều kiện vật chất, nguồn nhân lựccủa chính quyền địa phương và đặc biệt thực
hiện cơ chế trách nhiệm giải trình một cách sâu rộng đối với chính quyền địa
phương các cấp.
2.4. Phân cấp quản lý nhà nước giữa chính quyền thành phố và chính
69
quyền cơ sở của một số quốc gia trên thế giới, bài học kinh nghiệm.
2.4.1. Về phân cấp quản lý nhà nước giữa chính quyền thành phố và
chính quyền cơ sở
2.4.1.1. Cộng hoà liên bang Đức
Theo Hiến pháp Liên bang (Luật Cơ bản), CHLB Đức chia thành 13 bang
và 3 Thành phố hưởng quy chế đặc biệt như một bang (Berlin, Bremen,
Hamburg), trong đó có 5 bang thuộc về Cộng hòa Dân chủ Đức trước đây. Giữa
các bang có sự chênh lệch lớn về diện tích và dân số, có chủ quyền riêng cả về
lập pháp, hành pháp và tư pháp, song phải tôn trọng các nguyên tắc của Luật
cơ bản. Sau khi tái thống nhất đất nước, hiện nay CHLB Đức tổ chức thành 16
bang với tổng cộng 14.561 ĐVHC địa phương có vị trí chính trị độc lập
[61,tr.80,81].
Theo quy định của hiến pháp, nước Đức có các cấp độ chinh trị - hành
chính riêng biệt và độc lập về mặt pháp lý là: Liên bang, bang, thành
phố/huyện/quận và xã
Cấp độ liên bang: Đức là một quốc gia dân tộc có chủ quyền hợp hiến.
Cấp độ bang: Mỗi bang tự tổ chức các nhánh cơ quan lập pháp, hành
pháp, tư pháp.
Cấp thấp hơn bang là thành phố/huyện/quận
Cấp độ hành chính thấp nhất là thị trấn và xã. Xã ở Cộng hòa liên bang
Đức được hiểu là chỉ một đơn vị hành chính cơ sở, kể cả thành phố lớn, vừa và
nhỏ(trừ Berlin, Bremen, Hamburg). Mô hình hoạt động của các cấp chính
quyền là: chính quyền liên bang dựa vào chính quyền bang, chính quyền bang
dựa vào chính quyền địa phương (thành phố/huyện/quận; xã/thị trấn). Việc
phân chia quyền lực theo nguyên tắc: Những gì địa phương làm tốt hơn thì để
địa phương làm, trung ương chỉ làm những việc mà địa phương làm không tốt
hơn và mỗi cấp chính quyền này làm thì cấp chính quyền khác không làm. Mỗi
70
cấp chính quyền có tính chủ động, khi được phân nhiệm vụ thì cũng được phân
bổ ngân sách, có nguồn thu bảo đảm cho việc thực hiện nhiệm vụ của địa
phương [45, Tr.181].
Ở cộng hoà Liên bang Đức phân cấp, phân quyền quản lý công việc hành
chính theo nguyên tắc chung là những việc nào chính quyền địa phương làm
tốt thì trao quyền cho địa phương, cụ thể, liên bang thực thi 10% công việc
hành chính; bang 20% và địa phương 70%[46, Tr.28 ]
- Về phạm vi phân cấp của Cộng hòa liên bang Đức từ chính quyền trung
ương cho chính quyền cơ sở, chủ yếu là phân cấp gắn với tự quản của chính
quyền địa phương, tăng cường sự tham gia của khu vực tư vào cung ứng dịch
vụ công như công ty hoá, tư nhân hoá, nhà nước thực hiện hợp đồng với bên
ngoài.
- Nhiệm vụ quản lý địa phương có thể chia làm 3 nhóm ở Đức như sau:
Nhóm 1: Loại việc tự nguyện là tất cả các cộng đồng tự giải quyết theo phán
xét của cộng đồng; Nhóm 2: Loại việc bắt buộc là những nhiệm vụ quy định
bởi pháp luật của bang; Nhóm 3: Loại việc ủy quyền từ cấp trên, có thể là liên
quan đến chức năng cảnh sát, phục vụ giao thông đường phố, thanh tra, thanh
tra xây dựng, giám sát đối với người vô gia cư, thống kê dân số[11,Tr.131].
-Một số nội dung và thẩm quyền chủ yếu mà chính quyền cơ sở thực hiện
như:
Thẩm quyền về địa giới, lãnh thổ;
Về tổ chức: là quyền tự quyết định về bộ máy giúp việc như Hội đồng
xã, Xã trưởng, quyền xác định trô chức nội bộ của xã
Thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật (điều lệ, quy định,
quy chế) để xác định các công việc ở địa phương
Thẩm quyền về nhân sự như việc lựa chọn nhân sự, sắp xếp, sử dụng họ
và đưa ra các quyết định cần thiết về mặt nhân sự trong việc lựa chọn, sắp xếp
71
việc làm
Thẩm quyền về tài chính và giao nộp: nghĩa là chính quyền cơ sở có
quyền quyết định về tài chính trong khuôn khổ hoạt động ngân sách cấp, tự
quyết định các nguồn thu, khoản chi ngân sách. Các xã có các nguồn thu riêng
và không thuộc thẩm quyền của các bang hoặc liên bang.
2.4.1.2. Cộng hòa Pháp
Nền hành chính Pháp có truyền thống tập trung quyền lực vào trung
ương. Tất cả các chính sách được áp dụng đồng bộ, bình đẳng trên cả nước. Sau
cách mạng 1789, Hội đồng dân cử được thiết lập làm cơ sở cho sự trao quyền
cho các địa phương. Năm 1958, Hiến pháp của Pháp đã đề cập tới vấn đề phân
quyền, “các vùng, tỉnh, xã được quản lý hành chính một cách tự do bởi các hội
đồng dân cử”, và tản quyền “trong mỗi tỉnh, người được chính phủ ủy quyền
chịu trách nhiệm về lợi ích quốc gia, kiểm soát hành chính và tôn trọng luật
pháp”. Tuy nhiên, đến năm 1982, sau khi có Luật phân quyền, thì việc phân
quyền cho CQĐP mới được thực hiện đầy đủ, vai trò giám hộ của Tỉnh trưởng
và vùng trưởng đựơc thay thế bằng bằng vai trò kiểm soát tính hợp pháp quyền
điều hành địa phương được chuyển từ tỉnh trưởng sang chủ tịch Hội đồng địa
phương và chuyển giao một số thẩm quyền của nhà nước cho CQĐP. Luật năm
1992 và Luật năm 1995 đã củng cố thêm xu hướng xích lại gần nhau giữa tỉnh
trưởng và những đại biểu dân cử. Từ ngày 01 tháng 01 năm 2006, lãnh thổ hành
chính Cộng hòa Pháp được phân thành 22 vùng, 96 tỉnh và các xã. Theo đó, kể
từ ngày 28/3/2003, lãnh thổ hải ngoại (4 vùng, 4 tỉnh) không còn giá trị pháp
lý.
(1) Cấp vùng: Luật Phân quyền giao quy chế Hội đồng lãnh thổ cho 22
vùng ở chính quốc (bao gồm cả đảo Corse - có quy chế đặc biệt về vùng tự trị
địa phương) và 4 khu vực hải ngoại. Trước đây Vùng chỉ được coi như một khu
vực địa lý nhằm xác định phạm vi hoạt động của các cơ quan nhà nước (theo
72
Nghị định ngày 02 tháng 6 năm 1960 và 14 tháng 03 năm 1964), trước khi được
trao tư cách pháp nhân dưới dạng tổ chức sự nghiệp công bởi Luật ngày 05
tháng 7 năm 1972..
Như vậy, quản lý cấp vùng được giao cho một Hội đồng dân cử và từ
việc chỉ có thẩm quyền trong lĩnh vực phát triển kinh tế, vùng còn có thẩm
quyền chung đối với mọi vấn đề liên quan đến địa phương mình.Hội đồng Vùng
giải quyết các vấn đề của địa phương thông qua việc ban hành các nghị quyết.
Hội đồng bầu ra một chủ tịch có nhiệm vụ chỉ đạo các công việc của Vùng và
thực hiện các nghị quyết của Hội đồng. Hội đồng có thể giao một phần thẩm
quyền của mình cho một Ủy ban thường trực, trừ những vấn đề liên quan đến
việc biểu quyết ngân sách và lập quyết toán ngân sách.Vùng là đối tác ưu tiên
của Nhà nước trong việc thực hiện chính sách quy hoạch lãnh thổ và phát triển
kinh tế thông qua các hợp đồng kế hoạch (Luật 29 tháng 7 năm 1982) có thời
hạn là bốn năm. Ngoài ra, Vùng cũng có thẩm quyền trong lĩnh vực đào tạo
nghề, giao thông và giáo dục (cấp phổ thông trung học), quy hoạch lãnh thổ và
các cơ sở hạ tầng lớn (cảng, sân bay hoặc đường thủy).
(2) Cấp tỉnh: Theo Đạo luật phân quyền ngày 15-1-1970, Cộng hòa Pháp
có 100 tỉnh, trong đó có 4 tỉnh hải ngoại. Các thành viên của Hội đồng tỉnh
được bầu theo nguyên tắc đơn danh, đa số với hai vùng bỏ phiếu cho nhiệm kỳ
6 năm: mỗi một tổng (đơn vị bầu cử cấp địa phương có số dân dao động từ
1000 - 20.000 dân) bầu một đại biểu Hội đồng tỉnh. Hội đồng tỉnh bầu chủ tịch
Hội đồng tỉnh và một Ủy ban thường trực gồm từ 4 đến 10 phó chủ tịch và một
số thành viên khác.
Hội đồng tỉnh được trao một thẩm quyền chung để giải quyết những vấn
đề trực tiếp liên quan tới tỉnh. Hội đồng đưa ra những quyết định mang tính
quan trọng và xác định khuôn khổ của các hoạt động thuộc quyền hành pháp.
Hội đồng can thiệp chủ yếu trong lĩnh vực ngân sách, thiết lập và phát triển các
dịch vụ công ở cấp tỉnh và quản lý các tài sản công. Ủy ban thường trực nhận
73
sự ủy quyền từ Hội đồng tỉnh để giải quyết các vấn đề liên quan trừ việc biểu
quyết ngân sách và lập quyết toán ngân sách. Kể từ năm 1982, chủ tịch Hội
đồng tỉnh thay thế Tỉnh trưởng thực hiện chức năng hành pháp của tỉnh. Nhờ
quá trình phân quyền, các tỉnh được chuyển giao một số lượng công chức rất
lớn và có toàn quyền đối với các cơ quan chuyên môn phụ trách về những lĩnh
vực mà tỉnh đó được chuyển giao thẩm quyền. Đứng đầu các cơ quan chuyên
môn này là một giám đốc (thường là một cán bộ của tỉnh được bổ nhiệm tạm
thời). Các cơ quan này hoạt động ở 3 vấn đề chính: hành chính và tài chính, kỹ
thuật và xã hội.
(3) Cấp xã: Quy chế xã hiện nay do Luật Phân quyền ngày 5 tháng 4 năm
1884 quy định. Pháp có số lượng xã rất lớn, hiện có 36.783 xã [32]. Xã được
điều hành bởi Hội đồng xã do dân bầu ra với nhiệm kỳ 6 năm, là cơ quan có
quyền biểu quyết và một bộ phận có chức năng hành pháp bao gồm xã trưởng
và các trợ lý.
Xã được coi như một mắt xích trong quá trình phân quyền: xã có ngân
sách chiếm tới 2/3 tổng chi tiêu của các lãnh thổ và số công chức chiếm tới 90%
nhân viên thuộc hệ thống công vụ.
Ở Pháp, các cơ quan trung ương điều hành chính đối với việc thực hiện các
chính sách địa phương. Hầu hết các Bộ điều hành bao quát chung cả nước về
giáo dục, phát triển nông nghiệp, phòng, chống tội phạm, y tế cộng đồng, thể
thao, đường bộ. 95% công chức nhà nước làm việc ở các địa phương. Đây là
một tỷ lệ là duy nhất trong số các nhà nước thành viên của OECD và EU.
Việc cải cách phân cấp ở Pháp đã công nhận các cơ quan có thẩm quyền ở
địa phương là những cơ quan có đầy đủ tư cách pháp nhân hoạt động độc lập
với sự điều hành của cấp quận. Trách nhiệm xây dựng quyết định của các đơn
vị địa phương và vùng đã được nâng cao qua việc mở rộng khu vực địa phương
thành các khu vực chính sách mới như là các tổ chức xã hội, các tổ chức giáo
dục và phát triển kinh tế[46,Tr.39]
74
2.4.1.3. Nhật Bản
Hệ thống chính quyền địa phương ở Nhật Bản được thành lập sau thời kỳ
phục hưng của hoàng đề Minh Trị năm 1868. Nhật có 03 Luật điều chỉnh về
chính quyền địa phương gồm: Luật tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành
chính cấp quận, huyện, thị trấn; Luật tổ chức Hội đồng cấp tỉnh; Luật thuế địa
phương.
Vấn đề phân cấp nhiệm vụ trong bộ máy nhà nước Nhật Bản gắn với vấn
đề về tự quản địa phương. Tại Chương VIII, Hiến pháp Nhật Bản quy định như
sau: “Các thiết chế công quyền địa phương sẽ thành lập các cơ quan hội đồng
với tư cách là cơ quan bàn và quyết nghị, phù hợp với quy định của Luật” (Điều
93). “Các thiếtchế công quyền địa phương có quyền quản lý tài sản và công
việc của mình, đồng thời được ban hành quy tắc riêng của mình trong khuôn
khổ luật định” (Điều 94)[11,Tr153].
Với mục đích đẩy mạnh phân quyền cho chính quyền địa phương, năm
1995, Nhật Bản ban hành luật tăng cường phân cấp trong đó quy định quyền
kiểm tra, giám sát của Chính phủ Trung ương và chính quyền cấp tỉnh đối với
chính quyền cơ sở theo hướng tôn trọng quyền tự trị và độc lập của chính quyền
địa phương, hạn chế tới mức tối thiểu sự can thiệp của chính quyền trung ương.
Đến năm 2006, Luật này được sửa đổi, quy định về định hướng phân cấp với
các nội dung sau:
Chuyển giao quyền lực cho chính quyền địa phương.
Hợp lý hóa các quy định về lĩnh vực thuế quan trọng của chính quyền
địa phương cũng như sự can thiệp của chính quyền Trung ương.
Kiểm tra các vấn đề liên quan đến hệ thống tài chính, ví dụ như trợ cấp
ngân sách quốc gia và hệ thống chia sẽ bắt buộc, phân bổ thuế địa phương.
Thành lập và cũng cố hệ thống hành chính địa phương nhằm tăng cường
quyền tự chủ của công dân. [ 46, Tr.39]
- Các nhiệm vụ của cấp cơ sở (thành phố/thị trấn/làng) ở Nhật Bản thường
75
được thực hiện phân cấp gắn với tự quản, tự quyết định như sau:
Nhiệm vụ về quy hoạch thành phố (phân khu và các cơ sở tiện ích ở đô
thị); về đường trong thành phố
Nhiệm vụ về cung cấp các chương trình hỗ trợ cuộc sống hàng ngày ở các
thành phố, cung cấp chương trình phúc lợi dành cho trẻ em; tổ chức chương
trình phúc lợi chăm sóc sức khỏe cho người già
Tổ chức hệ thống thoát nước; Đăng ký công dân và đăng ký người nước
ngoài; Thu gom rác, xử lý rác thải sinh hoạt...[11, Tr.161]
2.4.2. Bài học kinh nghiệm
Thứ nhất, cần quy định rõ các thẩm quyền của chính quyền cơ sở, có những
thẩm quyền riêng biệt và được tự quyết trong phạm vi thẩm quyền
Thực tế, dấu hiệu có một cơ quan dân cử (HĐND) là chưa đủ để tạo nên
một chính quyền cơ sở độc lập. Điều cốt lõi là cơ quan đó sau khi đã được nhân
dân địa phương chính thức lập ra phải có những thẩm quyền tự quyết. Theo quy
định của nhiều quốc gia, những thẩm quyền riêng của cơ sở được quy định theo
hai phương án: liệt kê các thẩm quyền của chính quyền cơ sở hoặc quy định
theo kiểu loại trừ. Thông thường, đối với các đơn vị hành chính lãnh thổ có quy
chế tự quản hành chính, các thẩm quyền này khó có thể xác định bằng phương
pháp liệt kê đơn thuần. Thay vào đó, sẽ xuất hiện những khái niệm khá trừu
tượng, ví dụ: cấp xã ở Pháp có thẩm quyền giải quyết các công việc liên quan
đến: “lợi ích chung của xã” (l’interet communal), và hội đồng xã ban hành nghị
quyết để giải quyết các “công việc của xã” (des afaires communales). Phạm vi
các khái niệm này khó xác định, bởi nhà làm luật không quy định chi tiết nên
người áp dụng và giải thích luật chỉ có thể hình dung các thẩm quyền này bằng
việc tự đưa ra các ranh giới về thẩm quyền đó. Theo đó, chính quyền Trung
ương, chính quyền cấp trên chỉ thực hiện công tác quản lý nhà nước ở tầm vĩ
mô mà không bị chi phối vào các công việc sự vụ ở địa phương. Chính quyền
cơ sở cần có những thẩm quyền riêng biệt – so với các cơ quan nhà nước cấp
76
trên. Đó là các thẩm quyền được thực hiện trong phạm vi phân cấp. Có thể các
thẩm quyền này được thừa nhận tại Luật tổ chức, hoặc được quy định rành
mạch tại các Luật chuyên ngành. Các thẩm quyền đó có thể được quy định theo
hướng liệt kê, hoặc lý tưởng hơn – theo kiểu loại trừ: những gì mà không thuộc
phạm vi hoạt động của trung ương thì thuộc thẩm quyền hoạt động của chính
quyền cơ sở.
Thứ hai, bộ máy thực hiện nhiệm vụ tinh gọn và giảm các cấp trung gian
không cần thiết
Bỏ bớt cơ quan quyền lực cấp trung gian và cấp địa phương để hội đồng
nhân dân cấp cơ sở thực quyết và thực quyền. Giảm đầu mối giám sát, chỉ đạo
và tập trung quyền lực cho chính quyền cơ sở để thực hiện những nhiệm vụ
được phân cấp. Đối với các quốc gia phát triển, việc giảm các tầng nấc trung
gian trong thực hiện nhiệm vụ là xu hướng lớn. Theo đó, chính quyền các cấp
thường tinh gọn về nhân sự và đầu mối thực hiện. Mỗi việc, mỗi nhiệm vụ chỉ
giao cho một cấp thực hiện và cấp đó chịu trách nhiệm trước pháp luật về nhiệm
vụ của mình. Chính quyền cấp trên không can thiệp trực tiếp vào công việc,
nhiệm vụ của chính quyền cấp dưới và họ có sự tự quyết, tự chịu trách nhiệm
trong khuôn khổ pháp luật, đảm bảo người dân là đối tượng được hưởng lợi tối
đa từ các hoạt động của cơ quan chính quyền cơ sở.
Thứ ba, thực hiện phân cấp hợp lý mang lại hiệu quả tích cực trong việc
nâng cao tính tự chủ, sáng tạo, hiệu quả hoạt động của chính cơ sở trong hoạt
động quản lý
Thông thường, các nhiệm vụ được phân cấp quy định rõ tại các Luật của
các nước hoặc các văn bản có giá trị bắt buộc. Khi thực hiện, chính quyền cơ
sở thực hiện phân cấp phát huy tối đa tính tự chủ, sáng tạo trong công việc. Sử
dụng các cách thức, phương tiện và nguồn lực khác nhau để hoàn thành công
việc và có tính hiệu quả cao.
Đây là vấn đề các quốc gia thường minh bạch, rõ ràng trong phân cấp
77
nhiệm vụ, nhiều trường hợp quy định rõ từng nhiệm vụ tại văn bản để chính
quyền cơ sở có căn cứ để thực hiện. Và việc phân cấp thực hiện nhiệm vụ cần
tính toán đến điều kiện thực tế của mỗi địa phương. Điều này luật một số quốc
gia có thể trao cho chính quyền cơ sở thực hiện nhiệm vụ và cho phép chính
quyền cơ sở phát huy tối đa khả năng sáng tạo trong việc tổ chức thực hiện trên
cơ sở tư tưởng dân chủ và có hiệu quả.
Thứ tư, địa phương phải có đủ nguồn lực, phương tiện để thực hiện thẩm
quyền được chính quyền cấp trên phân cấp
Việc quy định các thẩm quyền tự quyết của chính quyền cơ sở sẽ không có
ý nghĩa nếu như không trao cho địa phương các phương tiện để thực hiện các
thẩm quyền đó. Chính vì vậy, địa phương ở các nước đều có các nguồn nhân
lực và tài chính khá độc lập. Điều này được ghi nhận trong pháp luật. Các
phương tiện công cụ để thực hiện thẩm quyền địa phương về cơ bản có: quyền
ra văn bản pháp luật, quyền tự chủ tài chính, quyền tự chủ trong tuyển dụng, sử
dụng nhân sự.
Tại Pháp, đó là nguồn thu từ thuế, theo Điều 72-2 Hiến pháp 1958: “Các
đơn vị hành chính lãnh thổ có nguồn lực riêng và được tự do sử dụng nguồn
lực đó trong những điều kiện do luật quy định. Các đơn vị hành chính lãnh thổ
có quyền tiếp nhận một phần hoặc toàn bộ các nguồn thu từ các loại thuế. Luật
có thể cho phép chính quyền cơ sở xác định cơ sở tính thuế và mức thuế trong
những giới hạn do Luật quy định. Nguồn thu từ thuế và các nguồn thu riêng
biệt khác của đơn vị hành chính lãnh thổ là phần quan trọng nhất trong toàn bộ
nguồn lực tài chính của đơn vị đó”. Nguyên tắc “việc chuyển giao thẩm quyền
phải đi kèm với chuyển giao phương tiện, công cụ thực hiện thẩm quyền đó”
đã trở thành nguyên tắc Hiến định từ sau khi sửa đổi Hiến pháp năm 2003. Việc
quy định thêm thẩm quyền mới hoặc mở rộng một thẩm quyền hiện có nếu làm
tăng chi tiêu của đơn vị hành chính lãnh thổ thì phải đi kèm với việc cấp thêm
nguồn lực từ Nhà nước trung ương theo quy định của pháp luật”.
78
Tiểu kết Chương 2
Với phương pháp tổng hợp, phân tích, tại chương 2 của luận án được đề
cập, làm rõ các vấn đề như:
1. Làm rõ một số khái niệm liên quan như phân cấp, phân cấp quản lý
nhà nước và lý giải sự cần thiết phân cấp quản lý nhà nước. Làm rõ những đặc
điểm của chính quyền đô thị; những vấn đề về chính quyền phường và vị trí,
vai trò, đặc điểm của chính quyền phường.
2. Từ nhu cầu khách quan, phát triển lợi ích của mỗi địa phương và bối
cảnh kinh tế - xã hội phát triển, nhà nước cần có các biện pháp gia tăng hiệu
quả hoạt động quản lý, trong đó có giải pháp về phân cấp là những lý giải cho
việc tất yếu khách quan khi tiến hành phân cấp cho chính quyền phường.
3. Không có mẫu chung đối với mọi quốc gia cho nội dung, hình thức,
phương pháp phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền cơ sở. Đối với chính
quyền phường, nội dung phân cấp có thể được nhìn nhận ở các mặt như: phân
cấp về thẩm quyền quản lý nhà nước; phân cấp quản lý nhà nước về trực tiếp
cung ứng dịch vụ công trên địa bàn phường. Hình thức phân cấp cũng được
phân định ở mức độ tương đối gồm: Ủy quyền, tảm quyền, trao quyền. Phương
pháp tiến hành phân cấp thường được sử dụng bởi công cụ là các văn bản quy
phạm pháp luật quy định trực tiếp về phân cấp hoặc quy định gián tiếp, rải rác,
đan xen tại các văn bản quy phạm điều chỉnh trên nhiều lĩnh vực khác nhau.
Các nguyên tắc khi tiến hành phân cấp được xác định là bảo đảm sự thống nhất
quyền lực, quản lý nhà nước của Chính phủ; nguyên tắc cân đối; hiệu lực, hiệu
quả; phù hợp; bảo đảm nguồn lực. Luận án cũng nghiên cứu về các biện pháp
bảo đảm việc thực hiện phân cấp có hiệu quả, nhìn nhận từ góc độ chính quyền
tiến hành phân cấp và chính quyền tiếp nhận thực hiện nhiệm vụ, thẩm quyền
phân cấp.
4. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến phân cấp cho chính quyền phường
như: yếu tố pháp lý, môi trường xã hội – văn hóa truyền thống; lãnh thổ và cộng
79
đồng dân cư; kinh tế, năng lực của chính quyền phường.
5. Chương 2 cũng đã tìm hiểu một số kinh nghiệm của các quốc gia trong
thực hiện phân cấp và bài học kinh nghiệm như: cần quy định rõ các thẩm quyền
của chính quyền cơ sở, có những thẩm quyền riêng biệt và được tự quyết trong
phạm vi thẩm quyền; bộ máy thực hiện nhiệm vụ tinh gọn, giảm các cấp trung
gian; thực hiện phân cấp triệt để mang lại hiệu quả tích cực trong việc nâng cao
tính tự chủ, sáng tạo, hiệu quả hoạt động của chính cơ sở trong hoạt động quản
lý và địa phương phải có đủ nguồn lực, phương tiện để thực hiện thẩm quyền
được chính quyền cấp trên phân cấp.
Chương 3. THỰC TRẠNG PHÂN CẤP CHO CHÍNH QUYỀN
PHƯỜNG TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Thực trạng tổ chức, hoạt động của chính quyền phường tại
Thành phố Hà Nội
3.1.1. Đơn vị hành chính phường của Thành phố Hà Nội
Thành phố Hà Nội là thủ đô của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
(XHCN) Việt Nam, là trung tâm chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn
về văn hóa, khoa học, giáo dục, y tế và giao dịch quốc tế. Theo Điều 2, Luật
thủ đô: Thủ đô nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là Hà Nội; Thủ đô là trung
tâm chính trị - hành chính quốc gia, nơi đặt trụ sở của các cơ quan trung ương
của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan đại diện ngoại
giao, tổ chức quốc tế; là trung tâm lớn về văn hóa, giáo dục, khoa học và công
nghệ, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước; Trụ sở cơ quan trung ương
Đảng, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ đặt tại khu vực Ba Đình thành
phố Hà Nội.
Hà Nội được chia làm 30 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm: 12 quận,
17 huyện và 01 Thị xã (Thị xã Sơn Tây) với 584 đơn vị hành chính cấp xã gồm:
80
386 xã, 177 phường và 21 thị trấn [59, Tr. 27].
Mới đây, theo Nghị quyết số 895/NQ-UBTVQH14 ngày 11/2/2020 của
Ủy ban thường vụ Quốc hội về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã của
Thành phố Hà Nội, đã quyết định sắp xếp đơn vị hành chính phường không đủ
tiêu chuẩn về quy mô dân số và diện tích theo quy định tại Nghị quyết
1121/2016/NQ-UBTVQH13 ngày 25/5/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội
về tiêu chuẩn của đơn vị hành chính và phân loại đơn vị hành chính. Theo đó,
phường Bùi Thị Xuân và phường Ngô Thị Nhậm thuộc quận Hai Bà Trưng đã
được nhập vào phường Nguyễn Du; và nhập một phần diện tích, dân số của
phường Ngô Thị Nhậm vào phường Phạm Đình Hổ. Tiến hành sắp xếp lại một
số đơn vị hành chính thuộc huyện Phúc Thọ.
Như vậy, sau khi thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã của thành
phố Hà Nội, thành phố Hà Nội có 30 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 12
quận, 17 huyện và 01 thị xã; 579 đơn vị hành chính cấp xã gồm có 383 xã, 175
phường và 21 thị trấn.
Thành phố Hà Nội tính đến hết năm 2017, có dân số là: 7.654,8 nghìn
người, trong đó có dân số thành thị là 3.764,1 nghìn người, chiếm 49,2% và
dân số nông thôn là 3.890,7 nghìn người, chiếm 50,8%, với mật độ trung bình
là 1.935 người/km2 (Cao thứ 2 ở Việt Nam) [58,Tr.36]
Theo Luật Tổ chức CQĐP năm 2015, chính quyền phường là cấp chính
quyền đầy đủ, có HĐND phường và UBND phường. Chính quyền phường được
hiểu là một loại đơn vị hành chính trong nội bộ của đô thị, thuộc quận hoặc thị
xã. Đơn vị hành chính phường là một loại đơn vị hành chính trong nội bộ đô
thị, thuộc quận hoặc thị xã.
Phường ở Hà Nội thuộc các quận của Thành phố Hà Nội và 09 phường
của Thị xã Sơn Tây [80] gồm: Loại phường thuộc nhóm đã đô thị hóa và
phường thuộc nhóm đang đô thị hóa. Phường thuộc nhóm đã đô thị hóa là các
phường có lịch sử thành lập lâu đời (phường Nguyễn Trãi thuộc quận Hà Đông:
81
1975; phường Phương Mai, Quang Trung thuộc quận Đống Đa: 1978; phường
Điện Biên, Đội Cấn, Giảng Võ, Kim Mã thuộc quận Ba Đình: 1978…), đạt tiêu
chí đô thị và được công nhận là đô thị theo tiêu chuẩn tại các văn bản quy phạm
pháp luật. Ngoài ra, phường đã đô thị hóa thuộc quận tại thành phố Hà Nội
thường có mật độ dân cư sinh sống ở mức rất cao (khoảng từ 4 đến 8 vạn
dân/phường), các dịch vụ và cơ sở hạ tầng như giao thông, trường học, bệnh
viện, an ninh trật tự luôn trong tình trạng quá tải, lực lượng sản xuất phi nông
nghiệp hoàn toàn.
Phường thuộc nhóm đang đô thị hóa là loại phường vừa được thành lập
từ vùng nông thôn trước đây, đang trong giai đoạn giao thoa, phát triển, có đan
xen giữa yếu tố nông thôn với đô thị ở nhiều phương diện (kinh tế, văn hoá, tôn
giáo, hoạt động kinh tế xã hội, cơ sở hạ tầng, không gian địa lý, cách sinh hoạt,
lối sống,…) có cả sản xuất nông nghiệp và thường là phường mới được thành
lập phường theo tiêu chí đô thị.
Tại Hà Nội, phường là loại hình tổ chức đơn vị hành chính thuộc quận,
của thành phố trực thuộc Trung ương. Do đó, địa bàn của phường là nơi thường
xuyên diễn ra các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh - quốc
phòng quan trọng của Trung ương và thành phố. Cơ sở hạ tầng tốt và hiện đại
thể hiện sự đồng bộ, tính thống nhất cao, có nhiều mạng lưới xuyên suốt địa
bàn, không phụ thuộc vào địa giới hành chính. Trong loại hình phường này lại
chia ra các phường nằm trong khu vực nội thành và khu vực ven đô. Các
phường nội thành là nơi tập trung đông dân cư, các trụ sở công quyền, các tụ
điểm văn hoá, vui chơi; là nơi tập trung chủ yếu các hoạt động kinh doanh và
thương mại của đô thị. Nhìn chung, đời sống cư dân ở các phường nội thành
khá hơn ở các phường ở ven đô do các phường ở nội thành có các hoạt động
văn hóa, kinh tế, xã hội thường xuyên và các dịch vụ lớn, nhiều cá nhân, tổ
chức đề nghị cung ứng hơn phường ở ngoại thành.
3.1.2. Chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của chính quyền phường
82
ở Thành phố Hà Nội
Theo Điều 58, Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, chính
quyền phường là cấp chính quyền đầy đủ, có cơ cấu tổ chức gồm HĐND
phường và UBND phường.
HĐND phường gồm các đại biểu HĐND do cử tri ở phường bầu ra, là
cơ quan quyền lực nhà nước ở phường, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền làm chủ của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và
cơ quan nhà nước cấp trên.
UBND phường do HĐND phường bầu, là cơ quan chấp hành của HĐND
phường, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước
nhân dân địa phương, HĐND phường và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên.
Theo đó, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương ở phường gồm:
Tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trên địa bàn
phường; Quyết định những vấn đề của phường trong phạm vi được phân quyền,
phân cấp theo quy định của Luật và quy định khác của pháp luật có liên quan;
Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do cơ quan hành chính nhà nước cấp trên ủy
quyền; Chịu trách nhiệm trước chính quyền địa phương ở quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh về kết quả thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền
địa phương ở phường; Quyết định, tổ chức thực hiện các biện pháp nhằm phát
huy quyền làm chủ của Nhân dân, huy động các nguồn lực xã hội để xây dựng
và phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh trên địa bàn phường
[34, tr71].
Theo Điều 60 Luật tổ chức CQĐP năm 2015, cơ cấu tổ chức của HĐND
phường gồm: “Các đại biểu HĐND do cử tri ở phường bầu ra... Thường trực
HĐND phường gồm Chủ tịch HĐND phường, một Phó Chủ tịch HĐND
phường. Phó Chủ tịch HĐND phường là đại biểu HĐND hoạt động chuyên
trách. HĐND phường thành lập Ban pháp chế, Ban kinh tế - xã hội. Ban của
HĐND phường gồm có Trưởng ban, một Phó Trưởng ban và các Ủy viên. Số
83
lượng Ủy viên của các Ban của HĐND do HĐND phường quyết định. Trưởng
ban, Phó Trưởng ban và các Ủy viên của các Ban của HĐND phường hoạt động
kiêm nhiệm” [34, Tr.72].
Nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND phường gồm: “Ban hành nghị quyết về
những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân phường; Bầu,
miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch HĐND, Phó Chủ tịch HĐND, Trưởng ban,
Phó Trưởng ban của HĐND phường; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch
UBND, Phó Chủ tịch UBND và các Ủy viên UBND; Quyết định dự toán thu
ngân sách nhà nước trên địa bàn; dự toán thu, chi ngân sách phường; điều chỉnh
dự toán ngân sách phường trong trường hợp cần thiết; phê chuẩn quyết toán
ngân sách phường. Quyết định chủ trương đầu tư chương trình, dự án trên địa
bàn phường theo quy định của pháp luật; Giám sát việc tuân theo Hiến pháp và
pháp luật ở địa phương, việc thực hiện nghị quyết của HĐND phường; giám
sát hoạt động của Thường trực HĐND, UBND cùng cấp, Ban của HĐND cấp
mình; giám sát văn bản quy phạm pháp luật của UBND cùng cấp; Lấy phiếu
tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân
phường bầu theo quy định tại Điều 88 và Điều 89 của Luật này; Bãi nhiệm đại
biểu HĐND phường và chấp nhận việc đại biểu HĐND phường xin thôi làm
nhiệm vụ đại biểu; Bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản trái pháp luật của
UBND, Chủ tịch UBND phường” [34, Tr73].
Tuy nhiên, mới đây theo Nghị quyết số 97/2019/QH14 ngày 27/11/2019
của Quốc hội về thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị tại thành phố Hà
Nội, quy định chính quyền địa phương ở các quận, thị xã tại thành phố Hà Nội
là UBND phường. Theo đó, UBND phường là cơ quan hành chính nhà nước ở
phường.
Cũng theo Nghị quyết ngày, UBND phường có nhiệm vụ quyền hạn: a)
Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đơn vị dự toán ngân sách trực thuộc UBND
quận, thị xã; b) Đề xuất chủ trương đầu tư chương trình, dự án đầu tư công sử
84
dụng vốn ngân sách nhà nước với UBND quận, thị xã; tham gia ý kiến về chủ
trương đầu tư dự án thuộc thẩm quyền quyết định của cơ quan, cá nhân có thẩm
quyền mà Luật đầu tư công quy định phải có sự tham gia ý kiến của HĐND cấp
xã; tổ chức thực hiện chương trình, dự án đầu tư công theo phân cấp quản lý;
c) Đề xuất, phối hợp với cơ quan có thẩm quyền thực hiện nhiệm vụ về quốc
phòng, an ninh, biện pháp bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng
chống tội phạm theo phân cấp quản lý; d) Thực hiện các nhiệm vụ về tổ chức,
đảm bảo thi hành Hiến pháp, pháp luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp
trên trên địa bàn phường…
Bảng 3.1. Số lượng cơ cấu, chất lượng, trình độ đào tạo cán bộ
phường của Thành phố Hà Nội
Giới tính Tuổi Trình độ lý luận chính trị
Nam Nữ Từ 30 Tổng số
31- 40 41- 50 Trên 50 Trung cấp Sơ cấp
trở xuống Chưa qua đào tạo
Cử nhân, cao cấp 68 154 113 41 4 65 51 34 66 0 11
Đảng viên Trình độ chuyên môn
Tiến sĩ
Sơ cấp Đại học Trung cấp Chưa qua đào tạo
154
38
0
4
Thạc sĩ 61
Nguồn: Báo cáo Sở Nội vụ Hà Nội
Bảng 3.2. Số lượng cơ cấu, chất lượng, trình độ đào tạo công chức
phường của Thành phố Hà Nội
Giới tính Tuổi Trình độ lý luận chính trị
Nam Nữ Từ 30 Tổng số
31- 40 41- 50 Trên 50 Trung cấp Sơ cấp
trở xuống Chưa qua đào tạo
85
Cử nhân, cao cấp
203 116 12 119 53 19 5 78 0 36
Đảng viên Trình độ chuyên môn
Tiến sĩ
Trung cấp Chưa qua đào tạo Sơ cấp Đại học
182
141
0
11
0
Thạc sĩ 50
Nguồn: Báo cáo Sở Nội vụ Hà Nội
Nhiệm vụ, quyền hạn của UBND phường: Xây dựng, trình Hội đồng
nhân dân phường quyết định các nội dung quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều
61 của Luật tổ chức CQĐP và tổ chức thực hiện nghị quyết của HĐNDphường;
Tổ chức thực hiện ngân sách địa phương; Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do
cơ quan nhà nước cấp trên phân cấp, ủy quyền [34, tr74]
3.2. Thực trạng phân cấp cho chính quyền phường tại Thành phố Hà
Nội
3.2.1. Hệ thống thể chế chính trị, pháp lý về phân cấp quản lý nhà
nước
- Các quy định của Đảng, pháp luật của nhà nước về phân cấp
Phân cấp quản lý nhà nước được thể hiện khá rõ về chủ trương trong các
văn bản của Đảng, văn bản pháp luật của Nhà nước. Từ Nghị quyết số
08/2004/NQ-CP của Chính phủ ngày 30/6/2004 đã quy định về tiếp tục đẩy
mạnh phân cấp quản lý nhà nước giữa chính phủ và chính quyền tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương. Với chủ trương này, xác định công cuộc đổi mới đất
nước, sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xu
hướng mở cửa, hội nhập quốc tế đòi hỏi phải đổi mới, tăng cường phân cấp
quản lý nhà nước giữa Trung ương và địa phương, nhằm phát huy mạnh mẽ
tính năng động, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương trong
thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn.
Các nội dung được đề nghị phân cấp được định hướng như: Phân cấp
86
quản lý quy hoạch, kế hoạch và đầu tư phát triển; Phân cấp quản lý đất đai, tài
nguyên, tài sản nhà nước; Phân cấp quản lý doanh nghiệp nhà nước; Phân cấp
quản lý các hoạt động sự nghiệp, dịch vụ công; Phân cấp quản lý về tổ chức bộ
máy và cán bộ công chức.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI (2011) đề ra nhiệm vụ, giải pháp chủ
yếu: “Thực hiện phân cấp hợp lý cho chính quyền địa phương đi đôi với nâng
cao chất lượng quy hoạch và tăng cường thanh tra, kiểm tra giám sát của trung
ương, gắn quyền hạn với trách nhiệm được giao” và yêu cầu “Nâng cao chất
lượng hoạt động của HĐND và UBND các cấp, đảm bảo quyền tự chủ,tự chịu
trách nhiệm trong việc quyết định và tổ chức thực hiện những chính sách trong
phạm vi được phân cấp”[23, Tr.250].
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII (2016) tiếp tục đề ra nhiệm vụ, giải
pháp: “Hoàn thiện cơ chế phân cấp, bảo đảm tính thống nhất, thông suốt trong
lãnh đạo, quản lý, điều hành từ trung ương đến cơ sở…Phân định rõ quyền hạn
và trách nhiệm trong quản lý kinh tế, xã hội giữa trung ương và địa phương,
bảo đảm sự tập trung thống nhất quản lý của trung ương và phát huy tính chủ
động, tự chịu trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương. Hoàn thiện cơ
chế phân cấp đầu tư, ngân sách, bảo đảm quản lý thống nhất về quy hoạch phát
triển và cân đối nguồn lực”[24, Tr.310].
Điều 112, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhiệm vụ, quyền hạn của
chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa
các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền
địa phương” [33, Tr.59].
Khoản 4 Điều 5 Luật Tổ chức chính phủ năm 2015 quy định nguyên tắc
tổ chức và hoạt động của Chính phủ: “4. Phân cấp, phân quyền hợp lý giữa
Chính phủ với chính quyền địa phương, bảo đảm quyền quản lý thống nhất của
Chính phủ và phát huy tính chủ động, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của chính
quyền địa phương.”
87
Khoản 1, Điều 13 Luật tổ chức CQĐP năm 2015 quy định phân cấp là
việc cơ quan nhà nước cấp trên: “căn cứ yêu cầu công tác, khả năng thực hiện
và điều kiện, tình hình cụ thể của địa phương, cơ quan nhà nước ở trung ương
và địa phương được quyền phân cấp cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan
nhà nước cấp dưới thực hiện một cách liên tục, thường xuyên một hoặc một số
nhiệm vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền của mình” [34, Tr.19].
Theo quy định của các Luật này, có thể nhận thấy:
Chủ thể phân cấp: chính quyền trung ương hoặc chính quyền địa phương;
Chủ thể nhận phân cấp: chính quyền địa phương hoặc cơ quan nhà nước
cấp dưới;
Quyền hạn, trách nhiệm được phân cấp là những quyền hạn, trách nhiệm
được phát sinh từ quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan phân cấp (cơ quan nhà
nước cấp trên).
Phương thức phân cấp: văn bản quy phạm pháp luật dưới luật của cơ
quan nhà nước phân cấp, theo quy định của Luật ban hành văn bản QPPL năm
2015.
Cụ thể hóa chủ trương của Đảng, Chính phủ ban hành Nghị quyết số
21/NQ-CP ngày 21/3/2016 về phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và
UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Theo đó, mục tiêu thực hiện phân
cấp là nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực
trên cơ sở thực hiện phân cấp hợp lý, rõ ràng về nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm giữa Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ và
UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đảm bảo sự quản lý thống nhất
của Chính phủ, phát huy tính chủ động, trách nhiệm, tinh thần sáng tạo của
chính quyền địa phương. Các nội dung Nghị quyết nhấn mạnh về phân cấp
gồm: Quản lý ngân sách nhà nước; Thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu
nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước và phần vốn Nhà nước đầu tư vào
doanh nghiệp; Về quản lý đầu tư; Về quản lý công vụ, cán bộ, công chức, viên
88
chức; Về quản lý đất đai.
Nghị quyết cũng giao nhiệm vụ cho UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc
TW chịu trách nhiệm trước cơ quan phân cấp đối với những việc được phân
cấp quản lý nhà nước, tiếp tục phân cấp quản lý nhà nước cho UBND huyện,
quận, thị xã thành phố thuộc tỉnh và UBND xã, phường thị trấn.
Các quy định của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước cho thấy,
chủ trương về phân cấp được Đảng ta xác định từ lâu và thực tế văn bản ban
hành có nội dung đề xuất về phân cấp quản lý nhà nước từ chính quyền cấp trên
cho chính quyền cấp dưới và giữa các cấp chính quyền với nhau. Tuy nhiên, rõ
nét quy định về phân cấp giữa chính quyền thành phố cho chính quyền phường
chưa được nhắc đến cụ thể, chưa chính xác hóa cụm từ “phân cấp quản lý nhà
nước từ chính quyền thành phố cho chính quyền phường”. Có chăng các quy
định này thực hiện dưới dạng quy định về thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ
cho xã, phường, thị trấn chứ không gắn với cụm từ phân cấp hay “phân cấp cho
chính quyền phường”.
Trong một vài quy định cụ thể, vấn đề phân cấp được đề xuất dưới dạng
như quy định “một cấp chính quyền hai cấp hành chính”, trong Luật tổ chức
chính quyền địa phương năm 1958 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Một số
quy định khác như: quy định tại khoản 2 Điều 5 Nghị định số 79/2007/NĐ-CP
về thẩm quyền, trách nhiệm của UBND xã, phường, thị trấn trong việc chứng
thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký (nay là khoản 2 Điều 5 Nghị định
số 23/2015/NĐ-CP). Văn bản thực định trong nhiều giai đoạn lịch sử không đề
cập đến cụm từ “phân cấp cho chính quyền phường” hoặc cụm từ: “phân cấp
quản lý nhà nước đối với chính quyền phường”, tuy nhiên trong bản chất thực
thi nhiệm vụ của mỗi cấp chính quyền, thông qua văn bản quy định trên cho
thấy, đã có nhiệm vụ được phân cấp từ chính quyền cấp trên cho chính quyền
cấp dưới và giữa chính quyền các cấp với nhau, song chưa được gọi đúng tên
89
là “phân cấp quản lý nhà nước”.
- Các quy định của của chính quyền thành phố Hà Nội về phân cấp trong
quản lý hành chính nhà nước
Việc thực hiện phân cấp trong quản lý hành chính nhà nước ở Thành phố
Hà Nội trong nhiều năm qua đã thể hiện tích cực, nhất là trong các văn bản chỉ
đạo điều hành của thành phố. Cụ thể là:
Quyết định số 10/2011/QĐ-UBND ngày 02/3/2011 của UBND TP Hà
Nội về phân cấp nhiệm vụ chi thực hiện Luật dân quân tự vệ giữa các cấp ngân
sách và một số chế độ, chính sách đối với lực lượng dân quân tự vệ trên địa bàn
TP Hà Nội.
Quyết định số 01/2015/QĐ-UBND ngày 19/1/2015 của UBND TP Hà
Nội về phân cấp cấp giấy phép kinh doanh Karaoke trên địa bàn TP Hà Nội.
Theo đó, UBND TP Hà Nội phân cấp cho UBND cấp huyện cấp giấy phép kinh
doanh Karaoke cho các tổ chức doanh nghiệp (kể cả doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài - FDI) đăng ký hoạt động kinh doanh Karaoke, hộ kinh doanh
Karaoke khi đáp ứng đủ điều kiện kinh doanh và hồ sơ.
Quyết định 41/2016/QĐ-UBND ngày 19/9/2016 của UBND Thành phố
ban hành quy định phân cấp quản lý nhà nước một số lĩnh vực hạ tầng, kinh tế
- xã hội trên địa bàn bao gồm: Quản lý đường bộ; Chiếu sáng công cộng; Quản
lý công viên, cây xanh, thảm cỏ; Quản lý thoát nước đô thị và xử lý nước thải;
Quản lý vệ sinh môi trường; Quản lý bến, bãi xe ô tô; Quản lý cấp nước sạch,
Quản lý thủy lợi, đê điều; quản lý rừng; quản lý thông tin và truyền thông; quản
lý giáo dục và đào tạo – dạy nghề; Quản lý văn hóa thể thao, du lịch; Quản lý
y tế; Quản lý công tác phục vụ tang lễ.
Văn bản chỉ đạo điều hành số 5414/UBND-KT ngày 19/9/2016 của
UBND thành phố Hà Nội về việc giao nhiệm vụ cho các sở, ngành, quận huyện
triển khai thực hiện lập, trình UBND thành phố phê duyệt danh mục các công
90
trình do thành phố, cấp huyện quản lý làm cơ sở bàn giao thực hiện phân cấp.
Nghị quyết số 13/2016/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân TP Hà Nội
về việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách, tỷ lệ % phân
chia nguồn thu giữa các cấp ngân sách và định mức phân bổ chi ngân sách thành
phố giai đoạn 2017 – 2020.
Nghị quyết 08/2016/NQ-HĐND ngày 03/8/2016 của HĐND TP Hà Nội
về phân cấp quản lý nhà nước lĩnh vực hạ tầng, kinh tế xã hội trên địa bàn thành
phố Hà Nội. Theo đó, Nghị quyết nêu mục tiêu, nguyên tắc phạm vi phân cấp
quản lý nhà nước một số lĩnh vực hạ tầng, kinh tế, xã hội trên địa bàn TP Hà
Nội. Các lĩnh vực hạ tầng, kinh tế xã hội được thực hiện phân cấp gồm:a) Lĩnh
vực đường bộ b) Lĩnh vực chiếu sáng công cộng; c) Lĩnh vực công viên, vườn
hoa, cây xanh; d) Lĩnh vực thoát nước đô thị; đ) Lĩnh vực xử lý nước thải; e)
Lĩnh vực vệ sinh môi trường; f) Lĩnh vực bến, bãi đỗ xe, vận tải hành khách;
g) Lĩnh vực cấp nước sạch; h) Lĩnh vực thủy lợi; i) Lĩnh vực đê điều; k) Lĩnh
vực lâm nghiệp; l) Lĩnh vực thông tin truyền thông; m) Lĩnh vực giáo dục đào
tạo, dạy nghề; n) Lĩnh vực văn hóa - thể thao, du lịch; o) Lĩnh vực y tế; p) Lĩnh
vực nghĩa trang, tang lễ.
Nghị quyết quy định việc phân cấp quản lý nhà nước giữa chính quyền
TP và chính quyền cấp huyện. Nếu thấy cần thiết và được chính quyền TP cho
phép, căn cứ các nội dung được chính quyền TP phân cấp quản lý, chính quyền
cấp huyện có thể tiếp tục phân cấp cho cấp xã thực hiện quản lý từng lĩnh vực
và nội dung công việc trên địa bàn, đảm bảo phù hợp điều kiện, khả năng cụ
thể của mỗi địa phương, phù hợp thẩm quyền, trách nhiệm của cấp xã theo quy
định của Nhà nước.
Quyết định số 33/2017/QĐ-UBND ngày 09/10/2017 của UBND Thành
phố Hà Nội về việc phân cấp thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công
nghiệp trên địa bàn Thành phố Hà Nội. Theo đó, Quyết định phân cấp cho Sở
Tài nguyên và Môi trường tổ chức thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải
91
công nghiệp của các đối tượng nộp phí có lưu lượng nước thải phát sinh từ
20m3/ngày đêm. Phân cấp cho Phòng tài nguyên và Môi trường quận, huyện và
thị xã (cấp huyện) tổ chức thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công
nghiệp của các cơ sở thuộc đối tượng nộp phí trên địa bàn quận, huyện, thị xã
và có lưu lượng nước thải phát sinh dưới 20m3/ngày đêm.
Quyết định số 46/2017/QĐ-UBND ngày 29/12/2017 của UBND TP Hà
Nội về việc phân cấp cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh khí dầu mỏ
hóa lỏng cho cửa hàng bán LPG chai thuộc hộ kinh doanh và hợp tác xã trên
địa bàn TP Hà Nội. Theo đó, quyết định phân cấp cho UBND cấp huyện cấp
giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dầu mỏ hóa lỏng cho cửa hàng bán
LPG chai thuộc hộ kinh doanh và hợp tác xã trên địa bàn.
Quyết định số 20/2018/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân TP Hà Nội về
ban hành: “Quy định một số nội dung về quản lý đầu tư các dự án đầu tư công
của thành phố Hà Nội”. Theo đó, Quyết định đã có phân cấp, ủy quyền cho các
sở, ban, ngành, thành phố và cấp huyện được thực hiện thủ tục đầu tư.
Quyết định số 01/2018/ QĐ-UBND của UBND TP Hà Nội về việc phân
cấp tiếp nhận, rà soát biểu mẫu kê khai giá bán sữa và thực phẩm chức năng
dành cho trẻ em dưới 06 tuổi của các thương nhân phân phối trên địa bàn Hà
Nội. Quyết định này được UBND Thành phố Hà Nội phân cấp cho các UBND
quận, huyện, thị xã tiếp nhận, rà soát biểu mẫu kê khai giá bán lẻ sữa và thực
phẩm chức năng dành cho trẻ em dưới 06 tuổi của các thương nhân phân phối
có đăng ký kinh doanh trên địa bàn quận, huyện, thị xã trong trường hợp giá
bán lẻ của thương nhân phân phố vượt quá mức giá bán lẻ khuyến nghị đã kê
khai của thương nhân sản xuất, nhập khẩu theo quy định của pháp luật.
Các văn bản chỉ đạo của Thành phố đều được kịp thời ban hành để thực
hiện phân cấp, đảm bảo đúng chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về
phân cấp. Các văn bản trước đây của chính quyền Thành phố và chính quyền
phường thường không đề cập tới cụm từ “phân cấp quản lý nhà nước đối với
92
chính quyền phường”, tuy nhiên trong thực hiện đã có một vài nội dung được
quy định theo phương thức thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ. Ví như đầu
những năm 2000, ở Thành phố Hà Nội có quy định về phân cấp xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực xây dựng giữa chính quyền cấp huyện với chính
quyền cấp xã, được gọi nôm na là: “móng phường, tường quận”
Về mặt văn bản quy định cụ thể, qua rà soát cho thấy, cấp xã, phường,
thị trấn cho đến nay chưa có văn bản QPPL của Thành phố Hà Nội, quy định
trực tiếp về vấn đề “phân cấp thực hiện nhiệm vụ tại phường”.
Có một vài văn bản chỉ đạo điều hành quy định, trên cơ sở phân cấp của
Thành phố Hà Nội cho chính quyền quận, huyện thực hiện nhiệm vụ. Theo đó,
chính quyền quận, huyện có thể tiến hành phân cấp tiếp theo các nhiệm vụ cho
chính quyền xã, phường để thực hiện. Tuy nhiên, các văn bản này dùng các quy
định về giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm; chưa dùng khái niệm “phân
cấp”, “phân cấp quản lý nhà nước” cho chính quyền phường. Điều này dẫn đến,
i) về mặt nội dung có thể một vài phường đã thực hiện nhiệm vụ phân cấp, tuy
nhiên cũng có nhiều phường chưa thực hiện nhiệm vụ này, ii) về mặt hình thức,
các quy định nêu trên là chưa đầy đủ để làm căn cứ thực hiện phân cấp trên các
lĩnh vực quản lý nhà nước tại phường. Các quy định cụ thể như sau:
- Các quy định của quận về giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, giao
nhiệm vụ đối với các phường thuộc quận ở Thành phố Hà Nội
Trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật, văn bản phân cấp của chính
quyền Thành phố Hà Nội phân cấp thực hiện nhiệm vụ cho các Quận trên địa
bàn thành phố, các quận đã chủ động ban hành văn bản để yêu cầu chính quyền
phường thực thi nhiệm vụ. Các văn bản được chủ yếu là văn bản hành chính
như: Quyết định, Nghị quyết, Công văn; Thông báo; Kế hoạch tiếp tục giao tự
chủ, tự chịu trách nhiệm, giao nhiệm vụ cho các phường thuộc quận để thực
hiện quản lý nhà nước trên địa bàn và triển khai thực hiện nhiệm vụ theo chức
93
năng, quyền hạn. Chủ yếu nội dung các văn bản này mang tính chất chỉ đạo
hành chính để phường thực hiện, cụ thể trên các lĩnh vực quản lý nhà nước, có
ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống, nhu cầu thiết yếu của người dân. Cụ thể:
Lĩnh vực quản lý Văn bản và cụ thể nhiệm vụ được giao
NN, nhiệm vụ
được quận giao
cho phường tự
chủ, tự chịu trách
nhiệm
Lĩnh vực đầu tư, - Văn bản: Số 999/UBND-QLĐT của UBND quận
giao thông, hạ tầng, Đống Đa về triển khai các nhiệm vụ theo Kết luận của
xây dựng đô thị Thường trực HĐND TP về phiên giải trình thực hiện
kết luận chất vấn tại các kỳ họp HĐND khóa XV đối
với công tác quản lý trật tự xây dựng trên địa bàn TP.
- Nhiệm vụ được giao:
Tăng cường lực lượng kiểm tra đối với các công trình
hoạt động trên địa bàn phường
Phối hợp đội quản lý trật tự xây dựng đô thị thiết lập
hồ sơ vi phạm trật tự đô thị
Giao trách nhiệm Chủ tịch UBND phường chịu trách
nhiệm trước UBND quận về những vi phạm trật tự xây
dựng phát sinh mới và kết quả xử lý đối với các vi
phạm tồn đọng.
Lĩnh vực tài chính – - Văn bản:Quyết định 669/QĐ-UBND ngày 26/3/2018
ngân sách của UBND quận Hai Bà Trưng về việc giao tự chủ, tự
chịu trách nhiệm về sử dụng kinh phí quản lý hành
chính đối với các đơn vị quản lý nhà nước và UBND
94
các phường thuộc quận Hai Bà Trưng năm 2018
- Nhiệm vụ được giao: UBND quận Hai Bà Trưng giao
cho các phường thuộc quận tự chủ, tự chịu trách nhiệm
trong sử dụng kinh phí quản lý hành chính đối với
UBND các phường thuộc quận.
Lĩnh vực tổ chức bộ - Công văn số 660/UBND-NV ngày 5/6/2019 của Quận
máy, cán bộ, công Hai Bà Trưng về tăng cường thực hiện công tác cải
chức, viên chức cách hành chính
- Nhiệm vụ được giao
Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan thuộc quận tỏng
triển khai thực hiện nhiệm vụ CCHC.
Tổ chức niêm yết công khai, đầy đủ, kịp thời,d đúng
quy định các TTHC, thực hiện theo cơ chế một cửa,
một cửa liên thông
Nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động của Bộ phận
tiếp nhận và trả kết quả, bảo đảm thực chất, giảm tỷ lệ
hồ sơ quá hạn, phải bổ sung hồ sơ trong quá trình giải
quyết; thực hiện nghiêm túc quy định về xin lỗi cá
nhân, tổ chức đối với các hồ sơ quá hạn, lỗi trong quá
trình tiếp nhận hồ sơ.
Đẩy mạnh ứng dụng CNTT; triển khai có hiệu quả các
nhóm nhiệm vụ về xây dựng, phát triển chính quyền
điện tử theo chỉ đạo của TP; vận hành có hiệu quả cổng
dịch vụ công trực tuyến của TP, phần mềm một cửa
dùng chung 3 cấp; tăng cường sử dụng hiệu quả các
phần mềm quản lý và cơ sở dữ liệu dùng chung.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát nhằm
95
ngăn ngừa, kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm các vi
phạm của CB, CC, VC, đảm bảo kỷ luật, kỷ cương
hành chính; định kỳ tổ chức sơ kết, tổng kết, đánh giá,
nhân rộng gương làm tốt trong công tác CCHC; hưởng
ứng phong trào thi đua về CCHC của TW và TP.
Lĩnh vực môi Quyết định số 2265/QĐ-UBND ngày 14/9/2018 về
trường việc giao nhiệm vụ kiểm tra, giám sát công tác vệ sinh
môi trường trên địa bàn quận Cầu Giấy, Hà Nội.
- UBND các phường kiểm tra, rà soát lại toàn bộ các
chân điểm cẩu, điểm tập kết rác thải sinh hoạt, chủ
động đề xuất di chuyển, thay thế các điểm còn chưa
hợp lý trên địa bàn quận.
- Tăng cường xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực vệ sinh môi trường theo Nghị định 155/2016/NĐ-
CP ngày 18/11/2016 của CP. Theo đó UBND cấp xã có
thẩm quyền phạt vi phạm hành chính với các hình thức
phạt cảnh cáo, phạt tiền, tịch thu tang vật vi phạm.
- Tăng cường kiểm tra, giám sát công tác thực hiện của
đơn vị duy trì đảm bảo đúng quy trình, định mức kinh
tế kỹ thuật, đảm bảo an toàn lao động, an toàn giao
thông đường bộ trong quá trình công tác duy trì vệ sinh
môi trường.
- Đẩy mạnh sự vào cuộc của cấp ủy, chính quyền địa
phương, các tổ chức chính trị - xã hội trong công tác
phối hợp kiểm tra và duy trì vệ sinh môi trường sống
Lĩnh vực xử lý phản Công văn của UBND quận Đống Đa số 950/UBND-
ánh, kiến nghị. BTCD về việc thực hiện Quy định số 11- QĐ/TW, ngày
96
18/02/2019, của Bộ Chính trị về trách nhiệm của người
đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp
với dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị của dân.
- Chủ tịch UBND các phường tổ chức tuyên truyền,
phổ biến, quán triệt, xây dựng kế hoạch và tổ chức triển
khai thực hiện nghiêm Kế hoạch số 186-KH/QU ngày
28/5/2019 của Ban Thường vụ Quận ủy Đống Đa và
chỉ đạo của Chủ tịch UBND Thành phố.
- Phục vụ tốt hoạt động tiếp công dân định kỳ của
người đứng đầu cấp ủy địa phương, nhất là trong công
tác thông tin về tình hình, kết quả xử lý, giải quyết đối
với các vụ việc cụ thể, việc theo dõi, đôn đốc, giải
quyết, trả lời phản ánh, kiến nghị sau khi tiếp công dân.
Chủ động thông tin, báo cáo kết quả kiểm tra, giải
quyết các vụ việc với Văn phòng Quận ủy để phục vụ
hoạt động tiếp công dân.
Bảng 3.3. Nhiệm vụ được giao của UBND phường thông qua
văn bản hành chính của UBND quận
Qua nội dung được giao nhiệm vụ thực hiện tại UBND phường cho thấy,
các văn bản cấp trên khi giao thường chỉ giao nhiệm vụ, yêu cầu trách nhiệm,
chưa thể hiện rõ quyền lợi và các điều kiện đảm bảo về cơ sở vật chất, con
người, nguồn lực để phường làm căn cứ thực hiện. Hình thức giao nhiệm vụ
được thực hiện thông qua công văn, trong vài trường hợp là quyết định hành
chính cá biệt. Tuy nhiên, nội dung văn bản thể hiện tính chất nhiệm vụ cấp trên
giao cấp dưới thực hiện, chịu trách nhiệm trước chính quyền cấp trên về những
vấn đề được giao. Hoạt động thực tiễn của các phường cho thấy, đây là các
nhiệm vụ của quận, song các quận đã giao cho phường chịu trách nhiệm, trong
97
nhiều trường hợp là phối hợp trực tiếp với quận để giải quyết tình huống thực
thi nhiệm vụ, tuy nhiên hình thức văn bản giao nhiệm vụ lại là văn bản hành
chính.
3.2.2. Thực trạng thực hiện phân cấp quản lý nhà nước của các cấp
chính quyền tại Hà Nội
Ngoại trừ một số nội dung chính quyền Thành phố không tiến hành phân
cấp cho chính quyền quận, huyện như: Quy trình, tiêu chuẩn kỹ thuật, định mức
kinh tế kỹ thuật; kiểm tra chính quyền cấp huyện trong việc thực hiện quản lý
nhà nước theo phân cấp. Còn lại các nội dung quản lý nhà nước trên địa bàn,
Thành phố Hà Nội đã tích cực thực hiện phân cấp quản lý hành chính cho chính
quyền quận, huyện ở Thành phố Hà Nội. Cụ thể như sau:
3.2.2.1. Lĩnh vực quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
Theo phân cấp của TP Hà Nội tại Quyết định số 41/2016/QĐ-UBND
ngày 19/9/2016 của UBND TP Hà Nội về phân cấp quản lý nhà nước một số
lĩnh vực hạ tầng, kinh tế - xã hội trên địa bàn TP Hà Nội, lĩnh vực quy hoạch,
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội thuộc thẩm quyền quyết định của thành phố
và có phân cấp về quận, huyện. Theo các quy định này, phường không có quyền
quyết định, chỉ thừa hành, triển khai theo chính quyền cấp trên.
Tuy nhiên, trên thực tế khi thực hiện nhiệm vụ quy hoạch, TP Hà Nội đối
diện với nhiều khó khăn, nhất là phải tuân thủ nhiều văn bản quy định về quản
lý quy hoạch. Theo đó, có trên 28 Luật và 29 Nghị định và nhiều thông tư với
nhiều loại quy hoạch khác nhau để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước trên địa
bàn. Các vấn đề quy hoạch đều cần có cấp thẩm quyền phê duyệt, song việc
phân cấp về thẩm quyền phê duyệt chưa thực sự thống nhất giữa các Bộ, ngành,
địa phương và giữa các Bộ với nhau.
Có thể cùng là một loại quy hoạch cấp tỉnh, song cơ quan có thẩm quyền
quyết định có thể là cấp trung ương hoặc UBND cấp tỉnh, HĐND cấp tỉnh. Điều
này dẫn tới khi thực hiện phân cấp trong thẩm quyền quyết định quy hoạch, cơ
98
quan được phân cấp không tự mình quyết định, thường sẽ xin ý kiến từ cơ quan
cấp trên hoặc cơ quan có thẩm quyền trước khi quyết định, dẫn đến thực hiện
nhiệm vụ chậm trễ, kém hiệu quả.
3.2.2.2. Lĩnh vực đầu tư, giao thông, hạ tầng đô thị
Theo các quy định phân cấp của TP Hà Nội, mọi thẩm quyền đầu tư và
quản lý giao thông, hạ tầng đô thị thuộc thẩm quyền của TP Hà Nội và của
quận, huyện.
Đối với quản lý đường bộ, cấp huyện, quận được thực hiện các nội dung
phân cấp như: Về đầu tư: Đầu tư xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp, mở rộng hệ
thống đường bộ còn lại trên địa bàn, trừ đường do Trung ương và Thành phố
đầu tư quy định. Về quản lý sau đầu tư: Quản lý, bảo trì, lắp đặt các trang thiết
bị phục vụ tổ chức giao thông: hệ thống đường bộ còn lại và toàn bộ hè đường
trên địa bàn, trừ các đường do Thành phố quản lý sau đầu tư đi qua địa bàn
huyện, thị xã; Quản lý, bảo trì, lắp đặt các trang thiết bị phục vụ tổ chức giao
thông: các tuyến đường; ngõ, ngách và toàn bộ hè đường trong các khu đô thị
còn lại trên địa bàn huyện, thị xã sau khi chủ đầu tư các khu đô thị bàn giao về
Thành phố, trừ đường trong các khu đô thị do Thành phố quản lý
Đối với quản lý chiếu sáng công cộng, cấp huyện, quận được thực hiện
các nội dung phân cấp như: Về đầu tư xây dựng mới hệ thống chiếu sáng công
cộng đồng bộ với đầu tư hệ thống đường bộ do cấp huyện đầu tư; Đầu tư xây
dựng bổ sung, cải tạo, nâng cấp, mở rộng hệ thống chiếu sáng công cộng trên
các tuyến đường bộ, trong các công viên, vườn hoa và các khu vực công cộng
khác do cấp huyện quản lý sau đầu tư. Về quản lý sau đầu tư: quản lý, duy tu,
bảo trì và cấp điện hệ thống chiếu sáng công cộng còn lại trên địa bàn, trừ phần
Thành phố quản lý sau đầu tư
Về quản lý công viên, vườn hoa, cây xanh, thảm cỏ cấp huyện, quận được
thực hiện các nội dung phân cấp như: Về đầu tư: Đầu tư xây dựng mới công
viên (gồm cả hồ nước trong công viên), vườn hoa còn lại trên địa bàn, trừ phần
99
Thành phố đầu tư; Đầu tư trồng mới cây xanh, thảm cỏ trong các khu vực công
cộng, trên hệ thống đường do cấp huyện đầu tư. Về quản lý sau đầu tư:Quản lý,
duy trì, chăm sóc, bảo tồn các công viên (bao gồm cả bảo đảm chất lượng nước
hồ), vườn hoa còn lại trên địa bàn, trừ các công viên, vườn hoa Thành phố quản
lý sau đầu tư; Quản lý, duy trì, chăm sóc, cắt sửa, trồng bổ sung, thay thế cây
xanh, thảm cỏ còn lại trên địa bàn, trừ cây xanh, thảm cỏ do Thành phố quản lý
sau đầu tư. Quản lý các nội dung khác có liên quan:Cấp phép chặt hạ, dịch
chuyển cây xanh: trong các công viên; vườn hoa; các khu vực công cộng; các
tuyến đường, ngõ, ngách còn lại trên địa bàn, trừ phần cây xanh do Thành phố
cấp phép chặt hạ, dịch chuyển, trong các trường hợp chặt hạ, dịch chuyển cây
xanh phải có giấy phép theo quy định.
Về quản lý thoát nước đô thị và xử lý nước thải: cấp huyện, quận được
thực hiện các nội dung phân cấp như: Đối với quản lý thoát nước đô thị: Về đầu
tư: được đầu tư xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp, mở rộng:Hệ thống thoát nước
gắn với các khu vực, các tuyến đường do cấp huyện đầu tư.Hệ thống thoát nước
còn lại, trừ hệ thống thoát nước do Thành phố đầu tư. Về quản lý sau đầu
tư:quản lý, duy tu, duy trì: hệ thống thoát nước và các hồ điều hòa còn lại trên
địa bàn, trừ phần Thành phố quản lý sau đầu tư. Quản lý các nội dung khác có
liên quan:
Đối với xử lý nước thải, cấp huyện được thực hiện các nội dung phân
cấp như: Cấp, thu hồi giấy phép đấu nối xả thải nước; giám sát việc xả thải
nước vào công trình thoát nước đô thị do cấp huyện quản lý sau đầu tư.
Về quản lý vệ sinh môi trường, cấp huyện, quận được thực hiện các nội
dung phân cấp như: Về đầu tư:Đầu tư xây dựng mới hoặc cải tạo, nâng cấp, mở
rộng các khu tập kết rác thải sinh hoạt có phạm vi phục vụ nội huyện. Về quản
lý sau đầu tư:Quản lý, duy trì vệ sinh môi trường: quét hút; rửa đường, hè; thu
gom, vận chuyển chất thải và công tác vệ sinh môi trường khác trong toàn bộ
phạm vi địa giới hành chính (trừ các đường cao tốc).Quản lý, vận hành và duy
100
trì các khu tập kết rác thải sinh hoạt có phạm vi phục vụ nội huyện do cấp huyện
đầu tư.Quản lý các nội dung khác có liên quan:Chỉ đạo và hướng dẫn trong việc
thành lập và tổ chức hoạt động của tổ chức tự quản về bảo vệ môi trường tại
địa phương, đảm bảo hoạt động có hiệu quả.
Về quản lý đê điều: cấp huyện, quận được thực hiện các nội dung phân
cấp như: Về đầu tư:Đầu tư xây dựng mới hoặc cải tạo, nâng cấp, mở rộng các
tuyến đê (kể cả công trình trên đê) từ cấp IV trở xuống và các tuyến đê chưa
phân cấp trên địa bàn. Về quản lý sau đầu tư:Quản lý, duy tu, bảo trì toàn bộ
các tuyến đê (kể cả công trình trên đê) do cấp huyện đầu tư. Vềquản lý các nội
dung khác có liên quan:Trực tiếp quản lý, bảo vệ hệ thống đê theo phân cấp
quản lý.Chỉ đạo các đơn vị trực thuộc và UBND cấp xã phối hợp quản lý, bảo
vệ các tuyếnđê do Thành phố quản lý đi qua địa bàn theo quy định pháp luật về
đê điều và các quy định của Ủy ban nhân dân Thành phố.
3.2.2.3. Lĩnh vực xây dựng
Tại Quyết định số 20/2016/QĐ-UBND ngày 24/6/2016 của UBND TP
Hà Nội về ban hành quy định chi tiết một số nội dung về cấp giấy phép xây
dựng trên địa bàn TP Hà Nội, quy định thẩm quyền cấp giấy phép xây dựng của
các cơ quan thuộc Thành phố, theo đó, UBND cấp huyện cấp giấy phép xây
dựng công trình, nhà ở riêng lẻ trong đô thị (bao gồm cả nhà ở riêng lẻ kết hợp
chức năng khác không phân biệt quy mô và nhà biệt thự), trung tâm cụm xã,
khu bảo tồn, khu di tích lịch sử - văn hóa được xếp hạng thuộc địa bàn mình
quản lý.
3.2.2.4. Lĩnh vực tài chính – ngân sách
Theo Quyết định số 55/2010/QĐ-UBND ngày 15/12/2010 và số
03/2013/QĐ-UBND ngày 08/01/2013 của UBND Thành phố về việc Ban hành quy
định phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách; tỷ lệ phần trăm (%)
phân chia nguồn thu giữa các cấp ngân sách và định mức phân bổ dự toán chi ngân
sách thuộc thành phố Hà Nội giai đoạn 2011-2015; Theo Nghị quyết số
101
13/2016/NQ-HĐND ngày 05 /12 /2016 của Hội đồng nhân dân Thành phố về
phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi, tỷ lệ phần trăm phân chia nguồn thu giữa
các cấp ngân sách Thành phố giai đoạn 2017-2020, ngân sách cấp quận, huyện
được hưởng tỷ lệ % gồm:
Thuế giá trị gia tăng thu từ doanh nghiệp ngoài quốc doanh (không kể
thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu);
Thuế thu nhập doanh nghiệp thu từ doanh nghiệp ngoài quốc doanh (trừ
thuế thu nhập doanh nghiệp từ hoạt động thăm dò khai thác dầu khí).
Thuế tiêu thụ đặc biệt hàng hóa, dịch vụ thu từ khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh (không kể thuế TTĐB hàng nhập khẩu).
Thuế thu nhập cá nhân giao quận, huyện, thị xã quản lý thu;
Tiền sử dụng đất các dự án giao đất (ngoài dự án di dời theo Quyết định
số 09/2007/QĐ-TTg) và đấu giá quyền sử dụng đất đối với loại đất có quy mô
diện tích từ 5000 m2 trở lên hoặc đất dưới 5000 m2 tiếp giáp với đường, phố.
Lệ phí trước bạ xe máy, ô tô, tàu thuyền và tài sản khác; Lệ phí trước bạ
nhà đất.
3.2.2.5. Lĩnh vực quản lý đất đai, rừng
Về quản lý đất đai, rừng, cấp huyện, quận được thực hiện các nội dung
phân cấp như: Về đầu tư: Đầu tư xây dựng mới hoặc cải tạo, nâng cấp, mở rộng
cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ bảo vệ, hỗ trợ trồng rừng sản xuất trên địa bàn
theo chính sách hiện hành của nhà nước. Về quản lý sau đầu tư:Trực tiếp quản
lý, bảo vệ, phòng chống cháy rừng theo phân cấp quản lý trên địa bàn; Thực
hiện trách nhiệm quản lý và phối hợp quản lý, bảo vệ, phòng chống cháy rừng,
sử dụng đất lâm nghiệp trên địa bàn theo quy định của pháp luật và Thành phố
về bảo vệ, phát triển rừng. Quản lý các nội dung khác có liên quan:Cấp, thu hồi
các loại giấy phép cải tạo rừng cho chủ rừng là hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng
dân cư thôn trên địa bàn Thành phố.
102
3.2.2.6. Lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa thể thao du lịch
Về quản lý giáo dục đào tạo, dạy nghề, cấp huyện, quận được thực hiện
các nội dung phân cấp như: Về đầu tư:Đầu tư xây dựng mới hoặc cải tạo, nâng
cấp, mở rộng các trường công lập gồm: trường trung học cơ sở; trường phổ
thông có nhiều cấp học trong đó không có cấp học trung học phổ thông; trường
phổ thông dân tộc bán trú; trường phổ thông dân tộc nội trú không có cấp trung
học phổ thông; trường tiểu học; cơ sở giáo dục mầm non (trừ các trường, cơ sở
thực hành sư phạm do Thành phố quản lý); trung tâm Giáo dục nghề nghiệp -
Giáo dục thường xuyên cấp huyện; các cơ sở giáo dục, đào tạo, dạy nghề cấp
huyện có tên gọi khác.Quản lý sau đầu tư:Quản lý, duy tu, sửa chữa các trường,
cơ sở, trung tâm công lập thuộc lĩnh vực giáo dục đào tạo, dạy nghề do cấp
huyện đầu tư.Quản lý các nội dung khác có liên quan:Đình chỉ hoạt động, sáp
nhập, chia, tách, giải thể các trường công lập, dân lập, tư thục trước đây cấp
huyện đã quyết định thành lập, hoặc cho phép thành lập.
Về quản lý văn hóa thể thao du lịch, cấp huyện, quận được thực hiện các
nội dung phân cấp như: Về đầu tư:Đầu tư tu bổ, bảo tồn và phát huy giá trị các
di tích còn lại trên địa bàn, trừ các di tích Thành phố trực tiếp đầu tư và các di
tích quốc gia đặc biệt, di tích lịch sử cách mạng kháng chiến do cấp huyện quản
lý được Thành phố hỗ trợ đầu tư tu bổ, bảo tồn; Đối ứng cùng ngân sách Thành
phố đầu tư tu bổ, bảo tồn và phát huy giá trị các di tích quốc gia do cấp huyện
đang quản lý; Đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp các công trình văn hóa, thể
thao cấp huyện, xã, thôn, tổ dân phố, khu vui chơi cộng đồng,... Quản lý sau
đầu tư:Duy tu, bảo trì và quản lý các di tích còn lại trên địa bàn, trừ các di tích
Thành phố trực tiếp quản lý sau đầu tư.Quản lý, duy tu, bảo trì các các công
trình văn hóa, thể thao cấp huyện, xã, thôn, tổ dân phố.Quản lý các nội dung
khác có liên quan:Tổ chức lễ hội quy mô cấp huyện; chỉ đạo cấp xã tổ chức lễ
hội quy mô cấp xã; Quản lý các cơ sở lưu trú du lịch: căn hộ du lịch, biệt thự
103
du lịch, nhà nghỉ du lịch, nhà có phòng cho khách du lịch thuê, bãi cắm trại du
lịch và cơ sở lưu trú du lịch khác trên địa bàn; Quản lý các cá nhân kinh doanh
đại lý lữ hành.
Về quản lý y tế, cấp huyện, quận được thực hiện các nội dung phân cấp
như: Về đầu tư: Đầu tư xây dựng mới hoặc cải tạo, nâng cấp, mở rộng: Trung
tâm y tế cấp huyện (bao gồm cả các phòng khám đa khoa khu vực, nhà hộ sinh,
trạm y tế xã, phường, thị trấn) theo sự hướng dẫn chỉ đạo về chuyên môn nghiệp
vụ của Sở Y tế.Quản lý sau đầu tư: Quản lý, duy tu, duy trì: Trung tâm y tế cấp
huyện (bao gồm cả các phòng khám đa khoa khu vực, nhà hộ sinh, trạm y tế
xã, phường, thị trấn) theo sự hướng dẫn chỉ đạo về chuyên môn nghiệp vụ của
Sở Y tế; Trung tâm Dân số Kế hoạch hóa gia đình.Quản lý các nội dung khác
có liên quan: Kiểm tra, thanh tra việc tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm
pháp luật, chính sách, kế hoạch, đề án, chương trình, dự án và hoạt động đối
với các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế trên địa bàn (bao gồm cả cơ sở y, dược tư
nhân). Cấp giấy chứng nhận cơ sở vệ sinh an toàn thực phẩm theo phân cấp của
Bộ Y tế; phối hợp quản lý: y tế, dược tư nhân và Ban dân quân y trên địa bàn
theo chỉ đạo của Thành phố.
3.2.2.7. Lĩnh vực tổ chức bộ máy, nhân sự, cán bộ, công chức, viên chức.
Theo Quyết định số 15/2017/QĐ-UBND của UBND TP Hà Nội ban hành
Quy định về phân cấp quản lý tổ chức bộ máy, cán bộ, công chức, lao động hợp
đồng trong các cơ quan hành chính thuộc thành phố Hà Nội đối với cấp Huyện
như sau:
Quản lý tổ chức bộ máy: UBND huyện trình HĐND cấp huyện thành lập,
bãi bỏ phòng thuộc UBND cấp huyện; Phối hợp với Sở Nội vụ xây dựng hướng
dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của phòng thuộc UBND
cấp huyện, gửi Sở Nội vụ thẩm định trình UBND TP xem xét ban hành; Căn cứ
Hướng dẫn của UBND TP, ban hành quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn,
104
cơ cấu tổ chức bộ máy của phòng thuộc UBND cấp huyện; Tổ chức thực hiện
các quy định của pháp luật, của UBND TP và của Chủ tịch UBND TP về quản
lý tổ chức bộ máy của UBND cấp huyện, UBND cấp xã.
Quản lý vị trí việc làm, biên chế công chức, lao động hợp đồng, tiền
lương, tiền công: Thủ trưởng sở, Chủ tịch UBND cấp huyện trước ngày 01
tháng 6 hàng năm, xây dựng kế hoạch sử dụng biên chế công chức, số lao động
hợp đồng và số lượng CBCC cấp xã, báo cáo UBND TP (qua Sở Nội vụ thẩm
định, tổng hợp); Sử dụng, quản lý biên chế công chức, lao động hợp đồng và
cán bộ, công chức cấp xã theo đúng quy định hiện hành của Nhà nước và của
Thành phố; Hàng tháng lập danh sách CBCC, lao động hợp đồng hưởng tiền
lương, tiền công (nếu có) của cơ quan, đơn vị gửi Kho bạc nhà nước chuyển
Ngân hàng chi trả cho người lao động.
Tuyển dụng công chức: Chủ tịch UBND cấp huyện thực hiện nhiệm vụ
và thẩm quyền như của các sở; Xây dựng kế hoạch tuyển dụng công chức cấp
xã gửi Sở Nội vụ thẩm định trình UBND Thành phố phê duyệt và tổ chức thực
hiện; Quyết định công nhận kết quả tuyển dụng công chức cấp xã; Quyết định
tuyển dụng công chức xã đối với thí sinh trúng tuyển; Tổ chức xét tuyển chức
danh chỉ huy trưởng quân sự và trưởng công an xã theo quy chế tuyển dụng
công chức cấp xã.
Bổ nhiệm vào ngạch, nâng ngạch, chuyển ngạch, xếp lương, nâng bậc
lương, phụ cấp thâm niên vượt khung, phụ cấp thâm niên nghề: Chủ tịch UBND
cấp huyện quyết định xếp lương CBCC cấp xã (sau khi có ý kiến thống nhất
bằng văn bản của Giám đốc Sở Nội vụ); Quyết định nâng bậc lương thường
xuyên, nâng bậc lương trước thời hạn, phụ cấp thâm niên vượt khung đối với
CBCC cấp xã; Quyết định xếp lương chức danh đối với cán bộ xã có trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ đào tạo sơ cấp hoặc chưa được đào tạo trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ.
Tiếp nhận, điều động, thuyên chuyển, luân chuyển, biệt phái CBCC;
105
CBCC cấp xã; ký và chấm dứt hợp đồng lao động: Chủ tịch UBND cấp
huyệnquyết định tiếp nhận vào công chức cấp xã không qua thi tuyển và tiếp
nhận công chức cấp xã từ tỉnh ngoài đến làm việc tại UBND cấp xã theo quy
định; Quyết định điều động công chức cấp xã trong các xã thuộc huyện; Quyết
định tiếp nhận công chức xã trong các xã của TP về làm việc trong các xã thuộc
huyện theo quy định; Quyết định thuyên chuyển công chức cấp xã đến làm việc
tại các cơ quan, đơn vị không thuộc thẩm quyền quản lý của huyện.
Phê chuẩn, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, đình chỉ công tác, cách
chức đối với CBCC: Chủ tịch UBND cấp huyện quyết định bổ nhiệm, bổ nhiệm
lại, miễn nhiệm, từ chức đối với trưởng phòng, phó trưởng phòng thuộc UBND
cấp huyện. Riêng chức vụ Chánh thanh tra huyện phải có ý kiến bằng văn bản
của Chánh Thanh tra Thành phố trước khi quyết định; Phê chuẩn kết quả bầu,
miễn nhiệm, bãi nhiệm, đình chỉ công tác, cách chức Chủ tịch, Phó Chủ tịch
UBND cấp xã.
Chế độ thôi việc và nghỉ hưu: Thủ trưởng sở, Chủ tịch UBND cấp huyện
quyết định thôi việc, nghỉ hưu đối với CBCC giữ các chức vụ lãnh đạo, quản
lý do thủ trưởng sở, Chủ tịch UBND cấp huyện bổ nhiệm, phê chuẩn và CBCC,
lao động hợp đồng; CBCC xã.
Nghỉ việc riêng: Chủ tịch UBND TP quyết định cho phép CBCC giữ
chức vụ quản lý, lãnh đạo do Chủ tịch UBND TP bổ nhiệm, phê duyệt được
nghỉ việc riêng ở trong nước hoặc ở nước ngoài theo quy định (trừ chức vụ chi
cục trưởng).Thủ trưởng sở, Chủ tịch UBND cấp huyện quyết định cho phép
nghỉ việc riêng ở nước ngoài (thăm thân nhân, tham quan, du lịch hoặc các việc
khác) đối với chi cục trưởng, trưởng phòng, phó trưởng phòng, CBCC, lao động
hợp đồng và CBCC cấp xã thuộc thẩm quyền quản lý của mình; Cho phép nghỉ
việc riêng ở trong nước đối với CBCC giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý do thủ
trưởng sở, Chủ tịch UBND cấp huyện bổ nhiệm, phê duyệt đối với chi cục
106
trưởng, trưởng phòng, phó trưởng phòng, CBCC, lao động hợp đồng.Chủ tịch
UBND cấp xã quyết định cho phép công chức cấp xã nghỉ việc riêng ở trong
nước.
Quản lý hồ sơ CBCC và lao động hợp đồng:Hồ sơ của CBCC giữ chức
vụ lãnh đạo, quản lý do Chủ tịch UBND TP bổ nhiệm, phê duyệt được quản lý
theo quy định (trừ hồ sơ của chi cục trưởng). Sở, UBND cấp huyện quản lý hồ
sơ của chi cục trưởng, phó chi cục trưởng, trưởng phòng, phó trưởng phòng,
CBCC, lao động hợp đồng; CBCC cấp xã. Việc chỉnh sửa các dữ liệu thông tin
trong hồ sơ CBCC, lao động hợp đồng; cán bộ, công chức cấp xã thực hiện theo
quy định của pháp luật; Hàng năm, các sở, UBND cấp huyện có trách nhiệm
cập nhật, bổ sung hồ sơ CBCC, lao động hợp đồng; CBCC cấp xã theo quy
định.
3.2.3.Thực trạng phân cấp và kết quả thực hiện phân cấp quản lý nhà
nước cho chính quyền phường ở Thành phố Hà Nội
Qua nghiên cứu tại chính quyền phường hiện nay, về: i) văn bản quy
phạm pháp luật: chưa có văn bản quy phạm pháp luật quy định về nguyên tắc
phân cấp, nội dung phân cấp thực hiện nhiệm vụ từ chính quyền Thành phố Hà
Nội cho chính quyền phường; cũng chưa có các văn bản quy phạm pháp luật
quy định về phân cấp giữa chính quyền quận cho chính quyền phường; ii) về
nội dung nhiệm vụ thực hiện: Chính quyền phường có thực hiện các nhiệm vụ
do chính quyền quận giao.
Mặc dù chủ trương về phân cấp đã được khẳng định tại các văn kiện của
Đảng, nhưng việc hiện thực hóa, chuyển hóa thành quy phạm để làm căn cứ
pháp lý thực hiện trên thực tế là chưa đầy đủ. Thực trạng tại các phường ở
Thành phố Hà Nội hiện nay, chưa có quy định pháp luật về việc phân cấp nhiệm
vụ giữa cấp thành phố, cấp quận cho phường để thực hiện. Tuy nhiên, trên thực
tế các nhiệm vụ của phường thực hiện hiện nay được quận giao trên cơ sở văn
107
bản hành chính. Trên thực tế, chỉ có văn bản quy phạm pháp luật của Thành
phố Hà Nội quy định về phân cấp thực hiện nhiệm vụ giữa Thành phố với chính
quyền quận.
Tại Luật tổ chức CQĐP năm 2015 đã có quy định về nguyên tắc phân
quyền và “căn cứ tình hình cụ thể ở địa phương, cơ quan nhà nước ở địa phương
có thể phân cấp tiếp cho chính quyền địa phương thực hiện các nhiệm vụ, quyền
hạn đã được cơ quan nhà nước cấp trên phân cấp” (và phải được sự đồng ý của
cơ quan nhà nước đã phân cấp) [34, Tr.17]. Nhưng trên thực tế, chính quyền
quận không có “động thái” hoặc văn bản pháp luật cụ thể để phân cấp nhiệm
vụ cho chính quyền phường. Mặc dù chính quyền quận có thể căn cứ chức năng,
nhiệm vụ của chính quyền phường, khả năng đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm
vụ và tình hình thực tế tại các phường ở Thành phố Hà Nội để tiến hành phân
cấp cho chính quyền phường thực hiện các nhiệm vụ mà chính quyền thành phố
đã phân cấp cho chính quyền quận thực hiện, trên cơ sở sự đồng ý của chính
quyền Thành phố Hà Nội.
Để có thêm căn cứ đánh giá thực tế và có được số liệu sơ cấp, trung thực,
khách quan từ nhìn nhận của các cá nhân trực tiếp thực hiện nhiệm vụ tại các
phường thuộc quận của TP Hà Nội, chúng tôi đã tiến hành điều tra xã hội học
với bảng hỏi về vấn đề thực hiện phân cấp quản lý nhà nước của chính quyền
phường hiện nay. Bảng hỏi được thiết kế đơn giản, dễ tiếp cận với 11 câu hỏi
(trong đó có 10 câu trực tiếp và 01 câu hỏi mở). Cách thức thực hiện điều tra
xã hội học được tiến hành với cách thức phát phiếu, nhận được sự đồng thuận
với người được hỏi và cam kết được giữ bí mật cho những ý kiến cá nhân tại
cuộc điều tra.
Qua điều tra tại 50/177 phường của 12 quận tại TP Hà Nội với 250 phiếu
điều tra xã hội học (thời điểm điều tra xã hội học của Luận án, các phường
thuộc thành phố Hà Nội chưa được sắp xếp đơn vị hành chính theo Nghị quyết
của Ủy ban thường vụ Quốc hội, do đó các số liệu vẫn để thực trạng là 50/177
108
phường), đối tượng được hỏi là các cán bộ, công chức đang trực tiếp làm việc
tại các phường trên địa bàn Thành phố Hà Nội và một số cá nhân làm công tác
Mặt trận, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, Cựu chiến binh. Theo đó, đối tượng
hỏi gồm Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND, Phó Chủ tịch
UBND, Phó Chủ tịch HĐND, Bí thư Đoàn thanh niên, Chủ tịch Hội phụ nữ;
các công chức văn phòng thống kê, địa chính – xây dựng, tài chính – kế toán,
tư pháp – hộ tịch, văn hóa, xã hội. Các gợi ý trả lời tại điều tra xã hội học đưa
đến bức tranh thực trạng thực hiện phân cấp của Thành phố, chính quyền quận
ở Hà Nội với chính quyền phường và đánh giá của các đối tượng điều tra xã
hội học về các nội dung phân cấp như sau:
Có 225/250 phiếu (tỷ lệ 90%) ý kiến cho rằng, việc phân cấp thực hiện
nhiệm vụ giữa Thành phố Hà Nội và chính quyền phường ở Hà Nội là cần thiết
và 10% còn lại cho rằng là chưa cần thiết.
Chưa cần thiết 10%
Sự cần thiết có phân cấp 0%
Cần thiết 90%
Sự cần thiết về phân cấp
Biểu đồ 3.1: Thể hiện sự cần thiết về phân cấp thực hiện nhiệm vụ
giữa Thành phố Hà Nội và chính quyền phường ở Hà Nội
Chủ trương phân cấp giữa các cấp chính quyền địa phương được biết đến
nhiều nhất qua kênh: văn bản quy phạm pháp luật: 80 phiếu (Tỷ lệ 32%); Qua
phương tiện thông tin đại chúng: có 65 phiếu (Tỷ lệ 26%), còn lại là qua điều
tra khảo sát, qua người thân: 32 phiếu (Tỷ lệ 13%) và qua làm việc trực tiếp 62
109
phiếu (Tỷ lệ 25%).
Chủ trương phân cấp được biết 0%
Qua làm việc trực tiếp 25%
Qua văn bản quy phạm pháp luật 32%
Qua người thân 13%
Qua khảo sát 4%
Qua phương tiện thông tin đại chúng 26%
Hiểu biết về chủ trương phân cấp
Biểu đồ 3.2: Thể hiện sự hiểu biết của đối tượng được hỏi về chủ
trương phân cấp giữa các cấp chính quyền địa phương
Khi được hỏi về nhận thức của các cấp ủy Đảng, lãnh đạo chính quyền về
vị trí, vai trò, ý nghĩa của việc thực hiện phân cấp, hầu hết các ý kiến trả lời đều
cho rằng, nhận thức của các đối tượng này là: quan trọng 230 phiếu (chiếm tỷ
lệ 92%).
Hầu hết các ý kiến trả lời đều cho rằng, nội dung phân cấp giữa chính
quyền Thành phố Hà Nội với chính quyền cấp dưới hiện nay là chưa phù hợp
237 phiếu (tỷ lệ chiếm đến 95%), việc thực hiện phân cấp giữa chính quyền
Thành phố Hà Nội với chính quyền cấp phường hiện nay là khó khăn (235/250
phiếu trả lời có, tỷ lệ: 94%) và chưa phù hợp có 225 phiếu, chiếm tỷ lệ 90%.
Lý do: Vì chưa có văn bản quy định cụ thể, rõ ràng, minh bạch (tỷ lệ phiếu
trả lời ở mức cao: 80%); Vì cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ phân cấp
yếu kém về năng lực (chiếm tỷ lệ thấp 45%); Vì thiếu nguồn lực thực hiện
(78%); Vì vướng mắc tại văn bản Luật và văn bản hướng dẫn dưới Luật hướng
110
dẫn thi hành (85%)
Series1
90% 80% 70% 60% 50% 40% 30% 20% 10% 0%
Vì thiếu nguồn lực thực hiện
Vì chưa có văn bản quy định cụ thể, rõ ràng, minh bạch
Vì vướng mắc tại văn bản Luật và văn bản hướng dẫn dưới Luật
Vì cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ phân cấp yếu kém về năng lực
Biểu đồ 3.3: Thể hiện nguyên nhân khó khăn khi thực hiện
phân cấp giữa chính quyền TP Hà Nội cho chính quyền phường
Hầu hết khi được hỏi, các công chức phường đều trả lời là chưa thực hiện
các nội dung phân cấp tại cơ quan, đơn vị. Như phân cấp về quản lý đầu tư:
Chưa thực hiện: Tỷ lệ trên 80%; Phân cấp về quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu
nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn: Chưa thực hiện: Tỷ lệ
70%; Phân cấp về tổ chức, bộ máy, nhân sự: Chưa thực hiện: Tỷ lệ: 75%; Phân
cấp về kỷ luật cán bộ, công chức: Chưa thực hiện: Tỷ lệ 60%.
Khi được hỏi về quan điểm cá nhân, gần 100% công chức trả lời là cần
thiết mở rộng nhiệm vụ phân cấp cho chính quyền cấp phường. Việc phân cấp
các nhiệm vụ từ chính quyền cấp quận cho chính quyền cấp phường là cần thiết
và cần thực hiện trong thời gian tới.Các nhiệm vụ được đề cập đến và mở rộng
phân cấp là những nhiệm vụ như: Phân cấp về quản lý cụm công nghiệp, làng
nghề trên địa bàn phường; Về khuyến nông, thú y, bảo vệ thực vật trên địa bàn
phường; Về thẩm quyền của UBND cấp xã ủy quyền cho công chức tư pháp –
hộ tịch ký chứng thực bản sao từ bản chính và chứng thực chữ ký…
Qua thực tiễn thực hiện nhiệm vụ của Chính quyền phường và các kết
111
quả tích cực chúng tôi có được thông qua hệ thống báo cáo của chính quyền
phường hàng năm, thể hiện: chính quyền phường có đủ năng lực, điều kiện thực
hiện các nhiệm vụ của chính quyền quận đã được phân cấp từ chính quyền
thành phố. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có văn bản quy định cụ thể, rõ ràng
các nhiệm vụ được phân cấp từ chính quyền quận cho chính quyền phường
hoặc phân cấp trực tiếp từ chính quyền Thành phố tới chính quyền phường.
Một số nhiệm vụ thường xuyên trên các mặt kinh tế, xã hội theo quy định của
pháp luật và một số nhiệm vụ được chính quyền quận chỉ đạo chính quyền
phường thực hiện đã đạt được nhiều kết quả lớn, cụ thể như sau:
Về chỉ đạo, điều hành :
Theo Luật tổ chứcCQĐP năm 2015, điều 61, HĐND phường thực hiện
ban hành Nghị quyết về những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND
phường. Trên thực tế hoạt động của HĐND các phường tại TP Hà Nội cho thấy,
HĐND phường ban hành Nghị quyết về nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, an
ninh quốc phòng căn cứ theo chỉ tiêu giao của UBND quận, HĐND phường
đưa ra bàn bạc và đề xuất các giải pháp để tổ chức chỉ đạo thực hiện.
Cũng theo quy định này HĐND phường quyết định dự toán thu chi ngân
sách nhà nước trên địa bàn, dự toán thu chi ngân sách phường; điều chỉnh dự
toán ngân sách phường trong trường hợp cần thiết; phê chuẩn quyết toán ngân
sách phường gồm: Lệ phí môn bài thu từ cá nhân, hộ kinh doanh;Thuế sử
dụng đất nông nghiệp thu từ các hộ sản xuất;Thuế sử dụng đất phi nông
nghiệp;Thu bán tài sản nhà nước do xã, phường, thị trấn quản lý;Viện trợ không
hoàn lại của các tổ chức quốc tế, các tổ chức khác, các cá nhân ở nước ngoài
trực tiếp cho xã, phường, thị trấn theo quy định của pháp luật;Các khoản thu
phí, lệ phí cho ngân sách xã, phường, thị trấn (không kể lệ phí môn bài, lệ phí
trước bạ, phí bảo vệ môi trường); Các khoản thu từ xử phạt vi phạm hành chính,
phạt, tịch thu và thu khác của ngân sách địa phương theo quy định của pháp
luật (phần thuộc ngân sách nhà nước theo quy định) do xã, phường, thị trấn
112
thực hiện và quản lý;Thu từ tài sản được xác lập quyền sở hữu nhà nước do xã,
phường, thị trấn xử lý; Thu từ quỹ đất công, công ích và hoa lợi công sản do
xã, phường, thị trấn quản lý;Thu đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất đối
với đất thuộc xã, phường, thị trấn quản lý;Huy động đóng góp theo quy định
của pháp luật và đóng góp tự nguyện từ các tổ chức, cá nhân cho xã, phường,
thị trấn;Thu kết dư ngân sách; Các khoản thu khác theo quy định của pháp
luật.Khoản thu ngân sách xã, phường, thị trấn được hưởng theo tỷ lệ phần trăm
phân chia là lệ phí trước bạ nhà đất.
UBND các phường đã tăng cường các biện pháp QLNN để điều hành,
thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội theo mục tiêu, kế
hoạch chung của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết đề ra của HĐND
phường, góp phần vào việc thực hiện thành công các nhiệm vụ kinh tế - xã hội,
an ninh, quốc phòng của địa phương và cả nước.Với chức năng là cơ quan hành
chính nhà nước trên địa bàn phường, UBND phường có nhiệm vụ điều hành
quản lý trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội ở địa bàn phường. Nhìn
chung, UBND phường đã phát huy tốt vai trò, vị trí của mình; tổ chức, vận
động nhân dân chấp hành và thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng
và pháp luật của Nhà nước, tìm các biện pháp để ổn định và phát triển sản xuất;
thúc đẩy sản xuất hàng hoá ở địa phương, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá xã
hội, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Trong công tác chỉ đạo, điều hành, UBND các phường đã gắn với công
tác cải cách hành chính và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, do đó đã tạo sự
chuyển biến trong lề lối, phong cách làm việc, bảo đảm giải quyết các công
việc cho công dân cũng như công việc của chính quyền được nhanh chóng,
thuận lợi và kịp thời. Phong cách quản lý, điều hành của UBND phường đã đổi
mới rõ rệt, việc triển khai thực hiện các văn bản và quyết định của cơ quan nhà
nước cấp trên và nghị quyết HĐND phường được thực hiện nhanh chóng, kịp
thời hơn và hiệu quả cao hơn. UBND đã tập trung hơn vào chức năng, nhiệm
113
vụ quản lý hành chính nhà nước. Bên cạnh đó, các công việc hàng ngày liên
quan đến nhân dân trên địa bàn phường cũng được UBND phường cải tiến về lề
lối và cách thức giải quyết với tinh thần trách nhiệm cao và gắn bó với nhân dân.
Nhiều công việc của UBND phường đã được công khai cho nhân dân biết cả về
trình tự, thủ tục tiến hành và thời gian, kết quả thực hiện để nhân dân biết và
giám sát.
Về quản lý văn hoá, giáo dục, UBND các phường đã phối hợp với Uỷ
ban MTTQ cùng cấp tổ chức thực hiện tốt nhiều phong trào văn hoá, điển hình
là phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá, tạo điều kiện cho
văn hoá phát triển lành mạnh, rộng khắp, nâng cao dần mức hưởng thụ của nhân
dân. Tất các phường trên toàn quốc đã xây dựng được hệ thống truyền thanh ở
phường phục vụ cho nhu cầu thông tin, văn hoá và tinh thần của nhân dân. Sự
nghiệp phát triển giáo dục ở phường đã có những chuyển biến rõ nét, đạt được
nhiều kết quả tích cực.
Về thực hiện chính sách xã hội, giải quyết việc làm, các phường cùng với
các tổ chức trong hệ thống chính trị cơ sở đã có những đổi mới cách làm theo
hướng công khai, dân chủ, sâu sát, cụ thể đến từng đối tượng nên trong những
năm qua, thực hiện có kết quả các chương trình, chính sách xã hội, giải quyết
việc làm, xoá đói, giảm nghèo ở địa phương. Nhiều phường đã thực hiện tốt
các chính sách xã hội đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ, gia đình
có công với nước, bà mẹ Việt Nam anh hùng, người về hưu và các đối tượng
chính sách xã hội khác, mang lại hiệu quả thiết thực.
Về công tác kiểm tra, tiếp dân và giải quyết khiếu nại tố cáo, trong quá trình
thực hiện nghị quyết của Đảng, văn bản QLNN về tăng cường công tác thanh
tra, kiểm tra, trên cơ sở chỉ đạo trực tiếp của cấp uỷ Đảng và UBND cấp trên,
UBND các phường đã chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện công tác thanh tra,
kiểm tra trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội ở địa phương. Các lĩnh vực trọng tâm
tiến hành là xây dựng cơ sở hạ tầng, cấp đất, thu hồi đất nông nghiệp, đất canh
114
tác; thu - chi ngân sách. Công tác này được thực hiện với sự phối hợp của đoàn
thể nhân dân và đông đảo quần chúng nhân dân ở tổ dân phố; bằng các biện
pháp cụ thể như kiểm kê, kiểm soát, giám sát các hoạt động của cán bộ, công
chức phường theo đúng phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”
đã có tác dụng rất lớn trong việc đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, nhũng
nhiễu của cán bộ chính quyền cơ sở, phát hiện những tệ nạn tiêu cực để xử lý, làm
trong sạch bộ máy chính quyền địa phương nói chung và bộ máy, cán bộ, công
chức UBND phường.
Công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân cũng từng
bước được cải tiến. UBND nhiều phường đã coi việc cải tiến và chuyển biến
trong công tác này như là một bước cải tiến lề lối làm việc của UBND và
chính quyền cơ sở. Các phường đã có lịch tiếp dân hàng tuần để giải quyết
những vấn đề nhân dân đề nghị, kiến nghị. Qua đó, nhiều vụ việc, mâu thuẫn
trong nhân dân hoặc các kiến nghị của nhân dân được UBND phường giải
quyết hoặc tổ chức hoà giải ngay từ cơ sở, hạn chế nhiều tình trạng khiếu nại,
tố cáo vượt cấp.
Về phát triển kinh tế và quản lý tài chính - ngân sách: Trên cơ sở các
điều kiện cụ thể, đặc điểm tình hình thực tiễn của địa phương mình, UBND các
phường đã xây dựng các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội sát hợp với tình
hình thực tiễn, có tính khả thi cao để trình HĐND cùng cấp và UBND cấp trên
xem xét, phê duyệt; đồng thời triển khai nhiều giải pháp để thực hiện đúng đắn
các chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước và kế hoạch đã đề ra trong
phát triển công nghiệp, thương mại, dịch vụ. UBND phường đã tập trung phát huy
nội lực, huy động các nguồn lực, trong đó có sự đóng góp của nhân dân theo phương
châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” để xây dựng kết cấu hạ tầng của phường như
điện, đường, trường, trạm.
Công tác quản lý tài chính, ngân sách đã có bước tiến bộ. UBND các phường
căn cứ vào điều kiện phát triển kinh tế của phường, tiến hành việc lập dự toán
115
và phương án phân bổ ngân sách trình HĐND quyết định; đồng thời triển khai
nhiều biện pháp để thực hiện nghị quyết của HĐND; có nhiều giải pháp để tạo
nguồn thu, thu đúng, thu đủ và quản lý chặt chẽ các nguồn thu, chi ngân sách
theo đúng Luật Ngân sách Nhà nước.
Về quản lý đất đai và tài nguyên: UBND các phường đã thực hiện đúng qui
định công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai của phường để trình cấp
có thẩm quyền xét duyệt; quản lý và sử dụng hợp lý, có hiệu quả quỹ đất ở
phường phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế và đáp ứng các nhu cầu công ích ở
phường. Công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của UBND phường đã góp
phần bảo đảm tính thống nhất trong QLNN về đất đai, bảo đảm việc quản lý,
sử dụng đất gắn với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm hiệu quả sử
dụng đất. Đồng thời qua công tác QLNN về đất đai, UBND phường cũng nắm
chắc được quỹ đất, tình hình biến động đất đai ở địa phương mình, dự tính được
nguồn thu từ đất cho ngân sách nhà nước.
Về lĩnh vực xây dựng, trách nhiệm của UBND phường trong vấn đề xây
dựng tại Thành phố là: 1, Tổ chức phổ biến, tuyên truyền, hướng dẫn các tổ
chức, cá nhân trên địa bàn thực hiện các quy định của nhà nước và thành phố
về quản lý và cấp phép xây dựng.2.Tiếp nhận thông báo khởi công của chủ đầu
tư; kiểm tra, xác nhận công trình đã đủ điều kiện khởi công và thời điểm chủ
đầu tư nộp thông báo. Hướng dẫn chủ đầu tư hoàn chỉnh thông báo khởi công
nếu chưa đủ điều kiện. Lập hồ sơ trích ngang các công trình xây dựng trên địa
bàn để theo dõi, quản lý.3. Niêm yết công khai điều kiện, trình tự và các thủ tục
cấp giấy phép xây dựng tại trụ sở cơ quan, đồng thời thường xuyên phổ biến
nội dung quy định của pháp luật về công tác cấp giấy phép xây dựng trên các
phương tiện thông tin đại chúng.
Vấn đề tăng cường phân cấp thực hiện nhiệm vụ cho chính quyền phường
tại Thành phố Hà Nội được nhiều người quan tâm và đề xuất kiến nghị cần
được đẩy mạnh hơn nữa trong tương lai, các giải pháp cũng được để xuất cụ
116
thể. Điều này thể hiện qua kết quả điều tra xã hội học như sau:
Khi được hỏi về các giải pháp để thực hiện tốt nhiệm vụ phân cấp từ chính
quyền cấp trên, các công chức đều trả lời có các giải pháp: Tăng cường vai trò
lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng và chính quyền trong thực hiện nhiệm
vụ phân cấp (100% ý kiến đống ý chọn phương án trên); Tăng cường mối quan
hệ công tác giữa cấp chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội trên địa bàn
(60%); Nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức vềthực hiện nhiệm vụ được
phân cấp (80%); Tăng cường nguồn lực (cơ sở vật chất, tài chính, con người)
(90%) và nâng cao kỷ luật, kỷ cương làm việc (65%)
Các giải pháp thực hiện tốt nhiệm vụ phân cấp từ Số Tỷ lệ
chính quyền cấp trên phiếu %
Tăng cường vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng 250 100%
và chính quyền trong thực hiện nhiệm vụ phân cấp
Tăng cường mối quan hệ công tác giữa cấp chính quyền và 150 60%
các tổ chức chính trị - xã hội trên địa bàn
Nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức về thực hiện 200 80%
nhiệm vụ được phân cấp
Tăng cường nguồn lực (cơ sở vật chất, tài chính, con người) 225 90%
Nâng cao kỷ luật, kỷ cương làm việc 65% 162
Bảng 3.4: Các giải pháp đề xuất để thực hiện tốt nhiệm vụ
117
phân cấp từ chính quyền cấp trên
120%
100%
80%
60%
40%
Tỷ lệ %
20%
0%
Nâng cao kỷ luật, kỷ cương làm việc
Tăng cường nguồn lực (cơ sở vật chất, tài chính, con người)
Nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức về thực hiện nhiệm vụ được phân cấp
Tăng cường vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng và chính quyền trong thực hiện nhiệm vụ phân cấp
Tăng cường mối quan hệ công tác giữa cấp chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội trên địa bàn
Tỷ lệ % các giải pháp
Biểu đồ 3.4: Thể hiện các giải pháp khi thực hiện
phân cấp giữa chính quyền TP Hà Nội cho chính quyền phường
3.3. Đánh giá việc thực hiện phân cấp cho chính quyền phường ở Hà
Nội và nguyên nhân.
3.3.1. Những kết quả đạt được
3.1.1.1. Dưới góc độ quản lý, Thành phố Hà Nội đã phân cấp thực hiện
nhiệm vụ cho chính quyền cấp dưới là chính quyền quận
Việc xây dựng và thực hiện phân cấp giữa Thành phố Hà Nội với chính
quyền quận đã đạt được những kết quả tích cực, cụ thể như sau:
Thứ nhất, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, văn bản chỉ đạo điều hành
được ban hành kịp thời, với các quy định về phân cấp giữa thành phố đối với
118
chính quyền cấp dưới ở Hà Nội. Các văn bản quy định về phân cấp giữa thành
phố cho chính quyền cấp dưới là cấp quận, huyện, ở Hà Nội đã cụ thể hóa chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong việc thực hiện phân
cấp. Nhất là cụ thể hóa các quy định về thực hiện phân cấp tại Luật tổ chức
chính quyền địa phương năm 2015. Các văn bản chỉ đạo điều hành của Thành
phố Hà Nội trong thực hiện phân cấp thể hiện sự nhanh nhạy, nhạy bén trong
quản lý nhà nước trên các mặt, lĩnh vực của TP.Việc quy định phân cấp thực
hiện nhiệm vụ giữa Thành phố Hà Nội và chính quyền cấp dưới là cấp quận,
huyện với mục đích lớn là giải quyết nhanh chóng những vấn đề cấp bách của
người dân trên địa bàn thủ đô, giảm tải khối lượng công việc lớn cho Thành
phố và Thành phố tập trung nhiệm vụ về chỉ đạo, điều hành chung.
Thứ hai, về cơ bản, đã có những quy định cụ thể về chức năng, nhiệm vụ
của các cấp chính quyềnThành phố Hà Nội và chính quyền cấp quận, huyện.
Các quy định về phân cấp thể hiện khá rõ về trách nhiệm quản lý của các cấp,
chú trọng đến việc phát huy tính chủ động, sáng tạo của chính quyền cấp dưới
trên cơ sở điều kiện, khả năng của mỗi cấp hành chính.
Thứ ba, vai trò của cấp huyện, quận ở Thành phố Hà Nội ngày càng được
khẳng định trong chính sách phân cấp, phân quyền, thể hiện sự phát triển đi lên
của mỗi địa phương phụ thuộc không nhỏ vào sự năng động, sáng tạo của chính
quyền địa phương. Khi thực hiện các nhiệm vụ phân cấp, chính quyền cấp dưới
thể hiện được năng lực trình độ công chức; huy động sự kết hợp chặt chẽ giữa
các đơn vị, tổ chức, cá nhân trong bộ máy nhà nước ở cấp huyện, quận, phường,
để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ củaThành phố, đồng thời góp
phần hoàn thành nhiệm vụ xây dựngThành phố, thủ đô văn minh, hiện đại.
Thứ tư, khi thực hiện phân cấp đã đẩy mạnh cơ chế phối hợp giữa các cấp,
ngành, các địa phương, nhất là sự phối hợp giữa cơ quan thực hiện phân cấp
với các tổ chức chính trị - xã hội ở Thành phố Hà Nội, mang lại hiệu quả trong
119
quản lý nhà nước, thực thi nhiệm vụ.
Thứ năm, thực hiện phân cấp tạo sự đồng thuận trong xã hội, do các bức
xúc, mâu thuẫn và vướng mắc của người dân được giải quyết kịp thời tại cơ
quan, đơn vị được phân cấp. Việc giảm tải các quy trình, thủ tục báo cáo cấp
trên giải quyết đã phần nào giảm sự phiền hà của người dân khi tiếp xúc, làm
việc với cơ quan công quyền, rút ngắn thời gian đi lại cho người dân.
3.1.1.2. Dưới góc độ thực thi nhiệm vụ của chính quyền phường theo sự chỉ
đạo, giao nhiệm vụ từ chính quyền quận.
Thứ nhất, chính quyền phường luôn luôn thể hiện sự chủ động khi được
giao nhiệm vụ thực thi, thừa hành. Đối với các nhiệm vụ được chính quyền
Thành phố phân cấp cho chính quyền quận giải quyết, quyết định trực tiếp, chính
quyền quận thường xuyên có văn bản chỉ đạo, điều hành, giao nhiệm vụ tới chính
quyền phường để thực thi đảm bảo đúng quy định pháp luật.
Thứ hai, sự chủ động trong thực hiện nhiệm vụ của chính quyền phường
góp phần lớn tạo nên thành công và là giải pháp quan trọng để chính quyền quận
hoàn thành các nhiệm vụ trong lĩnh vực, thẩm quyền được giao. Đồng thời, hoạt
động của chính phường góp phần đẩy mạnh công tác cải cách hành chính trên
địa bàn.
Thứ ba, chính quyền phường là cấp thấp nhất tại chính quyền ở đô thị, là
cấp gần dân nhất, do đó khi thực hiện các nhiệm vụ được phân cấp từ chính
quyền quận sẽ mang lại hiệu quả “tức thì”, có tác động, ảnh hưởng lớn đến quyền,
lợi ích của người dân trên địa bàn phường.
3.3.2. Những hạn chế về phân cấp quản lý nhà nước giữa thành phố,
chính quyền quận cho chính quyền phường tại Hà Nội
Bên cạnh các kết quả đạt được trong công tác chỉ đạo, điều hành, quy định
về lĩnh vực quản lý nhà nước tiến hành phân cấp, giữa Thành phố Hà Nội cho
chính quyền phường ở Hà Nội còn nhiều bất cập liên quan đến vấn đề phân
120
cấp. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, chưa có nội dung phân cấp được quy định tại văn bản quy phạm
pháp luật giữa Thành phố Hà Nội với chính quyền phường ở Hà Nội
Mặc dù các quy định hiện hành của Thành phố Hà Nội như: Quyết định
số 15/2017/QĐ-UBND của UBND TP Hà Nội ban hành Quy định về phân cấp
quản lý tổ chức bộ máy, cán bộ, công chức, lao động hợp đồng trong các cơ
quan hành chính thuộc thành phố Hà Nội đối với cấp Huyện; Quyết định
41/2016/QĐ-UBND ngày 19/9/2016 của UBND Thành phố ban hành quy định
phân cấp quản lý nhà nước một số lĩnh vực hạ tầng, kinh tế - xã hội trên địa
bàn; Nghị quyết số 13/2016/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân TP Hà Nội về
việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách, tỷ lệ % phân
chia nguồn thu giữa các cấp ngân sách và định mức phân bổ chi ngân sách thành
phố giai đoạn 2017 – 2020. Nghị quyết 08/2016/NQ-HĐND ngày 03/8/2016
của HĐND Thành phố Hà Nội về phân cấp quản lý nhà nước lĩnh vực hạ tầng,
kinh tế xã hội trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Các văn bản này trực tiếp phân cấp thực hiện nhiệm vụ cho chính quyền
quận và chưa đề cập đến việc phân cấp thẳng từ chính quyền thành phố cho
chính quyền phường để thực hiện nhiệm vụ, không qua cấp trung gian là chính
quyền quận.
Do đó, chưa phát huy tối đa được tính chủ động, sáng tạo, năng lực cũng
như điều kiện phát triển theo thế mạnh từng phường, bởi các hoạt động của
phường thường chịu sự chỉ đạo của chính quyền quận hoặc văn bản từ chính
quyền thành phố yêu cầu chung thực hiện nhiệm vụ cho cả quận, huyện, phường
và thị trấn. Việc ban hành văn bản chỉ đạo, điều hành của chính quyền phường
cũng chưa thực sự chủ động, do phụ thuộc khá lớn vào sự chỉ đạo của chính
quyền cấp trên, dẫn tới mất dần sự năng động, sáng tạo cũng như thế mạnh của
chính quyền phường, vốn được xem là cấp chính quyền gần dân nhất, trực tiếp
giải quyết các nhiệm vụ, công việc liên quan đến người dân, và luôn cần sự linh
121
hoạt, nhạy bén.
Thứ hai, chưa có văn bản quy phạm pháp luật từ chính quyền quận phân
cấp quản lý nhà nước cho chính quyền phường tại Thành phố Hà Nội
Tại các văn bản phân cấp từ chính quyền thành phố cho chính quyền quận
đều quy định rõ về việc: Nếu thấy cần thiết và được chính quyền Thành phố
cho phép, căn cứ các nội dung được chính quyền Thành phố phân cấp quản lý,
chính quyền cấp huyện có thể tiếp tục phân cấp cho cấp xã thực hiện quản lý
từng lĩnh vực và nội dung công việc trên địa bàn, đảm bảo phù hợp điều kiện,
khả năng cụ thể của mỗi địa phương, phù hợp thẩm quyền, trách nhiệm của cấp
xã theo quy định của Nhà nước.
Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có văn bản cụ thể của chính quyền cấp quận,
tiếp tục phân cấp cho chính quyền phường các nhiệm vụ do chính quyền Thành
phố Hà Nội phân cấp. Do đó, các nhiệm vụ của chính quyền phường thực hiện
theo phân cấp hiện nay, chủ yếu là văn bản chỉ đạo, điều hành, giao việc, giao
nhiệm vụ từ chính quyền cấp quận và thực thi nhiệm vụ theo các quy định tại
văn bản quy phạm pháp luật như Luật, Nghị định, Thông tư quy định trực tiếp
cho chính quyền phường thực hiện.
Thứ ba, vai trò chính quyền phường mờ nhạt khi quyết định các vấn đề quản
lý nhà nước trên địa bàn phường
Khi thực hiện nhiệm vụ được giao từ chính quyền cấp quận, chính quyền
phường đều thể hiện là cấp thực thi thừa hành, chỉ có vai trò thực hiện và phản
ánh, kiến nghị lên cấp quận, vai trò quyết định các vấn đề về kinh tế - văn hóa –
xã hội trên địa bàn phường là rất mờ nhạt. Nhất là HĐND cấp phường, khi ban
hành Nghị quyết, chủ yếu dựa vào các quy định tại Nghị quyết của HĐND quận
và giao nhiệm vụ của HĐND quận, đồng thời căn cứ vào nhiệm vụ UBND quận
ban hành tại Quyết định để HĐND tiến hành thực hiện ban hành Nghị quyết thực
thi tại phường.
Thứ tư, do không có phân cấp rõ ràng về nhiệm vụ, nên còn tình trạng chính
122
quyền cấp trên giao việc, nhiều trường hợp tạo sức ép trong thực hiện công việc
nhưng không tạo điều kiện về mặt thẩm quyền, điều kiện nguồn lực cho chính
quyền phường và phường yêu cầu tổ dân phố thực hiện còn phổ biến
Việc tổ chức chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội,
văn hoá, giáo dục, y tế, thu chi ngân sách và các nhiệm vụ khác trên địa bàn
phường còn nhiều lúng túng; năng lực, tính chủ động trong tổ chức thực hiện
nhiệm vụ chưa cao. Thực tế tổ chức nhiều cuộc họp, bàn bạc, tuy nhiên hiệu
quả chưa cao. Cơ chế phân cấp và nhiệm vụ được phân cấp của chính quyền
phường trong từng lĩnh vực chưa rõ tại văn bản, do đó, khi quận được thành
phố giao nhiệm vụ, thực hiện phân cấp, quận có xu hướng “đẩy việc” xuống
cho chính quyền phường và phường đề nghị đội ngũ cán bộ tổ dân phố thực
hiện những công việc, những nhiệm vụ đáng ra là phải do cán bộ, công chức
UBND phường thực hiện như: thu thuế, tuyên truyền pháp luật. Ngoài ra, cán
bộ, công chức phường trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn còn mang nặng thói
quen, tình cảm chủ quan mà chưa thực sự dựa trên căn cứ pháp lý để giải quyết
công việc được giao. Chính cơ chế không rõ ràng, thiếu hụt văn bản quy định làm
căn cứ pháp lý dẫn đến chính quyền phường thường thực hiện khá nhiều nhiệm
vụ, từ cấp quận “rót” xuống, gia tăng áp lực thực hiện nhiệm vụ cho cấp chính
quyền thấp nhất ở đô thị bên cạnh những áp lực từ phía người dân.
Thứ năm, cơ chế chịu trách nhiệm trực tiếp khi thực hiện nhiệm vụ giữa
chính quyền phường và chính quyền quận đối với chính quyền thành phố là chưa
rõ ràng
Từ những bất cập trong quy định pháp luật, giao nhiệm vụ và vấn đề phân
cấp không rõ tại từng nhiệm vụ, dẫn đến khi thực thi có vướng mắc, khó khăn,
thậm chí có nhiều sai sót xảy ra, cơ chế chịu trách nhiệm chính vẫn còn mờ nhạt,
chưa đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật về xử lý cán bộ, công chức khi
thực thi nhiệm vụ có vi phạm. Điều này dẫn đến cơ chế “chịu trách nhiệm
chung”, không tìm ra được cá nhân có vi phạm hoặc cuối cùng là trường hợp
123
cộng đồng chịu trách nhiệm về những sai sót, sai phạm. Trong nhiều trường hợp,
các cấp chính quyền phường và quận đổ lỗi cho nhau, do chính quyền quận có
thẩm quyền quyết định, còn chính quyền phường là cấp thực thi thừa hành. Khi
giao nhiệm vụ thực hiện, không rõ trong việc thực hiện theo mệnh lệnh hành
chính hay thực hiện theo phân cấp, dẫn đến khó khăn trong việc lựa chọn quy
phạm áp dụng trong trường hợp xảy ra vi phạm.
Thứ sáu, thực hiện cơ chế trách nhiệm người đứng đầu cơ quan hành chính
phường còn nhiều bất cập.
Trong tổ chức bộ máy của chính quyền Phường hiện nay, UBND với tư
cách cơ quan hành chính hoạt động theo nguyên tắc “Tập thể lãnh đạo, cá nhân
phụ trách” là một nguyên tắc lãnh đạo của Đảng và là cơ chế chung của toàn
bộ hệ thống chính trị, trong đó có các cơ quan hành chính nhà nước. Đó chính
là biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ (Tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá
nhân phụ trách là tập trung). Thực hiện nguyên tắc này sẽ phát huy được trí tuệ
và sức mạnh của tập thể, đồng thời khẳng định năng lực của cá nhân, phù hợp
với hoạt động ra chủ trương, nghị quyết. Cơ cấu này có những ưu điểm như:
Cung cấp thông tin đầy đủ và đa dạng, vấn đề được xem xét thấu đáo, góp phần
phòng ngừa những sai lầm từ ý chí chủ quan của cá nhân; Phát huy được trí lực
của tập thể, có khả năng xây dựng được nhiều phương án hành động; Gia tăng
sự đồng thuận về giải pháp được lựa chọn, đặc biệt là các chủ trương lớn; Phát
huy tinh thần dân chủ, là môi trường để rèn luyện cán bộ kế cận.
Tuy nhiên, chế độ tập thể lãnh đạo cũng bộc lộ rất nhiều bất cập, như:
Tốn thời gian: chế độ tập thể đòi hỏi thời gian cho việc tập hợp nhiều
người cùng một lúc, tiêu tốn nhiều thời gian cho các hoạt động họp hành, bàn
bạc, thảo luận, lấy ý kiến của tập thể. Để đạt được sự nhất trí trong tập thể đòi
hỏi lượng thời gian không ngắn cho mỗi quyết định được đưa ra. Điều này dẫn
tới nhiều quyết định của tập thể thường chậm trễ, khả năng thích ứng với môi
124
trường không cao, hiệu quả hạn chế.
Có thể bị chi phối bởi thiểu số: Thường có sự khác biệt về thứ bậc, kinh
nghiệm, tầm ảnh hưởng, các kỹ năng giữa các thành viên của tập thể khiến một
số thành viên sử dụng lợi thế của họ để chi phối các thành viên khác trong nhóm
và ảnh hưởng đến quyết định cuối cùng. Do đó, các quyết định quản lý theo cơ
chế này về lý thuyết là đại diện của tập thể nhưng thực chất có thể chỉ đại diện
cho thiểu số người có những ưu thế nhất định trong tập thể đó.
Các quyết định thường mang tính thỏa hiệp, thiếu quả quyết bởi nó là kết
quả của sự bàn bạc, thảo luận để đưa đến những thỏa thuận.
Quyền lực bị phân tán, trách nhiệm không rõ ràng: bản chất của quyền
hành phải đi đôi với trách nhiệm cá nhân. Trách nhiệm tập thể có thể thuộc về
bất kỳ thành viên nào và có xu hướng phân tán, thiếu rõ ràng, khó xác định bởi
Ủy ban đại diện cho nhiều nhóm lợi ích khác nhau. Điều này dẫn tới tình trạng
thoái thác trách nhiệm cá nhân, đổ lỗi cho nhau hoặc đổ lỗi cho tập thể khi xảy
ra tiêu cực trong điều hành, không thể hiện được sự cam kết về trách nhiệm và
do đó dẫn đến khó kiểm soát và khó quy trách nhiệm.
Thứ bảy, chưa có sự mạnh dạn trong phân cấp giữa chính quyền cấp trên
với chính quyền phường.
Nhiều chính quyền phường trên địa bàn Thành phố Hà Nội có đủ điều kiện
cần thiết để thực hiện nhiều nhiệm vụ, nhất là nhiệm vụ được chính quyền quận
giao trên cơ sở chính quyền Thành phố phân cấp cho chính quyền quận thực
hiện. Tuy nhiên, do chưa có văn bản phân cấp, chưa mạnh dạn phân cấp quản lý
hành chính cho chính quyền phường nên có nhiều công việc do chính quyền
phường có khả năng giải quyết nhưng không có quyền giải quyết, chính quyền
quận quá nhiều nhiệm vụ, không có khả năng giải quyết nhưng không tiến hành
phân cấp, dẫn đến tình trạng nhiều công việc ùn tắc, chậm trễ, kém hiệu quả.
Như vấn đề về hệ thống thoát nước trên địa bàn phường, vấn đề về gom rác thải
trên địa bàn phường; vấn đề về xây dựng các công trình nhỏ lẻ trên địa bàn
125
phường…Các nhiệm vụ này có liên quan trực tiếp đến người dân về quyền lợi,
lợi ích, do đó, khi không thực hiện phân cấp, chính quyền phường không giám
thực hiện và khắc phục các sự cố xảy ra trực tiếp, nhiều trường hợp cần xin ý
kiến chỉ đạo, dẫn tới thực thi chính sách rất chậm tới người hưởng thụ.
Thứ tám, cơ chế kiểm tra, giám sát khi thực hiện phân cấp
Chính sách phân cấp trong hành chính nhà nước gắn rất chặt với yêu cầu
kiểm tra, giám sát. Tuy nhiên, vẫn chưa có những hành lang pháp lý cụ thể về
vấn đề này, nhất là những chế tài xử lý đối với các vi phạm về phân cấp chưa
rõ, chưa cụ thể. Chẳng hạn, việc buông lỏng trách nhiệm hướng dẫn, thanh tra,
kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước ở Trung ương và cấp trên đối với cấp
dưới trong thời gian qua đã dẫn đến tình trạng “phình to” bộ máy tổ chức và
biên chế ở cấp dưới. Việc kiểm soát, thanh tra, kiểm tra của chính quyền quận
đối với hoạt động của các cơ quan chính quyền phường trong quá trình phân
cấp chưa tốt dẫn đến sự lợi dụng việc phân cấp để đưa ra các biện pháp quản lý
vì lợi ích cục bộ, hoặc thực hiện quyết sách theo hướng có lợi cho phường là
vấn đề thực tế vẫn có xảy ra.
3.3.3. Nguyên nhân của hạn chế
Thứ nhất, cơ sở pháp lý cho thực hiện phân cấp giữa chính quyền Thành
phố, chính quyền quận và chính quyền phường còn nhiều bất cập, chưa đồng
bộ. Căn cứ pháp lý có vai trò lớn trong việc điều chỉnh vấn đề phân cấp giữa
chính quyền Thành phố, chính quyền quận với chính quyền phường.
Các quy định về phân cấp nói chung hiện nay cũng chưa phù hợp thực
tế, chậm được sửa đổi, bổ sung. Trong khi đó, sự vận động của đời sống kinh
tế, xã hội ở địa bàn phường diễn ra rất nhanh, tốc độ đô thị hóa cao, đòi hỏi sự
thay đổi trong các phương pháp quản lý, đồng thời cần nhìn nhận khách quan,
những vấn đề chính quyền phường có thể thực hiện được, thực hiện tốt, cần có
126
văn bản quy phạm pháp luật để giao thực hiện.
Thứ hai, đi đôi với việc thiếu các quy định cụ thể, chế tài xử lý đối với
việc không chấp hành các nhiệm vụ được giao còn thiếu, không rõ ràng. Các
quy định về trách nhiệm của người đứng đầu chính quyền phường trong việc
tự kiểm soát hoạt động của chính cơ quan mình chưa phát huy được hiệu lực
thực tế. Các chế tài đối với việc không tuân thủ các quy định về công khai,
minh bạch cũng ở tình trạng tương tự.
Bên cạnh đó, cơ sở pháp lý cho xã hội tham gia vào kiểm soát hoạt động
chính quyền phường đang còn thiếu những nội dung điều chỉnh quan trọng như:
quyền biểu quyết khi nhà nước tổ chức trung cầu dân ý, quyền mít tinh, biểu
tình; quyền đánh giá hoạt động của chính quyền phường; quyền được thông tin
về hoạt động của chính quyền phường…
Thứ ba, dưới góc độ thực hiện nhiệm vụ của phường cho thấy, năng lực
đảm bảo thực hiện nhiệm vụ của các phường hiện nay chưa đồng đều, trong
trường hợp nhận các nhiệm vụ phân cấp từ chính quyền cấp trên, điều kiện chưa
đảm bảo đầy đủ để thực hiện. Các điều kiện về nhân lực, vật lực cần được cân
nhắc và chuẩn bị kỹ lưỡng trước các nhiệm vụ lớn được giao. Xuất phát từ đặc
điểm đa dạng về dân cư, đa dạng về lối sống, hành xử do dịch chuyển lao động
từ các vùng miền khác nhau cũng có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của chính
quyền phường.
Thứ tư, kinh tế và nguồn thu của các phường trên địa bàn Thành phố Hà
Nội có mức khác nhau, dẫn đến sự chênh lệch trong các chính sách phúc lợi,
hưởng thụ của người dân. Đối với các phường đã đô thị hóa từ lâu, mức sống,
nguồn thu, thuế của người dân, doanh nghiệp trên địa bàn phường thường lớn
hơn là phường mới thành lập có mật độ dân cư thưa thớt, có ít các doanh nghiệp,
công ty đầu tư. Điều này dẫn đến, khi thực hiện nhiệm vụ được giao, có đơn vị
phường thực hiện tốt; có phường chưa đủ năng lực để thực hiện. Điều này ảnh
hưởng lớn đến quyết định phân cấp mang tính cào bằng, đại trà trên toàn các
127
phường thuộc Thành phố Hà Nội.
Thứ năm, chính quyền cấp trên chưa quan tâm đúng mức, thiếu quyết
tâm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức, điều hành; kiểm tra đôn đốc thực
hiện nhiệm vụ.
Phân cấp giữa chính quyền thành phố và chính quyền phường trên thực
tế còn nhiều khó khăn, thách thức, cần có sự kết hợp hài hòa giữa chủ trương,
chính sách, quy định của pháp luật, văn bản phân cấp và thực tiễn thực hiện
nhiệm vụ phân cấp.
Sự chỉ đạo sát sao của các cấp ủy Đảng, chính quyền cấp trên trong thực
hiện nhiệm vụ phân cấp là vấn đề cốt lõi, góp phần cho chính quyền cấp dưới
thực hiện thành công nhiệm vụ được phân cấp. Song vấn đề này chưa được thực
hiện, tiến hành thường xuyên, liên tục và sự quyết tâm của các cấp lãnh đạo
thành phố trong vấn đề phân cấp cần được xem xét, nhìn nhận ở đa chiều và
nâng tầm quan trọng ở mức cao.
Tiểu kết Chương 3
Chương 3 tiến hành phân tích thực tổ chức, hoạt động của chính quyền
phường ở Thành phố Hà Nội đã làm rõ những vấn đề liên quan đến đơn vị hành
chính phường của Thành phố Hà Nội; Chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của
chính quyền phường ở Thành phố Hà Nội.
Chương này cũng nêu về hệ thống thể chế chính trị, pháp lý về phân cấp
cho chính quyền phường và văn bản của Thành phố Hà Nội về phân cấp. Làm
rõ thực trạng thực hiện các nội dung phân cấp cho chính quyền phường của
Thành phố Hà Nội từ tổng kết báo cáo của chính quyền phường và điều tra xã
hội học, trên các góc độ như: nhiệm vụ đã thực hiện phân cấp của Thành phố
Hà Nội; Chính quyền phường dưới góc độ thực thi, thừa hành các nhiệm vụ
theo quy định pháp luật; thực thi nhiệm vụ theo chỉ đạo từ chính quyền quận;
các phản ánh, đề xuất từ điều tra xã hội học đối với vấn đề phân cấp, yêu cầu
phân cấp, các giải pháp tiến hành phân cấp cho chính quyền phường của Thành
128
phố Hà Nội trong tương lai.
Từ những kết quả của thực trạng, luận án có đánh giá nhận định về kết quả
đạt được trong việc thực hiện phân cấp cho chính quyền phường ở Hà Nội dưới
góc độ quản lý của Thành phố Hà Nội và dưới góc độ thực thi nhiệm vụ của
chính quyền phường theo sự chỉ đạo, giao nhiệm vụ từ chính quyền quận.
Chương 3 của Luận án cũng đã tập trung đánh giá những hạn chế về phân cấp
giữa thành phố, chính quyền quận cho chính quyền phường ở Hà Nội và chỉ ra
129
nguyên nhân của hạn chế.
CHƯƠNG 4. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP PHÂN CẤP CHO
CHÍNH QUYỀN PHƯỜNG TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI
4.1. Quan điểm phân cấp phù hợp về quản lý nhà nước giữa Thành
phố, chính quyền quận cho chính quyền phường ở Hà Nội
4.1.1. Phù hợp chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước
Đẩy mạnh thực hiện phân cấp giữa Trung ương và chính quyền địa
phương và phân cấp quản lý giữa các cấp chính quyền là vấn đề đã được Đảng
quan tâm chỉ đạo, đồng thời Chính phủ chỉ đạo thực hiện thông qua nhiều văn
bản điều hành. Cụ thể là: Nghị quyết số 18 – NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban
Chấp hành Trung ương khóa XII chỉ đạo: “Thực hiện phân cấp, phân quyền
mạnh mẽ, hợp lý giữa Trung ương và địa phương, giữa cấp trên và cấp dưới,
gắn quyền hạn với trách nhiệm; đồng thời xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực
chặt chẽ bằng các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm dân
chủ, công khai, minh bạch, đề cao trách nhiệm giải trình và tăng cường kiểm
tra, giám sát việc thực hiện” [3, Tr.7]. Nghị quyết số 99/NQ-CP ngày 24/6/2020
của Chính phủ về đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực
được tiến hành đối với 10 ngành, lĩnh vực. Trong đó có các lĩnh vực lớn như:
Tài nguyên môi trường: Biển và hải đảo; Văn hóa: Điện ảnh; Khoa học và Công
nghệ; Tài chính: Thu ngân sách nhà nước, chi ngân sách nhà nước, quản lý nợ
công, phí và lệ phí, tài sản công...
Tại quy định của Hiến pháp năm 2013, quy định về nhiệm vụ, quyền hạn
của chính quyền địa phương được xác định trên cơ cở phân định thẩm quyền
giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và mỗi cấp chính quyền
địa phương.
Đối với việc phân cấp cho chính quyền phường ở Thành phố Hà Nội,
cần bám sát chủ trương của Đảng, quy định của pháp luật tại Hiến pháp và các
130
văn bản Luật chuyên ngành.
Bộ Chính trị đã có chỉ đạo cụ thể tại Nghị quyết số 11 – NQ/TW ngày
06/01/2012, về phương hướng, nhiệm vụ phát triển thủ đô Hà Nội giai đoạn
2011 – 2020: “Có cơ chế, chính sách và phân cấp cho chính quyền Hà Nội thẩm
quyền, trách nhiệm giải quyết công việc phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ đặc thù
của Thủ đô, trọng tâm là các lĩnh vực đầu tư, tài chính, quản lý trật tự xây dựng,
trật tự giao thông, quản lý môi trường, quản lý dân cư” [1, Tr.5].
Thực hiện Kết luận số 46-KL/TW ngày 19/4/2019 của Bộ Chính trị,
Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành liên quan và UBND thành phố Hà Nội xây
dựng Nghị quyết của Quốc hội về thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND
phường tại thành phố Hà Nội nhiệm kỳ 2021 – 2026. Theo đó, ngày 27/11/2019
Quốc hội đã thông qua đề xuất của Hà Nội về việc thực hiện thí điểm tổ chức
mô hình chính quyền đô thị. Nghị quyết 97/2019/QH14 đã chỉ rõ, mô hình
chính quyền địa phương ở các phường thuộc quận, thị xã tại thành phố Hà Nội
là UBND phường.
Địa vị pháp lý của UBND phường được khẳng định là cơ quan hành
chính nhà nước ở phường, thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định
của Nghị quyết và theo phân cấp, ủy quyền của UBND, Chủ tịch UBND thành
phố Hà Nội; UBND, Chủ tịch UBND quận, thị xã.
Như vậy, theo tinh thần Nghị quyết này, sẽ không tổ chức Hội đồng nhân
dân tại 175 phường của Thành phố Hà Nội (số liệu sau khi đã sắp xếp đơn vị
hành chính phường theo Nghị quyết số 895/NQ-UBTVQH14 ngày 11/2/2020)
nhiệm kỳ 2021 - 2026. Do đó, cần có điều chỉnh cơ chế chính sách phân cấp
giữa Trung ương cho thành phố Hà Nội và giữa các cấp chính quyền của thành
phố Hà Nội cho phù hợp, để tạo được sự khác biệt giữa khu vực đô thị và nông
thôn; tạo sự chủ động cho Hà Nội thực hiện nhiệm vụ, đáp ứng nhu cầu của
người dân, phát triển hội nhập của Thủ đô hiện đại, văn minh.
Do đó, việc thực hiện phân cấp thực hiện một hoặc một số nhiệm vụ
131
thường xuyên, liên tục giữa cơ quan nhà nước ở trung ương, và giữa chính
quyền thành phố, chính quyền quận cho chính quyền địa phương ở các phường
thuộc quận, thị xã tại thành phố Hà Nội là UBND phường, phản ánh xu hướng
hiện thực hóa chủ trương của Đảng, Nghị quyết của Quốc hội, pháp luật của
Nhà nước về phân cấp.
4.1.2. Hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
hoạt động của chính quyền phường.
Xã hội phát triển hướng tới văn minh, hiện đại, đều đòi hỏi chính quyền
phục vụ luôn luôn hoàn hảo. Chính vì vậy, hệ thống các cơ quan nhà nước luôn
trong trạng thái đổi mới, cải cách không ngừng để phục vụ người dân, doanh
nghiệp, xã hội. Một trong những phương thức đổi mới để cơ quan nhà nước hoạt
động hiệu lực, hiệu quả từ trung ương đến địa phương là vấn đề phân cấp thực
hiện nhiệm vụ giữa chính quyền cấp cao cho chính quyền cấp thấp hơn.
Chính quyền ở đô thị luôn đối mặt với nhiều nhiệm vụ liên quan đến người
dân sống ở đô thị với đặc điểm: đông đúc về dân số, chật hẹp về không gian, diện
tích, nhiều vấn đề đô thị phát sinh như nước sạch, vệ sinh đường phố, môi trường,
chăm sóc cây xanh đô thị, hệ thống thoát nước...và nhiều nhiệm vụ quan trọng
khác để duy trì môi trường sống lành mạnh cho nhiều hộ gia đình với nhiều thành
phần xã hội khác nhau. Quản lý đô thị đòi hỏi tính đồng bộ, liên thông, đa diện,
đa chiều và nhất là linh hoạt trong cách xử lý tình huống liên quan đến người
dân. Đối với đô thị càng lớn về diện tích, quy mô dân số, đồng nghĩa với việc
chính quyền ở đó có khối lượng công việc càng tăng, cường độ làm việc rất cao,
căng thẳng và luôn luôn phải tuân thủ quy trình chặt chẽ, đảm bảo tính chính xác,
kịp thời. Hơn nữa, mật độ sinh hoạt của người dân ở đô thị dày đặc hơn nông
thôn, trình độ văn hóa, nhận thức, của người dân ở đô thị có nhiều điểm khác
biệt nông thôn, nên chính quyền quản lý cần nhanh nhạy, cán bộ trực tiếp giải
quyết công việc cần có tri thức, vững vàng về chuyên môn, khả năng chịu áp lực
132
lớn tốt.
Do đó, để giảm tải công việc cho chính quyền cấp thành phố, chính quyền
cấp quận, vấn đề phân cấp thực hiện nhiệm vụ cho chính quyền cấp thấp hơn là
giải pháp quan trọng, phát huy thế mạnh chính quyền cấp dưới, nâng cao tính
hiệu quả, minh bạch trong hoạt động công vụ trên địa bàn thành phố.
Ngoài ra, việc phân cấp thực hiện nhiệm vụ cũng là giải pháp cơ bản để
cơ quan nhà nước cấp trên tiến hành rà soát chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
cơ cấu tổ chức của đơn vị. Từ đó, cơ quan, tổ chức, đề xuất cấp có thẩm quyền
điều chỉnh các chức năng, nhiệm vụ chồng chéo, trùng lắp và thống nhất, một
việc chỉ giao một đầu mối triển khai, chịu trách nhiệm trước cấp có thẩm quyền.
Khi thực hiện nhiệm vụ đã được phân cấp, cơ quan thực hiện phân cấp hoàn toàn
chịu trách nhiệm về những quyết định, hiệu quả công việc trước pháp luật và
trước cơ quan nhà nước cấp trên. Quá trình thực hiện nhiệm vụ được phân cấp,
đối tượng thực hiện có thể huy động sự liên kết của các tổ chức, cá nhân khác có
liên quan trong giải quyết công việc được giao để đạt được hiệu quả tốt nhất.
4.1.3. Góp phần xây dựng thành phố Hà Nội là trung tâm chính trị -
hành chính, văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế.
Thực hiện phân cấp nhiệm vụ là một trong những giải pháp hữu hiệu,
giảm tải công việc cho chính quyền cấp trên, nhất là chính quyền ở đô thị do
đặc thù về sinh hoạt, văn hóa, đời sống, an ninh chính trị, trật tự đô thị, nước
sạch, môi trường, giao thông, xây dựng....Những vấn đề phát sinh từ người dân
và từ cơ quan công quyền để phục vụ người dân thường diễn ra thường xuyên,
dày đặc và nhiều tình huống khó giải quyết tức thời. Điều này tạo nên áp lực
cho cán bộ, công chức khi trực tiếp giải quyết công việc với người dân với khối
lượng lớn. Việc phân cấp cho chính quyền cấp dưới được lựa chọn như là giải
pháp hữu hiệu, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước của chính quyền thành phố,
giải phóng một phần lớn khối lượng công việc, dành thời gian để chính quyền
thành phố tiến hành chỉ đạo trực tiếp, kiểm tra, giám sát và ban hành các chính
133
sách phù hợp.
Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 06/01/2012 của Bộ Chính trị về phương
hướng, nhiệm vụ phát triển thủ đô Hà Nội giai đoạn 2011 – 2020, nhấn mạnh
về tầm quan trọng của Thành phố Hà Nội, về mảnh đất có bề dày lịch sử và
truyền thống cách mạng vẻ vang. Đối với Hà Nội, việc xây dựng, phát triển thủ
đô xứng tầm nhìn khu vực và thế giới là mục tiêu quan trọng. Để thực hiện
được nhiệm vụ đó, chính quyền Thành phố Hà Nội cần làm tốt vai trò, chức
năng, nhiệm vụ trong quản lý, điều hành, nhất là đảm bảo sự xuyên suốt, làm
việc có hiệu quả giữa chính quyền Thành phố và chính quyền cấp dưới. Vấn đề
phân cấp thực hiện nhiệm vụ giữa thành phố, chính quyền quận cho chính quyền
phường là một trong những giải pháp quan trọng, phát huy vai trò, vị trí, sức
mạnh của chính quyền phường, đồng thời giảm tải các công việc, nhiệm vụ của
chính quyền thành phố, chính quyền quận để góp phần xây dựng thành phố theo
mục tiêu đã đặt ra của Bộ Chính trị, theo định hướng phát triển giai đoạn 2011
– 2020 và những giai đoạn tiếp theo.
4.1.4. Phù hợp, thống nhất với Luật Thủ đô, quy hoạch phát triển kinh
tế - xã hội của Thành phố, đảm bảo sự quản lý minh bạch, hiệu quả.
Luật Thủ đô có nhiều quy phạm quy định về trách nhiệm xây dựng, phát
triển Thủ đô, đây là nhiệm vụ thường xuyên, trực tiếp của các cấp chính quyền
và nhân dân Thành phố Hà Nội, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, các lực
lượng vũ trang, nhân dân cả nước. Đối với các cơ quan nhà nước đóng trên địa
bàn thủ đô, các hoạt động của cấp chính quyền của Thành phố cần hướng tới
xây dựng Thủ đô là trung tâm lớn về văn hóa, giáo dục, văn hóa khoa học và
công nghệ, kinh tế của cả nước.
Các hoạt động của cấp chính quyền thành phố cần bám sát Luật Thủ đô
và các luật có liên quan, đảm bảo xây dựng thủ đô phát triển bền vững. Đồng
thời, phải bám sát định hướng phát triển hệ thống đô thị vùng của Thành phố
Hà Nội, tổ chức hạ tầng kinh tế - kỹ thuật; bảo vệ môi trường, cảnh quan thiên
134
nhiên, cân bằng sinh thái, đảm bảo thực hiện mục tiêu đã được đề ra.
Phân cấp thực hiện nhiệm vụ phù hợp giữa chính quyền thành phố, chính
quyền quận cho chính quyền phường phải tính đến các yêu cầu của thị trường,
tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh, cung cấp dịch vụ công ngày
càng phát triển, hướng tới phục vụ xã hội ngày một tốt hơn, nhất khi các trung
tâm đô thị hiện nay đều là nơi thu hút nhiều nguồn nhân lực cho các cơ sở sản
xuất kinh doanh công, nông nghiệp và dịch vụ. Bảo đảm nguyên tắc hiệu quả,
việc nào, cấp nào sát thực tế hơn, giải quyết kịp thời và phục vụ tốt hơn các yêu
cầu của tổ chức và người dân thì giao cho cấp đó thực hiện; phân cấp, phân
quyền phải rõ việc, rõ địa chỉ, rõ trách nhiệm, gắn với chức năng, nhiệm vụ và
thẩm quyền của mỗi cấp.
4.1.5. Phù hợp năng lực quản lý của bộ máy hành chính phường, tăng
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm khi thực hiện thí điểm tổ chức mô hình
chính quyền đô thị.
Nghị quyết số 97/2019/QH14 của Quốc hội về việc thực hiện thí điểm tổ
chức mô hình chính quyền đô thị đã mở cho Hà Nội bối cảnh mới, tập trung
nguồn lực để thực hiện không tổ chức HĐND tại các phường thuộc quận, thị
xã của Thành phố Hà Nội. Đây cũng là khó khăn, thách thức trong tổ chức, vận
hành bộ máy quản lý của thành phố Hà Nội, đồng thời cũng là cơ hội hiếm có,
quan trọng để thực hiện phân cấp hợp lý cho chính quyền phường thực hiện
một số nhiệm vụ thường xuyên, liên tục, phù hợp năng lực của phường trên địa
bàn Thành phố.
Theo quy định của Nghị quyết, UBND phường thực hiện các nhiệm vụ,
quyền hạn do UBND, Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội, quận, thị xã phân
cấp, ủy quyền; UBND phường thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của đơn vị dự
toán ngân sách trực thuộc UBND quận, thị xã và UBND phường không có thẩm
quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Do đó, khi thực hiện phân cấp quản lý nhà nước về thực hiện nhiệm vụ
135
cho chính quyền phường, cần tính đến các điều kiện, năng lực của UBND
phường. Nghị quyết của Quốc hội cho phép UBND phường thực hiện nhiệm
vụ được cấp trên phân cấp, ủy quyền, tuy nhiên khi cấp trên tiến hành phân cấp,
cần tuân thủ theo quy định của Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015
và các văn bản Luật có liên quan trong việc đảm bảo các điều kiện cần thiết
như: văn bản chỉ đạo điều hành, cơ sở vật chất, điều kiện đảm bảo về con người;
nguồn lực; cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm để UBND phường thực hiện hiệu
quả nhiệm vụ, phát huy nguồn lực, phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn
phường.
4.1.6. Góp phần tạo động lực thúc đẩy sự phát triển cân đối, hài hòa
của các khu dân cư của phường.
Đối với các phường của thành phố Hà Nội hiện nay, sự phát triển về kinh
tế - xã hội chưa thực sự đồng đều. Do mỗi phường có bề dày lịch sử, có điều
kiện khác nhau về vi trí địa lý, ưu đãi về danh lam, thắng cảnh hoặc điều kiện
tự nhiên khác, do đó, khi tiến hành phân cấp thực hiện nhiệm vụ, cần tính đến
sự cân đối, hài hòa giữa các phường thuộc quận. Một thực tế đặt ra là, đối với
các phường mới được thành lập từ khu vực nông thôn, hoặc có tuổi đời thấp,
chính quyền sẽ khó khăn hơn trong việc tiếp cận đời sống sinh hoạt người dân
hoặc triển khai các nhiệm vụ được phân cấp tại phường. Ngoài ra, còn có sự
khác nhau trong thế mạnh về kinh tế giữa các phường. Khi thực hiện chính sách
và tiến hành phân cấp thực hiện nhiệm vụ, có phường sẽ thực hiện tốt, hiệu quả
và ngược lại. Do đó, đối với các khu dân cư thuộc phường mới, phường non trẻ
hoặc có điều kiện khó khăn, cần có hỗ trợ lớn từ chính quyền cấp trên, về chỉ
đạo, ngân sách, chi phí hoặc công nghệ để thực hiện nhiệm vụ được phân cấp.
Sự cân đối, hài hòa về phát triển kinh tế - xã hội giữa các phường cần có
thời gian đủ dài và đảm bảo về mặt pháp lý của các văn bản quy định của Thành
phố Hà Nội và chính quyền cấp trên. Khi có đủ căn cứ pháp lý để thực hiện mới
phát huy được thế mạnh của chính quyền phường, tạo thế chủ động, tự chủ đối
136
với nhiệm vụ được giao tại văn bản phân cấp.
Bên cạnh đó, khi tiến hành phân cấp, chính quyền thành phố, chính quyền
quận không được can thiệp thiếu cơ sở trong hoạt động của UBND phường.
Chính quyền thành phố, chính quyền quận cần tập trung xây dựng thể chế để
quản lý chung, kiểm tra, thanh tra, giám sát khi thấy cần thiết và phân cấp một
số nhiệm vụ để UBND phường thực hiện, trên cơ sở thực tiễn cần thiết. Khi
nhận thấy, UBND phường không đủ điều kiện, sức lực, cơ sở hạ tầng và con
người để thực hiện nhiệm vụ được phân cấp, chính quyền thành phố, chính
quyền quận cần xây dựng ngay các giải pháp thu hồi nhiệm vụ phân cấp, để
chính quyền thành phố, chính quyền quận chủ động thực hiện.
4.2. Giải pháp về phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền
phường tại Hà Nội
4.2.1. Đề xuất nội dung phân cấp cho chính quyền phường tại Thành
phố Hà Nội
Khi tổ chức mô hình chính quyền đô thị theo Nghị quyết của Quốc hội,
nhiệm vụ của UBND phường là thực hiện một số công việc cụ thể của quản lý
hành chính nhà nước theo quy định của pháp luật. Do đó, trong bối cảnh đó, chính
quyền địa phương ở phường là UBND phường và là cơ quan hành chính nhà nước
ở phường, thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên các mặt đời sống, xã hội tại
phường. Nghị quyết cũng cho phép UBND phường thực hiện các nhiệm vụ được
phân cấp, ủy quyền. Nên việc phân cấp thực hiện nhiệm vụ của chính quyền cấp
trên cho UBND phường thuộc quận, thị xã của Thành phố Hà Nội vẫn sẽ được
tiến hành khi UBND phường có đủ điều kiện về năng lực, cơ sở vật chất, đảm bảo
phát huy thế mạnh, nội lực của các phường trên địa bàn thành phố, góp phần phát
triển kinh tế - xã hội lớn mạnh của thủ đô. Cơ sở pháp lý cho việc nhận phân cấp
từ cấp trên, cần quy định tại văn bản phân cấp của thành phố, chính quyền quận
với chính quyền phường dưới dạng văn bản QPPL. Nội dung văn bản QPPL về
137
phân cấp cho UBND các phường ở Hà Nội cần quy định rõ về công việc, nhiệm
vụ, điều kiện, cơ chế kiểm tra, giám sát, thực thi và chịu trách nhiệm trước pháp
luật khi thực hiện phân cấp. Các mảng phân cấp được phân chia cụ thể như sau:
4.2.1.1. Lĩnh vực quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
Đối với lĩnh vực quy hoạch đô thị: Luật quy hoạch đô thị năm 2009 quy
định: “Quy hoạch đô thị là việc tổ chức không gian, kiến trúc, cảnh quan đô thị,
hệ thống công trình hạ tầng kỹ thuật, công trình hạ tầng xã hội và nhà ở để tạo
lập môi trường sống thích hợp cho người dân sống trong đô thị, được thể hiện
thông qua đồ án quy hoạch đô thị”. Việc công bố công khai quy hoạch đô thị
hiện nay đang giao các cơ quan: UBND thành phố, thị xã, thị trấn công bố công
khai đồ án quy hoạch chung được lập cho thành phố, thị xã, thị trấn do mình
quản lý; UBND quận, huyện thuộc thành phố trực thuộc trung ương;, UBND
thành phố thuộc tỉnh, thị xã, thị trấn có trách nhiệm công bố công khai đồ án
quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết được lập cho các khu vực thuộc phạm
vi địa giới hành chính do mình quản lý.
Trên cơ sở nhiệm vụ được giao, UBND quận có thể phân cấp cho UBND
phường thực hiện công bố công khai đồ án quy hoạch đô thị trên địa bàn
phường. Các hình thức công khai đồ án quy hoạch đô thị tại phường cần được
chính quyền phường công khai trên cổng thông tin của phường, niêm yết tại trụ
sở phường hoặc qua các phương tiện thông tin công cộng, báo chí, truyền thanh,
truyền hình…để người dân được tiếp cận.
Bởi vấn đề quy hoạch quy hoạch đô thị trên địa bàn là vấn đề quan trọng,
đều được đại đa số người dân quan tâm. Việc công khai nội dung này, thể hiện
sự minh bạch trong quản lý của chính quyền phường, công khai các thông tin
liên quan để người dân chuẩn bị tâm lý cũng như các điều kiện khác khi xem
xét quy hoạch phường.
4.2.1.2. Lĩnh vực đầu tư, giao thông, hạ tầng đô thị
138
+ Lĩnh vực đầu tư công trình nhỏ, lẻ
Đối với các công trình đầu tư thuộc thẩm quyền quyết định của chính
quyền quận, được đầu tư trên địa bàn phường có thể phân cấp cho chính quyền
phường quyết định chủ trương đầu tư. Bởi chính quyền phường là cơ quan nắm
rõ nhất địa bàn dân cư, những khó khăn vướng mắc của người dân, trình độ dân
cư, phản ứng của dân cư khi tiếp nhận dự án đầu tư…do đó, đối với các dự án
đầu tư nhỏ, cần nghiên cứu, xem xét để tiến hành phân cấp cho chính quyền
phường quyết định, trên cơ sở chính quyền phường trực tiếp lấy ý kiến góp ý
của người dân trên địa bàn phường.
+ Lĩnh vực quản lý chiếu sáng công cộng
Thực tiễn quy định: Hiện nay Thành phố đang phân cấp cho quận, huyện
về nhiệm vụ đầu tư xây dựng mới hệ thống chiếu sáng công cộng đồng bộ với
đầu tư hệ thống đường bộ do cấp huyện đầu tư. Được đầu tư xây dựng bổ sung,
cải tạo, nâng cấp, mở rộng hệ thống chiếu sáng công cộng trên các tuyến đường
bộ, trong các công viên, vườn hoa và các khu vực công cộng khác do cấp huyện
quản lý sau đầu tư.
Đối với quản lý sau đầu tư, các huyện và thị xã Sơn Tây được phân cấp
quản lý, duy tu, bảo trì và cấp điện hệ thống chiếu sáng công cộng còn lại trên
địa bàn, trừ phần Thành phố quản lý và cấp phép chiếu sáng quảng cáo, trang
trí, chiếu sáng lễ hội trên các tuyến đường, các khu vực do các huyện và thị xã
Sơn Tây quản lý chiếu sáng công cộng sau đầu tư.
Đề xuất: Đối với nhiệm vụ này, trên cơ sở phân cấp của Thành phố Hà
Nội, các quận có thể tiến hành tiếp tục phân cấp cho chính quyền phường về
việc “quản lý, duy tu, bảo trì và cấp điện hệ thống chiếu sáng công cộng trên
địa bàn phường”. Thực tiễn thực hiện bảo trì, duy tu và cấp điện hệ thống chiếu
sáng công cộng ở các phường thường trực tiếp liên quan đến chính quyền
phường. Khi hỏng hóc, có sự cố, người dân thường chỉ phản ánh, yêu cầu trực
tiếp từ phường. Vấn đề này liên quan đến sinh hoạt, nhu cầu hàng ngày của
139
người dân. Tuy nhiên quy trình sửa chữa, duy tu, bảo trì khi thành phố phân cấp
cho quận, có thủ tục và thời gian khá dài. Việc sửa chữa, bảo dưỡng về hệ thống
chiếu sáng cần làm ngay, điều này dẫn đến khó khăn cho phường, giải quyết
mối quan hệ, bức xúc với người dân tại chỗ, đồng thời cần tuân thủ quy trình,
quy định của cấp trên về duy tu, bảo dưỡng. Do đó, cần phân cấp cho chính
quyền phường trực tiếp thực hiện nội dung này, đáp ứng yêu cầu trực tiếp,
nhanh chóng của người dân trên địa bàn phường.
+ Lĩnh vực công viên, vườn hoa, cây xanh, thảm cỏ
Thực tiễn quy định: Lĩnh vực quản lý nhà nước về công viên, vườn hoa,
cây xanh, thảm cỏ hiện nay đang phân cấp cho chính quyền quận: Đầu tư xây
dựng mới công viên (gồm cả hồ nước trong công viên), vườn hoa còn lại trên
địa bàn, trừ phần Thành phố đầu tư; Đầu tư trồng mới cây xanh, thảm cỏ trong
các khu vực công cộng, trên hệ thống đường do cấp huyện đầu tư.
Đối với quản lý sau đầu tư, cấp quận được phân cấp: Quản lý, duy trì,
chăm sóc, bảo tồn các công viên (bao gồm cả bảo đảm chất lượng nước hồ),
vườn hoa còn lại trên địa bàn, trừ các công viên, vườn hoa Thành phố quản lý;
Quản lý, duy trì, chăm sóc, cắt sửa, trồng bổ sung, thay thế cây xanh, thảm cỏ
còn lại trên địa bàn, trừ cây xanh, thảm cỏ do Thành phố quản lý sau đầu tư.
Cấp phép chặt hạ, dịch chuyển cây xanh: trong các công viên; vườn hoa; các
khu vực công cộng; các tuyến đường, ngõ, ngách còn lại trên địa bàn, trừ phần
cây xanh do Thành phố cấp phép chặt hạ, dịch chuyển.
Đề xuất: Vấn đề này được đề xuất phân cấp cho phường thực hiện: quản
lý, duy trì, chăm sóc, cắt sửa, trồng bổ sung, thay thế cây xanh trong nhà dân
thuộc địa bàn phường quản lý. Đâylà vấn đề thực tiễn trên địa bàn thành phố
Hà Nội về quản lý cây xanh ở đô thị, cần có cơ quan có thẩm quyền quản lý đối
với các cây xanh được trồng trong nhà dân trên địa bản quản lý của phường.
Bởi thực tiễn khi xảy ra sự cố, các cơ quan có thẩm quyền đùn đẩy cho nhau về
trách nhiệm, địa bàn, quản lý ngành hay quản lý lĩnh vực. Do đó, cần phân cấp
140
cho UBND phường thực hiện vấn dề này.
+ Lĩnh vực quản lý thoát nước đô thị, xử lý chất thải
Thực tiễn quy định: Đối với quản lý thoát nước, Thành phố phân cấp cho
quận được đầu tư xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp, mở rộng: Hệ thống thoát
nước gắn với các khu vực, các tuyến đường do cấp huyện đầu tư; Hệ thống thoát
nước còn lại, trừ hệ thống thoát nước do Thành phố đầu tư.
Về quản lý sau đầu tư: Các huyện và thị xã Sơn Tây quản lý, duy tu, duy
trì: hệ thống thoát nước và các hồ điều hòa còn lại trên địa bàn, trừ phần Thành
phố quản lý sau đầu tư. Được cấp, thu hồi giấy phép đấu nối xả thải nước; giám
sát việc xả thải nước vào công trình thoát nước đô thị do cấp huyện quản lý sau
đầu tư.
Đề xuất: Vấn đề này được đề xuất phân cấp cho phường về “giám sát
việc xả thải nước vào công trình thoát nước trên địa bàn phường”
Do vấn đề xả thải nước thải vào công trình thoát nước có ảnh hưởng trực
tiếp đến đời sống người dân. Các công trình thoát nước thường nằm trên địa
bàn phường, do phường trực tiếp theo dõi, do đó, việc giám sát xả thải nước
phân cấp cho phường quản lý là phù hợp thực tiễn và yêu cầu cấp bách về xử
lý khi có sự cố môi trường xảy ra.
Đối với xử lý chất thải, hiện nay Thành phố không phân cấp cho quận
thực hiện mà tiến hành quản lý chung trên toàn địa bàn.
+ Lĩnh vực quản lý vệ sinh môi trường
Thực tiễn quy định: Hiện nay Thành phố đang phân cấp cho quận, huyện
về: Đầu tư xây dựng mới hoặc cải tạo, nâng cấp, mở rộng các khu tập kết rác
thải sinh hoạt có phạm vi phục vụ nội huyện.
Quản lý, duy trì vệ sinh môi trường: quét hút; rửa đường, hè; thu gom,
vận chuyển chất thải và công tác vệ sinh môi trường khác trong toàn bộ phạm
vi địa giới hành chính (trừ các đường cao tốc).
Quản lý, vận hành và duy trì các khu tập kết rác thải sinh hoạt có phạm
141
vi phục vụ nội huyện do cấp huyện đầu tư.
Chỉ đạo, hướng dẫn trong việc thành lập, tổ chức hoạt động của tổ chức
tự quản về bảo vệ môi trường tại địa phương, đảm bảo hoạt động có hiệu quả.
Đề xuất: Phân cấp cho phường về thành lập các tổ tự quản bảo vệ môi
trường tại phường. Do rác thải và vấn đề duy trì vệ sinh môi trường nảy sinh
trực tiếp từ người dân trên địa bàn phường. Trường hợp vi phạm quy định về
xử lý rác thải, đổ rác thải không đúng nơi quy định, phường là địa bàn nắm trực
tiếp người dân rõ hơn cả. Do đó, cần thiết tiến hành phân cấp cho phường về
thành lập tổ tự quản bảo vệ môi trường, nhằm nâng cao ý thức cộng đồng tại
phường trong xử lý rác thải, duy trì môi trường xanh, sạch nơi đô thị.
+ Lĩnh vực trật tự giao thông trên địa bàn phường
Đối với vấn đề về giao thông trên địa bàn phường là vấn đề khá phức tạp
và thường xuyên cần huy động lực lượng để giải quyết ùn tắc, hỗn loạn giao
thông trong giờ cao điểm. Chính quyền phường là đơn vị bị ảnh hưởng lớn bởi
vấn đề giao thông, đồng thời cũng là đơn vị hưởng lợi khi giao thông tại các
phường được thuận lợi. Do đó, trong lĩnh vực này, cần phân cấp cho chính
quyền phường quyết định trực tiếp về điều tiết giao thông, giảm tải các hoạt
động của chính quyền quận và thành phố.
4.2.1.3. Lĩnh vực tài chính – ngân sách
Thực tiễn quy định: Tại Nghị quyết 13/2016/NQ-HĐND ngày
05/12/2016 của HĐND TP Hà Nội về phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa
các cấp ngân sách; tỷ lệ phần trăm phân chia nguồn thu giữa các cấp ngân sách
và định mức phân bổ chi ngân sách Thành phố Hà Nội giai đoạn 2017 – 2020,
có khá nhiều khoản thu ngân sách xã, phường, thị trấn được hưởng 100%. Tuy
nhiên, vấn đề về định mức chi ngân sách chưa phù hợp hiện nay về mức trần
chi và chưa có sự khác biệt giữa các phường với nhau.
Đề xuất: Trên thực tế, đối với các phường có mật độ dân cư đông đúc, tỷ
lệ người hưởng phúc lợi công cộng lớn, cần có mức chi ngân sách phù hợp.
142
Việc cào bằng mức trần chi ngân sách như: Chi cho giáo dục đào tạo khống
chế: 20%, chi khoa học công nghệ 2% đã gây khó khăn cho chính quyền khi
thực hiện mức chi. Hiện nay đối với phường thực hiện thu ngân sách và được
hưởng 100% ngân sách ở nhiều khoản thu, tuy nhiên vấn đề chi ngân sách cần
có phân cấp rõ từ chính quyền cấp trên để chính quyền phường chủ động trong
phương án triển khai các nhiệm vụ được phân cấp từ chính quyền cấp trên hoặc
thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ được quy định tại các văn bản quy phạm
pháp luật.
4.2.1.4. Lĩnh vực giáo dục, y tế
Thực tiễn: Cấp quận, huyện đang được Thành phố phân cấp về: Đầu tư
xây dựng mới hoặc cải tạo, nâng cấp, mở rộng: Trung tâm y tế cấp huyện (bao
gồm cả các phòng khám đa khoa khu vực, nhà hộ sinh, trạm y tế xã, phường,
thị trấn) theo sự hướng dẫn chỉ đạo về chuyên môn nghiệp vụ của Sở Y tế; Quản
lý, duy tu, duy trì: Trung tâm y tế cấp huyện (bao gồm cả các phòng khám đa
khoa khu vực, nhà hộ sinh, trạm y tế xã, phường, thị trấn) theo sự hướng dẫn
chỉ đạo về chuyên môn nghiệp vụ của Sở Y tế; Trung tâm Dân số Kế hoạch
hóa gia đình. Kiểm tra, thanh tra việc tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm
pháp luật, chính sách, kế hoạch, đề án, chương trình, dự án và hoạt động đối
với các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế trên địa bàn (bao gồm cả cơ sở y, dược tư
nhân). Cấp giấy chứng nhận cơ sở vệ sinh an toàn thực phẩm theo phân cấp của
Bộ Y tế; phối hợp quản lý: y tế, dược tư nhân và Ban dân quân y trên địa bàn
theo chỉ đạo của Thành phố.
Đề xuất: Mặc dù lĩnh vực y tế được cấp trung ương cũng như ở địa
phương phân cấp khá lớn, tuy nhiên trên thực tế thực hiện vẫn còn vướng mắc
và cần nhận định lại để tiến hành phân cấp, làm rõ nhiệm vụ của từng cấp chính
quyền để phục vụ người dân được tốt hơn.
Đối với công tác vệ sinh, phòng chống dịch bệnh trên địa bàn phường,
cần phân cấp cho chính quyền phường toàn quyền chủ động thực hiện nhiệm
143
vụ này. Do vấn đề vệ sinh, phòng chống dịch bệnh trên địa bàn phường cần sự
nhanh nhạy, nhạy bén, kịp thời để tránh trường hợp bệnh lây lan khắp khu dân
cư. Trường hợp tìm các biện pháp khẩn cấp và chờ đợi quyết định từ cấp quận
sẽ tốn nhiều thời gian, thủ tục và nhiều trường hợp chậm trễ trong việc khắc
phục hậu quả dịch bệnh trên toàn thành phố.
Do đó, cần nghiên cứu để chính quyển thành phố có thể phân cấp trực
tiếp cho chính quyền phường thực hiện vệ sinh, phòng chống dịch bệnh trên địa
bàn phường của thành phố Hà Nội, nâng cao chất lượng, đời sống, sức khỏe
của người dân.
4.2.1.5. Lĩnh vực xây dựng
Thành phố cần phân cấp mạnh hơn cho chính quyền phường trong việc
quản lý kết cấu hạ tầng xây dựng trên địa bàn phường, quản lý về hạ tầng quy
hoạch, xây dựng phát triển. Do chính quyền phường là nơi nắm rõ nhất tình
hình xây dựng, sửa chữa, cải tạo nhà cửa của người dân. Để tránh việc tùy tiện
trong xây dựng, sửa chữa nhà ở của người dân, phá vỡ quy hoạch tổng quan,
cần được giao thêm cho chính quyền phường thẩm quyền quản lý vấn đề này,
một mặt nâng cao trách nhiệm quản lý nhà nước, tính chủ động của chính quyền
phường, mặt khác kịp thời phát hiện những vi phạm, sai trái của người dân để
điều chỉnh cho phù hợp.
4.2.1.6. Lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch
Thực tiễn quy định: Lĩnh vực văn hóa, thể thao, chính quyền thành phố
cũng đã phân cấp khá nhiều cho chính quyền quận trong việc cấp phép kinh
doanh karaoke, quản lý các di tích văn hóa – lịch sử trên địa bàn, trực tiếp quản
lý các nhà văn hóa, rạp chiếu phim, sân vận động, các trường tiểu học, mầm
non, bãi đỗ xe…cụ thể là: Chính quyền quận được đầu tư tu bổ, bảo tồn và phát
huy giá trị các di tích còn lại trên địa bàn, trừ các di tích Thành phố trực tiếp
đầu tư và các di tích quốc gia đặc biệt, di tích lịch sử cách mạng kháng chiến
do cấp huyện quản lý được Thành phố hỗ trợ đầu tư tu bổ, bảo tồn; Đối ứng
144
cùng ngân sách Thành phố đầu tư tu bổ, bảo tồn và phát huy giá trị các di tích
quốc gia do cấp huyện đang quản lý; Đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp các
công trình văn hóa, thể thao cấp huyện, xã, thôn, tổ dân phố, khu vui chơi cộng
đồng, Duy tu, bảo trì và quản lý các di tích còn lại trên địa bàn, trừ các di tích
Thành phố trực tiếp quản lý sau đầu tư; Quản lý, duy tu, bảo trì các các công
trình văn hóa, thể thao cấp huyện, xã, thôn, tổ dân phố; Tổ chức lễ hội quy mô
cấp huyện; chỉ đạo cấp xã tổ chức lễ hội quy mô cấp xã; Quản lý các cơ sở lưu
trú du lịch: căn hộ du lịch, biệt thự du lịch, nhà nghỉ du lịch, nhà có phòng cho
khách du lịch thuê, bãi cắm trại du lịch và cơ sở lưu trú du lịch khác trên địa
bàn; Quản lý các cá nhân kinh doanh đại lý lữ hành.
Đề xuất: Trong thời gian tới, cần nghiên cứu để phân cấp mạnh mẽ hơn
nữa cho chính quyền phường chủ động thực hiện các nhiệm vụ đơn giản, thuộc
địa bàn quản lý của chính quyền phường như việc quản lý nhà văn hóa trên địa
bàn phường nên phân cấp cho phường quản lý. Hoặc rạp chiếu phim, bãi, điểm
đỗ xe cần giao trực tiếp cho chính quyền phường quản lý. Các nhiệm vụ này
cấp quận có thể phân cấp tiếp cho chính quyền phường thực hiện, bởi phù hợp
năng lực, điều kiện của chính quyền phường.
Đối với các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh nằm trong giới hạn địa lý
của chính quyền phường, cần được phân cấp cho chính quyền phường trực tiếp
quản lý, chăm sóc và có trách nhiệm bảo quản, phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống tốt đẹp của dân tộc trong tín ngưỡng của người dân. Tránh trường
hợp lợi dụng mê tín dị đoan để trục lợi tại các di tích lịch sử trên địa bàn phường.
4.2.1.7. Lĩnh vực an toàn vệ sinh thực phẩm
Thực tiễn quy định: Theo quy định tại Thông tư số 37/2016/TT-BYT
hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ của trung tâm y tế quận, huyện thì quận, huyện
thực hiện hoạt động phòng chống ngộ độc thực phẩm trên địa bàn; tham gia
thẩm định cơ sở đủ điều kiện sản xuất, kinh doanh thực phẩm trên địa bàn, tham
gia thanh tra, kiểm tra, giám sát công tác phòng, chống ngộ độc thực phẩm
145
phòng chống bệnh qua thực phẩm. Tại Thông tư số 51/2015/TT-BYT hướng
dẫn chức năng, nhiệm vụ của phòng y tế quận huyện, quy định nhiệm vụ của
phòng y tế bao gồm cả công tác thanh kiểm tra, giám sát và cấp phép an toàn
thực phẩm theo phân cấp. Vấn đề này trùng lắp nhiệm vụ của nhiều đơn vị.
Đề xuất: Cần phân cấp rõ cho từng đơn vị xử lý và chịu trách nhiệm từng
nội dung cụ thể liên quan đến vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm. Quận, huyện
là đơn vị thực hiện chức năng quản lý, chịu trách nhiệm về giám sát, kiểm tra,
cấp phép theo phân cấp, tuy nhiên quận có thể phân cấp nhiệm vụ giám sát,
kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm cho chính quyền phường,. Bởi liên quan
đến an toàn vệ sinh thực phẩm, chính quyền phường có lợi thế là cùng địa bàn.
Các hoạt động của phường sát sao nhất đối với từng hộ dân thực hiện sản xuất
thực phẩm trên địa bàn, việc kiểm tra, giám sát sẽ tiến hành dễ dàng, có hiệu
quả hơn là chính quyền quận làm. Vấn đề quản lý an toàn thực phẩm là vấn đề
quan trọng, liên quan trực tiếp đến sức khỏe người dân, do đó cần gọn vào một
đầu mối và tiến hành phân cấp kiểm tra, giám sát thực phẩm cho chính quyền
phường thực hiện, đảm bảo an toàn vệ sinh và phù hợp thực tiễn tại các phường
của thành phố Hà Nội.
Trong một số trường hợp, chính quyền các quận của thành phố Hà Nội
có thể dựa vào đặc điểm, điều kiện, khả năng thực hiện của chính quyền phường
để tiến hành phân cấp quản lý nhà nước tới chính quyền phường trên các nội
dung khác nhau. Điều này phụ thuộc vào khả năng thích ứng, sức lực, nguồn
nhân lực, điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của từng phường để có văn bản quy
định cụ thể về phân cấp thực hiện nhiệm vụ.
4.2.2. Đề xuất lộ trình thực hiện nhiệm vụ phân cấp
Sau khi Nghị quyết của Quốc hội được triển khai thực hiện và có hiệu
lực, các nhiệm vụ đề xuất phân cấp cần được nghiên cứu, tiến hành quy phạm
146
hóa để có căn cứ thực hiện.
Đối với các lĩnh vực liên quan trực tiếp đến người dân như: Y tế, môi
trường, giáo dục đào tạo; an toàn vệ sinh thực phẩm...cần được tiến hành phân
cấp ngay cho phường để thực hiện nhiệm vụ trực tiếp. Cụ thể nhận trách nhiệm
chính là UBND phường, chịu trách nhiệm trước cơ quan cấp trên, trước pháp
luật về các nội dung được phân cấp. Thời gian đề xuất: Sau khi văn bản QPPL
của cơ quan có thẩm quyền quy định về các nhiệm vụ được phân cấp có hiệu
lực. Dự kiến năm 2021 có các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, cụ
thể hóa Nghị quyết của Chính phủ, do đó tiến độ thực hiện các nhiệm vụ được
phân cấp trong năm 2021, trong các năm tiếp theo duy trì, phát huy kết quả thực
tiễn đạt được, đồng thời khắc phục, kiến nghị những bất cập, khó khăn khi tiến
hành thực hiện nhiệm vụ phân cấp.
Đối với các lĩnh vực như văn hóa, thể thao, du lịch, xây dựng, tài chính,
ngân sách...lộ trình thực hiện cần lâu dài, chuẩn bị đầy đủ cơ sở vật chất, hạ
tầng kỹ thuật, nguồn nhân lực, nguồn lực khi nhận nhiệm vụ phân cấp. Bởi đây
là các lĩnh vực tác động trực tiếp đến đời sống kinh tế, lợi ích về tinh thần của
người dân, do đó UBND phường cần có kế hoạch thực hiện ngày sau khi văn
bản QPPL về phân cấp cho chính quyền phường có hiệu lực, tiến hành báo cáo
định kỳ, tổng hợp, đột xuất đến cơ quan chính quyền phân cấp để cung cấp
thông tin, hiệu quả khi nhận nhiệm vụ phân cấp.
4.2.3. Đề xuất phương thức thực hiện phân cấp quản lý nhà nước cho
chính quyền phường tại Thành phố Hà Nội
Theo quy định hiện hành, chính quyền Quận ở Hà Nội hiện nay đang
thực hiện các nhiệm vụ được phân cấp từ chính quyền thành phố, tại các văn
bản quy phạm pháp luật về phân cấp, UBND thành phố Hà Nội đề nghị các
quận, huyện tiến hành phân cấp tiếp các nhiệm vụ cho chính quyền xã, phường,
thị trấn khi thấy phù hợp và sau khi được sự đồng ý của chính quyền thành phố.
Do đó, trong bối cảnh thực hiện Nghị quyết số 97/2019/QH 14 về thí điểm
147
tổ chức mô hình chính quyền đô thị tại Thành phố hà Nội, Chính phủ cần triển
khai thực hiện nhiệm vụ theo quy định tại Nghị quyết giao: “Quy định trách
nhiệm cụ thể về tổ chức, hoạt động, chế độ trách nhiệm của UBND, Chủ tịch
UBND phường; Quy định về việc tuyển dụng, sử dụng, quản lý công chức
phường, trình tự, thủ tục bổ nhiệm, điều động, miễn nhiệm, luân chuyển Chủ
tịch, Phó Chủ tịch phường; Quy định cụ thể việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ về
quốc phòng, an ninh, biện pháp bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng,
chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác”. Hình thức đề xuất về
văn bản quy phạm pháp luật trong trường hợp này là Nghị định của Chính phủ
để triển khai Nghị quyết số 97/2019/QH. Theo đó, các vấn đề về phân cấp các
nhiệm vụ của phường trên địa bàn Thành phố Hà Nội, các nguyên tắc, các chỉ
đạo thực hiện sẽ được quy định tại Nghị định của Chính phủ. Khi Nghị định
được Chính phủ thông qua, UBND Thành phố Hà Nội căn cứ Nghị định để ban
hành các văn bản phù hợp, trong đó có văn bản quy định về phân cấp
Theo đó, UBND các quận thuộc thành phố Hà Nội có thể ban hành Quyết
định (là văn bản QPPL) về phân cấp quản lý nhà nước đối với Ủy ban nhân dân
phường. Do các phường khi thực hiện Nghị quyết số 97/2019/QH 14 không
còn tổ chức HĐND, nên việc thực thi nhiệm vụ quản lý nhà nước trên địa bàn
phường được giao cho UBND phường. Theo đó, để đảm bảo UBND phường
có căn cứ pháp lý để thực thi nhiệm vụ phân cấp, cần có hình thức văn bản phù
hợp quy định về những nhiệm vụ phân cấp cho UBND phường. Cụ thể đề xuất:
Trường hợp thứ nhất, chính quyền thành phố ban hành Quyết định là văn
bản quy phạm pháp luật về việc phân cấp thẳng các nhiệm vụ của UBND thành
phố, qua xem xét có thể phân cấp cho UBND phường để thực hiện trong một
thời gian nhất định. Đề xuất này phù hợp với Luật tổ chức chính quyền địa
phương là căn cứ yêu cầu công tác, khả năng thực hiện và điều kiện, tình hình
cụ thể của địa phương mà cơ quan nhà nước ở địa phương được phân cấp cho
chính quyền địa phương hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện một hoặc
148
một số nhiệm vụ thuộc thẩm quyền của mình.
Trường hợp thứ hai, khi chính quyền thành phố có văn bản quy phạm
pháp luật quy định về phân cấp thực hiện nhiệm vụ cho chính quyền quận, căn
cứ tình hình thực tế, chính quyền quận có thể tiếp tục phân cấp nhiệm vụ trực
tiếp cho chính quyền phường để thực hiện, qua sự đồng ý của chính quyền thành
phố. Theo quy định mới là UBND phường, thực hiện chế độ thủ trưởng, là một
cơ quan hành chính trong bộ máy, tổ chức của chính quyền quận. Điều này
hoàn toàn phù hợp quy định pháp luật, khi cơ quan nhà nước nhận phân cấp từ
cơ quan nhà nước cấp trên, căn cứ tình hình cụ thể ở địa phương, cơ quan nhà
nước ở địa phương có thể phân cấp tiếp cho cơ quan nhà nước cấp dưới thực
hiện các nhiệm vụ, quyền hạn đã được cơ quan nhà nước cấp trên phân cấp.
Quyết định được ban hành dưới dang văn bản quy phạm pháp luật của UBND
quận, phân cấp thực hiện nhiệm vụ cho UBND phường.
Trên thực tế hiện nay, các quyết định phân cấp thực hiện nhiệm vụ của
UBND Thành phố Hà Nội đều phân cấp cho cấp thấp hơn liền kề là cấp quận,
chưa tồn tại Quyết định của UBND Thành phố Hà Nội phân cấp trực tiếp thực
hiện nhiệm vụ cho phường. Khi chính quyền Thành phố Hà Nội phân cấp thực
hiện nhiệm vụ cho cấp quận, quận thường triển khai thực hiện về phường,
nhưng trên thực tế việc triển khai này được thực hiện dưới dạng mệnh lệnh
hành chính, văn bản hành chính và yêu cầu chính quyền phường báo cáo thường
xuyên công việc, đảm bảo công việc và chịu trách nhiệm hoàn toàn trước chính
quyền quận về các nhiệm vụ được giao. Điều này chưa thỏa đáng và trên thực
tiễn xảy ra nhiều xung đột trong quản lý nhà nước giữa UBND phường và quận,
bởi nhiệm vụ, đi liền với trách nhiệm chưa rõ ràng. Hơn nữa, khi giao nhiệm
vụ, chính quyền quận không tạo điều kiện cho phường trong việc huy động
nguồn lực, vốn, các điều kiện cơ sở vật chất khác, do đó, chất lượng công việc,
thái độ làm việc của cán bộ, công chức chưa thực sự thỏa mãn. Do đó, cần cơ
149
chế minh bạch, công khai và phù hợp hơn là quyết định phân cấp của UBND
quận, kèm theo đảm bảo nguồn lực, các điều kiện cần thiết khác để UBND
phường thực thi trên thực tế.
4.3. Các điều kiện đảm bảo thực hiện phân cấp quản lý nhà nước cho
chính quyền phường tại Thành phố Hà Nội
4.3.1. Điều kiện đảm bảo về mặt pháp lý
Để đảm bảo thực hiện có hiệu quả phân cấp quản lý nhà nước đối với
chính quyền phường, cần có quy định pháp lý đủ mạnh, rõ ràng, minh bạch làm
căn cứ phân cấp, thực hiện phân cấp. Đây cũng là chế tài để đảm bảo lợi ích hài
hòa giữa chính quyền cấp trên (tiến hành phân cấp), chính quyền cấp dưới (thực
hiện phân cấp) và giữa cộng đồng dân cư sinh sống ở đô thị.
Các văn bản quy phạm pháp luật này cần điều chỉnh về các nội dung, liệt
kê cụ thể về lĩnh vực được tiến hành phân cấp và các nội dung không phân cấp,
thông thường thuộc tầm vĩ mô của quản lý nhà nước như quy hoạch đô thị, hợp
tác kinh tế, xã hội giữa thành phố và các đơn vị, tổ chức khác trong, ngoài nước,
vấn đề an ninh quốc phòng.
Quốc hội thông qua Nghị quyết về việc thực hiện thí điểm mô hình tổ
chức chính quyền đô thị ở thành phố Hà Nội, đồng nghĩa với việc các căn cứ
pháp lý về phân cấp thực hiện nhiệm vụ cho UBND phường ở Hà Nội cần rõ
ràng, minh bạch, thuận lợi để UBND phường tổ chức thực hiện nay. Bởi khi
không có HĐND phường, việc thực hiện nghị quyết của UBND phường sẽ chấp
hành trực tiếp nghị quyết của HĐND quận và chịu trách nhiệm về việc thực
hiện nhiệm vụ trước UBND quận, thị xã. Do đó, điều kiện đảm bảo về mặt pháp
lý cho UBND phường thực hiện phân cấp là vấn đề quan trọng được đặt lên
hàng đầu, làm căn cứ để UBND phường tiếp nhận nhiệm vụ sau khi không còn
HĐND ở phường của Thành phố Hà Nội.
Trước mắt, cần khẩn trương ban hành văn bản quy phạm pháp luật có thể
dưới hình thức nghị định của Chính phủ về nhiệm vụ, quyền hạn của chính
150
quyền phường đáp ứng yêu cầu của thực tế. Theo đó, văn bản quy phạm pháp
luật sẽ có quy định về tổ chức, hoạt động, chế độ trách nhiệm của UBND, Chủ
tịch UBND phường nơi thực hiện thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị
tại thành phố hà Nội; Quy định việc tuyển dụng, sử dụng, quản lý cán bộ, công
chức phường tại nơi thực hiện thí điểm mô hình chính quyền đô thị; trình tự,
thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, cách chức, khen thưởng, kỷ luật chủ
tịch, phó chủ tịch, ủy viên UBND phường.
4.3.2. Điều kiện đảm bảo về cơ chế giám sát, kiểm tra
- Giám sát kiểm tra của chính quyền cấp trên đối với UBND phường
Mọi sự giám sát của chính quyền cấp trên đối với UBND phường khi
thực hiện phân cấp quản lý nhà nước đều cần được tiến hành theo trình tự và
trong những trường hợp nhất định. Đây là điều kiện quan trọng để giảm thiểu
sự can thiệp quá mức cần thiết của chính quyền cấp trên đối với chính quyền
phường; loại bỏ cơ chế xin – cho giữa chính quyền cấp trên và chính quyền
phường khi thực hiện phân cấp, phù hợp các quy định của Hiến pháp, các Luật
có liên quan. Việc giám sát của chính quyền cấp trên đối với nhiệm vụ, thẩm
quyền được phân cấp cần tuân thủ theo quy định của pháp luật, chính quyền
cấp trên không được lạm dụng quyền lực để áp đặt, chỉ đạo, can thiệp vào quá
trình thực thi nhiệm vụ được phân cấp của chính quyền phường.
Khi không có HĐND cùng cấp, HĐND cấp trên cần tăng cường chức
năng này và tích cực trong việc thực hiện hoạt động giám sát đối với các nhiệm
vụ do UBND phường tổ chức thực hiện. Kịp thời phát hiện những sai sót, nhiệm
vụ thực hiện kém hiệu quả để xử lý trên thực tế, đảm bảo tính hiệu lực, hiệu
quả trong hoạt động của cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương. Đảm
bảo xây dựng chính quyền phường thực sự của dân, do dân và vì dân; chống
quan liêu tham nhũng, hách dịch, cửa quyền, nhũng nhiễu, thiếu trách nhiệm
của đội ngũ cán bộ, công chức.
Về phía chính quyền phường, khi được phân cấp trong nhiều trường lạm
151
quyền, thực hiện vượt quá nội dung, thẩm quyền, dẫn đến hiệu quả quản lý nhà
nước thấp, thực hiện chức năng, nhiệm vụ lỏng lẻo, thiếu trách nhiệm, ảnh
hưởng đến quyền lợi, nhu cầu của người dân trên địa bàn quản lý. Để khắc phục
tình trạng này, cơ chế đảm bảo là phân cấp nhiệm vụ hợp lý, tiến hành quản lý,
theo dõi giám sát từ cấp trên xuống cấp dưới và chính quyền phường cần kịp
thời báo cáo những khó khăn, vướng mắc, khả năng thực thi nhiệm vụ để chính
quyền cấp trêncó biện pháp kịp thời sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp
với khả năng, điều kiện thực tế của chính quyền phường.
- Huy động sự tham gia của nhân dân vào công tác quản lý của UBND
phường
Cần thiết phải nghiên cứu, xây dựng cơ chế để huy động sự tham gia của
nhân dân vào công tác quản lý của UBND phường, cụ thể là:
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức trách nhiệm
làm chủ của công dân ở phường. Cần tập trung nâng cao nhận thức một cách
toàn diện cho người dân, trong đó đặc biệt quan tâm đến giáo dục ý nghĩa, vai
trò, vị trí của công dân trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam hiện nay. Đổi mới các hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
thông qua sinh hoạt tổ dân phố để mọi người dân hiểu rõ về quyền, nghĩa vụ
của mình trong mối quan hệ với cán bộ, công chức ở phường.
Thông qua các hoạt động lấy ý kiến nhân dân: Về các dự thảo văn bản
pháp luật nói chung, các dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật của chính
quyền thành phố; về các chủ trương, chính sách lớn trong việc phát triển kinh
tế - xã hội, ảnh hưởng đến đời sống dân cư của đô thị; các chính sách liên quan
đến cộng đồng dân cư nơi cư trú.
Công khai hoá, minh bạch hoá hoạt động công vụ, chủ trương, chính
sách, quy định của pháp luật liên quan đến việc chấp hành pháp luật, công tác
điều hành, quản lý của CQHC phường và chính quyền phường.
Thực hiện tốt quy định pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở, tăng
152
cường các hình thức dân chủ trực tiếp ở phường. Tổ chức thực hiện tốt quy chế
dân chủ ở phườngvề những việc phải có sự tham gia của nhân dân với các mức độ
khác nhau: Những việc dân quyết định, những việc dân thảo luận, bàn bạc để chính
quyền quyết định những việc dân cần biết. Áp dụng hình thức “trưng cầu dân ý”
ở đô thị trong những trường hợp phải quyết định những vấn đề quan trọng nhất,
có tính chất tự quản, liên quan trực tiếp đến vận mệnh hoặc đời sống người dân
đô thị.
Cần có những quy định tạo cơ sở pháp lý để CQHC phường nhận được
có ý kiến của Tổ trưởng tổ dân phố trong việc đưa ra các quyết định hành chính.
Tổ trưởng tổ dân phố là những người được cộng đồng dân cư tín nhiệm bầu lên,
có uy tín và ảnh hưởng lớn trong cộng đồng dân cư. Chính vì vậy, sự tham gia
và có ý kiến của Tổ trưởng tổ dân phố trong các phiên họp của UBND phường
cũng như trong việc đưa ra quyết định hành chính, trong thi hành pháp luật là
một giải pháp giúp nâng cao hiệu lực quản lý của chính quyền phường và
UBND phường.
4.3.3. Điều kiện đảm bảo về cơ sở vật chất, tài chính
Việc phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền phường sẽ không còn
ý nghĩa nếu như không trao cho chính quyền phường các phương tiện để thực
hiện nhiệm vụ phân cấp đó. Đây chính là điều kiện về cơ sở vật chất, trực tiếp
hỗ trợ chính quyền phường thực hiện tốt nhiệm vụ phân cấp và điều kiện về tài
chính của chính quyền phường.
Trường hợp chính quyền cấp trên trao nhiệm vụ, thẩm quyền cho chính
quyền phường mà không tiến hành tạo điều kiện về cơ sở vật chất, nguồn lực
tài chính, dẫn đến chính quyền phường khó thực thi nhiệm vụ, phát sinh cơ chế
xin – cho về mặt tài chính, phụ thuộc chính quyền cấp trên về nguồn lực quan
trọng này.
Do đó, chính quyền phường cần có nguồn thu độc lập và nguồn thu này
cần được giữ lại để chi cho các hoạt động trực tiếp thực hiện nhiệm vụ phân
153
cấp của chính quyền phường. Các nguồn thu có thể thực hiện ở phường là các
loại thuế, phí, lệ phí, các nguồn vay, trợ cấp của trung ương; các khoản thu từ
cung ứng dịch vụ công trực tiếp của chính quyền phường.
4.3.4. Điều kiện đảm bảo về năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức
thực thi nhiệm vụ phân cấp
Nguồn nhân lực có vai trò, vị trí quan trọng để đảm bảo thực hiện phân
cấp quản lý nhà nước có hiệu quả, bởi các công việc, nhiệm vụ trên thực tế đều
do con người điều khiển, nhất là đối với cấp phường, giữ vị trí vai trò nòng cốt
là đội ngũ cán bộ, công chức.
Để có đội ngũ cán bộ, công chức thực thi tốt nhiệm vụ phân cấp, cần thực
sự minh bạch trong quy trình tuyển dụng, bố trí, sử dụng và đánh giá công chức
theo đúng quy định pháp luật. Đối với các nhiệm vụ phân cấp khó, mới, cần có
cơ chế, chính sách để bổ sung sung cán bộ, công chức có năng lực, trình độ phù
hợp với đặc điểm, tính chất và khối lượng nhiệm vụ được phân cấp.
Đồng thời chính quyền phường có chính sách để đào tạo, bồi dưỡng cho
cán bộ, công chức, gia tăng sự hiểu biết, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ trong
quá trình thực thi nhiệm vụ. Có khen thưởng, xử lý kỷ luật nghiêm minh, đúng
quy định pháp luật, đảm bảo kỷ cương, kỷ luật lao động.
4.3.5. Điều kiện đảm bảo về thực hiện cơ chế thủ trưởng hành chính
trong hoạt động của chính quyền phường nhằm tăng cường trách nhiệm
người đứng đầu
Để hạn chế những nhược điểm của chế độ tập thể lãnh đạo cần nghiên
cứu áp dụng chế định thủ trưởng thay cho chế định Uỷ ban trong quản lý hành
chính ở các đô thị. Điều này cho phép khắc phục được những nhược điểm của
chế độ điều hành tập thể, thiếu nhanh nhạy, tập trung, thống nhất, không rõ
trách nhiệm người đứng đầu, làm chỗ dựa cho những tiêu cực cá nhân… phù
hợp với quy luật của quản lý điều hành hành chính và với thông lệ chung của
các nền hành chính trên thế giới ngày nay. Cách thức làm việc của chế độ thủ
154
trưởng trong cơ quan hành chính là dựa trên sự linh hoạt điều hành của người
đứng đầu nhưng cũng không hoàn toàn hạn chế trí tuệ tập thể. Với những việc
hệ trọng, cần phải huy động sức mạnh trí tuệ của tập thể, người đứng đầu vẫn
có thể triệu tập hệ thống tham mưu cho mình để phân tích, nắm bắt kỹ tình hình
rồi mới ra quyết định và chịu trách nhiệm cá nhân. Chế độ thủ trưởng sẽ hạn
chế được những nhược điểm của chế độ lãnh đạo tập thể qua những biểu hiện
sau:
Một là, đề cao trách nhiệm cá nhân: quyền lực được tập trung vào cá
nhân người đứng đầu và vì thế khi tiến hành giải quyết một vấn đề xã hội nào
đó thì trách nhiệm của người đứng đầu là cao nhất, hành động nhanh chóng,
kịp thời, hiệu suất cao.
Hai là, giải quyết công việc chủ động và quyết đoán: Hoạt động quản lý
hành chính nhà nước, nhất là ở các đô thị mang tính khẩn trương, liên tục để
giải quyết các vấn đề phát sinh hằng ngày, hằng giờ trong đời sống xã hội. Với
những chuyện xảy ra tức thời, nhanh chóng như xử lý chuyện thiên tai, những
sự cố bất thường… thì đòi hỏi người thủ trưởng trong phạm vi thẩm quyền phải
quyết đoán, năng động, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Còn nếu phải đợi cả
tập thể UBND bàn bạc, biểu quyết rồi mới ra quyết định có thể làm cho sự việc
không giải quyết được hoặc gây ra những hậu quả khôn lường trong quản lý.
Việc áp dụng chế độ thủ trưởng nhằm nâng cao trách nhiệm cá nhân, chủ động
ứng phó kịp thời với diễn biến nhanh chóng của thực tiễn đời sống đang là đòi
hỏi bức thiết đối với nền hành chính phục vụ nhân dân ở các đô thị.
Đối với chính quyền phường, khi thực hiện nhiệm vụ cũng cần kiểm tra,
giám sát chính đối tượng thực hiện, cụ thể là:
4.3.6. Điều kiện đảm bảo về sự phối hợp thực hiện của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam
MTTQ các cấp cần tăng thêm người tiêu biểu, người ngoài Đảng trong
155
Ủy ban MTTQ. Đồng thời, tăng cường cán bộ chuyên trách có năng lực, có
trình độ chuyên môn cao và mở rộng đội ngũ công tác viên là những chuyên
gia giỏi (dưới hình thức hội đồng tư vấn hoặc ban tư vấn).
Đổi mới phương thức phối hợp với chính quyền địa phương. Trước khi
tham gia ý kiến đối với các văn bản pháp luật cần lấy ý kiến của nhân dân đại
diện cho vùng, miền. Lắng nghe ý kiến của những người tiêu biểu đại diện cho
các giới, các thành phần xã hội, ý kiến của cán bộ ở cơ sở. Trên cơ sở đó mà
tổng hợp ý kiến để tham gia với cơ quan có thẩm quyền ban hành chính sách
pháp luật. Như vậy, việc tham gia góp ý kiến sẽ có tính thuyết phục hơn.
Về giám sát, MTTQ cần tăng cường sự phối hợp với các cơ quan có
chức năng giám sát, thanh tra, kiểm tra để thực hiện quyền giám sát của mình,
đồng thời cán bộ Mặt trận cần phải đi sâu, đi sát với các tầng líp nhân dân để
lắng nghe ý kiến phản ánh của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan nhà
nước, đại biểu dân cử và cán bộ công chức nhà nước.
MTTQ Việt Nam cần phải phối hợp chặt giữa các thành viên nhằm thống
nhất về hành động trên cơ sở những mục tiêu chung mới tạo ra được sức mạnh
tổng hợp. Muốn có sự phối hợp chặt chẽ thì trước hết phải xác định được mục
tiêu chung và phải có cơ chế ràng buộc về quyền và nghĩa vụ của các thành
viên.
Đối với người dân, vai trò giám sát có những ưu thế, tạo hiệu quả là bởi vị thế
khách quan, đứng ngoài và không lệ thuộc cơ quan, tổ chức công quyền để phát
hiện và kiến nghị, nhằm ngăn chặn kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật
của cơ quan, cán bộ có thẩm quyền khi các hành vi đó mới xảy ra. Vì thế, xây
dựng cơ chế giám sát, tạo hành lang pháp lý phù hợp để nhân dân phát huy lòng
yêu nước, quan tâm đến vận mệnh đất nước, để nhân dân tự nguyện tham gia
giám sát và chủ động sử dụng quyền giám sát của mình trong khuôn khổ pháp
luật cho phép là hoàn toàn cần thiết.
156
Tiểu kết Chương 4
Chương 4 của Luận án đưa ra các quan điểm và đề xuất các giải pháp, về
phân cấp quản lý nhà nước, phương thức thực hiện, cơ chế đảm bảo việc thực
hiện nhiệm vụ phân cấp phù hợp đối với UBND phường tại thành phố Hà Nội
trong xu thế, bối cảnh mới thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm tổ
chức mô hình chính quyền đô thị tại thành phố Hà Nội.
Theo đó, luận án đưa ra các quan điểm về phân cấp đối với UBND
phường ở Hà Nội là xu hướng chung phù hợp chủ trương của Đảng, Nghị quyết
của Quốc hội và các quy định pháp luật của Nhà nước có liên quan; để hoàn
thiện chức năng, nhiệm vụ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của từng cấp
chính quyền; góp phần xây dựng thành phố là trung tâm chính trị - hành chính
quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch
quốc tế; phù hợp với Luật Thủ đô, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của
Thành phố, đảm bảo sự quản lý thống nhất, minh bạch, hiệu quả; phù hợp với
năng lực quản lý của bộ máy hành chính của phường, tăng quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm cho UBND phường tại Thành phố Hà Nội khi không tổ chức
HĐND phường; góp phần tạo động lực thúc đẩy sự phát triển cân đối, hài hòa
của các khu dân cư của phường.
Luận án đưa ra các giải pháp về phân cấp quản lý nhà nước đối với chính
quyền phường tại Hà Nội
Theo đó, Luận án đã đề xuất nội dung phân cấp cho UBND phường tại
Thành phố Hà Nội trên các lĩnh vực như: 1, Quy hoạch, kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội; 2, Lĩnh vực đầu tư, giao thông, hạ tầng đô thị, trong đó có các
nội dung được đề xuất phân cấp về: Đầu tư công trình nhỏ, lẻ; Lĩnh vực quản
lý chiếu sáng công cộng; Lĩnh vực công viên, vườn hoa, cây xanh, thảm cỏ;
Lĩnh vực công viên, vườn hoa, cây xanh, thảm cỏ; Lĩnh vực quản lý thoát nước
đô thị, xử lý chất thải; Lĩnh vực quản lý vệ sinh môi trường; Lĩnh vực trật tự
157
giao thông trên địa bàn phường;3, Lĩnh vực tài chính – ngân sách; 4, Lĩnh vực
giáo dục, y tế; 5, Lĩnh vực xây dựng;6, Lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch; 7,
Lĩnh vực an toàn vệ sinh thực phẩm
Luận án đã đề xuất hai phương thức thực hiện phân cấp quản lý nhà nước
đối với UBND phường tại Thành phố Hà Nội
Luận án cũng đã đề xuất về các điều kiện đảm bảo thực hiện phân cấp
quản lý nhà nước như: điều kiện đảm bảo về mặt pháp lý; về cơ chế giám sát,
kiểm tra; cơ sở vật chất, tài chính; năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức thực
thi nhiệm vụ phân cấp; cơ chế thủ trưởng hành chính trong hoạt động của chính
quyền phường nhằm tăng cường trách nhiệm người đứng đầu và về sự phối hợp
thực hiện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
KẾT LUẬN
Cải cách hành chính đặt ra đối với nước ta nhiều thách thức, khó khăn và
cần sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị. Đây là một quá trình thay đổi lâu dài,
liên tục và cần có kế hoạch, lộ trình và có thể chế, tài chính, con người, kết hợp
với công tác kiểm tra, đánh giá, giám sát để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của nền công vụ. Có nhiều giải pháp được đưa ra và mỗi thời kỳ lịch sử
sẽ thực hiện ưu tiên lựa chọn giải pháp tối ưu và có sự thay đổi cho phù hợp
tình hình kinh tế, chính trị, an ninh, sự tác động của ngoại cảnh. Để nâng cao
hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cả hệ thống chính trị, trong đó có vai trò trung
158
tâm của bộ máy nhà nước, cần giải pháp để khích lệ, nâng cao tính tự chủ, sự
chủ động trong thực hiện nhiệm vụ của các cấp chính quyền. Đối với nhịp sống
ở đô thị, nhất là thủ đô, nhu cầu giải quyết các lợi ích trực tiếp của người dân
là rất lớn, đòi hỏi chính quyền cần sát sao, chủ động công việc và luôn luôn
phải nỗ lực thực hiện nhiệm vụ. Phân cấp quản lý nhà nước giữa chính quyền
cấp trung ương tới địa phương nói chung và phân cấp giữa các cấp của chính
quyền đô thị, giữa cơ quan nhà nước cấp trên và cơ quan nhà nước cấp dưới
được thực hiện là một trong những giải pháp tích cực, được xem là có hiệu quả
trong bối cảnh, tình hình hiện nay.
Đối với Thành phố Hà Nội, đứng trước những thách thức mới trong điều
kiện thực hiện thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị, chính quyền quận
và chính quyền thành phố cần tính đến sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm và phát
huy tính chủ động của chính quyền phường trong giải quyết công việc. Phân
cấp hợp lý cho UBND phường thực hiện một số nhiệm vụ quản lý nhà nước tại
các phường ở Thành phố Hà Nội được nhìn nhận nghiêm túc, khách quan và
cần thực hiện trong thời gian tới. Khi các nhiệm vụ quản lý nhà nước được phân
cấp hợp lý, sẽ giảm tải công việc cho chính quyền quận và chính quyền thành
phố, để tập trung chỉ đạo, điều hành, điều tiết quản lý nhà nước ở tầm vĩ mô.
Đồng thời, UBND các phường ở Hà Nội cũng cần chuẩn bị các điều kiện về
nhân lực, cơ sở vật chất để thực hiện nhiệm vụ được phân cấp, nhằm góp phần
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của bộ máy hành chính nhà nước
trên địa bàn thành phố. Hiệu lực, hiệu quả không phải là giá trị tự thân của bộ
máy hành chính, mà là sự kết hợp của nhiều yếu tố được thể hiện trực tiếp thông
qua hoạt động của cơ quan nhà nước. Do vậy, mọi nỗ lực đẩy mạnh phân cấp
quản lý xét cho cùng là đều hướng tới tính hiệu quả trong thực hiện công việc,
nhất là ở Thành phố Hà Nội, nơi có đầy đủ các đặc trưng của chính quyền đô
thị.
Tăng cường phân cấp quản lý nhà nước đối với chính quyền phường ở
159
Hà Nội có vai trò quan trọng trong việc phát huy tính năng động, sáng tạo,
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của phường, đảm bảo sự quản lý thống nhất
của chính quyền thành phố, để phục vụ tốt hơn nhu cầu và lợi ích của nhân dân,
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, phù hợp xu thế phát
triển của thế giới trong thời đại bùng nổ của khoa học, công nghệ và tiến bộ của
toàn nhân loại.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1, Nguyễn Văn Minh, Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả phân cấp giữa chính quyền đô thị và chính quyền phường, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 268, tháng 5 năm 2018.
160
2, Nguyễn Văn Minh, Những vấn đề đặt ra trong tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân phường ở Hà Nội, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 270, tháng 7 năm 2018.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu trong nước
1. Bộ Chính trị (2012), Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 06/01/2012 của
Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển thủ đô Hà Nội
giai đoạn 2011 – 2020.
2. Ban chấp hành Trung ương (2007), Nghị quyết số 17-NQ-TW ngày
01/8/2007 của Ban chấp hành Trung ương, Về đẩy mạnh cải cách
161
hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lí của bộ máy nhà nước.
3. Ban chấp hành Trung ương (2017), Nghị quyết số 18 – NQ/TW ngày
25/10/2017 của Ban chấp hành Trung ương, Một số vấn đề về tiếp tục
đổi mới, sắp xếp, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả
4. Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ (2000), Chính quyền cấp xã và quản
lý nhà nước ở cấp xã, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội.
5. Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ (2002), Đổi mới tổ chức và hoạt động
của chính quyền cấp xã trong tiến trình cải cách hành chính, Nxb
Chính trị Quốc gia Hà Nội.
6. Bộ Nội vụ (2014), Báo cáo tổng kết 10 năm thi hành Luật Tổ chức
hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003
7. Hoàng Chí Bảo (2004), “Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước
ta hiện nay”, Nxb Chính trị Quốc gia.
8. Chính phủ (2005), Nghị định số 159/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005
của Chính phủ về phân loại đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn
9. Chính phủ (2015), Báo cáo số 695/BC-CP ngày 22/12/2015 về tình
hình tổ chức, hoạt động của UBND các cấp từ đầu nhiệm kỳ 2011 –
2016 đến nay và nhiệm vụ công tác trọng tâm trong thời gian tới, Hà
Nội.
10. Nguyễn Hồng Chuyên (2016), Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp
xã theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nxb
Tư pháp.
11. Nguyễn Văn Cương (2017), Kinh nghiệm quốc tế về tự quản địa
phương và khả năng áp dụng tại Việt Nam, Nxb Tư pháp
12. Nguyễn Đăng Dung (1997), “Tổ chức chính quyền nhà nước ở địa
162
phương – lịch sử và hiện tại”, Nxb Đồng Nai.
13. Nguyễn Đăng Dung (2001), Một số vấn đề về Hiến pháp và tổ chức
bộ máy nhà nước, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội.
14. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X,
Nxb Chính trị quốc gia.
15. Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI,
Nxb Chính trị quốc gia.
16. Đảng cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII,
Nxb Chính trị quốc gia.
17. Bùi Xuân Đức (2004), Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước trong
giai đoạn hiện nay, Nxb Tư pháp, Hà Nội
18. Vũ Đức Đán (2002), Hoàn thiện bộ máy chính quyền cấp xã và vấn
đề phát huy dân chủ ở cơ sở, Đề tài khoa học cấp Bộ.
19. Vũ Đức Đán, Lưu Kiếm Thanh (2004), “Tổ chức và hoạt động của
bộ máy chính quyền”, Nxb Chính trị Quốc gia.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (1982),Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ V, Nxb Sự thật, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia
25. Phạm Văn Đạt (2012), Đổi mới tổ chức chính quyền đô thị ở nước ta
163
hiện nay, Luận án tiễn sĩ luật học.
26. Bùi Xuân Đức (2004), Đổi mới hoàn thiện bộ máy nhà nước trong
giai đoạn hiện nay, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
27. Nguyễn Hữu Đức (2009), Xây dựng và kiện toàn tổ chức chính quyền
cơ sở (xã) trong điều kiện cải cách hành chính, Đề tài khoa học cấp
Bộ.
28. Nguyễn Hữu Đức, Phan Văn Hùng (đồng chủ biên) (2012), Xác định
tiêu chuẩn và phương pháp đánh giá chính quyền xã trong sạch vững
mạnh, Nxb Chính trị Quốc gia.
29. Lê Thị Vân Hạnh (2009), Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm
xây dựng mô hình cơ cấu tổ chức bộ máy chính quyền địa phương
theo tinh thần nghị quyết trung ương V, Khóa X, Đề tài khoa học cấp
Bộ, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh (Nay là
Học viện Hành chính Quốc gia).
30. Học viện Hành chính, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,
(2009), Đề tài khoa học cấp bộ, “Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực
tiễn nhằm xây dựng mô hình cơ cấu tổ chức b máy CQĐP theo tinh
thần nghị quyết trung ương V, khóa X”
31. Học viện Hành chính (2010), Giáo trình Quản lý và phát triển tổ chức
hành chính Nhà nước, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội
32. Học viện Hành chính quốc gia Pháp (ENA) (2009), Nước Pháp và
các thể chế .
33. Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013, Nxb Chính trị quốc gia
34. Quốc hội (2015), Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015,
Nxb Chính trị quốc gia
35. Đàm Bích Hiên (2007), Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động
của chính quyền cấp xã ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật
164
học, Hà Nội.
36. Phan Văn Hùng (2012), Đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan
hành chính nhà nước phường trong điều kiện cải cách hành chính ở
nước ta, Luận án Tiến sĩ Luật học.
37. Nguyễn Ký, Nguyễn Hữu Đức, Đinh Xuân Hà (đồng chủ biên)
(2006), Đổi mới nội dung hoạt động các cấp chính quyền địa phương
trong kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
38. Trương Đắc Linh (2003),“Chính quyền địa phương với việc đảm bảo
thi hành Hiến pháp và pháp luật”,Nxb Chính trị Quốc gia.
39. Luật tổ chức chính quyền địa phương (2015), được Quốc Hội thông
qua ngày 19/6/2015.
40. Nguyễn Thị Diệu Oanh (2012), Phân cấp quản lý và địa vị pháp lý
của chính quyền địa phương trong quá trình cải cách bộ máy nhà
nước ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học.
41. Thang Văn Phúc, Nguyễn Minh Phương (đồng chủ biên), (2007), Đổi
mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính
trị xã hội ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia.
42. Thang Văn Phúc (2005), Về phân chia và quản lý địa giới hành chính
các nước đông nam á, Đề tài nhánh của Đề tài khoa học cấp Bộ.
43. Nguyễn Minh Phương (chủ biên), Trần Thị Hạnh, Trần Thị Minh
Châu (2015), “Cẩm nang nghiệp vụ dành cho lãnh đạo và công chức
chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã”, Nxb Chính trị Quốc gia
– Sự thật.
44. Nguyễn Minh Phương (chủ biên), Vai trò của chính quyền xã đối với
phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nước ta, Nxb Chính
165
trị Quốc gia – Sự thật.
45. Nguyễn Minh Phương(2015),Quản lý phát triển xã hội của chính
quyền cơ sở một số nước trên thế giới, Nxb Lao động xã hội.
46. Nguyễn Minh Phương (2014), Cơ sở khoa học hoàn thiện cơ chế phân
cấp quản lý nhà nước đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính nhà nước,
Đề tài khoa học cấp Bộ
47. Nguyễn Thị Phượng (2009), Chính quyền địa phương trong việc bảo
đảm thực hiện quyền công dân ở Việt Nam, NXB Chính trị - hành
chính
48. Nguyễn Văn Mễ (chủ biên) (2009), Vai trò của Hội đồng nhân dân
trong phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, Nxb Chính trị-Hành
chính, Hà Nội
49. Hoàng Thị Ngân (2011), Về chế định CQĐP, Hội thảo Sửa đổi Hiến
pháp theo yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam do Văn phòng Quốc hội và Trung ương Hội luật gia Việt
Nam tổ chức, Hà Nội
50. Bùi Đường Nghiêu (chủ biên) (2006), Điều hành ngân sách giữa trung
ương và địa phương, NX Chính trị quốc gia, Hà Nội
51. Nguyễn Quang Ngọc, Đoàn Minh Huấn, Bùi Xuân Dũng (đồng chủ
biên) (2010), Hoàn thiện mô hình tổ chức và quản lý đô thị Hà Nội,
Nxb Chính trị quốc gia
52. Trần Thế Nhuận, Võ Kim Sơn (1998), Quản lý hành chính đô thị nước
ta những vấn đề bức xúc, trong sách: Cải cách hành chính địa phương
- Lý luận và thực tiễn”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
53. Võ Kim Sơn (2004), Phân cấp quản lý nhà nước: Lý luận và thực tiễn,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
54. Tô Tử Hạ (2003), Từ điển hành chính, Nxb Lao động xã hội
166
55. Từ điển Tiếng Việt(2000), Nxb khoa học xã hội
56. Từ điển Tiếng Việt(1996),Trung tâm Từ điển học, Nxb Đà Nẵng
57. Từ điển Luật học. NXB.Từ điển bách khoa.
58. Tổng cục thống kê (2017), Báo cáo số 536/BC-CTK ngày 20/12/2017
của Tổng cục Thống kê Hà Nội.
59. Thành ủy Hà Nội (2019),Báo cáo Đề án thí điểm quản lý theo mô
hình chính quyền đô thị tại TP Hà Nội, kèm theo Tờ trình số 20 –
TTr/TU ngày 31/01/2019 của Thành ủy Hà Nội
60. Phạm Hồng Thái, Nguyễn Đăng Dung và Nguyễn Ngọc Chí (2011),
Phân cấp quản lý nhà nước ở Việt Nam – Thực trạng và triển vọng,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội
61. Nguyễn Kim Thoa, Nguyễn Sỹ Đại (2006): Tổ chức chính quyền
CHLB Đức, NxbTư pháp
62. Lê Minh Thông (2001), “Đổi mới,hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở
Việt Nam” Nxb Chính trị quốc gia.
63. Lê Minh Thông (2004), “Cải cách tổ chức và hoạt động của chính
quyền địa phương đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp
nhà nước KX.04.08
64. Lê Minh Thông (2011), Đổi mới, hoàn thiện bộ máy Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở
Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
65. Nguyễn Kim Thoa, Nguyễn Sỹ Đại (2006), Tổ chức chính quyền địa
phương ở Cộng hòa liên bang Đức, Nxb Tư pháp.
66. Trần Nho Thìn (1996), Đổi mới tổ chức và hoạt động của UBND xã,
167
Luận án Phó tiến sĩ Luật học.
67. Vũ Thư (2009), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn về phân cấp quản lý
cho chính quyền địa phương ở nước ta, Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật, số 4 (252)/2009.
68. Thủ tướng Chính phủ (2001), Chương trình tổng thể CCHC nhà nước
giai đoạn 2001 – 2010 (ban hành kèm theo Quyết định 136/QĐ-TTg
ngày 17/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ).
69. Thủ tướng Chính phủ (2001), Quyết định 136/2001/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ về phê duyệt chương trình tổng thể cải cách hành
chính nhà nước giai đoạn 2001 – 2010.
70. Đào Trí Úc (chủ biên - 2010), Cơ chế giám sát của nhân dân đối với
hoạt động của bộ máy Đảng và nhà nước – Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn (Xuất bản lần thứ hai), Nxb. CTQG, Hà Nội.
71. Ủy ban thường vụ Quốc Hội (2015), Báo cáo số 1032/BC-
UBTVQH13 ngày 22/12/2015 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về tình
hình tổ chức và hoạt động của HĐND các cấp từ đầu nhiệm kỳ (2011-
2016) đến nay và phương hướng nhiệm vụ trong thời gian tới, Hà Nội.
72. Nguyễn Cửu Việt và Trương Đắc Linh (2012), Chính quyền địa
phương, trong Một số vấn đề cơ bản của Hiến pháp các nước trên thế
giới, Phan Trung Lý và cộng sự (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội
73. Nguyễn Cửu Việt, Trương Đắc Linh: Sửa đổi hiến pháp: nhìn từ chiến
lược phân cấp quản lý. Tap chí Khoa học pháp lý. Số 3/2011
74. Viện Kinh tế Việt Nam, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương,
và Chương trình hỗ trợ kỹ thuật hậu gia nhập WTO (2012), “Phân cấp
quản lý trong điều kiện h i nhập kinh tế quốc tế”, Nxb Khoa học xã
168
hội, Hà Nội.
75. Viện khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp) (12/2012), “Mô hình tổ chức
chính quyền đô thị ở Việt Nam trong việc đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước , Kỷ yếu hội thảo, Hà Nội
76. Viện Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp) (2014), Phân công quyền lực
giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương tại Việt Nam
- Lịch sử , lý luận và thực tiễn, Đề tài NCKH cấp bộ, Hà Nộ
77. Viện Nghiên cứu hành chính - Học viện Hành chính Quốc gia (2002),
Thuật ngữ hành chính, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
78. UBND thành phố Hồ Chí Minh (2007), Đề án chính quyền đô thị ở thành
phố Hồ Chí Minh.
79. UBND thành phốHà Nội (2017), Quyết định số 15/2017/QĐ-UBND
của UBND TP Hà Nội ban hành Quy định về phân cấp quản lý tổ
chức bộ máy, cán bộ, công chức, lao động hợp đồng trong các cơ quan
hành chính thuộc thành phố Hà Nội
80. Các Website:
http//:dangcongsan.vn;
http//:chinhphu.vn;
http//: moha.gov.vn
https://sontay.hanoi.gov.vn
Tài liệu nước ngoài
81. J.M.Cohen &S.B Peterson (2002), “Phân cấp quản lý hành chính –
Chiến lược cho các nước đang phát triển”, Nxb chính trị quốc gia
82. J.M.Cohen &S.B Peterson (2002), “Phân cấp quản lý hành chính –
Chiến lược cho các nước đang phát triển”, Nxb chính trị quốc gia
83. Bahl, Roy và Johannes Linn (1992). “Urban Public Finance in
169
Developing Countries”. New York: Oxford University Press
84. Evan M. Berman, et. al (eds.) (2010), Public Administration in East
Asia: Mainland China, Japan, South Korea, and Taiwan, Boca Raton,
FL: Taylor and Francis
85. Jurgen Georg Backhaus (ed.) (2012), Two Centuries of Local
Autonomy, New York: Springer
86. Ann Bowman and Richard Kearney (2011), State and Local
Government, 8th ed. Boston, MA: Wadsworth
87. Bryan A. Garner (ed.) (2009), lack’s Law Dictionary, 9th ed. St. Paul,
MN: West
88. Sören Häggroth, Curt Riabedahl và Karin Rudebeck (1997), Chính
quyền địa phương Thụy Điển – truyền thống và cải cách, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội
89. Martin Lombard và Gilles Dumont (2007), Pháp luật hành chính của
C ng hòa Pháp, Nxb Tư pháp, Hà Nội
90. Peter John (2001), Local Governance in Western Europe, London:
Sage
91. Janice Morphet (2008), Modern Local Government, London: Sage
Publications Ltd
92. Kenneth Newton and Jan W. Van Deth (2005), Foundations of
Comparative Politics, Cambridge: Cambridge University Press
93. Colin Turpin & Adam Tomkins (2007), British Government and the
Constitution: Text and Materials, 6th ed. (Cambride: Cambridge
University Press)
94. UNDP (1998), Decentralized Governance Monograph: A Global
Sampling of Experiences, Management Development and
170
Governance Division, Bureau for Policy Development
95. David Wilson and Chris Game (2011), Local Government in the
United Kingdom, 5th ed. (Basingstoke, Hampshire, UK: Palgrave
Macmillan
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Hà Nội, ngày tháng 5 năm 2019
PHIẾU ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC
171
Để có cơ sở đề xuất các giải pháp về tăng cường phân cấp giữa thành phố Hà Nội và chính quyền phường ở Hà Nội, xin đồng chí dành thời gian trả lời một số câu hỏi. Nội dung trả lời của đồng chí mang tính chất điều tra, khảo sát và được giữ bí mật.
Cách trả lời: Đồng chí đánh dấu (X) vào ô vuông ( ) tương ứng với
nhữngý kiến phù hợp với suy nghĩ của đồng chí và yêu cầu của câu hỏi.
Xin chân thành cảm ơn sự quan tâm, tham gia, đóng góp của đồng chí. A. CÁC THÔNG TIN CHUNG:
1. Họ và tên: ……………......................... Tuổi:…....Giới tính:……. 2. Chức vụ(Đảng, chính quyền, đoàn thể)……………………… 3. Đơn vị công tác:……………………………………………… 4. Là cán bộ, công chức 5. Là cán bộ, công chức giữ chức vụ lãnh đạo quản lý
B. NỘI DUNG : Câu 1.Theo đồng chí, việc phân cấp thực hiện nhiệm vụ giữa thành
phố Hà Nội và chính quyền phường ở Hà Nội có cần thiết không?
- Có: - Không:
Câu 2. Đồng chí biết đến chủ trương phân cấp giữa các cấp chính
quyền ở địa phương qua kênh nào?
- Qua phương tiện thông tin đại chúng (báo chí, tivi, internet…): - Qua người thân: - Qua văn bản pháp luật: - Qua điều tra khảo sát: - Qua làm việc trực tiếp: Câu 3. Theo đồng chí, nhận thức của các cấp uỷ Đảng, lãnh đạo chính quyền về vị trí, vai trò, ý nghĩa của việc thực hiện phân cấp nhiệm vụ như thế nào?
- Quan trọng :
- Ít quan trọng :
- Không quan trọng :
Câu 4. Theo đồng chí, các nội dung phân cấp giữa chính quyền thành
phố Hà Nội với chính quyền cấp dưới hiện nay có phù hợp không?
172
- Có: - Không:
Câu 5. Thực tế ở cơ quan, đơn vị, nơi đồng chí làm việc, đã từng thực
hiện các nhiệm vụ được chính quyền cấp trên phân cấp chưa?
- Đã thực hiện: - Chưa thực hiện: Câu 6. Các nội dung thực hiện nhiệm vụ phân cấp tại cơ quan, đơn
vị nơi đồng chí làm việc đã thực hiện? - Phân cấp về quản lý đầu tư - Phân cấp về quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn - Phân cấp về quản lý đất đai - Phân cấp về quản lý nhà nước về đầu tư công - Phân cấp về ngân sách - Phân cấp về nhân sự - Phân cấp về tổ chức, bộ máy - Phân cấp về khen thưởng cán bộ, công chức - Phân cấp về kỷ luật cán bộ, công chức
Câu 7. Theo đồng chí, việc thực hiện nhiệm vụ phân cấp giữa chính quyền thành phố Hà Nội với chính quyền cấp dưới hiện nay có khó khăn không?
- Có: - Không: Nếu trả lời “có” thì xin đồng chí cho biết, nguyên nhân vì sao? + Vì chưa có văn bản quy định cụ thể, rõ ràng, minh bạch + Vì chưa cán bộ, công chức thực hiện yếu kém về năng lực + Vì thiếu nguồn lực thực hiện + Vì vướng mắc tại các văn bản Luật và văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành Các nguyên nhân khác:……………………………………………… ………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………… Câu8. Theo đồng chí, thời gian tới, thành phố Hà Nội có nên mở rộng
thêm nhiệm vụ phân cấp có chính quyền cấp dưới không?
173
- Có: - Không:
Câu 9. Theo đồng chí, các nhiệm vụ nên mở rộng phân cấp là những
nhiệm vụ nào?
- Lĩnh vực quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội - Lĩnh vực tài chính – ngân sách - Lĩnh vực giáo dục, y tế - Lĩnh vực xây dựng - Lĩnh vực tổ chức bộ máy, nhân sự, cán bộ, công chức, viên chức. - Lĩnh vựcđầu tư, giao thông, hạ tầng đô thị - Lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch - Lĩnh vực an toàn vệ sinh thực phẩm Câu 10. Theo đồng chí, để thực hiện tốt nhiệm vụ phân cấp từ chính
quyền cấp trên, cần thực hiện những giải pháp nào? - Tăng cường vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng và chính quyền trong thực hiện nhiệm vụ phân cấp - Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, công chức - Tăng cường mối quan hệ công tác giữa cấp chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội trên địa bàn - Nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức về thực hiện nhiệm vụ được phân cấp - Tăng cường nguồn lực (cơ sở vật chất, tài chính,\ con người) - Nâng cao kỷ luật, kỷ cương làm việc Các ý kiến khác: .................................................................................................................. .................................................................................................................. .................................................................................................................. Câu 11: Kiến nghị của đồng chí để tăng cường phân cấp quản lý nhà
nước đối với chính quyền phường ở thành phố Hà Nội
174
.................................................................................................................. .................................................................................................................. .................................................................................................................. .................................................................................................................. Trân trọng cảm ơn./.