BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN VĂN MINH

PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

CHO CHÍNH QUYỀN PHƯỜNG TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ CÔNG

Hà Nội, 2021

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN VĂN MINH

PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

CHO CHÍNH QUYỀN PHƯỜNG TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Quản lý công

Mã số: 9 34 04 03

LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ CÔNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. Nguyễn Hữu Hải 2. PGS.TS. Hoàng Mai

Hà Nội, 2021

2

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan: Luận án là công trình nghiên cứu của riêng

tôi. Các số liệu được sử dụng trong Luận án là trung thực, các tài liệu

tham khảo, trích dẫn có xuất xứ rõ ràng.

Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu của tôi.

Hà Nội, ngày tháng 01 năm 2021

Tác giả

3

Nguyễn Văn Minh

CHỮ VIẾT TẮT

ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN

CCHC Cải cách hành chính

CP Chính phủ

CQĐP Chính quyền địa phương

CHXHCNVN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

CQĐT Chính quyền đô thị

CQP Chính quyền phường

HĐND Hội đồng nhân dân

NĐ Nghị định

NQ Nghị quyết

Nxb Nhà xuất bản

TP Thành phố

TTg Thủ tướng

QLNN Quản lý nhà nước

UBND Ủy ban nhân dân

UBTVQH Ủy ban Thường vụ Quốc Hội

UBMTTQVN Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

4

XHCN Xã hội chủ nghĩa

MỤC LỤC

1 13

MỞ ĐẦU Chương 1.TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ở nước ngoài 1.2. Tổng quan các công trình nghiên cứu ở trong nước 1.3. Đánh giá các công trình nghiên cứu và các nội dung cần tiếp tục 13 16 25

31

nghiên cứu của luận án Chương 2. CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CHO CHÍNH QUYỀN PHƯỜNG

2.1. Khái niệm, sự cần thiết phân cấp trong quản lý nhà nước 31

47

2.2. Nội dung, hình thức, phương pháp, nguyên tắc và điều kiện đảm bảo thực hiện phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền phường

2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến phân cấp cho chính quyền phường 2.4. Phân cấp quản lý nhà nước giữa chính quyền thành phố và chính 55 64

75

quyền cơ sở của một số quốc gia trên thế giới, bài học kinh nghiệm Chương 3. THỰC TRẠNG PHÂN CẤP CHO CHÍNH QUYỀN PHƯỜNG TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI

3.1. Thực trạng tổ chức, hoạt động của chính quyền phường tại Thành phố 75

Hà Nội

3.2. Thực trạng phân cấp cho chính quyền phường tại Thành phố Hà Nội 81

hiện nay

3.3. Đánh giá việc thực hiện phân cấp cho chính quyền phường tại Hà Nội 113

125

và nguyên nhân ưu điểm, hạn chế. Chương 4. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CHO CHÍNH QUYỀN PHƯỜNG TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI

4.1. Quan điểm phân cấp phù hợp về quản lý nhà nước giữa Thành phố, 125

chính quyền quận cho chính quyền phường ở Hà Nội

4.2. Giải pháp về phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền phường tại 132

Hà Nội

4.3. Các điều kiện đảm bảo thực hiện phân cấp quản lý nhà nước cho chính 145

5

quyền phường tại Thành phố Hà Nội KẾT LUẬN DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Phụ lục: PHIẾU ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC 154 156 157 167

DANH MỤC CÁC BẢNG

Tên bảng Trang

80 Số hiệu bảng 3.1

80 3.2

92 3.3

112 3.4

Số lượng và cơ cấu số lượng cơ cấu, chất lượng, trình độ đào tạo cán bộ phường của Thành phố Hà Nội Số lượng và cơ cấu chất lượng, trình độ đào tạo công chức phường của Thành phố Hà Nội Nhiệm vụ được giao của UBND phường thông qua văn bản hành chính của UBND quận Thể hiện các giải pháp đề xuất để thực hiện tốt nhiệm vụ phân cấp từ chính quyền cấp trên

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Tên biểu đồ Trang Số hiệu

biểu đồ

104 3.1

105 3.2

106 3.3

113 3.4

6

Thể hiện sự cần thiết về phân cấp thực hiện nhiệm vụ giữa TP Hà Nội và chính quyền phường ở Hà Nội Thể hiện sự hiểu biết của đối tượng được hỏi về chủ trương phân cấp giữa các cấp chính quyền địa phương Thể hiện nguyên nhân khó khăn khi thực hiện phân cấp giữa chính quyền TP Hà Nội cho chính quyền phường Thể hiện các giải pháp khi thực hiện phân cấp giữa chính quyền TP Hà Nội cho chính quyền phường

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Sự phát triển của nền hành chính tiên tiến hiện đại đặt ra nhiều yêu cầu

mới, trong đó có yêu cầu về phân cấp quản lý nhà nước giữa các cấp chính

quyền nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách

nhiệm của mỗi cấp, góp phần nâng cao hiệu lực, quả hoạt động của nền hành

chính, nâng cao năng lực điều hành phát triển kinh tế - xã hội theo ngành và địa

phương.

Đối với mỗi quốc gia, không phân biệt hình thức cấu trúc nhà nước là

đơn nhất hay liên bang, đều xác định việc phân cấp quản lý nhà nước giữa các

cấp chính quyền là việc cần thiết. Phân cấp quản lý nhà nước thể hiện cơ quan

nhà nước cấp trên chuyển giao những nhiệm vụ cho cấp dưới thực hiện một

cách thường xuyên, liên tục thông qua sử dụng phương tiện là văn bản quy

phạm pháp luật quy định hoặc chuyển cho cấp dưới thực hiện nhiệm vụ, quyền

hạn bằng các quyết định.

Trong nhiều năm qua, Đảng ta luôn đã nhấn mạnh vai trò và tầm quan

trọng của cải cách hành chính, trong đó có đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà

nước. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X (2006) đề ra chính sách và giải pháp về

cơ cấu lại bộ máy Chính phủ theo hướng: “Giảm các đầu mối, phù hợp yêu cầu

đổi mới chức năng, nhiệm vụ…..phân cấp mạnh cho cấp dưới gắn với hướng

dẫn và thực hiện thanh tra, kiểm tra của cấp trên”[14, tr.254].

Nghị quyết số 17-NQ-TW ngày 01/8/2007 về đẩy mạnh cải cách hành

chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lí của bộ máy nhà nước, đề ra quan

điểm: “xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, phân định rõ trách nhiệm giữa các cơ

quan, giữa các cấp chính quyền, giữa chính quyền đô thị và chính quyền nông

thôn, giữa tập thể và người đứng đầu cơ quan hành chính”[2,tr.2].

Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI (2011) đề ra nhiệm vụ, giải pháp chủ

7

yếu: “Thực hiện phân cấp hợp lý cho chính quyền địa phương đi đôi với nâng

cao chất lượng quy hoạch và tăng cường thanh tra, kiểm tra giám sát của trung

ương, gắn quyền hạn với trách nhiệm được giao” [15,tr.250], đồng thời yêu cầu

“Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban

nhân dân (UBND) các cấp, đảm bảo quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong

việc quyết định và tổ chức thực hiện những chính sách trong phạm vi được phân

cấp” [15,tr.251].

Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII (2016) tiếp tục đề ra nhiệm vụ, giải

pháp: “Hoàn thiện cơ chế phân cấp, bảo đảm tính thống nhất, thông suốt trong

lãnh đạo, quản lý, điều hành từ trung ương đến cơ sở…Phân định rõ quyền hạn

và trách nhiệm trong quản lý kinh tế, xã hội giữa trung ương và địa phương,

bảo đảm sự tập trung thống nhất quản lý của trung ương và phát huy tính chủ

động, tự chịu trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương. Hoàn thiện cơ

chế phân cấp đầu tư, ngân sách, bảo đảm quản lý thống nhất về quy hoạch phát

triển và cân đối nguồn lực” [16, Tr.310,311].

Hiến pháp năm 2013 quy định tại Điều 112: “Nhiệm vụ, quyền hạn của

chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa

các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền

địa phương”.Theo đó, các quy định pháp luật hiện hành đã cụ thể hóa các quy

định của Hiến pháp về phân cấp quản lý giữa chính phủ với chính quyền cấp

dưới và giữa chính quyền các cấp với nhau. Việc phân quyền cho mỗi cấp chính

quyền địa phương phải được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật của

cơ quan nhà nước phân cấp. Theo đó, Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị quyết

về đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và chính quyền tỉnh,

thành phố trực thuộc trung ương.

Vấn đề phân cấp và phân cấp quản lý nhà nước đã được quy định tại

Luật, các Nghị quyết của Chính phủ, song trên thực tế thực hiện hiện nay vẫn

còn nhiều bất cập, hạn chế. Nhất là việc chính quyền các cấp còn lúng túng,

8

chưa có các giải pháp hữu hiệu, phù hợp thực tiễn khi triển khai thực hiện nhiệm

vụ phân cấp, dẫn đến kém hiệu quả trong quản lý nhà nước. Đối với phân cấp

quản lý nhà nước giữa chính quyền thành phố và chính quyền phường tại Thành

phố Hà Nội cũng đang đặt ra nhiều vấn đề cần nghiên cứu để có giải pháp tốt

đáp ứng yều cầu nhiệm vụ được giao, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, xây

dựng chính quyền phục vụ, vì lợi ích của người dân ở địa bàn đô thị. Nhất là

trong giai đoạn hiện nay, Thành phố Hà Nội chuẩn bị mọi nguồn lực để thực

hiện việc thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị bắt đầu từ ngày

01/7/2021.

Theo Nghị quyết số 97/2019/QH14 ngày 27/11/2019 của Quốc hội, chính

quyền địa phương ở các phường thuộc quận, thị xã tại Thành phố Hà Nội là Ủy

ban nhân dân phường nên việc phân cấp cho chính quyền phường tại Thành

phố Hà Nội đang đặt ra nhiều nội dung cần nghiên cứu, đề xuất để phù hợp

hoàn cảnh mới của Thủ đô. Theo đó, tính cấp thiết của vấn để được thể hiện

như sau:

Thứ nhất, việc thể chế hóa các quy định của Đảng được thực hiện nghiêm

túc và là căn cứ pháp lý để thực hiện phân cấp. Song trên thực tế, các quy định

cụ thể, chi tiết để triển khai trên thực tế chưa thực sự đầy đủ. Còn nhiều lỗ hổng

trong các quy định của pháp luật về phân cấp, nhất là phân cấp giữa chính quyền

thành phố và chính quyền phường, dẫn đến hiệu quả thấp trong quản lý nhà

nước ở các cấp chính quyền. Kéo theo hệ quả là khi thực hiện nhiệm vụ, chính

quyền cấp dưới chưa thể hiện được tính chủ động, sáng tạo, phát huy ưu điểm,

thế mạnh, còn phụ thuộc và bị chi phối bởi chính quyền cấp trên.

Thứ hai, xuất phát từ yêu cầu nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước từ

trung ương đến địa phương, trong đó có yêu cầu về nâng cao hiệu lực, hiệu quả

quản lý nhà nước ở phường.

Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước là một trong những mục

tiêu của đổi mới, cải cách hành chính và Chính phủ trong những năm gần đây

9

đã có nhiều giải pháp tích cực, cụ thể để thực hiện mục tiêu này. Cụ thể là tăng

cường các giải pháp về đổi mới, sắp xếp lại tổ chức bộ máy; chú trọng phát

triển nguồn nhân lực chất lượng cao, trong đó có giải pháp về tăng cường phân

cấp rõ hơn về nhiệm vụ, thẩm quyền từ chính quyền cấp trên cho chính quyền

địa phương trên nhiều lĩnh vực như tài chính, ngân sách, xây dựng, đất đai, tài

nguyên, y tế, văn hóa, giáo dục…Đối với chính quyền địa phương ở tỉnh, thành

phố trực thuộc Trung ương cũng đã có các giải pháp tích cực để thực hiện phân

cấp cho chính quyền cấp huyện, cấp xã để giải quyết các công việc, yêu cầu

của người dân được nhanh chóng, thuận lợi. Tuy nhiên, quản lý nhà nước trên

các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội chưa đạt hiệu quả cao, nhất là ở chính

quyền phường. Thể hiện ở mức thấp về tính chuyên nghiệp thấp khi giải quyết

nhu cầu của người dân. Văn hóa ứng xử, thái độ phục vụ của đội ngũ công chức

nhà nước chưa đảm bảo sự hài lòng của người dân. Khi công chức tiến hành xử

lý các tình huống cấp bách chưa nhanh nhạy, nhiều trường hợp cần sự can thiệp

trực tiếp của chính quyền cấp trên.

Một phần nguyên nhân là do chức năng, nhiệm vụ của chính quyền

phường bị trùng lắp với chức năng, nhiệm vụ của chính quyền quận. Các căn

cứ làm cơ sở pháp lý chưa đầy đủ để thực hiện phân cấp, bên cạnh đó năng lực

quản lý nhà nước của chính quyền phường chưa đồng đều, một số nơi chưa đủ

cơ sở vật chất, điều kiện để thực hiện phân cấp.

Thứ ba, do yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và đẩy mạnh cải cách hành

chính của đất nước, cần chú trọng giải quyết mạnh mẽ, tích cực vấn đề phân

cấp quản lý nhà nước giữa chính quyền trung ương với chính quyền địa phương

và giữa các cấp chính quyền địa phương với nhau.

Vấn đề phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền phường cần được

làm rõ về phương pháp, cách thức tiến hành, nội dung tiến hành phân cấp, cách

thức phân cấp và biện pháp để kiểm tra, giám sát, đánh giá hiệu quả phân cấp.

Đây cũng là yêu cầu cấp thiết trong việc minh bạch hóa hoạt động của các cấp

10

chính quyền, thể hiện trách nhiệm của từng cá nhân, tổ chức trong quá trình

thực hiện nhiệm vụ. Đối với chính quyền phường, là cấp thấp nhất trong tổ chức

chính quyền địa phương ở đô thị, vấn đề phân cấp càng cần được minh bạch,

rõ ràng, cụ thể hơn, đáp ứng lâu dài yêu cầu phát triển kinh tế xã hội ở phường,

đồng thời đáp ứng yêu cầu của người dân thuộc trình độ nhận thức cao ở đô thị.

Thứ tư, xuất phát từ chính vai trò, vị trí của chính quyền phường là cấp

thấp nhất trong hệ thống chính quyền quản lý nhà nước ở đô thị. Hiệu quả hoạt

động của cấp chính quyền này có tác động trực tiếp đến đời sống của cư dân đô

thị, đây cũng là cấp có điều kiện tốt để thực hiện các nhiệm vụ do chính quyền

cấp trên chuyển giao.

Phường là một loại đơn vị hành chính ở địa bàn đô thị. Chính quyền ở

đô thị, phường là đơn vị thấp nhất, gần dân nhất, thực hiện các chức năng,

nhiệm vụ quản lý nhà nước trên các mặt của đời sống xã hội, có tác động trực

tiếp đến người dân trên địa bàn phường. Cơ cấu tổ chức của chính quyền địa

phương ở phường theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương hiện hành gồm

HĐND phường và UBND phường. Tuy nhiên, trong tương lai, với xu hướng

thực hiện Nghị quyết số 97/2019/QH14 ngày 27/11/2019 của Quốc hội về thí

điểm mô hình chính quyền đô thị tại thành phố Hà Nội, thì “chính quyền địa

phương ở các phường thuộc quận, thị xã tại Thành phố Hà Nội là Ủy ban nhân

dân phường” và “Ủy ban nhân dân phường là cơ quan hành chính nhà nước ở

phường, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Nghị quyết và theo

phân cấp, ủy quyền của Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố

Hà Nội, Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận, thị xã”.

Hiện nay, ở Thành phố Hà Nội, phường thực hiện các chức năng, nhiệm

vụ mang đặc thù ở đô thị, có tính tập trung cao, dân cư đông đúc, nhiều mối

quan hệ đan xen và chính quyền phường luôn luôn phải xử lý nhiều công việc

với cường độ lớn, mức độ phức tạp ngày càng cao. Khi thực hiện nhiệm vụ, cần

có tính chủ động lớn, phản ứng nhanh nhạy mới đáp ứng được yêu cầu của

11

người dân sinh sống tại đô thị. Do đó, để nâng cao hiệu quả hoạt động của chính

quyền phường ở Thành phố Hà Nội, cần tăng cường các giải pháp quan trọng,

để chính quyền phường chủ động trong thực hiện nhiệm vụ, nhất là vấn đề về

phân cấp quản lý nhà nước từ chính quyền cấp trên, bao gồm chính quyền thành

phố và chính quyền quận cho chính quyền phường.

Thứ năm, phân cấp quản lý nhà nước giữa chính quyền cấp trên cho chính

quyền cấp dưới phù hợp xu thế của thế giới trong xây dựng, phát triển, tổ chức

nền hành chính nhà nước hiện nay. Nhiều quốc gia xây dựng Luật về phân

quyền, phân cấp và thực hiện có hiệu quả nguyên tắc: chính quyền cấp trên thực

hiện phân cấp các nhiệm vụ có thể phân cấp được cho chính quyền cấp dưới

nhằm phát huy sự chủ động, sáng tạo của chính quyền cấp dưới trong xử lý

công việc, đáp ứng yêu cầu của người dân tại chỗ. Việt Nam đang trên đà đổi

mới, cải cách hành chính mạnh mẽ bước đầu đã có những thành công nhất định

và phân cấp, phân quyền từ chính quyền cấp trên cho chính quyền cấp dưới là

xu thế tất yếu.

Khi thực hiện nhiệm vụ được phân cấp, chính quyền sẽ có sự phản hồi

về phù hợp, hoặc không phù hợp về chính sách, pháp luật, từ đó chính quyền

cấp trên có căn cứ để tiếp tục điều chỉnh tương ứng với thực tiễn.

Do vậy, vấn đề:“Phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền phường

tại Thành phố Hà Nội” được nghiên cứu với mục đích là trên cơ sở phân tích

những vấn đề lý luận về phân cấp, phân cấp quản lý nhà nước, thực tiễn phân

cấp quản lý nhà nước đối với chính quyền phường ở Thành phố Hà Nội, để đề

xuất các giải pháp nhằm phân cấp phù hợp về quản lý nhà nước đối với chính

quyền phường tại Thành phố Hà Nội trong bối cảnh thực hiện thí điểm tổ chức

mô hình chính quyền đô thị, đồng thời đáp ứng yêu cầu người dân ngày càng

cao về hiệu quả hoạt động quản lý của nhà nước ở địa phương.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

12

2.1. Mục đích nghiên cứu

Xây dựng cơ sở khoa học và đề xuất các giải pháp để thực hiện việc phân

cấp quản lý nhà nước phù hợp cho chính quyền phường, thực hiện chức năng,

nhiệm vụ được tốt hơn trong điều kiện thực hiện thí điểm tổ chức mô hình chính

quyền đô thị tại Thành phố Hà Nội.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

Xuất phát từ mục đích nghiên cứu, luận án có các nhiệm vụ sau:

Một là, tìm hiểu tổng quan về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài,

đánh giá kết quả nghiên cứu của các công trình và xác định những vấn đề cần

tiếp tục nghiên cứu.

Hai là, làm rõ những vấn đề lý luận về chính quyền phường, về phân cấp

quản lý nhà nước cho chính quyền phường là tất yếu; nội dung, hình thức,

phương pháp phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền phường, các yếu tố

tác động đến phân cấp đồng thời tham khảo kinh nghiệm một số nước trên thế

giới về thực hiện phân cấp, rút ra những bài học có thể áp dụng cho Việt Nam

Ba là, khảo sát, đánh giá hệ thống thể chế chính trị, pháp lý về phân cấp

quản lý cho chính quyền phường, đánh giá việc thực hiện trên thực tế những

nội dung phân cấp qua thực tiễn và qua điều tra xã hội học.

Bốn là, đề xuất quan điểm, giải pháp để thực hiện phân cấp quản lý nhà

nước cho chính quyền phường tại Thành phố Hà Nội trong điều kiện hiện nay.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận án nghiên cứu về phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền

phường tại Thành phố Hà Nội

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi về thời gian: Vấn đề phân cấp quản lý nhà nước giữa chính

quyền Thành phố, chính quyền quận của Hà Nội cho chính quyền phường tại

Thành phố Hà Nội từ năm 2015 đến nay, nghĩa là từ khi có Luật tổ chức CQĐP

13

năm 2015 quy định về vấn đề phân cấp tại Luật.

Phạm vi về không gian: Khi thực hiện điều tra xã hội học để thực hiện

Luận án (năm 2019), phạm vi về không gian được xác định là chính quyền

phường tại Hà Nội, bao gồm: 177 phường thuộc 12 quận, trong đó có cả Thị xã

Sơn Tây và các phường của Thị xã Sơn Tây. Đến thời điểm tháng 02/2020,

Nghị quyết số 895/NQ-UBTVQH14 ngày 11/02/2020 về sắp xếp các đơn vị

hành chính cấp xã thuộc thành phố Hà Nội, số lượng phường của Thành phố

Hà Nội giảm còn 175 phường.

Đến thời điểm năm 2020, với xu hướng thực hiện thí điểm mô hình tổ

chức chính quyền đô thị tại thành phố Hà Nội theo Nghị quyết số

97/2019/QH14 của Quốc hội, thì chính quyền địa phương ở các phường thuộc

quận, thị xã tại Thành phố Hà Nội là Ủy ban nhân dân phường.

Phạm vi về nội dung: Luận án làm rõ về các nội dung được đề xuất để

phân cấp; Về phương thức thực hiện phân cấp được quy định tại các văn bản

quy phạm pháp luật của chính quyền Thành phố Hà Nội cho chính quyền cấp

dưới và điều kiện đảm bảo trên thực tế để thực hiện phân cấp.

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án

4.1. Phương pháp luận

Để giải quyết những nhiệm vụ đặt ra, luận án sử dụng phương phápluận

duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin để nghiên cứu

đối tượng trong quá trình phân cấp đối với chính quyền phường.

Các nội dung nghiên cứu được luận giải theo quan điểm hệ thống nhằm

đảm bảo tính kết nối, logic trong phân tích các chế định pháp luật và quan điểm

lịch sử cụ thể để đảm bảo tính khách quan, hợp lý khi đề xuất các giải pháp.

Đồng thời, luận án cũng sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng để luận

giải về yêu cầu thực hiện phân cấp, tăng cường phân cấp giữa chính quyền cấp

trên và chính quyền cấp dưới, trong đó có phân cấp giữa chính quyền thành phố

Hà Nội đối với chính quyền phường.

14

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Một số phương pháp nghiên cứu được sử dụng cụ thể như:

Phương pháp so sánh được sử dụng để xem xét mối tương quan và quá

trình hoàn thiện hệ thống quy định pháp luật về phân cấp quản lý nhà nước đối

với chính quyền phường ở Hà Nội qua các giai đoạn phát triển, đồng thời so

sánh Việt Nam với một số quốc gia trên thế giới về thực hiện phân cấp. Phương

pháp trên được sử dụng chủ yếu tại Chương 1, Chương 2 của Luận án.

Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, được sử dụng để tập hợp các

dữ liệu, số liệu sơ cấp, thứ cấp. Trên cơ sở đó phân tích, đánh giá sự phù hợp

trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của

Nhà nước về phân cấp, tìm ra những nhân tố ảnh hưởng đến phân cấp đối với

chính quyền phường ở Hà Nội, đánh giá thực trạng quy định phân cấp của

Thành phố Hà Nội đối với chính quyền cơ sở và thực trạng thực hiện phân cấp

của chính quyền phường ở Hà Nội. Phương pháp trên được sử dụng chủ yếu tại

Chương 1, Chương 2 và Chương 4 của Luận án.

Phương pháp hệ thống được sử dụng để phân tích tổ chức và hoạt động

của chính quyền phường và phân cấp cho chính quyền phường tại Hà Nội trong

mối quan hệ với tổng thể hệ thống chính quyền từ trung ương tới địa phương

nước ta hiện nay.

Phương pháp điều tra xã hội học được áp dụng để điều tra, khảo sát thực

trạng thực hiện phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền phường tại các

phường ở Thành phố Hà Nội. Qua điều tra, khảo sát, Luận án thu được các số

liệu sơ cấp, làm căn cứ đánh giá thực trạng thực hiện phân cấp quản lý nhà nước

cho chính quyền phường, có cơ sở để đề xuất giải pháp nhằm đề xuất những

nội dung phân cấp quản lý nhà nước hợp lý đối với chính quyền phường ở Hà

Nội. Phương pháp trên được sử dụng chủ yếu tại Chương 3 của Luận án, với

250 phiếu điều tra xã hội học, được thực hiện ở thời điểm năm 2019, với 50/177

phường thuộc 12 quận, trong đó có cả Thị xã Sơn Tây và các phường của Thị

15

xã Sơn Tây.

Quá trình điều tra có 01 mẫu phiếu được phát ra cho đối tượng là cán bộ,

công chức và một số cá nhân làm công tác Mặt trận, Hội phụ nữ, Đoàn thanh

niên, Cựu chiến binh tại các phường thuộc 12 quận của Thành phố Hà Nội. Số

phiếu thu về được xử lý, làm sạch và tiến hành phân tích theo yêu cầu về thực

trạng thực hiện phân cấp tại Thành phố Hà Nội. Các phương án trả lời được thu

thập, phân tích và nhất là các kiến nghị, đề xuất của các phiếu điều tra xã hội

học được tổng hợp tối đa.

5. Giả thuyết khoa học và Câu hỏi nghiên cứu

5.1. Giả thuyết khoa học của luận án

Phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền phường một cách khoa học,

phù hợp thực tiễn, sẽ mang lại hiệu quả hoạt động và thực hiện chức năng,

nhiệm vụ của chính quyền phường tại Thành phố Hà Nội tốt hơn trong điều

kiện tổ chức mô hình chính quyền đô thị.

5.2. Câu hỏi nghiên cứu của luận án

Tại sao phải thực hiện phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền

phường?

Yếu tố tác động đến phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền phường?

Kinh nghiệm quốc tế về vấn đề phân cấp?

Phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền phường ở Hà Nội hiện nay

đang được thực hiện như thế nào?

Khi thực hiện phân cấp cho chính quyền phường, sẽ ảnh hưởng như thế

nào đến hiệu lực, hiệu quả hoạt động chính quyền Thành phố Hà Nội?

Để phân cấp phù hợp về quản lý nhà nước cho chính quyền phường ở Hà

Nội cần có các giải pháp nào?

Các phương thức thực hiện phân cấp hiệu quả? Các điều kiện đảm bảo

thực hiện phân cấp?

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

16

6.1. Ý nghĩa lý luận của luận án

Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần lý luận, lý giải về sự cần thiết

phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền phường ở Hà Nội. Từ đó đề xuất

xem xét về thực hiện phân cấp cho chính quyền phường ở Thành phố Hà Nội

trên thực tế, phù hợp xu thế phát triển của Thành phố, phù hợp chủ trương của

Đảng về thực hiện phân cấp, phù hợp Nghị quyết của Quốc hội, pháp luật của

Nhà nước về phân cấp, đảm bảo hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động của bộ máy

nhà nước.

Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng làm cơ sở lý luận

cho việc xây dựng thực hiện nội dung, phương pháp phân cấp quản lý nhà nước

nói chung và phân cấp cho chính quyền phường nói riêng.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án

Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ cho thấy toàn cảnh thực trạng phân

cấp quản lý nhà nước ở Hà Nội, trong đó cụ thể về phân cấp cho chính quyền

phường, giúp các nhà lãnh đạo, quản lý có thêm căn cứ thực hiện nhiệm vụ xây

dựng chính quyền ở cơ sở và áp dụng cho phân cấp đối với chính quyền phường

ở Hà Nội trong tương lai.

Kết quả nghiên cứu giúp tìm kiếm các giải pháp có tính khả thi, phù hợp

để thực hiện phân cấp, đồng thời đề xuất các nhiệm vụ cụ thể về phân cấp cho

chính quyền phường ở Hà Nội, phân biệt rõ nhiệm vụ của chính quyền ở đô thị

và nông thôn, phù hợp Hiến pháp năm 2013.

7. Đóng góp mới của luận án

7.1. Về lý luận

Luận án góp phần hoàn thiện lý luận chung về phân cấp quản lý trong

hành chính nhà nước nói chung và cho chính quyền phường ở Hà Nội nói riêng.

Từ đó, góp phần hoàn thiện lý thuyết về tổ chức, hoạt động của chính quyền

địa phương ở Việt Nam hiện nay.

17

7.2. Về thực tiễn

Trong xu thế thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm tổ chức mô

hình chính quyền đô thị tại Thành phố Hà Nội, chính quyền địa phương ở các

phường thuộc quận, thị xã tại Thành phố Hà Nội là UBND phường. Luận án đề

xuất giải pháp về phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền phường ở Hà Nội

trên mặt nhiệm vụ về: Quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; Về đầu

tư, giao thông, hạ tầng đô thị; Về tài chính – ngân sách; Về giáo dục, y tế; Xây

dựng; Văn hóa, thể thao, du lịch và an toàn vệ sinh thực phẩm.

Các kiến nghị từ kết quả nghiên cứu, góp phần vào xây dựng quan điểm,

chính sách và pháp luật của Nhà nước về phân cấp, nhất là trong điều kiện tổ

chức mô hình chính quyền đô thị tại Thành phố Hà Nội, đáp ứng yêu cầu cải

cách hành chính, đổi mới tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương; đẩy

mạnh phân cấp quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực.

8. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án kết

cấu làm 4 chương sau:

Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án

Chương 2. Cơ sở khoa học về phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền

phường

Chương 3. Thực trạng phân cấp cho chính quyền phường tại Thành phố

Hà Nội

Chương 4. Quan điểm, giải pháp phân cấp cho chính quyền phường tại

Thành phố Hà Nội

Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

18

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ở nước ngoài

1.1.1. Công trình nghiên cứu về chính quyền cơ sở

Theo Ann O’M. Bowman và Richard C. Kearney trong tác phẩm “State

and Local Government”, 8th ed, Boston, MA: Wadsworth (2011), ở các quốc

gia có tổ chức khác nhau thì quan niệm về chính quyền địa phương cũng không

giống nhau. Chẳng hạn, ở các quốc gia tổ chức theo mô hình liên bang, chính

quyền địa phương được coi là các loại chính quyền dưới cấp bang và liên bang.

Trong khi đó, chính quyền địa phương ở các quốc gia đơn nhất (chẳng hạn Anh,

Pháp...) lại được coi là chính quyền dưới cấp chính quyền trung ương.

DaviesK trong tác phẩm “Local government Law”, London (1983) cho

rằng chính trong tình trạng hiện nay của việc xây dựng Nhà nước đòi hỏi sự

can thiệp ngày càng sâu rộng vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội của

các cơ quan nhà nước trung ương, xuất hiện mối quan hệ ngày càng trở nên

chặt chẽ giữa nhà nước và địa phương tự quản, nên các cơ quan tự quản của địa

phương có xu hướng trở thành một bộ phận của chính quyền hành pháp. Tuy

vậy, tính tự quản của chính quyền địa phương vẫn được nhiều nhà luật học bảo

vệ, chủ yếu là từ phía hệ thống pháp luật Anglô-Sắc xông, chính quyền địa

phương chỉ có thể thực hiện được chức năng của mình ở đâu, mà ở đó chính

quyền trung ương không có điều kiện thực hiện quyền lực của mình. Việc tăng

cường quyền lực nhà nước cho chính quyền nhà nước địa phương là một trong

những biện pháp giảm quyền lực nhà nước cấp trên, tức là chịu trách nhiệm của

quyền lực nhà nước.

Trong tác phẩm “German Law & Legal System”, Blackstone Press

Limited, London, tác giả Niel Foste (1993), đã giới thiệu phân tích, đánh

giá, luận giải các vấn đề về hệ thống pháp luật chung của nhều quốc gia

trên thế giới và tập trung và pháp luật của Đức. Hilaire Barnett (1996) trong

tác phẩm “Constitutional and Administrative Law”, Lawman (India) Private

Limited, New Delhi cũng nghiên cứu về luật hành chính và các vấn đề về nhà

19

nước trong mối quan hệ với các cấp chính quyền địa phương.

Nhóm tác giả Richard Batley and Gerry Stoker, trong tác phẩm “Local

Government in Europe: Trends and Development”, GBC - Macmillan Press Ltd

(1991), đã cung cấp một cái nhìn tổng quan về các vấn đề và phát triển trong

chính quyền địa phương và châu Âu trong phân tích sâu về thay đổi trạng thái,

chức năng, quản lý và kiểm soát của nó trong mỗi quốc gia.

Governmet Decentralization Reforms in Developing Countries (2003),

Institute for Iternational Cooperation Japan Iternational Cooperation Agency nghiên

cứu vấn đề phân quyền đối với địa phương ở các nước phát triển. Tác giả chỉ ra

những đặc điểm trong cách thức phân quyền của các nước và khuyến nghị cơ chế

phân quyền hiệu quả. Công trình nghiên cứu cho thấy các nước theo truyền thống

của Anh, tổ chức chính quyền địa phương có xu hướng coi các chính quyền tự

quản địa phương là các cơ quan cung cấp dịch vụ công và xác định các chức

năng, nguồn tài chính, ranh giới lãnh thổ cũng như sự kiểm soát của chính

quyền trung ương. Trong khi đó, các nước theo hệ thống Common Law lại có

khuynh hướng quy định các chức năng khác nhau cho chính quyền địa phương

và chính quyền trung ương về quy mô chính quyền tự quản và năng lực cung

cấp dịch vụ công.

1.1.2. Các công trình nghiên cứu về phân cấp, phân quyền cho chính

quyền cơ sở

Dù đa dạng và khác biệt, pháp luật về tổ chức hành chính của các quốc

gia trên thế giới đều dành phần quan tâm lớn đến các địa phương, điều chỉnh

mối quan hệ giữa trung ương - địa phương. Mức độ phân cấp, phân quyền có

khác biệt tùy thuộc vào những đặc thù kinh tế, địa lý, xã hội của từng quốc gia.

Ở nhiều nước, tự quản địa phương đã phát triển đến trình độ cao.

Martine Lombard, Gilles Dumont trong “Pháp luật hành chính của Cộng

hòa Pháp”, Nhà pháp luật Việt Pháp - Organisation Internationale de la

Francophone, Nxb Tư pháp, (2007), cho rằng tiêu chí được quản lý bởi cơ quan

20

dân cử là điều kiện bắt buộc để xác định tư cách đơn vị hành chính lãnh thổ.

Điều này đã được diễn giải bởi một học giả người Pháp rằng: “kể từ năm 1958,

phương thức quản lý thông qua Hội đồng dân cử đã trở thành căn cứ pháp lý

của cơ chế tự chủ của các đơn vị hành chính - lãnh thổ. Do đó tất cả các cơ quan

ra quyết định của các đơn vị hành chính lãnh thổ đều phải được bầu ra theo

phương thức phổ thông đầu phiếu”. Như vậy, các thẩm quyền của địa phương

được trao cho địa phương đó - mà nhân dân địa phương chính là người nắm

giữ. Nhân dân địa phương thực hiện thẩm quyền của mình bằng hình thức dân

chủ gián tiếp là bầu ra cơ quan đại diện. Hội đồng dân cử phải là cơ quan có

thẩm quyền quyết định các công việc của địa phương chứ không phải là một cơ

quan nhà nước do cấp trên cử xuống.Với cơ quan đại diện do dân bầu ra, địa

phương sẽ thành lập các cơ quan hành chính theo nhiều cách khác nhau: hoặc

bầu từ chính cơ quan đại diện, hoặc bầu trực tiếp từ dân, thậm chí có thể là thuê

người điều hành bộ máy hành chính v.v.. Cơ quan đại diện và cơ quan hành

chính sẽ thực hiện quyền tự quản địa phương, thay mặt cho dân địa phương

trong các quan hệ pháp luật cụ thể. Với cơ cấu hoàn chỉnh, địa phương có tư

cách pháp nhân độc lập, riêng biệt so với chính quyền trung ương và các địa

phương khác.

Trong tác phẩm “Decentralization” (Phân quyền), Ine Neven, Institute

Alterra - Green World Research, Wageningen, The Netherland đề cập tới vấn

đề phân cấp cho chính quyền địa phương về quản lý rừng. Tác giả cho rằng các

chính phủ đang mở ra cơ hội thú vị và sáng tạo để đạt mục tiêu quản lý và bảo

tồn đa dạng sinh học bằng cách phân cấp quyền hạn và trách nhiệm quản lý tài

nguyên ở nhiều nơi trên thế giới. Trong chính sách chung, tại cấp quốc gia,

nhiều nhất thuộc tính quan trọng đến chất lượng quản lý rừng bền vững là sự

hoà giải giữa sinh thái, lợi ích kinh tế và xã hội trong các khu rừng. Trong chính

sách cụ thể ở cấp khu vực và thành phố, nhất thuộc tính quan trọng đến chất

lượng quản lý rừng bền vững là việc xem xét điều kiện lâm sinh, kinh tế-xã hội

21

và chính trị ở các cấp độ. Các cấp địa phương - chính quyền địa phương, các tổ

chức phi chính phủ (NGO), cộng đồng địa phương và các ngành công nghiệp -

có lợi thế là gần gũi hơn với các khu rừng so với những người đại diện các bộ

máy quan liêu của chính phủ trung ương xây dựng chính sách ở cấp quốc gia.

Địa phương thường tiếp xúc trực tiếp với các bên liên quan cư trú hoặc làm

việc trong các khu rừng và những người phụ thuộc vào mức độ khác nhau từ

tất cả các lâm sản đa dạng, làm việc cùng nhau sẽ nâng cao năng lực quản lý

rừng bền vững.

1.2. Tổng quan các công trình nghiên cứu ở trong nước

Từ khi Đảng và Nhà nước ta khởi xướng công cuộc cải cách nền hành chính

đến nay, vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền cơ sở đã thu hút

được sự quan tâm đặc biệt của nhiều nhà nghiên cứu lý luận và hoạt động thực

tiễn thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Các công trình nghiên cứu về chính quyền

cơ sở, về phân cấp cho chính quyền cơ sở có sự đa dạng về thể loại, phong phú về

các khía cạnh nhìn nhận và lớn nhỏ khác nhau về cấp độ.

1.2.1. Các công trình nghiên cứu về hoàn thiện tổ chức, hoạt động của

chính quyền địa phương

Đề tài KX 04.08 “Cải cách chính quyền địa phương đáp ứng các yêu cầu

nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân” (2008), chủ nhiệm:

Lê Minh Thông. Đây là công trình lớn, thể hiện sự nghiên cứu sâu sắc và đã đề

xuất các giải pháp khả thi về đổi mới chính quyền địa phương ở nước ta hiện nay,

trong đó có CQĐT, chính quyền phường, UBND phường.

Cuốn sách: “Nhà nước và trách nhiệm của Nhà nước”, NXB Tư pháp,

(2006), của Nguyễn Đăng Dung, khẳng định cần đổi mới chính quyền địa

phương trong đó không tổ chức HĐND ở quận, phường và cải cách cơ quan

hành pháp ở quận, phường nhằm nâng cao trách nhiệm và đảm bảo sự quản lý,

điều hành thông suốt của các cơ quan hành pháp từ trung ương đến địa phương.

22

Ở đây, tác giả còn đưa ra mô hình tổ chức chính quyền ở thành phố lớn nhằm

xây dựng hệ thống tổ chức chính quyền ở đô thị phải khác với tổ chức chính

quyền ở nông thôn.

Các cuốn sách: “Về cải cách bộ máy nhà nước”; “Về cải cách bộ máy

hành chính nhà nước và xây dựng đội ngũ công chức nhà nước”; “Cải cách cơ

chế quản lý Nhà nước về kinh tế” của Học viện Hành chính Quốc gia, Nxb Sự

thật, (1994); “Mô hình tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền XHCN

Việt Nam” do Đào Trí Úc chủ biên, Nxb Tư pháp (2006); “Chính quyền địa

phương trong nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân” do Lê

Minh Thông chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, (2006); “Hoàn thiện mô hình

tổ chức và quản lý đô thị Hà Nội” do Nguyễn Minh Ngọc và Nguyễn Minh

Đoan chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, (2010), ít nhiều cũng đề cập đến

CQĐT, chính quyền phường, UBND phường.

Cuốn sách: “Chính quyền địa phương với việc đảm bảo thi hành Hiến

pháp và pháp luật”của Trương Đắc Linh, NXB Chính trị Quốc gia, (2003). Tác

giả đã phân tích những vấn đề lý luận, đánh giá thực trang và đề xuất một số

giải pháp nhằm tăng cường va trò của chính quyền địa hương trong thực thi

hiến pháp và pháp luật ở Việt Nam...

Luận án tiến sĩ luật học:“Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động

của chính quyền cấp xã ở Việt Nam hiện nay”, Hà Nội, 2007 của tác giả Đàm

Bích Hiên. Luận án tập trung nghiên cứu sâu về giác độ luật pháp dành cho

chính quyền cấp xã, có đề cập đến việc cần đổi mới hệ thống chính quyền

phường ở đô thị phải khác với chính quyền cấp xã ở nông thôn và tác giả cũng

có đề xuất ở các thành phố nên tổ chức hai cấp chính quyền, cấp thành phố có

HĐND và UBND, cấp phường chỉ nên thiết lập UBND, Chủ tịch UBND

phường do nhân dân trực tiếp bầu và UBND thành phố phê chuẩn.

Luận án tiến sĩ luật học: “Chính quyền địa phương với việc đảm bảo thi

23

hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương”, Hà Nội, 2002, của tác giả Trương

Đắc Linh đã đưa ra quan điểm về thẩm quyền của UBND phường, xã trong việc

ban hành các văn bản pháp quy.

Cuốn sách: “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chính quyền địa

phương ở Việt Nam hiện nay” của tập thể các nhà khoa học Viện Nhà nước và

pháp luật – Trung tâm khoa học và nghiên cứu nhân văn quốc gia, Nxb Chính

trị quốc gia, (2002). Đây là công trình thể hiện sự nghiên cứu sâu sắc của tập

thể các nhà khoa học đầu ngành về chính quyền địa phương ở nước ta hiện nay.

Trong công trình này đã đề cập đến việc xây dựng mô hình CQĐT, tuy nhiên

cũng ít đề cập đến chính quyền phường, UBND phường.

Trong tác phẩm: “Đổi mới nội dung hoạt động của các cấp chính quyền

địa phương trong kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế” do Nguyễn

Ký, Nguyễn Hữu Đức, Đinh Xuân Hà đồng chủ biên (Nxb Chính trị quốc gia,

2006) đã đề cập tới mối quan hệ giữa điền kiện kinh tế - xã hội của đơn vị hành

chính với chính quyền ở các cấp địa phương. Trong đó, các tác giả đã chỉ ra

được mối quan hệ biện chứng giữa chủ thể QLNN (chính quyền địa phương) với

đối tượng quản lý và đã đưa ra những kiến nghị về các mô hình chính quyền địa

phương trước sự tác động của điều kiện xã hội biến đổi không ngừng và hội nhập

kinh tế quốc tế của nước ta trong giai đoạn hiện nay.

Lê Minh Thông trong cuốn: “Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam”, (Nxb

Chính trị quốc gia, 2011) đã trình bày một cách có hệ thống, có luận cứ khoa học

và thực tiễn về chính quyền địa phương nói chung, về mô hình CQĐT nói riêng.

Tuy vậy tác giả vẫn chưa đề cập chi tiết đến mô hình chính quyền phường, trong

đó có UBND phường. Trong cuốn sách “Chính quyền địa phương nước Cộng

hoà dân chủ Đức”của Nguyễn Hữu Đức (chủ biên) đã giới thiệu mô hình chính

quyền địa phương của Đức, những đặc điểm nổi bật, giới thiệu và đánh giá cơ

24

cấu tổ chức và cơ chế vận hành nội bộ.

Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ: “Đổi mới tổ chức và hoạt động của

chính quyền cấp xã trong tiến trình cải cách hành chính”, Nxb Chính trị quốc

gia, (2002).

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: “Xây dựng và kiện toàn tổ chức chính

quyền cơ sở (xã) trong điều kiện cải cách hành chính” của Vụ Chính quyền địa

phương, Bộ Nội vụ, 2005.

1.2.2. Các công trình nghiên cứu về chính quyền đô thị

Cuốn sách: “Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước trong giai đoạn hiện

nay” của Bùi Xuân Đức, Nxb Tư pháp, (2004) đề cập đến đổi mới cấp hành

chính bên dưới cấp thành phố và mô hình được tổ chức linh hoạt, không nhất

thiết cấp nào cũng như nhau, có thể có một hoặc hai cấp dưới cấp thành phố, có

thể là quận hoặc có thể là phường, nhưng bộ máy hành chính phải gọn nhẹ. Tác

giả đã khẳng định cấp chính quyền ở đô thị không nhất thiết phải là ba cấp như

hiện nay. Tác giả đã thể hiện tư duy khoa học, cũng như quan điểm, nhận thức

phù hợp với thực tiễn hiện nay đòi hỏi bộ máy nhà nước cần phải đổi mới cơ

quan quyền lực, cũng như UBND ở địa phương.

Cuốn sách: “Vấn đề quản lý nhà nước ở đô thị và phương hướng đổi mới

mô hình tổ chức CQĐT trong cải cách hành chính địa phương: Lý luận và thực

tiễn”, của Nguyễn Hữu Trị, Nxb Chính trị quốc gia, (1998). Tác giả đã xây

dựng được mô hình CQĐT có luận cứ khoa học và thực tiễn, cũng như đã đưa

được một số định hướng đổi mới mô hình CQĐT có tính thuyết phục cao. Tuy

nhiên trong cuốn sách này, tác giả vẫn chưa đề cập đến chính quyền phường

nói chung, UBND phường nói riêng một cách trực tiếp và cụ thể.

Đề tài khoa học cấp nhà nước KX02.14 “Sự phát triển xã hội và quản lý

phát triển xã hội ở các đô thị nước ta hiện nay – thực trạng và giải pháp”do

Nguyễn Hữu Khiển (2014) làm chủ nhiệm nghiên cứu về đời sống xã hội đô

25

thị và các phương pháp quản lý nhà nước về đô thị.

Luận án tiến sĩ luật học: “Đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan hành

chính nhà nước phường trong điều kiện cải cách hành chính ở nước ta”, Phan

Văn Hùng, (2012), đã làm rõ về những yêu cầu cần đổi mới và đưa ra các giải

pháp để đổi mới tổ chức, hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước phường

ở nước ta, trong những năm đầu Chính phủ đang tiến hành cải cách hành chính

mạnh mẽ.

Ngoài ra, liên quan đến CQĐT, chính quyền phường, UBND phường còn

có một số nhà khoa học quan tâm nghiên cứu như: Nguyễn Quang Ngọc, Đoàn

Minh Huấn, Bùi Xuân Dũng (đồng chủ biên): “Hoàn thiện mô hình tổ chức và

quản lý đô thị Hà Nội”, Nxb Chính trị quốc gia, (2010); Trần Thế Nhuận, Võ

Kim Sơn: “Quản lý hành chính đô thị nước ta những vấn đề bức xúc”, trong

sách: “Cải cách hành chính địa phương - Lý luận và thực tiễn”, (Nxb Chính trị

quốc gia, 1998); Nguyễn Văn Thảo: “Các giải pháp thúc đẩy cải cách hành

chính những năm đầu thế kỷ XXI”, Nxb Chính trị quốc gia, (1998); Nguyễn

Ninh Thực: “Tổ chức lại đơn vị hành chính và bộ máy hành CQĐT tại Việt

Nam”, Hội thảo Cơ sở khoa học tổ chức hợp lý chính quyền địa phương ở Việt

Nam hiện nay (2008); Vũ Thư: “Đổi mới mô hình tổ chức CQĐT”, trong sách

“Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện

nay” do Lê Minh Thông, Nguyễn Như Phát đồng chủ biên, Nxb Chính trị quốc

gia, (2002); Dương Quang Tung: “Bàn về mô hình tổ chức chính quyền địa

phương”, trong sách “Một số vấn đề hoàn thiện tổ chức và hoạt động bộ máy

nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, chủ biên Lê Minh Thông, Nxb

Khoa học xã hội, (2001); Đào Trí Úc: “Mô hình tổ chức và hoạt động của nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các giải pháp tiếp tục đẩy mạnh

cải cách hành chính ở nước ta”, Nxb Chính trị quốc gia, (2006); Viện Khoa học

tổ chức nhà nước: “Về đổi mới tổ chức và hoạt động của CQĐT”, Hội thảo khoa

học “Quản lý phát triển đô thị - Kinh nghiệm của CHLB Đức và thực tiễn Việt

26

Nam”, 2007; Nguyễn Thế Vịnh, Phan Văn Hùng (đồng chủ biên): “Giải đáp chế

độ, chính sách đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn”, Nxb Chính trị

quốc gia, (2010).

Các tạp chí chuyên ngành liên quan đến vấn đề cải cách chính quyền

phường, UBND phường như: “Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp

xã, phường” của Thái Vĩnh Thắng, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 4/2003;

Nguyễn Hữu Tám “Đổi mới bộ máy, nâng cao hiệu lực hành chính cấp xã: Suy

nghĩ và kiến nghị”, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số 4/2006; Vũ Đức Đán “Kiện

toàn tổ chức bộ máy chính quyền các cấp ở thành phố trực thuộc Trung ương”,

Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 3/1997; Lê Minh Thông “Nhà nước quản lý ở cấp

phường”, Tạp chí Luật học, 1986; Phan Văn Hùng, “Về Tổ chức và hoạt động của

Ủy ban nhân dân phường khi thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân

dân”, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số 4/2009...

Những bài viết, công trình ở cấp này đã đề cập một cách khái quát đến

những vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động của CQĐT, cũng như

đã đưa ra các nguyên tắc cơ bản cải cách CQĐT, nhưng chưa nghiên cứu sâu

đến vấn đề phân cấp giữa chính quyền thành phố và chính quyền phường.

Nghiên cứu các công trình nêu trên đã cho chúng ta thấy rằng, mặc dù

đã có nhiều công trình đề cập đến vấn đề hoàn thiện pháp luật, đến tổ chức và

hoạt động của chính quyền địa phương nói chung, CQĐT nói riêng. Nhưng cho

đến nay các công trình nghiên cứu về chính quyền phường, phân cấp cho chính

quyền phường là chưa tồn tại

Cuốn sách: “Cải cách chính quyền địa phương, lý luận và thực tiễn” của

tập thể tác giả Tô Tử Hạ, Nguyễn Hữu Trị, Nguyễn Hữu Đức đồng chủ biên,

Nxb Chính trị quốc gia, (1998), công trình đã nêu ra những cách thức cải cách

hành chính chính quyền địa phương ở nước ta, trong đó có chính quyền phường

về tổ chức bộ máy, thể chế, tài chính, ngân sách, cán bộ…Tuy nhiên, nội dung

có liên quan đến chính quyền phường còn ít, chưa đề cập sâu đến những nội

27

dung dành cho chính quyền phường ở đô thị.

Đặc điểm, tính chất của QLNN tại đô thị được chi phối một cách khách

quan bởi đặc điểm, tính chất của đô thị. Mỗi đô thị dù lớn hay nhỏ đều chỉ là

một đơn vị hành chính - lãnh thổ thống nhất. Các quận, phường, trong nội bộ

một đô thị thực chất chỉ là các đơn vị hành chính thuần tuý, có tính quy ước để

thực thi công việc quản lý hành chính ở đô thị. Phát triển đô thị đòi hỏi có sự

phân cấp, uỷ quyền giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương,

bộ máy chính quyền chuyên nghiệp, gọn nhẹ, trong sạch, vững mạnh, minh

bạch; khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh; sự tham gia của người dân, các

tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức phi chính phủ vào quản lý đô thị ngày

càng lớn. Ở đô thị có khối dân cư tập trung cao với nhiều thành phần, tầng lớp

khác nhau với các hoạt động đa dạng, có nhu cầu cao về nhiều mặt. Điều này

dẫn đến việc quản lý con người ở đô thị hết sức phức tạp so với nông thôn.Theo

đó, chính quyền phải quan tâm giải quyết nhiều vấn đề bức xúc hàng ngày như

cấp, thoát nước, rác thải sinh hoạt, vấn đề nhà ở, giao thông, ô nhiễm môi trường

sống, quản lý dân cư…

Các bài viết, công trình đề cập trên đã nghiên cứu bộ máy nhà nước nói

chung và chính quyền địa phương nói riêng trong đó có chính quyền xã,

phường, thị trấn. Nhưng về cơ bản, các công trình trên đây mới chỉ đề cập một

cách khái quát đến việc xây dựng chính quyền địa phương. Cho đến nay vẫn

chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện về vấn đề phân cấp cho

chính quyền phường ở đô thị trong điều kiện đổi mới ở nước ta hiện nay.

1.2.3. Các công trình nghiên cứu về phân cấp và phân cấp quản lý nhà

nước cho chính quyền phường

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: “Nghiên cứu mối quan hệ giữa chính

quyền thành phố với chính quyền quận, phường trong điều kiện không tổ chức

HĐND quận và phường” (2009) của chủ nhiệm Nguyễn Hữu Hải. Đề tài đặt ra

bối cảnh tổ chức chính quyền cơ sở có sự thay đổi về cơ cấu, nhiệm vụ, chức

28

năng là không tổ chức HĐND quận, phường, theo đó, cần thúc đẩy các mối

quan hệ giữa chính quyền thành phố với chính quyền quận, phường, nhất là mối

quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước cấp trên và cơ quan hành chính nhà

nước cấp dưới ở địa phương.

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: “Nghiên cứu mô hình chính quyền

một cấp ở các đô thị Việt Nam” (2011) của chủ nhiệm Nguyễn Hữu Hải. Ở góc

độ nghiên cứu này, tác giả nhìn nhận về các đặc điểm, đặc thù của đô thị, các

hoạt động của các cấp chính quyền ở đô thị để từ đó đề xuất mô hình chính

quyền một cấp ở đô thị của Việt Nam hiện nay.

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: “Cơ sở khoa học hoàn thiện cơ chế

phân cấp quản lý nhà nước đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính nhà nước”

(2014) của chủ nhiệm Nguyễn Minh Phương. Đề tài này phân tích sâu về cơ

chế phân cấp quản lý nhà nước trong bối cảnh hiện tại, làm rõ những vấn đề

thực tiễn khó khăn, vướng mắc khi thực hiện nhiệm vụ và nhất là đề xuất các

nội dung cơ bản cần được tiến hành phân cấp giữa cơ quan nhà nước ở trung

ương cho chính quyền địa phương nhằm tạo điều kiện, cơ hội để chính quyền

địa phương phát triển, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính nhà nước của nước

ta hiện nay.

Luận án tiến sĩ luật học: “Phân cấp quản lý và địa vị pháp lý của chính

quyền địa phương trong quá trình cải cách bộ máy nhà nước ở Việt Nam” của

Trần Thị Diệu Oanh (2012), Học viện Khoa học xã hội, đã đi sâu phân tích về

vấn đề phân cấp trong quản lý và đề xuất các giải pháp cụ thể về phân cấp quản

lý, địa vị pháp lý của chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay.

Luận án tiến sĩ hành chính “Phân cấp quản lý nhân sự hành chính nhà

nước ở Việt Nam” (2010) của Hoàng Mai, Học viện Hành chính, Hà Nội đã đi

sâu phân tích về vấn đề phân cấp trong quản lý nhân sự hành chính, một mảng

vấn đề quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ của cơ quan hành chính nhà nước.

Luận án cũng đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường phân cấp trong quản lý

29

nhân sự, đáp ứng yêu cầu đổi mới của đất nước.

Phạm Hồng Thái, Nguyễn Đăng Dung, Nguyễn Ngọc Chí (2011), Phân

cấp quản lý nhà nước, NXB Công an nhân dân, Hà Nội đã dành nhiều nội dung

phân tích về những vấn đề lý luận về phân cấp và phân cấp trong quản lý nhà

nước. Các tác giả chỉ ra những vấn đề còn khó khăn, vướng mắc trong phân cấp

quản lý nhà nước, có các đề xuất cụ thể để thực hiện phân cấp quản lý nhà nước

ở trung ương và địa phương.

Võ Kim Sơn (2004), “Phân cấp trong quản lý nhà nước – lý luận và thực

tiễn”, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội đã phân tích về những vấn đề lý luận của

phân cấp, thực tiễn chính sách phân cấp và thực hiện phân cấp trong quản lý

nhà nước ở nước ta hiện nay. Tác giả đặt ra nhiều vấn đề cần thiết tiến hành

phân cấp trong quản lý nhà nước của nước ta.

Một số công trình nghiên cứu được đăng tải trên các tạp chí chuyên

ngành như: Vũ Thư (2009) “Mấy vấn đề về lý luận và thực tiễn về phân cấp

quản lý cho chính quyền địa phương ở nước ta”, tạp chí Khoa học xã hội Việt

Nam 4 (35), trang 51-60.

Nguyễn Hữu Hải: “Quan hệ điều hành hành chính trong quản lý nhà

nước” (2007), tạp chí Quản lý nhà nước; “Về chế độ thủ trưởng trong mô hình

chính quyền đô thị” (2013), tạp chí Lý luận chính trị; “Tự quản địa phương ở

một số quốc gia và kinh nghiệm cho Việt Nam” (2018), Tạp chí tổ chức nhà

nước (Trịnh Thị Thủy; Nguyễn Hữu Hải).

Nguyễn Huyền Hạnh: “Một số vấn đề về phân cấp quản lý nhà nước ở

Cộng hòa liên bang Đức” (2001), Tạp chí Tổ chức nhà nước (8), tr 26-28; “Một

số vấn đề về phân cấp quản lý ở Cộng hòa Pháp” Tạp chí Tổ chức nhà nước

(9), tr 45-49.

Các công trình nghiên cứu về phân cấp cho chính quyền phường hiện

nay khá ít, gần như chưa có công trình lớn về mặt khoa học như đề tài cấp nhà

nước, đề tài cấp Bộ về phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền phường.

30

Qua quá trình tìm tòi, nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy rằng, đây là vấn đề cần

nghiên cứu, nhất là về vấn đề phân cấp quản lý nhà nước đối với chính quyền

phường ở Hà Nội trước những đòi hỏi của xã hội, người dân về xây dựng nhà

nước minh bạch trong cung cấp thông tin, hiệu quả trong hoạt động quản lý.

1.3. Đánh giá các công trình nghiên cứu và các nội dung cần tiếp tục

nghiên cứu của luận án

Đối với các công trình nghiên cứu trong nước và ở nước ngoài về chính

quyền cơ sở, chính quyền địa phương rất phong phú, đa dạng về thể loại, có độ

dày kinh nghiệm của các nhà khoa học, kết tinh nhiều giá trị lớn và có thể kế thừa

tại Luận án về các quan điểm, đánh giá, nhận định.

1.3.1. Đánh giá các công trình nghiên cứu

1.3.1.1. Các công trình nghiên cứu về chính quyền cơ sở

Qua các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy chính quyền

ở cơ sở chỉ có thể thực hiện được chức năng của mình ở nơi mà chính quyền

trung ương không có đầy đủ điều kiện thực hiện quyền lực tập trung của mình.

Việc tăng cường quyền lực nhà nước cho chính quyền nhà nước ở cơ sở là một

trong những biện pháp giảm tính tập quyền nhà nước cấp trên. Quá trình này

góp phần hình thành nên nhiều mô hình tổ chức chính quyền địa phương khác

nhau.

Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng mô hình tổ chức và hoạt động của chính

quyền ở cơ sở rất đa dạng do việc tổ chức và hoạt động này phụ thuộc vào rất

nhiều yếu tố, như điều kiện lịch sử, văn hoá xã hội, tự nhiên cũng như những

quan điểm nhận thức của chính quyền nhà nước cấp trên. Đức, Camerun,

Senegan chia các cấp chính quyền địa phương thành 4 cấp; Italia, Ấn độ 3 cấp;

Đan Mạch, Phần Lan, Nhật Bản, Costa-Rica hai cấp... Thậm chí có nhà nước

tổ chức chính quyền địa phương 5 cấp như của Pháp.

Mối quan hệ giữa các cấp chính quyền với nhau trong hệ thống chính

quyền địa phương nhiều cấp được hình thành dần dần do các điều kiện lịch sử,

31

văn hoá, địa lý và truyền thống quyết định. Sau đó được nhà nước quy định

thành các quy phạm của pháp luật. Ví dụ sự tích cực của các tác động đến đời

sống của nhân dân địa phương của đại diện chính quyền cấp trên về đóng trên

địa bàn địa phương là một trong những đặc thù của mô hình Châu Âu lục địa.

Ở các nước đang phát triển thì tình trạng trực thuộc và chịu sự kiểm tra của

chính quyền cấp trên do người đại diện thực hiện càng được thực hiện một cách

chặt chẽ hơn.

1.3.1.2. Các công trình nghiên cứu về chính quyền ở đô thị, về phân cấp,

phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền phường

Các công trình nghiên cứu đã cho thấy vị trí, vai trò, tầm quan trọng của

chính quyền cấp cơ sở và sự cận thiết phải đổi mới tổ chức và hoạt động của

cấp cơ sở. Đây là nguồn tư liệu quí giá để luận án kế thừa một số khía cạnh lý

luận về chính quyền phường để hệ thống hóa khung lý luận.

Các nghiên cứu chỉ ra rằng cấp thấp nhất của chính quyền địa phương

thường được tổ chức ở những cộng đồng cư dân thành phố, làng, thôn. Cấp đơn

vị hành chính trung gian thường được tổ chức ở trên các cấp cơ sở (cấp thấp

nhất), và dưới cấp trung ương. Đó là các tỉnh, vùng như ở Nhật, Italia... và

không phải ở tất cả các cấp chính quyền đều phải tổ chức cơ quan đại diện.

Trong bối cảnh nước ta, Luật tổ chức CQĐP đã thể chế hóa chính thức

mô hình chính quyền địa phương ở đô thị trong đó có chính quyền phường. Từ

đó, có thể thấy quản lý đô thị đòi hỏi mang tính tập trung, thống nhất cao nhằm

bảo đảm sự chỉ đạo, điều hành thống nhất từ một đầu mối. Chính quyền phường

được tổ chức tương ứng với chức năng, nhiệm vụ, phạm vi quản lý được phân

công. Chính quyền phường trong kế hoạch thực hiện nhiệm vụ hàng năm đều có

chiến lược, quy hoạch thống nhất, mang tính khoa học thể hiện sự phối hợp chặt

chẽ, nhịp nhàng trong các hoạt động.

Những đặc trưng trong đời sống sinh hoạt của người dân, các yếu tố kinh

tế, xã hội khác đòi hỏi quản lý nhà nước ở đô thị cần chủ động, linh hoạt. Ngoài

32

ra, chính quyền phường ở đô thị phải xây dựng được một cơ chế điều chỉnh

hoạt động quản lý vừa ổn định, vừa chủ động, kịp thời ứng phó có hiệu quả với

mọi diễn biến của tình hình trên các mặt chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh

nhằm bảo đảm cho các cơ quan nhà nước có căn cứ để giải quyết kịp thời và hiệu

quả các tình huống nảy sinh trong thực tế, tránh rơi vào tình trạng bị động, lúng

túng, thậm chí bất động, khi sự việc xảy ra…

Một số công trình trong nước đề cập tới những bất cập của cơ chế lãnh

đạo và ra quyết định tại chính quyền địa phương dẫn tới những đổi mới theo

Hiến pháp 2013 và Luật tổ chức CQĐP năm 2015. Cùng với xu hướng hội nhập

quốc tế sau hơn 30 năm đổi mới, quá trình đô thị hóa ở nước ta đã và đang diễn

ra nhanh chóng dẫn đến nhiều khác biệt về hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội,

an ninh giữa đô thị và nông thôn. Tuy nhiên, mô hình tổ chức chính quyền địa

phương ở nước ta hiện nay theo Hiến pháp 2013 và Luật tổ chức CQĐP về cơ

bản giống nhau, đều tổ chức 3 cấp chính quyền (cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã)

không còn phù hợp với đặc điểm và yêu cầu quản lý của đơn vị hành chính ở

đô thị trong điều kiện mới. Nhiều vấn đề cấp thiết của đô thị như quy hoạch,

kiến trúc, xây dựng hạ tầng đô thị, thực hiện dự án dân sinh, xử lý ô nhiễm môi

trường, ùn tắc giao thông, trật tự an toàn xã hội,… không được giải quyết kịp

thời và cũng chưa phù hợp với nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và quản

lý theo lãnh thổ. Trong đó đô thị do kết cấu hạ tầng thống nhất đòi hỏi phải

quản lý theo ngành là chủ yếu khác với nông thôn quản lý theo lãnh thổ là chủ

yếu.

Vấn đề về phân cấp giữa các cấp chính quyền cũng là vấn đề được nhiều

nhà nghiên cứu, học giả quan tâm. Có các nghiên cứu sâu về khái niệm phân

cấp, đặc điểm, nguyên tắc trong phân cấp, đây là những tư liệu quý giá để tác

giả có thể kế thừa trong nghiên cứu của Luận án về phân cấp. Một vài tác giả

đề xuất về định hướng, nguyên tắc phân cấp trong quản lý nhà nước, phân cấp

thực hiện nhiệm vụ giữa trung ương và địa phương nhằm tăng cường hiệu lực,

33

hiệu quả hoạt động của nhà nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập, cải cách hành

chính của quốc gia. Đây cũng là tư liệu quý để Luận án có thể kế thừa phần lý

luận về vấn đề phân cấp quản lý nhà nước tại Chương 2.

1.3.2. Các nội dung tập trung nghiên cứu của luận án

Thứ nhất, những vấn đề lý luận về phân cấp cho chính quyền phường

Các công trình nghiên cứu có đề cập tới vấn đề phân cấp, song phân cấp

cho chính quyền phường, đặc biệt là phân cấp cho chính quyền phường ở Thành

phố Hà Nội còn khoảng trống trong nghiên cứu. Cụ thể là:

Khái niệm về phân cấp quản lý nhà nước; Vấn đề liên quan đến nội dung,

hình thức phân cấp cho chính quyền phường.

Chính quyền phường và vị trí, vai trò, đặc điểm của chính quyền phường

Nội dung, hình thức, phương pháp, nguyên tắc, điều kiện đảm bảo thực

hiện phân cấp cho chính quyền phường

Thứ hai, về thực trạng phân cấp quản lý nhà nước giữa các cấp chính

quyền thành phố ở Hà Nội và phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền

phường

Chưa có nhiều công trình nghiên cứu về chính quyền phường ở Hà Nội

với tính chất đặc thù về quản lý đô thị tại Thủ đô và là trung tâm kinh tế, chính

trị, xã hội của cả nước.

Vấn đề đặt ra là chưa có công trình nghiên cứu về thực trạng thực hiện

phân cấp quản lý nhà nước của chính quyền phường ở Hà Nội. Chưa có thực

trạng đánh giá về vấn đề phân cấp của chính quyền cấp trên cho chính quyền

phường ở Hà Nội. Và trên thực tế, chính quyền phường ở Hà Nội có thực hiện

các nhiệm vụ phân cấp không và chính quyền cấp trên có phân cấp nhiệm vụ

cho chính quyền phường không. Đây là khoảng trống trong nghiên cứu và là

vấn đề nghiên cứu mới, cần đánh giá trên thực tiễn lẫn điều tra xã hội học từ

các phường của TP Hà Nội.

Thứ ba, nghiên cứu đề xuất giải pháp, thực hiện phân cấp cho chính

34

quyền phường ở thành phố Hà Nội

Trên cơ sở các nội dung nghiên cứu lý luận về phân cấp, thực trạng phân

cấp quản lý nhà nước đối với chính quyền phường và thực trạng thực hiện phân

cấp của chính quyền phường, luận án tập trung đề xuất giải pháp kiến nghị về

thực hiện phân cấp cho chính quyền phường ở Thành phố Hà Nội. Các vấn đề

cần đề xuất như nội dung, hình thức, cách thức thực hiện phân cấp quản lý nhà

nước cho quyền phường trên các mặt khác nhau, phù hợp chức năng, nhiệm vụ,

đặc thù trong quản lý đô thị của chính quyền phường tại Thành phố Hà Nội.

Thứ ba, tập trung nghiên cứu các điều kiện đảm bảo việc thực hiện phân

cấp quản lý nhà nước cho chính quyền phường ở Thành phố Hà Nội

Để thực hiện tốt, có hiệu quả trên thực tế về mô hình chính quyền và các

nội dung, chính sách, cách thức thực hiện phân cấp quản lý nhà nước cho chính

quyền phường tại Thành phố Hà Nội cần nghiên cứu làm rõ các điều kiện đảm

bảo cho việc thực hiện phân cấp.

Các điều kiện được đảm bảo: Cơ sở vật chất, nguồn lực, nguồn nhân lực;

điều kiện về tự nhiên, kinh tế, xã hội; về vị trí địa lý, về phát triển ngành nghề

ở đô thị.

Một số điều kiện đảm bảo khác như việc tham gia của tổ chức, người dân

vào các hoạt động của cơ quan công quyền, khuyến khích nguồn tài chính từ

cộng đồng, khuyến khích đóng góp về vật chất và lao động.

Sự kết nối liên thông giữa chính quyền phường và tổ chức chính trị - xã

hội trên địa bàn để thực hiện nhiệm vụ thể hiện hiệu quả trong hoạt động của

chính quyền phường và gia tăng mối quan hệ bền chặt giữa các cơ quan trong

hệ thống chính trị.

Tiểu kết Chương 1

Sử dụng phương pháp nghiên cứu tổng hợp, phân tích, Chương tổng quan

đã tổng hợp tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án trên các phương

35

diện từ phạm vi nghiên cứu rộng đến hẹp. Tổng quan theo hướng các công trình

nghiên cứu ở nước ngoài và các công trình nghiên cứu ở trong nước để từ đó

chắt lọc thông tin, làm tư liệu kế thừa nghiên cứu cho luận án.

Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài về chính quyền cơ sở và phân

cấp cho chính quyền cơ sở có sự đa dạng, phong phú về góc nhìn. Bởi ở một số

quốc gia trên thế giới đã thực hiện nội dung phân cấp từ rất lâu, chính quyền cơ

sở được quyết định những nội dung, nhiệm vụ được phân cấp, chịu trách nhiệm

trước pháp luật về các vấn đề do chính quyền cơ sở quyết định.

Các công trình nghiên cứu ở trong nước được tách thành các phạm vi

nhỏ như: Các công trình nghiên cứu vấn đề tổ chức, hoạt động của chính quyền

địa phương; Về chính quyền đô thị; Về chính quyền cơ sở, chính quyền phường

và phân cấp, phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền phường.

Từ những công trình nghiên cứu được tiếp cận, rút ra các vấn đề đã được

nghiên cứu trước đề cập, nêu lên các nội dung tiếp tục nghiên cứu.

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu của các tác giả lớn trong và ngoài

nước có độ phong phú về nội dung và mức độ về quy mô. Mỗi công trình có

mục đích nghiên cứu và đưa ra kết luận riêng. Luận án có phân tích về những

vấn đề kế thừa như lý luận về phân cấp, phân cấp quản lý nhà nước, những đặc

điểm của phân cấp.

Luận án đưa ra những vấn đề tiếp tục nghiên cứu gồm: những vấn đề lý

luận về chính quyền phường; phân cấp quản lý nhà nước giữa các cấp chính

quyền thành phố ở Hà Nội; đề xuất giải pháp, kiến nghị về phân cấp cho chính

quyền phường phù hợp với Thành phố Hà Nội; các điều kiện đảm bảo cho việc

phân cấp quản lý nhà nước đối với chính quyền địa phương nói chung, chính

quyền cơ sở nói riêng.

Chương 2. CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ PHÂN CẤP

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CHO CHÍNH QUYỀN PHƯỜNG

2.1. Khái niệm, sự cần thiết phân cấp quản lý nhà nước

36

2.1.1. Phân cấp trong quản lý nhà nước

2.1.1.1. Khái niệm có liên quan

- Phân cấp

Thuật ngữ phân cấp được nhiều quốc gia sử dụng và được định nghĩa,

hiểu từ nhiều góc độ khác nhau.

Theo Từ điển Tiếng Việt, phân cấp được hiểu là: “phân ra, chia thành các

cấp, các hạng”, từ “phân” có nghĩa là “chia ra từng phần, từng loại, từng hạng”,

từ “cấp” nghĩa là “loại, hạng cao thấp, thứ bậc nói chung”, phân cấp là: “Chia

một đối tượng nào đó ra theo loại, hạng cao thấp và có thứ bậc” [55]

Theo nghiên cứu của Tô Tử Hạ, phân cấp được hiểu là: “sự chuyển giao

quyền lực quản lý xuống các cấp dưới để thực hiện cho sát dân và sát tình hình

thực tiễn, đồng thời để giảm bớt khối lượng cho cấp trên khỏi phải trực tiếp giải

quyết những việc sự vụ. Sự phân cấp thực hiện cụ thể cho từng lĩnh vực, từng

cấp. Việc phân cấp phải gắn trách nhiệm với quyền hạn rõ ràng và phải bảo đảm

tính thống nhất từ Trung ương đến cơ sở” [54, Tr.90]. Cách tiếp cận này cho

thấy, phân cấp là sự chuyển giao quyền lực quản lý xuống cấp dưới, để giảm

tải nhiệm vụ cấp trên, đồng thời phát huy tính chủ động của cấp dưới trong thực

hiện nhiệm vụ.

Tại Luật tổ chức CQĐP năm 2015, mặc dù không có định nghĩa về phân

cấp tại điều khoản giải thích từ ngữ, song phân cấp được quy định là việc: “cơ

quan nhà nước ở trung ương và địa phương được quyền phân cấp cho chính

quyền địa phương hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện một cách liên tục,

thường xuyên một hoặc một số nhiệm vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền của

mình” [34, tr.17]. Quy định tại văn bản Luật này cho thấy, phân cấp chính là sự

chuyển giao nhiệm vụ (vốn là thuộc của chính quyền cấp trên) cho chính quyền

cấp dưới, hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện. Phân cấp có thể thực hiện

thường xuyên, liên tục, nhưng cũng có thể dừng lại không thực hiện phân cấp

khi hiệu quả thực hiện của chính quyền cấp dưới, hoặc cơ quan cấp dưới không

37

cao.

Theo phạm vi nghiên cứu của Luận án này, phân cấp được hiểu là sự

chuyển giao nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan nhà nước ở cấp trên cho cơ quan

nhà nước ở cấp dưới để thực hiện một hoặc một số nhiệm vụ, phục vụ nhiệm

vụ quản lý hành chính nhà nước. Phân cấp ở phạm vi này được hiểu là phân

cấp để quản lý, trong hoạt động của cơ quan nhà nước, trong bộ máy nhà nước

từ trung ương, đến địa phương và giữa các cơ quan nhà nước ở địa phương với

nhau.

Phân cấp quản lý nhà nước

Ở Việt Nam, phân cấp quản lý nhà nước theo quy định của pháp luật,

thường được dùng để chỉ việc cơ quan nhà nước cấp trên phân công, chuyển

giao cho cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện một số thẩm quyền nhất định mà

trước thời điểm có quyết định phân cấp thì thẩm quyền này vốn vẫn do cấp trên

thực hiện. Các đạo luật về tổ chức HĐND và UBND năm 1983, năm 1989, năm

1994 và Luật năm 2003 cũng sử dụng khái niệm phân cấp để hàm ý việc chuyển

giao thẩm quyền của trung ương cho địa phương và giữa các cấp chính quyền

địa phương với nhau.

Theo Nguyễn Cửu Việt và Trương Đắc Linh, phân cấp quản lý (hành

chính) là “sự phân chia các đơn vị hành chính - lãnh thổ và phân công thẩm

quyền hợp lý giữa các cấp chính quyền tương ứng cho phù hợp với chức năng,

nhiệm vụ và đặc điểm của mỗi cấp để nhằm thực thi hiệu quả hơn quyền lực

nhà nước”. Theo từ điển Luật học, và trong điều kiện hiện nay ở nước ta, phân

cấp quản lý được hiểu là “Chuyển giao nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản

lý nhà nước cấp trên cho cơ quan quản lý nhà nước cấp dưới thực hiện thường

xuyên, lâu dài, ổn định trên cơ sở pháp luật… thực chất của phân cấp quản lý

hành chính là xác định lại sự phân chia thẩm quyền theo các cấp hành chính

phù hợp với yêu cầu của tình hình mới.

Theo nhiều nhà nghiên cứu và công trình nghiên cứu được tổng hợp

38

chung, phân cấp quản lý nhà nước được hiểu là phân công chức năng, phân

định nhiệm vụ, quyền hạn cho từng cấp hành chính, là việc cấp trên chuyển

giao những nhiệm vụ, quyền hạn cho cấp dưới thực hiện một cách thường

xuyên, liên tục bằng phương thức ban hành văn bản quy phạm pháp luật, hoặc

bằng cách chuyển cho cấp dưới thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn bằng các quyết

định. Quá trình phân cấp có sự chuyển giao quyền quyết định trong hoạt động

quản lý hành chính nhà nước từ chính phủ trung ương, chính quyền cấp trên

xuống cho các cơ quan cấp dưới trong hệ thống hành chính nhà nước

Theo đó, khái niệm phân cấp quản lý nhà nước trong Luận án này được

xây dựng và quan niệm là: “Cơ quan nhà nước cấp trên chuyển giao một số

quyền hạn, nhiệm vụ cho cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện các nhiệm vụ

thuộc thẩm quyền của cơ quan nhà nước cấp trên, thực hiện một cách thường

xuyên, liên tục hoặc theo từng thời điểm và có kiểm tra, giám sát việc thực hiện

nhiệm vụ của cơ quan được phân cấp nhằm tăng cường chất lượng, hiệu lực và

hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước”. Việc phân cấp quản lý nhà nước

chỉ diễn ra trong nội bộ các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương,

giữa các cơ quan của các cấp chính quyền địa phương với nhau, có nghĩa là chỉ

ở khu vực công, không thực hiện nghiên cứu về phân cấp ở khu vực tư, khu vực

doanh nghiệp hoặc tổ chức, cá nhân nằm ngoài khu vực công.

2.1.1.2. Các cách tiếp cận phân cấp quản lý nhà nước

Thứ nhất, tiếp cận phân cấp dưới góc độ chính trị

Vấn đề phân cấp ở Việt Nam đã được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn

những năm gần đây. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI đã nêu yêu cầu: “Thực

hiện phân cấp hợp lý cho chính quyền địa phương đi đôi với nâng cao chất

lượng quy hoạch và tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát của trung ương,

gắn quyền hạn với trách nhiệm được giao”. Ngày 30/6/2004 Chính phủ đã ban

hành Nghị quyết số 08/2004/NQ-CP “Về tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý

nhà nước giữa Chính phủ và chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung

39

ương”, tập trung vào phân cấp nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm giữa Chính

phủ và chính quyền cấp tỉnh trên các lĩnh vực chủ yếu: quản lý quy hoạch, kế

hoạch, đầu tư; ngân sách nhà nước; đất đai, tài nguyên, doanh nghiệp nhà nước;

hoạt động sự nghiệp, dịch vụ công; tổ chức bộ máy, cán bộ, công chức. Sau đó,

nhiều Nghị định quy định về quản lý ngành, lĩnh vực, quy định về tổ chức, hoạt

động của bộ máy hành chính để thực hiện phân cấp quản lý.

Nghị quyết số 21/NQ-CP của Chính phủ ngày 21/3/2016 về phân cấp

quản lý nhà nước giữa Chính phủ và UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung

ương đặt ra mục tiêu phân cấp là: “Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà

nước đối với ngành, lĩnh vực trên cơ sở thực hiện phân cấp hợp lý, rõ ràng về

nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm giữa Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,

các Bộ, cơ quan ngang Bộ và UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,

bảo đảm sự quản lý thống nhất của Chính phủ, phát huy tính chủ động, trách

nhiệm, tinh thần sáng tạo của chính quyền địa phương”.

Thứ hai, tiếp cận phân cấp dưới giác độ kinh tế và quản lý

Theo quan điểm của nhiều nhà khoa học Việt Nam thì phân cấp quản lý

được hiểu là “Chuyển giao nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước

cấp trên cho cơ quan quản lý nhà nước cấp dưới thực hiện thường xuyên, lâu

dài, ổn định trên cơ sở pháp luật... thực chất của phân cấp quản lý hành chính

là xác định lại sự phân chia thẩm quyền theo các cấp hành chính phù hợp với

yêu cầu của tình hình mới [57,Tr.612]. Cũng có ý kiến cho rằng, phân cấp quản

lý được hiểu là “sự phân chia các đơn vị hành chính - lãnh thổ và phân công

thẩm quyền hợp lý giữa các cấp chính quyền tương ứng cho phù hợp với chức

năng, nhiệm vụ và đặc điểm của mỗi cấp để nhằm thực thi hiệu quả hơn quyền

lực nhà nước” [73]. Như vậy, liên quan đến khái niệm phân cấp có hai nội dung

là xác định thẩm quyền của mỗi cấp hành chính trong các văn bản quy phạm

pháp luật và chuyển giao thẩm quyền, nhiệm vụ của cấp trên cho cấp dưới bằng

các quyết định cụ thể nhằm mục tiêu nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà

40

nước.

Đặc trưng của phân cấp quản lý là việc cấp chính quyền bên trên chuyển

giao quyền hạn, nhiệm vụ nhất định cho cấp chính quyền bên dưới thực hiện

một cách thường xuyên, liên tục bằng phương thức ban hành văn bản quy phạm

pháp luật hoặc bằng các quyết định cụ thể. Những nhiệm vụ, quyền hạn được

phân cấp cho các cơ quan nhà nước mỗi cấp được xác định sao cho hợp pháp

và hợp lí, phù hợp với năng lực thực tế của mỗi cấp nhằm nâng cao hiệu lực,

hiệu quả quản lý nhà nước. Nhiệm vụ, quyền hạn phân cấp vốn ban đầu thuộc

chính quyền cấp trên, song trong nhiều trường hợp tiến hành phân cấp cho chính

quyền hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện.

Khi tiến hành phân cấp, các cấp chính quyền hoặc cơ quan quản lý nhà

nước cấp dưới có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được trao tùy

theo khả năng thực tế của địa phương. Nhiệm vụ, quyền hạn đó được thực hiện

thông qua các pháp nhân công quyền như cơ quan đại diện, cơ quan hành

chính,.. Tuy nhiên, hoạt động của các cơ quan chính quyền địa phương vẫn luôn

phải đặt dưới sự kiểm tra, giám sát cần thiết của các cơ quan chính quyền Trung

ương.

2.1.2. Chính quyền phường trong hệ thống chính quyền đô thị

2.1.2.1. Chính quyền đô thị

Đô thị là trung tâm chính trị - hành chính, trung tâm kinh tế, trung tâm

văn hoá, thể thao, giáo dục, khoa học - công nghệ của cả nước, của một vùng,

một tỉnh hay của một huyện; là nơi tập trung chủ yếu các cơ sở kinh tế, hạ tầng

vật chất quan trọng như trung tâm tài chính, thương mại, dịch vụ, hệ thống giao

thông liên lạc, điện, nước, công trình xây dựng, khu vui chơi, giải trí với tốc độ

phát triển nhanh. Đô thị là nơi tập trung đông dân cư, có hoạt động chủ yếu

trong lĩnh vực kinh tế phi nông nghiệp và có thể bao gồm thị trấn, thị xã, thành

phố.

Chính quyền đô thị được hiểu là bộ máy để điều khiển, quản lý công việc

41

của nhà nước, quản lý hoạt động của đô thị. Bộ máy đó có cơ cấu, tổ chức, có

con người, công cụ để hỗ trợ con người làm việc phù hợp với đời sống kinh tế,

văn hóa, xã hội, điều kiện tự nhiên, ưu thế của đô thị.

Chính quyền đô thị cũng được hiểu là thuật ngữ sử dụng dùng để chỉ các

cơ quan có quyền lực trong một đơn vị hành chính lãnh thổ có các điều kiện và

đặc trưng khác với ở nông thôn, có mô hình quản lý hành chính dựa trên đặc

thù của đô thị. Tùy thuộc vào từng quốc gia mà có các căn cứ khác nhau để xác

định về chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn. Có thể căn cứ theo tính

chất kinh tế, chính trị, dịch vụ thương mại, mật độ dân số, tốc độ đô thị hóa,

các hoạt động vui chơi, giải trí, sinh hoạt cộng đồng, quy mô lớn, nhỏ để xác

định chính quyền đô thị, chính quyền nông thôn. Theo cách phân chia của một

số quốc gia, chính quyền đô thị được phân ra làm các loại khác nhau tùy thuộc

vào quy mô của đô thị đó. Ví dụ: Nhật Bản, Australia căn cứ vào loại đô thị để

xem xét tư cách chính quyền đô thị. Mặt khác, tùy thuộc vào cách phân chia

vùng lãnh thổ bao gồm cả đô thị và nông thôn, chính quyền đô thị gắn liền với

từng cấp hành chính lãnh thổ. Ví dụ, Trung Quốc phân chia đô thị gắn liền với

cấp lãnh thổ hành chính. Hiện nay Trung Quốc phân chia chính quyền đô thị

thành ba cấp (Tỉnh, huyện và thấp hơn).

Mặc dù còn có cách hiểu về chính quyền đô thị chưa thống nhất và tùy

thuộc điều kiện, hoàn cảnh mỗi quốc gia mà có cách thức khác nhau trong tổ

chức bộ máy chính quyền, cơ cấu tổ chức, chức năng nhiệm vụ. Nhưng thông

thường chính quyền đô thị có đặc điểm chung như: trực tiếp quản lý nhà nước

trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội; trực tiếp cung ứng dịch vụ công ở đô thị; thể

hiện chức năng đại diện, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho công dân trên địa

bàn đô thị. Thực hiện dịch vụ công như: Thu gom rác và xử lý chất thải; Cấp

nước và thoát nước; Dịch vụ môi trường, hệ thống chiếu sáng công cộng, công

viên và khu vui chơi giải trí; Dịch vụ y tế và giáo dục cơ bản; Một số phúc lợi

xã hội (chỗ ở cho người vô gia cư);Giao thông đô thị; Quy hoạch đô thị; Công

42

trình công cộng và nhà ở; Cứu hỏa và các dịch vụ khẩn cấp khác.

Ngoài ra, chính quyền đô thị còn thực hiện các chức năng, nhiệm vụ khác

theo quy định của pháp luật, kể cả các nhiệm vụ thuộc chức năng của chính

quyền cấp trên nhưng được phân cấp để chính quyền đô thị thực hiện.

Ở Việt Nam, chính quyền được hiểu là “Bộ máy điều khiển, quản lý công

việc của Nhà nước”[56, tr.157]. Theo Luật tổ chức CQĐP năm 2015, chính

quyền địa phương ở đô thị bao gồm: 1, Chính quyền địa phương ở thành phố

trực thuộc trung ương; 2, Chính quyền địa phương ở quận; 3, Chính quyền địa

phương ở thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc

trung ương; 4, Chính quyền địa phương ở phường và 5, Chính quyền địa

phương ở thị trấn (và theo quy định tại Luật, xã, phường, thị trấn là ngang cấp).

Tại các cấp chính quyền địa phương ở đô thị nói trên đều có tổ chức HĐND và

UBND. Và chính quyền địa phương ở phường cũng có cơ cấu tổ chức gồm có

HĐND phương và UBND phường

2.1.2.2. Đặc điểm của chính quyền đô thị

Thứ nhất, chính quyền đô thị là một đơn vị hành chính độc lập

Lãnh thổ đô thị là một thể thống nhất, liên hoàn, không thể chia cắt thành

các bộ phận riêng lẻ. Hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội là một chỉnh thể

liên quan, gắn bó trực tiếp với nhau trên phạm vi toàn đô thị, không thể chia cắt

theo từng địa bàn. Các công trình kinh tế, văn hoá, xã hội chỉ có thể được xây

dựng theo quy hoạch chung của cả đô thị và nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển

kinh tế và đời sống của dân cư toàn đô thị.

Do đó, chính quyền đô thị là nơi thực thi các chính sách, pháp luật nhằm

quản lý mọi mặt của đời sống xã hội thông qua việc sử dụng các công cụ, biện

pháp, phương tiện phù hợp. Muốn vậy, chính quyền đô thị phải tiến hành quản

lý các mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, môi trường…Trên phương diện

thực hiện quyền lực, chính quyền đô thị thực hiện nhiệm vụ lập quy, nghĩa là

ban hành các văn bản liên quan đến công tác qui hoạch, xây dựng và vận hành

43

bộ máy một cách tập trung, có trật tự, thông suốt, nhịp nhàng, có hiệu lực, hiệu

quả cao. Trên phương diện hành pháp, chính quyền đô thị giải quyết các mối

quan hệ giữa cá nhân và cá nhân, giữa cá nhân với tổ chức, giữa các tổ chức

với nhau khi tiến hành qui hoạch, xây dựng và vận hành đô thị. Trên phương

diện Tư pháp tức là đảm bảo pháp luật, pháp lệnh được thực thi đầy đủ, có hiệu

lực. Điều này cũng có nghĩa trong phạm vi một đô thị chỉ nên có một tổ chức

bộ máy thống nhất. Các đơn vị cấp dưới chỉ là cánh tay nối dài của chính quyền

đô thị, không có tư cách pháp nhân. Chính quyền ở đô thị thường hoạt động

độc lập, ít khi chịu sự chi phối trực tiếp bởi chính quyền cấp trên và chịu trách

nhiệm trước pháp luật, trước người dân ở vùng đô thị đó về các hoạt động,

quyết sách của chính quyền mình.

Thứ hai, chính quyền đô thị thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở đô

thị trên nhiều lĩnh vực khác nhau

Tổ chức bộ máy chính quyền đô thị thường được tổ chức khá chặt chẽ,

có chức năng, nhiệm vụ cụ thể và gắn với từng cá nhân. Tùy thuộc vào cấp độ,

tính chất của từng loại đô thị mà quy mô bộ máy chính quyền cũng lớn hoặc

nhỏ khác nhau. Không có mẫu chung cho tổ chức bộ máy chính quyền đô thị

cho tất cả các quốc gia, mà tùy thuộc vào cách thức tổ chức quyền lực nhà nước

của mỗi quốc gia mà tổ chức cấp độ chính quyền lớn, nhỏ, cao, thấp khác nhau.

Tuy nhiên, khi xây dựng chức năng, nhiệm vụ của cấp chính quyền đô

thị, cũng có thể có vài điểm trùng nhau về các lĩnh vực quản lý nhà nước. Ví

dụ như quản lý nhà nước về dân cư ở đô thị; quản lý nhà nước về hoạt động

kinh tế ở đô thị; hoạt động quản lý nhà nước về cơ sở hạ tầng của đô thị; môi

trường, cây xanh, không khí, nước sạch ở đô thị; quản lý nhà nước về trật tự đô

thị.

Thứ ba, chính quyền đô thị có chức năng trực tiếp phân phối, cung cấp

các dịch vụ công cộng đáp ứng nhu cầu phức tạp hơn của cư dân đô thị so với

44

nông thôn

Dân cư đô thị là tập trung từ nhiều vùng, miền khác nhau, có cuộc sống

khá độc lập với nhau, với lối sống hợp cư, luôn biến động, hầu như không có

sự liên kết về huyết thống, tập quán, truyền thống chặt chẽ theo dòng tộc, cộng

đồng tự quản như ở nông thôn. Đồng thời, dân cư đô thị có trình độ dân trí cao

hơn ở nông thôn, tôn trọng những chuẩn mực có tính pháp lý hơn là những quy

tắc có tính cộng đồng. Mặt khác,khối dân cư ở đô thị tập trung cao với nhiều

thành phần, tầng lớp khác nhau với các hoạt động đa dạng, có nhu cầu cao về

nhiều mặt. Điều này dẫn đến việc quản lý con người trong đô thị hết sức phức

tạp so với nông thôn nơi cư dân khá thuần nhất.Chính quyền ở đô thị phải quan

tâm giải quyết nhiều vấn đề bức xúc hàng ngày như cấp, thoát nước, rác thải

sinh hoạt, vấn đề nhà ở, giao thông, ô nhiễm môi trường, ô nhiễm không khí,

không gian sinh hoạt cộng đồng chung tại các khuôn viên cây xanh, công viên,

quản lý dân cư với nhiều tầng lớp, thành phần xã hội khác nhau.

Chính quyền ở đô thị khi giải quyết công việc cũng hết sức linh hoạt, bởi

đặc điểm dân cư đông đúc, tần suất giải quyết công việc lớn, nhu cầu của người

dân đa dạng, phức tạp. Điều này cũng tạo nên sức ép và căng thẳng cho chính

quyền đô thị. Do đó, chính quyền đô thị phải thể hiện được ý chí, nguyện vọng,

giải quyết kịp thời các vấn đề kinh tế - xã hội trên phạm vi toàn đô thị, phải có

tính chuyên nghiệp, linh hoạt, áp dụng công nghệ thông tin để phục vụ quản lý,

nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ công, đảm bảo sự hài lòng của người

dân.

2.1.3. Chính quyền phường và vị trí, vai trò, đặc điểm của chính quyền

phường

Chính quyền phường được hiểu là tổ chức trong nội bộ của đô thị hoặc

thuộc chính quyền thành phố. Mỗi một quốc gia, đều có quy định về cơ cấu tổ

chức, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của loại đơn vị hành chính này, có thể có

tên gọi khác nhau nhưng có đặc điểm chung là tổ chức này rất gần với địa

45

phương. Có nhiều quốc gia quy định đây là cấp hành chính thấp nhất của chính

quyền cơ sở (Philippin gọi là: Barangay (phường, xã); Trung quốc gọi là cấp

hương (cấp hương ở Trung quốc có hai loại hình đơn vị hành chính là hương

và trấn, tương đương cấp xã của Việt Nam); Hàn Quốc cấp thấp nhất trong bộ

máy chính quyền địa phương được gọi là: Dong, Eup, Myon, để dễ hiểu có thể

gọi là cấp xã). Đây cũng là tổ chức chính quyền có Hội đồng do người dân ở

vùng, địa phương, xã, phường đó trực tiếp bầu ra theo phương thức phổ thông

đầu phiếu, chịu trách nhiệm chính trong việc quyết định những công việc quản

lý hành chính, giữ gìn, bảo vệ an ninh trật tự, chăm lo đời sống người dân và

cung cấp dịch vụ công cộng cho người dân ở địa phương, trong phạm vi lãnh

thổ được xác định.

Ở Việt Nam, tại các văn bản Luật, dưới Luật không có quy định hoặc

khái niệm, định nghĩa về chính quyền phường, nhưng tại Điều 58, Luật Tổ chức

chính quyền địa phương năm 2015 có khái niệm về chính quyền địa phương ở

phường: “là cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân phường

và Ủy ban nhân dân phường”. Mới đây, Nghị quyết của Quốc hội đề xuất mô

hình thí điểm tổ chức chính quyền đô thị, việc quan niệm chính quyền địa

phương ở phường là cấp chính quyền địa phương gồm có HĐND phường và

UBND phường có sự thay đổi. Theo đó, tại Nghị quyết số 97/2019/QH14 của

Quốc hội, thì chính quyền địa phương ở các phường thuộc quận, thị xã tại

Thành phố Hà Nội là Ủy ban nhân dân phường; tại Nghị quyết số

119/2020/QH14 ngày 19/6/2020 của Quốc hội về thí điểm mô hình chính quyền

đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng, thì

chính quyền địa phương ở các phường thuộc quận tại thành phố Đà Nẵng là Ủy

ban nhân dân phường. Ủy ban nhân dân phường là cơ quan hành chính nhà

nước ở phường, thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo Nghị quyết và theo

phân cấp, ủy quyền của UBND, chủ tịch UBND thành phố, UBND quận.

46

Vị trí, vai trò của chính quyền phường:

Chính quyền phường đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền lợi của

nhân dân ở phường

Hội đồng nhân dân ở phường được xem là cơ quan đại diện cho ý chí của

nhân dân địa phương do nhân dân địa phương bầu ra một cách dân chủ. Hội

đồng nhân dân phường có quyền quyết định những vấn đề quan trọng trong

phạm vi phường như vấn đề dự toán thu ngân sách trên địa bàn phường, chi

ngân sách phường; xem xét thông qua các văn bản quy phạm pháp luật theo

thẩm quyền. Chính quyền phường có thể nhận khiếu nại của người dân trên địa

bàn, quản lý các vấn đề về xã hội như văn hóa, giáo dục, y tế theo thẩm quyền

và giám sát việc thực hiện các quyết định đó.

Chính quyền phường là nơi giải quyết các công việc trực tiếp với dân,

gần dân, hiểu dân nhất, quản lý những hoạt động gần gũi, thiết thực nhất của

nhân dân. Phường cũng là nơi quyền dân chủ trực tiếp của dân có điều kiện

thực hiện một cách rộng rãi và quyền dân chủ đại diện thông qua Hội đồng nhân

dân được người dân tín nhiệm bầu nên.

Chính quyền phường là bộ phận quan trọng trong bộ máy nhà nước, thực

hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước ở cơ sở

Trong cấu trúc của chính quyền phường, thường có Hội đồng nhân dân

và Ủy ban nhân dân. Hội đồng nhân dân ở phường có quyền quyết định các

biện, chính sách phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, y tế, giáo dục trên phạm vi

địa phương.Trong thực tế, địa giới hành chính phường chỉ có ý nghĩa trong

phân cấp quản lý hành chính nhà nước và khó có thể quyết định được tính độc

lập của một đơn vị hành chính. Và thực tế, chính quyền phường chỉ thực hiện

một số mặt quản lý hành chính nhà nước theo pháp luật, các nhiệm vụ cấp trên

giao. Nhưng phường đóng vai trò hết sức quan trọng ở địa phương và chịu trách

nhiệm trực tiếp trước chính quyền cấp trên trong việc thực hiện các chính sách

47

của nhà nước liên quan đến nhà ở. Chính quyền phường trực tiếp thực thi và có

các giải pháp thúc đẩy dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe, quản lý, phát triển giáo

dục, xúc tiến việc làm, cho người dân ở địa phương.

Đặc điểm của chính quyền phường

Chính quyền phường hoạt động trên địa bàn đô thị, có mật độ dân số

đông đúc và có tần suất thực hiện nhiệm vụ trên địa bàn lớn

Do đặc điểm dân cư ở đô thị có mật độ dân số đông, có nhu cầu đa dạng,

phức tạp nên chính quyền phường thường xuyên ứng phó với nhiều tình huống

phát sinh liên quan đến đời sống dân cư. Việc giải quyết nhiều nhiệm vụ liên

quan đến lợi ích trực tiếp của người dân trên địa bàn tạo áp lực lớn cho chính

quyền phường. Đây cũng là đặc điểm chung của nhiều đô thị lớn, về mật độ

dân số dày đặc, kéo theo nhiều nhu cầu khác nhau của xã hội. Do đó, các hình

thức sinh hoạt, kinh doanh của hộ dân trên địa bàn phường cũng đa dạng, phong

phú. Nhiều trường hợp có mâu thuẫn giữa các công dân, hộ gia đình, nhiều tình

huống cần phản ứng nhạy bén, cách thức xử lý khác nhau.

Nhiệm vụ của chính quyền phường thường thực thi, thừa hành là chính,

cán bộ, công chức áp lực lớn trong công việc và đôi khi quá tải trong thực hiện

nhiệm vụ

Các nhiệm vụ của chính quyền phường thường tuân thủ theo quy định

sẵn có, mang tính chất thực thi, thừa hành văn bản hướng dẫn của chính quyền

cấp trên. Có ít trường hợp chính quyền phường ban hành chính sách mới, phần

lớn là dựa vào quy định của cấp trên để ban hành các quy định phù hợp với tính

chất, hoạt động của chính quyền phường. Đối với cán bộ, công chức là những

đối tượng được trao quyền thực hiện nhiệm vụ tại chính quyền phường. Tuy

nhiên, với mật độ dân số đông như đã phân tích ở trên, nhiều nhu cầu đa dạng,

phong phú và có các lĩnh vực quản lý nhà nước tại phường liên quan trực tiếp

đến quyền, lợi ích của người dân, doanh nghiệp trên địa bàn. Với khối lượng

công việc nhiều, được lặp đi, lặp lại nhiều lần khiến cán bộ, công chức ở các

48

phường thuộc thành phố, thường có áp lực lớn hơn so với công việc của các

công chức ở chính quyền phường thuộc thành phố nhỏ. Điều này dẫn đến tâm

lý trong thực thi công vụ của một số cán bộ, công chức phường. Các quy định

pháp luật hiện nay vẫn đang quy định giống nhau về thẩm quyền, nhiệm vụ của

chính quyền phường ở đô thị, chưa có phân biệt về chức năng, nhiệm vụ, tính

đặc thù giữa chính quyền đô thị, nông thôn, hải đảo Vấn đề chưa đồng đều trong

quy định của pháp luật, tính cào bằng và quy định giống nhau về chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn dẫn đến có nhiều bất cập trên triển khai thực tiễn thực thi

nhiệm vụ.

2.1.4. Phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền phường là tất yếu

khách quan

Phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền phường là nhu cầu khách

quan, phát triển lợi ích của mỗi địa phương, tăng cường dân chủ, tự chủ trong

quản lý hành chính.

Việc phân định rõ vị trí, thẩm quyền của cấp trung ương và các cấp địa

phương là vấn đề đang gặp phải khó khăn của nhiều quốc gia. Đối với mô hình

nền hành chính tập quyền, chính quyền trung ương tập trung trong tay mọi

quyền lực, được tổ chức theo cơ chế cơ quan trung ương được quyết định tất cả

mọi vấn đề quan trọng nhất và các cấp chính quyền thấp hơn bắt buộc phải tuân

thủ. Song hiện nay, vấn đề tập quyền trong quản lý nhà nước không còn phù

hợp, bởi trên thực tế, sự đa dạng và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của từng

địa phương trong cả nước là khác nhau. Chính quyền trung ương không thể

nắm bắt và tự ban hành quyết định, điều hành mọi vấn đề của chính quyền địa

phương. Do đó, một trong những biện pháp có lợi để phát huy được thế mạnh,

lợi ích của chính quyền địa phương, cần bổ trợ thêm biện pháp khác để quản lý

nhà nước có hiệu quả hơn, đó là phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền

địa phương, nhất là phân cấp cho chính quyền phường. Giải pháp này mang lại

lợi ích lớn cho chính quyền phường, gia tăng đáng kể sự chủ động, tự chủ của

49

chính quyền phường trong giải quyết các công việc, nhiệm vụ được phân cấp,

đồng thời chủ động quyết định các vấn đề có tác động trực tiếp tới người dân

thuộc quyền quản lý.

Có thể nói, phân cấp vừa là nhu cầu tất yếu của việc quản lí đất nước

rộng lớn, vừa là nhu cầu phát triển lợi ích của mỗi địa phương, nhất là những

địa phương có điều kiện phát triển mạnh, mong muốn phải có những quyền, lợi

ích nhất định trong quá trình phát triển. Việc phân cấp luôn phản ánh mối quan

hệ giữa trung ương và địa phương, giữa chính quyền cấp trên và chính quyền

cấp dưới. Việc phân cấp cho mỗi cấp mỗi địa phương và ở mỗi thời kỳ đòi hỏi

phải khác nhau. Tuy vậy, nó luôn được coi là vấn đề tất yếu của nhà nước và

phụ thuộc vào khả năng của chính quyền địa phương trong mỗi giai đoạn phát

triển. Trường hợp phân cấp, giao quá nhiều quyền có thể dẫn đến chính quyền

địa phương sẽ quá tải, không thể thực hiện hết nhiệm vụ. Ngược lại, nếu phân

cấp, giao quá ít quyền thì hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương sẽ

không cao. Xu hướng chung trong các nhà nước dân chủ hiện đại là khi xã hội

phát triển cao thì việc phân cấp diễn ra nhiều hơn, chính quyền các địa phương

được trao cho nhiều nhiệm vụ, quyền hạn hơn.

Bối cảnh kinh tế - xã hội phát triển, nhà nước cần có các biện pháp gia

tăng hiệu quả hoạt động quản lý, trong đó có giải pháp về phân cấp cho chính

quyền phường.

Hướng tới quản trị công hiện đại, đáp ứng được những thay đổi lớn

đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ của đời sống kinh tế, xã hội và khi đối

diện bởi những thay đổi nhanh chóng của công nghệ thông tin, nhà nước

cần có các biện pháp tích cực, nhằm gia tăng vị trí, vai trò quản lý, vừa thể

hiện sự phân phối lại quyền lực giữa các cấp chính quyền, đảm bảo hài hòa,

cân đối, phù hợp. Quản trị ở nền hành chính tập trung quyền lực không còn

phù hợp, thay vào đó có các thiết chế khác tồn tại như các tổ chức xã hội,

doanh nghiệp, công ty đa quốc gia…đặt ở nhiều địa phương khác nhau, dẫn

50

đến nhà nước cần điều tiết lại quyền lực của mình, tiến hành phân cấp cho

chính quyền cấp dưới để chủ động thực hiện nhiệm vụ, đáp ứng ngay các

yêu cầu của người dân, doanh nghiệp và các nhu cầu cơ bản khác trên địa

bàn lãnh thổ.

Công cụ mà nhà nước cần vận dụng trong trường hợp này, chính là

phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền cơ sở, cụ thể là chính quyền

phường. Theo đó, cơ quan nhà nước ở trung ương thực hiện ban hành chính

sách, pháp luật và định hướng thực hiện, giảm tải nhiệm vụ thực hiện trực

tiếp, tiến hành phân cấp khoa học, hợp lý đối với chính quyền phường trên

các mặt khác nhau của kinh tế - xã hội và cung ứng dịch vụ công. Vấn đề

phân cấp cho chính quyền phường, cũng là xu thế tất yếu, một mặt nâng

cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước ở trung ương, đồng thời phát huy

điều kiện vật chất, khả năng đáp ứng công việc, nhiệm vụ của chính quyền

cơ sở, trong phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước, quốc gia.

Việc phân cấp quản lý nhà nước giữa chính quyền cấp trên đối với chính

quyền phường một mặt, nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo, quyền tự chủ,

tự chịu trách nhiệm của chính quyền phường trên cơ sở phân định rõ, cụ thể

nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm trong bộ máy chính quyền nhà nước; mặt

khác, bảo đảm sự quản lý tập trung, thống nhất và thông suốt của chính quyền

trung ương, tăng cường kỷ luật, kỷ cương để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản

lý nhà nước. Phân cấp quản lý giữa chính quyền cấp trên với chính quyền

phường nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu, lợi ích của nhân dân, thúc đẩy kinh tế -

xã hội ở từng địa phương phát triển, trên cơ sở phát huy thế mạnh của mỗi địa

phương trong một nhà nước thống nhất. Do vậy, việc phân cấp hợp lý, chính

xác sẽ có những tác dụng tích cực như:

Thúc đẩy sự phát triển dân chủ thông qua việc cung cấp những cơ hội tốt

hơn để người dân tham gia tích cực và trực tiếp hơn vào các quá trình ra quyết

51

định của các cơ quan nhà nước các cấp.

Tăng cường hiệu quả của việc cung cấp các dịch vụ công cho nhân dân

thông qua phân cấp cho chính quyền phường thực thi chức năng cung cấp dịch

vụ công, từ đó hạn chế sự quan liêu và trì trệ của các cơ quan nhà nước cấp

trên, cơ quan trung ương.

Tạo điều kiện để nâng cao chất lượng của những dịch vụ công được cung

cấp cho người dân dựa trên trách nhiệm giải trình và sự nhạy cảm trong việc

nắm bắt, đáp ứng nhu cầu của dân chúng của chính quyền phường.

Tăng cường sự phát triển về kinh tế, xã hội dựa trên sự am hiểu chính

xác điều kiện kinh tế - xã hội và các đặc điểm về địa lý, dân cư… của chính

quyền phường, trên cơ sở đó đề ra các kế hoạch và có những chính sách đúng

đắn cho việc phát triển, phát huy thế mạnh của chính quyền phường.

Tăng cường sự chủ động, minh bạch, trách nhiệm giải trình và năng lực

giải quyết các công việc của các cơ quan chính trong chính quyền phường.

Cho phép đại điện đa dạng hơn về chính trị và sự tham gia của các nhóm

lợi ích như văn hóa, chính trị, tôn giáo, sắc tộc khác nhau… vào quá trình ra

quyết định của các cơ quan nhà nước liên quan đến các vấn đề của mỗi địa

phương.

Tăng cường sự ổn định chính trị và sự thống nhất của quốc gia thông qua

việc cho phép người dân quyền giám sát một cách trực tiếp và hiệu quả hơn các

chương trình, kế hoạch và hoạt động của chính quyền phường.

Tạo điều kiện cho những ý tưởng kinh tế, chính trị, xã hội… mới nảy

sinh, từ đó có được những chương trình, hoạt động quản lý nhà nước có tính

sáng tạo hơn đối với mỗi địa phương.

2.2. Nội dung, hình thức, phương pháp, nguyên tắc và điều kiện

đảm bảo thực hiện phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền phường

Việc phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền địa phương nói chung,

chính quyền phường nói riêng ở từng thời kỳ, đòi hỏi sự khác nhau về thẩm

52

quyền, nội dung, hình thức và phương pháp. Phân cấp quản lý nhà nước đối với

chính quyền phường, phụ thuộc khá lớn vào vai trò của nhà nước ở trung ương

và chính quyền cấp trên, được xác định bởi các văn bản quy phạm pháp luật

làm căn cứ pháp lý và tùy vào khả năng đáp ứng nhiệm vụ phân cấp, năng lực

của chính quyền phường.

2.2.1. Nội dung phân cấp

Mỗi một giai đoạn lịch sử và đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước mà

chính quyền nhà nước cấp trên xác định các nội dung phân cấp cho chính quyền

địa phương. Đối với địa phương nào có điều kiện phát triển tốt thì mong muốn

được phân cấp nhiều hơn. Tuy nhiên, có thể ở từng thời điểm, cơ quan nhà nước

cấp trên chưa thực hiện phân cấp vì việc phân cấp sẽ ảnh hưởng đến quyền lực,

lợi ích, thu nhập hợp pháp của chính quyền trung ương, của các cơ quan chủ

quản. Do vậy, có tồn tại tình trạng là các cơ quan trung ương, cơ quan cấp trên

có thẩm quyền nhưng không có khả năng giải quyết hết mọi công việc, còn các

cơ quan địa phương, cơ quan cấp dưới có khả năng giải quyết tốt công việc

nhưng không được phân cấp để thực hiện từ đó dẫn đến hiện tượng quan liêu,

bao cấp, kém hoặc không hiệu quả trong giải quyết các công việc nhà nước.

Ngược lại với tình trạng trên là việc phân cấp quá nhiều nhiệm vụ cho

chính quyền phường có thể dẫn đến tình trạng chính quyền đó không đủ năng

lực, trình độ, hoặc vượt quá khả năng giải quyết để thực hiện những nhiệm vụ,

quyền hạn được giao. Phân cấp cũng có thể dẫn đến sự tùy tiện sử dụng những

gì được phân cấp để làm lợi cục bộ cho chính quyền mình, bất chấp hoặc không

tính đến lợi ích của các cấp chính quyền khác khác hoặc lợi ích của quốc gia

trong tổng thể. Ở mỗi quốc gia đều có quy định về nội dung phân cấp và không

có sự giống nhau, thống nhất giữa các nước về vấn đề này. Ở Việt Nam, nội

dung phân cấp là trao cho mỗi cấp chính quyền những nhiệm vụ, quyền hạn để

giải quyết những công việc nhất định. Nhiệm vụ, quyền hạn được trao thể hiện

53

dưới dạng quyền đi liền với trách nhiệm. Trên cơ sở phân định thẩm quyền hành

chính của mỗi cấp, nội dung phân cấp được nhìn nhận ở các phương diện như

sau:

Một là, phân cấp về thẩm quyền quản lý nhà nước

Phân cấp về thẩm quyền quản lý nhà nước thực chất là việc làm rõ cấp

chính quyền nào được phép làm nhiệm vụ gì, được quyết định về nhiệm vụ đó

ở mức độ nào và cấp thẩm quyền đó có trách nhiệm, quyền hạn như thế nào đối

với nhiệm vụ được phân cấp.

- Phân cấp quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, quy hoạch, đầu tư

Ở lĩnh vực này, nội dung phân cấp có thể cho phép chính quyền phường

quyết định về chủ trương đầu tư, mức đầu tư; quản lý đầu tư cơ bản; quản lý về

các ngành, nghề sản xuất kinh doanh. Đối với vấn đề quy hoạch thường tuân

thủ theo quy hoạch vùng, quy hoạch lãnh thổ, quốc gia và thông thường vấn đề

này ít khi được phân cấp cho chính quyền phường quyết định.

- Phân cấp quản lý nhà nước trong lĩnh vực môi trường, đất đai, xây dựng,

giao thông đô thị; văn hóa, xã hội

Các nội dung tiến hành phân cấp có thể liên quan đến thẩm quyền giao

đất, cho thuê đất; thu hồi đất; quản lý trong lĩnh vực giải phóng mặt bằng, đền

bù cho người dân. Thực hiện quản lý nguồn tài nguyên, quản lý đất đai, cho

phép người dân xây dựng nhà ở riêng lẻ, về bảo vệ môi trường. Các nội dung

phân cấp quản lý khác như: các hoạt động văn hóa, tâm linh, trung tâm thể thao,

thư viện, bảo tàng, các hoạt động thể thao, vui chơi giải trí.

- Phân cấp quản lý nhà nước trong lĩnh vực y tế, giáo dục: Đối với nội

dung phân cấp này, chính quyền phường chịu trách nhiệm chăm sóc sức khỏe

cộng đồng; phụ trách giáo dục từ mẫu giáo đến phổ thông trung học.

- Phân cấp quản lý nhà nước về ngân sách: Chính quyền phường có thể

quyết định về lập dự toán, điều chỉnh mức độ mức thu, chi ngân sách, thu các

loại phí, mức phí, các khoản đóng góp của người dân trên địa bàn phường để

54

phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội, an sinh ở cấp chính quyền của mình.

- Phân cấp quản lý nhà nước về nhân sự: Đây là thẩm quyền thường được

cân nhắc khi tiến hành phân cấp. Một vài quốc gia cho phép chính quyền

phường, xã được tự chủ trong việc tuyển dụng nhân sự vào làm việc tại bộ máy

chính quyền địa phương ở phường. Đi kèm với thẩm quyền tự chủ tuyển dụng

nhân sự là sự chủ động trong việc khen thưởng, trả lương, các chế độ đãi ngộ,

trợ cấp, điều kiện làm việc cho họ trong môi trường thích hợp.

Tuy nhiên, vẫn còn nhiều quốc gia chưa tiến hành phân cấp nhiệm vụ

này, việc tuyển dụng nhân sự làm việc trong cơ quan hành chính nhà nước, phục

vụ nền công vụ vẫn phải được tiến hành bởi cơ quan nhà nước cấp tỉnh trở lên,

có thẩm quyền được quy định tại Luật hoặc văn bản hướng dẫn dưới Luật, tuân

thủ theo một trình tự, thủ tục nhất định, đảm bảo chặt chẽ trong khâu tuyển

dụng, đồng thời áp dụng thống nhất mức lương, ưu đãi và các đãi ngộ khác.

Hai là, phân cấp quản lý nhà nước về trực tiếp cung ứng dịch vụ công

trên địa bàn phường

Cung ứng dịch vụ công là lĩnh vực được nhà nước phân cấp nhiều hơn

cả, tùy thuộc vào khả năng đáp ứng của chính quyền phường, trên cơ sở cân

nhắc lợi ích giữa đối tượng hưởng thụ và chính quyền cung ứng dịch vụ. Các

dịch vụ công cộng được chú trọng phân cấp như: giao thông công cộng, nước

sạch; dịch vụ xử lý rác thải ô nhiễm; dịch vụ vệ sinh; dịch vụ sinh hoạt đi lại;

dịch vụ y tế.

Các loại dịch vụ công được chính quyền phường chủ động cung ứng trực

tiếp đến người dân, người dân là đối tượng được hưởng thụ và chính quyền

phường là cơ quan có nhiệm vụ cung ứng để phục vụ nhu cầu của họ.

Thông thường nội dung phân cấp được tiến hành theo nguyên tắc, nhà

nước nắm giữ những ngành chủ đạo, then chốt có tính quyết định trên cả nước

như đối ngoại, quốc phòng an ninh, còn lại các vấn đề khác có thể phân cấp cho

chính quyềnphường, có tính đến yếu tố khả năng đáp ứng của chính quyền

55

phường, điều kiện thực hiện nhiệm vụ phân cấp, khi thực hiện phân cấp không

hiệu quả, chính quyền cấp trên sẽ ngừng phân cấp và thu hồi các nhiệm vụ đã

được phân cấp.

2.2.2. Hình thức phân cấp

Có nhiều cách phân loại hình thức phân cấp bởi các tiêu chí để đưa

ra hình thức phân cấp chỉ mang tính tương đối, vì đây là hoạt động đặc biệt,

vừa mang tính chính trị, tính chuyên môn, vừa thể hiện sự kết hợp giữa quản

lý ngành và lãnh thổ. Do đó, trong khuôn khổ Luận án này, hình thức phân

cấp được nhìn nhận và phân chia tương đối, dựa trên mô hình hoạt động

của quản lý nhà nước, dựa vào chức năng, nhiệm vụ của cơ quan nhà nước.

Việc phân chia hình thức phân cấp thành các loại không có nghĩa là những

hình thức này đứng độc lập, riêng rẽ mà để nhìn nhận, nhấn mạnh từng khía

cạnh, từng lĩnh vực quản lý nhà nước. Theo đó, các hình thức phân cấp có

thể nhìn nhận ở ba góc độ: [50, tr 153 - 159]

- Hình thức tản quyền: Là hình thức phân công lại quyền ra quyết

định, trách nhiệm quản lý và tài chính giữa các bộ phận của bộ máy hành

chính. Nghĩa là cơ quan nhà nước của trung ương không chỉ đóng tại trung

phương mà còn có các chi nhánh tại địa phương tùy theo mức độ cần thiết

của hoạt động quản lý. Hình thức tản quyền này, một số nhiệm vụ được

chuyển giao cho những chi nhánh ở địa phương này, đồng thời cán bộ ở đây

là người xử lý trực tiếp. Thông qua hình thức này cũng góp phần phát huy

tính chủ động, sáng tạo của địa phương.

- Hình thức ủy quyền: Trường hợp này, Chính phủ chuyển giao quyền

ra quyết định và quản lý một số chức năng nhà nước cho một số cơ quan

khác thuộc hệ thống. Các tổ chức này, khi thực hiện quyền đó cần có báo

cáo đến chủ thể ủy quyền. Khi nhận ủy quyền, cơ quan hành chính đó được

quyền ra quyết định để quản lý nhà nước, quyền thu phí để trang trải hoạt

động theo quy định của nhà nước. Hình thức ủy quyền, quyền đó vẫn thuộc

56

cơ quan nhà nước cấp trên hoặc của cơ quan nhà nước ở trung ương. Trong

trường hợp cơ quan nhà nước cấp trên, địa phương nhận thấy không cần

thiết phải tiến hành ủy quyền, có thể thu hồi các quyền đã ủy bằng việc ra

văn bản thu hồi, điều chỉnh lại cho phù hợp.

- Hình thức trao quyền: Đây là hình thức giao quyền làm quyết định,

quyền quản lý cho cơ quan nhà nước cấp dưới. Theo đó, cơ quan chính

quyền cấp trên trao cho chính quyền địa phương các cấp trách nhiệm mới,

gắn với việc sử dụng quyền lực nhà nước, những trách nhiệm trước đây

thuộc về cơ quan cấp trên, nay được trao cho chính quyền cấp dưới, nhằm

phát huy lợi thế, tính chủ động, trách nhiệm của chính quyền cấp dưới đối

với người dân, cộng đồng.

Việc trao quyền đòi hỏi văn bản pháp lý phù hợp, khi nhận thấy không

cần thiết phải trao quyền, cơ quan nhà nước cấp trên ban hành văn bản pháp

lý để thu hồi quyền đã trao.

Ở Việt Nam, phân cấp quản lý không hẳn là ủy quyền, tản quyền hay

trao quyền mà là sự kết hợp giữa các hình thức này một cách hợp lý nhất.

Do đó, việc phân chia các hình thức phân cấp cũng chỉ là tương đối khi nhìn

nhận nó ở các góc độ, mức độ khác nhau.

2.2.3. Phương pháp phân cấp

Để thực hiện có hiệu quả phân cấp quản lý nhà nước, phương pháp

được lựa chọn là quy định tại văn bản quy phạm pháp luật làm căn cứ pháp

lý cho chính quyền phường thực hiện nhiệm vụ được phân cấp.

Về phân cấp quản lý nhà nước thường được quy định tại Hiến pháp

ở mức độ nguyên tắc chung và được quy định cụ thể tại văn bản Luật, hướng

dẫn dưới Luật. Để gia tăng hiệu quả quản lý nhà nước, khuyến khích sự

phát triển của chính quyền cơ sở, nhiều quốc gia có Luật quy định về phân

cấp (Pháp, Italia có Luật về phân quyền; Nhật bản có Luật tăng cường phân

57

cấp; Thái Lan ban hành Luật phân cấp năm 1999; Hàn Quốc có Luật Đặc

biệt về đẩy mạnh phân quyền năm 2004). Vấn đề phân cấp được quy định tại

Luật là phương pháp hữu hiệu, làm căn cứ pháp lý điều chỉnh mang tính

tuân thủ, bắt buộc chung.

Ngoài ra, để tổ chức thực hiện phân cấp có hiệu quả, có quốc gia tiến

hành thành lập cơ quan chuyên biệt về phân cấp thuộc Chính phủ hoặc Thủ

tướng Chính phủ (Thái Lan thành lập Ủy ban phân cấp quốc gia năm 2000

và ủy ban này chịu trách nhiệm lập kế hoạch, chỉ đạo hoạt động phân cấp,

quyết định tỉ lệ phân bổ thuế giữa các cấp chính quyền). Ở Việt Nam, chưa

thực hiện tổ chức cơ quan chuyên trách có nhiệm vụ phân cấp, song trong

chức năng, nhiệm vụ của nhiều cơ quan nhà nước có quy định về thực hiện

nhiệm vụ phân cấp khi được chính quyền cấp trên giao hoặc có thẩm quyền

phân cấp nhiệm vụ của mình cho chính quyền cấp dưới một cách thường

xuyên, liên tục. Trường hợp nhận thấy không cần thiết tiến hành phân cấp,

có văn bản thu hồi vấn đề này.

Một số quốc gia đang phát triển, việc tiến hành phân cấp chưa thực

sự mạnh dạn, theo đó chưa ban hành Luật về phân cấp, song có lồng ghép

vấn đề này trong quá trình chuyển đổi, cải cách hệ thống chính trị, cải cách

hành chính, đổi mới mô hình tổ chức, hoạt động của hệ thống cơ quan nhà

nước từ trung ương đến địa phương. Thông thường việc lồng ghép các quy

định về phân cấp tại các Luật chuyên ngành, văn bản hướng dẫn dưới Luật

đồng thời có cơ chế tài chính và tạo điều kiện đảm bảo cho việc thực hiện

phân cấp.

2.2.4. Nguyên tắc thực hiện phân cấp

Thực hiện nguyên tắc phân cấp nhằm phát huy điều kiện vốn có của

địa phương, gắn với trách nhiệm của địa phương trong việc thực hiện nhiệm

vụ quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực và yêu cầu phát triển kinh tế -

xã hội ở địa phương. Để thực hiện phân cấp có hiệu quả, nguyên tắc thực

58

hiện phân cấp cần được lưu ý, cụ thể như sau:

Đảm bảo nguyên tắc sự thống nhất quản lý chung của Chính phủ về

thể chế, chiến lược, quy hoạch, thanh tra, kiểm tra trong vận hành bộ máy

nhà nước. Thực hiện phân cấp cho chính quyền cấp dưới, song vẫn cần đảm

bảo được sự xuyên suốt, nhất quán trong chỉ đạo, điều hành chung của

Chính phủ.

Đảm bảo nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành lĩnh vực và quản lý

theo lãnh thổ. Khi thực hiện phân cấp cần đảm bảo các nguyên tắc này vẫn

được duy trì, phối kết hợp, hỗ trợ lẫn nhau mang lại hiệu quả chung trong

hoạt động của bộ máy nhà nước.

Bảo đảm nguyên tắc phân cấp hiệu quả. Cấp nào thực hiện nhiệm vụ

được tốt hơn thì tiến hành phân cấp cho cấp đó, và phân cấp phải rõ nhiệm

vụ, thời gian thực hiện, điều kiện thực hiện và khi cấp thực hiện phân cấp

không có hiệu quả trên thực tế cần bảo đảm nguyên tắc thu hồi nhiệm vụ đã

tiến hành phân cấp. Khi thực hiện phân cấp phải phát huy quyền tự chủ, tự

chịu trách nhiệm của cấp đó trên địa bàn quản lý nhà nước, đảm bảo một

nhiệm vụ không phân cấp cho 02 cấp hành chính thực hiện quản lý.

Bảo đảm nguyên tắc tương ứng, cân đối về nguồn lực, điều kiện kinh

tế, xã hội của chính quyền phân cấp và chính quyền cấp được phân cấp để

có khả năng thực hiện trên thực tế.

Tăng cường tính công khai, minh bạch, trách nhiệm thanh tra, kiểm

tra của cơ quan nhà nước phân cấp, trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà

nước được phân cấp trong việc thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước đối

với ngành, lĩnh vực ở địa phương.

2.2.5. Điều kiện đảm bảo thực hiện phân cấp

Phân cấp là xu thế tất yếu trong xã hội hiện đại, nhằm phát huy nguồn

lực của chính quyền địa phương, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội. Các

điều kiện đảm bảo thực hiện phân cấp cần nhìn nhận ở hai phía.

59

Điều kiện từ chính quyền tiến hành phân cấp

Ở chính quyền tiến hành phân cấp (cấp trên), cần có đủ công cụ kiểm

soát hữu hiệu việc thực hiện nhiệm vụ đã được phân cấp. Bởi có kiểm soát

chặt chẽ, có đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ phân cấp, chính quyền

cấp trên mới có cơ sở để tiếp tục phân cấp, thôi phân cấp hoặc chuyển giao

thẩm quyền, nhiệm vụ cho cấp chính quyền khác.

Ngoài ra, cần có đủ hệ thống chế tài nghiêm minh, minh bạch để xử

lý vi phạm do cơ quan hành chính cấp dưới gây ra, xử lý các cá nhân có liên

quan khi có sai phạm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ phân cấp. Xây

xựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật mang tính bắt buộc áp dụng

chung để quy định rõ những nhiệm vụ, thẩm quyền phân cấp.

Ở chính quyền nhận nhiệm vụ phân cấp

Ở chính quyền được nhận nhiệm vụ phân cấp, cần trang bị các điều

kiện cần thiết như cơ sở vật chất, nguồn lực, đảm bảo đủ năng lực thực thi

nhiệm vụ. Chuẩn bị nguồn nhân lực, là những cá nhân có đủ kinh nghiệm,

trình độ, hiểu biết đối với nhiệm vụ được phân cấp để thực hiện nhiệm vụ

có hiệu quả. Chuẩn bị các tình huống ứng phó, xử lý trực tiếp khi thực hiện

nhiệm vụ phân cấp gặp khó khăn, vướng mắc. Nhiều trường hợp cần tiến

hành xin ý kiến cấp trên và sự phối kết hợp giữa các cơ quan, đơn vị trong

thực hiện nhiệm vụ. Do đó, cần chuẩn bị cơ sở vật chất, con người, là điều

kiện đảm bảo quan trọng. Khi thực hiện nhiệm vụ phân cấp, chính quyền

phường cần được liên kết chặt chẽ với nguồn lực về tài chính để có điều

kiện thực hiện đầy đủ, có hiệu quả.

Cần tính đến sự tham gia của người dân thông qua các hoạt động quần

chúng, cơ quan đại diện. Đây là thước đo thể hiện sự công khai, minh bạch

trong quá trình thực hiện phân cấp. Hiệu quả quản lý nhà nước về phân cấp

được phản ánh thông qua ý kiến của người dân, thông qua các hoạt động và

sự hài lòng của người dân. Ngoài ra, cần có điều kiện đảm bảo về cơ chế

60

phù hợp để người dân được có ý kiến dân chủ, công khai, bày tỏ những

mong muốn để cấp chính quyền trực tiếp giải quyết, đây cũng là cách thức

để người dân tham gia các hoạt động quản lý.

2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến phân cấp cho chính quyền phường

2.3.1. Yếu tố thể chế

Với tư cách là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội, thể chế có tác động

và ảnh hưởng mạnh mẽ tới các quan hệ xã hội nói chung, cũng như tới tất cả

các yếu tố của thượng tầng chính trị - pháp lý nói riêng. Sự tác động và ảnh

hưởng của thể chế ở nhiều mức độ khác nhau tùy thuộc vào từng loại đối tượng

và từng loại quan hệ cụ thể. Yếu tố thể chế có ảnh hưởng trong giai đoạn xây

dựng thể chế, thiết kế bộ máy chính quyền phường. Theo đó, cơ cấu tổ chức,

chức năng nhiệm vụ, thẩm quyền, về thực hiện phân cấp, phân quyền...đều được

quy định tại thể chế.

Chế định về chính quyền địa phương trong các văn bản luật và hướng

dẫn dưới luật sẽ xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của các cấp

chính quyền địa phương và xác định những quan hệ mang tính nguyên tắc giữa

các cấp chính quyền với nhau.

Do đó, khi các quy định pháp lý thay đổi sẽ làm ảnh hưởng đến mối quan

hệ này và mức độ, nội dung, hình thức giữa các cấp chính quyền địa phương.

Yếu tố thể chế cũng là cơ sở để thực hiện quá trình phân cấp giữa chính quyền

thành phố, chính quyền quận và phường. Nhờ khung thể chế mà chính quyền

thành phố, quận có khả năng quản lý thống nhất các hoạt động tại các phường.

Sự thay đổi của thể chế sẽ dẫn tới thay đổi ý thức, hành vi của con người trong

nhận thức, tác động mạnh mẽ và kéo theo những thay đổi trong phát triển xã

hội.

2.3.2. Yếu tố môi trường xã hội – văn hóa truyền thống

Dân cư đô thị nói chung, ở phường nói riêng rất đa dạng, phức tạp. Là

một khu vực tập hợp dân cư đông đúc, tập trung với mật độ cao, dân cư ở

61

phường có nguồn gốc rất khác nhau mang theo những phong tục, tập quán và

lối sống khác nhau. Dân cư ở phường có trình độ học thức và dân trí nhìn chung

cao hơn khu vực nông thôn, thành phần dân cư không thuần nhất. Cơ sở hạ tầng

ở phường phức tạp và đồ sộ hơn nhiều so với nông thôn. Các công trình trên

địa bàn có tính liên hoàn, có nhiều mạng lưới xuyên suốt, không phụ thuộc vào

địa giới hành chính, đòi hỏi quản lý tập trung theo chuyên ngành, không thể

phân tán, cắt khúc trong quản lý. Các cơ sở hạ tầng xã hội và phúc lợi công

cộng được xây dựng theo một quy hoạch thống nhất chung và phục vụ cho đại

đa số nhân dân. Do vậy việc quản lý dân cư của chính quyền phường gặp khó

khăn và phức tạp hơn nhiều so với nông thôn.

Văn hóa, truyền thống của cộng đồng lãnh thổ thể hiện những giá trị,

chuẩn mực để điều chỉnh hành vi con người, thể hiện thông qua dư luận xã hội.

Dân cư ở đô thị có văn hóa lối sống, hành xử phong phú, do sự đa dạng về dân

cư, do dịch chuyển lao động từ nông thôn ra thành thị, nên việc định hướng,

thực hiện văn hóa thống nhất trong các khu, cụm, tổ dân phố là vấn đề khó

khăn.

Yếu tố lịch sử, truyền thống còn tạo nên sự gắn kết giữa các cộng đồng

dân cư, tạo nên truyền thống, tập quán làm ăn, sinh sống và quan hệ xã hội riêng

có của mỗi địa phương, và là một chỗ dựa vững chắc về tinh thần. Các yếu tố

lịch sử, truyền thống còn tạo nên cách nghĩ, nếp sinh hoạt và thói quen tư duy

cũng như trong hành động của người dân, của đội ngũ cán bộ, công chức tại địa

phương. Vì thế các chủ trương, cơ chế, chính sách không phù hợp với lòng dân,

vi phạm yếu tố lịch sử, truyền thống của địa phương sẽ khó lòng mang tính khả

thi và khó đi vào đời sống xã hội trên địa bàn lãnh thổ.

Về môi trường xã hội còn có yếu tố môi trường quốc tế trong đó có hội

nhập và toàn cầu hóa.Toàn cầu hoá là một xu thế khách quan của quá trình phát

triển lực lượng sản xuất và tạo ra những bước tiến nhảy vọt dưới sự tác động

của cách mạng khoa học công nghiệp 4.0. Toàn cầu hoá tác động đến toàn bộ

62

nền kinh tế và quản lý nhà nước của tất cả các quốc gia buộc các Nhà nước và

chính quyền địa phương phải hướng hoạt động của mình vào việc hội nhập với

các tổ chức kinh tế trong khu vực và toàn cầu, tận dụng triệt để những lợi thế

mà mình có để biến tiềm năng thành hiện thực, giải quyết những thách thức của

quá trình toàn cầu hoá, với những nguy cơ tụt hậu bằng việc các Nhà nước phải

thích ứng nhanh với các xu thế phát triển. Điều đó đòi hỏi các đô thị phải có cơ

cấu tổ chức bộ máy thích ứng linh hoạt đáp ứng sự vận động, phát triển của tình

hình mới.

2.3.3. Yếu tố lãnh thổ và cộng đồng dân cư của phường

Mỗi đơn vị hành chính được xác định tương ứng với một quy mô lãnh

thổ và một cộng đồng dân cư nhất định, được hình thành do sự gắn bó từ trong

các điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội nhất định. Mỗi cộng đồng dân cư trên

một địa bàn lãnh thổ nhất định được hình thành dựa trên các mối liên kết mang

tính lịch sử, bắt nguồn từ mối liên hệ mật thiết, gắn bó, hỗ trợ tương tác lẫn

nhau giữa dân cư đô thị và dân cư nông thôn ở các làng mạc lân cận xung quanh

một đô thị. Trong một cộng đồng lãnh thổ thường có một đô thị trung tâm (thị

trấn, thị xã, thành phố) và các vùng nông thôn bao quanh, hình thành nên một

đơn vị hành chính - lãnh thổ nhất định (tỉnh, huyện, xã). Mối liên hệ về giá trị

cũng như về lợi ích chung của cộng đồng tạo nên sự liên kết bền vững của cộng

đồng trong tiến trình lịch sử. Đây chính là hình thức định cư chủ yếu của các

cộng đồng trên một quy mô không gian xác định. Vì vậy, đó chính là yếu tố địa

xã hộicủa việc xác lập đơn vị hành chính và xác định địa giới hành chính.

Các đô thị là nơi tập trung đông dân cư, mật độ dân số cao, nặng tính hợp

cư hơn là quần cư như các vùng khác. Dân số đông là một thế mạnh của các đô

thị trong việc tiến hành công nghiệp hóa trên địa bàn đô thị bởi sẽ đáp ứng được

nhu cầu về nguồn lực lao động sống tại chỗ cho sản xuất công nghiệp. Tuy

nhiên, cũng do mật độ dân số cao cũng sẽ gây nên rất nhiều khó khăn cho hoạt

động quản lý của chính quyền thành phố trong việc giải quyết công ăn việc làm,

63

việc bảo vệ an ninh trật tự xã hội, và các vấn đề đời sống khác của nhân dân,

trong bảo vệ cảnh quan, môi trường đô thị, giải quyết vấn đề giao thông, văn

hóa xã hội… Tại khu vực đô thị, nơi ở và nơi làm việc của dân cư đô thị thường

không cùng trên cùng một địa bàn. Các cư dân đô thị chỉ gắn liền với nơi cư trú

về một số mặt sinh hoạt, còn chủ yếu họ gắn liền với nơi công tác, nơi sản xuất

kinh doanh về thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi chính trị, kinh tế, văn hóa, đời

sống. Cộng đồng đô thị gắn bó chặt chẽ với nhau về nhu cầu và lợi ích (vật

chất, văn hóa, giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội…) các yếu tố này thống nhất trong

quy mô cả một đô thị mà không phải theo ranh giới hành chính, khác hẳn với

vùng nông thôn nơi mà cộng đồng dân cư gắn kết với nhau theo đơn vị làng xã

là chủ yếu.Các đô thị là các trung tâm chính trị - hành chính, kinh tế, văn hóa-

xã hội của cả nước, của địa phương. Bộ máy chính quyền các cấp ở các đô thị

gần nhau, tập trung trên địa bàn hẹp. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc chỉ

đạo thực hiện nhiệm vụ của cấp trên đối với cấp dưới, tuy nhiên điều này cũng

dễ dẫn đến tình trạng bao biện giải quyết các vấn đề thuộc lĩnh vực đời sống

thành phố của cấp trên đối với cấp dưới; sự đùn đẩy, ỷ lại trách nhiệm giữa cấp

dưới và cấp trên; hoặc sự chồng chéo giải quyết vụ việc, nếu sự phân cấp quản

lý không rõ ràng.

Trình độ dân trí ở các đô thị cao hơn ở vùng nông thôn. Đây cũng xuất

phát từ những điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội cao hơn các vùng nông thôn.

Từ nhận thức về các mặt xã hội, người dân ý thức được quyền hạn, nghĩa vụ,

trách nhiệm của bản thân nhưng đồng thời cũng đòi hỏi về dịch vụ đáp ứng yêu

cầu của người dân cũng cao hơn.

Trình độ dân trí của cộng đồng dân cư thể hiện sự hiểu biết của người

dân về pháp luật, văn hóa – xã hội, kinh tế, khoa học, kỹ thuật và công nghệ

ngày càng được nâng cao. Vì vậy, khi tham gia vào các công việc lien quan đến

quản lý Nhà nước người dân đỡ lung túng, nắm bắt nhanh chóng các quy trình,

thủ tục hành chính do Pháp luật quy định. Người dân có yêu cầu, đánh giá cao

64

đối với người thực thi quyền lực Nhà nước tại địa phương. Đòi hỏi cơ quan

quản lý nhà nước ở địa phương phải không ngừng nâng cao trình độ quản lý,

chất lượng đội ngũ cán bộ phải được nâng cao hơn nữa nhằm đáp ứng được yêu

cầu này của người dân. Người dân hiểu rõ được vị trí, quyền hạn của mình trong

quản trị ở địa phương đòi hỏi được tôn trọng quyền công dân. Sự tác động này

thể hiện ở việc tích cực tham gia vào kiểm tra, giám sát thực hiện Quy chế dân

chủ ở cơ sở. Vì vậy, trong quản trị địa phương cần chú ý tới tổ chức các hình

thức, phương thức tham gia của người dân thực hiện khoa học. Nhiều văn bản

quy phạm pháp luật được tổ chức xin ý kiến của người dân chưa thật sự hướng

vào các đối tượng bị điều chỉnh. Việc tiếp thu giải quyết các vấn đề mà nhân

dân nêu ra chậm và luôn bị tránh, né làm giảm lòng tin và nhiệt tình của người

dân. Trình độ sử dụng công nghệ thông tin để tham gia góp ý cho các văn bản

pháp luật của nhân dân đã được nâng cao. Người dân có khả năng truy cập được

báo chí điện tử và mong muốn được cập nhật các văn bản của Nhà nước, địa

phương thông qua các trang thông tin điện tử. Hiện nay sự phổ cập báo chí điện

tử mới giới hạn ở các thành phố và một số đối tượng – thường đã là cán bộ,

công chức nhà nước. Trình độ dân cư có những tác động tích cực đến quản trị

địa phương nhưng thực tế cho thấy cũng có những tác động tiêu cực ở một số

nội dung: số lượng nông dân có trình độ học vấn thấp chiếm tỷ lệ lớn tập trung

ở khu vực nông thôn, miền núi và lao động có trình độ cao tập trung ở các đô

thị; sự hiểu biết về pháp luật của dân còn nhiều hạn chế. Điều này cho thấy cơ

cấu dân cư về trình độ chưa đồng đều vì vậy việc quản lý tại những địa phương

có sự đa dạng về cơ cấu dân cư như vậy cần đưa ra những biện pháp khắc phục

những hạn chế này. Sự thiếu hiểu biết về pháp luật sẽ hạn chế việc tuyên truyền

đường lối, chính sách, pháp luật trong nhân dân.Những đặc điểm về kinh tế,

chính trị, xã hội và cộng đồng dân cư đô thị đặt ra yêu cầu đối với chính quyền

đô thị cần phải có cơ cấu tổ chức hợp lý, thống nhất, bảo đảm sự thông suốt,

65

nhanh nhạy và hiệu lực cao phù hợp với những đặc thù riêng, với cơ chế quản

lý thích hợp bảo đảm cho quyền lực nhà nước tác động trực tiếp tới các quan

hệ kinh tế xã hội ở các đô thị.

2.3.4. Yếu tố kinh tế trên địa bàn lãnh thổ

Mỗi đơn vị hành chính lãnh thổ đều gắn với một điều kiện tự nhiên nhất

định: ruộng đất, rừng, núi, sông suối, hồ ao, tài nguyên, khoáng sản,... Những

yếu tố này là cơ sở, là nguồn lực tự nhiên cho phát triển sản xuất, kinh doanh,

dịch vụ,…của mỗi đơn vị hành chính. Đối với đơn vị hành chính cấp tỉnh, yếu

tố địa kinh tế có ý nghĩa quan trọng, làm cơ sở để phát triển kinh tế tương đối

độc lập với cơ cấu công, nông nghiệp, thương mại, dịch vụ…tạo tiềm lực kinh

tế riêng của mỗi địa phương, đồng thời là một bộ phận cấu thành nền kinh tế

đất nước.

Tuy nhiên, không phải tất cả các đơn vị hành chính cấp tỉnh đều phải

phát triển kinh tế hoàn chính với đầy đủ các ngành, nghề khác nhau mà có thể

chỉ tập trung phát triển một số ngành, lĩnh vực nhất định, tùy theo đặc điểm, thế

mạnh, tiềm năng của từng địa phương. Các tỉnh đồng bằng thì chủ yếu là phát

triển nông nghiệp, còn công nghiệp và dịch vụ là cần thiết nhưng không phải là

chủ lực, trong khi đó các tỉnh trung du và miền núi thì chủ yếu nên phát triển

công nghiệp vì có lợi thế đất đai rộng, nhưng độ phì thấp, năng suất, sản lượng

sản phẩm nông nghiệp không cao…Tình trạng lấy đât “bờ xôi, ruộng mật” đề

phát triển công nghiệp là một sự lãng phí lớn hiện nay, xét về mặt địa kinh tế.

Đối với các đơn vị hành chínhcấp huyện hay cấp xã thì yếu tố địa kinh tế

có phần chi phối ít hơn đến việc xác lậpđơn vị hành chính. Không thể mỗi huyện,

mỗi xã đều là một đơn vị kinh tế với cơ cấu công- nông nghiệp - dịch vụ, với đủ

các ngành nghề khác nhau, mà chỉ là những đơn vị bộ phận của cơ cấu kinh tế

của tỉnh. Trong một tỉnh thì huyện này phát triển ngành nghề này, huyện khác

phát triển ngành nghề khác. Có huyện, thị chủ yếu là phát triển công nghiệp, có

huyện chủ yếu là nông nghiệp, tùy theo đặc điểm, thế mạnh của mỗi địa phương.

66

Tương tự như vậy, các xã trong một huyện cũng chỉ là những đơn vị kinh tế bộ

phận của một huyện, chỉ phát triển một số ít ngành nghề theo thế mạnh, tiềm

năng của từng cơ sở.

Yếu tố địa kinh tế chi phối sự phát triển không đồng đều của mỗiđơn vị

hành chính. Những địa phương có điều kiện tự nhiên thuận lợi, có nguồn tài

nguyên khoáng sản, đất, nước phong phú, giàu có hơn, có giao thông thuận lợi

hơn, có khí hậu ôn hòa thuận lợi hơn… thì có trình độ phát triển kinh tế cao hơn,

nhất là đối với cấp tỉnh. Điều này cần được xem xét ở mức độ nhất định khi xác

lập đơn vị hành chínhđể có cơ chế, chính sách phù hợp với từng loại đơn vị hành

chínhvới những điều kiện khó khăn, thuận lợi và trình độ phát triển kinh tế khác

nhau.

Yếu tố địa kinh tế còn được xem xét ở góc độ bảo tồn và phát huy các

ngành nghề truyền thống của mỗi địa phương, bởi phần lớn các cơ sở kinh tế

của địa phương tập trung tại các đô thị. Các công trình kinh tế, văn hóa xã hội

ở vùng đô thị được xây dựng và thiết lập theo quy hoạch chung của cả đô thị

nhằm đáp ứng thuận lợi nhất nhu cầu và lợi ích của dân cư mà không theo ý đồ

riêng của từng vùng đô thị. Sự tập trung cao về kinh tế địa bàn đô thị cũng tạo

ra những khó khăn cho hoạt động quản lý của chính quyền đô thị. Sự cạnh

tranh, những vi phạm pháp luật, vi phạm về an ninh môi trường, sử dụng vật

lực, tài lực… luôn có nguy cơ xảy ra đòi hỏi chính quyền thành phố phải quan

tâm can thiệp kịp thời để tránh những lộn xộn có thể xảy ra.

2.3.5. Yếu tố năng lực của chính quyền phường

2.3.5.1. Năng lực tổ chức bộ máy và các nguồn lực

Việc tổ chức và quản trị bộ máy chính quyền địa phương luôn phải dựa trên

cơ sở của quá trình phân cấp giữa trung ương – địa phương cũng như giữa các chính

quyền địa phương. Sự phân cấp quản lý trong bộ máy nhà nước có mục tiêu chung

là nhằm vào phát triển kinh tế xã hội, giải phóng sức lao động, các tiềm năng kinh

67

tế, đòi hỏi công dân phải tuân thủ pháp luật; mọi công dân được nhà nước bảo đảm

về mặt quyền lợi nhưng phải thực hiện các nghĩa vụ đối với nhà nước theo quy định

của pháp luật.

Chính quyền địa phương cần phải chịu trách nhiệm về lập kế hoạch phát

triển và cung cấp tài chính cho cơ sở hạ tầng kinh tế, như đường sá, công trình

thủy lợi ở địa phương, các công việc quản lý và thu thuế. Như vậy, các chính

quyền địa phương sẽ là trọng tâm của hàng loạt những hoạt động về đầu tư, tài

chính và pháp lý và tác động lên tốc độ và sự phát triển cân bằng của nền kinh

tế.Sự phân quyền cho chính quyền phường cũng có thể gây ra những rủi ro kinh

tế vĩ mô đối với chính quyền cấp trên. Nếu hoạt động tài chính ngoài ngân sách

của địa phương không được kiểm soát một cách chặt chẽ, đặc biệt là đối với

các trách nhiệm phát sinh, trong khi quyền tự chủ sâu hơn, tiếp cận rộng mở

hơn với thị trường vốn trong nước và quốc tế sẽ làm trầm trọng hơn những rủi

ro đối với nền kinh tế dài hạn. Do đó, cần phải cải thiện hệ thống giám sát, hoạt

động quản lý và thể chế nhà nước về lĩnh vực này.

2.3.5.2. Năng lực cung ứng dịch vụ công

Trong quá trình phân cấp quản lý, dịch vụ công là một trong những nội

dung được trao quyền nhiều nhất cho chính quyền địa phương. Tuy nhiên, vấn

đề đặt ra là liệu chính quyền địa phương có đảm đương nổi nhiệm vụ, chức

năng mới được phân cấp. Tuy lý do chính của phân cấp là dựa trên ưu thế của

chính quyền địa phương gần dân, sát dân hơn, có thể đưa ra các quyết định phù

hợp với nguyện vọng của cử tri hơn chính quyền trung ương, nhưng không có

gì bảo đảm là chính quyền địa phương khai thác được thế mạnh đó của mình

để đưa ra được các quyết định quản lý hiệu quả. Một số chính quyền địa phương

quy mô nhỏ có thể thiếu kinh nghiệm, thiếu khả năng chuyên môn, thiếu được

đào tạo để có thể quản lý một ngân sách lớn hơn trước. Chủ trương chung của

phân cấp là sự phân công chính quyền trung ương chú trọng đến các vấn đề

chiến lược tổng thể và tạo ra môi trường thuận lợi cho chính quyền địa phương

68

triển khai các mô hình cung ứng dịch vụ công phù hợp nhất với nguyện vọng

của nhân dân và hoàn cảnh thực tế địa phương. Tuy nhiên, trong thực tế, mức

độ phân cấp, phân quyền đến đâu là tuỳ thuộc chủ yếu vào năng lực của cộng

đồng địa phương (bao gồm của chính quyền địa phương, các tổ chức xã hội,

đoàn thể, các doanh nghiệp thuộc khu vực tư trên địa bàn). Tuy nhiên, đánh giá

năng lực của địa phương không dễ dàng. Trung ương có thể viện lý do địa

phương kém về năng lực nên không phân cấp. Do vậy, cần có kỹ năng đánh giá

năng lực của địa phương nói chung, của chính quyền địa phương nói riêng.

Khi đẩy mạnh cung ứng dịch vụ công xuống cho chính quyền địa phương

(chẳng hạn như dịch vụ giáo dục, y tế căn bản, cung cấp nước sạch..) trong khi

chính quyền địa phương còn nghèo nàn về cơ cấu tổ chức và năng lực kỹ thuật

thấp thì những vấn đề bất cấp sẽ nảy sinh.

Trường hợp các cơ quan địa phương không đủ năng lực để đảm nhận và

hoàn thành thành tốt công việc thì chính phủ trung ương nói chung sẽ khó có

thể giữ được hướng cung cấp dịch vụ tốt. Vấn đề đặt ra là phải đẩy mạnh chuyển

giao nguồn lực giữa trung ương với địa phương và giữa các cấp địa phương với

nhau. Nếu không duy trì và đẩy mạnh hoạt động này thì chính quyền địa phương

sẽ đối mặt với sự bất bình đẳng trong cung cấp dịch vụ giữa các khu vực quản

lý. Đây sẽ là một rào cản của quá trình phân cấp quản lý các dịch vụ công xuống

cho chính quyền địa phương.

Chính vì vậy, cần thiết phải đẩy mạnh phân cấp nhưng phân cấp quản lý

phải đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ của chính quyền cấp trên, theo dõi, đánh

giá hiệu quả của quá trình thực hiện phân cấp để từ đó có phương hướng tiếp

tục hoặc chấm dứt việc phân cấp, đồng thời nâng cao năng lực, trang bị đủ các

điều kiện vật chất, nguồn nhân lựccủa chính quyền địa phương và đặc biệt thực

hiện cơ chế trách nhiệm giải trình một cách sâu rộng đối với chính quyền địa

phương các cấp.

2.4. Phân cấp quản lý nhà nước giữa chính quyền thành phố và chính

69

quyền cơ sở của một số quốc gia trên thế giới, bài học kinh nghiệm.

2.4.1. Về phân cấp quản lý nhà nước giữa chính quyền thành phố và

chính quyền cơ sở

2.4.1.1. Cộng hoà liên bang Đức

Theo Hiến pháp Liên bang (Luật Cơ bản), CHLB Đức chia thành 13 bang

và 3 Thành phố hưởng quy chế đặc biệt như một bang (Berlin, Bremen,

Hamburg), trong đó có 5 bang thuộc về Cộng hòa Dân chủ Đức trước đây. Giữa

các bang có sự chênh lệch lớn về diện tích và dân số, có chủ quyền riêng cả về

lập pháp, hành pháp và tư pháp, song phải tôn trọng các nguyên tắc của Luật

cơ bản. Sau khi tái thống nhất đất nước, hiện nay CHLB Đức tổ chức thành 16

bang với tổng cộng 14.561 ĐVHC địa phương có vị trí chính trị độc lập

[61,tr.80,81].

Theo quy định của hiến pháp, nước Đức có các cấp độ chinh trị - hành

chính riêng biệt và độc lập về mặt pháp lý là: Liên bang, bang, thành

phố/huyện/quận và xã

Cấp độ liên bang: Đức là một quốc gia dân tộc có chủ quyền hợp hiến.

Cấp độ bang: Mỗi bang tự tổ chức các nhánh cơ quan lập pháp, hành

pháp, tư pháp.

Cấp thấp hơn bang là thành phố/huyện/quận

Cấp độ hành chính thấp nhất là thị trấn và xã. Xã ở Cộng hòa liên bang

Đức được hiểu là chỉ một đơn vị hành chính cơ sở, kể cả thành phố lớn, vừa và

nhỏ(trừ Berlin, Bremen, Hamburg). Mô hình hoạt động của các cấp chính

quyền là: chính quyền liên bang dựa vào chính quyền bang, chính quyền bang

dựa vào chính quyền địa phương (thành phố/huyện/quận; xã/thị trấn). Việc

phân chia quyền lực theo nguyên tắc: Những gì địa phương làm tốt hơn thì để

địa phương làm, trung ương chỉ làm những việc mà địa phương làm không tốt

hơn và mỗi cấp chính quyền này làm thì cấp chính quyền khác không làm. Mỗi

70

cấp chính quyền có tính chủ động, khi được phân nhiệm vụ thì cũng được phân

bổ ngân sách, có nguồn thu bảo đảm cho việc thực hiện nhiệm vụ của địa

phương [45, Tr.181].

Ở cộng hoà Liên bang Đức phân cấp, phân quyền quản lý công việc hành

chính theo nguyên tắc chung là những việc nào chính quyền địa phương làm

tốt thì trao quyền cho địa phương, cụ thể, liên bang thực thi 10% công việc

hành chính; bang 20% và địa phương 70%[46, Tr.28 ]

- Về phạm vi phân cấp của Cộng hòa liên bang Đức từ chính quyền trung

ương cho chính quyền cơ sở, chủ yếu là phân cấp gắn với tự quản của chính

quyền địa phương, tăng cường sự tham gia của khu vực tư vào cung ứng dịch

vụ công như công ty hoá, tư nhân hoá, nhà nước thực hiện hợp đồng với bên

ngoài.

- Nhiệm vụ quản lý địa phương có thể chia làm 3 nhóm ở Đức như sau:

Nhóm 1: Loại việc tự nguyện là tất cả các cộng đồng tự giải quyết theo phán

xét của cộng đồng; Nhóm 2: Loại việc bắt buộc là những nhiệm vụ quy định

bởi pháp luật của bang; Nhóm 3: Loại việc ủy quyền từ cấp trên, có thể là liên

quan đến chức năng cảnh sát, phục vụ giao thông đường phố, thanh tra, thanh

tra xây dựng, giám sát đối với người vô gia cư, thống kê dân số[11,Tr.131].

-Một số nội dung và thẩm quyền chủ yếu mà chính quyền cơ sở thực hiện

như:

Thẩm quyền về địa giới, lãnh thổ;

Về tổ chức: là quyền tự quyết định về bộ máy giúp việc như Hội đồng

xã, Xã trưởng, quyền xác định trô chức nội bộ của xã

Thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật (điều lệ, quy định,

quy chế) để xác định các công việc ở địa phương

Thẩm quyền về nhân sự như việc lựa chọn nhân sự, sắp xếp, sử dụng họ

và đưa ra các quyết định cần thiết về mặt nhân sự trong việc lựa chọn, sắp xếp

71

việc làm

Thẩm quyền về tài chính và giao nộp: nghĩa là chính quyền cơ sở có

quyền quyết định về tài chính trong khuôn khổ hoạt động ngân sách cấp, tự

quyết định các nguồn thu, khoản chi ngân sách. Các xã có các nguồn thu riêng

và không thuộc thẩm quyền của các bang hoặc liên bang.

2.4.1.2. Cộng hòa Pháp

Nền hành chính Pháp có truyền thống tập trung quyền lực vào trung

ương. Tất cả các chính sách được áp dụng đồng bộ, bình đẳng trên cả nước. Sau

cách mạng 1789, Hội đồng dân cử được thiết lập làm cơ sở cho sự trao quyền

cho các địa phương. Năm 1958, Hiến pháp của Pháp đã đề cập tới vấn đề phân

quyền, “các vùng, tỉnh, xã được quản lý hành chính một cách tự do bởi các hội

đồng dân cử”, và tản quyền “trong mỗi tỉnh, người được chính phủ ủy quyền

chịu trách nhiệm về lợi ích quốc gia, kiểm soát hành chính và tôn trọng luật

pháp”. Tuy nhiên, đến năm 1982, sau khi có Luật phân quyền, thì việc phân

quyền cho CQĐP mới được thực hiện đầy đủ, vai trò giám hộ của Tỉnh trưởng

và vùng trưởng đựơc thay thế bằng bằng vai trò kiểm soát tính hợp pháp quyền

điều hành địa phương được chuyển từ tỉnh trưởng sang chủ tịch Hội đồng địa

phương và chuyển giao một số thẩm quyền của nhà nước cho CQĐP. Luật năm

1992 và Luật năm 1995 đã củng cố thêm xu hướng xích lại gần nhau giữa tỉnh

trưởng và những đại biểu dân cử. Từ ngày 01 tháng 01 năm 2006, lãnh thổ hành

chính Cộng hòa Pháp được phân thành 22 vùng, 96 tỉnh và các xã. Theo đó, kể

từ ngày 28/3/2003, lãnh thổ hải ngoại (4 vùng, 4 tỉnh) không còn giá trị pháp

lý.

(1) Cấp vùng: Luật Phân quyền giao quy chế Hội đồng lãnh thổ cho 22

vùng ở chính quốc (bao gồm cả đảo Corse - có quy chế đặc biệt về vùng tự trị

địa phương) và 4 khu vực hải ngoại. Trước đây Vùng chỉ được coi như một khu

vực địa lý nhằm xác định phạm vi hoạt động của các cơ quan nhà nước (theo

72

Nghị định ngày 02 tháng 6 năm 1960 và 14 tháng 03 năm 1964), trước khi được

trao tư cách pháp nhân dưới dạng tổ chức sự nghiệp công bởi Luật ngày 05

tháng 7 năm 1972..

Như vậy, quản lý cấp vùng được giao cho một Hội đồng dân cử và từ

việc chỉ có thẩm quyền trong lĩnh vực phát triển kinh tế, vùng còn có thẩm

quyền chung đối với mọi vấn đề liên quan đến địa phương mình.Hội đồng Vùng

giải quyết các vấn đề của địa phương thông qua việc ban hành các nghị quyết.

Hội đồng bầu ra một chủ tịch có nhiệm vụ chỉ đạo các công việc của Vùng và

thực hiện các nghị quyết của Hội đồng. Hội đồng có thể giao một phần thẩm

quyền của mình cho một Ủy ban thường trực, trừ những vấn đề liên quan đến

việc biểu quyết ngân sách và lập quyết toán ngân sách.Vùng là đối tác ưu tiên

của Nhà nước trong việc thực hiện chính sách quy hoạch lãnh thổ và phát triển

kinh tế thông qua các hợp đồng kế hoạch (Luật 29 tháng 7 năm 1982) có thời

hạn là bốn năm. Ngoài ra, Vùng cũng có thẩm quyền trong lĩnh vực đào tạo

nghề, giao thông và giáo dục (cấp phổ thông trung học), quy hoạch lãnh thổ và

các cơ sở hạ tầng lớn (cảng, sân bay hoặc đường thủy).

(2) Cấp tỉnh: Theo Đạo luật phân quyền ngày 15-1-1970, Cộng hòa Pháp

có 100 tỉnh, trong đó có 4 tỉnh hải ngoại. Các thành viên của Hội đồng tỉnh

được bầu theo nguyên tắc đơn danh, đa số với hai vùng bỏ phiếu cho nhiệm kỳ

6 năm: mỗi một tổng (đơn vị bầu cử cấp địa phương có số dân dao động từ

1000 - 20.000 dân) bầu một đại biểu Hội đồng tỉnh. Hội đồng tỉnh bầu chủ tịch

Hội đồng tỉnh và một Ủy ban thường trực gồm từ 4 đến 10 phó chủ tịch và một

số thành viên khác.

Hội đồng tỉnh được trao một thẩm quyền chung để giải quyết những vấn

đề trực tiếp liên quan tới tỉnh. Hội đồng đưa ra những quyết định mang tính

quan trọng và xác định khuôn khổ của các hoạt động thuộc quyền hành pháp.

Hội đồng can thiệp chủ yếu trong lĩnh vực ngân sách, thiết lập và phát triển các

dịch vụ công ở cấp tỉnh và quản lý các tài sản công. Ủy ban thường trực nhận

73

sự ủy quyền từ Hội đồng tỉnh để giải quyết các vấn đề liên quan trừ việc biểu

quyết ngân sách và lập quyết toán ngân sách. Kể từ năm 1982, chủ tịch Hội

đồng tỉnh thay thế Tỉnh trưởng thực hiện chức năng hành pháp của tỉnh. Nhờ

quá trình phân quyền, các tỉnh được chuyển giao một số lượng công chức rất

lớn và có toàn quyền đối với các cơ quan chuyên môn phụ trách về những lĩnh

vực mà tỉnh đó được chuyển giao thẩm quyền. Đứng đầu các cơ quan chuyên

môn này là một giám đốc (thường là một cán bộ của tỉnh được bổ nhiệm tạm

thời). Các cơ quan này hoạt động ở 3 vấn đề chính: hành chính và tài chính, kỹ

thuật và xã hội.

(3) Cấp xã: Quy chế xã hiện nay do Luật Phân quyền ngày 5 tháng 4 năm

1884 quy định. Pháp có số lượng xã rất lớn, hiện có 36.783 xã [32]. Xã được

điều hành bởi Hội đồng xã do dân bầu ra với nhiệm kỳ 6 năm, là cơ quan có

quyền biểu quyết và một bộ phận có chức năng hành pháp bao gồm xã trưởng

và các trợ lý.

Xã được coi như một mắt xích trong quá trình phân quyền: xã có ngân

sách chiếm tới 2/3 tổng chi tiêu của các lãnh thổ và số công chức chiếm tới 90%

nhân viên thuộc hệ thống công vụ.

Ở Pháp, các cơ quan trung ương điều hành chính đối với việc thực hiện các

chính sách địa phương. Hầu hết các Bộ điều hành bao quát chung cả nước về

giáo dục, phát triển nông nghiệp, phòng, chống tội phạm, y tế cộng đồng, thể

thao, đường bộ. 95% công chức nhà nước làm việc ở các địa phương. Đây là

một tỷ lệ là duy nhất trong số các nhà nước thành viên của OECD và EU.

Việc cải cách phân cấp ở Pháp đã công nhận các cơ quan có thẩm quyền ở

địa phương là những cơ quan có đầy đủ tư cách pháp nhân hoạt động độc lập

với sự điều hành của cấp quận. Trách nhiệm xây dựng quyết định của các đơn

vị địa phương và vùng đã được nâng cao qua việc mở rộng khu vực địa phương

thành các khu vực chính sách mới như là các tổ chức xã hội, các tổ chức giáo

dục và phát triển kinh tế[46,Tr.39]

74

2.4.1.3. Nhật Bản

Hệ thống chính quyền địa phương ở Nhật Bản được thành lập sau thời kỳ

phục hưng của hoàng đề Minh Trị năm 1868. Nhật có 03 Luật điều chỉnh về

chính quyền địa phương gồm: Luật tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành

chính cấp quận, huyện, thị trấn; Luật tổ chức Hội đồng cấp tỉnh; Luật thuế địa

phương.

Vấn đề phân cấp nhiệm vụ trong bộ máy nhà nước Nhật Bản gắn với vấn

đề về tự quản địa phương. Tại Chương VIII, Hiến pháp Nhật Bản quy định như

sau: “Các thiết chế công quyền địa phương sẽ thành lập các cơ quan hội đồng

với tư cách là cơ quan bàn và quyết nghị, phù hợp với quy định của Luật” (Điều

93). “Các thiếtchế công quyền địa phương có quyền quản lý tài sản và công

việc của mình, đồng thời được ban hành quy tắc riêng của mình trong khuôn

khổ luật định” (Điều 94)[11,Tr153].

Với mục đích đẩy mạnh phân quyền cho chính quyền địa phương, năm

1995, Nhật Bản ban hành luật tăng cường phân cấp trong đó quy định quyền

kiểm tra, giám sát của Chính phủ Trung ương và chính quyền cấp tỉnh đối với

chính quyền cơ sở theo hướng tôn trọng quyền tự trị và độc lập của chính quyền

địa phương, hạn chế tới mức tối thiểu sự can thiệp của chính quyền trung ương.

Đến năm 2006, Luật này được sửa đổi, quy định về định hướng phân cấp với

các nội dung sau:

Chuyển giao quyền lực cho chính quyền địa phương.

Hợp lý hóa các quy định về lĩnh vực thuế quan trọng của chính quyền

địa phương cũng như sự can thiệp của chính quyền Trung ương.

Kiểm tra các vấn đề liên quan đến hệ thống tài chính, ví dụ như trợ cấp

ngân sách quốc gia và hệ thống chia sẽ bắt buộc, phân bổ thuế địa phương.

Thành lập và cũng cố hệ thống hành chính địa phương nhằm tăng cường

quyền tự chủ của công dân. [ 46, Tr.39]

- Các nhiệm vụ của cấp cơ sở (thành phố/thị trấn/làng) ở Nhật Bản thường

75

được thực hiện phân cấp gắn với tự quản, tự quyết định như sau:

Nhiệm vụ về quy hoạch thành phố (phân khu và các cơ sở tiện ích ở đô

thị); về đường trong thành phố

Nhiệm vụ về cung cấp các chương trình hỗ trợ cuộc sống hàng ngày ở các

thành phố, cung cấp chương trình phúc lợi dành cho trẻ em; tổ chức chương

trình phúc lợi chăm sóc sức khỏe cho người già

Tổ chức hệ thống thoát nước; Đăng ký công dân và đăng ký người nước

ngoài; Thu gom rác, xử lý rác thải sinh hoạt...[11, Tr.161]

2.4.2. Bài học kinh nghiệm

Thứ nhất, cần quy định rõ các thẩm quyền của chính quyền cơ sở, có những

thẩm quyền riêng biệt và được tự quyết trong phạm vi thẩm quyền

Thực tế, dấu hiệu có một cơ quan dân cử (HĐND) là chưa đủ để tạo nên

một chính quyền cơ sở độc lập. Điều cốt lõi là cơ quan đó sau khi đã được nhân

dân địa phương chính thức lập ra phải có những thẩm quyền tự quyết. Theo quy

định của nhiều quốc gia, những thẩm quyền riêng của cơ sở được quy định theo

hai phương án: liệt kê các thẩm quyền của chính quyền cơ sở hoặc quy định

theo kiểu loại trừ. Thông thường, đối với các đơn vị hành chính lãnh thổ có quy

chế tự quản hành chính, các thẩm quyền này khó có thể xác định bằng phương

pháp liệt kê đơn thuần. Thay vào đó, sẽ xuất hiện những khái niệm khá trừu

tượng, ví dụ: cấp xã ở Pháp có thẩm quyền giải quyết các công việc liên quan

đến: “lợi ích chung của xã” (l’interet communal), và hội đồng xã ban hành nghị

quyết để giải quyết các “công việc của xã” (des afaires communales). Phạm vi

các khái niệm này khó xác định, bởi nhà làm luật không quy định chi tiết nên

người áp dụng và giải thích luật chỉ có thể hình dung các thẩm quyền này bằng

việc tự đưa ra các ranh giới về thẩm quyền đó. Theo đó, chính quyền Trung

ương, chính quyền cấp trên chỉ thực hiện công tác quản lý nhà nước ở tầm vĩ

mô mà không bị chi phối vào các công việc sự vụ ở địa phương. Chính quyền

cơ sở cần có những thẩm quyền riêng biệt – so với các cơ quan nhà nước cấp

76

trên. Đó là các thẩm quyền được thực hiện trong phạm vi phân cấp. Có thể các

thẩm quyền này được thừa nhận tại Luật tổ chức, hoặc được quy định rành

mạch tại các Luật chuyên ngành. Các thẩm quyền đó có thể được quy định theo

hướng liệt kê, hoặc lý tưởng hơn – theo kiểu loại trừ: những gì mà không thuộc

phạm vi hoạt động của trung ương thì thuộc thẩm quyền hoạt động của chính

quyền cơ sở.

Thứ hai, bộ máy thực hiện nhiệm vụ tinh gọn và giảm các cấp trung gian

không cần thiết

Bỏ bớt cơ quan quyền lực cấp trung gian và cấp địa phương để hội đồng

nhân dân cấp cơ sở thực quyết và thực quyền. Giảm đầu mối giám sát, chỉ đạo

và tập trung quyền lực cho chính quyền cơ sở để thực hiện những nhiệm vụ

được phân cấp. Đối với các quốc gia phát triển, việc giảm các tầng nấc trung

gian trong thực hiện nhiệm vụ là xu hướng lớn. Theo đó, chính quyền các cấp

thường tinh gọn về nhân sự và đầu mối thực hiện. Mỗi việc, mỗi nhiệm vụ chỉ

giao cho một cấp thực hiện và cấp đó chịu trách nhiệm trước pháp luật về nhiệm

vụ của mình. Chính quyền cấp trên không can thiệp trực tiếp vào công việc,

nhiệm vụ của chính quyền cấp dưới và họ có sự tự quyết, tự chịu trách nhiệm

trong khuôn khổ pháp luật, đảm bảo người dân là đối tượng được hưởng lợi tối

đa từ các hoạt động của cơ quan chính quyền cơ sở.

Thứ ba, thực hiện phân cấp hợp lý mang lại hiệu quả tích cực trong việc

nâng cao tính tự chủ, sáng tạo, hiệu quả hoạt động của chính cơ sở trong hoạt

động quản lý

Thông thường, các nhiệm vụ được phân cấp quy định rõ tại các Luật của

các nước hoặc các văn bản có giá trị bắt buộc. Khi thực hiện, chính quyền cơ

sở thực hiện phân cấp phát huy tối đa tính tự chủ, sáng tạo trong công việc. Sử

dụng các cách thức, phương tiện và nguồn lực khác nhau để hoàn thành công

việc và có tính hiệu quả cao.

Đây là vấn đề các quốc gia thường minh bạch, rõ ràng trong phân cấp

77

nhiệm vụ, nhiều trường hợp quy định rõ từng nhiệm vụ tại văn bản để chính

quyền cơ sở có căn cứ để thực hiện. Và việc phân cấp thực hiện nhiệm vụ cần

tính toán đến điều kiện thực tế của mỗi địa phương. Điều này luật một số quốc

gia có thể trao cho chính quyền cơ sở thực hiện nhiệm vụ và cho phép chính

quyền cơ sở phát huy tối đa khả năng sáng tạo trong việc tổ chức thực hiện trên

cơ sở tư tưởng dân chủ và có hiệu quả.

Thứ tư, địa phương phải có đủ nguồn lực, phương tiện để thực hiện thẩm

quyền được chính quyền cấp trên phân cấp

Việc quy định các thẩm quyền tự quyết của chính quyền cơ sở sẽ không có

ý nghĩa nếu như không trao cho địa phương các phương tiện để thực hiện các

thẩm quyền đó. Chính vì vậy, địa phương ở các nước đều có các nguồn nhân

lực và tài chính khá độc lập. Điều này được ghi nhận trong pháp luật. Các

phương tiện công cụ để thực hiện thẩm quyền địa phương về cơ bản có: quyền

ra văn bản pháp luật, quyền tự chủ tài chính, quyền tự chủ trong tuyển dụng, sử

dụng nhân sự.

Tại Pháp, đó là nguồn thu từ thuế, theo Điều 72-2 Hiến pháp 1958: “Các

đơn vị hành chính lãnh thổ có nguồn lực riêng và được tự do sử dụng nguồn

lực đó trong những điều kiện do luật quy định. Các đơn vị hành chính lãnh thổ

có quyền tiếp nhận một phần hoặc toàn bộ các nguồn thu từ các loại thuế. Luật

có thể cho phép chính quyền cơ sở xác định cơ sở tính thuế và mức thuế trong

những giới hạn do Luật quy định. Nguồn thu từ thuế và các nguồn thu riêng

biệt khác của đơn vị hành chính lãnh thổ là phần quan trọng nhất trong toàn bộ

nguồn lực tài chính của đơn vị đó”. Nguyên tắc “việc chuyển giao thẩm quyền

phải đi kèm với chuyển giao phương tiện, công cụ thực hiện thẩm quyền đó”

đã trở thành nguyên tắc Hiến định từ sau khi sửa đổi Hiến pháp năm 2003. Việc

quy định thêm thẩm quyền mới hoặc mở rộng một thẩm quyền hiện có nếu làm

tăng chi tiêu của đơn vị hành chính lãnh thổ thì phải đi kèm với việc cấp thêm

nguồn lực từ Nhà nước trung ương theo quy định của pháp luật”.

78

Tiểu kết Chương 2

Với phương pháp tổng hợp, phân tích, tại chương 2 của luận án được đề

cập, làm rõ các vấn đề như:

1. Làm rõ một số khái niệm liên quan như phân cấp, phân cấp quản lý

nhà nước và lý giải sự cần thiết phân cấp quản lý nhà nước. Làm rõ những đặc

điểm của chính quyền đô thị; những vấn đề về chính quyền phường và vị trí,

vai trò, đặc điểm của chính quyền phường.

2. Từ nhu cầu khách quan, phát triển lợi ích của mỗi địa phương và bối

cảnh kinh tế - xã hội phát triển, nhà nước cần có các biện pháp gia tăng hiệu

quả hoạt động quản lý, trong đó có giải pháp về phân cấp là những lý giải cho

việc tất yếu khách quan khi tiến hành phân cấp cho chính quyền phường.

3. Không có mẫu chung đối với mọi quốc gia cho nội dung, hình thức,

phương pháp phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền cơ sở. Đối với chính

quyền phường, nội dung phân cấp có thể được nhìn nhận ở các mặt như: phân

cấp về thẩm quyền quản lý nhà nước; phân cấp quản lý nhà nước về trực tiếp

cung ứng dịch vụ công trên địa bàn phường. Hình thức phân cấp cũng được

phân định ở mức độ tương đối gồm: Ủy quyền, tảm quyền, trao quyền. Phương

pháp tiến hành phân cấp thường được sử dụng bởi công cụ là các văn bản quy

phạm pháp luật quy định trực tiếp về phân cấp hoặc quy định gián tiếp, rải rác,

đan xen tại các văn bản quy phạm điều chỉnh trên nhiều lĩnh vực khác nhau.

Các nguyên tắc khi tiến hành phân cấp được xác định là bảo đảm sự thống nhất

quyền lực, quản lý nhà nước của Chính phủ; nguyên tắc cân đối; hiệu lực, hiệu

quả; phù hợp; bảo đảm nguồn lực. Luận án cũng nghiên cứu về các biện pháp

bảo đảm việc thực hiện phân cấp có hiệu quả, nhìn nhận từ góc độ chính quyền

tiến hành phân cấp và chính quyền tiếp nhận thực hiện nhiệm vụ, thẩm quyền

phân cấp.

4. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến phân cấp cho chính quyền phường

như: yếu tố pháp lý, môi trường xã hội – văn hóa truyền thống; lãnh thổ và cộng

79

đồng dân cư; kinh tế, năng lực của chính quyền phường.

5. Chương 2 cũng đã tìm hiểu một số kinh nghiệm của các quốc gia trong

thực hiện phân cấp và bài học kinh nghiệm như: cần quy định rõ các thẩm quyền

của chính quyền cơ sở, có những thẩm quyền riêng biệt và được tự quyết trong

phạm vi thẩm quyền; bộ máy thực hiện nhiệm vụ tinh gọn, giảm các cấp trung

gian; thực hiện phân cấp triệt để mang lại hiệu quả tích cực trong việc nâng cao

tính tự chủ, sáng tạo, hiệu quả hoạt động của chính cơ sở trong hoạt động quản

lý và địa phương phải có đủ nguồn lực, phương tiện để thực hiện thẩm quyền

được chính quyền cấp trên phân cấp.

Chương 3. THỰC TRẠNG PHÂN CẤP CHO CHÍNH QUYỀN

PHƯỜNG TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI

3.1. Thực trạng tổ chức, hoạt động của chính quyền phường tại

Thành phố Hà Nội

3.1.1. Đơn vị hành chính phường của Thành phố Hà Nội

Thành phố Hà Nội là thủ đô của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

(XHCN) Việt Nam, là trung tâm chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn

về văn hóa, khoa học, giáo dục, y tế và giao dịch quốc tế. Theo Điều 2, Luật

thủ đô: Thủ đô nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là Hà Nội; Thủ đô là trung

tâm chính trị - hành chính quốc gia, nơi đặt trụ sở của các cơ quan trung ương

của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan đại diện ngoại

giao, tổ chức quốc tế; là trung tâm lớn về văn hóa, giáo dục, khoa học và công

nghệ, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước; Trụ sở cơ quan trung ương

Đảng, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ đặt tại khu vực Ba Đình thành

phố Hà Nội.

Hà Nội được chia làm 30 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm: 12 quận,

17 huyện và 01 Thị xã (Thị xã Sơn Tây) với 584 đơn vị hành chính cấp xã gồm:

80

386 xã, 177 phường và 21 thị trấn [59, Tr. 27].

Mới đây, theo Nghị quyết số 895/NQ-UBTVQH14 ngày 11/2/2020 của

Ủy ban thường vụ Quốc hội về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã của

Thành phố Hà Nội, đã quyết định sắp xếp đơn vị hành chính phường không đủ

tiêu chuẩn về quy mô dân số và diện tích theo quy định tại Nghị quyết

1121/2016/NQ-UBTVQH13 ngày 25/5/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội

về tiêu chuẩn của đơn vị hành chính và phân loại đơn vị hành chính. Theo đó,

phường Bùi Thị Xuân và phường Ngô Thị Nhậm thuộc quận Hai Bà Trưng đã

được nhập vào phường Nguyễn Du; và nhập một phần diện tích, dân số của

phường Ngô Thị Nhậm vào phường Phạm Đình Hổ. Tiến hành sắp xếp lại một

số đơn vị hành chính thuộc huyện Phúc Thọ.

Như vậy, sau khi thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã của thành

phố Hà Nội, thành phố Hà Nội có 30 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 12

quận, 17 huyện và 01 thị xã; 579 đơn vị hành chính cấp xã gồm có 383 xã, 175

phường và 21 thị trấn.

Thành phố Hà Nội tính đến hết năm 2017, có dân số là: 7.654,8 nghìn

người, trong đó có dân số thành thị là 3.764,1 nghìn người, chiếm 49,2% và

dân số nông thôn là 3.890,7 nghìn người, chiếm 50,8%, với mật độ trung bình

là 1.935 người/km2 (Cao thứ 2 ở Việt Nam) [58,Tr.36]

Theo Luật Tổ chức CQĐP năm 2015, chính quyền phường là cấp chính

quyền đầy đủ, có HĐND phường và UBND phường. Chính quyền phường được

hiểu là một loại đơn vị hành chính trong nội bộ của đô thị, thuộc quận hoặc thị

xã. Đơn vị hành chính phường là một loại đơn vị hành chính trong nội bộ đô

thị, thuộc quận hoặc thị xã.

Phường ở Hà Nội thuộc các quận của Thành phố Hà Nội và 09 phường

của Thị xã Sơn Tây [80] gồm: Loại phường thuộc nhóm đã đô thị hóa và

phường thuộc nhóm đang đô thị hóa. Phường thuộc nhóm đã đô thị hóa là các

phường có lịch sử thành lập lâu đời (phường Nguyễn Trãi thuộc quận Hà Đông:

81

1975; phường Phương Mai, Quang Trung thuộc quận Đống Đa: 1978; phường

Điện Biên, Đội Cấn, Giảng Võ, Kim Mã thuộc quận Ba Đình: 1978…), đạt tiêu

chí đô thị và được công nhận là đô thị theo tiêu chuẩn tại các văn bản quy phạm

pháp luật. Ngoài ra, phường đã đô thị hóa thuộc quận tại thành phố Hà Nội

thường có mật độ dân cư sinh sống ở mức rất cao (khoảng từ 4 đến 8 vạn

dân/phường), các dịch vụ và cơ sở hạ tầng như giao thông, trường học, bệnh

viện, an ninh trật tự luôn trong tình trạng quá tải, lực lượng sản xuất phi nông

nghiệp hoàn toàn.

Phường thuộc nhóm đang đô thị hóa là loại phường vừa được thành lập

từ vùng nông thôn trước đây, đang trong giai đoạn giao thoa, phát triển, có đan

xen giữa yếu tố nông thôn với đô thị ở nhiều phương diện (kinh tế, văn hoá, tôn

giáo, hoạt động kinh tế xã hội, cơ sở hạ tầng, không gian địa lý, cách sinh hoạt,

lối sống,…) có cả sản xuất nông nghiệp và thường là phường mới được thành

lập phường theo tiêu chí đô thị.

Tại Hà Nội, phường là loại hình tổ chức đơn vị hành chính thuộc quận,

của thành phố trực thuộc Trung ương. Do đó, địa bàn của phường là nơi thường

xuyên diễn ra các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh - quốc

phòng quan trọng của Trung ương và thành phố. Cơ sở hạ tầng tốt và hiện đại

thể hiện sự đồng bộ, tính thống nhất cao, có nhiều mạng lưới xuyên suốt địa

bàn, không phụ thuộc vào địa giới hành chính. Trong loại hình phường này lại

chia ra các phường nằm trong khu vực nội thành và khu vực ven đô. Các

phường nội thành là nơi tập trung đông dân cư, các trụ sở công quyền, các tụ

điểm văn hoá, vui chơi; là nơi tập trung chủ yếu các hoạt động kinh doanh và

thương mại của đô thị. Nhìn chung, đời sống cư dân ở các phường nội thành

khá hơn ở các phường ở ven đô do các phường ở nội thành có các hoạt động

văn hóa, kinh tế, xã hội thường xuyên và các dịch vụ lớn, nhiều cá nhân, tổ

chức đề nghị cung ứng hơn phường ở ngoại thành.

3.1.2. Chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của chính quyền phường

82

ở Thành phố Hà Nội

Theo Điều 58, Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, chính

quyền phường là cấp chính quyền đầy đủ, có cơ cấu tổ chức gồm HĐND

phường và UBND phường.

HĐND phường gồm các đại biểu HĐND do cử tri ở phường bầu ra, là

cơ quan quyền lực nhà nước ở phường, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và

quyền làm chủ của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và

cơ quan nhà nước cấp trên.

UBND phường do HĐND phường bầu, là cơ quan chấp hành của HĐND

phường, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước

nhân dân địa phương, HĐND phường và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên.

Theo đó, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương ở phường gồm:

Tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trên địa bàn

phường; Quyết định những vấn đề của phường trong phạm vi được phân quyền,

phân cấp theo quy định của Luật và quy định khác của pháp luật có liên quan;

Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do cơ quan hành chính nhà nước cấp trên ủy

quyền; Chịu trách nhiệm trước chính quyền địa phương ở quận, thị xã, thành

phố thuộc tỉnh về kết quả thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền

địa phương ở phường; Quyết định, tổ chức thực hiện các biện pháp nhằm phát

huy quyền làm chủ của Nhân dân, huy động các nguồn lực xã hội để xây dựng

và phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh trên địa bàn phường

[34, tr71].

Theo Điều 60 Luật tổ chức CQĐP năm 2015, cơ cấu tổ chức của HĐND

phường gồm: “Các đại biểu HĐND do cử tri ở phường bầu ra... Thường trực

HĐND phường gồm Chủ tịch HĐND phường, một Phó Chủ tịch HĐND

phường. Phó Chủ tịch HĐND phường là đại biểu HĐND hoạt động chuyên

trách. HĐND phường thành lập Ban pháp chế, Ban kinh tế - xã hội. Ban của

HĐND phường gồm có Trưởng ban, một Phó Trưởng ban và các Ủy viên. Số

83

lượng Ủy viên của các Ban của HĐND do HĐND phường quyết định. Trưởng

ban, Phó Trưởng ban và các Ủy viên của các Ban của HĐND phường hoạt động

kiêm nhiệm” [34, Tr.72].

Nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND phường gồm: “Ban hành nghị quyết về

những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân phường; Bầu,

miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch HĐND, Phó Chủ tịch HĐND, Trưởng ban,

Phó Trưởng ban của HĐND phường; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch

UBND, Phó Chủ tịch UBND và các Ủy viên UBND; Quyết định dự toán thu

ngân sách nhà nước trên địa bàn; dự toán thu, chi ngân sách phường; điều chỉnh

dự toán ngân sách phường trong trường hợp cần thiết; phê chuẩn quyết toán

ngân sách phường. Quyết định chủ trương đầu tư chương trình, dự án trên địa

bàn phường theo quy định của pháp luật; Giám sát việc tuân theo Hiến pháp và

pháp luật ở địa phương, việc thực hiện nghị quyết của HĐND phường; giám

sát hoạt động của Thường trực HĐND, UBND cùng cấp, Ban của HĐND cấp

mình; giám sát văn bản quy phạm pháp luật của UBND cùng cấp; Lấy phiếu

tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân

phường bầu theo quy định tại Điều 88 và Điều 89 của Luật này; Bãi nhiệm đại

biểu HĐND phường và chấp nhận việc đại biểu HĐND phường xin thôi làm

nhiệm vụ đại biểu; Bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản trái pháp luật của

UBND, Chủ tịch UBND phường” [34, Tr73].

Tuy nhiên, mới đây theo Nghị quyết số 97/2019/QH14 ngày 27/11/2019

của Quốc hội về thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị tại thành phố Hà

Nội, quy định chính quyền địa phương ở các quận, thị xã tại thành phố Hà Nội

là UBND phường. Theo đó, UBND phường là cơ quan hành chính nhà nước ở

phường.

Cũng theo Nghị quyết ngày, UBND phường có nhiệm vụ quyền hạn: a)

Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đơn vị dự toán ngân sách trực thuộc UBND

quận, thị xã; b) Đề xuất chủ trương đầu tư chương trình, dự án đầu tư công sử

84

dụng vốn ngân sách nhà nước với UBND quận, thị xã; tham gia ý kiến về chủ

trương đầu tư dự án thuộc thẩm quyền quyết định của cơ quan, cá nhân có thẩm

quyền mà Luật đầu tư công quy định phải có sự tham gia ý kiến của HĐND cấp

xã; tổ chức thực hiện chương trình, dự án đầu tư công theo phân cấp quản lý;

c) Đề xuất, phối hợp với cơ quan có thẩm quyền thực hiện nhiệm vụ về quốc

phòng, an ninh, biện pháp bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng

chống tội phạm theo phân cấp quản lý; d) Thực hiện các nhiệm vụ về tổ chức,

đảm bảo thi hành Hiến pháp, pháp luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp

trên trên địa bàn phường…

Bảng 3.1. Số lượng cơ cấu, chất lượng, trình độ đào tạo cán bộ

phường của Thành phố Hà Nội

Giới tính Tuổi Trình độ lý luận chính trị

Nam Nữ Từ 30 Tổng số

31- 40 41- 50 Trên 50 Trung cấp Sơ cấp

trở xuống Chưa qua đào tạo

Cử nhân, cao cấp 68 154 113 41 4 65 51 34 66 0 11

Đảng viên Trình độ chuyên môn

Tiến sĩ

Sơ cấp Đại học Trung cấp Chưa qua đào tạo

154

38

0

4

Thạc sĩ 61

Nguồn: Báo cáo Sở Nội vụ Hà Nội

Bảng 3.2. Số lượng cơ cấu, chất lượng, trình độ đào tạo công chức

phường của Thành phố Hà Nội

Giới tính Tuổi Trình độ lý luận chính trị

Nam Nữ Từ 30 Tổng số

31- 40 41- 50 Trên 50 Trung cấp Sơ cấp

trở xuống Chưa qua đào tạo

85

Cử nhân, cao cấp

203 116 12 119 53 19 5 78 0 36

Đảng viên Trình độ chuyên môn

Tiến sĩ

Trung cấp Chưa qua đào tạo Sơ cấp Đại học

182

141

0

11

0

Thạc sĩ 50

Nguồn: Báo cáo Sở Nội vụ Hà Nội

Nhiệm vụ, quyền hạn của UBND phường: Xây dựng, trình Hội đồng

nhân dân phường quyết định các nội dung quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều

61 của Luật tổ chức CQĐP và tổ chức thực hiện nghị quyết của HĐNDphường;

Tổ chức thực hiện ngân sách địa phương; Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do

cơ quan nhà nước cấp trên phân cấp, ủy quyền [34, tr74]

3.2. Thực trạng phân cấp cho chính quyền phường tại Thành phố Hà

Nội

3.2.1. Hệ thống thể chế chính trị, pháp lý về phân cấp quản lý nhà

nước

- Các quy định của Đảng, pháp luật của nhà nước về phân cấp

Phân cấp quản lý nhà nước được thể hiện khá rõ về chủ trương trong các

văn bản của Đảng, văn bản pháp luật của Nhà nước. Từ Nghị quyết số

08/2004/NQ-CP của Chính phủ ngày 30/6/2004 đã quy định về tiếp tục đẩy

mạnh phân cấp quản lý nhà nước giữa chính phủ và chính quyền tỉnh, thành

phố trực thuộc trung ương. Với chủ trương này, xác định công cuộc đổi mới đất

nước, sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xu

hướng mở cửa, hội nhập quốc tế đòi hỏi phải đổi mới, tăng cường phân cấp

quản lý nhà nước giữa Trung ương và địa phương, nhằm phát huy mạnh mẽ

tính năng động, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương trong

thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn.

Các nội dung được đề nghị phân cấp được định hướng như: Phân cấp

86

quản lý quy hoạch, kế hoạch và đầu tư phát triển; Phân cấp quản lý đất đai, tài

nguyên, tài sản nhà nước; Phân cấp quản lý doanh nghiệp nhà nước; Phân cấp

quản lý các hoạt động sự nghiệp, dịch vụ công; Phân cấp quản lý về tổ chức bộ

máy và cán bộ công chức.

Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI (2011) đề ra nhiệm vụ, giải pháp chủ

yếu: “Thực hiện phân cấp hợp lý cho chính quyền địa phương đi đôi với nâng

cao chất lượng quy hoạch và tăng cường thanh tra, kiểm tra giám sát của trung

ương, gắn quyền hạn với trách nhiệm được giao” và yêu cầu “Nâng cao chất

lượng hoạt động của HĐND và UBND các cấp, đảm bảo quyền tự chủ,tự chịu

trách nhiệm trong việc quyết định và tổ chức thực hiện những chính sách trong

phạm vi được phân cấp”[23, Tr.250].

Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII (2016) tiếp tục đề ra nhiệm vụ, giải

pháp: “Hoàn thiện cơ chế phân cấp, bảo đảm tính thống nhất, thông suốt trong

lãnh đạo, quản lý, điều hành từ trung ương đến cơ sở…Phân định rõ quyền hạn

và trách nhiệm trong quản lý kinh tế, xã hội giữa trung ương và địa phương,

bảo đảm sự tập trung thống nhất quản lý của trung ương và phát huy tính chủ

động, tự chịu trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương. Hoàn thiện cơ

chế phân cấp đầu tư, ngân sách, bảo đảm quản lý thống nhất về quy hoạch phát

triển và cân đối nguồn lực”[24, Tr.310].

Điều 112, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhiệm vụ, quyền hạn của

chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa

các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền

địa phương” [33, Tr.59].

Khoản 4 Điều 5 Luật Tổ chức chính phủ năm 2015 quy định nguyên tắc

tổ chức và hoạt động của Chính phủ: “4. Phân cấp, phân quyền hợp lý giữa

Chính phủ với chính quyền địa phương, bảo đảm quyền quản lý thống nhất của

Chính phủ và phát huy tính chủ động, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của chính

quyền địa phương.”

87

Khoản 1, Điều 13 Luật tổ chức CQĐP năm 2015 quy định phân cấp là

việc cơ quan nhà nước cấp trên: “căn cứ yêu cầu công tác, khả năng thực hiện

và điều kiện, tình hình cụ thể của địa phương, cơ quan nhà nước ở trung ương

và địa phương được quyền phân cấp cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan

nhà nước cấp dưới thực hiện một cách liên tục, thường xuyên một hoặc một số

nhiệm vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền của mình” [34, Tr.19].

Theo quy định của các Luật này, có thể nhận thấy:

Chủ thể phân cấp: chính quyền trung ương hoặc chính quyền địa phương;

Chủ thể nhận phân cấp: chính quyền địa phương hoặc cơ quan nhà nước

cấp dưới;

Quyền hạn, trách nhiệm được phân cấp là những quyền hạn, trách nhiệm

được phát sinh từ quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan phân cấp (cơ quan nhà

nước cấp trên).

Phương thức phân cấp: văn bản quy phạm pháp luật dưới luật của cơ

quan nhà nước phân cấp, theo quy định của Luật ban hành văn bản QPPL năm

2015.

Cụ thể hóa chủ trương của Đảng, Chính phủ ban hành Nghị quyết số

21/NQ-CP ngày 21/3/2016 về phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và

UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Theo đó, mục tiêu thực hiện phân

cấp là nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực

trên cơ sở thực hiện phân cấp hợp lý, rõ ràng về nhiệm vụ, quyền hạn và trách

nhiệm giữa Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ và

UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đảm bảo sự quản lý thống nhất

của Chính phủ, phát huy tính chủ động, trách nhiệm, tinh thần sáng tạo của

chính quyền địa phương. Các nội dung Nghị quyết nhấn mạnh về phân cấp

gồm: Quản lý ngân sách nhà nước; Thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu

nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước và phần vốn Nhà nước đầu tư vào

doanh nghiệp; Về quản lý đầu tư; Về quản lý công vụ, cán bộ, công chức, viên

88

chức; Về quản lý đất đai.

Nghị quyết cũng giao nhiệm vụ cho UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc

TW chịu trách nhiệm trước cơ quan phân cấp đối với những việc được phân

cấp quản lý nhà nước, tiếp tục phân cấp quản lý nhà nước cho UBND huyện,

quận, thị xã thành phố thuộc tỉnh và UBND xã, phường thị trấn.

Các quy định của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước cho thấy,

chủ trương về phân cấp được Đảng ta xác định từ lâu và thực tế văn bản ban

hành có nội dung đề xuất về phân cấp quản lý nhà nước từ chính quyền cấp trên

cho chính quyền cấp dưới và giữa các cấp chính quyền với nhau. Tuy nhiên, rõ

nét quy định về phân cấp giữa chính quyền thành phố cho chính quyền phường

chưa được nhắc đến cụ thể, chưa chính xác hóa cụm từ “phân cấp quản lý nhà

nước từ chính quyền thành phố cho chính quyền phường”. Có chăng các quy

định này thực hiện dưới dạng quy định về thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ

cho xã, phường, thị trấn chứ không gắn với cụm từ phân cấp hay “phân cấp cho

chính quyền phường”.

Trong một vài quy định cụ thể, vấn đề phân cấp được đề xuất dưới dạng

như quy định “một cấp chính quyền hai cấp hành chính”, trong Luật tổ chức

chính quyền địa phương năm 1958 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Một số

quy định khác như: quy định tại khoản 2 Điều 5 Nghị định số 79/2007/NĐ-CP

về thẩm quyền, trách nhiệm của UBND xã, phường, thị trấn trong việc chứng

thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký (nay là khoản 2 Điều 5 Nghị định

số 23/2015/NĐ-CP). Văn bản thực định trong nhiều giai đoạn lịch sử không đề

cập đến cụm từ “phân cấp cho chính quyền phường” hoặc cụm từ: “phân cấp

quản lý nhà nước đối với chính quyền phường”, tuy nhiên trong bản chất thực

thi nhiệm vụ của mỗi cấp chính quyền, thông qua văn bản quy định trên cho

thấy, đã có nhiệm vụ được phân cấp từ chính quyền cấp trên cho chính quyền

cấp dưới và giữa chính quyền các cấp với nhau, song chưa được gọi đúng tên

89

là “phân cấp quản lý nhà nước”.

- Các quy định của của chính quyền thành phố Hà Nội về phân cấp trong

quản lý hành chính nhà nước

Việc thực hiện phân cấp trong quản lý hành chính nhà nước ở Thành phố

Hà Nội trong nhiều năm qua đã thể hiện tích cực, nhất là trong các văn bản chỉ

đạo điều hành của thành phố. Cụ thể là:

Quyết định số 10/2011/QĐ-UBND ngày 02/3/2011 của UBND TP Hà

Nội về phân cấp nhiệm vụ chi thực hiện Luật dân quân tự vệ giữa các cấp ngân

sách và một số chế độ, chính sách đối với lực lượng dân quân tự vệ trên địa bàn

TP Hà Nội.

Quyết định số 01/2015/QĐ-UBND ngày 19/1/2015 của UBND TP Hà

Nội về phân cấp cấp giấy phép kinh doanh Karaoke trên địa bàn TP Hà Nội.

Theo đó, UBND TP Hà Nội phân cấp cho UBND cấp huyện cấp giấy phép kinh

doanh Karaoke cho các tổ chức doanh nghiệp (kể cả doanh nghiệp có vốn đầu

tư nước ngoài - FDI) đăng ký hoạt động kinh doanh Karaoke, hộ kinh doanh

Karaoke khi đáp ứng đủ điều kiện kinh doanh và hồ sơ.

Quyết định 41/2016/QĐ-UBND ngày 19/9/2016 của UBND Thành phố

ban hành quy định phân cấp quản lý nhà nước một số lĩnh vực hạ tầng, kinh tế

- xã hội trên địa bàn bao gồm: Quản lý đường bộ; Chiếu sáng công cộng; Quản

lý công viên, cây xanh, thảm cỏ; Quản lý thoát nước đô thị và xử lý nước thải;

Quản lý vệ sinh môi trường; Quản lý bến, bãi xe ô tô; Quản lý cấp nước sạch,

Quản lý thủy lợi, đê điều; quản lý rừng; quản lý thông tin và truyền thông; quản

lý giáo dục và đào tạo – dạy nghề; Quản lý văn hóa thể thao, du lịch; Quản lý

y tế; Quản lý công tác phục vụ tang lễ.

Văn bản chỉ đạo điều hành số 5414/UBND-KT ngày 19/9/2016 của

UBND thành phố Hà Nội về việc giao nhiệm vụ cho các sở, ngành, quận huyện

triển khai thực hiện lập, trình UBND thành phố phê duyệt danh mục các công

90

trình do thành phố, cấp huyện quản lý làm cơ sở bàn giao thực hiện phân cấp.

Nghị quyết số 13/2016/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân TP Hà Nội

về việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách, tỷ lệ % phân

chia nguồn thu giữa các cấp ngân sách và định mức phân bổ chi ngân sách thành

phố giai đoạn 2017 – 2020.

Nghị quyết 08/2016/NQ-HĐND ngày 03/8/2016 của HĐND TP Hà Nội

về phân cấp quản lý nhà nước lĩnh vực hạ tầng, kinh tế xã hội trên địa bàn thành

phố Hà Nội. Theo đó, Nghị quyết nêu mục tiêu, nguyên tắc phạm vi phân cấp

quản lý nhà nước một số lĩnh vực hạ tầng, kinh tế, xã hội trên địa bàn TP Hà

Nội. Các lĩnh vực hạ tầng, kinh tế xã hội được thực hiện phân cấp gồm:a) Lĩnh

vực đường bộ b) Lĩnh vực chiếu sáng công cộng; c) Lĩnh vực công viên, vườn

hoa, cây xanh; d) Lĩnh vực thoát nước đô thị; đ) Lĩnh vực xử lý nước thải; e)

Lĩnh vực vệ sinh môi trường; f) Lĩnh vực bến, bãi đỗ xe, vận tải hành khách;

g) Lĩnh vực cấp nước sạch; h) Lĩnh vực thủy lợi; i) Lĩnh vực đê điều; k) Lĩnh

vực lâm nghiệp; l) Lĩnh vực thông tin truyền thông; m) Lĩnh vực giáo dục đào

tạo, dạy nghề; n) Lĩnh vực văn hóa - thể thao, du lịch; o) Lĩnh vực y tế; p) Lĩnh

vực nghĩa trang, tang lễ.

Nghị quyết quy định việc phân cấp quản lý nhà nước giữa chính quyền

TP và chính quyền cấp huyện. Nếu thấy cần thiết và được chính quyền TP cho

phép, căn cứ các nội dung được chính quyền TP phân cấp quản lý, chính quyền

cấp huyện có thể tiếp tục phân cấp cho cấp xã thực hiện quản lý từng lĩnh vực

và nội dung công việc trên địa bàn, đảm bảo phù hợp điều kiện, khả năng cụ

thể của mỗi địa phương, phù hợp thẩm quyền, trách nhiệm của cấp xã theo quy

định của Nhà nước.

Quyết định số 33/2017/QĐ-UBND ngày 09/10/2017 của UBND Thành

phố Hà Nội về việc phân cấp thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công

nghiệp trên địa bàn Thành phố Hà Nội. Theo đó, Quyết định phân cấp cho Sở

Tài nguyên và Môi trường tổ chức thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải

91

công nghiệp của các đối tượng nộp phí có lưu lượng nước thải phát sinh từ

20m3/ngày đêm. Phân cấp cho Phòng tài nguyên và Môi trường quận, huyện và

thị xã (cấp huyện) tổ chức thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công

nghiệp của các cơ sở thuộc đối tượng nộp phí trên địa bàn quận, huyện, thị xã

và có lưu lượng nước thải phát sinh dưới 20m3/ngày đêm.

Quyết định số 46/2017/QĐ-UBND ngày 29/12/2017 của UBND TP Hà

Nội về việc phân cấp cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh khí dầu mỏ

hóa lỏng cho cửa hàng bán LPG chai thuộc hộ kinh doanh và hợp tác xã trên

địa bàn TP Hà Nội. Theo đó, quyết định phân cấp cho UBND cấp huyện cấp

giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dầu mỏ hóa lỏng cho cửa hàng bán

LPG chai thuộc hộ kinh doanh và hợp tác xã trên địa bàn.

Quyết định số 20/2018/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân TP Hà Nội về

ban hành: “Quy định một số nội dung về quản lý đầu tư các dự án đầu tư công

của thành phố Hà Nội”. Theo đó, Quyết định đã có phân cấp, ủy quyền cho các

sở, ban, ngành, thành phố và cấp huyện được thực hiện thủ tục đầu tư.

Quyết định số 01/2018/ QĐ-UBND của UBND TP Hà Nội về việc phân

cấp tiếp nhận, rà soát biểu mẫu kê khai giá bán sữa và thực phẩm chức năng

dành cho trẻ em dưới 06 tuổi của các thương nhân phân phối trên địa bàn Hà

Nội. Quyết định này được UBND Thành phố Hà Nội phân cấp cho các UBND

quận, huyện, thị xã tiếp nhận, rà soát biểu mẫu kê khai giá bán lẻ sữa và thực

phẩm chức năng dành cho trẻ em dưới 06 tuổi của các thương nhân phân phối

có đăng ký kinh doanh trên địa bàn quận, huyện, thị xã trong trường hợp giá

bán lẻ của thương nhân phân phố vượt quá mức giá bán lẻ khuyến nghị đã kê

khai của thương nhân sản xuất, nhập khẩu theo quy định của pháp luật.

Các văn bản chỉ đạo của Thành phố đều được kịp thời ban hành để thực

hiện phân cấp, đảm bảo đúng chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về

phân cấp. Các văn bản trước đây của chính quyền Thành phố và chính quyền

phường thường không đề cập tới cụm từ “phân cấp quản lý nhà nước đối với

92

chính quyền phường”, tuy nhiên trong thực hiện đã có một vài nội dung được

quy định theo phương thức thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ. Ví như đầu

những năm 2000, ở Thành phố Hà Nội có quy định về phân cấp xử lý vi phạm

hành chính trong lĩnh vực xây dựng giữa chính quyền cấp huyện với chính

quyền cấp xã, được gọi nôm na là: “móng phường, tường quận”

Về mặt văn bản quy định cụ thể, qua rà soát cho thấy, cấp xã, phường,

thị trấn cho đến nay chưa có văn bản QPPL của Thành phố Hà Nội, quy định

trực tiếp về vấn đề “phân cấp thực hiện nhiệm vụ tại phường”.

Có một vài văn bản chỉ đạo điều hành quy định, trên cơ sở phân cấp của

Thành phố Hà Nội cho chính quyền quận, huyện thực hiện nhiệm vụ. Theo đó,

chính quyền quận, huyện có thể tiến hành phân cấp tiếp theo các nhiệm vụ cho

chính quyền xã, phường để thực hiện. Tuy nhiên, các văn bản này dùng các quy

định về giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm; chưa dùng khái niệm “phân

cấp”, “phân cấp quản lý nhà nước” cho chính quyền phường. Điều này dẫn đến,

i) về mặt nội dung có thể một vài phường đã thực hiện nhiệm vụ phân cấp, tuy

nhiên cũng có nhiều phường chưa thực hiện nhiệm vụ này, ii) về mặt hình thức,

các quy định nêu trên là chưa đầy đủ để làm căn cứ thực hiện phân cấp trên các

lĩnh vực quản lý nhà nước tại phường. Các quy định cụ thể như sau:

- Các quy định của quận về giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, giao

nhiệm vụ đối với các phường thuộc quận ở Thành phố Hà Nội

Trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật, văn bản phân cấp của chính

quyền Thành phố Hà Nội phân cấp thực hiện nhiệm vụ cho các Quận trên địa

bàn thành phố, các quận đã chủ động ban hành văn bản để yêu cầu chính quyền

phường thực thi nhiệm vụ. Các văn bản được chủ yếu là văn bản hành chính

như: Quyết định, Nghị quyết, Công văn; Thông báo; Kế hoạch tiếp tục giao tự

chủ, tự chịu trách nhiệm, giao nhiệm vụ cho các phường thuộc quận để thực

hiện quản lý nhà nước trên địa bàn và triển khai thực hiện nhiệm vụ theo chức

93

năng, quyền hạn. Chủ yếu nội dung các văn bản này mang tính chất chỉ đạo

hành chính để phường thực hiện, cụ thể trên các lĩnh vực quản lý nhà nước, có

ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống, nhu cầu thiết yếu của người dân. Cụ thể:

Lĩnh vực quản lý Văn bản và cụ thể nhiệm vụ được giao

NN, nhiệm vụ

được quận giao

cho phường tự

chủ, tự chịu trách

nhiệm

Lĩnh vực đầu tư, - Văn bản: Số 999/UBND-QLĐT của UBND quận

giao thông, hạ tầng, Đống Đa về triển khai các nhiệm vụ theo Kết luận của

xây dựng đô thị Thường trực HĐND TP về phiên giải trình thực hiện

kết luận chất vấn tại các kỳ họp HĐND khóa XV đối

với công tác quản lý trật tự xây dựng trên địa bàn TP.

- Nhiệm vụ được giao:

Tăng cường lực lượng kiểm tra đối với các công trình

hoạt động trên địa bàn phường

Phối hợp đội quản lý trật tự xây dựng đô thị thiết lập

hồ sơ vi phạm trật tự đô thị

Giao trách nhiệm Chủ tịch UBND phường chịu trách

nhiệm trước UBND quận về những vi phạm trật tự xây

dựng phát sinh mới và kết quả xử lý đối với các vi

phạm tồn đọng.

Lĩnh vực tài chính – - Văn bản:Quyết định 669/QĐ-UBND ngày 26/3/2018

ngân sách của UBND quận Hai Bà Trưng về việc giao tự chủ, tự

chịu trách nhiệm về sử dụng kinh phí quản lý hành

chính đối với các đơn vị quản lý nhà nước và UBND

94

các phường thuộc quận Hai Bà Trưng năm 2018

- Nhiệm vụ được giao: UBND quận Hai Bà Trưng giao

cho các phường thuộc quận tự chủ, tự chịu trách nhiệm

trong sử dụng kinh phí quản lý hành chính đối với

UBND các phường thuộc quận.

Lĩnh vực tổ chức bộ - Công văn số 660/UBND-NV ngày 5/6/2019 của Quận

máy, cán bộ, công Hai Bà Trưng về tăng cường thực hiện công tác cải

chức, viên chức cách hành chính

- Nhiệm vụ được giao

Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan thuộc quận tỏng

triển khai thực hiện nhiệm vụ CCHC.

Tổ chức niêm yết công khai, đầy đủ, kịp thời,d đúng

quy định các TTHC, thực hiện theo cơ chế một cửa,

một cửa liên thông

Nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động của Bộ phận

tiếp nhận và trả kết quả, bảo đảm thực chất, giảm tỷ lệ

hồ sơ quá hạn, phải bổ sung hồ sơ trong quá trình giải

quyết; thực hiện nghiêm túc quy định về xin lỗi cá

nhân, tổ chức đối với các hồ sơ quá hạn, lỗi trong quá

trình tiếp nhận hồ sơ.

Đẩy mạnh ứng dụng CNTT; triển khai có hiệu quả các

nhóm nhiệm vụ về xây dựng, phát triển chính quyền

điện tử theo chỉ đạo của TP; vận hành có hiệu quả cổng

dịch vụ công trực tuyến của TP, phần mềm một cửa

dùng chung 3 cấp; tăng cường sử dụng hiệu quả các

phần mềm quản lý và cơ sở dữ liệu dùng chung.

Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát nhằm

95

ngăn ngừa, kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm các vi

phạm của CB, CC, VC, đảm bảo kỷ luật, kỷ cương

hành chính; định kỳ tổ chức sơ kết, tổng kết, đánh giá,

nhân rộng gương làm tốt trong công tác CCHC; hưởng

ứng phong trào thi đua về CCHC của TW và TP.

Lĩnh vực môi Quyết định số 2265/QĐ-UBND ngày 14/9/2018 về

trường việc giao nhiệm vụ kiểm tra, giám sát công tác vệ sinh

môi trường trên địa bàn quận Cầu Giấy, Hà Nội.

- UBND các phường kiểm tra, rà soát lại toàn bộ các

chân điểm cẩu, điểm tập kết rác thải sinh hoạt, chủ

động đề xuất di chuyển, thay thế các điểm còn chưa

hợp lý trên địa bàn quận.

- Tăng cường xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh

vực vệ sinh môi trường theo Nghị định 155/2016/NĐ-

CP ngày 18/11/2016 của CP. Theo đó UBND cấp xã có

thẩm quyền phạt vi phạm hành chính với các hình thức

phạt cảnh cáo, phạt tiền, tịch thu tang vật vi phạm.

- Tăng cường kiểm tra, giám sát công tác thực hiện của

đơn vị duy trì đảm bảo đúng quy trình, định mức kinh

tế kỹ thuật, đảm bảo an toàn lao động, an toàn giao

thông đường bộ trong quá trình công tác duy trì vệ sinh

môi trường.

- Đẩy mạnh sự vào cuộc của cấp ủy, chính quyền địa

phương, các tổ chức chính trị - xã hội trong công tác

phối hợp kiểm tra và duy trì vệ sinh môi trường sống

Lĩnh vực xử lý phản Công văn của UBND quận Đống Đa số 950/UBND-

ánh, kiến nghị. BTCD về việc thực hiện Quy định số 11- QĐ/TW, ngày

96

18/02/2019, của Bộ Chính trị về trách nhiệm của người

đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp

với dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị của dân.

- Chủ tịch UBND các phường tổ chức tuyên truyền,

phổ biến, quán triệt, xây dựng kế hoạch và tổ chức triển

khai thực hiện nghiêm Kế hoạch số 186-KH/QU ngày

28/5/2019 của Ban Thường vụ Quận ủy Đống Đa và

chỉ đạo của Chủ tịch UBND Thành phố.

- Phục vụ tốt hoạt động tiếp công dân định kỳ của

người đứng đầu cấp ủy địa phương, nhất là trong công

tác thông tin về tình hình, kết quả xử lý, giải quyết đối

với các vụ việc cụ thể, việc theo dõi, đôn đốc, giải

quyết, trả lời phản ánh, kiến nghị sau khi tiếp công dân.

Chủ động thông tin, báo cáo kết quả kiểm tra, giải

quyết các vụ việc với Văn phòng Quận ủy để phục vụ

hoạt động tiếp công dân.

Bảng 3.3. Nhiệm vụ được giao của UBND phường thông qua

văn bản hành chính của UBND quận

Qua nội dung được giao nhiệm vụ thực hiện tại UBND phường cho thấy,

các văn bản cấp trên khi giao thường chỉ giao nhiệm vụ, yêu cầu trách nhiệm,

chưa thể hiện rõ quyền lợi và các điều kiện đảm bảo về cơ sở vật chất, con

người, nguồn lực để phường làm căn cứ thực hiện. Hình thức giao nhiệm vụ

được thực hiện thông qua công văn, trong vài trường hợp là quyết định hành

chính cá biệt. Tuy nhiên, nội dung văn bản thể hiện tính chất nhiệm vụ cấp trên

giao cấp dưới thực hiện, chịu trách nhiệm trước chính quyền cấp trên về những

vấn đề được giao. Hoạt động thực tiễn của các phường cho thấy, đây là các

nhiệm vụ của quận, song các quận đã giao cho phường chịu trách nhiệm, trong

97

nhiều trường hợp là phối hợp trực tiếp với quận để giải quyết tình huống thực

thi nhiệm vụ, tuy nhiên hình thức văn bản giao nhiệm vụ lại là văn bản hành

chính.

3.2.2. Thực trạng thực hiện phân cấp quản lý nhà nước của các cấp

chính quyền tại Hà Nội

Ngoại trừ một số nội dung chính quyền Thành phố không tiến hành phân

cấp cho chính quyền quận, huyện như: Quy trình, tiêu chuẩn kỹ thuật, định mức

kinh tế kỹ thuật; kiểm tra chính quyền cấp huyện trong việc thực hiện quản lý

nhà nước theo phân cấp. Còn lại các nội dung quản lý nhà nước trên địa bàn,

Thành phố Hà Nội đã tích cực thực hiện phân cấp quản lý hành chính cho chính

quyền quận, huyện ở Thành phố Hà Nội. Cụ thể như sau:

3.2.2.1. Lĩnh vực quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội

Theo phân cấp của TP Hà Nội tại Quyết định số 41/2016/QĐ-UBND

ngày 19/9/2016 của UBND TP Hà Nội về phân cấp quản lý nhà nước một số

lĩnh vực hạ tầng, kinh tế - xã hội trên địa bàn TP Hà Nội, lĩnh vực quy hoạch,

kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội thuộc thẩm quyền quyết định của thành phố

và có phân cấp về quận, huyện. Theo các quy định này, phường không có quyền

quyết định, chỉ thừa hành, triển khai theo chính quyền cấp trên.

Tuy nhiên, trên thực tế khi thực hiện nhiệm vụ quy hoạch, TP Hà Nội đối

diện với nhiều khó khăn, nhất là phải tuân thủ nhiều văn bản quy định về quản

lý quy hoạch. Theo đó, có trên 28 Luật và 29 Nghị định và nhiều thông tư với

nhiều loại quy hoạch khác nhau để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước trên địa

bàn. Các vấn đề quy hoạch đều cần có cấp thẩm quyền phê duyệt, song việc

phân cấp về thẩm quyền phê duyệt chưa thực sự thống nhất giữa các Bộ, ngành,

địa phương và giữa các Bộ với nhau.

Có thể cùng là một loại quy hoạch cấp tỉnh, song cơ quan có thẩm quyền

quyết định có thể là cấp trung ương hoặc UBND cấp tỉnh, HĐND cấp tỉnh. Điều

này dẫn tới khi thực hiện phân cấp trong thẩm quyền quyết định quy hoạch, cơ

98

quan được phân cấp không tự mình quyết định, thường sẽ xin ý kiến từ cơ quan

cấp trên hoặc cơ quan có thẩm quyền trước khi quyết định, dẫn đến thực hiện

nhiệm vụ chậm trễ, kém hiệu quả.

3.2.2.2. Lĩnh vực đầu tư, giao thông, hạ tầng đô thị

Theo các quy định phân cấp của TP Hà Nội, mọi thẩm quyền đầu tư và

quản lý giao thông, hạ tầng đô thị thuộc thẩm quyền của TP Hà Nội và của

quận, huyện.

Đối với quản lý đường bộ, cấp huyện, quận được thực hiện các nội dung

phân cấp như: Về đầu tư: Đầu tư xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp, mở rộng hệ

thống đường bộ còn lại trên địa bàn, trừ đường do Trung ương và Thành phố

đầu tư quy định. Về quản lý sau đầu tư: Quản lý, bảo trì, lắp đặt các trang thiết

bị phục vụ tổ chức giao thông: hệ thống đường bộ còn lại và toàn bộ hè đường

trên địa bàn, trừ các đường do Thành phố quản lý sau đầu tư đi qua địa bàn

huyện, thị xã; Quản lý, bảo trì, lắp đặt các trang thiết bị phục vụ tổ chức giao

thông: các tuyến đường; ngõ, ngách và toàn bộ hè đường trong các khu đô thị

còn lại trên địa bàn huyện, thị xã sau khi chủ đầu tư các khu đô thị bàn giao về

Thành phố, trừ đường trong các khu đô thị do Thành phố quản lý

Đối với quản lý chiếu sáng công cộng, cấp huyện, quận được thực hiện

các nội dung phân cấp như: Về đầu tư xây dựng mới hệ thống chiếu sáng công

cộng đồng bộ với đầu tư hệ thống đường bộ do cấp huyện đầu tư; Đầu tư xây

dựng bổ sung, cải tạo, nâng cấp, mở rộng hệ thống chiếu sáng công cộng trên

các tuyến đường bộ, trong các công viên, vườn hoa và các khu vực công cộng

khác do cấp huyện quản lý sau đầu tư. Về quản lý sau đầu tư: quản lý, duy tu,

bảo trì và cấp điện hệ thống chiếu sáng công cộng còn lại trên địa bàn, trừ phần

Thành phố quản lý sau đầu tư

Về quản lý công viên, vườn hoa, cây xanh, thảm cỏ cấp huyện, quận được

thực hiện các nội dung phân cấp như: Về đầu tư: Đầu tư xây dựng mới công

viên (gồm cả hồ nước trong công viên), vườn hoa còn lại trên địa bàn, trừ phần

99

Thành phố đầu tư; Đầu tư trồng mới cây xanh, thảm cỏ trong các khu vực công

cộng, trên hệ thống đường do cấp huyện đầu tư. Về quản lý sau đầu tư:Quản lý,

duy trì, chăm sóc, bảo tồn các công viên (bao gồm cả bảo đảm chất lượng nước

hồ), vườn hoa còn lại trên địa bàn, trừ các công viên, vườn hoa Thành phố quản

lý sau đầu tư; Quản lý, duy trì, chăm sóc, cắt sửa, trồng bổ sung, thay thế cây

xanh, thảm cỏ còn lại trên địa bàn, trừ cây xanh, thảm cỏ do Thành phố quản lý

sau đầu tư. Quản lý các nội dung khác có liên quan:Cấp phép chặt hạ, dịch

chuyển cây xanh: trong các công viên; vườn hoa; các khu vực công cộng; các

tuyến đường, ngõ, ngách còn lại trên địa bàn, trừ phần cây xanh do Thành phố

cấp phép chặt hạ, dịch chuyển, trong các trường hợp chặt hạ, dịch chuyển cây

xanh phải có giấy phép theo quy định.

Về quản lý thoát nước đô thị và xử lý nước thải: cấp huyện, quận được

thực hiện các nội dung phân cấp như: Đối với quản lý thoát nước đô thị: Về đầu

tư: được đầu tư xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp, mở rộng:Hệ thống thoát nước

gắn với các khu vực, các tuyến đường do cấp huyện đầu tư.Hệ thống thoát nước

còn lại, trừ hệ thống thoát nước do Thành phố đầu tư. Về quản lý sau đầu

tư:quản lý, duy tu, duy trì: hệ thống thoát nước và các hồ điều hòa còn lại trên

địa bàn, trừ phần Thành phố quản lý sau đầu tư. Quản lý các nội dung khác có

liên quan:

Đối với xử lý nước thải, cấp huyện được thực hiện các nội dung phân

cấp như: Cấp, thu hồi giấy phép đấu nối xả thải nước; giám sát việc xả thải

nước vào công trình thoát nước đô thị do cấp huyện quản lý sau đầu tư.

Về quản lý vệ sinh môi trường, cấp huyện, quận được thực hiện các nội

dung phân cấp như: Về đầu tư:Đầu tư xây dựng mới hoặc cải tạo, nâng cấp, mở

rộng các khu tập kết rác thải sinh hoạt có phạm vi phục vụ nội huyện. Về quản

lý sau đầu tư:Quản lý, duy trì vệ sinh môi trường: quét hút; rửa đường, hè; thu

gom, vận chuyển chất thải và công tác vệ sinh môi trường khác trong toàn bộ

phạm vi địa giới hành chính (trừ các đường cao tốc).Quản lý, vận hành và duy

100

trì các khu tập kết rác thải sinh hoạt có phạm vi phục vụ nội huyện do cấp huyện

đầu tư.Quản lý các nội dung khác có liên quan:Chỉ đạo và hướng dẫn trong việc

thành lập và tổ chức hoạt động của tổ chức tự quản về bảo vệ môi trường tại

địa phương, đảm bảo hoạt động có hiệu quả.

Về quản lý đê điều: cấp huyện, quận được thực hiện các nội dung phân

cấp như: Về đầu tư:Đầu tư xây dựng mới hoặc cải tạo, nâng cấp, mở rộng các

tuyến đê (kể cả công trình trên đê) từ cấp IV trở xuống và các tuyến đê chưa

phân cấp trên địa bàn. Về quản lý sau đầu tư:Quản lý, duy tu, bảo trì toàn bộ

các tuyến đê (kể cả công trình trên đê) do cấp huyện đầu tư. Vềquản lý các nội

dung khác có liên quan:Trực tiếp quản lý, bảo vệ hệ thống đê theo phân cấp

quản lý.Chỉ đạo các đơn vị trực thuộc và UBND cấp xã phối hợp quản lý, bảo

vệ các tuyếnđê do Thành phố quản lý đi qua địa bàn theo quy định pháp luật về

đê điều và các quy định của Ủy ban nhân dân Thành phố.

3.2.2.3. Lĩnh vực xây dựng

Tại Quyết định số 20/2016/QĐ-UBND ngày 24/6/2016 của UBND TP

Hà Nội về ban hành quy định chi tiết một số nội dung về cấp giấy phép xây

dựng trên địa bàn TP Hà Nội, quy định thẩm quyền cấp giấy phép xây dựng của

các cơ quan thuộc Thành phố, theo đó, UBND cấp huyện cấp giấy phép xây

dựng công trình, nhà ở riêng lẻ trong đô thị (bao gồm cả nhà ở riêng lẻ kết hợp

chức năng khác không phân biệt quy mô và nhà biệt thự), trung tâm cụm xã,

khu bảo tồn, khu di tích lịch sử - văn hóa được xếp hạng thuộc địa bàn mình

quản lý.

3.2.2.4. Lĩnh vực tài chính – ngân sách

Theo Quyết định số 55/2010/QĐ-UBND ngày 15/12/2010 và số

03/2013/QĐ-UBND ngày 08/01/2013 của UBND Thành phố về việc Ban hành quy

định phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách; tỷ lệ phần trăm (%)

phân chia nguồn thu giữa các cấp ngân sách và định mức phân bổ dự toán chi ngân

sách thuộc thành phố Hà Nội giai đoạn 2011-2015; Theo Nghị quyết số

101

13/2016/NQ-HĐND ngày 05 /12 /2016 của Hội đồng nhân dân Thành phố về

phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi, tỷ lệ phần trăm phân chia nguồn thu giữa

các cấp ngân sách Thành phố giai đoạn 2017-2020, ngân sách cấp quận, huyện

được hưởng tỷ lệ % gồm:

Thuế giá trị gia tăng thu từ doanh nghiệp ngoài quốc doanh (không kể

thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu);

Thuế thu nhập doanh nghiệp thu từ doanh nghiệp ngoài quốc doanh (trừ

thuế thu nhập doanh nghiệp từ hoạt động thăm dò khai thác dầu khí).

Thuế tiêu thụ đặc biệt hàng hóa, dịch vụ thu từ khu vực kinh tế ngoài

quốc doanh (không kể thuế TTĐB hàng nhập khẩu).

Thuế thu nhập cá nhân giao quận, huyện, thị xã quản lý thu;

Tiền sử dụng đất các dự án giao đất (ngoài dự án di dời theo Quyết định

số 09/2007/QĐ-TTg) và đấu giá quyền sử dụng đất đối với loại đất có quy mô

diện tích từ 5000 m2 trở lên hoặc đất dưới 5000 m2 tiếp giáp với đường, phố.

Lệ phí trước bạ xe máy, ô tô, tàu thuyền và tài sản khác; Lệ phí trước bạ

nhà đất.

3.2.2.5. Lĩnh vực quản lý đất đai, rừng

Về quản lý đất đai, rừng, cấp huyện, quận được thực hiện các nội dung

phân cấp như: Về đầu tư: Đầu tư xây dựng mới hoặc cải tạo, nâng cấp, mở rộng

cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ bảo vệ, hỗ trợ trồng rừng sản xuất trên địa bàn

theo chính sách hiện hành của nhà nước. Về quản lý sau đầu tư:Trực tiếp quản

lý, bảo vệ, phòng chống cháy rừng theo phân cấp quản lý trên địa bàn; Thực

hiện trách nhiệm quản lý và phối hợp quản lý, bảo vệ, phòng chống cháy rừng,

sử dụng đất lâm nghiệp trên địa bàn theo quy định của pháp luật và Thành phố

về bảo vệ, phát triển rừng. Quản lý các nội dung khác có liên quan:Cấp, thu hồi

các loại giấy phép cải tạo rừng cho chủ rừng là hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng

dân cư thôn trên địa bàn Thành phố.

102

3.2.2.6. Lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa thể thao du lịch

Về quản lý giáo dục đào tạo, dạy nghề, cấp huyện, quận được thực hiện

các nội dung phân cấp như: Về đầu tư:Đầu tư xây dựng mới hoặc cải tạo, nâng

cấp, mở rộng các trường công lập gồm: trường trung học cơ sở; trường phổ

thông có nhiều cấp học trong đó không có cấp học trung học phổ thông; trường

phổ thông dân tộc bán trú; trường phổ thông dân tộc nội trú không có cấp trung

học phổ thông; trường tiểu học; cơ sở giáo dục mầm non (trừ các trường, cơ sở

thực hành sư phạm do Thành phố quản lý); trung tâm Giáo dục nghề nghiệp -

Giáo dục thường xuyên cấp huyện; các cơ sở giáo dục, đào tạo, dạy nghề cấp

huyện có tên gọi khác.Quản lý sau đầu tư:Quản lý, duy tu, sửa chữa các trường,

cơ sở, trung tâm công lập thuộc lĩnh vực giáo dục đào tạo, dạy nghề do cấp

huyện đầu tư.Quản lý các nội dung khác có liên quan:Đình chỉ hoạt động, sáp

nhập, chia, tách, giải thể các trường công lập, dân lập, tư thục trước đây cấp

huyện đã quyết định thành lập, hoặc cho phép thành lập.

Về quản lý văn hóa thể thao du lịch, cấp huyện, quận được thực hiện các

nội dung phân cấp như: Về đầu tư:Đầu tư tu bổ, bảo tồn và phát huy giá trị các

di tích còn lại trên địa bàn, trừ các di tích Thành phố trực tiếp đầu tư và các di

tích quốc gia đặc biệt, di tích lịch sử cách mạng kháng chiến do cấp huyện quản

lý được Thành phố hỗ trợ đầu tư tu bổ, bảo tồn; Đối ứng cùng ngân sách Thành

phố đầu tư tu bổ, bảo tồn và phát huy giá trị các di tích quốc gia do cấp huyện

đang quản lý; Đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp các công trình văn hóa, thể

thao cấp huyện, xã, thôn, tổ dân phố, khu vui chơi cộng đồng,... Quản lý sau

đầu tư:Duy tu, bảo trì và quản lý các di tích còn lại trên địa bàn, trừ các di tích

Thành phố trực tiếp quản lý sau đầu tư.Quản lý, duy tu, bảo trì các các công

trình văn hóa, thể thao cấp huyện, xã, thôn, tổ dân phố.Quản lý các nội dung

khác có liên quan:Tổ chức lễ hội quy mô cấp huyện; chỉ đạo cấp xã tổ chức lễ

hội quy mô cấp xã; Quản lý các cơ sở lưu trú du lịch: căn hộ du lịch, biệt thự

103

du lịch, nhà nghỉ du lịch, nhà có phòng cho khách du lịch thuê, bãi cắm trại du

lịch và cơ sở lưu trú du lịch khác trên địa bàn; Quản lý các cá nhân kinh doanh

đại lý lữ hành.

Về quản lý y tế, cấp huyện, quận được thực hiện các nội dung phân cấp

như: Về đầu tư: Đầu tư xây dựng mới hoặc cải tạo, nâng cấp, mở rộng: Trung

tâm y tế cấp huyện (bao gồm cả các phòng khám đa khoa khu vực, nhà hộ sinh,

trạm y tế xã, phường, thị trấn) theo sự hướng dẫn chỉ đạo về chuyên môn nghiệp

vụ của Sở Y tế.Quản lý sau đầu tư: Quản lý, duy tu, duy trì: Trung tâm y tế cấp

huyện (bao gồm cả các phòng khám đa khoa khu vực, nhà hộ sinh, trạm y tế

xã, phường, thị trấn) theo sự hướng dẫn chỉ đạo về chuyên môn nghiệp vụ của

Sở Y tế; Trung tâm Dân số Kế hoạch hóa gia đình.Quản lý các nội dung khác

có liên quan: Kiểm tra, thanh tra việc tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm

pháp luật, chính sách, kế hoạch, đề án, chương trình, dự án và hoạt động đối

với các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế trên địa bàn (bao gồm cả cơ sở y, dược tư

nhân). Cấp giấy chứng nhận cơ sở vệ sinh an toàn thực phẩm theo phân cấp của

Bộ Y tế; phối hợp quản lý: y tế, dược tư nhân và Ban dân quân y trên địa bàn

theo chỉ đạo của Thành phố.

3.2.2.7. Lĩnh vực tổ chức bộ máy, nhân sự, cán bộ, công chức, viên chức.

Theo Quyết định số 15/2017/QĐ-UBND của UBND TP Hà Nội ban hành

Quy định về phân cấp quản lý tổ chức bộ máy, cán bộ, công chức, lao động hợp

đồng trong các cơ quan hành chính thuộc thành phố Hà Nội đối với cấp Huyện

như sau:

Quản lý tổ chức bộ máy: UBND huyện trình HĐND cấp huyện thành lập,

bãi bỏ phòng thuộc UBND cấp huyện; Phối hợp với Sở Nội vụ xây dựng hướng

dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của phòng thuộc UBND

cấp huyện, gửi Sở Nội vụ thẩm định trình UBND TP xem xét ban hành; Căn cứ

Hướng dẫn của UBND TP, ban hành quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn,

104

cơ cấu tổ chức bộ máy của phòng thuộc UBND cấp huyện; Tổ chức thực hiện

các quy định của pháp luật, của UBND TP và của Chủ tịch UBND TP về quản

lý tổ chức bộ máy của UBND cấp huyện, UBND cấp xã.

Quản lý vị trí việc làm, biên chế công chức, lao động hợp đồng, tiền

lương, tiền công: Thủ trưởng sở, Chủ tịch UBND cấp huyện trước ngày 01

tháng 6 hàng năm, xây dựng kế hoạch sử dụng biên chế công chức, số lao động

hợp đồng và số lượng CBCC cấp xã, báo cáo UBND TP (qua Sở Nội vụ thẩm

định, tổng hợp); Sử dụng, quản lý biên chế công chức, lao động hợp đồng và

cán bộ, công chức cấp xã theo đúng quy định hiện hành của Nhà nước và của

Thành phố; Hàng tháng lập danh sách CBCC, lao động hợp đồng hưởng tiền

lương, tiền công (nếu có) của cơ quan, đơn vị gửi Kho bạc nhà nước chuyển

Ngân hàng chi trả cho người lao động.

Tuyển dụng công chức: Chủ tịch UBND cấp huyện thực hiện nhiệm vụ

và thẩm quyền như của các sở; Xây dựng kế hoạch tuyển dụng công chức cấp

xã gửi Sở Nội vụ thẩm định trình UBND Thành phố phê duyệt và tổ chức thực

hiện; Quyết định công nhận kết quả tuyển dụng công chức cấp xã; Quyết định

tuyển dụng công chức xã đối với thí sinh trúng tuyển; Tổ chức xét tuyển chức

danh chỉ huy trưởng quân sự và trưởng công an xã theo quy chế tuyển dụng

công chức cấp xã.

Bổ nhiệm vào ngạch, nâng ngạch, chuyển ngạch, xếp lương, nâng bậc

lương, phụ cấp thâm niên vượt khung, phụ cấp thâm niên nghề: Chủ tịch UBND

cấp huyện quyết định xếp lương CBCC cấp xã (sau khi có ý kiến thống nhất

bằng văn bản của Giám đốc Sở Nội vụ); Quyết định nâng bậc lương thường

xuyên, nâng bậc lương trước thời hạn, phụ cấp thâm niên vượt khung đối với

CBCC cấp xã; Quyết định xếp lương chức danh đối với cán bộ xã có trình độ

chuyên môn, nghiệp vụ đào tạo sơ cấp hoặc chưa được đào tạo trình độ chuyên

môn, nghiệp vụ.

Tiếp nhận, điều động, thuyên chuyển, luân chuyển, biệt phái CBCC;

105

CBCC cấp xã; ký và chấm dứt hợp đồng lao động: Chủ tịch UBND cấp

huyệnquyết định tiếp nhận vào công chức cấp xã không qua thi tuyển và tiếp

nhận công chức cấp xã từ tỉnh ngoài đến làm việc tại UBND cấp xã theo quy

định; Quyết định điều động công chức cấp xã trong các xã thuộc huyện; Quyết

định tiếp nhận công chức xã trong các xã của TP về làm việc trong các xã thuộc

huyện theo quy định; Quyết định thuyên chuyển công chức cấp xã đến làm việc

tại các cơ quan, đơn vị không thuộc thẩm quyền quản lý của huyện.

Phê chuẩn, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, đình chỉ công tác, cách

chức đối với CBCC: Chủ tịch UBND cấp huyện quyết định bổ nhiệm, bổ nhiệm

lại, miễn nhiệm, từ chức đối với trưởng phòng, phó trưởng phòng thuộc UBND

cấp huyện. Riêng chức vụ Chánh thanh tra huyện phải có ý kiến bằng văn bản

của Chánh Thanh tra Thành phố trước khi quyết định; Phê chuẩn kết quả bầu,

miễn nhiệm, bãi nhiệm, đình chỉ công tác, cách chức Chủ tịch, Phó Chủ tịch

UBND cấp xã.

Chế độ thôi việc và nghỉ hưu: Thủ trưởng sở, Chủ tịch UBND cấp huyện

quyết định thôi việc, nghỉ hưu đối với CBCC giữ các chức vụ lãnh đạo, quản

lý do thủ trưởng sở, Chủ tịch UBND cấp huyện bổ nhiệm, phê chuẩn và CBCC,

lao động hợp đồng; CBCC xã.

Nghỉ việc riêng: Chủ tịch UBND TP quyết định cho phép CBCC giữ

chức vụ quản lý, lãnh đạo do Chủ tịch UBND TP bổ nhiệm, phê duyệt được

nghỉ việc riêng ở trong nước hoặc ở nước ngoài theo quy định (trừ chức vụ chi

cục trưởng).Thủ trưởng sở, Chủ tịch UBND cấp huyện quyết định cho phép

nghỉ việc riêng ở nước ngoài (thăm thân nhân, tham quan, du lịch hoặc các việc

khác) đối với chi cục trưởng, trưởng phòng, phó trưởng phòng, CBCC, lao động

hợp đồng và CBCC cấp xã thuộc thẩm quyền quản lý của mình; Cho phép nghỉ

việc riêng ở trong nước đối với CBCC giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý do thủ

trưởng sở, Chủ tịch UBND cấp huyện bổ nhiệm, phê duyệt đối với chi cục

106

trưởng, trưởng phòng, phó trưởng phòng, CBCC, lao động hợp đồng.Chủ tịch

UBND cấp xã quyết định cho phép công chức cấp xã nghỉ việc riêng ở trong

nước.

Quản lý hồ sơ CBCC và lao động hợp đồng:Hồ sơ của CBCC giữ chức

vụ lãnh đạo, quản lý do Chủ tịch UBND TP bổ nhiệm, phê duyệt được quản lý

theo quy định (trừ hồ sơ của chi cục trưởng). Sở, UBND cấp huyện quản lý hồ

sơ của chi cục trưởng, phó chi cục trưởng, trưởng phòng, phó trưởng phòng,

CBCC, lao động hợp đồng; CBCC cấp xã. Việc chỉnh sửa các dữ liệu thông tin

trong hồ sơ CBCC, lao động hợp đồng; cán bộ, công chức cấp xã thực hiện theo

quy định của pháp luật; Hàng năm, các sở, UBND cấp huyện có trách nhiệm

cập nhật, bổ sung hồ sơ CBCC, lao động hợp đồng; CBCC cấp xã theo quy

định.

3.2.3.Thực trạng phân cấp và kết quả thực hiện phân cấp quản lý nhà

nước cho chính quyền phường ở Thành phố Hà Nội

Qua nghiên cứu tại chính quyền phường hiện nay, về: i) văn bản quy

phạm pháp luật: chưa có văn bản quy phạm pháp luật quy định về nguyên tắc

phân cấp, nội dung phân cấp thực hiện nhiệm vụ từ chính quyền Thành phố Hà

Nội cho chính quyền phường; cũng chưa có các văn bản quy phạm pháp luật

quy định về phân cấp giữa chính quyền quận cho chính quyền phường; ii) về

nội dung nhiệm vụ thực hiện: Chính quyền phường có thực hiện các nhiệm vụ

do chính quyền quận giao.

Mặc dù chủ trương về phân cấp đã được khẳng định tại các văn kiện của

Đảng, nhưng việc hiện thực hóa, chuyển hóa thành quy phạm để làm căn cứ

pháp lý thực hiện trên thực tế là chưa đầy đủ. Thực trạng tại các phường ở

Thành phố Hà Nội hiện nay, chưa có quy định pháp luật về việc phân cấp nhiệm

vụ giữa cấp thành phố, cấp quận cho phường để thực hiện. Tuy nhiên, trên thực

tế các nhiệm vụ của phường thực hiện hiện nay được quận giao trên cơ sở văn

107

bản hành chính. Trên thực tế, chỉ có văn bản quy phạm pháp luật của Thành

phố Hà Nội quy định về phân cấp thực hiện nhiệm vụ giữa Thành phố với chính

quyền quận.

Tại Luật tổ chức CQĐP năm 2015 đã có quy định về nguyên tắc phân

quyền và “căn cứ tình hình cụ thể ở địa phương, cơ quan nhà nước ở địa phương

có thể phân cấp tiếp cho chính quyền địa phương thực hiện các nhiệm vụ, quyền

hạn đã được cơ quan nhà nước cấp trên phân cấp” (và phải được sự đồng ý của

cơ quan nhà nước đã phân cấp) [34, Tr.17]. Nhưng trên thực tế, chính quyền

quận không có “động thái” hoặc văn bản pháp luật cụ thể để phân cấp nhiệm

vụ cho chính quyền phường. Mặc dù chính quyền quận có thể căn cứ chức năng,

nhiệm vụ của chính quyền phường, khả năng đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm

vụ và tình hình thực tế tại các phường ở Thành phố Hà Nội để tiến hành phân

cấp cho chính quyền phường thực hiện các nhiệm vụ mà chính quyền thành phố

đã phân cấp cho chính quyền quận thực hiện, trên cơ sở sự đồng ý của chính

quyền Thành phố Hà Nội.

Để có thêm căn cứ đánh giá thực tế và có được số liệu sơ cấp, trung thực,

khách quan từ nhìn nhận của các cá nhân trực tiếp thực hiện nhiệm vụ tại các

phường thuộc quận của TP Hà Nội, chúng tôi đã tiến hành điều tra xã hội học

với bảng hỏi về vấn đề thực hiện phân cấp quản lý nhà nước của chính quyền

phường hiện nay. Bảng hỏi được thiết kế đơn giản, dễ tiếp cận với 11 câu hỏi

(trong đó có 10 câu trực tiếp và 01 câu hỏi mở). Cách thức thực hiện điều tra

xã hội học được tiến hành với cách thức phát phiếu, nhận được sự đồng thuận

với người được hỏi và cam kết được giữ bí mật cho những ý kiến cá nhân tại

cuộc điều tra.

Qua điều tra tại 50/177 phường của 12 quận tại TP Hà Nội với 250 phiếu

điều tra xã hội học (thời điểm điều tra xã hội học của Luận án, các phường

thuộc thành phố Hà Nội chưa được sắp xếp đơn vị hành chính theo Nghị quyết

của Ủy ban thường vụ Quốc hội, do đó các số liệu vẫn để thực trạng là 50/177

108

phường), đối tượng được hỏi là các cán bộ, công chức đang trực tiếp làm việc

tại các phường trên địa bàn Thành phố Hà Nội và một số cá nhân làm công tác

Mặt trận, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, Cựu chiến binh. Theo đó, đối tượng

hỏi gồm Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND, Phó Chủ tịch

UBND, Phó Chủ tịch HĐND, Bí thư Đoàn thanh niên, Chủ tịch Hội phụ nữ;

các công chức văn phòng thống kê, địa chính – xây dựng, tài chính – kế toán,

tư pháp – hộ tịch, văn hóa, xã hội. Các gợi ý trả lời tại điều tra xã hội học đưa

đến bức tranh thực trạng thực hiện phân cấp của Thành phố, chính quyền quận

ở Hà Nội với chính quyền phường và đánh giá của các đối tượng điều tra xã

hội học về các nội dung phân cấp như sau:

Có 225/250 phiếu (tỷ lệ 90%) ý kiến cho rằng, việc phân cấp thực hiện

nhiệm vụ giữa Thành phố Hà Nội và chính quyền phường ở Hà Nội là cần thiết

và 10% còn lại cho rằng là chưa cần thiết.

Chưa cần thiết 10%

Sự cần thiết có phân cấp 0%

Cần thiết 90%

Sự cần thiết về phân cấp

Biểu đồ 3.1: Thể hiện sự cần thiết về phân cấp thực hiện nhiệm vụ

giữa Thành phố Hà Nội và chính quyền phường ở Hà Nội

Chủ trương phân cấp giữa các cấp chính quyền địa phương được biết đến

nhiều nhất qua kênh: văn bản quy phạm pháp luật: 80 phiếu (Tỷ lệ 32%); Qua

phương tiện thông tin đại chúng: có 65 phiếu (Tỷ lệ 26%), còn lại là qua điều

tra khảo sát, qua người thân: 32 phiếu (Tỷ lệ 13%) và qua làm việc trực tiếp 62

109

phiếu (Tỷ lệ 25%).

Chủ trương phân cấp được biết 0%

Qua làm việc trực tiếp 25%

Qua văn bản quy phạm pháp luật 32%

Qua người thân 13%

Qua khảo sát 4%

Qua phương tiện thông tin đại chúng 26%

Hiểu biết về chủ trương phân cấp

Biểu đồ 3.2: Thể hiện sự hiểu biết của đối tượng được hỏi về chủ

trương phân cấp giữa các cấp chính quyền địa phương

Khi được hỏi về nhận thức của các cấp ủy Đảng, lãnh đạo chính quyền về

vị trí, vai trò, ý nghĩa của việc thực hiện phân cấp, hầu hết các ý kiến trả lời đều

cho rằng, nhận thức của các đối tượng này là: quan trọng 230 phiếu (chiếm tỷ

lệ 92%).

Hầu hết các ý kiến trả lời đều cho rằng, nội dung phân cấp giữa chính

quyền Thành phố Hà Nội với chính quyền cấp dưới hiện nay là chưa phù hợp

237 phiếu (tỷ lệ chiếm đến 95%), việc thực hiện phân cấp giữa chính quyền

Thành phố Hà Nội với chính quyền cấp phường hiện nay là khó khăn (235/250

phiếu trả lời có, tỷ lệ: 94%) và chưa phù hợp có 225 phiếu, chiếm tỷ lệ 90%.

Lý do: Vì chưa có văn bản quy định cụ thể, rõ ràng, minh bạch (tỷ lệ phiếu

trả lời ở mức cao: 80%); Vì cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ phân cấp

yếu kém về năng lực (chiếm tỷ lệ thấp 45%); Vì thiếu nguồn lực thực hiện

(78%); Vì vướng mắc tại văn bản Luật và văn bản hướng dẫn dưới Luật hướng

110

dẫn thi hành (85%)

Series1

90% 80% 70% 60% 50% 40% 30% 20% 10% 0%

Vì thiếu nguồn lực thực hiện

Vì chưa có văn bản quy định cụ thể, rõ ràng, minh bạch

Vì vướng mắc tại văn bản Luật và văn bản hướng dẫn dưới Luật

Vì cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ phân cấp yếu kém về năng lực

Biểu đồ 3.3: Thể hiện nguyên nhân khó khăn khi thực hiện

phân cấp giữa chính quyền TP Hà Nội cho chính quyền phường

Hầu hết khi được hỏi, các công chức phường đều trả lời là chưa thực hiện

các nội dung phân cấp tại cơ quan, đơn vị. Như phân cấp về quản lý đầu tư:

Chưa thực hiện: Tỷ lệ trên 80%; Phân cấp về quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu

nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn: Chưa thực hiện: Tỷ lệ

70%; Phân cấp về tổ chức, bộ máy, nhân sự: Chưa thực hiện: Tỷ lệ: 75%; Phân

cấp về kỷ luật cán bộ, công chức: Chưa thực hiện: Tỷ lệ 60%.

Khi được hỏi về quan điểm cá nhân, gần 100% công chức trả lời là cần

thiết mở rộng nhiệm vụ phân cấp cho chính quyền cấp phường. Việc phân cấp

các nhiệm vụ từ chính quyền cấp quận cho chính quyền cấp phường là cần thiết

và cần thực hiện trong thời gian tới.Các nhiệm vụ được đề cập đến và mở rộng

phân cấp là những nhiệm vụ như: Phân cấp về quản lý cụm công nghiệp, làng

nghề trên địa bàn phường; Về khuyến nông, thú y, bảo vệ thực vật trên địa bàn

phường; Về thẩm quyền của UBND cấp xã ủy quyền cho công chức tư pháp –

hộ tịch ký chứng thực bản sao từ bản chính và chứng thực chữ ký…

Qua thực tiễn thực hiện nhiệm vụ của Chính quyền phường và các kết

111

quả tích cực chúng tôi có được thông qua hệ thống báo cáo của chính quyền

phường hàng năm, thể hiện: chính quyền phường có đủ năng lực, điều kiện thực

hiện các nhiệm vụ của chính quyền quận đã được phân cấp từ chính quyền

thành phố. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có văn bản quy định cụ thể, rõ ràng

các nhiệm vụ được phân cấp từ chính quyền quận cho chính quyền phường

hoặc phân cấp trực tiếp từ chính quyền Thành phố tới chính quyền phường.

Một số nhiệm vụ thường xuyên trên các mặt kinh tế, xã hội theo quy định của

pháp luật và một số nhiệm vụ được chính quyền quận chỉ đạo chính quyền

phường thực hiện đã đạt được nhiều kết quả lớn, cụ thể như sau:

Về chỉ đạo, điều hành :

Theo Luật tổ chứcCQĐP năm 2015, điều 61, HĐND phường thực hiện

ban hành Nghị quyết về những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND

phường. Trên thực tế hoạt động của HĐND các phường tại TP Hà Nội cho thấy,

HĐND phường ban hành Nghị quyết về nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, an

ninh quốc phòng căn cứ theo chỉ tiêu giao của UBND quận, HĐND phường

đưa ra bàn bạc và đề xuất các giải pháp để tổ chức chỉ đạo thực hiện.

Cũng theo quy định này HĐND phường quyết định dự toán thu chi ngân

sách nhà nước trên địa bàn, dự toán thu chi ngân sách phường; điều chỉnh dự

toán ngân sách phường trong trường hợp cần thiết; phê chuẩn quyết toán ngân

sách phường gồm: Lệ phí môn bài thu từ cá nhân, hộ kinh doanh;Thuế sử

dụng đất nông nghiệp thu từ các hộ sản xuất;Thuế sử dụng đất phi nông

nghiệp;Thu bán tài sản nhà nước do xã, phường, thị trấn quản lý;Viện trợ không

hoàn lại của các tổ chức quốc tế, các tổ chức khác, các cá nhân ở nước ngoài

trực tiếp cho xã, phường, thị trấn theo quy định của pháp luật;Các khoản thu

phí, lệ phí cho ngân sách xã, phường, thị trấn (không kể lệ phí môn bài, lệ phí

trước bạ, phí bảo vệ môi trường); Các khoản thu từ xử phạt vi phạm hành chính,

phạt, tịch thu và thu khác của ngân sách địa phương theo quy định của pháp

luật (phần thuộc ngân sách nhà nước theo quy định) do xã, phường, thị trấn

112

thực hiện và quản lý;Thu từ tài sản được xác lập quyền sở hữu nhà nước do xã,

phường, thị trấn xử lý; Thu từ quỹ đất công, công ích và hoa lợi công sản do

xã, phường, thị trấn quản lý;Thu đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất đối

với đất thuộc xã, phường, thị trấn quản lý;Huy động đóng góp theo quy định

của pháp luật và đóng góp tự nguyện từ các tổ chức, cá nhân cho xã, phường,

thị trấn;Thu kết dư ngân sách; Các khoản thu khác theo quy định của pháp

luật.Khoản thu ngân sách xã, phường, thị trấn được hưởng theo tỷ lệ phần trăm

phân chia là lệ phí trước bạ nhà đất.

UBND các phường đã tăng cường các biện pháp QLNN để điều hành,

thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội theo mục tiêu, kế

hoạch chung của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết đề ra của HĐND

phường, góp phần vào việc thực hiện thành công các nhiệm vụ kinh tế - xã hội,

an ninh, quốc phòng của địa phương và cả nước.Với chức năng là cơ quan hành

chính nhà nước trên địa bàn phường, UBND phường có nhiệm vụ điều hành

quản lý trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội ở địa bàn phường. Nhìn

chung, UBND phường đã phát huy tốt vai trò, vị trí của mình; tổ chức, vận

động nhân dân chấp hành và thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng

và pháp luật của Nhà nước, tìm các biện pháp để ổn định và phát triển sản xuất;

thúc đẩy sản xuất hàng hoá ở địa phương, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá xã

hội, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Trong công tác chỉ đạo, điều hành, UBND các phường đã gắn với công

tác cải cách hành chính và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, do đó đã tạo sự

chuyển biến trong lề lối, phong cách làm việc, bảo đảm giải quyết các công

việc cho công dân cũng như công việc của chính quyền được nhanh chóng,

thuận lợi và kịp thời. Phong cách quản lý, điều hành của UBND phường đã đổi

mới rõ rệt, việc triển khai thực hiện các văn bản và quyết định của cơ quan nhà

nước cấp trên và nghị quyết HĐND phường được thực hiện nhanh chóng, kịp

thời hơn và hiệu quả cao hơn. UBND đã tập trung hơn vào chức năng, nhiệm

113

vụ quản lý hành chính nhà nước. Bên cạnh đó, các công việc hàng ngày liên

quan đến nhân dân trên địa bàn phường cũng được UBND phường cải tiến về lề

lối và cách thức giải quyết với tinh thần trách nhiệm cao và gắn bó với nhân dân.

Nhiều công việc của UBND phường đã được công khai cho nhân dân biết cả về

trình tự, thủ tục tiến hành và thời gian, kết quả thực hiện để nhân dân biết và

giám sát.

Về quản lý văn hoá, giáo dục, UBND các phường đã phối hợp với Uỷ

ban MTTQ cùng cấp tổ chức thực hiện tốt nhiều phong trào văn hoá, điển hình

là phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá, tạo điều kiện cho

văn hoá phát triển lành mạnh, rộng khắp, nâng cao dần mức hưởng thụ của nhân

dân. Tất các phường trên toàn quốc đã xây dựng được hệ thống truyền thanh ở

phường phục vụ cho nhu cầu thông tin, văn hoá và tinh thần của nhân dân. Sự

nghiệp phát triển giáo dục ở phường đã có những chuyển biến rõ nét, đạt được

nhiều kết quả tích cực.

Về thực hiện chính sách xã hội, giải quyết việc làm, các phường cùng với

các tổ chức trong hệ thống chính trị cơ sở đã có những đổi mới cách làm theo

hướng công khai, dân chủ, sâu sát, cụ thể đến từng đối tượng nên trong những

năm qua, thực hiện có kết quả các chương trình, chính sách xã hội, giải quyết

việc làm, xoá đói, giảm nghèo ở địa phương. Nhiều phường đã thực hiện tốt

các chính sách xã hội đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ, gia đình

có công với nước, bà mẹ Việt Nam anh hùng, người về hưu và các đối tượng

chính sách xã hội khác, mang lại hiệu quả thiết thực.

Về công tác kiểm tra, tiếp dân và giải quyết khiếu nại tố cáo, trong quá trình

thực hiện nghị quyết của Đảng, văn bản QLNN về tăng cường công tác thanh

tra, kiểm tra, trên cơ sở chỉ đạo trực tiếp của cấp uỷ Đảng và UBND cấp trên,

UBND các phường đã chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện công tác thanh tra,

kiểm tra trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội ở địa phương. Các lĩnh vực trọng tâm

tiến hành là xây dựng cơ sở hạ tầng, cấp đất, thu hồi đất nông nghiệp, đất canh

114

tác; thu - chi ngân sách. Công tác này được thực hiện với sự phối hợp của đoàn

thể nhân dân và đông đảo quần chúng nhân dân ở tổ dân phố; bằng các biện

pháp cụ thể như kiểm kê, kiểm soát, giám sát các hoạt động của cán bộ, công

chức phường theo đúng phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”

đã có tác dụng rất lớn trong việc đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, nhũng

nhiễu của cán bộ chính quyền cơ sở, phát hiện những tệ nạn tiêu cực để xử lý, làm

trong sạch bộ máy chính quyền địa phương nói chung và bộ máy, cán bộ, công

chức UBND phường.

Công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân cũng từng

bước được cải tiến. UBND nhiều phường đã coi việc cải tiến và chuyển biến

trong công tác này như là một bước cải tiến lề lối làm việc của UBND và

chính quyền cơ sở. Các phường đã có lịch tiếp dân hàng tuần để giải quyết

những vấn đề nhân dân đề nghị, kiến nghị. Qua đó, nhiều vụ việc, mâu thuẫn

trong nhân dân hoặc các kiến nghị của nhân dân được UBND phường giải

quyết hoặc tổ chức hoà giải ngay từ cơ sở, hạn chế nhiều tình trạng khiếu nại,

tố cáo vượt cấp.

Về phát triển kinh tế và quản lý tài chính - ngân sách: Trên cơ sở các

điều kiện cụ thể, đặc điểm tình hình thực tiễn của địa phương mình, UBND các

phường đã xây dựng các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội sát hợp với tình

hình thực tiễn, có tính khả thi cao để trình HĐND cùng cấp và UBND cấp trên

xem xét, phê duyệt; đồng thời triển khai nhiều giải pháp để thực hiện đúng đắn

các chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước và kế hoạch đã đề ra trong

phát triển công nghiệp, thương mại, dịch vụ. UBND phường đã tập trung phát huy

nội lực, huy động các nguồn lực, trong đó có sự đóng góp của nhân dân theo phương

châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” để xây dựng kết cấu hạ tầng của phường như

điện, đường, trường, trạm.

Công tác quản lý tài chính, ngân sách đã có bước tiến bộ. UBND các phường

căn cứ vào điều kiện phát triển kinh tế của phường, tiến hành việc lập dự toán

115

và phương án phân bổ ngân sách trình HĐND quyết định; đồng thời triển khai

nhiều biện pháp để thực hiện nghị quyết của HĐND; có nhiều giải pháp để tạo

nguồn thu, thu đúng, thu đủ và quản lý chặt chẽ các nguồn thu, chi ngân sách

theo đúng Luật Ngân sách Nhà nước.

Về quản lý đất đai và tài nguyên: UBND các phường đã thực hiện đúng qui

định công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai của phường để trình cấp

có thẩm quyền xét duyệt; quản lý và sử dụng hợp lý, có hiệu quả quỹ đất ở

phường phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế và đáp ứng các nhu cầu công ích ở

phường. Công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của UBND phường đã góp

phần bảo đảm tính thống nhất trong QLNN về đất đai, bảo đảm việc quản lý,

sử dụng đất gắn với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm hiệu quả sử

dụng đất. Đồng thời qua công tác QLNN về đất đai, UBND phường cũng nắm

chắc được quỹ đất, tình hình biến động đất đai ở địa phương mình, dự tính được

nguồn thu từ đất cho ngân sách nhà nước.

Về lĩnh vực xây dựng, trách nhiệm của UBND phường trong vấn đề xây

dựng tại Thành phố là: 1, Tổ chức phổ biến, tuyên truyền, hướng dẫn các tổ

chức, cá nhân trên địa bàn thực hiện các quy định của nhà nước và thành phố

về quản lý và cấp phép xây dựng.2.Tiếp nhận thông báo khởi công của chủ đầu

tư; kiểm tra, xác nhận công trình đã đủ điều kiện khởi công và thời điểm chủ

đầu tư nộp thông báo. Hướng dẫn chủ đầu tư hoàn chỉnh thông báo khởi công

nếu chưa đủ điều kiện. Lập hồ sơ trích ngang các công trình xây dựng trên địa

bàn để theo dõi, quản lý.3. Niêm yết công khai điều kiện, trình tự và các thủ tục

cấp giấy phép xây dựng tại trụ sở cơ quan, đồng thời thường xuyên phổ biến

nội dung quy định của pháp luật về công tác cấp giấy phép xây dựng trên các

phương tiện thông tin đại chúng.

Vấn đề tăng cường phân cấp thực hiện nhiệm vụ cho chính quyền phường

tại Thành phố Hà Nội được nhiều người quan tâm và đề xuất kiến nghị cần

được đẩy mạnh hơn nữa trong tương lai, các giải pháp cũng được để xuất cụ

116

thể. Điều này thể hiện qua kết quả điều tra xã hội học như sau:

Khi được hỏi về các giải pháp để thực hiện tốt nhiệm vụ phân cấp từ chính

quyền cấp trên, các công chức đều trả lời có các giải pháp: Tăng cường vai trò

lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng và chính quyền trong thực hiện nhiệm

vụ phân cấp (100% ý kiến đống ý chọn phương án trên); Tăng cường mối quan

hệ công tác giữa cấp chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội trên địa bàn

(60%); Nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức vềthực hiện nhiệm vụ được

phân cấp (80%); Tăng cường nguồn lực (cơ sở vật chất, tài chính, con người)

(90%) và nâng cao kỷ luật, kỷ cương làm việc (65%)

Các giải pháp thực hiện tốt nhiệm vụ phân cấp từ Số Tỷ lệ

chính quyền cấp trên phiếu %

Tăng cường vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng 250 100%

và chính quyền trong thực hiện nhiệm vụ phân cấp

Tăng cường mối quan hệ công tác giữa cấp chính quyền và 150 60%

các tổ chức chính trị - xã hội trên địa bàn

Nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức về thực hiện 200 80%

nhiệm vụ được phân cấp

Tăng cường nguồn lực (cơ sở vật chất, tài chính, con người) 225 90%

Nâng cao kỷ luật, kỷ cương làm việc 65% 162

Bảng 3.4: Các giải pháp đề xuất để thực hiện tốt nhiệm vụ

117

phân cấp từ chính quyền cấp trên

120%

100%

80%

60%

40%

Tỷ lệ %

20%

0%

Nâng cao kỷ luật, kỷ cương làm việc

Tăng cường nguồn lực (cơ sở vật chất, tài chính, con người)

Nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức về thực hiện nhiệm vụ được phân cấp

Tăng cường vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng và chính quyền trong thực hiện nhiệm vụ phân cấp

Tăng cường mối quan hệ công tác giữa cấp chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội trên địa bàn

Tỷ lệ % các giải pháp

Biểu đồ 3.4: Thể hiện các giải pháp khi thực hiện

phân cấp giữa chính quyền TP Hà Nội cho chính quyền phường

3.3. Đánh giá việc thực hiện phân cấp cho chính quyền phường ở Hà

Nội và nguyên nhân.

3.3.1. Những kết quả đạt được

3.1.1.1. Dưới góc độ quản lý, Thành phố Hà Nội đã phân cấp thực hiện

nhiệm vụ cho chính quyền cấp dưới là chính quyền quận

Việc xây dựng và thực hiện phân cấp giữa Thành phố Hà Nội với chính

quyền quận đã đạt được những kết quả tích cực, cụ thể như sau:

Thứ nhất, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, văn bản chỉ đạo điều hành

được ban hành kịp thời, với các quy định về phân cấp giữa thành phố đối với

118

chính quyền cấp dưới ở Hà Nội. Các văn bản quy định về phân cấp giữa thành

phố cho chính quyền cấp dưới là cấp quận, huyện, ở Hà Nội đã cụ thể hóa chủ

trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong việc thực hiện phân

cấp. Nhất là cụ thể hóa các quy định về thực hiện phân cấp tại Luật tổ chức

chính quyền địa phương năm 2015. Các văn bản chỉ đạo điều hành của Thành

phố Hà Nội trong thực hiện phân cấp thể hiện sự nhanh nhạy, nhạy bén trong

quản lý nhà nước trên các mặt, lĩnh vực của TP.Việc quy định phân cấp thực

hiện nhiệm vụ giữa Thành phố Hà Nội và chính quyền cấp dưới là cấp quận,

huyện với mục đích lớn là giải quyết nhanh chóng những vấn đề cấp bách của

người dân trên địa bàn thủ đô, giảm tải khối lượng công việc lớn cho Thành

phố và Thành phố tập trung nhiệm vụ về chỉ đạo, điều hành chung.

Thứ hai, về cơ bản, đã có những quy định cụ thể về chức năng, nhiệm vụ

của các cấp chính quyềnThành phố Hà Nội và chính quyền cấp quận, huyện.

Các quy định về phân cấp thể hiện khá rõ về trách nhiệm quản lý của các cấp,

chú trọng đến việc phát huy tính chủ động, sáng tạo của chính quyền cấp dưới

trên cơ sở điều kiện, khả năng của mỗi cấp hành chính.

Thứ ba, vai trò của cấp huyện, quận ở Thành phố Hà Nội ngày càng được

khẳng định trong chính sách phân cấp, phân quyền, thể hiện sự phát triển đi lên

của mỗi địa phương phụ thuộc không nhỏ vào sự năng động, sáng tạo của chính

quyền địa phương. Khi thực hiện các nhiệm vụ phân cấp, chính quyền cấp dưới

thể hiện được năng lực trình độ công chức; huy động sự kết hợp chặt chẽ giữa

các đơn vị, tổ chức, cá nhân trong bộ máy nhà nước ở cấp huyện, quận, phường,

để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ củaThành phố, đồng thời góp

phần hoàn thành nhiệm vụ xây dựngThành phố, thủ đô văn minh, hiện đại.

Thứ tư, khi thực hiện phân cấp đã đẩy mạnh cơ chế phối hợp giữa các cấp,

ngành, các địa phương, nhất là sự phối hợp giữa cơ quan thực hiện phân cấp

với các tổ chức chính trị - xã hội ở Thành phố Hà Nội, mang lại hiệu quả trong

119

quản lý nhà nước, thực thi nhiệm vụ.

Thứ năm, thực hiện phân cấp tạo sự đồng thuận trong xã hội, do các bức

xúc, mâu thuẫn và vướng mắc của người dân được giải quyết kịp thời tại cơ

quan, đơn vị được phân cấp. Việc giảm tải các quy trình, thủ tục báo cáo cấp

trên giải quyết đã phần nào giảm sự phiền hà của người dân khi tiếp xúc, làm

việc với cơ quan công quyền, rút ngắn thời gian đi lại cho người dân.

3.1.1.2. Dưới góc độ thực thi nhiệm vụ của chính quyền phường theo sự chỉ

đạo, giao nhiệm vụ từ chính quyền quận.

Thứ nhất, chính quyền phường luôn luôn thể hiện sự chủ động khi được

giao nhiệm vụ thực thi, thừa hành. Đối với các nhiệm vụ được chính quyền

Thành phố phân cấp cho chính quyền quận giải quyết, quyết định trực tiếp, chính

quyền quận thường xuyên có văn bản chỉ đạo, điều hành, giao nhiệm vụ tới chính

quyền phường để thực thi đảm bảo đúng quy định pháp luật.

Thứ hai, sự chủ động trong thực hiện nhiệm vụ của chính quyền phường

góp phần lớn tạo nên thành công và là giải pháp quan trọng để chính quyền quận

hoàn thành các nhiệm vụ trong lĩnh vực, thẩm quyền được giao. Đồng thời, hoạt

động của chính phường góp phần đẩy mạnh công tác cải cách hành chính trên

địa bàn.

Thứ ba, chính quyền phường là cấp thấp nhất tại chính quyền ở đô thị, là

cấp gần dân nhất, do đó khi thực hiện các nhiệm vụ được phân cấp từ chính

quyền quận sẽ mang lại hiệu quả “tức thì”, có tác động, ảnh hưởng lớn đến quyền,

lợi ích của người dân trên địa bàn phường.

3.3.2. Những hạn chế về phân cấp quản lý nhà nước giữa thành phố,

chính quyền quận cho chính quyền phường tại Hà Nội

Bên cạnh các kết quả đạt được trong công tác chỉ đạo, điều hành, quy định

về lĩnh vực quản lý nhà nước tiến hành phân cấp, giữa Thành phố Hà Nội cho

chính quyền phường ở Hà Nội còn nhiều bất cập liên quan đến vấn đề phân

120

cấp. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, chưa có nội dung phân cấp được quy định tại văn bản quy phạm

pháp luật giữa Thành phố Hà Nội với chính quyền phường ở Hà Nội

Mặc dù các quy định hiện hành của Thành phố Hà Nội như: Quyết định

số 15/2017/QĐ-UBND của UBND TP Hà Nội ban hành Quy định về phân cấp

quản lý tổ chức bộ máy, cán bộ, công chức, lao động hợp đồng trong các cơ

quan hành chính thuộc thành phố Hà Nội đối với cấp Huyện; Quyết định

41/2016/QĐ-UBND ngày 19/9/2016 của UBND Thành phố ban hành quy định

phân cấp quản lý nhà nước một số lĩnh vực hạ tầng, kinh tế - xã hội trên địa

bàn; Nghị quyết số 13/2016/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân TP Hà Nội về

việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách, tỷ lệ % phân

chia nguồn thu giữa các cấp ngân sách và định mức phân bổ chi ngân sách thành

phố giai đoạn 2017 – 2020. Nghị quyết 08/2016/NQ-HĐND ngày 03/8/2016

của HĐND Thành phố Hà Nội về phân cấp quản lý nhà nước lĩnh vực hạ tầng,

kinh tế xã hội trên địa bàn thành phố Hà Nội.

Các văn bản này trực tiếp phân cấp thực hiện nhiệm vụ cho chính quyền

quận và chưa đề cập đến việc phân cấp thẳng từ chính quyền thành phố cho

chính quyền phường để thực hiện nhiệm vụ, không qua cấp trung gian là chính

quyền quận.

Do đó, chưa phát huy tối đa được tính chủ động, sáng tạo, năng lực cũng

như điều kiện phát triển theo thế mạnh từng phường, bởi các hoạt động của

phường thường chịu sự chỉ đạo của chính quyền quận hoặc văn bản từ chính

quyền thành phố yêu cầu chung thực hiện nhiệm vụ cho cả quận, huyện, phường

và thị trấn. Việc ban hành văn bản chỉ đạo, điều hành của chính quyền phường

cũng chưa thực sự chủ động, do phụ thuộc khá lớn vào sự chỉ đạo của chính

quyền cấp trên, dẫn tới mất dần sự năng động, sáng tạo cũng như thế mạnh của

chính quyền phường, vốn được xem là cấp chính quyền gần dân nhất, trực tiếp

giải quyết các nhiệm vụ, công việc liên quan đến người dân, và luôn cần sự linh

121

hoạt, nhạy bén.

Thứ hai, chưa có văn bản quy phạm pháp luật từ chính quyền quận phân

cấp quản lý nhà nước cho chính quyền phường tại Thành phố Hà Nội

Tại các văn bản phân cấp từ chính quyền thành phố cho chính quyền quận

đều quy định rõ về việc: Nếu thấy cần thiết và được chính quyền Thành phố

cho phép, căn cứ các nội dung được chính quyền Thành phố phân cấp quản lý,

chính quyền cấp huyện có thể tiếp tục phân cấp cho cấp xã thực hiện quản lý

từng lĩnh vực và nội dung công việc trên địa bàn, đảm bảo phù hợp điều kiện,

khả năng cụ thể của mỗi địa phương, phù hợp thẩm quyền, trách nhiệm của cấp

xã theo quy định của Nhà nước.

Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có văn bản cụ thể của chính quyền cấp quận,

tiếp tục phân cấp cho chính quyền phường các nhiệm vụ do chính quyền Thành

phố Hà Nội phân cấp. Do đó, các nhiệm vụ của chính quyền phường thực hiện

theo phân cấp hiện nay, chủ yếu là văn bản chỉ đạo, điều hành, giao việc, giao

nhiệm vụ từ chính quyền cấp quận và thực thi nhiệm vụ theo các quy định tại

văn bản quy phạm pháp luật như Luật, Nghị định, Thông tư quy định trực tiếp

cho chính quyền phường thực hiện.

Thứ ba, vai trò chính quyền phường mờ nhạt khi quyết định các vấn đề quản

lý nhà nước trên địa bàn phường

Khi thực hiện nhiệm vụ được giao từ chính quyền cấp quận, chính quyền

phường đều thể hiện là cấp thực thi thừa hành, chỉ có vai trò thực hiện và phản

ánh, kiến nghị lên cấp quận, vai trò quyết định các vấn đề về kinh tế - văn hóa –

xã hội trên địa bàn phường là rất mờ nhạt. Nhất là HĐND cấp phường, khi ban

hành Nghị quyết, chủ yếu dựa vào các quy định tại Nghị quyết của HĐND quận

và giao nhiệm vụ của HĐND quận, đồng thời căn cứ vào nhiệm vụ UBND quận

ban hành tại Quyết định để HĐND tiến hành thực hiện ban hành Nghị quyết thực

thi tại phường.

Thứ tư, do không có phân cấp rõ ràng về nhiệm vụ, nên còn tình trạng chính

122

quyền cấp trên giao việc, nhiều trường hợp tạo sức ép trong thực hiện công việc

nhưng không tạo điều kiện về mặt thẩm quyền, điều kiện nguồn lực cho chính

quyền phường và phường yêu cầu tổ dân phố thực hiện còn phổ biến

Việc tổ chức chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội,

văn hoá, giáo dục, y tế, thu chi ngân sách và các nhiệm vụ khác trên địa bàn

phường còn nhiều lúng túng; năng lực, tính chủ động trong tổ chức thực hiện

nhiệm vụ chưa cao. Thực tế tổ chức nhiều cuộc họp, bàn bạc, tuy nhiên hiệu

quả chưa cao. Cơ chế phân cấp và nhiệm vụ được phân cấp của chính quyền

phường trong từng lĩnh vực chưa rõ tại văn bản, do đó, khi quận được thành

phố giao nhiệm vụ, thực hiện phân cấp, quận có xu hướng “đẩy việc” xuống

cho chính quyền phường và phường đề nghị đội ngũ cán bộ tổ dân phố thực

hiện những công việc, những nhiệm vụ đáng ra là phải do cán bộ, công chức

UBND phường thực hiện như: thu thuế, tuyên truyền pháp luật. Ngoài ra, cán

bộ, công chức phường trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn còn mang nặng thói

quen, tình cảm chủ quan mà chưa thực sự dựa trên căn cứ pháp lý để giải quyết

công việc được giao. Chính cơ chế không rõ ràng, thiếu hụt văn bản quy định làm

căn cứ pháp lý dẫn đến chính quyền phường thường thực hiện khá nhiều nhiệm

vụ, từ cấp quận “rót” xuống, gia tăng áp lực thực hiện nhiệm vụ cho cấp chính

quyền thấp nhất ở đô thị bên cạnh những áp lực từ phía người dân.

Thứ năm, cơ chế chịu trách nhiệm trực tiếp khi thực hiện nhiệm vụ giữa

chính quyền phường và chính quyền quận đối với chính quyền thành phố là chưa

rõ ràng

Từ những bất cập trong quy định pháp luật, giao nhiệm vụ và vấn đề phân

cấp không rõ tại từng nhiệm vụ, dẫn đến khi thực thi có vướng mắc, khó khăn,

thậm chí có nhiều sai sót xảy ra, cơ chế chịu trách nhiệm chính vẫn còn mờ nhạt,

chưa đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật về xử lý cán bộ, công chức khi

thực thi nhiệm vụ có vi phạm. Điều này dẫn đến cơ chế “chịu trách nhiệm

chung”, không tìm ra được cá nhân có vi phạm hoặc cuối cùng là trường hợp

123

cộng đồng chịu trách nhiệm về những sai sót, sai phạm. Trong nhiều trường hợp,

các cấp chính quyền phường và quận đổ lỗi cho nhau, do chính quyền quận có

thẩm quyền quyết định, còn chính quyền phường là cấp thực thi thừa hành. Khi

giao nhiệm vụ thực hiện, không rõ trong việc thực hiện theo mệnh lệnh hành

chính hay thực hiện theo phân cấp, dẫn đến khó khăn trong việc lựa chọn quy

phạm áp dụng trong trường hợp xảy ra vi phạm.

Thứ sáu, thực hiện cơ chế trách nhiệm người đứng đầu cơ quan hành chính

phường còn nhiều bất cập.

Trong tổ chức bộ máy của chính quyền Phường hiện nay, UBND với tư

cách cơ quan hành chính hoạt động theo nguyên tắc “Tập thể lãnh đạo, cá nhân

phụ trách” là một nguyên tắc lãnh đạo của Đảng và là cơ chế chung của toàn

bộ hệ thống chính trị, trong đó có các cơ quan hành chính nhà nước. Đó chính

là biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ (Tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá

nhân phụ trách là tập trung). Thực hiện nguyên tắc này sẽ phát huy được trí tuệ

và sức mạnh của tập thể, đồng thời khẳng định năng lực của cá nhân, phù hợp

với hoạt động ra chủ trương, nghị quyết. Cơ cấu này có những ưu điểm như:

Cung cấp thông tin đầy đủ và đa dạng, vấn đề được xem xét thấu đáo, góp phần

phòng ngừa những sai lầm từ ý chí chủ quan của cá nhân; Phát huy được trí lực

của tập thể, có khả năng xây dựng được nhiều phương án hành động; Gia tăng

sự đồng thuận về giải pháp được lựa chọn, đặc biệt là các chủ trương lớn; Phát

huy tinh thần dân chủ, là môi trường để rèn luyện cán bộ kế cận.

Tuy nhiên, chế độ tập thể lãnh đạo cũng bộc lộ rất nhiều bất cập, như:

Tốn thời gian: chế độ tập thể đòi hỏi thời gian cho việc tập hợp nhiều

người cùng một lúc, tiêu tốn nhiều thời gian cho các hoạt động họp hành, bàn

bạc, thảo luận, lấy ý kiến của tập thể. Để đạt được sự nhất trí trong tập thể đòi

hỏi lượng thời gian không ngắn cho mỗi quyết định được đưa ra. Điều này dẫn

tới nhiều quyết định của tập thể thường chậm trễ, khả năng thích ứng với môi

124

trường không cao, hiệu quả hạn chế.

Có thể bị chi phối bởi thiểu số: Thường có sự khác biệt về thứ bậc, kinh

nghiệm, tầm ảnh hưởng, các kỹ năng giữa các thành viên của tập thể khiến một

số thành viên sử dụng lợi thế của họ để chi phối các thành viên khác trong nhóm

và ảnh hưởng đến quyết định cuối cùng. Do đó, các quyết định quản lý theo cơ

chế này về lý thuyết là đại diện của tập thể nhưng thực chất có thể chỉ đại diện

cho thiểu số người có những ưu thế nhất định trong tập thể đó.

Các quyết định thường mang tính thỏa hiệp, thiếu quả quyết bởi nó là kết

quả của sự bàn bạc, thảo luận để đưa đến những thỏa thuận.

Quyền lực bị phân tán, trách nhiệm không rõ ràng: bản chất của quyền

hành phải đi đôi với trách nhiệm cá nhân. Trách nhiệm tập thể có thể thuộc về

bất kỳ thành viên nào và có xu hướng phân tán, thiếu rõ ràng, khó xác định bởi

Ủy ban đại diện cho nhiều nhóm lợi ích khác nhau. Điều này dẫn tới tình trạng

thoái thác trách nhiệm cá nhân, đổ lỗi cho nhau hoặc đổ lỗi cho tập thể khi xảy

ra tiêu cực trong điều hành, không thể hiện được sự cam kết về trách nhiệm và

do đó dẫn đến khó kiểm soát và khó quy trách nhiệm.

Thứ bảy, chưa có sự mạnh dạn trong phân cấp giữa chính quyền cấp trên

với chính quyền phường.

Nhiều chính quyền phường trên địa bàn Thành phố Hà Nội có đủ điều kiện

cần thiết để thực hiện nhiều nhiệm vụ, nhất là nhiệm vụ được chính quyền quận

giao trên cơ sở chính quyền Thành phố phân cấp cho chính quyền quận thực

hiện. Tuy nhiên, do chưa có văn bản phân cấp, chưa mạnh dạn phân cấp quản lý

hành chính cho chính quyền phường nên có nhiều công việc do chính quyền

phường có khả năng giải quyết nhưng không có quyền giải quyết, chính quyền

quận quá nhiều nhiệm vụ, không có khả năng giải quyết nhưng không tiến hành

phân cấp, dẫn đến tình trạng nhiều công việc ùn tắc, chậm trễ, kém hiệu quả.

Như vấn đề về hệ thống thoát nước trên địa bàn phường, vấn đề về gom rác thải

trên địa bàn phường; vấn đề về xây dựng các công trình nhỏ lẻ trên địa bàn

125

phường…Các nhiệm vụ này có liên quan trực tiếp đến người dân về quyền lợi,

lợi ích, do đó, khi không thực hiện phân cấp, chính quyền phường không giám

thực hiện và khắc phục các sự cố xảy ra trực tiếp, nhiều trường hợp cần xin ý

kiến chỉ đạo, dẫn tới thực thi chính sách rất chậm tới người hưởng thụ.

Thứ tám, cơ chế kiểm tra, giám sát khi thực hiện phân cấp

Chính sách phân cấp trong hành chính nhà nước gắn rất chặt với yêu cầu

kiểm tra, giám sát. Tuy nhiên, vẫn chưa có những hành lang pháp lý cụ thể về

vấn đề này, nhất là những chế tài xử lý đối với các vi phạm về phân cấp chưa

rõ, chưa cụ thể. Chẳng hạn, việc buông lỏng trách nhiệm hướng dẫn, thanh tra,

kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước ở Trung ương và cấp trên đối với cấp

dưới trong thời gian qua đã dẫn đến tình trạng “phình to” bộ máy tổ chức và

biên chế ở cấp dưới. Việc kiểm soát, thanh tra, kiểm tra của chính quyền quận

đối với hoạt động của các cơ quan chính quyền phường trong quá trình phân

cấp chưa tốt dẫn đến sự lợi dụng việc phân cấp để đưa ra các biện pháp quản lý

vì lợi ích cục bộ, hoặc thực hiện quyết sách theo hướng có lợi cho phường là

vấn đề thực tế vẫn có xảy ra.

3.3.3. Nguyên nhân của hạn chế

Thứ nhất, cơ sở pháp lý cho thực hiện phân cấp giữa chính quyền Thành

phố, chính quyền quận và chính quyền phường còn nhiều bất cập, chưa đồng

bộ. Căn cứ pháp lý có vai trò lớn trong việc điều chỉnh vấn đề phân cấp giữa

chính quyền Thành phố, chính quyền quận với chính quyền phường.

Các quy định về phân cấp nói chung hiện nay cũng chưa phù hợp thực

tế, chậm được sửa đổi, bổ sung. Trong khi đó, sự vận động của đời sống kinh

tế, xã hội ở địa bàn phường diễn ra rất nhanh, tốc độ đô thị hóa cao, đòi hỏi sự

thay đổi trong các phương pháp quản lý, đồng thời cần nhìn nhận khách quan,

những vấn đề chính quyền phường có thể thực hiện được, thực hiện tốt, cần có

126

văn bản quy phạm pháp luật để giao thực hiện.

Thứ hai, đi đôi với việc thiếu các quy định cụ thể, chế tài xử lý đối với

việc không chấp hành các nhiệm vụ được giao còn thiếu, không rõ ràng. Các

quy định về trách nhiệm của người đứng đầu chính quyền phường trong việc

tự kiểm soát hoạt động của chính cơ quan mình chưa phát huy được hiệu lực

thực tế. Các chế tài đối với việc không tuân thủ các quy định về công khai,

minh bạch cũng ở tình trạng tương tự.

Bên cạnh đó, cơ sở pháp lý cho xã hội tham gia vào kiểm soát hoạt động

chính quyền phường đang còn thiếu những nội dung điều chỉnh quan trọng như:

quyền biểu quyết khi nhà nước tổ chức trung cầu dân ý, quyền mít tinh, biểu

tình; quyền đánh giá hoạt động của chính quyền phường; quyền được thông tin

về hoạt động của chính quyền phường…

Thứ ba, dưới góc độ thực hiện nhiệm vụ của phường cho thấy, năng lực

đảm bảo thực hiện nhiệm vụ của các phường hiện nay chưa đồng đều, trong

trường hợp nhận các nhiệm vụ phân cấp từ chính quyền cấp trên, điều kiện chưa

đảm bảo đầy đủ để thực hiện. Các điều kiện về nhân lực, vật lực cần được cân

nhắc và chuẩn bị kỹ lưỡng trước các nhiệm vụ lớn được giao. Xuất phát từ đặc

điểm đa dạng về dân cư, đa dạng về lối sống, hành xử do dịch chuyển lao động

từ các vùng miền khác nhau cũng có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của chính

quyền phường.

Thứ tư, kinh tế và nguồn thu của các phường trên địa bàn Thành phố Hà

Nội có mức khác nhau, dẫn đến sự chênh lệch trong các chính sách phúc lợi,

hưởng thụ của người dân. Đối với các phường đã đô thị hóa từ lâu, mức sống,

nguồn thu, thuế của người dân, doanh nghiệp trên địa bàn phường thường lớn

hơn là phường mới thành lập có mật độ dân cư thưa thớt, có ít các doanh nghiệp,

công ty đầu tư. Điều này dẫn đến, khi thực hiện nhiệm vụ được giao, có đơn vị

phường thực hiện tốt; có phường chưa đủ năng lực để thực hiện. Điều này ảnh

hưởng lớn đến quyết định phân cấp mang tính cào bằng, đại trà trên toàn các

127

phường thuộc Thành phố Hà Nội.

Thứ năm, chính quyền cấp trên chưa quan tâm đúng mức, thiếu quyết

tâm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức, điều hành; kiểm tra đôn đốc thực

hiện nhiệm vụ.

Phân cấp giữa chính quyền thành phố và chính quyền phường trên thực

tế còn nhiều khó khăn, thách thức, cần có sự kết hợp hài hòa giữa chủ trương,

chính sách, quy định của pháp luật, văn bản phân cấp và thực tiễn thực hiện

nhiệm vụ phân cấp.

Sự chỉ đạo sát sao của các cấp ủy Đảng, chính quyền cấp trên trong thực

hiện nhiệm vụ phân cấp là vấn đề cốt lõi, góp phần cho chính quyền cấp dưới

thực hiện thành công nhiệm vụ được phân cấp. Song vấn đề này chưa được thực

hiện, tiến hành thường xuyên, liên tục và sự quyết tâm của các cấp lãnh đạo

thành phố trong vấn đề phân cấp cần được xem xét, nhìn nhận ở đa chiều và

nâng tầm quan trọng ở mức cao.

Tiểu kết Chương 3

Chương 3 tiến hành phân tích thực tổ chức, hoạt động của chính quyền

phường ở Thành phố Hà Nội đã làm rõ những vấn đề liên quan đến đơn vị hành

chính phường của Thành phố Hà Nội; Chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của

chính quyền phường ở Thành phố Hà Nội.

Chương này cũng nêu về hệ thống thể chế chính trị, pháp lý về phân cấp

cho chính quyền phường và văn bản của Thành phố Hà Nội về phân cấp. Làm

rõ thực trạng thực hiện các nội dung phân cấp cho chính quyền phường của

Thành phố Hà Nội từ tổng kết báo cáo của chính quyền phường và điều tra xã

hội học, trên các góc độ như: nhiệm vụ đã thực hiện phân cấp của Thành phố

Hà Nội; Chính quyền phường dưới góc độ thực thi, thừa hành các nhiệm vụ

theo quy định pháp luật; thực thi nhiệm vụ theo chỉ đạo từ chính quyền quận;

các phản ánh, đề xuất từ điều tra xã hội học đối với vấn đề phân cấp, yêu cầu

phân cấp, các giải pháp tiến hành phân cấp cho chính quyền phường của Thành

128

phố Hà Nội trong tương lai.

Từ những kết quả của thực trạng, luận án có đánh giá nhận định về kết quả

đạt được trong việc thực hiện phân cấp cho chính quyền phường ở Hà Nội dưới

góc độ quản lý của Thành phố Hà Nội và dưới góc độ thực thi nhiệm vụ của

chính quyền phường theo sự chỉ đạo, giao nhiệm vụ từ chính quyền quận.

Chương 3 của Luận án cũng đã tập trung đánh giá những hạn chế về phân cấp

giữa thành phố, chính quyền quận cho chính quyền phường ở Hà Nội và chỉ ra

129

nguyên nhân của hạn chế.

CHƯƠNG 4. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP PHÂN CẤP CHO

CHÍNH QUYỀN PHƯỜNG TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI

4.1. Quan điểm phân cấp phù hợp về quản lý nhà nước giữa Thành

phố, chính quyền quận cho chính quyền phường ở Hà Nội

4.1.1. Phù hợp chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật

của Nhà nước

Đẩy mạnh thực hiện phân cấp giữa Trung ương và chính quyền địa

phương và phân cấp quản lý giữa các cấp chính quyền là vấn đề đã được Đảng

quan tâm chỉ đạo, đồng thời Chính phủ chỉ đạo thực hiện thông qua nhiều văn

bản điều hành. Cụ thể là: Nghị quyết số 18 – NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban

Chấp hành Trung ương khóa XII chỉ đạo: “Thực hiện phân cấp, phân quyền

mạnh mẽ, hợp lý giữa Trung ương và địa phương, giữa cấp trên và cấp dưới,

gắn quyền hạn với trách nhiệm; đồng thời xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực

chặt chẽ bằng các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm dân

chủ, công khai, minh bạch, đề cao trách nhiệm giải trình và tăng cường kiểm

tra, giám sát việc thực hiện” [3, Tr.7]. Nghị quyết số 99/NQ-CP ngày 24/6/2020

của Chính phủ về đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực

được tiến hành đối với 10 ngành, lĩnh vực. Trong đó có các lĩnh vực lớn như:

Tài nguyên môi trường: Biển và hải đảo; Văn hóa: Điện ảnh; Khoa học và Công

nghệ; Tài chính: Thu ngân sách nhà nước, chi ngân sách nhà nước, quản lý nợ

công, phí và lệ phí, tài sản công...

Tại quy định của Hiến pháp năm 2013, quy định về nhiệm vụ, quyền hạn

của chính quyền địa phương được xác định trên cơ cở phân định thẩm quyền

giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và mỗi cấp chính quyền

địa phương.

Đối với việc phân cấp cho chính quyền phường ở Thành phố Hà Nội,

cần bám sát chủ trương của Đảng, quy định của pháp luật tại Hiến pháp và các

130

văn bản Luật chuyên ngành.

Bộ Chính trị đã có chỉ đạo cụ thể tại Nghị quyết số 11 – NQ/TW ngày

06/01/2012, về phương hướng, nhiệm vụ phát triển thủ đô Hà Nội giai đoạn

2011 – 2020: “Có cơ chế, chính sách và phân cấp cho chính quyền Hà Nội thẩm

quyền, trách nhiệm giải quyết công việc phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ đặc thù

của Thủ đô, trọng tâm là các lĩnh vực đầu tư, tài chính, quản lý trật tự xây dựng,

trật tự giao thông, quản lý môi trường, quản lý dân cư” [1, Tr.5].

Thực hiện Kết luận số 46-KL/TW ngày 19/4/2019 của Bộ Chính trị,

Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành liên quan và UBND thành phố Hà Nội xây

dựng Nghị quyết của Quốc hội về thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND

phường tại thành phố Hà Nội nhiệm kỳ 2021 – 2026. Theo đó, ngày 27/11/2019

Quốc hội đã thông qua đề xuất của Hà Nội về việc thực hiện thí điểm tổ chức

mô hình chính quyền đô thị. Nghị quyết 97/2019/QH14 đã chỉ rõ, mô hình

chính quyền địa phương ở các phường thuộc quận, thị xã tại thành phố Hà Nội

là UBND phường.

Địa vị pháp lý của UBND phường được khẳng định là cơ quan hành

chính nhà nước ở phường, thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định

của Nghị quyết và theo phân cấp, ủy quyền của UBND, Chủ tịch UBND thành

phố Hà Nội; UBND, Chủ tịch UBND quận, thị xã.

Như vậy, theo tinh thần Nghị quyết này, sẽ không tổ chức Hội đồng nhân

dân tại 175 phường của Thành phố Hà Nội (số liệu sau khi đã sắp xếp đơn vị

hành chính phường theo Nghị quyết số 895/NQ-UBTVQH14 ngày 11/2/2020)

nhiệm kỳ 2021 - 2026. Do đó, cần có điều chỉnh cơ chế chính sách phân cấp

giữa Trung ương cho thành phố Hà Nội và giữa các cấp chính quyền của thành

phố Hà Nội cho phù hợp, để tạo được sự khác biệt giữa khu vực đô thị và nông

thôn; tạo sự chủ động cho Hà Nội thực hiện nhiệm vụ, đáp ứng nhu cầu của

người dân, phát triển hội nhập của Thủ đô hiện đại, văn minh.

Do đó, việc thực hiện phân cấp thực hiện một hoặc một số nhiệm vụ

131

thường xuyên, liên tục giữa cơ quan nhà nước ở trung ương, và giữa chính

quyền thành phố, chính quyền quận cho chính quyền địa phương ở các phường

thuộc quận, thị xã tại thành phố Hà Nội là UBND phường, phản ánh xu hướng

hiện thực hóa chủ trương của Đảng, Nghị quyết của Quốc hội, pháp luật của

Nhà nước về phân cấp.

4.1.2. Hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả

hoạt động của chính quyền phường.

Xã hội phát triển hướng tới văn minh, hiện đại, đều đòi hỏi chính quyền

phục vụ luôn luôn hoàn hảo. Chính vì vậy, hệ thống các cơ quan nhà nước luôn

trong trạng thái đổi mới, cải cách không ngừng để phục vụ người dân, doanh

nghiệp, xã hội. Một trong những phương thức đổi mới để cơ quan nhà nước hoạt

động hiệu lực, hiệu quả từ trung ương đến địa phương là vấn đề phân cấp thực

hiện nhiệm vụ giữa chính quyền cấp cao cho chính quyền cấp thấp hơn.

Chính quyền ở đô thị luôn đối mặt với nhiều nhiệm vụ liên quan đến người

dân sống ở đô thị với đặc điểm: đông đúc về dân số, chật hẹp về không gian, diện

tích, nhiều vấn đề đô thị phát sinh như nước sạch, vệ sinh đường phố, môi trường,

chăm sóc cây xanh đô thị, hệ thống thoát nước...và nhiều nhiệm vụ quan trọng

khác để duy trì môi trường sống lành mạnh cho nhiều hộ gia đình với nhiều thành

phần xã hội khác nhau. Quản lý đô thị đòi hỏi tính đồng bộ, liên thông, đa diện,

đa chiều và nhất là linh hoạt trong cách xử lý tình huống liên quan đến người

dân. Đối với đô thị càng lớn về diện tích, quy mô dân số, đồng nghĩa với việc

chính quyền ở đó có khối lượng công việc càng tăng, cường độ làm việc rất cao,

căng thẳng và luôn luôn phải tuân thủ quy trình chặt chẽ, đảm bảo tính chính xác,

kịp thời. Hơn nữa, mật độ sinh hoạt của người dân ở đô thị dày đặc hơn nông

thôn, trình độ văn hóa, nhận thức, của người dân ở đô thị có nhiều điểm khác

biệt nông thôn, nên chính quyền quản lý cần nhanh nhạy, cán bộ trực tiếp giải

quyết công việc cần có tri thức, vững vàng về chuyên môn, khả năng chịu áp lực

132

lớn tốt.

Do đó, để giảm tải công việc cho chính quyền cấp thành phố, chính quyền

cấp quận, vấn đề phân cấp thực hiện nhiệm vụ cho chính quyền cấp thấp hơn là

giải pháp quan trọng, phát huy thế mạnh chính quyền cấp dưới, nâng cao tính

hiệu quả, minh bạch trong hoạt động công vụ trên địa bàn thành phố.

Ngoài ra, việc phân cấp thực hiện nhiệm vụ cũng là giải pháp cơ bản để

cơ quan nhà nước cấp trên tiến hành rà soát chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và

cơ cấu tổ chức của đơn vị. Từ đó, cơ quan, tổ chức, đề xuất cấp có thẩm quyền

điều chỉnh các chức năng, nhiệm vụ chồng chéo, trùng lắp và thống nhất, một

việc chỉ giao một đầu mối triển khai, chịu trách nhiệm trước cấp có thẩm quyền.

Khi thực hiện nhiệm vụ đã được phân cấp, cơ quan thực hiện phân cấp hoàn toàn

chịu trách nhiệm về những quyết định, hiệu quả công việc trước pháp luật và

trước cơ quan nhà nước cấp trên. Quá trình thực hiện nhiệm vụ được phân cấp,

đối tượng thực hiện có thể huy động sự liên kết của các tổ chức, cá nhân khác có

liên quan trong giải quyết công việc được giao để đạt được hiệu quả tốt nhất.

4.1.3. Góp phần xây dựng thành phố Hà Nội là trung tâm chính trị -

hành chính, văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế.

Thực hiện phân cấp nhiệm vụ là một trong những giải pháp hữu hiệu,

giảm tải công việc cho chính quyền cấp trên, nhất là chính quyền ở đô thị do

đặc thù về sinh hoạt, văn hóa, đời sống, an ninh chính trị, trật tự đô thị, nước

sạch, môi trường, giao thông, xây dựng....Những vấn đề phát sinh từ người dân

và từ cơ quan công quyền để phục vụ người dân thường diễn ra thường xuyên,

dày đặc và nhiều tình huống khó giải quyết tức thời. Điều này tạo nên áp lực

cho cán bộ, công chức khi trực tiếp giải quyết công việc với người dân với khối

lượng lớn. Việc phân cấp cho chính quyền cấp dưới được lựa chọn như là giải

pháp hữu hiệu, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước của chính quyền thành phố,

giải phóng một phần lớn khối lượng công việc, dành thời gian để chính quyền

thành phố tiến hành chỉ đạo trực tiếp, kiểm tra, giám sát và ban hành các chính

133

sách phù hợp.

Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 06/01/2012 của Bộ Chính trị về phương

hướng, nhiệm vụ phát triển thủ đô Hà Nội giai đoạn 2011 – 2020, nhấn mạnh

về tầm quan trọng của Thành phố Hà Nội, về mảnh đất có bề dày lịch sử và

truyền thống cách mạng vẻ vang. Đối với Hà Nội, việc xây dựng, phát triển thủ

đô xứng tầm nhìn khu vực và thế giới là mục tiêu quan trọng. Để thực hiện

được nhiệm vụ đó, chính quyền Thành phố Hà Nội cần làm tốt vai trò, chức

năng, nhiệm vụ trong quản lý, điều hành, nhất là đảm bảo sự xuyên suốt, làm

việc có hiệu quả giữa chính quyền Thành phố và chính quyền cấp dưới. Vấn đề

phân cấp thực hiện nhiệm vụ giữa thành phố, chính quyền quận cho chính quyền

phường là một trong những giải pháp quan trọng, phát huy vai trò, vị trí, sức

mạnh của chính quyền phường, đồng thời giảm tải các công việc, nhiệm vụ của

chính quyền thành phố, chính quyền quận để góp phần xây dựng thành phố theo

mục tiêu đã đặt ra của Bộ Chính trị, theo định hướng phát triển giai đoạn 2011

– 2020 và những giai đoạn tiếp theo.

4.1.4. Phù hợp, thống nhất với Luật Thủ đô, quy hoạch phát triển kinh

tế - xã hội của Thành phố, đảm bảo sự quản lý minh bạch, hiệu quả.

Luật Thủ đô có nhiều quy phạm quy định về trách nhiệm xây dựng, phát

triển Thủ đô, đây là nhiệm vụ thường xuyên, trực tiếp của các cấp chính quyền

và nhân dân Thành phố Hà Nội, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, các lực

lượng vũ trang, nhân dân cả nước. Đối với các cơ quan nhà nước đóng trên địa

bàn thủ đô, các hoạt động của cấp chính quyền của Thành phố cần hướng tới

xây dựng Thủ đô là trung tâm lớn về văn hóa, giáo dục, văn hóa khoa học và

công nghệ, kinh tế của cả nước.

Các hoạt động của cấp chính quyền thành phố cần bám sát Luật Thủ đô

và các luật có liên quan, đảm bảo xây dựng thủ đô phát triển bền vững. Đồng

thời, phải bám sát định hướng phát triển hệ thống đô thị vùng của Thành phố

Hà Nội, tổ chức hạ tầng kinh tế - kỹ thuật; bảo vệ môi trường, cảnh quan thiên

134

nhiên, cân bằng sinh thái, đảm bảo thực hiện mục tiêu đã được đề ra.

Phân cấp thực hiện nhiệm vụ phù hợp giữa chính quyền thành phố, chính

quyền quận cho chính quyền phường phải tính đến các yêu cầu của thị trường,

tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh, cung cấp dịch vụ công ngày

càng phát triển, hướng tới phục vụ xã hội ngày một tốt hơn, nhất khi các trung

tâm đô thị hiện nay đều là nơi thu hút nhiều nguồn nhân lực cho các cơ sở sản

xuất kinh doanh công, nông nghiệp và dịch vụ. Bảo đảm nguyên tắc hiệu quả,

việc nào, cấp nào sát thực tế hơn, giải quyết kịp thời và phục vụ tốt hơn các yêu

cầu của tổ chức và người dân thì giao cho cấp đó thực hiện; phân cấp, phân

quyền phải rõ việc, rõ địa chỉ, rõ trách nhiệm, gắn với chức năng, nhiệm vụ và

thẩm quyền của mỗi cấp.

4.1.5. Phù hợp năng lực quản lý của bộ máy hành chính phường, tăng

quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm khi thực hiện thí điểm tổ chức mô hình

chính quyền đô thị.

Nghị quyết số 97/2019/QH14 của Quốc hội về việc thực hiện thí điểm tổ

chức mô hình chính quyền đô thị đã mở cho Hà Nội bối cảnh mới, tập trung

nguồn lực để thực hiện không tổ chức HĐND tại các phường thuộc quận, thị

xã của Thành phố Hà Nội. Đây cũng là khó khăn, thách thức trong tổ chức, vận

hành bộ máy quản lý của thành phố Hà Nội, đồng thời cũng là cơ hội hiếm có,

quan trọng để thực hiện phân cấp hợp lý cho chính quyền phường thực hiện

một số nhiệm vụ thường xuyên, liên tục, phù hợp năng lực của phường trên địa

bàn Thành phố.

Theo quy định của Nghị quyết, UBND phường thực hiện các nhiệm vụ,

quyền hạn do UBND, Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội, quận, thị xã phân

cấp, ủy quyền; UBND phường thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của đơn vị dự

toán ngân sách trực thuộc UBND quận, thị xã và UBND phường không có thẩm

quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Do đó, khi thực hiện phân cấp quản lý nhà nước về thực hiện nhiệm vụ

135

cho chính quyền phường, cần tính đến các điều kiện, năng lực của UBND

phường. Nghị quyết của Quốc hội cho phép UBND phường thực hiện nhiệm

vụ được cấp trên phân cấp, ủy quyền, tuy nhiên khi cấp trên tiến hành phân cấp,

cần tuân thủ theo quy định của Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015

và các văn bản Luật có liên quan trong việc đảm bảo các điều kiện cần thiết

như: văn bản chỉ đạo điều hành, cơ sở vật chất, điều kiện đảm bảo về con người;

nguồn lực; cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm để UBND phường thực hiện hiệu

quả nhiệm vụ, phát huy nguồn lực, phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn

phường.

4.1.6. Góp phần tạo động lực thúc đẩy sự phát triển cân đối, hài hòa

của các khu dân cư của phường.

Đối với các phường của thành phố Hà Nội hiện nay, sự phát triển về kinh

tế - xã hội chưa thực sự đồng đều. Do mỗi phường có bề dày lịch sử, có điều

kiện khác nhau về vi trí địa lý, ưu đãi về danh lam, thắng cảnh hoặc điều kiện

tự nhiên khác, do đó, khi tiến hành phân cấp thực hiện nhiệm vụ, cần tính đến

sự cân đối, hài hòa giữa các phường thuộc quận. Một thực tế đặt ra là, đối với

các phường mới được thành lập từ khu vực nông thôn, hoặc có tuổi đời thấp,

chính quyền sẽ khó khăn hơn trong việc tiếp cận đời sống sinh hoạt người dân

hoặc triển khai các nhiệm vụ được phân cấp tại phường. Ngoài ra, còn có sự

khác nhau trong thế mạnh về kinh tế giữa các phường. Khi thực hiện chính sách

và tiến hành phân cấp thực hiện nhiệm vụ, có phường sẽ thực hiện tốt, hiệu quả

và ngược lại. Do đó, đối với các khu dân cư thuộc phường mới, phường non trẻ

hoặc có điều kiện khó khăn, cần có hỗ trợ lớn từ chính quyền cấp trên, về chỉ

đạo, ngân sách, chi phí hoặc công nghệ để thực hiện nhiệm vụ được phân cấp.

Sự cân đối, hài hòa về phát triển kinh tế - xã hội giữa các phường cần có

thời gian đủ dài và đảm bảo về mặt pháp lý của các văn bản quy định của Thành

phố Hà Nội và chính quyền cấp trên. Khi có đủ căn cứ pháp lý để thực hiện mới

phát huy được thế mạnh của chính quyền phường, tạo thế chủ động, tự chủ đối

136

với nhiệm vụ được giao tại văn bản phân cấp.

Bên cạnh đó, khi tiến hành phân cấp, chính quyền thành phố, chính quyền

quận không được can thiệp thiếu cơ sở trong hoạt động của UBND phường.

Chính quyền thành phố, chính quyền quận cần tập trung xây dựng thể chế để

quản lý chung, kiểm tra, thanh tra, giám sát khi thấy cần thiết và phân cấp một

số nhiệm vụ để UBND phường thực hiện, trên cơ sở thực tiễn cần thiết. Khi

nhận thấy, UBND phường không đủ điều kiện, sức lực, cơ sở hạ tầng và con

người để thực hiện nhiệm vụ được phân cấp, chính quyền thành phố, chính

quyền quận cần xây dựng ngay các giải pháp thu hồi nhiệm vụ phân cấp, để

chính quyền thành phố, chính quyền quận chủ động thực hiện.

4.2. Giải pháp về phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền

phường tại Hà Nội

4.2.1. Đề xuất nội dung phân cấp cho chính quyền phường tại Thành

phố Hà Nội

Khi tổ chức mô hình chính quyền đô thị theo Nghị quyết của Quốc hội,

nhiệm vụ của UBND phường là thực hiện một số công việc cụ thể của quản lý

hành chính nhà nước theo quy định của pháp luật. Do đó, trong bối cảnh đó, chính

quyền địa phương ở phường là UBND phường và là cơ quan hành chính nhà nước

ở phường, thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên các mặt đời sống, xã hội tại

phường. Nghị quyết cũng cho phép UBND phường thực hiện các nhiệm vụ được

phân cấp, ủy quyền. Nên việc phân cấp thực hiện nhiệm vụ của chính quyền cấp

trên cho UBND phường thuộc quận, thị xã của Thành phố Hà Nội vẫn sẽ được

tiến hành khi UBND phường có đủ điều kiện về năng lực, cơ sở vật chất, đảm bảo

phát huy thế mạnh, nội lực của các phường trên địa bàn thành phố, góp phần phát

triển kinh tế - xã hội lớn mạnh của thủ đô. Cơ sở pháp lý cho việc nhận phân cấp

từ cấp trên, cần quy định tại văn bản phân cấp của thành phố, chính quyền quận

với chính quyền phường dưới dạng văn bản QPPL. Nội dung văn bản QPPL về

137

phân cấp cho UBND các phường ở Hà Nội cần quy định rõ về công việc, nhiệm

vụ, điều kiện, cơ chế kiểm tra, giám sát, thực thi và chịu trách nhiệm trước pháp

luật khi thực hiện phân cấp. Các mảng phân cấp được phân chia cụ thể như sau:

4.2.1.1. Lĩnh vực quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội

Đối với lĩnh vực quy hoạch đô thị: Luật quy hoạch đô thị năm 2009 quy

định: “Quy hoạch đô thị là việc tổ chức không gian, kiến trúc, cảnh quan đô thị,

hệ thống công trình hạ tầng kỹ thuật, công trình hạ tầng xã hội và nhà ở để tạo

lập môi trường sống thích hợp cho người dân sống trong đô thị, được thể hiện

thông qua đồ án quy hoạch đô thị”. Việc công bố công khai quy hoạch đô thị

hiện nay đang giao các cơ quan: UBND thành phố, thị xã, thị trấn công bố công

khai đồ án quy hoạch chung được lập cho thành phố, thị xã, thị trấn do mình

quản lý; UBND quận, huyện thuộc thành phố trực thuộc trung ương;, UBND

thành phố thuộc tỉnh, thị xã, thị trấn có trách nhiệm công bố công khai đồ án

quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết được lập cho các khu vực thuộc phạm

vi địa giới hành chính do mình quản lý.

Trên cơ sở nhiệm vụ được giao, UBND quận có thể phân cấp cho UBND

phường thực hiện công bố công khai đồ án quy hoạch đô thị trên địa bàn

phường. Các hình thức công khai đồ án quy hoạch đô thị tại phường cần được

chính quyền phường công khai trên cổng thông tin của phường, niêm yết tại trụ

sở phường hoặc qua các phương tiện thông tin công cộng, báo chí, truyền thanh,

truyền hình…để người dân được tiếp cận.

Bởi vấn đề quy hoạch quy hoạch đô thị trên địa bàn là vấn đề quan trọng,

đều được đại đa số người dân quan tâm. Việc công khai nội dung này, thể hiện

sự minh bạch trong quản lý của chính quyền phường, công khai các thông tin

liên quan để người dân chuẩn bị tâm lý cũng như các điều kiện khác khi xem

xét quy hoạch phường.

4.2.1.2. Lĩnh vực đầu tư, giao thông, hạ tầng đô thị

138

+ Lĩnh vực đầu tư công trình nhỏ, lẻ

Đối với các công trình đầu tư thuộc thẩm quyền quyết định của chính

quyền quận, được đầu tư trên địa bàn phường có thể phân cấp cho chính quyền

phường quyết định chủ trương đầu tư. Bởi chính quyền phường là cơ quan nắm

rõ nhất địa bàn dân cư, những khó khăn vướng mắc của người dân, trình độ dân

cư, phản ứng của dân cư khi tiếp nhận dự án đầu tư…do đó, đối với các dự án

đầu tư nhỏ, cần nghiên cứu, xem xét để tiến hành phân cấp cho chính quyền

phường quyết định, trên cơ sở chính quyền phường trực tiếp lấy ý kiến góp ý

của người dân trên địa bàn phường.

+ Lĩnh vực quản lý chiếu sáng công cộng

Thực tiễn quy định: Hiện nay Thành phố đang phân cấp cho quận, huyện

về nhiệm vụ đầu tư xây dựng mới hệ thống chiếu sáng công cộng đồng bộ với

đầu tư hệ thống đường bộ do cấp huyện đầu tư. Được đầu tư xây dựng bổ sung,

cải tạo, nâng cấp, mở rộng hệ thống chiếu sáng công cộng trên các tuyến đường

bộ, trong các công viên, vườn hoa và các khu vực công cộng khác do cấp huyện

quản lý sau đầu tư.

Đối với quản lý sau đầu tư, các huyện và thị xã Sơn Tây được phân cấp

quản lý, duy tu, bảo trì và cấp điện hệ thống chiếu sáng công cộng còn lại trên

địa bàn, trừ phần Thành phố quản lý và cấp phép chiếu sáng quảng cáo, trang

trí, chiếu sáng lễ hội trên các tuyến đường, các khu vực do các huyện và thị xã

Sơn Tây quản lý chiếu sáng công cộng sau đầu tư.

Đề xuất: Đối với nhiệm vụ này, trên cơ sở phân cấp của Thành phố Hà

Nội, các quận có thể tiến hành tiếp tục phân cấp cho chính quyền phường về

việc “quản lý, duy tu, bảo trì và cấp điện hệ thống chiếu sáng công cộng trên

địa bàn phường”. Thực tiễn thực hiện bảo trì, duy tu và cấp điện hệ thống chiếu

sáng công cộng ở các phường thường trực tiếp liên quan đến chính quyền

phường. Khi hỏng hóc, có sự cố, người dân thường chỉ phản ánh, yêu cầu trực

tiếp từ phường. Vấn đề này liên quan đến sinh hoạt, nhu cầu hàng ngày của

139

người dân. Tuy nhiên quy trình sửa chữa, duy tu, bảo trì khi thành phố phân cấp

cho quận, có thủ tục và thời gian khá dài. Việc sửa chữa, bảo dưỡng về hệ thống

chiếu sáng cần làm ngay, điều này dẫn đến khó khăn cho phường, giải quyết

mối quan hệ, bức xúc với người dân tại chỗ, đồng thời cần tuân thủ quy trình,

quy định của cấp trên về duy tu, bảo dưỡng. Do đó, cần phân cấp cho chính

quyền phường trực tiếp thực hiện nội dung này, đáp ứng yêu cầu trực tiếp,

nhanh chóng của người dân trên địa bàn phường.

+ Lĩnh vực công viên, vườn hoa, cây xanh, thảm cỏ

Thực tiễn quy định: Lĩnh vực quản lý nhà nước về công viên, vườn hoa,

cây xanh, thảm cỏ hiện nay đang phân cấp cho chính quyền quận: Đầu tư xây

dựng mới công viên (gồm cả hồ nước trong công viên), vườn hoa còn lại trên

địa bàn, trừ phần Thành phố đầu tư; Đầu tư trồng mới cây xanh, thảm cỏ trong

các khu vực công cộng, trên hệ thống đường do cấp huyện đầu tư.

Đối với quản lý sau đầu tư, cấp quận được phân cấp: Quản lý, duy trì,

chăm sóc, bảo tồn các công viên (bao gồm cả bảo đảm chất lượng nước hồ),

vườn hoa còn lại trên địa bàn, trừ các công viên, vườn hoa Thành phố quản lý;

Quản lý, duy trì, chăm sóc, cắt sửa, trồng bổ sung, thay thế cây xanh, thảm cỏ

còn lại trên địa bàn, trừ cây xanh, thảm cỏ do Thành phố quản lý sau đầu tư.

Cấp phép chặt hạ, dịch chuyển cây xanh: trong các công viên; vườn hoa; các

khu vực công cộng; các tuyến đường, ngõ, ngách còn lại trên địa bàn, trừ phần

cây xanh do Thành phố cấp phép chặt hạ, dịch chuyển.

Đề xuất: Vấn đề này được đề xuất phân cấp cho phường thực hiện: quản

lý, duy trì, chăm sóc, cắt sửa, trồng bổ sung, thay thế cây xanh trong nhà dân

thuộc địa bàn phường quản lý. Đâylà vấn đề thực tiễn trên địa bàn thành phố

Hà Nội về quản lý cây xanh ở đô thị, cần có cơ quan có thẩm quyền quản lý đối

với các cây xanh được trồng trong nhà dân trên địa bản quản lý của phường.

Bởi thực tiễn khi xảy ra sự cố, các cơ quan có thẩm quyền đùn đẩy cho nhau về

trách nhiệm, địa bàn, quản lý ngành hay quản lý lĩnh vực. Do đó, cần phân cấp

140

cho UBND phường thực hiện vấn dề này.

+ Lĩnh vực quản lý thoát nước đô thị, xử lý chất thải

Thực tiễn quy định: Đối với quản lý thoát nước, Thành phố phân cấp cho

quận được đầu tư xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp, mở rộng: Hệ thống thoát

nước gắn với các khu vực, các tuyến đường do cấp huyện đầu tư; Hệ thống thoát

nước còn lại, trừ hệ thống thoát nước do Thành phố đầu tư.

Về quản lý sau đầu tư: Các huyện và thị xã Sơn Tây quản lý, duy tu, duy

trì: hệ thống thoát nước và các hồ điều hòa còn lại trên địa bàn, trừ phần Thành

phố quản lý sau đầu tư. Được cấp, thu hồi giấy phép đấu nối xả thải nước; giám

sát việc xả thải nước vào công trình thoát nước đô thị do cấp huyện quản lý sau

đầu tư.

Đề xuất: Vấn đề này được đề xuất phân cấp cho phường về “giám sát

việc xả thải nước vào công trình thoát nước trên địa bàn phường”

Do vấn đề xả thải nước thải vào công trình thoát nước có ảnh hưởng trực

tiếp đến đời sống người dân. Các công trình thoát nước thường nằm trên địa

bàn phường, do phường trực tiếp theo dõi, do đó, việc giám sát xả thải nước

phân cấp cho phường quản lý là phù hợp thực tiễn và yêu cầu cấp bách về xử

lý khi có sự cố môi trường xảy ra.

Đối với xử lý chất thải, hiện nay Thành phố không phân cấp cho quận

thực hiện mà tiến hành quản lý chung trên toàn địa bàn.

+ Lĩnh vực quản lý vệ sinh môi trường

Thực tiễn quy định: Hiện nay Thành phố đang phân cấp cho quận, huyện

về: Đầu tư xây dựng mới hoặc cải tạo, nâng cấp, mở rộng các khu tập kết rác

thải sinh hoạt có phạm vi phục vụ nội huyện.

Quản lý, duy trì vệ sinh môi trường: quét hút; rửa đường, hè; thu gom,

vận chuyển chất thải và công tác vệ sinh môi trường khác trong toàn bộ phạm

vi địa giới hành chính (trừ các đường cao tốc).

Quản lý, vận hành và duy trì các khu tập kết rác thải sinh hoạt có phạm

141

vi phục vụ nội huyện do cấp huyện đầu tư.

Chỉ đạo, hướng dẫn trong việc thành lập, tổ chức hoạt động của tổ chức

tự quản về bảo vệ môi trường tại địa phương, đảm bảo hoạt động có hiệu quả.

Đề xuất: Phân cấp cho phường về thành lập các tổ tự quản bảo vệ môi

trường tại phường. Do rác thải và vấn đề duy trì vệ sinh môi trường nảy sinh

trực tiếp từ người dân trên địa bàn phường. Trường hợp vi phạm quy định về

xử lý rác thải, đổ rác thải không đúng nơi quy định, phường là địa bàn nắm trực

tiếp người dân rõ hơn cả. Do đó, cần thiết tiến hành phân cấp cho phường về

thành lập tổ tự quản bảo vệ môi trường, nhằm nâng cao ý thức cộng đồng tại

phường trong xử lý rác thải, duy trì môi trường xanh, sạch nơi đô thị.

+ Lĩnh vực trật tự giao thông trên địa bàn phường

Đối với vấn đề về giao thông trên địa bàn phường là vấn đề khá phức tạp

và thường xuyên cần huy động lực lượng để giải quyết ùn tắc, hỗn loạn giao

thông trong giờ cao điểm. Chính quyền phường là đơn vị bị ảnh hưởng lớn bởi

vấn đề giao thông, đồng thời cũng là đơn vị hưởng lợi khi giao thông tại các

phường được thuận lợi. Do đó, trong lĩnh vực này, cần phân cấp cho chính

quyền phường quyết định trực tiếp về điều tiết giao thông, giảm tải các hoạt

động của chính quyền quận và thành phố.

4.2.1.3. Lĩnh vực tài chính – ngân sách

Thực tiễn quy định: Tại Nghị quyết 13/2016/NQ-HĐND ngày

05/12/2016 của HĐND TP Hà Nội về phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa

các cấp ngân sách; tỷ lệ phần trăm phân chia nguồn thu giữa các cấp ngân sách

và định mức phân bổ chi ngân sách Thành phố Hà Nội giai đoạn 2017 – 2020,

có khá nhiều khoản thu ngân sách xã, phường, thị trấn được hưởng 100%. Tuy

nhiên, vấn đề về định mức chi ngân sách chưa phù hợp hiện nay về mức trần

chi và chưa có sự khác biệt giữa các phường với nhau.

Đề xuất: Trên thực tế, đối với các phường có mật độ dân cư đông đúc, tỷ

lệ người hưởng phúc lợi công cộng lớn, cần có mức chi ngân sách phù hợp.

142

Việc cào bằng mức trần chi ngân sách như: Chi cho giáo dục đào tạo khống

chế: 20%, chi khoa học công nghệ 2% đã gây khó khăn cho chính quyền khi

thực hiện mức chi. Hiện nay đối với phường thực hiện thu ngân sách và được

hưởng 100% ngân sách ở nhiều khoản thu, tuy nhiên vấn đề chi ngân sách cần

có phân cấp rõ từ chính quyền cấp trên để chính quyền phường chủ động trong

phương án triển khai các nhiệm vụ được phân cấp từ chính quyền cấp trên hoặc

thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ được quy định tại các văn bản quy phạm

pháp luật.

4.2.1.4. Lĩnh vực giáo dục, y tế

Thực tiễn: Cấp quận, huyện đang được Thành phố phân cấp về: Đầu tư

xây dựng mới hoặc cải tạo, nâng cấp, mở rộng: Trung tâm y tế cấp huyện (bao

gồm cả các phòng khám đa khoa khu vực, nhà hộ sinh, trạm y tế xã, phường,

thị trấn) theo sự hướng dẫn chỉ đạo về chuyên môn nghiệp vụ của Sở Y tế; Quản

lý, duy tu, duy trì: Trung tâm y tế cấp huyện (bao gồm cả các phòng khám đa

khoa khu vực, nhà hộ sinh, trạm y tế xã, phường, thị trấn) theo sự hướng dẫn

chỉ đạo về chuyên môn nghiệp vụ của Sở Y tế; Trung tâm Dân số Kế hoạch

hóa gia đình. Kiểm tra, thanh tra việc tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm

pháp luật, chính sách, kế hoạch, đề án, chương trình, dự án và hoạt động đối

với các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế trên địa bàn (bao gồm cả cơ sở y, dược tư

nhân). Cấp giấy chứng nhận cơ sở vệ sinh an toàn thực phẩm theo phân cấp của

Bộ Y tế; phối hợp quản lý: y tế, dược tư nhân và Ban dân quân y trên địa bàn

theo chỉ đạo của Thành phố.

Đề xuất: Mặc dù lĩnh vực y tế được cấp trung ương cũng như ở địa

phương phân cấp khá lớn, tuy nhiên trên thực tế thực hiện vẫn còn vướng mắc

và cần nhận định lại để tiến hành phân cấp, làm rõ nhiệm vụ của từng cấp chính

quyền để phục vụ người dân được tốt hơn.

Đối với công tác vệ sinh, phòng chống dịch bệnh trên địa bàn phường,

cần phân cấp cho chính quyền phường toàn quyền chủ động thực hiện nhiệm

143

vụ này. Do vấn đề vệ sinh, phòng chống dịch bệnh trên địa bàn phường cần sự

nhanh nhạy, nhạy bén, kịp thời để tránh trường hợp bệnh lây lan khắp khu dân

cư. Trường hợp tìm các biện pháp khẩn cấp và chờ đợi quyết định từ cấp quận

sẽ tốn nhiều thời gian, thủ tục và nhiều trường hợp chậm trễ trong việc khắc

phục hậu quả dịch bệnh trên toàn thành phố.

Do đó, cần nghiên cứu để chính quyển thành phố có thể phân cấp trực

tiếp cho chính quyền phường thực hiện vệ sinh, phòng chống dịch bệnh trên địa

bàn phường của thành phố Hà Nội, nâng cao chất lượng, đời sống, sức khỏe

của người dân.

4.2.1.5. Lĩnh vực xây dựng

Thành phố cần phân cấp mạnh hơn cho chính quyền phường trong việc

quản lý kết cấu hạ tầng xây dựng trên địa bàn phường, quản lý về hạ tầng quy

hoạch, xây dựng phát triển. Do chính quyền phường là nơi nắm rõ nhất tình

hình xây dựng, sửa chữa, cải tạo nhà cửa của người dân. Để tránh việc tùy tiện

trong xây dựng, sửa chữa nhà ở của người dân, phá vỡ quy hoạch tổng quan,

cần được giao thêm cho chính quyền phường thẩm quyền quản lý vấn đề này,

một mặt nâng cao trách nhiệm quản lý nhà nước, tính chủ động của chính quyền

phường, mặt khác kịp thời phát hiện những vi phạm, sai trái của người dân để

điều chỉnh cho phù hợp.

4.2.1.6. Lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch

Thực tiễn quy định: Lĩnh vực văn hóa, thể thao, chính quyền thành phố

cũng đã phân cấp khá nhiều cho chính quyền quận trong việc cấp phép kinh

doanh karaoke, quản lý các di tích văn hóa – lịch sử trên địa bàn, trực tiếp quản

lý các nhà văn hóa, rạp chiếu phim, sân vận động, các trường tiểu học, mầm

non, bãi đỗ xe…cụ thể là: Chính quyền quận được đầu tư tu bổ, bảo tồn và phát

huy giá trị các di tích còn lại trên địa bàn, trừ các di tích Thành phố trực tiếp

đầu tư và các di tích quốc gia đặc biệt, di tích lịch sử cách mạng kháng chiến

do cấp huyện quản lý được Thành phố hỗ trợ đầu tư tu bổ, bảo tồn; Đối ứng

144

cùng ngân sách Thành phố đầu tư tu bổ, bảo tồn và phát huy giá trị các di tích

quốc gia do cấp huyện đang quản lý; Đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp các

công trình văn hóa, thể thao cấp huyện, xã, thôn, tổ dân phố, khu vui chơi cộng

đồng, Duy tu, bảo trì và quản lý các di tích còn lại trên địa bàn, trừ các di tích

Thành phố trực tiếp quản lý sau đầu tư; Quản lý, duy tu, bảo trì các các công

trình văn hóa, thể thao cấp huyện, xã, thôn, tổ dân phố; Tổ chức lễ hội quy mô

cấp huyện; chỉ đạo cấp xã tổ chức lễ hội quy mô cấp xã; Quản lý các cơ sở lưu

trú du lịch: căn hộ du lịch, biệt thự du lịch, nhà nghỉ du lịch, nhà có phòng cho

khách du lịch thuê, bãi cắm trại du lịch và cơ sở lưu trú du lịch khác trên địa

bàn; Quản lý các cá nhân kinh doanh đại lý lữ hành.

Đề xuất: Trong thời gian tới, cần nghiên cứu để phân cấp mạnh mẽ hơn

nữa cho chính quyền phường chủ động thực hiện các nhiệm vụ đơn giản, thuộc

địa bàn quản lý của chính quyền phường như việc quản lý nhà văn hóa trên địa

bàn phường nên phân cấp cho phường quản lý. Hoặc rạp chiếu phim, bãi, điểm

đỗ xe cần giao trực tiếp cho chính quyền phường quản lý. Các nhiệm vụ này

cấp quận có thể phân cấp tiếp cho chính quyền phường thực hiện, bởi phù hợp

năng lực, điều kiện của chính quyền phường.

Đối với các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh nằm trong giới hạn địa lý

của chính quyền phường, cần được phân cấp cho chính quyền phường trực tiếp

quản lý, chăm sóc và có trách nhiệm bảo quản, phát huy các giá trị văn hóa

truyền thống tốt đẹp của dân tộc trong tín ngưỡng của người dân. Tránh trường

hợp lợi dụng mê tín dị đoan để trục lợi tại các di tích lịch sử trên địa bàn phường.

4.2.1.7. Lĩnh vực an toàn vệ sinh thực phẩm

Thực tiễn quy định: Theo quy định tại Thông tư số 37/2016/TT-BYT

hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ của trung tâm y tế quận, huyện thì quận, huyện

thực hiện hoạt động phòng chống ngộ độc thực phẩm trên địa bàn; tham gia

thẩm định cơ sở đủ điều kiện sản xuất, kinh doanh thực phẩm trên địa bàn, tham

gia thanh tra, kiểm tra, giám sát công tác phòng, chống ngộ độc thực phẩm

145

phòng chống bệnh qua thực phẩm. Tại Thông tư số 51/2015/TT-BYT hướng

dẫn chức năng, nhiệm vụ của phòng y tế quận huyện, quy định nhiệm vụ của

phòng y tế bao gồm cả công tác thanh kiểm tra, giám sát và cấp phép an toàn

thực phẩm theo phân cấp. Vấn đề này trùng lắp nhiệm vụ của nhiều đơn vị.

Đề xuất: Cần phân cấp rõ cho từng đơn vị xử lý và chịu trách nhiệm từng

nội dung cụ thể liên quan đến vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm. Quận, huyện

là đơn vị thực hiện chức năng quản lý, chịu trách nhiệm về giám sát, kiểm tra,

cấp phép theo phân cấp, tuy nhiên quận có thể phân cấp nhiệm vụ giám sát,

kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm cho chính quyền phường,. Bởi liên quan

đến an toàn vệ sinh thực phẩm, chính quyền phường có lợi thế là cùng địa bàn.

Các hoạt động của phường sát sao nhất đối với từng hộ dân thực hiện sản xuất

thực phẩm trên địa bàn, việc kiểm tra, giám sát sẽ tiến hành dễ dàng, có hiệu

quả hơn là chính quyền quận làm. Vấn đề quản lý an toàn thực phẩm là vấn đề

quan trọng, liên quan trực tiếp đến sức khỏe người dân, do đó cần gọn vào một

đầu mối và tiến hành phân cấp kiểm tra, giám sát thực phẩm cho chính quyền

phường thực hiện, đảm bảo an toàn vệ sinh và phù hợp thực tiễn tại các phường

của thành phố Hà Nội.

Trong một số trường hợp, chính quyền các quận của thành phố Hà Nội

có thể dựa vào đặc điểm, điều kiện, khả năng thực hiện của chính quyền phường

để tiến hành phân cấp quản lý nhà nước tới chính quyền phường trên các nội

dung khác nhau. Điều này phụ thuộc vào khả năng thích ứng, sức lực, nguồn

nhân lực, điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của từng phường để có văn bản quy

định cụ thể về phân cấp thực hiện nhiệm vụ.

4.2.2. Đề xuất lộ trình thực hiện nhiệm vụ phân cấp

Sau khi Nghị quyết của Quốc hội được triển khai thực hiện và có hiệu

lực, các nhiệm vụ đề xuất phân cấp cần được nghiên cứu, tiến hành quy phạm

146

hóa để có căn cứ thực hiện.

Đối với các lĩnh vực liên quan trực tiếp đến người dân như: Y tế, môi

trường, giáo dục đào tạo; an toàn vệ sinh thực phẩm...cần được tiến hành phân

cấp ngay cho phường để thực hiện nhiệm vụ trực tiếp. Cụ thể nhận trách nhiệm

chính là UBND phường, chịu trách nhiệm trước cơ quan cấp trên, trước pháp

luật về các nội dung được phân cấp. Thời gian đề xuất: Sau khi văn bản QPPL

của cơ quan có thẩm quyền quy định về các nhiệm vụ được phân cấp có hiệu

lực. Dự kiến năm 2021 có các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, cụ

thể hóa Nghị quyết của Chính phủ, do đó tiến độ thực hiện các nhiệm vụ được

phân cấp trong năm 2021, trong các năm tiếp theo duy trì, phát huy kết quả thực

tiễn đạt được, đồng thời khắc phục, kiến nghị những bất cập, khó khăn khi tiến

hành thực hiện nhiệm vụ phân cấp.

Đối với các lĩnh vực như văn hóa, thể thao, du lịch, xây dựng, tài chính,

ngân sách...lộ trình thực hiện cần lâu dài, chuẩn bị đầy đủ cơ sở vật chất, hạ

tầng kỹ thuật, nguồn nhân lực, nguồn lực khi nhận nhiệm vụ phân cấp. Bởi đây

là các lĩnh vực tác động trực tiếp đến đời sống kinh tế, lợi ích về tinh thần của

người dân, do đó UBND phường cần có kế hoạch thực hiện ngày sau khi văn

bản QPPL về phân cấp cho chính quyền phường có hiệu lực, tiến hành báo cáo

định kỳ, tổng hợp, đột xuất đến cơ quan chính quyền phân cấp để cung cấp

thông tin, hiệu quả khi nhận nhiệm vụ phân cấp.

4.2.3. Đề xuất phương thức thực hiện phân cấp quản lý nhà nước cho

chính quyền phường tại Thành phố Hà Nội

Theo quy định hiện hành, chính quyền Quận ở Hà Nội hiện nay đang

thực hiện các nhiệm vụ được phân cấp từ chính quyền thành phố, tại các văn

bản quy phạm pháp luật về phân cấp, UBND thành phố Hà Nội đề nghị các

quận, huyện tiến hành phân cấp tiếp các nhiệm vụ cho chính quyền xã, phường,

thị trấn khi thấy phù hợp và sau khi được sự đồng ý của chính quyền thành phố.

Do đó, trong bối cảnh thực hiện Nghị quyết số 97/2019/QH 14 về thí điểm

147

tổ chức mô hình chính quyền đô thị tại Thành phố hà Nội, Chính phủ cần triển

khai thực hiện nhiệm vụ theo quy định tại Nghị quyết giao: “Quy định trách

nhiệm cụ thể về tổ chức, hoạt động, chế độ trách nhiệm của UBND, Chủ tịch

UBND phường; Quy định về việc tuyển dụng, sử dụng, quản lý công chức

phường, trình tự, thủ tục bổ nhiệm, điều động, miễn nhiệm, luân chuyển Chủ

tịch, Phó Chủ tịch phường; Quy định cụ thể việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ về

quốc phòng, an ninh, biện pháp bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng,

chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác”. Hình thức đề xuất về

văn bản quy phạm pháp luật trong trường hợp này là Nghị định của Chính phủ

để triển khai Nghị quyết số 97/2019/QH. Theo đó, các vấn đề về phân cấp các

nhiệm vụ của phường trên địa bàn Thành phố Hà Nội, các nguyên tắc, các chỉ

đạo thực hiện sẽ được quy định tại Nghị định của Chính phủ. Khi Nghị định

được Chính phủ thông qua, UBND Thành phố Hà Nội căn cứ Nghị định để ban

hành các văn bản phù hợp, trong đó có văn bản quy định về phân cấp

Theo đó, UBND các quận thuộc thành phố Hà Nội có thể ban hành Quyết

định (là văn bản QPPL) về phân cấp quản lý nhà nước đối với Ủy ban nhân dân

phường. Do các phường khi thực hiện Nghị quyết số 97/2019/QH 14 không

còn tổ chức HĐND, nên việc thực thi nhiệm vụ quản lý nhà nước trên địa bàn

phường được giao cho UBND phường. Theo đó, để đảm bảo UBND phường

có căn cứ pháp lý để thực thi nhiệm vụ phân cấp, cần có hình thức văn bản phù

hợp quy định về những nhiệm vụ phân cấp cho UBND phường. Cụ thể đề xuất:

Trường hợp thứ nhất, chính quyền thành phố ban hành Quyết định là văn

bản quy phạm pháp luật về việc phân cấp thẳng các nhiệm vụ của UBND thành

phố, qua xem xét có thể phân cấp cho UBND phường để thực hiện trong một

thời gian nhất định. Đề xuất này phù hợp với Luật tổ chức chính quyền địa

phương là căn cứ yêu cầu công tác, khả năng thực hiện và điều kiện, tình hình

cụ thể của địa phương mà cơ quan nhà nước ở địa phương được phân cấp cho

chính quyền địa phương hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện một hoặc

148

một số nhiệm vụ thuộc thẩm quyền của mình.

Trường hợp thứ hai, khi chính quyền thành phố có văn bản quy phạm

pháp luật quy định về phân cấp thực hiện nhiệm vụ cho chính quyền quận, căn

cứ tình hình thực tế, chính quyền quận có thể tiếp tục phân cấp nhiệm vụ trực

tiếp cho chính quyền phường để thực hiện, qua sự đồng ý của chính quyền thành

phố. Theo quy định mới là UBND phường, thực hiện chế độ thủ trưởng, là một

cơ quan hành chính trong bộ máy, tổ chức của chính quyền quận. Điều này

hoàn toàn phù hợp quy định pháp luật, khi cơ quan nhà nước nhận phân cấp từ

cơ quan nhà nước cấp trên, căn cứ tình hình cụ thể ở địa phương, cơ quan nhà

nước ở địa phương có thể phân cấp tiếp cho cơ quan nhà nước cấp dưới thực

hiện các nhiệm vụ, quyền hạn đã được cơ quan nhà nước cấp trên phân cấp.

Quyết định được ban hành dưới dang văn bản quy phạm pháp luật của UBND

quận, phân cấp thực hiện nhiệm vụ cho UBND phường.

Trên thực tế hiện nay, các quyết định phân cấp thực hiện nhiệm vụ của

UBND Thành phố Hà Nội đều phân cấp cho cấp thấp hơn liền kề là cấp quận,

chưa tồn tại Quyết định của UBND Thành phố Hà Nội phân cấp trực tiếp thực

hiện nhiệm vụ cho phường. Khi chính quyền Thành phố Hà Nội phân cấp thực

hiện nhiệm vụ cho cấp quận, quận thường triển khai thực hiện về phường,

nhưng trên thực tế việc triển khai này được thực hiện dưới dạng mệnh lệnh

hành chính, văn bản hành chính và yêu cầu chính quyền phường báo cáo thường

xuyên công việc, đảm bảo công việc và chịu trách nhiệm hoàn toàn trước chính

quyền quận về các nhiệm vụ được giao. Điều này chưa thỏa đáng và trên thực

tiễn xảy ra nhiều xung đột trong quản lý nhà nước giữa UBND phường và quận,

bởi nhiệm vụ, đi liền với trách nhiệm chưa rõ ràng. Hơn nữa, khi giao nhiệm

vụ, chính quyền quận không tạo điều kiện cho phường trong việc huy động

nguồn lực, vốn, các điều kiện cơ sở vật chất khác, do đó, chất lượng công việc,

thái độ làm việc của cán bộ, công chức chưa thực sự thỏa mãn. Do đó, cần cơ

149

chế minh bạch, công khai và phù hợp hơn là quyết định phân cấp của UBND

quận, kèm theo đảm bảo nguồn lực, các điều kiện cần thiết khác để UBND

phường thực thi trên thực tế.

4.3. Các điều kiện đảm bảo thực hiện phân cấp quản lý nhà nước cho

chính quyền phường tại Thành phố Hà Nội

4.3.1. Điều kiện đảm bảo về mặt pháp lý

Để đảm bảo thực hiện có hiệu quả phân cấp quản lý nhà nước đối với

chính quyền phường, cần có quy định pháp lý đủ mạnh, rõ ràng, minh bạch làm

căn cứ phân cấp, thực hiện phân cấp. Đây cũng là chế tài để đảm bảo lợi ích hài

hòa giữa chính quyền cấp trên (tiến hành phân cấp), chính quyền cấp dưới (thực

hiện phân cấp) và giữa cộng đồng dân cư sinh sống ở đô thị.

Các văn bản quy phạm pháp luật này cần điều chỉnh về các nội dung, liệt

kê cụ thể về lĩnh vực được tiến hành phân cấp và các nội dung không phân cấp,

thông thường thuộc tầm vĩ mô của quản lý nhà nước như quy hoạch đô thị, hợp

tác kinh tế, xã hội giữa thành phố và các đơn vị, tổ chức khác trong, ngoài nước,

vấn đề an ninh quốc phòng.

Quốc hội thông qua Nghị quyết về việc thực hiện thí điểm mô hình tổ

chức chính quyền đô thị ở thành phố Hà Nội, đồng nghĩa với việc các căn cứ

pháp lý về phân cấp thực hiện nhiệm vụ cho UBND phường ở Hà Nội cần rõ

ràng, minh bạch, thuận lợi để UBND phường tổ chức thực hiện nay. Bởi khi

không có HĐND phường, việc thực hiện nghị quyết của UBND phường sẽ chấp

hành trực tiếp nghị quyết của HĐND quận và chịu trách nhiệm về việc thực

hiện nhiệm vụ trước UBND quận, thị xã. Do đó, điều kiện đảm bảo về mặt pháp

lý cho UBND phường thực hiện phân cấp là vấn đề quan trọng được đặt lên

hàng đầu, làm căn cứ để UBND phường tiếp nhận nhiệm vụ sau khi không còn

HĐND ở phường của Thành phố Hà Nội.

Trước mắt, cần khẩn trương ban hành văn bản quy phạm pháp luật có thể

dưới hình thức nghị định của Chính phủ về nhiệm vụ, quyền hạn của chính

150

quyền phường đáp ứng yêu cầu của thực tế. Theo đó, văn bản quy phạm pháp

luật sẽ có quy định về tổ chức, hoạt động, chế độ trách nhiệm của UBND, Chủ

tịch UBND phường nơi thực hiện thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị

tại thành phố hà Nội; Quy định việc tuyển dụng, sử dụng, quản lý cán bộ, công

chức phường tại nơi thực hiện thí điểm mô hình chính quyền đô thị; trình tự,

thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, cách chức, khen thưởng, kỷ luật chủ

tịch, phó chủ tịch, ủy viên UBND phường.

4.3.2. Điều kiện đảm bảo về cơ chế giám sát, kiểm tra

- Giám sát kiểm tra của chính quyền cấp trên đối với UBND phường

Mọi sự giám sát của chính quyền cấp trên đối với UBND phường khi

thực hiện phân cấp quản lý nhà nước đều cần được tiến hành theo trình tự và

trong những trường hợp nhất định. Đây là điều kiện quan trọng để giảm thiểu

sự can thiệp quá mức cần thiết của chính quyền cấp trên đối với chính quyền

phường; loại bỏ cơ chế xin – cho giữa chính quyền cấp trên và chính quyền

phường khi thực hiện phân cấp, phù hợp các quy định của Hiến pháp, các Luật

có liên quan. Việc giám sát của chính quyền cấp trên đối với nhiệm vụ, thẩm

quyền được phân cấp cần tuân thủ theo quy định của pháp luật, chính quyền

cấp trên không được lạm dụng quyền lực để áp đặt, chỉ đạo, can thiệp vào quá

trình thực thi nhiệm vụ được phân cấp của chính quyền phường.

Khi không có HĐND cùng cấp, HĐND cấp trên cần tăng cường chức

năng này và tích cực trong việc thực hiện hoạt động giám sát đối với các nhiệm

vụ do UBND phường tổ chức thực hiện. Kịp thời phát hiện những sai sót, nhiệm

vụ thực hiện kém hiệu quả để xử lý trên thực tế, đảm bảo tính hiệu lực, hiệu

quả trong hoạt động của cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương. Đảm

bảo xây dựng chính quyền phường thực sự của dân, do dân và vì dân; chống

quan liêu tham nhũng, hách dịch, cửa quyền, nhũng nhiễu, thiếu trách nhiệm

của đội ngũ cán bộ, công chức.

Về phía chính quyền phường, khi được phân cấp trong nhiều trường lạm

151

quyền, thực hiện vượt quá nội dung, thẩm quyền, dẫn đến hiệu quả quản lý nhà

nước thấp, thực hiện chức năng, nhiệm vụ lỏng lẻo, thiếu trách nhiệm, ảnh

hưởng đến quyền lợi, nhu cầu của người dân trên địa bàn quản lý. Để khắc phục

tình trạng này, cơ chế đảm bảo là phân cấp nhiệm vụ hợp lý, tiến hành quản lý,

theo dõi giám sát từ cấp trên xuống cấp dưới và chính quyền phường cần kịp

thời báo cáo những khó khăn, vướng mắc, khả năng thực thi nhiệm vụ để chính

quyền cấp trêncó biện pháp kịp thời sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp

với khả năng, điều kiện thực tế của chính quyền phường.

- Huy động sự tham gia của nhân dân vào công tác quản lý của UBND

phường

Cần thiết phải nghiên cứu, xây dựng cơ chế để huy động sự tham gia của

nhân dân vào công tác quản lý của UBND phường, cụ thể là:

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức trách nhiệm

làm chủ của công dân ở phường. Cần tập trung nâng cao nhận thức một cách

toàn diện cho người dân, trong đó đặc biệt quan tâm đến giáo dục ý nghĩa, vai

trò, vị trí của công dân trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN

Việt Nam hiện nay. Đổi mới các hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục

thông qua sinh hoạt tổ dân phố để mọi người dân hiểu rõ về quyền, nghĩa vụ

của mình trong mối quan hệ với cán bộ, công chức ở phường.

Thông qua các hoạt động lấy ý kiến nhân dân: Về các dự thảo văn bản

pháp luật nói chung, các dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật của chính

quyền thành phố; về các chủ trương, chính sách lớn trong việc phát triển kinh

tế - xã hội, ảnh hưởng đến đời sống dân cư của đô thị; các chính sách liên quan

đến cộng đồng dân cư nơi cư trú.

Công khai hoá, minh bạch hoá hoạt động công vụ, chủ trương, chính

sách, quy định của pháp luật liên quan đến việc chấp hành pháp luật, công tác

điều hành, quản lý của CQHC phường và chính quyền phường.

Thực hiện tốt quy định pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở, tăng

152

cường các hình thức dân chủ trực tiếp ở phường. Tổ chức thực hiện tốt quy chế

dân chủ ở phườngvề những việc phải có sự tham gia của nhân dân với các mức độ

khác nhau: Những việc dân quyết định, những việc dân thảo luận, bàn bạc để chính

quyền quyết định những việc dân cần biết. Áp dụng hình thức “trưng cầu dân ý”

ở đô thị trong những trường hợp phải quyết định những vấn đề quan trọng nhất,

có tính chất tự quản, liên quan trực tiếp đến vận mệnh hoặc đời sống người dân

đô thị.

Cần có những quy định tạo cơ sở pháp lý để CQHC phường nhận được

có ý kiến của Tổ trưởng tổ dân phố trong việc đưa ra các quyết định hành chính.

Tổ trưởng tổ dân phố là những người được cộng đồng dân cư tín nhiệm bầu lên,

có uy tín và ảnh hưởng lớn trong cộng đồng dân cư. Chính vì vậy, sự tham gia

và có ý kiến của Tổ trưởng tổ dân phố trong các phiên họp của UBND phường

cũng như trong việc đưa ra quyết định hành chính, trong thi hành pháp luật là

một giải pháp giúp nâng cao hiệu lực quản lý của chính quyền phường và

UBND phường.

4.3.3. Điều kiện đảm bảo về cơ sở vật chất, tài chính

Việc phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền phường sẽ không còn

ý nghĩa nếu như không trao cho chính quyền phường các phương tiện để thực

hiện nhiệm vụ phân cấp đó. Đây chính là điều kiện về cơ sở vật chất, trực tiếp

hỗ trợ chính quyền phường thực hiện tốt nhiệm vụ phân cấp và điều kiện về tài

chính của chính quyền phường.

Trường hợp chính quyền cấp trên trao nhiệm vụ, thẩm quyền cho chính

quyền phường mà không tiến hành tạo điều kiện về cơ sở vật chất, nguồn lực

tài chính, dẫn đến chính quyền phường khó thực thi nhiệm vụ, phát sinh cơ chế

xin – cho về mặt tài chính, phụ thuộc chính quyền cấp trên về nguồn lực quan

trọng này.

Do đó, chính quyền phường cần có nguồn thu độc lập và nguồn thu này

cần được giữ lại để chi cho các hoạt động trực tiếp thực hiện nhiệm vụ phân

153

cấp của chính quyền phường. Các nguồn thu có thể thực hiện ở phường là các

loại thuế, phí, lệ phí, các nguồn vay, trợ cấp của trung ương; các khoản thu từ

cung ứng dịch vụ công trực tiếp của chính quyền phường.

4.3.4. Điều kiện đảm bảo về năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức

thực thi nhiệm vụ phân cấp

Nguồn nhân lực có vai trò, vị trí quan trọng để đảm bảo thực hiện phân

cấp quản lý nhà nước có hiệu quả, bởi các công việc, nhiệm vụ trên thực tế đều

do con người điều khiển, nhất là đối với cấp phường, giữ vị trí vai trò nòng cốt

là đội ngũ cán bộ, công chức.

Để có đội ngũ cán bộ, công chức thực thi tốt nhiệm vụ phân cấp, cần thực

sự minh bạch trong quy trình tuyển dụng, bố trí, sử dụng và đánh giá công chức

theo đúng quy định pháp luật. Đối với các nhiệm vụ phân cấp khó, mới, cần có

cơ chế, chính sách để bổ sung sung cán bộ, công chức có năng lực, trình độ phù

hợp với đặc điểm, tính chất và khối lượng nhiệm vụ được phân cấp.

Đồng thời chính quyền phường có chính sách để đào tạo, bồi dưỡng cho

cán bộ, công chức, gia tăng sự hiểu biết, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ trong

quá trình thực thi nhiệm vụ. Có khen thưởng, xử lý kỷ luật nghiêm minh, đúng

quy định pháp luật, đảm bảo kỷ cương, kỷ luật lao động.

4.3.5. Điều kiện đảm bảo về thực hiện cơ chế thủ trưởng hành chính

trong hoạt động của chính quyền phường nhằm tăng cường trách nhiệm

người đứng đầu

Để hạn chế những nhược điểm của chế độ tập thể lãnh đạo cần nghiên

cứu áp dụng chế định thủ trưởng thay cho chế định Uỷ ban trong quản lý hành

chính ở các đô thị. Điều này cho phép khắc phục được những nhược điểm của

chế độ điều hành tập thể, thiếu nhanh nhạy, tập trung, thống nhất, không rõ

trách nhiệm người đứng đầu, làm chỗ dựa cho những tiêu cực cá nhân… phù

hợp với quy luật của quản lý điều hành hành chính và với thông lệ chung của

các nền hành chính trên thế giới ngày nay. Cách thức làm việc của chế độ thủ

154

trưởng trong cơ quan hành chính là dựa trên sự linh hoạt điều hành của người

đứng đầu nhưng cũng không hoàn toàn hạn chế trí tuệ tập thể. Với những việc

hệ trọng, cần phải huy động sức mạnh trí tuệ của tập thể, người đứng đầu vẫn

có thể triệu tập hệ thống tham mưu cho mình để phân tích, nắm bắt kỹ tình hình

rồi mới ra quyết định và chịu trách nhiệm cá nhân. Chế độ thủ trưởng sẽ hạn

chế được những nhược điểm của chế độ lãnh đạo tập thể qua những biểu hiện

sau:

Một là, đề cao trách nhiệm cá nhân: quyền lực được tập trung vào cá

nhân người đứng đầu và vì thế khi tiến hành giải quyết một vấn đề xã hội nào

đó thì trách nhiệm của người đứng đầu là cao nhất, hành động nhanh chóng,

kịp thời, hiệu suất cao.

Hai là, giải quyết công việc chủ động và quyết đoán: Hoạt động quản lý

hành chính nhà nước, nhất là ở các đô thị mang tính khẩn trương, liên tục để

giải quyết các vấn đề phát sinh hằng ngày, hằng giờ trong đời sống xã hội. Với

những chuyện xảy ra tức thời, nhanh chóng như xử lý chuyện thiên tai, những

sự cố bất thường… thì đòi hỏi người thủ trưởng trong phạm vi thẩm quyền phải

quyết đoán, năng động, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Còn nếu phải đợi cả

tập thể UBND bàn bạc, biểu quyết rồi mới ra quyết định có thể làm cho sự việc

không giải quyết được hoặc gây ra những hậu quả khôn lường trong quản lý.

Việc áp dụng chế độ thủ trưởng nhằm nâng cao trách nhiệm cá nhân, chủ động

ứng phó kịp thời với diễn biến nhanh chóng của thực tiễn đời sống đang là đòi

hỏi bức thiết đối với nền hành chính phục vụ nhân dân ở các đô thị.

Đối với chính quyền phường, khi thực hiện nhiệm vụ cũng cần kiểm tra,

giám sát chính đối tượng thực hiện, cụ thể là:

4.3.6. Điều kiện đảm bảo về sự phối hợp thực hiện của Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam

MTTQ các cấp cần tăng thêm người tiêu biểu, người ngoài Đảng trong

155

Ủy ban MTTQ. Đồng thời, tăng cường cán bộ chuyên trách có năng lực, có

trình độ chuyên môn cao và mở rộng đội ngũ công tác viên là những chuyên

gia giỏi (dưới hình thức hội đồng tư vấn hoặc ban tư vấn).

Đổi mới phương thức phối hợp với chính quyền địa phương. Trước khi

tham gia ý kiến đối với các văn bản pháp luật cần lấy ý kiến của nhân dân đại

diện cho vùng, miền. Lắng nghe ý kiến của những người tiêu biểu đại diện cho

các giới, các thành phần xã hội, ý kiến của cán bộ ở cơ sở. Trên cơ sở đó mà

tổng hợp ý kiến để tham gia với cơ quan có thẩm quyền ban hành chính sách

pháp luật. Như vậy, việc tham gia góp ý kiến sẽ có tính thuyết phục hơn.

Về giám sát, MTTQ cần tăng cường sự phối hợp với các cơ quan có

chức năng giám sát, thanh tra, kiểm tra để thực hiện quyền giám sát của mình,

đồng thời cán bộ Mặt trận cần phải đi sâu, đi sát với các tầng líp nhân dân để

lắng nghe ý kiến phản ánh của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan nhà

nước, đại biểu dân cử và cán bộ công chức nhà nước.

MTTQ Việt Nam cần phải phối hợp chặt giữa các thành viên nhằm thống

nhất về hành động trên cơ sở những mục tiêu chung mới tạo ra được sức mạnh

tổng hợp. Muốn có sự phối hợp chặt chẽ thì trước hết phải xác định được mục

tiêu chung và phải có cơ chế ràng buộc về quyền và nghĩa vụ của các thành

viên.

Đối với người dân, vai trò giám sát có những ưu thế, tạo hiệu quả là bởi vị thế

khách quan, đứng ngoài và không lệ thuộc cơ quan, tổ chức công quyền để phát

hiện và kiến nghị, nhằm ngăn chặn kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật

của cơ quan, cán bộ có thẩm quyền khi các hành vi đó mới xảy ra. Vì thế, xây

dựng cơ chế giám sát, tạo hành lang pháp lý phù hợp để nhân dân phát huy lòng

yêu nước, quan tâm đến vận mệnh đất nước, để nhân dân tự nguyện tham gia

giám sát và chủ động sử dụng quyền giám sát của mình trong khuôn khổ pháp

luật cho phép là hoàn toàn cần thiết.

156

Tiểu kết Chương 4

Chương 4 của Luận án đưa ra các quan điểm và đề xuất các giải pháp, về

phân cấp quản lý nhà nước, phương thức thực hiện, cơ chế đảm bảo việc thực

hiện nhiệm vụ phân cấp phù hợp đối với UBND phường tại thành phố Hà Nội

trong xu thế, bối cảnh mới thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm tổ

chức mô hình chính quyền đô thị tại thành phố Hà Nội.

Theo đó, luận án đưa ra các quan điểm về phân cấp đối với UBND

phường ở Hà Nội là xu hướng chung phù hợp chủ trương của Đảng, Nghị quyết

của Quốc hội và các quy định pháp luật của Nhà nước có liên quan; để hoàn

thiện chức năng, nhiệm vụ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của từng cấp

chính quyền; góp phần xây dựng thành phố là trung tâm chính trị - hành chính

quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch

quốc tế; phù hợp với Luật Thủ đô, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của

Thành phố, đảm bảo sự quản lý thống nhất, minh bạch, hiệu quả; phù hợp với

năng lực quản lý của bộ máy hành chính của phường, tăng quyền tự chủ, tự

chịu trách nhiệm cho UBND phường tại Thành phố Hà Nội khi không tổ chức

HĐND phường; góp phần tạo động lực thúc đẩy sự phát triển cân đối, hài hòa

của các khu dân cư của phường.

Luận án đưa ra các giải pháp về phân cấp quản lý nhà nước đối với chính

quyền phường tại Hà Nội

Theo đó, Luận án đã đề xuất nội dung phân cấp cho UBND phường tại

Thành phố Hà Nội trên các lĩnh vực như: 1, Quy hoạch, kế hoạch phát triển

kinh tế - xã hội; 2, Lĩnh vực đầu tư, giao thông, hạ tầng đô thị, trong đó có các

nội dung được đề xuất phân cấp về: Đầu tư công trình nhỏ, lẻ; Lĩnh vực quản

lý chiếu sáng công cộng; Lĩnh vực công viên, vườn hoa, cây xanh, thảm cỏ;

Lĩnh vực công viên, vườn hoa, cây xanh, thảm cỏ; Lĩnh vực quản lý thoát nước

đô thị, xử lý chất thải; Lĩnh vực quản lý vệ sinh môi trường; Lĩnh vực trật tự

157

giao thông trên địa bàn phường;3, Lĩnh vực tài chính – ngân sách; 4, Lĩnh vực

giáo dục, y tế; 5, Lĩnh vực xây dựng;6, Lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch; 7,

Lĩnh vực an toàn vệ sinh thực phẩm

Luận án đã đề xuất hai phương thức thực hiện phân cấp quản lý nhà nước

đối với UBND phường tại Thành phố Hà Nội

Luận án cũng đã đề xuất về các điều kiện đảm bảo thực hiện phân cấp

quản lý nhà nước như: điều kiện đảm bảo về mặt pháp lý; về cơ chế giám sát,

kiểm tra; cơ sở vật chất, tài chính; năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức thực

thi nhiệm vụ phân cấp; cơ chế thủ trưởng hành chính trong hoạt động của chính

quyền phường nhằm tăng cường trách nhiệm người đứng đầu và về sự phối hợp

thực hiện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

KẾT LUẬN

Cải cách hành chính đặt ra đối với nước ta nhiều thách thức, khó khăn và

cần sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị. Đây là một quá trình thay đổi lâu dài,

liên tục và cần có kế hoạch, lộ trình và có thể chế, tài chính, con người, kết hợp

với công tác kiểm tra, đánh giá, giám sát để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt

động của nền công vụ. Có nhiều giải pháp được đưa ra và mỗi thời kỳ lịch sử

sẽ thực hiện ưu tiên lựa chọn giải pháp tối ưu và có sự thay đổi cho phù hợp

tình hình kinh tế, chính trị, an ninh, sự tác động của ngoại cảnh. Để nâng cao

hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cả hệ thống chính trị, trong đó có vai trò trung

158

tâm của bộ máy nhà nước, cần giải pháp để khích lệ, nâng cao tính tự chủ, sự

chủ động trong thực hiện nhiệm vụ của các cấp chính quyền. Đối với nhịp sống

ở đô thị, nhất là thủ đô, nhu cầu giải quyết các lợi ích trực tiếp của người dân

là rất lớn, đòi hỏi chính quyền cần sát sao, chủ động công việc và luôn luôn

phải nỗ lực thực hiện nhiệm vụ. Phân cấp quản lý nhà nước giữa chính quyền

cấp trung ương tới địa phương nói chung và phân cấp giữa các cấp của chính

quyền đô thị, giữa cơ quan nhà nước cấp trên và cơ quan nhà nước cấp dưới

được thực hiện là một trong những giải pháp tích cực, được xem là có hiệu quả

trong bối cảnh, tình hình hiện nay.

Đối với Thành phố Hà Nội, đứng trước những thách thức mới trong điều

kiện thực hiện thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị, chính quyền quận

và chính quyền thành phố cần tính đến sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm và phát

huy tính chủ động của chính quyền phường trong giải quyết công việc. Phân

cấp hợp lý cho UBND phường thực hiện một số nhiệm vụ quản lý nhà nước tại

các phường ở Thành phố Hà Nội được nhìn nhận nghiêm túc, khách quan và

cần thực hiện trong thời gian tới. Khi các nhiệm vụ quản lý nhà nước được phân

cấp hợp lý, sẽ giảm tải công việc cho chính quyền quận và chính quyền thành

phố, để tập trung chỉ đạo, điều hành, điều tiết quản lý nhà nước ở tầm vĩ mô.

Đồng thời, UBND các phường ở Hà Nội cũng cần chuẩn bị các điều kiện về

nhân lực, cơ sở vật chất để thực hiện nhiệm vụ được phân cấp, nhằm góp phần

nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của bộ máy hành chính nhà nước

trên địa bàn thành phố. Hiệu lực, hiệu quả không phải là giá trị tự thân của bộ

máy hành chính, mà là sự kết hợp của nhiều yếu tố được thể hiện trực tiếp thông

qua hoạt động của cơ quan nhà nước. Do vậy, mọi nỗ lực đẩy mạnh phân cấp

quản lý xét cho cùng là đều hướng tới tính hiệu quả trong thực hiện công việc,

nhất là ở Thành phố Hà Nội, nơi có đầy đủ các đặc trưng của chính quyền đô

thị.

Tăng cường phân cấp quản lý nhà nước đối với chính quyền phường ở

159

Hà Nội có vai trò quan trọng trong việc phát huy tính năng động, sáng tạo,

quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của phường, đảm bảo sự quản lý thống nhất

của chính quyền thành phố, để phục vụ tốt hơn nhu cầu và lợi ích của nhân dân,

đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, phù hợp xu thế phát

triển của thế giới trong thời đại bùng nổ của khoa học, công nghệ và tiến bộ của

toàn nhân loại.

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

1, Nguyễn Văn Minh, Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả phân cấp giữa chính quyền đô thị và chính quyền phường, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 268, tháng 5 năm 2018.

160

2, Nguyễn Văn Minh, Những vấn đề đặt ra trong tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân phường ở Hà Nội, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 270, tháng 7 năm 2018.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu trong nước

1. Bộ Chính trị (2012), Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 06/01/2012 của

Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển thủ đô Hà Nội

giai đoạn 2011 – 2020.

2. Ban chấp hành Trung ương (2007), Nghị quyết số 17-NQ-TW ngày

01/8/2007 của Ban chấp hành Trung ương, Về đẩy mạnh cải cách

161

hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lí của bộ máy nhà nước.

3. Ban chấp hành Trung ương (2017), Nghị quyết số 18 – NQ/TW ngày

25/10/2017 của Ban chấp hành Trung ương, Một số vấn đề về tiếp tục

đổi mới, sắp xếp, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt

động hiệu lực, hiệu quả

4. Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ (2000), Chính quyền cấp xã và quản

lý nhà nước ở cấp xã, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội.

5. Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ (2002), Đổi mới tổ chức và hoạt động

của chính quyền cấp xã trong tiến trình cải cách hành chính, Nxb

Chính trị Quốc gia Hà Nội.

6. Bộ Nội vụ (2014), Báo cáo tổng kết 10 năm thi hành Luật Tổ chức

hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003

7. Hoàng Chí Bảo (2004), “Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước

ta hiện nay”, Nxb Chính trị Quốc gia.

8. Chính phủ (2005), Nghị định số 159/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005

của Chính phủ về phân loại đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn

9. Chính phủ (2015), Báo cáo số 695/BC-CP ngày 22/12/2015 về tình

hình tổ chức, hoạt động của UBND các cấp từ đầu nhiệm kỳ 2011 –

2016 đến nay và nhiệm vụ công tác trọng tâm trong thời gian tới, Hà

Nội.

10. Nguyễn Hồng Chuyên (2016), Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp

xã theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nxb

Tư pháp.

11. Nguyễn Văn Cương (2017), Kinh nghiệm quốc tế về tự quản địa

phương và khả năng áp dụng tại Việt Nam, Nxb Tư pháp

12. Nguyễn Đăng Dung (1997), “Tổ chức chính quyền nhà nước ở địa

162

phương – lịch sử và hiện tại”, Nxb Đồng Nai.

13. Nguyễn Đăng Dung (2001), Một số vấn đề về Hiến pháp và tổ chức

bộ máy nhà nước, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội.

14. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X,

Nxb Chính trị quốc gia.

15. Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI,

Nxb Chính trị quốc gia.

16. Đảng cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII,

Nxb Chính trị quốc gia.

17. Bùi Xuân Đức (2004), Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước trong

giai đoạn hiện nay, Nxb Tư pháp, Hà Nội

18. Vũ Đức Đán (2002), Hoàn thiện bộ máy chính quyền cấp xã và vấn

đề phát huy dân chủ ở cơ sở, Đề tài khoa học cấp Bộ.

19. Vũ Đức Đán, Lưu Kiếm Thanh (2004), “Tổ chức và hoạt động của

bộ máy chính quyền”, Nxb Chính trị Quốc gia.

20. Đảng Cộng sản Việt Nam (1982),Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ V, Nxb Sự thật, Hà Nội.

21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia

22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia.

23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia.

24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia

25. Phạm Văn Đạt (2012), Đổi mới tổ chức chính quyền đô thị ở nước ta

163

hiện nay, Luận án tiễn sĩ luật học.

26. Bùi Xuân Đức (2004), Đổi mới hoàn thiện bộ máy nhà nước trong

giai đoạn hiện nay, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

27. Nguyễn Hữu Đức (2009), Xây dựng và kiện toàn tổ chức chính quyền

cơ sở (xã) trong điều kiện cải cách hành chính, Đề tài khoa học cấp

Bộ.

28. Nguyễn Hữu Đức, Phan Văn Hùng (đồng chủ biên) (2012), Xác định

tiêu chuẩn và phương pháp đánh giá chính quyền xã trong sạch vững

mạnh, Nxb Chính trị Quốc gia.

29. Lê Thị Vân Hạnh (2009), Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm

xây dựng mô hình cơ cấu tổ chức bộ máy chính quyền địa phương

theo tinh thần nghị quyết trung ương V, Khóa X, Đề tài khoa học cấp

Bộ, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh (Nay là

Học viện Hành chính Quốc gia).

30. Học viện Hành chính, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,

(2009), Đề tài khoa học cấp bộ, “Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực

tiễn nhằm xây dựng mô hình cơ cấu tổ chức b máy CQĐP theo tinh

thần nghị quyết trung ương V, khóa X”

31. Học viện Hành chính (2010), Giáo trình Quản lý và phát triển tổ chức

hành chính Nhà nước, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội

32. Học viện Hành chính quốc gia Pháp (ENA) (2009), Nước Pháp và

các thể chế .

33. Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013, Nxb Chính trị quốc gia

34. Quốc hội (2015), Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015,

Nxb Chính trị quốc gia

35. Đàm Bích Hiên (2007), Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động

của chính quyền cấp xã ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật

164

học, Hà Nội.

36. Phan Văn Hùng (2012), Đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan

hành chính nhà nước phường trong điều kiện cải cách hành chính ở

nước ta, Luận án Tiến sĩ Luật học.

37. Nguyễn Ký, Nguyễn Hữu Đức, Đinh Xuân Hà (đồng chủ biên)

(2006), Đổi mới nội dung hoạt động các cấp chính quyền địa phương

trong kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

38. Trương Đắc Linh (2003),“Chính quyền địa phương với việc đảm bảo

thi hành Hiến pháp và pháp luật”,Nxb Chính trị Quốc gia.

39. Luật tổ chức chính quyền địa phương (2015), được Quốc Hội thông

qua ngày 19/6/2015.

40. Nguyễn Thị Diệu Oanh (2012), Phân cấp quản lý và địa vị pháp lý

của chính quyền địa phương trong quá trình cải cách bộ máy nhà

nước ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học.

41. Thang Văn Phúc, Nguyễn Minh Phương (đồng chủ biên), (2007), Đổi

mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính

trị xã hội ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia.

42. Thang Văn Phúc (2005), Về phân chia và quản lý địa giới hành chính

các nước đông nam á, Đề tài nhánh của Đề tài khoa học cấp Bộ.

43. Nguyễn Minh Phương (chủ biên), Trần Thị Hạnh, Trần Thị Minh

Châu (2015), “Cẩm nang nghiệp vụ dành cho lãnh đạo và công chức

chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã”, Nxb Chính trị Quốc gia

– Sự thật.

44. Nguyễn Minh Phương (chủ biên), Vai trò của chính quyền xã đối với

phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nước ta, Nxb Chính

165

trị Quốc gia – Sự thật.

45. Nguyễn Minh Phương(2015),Quản lý phát triển xã hội của chính

quyền cơ sở một số nước trên thế giới, Nxb Lao động xã hội.

46. Nguyễn Minh Phương (2014), Cơ sở khoa học hoàn thiện cơ chế phân

cấp quản lý nhà nước đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính nhà nước,

Đề tài khoa học cấp Bộ

47. Nguyễn Thị Phượng (2009), Chính quyền địa phương trong việc bảo

đảm thực hiện quyền công dân ở Việt Nam, NXB Chính trị - hành

chính

48. Nguyễn Văn Mễ (chủ biên) (2009), Vai trò của Hội đồng nhân dân

trong phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, Nxb Chính trị-Hành

chính, Hà Nội

49. Hoàng Thị Ngân (2011), Về chế định CQĐP, Hội thảo Sửa đổi Hiến

pháp theo yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN

Việt Nam do Văn phòng Quốc hội và Trung ương Hội luật gia Việt

Nam tổ chức, Hà Nội

50. Bùi Đường Nghiêu (chủ biên) (2006), Điều hành ngân sách giữa trung

ương và địa phương, NX Chính trị quốc gia, Hà Nội

51. Nguyễn Quang Ngọc, Đoàn Minh Huấn, Bùi Xuân Dũng (đồng chủ

biên) (2010), Hoàn thiện mô hình tổ chức và quản lý đô thị Hà Nội,

Nxb Chính trị quốc gia

52. Trần Thế Nhuận, Võ Kim Sơn (1998), Quản lý hành chính đô thị nước

ta những vấn đề bức xúc, trong sách: Cải cách hành chính địa phương

- Lý luận và thực tiễn”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

53. Võ Kim Sơn (2004), Phân cấp quản lý nhà nước: Lý luận và thực tiễn,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

54. Tô Tử Hạ (2003), Từ điển hành chính, Nxb Lao động xã hội

166

55. Từ điển Tiếng Việt(2000), Nxb khoa học xã hội

56. Từ điển Tiếng Việt(1996),Trung tâm Từ điển học, Nxb Đà Nẵng

57. Từ điển Luật học. NXB.Từ điển bách khoa.

58. Tổng cục thống kê (2017), Báo cáo số 536/BC-CTK ngày 20/12/2017

của Tổng cục Thống kê Hà Nội.

59. Thành ủy Hà Nội (2019),Báo cáo Đề án thí điểm quản lý theo mô

hình chính quyền đô thị tại TP Hà Nội, kèm theo Tờ trình số 20 –

TTr/TU ngày 31/01/2019 của Thành ủy Hà Nội

60. Phạm Hồng Thái, Nguyễn Đăng Dung và Nguyễn Ngọc Chí (2011),

Phân cấp quản lý nhà nước ở Việt Nam – Thực trạng và triển vọng,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội

61. Nguyễn Kim Thoa, Nguyễn Sỹ Đại (2006): Tổ chức chính quyền

CHLB Đức, NxbTư pháp

62. Lê Minh Thông (2001), “Đổi mới,hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở

Việt Nam” Nxb Chính trị quốc gia.

63. Lê Minh Thông (2004), “Cải cách tổ chức và hoạt động của chính

quyền địa phương đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp

nhà nước KX.04.08

64. Lê Minh Thông (2011), Đổi mới, hoàn thiện bộ máy Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở

Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

65. Nguyễn Kim Thoa, Nguyễn Sỹ Đại (2006), Tổ chức chính quyền địa

phương ở Cộng hòa liên bang Đức, Nxb Tư pháp.

66. Trần Nho Thìn (1996), Đổi mới tổ chức và hoạt động của UBND xã,

167

Luận án Phó tiến sĩ Luật học.

67. Vũ Thư (2009), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn về phân cấp quản lý

cho chính quyền địa phương ở nước ta, Tạp chí Nhà nước và Pháp

luật, số 4 (252)/2009.

68. Thủ tướng Chính phủ (2001), Chương trình tổng thể CCHC nhà nước

giai đoạn 2001 – 2010 (ban hành kèm theo Quyết định 136/QĐ-TTg

ngày 17/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ).

69. Thủ tướng Chính phủ (2001), Quyết định 136/2001/QĐ-TTg của Thủ

tướng Chính phủ về phê duyệt chương trình tổng thể cải cách hành

chính nhà nước giai đoạn 2001 – 2010.

70. Đào Trí Úc (chủ biên - 2010), Cơ chế giám sát của nhân dân đối với

hoạt động của bộ máy Đảng và nhà nước – Một số vấn đề lý luận và

thực tiễn (Xuất bản lần thứ hai), Nxb. CTQG, Hà Nội.

71. Ủy ban thường vụ Quốc Hội (2015), Báo cáo số 1032/BC-

UBTVQH13 ngày 22/12/2015 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về tình

hình tổ chức và hoạt động của HĐND các cấp từ đầu nhiệm kỳ (2011-

2016) đến nay và phương hướng nhiệm vụ trong thời gian tới, Hà Nội.

72. Nguyễn Cửu Việt và Trương Đắc Linh (2012), Chính quyền địa

phương, trong Một số vấn đề cơ bản của Hiến pháp các nước trên thế

giới, Phan Trung Lý và cộng sự (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội

73. Nguyễn Cửu Việt, Trương Đắc Linh: Sửa đổi hiến pháp: nhìn từ chiến

lược phân cấp quản lý. Tap chí Khoa học pháp lý. Số 3/2011

74. Viện Kinh tế Việt Nam, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương,

và Chương trình hỗ trợ kỹ thuật hậu gia nhập WTO (2012), “Phân cấp

quản lý trong điều kiện h i nhập kinh tế quốc tế”, Nxb Khoa học xã

168

hội, Hà Nội.

75. Viện khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp) (12/2012), “Mô hình tổ chức

chính quyền đô thị ở Việt Nam trong việc đẩy mạnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước , Kỷ yếu hội thảo, Hà Nội

76. Viện Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp) (2014), Phân công quyền lực

giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương tại Việt Nam

- Lịch sử , lý luận và thực tiễn, Đề tài NCKH cấp bộ, Hà Nộ

77. Viện Nghiên cứu hành chính - Học viện Hành chính Quốc gia (2002),

Thuật ngữ hành chính, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

78. UBND thành phố Hồ Chí Minh (2007), Đề án chính quyền đô thị ở thành

phố Hồ Chí Minh.

79. UBND thành phốHà Nội (2017), Quyết định số 15/2017/QĐ-UBND

của UBND TP Hà Nội ban hành Quy định về phân cấp quản lý tổ

chức bộ máy, cán bộ, công chức, lao động hợp đồng trong các cơ quan

hành chính thuộc thành phố Hà Nội

80. Các Website:

http//:dangcongsan.vn;

http//:chinhphu.vn;

http//: moha.gov.vn

https://sontay.hanoi.gov.vn

Tài liệu nước ngoài

81. J.M.Cohen &S.B Peterson (2002), “Phân cấp quản lý hành chính –

Chiến lược cho các nước đang phát triển”, Nxb chính trị quốc gia

82. J.M.Cohen &S.B Peterson (2002), “Phân cấp quản lý hành chính –

Chiến lược cho các nước đang phát triển”, Nxb chính trị quốc gia

83. Bahl, Roy và Johannes Linn (1992). “Urban Public Finance in

169

Developing Countries”. New York: Oxford University Press

84. Evan M. Berman, et. al (eds.) (2010), Public Administration in East

Asia: Mainland China, Japan, South Korea, and Taiwan, Boca Raton,

FL: Taylor and Francis

85. Jurgen Georg Backhaus (ed.) (2012), Two Centuries of Local

Autonomy, New York: Springer

86. Ann Bowman and Richard Kearney (2011), State and Local

Government, 8th ed. Boston, MA: Wadsworth

87. Bryan A. Garner (ed.) (2009), lack’s Law Dictionary, 9th ed. St. Paul,

MN: West

88. Sören Häggroth, Curt Riabedahl và Karin Rudebeck (1997), Chính

quyền địa phương Thụy Điển – truyền thống và cải cách, Nxb Chính

trị Quốc gia, Hà Nội

89. Martin Lombard và Gilles Dumont (2007), Pháp luật hành chính của

C ng hòa Pháp, Nxb Tư pháp, Hà Nội

90. Peter John (2001), Local Governance in Western Europe, London:

Sage

91. Janice Morphet (2008), Modern Local Government, London: Sage

Publications Ltd

92. Kenneth Newton and Jan W. Van Deth (2005), Foundations of

Comparative Politics, Cambridge: Cambridge University Press

93. Colin Turpin & Adam Tomkins (2007), British Government and the

Constitution: Text and Materials, 6th ed. (Cambride: Cambridge

University Press)

94. UNDP (1998), Decentralized Governance Monograph: A Global

Sampling of Experiences, Management Development and

170

Governance Division, Bureau for Policy Development

95. David Wilson and Chris Game (2011), Local Government in the

United Kingdom, 5th ed. (Basingstoke, Hampshire, UK: Palgrave

Macmillan

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Hà Nội, ngày tháng 5 năm 2019

PHIẾU ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC

171

Để có cơ sở đề xuất các giải pháp về tăng cường phân cấp giữa thành phố Hà Nội và chính quyền phường ở Hà Nội, xin đồng chí dành thời gian trả lời một số câu hỏi. Nội dung trả lời của đồng chí mang tính chất điều tra, khảo sát và được giữ bí mật.

Cách trả lời: Đồng chí đánh dấu (X) vào ô vuông ( ) tương ứng với

nhữngý kiến phù hợp với suy nghĩ của đồng chí và yêu cầu của câu hỏi.

Xin chân thành cảm ơn sự quan tâm, tham gia, đóng góp của đồng chí. A. CÁC THÔNG TIN CHUNG:

1. Họ và tên: ……………......................... Tuổi:…....Giới tính:……. 2. Chức vụ(Đảng, chính quyền, đoàn thể)……………………… 3. Đơn vị công tác:……………………………………………… 4. Là cán bộ, công chức 5. Là cán bộ, công chức giữ chức vụ lãnh đạo quản lý

B. NỘI DUNG : Câu 1.Theo đồng chí, việc phân cấp thực hiện nhiệm vụ giữa thành

phố Hà Nội và chính quyền phường ở Hà Nội có cần thiết không?

- Có: - Không:

Câu 2. Đồng chí biết đến chủ trương phân cấp giữa các cấp chính

quyền ở địa phương qua kênh nào?

- Qua phương tiện thông tin đại chúng (báo chí, tivi, internet…): - Qua người thân: - Qua văn bản pháp luật: - Qua điều tra khảo sát: - Qua làm việc trực tiếp: Câu 3. Theo đồng chí, nhận thức của các cấp uỷ Đảng, lãnh đạo chính quyền về vị trí, vai trò, ý nghĩa của việc thực hiện phân cấp nhiệm vụ như thế nào?

- Quan trọng :

- Ít quan trọng :

- Không quan trọng :

Câu 4. Theo đồng chí, các nội dung phân cấp giữa chính quyền thành

phố Hà Nội với chính quyền cấp dưới hiện nay có phù hợp không?

172

- Có: - Không:

Câu 5. Thực tế ở cơ quan, đơn vị, nơi đồng chí làm việc, đã từng thực

hiện các nhiệm vụ được chính quyền cấp trên phân cấp chưa?

- Đã thực hiện: - Chưa thực hiện: Câu 6. Các nội dung thực hiện nhiệm vụ phân cấp tại cơ quan, đơn

vị nơi đồng chí làm việc đã thực hiện? - Phân cấp về quản lý đầu tư - Phân cấp về quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn - Phân cấp về quản lý đất đai - Phân cấp về quản lý nhà nước về đầu tư công - Phân cấp về ngân sách - Phân cấp về nhân sự - Phân cấp về tổ chức, bộ máy - Phân cấp về khen thưởng cán bộ, công chức - Phân cấp về kỷ luật cán bộ, công chức

Câu 7. Theo đồng chí, việc thực hiện nhiệm vụ phân cấp giữa chính quyền thành phố Hà Nội với chính quyền cấp dưới hiện nay có khó khăn không?

- Có: - Không: Nếu trả lời “có” thì xin đồng chí cho biết, nguyên nhân vì sao? + Vì chưa có văn bản quy định cụ thể, rõ ràng, minh bạch + Vì chưa cán bộ, công chức thực hiện yếu kém về năng lực + Vì thiếu nguồn lực thực hiện + Vì vướng mắc tại các văn bản Luật và văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành Các nguyên nhân khác:……………………………………………… ………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………… Câu8. Theo đồng chí, thời gian tới, thành phố Hà Nội có nên mở rộng

thêm nhiệm vụ phân cấp có chính quyền cấp dưới không?

173

- Có: - Không:

Câu 9. Theo đồng chí, các nhiệm vụ nên mở rộng phân cấp là những

nhiệm vụ nào?

- Lĩnh vực quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội - Lĩnh vực tài chính – ngân sách - Lĩnh vực giáo dục, y tế - Lĩnh vực xây dựng - Lĩnh vực tổ chức bộ máy, nhân sự, cán bộ, công chức, viên chức. - Lĩnh vựcđầu tư, giao thông, hạ tầng đô thị - Lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch - Lĩnh vực an toàn vệ sinh thực phẩm Câu 10. Theo đồng chí, để thực hiện tốt nhiệm vụ phân cấp từ chính

quyền cấp trên, cần thực hiện những giải pháp nào? - Tăng cường vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng và chính quyền trong thực hiện nhiệm vụ phân cấp - Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, công chức - Tăng cường mối quan hệ công tác giữa cấp chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội trên địa bàn - Nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức về thực hiện nhiệm vụ được phân cấp - Tăng cường nguồn lực (cơ sở vật chất, tài chính,\ con người) - Nâng cao kỷ luật, kỷ cương làm việc Các ý kiến khác: .................................................................................................................. .................................................................................................................. .................................................................................................................. Câu 11: Kiến nghị của đồng chí để tăng cường phân cấp quản lý nhà

nước đối với chính quyền phường ở thành phố Hà Nội

174

.................................................................................................................. .................................................................................................................. .................................................................................................................. .................................................................................................................. Trân trọng cảm ơn./.