BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA THỊNH VĂN KHOA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI HỢP TÁC XÃ
NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ CÔNG
HÀ NỘI - 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
THỊNH VĂN KHOA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI HỢP TÁC XÃ
NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 62 34 04 03
LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ CÔNG NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
1. PGS.TS. Trang Thị Tuyết
2. PGS.TS. Nguyễn Đình Long
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Thịnh Văn Khoa - nghiên cứu sinh khóa 12 của Học viện Hành
chính Quốc gia. Tôi xin cam đoan Luận án "Quản lý nhà nước đối với hợp tác
xã nông nghiệp ở Việt Nam" là công trình nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi.
Các số liệu và trích dẫn trong Luận án là hoàn toàn trung thực và được ghi rõ
nguồn gốc.
Hà Nội, ngày tháng năm 2017
Tác giả luận án
Thịnh Văn Khoa
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc đến hai người hướng dẫn
khoa học PGS.TS. Trang Thị Tuyết và PGS.TS. Nguyễn Đình Long đã tận
tình hướng dẫn và đóng góp nhiều ý kiến khoa học trong quá trình nghiên cứu
và thực hiện luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc Học viện Hành chính Quốc
gia, Khoa Sau đại học cùng toàn thể các thầy cô giáo đã nhiệt tình giảng dạy,
hướng dẫn và tạo điều kiện cho tôi hoàn thành luận án.
Tôi xin gửi lời cảm ơn Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi
cho tôi trong quá trình nghiên cứu, tìm kiếm tài liệu.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới tất cả thầy cô
giáo, cơ quan, gia đình, bạn bè và đồng nghiệp. Sự quan tâm, giúp đỡ của
thầy cô giáo, cơ quan, gia đình, bạn bè và đồng nghiệp là nguồn động viên
quý báu cho tôi hoàn thành luận án!
Hà Nội, ngày tháng năm 2017
Tác giả luận án
Thịnh Văn Khoa
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 3
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ........................................ 3
5. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết khoa học .............................................. 5
6. Những đóng góp mới của luận án ............................................................. 5
7. Cấu trúc của luận án .................................................................................. 6
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP7
1.1. Các công trình nghiên cứu đã công bố liên quan đến hợp tác xã nông
nghiệp ............................................................................................................ 7
1.1.1. Các công trình nghiên cứu trên thế giới .......................................... 7
1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước .......................................... 13
1.2. Các công trình nghiên cứu đã công bố liên quan đến quản lý nhà nước
đối với hợp tác xã nông nghiệp ................................................................... 20
1.2.1. Các công trình nghiên cứu trên thế giới ........................................ 21
1.2.2. Các công trình nghiên cứu trong nước .......................................... 24
1.3. Những vấn đề chưa được nghiên cứu trong các công trình đã công bố
và định hướng nghiên cứu chủ yếu của luận án .......................................... 28
1.3.1. Những vấn đề chưa được nghiên cứu trong các công trình đã công
bố - điểm khác biệt so với luận án .......................................................... 28
1.3.2. Định hướng nghiên cứu chủ yếu của luận án ................................ 29
Chƣơng 2. CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI
HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP .................................................................. 31
2.1. Những vấn đề lý luận về hợp tác xã nông nghiệp ................................ 31
2.1.1. Khái niệm hợp tác xã nông nghiệp ............................................... 31
2.1.2. Vai trò của hợp tác xã nông nghiệp đối với phát triển kinh tế - xã
hội ............................................................................................................ 34
2.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của hợp tác xã nông
nghiệp ...................................................................................................... 39
2.1.4. Các tiêu chí đánh giá hợp tác xã nông nghiệp .............................. 45
2.2. Lý luận về quản lý nhà nước đối với hợp tác xã nông nghiệp ............. 48
2.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước đối với hợp tác xã nông nghiệp ...... 48
2.2.2. Sự cần thiết của quản lý nhà nước đối với hợp tác xã nông
nghiệp ...................................................................................................... 51
2.2.3. Các nội dung của quản lý nhà nước đối với hợp tác xã nông
nghiệp ...................................................................................................... 54
2.2.4. Các yếu tố tác động đến quản lý nhà nước đối với hợp tác xã nông
nghiệp .......................................................................................................... 61
2.2.5. Sự cần thiết khách quan của hoàn thiện quản lý nhà nước đối với
hợp tác xã nông nghiệp ........................................................................... 65
2.3. Kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với hợp tác xã nông nghiệp của một
số nước và bài học cho Việt Nam ............................................................... 69
2.3.1. Kinh nghiệm của một số nước ...................................................... 69
2.3.2. Bài học cho Việt Nam ................................................................... 74
Kết luận chương 2 ....................................................................................... 78
Chƣơng 3. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI HỢP TÁC
XÃ NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM ............................................................ 79
3.1. Thực trạng phát triển hợp tác xã nông nghiệp ..................................... 79
3.1.1. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của hợp tác xã nông
nghiệp ở Việt Nam .................................................................................. 79
3.1.2. Thực trạng kết quả hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp .......... 87
3.1.3. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân ...................................... 99
3.2. Thực trạng quản lý nhà nước đối với hợp tác xã nông nghiệp .......... 101
3.2.1. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp ... 101
3.2.2. Xây dựng và thực thi chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển
HTX nông nghiệp .................................................................................. 101
3.2.3. Ban hành và thực thi pháp luật có liên quan đến phát triển HTX
nông nghiệp ........................................................................................... 108
3.2.4. Ban hành và thực thi các chính sách phát triển hợp tác xã nông
nghiệp .................................................................................................... 110
3.2.5. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm trong hoạt
động của HTX nông nghiệp .................................................................. 117
3.3. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với hợp tác xã nông
nghiệp ........................................................................................................ 119
3.3.1. Những kết quả đạt được .............................................................. 119
3.3.2. Những hạn chế chủ yếu ............................................................... 121
3.3.3. Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế .................................... 124
Kết luận chương 3 ..................................................................................... 125
Chƣơng 4. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC HOÀN
THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI HỢP TÁC XÃ NÔNG
NGHIỆP Ở VIỆT NAM .............................................................................. 127
4.1. Quan điểm, mục tiêu, phương hướng hoàn thiện quản lý nhà nước
đối với hợp tác xã nông nghiệp ................................................................. 127
4.1.1. Quan điểm ................................................................................... 128
4.1.2. Mục tiêu của hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hợp tác xã
nông nghiệp ........................................................................................... 131
4.1.3. Phương hướng ............................................................................. 136
4.2. Giải pháp tiếp tục hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hợp tác xã
nông nghiệp ............................................................................................... 137
4.2.1. Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với hợp tác xã
nông nghiệp ........................................................................................... 138
4.2.2. Đổi mới công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát
triển hợp tác xã nông nghiệp ............................................................... ..138
4.2.3. Hoàn thiện pháp luật có liên quan đến hợp tác xã nông nghiệp.. 143
4.2.4. Hoàn thiện các chính sách phát triển hợp tác xã nông nghiệp .... 147
4.2.5. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi
phạm trong hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp .............................. 153
4.3. Một số kiến nghị ................................................................................. 155
4.3.1. Đối với Liên minh Hợp tác xã Việt Nam .................................... 155
4.3.2. Đối với Hội Nông dân Việt Nam ................................................ 155
4.3.3. Đối với Bảo hiểm xã hội Việt Nam ............................................ 155
4.3.4. Đối với các học viện, các trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức .............................................................................................. 156
Kết luận chương 4 ..................................................................................... 156
PHẦN KẾT LUẬN ...................................................................................... 157
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ..... 159
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 160
A. Tài liệu tiếng Việt ................................................................................. 160
B. Tài liệu tiếng Anh ................................................................................. 165
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 166
Phụ lục 1. Mẫu phiếu thu thập thông tin về phát triển của HTX nông
nghiệp ........................................................................................................ 166
Phụ lục 2. Mẫu phiếu khảo sát ................................................................. 171
Phụ lục 3. Báo cáo tổng hợp số liệu điều tra, khảo sát............................ 174
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chủ nghĩa xã hội CNXH
Hội nhập quốc tế HNQT
Hợp tác xã HTX
Kinh tế thị trường KTTT
Xã hội chủ nghĩa XHCN
Trang DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1. Nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, và công bằng (%) 87
Bảng 2. Nguyên tắc dân chủ 88
Bảng 3. Nguyên tắc minh bạch 89
Bảng 4. Sự hài lòng của xã viên đối với HTX nông nghiệp 90
Bảng 5. Lợi ích của HTX nông nghiệp đối với xã viên 91
Bảng 6. Vai trò của HTX nông nghiệp đối với tạo việc làm và 92
cung cấp dịch vụ cho xã viên
Bảng 7. Năng lực hợp tác của các HTX nông nghiệp 94
Bảng 8 Tổng hợp chính sách hỗ trợ đối với HTX nông nghiệp 116
Trang DANH MỤC ĐỒ THỊ
Đồ thị 1. Giá trị gia tăng và tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng 95
khu vực HTX
Đồ thị 2. Tổng số lượng xã viên và số lượng xã viên bình 96
quân/HTX
Đồ thị 3. Quy mô vốn bình quân HTX 97
Đồ thị 4. Lợi nhuận bình quân/HTX 98
Trang DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1. Bộ máy quản lý nhà nước đối với hợp tác xã hiện hành 102
Sơ đồ 2. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với kinh tế hợp 139
tác
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hợp tác xã (HTX) mà chủ yếu là HTX nông nghiệp là tổ chức kinh tế cơ
bản của thành phần kinh tế tập thể - một thành phần kinh tế quan trọng trong
nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt
Nam hiện nay. Có từ khá sớm trong nền kinh tế nước ta, HTX nông nghiệp
không chỉ đóng góp cho tăng trưởng và phát triển kinh tế mà còn có đóng góp
quan trọng trong phát triển văn hóa, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội. Vì vậy, trong quá trình phát triển, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn
quan tâm và có nhiều chính sách để phát triển HTX nông nghiệp nói riêng và
kinh tế tập thể nói chung.
Tuy nhiên, trước yêu cầu phát triển KTTT định hướng XHCN trong
điều kiện hội nhập quốc tế (HNQT) hiện nay, các HTX nông nghiệp ở Việt
Nam vẫn trong tình trạng khó khăn, yếu kém kéo dài, với năng lực nội tại yếu,
cơ sở vật chất nghèo nàn, trình độ công nghệ lạc hậu; năng lực, trình độ cán
bộ quản lý trong khu vực HTX nông nghiệp còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng
được nhiệm vụ sản xuất kinh doanh trong KTTT hiện nay; chính sách đối với
cán bộ HTX nông nghiệp còn có nhiều bất cập; nhiều HTX hoạt động không
đúng với nguyên tắc, chưa thực sự tuân thủ đầy đủ các quy định của Luật
HTX; sự liên kết, hợp tác của các HTX nông nghiệp chưa chặt chẽ, hiệu quả
còn thấp. Điều đó đòi hỏi cần thiết phải có sự nghiên cứu, hoàn thiện quản lý
nhà nước đối với HTX nông nghiệp góp phần hoàn thiện thể chế KTTT định
hướng XHCN trong điều kiện HNQT ở Việt Nam hiện nay.
Mặt khác, trong bối cảnh thế giới hiện nay, sự phát triển của các HTX
nông nghiệp ở nhiều nước đã chứng minh cho cộng đồng quốc tế thấy rằng,
HTX nông nghiệp bảo đảm hài hòa cả hai trách nhiệm là phát triển kinh tế và
trách nhiệm với xã hội. Trong đó, trách nhiệm xã hội được đánh giá rất cao và
là điều kiện cơ bản cho sự tồn tại và phát triển của các HTX nông nghiệp.
1
Hơn nữa, cho đến nay, hầu như chưa có một công trình khoa học nào
nghiên cứu một cách có hệ thống, bài bản liên quan trực tiếp đến quản lý nhà
nước đối với HTX nông nghiệp.
Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, nghiên cứu sinh quyết
định chọn đề tài: “Quản lý nhà nước đối với hợp tác xã nông nghiệp ở Việt
Nam” để nghiên cứu trong khuôn khổ luận án tiến sỹ quản lý công.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Luận án nhằm đạt 3 mục đích chính dưới đây:
- Xác định cơ sở khoa học về quản lý nhà nước đối với HTX nông
nghiệp.
- Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp ở
Việt Nam giai đoạn 2005-2015. Rút ra những bất cập và nguyên nhân cơ bản
của những bất cập trong thực hiện quản lý nhà nước đối với HTX nông
nghiệp.
- Đề xuất quan điểm, mục tiêu, phương hướng và các giải pháp tiếp tục
hoàn thiện quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp giai đoạn tới, góp
phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế và hoàn thiện thể chế KTTT định
hướng XHCN của Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt mục đích trên, luận án có nhiệm vụ:
- Xây dựng khung lý thuyết về quản lý nhà nước đối với HTX nông
nghiệp trên cơ sở kế thừa và phát triển các công trình nghiên cứu trước đây.
- Phân tích và đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với HTX nông
nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 2005-2015 trên cơ sở khung lý thuyết về quản lý
nhà nước đối với HTX nông nghiệp.
- Xây dựng những quan điểm, mục tiêu và phương hướng để hoàn thiện
quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp giai đoạn tới trên cơ sở thực trạng
phát triển HTX nông nghiệp và quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp ở
Việt Nam.
2
- Luận giải đề xuất các giải pháp tiếp tục hoàn thiện quản lý nhà nước
đối với HTX nông nghiệp ở Việt Nam giai đoạn tới.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là quản lý nhà nước đối với HTX
nông nghiệp (bao gồm cả quản lý nhà nước ở trung ương và địa phương).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Dưới góc độ khoa học quản lý công, nội dung nghiên
cứu của luận án sẽ tập trung vào các chức năng của quản lý nhà nước, đó là:
Xây dựng quy hoạch, kế hoạch; Ban hành và thực hiện các văn bản pháp luật;
Ban hành và thực thi các chính sách; Công tác kiểm tra, giám sát; Tổ chức bộ
máy quản lý nhà nước.
- Về không gian: Quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp trên lãnh
thổ Việt Nam.
- Về thời gian: Từ năm 2005 đến năm 2015 và định hướng nghiên cứu
đến năm 2025.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Luận án được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin về duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ
Chí Minh và các quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước Việt Nam
trong lĩnh vực quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp tiếp cận của khoa học quản lý công hiện
đại và các lý thuyết về quản lý để xây dựng cơ sở khoa học về quản lý nhà
nước đối với HTX nông nghiệp và các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
- Phương pháp thu thập tài liệu.
+ Nghiên cứu tài liệu thứ cấp.
Việc tìm hiểu các nghiên cứu đã có trong lĩnh vực quản lý nhà nước đối
với HTX nông nghiệp là cần thiết và quan trọng, các nghiên cứu này làm cơ
3
sở để nhận diện lịch sử và kết quả của vấn đề nghiên cứu. Trên cơ sở tham
khảo những giá trị tương đồng của các kết quả này, luận án phân tích có hệ
thống cơ sở lý luận, cung cấp những luận cứ khoa học cho việc đánh giá thực
trạng hoạt động quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp.
Luận án thu thập số liệu thống kê thứ cấp để phân tích hoạt động của
các HTX nông nghiệp ở Việt Nam trên các mặt, như về quy mô, hiệu quả,
việc thực hiện các nguyên tắc hoạt động...
+ Thu thập thông tin.
Luận án sử dụng phương pháp thu thập thông tin về phát triển HTX
nông nghiệp và công tác quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp ở tỉnh
Thanh Hóa trên cả 3 vùng (vùng núi, vùng trung du và vùng đồng bằng ven
biển) theo 2 mẫu phiếu điều tra, mẫu số 1 dành cho các HTX nông nghiệp
(điều tra 230 phiếu - tương đương hơn 1/3 số HTX nông nghiệp hiện có của
tỉnh Thanh Hóa), mẫu số 2 dành cho cán bộ, công chức cấp xã (điều tra 405
phiếu trên 81 xã của 9 huyện đại diện cho 3 vùng của tỉnh Thanh Hóa). Kết
quả thu thập thông tin ở Thanh Hóa góp phần khẳng định tính khoa học của
các phân tích và nhận định về quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp ở
Việt Nam giai đoạn 2005-2015.
- Phương pháp xử lý và phân tích dữ liệu.
+ Đối chiếu, so sánh.
Các số liệu thu thập về phát triển HTX nông nghiệp, các dữ liệu về
quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp đều được so sánh theo thời gian
để chỉ ra sự biến đổi theo các xu hướng khác nhau của các quá trình này. Ở
một số nội dung, luận án cũng so sánh số liệu của Việt Nam với một số nước
trên thế giới để làm rõ vấn đề đang nghiên cứu.
+ Phân tích, tổng hợp.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng quản quản lý nhà nước đối với HTX
nông nghiệp theo các chức năng của quản lý nhà nước, luận án phân tích để
đưa ra những đánh giá có tính khái quát về những thành công và hạn chế của
công tác này trong giai đoạn 2005-2015 và đầu năm 2016. Việc phân tích,
4
tổng hợp sẽ giúp luận án chỉ ra những nguyên nhân cơ bản dẫn đến thành
công và hạn chế đó.
5. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết khoa học
5.1. Câu hỏi nghiên cứu
- Vì sao quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp ở Việt Nam chưa
phát huy được vai trò của HTX nông nghiệp trong điều kiện phát triển KTTT
và HNQT hiện nay?
- Tiếp tục hoàn thiện quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp ở Việt
Nam giai đoạn tới cần có những giải pháp nào?
5.2. Giả thuyết khoa học
- Nhà nước có vai trò vô cùng quan trọng trong việc định hướng, điều
tiết, hỗ trợ để HTX nông nghiệp phát triển đúng hướng và đạt hiệu quả cao.
- Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp sẽ
được nâng cao nếu xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách một
cách khoa học và phù hợp nhất cho sự ra đời và phát triển của HTX nông
nghiệp kiểu mới trong giai đoạn hiện nay.
- Để nâng cao hiệu quả của HTX nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay,
cần phải xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước để quản lý HTX nông
nghiệp theo hướng thành lập cơ quan nhà nước chuyên trách quản lý HTX
nông nghiệp.
6. Những đóng góp mới của luận án
- Luận án xây dựng và hoàn thiện lý luận về quản lý nhà nước đối với
HTX nông nghiệp, gồm:
+ Xây dựng khái niệm quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp.
+ Xác định được các nội dung của quản lý nhà nước đối với HTX nông
nghiệp.
+ Xây dựng được khung lý thuyết về hoàn thiện quản lý nhà nước đối
với HTX nông nghiệp.
- Thông qua việc phân tích và đánh giá một cách khoa học về thực
trạng phát triển HTX nông nghiệp và quản lý nhà nước đối với HTX nông
5
nghiệp ở Việt Nam, luận án có thể làm tài liệu cho việc thực hiện quản lý nhà
nước đối với HTX nông nghiệp; đồng thời có thể sử dụng để nghiên cứu vận
dụng cho loại hình kinh tế khác trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt
Nam.
- Các phương hướng và giải pháp tiếp tục hoàn thiện quản lý nhà nước
đối với HTX nông nghiệp mà luận án đưa ra là tài liệu tham khảo có giá trị
đối với cơ quan hoạch định chính sách phát triển HTX nông nghiệp và các cơ
quan nghiên cứu; làm tài liệu giảng dạy, học tập về quản lý công, về quản lý
nhà nước đối với HTX nông nghiệp ở Việt Nam. Đặc biệt là giải pháp về
thành lập cơ quan nhà nước chuyên trách quản lý HTX nông nghiệp.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục,
nội dung Luận án được kết cấu thành 4 chương.
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến quản lý nhà
nước đối với hợp tác xã nông nghiệp
Chương 2: Cơ sở khoa học về quản lý nước đối với hợp tác xã nông
nghiệp
Chương 3: Thực trạng quản lý nhà nước đối với hợp tác xã nông
nghiệp ở Việt Nam
Chương 4: Phương hướng và giải pháp tiếp tục hoàn thiện quản lý nhà
nước đối với hợp tác xã nông nghiệp ở Việt Nam
6
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP
1.1. Các công trình nghiên cứu đã công bố liên quan đến hợp tác xã
nông nghiệp
1.1.1. Các công trình nghiên cứu trên thế giới - Bài viết “The role of cooperatives in the 21st century”, Prof. Hans-
H.Muenkner, Marburg University, Germany 6-1995. Đưa ra quan niệm mang
tính bản chất của HTX, phân tích vai trò và thách thức chủ yếu của HTX
trong thế kỷ 21:
HTX là hiệp hội của những người tự nguyện gia nhập nhằm đạt được
kết quả chung thông qua việc tạo dựng một tổ chức quản lý dân chủ, góp vốn
công bằng và chấp nhận chia sẻ bình đẳng các rủi ro và lợi nhuận từ các hoạt
động mà mình tham gia một cách chủ động.
Vai trò cơ bản của HTX là tự giúp đỡ các thành viên của mình, hay
nhiệm vụ của HTX là phải giúp các xã viên giải quyết các vấn đề đang đe dọa
họ, và vì nó thành lập và gia nhập HTX, gồm: Đầu tư vào nguồn nhân lực,
đặc biệt là vào các xã viên và các nhóm xã viên; Vận động xã viên và huy
động các nguồn lực của xã viên tham gia các hoạt động nhằm loại bỏ các xã
viên không hoạt động; Sử dụng toàn bộ các tiềm năng của xã viên; Tái thiết
kế lại cơ cấu tổ chức cổ điển nhằm đưa ra nhiều cơ hội hơn nữa cho các xã
viên chủ động tham gia.
Thách thức chủ yếu của HTX trong thế kỷ 21 là phải lấp đầy khoảng
trống giá trị đang ngày một tăng bằng cách đưa ra hệ thống giá trị chắc chắn
và thiết thực, hoàn chỉnh các hướng dẫn (nguyên tắc) mà qua đó hướng con
người tìm các giải pháp cho những vấn đề đang gây áp lực nhất cho họ bằng
cách tự mình giúp mình, bằng việc công nhận trách nhiệm đối với tương lai
của mình, tin tưởng vào sức mạnh của bản thân và sức mạnh của những nỗ
lực chung, vào sự giúp đỡ, đoàn kết cộng đồng.
7
- Cuốn sách “The history of cooperatves in United state”, Kimberly A.
Zeuli, University of Wisconsin, Madison, 2005. Đưa ra các định nghĩa về
HTX, tại sao phải hợp tác:
HTX là tổ chức tự chủ của những người tự nguyện tập hợp nhau lại
nhằm thỏa mãn những nhu cầu và nguyện vọng chung về kinh tế, văn hóa và
xã hội thông qua việc tham gia góp vốn và quản lý dân chủ. Định nghĩa này
đề cập đến yếu tố chính của HTX, đó là thành viên tự nguyện. Ép buộc là trái
ngược với HTX; người bị ép buộc hành động trái ngược với nguyện vọng của
họ, không thực sự là hợp tác. HTX phải thực sự hình thành từ sự tin tưởng và
giúp đỡ lẫn nhau, không thể là mệnh lệnh.
HTX là cơ sở kinh doanh do những người sử dụng tự làm chủ và tự
quản lý, lợi dụng được chia trên cơ sở của việc sử dụng hàng hóa và dịch vụ.
Định nghĩa này đưa ra ba nguyên tắc chung của HTX, đó là: xã viên tự làm
chủ; tự quản lý; và phân chia lợi nhuận theo tỷ lệ.
Lý do phải hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp ở Mỹ gồm: Nông dân
thành lập HTX cung ứng và tiêu thụ sản phẩm để giúp họ tối đa hóa lợi
nhuận; HTX tiêu dùng được thành lập để bán những sản phẩm mà họ muốn
mua nhưng không thể tìm ở nơi khác giá cả như vậy; Xã viên được làm chủ
và được quản lý HTX; HTX không mâu thuẫn với mục tiêu của chủ nghĩa tư
bản.
Bài viết đưa ra nhận định, Ở Mỹ HTX đặc biệt quan trọng trong lĩnh
vực nông nghiệp. Năm 2002, 3.140 HTX nông nghiệp cung cấp cho khoảng
3,1 triệu nông dân (nhiều nông dân tham gia nhiều HTX cùng một lúc) các
dịch vụ về tiếp thị nông phẩm, cung ứng vật tư nông nghiệp và một số dịch vụ
liên quan khác; nắm giữ 28% thị phần.
- Bài viết “Building and destroying social capital: The case of
cooperatives movement in Denmark and Poland”, Kluwer Academic
Publishers, Printed in the Netherlands 2003. Bài viết đã tổng hợp đánh giá sự
phát triển của HTX ở các nước châu Âu; đặc biệt khẳng định vai trò xây dựng
8
và thậm chí hủy hoại vốn xã hội thông qua phân tích sự chuyển động của các
HTX ở Ba Lan và Đan Mạch cuối thế kỷ XX:
Sự ra đời của các HTX ở Đan Mạch và Phần Lan từ thế kỷ thứ 19 đến
đầu thế chiến thứ 20 là do nhu cầu khách quan của việc phát triển kinh tế, xã
hội ở các quốc gia này. Và đưa ra nhận định, HTX nông nghiệp là một tổ
chức của một nhóm người cùng nhau thành lập, tuân thủ 6 nguyên tắc sau:
(1)Thành viên tự nguyện và mở rộng; (2)Quản lý dân chủ và quyền biểu
quyết ngang nhau; (3)Lợi nhuận giới hạn trong phạm vi vốn góp; (4)Sự công
bằng trong phân phối và trên cơ sở sự đóng góp; (5)HTX cung cấp giáo dục
cho các thành viên; (6)Hợp tác giữa các HTX.
- Tài liệu “Agricultural cooperatives in France”. Chantal. Chommel.
Paris 2015. Tài liệu phân tích lịch sử pháp lý, những lý do phát triển HTX
nông nghiệp ở Pháp:
HTX là một cách để tổ chức các hoạt động kinh tế dựa trên việc đoàn
kết các thành viên, những thành viên có điều kiện hơn giúp đỡ các thành viên
yếu thế hơn và ủng hộ lẫn nhau để đạt được những lợi ích chung.
Mục đích của HTX là để những nông dân cùng hợp tác nhằm tạo điều
kiện và phát triển các hoạt động kinh tế, tăng cường và nâng cao kết quả của
các hoạt động này.
+ Các nguyên tắc chính
Tự do gia nhập: là nguyên tắc “mở”. Bất kỳ người sản xuất nào nếu có
chung “mục đích” như HTX và có cùng địa bàn hoạt động thì đều có thể trở
thành xã viên HTX (sau khi được ban quản trị thông qua).
Quản lý dân chủ: là nguyên tắc “một người bằng một phiếu bầu” tại đại
hội xã viên, tất cả các xã viên HTX đều có quyền bỏ phiếu như nhau, không
phụ thuộc vào số lượng vốn do họ góp vào HTX và cũng không phụ thuộc
vào tỉ lệ tham gia các giao dịch kinh tế mà họ thực hiện với HTX.
Tuy nhiên, quy định này cũng có một số ngoại lệ: có một vài phiếu bầu
có giá trị cao hơn phụ thuộc vào mức độ hiệu quả của các sự tham gia của họ
đối với hoạt động của HTX. Giá trị này không chỉ đơn thuần dựa trên các tính
9
chất tài chính và không làm tăng mức vốn góp. Thêm vào đó, giá trị này
không thể vượt quá một mức độ nhất định: không ai nắm giữ được hơn 20%
tổng số phiếu trong đại hội xã viên.
“Acapitalim”: có nghĩa là HTX không chia lãi cổ phần mà đây là quỹ
không chia của HTX.
HTX là tổ chức đối nhân không phải tổ chức đối vốn - nơi mà các cổ
đông có thể bán cổ phần của mình bất cứ lúc nào.
+ Quy tắc chính và các giá trị
Minh bạch: tất cả các xã viên HTX đều phải tôn trọng các quy tắc hoạt
động của HTX và ngược lại, các HTX cũng phải đào tạo và thông tin cho các
thành viên. Tuy nhiên, những nông dân riêng lẻ cũng có thể phải thực hiện
các dịch vụ mà họ được hưởng lợi từ HTX và phải được thông báo về chính
sách, đặc biệt về giá của mỗi sản phẩm.
Công bằng: tất cả các xã viên đều phải trả cùng một giá cho những sản
phẩm giống nhau (về số lượng và chất lượng).
Tuy nhiên, thỉnh thoảng cũng có khả năng khác xảy ra tùy thuộc vào
mức độ giá trị đóng góp của mỗi nông dân (ví dụ: rau quả sớm vụ).
Việc đối xử này dựa trên mục tiêu kinh tế và được công khai.
Đoàn kết: là nguyên tắc được ưu tiên trong HTX. Đó không phải là
những hỗ trợ lâu dài mà chỉ là hỗ trợ cho những khó khăn hiện tại của nông
dân hoặc cho những bước khởi đầu của nông dân trẻ.
Trách nhiệm: một trong những mục tiêu của HTX nông nghiệp là giúp
đỡ nông dân đạt được những mục đích của họ. HTX không những là cách
thức giúp nông dân có được sự trả công xứng đáng đối với sản phẩm họ làm
ra, mà còn cung cấp cho họ những thông tin cần thiết để hiểu và thích ứng
được với những thay đổi của nó.
HTX do đó phải cung cấp cho xã viên những thông tin về thị trường và
chính sách nông nghiệp để họ có thể điều hành nông trang của mình một cách
có hiệu quả nhất.
10
Trả công theo sản phẩm: hàng tháng, các xã viên được nhận một khoản
tiền cho các đóng góp sản phẩm của họ vào HTX. Trước khi kết thúc năm tài
chính, ban điều hành có thể tăng mức tiền này nếu điều kiện tài chính của
HTX cho phép.
Chia lợi nhuận: sau khi biểu quyết thông qua bảng cân đối thu chi đại
hội xã viên sẽ quyết định phân chia khoản lợi nhuận cuối cùng.
+ Các nguyên tắc đặc trưng của HTX nông nghiệp
Khi quyết định gia nhập HTX, người sản xuất đồng ý tôn trọng hai loại
cam kết: Cam kết giao toàn bộ hoặc một phần sản phẩm cho HTX theo thời
gian xác định theo điều lệ. Cam kết góp vốn để HTX có khả năng tự chủ tài
chính, hoặc tối thiểu là có thể phát triển. Những nông dân (cá nhân hoặc thực
thể pháp lý), kể cả các HTX khác hoặc các hiệp hội nông nghiệp có thể là xã
viên của HTX nếu họ chấp nhận tuân thủ hai điều này.
Những nhà đầu tư - xã viên không sử dụng sản phẩm, dịch vụ của
HTX, cũng có thể tham gia nhiều HTX với tư cách đặc biệt. Những người này
có thể sở hữu một phần vốn góp nếu trong điều lệ có quy định, tuy nhiên luôn
phải ít hơn ½ tổng số vốn góp của HTX.
Điểm đặc biệt, HTX là đơn vị được lập ra và phục vụ cho nông dân, về
nguyên tắc không thể tiến hành các hoạt động kinh doanh với bất kỳ đối
tượng nào khác ngoài các xã viên của mình. Tuy nhiên, cũng có những ngoại
lệ nếu thỏa mãn những điều kiện: được quy định trong điều lệ và các giao
dịch với người không phải là xã viên phải phù hợp với mục đích của HTX,
các giao dịch này bị giới hạn không được vượt quá 20% tổng doanh thu hàng
năm của HTX. Điều này có giá trị là những giao dịch này sẽ phải chịu thuế.
HTX đóng vai trò sống còn trong lĩnh vực cung cấp đầu vào cho sản
xuất nông nghiệp và chế biến thực phẩm, tiêu thụ nông sản bởi những lý do:
tăng hiệu quả kinh tế của kinh doanh nông nghiệp; điều chỉnh sản xuất cho
phù hợp với đòi hỏi của người tiêu dùng, cả về số lượng và chất lượng; nâng
cao chất lượng nông sản nhằm nâng cao vị thế trên thị trường.
11
- Tài liệu “Development of Agricultural Cooperatives - Relevance of
Japanese Experiences to Developing Countries”, Dr Daman Prakash, The
Saryu’, J-102 Kalkaji, New Delhi 110019, India, February 2003. Tài liệu phân
tích những đóng góp đáng kể của HTX nông nghiệp trong phát triển kinh tế ở
Nhật Bản, chỉ ra những điều kiện cần thiết cho thành công và những bài học
cho phát triển HTX nông nghiệp ở Nhật bản:
Từ kinh nghiệm trong hoạt động của HTX nông nghiệp và kết quả
nghiên cứu, tài liệu đã chỉ ra hệ thống các lý do dẫn đến sự thành công của
HTX nông nghiệp Nhật Bản, bao gồm: (1)Thành viên HTX phải trách nhiệm
và tự quản; (2)HTX phải được quản lý dân chủ bởi ban quản trị do các xã viên
bầu ra; (3)Nguyên tắc trách nhiệm, giải trình và mô hình vai trò; (4)Tuân thủ
khái niệm sử dụng chung, như: vốn chung, công cụ chung, thị trường chung…
(5)Bầu cử ra ban quản trị để điều hành hoạt động của HTX nông nghiệp;
(6)HTX là tích hợp hoạt động của các nhu cầu thành viên và hộ gia đình;
(7)HTX phải tham gia các chương trình tập huấn để nâng cao năng lực của
ban quản trị và từng xã viên; (8)HTX là tổ chức mở cho các thành viên tham
dự và hưởng lợi.
Cũng từ kết quả nghiên cứu đó, tài liệu đã phân tích và kết luận một số
bài học trong quá trình phát triển HTX nông nghiệp, gồm: (1)Chính phủ phải
tăng cường sự quan tâm đến nông nghiệp và HTX nông nghiệp; (2)HTX nông
nghiệp nên là tổ chức tự chủ, phi chính trị. Sự tín nhiệm và tự chủ là điều kiện
cần thiết cho thành công của các HTX nông nghiệp; (3)HTX nông nghiệp
phải được quản lý như một tổ chức kinh doanh chứ không phải là một tổ chức
xã hội hay từ thiện; (4)Kinh doanh của HTX nông nghiệp phải được quản lý
bởi các nguyên tắc quản lý hiện đại.
- Tài liệu “Agriculural cooperatives: key to feeding the world”, của Tổ
chức Lương thực và Nông nghiệp thế giới FAO, 2012. Tài liệu đã thông qua
các số liệu thực tế về hoạt động của HTX nông nghiệp trên thế giới, khẳng
định sự cần thiết và vai trò to lớn của HTX nông nghiệp trong điều kiện hiện
nay.
12
1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước
- Tài liệu“Bản chất hợp tác xã - thực tiễn Việt Nam, kinh nghiệm quốc
tế và khả năng vận dụng ở Việt Nam”, Vụ Hợp tác xã, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
năm 2007.
Đưa ra nhận định: “HTX là hiệp hội hay là tổ chức tự chủ của các cá
nhân liên kết với nhau một cách tự nguyện nhằm đáp ứng các nhu cầu và
nguyện vọng chung về kinh tế, xã hội và văn hóa thông qua một doanh nghiệp
được sở hữu chung và kiểm soát một cách dân chủ”
Tài liệu rút ra kết luận, xét cho cùng hạt nhân bản chất của HTX là:
đồng sở hữu, đồng sử dụng sản phẩm, dịch vụ của HTX hoặc đồng là người
lao động trong HTX. Đồng thời, HTX là một tổ chức khép kín của hai tổ chức
tồn tại đi liền với nhau: bản thân HTX như là một tổ chức hoặc một hiệp hội
hợp tác; doanh nghiệp thuộc HTX tạo ra sản phẩm, dịch vụ chung cung cấp
cho tất cả xã viên HTX.
Từ định nghĩa trên, từ nghiên cứu các tài liệu của ICA và kinh nghiệm
của các nước, tài liệu nêu lên một số vấn đề cơ bản có liên quan đến bản chất
và mô hình HTX như sau:
+ HTX phục vụ kinh tế hộ, kinh tế xã viên là cần nhưng chưa đủ.
HTX là tổ chức tập hợp của cá nhân con người (chứ không phải vốn).
Hoạt động kinh tế của xã viên có rất nhiều nhu cầu khác nhau. Nhưng các xã
viên HTX phải có nhu cầu chung trong hoạt động kinh tế của mình thì mới có
thể tập hợp nhau trong HTX. HTX có thể phát huy lợi thế và tiềm năng không
chỉ trong lĩnh vực kinh tế, mà cả trong lĩnh vực xã hội, văn hóa mà ở đó và
trong bất cứ lĩnh vực nào xuất hiện nhu cầu chung của các xã viên. HTX
không phải là tổ chức xã hội mà chỉ mang tính chất xã hội, càng không phải tổ
chức từ thiện.
+ Ngoài việc đáp ứng nhu cầu chung của xã viên, HTX có được cung
ứng sản phẩm, dịch vụ của mình đáp ứng nhu cầu thị trường không? Nếu
được thì đáp ứng mức độ nào? HTX có thể mở rộng quy mô hoạt động để
tăng hiệu quả theo cách thức nào? Câu trả lời cụ thể tùy thuộc từng nước với
13
các mô hình cụ thể khác nhau. Về cơ bản có bốn cách thức sau đây: (1)Thu
hút thêm xã viên, tức kết nạp thêm nhiều xã viên từ bên ngoài thị trường vào
HTX, từ đó tăng số lượng xã viên và vốn điều lệ HTX, tức tăng số lượng
khách hàng của HTX, giúp HTX nâng cao hiệu quả phục vụ xã viên; (2)Sáp
nhập, hợp nhất nhiều HTX thành một HTX mới có quy mô lớn hơn cả về số
lượng xã viên, vốn điều lệ và năng lực hoạt động của HTX; (3)Liên kết kinh
tế theo hướng chuyên ngành các HTX theo chiều dọc, tạo sự liên kết kinh tế
chặt chẽ chuyên ngành giữa các HTX khác nhau theo quy mô vùng hoặc quy
mô quốc gia, từ đó tăng số lượng xã viên - tức khách hàng của HTX; (4)Cho
phép HTX giao dịch với thị trường với hai mức độ giao dịch hạn chế, hoặc
giao dịch không hạn chế.
+ Vốn góp của xã viên và sở hữu tập thể không chia của HTX. Vốn góp
của xã viên HTX ở nhiều nước có cách gọi khác nhau: dự phần xã hội, vốn
góp điều lệ, cổ phần… là vốn sở hữu của xã viên trong HTX. Trong suốt quá
trình tham gia HTX, xã viên chỉ được sở hữu tư nhân phần vốn góp đó mà
thôi; còn tài sản hình từ hoạt động của HTX là tài sản chung không chia của
HTX; trường hợp HTX bị giải thể, tài sản này phải được chuyển giao cho
chính quyền địa phương; trường hợp xã viên rút ra khỏi HTX, thì chỉ được rút
phần vốn đã góp.
Đây là đặc điểm mang tính bản chất của HTX (nhưng không phải là
mục tiêu của HTX), đề cao tính cộng đồng và sở hữu chung trong HTX, khác
hẳn với doanh nghiệp thương mại, theo đó sở hữu của thành viên góp vốn
doanh nghiệp trong tài sản của doanh nghiệp tương ứng với tỉ lệ góp vốn của
mình trong suốt quá trình hình thành và phát triển doanh nghiệp.
+ Chia lợi nhuận hay chênh lệch thu - chi HTX. Theo nguyên tắc
truyền thống, lợi nhuận hay khoản dư thừa trong HTX không được chia theo
vốn góp, vì có thể làm xói mòn tinh thần hợp tác, đề cao tư tưởng lợi nhuận,
nhưng nếu không chia thì thật sự không thể hấp dẫn đông đảo xã viên tham
gia HTX.
14
+ Tính chất hợp tác, giá trị và nguyên tắc HTX không phát huy đầy đủ
và ngay lập tức khi thành lập HTX, mà đòi hỏi một quá trình phát triển lâu
dài.
Từ những phân tích trên, tài liệu đã đưa ra các kết luận sau đây:
Một là, lý luận về HTX là một khoa học, khoa học ấy dựa trên thực tiễn
phát triển của HTX một cách phong phú gần hai thế kỷ qua trên thế giới, có
sự phát triển, đổi mới; cần được học tập, nghiên cứu một cách có hệ thống.
Hai là, các giá trị và nguyên tắc của HTX vừa bao hàm yếu tố kinh tế
vừa mang đậm tính đạo đức, chính trị, xã hội và văn hóa, có những mặt thống
nhất đồng thời có những mặt mâu thuẫn, cần phải nhận thức sâu sắc để thiết
kế vào các mô hình HTX (pháp lý) cụ thể, phù hợp với điều kiện cụ thể từng
nước, đảm bảo các giá trị và nguyên tắc ấy có sức sống, từ đó HTX mới trở
thành thể chế hoạt động có hiệu quả.
Ba là, HTX là một hình thức pháp lý về tổ chức, vì vậy, vấn đề quan
trọng và cấp bách hiện nay là phải nhận thức đúng bản chất HTX, xác định
đúng và cụ thể mô hình HTX, định hình chuẩn về khung khổ pháp luật tạo
điều kiện thuận lợi cho HTX ra đời và phát triển. Có như vậy HTX, phong
trào HTX mới phát triển bền vững, tiến kịp đà đổi mới, có đóng góp ngày
càng quan trọng và tích cực cho phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của HTX, tài liệu đã phân tích 7
nguyên tắc sau:
(1) Tham gia tự nguyện và mở. HTX là các tổ chức tự nguyện và mở
đối với mọi thành viên xã hội mong muốn sử dụng dịch vụ của HTX, sẵn sàng
chấp thuận trách trách nhiệm thành viên HTX, không phân biệt giới tính, xã
hội chủng tộc, chính trị hoặc tôn giáo.
(2) Kiểm soát một cách dân chủ bởi các thành viên. HTX là các tổ chức
mang tính dân chủ được kiểm soát bởi các thành viên là những người tham
gia vào việc xác định các chính sách và ra quyết định của HTX.
15
(3) Tham gia kinh tế của thành viên HTX. Các thành viên đóng góp
một cách bình đẳng và kiểm soát một cách dân chủ đối với vốn của HTX.
Vốn của HTX thường là tài sản chung của HTX.
(4) Tự chủ và độc lập. HTX là các tổ chức tự chủ, tự giúp đỡ, được
kiểm soát bởi các thành viên.
(5) Giáo dục, huấn luyện và thông tin. HTX là tổ chức tự chủ, có ý
nghĩa cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, mang lại lợi ích cho thành viên,
nên bản thân nó phải có trách nhiệm giáo dục, huấn luyện và thông tin cần
thiết đối với cộng đồng thành viên của mình và đối với các đối tác.
(6) Hợp tác giữa các HTX. HTX phục vụ các thành viên của mình một
cách hiệu quả và tăng cường phong trào HTX bằng cách hợp tác với nhau trên
bình diện địa phương, vùng, quốc gia và quốc tế, theo chuyên ngành hoặc
dưới hình thức hiệp hội.
(7) Chăm lo cho cộng đồng. HTX phải đảm bảo sự phát triển của cộng
đồng thành viên của mình thông qua các chính sách do chính thành viên HTX
quyết định, bao gồm các hoạt động phúc lợi, hoạt động xã hội - văn hóa nhằm
cải thiện đời sống mọi mặt thành viên và cộng đồng xã viên HTX.
Tài liệu cũng đã đưa ra nhận định và phân tích về giá trị của HTX,
gồm: tự giúp đỡ, tự chịu trách nhiệm, dân chủ, công bằng, bình đẳng, đoàn
kết. Ngoài ra theo các nhà sáng lập HTX, giá trị HTX còn là các giá trị đạo
đức, bao gồm: tính trung thực, sự cởi mở, trách nhiệm xã hội và sự quan tâm
tới người khác.
- Cuốn sách “Sự phát triển của hợp tác xã và vai trò của hợp tác xã đối
với an sinh xã hội”, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và UNDP tại Việt Nam.
Nhà xuất bản trẻ, Hà Nội 2012. Cuốn sách phân tích sự phát triển của HTX ở
Việt Nam qua các giai đoạn; phân tích sự tác động của cơ chế, chính sách và
pháp luật đến sự phát triển của HTX; đánh giá thực trạng tổ chức và quản lý ở
các HTX và vai trò của HTX đối với an sinh xã hội; xu hướng phát triển HTX
hiện nay.
16
Viện dẫn định nghĩa HTX của ILO “HTX là hiệp hội hay tổ chức tự
chủ của các cá nhân liên kết với nhau một cách tự nguyện nhằm đáp ứng nhu
cầu và nguyện vọng chung về kinh tế, xã hội và văn hóa thông qua một doanh
nghiệp được sử hữu chung và được kiểm soát một cách dân chủ”.
Theo Luật HTX năm 2012 của Việt Nam, HTX là tổ chức kinh tế tập
thể do cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có nhu cầu lợi ích chung, tự nguyện
góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật này để phát huy sức mạnh của
tập thể và từng xã viên tham gia HTX, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả
các hoạt động sản xuất kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần,
góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Về mặt bản chất, HTX khác với doanh nghiệp ở hai điểm chính:
Thứ nhất, HTX là hiệp hội của những cá nhân đồng ý trở thành người
đồng sở hữu, người đưa ra các quyết định dân chủ và người khai thác doanh
nghiệp chung.
Thứ hai, mục tiêu cơ bản của HTX là đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng về
mặt kinh tế, văn hóa và xã hội của xã viên. Hay nói cách khác, HTX là tổ
chức kinh tế - xã hội khác với loại hình doanh nghiệp về mục tiêu thành lập
(HTX đáp ứng các nhu cầu về kinh tế, văn hóa, xã hội của xã viên) và tổ chức
hoạt động (HTX có tính dân chủ, tính tương trợ cao).
Sau khi phân tích, tài liệu đã chỉ ra, HTX có các đặc trưng sau đây:
(1) HTX là tổ chức kinh tế - xã hội liên kết các cá nhân, hộ gia đình và
pháp nhân, được hình thành theo nguyên tắc tự nguyện nhằm đáp ứng các nhu
cầu chung của xã viên theo nguyên tắc tương trợ.
(2) HTX được thành lập nhằm đáp ứng cả nhu cầu kinh tế, văn hóa và
xã hội của xã viên và cộng đồng.
(3) HTX là một tổ chức kinh tế tự chủ có tính dân chủ cao.
(4) Tài sản chung của HTX là bất khả chuyển nhượng.
Tài liệu cũng đã đưa ra các nhận định và phân tích về vai trò của HTX,
gồm: Vai trò của HTX trong việc thực hiện chính sách bảo hiểm; Vai trò của
17
HTX trong việc thực thi chính sách ưu đãi xã hội; Vai trò của HTX trong việc
thực hiện trợ giúp xã hội.
Đề cập đến một số xu hướng phát triển HTX hiện nay, gồm: Xu hướng
gắn kinh tế gia đình với HTX; Xu hướng phát triển HTX gắn liền với phát
triển cộng đồng; Xu hướng doanh nghiệp hóa HTX.
- Cuốn sách “Hợp tác xã nhìn từ thực tiễn Đồng Nai”, NXB Chính trị
Quôc gia, Hà Nội - 2010. Đề cập một số vấn đề lý luận về HTX trong nền
kinh tế thị trường hiện nay:
Theo Liên minh hợp tác xã quốc tế (ICA), HTX là một tổ chức tự trị
của những người tự nguyện liên hiệp lại để đáp ứng các nhu cầu và nguyện
vọng chung của họ về kinh tế, xã hội và văn hóa thông qua một xí nghiệp
cùng sở hữu và quản lý dân chủ.
Bên cạch khái niệm về HTX của ICA, có nhiều nghiên cứu và đưa ra
các định nghĩa khác nhau về HTX, song các nghiên cứu về HTX cho thấy:
HTX là một tổ chức kinh tế tự chủ do các xã viên tự nguyện góp vốn, góp sức
hình thành nên; mục tiêu của HTX là phục vụ xã viên hơn là tìm kiếm lợi
nhuận; HTX là một tổ chức kinh tế đặc thù chứ không phải là một công ty cổ
phần hoặc một tổ chức từ thiện; HTX là sự liên kết của những người tham gia
cùng góp vốn, trong đó nhấn mạnh đến yếu tố con người chứ không phải số
vốn mà họ góp; nguyên tắc cơ bản của HTX là tự nguyện, quản lý dân chủ,
bình đẳng, cộng đồng về trách nhiệm, cùng chia sẻ lợi ích và rủi ro; mỗi HTX
là tổ chức được quản lý theo nguyên tắc dân chủ; mỗi xã viên chỉ có một và
chỉ một phiếu biểu quyết, không phân biệt vốn góp của họ nhiều hay ít; thành
viên tham gia HTX có thể là thể nhân hoặc pháp nhân, hoặc cá thể và pháp
nhân.
Về mô hình tổ chức, HTX được tổ chức thành hai mô hình cơ bản:
(1)HTX dịch vụ phục vụ xã viên (mô hình HTX mà ở đó xã viên đồng sở hữu,
đồng sử dụng sản phẩm và dịch vụ của HTX); (2)HTX của người lao động
(mô hình HTX mà ở đó xã viên vừa là chủ sở hữu - người góp vốn vào HTX,
vừa là người lao động trong HTX).
18
Lợi nhuận của HTX được phân phối không chỉ căn cứ vào vốn góp mà
còn căn cứ vào mức độ sử dụng dịch vụ của xã viên; phương châm chủ đạo
của HTX là giúp đỡ lẫn nhau và tự mình giúp mình.
Mặc dù mục tiêu chính của HTX là phục vụ xã viên mình, song hoạt
động còn mang tính cộng đồng - tương trợ, giúp đỡ cộng đồng.
HTX ra đời trong kinh tế thị trường, phát triển cùng với sự phát triển
của kinh tế thị trường. Các HTX có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giúp
những người lao động, người nông dân và người sản xuất nhỏ tồn tại và phát
triển trước tác động tiêu cực của kinh tế thị trường. Do vậy, ngoài ý nghĩa
kinh tế, HTX còn là thiết chế mang tính xã hội - nhân đạo.
Về vai trò của HTX, cuốn sách phân tích:
Với tư cách là tổ chức hợp tác, tổ chức tự trợ giúp và giúp đỡ lẫn nhau
của những người nông dân, những người sản xuất - kinh doanh, những người
lao động trong các ngành nghề khác nhau, HTX có các vai trò cơ bản: HTX
đóng vai trò “bà đỡ” cho thành viên phát triển kinh tế, đồng thời có những
đóng góp trực tiếp, quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế, phát triển chung
của nền kinh tế; HTX tham gia giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo cho
xã viên và người lao động; HTX cung cấp và hỗ trợ các thành viên, cộng
đồng dân cư tiếp nhận các dịch vụ về an sinh xã hội; HTX tham gia xây dựng
các công trình kết cấu hạ tầng ở các khu vực dân cư, đặc biệt là khu vực nông
thôn; HTX góp phần bảo vệ môi trường; HTX góp phần xây dựng đời sống
văn hóa mới ở các khu vực dân cư, đặc biệt là ở khu vực nông thôn; HTX góp
phần thực hiện bình đẳng giới; HTX góp phần vào thành công của các chương
trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn thông qua việc tham gia
xây dựng và thực hiện dự án này.
- Bài báo “Chính sách phát triển hợp tác xã ở Việt Nam”, PGS.TS
Nguyễn Đình Kháng, WWW.Tinkinhte.com . Phân tích sự thành công của các
HTX trong các giai đoạn, đặc biệt đã nhấn mạnh đến vai trò trong việc giải
quyết các vấn đề xã hội; chỉ ra những vấn đề đang đặt ra cần giải quyết và các
giải pháp phát triển HTX trong thời gian tới.
19
- Cuốn sách“Sự phát triển của các hợp tác xã giai đoạn 2008-2011”,
Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội
2013. Là công trình nghiên tổng quan sự phát triển của khu vực HTX giai
đoạn 2008-2011 và đưa ra số liệu cơ bản về phát triển HTX giai đoạn 2008-
2011. Khu vực kinh tế HTX là bộ phận không thể tách rời trong quá trình xây
dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Khu vực kinh tế HTX đã có
những đóng góp đáng kể trong việc thu hút một lực lượng lớn lao động ở
nông thôn, tạo việc làm, nâng cao đời sống, cải thiện thu nhập, góp phần xóa
đói giảm nghèo, xây dựng và phát triển nông thôn mới.
- Cuốn sách “Cẩm nang hợp tác xã nông nghiệp”, Quỹ châu Á và
Trung tâm Hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ miền nam. Đưa ra nhận
thức về HTX và vai trò của HTX nông nghiệp; phân tích tổ chức quản trị và
hoạt động của HTX nông nghiệp.
- Bài viết “Một số nghiên cứu về vai trò của hợp tác xã”, Tạp chí Giáo
dục lý luận, số 219 năm 2014. Bài viết chỉ ra các vai trò quan trọng của HTX,
gồm: ý nghĩa xã hội - văn hóa sâu sắc; thúc đẩy sự phát triển kinh tế; tăng sức
mạnh cá nhân, tập thể và cộng đồng; gắn kết giữa người sở hữu và người sử
dụng sản phẩm, giữa người chủ và người làm thuê, giữa người bán và người
mua trong cơ chế thị trường; HTX kết hợp hài hòa giữa sự tự lực của dân và
sự trợ giúp của nhà nước, kết hợp giữa nhà nước và thị trường; HTX là thể
chế kinh tế phù hợp với cơ chế thị trường. Từ sự phân tích vai trò của HTX,
bài viết đã khẳng định sự cần thiết phải phát triển HTX trong điều kiện phát
triển KTTT và HNQT ở Việt Nam hiện nay.
Như vậy, các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước nêu trên đã
cung cấp những lý luận cơ bản về HTX và một phần về HTX nông nghiệp,
đây là các tài liệu rất có giá trị khoa học cho các nội dung của luận án như:
khái niệm, bản chất, vai trò, nguyên tắc hoạt động, các lại hình, sự cần thiết
của phát triển HTX nông nghiệp.
1.2. Các công trình nghiên cứu đã công bố liên quan đến quản lý
nhà nƣớc đối với hợp tác xã nông nghiệp
20
1.2.1. Các công trình nghiên cứu trên thế giới
- Tài liệu “Agricultural cooperatives in France”. Chantal. Chommel.
Paris 2015. Phân tích vai trò của nhà nước đối với HTX nông nghiệp, gồm:
Thứ nhất, xây dựng các quy định.
Chức năng đầu tiên của nhà nước trong lĩnh vực này là thiết lập và
thông qua khung pháp lý áp dụng cho HTX nông nghiệp. Đây là nhiệm vụ
chủ yếu của Bộ Nông nghiệp, tuy nhiên các bộ, ngành khác cũng có trách
nhiệm liên quan, đặc biệt là Bộ Kinh tế, Bộ Tư pháp đối với Luật Công ty và
Luật Thương mại.
Hiện tại, các cơ quan nhà nước được hướng dẫn các nội dung chính:
(1)Giữ gìn các quy tắc về sự trung thành và cạnh tranh công bằng giữa HTX
với khu vực tư nhân. (2)Đưa vào thực hiện và sửa đổi, bổ sung quy định pháp
lý về HTX nhằm phù hợp với các quy chế pháp lý về HTX của cộng đồng
châu Âu (SCE). (3)Duy trì và củng cố phong trào HTX để đem lại lợi ích cho
nhà sản xuất cũng như ngành nông nghiệp Pháp nói chung. (4)Giám sát sự
điều hành HTX.
Thứ hai, sự chứng nhận hoạt động của nhà nước và sự quản lý, kiểm
tra HTX nông nghiệp.
Cấu trúc HTX dường như phải làm việc với nhiều loại cơ quan hành
chính: cơ quan thuế vụ bảo đảm HTX phải tuân thủ các quy định đặc biệt về
chế độ pháp lý, các cơ quan hành chính khác sẽ kiểm tra việc tuân thủ những
quy định, pháp lý thuộc ngành, lĩnh vực mình quản lý. Nhưng Bộ Nông
nghiệp vẫn có vai trò nổi bật. Những người đại diện chuyên môn trong lĩnh
vực nông nghiệp luôn có mối liên hệ với Bộ. Đồng thời, Bộ Nông nghiệp
cũng có trách nhiệm đối với hai thủ tục: cấp giấy chứng nhận và hủy bỏ nó
nếu có vi phạm quy tắc HTX.
Chứng nhận hoạt động.
HTX nông nghiệp, các liên đoàn và SICAs phải thực hiện thủ tục công
nhận hoạt động để xác nhận điều lệ phù hợp với các quy định pháp luật hiện
21
hành. Tùy theo địa bàn lãnh thổ, các giấy chứng nhận sẽ được những người
đứng đầu khu vực, vùng hoặc Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp cấp.
Đơn vị đăng ký phải nộp đơn cho cơ quan hành chính có thẩm quyền.
Một ủy ban đặc biệt (Ủy ban khu vực về các định hướng nông nghiệp hoặc
Ủy ban trung ương về chứng nhận hoạt động HTX) bao gồm đại diện các cơ
quan hành chính và chuyên môn sẽ xem xét đơn đề nghị và đưa ra các kiến
nghị. Quyết định cuối cùng sẽ được cơ quan có thẩm quyền thông qua.
Quản lý, kiểm tra.
Hằng năm, các HTX nông nghiệp phải trình lên cơ quan đã cấp giấy
chứng nhận các báo cáo thể hiện hoạt động của mình phù hợp với các quy
định của pháp luật về HTX. Báo cáo này phải bao gồm cả bản photocopy các
quyết định của Đại hội xã viên, các tài liệu trình bày tại Đại hội xã viên cho
các xã viên thẩm tra, báo cáo tổng kết về tình hình tài chính và quản lý HTX,
báo cáo kiểm toán.
Thêm vào đó, tất cả những sửa đổi, bổ sung điều lệ HTX (mục đích,
thời gian hoạt động, các giao dịch, liên doanh liên kết...) sẽ phải được thông
báo cho cơ quan có thẩm quyền trong vòng một tháng kể từ khi những sửa
đổi, bổ sung này được thông qua. Tương tự, nếu HTX muốn tham gia vào
công ty trách nhiệm hữu hạn cũng phải thông báo cho các đơn vị của Bộ
Nông nghiệp biết để cho phép hay từ chối. Giấy phép hoạt động có thể bị hủy
bỏ nếu HTX ngừng áp dụng các quy định trong điều lệ, nếu các sửa đổi mục
đích hoạt động hoặc các hoạt động của HTX vượt ra ngoài khu vực lãnh thổ
HTX được cơ quan có thẩm quyền cho phép hoạt động.
Ngoài ra, HTX cũng sẽ bị rút giấy phép hoạt động nếu cơ quan kiểm tra
phát hiện ra rằng các cán bộ điều hành HTX không đủ năng lực, các quy định
pháp lý, điều lệ hoặc quy chế bị phá vỡ hoặc HTX không đảm bảo và nâng
cao lợi ích cho xã viên.
- Tài liệu hội thảo “Conditions of success for cooperatives”. Socodevi -
Canada 2012. Đưa ra và phân tích 8 bài học cho sự thành công của HTX,
gồm:
22
(1) Tiêu chí HTX kiểu mới được xác lập rõ ràng và hướng đến thị
trường. HTX có cấu trúc kép: hiệp hội và tổ chức kinh tế. Thành viên được
hưởng lợi và nhận thấy rõ ràng dịch vụ có chất lượng tốt hơn và thu nhập của
họ được cải thiện. Nguyên tắc quan trọng là tự chủ, tự chịu trách nhiệm và
cùng hưởng lợi.
(2) Hợp nhất/xây dựng mạng lưới/liên hiệp HTX góp phần vào tự chủ
và phát triển bền vững. HTX quy mô lớn đối mặt với cạnh tranh tốt hơn, cung
cấp dịch vụ cho các thành viên một cách chuyên nghiệp hơn; mạng lưới và
liên hiệp HTX hướng đến việc cung cấp dịch vụ tốt hơn cho các HTX thành
viên.
(3) Nhân tố lãnh đạo là chìa khóa thành công của HTX, nhất là giai
đoạn khởi đầu HTX. Đối với HTX, lãnh đạo: đề xuất tầm nhìn và định hướng
phát triển HTX; thuyết phục thành viên về sự thay đổi và không ngừng cải
tiến để hoàn thiện; có chiến lược thu hút nhanh và mạnh số lượng thành viên
mới; đưa ra và áp dụng vào thực tiễn các giải pháp mới cho những cách thức
cũ; xác định ai là người tạo lập “luật chơi’ trong chuỗi giá trị và xây dựng mối
quan hệ hợp tác đôi bên cùng có lợi.
(4) Quản lý HTX đúng bản chất là điều kiện đảm bảo sự thành công lâu
dài. Hội đồng quản trị đại diện cho thành viên và chăm lo lợi ích của thành
viên; đội ngũ quản lý bảo đảm tính bền vững của hoạt động kinh tế nhằm đảm
bảo khía cạnh kinh doanh của HTX phát triển lâu dài.
(5) Quan trọng là quảng bá mô hình HTX thành công. Cần quảng bá
cho công chúng biết: thế nào là HTX đích thực; mô hình HTX kiểu mới cho
Việt Nam là gì; HTX kiểu mới khác với mô hình HTX trong quá khứ như thế
nào; HTX sẽ mang lại những lợi ích thật sự gì cho thành viên; quảng bá
những câu chuyện về HTX thành công và có thể nhân rộng.
(6) Chú trọng vào thế hệ trẻ khi quảng bá mô hình HTX kiểu mới.
Quảng bá mô hình HTX kiểu mới sẽ dễ dàng hơn nếu nó được tích hợp với
khát vọng của tuổi trẻ và tách rời khỏi mô hình trong quá khứ.
23
(7) Nếu không có những chính sách thích hợp nhằm cải thiện môi
trường kinh doanh, sự phát triển của HTX sẽ bị tổn thất. Khuôn khổ pháp lý
phù hợp là điều kiện cơ bản để phát triển HTX.
(8) Để mang lại hiệu quả thiết thực, các hỗ trợ từ nước ngoài cần đặt
trọng tâm vào sự cải tiến và quản lý quá trình thay đổi. Cần chia sẻ kinh
nghiệm về mô hình HTX thành công, chia sẻ kinh nghiệm về xây dựng chính
sách hỗ trợ HTX, kết nối những HTX để cung cấp chuyên gia chuyên môn.
Giới thiệu cách thức tạo sự thay đổi và chương trình nâng cao năng lực hướng
đến cải tiến.
Tám bài học trên không hoàn toàn là các bài học của quản lý nhà nước
đối với HTX, nhưng cũng đã ít nhiều đề cấp đến những khía cạnh khác nhau
liên quan đến vai trò và sự quản lý nhà nước đối với HTX.
1.2.2. Các công trình nghiên cứu trong nước
- Bài viết “Vai trò của công tác quản lý nhà nước đối với hợp tác xã
trong giai đoạn hiện nay”. Dương Khắc Mai, Chủ tịch Liên minh HTX Đắc
Nông. www/lmhtx.daknong.gov.vn 12/2015. Bài viết phân tích yêu cầu của
quản lý nhà nước đối với HTX:
Bản chất và các nguyên tắc hoạt động của HTX đã làm nên giá trị của
loại hình kinh tế hợp tác, HTX. Giả thiết, nếu thiếu vắng sự quản lý nhà nước
đối với HTX thì hoạt động của HTX khó giữ đúng được bản chất, nguyên tắc
và tạo ra giá trị của kinh tế HTX. Thậm chí ngay khi có sự quản lý của nhà
nước nhưng ở nhiều nơi hợp tác xã vẫn biến tướng và mang bản chất kinh tế
tư nhân hoặc lợi dụng hoạt động HTX để trục lợi. Nếu quản lý nhà nước đối
với HTX bị buông lỏng thì kinh tế hợp tác không thể phát triển được, nhất là
trong điều kiện cả nước nói chung và tỉnh Đắk Nông nói riêng, khi kinh tế
nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế, phương thức lao
động lạc hậu, tư duy kinh tế manh mún nhỏ lẻ thì tăng cường công tác quản lý
nhà nước đối với HTX, thúc đẩy kinh tế hợp tác phát triển là một trong những
giải pháp quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội.
24
Liên kết, hợp tác để phát triển là xu thế tất yếu và nhu cầu tự nhiên của
con người, tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với HTX để kinh tế hợp
tác phát triển sẽ làm thay đổi căn bản phương thức lao động sản xuất của
người nông dân Việt Nam hiện nay, hướng đến phương thức lao động hiện
đại, dựa trên yếu tố hợp tác để phát huy tối đa lợi thế của mỗi cá nhân, mỗi
tập thể nhỏ, tránh lãng phí tư liệu sản xuất, phát huy tối đa lợi nhuận trên một
đồng vốn đầu tư. Tình hình thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, để xây dựng được
một phong trào HTX phát triển mạnh là điều rất khó khăn, cần nhiều yếu tố,
trong đó, yếu tố quản lý nhà nước đối với HTX là rất quan trọng và mang tính
quyết định nhất là trong điều kiện nông dân Việt Nam đã qua sản xuất nhỏ lẻ.
Quản lý nhà nước đối với HTX thì ở tất cả các quốc gia có phong trào kinh tế
HTX đều tổ chức quản lý HTX nhằm phát huy được bản chất và giá trị tốt đẹp
của loại hình kinh tế hợp tác. Nhưng đối với Việt Nam, công tác quản lý nhà
nước đối với HTX còn có vai trò đặc biệt quan trọng bởi vì chúng ta lựa chọn
con đường phát triển đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội và đang trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nói đến bản chất kinh tế - xã hội của HTX, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã coi chế độ HTX có nhiều mục tiêu đồng nhất với mục
đích của chủ nghĩa xã hội, vì ở một nước tiểu nông, khi toàn bộ nông dân
tham gia HTX cũng có nghĩa là đi theo con đường đúng đắn tiến tới ấm no,
hạnh phúc. Và mục đích thực chất của chủ nghĩa xã hội cũng là làm cho toàn
bộ xã hội được ấm no, hạnh phúc. Chế độ HTX văn minh là thể hiện một mặt,
một mức độ nào đó của các đặc trưng, bản chất của chủ nghĩa xã hội. Trong
vấn đề này, V.I.Lênin cũng đã khẳng định: hợp tác xã chính là một chủ nghĩa
xã hội thu nhỏ. Như vậy, tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với HTX
không chỉ để thúc đẩy cho phong trào kinh tế hợp tác phát triển mà còn có ý
nghĩa quan trọng trong việc xây dựng những nền tảng, tiền đề của một chế độ
xã hội, xã hội chủ nghĩa mà dân tộc ta đang hướng tới.
Công tác quản lý nhà nước đối với HTX có ý nghĩa quan trọng, khi
thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước đối với HTX sẽ làm cho phong trào
HTX phát triển, lợi ích được phân phối công bằng, truyền thống đoàn kết dân
25
tộc được phát huy, tạo ra một môi trường văn minh hiện đại, “bỏ hết thói cạnh
tranh” chính là xây dựng kiến trúc thượng tầng vững chắc cho xã hội xã hội
chủ nghĩa trong tương lai.
Tuy tài liệu phân tích chưa được sâu sắc, nhưng cũng đã phần nào chỉ
ra sự cần thiết phải quản lý nhà nước đối với HTX ở Việt Nam trong điều
kiện hiện nay.
- Cuốn sách “Hợp tác xã nhìn từ thực tiễn Đồng Nai”, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội - 2010. Sau khi nghiên cứu kinh nghiệm của một số địa
phương trong nước và một số quốc gia trên thế giới về phát triển HTX, đã rút
ra nhận xét quan trọng có liên quan đến quản lý nhà nước đối với HTX: Nhà
nước luôn đóng vai trò quan trọng trong việc nuôi dưỡng và phát triển phong
trào HTX nhằm vừa phát triển kinh tế vừa thực hiện mục tiêu xã hội trên cơ
sở pháp lý là không bao cấp và không can thiệp vào công việc của HTX, HTX
được bình đẳng với mọi loại hình kinh tế khác. Sự hỗ trợ của nhà nước thể
hiện trên các phương diện: tạo khuôn khổ pháp luật; hỗ trợ xây dựng kết cấu
hạ tầng ở nông thôn; tuyên truyền, giáo dục về HTX; trợ giúp đào tạo cán bộ
HTX, v.v…
Trong các giải pháp cho phát triển HTX ở Đồng Nai mà cuốn sách đưa
ra, có một số nội dung có liên quan đến quản lý nhà nước đối với HTX. Cụ
thể:
(1) Hoàn thiện các chính sách hỗ trợ phát triển HTX, gồm: chính sách
cán bộ và lao động; chính sách tài chính - tín dụng; chính sách đất đai; chính
sách hỗ trợ chuyển giao tiến bộ khoa học - công nghệ; chính sách thị trường;
các hỗ trợ khác như tư vấn pháp lý, tư vấn kinh doanh, hỗ trợ liên kết…
(2) Kiện toàn bộ máy và hoạt động của các cơ quan nhà nước chuyên
trách quản lý HTX các cấp, đặc biệt là cấp huyện và cấp xã, đồng thời quy
định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và nghĩa vụ của hệ thống quản lý nhà
nước này.
(3) Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra và xử lý sai phạm
đối với các HTX trên phương diện chấp hành các quy định pháp luật trong
26
hoạt động của HTX. Các sai phạm của HTX phải được xử lý kịp thời, bằng
các hình thức thích hợp, đủ sức răn đe cho các HTX khác.
- Bài viết “Luận chứng pháp luật và chính sách để phát triển hợp tác
xã ở Việt Nam”, Dự án Aid-Coop Việt Nam, 2010. Phân tích ba yếu tố chính
có ảnh hưởng đến sự hạn chế của vai trò chính quyền địa phương đối với
HTX: Sự chồng chéo trong việc tổ chức bộ máy quản lý hành chính, vấn
đề nhân sự và việc triển khai chức năng nhiệm vụ theo quy định của pháp
luật. Từ sự phân tích đó, để nâng cao năng lực và hiệu lực quản lý nhà
nước của các cấp chính quyền địa phương đối với HTX, đồng thời đảm
bảo cho các HTX thực sự có quyền độc lập, tự chủ, tự quyết định, tự chịu
trách nhiệm và nâng cao tính hiệu quả trong hoạt động của mình, bài viết
đưa ra một số giải pháp:
Thứ nhất, về tổ chức, nhân sự.
Cần khẩn trương hướng dẫn về tổ chức, biên chế và chức năng,
nhiệm vụ của bộ máy quản lý nhà nước đối với HTX tại địa phương. Việc
kiện toàn bộ máy quản lý HTX ở địa phương có thể được thực hiện theo
hai hướng như sau: củng cố lại bộ máy hiện có hoặc thành lập bộ máy
mới.
Thư hai, quy định và áp dụng pháp luật.
Quy định về trách nhiệm của ủy ban nhân dân các cấp về quản lý HTX
là tương đối đầy đủ và phù hợp. Tuy nhiên, cần có cơ chế kiểm tra, thanh tra,
giám sát trong việc triển khai thực hiện các quy định của pháp luật cũng như
cần xây dựng chế tài trong trường hợp các cơ quan chức năng không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng trách nhiệm của mình. Mặt khác, cần giao
cho cơ quan quản lý HTX chức năng kiểm tra, giám sát và xử lý các HTX vi
phạm pháp luật.
Thư ba, về công tác đào tạo cán bộ.
Các cán bộ quản lý khu vực HTX phải là những người có hiểu biết
đúng đắn về bản chất HTX cũng như các quy định pháp luật liên quan đến
khu vực kinh tế tập thể. Do vậy, ủy ban nhân dân các cấp, các sở, ban, ngành
27
ở các địa phương cần tổ chức hàng năm hoặc định kỳ các khoá bồi dưỡng
cho cán bộ quản lý nhà nước về kinh tế tập thể. Việc tham gia các lớp tập
huấn này cần mang tính bắt buộc; hàng năm, cơ quan quản lý HTX cần kiểm
tra sát hạch trình độ các cán bộ phụ trách lĩnh vực HTX tại địa phương mình.
1.3. Những vấn đề chƣa đƣợc nghiên cứu trong các công trình đã
công bố và định hƣớng nghiên cứu chủ yếu của luận án
1.3.1. Những vấn đề chưa được nghiên cứu trong các công trình đã
công bố - điểm khác biệt so với luận án
- Các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đã nghiên cứu về
HTX khá toàn diện, như về khái niệm, bản chất, đặc điểm, nguyên tắc, vai trò,
sự cần thiết của HTX nói chung... Nhưng chưa đi sâu nghiên cứu toàn diện về
HTX nông nghiệp với tư cách là một loại hình cơ bản của HTX, mà mới chỉ
đề cập ở một vài khía cạnh như vai trò, đặc điểm của HTX nông nghiệp. Luận
án sẽ đi sâu nghiên cứu toàn diện về HTX nông nghiệp.
- Các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về quản lý nhà nước
đối với HTX nông nghiệp đã nghiên cứu và chỉ ra sự cần thiết khách quan
phải quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp, nếu thiếu vắng sự quản lý
nhà nước, HTX nông nghiệp sẽ không thể hoạt động đúng theo bản chất và
nguyên tắc của nó. Điều đó càng cần thiết và có vai trò quan trọng vì Việt
Nam lựa chọn con đường đi lên CNXH; tăng cường công tác quản lý nhà
nước đối với HTX không chỉ để thúc đẩy cho phong trào kinh tế hợp tác phát
triển mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng những nền tảng, tiền
đề của một chế độ xã hội XHCN mà dân tộc ta đang hướng tới. Các nghiên
cứu cũng đã đề cập đến một số nội dung của quản lý nhà nước đối với HTX
nông nghiệp, gồm: Xây dựng các quy định pháp lý về tổ chức và hoạt động
của HTX nông nghiệp; Sự chứng nhận hoạt động HTX nông nghiệp; Tổ chức
bộ máy quản lý nhà nước ở địa phương; Đào tạo cán bộ quản lý khu vực HTX
nông nghiệp; Kiểm tra, giám sát và xử lý các HTX nông nghiệp vi phạm pháp
luật. Những nội dung này chưa được xây dựng trên một lý thuyết khoa học
28
nào. Luận án tập trung nghiên cứu các nội dung cơ bản của quản lý nhà nước
đối với HTX nông nghiệp trên cơ sở tiếp cận chức năng của quản lý nhà nước.
- Các công trình nghiên cứu trong nước về HTX nông nghiệp và quản
lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp chủ yếu được nghiên cứu ở thời điểm
trước khi Luật HTX năm 2012 có hiệu lực (ngày 01/7/2013), chỉ có một số ít
nghiên cứu sau thời điểm này. Luật HTX năm 2012 ra đời nhằm mục tiêu:
Khuyến khích, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển HTX mới; định hướng phát
triển cho các HTX hiện đang hoạt động th
hộ
tế; góp phần cải thiện công bằng xã hội và ổn định kinh tế, chính trị, xã hội;
góp phần thực hiện định hướng XHCN nền KTTT ở Việt Nam. Một số quy
định như: về khái niệm, mục tiêu thành lập, góp vốn, quan hệ sở hữu, thành
viên, mô hình quản trị điều hành... có khác so với trước đây. Do vậy, luận án
sẽ tập trung nghiên cứu để đưa ra phương hướng và giải pháp tiếp tục hoàn
thiện quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp trong điều kiện phát triển
HTX nông nghiệp kiểu mới theo Luật HTX năm 2012.
1.3.2. Định hướng nghiên cứu chủ yếu của luận án
Tất cả các tài liệu, công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến bản chất,
vai trò, sự cần thiết của HTX và một phần của HTX nông nghiệp trong quá
trình phát triển; đề cập đến các khía cạnh khác nhau có liên quan đến quản lý
nhà nước đối với HTX nông nghiệp. Tuy nhiên, chưa có một tài liệu hay một
công trình công bố nào đề cập đến quản lý nhà nước đối với HTX nông
nghiệp ở Việt Nam. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu về quản lý nhà nước đối
với HTX nông nghiệp ở Việt Nam là cần thiết.
29
Trên cơ sở nghiên cứu tổng quan về tình hình nghiên cứu nêu trên, tác
giả cho rằng định hướng nghiên cứu chủ yếu của luận án cần tập trung vào
giải quyết những vấn đề sau đây:
- Hoàn thiện khung lý thuyết về quản lý nhà nước đối với HTX nông
nghiệp, trình bày một cách toàn diện về chủ thể, đối tượng, mục tiêu... Xây
dựng và phân tích các nội dung cơ bản của quản lý nhà nước đối với HTX
nông nghiệp theo cách tiếp cận các chức năng quản lý nhà nước. Xây dựng
khung lý thuyết về hoàn thiện quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp.
- Tìm kiếm những bài học kinh nghiệm về quản lý nhà nước đối với
HTX nông nghiệp của một số nước trên thế giới cho Việt Nam.
- Nghiên cứu thực trạng quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp ở
Việt Nam hiện nay để cung cấp cơ sở thực tiễn cho việc hoàn thiện quản lý
nhà nước đối với HTX nông nghiệp ở Việt Nam trong thời gian tới.
- Đề xuất quan điểm, mục tiêu, phương hướng, các giải pháp chủ yếu
để tiếp tục hoàn thiện quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp ở Việt Nam
trong thời gian tới.
30
Chƣơng 2 CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
ĐỐI VỚI HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP
2.1. Những vấn đề lý luận về hợp tác xã nông nghiệp
2.1.1. Khái niệm hợp tác xã nông nghiệp
2.1.1.1. Hợp tác xã
Tổ chức mang tên HTX đã ra đời cách đây hơn 200 năm trên thế giới.
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn có rất nhiều định nghĩa khác nhau về HTX.
Theo Liên minh HTX quốc tế (ICA): “HTX là một tổ chức tự trị của
những người tự nguyện liên hiệp lại để đáp ứng các nhu cầu và nguyện vọng
chung của họ về kinh tế, xã hội và văn hóa thông qua một xí nghiệp cùng sở
hữu và quản lý dân chủ” [54, tr13]. Năm 1995, định nghĩa này được hoàn
thiện thông qua tuyên bố: “HTX dựa trên ý nghĩa tự cứu giúp mình, tự chịu
trách nhiệm, bình đẳng và đoàn kết” [54, tr13].
Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO): “HTX là sự liên kết của những
người đang gặp phải những khó khăn kinh tế giống nhau, tự nguyện liên kết
nhau lại trên cơ sở bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, sử dụng tài sản mà họ
đã chuyển giao vào HTX phù hợp với nhu cầu chung và giải quyết những khó
khăn đó bằng sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm và bằng cách sử dụng các chức
năng kinh doanh trong tổ chức hợp tác, phục vụ cho lợi ích vật chất và tinh
thần chung” [54, tr14].
Theo một quan điểm khác, HTX là sự liên kết của những người, những
nhà sản xuất nhỏ hoặc những người tiêu thụ cùng tự nguyện liên kết với nhau
để nhằm đạt được một số mục tiêu bằng biện pháp trao đổi qua lại những dịch
vụ thông qua một doanh nghiệp hoạt động tự chủ, tự chịu trách nhiệm bằng
các nguồn lực do mọi thành viên đóng góp.
Ở nước ngoài, nhiều học giả đã đưa ra các khái niệm về HTX, ví dụ, có
quan điểm cho rằng, HTX là một dạng tổ chức gồm những người tự nguyện
tham gia cùng nhau, nhằm thỏa mãn nhu cầu kinh tế chung và cố gắng đưa họ
và những người khác khỏi cảnh đói nghèo, trở nên khá giả, thông qua hoạt
31
động của một tổ chức kinh doanh nhằm mang lại lợi ích chung của tất cả
những người tham gia hợp tác…
Theo Bộ Nông nghiệp Mỹ: “HTX là cơ sở kinh doanh do những người
sử dụng tự làm chủ và tự quản lý, lợi nhuận được chia dựa trên cơ sở của việc
sử dụng hàng hóa,dịch vụ. Định nghĩa này nhấn mạnh ba nguyên tắc chung
của HTX, đó là: xã viên tự làm chủ, tự quản lý và phân chia lợi nhuận theo
mức độ sử dụng hàng hóa, dịch vụ của xã viên” [54, tr15].
Theo Luật HTX 2003 của Việt Nam: "HTX là tổ chức kinh tế tập thể
do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện
góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật này để phát huy sức mạnh tập
thể của từng xã viên tham gia HTX, cùng nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt
động sản xuất - kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. HTX hoạt động như một loại hình
doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa
vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích lũy và các nguồn vốn khác
của hợp tác xã theo quy định của pháp luật”[49]. Luật HTX năm 2012 quy
định: “HTX là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, do ít nhất 07 thành viên
tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất,
kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ
sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý HTX”[50].
Mặc dù có nhiều định nghĩa và cách tiếp cận khác nhau về HTX, song
các nghiên cứu về HTX đều cho thấy:
- HTX là một tổ chức kinh tế tự chủ do các xã viên tự nguyện góp vốn,
góp sức lập nên. Mục tiêu của HTX là phục vụ xã viên hơn là tìm kiếm lợi
nhuận. Phục vụ xã viên là nhiệm vụ hàng đầu của HTX.
- HTX vừa là một tổ chức kinh tế đặc thù vừa mang tính văn hóa và xã
hội sâu sắc.
- HTX là sự liên kết của những người tham gia, cùng góp vốn, trong đó
nhấn mạnh yếu tố con người chứ không phải số vốn mà họ góp.
32
- Nguyên tắc cơ bản của HTX là tự nguyện, quản lý dân chủ, bình
đẳng, cộng đồng về trách nhiệm, cùng chia sẻ lợi ích và rủi ro.
- Phương châm chủ đạo của HTX là giúp đỡ lẫn nhau và tự mình giúp
mình.
- Mặc dù mục tiêu chính của HTX là phục vụ xã viên của mình, song
hoạt động của HTX còn mang tính cộng đồng - tương trợ, giúp đỡ cộng đồng.
Từ sự phân tích trên, có thể hiểu HTX là một loại hình kinh tế hợp tác -
một hình thức tổ chức kinh tế đặc thù trong hệ thống các loại hình tổ chức
kinh tế đa dạng, là tổ chức kinh tế tự chủ, có vốn, quỹ và tài sản chung, có cơ
cấu tổ chức chặt chẽ, có tư cách pháp nhân. HTX được thành lập trên tinh
thần tự nguyện, tự trợ giúp, tự chịu trách nhiệm, dân chủ, bình đẳng, công
bằng và đoàn kết của các thành viên tham gia. Mặc dù HTX cũng là đơn vị
kinh doanh, song, mục tiêu cơ bản của các xã viên khi thành lập hoặc liên kết
thành một HTX xã là để thực hiện những hoạt động mà từng cá nhân riêng lẻ
không thể thực hiện được hoặc thực hiện kém hiệu quả nhằm nâng cao điều
kiện kinh tế và xã hội của họ thông qua việc cùng hành động vì quyền lợi của
tất cả các xã viên chứ không chỉ đơn thuần vì lợi ích của từng cá nhân xã viên.
2.1.1.2. Hợp tác xã nông nghiệp
HTX nông nghiệp là HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp.
Theo Đại từ điển tiếng Việt, “nông nghiệp là ngành sản xuất chủ yếu
của xã hội có nhiệm vụ cung cấp sản phẩm trồng trọt và chăn nuôi” [32,
tr1283]. Theo Bách khoa toàn thư, “nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ
bản của xã hội, sử dụng đất đai để trồng trọt và chăn nuôi, khai thác cây trồng
và vật nuôi làm tư liệu và nguyên liệu lao động chủ yếu để tạo ra lương
thực thực phẩm và một số nguyên liệu cho công nghiệp. Nông nghiệp là một
ngành sản xuất lớn, bao gồm nhiều chuyên ngành: trồng trọt, chăn nuôi, sơ
chế nông sản; theo nghĩa rộng, còn bao gồm cả lâm nghiệp, thủy sản” [1,
tr1547].
Từ đó có thể khẳng định: HTX nông nghiệp là tổ chức kinh tế tự chủ,
do nông dân và những người có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp
33
vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh của
tập thể và từng thành viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt
động dịch vụ hỗ trợ cho kinh tế hộ và kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất, chế
biến, tiêu thụ các sản phẩm nông lâm ngư nghiệp và kinh doanh các ngành
nghề khác ở nông thôn, phục vụ cho sản xuất nông nghiệp.
Theo lĩnh vực hoạt động, HTX nông nghiệp gồm 3 loại hình cơ bản:
HTX nông nghiệp chuyên ngành; HTX nông nghiệp dịch vụ; HTX nông
nghiệp sản xuất kinh doanh và dịch vụ tổng hợp.
HTX nông nghiệp có các đặc trưng cơ bản sau:
- HTX nông nghiệp là một tổ chức kinh tế tập hợp đông đảo nông dân ở
nông thôn - lực lượng lao động chiếm tỷ trọng lớn nhất trong xã hội ở các
nước đang phát triển. Do vậy, sự phát triển của HTX có ý nghĩa to lớn đối với
phát triển sản xuất nông nghiệp, phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn.
- Mục tiêu chính của HTX nông nghiệp là các thành viên cùng tương
trợ, giúp đỡ nhau để phát triển (đây là điểm khác biệt lớn nhất của HTX nông
nghiệp so với các tổ chức sản xuất, kinh doanh khác trong nông nghiệp).
- HTX nông nghiệp là tổ chức kinh tế của những người yếu thế nhất về
trình độ dân trí, trình độ nghề nghiệp, vốn, cơ sở vật chất - kỹ thuật so với các
loại hình doanh nghiệp khác. Điều này càng được thể hiện rõ ở các nước đang
phát triển và đây là những khó khăn, thách thức lớn nhất đối với hoạt động
của loại hình tổ chức kinh tế này.
- Đối tượng sản xuất của nông nghiệp là cây trồng, vật nuôi, nên trong
quá trình hoạt động kinh doanh của mình, HTX nông nghiệp vừa bị chi phối
bởi các quy luật kinh tế, vừa bị chi phối bởi các quy luật tự nhiên, dẫn đến các
HTX nông nghiệp thường phải chịu rủi ro lớn, hiệu quả kinh tế thấp.
2.1.2. Vai trò của hợp tác xã nông nghiệp đối với phát triển kinh tế -
xã hội
Thứ nhất, HTX nông nghiệp đóng vai trò“bà đỡ” cho các thành viên
phát triển kinh tế, đồng thời có những đóng góp trực tiếp, quan trọng vào sự
tăng trưởng, phát triển chung của nền kinh tế.
34
Được các thành viên tự nguyện cùng nhau thành lập nên nhằm giải
quyết những vẫn đề mà từng thành viên không thể tự mình giải quyết, các
HTX nông nghiệp có vai trò to lớn trong việc hỗ trợ họ phát triển kinh tế, đặc
biệt là trong nông nghiệp, nông thôn và các ngành nghề sản xuất - kinh doanh
nhỏ ở nông thôn. Vai trò đó có thể thực hiện trước hết và chủ yếu ở những
dịch vụ sản xuất - kinh doanh nông nghiệp, những lợi ích kinh tế mà chúng
mang lại cho họ. Trong lĩnh vực nông nghiệp, các HTX tập trung vào các
khâu dịch vụ thiết yếu hỗ trợ hộ xã viên phát triển sản xuất như dịch vụ thủy
lợi; làm đất; bảo vệ thực vật; cung ứng vật tư, phân bón; khuyến nông; tổ
chức sản xuất; tiêu thụ sản phẩm, v.v... Đặc biệt, các HTX nông nghiệp đóng
vai trò khoa học - kỹ thuật và sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi
theo hướng sản xuất hàng hóa có hiệu quả kinh tế cao hơn.
Việc thực hiện vai trò “ bà đỡ” là căn cứ đặc biệt quan trọng và chủ yếu
để đánh giá tính chất HTX và hiệu quả hoạt động của tổ chức kinh tế này.
Bên cạnh vai trò “bà đỡ” cho các thành viên phát triển kinh tế, các
HTX nông nghiệp còn có những đóng góp trực tiếp, quan trọng vào sự tăng
trưởng chung của nền kinh tế thông qua việc tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa
và dịch vụ đáp ứng nhu cầu sản xuất, tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, nhất
là những hàng hóa, dịch vụ thiết yếu phục vụ sản xuất, đời sống, sinh hoạt của
người dân ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Thứ hai, HTX nông nghiệp tham gia giải quyết việc làm, xóa đói, giảm
nghèo cho xã viên và cho người lao động.
Thông qua các hoạt động sản xuất - kinh doanh của mình, các HTX
nông nghiệp tạo việc làm trực tiếp cho xã viên và người lao động. Các việc
làm này thường gắn với địa bàn sinh sống của người lao động, đòi hỏi trình
độ chuyên môn, kỹ thuật không quá cao, có thời gian làm việc linh hoạt. Đây
là điều có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc giải quyết việc làm ở các
vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, giải quyết việc làm cho lao động nữ. Bên
cạnh đó, nhiều HTX nông nghiệp còn tiếp nhận lao động là những người thiệt
thòi, khuyết tật, v.v... Thông qua việc làm được tạo ra, xã viên và người lao
35
động trong các HTX nông nghiệp có được nguồn thu nhập nhất định. Bên
cạnh tạo ra việc làm trực tiếp, các HTX nông nghiệp cũng tạo việc làm và thu
nhập thêm cho các hộ xã viên thông qua nhiều hình thức khác như hợp đồng
gia công sản phẩm, hợp đồng chăm sóc và bảo vệ cây trồng, vật nuôi, hợp
đồng tổ chức các dịch vụ phục vụ sản xuất - kinh doanh,v.v... hỗ trợ các điều
kiện (vốn, đất đai, kỹ thuật, vật tư) để các hộ tự tạo (tự tạo thêm) việc làm.
Mặt khác, hầu hết các HTX nông nghiệp là tổ chức của những người
sản xuất nhỏ, những người lao động mà phần lớn trong số họ là những người
có hoàn cảnh khó khăn, người nghèo. Do vậy, HTX nông nghiệp có vai trò
quan trọng trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo ở nước ta. Vai trò đó được
thể hiện thông qua việc cung cấp cho xã viên và người dân trong cộng đồng,
đặc biệt là những người nghèo, các điều kiện thiết yếu để tổ chức sản xuất, hỗ
trợ vốn, tư vấn và hướng dẫn kỹ thuật, cung cấp thông tin, tổ chức tiêu thụ sản
phẩm, tạo cơ hội việc làm,v.v... nhằm giúp họ phát triển kinh tế gia đình,
thoát khỏi đói nghèo và vươn lên khá giả.
Ngoài ra, các HTX nông nghiệp, đặc biệt là các hợp tác xã sản xuất -
kinh doanh có hiệu quả, đều coi trọng việc hỗ trợ trực tiếp về kinh tế cho
người nghèo và các đối tượng yếu thế (người khuyết tật, trẻ mồ côi, người già
cô đơn), hưởng ứng tích cực các phong trào “Vì người nghèo”, “Đền ơn đáp
nghĩa”,v.v...
Thứ ba, HTX nông nghiệp cung cấp và hỗ trợ các thành viên, cộng
đồng dân cư tiếp cận các dịch vụ để an sinh xã hội.
Nhiều HTX nông nghiệp cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản cho xã
viên và cộng đồng dân cư như dịch vụ nước sạch, điện, dạy nghề, nhà ở, giáo
dục, chăm sóc y tế, mai táng, dịch vụ đời sống, v.v... Hoạt động của các HTX
nông nghiệp này thể hiện xu thế mới trong hợp tác nhằm cung cấp và hỗ trợ
các thành viên và cộng đồng dân cư tiếp cận các dịch vụ thiết yếu về an sinh
xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống, cải thiện các điều kiện sinh hoạt về
văn hóa, tinh thần.
36
Tùy theo điều kiện cụ thể và khả năng tài chính của mình, các HTX
nông nghiệp hỗ trợ xã viên, người lao động trong hợp tác xã trong chăm sóc y
tế, giáo dục, đào tạo và trong các trường hợp khó khăn khác (rủi ro, ma chay,
cưới xin); hỗ trợ tiếp cận các chính sách an sinh xã hội của nhà nước thông
qua các biện pháp cụ thể như mua (hỗ trợ mua) bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y
tế, bảo hiểm sức khỏe, bảo hiểm tai nạn, bảo hiểm tài sản, v.v... thông qua quỹ
bảo hiểm tương hỗ.
Thứ tư, HTX nông nghiệp tham gia xây dựng các công trình kết cấu hạ
tầng ở các khu vực dân cư, đặc biệt là ở khu vực nông thôn.
Các HTX nông nghiệp tham gia xây dựng các công trình kết cấu hạ
tầng ở các khu vực dân cư, nhất là ở khu vực nông thôn, thông qua những
đóng góp cụ thể, thiết thực trong việc xây dựng hệ thống đường giao thông,
trường học, trạm y tế, hệ thống điện, hệ thống thủy lợi, chợ, v.v...
Thứ năm, HTX nông nghiệp góp phần bảo vệ môi trường.
Ý thức được trách nhiệm của mình đối với môi trường, các HTX nông
nghiệp ngày càng quan tâm hơn đến hoạt động bảo vệ môi trường. Đặc biệt,
nhiều hợp tác xã chuyên vệ sinh môi trường được thành lập nhằm thu gom và
xử lý rác thải, nước thải, tận dụng rác thải để chế biến phân vi sinh, các sản
phẩm nhựa tái sinh, v.v...
Với những hoạt động đó, các HTX nông nghiệp góp phần làm cho môi
trường xanh, sạch, đẹp hơn, giảm đáng kể mức độ ô nhiễm, góp phần bảo vệ
sức khỏe cho người dân, tăng cường nhận thức và ý thức của nhân dân về bảo
vệ môi trường, tạo việc làm và thu nhập cho nhiều lao động, trong đó chủ yếu
là những người nghèo, người thiệt thòi. Mặc dù còn nhiều hạn chế do những
đặc thù vốn có của loại hình kinh tế này, song hoạt động vệ sinh môi trường
của các HTX nông nghiệp góp phần giải quyết những vấn đề môi trường bức
thiết tại các địa phương, đặc biệt là tại vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa -
nơi không có tổ chức nào có đủ khả năng cung cấp dịch vụ hoặc hoạt động
không hiệu quả.
37
Thứ sáu, HTX nông nghiệp góp phần xây dựng đời sống văn hóa mới ở
các khu vực dân cư, đặc biệt là ở khu vực nông thôn.
- Góp phần hình thành ý thức cộng đồng trong mỗi xã viên cũng như
trong mỗi cư dân nông thôn nói chung. Việc tham gia HTX nông nghiệp góp
phần hình thành ở người nông dân vốn nặng đầu óc tư hữu ý thức đoàn kết,
sống hòa mình vào tập thể, vì lợi ích chung.
- Góp phần tăng cường dân chủ ở nông thôn. Trở thành xã viên HTX
nông nghiệp, người dân có quyền bàn bạc về mục tiêu phát triển HTX, biện
pháp làm ăn có lợi nhất, hiệu quả nhất, tự nguyện góp vốn, góp sức phát triển
kinh tế của mình và của HTX, thảo luận với nhau về cách phân chia kết quả
lao động một cách công bằng, hợp lý, được quyền tự lựa chọn người lãnh đạo,
v.v... Điều đó đóng góp đáng kể vào việc tăng cường dân chủ trên địa bàn.
- Góp phần nâng cao dân trí. Ngay trong giai đoạn đầu kiến thiết đất
nước, các HTX nông nghiệp ở nước ta đã có vai trò quan trọng trong việc xây
dựng những nhà trẻ, mẫu giáo và các lớp “bổ túc văn hóa”. Ngày nay, các hợp
tác xã cũng có tác động tích cực đối với việc mở mang dân trí thông qua
những đóng góp (cả vật chất và công lao động) để xây dựng trường học, nhà
văn hóa, thư viện, v.v... Ngoài ra, các HTX nông nghiệp còn tích cực tham gia
xây dựng các quỹ khuyến học nhằm khuyến khích học sinh học giỏi, giúp đỡ
học sinh nghèo vượt khó.
- Góp phần đổi mới nếp sinh hoạt văn hóa và tăng cường các thiết chế
văn hóa ở địa phương. HTX nông nghiệp không chỉ hỗ trợ điều kiện tổ chức,
định hướng các phong trào sinh hoạt văn hóa ở địa phương mà còn coi đó như
một trong những nội dung của hoạt động phát triển HTX. Do vậy, cùng với sự
phát triển của các HTX nông nghiệp, các phong trào văn hóa, văn nghệ, thể
thao, tổ chức lễ hội ở các địa phương sẽ có những chuyển biến tích cực, cả về
bề rộng và chiều sâu.
- Các HTX nông nghiệp tác động không nhỏ đến nhận thức của xã viên
và người dân về tự do tín ngưỡng và văn hóa tâm linh. Những hoạt động và
đóng góp của HTX nông nghiệp trên các phương diện kinh tế, văn hóa, xã
38
hội, tinh thần,v.v... góp phần làm cho xã viên và người dân nói chung có nhận
thức đúng hơn về thế giới siêu nhiên, về tôn giáo, tín ngưỡng.
Thứ bảy, HTX nông nghiệp góp phần thực hiện bình đẳng giới.
Phát triển HTX nông nghiệp giúp nam giới và nữ giới có nhận thức đầy
đủ hơn về bình đẳng giới, về trách nhiệm và nghĩa vụ của mình, giảm dần và
tiến tới xóa bỏ các định kiến về giới. Phát triển HTX nông nghiệp tạo cơ hội
cho người phụ nữ tiếp cận các nguồn lực, tạo việc làm và phát triển kinh
doanh; tạo điều kiện để họ thể hiện phẩm chất và năng lực của mình trong lao
động sáng tạo, tham gia ngày càng tích cực trong các hoạt động sản xuất -
kinh doanh của HTX. Phát triển HTX nông nghiệp còn tạo điều kiện để phụ
nữ có thêm thời gian chăm sóc bản thân, gia đình và tham gia các hoạt động
của cộng đồng.
Thứ tám, HTX nông nghiệp góp phần bảo đảm sự thành công của các
chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn thông qua việc
tham gia xây dựng và thực hiện các chương trình, dự án này.
Các HTX nông nghiệp mang tính liên kết và tổ chức cộng đồng cao,
gắn kết chặt chẽ với địa bàn dân cư. Do vậy, sự tham gia của các hợp tác xã
vào quá trình xây dựng và thực hiện các chương trình, dự án phát triển kinh tế
- xã hội trên địa bàn là yếu tố quan trọng góp phần bảo đảm sự thành công của
các chương trình, dự án này, và cũng qua đó góp phần tích cực vào việc thực
hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương. Hiện nay, ở các
địa phương, HTX nông nghiệp có vai trò quan trọng trong việc thực hiện
chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.
2.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của hợp tác xã nông
nghiệp
Trong giai đoạn hiện nay, sự phát triển của HTX nông nghiệp chịu tác
động của rất nhiều yếu tố, cả khách quan và chủ quan.
2.1.3.1. Các yếu tố khách quan
Một là, yếu tố chính trị, pháp lý.
39
Về chính trị: định hướng phát triển kinh tế tập thể của Đảng nêu rõ qua
các văn kiện Đại hội Đảng đến nay đã được thể hiện rất rõ ràng, tác động tích
cực đến đổi mới và phát triển HTX.
Về pháp lý: Luật Hợp tác xã, các chính sách, văn bản liên quan và điều
lệ HTX.
Luật HTX năm 2012 là văn kiện có tính chất cơ bản và quan trọng của
Nhà nước nhằm thiết lập khung pháp lý để điều chỉnh việc hình thành, hoạt
động và phát triển của HTX. Nội dung cơ bản của Luật HTX năm 2012 bao
gồm: khái niệm HTX; các nguyên tắc của HTX; các loại hình HTX; việc
thành lập và giải thể HTX; xã viên HTX, tổ chức, quản lý trong HTX; vốn, tài
sản, phân phối thu nhập của HTX; tổ chức đại diện của các HTX.
Các chính sách và văn bản liên quan đến HTX được xây dựng nhằm
mục đích hỗ trợ, hướng dẫn và quản lý một cách có hiệu quả hoạt động của
HTX theo đúng tinh thần Luật HTX năm 2012 quy định.
Điều lệ HTX bao gồm điều lệ mẫu và điều lệ riêng của từng HTX. Điều
lệ HTX quy định cụ thể các điều khoản đối với việc thành lập, hoạt động kinh
tế -xã hội, tổ chức, quản lý… của HTX.
Có thể khẳng định, pháp lý là điều kiện tiên quyết đối với sự hình thành
và phát triển của HTX nông nghiệp. Nếu luật, các chính sách, văn bản liên
quan và điều lệ HTX được xây dựng, bổ sung, hoàn thiện phù hợp với điều
kiện cũng như trình độ phát triển chung về kinh tế, xã hội của đất nước, của
địa phương và của HTX nông nghiệp nói riêng thì sẽ tạo môi trường pháp lý
thuận lợi cho quá trình hình thành và phát triển của HTX nông nghiệp. Ngược
lại, nó sẽ cản trở quá trình này, đồng thời làm nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu
cực khác.
Hai là, yếu tố kinh tế.
Yếu tố kinh tế bao gồm nhiều yếu tố cụ thể khác: năng lực, trình độ
phát triển… của kinh tế hộ; trình độ phát triển sản xuất hàng hóa trong lĩnh
vực mà HTX nông nghiệp hoạt động; cơ chế vận hành của nền kinh tế; trình
độ phát triển của quốc gia và thế giới; khủng hoảng kinh tế, cơ hội kinh tế,
40
thuế, giá cả, tỷ giá, cạnh tranh trong kinh tế, lợi thế kinh doanh, đối thủ và đối
tác trong kinh doanh…
Tất cả những yếu tố cụ thể đó đều tác động mạnh mẽ đến sự hình thành
và phát triển của các HTX nông nghiệp. Ở đây cần lưu ý rằng, các HTX nông
nghiệp là sản phẩm của quá trình phát triển sản xuất hàng hóa, phát triển kinh
tế thị trường, trong đó sản xuất hàng hóa càng phát triển, cạnh tranh thị trường
càng mạnh thì nhu cầu hợp tác kinh tế của người dân càng cao, họ càng cần
đến HTX nông nghiệp; trình độ phát triển sản xuất hàng hóa, phát triển kinh
tế thị trường là tiền đề và cơ sở để hình thành các mô hình HTX nông nghiệp
tương ứng. Do vậy, thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển là điều kiện tiên
quyết để phát triển các HTX. Ngược lại, sự ra đời của các HTX nông nghiệp
lại thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển hơn. Cùng với điều đó, để tồn tại và
phát triển, từng HTX nông nghiệp phải kịp thời nắm bắt thông tin, dự báo
đúng tinh thần cung cầu trên thị trường biết lựa chọn sản phẩm mà thị trường
cần; phát triển các ngành, nghề sản xuất - kinh doanh có nhiều ưu đãi; linh
hoạt tránh né những nhân tố bất lợi để hoạt động có hiệu quả; nắm chắc khả
năng kinh doanh của các đối thủ để có biện pháp nâng cao năng lực hoạt động
cũng như lợi thế của mình nhằm chiến thắng trong kinh doanh một cách lành
mạnh và có hiệu quả; chủ động “mở cửa” để liên kết và hợp tác cùng có lợi
với các đối tác kinh doanh trong việc đầu tư vốn, khoa học - công nghệ, chia
sẻ kinh nghiệm, cung ứng nguyên vật liệu, tiêu thụ sản phẩm… Thông
thường, những yếu tố kinh tế này nằm ngoài khả năng kiểm soát của HTX
nông nghiệp nên sự hỗ trợ và điều tiết kịp thời ở tầm vĩ mô của nhà nước
đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với quá trình hình thành và phát triển của
HTX nông nghiệp.
Ba là, yếu tố môi trường quốc tế.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa về kinh tế diễn ra ngày càng mạnh mẽ,
Việt Nam hội nhập càng sâu, rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới, trở
thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới (WTO), ký kết
các hiệp định thương mại thế hệ mới, mỗi biến động về kinh tế, chính trị, xã
41
hội, khoa học - công nghệ, môi trường sinh thái… trên thế giới đều có tác
động rất lớn và nhanh nhạy đối với hoạt động của các HTX nông nghiệp ở
Việt Nam.
Đặc biệt, sự biến động về kinh tế, chính trị, xã hội trong khu vực và
trên thế giới ngày nay diễn ra ngày càng nhanh và phức tạp, với nhiều vấn đề
tiêu cực nảy sinh như khủng hoảng tài chính - tiền tệ, giá cả, chiến tranh,
khủng bố, biến đổi bất thường về thời tiết, khí hậu, dịch bệnh… đã tác động
tiêu cực lẫn tích cực đến hoạt động của HTX nông nghiệp. Chúng tạo ra cho
HTX nhiều cơ hội và thuận lợi để phát triển, đồng thời cũng đặt ra trước các
HTX nông nghiệp những khó khăn và thách thức, thậm chí là những khó khăn
và thách thức không nhỏ. Trong bối cảnh đó, những HTX nông nghiệp nào
biết phát huy các nguồn lực để tận dụng cơ hội, vượt qua khó khăn, thách
thức sẽ tồn tại và tiếp tục phát triển. Và ngược lại, những HTX nào không có
khả năng thích ứng với những biến đổi của môi trường hoạt động sẽ bị thua lỗ
phá sản.
Bốn là, yếu tố môi trường sinh thái.
Đây là yếu tố không chỉ luôn ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và hiệu
quả kinh doanh của các HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp mà còn
ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất - kinh doanh của các loại hình HTX cũng
như toàn bộ đời sống xã hội nói chung. Bên cạnh đó, xu hướng tăng trưởng
canh tranh và phát triển kinh tế - xã hội bền vững đều không thể không tính
đến việc bảo vệ môi sinh.
Điều đó cho thấy, việc bảo vệ môi sinh cũng như phòng tránh những
yếu tố tự nhiên bất lợi là nhiệm vụ tất yếu quan trọng và thường xuyên không
chỉ đối với các HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp mà còn đối với các
loại hình HTX khác cũng như toàn xã hội. Như vậy, môi trường sinh thái vừa
là yếu tố điều kiện, vừa là mục tiêu của mọi hoạt động của các HTX nông
nghiệp và của toàn xã hội nói chung.
2.1.3.1. Các yếu tố chủ quan
Một là, yếu tố khoa học và công nghệ.
42
Đây là yếu tố và cũng là điều kiện quyết định năng lực và trình độ quản
lý cũng như năng lực và trình độ sản xuất - kinh doanh, năng suất, chất lượng
và sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Do vậy, để tồn tại và phát
triển, bản thân các HTX nông nghiệp phải chú trọng đầu tư ứng dụng các tiến
bộ khoa học công nghệ vào hoạt động sản xuất - kinh doanh. Tuy nhiên, do
những hạn chế nội tại của mình nên trong quá trình này, các HTX nông
nghiệp luôn cần tới sự hỗ trợ rất lớn và chủ động từ phía nhà nước trên các
phương diện: cung cấp thông tin, tín dụng, hướng dẫn, đào tạo cán bộ, bồi
dưỡng tay nghề xã viên… thông qua hoạt động của các cơ quan chức năng
với nhiều hình thức phù hợp.
Hai là, yếu tố tâm lý - xã hội.
Yếu tố tâm lý - xã hội thể hiện ở các khía cạnh như tâm tư, tình cảm,
nguyện vọng; dân tộc, giai cấp; tầng lớp; thế hệ, họ hàng; quan hệ đồng
nghiệp, bạn bè, làng bản, cộng đồng; an ninh xã hội; nghèo đói, việc làm...
Các yếu tố về mặt tâm lý - xã hội luôn ảnh hưởng đến thái độ, cách làm, tính
chất, đặc trưng của mô hình tổ chức HTX nông nghiệp cũng như kết quả, chất
lượng và hiệu quả hoạt động của bản thân HTX nông nghiệp.
Ba là, yếu tố năng lực nội tại của HTX nông nghiệp.
Năng lực nội tại của HTX nông nghiệp thường được thể hiện thông qua
các điều kiện về lao động, vốn, đất đai, cơ sở vật chất - kỹ thuật… từ sự đóng
góp và tạo ra trong quá trình sản xuất - kinh doanh của các xã viên và HTX.
- Lao động của HTX nông nghiệp: Lao động của HTX nông nghiệp là
yếu tố “đầu vào”có ảnh hưởng quyết định đối với mọi hoạt động và sự phát
triển của HTX nông nghiệp. Trước hết, đó là đội ngũ cán bộ quản lý và các xã
viên của HTX nông nghiệp. Đây là những người quyết định các vấn đề về
hoạt động và phát triển của HTX nông nghiệp. Chính vì vậy, nếu trình độ văn
hóa, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, tâm huyết với HTX nông nghiệp,
am hiểu về những vấn đề liên quan đến HTX nông nghiệp và hoạt động của
HTX nông nghiệp trong nền kinh tế thị trường, về khoa học quản lý cũng như
có sức khỏe tốt thì HTX nông nghiệp có được tiền đề đặc biệt quan trọng để
43
phát triển vững chắc. Ngược lại, HTX nông nghiệp khó có thể phát triển một
cách có hiệu quả ngay cả khi các điều kiện khác rất thuận lợi. Ở đây cũng cần
nhấn mạnh thêm rằng, văn hóa là điều kiện cơ sở để nhận thức và vận dụng
các yếu tố khác tác động đến hoạt động của HTX nông nghiệp, nó luôn có ý
nghĩa rất lớn đối với mọi hoạt động của HTX nông nghiệp. Song, văn hóa
không dừng lại ở cách hiểu thông thường, mà còn là hiểu biết về bản chất và
yêu cầu đối với người thành lập và tham gia các loại hình tổ chức HTX nông
nghiệp, nghĩa là khả năng của các xã viên trong việc hợp tác cùng nhau để
phát triển HTX của họ, có thể coi đó là văn hóa hợp tác xã, thiếu điều này thì
cho dù trình độ văn hóa thông thường có cao bao nhiêu đi nữa cũng khó mà
phát triển được HTX nông nghiệp. Văn hóa HTX là văn hóa cộng đồng, văn
hóa cùng chia sẻ lợi ích và trách nhiệm một cách tự nguyện, bình đẳng, là văn
hóa không thủ tiêu lẫn nhau. Để có được văn hóa này, trước hết HTX nông
nghiệp phải được thành lập trên cơ sở tự nguyện của các thành viên, đồng thời
cần có một quá trình giáo dục rất công phu, thường xuyên và lâu dài.
Bộ phận lao động tiếp theo của HTX nông nghiệp là đội ngũ những
người lao động trực tiếp tham gia quá trình sản xuất - kinh doanh của HTX
nông nghiệp. Trình độ văn hóa, trình độ học vấn, trình độ tay nghề, kỹ năng
lao động, sức khỏe… của họ cũng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự
phát triển của HTX nông nghiệp. Bởi lẽ, chính họ là người trực tiếp tạo ra
năng suất, chất lượng sản phẩm, góp phần tích cực vào việc đảm bảo hiệu quả
sản xuất - kinh doanh và hiệu quả hoạt động nói chung của HTX nông nghiệp.
- Vốn của HTX nông nghiệp: Vốn của HTX nông nghiệp quyết định
khả năng của HTX nông nghiệp trong việc đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất
và tái sản xuất, đặc biệt là trong việc áp dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật
vào hoạt động sản xuất - kinh doanh.
Thông thường, nguồn vốn đóng góp ban đầu của xã viên không nhiều
nên khả năng hoạt động của HTX nông nghiệp phụ thuộc rất lớn vào lượng
vốn huy động được từ các nguồn khác cũng như sự hỗ trợ từ phía Nhà nước.
44
- Đất đai của HTX nông nghiệp: Đất đai phục vụ hoạt động sản xuất -
kinh doanh là yếu tố có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự tồn tại và phát triển
của các HTX. Đối với các HTX nông nghiệp, đất đai là tư liệu sản xuất cơ
bản và đặc trưng, thể hiện lợi thế so sánh trong sản xuất nông nghiệp. Quy mô
ruộng đất và mức độ tích tụ, tập trung ruộng đất có ảnh hưởng rất lớn đối với
sự phát triển của kinh tế hộ theo hướng sản xuất hàng hóa, qua đó ảnh hưởng
tới quá trình hình thành và phát triển của các HTX nông nghiệp.
- Cơ sở vật chất - kỹ thuật của HTX nông nghiệp: Cơ sở vật chất - kỹ
thuật của HTX nông nghiệp (bao gồm: công cụ sản xuất, kết cấu hạ tầng…)
có ảnh hưởng rất lớn tới sự tồn tại và phát triển của bản thân nó. Việc bảo
đảm cơ sở vật chất - kỹ thuật phù hợp với yêu cầu của HTX nông nghiệp cả
về số lượng và chất lượng cũng như sử dụng một cách có hiệu quả các cơ sở
vật chất - kỹ thuật đó là điều kiện quan trọng để HTX nông nghiệp nâng cao
năng suất, chất lượng sản phẩm, khả năng hợp tác, cạnh tranh cũng như hiệu
quả hoạt động.
Tóm lại, sự phát triển của HTX nông nghiệp chịu tác động của rất
nhiều yếu tố khác nhau. Tuy nhiên, năng lực nội tại của HTX nông nghiệp và
đặc biệt là năng lực của kinh tế hộ khi đã vượt qua khỏi sự tự cung tự cấp, đủ
sức sản xuất hàng hóa theo cơ chế thị trường cùng với sự hỗ trợ và quản lý có
hiệu lực và hiệu quả của nhà nước là những điều kiện chủ yếu cho sự phát
triển vững chắc của HTX nông nghiệp.
2.1.4. Các tiêu chí đánh giá hợp tác xã nông nghiệp
2.1.4.1. Tiêu chí đánh giá về tổ chức và quản lý ở các hợp tác xã nông
nghiệp
Đánh giá về tổ chức và quản lý ở các HTX nông nghiệp được thực hiện
trên các tiêu chí cụ thể sau:
- Việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức và quản lý HTX nông nghiệp.
Với tư cách là một tổ chức kinh tế tự chủ của các hộ nông dân, HTX
nông nghiệp cần được tổ chức và quản lý trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản, do
45
đó việc đánh giá về tổ chức và quản lý của các HTX nông nghiệp cần được
đánh giá trên các nguyên tắc cơ bản đó, gồm:
+ Nguyên tắc tự nguyện, tự chủ và công bằng. Việc tham gia HTX
nông nghiệp trước hết phải là sự tự nguyện của các hộ nông dân, họ thấy có
lợi thì gia nhập, không phải bị ép buộc gia nhập hoặc gia nhập theo phong
trào như phong trào hợp tác hóa trước đây; sau đó là sự tự chủ, có nghĩa là các
thành viên HTX nông nghiệp tự quyết định vấn đề cơ bản về sản xuất, kinh
doanh, phục vụ của HTX trong khuôn khổ pháp luật, không ai quyết định thay
họ; phải đảm bảo sự công bằng trong hoạt động của các HTX nông nghiệp,
công bằng có nghĩa là sự phù hợp giữa lợi nhuận được chia và đóng góp về
vốn, giữa tiền công và đóng góp sức lao động, giữa lợi nhuận được chia với
mức tiêu dùng hàng hóa/dịch vụ do HTX cung cấp.
+ Nguyên tắc dân chủ. Nguyên tắc này được thể hiện trên các mặt như:
Tính đại diện của Ban quản trị HTX, Ban kiểm soát HTX; Quan hệ giữa xã
viên với Ban quản trị HTX; Quan hệ lợi ích giữa người làm công, người góp
vốn và xã viên; Nguyên tắc dân chủ trong tổ chức và hoạt động.
+ Nguyên tắc minh bạch. Nguyên tắc này được đánh giá trên các mặt
như: Minh bạch trong quản lý tài sản chung; Minh bạch trong đóng góp về tài
chính, đóng góp sức lao động; Minh bạch về mức sử dụng hàng hóa/dịch vụ
do HTX cung cấp; Minh bạch trong phân chia lợi nhuận.
- Mức độ hài lòng của xã viên HTX nông nghiệp. Việc xem xét sự hài
lòng của xã viên đối với HTX nông nghiệp cũng là một tiêu chí đánh giá về tổ
chức và hoạt động của HTX nông nghiệp, tiêu chí này cần được xem xét trên
các mặt như: Tỷ lệ xã viên hài lòng với HTX nông nghiệp mà họ tham gia; Tỷ
lệ xã viên chắc chắn sẽ tiếp tục gắn bó với HTX nông nghiệp; Tỷ lệ xã viên
chắc chắn sẽ giới thiệu người thân, bạn bè tham gia HTX nông nghiệp.
- Về mức độ đạt được mục tiêu hoạt động của HTX nông nghiệp, gồm:
+ Lợi ích của HTX nông nghiệp đối với xã viên, như: Sử dụng sản
phẩm, dịch vụ do HTX nông nghiệp cung cấp với chi phí thấp hơn giá cả thị
46
trường; Tạo thu nhập thông qua góp sức lao động cho HTX nông nghiệp; Tạo
thu nhập thông qua góp vốn cho HTX nông nghiệp.
+ Vai trò của HTX nông nghiệp đối với tạo việc làm và cung cấp các
dịch vụ. Được đánh giá trên các mặt: Trung bình thời gian làm việc cho HTX
nông nghiệp; Trung bình chi tiêu để mua các sản phẩm từ HTX nông nghiệp;
Tỷ lệ chi tiêu từ HTX/tổng chi tiêu.
+ Năng lực hợp tác của HTX nông nghiệp với các tổ chức, hộ gia đình
và các HTX. Được đánh giá trên các mặt: Tính liên kết trong nội bộ xã viên
HTX nông nghiệp; Phát huy được sức mạnh tổng hợp của xã viên; Sự liên kết
giữa HTX nông nghiệp và kinh tế của hộ của xã viên; Khả năng tiêu thụ sản
phẩm ra thị trường; Khả năng thu hút lao động không phải xã viên; Thực hiện
chức năng giải quyết các thủ tục hành chính với các cơ quan quản lý nhà
nước; Năng lực hợp tác với các HTX khác.
2.1.4.2. Tiêu chí đánh giá về quy mô và hiệu quả của hợp tác xã nông
nghiệp
Đánh giá quy mô và hiệu quả hoạt động của HTX nông nghiệp được
thực hiện trên các tiêu chí cụ thể sau:
- Quy mô giá trị gia tăng. Được xem xét số lượng giá trị gia tăng của
toàn bộ khu vực kinh tế HTX nông nghiệp, tỷ lệ đóng góp vào GDP và tỷ lệ
tăng trưởng giá trị gia tăng.
- Quy mô xã viên. Tiêu chí này nói lên mức độ xã hội hóa của HTX
nông nghiệp trong khu vực nông nghiệp, nông thôn. Ngoài ý nghĩa về kinh tế,
tiêu chí này còn có ý nghĩa về xã hội sâu sắc thể hiện đầy đủ nhất bản chất
của HTX nông nghiệp.
- Quy mô vốn. Nói lên mức độ huy động vốn của xã hội cho khu vực
kinh tế HTX.
- Hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nói lên hiệu quả sản xuất kinh doanh
trên cơ sở các yếu tố đầu vào, tiêu chí này làm cơ sở để so sánh với các khu
vực kinh tế khác.
47
- Thu nhập bình quân đầu người. Đây là tiêu chí quan trọng nói lên hiệu
quả sản xuất kinh doanh khi tham gia lao động trong khu vực kinh tế HTX
nông nghiệp.
2.2. Lý luận về quản lý nhà nƣớc đối với hợp tác xã nông nghiệp
2.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước đối với hợp tác xã nông nghiệp
2.2.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước
Để nghiên cứu khái niệm quản lý nhà nước, trước hết cần làm rõ khái
niệm “quản lý”. Thuật ngữ “quản lý” thường được hiểu theo những cách khác
nhau tuỳ theo góc độ khoa học khác nhau cũng như cách tiếp cận của người
nghiên cứu. Quản lý là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội
và khoa học tự nhiên. Mỗi lĩnh vực khoa học có định nghĩa về quản lý dưới
góc độ riêng của mình và nó phát triển ngày càng sâu rộng trong mọi hoạt
động của đời sống xã hội.Theo quan niệm của C.Mác: “Bất kỳ lao động xã hội
trực tiếp hay lao động chung nào đó mà được tiến hành tuân theo một quy mô
tương đối lớn đều cần có sự quản lý ở mức độ nhiều hay ít nhằm phối hợp
những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ
sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất, sự vận động này khác với sự vận
động của các cơ quan độc lập của cơ thể đó. Một nhạc công tự điều khiển
mình, nhưng một dàn nhạc phải có nhạc trưởng”[20, tr23]. Tức theo C.Mác,
quản lý là nhằm phối hợp các lao động đơn lẻ để đạt được cái thống nhất của
toàn bộ quá trình sản xuất. Ở đây C.Mác đã tiếp cận khái niệm quản lý từ góc
độ mục đích của quản lý.
Theo quan niệm của các nhà khoa học nghiên cứu về quản lý hiện nay:
Quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển các quá trình xã hội và hành vi
hoạt động của con người để chúng phát triển phù hợp với quy luật, đạt tới
mục đích đã đề ra và đúng với ý chí của người quản lý.Theo cách hiểu này thì
quản lý là việc tổ chức, chỉ đạo các hoạt động của xã hội nhằm đạt được một
mục đích của người quản lý. Theo cách tiếp cận này, quản lý đã nói rõ lên
cách thức quản lý và mục đích quản lý.
48
Như vậy, theo cách hiểu chung nhất thì quản lý là sự tác động của chủ
thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý. Việc tác
động theo cách nào còn tùy thuộc vào các góc độ khoa học khác nhau, các
lĩnh vực khác nhau cũng như cách tiếp cận của người nghiên cứu.
Quản lý nhà nước:
Theo Giáo trình Những vấn đề cơ bản về quản lý hành chính nhà nước:
“Quản lý nhà nước là hoạt động thực thi quyền lực nhà nước do các cơ quan
nhà nước tiến hành đối với tất cả mọi cá nhân và tổ chức trong xã hội, trên
tất cả các mặt của đời sống xã hội bằng cách sử dụng quyền lực nhà nước có
tính chất cưỡng chế đơn phương nhằm mục tiêu phục vụ lợi ích chung của cả
cộng đồng, duy trì ổn định, an ninh trật tự và thúc đẩy xã hội phát triển theo
một định hướng thống nhất của nhà nước”[39, tr8]. Như vậy, quản lý nhà
nước là hoạt động mang tính chất quyền lực nhà nước, được sử dụng quyền
lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Quản lý nhà nước được xem
là một hoạt động chức năng của nhà nước trong quản lý xã hội và có thể xem
là hoạt động chức năng đặc biệt. Quản lý nhà nước được hiểu theo hai nghĩa.
Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước là toàn bộ hoạt động của bộ máy
nhà nước, từ hoạt động lập pháp, hoạt động hành pháp, đến hoạt động tư
pháp.
Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước chỉ bao gồm hoạt động hành pháp.
Quản lý nhà nước được đề cập trong Luận án này là khái niệm quản lý
nhà nước theo nghĩa rộng. Nghĩa là, quản lý nhà nước bao gồm toàn bộ các
hoạt động từ ban hành các văn bản luật, các văn bản mang tính luật đến việc
chỉ đạo trực tiếp hoạt động của đối tượng bị quản lý và vấn đề tư pháp đối với
đối tượng quản lý cần thiết của nhà nước. Hoạt động quản lý nhà nước chủ
yếu và trước hết được thực hiện bởi tất cả các cơ quan nhà nước, song có thể
các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể quần chúng và nhân dân trực tiếp thực
hiện nếu được nhà nước uỷ quyền, trao quyền thực hiện chức năng của nhà
nước theo quy định của pháp luật.
49
Từ khái niệm về quản lý nhà nước nêu trên, có thể rút ra các đặc điểm
của quản lý nhà nước như sau:
- Quản lý nhà nước mang tính quyền lực đặc biệt, tính tổ chức cao và
tính mệnh lệnh đơn phương của nhà nước. Quản lý nhà nước được thiết lập
trên cơ sở mối quan hệ “quyền uy” và “sự phục tùng”.
- Quản lý nhà nước mang tính tổ chức và điều chỉnh. Tổ chức ở đây
được hiểu như một khoa học về việc thiết lập những mối quan hệ giữa con
người với con người nhằm thực hiện quá trình quản lý xã hội. Tính điều chỉnh
được hiểu là nhà nước dựa vào các công cụ pháp luật để buộc đối tượng bị
quản lý phải thực hiện theo quy luật xã hội khách quan nhằm đạt được sự cân
bằng trong xã hội.
- Quản lý nhà nước mang tính khoa học, tính kế hoạch. Đặc trưng này
đỏi hỏi nhà nước phải tổ chức các hoạt động quản lý của mình theo một
chương trình nhất quán, cụ thể và theo những kế hoạch được vạch ra từ trước
trên cơ sở nghiên cứu một cách khoa học.
- Quản lý nhà nước là những tác động mang tính liên tục, và ổn định
lên các quá trình xã hội và hệ thống các hành vi xã hội. Cùng với sự vận động
biến đổi của đối tượng quản lý, hoạt động quản lý nhà nước phải diễn ra
thường xuyên, liên tục, không bị gián đoạn. Các quyết định của nhà nước phải
có tính ổn định, không được thay đổi quá nhanh. Việc ổn định của các quyết
định của nhà nước giúp cho các chủ thể quản lý có điều kiện kiện toàn hoạt
động của mình và hệ thống hành vi xã hội được ổn định.
2.2.1.2. Khái niệm quản lý nhà nước đối với hợp tác xã nông nghiệp
Từ sự phân tích về khái niệm quản lý nhà nước, khái niệm HTX nông
nghiệp, có thể rút ra khái niệm quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp
như sau: Quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp là hoạt động thực thi
quyền lực nhà nước do các cơ quan nhà nước tiến hành đối với HTX nông
nghiệp nhằm mục tiêu phát triển, nâng cao hiệu quả HTX nông nghiệp và
thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển theo một định hướng thống nhất của nhà
nước.
50
- Chủ thể của quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp là các cơ
quan nhà nước và cán bộ, công chức có thẩm quyền phù hợp với chức năng,
nhiệm vụ được giao. Những chủ thể này tham gia vào quá trình tổ chức quyền
lực nhà nước về lập pháp, hành pháp và tư pháp đối với HTX nông nghiệp
theo quy định của pháp luật.
- Đối tượng của quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp bao gồm
tất cả các HTX nông nghiệp trong phạm vi lãnh thổ quốc gia.
- Các công cụ của quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp chủ yếu
là pháp luật, chính sách, quy hoạch, kế hoạch.
- Mục tiêu của quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp là nhằm
phát triển và nâng cao hiệu quả của các HTX nông nghiệp phù hợp với việc
phát triển KTTT định hướng XHCN và HNQT của Việt Nam hiện nay.
2.2.2. Sự cần thiết của quản lý nhà nước đối với hợp tác xã nông
nghiệp
Ở Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung, các nước có HTX
nông nghiệp hoạt động, nhà nước đều tiến hành quản lý đối với HTX nông
nghiệp. Hoạt động quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp nhằm mục
đích để cho HTX nông nghiệp hoạt động đúng với thông lệ quốc tế, đúng với
quy định của pháp luật và góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Sự
cần thiết của công tác quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp trong giai
đoạn hiện nay được thể hiện ở một số khía cạnh sau:
hợp tác xã nông nghiệp
Nhà nước ban hành các quy định của pháp luật về HTX nói chung và
HTX nông nghiệp nói riêng để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong lĩnh
vực hợp tác, buộc các đối tượng có liên quan phải chấp hành nhằm làm cho
HTX nông nghiệp phát triển đúng theo quy luật, đúng theo các quy định của
pháp luật và định hướng phát triển HTX của Đảng và Nhà nước. Thông qua
công tác thực thi pháp luật về HTX nhằm tác động để HTX nông nghiệp hoạt
động hiệu quả, mang lại lợi ích cả về kinh tế và xã hội, không chỉ tạo ra
51
phong trào HTX nông nghiệp phát triển mà giúp cho HTX nông nghiệp giữ
đúng được bản chất, hoạt động đúng nguyên tắc và tạo ra những giá trị đặc
trưng của nó. Để bảo đảm các hoạt động của HTX nông nghiệp đúng theo các
quy định của pháp luật:
Thứ nhất, nội dung các quy định phải xuất phát từ yêu cầu thực tế đòi
hỏi trong quá trình tổ chức và hoạt động của HTX nông nghiệp, tránh tình
trạng xa rời thực tiễn. Khi các quy định của pháp luật đáp ứng được yêu cầu
đòi hỏi từ thực tiễn quá trình tổ chức và hoạt động của HTX nông nghiệp sẽ
thúc đẩy mạnh mẽ các HTX nông nghiệp phát triển, đây chính là hành lang
pháp lý quan trọng để các HTX nông nghiệp hoạt động đúng định hướng.
Ngược lại nếu các quy định của pháp luật không đáp ứng được sự đòi hỏi từ
thực tế, điều đó sẽ gây khó khăn cho các HTX nông nghiệp hoạt động, thậm
chí còn cản trở và triệt tiêu sự phát triển của HTX nông nghiệp. Khi đó, nếu
muốn tồn tại thì các HTX nông nghiệp chỉ có cách lách luật, tức là vi phạm
pháp luật về HTX.
Thứ hai, nội dung các quy định của pháp luật có những lĩnh vực quy
định những điều kiện có lợi cho HTX nông nghiệp, tạo ra tính tự giác trong
việc chấp hành; có những lĩnh vực mang tính chất cưỡng chế thì cần phải có
lực lượng tổ chức thi hành và có những lĩnh vực mang tính chất hướng dẫn
cần có lực lượng tư vấn thực hiện.
Thứ ba, phải có một lực lượng đủ mạnh để tổ chức thực thi pháp luật về
HTX, một lực lượng có tâm huyết với phong trào phát triển HTX nông
nghiệp, không sách nhiễu trong việc thực hiện chính sách và tạo điều kiện
thuận lợi nhất cho các HTX nông nghiệp phát triển. Chính vì vậy, việc bảo
đảm cho hoạt động của HTX nông nghiệp đúng theo quy định của pháp luật
có ý nghĩa rất quan trọng trong thực hiện công tác quản lý nhà nước đối với
HTX nông nghiệp.
hợp tác xã nông nghiệp
-
52
Tham gia vào nền kinh tế thị trường có nhiều thành phần kinh tế, trong
đó kinh tế nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, như các tập đoàn, tổng
công ty, công ty liên doanh, hợp danh… là những đơn vị kinh tế có tiềm lực
mạnh về vốn, nhân lực, khoa học kỹ thuật và thường có lợi thế so sánh trong
quá trình cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ hàng hóa, hay khi tham gia
đấu thầu các dự án. Đối với các HTX nông nghiệp, do đặc thù riêng biệt của
việc ra đời, hình thành dựa trên nhu cầu sử dụng dịch vụ của các thành viên
hay nhu cầu liên kết hợp tác kinh tế hộ, rất ít HTX nông nghiệp có tiềm lực
mạnh như các công ty, tập đoàn kinh tế. Các HTX nông nghiệp thường vấp
phải sự cạnh tranh mạnh mẽ của thị trường, đôi khi đó là sự cạnh tranh không
bình đẳng khi tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Nhiều
HTX nông nghiệp đã thất bại ngay từ ban đầu do những điều kiện bất lợi về
vốn, khoa học công nghệ hay kinh nghiệm quản lý. Và điều đó cũng đồng
nghĩa với việc những mục tiêu về xã hội của HTX nông nghiệp cũng không
thể thực hiện được dẫn đến phá sản hoặc ngưng hoạt động. Chính vì vậy, để
phong trào HTX nông nghiệp phát triển mạnh, nhà nước cần tạo điều kiện để
các HTX nông nghiệp tham gia các chương trình dự án phát triển kinh tế xã
hội. Với đặc thù quá trình thành lập HTX nông nghiệp, số đông thành viên và
cán bộ quản lý các HTX nông nghiệp xuất thân từ nông dân, điều kiện kinh tế
còn khó khăn, trình độ quản trị yếu kém, hầu hết trong số đó là lòng quyết
tâm xây dựng HTX nông nghiệp phát triển. Do đó, nếu có sự hỗ trợ của nhà
nước, nhất là tạo điều kiện để các hợp tác xã tham gia các chương trình kinh
tế xã hội sẽ tạo ra cơ hội để các HTX nông nghiệp hoạt động hiệu quả hơn.
Trong thực tế, khi các HTX nông nghiệp được tạo điều kiện thuận lợi tham
gia triển khai các chương trình kinh tế - xã hội, đã tạo ra bước đột phá để các
HTX nông nghiệp phát triển, mang lại hiệu quả to lớn cả về lợi ích, lợi nhuận
và việc làm cho người lao động, khẳng định được vị thế của mình trong nền
kinh tế thị trường, đủ năng lực vươn tầm ra thị trường quốc tế.
hợp tác xã nông
nghiệp
53
Kinh tế tập thể mà nòng cốt là các HTX là một trong các thành phần
kinh tế của nền kinh tế quốc dân, HTX hoạt động không chỉ mang lại hiệu
quả, lợi ích về kinh tế mà còn mang lợi ích về mặt xã hội vô cùng to lớn. Luật
HTX năm 2012 công nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn, thu nhập, các
quyền và lợi ích hợp pháp khác của HTX, liên hiệp HTX. Trường hợp nhà
nước trưng mua, trưng dụng tài sản của HTX, liên hiệp HTX vì lý do quốc
phòng, an ninh hoặc lợi ích quốc gia thì được thanh toán, bồi thường theo quy
định của pháp luật về trưng mua, trưng dụng tài sản. Bảo đảm môi trường sản
xuất, kinh doanh bình đẳng giữa HTX, liên hiệp HTX với các loại hình doanh
nghiệp và tổ chức kinh tế khác. Bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm và
không can thiệp vào hoạt động hợp pháp của HTX, liên hiệp HTX.
Nhà nước không chỉ thừa nhận và bảo hộ các quyền của HTX nông
nghiệp mà còn quy định cụ thể các quyền của HTX nông nghiệp, như: quyền
tự chủ, tự chịu trách nhiệm; quyền liên doanh, liên kết; quyền tham gia các tổ
chức đại diện của HTX… Việc ban hành các quy định về quyền của HTX
nông nghiệp và bảo hộ quyền của HTX nông nghiệp không chỉ thể hiện sự
khẳng định của nhà nước về vai trò quan trọng của HTX nông nghiệp trong
đời sống xã hội mà đây còn là cơ sở pháp lý để các cơ quan nhà nước bảo vệ
quyền lợi cho các HTX nông nghiệp, buộc các tổ chức chính trị xã hội, các
doanh nghiệp và mọi người dân tôn trọng và thực thi.
Làm rõ được sự cần thiết của công tác quản lý nhà nước đối với HTX
nông nghiệp và tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với HTX nông
nghiệp có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy phong trào HTX nông
nghiệp phát triển, làm thay đổi phương thức tổ chức sản xuất của người nông
dân, góp phần nâng cao năng suất lao động, nâng cao thu nhập cho thành viên
và người lao động trong khu vực kinh tế tập thể, góp phần thúc đẩy kinh tế xã
hội phát triển một cách bền vững.
2.2.3. Các nội dung của quản lý nhà nước đối với hợp tác xã nông
nghiệp
54
2.2.3.1. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với hợp tác xã nông
nghiệp
Để thực hiện mục tiêu của phát triển HTX nông nghiệp, nhà nước cần
xây dựng, củng cố và tăng cường sức mạnh của bộ máy quản lý nhà nước với
nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức phù hợp. Việc xây dựng và hoàn thiện
bộ máy quản lý phải tương thích với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát
triển HTX nông nghiệp, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Tổ
chức bộ máy nhà nước quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp phụ thuộc
vào tư duy, mô hình, phương thức quản lý nhà nước. Với tư duy quản lý tập
trung, nhà nước có thể thiết lập các cơ quan quản lý nhà nước để bao quát
toàn diện các hoạt động của các HTX nông nghiệp.
Trên góc độ khoa học hành chính, các nguyên tắc chung trong xây
dựng cơ cấu tổ chức quản lý là: i) có sự phù hợp giữa cơ cấu tổ chức của cơ
quan quản lý với tính phức tạp của chức năng, nhiệm vụ quản lý, tính đa dạng
của các mục tiêu quản lý, quy mô và độ phức tạp của đối tượng quản lý với
các điều kiện quản lý; ii) phạm vi quản lý hiệu quả, khả năng quản lý được;
iii) sự tương xứng nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm; iv) sự linh hoạt và
thích nghi, đáp ứng yêu cầu quản lý sự thay đổi.
Trên cơ sở các nguyên tắc chung đó, bộ máy quản lý nhà nước đối với
HTX nông nghiệp phải được tổ chức thành hệ thống các cơ quan nhà nước từ
Trung ương đến địa phương cơ sở, tạo thành một chỉnh thể đồng bộ để thực
hiện chức năng quản lý nhà nước. HTX nông nghiệp là một tổ chức kinh tế
đồng thời mang tính xã hội và nhân văn sâu sắc, do vậy việc tổ chức các cơ
quan quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp cần phải xem xét tính đặc
thù của nó, không chỉ đơn thuần là quản lý nhà tổ chức kinh tế, mà còn là
quản lý tổ chức xã hội thực hiện các chức năng an sinh xã hội và nhân văn.
Bên cạnh đó, HTX nông nghiệp mới chỉ là một loại hình cơ bản của
HTX, kinh tế tập thể và kinh tế hợp tác, do đó việc tổ chức các cơ quản quản
lý nhà nước cần đặt HTX nông nghiệp trong tổng thể kinh tế tập thể và kinh tế
55
hợp tác trong nông nghiệp và lồng ghép thực hiện các nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo an sinh xã hội ở nông thôn.
Hoạt động của bộ máy phải bảo đảm kết hợp hài hoà lợi ích giữa Trung
ương và địa phương, giữa trước mắt và lâu dài, kết hợp quản lý theo ngành và
theo lãnh thổ, phát huy sức mạnh tổng hợp trong quản lý, tăng cường vai trò
và quyền hạn của các cấp chính quyền địa phương trong quản lý và phát triển
HTX nông nghiệp.
2.2.3.2. Xây dựng và thực thi chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát
triển hợp tác xã nông nghiệp
Công tác xây dựng và thực thi các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về
phát triển kinh tế - xã hội có ý nghĩa quan trọng, định hướng cho sự ra đời và
phát triển của HTX nông nghiệp. Trước hết, đó là sự thể hiện quan điểm
mang tính tổng thể của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội đất
nước trong từng giai đoạn; trong đó, HTX mà chủ yếu là HTX nông nghiệp là
một loại hình kinh tế - xã hội được đặt trong tổng thể phát triển kinh tế - xã
hội, chịu ảnh hưởng từ các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội đó. Chẳng hạn như, việc nhà nước quy hoạch các vùng sản xuất nông,
lâm, ngư nghiệp là định hướng quan trọng cho sự ra đời và phát triển của
HTX nông nghiệp; chương trình quốc gia về xây dựng nông thôn mới đòi hỏi
các địa phương phải chú trọng phát triển HTX nói chung và HTX nông
nghiệp nói riêng...
Do vậy, việc xây dựng và thực thi các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội cần quan tâm các nội dung sau:
- Cần xem xét phát triển kinh tế hợp tác, HTX và đặc biệt là HTX nông
nghiệp là một nội dung quan trọng trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
phát triển kinh tế xã hội từng giai đoạn phát triển. Điều này một mặt thể hiện
quan điểm nhất quán, lâu dài trong phát triển HTX nông nghiệp của Đảng và
Nhà nước Việt Nam, mặt khác thể hiện vai trò quan trọng của HTX nông
nghiệp trong phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay.
56
- Cần có chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển HTX nông nghiệp
trong tổng thể chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước.
- Đối với các địa phương, trên cơ sở các đặc thù của địa phương mình,
cần có các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển từng loại hình HTX
nông nghiệp hoặc các mô hình HTX nông nghiệp phù hợp, nhằm khai thác tốt
tiềm năng, thế mạnh và đặc điểm văn hóa, xã hội của từng địa phương.
2.2.3.3. Ban hành và thực thi pháp luật có liên quan đến phát triển hợp
tác xã nông nghiệp
Tạo lập thể chế là đặc điểm quan trọng của quản lý nhà nước. Thể chế
có vai trò thiết lập hành lang cho sự vận động của các đối tượng, các chủ thể
liên quan. Ở tầm vĩ mô, thể chế và hiệu lực của thể chế có vai trò quan trọng
và quyết định đối với phát triển quốc gia. HTX nông nghiệp vừa là một tổ
chức kinh tế đặc thù vừa mang tính văn hóa và xã hội sâu sắc. Do vậy, HTX
nông nghiệp chỉ được hình thành và phát triển khi có môi trường pháp lý phù
hợp và thuận lợi.
Trước hết, trên phương diện vĩ mô, sự công nhận của nhà nước đối với
HTX nông nghiệp là cơ sở để HTX nông nghiệp có tư cách pháp nhân - một
điều kiện hết sức cần thiết cho sự hoạt động của HTX nông nghiệp trong điều
kiện phát triển KTTT và HNQT hiện nay.
Thứ hai, sự công nhận địa vị pháp lý của HTX nông nghiệp sẽ tạo cơ sở
pháp lý cho các hộ nông dân hợp tác để kinh doanh và tương trợ lẫn nhau theo
mô hình HTX.
Thứ ba, nhà nước xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật có liên quan
đến hoạt động của HTX nông nghiệp để bảo đảm rằng, nhà nước có công cụ
quản lý các HTX nông nghiệp một cách hiệu quả.
Thứ tư, thể chế nhằm hướng dẫn các nghiệp vụ liên quan đến quản lý
nhà nước đối với HTX nông nghiệp.
Với tư cách là một chủ thể hoạt động trong kinh tế thị trường, HTX
nông nghiệp cần có một thể chế thích ứng, gồm các nội dung cơ bản sau:
57
- Pháp luật về địa vị pháp lý của HTX nông nghiệp, gồm Luật HTX và
các văn bản thi hành.
- Pháp luật về các quan hệ của HTX nông nghiệp, gồm: quan hệ về sử
dụng đất đai, quan hệ về sử dụng lao động; quan hệ về hợp tác, liên kết kinh
tế; quan hệ về thực hiện các nghĩa vụ đối với nhà nước; quan hệ về việc thực
hiện các quy định về bảo vệ môi trường, đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã
hội...
- Pháp luật về thẩm quyền của các cơ quan nhà nước trong quản lý
HTX nông nghiệp.
Hệ thống pháp luật sẽ tạo ra hành lang và điều kiện thích hợp cho HTX
nông nghiệp phát triển.
2.2.3.4. Ban hành và thực thi các chính sách phát triển hợp tác xã nông
nghiệp
HTX nông nghiệp là một tổ chức yếu thế của các hộ nông dân, hơn nữa
là một tổ chức kinh tế kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp - một ngành sản
xuất có nhiều rủi ro, nên cần có sự hỗ trợ của nhà nước thông qua các chính
sách và các công cụ quản lý vĩ mô.
Phát triển HTX nông nghiệp không những có ý nghĩa quan trọng về
kinh tế, mà còn có ý nghĩa quan trọng về văn hóa và xã hội sâu sắc. HTX
nông nghiệp là tổ chức kinh tế, đồng thời cũng là tổ chức xã hội của những
người lao động, các hộ gia đình, các cơ sở sản xuất nhỏ. Đây là lực lượng xã
hội to lớn, đông đảo, nhưng đồng thời họ phần lớn là những người khó khăn,
những người nghèo, những người hạn chế về vốn, về kỹ thuật và về công
nghệ, luôn bị chèn ép, thậm chí bị bóc lột và thường ở thế yếu trong điều kiện
của cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt. Để khắc phục những khó khăn, thế
yếu của mình, những người lao động, các hộ gia đình, các cơ sở sản xuất nhỏ
tự phải tập hợp lại, liên kết với nhau để phát triển kinh tế, giải quyết những
vấn đề đời sống, văn hoá, xã hội của mình, của cộng đồng và thúc đẩy phát
triển kinh tế, xã hội công bằng và bền vững. Do vậy, nhà nước cần có chính
sách hỗ trợ đối với HTX nông nghiệp. Những chính sách hỗ trợ của nhà nước
58
đối với HTX nông nghiệp trước hết nhằm mục tiêu thu hút ngày càng nhiều
các lực lượng lao động, nhất là những hộ nông dân, những người thợ thủ
công, các cơ sở sản xuất nhỏ tham gia xây dựng HTX nông nghiệp; khuyến
khích, hỗ trợ để HTX nông nghiệp vươn lên, đẩy mạnh hoạt động sản xuất,
kinh doanh và giúp đỡ xã viên với hiệu quả cao nhất, góp phần phát triển kinh
tế - xã hội đất nước theo định hướng XHCN. Các chính sách đó không phải là
bao cấp, không nhằm tạo chỗ dựa để HTX nông nghiệp ỷ lại, trông chờ vào
nhà nước, làm yếu đi tính năng động, sáng tạo, tính tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của HTX nông nghiệp, mà nhằm tạo những điều kiện cần thiết cho
HTX nông nghiệp đổi mới và không ngừng phát triển, tạo ra sự bình đẳng
giữa HTX nông nghiệp với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
khác nhau.
Trong cơ chế thị trường, nhà nước dựa vào hệ thống pháp luật và hệ
thống chính sách để quản lý và điều chỉnh mối quan hệ giữa các ngành, các
lĩnh vực, giữa các vùng, giữa các thành phần kinh tế, giữa phát triển kinh tế
và xã hội... nhằm bảo đảm cho nền kinh tế phát triển cân đối, hài hòa, ổn định,
bền vững và bảo đảm công bằng xã hội theo định hướng XHCN. Việc nhà
nước thực hiện chính sách hỗ trợ đối với HTX không làm ảnh hưởng đến sự
bình đẳng giữa HTX nông nghiệp với các doanh nghiệp. Chính sách hỗ trợ
của nhà nước đối với HTX không ngoài mục đích nhằm bảo đảm địa vị pháp
lý và điều kiện để HTX có thể thực sự bình đẳng với các loại hình doanh
nghiệp, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của HTX nông nghiệp.
Các chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với HTX nông nghiệp cần
nhằm vào các lĩnh vực sau:
- Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực.
- Xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường.
- Ứng dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới.
- Tiếp cận vốn và quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã.
- Tạo điều kiện tham gia các chương trình mục tiêu, chương trình phát
triển kinh tế - xã hội.
59
- Thành lập mới HTX.
Ngoài các chính sách hỗ trợ nêu trên, nhà nước còn có các chính sách
ưu đãi đối với HTX nông nghiệp (vì nông nghiệp là một lĩnh vực rủi ro cao,
lợi nhuận thấp, nhưng có vai trò to lớn), bao gồm:
- Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp và các loại thuế khác theo quy
định của pháp luật về thuế.
- Ưu đãi về đăng ký HTX theo quy định của pháp luật về phí và lệ phí.
Đặc biệt các HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp còn được
hưởng chính sách hỗ trợ, ưu đãi riêng, gồm:
- Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng.
- Giao đất, cho thuê đất để phục vụ hoạt động của hợp tác xã, liên hiệp
hợp tác xã theo quy định của pháp luật về đất đai.
- Ưu đãi về tín dụng.
- Vốn, giống khi gặp khó khăn do thiên tai, dịch bệnh.
- Chế biến sản phẩm.
2.2.3.5. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm trong
hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp
Thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm là một chức năng quan
trọng trong hoạt động quản lý nhà nước, nhằm phát hiện những hành vi vi
phạm pháp luật, những thiếu sót trong trong hoạt động của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân; qua đó áp dụng các biện pháp xử lý, khắc phục những thiếu sót
nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước. Mặc dù có nhiều cách
hiểu khác nhau, nhưng suy cho cùng mục đích của việc thanh tra, kiểm tra,
giám sát và xử lý vi phạm là phát hiện hoặc phòng ngừa những vi phạm, góp
phần thúc đẩy và hoàn thành nhiệm vụ trong hoạt động quản lý nhà nước.
HTX nông nghiệp là tổ chức vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã
hội sâu sắc, có vai trò lớn trong phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là trong
điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay; vì vậy,
việc thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm trong hoạt động
của HTX nông nghiệp là một chức năng quan trọng của quản lý nhà nước đối
60
với HTX nông nghiệp hiện nay, không những ảnh hưởng trực tiếp đến phát
triển HTX nông nghiệp mà còn ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế - xã hội,
đảm bảo an sinh xã hội ở nông thôn.
Hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm pháp luật trong
hoạt động của HTX nông nghiệp được thực hiện nhằm các mục đích:
Thứ nhất, thông qua hoạt động này để đánh giá về hiệu lực, hiệu quả
thể chế quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp. Kiểm tra, thanh tra, giám
sát giúp các cơ quan quản lý nhà nước có thông tin về tính hợp lý, tính khả thi
của các quy định pháp luật. Sự phản hồi từ thực tiễn là cơ sở để hoàn thiện thể
chế quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp.
Thứ hai, thanh tra, kiểm tra, giám sát phát hiện và xử lý kịp thời các vi
phạm pháp luật trong hoạt động của HTX nông nghiệp như: việc tổ chức, địa
vị pháp lý, mối quan hệ của HTX nông nghiệp; việc thực hiện các chính sách
hỗ trợ phát triển các HTX nông nghiệp... Cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát
tạo ra áp lực đối với các cơ quan quản lý nhà nước, HTX nông nghiệp và các
chủ thể khác phải tuân thủ các quy định của pháp luật, tạo tiền đề đảm bảo
hiệu quả hoạt động của HTX nông nghiệp.
Nội dung công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm trong
hoạt động của HTX nông nghiệp gồm:
- Thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật trong tổ chức và
hoạt động của HTX nông nghiệp.
- Thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chính sách hỗ trợ phát
triển HTX nông nghiệp.
- Xử lý các vi phạm về đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và
Nhà nước đối với hoạt động của HTX nông nghiệp.
2.2.4. Các yếu tố tác động đến quản lý nhà nước đối với hợp tác xã
nông nghiệp
2.2.4.1. Các yếu tố khách quan
Một là, yêu cầu của phát triển KTTT và HNQT.
61
Quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp cần có cách tiếp cận từ
yêu cầu quản lý một loại hình tổ chức kinh tế - xã hội đặc thù trong điều kiện
phát triển KTTT và HNQT; có nghĩa là, đòi hỏi cao về năng lực cạnh tranh
mang tính quốc tế của các sản phẩm sản xuất - kinh doanh, phục vụ mà HTX
nông nghiệp cung cấp. Như vậy, nhà nước cần tư duy lại mục tiêu của HTX
nông nghiệp, đồng thời trong quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp,
nhà nước cũng cần tăng cường sự ảnh hưởng, tăng cường sự tham gia của thị
trường trong nước và quốc tế, của cộng đồng xã hội đối với HTX nông nghiệp
để có thông tin nhu cầu thị trường, kết nối giữa nhu cầu thị trường với năng
lực của HTX nông nghiệp.
Hai là, trách nhiệm của các HTX nông nghiệp.
Quản lý là sự tương tác giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý. Hiệu
quả quản lý phụ thuộc vào hiệu quả tác động đến đối tượng quản lý. Nhà nước
thực hiện vai trò quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp, nhưng hiệu quả
hoạt động của các HTX nông nghiệp gắn với điều kiện cụ thể của từng HTX
nông nghiệp. Việc các HTX nông nghiệp tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc tổ
chức và hoạt động và các quy định của nhà nước sẽ góp phần khẳng định hiệu
quả quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp. Ngược lại, khi các HTX
nông nghiệp thực hiện các nguyên tắc cơ bản và các quy định pháp luật của
nhà nước mang tính hình thức, đối phó, thì hiệu quả quản lý nhà nước đối với
HTX nông nghiệp tất yếu sẽ giảm. Chính vì vậy, để nâng cao hiệu quả quản lý
nhà nước đối với HTX nông nghiệp, nhà nước phải thiết lập cơ chế để duy trì
và nâng cao trách nhiệm của các HTX nông nghiệp, bảo đảm cho các HTX
nông nghiệp có trách nhiệm thực hiện các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và
hoạt động và tuân thủ nghiêm những quy định của pháp luật.
2.2.4.2. Các yếu tố chủ quan
Một là, tư duy quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp.
Tư duy quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp có tác động trực
tiếp và toàn diện đến hiệu quả quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp.
Tư duy quản lý nhà nước sẽ quy định nội dung, phương thức quản lý nhà
62
nước đối với HTX nông nghiệp. Tư duy quản lý nhà nước về đối tượng quản
lý là HTX nông nghiệp với tư cách là một tổ chức kinh tế hay tổ chức xã hội
hoặc tổ chức đặc thù sẽ có sự khác biệt lớn trong nội dung quản lý. Tư duy
đúng về vai trò, vị trí của nhà nước đối với HTX nông nghiệp sẽ tạo điều kiện
cho cơ quan quản lý nhà nước tập trung vào những vấn đề mang tính chiến
lược, chuyển từ tư duy quản lý hành chính đơn thuần sang kiến tạo cho sự
phát triển của HTX nông nghiệp.
Hai là, phương thức, cách thức quản lý nhà nước đối với HTX nông
nghiệp
Phương thức, cách thức quản lý là nhân tố tác động đến hiệu quả quản
lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp trên nhiều phương diện. Việc lựa chọn
phương thức quản lý tác động đến tổ chức bộ máy, khung thể chế quản lý nhà
nước. Nếu nhà nước quản lý bằng cách thức can thiệp sâu vào hoạt động của
các HTX nông nghiệp, với cách quản lý theo kiểu quyết định các vấn đề của
sản xuất - kinh doanh, phục vụ của HTX nông nghiệp, thì tổ chức bộ máy,
khung thể chế sẽ có sự khác biệt khi nhà nước thừa nhận quyền tự chủ của các
HTX nông nghiệp. Nếu nhà nước quản lý bằng việc can thiệp sâu vào các
HTX nông nghiệp, thì bộ máy quản lý sẽ cồng kềnh và cũng khó khăn trong
việc có thể bao quát toàn bộ hoạt động của các HTX nông nghiệp. Ngược lại,
nhà nước thừa nhận quyền tự chủ của các HTX nông nghiệp, bộ máy quản lý
nhà nước sẽ có những thay đổi, có thể có quy mô nhỏ hơn, nhà nước có điều
kiện tập trung sâu hơn vào các nhiệm vụ thuộc về chức năng bản chất của
mình. Điều này có thể đem đến những điều kiện thuận lợi cho nhà nước quản
lý hiệu quả hơn đối với HTX nông nghiệp.
Ba là, năng lực quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp.
Năng lực quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp được thể hiện
qua năng lực thể chế, chính sách và năng lực cán bộ, công chức. Năng lực thể
chế, chính sách có thể hiểu là năng lực của các cơ quan nhà nước hoàn thành
các chức năng, nhiệm vụ của mình. Năng lực thể chế, chính sách được thể
hiện trên nhiều phương diện, trong đó nhấn mạnh đến năng lực xây dựng và
63
thực hiện thành công thể chế, chính sách. Quá trình này đồng thời gắn liền với
việc tổ chức hợp lý bộ máy và bảo đảm hiệu quả hoạt động của bộ máy quản
lý nhà nước.
Từ góc độ khác, thể chế, chính sách phát triển HTX nông nghiệp là
nhân tố quan trọng trong quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp. Khung
thể chế, chính sách là sự cụ thể hoá tư duy, chủ trương, định hướng phát triển
HTX nông nghiệp. Định hướng đúng, tư duy đúng cần được thể chế hoá thành
chính sách, pháp luật. Sự đồng bộ của hệ thống thể chế, chính sách quản lý
nhà nước đối với HTX nông nghiệp có tác động trực tiếp đến sự phát triển
lành mạnh của HTX nông nghiệp, bảo đảm sự vận động của các HTX nông
nghiệp theo hướng chất lượng, hiệu quả. Cùng với năng lực thể chế, chính
sách, quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp phụ thuộc vào năng lực của
đội ngũ làm công tác quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp. Cán bộ,
công chức chính là chủ thể tham gia vào quá trình xây dựng các chính sách,
pháp luật liên quan đến phát triển HTX nông nghiệp, đồng thời, là chủ thể tổ
chức thực hiện các chính sách, pháp luật này trong thực tiễn. Năng lực của đội
ngũ cán bộ, công chức quản lý HTX nông nghiệp tương xứng với yêu cầu
nhiệm vụ sẽ đảm bảo hiệu quả quản lý, thúc đẩy sự phát triển HTX nông
nghiệp. Ngược lại, năng lực quản lý yếu kém, thì hiệu quả quản lý nhà nước
đối với HTX nông nghiệp sẽ bị hạn chế.
Bốn là, hiệu quả của hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi
phạm trong hoạt động của HTX nông nghiệp.
Thanh tra, kiểm tra, giám sát là một khâu quan trọng của quá trình quản
lý nhà nước. Thanh tra, kiểm tra, giám sát một mặt giúp cho cơ quan quản lý
nhà nước đối với HTX nông nghiệp phát hiện kịp thời những sai phạm trong
tổ chức và hoạt động của các HTX nông nghiệp; mặt khác, đây cũng chính là
kênh để cơ quan quản lý nhà nước đánh giá hiệu quả chính sách, pháp luật, có
được những thông tin xác thực để hoàn thiện khung thể chế, chính sách phát
triển HTX nông nghiệp. Hoạt động thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong
hoạt động của HTX nông nghiệp còn là công cụ tạo áp lực cho các tổ chức, cá
64
nhân trong việc tuân thủ pháp luật, thực hiện các quy định của nhà nước về
phát triển HTX nông nghiệp.
2.2.5. Sự cần thiết khách quan của hoàn thiện quản lý nhà nước đối
với hợp tác xã nông nghiệp
Theo Đại từ điển tiếng Việt "hoàn thiện là tốt đẹp đến mức trọn vẹn".
Với tư cách là một động từ "làm cho hoàn thiện"[1.tr822].
Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp là hoạt động
làm cho các nội dung của quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp trở nên
tốt đẹp đến mức trọn vẹn nhằm mục tiêu nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản
lý nhà nước và thúc đẩy phát triển các HTX nông nghiệp đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội đất nước trong điều kiện phát triển kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế hiện nay.
Nội dung cơ bản của hoàn thiện quản lý nhà nước đối với HTX nông
nghiệp là hoàn thiện các nội dung của quản lý nhà nước đối với HTX nông
nghiệp, bao gồm: Hoàn thiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển HTX
nông nghiệp; Hoàn thiện pháp luật có liên quan đến phát triển HTX nông
nghiệp; Hoàn thiện các chính sách phát triển HTX nông nghiệp; Nâng cao
hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm trong hoạt
động của HTX nông nghiệp; Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối
với HTX nông nghiệp.
Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp ở Việt Nam
hiện nay là một tất yếu khách quan, xuất phát từ những lý do sau đây:
Thứ nhất, xuất phát từ yêu cầu xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang
đặt ra yêu cầu cơ bản là phải có được một nền hành chính gọn về tổ chức, rõ
về chức năng, nhiệm vụ và hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động. Cụ thể là, phải
xây dựng và hoàn thiện hệ thống bộ máy hành chính nhà nước thống nhất từ
Trung ương đến cơ sở, đảm bảo cho toàn bộ hệ thống này hoạt động có hiệu
lực, hiệu quả, đủ mạnh để hoàn thiện các chức năng của quyền hành pháp;
65
bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật đối với nhà nước và đời sống
xã hội; thống nhất quản lý hành chính nhà nước về kinh tế, xã hội, an ninh
quốc phòng, trật tự an toàn xã hội và đối ngoại; thi hành những biện pháp hữu
hiệu bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tạo điều kiện để
công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, bảo vệ tài sản, lợi ích của
nhà nước, xã hội và bảo vệ môi trường.
Tuy hệ thống thể hành chính nhà nước đã đạt được những kết quả tiến
bộ, quan trọng, nhưng vẫn đang còn nhiều yếu kém, bất hợp lý, thiếu đồng bộ
chưa đáp ứng tốt yêu cầu của tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Trong đó có thể chế hành chính cho tổ chức và hoạt động của HTX
nông nghiệp, có thể chế cho hoạt động quản lý nhà nước đối với HTX nông
nghiệp.
Trong cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính nhà nước, tuy đầu mối trực
thuộc Chính phủ có giảm, nhưng bộ máy bên trong các bộ, ngành thì phình ra.
Bộ máy chính quyền địa phương thiếu ổn định, hay thay đổi. Chức năng,
nhiệm vụ đôi khi còn chồng chéo, nhất là chức năng, nhiệm vụ của các bộ,
ngành trong quản lý HTX nói chung và HTX nông nghiệp nói riêng.
Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức còn yếu kém, hạn chế cả về
phẩm chất, năng lực và uy tín chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của thời
kỳ mới, trong đó có đội ngũ cán bộ, công chức trực tiếp thực hiện nhiệm vụ
quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp.
Thứ hai, xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Theo quan niệm của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII: Nền KTTT
định hướng XHCN Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo
các quy luật của KTTT, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù
hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền KTTT hiện đại và
HNQT; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh".
66
Về bản chất, nền KTTT định hướng XHCN Việt nam là nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vừa vậng động theo những
quy luật của KTTT, vừa được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản
chất của CNXH.
Điều đó đặt ra đối với HTX nông nghiệp - với tư cách là một chủ thể
kinh tế trong nền KTTT phải được tự chủ sản xuất kinh doanh. Mặt khác, với
tư cách là một chủ thể kinh tế trong nền KTTT, HTX nông nghiệp cùng với
các chủ thể kinh tế khác vừa hợp tác, vừa cạnh tranh nhau và hướng đến mục
tiêu tìm kiếm lợi nhuận, lợi ích.
Do vậy, phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay đang
đặt ra yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động của
HTX nông nghiệp, đảm bảo quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, phù hợp với
điều kiện vừa hợp tác vừa cạnh tranh của HTX nông nghiệp trên thị trường.
Thứ ba, xuất phát từ yêu cầu hội nhập quốc tế hiện nay.
HNQT là một xu thế lớn, tất yếu của thế giới cũng đồng thời chỉ ra con
đường phát triển không thể nào khác đối với các nước trong thời đại toàn cầu
hóa là tham gia hội nhập quốc tế.
Tham gia HNQT, các quốc gia có thể thu được nhiều lợi ích, như: mở
rộng thị trường để thúc đẩy thương mại và các quan hệ kinh tế quốc tế khác,
từ đó thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội; tạo động lực thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, từ đó
nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh; giúp nâng cao trình độ của nguồn
nhân lực; tạo cơ hội để các cá nhân được thụ hưởng các sản phẩm hàng hóa,
dịch vụ đa dạng về chủng loại, mẫu mã và chất lượng với giá cạnh
tranh;v.v...
Tuy nhiên, hội nhập không chỉ đưa lại những lợi ích, trái lại, nó cũng
đặt các nước trước nhiều bất lợi và thách thức, trong đó có những bất lợi,
thách thức ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của HTX nông nghiệp, như:
(1)HNQT mà trước hết là hội nhập kinh tế làm gia tăng cạnh tranh cho nền
67
kinh tế và các đơn vị kinh tế. HTX nông nghiệp với tư cách là một tổ chức
kinh tế có thể gặp khó khăn, thậm chí là phá sản, từ đó gây nhiều hậu quả về
mặt kinh tế - xã hội. (2)Hội nhập làm tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc
gia vào thị trường bên ngoài và, do vậy, HTX nông nghiệp có thể dễ bị tổn
thương trước những biến động của thị trường quốc tế.
Bên cạnh đó, HNQT cũng đặt ra yêu cầu phải hoàn thiện hệ thống thể
chế, pháp luật của mỗi quốc gia cho tương thích với hệ thống pháp luật quốc
tế, trong đó có hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động của HTX nông
nghiệp và quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp.
Thứ tư, xuất phát từ vai trò của HTX nông nghiệp trong phát triển kinh
tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay.
HTX là tổ chức tự chủ, tự giúp đỡ nhau của “người” chứ không phải là
“vốn”. Đây là nguyên tắc mang tính nhân văn của HTX, làm cho nhiều HTX
nói riêng và phong trào HTX quốc tế nói chung tồn tại lâu dài, liên tục trong
gần 200 năm qua. Với ý nghĩa như vậy, HTX nói chung và HTX nông nghiệp
nói riêng có vai trò to lớn về kinh tế, xã hội và văn hóa. HTX nông nghiệp
vừa phát huy vai trò của khu vực tư nhân vừa tăng cường sức mạnh tập thể,
cộng đồng; đó là sự gắn kết giữa người sở hữu và người sử dụng sản phẩm,
giữa người chủ và người làm thuê, giữa người bán và người mua trong cơ chế
kinh tế thị trường; là sự kết hợp hài hòa giữa sự tự lực của nông dân và sự trợ
giúp của nhà nước, kết hợp giữa nhà nước và thị trường; và là một thể chế
kinh tế phù hợp với cơ chế thị trường.
Với vai trò to lớn như vậy, việc hoàn thiện quản lý nhà nước đối với
HTX nông nghiệp nhằm phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các
HTX nông nghiệp ở Việt nam hiện nay là cần thiết khách quan.
Thứ năm, xuất phát từ những hạn chế, tồn tại trong quản lý nhà nước
đối với HTX nông nghiệp ở Việt Nam thời gian qua.
Có thể nói rằng, công tác quản lý nhà nước đối với khu vực kinh tế tập
thể nói chung và HTX nói riêng gần như buông lỏng. Trước khi có Nghị
quyết Trung ương 5 khóa IX, bộ máy quản lý nhà nước đối với HTX hầu như
68
chưa được thành lập ở cả cấp Trung ương và địa phương. Sau khi có Nghị
quyết, mới quy định chức năng, nhiệm vụ và bố trí cán bộ, công chức cho các
bộ, ngành và địa phương thực hiện quản lý HTX nông nghiệp. Tuy vậy, công
tác quản lý nhà nước đối với HTX hiện nay vẫn có nhiều tồn tại, hạn chế,
như: sự chồng chéo trong tổ chức bộ máy quản lý nhà nước, vấn đề năng lực
của cán bộ, công chức và việc triển khai thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo
quy định của pháp luật.
Điều đó đặt ra là, phải khẩn trương kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước
từ Trung ương đến cơ sở đảm bảo thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo quy
định của pháp luật; phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và xử lý các
HTX nông nghiệp vi phạm pháp luật; đồng thời cần hoàn thiện khung khổ
pháp lý để đảm bảo quyền độc lập, tự chủ của HTX nông nghiệp.
2.3. Kinh nghiệm quản lý nhà nƣớc đối với hợp tác xã nông nghiệp
của một số nƣớc và bài học cho Việt Nam
2.3.1. Kinh nghiệm của một số nước
- Kinh nghiệm của Canada
Canada hiện có khoảng 80% nông dân tham gia HTX nông nghiệp, tạo
việc làm cho 92.000 lao động, có tổng tài sản tương đương 173 tỷ đô la.
Trong quản lý, phát triển HTX nông nghiệp, Canada công nhận và đề
cao bảy nguyên tắc HTX do Liên minh HTX quốc tế (ICA) khuyến nghị,
quán triệt đầy đủ vào Luật HTX của liên bang. Có luật chung cho năm loại
hình HTX, nhưng có các quy định riêng cho mỗi loại HTX cho chúng vận
hành và phát triển tốt nhất. Tăng cường tính phân biệt giữa HTX với các pháp
nhân và tổ chức khác bảo đảm Luật HTX khác hẳn với Luật công ty, Luật về
hội.
Về thủ tục, Canada giảm nhẹ các quy định về văn bản và ý kiến đòi hỏi,
đơn giản hóa về mặt hành chính đối với việc công khai hợp pháp hóa các
doanh nghiệp, cơ chế chuyển tiếp tư cách của tổ chức có mục đích không lợi
nhuận sang tư cách HTX.
69
Chính sách hỗ trợ cho HTX nông nghiệp ở Canada có đặc điểm là hỗ
trợ trực tiếp, tức là dựa vào kết quả và được tiến hành bởi một tổ chức chuyên
nghiệp. Ngoài ra, còn tổ chức đào tạo, thông tin về Luật HTX và các vấn đề
liên quan đối với các HTX nông nghiệp, đảm bảo cho tất cả mọi tổ chức, cá
nhân hiểu rõ và thực thi thống nhất Luật HTX.
- Kinh nghiệm của Hoa Kỳ
Ở Hoa Kỳ, các HTX nông nghiệp được hình thành tự nguyện và nhận
được sự giúp đỡ về mọi mặt của nhà nước. Các HTX nông nghiệp ở Hoa Kỳ
đóng vai trò quan trọng trong việc phổ biến kiến thức nông nghiệp, tăng khả
năng tiếp thị cho nông dân, trợ giúp tín dụng, góp phần quan trọng tạo nên
một nền nông nghiệp phát triển cao và có hiệu quả ở quốc gia này.
Kinh nghiệm trong phát triển HTX nông nghiệp là, đa dạng hóa các
loại hình HTX nông nghiệp đáp ứng tốt yêu cầu phát triển của các hộ nông
dân, gồm các loại hình: HTX tiếp thị nông nghiệp; HTX cung ứng nông
nghiệp; HTX dịch vụ nông nghiệp. Tổ chức các HTX nông nghiệp thành hệ
thống liên kết với nhau theo ba cấp: HTX nông nghiệp cơ sở với xã viên là hộ
nông dân; HTX liên kết khu vực do các HTX nông nghiệp cơ sở liên kết theo
lãnh thổ, khu vực (xã viên là HTX); HTX liên kết giữa HTX nông nghiệp cơ
sở và HTX liên kết vùng (xã viên là nông dân và HTX).
- Kinh nghiệm của Pháp
Ở Pháp HTX nông nghiệp đóng một vai trò kinh tế quan trọng trong
ngành kinh doanh nông sản. Đóng góp doanh thu gần 100 tỷ euro trên toàn
cầu, thu hút hơn 150.000 lao động, duy trì việc làm ở khu vực nông thôn và là
yếu tố chủ động trong phát triển nông thôn.
Pháp xác định chức năng đầu tiên của nhà nước trong lĩnh vực này là
thiết lập và thông qua khung pháp lý áp dụng cho HTX nông nghiệp. Đây là
nhiệm vụ chủ yếu của Bộ Nông nghiệp, tuy nhiên các bộ, ngành khác cũng có
trách nhiệm liên quan, đặc biệt là Bộ Kinh tế, Bộ Tư pháp đối với Luật Công
ty và Luật Thương mại.
70
Về chứng nhận hoạt động. Đơn vị đăng ký phải nộp đơn cho cơ quan
hành chính có thẩm quyền. Một ủy ban đặc biệt (Ủy ban khu vực về các định
hướng nông nghiệp hoặc Ủy ban trung ương về chứng nhận hoạt động HTX)
bao gồm đại diện các cơ quan hành chính và chuyên môn sẽ xem xét đơn đề
nghị và đưa ra các kiến nghị. Quyết định cuối cùng sẽ được cơ quan có thẩm
quyền thông qua.
Về quản lý, kiểm tra. Hàng năm, các HTX nông nghiệp phải trình lên
cơ quan đã cấp giấy chứng nhận các báo cáo thể hiện hoạt động của mình phù
hợp với các quy định của pháp luật về HTX. Báo cáo này phải bao gồm cả
bản photocopy các quyết định của Đại hội xã viên, các tài liệu trình bày tại
Đại hội xã viên cho các xã viên thẩm tra, báo cáo tổng kết về tình hình tài
chính và quản lý HTX, báo cáo kiểm toán.
- Kinh nghiệm của Đức
Cộng hòa Liên bang Đức được coi là một trong những cái nôi đầu tiên
của HTX ở châu Âu, đến nay Đức vẫn một hệ thống HTX vững mạnh với
khoảng hơn 5.500 HTX, đặc biệt là trong khu vực nông nghiệp, nông thôn.
Chính sách phát triển HTX của Đức có một số lưu ý:
Các HTX được thành lập hoàn toàn trên cơ sở tự nguyện, hoạt động
theo nguyên tắc công khai, tự quản lý, tự chịu trách nhiệm. Các dịch vụ của
HTX đối với xã viên là hỗ trợ mang tính kinh tế, đem lại lợi ích kinh tế trực
tiếp lẫn lâu dài cho họ.
Đức chú trọng xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý và chính sách
nhằm tạo thuận lợi cho các HTX phát triển. HTX được đối xử hoàn toàn bình
đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác hoạt động trong cùng lĩnh vực.
Bình đẳng về mọi quyền lợi cũng như mọi nghĩa vụ theo luật định.
Nhà nước quy định tỷ lệ vốn góp tối thiểu và tối đa để không có những
thành viên góp vốn lớn đến mức chi phối, gây sức ép đối với HTX (từ 0.1%
đến 3%).
Chú trọng các biện pháp hỗ trợ gián tiếp như phát triển hạ tầng, đào tạo
kiến thức, tay nghề cho nông dân... Để tạo thuận lợi cho các HTX trong quan
71
hệ với các đối tác kinh doanh, trong vay vốn ngân hàng cũng như làm tốt
công tác quản lý nhà nước đối với các HTX, Đức đã minh bạch hóa hoạt động
của HTX thông qua quy định về kiểm toán bắt buộc hàng năm đối với tất cả
các HTX do Hiệp hội HTX thực hiện (điều này được quy định trong Luật
HTX của Đức).
- Kinh nghiệm của Nhật Bản
HTX nông nghiệp ở Nhật bản thu hút được sự tham gia của hầu hết
nông dân và được tổ chức thành hệ thống ba cấp: HTX cơ sở, các liên hiệp và
các liên đoàn quốc gia.
Để thúc đẩy các HTX nông nghiệp phát triển, Nhật Bản đặc biệt chú
trọng xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về HTX.
Các biện pháp và chính sách của Nhật Bản đối với các HTX nông
nghiệp luôn được cân nhắc kỹ lưỡng để không làm ảnh hưởng đến tính tự chủ
và độc lập của HTX.
Chính phủ Nhật Bản tăng cường xã hội hóa hệ thống phục vụ nông
nghiệp, coi HTX nông nghiệp là một trong những hình thức phục vụ xã hội
hóa tốt nhất đối với nông nghiệp, đồng thời yêu cầu các cấp các ngành giúp
đỡ và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các HTX nông nghiệp.
- Kinh nghiệm của Ấn Độ
Ấn Độ là nơi phát triển HTX sớm nhất ở châu Á. Chỉ tính riêng HTX
nông nghiệp đã có gần 500.000 HTX với hơn 200 triệu xã viên, chiếm 67%
hộ gia đình ở các làng xã. Chính sách phát triển HTX ở Ấn Độ có những điểm
đáng chú ý sau:
Chú trọng xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về HTX theo hướng
bảo đảm cho các HTX hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự lực, dân chủ
và đặt mục tiêu phục vụ xã viên lên hàng đầu.
HTX ở Ấn Độ được tổ chức thành hệ thống rộng khắp đất nước, trong
đó Liên minh HTX quốc gia Ấn Độ (NCUI) là tổ chức cao nhất, đại diện cho
toàn bộ HTX ở Ấn Độ. Mục tiêu chính của NCUI là hỗ trợ và phát triển
phong trào; nhiệm vụ chính của NCUI là thực hiện công tác đào tạo với hệ
72
thống ba cấp: Viện đào tạo quốc gia; Viện đào tạo cấp tỉnh; Trung tâm đào tạo
cấp huyện, quận.
Chính phủ Ấn Độ thành lập công ty quốc gia phát triển HTX. Công ty
này thực hiện nhiều dự án khác nhau để giúp các HTX chế biến, bảo quản,
tiêu thụ nông, lâm sản cũng như phát triển các vùng nông thôn lạc hậu.
- Kinh nghiệm của Trung Quốc
Lịch sử phát triển HTX ở Trung Quốc khá thăng trầm. Mặc dù HTX ra
đời khá sớm ở Trung Quốc với mô hình ban đầu là HTX cung tiêu (năm
1920) với các xã viên chủ chốt là nông dân, nhưng các HTX chỉ phát triển
mạnh sau khi nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa ra đời. Năm 1952,
Trung Quốc có 33.000 HTX cung tiêu; năm 1958, 100% các cộng đồng nông
dân đã tổ chức thành HTX nông nghiệp. Sau đó 750.000 HTX nông nghiệp đã
sáp nhập thành 26.000 công xã (ăn chung, làm chung). Từ năm 1979 các
HTX nông nghiệp kiểu công xã bắt đầu tan rã, chủ yếu còn lại HTX cung tiêu.
Đến năm 2001, Trung Quốc có khoảng có 29.500 HTX cung tiêu cơ sở,
10.000 HTX chuyên ngành, tập hợp thành 31 liên đoàn cấp tỉnh và 2.100 liên
đoàn cấp thành phố, với sự tham gia của khoảng 180 triệu hộ nông dân
(chiếm 80% hộ nông dân toàn quốc), tổng số vốn góp là 24,5 tỷ nhân dân tệ,
thu hút 4,55 triệu nhân viên, tổng doanh thu năm 1998 là 983,94 tỷ nhân dân
tệ. Chức năng chính của HTX cung tiêu bao gồm: Cung ứng dịch vụ kinh
doanh (được xem là một trong những chức năng quan trọng nhất của HTX);
Dịch vụ tiêu thụ nông sản; Khuyến nông; Kinh doanh bán lẻ; Chế biến nông
sản và sản xuất.
Để thực hiện được các chức năng nêu trên, HTX ở Trung Quốc nắm
trong tay nguồn lực rất lớn như các nhà máy chế biến, các kho lưu trữ... và
nguồn vốn lưu động. Ngoài ra, các HTX cung tiêu còn nắm trong tay hơn
100.000 trung tâm thu mua phế liệu, 161 triệu m2 kho và nhiều phương tiện
vận chuyển, điểm kinh doanh dịch vụ... Đặc biệt, các HTX còn có 60 viện
nghiên cứu và hơn 1.000 cơ sở đào tạo khác nhau.
73
Trong một thời gian dài phát triển, mô hình HTX cung tiêu ở Trung
Quốc đã có những đóng góp quan trọng vào những thành tựu tăng trưởng của
đất nước cũng như trợ giúp cho nông dân.Tuy nhiên, quá trình hoạt động cũng
cho thấy, mô hình này đã bộc lộ những nhược điểm nhất định. Tuy nhiên, trên
thực tế, quyền điều hành và quyết định các công việc quan trọng của HTX do
ban quản lý hoặc một nhóm người góp vốn quyết định. Trong một số trường
hợp, chính quyền còn can thiệp sâu vào các hoạt động của HTX. Một số địa
phương, chính quyền còn sử dụng HTX như một công cụ trong bộ máy quản
lý. Hiện tượng trá hình HTX để hưởng lợi, hưởng những chính sách ưu đãi
còn tồn tại ở nhiều địa phương.
- Kinh nghiệm của Thái Lan
Nhà nước Thái Lan rất coi trọng vai trò của HTX, xem đây là mô hình
phát triển kinh tế của khu vực đông dân cư nhưng yếu thế về kinh tế trong xã
hội, nhất là đối với các tầng lớp dân nghèo, đồng thời Thái lan sử dụng HTX
như là một công cụ quan trọng trong việc thực hiện các chương trình kinh tế -
xã hội cấp quốc gia.
Để thúc đẩy các HTX phát triển, Thái Lan đã thực hiện nhiều chính
sách thiết thực như chính sách giá, chính sách tín dụng... để khuyến khích
kinh tế hộ nông dân phát triển. Dành nguồn kinh phí khá lớn để cải thiện và
phát triển HTX như nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ HTX, phát triển công
nghệ, mở rộng thị trường...
Chính phủ Thái Lan thành lập Bộ Nông nghiệp và Hợp tác xã, trong đó
có hai vụ chuyên trách về HTX là Vụ Phát triển HTX và Vụ Kiểm toán HTX.
Vụ Phát triển HTX đóng vai trò quan trọng trong việc giúp đỡ các HTX thực
hiện hoạt động kinh doanh nhằm đạt được các mục tiêu mà HTX đề ra.Vụ
Kiểm toán HTX thực hiện chức năng kiểm toán HTX và hướng dẫn nghiệp vụ
kế toán trong công tác quản lý tài chính, kế toán HTX.
2.3.2. Bài học cho Việt Nam
- Về vị trí, vai trò và lĩnh vực hoạt động của HTX.
74
Vị trí, vai trò của các HTX luôn được nhấn mạnh trong chiến lược phát
triển kinh tế xã hội của nhiều quốc gia. Đây là lý do giải thích sự ra đời sớm
của luật HTX ở nhiều quốc gia trên thế giới. Mục tiêu cuối cùng của HTX là
trợ giúp các hoạt động sản xuất - kinh doanh, nâng cao đời sống của các xã
viên, song trước hết HTX phải là một tổ chức kinh tế, hay nói cách khác HTX
phải hoạt động như một doanh nghiệp, sản xuất, kinh doanh có lãi trên thị
trường để lấy đó làm cơ sở thực hiện các mục tiêu hỗ trợ của mình. Với việc
kết hợp được yếu tố kinh tế với giá trị nhân văn, HTX phải được tổ chức ở
những khâu mà nó có thể làm tốt hơn hộ gia đình, tốt hơn tư nhân và các loại
hình kinh tế khác. Do đó lựa chọn khâu nào để HTX làm là hết sức quan
trọng. Kinh nghiệm của quốc tế chỉ ra các khâu: cung ứng vật tư, hàng hoá
tiêu dùng, tín dụng tương hỗ, tiêu thụ sản phẩm và khuyến nông là rất phù
hợp với HTX.
- Về vai trò của nhà nước trong việc xây dựng khung khổ pháp luật,
ban hành chính sách.
Kinh nghiệm phát triển HTX nông nghiệp ở một số quốc gia cho thấy,
nhà nước luôn đóng vai trò quyết định đến sự phát triển của các HTX nông
nghiệp trong các giai đoạn phát triển khác nhau thông qua nhiều biện pháp
trực tiếp và gián tiếp. Sự hỗ trợ của nhà nước thể hiện trên các phương diện:
tạo khuôn khổ luật pháp; hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng ở nông thôn; tuyên
truyền, giáo dục về HTX; trợ giúp đào tạo cán bộ HTX... Bài học từ các nước
cho thấy, nhà nước thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ đối với HTX nhưng cần
phát hiện và ngăn ngừa những doanh nghiệp trá hình HTX để hưởng ưu đãi.
Việc hỗ trợ nguồn tài chính cho các HTX cũng cần cân nhắc bởi nó kéo theo
sự ỷ lại vào các chính sách hỗ trợ.
- Về tổ chức HTX.
Có thể HTX được thành lập ban đầu do ý chí của Chính phủ nhưng
trong quá trình hoạt động, HTX phải được trả về đúng vị trí của nó, do những
xã viên, người lao động điều hành và quản lý. Sự tự nguyện trên nền tảng
những tất yếu kinh tế, tôn trọng quy luật thị trường là nền tảng đảm bảo cho
75
các HTX hoạt động hiệu quả.Mục đích của HTX là gắn bó cùng nhau để tạo
ra các sản phẩm, dịch vụ đáp ứng nhu cầu của xã viên và hoạt động xã hội vì
cộng đồng.
Để đảm bảo tính tổ chức chặt chẽ, tự nguyện của các HTX, một số yếu
tố cơ bản cần đảm bảo bao gồm:
+ Bản thân các xã viên HTX nhận thức được vai trò của HTX, dĩ nhiên,
các HTX phải thể hiện được vai trò và những tác động của mô hình này đến
đời sống và hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi thành viên trong cộng
đồng. Khi nhận thức và hiểu biết của thành viên trong cộng đồng đã rõ ràng,
việc tham gia HTX được thực hiện từ dưới lên, từ nguyện vọng của chính
những người có nhu cầu hợp tác. Thực tiễn đã cho thấy, sẽ là sai lầm khi HTX
được thành lập và được sử dụng như một công cụ để thực hiện các chính sách
của nhà nước.
+ Sự hiểu biết nhất định của các cán bộ và xã viên về vị trí, vai trò và
sứ mệnh của mô hình HTX. Các nguyên tắc HTX và việc điều hành một HTX
cũng cần được các cán bộ quản lý và xã viên am hiểu.
+ Có cơ sở pháp lý thừa nhận những nguyên tắc HTX do Liên minh
HTX quốc tế quy định cũng như có cơ chế, chính sách ngăn ngừa sự lũng
loạn của Ban lãnh đạo HTX nhằm tạo điều kiện cho các HTX hoạt động độc
lập, dân chủ và với tư cách là tổ chức kinh doanh do xã viên làm chủ.
+ Đội ngũ cán bộ quản lý HTX phải đảm bảo được một số yêu cầu cơ
bản như: Sự năng động của HTX trong điều kiện kinh tế thị trường nhằm bảo
đảm cho các hoạt động của HTX luôn sống động và tạo ra các động cơ kinh tế
cho xã viên; Sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư của các cán bộ lãnh
đạo HTX; Cán bộ quản lý và nhân viên trung thực, giỏi nghiệp vụ chuyên
môn, được trả lương một cách xứng đáng cho việc điều hành hoạt động sản
xuất - kinh doanh của HTX.
- Về hoạt động của HTX.
Để giúp các hộ nông dân cải thiện điều kiện sống và phát triển sản xuất,
cần phải liên kết các hoạt động đầu ra, đầu vào cho họ dưới hình thức tốt nhất
76
là HTX nông nghiệp; HTX nông nghiệp phải thực sự hoạt động theo nguyên
tắc tự lực, tự chịu trách nhiệm, quản lý dân chủ và có sự tương trợ lẫn nhau.
Để làm được điều này các HTX nông nghiệp ở Việt Nam phải đáp ứng
được ba điều kiện:
+ Ban quản lý HTX phải có tâm huyết với mục tiêu giúp nông dân làm
giàu hơn là dùng HTX để làm giàu cho cá nhân mình hay để tích luỹ lợi
nhuận cho HTX.
+ Người nông dân hiểu được HTX chính là tổ chức tự họ giúp họ nên
hợp tác với ban quản lý nhằm thiết lập được chế độ hoạt động tối ưu cho
HTX.
+ Chính quyền địa phương không được can thiệp vào công việc của
HTX nhưng phải tạo điều kiện cho các mục tiêu xã hội của HTX có thể thực
hiện dễ dàng nhất.
- Cần đề cao vấn đề giáo dục đào tạo nhân lực cho HTX.
Chú trọng đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, cán bộ tư vấn cho
HTX và nông dân. Đặc biệt các HTX cần coi trọng hoạt động khuyến nông,
coi đây là phương tiện cơ bản giúp nông dân vượt khó, xoá nghèo để vươn lên
làm giàu. HTX nông nghiệp phải coi cải tạo tư tưởng phong cách, lề lối, tập
quán sản xuất của nông dân là mục tiêu của mình thì mới giúp ích nhiều cho
nông dân và giúp hộ nông dân phát triển lực lượng sản xuất để cạnh tranh
hiệu quả với nông dân thế giới trong nền kinh tế toàn cầu.
- Tổ chức cơ quan quản lý nhà nước đối với HTX.
Phải thành lập một cơ quan quản lý nhà nước thống nhất đối với HTX,
Kinh nghiệm của các nước cho thấy, họ tổ chức ra một cơ quan chuyên trách
để thực hiện chức năng quản lý nhà nước thống nhất đối với các HTX. Ở Thái
Lan thành lập Cục Phát triển HTX với hơn 4.000 nhân viên và tổ chức theo
ngành dọc từ Trung ương tới địa phương. Ở các nước phát triển khác như
Đức, Nhật Bản, Canada… nước nào cũng có số lượng nhân viên chuyên trách
làm nhiệm vụ quản lý, hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể lên đến hàng ngàn
người.
77
Kết luận chƣơng 2
Nghiên cứu cơ sở khoa học của quản lý nhà nước đối với HTX nông
nghiệp có thể rút ra một số vấn đề mang tính lý luận sau:
Thứ nhất, quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp là hoạt động
thực thi quyền lực nhà nước do các cơ quan nhà nước tiến hành đối với HTX
nông nghiệp nhằm mục tiêu phát triển, nâng cao hiệu quả HTX nông nghiệp
và thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển theo một định hướng thống nhất của
nhà nước. Nội dung cơ bản của quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp
gồm: xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển HTX nông nghiệp;
xây dựng khung pháp lý cho hoạt động của HTX nông nghiệp; xây dựng và tổ
chức thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển HTX nông nghiệp; công tác
thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm trong hoạt động của HTX nông
nghiệp; tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp.
Thứ hai, hoàn thiện quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp là tất
yếu khách quan, xuất phát từ yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam, từ yêu cầu của phát triển KTTT và HNQT, từ những
hạn chế và yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động của các HTX nông nghiệp ở
Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, tham khảo kinh nghiệm của các nước trên thế giới trong công
tác quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp. Trong đó phải đề cao vai trò
của nhà nước trong việc xây dựng khung khổ pháp luật, ban hành chính sách;
quan tâm đào tạo nhân lực cho HTX nông nghiệp; xác định vị trí, vai trò của
HTX nông nghiệp; công tác tổ chức và hoạt động của HTX nông nghiệp; việc
tổ chức cơ quan quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp.
78
Chƣơng 3
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
ĐỐI VỚI HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM
3.1. Thực trạng phát triển hợp tác xã nông nghiệp
3.1.1. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của hợp tác xã
nông nghiệp ở Việt Nam
3.1.1.1. Tình hình phát triển giai đoạn 1955-1986
Giai đoạn 1955-1986, HTX được xác định là một trong hai hình thức tổ
chức kinh tế chính thức ở Việt Nam. Giai đoạn này được coi là giai đoạn bùng
nổ của HTX với số lượng HTX tăng từ 45 HTX năm 1955 lên 73.470 HTX
năm 1986. HTX trở thành hình thức tổ chức kinh tế phổ biến thay dần hình
thức kinh tế cá thể và tổ đội sản xuất. Nhiều HTX đã phát triển thành HTX
bậc cao có quy mô toàn xã, thậm chí liên xã, nhất là trong nông nghiệp.
Sự phát triển nhanh chóng về mặt số lượng của HTX mà chủ yếu là
HTX nông nghiệp trong giai đoạn 1955-1986 là do sự đề cao tuyệt đối của
Nhà nước đối với kinh tế tập thể, trong khi đó vai trò của kinh tế hộ, kinh tế
tư nhân lại bị phủ định. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần
thứ 8 (khóa II) tháng 8/1955 đã đề ra chủ trương xây dựng thí điểm một số
HTX nông nghiệp. Trong 3 năm thực hiện thí điểm, nước ta xây dựng được
45 HTX và trên 100.000 tổ đổi công. Tháng 4/1959, Hội nghị Trung ương lần
thứ 16 (khóa II) đã quyết định chính thức đường lối, phương châm, chính
sách hợp tác hóa nông nghiệp và Trung ương đã triệu tập nhiều hội nghị nhằm
thúc đẩy phong trào hợp tác hóa. Cuối năm 1960, đại bộ phận nông dân ở
miền Bắc đã tham gia HTX bậc thấp. Năm 1961, Nhà nước công bố Điều lệ
HTX Việt Nam làm căn cứ thống nhất để củng cố tổ chức và cải tiến quản lý
HTX. Cho đến Đại hội Đảng VI năm 1986, cùng với việc thực hiện cải tạo
nông nghiệp, công thương nghiệp tư bản tư doanh, HTX ở nước ta đã được
hình thành ở hầu hết các lĩnh vực, các ngành kinh tế và ở tất cả địa phương.
Năm 1986, trong tổng số 73.470 HTX có 17.022 HTX nông nghiệp, 474 HTX
nghề cá, 32.034 HTX công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, 3.900 HTX xây
79
dựng, 3.300 HTX vận tải, 9.600 HTX mua bán và 7.160 HTX tín dụng.
Sự phát triển nhanh chóng của HTX đã có nhiều đóng góp cho công
cuộc giải phóng dân tộc và sự phát triển đất nước. Khu vực HTX đã huy động
được các nguồn lực của Nhà nước và nhân dân phục vụ công cuộc kháng
chiến chống Mỹ; cải thiện một bước đời sống, bộ mặt của nông thôn, kết cấu
hạ tầng khu vực. Tuy vậy, sự phát triển của HTX trong giai đoạn 1955-1986
đã bộc lộ một số hạn chế, đặc biệt sau năm 1972, tình hình kinh tế của các
HTX nhìn chung còn rất nhiều khó khăn về con người và vật chất.
Ngoài ra, các nguyên tắc cơ bản của HTX như tự nguyện, tự chủ, dân
chủ, công bằng, minh bạch cũng không được thực hiện đầy đủ. Thứ nhất,
nguyên tắc tự nguyện gia nhập HTX không được coi trọng. Trong gian đoạn
này, các hình thức tổ chức kinh tế tự nguyện (tổ hợp tác) đã được thay bằng
hình thức tổ chức kinh tế mang tính áp đặt hơn (HTX). Đầu những năm 60 thế
kỷ XX, ở miền Bắc tồn tại nhiều tổ đổi công và các hình thức hợp tác khác
của nông dân, kinh tế cá thể, tiểu chủ dưới hình thức đơn giản, mà thực chất
là các HTX ở trình độ thấp. Tuy nhiên, các hình thức tổ chức kinh tế này đã
nhanh chóng được thay thế bằng các HTX được hình thành theo mệnh lệnh
hành chính. Thứ hai, tính tự chủ của HTX không được đảm bảo. Dưới tác
động của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp, Nhà nước kiểm
soát toàn bộ các yếu tố sản xuất và giữ quyền quyết định việc sử dụng các yếu
tố sản xuất cũng như phân phối về thu nhập. Ngoài ra, các HTX hoạt động
theo điều lệ mẫu thống nhất do Chính phủ quy định (Quy tắc tổ chức HTX
mua bán và HTX tiêu thụ được ban hành kèm theo Nghị định số 649/TTg
ngày 30/12/1955, Điều lệ đăng ký kinh doanh công thương nghiệp được ban
hành kèm theo Nghị định số 76/CP ngày 8/4/1974, Điều lệ đăng ký kinh
doanh công thương nghiệp đã được ban hành kèm theo Nghị định số 119/CP
ngày 9/4/1980). Những can thiệp này đã ảnh hưởng không nhỏ đến nguyên
tắc tự chủ của HTX. Thứ ba, hoạt động của HTX thiếu sự công bằng và minh
bạch cần thiết. Quan hệ lợi ích giữa Nhà nước - HTX - xã viên không được
phân định rạch ròi, đặc biệt lợi ích của xã viên và người lao động trong HTX.
80
Nhìn một cách tổng quát, phát triển HTX nông nghiệp ở Việt Nam
trong thời kỳ 1955-1986 mang tính áp đặt cao, các nguyên tắc cơ bản của
HTX như tự nguyện, tự chủ, công bằng và minh bạch trong tổ chức và quản lý
chưa được thực hiện đầy đủ. Điều này đã tạo ra một hệ thống HTX nông
nghiệp tương đối lớn về mặt số lượng và quy mô, nhưng chưa phản ánh được
bản chất của HTX.
3.1.1.2. Tình hình phát triển giai đoạn 1987-1996
Giai đoạn 1987-1996, kinh tế tập thể cùng với kinh tế nhà nước được
coi là hình thức kinh tế chủ đạo của nền kinh tế, tuy nhiên đây cũng là thời kỳ
khó khăn nhất trong quá trình phát triển HTX ở nước ta; số lượng HTX bị
giảm mạnh, từ 73.490 HTX năm 1987 xuống còn 18.607 HTX năm 1996. Sự
suy giảm về mặt số lượng của HTX trong giai đoạn 1987- 1996 một mặt phản
ánh những thay đổi về chính sách, mặt khác phản ánh sự yếu kém của bộ phận
lớn các HTX, cũng như sự phát triển vượt quá yêu cầu về mặt số lượng HTX
trong giai đoạn trước 1986. Từ năm 1986, Việt Nam chuyển dần từng bước từ
cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, coi trọng khuyến khích và tạo điều kiện phát triển
kinh tế hộ, kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân, coi kinh tế hộ là chủ thể kinh tế tự
chủ. Sự chuyển đổi cơ chế kinh tế đã làm giảm dần vai trò và lợi thế của HTX
cũng như làm bộc lộ sự yếu kém của HTX.
Sự yếu kém của hệ thống HTX thể hiện ở các điểm chính sau: Thứ
nhất, hệ thống HTX không được thành lập, tổ chức và hoạt theo đúng các
nguyên tắc cơ bản của HTX, vì vậy không phát huy được động lực gia nhập
HTX của xã viên. Thứ hai, mô hình tổ chức HTX mặc dù đã được điều chỉnh
nhưng không phù hợp với cơ chế thị trường đã làm cho hệ thống HTX cũ bị tê
liệt, tan rã hoặc tự phát chuyển đổi thích nghi với môi trường mới. Thứ ba, hệ
thống HTX tỏ ra kém thích nghi với quá trình chuyển đổi cơ chế theo hướng
tăng cường sự tự chủ của HTX và giảm dần các ưu đãi về mặt nguồn vốn và
tín dụng đối với HTX.
Bài học về sự suy thoái của các HTX trong giai đoạn này phản ánh sự
81
lỗi thời của hệ thống HTX hoạt động không phù hợp với nguyên tắc cơ bản
của HTX (nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, dân chủ) được thành lập trong giai
đoạn trước 1986 trong điều kiện kinh tế thị trường. Ngoài ra, sự suy thoái của
hệ thống HTX trong thời kỳ này cũng phản ánh rằng, để tồn tại và phát triển
bền vững, các HTX cần được thành lập trên cơ sở các nhu cầu chung của xã
viên hơn là sự áp đặt của các cơ quan chính quyền.
3.1.1.3. Tình hình phát triển giai đoạn 1997-2003
Giai đoạn 1997-2003, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể mà
nòng cốt là HTX được coi là nền tảng của nền kinh tế quốc dân trong nền
kinh tế nhiều thành phần. Giai đoạn này cũng là giai đoạn thực hiện chuyển
đổi HTX từ mô hình HTX kiểu cũ (mang nặng tính hành chính, bao cấp) sang
mô hình hợp tác xã kiểu mới (mạng nặng tính tự chủ, thị trường) theo Nghị
quyết số 13-NQ/TW ngày 18/3/2002 về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng
cao hiệu quả kinh tế tập thể. Giai đoạn này chứng kiến sự chuyển đổi và thu
hẹp của HTX. Số lượng HTX đã giảm từ 18.607 năm 1986 xuống còn 14.207
năm 2003.
Sự giảm sút về số lượng HTX trong giai đoạn 1997-2003 phản ánh quá
trình chọn lọc của thị trường đối với hệ thống HTX và quá trình thực thi Luật
HTX (2003) theo hướng thực hiện đầy đủ hơn các nguyên tắc cơ bản của
HTX. Theo Liên minh HTX Việt Nam, trong số 14.207 HTX năm 2003 có
khoảng 5.800 HTX thành lập mới (riêng lĩnh vực nông nghiệp khoảng 2.139
HTX, chiếm tỷ lệ 37%); khoảng 8.400 HTX được chuyển đổi từ mô hình cũ
sang mô hình mới. Cũng trong giai đoạn này, có đến hơn 10.000 HTX bị giải
thể. Trong hai năm 2001-2002 đã có 2.271 HTX bị giải thể.
Tình hình phát triển HTX trong giai đoạn 1997-2003 có một số điểm
đáng chú ý sau: Thứ nhất, việc giải thể một số lượng lớn HTX khẳng định nếu
HTX không hoạt động đúng các nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, dân chủ, công
bằng và minh bạch sẽ gặp khó khăn trong điều kiện kinh tế thị trường. Thứ
hai, sự ra đời của các HTX mới phản ánh đây là một hình thức tổ chức kinh tế
có thể tồn tại và phát triển trong điều kiện kinh tế thị trường. Thứ ba, các
82
HTX chuyển đổi và thành lập mới theo Luật HTX chủ yếu tập trung ở các
vùng nông thôn có điều kiện kinh tế khó khăn như vùng trung du miền núi
phía Bắc có 4.034 HTX (chiếm 28%); vùng đồng bằng sông Hồng 5.063 HTX
(chiếm 36%). Ở các vùng phát triển sản xuất hàng hoá cao như Đông Nam Bộ
số lượng HTX chỉ có 642 HTX (chiếm 4,5%). Đặc điểm phát triển của HTX
trong giai đoạn 1997-2003 khẳng định các HTX không được thành lập trên cơ
sở tinh thần tự nguyện của xã viên, không có khả năng tự chủ (không kịp đổi
mới) sẽ gặp nhiều khó khăn trong điều kiện kinh tế thị trường. Ngoài ra sự ra
đời của một loạt HTX mới và sự phát triển rộng rãi của HTX ở khu vực và
khu vực khó khăn trong thời kỳ này phản ánh HTX là hình thức tổ chức kinh
tế chuyển đổi cần được ưu tiên phát triển đặc biệt là ở khu vực nông thôn và
khu vực mà người dân gặp nhiều khó khăn hay bất lợi.
3.1.1.4. Tình hình phát triển giai đoạn 2004-2012
Giai đoạn 2004 đến nay đánh dấu sự phục hồi của kinh tế HTX cả về
chất và lượng. Số lượng HTX đã tăng từ 14.207 năm 2003 lên 18.244 năm
2010. Sự tăng lên về mặt số lượng HTX ở giai đoạn này là kết quả của việc
chuyển đổi mô hình ở 8.500 HTX thành lập trước năm 1997, thành lập mới
9.744 HTX và giải thể 5.707 HTX. Sự phục hồi này phần nào phản ánh những
tác động tích cực của Luật HTX sửa đổi năm 2003 (chính thức có hiệu lực từ
ngày 1/7/2004) đến khu vực kinh tế hợp tác và HTX.
Các HTX đã tham gia ngày càng sâu rộng vào nhiều lĩnh vực kinh tế
khác nhau. Trong tổng số 18.244 HTX có 8.918 HTX nông nghiệp, 389 HTX
thủy sản, 2.497 HTX công nghiệp, 939 HTX xây dựng, 1.070 HTX vận tải,
981 HTX thương mại, dịch vụ, 1.053 quỹ tín dụng nhân dân và 2.020 các loại
hình khác (gồm 1.873 HTX dịch vụ điện, 173 HTX vệ sinh môi trường, 136
HTX chợ, 15 HTX y tế, v.v...).
Trong tổng số 18.244 HTX khu vực miền núi phía Bắc và Tây Nguyên
hiện có 4.974 HTX; khu vực Nam Bộ có 1.726 HTX; khu vực Trung Bộ có
4.267 HTX và khu vực đồng bằng sông Hồng hiện có 6.023 HTX.
Các hình thức liên kết giữa các HTX cũng phát triển mạnh trong giai
83
đoạn từ 2004 đến năm 2012. Khi đó cả nước có 53 liên hiệp HTX, trong đó có
18 liên hiệp HTX nông nghiệp, 2 liên hiệp HTX thủy sản, 8 liên hiệp HTX
GTVT, 4 liên hiệp HTX công nghiệp, 5 liên hiệp HTX xây dựng, 13 liên hiệp
HTX thương mại, dịch vụ. Các liên hiệp thu hút sự tham gia của 1.492 HTX.
Sự hồi phục và phát triển của HTX trong giai đoạn 2004 đến năm 2012
phản ánh xu thế phát triển tất yếu của kinh tế hợp tác trong giai đoạn mới.
Ngoài ra, sự phát triển của các liên hiệp HTX ngành nghề trong thời kỳ này
phần nào phản ánh yêu cầu hợp tác ở trình độ cao của kinh tế hội nhập.
3.1.1.5. Tình hình phát triển giai đoạn 2013 - nay
Tính đến hết năm 2015 trong lĩnh vực nông nghiệp có 19 liên hiệp hợp
tác xã nông nghiệp (trong đó có 03 liên hiệp hợp tác xã trồng trọt, 01 liên
hiệp hợp tác xã chăn nuôi, 01 liên hiệp hợp tác xã nuôi và khai thác thủy sản,
11 liên hiệp HTX dịch vụ tổng hợp); có 10.902 HTX nông nghiệp hoạt động
trên các lĩnh vực: trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, thủy lợi, lâm nghiệp, diêm
nghiệp và các dịch vụ phục vụ nông nghiệp chiếm 55,5% tổng số HTX trong
cả nước. Đa số các HTX nông nghiệp là các HTX kinh doanh tổng hợp
(khoảng 8096 HTX, chiếm 74,26%). Số lượng các HTX chuyên ngành không
nhiều (khoảng 2806 HTX, chiếm 25,74%), trong đó có: 1.222 HTX trồng trọt,
361 HTX chăn nuôi, 418 HTX thủy lợi và nước sinh hoạt, 151 HTX lâm
nghiệp, 601 HTX thủy sản, 53 HTX diêm nghiệp. Các HTX nông nghiệp
nhiều nhất là ở vùng đồng bằng sông Hồng (33,8%), Bắc Trung bộ (19,5%),
Đông Bắc bộ (16,9%), đồng bằng sông Cửu Long (11,1%). Hiện nay trên
phạm vi cả nước tuy số lượng HTX nông nghiệp thành lập mới mỗi năm khá
cao khoảng 800HTX/năm, song do số lượng HTX nông nghiệp giải thể vì
hoạt động kém hiệu quả cũng rất lớn khoảng 550 HTX/năm, nên về tổng số
lượng HTX nông nghiệp tăng trung bình chỉ khoảng 250 HTX/năm, không
tăng nhiều hơn so với trước khi Luật HTX năm 2012 ra đời.
Về thành viên và hoạt động của HTX:
Hiện nay cả nước có hơn 7,3 triệu thành viên HTX, trong đó có khoảng
7,6 triệu hộ gia đình, cá nhân là thành viên HTX nông nghiệp, đạt tỉ lệ khoảng
84
45% trên tổng số hộ nông nghiệp, nông thôn, trung bình là 615 thành viên/
HTX. Giá trị sản xuất, kinh doanh khoảng 1,0 tỉ đồng/HTX. Lợi nhuận bình
quân khoảng 200 triệu đồng/HTX/năm; thu nhập bình quân của các thành
viên và người lao động ước đạt trên dưới 1,0 triệu người/tháng. Đa số các
HTX nông nghiệp hiện nay thực hiện các dịch vụ phục vụ sản xuất nông
nghiệp và sinh hoạt ở nông thôn (thấp nhất là 03 nhiều nhất là 16 dịch vụ),
bao gồm: cung ứng các dịch vụ đầu vào (giống, vật tư, phân bón, tưới tiêu…),
bảo quản, chế biến, tiêu thụ sản phẩm; quản lý và khai thác cơ sở hạ tầng
phục vụ sản xuất nông nghiệp, thực hiện liên kết với các doanh nghiệp để đầu
tư sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản. Một số HTX nông nghiệp có sự đổi
mới về phương thức hoạt động, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, thực
hiện liên kết với các doanh nghiệp, do đó đã nâng cao được hiệu quả hoạt
động của HTX, thu nhập của các thành viên và khẳng định được vai trò kinh
tế hợp tác cho các hộ gia đình thành viên.
Về tình hình vốn, quỹ của HTX: nhìn chung các HTX nông nghiệp đều
thiếu vốn để sản xuất, kinh doanh. Mức vốn trung bình của các HTX đều rất
thấp và chủ yếu là vốn tài sản cố định đã sử dụng lâu năm như nhà xưởng,
mương máng, trạm bơm, máy móc và các thiết bị phục vụ sản xuất nông
nghiệp khác nhưng cũng đã xuống cấp, lạc hậu. Các HTX nông nghiệp
thường rất khó tiếp cận được với nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng do
không có tài sản thế chấp, hoạt động kinh doanh rủi ro cao, sổ sách kế toán
chưa minh bạch và chưa xây dựng được phương án kinh doanh khả thi.
Kết quả đăng ký và tổ chức lại hoạt động theo Luật HTX
Từ khi Luật HTX có hiệu lực (01/7/2013) đến nay đã có:
- 04/19 liên hiệp HTX hoạt động theo Luật HTX (trong đó có 03 liên
hiệp HTX thành lập mới), còn 15 liên hiệp HTX chưa tổ chức lại theo Luật.
- 2.056 HTX cũ đăng ký lại hoạt động (chiếm 18,87% số HTX).
- 1.145 HTX mới thành lập (chiếm 10,51% số HTX) nâng số HTX đăng
ký lại hoạt động theo Luật HTX chiếm 29,38% tổng số HTX nông nghiệp.
85
- 480 HTX hoạt động không hiệu quả phải giải thể, sáp nhập (trong đó
400 HTX giải thể, 62 HTX sáp nhập, hợp nhất, 18 HTX chuyển loại hình kinh
doanh khác). Tuy nhiên, vẫn còn 1.062 HTX hoạt động không hiệu quả phải
ngừng hoạt động hoặc hoạt động cầm chừng vẫn chưa được giải thể (chiếm
9,75 % số HTX).
Một số nhận xét
Qua việc khái quát quá trình hình thành và phát triển của HTX nông
nghiệp ở Việt nam từ năm 1955 đến nay, có thể rút ra một số nhận xét sau:
Thứ nhất, các nguyên tắc cơ bản của HTX như tự nguyện, tự chủ, dân
chủ, công bằng, minh bạch chưa được thực hiện đầy đủ trong các giai đoạn
trước đổi mới, dẫn đến sự phát triển của các HTX nông nghiệp thiếu nội lực.
Sau năm 1986, sự vận hành của nền KTTT đã làm giảm vai trò của HTX
trong nền kinh tế, nên để tồn tại và phát triển, các nguyên tắc tự nguyện, tự
chủ, dân chủ, công bằng, minh bạch dần được củng cố ở các HTX. Điều này
đã tạo ra những thay đổi về bản chất của HTX từ khi đổi mới đến nay.
Thứ hai, số lượng HTX nông nghiệp thay đổi qua các giai đoạn chủ yếu
do tác động của pháp luật và chính sách. Tác động của pháp luật đến sự phát
triển của HTX nông nghiệp được thể hiện rõ nhất vào năm 1996 và 2003. Sự
ra đời của Luật HTX vào năm 1996 đã làm cho HTX nông nghiệp trở nên tự
chủ hơn, ít chịu sự chi phối hơn từ các cơ quan hành chính nhà nước. Điều
này đã góp phần cải thiện nguyên tắc tự chủ của HTX. Luật HTX năm 2003
phần nào đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của HTX, tuy nhiên bản chất của
HTX cũng chưa được xác định cụ thể, đã dẫn tới xu hướng chạy theo lợi
nhuận và doanh nghiệp hóa ở nhiều HTX. Điều này đã làm cho bản chất của
HTX có những sai lệch, việc gia nhập HTX của xã viên mới gặp nhiều khó
khăn ở một số địa phương.
Thứ ba, vai trò của HTX nói chung và HTX nông nghiệp nói riêng
trong phát triển kinh tế - xã hội ngày càng suy giảm. Nguyên nhân chủ yếu là
sự không rõ ràng trong nhận thức về khái niệm HTX. HTX nông nghiệp cần
được coi là một tổ chức kinh tế - xã hội (hơn là tổ chức kinh tế thuần túy theo
86
các văn bản pháp luật hiện hành) thì họ mới được hưởng các chính sách ưu
đãi xã hội về mặt đất đai, thuế, đầu tư, và các ưu đãi khác.
3.1.2. Thực trạng kết quả hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp
3.1.2.1. Thực trạng tổ chức và quản lý ở các hợp tác xã nông nghiệp
* Việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức và quản lý HTX nông nghiệp
Tình hình thực hiện các nguyên tắc tự nguyện, tự chủ và công bằng ở
một số HTX nông nghiệp được thể hiện ở Bảng 1. Kết quả này cho thấy tỷ lệ
xã viên đánh giá tốt các tiêu chí của nguyên tắc tự nguyện, tự chủ và công
bằng ở các HTX biến động trong khoảng 50-67%. Tỷ lệ đánh giá tốt từ các xã
viên gia đình không tham gia hoạt động kinh tế cao hơn nhiều so với tỷ lệ này
từ các xã viên gia đình tham gia hoạt động kinh tế.
Bảng 1. Nguyên tắc tự nguyện, tự chủ và công bằng (%)
Tỷ lệ đánh giá tốt
Nhóm mẫu Nhóm mẫu
Chỉ tiêu Toàn bộ gia đình có gia đình
mẫu hoạt động không hoạt
kinh tế động kinh tế
1. Nguyên tắc tự nguyện của HTX 51,35 44,19 64,00 nông nghiệp
2. Nguyên tắc tự chủ của HTX nông 66,67 54,55 80,00 nghiệp
3. Sự phù hợp giữa lợi nhuận được 57,32 43,48 76,67 chia và đóng góp về vốn
4. Sự phù hợp giữa tiền công và đóng 53,09 45,65 56,67 góp sức lao động
5. Sự phù hợp giữa lợi nhuận được
chia và mức tiêu dùng hàng hóa/dịch 50,00 40,48 53,85
vụ do HTX cung cấp
Nguồn: Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển, 2011
87
Tình hình thực hiện các nguyên tắc dân chủ được thể hiện ở Bảng 2. Tỷ
lệ xã viên đánh giá tốt các tiêu chí của nguyên tắc dân chủ ở các HTX biến
động trong khoảng từ 61-71%. Tỷ lệ đáng giá tốt từ các xã viên gia đình
không tham gia hoạt động kinh tế cao hơn rất nhiều so với tỷ lệ này từ các xã
viên gia đình tham gia hoạt động kinh tế.
Bảng 2. Nguyên tắc dân chủ (%)
Nhóm mẫu
Nhóm mẫu gia
Tỷ lệ đánh giá tốt
Toàn bộ
gia đình có
đình không
mẫu
hoạt động
hoạt động kinh
kinh tế
tế
Chỉ tiêu
1.Tính đại diện của ban quản trị 70.59 59,57 81,82 HTX nông nghiệp
2. Quan hệ giữa xã viên và ban 68,60 57,45 78,79 quản trị HTX nông nghiệp
3. Quan hệ lợi ích giữa người làm 66,25 55,81 75,00 công, người góp vốn và xã viên
4. Tính đại diện của ban kiểm soát 63,75 51,11 80,00 HTX nông nghiệp
5. Nguyên tắc dân chủ trong tổ 61,33 51,16 69,23 chức, hoạt động
Nguồn:Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển, 2011
Tình hình thực hiện các nguyên tắc minh bạch được thể hiện ở Bảng 3.
Tỷ lệ xã viên đánh giá tốt các tiêu chí của nguyên tắc minh bạch ở các HTX
biến động trong khoảng từ 62-71%; tỷ lệ này phản ánh sự ổn định về minh
bạch mức đóng góp các nguồn lực và sử dụng sản phẩm hàng hóa/dịch vụ của
HTX nông nghiệp. Tỷ lệ đáng giá tốt từ các xã viên gia đình không tham gia
hoạt động kinh tế cao hơn rất nhiều so với tỷ lệ này từ các xã viên gia đình
tham gia hoạt động kinh tế.
88
Bảng 3. Nguyên tắc minh bạch (%)
Tỷ lệ đánh giá tốt
Nhóm mẫu Nhóm mẫu
Chỉ tiêu Toàn bộ gia đình có gia đình
mẫu hoạt động không hoạt
kinh tế động kinh tế
1. Minh bạch trong quản lý tài sản 71,79 60,00 92,59 chung
2. Minh bạch về mức độ đóng góp 67,53 55,81 82,14 sức lao động
3. Minh bạch về đóng góp tài chính 67,11 56,82 76,92
4. Minh bạch về mức sử dụng hàng 63,38 55,81 72,73 hóa/dịch vụ do HTX cung cấp
5. Minh bạch trong phân chia lợi 62,16 55,56 73,91 nhuận
Nguồn: Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển, 2011
Nhìn chung, các nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, dân chủ, công bằng,
minh bạch đã được triển khai nhưng chưa đáp ứng được nguyện vọng của
toàn thể xã viên. Các nguyên tắc dân chủ, minh bạch được thực hiện rộng rãi
nhất đáp ứng được yêu cầu của từ 62-72% số xã viên. Trong khi đó các
nguyên tắc tự nguyện, tự chủ và công bằng chỉ đáp ứng được nhu cầu của từ
50-67% số xã viên. Các nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, công bằng, minh bạch
và tự chủ nhận được sự đánh giá cao hơn từ nhóm các xã viên gia đình tham
gia hoạt động kinh tế. Điều này phản ánh các HTX dịch vụ có thể thực hiện
tốt hơn các HTX lao động trong việc thực thi các nguyên tắc của HTX.
* Mức độ hài lòng của xã viên hợp tác xã nông nghiệp
Nhìn tổng thể, các xã viên tương đối hài lòng với thực trạng HTX nông
nghiệp hiện nay. Điều này thể hiện ở tỷ lệ xã viên hài lòng với thực trạng
HTX nông nghiệp, tỷ lệ xã viên tiếp tục gắn bó với HTX nông nghiệp và tỷ lệ
xã viên vận động người thân tham gia HTX nông nghiệp tương đối cao (từ
89
79,5-89,16%). Ngoài ra, kết quả này cũng phản ánh sự cần thiết phải tiếp tục
phát triển HTX nông nghiệp từ góc độ xã viên, phản ánh sự phù hợp của mô
hình HTX nông nghiệp đối với bà con xã viên.
Bảng 4. Sự hài lòng của xã viên đối với HTX nông nghiệp (%)
Tỷ lệ đánh giá tốt
Nhóm mẫu Nhóm mẫu
Chỉ tiêu Toàn bộ gia đình có gia đình
mẫu hoạt động không hoạt
kinh tế động kinh tế
Tỷ lệ xã viên hài lòng với HTX 79,52 82,61 71,88 nông nghiệp
Tỷ lệ xã viên chắc chắn tiếp tục 83,33 91,49 71,88 gắn bó với HTX nông nghiệp
Tỷ lệ xã viên chắc chắn giới thiệu
người thân, bạn bè tham gia HTX 89,16 95,74 77,42
nông nghiệp
Nguồn: Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển, 2011
Tỷ lệ hài lòng với HTX nông nghiệp của nhóm mẫu gia đình có hoạt
động kinh tế cao hơn nhóm mẫu gia đình không tham gia hoạt động kinh tế.
Kết quả này phần nào phản ánh HTX nông nghiệp có vai trò quan trọng đối
với kinh tế hộ gia đình và yêu cầu khách quan tiếp tục phát triển HTX nông
nghiệp
Tóm lại, tỷ lệ xã viên hài lòng với HTX nông nghiệp, tỷ lệ xã viên có ý
định gắn bó với HTX nông nghiệp, tỷ lệ xã viên có ý định giới thiệu người
thân, bạn bè gia nhập HTX nông nghiệp tương đối cao, phản ánh các HTX
nông nghiệp đã đáp ứng được các mong đợi của xã viên, mặt khác cũng phản
ánh yêu cầu khách quan phải tiếp tục phát triển HTX nông nghiệp.
* Mức độ đạt được mục tiêu hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp
Quy mô giá trị gia tăng, quy mô vốn, hiệu quả hoạt động kinh doanh,
và mức thu nhập bình quân đầu người ở các HTX nông nghiệp cho thấy, HTX
90
nông nghiệp là khu vực kinh tế tương đối nhỏ và có hiệu quả kinh doanh rất
thấp so với các khu vực kinh tế khác. Đặc biệt tỷ trọng đóng góp của kinh tế
hợp tác vào GDP cuả cả nước rất nhỏ bé và đang có xu hướng giảm dần. Các
số liệu phản ánh quy mô và hiệu quả của HTX nông nghiệp ở các phần trước
góp phần khẳng định rằng, HTX nông nghiệp không phải là tổ chức hoạt động
với mục tiêu tạo ra nhiều lợi nhuận cho xã viên từ tiền góp vốn của họ. Tuy
nhiên, HTX nông nghiệp có hai đóng góp rất quan trọng đối với xã viên, thứ
nhất là cung cấp hàng hóa dịch vụ cho xã viên và thứ hai là tạo công ăn việc
làm cho người lao động. Kết quả khảo sát của Viện Nghiên cứu Kinh tế và
Phát triển năm 2011 cũng cho thấy như vậy. Theo kết quả này, ba lợi ích cơ
bản của HTX nông nghiệp có thể mang lại cho xã viên là: (i)sử dụng sản
phẩm dịch vụ của HTX nông nghiệp; và (ii)tạo thu nhập từ làm việc cho HTX
nông nghiệp. Tuy nhiên, tạo thu nhập từ góp vốn không phải là lợi ích cơ bản
mà HTX nông nghiệp có thể mang lại cho xã viên (xem Bảng 5).
Bảng 5. Lợi ích của HTX nông nghiệp đối với xã viên (%)
Tỷ lệ trả lời
Chỉ tiêu
Toàn bộ mẫu
Nhóm mẫu gia đình không hoạt động kinh tế Nhóm mẫu gia đình có hoạt động kinh tế
Sử dụng sản phẩm, dịch vụ do HTX
nông nghiệp cung cấp với chi phí 30,19 44,12 5,88
thấp hơn so với giá thị trường
Tạo thu nhập thông qua đóng góp sức 56,60 41,18 82,36 lao động cho HTX nông nghiệp
Tạo thu nhập thông qua góp vốn vào 13,21 14,71 11,76 HTX nông nghiệp
Toàn bộ 100 100 100
Nguồn: Viện nghiên cứu Kinh tế và Phát triển, 2011
91
Kết quả điều tra ở Bảng 5 cho thấy, tạo công ăn việc làm là lợi ích quan
trọng nhất mà HTX nông nghiệp mang lại cho xã viên (trên 56% đồng ý), đặc
biệt là đối với các xã viên không tổ chức hoạt động kinh tế hộ (tỷ lệ đồng ý
trên 82%). Tuy nhiên, đối với các hộ có tham gia hoạt động kinh tế thì việc sử
dụng sản phẩm/dịch vụ do HTX nông nghiệp cung cấp là lợi ích phổ biến nhất
(44%). Một tỷ lệ rất nhỏ cho rằng HTX nông nghiệp là nơi tạo ra thu nhập
cho họ thông qua góp vốn (dưới 15%). Kết quả điều tra chỉ ra rằng bản chất
của HTX nông nghiệp là tổ chức tạo việc làm và cung cấp sản phẩm/dịch vụ
cho xã viên. Hay nói cách khác HTX nông nghiệp là tổ chức kinh tế của
những người lao động và người sử dụng sản phẩm/dịch vụ của HTX nông
nghiệp.
Bảng 6. Vai trò của HTX nông nghiệp đối với tạo việc làm
và cung cấp dịch vụ cho xã viên
Nhóm mẫu Nhóm mẫu
Toàn bộ gia đình có gia đình Chỉ tiêu mẫu hoạt động không hoạt
kinh tế động kinh tế
1.Trung bình hàng tuần ông/bà dành
bao nhiêu thời gian để làm việc cho 41,27 36,48 46,67
HTX nông nghiệp (tiếng/tuần)
2.Trung bình hàng tháng gia đình
ông/bà chi tiêu bao nhiêu tiền để 3.339,42 4.445,36 602,27 mua các sản phẩm/dịch vụ của HTX
nông nghiệp (ngàn đồng/tháng)
3. Trung bình hàng tháng ông/bà chi
tiêu hết bao nhiêu tiền cho gia đình 4.120,14 4.813,75 2.803,70
(ngàn đồng/tháng)
4. Tỷ lệ chi tiêu từ HTX/tổng chi tiêu 81,05% 92,35% 21,48%
Nguồn: Viện nghiên cứu Kinh tế và Phát triển, 2011
92
Kết quả Bảng 6 cho thấy HTX nông nghiệp có vai trò tương đối quan
trọng trong việc tạo việc làm và cung cấp hàng hóa dịch vụ cho xã viên. Các
xã viên gia đình không tổ chức các hoạt động kinh tế được hưởng lợi nhiều
hơn từ HTX nông nghiệp trên khía cạnh công ăn việc làm, tỷ lệ thu nhập từ
HTX/tổng thu nhập của nhóm này cũng cao hơn nhóm các xã viên gia đình có
tổ chức các hoạt động kinh tế. Tuy nhiên, các xã viên gia đình tham gia hoạt
động kinh tế lại được hưởng lợi nhiều hơn từ việc sử dụng các sản phẩm dịch
vụ của HTX nông nghiệp. Kết quả này cũng chỉ ra rằng, HTX nông nghiệp
đóng vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra công ăn việc làm cho xã viên (41
giờ lao động/tuần) và là nguồn cung cấp hàng hóa/dịch vụ quan trọng cho các
xã viên (chiếm 81,05% chi tiêu hàng tháng) trong tổng chi tiêu tương đối
khiêm tốn hàng tháng khoảng 3,3 triệu đồng.
Tóm lại, các số liệu kinh tế thứ cấp và kết quả điều tra xã viên đều
khẳng định, HTX nông nghiệp là tổ chức kinh tế tập hợp những người lao
động có điều kiện kinh tế khó khăn lại với nhau nhằm mục đích sản xuất hàng
hóa/dịch vụ phục vụ cho xã viên hoặc tạo công ăn việc làm cho xã viên.
Thực trạng liên kết sức mạnh của HTX nông nghiệp:
Thực trạng liên kết sức mạnh của HTX nông nghiệp được đánh giá trên
cơ sở mức độ hài lòng của xã viên đối với các hoạt động này (xem Bảng 3).
Các hoạt động liên kết sức mạnh của HTX nông nghiệp được chia thành hai
nhóm, liên kết nội bộ và liên kết với bên ngoài. Đa số xã viên hài lòng với
năng lực liên kết của HTX nông nghiệp. Các xã viên gia đình không tham gia
hoạt động kinh tế đánh giá cao các năng lực này hơn các xã viên có tham gia
hoạt động kinh tế.
Hoạt động liên kết sức mạnh nội bộ thể hiện ở mức độ liên kết xã viên
trong nội bộ HTX nông nghiệp, mức độ phát huy sức mạnh tổng hợp của xã
viên và mức độ liên kết giữa HTX nông nghiệp với kinh tế hộ của xã viên.
Nhìn chung, hoạt động liên kết sức mạnh nội bộ của HTX nông nghiệp được
đông đảo xã viên đánh giá cao.
93
Các năng lực liên kết với bên ngoài (4. Khả năng tiêu thụ sản phẩm ra
thị trường; 5. Khả năng thu hút lao động không phải là xã viên; 6. Thực hiện
chức năng giải quyết những các thủ tục hành chính với các cơ quan quản lý
nhà nước; 7. Năng lực hợp tác với các HTX khác) mặc dù được trên 50% xã
viên hài lòng nhưng tỷ lệ hài lòng chưa cao.
Bảng 7. Năng lực hợp tác của các HTX nông nghiệp (%)
Tỷ lệ hài lòng
Nhóm mẫu Nhóm mẫu
gia đình gia đình Chỉ tiêu Toàn bộ có hoạt không hoạt mẫu động kinh động kinh
tế tế
1. Tính liên kết trong nội bộ xã viên 84,48 81,25 87,50 HTX nông nghiệp
2. Phát huy được sức mạnh tổng hợp 80,95 75,00 90,00 của xã viên
3. Sự liên kết giữa HTX nông nghiệp 72,50 78,72 62,96 và kinh tế của hộ của xã viên
4. Khả năng tiêu thụ sản phẩm ra thị 62,82 64,44 55,56 trường
5. Khả năng thu hút lao động không 60,76 55,56 64,29 phải xã viên
6. Thực hiện chức năng giải quyết các
thủ tục hành chính với các cơ quan 51,28 52,17 46,15
quản lý nhà nước
7. Năng lực hợp tác với các HTX khác 50,63 46,67 50,00
Nguồn: Viện nghiên cứu Kinh tế và Phát triển, 2011
Kết quả này chỉ ra rằng HTX nông nghiệp đã thực hiện rất tốt việc kết
hợp các sức mạnh nội bộ, tuy nhiên chưa thực hiện tốt việc liên kết sức mạnh
với bên ngoài. Ngoài ra, kết quả này cũng phản ánh rằng HTX nông nghiệp là
94
tổ chức có vai trò phát huy sức mạnh của sự hợp tác cho các xã viên. Kết quả
điều tra chỉ ra rằng các HTX nông nghiệp phục vụ các xã viên có hoàn cảnh
khó khăn hơn (gia đình không tổ chức hoạt động kinh tế hộ) tốt hơn việc phục
vụ các xã viên có điều kiện tốt hơn (gia đình tổ chức hoạt động kinh tế).
3.1.2.2. Thực trạng quy mô và hiệu quả của hợp tác xã nông nghiệp
* Quy mô giá trị gia tăng
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê tuy mức tăng trưởng GDP chung
của cả nền kinh tế, GDP của thành phần kinh tế tập thể liên tục gia tăng,
nhưng khu vực HTX hầu như không gia tăng mà còn có xu hướng giảm ở
những năm 2013, 2014 và 2015 (đồ thị 1). Điều này cho thấy, khu vực kinh tế
HTX cũng chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2008-2009.
Đồ thị 1. Giá trị gia tăng và tốc độ tăng trƣởng giá trị gia tăng
Nguồn: Tính toán từ Liên minh HTX, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tổng cục Thống kê
Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng của khu vực kinh tế tập thể tương đối
thấp và liên tục giảm từ năm 2005 đến năm 2010, từ năm 2011 đến 2015 có
xu hướng tiếp tục giảm. Cụ thể, tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng của khu
vực này năm 2015 là 2,83%, năm 2014 là 2,91%, 2013 là 3,12%, năm 2012 là
3,31% , năm 2011 là 3,12%, 2010 đạt khoảng 3,2%, năm 2009 đạt 3,3%, năm
2008 đạt khoảng 3,11%, năm 2007 đạt khoảng 3,32%, năm 2006 đạt 3,51%
và năm 2005 đạt 3,98%. Đóng góp của kinh tế HTX vào GDP tương đối thấp
và có xu hướng tăng chậm. Trong giai đoạn 1995-2003, khu vực khu vực này
đóng góp khoảng 8,5% GDP, (con số này của khu vực tư nhân là 7,6% GDP,
95
khu vực nhà nước là 39,2%, khu vực kinh tế cá thể là 32,9%, khu vực kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài là 11,54%). Từ sau năm 2005, tỷ trọng đóng góp
trong GDP của khu vực kinh tế tập thể giảm rõ rệt, chỉ chiếm bình quân
khoảng 5,76% trong GDP, thay vào đó là sự phát triển của kinh tế tư nhân và
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Quy mô nhỏ cùng xu hướng giảm dần trong đóng góp của kinh tế HTX
vào GDP phản ánh kinh tế HTX là khu vực kinh tế đang bị tụt hậu so với các
khu vực kinh tế khác.
* Quy mô xã viên
Về mặt quy mô xã viên (đồ thị 2), tổng số xã viên tham gia HTX đã
tăng nhanh trong giai đoạn 2003-2015. Năm 2003, các HTX chỉ thu hút trên
6,5 triệu xã viên, đến năm 2007 con số này lên đến trên 7,4 triệu, năm 2012
đạt trên 12,9 triệu, đến năm 2015 tụt xuống còn 10,902 triệu.
Đồ thị 2. Tổng số lƣợng xã viên và số lƣợng xã viên bình quân/HTX
Nguồn: Tính toán từ Liên minh HTX, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tổng cục Thống kê
Quy mô xã viên bình quân trên 1 HTX cũng có xu hướng tăng từ
khoảng 459 xã viên/ HTX năm 2003 lên 685 xã viên/HTX năm 2010, tăng
cao nhất là năm 2012 với 705 xã viên/HTX, đến năm 2015 còn 615 thành
viên/HTX. Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) là nơi thu hút nhiều xã viên nhất
(trung bình 960 xã viên/QTDND); tiếp đó là HTX nông nghiệp (953 xã
viên/HTX) và ít nhất là HTX thương mại (43 xã viên/HTX).
96
Quy mô xã viên và sự biến động về quy mô xã viên trong khu kinh tế
HTX và số xã viên bình quân/HTX ở mức độ cao và có xu hướng tăng dần phản
ánh vai trò kinh tế - xã hội ngày càng tăng của HTX.
* Hiệu quả sản xuất kinh doanh
Mặc dù đã có sự tăng trưởng nhất định trong sản xuất, hiệu quả kinh
doanh khu vực HTX vẫn còn thấp. Theo số liệu của Liên minh HTX, mức lợi
nhuận bình quân hàng năm của các HTX đã tăng từ 75 triệu đồng năm 2006
lên 95 triệu đồng năm 2009, 140 triệu đồng năm 2013 và 196 triệu đòng năm
2015 (đồ thị 3), tuy nhiên đây là những con số tương đối nhỏ bé so với quy
mô vốn và quy mô xã viên.
Nguồn: Tính toán từ Liên minh HTX, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tổng cục Thống kê
Theo kết quả của dự án “Khảo sát thu thập thông tin xây dựng cơ sở dữ
liệu HTX trên địa bàn toàn quốc”, tổng lợi nhuận trước thuế của khu vực
HTX năm 2007 là 1.295.946 triệu đồng và mức lợi nhuận bình quân là 89,38
triệu đồng/HTX. Tổng lợi nhuận sau thuế là 1.114.996 triệu đồng và mức lợi
nhuận bình quân sau thuế là 76,9 triệu đồng/HTX. Các con số này trước thuế
của các HTX ở khu vực đồng bằng sông Hồng lần lượt là 243.117 triệu đồng,
48,06 triệu đồng; vùng Đông Bắc là 200.773 triệu đồng và 76,4 triệu đồng;
vùng Tây Bắc là 33.556 triệu đồng và 55,56 triệu đồng; vùng Bắc Trung Bộ là
153.142 triệu đồng và 55,61 triệu đồng; vùng duyên hải miền trung là 74.797
triệu đồng và 75,94 triệu đồng; vùng Tây Nguyên là 61.015 triệu đồng và 124,52
triệu đồng; vùng Đông Nam Bộ là 259.278 triệu đồng và 310,88 triệu đồng;
vùng đồng bằng sông cửu long là 270.268 triệu đồng và 235,84 triệu đồng.
97
Với số liệu năm 2007, mức vốn bình quân là 2.375,09 triệu đồng và
mức lợi nhuận bình quân là 89,38 triệu đồng/HTX, thì tỷ lệ lợi nhuận/vốn đầu
tư của HTX chỉ đạt 3,7%. Con số này cho thấy hiệu quả kinh doanh của HTX
là tương đối thấp. Chính vì vậy nếu coi HTX là tổ chức hoạt động vì lợi
nhuận, HTX khó có cơ hội tồn tại.
* Thu nhập bình quân đầu người
Ngoài các lao động là xã viên HTX, thu nhập bình quân hàng năm của
lao động làm việc thường xuyên trong HTX cũng có xu hướng tăng lên, năm
2006 thu nhập bình quân của lao dộng chỉ là 7,2 triệu đồng, năm 2007 tăng
lên 8 triệu đồng, năm 2008 tăng lên 9 triệu đồng và năm 2009 thu nhập bình
quân của người lao động tăng 10,5 triệu đồng tăng 45,8 % so với năm 2006,
nhưng giai đoạn từ 2010 đến 2015 không tăng nhiều, chỉ tăng từ 11 triệu đồng
lên 12,1 triệu đồng tương ứng với 10% (đồ thị 4).
Nguồn: Tính toán từ Liên minh HTX, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tổng cục Thống kê
Thu nhập bình quân của xã viên HTX theo số liệu báo cáo của 32 địa phương1, năm 2009 ước đạt 10,58 triệu đồng/xã viên/năm tăng 11,5 % so với
thực hiện năm 2008; thu nhập bình quân của lao động làm việc thường xuyên trong HTX, liên hiệp HTX theo số liệu báo cáo của 36 địa phương2, năm 2009
1 Gồm các tỉnh: Cao Bằng, Yên Bái, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc Giang, Phú Thọ, Điện Biên, Lai Châu, Bắc Ninh, Hải Dương, Vĩnh Phúc, Hà Nam, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Gia Lai, Kon Tum, Đắk Nông, Lâm Đồng, Đà Nẵng, Quảng Nam, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận, Bình Dương, Long An, Bến Tre, Trà Vinh, Hậu Giang, Đồng Tháp, Cà Mau. Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 2 Gồm các tỉnh: Cao Bằng, Yên Bái, Thái Nguyên, Bắc Giang, Phú Thọ, Điện Biên, Lai Châu, Bắc Ninh, Ninh Bình, Hải Dương, Vĩnh Phúc, Hà Nam, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Trị, Gia Lai, Kon Tum, Đắk Nông, Lâm Đồng, Đà Nẵng, Phú 98
ước đạt 10,45 triệu đồng/lao động/năm, tăng 13,4% so với thực hiện năm
2008; thu nhập bình quân của lao động là xã viên HTX, liên hiệp HTX theo số liệu báo cáo của 24 địa phương3, năm 2009 ước đạt 14,15 triệu đồng/lao
động/năm tăng 19% so với thực hiện năm 2008.
Các số liệu trên chỉ ra rằng mức thu nhập bình quân lao động ở HTX
hiện nay là thấp hơn nhiều so với các khu vực khác. Vì vậy, với mục tiêu tạo
công ăn việc làm, HTX chỉ phần nào giúp người lao động có mức thu nhập
cần thiết chứ khó có thể giúp người lao động giàu lên từ HTX.
3.1.3. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân 3.1.3.1. Những hạn chế, bất cập chính của hợp tác xã nông nghiệp
- Về tổ chức lại HTX hoạt động theo Luật: đến năm 2015 mới có
khoảng 29,38% HTX nông nghiệp hoạt động theo Luật HTX (trong đó HTX
cũ đã đăng ký lại hoạt động theo luật chiếm 18,87%). Do đó, phần lớn các
HTX nông nghiệp hiện nay về phương thức hoạt động vẫn chưa có sự thay
đổi, tư duy hoạt động còn nặng về hành chính, bao cấp theo phương thức
HTX kiểu cũ.
- Đa số các HTX nông nghiệp hiện nay mới chỉ tập trung hoạt động đối
với các dịch vụ đầu vào trong sản xuất nông nghiệp như: cung ứng giống, vật
tư, phân bón, bảo vệ thực vật, thủy lợi nội đồng… còn các dịch vụ rất quan
trọng như: bảo quản, chế biến, tiêu thụ sản phẩm chưa được quan tâm, nên số
HTX thực hiện việc bao tiêu nông sản cho nông dân ít, hiện mới chỉ có
khoảng 10% số HTX thực hiện việc bao tiêu một phần nông sản cho nông
dân. Từ đó chưa hỗ trợ cho việc gia tăng sản lượng và giá trị của sản xuất
nông nghiệp. Bên cạnh đó, có một số HTX được hình thành không đúng bản
chất, chủ yếu là để hưởng chính sách hỗ trợ của Nhà nước.
Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận, Ninh Thuận, Bình Dương, Long An, Bến Tre, Trà Vinh, Cần Thơ, Hậu Giang, Đồng Tháp, Cà Mau. Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 3 Gồm các tỉnh: Cao Bằng, Tuyên Quang, Yên Bái, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc Giang, Phú Thọ, Điện Biên, Lai Châu, Bắc Ninh, Ninh Bình, Hải Dương, Hà Nam, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Gia Lai, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên, Bình Thuận, Ninh Thuận, Bình Dương, Long An, Tiền Giang, Trà Vinh, Cần Thơ, Hậu Giang, Đồng Tháp, Cà Mau. Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
99
- Nhiều HTX nông nghiệp còn lúng túng trong định hướng hoạt động
và đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, chưa có sản phẩm dịch vụ tốt để đáp
ứng nhu cầu sản xuất hàng hóa; thiếu sự liên kết chặt chẽ giữa các HTX với
thành viên nên hiệu quả hoạt động của các HTX nông nghiệp còn hạn chế:
nếu xem xét trên góc độ về khả năng tái mở rộng các hoạt động dịch vụ sản
xuất và lợi ích mà HTX mang lại cho các thành viên thì hiện nay mới chỉ có
khoảng trên 10% HTX nông nghiệp hoạt động đạt hiệu quả cao; khoảng 10%
hoạt động trung bình và yếu; 9,75% HTX hoạt động kém hoặc ngừng hoạt
động (đến nay còn 1062 HTX). Do hiệu quả hoạt động hạn chế, lợi ích mang
lại cho thành viên chưa cao nên người nông dân chưa hăng hái tham gia, gắn
bó với HTX, chưa coi HTX là “nhà của mình”.
- Việc hình thành các chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm giữa
nông dân, các tổ chức của nông dân, các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế.
Hiện nay, nhu cầu liên kết là rất lớn tuy nhiên số các HTX thực hiện liên kết
được với doanh nghiệp để tiêu thụ sản phẩm còn ít. Người nông dân đa số vẫn
phải “tự làm tự bán” là chính, dẫn đến rủi ro nhiều trong sản xuất, tiêu thụ sản
phẩm và thu nhập của người nông dân. Trong những lĩnh vực sản xuất hàng
hóa phát triển như lúa gạo ở đồng bằng sông cửu long, bò sữa, mía đường, cà
phê, hồ tiêu cũng chỉ có khoảng 10 đến 15% số lượng nông sản được tiêu thụ
thông qua các tổ hợp tác và HTX.
3.1.3.2. Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế, bất cập
- Nhận thức về HTX nông nghiệp của các cấp, các ngành và chính bản
thân người nông dân về vai trò của HTX nông nghiệp chưa đúng với bản chất
của HTX theo Luật năm 2012. Khảo sát ở Thanh Hóa cũng cho thấy, sự quan
tâm hỗ trợ của các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị - xã hội cũng có
nhưng chủ yếu là không thường xuyên, vẫn còn 22,6% ý kiến của các HTX
nông nghiệp cho rằng chính quyền chưa tạo điều kiện thuận lợi để cho HTX
nông nghiệp phát triển. Các quy định về tổ chức hoạt động, tài sản và sở hữu
đối với tài sản của HTX và của từng thành viên, các chính sách hỗ trợ phát
triển HTX và đặc biệt là trách nhiệm quản lý nhà nước của các bộ, ngành đối
100
với HTX nông nghiệp còn chung chung gây tâm lý e ngại cho người dân khi
tham gia HTX.
- Tình hình vốn, quỹ của các HTX còn khó khăn: mức vốn bình quân
của các HTX nông nghiệp thấp và chủ yếu là vốn tài sản cố định đã sử dụng
lâu năm, nhà xưởng và thiết bị xuống cấp, lạc hậu. Đa số các HTX nông
nghiệp thiếu vốn để sản xuất, kinh doanh; các HTX nông nghiệp rất khó tiếp
cận với nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng, trong khi đó việc huy động
vốn từ các thành viên khó khăn ảnh hưởng đến năng lực sản xuất kinh doanh
và khả năng cạnh tranh của HTX. Qua khảo sát ở Thanh Hóa cũng cho thấy,
khó khăn lớn nhất trong hoạt động của HTX nông nghiệp hiện nay là do thiếu
vốn (chiếm tỷ lệ 78%).
- Chất lượng nguồn nhân lực của HTX nông nghiệp thấp. Hiện nay đa
số cán bộ chủ chốt HTX nông nghiệp hiện có trình độ chuyên môn nghiệp vụ
hạn chế, ít được đào tạo. Tư duy phát triển sản xuất kinh doanh chưa theo kịp
với sự phát triển của cơ chế thị trường, thiếu tính nhạy bén và năng động
trong tổ chức điều hành sản xuất kinh doanh.
- Khung pháp lý và hệ thống chính sách hỗ trợ phát triển HTX chưa
phù hợp và thiếu tính đồng bộ: chính sách hỗ trợ HTX tuy nhiều nhưng chưa
đủ mạnh và thiếu đồng bộ, thiếu những cơ chế, chính sách mang tính đột phá
để hỗ trợ mạnh mẽ và thiết thực cho HTX nông nghiệp. Sau Luật HTX 2012
ra đời, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách áp dụng cho các HTX nói
chung và HTX nông nghiệp nói riêng, tuy nhiên một số còn chung chung,
không cụ thể và chưa phù hợp với đặc thù của HTX nông nghiệp.
3.2. Thực trạng quản lý nhà nƣớc đối với hợp tác xã nông nghiệp
3.2.1. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp
Theo Luật HTX năm 2012, Bộ Kế hoạch và Đầu tư giúp Chính phủ
quản lý nhà nước về HTX. Ngoài ra còn có các bộ khác cũng có chức năng
quản lý đối với HTX hoạt động sản xuất, kinh doanh trong các lĩnh vực khác
nhau như Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Giao thông - Vận tải,
Bộ Công thương, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ngân hàng Nhà nước…
101
Theo đó, ở địa phương cũng có bố trí các cơ quan theo dõi, tham mưu
về quản lý nhà nước đối với HTX, nhưng chủ yếu là tổ chức ở cấp tỉnh và cấp
huyện (Theo sơ đồ 1).
Sơ đồ 1. Bộ máy quản lý nhà nƣớc đối với hợp tác xã hiện hành
Chính phủ
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Cục HTX và PTNN)
Ngân hàng nhà nước (Vụ Các tổ chức tín dụng hợp tác)
….
UBND cấp tỉnh
Sở Kế hoạch và Đầu tư (Phòng ĐKKD)
Sở Công thương (Phòng Thị trường trong nước)
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn( Chi cục PTNN)
….
UBND cấp huyện
Phòng Kinh tế
Phòng Nông nghiệp
….
Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Vụ Hợp tác xã) Phòng Tài chính - kế hoạch
UBND cấp xã
Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn là cơ quan trực thuộc Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, thực hiện chức năng tham mưu giúp Bộ
102
trưởng quản lý nhà nước chuyên ngành và thực thi nhiệm vụ quản lý nhà
nước trong lĩnh vực kinh tế hợp tác.
Nhiệm vụ chủ yếu: Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan xây
dựng cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển HTX, tổ hợp tác và
các loại hình kinh tế hợp tác khác; kinh tế hộ, trang trại trong nông nghiệp
(nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp), nông thôn. Tổng hợp
các chương trình, đề án, kế hoạch về phát triển kinh tế hợp tác, kinh tế hộ,
kinh tế trang trại trong nông nghiệp, nông thôn và hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm
tra thực hiện sau khi được phê duyệt.
Theo Quyết định số 489/QĐ-BKH ngày 14/04/2009 của Bộ trưởng Bộ
Kế hoạch và Đầu tư, Vụ HTX thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong
lĩnh vực kế hoạch phát triển kinh tế tập thể, HTX. Vụ HTX có các nhiệm vụ
sau đây: Chủ trì, phối hợp với các đơn vị thuộc Bộ và các cơ quan có liên
quan nghiên cứu, xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế tập thể,
HTX; xây dựng Chương trình phát triển kinh tế tập thể, HTX trong từng thời
kỳ. Chủ trì hoặc tham gia soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật; các cơ
chế, chính sách, giải pháp hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể, HTX; làm đầu mối
phối hợp với các đơn vị thuộc Bộ thẩm định các văn bản quy phạm pháp luật,
cơ chế chính sách đối với kinh tế tập thể, HTX. Chủ trì hướng dẫn triển khai
thực hiện và đánh giá tổng kết việc thực hiện chiến lược, kế hoạch, chương
trình, cơ chế chính sách phát triển kinh tế tập thể, HTX đã được phê duyệt
thuộc phạm vi quản lý của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Chủ trì tổng hợp, xây
dựng kế hoạch và phân bổ kinh phí hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể từ nguồn
ngân sách nhà nước cho các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và các đoàn thể
chính trị - xã hội, hội và hiệp hội. Theo dõi và tổng hợp tình hình thực hiện
chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể ở các Bộ, ngành, địa phương và đề
xuất các giải pháp cần thiết. Chủ trì, phối hợp với Cục Phát triển doanh
nghiệp và các đơn vị có liên quan hướng dẫn nghiệp vụ, trình tự và thủ tục
đăng ký kinh doanh, thủ tục chứng thực đối với tổ chức kinh tế tập thể; trình
103
Bộ trưởng ban hành theo thẩm quyền các quy định về chuyên môn, nghiệp vụ,
biểu mẫu phục vụ công tác đăng ký kinh doanh, chứng thực; quy định chế độ
báo cáo và kiểm tra, theo dõi, tổng hợp tình hình thực hiện đăng ký kinh
doanh và sau đăng ký kinh doanh, chứng thực đối với tổ chức kinh tế tập thể.
Chủ trì, phối hợp với các đơn vị có liên quan giải quyết các vướng mắc; tham
gia xử lý các vi phạm trong việc thực hiện đăng ký kinh doanh thuộc thẩm
quyền của Bộ đối với HTX và liên hiệp HTX. Làm đầu mối phối hợp hoạt
động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực phát triển kinh tế tập thể, HTX thuộc
phạm vi quản lý của Bộ. Chủ trì hoặc tham gia xây dựng, hướng dẫn, kiểm
tra, giám sát và đánh giá, tổng kết việc thực hiện các chương trình, dự án quốc
gia và các chương trình, dự án do các nước, các tổ chức quốc tế trợ giúp phát
triển kinh tế tập thể, HTX. Làm đầu mối phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các Bộ,
ngành liên quan và Uỷ ban nhân dân các cấp trong việc thúc đẩy phát triển
kinh tế tập thể, HTX; tuyên truyền, huấn luyện, bồi dưỡng về lý luận, pháp
luật, thực tiễn, kinh nghiệm phát triển kinh tế tập thể, HTX trong nước và
quốc tế; xây dựng mô hình và tổng kết, phổ biến nhân điển hình tiên tiến
trong kinh tế tập thể, HTX. Thu thập, cập nhật, xây dựng hệ thống thông tin
và cơ sở dữ liệu về kinh tế tập thể, HTX; cung cấp thông tin về kinh tế tập
thể, HTX phục vụ cho việc nghiên cứu xây dựng pháp luật, chiến lược, kế
hoạch, chương trình, cơ chế và chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể,
HTX. Phối hợp với các đơn vị có liên quan xử lý và cung cấp thông tin trong
lĩnh vực Vụ được giao. Chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan thuộc Bộ và
các cơ quan có liên quan hướng dẫn, phổ biến, theo dõi, kiểm tra việc thực
hiện quy định pháp luật về kinh tế tập thể, HTX; kiến nghị giải quyết các vấn
đề phát sinh trong quá trình xây dựng và thực hiện các quy định pháp luật về
kinh tế tập thể, HTX. Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương, các
tổ chức đoàn thể trong việc nghiên cứu, tổng kết việc thực hiện chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước đối với kinh tế tập thể, HTX trong phạm vi
cả nước.
104
Tuy chức năng, nhiệm vụ được xác định khá rõ ràng như trên, nhưng
thực tiễn thực hiện nhiệm vụ thì chưa đáp ứng được yêu cầu của quản lý do số
lượng biên chế cán bộ chuyên trách không đủ (cả Vụ HTX chỉ có hơn chục
biên chế). Ở các bộ khác gần như không thành lập tổ chức, thậm chí không bố
trí nhân sự để quản lý, theo dõi, hỗ trợ kinh tế tập thể, ngoài Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn. Còn ở địa phương, biên chế dành cho công tác quản
lý nhà nước đối với kinh tế tập thể hầu như không có.
3.2.2. Xây dựng và thực thi chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát
triển HTX nông nghiệp
Phát triển HTX mà chủ yếu là HTX nông nghiệp là một chủ trương lớn
của Đảng và Nhà nước ta.
Ngay sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và cải cách ruộng
đất thắng lợi, Nghị quyết lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá II tháng 8 năm 1955 đã đề ra chủ trương phát triển các tổ đổi công và
xây dựng thí điểm một số HTX nông nghiệp. Cho nên, đến cuối năm 1957 đã
có 45 HTX trong nông nghiệp, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng thí
điểm các HTX miền Bắc. Đến cuối năm 1960, đã phát triển được 251 HTX
miền Bắc cấp huyện với 4.320 cửa hàng, HTX miền Bắc cấp xã với 2.147.000
xã viên và 5.994 HTX trung du với 2 triệu xã viên.
Tháng 4 năm 1959, Hội nghị TW lần thứ 16 khoá II đã chính thức
quyết định đường lối, phương châm, chính sách HTX nông nghiệp.
Sau Hội nghị TW lần thứ 24 khoá III tháng 9 năm 1975, ở Nam Bộ
chúng ta ồ ạt thành lập các HTX và tập đoàn sản xuất nhưng kết quả hoạt
động của HTX rất kém. Miền Bắc tiếp tục củng cố các HTX theo hướng mở
rộng quy mô toàn xã, liên xã với quá trình xây dựng cấp huyện, nhưng hiệu
quả hoạt động của các HTX ngày càng thấp.
Cho đến 1978 sau gần 30 năm xây dựng HTX nông nghiệp trong phạm vi
cả nước, mặc dù đã qua bao lần cải tiến quản lý, tổ chức lại sản xuất... nhưng các
HTX ngày càng hoạt động kém hiệu quả, nông dân xã viên thờ ơ với công việc
105
chung của HTX theo mô hình “tập thể hoá” tài sản, vốn, quỹ thất thoát, đất đai
bị bỏ hoang, hoá ngày càng nhiều.
Trước thực trạng bế tắc của phong trào HTX theo mô hình “tập thể
hoá”, Hội nghị TW 6 khoá 4, tháng 9 năm 1979, Chỉ thị 100 của Ban Bí thư
TW ngày 03/01/ 1981 đã giải quyết một cách cơ bản những mâu thuẫn, những
vấn đề đặt ra từ thực tiễn đối với phong trào hợp tác hoá.
Đường lối đổi mới do Đại hội VI đề xướng đã khẳng định phát triển kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần, trong đó kinh tế tập thể mà bộ phận chủ yếu là
HTX được khẳng định cùng với kinh tế nhà nước dần dần trở thành nền tảng
của nền kinh tế quốc dân; đồng thời thừa nhận sự tồn tại của kinh tế HTX phải
đi đôi với sự phát triển đa dạng của các hình thức kinh tế hợp tác từ thấp đến
cao, HTX là bộ phận nòng cốt của kinh tế hợp tác. Nghị quyết 10-NQ/TW của
Bộ Chính trị (khoá VI) đã khẳng định, kinh tế HTX có nhiều hình thức từ thấp
đến cao, mọi tổ chức sản xuất kinh doanh do người lao động tự nguyện góp
vốn, góp sức, được quản lý theo nguyên tắc dân chủ đều là HTX. Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 5 (khoá VII) tháng 6/1993 làm rõ thêm bản chất của
HTX trên cơ sở phát huy tính tự chủ của kinh tế hộ, coi kinh tế hộ là bộ phận
khăng khít của kinh tế HTX. Nghị quyết Hội nghị giữa nhiệm kỳ (khoá VII)
tiếp tục khẳng định và phát triển quan điểm của Đảng coi kinh tế HTX với
nhiều hình thức phong phú và đa dạng từ thấp đến cao, phù hợp với nguyên tắc
tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ, kết hợp với sức mạnh của hộ xã
viên, làm cho kinh tế hợp tác trở thành một thành phần kinh tế vững mạnh,
cùng với kinh tế quốc doanh trở thành xương sống của nền kinh tế quốc dân.
Đến Đại hội VIII, quan điểm phát triển kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX;
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Quan điểm của Đảng được cụ thể hoá trong Nghị quyết số 13-NQ/TW
tại Hội nghị Trung ương 5 (khoá IX), đã tạo lập môi trường tâm lý xã hội
thuận lợi cho kinh tế hợp tác, HTX phát triển bằng việc: Tăng cường tuyên
truyền chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phát triển
106
kinh tế hợp tác, HTX và các mô hình làm ăn có hiệu quả; Biểu dương, khen
thưởng những cá nhân và tập thể có thành tích và đóng góp cho kinh tế hợp
tác, HTX; Đưa nội dung phát triển kinh tế hợp tác, HTX vào giảng dạy trong
các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề.
Đại hội X đã khẳng định, tiếp tục đổi mới, tạo động lực phát triển có
hiệu quả các loại hình kinh tế tập thể; và nhấn mạnh, tiếp tục nghiên cứu xây
dựng mô hình HTX kiểu mới trên cơ sở tổng kết các đơn vị làm tốt để tăng
sức hấp dẫn, tạo động lực cho kinh tế tập thể, nhất là đối với nông nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp.
Đại hội XI tiếp tục chỉ rõ, đẩy mạnh phát triển kinh tế tập thể với nhiều
hình thức đa dạng, mà nòng cốt là HTX; tổng kết tình hình phát triển các HTX và
thực hiện Luật HTX; khẩn trương hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế, chính
sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho việc ra đời, phát triển các HTX theo nguyên tắc tự
nguyện, cùng có lợi, có chức năng kinh tế và xã hội; tạo điều điều phát triển các
trang trại ở nông thôn và hình thành HTX của các chủ trang trại.
Ngay sau Đại hội XI, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 56-KL/TW
ngày 21/2/2012 về đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về
tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể. Trong đó khẳng
định, phát triển kinh tế tập thể là một chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước,
đồng thời cũng là sự nghiệp hết sức khó khăn đòi hỏi phải kiên trì, xuất phát
từ nhu cầu thực tế, phù hợp với đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của từng
vùng, miền, địa phương, tránh hình thức, gò ép hoặc buông lỏng. Phải tuân
thủ đầy đủ các quy định của Luật Hợp tác xã năm 2012 và các luật khác có
liên quan, bảo đảm HTX là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, tự chủ, tự
chịu trách nhiệm, do các thành viên tự nguyện thành lập nhằm tương trợ lẫn
nhau trong hoạt động sản suất, kinh doanh, tạo việc làm, đáp ứng nhu cầu
chung của các thành viên, trên cơ sở bình đẳng, dân chủ và cùng có lợi.
Đại hội XII khẳng định, tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt
động của kinh tế tập thể, kinh tế HTX; đẩy mạnh liên kết và hợp tác dựa trên
quan hệ lợi ích, áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, phù hợp với cơ chế thị
107
trường. Nhà nước có cơ chế, chính sách hỗ trợ về tiếp cận nguồn vốn, đào tạo
nguồn nhân lực, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ, hỗ trợ phát triển thị trường,
tạo điều kiện phát triển kinh tế HTX trên cơ sở phát triển và phát huy vai trò
của kinh tế hộ.
Cụ thể hóa đường lối chiến lược đó, trong thời gian qua, Nhà nước đã
ban hành các quy hoạch, kế hoạch liên quan đến phát triển HTX nông nghiệp,
như: Quyết định 124/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 02 tháng 02
năm 2012 về phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển sản xuất ngành nông
nghiệp đến năm 2020 và tầm nhìn đến 2030; Kế hoạch Đổi mới phát triển các
hình thức tổ chức kinh tế hợp tác trong nông nghiệp của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn được ban hành kèm theo Quyết định số 710/QĐ-BNN-
KTHT ngày 10 tháng 04 năm 2014 của của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn về phê duyệt kế hoạch đổi mới, phát triển các hình thức
tổ chức kinh tế hợp tác trong nông nghiệp; Kế hoạch số 1391/KH-BNN-
TCLN ngày 29 tháng 4 năm 2014 về phát triển kinh tế hợp tác và liên kết theo
chuỗi giá trị sản phẩm trong lâm nghiệp giai đoạn 2014-2020.
3.2.3. Ban hành và thực thi pháp luật có liên quan đến phát triển hợp
tác xã nông nghiệp
Luật HTX được ban hành đầu tiên năm 1996, năm 2003 sửa đổi và gần
đây nhất là Luật HTX năm 2012 (ban hành 20/11/2012 có hiệu lực 1/7/2013).
Trong Luật này đã quy định khá đầy đủ, giúp cho các chủ thể tham gia quan
hệ HTX nắm rõ quyền và lợi ích.
Khi HTX tham gia các hoạt động kinh tế xã hội (nhất là hoạt động kinh
doanh và quyền lợi người lao động) thì các Luật sau đây cũng tham gia điều
chỉnh: Luật Đầu tư 2014 ban hành 26/11/2014; Luật Phá sản ban hành
19/6/2014; Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp sửa đổi năm 2013 ban hành
19/6/2013; Luật Việc làm 2013 ban hành 16/11/2013; Luật Thuế giá trị gia
tăng sửa đổi năm 2013 ban hành 19/6/2013; Luật Thi hành án dân sự sửa đổi
2014 ban hành 25/11/2004; Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2009 ban hành
19/06/2014...
108
Nghị định trực tiếp điều chỉnh HTX là Nghị định số 193/2013/NĐ-CP
hướng dẫn Luật HTX năm 2012. Nội dung Nghị định này cụ thể, và hướng
dẫn các điều khoản của Luật HTX để các HTX thi hành. Nghị định số
103/2014/NĐ-CP quy định mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động
làm việc ở doanh nghiệp, HTX, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và
cơ quan tổ chức có thuê mướn lao động theo hợp đồng lao động. Nghị định số
110/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hỗ trợ
tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá
sản doanh nghiệp, HTX. Nghị định số 94/2005/NĐ-CP về giải quyết quyền
lợi của người lao động ở doanh nghiệp và HTX bị phá sản. Ngoài ra còn có
nhiều Nghị định khác có nhắc đến HTX, trong đó có rất nhiều chính sách ưu
đãi dành cho HTX.
Về Thông tư trực tiếp hướng dẫn HTX có: Thông tư số 03/2014/TT-
BKHĐT hướng dẫn về đăng ký hợp tác xã và chế độ báo cáo hình hoạt động
của hợp tác xã do Bộ kế hoạch và Đầu tư ban hành; Thông tư số 33/2013/TT-
BLĐTB XH hướng dẫn thực hiện mức lương tối thiểu vùng đối với người lao
động làm việc ở doanh nghiệp, HTX, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và cơ
quan, tổ chức có thuê mướn lao động do Bộ lao động - Thương binh và Xã
hội ban hành; Thông tư số 31/2012/TT-NHNN quy định về ngân hàng HTX
do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành; Thông tư số 173/2012/TT-BTC
sửa đổi Thông tư số 66/2006/TT-BTC hướng dẫn cơ chế tài chính hỗ trợ sáng
lập viên HTX chuẩn bị thành lập, đối tượng đào tạo, bồi dưỡng của HTX do
Bộ Tài chính ban hành; Thông tư số 24/2010/TT-BTC hướng dẫn kế toán áp
dụng cho HTX nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và nghề muối do Bộ Tài
chính ban hành; Thông tư số 04/2007/TT-NHNN sửa đổi Thông tư số
06/2004/TT-NHNN về tín dụng nội bộ HTX do Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam ban hành...
Quyết định trực tiếp đối với HTX của cấp trung ương đang có giá trị
hiện hành: Quyết định số 2261/QĐ-TTg năm 2014 phê duyệt chương trình hỗ
trợ phát triển HTX giai đoạn 2015-2020 do Thủ tướng Chính phủ ban hành.
109
Quyết định số 1280/QĐ-BNN-HTQT năm 2012 phê duyệt dự án “Tăng
cường chức năng HTX nông nghiệp tại Việt Nam giai đoạn II” do Nhật Bản
tài trợ của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành.
Quyết định số 384/QĐ-TTg năm 2011 bổ sung kinh phí thành lập mới,
bồi dưỡng, đào tạo cán bộ HTX, tổ hợp tác do Thủ tướng chính phủ ban hành.
Quyết định số 60/2007/QĐ-BTC về lãi suất cho vay vốn của Quỹ hỗ trợ phát
triển HTX do Bộ Tài chính ban hành. Ngoài ra quyết định kể trên, có nhiều
văn bản có nhắc đến HTX. Có thể tổng hợp các ưu đãi sau: Bồi dưỡng nguồn
nhân lực; xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường; ứng dụng khoa học, kỹ
thuật và công nghệ mới; thành lập mới; tổ chức lại hoạt động của HTX; chính
sách ưu đãi về thuế đất đai, mặt nước chính sách ưu đãi thuế.
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, sau khi có
Luật HTX năm 2012 và Nghị định số 193/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 của
Chính phủ được ban hành: Đã có 24/63 tỉnh, thành phố có văn bản chỉ đạo
triển khai thực hiện Luật HTX; 38/63 tỉnh, thành phố có kế hoạch hoặc văn
bản hướng dẫn chỉ đạo HTX tổ chức lại theo Luật HTX; có 30 tỉnh ban hành
kế hoạch, đề án đổi mới tổ chức sản xuất phục vụ tái cơ cấu ngành nông
nghiệp. Việc thực thi pháp luật về HTX nêu trên đã mang lại kết quả là số
lượng HTX nông nghiệp thành lập mới mỗi năm khá cao khoảng
800HTX/năm, nhưng số lượng HTX nông nghiệp giải thể vì hoạt động kém
hiệu quả cũng rất lớn khoảng 550 HTX/năm, nên về tổng số lượng HTX nông
nghiệp tăng trung bình chỉ khoảng 250 HTX/năm, không tăng nhiều hơn so
với trước khi Luật Hợp tác xã năm 2012 ra đời.
3.2.4. Ban hành và thực thi các chính sách phát triển hợp tác xã
nông nghiệp
3.2.4.1. Chính sách hỗ trợ đối với các hợp tác xã quy định tại Luật Hợp
tác xã 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành
Điều 6 Luật HTX năm 2012 quy định, Nhà nước có chính sách hỗ trợ
đối với HTX, liên hiệp HTX, gồm các lĩnh vực: Đào tạo, bồi dưỡng nguồn
nhân lực; Xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường; Ứng dụng khoa học, kỹ
110
thuật và công nghệ mới; Tiếp cận vốn và quỹ hỗ trợ phát triển HTX; Tạo điều
kiện tham gia các chương trình mục tiêu, chương trình phát triển kinh tế - xã
hội; Thành lập mới HTX, liên hiệp HTX.
Ngoài ra, Nhà nước có chính sách ưu đãi đối với HTX, liên hiệp HTX,
gồm: Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp và các loại thuế khác theo quy định
của pháp luật về thuế; Ưu đãi lệ phí đăng ký hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã
theo quy định của pháp luật về phí và lệ phí.
Đối với HTX, liên hiệp HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp,
lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp, ngoài việc được hưởng chính sách hỗ
trợ, ưu đãi kể trên còn được hưởng chính sách hỗ trợ, ưu đãi sau đây:
- Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng;
- Giao đất, cho thuê đất để phục vụ hoạt động của HTX, liên hiệp HTX
theo quy định của pháp luật về đất đai;
- Ưu đãi về tín dụng;
- Vốn, giống khi gặp khó khăn do thiên tai, dịch bệnh;
- Chế biến sản phẩm.
3.2.4.2. Nghị định số 193/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 của Chính phủ
quy định chính sách hỗ trợ đối với HTX
- Chính sách đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực. Nhà nước hỗ trợ kinh
phí đào tạo chính quy, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, kỹ thuật đối với
cán bộ quản lý HTX, liên hiệp HTX, thành viên HTX.
- Chính sách xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường. Nhà nước hỗ trợ
HTX, liên hiệp HTX tham gia các triển lãm trong và ngoài nước; tổ chức các
hội chợ, triển lãm dành riêng cho khu vực HTX; xây dựng thương hiệu, nhãn
hiệu, xuất xứ hàng hóa, xây dựng và triển khai cổng thông tin điện tử, sàn
giao dịch thương mại điện tử cho các HTX, liên hiệp HTX.
- Ứng dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới.
+ Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ quốc gia và cấp tỉnh hàng năm
dành một phần kinh phí hỗ trợ các HTX, liên hiệp HTX đổi mới, ứng dụng
111
công nghệ và thông báo kết quả thực hiện cho cơ quan quản lý nhà nước về
HTX, liên hiệp HTX.
+ Nhà nước hỗ trợ nghiên cứu khoa học công nghệ từ nguồn kinh phí
sự nghiệp nghiên cứu khoa học công nghệ đối với HTX, liên hiệp HTX có dự
án nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới được
cấp có thẩm quyền phê duyệt.
- Chính sách tiếp cận vốn và quỹ hỗ trợ phát triển HTX.
+ HTX, liên hiệp HTX có dự án đầu tư mới, đầu tư mở rộng năng lực
sản xuất, kinh doanh; hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, địa bàn nông
thôn được ưu đãi về lãi suất và bảo lãnh tín dụng từ quỹ hỗ trợ phát triển hợp
tác xã; ưu tiên vay vốn tín dụng từ ngân hàng phát triển và các tổ chức tín
dụng khác theo quy định của pháp luật; được vay ưu đãi theo quy định của
Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn;
+ Quỹ hỗ trợ phát triển HTX thực hiện nhiệm vụ bảo lãnh tín dụng và
hỗ trợ lãi suất đối với HTX, liên hiệp HTX.
- Chính sách tạo điều kiện tham gia các chương trình mục tiêu, chương
trình phát triển kinh tế - xã hội. HTX, liên hiệp HTX có đủ năng lực được ưu
tiên tham gia các chương trình mục tiêu, chương trình phát triển kinh tế - xã
hội sau đây:
+ Các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng trên địa bàn và quản lý các
công trình sau khi hoàn thành, kể cả các công trình chợ và công trình hạ tầng
phục vụ phát triển cụm công nghiệp và cụm làng nghề ở nông thôn.
+ Các dự án, chương trình phát triển kinh tế - xã hội khác trên địa bàn
phù hợp với khả năng của HTX, liên hiệp HTX.
- Chính sách thành lập mới HTX, liên hiệp HTX.
+ Sáng lập viên HTX được cung cấp miễn phí thông tin, tư vấn, tập
huấn về quy định pháp Luật HTX trước khi thành lập HTX;
+ HTX, liên hiệp HTX được hỗ trợ tư vấn xây dựng điều lệ, hướng dẫn
và thực hiện các thủ tục thành lập, đăng ký và tổ chức hoạt động của HTX,
liên hiệp HTX.
112
Ngoài ra, Nghị định còn quy định chính sách hỗ trợ, ưu đãi đối với
HTX, liên hiệp HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư
nghiệp, diêm nghiệp:
- Hỗ trợ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng.
+ Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng bao gồm: trụ sở, sân phơi, nhà kho,
xưởng sơ chế, chế biến, điện, nước sinh hoạt, chợ, công trình thủy lợi, cơ sở
hạ tầng vùng nuôi trồng thủy sản, cửa hàng vật tư nông nghiệp, giao thông nội
đồng phục vụ sản xuất, kinh doanh cho cộng đồng thành viên HTX, liên hiệp
HTX trên cơ sở các dự án được các cấp có thẩm quyền phê duyệt.
+ Các công trình kết cấu hạ tầng được nhà nước hỗ trợ xây dựng theo
quy định trên, sau khi hoàn thành là tài sản không chia của HTX, liên hiệp
HTX; HTX, liên hiệp HTX chịu trách nhiệm bảo quản, duy tu và bảo dưỡng
các công trình trong quá trình sử dụng.
- Chính sách giao đất, cho thuê đất để phục vụ hoạt động của HTX, liên
hiệp HTX. Việc hỗ trợ đất đai đối với HTX, liên hiệp HTX được thực hiện
theo quy định của pháp luật về đất đai.
- Chính sách ưu đãi về tín dụng.
+ HTX, liên hiệp HTX thành lập mới hoặc có dự án đầu tư mới, đầu tư
mở rộng năng lực sản xuất, kinh doanh được ưu tiên vay vốn từ các tổ chức
tín dụng theo quy định của pháp luật hiện hành.
+ Các HTX, liên hiệp HTX có dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh, xuất
khẩu thuộc diện ưu đãi đầu tư được hưởng ưu đãi đầu tư theo quy định của
pháp luật về đầu tư.
- Chính sách hỗ trợ vốn, giống khi gặp khó khăn do thiên tai, dịch bệnh.
Tùy theo mức độ thiệt hại, tính chất nguy hiểm của dịch bệnh và nhu cầu thực
tế, HTX, liên hiệp HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp,
ngư nghiệp, diêm nghiệp được hưởng chính sách hỗ trợ, ưu đãi về vốn, giống
khi gặp khó khăn do thiên tai, dịch bệnh theo quy định của pháp luật hiện
hành về việc hỗ trợ giống, cây trồng, vật nuôi, thủy sản để khôi phục sản xuất
đối với vùng bị thiệt hại do thiên tai dịch bệnh.
113
- Chính sách hỗ trợ chế biến sản phẩm.
+ HTX, liên hiệp HTX có nhu cầu chế biến sản phẩm được hỗ trợ
nghiên cứu xây dựng dự án đầu tư chế biến sản phẩm.
+ HTX, liên hiệp HTX được ưu đãi về tín dụng trong việc triển khai dự
án đầu tư chế biến sản phẩm.
Chính sách ưu đãi riêng về thuế thu nhập doanh nghiệp đối với HTX
được quy định tại Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2013 như sau:
- Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với HTX hoạt động trong lĩnh
vực nông, lâm, ngư nghiệp ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn hoặc ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.
- Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động trồng trọt, chăn
nuôi, nuôi trồng thủy sản, sản xuất muối của HTX.
- Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với thu nhập của HTX từ hoạt
động đánh bắt hải sản.
- Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với thu nhập đưa vào tài sản
không chia của HTX.
- Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 10% đối với HTX hoạt động
trong lĩnh vự nông, lâm, ngư nghiệp khác.
- Hợp tác xã có tổng doanh thu năm không quá 20 tỷ đồng áp dụng thuế
suất 20% từ ngày 01/7/2013.
3.2.4.3. Chính sách hỗ trợ đối với hợp tác xã được quy định tại Quyết
định số 2261/QĐ-TTg ngày 15/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ về phê
duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển hợp tác xã giai đoạn 2015-2020
- Bồi dưỡng nâng cao năng lực đối với cán bộ quản lý và thành viên
HTX; nghiên cứu thí điểm mô hình đưa cán bộ trẻ tốt nghiệp cao đẳng, đại
học xuống làm việc tại HTX có thời hạn để đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý;
chi phí đi lại từ trụ sở chính của HTX đến cơ sở bồi dưỡng (trừ vé máy bay);
chi phí mua tài liệu của khóa học, chi phí tổ chức, quản lý lớp học (xây dựng
giáo trình, thuê hội trường, thù lao giảng viên, tham quan, khảo sát, chi phí
ăn, ở).
114
- Xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường. Các chương trình xúc tiến
thương mại quốc gia tạo điều kiện cho các HTX tham gia nhằm nâng cao
năng lực xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm, mở rộng thị trường...
- Ứng dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới. Quỹ phát triển khoa
học và công nghệ quốc gia ưu tiên hỗ trợ hợp tác xã trong hoạt động ứng dụng
khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới.
- Thành lập mới, tổ chức lại hoạt động của hợp tác xã.
Cung cấp thông tin, tư vấn, tập huấn về quy định pháp luật HTX trước
khi thành lập HTX cho sáng lập viên HTX.
Tư vấn xây dựng điều lệ, phương án sản xuất - kinh doanh, hướng dẫn
và thực hiện các thủ tục thành lập, đăng ký và tổ chức hoạt động của HTX.
Tư vấn thực hiện các thủ tục tổ chức lại hoạt động của hợp tác xã theo
Luật Hợp tác xã năm 2012.
Ngoài việc được hưởng các hỗ trợ, ưu đãi trên, HTX hoạt động trong lĩnh
vực nông, lâm, ngư, diêm nghiệp còn được hưởng các hỗ trợ, ưu đãi sau:
- Hỗ trợ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng.
+ Ưu tiên các HTX có quy mô lớn về thành viên, tạo quy mô hàng hóa
lớn, sản xuất theo cụm liên kết ngành và chuỗi giá trị; HTX hoạt động trên
các địa bàn khó khăn.
+ Dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng của HTX phải nhằm mục đích
phục vụ sản xuất, kinh doanh cho cộng đồng thành viên HTX, phải thực hiện
đúng các thủ tục về đầu tư và được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
+ Nguồn và mức hỗ trợ: Ngân sách Trung ương hỗ trợ tối đa 80% tổng
mức đầu tư, HTX đóng góp tối thiểu 20% tổng mức đầu tư của dự án.
+ Hỗ trợ của Nhà nước là tài sản không chia của HTX, HTX tự trang
trải chi phí vận hành, bảo dưỡng công trình sau khi công trình được đưa vào
hoạt động; khi HTX giải thể thì phần giá trị tài sản được hình thành từ khoản
hỗ trợ của Nhà nước được chuyển vào ngân sách địa phương cùng cấp với cơ
quan đăng ký HTX.
115
116
- Hỗ trợ vốn, giống khi gặp khó khăn do thiên tai, dịch bệnh: thực hiện
theo Quyết định số 142/2009/QĐ-TTg ngày 31/12/2009 của Thủ tướng Chính
phủ về cơ chế, chính sách hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản để khôi
phục sản xuất vùng bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh.
- Hỗ trợ chế biến sản phẩm: thực hiện theo Quyết định số 68/2013/QĐ-
TTg ngày 14/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ nhằm
giảm tổn thất trong nông nghiệp.
Nhiều chính sách được ban hành như vậy, nhưng đi vào thực tế chưa
nhiều và các HTX nông nghiệp được hưởng lợi từ các chính sách đó chưa
nhiều (theo Liên minh HTX Việt Nam - Bảng 8).
3.2.5. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm trong
hoạt động của HTX nông nghiệp
Việc thanh tra, kiểm tra thực hiện pháp luật của HTX nông nghiệp và
các văn bản pháp luật có liên quan được chú trọng và tiến hành thường xuyên,
định kỳ nhằm kịp thời phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật.
Trong thời gian qua, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động
của HTX nông nghiệp chủ yếu tập trung vào sửa đổi, bổ sung nội dung điều
lệ, quyết toán tài chính hàng năm, tổ chức đại hội xã viên, xử lý giải thể HTX
nông nghiệp, nhưng cũng chưa chặt chẽ, triệt để. Tại nhiều HTX nông nghiệp,
xã viên chưa góp vốn điều lệ; việc sửa đổi bổ sung điều lệ các HTX nông
nghiệp thành lập mới, chuyển đổi theo Luật HTX năm 2012 còn rất chậm;
nhiều HTX nông nghiệp không tổ chức được đại hội. Việc giải thể các HTX
nông nghiệp tuy thực hiện đúng thủ tục, nhưng tiến trình chậm, gặp khó khăn
về thủ tục vì không tổ chức được hội nghị xã viên do không còn xã viên;
nhiều xã viên quá thời hạn quy định không góp vốn và không có tư cách xã
viên. Một số HTX nông nghiệp chuyển đổi nhưng đến nay vẫn chưa xác định
xã viên và vốn góp. Vẫn còn nhiều HTX nông nghiệp chưa thực hiện việc sửa
đổi, bổ sung điều lệ HTX quy định của pháp luật, nhưng chưa có giải pháp
chấn chỉnh. Hoạt động của ban quản trị, ban kiểm soát nói chung chưa thực
117
hiện đúng, đủ các quy định về nhiệm vụ theo điều lệ, quy định của Luật HTX,
chủ yếu do năng lực, trình độ yếu. Cá biệt, một số địa phương buông lỏng
việc kiểm tra, giám sát hoặc thực hiện mang tính đối phó. Ban kiểm soát HTX
nông nghiệp chưa phát huy vai trò. Ban quản trị và chủ nhiệm nhiều HTX
nông nghiệp thiếu chủ động và chưa tích cực trong hoạt động. Xã viên nhiều
HTX nông nghiệp chưa ý thức được đầy đủ nghĩa vụ, trách nhiệm và lợi ích
của mình trong việc kiểm tra, giám sát hoạt động HTX nông nghiệp. Nhìn
chung, việc giám sát, kiểm tra và xử lý những sai phạm trong việc thực hiện
Luật HTX và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan khác của các cơ quan
quản lý nhà nước đối với các HTX nông nghiệp chưa được đặt thành nhiệm
vụ cần thiết, quan trọng và thường xuyên. Bên cạnh đó, còn xảy ra tình trạng
các cơ quan quản lý nhà nước liên quan không nắm rõ tình hình phát triển của
các HTX nông nghiệp trên địa bàn, dẫn đến không thể phân tích, đánh giá một
cách rõ ràng, cụ thể và chính xác để kịp thời đưa ra các chính sách phù hợp
đối với khu vực kinh tế này.
Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp và xử lý các hành vi vi
phạm pháp luật về HTX nông nghiệp chủ yếu tập trung vào lĩnh vực đất đai,
hợp đồng kinh tế, chính sách thuế hoặc nghi ngờ tiêu cực trong quản lý HTX
nông nghiệp, quản lý HTX nông nghiệp thiếu dân chủ, sử dụng vốn không
đúng mục đích gây thiệt hại tài chính cho HTX nông nghiệp, tình hình thu
nộp và xử lý tài chính trong HTX nông nghiệp; định mức kinh tế kỹ thuật
khâu dịch vụ thủy nông ở một số HTX nông nghiệp. Nổi bật lên vấn đề về tài
sản chung của HTX nông nghiệp. Trên thực tế, ban kiểm soát một số HTX
nông nghiệp chủ động phối hợp cùng với ban quản trị đề ra chương trình,
nhiệm vụ công tác kiểm tra, kiểm soát, giải quyết các mâu thuẫn, khiếu nại, tố
cáo trong nội bộ HTX nông nghiệp; kiểm tra giám sát việc thực hiện điều lệ,
nội quy HTX... nhưng ở một số địa phương, cấp ủy Đảng, các cơ quan chính
quyền, nhất là cấp xã một mặt chưa thực sự quan tâm giúp đỡ HTX nông
nghiệp, mặt khác còn có biểu hiện can thiệp quá sâu vào công việc nội bộ của
118
HTX nông nghiệp, trong đó có vi phạm tới sự tự nguyện trong vận động
thành lập mới HTX nông nghiệp.
3.3. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nƣớc đối với hợp tác xã nông
nghiệp
3.3.1. Những kết quả đạt được
- Việc tổ chức bộ máy và thực hiện các nhiệm vụ của quản lý nhà nước
đối với HTX nông nghiệp đã một mặt đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của quản lý
nhà nước nói chung, mặt khác nâng cao hiệu quả hoạt động của HTX nông
nghiệp. Công tác phối hợp giữa các cơ quan có chức năng quản lý nhà nước
đối với HTX nông nghiệp bước đầu đã có hiệu quả; việc tham mưu ban hành
cơ chế chính sách hỗ trợ, phát triển hợp tác, liên kết, xây dựng chương trình,
kế hoạch, tổ chức thực hiện chính sách trong thực tiễn và công tác thanh tra,
kiểm tra đang dần đi vào nề nếp.
- Đường lối, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển HTX nông
nghiệp ngày càng được định hình rõ nét.
Có thể nói, phát triển HTX nông nghiệp là mục tiêu ưu tiên trong chính
sách phát triển kinh tế nước ta trong mọi thời kỳ. Lịch sử thăng trầm của
phong trào HTX ở nước ta cũng có liên hệ rất chặt chẽ với sự thay đổi trong
đường lối, chiến lược của Đảng và Nhà nước về HTX. Đó là nỗ lực và quyết
tâm mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước nhằm vực dậy khu vực HTX nông
nghiệp ở nước ta, đặc biệt trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và hội
nhập quốc tế hiện nay.
- Việc xây dựng và hoàn thiện thể chế đã tạo khung khổ pháp lý quan
trọng cho sự ra đời và tổ chức hoạt động của HTX nông nghiệp.
Tác động của pháp luật đến HTX nông nghiệp được thể hiện rõ nhất
vào các thời kỳ từ sau khi ban hành Luật HTX năm 1996 đến nay. Sự ra đời
của Luật HTX vào năm 1996 đã làm cho HTX trở nên tự chủ hơn, ít chịu sự
chi phối hơn từ các cơ quan hành chính nhà nước. Điều này đã góp phần cải
thiện nguyên tắc tự chủ của HTX nông nghiệp. Luật HTX năm 2003 đã góp
phần thúc đẩy sự phát triển của HTX thông qua việc cho phép các pháp nhân
119
tham gia HTX nông nghiệp (số lượng HTX nông nghiệp tăng từ 2.139 năm
2003 lên 8.918 năm 2012). Tuy nhiên, sự tham gia của các pháp nhân đã tạo
ra định hướng lợi nhuận hay doanh nghiệp hóa của nhiều HTX nông nghiệp.
Điều này cũng cản trở việc gia nhập HTX nông nghiệp của một số lao động
có hoàn cảnh khó khăn ở nhiều địa phương. Luật HTX năm 2012 ra đời đã
khuyến khích, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển HTX nông nghiệp "kiểu mới";
định hướng phát triển cho các HTX nông nghiệp hiện đang hoạt động theo
đúng bản chất HTX; đáp ứng nhu cầu và lợi ích của xã viên tham gia HTX
nông nghiệp; bảo đảm quyền và lợi ích của hàng chục triệu hộ nông dân, hàng
chục triệu người tiêu dùng, hộ kinh doanh cá thể, các doanh nghiệp; tăng
cường năng lực cạnh tranh củ ộ
dân và các cơ sở sản xuấ ỏ trong điều kiện cơ
chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế; góp phần cải thiện công bằng xã
hội và ổn định kinh tế, chính trị, xã hội; góp phần thực hiện định hướng xã hội
chủ nghĩa nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
- Việc ban hành và thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển HTX
nông nghiệp đã góp phần thúc đẩy sự ra đời và phát triển của HTX nông
nghiệp qua các giai đoạn.
Trên cơ sở Luật HTX năm 2012, Chính phủ ban hành Nghị định số
193, Quyết định số 2261, và hàng loạt các chính sách hỗ trợ khác nữa đã hình
thành nên hệ thống các chính sách hỗ trợ phát triển HTX nông nghiệp đầy đủ
nhất từ trước tới nay. Đây là nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy sự ra đời
và phát triển của HTX nông nghiệp kiểu mới theo Luật HTX năm 2012.
- Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm trong hoạt
động của HTX nông nghiệp đã góp phần đảm bảo cho HTX nông nghiệp hoạt
động đúng với đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đối
với HTX nông nghiệp; đảm bảo cho HTX nông nghiệp tổ chức và hoạt động
đúng với nguyên tắc, điều lệ và hiệu quả góp phần phát triển kinh tế - xã hội ở
nông thôn.
120
Ngoài ra, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTX nông nghiệp cũng
được quan tâm chỉ đạo thực hiện. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã
ban hành chương trình khung về các bài giảng bồi dưỡng cán bộ quản lý HTX
nông nghiệp và tổ hợp tác trong nông nghiệp; nội dung đào tạo về kinh tế hợp
tác trong nông nghiệp được đưa thành một môn học riêng trong chương trình
đào tạo đại học chuyên ngành về nông nghiệp và phát triển nông thôn ở một
số trường đại học. Hoạt động hợp tác trong nước và quốc tế bước đầu cũng
được đẩy mạnh, nhiều tổ chức quốc tế và khu vực như WB, FAO, JICA, các
nước ASEAN... ngày càng quan tâm hỗ trợ phát triển HTX nông nghiệp.
3.3.2. Những hạn chế chủ yếu
- Chưa có cơ quan nhà nước chuyên trách quản lý HTX từ Trung ương
đến địa phương.
Ở các địa phương mới có Liên minh HTX cấp tỉnh có chức năng đại
diện và bảo vệ quyền lợi, lợi ích hợp pháp của các thành viên; tuyên truyền,
vận động phát triển HTX và liên hiệp HTX; hỗ trợ và cung cấp các dịch vụ
cần thiết cho sự hình thành và phát triển của các cơ sở HTX, liên hiệp HTX
và thành viên. Ở cấp huyện không có Liên minh HTX, Phòng Kế hoạch - Tài
chính quản lý việc cấp đăng ký thành lập HTX; trong quản lý nhà nước về
HTX nông nghiệp, có cán bộ chuyên trách của Phòng Nông nghiệp & Phát
triển nông thôn phụ trách nhưng biên chế cán bộ ít và chưa đủ theo quy định
nên chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý, tư vấn hỗ trợ hoạt động của HTX
nông nghiệp. Ở cấp xã không có bộ máy cũng như công chức chuyên trách
theo dõi, quản lý HTX nông nghiệp.
Cơ cấu tổ chức bộ máy, nhân sự và chức năng, nhiệm vụ của các cơ
quan chuyên trách quản lý đối với HTX nông nghiệp chậm hoàn thiện. Hầu
hết các địa phương cấp huyện không có cán bộ quản lý nhà nước chuyên trách
về HTX mà mới chỉ có cán bộ kiêm nhiệm ở Phòng Kế hoạch - Tài chính, do
vậy nhiều vấn đề nảy sinh trong thực tế liên quan đến HTX nông nghiệp chưa
được phát hiện và xử lý kịp thời. Ở cấp tỉnh, một số địa phương có Ban chỉ
đạo xây dựng và phát triển kinh tế tập thể nhưng chậm được củng cố nhân sự
121
và tổ chức. Ban chỉ đạo cấp huyện thường thiếu về số lượng, yếu về trình độ
và thiếu cán bộ chuyên trách. Ngoài ra, thiếu phân công rõ ràng, cụ thể giữa
các thành viên trong ban chỉ đạo dẫn đến hiệu quả hoạt động không cao.
Những thiếu sót, hạn chế, khiếm khuyết trên, dù khách quan hay chủ quan, vô
tình hay thờ ơ đối với kinh tế tập thể, đối với HTX nông nghiệp đều trở thành
rào cản đối với sự phát triển của HTX nông nghiệp. Do đó, cần và phải tháo
gỡ, xoá bỏ để tạo sự thông thoáng thật sự cho HTX nông nghiệp phát triển
một cách hiệu quả, thiết thực.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chuyên trách quản lý nhà nước về
kinh tế hợp tác, HTX trong nông nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu dẫn đến
năng lực tổ chức quản lý còn hạn chế. Đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước và
các chuyên gia tư vấn hỗ trợ phát triển HTX nông nghiệp vừa thiếu, vừa yếu.
- Tuy Đảng và Nhà nước luôn quan tâm và có đường lối, chiến lược
phát triển kinh tế tập thể, HTX và HTX nông nghiệp, nhưng việc xây dựng và
thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế tập thể, HTX nông nghiệp ở nhiều địa
phương chưa được quan tâm đúng mức, hoặc chưa đưa nội dung cụ thể, xác
thực, chặt chẽ về phát triển kinh tế tập thể, HTX nông nghiệp trong kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội địa phương mình. Như Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn đã ban hành Kế hoạch đổi mới và phát triển kinh tế hợp tác
trong nông nghiệp giai đoạn 2014-2020, nhưng việc triển khai thực hiện chậm
ở các địa phương.
Mặc dù công tác tuyên truyền về kinh tế hợp tác, HTX đã có tiến bộ
nhất định, nhưng việc tuyên truyền còn thiếu chiến lược và thiếu thường
xuyên. Do đó, nhận thức về vị trí, vai trò, bản chất của HTX nông nghiệp
trong cán bộ và nhân dân chuyển biến còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu. Qua
khảo sát ở Thanh Hóa cho thấy, việc tuyên truyền phổ biến phát luật liên quan
đến phát triển HTX nông nghiệp, nhất là Luật HTX năm 2012 chưa thường
xuyên và chưa cụ thể.
- Hệ thống văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Hợp tác xã của Chính
phủ và các bộ, ngành, địa phương còn chậm và thiếu.
122
Sau khi Luật HTX được ban hành và có hiệu lực từ ngày 01/7/2013,
đến ngày 21/11/2013 Chính phủ mới có Nghị định số193/NĐ-CP về Quy định
chi tiết một số điều của Luật HTX; Thông tư số 03/2014/TT-BKHĐT của Bộ
Kế hoạch và Đầu tư về Hướng dẫn đăng ký HTX và chế độ báo cáo tình hình
hoạt động của HTX, Chỉ thị số19/CT-TTg ngày 24/7/2015 về việc đẩy mạnh
triển khai thi hành Luật HTX, Quyết định số 2261/QĐ-TTg ngày 15 tháng 12
năm 2014 phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển HTX giai đoạn 2015-
2020.
Hệ thống văn bản hướng dẫn chậm và thiếu làm việc chuyển đổi, tổ
chức lại HTX nông nghiệp gặp nhiều lúng túng, nhất là khâu rà soát tư cách
thành viên, góp vốn điều lệ, xác định tài sản, công nợ của HTX nông nghiệp
và xây dựng điều lệ, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, hỗ trợ thành
viên phát triển sản xuất, kinh doanh.
- Trong thời gian qua, Chính phủ đã đưa ra và triển khai nhiều chính
sách khác nhau nhằm thúc đẩy sự phát triển của HTX nông nghiệp. Các chính
sách này phần nào đã tác động đến sự phát triển của HTX nông nghiệp, tuy
nhiên tác động của các chính sách này còn tương đối hạn chế. Những hạn chế
này xuất phát từ sự không rõ ràng trong nhận thức về khái niệm HTX. HTX
nông nghiệp cần được coi là một tổ chức kinh tế - xã hội (hơn là tổ chức kinh
tế thuần túy theo các văn bản pháp luận hiện hành) thì các chính sách ưu đãi
xã hội về mặt đất đai, thuế, đầu tư, và các ưu đãi xã hội khác mới có thể được
thực thi một cách thông suốt và hiệu quả.
Nhiều chính sách đã được Chính phủ ban hành nhưng văn bản hướng
dẫn chưa kịp thời, nên chưa được triển khai thực hiện đầy đủ ở các địa
phương. Các chính sách đã ban hành có nhiều nội dung còn chung chung và
thiếu nguồn lực để thực hiện, thủ tục được hưởng các chính sách còn chồng
chéo, làm cho đối tượng thụ hưởng khó tiếp cận chính sách.
- Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm trong hoạt
động của HTX nông nghiệp chưa được tiến hành một cách bài bản, hiệu quả.
123
Hầu như các địa phương chưa chủ động thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt
động của HTX nông nghiệp theo quy định của pháp luật cũng như việc thực
hiện các chính sách phát triển đối với HTX nông nghiệp, do chức năng, nhiệm
vụ của các cơ quan nhà nước đối với HTX nông nghiệp chưa rõ ràng, và do
không đủ cán bộ công chức để thực hiện. Ở các địa phương hiện nay, việc
thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm trong hoạt động của HTX nông
nghiệp chủ yếu do Liên minh HTX tiến hành.
3.3.3. Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế
- Chưa có sự quan tâm đúng mức của hệ thống chính trị đến phát triển
HTX nông nghiệp.
Nhìn chung hệ thống chính trị ở các địa phương chưa thực sự quan tâm
đến hoạt động của HTX nông nghiệp. Một mặt, chưa nhận thức đúng về bản
chất và vai trò của HTX, đặc biệt là HTX nông nghiệp, mặt khác, hiệu quả
hoạt động của HTX nông nghiệp chưa cao, còn mờ nhạt trong sự sôi động của
các loại hình kinh tế khác của kinh tế thị trường định hướng XHCN và xu thế
hội nhập quốc tế. Sự quan tâm lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền và các tổ
chức chính trị - xã hội đối với HTX nông nghiệp chưa cao. Nhiều địa phương
xem HTX nông nghiệp là đơn vị thực hiện một số dịch vụ công theo chỉ đạo
của chính quyền địa phương (thủy lợi, bảo vệ nông nghiệp, ...). Do đó, hoạt
động của HTX nông nghiệp thuần túy chỉ đảm nhiệm những khâu dịch vụ mà
tư nhân không làm được, những khâu cung ứng đầu vào và đầu ra của quá
trình sản xuất phần lớn không cạnh tranh được với các các dịch vụ của doanh
nghiệp và tư nhân nên hiệu quả hoạt động không cao dẫn đến năng lực tài
chính, quỹ phát triển HTX nông nghiệp hạn chế, sự hấp dẫn đối với thành
viên, với cộng đồng không cao.
Công tác tuyên truyền thực hiện Luật HTX, đổi mới cách thức hoạt
động của các HTX nông nghiệp hoặc các mô hình HX nông nghiệp có hiệu
quả còn chưa nhiều và rộng rãi trong nhân dân. Việc tuyên truyền, phổ biến
Luật HTX cho thành viên HTX còn rất ít, đa số thành viên chưa nhận thức
124
đầy đủ về HTX kiểu mới và yêu cầu chuyển đổi, tổ chức lại HTX theo Luật
2012.
- Quản lý nhà nước trong điều kiện đối tượng của quản lý là khu vực
kinh tế hợp tác nói chung, HTX nông nghiệp nói riêng đã rơi vào tình trạng
yếu kém kéo dài do ảnh hưởng của mô hình HTX kiểu cũ rất trầm trọng, rất
khó thay đổi, thì đây cũng là nguyên nhân khách quan dẫn tới hiệu lực, hiệu
quả của quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp rất thấp. Do vậy, khi
Luật HTX năm 2012 ra đời yêu cầu phải chuyển đổi các HTX kiểu cũ sang
HTX kiểu mới hoạt động theo Luật (đến 30/6/2016 phải chuyển đổi xong),
nhưng trong thực tế việc chuyển đổi rất chậm và đến nay tỷ lệ chuyển đổi rất
ít.
- Thiếu nguồn lực, nhất là nguồn lực tài chính hỗ trợ phát triển các
HTX nông nghiệp. Tuy còn thiếu cơ chế và các chính sách ban hành chất
lượng chưa cao, nhưng có một số chính sách khá sát thực đã được ban hành
nhưng không có nguồn lực tài chính để thực hiện.
- Năng lực và kinh nghiệm của bộ máy quản lý nhà nước và các đơn vị
cung cấp dịch vụ cho HTX nông nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu. Hiện
nay đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước và hỗ trợ phát triển HTX
nông nghiệp đang thiếu về số lượng, yếu về chất lượng.
- Sự phân công nghiệm vụ quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp
giữa các cơ quan, bộ, ngành từ Trung ương đến địa phương chưa thật sự rõ
ràng và vẫn còn chồng chéo nhiệm vụ.
- Sự hỗ trợ của chính quyền địa phương các cấp, việc giám sát, kiểm tra
và xử lý vi phạm trong việc thực hiện Luật HTX và các quy định khác liên
quan đến hoạt động của HTX nông nghiệp chưa được cơ quan quản lý nhà
nước thực hiện thường xuyên, kiên quyết.
Kết luận chƣơng 3
Nghiên cứu, phân tích thực trạng phát triển HTX nông nghiệp và thực
trạng quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp ở Việt Nam thời gian qua
125
cho thấy, hoạt động quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp đã có những
chuyển biến tích cực, đang dần đáp ứng yêu cầu phát triển HTX kiểu mới
trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế . Điều này
được thể hiện: Việc hoạch định chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển
HTX mà chủ yếu là HTX nông nghiệp được quan tâm trong tổng thể kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Thể chế pháp luật về tổ chức và hoạt động
của HTX nông nghiệp được quan tâm hoàn thiện theo hướng đảm bảo quyền
tự chủ của HTX nông nghiệp phát triển kinh tế thị trường, nhất là mô hình
HTX kiểu mới theo Luật HTX năm 2012. Việc ban hành và thực hiện các
chính sách đối với HTX nông nghiệp được đặc biệt quan tâm và không ngừng
hoàn thiện nhăm hỗ trợ tốt nhất cho sự ra đời và phát triển của các HTX nông
nghiệp... Tuy nhiên, thực tiễn quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp vẫn
bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập. Hệ thống văn bản hướng dẫn thực hiện Luật
HTX năm 2012 chậm và thiếu làm việc chuyển đổi, tổ chức lại HTX nông
nghiệp gặp nhiều khó khăn. Nhiều chính sách đã được Chính phủ ban hành
nhưng văn bản hướng dẫn chưa kịp thời, nên chưa được triển khai thực hiện
đầy đủ ở các địa phương. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi
phạm trong hoạt động của HTX nông nghiệp chưa được tiến hành một các bài
bản, hiệu quả. Chưa có cơ quan nhà nước chuyên trách quản lý HTX từ Trung
ương đến địa phương.
126
Chƣơng 4
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC HOÀN THIỆN
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP
Ở VIỆT NAM
4.1. Quan điểm, mục tiêu, phƣơng hƣớng hoàn thiện quản lý nhà
nƣớc đối với hợp tác xã nông nghiệp
Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp ở Việt Nam
trong điều kiện phát triển KTTT và HNQT hiện nay là yêu cầu bức thiết nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động của các HTX nông nghiệp cũng như nâng cao
hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp.
Trong điều kiện thực hiện Luật HTX năm 2012, với quan điểm xây dựng các
HTX kiểu mới trên cơ sở khuyến khích sự ra đời, chuyển đổi các HTX kiểu
cũ, đòi hỏi công tác quản lý nhà nước phải tạo điều kiện tốt nhất cho các HTX
kiểu mới được hình thành và phát triển có hiệu quả đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước.
Trước tác động của phát triển KTTT định hướng XHCN và HNQT hiện
nay, HTX nông nghiệp ở Việt Nam đang vận động theo những xu hướng nhất
định. Các số liệu thực tế phản ánh rằng, phát triển HTX nông nghiệp theo
hướng gắn liền với kinh tế hộ nông dân đang là xu hướng phát triển quan
trọng của các HTX nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay. Xu hướng này được
thực hiện thông qua cơ chế HTX nông nghiệp góp phần nâng cao năng lực
sinh kế cho các hộ nông dân, giúp hộ nông dân cắt giảm chi phí sản xuất kinh
doanh và mở rộng quy mô kinh tế hộ. Bên cạnh đó, xu hướng phát triển HTX
nông nghiệp gắn liền với phát triển cộng đồng cũng đang được hình thành khá
rõ nét ở Việt Nam hiện nay. HTX nông nghiệp góp phần phát triển cộng đồng
thông qua việc liên kết các cá nhân trong cộng đồng xung quanh HTX nông
nghiệp, phát triển cơ sở hạ tầng chung của cộng đồng, tổ chức các hoạt động
văn hóa - xã hội cộng đồng, hỗ trợ lẫn nhau lúc khó khăn.
Các xu hướng phát triển của HTX nông nghiệp nói trên đang đòi hỏi
công tác quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước đối với HTX nông
127
nghiệp nói riêng phải được hoàn thiện cho phù hợp và tương đồng với luật
pháp quốc tế, thích ứng với quản lý hiện đại trên thế giới.
4.1.1. Quan điểm
4.1.1.1. Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hợp tác xã nông nghiệp
phải dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
hợp tác xã
Lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về HTX
đều khẳng định, HTX là loại hình hết sức cần thiết trong công cuộc xây dựng
một xã hội mới (xã hội xã hội chủ nghĩa). Ph.Ăngghen khẳng định "Trong
bước quá độ lên nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa đầy đủ, chúng ta sẽ phải áp
dụng trên quy mô lớn nền sản xuất hợp tác xã với tính cách là một khâu trung
gian - điều đó cả Mác và tôi không bao giờ hoài nghi cả" [21, tr568]. Lênin
coi HTX là con đường, là phương tiện hữu hiệu để xây dựng chủ nghĩa xã hội
"ở nước ta, vì chính quyền nhà nước đã do giai cấp công nhân nắm, vì mọi tư
liệu sản xuất đều do chính quyền nhà nước nắm, trên thực tế chúng ta chỉ có
việc đưa nhân dân vào HTX. Khi nhân dân đã vào HTX đến một mức đồng
nhất, thì chủ nghĩa xã hội tự nó sẽ được thực hiện" [66, tr421]. Trong tác
phẩm Đường cách mệnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn lời tuyên ngôn của HTX
Anh “Cốt làm cho những người vô sản giai cấp hóa ra anh em. Anh em thì
giùm nhau, nhờ lẫn nhau. Bỏ thói cạnh tranh. Làm cho ai trồng cây thì được
ăn trái, ai muốn ăn trái thì giùm vào trồng cây”[40, tr313-314].
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, HTX không phải là tổ chức thương
mại, kinh doanh và cũng không phải tổ chức xã hội, từ thiện. Có nhiều loại
hình hợp tác xã khác nhau, nhưng có thể nhóm thành một số loại hình cơ bản
dựa trên nhu cầu chung cơ bản của xã viên.
Về nguyên tắc xây dựng HTX, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định,
đó là nguyên tắc tự nguyện, từng bước (từ thấp đến cao) và có sự giúp đỡ của
nhà nước vô sản.
Như vậy, trong hoàn thiện quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp
phải dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
128
về HTX. Khẳng định sự cần thiết và vai trò quan trọng của HTX trong xây
dựng xã hội xã hội chủ nghĩa; bản chất của HTX không chỉ là một tổ chức
kinh tế mà còn có ý nghĩa văn hóa, xã hội sâu sắc; HTX được tổ chức trên
nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và có giúp đỡ của nhà nước.
4.1.1.2. Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hợp tác xã nông nghiệp
phải dựa trên đường lối của Đảng, Nhà nước về phát triển hợp tác xã
Trước đổi mới (1986), Đảng và Nhà nước đã quan tâm đến việc xây
dựng và phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp. Ngay sau khi cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và cải cách ruộng đất thắng lợi, Nghị quyết
lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II tháng 8 năm 1955 đã
đề ra chủ trương phát triển các tổ đổi công và xây dựng thí điểm một số HTX
nông nghiệp.
Đường lối đổi mới do Đại hội VI đề xướng đã khẳng định phát triển kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần, trong đó kinh tế tập thể mà bộ phận chủ yếu là
HTX được khẳng định cùng với kinh tế nhà nước dần dần trở thành nền tảng
của nền kinh tế quốc dân; đồng thời thừa nhận sự tồn tại của kinh tế HTX phải
đi đôi với sự phát triển đa dạng của các hình thức kinh tế hợp tác từ thấp đến
cao, HTX là bộ phận nòng cốt của kinh tế hợp tác. Nghị quyết 10-NQ/TW của
Bộ Chính trị (khoá VI) đã khẳng định, kinh tế HTX có nhiều hình thức từ thấp
đến cao, mọi tổ chức sản xuất kinh doanh do người lao động tự nguyện góp
vốn, góp sức, được quản lý theo nguyên tắc dân chủ đều là HTX. Quan điểm
đó được thể hiện xuyên suốt từ Đại hội VII đến Đại hội XII. Cụ thể hóa các
quan điểm của Đảng về phát triển HTX, Nhà nước đã ban hành Luật HTX năm
1996, năm 2003 và năm 2012.
Những quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước về phát triển HTX
nêu trên là cơ sở quan trọng cho việc hoàn thiện quản lý nhà nước đối với
HTX nông nghiệp.
4.1.1.3. Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hợp tác xã nông nghiệp
để thúc đẩy sự ra đời và phát triển của hợp tác xã nông nghiệp.
129
HTX nông nghiệp là một loại hình kinh tế hợp tác trong nông nghiệp -
một hình thức tổ chức kinh tế đặc thù trong hệ thống các loại hình tổ chức
kinh tế đa dạng; là tổ chức kinh tế tự chủ, có vốn, quỹ và tài sản chung, có cơ
cấu tổ chức chặt chẽ, có tư cách pháp nhân. HTX nông nghiệp được thành lập
trên tinh thần tự nguyện, tự trợ giúp, tự chịu trách nhiệm, dân chủ, bình đẳng,
công bằng và đoàn kết của các thành viên tham gia.
HTX nông nghiệp hiện đang đóng vai trò quan trọng trong phát triển
kinh tế - xã hội, như: đóng vai trò “bà đỡ” cho các thành viên phát triển kinh
tế, đồng thời có những đóng góp trực tiếp, quan trọng vào sự tăng trưởng,
phát triển chung của nền kinh tế; tham gia giải quyết việc làm, xóa đói, giảm
nghèo cho xã viên và cho người lao động; cung cấp và hỗ trợ các thành viên,
cộng đồng dân cư tiếp cận các dịch vụ để an sinh xã hội; tham gia xây dựng
các công trình kết cấu hạ tầng ở các khu vực dân cư, đặc biệt là ở khu vực
nông thôn; góp phần bảo vệ môi trường sinh thái; góp phần xây dựng đời
sống văn hóa mới ở các khu vực dân cư, đặc biệt là ở khu vực nông thôn; góp
phần bảo đảm sự thành công của các chương trình, dự án phát triển kinh tế -
xã hội trên địa bàn thông qua việc tham gia xây dựng và thực hiện các chương
trình, dự án này; v.v…
Xuất phát từ sự cần thiết và vai trò quan trọng của HTX nông nghiệp
trong phát triển kinh tế - xã hội nêu trên, nên việc hoàn thiện quản lý nhà
nước đối với HTX nông nghiệp phải trên quan điểm thúc đẩy sự ra đời và
phát triển của các HTX nông nghiệp.
4.1.1.4. Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hợp tác nông nghiệp để
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính nhà nước về kinh tế nói
chung, về nông nghiệp và hợp tác xã nông nghiệp nói riêng.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý hành chính nhà
nước là một quá trình mà mục tiêu là xây dựng một nền hành chính trong
sạch, có đủ năng lực, sử dụng đúng quyền lực, từng bước hiện đại hóa để
quản lý có hiệu lực, hiệu quả công việc của nhà nước. Thực chất là sự thay
130
đổi sâu sắc mối quan hệ giữa nhà nước với các tổ chức kinh tế, xã hội và nhân
dân.
Do vậy, hoàn thiện quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp phải
trên quan điểm giải quyết tốt mối quan hệ giữa nhà nước với HTX nông
nghiệp theo hướng thúc đẩy và nâng cao hiệu quả hoạt động của các HTX
nông nghiệp; giải quyết triệt để giữa các cơ quan hành chính nhà nước các
cấp, là cho bộ máy quản lý hành chính nhà nước đối với HTX nông nghiệp từ
Trung ương đến cơ sở thật sự gọn nhẹ, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.
4.1.1.5. Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hợp tác xã nông nghiệp
phải trên cơ sở tham khảo, vận dụng các kinh nghiệm trong công tác quản lý
nhà nước đối với hợp tác xã nông nghiệp trên thế giới và trong nước
HTX có lịch sử ra đời và phát triển trên thế giới hàng trăm năm, có vai
trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia, Do vậy,
việc vận dụng các kinh nghiệm trong công tác quản lý nhà nước đối với HTX
nông nghiệp của các nước trên thế giới, đặc biệt là kinh nghiệm của các nước
châu Á như Thái Lan, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ... cần phải được nghiên
cứu và vận dụng trong hoàn thiện quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp
trong điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Những thành công cũng như chưa thành công, thậm chí là thất bại trong
quản lý phát triển HTX nông nghiệp ở Việt Nam trong thời kỳ trước đổi mới,
thậm chí là trong đổi mới đều có thể nghiên cứu, tham khảo và vận dụng
trong hoàn thiện quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp ở Việt Nam hiện
nay.
4.1.2. Mục tiêu của hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hợp tác xã
nông nghiệp
Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp ở Việt nam giai
đoạn tới cần hướng đến các mục tiêu sau đây:
4.1.2.1. Tổ chức thực hiện tốt Luật Hợp tác xã năm 2012, xây dựng các
văn bản dưới luật đáp ứng yêu cầu phát triển hợp tác xã nông nghiệp
131
Luật HTX được sửa đổi năm 2012 có hiệu lực từ 1/7/2013, nhưng đến
nay vẫn còn tỷ lệ lớn HTX nông nghiệp chưa rà soát, chuyển đổi hoạt động
theo luật định, do nhiều địa phương lúng túng trong chỉ đạo thực hiện chuyển
đổi HTX kiểu cũ sang hoạt động theo mô hình HTX kiểu mới. Việc chuyển
đổi sang mô hình HTX kiểu mới còn gặp nhiều khó khăn bởi một số lý do,
như:
- Các văn bản hướng dẫn dưới Luật được ban hành chậm, gây khó khăn
cho HTX trong quá trình chuyển đổi, nhất là về thủ tục đăng ký thành lập.
Một số địa phương khó khăn trong việc rà soát, đánh giá các HTX trên địa
bàn để tiến hành chuyển đổi.
- Một số HTX còn lúng túng trong việc thực hiện chuyển đổi bởi đây là
quá trình chuyển đổi sang mô hình mới đã làm thay đổi căn bản về quan hệ sở
hữu, quan hệ kinh tế, quan hệ phân phối và mức vốn góp tối đa đối với các
thành viên khi tham gia HTX kiểu mới.
- Nhiều cán bộ, đảng viên và người dân còn có tâm lý mặc cảm với
HTX kiểu cũ dẫn đến chưa thấy hết vai trò quan trọng của khu vực kinh tế tập
thể, thậm chí hiểu chưa đúng bản chất, vị trí, vai trò, nguyên tắc hoạt động
của HTX; chưa phân biệt được sự khác nhau giữa mô hình HTX kiểu mới với
mô hình HTX kiểu cũ, giữa HTX với doanh nghiệp.
- Chính sách hỗ trợ phát triển HTX chưa thực hiện đầy đủ, hiệu quả
thấp ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất - kinh doanh của HTX cũng
như quá trình rà soát, đăng ký lại để thực hiện chuyển đổi không bảo đảm thời
hạn theo quy định của Luật HTX năm 2012.
Như vậy, mục tiêu quan trọng của hoàn thiện quản lý nhà nước đối với
HTX nông nghiệp là phải tổ chức thực hiện tốt Luật HTX năm 2012, trước
hết là chuyển đổi các HTX nông nghiệp theo Luật năm 2012. Trong đó, cần
lưu ý các nội dung sau:
Thứ nhất, tiếp tục nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của kinh tế tập
thể trong nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế; tăng cường việc tổng kết,
nhân rộng các mô hình kinh tế tập thể làm ăn có hiệu quả; phổ biến các mô
132
hình HTX kiểu mới, kinh nghiệm của phong trào HTX trong khu vực và quốc
tế đến toàn dân. Đổi mới và đa dạng hóa công tác tuyên truyền, tập huấn pháp
luật về HTX.
Thứ hai, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, sự phối hợp chặt
chẽ, trách nhiệm cao của các bộ, ngành, các địa phương, Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội (nhất là Hội Nông dân Việt Nam),
Liên minh Hợp tác xã Việt Nam trong việc chỉ đạo triển khai thực hiện Luật
HTX năm 2012.
Thứ ba, tập trung hỗ trợ tài chính từ các nguồn lồng ghép với chính
sách thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới để
thành lập một số mô hình điểm ở các tỉnh nông nghiệp.
Thứ tư, xây dựng mô hình HTX nông nghiệp chuyên ngành, phát triển
đa dạng các loại hình HTX nông nghiệp ở các địa phương với các điều kiện tự
nhiên, kinh tế, xã hội và văn hoá khác nhau nhằm phát huy thế mạnh tiềm
năng kinh tế của địa phương.
Thứ năm, tổ chức, củng cố lại hoạt động của các HTX nông nghiệp
theo đúng bản chất HTX, Luật HTX năm 2012 và các văn bản hướng dẫn;
phát huy vai trò làm chủ của thành viên; vận động thành viên HTX góp vốn
và nâng mức vốn góp; vận động HTX thu hút thêm thành viên, hợp nhất, sáp
nhập HTX cùng ngành, nghề và địa bàn hoạt động để tăng tiềm lực tài chính
và quy mô hoạt động của HTX. Giải thể các HTX nông nghiệp hoạt động kém
hiệu quả, hoạt động hình thức đi đôi với việc thành lập mới theo Luật HTX
năm 2012.
Bên cạnh đó, tiếp tục cụ thể hóa Luật HTX năm 2012 với yêu cầu phát
triển HTX nông nghiệp, như quy định riêng đối với tổ chức và hoạt động, các
chính sách hỗ trợ... đối với HTX nông nghiệp.
4.1.2.2. Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho phát triển bền vững
hợp tác xã nông nghiệp
Xuất phát từ vai trò quan trọng của HTX nông nghiệp trong phát triển
kinh tế - xã hội. Đó là, HTX nông nghiệp không chỉ đóng vai trò tích cực
133
trong hoạt động kinh tế, mà cả trong các lĩnh vực xã hội, văn hóa. Hay nói
cách khác, HTX nông nghiệp ngoài tư cách là một tổ chức kinh tế, còn có ý
nghĩa văn hóa - xã hội sâu sắc. Vì HTX nông nghiệp thường gắn với một
cộng đồng dân cư nhất định, lợi ích kinh tế do HTX nông nghiệp đưa lại tạo
điều kiện cho cộng đồng có thể cùng nhau giải quyết các vấn đề có liên quan
đến cuộc sống của họ, như thăm hỏi, giúp đỡ nhau trong lúc hiếu, hỷ, ốm đau.
HTX nông nghiệp theo sự lớn mạnh của mình có thể tổ chức các hoạt động xã
hội, văn hóa và hoạt động chăm lo cộng đồng làm cộng đồng dân cư trở nên
đoàn kết và thân thiết với nhau hơn, từ đó góp phần giải quyết ngay tận gốc
các mâu thuẫn trong nội bộ dân cư, góp phần củng cố an ninh chính trị và trật
tự an toàn xã hội. Mục tiêu trong giai đoạn 2016-2020 đã được Quốc hội
thông qua là có 15 nghìn HTX, liên hiệp HTX hoạt động có hiệu quả, trong
đó chủ yếu là HTX nông nghiệp.
Tuy có vai trò quan trọng như vậy, nhưng trên thực tế hoạt động của
các HTX nông nghiệp ở Việt nam hiện nay đang gặp rất nhiều khó khăn, như:
nhận thức về HTX kiểu mới và Luật HTX của cán bộ cơ sở và nông dân chưa
đầy đủ và thấu đáo; trình độ cán bộ quản lý HTX nông nghiệp còn bất cập so
với cơ chế quản lý mới; vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật của HTX nông nghiệp
còn yếu kém; HTX nông nghiệp gặp khó khăn trong bao tiêu sản phẩm. Đặc
biệt là, công tác quản lý và hỗ trợ của Nhà nước đối với kinh tế HTX chưa
được quan tâm đúng mức. Mặc dù Nhà nước đã có nhiều chính sách (đặc biệt
có Luật HTX) tạo hành lang pháp lý cho HTX nông nghiệp chuyển đổi, xây
dựng mới, thực hiện hoạt động sản xuất, kinh doanh. Nhưng trên thực tế, sự
tác động của các chủ trương, chính sách đó còn chậm đến các cơ sở; nhiều
chính sách đã được ban hành nhưng các HTX nông nghiệp chưa được hưởng
ả lợ
ụng ở các ngân hàng thương mạ ứ
ử dụ ụ sở HTX nông nghiệp.v.v...
Vì vậy, việc hoàn thiện quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp
phải tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho HTX nông nghiệp ra đời và
134
hoạt động có hiệu quả, phát triển bền vững nhằm phát huy vai trò của nó
trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Gồm các môi trường chính trị,
pháp lý, xã hội, an ninh, môi trường sinh thái... và sự hỗ trợ về mọi mặt cho
sự phát triển bền vững của HTX nông nghiệp.
4.1.2.3. Khắc phục những hạn chế, tồn tại hiện nay trong công tác
quản lý nhà nước đối với hợp tác xã nông nghiệp
Có thể nói, cho đến nay công tác quản lý nhà nước đối với HTX nói
chung và HTX nông nghiệp còn thiếu thống nhất và có nhiều yếu kém. Bộ
máy tham mưu quản lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương chưa đáp
ứng yêu cầu phát triển HTX nông nghiệp. Như: Tổ chức bộ máy quản lý nhà
nước và hỗ trợ HTX nông nghiệp từ Trung ương đến cơ sở chưa hoàn chỉnh,
công tác bố trí và năng lực của đội ngũ công chức trong quản lý nhà nước
chưa đáp ứng yêu cầu phát triển HTX nông nghiệp hiên nay. Công tác tham
mưu ban hành các cơ chế, chính sách về phát triển HTX nông nghiệp chậm,
thiếu đồng bộ; nhiều chính sách đã được Chính phủ ban hành nhưng chưa có
văn bản hướng dẫn kịp thời của các bộ, ngành nên chưa được thực hiện đầy
đủ ở các địa phương; thủ tục để được hưởng các chính sách còn phức tạp, các
văn bản còn chồng chéo. v.v...
Do vậy, trong hoàn thiện quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp
phải đạt mục tiêu cơ bản là khắc phục những hạn chế, tồn tại hiện nay trong
công tác quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp trong thời gian vừa qua.
4.1.2.4. Tăng cường hoạt động điều tiết của Nhà nước theo đúng định
hướng, đúng quy định pháp luật và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động
thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với tổ chức và hoạt động của hợp tác xã
nông nghiệp
Hoạt động điều tiết của Nhà nước đối với các HTX nông nghiệp nhằm
mục tiêu bảo đảm cho hoạt động của các HTX nông nghiệp đúng định hướng,
đúng quy hoạch, kế hoạch và đúng pháp luật. Công tác thanh tra, kiểm tra,
giám sát đối với tổ chức và hoạt động của HTX nông nghiệp cũng nhằm mục
tiêu phát hiện hoặc phòng ngừa những vi phạm về đường lối, chính sách, pháp
135
luật của Đảng và Nhà nước. Do đó, trong hoàn thiện quản lý nhà nước đối với
HTX nông nghiệp phải tăng cường hoạt động điều tiết của Nhà nước theo
đúng định hướng, đúng quy định pháp luật và nâng cao hiệu lực, hiệu quả
hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với tổ chức và hoạt động của HTX
nông nghiệp.
4.1.2.5. Để hợp tác xã nông nghiệp thích ứng với việc phát triển kinh tế
thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay.
Phát triển kinh tế thị trường đi đôi với chủ động, tích cực hội nhập quốc
tế là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Ngoài những thuận lợi cho phát triển HTX nông nghiệp, như; thị trường mở
rộng hơn và dễ tiếp cận hơn, có môi trường để học hỏi... Các HTX nông
nghiệp phải đối mặt với những khó khăn, thách thức, cụ thể:
Thứ nhất, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo
nên sức ép cạnh tranh gay gắt đối với các HTX nông nghiệp, ngay cả trên thị
trường nội địa.
Thứ hai, hội nhập làm tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia vào
thị trường bên ngoài và do vậy, HTX nông nghiệp có thể dễ bị tổn thương
trước những biến động của thị trường quốc tế.
Như vậy, vấn đề đặt ra là, trong hoàn thiện quản lý nhà nước đối với
HTX nông nghiệp phải đạt mục tiêu cho các HTX nông nghiệp khai thác tốt
các thời cơ, thuận lợi, đồng thời vượt qua những khó khăn, thách thức trong
phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Phát huy vai trò của HTX
nông nghiệp trong phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay.
4.1.3. Phương hướng
Phương hướng của hoàn thiện quản lý nhà nước đối với HTX nông
nghiệp ở Việt Nam giai đoạn tới phải chuyển mạnh sang kiến tạo và hỗ trợ
các HTX nông nghiệp phát triển; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước.
4.1.3.1. Chuyển mạnh sang kiến tạo và hỗ trợ các hợp tác xã nông
nghiệp phát triển
136
Để kiến tạo và hỗ trợ phát triển HTX nông nghiệp, cần tập trung vào
một số công việc cụ thể sau:
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động của HTX nông
nghiệp trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của HTX và phù hợp với điều kiện
phát triển HTX nông nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập
quốc tế hiện nay của Việt Nam hiện nay.
- Giảm thiểu các thủ tục hành chính theo hướng hỗ trợ cho sự ra đời và
thụ hưởng các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với HTX nông nghiệp.
- Tập trung vào việc ban hành và thực hiện các chính sách hỗ trợ các
HTX nông nghiệp phát triển.
- Xây dựng các mô hình điển hình các HTX nông nghiệp hoạt động có
hiệu quả, mô hình liên hiệp các HTX nông nghiệp toàn tỉnh và cấp vùng.
Các mô hình này sẽ giúp nông dân khắc phục cơ bản thua thiệt trên thị
trường, gia tăng lợi ích thông qua liên kết hữu cơ trong chuỗi giá trị nông sản
phẩm nhằm tăng cường sức mạnh tập thể của các thành viên, từ đó cải thiện
đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao tinh thần hợp tác của cộng đồng
nhiều hộ nông dân và dân cư địa phương.
4.1.3.2. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các cơ quan nhà nước từ
Trung ương tới cơ sở trong quản lý hợp tác xã nông nghiệp
Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các cơ quan nhà nước trong quản lý
HTX nông nghiệp, cần tập trung vào một số công việc cụ thể sau:
- Tổ chức các cơ quan nhà nước, quy định chức năng, nhiệm vụ đảm
bảo đồng bộ, hệ thống từ Trung ương đến cơ sở.
- Kết hợp chặt chẽ quản lý nhà nước theo ngành và lãnh thổ.
- Việc thực hiện các nội dung quản lý nhà nước phải công khai, minh
bạch và ổn định.
- Nâng cao trình độ, năng lực của cán bộ, công chức từ Trung ương đến
cơ sở trong quản lý HTX nông nghiệp.
4.2. Giải pháp tiếp tục hoàn thiện quản lý nhà nƣớc đối với hợp tác
xã nông nghiệp
137
4.2.1. Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với hợp tác
xã nông nghiệp
Trên cơ sở bộ máy quản lý nhà nước đối với HTX hiện hành và những
tồn tại, hạn chế của nó, thành lập bộ máy mới theo hướng sau:
- Ở Trung ương, nâng cấp Cục Kinh tế hợp tác thành Tổng cục Kinh tế
hợp tác, vẫn trực thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nhưng tăng thêm chức năng,
nhiệm vụ, không giao chức năng quản lý kinh tế hợp tác, HTX cho các bộ,
ngành khác nữa để tạo sự thống nhất từ Trung ương. Vì nội dung quản lý nhà
nước Luật HTX năm 2012 có rất nhiều nhiệm vụ. Ngoài ban hành, phổ biến,
hướng dẫn và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về kinh tế tập thể; xây
dựng bộ máy và tổ chức thực hiện kế hoạch, chương trình, chính sách hỗ trợ,
ưu đãi đối với HTX, liên hiệp HTX…, còn phải thanh tra, kiểm tra; xử lý các
hành vi vi phạm pháp luật của HTX, liên hiệp HTX và của cá nhân, tổ chức
có liên quan; thực hiện hợp tác quốc tế về phát triển HTX, liên hiệp HTX.
Cho nên, chỉ thành lập Tổng cục mới có thể thực hiện được nhiệm vụ, Tổng
cục này trực thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
- Ở địa phương, thành lập Cục Kinh tế hợp tác trực thuộc UBND cấp
tỉnh làm cơ quan quản lý thống nhất trong lĩnh vực HTX. Thuyên chuyển các
cán bộ thuộc biên chế đang phụ trách lĩnh vực HTX ở các sở, phòng, ban và
liên minh HTX về Cục Kinh tế hợp tác. Cấp huyện, thành lập Phòng Kinh tế
hợp tác trực thuộc UBND cấp huyện. Thuyên chuyển các cán bộ thuộc biên
chế đang phụ trách lĩnh vực HTX ở các phòng, bộ phận về Phòng Kinh tế hợp
tác. Cấp xã, bố trí ít nhất 01 cán bộ chuyên trách công tác quản lý kinh tế hợp
tác. Đây là giải pháp hoàn toàn mới và có những ưu điểm sau:
Thứ nhất, tất cả các loại hình HTX đều được thống nhất quản lý bởi
một cơ quan chuyên trách. Như vậy tránh được sự chồng chéo, lấn sân cũng
như đùn đẩy trách nhiệm giữa các sở, ban, ngành như hiện nay.
Thứ hai, tách Liên minh HTX hoàn toàn khỏi chức năng quản lý nhà
nước, không chịu sự quản lý của chính quyền về mặt nhân sự. Liên minh chỉ
hoạt động như một hiệp hội đại diện cho quyền lợi của HTX cũng như triển
138
khai các hoạt động tư vấn đối với HTX. Như vậy, nếu thực hiện giải pháp
này, cán bộ, công chức hiện đang làm việc cho liên minh HTX được xử lý
theo cách chuyển một số cán bộ, công chức có liên quan trực tiếp đến công tác
quản lý nhà nước sang làm việc cho Cục Kinh tế hợp tác; số còn lại vẫn làm việc
cho Liên minh HTX (Liên minh HTX hoạt động dựa trên nguồn kinh phí hoạt
động về tư vấn, đào tạo).
Sơ đồ 2. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nƣớc đối với kinh tế hợp tác
Liên minh HTX Việt Nam
Trung ƣơng Hội Nông dân Việt Nam Bộ KH và ĐT (Tổng cục Kinh tế hợp tác)
Liên minh HTX tỉnh
Cấp tỉnh Cục Kinh tế hợp tác Hội Nông dân tỉnh
Phòng Kinh tế hợp tác Cấp huyện
Hội Nông dân huyện
Hội Nông dân xã Cấp xã
Cán bộ chuyên trách
HTX, tổ hợp tác, các liên kết kinh tế
Thứ ba, thể hiện được sự tham gia của Hội Nông dân từ Trung ương
đến cơ sở với tư cách là tổ chức hội của nông dân, thực hiện chức năng cơ bản
là vận động các hộ nông dân tích cực tham gia HTX nông nghiệp, và thực
hiện một số hỗ trợ cho hộ nông dân và cho các HTX nông nghiệp.
139
Sứ mệnh của bộ máy quản lý nhà nước đối với kinh tế hợp tác hiện nay
là tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, thống nhất nhận thức, tạo môi
trường tâm lý thuận lợi cho HTX nông nghiệp phát triển. Cần tiếp tục làm
cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn các quan
điểm phát triển kinh tế tập thể đã xác định trong Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 5 khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế
tập thể, Luật HTX năm 2012, chú trọng khắc phục những biểu hiện không
đúng, lệch lạc về nhận thức, như hiểu không đúng bản chất, nguyên tắc và các
giá trị của HTX; chưa phân biệt đầy đủ sự khác nhau giữa HTX kiểu cũ và
HTX kiểu mới; còn quan niệm đồng nhất HTX với doanh nghiệp hoặc hợp tác
xã với tổ chức xã hội; đánh giá hiệu quả hoạt động của HTX nặng về đóng
góp vào ngân sách, GDP..., không thấy được đầy đủ vai trò, vị trí của khu vực
HTX nông nghiệp trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trong phát
triển nền KTTT định hướng XHCN.
Về chức năng, nhiệm vụ, cần quy định cụ thể đối với Cục Kinh tế hợp
tác, Phòng Kinh tế hợp tác và cán bộ chuyên trách (ở cấp tỉnh, huyện, xã) theo
hướng tập trung vào các công việc sau đây:
- Tuyên truyền, vận động, tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ cho việc
hình thành và phát triển HTX nông nghiệp thuộc địa phương mình.
- Hướng dẫn, khuyến khích các HTX nông nghiệp phối hợp cùng hoạt
động vì lợi ích của nhân dân ở địa phương.
- Kiểm tra, thanh tra việc thực hiện Luật HTX và các văn bản pháp luật
có liên quan.
- Giải quyết theo thẩm quyền các khiếu nại, tố cáo, tranh chấp và xử lý
các hành vi vi phạm pháp luật về HTX.
- Thực hiện các nội dung khác về quản lý nhà nước đối với HTX nông
nghiệp theo quy định của pháp luật.
Về điều kiện để thực hiện giải pháp này. Việc thành lập cơ quan nhà
nước chuyên trách quản lý kinh tế hợp tác trên cơ sở hợp nhất các đơn vị thực
hiện chức năng quản lý nhà nước đối với kinh tế hợp tác ở các bộ, ngành, nên
140
không tăng thêm biên chế và kinh phí mà sử dụng biên chế và kinh phí hiện
hành. Riêng ở cấp xã, hiện chưa có nhiệm vụ này thì quy định thêm nhiệm vụ
cho 01 công chức theo dõi tham mưu về kinh tế hợp tác, không tăng thêm
biên chế cũng không tăng thêm kinh phí.
4.2.2. Đổi mới công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
phát triển hợp tác xã nông nghiệp
Công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển HTX
nông nghiệp là một nội dung của quản lý nhà nước và là công cụ quan trọng
để xác định mục tiêu và định hướng cho sự phát triển của HTX nông nghiệp
trong tương lai. Như đã phân tích ở chương 3, tuy đường lối phát triển kinh tế
tập thể, HTX nông nghiệp ở Việt Nam đến nay đã được định hình khá rõ nét,
nhưng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển HTX nông nghiệp chưa
được đề cập mang tính tổng thể và thống nhất mà còn tản mạn trong các văn
bản của Đảng và Nhà nước, chưa đề ra mục tiêu phát triển HTX nông nghiệp
một cách rõ ràng. Do vậy, để tiếp tục hoàn thiện quản lý nhà nước đối với
HTX nông nghiệp, nội dung đầu tiên và quan trọng là phải đổi mới công tác
xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển HTX nông nghiệp.
Việc xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển HTX nông
nghiệp phải quán triệt quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về tiếp tục
đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể nói chung và HTX
nông nghiệp nói riêng là nhằm mục tiêu thoát khỏi những yếu kém hiện nay,
đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn và hiệu quả cao hơn trên các mặt. Để đạt được
những mục tiêu, yêu cầu đó, khu vực HTX nông nghiệp phải có những
chuyển biến mạnh mẽ, cơ bản và cần định hướng vào những nội dung sau:
- Phát triển HTX nông nghiệp gắn bó mật thiết, phục vụ thực hiện
thắng lợi đường lối và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đây
không chỉ là yêu cầu, mà trước hết là định hướng, căn cứ huy động các nguồn
lực để HTX nông nghiệp đổi mới và phát triển. Và phải được coi như là một
giải pháp quan trọng để thực hiện thắng lợi đường lối và chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước.
141
- Phát triển HTX nông nghiệp hướng vào đáp ứng những nhu cầu kinh
tế, văn hóa, xã hội của đông đảo các tầng lớp xã hội và tập hợp, liên kết rộng
rãi mọi loại hình và tổ chức kinh tế, đặc biệt chú trọng đối tượng là người lao
động, các hộ kinh tế cá thể.
Kinh nghiệm ở các nước trên thế giới cho thấy, trong nhiều lĩnh vực
đời sống xã hội, nếu hợp tác lại được với nhau thì sẽ tốt hơn và hiệu quả hơn,
như: tiêu dùng, bảo hiểm, nhà ở, chăm sóc sức khỏe và dịch vụ y tế, chăm sóc
trẻ em, người cao tuổi... Phát triển HTX nông nghiệp cũng cần được mở rộng
và hướng vào đông đảo các tầng lớp dân cư, các giới xã hội và đông đảo các
đối tượng có nhu cầu đáp ứng các đòi hỏi đó.
- Phát triển HTX nông nghiệp cần được mở rộng trong mọi lĩnh vực,
ngành nghề mà người dân có nhu cầu.
- Phát triển mô hình HTX nông nghiệp đa dạng về hình thức, phát triển
từ thấp đến cao, từ làm dịch vụ sản xuất, dịch vụ đời sống cho các hộ thành
viên, xã viên, đến mở mang ngành nghề, vươn lên sản xuất kinh doanh tổng
hợp trong nông nghiệp.
- Khu vực HTX nói chung và HTX nông nghiệp nói riêng phải là một
hệ thống thống nhất từ các xã viên, hộ xã viên, tới các HTX, liên hiệp HTX.
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từng giai đoạn cần quy
hoạch phát triển HTX nông nghiệp, đặc biệt là ở các địa phương, gắn với điều
kiện cụ thể và tiềm năng, thế mạnh của từng vùng về phát triển nông nghiệp.
Trên cơ sở quy hoạch phát triển HTX nông nghiệp từng giai đoạn, cần xây
dựng kế hoạch phát triển, cụ thể:
Một là, xác định mục tiêu về số lượng, quy mô, hiệu quả hoạt động của
HTX nông nghiệp đến năm 2020, định hướng đến năm 2025. Trước mắt đến
năm 2020 đạt mục tiêu cả nước có 5.000 HTX nông nghiệp làm ăn có hiệu
quả.
Hai là, đánh giá được hiện trạng và hiệu quả hoạt động của mô hình
HTX nông nghiệp "kiểu mới" ở các địa phương để đúc kết kinh nghiệm xây
142
dựng mô hình điển hình phù hợp với từng vùng, từng lĩnh vực sản xuất, trên
cơ sở đó tham mưu đề xuất các cơ chế, chính sách để nhân rộng và phát triển.
Ba là, rà soát, hướng dẫn và tổ chức đăng ký lại cho tất cả các HTX
đang hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp chuyển sang hoạt động theo Luật
HTX năm 2012.
Bốn là, xây dựng phương án huy động các nguồn lực, ưu tiên các
nguồn lực, nhất là nguồn lực tài chính để thực hiện các chính sách hỗ trợ ban
đầu cho HTX nông nghiệp ra đời và phát triển.
Năm là, thúc đẩy các HTX nông nghiệp liên kết với các hộ nông dân,
trang trại, doanh nghiệp trong chế biến và tiêu thụ nông sản nhằm nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh.
4.2.3. Hoàn thiện pháp luật có liên quan đến hợp tác xã nông nghiệp
Xây dựng thể chế là một nội dung quan trọng trong công tác quản lý
nhà nước, là điều kiện tiên quyết để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước. Từ
thực trạng hệ thống thể chế đã được phân tích ở chương 3 của luận án, có thể
khẳng định các văn bản quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp ở Việt
Nam hiện nay còn thiếu và chưa đồng bộ, đặc biệt là Luật HTX năm 2012 và
các văn bản hướng dẫn thi hành chưa phát huy hiệu lực và hiệu quả trong thực
tiễn. Để có thể phát triển và nâng cao hiệu quả của HTX nông nghiệp, việc
hoàn thiện thể chế pháp luật liên quan đến HTX nông nghiệp cần tập trung
vào các hướng sau:
Thứ nhất, phải thừa nhận các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt
động của HTX nông nghiệp, gồm: Tự nguyện và mở; Kiểm soát một cách dân
chủ; Tham gia kinh tế của thành viên HTX; Tự chủ và độc lập; Giáo dục,
huấn luyện và thông tin; Hợp tác giữa các HTX; Chăm lo cho cộng đồng.
Thứ hai, phải đảm bảo các đặc trưng vốn có của HTX nông nghiệp,
gồm: Là tổ chức kinh tế - xã hội liên kết các cá nhân, hộ gia đình và pháp
nhân, được hình thành theo nguyên tắc tự nguyện nhằm đáp ứng các nhu cầu
chung của xã viên theo nguyên tắc tương trợ; Được thành lập nhằm đáp ứng
cả nhu cầu kinh tế, văn hóa và xã hội của xã viên và cộng đồng; Là một tổ
143
chức kinh tế tự chủ có tính dân chủ cao; Tài sản chung là bất khả chuyển
nhượng.
Thứ ba, thể chế quản lý phát triển hệ thống HTX nông nghiệp phải phù
hợp với yêu cầu của thời đại. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ lần thứ
tư với những bước tiến khổng lồ đang tác động toàn diện đến mọi nền kinh tế,
mọi chế độ xã hội trên phạm vi toàn cầu. Cạnh tranh giữa các quốc gia trên tất
cả các lĩnh vực kinh tế đang diễn ra rất quyết liệt, trong có có lĩnh vực nông
nghiệp - một lĩnh vực có ảnh hướng tới một số lượng lớn dân số ở Việt Nam
hiện nay. Như vậy, thể chế quản lý nhà nước phải làm thế nào để đảm bảo sự
hội nhập của khu vực kinh tế HTX nông nghiệp, đem lại sự hài lòng cho các
thành viên tham gia thông qua lợi ích và hiệu quả mà họ thu nhận được khi
tham gia HTX nông nghiệp trong bối cảnh xã hội hiện đại hiện nay.
Từ các định hướng như trên và trên cơ sở phân tích những hạn chế ở
chương 3, giải pháp hoàn thiện thể chế pháp luật quản lý phát triển HTX nông
nghiệp hiện nay cần tập trung vào các nội dung cụ thể sau:
Một là, sửa đổi, bổ sung Nghị định số 193/2013/NĐ-CP ngày
21/11/2013 của Chính phủ về quy định chi tiết một số điều của Luật HTX.
Trong đó, phải có quy định riêng đối với HTX nông nghiệp.
Điều này xuất phát từ vai trò quan trọng của HTX nông nghiệp trong
phát triển kinh tế - xã hội; việc quy định riêng sẽ là điều kiện để đảm bảo các
nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động và đảm bảo các đặc trưng của
HTX nông nghiệp. Cũng để khắc phục một số khó khăn cho HTX nông
nghiệp như: quy định tỷ lệ cung ứng dịch vụ cho khách hàng không phải là
thành viên của HTX nông nghiệp không được vượt quá 32% là khó khăn cho
việc đăng ký lại và tổ chức sản xuất theo Luật HTX mới... Nên, trong sửa đổi,
bổ sung Nghị định phải quy định rõ về tổ chức và hoạt động, vấn đề sở hữu
tài sản và phân phối lợi ích của HTX và các thành viên HTX, bổ sung chính
sách hỗ trợ phù hợp với đặc thù của HTX nông nghiệp và trách nhiệm quản lý
nhà nước đối với HTX nông nghiệp.
144
Hai là, quy định cụ thể về kiểm toán HTX, liên hiệp HTX (theo Khoản
3, Điều 61 Luật HTX năm 2012).
Để tạo ra động lực phát triển cho HTX nông nghiệp và nâng cao khả
năng cạnh tranh cho các HTX nông nghiệp trong điều kiện phát triển KTTT
và HNQT hiện nay, thì các HTX nông nghiệp phải là đối tượng bắt buộc chịu
sự kiểm toán. Luật HTX của Thái Lan quy định kiểm toán HTX là bắt buộc
đối với tất cả các HTX; Cộng hòa liên bang Đức cũng quy định các HTX phải
được kiểm toán tối thiểu 2 năm một lần, đối với các HTX có số vốn từ 2 triệu
euro trở lên phải thực hiện kiểm toán hàng năm.
Nhưng trong thực tế ở Việt Nam hiện nay, nếu các HTX nông nghiệp
muốn tham gia vào hoạt động kiểm toán thì phải thông qua các tổ chức kiểm
toán mà không phải là tổ chức kiểm toán dành riêng cho khu vực kinh tế này.
Đó cũng là lý do mà thời gian qua số lượng HTX nông nghiệp chịu sự kiểm
toán không nhiều. Điều này không có nghĩa là các cơ sở kinh tế hợp tác, các
HTX nông nghiệp thờ ơ với công tác kiểm toán, mà họ mong muốn có một
loại hình kiểm toán phù hợp với điều kiện đặc thù của khu vực HTX nông
nghiệp và nó phải thực sự là công cụ trợ giúp, tư vấn cho HTX nông nghiệp
về các mặt: tổ chức, quản lý theo đúng quy định của pháp luật, giúp HTX
nông nghiệp tránh được rủi ro, thất thoát tài sản, hạch toán đúng, kịp thời và
minh bạch, cải thiện điều kiện kinh doanh, bảo vệ lợi ích xã viên, tạo niềm tin
của thành viên, nâng cao vị thế của HTX nông nghiệp. Điều đó đòi hỏi các cơ
quan quản lý nhà nước phải đặt vấn đề về sự hình thành và phát triển kiểm
toán HTX nông nghiệp với quan điểm coi kiểm toán HTX nông nghiệp là một
loại hình dịch vụ đặc thù dành riêng cho khu vực kinh tế HTX và phải có các
tổ chức kiểm toán chuyên biệt thuộc hệ thống cơ quan đại diện hỗ trợ HTX
tiến hành.
Tuy nhiên, thời gian đầu thực hiện khi thực hiện quy định kiểm toán
HTX nông nghiệp là bắt buộc thì sẽ không hiệu quả do hầu hết các HTX nông
nghiệp của chúng ta còn đang phát triển ở quy mô thấp, sản xuất manh mún,
trình độ quản lý và năng lực sản xuất, kinh doanh còn thấp. Hơn nữa việc
145
kiểm toán cũng đòi hỏi một chi phí tài chính nhất định. Nên, trong quá trình
này sẽ hình thành và hoàn thiện các quy định về nội dung, đối tượng, phương
pháp kiểm toán cũng như đào tạo, bồi dưỡng trình độ hiểu biết của các kiểm
toán viên HTX nông nghiệp. Nhưng về lâu dài để các HTX nông nghiệp phát
triển vững mạnh, có thể trở thành những tổ chức kinh tế mạnh thì cần bắt
buộc kiểm toán HTX nông nghiệp. Có như vậy mới là cụ thể hóa quy định
trong Luật HTX năm 2012 về kiểm toán HTX, liên hiệp HTX vào điều kiện
cụ thể hiện nay.
Việc cụ thể hóa quy định này sẽ, một mặt đảm bảo thực hiện đầy đủ
chức năng quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp, mặt khác đảm bảo
quyền tự chủ trong sản xuất - kinh doanh, phục vụ của các HTX nông nghiệp.
Ba là, hướng dẫn chi tiết việc thực hiện chế độ kế toán đối với HTX,
liên hiệp HTX. Điều này là cơ sở quan trọng để HTX nông nghiệp hội nhập
và cạnh tranh trong điều kiện toàn cầu hóa và cách mạng khoa học công nghệ.
Trên cơ sở Thông tư số 24/2010/TT-BTC ngày 23/02/2010 của Bộ Tài
chính về hướng dẫn kế toán áp dụng cho HTX nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư
nghiệp và nghề muối, hướng dẫn cụ thể tập trung vào các điểm chính sau đây:
- Hoàn chỉnh hệ thống tài khoản theo yêu cầu của quản lý và chế độ
quản lý hiện đại theo hướng phân loại tài khoản rõ ràng và phân chia tài
khoản trong bảng, ngoài bảng phù hợp.
- Các khoản đầu tư tài chính dài hạn và ngắn hạn phải có sự phân định
rõ ràng để thuận lợi cho đánh giá hiệu quả đầu tư tài chính.
- Hình thành tài khoản chuyên biệt để theo dõi hoạt động tài chính nội
bộ và tăng cường sự kiểm soát đối với các thành viên vay vốn từ HTX nông
nghiệp.
- Đối với các nguồn vốn hỗ trợ, cần phải được quy định theo dõi riêng
để tránh tình trạng nhầm lẫn khi đánh giá hiệu quả.
- Quy định cụ thể về đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất - kinh
doanh, phục vụ của HTX nông nghiệp.
146
Bốn là, quy định bổ sung nhiệm vụ cho Quỹ hỗ trợ phát triển HTX để
thực hiện nhiệm vụ bảo lãnh tín dụng và hỗ trợ lãi suất đối với HTX, liên hiệp
HTX. Đây là khó khăn cơ bản khiến cho các hỗ trợ của nhà nước khó đến
được với các HTX nông nghiệp.
4.2.4. Hoàn thiện các chính sách phát triển hợp tác xã nông nghiệp
HTX nông nghiệp là tổ chức cộng đồng của nông dân trên tinh thần tự
nguyện, tự lực, tự trợ giúp, tự chịu trách nhiệm, vừa mang tính kinh tế, vừa
mang tính xã hội. Bởi vậy, nhà nước cần có chính sách hỗ trợ, khuyến khích
phát triển HTX nông nghiệp. Chính sách cần đủ mạnh, đủ tầm, phải phù hợp
với điều kiện tổ chức và hoạt động của HTX, dễ dàng trong việc triển khai
thực hiện; chính sách phải được thống nhất thi hành trên phạm vi cả nước.
4.2.4.1. Chính sách tài chính - tín dụng
- Đổi mới chính sách tín dụng theo hướng tạo điều kiện cho các HTX
nông nghiệp tiếp cận các nguồn vốn tín dụng dễ dàng hơn thông qua việc xác
định điều kiện và mức độ cho vay không cần thế chấp đối với các HTX nông
nghiệp; cơ chế cho vay bằng tín chấp thông qua hiệu quả sản xuất - kinh
doanh của HTX nông nghiệp trong một đến hai năm tài chính liền kề như tài
chính lành mạnh, có hiệu quả và uy tín trong sản xuất kinh doanh, hoặc đã
vay vốn nhưng trả nợ đúng hạn; tăng cường hình thức cho vay bằng tín chấp
của các đoàn thể và chính quyền cấp xã…
- Thúc đẩy phát triển hoạt động tín dụng nội bộ của HTX nông nghiệp.
- Thực hiện bảo hiểm tín dụng, bảo hiểm sản xuất, xây dựng quỹ hỗ trợ
rủi ro cho các HTX nông nghiệp, trong đó một phần kinh phí được lấy từ
ngân sách nhà nước, một phần từ phía HTX nông nghiệp.
- Về chính sách thuế đối với HTX nông nghiệp trong giai đoạn hiện
nay, Nhà nước nên miễn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các khoản thu
nhập từ các hoạt động dịch vụ mà HTX nông nghiệp trực tiếp phục vụ sản
xuất nông nghiệp của xã viên như: cung ứng vật tư, chế biến, tiêu thụ sản
phẩm,… nhằm tạo điều kiện để HTX nông nghiệp tích lũy vốn tái đầu tư.
4.2.4.2. Chính sách đất đai
147
- Đẩy nhanh tiến độ giao đất, cấp “giấy chứng nhận quyền sở hữu đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất” cho các HTX nông
nghiệp.
- Mở rộng mức độ, thời hạn và đối tượng HTX nông nghiệp được
hưởng ưu đãi về thuê đất, đồng thời có cơ chế quản lý chặt chẽ để tránh tình
trạng sử dụng đất lãng phí và các tiêu cực khác.
Theo đó, cần hướng dẫn cụ thể về việc giao đất và cấp giấy chứng nhận
quyền sở hữu đất của các HTX nông nghiệp, trong đó nêu rõ các thủ tục, các
loại giấy tờ cần thiết và thời hạn xét duyệt áp dụng cho từng loại đất cụ thể
mà HTX nông nghiệp đang quản lý, sử dụng; hướng dẫn thủ tục xin cấp, thuê
đất mới để làm trụ sở và mở rộng cơ sở sản xuất, kinh doanh đối với HTX
nông nghiệp; tiến hành đo đạc xác định các loại đất mà HTX nông nghiệp
đang sử dụng; rà soát lại quỹ đất của mình, đồng thời hoàn thiện quy hoạch sử
dụng đất trên địa bàn để làm căn cứ cho thuê đất, giao đất cho các HTX nông
nghiệp; xây dựng kế hoạch và lộ trình cụ thể để đo đạc, giao đất và cấp “giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và các tài sản gắn liền với
đất” cho các HTX nông nghiệp.
4.2.4.3. Chính sách hỗ trợ chuyển giao tiến bộ khoa học - công nghệ
- Tăng cường đầu tư cho công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
khoa học phục vụ các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, cơ sở vật chất cho công
tác nghiên cứu. Ban hành chính sách quy định rõ ràng trách nhiệm của nhà
khoa học đối với sản phẩm nghiên cứu của mình, đãi ngộ thỏa đáng cho
những người có các kết quả nghiên cứu thực sự hữu ích cho các lĩnh vực sản
xuất kinh doanh.
- Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác ứng
dụng, tuyên truyền, phổ biến các tiến bộ khoa học - công nghệ phục vụ các
lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là cán bộ HTX nông nghiệp, để họ
thực sự là cầu nối giữa tổ chức khoa học - công nghệ và người trực tiếp sản
xuất - kinh doanh.
148
- Tăng cường đầu tư cho nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ
trong các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh, đặc biệt là trong sản xuất nông
nghiệp (từ khâu giống đến phương pháp canh tác, chăn nuôi, thu hoạch, sơ
chế, bảo quản…).
- Xây dựng cơ chế khuyến khích chuyển giao nhanh các tiến bộ khoa
học công nghệ vào các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh, thực hiện liên kết giữa
HTX nông nghiệp và các tổ chức khoa học - công nghệ.
- Hỗ trợ kinh phí (hoặc một phần kinh phí) cho các HTX nông nghiệp
trong việc đầu tư ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất - kinh
doanh.
- Thực hiện chính sách ưu đãi về các loại thuế, mức tín dụng, khen
thưởng… trong các hoạt động ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào các
lĩnh vực sản xuất - kinh doanh.
- Nâng cao vai trò và hiệu quả hoạt động của các trung tâm khuyến
nông, chi cục bảo vệ thực vật, chi cục thú y trong chuyển giao tiến bộ khoa
học - công nghệ vào các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh.
4.2.4.4. Chính sách thị trường
- Xây dựng hệ thống thông tin, dự báo về thị trường (trong nước và
quốc tế) các yếu tố đầu vào, đầu ra của các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh,
bảo đảm để thông tin thị trường đến với người sản xuất - kinh doanh một cách
kịp thời, chính xác và đầy đủ.
- Phát triển mạng lưới chợ nông thôn, các trung tâm triển lãm giới thiệu
sản phẩm hàng hóa, đặc biệt là nông sản hàng hóa.
- Tăng cường hỗ trợ, tạo điều kiện cho các HTX nông nghiệp tham gia
các chương trình xúc tiến thương mại: hỗ trợ tham gia triển lãm, hội chợ; hỗ
trợ xây dựng và quảng bá thương hiệu; hỗ trợ tìm kiếm đối tác, mở rộng thị
trường…
4.2.4.5. Chính sách cán bộ và lao động
- Trước hết, phân biệt rõ nghĩa vụ, quyền hạn của HTX nông nghiệp
với cấp ủy và chính quyền địa phương trong công tác cán bộ HTX. HTX
149
nông nghiệp là tổ chức được quyền tự chủ về mọi mặt hoạt động theo quy
định của pháp luật, trong đó có công tác cán bộ. Tuy nhiên, là tổ chức kinh tế
của tầng lớp dân cư yếu thế trong xã hội, HTX nông nghiệp rất cần sự trợ
giúp của Đảng và Nhà nước về nhiều mặt, trong đó có công tác cán bộ. Song,
đó không phải là sự làm thay hay can thiệp trực tiếp vào công tác cán bộ của
HTX nông nghiệp. Sự trợ giúp đối với công tác cán bộ của HTX nông nghiệp
từ phía các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương được thể hiện thông qua các
hình thức tuyên truyền, giáo dục nâng cao dân trí nói chung và trình độ văn
hóa, nhận thức của cán bộ HTX nông nghiệp nói riêng; hỗ trợ về tài chính và
tổ chức cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTX; phối hợp xây dựng quy
hoạch cán bộ, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng… theo đó, cần xử lý kịp thời,
nghiêm khắc những cá nhân và tổ chức vi phạm quyền tự quyết của HTX
nông nghiệp về công tác cán bộ cũng như những cán bộ và tổ chức được phân
công hỗ trợ HTX nông nghiệp về công tác cán bộ, song không hoàn thành
nhiệm vụ được giao do các nguyên nhân chủ quan.
- Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, nghiệp
vụ cho cán bộ HTX nông nghiệp. Các biện pháp cụ thể như sau:
+ Phân công, phân cấp rõ ràng về quyền hạn và trách nhiệm trong đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ HTX nông nghiệp giữa liên minh HTX tỉnh, các sở, ban
ngành và địa phương trong tỉnh.
+ Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTX nông nghiệp phải được
thực hiện theo phương châm thường xuyên, liên tục, kết hợp giữa đào tạo và
bồi dưỡng, ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng các cán bộ chủ chốt của HTX nông
nghiệp. Theo đó, thường xuyên mở các khóa học ngắn hạn để cung cấp thông
tin và phổ biến các kiến thức quản lý mới nhằm giúp cán bộ quản lý HTX
nông nghiệp thích ứng với những thay đổi của môi trường kinh doanh trong
bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới.
Chú trọng đào tạo cơ bản, dài hạn (đào tạo trung cấp, cao đẳng, đại học và các
khóa học dài hạn) cho đội ngũ cán bộ HTX nông nghiệp, đặc biệt là cho các
chức danh chủ chốt, nhằm tạo ra những chuyển biến tích cực về chất lượng,
150
về năng lực, kỹ năng và tính chuyên nghiệp trong quản trị, điều hành HTX
nông nghiệp. Nguồn cho đào tạo cơ bản, dài hạn, ngoài các cán bộ hiện đang
làm việc trong các HTX nông nghiệp có thể được hình thành từ việc tuyển
chọn con em xã viên. Bên cạnh đó, để thực hiện được việc đào tạo cơ bản, dài
hạn, cần hỗ trợ kinh phí cho các đối tượng được cử đi học theo nhu cầu sử
dụng của HTX nông nghiệp đã có cam kết sau khi ra trường sẽ về làm việc tại
các HTX nông nghiệp. Mức độ hỗ trợ tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của
người được cử đi học và thời gian tối thiểu mà họ cam kết sẽ làm việc tại
HTX nông nghiệp sau khi tốt nghiệp.
+ Đổi mới nội dung, đa dạng hóa hình thức cũng như lựa chọn thời
gian, thời điểm và địa điểm đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với nhu cầu và điều
kiện thực tế của các HTX nông nghiệp và người học.
+ Nâng cao năng lực của hệ thống đào tạo cán bộ HTX nông nghiệp
trên cơ sở nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên; trường, lớp;
phương tiện giảng dạy; tài liệu; củng cố và mở rộng liên kết với các trường
dạy nghề, trường cao đẳng, trường đại học trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ HTX nông nghiệp.
- Hỗ trợ về tài chính từ ngân sách nhằm tạo điều kiện cho các HTX
nông nghiệp thuê những người có trình độ cao đẳng, đại học, có năng lực phù
hợp từ bên ngoài làm giám đốc và các chức danh điều hành khác của HTX.
Mức hỗ trợ cho người được thuê giữ chức danh cụ thể trong HTX nông
nghiệp tùy thuộc vào mức thu nhập trung bình của người giữ chức danh tương
đương trong khu vực doanh nghiệp dân doanh trên địa bàn ở cùng thời điểm,
thu nhập thực tế mà HTX nông nghiệp có thể trả cho chức danh này và mức
độ đóng góp của người được thuê vào kết quả sản xuất - kinh doanh của HTX
nông nghiệp.
- Nghiên cứu thực hiện việc điều động, luân chuyển cán bộ dự nguồn,
cán bộ quản lý, cán bộ khoa học - kỹ thuật đang công tác tại các cơ quan nhà
nước, có năng lực và tâm huyết để làm việc tại các HTX nông nghiệp nếu có
yêu cầu.
151
- Tăng cường tổ chức cho các HTX nông nghiệp đi khảo sát, tham quan
học tập kinh nghiệm hoạt động của các HTX sản xuất - kinh doanh mạnh ở
trong và ngoài nước.
- Tổ chức các hội nghị, hội thảo, tọa đàm giữa các HTX nông nghiệp
điển hình tiên tiến, các HTX nông nghiệp sản xuất - kinh doanh giỏi, các
HTX nông nghiệp khá giỏi… nhằm tạo điều kiện cho các HTX nông nghiệp
học tập trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau.
- Tăng cường hỗ trợ dạy nghề cho người lao động trong các HTX nông
nghiệp.
Để công tác cán bộ đối với các HTX đem lại hiệu quả thiết thực, cần rà
soát toàn diện các HTX nông nghiệp ở các địa phương nhằm tạo cơ sở cho
việc xây dựng quy hoạch cán bộ và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cho từng
chức danh cán bộ phù hợp với yêu cầu phát triển trong tình hình mới. Bên
cạnh đó cần tạo nguồn kinh phí cho việc thực hiện công tác cán bộ đối với
HTX nông nghiệp. Việc tạo nguồn kinh phí cho công tác này được thực hiện
theo hai giai đoạn. Trong giai đoạn đầu khi HTX nông nghiệp còn khó khăn,
ít vốn, sẽ hỗ trợ 100% vốn; sau đó, khi HTX nông nghiệp đã phát triển, vốn
của các HTX nông nghiệp dồi dào hơn, nguồn kinh phí cho công tác cán bộ
đối với HTX nông nghiệp được hình thành một phần bằng khoản đóng góp từ
quỹ phát triển của HTX nông nghiệp, phần khác bằng nguồn kinh phí hỗ trợ
của các địa phương.
4.2.4.6. Các hỗ trợ khác
- Đẩy mạnh việc giúp đỡ, hướng dẫn thành lập và hoạt động đối với các
HTX nông nghiệp từ phía Liên minh HTX tỉnh và các ngành chức năng ở các
địa phương
- Hỗ trợ tiếp cận các dịch vụ tư vấn pháp lý, tư vấn kinh doanh.
- Tăng cường lãnh đạo thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5
(khóa IX) về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể,
trong đó có việc lồng ghép nhiệm vụ phát triển HTX nông nghiệp trong quá
trình hoạch định và thực hiện các chương trình, dự án, đề án phát triển kinh tế
152
- xã hội ở các địa phương. Theo đó, cần công khai hóa các chương trình, dự
án, đề án có liên quan đến HTX nông nghiệp, đến nông thôn như các chương
trình, dự án xây dựng kết cấu hạ tầng ở nông thôn, chương trình dạy nghề cho
nông dân, chương trình khuyến nông, chương trình phát triển làng nghề,
ngành nghề truyền thống… để các HTX nông nghiệp đăng ký tham gia, đồng
thời tạo điều kiện thuận lợi cho các HTX nông nghiệp được tham gia thực
hiện các chương trình, dự án, đề án này nhằm giúp các HTX nông nghiệp
tranh thủ các nguồn lực để phát triển hiệu quả hơn.
- Tăng cường hỗ trợ HTX nông nghiệp thiết lập mối quan hệ liên kết
với các tổ chức, đơn vị thuộc mọi thành phần kinh tế. Việc nâng cao hiệu quả
hoạt động của các HTX nông nghiệp, một mặt, đòi hỏi bản thân các HTX phải
chủ động thiết lập các liên kết kinh tế giữa các HTX nông nghiệp với nhau,
giữa HTX nông nghiệp với các tổ chức khoa học - công nghệ và các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước,
mặt khác, rất cần sự hỗ trợ từ phía Nhà nước thông qua việc ban hành các cơ
chế, chính sách thúc đẩy hình thành các mối liên kết đó.
4.2.5. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi
phạm trong hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp
Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm trong hoạt động
của HTX nông nghiệp lâu nay chủ yếu là do Liên minh HTX tiến hành, chưa
được thực hiện một cách bài bản, hiệu quả. Do vậy, công tác này cần phải
được đổi mới và tăng cường. Chức năng này phải do cơ quan nhà nước tiến
hành, đó là hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp,
còn Liên minh HTX chỉ là cơ quan phối hợp để công tác này thuận lợi và có
hiệu quả. Việc tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra và xử lý sai
phạm đối với các HTX nông nghiệp cần tập trung vào các nội dung sau:
Thứ nhất, việc chấp hành các quy định của Luật HTX về thành lập, về
tổ chức quản lý, về nguyên tắc hoạt động, về tổ chức đại hội xã viên, về xây
dựng và thực hiện điều lệ HTX… Đây là điều kiện cơ bản đảm bảo cho các
153
HTX nông nghiệp hoạt động đúng với bản chất vốn có của nó và là tiền đề để
thực hiện chuyển đổi HTX nông nghiệp theo Luật HTX năm 2012.
Thứ hai, việc chấp hành các quy định luật pháp khác về hoạt động sản
xuất - kinh doanh như quy định về chế độ kế toán, thống kê, báo cáo, nghĩa vụ
thuế, bảo vệ môi trường… Đây là điều kiện cơ bản để đảm bảo hiệu lực và
hiệu quả của thể chế quản lý HTX nông nghiệp trong điều kiện phát triển
KTTT và HNQT ở Việt Nam hiện nay.
Để việc tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra và xử lý sai
phạm đối với các HTX nông nghiệp theo các nội dung tập trung nêu trên khả
thi và đem lại hiệu quả thiết thực, cần đảm bảo một số điều kiện sau đây:
- Trước hết, phải làm tốt việc phổ biến, hướng dẫn thực hiện các quy
định luật pháp hiện hành đến các HTX nông nghiệp, các thành viên HTX
nông nghiệp và các cá nhân, tổ chức có liên quan khác.
- Công tác giám sát, kiểm tra đối với các HTX trong việc chấp hành các
quy định của pháp luật phải được thực hiện thường xuyên, liên tục bằng nhiều
hình thức thích hợp, bảo đảm không gây khó khăn, cản trở hoạt động sản xuất
- kinh doanh của HTX nông nghiệp.
- Sai phạm của các HTX nông nghiệp phải được xử lý kịp thời, bằng
hình thức thích hợp, đủ sức răn đe không chỉ đối với các HTX nông nghiệp có
hành vi sai phạm mà còn đối với tất cả các HTX khác trên địa bàn.
- Nâng cao vai trò của Liên minh HTX tỉnh, Hội đồng nhân dân các
cấp, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể, xã hội khác trên địa bàn trong
công tác giám sát thi hành, chấp hành các chính sách và quy định luật pháp
liên quan đến HTX nông nghiệp.
- Đội ngũ cán bộ thực hiện công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra và xử
lý sai phạm đối với HTX nông nghiệp phải được bảo đảm cả về số lượng,
năng lực, trình độ cũng như phẩm chất đạo đức, phẩm chất chính trị.
Ngoài ra, cần tăng cường thanh tra, kiểm tra và xử lý các tổ chức, cá
nhân vi phạm pháp luật có liên quan đến tổ chức, hoạt động của các HTX
nông nghiệp.
154
4.3. Một số kiến nghị
Để hoàn thiện quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp ở Việt Nam
trong giai đoạn tới, ngoài việc đề xuất thực hiện các giải pháp cho các chủ thể
quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp nêu trên, luận án kiến nghị với
các cơ quan có liên quan một số nội dung sau:
4.3.1. Đối với Liên minh Hợp tác xã Việt Nam
- Xây dựng Đề án giới thiệu các mô hình HTX nông nghiệp mới, HTX
nông nghiệp hoạt động hiệu quả để các địa phương áp dụng nhằm nhanh
chóng kiện toàn, tổ chức lại và thành lập mới các HTX nông nghiệp đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương.
- Tổ chức các hoạt động hỗ trợ, tư vấn, cung cấp dịch vụ cho các thành
viên về pháp lý, đầu tư, khoa học công nghệ, thông tin, tài chính, tín dụng, thị
trường và các lĩnh vực khác.
- Phối hợp với các trường đại học xây dựng kế hoạch đào tạo, đào tạo
lại nghề cho cán bộ HTX nông nghiệp.
- Tham gia các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ, phát triển
quan hệ hợp tác với các tổ chức ở các nước; tiếp nhận và tổ chức thực hiện
các chương trình, dự án hỗ trợ, các khoản viện trợ để phát triển HTX nông
nghiệp.
4.3.2. Đối với Hội Nông dân Việt Nam
- Tuyên truyền nâng cao nhận thức cho hội viên nông dân về kinh tế
hợp tác, HTX nông nghiệp.
- Tổ chức bồi dưỡng, đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho các tổ hợp
tác, HTX nông nghiệp.
- Tổ chức các chương trình xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm,
mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, xây dựng thương hiệu cho nông sản.
4.3.3. Đối với Bảo hiểm xã hội Việt Nam
Sửa đổi, bổ sung chính sách bảo hiểm xã hội cho cán bộ HTX nông
nghiệp theo hướng tạo điều kiện để cán bộ quản lý và nghiệp vụ làm việc lâu
năm trong HTX nông nghiệp được truy đóng bảo hiểm xã hội cho thời gian
155
làm việc trong HTX nông nghiệp từ khi Luật HTX đầu tiên có hiệu lực thi
hành (năm 1997).
4.3.4. Đối với các học viện, các trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức
Đưa nội dung về đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước đối với phát triển kinh tế tập thể, HTX nông nghiệp vào chương trình
đào tạo cho cán, bộ công chức, nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ, công
chức trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến sơ sở về phát triển HTX
nông nghiệp trong điều kiện phát triển KTTT và HNQT hiện nay.
Kết luận chƣơng 4
Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp là yêu cầu bức
thiết nhằm nâng cao vai trò và hiệu quả hoạt động của HTX nông nghiệp
trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay.
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn của quản lý nhà nước đối với HTX nông
nghiệp ở Việt Nam hiện nay, chương 4 đã đề cập đến hệ thống các quan điểm,
mục tiêu, phương hướng và giải pháp tiếp tục hoàn thiện các nội dung của
quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp. Các giải pháp tập trung vào: Xây
dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển HTX nông nghiệp; hoàn
thiện pháp luật có liên quan đến HTX nông nghiệp; hoàn thiện các chính sách
hỗ trợ phát triển HTX nông nghiệp; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra,
giám sát và xử lý vi phạm trong phát triển HTX nông nghiệp; hoàn thiện tổ
chức bộ máy quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp. Từ đó cũng đưa ra
các kiến nghị đối với các cơ quan liên quan gồm: Liên minh HTX Việt Nam,
Hội Nông dân Việt Nam, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, các học viện, các trường
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức; các kiến nghị tập trung vào công tác
tuyên truyền, việc thực hiện các hoạt động tư vấn, hỗ trợ, bảo hiểm, công tác
đào tạo và đào tạo lại nghề cho cán bộ HTX nông nghiệp, hợp tác quốc tế
trong phát triển HTX nông nghiệp.
156
PHẦN KẾT LUẬN
HTX nông nghiệp là một tổ chức kinh tế mang tính xã hội sâu sắc của
tập hợp đông đảo nông dân ở nông thôn - lực lượng lao động chiếm tỷ trọng
lớn nhất trong xã hội ở các nước đang phát triển. Ở Việt Nam sự phát triển
của HTX nông nghiệp có ý nghĩa to lớn đối với phát triển sản xuất nông
nghiệp và phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn.
Hiện nay trong điều kiện phát triển KTTT và HNQT, các HTX nông
nghiệp ở Việt Nam đang trong tình trạng khó khăn, yếu kém kéo dài, với năng
lực nội tại yếu, cơ sở vật chất nghèo nàn, trình độ công nghệ lạc hậu; năng
lực, trình độ cán bộ quản lý trong khu vực HTX nông nghiệp còn nhiều hạn
chế, chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất - kinh doanh; chính sách đối với cán
bộ HTX nông nghiệp còn có nhiều bất cập; nhiều HTX hoạt động không đúng
với nguyên tắc, chưa thực sự tuân thủ đầy đủ các quy định của Luật HTX; sự
liên kết, hợp tác của các HTX nông nghiệp chưa chặt chẽ, hiệu quả thấp. Thực
tế đó có nguyên nhân cơ bản từ công tác quản lý nhà nước đối với HTX nông
nghiệp, đó là: việc xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển HTX nông
nghiệp ở nhiều địa phương chưa được quan tâm đúng mức, hoặc chưa đưa nội
dung cụ thể trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội địa phương mình; hệ
thống văn bản hướng dẫn thực hiện Luật HTX của Chính phủ và các bộ,
ngành, địa phương còn chậm và thiếu; nhiều chính sách phát triển HTX nông
nghiệp được ban hành nhưng chưa thực sự đi vào thực tế; công tác thanh tra,
kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm trong hoạt động của HTX nông nghiệp
chưa được tiến hành một cách bài bản, hiệu quả; chưa có cơ quan nhà nước
chuyên trách quản lý HTX từ Trung ương đến cơ sở. Do vậy, hoàn thiện quản
lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp nhằm thúc đẩy sự phát triển của HTX
nông nghiệp trong điều kiện hiện nay là hết sức cần thiết và cấp bách.
Việc hoàn thiện quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp phải dựa
trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về HTX;
phải dựa trên đường lối của Đảng, Nhà nước về phát triển HTX; tham khảo,
vận dụng các kinh nghiệm trong công tác quản lý nhà nước đối với HTX nông
157
nghiệp trên thế giới và trong nước để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý
hành chính nhà nước về kinh tế nói chung, về nông nghiệp và HTX nông
nghiệp nói riêng nhằm mục tiêu thúc đẩy sự ra đời và phát triển bền vững của
HTX nông nghiệp đáp ứng yêu cầu phát triển KTTT và HNQT của Việt Nam
hiện nay.
Trên cơ sở thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với HTX nông
nghiệp, các quan điểm, mục tiêu và phương hướng hoàn thiện quản lý nhà
nước đối với HTX nông nghiệp, luận án đề xuất hệ thống giải pháp tiếp tục
hoàn thiện quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay,
gồm: Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển HTX nông nghiệp;
Hoàn thiện pháp luật có liên quan đến phát triển HTX nông nghiệp; Hoàn
thiện các chính sách phát triển HTX nông nghiệp; Tăng cường công tác thanh
tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm trong hoạt động của HTX nông
nghiệp; Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với HTX nông
nghiệp. Trong đó, giải pháp về thành lập bộ máy nhà nước chuyên trách quản
lý HTX nông nghiệp là một giải pháp cơ bản và quan trọng nhằm thúc đẩy sự
ra đời và phát triển của HTX nông nghiệp cũng như nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý hành chính nhà nước đối với HTX nông nghiệp ở Việt Nam hiện
nay.
Để các giải pháp tiếp tục hoàn thiện quản lý nhà nước đối với HTX
nông nghiệp ở Việt nam hiện nay khả thi trong thực tiễn, luận án cũng kiến
nghị với các cơ quan liên quan, gồm Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, Hội
Nông dân Việt Nam, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, các học viện, các trường
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức về các điều kiện hỗ trợ để thực hiện các
giải pháp.
Về cơ bản Luận án đã hoàn thành mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đề
ra và có những đóng góp nhất định cho việc cung cấp những luận cứ khoa học
trong hoạch định, thực thi chính sách và hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực
quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp ở Việt Nam.
158
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1. Thịnh Văn Khoa (2016), "Phát triển hợp tác xã và công tác quản lý
nhà nước đối với hợp tác xã hiện nay", Tạp chí Quản lý nhà nước, số tháng
4/2016.
2. Thịnh Văn Khoa (2016), "Phát triển hợp tác xã nông nghiệp ở Thanh
Hóa kể từ khi có Luật Hợp tác xã năm 2012 đến nay", Tạp chí Giáo dục lý
luận, số tháng 5/2016.
3. Thịnh Văn Khoa (2016), "Kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với
hợp tác xã nông nghiệp của một số nước", Tạp chí Quản lý nhà nước, số
tháng 10/2016.
4. Thịnh Văn Khoa, Chủ nhiệm Đề tài khoa học cấp tỉnh "Nghiên cứu
giải pháp phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở Thanh Hóa", nghiệm
thu đạt loại xuất sắc tháng 12/2016
5. Thịnh Văn Khoa (2017), "Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hợp
tác xã nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí Cộng sản, số tháng 3/2017.
6. Thịnh Văn Khoa (2017), "Một số giải pháp phát triển kinh tế hợp tác
trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa hiện nay", Tạp chí Khoa học
và Công nghệ Thanh Hóa, số tháng 3/2017.
159
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tài liệu tiếng Việt
1. Bách khoa toàn thư, Nxb Văn hóa - Thông tin, năm 1999. 2. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2008), Chỉ thị số 20-CT/TW ngày 02/1/2008 về tăng cường lãnh đạo thực hiện Nghị quyết TW 5 khóa IX, Việt Nam.
3. Ban công tác đại biểu, Văn phòng Quốc hội (2012), Hợp tác xã - một
số vấn đề về lý luận và thực tiễn, Việt Nam.
4. Ban chấp hành Trung ương Đảng (2002), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 ngày 18/3/2002 về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, Việt Nam.
5. Bộ Chính trị (2013), Kết luận số 56-KL/TW ngày 21/02/2013 về việc
đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết TW 5 (khóa IX), Việt Nam.
6. Bộ Công nghiệp (2003), Chỉ thị số 09/2003/CT-BCN ngày 12/11/2003 về việc triển khai thực hiện Chỉ thị số 22/2003/CT-TTg ngày 3/10/2003 và Quyết định số 94/2002/QĐ-TTg ngày 17/7/2002 của Thủ tướng Chính phủ, Việt Nam.
7. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2004), Thông tư số 04/2004/TT-BKH, ngày 13/12/2004 về việc hướng dẫn xây dựng Kế hoạch phát triển khu vực kinh tế tập thể 5 năm 2006-2010, Việt Nam.
8. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2005) Thông tư số 05/2005/TT-BKH, ngày 15/12/2005 về hướng dẫn một số quy định tại Nghị định số 87/2005/NĐ-CP, ngày 11/7/2005 về đăng ký kinh doanh hợp tác xã, Việt Nam.
9. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2006), Đề tài: Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn cho định hướng chiến lược phát triển hợp tác xã giai đoạn 2006-2020, Hà Nội.
10. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2006), Thông tư số 02/2006/TT-BKH, ngày 13/02/2006 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về hướng dẫn thực hiện một số điều tại Nghị định số 88/2005/NĐ-CP, ngày 11/7/2005 về một số chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển hợp tác xã, Việt Nam.
11. Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Vụ HTX (2012), Tư tưởng HTX - kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia sự thật Hà Nội.
160
12. Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Vụ HTX (2012), Chuyên đề đánh giá kết quả công tác quản lý Nhà nước đối với hợp tác xã theo tinh thần Nghị quyết TW 5 khóa IX về kinh tế tập thể - tình hình tổ chức và kết quả công tác quản lý, Việt Nam.
13. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2012), Báo cáo Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành TW Đảng khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, Việt Nam.
14. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2012), Báo cáo tổng kết thi hành Luật hợp tác
xã năm 2003, Việt Nam.
15. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2013), Đề án thành lập tổ chức bộ máy quản
lý nhà nước về hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã, Việt Nam.
16. Bộ Giao thông vận tải (2003), Quyết định số 1801/2003/QĐ-BGTVT phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý hợp tác xã, Việt Nam.
17. Bộ Tài chính (2004), Thông tư số 22/2004/TT-BTC ngày 24/3/2004 hướng dẫn quản lý và sử dụng kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý của hợp tác xã, Việt Nam.
18. Bộ Tài chính (2006), Thông tư số 66/2006/TT-BTC ngày 17/7/2006 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 88/2005/NĐ-CP ngày 17/7/2005 của Chính phủ về chế độ tài chính hỗ trợ các sáng lập viên hợp tác xã chuẩn bị thành lập, các đối tượng đào tạo, bồi dưỡng của hợp tác xã, Việt Nam.
19. Phạm Thị Cầm, Vũ Văn Kỷ, Nguyễn Văn Phúc (2003), Kinh tế hợp
tác xã trong nông nghiệp ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
20. C.Mác và Ph.Ăngghen (1999), Toàn tập, T23, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
21. C.Mác và Ph.Ăngghen (1999), Toàn tập, T36, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
22. Chỉ thị số 19/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh
triển khai thi hành Luật Hợp tác xã năm 2012.
161
23. Chính phủ (2002), Quyết định số 04/2002/QĐ-TTg ngày 17/7/2002 về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Việt Nam.
24. Chính phủ (2004), Nghị định số 177/2004/NĐ-CP, ngày 12/10/2004 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hợp tác xã năm 2003, Việt Nam.
25. Chính phủ (2004), Nghị định số 181/2004/NĐ-CP, ngày 29/10/2004
của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai, Việt Nam.
26. Chính phủ (2005), Nghị định số 77/2005/NĐ-CP, ngày 9/6/2005 về việc ban hành mẫu hướng dẫn xây dựng Điều lệ Hợp tác xã, Việt Nam. 27. Chính phủ (2005), Nghị định số 87/2005/NĐ-CP, ngày 11/7/2005 về
đăng ký kinh doanh Hợp tác xã, Việt Nam.
28. Chính phủ (2005), Nghị định số 88/2005/NĐ-CP, ngày 11/7/2005 về một số chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển Hợp tác xã, Việt Nam.
29. Chính phủ (2013), Nghị định số 193/2013/NĐ-CP, ngày 21/11/2013 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hợp tác xã năm 2012, Việt Nam.
30. Chử Văn Lâm (2003), Đề tài khoa học cấp nhà nước: Sở hữu tập thể và kinh tế tập thể- vị trí, vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Việt Nam.
31. Dự án Aid-Coop Việt Nam (2010). “Luận chứng pháp luật và chính
sách để phát triển HTX ở Việt Nam”.
32. Đại từ điển Tiếng Việt, NXb Văn hóa - Thông tin, năm 1998.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Đảng Cộng sản Việt Nam khóa X (2006), Hội nghị lần thứ VI, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
162
lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. Học viện Hành chính quốc gia, Giáo trình những vấn đề quản lý hành
chính nhà nước, NXB Lý luận chính trị Hà Nội, 2014
40. Hồ Chí Minh toàn tập (2002), Toàn tập, T2, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2002.
41. Hồ Chí Minh toàn tập (1995), Toàn tập, T4, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2002.
42. GS.TS Nguyễn Đình Kháng, Chính sách phát triển hợp tác xã ở Việt
Nam, WWW.Tinkinhte.com.
43. Thịnh Văn Khoa, Một số nghiên cứu về vai trò của hợp tác xã, Tạp
chí Giáo dục lý luận, số 219 năm 2014.
44. Dương Khắc Mai (2015), Vai trò của công tác quản lý nhà nước đối
với HTX trong giai đoạn hiện nay. www/lmhtx.daknong.gov.vn.
45. Liên minh HTX Việt Nam (1998), Kinh tế hợp tác một số vấn đề lý
luận và thực tiễn, Hà Nội.
46. Liên minh HTX Việt Nam (2010), Góp ý kiến Dự thảo Luật Hợp tác
xã sửa đổi, Việt Nam.
47. Chu Tiến Quang (2012), Vai trò và giải pháp nâng cao vai trò của hợp tác xã đối với xã viên trong nông nghiệp nông thôn ở Việt Nam, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội.
48. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1996), Luật Hợp
tác xã năm 1996.
49. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Luật Hợp
tác xã năm 2003.
50. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), Luật Hợp
tác xã năm 2012.
51. Quỹ châu Á và Trung tâm Hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
niềm nam, Cẩm nang hợp tác xã nông nghiệp.
163
52. Quyết định số 2261/QĐ-TTg ngày 15/12/2014 của Thủ tướng Chính
phủ về phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển hợp tác xã giai đoạn
2015-2020.
53. Nguyễn Minh Sơn (2012), ”Hoàn thiện Luật Hợp tác xã: thực trạng và
giải pháp”, Trang web của Văn phòng Quốc hội.
54. Sở Khoa học và Công nghệ Đồng Nai (2010), Hợp tác xã nhìn từ thực
tiễn Đồng Nai, NXB Chính trị Quôc gia, Hà Nội.
55. Nguyễn Hữu Tiến (1996), Tổ chức hợp tác xã ở một số nước châu Á,
Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
56. Tổng thư ký Liên hiệp quốc (2009), Liên hiệp quốc với phong trào
HTX quốc tế, sách tham khảo.
57. Tổng cục Thống kê (2010), Niêm giám thống kê 2010, Hà Nội. 58. Tổng cục Thống kê (2011), Niêm giám thống kê 2011, Hà Nội. 59. Tổng cục Thống kê (2012), Niêm giám thống kê 2012, Hà Nội. 60. Tổng cục Thống kê (2013), Niêm giám thống kê 2013, Hà Nội. 61. Tổng cục Thống kê (2014), Niêm giám thống kê 2014, Hà Nội.
62. Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Sự phát triển của các hợp
tác xã giai đoạn 2008-2011, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội 2013.
63. Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và UNDP tại Việt Nam, Sự phát triển
của HTX và vai trò của HTX đối với an sinh xã hội, Nhà xuất bản trẻ,
Hà Nội 2012.
64. Văn kiện Đảng toàn tập (2002), Toàn tập, T19, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
65. Văn kiện Đảng toàn tập (2007), Toàn tập, T49, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
66. V.I. Lênin (1980), Toàn tập, tập 27, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
67. V.I. Lênin (1981), Toàn tập, tập 30, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
68. Vụ Hợp tác xã, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2007), Bản chất HTX thực
tiễn Việt Nam, kinh nghiệm quốc tế và khả năng vận dụng ở Việt Nam.
164
B. Tài liệu tiếng Anh
69. Chantal. Chommel, Agricultural cooperatives in France, Paris, 2015.
70. Socodevi (2012), Conditions of success for cooperatives, Canada.
71. Dr Daman Prakash, The Saryu’, Development of Agricultural
Cooperatives - Relevance of Japanese Experiences to Developing
Countries, J-102 Kalkaji, New Delhi 110019, India, February 2003.
72. Kluwer Academic Publishers, Building and destroying social capital:
The case of cooperatives movement in Denmark and Poland, Printed in
the Netherlands 2003.
73. Kimberly A. Zeuli, The history of cooperatves in United state,
University of Wisconsin, Madison, 2005.
74. European commission, Support famers’cooperatives, 2012.
75. FAO, Agriculural cooperatives: key to feeding the world, 2012. 76. Prof. Hans-H.Muenkner, The role of cooperatives in the 21st century,
Marburg University, Germany, 6-1995.
77. Dr.Jerome B Siebert, Starting an agricultural marketing cooperative,
1999.
165
PHỤ LỤC
Phụ lục 1. Mẫu phiếu thu thập thông tin về phát triển của HTX nông nghiệp
PHIẾU THU THẬP THÔNG TIN
(Dành cho Hợp tác xã nông nghiệp)
Để cơ sở xây dựng về cơ chế, chính sách đối với sự phát triển của hợp tác xã
nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Đề nghị Ông (Bà) vui lòng cho biết ý
kiến của mình về một số nội dung dưới đây bằng cách điền vào ô thích hợp hoặc
ghi ý kiến của cá nhân vào phần để trống.
PHẦN I. THÔNG TIN CÁ NHÂN
Câu hỏi 1. Xin Ông (bà) cho biết vài nét về bản thân
1.1. Giới tính: Nam Nữ
1.2. Độ tuổi: Dưới 30 Từ 30 – 40
Từ 40 – 50 Trên 50
1.3. Dân tộc .....................................Tôn giáo......................................
1.4. Trình độ chuyên môn và chuyên ngành đào tạo
a. Trình độ chuyên môn
Trên ĐH ĐH Cao đẳng Trung cấp
b. Chuyên ngành đào tạo
Luật QLNN Quản lý kinh tế
- Khác:……………………………………………………………
1.5. Trình độ lý luận chính trị:
Cao cấp Trung cấp Sơ cấp
1.6. Thông tin về chức trách, nhiệm vụ:
a. Vị trí công việc
…………………………………………………………………………………
b. Thời gian giữ chức vụ hiện tại?
Dưới 3 năm Từ 3 - 5 năm Từ 5-7 năm Từ 7-10 năm
c. Xin cho biết công tác kiêm nhiệm (nếu có):
…………………………………………………………………………………
166
PHẦN II. THÔNG TIN VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỢP TÁC XÃ
NÔNG NGHIỆP
Câu hỏi 2. Xin cho biết HTX của ông/bà được thành lập khi nào?
Trước khi có Luật HTX 2012 Sau khi có Luật HTX 2012
Câu hỏi 3. Xin cho biết lĩnh vực sản xuất kinh doanh của HTX?
Nông nghiệp Lâm nghiệp Thủy sản
Diêm nghiệp Dịch vụ nông nghiệp
Câu hỏi 4. Số lượng lao động sử dụng thường xuyên trong sản xuất kinh
doanh của HTX?
Dưới 5 LĐ Từ 5 đến 10 LĐ Từ 10 đến 30 LĐ
Từ 30 đến dưới 50 LĐ Từ 50 LĐ trở lên
Câu hỏi 5. Vốn hoạt động của đơn vị?
Vốn góp của các thành viên:……………………; Hiện nay:…………...
Câu hỏi 6. Ông (Bà) tự đánh giá về cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ sản
xuất của HTX mình hiện nay đang ở mức nào?
6.1. Máy móc thiết bị: Cũ đã ở mức lạc hậu Cũ nhưng ở mức TB
Mới, tiên tiến hiện đại
6.2. Công nghệ:
Sản xuất thủ công SX thủ công gắn với truyền thống
Sản xuất nửa thủ công nửa cơ khí Sản xuất công nghệ cơ khí
Câu hỏi 7. Mức nộp thuế, phí, lệ phí hàng tháng của HTX?
Từ 100 – dưới 500 nghìn đồng Từ 500 nghìn - dưới 1 triệu đồng
Từ 1 triệu – dưới 5 triệu đồng Từ 5 triệu đồng trở lên
Câu hỏi 8. Ông (bà) đánh giá về sự hỗ trợ, giúp đỡ của các cấp, các ngành,
các tổ chức kinh tế - xã hội đối với HTX mình hiện nay?
8.1. Thông tin hướng dẫn tìm hiểu về đường lối, pháp luật, cơ chế chính sách
phát triển kinh tế
Thường xuyên Có nhưng không thường xuyên Không có
8.2. Hỗ trợ cho vay vốn tín dụng hiện nay như thế nào
Hỗ trợ tốt Hỗ trợ 1 phần Không được hỗ trợ
167
8.3. Thông tin thị trường, xúc tiến thương mại
Thường xuyên Có nhưng không thường xuyên Không có
8.4. Hỗ trợ về khoa học công nghệ
Thường xuyên Có nhưng không thường xuyên Không có
Câu hỏi 9. Thị trường trao đổi sản phẩm hàng hóa từ năm 2011 đến nay của
HTX?
Trong huyện, thị Trong tỉnh Ngoài tỉnh Quốc tế
Câu hỏi 10. Nguồn cung cấp các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất của
HTX?
Tại chỗ Trong tỉnh Ngoài tỉnh Quốc tế
Câu hỏi 11. Thu nhập hàng năm từ hoạt động của đơn vị trên một thành viên?
Năm 2011 2012 2013 2014 2015
Thu nhập/thành viên
Hợp tác xã nông nghiệp
Câu hỏi 12. Thuận lợi của đơn vị trong qúa trình tổ chức sản xuất kinh doanh
hiện nay của HTX là gì?
Thuận lợi Đồng ý Không đồng ý
Được sự quan tâm của các cấp ủy Đảng và
Chính quyền
Thể chế pháp luật
Các chính sách hỗ trợ
Trình độ quản lý của đơn vị
Tiếp cận thông tin
Ý kiến khác (Xin vui lòng ghi rõ)
…………………………………………………..............................................
………………………………………………………………………………......
.........………………………………………………………..............................
Câu hỏi 13. Khó khăn của đơn vị trong qúa trình tổ chức sản xuất kinh
doanh hiện nay của HTX là gì?
168
Vốn
Năng lực quản lý tổ chức sản xuất kinh doanh
Thị trường tiêu thụ sản phẩm
Cơ chế chính sách
Điều kiện cơ sở hạ tầng
Ý kiến khác (Xin vui lòng ghi rõ)
:…………………………………………………………..
Khó khăn Đồng ý Không đồng ý
Câu hỏi 14. Ông (bà) có được bồi dưỡng, tập huấn kiến thức quản lý kinh
doanh không?
Thường xuyên Có nhưng không thường xuyên
Chưa được bồi dưỡng
Câu hỏi 15. Hình thức bồi dưỡng /tập huấn nào phù hợp với công việc của
ông (bà) nhất?
Không Rất phù TT Các loại hình Phù hợp phù hợp hợp
1 Khóa học có thời lượng 1 – 2 ngày
2 Khóa học có thời lượng 3 – 5 ngày
3 Khóa học ngắn hạn 1 tuần
4 Khóa học dài hơn từ 7 – 10 ngày
5 Tự học
Câu hỏi 16. Trong các năm tới Ông (bà) mong muốn được tập huấn những
nội dung gì về kiến thức quản lý và điều hành đơn vị?
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
Câu hỏi 17. Ông (bà) đánh giá như thế nào về vai trò quản lý của chính quyền
đối với sự phát triển của hợp tác xã nông nghiệp?
Tạo thuận lợi Chưa tạo thuận lợi Gây khó khăn
169
Ý kiến khác(nếu có):.......................................................................................
…………………………………………………………………...
Câu hỏi 18. Các đề xuất khác liên quan đến việc phát triển của HTX?
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
170
Phụ lục 2. Mẫu phiếu khảo sát
PHIẾU KHẢO SÁT
(Dành cho đại diện cấp ủy cấp xã, đại diện UBND cấp xã, đại diện
UBMTTQ cấp xã, trưởng các đoàn thể nhân dân cơ sở)
Để có cơ sở xây dựng về cơ chế, chính sách đối với sự phát triển của
hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Đề nghị đồng chí vui
lòng cho biết ý kiến của mình về một số nội dung dưới đây bằng cách điền
vào ô thích hợp hoặc ghi ý kiến của cá nhân vào phần để trống.
PHẦN I. THÔNG TIN CÁ NHÂN
Câu hỏi 1. Xin đồng chí cho biết vài nét về bản thân
1.1. Giới tính: Nam Nữ
1.2. Độ tuổi: Dưới 30 Từ 30 – 40
Từ 40 – 50 Trên 50
1.3. Dân tộc .....................................Tôn giáo......................................
1.4. Trình độ chuyên môn và chuyên ngành đào tạo
a. Trình độ chuyên môn
Trên ĐH ĐH Cao đẳng Trung cấp
b. Chuyên ngành đào tạo
Luật QLNN Quản lý kinh tế
Khác:…………………………………………………………………………
1.5. Trình độ lý luận chính trị:
Cao cấp Trung cấp Sơ cấp
1.6. Chức vụ công tác hiện nay:
Bí thư đảng ủy Thường trực đảng ủy
Chủ tịch HĐND Phó Chủ tịch HĐND
Chủ tịch UBND Phó Chủ tịch UBND
Chủ tịch UBMTTQ cấp xã Phó Chủ tịch UBMTTQ
Chủ tịch Hội nông dân Chủ tịch hội LHPN
171
Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Bí thư đoàn Thanh niên
PHẦN II. THÔNG TIN VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỢP TÁC XÃ
NÔNG NGHIỆP
Câu hỏi 2. Đồng chí đánh giá như thế nào về sự phát triển của hợp tác xã
nông nghiệp từ năm 2011 đến nay ở địa phương đồng chí.
- Phát triển nhanh - Có phát triển nhưng chậm
- Không phát triển
- Ý kiến khác (nếu có):..................................................................................
Câu hỏi 3. Xin đồng chí cho biết ở địa phương đồng chí nghề sản xuất kinh
doanh nào có hiệu quả nhất hiện nay?
- Nông nghiệp
- Thủy sản(đánh bắt, nuôi trồng, chế biến)
- Lâm nghiệp
- Dịch vụ bán buôn, bán lẻ
- Du lịch
- Sản xuất kinh doanh tổng hợp
- Nghề khác: .......................................................................................................
Câu hỏi 4. Xin đồng chí cho biết sự tác động của các loại hình hợp tác xã
nông nghiệp đến sự phát triển kinh tế tư nhân, kinh tế nhà nước ở địa phương
đồng chí trong năm vừa qua như thế nào?
- Tác động tích cực - Có tác động nhưng chậm
- Không tác động - Tác động tiêu cực
Câu hỏi 5. Xin đồng chí cho biết sự tác động của kinh tế tư nhân, kinh tế nhà
nước đến sự phát triển của hợp tác xã nông nghiệp ở địa phương đồng chí
trong năm vừa qua như thế nào?
- Tác động tích cực - Có tác động nhưng chậm
- Không tác động - Tác động tiêu cực
Câu hỏi 6. Đồng chí đánh giá như thế nào về mức độ ô nhiễm môi trường
sinh thái ở địa phương do phát triển kinh tế gây ra hiện nay.
172
- Ô nhiễm nghiêm trọng
- Có ô nhiễm nhưng chưa nghiêm trọng
- Chưa bị ô nhiễm
Câu hỏi 7. Đồng chí đánh giá như thế nào về hiệu quả hoạt động của hợp tác
xã nông nghiệp ở địa phương đồng chí.
- Hiệu quả cao - Có hiệu quả nhưng không cao
- Không có hiệu quả
- Ý kiến khác:...............................................................................................
Câu hỏi 8. Theo đồng chí cần giải pháp nào để hỗ trợ hợp tác xã nông nghiệp
phát triển trong thời gian tới.
…………………………………………………………………………………
Câu hỏi 9. Đồng chí đánh giá như thế nào về xu hướng phát triển của loại
hình hợp tác xã nông nghiệp trong những năm tới ở địa phương đồng chí.
- Phát triển tốt - Có phát triển nhưng chậm
- Không phát triển
- Ý kiến khác:............................................................................................
Câu hỏi 10. Đồng chí có kiến nghị, đề xuất gì về đổi mới cơ chế chính sách
đối với hợp tác xã nông nghiệp ở địa phương.
.....………………………………………………………………………………
173
Phụ lục 3. Báo cáo tổng hợp số liệu điều tra, khảo sát
BÁO CÁO
Phân tích, xử lý số liệu điều tra, khảo sát
về hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa
I. MỘT SỐ THÔNG TIN CHUNG VỀ ĐỐI TƢỢNG, ĐỊA ĐIỂM VÀ
CÁCH THỨC TIẾN HÀNH ĐIỀU TRA, KHẢ
Để đánh giá đúng thực trạng hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp tại
các địa phương làm cơ sở để xây dựng cơ chế, chính sách đối với sự phát triển
của hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, Trường Chính trị
tỉnh đã thực hiện việc đánh giá thực trạ
ằng các phương pháp như:
Phương pháp điều tra Anket (phiếu hỏi); phương pháp phỏng vấn, phương
pháp quan sát, phương pháp phân tích kết quả hoạt động… trong đó, phương
pháp điều tra Anket (phiếu hỏi) được xem là phương pháp chủ yếu.
Khi xây dựng phiếu điều tra Anket, nhà trường chia làm 2 mẫu phiếu
tương ứng với 2 đối tượ ệ
nhân dân cơ sở.
1. Đối tƣợng điều tra
Đối với mẫu phiếu số 1, dành cho cán bộ ệp gồm
230 phiếu (tương ứng với 1/3 số HTX nông nghiệp trên địa bàn toàn tỉnh).
Đối với mẫu phiếu số
ở ếu.
2. Địa điểm điều tra
Điều tra trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, cụ thể:
174
- Đối với mẫu phiếu số 1: HTX nông nghiệ
ệp.
- Đối với mẫu phiếu số 2: 405 phiếu, điều tra ở 81 xã của các huyện, bao
gồm: Nga Sơn, Hoằng Hóa, Tĩnh Gia, Thọ Xuân, Yên Định, Triệu Sơn, Thạch
Thành, Ngọc Lặc, Cẩm Thủy (mỗi huyện 9 xã).
3. Cách thức điều tra
Để có thông tin cho các mẫu phiếu điều tra một cách khách quan,
chính xác, Trường Chính trị tỉnh Thanh Hóa đã tổ chức tiến hành theo các
cách sau đây:
- Cán bộ, giảng viên của nhà trường trực tiếp về cơ sở để lấy thông tin
điều tra.
- Thông qua các đồng chí ở các phòng, ban của các huyện,
- Thông qua các đồng chí ở ỉnh.
II. TỔNG HỢP PHIẾU ĐIỀU TRA, KHẢ
Từ số lượng phiếu phát ra và thu vào chúng tôi nhận thấy, về cơ bản số
phiếu thu vào đã đáp ứng được yêu cầu đặt ra.
Sau khi kiểm tra và tổng hợp, phân tích số liệu thu về từ 635 phiếu
điều tra; nhóm điều tra trực tiếp thực hiện khâu tổng hợp, phân tích số
liệu điều tra, khả ề xã
ịa bàn tỉnh Thanh Hóa như sau:
1. Đối với mẫu phiếu số 1
Số phiếu phát ra là 230 phiếu, thu về 230 phiếu với kết quả như sau:
Thông tin của người cung cấ
- Về dân tộc: Số lượn ảo sát là người dân tộc Kinh
chiếm 76%, dân tộc ít người (Thái, Mường, Thổ...) chiếm 24%.
- Về Tôn giáo: Số ếm 3,3% và không theo một tôn
giáo nào chiếm 96,7%
-Về giới tính: Nam chiế ữ chiếm 35,7%;
175
- Về độ tuổ ổi chiếm 6,7%; từ 30 - 40 tuổi chiếm 27,3%; từ
40 – 50 chiếm 39,8%; từ 50 tuổi trở lên chiếm 26,2%.
- Về trình độ chuyên môn: Số lượng có trình độ
Đại học chiếm 37,5%; Cao đẳng chiếm 21,9%; Trung cấp chiếm 40,3%.
-
- Về trình độ Lý luận chính trị: đa số tham gia cung cấp thông tin
có trình độ Trung cấp lí luận chính trị chiếm 65,6% và có 34,7% có trình độ
sơ cấp Lý luận chính trị.
Ở câu hỏi số 2: thời gian thành lập HTX nông nghiệp
- Trước khi có Luật HTX năm 2012: 206
- Sau khi có Luật HTX năm 2012: 24
âu hỏi 3: Lĩnh vực sản xuất kinh doanh
Bảng 1.1. Bảng tổng hợp c
HTX nông nghiệp
TT Số phiếu Tỷ lệ %
1. Nông nghiệp 86/230 37,4
2. 10/230 4,3
3. 5/230 2,2
4. 3/230 1,3
5. 126/230 54,8
Nhận xét: Qua số liệu trên cho thấ
ậy, trong khả
Ở câu hỏi thứ 4: Số lượng lao động sử dụng thường xuyên trong sản
xuất kinh doanh của đơn vị?
176
1.2. Bảng tổng hợp s ộng sử dụng thường xuyên
trong sản xuất kinh doanh củ nông nghiệp
STT Số phiếu Tỷ lệ %
1 20/230 8,7
2 90/230 39
3 51/230 22,2
4 49/230 21,4
5 20/230 8,7
Qua khảo sát cho thấy số lao động ở các HTX từ 5-10 lao
động chiếm tỷ lệ lớn 39%; từ 10-30 lao động là 22,2%, từ 30 đến dưới 50 lao
động chiếm 21,4%. Số lao động dưới 5 và trên 50 lao động trong HTX chiếm
tỷ lệ nhỏ 8,7%. Như vậy, hầu hết các HTX nông nghiệp ở quy mô nhỏ, cho
nên hoạt động hiệu quả chưa cao.
Ở câu hỏi thứ 5: Vốn hoạt động của đơn vị
1.3. Bảng tổng hợ
nông nghiệp
393.000.000 đ 1.028.000.000đ
nghiệp
- Qua kết quả điều tra, vốn góp ban đầu đối với HTX còn rất
ít hoặc không góp vốn. Vốn điều lệ bình quân là 393 triệu đồng; vốn chủ sở
hữu là 508 triệu đồng và vốn vay bình quân ở các HTX là 127 triệu đồng.
Điều này cho thấy nguồn vốn của người nông dân còn hạn chế, chủ yếu là
nguồn vốn của gia đình tích góp. Bên cạnh đó, do quy mô sản xuất kinh
doanh của HTX chưa ở mức cao. Nguồn vốn vay chủ yếu của các HTX là từ
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Ngân hàng Chính sách Xã
hội.
âu hỏi 6: Ông (Bà) tự đánh giá về cơ sở vật chất kỹ thuật và
công nghệ sản xuất của HTX mình hiện nay đang ở mức nào
177
Bảng 1.4. Bảng tổng hợ
TT Các tiêu chí Số phiếu Tỷ lệ %
230 100
Cũ đã ở mức lạc hậu 3/230 23 1 Cũ nhưng ở mức trung bình 150/230 65
Mới, tiên tiến hiện đại 27/230 12
230 100
31/230 13,5
2 34,4 79/230
47,8 110/230
4,3 10/230
Qua số liệu trên cho thấy có thể thấy máy móc thiết bị sử
dụng ở các HTX nông nghiệp cũ nhưng ở mức trung bình là chiếm tỷ trọng
lớn nhất 65%; máy móc mới , tiên tiến hiện đại còn chiếm tỷ lệ thấp 12%.
Công nghệ sản xuất ở các HTX NN nửa thủ công, nửa cơ khí là chiếm tỷ
trọng lớn 47,83%; sản xuất thủ công gắn với truyền thống là 34,35%; sản xuất
công nghệ cơ khí trong các HTXNN còn chiếm tỷ trọng nhỏ, chỉ 4,35%.
ỏ Mức nộp thuế, phí, lệ phí hàng tháng của các HTX
nông nghiệp
1.5. Bảng tổng hợ
nghiệp
STT Số phiếu Tỷ lệ %
Từ 100 – dưới 500 nghìn đồng 53/230 23 1
Từ 500 nghìn – dưới 1 triệu đồng 137/230 60 2
Từ 1 triệu – dưới 5 triệu đồng 30/230 13 3
Từ 5 triệu đồng trở lên 10/230 4 4
Số HTX nông nghiệp nộp thuế, phí, lệ phí từ 500.000đ -
dưới 1.000.000đ chiếm tỷ trọng lớn 60%; từ 1 triệu - dưới 5 triệu đồng 13%;
từ 5 triệu đồng trở lên chiếm tỷ trọng rất nhỏ chỉ 4%.
178
ỏ Ông (bà) đánh giá về sự hỗ trợ, giúp đỡ của các cấp,
các ngành, các tổ chức kinh tế - xã hội đối với HTX mình hiện nay?
1.6. Bảng tổng hợp ý kiến về sự hỗ trợ, giúp đỡ của các cấp, các
ngành, các tổ chức kinh tế - xã hội ệp
Số phiếu Tỷ lệ % Sự hỗ trợ, giúp đỡ của các cấp, các ngành, TT các tổ chức kinh tế - xã hội
Thông tin hƣớng dẫn tìm hiểu về đƣờng
lối, pháp luật, cơ chế chính sách phát 230 100
triển kinh tế 1 91/230 39,6
Có nhưng không thường xuyên 109/230 47,4
30/230 13
Hỗ trợ cho vay vốn tín dụng hiện nay nhƣ 230 100 thế nào
Hỗ trợ tốt 44/230 19,1 2
Hỗ trợ 1 phần 105/230 45,7
Không được hỗ trợ 81/230 35,2
Thông tin thị trƣờng, xúc tiến thƣơng 230 100 mại
57/230 24,8 3
114/230 49,6
59/230 25,6
Hỗ trợ về khoa học công nghệ 230 100
40/230 17,4 4 135/230 58,7
55/230 23,9
Qua khảo sát cho thấy về thông tin hướng dẫn tìm hiểu về
đường lối, pháp luật, cơ chế chính sách phát triển kinh tế, các hợp tác xã tiếp
nhận thường xuyên chỉ là 39,6%, có nhưng không thường xuyên chiếm 47,4%
và không có chiếm 13%.
179
ẫn chủ yếu là chỉ được hỗ trợ một phần cho
vay tín dụng, có nhưng không thường xuyên nhận được sự hỗ trợ về thông tin
đường lối, pháp luật, cơ chế, chính sách phát triển kinh tế và thông tin thị
trường, xúc tiến thương mại.
ỏ 9: Thị trường trao đổi sản phẩm hàng hóa từ năm 2010
đến nay của HTX
1.7. Bảng tổng hợp thị trường trao đổi sản phẩm hàng hóa từ năm
2010 đến nay ệp
STT Thị trƣờng trao đổi sản phẩm hàng hóa Số phiếu Tỷ lệ %
110
47.8
1
89
38.7
2 T
27
11.7
3
4
1.8
4
Nhận xét: Qua con số điều tra khảo sát cho thấy thị trường trao đổi sản
phẩm hàng hóa chủ yếu của các HTXNN là trong huyện thị, chiếm tỷ lệ lớn
47,83%; tiếp đến là thị trường trong tỉnh chiếm 38,70%; còn lại thị trường
trao đổi sản phẩm hàng hóa ngoài tỉnh và ra thị trường quốc tế còn chiếm một
tỷ lệ khiêm tốn.
ỏ 10: Nguồn cung cấp các yếu tố đầu vào cho quá trình
sản xuất của đơn vị?
1.8. Bảng tổng hợp nguồn cung cấp các yếu tố đầu vào cho quá
trình sản xuất củ nông nghiệp
STT Nguồn cung cấp các yếu tố đầu vào cho quá Số phiếu Tỷ lệ %
trình sản xuất
109
47.4
1
92
40
T 2
24
10.4
3
5
2.2
4
Nhận xét: Qua số liệu điều tra khảo sát cho thấy nguồn cung cấp các yếu
tố đầu vào cho quá trình sản xuất của các HTXNN là nguồn tại chỗ và trong tỉnh,
180
chiếm tỷ lệ lớn, lần lượt là 47,4% và 40%; còn lại nguồn cung cấp các yếu tố đầu
vào cho quá trình sản xuất từ ngoài tỉnh và quốc tế chiếm một tỷ lệ nhỏ. Điều đó
cho thấy mặt lợi thế của sự chủ động được nguồn cung cấp các yếu tố đầu vào
cho quá trình sản xuất của các HTXNN trên địa bàn tỉnh.
ỏ Thu nhập hàng năm từ hoạt động của đơn vị trên
một thành viên?
1.9. Bảng tổng hợp thu nhập hàng năm từ hoạt động của đơn vị
trên một thành viên
Năm
2011 2012 2013 2014 2015
ệp 19.7tr 20.5tr 21.6tr 23.7tr 26tr
Nhận xét:
- Thu nhập hàng năm từ hoạt động của HTX trên một thành viên: Kết quả
khảo sát cho thấy, các nguồn thu nhập từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh của
HTX nông nghiệp bình quân là 21.6 triệu đồng/năm (nguồn liên minh HTX).
Năm 2011, thu nhập hàng năm từ hoạt động của HTX trên một thành viên là
19.7tr đồng; Năm 2012, thu nhập hàng năm từ hoạt động của HTX trên một
thành viên là 20.5tr đồng; Năm 2013, thu nhập hàng năm từ hoạt động của HTX
trên một thành viên là 21.6tr đồng; Năm 2014, thu nhập hàng năm từ hoạt động
của HTX trên một thành viên là 23.7tr đồng; Năm 2015, thu nhập hàng năm từ
hoạt động của HTX trên một thành viên là 26tr đồng.
ỏ 12: Thuận lợi của HTX trong quá trình tổ chức sản
xuất kinh doanh hiện nay là gì
1.10. Bảng tổng hợp ý kiến về thuận lợi trong qúa trình tổ chức
sản xuấ nông nghiệp
Kh
STT Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ
phiếu % phiếu %
181
Được sự quan tâm của các cấp 1 ủy Đảng và Chính quyền 150 65 80 35
2 Thể chế pháp luật 129 56 101 44
3 Các chính sách hỗ trợ 117 51 113 49
4 Trình độ quản lý của đơn vị 140 61 90 39
5 Tiếp cận thông tin 122 53 108 47
Nhận xét: Qua số liệu trên cho thấy trong quá trình sản xuất kinh doanh
của các HTX có tới 65% ý kiến đồng ý là được sự quan tâm của cấp ủy Đảng
và chính quyền; 35% không đồng ý.
Có 56% ý kiến đồng ý trong hoạt động có được sự thuận lợi từ thể chế
pháp luật; 44% không đồng ý. Về các chính sách hỗ trợ có 51% ý kiến đồng ý
là thuận lợi; 49% không đồng ý. Về trình độ quản lý của đơn vị có 61% ý kiến
đồng ý là thuận lợi; 39% không đồng ý. Có 53% ý kiến đồng ý được thuận lợi
trong tiếp cận thông tin; 47% không đồng ý.
Ở câu hỏ 13: Khó khăn của HTX trong quá trình tổ chức sản
xuất kinh doanh hiện nay là gì
1.11. Bảng tổng hợ rong qúa trình tổ chức sản xuấ
nông nghiệp
Không đ
STT Số Tỷ lệ Số phiếu Tỷ lệ
phiếu % %
1 Vốn 179 78 51 22
2 Năng lực quản lý tổ chức sản
xuất kinh doanh 90 39 140 61
3 Thị trường tiêu thụ sản phẩm
131 57 99 43
4 Cơ chế chính sách 113 49 117 51
5 Điều kiện cơ sở hạ tầng 110 48 120 52
Nhận xét: Khi được hỏi về những khó khăn trong quá trình hoạt động
của các HTX, các ý kiến trả lời như sau:
182
- Về vốn: 78% ý kiến được hỏi đều đồng ý đây là khó khăn của các
HTX trong quá trình sản xuất kinh doanh; 22% ý kiến không đồng ý.
- Về năng lực quản lý tổ chức sản xuất kinh doanh: có 39% ý kiến đồng
ý đây là sự khó khăn của các HTX trong quá trình sản xuất kinh doanh; 61%
không đồng ý.
- Về thị trường tiêu thụ sản phẩm: có đến 57% ý kiến đồng ý đây là khó
khăn trong hoạt động của các HTX; 43% không đồng ý.
- Về cơ chế chính sách: có 49% các ý kiến đồng ý đây là khó khăn của
HTX; 51% không đồng ý.
- Có 48 % các ý kiến đồng ý điều kiện cơ sở hạ tầng là khó khăn của
HTX; 52% không đồng ý với phương án này.
ỏ 14: Ông (bà) có được bồi dưỡng, tập huấn kiến thức
quản lý kinh doanh không
2
ổ chức sản xuất kinh doanh nông nghiệp
hiện nay như sau:
1.12. Bảng tổng hợp ý kiến về
ệp
ồi dƣỡng, tập huấn kiến thức quản lý Số phiếu Tỷ lệ STT kinh doanh %
32/230 13,9 1
160/230 69,6 2
38/230 16,5 3
Nhận xét: Từ bảng số liệu trên cho thấy việc bồi dưỡng, tập huấn kiến
thức quản lý kinh doanh cho cán bộ HTX NN có nhưng không thường xuyên
chiếm 69,57%, vẫn còn 16,52% chưa được bồi dưỡng, tập huấn kiến thức
quản lý kinh doanh.
ỏ 15: Hình thức bồi dưỡng /tập huấn nào phù hợp với
công việc của ông (bà) nhất
183
1.13. Bảng tổng hợp ý kiến hình thức bồi dưỡng /tập huấn nào
phù hợp với công việc củ nông nghiệp
Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ STT
phiếu % phiếu % phiếu %
1 Khóa học có thời
lượng 1 - 2 ngày 167 72.6 38 16.5 25 10.9
2 Khóa học có thời
lượng 3 - 5 ngày 35 15.2 156 67.8 39 17
3 Khóa học ngắn hạn
1 tuần 75 32.6 127 55.2 28 12.2
4 Khóa học dài hơn
từ 7 - 10 ngày 198 86 25 11 7 3
5 Tự học 158 68.7 47 20.4 25 10.9
Nhận xét:
+ Có 72.6% các ý kiến cho rằng khóa học có thời lượng 1 - 2 ngày là
không phù hợp; 16.5% các ý kiến cho rằng khóa học có thời lượng 1 - 2 ngày
là phù hợp; 10.9% các ý kiến cho rằng khóa học có thời lượng 1 - 2 ngày là
rất phù hợp;
+ Có 15.2% các ý kiến cho rằng khóa học có thời lượng 3 - 5 ngày là
không phù hợp; 67.8% các ý kiến cho rằng khóa học có thời lượng 3 - 5 ngày
là phù hợp; 17% các ý kiến cho rằng khóa học có thời lượng 3 - 5 ngày là rất
phù hợp.
+ Có tới 32.6% các ý kiến cho rằng khóa học ngắn hạn 1 tuần là không
phù hợp; 55.2% các ý kiến cho rằng khóa học ngắn hạn 1 tuần là phù hợp;
12.2% các ý kiến cho rằng khóa học ngắn hạn 1 tuần là rất phù hợp.
+ Có tới 86% các ý kiến cho rằng khóa học dài hơn từ 7 - 10 ngày là
không phù hợp; 11% các ý kiến cho rằng khóa học dài hơn từ 7 - 10 ngày là phù
hợp; 3% các ý kiến cho rằng khóa học dài hơn từ 7 - 10 ngày là rất phù hợp.
184
+ Có tới 68.7% các ý kiến cho rằng tự học là không phù hợp; 20.4%
các ý kiến cho rằng tự học là phù hợp; 10.9% các ý kiến cho rằng tự học dài
là rất phù hợp.
ỏ 16: Trong các năm tới Ông (bà) mong muốn được tập
huấn những nội dung gì về kiến thức quản lý và điều hành HTX
1.14. Bảng tổng hợp ý kiến về những nội dung muốn được tập
huấn các kiến thức quản lý và điều hành HTX nông nghiệp
STT Nội dung tập huấn Số phiếu Tỷ lệ %
1 Tập huấn về công nghệ thông tin, chuyên môn
quản lý HTX 100/230 43.4
2 Nghiệp vụ kế toán HTX 67/230 29
3 Luật HTX 98/230 42.5
4 Quản trị kinh doanh, marketting 198/230 86
5 Kỹ năng tổ chức và điều hành công tác sản
xuất nông nghiệp 167/230 72.5
6 Tiếp cận cơ chế thị trường trong lĩnh vực quản
lý, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp 220/230 95.4
7 Cách thức tổ chức, quản lý và cách sử dụng
máy móc phục vụ cho sản xuất 206/230 89.8
8 Quản lý kinh doanh, Hoạch toán kinh tế 116/230 50.6
9 Quản lý nguồn nhân lực 71/230 31
Tập huấn và chuyển giao khoa học kỹ thuật
10 sản xuất 223/230 97.2
11 Xây dựng hợp đồng KT 215/230 93.4
12 Chính sách liên kết giữa doanh nghiệp - HTX
- nông dân 168/230 73
Nhận xét: Những nội dung muốn được tập huấn của các đơn vị kinh tế
hợp tác trong nông nghiệp qua số liệu trên như sau:
185
+ Tập huấn về công nghệ thông tin, chuyên môn quản lý HTX, chiếm
43.4% các ý kiến được hỏi.
+ Tập huấn nghiệp vụ kế toán HTX, chiếm 29% các ý kiến được hỏi.
+ Tập huấn Luật HTX, chiếm 42.5% các ý kiến được hỏi.
+ Tập huấn Quản trị kinh doanh, marketting, chiếm 86% các ý kiến
được hỏi.
+ Tập huấn Kỹ năng tổ chức và điều hành công tác sản xuất nông
nghiệp, chiếm 72.5% các ý kiến được hỏi.
+ Tập huấn Tiếp cận cơ chế thị trường trong lĩnh vực quản lý, tiêu thụ
sản phẩm nông nghiệp, chiếm 95.4% các ý kiến được hỏi
+ Tập huấn Cách thức tổ chức, quản lý và cách sử dụng máy móc phục
vụ cho sản xuất, chiếm 89.8% các ý kiến được hỏi
+ Tập huấn Quản lý kinh doanh, Hoạch toán kinh tế chiếm 50.6% các ý
kiến được hỏi
+ Tập huấn Quản lý nguồn nhân lực chiếm 31% các ý kiến được hỏi
+ Tập huấn Tập huấn và chuyển giao khoa học kỹ thuật sản xuất, chiếm
97.2% các ý kiến được hỏi
+ Tập huấn Xây dựng hợp đồng KT, chiếm 93.4% các ý kiến được hỏi
+ Tập huấn Chính sách liên kết giữa doanh nghiệp - HTX - nông dân,
chiếm 73% các ý kiến được hỏi
ỏ 17: Ông (bà) đánh giá như thế nào về vai trò quản lý
của chính quyền đối với sự phát triển của hợp tác xã nông nghiệp
1.15. Bảng tổng hợp ý kiến vai trò quản lý của chính quyền đối
với sự phát triển của HTX trong nông nghiệp
Vai trò quản lý của chính quyền đối với sự STT Số phiếu Tỷ lệ % phát triển của HTX trong nông nghiệp
1 178 77.4
2 52 22.6
3 0 0
186
Nhận xét: 77.4% các ý kiến đánh giá sự quản lý của chính quyền đã tạo
thuận lợi cho sự phát triển của HTX trong nông nghiệp; 22.6% các ý kiến
cho rằng sự quản lý của chính quyền chưa tạo thuận lợi cho sự phát triển của
HTX trong nông nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh.
ỏ Các đề xuất khác liên quan đến việc phát triển của
HTX
1.16. Bảng tổng hợp ý kiến đề xuất liên quan đến việc phát triển
của kinh tế hợp tác trong nông nghiệp
Số Tỷ STT phiếu lệ %
1 - Hỗ trợ nguồn vốn, cây trồng, phân bón 220/230 95.7
2 - Hỗ trợ kinh phí cho nông dân đầu tư vào sản
167/230 72.8 xuất nông nghiệp
45 3 - Hỗ trợ tiếp cận công nghệ - khoa học - kỹ thuật 103/230
63 145/230 4 - Hỗ trợ bao tiêu sản phẩm
5 - Tạo điều kiện cho cán bộ HTX: tiền công, tiền
lương, bảo hiểm 90/230 39
6 - Nhà nước hỗ trợ tiền lương, phụ cấp những năm
đầu chuyển đổi HTX 98/230 42.6
7 - Khuyến nông tỉnh nên có trang tin giá nông sản
thị trường trong và ngoài tỉnh 196/230 85.3
- Chuyển giao khoa học kỹ thuật, khuyến nông,
8 khuyến ngư 140/230 61
9 - Tăng cường các liên kết kinh tế 35/230 15
10 - Tăng địa vị pháp lý, pháp nhân 62/230 26.8
11 - Quy hoạch đất để chăn nuôi, trồng trọt 121/230 52.5
12 - Thuê đất lâu dài 181/230 78.7
13 - Cần có chế tài kiểm soát giá thuốc thú y 138/230 60.3
Nhận xét: Những ý kiến đề xuất liên quan đến việc phát triển của kinh
tế hợp tác trong nông nghiệp qua số liệu trên như sau:
187
- Có 95.7% ý kiến đề xuất hỗ trợ nguồn vốn, cây trồng, phân bón cho
kinh tế hợp tác phát triển
- Có 72.8% ý kiến đề xuất hỗ trợ kinh phí cho nông dân đầu tư vào sản
xuất nông nghiệp.
- Có 45% ý kiến đề xuất hỗ trợ tiếp cận công nghệ - khoa học - kỹ
thuật, chiếm 45%
- Có 63% ý kiến đề xuất hỗ trợ bao tiêu sản phẩm cho các loại hình
kinh tế hợp tác trong nông nghiệp phát triển.
- Có 39% ý kiến đề xuất tạo điều kiện cho cán bộ HTX: tiền công, tiền
lương, bảo hiểm…
- Có 42.6% ý kiến đề xuất đề nghị Nhà nước hỗ trợ tiền lương, phụ cấp
những năm đầu chuyển đổi HTX
- Có 85.3% ý kiến đề xuất với khuyến nông tỉnh nên có trang tin giá
nông sản thị trường trong và ngoài tỉnh
- Có 61% ý kiến đề xuất chuyển giao khoa học kỹ thuật, khuyến nông,
khuyến ngư
- Có 15% ý kiến đề xuất cần tăng cường các liên kết kinh tế
- Có 26.8% ý kiến đề xuất tăng địa vị pháp lý, pháp nhân
- Có 52.5% ý kiến đề xuất quy hoạch đất để chăn nuôi, trồng trọt
- Có 78.7% ý kiến đề xuất cho thuê đất lâu dài
- Có 60.3% ý kiến đề xuất cần có chế tài kiểm soát giá thuốc thú y
2. Đối với mẫu phiếu số 2
Số phiếu phát ra: 405 phiếu; số phiếu thu vào là 405 phiếu tại 81 xã của
các huyện, bao gồm: Nga Sơn, Hoằng Hóa, Tĩnh Gia; Thọ Xuân, Yên Định, Triệu
Sơn; Thạch Thành, Ngọc Lặc, Cẩm Thủy.
Kết quả được biểu hiện ở bảng sau:
- Về Dân tộc: Kết quả 405 phiếu thu vào của đại diện cấp ủy cấp xã, đại
diện UBND cấp xã, đại diện UBMTTQ cấp xã, trưởng các đoàn thể nhân dân
cơ sở
-Về giới tính: Nam chiếm 81% và Nữ chiếm 19%
188
- Về độ tuổ ổi chiếm 2,2%; từ 30 -40 tuổi chiếm 24,2%; từ
40 – 50 chiếm trên 37%; từ 50 tuổi trở lên chiếm 36,6%.
ố lượng cán bộ tham gia khảo sát là người dân tộc Kinh -
chiếm 86%; dân tộ ờng; Dao; Thổ) chiếm 14%.
- Về tôn giáo: Số cán bộ ếm 6.7% và không theo
một tôn giáo nào chiếm 93.3%
- Về trình độ chuyên môn: Số lượng có trình độ trên Đại học chiếm
3%; Đại học chiếm 58%; Cao đẳng chiếm 24%; Trung cấp chiếm 15%.
-
- Về trình độ Lý luận chính trị:
Trung cấp lí luận chính trị chiếm 88,2%
-
Ở câu hỏi số 2: Đồng chí đánh giá như thế nào về sự phát triển của hợp
tác xã nông nghiệp từ năm 2010 đến nay ở địa phương đồng chí?
Bảng tổng hợ
STT xã Số phiếu Tỷ lệ %
1 Phát triển nhanh 107/405 26.4
2 Có phát triển nhưng chậm 264/405 65.2
3 Không phát triển 34/405 8.4
ể
189
Ở câu hỏi số 3: Xin đồng chí cho biết ở địa phương đồng chí nghề sản
xuất kinh doanh nào có hiệu quả nhất hiện nay
2.2. Bảng tổng hợp nghề sản xuất kinh doanh có hiệu quả nhất
hiện nay
Nghề sản xuất kinh doanh nào có hiệu quả
Tỷ lệ
TT
Số phiếu
nhất
(%)
153/405 37.8 1
37/405 9.1 2
17/405 4.2 3
78/405 19.2 3
16/405 4 4
101/405 24.9 5
3/405 0.8 6
nghề sản xuất Qu
kinh doanh nào có hiệu quả nhất hiện nay
Ở câu hỏi số 4: Xin đồng chí cho biết sự tác động của loại hình hợp
tác xã đến sự phát triển kinh tế tư nhân, kinh tế nhà nước ở địa phương
đồng chí trong năm vừa qua như thế nào
Bảng tổng hợp sự tác động của các loại hình kinh tế hợp tác
đến sự phát triển kinh tế tư nhân, kinh tế nhà nước ở địa phương
STT Sự tác động Số phiếu Tỷ lệ %
1 Tác động tích cực 169/405 41.7
2 Có tác động nhưng chậm 226/405 55.8
3 Không 7/405 1.8
4 Tác động tiêu cực 3/405 0.7
190
Ở câu hỏi số 5: Xin đồng chí cho biết sự tác động của kinh tế tư nhân,
kinh tế nhà nước đến sự phát triển loại hình hợp tác xã nông nghiệp ở địa
phương đồng chí trong năm vừa qua như thế nào
Bảng tổng hợp sự tác động của kinh tế tư nhân, kinh tế nhà
nước đến sự phát triển loại hình hợp tác xã nông nghiệp ở địa phương
Số phiếu Tỷ lệ % STT Sự tác động
Tác động tích cực 159/405 39.3 1
2 Có tác động nhưng chậm 235/405 58
3 Không 9/405 2.2
4 Tác động tiêu cực 2/405 0.5
như sau:
39.3%);
191
.
ể
ỏ Đồng chí đánh giá như thế nào về mức độ ô nhiễm
môi trường sinh thái ở địa phương do phát triển kinh tế gây ra hiện nay.
Bảng tổng hợp mức độ ô nhiễm môi trường sinh thái ở địa
phương do phát triển kinh tế gây ra hiện nay
STT Mức độ ô nhiễm môi trƣờng sinh thái ở địa Số phiếu Tỷ lệ %
phƣơng do phát triển kinh tế gây ra
39/405 9.6 1 Ô nhiễm nghiêm trọng
270/405 66.7 2 Có ô nhiễm nhưng chưa nghiêm trọng
96/405 23.7 3 Chưa bị ô nhiễm
66.7%);
ỏ 7: Đồng chí đánh giá như thế nào về hiệu quả hoạt
động của hợp tác xã nông nghiệp ở địa phương đồng chí
192
Bảng tổng hợ hoạt động của kinh tế hợp
tác trong nông nghiệp ở địa phương
Hiệu quả hoạt động của kinh tế hợp tác Tỷ lệ STT Số phiếu trong nông nghiệp ở địa phƣơng %
1 Hiệu quả cao 119/405 29.4
2 Có hiệu quả nhưng không cao 263/405 65
3 Không có hiệu quả 23/405 5.6
,
âu hỏi 8: Theo đồng chí cần giải pháp nào để hỗ trợ hợp tác xã
nghiệp phát triển trong thời gian tới
Bảng tổng hợ
STT Số phiếu Tỷ lệ
%
1 235/405 58
2 24/405 5.9
3 18/405 4.4
4 76/405 18.8
5 32/405 7.9
6 8/405 2
7 12/405 3
193
âu hỏi 9: Đồng chí đánh giá như thế nào về xu hướng phát
triển của loại hình hợp tác xã nông nghiệp trong những năm tới ở địa
phương đồng chí
Bảng tổng hợp xu hướng phát triển của loại hình hợp tác xã
nông nghiệp trong những năm tới ở địa phương
STT Xu hƣớng phát triển Số phiếu Tỷ lệ
%
1 Phát triển tốt 173/405 42.7
2 Có phát triển nhưng chậm 208/405 51.3
3 24 6
âu hỏi 10: Đồng chí có kiến nghị, đề xuất gì về đổi mới cơ chế
chính sách đối với hợp tác xã nông nghiệp ở địa phương
như sau:
-
-
-
-
-
HTX, cán bộ, thành viên hợp tác xã.
-
-
194
-
-
- ền, phổ biến pháp luật về hợp tác xã;
- Tư vấn, hỗ trợ thành lập mới hợp tác xã và xây dựng các mô hình
kinh tế tập thể, hợ
- Tăng cường vai trò, trách nhiệm của hệ thống liên minh HTX, MTTQ,
các đoàn thể, hiệp hội trong phát triển kinh tế tập thể
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG
tạo công ăn
việc làm, tăng thu nhập cho lao động nông thôn; hoạt động của các loại hình
hợp tác xã nông nghiệp bước đầu đã có chuyển biến tích cực, đáp ứng tốt hơn
nhu cầu của nông dân; thông qua các loại hình kinh tế hợp tác trong nông
nghiệp, các vấn đề thị trường được giải quyết tốt hơn và mang hiệu quả cao.
Trong quá trình hoạt động của kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, đặc biệt là
các HTX được các cấp ủy Đảng và Chính quyền quan tâm, tạo điều kiện.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong quá trình hoạt động của
kinh tế hợp tác trong nông nghiệp còn những tồn tại, hạn chế nhất định, như:
nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên, người dân về vai trò và tầm
quan trọng của loại hình kinh tế này trong nền sản xuất nông nghiệp hàng hóa
chưa đầy đủ, chưa xem tổ hợp tác, HTX như đòn bẩy thúc đẩy kinh tế hộ
nông dân và là đối tác hợp tác hiệu quả của doanh nghiệp khi đầu tư, sản xuất,
kinh doanh trong lĩnh vực n
thường xuyên. Trong khi đó, trình độ và năng lực quản lý của cán bộ tổ hợp
tác, HTX hạn chế; quy mô sản xuất manh mún, nhỏ lẻ; thiếu động lực để tạo
sự liên kết chặt chẽ giữa các thành viên trong HTX và tổ hợp tác để mở rộng
195
quy mô sản xuất, phát triển bền vững. Các hợp tác xã, tổ hợp tác được thành
lập mới, nhưng nhìn chung hoạt động chưa hiệu quả và thiếu bền vững, cho
nên cũng có khoảng bảy đến tám nghìn tổ giải thể, hoặc tạm ngừng hoạt động.
Các HTX còn tồn tại thì phần lớn hoạt động cầm chừng do thiếu vốn, thiếu tài
sản và quản lý kém. Trong hoạt động, tỷ lệ các HTX xếp loại khá chỉ chiếm
từ 10% đến 20%, còn lại là các HTX ở mức trung bình và yếu. Các tổ hợp tác
có quy mô rất nhỏ, phổ biến chỉ từ 10 đến 30 hộ/tổ, hoạt động nhỏ lẻ, chủ yếu
là kinh tế hộ gia đình. Ðể các tổ hợp tác, HTX nông nghiệp hoạt động có hiệu
quả, trước hết các địa phương cần rà soát, đánh giá lại hiện trạng các tổ hợp
tác, HTX và các mô hình liên kết đang hoạt động trên địa bàn để từ đó tổng
kết rút kinh nghiệm, xây dựng mô hình; tham mưu, đề xuất với cơ quan chức
năng các cơ chế, chính sách phù hợp. Tổ chức hướng dẫn và đăng ký lại cho
tất cả các HTX đang hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp chuyển sang hoạt
động theo Luật Hợp tác xã năm 2012. Củng cố, kiện toàn và nâng cao năng
lực quản lý nghiệp vụ, chuyên môn cho đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về
kinh tế hợp tác trong nông nghiệp từ Trung ương đến địa phương. Hoàn thiện
cơ bản hệ thống cơ chế, chính sách hỗ trợ, thúc đẩy phát triển các hợp tác xã
trong lĩnh vực nông nghiệp.
196