BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA THỊNH VĂN KHOA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI HỢP TÁC XÃ

NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ CÔNG

HÀ NỘI - 2017

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

THỊNH VĂN KHOA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI HỢP TÁC XÃ

NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Quản lý công

Mã số: 62 34 04 03

LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ CÔNG NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

1. PGS.TS. Trang Thị Tuyết

2. PGS.TS. Nguyễn Đình Long

HÀ NỘI - 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi là Thịnh Văn Khoa - nghiên cứu sinh khóa 12 của Học viện Hành

chính Quốc gia. Tôi xin cam đoan Luận án "Quản lý nhà nước đối với hợp tác

xã nông nghiệp ở Việt Nam" là công trình nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi.

Các số liệu và trích dẫn trong Luận án là hoàn toàn trung thực và được ghi rõ

nguồn gốc.

Hà Nội, ngày tháng năm 2017

Tác giả luận án

Thịnh Văn Khoa

LỜI CẢM ƠN

Trước tiên, tôi xin bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc đến hai người hướng dẫn

khoa học PGS.TS. Trang Thị Tuyết và PGS.TS. Nguyễn Đình Long đã tận

tình hướng dẫn và đóng góp nhiều ý kiến khoa học trong quá trình nghiên cứu

và thực hiện luận án.

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc Học viện Hành chính Quốc

gia, Khoa Sau đại học cùng toàn thể các thầy cô giáo đã nhiệt tình giảng dạy,

hướng dẫn và tạo điều kiện cho tôi hoàn thành luận án.

Tôi xin gửi lời cảm ơn Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Kế

hoạch và Đầu tư, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi

cho tôi trong quá trình nghiên cứu, tìm kiếm tài liệu.

Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới tất cả thầy cô

giáo, cơ quan, gia đình, bạn bè và đồng nghiệp. Sự quan tâm, giúp đỡ của

thầy cô giáo, cơ quan, gia đình, bạn bè và đồng nghiệp là nguồn động viên

quý báu cho tôi hoàn thành luận án!

Hà Nội, ngày tháng năm 2017

Tác giả luận án

Thịnh Văn Khoa

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1

1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 3

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ........................................ 3

5. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết khoa học .............................................. 5

6. Những đóng góp mới của luận án ............................................................. 5

7. Cấu trúc của luận án .................................................................................. 6

Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN

ĐẾN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP7

1.1. Các công trình nghiên cứu đã công bố liên quan đến hợp tác xã nông

nghiệp ............................................................................................................ 7

1.1.1. Các công trình nghiên cứu trên thế giới .......................................... 7

1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước .......................................... 13

1.2. Các công trình nghiên cứu đã công bố liên quan đến quản lý nhà nước

đối với hợp tác xã nông nghiệp ................................................................... 20

1.2.1. Các công trình nghiên cứu trên thế giới ........................................ 21

1.2.2. Các công trình nghiên cứu trong nước .......................................... 24

1.3. Những vấn đề chưa được nghiên cứu trong các công trình đã công bố

và định hướng nghiên cứu chủ yếu của luận án .......................................... 28

1.3.1. Những vấn đề chưa được nghiên cứu trong các công trình đã công

bố - điểm khác biệt so với luận án .......................................................... 28

1.3.2. Định hướng nghiên cứu chủ yếu của luận án ................................ 29

Chƣơng 2. CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI

HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP .................................................................. 31

2.1. Những vấn đề lý luận về hợp tác xã nông nghiệp ................................ 31

2.1.1. Khái niệm hợp tác xã nông nghiệp ............................................... 31

2.1.2. Vai trò của hợp tác xã nông nghiệp đối với phát triển kinh tế - xã

hội ............................................................................................................ 34

2.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của hợp tác xã nông

nghiệp ...................................................................................................... 39

2.1.4. Các tiêu chí đánh giá hợp tác xã nông nghiệp .............................. 45

2.2. Lý luận về quản lý nhà nước đối với hợp tác xã nông nghiệp ............. 48

2.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước đối với hợp tác xã nông nghiệp ...... 48

2.2.2. Sự cần thiết của quản lý nhà nước đối với hợp tác xã nông

nghiệp ...................................................................................................... 51

2.2.3. Các nội dung của quản lý nhà nước đối với hợp tác xã nông

nghiệp ...................................................................................................... 54

2.2.4. Các yếu tố tác động đến quản lý nhà nước đối với hợp tác xã nông

nghiệp .......................................................................................................... 61

2.2.5. Sự cần thiết khách quan của hoàn thiện quản lý nhà nước đối với

hợp tác xã nông nghiệp ........................................................................... 65

2.3. Kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với hợp tác xã nông nghiệp của một

số nước và bài học cho Việt Nam ............................................................... 69

2.3.1. Kinh nghiệm của một số nước ...................................................... 69

2.3.2. Bài học cho Việt Nam ................................................................... 74

Kết luận chương 2 ....................................................................................... 78

Chƣơng 3. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI HỢP TÁC

XÃ NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM ............................................................ 79

3.1. Thực trạng phát triển hợp tác xã nông nghiệp ..................................... 79

3.1.1. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của hợp tác xã nông

nghiệp ở Việt Nam .................................................................................. 79

3.1.2. Thực trạng kết quả hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp .......... 87

3.1.3. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân ...................................... 99

3.2. Thực trạng quản lý nhà nước đối với hợp tác xã nông nghiệp .......... 101

3.2.1. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp ... 101

3.2.2. Xây dựng và thực thi chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển

HTX nông nghiệp .................................................................................. 101

3.2.3. Ban hành và thực thi pháp luật có liên quan đến phát triển HTX

nông nghiệp ........................................................................................... 108

3.2.4. Ban hành và thực thi các chính sách phát triển hợp tác xã nông

nghiệp .................................................................................................... 110

3.2.5. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm trong hoạt

động của HTX nông nghiệp .................................................................. 117

3.3. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với hợp tác xã nông

nghiệp ........................................................................................................ 119

3.3.1. Những kết quả đạt được .............................................................. 119

3.3.2. Những hạn chế chủ yếu ............................................................... 121

3.3.3. Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế .................................... 124

Kết luận chương 3 ..................................................................................... 125

Chƣơng 4. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC HOÀN

THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI HỢP TÁC XÃ NÔNG

NGHIỆP Ở VIỆT NAM .............................................................................. 127

4.1. Quan điểm, mục tiêu, phương hướng hoàn thiện quản lý nhà nước

đối với hợp tác xã nông nghiệp ................................................................. 127

4.1.1. Quan điểm ................................................................................... 128

4.1.2. Mục tiêu của hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hợp tác xã

nông nghiệp ........................................................................................... 131

4.1.3. Phương hướng ............................................................................. 136

4.2. Giải pháp tiếp tục hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hợp tác xã

nông nghiệp ............................................................................................... 137

4.2.1. Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với hợp tác xã

nông nghiệp ........................................................................................... 138

4.2.2. Đổi mới công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát

triển hợp tác xã nông nghiệp ............................................................... ..138

4.2.3. Hoàn thiện pháp luật có liên quan đến hợp tác xã nông nghiệp.. 143

4.2.4. Hoàn thiện các chính sách phát triển hợp tác xã nông nghiệp .... 147

4.2.5. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi

phạm trong hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp .............................. 153

4.3. Một số kiến nghị ................................................................................. 155

4.3.1. Đối với Liên minh Hợp tác xã Việt Nam .................................... 155

4.3.2. Đối với Hội Nông dân Việt Nam ................................................ 155

4.3.3. Đối với Bảo hiểm xã hội Việt Nam ............................................ 155

4.3.4. Đối với các học viện, các trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức .............................................................................................. 156

Kết luận chương 4 ..................................................................................... 156

PHẦN KẾT LUẬN ...................................................................................... 157

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ..... 159

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 160

A. Tài liệu tiếng Việt ................................................................................. 160

B. Tài liệu tiếng Anh ................................................................................. 165

PHỤ LỤC ..................................................................................................... 166

Phụ lục 1. Mẫu phiếu thu thập thông tin về phát triển của HTX nông

nghiệp ........................................................................................................ 166

Phụ lục 2. Mẫu phiếu khảo sát ................................................................. 171

Phụ lục 3. Báo cáo tổng hợp số liệu điều tra, khảo sát............................ 174

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chủ nghĩa xã hội CNXH

Hội nhập quốc tế HNQT

Hợp tác xã HTX

Kinh tế thị trường KTTT

Xã hội chủ nghĩa XHCN

Trang DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 1. Nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, và công bằng (%) 87

Bảng 2. Nguyên tắc dân chủ 88

Bảng 3. Nguyên tắc minh bạch 89

Bảng 4. Sự hài lòng của xã viên đối với HTX nông nghiệp 90

Bảng 5. Lợi ích của HTX nông nghiệp đối với xã viên 91

Bảng 6. Vai trò của HTX nông nghiệp đối với tạo việc làm và 92

cung cấp dịch vụ cho xã viên

Bảng 7. Năng lực hợp tác của các HTX nông nghiệp 94

Bảng 8 Tổng hợp chính sách hỗ trợ đối với HTX nông nghiệp 116

Trang DANH MỤC ĐỒ THỊ

Đồ thị 1. Giá trị gia tăng và tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng 95

khu vực HTX

Đồ thị 2. Tổng số lượng xã viên và số lượng xã viên bình 96

quân/HTX

Đồ thị 3. Quy mô vốn bình quân HTX 97

Đồ thị 4. Lợi nhuận bình quân/HTX 98

Trang DANH MỤC SƠ ĐỒ

Sơ đồ 1. Bộ máy quản lý nhà nước đối với hợp tác xã hiện hành 102

Sơ đồ 2. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với kinh tế hợp 139

tác

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Hợp tác xã (HTX) mà chủ yếu là HTX nông nghiệp là tổ chức kinh tế cơ

bản của thành phần kinh tế tập thể - một thành phần kinh tế quan trọng trong

nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt

Nam hiện nay. Có từ khá sớm trong nền kinh tế nước ta, HTX nông nghiệp

không chỉ đóng góp cho tăng trưởng và phát triển kinh tế mà còn có đóng góp

quan trọng trong phát triển văn hóa, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn

xã hội. Vì vậy, trong quá trình phát triển, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn

quan tâm và có nhiều chính sách để phát triển HTX nông nghiệp nói riêng và

kinh tế tập thể nói chung.

Tuy nhiên, trước yêu cầu phát triển KTTT định hướng XHCN trong

điều kiện hội nhập quốc tế (HNQT) hiện nay, các HTX nông nghiệp ở Việt

Nam vẫn trong tình trạng khó khăn, yếu kém kéo dài, với năng lực nội tại yếu,

cơ sở vật chất nghèo nàn, trình độ công nghệ lạc hậu; năng lực, trình độ cán

bộ quản lý trong khu vực HTX nông nghiệp còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng

được nhiệm vụ sản xuất kinh doanh trong KTTT hiện nay; chính sách đối với

cán bộ HTX nông nghiệp còn có nhiều bất cập; nhiều HTX hoạt động không

đúng với nguyên tắc, chưa thực sự tuân thủ đầy đủ các quy định của Luật

HTX; sự liên kết, hợp tác của các HTX nông nghiệp chưa chặt chẽ, hiệu quả

còn thấp. Điều đó đòi hỏi cần thiết phải có sự nghiên cứu, hoàn thiện quản lý

nhà nước đối với HTX nông nghiệp góp phần hoàn thiện thể chế KTTT định

hướng XHCN trong điều kiện HNQT ở Việt Nam hiện nay.

Mặt khác, trong bối cảnh thế giới hiện nay, sự phát triển của các HTX

nông nghiệp ở nhiều nước đã chứng minh cho cộng đồng quốc tế thấy rằng,

HTX nông nghiệp bảo đảm hài hòa cả hai trách nhiệm là phát triển kinh tế và

trách nhiệm với xã hội. Trong đó, trách nhiệm xã hội được đánh giá rất cao và

là điều kiện cơ bản cho sự tồn tại và phát triển của các HTX nông nghiệp.

1

Hơn nữa, cho đến nay, hầu như chưa có một công trình khoa học nào

nghiên cứu một cách có hệ thống, bài bản liên quan trực tiếp đến quản lý nhà

nước đối với HTX nông nghiệp.

Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, nghiên cứu sinh quyết

định chọn đề tài: “Quản lý nhà nước đối với hợp tác xã nông nghiệp ở Việt

Nam” để nghiên cứu trong khuôn khổ luận án tiến sỹ quản lý công.

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích

Luận án nhằm đạt 3 mục đích chính dưới đây:

- Xác định cơ sở khoa học về quản lý nhà nước đối với HTX nông

nghiệp.

- Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp ở

Việt Nam giai đoạn 2005-2015. Rút ra những bất cập và nguyên nhân cơ bản

của những bất cập trong thực hiện quản lý nhà nước đối với HTX nông

nghiệp.

- Đề xuất quan điểm, mục tiêu, phương hướng và các giải pháp tiếp tục

hoàn thiện quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp giai đoạn tới, góp

phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế và hoàn thiện thể chế KTTT định

hướng XHCN của Việt Nam.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt mục đích trên, luận án có nhiệm vụ:

- Xây dựng khung lý thuyết về quản lý nhà nước đối với HTX nông

nghiệp trên cơ sở kế thừa và phát triển các công trình nghiên cứu trước đây.

- Phân tích và đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với HTX nông

nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 2005-2015 trên cơ sở khung lý thuyết về quản lý

nhà nước đối với HTX nông nghiệp.

- Xây dựng những quan điểm, mục tiêu và phương hướng để hoàn thiện

quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp giai đoạn tới trên cơ sở thực trạng

phát triển HTX nông nghiệp và quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp ở

Việt Nam.

2

- Luận giải đề xuất các giải pháp tiếp tục hoàn thiện quản lý nhà nước

đối với HTX nông nghiệp ở Việt Nam giai đoạn tới.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là quản lý nhà nước đối với HTX

nông nghiệp (bao gồm cả quản lý nhà nước ở trung ương và địa phương).

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: Dưới góc độ khoa học quản lý công, nội dung nghiên

cứu của luận án sẽ tập trung vào các chức năng của quản lý nhà nước, đó là:

Xây dựng quy hoạch, kế hoạch; Ban hành và thực hiện các văn bản pháp luật;

Ban hành và thực thi các chính sách; Công tác kiểm tra, giám sát; Tổ chức bộ

máy quản lý nhà nước.

- Về không gian: Quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp trên lãnh

thổ Việt Nam.

- Về thời gian: Từ năm 2005 đến năm 2015 và định hướng nghiên cứu

đến năm 2025.

4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu

4.1. Phương pháp luận

Luận án được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa

Mác - Lênin về duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ

Chí Minh và các quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước Việt Nam

trong lĩnh vực quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng phương pháp tiếp cận của khoa học quản lý công hiện

đại và các lý thuyết về quản lý để xây dựng cơ sở khoa học về quản lý nhà

nước đối với HTX nông nghiệp và các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:

- Phương pháp thu thập tài liệu.

+ Nghiên cứu tài liệu thứ cấp.

Việc tìm hiểu các nghiên cứu đã có trong lĩnh vực quản lý nhà nước đối

với HTX nông nghiệp là cần thiết và quan trọng, các nghiên cứu này làm cơ

3

sở để nhận diện lịch sử và kết quả của vấn đề nghiên cứu. Trên cơ sở tham

khảo những giá trị tương đồng của các kết quả này, luận án phân tích có hệ

thống cơ sở lý luận, cung cấp những luận cứ khoa học cho việc đánh giá thực

trạng hoạt động quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp.

Luận án thu thập số liệu thống kê thứ cấp để phân tích hoạt động của

các HTX nông nghiệp ở Việt Nam trên các mặt, như về quy mô, hiệu quả,

việc thực hiện các nguyên tắc hoạt động...

+ Thu thập thông tin.

Luận án sử dụng phương pháp thu thập thông tin về phát triển HTX

nông nghiệp và công tác quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp ở tỉnh

Thanh Hóa trên cả 3 vùng (vùng núi, vùng trung du và vùng đồng bằng ven

biển) theo 2 mẫu phiếu điều tra, mẫu số 1 dành cho các HTX nông nghiệp

(điều tra 230 phiếu - tương đương hơn 1/3 số HTX nông nghiệp hiện có của

tỉnh Thanh Hóa), mẫu số 2 dành cho cán bộ, công chức cấp xã (điều tra 405

phiếu trên 81 xã của 9 huyện đại diện cho 3 vùng của tỉnh Thanh Hóa). Kết

quả thu thập thông tin ở Thanh Hóa góp phần khẳng định tính khoa học của

các phân tích và nhận định về quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp ở

Việt Nam giai đoạn 2005-2015.

- Phương pháp xử lý và phân tích dữ liệu.

+ Đối chiếu, so sánh.

Các số liệu thu thập về phát triển HTX nông nghiệp, các dữ liệu về

quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp đều được so sánh theo thời gian

để chỉ ra sự biến đổi theo các xu hướng khác nhau của các quá trình này. Ở

một số nội dung, luận án cũng so sánh số liệu của Việt Nam với một số nước

trên thế giới để làm rõ vấn đề đang nghiên cứu.

+ Phân tích, tổng hợp.

Trên cơ sở đánh giá thực trạng quản quản lý nhà nước đối với HTX

nông nghiệp theo các chức năng của quản lý nhà nước, luận án phân tích để

đưa ra những đánh giá có tính khái quát về những thành công và hạn chế của

công tác này trong giai đoạn 2005-2015 và đầu năm 2016. Việc phân tích,

4

tổng hợp sẽ giúp luận án chỉ ra những nguyên nhân cơ bản dẫn đến thành

công và hạn chế đó.

5. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết khoa học

5.1. Câu hỏi nghiên cứu

- Vì sao quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp ở Việt Nam chưa

phát huy được vai trò của HTX nông nghiệp trong điều kiện phát triển KTTT

và HNQT hiện nay?

- Tiếp tục hoàn thiện quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp ở Việt

Nam giai đoạn tới cần có những giải pháp nào?

5.2. Giả thuyết khoa học

- Nhà nước có vai trò vô cùng quan trọng trong việc định hướng, điều

tiết, hỗ trợ để HTX nông nghiệp phát triển đúng hướng và đạt hiệu quả cao.

- Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp sẽ

được nâng cao nếu xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách một

cách khoa học và phù hợp nhất cho sự ra đời và phát triển của HTX nông

nghiệp kiểu mới trong giai đoạn hiện nay.

- Để nâng cao hiệu quả của HTX nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay,

cần phải xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước để quản lý HTX nông

nghiệp theo hướng thành lập cơ quan nhà nước chuyên trách quản lý HTX

nông nghiệp.

6. Những đóng góp mới của luận án

- Luận án xây dựng và hoàn thiện lý luận về quản lý nhà nước đối với

HTX nông nghiệp, gồm:

+ Xây dựng khái niệm quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp.

+ Xác định được các nội dung của quản lý nhà nước đối với HTX nông

nghiệp.

+ Xây dựng được khung lý thuyết về hoàn thiện quản lý nhà nước đối

với HTX nông nghiệp.

- Thông qua việc phân tích và đánh giá một cách khoa học về thực

trạng phát triển HTX nông nghiệp và quản lý nhà nước đối với HTX nông

5

nghiệp ở Việt Nam, luận án có thể làm tài liệu cho việc thực hiện quản lý nhà

nước đối với HTX nông nghiệp; đồng thời có thể sử dụng để nghiên cứu vận

dụng cho loại hình kinh tế khác trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt

Nam.

- Các phương hướng và giải pháp tiếp tục hoàn thiện quản lý nhà nước

đối với HTX nông nghiệp mà luận án đưa ra là tài liệu tham khảo có giá trị

đối với cơ quan hoạch định chính sách phát triển HTX nông nghiệp và các cơ

quan nghiên cứu; làm tài liệu giảng dạy, học tập về quản lý công, về quản lý

nhà nước đối với HTX nông nghiệp ở Việt Nam. Đặc biệt là giải pháp về

thành lập cơ quan nhà nước chuyên trách quản lý HTX nông nghiệp.

7. Cấu trúc của luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục,

nội dung Luận án được kết cấu thành 4 chương.

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến quản lý nhà

nước đối với hợp tác xã nông nghiệp

Chương 2: Cơ sở khoa học về quản lý nước đối với hợp tác xã nông

nghiệp

Chương 3: Thực trạng quản lý nhà nước đối với hợp tác xã nông

nghiệp ở Việt Nam

Chương 4: Phương hướng và giải pháp tiếp tục hoàn thiện quản lý nhà

nước đối với hợp tác xã nông nghiệp ở Việt Nam

6

Chƣơng 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP

1.1. Các công trình nghiên cứu đã công bố liên quan đến hợp tác xã

nông nghiệp

1.1.1. Các công trình nghiên cứu trên thế giới - Bài viết “The role of cooperatives in the 21st century”, Prof. Hans-

H.Muenkner, Marburg University, Germany 6-1995. Đưa ra quan niệm mang

tính bản chất của HTX, phân tích vai trò và thách thức chủ yếu của HTX

trong thế kỷ 21:

HTX là hiệp hội của những người tự nguyện gia nhập nhằm đạt được

kết quả chung thông qua việc tạo dựng một tổ chức quản lý dân chủ, góp vốn

công bằng và chấp nhận chia sẻ bình đẳng các rủi ro và lợi nhuận từ các hoạt

động mà mình tham gia một cách chủ động.

Vai trò cơ bản của HTX là tự giúp đỡ các thành viên của mình, hay

nhiệm vụ của HTX là phải giúp các xã viên giải quyết các vấn đề đang đe dọa

họ, và vì nó thành lập và gia nhập HTX, gồm: Đầu tư vào nguồn nhân lực,

đặc biệt là vào các xã viên và các nhóm xã viên; Vận động xã viên và huy

động các nguồn lực của xã viên tham gia các hoạt động nhằm loại bỏ các xã

viên không hoạt động; Sử dụng toàn bộ các tiềm năng của xã viên; Tái thiết

kế lại cơ cấu tổ chức cổ điển nhằm đưa ra nhiều cơ hội hơn nữa cho các xã

viên chủ động tham gia.

Thách thức chủ yếu của HTX trong thế kỷ 21 là phải lấp đầy khoảng

trống giá trị đang ngày một tăng bằng cách đưa ra hệ thống giá trị chắc chắn

và thiết thực, hoàn chỉnh các hướng dẫn (nguyên tắc) mà qua đó hướng con

người tìm các giải pháp cho những vấn đề đang gây áp lực nhất cho họ bằng

cách tự mình giúp mình, bằng việc công nhận trách nhiệm đối với tương lai

của mình, tin tưởng vào sức mạnh của bản thân và sức mạnh của những nỗ

lực chung, vào sự giúp đỡ, đoàn kết cộng đồng.

7

- Cuốn sách “The history of cooperatves in United state”, Kimberly A.

Zeuli, University of Wisconsin, Madison, 2005. Đưa ra các định nghĩa về

HTX, tại sao phải hợp tác:

HTX là tổ chức tự chủ của những người tự nguyện tập hợp nhau lại

nhằm thỏa mãn những nhu cầu và nguyện vọng chung về kinh tế, văn hóa và

xã hội thông qua việc tham gia góp vốn và quản lý dân chủ. Định nghĩa này

đề cập đến yếu tố chính của HTX, đó là thành viên tự nguyện. Ép buộc là trái

ngược với HTX; người bị ép buộc hành động trái ngược với nguyện vọng của

họ, không thực sự là hợp tác. HTX phải thực sự hình thành từ sự tin tưởng và

giúp đỡ lẫn nhau, không thể là mệnh lệnh.

HTX là cơ sở kinh doanh do những người sử dụng tự làm chủ và tự

quản lý, lợi dụng được chia trên cơ sở của việc sử dụng hàng hóa và dịch vụ.

Định nghĩa này đưa ra ba nguyên tắc chung của HTX, đó là: xã viên tự làm

chủ; tự quản lý; và phân chia lợi nhuận theo tỷ lệ.

Lý do phải hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp ở Mỹ gồm: Nông dân

thành lập HTX cung ứng và tiêu thụ sản phẩm để giúp họ tối đa hóa lợi

nhuận; HTX tiêu dùng được thành lập để bán những sản phẩm mà họ muốn

mua nhưng không thể tìm ở nơi khác giá cả như vậy; Xã viên được làm chủ

và được quản lý HTX; HTX không mâu thuẫn với mục tiêu của chủ nghĩa tư

bản.

Bài viết đưa ra nhận định, Ở Mỹ HTX đặc biệt quan trọng trong lĩnh

vực nông nghiệp. Năm 2002, 3.140 HTX nông nghiệp cung cấp cho khoảng

3,1 triệu nông dân (nhiều nông dân tham gia nhiều HTX cùng một lúc) các

dịch vụ về tiếp thị nông phẩm, cung ứng vật tư nông nghiệp và một số dịch vụ

liên quan khác; nắm giữ 28% thị phần.

- Bài viết “Building and destroying social capital: The case of

cooperatives movement in Denmark and Poland”, Kluwer Academic

Publishers, Printed in the Netherlands 2003. Bài viết đã tổng hợp đánh giá sự

phát triển của HTX ở các nước châu Âu; đặc biệt khẳng định vai trò xây dựng

8

và thậm chí hủy hoại vốn xã hội thông qua phân tích sự chuyển động của các

HTX ở Ba Lan và Đan Mạch cuối thế kỷ XX:

Sự ra đời của các HTX ở Đan Mạch và Phần Lan từ thế kỷ thứ 19 đến

đầu thế chiến thứ 20 là do nhu cầu khách quan của việc phát triển kinh tế, xã

hội ở các quốc gia này. Và đưa ra nhận định, HTX nông nghiệp là một tổ

chức của một nhóm người cùng nhau thành lập, tuân thủ 6 nguyên tắc sau:

(1)Thành viên tự nguyện và mở rộng; (2)Quản lý dân chủ và quyền biểu

quyết ngang nhau; (3)Lợi nhuận giới hạn trong phạm vi vốn góp; (4)Sự công

bằng trong phân phối và trên cơ sở sự đóng góp; (5)HTX cung cấp giáo dục

cho các thành viên; (6)Hợp tác giữa các HTX.

- Tài liệu “Agricultural cooperatives in France”. Chantal. Chommel.

Paris 2015. Tài liệu phân tích lịch sử pháp lý, những lý do phát triển HTX

nông nghiệp ở Pháp:

HTX là một cách để tổ chức các hoạt động kinh tế dựa trên việc đoàn

kết các thành viên, những thành viên có điều kiện hơn giúp đỡ các thành viên

yếu thế hơn và ủng hộ lẫn nhau để đạt được những lợi ích chung.

Mục đích của HTX là để những nông dân cùng hợp tác nhằm tạo điều

kiện và phát triển các hoạt động kinh tế, tăng cường và nâng cao kết quả của

các hoạt động này.

+ Các nguyên tắc chính

Tự do gia nhập: là nguyên tắc “mở”. Bất kỳ người sản xuất nào nếu có

chung “mục đích” như HTX và có cùng địa bàn hoạt động thì đều có thể trở

thành xã viên HTX (sau khi được ban quản trị thông qua).

Quản lý dân chủ: là nguyên tắc “một người bằng một phiếu bầu” tại đại

hội xã viên, tất cả các xã viên HTX đều có quyền bỏ phiếu như nhau, không

phụ thuộc vào số lượng vốn do họ góp vào HTX và cũng không phụ thuộc

vào tỉ lệ tham gia các giao dịch kinh tế mà họ thực hiện với HTX.

Tuy nhiên, quy định này cũng có một số ngoại lệ: có một vài phiếu bầu

có giá trị cao hơn phụ thuộc vào mức độ hiệu quả của các sự tham gia của họ

đối với hoạt động của HTX. Giá trị này không chỉ đơn thuần dựa trên các tính

9

chất tài chính và không làm tăng mức vốn góp. Thêm vào đó, giá trị này

không thể vượt quá một mức độ nhất định: không ai nắm giữ được hơn 20%

tổng số phiếu trong đại hội xã viên.

“Acapitalim”: có nghĩa là HTX không chia lãi cổ phần mà đây là quỹ

không chia của HTX.

HTX là tổ chức đối nhân không phải tổ chức đối vốn - nơi mà các cổ

đông có thể bán cổ phần của mình bất cứ lúc nào.

+ Quy tắc chính và các giá trị

Minh bạch: tất cả các xã viên HTX đều phải tôn trọng các quy tắc hoạt

động của HTX và ngược lại, các HTX cũng phải đào tạo và thông tin cho các

thành viên. Tuy nhiên, những nông dân riêng lẻ cũng có thể phải thực hiện

các dịch vụ mà họ được hưởng lợi từ HTX và phải được thông báo về chính

sách, đặc biệt về giá của mỗi sản phẩm.

Công bằng: tất cả các xã viên đều phải trả cùng một giá cho những sản

phẩm giống nhau (về số lượng và chất lượng).

Tuy nhiên, thỉnh thoảng cũng có khả năng khác xảy ra tùy thuộc vào

mức độ giá trị đóng góp của mỗi nông dân (ví dụ: rau quả sớm vụ).

Việc đối xử này dựa trên mục tiêu kinh tế và được công khai.

Đoàn kết: là nguyên tắc được ưu tiên trong HTX. Đó không phải là

những hỗ trợ lâu dài mà chỉ là hỗ trợ cho những khó khăn hiện tại của nông

dân hoặc cho những bước khởi đầu của nông dân trẻ.

Trách nhiệm: một trong những mục tiêu của HTX nông nghiệp là giúp

đỡ nông dân đạt được những mục đích của họ. HTX không những là cách

thức giúp nông dân có được sự trả công xứng đáng đối với sản phẩm họ làm

ra, mà còn cung cấp cho họ những thông tin cần thiết để hiểu và thích ứng

được với những thay đổi của nó.

HTX do đó phải cung cấp cho xã viên những thông tin về thị trường và

chính sách nông nghiệp để họ có thể điều hành nông trang của mình một cách

có hiệu quả nhất.

10

Trả công theo sản phẩm: hàng tháng, các xã viên được nhận một khoản

tiền cho các đóng góp sản phẩm của họ vào HTX. Trước khi kết thúc năm tài

chính, ban điều hành có thể tăng mức tiền này nếu điều kiện tài chính của

HTX cho phép.

Chia lợi nhuận: sau khi biểu quyết thông qua bảng cân đối thu chi đại

hội xã viên sẽ quyết định phân chia khoản lợi nhuận cuối cùng.

+ Các nguyên tắc đặc trưng của HTX nông nghiệp

Khi quyết định gia nhập HTX, người sản xuất đồng ý tôn trọng hai loại

cam kết: Cam kết giao toàn bộ hoặc một phần sản phẩm cho HTX theo thời

gian xác định theo điều lệ. Cam kết góp vốn để HTX có khả năng tự chủ tài

chính, hoặc tối thiểu là có thể phát triển. Những nông dân (cá nhân hoặc thực

thể pháp lý), kể cả các HTX khác hoặc các hiệp hội nông nghiệp có thể là xã

viên của HTX nếu họ chấp nhận tuân thủ hai điều này.

Những nhà đầu tư - xã viên không sử dụng sản phẩm, dịch vụ của

HTX, cũng có thể tham gia nhiều HTX với tư cách đặc biệt. Những người này

có thể sở hữu một phần vốn góp nếu trong điều lệ có quy định, tuy nhiên luôn

phải ít hơn ½ tổng số vốn góp của HTX.

Điểm đặc biệt, HTX là đơn vị được lập ra và phục vụ cho nông dân, về

nguyên tắc không thể tiến hành các hoạt động kinh doanh với bất kỳ đối

tượng nào khác ngoài các xã viên của mình. Tuy nhiên, cũng có những ngoại

lệ nếu thỏa mãn những điều kiện: được quy định trong điều lệ và các giao

dịch với người không phải là xã viên phải phù hợp với mục đích của HTX,

các giao dịch này bị giới hạn không được vượt quá 20% tổng doanh thu hàng

năm của HTX. Điều này có giá trị là những giao dịch này sẽ phải chịu thuế.

HTX đóng vai trò sống còn trong lĩnh vực cung cấp đầu vào cho sản

xuất nông nghiệp và chế biến thực phẩm, tiêu thụ nông sản bởi những lý do:

tăng hiệu quả kinh tế của kinh doanh nông nghiệp; điều chỉnh sản xuất cho

phù hợp với đòi hỏi của người tiêu dùng, cả về số lượng và chất lượng; nâng

cao chất lượng nông sản nhằm nâng cao vị thế trên thị trường.

11

- Tài liệu “Development of Agricultural Cooperatives - Relevance of

Japanese Experiences to Developing Countries”, Dr Daman Prakash, The

Saryu’, J-102 Kalkaji, New Delhi 110019, India, February 2003. Tài liệu phân

tích những đóng góp đáng kể của HTX nông nghiệp trong phát triển kinh tế ở

Nhật Bản, chỉ ra những điều kiện cần thiết cho thành công và những bài học

cho phát triển HTX nông nghiệp ở Nhật bản:

Từ kinh nghiệm trong hoạt động của HTX nông nghiệp và kết quả

nghiên cứu, tài liệu đã chỉ ra hệ thống các lý do dẫn đến sự thành công của

HTX nông nghiệp Nhật Bản, bao gồm: (1)Thành viên HTX phải trách nhiệm

và tự quản; (2)HTX phải được quản lý dân chủ bởi ban quản trị do các xã viên

bầu ra; (3)Nguyên tắc trách nhiệm, giải trình và mô hình vai trò; (4)Tuân thủ

khái niệm sử dụng chung, như: vốn chung, công cụ chung, thị trường chung…

(5)Bầu cử ra ban quản trị để điều hành hoạt động của HTX nông nghiệp;

(6)HTX là tích hợp hoạt động của các nhu cầu thành viên và hộ gia đình;

(7)HTX phải tham gia các chương trình tập huấn để nâng cao năng lực của

ban quản trị và từng xã viên; (8)HTX là tổ chức mở cho các thành viên tham

dự và hưởng lợi.

Cũng từ kết quả nghiên cứu đó, tài liệu đã phân tích và kết luận một số

bài học trong quá trình phát triển HTX nông nghiệp, gồm: (1)Chính phủ phải

tăng cường sự quan tâm đến nông nghiệp và HTX nông nghiệp; (2)HTX nông

nghiệp nên là tổ chức tự chủ, phi chính trị. Sự tín nhiệm và tự chủ là điều kiện

cần thiết cho thành công của các HTX nông nghiệp; (3)HTX nông nghiệp

phải được quản lý như một tổ chức kinh doanh chứ không phải là một tổ chức

xã hội hay từ thiện; (4)Kinh doanh của HTX nông nghiệp phải được quản lý

bởi các nguyên tắc quản lý hiện đại.

- Tài liệu “Agriculural cooperatives: key to feeding the world”, của Tổ

chức Lương thực và Nông nghiệp thế giới FAO, 2012. Tài liệu đã thông qua

các số liệu thực tế về hoạt động của HTX nông nghiệp trên thế giới, khẳng

định sự cần thiết và vai trò to lớn của HTX nông nghiệp trong điều kiện hiện

nay.

12

1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước

- Tài liệu“Bản chất hợp tác xã - thực tiễn Việt Nam, kinh nghiệm quốc

tế và khả năng vận dụng ở Việt Nam”, Vụ Hợp tác xã, Bộ Kế hoạch và Đầu tư

năm 2007.

Đưa ra nhận định: “HTX là hiệp hội hay là tổ chức tự chủ của các cá

nhân liên kết với nhau một cách tự nguyện nhằm đáp ứng các nhu cầu và

nguyện vọng chung về kinh tế, xã hội và văn hóa thông qua một doanh nghiệp

được sở hữu chung và kiểm soát một cách dân chủ”

Tài liệu rút ra kết luận, xét cho cùng hạt nhân bản chất của HTX là:

đồng sở hữu, đồng sử dụng sản phẩm, dịch vụ của HTX hoặc đồng là người

lao động trong HTX. Đồng thời, HTX là một tổ chức khép kín của hai tổ chức

tồn tại đi liền với nhau: bản thân HTX như là một tổ chức hoặc một hiệp hội

hợp tác; doanh nghiệp thuộc HTX tạo ra sản phẩm, dịch vụ chung cung cấp

cho tất cả xã viên HTX.

Từ định nghĩa trên, từ nghiên cứu các tài liệu của ICA và kinh nghiệm

của các nước, tài liệu nêu lên một số vấn đề cơ bản có liên quan đến bản chất

và mô hình HTX như sau:

+ HTX phục vụ kinh tế hộ, kinh tế xã viên là cần nhưng chưa đủ.

HTX là tổ chức tập hợp của cá nhân con người (chứ không phải vốn).

Hoạt động kinh tế của xã viên có rất nhiều nhu cầu khác nhau. Nhưng các xã

viên HTX phải có nhu cầu chung trong hoạt động kinh tế của mình thì mới có

thể tập hợp nhau trong HTX. HTX có thể phát huy lợi thế và tiềm năng không

chỉ trong lĩnh vực kinh tế, mà cả trong lĩnh vực xã hội, văn hóa mà ở đó và

trong bất cứ lĩnh vực nào xuất hiện nhu cầu chung của các xã viên. HTX

không phải là tổ chức xã hội mà chỉ mang tính chất xã hội, càng không phải tổ

chức từ thiện.

+ Ngoài việc đáp ứng nhu cầu chung của xã viên, HTX có được cung

ứng sản phẩm, dịch vụ của mình đáp ứng nhu cầu thị trường không? Nếu

được thì đáp ứng mức độ nào? HTX có thể mở rộng quy mô hoạt động để

tăng hiệu quả theo cách thức nào? Câu trả lời cụ thể tùy thuộc từng nước với

13

các mô hình cụ thể khác nhau. Về cơ bản có bốn cách thức sau đây: (1)Thu

hút thêm xã viên, tức kết nạp thêm nhiều xã viên từ bên ngoài thị trường vào

HTX, từ đó tăng số lượng xã viên và vốn điều lệ HTX, tức tăng số lượng

khách hàng của HTX, giúp HTX nâng cao hiệu quả phục vụ xã viên; (2)Sáp

nhập, hợp nhất nhiều HTX thành một HTX mới có quy mô lớn hơn cả về số

lượng xã viên, vốn điều lệ và năng lực hoạt động của HTX; (3)Liên kết kinh

tế theo hướng chuyên ngành các HTX theo chiều dọc, tạo sự liên kết kinh tế

chặt chẽ chuyên ngành giữa các HTX khác nhau theo quy mô vùng hoặc quy

mô quốc gia, từ đó tăng số lượng xã viên - tức khách hàng của HTX; (4)Cho

phép HTX giao dịch với thị trường với hai mức độ giao dịch hạn chế, hoặc

giao dịch không hạn chế.

+ Vốn góp của xã viên và sở hữu tập thể không chia của HTX. Vốn góp

của xã viên HTX ở nhiều nước có cách gọi khác nhau: dự phần xã hội, vốn

góp điều lệ, cổ phần… là vốn sở hữu của xã viên trong HTX. Trong suốt quá

trình tham gia HTX, xã viên chỉ được sở hữu tư nhân phần vốn góp đó mà

thôi; còn tài sản hình từ hoạt động của HTX là tài sản chung không chia của

HTX; trường hợp HTX bị giải thể, tài sản này phải được chuyển giao cho

chính quyền địa phương; trường hợp xã viên rút ra khỏi HTX, thì chỉ được rút

phần vốn đã góp.

Đây là đặc điểm mang tính bản chất của HTX (nhưng không phải là

mục tiêu của HTX), đề cao tính cộng đồng và sở hữu chung trong HTX, khác

hẳn với doanh nghiệp thương mại, theo đó sở hữu của thành viên góp vốn

doanh nghiệp trong tài sản của doanh nghiệp tương ứng với tỉ lệ góp vốn của

mình trong suốt quá trình hình thành và phát triển doanh nghiệp.

+ Chia lợi nhuận hay chênh lệch thu - chi HTX. Theo nguyên tắc

truyền thống, lợi nhuận hay khoản dư thừa trong HTX không được chia theo

vốn góp, vì có thể làm xói mòn tinh thần hợp tác, đề cao tư tưởng lợi nhuận,

nhưng nếu không chia thì thật sự không thể hấp dẫn đông đảo xã viên tham

gia HTX.

14

+ Tính chất hợp tác, giá trị và nguyên tắc HTX không phát huy đầy đủ

và ngay lập tức khi thành lập HTX, mà đòi hỏi một quá trình phát triển lâu

dài.

Từ những phân tích trên, tài liệu đã đưa ra các kết luận sau đây:

Một là, lý luận về HTX là một khoa học, khoa học ấy dựa trên thực tiễn

phát triển của HTX một cách phong phú gần hai thế kỷ qua trên thế giới, có

sự phát triển, đổi mới; cần được học tập, nghiên cứu một cách có hệ thống.

Hai là, các giá trị và nguyên tắc của HTX vừa bao hàm yếu tố kinh tế

vừa mang đậm tính đạo đức, chính trị, xã hội và văn hóa, có những mặt thống

nhất đồng thời có những mặt mâu thuẫn, cần phải nhận thức sâu sắc để thiết

kế vào các mô hình HTX (pháp lý) cụ thể, phù hợp với điều kiện cụ thể từng

nước, đảm bảo các giá trị và nguyên tắc ấy có sức sống, từ đó HTX mới trở

thành thể chế hoạt động có hiệu quả.

Ba là, HTX là một hình thức pháp lý về tổ chức, vì vậy, vấn đề quan

trọng và cấp bách hiện nay là phải nhận thức đúng bản chất HTX, xác định

đúng và cụ thể mô hình HTX, định hình chuẩn về khung khổ pháp luật tạo

điều kiện thuận lợi cho HTX ra đời và phát triển. Có như vậy HTX, phong

trào HTX mới phát triển bền vững, tiến kịp đà đổi mới, có đóng góp ngày

càng quan trọng và tích cực cho phát triển kinh tế - xã hội đất nước.

Về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của HTX, tài liệu đã phân tích 7

nguyên tắc sau:

(1) Tham gia tự nguyện và mở. HTX là các tổ chức tự nguyện và mở

đối với mọi thành viên xã hội mong muốn sử dụng dịch vụ của HTX, sẵn sàng

chấp thuận trách trách nhiệm thành viên HTX, không phân biệt giới tính, xã

hội chủng tộc, chính trị hoặc tôn giáo.

(2) Kiểm soát một cách dân chủ bởi các thành viên. HTX là các tổ chức

mang tính dân chủ được kiểm soát bởi các thành viên là những người tham

gia vào việc xác định các chính sách và ra quyết định của HTX.

15

(3) Tham gia kinh tế của thành viên HTX. Các thành viên đóng góp

một cách bình đẳng và kiểm soát một cách dân chủ đối với vốn của HTX.

Vốn của HTX thường là tài sản chung của HTX.

(4) Tự chủ và độc lập. HTX là các tổ chức tự chủ, tự giúp đỡ, được

kiểm soát bởi các thành viên.

(5) Giáo dục, huấn luyện và thông tin. HTX là tổ chức tự chủ, có ý

nghĩa cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, mang lại lợi ích cho thành viên,

nên bản thân nó phải có trách nhiệm giáo dục, huấn luyện và thông tin cần

thiết đối với cộng đồng thành viên của mình và đối với các đối tác.

(6) Hợp tác giữa các HTX. HTX phục vụ các thành viên của mình một

cách hiệu quả và tăng cường phong trào HTX bằng cách hợp tác với nhau trên

bình diện địa phương, vùng, quốc gia và quốc tế, theo chuyên ngành hoặc

dưới hình thức hiệp hội.

(7) Chăm lo cho cộng đồng. HTX phải đảm bảo sự phát triển của cộng

đồng thành viên của mình thông qua các chính sách do chính thành viên HTX

quyết định, bao gồm các hoạt động phúc lợi, hoạt động xã hội - văn hóa nhằm

cải thiện đời sống mọi mặt thành viên và cộng đồng xã viên HTX.

Tài liệu cũng đã đưa ra nhận định và phân tích về giá trị của HTX,

gồm: tự giúp đỡ, tự chịu trách nhiệm, dân chủ, công bằng, bình đẳng, đoàn

kết. Ngoài ra theo các nhà sáng lập HTX, giá trị HTX còn là các giá trị đạo

đức, bao gồm: tính trung thực, sự cởi mở, trách nhiệm xã hội và sự quan tâm

tới người khác.

- Cuốn sách “Sự phát triển của hợp tác xã và vai trò của hợp tác xã đối

với an sinh xã hội”, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và UNDP tại Việt Nam.

Nhà xuất bản trẻ, Hà Nội 2012. Cuốn sách phân tích sự phát triển của HTX ở

Việt Nam qua các giai đoạn; phân tích sự tác động của cơ chế, chính sách và

pháp luật đến sự phát triển của HTX; đánh giá thực trạng tổ chức và quản lý ở

các HTX và vai trò của HTX đối với an sinh xã hội; xu hướng phát triển HTX

hiện nay.

16

Viện dẫn định nghĩa HTX của ILO “HTX là hiệp hội hay tổ chức tự

chủ của các cá nhân liên kết với nhau một cách tự nguyện nhằm đáp ứng nhu

cầu và nguyện vọng chung về kinh tế, xã hội và văn hóa thông qua một doanh

nghiệp được sử hữu chung và được kiểm soát một cách dân chủ”.

Theo Luật HTX năm 2012 của Việt Nam, HTX là tổ chức kinh tế tập

thể do cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có nhu cầu lợi ích chung, tự nguyện

góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật này để phát huy sức mạnh của

tập thể và từng xã viên tham gia HTX, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả

các hoạt động sản xuất kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần,

góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Về mặt bản chất, HTX khác với doanh nghiệp ở hai điểm chính:

Thứ nhất, HTX là hiệp hội của những cá nhân đồng ý trở thành người

đồng sở hữu, người đưa ra các quyết định dân chủ và người khai thác doanh

nghiệp chung.

Thứ hai, mục tiêu cơ bản của HTX là đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng về

mặt kinh tế, văn hóa và xã hội của xã viên. Hay nói cách khác, HTX là tổ

chức kinh tế - xã hội khác với loại hình doanh nghiệp về mục tiêu thành lập

(HTX đáp ứng các nhu cầu về kinh tế, văn hóa, xã hội của xã viên) và tổ chức

hoạt động (HTX có tính dân chủ, tính tương trợ cao).

Sau khi phân tích, tài liệu đã chỉ ra, HTX có các đặc trưng sau đây:

(1) HTX là tổ chức kinh tế - xã hội liên kết các cá nhân, hộ gia đình và

pháp nhân, được hình thành theo nguyên tắc tự nguyện nhằm đáp ứng các nhu

cầu chung của xã viên theo nguyên tắc tương trợ.

(2) HTX được thành lập nhằm đáp ứng cả nhu cầu kinh tế, văn hóa và

xã hội của xã viên và cộng đồng.

(3) HTX là một tổ chức kinh tế tự chủ có tính dân chủ cao.

(4) Tài sản chung của HTX là bất khả chuyển nhượng.

Tài liệu cũng đã đưa ra các nhận định và phân tích về vai trò của HTX,

gồm: Vai trò của HTX trong việc thực hiện chính sách bảo hiểm; Vai trò của

17

HTX trong việc thực thi chính sách ưu đãi xã hội; Vai trò của HTX trong việc

thực hiện trợ giúp xã hội.

Đề cập đến một số xu hướng phát triển HTX hiện nay, gồm: Xu hướng

gắn kinh tế gia đình với HTX; Xu hướng phát triển HTX gắn liền với phát

triển cộng đồng; Xu hướng doanh nghiệp hóa HTX.

- Cuốn sách “Hợp tác xã nhìn từ thực tiễn Đồng Nai”, NXB Chính trị

Quôc gia, Hà Nội - 2010. Đề cập một số vấn đề lý luận về HTX trong nền

kinh tế thị trường hiện nay:

Theo Liên minh hợp tác xã quốc tế (ICA), HTX là một tổ chức tự trị

của những người tự nguyện liên hiệp lại để đáp ứng các nhu cầu và nguyện

vọng chung của họ về kinh tế, xã hội và văn hóa thông qua một xí nghiệp

cùng sở hữu và quản lý dân chủ.

Bên cạch khái niệm về HTX của ICA, có nhiều nghiên cứu và đưa ra

các định nghĩa khác nhau về HTX, song các nghiên cứu về HTX cho thấy:

HTX là một tổ chức kinh tế tự chủ do các xã viên tự nguyện góp vốn, góp sức

hình thành nên; mục tiêu của HTX là phục vụ xã viên hơn là tìm kiếm lợi

nhuận; HTX là một tổ chức kinh tế đặc thù chứ không phải là một công ty cổ

phần hoặc một tổ chức từ thiện; HTX là sự liên kết của những người tham gia

cùng góp vốn, trong đó nhấn mạnh đến yếu tố con người chứ không phải số

vốn mà họ góp; nguyên tắc cơ bản của HTX là tự nguyện, quản lý dân chủ,

bình đẳng, cộng đồng về trách nhiệm, cùng chia sẻ lợi ích và rủi ro; mỗi HTX

là tổ chức được quản lý theo nguyên tắc dân chủ; mỗi xã viên chỉ có một và

chỉ một phiếu biểu quyết, không phân biệt vốn góp của họ nhiều hay ít; thành

viên tham gia HTX có thể là thể nhân hoặc pháp nhân, hoặc cá thể và pháp

nhân.

Về mô hình tổ chức, HTX được tổ chức thành hai mô hình cơ bản:

(1)HTX dịch vụ phục vụ xã viên (mô hình HTX mà ở đó xã viên đồng sở hữu,

đồng sử dụng sản phẩm và dịch vụ của HTX); (2)HTX của người lao động

(mô hình HTX mà ở đó xã viên vừa là chủ sở hữu - người góp vốn vào HTX,

vừa là người lao động trong HTX).

18

Lợi nhuận của HTX được phân phối không chỉ căn cứ vào vốn góp mà

còn căn cứ vào mức độ sử dụng dịch vụ của xã viên; phương châm chủ đạo

của HTX là giúp đỡ lẫn nhau và tự mình giúp mình.

Mặc dù mục tiêu chính của HTX là phục vụ xã viên mình, song hoạt

động còn mang tính cộng đồng - tương trợ, giúp đỡ cộng đồng.

HTX ra đời trong kinh tế thị trường, phát triển cùng với sự phát triển

của kinh tế thị trường. Các HTX có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giúp

những người lao động, người nông dân và người sản xuất nhỏ tồn tại và phát

triển trước tác động tiêu cực của kinh tế thị trường. Do vậy, ngoài ý nghĩa

kinh tế, HTX còn là thiết chế mang tính xã hội - nhân đạo.

Về vai trò của HTX, cuốn sách phân tích:

Với tư cách là tổ chức hợp tác, tổ chức tự trợ giúp và giúp đỡ lẫn nhau

của những người nông dân, những người sản xuất - kinh doanh, những người

lao động trong các ngành nghề khác nhau, HTX có các vai trò cơ bản: HTX

đóng vai trò “bà đỡ” cho thành viên phát triển kinh tế, đồng thời có những

đóng góp trực tiếp, quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế, phát triển chung

của nền kinh tế; HTX tham gia giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo cho

xã viên và người lao động; HTX cung cấp và hỗ trợ các thành viên, cộng

đồng dân cư tiếp nhận các dịch vụ về an sinh xã hội; HTX tham gia xây dựng

các công trình kết cấu hạ tầng ở các khu vực dân cư, đặc biệt là khu vực nông

thôn; HTX góp phần bảo vệ môi trường; HTX góp phần xây dựng đời sống

văn hóa mới ở các khu vực dân cư, đặc biệt là ở khu vực nông thôn; HTX góp

phần thực hiện bình đẳng giới; HTX góp phần vào thành công của các chương

trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn thông qua việc tham gia

xây dựng và thực hiện dự án này.

- Bài báo “Chính sách phát triển hợp tác xã ở Việt Nam”, PGS.TS

Nguyễn Đình Kháng, WWW.Tinkinhte.com . Phân tích sự thành công của các

HTX trong các giai đoạn, đặc biệt đã nhấn mạnh đến vai trò trong việc giải

quyết các vấn đề xã hội; chỉ ra những vấn đề đang đặt ra cần giải quyết và các

giải pháp phát triển HTX trong thời gian tới.

19

- Cuốn sách“Sự phát triển của các hợp tác xã giai đoạn 2008-2011”,

Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội

2013. Là công trình nghiên tổng quan sự phát triển của khu vực HTX giai

đoạn 2008-2011 và đưa ra số liệu cơ bản về phát triển HTX giai đoạn 2008-

2011. Khu vực kinh tế HTX là bộ phận không thể tách rời trong quá trình xây

dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Khu vực kinh tế HTX đã có

những đóng góp đáng kể trong việc thu hút một lực lượng lớn lao động ở

nông thôn, tạo việc làm, nâng cao đời sống, cải thiện thu nhập, góp phần xóa

đói giảm nghèo, xây dựng và phát triển nông thôn mới.

- Cuốn sách “Cẩm nang hợp tác xã nông nghiệp”, Quỹ châu Á và

Trung tâm Hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ miền nam. Đưa ra nhận

thức về HTX và vai trò của HTX nông nghiệp; phân tích tổ chức quản trị và

hoạt động của HTX nông nghiệp.

- Bài viết “Một số nghiên cứu về vai trò của hợp tác xã”, Tạp chí Giáo

dục lý luận, số 219 năm 2014. Bài viết chỉ ra các vai trò quan trọng của HTX,

gồm: ý nghĩa xã hội - văn hóa sâu sắc; thúc đẩy sự phát triển kinh tế; tăng sức

mạnh cá nhân, tập thể và cộng đồng; gắn kết giữa người sở hữu và người sử

dụng sản phẩm, giữa người chủ và người làm thuê, giữa người bán và người

mua trong cơ chế thị trường; HTX kết hợp hài hòa giữa sự tự lực của dân và

sự trợ giúp của nhà nước, kết hợp giữa nhà nước và thị trường; HTX là thể

chế kinh tế phù hợp với cơ chế thị trường. Từ sự phân tích vai trò của HTX,

bài viết đã khẳng định sự cần thiết phải phát triển HTX trong điều kiện phát

triển KTTT và HNQT ở Việt Nam hiện nay.

Như vậy, các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước nêu trên đã

cung cấp những lý luận cơ bản về HTX và một phần về HTX nông nghiệp,

đây là các tài liệu rất có giá trị khoa học cho các nội dung của luận án như:

khái niệm, bản chất, vai trò, nguyên tắc hoạt động, các lại hình, sự cần thiết

của phát triển HTX nông nghiệp.

1.2. Các công trình nghiên cứu đã công bố liên quan đến quản lý

nhà nƣớc đối với hợp tác xã nông nghiệp

20

1.2.1. Các công trình nghiên cứu trên thế giới

- Tài liệu “Agricultural cooperatives in France”. Chantal. Chommel.

Paris 2015. Phân tích vai trò của nhà nước đối với HTX nông nghiệp, gồm:

Thứ nhất, xây dựng các quy định.

Chức năng đầu tiên của nhà nước trong lĩnh vực này là thiết lập và

thông qua khung pháp lý áp dụng cho HTX nông nghiệp. Đây là nhiệm vụ

chủ yếu của Bộ Nông nghiệp, tuy nhiên các bộ, ngành khác cũng có trách

nhiệm liên quan, đặc biệt là Bộ Kinh tế, Bộ Tư pháp đối với Luật Công ty và

Luật Thương mại.

Hiện tại, các cơ quan nhà nước được hướng dẫn các nội dung chính:

(1)Giữ gìn các quy tắc về sự trung thành và cạnh tranh công bằng giữa HTX

với khu vực tư nhân. (2)Đưa vào thực hiện và sửa đổi, bổ sung quy định pháp

lý về HTX nhằm phù hợp với các quy chế pháp lý về HTX của cộng đồng

châu Âu (SCE). (3)Duy trì và củng cố phong trào HTX để đem lại lợi ích cho

nhà sản xuất cũng như ngành nông nghiệp Pháp nói chung. (4)Giám sát sự

điều hành HTX.

Thứ hai, sự chứng nhận hoạt động của nhà nước và sự quản lý, kiểm

tra HTX nông nghiệp.

Cấu trúc HTX dường như phải làm việc với nhiều loại cơ quan hành

chính: cơ quan thuế vụ bảo đảm HTX phải tuân thủ các quy định đặc biệt về

chế độ pháp lý, các cơ quan hành chính khác sẽ kiểm tra việc tuân thủ những

quy định, pháp lý thuộc ngành, lĩnh vực mình quản lý. Nhưng Bộ Nông

nghiệp vẫn có vai trò nổi bật. Những người đại diện chuyên môn trong lĩnh

vực nông nghiệp luôn có mối liên hệ với Bộ. Đồng thời, Bộ Nông nghiệp

cũng có trách nhiệm đối với hai thủ tục: cấp giấy chứng nhận và hủy bỏ nó

nếu có vi phạm quy tắc HTX.

Chứng nhận hoạt động.

HTX nông nghiệp, các liên đoàn và SICAs phải thực hiện thủ tục công

nhận hoạt động để xác nhận điều lệ phù hợp với các quy định pháp luật hiện

21

hành. Tùy theo địa bàn lãnh thổ, các giấy chứng nhận sẽ được những người

đứng đầu khu vực, vùng hoặc Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp cấp.

Đơn vị đăng ký phải nộp đơn cho cơ quan hành chính có thẩm quyền.

Một ủy ban đặc biệt (Ủy ban khu vực về các định hướng nông nghiệp hoặc

Ủy ban trung ương về chứng nhận hoạt động HTX) bao gồm đại diện các cơ

quan hành chính và chuyên môn sẽ xem xét đơn đề nghị và đưa ra các kiến

nghị. Quyết định cuối cùng sẽ được cơ quan có thẩm quyền thông qua.

Quản lý, kiểm tra.

Hằng năm, các HTX nông nghiệp phải trình lên cơ quan đã cấp giấy

chứng nhận các báo cáo thể hiện hoạt động của mình phù hợp với các quy

định của pháp luật về HTX. Báo cáo này phải bao gồm cả bản photocopy các

quyết định của Đại hội xã viên, các tài liệu trình bày tại Đại hội xã viên cho

các xã viên thẩm tra, báo cáo tổng kết về tình hình tài chính và quản lý HTX,

báo cáo kiểm toán.

Thêm vào đó, tất cả những sửa đổi, bổ sung điều lệ HTX (mục đích,

thời gian hoạt động, các giao dịch, liên doanh liên kết...) sẽ phải được thông

báo cho cơ quan có thẩm quyền trong vòng một tháng kể từ khi những sửa

đổi, bổ sung này được thông qua. Tương tự, nếu HTX muốn tham gia vào

công ty trách nhiệm hữu hạn cũng phải thông báo cho các đơn vị của Bộ

Nông nghiệp biết để cho phép hay từ chối. Giấy phép hoạt động có thể bị hủy

bỏ nếu HTX ngừng áp dụng các quy định trong điều lệ, nếu các sửa đổi mục

đích hoạt động hoặc các hoạt động của HTX vượt ra ngoài khu vực lãnh thổ

HTX được cơ quan có thẩm quyền cho phép hoạt động.

Ngoài ra, HTX cũng sẽ bị rút giấy phép hoạt động nếu cơ quan kiểm tra

phát hiện ra rằng các cán bộ điều hành HTX không đủ năng lực, các quy định

pháp lý, điều lệ hoặc quy chế bị phá vỡ hoặc HTX không đảm bảo và nâng

cao lợi ích cho xã viên.

- Tài liệu hội thảo “Conditions of success for cooperatives”. Socodevi -

Canada 2012. Đưa ra và phân tích 8 bài học cho sự thành công của HTX,

gồm:

22

(1) Tiêu chí HTX kiểu mới được xác lập rõ ràng và hướng đến thị

trường. HTX có cấu trúc kép: hiệp hội và tổ chức kinh tế. Thành viên được

hưởng lợi và nhận thấy rõ ràng dịch vụ có chất lượng tốt hơn và thu nhập của

họ được cải thiện. Nguyên tắc quan trọng là tự chủ, tự chịu trách nhiệm và

cùng hưởng lợi.

(2) Hợp nhất/xây dựng mạng lưới/liên hiệp HTX góp phần vào tự chủ

và phát triển bền vững. HTX quy mô lớn đối mặt với cạnh tranh tốt hơn, cung

cấp dịch vụ cho các thành viên một cách chuyên nghiệp hơn; mạng lưới và

liên hiệp HTX hướng đến việc cung cấp dịch vụ tốt hơn cho các HTX thành

viên.

(3) Nhân tố lãnh đạo là chìa khóa thành công của HTX, nhất là giai

đoạn khởi đầu HTX. Đối với HTX, lãnh đạo: đề xuất tầm nhìn và định hướng

phát triển HTX; thuyết phục thành viên về sự thay đổi và không ngừng cải

tiến để hoàn thiện; có chiến lược thu hút nhanh và mạnh số lượng thành viên

mới; đưa ra và áp dụng vào thực tiễn các giải pháp mới cho những cách thức

cũ; xác định ai là người tạo lập “luật chơi’ trong chuỗi giá trị và xây dựng mối

quan hệ hợp tác đôi bên cùng có lợi.

(4) Quản lý HTX đúng bản chất là điều kiện đảm bảo sự thành công lâu

dài. Hội đồng quản trị đại diện cho thành viên và chăm lo lợi ích của thành

viên; đội ngũ quản lý bảo đảm tính bền vững của hoạt động kinh tế nhằm đảm

bảo khía cạnh kinh doanh của HTX phát triển lâu dài.

(5) Quan trọng là quảng bá mô hình HTX thành công. Cần quảng bá

cho công chúng biết: thế nào là HTX đích thực; mô hình HTX kiểu mới cho

Việt Nam là gì; HTX kiểu mới khác với mô hình HTX trong quá khứ như thế

nào; HTX sẽ mang lại những lợi ích thật sự gì cho thành viên; quảng bá

những câu chuyện về HTX thành công và có thể nhân rộng.

(6) Chú trọng vào thế hệ trẻ khi quảng bá mô hình HTX kiểu mới.

Quảng bá mô hình HTX kiểu mới sẽ dễ dàng hơn nếu nó được tích hợp với

khát vọng của tuổi trẻ và tách rời khỏi mô hình trong quá khứ.

23

(7) Nếu không có những chính sách thích hợp nhằm cải thiện môi

trường kinh doanh, sự phát triển của HTX sẽ bị tổn thất. Khuôn khổ pháp lý

phù hợp là điều kiện cơ bản để phát triển HTX.

(8) Để mang lại hiệu quả thiết thực, các hỗ trợ từ nước ngoài cần đặt

trọng tâm vào sự cải tiến và quản lý quá trình thay đổi. Cần chia sẻ kinh

nghiệm về mô hình HTX thành công, chia sẻ kinh nghiệm về xây dựng chính

sách hỗ trợ HTX, kết nối những HTX để cung cấp chuyên gia chuyên môn.

Giới thiệu cách thức tạo sự thay đổi và chương trình nâng cao năng lực hướng

đến cải tiến.

Tám bài học trên không hoàn toàn là các bài học của quản lý nhà nước

đối với HTX, nhưng cũng đã ít nhiều đề cấp đến những khía cạnh khác nhau

liên quan đến vai trò và sự quản lý nhà nước đối với HTX.

1.2.2. Các công trình nghiên cứu trong nước

- Bài viết “Vai trò của công tác quản lý nhà nước đối với hợp tác xã

trong giai đoạn hiện nay”. Dương Khắc Mai, Chủ tịch Liên minh HTX Đắc

Nông. www/lmhtx.daknong.gov.vn 12/2015. Bài viết phân tích yêu cầu của

quản lý nhà nước đối với HTX:

Bản chất và các nguyên tắc hoạt động của HTX đã làm nên giá trị của

loại hình kinh tế hợp tác, HTX. Giả thiết, nếu thiếu vắng sự quản lý nhà nước

đối với HTX thì hoạt động của HTX khó giữ đúng được bản chất, nguyên tắc

và tạo ra giá trị của kinh tế HTX. Thậm chí ngay khi có sự quản lý của nhà

nước nhưng ở nhiều nơi hợp tác xã vẫn biến tướng và mang bản chất kinh tế

tư nhân hoặc lợi dụng hoạt động HTX để trục lợi. Nếu quản lý nhà nước đối

với HTX bị buông lỏng thì kinh tế hợp tác không thể phát triển được, nhất là

trong điều kiện cả nước nói chung và tỉnh Đắk Nông nói riêng, khi kinh tế

nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế, phương thức lao

động lạc hậu, tư duy kinh tế manh mún nhỏ lẻ thì tăng cường công tác quản lý

nhà nước đối với HTX, thúc đẩy kinh tế hợp tác phát triển là một trong những

giải pháp quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội.

24

Liên kết, hợp tác để phát triển là xu thế tất yếu và nhu cầu tự nhiên của

con người, tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với HTX để kinh tế hợp

tác phát triển sẽ làm thay đổi căn bản phương thức lao động sản xuất của

người nông dân Việt Nam hiện nay, hướng đến phương thức lao động hiện

đại, dựa trên yếu tố hợp tác để phát huy tối đa lợi thế của mỗi cá nhân, mỗi

tập thể nhỏ, tránh lãng phí tư liệu sản xuất, phát huy tối đa lợi nhuận trên một

đồng vốn đầu tư. Tình hình thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, để xây dựng được

một phong trào HTX phát triển mạnh là điều rất khó khăn, cần nhiều yếu tố,

trong đó, yếu tố quản lý nhà nước đối với HTX là rất quan trọng và mang tính

quyết định nhất là trong điều kiện nông dân Việt Nam đã qua sản xuất nhỏ lẻ.

Quản lý nhà nước đối với HTX thì ở tất cả các quốc gia có phong trào kinh tế

HTX đều tổ chức quản lý HTX nhằm phát huy được bản chất và giá trị tốt đẹp

của loại hình kinh tế hợp tác. Nhưng đối với Việt Nam, công tác quản lý nhà

nước đối với HTX còn có vai trò đặc biệt quan trọng bởi vì chúng ta lựa chọn

con đường phát triển đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội và đang trong thời kỳ

quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nói đến bản chất kinh tế - xã hội của HTX, Chủ

tịch Hồ Chí Minh đã coi chế độ HTX có nhiều mục tiêu đồng nhất với mục

đích của chủ nghĩa xã hội, vì ở một nước tiểu nông, khi toàn bộ nông dân

tham gia HTX cũng có nghĩa là đi theo con đường đúng đắn tiến tới ấm no,

hạnh phúc. Và mục đích thực chất của chủ nghĩa xã hội cũng là làm cho toàn

bộ xã hội được ấm no, hạnh phúc. Chế độ HTX văn minh là thể hiện một mặt,

một mức độ nào đó của các đặc trưng, bản chất của chủ nghĩa xã hội. Trong

vấn đề này, V.I.Lênin cũng đã khẳng định: hợp tác xã chính là một chủ nghĩa

xã hội thu nhỏ. Như vậy, tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với HTX

không chỉ để thúc đẩy cho phong trào kinh tế hợp tác phát triển mà còn có ý

nghĩa quan trọng trong việc xây dựng những nền tảng, tiền đề của một chế độ

xã hội, xã hội chủ nghĩa mà dân tộc ta đang hướng tới.

Công tác quản lý nhà nước đối với HTX có ý nghĩa quan trọng, khi

thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước đối với HTX sẽ làm cho phong trào

HTX phát triển, lợi ích được phân phối công bằng, truyền thống đoàn kết dân

25

tộc được phát huy, tạo ra một môi trường văn minh hiện đại, “bỏ hết thói cạnh

tranh” chính là xây dựng kiến trúc thượng tầng vững chắc cho xã hội xã hội

chủ nghĩa trong tương lai.

Tuy tài liệu phân tích chưa được sâu sắc, nhưng cũng đã phần nào chỉ

ra sự cần thiết phải quản lý nhà nước đối với HTX ở Việt Nam trong điều

kiện hiện nay.

- Cuốn sách “Hợp tác xã nhìn từ thực tiễn Đồng Nai”, NXB Chính trị

Quốc gia, Hà Nội - 2010. Sau khi nghiên cứu kinh nghiệm của một số địa

phương trong nước và một số quốc gia trên thế giới về phát triển HTX, đã rút

ra nhận xét quan trọng có liên quan đến quản lý nhà nước đối với HTX: Nhà

nước luôn đóng vai trò quan trọng trong việc nuôi dưỡng và phát triển phong

trào HTX nhằm vừa phát triển kinh tế vừa thực hiện mục tiêu xã hội trên cơ

sở pháp lý là không bao cấp và không can thiệp vào công việc của HTX, HTX

được bình đẳng với mọi loại hình kinh tế khác. Sự hỗ trợ của nhà nước thể

hiện trên các phương diện: tạo khuôn khổ pháp luật; hỗ trợ xây dựng kết cấu

hạ tầng ở nông thôn; tuyên truyền, giáo dục về HTX; trợ giúp đào tạo cán bộ

HTX, v.v…

Trong các giải pháp cho phát triển HTX ở Đồng Nai mà cuốn sách đưa

ra, có một số nội dung có liên quan đến quản lý nhà nước đối với HTX. Cụ

thể:

(1) Hoàn thiện các chính sách hỗ trợ phát triển HTX, gồm: chính sách

cán bộ và lao động; chính sách tài chính - tín dụng; chính sách đất đai; chính

sách hỗ trợ chuyển giao tiến bộ khoa học - công nghệ; chính sách thị trường;

các hỗ trợ khác như tư vấn pháp lý, tư vấn kinh doanh, hỗ trợ liên kết…

(2) Kiện toàn bộ máy và hoạt động của các cơ quan nhà nước chuyên

trách quản lý HTX các cấp, đặc biệt là cấp huyện và cấp xã, đồng thời quy

định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và nghĩa vụ của hệ thống quản lý nhà

nước này.

(3) Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra và xử lý sai phạm

đối với các HTX trên phương diện chấp hành các quy định pháp luật trong

26

hoạt động của HTX. Các sai phạm của HTX phải được xử lý kịp thời, bằng

các hình thức thích hợp, đủ sức răn đe cho các HTX khác.

- Bài viết “Luận chứng pháp luật và chính sách để phát triển hợp tác

xã ở Việt Nam”, Dự án Aid-Coop Việt Nam, 2010. Phân tích ba yếu tố chính

có ảnh hưởng đến sự hạn chế của vai trò chính quyền địa phương đối với

HTX: Sự chồng chéo trong việc tổ chức bộ máy quản lý hành chính, vấn

đề nhân sự và việc triển khai chức năng nhiệm vụ theo quy định của pháp

luật. Từ sự phân tích đó, để nâng cao năng lực và hiệu lực quản lý nhà

nước của các cấp chính quyền địa phương đối với HTX, đồng thời đảm

bảo cho các HTX thực sự có quyền độc lập, tự chủ, tự quyết định, tự chịu

trách nhiệm và nâng cao tính hiệu quả trong hoạt động của mình, bài viết

đưa ra một số giải pháp:

Thứ nhất, về tổ chức, nhân sự.

Cần khẩn trương hướng dẫn về tổ chức, biên chế và chức năng,

nhiệm vụ của bộ máy quản lý nhà nước đối với HTX tại địa phương. Việc

kiện toàn bộ máy quản lý HTX ở địa phương có thể được thực hiện theo

hai hướng như sau: củng cố lại bộ máy hiện có hoặc thành lập bộ máy

mới.

Thư hai, quy định và áp dụng pháp luật.

Quy định về trách nhiệm của ủy ban nhân dân các cấp về quản lý HTX

là tương đối đầy đủ và phù hợp. Tuy nhiên, cần có cơ chế kiểm tra, thanh tra,

giám sát trong việc triển khai thực hiện các quy định của pháp luật cũng như

cần xây dựng chế tài trong trường hợp các cơ quan chức năng không thực

hiện hoặc thực hiện không đúng trách nhiệm của mình. Mặt khác, cần giao

cho cơ quan quản lý HTX chức năng kiểm tra, giám sát và xử lý các HTX vi

phạm pháp luật.

Thư ba, về công tác đào tạo cán bộ.

Các cán bộ quản lý khu vực HTX phải là những người có hiểu biết

đúng đắn về bản chất HTX cũng như các quy định pháp luật liên quan đến

khu vực kinh tế tập thể. Do vậy, ủy ban nhân dân các cấp, các sở, ban, ngành

27

ở các địa phương cần tổ chức hàng năm hoặc định kỳ các khoá bồi dưỡng

cho cán bộ quản lý nhà nước về kinh tế tập thể. Việc tham gia các lớp tập

huấn này cần mang tính bắt buộc; hàng năm, cơ quan quản lý HTX cần kiểm

tra sát hạch trình độ các cán bộ phụ trách lĩnh vực HTX tại địa phương mình.

1.3. Những vấn đề chƣa đƣợc nghiên cứu trong các công trình đã

công bố và định hƣớng nghiên cứu chủ yếu của luận án

1.3.1. Những vấn đề chưa được nghiên cứu trong các công trình đã

công bố - điểm khác biệt so với luận án

- Các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đã nghiên cứu về

HTX khá toàn diện, như về khái niệm, bản chất, đặc điểm, nguyên tắc, vai trò,

sự cần thiết của HTX nói chung... Nhưng chưa đi sâu nghiên cứu toàn diện về

HTX nông nghiệp với tư cách là một loại hình cơ bản của HTX, mà mới chỉ

đề cập ở một vài khía cạnh như vai trò, đặc điểm của HTX nông nghiệp. Luận

án sẽ đi sâu nghiên cứu toàn diện về HTX nông nghiệp.

- Các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về quản lý nhà nước

đối với HTX nông nghiệp đã nghiên cứu và chỉ ra sự cần thiết khách quan

phải quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp, nếu thiếu vắng sự quản lý

nhà nước, HTX nông nghiệp sẽ không thể hoạt động đúng theo bản chất và

nguyên tắc của nó. Điều đó càng cần thiết và có vai trò quan trọng vì Việt

Nam lựa chọn con đường đi lên CNXH; tăng cường công tác quản lý nhà

nước đối với HTX không chỉ để thúc đẩy cho phong trào kinh tế hợp tác phát

triển mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng những nền tảng, tiền

đề của một chế độ xã hội XHCN mà dân tộc ta đang hướng tới. Các nghiên

cứu cũng đã đề cập đến một số nội dung của quản lý nhà nước đối với HTX

nông nghiệp, gồm: Xây dựng các quy định pháp lý về tổ chức và hoạt động

của HTX nông nghiệp; Sự chứng nhận hoạt động HTX nông nghiệp; Tổ chức

bộ máy quản lý nhà nước ở địa phương; Đào tạo cán bộ quản lý khu vực HTX

nông nghiệp; Kiểm tra, giám sát và xử lý các HTX nông nghiệp vi phạm pháp

luật. Những nội dung này chưa được xây dựng trên một lý thuyết khoa học

28

nào. Luận án tập trung nghiên cứu các nội dung cơ bản của quản lý nhà nước

đối với HTX nông nghiệp trên cơ sở tiếp cận chức năng của quản lý nhà nước.

- Các công trình nghiên cứu trong nước về HTX nông nghiệp và quản

lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp chủ yếu được nghiên cứu ở thời điểm

trước khi Luật HTX năm 2012 có hiệu lực (ngày 01/7/2013), chỉ có một số ít

nghiên cứu sau thời điểm này. Luật HTX năm 2012 ra đời nhằm mục tiêu:

Khuyến khích, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển HTX mới; định hướng phát

triển cho các HTX hiện đang hoạt động th

hộ

tế; góp phần cải thiện công bằng xã hội và ổn định kinh tế, chính trị, xã hội;

góp phần thực hiện định hướng XHCN nền KTTT ở Việt Nam. Một số quy

định như: về khái niệm, mục tiêu thành lập, góp vốn, quan hệ sở hữu, thành

viên, mô hình quản trị điều hành... có khác so với trước đây. Do vậy, luận án

sẽ tập trung nghiên cứu để đưa ra phương hướng và giải pháp tiếp tục hoàn

thiện quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp trong điều kiện phát triển

HTX nông nghiệp kiểu mới theo Luật HTX năm 2012.

1.3.2. Định hướng nghiên cứu chủ yếu của luận án

Tất cả các tài liệu, công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến bản chất,

vai trò, sự cần thiết của HTX và một phần của HTX nông nghiệp trong quá

trình phát triển; đề cập đến các khía cạnh khác nhau có liên quan đến quản lý

nhà nước đối với HTX nông nghiệp. Tuy nhiên, chưa có một tài liệu hay một

công trình công bố nào đề cập đến quản lý nhà nước đối với HTX nông

nghiệp ở Việt Nam. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu về quản lý nhà nước đối

với HTX nông nghiệp ở Việt Nam là cần thiết.

29

Trên cơ sở nghiên cứu tổng quan về tình hình nghiên cứu nêu trên, tác

giả cho rằng định hướng nghiên cứu chủ yếu của luận án cần tập trung vào

giải quyết những vấn đề sau đây:

- Hoàn thiện khung lý thuyết về quản lý nhà nước đối với HTX nông

nghiệp, trình bày một cách toàn diện về chủ thể, đối tượng, mục tiêu... Xây

dựng và phân tích các nội dung cơ bản của quản lý nhà nước đối với HTX

nông nghiệp theo cách tiếp cận các chức năng quản lý nhà nước. Xây dựng

khung lý thuyết về hoàn thiện quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp.

- Tìm kiếm những bài học kinh nghiệm về quản lý nhà nước đối với

HTX nông nghiệp của một số nước trên thế giới cho Việt Nam.

- Nghiên cứu thực trạng quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp ở

Việt Nam hiện nay để cung cấp cơ sở thực tiễn cho việc hoàn thiện quản lý

nhà nước đối với HTX nông nghiệp ở Việt Nam trong thời gian tới.

- Đề xuất quan điểm, mục tiêu, phương hướng, các giải pháp chủ yếu

để tiếp tục hoàn thiện quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp ở Việt Nam

trong thời gian tới.

30

Chƣơng 2 CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC

ĐỐI VỚI HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP

2.1. Những vấn đề lý luận về hợp tác xã nông nghiệp

2.1.1. Khái niệm hợp tác xã nông nghiệp

2.1.1.1. Hợp tác xã

Tổ chức mang tên HTX đã ra đời cách đây hơn 200 năm trên thế giới.

Tuy nhiên, cho đến nay vẫn có rất nhiều định nghĩa khác nhau về HTX.

Theo Liên minh HTX quốc tế (ICA): “HTX là một tổ chức tự trị của

những người tự nguyện liên hiệp lại để đáp ứng các nhu cầu và nguyện vọng

chung của họ về kinh tế, xã hội và văn hóa thông qua một xí nghiệp cùng sở

hữu và quản lý dân chủ” [54, tr13]. Năm 1995, định nghĩa này được hoàn

thiện thông qua tuyên bố: “HTX dựa trên ý nghĩa tự cứu giúp mình, tự chịu

trách nhiệm, bình đẳng và đoàn kết” [54, tr13].

Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO): “HTX là sự liên kết của những

người đang gặp phải những khó khăn kinh tế giống nhau, tự nguyện liên kết

nhau lại trên cơ sở bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, sử dụng tài sản mà họ

đã chuyển giao vào HTX phù hợp với nhu cầu chung và giải quyết những khó

khăn đó bằng sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm và bằng cách sử dụng các chức

năng kinh doanh trong tổ chức hợp tác, phục vụ cho lợi ích vật chất và tinh

thần chung” [54, tr14].

Theo một quan điểm khác, HTX là sự liên kết của những người, những

nhà sản xuất nhỏ hoặc những người tiêu thụ cùng tự nguyện liên kết với nhau

để nhằm đạt được một số mục tiêu bằng biện pháp trao đổi qua lại những dịch

vụ thông qua một doanh nghiệp hoạt động tự chủ, tự chịu trách nhiệm bằng

các nguồn lực do mọi thành viên đóng góp.

Ở nước ngoài, nhiều học giả đã đưa ra các khái niệm về HTX, ví dụ, có

quan điểm cho rằng, HTX là một dạng tổ chức gồm những người tự nguyện

tham gia cùng nhau, nhằm thỏa mãn nhu cầu kinh tế chung và cố gắng đưa họ

và những người khác khỏi cảnh đói nghèo, trở nên khá giả, thông qua hoạt

31

động của một tổ chức kinh doanh nhằm mang lại lợi ích chung của tất cả

những người tham gia hợp tác…

Theo Bộ Nông nghiệp Mỹ: “HTX là cơ sở kinh doanh do những người

sử dụng tự làm chủ và tự quản lý, lợi nhuận được chia dựa trên cơ sở của việc

sử dụng hàng hóa,dịch vụ. Định nghĩa này nhấn mạnh ba nguyên tắc chung

của HTX, đó là: xã viên tự làm chủ, tự quản lý và phân chia lợi nhuận theo

mức độ sử dụng hàng hóa, dịch vụ của xã viên” [54, tr15].

Theo Luật HTX 2003 của Việt Nam: "HTX là tổ chức kinh tế tập thể

do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện

góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật này để phát huy sức mạnh tập

thể của từng xã viên tham gia HTX, cùng nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt

động sản xuất - kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần

phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. HTX hoạt động như một loại hình

doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa

vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích lũy và các nguồn vốn khác

của hợp tác xã theo quy định của pháp luật”[49]. Luật HTX năm 2012 quy

định: “HTX là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, do ít nhất 07 thành viên

tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất,

kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ

sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý HTX”[50].

Mặc dù có nhiều định nghĩa và cách tiếp cận khác nhau về HTX, song

các nghiên cứu về HTX đều cho thấy:

- HTX là một tổ chức kinh tế tự chủ do các xã viên tự nguyện góp vốn,

góp sức lập nên. Mục tiêu của HTX là phục vụ xã viên hơn là tìm kiếm lợi

nhuận. Phục vụ xã viên là nhiệm vụ hàng đầu của HTX.

- HTX vừa là một tổ chức kinh tế đặc thù vừa mang tính văn hóa và xã

hội sâu sắc.

- HTX là sự liên kết của những người tham gia, cùng góp vốn, trong đó

nhấn mạnh yếu tố con người chứ không phải số vốn mà họ góp.

32

- Nguyên tắc cơ bản của HTX là tự nguyện, quản lý dân chủ, bình

đẳng, cộng đồng về trách nhiệm, cùng chia sẻ lợi ích và rủi ro.

- Phương châm chủ đạo của HTX là giúp đỡ lẫn nhau và tự mình giúp

mình.

- Mặc dù mục tiêu chính của HTX là phục vụ xã viên của mình, song

hoạt động của HTX còn mang tính cộng đồng - tương trợ, giúp đỡ cộng đồng.

Từ sự phân tích trên, có thể hiểu HTX là một loại hình kinh tế hợp tác -

một hình thức tổ chức kinh tế đặc thù trong hệ thống các loại hình tổ chức

kinh tế đa dạng, là tổ chức kinh tế tự chủ, có vốn, quỹ và tài sản chung, có cơ

cấu tổ chức chặt chẽ, có tư cách pháp nhân. HTX được thành lập trên tinh

thần tự nguyện, tự trợ giúp, tự chịu trách nhiệm, dân chủ, bình đẳng, công

bằng và đoàn kết của các thành viên tham gia. Mặc dù HTX cũng là đơn vị

kinh doanh, song, mục tiêu cơ bản của các xã viên khi thành lập hoặc liên kết

thành một HTX xã là để thực hiện những hoạt động mà từng cá nhân riêng lẻ

không thể thực hiện được hoặc thực hiện kém hiệu quả nhằm nâng cao điều

kiện kinh tế và xã hội của họ thông qua việc cùng hành động vì quyền lợi của

tất cả các xã viên chứ không chỉ đơn thuần vì lợi ích của từng cá nhân xã viên.

2.1.1.2. Hợp tác xã nông nghiệp

HTX nông nghiệp là HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp.

Theo Đại từ điển tiếng Việt, “nông nghiệp là ngành sản xuất chủ yếu

của xã hội có nhiệm vụ cung cấp sản phẩm trồng trọt và chăn nuôi” [32,

tr1283]. Theo Bách khoa toàn thư, “nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ

bản của xã hội, sử dụng đất đai để trồng trọt và chăn nuôi, khai thác cây trồng

và vật nuôi làm tư liệu và nguyên liệu lao động chủ yếu để tạo ra lương

thực thực phẩm và một số nguyên liệu cho công nghiệp. Nông nghiệp là một

ngành sản xuất lớn, bao gồm nhiều chuyên ngành: trồng trọt, chăn nuôi, sơ

chế nông sản; theo nghĩa rộng, còn bao gồm cả lâm nghiệp, thủy sản” [1,

tr1547].

Từ đó có thể khẳng định: HTX nông nghiệp là tổ chức kinh tế tự chủ,

do nông dân và những người có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp

33

vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh của

tập thể và từng thành viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt

động dịch vụ hỗ trợ cho kinh tế hộ và kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất, chế

biến, tiêu thụ các sản phẩm nông lâm ngư nghiệp và kinh doanh các ngành

nghề khác ở nông thôn, phục vụ cho sản xuất nông nghiệp.

Theo lĩnh vực hoạt động, HTX nông nghiệp gồm 3 loại hình cơ bản:

HTX nông nghiệp chuyên ngành; HTX nông nghiệp dịch vụ; HTX nông

nghiệp sản xuất kinh doanh và dịch vụ tổng hợp.

HTX nông nghiệp có các đặc trưng cơ bản sau:

- HTX nông nghiệp là một tổ chức kinh tế tập hợp đông đảo nông dân ở

nông thôn - lực lượng lao động chiếm tỷ trọng lớn nhất trong xã hội ở các

nước đang phát triển. Do vậy, sự phát triển của HTX có ý nghĩa to lớn đối với

phát triển sản xuất nông nghiệp, phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn.

- Mục tiêu chính của HTX nông nghiệp là các thành viên cùng tương

trợ, giúp đỡ nhau để phát triển (đây là điểm khác biệt lớn nhất của HTX nông

nghiệp so với các tổ chức sản xuất, kinh doanh khác trong nông nghiệp).

- HTX nông nghiệp là tổ chức kinh tế của những người yếu thế nhất về

trình độ dân trí, trình độ nghề nghiệp, vốn, cơ sở vật chất - kỹ thuật so với các

loại hình doanh nghiệp khác. Điều này càng được thể hiện rõ ở các nước đang

phát triển và đây là những khó khăn, thách thức lớn nhất đối với hoạt động

của loại hình tổ chức kinh tế này.

- Đối tượng sản xuất của nông nghiệp là cây trồng, vật nuôi, nên trong

quá trình hoạt động kinh doanh của mình, HTX nông nghiệp vừa bị chi phối

bởi các quy luật kinh tế, vừa bị chi phối bởi các quy luật tự nhiên, dẫn đến các

HTX nông nghiệp thường phải chịu rủi ro lớn, hiệu quả kinh tế thấp.

2.1.2. Vai trò của hợp tác xã nông nghiệp đối với phát triển kinh tế -

xã hội

Thứ nhất, HTX nông nghiệp đóng vai trò“bà đỡ” cho các thành viên

phát triển kinh tế, đồng thời có những đóng góp trực tiếp, quan trọng vào sự

tăng trưởng, phát triển chung của nền kinh tế.

34

Được các thành viên tự nguyện cùng nhau thành lập nên nhằm giải

quyết những vẫn đề mà từng thành viên không thể tự mình giải quyết, các

HTX nông nghiệp có vai trò to lớn trong việc hỗ trợ họ phát triển kinh tế, đặc

biệt là trong nông nghiệp, nông thôn và các ngành nghề sản xuất - kinh doanh

nhỏ ở nông thôn. Vai trò đó có thể thực hiện trước hết và chủ yếu ở những

dịch vụ sản xuất - kinh doanh nông nghiệp, những lợi ích kinh tế mà chúng

mang lại cho họ. Trong lĩnh vực nông nghiệp, các HTX tập trung vào các

khâu dịch vụ thiết yếu hỗ trợ hộ xã viên phát triển sản xuất như dịch vụ thủy

lợi; làm đất; bảo vệ thực vật; cung ứng vật tư, phân bón; khuyến nông; tổ

chức sản xuất; tiêu thụ sản phẩm, v.v... Đặc biệt, các HTX nông nghiệp đóng

vai trò khoa học - kỹ thuật và sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi

theo hướng sản xuất hàng hóa có hiệu quả kinh tế cao hơn.

Việc thực hiện vai trò “ bà đỡ” là căn cứ đặc biệt quan trọng và chủ yếu

để đánh giá tính chất HTX và hiệu quả hoạt động của tổ chức kinh tế này.

Bên cạnh vai trò “bà đỡ” cho các thành viên phát triển kinh tế, các

HTX nông nghiệp còn có những đóng góp trực tiếp, quan trọng vào sự tăng

trưởng chung của nền kinh tế thông qua việc tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa

và dịch vụ đáp ứng nhu cầu sản xuất, tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, nhất

là những hàng hóa, dịch vụ thiết yếu phục vụ sản xuất, đời sống, sinh hoạt của

người dân ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa.

Thứ hai, HTX nông nghiệp tham gia giải quyết việc làm, xóa đói, giảm

nghèo cho xã viên và cho người lao động.

Thông qua các hoạt động sản xuất - kinh doanh của mình, các HTX

nông nghiệp tạo việc làm trực tiếp cho xã viên và người lao động. Các việc

làm này thường gắn với địa bàn sinh sống của người lao động, đòi hỏi trình

độ chuyên môn, kỹ thuật không quá cao, có thời gian làm việc linh hoạt. Đây

là điều có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc giải quyết việc làm ở các

vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, giải quyết việc làm cho lao động nữ. Bên

cạnh đó, nhiều HTX nông nghiệp còn tiếp nhận lao động là những người thiệt

thòi, khuyết tật, v.v... Thông qua việc làm được tạo ra, xã viên và người lao

35

động trong các HTX nông nghiệp có được nguồn thu nhập nhất định. Bên

cạnh tạo ra việc làm trực tiếp, các HTX nông nghiệp cũng tạo việc làm và thu

nhập thêm cho các hộ xã viên thông qua nhiều hình thức khác như hợp đồng

gia công sản phẩm, hợp đồng chăm sóc và bảo vệ cây trồng, vật nuôi, hợp

đồng tổ chức các dịch vụ phục vụ sản xuất - kinh doanh,v.v... hỗ trợ các điều

kiện (vốn, đất đai, kỹ thuật, vật tư) để các hộ tự tạo (tự tạo thêm) việc làm.

Mặt khác, hầu hết các HTX nông nghiệp là tổ chức của những người

sản xuất nhỏ, những người lao động mà phần lớn trong số họ là những người

có hoàn cảnh khó khăn, người nghèo. Do vậy, HTX nông nghiệp có vai trò

quan trọng trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo ở nước ta. Vai trò đó được

thể hiện thông qua việc cung cấp cho xã viên và người dân trong cộng đồng,

đặc biệt là những người nghèo, các điều kiện thiết yếu để tổ chức sản xuất, hỗ

trợ vốn, tư vấn và hướng dẫn kỹ thuật, cung cấp thông tin, tổ chức tiêu thụ sản

phẩm, tạo cơ hội việc làm,v.v... nhằm giúp họ phát triển kinh tế gia đình,

thoát khỏi đói nghèo và vươn lên khá giả.

Ngoài ra, các HTX nông nghiệp, đặc biệt là các hợp tác xã sản xuất -

kinh doanh có hiệu quả, đều coi trọng việc hỗ trợ trực tiếp về kinh tế cho

người nghèo và các đối tượng yếu thế (người khuyết tật, trẻ mồ côi, người già

cô đơn), hưởng ứng tích cực các phong trào “Vì người nghèo”, “Đền ơn đáp

nghĩa”,v.v...

Thứ ba, HTX nông nghiệp cung cấp và hỗ trợ các thành viên, cộng

đồng dân cư tiếp cận các dịch vụ để an sinh xã hội.

Nhiều HTX nông nghiệp cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản cho xã

viên và cộng đồng dân cư như dịch vụ nước sạch, điện, dạy nghề, nhà ở, giáo

dục, chăm sóc y tế, mai táng, dịch vụ đời sống, v.v... Hoạt động của các HTX

nông nghiệp này thể hiện xu thế mới trong hợp tác nhằm cung cấp và hỗ trợ

các thành viên và cộng đồng dân cư tiếp cận các dịch vụ thiết yếu về an sinh

xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống, cải thiện các điều kiện sinh hoạt về

văn hóa, tinh thần.

36

Tùy theo điều kiện cụ thể và khả năng tài chính của mình, các HTX

nông nghiệp hỗ trợ xã viên, người lao động trong hợp tác xã trong chăm sóc y

tế, giáo dục, đào tạo và trong các trường hợp khó khăn khác (rủi ro, ma chay,

cưới xin); hỗ trợ tiếp cận các chính sách an sinh xã hội của nhà nước thông

qua các biện pháp cụ thể như mua (hỗ trợ mua) bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y

tế, bảo hiểm sức khỏe, bảo hiểm tai nạn, bảo hiểm tài sản, v.v... thông qua quỹ

bảo hiểm tương hỗ.

Thứ tư, HTX nông nghiệp tham gia xây dựng các công trình kết cấu hạ

tầng ở các khu vực dân cư, đặc biệt là ở khu vực nông thôn.

Các HTX nông nghiệp tham gia xây dựng các công trình kết cấu hạ

tầng ở các khu vực dân cư, nhất là ở khu vực nông thôn, thông qua những

đóng góp cụ thể, thiết thực trong việc xây dựng hệ thống đường giao thông,

trường học, trạm y tế, hệ thống điện, hệ thống thủy lợi, chợ, v.v...

Thứ năm, HTX nông nghiệp góp phần bảo vệ môi trường.

Ý thức được trách nhiệm của mình đối với môi trường, các HTX nông

nghiệp ngày càng quan tâm hơn đến hoạt động bảo vệ môi trường. Đặc biệt,

nhiều hợp tác xã chuyên vệ sinh môi trường được thành lập nhằm thu gom và

xử lý rác thải, nước thải, tận dụng rác thải để chế biến phân vi sinh, các sản

phẩm nhựa tái sinh, v.v...

Với những hoạt động đó, các HTX nông nghiệp góp phần làm cho môi

trường xanh, sạch, đẹp hơn, giảm đáng kể mức độ ô nhiễm, góp phần bảo vệ

sức khỏe cho người dân, tăng cường nhận thức và ý thức của nhân dân về bảo

vệ môi trường, tạo việc làm và thu nhập cho nhiều lao động, trong đó chủ yếu

là những người nghèo, người thiệt thòi. Mặc dù còn nhiều hạn chế do những

đặc thù vốn có của loại hình kinh tế này, song hoạt động vệ sinh môi trường

của các HTX nông nghiệp góp phần giải quyết những vấn đề môi trường bức

thiết tại các địa phương, đặc biệt là tại vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa -

nơi không có tổ chức nào có đủ khả năng cung cấp dịch vụ hoặc hoạt động

không hiệu quả.

37

Thứ sáu, HTX nông nghiệp góp phần xây dựng đời sống văn hóa mới ở

các khu vực dân cư, đặc biệt là ở khu vực nông thôn.

- Góp phần hình thành ý thức cộng đồng trong mỗi xã viên cũng như

trong mỗi cư dân nông thôn nói chung. Việc tham gia HTX nông nghiệp góp

phần hình thành ở người nông dân vốn nặng đầu óc tư hữu ý thức đoàn kết,

sống hòa mình vào tập thể, vì lợi ích chung.

- Góp phần tăng cường dân chủ ở nông thôn. Trở thành xã viên HTX

nông nghiệp, người dân có quyền bàn bạc về mục tiêu phát triển HTX, biện

pháp làm ăn có lợi nhất, hiệu quả nhất, tự nguyện góp vốn, góp sức phát triển

kinh tế của mình và của HTX, thảo luận với nhau về cách phân chia kết quả

lao động một cách công bằng, hợp lý, được quyền tự lựa chọn người lãnh đạo,

v.v... Điều đó đóng góp đáng kể vào việc tăng cường dân chủ trên địa bàn.

- Góp phần nâng cao dân trí. Ngay trong giai đoạn đầu kiến thiết đất

nước, các HTX nông nghiệp ở nước ta đã có vai trò quan trọng trong việc xây

dựng những nhà trẻ, mẫu giáo và các lớp “bổ túc văn hóa”. Ngày nay, các hợp

tác xã cũng có tác động tích cực đối với việc mở mang dân trí thông qua

những đóng góp (cả vật chất và công lao động) để xây dựng trường học, nhà

văn hóa, thư viện, v.v... Ngoài ra, các HTX nông nghiệp còn tích cực tham gia

xây dựng các quỹ khuyến học nhằm khuyến khích học sinh học giỏi, giúp đỡ

học sinh nghèo vượt khó.

- Góp phần đổi mới nếp sinh hoạt văn hóa và tăng cường các thiết chế

văn hóa ở địa phương. HTX nông nghiệp không chỉ hỗ trợ điều kiện tổ chức,

định hướng các phong trào sinh hoạt văn hóa ở địa phương mà còn coi đó như

một trong những nội dung của hoạt động phát triển HTX. Do vậy, cùng với sự

phát triển của các HTX nông nghiệp, các phong trào văn hóa, văn nghệ, thể

thao, tổ chức lễ hội ở các địa phương sẽ có những chuyển biến tích cực, cả về

bề rộng và chiều sâu.

- Các HTX nông nghiệp tác động không nhỏ đến nhận thức của xã viên

và người dân về tự do tín ngưỡng và văn hóa tâm linh. Những hoạt động và

đóng góp của HTX nông nghiệp trên các phương diện kinh tế, văn hóa, xã

38

hội, tinh thần,v.v... góp phần làm cho xã viên và người dân nói chung có nhận

thức đúng hơn về thế giới siêu nhiên, về tôn giáo, tín ngưỡng.

Thứ bảy, HTX nông nghiệp góp phần thực hiện bình đẳng giới.

Phát triển HTX nông nghiệp giúp nam giới và nữ giới có nhận thức đầy

đủ hơn về bình đẳng giới, về trách nhiệm và nghĩa vụ của mình, giảm dần và

tiến tới xóa bỏ các định kiến về giới. Phát triển HTX nông nghiệp tạo cơ hội

cho người phụ nữ tiếp cận các nguồn lực, tạo việc làm và phát triển kinh

doanh; tạo điều kiện để họ thể hiện phẩm chất và năng lực của mình trong lao

động sáng tạo, tham gia ngày càng tích cực trong các hoạt động sản xuất -

kinh doanh của HTX. Phát triển HTX nông nghiệp còn tạo điều kiện để phụ

nữ có thêm thời gian chăm sóc bản thân, gia đình và tham gia các hoạt động

của cộng đồng.

Thứ tám, HTX nông nghiệp góp phần bảo đảm sự thành công của các

chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn thông qua việc

tham gia xây dựng và thực hiện các chương trình, dự án này.

Các HTX nông nghiệp mang tính liên kết và tổ chức cộng đồng cao,

gắn kết chặt chẽ với địa bàn dân cư. Do vậy, sự tham gia của các hợp tác xã

vào quá trình xây dựng và thực hiện các chương trình, dự án phát triển kinh tế

- xã hội trên địa bàn là yếu tố quan trọng góp phần bảo đảm sự thành công của

các chương trình, dự án này, và cũng qua đó góp phần tích cực vào việc thực

hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương. Hiện nay, ở các

địa phương, HTX nông nghiệp có vai trò quan trọng trong việc thực hiện

chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.

2.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của hợp tác xã nông

nghiệp

Trong giai đoạn hiện nay, sự phát triển của HTX nông nghiệp chịu tác

động của rất nhiều yếu tố, cả khách quan và chủ quan.

2.1.3.1. Các yếu tố khách quan

Một là, yếu tố chính trị, pháp lý.

39

Về chính trị: định hướng phát triển kinh tế tập thể của Đảng nêu rõ qua

các văn kiện Đại hội Đảng đến nay đã được thể hiện rất rõ ràng, tác động tích

cực đến đổi mới và phát triển HTX.

Về pháp lý: Luật Hợp tác xã, các chính sách, văn bản liên quan và điều

lệ HTX.

Luật HTX năm 2012 là văn kiện có tính chất cơ bản và quan trọng của

Nhà nước nhằm thiết lập khung pháp lý để điều chỉnh việc hình thành, hoạt

động và phát triển của HTX. Nội dung cơ bản của Luật HTX năm 2012 bao

gồm: khái niệm HTX; các nguyên tắc của HTX; các loại hình HTX; việc

thành lập và giải thể HTX; xã viên HTX, tổ chức, quản lý trong HTX; vốn, tài

sản, phân phối thu nhập của HTX; tổ chức đại diện của các HTX.

Các chính sách và văn bản liên quan đến HTX được xây dựng nhằm

mục đích hỗ trợ, hướng dẫn và quản lý một cách có hiệu quả hoạt động của

HTX theo đúng tinh thần Luật HTX năm 2012 quy định.

Điều lệ HTX bao gồm điều lệ mẫu và điều lệ riêng của từng HTX. Điều

lệ HTX quy định cụ thể các điều khoản đối với việc thành lập, hoạt động kinh

tế -xã hội, tổ chức, quản lý… của HTX.

Có thể khẳng định, pháp lý là điều kiện tiên quyết đối với sự hình thành

và phát triển của HTX nông nghiệp. Nếu luật, các chính sách, văn bản liên

quan và điều lệ HTX được xây dựng, bổ sung, hoàn thiện phù hợp với điều

kiện cũng như trình độ phát triển chung về kinh tế, xã hội của đất nước, của

địa phương và của HTX nông nghiệp nói riêng thì sẽ tạo môi trường pháp lý

thuận lợi cho quá trình hình thành và phát triển của HTX nông nghiệp. Ngược

lại, nó sẽ cản trở quá trình này, đồng thời làm nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu

cực khác.

Hai là, yếu tố kinh tế.

Yếu tố kinh tế bao gồm nhiều yếu tố cụ thể khác: năng lực, trình độ

phát triển… của kinh tế hộ; trình độ phát triển sản xuất hàng hóa trong lĩnh

vực mà HTX nông nghiệp hoạt động; cơ chế vận hành của nền kinh tế; trình

độ phát triển của quốc gia và thế giới; khủng hoảng kinh tế, cơ hội kinh tế,

40

thuế, giá cả, tỷ giá, cạnh tranh trong kinh tế, lợi thế kinh doanh, đối thủ và đối

tác trong kinh doanh…

Tất cả những yếu tố cụ thể đó đều tác động mạnh mẽ đến sự hình thành

và phát triển của các HTX nông nghiệp. Ở đây cần lưu ý rằng, các HTX nông

nghiệp là sản phẩm của quá trình phát triển sản xuất hàng hóa, phát triển kinh

tế thị trường, trong đó sản xuất hàng hóa càng phát triển, cạnh tranh thị trường

càng mạnh thì nhu cầu hợp tác kinh tế của người dân càng cao, họ càng cần

đến HTX nông nghiệp; trình độ phát triển sản xuất hàng hóa, phát triển kinh

tế thị trường là tiền đề và cơ sở để hình thành các mô hình HTX nông nghiệp

tương ứng. Do vậy, thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển là điều kiện tiên

quyết để phát triển các HTX. Ngược lại, sự ra đời của các HTX nông nghiệp

lại thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển hơn. Cùng với điều đó, để tồn tại và

phát triển, từng HTX nông nghiệp phải kịp thời nắm bắt thông tin, dự báo

đúng tinh thần cung cầu trên thị trường biết lựa chọn sản phẩm mà thị trường

cần; phát triển các ngành, nghề sản xuất - kinh doanh có nhiều ưu đãi; linh

hoạt tránh né những nhân tố bất lợi để hoạt động có hiệu quả; nắm chắc khả

năng kinh doanh của các đối thủ để có biện pháp nâng cao năng lực hoạt động

cũng như lợi thế của mình nhằm chiến thắng trong kinh doanh một cách lành

mạnh và có hiệu quả; chủ động “mở cửa” để liên kết và hợp tác cùng có lợi

với các đối tác kinh doanh trong việc đầu tư vốn, khoa học - công nghệ, chia

sẻ kinh nghiệm, cung ứng nguyên vật liệu, tiêu thụ sản phẩm… Thông

thường, những yếu tố kinh tế này nằm ngoài khả năng kiểm soát của HTX

nông nghiệp nên sự hỗ trợ và điều tiết kịp thời ở tầm vĩ mô của nhà nước

đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với quá trình hình thành và phát triển của

HTX nông nghiệp.

Ba là, yếu tố môi trường quốc tế.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa về kinh tế diễn ra ngày càng mạnh mẽ,

Việt Nam hội nhập càng sâu, rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới, trở

thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới (WTO), ký kết

các hiệp định thương mại thế hệ mới, mỗi biến động về kinh tế, chính trị, xã

41

hội, khoa học - công nghệ, môi trường sinh thái… trên thế giới đều có tác

động rất lớn và nhanh nhạy đối với hoạt động của các HTX nông nghiệp ở

Việt Nam.

Đặc biệt, sự biến động về kinh tế, chính trị, xã hội trong khu vực và

trên thế giới ngày nay diễn ra ngày càng nhanh và phức tạp, với nhiều vấn đề

tiêu cực nảy sinh như khủng hoảng tài chính - tiền tệ, giá cả, chiến tranh,

khủng bố, biến đổi bất thường về thời tiết, khí hậu, dịch bệnh… đã tác động

tiêu cực lẫn tích cực đến hoạt động của HTX nông nghiệp. Chúng tạo ra cho

HTX nhiều cơ hội và thuận lợi để phát triển, đồng thời cũng đặt ra trước các

HTX nông nghiệp những khó khăn và thách thức, thậm chí là những khó khăn

và thách thức không nhỏ. Trong bối cảnh đó, những HTX nông nghiệp nào

biết phát huy các nguồn lực để tận dụng cơ hội, vượt qua khó khăn, thách

thức sẽ tồn tại và tiếp tục phát triển. Và ngược lại, những HTX nào không có

khả năng thích ứng với những biến đổi của môi trường hoạt động sẽ bị thua lỗ

phá sản.

Bốn là, yếu tố môi trường sinh thái.

Đây là yếu tố không chỉ luôn ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và hiệu

quả kinh doanh của các HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp mà còn

ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất - kinh doanh của các loại hình HTX cũng

như toàn bộ đời sống xã hội nói chung. Bên cạnh đó, xu hướng tăng trưởng

canh tranh và phát triển kinh tế - xã hội bền vững đều không thể không tính

đến việc bảo vệ môi sinh.

Điều đó cho thấy, việc bảo vệ môi sinh cũng như phòng tránh những

yếu tố tự nhiên bất lợi là nhiệm vụ tất yếu quan trọng và thường xuyên không

chỉ đối với các HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp mà còn đối với các

loại hình HTX khác cũng như toàn xã hội. Như vậy, môi trường sinh thái vừa

là yếu tố điều kiện, vừa là mục tiêu của mọi hoạt động của các HTX nông

nghiệp và của toàn xã hội nói chung.

2.1.3.1. Các yếu tố chủ quan

Một là, yếu tố khoa học và công nghệ.

42

Đây là yếu tố và cũng là điều kiện quyết định năng lực và trình độ quản

lý cũng như năng lực và trình độ sản xuất - kinh doanh, năng suất, chất lượng

và sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Do vậy, để tồn tại và phát

triển, bản thân các HTX nông nghiệp phải chú trọng đầu tư ứng dụng các tiến

bộ khoa học công nghệ vào hoạt động sản xuất - kinh doanh. Tuy nhiên, do

những hạn chế nội tại của mình nên trong quá trình này, các HTX nông

nghiệp luôn cần tới sự hỗ trợ rất lớn và chủ động từ phía nhà nước trên các

phương diện: cung cấp thông tin, tín dụng, hướng dẫn, đào tạo cán bộ, bồi

dưỡng tay nghề xã viên… thông qua hoạt động của các cơ quan chức năng

với nhiều hình thức phù hợp.

Hai là, yếu tố tâm lý - xã hội.

Yếu tố tâm lý - xã hội thể hiện ở các khía cạnh như tâm tư, tình cảm,

nguyện vọng; dân tộc, giai cấp; tầng lớp; thế hệ, họ hàng; quan hệ đồng

nghiệp, bạn bè, làng bản, cộng đồng; an ninh xã hội; nghèo đói, việc làm...

Các yếu tố về mặt tâm lý - xã hội luôn ảnh hưởng đến thái độ, cách làm, tính

chất, đặc trưng của mô hình tổ chức HTX nông nghiệp cũng như kết quả, chất

lượng và hiệu quả hoạt động của bản thân HTX nông nghiệp.

Ba là, yếu tố năng lực nội tại của HTX nông nghiệp.

Năng lực nội tại của HTX nông nghiệp thường được thể hiện thông qua

các điều kiện về lao động, vốn, đất đai, cơ sở vật chất - kỹ thuật… từ sự đóng

góp và tạo ra trong quá trình sản xuất - kinh doanh của các xã viên và HTX.

- Lao động của HTX nông nghiệp: Lao động của HTX nông nghiệp là

yếu tố “đầu vào”có ảnh hưởng quyết định đối với mọi hoạt động và sự phát

triển của HTX nông nghiệp. Trước hết, đó là đội ngũ cán bộ quản lý và các xã

viên của HTX nông nghiệp. Đây là những người quyết định các vấn đề về

hoạt động và phát triển của HTX nông nghiệp. Chính vì vậy, nếu trình độ văn

hóa, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, tâm huyết với HTX nông nghiệp,

am hiểu về những vấn đề liên quan đến HTX nông nghiệp và hoạt động của

HTX nông nghiệp trong nền kinh tế thị trường, về khoa học quản lý cũng như

có sức khỏe tốt thì HTX nông nghiệp có được tiền đề đặc biệt quan trọng để

43

phát triển vững chắc. Ngược lại, HTX nông nghiệp khó có thể phát triển một

cách có hiệu quả ngay cả khi các điều kiện khác rất thuận lợi. Ở đây cũng cần

nhấn mạnh thêm rằng, văn hóa là điều kiện cơ sở để nhận thức và vận dụng

các yếu tố khác tác động đến hoạt động của HTX nông nghiệp, nó luôn có ý

nghĩa rất lớn đối với mọi hoạt động của HTX nông nghiệp. Song, văn hóa

không dừng lại ở cách hiểu thông thường, mà còn là hiểu biết về bản chất và

yêu cầu đối với người thành lập và tham gia các loại hình tổ chức HTX nông

nghiệp, nghĩa là khả năng của các xã viên trong việc hợp tác cùng nhau để

phát triển HTX của họ, có thể coi đó là văn hóa hợp tác xã, thiếu điều này thì

cho dù trình độ văn hóa thông thường có cao bao nhiêu đi nữa cũng khó mà

phát triển được HTX nông nghiệp. Văn hóa HTX là văn hóa cộng đồng, văn

hóa cùng chia sẻ lợi ích và trách nhiệm một cách tự nguyện, bình đẳng, là văn

hóa không thủ tiêu lẫn nhau. Để có được văn hóa này, trước hết HTX nông

nghiệp phải được thành lập trên cơ sở tự nguyện của các thành viên, đồng thời

cần có một quá trình giáo dục rất công phu, thường xuyên và lâu dài.

Bộ phận lao động tiếp theo của HTX nông nghiệp là đội ngũ những

người lao động trực tiếp tham gia quá trình sản xuất - kinh doanh của HTX

nông nghiệp. Trình độ văn hóa, trình độ học vấn, trình độ tay nghề, kỹ năng

lao động, sức khỏe… của họ cũng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự

phát triển của HTX nông nghiệp. Bởi lẽ, chính họ là người trực tiếp tạo ra

năng suất, chất lượng sản phẩm, góp phần tích cực vào việc đảm bảo hiệu quả

sản xuất - kinh doanh và hiệu quả hoạt động nói chung của HTX nông nghiệp.

- Vốn của HTX nông nghiệp: Vốn của HTX nông nghiệp quyết định

khả năng của HTX nông nghiệp trong việc đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất

và tái sản xuất, đặc biệt là trong việc áp dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật

vào hoạt động sản xuất - kinh doanh.

Thông thường, nguồn vốn đóng góp ban đầu của xã viên không nhiều

nên khả năng hoạt động của HTX nông nghiệp phụ thuộc rất lớn vào lượng

vốn huy động được từ các nguồn khác cũng như sự hỗ trợ từ phía Nhà nước.

44

- Đất đai của HTX nông nghiệp: Đất đai phục vụ hoạt động sản xuất -

kinh doanh là yếu tố có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự tồn tại và phát triển

của các HTX. Đối với các HTX nông nghiệp, đất đai là tư liệu sản xuất cơ

bản và đặc trưng, thể hiện lợi thế so sánh trong sản xuất nông nghiệp. Quy mô

ruộng đất và mức độ tích tụ, tập trung ruộng đất có ảnh hưởng rất lớn đối với

sự phát triển của kinh tế hộ theo hướng sản xuất hàng hóa, qua đó ảnh hưởng

tới quá trình hình thành và phát triển của các HTX nông nghiệp.

- Cơ sở vật chất - kỹ thuật của HTX nông nghiệp: Cơ sở vật chất - kỹ

thuật của HTX nông nghiệp (bao gồm: công cụ sản xuất, kết cấu hạ tầng…)

có ảnh hưởng rất lớn tới sự tồn tại và phát triển của bản thân nó. Việc bảo

đảm cơ sở vật chất - kỹ thuật phù hợp với yêu cầu của HTX nông nghiệp cả

về số lượng và chất lượng cũng như sử dụng một cách có hiệu quả các cơ sở

vật chất - kỹ thuật đó là điều kiện quan trọng để HTX nông nghiệp nâng cao

năng suất, chất lượng sản phẩm, khả năng hợp tác, cạnh tranh cũng như hiệu

quả hoạt động.

Tóm lại, sự phát triển của HTX nông nghiệp chịu tác động của rất

nhiều yếu tố khác nhau. Tuy nhiên, năng lực nội tại của HTX nông nghiệp và

đặc biệt là năng lực của kinh tế hộ khi đã vượt qua khỏi sự tự cung tự cấp, đủ

sức sản xuất hàng hóa theo cơ chế thị trường cùng với sự hỗ trợ và quản lý có

hiệu lực và hiệu quả của nhà nước là những điều kiện chủ yếu cho sự phát

triển vững chắc của HTX nông nghiệp.

2.1.4. Các tiêu chí đánh giá hợp tác xã nông nghiệp

2.1.4.1. Tiêu chí đánh giá về tổ chức và quản lý ở các hợp tác xã nông

nghiệp

Đánh giá về tổ chức và quản lý ở các HTX nông nghiệp được thực hiện

trên các tiêu chí cụ thể sau:

- Việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức và quản lý HTX nông nghiệp.

Với tư cách là một tổ chức kinh tế tự chủ của các hộ nông dân, HTX

nông nghiệp cần được tổ chức và quản lý trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản, do

45

đó việc đánh giá về tổ chức và quản lý của các HTX nông nghiệp cần được

đánh giá trên các nguyên tắc cơ bản đó, gồm:

+ Nguyên tắc tự nguyện, tự chủ và công bằng. Việc tham gia HTX

nông nghiệp trước hết phải là sự tự nguyện của các hộ nông dân, họ thấy có

lợi thì gia nhập, không phải bị ép buộc gia nhập hoặc gia nhập theo phong

trào như phong trào hợp tác hóa trước đây; sau đó là sự tự chủ, có nghĩa là các

thành viên HTX nông nghiệp tự quyết định vấn đề cơ bản về sản xuất, kinh

doanh, phục vụ của HTX trong khuôn khổ pháp luật, không ai quyết định thay

họ; phải đảm bảo sự công bằng trong hoạt động của các HTX nông nghiệp,

công bằng có nghĩa là sự phù hợp giữa lợi nhuận được chia và đóng góp về

vốn, giữa tiền công và đóng góp sức lao động, giữa lợi nhuận được chia với

mức tiêu dùng hàng hóa/dịch vụ do HTX cung cấp.

+ Nguyên tắc dân chủ. Nguyên tắc này được thể hiện trên các mặt như:

Tính đại diện của Ban quản trị HTX, Ban kiểm soát HTX; Quan hệ giữa xã

viên với Ban quản trị HTX; Quan hệ lợi ích giữa người làm công, người góp

vốn và xã viên; Nguyên tắc dân chủ trong tổ chức và hoạt động.

+ Nguyên tắc minh bạch. Nguyên tắc này được đánh giá trên các mặt

như: Minh bạch trong quản lý tài sản chung; Minh bạch trong đóng góp về tài

chính, đóng góp sức lao động; Minh bạch về mức sử dụng hàng hóa/dịch vụ

do HTX cung cấp; Minh bạch trong phân chia lợi nhuận.

- Mức độ hài lòng của xã viên HTX nông nghiệp. Việc xem xét sự hài

lòng của xã viên đối với HTX nông nghiệp cũng là một tiêu chí đánh giá về tổ

chức và hoạt động của HTX nông nghiệp, tiêu chí này cần được xem xét trên

các mặt như: Tỷ lệ xã viên hài lòng với HTX nông nghiệp mà họ tham gia; Tỷ

lệ xã viên chắc chắn sẽ tiếp tục gắn bó với HTX nông nghiệp; Tỷ lệ xã viên

chắc chắn sẽ giới thiệu người thân, bạn bè tham gia HTX nông nghiệp.

- Về mức độ đạt được mục tiêu hoạt động của HTX nông nghiệp, gồm:

+ Lợi ích của HTX nông nghiệp đối với xã viên, như: Sử dụng sản

phẩm, dịch vụ do HTX nông nghiệp cung cấp với chi phí thấp hơn giá cả thị

46

trường; Tạo thu nhập thông qua góp sức lao động cho HTX nông nghiệp; Tạo

thu nhập thông qua góp vốn cho HTX nông nghiệp.

+ Vai trò của HTX nông nghiệp đối với tạo việc làm và cung cấp các

dịch vụ. Được đánh giá trên các mặt: Trung bình thời gian làm việc cho HTX

nông nghiệp; Trung bình chi tiêu để mua các sản phẩm từ HTX nông nghiệp;

Tỷ lệ chi tiêu từ HTX/tổng chi tiêu.

+ Năng lực hợp tác của HTX nông nghiệp với các tổ chức, hộ gia đình

và các HTX. Được đánh giá trên các mặt: Tính liên kết trong nội bộ xã viên

HTX nông nghiệp; Phát huy được sức mạnh tổng hợp của xã viên; Sự liên kết

giữa HTX nông nghiệp và kinh tế của hộ của xã viên; Khả năng tiêu thụ sản

phẩm ra thị trường; Khả năng thu hút lao động không phải xã viên; Thực hiện

chức năng giải quyết các thủ tục hành chính với các cơ quan quản lý nhà

nước; Năng lực hợp tác với các HTX khác.

2.1.4.2. Tiêu chí đánh giá về quy mô và hiệu quả của hợp tác xã nông

nghiệp

Đánh giá quy mô và hiệu quả hoạt động của HTX nông nghiệp được

thực hiện trên các tiêu chí cụ thể sau:

- Quy mô giá trị gia tăng. Được xem xét số lượng giá trị gia tăng của

toàn bộ khu vực kinh tế HTX nông nghiệp, tỷ lệ đóng góp vào GDP và tỷ lệ

tăng trưởng giá trị gia tăng.

- Quy mô xã viên. Tiêu chí này nói lên mức độ xã hội hóa của HTX

nông nghiệp trong khu vực nông nghiệp, nông thôn. Ngoài ý nghĩa về kinh tế,

tiêu chí này còn có ý nghĩa về xã hội sâu sắc thể hiện đầy đủ nhất bản chất

của HTX nông nghiệp.

- Quy mô vốn. Nói lên mức độ huy động vốn của xã hội cho khu vực

kinh tế HTX.

- Hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nói lên hiệu quả sản xuất kinh doanh

trên cơ sở các yếu tố đầu vào, tiêu chí này làm cơ sở để so sánh với các khu

vực kinh tế khác.

47

- Thu nhập bình quân đầu người. Đây là tiêu chí quan trọng nói lên hiệu

quả sản xuất kinh doanh khi tham gia lao động trong khu vực kinh tế HTX

nông nghiệp.

2.2. Lý luận về quản lý nhà nƣớc đối với hợp tác xã nông nghiệp

2.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước đối với hợp tác xã nông nghiệp

2.2.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước

Để nghiên cứu khái niệm quản lý nhà nước, trước hết cần làm rõ khái

niệm “quản lý”. Thuật ngữ “quản lý” thường được hiểu theo những cách khác

nhau tuỳ theo góc độ khoa học khác nhau cũng như cách tiếp cận của người

nghiên cứu. Quản lý là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội

và khoa học tự nhiên. Mỗi lĩnh vực khoa học có định nghĩa về quản lý dưới

góc độ riêng của mình và nó phát triển ngày càng sâu rộng trong mọi hoạt

động của đời sống xã hội.Theo quan niệm của C.Mác: “Bất kỳ lao động xã hội

trực tiếp hay lao động chung nào đó mà được tiến hành tuân theo một quy mô

tương đối lớn đều cần có sự quản lý ở mức độ nhiều hay ít nhằm phối hợp

những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ

sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất, sự vận động này khác với sự vận

động của các cơ quan độc lập của cơ thể đó. Một nhạc công tự điều khiển

mình, nhưng một dàn nhạc phải có nhạc trưởng”[20, tr23]. Tức theo C.Mác,

quản lý là nhằm phối hợp các lao động đơn lẻ để đạt được cái thống nhất của

toàn bộ quá trình sản xuất. Ở đây C.Mác đã tiếp cận khái niệm quản lý từ góc

độ mục đích của quản lý.

Theo quan niệm của các nhà khoa học nghiên cứu về quản lý hiện nay:

Quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển các quá trình xã hội và hành vi

hoạt động của con người để chúng phát triển phù hợp với quy luật, đạt tới

mục đích đã đề ra và đúng với ý chí của người quản lý.Theo cách hiểu này thì

quản lý là việc tổ chức, chỉ đạo các hoạt động của xã hội nhằm đạt được một

mục đích của người quản lý. Theo cách tiếp cận này, quản lý đã nói rõ lên

cách thức quản lý và mục đích quản lý.

48

Như vậy, theo cách hiểu chung nhất thì quản lý là sự tác động của chủ

thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý. Việc tác

động theo cách nào còn tùy thuộc vào các góc độ khoa học khác nhau, các

lĩnh vực khác nhau cũng như cách tiếp cận của người nghiên cứu.

Quản lý nhà nước:

Theo Giáo trình Những vấn đề cơ bản về quản lý hành chính nhà nước:

“Quản lý nhà nước là hoạt động thực thi quyền lực nhà nước do các cơ quan

nhà nước tiến hành đối với tất cả mọi cá nhân và tổ chức trong xã hội, trên

tất cả các mặt của đời sống xã hội bằng cách sử dụng quyền lực nhà nước có

tính chất cưỡng chế đơn phương nhằm mục tiêu phục vụ lợi ích chung của cả

cộng đồng, duy trì ổn định, an ninh trật tự và thúc đẩy xã hội phát triển theo

một định hướng thống nhất của nhà nước”[39, tr8]. Như vậy, quản lý nhà

nước là hoạt động mang tính chất quyền lực nhà nước, được sử dụng quyền

lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Quản lý nhà nước được xem

là một hoạt động chức năng của nhà nước trong quản lý xã hội và có thể xem

là hoạt động chức năng đặc biệt. Quản lý nhà nước được hiểu theo hai nghĩa.

Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước là toàn bộ hoạt động của bộ máy

nhà nước, từ hoạt động lập pháp, hoạt động hành pháp, đến hoạt động tư

pháp.

Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước chỉ bao gồm hoạt động hành pháp.

Quản lý nhà nước được đề cập trong Luận án này là khái niệm quản lý

nhà nước theo nghĩa rộng. Nghĩa là, quản lý nhà nước bao gồm toàn bộ các

hoạt động từ ban hành các văn bản luật, các văn bản mang tính luật đến việc

chỉ đạo trực tiếp hoạt động của đối tượng bị quản lý và vấn đề tư pháp đối với

đối tượng quản lý cần thiết của nhà nước. Hoạt động quản lý nhà nước chủ

yếu và trước hết được thực hiện bởi tất cả các cơ quan nhà nước, song có thể

các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể quần chúng và nhân dân trực tiếp thực

hiện nếu được nhà nước uỷ quyền, trao quyền thực hiện chức năng của nhà

nước theo quy định của pháp luật.

49

Từ khái niệm về quản lý nhà nước nêu trên, có thể rút ra các đặc điểm

của quản lý nhà nước như sau:

- Quản lý nhà nước mang tính quyền lực đặc biệt, tính tổ chức cao và

tính mệnh lệnh đơn phương của nhà nước. Quản lý nhà nước được thiết lập

trên cơ sở mối quan hệ “quyền uy” và “sự phục tùng”.

- Quản lý nhà nước mang tính tổ chức và điều chỉnh. Tổ chức ở đây

được hiểu như một khoa học về việc thiết lập những mối quan hệ giữa con

người với con người nhằm thực hiện quá trình quản lý xã hội. Tính điều chỉnh

được hiểu là nhà nước dựa vào các công cụ pháp luật để buộc đối tượng bị

quản lý phải thực hiện theo quy luật xã hội khách quan nhằm đạt được sự cân

bằng trong xã hội.

- Quản lý nhà nước mang tính khoa học, tính kế hoạch. Đặc trưng này

đỏi hỏi nhà nước phải tổ chức các hoạt động quản lý của mình theo một

chương trình nhất quán, cụ thể và theo những kế hoạch được vạch ra từ trước

trên cơ sở nghiên cứu một cách khoa học.

- Quản lý nhà nước là những tác động mang tính liên tục, và ổn định

lên các quá trình xã hội và hệ thống các hành vi xã hội. Cùng với sự vận động

biến đổi của đối tượng quản lý, hoạt động quản lý nhà nước phải diễn ra

thường xuyên, liên tục, không bị gián đoạn. Các quyết định của nhà nước phải

có tính ổn định, không được thay đổi quá nhanh. Việc ổn định của các quyết

định của nhà nước giúp cho các chủ thể quản lý có điều kiện kiện toàn hoạt

động của mình và hệ thống hành vi xã hội được ổn định.

2.2.1.2. Khái niệm quản lý nhà nước đối với hợp tác xã nông nghiệp

Từ sự phân tích về khái niệm quản lý nhà nước, khái niệm HTX nông

nghiệp, có thể rút ra khái niệm quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp

như sau: Quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp là hoạt động thực thi

quyền lực nhà nước do các cơ quan nhà nước tiến hành đối với HTX nông

nghiệp nhằm mục tiêu phát triển, nâng cao hiệu quả HTX nông nghiệp và

thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển theo một định hướng thống nhất của nhà

nước.

50

- Chủ thể của quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp là các cơ

quan nhà nước và cán bộ, công chức có thẩm quyền phù hợp với chức năng,

nhiệm vụ được giao. Những chủ thể này tham gia vào quá trình tổ chức quyền

lực nhà nước về lập pháp, hành pháp và tư pháp đối với HTX nông nghiệp

theo quy định của pháp luật.

- Đối tượng của quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp bao gồm

tất cả các HTX nông nghiệp trong phạm vi lãnh thổ quốc gia.

- Các công cụ của quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp chủ yếu

là pháp luật, chính sách, quy hoạch, kế hoạch.

- Mục tiêu của quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp là nhằm

phát triển và nâng cao hiệu quả của các HTX nông nghiệp phù hợp với việc

phát triển KTTT định hướng XHCN và HNQT của Việt Nam hiện nay.

2.2.2. Sự cần thiết của quản lý nhà nước đối với hợp tác xã nông

nghiệp

Ở Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung, các nước có HTX

nông nghiệp hoạt động, nhà nước đều tiến hành quản lý đối với HTX nông

nghiệp. Hoạt động quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp nhằm mục

đích để cho HTX nông nghiệp hoạt động đúng với thông lệ quốc tế, đúng với

quy định của pháp luật và góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Sự

cần thiết của công tác quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp trong giai

đoạn hiện nay được thể hiện ở một số khía cạnh sau:

hợp tác xã nông nghiệp

Nhà nước ban hành các quy định của pháp luật về HTX nói chung và

HTX nông nghiệp nói riêng để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong lĩnh

vực hợp tác, buộc các đối tượng có liên quan phải chấp hành nhằm làm cho

HTX nông nghiệp phát triển đúng theo quy luật, đúng theo các quy định của

pháp luật và định hướng phát triển HTX của Đảng và Nhà nước. Thông qua

công tác thực thi pháp luật về HTX nhằm tác động để HTX nông nghiệp hoạt

động hiệu quả, mang lại lợi ích cả về kinh tế và xã hội, không chỉ tạo ra

51

phong trào HTX nông nghiệp phát triển mà giúp cho HTX nông nghiệp giữ

đúng được bản chất, hoạt động đúng nguyên tắc và tạo ra những giá trị đặc

trưng của nó. Để bảo đảm các hoạt động của HTX nông nghiệp đúng theo các

quy định của pháp luật:

Thứ nhất, nội dung các quy định phải xuất phát từ yêu cầu thực tế đòi

hỏi trong quá trình tổ chức và hoạt động của HTX nông nghiệp, tránh tình

trạng xa rời thực tiễn. Khi các quy định của pháp luật đáp ứng được yêu cầu

đòi hỏi từ thực tiễn quá trình tổ chức và hoạt động của HTX nông nghiệp sẽ

thúc đẩy mạnh mẽ các HTX nông nghiệp phát triển, đây chính là hành lang

pháp lý quan trọng để các HTX nông nghiệp hoạt động đúng định hướng.

Ngược lại nếu các quy định của pháp luật không đáp ứng được sự đòi hỏi từ

thực tế, điều đó sẽ gây khó khăn cho các HTX nông nghiệp hoạt động, thậm

chí còn cản trở và triệt tiêu sự phát triển của HTX nông nghiệp. Khi đó, nếu

muốn tồn tại thì các HTX nông nghiệp chỉ có cách lách luật, tức là vi phạm

pháp luật về HTX.

Thứ hai, nội dung các quy định của pháp luật có những lĩnh vực quy

định những điều kiện có lợi cho HTX nông nghiệp, tạo ra tính tự giác trong

việc chấp hành; có những lĩnh vực mang tính chất cưỡng chế thì cần phải có

lực lượng tổ chức thi hành và có những lĩnh vực mang tính chất hướng dẫn

cần có lực lượng tư vấn thực hiện.

Thứ ba, phải có một lực lượng đủ mạnh để tổ chức thực thi pháp luật về

HTX, một lực lượng có tâm huyết với phong trào phát triển HTX nông

nghiệp, không sách nhiễu trong việc thực hiện chính sách và tạo điều kiện

thuận lợi nhất cho các HTX nông nghiệp phát triển. Chính vì vậy, việc bảo

đảm cho hoạt động của HTX nông nghiệp đúng theo quy định của pháp luật

có ý nghĩa rất quan trọng trong thực hiện công tác quản lý nhà nước đối với

HTX nông nghiệp.

hợp tác xã nông nghiệp

-

52

Tham gia vào nền kinh tế thị trường có nhiều thành phần kinh tế, trong

đó kinh tế nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, như các tập đoàn, tổng

công ty, công ty liên doanh, hợp danh… là những đơn vị kinh tế có tiềm lực

mạnh về vốn, nhân lực, khoa học kỹ thuật và thường có lợi thế so sánh trong

quá trình cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ hàng hóa, hay khi tham gia

đấu thầu các dự án. Đối với các HTX nông nghiệp, do đặc thù riêng biệt của

việc ra đời, hình thành dựa trên nhu cầu sử dụng dịch vụ của các thành viên

hay nhu cầu liên kết hợp tác kinh tế hộ, rất ít HTX nông nghiệp có tiềm lực

mạnh như các công ty, tập đoàn kinh tế. Các HTX nông nghiệp thường vấp

phải sự cạnh tranh mạnh mẽ của thị trường, đôi khi đó là sự cạnh tranh không

bình đẳng khi tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Nhiều

HTX nông nghiệp đã thất bại ngay từ ban đầu do những điều kiện bất lợi về

vốn, khoa học công nghệ hay kinh nghiệm quản lý. Và điều đó cũng đồng

nghĩa với việc những mục tiêu về xã hội của HTX nông nghiệp cũng không

thể thực hiện được dẫn đến phá sản hoặc ngưng hoạt động. Chính vì vậy, để

phong trào HTX nông nghiệp phát triển mạnh, nhà nước cần tạo điều kiện để

các HTX nông nghiệp tham gia các chương trình dự án phát triển kinh tế xã

hội. Với đặc thù quá trình thành lập HTX nông nghiệp, số đông thành viên và

cán bộ quản lý các HTX nông nghiệp xuất thân từ nông dân, điều kiện kinh tế

còn khó khăn, trình độ quản trị yếu kém, hầu hết trong số đó là lòng quyết

tâm xây dựng HTX nông nghiệp phát triển. Do đó, nếu có sự hỗ trợ của nhà

nước, nhất là tạo điều kiện để các hợp tác xã tham gia các chương trình kinh

tế xã hội sẽ tạo ra cơ hội để các HTX nông nghiệp hoạt động hiệu quả hơn.

Trong thực tế, khi các HTX nông nghiệp được tạo điều kiện thuận lợi tham

gia triển khai các chương trình kinh tế - xã hội, đã tạo ra bước đột phá để các

HTX nông nghiệp phát triển, mang lại hiệu quả to lớn cả về lợi ích, lợi nhuận

và việc làm cho người lao động, khẳng định được vị thế của mình trong nền

kinh tế thị trường, đủ năng lực vươn tầm ra thị trường quốc tế.

hợp tác xã nông

nghiệp

53

Kinh tế tập thể mà nòng cốt là các HTX là một trong các thành phần

kinh tế của nền kinh tế quốc dân, HTX hoạt động không chỉ mang lại hiệu

quả, lợi ích về kinh tế mà còn mang lợi ích về mặt xã hội vô cùng to lớn. Luật

HTX năm 2012 công nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn, thu nhập, các

quyền và lợi ích hợp pháp khác của HTX, liên hiệp HTX. Trường hợp nhà

nước trưng mua, trưng dụng tài sản của HTX, liên hiệp HTX vì lý do quốc

phòng, an ninh hoặc lợi ích quốc gia thì được thanh toán, bồi thường theo quy

định của pháp luật về trưng mua, trưng dụng tài sản. Bảo đảm môi trường sản

xuất, kinh doanh bình đẳng giữa HTX, liên hiệp HTX với các loại hình doanh

nghiệp và tổ chức kinh tế khác. Bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm và

không can thiệp vào hoạt động hợp pháp của HTX, liên hiệp HTX.

Nhà nước không chỉ thừa nhận và bảo hộ các quyền của HTX nông

nghiệp mà còn quy định cụ thể các quyền của HTX nông nghiệp, như: quyền

tự chủ, tự chịu trách nhiệm; quyền liên doanh, liên kết; quyền tham gia các tổ

chức đại diện của HTX… Việc ban hành các quy định về quyền của HTX

nông nghiệp và bảo hộ quyền của HTX nông nghiệp không chỉ thể hiện sự

khẳng định của nhà nước về vai trò quan trọng của HTX nông nghiệp trong

đời sống xã hội mà đây còn là cơ sở pháp lý để các cơ quan nhà nước bảo vệ

quyền lợi cho các HTX nông nghiệp, buộc các tổ chức chính trị xã hội, các

doanh nghiệp và mọi người dân tôn trọng và thực thi.

Làm rõ được sự cần thiết của công tác quản lý nhà nước đối với HTX

nông nghiệp và tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với HTX nông

nghiệp có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy phong trào HTX nông

nghiệp phát triển, làm thay đổi phương thức tổ chức sản xuất của người nông

dân, góp phần nâng cao năng suất lao động, nâng cao thu nhập cho thành viên

và người lao động trong khu vực kinh tế tập thể, góp phần thúc đẩy kinh tế xã

hội phát triển một cách bền vững.

2.2.3. Các nội dung của quản lý nhà nước đối với hợp tác xã nông

nghiệp

54

2.2.3.1. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với hợp tác xã nông

nghiệp

Để thực hiện mục tiêu của phát triển HTX nông nghiệp, nhà nước cần

xây dựng, củng cố và tăng cường sức mạnh của bộ máy quản lý nhà nước với

nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức phù hợp. Việc xây dựng và hoàn thiện

bộ máy quản lý phải tương thích với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát

triển HTX nông nghiệp, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Tổ

chức bộ máy nhà nước quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp phụ thuộc

vào tư duy, mô hình, phương thức quản lý nhà nước. Với tư duy quản lý tập

trung, nhà nước có thể thiết lập các cơ quan quản lý nhà nước để bao quát

toàn diện các hoạt động của các HTX nông nghiệp.

Trên góc độ khoa học hành chính, các nguyên tắc chung trong xây

dựng cơ cấu tổ chức quản lý là: i) có sự phù hợp giữa cơ cấu tổ chức của cơ

quan quản lý với tính phức tạp của chức năng, nhiệm vụ quản lý, tính đa dạng

của các mục tiêu quản lý, quy mô và độ phức tạp của đối tượng quản lý với

các điều kiện quản lý; ii) phạm vi quản lý hiệu quả, khả năng quản lý được;

iii) sự tương xứng nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm; iv) sự linh hoạt và

thích nghi, đáp ứng yêu cầu quản lý sự thay đổi.

Trên cơ sở các nguyên tắc chung đó, bộ máy quản lý nhà nước đối với

HTX nông nghiệp phải được tổ chức thành hệ thống các cơ quan nhà nước từ

Trung ương đến địa phương cơ sở, tạo thành một chỉnh thể đồng bộ để thực

hiện chức năng quản lý nhà nước. HTX nông nghiệp là một tổ chức kinh tế

đồng thời mang tính xã hội và nhân văn sâu sắc, do vậy việc tổ chức các cơ

quan quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp cần phải xem xét tính đặc

thù của nó, không chỉ đơn thuần là quản lý nhà tổ chức kinh tế, mà còn là

quản lý tổ chức xã hội thực hiện các chức năng an sinh xã hội và nhân văn.

Bên cạnh đó, HTX nông nghiệp mới chỉ là một loại hình cơ bản của

HTX, kinh tế tập thể và kinh tế hợp tác, do đó việc tổ chức các cơ quản quản

lý nhà nước cần đặt HTX nông nghiệp trong tổng thể kinh tế tập thể và kinh tế

55

hợp tác trong nông nghiệp và lồng ghép thực hiện các nhiệm vụ phát triển

kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo an sinh xã hội ở nông thôn.

Hoạt động của bộ máy phải bảo đảm kết hợp hài hoà lợi ích giữa Trung

ương và địa phương, giữa trước mắt và lâu dài, kết hợp quản lý theo ngành và

theo lãnh thổ, phát huy sức mạnh tổng hợp trong quản lý, tăng cường vai trò

và quyền hạn của các cấp chính quyền địa phương trong quản lý và phát triển

HTX nông nghiệp.

2.2.3.2. Xây dựng và thực thi chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát

triển hợp tác xã nông nghiệp

Công tác xây dựng và thực thi các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về

phát triển kinh tế - xã hội có ý nghĩa quan trọng, định hướng cho sự ra đời và

phát triển của HTX nông nghiệp. Trước hết, đó là sự thể hiện quan điểm

mang tính tổng thể của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội đất

nước trong từng giai đoạn; trong đó, HTX mà chủ yếu là HTX nông nghiệp là

một loại hình kinh tế - xã hội được đặt trong tổng thể phát triển kinh tế - xã

hội, chịu ảnh hưởng từ các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế

- xã hội đó. Chẳng hạn như, việc nhà nước quy hoạch các vùng sản xuất nông,

lâm, ngư nghiệp là định hướng quan trọng cho sự ra đời và phát triển của

HTX nông nghiệp; chương trình quốc gia về xây dựng nông thôn mới đòi hỏi

các địa phương phải chú trọng phát triển HTX nói chung và HTX nông

nghiệp nói riêng...

Do vậy, việc xây dựng và thực thi các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch

phát triển kinh tế - xã hội cần quan tâm các nội dung sau:

- Cần xem xét phát triển kinh tế hợp tác, HTX và đặc biệt là HTX nông

nghiệp là một nội dung quan trọng trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch

phát triển kinh tế xã hội từng giai đoạn phát triển. Điều này một mặt thể hiện

quan điểm nhất quán, lâu dài trong phát triển HTX nông nghiệp của Đảng và

Nhà nước Việt Nam, mặt khác thể hiện vai trò quan trọng của HTX nông

nghiệp trong phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay.

56

- Cần có chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển HTX nông nghiệp

trong tổng thể chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của

đất nước.

- Đối với các địa phương, trên cơ sở các đặc thù của địa phương mình,

cần có các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển từng loại hình HTX

nông nghiệp hoặc các mô hình HTX nông nghiệp phù hợp, nhằm khai thác tốt

tiềm năng, thế mạnh và đặc điểm văn hóa, xã hội của từng địa phương.

2.2.3.3. Ban hành và thực thi pháp luật có liên quan đến phát triển hợp

tác xã nông nghiệp

Tạo lập thể chế là đặc điểm quan trọng của quản lý nhà nước. Thể chế

có vai trò thiết lập hành lang cho sự vận động của các đối tượng, các chủ thể

liên quan. Ở tầm vĩ mô, thể chế và hiệu lực của thể chế có vai trò quan trọng

và quyết định đối với phát triển quốc gia. HTX nông nghiệp vừa là một tổ

chức kinh tế đặc thù vừa mang tính văn hóa và xã hội sâu sắc. Do vậy, HTX

nông nghiệp chỉ được hình thành và phát triển khi có môi trường pháp lý phù

hợp và thuận lợi.

Trước hết, trên phương diện vĩ mô, sự công nhận của nhà nước đối với

HTX nông nghiệp là cơ sở để HTX nông nghiệp có tư cách pháp nhân - một

điều kiện hết sức cần thiết cho sự hoạt động của HTX nông nghiệp trong điều

kiện phát triển KTTT và HNQT hiện nay.

Thứ hai, sự công nhận địa vị pháp lý của HTX nông nghiệp sẽ tạo cơ sở

pháp lý cho các hộ nông dân hợp tác để kinh doanh và tương trợ lẫn nhau theo

mô hình HTX.

Thứ ba, nhà nước xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật có liên quan

đến hoạt động của HTX nông nghiệp để bảo đảm rằng, nhà nước có công cụ

quản lý các HTX nông nghiệp một cách hiệu quả.

Thứ tư, thể chế nhằm hướng dẫn các nghiệp vụ liên quan đến quản lý

nhà nước đối với HTX nông nghiệp.

Với tư cách là một chủ thể hoạt động trong kinh tế thị trường, HTX

nông nghiệp cần có một thể chế thích ứng, gồm các nội dung cơ bản sau:

57

- Pháp luật về địa vị pháp lý của HTX nông nghiệp, gồm Luật HTX và

các văn bản thi hành.

- Pháp luật về các quan hệ của HTX nông nghiệp, gồm: quan hệ về sử

dụng đất đai, quan hệ về sử dụng lao động; quan hệ về hợp tác, liên kết kinh

tế; quan hệ về thực hiện các nghĩa vụ đối với nhà nước; quan hệ về việc thực

hiện các quy định về bảo vệ môi trường, đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã

hội...

- Pháp luật về thẩm quyền của các cơ quan nhà nước trong quản lý

HTX nông nghiệp.

Hệ thống pháp luật sẽ tạo ra hành lang và điều kiện thích hợp cho HTX

nông nghiệp phát triển.

2.2.3.4. Ban hành và thực thi các chính sách phát triển hợp tác xã nông

nghiệp

HTX nông nghiệp là một tổ chức yếu thế của các hộ nông dân, hơn nữa

là một tổ chức kinh tế kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp - một ngành sản

xuất có nhiều rủi ro, nên cần có sự hỗ trợ của nhà nước thông qua các chính

sách và các công cụ quản lý vĩ mô.

Phát triển HTX nông nghiệp không những có ý nghĩa quan trọng về

kinh tế, mà còn có ý nghĩa quan trọng về văn hóa và xã hội sâu sắc. HTX

nông nghiệp là tổ chức kinh tế, đồng thời cũng là tổ chức xã hội của những

người lao động, các hộ gia đình, các cơ sở sản xuất nhỏ. Đây là lực lượng xã

hội to lớn, đông đảo, nhưng đồng thời họ phần lớn là những người khó khăn,

những người nghèo, những người hạn chế về vốn, về kỹ thuật và về công

nghệ, luôn bị chèn ép, thậm chí bị bóc lột và thường ở thế yếu trong điều kiện

của cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt. Để khắc phục những khó khăn, thế

yếu của mình, những người lao động, các hộ gia đình, các cơ sở sản xuất nhỏ

tự phải tập hợp lại, liên kết với nhau để phát triển kinh tế, giải quyết những

vấn đề đời sống, văn hoá, xã hội của mình, của cộng đồng và thúc đẩy phát

triển kinh tế, xã hội công bằng và bền vững. Do vậy, nhà nước cần có chính

sách hỗ trợ đối với HTX nông nghiệp. Những chính sách hỗ trợ của nhà nước

58

đối với HTX nông nghiệp trước hết nhằm mục tiêu thu hút ngày càng nhiều

các lực lượng lao động, nhất là những hộ nông dân, những người thợ thủ

công, các cơ sở sản xuất nhỏ tham gia xây dựng HTX nông nghiệp; khuyến

khích, hỗ trợ để HTX nông nghiệp vươn lên, đẩy mạnh hoạt động sản xuất,

kinh doanh và giúp đỡ xã viên với hiệu quả cao nhất, góp phần phát triển kinh

tế - xã hội đất nước theo định hướng XHCN. Các chính sách đó không phải là

bao cấp, không nhằm tạo chỗ dựa để HTX nông nghiệp ỷ lại, trông chờ vào

nhà nước, làm yếu đi tính năng động, sáng tạo, tính tự chủ, tự chịu trách

nhiệm của HTX nông nghiệp, mà nhằm tạo những điều kiện cần thiết cho

HTX nông nghiệp đổi mới và không ngừng phát triển, tạo ra sự bình đẳng

giữa HTX nông nghiệp với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế

khác nhau.

Trong cơ chế thị trường, nhà nước dựa vào hệ thống pháp luật và hệ

thống chính sách để quản lý và điều chỉnh mối quan hệ giữa các ngành, các

lĩnh vực, giữa các vùng, giữa các thành phần kinh tế, giữa phát triển kinh tế

và xã hội... nhằm bảo đảm cho nền kinh tế phát triển cân đối, hài hòa, ổn định,

bền vững và bảo đảm công bằng xã hội theo định hướng XHCN. Việc nhà

nước thực hiện chính sách hỗ trợ đối với HTX không làm ảnh hưởng đến sự

bình đẳng giữa HTX nông nghiệp với các doanh nghiệp. Chính sách hỗ trợ

của nhà nước đối với HTX không ngoài mục đích nhằm bảo đảm địa vị pháp

lý và điều kiện để HTX có thể thực sự bình đẳng với các loại hình doanh

nghiệp, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của HTX nông nghiệp.

Các chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với HTX nông nghiệp cần

nhằm vào các lĩnh vực sau:

- Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực.

- Xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường.

- Ứng dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới.

- Tiếp cận vốn và quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã.

- Tạo điều kiện tham gia các chương trình mục tiêu, chương trình phát

triển kinh tế - xã hội.

59

- Thành lập mới HTX.

Ngoài các chính sách hỗ trợ nêu trên, nhà nước còn có các chính sách

ưu đãi đối với HTX nông nghiệp (vì nông nghiệp là một lĩnh vực rủi ro cao,

lợi nhuận thấp, nhưng có vai trò to lớn), bao gồm:

- Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp và các loại thuế khác theo quy

định của pháp luật về thuế.

- Ưu đãi về đăng ký HTX theo quy định của pháp luật về phí và lệ phí.

Đặc biệt các HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp còn được

hưởng chính sách hỗ trợ, ưu đãi riêng, gồm:

- Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng.

- Giao đất, cho thuê đất để phục vụ hoạt động của hợp tác xã, liên hiệp

hợp tác xã theo quy định của pháp luật về đất đai.

- Ưu đãi về tín dụng.

- Vốn, giống khi gặp khó khăn do thiên tai, dịch bệnh.

- Chế biến sản phẩm.

2.2.3.5. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm trong

hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp

Thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm là một chức năng quan

trọng trong hoạt động quản lý nhà nước, nhằm phát hiện những hành vi vi

phạm pháp luật, những thiếu sót trong trong hoạt động của các cơ quan, tổ

chức, cá nhân; qua đó áp dụng các biện pháp xử lý, khắc phục những thiếu sót

nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước. Mặc dù có nhiều cách

hiểu khác nhau, nhưng suy cho cùng mục đích của việc thanh tra, kiểm tra,

giám sát và xử lý vi phạm là phát hiện hoặc phòng ngừa những vi phạm, góp

phần thúc đẩy và hoàn thành nhiệm vụ trong hoạt động quản lý nhà nước.

HTX nông nghiệp là tổ chức vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã

hội sâu sắc, có vai trò lớn trong phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là trong

điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay; vì vậy,

việc thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm trong hoạt động

của HTX nông nghiệp là một chức năng quan trọng của quản lý nhà nước đối

60

với HTX nông nghiệp hiện nay, không những ảnh hưởng trực tiếp đến phát

triển HTX nông nghiệp mà còn ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế - xã hội,

đảm bảo an sinh xã hội ở nông thôn.

Hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm pháp luật trong

hoạt động của HTX nông nghiệp được thực hiện nhằm các mục đích:

Thứ nhất, thông qua hoạt động này để đánh giá về hiệu lực, hiệu quả

thể chế quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp. Kiểm tra, thanh tra, giám

sát giúp các cơ quan quản lý nhà nước có thông tin về tính hợp lý, tính khả thi

của các quy định pháp luật. Sự phản hồi từ thực tiễn là cơ sở để hoàn thiện thể

chế quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp.

Thứ hai, thanh tra, kiểm tra, giám sát phát hiện và xử lý kịp thời các vi

phạm pháp luật trong hoạt động của HTX nông nghiệp như: việc tổ chức, địa

vị pháp lý, mối quan hệ của HTX nông nghiệp; việc thực hiện các chính sách

hỗ trợ phát triển các HTX nông nghiệp... Cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát

tạo ra áp lực đối với các cơ quan quản lý nhà nước, HTX nông nghiệp và các

chủ thể khác phải tuân thủ các quy định của pháp luật, tạo tiền đề đảm bảo

hiệu quả hoạt động của HTX nông nghiệp.

Nội dung công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm trong

hoạt động của HTX nông nghiệp gồm:

- Thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật trong tổ chức và

hoạt động của HTX nông nghiệp.

- Thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chính sách hỗ trợ phát

triển HTX nông nghiệp.

- Xử lý các vi phạm về đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và

Nhà nước đối với hoạt động của HTX nông nghiệp.

2.2.4. Các yếu tố tác động đến quản lý nhà nước đối với hợp tác xã

nông nghiệp

2.2.4.1. Các yếu tố khách quan

Một là, yêu cầu của phát triển KTTT và HNQT.

61

Quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp cần có cách tiếp cận từ

yêu cầu quản lý một loại hình tổ chức kinh tế - xã hội đặc thù trong điều kiện

phát triển KTTT và HNQT; có nghĩa là, đòi hỏi cao về năng lực cạnh tranh

mang tính quốc tế của các sản phẩm sản xuất - kinh doanh, phục vụ mà HTX

nông nghiệp cung cấp. Như vậy, nhà nước cần tư duy lại mục tiêu của HTX

nông nghiệp, đồng thời trong quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp,

nhà nước cũng cần tăng cường sự ảnh hưởng, tăng cường sự tham gia của thị

trường trong nước và quốc tế, của cộng đồng xã hội đối với HTX nông nghiệp

để có thông tin nhu cầu thị trường, kết nối giữa nhu cầu thị trường với năng

lực của HTX nông nghiệp.

Hai là, trách nhiệm của các HTX nông nghiệp.

Quản lý là sự tương tác giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý. Hiệu

quả quản lý phụ thuộc vào hiệu quả tác động đến đối tượng quản lý. Nhà nước

thực hiện vai trò quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp, nhưng hiệu quả

hoạt động của các HTX nông nghiệp gắn với điều kiện cụ thể của từng HTX

nông nghiệp. Việc các HTX nông nghiệp tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc tổ

chức và hoạt động và các quy định của nhà nước sẽ góp phần khẳng định hiệu

quả quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp. Ngược lại, khi các HTX

nông nghiệp thực hiện các nguyên tắc cơ bản và các quy định pháp luật của

nhà nước mang tính hình thức, đối phó, thì hiệu quả quản lý nhà nước đối với

HTX nông nghiệp tất yếu sẽ giảm. Chính vì vậy, để nâng cao hiệu quả quản lý

nhà nước đối với HTX nông nghiệp, nhà nước phải thiết lập cơ chế để duy trì

và nâng cao trách nhiệm của các HTX nông nghiệp, bảo đảm cho các HTX

nông nghiệp có trách nhiệm thực hiện các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và

hoạt động và tuân thủ nghiêm những quy định của pháp luật.

2.2.4.2. Các yếu tố chủ quan

Một là, tư duy quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp.

Tư duy quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp có tác động trực

tiếp và toàn diện đến hiệu quả quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp.

Tư duy quản lý nhà nước sẽ quy định nội dung, phương thức quản lý nhà

62

nước đối với HTX nông nghiệp. Tư duy quản lý nhà nước về đối tượng quản

lý là HTX nông nghiệp với tư cách là một tổ chức kinh tế hay tổ chức xã hội

hoặc tổ chức đặc thù sẽ có sự khác biệt lớn trong nội dung quản lý. Tư duy

đúng về vai trò, vị trí của nhà nước đối với HTX nông nghiệp sẽ tạo điều kiện

cho cơ quan quản lý nhà nước tập trung vào những vấn đề mang tính chiến

lược, chuyển từ tư duy quản lý hành chính đơn thuần sang kiến tạo cho sự

phát triển của HTX nông nghiệp.

Hai là, phương thức, cách thức quản lý nhà nước đối với HTX nông

nghiệp

Phương thức, cách thức quản lý là nhân tố tác động đến hiệu quả quản

lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp trên nhiều phương diện. Việc lựa chọn

phương thức quản lý tác động đến tổ chức bộ máy, khung thể chế quản lý nhà

nước. Nếu nhà nước quản lý bằng cách thức can thiệp sâu vào hoạt động của

các HTX nông nghiệp, với cách quản lý theo kiểu quyết định các vấn đề của

sản xuất - kinh doanh, phục vụ của HTX nông nghiệp, thì tổ chức bộ máy,

khung thể chế sẽ có sự khác biệt khi nhà nước thừa nhận quyền tự chủ của các

HTX nông nghiệp. Nếu nhà nước quản lý bằng việc can thiệp sâu vào các

HTX nông nghiệp, thì bộ máy quản lý sẽ cồng kềnh và cũng khó khăn trong

việc có thể bao quát toàn bộ hoạt động của các HTX nông nghiệp. Ngược lại,

nhà nước thừa nhận quyền tự chủ của các HTX nông nghiệp, bộ máy quản lý

nhà nước sẽ có những thay đổi, có thể có quy mô nhỏ hơn, nhà nước có điều

kiện tập trung sâu hơn vào các nhiệm vụ thuộc về chức năng bản chất của

mình. Điều này có thể đem đến những điều kiện thuận lợi cho nhà nước quản

lý hiệu quả hơn đối với HTX nông nghiệp.

Ba là, năng lực quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp.

Năng lực quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp được thể hiện

qua năng lực thể chế, chính sách và năng lực cán bộ, công chức. Năng lực thể

chế, chính sách có thể hiểu là năng lực của các cơ quan nhà nước hoàn thành

các chức năng, nhiệm vụ của mình. Năng lực thể chế, chính sách được thể

hiện trên nhiều phương diện, trong đó nhấn mạnh đến năng lực xây dựng và

63

thực hiện thành công thể chế, chính sách. Quá trình này đồng thời gắn liền với

việc tổ chức hợp lý bộ máy và bảo đảm hiệu quả hoạt động của bộ máy quản

lý nhà nước.

Từ góc độ khác, thể chế, chính sách phát triển HTX nông nghiệp là

nhân tố quan trọng trong quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp. Khung

thể chế, chính sách là sự cụ thể hoá tư duy, chủ trương, định hướng phát triển

HTX nông nghiệp. Định hướng đúng, tư duy đúng cần được thể chế hoá thành

chính sách, pháp luật. Sự đồng bộ của hệ thống thể chế, chính sách quản lý

nhà nước đối với HTX nông nghiệp có tác động trực tiếp đến sự phát triển

lành mạnh của HTX nông nghiệp, bảo đảm sự vận động của các HTX nông

nghiệp theo hướng chất lượng, hiệu quả. Cùng với năng lực thể chế, chính

sách, quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp phụ thuộc vào năng lực của

đội ngũ làm công tác quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp. Cán bộ,

công chức chính là chủ thể tham gia vào quá trình xây dựng các chính sách,

pháp luật liên quan đến phát triển HTX nông nghiệp, đồng thời, là chủ thể tổ

chức thực hiện các chính sách, pháp luật này trong thực tiễn. Năng lực của đội

ngũ cán bộ, công chức quản lý HTX nông nghiệp tương xứng với yêu cầu

nhiệm vụ sẽ đảm bảo hiệu quả quản lý, thúc đẩy sự phát triển HTX nông

nghiệp. Ngược lại, năng lực quản lý yếu kém, thì hiệu quả quản lý nhà nước

đối với HTX nông nghiệp sẽ bị hạn chế.

Bốn là, hiệu quả của hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi

phạm trong hoạt động của HTX nông nghiệp.

Thanh tra, kiểm tra, giám sát là một khâu quan trọng của quá trình quản

lý nhà nước. Thanh tra, kiểm tra, giám sát một mặt giúp cho cơ quan quản lý

nhà nước đối với HTX nông nghiệp phát hiện kịp thời những sai phạm trong

tổ chức và hoạt động của các HTX nông nghiệp; mặt khác, đây cũng chính là

kênh để cơ quan quản lý nhà nước đánh giá hiệu quả chính sách, pháp luật, có

được những thông tin xác thực để hoàn thiện khung thể chế, chính sách phát

triển HTX nông nghiệp. Hoạt động thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong

hoạt động của HTX nông nghiệp còn là công cụ tạo áp lực cho các tổ chức, cá

64

nhân trong việc tuân thủ pháp luật, thực hiện các quy định của nhà nước về

phát triển HTX nông nghiệp.

2.2.5. Sự cần thiết khách quan của hoàn thiện quản lý nhà nước đối

với hợp tác xã nông nghiệp

Theo Đại từ điển tiếng Việt "hoàn thiện là tốt đẹp đến mức trọn vẹn".

Với tư cách là một động từ "làm cho hoàn thiện"[1.tr822].

Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp là hoạt động

làm cho các nội dung của quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp trở nên

tốt đẹp đến mức trọn vẹn nhằm mục tiêu nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản

lý nhà nước và thúc đẩy phát triển các HTX nông nghiệp đáp ứng yêu cầu

phát triển kinh tế - xã hội đất nước trong điều kiện phát triển kinh tế thị

trường và hội nhập quốc tế hiện nay.

Nội dung cơ bản của hoàn thiện quản lý nhà nước đối với HTX nông

nghiệp là hoàn thiện các nội dung của quản lý nhà nước đối với HTX nông

nghiệp, bao gồm: Hoàn thiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển HTX

nông nghiệp; Hoàn thiện pháp luật có liên quan đến phát triển HTX nông

nghiệp; Hoàn thiện các chính sách phát triển HTX nông nghiệp; Nâng cao

hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm trong hoạt

động của HTX nông nghiệp; Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối

với HTX nông nghiệp.

Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp ở Việt Nam

hiện nay là một tất yếu khách quan, xuất phát từ những lý do sau đây:

Thứ nhất, xuất phát từ yêu cầu xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang

đặt ra yêu cầu cơ bản là phải có được một nền hành chính gọn về tổ chức, rõ

về chức năng, nhiệm vụ và hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động. Cụ thể là, phải

xây dựng và hoàn thiện hệ thống bộ máy hành chính nhà nước thống nhất từ

Trung ương đến cơ sở, đảm bảo cho toàn bộ hệ thống này hoạt động có hiệu

lực, hiệu quả, đủ mạnh để hoàn thiện các chức năng của quyền hành pháp;

65

bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật đối với nhà nước và đời sống

xã hội; thống nhất quản lý hành chính nhà nước về kinh tế, xã hội, an ninh

quốc phòng, trật tự an toàn xã hội và đối ngoại; thi hành những biện pháp hữu

hiệu bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tạo điều kiện để

công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, bảo vệ tài sản, lợi ích của

nhà nước, xã hội và bảo vệ môi trường.

Tuy hệ thống thể hành chính nhà nước đã đạt được những kết quả tiến

bộ, quan trọng, nhưng vẫn đang còn nhiều yếu kém, bất hợp lý, thiếu đồng bộ

chưa đáp ứng tốt yêu cầu của tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất

nước. Trong đó có thể chế hành chính cho tổ chức và hoạt động của HTX

nông nghiệp, có thể chế cho hoạt động quản lý nhà nước đối với HTX nông

nghiệp.

Trong cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính nhà nước, tuy đầu mối trực

thuộc Chính phủ có giảm, nhưng bộ máy bên trong các bộ, ngành thì phình ra.

Bộ máy chính quyền địa phương thiếu ổn định, hay thay đổi. Chức năng,

nhiệm vụ đôi khi còn chồng chéo, nhất là chức năng, nhiệm vụ của các bộ,

ngành trong quản lý HTX nói chung và HTX nông nghiệp nói riêng.

Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức còn yếu kém, hạn chế cả về

phẩm chất, năng lực và uy tín chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của thời

kỳ mới, trong đó có đội ngũ cán bộ, công chức trực tiếp thực hiện nhiệm vụ

quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp.

Thứ hai, xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng

xã hội chủ nghĩa.

Theo quan niệm của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII: Nền KTTT

định hướng XHCN Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo

các quy luật của KTTT, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù

hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền KTTT hiện đại và

HNQT; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản

Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công

bằng, văn minh".

66

Về bản chất, nền KTTT định hướng XHCN Việt nam là nền kinh tế

hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của

Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vừa vậng động theo những

quy luật của KTTT, vừa được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản

chất của CNXH.

Điều đó đặt ra đối với HTX nông nghiệp - với tư cách là một chủ thể

kinh tế trong nền KTTT phải được tự chủ sản xuất kinh doanh. Mặt khác, với

tư cách là một chủ thể kinh tế trong nền KTTT, HTX nông nghiệp cùng với

các chủ thể kinh tế khác vừa hợp tác, vừa cạnh tranh nhau và hướng đến mục

tiêu tìm kiếm lợi nhuận, lợi ích.

Do vậy, phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay đang

đặt ra yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động của

HTX nông nghiệp, đảm bảo quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, phù hợp với

điều kiện vừa hợp tác vừa cạnh tranh của HTX nông nghiệp trên thị trường.

Thứ ba, xuất phát từ yêu cầu hội nhập quốc tế hiện nay.

HNQT là một xu thế lớn, tất yếu của thế giới cũng đồng thời chỉ ra con

đường phát triển không thể nào khác đối với các nước trong thời đại toàn cầu

hóa là tham gia hội nhập quốc tế.

Tham gia HNQT, các quốc gia có thể thu được nhiều lợi ích, như: mở

rộng thị trường để thúc đẩy thương mại và các quan hệ kinh tế quốc tế khác,

từ đó thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội; tạo động lực thúc

đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, từ đó

nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh; giúp nâng cao trình độ của nguồn

nhân lực; tạo cơ hội để các cá nhân được thụ hưởng các sản phẩm hàng hóa,

dịch vụ đa dạng về chủng loại, mẫu mã và chất lượng với giá cạnh

tranh;v.v...

Tuy nhiên, hội nhập không chỉ đưa lại những lợi ích, trái lại, nó cũng

đặt các nước trước nhiều bất lợi và thách thức, trong đó có những bất lợi,

thách thức ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của HTX nông nghiệp, như:

(1)HNQT mà trước hết là hội nhập kinh tế làm gia tăng cạnh tranh cho nền

67

kinh tế và các đơn vị kinh tế. HTX nông nghiệp với tư cách là một tổ chức

kinh tế có thể gặp khó khăn, thậm chí là phá sản, từ đó gây nhiều hậu quả về

mặt kinh tế - xã hội. (2)Hội nhập làm tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc

gia vào thị trường bên ngoài và, do vậy, HTX nông nghiệp có thể dễ bị tổn

thương trước những biến động của thị trường quốc tế.

Bên cạnh đó, HNQT cũng đặt ra yêu cầu phải hoàn thiện hệ thống thể

chế, pháp luật của mỗi quốc gia cho tương thích với hệ thống pháp luật quốc

tế, trong đó có hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động của HTX nông

nghiệp và quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp.

Thứ tư, xuất phát từ vai trò của HTX nông nghiệp trong phát triển kinh

tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay.

HTX là tổ chức tự chủ, tự giúp đỡ nhau của “người” chứ không phải là

“vốn”. Đây là nguyên tắc mang tính nhân văn của HTX, làm cho nhiều HTX

nói riêng và phong trào HTX quốc tế nói chung tồn tại lâu dài, liên tục trong

gần 200 năm qua. Với ý nghĩa như vậy, HTX nói chung và HTX nông nghiệp

nói riêng có vai trò to lớn về kinh tế, xã hội và văn hóa. HTX nông nghiệp

vừa phát huy vai trò của khu vực tư nhân vừa tăng cường sức mạnh tập thể,

cộng đồng; đó là sự gắn kết giữa người sở hữu và người sử dụng sản phẩm,

giữa người chủ và người làm thuê, giữa người bán và người mua trong cơ chế

kinh tế thị trường; là sự kết hợp hài hòa giữa sự tự lực của nông dân và sự trợ

giúp của nhà nước, kết hợp giữa nhà nước và thị trường; và là một thể chế

kinh tế phù hợp với cơ chế thị trường.

Với vai trò to lớn như vậy, việc hoàn thiện quản lý nhà nước đối với

HTX nông nghiệp nhằm phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các

HTX nông nghiệp ở Việt nam hiện nay là cần thiết khách quan.

Thứ năm, xuất phát từ những hạn chế, tồn tại trong quản lý nhà nước

đối với HTX nông nghiệp ở Việt Nam thời gian qua.

Có thể nói rằng, công tác quản lý nhà nước đối với khu vực kinh tế tập

thể nói chung và HTX nói riêng gần như buông lỏng. Trước khi có Nghị

quyết Trung ương 5 khóa IX, bộ máy quản lý nhà nước đối với HTX hầu như

68

chưa được thành lập ở cả cấp Trung ương và địa phương. Sau khi có Nghị

quyết, mới quy định chức năng, nhiệm vụ và bố trí cán bộ, công chức cho các

bộ, ngành và địa phương thực hiện quản lý HTX nông nghiệp. Tuy vậy, công

tác quản lý nhà nước đối với HTX hiện nay vẫn có nhiều tồn tại, hạn chế,

như: sự chồng chéo trong tổ chức bộ máy quản lý nhà nước, vấn đề năng lực

của cán bộ, công chức và việc triển khai thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo

quy định của pháp luật.

Điều đó đặt ra là, phải khẩn trương kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước

từ Trung ương đến cơ sở đảm bảo thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo quy

định của pháp luật; phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và xử lý các

HTX nông nghiệp vi phạm pháp luật; đồng thời cần hoàn thiện khung khổ

pháp lý để đảm bảo quyền độc lập, tự chủ của HTX nông nghiệp.

2.3. Kinh nghiệm quản lý nhà nƣớc đối với hợp tác xã nông nghiệp

của một số nƣớc và bài học cho Việt Nam

2.3.1. Kinh nghiệm của một số nước

- Kinh nghiệm của Canada

Canada hiện có khoảng 80% nông dân tham gia HTX nông nghiệp, tạo

việc làm cho 92.000 lao động, có tổng tài sản tương đương 173 tỷ đô la.

Trong quản lý, phát triển HTX nông nghiệp, Canada công nhận và đề

cao bảy nguyên tắc HTX do Liên minh HTX quốc tế (ICA) khuyến nghị,

quán triệt đầy đủ vào Luật HTX của liên bang. Có luật chung cho năm loại

hình HTX, nhưng có các quy định riêng cho mỗi loại HTX cho chúng vận

hành và phát triển tốt nhất. Tăng cường tính phân biệt giữa HTX với các pháp

nhân và tổ chức khác bảo đảm Luật HTX khác hẳn với Luật công ty, Luật về

hội.

Về thủ tục, Canada giảm nhẹ các quy định về văn bản và ý kiến đòi hỏi,

đơn giản hóa về mặt hành chính đối với việc công khai hợp pháp hóa các

doanh nghiệp, cơ chế chuyển tiếp tư cách của tổ chức có mục đích không lợi

nhuận sang tư cách HTX.

69

Chính sách hỗ trợ cho HTX nông nghiệp ở Canada có đặc điểm là hỗ

trợ trực tiếp, tức là dựa vào kết quả và được tiến hành bởi một tổ chức chuyên

nghiệp. Ngoài ra, còn tổ chức đào tạo, thông tin về Luật HTX và các vấn đề

liên quan đối với các HTX nông nghiệp, đảm bảo cho tất cả mọi tổ chức, cá

nhân hiểu rõ và thực thi thống nhất Luật HTX.

- Kinh nghiệm của Hoa Kỳ

Ở Hoa Kỳ, các HTX nông nghiệp được hình thành tự nguyện và nhận

được sự giúp đỡ về mọi mặt của nhà nước. Các HTX nông nghiệp ở Hoa Kỳ

đóng vai trò quan trọng trong việc phổ biến kiến thức nông nghiệp, tăng khả

năng tiếp thị cho nông dân, trợ giúp tín dụng, góp phần quan trọng tạo nên

một nền nông nghiệp phát triển cao và có hiệu quả ở quốc gia này.

Kinh nghiệm trong phát triển HTX nông nghiệp là, đa dạng hóa các

loại hình HTX nông nghiệp đáp ứng tốt yêu cầu phát triển của các hộ nông

dân, gồm các loại hình: HTX tiếp thị nông nghiệp; HTX cung ứng nông

nghiệp; HTX dịch vụ nông nghiệp. Tổ chức các HTX nông nghiệp thành hệ

thống liên kết với nhau theo ba cấp: HTX nông nghiệp cơ sở với xã viên là hộ

nông dân; HTX liên kết khu vực do các HTX nông nghiệp cơ sở liên kết theo

lãnh thổ, khu vực (xã viên là HTX); HTX liên kết giữa HTX nông nghiệp cơ

sở và HTX liên kết vùng (xã viên là nông dân và HTX).

- Kinh nghiệm của Pháp

Ở Pháp HTX nông nghiệp đóng một vai trò kinh tế quan trọng trong

ngành kinh doanh nông sản. Đóng góp doanh thu gần 100 tỷ euro trên toàn

cầu, thu hút hơn 150.000 lao động, duy trì việc làm ở khu vực nông thôn và là

yếu tố chủ động trong phát triển nông thôn.

Pháp xác định chức năng đầu tiên của nhà nước trong lĩnh vực này là

thiết lập và thông qua khung pháp lý áp dụng cho HTX nông nghiệp. Đây là

nhiệm vụ chủ yếu của Bộ Nông nghiệp, tuy nhiên các bộ, ngành khác cũng có

trách nhiệm liên quan, đặc biệt là Bộ Kinh tế, Bộ Tư pháp đối với Luật Công

ty và Luật Thương mại.

70

Về chứng nhận hoạt động. Đơn vị đăng ký phải nộp đơn cho cơ quan

hành chính có thẩm quyền. Một ủy ban đặc biệt (Ủy ban khu vực về các định

hướng nông nghiệp hoặc Ủy ban trung ương về chứng nhận hoạt động HTX)

bao gồm đại diện các cơ quan hành chính và chuyên môn sẽ xem xét đơn đề

nghị và đưa ra các kiến nghị. Quyết định cuối cùng sẽ được cơ quan có thẩm

quyền thông qua.

Về quản lý, kiểm tra. Hàng năm, các HTX nông nghiệp phải trình lên

cơ quan đã cấp giấy chứng nhận các báo cáo thể hiện hoạt động của mình phù

hợp với các quy định của pháp luật về HTX. Báo cáo này phải bao gồm cả

bản photocopy các quyết định của Đại hội xã viên, các tài liệu trình bày tại

Đại hội xã viên cho các xã viên thẩm tra, báo cáo tổng kết về tình hình tài

chính và quản lý HTX, báo cáo kiểm toán.

- Kinh nghiệm của Đức

Cộng hòa Liên bang Đức được coi là một trong những cái nôi đầu tiên

của HTX ở châu Âu, đến nay Đức vẫn một hệ thống HTX vững mạnh với

khoảng hơn 5.500 HTX, đặc biệt là trong khu vực nông nghiệp, nông thôn.

Chính sách phát triển HTX của Đức có một số lưu ý:

Các HTX được thành lập hoàn toàn trên cơ sở tự nguyện, hoạt động

theo nguyên tắc công khai, tự quản lý, tự chịu trách nhiệm. Các dịch vụ của

HTX đối với xã viên là hỗ trợ mang tính kinh tế, đem lại lợi ích kinh tế trực

tiếp lẫn lâu dài cho họ.

Đức chú trọng xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý và chính sách

nhằm tạo thuận lợi cho các HTX phát triển. HTX được đối xử hoàn toàn bình

đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác hoạt động trong cùng lĩnh vực.

Bình đẳng về mọi quyền lợi cũng như mọi nghĩa vụ theo luật định.

Nhà nước quy định tỷ lệ vốn góp tối thiểu và tối đa để không có những

thành viên góp vốn lớn đến mức chi phối, gây sức ép đối với HTX (từ 0.1%

đến 3%).

Chú trọng các biện pháp hỗ trợ gián tiếp như phát triển hạ tầng, đào tạo

kiến thức, tay nghề cho nông dân... Để tạo thuận lợi cho các HTX trong quan

71

hệ với các đối tác kinh doanh, trong vay vốn ngân hàng cũng như làm tốt

công tác quản lý nhà nước đối với các HTX, Đức đã minh bạch hóa hoạt động

của HTX thông qua quy định về kiểm toán bắt buộc hàng năm đối với tất cả

các HTX do Hiệp hội HTX thực hiện (điều này được quy định trong Luật

HTX của Đức).

- Kinh nghiệm của Nhật Bản

HTX nông nghiệp ở Nhật bản thu hút được sự tham gia của hầu hết

nông dân và được tổ chức thành hệ thống ba cấp: HTX cơ sở, các liên hiệp và

các liên đoàn quốc gia.

Để thúc đẩy các HTX nông nghiệp phát triển, Nhật Bản đặc biệt chú

trọng xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về HTX.

Các biện pháp và chính sách của Nhật Bản đối với các HTX nông

nghiệp luôn được cân nhắc kỹ lưỡng để không làm ảnh hưởng đến tính tự chủ

và độc lập của HTX.

Chính phủ Nhật Bản tăng cường xã hội hóa hệ thống phục vụ nông

nghiệp, coi HTX nông nghiệp là một trong những hình thức phục vụ xã hội

hóa tốt nhất đối với nông nghiệp, đồng thời yêu cầu các cấp các ngành giúp

đỡ và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các HTX nông nghiệp.

- Kinh nghiệm của Ấn Độ

Ấn Độ là nơi phát triển HTX sớm nhất ở châu Á. Chỉ tính riêng HTX

nông nghiệp đã có gần 500.000 HTX với hơn 200 triệu xã viên, chiếm 67%

hộ gia đình ở các làng xã. Chính sách phát triển HTX ở Ấn Độ có những điểm

đáng chú ý sau:

Chú trọng xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về HTX theo hướng

bảo đảm cho các HTX hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự lực, dân chủ

và đặt mục tiêu phục vụ xã viên lên hàng đầu.

HTX ở Ấn Độ được tổ chức thành hệ thống rộng khắp đất nước, trong

đó Liên minh HTX quốc gia Ấn Độ (NCUI) là tổ chức cao nhất, đại diện cho

toàn bộ HTX ở Ấn Độ. Mục tiêu chính của NCUI là hỗ trợ và phát triển

phong trào; nhiệm vụ chính của NCUI là thực hiện công tác đào tạo với hệ

72

thống ba cấp: Viện đào tạo quốc gia; Viện đào tạo cấp tỉnh; Trung tâm đào tạo

cấp huyện, quận.

Chính phủ Ấn Độ thành lập công ty quốc gia phát triển HTX. Công ty

này thực hiện nhiều dự án khác nhau để giúp các HTX chế biến, bảo quản,

tiêu thụ nông, lâm sản cũng như phát triển các vùng nông thôn lạc hậu.

- Kinh nghiệm của Trung Quốc

Lịch sử phát triển HTX ở Trung Quốc khá thăng trầm. Mặc dù HTX ra

đời khá sớm ở Trung Quốc với mô hình ban đầu là HTX cung tiêu (năm

1920) với các xã viên chủ chốt là nông dân, nhưng các HTX chỉ phát triển

mạnh sau khi nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa ra đời. Năm 1952,

Trung Quốc có 33.000 HTX cung tiêu; năm 1958, 100% các cộng đồng nông

dân đã tổ chức thành HTX nông nghiệp. Sau đó 750.000 HTX nông nghiệp đã

sáp nhập thành 26.000 công xã (ăn chung, làm chung). Từ năm 1979 các

HTX nông nghiệp kiểu công xã bắt đầu tan rã, chủ yếu còn lại HTX cung tiêu.

Đến năm 2001, Trung Quốc có khoảng có 29.500 HTX cung tiêu cơ sở,

10.000 HTX chuyên ngành, tập hợp thành 31 liên đoàn cấp tỉnh và 2.100 liên

đoàn cấp thành phố, với sự tham gia của khoảng 180 triệu hộ nông dân

(chiếm 80% hộ nông dân toàn quốc), tổng số vốn góp là 24,5 tỷ nhân dân tệ,

thu hút 4,55 triệu nhân viên, tổng doanh thu năm 1998 là 983,94 tỷ nhân dân

tệ. Chức năng chính của HTX cung tiêu bao gồm: Cung ứng dịch vụ kinh

doanh (được xem là một trong những chức năng quan trọng nhất của HTX);

Dịch vụ tiêu thụ nông sản; Khuyến nông; Kinh doanh bán lẻ; Chế biến nông

sản và sản xuất.

Để thực hiện được các chức năng nêu trên, HTX ở Trung Quốc nắm

trong tay nguồn lực rất lớn như các nhà máy chế biến, các kho lưu trữ... và

nguồn vốn lưu động. Ngoài ra, các HTX cung tiêu còn nắm trong tay hơn

100.000 trung tâm thu mua phế liệu, 161 triệu m2 kho và nhiều phương tiện

vận chuyển, điểm kinh doanh dịch vụ... Đặc biệt, các HTX còn có 60 viện

nghiên cứu và hơn 1.000 cơ sở đào tạo khác nhau.

73

Trong một thời gian dài phát triển, mô hình HTX cung tiêu ở Trung

Quốc đã có những đóng góp quan trọng vào những thành tựu tăng trưởng của

đất nước cũng như trợ giúp cho nông dân.Tuy nhiên, quá trình hoạt động cũng

cho thấy, mô hình này đã bộc lộ những nhược điểm nhất định. Tuy nhiên, trên

thực tế, quyền điều hành và quyết định các công việc quan trọng của HTX do

ban quản lý hoặc một nhóm người góp vốn quyết định. Trong một số trường

hợp, chính quyền còn can thiệp sâu vào các hoạt động của HTX. Một số địa

phương, chính quyền còn sử dụng HTX như một công cụ trong bộ máy quản

lý. Hiện tượng trá hình HTX để hưởng lợi, hưởng những chính sách ưu đãi

còn tồn tại ở nhiều địa phương.

- Kinh nghiệm của Thái Lan

Nhà nước Thái Lan rất coi trọng vai trò của HTX, xem đây là mô hình

phát triển kinh tế của khu vực đông dân cư nhưng yếu thế về kinh tế trong xã

hội, nhất là đối với các tầng lớp dân nghèo, đồng thời Thái lan sử dụng HTX

như là một công cụ quan trọng trong việc thực hiện các chương trình kinh tế -

xã hội cấp quốc gia.

Để thúc đẩy các HTX phát triển, Thái Lan đã thực hiện nhiều chính

sách thiết thực như chính sách giá, chính sách tín dụng... để khuyến khích

kinh tế hộ nông dân phát triển. Dành nguồn kinh phí khá lớn để cải thiện và

phát triển HTX như nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ HTX, phát triển công

nghệ, mở rộng thị trường...

Chính phủ Thái Lan thành lập Bộ Nông nghiệp và Hợp tác xã, trong đó

có hai vụ chuyên trách về HTX là Vụ Phát triển HTX và Vụ Kiểm toán HTX.

Vụ Phát triển HTX đóng vai trò quan trọng trong việc giúp đỡ các HTX thực

hiện hoạt động kinh doanh nhằm đạt được các mục tiêu mà HTX đề ra.Vụ

Kiểm toán HTX thực hiện chức năng kiểm toán HTX và hướng dẫn nghiệp vụ

kế toán trong công tác quản lý tài chính, kế toán HTX.

2.3.2. Bài học cho Việt Nam

- Về vị trí, vai trò và lĩnh vực hoạt động của HTX.

74

Vị trí, vai trò của các HTX luôn được nhấn mạnh trong chiến lược phát

triển kinh tế xã hội của nhiều quốc gia. Đây là lý do giải thích sự ra đời sớm

của luật HTX ở nhiều quốc gia trên thế giới. Mục tiêu cuối cùng của HTX là

trợ giúp các hoạt động sản xuất - kinh doanh, nâng cao đời sống của các xã

viên, song trước hết HTX phải là một tổ chức kinh tế, hay nói cách khác HTX

phải hoạt động như một doanh nghiệp, sản xuất, kinh doanh có lãi trên thị

trường để lấy đó làm cơ sở thực hiện các mục tiêu hỗ trợ của mình. Với việc

kết hợp được yếu tố kinh tế với giá trị nhân văn, HTX phải được tổ chức ở

những khâu mà nó có thể làm tốt hơn hộ gia đình, tốt hơn tư nhân và các loại

hình kinh tế khác. Do đó lựa chọn khâu nào để HTX làm là hết sức quan

trọng. Kinh nghiệm của quốc tế chỉ ra các khâu: cung ứng vật tư, hàng hoá

tiêu dùng, tín dụng tương hỗ, tiêu thụ sản phẩm và khuyến nông là rất phù

hợp với HTX.

- Về vai trò của nhà nước trong việc xây dựng khung khổ pháp luật,

ban hành chính sách.

Kinh nghiệm phát triển HTX nông nghiệp ở một số quốc gia cho thấy,

nhà nước luôn đóng vai trò quyết định đến sự phát triển của các HTX nông

nghiệp trong các giai đoạn phát triển khác nhau thông qua nhiều biện pháp

trực tiếp và gián tiếp. Sự hỗ trợ của nhà nước thể hiện trên các phương diện:

tạo khuôn khổ luật pháp; hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng ở nông thôn; tuyên

truyền, giáo dục về HTX; trợ giúp đào tạo cán bộ HTX... Bài học từ các nước

cho thấy, nhà nước thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ đối với HTX nhưng cần

phát hiện và ngăn ngừa những doanh nghiệp trá hình HTX để hưởng ưu đãi.

Việc hỗ trợ nguồn tài chính cho các HTX cũng cần cân nhắc bởi nó kéo theo

sự ỷ lại vào các chính sách hỗ trợ.

- Về tổ chức HTX.

Có thể HTX được thành lập ban đầu do ý chí của Chính phủ nhưng

trong quá trình hoạt động, HTX phải được trả về đúng vị trí của nó, do những

xã viên, người lao động điều hành và quản lý. Sự tự nguyện trên nền tảng

những tất yếu kinh tế, tôn trọng quy luật thị trường là nền tảng đảm bảo cho

75

các HTX hoạt động hiệu quả.Mục đích của HTX là gắn bó cùng nhau để tạo

ra các sản phẩm, dịch vụ đáp ứng nhu cầu của xã viên và hoạt động xã hội vì

cộng đồng.

Để đảm bảo tính tổ chức chặt chẽ, tự nguyện của các HTX, một số yếu

tố cơ bản cần đảm bảo bao gồm:

+ Bản thân các xã viên HTX nhận thức được vai trò của HTX, dĩ nhiên,

các HTX phải thể hiện được vai trò và những tác động của mô hình này đến

đời sống và hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi thành viên trong cộng

đồng. Khi nhận thức và hiểu biết của thành viên trong cộng đồng đã rõ ràng,

việc tham gia HTX được thực hiện từ dưới lên, từ nguyện vọng của chính

những người có nhu cầu hợp tác. Thực tiễn đã cho thấy, sẽ là sai lầm khi HTX

được thành lập và được sử dụng như một công cụ để thực hiện các chính sách

của nhà nước.

+ Sự hiểu biết nhất định của các cán bộ và xã viên về vị trí, vai trò và

sứ mệnh của mô hình HTX. Các nguyên tắc HTX và việc điều hành một HTX

cũng cần được các cán bộ quản lý và xã viên am hiểu.

+ Có cơ sở pháp lý thừa nhận những nguyên tắc HTX do Liên minh

HTX quốc tế quy định cũng như có cơ chế, chính sách ngăn ngừa sự lũng

loạn của Ban lãnh đạo HTX nhằm tạo điều kiện cho các HTX hoạt động độc

lập, dân chủ và với tư cách là tổ chức kinh doanh do xã viên làm chủ.

+ Đội ngũ cán bộ quản lý HTX phải đảm bảo được một số yêu cầu cơ

bản như: Sự năng động của HTX trong điều kiện kinh tế thị trường nhằm bảo

đảm cho các hoạt động của HTX luôn sống động và tạo ra các động cơ kinh tế

cho xã viên; Sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư của các cán bộ lãnh

đạo HTX; Cán bộ quản lý và nhân viên trung thực, giỏi nghiệp vụ chuyên

môn, được trả lương một cách xứng đáng cho việc điều hành hoạt động sản

xuất - kinh doanh của HTX.

- Về hoạt động của HTX.

Để giúp các hộ nông dân cải thiện điều kiện sống và phát triển sản xuất,

cần phải liên kết các hoạt động đầu ra, đầu vào cho họ dưới hình thức tốt nhất

76

là HTX nông nghiệp; HTX nông nghiệp phải thực sự hoạt động theo nguyên

tắc tự lực, tự chịu trách nhiệm, quản lý dân chủ và có sự tương trợ lẫn nhau.

Để làm được điều này các HTX nông nghiệp ở Việt Nam phải đáp ứng

được ba điều kiện:

+ Ban quản lý HTX phải có tâm huyết với mục tiêu giúp nông dân làm

giàu hơn là dùng HTX để làm giàu cho cá nhân mình hay để tích luỹ lợi

nhuận cho HTX.

+ Người nông dân hiểu được HTX chính là tổ chức tự họ giúp họ nên

hợp tác với ban quản lý nhằm thiết lập được chế độ hoạt động tối ưu cho

HTX.

+ Chính quyền địa phương không được can thiệp vào công việc của

HTX nhưng phải tạo điều kiện cho các mục tiêu xã hội của HTX có thể thực

hiện dễ dàng nhất.

- Cần đề cao vấn đề giáo dục đào tạo nhân lực cho HTX.

Chú trọng đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, cán bộ tư vấn cho

HTX và nông dân. Đặc biệt các HTX cần coi trọng hoạt động khuyến nông,

coi đây là phương tiện cơ bản giúp nông dân vượt khó, xoá nghèo để vươn lên

làm giàu. HTX nông nghiệp phải coi cải tạo tư tưởng phong cách, lề lối, tập

quán sản xuất của nông dân là mục tiêu của mình thì mới giúp ích nhiều cho

nông dân và giúp hộ nông dân phát triển lực lượng sản xuất để cạnh tranh

hiệu quả với nông dân thế giới trong nền kinh tế toàn cầu.

- Tổ chức cơ quan quản lý nhà nước đối với HTX.

Phải thành lập một cơ quan quản lý nhà nước thống nhất đối với HTX,

Kinh nghiệm của các nước cho thấy, họ tổ chức ra một cơ quan chuyên trách

để thực hiện chức năng quản lý nhà nước thống nhất đối với các HTX. Ở Thái

Lan thành lập Cục Phát triển HTX với hơn 4.000 nhân viên và tổ chức theo

ngành dọc từ Trung ương tới địa phương. Ở các nước phát triển khác như

Đức, Nhật Bản, Canada… nước nào cũng có số lượng nhân viên chuyên trách

làm nhiệm vụ quản lý, hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể lên đến hàng ngàn

người.

77

Kết luận chƣơng 2

Nghiên cứu cơ sở khoa học của quản lý nhà nước đối với HTX nông

nghiệp có thể rút ra một số vấn đề mang tính lý luận sau:

Thứ nhất, quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp là hoạt động

thực thi quyền lực nhà nước do các cơ quan nhà nước tiến hành đối với HTX

nông nghiệp nhằm mục tiêu phát triển, nâng cao hiệu quả HTX nông nghiệp

và thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển theo một định hướng thống nhất của

nhà nước. Nội dung cơ bản của quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp

gồm: xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển HTX nông nghiệp;

xây dựng khung pháp lý cho hoạt động của HTX nông nghiệp; xây dựng và tổ

chức thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển HTX nông nghiệp; công tác

thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm trong hoạt động của HTX nông

nghiệp; tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp.

Thứ hai, hoàn thiện quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp là tất

yếu khách quan, xuất phát từ yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp

quyền XHCN Việt Nam, từ yêu cầu của phát triển KTTT và HNQT, từ những

hạn chế và yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động của các HTX nông nghiệp ở

Việt Nam hiện nay.

Thứ ba, tham khảo kinh nghiệm của các nước trên thế giới trong công

tác quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp. Trong đó phải đề cao vai trò

của nhà nước trong việc xây dựng khung khổ pháp luật, ban hành chính sách;

quan tâm đào tạo nhân lực cho HTX nông nghiệp; xác định vị trí, vai trò của

HTX nông nghiệp; công tác tổ chức và hoạt động của HTX nông nghiệp; việc

tổ chức cơ quan quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp.

78

Chƣơng 3

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC

ĐỐI VỚI HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM

3.1. Thực trạng phát triển hợp tác xã nông nghiệp

3.1.1. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của hợp tác xã

nông nghiệp ở Việt Nam

3.1.1.1. Tình hình phát triển giai đoạn 1955-1986

Giai đoạn 1955-1986, HTX được xác định là một trong hai hình thức tổ

chức kinh tế chính thức ở Việt Nam. Giai đoạn này được coi là giai đoạn bùng

nổ của HTX với số lượng HTX tăng từ 45 HTX năm 1955 lên 73.470 HTX

năm 1986. HTX trở thành hình thức tổ chức kinh tế phổ biến thay dần hình

thức kinh tế cá thể và tổ đội sản xuất. Nhiều HTX đã phát triển thành HTX

bậc cao có quy mô toàn xã, thậm chí liên xã, nhất là trong nông nghiệp.

Sự phát triển nhanh chóng về mặt số lượng của HTX mà chủ yếu là

HTX nông nghiệp trong giai đoạn 1955-1986 là do sự đề cao tuyệt đối của

Nhà nước đối với kinh tế tập thể, trong khi đó vai trò của kinh tế hộ, kinh tế

tư nhân lại bị phủ định. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần

thứ 8 (khóa II) tháng 8/1955 đã đề ra chủ trương xây dựng thí điểm một số

HTX nông nghiệp. Trong 3 năm thực hiện thí điểm, nước ta xây dựng được

45 HTX và trên 100.000 tổ đổi công. Tháng 4/1959, Hội nghị Trung ương lần

thứ 16 (khóa II) đã quyết định chính thức đường lối, phương châm, chính

sách hợp tác hóa nông nghiệp và Trung ương đã triệu tập nhiều hội nghị nhằm

thúc đẩy phong trào hợp tác hóa. Cuối năm 1960, đại bộ phận nông dân ở

miền Bắc đã tham gia HTX bậc thấp. Năm 1961, Nhà nước công bố Điều lệ

HTX Việt Nam làm căn cứ thống nhất để củng cố tổ chức và cải tiến quản lý

HTX. Cho đến Đại hội Đảng VI năm 1986, cùng với việc thực hiện cải tạo

nông nghiệp, công thương nghiệp tư bản tư doanh, HTX ở nước ta đã được

hình thành ở hầu hết các lĩnh vực, các ngành kinh tế và ở tất cả địa phương.

Năm 1986, trong tổng số 73.470 HTX có 17.022 HTX nông nghiệp, 474 HTX

nghề cá, 32.034 HTX công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, 3.900 HTX xây

79

dựng, 3.300 HTX vận tải, 9.600 HTX mua bán và 7.160 HTX tín dụng.

Sự phát triển nhanh chóng của HTX đã có nhiều đóng góp cho công

cuộc giải phóng dân tộc và sự phát triển đất nước. Khu vực HTX đã huy động

được các nguồn lực của Nhà nước và nhân dân phục vụ công cuộc kháng

chiến chống Mỹ; cải thiện một bước đời sống, bộ mặt của nông thôn, kết cấu

hạ tầng khu vực. Tuy vậy, sự phát triển của HTX trong giai đoạn 1955-1986

đã bộc lộ một số hạn chế, đặc biệt sau năm 1972, tình hình kinh tế của các

HTX nhìn chung còn rất nhiều khó khăn về con người và vật chất.

Ngoài ra, các nguyên tắc cơ bản của HTX như tự nguyện, tự chủ, dân

chủ, công bằng, minh bạch cũng không được thực hiện đầy đủ. Thứ nhất,

nguyên tắc tự nguyện gia nhập HTX không được coi trọng. Trong gian đoạn

này, các hình thức tổ chức kinh tế tự nguyện (tổ hợp tác) đã được thay bằng

hình thức tổ chức kinh tế mang tính áp đặt hơn (HTX). Đầu những năm 60 thế

kỷ XX, ở miền Bắc tồn tại nhiều tổ đổi công và các hình thức hợp tác khác

của nông dân, kinh tế cá thể, tiểu chủ dưới hình thức đơn giản, mà thực chất

là các HTX ở trình độ thấp. Tuy nhiên, các hình thức tổ chức kinh tế này đã

nhanh chóng được thay thế bằng các HTX được hình thành theo mệnh lệnh

hành chính. Thứ hai, tính tự chủ của HTX không được đảm bảo. Dưới tác

động của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp, Nhà nước kiểm

soát toàn bộ các yếu tố sản xuất và giữ quyền quyết định việc sử dụng các yếu

tố sản xuất cũng như phân phối về thu nhập. Ngoài ra, các HTX hoạt động

theo điều lệ mẫu thống nhất do Chính phủ quy định (Quy tắc tổ chức HTX

mua bán và HTX tiêu thụ được ban hành kèm theo Nghị định số 649/TTg

ngày 30/12/1955, Điều lệ đăng ký kinh doanh công thương nghiệp được ban

hành kèm theo Nghị định số 76/CP ngày 8/4/1974, Điều lệ đăng ký kinh

doanh công thương nghiệp đã được ban hành kèm theo Nghị định số 119/CP

ngày 9/4/1980). Những can thiệp này đã ảnh hưởng không nhỏ đến nguyên

tắc tự chủ của HTX. Thứ ba, hoạt động của HTX thiếu sự công bằng và minh

bạch cần thiết. Quan hệ lợi ích giữa Nhà nước - HTX - xã viên không được

phân định rạch ròi, đặc biệt lợi ích của xã viên và người lao động trong HTX.

80

Nhìn một cách tổng quát, phát triển HTX nông nghiệp ở Việt Nam

trong thời kỳ 1955-1986 mang tính áp đặt cao, các nguyên tắc cơ bản của

HTX như tự nguyện, tự chủ, công bằng và minh bạch trong tổ chức và quản lý

chưa được thực hiện đầy đủ. Điều này đã tạo ra một hệ thống HTX nông

nghiệp tương đối lớn về mặt số lượng và quy mô, nhưng chưa phản ánh được

bản chất của HTX.

3.1.1.2. Tình hình phát triển giai đoạn 1987-1996

Giai đoạn 1987-1996, kinh tế tập thể cùng với kinh tế nhà nước được

coi là hình thức kinh tế chủ đạo của nền kinh tế, tuy nhiên đây cũng là thời kỳ

khó khăn nhất trong quá trình phát triển HTX ở nước ta; số lượng HTX bị

giảm mạnh, từ 73.490 HTX năm 1987 xuống còn 18.607 HTX năm 1996. Sự

suy giảm về mặt số lượng của HTX trong giai đoạn 1987- 1996 một mặt phản

ánh những thay đổi về chính sách, mặt khác phản ánh sự yếu kém của bộ phận

lớn các HTX, cũng như sự phát triển vượt quá yêu cầu về mặt số lượng HTX

trong giai đoạn trước 1986. Từ năm 1986, Việt Nam chuyển dần từng bước từ

cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường theo định

hướng xã hội chủ nghĩa, coi trọng khuyến khích và tạo điều kiện phát triển

kinh tế hộ, kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân, coi kinh tế hộ là chủ thể kinh tế tự

chủ. Sự chuyển đổi cơ chế kinh tế đã làm giảm dần vai trò và lợi thế của HTX

cũng như làm bộc lộ sự yếu kém của HTX.

Sự yếu kém của hệ thống HTX thể hiện ở các điểm chính sau: Thứ

nhất, hệ thống HTX không được thành lập, tổ chức và hoạt theo đúng các

nguyên tắc cơ bản của HTX, vì vậy không phát huy được động lực gia nhập

HTX của xã viên. Thứ hai, mô hình tổ chức HTX mặc dù đã được điều chỉnh

nhưng không phù hợp với cơ chế thị trường đã làm cho hệ thống HTX cũ bị tê

liệt, tan rã hoặc tự phát chuyển đổi thích nghi với môi trường mới. Thứ ba, hệ

thống HTX tỏ ra kém thích nghi với quá trình chuyển đổi cơ chế theo hướng

tăng cường sự tự chủ của HTX và giảm dần các ưu đãi về mặt nguồn vốn và

tín dụng đối với HTX.

Bài học về sự suy thoái của các HTX trong giai đoạn này phản ánh sự

81

lỗi thời của hệ thống HTX hoạt động không phù hợp với nguyên tắc cơ bản

của HTX (nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, dân chủ) được thành lập trong giai

đoạn trước 1986 trong điều kiện kinh tế thị trường. Ngoài ra, sự suy thoái của

hệ thống HTX trong thời kỳ này cũng phản ánh rằng, để tồn tại và phát triển

bền vững, các HTX cần được thành lập trên cơ sở các nhu cầu chung của xã

viên hơn là sự áp đặt của các cơ quan chính quyền.

3.1.1.3. Tình hình phát triển giai đoạn 1997-2003

Giai đoạn 1997-2003, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể mà

nòng cốt là HTX được coi là nền tảng của nền kinh tế quốc dân trong nền

kinh tế nhiều thành phần. Giai đoạn này cũng là giai đoạn thực hiện chuyển

đổi HTX từ mô hình HTX kiểu cũ (mang nặng tính hành chính, bao cấp) sang

mô hình hợp tác xã kiểu mới (mạng nặng tính tự chủ, thị trường) theo Nghị

quyết số 13-NQ/TW ngày 18/3/2002 về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng

cao hiệu quả kinh tế tập thể. Giai đoạn này chứng kiến sự chuyển đổi và thu

hẹp của HTX. Số lượng HTX đã giảm từ 18.607 năm 1986 xuống còn 14.207

năm 2003.

Sự giảm sút về số lượng HTX trong giai đoạn 1997-2003 phản ánh quá

trình chọn lọc của thị trường đối với hệ thống HTX và quá trình thực thi Luật

HTX (2003) theo hướng thực hiện đầy đủ hơn các nguyên tắc cơ bản của

HTX. Theo Liên minh HTX Việt Nam, trong số 14.207 HTX năm 2003 có

khoảng 5.800 HTX thành lập mới (riêng lĩnh vực nông nghiệp khoảng 2.139

HTX, chiếm tỷ lệ 37%); khoảng 8.400 HTX được chuyển đổi từ mô hình cũ

sang mô hình mới. Cũng trong giai đoạn này, có đến hơn 10.000 HTX bị giải

thể. Trong hai năm 2001-2002 đã có 2.271 HTX bị giải thể.

Tình hình phát triển HTX trong giai đoạn 1997-2003 có một số điểm

đáng chú ý sau: Thứ nhất, việc giải thể một số lượng lớn HTX khẳng định nếu

HTX không hoạt động đúng các nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, dân chủ, công

bằng và minh bạch sẽ gặp khó khăn trong điều kiện kinh tế thị trường. Thứ

hai, sự ra đời của các HTX mới phản ánh đây là một hình thức tổ chức kinh tế

có thể tồn tại và phát triển trong điều kiện kinh tế thị trường. Thứ ba, các

82

HTX chuyển đổi và thành lập mới theo Luật HTX chủ yếu tập trung ở các

vùng nông thôn có điều kiện kinh tế khó khăn như vùng trung du miền núi

phía Bắc có 4.034 HTX (chiếm 28%); vùng đồng bằng sông Hồng 5.063 HTX

(chiếm 36%). Ở các vùng phát triển sản xuất hàng hoá cao như Đông Nam Bộ

số lượng HTX chỉ có 642 HTX (chiếm 4,5%). Đặc điểm phát triển của HTX

trong giai đoạn 1997-2003 khẳng định các HTX không được thành lập trên cơ

sở tinh thần tự nguyện của xã viên, không có khả năng tự chủ (không kịp đổi

mới) sẽ gặp nhiều khó khăn trong điều kiện kinh tế thị trường. Ngoài ra sự ra

đời của một loạt HTX mới và sự phát triển rộng rãi của HTX ở khu vực và

khu vực khó khăn trong thời kỳ này phản ánh HTX là hình thức tổ chức kinh

tế chuyển đổi cần được ưu tiên phát triển đặc biệt là ở khu vực nông thôn và

khu vực mà người dân gặp nhiều khó khăn hay bất lợi.

3.1.1.4. Tình hình phát triển giai đoạn 2004-2012

Giai đoạn 2004 đến nay đánh dấu sự phục hồi của kinh tế HTX cả về

chất và lượng. Số lượng HTX đã tăng từ 14.207 năm 2003 lên 18.244 năm

2010. Sự tăng lên về mặt số lượng HTX ở giai đoạn này là kết quả của việc

chuyển đổi mô hình ở 8.500 HTX thành lập trước năm 1997, thành lập mới

9.744 HTX và giải thể 5.707 HTX. Sự phục hồi này phần nào phản ánh những

tác động tích cực của Luật HTX sửa đổi năm 2003 (chính thức có hiệu lực từ

ngày 1/7/2004) đến khu vực kinh tế hợp tác và HTX.

Các HTX đã tham gia ngày càng sâu rộng vào nhiều lĩnh vực kinh tế

khác nhau. Trong tổng số 18.244 HTX có 8.918 HTX nông nghiệp, 389 HTX

thủy sản, 2.497 HTX công nghiệp, 939 HTX xây dựng, 1.070 HTX vận tải,

981 HTX thương mại, dịch vụ, 1.053 quỹ tín dụng nhân dân và 2.020 các loại

hình khác (gồm 1.873 HTX dịch vụ điện, 173 HTX vệ sinh môi trường, 136

HTX chợ, 15 HTX y tế, v.v...).

Trong tổng số 18.244 HTX khu vực miền núi phía Bắc và Tây Nguyên

hiện có 4.974 HTX; khu vực Nam Bộ có 1.726 HTX; khu vực Trung Bộ có

4.267 HTX và khu vực đồng bằng sông Hồng hiện có 6.023 HTX.

Các hình thức liên kết giữa các HTX cũng phát triển mạnh trong giai

83

đoạn từ 2004 đến năm 2012. Khi đó cả nước có 53 liên hiệp HTX, trong đó có

18 liên hiệp HTX nông nghiệp, 2 liên hiệp HTX thủy sản, 8 liên hiệp HTX

GTVT, 4 liên hiệp HTX công nghiệp, 5 liên hiệp HTX xây dựng, 13 liên hiệp

HTX thương mại, dịch vụ. Các liên hiệp thu hút sự tham gia của 1.492 HTX.

Sự hồi phục và phát triển của HTX trong giai đoạn 2004 đến năm 2012

phản ánh xu thế phát triển tất yếu của kinh tế hợp tác trong giai đoạn mới.

Ngoài ra, sự phát triển của các liên hiệp HTX ngành nghề trong thời kỳ này

phần nào phản ánh yêu cầu hợp tác ở trình độ cao của kinh tế hội nhập.

3.1.1.5. Tình hình phát triển giai đoạn 2013 - nay

Tính đến hết năm 2015 trong lĩnh vực nông nghiệp có 19 liên hiệp hợp

tác xã nông nghiệp (trong đó có 03 liên hiệp hợp tác xã trồng trọt, 01 liên

hiệp hợp tác xã chăn nuôi, 01 liên hiệp hợp tác xã nuôi và khai thác thủy sản,

11 liên hiệp HTX dịch vụ tổng hợp); có 10.902 HTX nông nghiệp hoạt động

trên các lĩnh vực: trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, thủy lợi, lâm nghiệp, diêm

nghiệp và các dịch vụ phục vụ nông nghiệp chiếm 55,5% tổng số HTX trong

cả nước. Đa số các HTX nông nghiệp là các HTX kinh doanh tổng hợp

(khoảng 8096 HTX, chiếm 74,26%). Số lượng các HTX chuyên ngành không

nhiều (khoảng 2806 HTX, chiếm 25,74%), trong đó có: 1.222 HTX trồng trọt,

361 HTX chăn nuôi, 418 HTX thủy lợi và nước sinh hoạt, 151 HTX lâm

nghiệp, 601 HTX thủy sản, 53 HTX diêm nghiệp. Các HTX nông nghiệp

nhiều nhất là ở vùng đồng bằng sông Hồng (33,8%), Bắc Trung bộ (19,5%),

Đông Bắc bộ (16,9%), đồng bằng sông Cửu Long (11,1%). Hiện nay trên

phạm vi cả nước tuy số lượng HTX nông nghiệp thành lập mới mỗi năm khá

cao khoảng 800HTX/năm, song do số lượng HTX nông nghiệp giải thể vì

hoạt động kém hiệu quả cũng rất lớn khoảng 550 HTX/năm, nên về tổng số

lượng HTX nông nghiệp tăng trung bình chỉ khoảng 250 HTX/năm, không

tăng nhiều hơn so với trước khi Luật HTX năm 2012 ra đời.

Về thành viên và hoạt động của HTX:

Hiện nay cả nước có hơn 7,3 triệu thành viên HTX, trong đó có khoảng

7,6 triệu hộ gia đình, cá nhân là thành viên HTX nông nghiệp, đạt tỉ lệ khoảng

84

45% trên tổng số hộ nông nghiệp, nông thôn, trung bình là 615 thành viên/

HTX. Giá trị sản xuất, kinh doanh khoảng 1,0 tỉ đồng/HTX. Lợi nhuận bình

quân khoảng 200 triệu đồng/HTX/năm; thu nhập bình quân của các thành

viên và người lao động ước đạt trên dưới 1,0 triệu người/tháng. Đa số các

HTX nông nghiệp hiện nay thực hiện các dịch vụ phục vụ sản xuất nông

nghiệp và sinh hoạt ở nông thôn (thấp nhất là 03 nhiều nhất là 16 dịch vụ),

bao gồm: cung ứng các dịch vụ đầu vào (giống, vật tư, phân bón, tưới tiêu…),

bảo quản, chế biến, tiêu thụ sản phẩm; quản lý và khai thác cơ sở hạ tầng

phục vụ sản xuất nông nghiệp, thực hiện liên kết với các doanh nghiệp để đầu

tư sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản. Một số HTX nông nghiệp có sự đổi

mới về phương thức hoạt động, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, thực

hiện liên kết với các doanh nghiệp, do đó đã nâng cao được hiệu quả hoạt

động của HTX, thu nhập của các thành viên và khẳng định được vai trò kinh

tế hợp tác cho các hộ gia đình thành viên.

Về tình hình vốn, quỹ của HTX: nhìn chung các HTX nông nghiệp đều

thiếu vốn để sản xuất, kinh doanh. Mức vốn trung bình của các HTX đều rất

thấp và chủ yếu là vốn tài sản cố định đã sử dụng lâu năm như nhà xưởng,

mương máng, trạm bơm, máy móc và các thiết bị phục vụ sản xuất nông

nghiệp khác nhưng cũng đã xuống cấp, lạc hậu. Các HTX nông nghiệp

thường rất khó tiếp cận được với nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng do

không có tài sản thế chấp, hoạt động kinh doanh rủi ro cao, sổ sách kế toán

chưa minh bạch và chưa xây dựng được phương án kinh doanh khả thi.

Kết quả đăng ký và tổ chức lại hoạt động theo Luật HTX

Từ khi Luật HTX có hiệu lực (01/7/2013) đến nay đã có:

- 04/19 liên hiệp HTX hoạt động theo Luật HTX (trong đó có 03 liên

hiệp HTX thành lập mới), còn 15 liên hiệp HTX chưa tổ chức lại theo Luật.

- 2.056 HTX cũ đăng ký lại hoạt động (chiếm 18,87% số HTX).

- 1.145 HTX mới thành lập (chiếm 10,51% số HTX) nâng số HTX đăng

ký lại hoạt động theo Luật HTX chiếm 29,38% tổng số HTX nông nghiệp.

85

- 480 HTX hoạt động không hiệu quả phải giải thể, sáp nhập (trong đó

400 HTX giải thể, 62 HTX sáp nhập, hợp nhất, 18 HTX chuyển loại hình kinh

doanh khác). Tuy nhiên, vẫn còn 1.062 HTX hoạt động không hiệu quả phải

ngừng hoạt động hoặc hoạt động cầm chừng vẫn chưa được giải thể (chiếm

9,75 % số HTX).

Một số nhận xét

Qua việc khái quát quá trình hình thành và phát triển của HTX nông

nghiệp ở Việt nam từ năm 1955 đến nay, có thể rút ra một số nhận xét sau:

Thứ nhất, các nguyên tắc cơ bản của HTX như tự nguyện, tự chủ, dân

chủ, công bằng, minh bạch chưa được thực hiện đầy đủ trong các giai đoạn

trước đổi mới, dẫn đến sự phát triển của các HTX nông nghiệp thiếu nội lực.

Sau năm 1986, sự vận hành của nền KTTT đã làm giảm vai trò của HTX

trong nền kinh tế, nên để tồn tại và phát triển, các nguyên tắc tự nguyện, tự

chủ, dân chủ, công bằng, minh bạch dần được củng cố ở các HTX. Điều này

đã tạo ra những thay đổi về bản chất của HTX từ khi đổi mới đến nay.

Thứ hai, số lượng HTX nông nghiệp thay đổi qua các giai đoạn chủ yếu

do tác động của pháp luật và chính sách. Tác động của pháp luật đến sự phát

triển của HTX nông nghiệp được thể hiện rõ nhất vào năm 1996 và 2003. Sự

ra đời của Luật HTX vào năm 1996 đã làm cho HTX nông nghiệp trở nên tự

chủ hơn, ít chịu sự chi phối hơn từ các cơ quan hành chính nhà nước. Điều

này đã góp phần cải thiện nguyên tắc tự chủ của HTX. Luật HTX năm 2003

phần nào đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của HTX, tuy nhiên bản chất của

HTX cũng chưa được xác định cụ thể, đã dẫn tới xu hướng chạy theo lợi

nhuận và doanh nghiệp hóa ở nhiều HTX. Điều này đã làm cho bản chất của

HTX có những sai lệch, việc gia nhập HTX của xã viên mới gặp nhiều khó

khăn ở một số địa phương.

Thứ ba, vai trò của HTX nói chung và HTX nông nghiệp nói riêng

trong phát triển kinh tế - xã hội ngày càng suy giảm. Nguyên nhân chủ yếu là

sự không rõ ràng trong nhận thức về khái niệm HTX. HTX nông nghiệp cần

được coi là một tổ chức kinh tế - xã hội (hơn là tổ chức kinh tế thuần túy theo

86

các văn bản pháp luật hiện hành) thì họ mới được hưởng các chính sách ưu

đãi xã hội về mặt đất đai, thuế, đầu tư, và các ưu đãi khác.

3.1.2. Thực trạng kết quả hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp

3.1.2.1. Thực trạng tổ chức và quản lý ở các hợp tác xã nông nghiệp

* Việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức và quản lý HTX nông nghiệp

Tình hình thực hiện các nguyên tắc tự nguyện, tự chủ và công bằng ở

một số HTX nông nghiệp được thể hiện ở Bảng 1. Kết quả này cho thấy tỷ lệ

xã viên đánh giá tốt các tiêu chí của nguyên tắc tự nguyện, tự chủ và công

bằng ở các HTX biến động trong khoảng 50-67%. Tỷ lệ đánh giá tốt từ các xã

viên gia đình không tham gia hoạt động kinh tế cao hơn nhiều so với tỷ lệ này

từ các xã viên gia đình tham gia hoạt động kinh tế.

Bảng 1. Nguyên tắc tự nguyện, tự chủ và công bằng (%)

Tỷ lệ đánh giá tốt

Nhóm mẫu Nhóm mẫu

Chỉ tiêu Toàn bộ gia đình có gia đình

mẫu hoạt động không hoạt

kinh tế động kinh tế

1. Nguyên tắc tự nguyện của HTX 51,35 44,19 64,00 nông nghiệp

2. Nguyên tắc tự chủ của HTX nông 66,67 54,55 80,00 nghiệp

3. Sự phù hợp giữa lợi nhuận được 57,32 43,48 76,67 chia và đóng góp về vốn

4. Sự phù hợp giữa tiền công và đóng 53,09 45,65 56,67 góp sức lao động

5. Sự phù hợp giữa lợi nhuận được

chia và mức tiêu dùng hàng hóa/dịch 50,00 40,48 53,85

vụ do HTX cung cấp

Nguồn: Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển, 2011

87

Tình hình thực hiện các nguyên tắc dân chủ được thể hiện ở Bảng 2. Tỷ

lệ xã viên đánh giá tốt các tiêu chí của nguyên tắc dân chủ ở các HTX biến

động trong khoảng từ 61-71%. Tỷ lệ đáng giá tốt từ các xã viên gia đình

không tham gia hoạt động kinh tế cao hơn rất nhiều so với tỷ lệ này từ các xã

viên gia đình tham gia hoạt động kinh tế.

Bảng 2. Nguyên tắc dân chủ (%)

Nhóm mẫu

Nhóm mẫu gia

Tỷ lệ đánh giá tốt

Toàn bộ

gia đình có

đình không

mẫu

hoạt động

hoạt động kinh

kinh tế

tế

Chỉ tiêu

1.Tính đại diện của ban quản trị 70.59 59,57 81,82 HTX nông nghiệp

2. Quan hệ giữa xã viên và ban 68,60 57,45 78,79 quản trị HTX nông nghiệp

3. Quan hệ lợi ích giữa người làm 66,25 55,81 75,00 công, người góp vốn và xã viên

4. Tính đại diện của ban kiểm soát 63,75 51,11 80,00 HTX nông nghiệp

5. Nguyên tắc dân chủ trong tổ 61,33 51,16 69,23 chức, hoạt động

Nguồn:Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển, 2011

Tình hình thực hiện các nguyên tắc minh bạch được thể hiện ở Bảng 3.

Tỷ lệ xã viên đánh giá tốt các tiêu chí của nguyên tắc minh bạch ở các HTX

biến động trong khoảng từ 62-71%; tỷ lệ này phản ánh sự ổn định về minh

bạch mức đóng góp các nguồn lực và sử dụng sản phẩm hàng hóa/dịch vụ của

HTX nông nghiệp. Tỷ lệ đáng giá tốt từ các xã viên gia đình không tham gia

hoạt động kinh tế cao hơn rất nhiều so với tỷ lệ này từ các xã viên gia đình

tham gia hoạt động kinh tế.

88

Bảng 3. Nguyên tắc minh bạch (%)

Tỷ lệ đánh giá tốt

Nhóm mẫu Nhóm mẫu

Chỉ tiêu Toàn bộ gia đình có gia đình

mẫu hoạt động không hoạt

kinh tế động kinh tế

1. Minh bạch trong quản lý tài sản 71,79 60,00 92,59 chung

2. Minh bạch về mức độ đóng góp 67,53 55,81 82,14 sức lao động

3. Minh bạch về đóng góp tài chính 67,11 56,82 76,92

4. Minh bạch về mức sử dụng hàng 63,38 55,81 72,73 hóa/dịch vụ do HTX cung cấp

5. Minh bạch trong phân chia lợi 62,16 55,56 73,91 nhuận

Nguồn: Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển, 2011

Nhìn chung, các nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, dân chủ, công bằng,

minh bạch đã được triển khai nhưng chưa đáp ứng được nguyện vọng của

toàn thể xã viên. Các nguyên tắc dân chủ, minh bạch được thực hiện rộng rãi

nhất đáp ứng được yêu cầu của từ 62-72% số xã viên. Trong khi đó các

nguyên tắc tự nguyện, tự chủ và công bằng chỉ đáp ứng được nhu cầu của từ

50-67% số xã viên. Các nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, công bằng, minh bạch

và tự chủ nhận được sự đánh giá cao hơn từ nhóm các xã viên gia đình tham

gia hoạt động kinh tế. Điều này phản ánh các HTX dịch vụ có thể thực hiện

tốt hơn các HTX lao động trong việc thực thi các nguyên tắc của HTX.

* Mức độ hài lòng của xã viên hợp tác xã nông nghiệp

Nhìn tổng thể, các xã viên tương đối hài lòng với thực trạng HTX nông

nghiệp hiện nay. Điều này thể hiện ở tỷ lệ xã viên hài lòng với thực trạng

HTX nông nghiệp, tỷ lệ xã viên tiếp tục gắn bó với HTX nông nghiệp và tỷ lệ

xã viên vận động người thân tham gia HTX nông nghiệp tương đối cao (từ

89

79,5-89,16%). Ngoài ra, kết quả này cũng phản ánh sự cần thiết phải tiếp tục

phát triển HTX nông nghiệp từ góc độ xã viên, phản ánh sự phù hợp của mô

hình HTX nông nghiệp đối với bà con xã viên.

Bảng 4. Sự hài lòng của xã viên đối với HTX nông nghiệp (%)

Tỷ lệ đánh giá tốt

Nhóm mẫu Nhóm mẫu

Chỉ tiêu Toàn bộ gia đình có gia đình

mẫu hoạt động không hoạt

kinh tế động kinh tế

Tỷ lệ xã viên hài lòng với HTX 79,52 82,61 71,88 nông nghiệp

Tỷ lệ xã viên chắc chắn tiếp tục 83,33 91,49 71,88 gắn bó với HTX nông nghiệp

Tỷ lệ xã viên chắc chắn giới thiệu

người thân, bạn bè tham gia HTX 89,16 95,74 77,42

nông nghiệp

Nguồn: Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển, 2011

Tỷ lệ hài lòng với HTX nông nghiệp của nhóm mẫu gia đình có hoạt

động kinh tế cao hơn nhóm mẫu gia đình không tham gia hoạt động kinh tế.

Kết quả này phần nào phản ánh HTX nông nghiệp có vai trò quan trọng đối

với kinh tế hộ gia đình và yêu cầu khách quan tiếp tục phát triển HTX nông

nghiệp

Tóm lại, tỷ lệ xã viên hài lòng với HTX nông nghiệp, tỷ lệ xã viên có ý

định gắn bó với HTX nông nghiệp, tỷ lệ xã viên có ý định giới thiệu người

thân, bạn bè gia nhập HTX nông nghiệp tương đối cao, phản ánh các HTX

nông nghiệp đã đáp ứng được các mong đợi của xã viên, mặt khác cũng phản

ánh yêu cầu khách quan phải tiếp tục phát triển HTX nông nghiệp.

* Mức độ đạt được mục tiêu hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp

Quy mô giá trị gia tăng, quy mô vốn, hiệu quả hoạt động kinh doanh,

và mức thu nhập bình quân đầu người ở các HTX nông nghiệp cho thấy, HTX

90

nông nghiệp là khu vực kinh tế tương đối nhỏ và có hiệu quả kinh doanh rất

thấp so với các khu vực kinh tế khác. Đặc biệt tỷ trọng đóng góp của kinh tế

hợp tác vào GDP cuả cả nước rất nhỏ bé và đang có xu hướng giảm dần. Các

số liệu phản ánh quy mô và hiệu quả của HTX nông nghiệp ở các phần trước

góp phần khẳng định rằng, HTX nông nghiệp không phải là tổ chức hoạt động

với mục tiêu tạo ra nhiều lợi nhuận cho xã viên từ tiền góp vốn của họ. Tuy

nhiên, HTX nông nghiệp có hai đóng góp rất quan trọng đối với xã viên, thứ

nhất là cung cấp hàng hóa dịch vụ cho xã viên và thứ hai là tạo công ăn việc

làm cho người lao động. Kết quả khảo sát của Viện Nghiên cứu Kinh tế và

Phát triển năm 2011 cũng cho thấy như vậy. Theo kết quả này, ba lợi ích cơ

bản của HTX nông nghiệp có thể mang lại cho xã viên là: (i)sử dụng sản

phẩm dịch vụ của HTX nông nghiệp; và (ii)tạo thu nhập từ làm việc cho HTX

nông nghiệp. Tuy nhiên, tạo thu nhập từ góp vốn không phải là lợi ích cơ bản

mà HTX nông nghiệp có thể mang lại cho xã viên (xem Bảng 5).

Bảng 5. Lợi ích của HTX nông nghiệp đối với xã viên (%)

Tỷ lệ trả lời

Chỉ tiêu

Toàn bộ mẫu

Nhóm mẫu gia đình không hoạt động kinh tế Nhóm mẫu gia đình có hoạt động kinh tế

Sử dụng sản phẩm, dịch vụ do HTX

nông nghiệp cung cấp với chi phí 30,19 44,12 5,88

thấp hơn so với giá thị trường

Tạo thu nhập thông qua đóng góp sức 56,60 41,18 82,36 lao động cho HTX nông nghiệp

Tạo thu nhập thông qua góp vốn vào 13,21 14,71 11,76 HTX nông nghiệp

Toàn bộ 100 100 100

Nguồn: Viện nghiên cứu Kinh tế và Phát triển, 2011

91

Kết quả điều tra ở Bảng 5 cho thấy, tạo công ăn việc làm là lợi ích quan

trọng nhất mà HTX nông nghiệp mang lại cho xã viên (trên 56% đồng ý), đặc

biệt là đối với các xã viên không tổ chức hoạt động kinh tế hộ (tỷ lệ đồng ý

trên 82%). Tuy nhiên, đối với các hộ có tham gia hoạt động kinh tế thì việc sử

dụng sản phẩm/dịch vụ do HTX nông nghiệp cung cấp là lợi ích phổ biến nhất

(44%). Một tỷ lệ rất nhỏ cho rằng HTX nông nghiệp là nơi tạo ra thu nhập

cho họ thông qua góp vốn (dưới 15%). Kết quả điều tra chỉ ra rằng bản chất

của HTX nông nghiệp là tổ chức tạo việc làm và cung cấp sản phẩm/dịch vụ

cho xã viên. Hay nói cách khác HTX nông nghiệp là tổ chức kinh tế của

những người lao động và người sử dụng sản phẩm/dịch vụ của HTX nông

nghiệp.

Bảng 6. Vai trò của HTX nông nghiệp đối với tạo việc làm

và cung cấp dịch vụ cho xã viên

Nhóm mẫu Nhóm mẫu

Toàn bộ gia đình có gia đình Chỉ tiêu mẫu hoạt động không hoạt

kinh tế động kinh tế

1.Trung bình hàng tuần ông/bà dành

bao nhiêu thời gian để làm việc cho 41,27 36,48 46,67

HTX nông nghiệp (tiếng/tuần)

2.Trung bình hàng tháng gia đình

ông/bà chi tiêu bao nhiêu tiền để 3.339,42 4.445,36 602,27 mua các sản phẩm/dịch vụ của HTX

nông nghiệp (ngàn đồng/tháng)

3. Trung bình hàng tháng ông/bà chi

tiêu hết bao nhiêu tiền cho gia đình 4.120,14 4.813,75 2.803,70

(ngàn đồng/tháng)

4. Tỷ lệ chi tiêu từ HTX/tổng chi tiêu 81,05% 92,35% 21,48%

Nguồn: Viện nghiên cứu Kinh tế và Phát triển, 2011

92

Kết quả Bảng 6 cho thấy HTX nông nghiệp có vai trò tương đối quan

trọng trong việc tạo việc làm và cung cấp hàng hóa dịch vụ cho xã viên. Các

xã viên gia đình không tổ chức các hoạt động kinh tế được hưởng lợi nhiều

hơn từ HTX nông nghiệp trên khía cạnh công ăn việc làm, tỷ lệ thu nhập từ

HTX/tổng thu nhập của nhóm này cũng cao hơn nhóm các xã viên gia đình có

tổ chức các hoạt động kinh tế. Tuy nhiên, các xã viên gia đình tham gia hoạt

động kinh tế lại được hưởng lợi nhiều hơn từ việc sử dụng các sản phẩm dịch

vụ của HTX nông nghiệp. Kết quả này cũng chỉ ra rằng, HTX nông nghiệp

đóng vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra công ăn việc làm cho xã viên (41

giờ lao động/tuần) và là nguồn cung cấp hàng hóa/dịch vụ quan trọng cho các

xã viên (chiếm 81,05% chi tiêu hàng tháng) trong tổng chi tiêu tương đối

khiêm tốn hàng tháng khoảng 3,3 triệu đồng.

Tóm lại, các số liệu kinh tế thứ cấp và kết quả điều tra xã viên đều

khẳng định, HTX nông nghiệp là tổ chức kinh tế tập hợp những người lao

động có điều kiện kinh tế khó khăn lại với nhau nhằm mục đích sản xuất hàng

hóa/dịch vụ phục vụ cho xã viên hoặc tạo công ăn việc làm cho xã viên.

Thực trạng liên kết sức mạnh của HTX nông nghiệp:

Thực trạng liên kết sức mạnh của HTX nông nghiệp được đánh giá trên

cơ sở mức độ hài lòng của xã viên đối với các hoạt động này (xem Bảng 3).

Các hoạt động liên kết sức mạnh của HTX nông nghiệp được chia thành hai

nhóm, liên kết nội bộ và liên kết với bên ngoài. Đa số xã viên hài lòng với

năng lực liên kết của HTX nông nghiệp. Các xã viên gia đình không tham gia

hoạt động kinh tế đánh giá cao các năng lực này hơn các xã viên có tham gia

hoạt động kinh tế.

Hoạt động liên kết sức mạnh nội bộ thể hiện ở mức độ liên kết xã viên

trong nội bộ HTX nông nghiệp, mức độ phát huy sức mạnh tổng hợp của xã

viên và mức độ liên kết giữa HTX nông nghiệp với kinh tế hộ của xã viên.

Nhìn chung, hoạt động liên kết sức mạnh nội bộ của HTX nông nghiệp được

đông đảo xã viên đánh giá cao.

93

Các năng lực liên kết với bên ngoài (4. Khả năng tiêu thụ sản phẩm ra

thị trường; 5. Khả năng thu hút lao động không phải là xã viên; 6. Thực hiện

chức năng giải quyết những các thủ tục hành chính với các cơ quan quản lý

nhà nước; 7. Năng lực hợp tác với các HTX khác) mặc dù được trên 50% xã

viên hài lòng nhưng tỷ lệ hài lòng chưa cao.

Bảng 7. Năng lực hợp tác của các HTX nông nghiệp (%)

Tỷ lệ hài lòng

Nhóm mẫu Nhóm mẫu

gia đình gia đình Chỉ tiêu Toàn bộ có hoạt không hoạt mẫu động kinh động kinh

tế tế

1. Tính liên kết trong nội bộ xã viên 84,48 81,25 87,50 HTX nông nghiệp

2. Phát huy được sức mạnh tổng hợp 80,95 75,00 90,00 của xã viên

3. Sự liên kết giữa HTX nông nghiệp 72,50 78,72 62,96 và kinh tế của hộ của xã viên

4. Khả năng tiêu thụ sản phẩm ra thị 62,82 64,44 55,56 trường

5. Khả năng thu hút lao động không 60,76 55,56 64,29 phải xã viên

6. Thực hiện chức năng giải quyết các

thủ tục hành chính với các cơ quan 51,28 52,17 46,15

quản lý nhà nước

7. Năng lực hợp tác với các HTX khác 50,63 46,67 50,00

Nguồn: Viện nghiên cứu Kinh tế và Phát triển, 2011

Kết quả này chỉ ra rằng HTX nông nghiệp đã thực hiện rất tốt việc kết

hợp các sức mạnh nội bộ, tuy nhiên chưa thực hiện tốt việc liên kết sức mạnh

với bên ngoài. Ngoài ra, kết quả này cũng phản ánh rằng HTX nông nghiệp là

94

tổ chức có vai trò phát huy sức mạnh của sự hợp tác cho các xã viên. Kết quả

điều tra chỉ ra rằng các HTX nông nghiệp phục vụ các xã viên có hoàn cảnh

khó khăn hơn (gia đình không tổ chức hoạt động kinh tế hộ) tốt hơn việc phục

vụ các xã viên có điều kiện tốt hơn (gia đình tổ chức hoạt động kinh tế).

3.1.2.2. Thực trạng quy mô và hiệu quả của hợp tác xã nông nghiệp

* Quy mô giá trị gia tăng

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê tuy mức tăng trưởng GDP chung

của cả nền kinh tế, GDP của thành phần kinh tế tập thể liên tục gia tăng,

nhưng khu vực HTX hầu như không gia tăng mà còn có xu hướng giảm ở

những năm 2013, 2014 và 2015 (đồ thị 1). Điều này cho thấy, khu vực kinh tế

HTX cũng chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2008-2009.

Đồ thị 1. Giá trị gia tăng và tốc độ tăng trƣởng giá trị gia tăng

Nguồn: Tính toán từ Liên minh HTX, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tổng cục Thống kê

Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng của khu vực kinh tế tập thể tương đối

thấp và liên tục giảm từ năm 2005 đến năm 2010, từ năm 2011 đến 2015 có

xu hướng tiếp tục giảm. Cụ thể, tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng của khu

vực này năm 2015 là 2,83%, năm 2014 là 2,91%, 2013 là 3,12%, năm 2012 là

3,31% , năm 2011 là 3,12%, 2010 đạt khoảng 3,2%, năm 2009 đạt 3,3%, năm

2008 đạt khoảng 3,11%, năm 2007 đạt khoảng 3,32%, năm 2006 đạt 3,51%

và năm 2005 đạt 3,98%. Đóng góp của kinh tế HTX vào GDP tương đối thấp

và có xu hướng tăng chậm. Trong giai đoạn 1995-2003, khu vực khu vực này

đóng góp khoảng 8,5% GDP, (con số này của khu vực tư nhân là 7,6% GDP,

95

khu vực nhà nước là 39,2%, khu vực kinh tế cá thể là 32,9%, khu vực kinh tế

có vốn đầu tư nước ngoài là 11,54%). Từ sau năm 2005, tỷ trọng đóng góp

trong GDP của khu vực kinh tế tập thể giảm rõ rệt, chỉ chiếm bình quân

khoảng 5,76% trong GDP, thay vào đó là sự phát triển của kinh tế tư nhân và

kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

Quy mô nhỏ cùng xu hướng giảm dần trong đóng góp của kinh tế HTX

vào GDP phản ánh kinh tế HTX là khu vực kinh tế đang bị tụt hậu so với các

khu vực kinh tế khác.

* Quy mô xã viên

Về mặt quy mô xã viên (đồ thị 2), tổng số xã viên tham gia HTX đã

tăng nhanh trong giai đoạn 2003-2015. Năm 2003, các HTX chỉ thu hút trên

6,5 triệu xã viên, đến năm 2007 con số này lên đến trên 7,4 triệu, năm 2012

đạt trên 12,9 triệu, đến năm 2015 tụt xuống còn 10,902 triệu.

Đồ thị 2. Tổng số lƣợng xã viên và số lƣợng xã viên bình quân/HTX

Nguồn: Tính toán từ Liên minh HTX, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tổng cục Thống kê

Quy mô xã viên bình quân trên 1 HTX cũng có xu hướng tăng từ

khoảng 459 xã viên/ HTX năm 2003 lên 685 xã viên/HTX năm 2010, tăng

cao nhất là năm 2012 với 705 xã viên/HTX, đến năm 2015 còn 615 thành

viên/HTX. Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) là nơi thu hút nhiều xã viên nhất

(trung bình 960 xã viên/QTDND); tiếp đó là HTX nông nghiệp (953 xã

viên/HTX) và ít nhất là HTX thương mại (43 xã viên/HTX).

96

Quy mô xã viên và sự biến động về quy mô xã viên trong khu kinh tế

HTX và số xã viên bình quân/HTX ở mức độ cao và có xu hướng tăng dần phản

ánh vai trò kinh tế - xã hội ngày càng tăng của HTX.

* Hiệu quả sản xuất kinh doanh

Mặc dù đã có sự tăng trưởng nhất định trong sản xuất, hiệu quả kinh

doanh khu vực HTX vẫn còn thấp. Theo số liệu của Liên minh HTX, mức lợi

nhuận bình quân hàng năm của các HTX đã tăng từ 75 triệu đồng năm 2006

lên 95 triệu đồng năm 2009, 140 triệu đồng năm 2013 và 196 triệu đòng năm

2015 (đồ thị 3), tuy nhiên đây là những con số tương đối nhỏ bé so với quy

mô vốn và quy mô xã viên.

Nguồn: Tính toán từ Liên minh HTX, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tổng cục Thống kê

Theo kết quả của dự án “Khảo sát thu thập thông tin xây dựng cơ sở dữ

liệu HTX trên địa bàn toàn quốc”, tổng lợi nhuận trước thuế của khu vực

HTX năm 2007 là 1.295.946 triệu đồng và mức lợi nhuận bình quân là 89,38

triệu đồng/HTX. Tổng lợi nhuận sau thuế là 1.114.996 triệu đồng và mức lợi

nhuận bình quân sau thuế là 76,9 triệu đồng/HTX. Các con số này trước thuế

của các HTX ở khu vực đồng bằng sông Hồng lần lượt là 243.117 triệu đồng,

48,06 triệu đồng; vùng Đông Bắc là 200.773 triệu đồng và 76,4 triệu đồng;

vùng Tây Bắc là 33.556 triệu đồng và 55,56 triệu đồng; vùng Bắc Trung Bộ là

153.142 triệu đồng và 55,61 triệu đồng; vùng duyên hải miền trung là 74.797

triệu đồng và 75,94 triệu đồng; vùng Tây Nguyên là 61.015 triệu đồng và 124,52

triệu đồng; vùng Đông Nam Bộ là 259.278 triệu đồng và 310,88 triệu đồng;

vùng đồng bằng sông cửu long là 270.268 triệu đồng và 235,84 triệu đồng.

97

Với số liệu năm 2007, mức vốn bình quân là 2.375,09 triệu đồng và

mức lợi nhuận bình quân là 89,38 triệu đồng/HTX, thì tỷ lệ lợi nhuận/vốn đầu

tư của HTX chỉ đạt 3,7%. Con số này cho thấy hiệu quả kinh doanh của HTX

là tương đối thấp. Chính vì vậy nếu coi HTX là tổ chức hoạt động vì lợi

nhuận, HTX khó có cơ hội tồn tại.

* Thu nhập bình quân đầu người

Ngoài các lao động là xã viên HTX, thu nhập bình quân hàng năm của

lao động làm việc thường xuyên trong HTX cũng có xu hướng tăng lên, năm

2006 thu nhập bình quân của lao dộng chỉ là 7,2 triệu đồng, năm 2007 tăng

lên 8 triệu đồng, năm 2008 tăng lên 9 triệu đồng và năm 2009 thu nhập bình

quân của người lao động tăng 10,5 triệu đồng tăng 45,8 % so với năm 2006,

nhưng giai đoạn từ 2010 đến 2015 không tăng nhiều, chỉ tăng từ 11 triệu đồng

lên 12,1 triệu đồng tương ứng với 10% (đồ thị 4).

Nguồn: Tính toán từ Liên minh HTX, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tổng cục Thống kê

Thu nhập bình quân của xã viên HTX theo số liệu báo cáo của 32 địa phương1, năm 2009 ước đạt 10,58 triệu đồng/xã viên/năm tăng 11,5 % so với

thực hiện năm 2008; thu nhập bình quân của lao động làm việc thường xuyên trong HTX, liên hiệp HTX theo số liệu báo cáo của 36 địa phương2, năm 2009

1 Gồm các tỉnh: Cao Bằng, Yên Bái, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc Giang, Phú Thọ, Điện Biên, Lai Châu, Bắc Ninh, Hải Dương, Vĩnh Phúc, Hà Nam, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Gia Lai, Kon Tum, Đắk Nông, Lâm Đồng, Đà Nẵng, Quảng Nam, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận, Bình Dương, Long An, Bến Tre, Trà Vinh, Hậu Giang, Đồng Tháp, Cà Mau. Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 2 Gồm các tỉnh: Cao Bằng, Yên Bái, Thái Nguyên, Bắc Giang, Phú Thọ, Điện Biên, Lai Châu, Bắc Ninh, Ninh Bình, Hải Dương, Vĩnh Phúc, Hà Nam, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Trị, Gia Lai, Kon Tum, Đắk Nông, Lâm Đồng, Đà Nẵng, Phú 98

ước đạt 10,45 triệu đồng/lao động/năm, tăng 13,4% so với thực hiện năm

2008; thu nhập bình quân của lao động là xã viên HTX, liên hiệp HTX theo số liệu báo cáo của 24 địa phương3, năm 2009 ước đạt 14,15 triệu đồng/lao

động/năm tăng 19% so với thực hiện năm 2008.

Các số liệu trên chỉ ra rằng mức thu nhập bình quân lao động ở HTX

hiện nay là thấp hơn nhiều so với các khu vực khác. Vì vậy, với mục tiêu tạo

công ăn việc làm, HTX chỉ phần nào giúp người lao động có mức thu nhập

cần thiết chứ khó có thể giúp người lao động giàu lên từ HTX.

3.1.3. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân 3.1.3.1. Những hạn chế, bất cập chính của hợp tác xã nông nghiệp

- Về tổ chức lại HTX hoạt động theo Luật: đến năm 2015 mới có

khoảng 29,38% HTX nông nghiệp hoạt động theo Luật HTX (trong đó HTX

cũ đã đăng ký lại hoạt động theo luật chiếm 18,87%). Do đó, phần lớn các

HTX nông nghiệp hiện nay về phương thức hoạt động vẫn chưa có sự thay

đổi, tư duy hoạt động còn nặng về hành chính, bao cấp theo phương thức

HTX kiểu cũ.

- Đa số các HTX nông nghiệp hiện nay mới chỉ tập trung hoạt động đối

với các dịch vụ đầu vào trong sản xuất nông nghiệp như: cung ứng giống, vật

tư, phân bón, bảo vệ thực vật, thủy lợi nội đồng… còn các dịch vụ rất quan

trọng như: bảo quản, chế biến, tiêu thụ sản phẩm chưa được quan tâm, nên số

HTX thực hiện việc bao tiêu nông sản cho nông dân ít, hiện mới chỉ có

khoảng 10% số HTX thực hiện việc bao tiêu một phần nông sản cho nông

dân. Từ đó chưa hỗ trợ cho việc gia tăng sản lượng và giá trị của sản xuất

nông nghiệp. Bên cạnh đó, có một số HTX được hình thành không đúng bản

chất, chủ yếu là để hưởng chính sách hỗ trợ của Nhà nước.

Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận, Ninh Thuận, Bình Dương, Long An, Bến Tre, Trà Vinh, Cần Thơ, Hậu Giang, Đồng Tháp, Cà Mau. Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 3 Gồm các tỉnh: Cao Bằng, Tuyên Quang, Yên Bái, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc Giang, Phú Thọ, Điện Biên, Lai Châu, Bắc Ninh, Ninh Bình, Hải Dương, Hà Nam, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Gia Lai, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên, Bình Thuận, Ninh Thuận, Bình Dương, Long An, Tiền Giang, Trà Vinh, Cần Thơ, Hậu Giang, Đồng Tháp, Cà Mau. Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

99

- Nhiều HTX nông nghiệp còn lúng túng trong định hướng hoạt động

và đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, chưa có sản phẩm dịch vụ tốt để đáp

ứng nhu cầu sản xuất hàng hóa; thiếu sự liên kết chặt chẽ giữa các HTX với

thành viên nên hiệu quả hoạt động của các HTX nông nghiệp còn hạn chế:

nếu xem xét trên góc độ về khả năng tái mở rộng các hoạt động dịch vụ sản

xuất và lợi ích mà HTX mang lại cho các thành viên thì hiện nay mới chỉ có

khoảng trên 10% HTX nông nghiệp hoạt động đạt hiệu quả cao; khoảng 10%

hoạt động trung bình và yếu; 9,75% HTX hoạt động kém hoặc ngừng hoạt

động (đến nay còn 1062 HTX). Do hiệu quả hoạt động hạn chế, lợi ích mang

lại cho thành viên chưa cao nên người nông dân chưa hăng hái tham gia, gắn

bó với HTX, chưa coi HTX là “nhà của mình”.

- Việc hình thành các chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm giữa

nông dân, các tổ chức của nông dân, các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế.

Hiện nay, nhu cầu liên kết là rất lớn tuy nhiên số các HTX thực hiện liên kết

được với doanh nghiệp để tiêu thụ sản phẩm còn ít. Người nông dân đa số vẫn

phải “tự làm tự bán” là chính, dẫn đến rủi ro nhiều trong sản xuất, tiêu thụ sản

phẩm và thu nhập của người nông dân. Trong những lĩnh vực sản xuất hàng

hóa phát triển như lúa gạo ở đồng bằng sông cửu long, bò sữa, mía đường, cà

phê, hồ tiêu cũng chỉ có khoảng 10 đến 15% số lượng nông sản được tiêu thụ

thông qua các tổ hợp tác và HTX.

3.1.3.2. Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế, bất cập

- Nhận thức về HTX nông nghiệp của các cấp, các ngành và chính bản

thân người nông dân về vai trò của HTX nông nghiệp chưa đúng với bản chất

của HTX theo Luật năm 2012. Khảo sát ở Thanh Hóa cũng cho thấy, sự quan

tâm hỗ trợ của các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị - xã hội cũng có

nhưng chủ yếu là không thường xuyên, vẫn còn 22,6% ý kiến của các HTX

nông nghiệp cho rằng chính quyền chưa tạo điều kiện thuận lợi để cho HTX

nông nghiệp phát triển. Các quy định về tổ chức hoạt động, tài sản và sở hữu

đối với tài sản của HTX và của từng thành viên, các chính sách hỗ trợ phát

triển HTX và đặc biệt là trách nhiệm quản lý nhà nước của các bộ, ngành đối

100

với HTX nông nghiệp còn chung chung gây tâm lý e ngại cho người dân khi

tham gia HTX.

- Tình hình vốn, quỹ của các HTX còn khó khăn: mức vốn bình quân

của các HTX nông nghiệp thấp và chủ yếu là vốn tài sản cố định đã sử dụng

lâu năm, nhà xưởng và thiết bị xuống cấp, lạc hậu. Đa số các HTX nông

nghiệp thiếu vốn để sản xuất, kinh doanh; các HTX nông nghiệp rất khó tiếp

cận với nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng, trong khi đó việc huy động

vốn từ các thành viên khó khăn ảnh hưởng đến năng lực sản xuất kinh doanh

và khả năng cạnh tranh của HTX. Qua khảo sát ở Thanh Hóa cũng cho thấy,

khó khăn lớn nhất trong hoạt động của HTX nông nghiệp hiện nay là do thiếu

vốn (chiếm tỷ lệ 78%).

- Chất lượng nguồn nhân lực của HTX nông nghiệp thấp. Hiện nay đa

số cán bộ chủ chốt HTX nông nghiệp hiện có trình độ chuyên môn nghiệp vụ

hạn chế, ít được đào tạo. Tư duy phát triển sản xuất kinh doanh chưa theo kịp

với sự phát triển của cơ chế thị trường, thiếu tính nhạy bén và năng động

trong tổ chức điều hành sản xuất kinh doanh.

- Khung pháp lý và hệ thống chính sách hỗ trợ phát triển HTX chưa

phù hợp và thiếu tính đồng bộ: chính sách hỗ trợ HTX tuy nhiều nhưng chưa

đủ mạnh và thiếu đồng bộ, thiếu những cơ chế, chính sách mang tính đột phá

để hỗ trợ mạnh mẽ và thiết thực cho HTX nông nghiệp. Sau Luật HTX 2012

ra đời, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách áp dụng cho các HTX nói

chung và HTX nông nghiệp nói riêng, tuy nhiên một số còn chung chung,

không cụ thể và chưa phù hợp với đặc thù của HTX nông nghiệp.

3.2. Thực trạng quản lý nhà nƣớc đối với hợp tác xã nông nghiệp

3.2.1. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp

Theo Luật HTX năm 2012, Bộ Kế hoạch và Đầu tư giúp Chính phủ

quản lý nhà nước về HTX. Ngoài ra còn có các bộ khác cũng có chức năng

quản lý đối với HTX hoạt động sản xuất, kinh doanh trong các lĩnh vực khác

nhau như Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Giao thông - Vận tải,

Bộ Công thương, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ngân hàng Nhà nước…

101

Theo đó, ở địa phương cũng có bố trí các cơ quan theo dõi, tham mưu

về quản lý nhà nước đối với HTX, nhưng chủ yếu là tổ chức ở cấp tỉnh và cấp

huyện (Theo sơ đồ 1).

Sơ đồ 1. Bộ máy quản lý nhà nƣớc đối với hợp tác xã hiện hành

Chính phủ

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Cục HTX và PTNN)

Ngân hàng nhà nước (Vụ Các tổ chức tín dụng hợp tác)

….

UBND cấp tỉnh

Sở Kế hoạch và Đầu tư (Phòng ĐKKD)

Sở Công thương (Phòng Thị trường trong nước)

Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn( Chi cục PTNN)

….

UBND cấp huyện

Phòng Kinh tế

Phòng Nông nghiệp

….

Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Vụ Hợp tác xã) Phòng Tài chính - kế hoạch

UBND cấp xã

Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn là cơ quan trực thuộc Bộ

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, thực hiện chức năng tham mưu giúp Bộ

102

trưởng quản lý nhà nước chuyên ngành và thực thi nhiệm vụ quản lý nhà

nước trong lĩnh vực kinh tế hợp tác.

Nhiệm vụ chủ yếu: Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan xây

dựng cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển HTX, tổ hợp tác và

các loại hình kinh tế hợp tác khác; kinh tế hộ, trang trại trong nông nghiệp

(nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp), nông thôn. Tổng hợp

các chương trình, đề án, kế hoạch về phát triển kinh tế hợp tác, kinh tế hộ,

kinh tế trang trại trong nông nghiệp, nông thôn và hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm

tra thực hiện sau khi được phê duyệt.

Theo Quyết định số 489/QĐ-BKH ngày 14/04/2009 của Bộ trưởng Bộ

Kế hoạch và Đầu tư, Vụ HTX thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong

lĩnh vực kế hoạch phát triển kinh tế tập thể, HTX. Vụ HTX có các nhiệm vụ

sau đây: Chủ trì, phối hợp với các đơn vị thuộc Bộ và các cơ quan có liên

quan nghiên cứu, xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế tập thể,

HTX; xây dựng Chương trình phát triển kinh tế tập thể, HTX trong từng thời

kỳ. Chủ trì hoặc tham gia soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật; các cơ

chế, chính sách, giải pháp hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể, HTX; làm đầu mối

phối hợp với các đơn vị thuộc Bộ thẩm định các văn bản quy phạm pháp luật,

cơ chế chính sách đối với kinh tế tập thể, HTX. Chủ trì hướng dẫn triển khai

thực hiện và đánh giá tổng kết việc thực hiện chiến lược, kế hoạch, chương

trình, cơ chế chính sách phát triển kinh tế tập thể, HTX đã được phê duyệt

thuộc phạm vi quản lý của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Chủ trì tổng hợp, xây

dựng kế hoạch và phân bổ kinh phí hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể từ nguồn

ngân sách nhà nước cho các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành

phố trực thuộc Trung ương, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và các đoàn thể

chính trị - xã hội, hội và hiệp hội. Theo dõi và tổng hợp tình hình thực hiện

chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể ở các Bộ, ngành, địa phương và đề

xuất các giải pháp cần thiết. Chủ trì, phối hợp với Cục Phát triển doanh

nghiệp và các đơn vị có liên quan hướng dẫn nghiệp vụ, trình tự và thủ tục

đăng ký kinh doanh, thủ tục chứng thực đối với tổ chức kinh tế tập thể; trình

103

Bộ trưởng ban hành theo thẩm quyền các quy định về chuyên môn, nghiệp vụ,

biểu mẫu phục vụ công tác đăng ký kinh doanh, chứng thực; quy định chế độ

báo cáo và kiểm tra, theo dõi, tổng hợp tình hình thực hiện đăng ký kinh

doanh và sau đăng ký kinh doanh, chứng thực đối với tổ chức kinh tế tập thể.

Chủ trì, phối hợp với các đơn vị có liên quan giải quyết các vướng mắc; tham

gia xử lý các vi phạm trong việc thực hiện đăng ký kinh doanh thuộc thẩm

quyền của Bộ đối với HTX và liên hiệp HTX. Làm đầu mối phối hợp hoạt

động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực phát triển kinh tế tập thể, HTX thuộc

phạm vi quản lý của Bộ. Chủ trì hoặc tham gia xây dựng, hướng dẫn, kiểm

tra, giám sát và đánh giá, tổng kết việc thực hiện các chương trình, dự án quốc

gia và các chương trình, dự án do các nước, các tổ chức quốc tế trợ giúp phát

triển kinh tế tập thể, HTX. Làm đầu mối phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các Bộ,

ngành liên quan và Uỷ ban nhân dân các cấp trong việc thúc đẩy phát triển

kinh tế tập thể, HTX; tuyên truyền, huấn luyện, bồi dưỡng về lý luận, pháp

luật, thực tiễn, kinh nghiệm phát triển kinh tế tập thể, HTX trong nước và

quốc tế; xây dựng mô hình và tổng kết, phổ biến nhân điển hình tiên tiến

trong kinh tế tập thể, HTX. Thu thập, cập nhật, xây dựng hệ thống thông tin

và cơ sở dữ liệu về kinh tế tập thể, HTX; cung cấp thông tin về kinh tế tập

thể, HTX phục vụ cho việc nghiên cứu xây dựng pháp luật, chiến lược, kế

hoạch, chương trình, cơ chế và chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể,

HTX. Phối hợp với các đơn vị có liên quan xử lý và cung cấp thông tin trong

lĩnh vực Vụ được giao. Chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan thuộc Bộ và

các cơ quan có liên quan hướng dẫn, phổ biến, theo dõi, kiểm tra việc thực

hiện quy định pháp luật về kinh tế tập thể, HTX; kiến nghị giải quyết các vấn

đề phát sinh trong quá trình xây dựng và thực hiện các quy định pháp luật về

kinh tế tập thể, HTX. Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương, các

tổ chức đoàn thể trong việc nghiên cứu, tổng kết việc thực hiện chủ trương,

chính sách của Đảng và Nhà nước đối với kinh tế tập thể, HTX trong phạm vi

cả nước.

104

Tuy chức năng, nhiệm vụ được xác định khá rõ ràng như trên, nhưng

thực tiễn thực hiện nhiệm vụ thì chưa đáp ứng được yêu cầu của quản lý do số

lượng biên chế cán bộ chuyên trách không đủ (cả Vụ HTX chỉ có hơn chục

biên chế). Ở các bộ khác gần như không thành lập tổ chức, thậm chí không bố

trí nhân sự để quản lý, theo dõi, hỗ trợ kinh tế tập thể, ngoài Bộ Nông nghiệp

và Phát triển nông thôn. Còn ở địa phương, biên chế dành cho công tác quản

lý nhà nước đối với kinh tế tập thể hầu như không có.

3.2.2. Xây dựng và thực thi chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát

triển HTX nông nghiệp

Phát triển HTX mà chủ yếu là HTX nông nghiệp là một chủ trương lớn

của Đảng và Nhà nước ta.

Ngay sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và cải cách ruộng

đất thắng lợi, Nghị quyết lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng

khoá II tháng 8 năm 1955 đã đề ra chủ trương phát triển các tổ đổi công và

xây dựng thí điểm một số HTX nông nghiệp. Cho nên, đến cuối năm 1957 đã

có 45 HTX trong nông nghiệp, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng thí

điểm các HTX miền Bắc. Đến cuối năm 1960, đã phát triển được 251 HTX

miền Bắc cấp huyện với 4.320 cửa hàng, HTX miền Bắc cấp xã với 2.147.000

xã viên và 5.994 HTX trung du với 2 triệu xã viên.

Tháng 4 năm 1959, Hội nghị TW lần thứ 16 khoá II đã chính thức

quyết định đường lối, phương châm, chính sách HTX nông nghiệp.

Sau Hội nghị TW lần thứ 24 khoá III tháng 9 năm 1975, ở Nam Bộ

chúng ta ồ ạt thành lập các HTX và tập đoàn sản xuất nhưng kết quả hoạt

động của HTX rất kém. Miền Bắc tiếp tục củng cố các HTX theo hướng mở

rộng quy mô toàn xã, liên xã với quá trình xây dựng cấp huyện, nhưng hiệu

quả hoạt động của các HTX ngày càng thấp.

Cho đến 1978 sau gần 30 năm xây dựng HTX nông nghiệp trong phạm vi

cả nước, mặc dù đã qua bao lần cải tiến quản lý, tổ chức lại sản xuất... nhưng các

HTX ngày càng hoạt động kém hiệu quả, nông dân xã viên thờ ơ với công việc

105

chung của HTX theo mô hình “tập thể hoá” tài sản, vốn, quỹ thất thoát, đất đai

bị bỏ hoang, hoá ngày càng nhiều.

Trước thực trạng bế tắc của phong trào HTX theo mô hình “tập thể

hoá”, Hội nghị TW 6 khoá 4, tháng 9 năm 1979, Chỉ thị 100 của Ban Bí thư

TW ngày 03/01/ 1981 đã giải quyết một cách cơ bản những mâu thuẫn, những

vấn đề đặt ra từ thực tiễn đối với phong trào hợp tác hoá.

Đường lối đổi mới do Đại hội VI đề xướng đã khẳng định phát triển kinh

tế hàng hoá nhiều thành phần, trong đó kinh tế tập thể mà bộ phận chủ yếu là

HTX được khẳng định cùng với kinh tế nhà nước dần dần trở thành nền tảng

của nền kinh tế quốc dân; đồng thời thừa nhận sự tồn tại của kinh tế HTX phải

đi đôi với sự phát triển đa dạng của các hình thức kinh tế hợp tác từ thấp đến

cao, HTX là bộ phận nòng cốt của kinh tế hợp tác. Nghị quyết 10-NQ/TW của

Bộ Chính trị (khoá VI) đã khẳng định, kinh tế HTX có nhiều hình thức từ thấp

đến cao, mọi tổ chức sản xuất kinh doanh do người lao động tự nguyện góp

vốn, góp sức, được quản lý theo nguyên tắc dân chủ đều là HTX. Nghị quyết

Hội nghị Trung ương 5 (khoá VII) tháng 6/1993 làm rõ thêm bản chất của

HTX trên cơ sở phát huy tính tự chủ của kinh tế hộ, coi kinh tế hộ là bộ phận

khăng khít của kinh tế HTX. Nghị quyết Hội nghị giữa nhiệm kỳ (khoá VII)

tiếp tục khẳng định và phát triển quan điểm của Đảng coi kinh tế HTX với

nhiều hình thức phong phú và đa dạng từ thấp đến cao, phù hợp với nguyên tắc

tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ, kết hợp với sức mạnh của hộ xã

viên, làm cho kinh tế hợp tác trở thành một thành phần kinh tế vững mạnh,

cùng với kinh tế quốc doanh trở thành xương sống của nền kinh tế quốc dân.

Đến Đại hội VIII, quan điểm phát triển kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX;

kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể

ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.

Quan điểm của Đảng được cụ thể hoá trong Nghị quyết số 13-NQ/TW

tại Hội nghị Trung ương 5 (khoá IX), đã tạo lập môi trường tâm lý xã hội

thuận lợi cho kinh tế hợp tác, HTX phát triển bằng việc: Tăng cường tuyên

truyền chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phát triển

106

kinh tế hợp tác, HTX và các mô hình làm ăn có hiệu quả; Biểu dương, khen

thưởng những cá nhân và tập thể có thành tích và đóng góp cho kinh tế hợp

tác, HTX; Đưa nội dung phát triển kinh tế hợp tác, HTX vào giảng dạy trong

các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề.

Đại hội X đã khẳng định, tiếp tục đổi mới, tạo động lực phát triển có

hiệu quả các loại hình kinh tế tập thể; và nhấn mạnh, tiếp tục nghiên cứu xây

dựng mô hình HTX kiểu mới trên cơ sở tổng kết các đơn vị làm tốt để tăng

sức hấp dẫn, tạo động lực cho kinh tế tập thể, nhất là đối với nông nghiệp, tiểu

thủ công nghiệp.

Đại hội XI tiếp tục chỉ rõ, đẩy mạnh phát triển kinh tế tập thể với nhiều

hình thức đa dạng, mà nòng cốt là HTX; tổng kết tình hình phát triển các HTX và

thực hiện Luật HTX; khẩn trương hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế, chính

sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho việc ra đời, phát triển các HTX theo nguyên tắc tự

nguyện, cùng có lợi, có chức năng kinh tế và xã hội; tạo điều điều phát triển các

trang trại ở nông thôn và hình thành HTX của các chủ trang trại.

Ngay sau Đại hội XI, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 56-KL/TW

ngày 21/2/2012 về đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về

tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể. Trong đó khẳng

định, phát triển kinh tế tập thể là một chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước,

đồng thời cũng là sự nghiệp hết sức khó khăn đòi hỏi phải kiên trì, xuất phát

từ nhu cầu thực tế, phù hợp với đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của từng

vùng, miền, địa phương, tránh hình thức, gò ép hoặc buông lỏng. Phải tuân

thủ đầy đủ các quy định của Luật Hợp tác xã năm 2012 và các luật khác có

liên quan, bảo đảm HTX là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, tự chủ, tự

chịu trách nhiệm, do các thành viên tự nguyện thành lập nhằm tương trợ lẫn

nhau trong hoạt động sản suất, kinh doanh, tạo việc làm, đáp ứng nhu cầu

chung của các thành viên, trên cơ sở bình đẳng, dân chủ và cùng có lợi.

Đại hội XII khẳng định, tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt

động của kinh tế tập thể, kinh tế HTX; đẩy mạnh liên kết và hợp tác dựa trên

quan hệ lợi ích, áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, phù hợp với cơ chế thị

107

trường. Nhà nước có cơ chế, chính sách hỗ trợ về tiếp cận nguồn vốn, đào tạo

nguồn nhân lực, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ, hỗ trợ phát triển thị trường,

tạo điều kiện phát triển kinh tế HTX trên cơ sở phát triển và phát huy vai trò

của kinh tế hộ.

Cụ thể hóa đường lối chiến lược đó, trong thời gian qua, Nhà nước đã

ban hành các quy hoạch, kế hoạch liên quan đến phát triển HTX nông nghiệp,

như: Quyết định 124/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 02 tháng 02

năm 2012 về phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển sản xuất ngành nông

nghiệp đến năm 2020 và tầm nhìn đến 2030; Kế hoạch Đổi mới phát triển các

hình thức tổ chức kinh tế hợp tác trong nông nghiệp của Bộ Nông nghiệp và

Phát triển nông thôn được ban hành kèm theo Quyết định số 710/QĐ-BNN-

KTHT ngày 10 tháng 04 năm 2014 của của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và

Phát triển nông thôn về phê duyệt kế hoạch đổi mới, phát triển các hình thức

tổ chức kinh tế hợp tác trong nông nghiệp; Kế hoạch số 1391/KH-BNN-

TCLN ngày 29 tháng 4 năm 2014 về phát triển kinh tế hợp tác và liên kết theo

chuỗi giá trị sản phẩm trong lâm nghiệp giai đoạn 2014-2020.

3.2.3. Ban hành và thực thi pháp luật có liên quan đến phát triển hợp

tác xã nông nghiệp

Luật HTX được ban hành đầu tiên năm 1996, năm 2003 sửa đổi và gần

đây nhất là Luật HTX năm 2012 (ban hành 20/11/2012 có hiệu lực 1/7/2013).

Trong Luật này đã quy định khá đầy đủ, giúp cho các chủ thể tham gia quan

hệ HTX nắm rõ quyền và lợi ích.

Khi HTX tham gia các hoạt động kinh tế xã hội (nhất là hoạt động kinh

doanh và quyền lợi người lao động) thì các Luật sau đây cũng tham gia điều

chỉnh: Luật Đầu tư 2014 ban hành 26/11/2014; Luật Phá sản ban hành

19/6/2014; Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp sửa đổi năm 2013 ban hành

19/6/2013; Luật Việc làm 2013 ban hành 16/11/2013; Luật Thuế giá trị gia

tăng sửa đổi năm 2013 ban hành 19/6/2013; Luật Thi hành án dân sự sửa đổi

2014 ban hành 25/11/2004; Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2009 ban hành

19/06/2014...

108

Nghị định trực tiếp điều chỉnh HTX là Nghị định số 193/2013/NĐ-CP

hướng dẫn Luật HTX năm 2012. Nội dung Nghị định này cụ thể, và hướng

dẫn các điều khoản của Luật HTX để các HTX thi hành. Nghị định số

103/2014/NĐ-CP quy định mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động

làm việc ở doanh nghiệp, HTX, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và

cơ quan tổ chức có thuê mướn lao động theo hợp đồng lao động. Nghị định số

110/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hỗ trợ

tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá

sản doanh nghiệp, HTX. Nghị định số 94/2005/NĐ-CP về giải quyết quyền

lợi của người lao động ở doanh nghiệp và HTX bị phá sản. Ngoài ra còn có

nhiều Nghị định khác có nhắc đến HTX, trong đó có rất nhiều chính sách ưu

đãi dành cho HTX.

Về Thông tư trực tiếp hướng dẫn HTX có: Thông tư số 03/2014/TT-

BKHĐT hướng dẫn về đăng ký hợp tác xã và chế độ báo cáo hình hoạt động

của hợp tác xã do Bộ kế hoạch và Đầu tư ban hành; Thông tư số 33/2013/TT-

BLĐTB XH hướng dẫn thực hiện mức lương tối thiểu vùng đối với người lao

động làm việc ở doanh nghiệp, HTX, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và cơ

quan, tổ chức có thuê mướn lao động do Bộ lao động - Thương binh và Xã

hội ban hành; Thông tư số 31/2012/TT-NHNN quy định về ngân hàng HTX

do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành; Thông tư số 173/2012/TT-BTC

sửa đổi Thông tư số 66/2006/TT-BTC hướng dẫn cơ chế tài chính hỗ trợ sáng

lập viên HTX chuẩn bị thành lập, đối tượng đào tạo, bồi dưỡng của HTX do

Bộ Tài chính ban hành; Thông tư số 24/2010/TT-BTC hướng dẫn kế toán áp

dụng cho HTX nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và nghề muối do Bộ Tài

chính ban hành; Thông tư số 04/2007/TT-NHNN sửa đổi Thông tư số

06/2004/TT-NHNN về tín dụng nội bộ HTX do Ngân hàng Nhà nước Việt

Nam ban hành...

Quyết định trực tiếp đối với HTX của cấp trung ương đang có giá trị

hiện hành: Quyết định số 2261/QĐ-TTg năm 2014 phê duyệt chương trình hỗ

trợ phát triển HTX giai đoạn 2015-2020 do Thủ tướng Chính phủ ban hành.

109

Quyết định số 1280/QĐ-BNN-HTQT năm 2012 phê duyệt dự án “Tăng

cường chức năng HTX nông nghiệp tại Việt Nam giai đoạn II” do Nhật Bản

tài trợ của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành.

Quyết định số 384/QĐ-TTg năm 2011 bổ sung kinh phí thành lập mới,

bồi dưỡng, đào tạo cán bộ HTX, tổ hợp tác do Thủ tướng chính phủ ban hành.

Quyết định số 60/2007/QĐ-BTC về lãi suất cho vay vốn của Quỹ hỗ trợ phát

triển HTX do Bộ Tài chính ban hành. Ngoài ra quyết định kể trên, có nhiều

văn bản có nhắc đến HTX. Có thể tổng hợp các ưu đãi sau: Bồi dưỡng nguồn

nhân lực; xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường; ứng dụng khoa học, kỹ

thuật và công nghệ mới; thành lập mới; tổ chức lại hoạt động của HTX; chính

sách ưu đãi về thuế đất đai, mặt nước chính sách ưu đãi thuế.

Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, sau khi có

Luật HTX năm 2012 và Nghị định số 193/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 của

Chính phủ được ban hành: Đã có 24/63 tỉnh, thành phố có văn bản chỉ đạo

triển khai thực hiện Luật HTX; 38/63 tỉnh, thành phố có kế hoạch hoặc văn

bản hướng dẫn chỉ đạo HTX tổ chức lại theo Luật HTX; có 30 tỉnh ban hành

kế hoạch, đề án đổi mới tổ chức sản xuất phục vụ tái cơ cấu ngành nông

nghiệp. Việc thực thi pháp luật về HTX nêu trên đã mang lại kết quả là số

lượng HTX nông nghiệp thành lập mới mỗi năm khá cao khoảng

800HTX/năm, nhưng số lượng HTX nông nghiệp giải thể vì hoạt động kém

hiệu quả cũng rất lớn khoảng 550 HTX/năm, nên về tổng số lượng HTX nông

nghiệp tăng trung bình chỉ khoảng 250 HTX/năm, không tăng nhiều hơn so

với trước khi Luật Hợp tác xã năm 2012 ra đời.

3.2.4. Ban hành và thực thi các chính sách phát triển hợp tác xã

nông nghiệp

3.2.4.1. Chính sách hỗ trợ đối với các hợp tác xã quy định tại Luật Hợp

tác xã 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành

Điều 6 Luật HTX năm 2012 quy định, Nhà nước có chính sách hỗ trợ

đối với HTX, liên hiệp HTX, gồm các lĩnh vực: Đào tạo, bồi dưỡng nguồn

nhân lực; Xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường; Ứng dụng khoa học, kỹ

110

thuật và công nghệ mới; Tiếp cận vốn và quỹ hỗ trợ phát triển HTX; Tạo điều

kiện tham gia các chương trình mục tiêu, chương trình phát triển kinh tế - xã

hội; Thành lập mới HTX, liên hiệp HTX.

Ngoài ra, Nhà nước có chính sách ưu đãi đối với HTX, liên hiệp HTX,

gồm: Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp và các loại thuế khác theo quy định

của pháp luật về thuế; Ưu đãi lệ phí đăng ký hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã

theo quy định của pháp luật về phí và lệ phí.

Đối với HTX, liên hiệp HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp,

lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp, ngoài việc được hưởng chính sách hỗ

trợ, ưu đãi kể trên còn được hưởng chính sách hỗ trợ, ưu đãi sau đây:

- Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng;

- Giao đất, cho thuê đất để phục vụ hoạt động của HTX, liên hiệp HTX

theo quy định của pháp luật về đất đai;

- Ưu đãi về tín dụng;

- Vốn, giống khi gặp khó khăn do thiên tai, dịch bệnh;

- Chế biến sản phẩm.

3.2.4.2. Nghị định số 193/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 của Chính phủ

quy định chính sách hỗ trợ đối với HTX

- Chính sách đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực. Nhà nước hỗ trợ kinh

phí đào tạo chính quy, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, kỹ thuật đối với

cán bộ quản lý HTX, liên hiệp HTX, thành viên HTX.

- Chính sách xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường. Nhà nước hỗ trợ

HTX, liên hiệp HTX tham gia các triển lãm trong và ngoài nước; tổ chức các

hội chợ, triển lãm dành riêng cho khu vực HTX; xây dựng thương hiệu, nhãn

hiệu, xuất xứ hàng hóa, xây dựng và triển khai cổng thông tin điện tử, sàn

giao dịch thương mại điện tử cho các HTX, liên hiệp HTX.

- Ứng dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới.

+ Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ quốc gia và cấp tỉnh hàng năm

dành một phần kinh phí hỗ trợ các HTX, liên hiệp HTX đổi mới, ứng dụng

111

công nghệ và thông báo kết quả thực hiện cho cơ quan quản lý nhà nước về

HTX, liên hiệp HTX.

+ Nhà nước hỗ trợ nghiên cứu khoa học công nghệ từ nguồn kinh phí

sự nghiệp nghiên cứu khoa học công nghệ đối với HTX, liên hiệp HTX có dự

án nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới được

cấp có thẩm quyền phê duyệt.

- Chính sách tiếp cận vốn và quỹ hỗ trợ phát triển HTX.

+ HTX, liên hiệp HTX có dự án đầu tư mới, đầu tư mở rộng năng lực

sản xuất, kinh doanh; hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, địa bàn nông

thôn được ưu đãi về lãi suất và bảo lãnh tín dụng từ quỹ hỗ trợ phát triển hợp

tác xã; ưu tiên vay vốn tín dụng từ ngân hàng phát triển và các tổ chức tín

dụng khác theo quy định của pháp luật; được vay ưu đãi theo quy định của

Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn;

+ Quỹ hỗ trợ phát triển HTX thực hiện nhiệm vụ bảo lãnh tín dụng và

hỗ trợ lãi suất đối với HTX, liên hiệp HTX.

- Chính sách tạo điều kiện tham gia các chương trình mục tiêu, chương

trình phát triển kinh tế - xã hội. HTX, liên hiệp HTX có đủ năng lực được ưu

tiên tham gia các chương trình mục tiêu, chương trình phát triển kinh tế - xã

hội sau đây:

+ Các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng trên địa bàn và quản lý các

công trình sau khi hoàn thành, kể cả các công trình chợ và công trình hạ tầng

phục vụ phát triển cụm công nghiệp và cụm làng nghề ở nông thôn.

+ Các dự án, chương trình phát triển kinh tế - xã hội khác trên địa bàn

phù hợp với khả năng của HTX, liên hiệp HTX.

- Chính sách thành lập mới HTX, liên hiệp HTX.

+ Sáng lập viên HTX được cung cấp miễn phí thông tin, tư vấn, tập

huấn về quy định pháp Luật HTX trước khi thành lập HTX;

+ HTX, liên hiệp HTX được hỗ trợ tư vấn xây dựng điều lệ, hướng dẫn

và thực hiện các thủ tục thành lập, đăng ký và tổ chức hoạt động của HTX,

liên hiệp HTX.

112

Ngoài ra, Nghị định còn quy định chính sách hỗ trợ, ưu đãi đối với

HTX, liên hiệp HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư

nghiệp, diêm nghiệp:

- Hỗ trợ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng.

+ Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng bao gồm: trụ sở, sân phơi, nhà kho,

xưởng sơ chế, chế biến, điện, nước sinh hoạt, chợ, công trình thủy lợi, cơ sở

hạ tầng vùng nuôi trồng thủy sản, cửa hàng vật tư nông nghiệp, giao thông nội

đồng phục vụ sản xuất, kinh doanh cho cộng đồng thành viên HTX, liên hiệp

HTX trên cơ sở các dự án được các cấp có thẩm quyền phê duyệt.

+ Các công trình kết cấu hạ tầng được nhà nước hỗ trợ xây dựng theo

quy định trên, sau khi hoàn thành là tài sản không chia của HTX, liên hiệp

HTX; HTX, liên hiệp HTX chịu trách nhiệm bảo quản, duy tu và bảo dưỡng

các công trình trong quá trình sử dụng.

- Chính sách giao đất, cho thuê đất để phục vụ hoạt động của HTX, liên

hiệp HTX. Việc hỗ trợ đất đai đối với HTX, liên hiệp HTX được thực hiện

theo quy định của pháp luật về đất đai.

- Chính sách ưu đãi về tín dụng.

+ HTX, liên hiệp HTX thành lập mới hoặc có dự án đầu tư mới, đầu tư

mở rộng năng lực sản xuất, kinh doanh được ưu tiên vay vốn từ các tổ chức

tín dụng theo quy định của pháp luật hiện hành.

+ Các HTX, liên hiệp HTX có dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh, xuất

khẩu thuộc diện ưu đãi đầu tư được hưởng ưu đãi đầu tư theo quy định của

pháp luật về đầu tư.

- Chính sách hỗ trợ vốn, giống khi gặp khó khăn do thiên tai, dịch bệnh.

Tùy theo mức độ thiệt hại, tính chất nguy hiểm của dịch bệnh và nhu cầu thực

tế, HTX, liên hiệp HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp,

ngư nghiệp, diêm nghiệp được hưởng chính sách hỗ trợ, ưu đãi về vốn, giống

khi gặp khó khăn do thiên tai, dịch bệnh theo quy định của pháp luật hiện

hành về việc hỗ trợ giống, cây trồng, vật nuôi, thủy sản để khôi phục sản xuất

đối với vùng bị thiệt hại do thiên tai dịch bệnh.

113

- Chính sách hỗ trợ chế biến sản phẩm.

+ HTX, liên hiệp HTX có nhu cầu chế biến sản phẩm được hỗ trợ

nghiên cứu xây dựng dự án đầu tư chế biến sản phẩm.

+ HTX, liên hiệp HTX được ưu đãi về tín dụng trong việc triển khai dự

án đầu tư chế biến sản phẩm.

Chính sách ưu đãi riêng về thuế thu nhập doanh nghiệp đối với HTX

được quy định tại Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2013 như sau:

- Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với HTX hoạt động trong lĩnh

vực nông, lâm, ngư nghiệp ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó

khăn hoặc ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.

- Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động trồng trọt, chăn

nuôi, nuôi trồng thủy sản, sản xuất muối của HTX.

- Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với thu nhập của HTX từ hoạt

động đánh bắt hải sản.

- Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với thu nhập đưa vào tài sản

không chia của HTX.

- Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 10% đối với HTX hoạt động

trong lĩnh vự nông, lâm, ngư nghiệp khác.

- Hợp tác xã có tổng doanh thu năm không quá 20 tỷ đồng áp dụng thuế

suất 20% từ ngày 01/7/2013.

3.2.4.3. Chính sách hỗ trợ đối với hợp tác xã được quy định tại Quyết

định số 2261/QĐ-TTg ngày 15/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ về phê

duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển hợp tác xã giai đoạn 2015-2020

- Bồi dưỡng nâng cao năng lực đối với cán bộ quản lý và thành viên

HTX; nghiên cứu thí điểm mô hình đưa cán bộ trẻ tốt nghiệp cao đẳng, đại

học xuống làm việc tại HTX có thời hạn để đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý;

chi phí đi lại từ trụ sở chính của HTX đến cơ sở bồi dưỡng (trừ vé máy bay);

chi phí mua tài liệu của khóa học, chi phí tổ chức, quản lý lớp học (xây dựng

giáo trình, thuê hội trường, thù lao giảng viên, tham quan, khảo sát, chi phí

ăn, ở).

114

- Xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường. Các chương trình xúc tiến

thương mại quốc gia tạo điều kiện cho các HTX tham gia nhằm nâng cao

năng lực xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm, mở rộng thị trường...

- Ứng dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới. Quỹ phát triển khoa

học và công nghệ quốc gia ưu tiên hỗ trợ hợp tác xã trong hoạt động ứng dụng

khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới.

- Thành lập mới, tổ chức lại hoạt động của hợp tác xã.

Cung cấp thông tin, tư vấn, tập huấn về quy định pháp luật HTX trước

khi thành lập HTX cho sáng lập viên HTX.

Tư vấn xây dựng điều lệ, phương án sản xuất - kinh doanh, hướng dẫn

và thực hiện các thủ tục thành lập, đăng ký và tổ chức hoạt động của HTX.

Tư vấn thực hiện các thủ tục tổ chức lại hoạt động của hợp tác xã theo

Luật Hợp tác xã năm 2012.

Ngoài việc được hưởng các hỗ trợ, ưu đãi trên, HTX hoạt động trong lĩnh

vực nông, lâm, ngư, diêm nghiệp còn được hưởng các hỗ trợ, ưu đãi sau:

- Hỗ trợ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng.

+ Ưu tiên các HTX có quy mô lớn về thành viên, tạo quy mô hàng hóa

lớn, sản xuất theo cụm liên kết ngành và chuỗi giá trị; HTX hoạt động trên

các địa bàn khó khăn.

+ Dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng của HTX phải nhằm mục đích

phục vụ sản xuất, kinh doanh cho cộng đồng thành viên HTX, phải thực hiện

đúng các thủ tục về đầu tư và được cấp có thẩm quyền phê duyệt.

+ Nguồn và mức hỗ trợ: Ngân sách Trung ương hỗ trợ tối đa 80% tổng

mức đầu tư, HTX đóng góp tối thiểu 20% tổng mức đầu tư của dự án.

+ Hỗ trợ của Nhà nước là tài sản không chia của HTX, HTX tự trang

trải chi phí vận hành, bảo dưỡng công trình sau khi công trình được đưa vào

hoạt động; khi HTX giải thể thì phần giá trị tài sản được hình thành từ khoản

hỗ trợ của Nhà nước được chuyển vào ngân sách địa phương cùng cấp với cơ

quan đăng ký HTX.

115

116

- Hỗ trợ vốn, giống khi gặp khó khăn do thiên tai, dịch bệnh: thực hiện

theo Quyết định số 142/2009/QĐ-TTg ngày 31/12/2009 của Thủ tướng Chính

phủ về cơ chế, chính sách hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản để khôi

phục sản xuất vùng bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh.

- Hỗ trợ chế biến sản phẩm: thực hiện theo Quyết định số 68/2013/QĐ-

TTg ngày 14/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ nhằm

giảm tổn thất trong nông nghiệp.

Nhiều chính sách được ban hành như vậy, nhưng đi vào thực tế chưa

nhiều và các HTX nông nghiệp được hưởng lợi từ các chính sách đó chưa

nhiều (theo Liên minh HTX Việt Nam - Bảng 8).

3.2.5. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm trong

hoạt động của HTX nông nghiệp

Việc thanh tra, kiểm tra thực hiện pháp luật của HTX nông nghiệp và

các văn bản pháp luật có liên quan được chú trọng và tiến hành thường xuyên,

định kỳ nhằm kịp thời phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật.

Trong thời gian qua, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động

của HTX nông nghiệp chủ yếu tập trung vào sửa đổi, bổ sung nội dung điều

lệ, quyết toán tài chính hàng năm, tổ chức đại hội xã viên, xử lý giải thể HTX

nông nghiệp, nhưng cũng chưa chặt chẽ, triệt để. Tại nhiều HTX nông nghiệp,

xã viên chưa góp vốn điều lệ; việc sửa đổi bổ sung điều lệ các HTX nông

nghiệp thành lập mới, chuyển đổi theo Luật HTX năm 2012 còn rất chậm;

nhiều HTX nông nghiệp không tổ chức được đại hội. Việc giải thể các HTX

nông nghiệp tuy thực hiện đúng thủ tục, nhưng tiến trình chậm, gặp khó khăn

về thủ tục vì không tổ chức được hội nghị xã viên do không còn xã viên;

nhiều xã viên quá thời hạn quy định không góp vốn và không có tư cách xã

viên. Một số HTX nông nghiệp chuyển đổi nhưng đến nay vẫn chưa xác định

xã viên và vốn góp. Vẫn còn nhiều HTX nông nghiệp chưa thực hiện việc sửa

đổi, bổ sung điều lệ HTX quy định của pháp luật, nhưng chưa có giải pháp

chấn chỉnh. Hoạt động của ban quản trị, ban kiểm soát nói chung chưa thực

117

hiện đúng, đủ các quy định về nhiệm vụ theo điều lệ, quy định của Luật HTX,

chủ yếu do năng lực, trình độ yếu. Cá biệt, một số địa phương buông lỏng

việc kiểm tra, giám sát hoặc thực hiện mang tính đối phó. Ban kiểm soát HTX

nông nghiệp chưa phát huy vai trò. Ban quản trị và chủ nhiệm nhiều HTX

nông nghiệp thiếu chủ động và chưa tích cực trong hoạt động. Xã viên nhiều

HTX nông nghiệp chưa ý thức được đầy đủ nghĩa vụ, trách nhiệm và lợi ích

của mình trong việc kiểm tra, giám sát hoạt động HTX nông nghiệp. Nhìn

chung, việc giám sát, kiểm tra và xử lý những sai phạm trong việc thực hiện

Luật HTX và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan khác của các cơ quan

quản lý nhà nước đối với các HTX nông nghiệp chưa được đặt thành nhiệm

vụ cần thiết, quan trọng và thường xuyên. Bên cạnh đó, còn xảy ra tình trạng

các cơ quan quản lý nhà nước liên quan không nắm rõ tình hình phát triển của

các HTX nông nghiệp trên địa bàn, dẫn đến không thể phân tích, đánh giá một

cách rõ ràng, cụ thể và chính xác để kịp thời đưa ra các chính sách phù hợp

đối với khu vực kinh tế này.

Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp và xử lý các hành vi vi

phạm pháp luật về HTX nông nghiệp chủ yếu tập trung vào lĩnh vực đất đai,

hợp đồng kinh tế, chính sách thuế hoặc nghi ngờ tiêu cực trong quản lý HTX

nông nghiệp, quản lý HTX nông nghiệp thiếu dân chủ, sử dụng vốn không

đúng mục đích gây thiệt hại tài chính cho HTX nông nghiệp, tình hình thu

nộp và xử lý tài chính trong HTX nông nghiệp; định mức kinh tế kỹ thuật

khâu dịch vụ thủy nông ở một số HTX nông nghiệp. Nổi bật lên vấn đề về tài

sản chung của HTX nông nghiệp. Trên thực tế, ban kiểm soát một số HTX

nông nghiệp chủ động phối hợp cùng với ban quản trị đề ra chương trình,

nhiệm vụ công tác kiểm tra, kiểm soát, giải quyết các mâu thuẫn, khiếu nại, tố

cáo trong nội bộ HTX nông nghiệp; kiểm tra giám sát việc thực hiện điều lệ,

nội quy HTX... nhưng ở một số địa phương, cấp ủy Đảng, các cơ quan chính

quyền, nhất là cấp xã một mặt chưa thực sự quan tâm giúp đỡ HTX nông

nghiệp, mặt khác còn có biểu hiện can thiệp quá sâu vào công việc nội bộ của

118

HTX nông nghiệp, trong đó có vi phạm tới sự tự nguyện trong vận động

thành lập mới HTX nông nghiệp.

3.3. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nƣớc đối với hợp tác xã nông

nghiệp

3.3.1. Những kết quả đạt được

- Việc tổ chức bộ máy và thực hiện các nhiệm vụ của quản lý nhà nước

đối với HTX nông nghiệp đã một mặt đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của quản lý

nhà nước nói chung, mặt khác nâng cao hiệu quả hoạt động của HTX nông

nghiệp. Công tác phối hợp giữa các cơ quan có chức năng quản lý nhà nước

đối với HTX nông nghiệp bước đầu đã có hiệu quả; việc tham mưu ban hành

cơ chế chính sách hỗ trợ, phát triển hợp tác, liên kết, xây dựng chương trình,

kế hoạch, tổ chức thực hiện chính sách trong thực tiễn và công tác thanh tra,

kiểm tra đang dần đi vào nề nếp.

- Đường lối, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển HTX nông

nghiệp ngày càng được định hình rõ nét.

Có thể nói, phát triển HTX nông nghiệp là mục tiêu ưu tiên trong chính

sách phát triển kinh tế nước ta trong mọi thời kỳ. Lịch sử thăng trầm của

phong trào HTX ở nước ta cũng có liên hệ rất chặt chẽ với sự thay đổi trong

đường lối, chiến lược của Đảng và Nhà nước về HTX. Đó là nỗ lực và quyết

tâm mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước nhằm vực dậy khu vực HTX nông

nghiệp ở nước ta, đặc biệt trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và hội

nhập quốc tế hiện nay.

- Việc xây dựng và hoàn thiện thể chế đã tạo khung khổ pháp lý quan

trọng cho sự ra đời và tổ chức hoạt động của HTX nông nghiệp.

Tác động của pháp luật đến HTX nông nghiệp được thể hiện rõ nhất

vào các thời kỳ từ sau khi ban hành Luật HTX năm 1996 đến nay. Sự ra đời

của Luật HTX vào năm 1996 đã làm cho HTX trở nên tự chủ hơn, ít chịu sự

chi phối hơn từ các cơ quan hành chính nhà nước. Điều này đã góp phần cải

thiện nguyên tắc tự chủ của HTX nông nghiệp. Luật HTX năm 2003 đã góp

phần thúc đẩy sự phát triển của HTX thông qua việc cho phép các pháp nhân

119

tham gia HTX nông nghiệp (số lượng HTX nông nghiệp tăng từ 2.139 năm

2003 lên 8.918 năm 2012). Tuy nhiên, sự tham gia của các pháp nhân đã tạo

ra định hướng lợi nhuận hay doanh nghiệp hóa của nhiều HTX nông nghiệp.

Điều này cũng cản trở việc gia nhập HTX nông nghiệp của một số lao động

có hoàn cảnh khó khăn ở nhiều địa phương. Luật HTX năm 2012 ra đời đã

khuyến khích, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển HTX nông nghiệp "kiểu mới";

định hướng phát triển cho các HTX nông nghiệp hiện đang hoạt động theo

đúng bản chất HTX; đáp ứng nhu cầu và lợi ích của xã viên tham gia HTX

nông nghiệp; bảo đảm quyền và lợi ích của hàng chục triệu hộ nông dân, hàng

chục triệu người tiêu dùng, hộ kinh doanh cá thể, các doanh nghiệp; tăng

cường năng lực cạnh tranh củ ộ

dân và các cơ sở sản xuấ ỏ trong điều kiện cơ

chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế; góp phần cải thiện công bằng xã

hội và ổn định kinh tế, chính trị, xã hội; góp phần thực hiện định hướng xã hội

chủ nghĩa nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.

- Việc ban hành và thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển HTX

nông nghiệp đã góp phần thúc đẩy sự ra đời và phát triển của HTX nông

nghiệp qua các giai đoạn.

Trên cơ sở Luật HTX năm 2012, Chính phủ ban hành Nghị định số

193, Quyết định số 2261, và hàng loạt các chính sách hỗ trợ khác nữa đã hình

thành nên hệ thống các chính sách hỗ trợ phát triển HTX nông nghiệp đầy đủ

nhất từ trước tới nay. Đây là nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy sự ra đời

và phát triển của HTX nông nghiệp kiểu mới theo Luật HTX năm 2012.

- Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm trong hoạt

động của HTX nông nghiệp đã góp phần đảm bảo cho HTX nông nghiệp hoạt

động đúng với đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đối

với HTX nông nghiệp; đảm bảo cho HTX nông nghiệp tổ chức và hoạt động

đúng với nguyên tắc, điều lệ và hiệu quả góp phần phát triển kinh tế - xã hội ở

nông thôn.

120

Ngoài ra, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTX nông nghiệp cũng

được quan tâm chỉ đạo thực hiện. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã

ban hành chương trình khung về các bài giảng bồi dưỡng cán bộ quản lý HTX

nông nghiệp và tổ hợp tác trong nông nghiệp; nội dung đào tạo về kinh tế hợp

tác trong nông nghiệp được đưa thành một môn học riêng trong chương trình

đào tạo đại học chuyên ngành về nông nghiệp và phát triển nông thôn ở một

số trường đại học. Hoạt động hợp tác trong nước và quốc tế bước đầu cũng

được đẩy mạnh, nhiều tổ chức quốc tế và khu vực như WB, FAO, JICA, các

nước ASEAN... ngày càng quan tâm hỗ trợ phát triển HTX nông nghiệp.

3.3.2. Những hạn chế chủ yếu

- Chưa có cơ quan nhà nước chuyên trách quản lý HTX từ Trung ương

đến địa phương.

Ở các địa phương mới có Liên minh HTX cấp tỉnh có chức năng đại

diện và bảo vệ quyền lợi, lợi ích hợp pháp của các thành viên; tuyên truyền,

vận động phát triển HTX và liên hiệp HTX; hỗ trợ và cung cấp các dịch vụ

cần thiết cho sự hình thành và phát triển của các cơ sở HTX, liên hiệp HTX

và thành viên. Ở cấp huyện không có Liên minh HTX, Phòng Kế hoạch - Tài

chính quản lý việc cấp đăng ký thành lập HTX; trong quản lý nhà nước về

HTX nông nghiệp, có cán bộ chuyên trách của Phòng Nông nghiệp & Phát

triển nông thôn phụ trách nhưng biên chế cán bộ ít và chưa đủ theo quy định

nên chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý, tư vấn hỗ trợ hoạt động của HTX

nông nghiệp. Ở cấp xã không có bộ máy cũng như công chức chuyên trách

theo dõi, quản lý HTX nông nghiệp.

Cơ cấu tổ chức bộ máy, nhân sự và chức năng, nhiệm vụ của các cơ

quan chuyên trách quản lý đối với HTX nông nghiệp chậm hoàn thiện. Hầu

hết các địa phương cấp huyện không có cán bộ quản lý nhà nước chuyên trách

về HTX mà mới chỉ có cán bộ kiêm nhiệm ở Phòng Kế hoạch - Tài chính, do

vậy nhiều vấn đề nảy sinh trong thực tế liên quan đến HTX nông nghiệp chưa

được phát hiện và xử lý kịp thời. Ở cấp tỉnh, một số địa phương có Ban chỉ

đạo xây dựng và phát triển kinh tế tập thể nhưng chậm được củng cố nhân sự

121

và tổ chức. Ban chỉ đạo cấp huyện thường thiếu về số lượng, yếu về trình độ

và thiếu cán bộ chuyên trách. Ngoài ra, thiếu phân công rõ ràng, cụ thể giữa

các thành viên trong ban chỉ đạo dẫn đến hiệu quả hoạt động không cao.

Những thiếu sót, hạn chế, khiếm khuyết trên, dù khách quan hay chủ quan, vô

tình hay thờ ơ đối với kinh tế tập thể, đối với HTX nông nghiệp đều trở thành

rào cản đối với sự phát triển của HTX nông nghiệp. Do đó, cần và phải tháo

gỡ, xoá bỏ để tạo sự thông thoáng thật sự cho HTX nông nghiệp phát triển

một cách hiệu quả, thiết thực.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chuyên trách quản lý nhà nước về

kinh tế hợp tác, HTX trong nông nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu dẫn đến

năng lực tổ chức quản lý còn hạn chế. Đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước và

các chuyên gia tư vấn hỗ trợ phát triển HTX nông nghiệp vừa thiếu, vừa yếu.

- Tuy Đảng và Nhà nước luôn quan tâm và có đường lối, chiến lược

phát triển kinh tế tập thể, HTX và HTX nông nghiệp, nhưng việc xây dựng và

thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế tập thể, HTX nông nghiệp ở nhiều địa

phương chưa được quan tâm đúng mức, hoặc chưa đưa nội dung cụ thể, xác

thực, chặt chẽ về phát triển kinh tế tập thể, HTX nông nghiệp trong kế hoạch

phát triển kinh tế - xã hội địa phương mình. Như Bộ Nông nghiệp và Phát

triển nông thôn đã ban hành Kế hoạch đổi mới và phát triển kinh tế hợp tác

trong nông nghiệp giai đoạn 2014-2020, nhưng việc triển khai thực hiện chậm

ở các địa phương.

Mặc dù công tác tuyên truyền về kinh tế hợp tác, HTX đã có tiến bộ

nhất định, nhưng việc tuyên truyền còn thiếu chiến lược và thiếu thường

xuyên. Do đó, nhận thức về vị trí, vai trò, bản chất của HTX nông nghiệp

trong cán bộ và nhân dân chuyển biến còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu. Qua

khảo sát ở Thanh Hóa cho thấy, việc tuyên truyền phổ biến phát luật liên quan

đến phát triển HTX nông nghiệp, nhất là Luật HTX năm 2012 chưa thường

xuyên và chưa cụ thể.

- Hệ thống văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Hợp tác xã của Chính

phủ và các bộ, ngành, địa phương còn chậm và thiếu.

122

Sau khi Luật HTX được ban hành và có hiệu lực từ ngày 01/7/2013,

đến ngày 21/11/2013 Chính phủ mới có Nghị định số193/NĐ-CP về Quy định

chi tiết một số điều của Luật HTX; Thông tư số 03/2014/TT-BKHĐT của Bộ

Kế hoạch và Đầu tư về Hướng dẫn đăng ký HTX và chế độ báo cáo tình hình

hoạt động của HTX, Chỉ thị số19/CT-TTg ngày 24/7/2015 về việc đẩy mạnh

triển khai thi hành Luật HTX, Quyết định số 2261/QĐ-TTg ngày 15 tháng 12

năm 2014 phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển HTX giai đoạn 2015-

2020.

Hệ thống văn bản hướng dẫn chậm và thiếu làm việc chuyển đổi, tổ

chức lại HTX nông nghiệp gặp nhiều lúng túng, nhất là khâu rà soát tư cách

thành viên, góp vốn điều lệ, xác định tài sản, công nợ của HTX nông nghiệp

và xây dựng điều lệ, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, hỗ trợ thành

viên phát triển sản xuất, kinh doanh.

- Trong thời gian qua, Chính phủ đã đưa ra và triển khai nhiều chính

sách khác nhau nhằm thúc đẩy sự phát triển của HTX nông nghiệp. Các chính

sách này phần nào đã tác động đến sự phát triển của HTX nông nghiệp, tuy

nhiên tác động của các chính sách này còn tương đối hạn chế. Những hạn chế

này xuất phát từ sự không rõ ràng trong nhận thức về khái niệm HTX. HTX

nông nghiệp cần được coi là một tổ chức kinh tế - xã hội (hơn là tổ chức kinh

tế thuần túy theo các văn bản pháp luận hiện hành) thì các chính sách ưu đãi

xã hội về mặt đất đai, thuế, đầu tư, và các ưu đãi xã hội khác mới có thể được

thực thi một cách thông suốt và hiệu quả.

Nhiều chính sách đã được Chính phủ ban hành nhưng văn bản hướng

dẫn chưa kịp thời, nên chưa được triển khai thực hiện đầy đủ ở các địa

phương. Các chính sách đã ban hành có nhiều nội dung còn chung chung và

thiếu nguồn lực để thực hiện, thủ tục được hưởng các chính sách còn chồng

chéo, làm cho đối tượng thụ hưởng khó tiếp cận chính sách.

- Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm trong hoạt

động của HTX nông nghiệp chưa được tiến hành một cách bài bản, hiệu quả.

123

Hầu như các địa phương chưa chủ động thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt

động của HTX nông nghiệp theo quy định của pháp luật cũng như việc thực

hiện các chính sách phát triển đối với HTX nông nghiệp, do chức năng, nhiệm

vụ của các cơ quan nhà nước đối với HTX nông nghiệp chưa rõ ràng, và do

không đủ cán bộ công chức để thực hiện. Ở các địa phương hiện nay, việc

thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm trong hoạt động của HTX nông

nghiệp chủ yếu do Liên minh HTX tiến hành.

3.3.3. Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế

- Chưa có sự quan tâm đúng mức của hệ thống chính trị đến phát triển

HTX nông nghiệp.

Nhìn chung hệ thống chính trị ở các địa phương chưa thực sự quan tâm

đến hoạt động của HTX nông nghiệp. Một mặt, chưa nhận thức đúng về bản

chất và vai trò của HTX, đặc biệt là HTX nông nghiệp, mặt khác, hiệu quả

hoạt động của HTX nông nghiệp chưa cao, còn mờ nhạt trong sự sôi động của

các loại hình kinh tế khác của kinh tế thị trường định hướng XHCN và xu thế

hội nhập quốc tế. Sự quan tâm lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền và các tổ

chức chính trị - xã hội đối với HTX nông nghiệp chưa cao. Nhiều địa phương

xem HTX nông nghiệp là đơn vị thực hiện một số dịch vụ công theo chỉ đạo

của chính quyền địa phương (thủy lợi, bảo vệ nông nghiệp, ...). Do đó, hoạt

động của HTX nông nghiệp thuần túy chỉ đảm nhiệm những khâu dịch vụ mà

tư nhân không làm được, những khâu cung ứng đầu vào và đầu ra của quá

trình sản xuất phần lớn không cạnh tranh được với các các dịch vụ của doanh

nghiệp và tư nhân nên hiệu quả hoạt động không cao dẫn đến năng lực tài

chính, quỹ phát triển HTX nông nghiệp hạn chế, sự hấp dẫn đối với thành

viên, với cộng đồng không cao.

Công tác tuyên truyền thực hiện Luật HTX, đổi mới cách thức hoạt

động của các HTX nông nghiệp hoặc các mô hình HX nông nghiệp có hiệu

quả còn chưa nhiều và rộng rãi trong nhân dân. Việc tuyên truyền, phổ biến

Luật HTX cho thành viên HTX còn rất ít, đa số thành viên chưa nhận thức

124

đầy đủ về HTX kiểu mới và yêu cầu chuyển đổi, tổ chức lại HTX theo Luật

2012.

- Quản lý nhà nước trong điều kiện đối tượng của quản lý là khu vực

kinh tế hợp tác nói chung, HTX nông nghiệp nói riêng đã rơi vào tình trạng

yếu kém kéo dài do ảnh hưởng của mô hình HTX kiểu cũ rất trầm trọng, rất

khó thay đổi, thì đây cũng là nguyên nhân khách quan dẫn tới hiệu lực, hiệu

quả của quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp rất thấp. Do vậy, khi

Luật HTX năm 2012 ra đời yêu cầu phải chuyển đổi các HTX kiểu cũ sang

HTX kiểu mới hoạt động theo Luật (đến 30/6/2016 phải chuyển đổi xong),

nhưng trong thực tế việc chuyển đổi rất chậm và đến nay tỷ lệ chuyển đổi rất

ít.

- Thiếu nguồn lực, nhất là nguồn lực tài chính hỗ trợ phát triển các

HTX nông nghiệp. Tuy còn thiếu cơ chế và các chính sách ban hành chất

lượng chưa cao, nhưng có một số chính sách khá sát thực đã được ban hành

nhưng không có nguồn lực tài chính để thực hiện.

- Năng lực và kinh nghiệm của bộ máy quản lý nhà nước và các đơn vị

cung cấp dịch vụ cho HTX nông nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu. Hiện

nay đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước và hỗ trợ phát triển HTX

nông nghiệp đang thiếu về số lượng, yếu về chất lượng.

- Sự phân công nghiệm vụ quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp

giữa các cơ quan, bộ, ngành từ Trung ương đến địa phương chưa thật sự rõ

ràng và vẫn còn chồng chéo nhiệm vụ.

- Sự hỗ trợ của chính quyền địa phương các cấp, việc giám sát, kiểm tra

và xử lý vi phạm trong việc thực hiện Luật HTX và các quy định khác liên

quan đến hoạt động của HTX nông nghiệp chưa được cơ quan quản lý nhà

nước thực hiện thường xuyên, kiên quyết.

Kết luận chƣơng 3

Nghiên cứu, phân tích thực trạng phát triển HTX nông nghiệp và thực

trạng quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp ở Việt Nam thời gian qua

125

cho thấy, hoạt động quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp đã có những

chuyển biến tích cực, đang dần đáp ứng yêu cầu phát triển HTX kiểu mới

trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế . Điều này

được thể hiện: Việc hoạch định chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển

HTX mà chủ yếu là HTX nông nghiệp được quan tâm trong tổng thể kế

hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Thể chế pháp luật về tổ chức và hoạt động

của HTX nông nghiệp được quan tâm hoàn thiện theo hướng đảm bảo quyền

tự chủ của HTX nông nghiệp phát triển kinh tế thị trường, nhất là mô hình

HTX kiểu mới theo Luật HTX năm 2012. Việc ban hành và thực hiện các

chính sách đối với HTX nông nghiệp được đặc biệt quan tâm và không ngừng

hoàn thiện nhăm hỗ trợ tốt nhất cho sự ra đời và phát triển của các HTX nông

nghiệp... Tuy nhiên, thực tiễn quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp vẫn

bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập. Hệ thống văn bản hướng dẫn thực hiện Luật

HTX năm 2012 chậm và thiếu làm việc chuyển đổi, tổ chức lại HTX nông

nghiệp gặp nhiều khó khăn. Nhiều chính sách đã được Chính phủ ban hành

nhưng văn bản hướng dẫn chưa kịp thời, nên chưa được triển khai thực hiện

đầy đủ ở các địa phương. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi

phạm trong hoạt động của HTX nông nghiệp chưa được tiến hành một các bài

bản, hiệu quả. Chưa có cơ quan nhà nước chuyên trách quản lý HTX từ Trung

ương đến địa phương.

126

Chƣơng 4

PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC HOÀN THIỆN

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP

Ở VIỆT NAM

4.1. Quan điểm, mục tiêu, phƣơng hƣớng hoàn thiện quản lý nhà

nƣớc đối với hợp tác xã nông nghiệp

Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp ở Việt Nam

trong điều kiện phát triển KTTT và HNQT hiện nay là yêu cầu bức thiết nhằm

nâng cao hiệu quả hoạt động của các HTX nông nghiệp cũng như nâng cao

hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp.

Trong điều kiện thực hiện Luật HTX năm 2012, với quan điểm xây dựng các

HTX kiểu mới trên cơ sở khuyến khích sự ra đời, chuyển đổi các HTX kiểu

cũ, đòi hỏi công tác quản lý nhà nước phải tạo điều kiện tốt nhất cho các HTX

kiểu mới được hình thành và phát triển có hiệu quả đáp ứng yêu cầu phát triển

kinh tế - xã hội của đất nước.

Trước tác động của phát triển KTTT định hướng XHCN và HNQT hiện

nay, HTX nông nghiệp ở Việt Nam đang vận động theo những xu hướng nhất

định. Các số liệu thực tế phản ánh rằng, phát triển HTX nông nghiệp theo

hướng gắn liền với kinh tế hộ nông dân đang là xu hướng phát triển quan

trọng của các HTX nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay. Xu hướng này được

thực hiện thông qua cơ chế HTX nông nghiệp góp phần nâng cao năng lực

sinh kế cho các hộ nông dân, giúp hộ nông dân cắt giảm chi phí sản xuất kinh

doanh và mở rộng quy mô kinh tế hộ. Bên cạnh đó, xu hướng phát triển HTX

nông nghiệp gắn liền với phát triển cộng đồng cũng đang được hình thành khá

rõ nét ở Việt Nam hiện nay. HTX nông nghiệp góp phần phát triển cộng đồng

thông qua việc liên kết các cá nhân trong cộng đồng xung quanh HTX nông

nghiệp, phát triển cơ sở hạ tầng chung của cộng đồng, tổ chức các hoạt động

văn hóa - xã hội cộng đồng, hỗ trợ lẫn nhau lúc khó khăn.

Các xu hướng phát triển của HTX nông nghiệp nói trên đang đòi hỏi

công tác quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước đối với HTX nông

127

nghiệp nói riêng phải được hoàn thiện cho phù hợp và tương đồng với luật

pháp quốc tế, thích ứng với quản lý hiện đại trên thế giới.

4.1.1. Quan điểm

4.1.1.1. Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hợp tác xã nông nghiệp

phải dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về

hợp tác xã

Lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về HTX

đều khẳng định, HTX là loại hình hết sức cần thiết trong công cuộc xây dựng

một xã hội mới (xã hội xã hội chủ nghĩa). Ph.Ăngghen khẳng định "Trong

bước quá độ lên nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa đầy đủ, chúng ta sẽ phải áp

dụng trên quy mô lớn nền sản xuất hợp tác xã với tính cách là một khâu trung

gian - điều đó cả Mác và tôi không bao giờ hoài nghi cả" [21, tr568]. Lênin

coi HTX là con đường, là phương tiện hữu hiệu để xây dựng chủ nghĩa xã hội

"ở nước ta, vì chính quyền nhà nước đã do giai cấp công nhân nắm, vì mọi tư

liệu sản xuất đều do chính quyền nhà nước nắm, trên thực tế chúng ta chỉ có

việc đưa nhân dân vào HTX. Khi nhân dân đã vào HTX đến một mức đồng

nhất, thì chủ nghĩa xã hội tự nó sẽ được thực hiện" [66, tr421]. Trong tác

phẩm Đường cách mệnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn lời tuyên ngôn của HTX

Anh “Cốt làm cho những người vô sản giai cấp hóa ra anh em. Anh em thì

giùm nhau, nhờ lẫn nhau. Bỏ thói cạnh tranh. Làm cho ai trồng cây thì được

ăn trái, ai muốn ăn trái thì giùm vào trồng cây”[40, tr313-314].

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, HTX không phải là tổ chức thương

mại, kinh doanh và cũng không phải tổ chức xã hội, từ thiện. Có nhiều loại

hình hợp tác xã khác nhau, nhưng có thể nhóm thành một số loại hình cơ bản

dựa trên nhu cầu chung cơ bản của xã viên.

Về nguyên tắc xây dựng HTX, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định,

đó là nguyên tắc tự nguyện, từng bước (từ thấp đến cao) và có sự giúp đỡ của

nhà nước vô sản.

Như vậy, trong hoàn thiện quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp

phải dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

128

về HTX. Khẳng định sự cần thiết và vai trò quan trọng của HTX trong xây

dựng xã hội xã hội chủ nghĩa; bản chất của HTX không chỉ là một tổ chức

kinh tế mà còn có ý nghĩa văn hóa, xã hội sâu sắc; HTX được tổ chức trên

nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và có giúp đỡ của nhà nước.

4.1.1.2. Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hợp tác xã nông nghiệp

phải dựa trên đường lối của Đảng, Nhà nước về phát triển hợp tác xã

Trước đổi mới (1986), Đảng và Nhà nước đã quan tâm đến việc xây

dựng và phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp. Ngay sau khi cuộc

kháng chiến chống thực dân Pháp và cải cách ruộng đất thắng lợi, Nghị quyết

lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II tháng 8 năm 1955 đã

đề ra chủ trương phát triển các tổ đổi công và xây dựng thí điểm một số HTX

nông nghiệp.

Đường lối đổi mới do Đại hội VI đề xướng đã khẳng định phát triển kinh

tế hàng hoá nhiều thành phần, trong đó kinh tế tập thể mà bộ phận chủ yếu là

HTX được khẳng định cùng với kinh tế nhà nước dần dần trở thành nền tảng

của nền kinh tế quốc dân; đồng thời thừa nhận sự tồn tại của kinh tế HTX phải

đi đôi với sự phát triển đa dạng của các hình thức kinh tế hợp tác từ thấp đến

cao, HTX là bộ phận nòng cốt của kinh tế hợp tác. Nghị quyết 10-NQ/TW của

Bộ Chính trị (khoá VI) đã khẳng định, kinh tế HTX có nhiều hình thức từ thấp

đến cao, mọi tổ chức sản xuất kinh doanh do người lao động tự nguyện góp

vốn, góp sức, được quản lý theo nguyên tắc dân chủ đều là HTX. Quan điểm

đó được thể hiện xuyên suốt từ Đại hội VII đến Đại hội XII. Cụ thể hóa các

quan điểm của Đảng về phát triển HTX, Nhà nước đã ban hành Luật HTX năm

1996, năm 2003 và năm 2012.

Những quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước về phát triển HTX

nêu trên là cơ sở quan trọng cho việc hoàn thiện quản lý nhà nước đối với

HTX nông nghiệp.

4.1.1.3. Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hợp tác xã nông nghiệp

để thúc đẩy sự ra đời và phát triển của hợp tác xã nông nghiệp.

129

HTX nông nghiệp là một loại hình kinh tế hợp tác trong nông nghiệp -

một hình thức tổ chức kinh tế đặc thù trong hệ thống các loại hình tổ chức

kinh tế đa dạng; là tổ chức kinh tế tự chủ, có vốn, quỹ và tài sản chung, có cơ

cấu tổ chức chặt chẽ, có tư cách pháp nhân. HTX nông nghiệp được thành lập

trên tinh thần tự nguyện, tự trợ giúp, tự chịu trách nhiệm, dân chủ, bình đẳng,

công bằng và đoàn kết của các thành viên tham gia.

HTX nông nghiệp hiện đang đóng vai trò quan trọng trong phát triển

kinh tế - xã hội, như: đóng vai trò “bà đỡ” cho các thành viên phát triển kinh

tế, đồng thời có những đóng góp trực tiếp, quan trọng vào sự tăng trưởng,

phát triển chung của nền kinh tế; tham gia giải quyết việc làm, xóa đói, giảm

nghèo cho xã viên và cho người lao động; cung cấp và hỗ trợ các thành viên,

cộng đồng dân cư tiếp cận các dịch vụ để an sinh xã hội; tham gia xây dựng

các công trình kết cấu hạ tầng ở các khu vực dân cư, đặc biệt là ở khu vực

nông thôn; góp phần bảo vệ môi trường sinh thái; góp phần xây dựng đời

sống văn hóa mới ở các khu vực dân cư, đặc biệt là ở khu vực nông thôn; góp

phần bảo đảm sự thành công của các chương trình, dự án phát triển kinh tế -

xã hội trên địa bàn thông qua việc tham gia xây dựng và thực hiện các chương

trình, dự án này; v.v…

Xuất phát từ sự cần thiết và vai trò quan trọng của HTX nông nghiệp

trong phát triển kinh tế - xã hội nêu trên, nên việc hoàn thiện quản lý nhà

nước đối với HTX nông nghiệp phải trên quan điểm thúc đẩy sự ra đời và

phát triển của các HTX nông nghiệp.

4.1.1.4. Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hợp tác nông nghiệp để

nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính nhà nước về kinh tế nói

chung, về nông nghiệp và hợp tác xã nông nghiệp nói riêng.

Nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý hành chính nhà

nước là một quá trình mà mục tiêu là xây dựng một nền hành chính trong

sạch, có đủ năng lực, sử dụng đúng quyền lực, từng bước hiện đại hóa để

quản lý có hiệu lực, hiệu quả công việc của nhà nước. Thực chất là sự thay

130

đổi sâu sắc mối quan hệ giữa nhà nước với các tổ chức kinh tế, xã hội và nhân

dân.

Do vậy, hoàn thiện quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp phải

trên quan điểm giải quyết tốt mối quan hệ giữa nhà nước với HTX nông

nghiệp theo hướng thúc đẩy và nâng cao hiệu quả hoạt động của các HTX

nông nghiệp; giải quyết triệt để giữa các cơ quan hành chính nhà nước các

cấp, là cho bộ máy quản lý hành chính nhà nước đối với HTX nông nghiệp từ

Trung ương đến cơ sở thật sự gọn nhẹ, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.

4.1.1.5. Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hợp tác xã nông nghiệp

phải trên cơ sở tham khảo, vận dụng các kinh nghiệm trong công tác quản lý

nhà nước đối với hợp tác xã nông nghiệp trên thế giới và trong nước

HTX có lịch sử ra đời và phát triển trên thế giới hàng trăm năm, có vai

trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia, Do vậy,

việc vận dụng các kinh nghiệm trong công tác quản lý nhà nước đối với HTX

nông nghiệp của các nước trên thế giới, đặc biệt là kinh nghiệm của các nước

châu Á như Thái Lan, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ... cần phải được nghiên

cứu và vận dụng trong hoàn thiện quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp

trong điều kiện cụ thể của Việt Nam.

Những thành công cũng như chưa thành công, thậm chí là thất bại trong

quản lý phát triển HTX nông nghiệp ở Việt Nam trong thời kỳ trước đổi mới,

thậm chí là trong đổi mới đều có thể nghiên cứu, tham khảo và vận dụng

trong hoàn thiện quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp ở Việt Nam hiện

nay.

4.1.2. Mục tiêu của hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hợp tác xã

nông nghiệp

Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp ở Việt nam giai

đoạn tới cần hướng đến các mục tiêu sau đây:

4.1.2.1. Tổ chức thực hiện tốt Luật Hợp tác xã năm 2012, xây dựng các

văn bản dưới luật đáp ứng yêu cầu phát triển hợp tác xã nông nghiệp

131

Luật HTX được sửa đổi năm 2012 có hiệu lực từ 1/7/2013, nhưng đến

nay vẫn còn tỷ lệ lớn HTX nông nghiệp chưa rà soát, chuyển đổi hoạt động

theo luật định, do nhiều địa phương lúng túng trong chỉ đạo thực hiện chuyển

đổi HTX kiểu cũ sang hoạt động theo mô hình HTX kiểu mới. Việc chuyển

đổi sang mô hình HTX kiểu mới còn gặp nhiều khó khăn bởi một số lý do,

như:

- Các văn bản hướng dẫn dưới Luật được ban hành chậm, gây khó khăn

cho HTX trong quá trình chuyển đổi, nhất là về thủ tục đăng ký thành lập.

Một số địa phương khó khăn trong việc rà soát, đánh giá các HTX trên địa

bàn để tiến hành chuyển đổi.

- Một số HTX còn lúng túng trong việc thực hiện chuyển đổi bởi đây là

quá trình chuyển đổi sang mô hình mới đã làm thay đổi căn bản về quan hệ sở

hữu, quan hệ kinh tế, quan hệ phân phối và mức vốn góp tối đa đối với các

thành viên khi tham gia HTX kiểu mới.

- Nhiều cán bộ, đảng viên và người dân còn có tâm lý mặc cảm với

HTX kiểu cũ dẫn đến chưa thấy hết vai trò quan trọng của khu vực kinh tế tập

thể, thậm chí hiểu chưa đúng bản chất, vị trí, vai trò, nguyên tắc hoạt động

của HTX; chưa phân biệt được sự khác nhau giữa mô hình HTX kiểu mới với

mô hình HTX kiểu cũ, giữa HTX với doanh nghiệp.

- Chính sách hỗ trợ phát triển HTX chưa thực hiện đầy đủ, hiệu quả

thấp ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất - kinh doanh của HTX cũng

như quá trình rà soát, đăng ký lại để thực hiện chuyển đổi không bảo đảm thời

hạn theo quy định của Luật HTX năm 2012.

Như vậy, mục tiêu quan trọng của hoàn thiện quản lý nhà nước đối với

HTX nông nghiệp là phải tổ chức thực hiện tốt Luật HTX năm 2012, trước

hết là chuyển đổi các HTX nông nghiệp theo Luật năm 2012. Trong đó, cần

lưu ý các nội dung sau:

Thứ nhất, tiếp tục nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của kinh tế tập

thể trong nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế; tăng cường việc tổng kết,

nhân rộng các mô hình kinh tế tập thể làm ăn có hiệu quả; phổ biến các mô

132

hình HTX kiểu mới, kinh nghiệm của phong trào HTX trong khu vực và quốc

tế đến toàn dân. Đổi mới và đa dạng hóa công tác tuyên truyền, tập huấn pháp

luật về HTX.

Thứ hai, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, sự phối hợp chặt

chẽ, trách nhiệm cao của các bộ, ngành, các địa phương, Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội (nhất là Hội Nông dân Việt Nam),

Liên minh Hợp tác xã Việt Nam trong việc chỉ đạo triển khai thực hiện Luật

HTX năm 2012.

Thứ ba, tập trung hỗ trợ tài chính từ các nguồn lồng ghép với chính

sách thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới để

thành lập một số mô hình điểm ở các tỉnh nông nghiệp.

Thứ tư, xây dựng mô hình HTX nông nghiệp chuyên ngành, phát triển

đa dạng các loại hình HTX nông nghiệp ở các địa phương với các điều kiện tự

nhiên, kinh tế, xã hội và văn hoá khác nhau nhằm phát huy thế mạnh tiềm

năng kinh tế của địa phương.

Thứ năm, tổ chức, củng cố lại hoạt động của các HTX nông nghiệp

theo đúng bản chất HTX, Luật HTX năm 2012 và các văn bản hướng dẫn;

phát huy vai trò làm chủ của thành viên; vận động thành viên HTX góp vốn

và nâng mức vốn góp; vận động HTX thu hút thêm thành viên, hợp nhất, sáp

nhập HTX cùng ngành, nghề và địa bàn hoạt động để tăng tiềm lực tài chính

và quy mô hoạt động của HTX. Giải thể các HTX nông nghiệp hoạt động kém

hiệu quả, hoạt động hình thức đi đôi với việc thành lập mới theo Luật HTX

năm 2012.

Bên cạnh đó, tiếp tục cụ thể hóa Luật HTX năm 2012 với yêu cầu phát

triển HTX nông nghiệp, như quy định riêng đối với tổ chức và hoạt động, các

chính sách hỗ trợ... đối với HTX nông nghiệp.

4.1.2.2. Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho phát triển bền vững

hợp tác xã nông nghiệp

Xuất phát từ vai trò quan trọng của HTX nông nghiệp trong phát triển

kinh tế - xã hội. Đó là, HTX nông nghiệp không chỉ đóng vai trò tích cực

133

trong hoạt động kinh tế, mà cả trong các lĩnh vực xã hội, văn hóa. Hay nói

cách khác, HTX nông nghiệp ngoài tư cách là một tổ chức kinh tế, còn có ý

nghĩa văn hóa - xã hội sâu sắc. Vì HTX nông nghiệp thường gắn với một

cộng đồng dân cư nhất định, lợi ích kinh tế do HTX nông nghiệp đưa lại tạo

điều kiện cho cộng đồng có thể cùng nhau giải quyết các vấn đề có liên quan

đến cuộc sống của họ, như thăm hỏi, giúp đỡ nhau trong lúc hiếu, hỷ, ốm đau.

HTX nông nghiệp theo sự lớn mạnh của mình có thể tổ chức các hoạt động xã

hội, văn hóa và hoạt động chăm lo cộng đồng làm cộng đồng dân cư trở nên

đoàn kết và thân thiết với nhau hơn, từ đó góp phần giải quyết ngay tận gốc

các mâu thuẫn trong nội bộ dân cư, góp phần củng cố an ninh chính trị và trật

tự an toàn xã hội. Mục tiêu trong giai đoạn 2016-2020 đã được Quốc hội

thông qua là có 15 nghìn HTX, liên hiệp HTX hoạt động có hiệu quả, trong

đó chủ yếu là HTX nông nghiệp.

Tuy có vai trò quan trọng như vậy, nhưng trên thực tế hoạt động của

các HTX nông nghiệp ở Việt nam hiện nay đang gặp rất nhiều khó khăn, như:

nhận thức về HTX kiểu mới và Luật HTX của cán bộ cơ sở và nông dân chưa

đầy đủ và thấu đáo; trình độ cán bộ quản lý HTX nông nghiệp còn bất cập so

với cơ chế quản lý mới; vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật của HTX nông nghiệp

còn yếu kém; HTX nông nghiệp gặp khó khăn trong bao tiêu sản phẩm. Đặc

biệt là, công tác quản lý và hỗ trợ của Nhà nước đối với kinh tế HTX chưa

được quan tâm đúng mức. Mặc dù Nhà nước đã có nhiều chính sách (đặc biệt

có Luật HTX) tạo hành lang pháp lý cho HTX nông nghiệp chuyển đổi, xây

dựng mới, thực hiện hoạt động sản xuất, kinh doanh. Nhưng trên thực tế, sự

tác động của các chủ trương, chính sách đó còn chậm đến các cơ sở; nhiều

chính sách đã được ban hành nhưng các HTX nông nghiệp chưa được hưởng

ả lợ

ụng ở các ngân hàng thương mạ ứ

ử dụ ụ sở HTX nông nghiệp.v.v...

Vì vậy, việc hoàn thiện quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp

phải tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho HTX nông nghiệp ra đời và

134

hoạt động có hiệu quả, phát triển bền vững nhằm phát huy vai trò của nó

trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Gồm các môi trường chính trị,

pháp lý, xã hội, an ninh, môi trường sinh thái... và sự hỗ trợ về mọi mặt cho

sự phát triển bền vững của HTX nông nghiệp.

4.1.2.3. Khắc phục những hạn chế, tồn tại hiện nay trong công tác

quản lý nhà nước đối với hợp tác xã nông nghiệp

Có thể nói, cho đến nay công tác quản lý nhà nước đối với HTX nói

chung và HTX nông nghiệp còn thiếu thống nhất và có nhiều yếu kém. Bộ

máy tham mưu quản lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương chưa đáp

ứng yêu cầu phát triển HTX nông nghiệp. Như: Tổ chức bộ máy quản lý nhà

nước và hỗ trợ HTX nông nghiệp từ Trung ương đến cơ sở chưa hoàn chỉnh,

công tác bố trí và năng lực của đội ngũ công chức trong quản lý nhà nước

chưa đáp ứng yêu cầu phát triển HTX nông nghiệp hiên nay. Công tác tham

mưu ban hành các cơ chế, chính sách về phát triển HTX nông nghiệp chậm,

thiếu đồng bộ; nhiều chính sách đã được Chính phủ ban hành nhưng chưa có

văn bản hướng dẫn kịp thời của các bộ, ngành nên chưa được thực hiện đầy

đủ ở các địa phương; thủ tục để được hưởng các chính sách còn phức tạp, các

văn bản còn chồng chéo. v.v...

Do vậy, trong hoàn thiện quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp

phải đạt mục tiêu cơ bản là khắc phục những hạn chế, tồn tại hiện nay trong

công tác quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp trong thời gian vừa qua.

4.1.2.4. Tăng cường hoạt động điều tiết của Nhà nước theo đúng định

hướng, đúng quy định pháp luật và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động

thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với tổ chức và hoạt động của hợp tác xã

nông nghiệp

Hoạt động điều tiết của Nhà nước đối với các HTX nông nghiệp nhằm

mục tiêu bảo đảm cho hoạt động của các HTX nông nghiệp đúng định hướng,

đúng quy hoạch, kế hoạch và đúng pháp luật. Công tác thanh tra, kiểm tra,

giám sát đối với tổ chức và hoạt động của HTX nông nghiệp cũng nhằm mục

tiêu phát hiện hoặc phòng ngừa những vi phạm về đường lối, chính sách, pháp

135

luật của Đảng và Nhà nước. Do đó, trong hoàn thiện quản lý nhà nước đối với

HTX nông nghiệp phải tăng cường hoạt động điều tiết của Nhà nước theo

đúng định hướng, đúng quy định pháp luật và nâng cao hiệu lực, hiệu quả

hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với tổ chức và hoạt động của HTX

nông nghiệp.

4.1.2.5. Để hợp tác xã nông nghiệp thích ứng với việc phát triển kinh tế

thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay.

Phát triển kinh tế thị trường đi đôi với chủ động, tích cực hội nhập quốc

tế là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay.

Ngoài những thuận lợi cho phát triển HTX nông nghiệp, như; thị trường mở

rộng hơn và dễ tiếp cận hơn, có môi trường để học hỏi... Các HTX nông

nghiệp phải đối mặt với những khó khăn, thách thức, cụ thể:

Thứ nhất, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo

nên sức ép cạnh tranh gay gắt đối với các HTX nông nghiệp, ngay cả trên thị

trường nội địa.

Thứ hai, hội nhập làm tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia vào

thị trường bên ngoài và do vậy, HTX nông nghiệp có thể dễ bị tổn thương

trước những biến động của thị trường quốc tế.

Như vậy, vấn đề đặt ra là, trong hoàn thiện quản lý nhà nước đối với

HTX nông nghiệp phải đạt mục tiêu cho các HTX nông nghiệp khai thác tốt

các thời cơ, thuận lợi, đồng thời vượt qua những khó khăn, thách thức trong

phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Phát huy vai trò của HTX

nông nghiệp trong phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay.

4.1.3. Phương hướng

Phương hướng của hoàn thiện quản lý nhà nước đối với HTX nông

nghiệp ở Việt Nam giai đoạn tới phải chuyển mạnh sang kiến tạo và hỗ trợ

các HTX nông nghiệp phát triển; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà

nước.

4.1.3.1. Chuyển mạnh sang kiến tạo và hỗ trợ các hợp tác xã nông

nghiệp phát triển

136

Để kiến tạo và hỗ trợ phát triển HTX nông nghiệp, cần tập trung vào

một số công việc cụ thể sau:

- Hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động của HTX nông

nghiệp trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của HTX và phù hợp với điều kiện

phát triển HTX nông nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập

quốc tế hiện nay của Việt Nam hiện nay.

- Giảm thiểu các thủ tục hành chính theo hướng hỗ trợ cho sự ra đời và

thụ hưởng các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với HTX nông nghiệp.

- Tập trung vào việc ban hành và thực hiện các chính sách hỗ trợ các

HTX nông nghiệp phát triển.

- Xây dựng các mô hình điển hình các HTX nông nghiệp hoạt động có

hiệu quả, mô hình liên hiệp các HTX nông nghiệp toàn tỉnh và cấp vùng.

Các mô hình này sẽ giúp nông dân khắc phục cơ bản thua thiệt trên thị

trường, gia tăng lợi ích thông qua liên kết hữu cơ trong chuỗi giá trị nông sản

phẩm nhằm tăng cường sức mạnh tập thể của các thành viên, từ đó cải thiện

đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao tinh thần hợp tác của cộng đồng

nhiều hộ nông dân và dân cư địa phương.

4.1.3.2. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các cơ quan nhà nước từ

Trung ương tới cơ sở trong quản lý hợp tác xã nông nghiệp

Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các cơ quan nhà nước trong quản lý

HTX nông nghiệp, cần tập trung vào một số công việc cụ thể sau:

- Tổ chức các cơ quan nhà nước, quy định chức năng, nhiệm vụ đảm

bảo đồng bộ, hệ thống từ Trung ương đến cơ sở.

- Kết hợp chặt chẽ quản lý nhà nước theo ngành và lãnh thổ.

- Việc thực hiện các nội dung quản lý nhà nước phải công khai, minh

bạch và ổn định.

- Nâng cao trình độ, năng lực của cán bộ, công chức từ Trung ương đến

cơ sở trong quản lý HTX nông nghiệp.

4.2. Giải pháp tiếp tục hoàn thiện quản lý nhà nƣớc đối với hợp tác

xã nông nghiệp

137

4.2.1. Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với hợp tác

xã nông nghiệp

Trên cơ sở bộ máy quản lý nhà nước đối với HTX hiện hành và những

tồn tại, hạn chế của nó, thành lập bộ máy mới theo hướng sau:

- Ở Trung ương, nâng cấp Cục Kinh tế hợp tác thành Tổng cục Kinh tế

hợp tác, vẫn trực thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nhưng tăng thêm chức năng,

nhiệm vụ, không giao chức năng quản lý kinh tế hợp tác, HTX cho các bộ,

ngành khác nữa để tạo sự thống nhất từ Trung ương. Vì nội dung quản lý nhà

nước Luật HTX năm 2012 có rất nhiều nhiệm vụ. Ngoài ban hành, phổ biến,

hướng dẫn và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về kinh tế tập thể; xây

dựng bộ máy và tổ chức thực hiện kế hoạch, chương trình, chính sách hỗ trợ,

ưu đãi đối với HTX, liên hiệp HTX…, còn phải thanh tra, kiểm tra; xử lý các

hành vi vi phạm pháp luật của HTX, liên hiệp HTX và của cá nhân, tổ chức

có liên quan; thực hiện hợp tác quốc tế về phát triển HTX, liên hiệp HTX.

Cho nên, chỉ thành lập Tổng cục mới có thể thực hiện được nhiệm vụ, Tổng

cục này trực thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

- Ở địa phương, thành lập Cục Kinh tế hợp tác trực thuộc UBND cấp

tỉnh làm cơ quan quản lý thống nhất trong lĩnh vực HTX. Thuyên chuyển các

cán bộ thuộc biên chế đang phụ trách lĩnh vực HTX ở các sở, phòng, ban và

liên minh HTX về Cục Kinh tế hợp tác. Cấp huyện, thành lập Phòng Kinh tế

hợp tác trực thuộc UBND cấp huyện. Thuyên chuyển các cán bộ thuộc biên

chế đang phụ trách lĩnh vực HTX ở các phòng, bộ phận về Phòng Kinh tế hợp

tác. Cấp xã, bố trí ít nhất 01 cán bộ chuyên trách công tác quản lý kinh tế hợp

tác. Đây là giải pháp hoàn toàn mới và có những ưu điểm sau:

Thứ nhất, tất cả các loại hình HTX đều được thống nhất quản lý bởi

một cơ quan chuyên trách. Như vậy tránh được sự chồng chéo, lấn sân cũng

như đùn đẩy trách nhiệm giữa các sở, ban, ngành như hiện nay.

Thứ hai, tách Liên minh HTX hoàn toàn khỏi chức năng quản lý nhà

nước, không chịu sự quản lý của chính quyền về mặt nhân sự. Liên minh chỉ

hoạt động như một hiệp hội đại diện cho quyền lợi của HTX cũng như triển

138

khai các hoạt động tư vấn đối với HTX. Như vậy, nếu thực hiện giải pháp

này, cán bộ, công chức hiện đang làm việc cho liên minh HTX được xử lý

theo cách chuyển một số cán bộ, công chức có liên quan trực tiếp đến công tác

quản lý nhà nước sang làm việc cho Cục Kinh tế hợp tác; số còn lại vẫn làm việc

cho Liên minh HTX (Liên minh HTX hoạt động dựa trên nguồn kinh phí hoạt

động về tư vấn, đào tạo).

Sơ đồ 2. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nƣớc đối với kinh tế hợp tác

Liên minh HTX Việt Nam

Trung ƣơng Hội Nông dân Việt Nam Bộ KH và ĐT (Tổng cục Kinh tế hợp tác)

Liên minh HTX tỉnh

Cấp tỉnh Cục Kinh tế hợp tác Hội Nông dân tỉnh

Phòng Kinh tế hợp tác Cấp huyện

Hội Nông dân huyện

Hội Nông dân xã Cấp xã

Cán bộ chuyên trách

HTX, tổ hợp tác, các liên kết kinh tế

Thứ ba, thể hiện được sự tham gia của Hội Nông dân từ Trung ương

đến cơ sở với tư cách là tổ chức hội của nông dân, thực hiện chức năng cơ bản

là vận động các hộ nông dân tích cực tham gia HTX nông nghiệp, và thực

hiện một số hỗ trợ cho hộ nông dân và cho các HTX nông nghiệp.

139

Sứ mệnh của bộ máy quản lý nhà nước đối với kinh tế hợp tác hiện nay

là tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, thống nhất nhận thức, tạo môi

trường tâm lý thuận lợi cho HTX nông nghiệp phát triển. Cần tiếp tục làm

cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn các quan

điểm phát triển kinh tế tập thể đã xác định trong Nghị quyết Hội nghị Trung

ương 5 khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế

tập thể, Luật HTX năm 2012, chú trọng khắc phục những biểu hiện không

đúng, lệch lạc về nhận thức, như hiểu không đúng bản chất, nguyên tắc và các

giá trị của HTX; chưa phân biệt đầy đủ sự khác nhau giữa HTX kiểu cũ và

HTX kiểu mới; còn quan niệm đồng nhất HTX với doanh nghiệp hoặc hợp tác

xã với tổ chức xã hội; đánh giá hiệu quả hoạt động của HTX nặng về đóng

góp vào ngân sách, GDP..., không thấy được đầy đủ vai trò, vị trí của khu vực

HTX nông nghiệp trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trong phát

triển nền KTTT định hướng XHCN.

Về chức năng, nhiệm vụ, cần quy định cụ thể đối với Cục Kinh tế hợp

tác, Phòng Kinh tế hợp tác và cán bộ chuyên trách (ở cấp tỉnh, huyện, xã) theo

hướng tập trung vào các công việc sau đây:

- Tuyên truyền, vận động, tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ cho việc

hình thành và phát triển HTX nông nghiệp thuộc địa phương mình.

- Hướng dẫn, khuyến khích các HTX nông nghiệp phối hợp cùng hoạt

động vì lợi ích của nhân dân ở địa phương.

- Kiểm tra, thanh tra việc thực hiện Luật HTX và các văn bản pháp luật

có liên quan.

- Giải quyết theo thẩm quyền các khiếu nại, tố cáo, tranh chấp và xử lý

các hành vi vi phạm pháp luật về HTX.

- Thực hiện các nội dung khác về quản lý nhà nước đối với HTX nông

nghiệp theo quy định của pháp luật.

Về điều kiện để thực hiện giải pháp này. Việc thành lập cơ quan nhà

nước chuyên trách quản lý kinh tế hợp tác trên cơ sở hợp nhất các đơn vị thực

hiện chức năng quản lý nhà nước đối với kinh tế hợp tác ở các bộ, ngành, nên

140

không tăng thêm biên chế và kinh phí mà sử dụng biên chế và kinh phí hiện

hành. Riêng ở cấp xã, hiện chưa có nhiệm vụ này thì quy định thêm nhiệm vụ

cho 01 công chức theo dõi tham mưu về kinh tế hợp tác, không tăng thêm

biên chế cũng không tăng thêm kinh phí.

4.2.2. Đổi mới công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch

phát triển hợp tác xã nông nghiệp

Công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển HTX

nông nghiệp là một nội dung của quản lý nhà nước và là công cụ quan trọng

để xác định mục tiêu và định hướng cho sự phát triển của HTX nông nghiệp

trong tương lai. Như đã phân tích ở chương 3, tuy đường lối phát triển kinh tế

tập thể, HTX nông nghiệp ở Việt Nam đến nay đã được định hình khá rõ nét,

nhưng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển HTX nông nghiệp chưa

được đề cập mang tính tổng thể và thống nhất mà còn tản mạn trong các văn

bản của Đảng và Nhà nước, chưa đề ra mục tiêu phát triển HTX nông nghiệp

một cách rõ ràng. Do vậy, để tiếp tục hoàn thiện quản lý nhà nước đối với

HTX nông nghiệp, nội dung đầu tiên và quan trọng là phải đổi mới công tác

xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển HTX nông nghiệp.

Việc xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển HTX nông

nghiệp phải quán triệt quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về tiếp tục

đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể nói chung và HTX

nông nghiệp nói riêng là nhằm mục tiêu thoát khỏi những yếu kém hiện nay,

đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn và hiệu quả cao hơn trên các mặt. Để đạt được

những mục tiêu, yêu cầu đó, khu vực HTX nông nghiệp phải có những

chuyển biến mạnh mẽ, cơ bản và cần định hướng vào những nội dung sau:

- Phát triển HTX nông nghiệp gắn bó mật thiết, phục vụ thực hiện

thắng lợi đường lối và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đây

không chỉ là yêu cầu, mà trước hết là định hướng, căn cứ huy động các nguồn

lực để HTX nông nghiệp đổi mới và phát triển. Và phải được coi như là một

giải pháp quan trọng để thực hiện thắng lợi đường lối và chiến lược phát triển

kinh tế - xã hội của đất nước.

141

- Phát triển HTX nông nghiệp hướng vào đáp ứng những nhu cầu kinh

tế, văn hóa, xã hội của đông đảo các tầng lớp xã hội và tập hợp, liên kết rộng

rãi mọi loại hình và tổ chức kinh tế, đặc biệt chú trọng đối tượng là người lao

động, các hộ kinh tế cá thể.

Kinh nghiệm ở các nước trên thế giới cho thấy, trong nhiều lĩnh vực

đời sống xã hội, nếu hợp tác lại được với nhau thì sẽ tốt hơn và hiệu quả hơn,

như: tiêu dùng, bảo hiểm, nhà ở, chăm sóc sức khỏe và dịch vụ y tế, chăm sóc

trẻ em, người cao tuổi... Phát triển HTX nông nghiệp cũng cần được mở rộng

và hướng vào đông đảo các tầng lớp dân cư, các giới xã hội và đông đảo các

đối tượng có nhu cầu đáp ứng các đòi hỏi đó.

- Phát triển HTX nông nghiệp cần được mở rộng trong mọi lĩnh vực,

ngành nghề mà người dân có nhu cầu.

- Phát triển mô hình HTX nông nghiệp đa dạng về hình thức, phát triển

từ thấp đến cao, từ làm dịch vụ sản xuất, dịch vụ đời sống cho các hộ thành

viên, xã viên, đến mở mang ngành nghề, vươn lên sản xuất kinh doanh tổng

hợp trong nông nghiệp.

- Khu vực HTX nói chung và HTX nông nghiệp nói riêng phải là một

hệ thống thống nhất từ các xã viên, hộ xã viên, tới các HTX, liên hiệp HTX.

Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từng giai đoạn cần quy

hoạch phát triển HTX nông nghiệp, đặc biệt là ở các địa phương, gắn với điều

kiện cụ thể và tiềm năng, thế mạnh của từng vùng về phát triển nông nghiệp.

Trên cơ sở quy hoạch phát triển HTX nông nghiệp từng giai đoạn, cần xây

dựng kế hoạch phát triển, cụ thể:

Một là, xác định mục tiêu về số lượng, quy mô, hiệu quả hoạt động của

HTX nông nghiệp đến năm 2020, định hướng đến năm 2025. Trước mắt đến

năm 2020 đạt mục tiêu cả nước có 5.000 HTX nông nghiệp làm ăn có hiệu

quả.

Hai là, đánh giá được hiện trạng và hiệu quả hoạt động của mô hình

HTX nông nghiệp "kiểu mới" ở các địa phương để đúc kết kinh nghiệm xây

142

dựng mô hình điển hình phù hợp với từng vùng, từng lĩnh vực sản xuất, trên

cơ sở đó tham mưu đề xuất các cơ chế, chính sách để nhân rộng và phát triển.

Ba là, rà soát, hướng dẫn và tổ chức đăng ký lại cho tất cả các HTX

đang hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp chuyển sang hoạt động theo Luật

HTX năm 2012.

Bốn là, xây dựng phương án huy động các nguồn lực, ưu tiên các

nguồn lực, nhất là nguồn lực tài chính để thực hiện các chính sách hỗ trợ ban

đầu cho HTX nông nghiệp ra đời và phát triển.

Năm là, thúc đẩy các HTX nông nghiệp liên kết với các hộ nông dân,

trang trại, doanh nghiệp trong chế biến và tiêu thụ nông sản nhằm nâng cao

hiệu quả sản xuất kinh doanh.

4.2.3. Hoàn thiện pháp luật có liên quan đến hợp tác xã nông nghiệp

Xây dựng thể chế là một nội dung quan trọng trong công tác quản lý

nhà nước, là điều kiện tiên quyết để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước. Từ

thực trạng hệ thống thể chế đã được phân tích ở chương 3 của luận án, có thể

khẳng định các văn bản quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp ở Việt

Nam hiện nay còn thiếu và chưa đồng bộ, đặc biệt là Luật HTX năm 2012 và

các văn bản hướng dẫn thi hành chưa phát huy hiệu lực và hiệu quả trong thực

tiễn. Để có thể phát triển và nâng cao hiệu quả của HTX nông nghiệp, việc

hoàn thiện thể chế pháp luật liên quan đến HTX nông nghiệp cần tập trung

vào các hướng sau:

Thứ nhất, phải thừa nhận các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt

động của HTX nông nghiệp, gồm: Tự nguyện và mở; Kiểm soát một cách dân

chủ; Tham gia kinh tế của thành viên HTX; Tự chủ và độc lập; Giáo dục,

huấn luyện và thông tin; Hợp tác giữa các HTX; Chăm lo cho cộng đồng.

Thứ hai, phải đảm bảo các đặc trưng vốn có của HTX nông nghiệp,

gồm: Là tổ chức kinh tế - xã hội liên kết các cá nhân, hộ gia đình và pháp

nhân, được hình thành theo nguyên tắc tự nguyện nhằm đáp ứng các nhu cầu

chung của xã viên theo nguyên tắc tương trợ; Được thành lập nhằm đáp ứng

cả nhu cầu kinh tế, văn hóa và xã hội của xã viên và cộng đồng; Là một tổ

143

chức kinh tế tự chủ có tính dân chủ cao; Tài sản chung là bất khả chuyển

nhượng.

Thứ ba, thể chế quản lý phát triển hệ thống HTX nông nghiệp phải phù

hợp với yêu cầu của thời đại. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ lần thứ

tư với những bước tiến khổng lồ đang tác động toàn diện đến mọi nền kinh tế,

mọi chế độ xã hội trên phạm vi toàn cầu. Cạnh tranh giữa các quốc gia trên tất

cả các lĩnh vực kinh tế đang diễn ra rất quyết liệt, trong có có lĩnh vực nông

nghiệp - một lĩnh vực có ảnh hướng tới một số lượng lớn dân số ở Việt Nam

hiện nay. Như vậy, thể chế quản lý nhà nước phải làm thế nào để đảm bảo sự

hội nhập của khu vực kinh tế HTX nông nghiệp, đem lại sự hài lòng cho các

thành viên tham gia thông qua lợi ích và hiệu quả mà họ thu nhận được khi

tham gia HTX nông nghiệp trong bối cảnh xã hội hiện đại hiện nay.

Từ các định hướng như trên và trên cơ sở phân tích những hạn chế ở

chương 3, giải pháp hoàn thiện thể chế pháp luật quản lý phát triển HTX nông

nghiệp hiện nay cần tập trung vào các nội dung cụ thể sau:

Một là, sửa đổi, bổ sung Nghị định số 193/2013/NĐ-CP ngày

21/11/2013 của Chính phủ về quy định chi tiết một số điều của Luật HTX.

Trong đó, phải có quy định riêng đối với HTX nông nghiệp.

Điều này xuất phát từ vai trò quan trọng của HTX nông nghiệp trong

phát triển kinh tế - xã hội; việc quy định riêng sẽ là điều kiện để đảm bảo các

nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động và đảm bảo các đặc trưng của

HTX nông nghiệp. Cũng để khắc phục một số khó khăn cho HTX nông

nghiệp như: quy định tỷ lệ cung ứng dịch vụ cho khách hàng không phải là

thành viên của HTX nông nghiệp không được vượt quá 32% là khó khăn cho

việc đăng ký lại và tổ chức sản xuất theo Luật HTX mới... Nên, trong sửa đổi,

bổ sung Nghị định phải quy định rõ về tổ chức và hoạt động, vấn đề sở hữu

tài sản và phân phối lợi ích của HTX và các thành viên HTX, bổ sung chính

sách hỗ trợ phù hợp với đặc thù của HTX nông nghiệp và trách nhiệm quản lý

nhà nước đối với HTX nông nghiệp.

144

Hai là, quy định cụ thể về kiểm toán HTX, liên hiệp HTX (theo Khoản

3, Điều 61 Luật HTX năm 2012).

Để tạo ra động lực phát triển cho HTX nông nghiệp và nâng cao khả

năng cạnh tranh cho các HTX nông nghiệp trong điều kiện phát triển KTTT

và HNQT hiện nay, thì các HTX nông nghiệp phải là đối tượng bắt buộc chịu

sự kiểm toán. Luật HTX của Thái Lan quy định kiểm toán HTX là bắt buộc

đối với tất cả các HTX; Cộng hòa liên bang Đức cũng quy định các HTX phải

được kiểm toán tối thiểu 2 năm một lần, đối với các HTX có số vốn từ 2 triệu

euro trở lên phải thực hiện kiểm toán hàng năm.

Nhưng trong thực tế ở Việt Nam hiện nay, nếu các HTX nông nghiệp

muốn tham gia vào hoạt động kiểm toán thì phải thông qua các tổ chức kiểm

toán mà không phải là tổ chức kiểm toán dành riêng cho khu vực kinh tế này.

Đó cũng là lý do mà thời gian qua số lượng HTX nông nghiệp chịu sự kiểm

toán không nhiều. Điều này không có nghĩa là các cơ sở kinh tế hợp tác, các

HTX nông nghiệp thờ ơ với công tác kiểm toán, mà họ mong muốn có một

loại hình kiểm toán phù hợp với điều kiện đặc thù của khu vực HTX nông

nghiệp và nó phải thực sự là công cụ trợ giúp, tư vấn cho HTX nông nghiệp

về các mặt: tổ chức, quản lý theo đúng quy định của pháp luật, giúp HTX

nông nghiệp tránh được rủi ro, thất thoát tài sản, hạch toán đúng, kịp thời và

minh bạch, cải thiện điều kiện kinh doanh, bảo vệ lợi ích xã viên, tạo niềm tin

của thành viên, nâng cao vị thế của HTX nông nghiệp. Điều đó đòi hỏi các cơ

quan quản lý nhà nước phải đặt vấn đề về sự hình thành và phát triển kiểm

toán HTX nông nghiệp với quan điểm coi kiểm toán HTX nông nghiệp là một

loại hình dịch vụ đặc thù dành riêng cho khu vực kinh tế HTX và phải có các

tổ chức kiểm toán chuyên biệt thuộc hệ thống cơ quan đại diện hỗ trợ HTX

tiến hành.

Tuy nhiên, thời gian đầu thực hiện khi thực hiện quy định kiểm toán

HTX nông nghiệp là bắt buộc thì sẽ không hiệu quả do hầu hết các HTX nông

nghiệp của chúng ta còn đang phát triển ở quy mô thấp, sản xuất manh mún,

trình độ quản lý và năng lực sản xuất, kinh doanh còn thấp. Hơn nữa việc

145

kiểm toán cũng đòi hỏi một chi phí tài chính nhất định. Nên, trong quá trình

này sẽ hình thành và hoàn thiện các quy định về nội dung, đối tượng, phương

pháp kiểm toán cũng như đào tạo, bồi dưỡng trình độ hiểu biết của các kiểm

toán viên HTX nông nghiệp. Nhưng về lâu dài để các HTX nông nghiệp phát

triển vững mạnh, có thể trở thành những tổ chức kinh tế mạnh thì cần bắt

buộc kiểm toán HTX nông nghiệp. Có như vậy mới là cụ thể hóa quy định

trong Luật HTX năm 2012 về kiểm toán HTX, liên hiệp HTX vào điều kiện

cụ thể hiện nay.

Việc cụ thể hóa quy định này sẽ, một mặt đảm bảo thực hiện đầy đủ

chức năng quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp, mặt khác đảm bảo

quyền tự chủ trong sản xuất - kinh doanh, phục vụ của các HTX nông nghiệp.

Ba là, hướng dẫn chi tiết việc thực hiện chế độ kế toán đối với HTX,

liên hiệp HTX. Điều này là cơ sở quan trọng để HTX nông nghiệp hội nhập

và cạnh tranh trong điều kiện toàn cầu hóa và cách mạng khoa học công nghệ.

Trên cơ sở Thông tư số 24/2010/TT-BTC ngày 23/02/2010 của Bộ Tài

chính về hướng dẫn kế toán áp dụng cho HTX nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư

nghiệp và nghề muối, hướng dẫn cụ thể tập trung vào các điểm chính sau đây:

- Hoàn chỉnh hệ thống tài khoản theo yêu cầu của quản lý và chế độ

quản lý hiện đại theo hướng phân loại tài khoản rõ ràng và phân chia tài

khoản trong bảng, ngoài bảng phù hợp.

- Các khoản đầu tư tài chính dài hạn và ngắn hạn phải có sự phân định

rõ ràng để thuận lợi cho đánh giá hiệu quả đầu tư tài chính.

- Hình thành tài khoản chuyên biệt để theo dõi hoạt động tài chính nội

bộ và tăng cường sự kiểm soát đối với các thành viên vay vốn từ HTX nông

nghiệp.

- Đối với các nguồn vốn hỗ trợ, cần phải được quy định theo dõi riêng

để tránh tình trạng nhầm lẫn khi đánh giá hiệu quả.

- Quy định cụ thể về đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất - kinh

doanh, phục vụ của HTX nông nghiệp.

146

Bốn là, quy định bổ sung nhiệm vụ cho Quỹ hỗ trợ phát triển HTX để

thực hiện nhiệm vụ bảo lãnh tín dụng và hỗ trợ lãi suất đối với HTX, liên hiệp

HTX. Đây là khó khăn cơ bản khiến cho các hỗ trợ của nhà nước khó đến

được với các HTX nông nghiệp.

4.2.4. Hoàn thiện các chính sách phát triển hợp tác xã nông nghiệp

HTX nông nghiệp là tổ chức cộng đồng của nông dân trên tinh thần tự

nguyện, tự lực, tự trợ giúp, tự chịu trách nhiệm, vừa mang tính kinh tế, vừa

mang tính xã hội. Bởi vậy, nhà nước cần có chính sách hỗ trợ, khuyến khích

phát triển HTX nông nghiệp. Chính sách cần đủ mạnh, đủ tầm, phải phù hợp

với điều kiện tổ chức và hoạt động của HTX, dễ dàng trong việc triển khai

thực hiện; chính sách phải được thống nhất thi hành trên phạm vi cả nước.

4.2.4.1. Chính sách tài chính - tín dụng

- Đổi mới chính sách tín dụng theo hướng tạo điều kiện cho các HTX

nông nghiệp tiếp cận các nguồn vốn tín dụng dễ dàng hơn thông qua việc xác

định điều kiện và mức độ cho vay không cần thế chấp đối với các HTX nông

nghiệp; cơ chế cho vay bằng tín chấp thông qua hiệu quả sản xuất - kinh

doanh của HTX nông nghiệp trong một đến hai năm tài chính liền kề như tài

chính lành mạnh, có hiệu quả và uy tín trong sản xuất kinh doanh, hoặc đã

vay vốn nhưng trả nợ đúng hạn; tăng cường hình thức cho vay bằng tín chấp

của các đoàn thể và chính quyền cấp xã…

- Thúc đẩy phát triển hoạt động tín dụng nội bộ của HTX nông nghiệp.

- Thực hiện bảo hiểm tín dụng, bảo hiểm sản xuất, xây dựng quỹ hỗ trợ

rủi ro cho các HTX nông nghiệp, trong đó một phần kinh phí được lấy từ

ngân sách nhà nước, một phần từ phía HTX nông nghiệp.

- Về chính sách thuế đối với HTX nông nghiệp trong giai đoạn hiện

nay, Nhà nước nên miễn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các khoản thu

nhập từ các hoạt động dịch vụ mà HTX nông nghiệp trực tiếp phục vụ sản

xuất nông nghiệp của xã viên như: cung ứng vật tư, chế biến, tiêu thụ sản

phẩm,… nhằm tạo điều kiện để HTX nông nghiệp tích lũy vốn tái đầu tư.

4.2.4.2. Chính sách đất đai

147

- Đẩy nhanh tiến độ giao đất, cấp “giấy chứng nhận quyền sở hữu đất,

quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất” cho các HTX nông

nghiệp.

- Mở rộng mức độ, thời hạn và đối tượng HTX nông nghiệp được

hưởng ưu đãi về thuê đất, đồng thời có cơ chế quản lý chặt chẽ để tránh tình

trạng sử dụng đất lãng phí và các tiêu cực khác.

Theo đó, cần hướng dẫn cụ thể về việc giao đất và cấp giấy chứng nhận

quyền sở hữu đất của các HTX nông nghiệp, trong đó nêu rõ các thủ tục, các

loại giấy tờ cần thiết và thời hạn xét duyệt áp dụng cho từng loại đất cụ thể

mà HTX nông nghiệp đang quản lý, sử dụng; hướng dẫn thủ tục xin cấp, thuê

đất mới để làm trụ sở và mở rộng cơ sở sản xuất, kinh doanh đối với HTX

nông nghiệp; tiến hành đo đạc xác định các loại đất mà HTX nông nghiệp

đang sử dụng; rà soát lại quỹ đất của mình, đồng thời hoàn thiện quy hoạch sử

dụng đất trên địa bàn để làm căn cứ cho thuê đất, giao đất cho các HTX nông

nghiệp; xây dựng kế hoạch và lộ trình cụ thể để đo đạc, giao đất và cấp “giấy

chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và các tài sản gắn liền với

đất” cho các HTX nông nghiệp.

4.2.4.3. Chính sách hỗ trợ chuyển giao tiến bộ khoa học - công nghệ

- Tăng cường đầu tư cho công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ

khoa học phục vụ các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, cơ sở vật chất cho công

tác nghiên cứu. Ban hành chính sách quy định rõ ràng trách nhiệm của nhà

khoa học đối với sản phẩm nghiên cứu của mình, đãi ngộ thỏa đáng cho

những người có các kết quả nghiên cứu thực sự hữu ích cho các lĩnh vực sản

xuất kinh doanh.

- Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác ứng

dụng, tuyên truyền, phổ biến các tiến bộ khoa học - công nghệ phục vụ các

lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là cán bộ HTX nông nghiệp, để họ

thực sự là cầu nối giữa tổ chức khoa học - công nghệ và người trực tiếp sản

xuất - kinh doanh.

148

- Tăng cường đầu tư cho nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ

trong các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh, đặc biệt là trong sản xuất nông

nghiệp (từ khâu giống đến phương pháp canh tác, chăn nuôi, thu hoạch, sơ

chế, bảo quản…).

- Xây dựng cơ chế khuyến khích chuyển giao nhanh các tiến bộ khoa

học công nghệ vào các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh, thực hiện liên kết giữa

HTX nông nghiệp và các tổ chức khoa học - công nghệ.

- Hỗ trợ kinh phí (hoặc một phần kinh phí) cho các HTX nông nghiệp

trong việc đầu tư ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất - kinh

doanh.

- Thực hiện chính sách ưu đãi về các loại thuế, mức tín dụng, khen

thưởng… trong các hoạt động ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào các

lĩnh vực sản xuất - kinh doanh.

- Nâng cao vai trò và hiệu quả hoạt động của các trung tâm khuyến

nông, chi cục bảo vệ thực vật, chi cục thú y trong chuyển giao tiến bộ khoa

học - công nghệ vào các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh.

4.2.4.4. Chính sách thị trường

- Xây dựng hệ thống thông tin, dự báo về thị trường (trong nước và

quốc tế) các yếu tố đầu vào, đầu ra của các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh,

bảo đảm để thông tin thị trường đến với người sản xuất - kinh doanh một cách

kịp thời, chính xác và đầy đủ.

- Phát triển mạng lưới chợ nông thôn, các trung tâm triển lãm giới thiệu

sản phẩm hàng hóa, đặc biệt là nông sản hàng hóa.

- Tăng cường hỗ trợ, tạo điều kiện cho các HTX nông nghiệp tham gia

các chương trình xúc tiến thương mại: hỗ trợ tham gia triển lãm, hội chợ; hỗ

trợ xây dựng và quảng bá thương hiệu; hỗ trợ tìm kiếm đối tác, mở rộng thị

trường…

4.2.4.5. Chính sách cán bộ và lao động

- Trước hết, phân biệt rõ nghĩa vụ, quyền hạn của HTX nông nghiệp

với cấp ủy và chính quyền địa phương trong công tác cán bộ HTX. HTX

149

nông nghiệp là tổ chức được quyền tự chủ về mọi mặt hoạt động theo quy

định của pháp luật, trong đó có công tác cán bộ. Tuy nhiên, là tổ chức kinh tế

của tầng lớp dân cư yếu thế trong xã hội, HTX nông nghiệp rất cần sự trợ

giúp của Đảng và Nhà nước về nhiều mặt, trong đó có công tác cán bộ. Song,

đó không phải là sự làm thay hay can thiệp trực tiếp vào công tác cán bộ của

HTX nông nghiệp. Sự trợ giúp đối với công tác cán bộ của HTX nông nghiệp

từ phía các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương được thể hiện thông qua các

hình thức tuyên truyền, giáo dục nâng cao dân trí nói chung và trình độ văn

hóa, nhận thức của cán bộ HTX nông nghiệp nói riêng; hỗ trợ về tài chính và

tổ chức cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTX; phối hợp xây dựng quy

hoạch cán bộ, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng… theo đó, cần xử lý kịp thời,

nghiêm khắc những cá nhân và tổ chức vi phạm quyền tự quyết của HTX

nông nghiệp về công tác cán bộ cũng như những cán bộ và tổ chức được phân

công hỗ trợ HTX nông nghiệp về công tác cán bộ, song không hoàn thành

nhiệm vụ được giao do các nguyên nhân chủ quan.

- Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, nghiệp

vụ cho cán bộ HTX nông nghiệp. Các biện pháp cụ thể như sau:

+ Phân công, phân cấp rõ ràng về quyền hạn và trách nhiệm trong đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ HTX nông nghiệp giữa liên minh HTX tỉnh, các sở, ban

ngành và địa phương trong tỉnh.

+ Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTX nông nghiệp phải được

thực hiện theo phương châm thường xuyên, liên tục, kết hợp giữa đào tạo và

bồi dưỡng, ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng các cán bộ chủ chốt của HTX nông

nghiệp. Theo đó, thường xuyên mở các khóa học ngắn hạn để cung cấp thông

tin và phổ biến các kiến thức quản lý mới nhằm giúp cán bộ quản lý HTX

nông nghiệp thích ứng với những thay đổi của môi trường kinh doanh trong

bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới.

Chú trọng đào tạo cơ bản, dài hạn (đào tạo trung cấp, cao đẳng, đại học và các

khóa học dài hạn) cho đội ngũ cán bộ HTX nông nghiệp, đặc biệt là cho các

chức danh chủ chốt, nhằm tạo ra những chuyển biến tích cực về chất lượng,

150

về năng lực, kỹ năng và tính chuyên nghiệp trong quản trị, điều hành HTX

nông nghiệp. Nguồn cho đào tạo cơ bản, dài hạn, ngoài các cán bộ hiện đang

làm việc trong các HTX nông nghiệp có thể được hình thành từ việc tuyển

chọn con em xã viên. Bên cạnh đó, để thực hiện được việc đào tạo cơ bản, dài

hạn, cần hỗ trợ kinh phí cho các đối tượng được cử đi học theo nhu cầu sử

dụng của HTX nông nghiệp đã có cam kết sau khi ra trường sẽ về làm việc tại

các HTX nông nghiệp. Mức độ hỗ trợ tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của

người được cử đi học và thời gian tối thiểu mà họ cam kết sẽ làm việc tại

HTX nông nghiệp sau khi tốt nghiệp.

+ Đổi mới nội dung, đa dạng hóa hình thức cũng như lựa chọn thời

gian, thời điểm và địa điểm đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với nhu cầu và điều

kiện thực tế của các HTX nông nghiệp và người học.

+ Nâng cao năng lực của hệ thống đào tạo cán bộ HTX nông nghiệp

trên cơ sở nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên; trường, lớp;

phương tiện giảng dạy; tài liệu; củng cố và mở rộng liên kết với các trường

dạy nghề, trường cao đẳng, trường đại học trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ HTX nông nghiệp.

- Hỗ trợ về tài chính từ ngân sách nhằm tạo điều kiện cho các HTX

nông nghiệp thuê những người có trình độ cao đẳng, đại học, có năng lực phù

hợp từ bên ngoài làm giám đốc và các chức danh điều hành khác của HTX.

Mức hỗ trợ cho người được thuê giữ chức danh cụ thể trong HTX nông

nghiệp tùy thuộc vào mức thu nhập trung bình của người giữ chức danh tương

đương trong khu vực doanh nghiệp dân doanh trên địa bàn ở cùng thời điểm,

thu nhập thực tế mà HTX nông nghiệp có thể trả cho chức danh này và mức

độ đóng góp của người được thuê vào kết quả sản xuất - kinh doanh của HTX

nông nghiệp.

- Nghiên cứu thực hiện việc điều động, luân chuyển cán bộ dự nguồn,

cán bộ quản lý, cán bộ khoa học - kỹ thuật đang công tác tại các cơ quan nhà

nước, có năng lực và tâm huyết để làm việc tại các HTX nông nghiệp nếu có

yêu cầu.

151

- Tăng cường tổ chức cho các HTX nông nghiệp đi khảo sát, tham quan

học tập kinh nghiệm hoạt động của các HTX sản xuất - kinh doanh mạnh ở

trong và ngoài nước.

- Tổ chức các hội nghị, hội thảo, tọa đàm giữa các HTX nông nghiệp

điển hình tiên tiến, các HTX nông nghiệp sản xuất - kinh doanh giỏi, các

HTX nông nghiệp khá giỏi… nhằm tạo điều kiện cho các HTX nông nghiệp

học tập trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau.

- Tăng cường hỗ trợ dạy nghề cho người lao động trong các HTX nông

nghiệp.

Để công tác cán bộ đối với các HTX đem lại hiệu quả thiết thực, cần rà

soát toàn diện các HTX nông nghiệp ở các địa phương nhằm tạo cơ sở cho

việc xây dựng quy hoạch cán bộ và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cho từng

chức danh cán bộ phù hợp với yêu cầu phát triển trong tình hình mới. Bên

cạnh đó cần tạo nguồn kinh phí cho việc thực hiện công tác cán bộ đối với

HTX nông nghiệp. Việc tạo nguồn kinh phí cho công tác này được thực hiện

theo hai giai đoạn. Trong giai đoạn đầu khi HTX nông nghiệp còn khó khăn,

ít vốn, sẽ hỗ trợ 100% vốn; sau đó, khi HTX nông nghiệp đã phát triển, vốn

của các HTX nông nghiệp dồi dào hơn, nguồn kinh phí cho công tác cán bộ

đối với HTX nông nghiệp được hình thành một phần bằng khoản đóng góp từ

quỹ phát triển của HTX nông nghiệp, phần khác bằng nguồn kinh phí hỗ trợ

của các địa phương.

4.2.4.6. Các hỗ trợ khác

- Đẩy mạnh việc giúp đỡ, hướng dẫn thành lập và hoạt động đối với các

HTX nông nghiệp từ phía Liên minh HTX tỉnh và các ngành chức năng ở các

địa phương

- Hỗ trợ tiếp cận các dịch vụ tư vấn pháp lý, tư vấn kinh doanh.

- Tăng cường lãnh đạo thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5

(khóa IX) về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể,

trong đó có việc lồng ghép nhiệm vụ phát triển HTX nông nghiệp trong quá

trình hoạch định và thực hiện các chương trình, dự án, đề án phát triển kinh tế

152

- xã hội ở các địa phương. Theo đó, cần công khai hóa các chương trình, dự

án, đề án có liên quan đến HTX nông nghiệp, đến nông thôn như các chương

trình, dự án xây dựng kết cấu hạ tầng ở nông thôn, chương trình dạy nghề cho

nông dân, chương trình khuyến nông, chương trình phát triển làng nghề,

ngành nghề truyền thống… để các HTX nông nghiệp đăng ký tham gia, đồng

thời tạo điều kiện thuận lợi cho các HTX nông nghiệp được tham gia thực

hiện các chương trình, dự án, đề án này nhằm giúp các HTX nông nghiệp

tranh thủ các nguồn lực để phát triển hiệu quả hơn.

- Tăng cường hỗ trợ HTX nông nghiệp thiết lập mối quan hệ liên kết

với các tổ chức, đơn vị thuộc mọi thành phần kinh tế. Việc nâng cao hiệu quả

hoạt động của các HTX nông nghiệp, một mặt, đòi hỏi bản thân các HTX phải

chủ động thiết lập các liên kết kinh tế giữa các HTX nông nghiệp với nhau,

giữa HTX nông nghiệp với các tổ chức khoa học - công nghệ và các doanh

nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước,

mặt khác, rất cần sự hỗ trợ từ phía Nhà nước thông qua việc ban hành các cơ

chế, chính sách thúc đẩy hình thành các mối liên kết đó.

4.2.5. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi

phạm trong hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp

Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm trong hoạt động

của HTX nông nghiệp lâu nay chủ yếu là do Liên minh HTX tiến hành, chưa

được thực hiện một cách bài bản, hiệu quả. Do vậy, công tác này cần phải

được đổi mới và tăng cường. Chức năng này phải do cơ quan nhà nước tiến

hành, đó là hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp,

còn Liên minh HTX chỉ là cơ quan phối hợp để công tác này thuận lợi và có

hiệu quả. Việc tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra và xử lý sai

phạm đối với các HTX nông nghiệp cần tập trung vào các nội dung sau:

Thứ nhất, việc chấp hành các quy định của Luật HTX về thành lập, về

tổ chức quản lý, về nguyên tắc hoạt động, về tổ chức đại hội xã viên, về xây

dựng và thực hiện điều lệ HTX… Đây là điều kiện cơ bản đảm bảo cho các

153

HTX nông nghiệp hoạt động đúng với bản chất vốn có của nó và là tiền đề để

thực hiện chuyển đổi HTX nông nghiệp theo Luật HTX năm 2012.

Thứ hai, việc chấp hành các quy định luật pháp khác về hoạt động sản

xuất - kinh doanh như quy định về chế độ kế toán, thống kê, báo cáo, nghĩa vụ

thuế, bảo vệ môi trường… Đây là điều kiện cơ bản để đảm bảo hiệu lực và

hiệu quả của thể chế quản lý HTX nông nghiệp trong điều kiện phát triển

KTTT và HNQT ở Việt Nam hiện nay.

Để việc tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra và xử lý sai

phạm đối với các HTX nông nghiệp theo các nội dung tập trung nêu trên khả

thi và đem lại hiệu quả thiết thực, cần đảm bảo một số điều kiện sau đây:

- Trước hết, phải làm tốt việc phổ biến, hướng dẫn thực hiện các quy

định luật pháp hiện hành đến các HTX nông nghiệp, các thành viên HTX

nông nghiệp và các cá nhân, tổ chức có liên quan khác.

- Công tác giám sát, kiểm tra đối với các HTX trong việc chấp hành các

quy định của pháp luật phải được thực hiện thường xuyên, liên tục bằng nhiều

hình thức thích hợp, bảo đảm không gây khó khăn, cản trở hoạt động sản xuất

- kinh doanh của HTX nông nghiệp.

- Sai phạm của các HTX nông nghiệp phải được xử lý kịp thời, bằng

hình thức thích hợp, đủ sức răn đe không chỉ đối với các HTX nông nghiệp có

hành vi sai phạm mà còn đối với tất cả các HTX khác trên địa bàn.

- Nâng cao vai trò của Liên minh HTX tỉnh, Hội đồng nhân dân các

cấp, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể, xã hội khác trên địa bàn trong

công tác giám sát thi hành, chấp hành các chính sách và quy định luật pháp

liên quan đến HTX nông nghiệp.

- Đội ngũ cán bộ thực hiện công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra và xử

lý sai phạm đối với HTX nông nghiệp phải được bảo đảm cả về số lượng,

năng lực, trình độ cũng như phẩm chất đạo đức, phẩm chất chính trị.

Ngoài ra, cần tăng cường thanh tra, kiểm tra và xử lý các tổ chức, cá

nhân vi phạm pháp luật có liên quan đến tổ chức, hoạt động của các HTX

nông nghiệp.

154

4.3. Một số kiến nghị

Để hoàn thiện quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp ở Việt Nam

trong giai đoạn tới, ngoài việc đề xuất thực hiện các giải pháp cho các chủ thể

quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp nêu trên, luận án kiến nghị với

các cơ quan có liên quan một số nội dung sau:

4.3.1. Đối với Liên minh Hợp tác xã Việt Nam

- Xây dựng Đề án giới thiệu các mô hình HTX nông nghiệp mới, HTX

nông nghiệp hoạt động hiệu quả để các địa phương áp dụng nhằm nhanh

chóng kiện toàn, tổ chức lại và thành lập mới các HTX nông nghiệp đáp ứng

yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương.

- Tổ chức các hoạt động hỗ trợ, tư vấn, cung cấp dịch vụ cho các thành

viên về pháp lý, đầu tư, khoa học công nghệ, thông tin, tài chính, tín dụng, thị

trường và các lĩnh vực khác.

- Phối hợp với các trường đại học xây dựng kế hoạch đào tạo, đào tạo

lại nghề cho cán bộ HTX nông nghiệp.

- Tham gia các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ, phát triển

quan hệ hợp tác với các tổ chức ở các nước; tiếp nhận và tổ chức thực hiện

các chương trình, dự án hỗ trợ, các khoản viện trợ để phát triển HTX nông

nghiệp.

4.3.2. Đối với Hội Nông dân Việt Nam

- Tuyên truyền nâng cao nhận thức cho hội viên nông dân về kinh tế

hợp tác, HTX nông nghiệp.

- Tổ chức bồi dưỡng, đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho các tổ hợp

tác, HTX nông nghiệp.

- Tổ chức các chương trình xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm,

mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, xây dựng thương hiệu cho nông sản.

4.3.3. Đối với Bảo hiểm xã hội Việt Nam

Sửa đổi, bổ sung chính sách bảo hiểm xã hội cho cán bộ HTX nông

nghiệp theo hướng tạo điều kiện để cán bộ quản lý và nghiệp vụ làm việc lâu

năm trong HTX nông nghiệp được truy đóng bảo hiểm xã hội cho thời gian

155

làm việc trong HTX nông nghiệp từ khi Luật HTX đầu tiên có hiệu lực thi

hành (năm 1997).

4.3.4. Đối với các học viện, các trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức

Đưa nội dung về đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà

nước đối với phát triển kinh tế tập thể, HTX nông nghiệp vào chương trình

đào tạo cho cán, bộ công chức, nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ, công

chức trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến sơ sở về phát triển HTX

nông nghiệp trong điều kiện phát triển KTTT và HNQT hiện nay.

Kết luận chƣơng 4

Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp là yêu cầu bức

thiết nhằm nâng cao vai trò và hiệu quả hoạt động của HTX nông nghiệp

trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay.

Trên cơ sở lý luận và thực tiễn của quản lý nhà nước đối với HTX nông

nghiệp ở Việt Nam hiện nay, chương 4 đã đề cập đến hệ thống các quan điểm,

mục tiêu, phương hướng và giải pháp tiếp tục hoàn thiện các nội dung của

quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp. Các giải pháp tập trung vào: Xây

dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển HTX nông nghiệp; hoàn

thiện pháp luật có liên quan đến HTX nông nghiệp; hoàn thiện các chính sách

hỗ trợ phát triển HTX nông nghiệp; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra,

giám sát và xử lý vi phạm trong phát triển HTX nông nghiệp; hoàn thiện tổ

chức bộ máy quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp. Từ đó cũng đưa ra

các kiến nghị đối với các cơ quan liên quan gồm: Liên minh HTX Việt Nam,

Hội Nông dân Việt Nam, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, các học viện, các trường

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức; các kiến nghị tập trung vào công tác

tuyên truyền, việc thực hiện các hoạt động tư vấn, hỗ trợ, bảo hiểm, công tác

đào tạo và đào tạo lại nghề cho cán bộ HTX nông nghiệp, hợp tác quốc tế

trong phát triển HTX nông nghiệp.

156

PHẦN KẾT LUẬN

HTX nông nghiệp là một tổ chức kinh tế mang tính xã hội sâu sắc của

tập hợp đông đảo nông dân ở nông thôn - lực lượng lao động chiếm tỷ trọng

lớn nhất trong xã hội ở các nước đang phát triển. Ở Việt Nam sự phát triển

của HTX nông nghiệp có ý nghĩa to lớn đối với phát triển sản xuất nông

nghiệp và phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn.

Hiện nay trong điều kiện phát triển KTTT và HNQT, các HTX nông

nghiệp ở Việt Nam đang trong tình trạng khó khăn, yếu kém kéo dài, với năng

lực nội tại yếu, cơ sở vật chất nghèo nàn, trình độ công nghệ lạc hậu; năng

lực, trình độ cán bộ quản lý trong khu vực HTX nông nghiệp còn nhiều hạn

chế, chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất - kinh doanh; chính sách đối với cán

bộ HTX nông nghiệp còn có nhiều bất cập; nhiều HTX hoạt động không đúng

với nguyên tắc, chưa thực sự tuân thủ đầy đủ các quy định của Luật HTX; sự

liên kết, hợp tác của các HTX nông nghiệp chưa chặt chẽ, hiệu quả thấp. Thực

tế đó có nguyên nhân cơ bản từ công tác quản lý nhà nước đối với HTX nông

nghiệp, đó là: việc xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển HTX nông

nghiệp ở nhiều địa phương chưa được quan tâm đúng mức, hoặc chưa đưa nội

dung cụ thể trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội địa phương mình; hệ

thống văn bản hướng dẫn thực hiện Luật HTX của Chính phủ và các bộ,

ngành, địa phương còn chậm và thiếu; nhiều chính sách phát triển HTX nông

nghiệp được ban hành nhưng chưa thực sự đi vào thực tế; công tác thanh tra,

kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm trong hoạt động của HTX nông nghiệp

chưa được tiến hành một cách bài bản, hiệu quả; chưa có cơ quan nhà nước

chuyên trách quản lý HTX từ Trung ương đến cơ sở. Do vậy, hoàn thiện quản

lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp nhằm thúc đẩy sự phát triển của HTX

nông nghiệp trong điều kiện hiện nay là hết sức cần thiết và cấp bách.

Việc hoàn thiện quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp phải dựa

trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về HTX;

phải dựa trên đường lối của Đảng, Nhà nước về phát triển HTX; tham khảo,

vận dụng các kinh nghiệm trong công tác quản lý nhà nước đối với HTX nông

157

nghiệp trên thế giới và trong nước để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý

hành chính nhà nước về kinh tế nói chung, về nông nghiệp và HTX nông

nghiệp nói riêng nhằm mục tiêu thúc đẩy sự ra đời và phát triển bền vững của

HTX nông nghiệp đáp ứng yêu cầu phát triển KTTT và HNQT của Việt Nam

hiện nay.

Trên cơ sở thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với HTX nông

nghiệp, các quan điểm, mục tiêu và phương hướng hoàn thiện quản lý nhà

nước đối với HTX nông nghiệp, luận án đề xuất hệ thống giải pháp tiếp tục

hoàn thiện quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay,

gồm: Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển HTX nông nghiệp;

Hoàn thiện pháp luật có liên quan đến phát triển HTX nông nghiệp; Hoàn

thiện các chính sách phát triển HTX nông nghiệp; Tăng cường công tác thanh

tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm trong hoạt động của HTX nông

nghiệp; Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với HTX nông

nghiệp. Trong đó, giải pháp về thành lập bộ máy nhà nước chuyên trách quản

lý HTX nông nghiệp là một giải pháp cơ bản và quan trọng nhằm thúc đẩy sự

ra đời và phát triển của HTX nông nghiệp cũng như nâng cao hiệu lực, hiệu

quả quản lý hành chính nhà nước đối với HTX nông nghiệp ở Việt Nam hiện

nay.

Để các giải pháp tiếp tục hoàn thiện quản lý nhà nước đối với HTX

nông nghiệp ở Việt nam hiện nay khả thi trong thực tiễn, luận án cũng kiến

nghị với các cơ quan liên quan, gồm Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, Hội

Nông dân Việt Nam, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, các học viện, các trường

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức về các điều kiện hỗ trợ để thực hiện các

giải pháp.

Về cơ bản Luận án đã hoàn thành mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đề

ra và có những đóng góp nhất định cho việc cung cấp những luận cứ khoa học

trong hoạch định, thực thi chính sách và hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực

quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp ở Việt Nam.

158

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

1. Thịnh Văn Khoa (2016), "Phát triển hợp tác xã và công tác quản lý

nhà nước đối với hợp tác xã hiện nay", Tạp chí Quản lý nhà nước, số tháng

4/2016.

2. Thịnh Văn Khoa (2016), "Phát triển hợp tác xã nông nghiệp ở Thanh

Hóa kể từ khi có Luật Hợp tác xã năm 2012 đến nay", Tạp chí Giáo dục lý

luận, số tháng 5/2016.

3. Thịnh Văn Khoa (2016), "Kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với

hợp tác xã nông nghiệp của một số nước", Tạp chí Quản lý nhà nước, số

tháng 10/2016.

4. Thịnh Văn Khoa, Chủ nhiệm Đề tài khoa học cấp tỉnh "Nghiên cứu

giải pháp phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở Thanh Hóa", nghiệm

thu đạt loại xuất sắc tháng 12/2016

5. Thịnh Văn Khoa (2017), "Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hợp

tác xã nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí Cộng sản, số tháng 3/2017.

6. Thịnh Văn Khoa (2017), "Một số giải pháp phát triển kinh tế hợp tác

trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa hiện nay", Tạp chí Khoa học

và Công nghệ Thanh Hóa, số tháng 3/2017.

159

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Tài liệu tiếng Việt

1. Bách khoa toàn thư, Nxb Văn hóa - Thông tin, năm 1999. 2. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2008), Chỉ thị số 20-CT/TW ngày 02/1/2008 về tăng cường lãnh đạo thực hiện Nghị quyết TW 5 khóa IX, Việt Nam.

3. Ban công tác đại biểu, Văn phòng Quốc hội (2012), Hợp tác xã - một

số vấn đề về lý luận và thực tiễn, Việt Nam.

4. Ban chấp hành Trung ương Đảng (2002), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 ngày 18/3/2002 về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, Việt Nam.

5. Bộ Chính trị (2013), Kết luận số 56-KL/TW ngày 21/02/2013 về việc

đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết TW 5 (khóa IX), Việt Nam.

6. Bộ Công nghiệp (2003), Chỉ thị số 09/2003/CT-BCN ngày 12/11/2003 về việc triển khai thực hiện Chỉ thị số 22/2003/CT-TTg ngày 3/10/2003 và Quyết định số 94/2002/QĐ-TTg ngày 17/7/2002 của Thủ tướng Chính phủ, Việt Nam.

7. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2004), Thông tư số 04/2004/TT-BKH, ngày 13/12/2004 về việc hướng dẫn xây dựng Kế hoạch phát triển khu vực kinh tế tập thể 5 năm 2006-2010, Việt Nam.

8. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2005) Thông tư số 05/2005/TT-BKH, ngày 15/12/2005 về hướng dẫn một số quy định tại Nghị định số 87/2005/NĐ-CP, ngày 11/7/2005 về đăng ký kinh doanh hợp tác xã, Việt Nam.

9. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2006), Đề tài: Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn cho định hướng chiến lược phát triển hợp tác xã giai đoạn 2006-2020, Hà Nội.

10. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2006), Thông tư số 02/2006/TT-BKH, ngày 13/02/2006 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về hướng dẫn thực hiện một số điều tại Nghị định số 88/2005/NĐ-CP, ngày 11/7/2005 về một số chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển hợp tác xã, Việt Nam.

11. Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Vụ HTX (2012), Tư tưởng HTX - kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia sự thật Hà Nội.

160

12. Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Vụ HTX (2012), Chuyên đề đánh giá kết quả công tác quản lý Nhà nước đối với hợp tác xã theo tinh thần Nghị quyết TW 5 khóa IX về kinh tế tập thể - tình hình tổ chức và kết quả công tác quản lý, Việt Nam.

13. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2012), Báo cáo Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành TW Đảng khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, Việt Nam.

14. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2012), Báo cáo tổng kết thi hành Luật hợp tác

xã năm 2003, Việt Nam.

15. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2013), Đề án thành lập tổ chức bộ máy quản

lý nhà nước về hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã, Việt Nam.

16. Bộ Giao thông vận tải (2003), Quyết định số 1801/2003/QĐ-BGTVT phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý hợp tác xã, Việt Nam.

17. Bộ Tài chính (2004), Thông tư số 22/2004/TT-BTC ngày 24/3/2004 hướng dẫn quản lý và sử dụng kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý của hợp tác xã, Việt Nam.

18. Bộ Tài chính (2006), Thông tư số 66/2006/TT-BTC ngày 17/7/2006 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 88/2005/NĐ-CP ngày 17/7/2005 của Chính phủ về chế độ tài chính hỗ trợ các sáng lập viên hợp tác xã chuẩn bị thành lập, các đối tượng đào tạo, bồi dưỡng của hợp tác xã, Việt Nam.

19. Phạm Thị Cầm, Vũ Văn Kỷ, Nguyễn Văn Phúc (2003), Kinh tế hợp

tác xã trong nông nghiệp ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

20. C.Mác và Ph.Ăngghen (1999), Toàn tập, T23, Nxb Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

21. C.Mác và Ph.Ăngghen (1999), Toàn tập, T36, Nxb Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

22. Chỉ thị số 19/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh

triển khai thi hành Luật Hợp tác xã năm 2012.

161

23. Chính phủ (2002), Quyết định số 04/2002/QĐ-TTg ngày 17/7/2002 về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Việt Nam.

24. Chính phủ (2004), Nghị định số 177/2004/NĐ-CP, ngày 12/10/2004 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hợp tác xã năm 2003, Việt Nam.

25. Chính phủ (2004), Nghị định số 181/2004/NĐ-CP, ngày 29/10/2004

của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai, Việt Nam.

26. Chính phủ (2005), Nghị định số 77/2005/NĐ-CP, ngày 9/6/2005 về việc ban hành mẫu hướng dẫn xây dựng Điều lệ Hợp tác xã, Việt Nam. 27. Chính phủ (2005), Nghị định số 87/2005/NĐ-CP, ngày 11/7/2005 về

đăng ký kinh doanh Hợp tác xã, Việt Nam.

28. Chính phủ (2005), Nghị định số 88/2005/NĐ-CP, ngày 11/7/2005 về một số chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển Hợp tác xã, Việt Nam.

29. Chính phủ (2013), Nghị định số 193/2013/NĐ-CP, ngày 21/11/2013 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hợp tác xã năm 2012, Việt Nam.

30. Chử Văn Lâm (2003), Đề tài khoa học cấp nhà nước: Sở hữu tập thể và kinh tế tập thể- vị trí, vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Việt Nam.

31. Dự án Aid-Coop Việt Nam (2010). “Luận chứng pháp luật và chính

sách để phát triển HTX ở Việt Nam”.

32. Đại từ điển Tiếng Việt, NXb Văn hóa - Thông tin, năm 1998.

33. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

36. Đảng Cộng sản Việt Nam khóa X (2006), Hội nghị lần thứ VI, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

37. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

162

lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

38. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

39. Học viện Hành chính quốc gia, Giáo trình những vấn đề quản lý hành

chính nhà nước, NXB Lý luận chính trị Hà Nội, 2014

40. Hồ Chí Minh toàn tập (2002), Toàn tập, T2, Nxb Chính trị Quốc gia,

Hà Nội, 2002.

41. Hồ Chí Minh toàn tập (1995), Toàn tập, T4, Nxb Chính trị Quốc gia,

Hà Nội, 2002.

42. GS.TS Nguyễn Đình Kháng, Chính sách phát triển hợp tác xã ở Việt

Nam, WWW.Tinkinhte.com.

43. Thịnh Văn Khoa, Một số nghiên cứu về vai trò của hợp tác xã, Tạp

chí Giáo dục lý luận, số 219 năm 2014.

44. Dương Khắc Mai (2015), Vai trò của công tác quản lý nhà nước đối

với HTX trong giai đoạn hiện nay. www/lmhtx.daknong.gov.vn.

45. Liên minh HTX Việt Nam (1998), Kinh tế hợp tác một số vấn đề lý

luận và thực tiễn, Hà Nội.

46. Liên minh HTX Việt Nam (2010), Góp ý kiến Dự thảo Luật Hợp tác

xã sửa đổi, Việt Nam.

47. Chu Tiến Quang (2012), Vai trò và giải pháp nâng cao vai trò của hợp tác xã đối với xã viên trong nông nghiệp nông thôn ở Việt Nam, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội.

48. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1996), Luật Hợp

tác xã năm 1996.

49. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Luật Hợp

tác xã năm 2003.

50. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), Luật Hợp

tác xã năm 2012.

51. Quỹ châu Á và Trung tâm Hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ

niềm nam, Cẩm nang hợp tác xã nông nghiệp.

163

52. Quyết định số 2261/QĐ-TTg ngày 15/12/2014 của Thủ tướng Chính

phủ về phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển hợp tác xã giai đoạn

2015-2020.

53. Nguyễn Minh Sơn (2012), ”Hoàn thiện Luật Hợp tác xã: thực trạng và

giải pháp”, Trang web của Văn phòng Quốc hội.

54. Sở Khoa học và Công nghệ Đồng Nai (2010), Hợp tác xã nhìn từ thực

tiễn Đồng Nai, NXB Chính trị Quôc gia, Hà Nội.

55. Nguyễn Hữu Tiến (1996), Tổ chức hợp tác xã ở một số nước châu Á,

Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

56. Tổng thư ký Liên hiệp quốc (2009), Liên hiệp quốc với phong trào

HTX quốc tế, sách tham khảo.

57. Tổng cục Thống kê (2010), Niêm giám thống kê 2010, Hà Nội. 58. Tổng cục Thống kê (2011), Niêm giám thống kê 2011, Hà Nội. 59. Tổng cục Thống kê (2012), Niêm giám thống kê 2012, Hà Nội. 60. Tổng cục Thống kê (2013), Niêm giám thống kê 2013, Hà Nội. 61. Tổng cục Thống kê (2014), Niêm giám thống kê 2014, Hà Nội.

62. Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Sự phát triển của các hợp

tác xã giai đoạn 2008-2011, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội 2013.

63. Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và UNDP tại Việt Nam, Sự phát triển

của HTX và vai trò của HTX đối với an sinh xã hội, Nhà xuất bản trẻ,

Hà Nội 2012.

64. Văn kiện Đảng toàn tập (2002), Toàn tập, T19, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

65. Văn kiện Đảng toàn tập (2007), Toàn tập, T49, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

66. V.I. Lênin (1980), Toàn tập, tập 27, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

67. V.I. Lênin (1981), Toàn tập, tập 30, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

68. Vụ Hợp tác xã, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2007), Bản chất HTX thực

tiễn Việt Nam, kinh nghiệm quốc tế và khả năng vận dụng ở Việt Nam.

164

B. Tài liệu tiếng Anh

69. Chantal. Chommel, Agricultural cooperatives in France, Paris, 2015.

70. Socodevi (2012), Conditions of success for cooperatives, Canada.

71. Dr Daman Prakash, The Saryu’, Development of Agricultural

Cooperatives - Relevance of Japanese Experiences to Developing

Countries, J-102 Kalkaji, New Delhi 110019, India, February 2003.

72. Kluwer Academic Publishers, Building and destroying social capital:

The case of cooperatives movement in Denmark and Poland, Printed in

the Netherlands 2003.

73. Kimberly A. Zeuli, The history of cooperatves in United state,

University of Wisconsin, Madison, 2005.

74. European commission, Support famers’cooperatives, 2012.

75. FAO, Agriculural cooperatives: key to feeding the world, 2012. 76. Prof. Hans-H.Muenkner, The role of cooperatives in the 21st century,

Marburg University, Germany, 6-1995.

77. Dr.Jerome B Siebert, Starting an agricultural marketing cooperative,

1999.

165

PHỤ LỤC

Phụ lục 1. Mẫu phiếu thu thập thông tin về phát triển của HTX nông nghiệp

PHIẾU THU THẬP THÔNG TIN

(Dành cho Hợp tác xã nông nghiệp)

Để cơ sở xây dựng về cơ chế, chính sách đối với sự phát triển của hợp tác xã

nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Đề nghị Ông (Bà) vui lòng cho biết ý

kiến của mình về một số nội dung dưới đây bằng cách điền vào ô thích hợp hoặc

ghi ý kiến của cá nhân vào phần để trống.

PHẦN I. THÔNG TIN CÁ NHÂN

Câu hỏi 1. Xin Ông (bà) cho biết vài nét về bản thân

1.1. Giới tính: Nam Nữ

1.2. Độ tuổi: Dưới 30 Từ 30 – 40

Từ 40 – 50 Trên 50

1.3. Dân tộc .....................................Tôn giáo......................................

1.4. Trình độ chuyên môn và chuyên ngành đào tạo

a. Trình độ chuyên môn

Trên ĐH ĐH Cao đẳng Trung cấp

b. Chuyên ngành đào tạo

Luật QLNN Quản lý kinh tế

- Khác:……………………………………………………………

1.5. Trình độ lý luận chính trị:

Cao cấp Trung cấp Sơ cấp

1.6. Thông tin về chức trách, nhiệm vụ:

a. Vị trí công việc

…………………………………………………………………………………

b. Thời gian giữ chức vụ hiện tại?

Dưới 3 năm Từ 3 - 5 năm Từ 5-7 năm Từ 7-10 năm

c. Xin cho biết công tác kiêm nhiệm (nếu có):

…………………………………………………………………………………

166

PHẦN II. THÔNG TIN VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỢP TÁC XÃ

NÔNG NGHIỆP

Câu hỏi 2. Xin cho biết HTX của ông/bà được thành lập khi nào?

Trước khi có Luật HTX 2012 Sau khi có Luật HTX 2012

Câu hỏi 3. Xin cho biết lĩnh vực sản xuất kinh doanh của HTX?

Nông nghiệp Lâm nghiệp Thủy sản

Diêm nghiệp Dịch vụ nông nghiệp

Câu hỏi 4. Số lượng lao động sử dụng thường xuyên trong sản xuất kinh

doanh của HTX?

Dưới 5 LĐ Từ 5 đến 10 LĐ Từ 10 đến 30 LĐ

Từ 30 đến dưới 50 LĐ Từ 50 LĐ trở lên

Câu hỏi 5. Vốn hoạt động của đơn vị?

Vốn góp của các thành viên:……………………; Hiện nay:…………...

Câu hỏi 6. Ông (Bà) tự đánh giá về cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ sản

xuất của HTX mình hiện nay đang ở mức nào?

6.1. Máy móc thiết bị: Cũ đã ở mức lạc hậu Cũ nhưng ở mức TB

Mới, tiên tiến hiện đại

6.2. Công nghệ:

Sản xuất thủ công SX thủ công gắn với truyền thống

Sản xuất nửa thủ công nửa cơ khí Sản xuất công nghệ cơ khí

Câu hỏi 7. Mức nộp thuế, phí, lệ phí hàng tháng của HTX?

Từ 100 – dưới 500 nghìn đồng Từ 500 nghìn - dưới 1 triệu đồng

Từ 1 triệu – dưới 5 triệu đồng Từ 5 triệu đồng trở lên

Câu hỏi 8. Ông (bà) đánh giá về sự hỗ trợ, giúp đỡ của các cấp, các ngành,

các tổ chức kinh tế - xã hội đối với HTX mình hiện nay?

8.1. Thông tin hướng dẫn tìm hiểu về đường lối, pháp luật, cơ chế chính sách

phát triển kinh tế

Thường xuyên Có nhưng không thường xuyên Không có

8.2. Hỗ trợ cho vay vốn tín dụng hiện nay như thế nào

Hỗ trợ tốt Hỗ trợ 1 phần Không được hỗ trợ

167

8.3. Thông tin thị trường, xúc tiến thương mại

Thường xuyên Có nhưng không thường xuyên Không có

8.4. Hỗ trợ về khoa học công nghệ

Thường xuyên Có nhưng không thường xuyên Không có

Câu hỏi 9. Thị trường trao đổi sản phẩm hàng hóa từ năm 2011 đến nay của

HTX?

Trong huyện, thị Trong tỉnh Ngoài tỉnh Quốc tế

Câu hỏi 10. Nguồn cung cấp các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất của

HTX?

Tại chỗ Trong tỉnh Ngoài tỉnh Quốc tế

Câu hỏi 11. Thu nhập hàng năm từ hoạt động của đơn vị trên một thành viên?

Năm 2011 2012 2013 2014 2015

Thu nhập/thành viên

Hợp tác xã nông nghiệp

Câu hỏi 12. Thuận lợi của đơn vị trong qúa trình tổ chức sản xuất kinh doanh

hiện nay của HTX là gì?

Thuận lợi Đồng ý Không đồng ý

Được sự quan tâm của các cấp ủy Đảng và

Chính quyền

Thể chế pháp luật

Các chính sách hỗ trợ

Trình độ quản lý của đơn vị

Tiếp cận thông tin

Ý kiến khác (Xin vui lòng ghi rõ)

…………………………………………………..............................................

………………………………………………………………………………......

.........………………………………………………………..............................

Câu hỏi 13. Khó khăn của đơn vị trong qúa trình tổ chức sản xuất kinh

doanh hiện nay của HTX là gì?

168

Vốn

Năng lực quản lý tổ chức sản xuất kinh doanh

Thị trường tiêu thụ sản phẩm

Cơ chế chính sách

Điều kiện cơ sở hạ tầng

Ý kiến khác (Xin vui lòng ghi rõ)

:…………………………………………………………..

Khó khăn Đồng ý Không đồng ý

Câu hỏi 14. Ông (bà) có được bồi dưỡng, tập huấn kiến thức quản lý kinh

doanh không?

Thường xuyên Có nhưng không thường xuyên

Chưa được bồi dưỡng

Câu hỏi 15. Hình thức bồi dưỡng /tập huấn nào phù hợp với công việc của

ông (bà) nhất?

Không Rất phù TT Các loại hình Phù hợp phù hợp hợp

1 Khóa học có thời lượng 1 – 2 ngày

2 Khóa học có thời lượng 3 – 5 ngày

3 Khóa học ngắn hạn 1 tuần

4 Khóa học dài hơn từ 7 – 10 ngày

5 Tự học

Câu hỏi 16. Trong các năm tới Ông (bà) mong muốn được tập huấn những

nội dung gì về kiến thức quản lý và điều hành đơn vị?

.............................................................................................................................

.............................................................................................................................

Câu hỏi 17. Ông (bà) đánh giá như thế nào về vai trò quản lý của chính quyền

đối với sự phát triển của hợp tác xã nông nghiệp?

Tạo thuận lợi Chưa tạo thuận lợi Gây khó khăn

169

Ý kiến khác(nếu có):.......................................................................................

…………………………………………………………………...

Câu hỏi 18. Các đề xuất khác liên quan đến việc phát triển của HTX?

…………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………

170

Phụ lục 2. Mẫu phiếu khảo sát

PHIẾU KHẢO SÁT

(Dành cho đại diện cấp ủy cấp xã, đại diện UBND cấp xã, đại diện

UBMTTQ cấp xã, trưởng các đoàn thể nhân dân cơ sở)

Để có cơ sở xây dựng về cơ chế, chính sách đối với sự phát triển của

hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Đề nghị đồng chí vui

lòng cho biết ý kiến của mình về một số nội dung dưới đây bằng cách điền

vào ô thích hợp hoặc ghi ý kiến của cá nhân vào phần để trống.

PHẦN I. THÔNG TIN CÁ NHÂN

Câu hỏi 1. Xin đồng chí cho biết vài nét về bản thân

1.1. Giới tính: Nam Nữ

1.2. Độ tuổi: Dưới 30 Từ 30 – 40

Từ 40 – 50 Trên 50

1.3. Dân tộc .....................................Tôn giáo......................................

1.4. Trình độ chuyên môn và chuyên ngành đào tạo

a. Trình độ chuyên môn

Trên ĐH ĐH Cao đẳng Trung cấp

b. Chuyên ngành đào tạo

Luật QLNN Quản lý kinh tế

Khác:…………………………………………………………………………

1.5. Trình độ lý luận chính trị:

Cao cấp Trung cấp Sơ cấp

1.6. Chức vụ công tác hiện nay:

Bí thư đảng ủy Thường trực đảng ủy

Chủ tịch HĐND Phó Chủ tịch HĐND

Chủ tịch UBND Phó Chủ tịch UBND

Chủ tịch UBMTTQ cấp xã Phó Chủ tịch UBMTTQ

Chủ tịch Hội nông dân Chủ tịch hội LHPN

171

Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Bí thư đoàn Thanh niên

PHẦN II. THÔNG TIN VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỢP TÁC XÃ

NÔNG NGHIỆP

Câu hỏi 2. Đồng chí đánh giá như thế nào về sự phát triển của hợp tác xã

nông nghiệp từ năm 2011 đến nay ở địa phương đồng chí.

- Phát triển nhanh - Có phát triển nhưng chậm

- Không phát triển

- Ý kiến khác (nếu có):..................................................................................

Câu hỏi 3. Xin đồng chí cho biết ở địa phương đồng chí nghề sản xuất kinh

doanh nào có hiệu quả nhất hiện nay?

- Nông nghiệp

- Thủy sản(đánh bắt, nuôi trồng, chế biến)

- Lâm nghiệp

- Dịch vụ bán buôn, bán lẻ

- Du lịch

- Sản xuất kinh doanh tổng hợp

- Nghề khác: .......................................................................................................

Câu hỏi 4. Xin đồng chí cho biết sự tác động của các loại hình hợp tác xã

nông nghiệp đến sự phát triển kinh tế tư nhân, kinh tế nhà nước ở địa phương

đồng chí trong năm vừa qua như thế nào?

- Tác động tích cực - Có tác động nhưng chậm

- Không tác động - Tác động tiêu cực

Câu hỏi 5. Xin đồng chí cho biết sự tác động của kinh tế tư nhân, kinh tế nhà

nước đến sự phát triển của hợp tác xã nông nghiệp ở địa phương đồng chí

trong năm vừa qua như thế nào?

- Tác động tích cực - Có tác động nhưng chậm

- Không tác động - Tác động tiêu cực

Câu hỏi 6. Đồng chí đánh giá như thế nào về mức độ ô nhiễm môi trường

sinh thái ở địa phương do phát triển kinh tế gây ra hiện nay.

172

- Ô nhiễm nghiêm trọng

- Có ô nhiễm nhưng chưa nghiêm trọng

- Chưa bị ô nhiễm

Câu hỏi 7. Đồng chí đánh giá như thế nào về hiệu quả hoạt động của hợp tác

xã nông nghiệp ở địa phương đồng chí.

- Hiệu quả cao - Có hiệu quả nhưng không cao

- Không có hiệu quả

- Ý kiến khác:...............................................................................................

Câu hỏi 8. Theo đồng chí cần giải pháp nào để hỗ trợ hợp tác xã nông nghiệp

phát triển trong thời gian tới.

…………………………………………………………………………………

Câu hỏi 9. Đồng chí đánh giá như thế nào về xu hướng phát triển của loại

hình hợp tác xã nông nghiệp trong những năm tới ở địa phương đồng chí.

- Phát triển tốt - Có phát triển nhưng chậm

- Không phát triển

- Ý kiến khác:............................................................................................

Câu hỏi 10. Đồng chí có kiến nghị, đề xuất gì về đổi mới cơ chế chính sách

đối với hợp tác xã nông nghiệp ở địa phương.

.....………………………………………………………………………………

173

Phụ lục 3. Báo cáo tổng hợp số liệu điều tra, khảo sát

BÁO CÁO

Phân tích, xử lý số liệu điều tra, khảo sát

về hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa

I. MỘT SỐ THÔNG TIN CHUNG VỀ ĐỐI TƢỢNG, ĐỊA ĐIỂM VÀ

CÁCH THỨC TIẾN HÀNH ĐIỀU TRA, KHẢ

Để đánh giá đúng thực trạng hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp tại

các địa phương làm cơ sở để xây dựng cơ chế, chính sách đối với sự phát triển

của hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, Trường Chính trị

tỉnh đã thực hiện việc đánh giá thực trạ

ằng các phương pháp như:

Phương pháp điều tra Anket (phiếu hỏi); phương pháp phỏng vấn, phương

pháp quan sát, phương pháp phân tích kết quả hoạt động… trong đó, phương

pháp điều tra Anket (phiếu hỏi) được xem là phương pháp chủ yếu.

Khi xây dựng phiếu điều tra Anket, nhà trường chia làm 2 mẫu phiếu

tương ứng với 2 đối tượ ệ

nhân dân cơ sở.

1. Đối tƣợng điều tra

Đối với mẫu phiếu số 1, dành cho cán bộ ệp gồm

230 phiếu (tương ứng với 1/3 số HTX nông nghiệp trên địa bàn toàn tỉnh).

Đối với mẫu phiếu số

ở ếu.

2. Địa điểm điều tra

Điều tra trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, cụ thể:

174

- Đối với mẫu phiếu số 1: HTX nông nghiệ

ệp.

- Đối với mẫu phiếu số 2: 405 phiếu, điều tra ở 81 xã của các huyện, bao

gồm: Nga Sơn, Hoằng Hóa, Tĩnh Gia, Thọ Xuân, Yên Định, Triệu Sơn, Thạch

Thành, Ngọc Lặc, Cẩm Thủy (mỗi huyện 9 xã).

3. Cách thức điều tra

Để có thông tin cho các mẫu phiếu điều tra một cách khách quan,

chính xác, Trường Chính trị tỉnh Thanh Hóa đã tổ chức tiến hành theo các

cách sau đây:

- Cán bộ, giảng viên của nhà trường trực tiếp về cơ sở để lấy thông tin

điều tra.

- Thông qua các đồng chí ở các phòng, ban của các huyện,

- Thông qua các đồng chí ở ỉnh.

II. TỔNG HỢP PHIẾU ĐIỀU TRA, KHẢ

Từ số lượng phiếu phát ra và thu vào chúng tôi nhận thấy, về cơ bản số

phiếu thu vào đã đáp ứng được yêu cầu đặt ra.

Sau khi kiểm tra và tổng hợp, phân tích số liệu thu về từ 635 phiếu

điều tra; nhóm điều tra trực tiếp thực hiện khâu tổng hợp, phân tích số

liệu điều tra, khả ề xã

ịa bàn tỉnh Thanh Hóa như sau:

1. Đối với mẫu phiếu số 1

Số phiếu phát ra là 230 phiếu, thu về 230 phiếu với kết quả như sau:

Thông tin của người cung cấ

- Về dân tộc: Số lượn ảo sát là người dân tộc Kinh

chiếm 76%, dân tộc ít người (Thái, Mường, Thổ...) chiếm 24%.

- Về Tôn giáo: Số ếm 3,3% và không theo một tôn

giáo nào chiếm 96,7%

-Về giới tính: Nam chiế ữ chiếm 35,7%;

175

- Về độ tuổ ổi chiếm 6,7%; từ 30 - 40 tuổi chiếm 27,3%; từ

40 – 50 chiếm 39,8%; từ 50 tuổi trở lên chiếm 26,2%.

- Về trình độ chuyên môn: Số lượng có trình độ

Đại học chiếm 37,5%; Cao đẳng chiếm 21,9%; Trung cấp chiếm 40,3%.

-

- Về trình độ Lý luận chính trị: đa số tham gia cung cấp thông tin

có trình độ Trung cấp lí luận chính trị chiếm 65,6% và có 34,7% có trình độ

sơ cấp Lý luận chính trị.

Ở câu hỏi số 2: thời gian thành lập HTX nông nghiệp

- Trước khi có Luật HTX năm 2012: 206

- Sau khi có Luật HTX năm 2012: 24

âu hỏi 3: Lĩnh vực sản xuất kinh doanh

Bảng 1.1. Bảng tổng hợp c

HTX nông nghiệp

TT Số phiếu Tỷ lệ %

1. Nông nghiệp 86/230 37,4

2. 10/230 4,3

3. 5/230 2,2

4. 3/230 1,3

5. 126/230 54,8

Nhận xét: Qua số liệu trên cho thấ

ậy, trong khả

Ở câu hỏi thứ 4: Số lượng lao động sử dụng thường xuyên trong sản

xuất kinh doanh của đơn vị?

176

1.2. Bảng tổng hợp s ộng sử dụng thường xuyên

trong sản xuất kinh doanh củ nông nghiệp

STT Số phiếu Tỷ lệ %

1 20/230 8,7

2 90/230 39

3 51/230 22,2

4 49/230 21,4

5 20/230 8,7

Qua khảo sát cho thấy số lao động ở các HTX từ 5-10 lao

động chiếm tỷ lệ lớn 39%; từ 10-30 lao động là 22,2%, từ 30 đến dưới 50 lao

động chiếm 21,4%. Số lao động dưới 5 và trên 50 lao động trong HTX chiếm

tỷ lệ nhỏ 8,7%. Như vậy, hầu hết các HTX nông nghiệp ở quy mô nhỏ, cho

nên hoạt động hiệu quả chưa cao.

Ở câu hỏi thứ 5: Vốn hoạt động của đơn vị

1.3. Bảng tổng hợ

nông nghiệp

393.000.000 đ 1.028.000.000đ

nghiệp

- Qua kết quả điều tra, vốn góp ban đầu đối với HTX còn rất

ít hoặc không góp vốn. Vốn điều lệ bình quân là 393 triệu đồng; vốn chủ sở

hữu là 508 triệu đồng và vốn vay bình quân ở các HTX là 127 triệu đồng.

Điều này cho thấy nguồn vốn của người nông dân còn hạn chế, chủ yếu là

nguồn vốn của gia đình tích góp. Bên cạnh đó, do quy mô sản xuất kinh

doanh của HTX chưa ở mức cao. Nguồn vốn vay chủ yếu của các HTX là từ

Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Ngân hàng Chính sách Xã

hội.

âu hỏi 6: Ông (Bà) tự đánh giá về cơ sở vật chất kỹ thuật và

công nghệ sản xuất của HTX mình hiện nay đang ở mức nào

177

Bảng 1.4. Bảng tổng hợ

TT Các tiêu chí Số phiếu Tỷ lệ %

230 100

Cũ đã ở mức lạc hậu 3/230 23 1 Cũ nhưng ở mức trung bình 150/230 65

Mới, tiên tiến hiện đại 27/230 12

230 100

31/230 13,5

2 34,4 79/230

47,8 110/230

4,3 10/230

Qua số liệu trên cho thấy có thể thấy máy móc thiết bị sử

dụng ở các HTX nông nghiệp cũ nhưng ở mức trung bình là chiếm tỷ trọng

lớn nhất 65%; máy móc mới , tiên tiến hiện đại còn chiếm tỷ lệ thấp 12%.

Công nghệ sản xuất ở các HTX NN nửa thủ công, nửa cơ khí là chiếm tỷ

trọng lớn 47,83%; sản xuất thủ công gắn với truyền thống là 34,35%; sản xuất

công nghệ cơ khí trong các HTXNN còn chiếm tỷ trọng nhỏ, chỉ 4,35%.

ỏ Mức nộp thuế, phí, lệ phí hàng tháng của các HTX

nông nghiệp

1.5. Bảng tổng hợ

nghiệp

STT Số phiếu Tỷ lệ %

Từ 100 – dưới 500 nghìn đồng 53/230 23 1

Từ 500 nghìn – dưới 1 triệu đồng 137/230 60 2

Từ 1 triệu – dưới 5 triệu đồng 30/230 13 3

Từ 5 triệu đồng trở lên 10/230 4 4

Số HTX nông nghiệp nộp thuế, phí, lệ phí từ 500.000đ -

dưới 1.000.000đ chiếm tỷ trọng lớn 60%; từ 1 triệu - dưới 5 triệu đồng 13%;

từ 5 triệu đồng trở lên chiếm tỷ trọng rất nhỏ chỉ 4%.

178

ỏ Ông (bà) đánh giá về sự hỗ trợ, giúp đỡ của các cấp,

các ngành, các tổ chức kinh tế - xã hội đối với HTX mình hiện nay?

1.6. Bảng tổng hợp ý kiến về sự hỗ trợ, giúp đỡ của các cấp, các

ngành, các tổ chức kinh tế - xã hội ệp

Số phiếu Tỷ lệ % Sự hỗ trợ, giúp đỡ của các cấp, các ngành, TT các tổ chức kinh tế - xã hội

Thông tin hƣớng dẫn tìm hiểu về đƣờng

lối, pháp luật, cơ chế chính sách phát 230 100

triển kinh tế 1 91/230 39,6

Có nhưng không thường xuyên 109/230 47,4

30/230 13

Hỗ trợ cho vay vốn tín dụng hiện nay nhƣ 230 100 thế nào

Hỗ trợ tốt 44/230 19,1 2

Hỗ trợ 1 phần 105/230 45,7

Không được hỗ trợ 81/230 35,2

Thông tin thị trƣờng, xúc tiến thƣơng 230 100 mại

57/230 24,8 3

114/230 49,6

59/230 25,6

Hỗ trợ về khoa học công nghệ 230 100

40/230 17,4 4 135/230 58,7

55/230 23,9

Qua khảo sát cho thấy về thông tin hướng dẫn tìm hiểu về

đường lối, pháp luật, cơ chế chính sách phát triển kinh tế, các hợp tác xã tiếp

nhận thường xuyên chỉ là 39,6%, có nhưng không thường xuyên chiếm 47,4%

và không có chiếm 13%.

179

ẫn chủ yếu là chỉ được hỗ trợ một phần cho

vay tín dụng, có nhưng không thường xuyên nhận được sự hỗ trợ về thông tin

đường lối, pháp luật, cơ chế, chính sách phát triển kinh tế và thông tin thị

trường, xúc tiến thương mại.

ỏ 9: Thị trường trao đổi sản phẩm hàng hóa từ năm 2010

đến nay của HTX

1.7. Bảng tổng hợp thị trường trao đổi sản phẩm hàng hóa từ năm

2010 đến nay ệp

STT Thị trƣờng trao đổi sản phẩm hàng hóa Số phiếu Tỷ lệ %

110

47.8

1

89

38.7

2 T

27

11.7

3

4

1.8

4

Nhận xét: Qua con số điều tra khảo sát cho thấy thị trường trao đổi sản

phẩm hàng hóa chủ yếu của các HTXNN là trong huyện thị, chiếm tỷ lệ lớn

47,83%; tiếp đến là thị trường trong tỉnh chiếm 38,70%; còn lại thị trường

trao đổi sản phẩm hàng hóa ngoài tỉnh và ra thị trường quốc tế còn chiếm một

tỷ lệ khiêm tốn.

ỏ 10: Nguồn cung cấp các yếu tố đầu vào cho quá trình

sản xuất của đơn vị?

1.8. Bảng tổng hợp nguồn cung cấp các yếu tố đầu vào cho quá

trình sản xuất củ nông nghiệp

STT Nguồn cung cấp các yếu tố đầu vào cho quá Số phiếu Tỷ lệ %

trình sản xuất

109

47.4

1

92

40

T 2

24

10.4

3

5

2.2

4

Nhận xét: Qua số liệu điều tra khảo sát cho thấy nguồn cung cấp các yếu

tố đầu vào cho quá trình sản xuất của các HTXNN là nguồn tại chỗ và trong tỉnh,

180

chiếm tỷ lệ lớn, lần lượt là 47,4% và 40%; còn lại nguồn cung cấp các yếu tố đầu

vào cho quá trình sản xuất từ ngoài tỉnh và quốc tế chiếm một tỷ lệ nhỏ. Điều đó

cho thấy mặt lợi thế của sự chủ động được nguồn cung cấp các yếu tố đầu vào

cho quá trình sản xuất của các HTXNN trên địa bàn tỉnh.

ỏ Thu nhập hàng năm từ hoạt động của đơn vị trên

một thành viên?

1.9. Bảng tổng hợp thu nhập hàng năm từ hoạt động của đơn vị

trên một thành viên

Năm

2011 2012 2013 2014 2015

ệp 19.7tr 20.5tr 21.6tr 23.7tr 26tr

Nhận xét:

- Thu nhập hàng năm từ hoạt động của HTX trên một thành viên: Kết quả

khảo sát cho thấy, các nguồn thu nhập từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh của

HTX nông nghiệp bình quân là 21.6 triệu đồng/năm (nguồn liên minh HTX).

Năm 2011, thu nhập hàng năm từ hoạt động của HTX trên một thành viên là

19.7tr đồng; Năm 2012, thu nhập hàng năm từ hoạt động của HTX trên một

thành viên là 20.5tr đồng; Năm 2013, thu nhập hàng năm từ hoạt động của HTX

trên một thành viên là 21.6tr đồng; Năm 2014, thu nhập hàng năm từ hoạt động

của HTX trên một thành viên là 23.7tr đồng; Năm 2015, thu nhập hàng năm từ

hoạt động của HTX trên một thành viên là 26tr đồng.

ỏ 12: Thuận lợi của HTX trong quá trình tổ chức sản

xuất kinh doanh hiện nay là gì

1.10. Bảng tổng hợp ý kiến về thuận lợi trong qúa trình tổ chức

sản xuấ nông nghiệp

Kh

STT Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ

phiếu % phiếu %

181

Được sự quan tâm của các cấp 1 ủy Đảng và Chính quyền 150 65 80 35

2 Thể chế pháp luật 129 56 101 44

3 Các chính sách hỗ trợ 117 51 113 49

4 Trình độ quản lý của đơn vị 140 61 90 39

5 Tiếp cận thông tin 122 53 108 47

Nhận xét: Qua số liệu trên cho thấy trong quá trình sản xuất kinh doanh

của các HTX có tới 65% ý kiến đồng ý là được sự quan tâm của cấp ủy Đảng

và chính quyền; 35% không đồng ý.

Có 56% ý kiến đồng ý trong hoạt động có được sự thuận lợi từ thể chế

pháp luật; 44% không đồng ý. Về các chính sách hỗ trợ có 51% ý kiến đồng ý

là thuận lợi; 49% không đồng ý. Về trình độ quản lý của đơn vị có 61% ý kiến

đồng ý là thuận lợi; 39% không đồng ý. Có 53% ý kiến đồng ý được thuận lợi

trong tiếp cận thông tin; 47% không đồng ý.

Ở câu hỏ 13: Khó khăn của HTX trong quá trình tổ chức sản

xuất kinh doanh hiện nay là gì

1.11. Bảng tổng hợ rong qúa trình tổ chức sản xuấ

nông nghiệp

Không đ

STT Số Tỷ lệ Số phiếu Tỷ lệ

phiếu % %

1 Vốn 179 78 51 22

2 Năng lực quản lý tổ chức sản

xuất kinh doanh 90 39 140 61

3 Thị trường tiêu thụ sản phẩm

131 57 99 43

4 Cơ chế chính sách 113 49 117 51

5 Điều kiện cơ sở hạ tầng 110 48 120 52

Nhận xét: Khi được hỏi về những khó khăn trong quá trình hoạt động

của các HTX, các ý kiến trả lời như sau:

182

- Về vốn: 78% ý kiến được hỏi đều đồng ý đây là khó khăn của các

HTX trong quá trình sản xuất kinh doanh; 22% ý kiến không đồng ý.

- Về năng lực quản lý tổ chức sản xuất kinh doanh: có 39% ý kiến đồng

ý đây là sự khó khăn của các HTX trong quá trình sản xuất kinh doanh; 61%

không đồng ý.

- Về thị trường tiêu thụ sản phẩm: có đến 57% ý kiến đồng ý đây là khó

khăn trong hoạt động của các HTX; 43% không đồng ý.

- Về cơ chế chính sách: có 49% các ý kiến đồng ý đây là khó khăn của

HTX; 51% không đồng ý.

- Có 48 % các ý kiến đồng ý điều kiện cơ sở hạ tầng là khó khăn của

HTX; 52% không đồng ý với phương án này.

ỏ 14: Ông (bà) có được bồi dưỡng, tập huấn kiến thức

quản lý kinh doanh không

2

ổ chức sản xuất kinh doanh nông nghiệp

hiện nay như sau:

1.12. Bảng tổng hợp ý kiến về

ệp

ồi dƣỡng, tập huấn kiến thức quản lý Số phiếu Tỷ lệ STT kinh doanh %

32/230 13,9 1

160/230 69,6 2

38/230 16,5 3

Nhận xét: Từ bảng số liệu trên cho thấy việc bồi dưỡng, tập huấn kiến

thức quản lý kinh doanh cho cán bộ HTX NN có nhưng không thường xuyên

chiếm 69,57%, vẫn còn 16,52% chưa được bồi dưỡng, tập huấn kiến thức

quản lý kinh doanh.

ỏ 15: Hình thức bồi dưỡng /tập huấn nào phù hợp với

công việc của ông (bà) nhất

183

1.13. Bảng tổng hợp ý kiến hình thức bồi dưỡng /tập huấn nào

phù hợp với công việc củ nông nghiệp

Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ STT

phiếu % phiếu % phiếu %

1 Khóa học có thời

lượng 1 - 2 ngày 167 72.6 38 16.5 25 10.9

2 Khóa học có thời

lượng 3 - 5 ngày 35 15.2 156 67.8 39 17

3 Khóa học ngắn hạn

1 tuần 75 32.6 127 55.2 28 12.2

4 Khóa học dài hơn

từ 7 - 10 ngày 198 86 25 11 7 3

5 Tự học 158 68.7 47 20.4 25 10.9

Nhận xét:

+ Có 72.6% các ý kiến cho rằng khóa học có thời lượng 1 - 2 ngày là

không phù hợp; 16.5% các ý kiến cho rằng khóa học có thời lượng 1 - 2 ngày

là phù hợp; 10.9% các ý kiến cho rằng khóa học có thời lượng 1 - 2 ngày là

rất phù hợp;

+ Có 15.2% các ý kiến cho rằng khóa học có thời lượng 3 - 5 ngày là

không phù hợp; 67.8% các ý kiến cho rằng khóa học có thời lượng 3 - 5 ngày

là phù hợp; 17% các ý kiến cho rằng khóa học có thời lượng 3 - 5 ngày là rất

phù hợp.

+ Có tới 32.6% các ý kiến cho rằng khóa học ngắn hạn 1 tuần là không

phù hợp; 55.2% các ý kiến cho rằng khóa học ngắn hạn 1 tuần là phù hợp;

12.2% các ý kiến cho rằng khóa học ngắn hạn 1 tuần là rất phù hợp.

+ Có tới 86% các ý kiến cho rằng khóa học dài hơn từ 7 - 10 ngày là

không phù hợp; 11% các ý kiến cho rằng khóa học dài hơn từ 7 - 10 ngày là phù

hợp; 3% các ý kiến cho rằng khóa học dài hơn từ 7 - 10 ngày là rất phù hợp.

184

+ Có tới 68.7% các ý kiến cho rằng tự học là không phù hợp; 20.4%

các ý kiến cho rằng tự học là phù hợp; 10.9% các ý kiến cho rằng tự học dài

là rất phù hợp.

ỏ 16: Trong các năm tới Ông (bà) mong muốn được tập

huấn những nội dung gì về kiến thức quản lý và điều hành HTX

1.14. Bảng tổng hợp ý kiến về những nội dung muốn được tập

huấn các kiến thức quản lý và điều hành HTX nông nghiệp

STT Nội dung tập huấn Số phiếu Tỷ lệ %

1 Tập huấn về công nghệ thông tin, chuyên môn

quản lý HTX 100/230 43.4

2 Nghiệp vụ kế toán HTX 67/230 29

3 Luật HTX 98/230 42.5

4 Quản trị kinh doanh, marketting 198/230 86

5 Kỹ năng tổ chức và điều hành công tác sản

xuất nông nghiệp 167/230 72.5

6 Tiếp cận cơ chế thị trường trong lĩnh vực quản

lý, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp 220/230 95.4

7 Cách thức tổ chức, quản lý và cách sử dụng

máy móc phục vụ cho sản xuất 206/230 89.8

8 Quản lý kinh doanh, Hoạch toán kinh tế 116/230 50.6

9 Quản lý nguồn nhân lực 71/230 31

Tập huấn và chuyển giao khoa học kỹ thuật

10 sản xuất 223/230 97.2

11 Xây dựng hợp đồng KT 215/230 93.4

12 Chính sách liên kết giữa doanh nghiệp - HTX

- nông dân 168/230 73

Nhận xét: Những nội dung muốn được tập huấn của các đơn vị kinh tế

hợp tác trong nông nghiệp qua số liệu trên như sau:

185

+ Tập huấn về công nghệ thông tin, chuyên môn quản lý HTX, chiếm

43.4% các ý kiến được hỏi.

+ Tập huấn nghiệp vụ kế toán HTX, chiếm 29% các ý kiến được hỏi.

+ Tập huấn Luật HTX, chiếm 42.5% các ý kiến được hỏi.

+ Tập huấn Quản trị kinh doanh, marketting, chiếm 86% các ý kiến

được hỏi.

+ Tập huấn Kỹ năng tổ chức và điều hành công tác sản xuất nông

nghiệp, chiếm 72.5% các ý kiến được hỏi.

+ Tập huấn Tiếp cận cơ chế thị trường trong lĩnh vực quản lý, tiêu thụ

sản phẩm nông nghiệp, chiếm 95.4% các ý kiến được hỏi

+ Tập huấn Cách thức tổ chức, quản lý và cách sử dụng máy móc phục

vụ cho sản xuất, chiếm 89.8% các ý kiến được hỏi

+ Tập huấn Quản lý kinh doanh, Hoạch toán kinh tế chiếm 50.6% các ý

kiến được hỏi

+ Tập huấn Quản lý nguồn nhân lực chiếm 31% các ý kiến được hỏi

+ Tập huấn Tập huấn và chuyển giao khoa học kỹ thuật sản xuất, chiếm

97.2% các ý kiến được hỏi

+ Tập huấn Xây dựng hợp đồng KT, chiếm 93.4% các ý kiến được hỏi

+ Tập huấn Chính sách liên kết giữa doanh nghiệp - HTX - nông dân,

chiếm 73% các ý kiến được hỏi

ỏ 17: Ông (bà) đánh giá như thế nào về vai trò quản lý

của chính quyền đối với sự phát triển của hợp tác xã nông nghiệp

1.15. Bảng tổng hợp ý kiến vai trò quản lý của chính quyền đối

với sự phát triển của HTX trong nông nghiệp

Vai trò quản lý của chính quyền đối với sự STT Số phiếu Tỷ lệ % phát triển của HTX trong nông nghiệp

1 178 77.4

2 52 22.6

3 0 0

186

Nhận xét: 77.4% các ý kiến đánh giá sự quản lý của chính quyền đã tạo

thuận lợi cho sự phát triển của HTX trong nông nghiệp; 22.6% các ý kiến

cho rằng sự quản lý của chính quyền chưa tạo thuận lợi cho sự phát triển của

HTX trong nông nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh.

ỏ Các đề xuất khác liên quan đến việc phát triển của

HTX

1.16. Bảng tổng hợp ý kiến đề xuất liên quan đến việc phát triển

của kinh tế hợp tác trong nông nghiệp

Số Tỷ STT phiếu lệ %

1 - Hỗ trợ nguồn vốn, cây trồng, phân bón 220/230 95.7

2 - Hỗ trợ kinh phí cho nông dân đầu tư vào sản

167/230 72.8 xuất nông nghiệp

45 3 - Hỗ trợ tiếp cận công nghệ - khoa học - kỹ thuật 103/230

63 145/230 4 - Hỗ trợ bao tiêu sản phẩm

5 - Tạo điều kiện cho cán bộ HTX: tiền công, tiền

lương, bảo hiểm 90/230 39

6 - Nhà nước hỗ trợ tiền lương, phụ cấp những năm

đầu chuyển đổi HTX 98/230 42.6

7 - Khuyến nông tỉnh nên có trang tin giá nông sản

thị trường trong và ngoài tỉnh 196/230 85.3

- Chuyển giao khoa học kỹ thuật, khuyến nông,

8 khuyến ngư 140/230 61

9 - Tăng cường các liên kết kinh tế 35/230 15

10 - Tăng địa vị pháp lý, pháp nhân 62/230 26.8

11 - Quy hoạch đất để chăn nuôi, trồng trọt 121/230 52.5

12 - Thuê đất lâu dài 181/230 78.7

13 - Cần có chế tài kiểm soát giá thuốc thú y 138/230 60.3

Nhận xét: Những ý kiến đề xuất liên quan đến việc phát triển của kinh

tế hợp tác trong nông nghiệp qua số liệu trên như sau:

187

- Có 95.7% ý kiến đề xuất hỗ trợ nguồn vốn, cây trồng, phân bón cho

kinh tế hợp tác phát triển

- Có 72.8% ý kiến đề xuất hỗ trợ kinh phí cho nông dân đầu tư vào sản

xuất nông nghiệp.

- Có 45% ý kiến đề xuất hỗ trợ tiếp cận công nghệ - khoa học - kỹ

thuật, chiếm 45%

- Có 63% ý kiến đề xuất hỗ trợ bao tiêu sản phẩm cho các loại hình

kinh tế hợp tác trong nông nghiệp phát triển.

- Có 39% ý kiến đề xuất tạo điều kiện cho cán bộ HTX: tiền công, tiền

lương, bảo hiểm…

- Có 42.6% ý kiến đề xuất đề nghị Nhà nước hỗ trợ tiền lương, phụ cấp

những năm đầu chuyển đổi HTX

- Có 85.3% ý kiến đề xuất với khuyến nông tỉnh nên có trang tin giá

nông sản thị trường trong và ngoài tỉnh

- Có 61% ý kiến đề xuất chuyển giao khoa học kỹ thuật, khuyến nông,

khuyến ngư

- Có 15% ý kiến đề xuất cần tăng cường các liên kết kinh tế

- Có 26.8% ý kiến đề xuất tăng địa vị pháp lý, pháp nhân

- Có 52.5% ý kiến đề xuất quy hoạch đất để chăn nuôi, trồng trọt

- Có 78.7% ý kiến đề xuất cho thuê đất lâu dài

- Có 60.3% ý kiến đề xuất cần có chế tài kiểm soát giá thuốc thú y

2. Đối với mẫu phiếu số 2

Số phiếu phát ra: 405 phiếu; số phiếu thu vào là 405 phiếu tại 81 xã của

các huyện, bao gồm: Nga Sơn, Hoằng Hóa, Tĩnh Gia; Thọ Xuân, Yên Định, Triệu

Sơn; Thạch Thành, Ngọc Lặc, Cẩm Thủy.

Kết quả được biểu hiện ở bảng sau:

- Về Dân tộc: Kết quả 405 phiếu thu vào của đại diện cấp ủy cấp xã, đại

diện UBND cấp xã, đại diện UBMTTQ cấp xã, trưởng các đoàn thể nhân dân

cơ sở

-Về giới tính: Nam chiếm 81% và Nữ chiếm 19%

188

- Về độ tuổ ổi chiếm 2,2%; từ 30 -40 tuổi chiếm 24,2%; từ

40 – 50 chiếm trên 37%; từ 50 tuổi trở lên chiếm 36,6%.

ố lượng cán bộ tham gia khảo sát là người dân tộc Kinh -

chiếm 86%; dân tộ ờng; Dao; Thổ) chiếm 14%.

- Về tôn giáo: Số cán bộ ếm 6.7% và không theo

một tôn giáo nào chiếm 93.3%

- Về trình độ chuyên môn: Số lượng có trình độ trên Đại học chiếm

3%; Đại học chiếm 58%; Cao đẳng chiếm 24%; Trung cấp chiếm 15%.

-

- Về trình độ Lý luận chính trị:

Trung cấp lí luận chính trị chiếm 88,2%

-

Ở câu hỏi số 2: Đồng chí đánh giá như thế nào về sự phát triển của hợp

tác xã nông nghiệp từ năm 2010 đến nay ở địa phương đồng chí?

Bảng tổng hợ

STT xã Số phiếu Tỷ lệ %

1 Phát triển nhanh 107/405 26.4

2 Có phát triển nhưng chậm 264/405 65.2

3 Không phát triển 34/405 8.4

189

Ở câu hỏi số 3: Xin đồng chí cho biết ở địa phương đồng chí nghề sản

xuất kinh doanh nào có hiệu quả nhất hiện nay

2.2. Bảng tổng hợp nghề sản xuất kinh doanh có hiệu quả nhất

hiện nay

Nghề sản xuất kinh doanh nào có hiệu quả

Tỷ lệ

TT

Số phiếu

nhất

(%)

153/405 37.8 1

37/405 9.1 2

17/405 4.2 3

78/405 19.2 3

16/405 4 4

101/405 24.9 5

3/405 0.8 6

nghề sản xuất Qu

kinh doanh nào có hiệu quả nhất hiện nay

Ở câu hỏi số 4: Xin đồng chí cho biết sự tác động của loại hình hợp

tác xã đến sự phát triển kinh tế tư nhân, kinh tế nhà nước ở địa phương

đồng chí trong năm vừa qua như thế nào

Bảng tổng hợp sự tác động của các loại hình kinh tế hợp tác

đến sự phát triển kinh tế tư nhân, kinh tế nhà nước ở địa phương

STT Sự tác động Số phiếu Tỷ lệ %

1 Tác động tích cực 169/405 41.7

2 Có tác động nhưng chậm 226/405 55.8

3 Không 7/405 1.8

4 Tác động tiêu cực 3/405 0.7

190

Ở câu hỏi số 5: Xin đồng chí cho biết sự tác động của kinh tế tư nhân,

kinh tế nhà nước đến sự phát triển loại hình hợp tác xã nông nghiệp ở địa

phương đồng chí trong năm vừa qua như thế nào

Bảng tổng hợp sự tác động của kinh tế tư nhân, kinh tế nhà

nước đến sự phát triển loại hình hợp tác xã nông nghiệp ở địa phương

Số phiếu Tỷ lệ % STT Sự tác động

Tác động tích cực 159/405 39.3 1

2 Có tác động nhưng chậm 235/405 58

3 Không 9/405 2.2

4 Tác động tiêu cực 2/405 0.5

như sau:

39.3%);

191

.

ỏ Đồng chí đánh giá như thế nào về mức độ ô nhiễm

môi trường sinh thái ở địa phương do phát triển kinh tế gây ra hiện nay.

Bảng tổng hợp mức độ ô nhiễm môi trường sinh thái ở địa

phương do phát triển kinh tế gây ra hiện nay

STT Mức độ ô nhiễm môi trƣờng sinh thái ở địa Số phiếu Tỷ lệ %

phƣơng do phát triển kinh tế gây ra

39/405 9.6 1 Ô nhiễm nghiêm trọng

270/405 66.7 2 Có ô nhiễm nhưng chưa nghiêm trọng

96/405 23.7 3 Chưa bị ô nhiễm

66.7%);

ỏ 7: Đồng chí đánh giá như thế nào về hiệu quả hoạt

động của hợp tác xã nông nghiệp ở địa phương đồng chí

192

Bảng tổng hợ hoạt động của kinh tế hợp

tác trong nông nghiệp ở địa phương

Hiệu quả hoạt động của kinh tế hợp tác Tỷ lệ STT Số phiếu trong nông nghiệp ở địa phƣơng %

1 Hiệu quả cao 119/405 29.4

2 Có hiệu quả nhưng không cao 263/405 65

3 Không có hiệu quả 23/405 5.6

,

âu hỏi 8: Theo đồng chí cần giải pháp nào để hỗ trợ hợp tác xã

nghiệp phát triển trong thời gian tới

Bảng tổng hợ

STT Số phiếu Tỷ lệ

%

1 235/405 58

2 24/405 5.9

3 18/405 4.4

4 76/405 18.8

5 32/405 7.9

6 8/405 2

7 12/405 3

193

âu hỏi 9: Đồng chí đánh giá như thế nào về xu hướng phát

triển của loại hình hợp tác xã nông nghiệp trong những năm tới ở địa

phương đồng chí

Bảng tổng hợp xu hướng phát triển của loại hình hợp tác xã

nông nghiệp trong những năm tới ở địa phương

STT Xu hƣớng phát triển Số phiếu Tỷ lệ

%

1 Phát triển tốt 173/405 42.7

2 Có phát triển nhưng chậm 208/405 51.3

3 24 6

âu hỏi 10: Đồng chí có kiến nghị, đề xuất gì về đổi mới cơ chế

chính sách đối với hợp tác xã nông nghiệp ở địa phương

như sau:

-

-

-

-

-

HTX, cán bộ, thành viên hợp tác xã.

-

-

194

-

-

- ền, phổ biến pháp luật về hợp tác xã;

- Tư vấn, hỗ trợ thành lập mới hợp tác xã và xây dựng các mô hình

kinh tế tập thể, hợ

- Tăng cường vai trò, trách nhiệm của hệ thống liên minh HTX, MTTQ,

các đoàn thể, hiệp hội trong phát triển kinh tế tập thể

III. ĐÁNH GIÁ CHUNG

tạo công ăn

việc làm, tăng thu nhập cho lao động nông thôn; hoạt động của các loại hình

hợp tác xã nông nghiệp bước đầu đã có chuyển biến tích cực, đáp ứng tốt hơn

nhu cầu của nông dân; thông qua các loại hình kinh tế hợp tác trong nông

nghiệp, các vấn đề thị trường được giải quyết tốt hơn và mang hiệu quả cao.

Trong quá trình hoạt động của kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, đặc biệt là

các HTX được các cấp ủy Đảng và Chính quyền quan tâm, tạo điều kiện.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong quá trình hoạt động của

kinh tế hợp tác trong nông nghiệp còn những tồn tại, hạn chế nhất định, như:

nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên, người dân về vai trò và tầm

quan trọng của loại hình kinh tế này trong nền sản xuất nông nghiệp hàng hóa

chưa đầy đủ, chưa xem tổ hợp tác, HTX như đòn bẩy thúc đẩy kinh tế hộ

nông dân và là đối tác hợp tác hiệu quả của doanh nghiệp khi đầu tư, sản xuất,

kinh doanh trong lĩnh vực n

thường xuyên. Trong khi đó, trình độ và năng lực quản lý của cán bộ tổ hợp

tác, HTX hạn chế; quy mô sản xuất manh mún, nhỏ lẻ; thiếu động lực để tạo

sự liên kết chặt chẽ giữa các thành viên trong HTX và tổ hợp tác để mở rộng

195

quy mô sản xuất, phát triển bền vững. Các hợp tác xã, tổ hợp tác được thành

lập mới, nhưng nhìn chung hoạt động chưa hiệu quả và thiếu bền vững, cho

nên cũng có khoảng bảy đến tám nghìn tổ giải thể, hoặc tạm ngừng hoạt động.

Các HTX còn tồn tại thì phần lớn hoạt động cầm chừng do thiếu vốn, thiếu tài

sản và quản lý kém. Trong hoạt động, tỷ lệ các HTX xếp loại khá chỉ chiếm

từ 10% đến 20%, còn lại là các HTX ở mức trung bình và yếu. Các tổ hợp tác

có quy mô rất nhỏ, phổ biến chỉ từ 10 đến 30 hộ/tổ, hoạt động nhỏ lẻ, chủ yếu

là kinh tế hộ gia đình. Ðể các tổ hợp tác, HTX nông nghiệp hoạt động có hiệu

quả, trước hết các địa phương cần rà soát, đánh giá lại hiện trạng các tổ hợp

tác, HTX và các mô hình liên kết đang hoạt động trên địa bàn để từ đó tổng

kết rút kinh nghiệm, xây dựng mô hình; tham mưu, đề xuất với cơ quan chức

năng các cơ chế, chính sách phù hợp. Tổ chức hướng dẫn và đăng ký lại cho

tất cả các HTX đang hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp chuyển sang hoạt

động theo Luật Hợp tác xã năm 2012. Củng cố, kiện toàn và nâng cao năng

lực quản lý nghiệp vụ, chuyên môn cho đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về

kinh tế hợp tác trong nông nghiệp từ Trung ương đến địa phương. Hoàn thiện

cơ bản hệ thống cơ chế, chính sách hỗ trợ, thúc đẩy phát triển các hợp tác xã

trong lĩnh vực nông nghiệp.

196