BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP.HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN ANH VŨ
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HỆ SỐ P/E VÀ ỨNG DỤNG
HỆ SỐ P/E TRONG PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH GIÁ SO SÁNH TRÊN
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Người hướng dẫn khoa học: PGS TS. Đoàn Thanh Hà
TP. HỒ CHÍNH MINH – THÁNG 12 NĂM 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP.HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN ANH VŨ
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HỆ SỐ P/E VÀ ỨNG DỤNG
HỆ SỐ P/E TRONG PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH GIÁ SO SÁNH TRÊN
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Chuyên ngành: Tài chính Ngân hàng
Mã ngành: 9340201
Người hướng dẫn khoa học: PGS TS. Đoàn Thanh Hà
TP. HỒ CHÍNH MINH – THÁNG 12 NĂM 2022
LỜI CAM ĐOAN
Luận án này chưa từng được trình nộp để lấy học vị tiến sĩ tại bất cứ một
cơ sở đào tạo nào. Luận án này là công trình nghiên cứu của riêng tác giả, kết quả
nghiên cứu là trung thực, trong đó không có các nội dung đã được công bố trước
đây hoặc các nội dung do người khác thực hiện ngoại trừ các trích dẫn được dẫn nguồn
đầy đủ trong luận án.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 05 tháng 12 năm 2022
Tác giả
Nguyễn Anh Vũ
LỜI CẢM ƠN
Lời cảm ơn đầu tiên, tôi muốn dành cho PGS TS. Đoàn Thanh Hà, người hướng dẫn
khoa học đã tận tình hướng dẫn, hỗ trợ và luôn động viên, nhắc nhở để tôi có thể hoàn thành
luận án này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các Thầy/Cô giảng dạy các học phần trong chương
trình tiến sĩ đã tận tình trang bị cho tôi nhiều kiến thức mới, các Thầy/Cô đã cho tôi nhiều
góp ý qúy báu tại các Hội đồng, các Thầy/Cô của Khoa Sau Đại học đã tạo điều kiện thuận
lợi cho tôi trong thời gian làm nghiên cứu sinh tại trường.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, người thân, và các đồng nghiệp đã
động viên, hỗ trợ và tạo điều kiện cho tôi có thể hoàn thành luận án này.
Tác giả
Nguyễn Anh Vũ
MỤC LỤC
TÓM TẮT ............................................................................................................................ i
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT .................................................................................. iv
DANH MỤC CÁC HÌNH ................................................................................................ vii
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN LUẬN ÁN ......................................................................... 1
1.1. Lý do chọn đề tài nghiên cứu ..................................................................................... 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu .................................................................................................... 9
1.2.1. Mục tiêu tổng quát ............................................................................................. 9
1.2.2. Mục tiêu cụ thể .................................................................................................. 9
1.3. Câu hỏi nghiên cứu ..................................................................................................... 9
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................. 9
1.4.1. Đối tượng nghiên cứu: ...................................................................................... 9
1.4.2. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................ 10
1.5. Tổng quan phương pháp nghiên cứu: ..................................................................... 11
1.6. Đóng góp và điểm mới của luận án ......................................................................... 13
1.6.1. Những đóng góp của luận án: ............................................................................... 13
1.6.2. Những điểm mới của luận án: ........................................................................ 14
1.7. Kết cấu của luận án................................................................................................... 17
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ................................................................................................ 20
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ............ 21
2.1. Các vấn đề chung về định giá cổ phiếu ............................................................... 21
2.1.1. Đầu tư giá trị và các lý thuyết về đầu tư ......................................................... 21
2.1.2. Các khái niệm về cổ phiếu và giá cổ phiếu: ................................................ 25
2.1.3. Các quan điểm về định giá và sử dụng kết quả định giá: ........................... 28
2.1.4. Các hướng tiếp cận trong định giá cổ phần ................................................... 30
2.2. Các phương pháp định giá cổ phần ........................................................................ 31
2.2.1. Mô hình định giá dựa trên tài sản (Asset - Based Valuation Models) .......... 33
2.2.2. Mô hình chiết khấu dòng tiền (Discounted Cash Flow Models) ............... 34
2.2.3. Mô hình định giá thu nhập thặng dư (Residual Income Valuation Model)40
2.2.4. Mô hình định giá so sánh............................................................................. 41
2.3. Hệ số P/E và mô hình định giá so sánh theo hệ số P/E .......................................... 48
2.3.1. Hệ số P/E ......................................................................................................... 48
2.3.2. Mô hình định giá so sánh theo hệ số P/E ...................................................... 52
2.3.2.1. Những ưu điểm của mô hình định giá so sánh theo hệ số P/E: ................... 52 2.3.2.2. Những hạn chế của mô hình định giá so sánh theo hệ số P/E: ................... 53
2.4. Cơ sở lý thuyết về các nhân tố ảnh hưởng đến P/E ......................................... 56
2.5. Các nghiên cứu thực nghiệm về tác nhân tố tác động đến hệ số P/E và các
nghiên cứu liên quan ........................................................................................................ 68
2.5.1. Các nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố tác động đến hệ số P/E .......... 69
2.5.2.1. Các nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố tác động đến giá cổ phiếu ....... 77
2.5.2.2 Các nghiên cứu đánh giá hiệu quả chiến lược đầu tư theo hệ số P/E: ........... 80
2.6. Các nghiên cứu thực nghiệm về tình hình sử dụng và mức độ chính xác của các
mô hình định giá............................................................................................................... 83
2.6.1. Các nghiên cứu thực nghiệm về tình hình sử dụng các mô hình định giá .. 83
2.6.2. Các nghiên cứu đo lường mức độ chính xác của của các mô hình định giá87
2.6.2.1. Hướng nghiên cứu định giá lại cổ phiếu theo dữ liệu thực tế...................... 88 2.6.2.2. Hướng nghiên cứu phân tích nội dung (Content Analysis) ......................... 90
2.7. Khoảng trống nghiên cứu: ....................................................................................... 95
2.7.1. Khoảng trống về lý thuyết: .............................................................................. 95
2.7.2. Khoảng trống về thực nghiệm tại thị trường Việt Nam ................................. 98
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .............................................................................................. 101
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ......................................................... 102
3.1. Quy trình nghiên cứu .............................................................................................. 102
3.2. Các giả thuyết nghiên cứu : ............................................................................. 104 3.2.1. Giả thuyết nghiên cứu về các nhân tố tác động đến hệ số P/E: .................... 104 3.2.2. Các giả thuyết về tình hình sử dụng và mức độ chính xác của các mô hình định giá ................................................................................................................... 112
3.3. Phương pháp nghiên cứu: ...................................................................................... 117
3.3.1. Phương pháp nghiên cứu các nhân tố tác động đến hệ số P/E tại thị trường chứng khoán Việt Nam ........................................................................................... 117
3.3.1.1. Mô hình nghiên cứu đề xuất ...................................................................... 117 3.3.1.2. Phương pháp phân tích dữ liệu: ................................................................. 130
3.3.2. Phương pháp nghiên cứu tình hình sử dụng và mức độ chính xác của các mô hình định giá: .......................................................................................................... 133
3.4. Dữ liệu và mẫu nghiên cứu: ................................................................................... 137
3.4.1. Dữ liệu nghiên cứu các nhân tố tác động đến hệ số P/E ............................ 137
3.4.2. Mẫu nghiên cứu về tình hình sử dụng và mức độ chính xác của các mô hình định giá. ................................................................................................................... 138
3.4.3. Dữ liệu về giá chứng khoán .......................................................................... 139
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 .............................................................................................. 141
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN .................................... 142
4.1. Kết quả nghiên cứu các nhân tố tác động đến hệ số P/E ...................................... 142
4.1.1. Thống kê mô tả ............................................................................................. 142
4.1.2 So sánh hệ số P/E theo các ngành ................................................................. 144
4.1.3 Phân tích tương quan và kiểm định đa cộng tuyến ...................................... 146
4.1.4. Phân tích hồi quy các yếu tố tác động đến P/E ............................................ 148
4.1.4.1. Phân tích hồi quy bằng mô hình Bình phương nhỏ nhất (Ordinary Least Square – OLS). ....................................................................................................... 148 4.1.4.2. Phân tích hồi quy với mô hình các yếu tố tác động cố định (FEM), mô hình các yếu tố tác động ngẫu nhiên (REM) .................................................................. 150 4.1.4.3. Phân tích hồi quy với mô hình mô hình hồi quy Bình phương tối thiểu tổng quát (GLS) .............................................................................................................. 153
4.1.5. Thảo luận kết quả nghiên cứu các nhân tố tác động đến hệ số P/E ......... 155
4.2. Kết quả nghiên cứu về tình trạng sử dụng và mức độ chính xác của các mô hình
định giá: .......................................................................................................................... 160
4.2.1. Kết quả nghiên cứu về tình trạng sử dụng của các mô hình định giá: ... 160
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ mẫu nghiên cứu ............................................................... 164
4.2.2. Kết quả đo lường mức độ chính xác của các mô hình định giá: ............. 169
4.2.3. Thảo luận kết quả nghiên cứu về tình hình sử dụng và mức độ chính xác của các mô hình định giá: .............................................................................................. 176
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ CÁC KHUYẾN NGHỊ .............................................. 183
5.1. Kết luận: ................................................................................................................. 183
5.2. Một số gợi ý và khuyến nghị ................................................................................... 186
5.2.1. Các gợi ý đối với các nhà phân tích, nhà đầu tư: ................................................ 186
5.2.1.1. Lựa chọn mô hình định giá phù hợp: ............................................................... 186
5.2.1.2. Sử dụng hệ số P/E trong phân tích và mô hình định giá so sánh theo hệ số P/E ....................................................................................................................... 188
5.2.2. Các khuyến nghị đối với các cơ quan quản lý và công ty đại chúng ............... 193
5.3. Hạn chế của luận án và các hướng nghiên cứu tiếp theo: ................................... 196
KẾT LUẬN CHƯƠNG 5 .............................................................................................. 198
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................... 199
PHỤ LỤC ........................................................................................................................ 208
BẢNG TỔNG HỢP DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ 233
TÓM TẮT
Nội dung chính của luận án là tiến hành nghiên cứu về các nhân tố tác động đến hệ số
P/E; đánh giá thực trạng sử dụng và đo lường mức độ chính xác của các mô hình định giá,
trong đó có mô hình định giá so sánh sử dụng hệ số P/E trên thị trường chứng khoán Việt
Nam.
Dựa trên dữ liệu tài chính và giá cổ phiếu của 406 công ty niêm yết trên Sở Giao dịch
Chứng Khoán TP. Hồ Chí Minh và Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội trong giai đoạn 2010
– 2020, tác giá đã tiến hành phân tích hồi quy đa biến theo phương pháp Bình phương tối
thiểu tổng quát (GLS) nhằm kiểm định các nhân tố tác động đến hệ số P/E trên thị trường
chứng khoán Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy có 09 biến tác động có ý nghĩa thống
kê trong mô hình là: Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE), Giá trị sổ sách trên 01 cổ
phần (BVPS), Quy mô công ty (SIZE), hệ số BETA, Mức độ biến động giá (SD), Tỷ lệ chi
trả cổ tức bằng tiền mặt (POR), Đòn bẩy tài chính (DA), Chất lượng quản trị công ty (CG),
Lãi suất cho vay (LIR). Trong đó SIZE, POR và CG có tác động cùng chiều, các biến còn
lại có tác động ngược chiều. Tốc độ tăng trưởng lợi nhuận (EG) có hệ số hồi quy dương đối
với P/E tuy nhiên không có ý nghĩa thống kê trong mô hình. Riêng yếu tố tác động của ngành
đối với hệ số P/E được nghiên cứu thông qua thống kê mô tả và kiểm định ANOVA, kết quả
nghiên cứu cho thấy chỉ có P/E của ngành tài chính có khác biệt có ý nghĩa thống kê với tất
cả các ngành còn lại.
Luận án cũng sử dụng phương pháp phân tích nội dung (Content analysis), xem xét
mẫu nghiên cứu bao gồm 160 báo cáo phân tích công ty được các công ty chứng khoán thực
hiện và công bố trên thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2010 – 2020 để đánh giá
tình hình sử dụng các mô hình định giá; đo lường mức độ chính xác của các mô hình định
giá bằng 02 thước đo Tỷ lệ chính xác của giá mục tiêu (Target price accuracy) và Sai số dự
báo (Forecast error). Kết quả nghiên cứu cho những kết luận đáng lưu ý về tình hình sử
dụng, mức độ chính xác của các mô hình định giá nói chung và mô hình định giá so sánh sử
dụng hệ số P/E nói riêng trên TTCK Việt Nam.
Kết hợp kết quả nghiên cứu từ 02 hướng nghiên cứu trên, NCS đưa ra các gợi ý,
khuyến nghị cho các nhà đầu tư, nhà phân tích về việc lựa chọn và sử dụng các mô hình
i
định giá, sử dụng hệ số P/E trong công tác định giá cổ phần và ra quyết định đầu tư tại thị
trường chứng khoán Việt Nam; các gợi ý đối với các cơ quan quản lý, doanh nghiệp nhằm
ii
nâng cao hiệu quả của công tác định giá, gia tăng giá trị doanh nghiệp một cách bền vững.
ABSTRACT
The main content of the thesis is investigating the determinants on P/E ratio and
examining the use and the valuation accuracy of equity valuation models on Vietnam Stock
Market.
Using financial data and stock price of 406 listed companies in Ho Chi Minh Stock
Exchange and Ha Noi Stock Exchange over the 2010 – 2020 period, the author conduct the
multivariate regression analysis by Generalized Least Squared model to investigate the
determinants of P/E ratio on Vietnam Stock Market. This study found 09 significant
variables in the regression models, including: Company size (measured by market
capitalization), Dividend payout ratio (POR), Financial leverage (DA), Return on equity
(ROE), Book value per share (BVPS), BETA ratio, Price Volatility (SD), Corporate
governance quality (CG), Lending rate (LIR). In which, SIZE, POR and CG affect positively
while all the remain have negative influence. ANOVA test is used to confirm the impact of
industry factor to P/E ratio, the result reveal that, the P/E ratio of financial sector are
significant different to others.
The thesis also use content analysis method with the sample of 160 equity analysis
reports issued buy securities companies in Vietnam stock market from 2010 to 2020 to
examine the use of valuation models and measure the valuation accuracy. This research
approach came to several noticeable findings regarding the use and the accuracy of valuation
models in general and P/E valuation in particular in Vietnam stock market.
The result from two different research approach is used to be the justification for the
suggestions and recommendation for the investors, analyst regarding the choosing and using
valuation model, using P/E ratio in equity valuation and investment decision making in
Vietnam stock market; the implication to administration agency, listed company for
iii
enhancing the equity valuation practice and increasing company value sustainably.
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Ký hiệu Giải thích
BVPS Book value per share – Giá trị sổ sách trên 1 cổ phiếu phổ thông
CAPM Capital Asset Pricing Model – Mô hình định giá tài sản vốn
CFO CashFlow from Operation
EBIT Lợi nhuận trước thuế và lãi vay
EBTIDA Lợi nhuận trước thuế, lãi vay, khấu hao và chi phí trả trước
EPS Earnings per share, thu nhập trên một cổ phiếu
FEM Fix Effects Model, Mô hình ảnh hưởng cố định
EV Enterprise Value, Giá trị công ty
GDP Gross Domestic Product, Tổng sản phẩm quốc nội
Growth
Tốc độ tăng trưởng của EPS hoặc lợi nhuận sau thuế Generalized least squares, Mô hình Bình phương tối thiểu tổng quát GLS
HOSE Sở Giao dịch chứng khoán TPHCM
HNX Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội
IPO Phát hành cổ phiếu ra công chúng lần đầu
NAV Mô hình định giá theo giá trị tài sản ròng, Net asset value
P/B Price/Book Value, giá thị trường chia cho giá trị sổ sách
P/CF Price/Cash Flow, giá thị trường chia cho dòng tiền của công ty
P/D Price/Dividen, giá thị trường chia cho cổ tức của công ty
P/E Price/Earnings per share, giá thị trường chia cho thu nhập trên cổ phiếu
PEG (P/E)/Growth, hệ số P/E chia cho tốc độ tăng trưởng của công ty
Pooled OLS Pooled Ordinary Least Squares, mô hình hồi quy bình phương nhỏ nhất gộp
REM Random Effects Model, mô hình tác động ngẫu nhiên
RIV Mô hình định giá theo thu nhập thặng dư, Residual Income Valuation Model
ROA Return on Asset, Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản
ROE Return on Equity, Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu
SGDCK Sở giao dịch chứng khoán
TPHCM Thành phố Hồ Chí Minh
iv
TTCK Thị trường chứng khoán
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 2.1: Tóm tắt các mô hình định giá .......................................................................... 48
Bảng 3.1 Tóm tắt các giả thuyết nghiên cứu .................................................................... 111
Bảng 3.2 Xác định các biến trong mô hình ..................................................................... 129
Bảng 3.3. Danh sách các công ty chứng khoán thực hiện và công bố báo cáo phân tích
trong mẫu nghiên cứu ....................................................................................................... 139
Bảng 4.1: Thống kê mô tả các biến .................................................................................. 142
Bảng 4.2 Mô tả P/E theo ngành ....................................................................................... 144
Bảng 4.3 Kiểm định sự khác biệt của P/E theo ngành ..................................................... 145
Bảng 4.4 Ma trận hệ số tương quan.................................................................................. 146
Bảng 4.5 Kiểm định đa cộng tuyến …………………………………………………….147
Bảng 4.6: Kết quả hồi quy theo mô hình OLS ................................................................. 148
Bảng 4.7 Kiểm định mối quan hệ của các biến độc lập với phần dư của mô hình đo lường
(Ui) .................................................................................................................................... 149
Bảng 4.8 Kiểm định Breusch-Pagan với mô hình OLS…………………………… …..150
Bảng 4.9 Kết quả phân tích với mô hình REM và FEM .................................................. 151
Bảng 4.10 Kết quả kiểm định Hausman ……………………………………………… 152
Bảng 4.11 Kết quả kiểm định Wooldridge – Test với mô hình FEM …………………152
Bảng 4.12 Kết quả kiểm định Breusch and Pagan với mô hình FEM…………………153
Bảng 4.13 Kết quả hồi quy Mô hình hồi quy Bình phương tối thiểu tổng quát
(GLS)……………………………………………………………………………………154
Bảng 4.14 Kiểm tra tính vững của mô hình GLS………………………………… 154
Bảng 4.15 Số lần các mô hình định giá được sử dụng tại các báo cáo phân tích ............ 161
Bảng 4.16 Số lần các mô hình định giá được sử dụng là mô hình định giá chủ đạo trong các
báo cáo phân tích công ty.................................................................................................. 164
v
Bảng 4.17. Thống kê sự kết hợp giữa các mô hình định giá ............................................ 166
Bảng 4.18 Phương pháp xác định bội số tham chiếu khi sử dụng mô hình định giá so sánh
bằng hệ số P/E ................................................................................................................... 169
Bảng 4.19 Khuyến nghị tại các báo cáo phân tích ........................................................... 170
Bảng 4.20 Đo lường mức độ chính xác của các mô hình định giá ................................... 171
Bảng 4.21 Thống kê mức độ chính xác của các báo cáo sử dụng thuần túy mô hình DCF,
P/E và kết hợp 02 mô hình DCF – P/E ............................................................................. 171
Bảng 4.22 Thống kê các nghiên cứu về tỷ lệ chính xác của giá mục tiêu (Target price
accuracy) tại các nghiên cứu nước ngoài .......................................................................... 174
Bảng 4.23 Thống kê các nghiên cứu về sai số định giá (Valuation Error) tại các nghiên
vi
cứu nước ngoài .................................................................................................................. 176
DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 2.1: Các hướng tiếp cận trong định giá cổ phần và các mô hình định giá ............. 33
Hình 2.2: Các giai đoạn trong mô hình chiết khấu dòng tiền ........................................... 38
Hình 2.3: Cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ của NHTW Anh (Bank of England) …..67
vii
Hình 3.1: Quy trình nghiên cứu ....................................................................................... 102
DANH MỤC CÔNG THỨC
Công thức 2.1 Công thức tính giá trị sổ sách trên 1 cổ phần phổ thông ........................ 26
Công thức 2.2 Công thức Tổng quan về mô hình chiết khấu dòng tiền .......................... 34
Công thức 2.3 Công thức tính Lợi nhuận thặng dư (Residual Income) .......................... 39
Công thức 2.4 Công thức mô hình định giá thu nhập thặng dư (RIV) ............................ 40
Công thức 2.5 Công thức tính giá trị cổ phiếu của công ty mục tiêu trong mô hình định
giá so sánh sử dụng bội số giá cổ phiếu (Price Multiple) ................................................. 44
Công thức 2.6 Công thức tính giá trị cổ phiếu của công ty mục tiêu trong mô hình định giá
so sánh sử dụng bội số giá trị toàn bộ doanh nghiệp (Enterprise Multiple) .................... 44
Công thức 2.7 Công thức tính hệ số P/E......................................................................... 48
Công thức 2.8 Công thức tính EPS cơ bản .................................................................... 49
Công thức 2.9 Công thức liên hệ giữa mô hình tăng trưởng đều và hệ số P/E …………57
Công thức 2.10a Công thức các yếu tố liên hệ với P/E (dự phóng) .............................. 58
Công thức 2.10b Công thức các yếu tố liên hệ với P/E (quá khứ) ................................. 58
Công thức 2.11a Công thức đường thị trường vốn (CML) ............................................ 59
Công thức 2.11b Công thức Mô hình định giá tài sản vốn (CAPM) ............................. 60
Công thức 2.12 Công thức tính tốc độ tăng trưởng lợi nhuận ........................................ 61
Công thức 2.13 Công thức mối liên hệ giữa ROE và P/E .............................................. 62
Công thức 2.14 Công thức đo lường mức độ chính xác của kết quả định giá theo Kerl
(2011) ................................................................................................................................ 93
Công thức 2.15 Công thức đo lường mức độ chính xác của kết quả định giá theo Sayed
(2017) ................................................................................................................................ 94
Công thức 3.1. Mô hình nghiên cứu các nhân tố tác động đến hệ số P/E ....................... 117
Công thức 3.2. Công thức đo lường độ chính xác của kết quả định giá theo thước đo sai số
viii
dự báo ................................................................................................................................ 137
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN LUẬN ÁN
1.1. Lý do chọn đề tài nghiên cứu
Trong quy trình đầu tư, phân tích và đánh giá các cơ hội đầu tư là một công
đoạn rất quan trọng, giúp các nhà đầu tư ra quyết định đầu tư hiệu quả, gia tăng lợi
nhuận và giảm thiểu rủi ro. Các phương pháp phân tích đầu tư được áp dụng cũng rất
đa dạng được dựa nên các lý thuyết nền tảng khác nhau. Trong dòng chảy của lý
thuyết đầu tư, có lẽ đầu tư giá trị là quan điểm đầu tư ra đời sớm nhất, lý thuyết đầu
tư được các nhà đầu tư tư tổ chức và cá nhân sử dụng phổ biến nhất, có ảnh hưởng
lâu dài và bền vững nhất trên thị trường chứng khoán. Quan điểm đầu tư giá trị cũng
là cơ sở chủ yếu để xây dựng và thiết kế quy trình đầu tư của các nhà đầu tư tổ chức
và chuyên nghiệp.
Trong quan điểm đầu tư giá trị nói chung và phân tích cơ bản nói riêng, định
giá (Valuation) đóng vai trò rất quan trọng. Một công ty tốt không đồng nghĩa với cổ
phiếu tốt, bởi điều quan trọng là nhà đầu tư phải mua cổ phiếu với giá nào. Graham
(1949, 1973) cho rằng mỗi cổ phiếu đều có một giá trị nội tại (Intrinsic Value) dựa
vào các yếu tố bên trong và bên ngoài công ty; và có thể xác định được bằng các
phương pháp định giá. Trong dài hạn, giá thị trường của cổ phiếu sẽ dao động quanh
và tiệm cận với giá trị nội tại. Do vậy, định giá cổ phiếu, hay xác định giá trị nội tại
rồi so sánh với giá thị trường, là cơ sở rất quan trọng của việc ra các quyết định đầu
tư. Bradshaw (2002) cho rằng phần lớn các báo cáo phân tích của các nhà đầu tư tổ
chức sử dụng giá mục tiêu (target price) được xác định bởi các mô hình định giá làm
cơ sở đưa ra khuyến nghị đầu tư.
Trong các phương pháp định giá, định giá so sánh (Comparable Valuation) là
phương pháp được sử dụng phổ biến nhất, đồng thời hệ số giá trên thu nhập (hệ số
P/E) là hệ số được sử dụng phổ biến nhất trong các mô hình định giá so sánh. Hệ số
P/E được giới thiệu lần đầu tiên bởi Graham và Dodd (1934) trong cuốn sách nổi
tiếng Phân tích chứng khoán (Security Analysis). Kể từ đó, chỉ số P/E đã trở thành
1
một trong những chỉ số phân tích được các nhà đầu tư, nhà phân tích sử dụng nhiều
nhất trên thế giới. Theo Block (1999), P/E là hệ số được các nhà đầu tư, nhà phân
tích sử dụng phổ biến nhất và được truyền thông trích dẫn nhiều nhất. Nghiên cứu
của Demirakos và Ctg (2004), Dukes và Ctg (2006), Imam và Ctg 2008), Imam và
Ctg (2013), Pinto và Ctg (2019) cũng cho thấy tần suất xuất hiện của phương pháp
định giá so sánh là vượt trội so với các phương pháp khác kể cả phương pháp chiết
khấu dòng tiền, trong đó bội số thu nhập (P/E) là mô hình định giá so sánh được sử
dụng phổ biến nhất. Theo kết quả khảo sát các nhà đầu tư tổ chức của BofA Merrill
Lynch năm 2012 (BofA Merrill Lynch Institutional Factor Survey 2012), hệ số P/E
là nhân tố được sử dụng nhiều nhất trong tất cả các hệ số cơ bản và kỹ thuật với 81%
nhà đầu tư được khảo sát trả lời khảo sát có sử dụng hệ số này trong việc ra quyết
định đầu tư. Damoradan (2012) cho rằng, trong tất cả các bội số thì P/E là bội số được
sử dụng rộng rãi nhất, đồng thời cũng bị sử dụng sai nhiều nhất.
Trong quy trình định giá so sánh, việc lựa chọn các công ty so sánh để xác định
hệ số P/E tham chiếu đóng vai trò then chốt. Lựa chọn nhóm công ty so sánh theo
ngành, lĩnh vực kinh doanh là một phương pháp được sử dụng phổ biến. Tuy nhiên,
cũng như nhiều bội số khác, hệ số P/E cũng chưa tính đến nhiều nhân tố quan trọng
tác động đến giá trị của cổ phiếu như tiềm năng tăng trường, rủi ro, dòng tiền ... Trên
thực tế có những cổ phiếu luôn duy trì mặt bằng hệ số P/E cao hơn hoặc thấp hơn các
cổ phiếu trong suốt thời gian dài. Một cổ phiếu có P/E cao hơn hoặc thấp hơn P/E của
cổ phiếu khác, cao hoặc thấp hơn hơn mức bình quân của ngành, thị trường là chưa
đủ để kết luận rằng cổ phiếu đang bị định giá cao (overvalued) hay bị định giá thấp
(undervalued). Do đó, việc nghiên cứu các nhân tố tác động đến hệ số P/E có ý nghĩa
quan trọng khi sử dụng hệ số P/E trong phân tích và trong phương pháp định giá so
sánh.
Cơ sở lý thuyết của việc xác định các nhân tố tác động đến hệ số P/E chủ yếu
dựa vào các nguyên lý chung của mô hình định giá chiết khấu dòng tiền, mô hình
tăng trưởng đều Gordon (GGM) và công thức do Beaver và Morse (1978). Đặc biệt
công thức của Beaver và Morse (1978) xác định 03 yếu tố cơ bản tác động đến hệ số
2
P/E bao gồm: Lãi suất chiết khấu, tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ chi trả cổ tức. Trên nền
tảng các nhân tố cơ bản tác động đến hệ số P/E như trên, các nhà nghiên cứu có thể
phân chia thành nhiều nhân tố nhỏ hơn hoặc các nhân tố tác động mang tính trung
gian. Việc xác định các nhân tố tác động cụ thể có thể dựa vào những cơ sở lý thuyết
khác nhau. Ví dụ như, tác động của Hệ số Beta và mức độ biến động giá có thể giải
thích thông qua Lý thuyết thị trường vốn (Capital Market Theory – CMT) do Sharpe
(1964) phát triển, tác động của quy mô công ty đến hệ số P/E có thể được giải thích
thông qua Mô hình Fama – French (FFM) do Fama và French (1993) phát triển. Cơ
sở lý thuyết về các nhân tố tác động đến hệ số P/E chủ yếu được trình bày rải rác
trong các nghiên cứu thực nghiệm.
Có khá nhiều nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố tác động đến hệ số P/E
bao gồm cả nhóm các nhân tố cụ thể của cổ phiếu và các nhóm nhân tố vĩ mô tại các
thị trường phát triển như : Hoa Kỳ, Canada, Nhật Bản, Châu Âu… hay các thị trường
mới nổi như Paskistan, Bangladesh, Indonesia, Jordan, Thổ Nhĩ Kỳ … Các nghiên
cứu của Kisor và Witbeck (1963), Malkiel và Cragg (1970), Cho (1994), các nghiên
cứu trong gian đoạn 1987 – 1991 của Damoradan (2002) chủ yếu nghiên cứu 03 yếu
tố cơ bản tác động đến hệ số P/E bao gồm tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ chi trả cổ tức bằng
tiền mặt và hệ số Beta. Các nghiên cứu này cũng chỉ nghiên cứu các nhân tố tác động
đến hệ số P/E trong một năm cụ thể bằng mô hình hồi quy OLS. Tuy còn giản đơn
về biến nghiên cứu và phương pháp phân tích dữ liệu, nhưng đây là những nghiên
cứu mang tính tiên phong, đặt nền móng cho việc ước lượng các nhân tố tác động
đến hệ số P/E bằng mô hình hồi quy. Nghiên cứu của Afza và Tahir (2012), Arslan
và Ctg (2017), Farah Freihat (2019), Krishnan và Chen (2020)... tiêu biểu cho xu
hướng bổ sung các nhân tố tác động đến hệ số P/E vào mô hình nghiên cứu, đặc biệt
là các chỉ số tài chính; đồng thời sử dụng các mô hình mô hình phân tích phù hợp với
dữ liệu bảng như Pooled OLS, FEM, REM, GMM ...
Tuy nhiên, vẫn còn những khoảng trống đáng kể trong sự hiểu biết về vấn đề
này, tác động của các yếu tố phi tài chính đến hệ số P/E chưa được nghiên cứu. Các
nghiên cứu về tác động của chất lượng quản trị công ty đến giá trị công ty trên thế
giới và tại Việt Nam như nghiên cứu của Gomper và Ctg (2003), Bauer và Ctg (2004),
3
Luo và Salterio (2014), Trần Nhân Phúc (2017) … chủ yếu sử dụng hệ số Tobin’Q
hoặc hệ số P/B là chỉ tiêu đo lường giá trị công ty…Các nghiên cứu này cho thấy,
chất lượng quản trị công ty có thể tác động đến hiệu quả kinh doanh và từ đó tác động
đến giá trị của công ty. Nhưng hầu như vẫn chưa có các nghiên cứu về tác động quả
chất lượng quản trị công ty đến hệ số P/E. Việc tác động đến hệ số P/E có thể chứng
minh, chất lượng quản trị công ty có thể tác động trực tiếp đến giá cổ phiếu trên thị
trường bên cạnh việc tác động đến hiệu quả kinh doanh.
Một số các nhân tố quan trọng khác như: Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu
(ROE), Giá trị số sách trên 1 cổ phần (BVPS), tỷ lệ chi trả cổ tức (POR), đòn bẩy tài
chính (DA) ... còn có nhiều kết quả nghiên cứu thực nghiệm không thống nhất hoặc
không thống nhất với cơ sở lý thuyết. Nghiên cứu của Arslan và Ctg (2017), Dutta và
Ctg (2018) có đề cập đến tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) trong mô hình
nghiên cứu nhưng không có kết luận cụ thể. Nghiên cứu của Antalovski và Cox
(2021) tại thị trưởng Canada trong giai đoạn 2011 – 2018, có kết luận về tác động
của 02 chỉ tiêu sinh lời là tỷ lệ lãi ròng trên doanh thu và tỷ lệ lợi nhuận trên tổng đầu
tư (EBIT/Tổng tài sản) đến hệ số P/E nhưng chưa có kết luận về tác động của ROE,
ROA đến hệ số P/E. Tác động của Tỷ lệ chi trả cổ tức (Payout ratio) đối với hệ số
P/E nói riêng và giá trị công ty nói chung còn là một vấn đề chưa thống nhất cả về cơ
sở lý thuyết và bằng chứng thực nghiệm. Công thức của Beaver và Morse (1978) và
công thức về mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng với tỷ lệ lợi nhuận giữ lại và tỷ
suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) cho những lập luận khác nhau về mối quan
hệ giữa tỷ lệ chi trả cổ tức bằng tiền mặt và hệ số P/E. Các lý thuyết, nghiên cứu của
Miller và Modigliani (1961), Walter (1963), Jensen và Meckling (1976), Jensen
(1986) cũng chưa có sự thống nhất về mối quan hệ giữa chính sách cổ tức và giá trị
của công ty. Dưới góc độ thực nghiệm, các nghiên cứu của Damoradan (2016),
Krishnan và Chen (2020), Afza và Tahir (2012), Freihat (2019) cũng cho các kết quả
trái ngược nhau. Tác động của giá trị sổ sách đến giá trị nội tại của cổ phiếu được thể
hiện qua mô hình định giá thu nhập thặng dư (Residual Income Valuation Model –
RIV) và hướng tiếp cận cận định giá theo tài sản (Asset Approach). Tuy nhiên, tác
động của giá trị sổ sách của cổ phiếu đến hệ số P/E còn chưa được kiểm chứng qua
4
nhiều nghiên cứu thực nghiệm.
Về phương pháp phân tích dữ liệu, các nghiên cứu đã có sự cái tiến khá rõ nét
từ các nghiên cứu chỉ sử dụng dữ liệu trong một năm cụ thể bằng mô hình hồi quy
OLS cho đến các nghiên cứu có chuỗi thời gian dài hơn và sử dụng các mô hình mô
hình phân tích phù hợp với dữ liệu bảng. Nhưng việc xây dựng mô hình nghiên cứu
với đầy đủ và toàn diện các biến nghiên cứu còn khá hạn chế. Các nghiên cứu của
Kisor và Witbeck (1963), Malkiel và Cragg (1970), Cho (1994), các nghiên cứu
trong gian đoạn 1987 – 1991 của Damoradan (2002), Damoradan (2016) chủ yếu
nghiên cứu các yếu tố cơ bản tác động đến hệ số P/E theo công thức của Beaver và
Morse (1978). Các nghiên cứu của Lutfi và Arsitha (2016), Dutta và Ctg (2018),
Arslan và Ctg (2017), Freihat (2019) tiêu biểu cho xu hướng đưa nhiều nhân tố tác
động là các chỉ số tài chính, thông tin tài chính vào mô hình nghiên cứu nhưng lại bỏ
qua các nhân tố đo lường rủi ro quan trọng như Beta và mức độ biến động giá. Nghiên
cứu gần đây của Krishnan và Chen (2020) có đề cập đến Beta và mức độ biến động
giá, quy mô công ty, tỷ lệ chi trả cổ tức bằng tiền mặt nhưng mô hình nghiên cứu lại
thiếu các nhân tố tài chính. Ngoài ra, không có nhiều các nghiên cứu có sự kết hợp
giữa các yếu tố cụ thể của công ty và cổ phiếu với các yếu tố vĩ mô trong mô hình
nghiên cứu.
Trong quy trình định giá nói chung và định giá so sánh nói riêng, việc lựa chọn
các mô hình định giá, cũng như cách thức tiến hành phù hợp có ý nghĩa quan trọng.
Do vậy, mức độ chính xác của các mô hình định giá nói chung, mô hình định giá so
sánh hay mô hình P/E nói riêng là một chủ đề được sự quan tâm rất lớn của các nhà
nghiên cứu. Điều này cung cấp cơ sở thực nghiệm giúp các nhà phân tích, nhà đầu tư
lựa chọn các mô hình định giá phù hợp, mang lại hiệu quả trong hoạt động đầu tư nói
chung và công tác định giá nói riêng. Nhằm đo lường mức độ chính xác của các
phương pháp định giá (Valuation Accuracy), các nhà nghiên cứu sử dụng 02 cách
tiếp cận chính: Hướng thứ nhất, so sánh giá trị dự kiến (Estimated Value) được tính
toán bằng cách áp dụng các phương pháp định giá dựa trên dữ liệu thực tế của công
ty và thị trường với giá thị trường thực tế tại thời điểm tương ứng. Các nghiên cứu
theo hướng này có thể kể đến như: Afford (1992), Kaplan và Ruback (1995), Cheng
5
và Mcnamara (2000), Lie và Lie (2002). Hướng thứ hai, xem xét và phân tích nội
dung các báo cáo phân tích định giá cổ phiếu nhà đầu tư tổ chức, công ty chứng
khoán… được gọi là phương pháp phân tích nội dung (Content Analysis), so sánh kết
quả định giá cổ phiếu (target price) trong báo cáo phân tích công ty với giá thị trường
thực tế của các cổ phiếu. Tiêu biểu là các nghiên cứu của Demirakos và Ctg (2010),
Kerl (2011), Imam và Ctg (2013), Sayed (2017), Erkilet và Ctg (2021)… Tuy nhiên,
còn những vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đề cập, nhưng vẫn chưa có
câu trả lời thống nhất về sự khác biệt về mức độ chính xác của các mô hình định giá
hay khả năng cải thiện mức độ chính xác của kết quả định giá khi kết hợp các mô
hình định giá.
Ngày 28 tháng 7 năm 2000, Thị trường chứng khoán Việt Nam đã có phiên
giao dịch đầu tiên tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.HCM (nay là Sở Giao
dịch Chứng khoán TP.HCM – HOSE) chỉ với 02 cổ phiếu niêm yết là REE và SAM.
Sau 21 năm, TTCK Việt Nam, đặc biệt là thị trường cổ phiếu đã có bước phát triển
vượt bậc, thực sự trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống tài chính,
kênh huy động vốn quan trọng của doanh nghiệp và kênh đầu tư quan trọng của nhà
đầu tư tổ chức, cá nhân. Theo số liệu của UBCKNN, tính đến ngày 31/12/2021, tổng
số lượng công ty niêm yết và đăng ký giao dịch trên hai SGDCK Hà Nội (bao gồm
cả thị trường UP – CoM) và SGGCK TP.HCM là 1641 công ty, với tổng giá trị vốn
hóa lên đến 7,766 triệu tỷ đồng (tương đương khoảng 337 tỷ USD) chiếm khoảng
125% GDP. Đồng thời, theo Trung tâm Lưu ký Chứng khoán, lũy kế đến hết 30 tháng
6 năm 2022, tổng số tài khoản giao dịch trong nước đạt 6.119.911 tài khoản, trong đó
số tài khoản của nhà đầu tư cá nhân đạt 6.105.973 tài khoản tương đương gần 6% quy
mô dân số Việt Nam. Thị trường cũng đã hình thành đồng bộ các tổ chức vận hành
và cung ứng dịch vụ như: SGDCK TP.HCM, SGDCK Hà Nội, Trung tâm Lưu ký
chứng khoán Việt Nam, 92 công ty chứng khoán (đang hoạt động bình thường), 47
công ty quản lý quỹ. Các hàng hóa cũng ngày càng đa dạng, ngoài cổ phiếu, trái phiếu
chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp, còn có chứng chỉ của các quỹ đầu tư dạng đóng,
quỹ đầu tư dạng mở, quỹ ETF, các công cụ phái sinh như hợp đồng tương lai chỉ số,
6
chứng quyền có bảo đảm.
Với sự phát triển của thị trường cổ phiếu, công tác phân tích đầu tư và định giá
ngày càng được chú trọng. Công tác này có thể được thực hiện bởi nhiều chủ thể khác
nhau như: các công ty chứng khoán, các quỹ đầu tư, các tổ chức tư vấn đầu tư, các
chuyên gia phân tích độc lập hay các nhà đầu tư tổ chức, nhà đầu tư cá nhân cũng có
thể tự tiến hành, phân tích định giá để ra quyết định đầu tư cho riêng mình. Trong đó,
đặc biệt các công ty chứng khoán thường xuyên phát hành các báo cáo phân tích, định
giá làm cơ sở để khuyến nghị đầu tư cho khách hàng.
Tại thị trường chứng khoán Việt Nam, P/E cũng là hệ số thị trường (market
ratio) được sử dụng nhiều nhất trong các báo cáo phân tích của các công ty chứng
khoán và các nhà đầu tư tổ chức, trong bình luận của các cơ quan truyền thông cũng
như là hệ số chủ yếu trong phương pháp định giá so sánh sử dụng trong công tác định
giá cổ phần phục vụ cho các mục đích như: tư vấn đầu tư, ra quyết định đầu tư, mua
bán sáp nhập (M&A), phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO), chuyển
nhượng vốn cổ phần trong đó có chuyển nhượng vốn cổ phần của nhà nước, niêm
yết. Tiêu chuẩn định giá Việt Nam số 12 ban hành kèm theo Thông tư số 28/2021/TT
– BTC cũng có quy định về phương pháp định giá so sánh, trong đó có định giá so
sánh theo hệ số P/E và có các quy định khá cụ thể về tiêu chí đánh giá, lựa chọn các
doanh nghiệp so sánh.
Tuy nhiên, tại Việt Nam các nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến hệ số
P/E còn hạn chế về cả số lượng và chất lượng. Các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào
chủ đề về các nhân tố tác động đến giá cổ phiếu bao gồm cả các thông tin kế toán và
yếu tố vĩ mô như các nghiên cứu của Nguyễn Thị Thục Đoan (2011), Lê Thị Khánh
Phương (2015), Võ Xuân Vinh (2014), Trương Đông Lộc (2014), Trịnh Anh Khoa
(2016), Phạm Hữu Hồng Thái và Lê Dũng Hiệp (2016) … Hoặc một số nghiên cứu
về hiệu quả của các chiến lược đầu tư dựa trên hệ số P/E, hệ số P/B như nghiên cứu
của Nguyễn Thị Hoàng Giang và Bùi Thị Hồng Nhung (2014), Phạm Hữu Hồng
Thái và Nguyễn Vũ Hồng Phượng (2015). Nghiên cứu của Phạm Hữu Hồng Thái
và Nguyễn Thành Đến (2017) là một trong số rất ít các nghiên cứu về chủ đề này
7
được chính thức công bố, nghiên cứu này dựa trên số liệu thu thập từ các báo cáo tài
chính của 191 công ty phi tài chính niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
từ 2010 – 2015 và chưa có kết luận được về các thông số quan trọng như: tác động
của yếu tố ngành, yếu tố rủi ro (hệ số Beta, mức độ biến động giá), quy mô công ty,
tỷ lệ chi trả cổ tức…
Tại Việt Nam cũng hầu như chưa có các nghiên cứu về tình hình sử dụng các
mô hình định giá và đặc biệt là chưa có các nghiên cứu thực nghiệm nhằm đo lường
mức độ chính xác của các mô hình định giá trên thực tế để làm cơ sở cho việc lựa
chọn và sử dụng các mô hình định giá. Các nghiên cứu của Vũ Thị Kim Liên (2003),
Trần Văn Dũng (2007), Lâm Thị Thanh Huyền (2021) chủ yếu hệ thống hóa các
phương pháp định giá, đánh giá thực trạng công tác định giá doanh nghiệp trên các
khía cạnh như: cơ sở pháp lý, quy trình định giá, chất lượng thông tin đầu vào, chất
lượng đội ngũ chuyên gia… Các nghiên cứu về thực trạng sử dụng và đo lường mức
độ chính xác của các mô hình định giá hầu như chưa được thực hiện.
Việc lựa chọn và áp dụng các mô hình định giá, cụ thể hơn là việc sử dụng hệ
số P/E trong phân tích, định giá và đưa ra khuyến nghị đầu tư tại thị trường chứng
khoán Việt Nam đang thiếu sự hậu thuẫn của các bằng chứng thực nghiệm. Việc thiếu
những bằng chứng thực nghiệm có thể dẫn đến việc sử dụng hệ số P/E tham chiếu
(Benchmark) không phù hợp trong quy trình định giá so sánh dẫn đến những sai lệch
trong kết quả định giá, và rộng hơn là lựa chọn và áp dụng các các mô hình định giá
một cách không phù hợp.
Xuất phát từ ý nghĩa thực tiễn, cùng những khoảng trống về lý thuyết và thực
nghiệm tại TTCK Việt Nam, NCS chọn đề tài “CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN HỆ SỐ P/E VÀ ỨNG DỤNG HỆ SỐ P/E TRONG PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH
GIÁ SO SÁNH TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM” cho luận
án tiến sĩ của mình. Nghiên cứu này sẽ góp phần khám phá và giải thích các nhân tố
ảnh hưởng đến hệ số P/E; xác định thực trạng sử dụng và mức độ chính xác của các
phương pháp định giá trên TTCK Việt Nam; đóng góp thêm tri thức khoa học và
bằng chứng thực nghiệm tại một thị trường cận biên có nhiều yếu tố đặc thù như Việt
8
Nam. Kết quả nghiên cứu cũng là cơ sở để đề xuất các khuyến nghị đối với nhà đầu
tư, nhà phân tích khi sử dụng hệ số P/E trong phân tích đầu tư và định giá, đưa ra một
số gợi ý cho các cơ quan quản lý và các công ty niêm yết.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu 1.2.1. Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu chung của luận án là khám phá, bổ sung các cơ sở khoa học và bằng
chứng thực nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng mô hình định giá so sánh theo
hệ số P/E trên TTCK Việt Nam.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
Từ mục tiêu tổng quát nêu trên, luận án thực hiện các mục tiêu nghiên cứu cụ
thể như sau:
Thứ nhất là xác định các nhân tố ảnh hưởng đến hệ số P/E của các công ty niêm
yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Thứ hai là đánh giá tình hình sử dụng và đo lường mức độ chính xác của các mô
hình định giá cổ phần nói chung và mô hình định giá so sánh sử dụng hệ số P/E nói
riêng trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
1.3. Câu hỏi nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu, luận án phải trả lời được các câu hỏi
nghiên cứu như sau:
1. Các nhân tố nào tác động đến hệ số P/E của các công ty niêm yết trên TTCK
Việt Nam ?
2. Thực trạng sử dụng và mức độ chính xác của các phương pháp định giá trên
TTCK Việt Nam ?
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là các nhân tố ảnh hưởng đến hệ số P/E của các cổ phiếu
9
niêm yết trên TTCK Việt Nam; thực trạng sử dụng và mức độ chính xác của các
phương pháp định giá cổ phiếu nói chung và phương pháp định giá so sánh sử dụng
hệ số P/E nói riêng trên TTCK Việt Nam.
1.4.2. Phạm vi nghiên cứu
❖ Phạm vi không gian
Đề tài nghiên cứu 406 công ty niêm yết, bao gồm 220 cổ phiếu niêm yết trên
SGDCK TP.HCM và 186 công ty niêm yết trên SGDCK Hà Nội, đây là các công ty
niêm yết và giao dịch liên tục trong giai đoạn 2010 – 2020, đảm bảo các tiêu chuẩn
về quy mô, khả năng sinh lợi và các tiêu chí khác theo quy định về điều kiện niêm
yết. Các công ty này cũng có đầy đủ các báo cáo tài chính được kiểm toán và được
công bố theo đúng các quy định về công bố thông tin. Nghiên cứu không bao gồm
các công ty đăng ký giao dịch trên sàn Upcom. Đồng thời, tác giả loại khỏi mẫu
nghiên cứu các dữ liệu di biệt (outlier) như EPS âm hoặc nhỏ hơn 500 đ, P/E lớn hơn
100 để tránh làm sai lệch kết quả nghiên cứu.
Để trả lời câu hỏi nghiên cứu về tình hình sử dụng và mức độ chính xác của
các mô hình định giá, luận án sử dụng mẫu nghiên cứu bao gồm 160 báo báo phân
tích cổ phiếu được các công ty chứng khoán phát hành trong khoảng thời gian 2010
– 2020. Các báo cáo phân tích được phát hành bởi các công ty chứng khoán có uy
tín hoặc nằm trong nhóm 10 công ty chứng khoán có thị phần môi giới cao nhất trên
thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn 5 năm gần nhất. NCS không sử
dụng các bản cáo bạch IPO, bản cáo bạch niêm yết và các báo cáo phân tích nội bộ
của các nhà đầu tư tổ chức.
❖ Phạm vi thời gian
Nghiên cứu được thực hiện với các số liệu xem xét trong khoảng thời gian từ
2010 – 2020, kết quả định giá từ các báo cáo phân tích cũng được nghiên cứu được
nghiên cứu trong khoảng thời gian từ 2010 – 2020, riêng giá thực tế của cổ phiếu trên
thị trường được nghiên cứu đến năm 2021. Vì các lý do sau đây: (i) đây là giai đoạn
thị trường đã định hình tương đối về quy mô và số lượng các công ty niêm yết, số
10
lượng các nhà đầu tư tham gia thị trường nhiều hơn; (ii) Năm 2010 cũng là thời điểm
bắt đầu giai đoạn thị trường ổn định trở lại sau giai đoạn 2006 – 2009 với biến động
rất lớn, giai đoạn 2010 – 2020 cũng tương đối dài, bao gồm trong đó nhiều giai đoạn
tăng, giảm nên kết quả nghiên cứu sẽ giảm bớt sự thiên lệch. (iii) Giai đoạn nghiên
cứu từ năm 2010, cũng đảm bảo số lượng mẫu nghiên cứu là các công ty niêm yết có
dữ liệu liên tục trong giai đoạn nghiên cứu.
❖ Phạm vi về nội dung
(i) Đề tài nghiên cứu các nhân tố tác động đến hệ số P/E chủ yếu nghiên cứu
các nhân tố cụ thể của công ty và cổ phiếu; không tập trung nghiên cứu các nhân tố
vĩ mô, ngoại trừ việc sử dụng biến lãi suất cho vay (lending rate) với mục tiêu chủ
yếu là góp phần làm tăng mức độ giải thích của mô hình.
(ii) Để đánh giá tình hình sử dụng và đo lường mức độ chính xác của các
phương pháp định giá cổ phiếu, NCS chỉ sử dụng phân tích nội dung (Content
Analysis). Tác giả nghiên cứu dựa trên báo cáo phân tích cổ phiếu do các công ty
chứng khoán phát hành (Sell – side Analysts), không sử dụng báo cáo phân tích của
các nhà đầu tư tổ chức (Buy – Side Analysts), bản cáo bạch niêm yết.
+ Không sử dụng phương pháp khảo sát các nhà phân tích để đánh giá tình
hình sử dụng các mô hình định giá.
+ Mức độ chính xác của các mô hình định giá được xác định trên cơ sở so
sánh giá cổ phiếu được xác định bằng các mô hình định giá trong các báo cáo phân
tích (target price) với giá thị trường thực tế sau khoảng thời gian dự báo, không sử
dụng các phương pháp khác.
1.5. Tổng quan phương pháp nghiên cứu:
Luận án sử dụng 02 hướng tiếp cận nghiên cứu chính:
Để trả lời các câu hỏi nghiên cứu về các nhân tố tác động đến hệ số P/E, NCS
sử dụng chủ yếu phương pháp phân tích định lượng.
Trước tiên, NCS dựa trên cơ sở khung lý thuyết về phương pháp định giá so
sánh, hệ số P/E và các nghiên cứu trước về các nhân tố ảnh hưởng đến hệ số P/E để
11
xây dựng các giả thuyết nghiên cứu và xây dựng mô hình nghiên cứu. Sau đó, tác giả
tiến hành thu thập dữ liệu, tính toán các biến trong mô hình, chọn lọc và xử lý sơ bộ
dữ liệu, tiến hành phân tích dữ liệu bằng các phương pháp như: thống kê mô tả, phân
tích tương quan, phân tích hồi quy.
Để kiểm định các giả thuyết nghiên cứu về các nhân tố tác động đến hệ số P/E,
NCS chủ yếu sử dụng các mô hình hồi quy đa biến như: (1) Mô hình hồi quy gộp sử
dụng phương pháp bình phương nhỏ nhất (Pooled OLS); (2) Mô hình các yếu tố tác
động cố định (Fixed Effects Model - FEM); (3) Mô hình các yếu tố tác động ngẫu
nhiên (Random Effect Model – REM ) (4) Mô hình Bình phương tối thiểu tổng quát
(Generalized Least Squares -GLS). Đồng thời, tiến hành các kiểm định các khuyết
tật của mô hình để lựa chọn mô hình hồi quy phù hợp nhất.
Để trả lời các câu hỏi nghiên cứu về tình hình sử dụng và mức độ chính xác của
các mô hình định giá, NCS chủ yếu sử dụng Phương pháp phân tích nội dung (Content
Analysis) xem xét đánh giá các báo cáo phân tích cổ phiếu do các công ty chứng
khoán phát hành.
Tác giả sẽ tiến hành phân loại, thống kê các phương pháp định giá được sử dụng
trong các báo cáo định giá; sử dụng thống kê mô tả, phân tích, so sánh để xác định
tình hình sử dụng các mô hình định giá trên TTCK Việt Nam.
Đồng thời, để đo lường mức độ chính xác của công tác định giá, mức giá trị nội
tại/mục tiêu/giá ước tính (Intrinsic Value/Target price/Estimated Price) được lấy từ
các báo cáo phân tích sẽ được so sánh với giá thị trường thực tế (Actual Price/Market
Price). NCS sử dụng 02 phương pháp đo lường mức độ chính xác bao gồm:
(1) Mức giá mục tiêu được đạt đến hay không được đạt đến trong suốt 12
tháng kể từ ngày báo cáo được công bố (Met_in)
(2) Sai số dự báo (forecast error): Được đo lường bằng độ chênh lệch giữa
giá mục tiêu và giá thị trường thực tế của cổ phiếu trong ngày cuối cùng của 12 tháng
dự báo.
Dựa trên kết quả của mô hình hồi quy, kết quả nghiên cứu về tình trạng sử dụng
12
và mức độ chính xác của các mô hình định giá trên TTCK Việt Nam, kết hợp với cơ
sở lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm tại các thị trường thế giới, NCS sẽ đưa ra
những gợi ý, khuyến nghị đối với các nhà phân tích, nhà đầu tư, cơ quan quản lý, các
công ty niêm yết nhằm gia tăng mức độ chính xác của các mô hình định giá, nâng
cao chất lượng của công tác định giá cổ phần, nâng cao giá trị doanh nghiệp một cách
bền vững.
1.6. Đóng góp và điểm mới của luận án
1.6.1. Những đóng góp của luận án:
Về sơ sở lý luận
Luận án đã kiểm định lại và khám phá thêm các nhân tố tác động đến hệ số
P/E của các cổ phiếu niêm yết trên TTCK Việt Nam với số mẫu nghiên cứu lớn, thời
gian nghiên cứu dài và cập nhật, các biến nghiên cứu đa dạng hơn. Kết quả nghiên
cứu đã khám phá các nhân tố tác động mới như chất lượng quản trị công ty; các nhân
tố có tác động khác với dự kiến theo cơ sở lý thuyết thông thường hoặc chưa thống
nhất về lý thuyết như: Tỷ lệ chi trả cổ tức, giá trị sổ sách trên 1 cổ phần, tỷ suất sinh
lời trên vốn chủ sở hữu. Kết quả nghiên cứu đã đóng góp thêm tri thức về vấn đề này,
và cung cấp thêm bằng chứng thực nghiệm đối với một thị trường cận biên có nhiều
yếu tố đặc thù như TTCK Việt Nam.
Luận án đã góp phần trả lời một số câu hỏi quan trọng mà các nhà nghiên cứu
đang quan tâm như: tần suất sử dụng các mô hình định giá, căn cứ lựa chọn mô hình
định giá phù hợp, mức độ chính xác của các mô hình định giá nói chung và mô hình
định giá so sánh theo bội số P/E nói riêng, mức độ chính xác khi kết hợp các mô hình
định giá… thông qua các bằng chứng thực nghiệm tại TTCK Việt Nam.
Ý nghĩa thực tiễn:
Luận án cung cấp cơ sở khoa học quan trọng giúp các nhà đầu tư, nhà phân
tích lựa chọn và sử dụng các mô hình định giá nói chung và mô hình định giá so sánh
sử dụng hệ số P/E nói riêng tại TTCK Việt Nam. Hạn chế tình trạng áp dụng các
phương pháp định giá theo kinh nghiệm cá nhân, hoặc áp dụng đơn thuần theo lý
thuyết và kinh nghiệm từ nước ngoài dễ dẫn đến những sai lệch làm giảm mức độ
13
chính xác của kết quả định giá.
Luận án đưa ra các gợi ý đối với các nhà đầu tư, nhà phân tích trong việc lựa
chọn và sử dụng các mô hình định giá nói chung và mô hình định giá so sánh theo hệ
số P/E nói riêng, đặc biệt luận án có những góp ý cụ thể đối với các tiêu chí lựa chọn
công ty so sánh áp dụng cho phương pháp tỷ số bình quân (phương pháp định giá so
sánh) được hướng dẫn tại Tiêu chuẩn định giá Việt Nam số 12 ban hành kèm theo
Thông tư số 28/2021/TT – BTC. Bên cạnh đó, luận án cũng đưa ra các khuyến nghị
đối với các cơ quan quản lý, công ty niêm yết nhằm nâng cao chất lượng của công
tác định giá cổ phần tại TTCK Việt Nam, gia tăng giá trị doanh nghiệp một cách bền
vững.
1.6.2. Những điểm mới của luận án:
Luận án lần đầu tiên kết hợp 02 phương pháp nghiên cứu phân tích định lượng,
phân tích hồi quy nhằm đánh giá đầy đủ các nhân tố tác động đến hệ số P/E của các
công ty niêm yết tại Việt Nam và phương pháp phân tích nội dung (content analysis)
nhằm đánh giá thực trạng sử dụng các phương pháp định giá, đo lường mức độ chính
xác của các phương pháp định giá nói chung và phương pháp định giá so sánh sử
dụng hệ số P/E nói riêng. Làm cơ sở đưa ra những khuyến nghị khi sử dụng hệ số
P/E trong định giá so sánh và đưa ra các quyết định đầu tư; đưa ra những khuyến nghị
cụ thể về lựa chọn và sử dụng các mô hình định giá. Các nghiên cứu trước chủ yếu
chỉ thực hiện một trong hai hướng nghiên cứu này.
Luận án lần đầu tiên nghiên cứu tác động của chất lượng quản trị đến hệ số
P/E. Các nghiên cứu trước về tác động của chất lượng quản trị công ty đến giá trị
công ty trên thế giới và tại Việt Nam chủ yếu sử dụng hệ số Tobin’Q hoặc hệ số P/B
là chỉ tiêu đo lường giá trị công ty. Dù việc thu thập dữ liệu về điểm quản trị công ty
còn hạn chế, nhưng kết quả nghiên cứu cho thấy chất lượng quản trị công ty có tác
động cùng chiều đến hệ số P/E. Điều đó góp phần khẳng định, các yếu tố phi tài chính
ngày càng đóng vai trong quan trọng trong quyết định của các nhà đầu tư. Luận án
góp phần mở ra hướng nghiên cứu mới về tác động của các yếu tố phi tài chính, trong
14
đó có chất lượng quản trị công ty đến hệ số P/E.
Kết quả nghiên cứu của luận án cũng bổ sung thêm luận cứ có ý nghĩa quan
trọng trong bối cảnh tác động của Tỷ lệ chi trả cổ tức (Payout ratio) đối với hệ số P/E
nói riêng và giá trị công ty nói chung còn là một vấn đề chưa thống nhất cả về cơ sở
lý thuyết và bằng chứng thực nghiệm. Công thức của Beaver và Morse (1978) và
công thức 2.12 về mối liên hệ giữa tốc độ tăng trưởng lợi nhuận, tỷ lệ lợi nhuận giữ
lại và tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu cho những lập luận trái ngược nhau về tác
động của chính sách cổ tức đến hệ số P/E. Các lý thuyết liên quan Miller và
Modigliani (1961), Walter (1963), Jensen và Meckling (1976), Jensen (1986) cũng
chưa có sự thống nhất về mối quan hệ giữa chính sách cổ tức và giá trị của công ty.
Kết quả nghiên cứu của luận án cho thấy, tỷ lệ chi trả cổ tức bằng tiền mặt (POR) có
tác động cùng chiều tới hệ số P/E. Kết quả nghiên cứu này đã bổ sung một luận cứ
quan trọng, trên thực tế nhà đầu tư có xu hướng ưa thích và tin tưởng các công ty duy
trì khả năng trả cổ tức bằng tiền mặt. Do đó, các công ty có tỷ lệ chi trả cổ tức bằng
tiền mặt cao sẽ được nhà đầu tư đánh giá cao hơn và hệ số P/E cao hơn, ngược lại với
quan điểm cho rằng tỷ lệ chi trả cổ tức cao tức là tỷ lệ lợi nhuận giữ lại thấp, dẫn đến
tiềm năng tăng trưởng thấp và giá trị công ty thấp.
Luận án cũng có những phát hiện mới về tác động của Giá trị sổ sách trên 1 cổ
phần (BVPS) đến hệ số P/E, kết quả nghiên cứu cho thấy BVPS có tác động ngược
chiều với hệ số P/E. Điều này ngược lại với cơ sở lý thuyết về tác động của BVPS tới
giá thị trường của cổ phiếu và thông qua đó tác động tới P/E như Mô hình định giá
thu nhập thặng dư (RIV), hướng tiếp cận định giá theo tài sản; cũng như các kết quả
nghiên cứu thực nghiệm của Collins và Ctg (1997), Sharma (2011), Lê Thị Khánh
Phương (2015) về tác động của giá trị sổ sách đến giá cổ phiếu. Cụ thể hơn, NCS tiến
hành phân tích bổ sung, kết quả cho thấy riêng đối với các công ty có EPS nhỏ hơn
500 đồng, BVPS có tác động cùng chiều với P/E. Nghiên cứu đưa đến một phát hiện
mới, tại thị trường Việt Nam, nhà đầu tư chỉ quan tâm đến chỉ tiêu BVPS khi các
công ty có lợi nhuận (EPS) thấp, khi các công ty có lợi nhuận (EPS) cao nhà đầu tư
15
không quan tâm đến chỉ tiêu này.
Một trong những điểm mới đáng lưu ý của luận án là nghiên cứu tác động của
tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) đối với hệ số P/E. Các nghiên cứu trước
về biến tác động này còn khá hạn chế như: nghiên cứu của Arslan và Ctg (2017),
Dutta và Ctg (2018) có đề cập đến tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) trong
mô hình nghiên cứu nhưng không có kết luận cụ thể; nghiên cứu của Antalovski và
Cox (2021) tại thị trưởng Canada trong giai đoạn 2011 – 2018, có kết luận về tác
động của 02 chỉ tiêu sinh lời là tỷ lệ lãi ròng trên doanh thu và tỷ lệ lợi nhuận trên
tổng đầu tư (EBIT/Tổng tài sản) đến hệ số P/E nhưng chưa có kết luận về tác động
của ROE, ROA đến hệ số P/E. Các nghiên cứu thực nghiệm của Ohlson (1995),
Sharma (2011), Nguyễn Thị Thục Đoan (2011) chủ yếu tập trung vào mối quan hệ
giữa giá thị trường của cổ phiếu và các thông tin kế toán trong đó có ROE. Damoradan
(2006) đề xuất công thức 2.13 cho rằng ROE có tác động cùng chiều đến hệ hệ số
P/E. Nhiều nghiên cứu thực nghiệm tiêu biểu như Ohlson (1995), Sharma (2011),
Nguyễn Thị Thục Đoan (2011) .... khẳng định mối quan hệ cùng chiều giữa tỷ suất
lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) và thị giá cổ phiếu. Tuy nhiên, giữa ROE và chỉ
tiêu lợi nhuận trên cổ phiếu (EPS) lại có mối quan hệ cùng chiều khá rõ ràng. Tác
động của ROE tới P/E là một vấn đề tương đối khó xác định, phụ thuộc vào tác động
của ROE đến giá cổ phiếu lớn hơn hay mối liên hệ giữa ROE và EPS lớn hơn. Nghiên
cứu tại thị trường Việt Nam tại luận án cho thấy, ROE tác động ngược chiều tới hệ
số P/E. Kết quả này bổ sung hiểu biết về tác động của các chỉ tiêu đo lường lợi nhuận
đến hệ số P/E cho thấy tác động của ROE đến giá cổ phiếu nhỏ hơn so với mối liên
hệ giữa ROE và EPS. Đồng thời cần phải xem lại cơ sở của các phương pháp, khuyến
nghị, quy định sử dụng các tỷ số phản ánh hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp như
ROE, ROA làm tiêu chí đánh giá, lựa chọn các công ty so sánh.
Luận án tiến hành nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hệ số P/E tại TTCK
Việt Nam với 10 nhân tố được đưa vào mô hình nghiên cứu, thời gian 11 năm từ năm
2010 đến năm 2020, mẫu nghiên cứu bao gồm 406 công ty niêm yết ở HOSE và HNX
thuộc 9 nhóm ngành với 3766 quan sát. Các nghiên cứu trước, tiêu biểu là nghiên cứu
của Phạm Hữu Hồng Thái và Nguyễn Thành Đến (2017), dựa trên số liệu của 191
16
công ty phi tài chính niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam từ 2010 – 2015,
nghiên cứu này cũng chưa đề cập hoặc đưa ra kết luận đối với một số biến quan trọng.
Do vậy, so với các nghiên cứu trước, luận án nghiên cứu dựa trên mẫu lớn hơn, đối
tượng công ty đa dạng hơn, thời gian nghiên cứu dài hơn và cập nhật hơn, các biến
nghiên cứu đa dạng hơn để bổ sung thêm tri thức, hiểu biết về vấn đề này tại thị
trường cận biên như Việt Nam.
Luận án lần đầu sử dụng phương pháp phân tích nội dung (Content Analysis)
tại TTCK Việt Nam, xem xét và phân tích nội dung về phương pháp và kết quả định
giá cổ phần từ mẫu nghiên cứu bao gồm 160 báo cáo phân tích do các công ty chứng
khoán phát hành trong giai đoạn 2010 – 2020 để nghiên cứu về tình hình sử dụng và
mức độ chính xác của các mô hình định giá. Sử dụng các thước đo đo lường mức độ
chính xác của các mô hình định giá bao gồm: Tỷ lệ chính xác của giá mục tiêu (Target
price accuracy) và Sai số dự báo (Forecast error). Các nghiên cứu trước tại TTCK
Việt Nam chủ yếu hệ thống hóa các phương pháp định giá, đánh giá thực trạng công
tác định giá doanh nghiệp trên các khía cạnh như: cơ sở pháp lý, quy trình định giá,
chất lượng thông tin đầu vào, chất lượng đội ngũ chuyên gia…
1.7. Kết cấu của luận án
Luận án được kết cấu bao gồm 5 chương:
Chương 1: Giới thiệu nghiên cứu
Trong Chương giới thiệu, NCS sẽ trình bày các nội dung như sau: lý do chọn
chuyên đề nghiên cứu; mục tiêu nghiên cứu của chuyên đề bao gồm các mục tiêu
tổng quát và mục tiêu cụ thể; các câu hỏi nghiên cứu; đối tượng và phạm vi nghiên
cứu; các đóng góp và những điểm mới của luận án về mặt học thuật và thực tiễn; tóm
tắt phương pháp nghiên cứu; mô tả cấu trúc của luận án.
Chương 2: Cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu liên quan
Chương 2 tổng hợp và trình bày tổng quan lý thuyết về các lý thuyết đầu tư, các
phương pháp định giá cổ phần, quy trình định giá so sánh, các định nghĩa và cách tính
hệ số P/E, các nhân tố ảnh hưởng đến hệ số P/E, quy trình và các cách tiếp cận khi sử
17
dụng mô hình định giá so sánh theo hệ số P/E. NCS cũng tiến hành khảo lược các
nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới cũng như tại Việt Nam về các nhân tố tác động
đến hệ số P/E và các vấn đề liên quan; khảo lược các nghiên cứu về tình hình sử dụng
và mức độ chính xác của các mô hình định giá. Từ đó, nhận thấy khoảng trống nghiên
cứu nhằm xác định mục tiêu nghiên cứu, đề xuất mô hình và giả thuyết nghiên cứu.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở lý thuyết và khảo lược các nghiên cứu thực nghiệm, Chương 03 thiết
kế nghiên cứu theo 02 hướng tiếp cận chính:
(1) Để nghiên cứu các nhân tố tác động đến hệ số P/E, NCS đề xuất mô hình
hồi quy đa biến với biến phụ thuộc là hệ số P/E và các biến độc lập. Các
phương pháp phân tích dữ liệu được sử dụng bao gồm: thống kê mô tả, phân
tích tương quan và phân tích hồi quy dữ liệu bảng không cân bằng.
(2) Để nghiên cứu về tình hình sử dụng và mức độ chính xác của các mô hình
định giá, NCS chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu nội dung (Content
Analysis), xem xét và phân tích nội dung về phương pháp và kết quả định
giá cổ phần từ mẫu nghiên cứu bao gồm báo cáo phân tích do các công ty
chứng khoán
Chương 03 cũng trình bày cụ thể về dữ liệu và mẫu nghiên cứu.
Chương 4: Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Chương 4 trình bày và thảo luận kết quả nghiên cứu theo 02 hướng chính để trả lời
các câu hỏi nghiên cứu liên quan đến các nhân tố tác động đến hệ số P/E và tình hình
sử dụng, mức độ chính xác của các mô hình định giá.
Chương 5: Kết luận và các khuyến nghị
Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu ở Chương 4, Chương 5 kết luận về khái quát
về các câu hỏi nghiên cứu chính. Trên cơ sở các kết luận, NCS đưa ra các gợi ý,
khuyến nghị cho các nhà đầu tư, nhà phân tích về việc lựa chọn và sử dụng các mô
hình định giá, sử dụng hệ số P/E trong công tác định giá cổ phần và ra quyết định
18
đầu tư tại thị trường chứng khoán Việt Nam; các gợi ý đối với các cơ quan quản lý,
doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác định giá, gia tăng giá trị doanh
19
nghiệp một cách bền vững.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Tương tự như trên thế giới, tại thị trường chứng khoán Việt Nam P/E cũng là hệ số
được sử dụng phổ biến nhất trong định giá cổ phiếu và đưa ra các quyết định đầu tư.
Tuy nhiên, số lượng và chất lượng các nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố ảnh
hưởng đến hệ số P/E còn tương đối hạn chế. Bên cạnh đó, vẫn còn những khoảng
trống đáng kể trong sự hiểu biết về các nhân tố tác động đến hệ số P/E. Những hiểu
biết chưa đầy đủ về hệ số P/E, và thiếu những bằng chứng thực nghiệm về phương
pháp định giá này có thể dẫn đến việc sử dụng hệ số P/E tham chiếu (P/E Benchmark)
không phù hợp trong quy trình định giá so sánh dẫn đến những sai lệch trong kết quả
định giá. Bên cạnh đó, tại Việt Nam hầu như chưa có các nghiên cứu về tình hình sử
dụng và đặc biệt là các nghiên cứu thực nghiệm nhằm đo lường mức độ chính xác
của các mô hình định giá để làm cơ sở cho việc lựa chọn và sử dụng các mô hình
định giá. Do vậy, NCS lựa chọn đề tài “CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HỆ
SỐ P/E TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM VÀ ỨNG DỤNG
HỆ SỐ P/E TRONG PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH GIÁ SO SÁNH TRÊN THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM”. Chương 01 cũng giới thiệu và trình
bày khái quát về mục tiêu nghiên cứu, các câu hỏi nghiên cứu, đối tượng và phạm vi
nghiên cứu, những đóng góp và điểm mới của luận án, phương pháp nghiên cứu và
20
kết cấu của luận án.
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN 2.1. Các vấn đề chung về định giá cổ phiếu
2.1.1. Đầu tư giá trị và các lý thuyết về đầu tư
Theo Malkiel (2007), đầu tư là một phương pháp mua tài sản để kiếm lợi nhuận
dưới hình thức thu nhập có thể dự đoán một cách hợp lý (như cổ tức, trái tức hoặc
lợi tức cho thuê) và/hoặc giá trị đầu tư sẽ tăng lên sau một thời gian dài. Định nghĩa
này có phần hướng nhiều về hoạt động đầu tư mang tính truyền thống và dài hạn. Với
sự đa dạng của các công cụ và phương pháp đầu tư, ta có thể định nghĩa một cách mở
rộng hơn, đầu tư là việc nắm giữ tài sản hay trạng thái để tìm kiếm lợi nhuận dưới
hình thức thu nhập thường xuyên (như cổ tức, trái tức, lợi tức cho thuê…) và/hoặc
biến động giá.
Theo cách phân loại thường được Hiệp hội phân tích tài chính Hoa Kỳ (CFA)
và nhiều tổ chức lớn sử dụng, các nhóm tài sản đầu tư chủ yếu bao gồm: Tiền mặt và
tương đương tiền (Cash and Equivalent), Cổ phiếu (Equity), Các khoản đầu tư có lợi
suất cố định (Fixed Income ), Bất động sản (Real Estate) và các khoản đầu tư phi
truyền thống (Alternative Investment) bao gồm: quỹ đầu cơ (Hedge fund), vốn tư
nhân (Private Equity), ngoại tệ, hàng hóa trên các thị trường chuẩn hóa
(Commodity)…Trong đó, cổ phiếu là một công cụ đầu tư truyền thống, đóng vai trò
quan trọng và có quy mô lớn nhất trên thị trường. Theo báo cáo World Wealth Report
được Merrill Lynch Global Wealth Management và Capgemini xuất bản hàng năm,
trong danh mục đầu tư của các cá nhân có tài sản ròng lớn (HNWI – High Net Worth
Individual) trên toàn cầu, cổ phiếu luôn chiếm xấp xỉ 30% và là nhóm tài sản đầu tư
chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Đối với các tài sản đầu tư nói chung và cổ phiếu nói riêng, trong suốt gần 1 thế
kỷ qua, cuộc tranh luận xem liệu có thực sự tồn tại các cơ hội đầu tư tốt vượt trội và
phương pháp đáng tin cậy nào để có thể dự đoán giá tài sản hay tìm ra những cơ hội
đầu tư tốt là khởi nguồn của các lý thuyết đầu tư quan trọng được phát triển và ứng
dụng trên thực tiễn. Ngoài 02 lý thuyết truyền thống làm nền tảng cho phương pháp
21
phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật là Lý thuyết đầu tư giá trị, Lý thuyết lâu đài
trong gió; còn có một số lý thuyết mới được vinh danh bằng giải Nobel như: Lý thuyết
về danh mục đầu tư hiện đại, Lý thuyết thị trường hiệu quả, Lý thuyết về tài chính
hành vi.
Những nền tảng đầu tiên của Lý thuyết đầu tư giá trị (Value Investing) được
đề cập trong các tác phẩm kinh điển về đầu tư như: Phân tích chứng khoán (Security
Analysis) của Benjamin Graham và David Dodd xuất bản năm 1931, Lý thuyết giá
trị đầu tư (The Theory of Investment Value) của John B. Williams xuất bản năm
1938, Nhà đầu tư thông minh (The Intelligent Investor) của Benjamin Graham xuất
bản năm 1949. Theo William (1938), giá trị nội tại của cổ phiếu được xác định bằng
cách lấy tất cả dòng cổ tức trong tương lai chiết khấu về hiện tại. Ông đề xuất công
thức xác định giá trị nội tại của cổ phiếu dựa trên cơ sở thu nhập cổ tức và khái niệm
chiết khấu dòng tiền. Graham (1949) đã đề xuất một phương pháp (sau này gọi là lý
thuyết đầu tư giá trị _ Value Investing) giúp các nhà đầu tư có thể xác định được các
cổ phiếu có khả năng mang lại tỷ suất sinh lời cao bằng cách xác định được giá trị
nội tại của các cổ phiếu này, sau đó, mua vào các cổ phiếu có giá trị nội tại cao hơn
giá trị thị trường (được gọi là các cổ phiếu bị thị trường định giá thấp - UnderValued).
Quan điểm đầu tư giá trị cho rằng cơ sở cơ sở kinh tế của doanh nghiệp trong dài hạn
vẫn là yếu tố quan trọng nhất quyết định giá trị của cổ phiếu. Ở góc độ thực tiễn,
Warrent Buffet là người có ảnh hưởng lớn và truyền cảm hứng đối với đầu tư giá trị.
Buffet đã tổng kết quan điểm cốt lõi của đầu tư giá trị bằng một phát ngôn nổi tiếng
“Đừng đầu tư vào cổ phiếu, hãy đầu tư vào công ty”.
Cùng thời điểm với lý thuyết đầu tư giá trị, Lý thuyết lâu đài trong gió (Castle
in the air theory) được phát triển bởi Keynes (1937) đề cập đến bản chất đầu cơ của
đám đông. Keynes (1937) cho rằng các nhà đầu tư chuyên nghiệp không thích bỏ
công sức để dự đoán giá trị nội tại, mà thay vào đó họ thích phân tích hành vi của
đám đông trong tương lai. Xét cho cùng cổ phiếu, tài sản tài chính hay một tài sản
bất kỳ sự thay đổi giá của nó đều phụ thuộc vào tác động của cung và cầu, cho nên
quan điểm này còn được gọi là “thuyết cung cầu”, và trong thị trường tài chính,
cung cầu chủ yếu phụ thuộc vào kỳ vọng và hành vi của thị trường, của đám đông.
22
Lý thuyết này trở thành nền tảng của phương pháp phân tích kỹ thuật, không quan
tâm đến không quan tâm đến bản chất kinh tế của doanh nghiệp khi đầu tư, “không
có cổ phiếu tốt hay cổ phiếu xấu, chỉ có cổ phiếu tăng giá hay giảm giá”. Phương
pháp phân tích kỹ thuật chủ yếu thống kê hành vi thị trường bao gồm giá và khối
lượng giao dịch trong quá khứ, từ đó xây dựng nên các đồ thị, sử dụng các chỉ báo
(indicators), dạng thức đồ thị (Pattern) để dự báo các hành vi thị trường trong tương
lai.
Lý thuyết về danh mục đầu tư hiện đại (Modern Portfolio Theory – MPT)
được Harry Markowitz đặt nền móng lần đầu tiên vào năm 1952, khi công bố bài báo
"Lựa chọn danh mục đầu tư (Portfolio Selection) trên Journal of Finance. Markowitz
(1952) bắt đầu với giả thuyết các nhà đầu tư đều là những nhà đầu tư ngại rủi ro. Tuy
nhiên, các nhà đầu tư không đơn thuần theo đuổi mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận kỳ
vọng mà là mục tiêu tối đa hóa mức hữu dụng của khoản đầu tư. Markowit đã là
người đầu tiên giới thiệu các khái niệm và phương pháp tính toán lợi nhuận, rủi ro
của danh mục đầu tư, mức độ tương quan của các chứng khoán, mức ngại rủi ro, mức
hữu dụng của nhà đầu tư, phương pháp truy tìm DMĐT hiệu quả, DMĐT tối ưu.
Markowitz cũng giới thiệu và đưa ra chứng minh toán học chặt chẽ cho quan điểm
“không nên bỏ tất cả trứng vào cùng một rổ”, hậu thuẫn cho phương pháp đa dạng
hóa danh mục đầu tư để giảm thiểu rủi ro. Kế thừa Lý thuyết về lựa chọn danh mục
đầu tư của Markowitz, Sharpe (1964) tiếp tục phát triển Lý thuyết thị trường vốn (
Capital Market Theory – CMT) bằng cách kết hợp một chứng khoán không rủi ro với
danh mục đầu tư được xây dựng theo mô hình Markowitz. Trong đó được biết đến
nhiều nhất trong cả học thuật và thực tiễn là mô hình định giá tài sản vốn (Capital
Asset Pricing Model_ CAPM), mô hình tiên phong trong việc lượng hóa mối quan
hệ giữa lợi nhuận và rủi ro. Với những đóng góp tiên phong mở ra một quan điểm
đầu tư mới Harry Markowitz, William Sharpe, cùng Merton Miller đã được đồng trao
giải Nobel kinh tế năm 1990. Tiếp sau CAPM, nhiều nhà kinh tế tiếp tục phát triển
các lý thuyết, mô hình về về định giá cổ phiếu dựa trên mối quan hệ giữa lợi nhuận
và rủi ro như lý thuyết định giá dựa trên kinh doanh chênh lệch giá (Arbitrage Pricing
23
Theory – APT) của Ross (1976), mô hình ba nhân tố Fama – French ...
Eugene Fama phát triển Lý thuyết thị trường hiệu quả (Efficient Market
Hypothesis) và công bố lần đầu tiên vào năm 1970. Theo Fama (1970), một thị trường
hiệu quả khi giá thị trường phản ánh ngay lập tất cả các thông tin và giá trị thực của
các tài sản; đồng thời, việc giao dịch tất cả các tài sản ở mức giá thị trường không
bao giờ mang lại lợi nhuận bất thường (tức là lợi nhuận vượt trội phát sinh từ chênh
lệch giữa giá thị trường với giá trị thực). Fama đưa ra 03 mức hiệu quả của thị trường
bao gồm: Thị trường hiệu quả dạng yếu (Weak Form), Thị trường hiệu quả dạng
trung bình (Semi – Strong Form), Thị trường hiệu quả dạng mạnh (Strong – Form).
Trước đó, khái niệm bước đi ngẫu nhiên bắt đầu được phổ biến sau tác phẩm Bước
đi ngẫu nhiên trên phố Wall (A Random Walk Down Wall Street) của Markiel (1973).
Các quan điểm này được gọi chung là “Thuyết ngẫu nhiên”, cho rằng giá của cổ
phiếu là không thể dự đoán được, không một nhà đầu tư nào có thể liên tục chiến
thắng được thị trường bằng một phương pháp đầu tư nào đó. Đây chính là tiền đề cho
sự ra đời của các quỹ ETFs (Exchange Traded Funds – quỹ hoán đổi danh mục) sau
này. Với những đóng góp trong việc phát triển lý thuyết thị trường hiệu quả Eugene
F. Fama cũng được vinh danh bằng giải Nobel kinh tế năm 2013 cùng với Lars Peter
Hansen and Robert J. Shiller.
Năm 2017, Giải Nobel Kinh tế được trao cho Richard H. Thaler, Giáo sư tại
Đại học Chicago Hoa Kỳ vì những đóng góp của ông cho lĩnh vực Kinh tế học hành
vi (Behavioral Economics). Sự kiện này chính thức khẳng định vị thế của Tài chính
hành vi (Behavioral Finance) một quan điểm, trường phái mới trong tài chính và
đầu tư. Từ đầu những năm 1970, Daniel Kahneman và Amos Tversky, đã là những
người đầu tiên bắc chiếc cầu nối giữa hai lĩnh vực kinh tế học và tâm lý học tạo ra
Kinh tế học hành vi. Kahnerman cũng đã được vinh danh bằng giải Nobel Kinh tế
năm 2002. Các lý thuyết đầu tư truyền thống đều được xây dựng dựa trên giả thuyết
rằng hành vi của nhà đầu tư là hoàn toàn duy lý (Rational). Tuy nhiên, trường phái
tài chính hành vi, lại cho rằng con người mang theo các yếu tố tâm lý của mình vào
các hoạt động kinh tế, tài chính, đầu tư và tư duy của con người trong rất nhiều quyết
định đầu tư là phi lý trí (Irrational). Giá thị trường của tài sản tài chính rất thiếu chính
24
xác và việc phản ánh quá mức của giá là một quy luật chứ không phải là một trường
hợp ngoại lệ theo quan điểm của lý thuyết thị trường hiệu quả. Dựa vào luận cứ này
các nhà tài chính hành vi đã giải thích được rất nhiều hiện tượng biến động giá trên
thị trường mà thuyết thị trường hiệu quả không giải thích được.
Trong dòng chảy của các lý thuyết, quan điểm về đầu tư, Đầu tư giá trị là lý
thuyết đầu tư, trường phái đầu tư ra đời sớm nhất, và dù không được vinh danh bằng
giải Nobel như các lý thuyết khác, nhưng đây là lý thuyết được các nhà đầu tư tư tổ
chức và cá nhân sử dụng phổ biến nhất, có ảnh hưởng lâu dài và bền vững nhất trên
thị trường chứng khoán. Quan điểm đầu tư giá trị cũng là cơ sở chủ yếu để xây dựng
và thiết kế quy trình đầu tư của các nhà đầu tư tổ chức và chuyên nghiệp. Tiêu biểu
là phương pháp Phân tích cơ bản với quy trình phân tích Top – Down (từ trên xuống)
bao gồm phân tích nền kinh tế, phân tích ngành và phân tích công ty, từ đó xác định
giá trị nội tại của cổ phiếu, so sánh với giá thị trường và ra quyết định đầu tư.
Trong phương pháp phân tích cơ bản, định giá (Valuation) đóng vai trò rất quan
trọng. Một công ty tốt không đồng nghĩa với cổ phiếu tốt, bởi điều quan trọng là nhà
đầu tư phải mua cổ phiếu với giá nào. Graham (1949, 1973) cho rằng mỗi cổ phiếu
đều có một giá trị nội tại (Intrinsic Value) dựa vào các yếu tố bên trong và bên ngoài
công ty; và có thể xác định được bằng các phương pháp định giá. Trong dài hạn, giá
thị trường của cổ phiếu sẽ dao động quanh và tiệm cận với giá trị nội tại.
2.1.2. Các khái niệm về cổ phiếu và giá cổ phiếu:
Trong công ty cổ phần, vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau được
gọi là cổ phần. Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành, bút toán ghi sổ
hoặc dữ liệu điện tử xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó.1
Như vậy, cổ phần đại diện cho quyền sở hữu một phần vốn chủ sở hữu của công ty
cổ phần, cổ phiếu là chứng nhận sở hữu cổ phần có thể bao gồm một hoặc nhiều cổ
phần. Tuy nhiên trên thực tế, do hiện nay phần lớn các cổ phiếu đều ở hình thức bút
toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, nên người ta có thể dùng cả hai thuật ngữ cổ phần
1 Luật Doanh nghiệp số 59/2020/QH14
25
(Share) hay cổ phiếu (Stock) với nghĩa tương đương và thay thế cho nhau.
Có nhiều cách phân loại cổ phần dựa trên các tiêu chí khác nhau, trong đó nếu
dựa trên quyền lợi của cổ đông, cổ phần được phân loại bao gồm: cổ phần phổ thông
(Common shares) và cổ phần ưu đãi (Preference Shares). Trong cơ cấu vốn của
công ty cổ phần, trái phiếu do công ty phát hành được xem là nợ thuần túy, cổ phiếu
phổ thông được xem là vốn chủ sở thuần túy, còn cổ phiếu ưu đãi có thể được xem là
công cụ “màu xám” vừa mang một số đặc điểm của nợ, vừa mang một số đặc điểm
của vốn chủ sở hữu. Cổ phiếu phổ thông khác với cổ phần ưu đãi ở các đặc điểm về:
Thời hạn, Cách thức và thứ tự chia cổ tức, khả năng tham gia vào hoạt thông qua
quyền bầu cử, biểu quyết và các quyền khác của cổ đông; Quyền mua cổ phần; Thứ
tự ưu tiên nhận tài sản khi thanh lý, phá sản, giải thể… Những điểm khác biệt này
dẫn đến khác biệt trong đặc tính về lợi nhuận và rủi ro của cổ phiếu phổ thông so với
cổ phiếu ưu đãi. Công ty cổ phần bắt buộc phải có cổ phần phổ thông, trên thị trường
chứng khoán cổ phần phổ thông thường có quy mô niêm yết, quy mô giao dịch và
dành được sự quan tâm của các nhà phân tích, đầu tư, các cơ quan truyền thông lớn
hơn rất nhiều so với cổ phần ưu đãi.
Theo Lê Thị Tuyết Hoa và Ctg (2016), khi đề cập đến giá cổ phiều, các nhà
phân tích, nhà đầu tư cần phân biệt các loại giá khác nhau như: Mệnh giá (Face Value/
Par Value), Giá trị sổ sách hay thư giá (Book Value), Giá thị trường (Market
Value/Market Price) và Giá trị nội tại (Intrinsic Value).
Mệnh giá (Face Value/ Par Value) hay còn được gọi là giá trị danh nghĩa được
ghi trên cổ phiếu; chính là giá trị phần vốn góp vào công ty bằng tiền hay tài sản được
góp vào công ty chia cho tổng số lượng cổ phần phát hành; thể hiện sự tương quan
giữa vốn điều lệ đã góp của công ty cổ phần và số lượng cổ phần đã phát hành. Trường
hợp mệnh giá cổ phần được quy định bởi pháp luật hoặc quy định tại điều lệ công ty,
công ty sẽ lấy vốn điều lệ đã phát hành chia cho mệnh giá cổ phần để có được số
lượng cổ phần phát hành. Cũng có trường hợp pháp luật và điều lệ của công ty không
quy định về mệnh giá, khi đó mệnh giá được ngầm hiểu chính là vốn điều lệ đã phát
hành chia cho số lượng cổ phần đã phát hành. Tại Việt Nam, từ Nghị định của Chính
phủ số 144/2003/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2003 về Chứng khoán và Thị trường
26
chứng khoán đến Luật Chứng Khoán Luật Chứng khoán số 70/2006/QH11 và Luật
Chứng khoán số 54/2019/QH14 đều quy định mệnh giá của cổ phiếu chào bán ra công
chúng là 10.000 đồng.
Giá trị sổ sách (Hay còn gọi là giá trị sổ sách trên 1 cổ phần phổ thông –
Book Value per share - BVPS) phản ánh giá trị của cổ phiếu được ghi nhận theo sổ
sách kế toán của công ty tại một thời điểm nhất định. Giá trị sổ sách được tính bằng
𝑇ổ𝑛𝑔 𝑡à𝑖 𝑠ả𝑛−𝑁ợ 𝑝ℎả𝑖 𝑡𝑟ả−𝐺𝑖á 𝑡𝑟ị 𝑐ổ 𝑝ℎ𝑖ế𝑢 ư𝑢 đã𝑖
công thức sau:
𝑆ố 𝑙ượ𝑛𝑔 𝑐ổ 𝑝ℎ𝑖ế𝑢 đ𝑎𝑛𝑔 𝑙ư𝑢 ℎà𝑛ℎ 𝑏ì𝑛ℎ 𝑞𝑢â𝑛
(2.1) 𝐵𝑉𝑃𝑆 =
Giá trị sổ sách của cổ phần chính bằng mệnh giá cộng với phần lợi nhuận giữ lại
được tích lũy hoặc trừ đi phần lỗ lũy kế. Giá trị sổ sách cho thấy phần giá trị tăng
thêm so với giá trị vốn góp ban đầu sau một thời gian hoạt động. Ngoài ra một số
khoản mục khác cũng có thể làm giá trị sổ sách khác mệnh giá đặc biệt là thặng dư
vốn cổ phần. Nếu giả định công ty ngưng hoạt động và bán được các tài sản với giá
đúng bằng giá ghi nhận trên sổ sách kế toán, giá trị sổ sách chính là giá trị thanh lý
hay số tiền dự kiến mà cổ đông sẽ nhận được trên 1 cổ phần. Tuy nhiên, trong phần
lớn các trường hợp định giá công ty còn tiếp tục hoạt động chứ không giải thể hay
phá sản tại thời điểm định giá. Đồng thời, vì nhiều lý do khác nhau giá trị ghi trên sổ
sách kế toán cũng có thể không phản ánh chính xác giá trị các tài sản và nguồn lực
mà công ty sở hữu và kiểm soát. Đối với nhà đầu tư, giá trị sổ sách có ý nghĩa nhiều
hơn so với mệnh giá, nhưng vẫn chưa phản ánh được giá trị hợp lý của cổ phần.
Giá thị trường (Market Price) của cổ phiếu là mức giá gần nhất mà cổ phiếu
đã được giao dịch, trên thị trường chứng khoán giao dịch sẽ diễn ra khi mức giá cao
nhất mà người mua sẵn sàng mua bằng hoặc cao hơn mức giá thấp nhất mà người bán
sẵn sàng bán. Đối với các cổ phiếu đã niêm yết trên các sở giao dịch chứng khoán tập
trung, giá thị trường được hình thành rất rõ ràng thông qua cơ chế khớp lệnh định kỳ
hoặc khớp lệnh liên tục. Đối với cổ phiếu chưa niêm yết hoặc chưa phát hành ra công
chúng thông tin về giá thị trường sẽ hạn chế hơn rất nhiều do, giá cả được hình thành
thông qua quá trình đàm phán, giao dịch trực tiếp giữa các nhà đầu tư. Giá thị trường
được xác định trên cơ sở cung cầu và có thể thay đổi liên tục. Bất cứ điều gì dẫn đến
27
sự dịch chuyển trong tương quan cung cầu đều sẽ dẫn đến sự thay đổi của giá cổ
phiếu, bao gồm cả các yếu tố hợp lý như: thông tin về bản thân doanh nghiệp, thông
tin về ngành, thông tin về nền kinh tế … và cả các yếu tố không hợp lý như: các thông
tin sai lệch, tâm lý bầy đàn, và thậm chí cả yếu tố thao túng giá …
Theo Pinto và Ctg (2018), Giá trị nội tại của bất cứ tài sản đầu tư nào chính là
giá trị dựa trên giả định đã hiểu biết một cách đầy đủ về các đặc tính của tài sản đó.
Đối với một nhà đầu tư cụ thể giá trị nội tại phản ánh quan điểm của họ về giá trị thực
(real value) hay giá trị đúng (true value) của tài sản đó. Giá trị nội tại được tính toán
trên cơ sở nền tảng và các đặc tính của khoản đầu tư. Đối với cổ phiếu, giá trị nội tại
được quyết định bởi các đặc tính bên trong công ty như: tình hình tài chính, năng lực
cạnh tranh, thương hiệu, chất lượng quản trị … và cả các yếu tố bên ngoài như: tình
hình nền kinh tế, mặt bằng lãi suất, mặt bằng giá chứng khoán trên thị trường …
Graham và Dodd (1934) đã đề cập đến khái niệm giá trị hay giá trị nội tại của cổ
phiếu “Giá trị của cổ phiếu phụ thuộc hoàn toàn vào những gì nó có kể tạo ra trong
tương lai”. Sự khác nhau giữa giá trị và giá cả của cổ phiếu bắt đầu được xem xét đến
như một tín hiệu trong quyết định đầu tư. Đây là quan điểm được xem là lý thuyết
của kỷ nguyên mới (New – Era Theory). Trước đó, các nhà đầu tư dành sự quan tâm
chủ yếu cho cổ tức và đặc biệt là giá trị tài sản hữu hình của công ty thể hiện thông
qua giá trị sổ sách (book value); cân nhắc việc mua cổ phiếu với giá cao hơn giá trị
sổ sách hay thấp hơn giá trị sổ sách.
Ngoài các khái niệm về giá cổ phiếu như nêu trên, giá trị của một công ty có
thể được xem xét trong trường hợp công ty ngưng hoạt động, giải thể và thanh lý
ngay lập tức hoặc trường hợp công ty tiếp tục hoạt động. Giá trị công ty trong trường
hợp giả định công ty tiếp tục hoạt động kinh doanh trong tương lai được gọi là giá trị
tiếp tục hoạt động (going – concern value). Ngược lại, giá trị thanh lý
(Liquidation Value) là giá trị công ty dựa trên giả định công ty sẽ ngưng hoạt động,
các tài sản sẽ được thanh lý và bán một cách riêng rẽ.
2.1.3. Các quan điểm về định giá và sử dụng kết quả định giá:
Như vậy, định giá cổ phiếu hay công ty chính là việc tính toán, ước lượng giá
trị nội tại. Động lực quan trọng và mấu chốt nhất để tiến hành định giá cổ phần, đặc
28
biệt là đối với các cổ phần đại chúng giao dịch trên thị trường chứng khoán, chính là
sự nghi ngờ về tính chính xác và hợp lý của giá thị trường. Damoradan (2006) cho
rằng muốn kiếm tiền từ định giá, bạn phải giả định rằng thị trường không hiệu quả,
vấn đề này có sự liên hệ mật thiết với Lý thuyết thị trường hiệu quả (EMH). Theo Lý
thuyết thị trường hiệu quả, giá thị trường hiện tại đã phản ánh đầy đủ, chính xác toàn
bộ các thông tin về cổ phiếu, tức là giá thị trường đã phản ánh một cách hoàn hảo giá
trị nội tại, đồng thời không có cơ sở nào cho việc dự đoán giá chứng khoán nhằm tìm
kiếm lợi nhuận vượt trội. Khi đó, các nhà đầu tư sẽ không bỏ công sức và chi phí để
thu thập, phân tích thông tin nhằm xác định giá trị nội tại, việc định giá là không cần
thiết, bởi vì giá trị nội tại chính là giá thị trường. Và nếu không nhà đầu tư nào thu
thập và phân tích thông tin về cổ phiếu, thì làm sao các thông tin có thể phản ánh vào
giá và làm sao để thị trường hiệu quả. Mệnh đề này được gọi là Nghịch lý Grossman
– Stiglitz. 2
Mặt khác, nếu các thông tin cơ bản về cổ phiếu chẳng liên quan gì đến giá cổ
phiếu hay chẳng bao giờ phản ánh vào giá cổ phiếu thì việc phân tích và định giá
cũng trở nên vô nghĩa. Việc khẳng định thị trường hoàn toàn hiệu quả hoặc hoàn toàn
không hiệu quả đều phủ nhận và triệt tiêu động lực của công tác định giá cổ phiếu.
Các nhà đầu tư, nhà phân tích tin tưởng vào phương pháp định giá dựa trên một quan
điểm dung hòa, có xét đến các cấp độ thị trường hiệu quả ở các thị trường hay theo
các khung thời gian khác nhau. Tinh thần này phần nào được thể hiện trong các nghiên
cứu được trao giải Nobel Kinh tế năm 2013.3
Người phân tích nhìn nhận giá thị trường của cổ phiếu một cách vừa tin tưởng
vừa nghi ngờ. Người phân tích vừa tin rằng các cổ phiếu hoàn toàn có thể bị định giá
sai (mispricing), vừa tin rằng cuối cùng giá thị trường cũng sẽ có xu hướng hội tụ về
giá trị nội tại. Đây là cơ sở để nhà đầu tư ước lượng giá trị nội tại, so sánh giá trị nội
2 Grossman – Stiglitz paradox. 3 “Không có cách nào để dự đoán giá của cổ phiếu hay trái phiếu trong vài ngày hay vài tuần tới. Nhưng hoàn toàn có thể dự đoán được diễn tiến chính của giá trong giai đoạn dài hơn như vài năm. Các khám phá gây ngạc nhiên và có phần mâu thuẫn này đã được nêu ra và phân tích bởi các khôi nguyên năm nay Eugene Fama, Lars Peter Hansen and Robert Shiller” – Diễn từ của Hội đồng trao giải Nobel Kinh tế năm 2013.
29
tại với giá thị trường để dựa đoán giá cổ phiếu và đưa ra các quyết định đầu tư. Nếu
giá cổ phiếu trên thị trường thấp hơn giá trị nội tại của cổ phiếu thì được xác định là
cổ phiếu bị định giá thấp (undervalued), nhà đầu tư sẽ quyết định mua vào, do giá thị
trường sẽ có xu hướng tăng lên để hội tụ về giá trị nội tại. Nếu giá cổ phiếu trên thị
trường cao hơn giá trị nội tại của cổ phiếu thì được xác định là cổ phiếu bị định giá
cao (overvalued), nhà đầu tư sẽ quyết định bán ra, do giá thị trường sẽ có xu hướng
giảm xuống lên để hội tụ về giá trị nội tại.
Tóm lại, các nhà đầu tư theo trường phái phân tích cơ bản xem sự khác nhau
giữa giá trị nội tại và giá thị trường của cổ phiếu là cơ sở quan trọng để dự đoán giá
cổ phiếu và quyết định đầu tư. Tại một thời điểm nhất định giá thị trường có thể cao
hơn hoặc thấp hơn giá trị nội tại, nhưng trong dài hạn giá thị trường sẽ có xu hướng
điều chỉnh về gần với giá trị nội tại.
2.1.4. Các hướng tiếp cận trong định giá cổ phần
Mỗi phương pháp định giá đều một phương pháp luận hay còn gọi là cách tiếp
cận định giá (Valuation Approach). Theo Schmidt (2022), Bộ Tài chính (2021) có ba
cách tiếp cận định giá phổ biến nhất bao gồm: Tiếp cận từ chi phí, tiếp cận từ thị
trường, tiếp cận từ thu nhập. Tuy nhiên, có một số mô hình định giá là sự kết hợp
giữa các cách tiếp cận trên. Do đó, NCS trình bày 04 hướng tiếp cận trong định giá
cổ phần như sau:
❖ Hướng tiếp cận theo tài sản (Asset Approach)
Hướng tiếp cận theo tài sản (Asset Approach) hay còn gọi là hướng tiếp cận
theo chi phí (Cost Approach), theo đó, giá trị của công ty chính là giá thị trường hợp
lý của tất cả các tài sản và nguồn lực mà công ty đang sở hữu hoặc kiểm soát. Nhà
đầu tư chỉ quan tâm giá trị tài sản hiện tại của công ty, không quan tâm đến việc công
ty tạo ra dòng tiền trong tương lai như thế nào. Hướng tiếp cận này là cơ sở của
Phương pháp định giá dựa trên tài sản (Asset - Based Valuation Method).
❖ Hướng tiếp cận theo dòng tiền (Cashflow Approach)
Hướng tiếp cận theo dòng tiền (Cashflow Approach) hay còn gọi là hướng tiếp
cận theo thu nhập (Income Approach), theo đó, giá trị của doanh nghiệp/cổ phần
chính là giá trị của dòng thu nhập hay dòng tiền mà nó tạo ra trong tương lại. Đây
30
cũng được xem là nguyên tắc căn bản của tài chính; giá trị của một tài sản, đặc biệt
là tài sản tài chính chính là giá trị hiện tại của các dòng tiền mà tài sản đó kỳ vọng sẽ
tạo ra trong tương lại. Hướng tiếp cận này là cơ sở của Phương pháp định giá chiết
khấu dòng tiền (Discounted Cash Flow Method) hay còn gọi là Phương pháp hiện
giá (Present Value Method).
❖ Hướng tiếp cận theo thị trường (Market Approach)
Hướng Tiếp cận theo thị trường (Market Approach) hoặc còn gọi là tiếp cận
theo so sánh (Comparable Approach), được dựa trên nguyên lý Quy luật một giá (Law
of one price), những tài sản tương tự nhau phải được giao dịch ở mức giá tương
đương. Hướng tiếp cận này là cơ sở nền tảng của Phương pháp định giá so sánh
(Comparable Valuation) còn có những tên gọi khác nhau như: Phương pháp định giá
trên cơ sở thị trường (Market - Based Valuation), Định giá theo hệ số thị trường
(Market Ratio Valuation), Định giá theo bội số (Multiples Valuation), Định giá tương
đối (Relative Valuation)…
❖ Hướng tiếp cận kết hợp
Ta có thể thấy mỗi hướng tiếp cận sẽ làm cơ sở cho một hoặc một nhóm các
phương pháp, mô hình định giá. Đồng thời, có một số phương pháp định giá có xu
hướng kết hợp giữa hai hướng tiếp cận khác nhau, có thể kể đến như Mô hình định
giá thu nhập thặng dư (Residual Income Valuation Model - RIV). Ohlson (1995)
đề xuất Mô hình định giá thu nhập thặng dư (RIV) cho rằng giá trị nội tại của cổ phiếu
là tổng của 02 cấu phần: Giá trị sổ sách hiện tại của cổ phần và giá trị hiện tại của thu
nhập thặng dư. Mô hình RIV có sự kết hợp nhất định giữa hướng tiếp cận tài sản
(Asset Approach) và Hướng tiếp cận dòng tiền (CashFlow Approach).
2.2. Các phương pháp định giá cổ phần
Damodaran (2012) chia các phương pháp định giá thành 3 nhóm chủ yếu: Phương
pháp chiết khấu dòng tiền (Discounted Cash Flow), phương pháp định giá tương đối
(Relative Valuation), Phương pháp định giá những tài sản có quyền kèm theo
(Contingent Claim Valuation). Theo Nagoriak và Wilcox (2018), các phương pháp
định giá cổ phiếu bao gồm: Mô hình hiện giá (Present Value Models) hay mô hình
31
chiết khấu dòng tiền (Discounted Cashflow Models), Mô hình bội số (Multiplier
Model, Market Multiple Model), Mô hình định giá dựa trên tài sản (Asset – based
Valuation Models). Pinto và Ctg (2012, 2018) lại có cách phân loại khác, theo đó các
phương pháp định giá cổ phiếu bao gồm: Mô hình định giá tuyệt đối (Absolute
Valuation Models) và Mô hình định giá tương đối (Relative Valuation Model). Trong
đó, mô hình định giá tuyệt đối bao gồm: Mô hình chiết khấu dòng tiền (chiết khấu
dòng cổ tức, FCFE, FCEF), Mô hình định giá dựa trên tài sản (Asset – Based
Valuation), Mô hình Thu nhập thặng dư (Residual Income Model).
Demirakos và Ctg (2004), Imam và Ctg (2008) chia các mô hình định giá
thành 02 nhóm: Các mô hình phức tạp (Sophiticated models) như các mô hình chiết
khấu dòng cổ tức (DDM), chiết khấu dòng tiền tự do (DCF), mô hình giá trị thặng dư
(RIV) …. Các mô hình định giá so sánh được gọi là mô hình không phức tạp
(Unsophisticated models). Erkilet và Ctg (2021) cũng đề cập ra một tiêu chí khác để
phân loại các phương pháp định giá đó là (1) Hướng tiếp cận theo từng thành phần (
Sum of the parts – SOTP Approach) nhà phân tích định giá từng đơn vị/mảng kinh
doanh cụ thể rồi sau đó cộng tổng lại thành giá trị công ty (2) Hướng tiếp cận tổng
thể (Holistic Approach), ngược lại với SOTP, nhà phân tích sẽ định giá công ty như
một tổng thể thống nhất, không chia thành các đơn vị/mảng cụ thể.
Theo Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam số 12 ban hành kèm theo thông tư số
28/2021/TT-BTC ngày 27 tháng 4 năm 2021, các cách tiếp cận và phương pháp thẩm
định giá doanh nghiệp bao gồm: (1) Cách tiếp cận từ thị trường, phương pháp được
sử dụng trong cách tiếp cận từ thị trường để xác định giá trị doanh nghiệp là phương
pháp tỷ số bình quân và phương pháp giá giao dịch. (2) Cách tiếp cận từ chí phí,
phương pháp được sử dụng trong cách tiếp cận từ chi phí để xác định giá trị doanh
nghiệp là phương pháp tài sản (3) Cách tiếp cận từ thu nhập, phương pháp được sử
dụng trong cách tiếp cận từ thu nhập để xác định giá trị doanh nghiệp là phương pháp
chiết khấu dòng tiền tự do của doanh nghiệp, phương pháp chiết khấu dòng cổ tức và
phương pháp chiết khấu dòng tiền tự do vốn chủ sở hữu.
Trong phạm vi luận án này, NCS căn cứ theo 04 hướng tiếp cận định giá đã trình
32
bày ở mục 2.1.4, phân loại các mô hình định giá thành 04 nhóm: (1) Mô hình định
giá dựa trên tài sản (2) Mô hình chiết khấu dòng tiền (3) Mô hình định giá so
sánh/tương đối (4) Mô hình định giá thu nhập thặng dư (kết hợp giữa hướng tiếp cận
tài sản và hướng tiếp cận thu nhập).
Hướng tiếp cận theo thị trường
Market Approach Hướng tiếp cận theo dòng tiền Cashflow Approach
Mô hình định giá dựa trên tài sản
Các mô hình chiết khấu dòng tiền (DDM, FCFE, FCFF)
Các mô hình định giá so sánh (P/E, P/B, P/S, EV/EBITDA)
Mô hình định giá thu nhập thặng dư (Residual Income Valuation Model)
Hướng tiếp cận theo tài sản Asset Approach Hình 2.1.: Các hướng tiếp cận trong định giá cổ phần và các mô hình định giá Nguồn: NCS tổng hợp
2.2.1. Mô hình định giá dựa trên tài sản (Asset - Based Valuation Models)
Mô hình định giá này dựa trên hướng tiếp cận định giá theo tài sản (Asset
Approach) hay hướng tiếp cận định giá theo chi phí (Cost Approach). Theo Pinto và
33
Ctg (2018), giá trị của công ty chính là giá thị trường hợp lý của tất cả các tài sản và
nguồn lực mà công ty đang sở hữu hoặc kiểm soát. Nhà phân tích định giá từng tài
sản riêng lẻ thuộc sở hữu của công ty rồi tập hợp lại để xác định giá trị của công ty.
Điểm khó khăn nhất của phương pháp này chính là việc xác định giá trị của các
tài sản và nguồn lực vô hình mà công ty đang sở hữu hoặc kiểm soát như: thương
hiệu, kênh phân phối, năng lực của đội ngũ nhân sự, sự trung thành của khách hàng,
bí quyết kinh doanh …và kể cả một số loại tài sản khác như: khoản phải thu, hàng
tồn kho, các tài sản cố định chuyên dùng, bất động sản, các khoản đầu tư… Phương
pháp tài sản thường được áp dụng khi định giá các công ty dựa chủ yếu vào việc nắm
giữ tài sản hữu hình cụ thể như: bất động sản, rừng, dầu khí, hay các khoản đầu tư tài
chính….Phương pháp này cũng thường được dùng trong trường hợp nhà đầu tư sẽ
mua toàn bộ hoặc mua để nắm giữ cổ phần chi phối nhằm thanh lý tài sản, sử dụng
tài sản của công ty cho mục đích kinh doanh khác hoặc tái cấu trúc căn bản hoạt động
của công ty, các trường hợp công ty dự kiến dừng hoạt động do phá sản, giải thể….
Theo Schmidt (2022), việc định giá các tài sản của doanh nghiệp có thể được
tiếp cận thông qua 2 cách khác nhau. Cách thứ nhất, nhà đầu tư sử dụng giá trị thị
trường hợp lý của tài sản, giá trị công ty là tổng số tiền thu về từ việc bán tất cả tài
sản của công ty. Cách tiếp cận thứ 2, giá trị của các tài sản được xác định trên cơ sở
các chi phí đã đầu tư để xây dựng và đưa tài sản vào sử dụng (cost to build) hoặc chi
phí thay thế (replacement cost) giá trị của tài sản được xác định trên cơ sở chi phí
hiện hành để xây dựng, tạo lập một tài sản tương đương.
2.2.2. Mô hình chiết khấu dòng tiền (Discounted Cash Flow Models)
❖ Tổng quan về mô hình chiết khấu dòng tiền
Mô hình hiện giá (Present Value Models) hay mô hình chiết khấu dòng tiền
(Discounted Cash Flow) là phương pháp định giá tiếp cận theo thu nhập (Income
Approach). William (1938) đã lần đầu tiên khởi xướng mô hình chiết khấu dòng tiền
bằng việc đưa ra công thức xác định giá trị nội tại của cổ phiếu bằng giá trị hiện tại
của dòng cổ tức kỳ vọng sẽ nhận được trong tương lai, được chiết khấu bằng tỷ suất
lợi nhuận kỳ vọng được điều chỉnh theo rủi ro của cổ phiếu. Công thức căn bản của
34
mô hình chiết khấu dòng tiền là:
𝑡=𝑛 𝑡=1
𝐶𝐹𝑡 (1+𝑟)𝑡
(2.2) 𝑉 = ∑
V: Giá trị hợp lý của tài sản tài chính
n: Thời hạn của tài sản
t : Thời kỳ t trong thời hạn của tài sản
𝐶𝐹𝑡 : Dòng tiền trong thời kỳ t
r : Suất chiết khấu phản ánh rủi ro của dòng tiền ước tính
Như vậy, quy trình định giá một cổ phần hay công ty theo phương pháp chiết khấu
dòng tiền sẽ bao gồm 3 bước cơ bản:
- Bước 1: Ước lượng dòng tiền kỳ vọng trong tương lai
- Bước 2: Tìm suất chiết khấu hay tỷ suất lợi nhuận yêu cầu phản ánh rủi ro của dòng
tiền ước tính
- Bước 3: Tính toán giá trị hiện tại của dòng tiền dựa trên dòng tiền đã có ở bước 1 và
suất chiết khấu ở bước 2.
❖ Các mô hình chiết khấu dòng tiền:
Tùy thuộc vào cách định nghĩa dòng tiền, chúng ta có các mô hình chiết khấu
dòng tiền khác nhau. Dòng tiền trực tiếp mà các cổ đông nhận được từ công ty đó
chính là cổ tức bằng tiền mặt. Đối với cổ phiếu phổ thông, cổ tức được tính từ lợi
nhuận sau thuế, trừ đi cổ tức trả cho cổ phiếu ưu đãi, trừ đi phần lợi nhuận giữ lại.
Mô hình chiết khấu dòng tiền, dựa trên dòng tiền là dòng cổ tức được gọi là Mô hình
chiết khấu dòng cổ tức (Dividend discount models -DDM).
Theo Gode & Olson (2006), mô hình chiết khấu dòng cổ tức mới chỉ tập trung
vào việc phân bổ tiền (cash distribution) chứ chưa tập trung vào khả năng tạo ra tiền
(Cash generation). Mô hình chiết khấu dòng cổ tức có thể gặp hạn chế trong trường
hợp công ty không chi trả cổ tức hoặc có sự khác biệt lớn giữa mức cổ tức được chi
trả thực tế với khả năng chi trả của công ty. Do vậy, các nhà phân tích còn sử dụng
mô hình chiết khấu dòng ngân lưu tự do (Discounted Free cash flow Model - DCF)
35
thay cho mô hình chiết khấu dòng cổ tức. Trong khi cổ tức là dòng tiền thực tế được
trả cho cổ đông, dòng tiền tự do là dòng tiền sẵn sàng phân phối cho cổ đông. Trên
thực tế, ngoài cổ tức bằng tiền mặt, công ty có thể phân bổ tiền mặt cho các cổ đông
dưới những hình thức khác nhau: mua lại cổ phiếu để giảm vốn điều lệ, mua lại cổ
phiếu quỹ… Hai mô hình chiết khấu dòng tiền tự do phổ biến nhất là Mô hình dòng
tiền tự do của doanh nghiệp (FCFF) và Mô hình dòng tiền tự do của cổ đông
(FCFE).
Dòng tiền tự do của doanh nghiệp (Free cash flow to firm - FCFF) trong một thời
kỳ t nào đó được xác định là dòng tiền sẵn sàng dành cho các chủ thể cấp vốn cho
doanh nghiệp, bao gồm: cổ đông phổ thông, chủ nợ (bao gồm cả các trái chủ), và một
số trường hợp bao gồm cả cổ đông ưu đãi. Suất chiết khấu được sử dụng trong mô
hình FCFF là chi phí vốn bình quân (Weighted Average Cost of Captital - WACC)
và giá trị hiện tại của FCFF chính là giá trị của toàn bộ doanh nghiệp (Firm Value
hay Enterprise Value), bao gồm: giá trị vốn cổ phần phổ thông, giá trị vốn cổ phần
ưu đãi và giá trị nợ phải trả. Do vậy, giá trị của phần vốn chủ sở hữu (Equity Value)
được tính bằng cách lấy giá trị của doanh nghiệp (Firm Value) trừ đi giá trị phần nợ
phải trả (Debt Value).
Dòng ngân lưu tự do của cổ đông (Free cash flow to equity – FCFE) là dòng tiền
sẵn sàng dành cho cổ đông phổ thông của công ty. Sự khác nhau giữa FCFE và FCFF
là lãi vay và thay đổi nợ dài hạn. Do khoản chi phí lãi vay thuộc về chủ nợ, nên được
trừ ra khỏi dòng tiền thuộc về cổ đông, các khoản trả nợ dài hạn sẽ làm giảm dòng
tiền của cổ đông, ngược lại các khoản vay nợ dài hạn mới được xem như làm tăng
dòng tiền thuộc về cổ đông. FCFE là dòng tiền tự do của cổ đông, do vậy, suất chiết
khấu được sử dụng trong mô hình FCFE là chi phí vốn chủ sở hữu (Cost of Equity)
và giá trị hiện tại của FCFE chính là giá trị của phần vốn chủ sở hữu (Equity Value).
❖ Vấn đề suất chiết khấu trong các mô hình chiết khấu dòng tiền
Trong mô hình định giá theo phương pháp chiết khấu dòng tiền, suất chiết
khấu (Discount rate) hay tỷ suất lợi nhuận yêu cầu (Required Rate of Return) là một
thông số có ý nghĩa rất quan trọng. Nguyên tắc căn bản để xác định tỷ suất lợi nhuận
36
yêu cầu bằng lãi suất phi rủi ro (Risk – free rate) cộng với phần bù rủi ro (Risk
Premium). Mối quan hệ giữa rủi ro của một khoản đầu tư với lợi nhuận kỳ vọng của
nó cũng là một trong những chủ đề chính của tài chính hiện đại, được đề cập nhiều
trong các lý thuyết về đầu tư cũng như các nghiên cứu thực nghiệm. Mô hình định
giá tài sản vốn - The Capital Asset Pricing Model (CAPM) được phát triển vào đầu
những năm 1960 bởi William Sharpe (1964), Jack Treynor (1962), John Lintner
(1965) và Jan Mossin (1966) là mô hình đầu tiên mang đến cơ sở để lượng hóa và
tính toán mối quan hệ này. Rủi ro của một tài sản đầu tư được chia thành 02 cấu phần
rủi ro hệ thống và rủi ro phi hệ thống, trong đó rủi ro phi hệ thống có thể được loại
bỏ thông qua việc đa dạng hóa danh mục đầu tư nên không có tác động đối với giá
tài sản. Mô hình CAPM xác định phần bù rủi ro dựa trên cơ sở rủi ro hệ thống do vậy
còn được gọi là mô hình 1 nhân tố (one – factor model). Fama và French (1993) phát
triển mô hình 3 nhân tố còn được gọi là Mô hình Fama – French (FFM). Ngoài nhân
tố bù rủi ro hệ thống tương tự như mô hình CAPM, mô hình còn bổ sung thêm nhân
tố phần bù liên quan đến quy mô giá trị vốn hóa (small minus big) và nhân tố liên
quan đến định giá cổ phiếu được đo bằng hệ số giá trị sổ sách trên giá thị trường (high
minus low). FFM được phát triển dựa trên nền tảng của nhiều bằng chứng thực
nghiệm tại thị trường Mỹ và nhiều nước phát triển cho thấy các danh mục đầu tư có
các đặc tính khác nhau của cổ phiếu trong danh mục về quy mô vốn hóa (size) và giá
trị (value) có tỷ suất sinh lời khác so với dự báo theo mô hình CAPM. Pastor và
Stambaugh (2003) mở rộng mô hình FFM bằng cách bổ sung thêm phần nhân tố thứ
tư đó là phần bù liên quan đến tính thanh khoản của cổ phiếu đầu tư tạo nên mô hình
4 nhân tố được gọi là Mô hình Pastor và Stambaugh (PSM). Mô hình FFM và PSM
đều là các mô hình xác định tỷ suất lợi nhuận yêu cầu dựa trên các nhân tố cụ thể của
từng công ty hay cổ phiếu (stock – Specific Factors). Bên cạnh đó còn có các mô hình
xác định phần bù rủi ro dựa trên các nhân tố vĩ mô (macro – economic factor). Trong
đó có Lý thuyết kinh doanh chênh lệch giá (Abitrage Pricing Theory - APT) do
Stephen Ross khởi xướng từ năm 1976. APT cho rằng tỷ suất sinh lợi kỳ vọng của
tài sản tài chính có thể được đo lường thông qua các yếu tố kinh tế vĩ mô khác nhau
hoặc là yếu tố thị trường. Mô hình 05 nhân tố BIRR của Burmeister, Roll và Ross
37
(1994) đề cập đến các nhân tố vĩ mô tác động đến tỷ suất lợi nhuận yêu cầu của của
phiếu bao gồm: Rủi ro niềm tin (Confidence risk), Rủi ro kỳ hạn (Time horizon risk),
Rủi ro lạm phát (Inflation risk), Rủi ro chu kỳ kinh doanh (Business cycle risk), Rủi
ro thời điểm thị trường (Market timing risk).
❖ Thời gian của dòng tiền và giá trị cuối cùng trong mô hình chiết khấu dòng
tiền:
Khác với trái phiếu và các công cụ nợ, thời gian tồn tại của cổ phiếu bằng với
thời hạn tồn tại của công ty phát hành, và theo lý thuyết là mãi mãi hoặc đủ lớn về
mặt thống kê cho nên các nhà phân tích thường giả định là dòng tiền này kéo dài mãi
mãi (Perpetual). Damoradan (2002), đề xuất việc có thể sử dụng 03 giai đoạn bao
gồm: giai đoạn tăng trưởng cao, giai đoạn chuyển tiếp với tốc độ tăng trưởng giảm
dần và giai đoạn tăng trường đều kéo dài mãi mãi. Trên thực tế việc ước lượng tốc độ
và các giai đoạn tăng trưởng của doanh nghiệp, cần sự phân tích và đánh giá một cách
(g)
kỹ lưỡng chu kỳ sống (life cycle) của công ty và của ngành.
Tốc độ tăng trưởng đều (g = hằng số)
Không tăng tưởng (g = 0)
(g)
(t) (t)
Mô hình không tăng trưởng (Zero – growth perpetuity model) và Mô hình tăng trưởng
đều mãi mãi (Perpetual constant growth model) đều là các mô hình 01 giai đoạn
Giai đoạn tăng trưởng cao
(One – stage model)
Giai đoạn tăng trưởng cao
Giai đoạn chuyển tiếp
(g)
Giai đoạn Tăng trưởng đều
Giai đoạn tăng trưởng đều
38
(g)
(t) (t)
Mô hình 02 giai đoạn Mô hình 03 giai đoạn
( Two – Stage Model) (Three Stage Model)
Hình 2.2: Các giai đoạn trong mô hình chiết khấu dòng tiền
Theo nghiên cứu của Pinto và Ctg (2019), đối với các mô hình chiết khấu dòng
tiền, mô hình 02 giai đoạn và nhiều hơn 02 giai đoạn cũng được sử dụng nhiều hơn
đáng kể so với mô hình 1 giai đoạn tăng trưởng đều. Trên thực tế, các nhà phân tích
có thể dùng nhiều phương pháp và giả định khác nhau nhằm dự báo, có thể chia dòng
tiền thành nhiều giai đoạn khác nhau. Tuy nhiên, các nhà phân tích thường chỉ dự báo
được dòng tiền một cách cụ thể trong một vài khoảng thời gian/giai đoạn nhất định,
và sau đó tính toán giá trị của khoảng thời gian cuối cùng còn lại còn được gọi là Giá
trị cuối cùng (Terminal Value) hay Giá trị tiếp diễn (Continuing Value). Thường giá
trị cuối cùng, chiếm một tỷ trọng khá lớn trong toàn bộ kết quả định giá.
Như trình bày về cách chia giai đoạn của dòng tiền, trên thực tế, sử dụng mô hình
tăng trưởng đều (Gordon growth model) là cách phổ biến để xác định giá trị cuối
cùng. Damoradan (2006), gợi ý các nhà phân tích có thể giả định, trong giai đoạn
cuối tăng trưởng đều mãi mãi, tốc độ tăng trưởng của các công ty thường không vượt
quá tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. Tuy nhiên đây không phải là phương
pháp duy nhất, và không phải luôn là cách tiếp cận hợp lý. Kết quả nghiên cứu của
Nhiều nghiên cứu thực nghiệm của Morris (2009), Reis và Augusto (2013) về tỷ lệ
phá sản và tuổi thọ (mortality table) của các doanh nghiệp làm cho cơ sở của giả định
dòng tiền tăng trưởng đều mãi mãi không còn vững chắc. Ngoài phương pháp giả
định dòng tiền tăng trưởng đều, Damoradan (2006) còn đề xuất sử dụng 02 phương
pháp nữa để tính giá trị cuối cùng đó là sử dụng (1) Giá trị thanh lý dự kiến của tài
sản hoặc doanh nghiệp (2) Sử dụng mô hình định giá so sánh. Theo Bancel và Mittoo
(2014), phương pháp giả định dòng tiền giai đoạn cuối sẽ giảm dần cũng là một trong
những phương pháp được các nhà phân tích sử dụng để tính giá trị cuối cùng trong
39
mô hình chiết khấu dòng tiền.
Các nguyên tắc về ước lượng thời gian của dòng tiền hay phương pháp tính
toán giá trị cuối cùng được áp dụng chung đối với các mô hình chiết khấu dòng tiến
bao gồm cả DDM, FCFF và FCFF.
2.2.3. Mô hình định giá thu nhập thặng dư (Residual Income Valuation
Model)
Thu nhập thặng dư (Residual Income - RI) còn được gọi là Lợi nhuận kinh tế
(Economic Profit), Thu nhập bất thường (Abnomal Earnings) hay Giá trị kinh tế gia
tăng (Economic Value Added)… là phần lợi nhuận còn lại sau khi trừ chi phí cơ hội
của tất cả các nguồn vốn. RI được tính bằng cách lấy lợi nhuận sau thuế trừ đi chi phí
cơ hội của nguồn vốn cổ đông được sử dụng trong quá trình tạo ra lợi nhuận. Sự ra
đời và phổ biến của khái niệm này xuất phát từ sự hạn chế của kế toán truyền thống.
Báo cáo kết quả kinh doanh của các công ty chỉ tính đến chi phí của nguồn vốn nợ
dưới hình thức chi phí lãi vay chứ không tính đến chi phí vốn chủ sở hữu. Feltham và
Ohlson (1995) đưa ra định nghĩa và công thức tính Lợi nhuận thặng dư như sau:
𝑅𝐼𝑡 = 𝑁𝐼𝑡 − 𝑟𝑒𝑞𝑢𝑖𝑡𝑦 × 𝐵𝑡−1 (2.3)
- 𝑅𝐼𝑡 : Thu nhập thặng dư tại thời điểm t
- 𝑁𝐼𝑡: Thu nhập ròng trong thời kỳ t - 𝑟𝑒𝑞𝑢𝑖𝑡𝑦: Chi phí vốn chủ sở hữu (Cost of Equity)
- 𝐵𝑡 : Giá trị sổ sách của cổ phần phổ thông vào thời điểm t
Dựa trên giả định cân bằng “clean surplus relation”, xác định mối quan hệ
giữa lợi nhuận, cổ tức và giá trị sổ sách, và mô hình chiết khấu dòng cổ tức (DDM),
Feltham và Ohlson (1995) đề xuất mô hình RIV:
∝ 𝑖=1
∝ 𝑖=1
𝑅𝐼𝑡 (1+𝑟𝑒𝑞𝑢𝑖𝑡𝑦)𝑡
(1+𝑟𝑒𝑞𝑢𝑖𝑡𝑦)𝑡
(2.4) 𝑉0 = 𝐵0 + ∑ = 𝐵0 + ∑ 𝐸𝑡−𝑟𝑒𝑞𝑢𝑖𝑡𝑦𝐵𝑡
- 𝑉0 : Giá trị nội tại của cổ phiếu tại năm hiện tại (t = 0)
- 𝑅𝐼𝑡 : Thu nhập thặng dư trên 1 cổ phiếu tại thời điểm t
- 𝐸𝑡: Thu nhập ròng trên 1 cổ phiếu trong thời kỳ t - 𝑟𝑒𝑞𝑢𝑖𝑡𝑦: Chi phí vốn chủ sở hữu (Cost of Equity)
40
- 𝐵0 : Giá trị sổ sách của 1 cổ phần phổ thông vào thời điểm hiện tại (t = 0)
- 𝐵𝑡 : Giá trị sổ sách của 1 cổ phần phổ thông vào thời điểm t
Mô hình định giá thu nhập thặng dư cho rằng giá trị nội tại của cổ phiếu là tổng
của 02 cấu phần: Giá trị sổ sách hiện tại của cổ phần và giá trị hiện tại của thu nhập
thặng dư. Một công ty tạo ra thu nhập lớn hơn tổng chi phí tạo thành các nguồn vốn
của nó, tức là có thu nhập thặng dư dương và đang tạo ra giá trị (creating value). Giá
trị nội tại của nó sẽ lớn hơn giá trị sổ sách. Ngược lại, một công ty tạo ra thu nhập
nhỏ hơn tổng chi phí tạo thành các nguồn vốn của nó, tức là có thu nhập thặng dư âm
và đang làm suy giảm giá trị (destroying value). Giá trị nội tại của nó sẽ nhỏ hơn giá
trị sổ sách. Mô hình RIV có sự kết hợp nhất định giữa mô định giá dựa trên tài sản
(Asset - Based Valuation Models) và mô chiết khấu dòng tiền (Discounted Cash
Flow). Đồng thời chuyển từ khuynh hướng đánh giá khả năng tạo tiền mặt (Cash
generation) của mô hình DCF sang khuynh hướng đánh giá khả năng tạo ra giá trị
(Generation of value). Mô hình RIV đặc biệt hiệu quả trong trường hợp công ty không
chi trả cổ tức hoặc không tạo ra dòng tiền dương trong ngắn hạn; giá trị cuối cùng
(terminal value) cũng không chiếm tỷ trọng quá lớn như trong mô hình chiết khấu
dòng tiền.
2.2.4. Mô hình định giá so sánh
Mô hình hay phương pháp định giá so sánh (Comparable Valuation) còn có
những tên gọi khác nhau như: Định giá trên cơ sở thị trường (Market - Based
Valuation), Định giá theo hệ số thị trường (Market Ratio Valuation), Định giá theo
bội số (Multiples Valuation), Định giá tương đối (Relative Valuation)…Dù có những
điểm khác nhau nhất định, nhưng nhìn chung nội hàm của các thuật ngữ này đều
tương đối giống nhau. Trong nội dung luận án này, tác giả thống nhất sử dụng thuật
ngữ “Định giá so sánh”. Trong phương pháp định giá so sánh, mục tiêu là định giá
tài sản dựa trên cơ sở so sánh giữa các tài sản tương tự đang được giao dịch và định
giá trên thị trường. Cơ sở nền tảng của của phương pháp định giá này là Quy luật một
giá (Law of one price), những tài sản tương tự nhau phải được giao dịch ở mức giá
tương đương. Tuy nhiên, tìm ra những cổ phiếu hoàn toàn tương đương nhau là điều
41
không khả thi trên thực tế, chúng ta có thể thấy những công ty cùng ngành, cùng quy
mô hay giống nhau ở một số đặc điểm nào đó nhưng không thể tìm thấy những công
ty hoàn toàn giống nhau trên tất cả mọi khía cạnh. Do đó, các nhà phân tích sẽ sử
dụng một hoặc một số các thông số tài chính như lợi nhuận, doanh thu, giá trị sổ sách,
tổng tài sản, dòng tiền … làm cơ sở để so sánh các công ty. Khái niệm công ty tương
tự có thể được hiểu rộng hơn như: tương tự về lợi nhuận, tương tự về giá trị sổ sách,
tương tự về dòng tiền, tương tự về doanh thu ….
❖ Các bội số so sánh phổ biến
Để thuận tiện trong việc so sánh các công ty có quy mô khác nhau, các bội số
(Multiple) đã được các nhà phân tích phát triển và sử dụng ngày càng phổ biến. Theo
Pinto & Ctg (2018), Damoradan (2012), Bodie & Ctg (2014), có hai loại bội số chủ
yếu là Bội số giá cổ phiếu (Price Multiple) và Bội số giá trị toàn bộ doanh nghiệp
(Enterprise Multiple). Bội số giá cổ phiếu là các hệ số phản ánh mối quan hệ giữa giá
cổ phiếu và các thông số tài chính như lợi nhuận, doanh thu, giá trị sổ sách, dòng tiền
… tính trên một cổ phiếu. Tiêu biểu như: hệ số P/E ( Price to Earnings – Hệ số giá
trên thu nhập), hệ số P/B (Price to Book Value – Hệ số giá trên giá trị sổ sách), hệ số
P/S (Price to Sales – Hệ số giá trên doanh thu) … Các bội số này cũng có thể được
tính bằng cách lấy tổng giá trị vốn hóa thị trường của cổ phần phổ thông (Market
Capitalization) chia cho tổng doanh thu, giá trị sổ sách, lợi nhuận, dòng tiền của toàn
bộ công ty cho nên ta còn có thể gọi là các bội số vốn cổ phần phổ thông (Equity
Multiple).
Bội số giá trị toàn bộ doanh nghiệp (Enterprise Multiple) phản ánh mối quan
hệ giữa giá trị thị trường của toàn bộ các nguồn vốn của doanh nghiệp (cổ phần phổ
thông, cổ phần ưu đãi, nợ) với các thông số tài chính của toàn bộ doanh nghiệp. Tiêu
biểu như: Hệ số EV/EBIDA (Enterprise Value to EBITDA - Hệ số Giá trị doanh
nghiệp trên lợi nhuận trước thuế, lãi và khấu hao ), Hệ số EV/EBIT (Enterprise Value
to EBIT – Hệ số giá trị doanh nghiệp trên lợi nhuận trước thuế và trước lãi), EV/S
(Enterprise Value to Sale – Hệ số giá trị doanh nghiệp trên doanh thu).
Ngoài các thông số tài chính cơ bản, các nhà nghiên cứu, nhà phân tích còn phát
42
triển thêm các bội số có bổ sung các yếu tố đặc thù như tốc độ tăng trưởng (hệ số
PEG), các bội số liên quan đến hàm lượng tri thức (knowledge – related multiples).
Trong một số ngành, lĩnh vực đặc thù cũng có những bội số được thiết kế và sử dụng
riêng cho ngành, lĩnh vực đó như : Bội số liên quan số thuê bao trong ngành truyền
hình cable và vệ tinh, Bội số liên quan đến số lượng khách hàng hay số lượng truy
cập (traffic) trong ngành thương mại điện tử…
❖ Quy trình định giá theo phương pháp định giá so sánh
Schreiner (2007) tổng hợp và đề xuất quy trình định giá so sánh bao gồm 04
bước: (1) Lựa chọn bội số (Selection of value relevant measures), (2) Xác định công
ty so sánh (Identification of comparables), (3) Ước tính bội số tổng hợp của nhóm so
sánh (Estimation of synthetic peer group multiples) (4) Tính giá trị chính xác (Actual
valuation). Dựa trên quy trình của Schreiner (2007), Pinto và Ctg (2018), Bộ Tài
chính (2021), NCS tổng hợp, điều chính và trình bày quy trình định giá theo phương
pháp định giá so sánh với 03 bước như sau:
Bước 1: Lựa chọn bội số so sánh phù hợp
Để định giá công ty bằng phương pháp định giá so sánh, trước tiên người định
giá phải lựa chọn bội số so sánh phù hợp nhất. Nhà phân tích phải trả lời những câu
như: Lựa chọn bội số giá cổ phiếu (Price/Equity multiple) hay bộ số toàn bộ doanh
nghiệp (Enterprise Multiple) ? Lựa chọn bội số cụ thể (P/E, P/B, EV/EBITDA …)
nào ? Lựa chọn bội số dựa lên dữ liệu quá khứ (Trailing Multiple) hay bội số dựa trên
dữ liệu dự phóng (Forward – looking Multiple)… ? Để trả lời những câu hỏi cụ thể
này, nhà phân tích phải dựa trên cơ sở là các nghiên cứu thực nghiệm về tính chính
xác của các bội số trong định giá, sự phù hợp đối với các đặc điểm, điều kiện, cụ thể
của công ty định giá (target company).
Bước 2: Tìm kiếm công ty/nhóm công ty so sánh (Peer Company/Peer Group)
Tiếp theo, người định giá phải tìm kiếm công ty hoặc nhóm công ty có mức
độ tương đồng cao với công ty mục tiêu. Việc này tương đối khó thực hiện, vì trên
thực tế rất khó để tồn tại hai công ty giống nhau hoàn toàn. Palepu & Ctg (2000), đưa
43
ra điều kiện các công ty so sánh phải có hoạt động và các đặc điểm tài chính tương
tự như công ty đang được định giá. Đây là vấn đề được rất nhiều nhà nghiên cứu,
chuyên gia phân tích, nhà đầu tư quan tâm. Một trong những phương pháp thường
được sử dụng đó lựa chọn các công ty cùng ngành để làm công ty, nhóm công ty so
sánh khi định giá. Các nhà phân tích thường giả định là các công ty cùng ngành sẽ có
hoạt động và các đặc điểm tài chính tương đối giống nhau. Khi sử dụng cách tiếp cận
này, người định giá thường phải trả lời các câu hỏi như : Thế nào là các công ty cùng
ngành, tiêu chí để xác định và phân loại ngành là gì ? Cần khoảng bao nhiêu công ty
trong nhóm so sánh là hợp lý. Với sự hẫu thuẫn của các kết quả nghiên cứu thực
nghiệm, bên cạnh yếu tố ngành, các nhà phân tích ngày càng có xu hướng quan tâm
hơn đến việc xem xét sự tương đồng về các yếu tố như quy mô, mức độ rủi ro, tiềm
năng tăng trưởng, khả năng sinh lời … khi lựa chọn các công ty so sánh. Ngoài ra,
bội số trung bình của toàn thị trường hay bội số trung bình quá khứ của chính công
ty cũng có thể được sử dụng là bội số tham chiếu (benchmark multiple) trong định
giá so sánh.
Bước 3: Tính bội số tham chiếu và giá trị cổ phiếu của công ty mục tiêu
Sau khi đã các định được nhóm công ty so sánh (Peer Group), bước tiếp theo
người định giá cần phải làm tính bội số tham chiếu (Benmark Multiple) từ bội số (ví
dụ như: P/E,P/B, EV/EBITDA …) của các công ty so sánh này. Bội số tham chiếu có
thể được tính bằng nhiều phương pháp như: bình quân giản đơn, bình quân có trọng
số, trung vị (median), số bình quân điều hòa (Hamornic mean) …
Giá trị của cổ phiếu/công ty mục tiêu cần định giá sẽ bằng bội số tham chiếu
nhân với thông số là số chia trong bội số tham chiếu của công ty cần định giá
Trong mô hình sử dụng bội số giá cổ phiếu (Price Multiple)
𝑃𝑡 = 𝑀𝑝 × 𝑥𝑡 (2.5)
𝑃𝑡 ∶ Giá trị nội tại của cổ phiếu công ty cần định giá (Target Company)
𝑀𝑝 : Bội số tham chiếu
𝑥𝑡 : Thông số tính trên 1 cổ phiếu (là số chia trong bội số tham chiếu) của
công ty cần định giá (EPS, SPS, BV per share …)
44
Trong mô hình sử dụng bội số giá trị toàn bộ doanh nghiệp (Enterprise Multiple)
𝐸𝑉𝑡 = 𝑀𝑝 × 𝑋𝑡 (2.6)
𝐸𝑉𝑡 ∶ Giá trị của toàn bộ công ty cần định giá (Target Company)
𝑀𝑝 : Bội số tham chiếu
𝑋𝑡 : Thông số (là số chia trong bội số tham chiếu) của công ty cần định giá
(Ví dụ: Tổng EBITDA, tổng doanh thu…)
Trong mô hình sử dụng bội số giá trị toàn bộ doanh nghiệp kết quả định giá sẽ
là giá trị của toàn bộ doanh nghiệp (Enterprise Value); lấy giá trị này trừ cho giá trị
nợ phải trả (Debt Value), trừ đi giá trị cổ phiếu ưu đãi (nếu có) chính là Giá trị của
vốn cổ phần phổ thông (Equity Value). Giá trị của vốn cổ phần phổ thông chia cho
tổng số lượng cổ phiếu đang lưu hành sẽ là giá trị của 1 cổ phiếu.
STT Mô hình định giá Ký hiệu Ghi chú/Công thức
1. Các mô hình định giá theo hướng tiếp cận tài sản (Asset Based Approach)
NAV = Giá trị thị trường của
Giá trị tài sản ròng theo giá thị toàn bộ tài sản – Giá trị thị 1.1 NAV trường trường của các khoản nợ và
nghĩa vụ
BV = Giá trị sổ sách của toàn
Giá trị vốn cổ phần theo giá bộ tài sản – Giá trị sổ sách 1.2 BV trị sổ sách của các khoản nợ và nghĩa
vụ- Giá trị của cổ phần ưu đãi
2. Các mô hình định giá theo hướng tiếp cận thu nhập/dòng tiền
(Income/Cashflow Approach)
Mô hình chiết khấu dòng cổ
2.1 tức (Divident Discount DDM Model)
Mô hình chiết khấu dòng ngân
45
2.2 lưu thuộc về chủ sở hữu (Free Gọi chung là mô hình chiết FCFE Cashflow to Equity) khấu dòng tiền tự do
Mô hình chiết khấu dòng ngân (Discounted Free Cashflow –
2.3 lưu thuộc về doanh nghiệp DCF) FCFF (Free Cashflow to Firm)
3. Các mô hình định giá theo hướng tiếp cận thị trường/so sánh
(Market/Comparable Approach)
3.1 Các bội số giá cổ phiếu (Price Multiple/Equity Multiple)
P : Giá thị trường của cổ
Hệ số giá trên lợi nhuận phiếu P/E 3.1.1 Price to Earnings (E) - EPS : Lợi nhuận sau
thuế trên một cổ phiếu
B - BVPS : Giá trị sổ sách Hệ số giá trên giá trị sổ sách của một cổ phiếu phổ thông Price to Book Value P/B 3.1.2 (Book Value per common
share)
S- SPS : Doanh thu trên một Hệ số giá trên doanh thu 3.1.3 P/S cổ phiếu (Sales per common Price to Sales share)
CF: Dòng tiền trên một cổ
phiếu. Có thể là :
+ CFO: Dòng tiền hoạt động
(Cashflow from Hệ số giá trên dòng tiền Operating) 3.1. 4 Price to Cashflow P/CF + FCFE : Dòng ngân lưu tự
do thuộc về cổ đông (Free
Cash Flow to Equity)
Hệ số giá trên cổ tức DPS : Cổ tức trên 1 cổ phiếu 3.1.5 Price to Dividend P/D (Dividend per share)
Hệ số giá trên tài sản TA: Tài sản trên 1 cổ phiếu
46
3.1.6 Price to Asset P/TA (Asset per share)
Hệ số giá cổ phiếu trên lợi P/E : Hệ số giá trên thu nhập
nhuận của một cổ phiếu và tốc của cổ phiếu
độ tăng trưởng) PEG g: Tốc độ tăng trưởng kỳ 3.1.7 P/E – to - growth vọng của công ty
3.2. Các bội số giá trị doanh nghiệp (Enterprise value multiple)
EV : Giá thị trường của toàn
bộ nguồn vốn của doanh
nghiệp ( bao gồm cả nợ, cổ
phần ưu đãi, cổ phần phổ Hệ số giá trị doanh nghiệp trên
thông). lợi nhuận trước thuế, lãi và
EBITDA : Tổng lợi nhuận 3.2.1 khấu hao EV/EBITDA trước thuế, lãi và khấu hao Enterprise Value to EBITDA
(Earning Before Interest,
Tax, Depreciation and
Amortization
EBIT : Tổng lợi nhuận trước Hệ số giá trị doanh nghiệp thuế và trước lãi và khấu hao trên lợi nhuận trước thuế và (Earning Before Interest và 3.2.2 trước lãi EV/EBIT Tax) Enterprise Value to EBIT
Hệ số giá trị doanh nghiệp trên FCFF : Tổng dòng ngân lưu
dòng ngân lưu tự do thuộc về EV/FCFF tự do thuộc về doanh nghiệp 3.2.3 (Free Cash Flow to Firm) doanh nghiệp
47
Enterprise Value to FCFF
Hệ số giá trị doanh nghiệp trên EBIT+R&D : Tổng lợi nhuận lợi nhuận trước thuế và trước trước thuế và trước lãi cộng lãi cộng chi nghiên cứu và phát chi đầu tư nghiên cứu và phát EV/EBIT+ triển 3.2.4 triển (Earning Before R&D Enterprise Value to EBIT + Interest and Tax plus R&D Research and Development
Expenditure)
Hệ số giá trị doanh nghiệp trên
3.2.5 doanh thu EV/S Sales : Tổng doanh thu của
Enterprise Value to Sale công ty trong kỳ
3.2.6 Hệ số giá trị doanh nghiệp trên tổng tài sản EV/TA TA: Tổng tài sản của công ty Enterprise Value to Asset
4. Mô hình định giá kết hợp hướng tiếp cận dòng tiền và tài sản
Theo mô hình RIV, giá trị nội
Mô hình định giá thu nhập tại của cổ phiếu là tổng của
thặng dư 02 cấu phần: Giá trị sổ sách 4.1 Residual Income Valuation RIV hiện tại của cổ phần và giá trị
Model hiện tại của thu nhập thặng
dư.
Bảng 2.1: Tóm tắt các mô hình định giá
Nguồn : Tổng hợp của tác giả
2.3. Hệ số P/E và mô hình định giá so sánh theo hệ số P/E 2.3.1. Hệ số P/E
Graham và Dodd (1934) lần đầu mô tả phương pháp định giá dựa trên hệ số
P/E (Price to earnings) trong phiên bản đầu tiên của cuốn sách nổi tiếng Phân tích
chứng khoán (Security Analysis). Các tác giả xem P/E như hệ số phản ánh được cả
48
kết quả hoạt động trong quá khứ và tiềm năng tăng trưởng trong tương lai và nhận
định rằng phương pháp định giá cổ phiếu phổ thông theo hệ số P/E sẽ là một phương
pháp chuẩn mực. Hệ số P/E đã trở thành một trong những công cụ, chỉ số định giá
được sử dụng phổ biến nhất, được các nhà đầu tư công nhận và sử dụng một cách
rộng rãi.
❖ Định nghĩa và phương pháp tính:
Các nhà phân tích, nhà nghiên cứu hầu như có sự thống nhất cao về cách định
𝐺𝑖á 𝑡ℎị 𝑡𝑟ườ𝑛𝑔 𝑚ỗ𝑖 𝑐ổ 𝑝ℎầ𝑛 (𝑃)
nghĩa và tính toán hệ số P/E:
𝐿ợ𝑖 𝑛ℎ𝑢ậ𝑛 𝑠𝑎𝑢 𝑡ℎ𝑢ế 𝑡𝑟ê𝑛 𝑚ỗ𝑖 𝑐ổ 𝑝ℎầ𝑛 𝑝ℎổ 𝑡ℎô𝑛𝑔 (𝐸𝑃𝑆)
(2.7) P/E =
P/E cho thấy giá cổ phiếu hiện tại cao hơn thu nhập từ cổ phiếu đó bao nhiêu
lần, hay nói cách khác là nhà đầu tư sẽ phải trả bao nhiêu đồng để mua một đồng lợi
nhuận sau thuế. P/E càng cao thì giá mà nhà đầu tư trả cho một đồng lợi nhuận của
công ty càng cao và ngược lại. P/E cũng có thể có cách tính khác đó là lấy tổng giá
trị vốn hóa của toàn bộ số lượng cổ phiếu phổ thông đang lưu hành (Market
Capitalization) chia cho tổng lợi nhuận sau thuế thuộc về cổ đông phổ thông. Tuy vậy
cách tính toán dựa trên, lợi nhuận trên mỗi cổ phần (Earnings per share – EPS) vẫn
được sử dụng phổ biến hơn.
Các chuẩn mực kế toán phổ biến trên thế giới như Chuẩn mực Kế toán Mỹ (U.S.
GAAP Accounting Standards), Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (International
Financial Reporting Standards – IFRS), Chuẩn mực kế toán quốc tế (International
Accouting Standards – IAS) đều có chuẩn mực riêng về Lãi trên một cổ phiếu
(Earnings Per Shares). Hệ thống chuẩn mực Kế toán Việt Nam cũng có riêng chuẩn
mực số 30 – VAS 30, hướng dẫn riêng về Lãi trên cổ phiếu. Các chuẩn mực kế toán
sẽ hướng dẫn các nguyên tắc tính Lãi cơ bản trên cổ phiếu (Basic EPS) và Lãi suy
giảm trên cổ phiếu ( Diluted EPS).
Theo VAS – 30, Lãi cơ bản trên cổ phiếu được tính bằng cách chia lợi nhuận
hoặc lỗ phân bổ cho cổ đông sở hữu cổ phiếu phổ thông của công ty mẹ (tử số) cho
số lượng bình quân gia quyền của số cổ phiếu phổ thông đang lưu hành trong kỳ (mẫu
49
số).
𝐿ợ𝑖 𝑛ℎ𝑢ậ𝑛 𝑠𝑎𝑢 𝑡ℎ𝑢ế 𝑝ℎâ𝑛 𝑏ổ 𝑐ℎ𝑜 𝑐ổ đô𝑛𝑔 𝑝ℎổ 𝑡ℎô𝑛𝑔
𝑆ố 𝑙ượ𝑛𝑔 𝑐ổ 𝑝ℎ𝑖ế𝑢 𝑝ℎổ 𝑡ℎô𝑛𝑔 đ𝑎𝑛𝑔 𝑙ư𝑢 ℎà𝑛ℎ 𝑏ì𝑛ℎ 𝑞𝑢â𝑛 𝑡𝑟𝑜𝑛𝑔 𝑘ỳ
EPS cơ bản= (2.8)
- Lợi nhuận hoặc lỗ phân bổ cho cổ đông sở hữu cổ phiếu phổ thông của công ty
mẹ là các khoản lợi nhuận hoặc lỗ sau thuế phân bổ cho công ty mẹ sau khi
được điều chỉnh bởi cổ tức của cổ phiếu ưu đãi, những khoản chênh lệch phát
sinh do thanh toán cổ phiếu ưu đãi và những tác động tương tự của cổ phiếu ưu
đãi đã được phân loại vào vốn chủ sở hữu.
- Số bình quân gia quyền của cổ phiếu phổ thông lưu hành trong kỳ là số lượng
cổ phiếu phổ thông lưu hành đầu kỳ được điều chỉnh theo số cổ phiếu phổ thông
được mua lại hoặc được phát hành thêm nhân với hệ số thời gian. Hệ số thời
gian là tỷ số giữa số lượng ngày mà cổ phiếu được lưu hành trong kỳ chia cho
tổng số ngày trong kỳ.
Lãi suy giảm trên cổ phiếu (Diluted EPS) là EPS được tính toán lại trên
cơ sở điều chỉnh lợi nhuận phân bổ cho cổ đông sở hữu cổ phiếu phổ thông và số bình
quân gia quyền cổ phiếu phổ thông đang lưu hành khi giả định có sự chuyển đổi các
công cụ có thể chuyển đổi như quyền chọn cổ phiếu, chứng quyền, trái phiếu chuyển
đổi, cổ phần ưu đãi có thể chuyển đổi thành cổ phần phổ thông. Trường hợp công ty
có phát hành các công cụ có thể chuyển đổi như trên, các nhà phân tích phải lưu ý sử
dụng chỉ liêu lãi suy giảm trên cổ phiếu khi tính hệ số P/E cũng như đảm bảo sử tương
đồng về cách tính khi so sánh hệ số P/E của các công ty khác nhau.
❖ Hệ số P/E theo khung thời gian
Khung thời gian (time horizon) của chỉ tiêu lợi nhuận cũng có thể đưa đến
các loại EPS khác nhau và hệ số P/E khác nhau. Khi tính toán các bội số, trong đó có
P/E, đa phần các nhà phân tích đều lấy giá thị trường hiện tại và số chia là các thông
số được lấy từ báo cáo tài chính của năm gần nhất hoặc quý gần nhất. Do vậy, bản
chất của các bội số là “trailing” có thể dịch thoáng nghĩa là “con đường mòn” tức là
dựa hoàn toàn trên dữ liệu quá khứ. Nhưng các quyết định đầu tư không chỉ dựa trên
đánh giá tình trạng hiện tại mà còn dựa trên tầm nhìn và dự báo về tương lai. Nếu các
bội số được tính trên cơ sở giá thị trường hiện tại và số chia là các thông số được dự
50
báo trong kỳ hoặc một số kỳ tới, các bội số đó được gọi đó là bội số dự phóng (
forward multiples hoặc leading multiples). Theo Pinto và các cộng sự (2018), P/E có
thể được xác định dựa trên EPS quá khứ (trailing EPS) hoặc EPS dự phóng (Forward
EPS) của các kì tiếp theo.
P/E quá khứ (Trailing P/E): được tính bằng cách lấy giá thị trường hiện tại chia
cho thu nhập trên một cổ phiếu của 4 quý gần nhất (four quarters’ EPS) cho nên
Trailing P/E còn được gọi là “Four quarters P/E” hoặc “Trailing 12 months (TTM)
EPS”. Một số tác giả cũng đề cập đến khái niệm P/E hiện hành (Current P/E) được
xác định bằng cách lấy giá thị trường hiện tại chia cho trên thu nhập trên một cổ phiếu
tại thời điểm kết thúc năm tài chính gần nhất của công ty. Như vậy cách tính ““Four
quarters P/E” phản ánh tình hình lợi nhuận trên cổ phiếu một cách cập nhật hơn so
với “Current P/E”. Tuy nhiên khác biệt này không quá quan trọng vì điểm mấu chốt
vẫn là EPS dựa trên lợi nhuận của quá khứ.
P/E dự phóng (Forward P/E): được tính bằng cách lấy giá thị trường hiện tại
chia cho thu nhập trên một cổ phiếu dự kiến trong một hoặc một số kỳ tới. Hệ số P/E
có điểm hạn chế cơ bản đó là chỉ phản ánh được mức lợi nhuận ở thời điểm gần nhất,
vừa mang tính thời điểm, vừa mang tính quá khứ; ngầm giả định rằng lợi nhuận của
công ty sẽ tiếp tục quy trì ổn định trong tương lai. Cách tính P/E dự phóng có thể
khắc phục điểm hạn chế trên của hệ số P/E, nó phản ánh tốt hơn về kì vọng của nhà
đầu tư đối với tiềm năng tăng trưởng của công ty. Nhiều nghiên cứu thực nghiệm
được tiến hành nhằm đánh gia mức độ chính xác của phương pháp định giá so sánh
khi sử dụng “Trailing P/E” hay “Forward P/E”. Trong đó có nhiều kết quả nghiên cứu
cho rằng mô hình định giá so sánh sử dụng P/E dự báo thường mang đến kết quả định
giá chính xác hơn so với việc sử dụng P/E quá khứ. Vấn đề lớn nhất khi sự dụng P/E
dự báo là khả năng tiếp cận và mức độ đáng tin cậy của các số liệu về kết quả kinh
doanh của công ty trong tương lai. Tuy nhiên, với sự phát triển của các dịch vụ cung
cấp hệ thống cơ sở dữ liệu tài chính, khả năng tiếp cận và mức độ đáng tin cậy của
các số liệu dự báo đã được cải thiện đáng kể, đặc biệt là đối với các công ty đại chúng
51
lớn. Nên việc sử dụng hệ số P/E dự phóng ngày càng phổ biến hơn.
2.3.2. Mô hình định giá so sánh theo hệ số P/E Theo quy trình định giá so sánh, bước đầu tiên các nhà phân tích, định giá phải
trả lời câu hỏi khi nào nên sử dụng hệ số P/E và khi nào không nên. Phương pháp
định giá sử dụng hệ số P/E cũng có những ưu điểm và hạn chế chung của mô hình
định giá so sánh, ngoài ra nó cũng có những ưu điểm và hạn chế riêng.
2.3.2.1. Những ưu điểm của mô hình định giá so sánh theo hệ số P/E: Từ đó, P/E là hệ số tài chính được biết đến rộng rãi nhất, được sử dụng phổ biến
nhất bởi các nhà đầu tư tổ chức, cá nhân, cũng như các cơ quan báo chí, truyền thông
về tài chính. Theo Pinto và Ctg (2018), lợi nhuận vẫn là thông số tài chính có sức
nặng lớn nhất khi xem xét đánh giá các khoản đầu tư, trong đó EPS là chỉ tiêu được
các nhà phân tích, nhà đầu tư quan tâm nhiều nhất. Theo khảo sát BofA Merrill
Lynch Institutional Factor Survey năm 2012, 81% các nhà phân tích trả lời rằng có
sử dụng hệ số P/E khi xem xét các quyết định đầu tư.
Ưu điểm thứ hai theo Damoradan (2006) đó là tính đơn giản, nếu so với các
bước, quy trình định giá theo phương pháp chiết khấu dòng tiền tự do (DCF) hay
phương pháp định giá thu nhập thặng dư (RIV), định giá so sánh theo hệ số P/E đơn
giản và dễ thực hiện hơn rất nhiều. Do đó, phương pháp định giá này dễ thực hiện, dễ
hiểu và dễ tư vấn cho khách hàng, cung như truyền thông đến công chúng. Nhà đầu
tư có thể dễ dàng sử dụng là tiêu chí để so sánh nhanh các công ty, ngành hay thị
trường, có thể sử dụng như một tiêu chí để lọc tìm nhanh cổ phiếu (screening).
Sự quan trọng của thông số về lợi nhuận, cùng với tính đơn giản và dễ hiểu,
cũng là những nguyên nhân làm cho chỉ số này được sử dụng phổ biến. Khi càng có
nhiều nhà đầu tư biết, quan tâm và sử dụng, những phản ứng của thị trường theo chỉ
số này càng nhanh, mạnh hơn về thời gian và cường độ. Giúp cho phương pháp định
giá này theo sát thị trường hơn các phương pháp khác đặc biệt là các phương pháp
định giá tuyệt đối như chiết khấu dòng tiền hay định giá theo tài sản.
Nhiều nghiên cứu thực nghiệm đo lường hiệu quả của các chiến lược đầu tư cho
thấy các cổ phiếu hay danh mục đầu tư có hệ số P/E khác nhau có thể dẫn đến sự khác
52
biệt về tỷ suất sinh lời bình quân trong dài hạn. Điều này cung cấp bằng chứng về
phản ứng của thị trường khi giá của cổ phiếu bị định giá cao (under – valued) hay bị
định giá thấp (over – valued) theo phương pháp P/E, củng cố cho tính chính xác và
hiệu quả của phương pháp định giá này.
2.3.2.2. Những hạn chế của mô hình định giá so sánh theo hệ số P/E: Hệ số P/E mang tính thời điểm, đồng thời sẽ không có ý nghĩa kinh tế, hoặc sẽ bị bóp
méo trong các trường hợp như:
Chỉ tiêu EPS của một số công ty có thể bằng không, âm hoặc rất nhỏ so với giá
thị trường của cổ phiếu, hệ số P/E sẽ không có ý nghĩa kinh tế khi số chia bằng 0, là
số âm hoặc quá nhỏ.
Ngoài thu nhập mang tính, thường xuyên, ổn định vốn rất quan trọng trong việc
xác định giá trị nội tại, EPS còn bị ảnh hưởng của những yếu tố mang tính bất thường,
tạm thời như: lãi, lỗ từ đầu tư tài chính, thanh lý tài sản cố định, giảm giá hay tăng
giá hàng tồn kho, hay những yếu tố thuận lợi hay bất lợi nhất thời của hoạt động kinh
doanh. Những yếu tố này có thể làm cho hệ số P/E cũng mang tính thời điểm và không
đại diện được do dòng lợi nhuận mang tính ổn định trong dài hạn.
EPS cũng là thông số cuối cùng trong bảng báo cáo kết quả kinh doanh, các chuẩn
mực kế toán thường cho phép các nhà quản lý công ty lựa chọn các cách thức hạch
toán ghi nhận khác nhau đối với doanh thu, chi phí và các khoản mục khác. Điều này
có thể tạm thời bóp méo, thổi phồng hoặc làm giảm lợi nhuận trong một kỳ kế toán
nhất định; chưa kể đến những hành vi cố tình vi phạm các nguyên tắc, chuẩn mực về
kế toán để thổi phồng hoặc làm giảm lợi nhuận kế toán vì những mục đích khác nhau.
Việc sử dụng hệ số P/E khi so sánh về định giá hoặc tính toán chính xác giá trị
hợp lý, mang giả định ngầm rằng công ty được định giá có dòng lợi nhuận tương đối
ổn định trong dài hạn. Các nhà phân tích cần dựa trên các đặc điểm này để quyết định
lựa chọn hệ số P/E hay các bội số khác khi định giá so sánh, hay lựa chọn các phương
pháp định giá khác phù hợp hơn. Ngoài ra, các nhà phân tích cũng phải lựa chọn hệ
số P/E quá khứ (Trailing P/E) hay hệ P/E dự phóng (Forward P/E) để sử dụng trong
53
mô hình định giá.
2.3.2.3. Các phương pháp tính bội số P/E tham chiếu (Benchmark P/E).
Công đoạn mang tính then chốt tiếp theo là xác định bội số P/E tham chiếu
(Benchmark Multiple). Lấy hệ số P/E tham chiếu này nhân với EPS của công ty được
định giá ta sẽ có giá trị ước tính (Estimated Value). Giá trị ước tính được tính theo
cách này sẽ thể hiện đúng giá trị nội tại (instrinsic value) nếu các công ty so sánh
được định giá đúng (fair price).
Trên thực tế các nhà phân tích thường sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để xác
định hệ số P/E tham chiếu, tuy nhiên có thể chia thành 03 hướng tiếp cận chính:
Hướng tiếp cận thứ nhất cũng là hướng tiếp cận phổ biến nhất là hướng tiếp
cận so sánh (Valuation Based on Comparables), tức là sử dụng hệ số P/E tham
chiếu được xác dựa trên hệ số P/E của công ty hoặc nhóm công ty được sử dụng để
so sánh. Hệ số P/E tham chiếu được tính bằng cách lấy trung bình hay trung vị hệ số
P/E của các công ty được sử dụng để so sánh.
Trên thực tế, bội số theo ngành hay lĩnh vực (Industry and Sector Multiples)
là phương pháp được sử dụng phổ biến nhất. Phương pháp thường được sử dụng khi
xác định công ty, nhóm công ty so sánh khi định giá đó là lựa chọn các công ty cùng
ngành với giả định là các công ty cùng ngành sẽ có hoạt động và các đặc điểm tài
chính tương đối giống nhau. Có nhiều tiêu chí phân ngành khác nhau, nhưng tiêu chí
được sử dụng phổ biến nhất trong phân ngành kinh tế đó là các sản phẩm và dịch vụ
được cung cấp. Ngành là tổng thể của các doanh nghiệp, tổ chức cung cấp các sản
phẩm và dịch vụ tương tự nhau. Có 03 hệ thống phân ngành được các nhà phân tích
sử dụng rộng rãi và phổ biến nhất là Global Industry Classification System (GICS)
được tài trợ bới Standard & Poor’s và MSCI, Industry Classification Benchmark
(ICB) được tài trợ bởi Dow Jones và FTSE, và Standard Industrial Classification
(SIC) của Chính phủ Hoa Kỳ. Hệ thống phân ngành ICB được chia thành 4 cấp (four
–tier structure), bao gồm: 11 Ngành (Industries), 22 lĩnh vực lớn (Super – sectors),
45 khu vực (Sectors) và 173 khu vực nhỏ (Sub-sectors). GICS cũng có hệ thống phân
ngành 4 cấp bao gồm: 11 lĩnh vực (Sector), 24 nhóm ngành (Industry Groups), 69
ngành (Insdustries) và 158 phân ngành (Sub – Industries); việc sử dụng thuật ngữ
54
“Industry” và “Sector” của GICS có phần ngược lại với ICB. Hiện này, hệ thống phân
ngành Standard Industrial Classification (SIC) đã được thay thế bằng The North
American Industry Classification System (NAICS), tuy nhiên một số cơ quan chính
phủ đặc biệt là Ủy ban chứng khoán Hoa Kỳ (SEC) vẫn tiếp tục sử dụng SIC. Nhà
phân tích có thể lựa chọn các công ty cùng nhóm cấp 1 hoặc chi tiết hơn xuống các
nhóm cấp 2,3,4. Tại Việt Nam, trong các báo cáo thống kê chính thức, Sở Giao dịch
chứng khoán TP.HCM (HOSE) sử dụng hệ thống phân ngành Global Industry
Classification System (GICS) theo dịch vụ bản quyền của MSCI và S&P cấp cho
HOSE.
Cũng trong hướng tiếp cận này, Nhà phân tích có thể tính P/E tham chiếu bằng
cách lấy P/E bình quân của toàn bộ thị trường (Overall Market Multiple), hay
cụ thể hơn là P/E trung bình của chỉ số chứng khoán (equity market indexes), tức là
tất cả các công ty trong chỉ số chứng khoán đều được sử dụng là công ty so sánh.
Hoặc đơn giản hơn, là lựa chọn 1 công ty hay một số công ty mà nhà phân tích
cho rằng có tính tương đương cao làm công ty so sánh còn gọi là bội số theo công ty
tương đương (peer – company multiples), tính tương đương có thể dựa trên các
khía cạnh như ngành nghề kinh doanh, thị phần, quy mô, cơ cấu tài chính … Theo
Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam số 12 ban hành kèm theo thông tư số 28/2021/TT-
BTC ngày 27 tháng 4 năm 2021, tiêu chí đánh giá, lựa chọn doanh nghiệp so sánh
bao gồm: (i) Doanh nghiệp so sánh tương tự với doanh nghiệp cần thẩm định giá về
yếu tố ngành nghề kinh doanh chính (ii) Doanh nghiệp so sánh tương tự với doanh
nghiệp cần thẩm định giá về đa số các chỉ số tài chính như: chỉ số phản ánh quy mô,
chỉ số phản ánh tăng trưởng, chỉ số phản ánh hiệu quả hoạt động …
Hạn chế chung của hướng tiếp cận này là rất khó để tìm được những công ty
hoàn toàn tương tự nhau và phụ thuộc nhiều vào giá thị trường của công ty so sánh.
Nếu các công ty so sánh đang được thị trường định giá cao (over – valued) thì công
ty được định giá cũng sẽ bị định giá cao theo và ngược lại.
Hướng tiếp cận thứ hai, là hướng tiếp cận dựa trên cơ sở dự báo các yếu tố
cơ bản (Valuation Based on Forecasted Fundamentals). Do hệ số P/E bị ảnh hưởng
bởi các yếu tố cơ bản của cổ phiếu như; tốc độ tăng trưởng, rủi ro, dòng tiền … cho
55
nên hệ số P/E tham chiếu cũng có thể được tính toán từ các yếu tố cơ bản này. Hệ số
P/E tham chiếu có thể được tính toán theo hệ số P/E hợp lý (Justified P/E hay
Fundamental P/E) trên cơ sở liên kết hệ số P/E với Mô hình tăng trưởng đều của
Gordon, trường hợp đơn giản nhất của mô hình chiết khấu dòng tiền. Các thông số
đầu vào để tính hệ số P/E hợp lý cũng chính là thông số đầu vào để định giá cổ phiếu
trong Mô hình tăng trưởng đều Gordon. Tuy nhiên phương pháp sử dụng P/E hợp lý
này không được sử dụng nhiều trên thực tế do không phải công ty nào cũng thỏa mãn
các điều kiện để áp dụng mô hình GGM, thêm vào đó mô hình này có độ nhạy rất
lớn, khi một thay đổi nhỏ của các thông số trong mô hình (tốc độ tăng trưởng, suất
chiết khấu), cũng có thể dẫn đến mức độ thay đổi lớn trong mức giá ước lượng.
Hướng tiếp cận thứ 3, là hướng tiếp cận có sự kết hợp giữa hướng tiếp cận 1
và hướng tiếp cận 2, vừa dựa trên cơ sở so sánh, vừa có sự điều chỉnh nhất định theo
các yếu tố cơ bản. Hướng tiếp cận thứ 3 được thể hiện qua mô phương pháp Xác
định hệ số P/E tham chiếu theo mô hình hồi quy (P/E Based on Cross – Sectional
Regression). Kisor và Whitbeck (1963) và Malkiel và Cragg (1970) là những người
tiên phong trong phương pháp này. Damoradan (2002, 2006, 2012), cũng đã nhiều
lần đề cập đến phương pháp này trong ấn bản của tác phẩm Định giá đầu tư
(Investment Valuation). Biến phụ thuộc là hệ số P/E của các công ty trong 1 ngành
hoặc toàn bộ thị trường, biến giải thích là các nhân tố có thể ảnh hưởng đến P/E như
tốc độ tăng trưởng lợi nhuận, tỷ lệ chi trả cổ tức, mức độ biến động của giá cổ phiếu
(độ lệch chuẩn hoặc hệ số Beta). Sau khi tiến hành chạy mô hình hồi quy xong sẽ xác
định được các hệ số hồi quy (regression coefficients) của từng biến. Khi muốn tính
hệ số P/E tham chiếu áp dụng cho một công ty cụ thể, nhà phân tích chỉ cần lấy các
thông số cơ bản của công ty đó thay vào phương trình hồi quy.
2.4. Cơ sở lý thuyết về các nhân tố ảnh hưởng đến P/E:
Nền tảng lý thuyết đầu tiên của các phương pháp định giá là Lý thuyết đầu tư
giá trị (Value Investing) được đề cập trong các tác phẩm kinh điển về đầu tư như:
Phân tích chứng khoán (Security Analysis) của Benjamin Graham và David Dodd
xuất bản năm 1931, Lý thuyết giá trị đầu tư (The Theory of Investment Value) của
John B. Williams xuất bản năm 1938, Nhà đầu tư thông minh (The Intelligent
56
Investor) của Benjamin Graham xuất bản năm 1949. Trong đó điểm mấu chốt là khái
niệm giá trị nội tại và vai trò của nó trong các quyết định đầu tư. Phương pháp định
giá so sánh nói chung cũng như phương pháp định giá so sánh theo hệ số P/E cũng
được dựa trên một cơ sở lý thuyết quan trọng đó là Quy luật một giá (Law of one
price). Trên một thị trường, những tài sản tương tự nhau phải được giao dịch ở mức
giá tương đương.
Trên thực tế có những cổ phiếu luôn duy trì mặt bằng hệ số P/E cao hơn hoặc
thấp hơn các cổ phiếu trong suốt thời gian dài. Một cổ phiếu có P/E cao hơn hoặc
thấp hơn P/E của cổ phiếu khác, cao hoặc thấp hơn hơn mức bình quân của ngành,
thị trường là chưa đủ để kết luận rằng cổ phiếu đang bị định giá cao (overvalued) hay
bị định giá thấp (undervalued). Hệ số P/E có thể cao hay thấp và biến động phụ thuộc
vào sự biến động giá cổ phiếu trên thị trường, nhưng vẫn có những nguyên nhân làm
cho nhà đầu tư có xu hướng chấp nhận mặt bằng hệ số P/E khác biệt giữa các cổ phiếu
trong dài hạn. Cũng như nhiều bội số khác, hệ số P/E cũng chưa tính đến nhiều nhân
tố quan trọng tác động đến giá trị của cổ phiếu như tiềm năng tăng trường, rủi ro,
dòng tiền ... Nếu giả định trong dài hạn, giá thị trường sẽ có khuynh hướng phản ánh
giá trị nội tại thì những nhân tố ảnh hưởng đến giá trị nội tại của một cổ phiếu (ngoại
trừ EPS) cũng sẽ ảnh hưởng đến mặt bằng hệ số P/E của cổ phiếu đó trong dài hạn.
William (1938) đã lần đầu tiên khởi xướng mô hình chiết khấu dòng tiền bằng
việc đưa ra công thức xác định giá trị nội tại của cổ phiếu (Công thức 2.1). Thông
qua đó, xác lập mối quan hệ của giá trị cổ phiếu với những yếu tố căn bản. Giá trị nội
tại của cổ phiếu sẽ tỷ lệ thuận với dòng cổ tức kỳ vọng sẽ nhận được trong tương lai,
và tỷ lệ nghịch với tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng được điều chỉnh theo rủi ro của cổ phiếu.
Gordon (1962) phát triển mô hình định giá trong một trường hợp đặc biệt được
gọi là Mô hình chiết khấu dòng cổ tức tăng trưởng đều còn được gọi là mô hình
Gordon (Gordon Growth Model- GGM) với các giả định bao gồm: (1) Nhà đầu tư
nắm giữ cổ phiếu trong thời gian rất dài theo lý thuyết là vô hạn. (2) Dòng cổ tức qua
các năm tăng trưởng với một tỷ lệ không đổi. (3) Tỷ lệ tăng trưởng cổ tức đều hàng
năm nhỏ hơn suất chiết khấu.
𝐷1 𝑟𝑒−𝑔
57
(2.2) 𝑃 =
Beaver và Morse (1978) đã liên kết hệ số P/E với Mô hình tăng trưởng đều của
Gordon (Gordon Growth Model – GGM), một trường hợp đặc biệt của Mô hình chiết
khấu dòng cổ tức, để giải thích các nhân tố ảnh hưởng đến hệ số P/E theo logic toán
học. Theo đó, hệ số P/E xác định theo mô hình định giá Gordon được xác định theo
𝐷/𝐸
𝐾
công thức sau:
𝑟−𝑔
𝑟−𝑔
(2.9) 𝑃/𝐸 = =
K: Tỷ lệ chi trả cổ tức cố định (Payout ratio)
g: Tốc độ tăng trưởng EPS cố định
r : Lãi suất chiết khấu
Như vậy công thức của Beaver và Morse (1978) đã xác định mối quan hệ giữa
hệ số P/E và 03 nhân tố căn bản đó là suất chiết khấu, tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ chi
trả cổ tức.
Pinto và Ctg (2018) đề cập đến khái niệm hệ số P/E hợp lý theo các yếu tố cơ
bản của công ty và cổ phiếu (Justified P/E hay Fundamental P/E). Nếu các thông số
của cổ phiếu định giá thỏa mãn các giả định của Mô hình tăng trưởng đều Gordon,
mối quan hệ giữa hệ số P/E và các yếu tố cơ bản của công ty được xác định như sau:
1−𝑏
Đối với hệ số P/E dự phóng (Forward P/E)
𝐷1/𝐸1 𝑟−𝑔
𝑟−𝑔
𝑃0 𝐸1
(2.10a) = =
(1−𝑏)(1+𝑔)
Đối với hệ số P/E quá khứ (Trailing P/E)
𝐷0(1+𝑔)/𝐸0 𝑟−𝑔
𝑟−𝑔
𝑃0 𝐸0
(2.10b) = =
𝑃0 : Giá cổ phiếu ở thời điểm hiện tại
𝐸0 , 𝐸1: Lợi nhuận trên một cổ phiếu của năm hiện tại, và năm tiếp theo
𝐷0 , 𝐷1: Cổ tức trên một cổ phiếu của năm hiện tại, và năm tiếp theo
r : Tỷ suất lợi nhuận yêu cầu (required rate of return)
g : Tốc độ tăng trưởng cổ tức
58
b : Tỷ lệ lợi nhuận giữ lại (1-b) = tỷ lệ trả cổ tức (Payout Ratio)
Nhìn chung các công thức này xác định mối quan hệ giữa hệ số P/E và các nhân
tố tác động chính. Kết quả phân tích theo công thức này còn có ý nghĩa khái quát cao
hơn, không chỉ áp dụng trong mô hình tăng trưởng đều Gordon mà có thể ứng dụng
trong tất cả các trường hợp. Trên nền tảng các nhân tố cơ bản tác động đến hệ số P/E
như trên, các nhà nghiên cứu có thể phân chia thành nhiều nhân tố nhỏ hơn hoặc các
nhân tố tác động mang tính trung gian. Mở rộng hơn cách tiếp cận của Beaver và
Morse (1978) và công thức của Pinto và Ctg (2018) nêu trên, ta có thể thấy, ngoại trừ
lợi nhuận trên 1 cổ phiếu (EPS), các nhân tố tác động đến giá cổ phiếu cũng sẽ có tác
động đối với hệ số P/E.
2.4.1. Tác động của các nhân tố liên quan đến tỷ suất lợi nhuận yêu cầu
Tỷ suất lợi nhuận yêu cầu hay suất chiết khấu là nhân tố tác động đầu tiên và
quan trọng nhất đến giá cổ phiếu cũng như hệ số P/E. Tỷ suất lợi nhuận yêu cầu có
mối quan hệ ngược chiều với hệ số P/E, tỷ suất lợi nhuận yêu cầu càng lớn, hệ số P/E
càng thấp. Do vậy, các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận yêu cầu đều sẽ có tác
động đến hệ số P/E.
Kế thừa Lý thuyết về lựa chọn danh mục đầu tư của Markowitz (1952), Sharpe
(1964) tiên phong trong việc lượng hóa mối quan hệ giữa lợi nhuận và rủi ro thông
qua việc phát triển Lý thuyết thị trường vốn ( Capital Market Theory – CMT) bằng
cách kết hợp một chứng khoán không rủi ro với danh mục đầu tư được xây dựng theo
mô hình Markowitz. Theo đó, 02 mô hình lượng hoá mối quan hệ giữa lợi nhuận và
rủi ro bao gồm: Đường thị trường vốn (Capital Market Line - CML) và Đường thị
trường chứng khoán (Securities Market Line - SML) cũng chính là Mô hình định giá
tài sản vốn (Capital Asset Pricing Model_ CAPM).
Đường thị trường vốn (CML) xác lập mối quan hệ giữa tỷ suất lợi nhuận kỳ
vọng với rủi ro của danh mục đầu tư nằm trên đường biên hiệu quả (efficient frontier),
rủi ro của danh mục đầu tư được đo lường bằng độ lệch chuẩn.
𝐸(𝑅𝑚)− 𝑅𝑓 𝛿𝑚
𝐸(𝑅𝑝) = 𝑅𝑓 + 𝛿𝑝 (2.11a)
𝐸(𝑅𝑝): Lợi nhuận kỳ vọng của danh mục đầu tư
59
𝐸(𝑅𝑚): Lợi nhuận kỳ vọng của danh mục đầu tư thị trường
𝑅𝑓 : Lãi suất phi rủi ro
𝛿𝑚 : Độ lệch chuẩn của danh mục đầu tư thị trường
𝛿𝑝 : Độ lệch chuẩn của danh mục đầu tư
So với CML, Mô hình định giá tài sản vốn (Capital Asset Pricing Model_
CAPM) được đến nhiều hơn trong cả học thuật và thực tiễn. Tất cả các cổ phiếu có
khuynh hướng dao động lên xuống cùng nhau khi thị trường biến động, một cổ phiếu
riêng lẻ có xu hướng cùng biến động với thị trường đó chính là nguồn gốc của rủi ro
hệ thống. Mỗi chứng khoán có mức độ biến động so với thị trường khác nhau, tức là
rủi ro hệ thống khác nhau và được đo lường bằng hệ số Beta. Rủi ro tổng thể của
chứng khoán hoặc danh mục đầu tư bao gồm rủi ro hệ thống và rủi ro phi hệ thống.
Trong đó, rủi ro phi hệ thống có thể được loại bỏ thông qua đa dạng hóa danh mục
đầu tư, do đó phần bù rủi ro chỉ được tính dựa trên phần bù rủi ro hệ thống. Công
thức tính tỷ suất lợi nhuận yêu cầu theo mô hình CAPM theo Sharpe (1964) cụ thể
như sau:
𝑅𝑗 = 𝑅𝑓 + 𝛽 × (𝑅𝑚 − 𝑅𝑓) (2.11b)
Trong đó: + 𝑅𝑗 : Tỷ suất lợi nhuận yêu cầu của cổ phiếu cụ thể (Cổ phiếu j)
+ 𝑅𝑚 : Tỷ suất lợi nhuận của danh mục đầu tư thị trường (được đo
lường bằng chỉ số chứng khoán)
+ 𝑅𝑓 : Lãi suất phi rủi ro
Trong mô hình CAPM, hệ số Beta là hệ số đo lường rủi ro hệ thống của cổ
phiếu. Hệ số Beta càng lớn tức là rủi ro hệ thống càng lớn, phần bù rủi ro càng lớn,
tỷ suất lợi nhuận yêu cầu càng cao, dẫn đến nhà đầu tư chấp nhận mức giá cổ phiếu
và mặt bằng hệ số P/E càng thấp, và ngược lại.
Trong khi đó, theo mô hình CML rủi ro của danh mục đầu tư là rủi ro tổng thể,
được đo lường bằng độ lệch chuẩn. Mặc dù mô hình CML áp dụng đối với danh mục
đầu tư nằm trên đường biên hiệu quả, nhưng ta cũng có thể suy rộng áp dụng đối với
60
các cổ phiếu, cổ phiếu có mức độ biến động giá càng lớn, độ lệch chuẩn càng lớn, tức
là rủi ro tổng thể càng lớn, phần bù rủi ro càng lớn, tỷ suất lợi nhuận yêu cầu càng
cao, dẫn đến nhà đầu tư chấp nhận mức giá va mặt bằng hệ số P/E càng thấp và ngược
lại.
Cũng theo cả mô hình CAPM và CML, lãi suất phi rủi ro là một bộ phận quan
trọng của tỷ suất lợi nhuận yêu cầu, lãi suất phi rủi ro càng lớn, tỷ suất lợi nhuận yêu
cầu càng cao, có tác động ngược chiều đến giá cổ phiếu và hệ số P/E. Cách đo lường
lãi suất phi rủi ro chính xác nhất là sử dụng lãi suất của tín phiếu kho bạc, tuy nhiên
trên thực tế các nhà phân tích có thể sử dụng nhiều loại lãi suất khác nhau để đo
lường. Lãi suất là nhân tố vĩ mô quan trọng tác động đến giá cổ phiếu và hệ số P/E.
Mở rộng hơn, Tỷ suất lợi nhuận yêu cầu bằng lãi suất phi rủi ro cộng với phần
bù rủi ro, tỷ suất lợi nhuận yêu cầu phản ánh rủi ro của cổ phiếu. Có thể nói rằng rủi
ro có tác động quan trọng đến hệ số P/E, rủi ro của cổ phiếu càng cao thì hệ số P/E
càng thấp và ngược lại. Đó là lý do ngoài Hệ số Beta và Độ lệch chuẩn (Mức độ biến
động giá), các yếu tố khác có liên quan đến rủi ro như: Quy mô công ty (được đo
lường bằng giá trị vốn hóa, tổng tài sản, vốn chủ sở hữu …) liên quan đến rủi ro biến
động giá và rủi ro thanh khoản, đòn bẩy tài chính (được đo lường bằng tỷ lệ nợ phải
trả trên tổng tài sản, vốn chủ sở hữu trên nợ phải trả …) liên quan đến rủi ro tài chính
… có tác động đến hệ số P/E.
Dưới góc độ lý thuyết, tác động của yếu tố quy mô công ty đến tỷ suất lợi nhuận
yêu cầu qua đó tác động tới giá trị công ty và hệ số P/E được thể hiện rất rõ qua mô
hình 3 nhân tố còn được gọi là Mô hình Fama – French (FFM) được Fama và French
(1993) phát triển. Ngoài nhân tố phần bù rủi ro hệ thống tương tự như mô hình CAPM,
mô hình FFM còn bổ sung thêm hai nhân tố phần bù. Trong đó, có nhân tố phần bù
liên quan đến quy mô giá trị vốn hóa (small minus big - SMB). Một danh mục đầu tư
có giá trị vốn hóa nhỏ sẽ có lợi nhuận vượt trội so với danh mục thị trường trong dài
hạn, các công ty có giá trị vốn hóa nhỏ có phần bù về quy mô cao hơn. Có thể nói mô
hình FFM góp phần hình thành cơ sở lý thuyết, khẳng định mối quan hệ ngược chiều
giữa quy mô công ty với giá cổ phiếu và hệ số P/E.
Như vậy, ta thấy dưới góc độ lý thuyết, có cơ chế tác động khá rõ ràng của các
61
nhân tố như: Hệ số Beta, mức độ biến động giá (đo lường bằng độ lệch chuẩn), quy
mô công ty, lãi suất thị trường đến tỷ suất lợi nhuận yêu cầu và thông qua đó tác động
đến hệ số P/E.
2.4.2. Tác động của tốc độ tăng trưởng, chính sách cổ tức và tỷ suất sinh lời:
Cũng từ công thức cơ bản của Beaver và Morse (1978) ta thấy, tốc độ tăng
trưởng của lợi nhuận/dòng tiền kỳ vọng có mối quan hệ cùng chiều với hệ số P/E, tốc
độ tăng trưởng càng cao P/E càng cao và ngược lại. Tốc độ tăng trưởng có thể được
dự báo bằng cách tham khảo tốc độ tăng trưởng trong quá khứ, hay đánh giá kế hoạch
kinh doanh của công ty.
Ngoài ra, tốc độ tăng trưởng lợi nhuận còn thể được ước lượng thông qua công
thức :
Tốc độ tăng trưởng lợi nhuận (g) = Tỷ lệ lợi nhuận giữ lại (b) * Tỷ suất sinh
lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) (2.12)
Qua công thức này ta thấy, tốc độ tăng trưởng lợi nhuận còn có mối liên hệ với
02 biến số khác là chính sách cổ tức và tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE).
Với ROE không đổi, tỷ lệ lợi nhuận giữ lại càng lớn (tỷ lệ chi trả cổ tức bằng tiền mặt
càng nhỏ), tốc độ tăng trường lợi nhuận sẽ càng cao, hệ số P/E càng cao và ngược lại.
Công thức và lập luận này cho ta cơ sở lý thuyết về mối quan hệ ngược chiều giữa tỷ
lệ chi trả cổ tức bằng tiền mặt (Payout ratio) với hệ số P/E.
Mối quan hệ giữa tỷ lệ chi trả cổ tức bằng tiền mặt với giá trị công ty cũng là
một chủ đề quan trọng của tài chính hiện đại, trong đó quan trọng nhất là lý thuyết
nền tảng của Miller và Modigliani (1961). Lý thuyết của Miller và Modigliani (1961)
đã chứng minh về lý thuyết rằng trong điều kiện thị trường hoàn hảo, chính sách cổ
tức không có tác động đến giá trị doanh nghiệp. Theo sau lý thuyết M&M, đã có
nhiều nghiên cứu thực nghiệm và nghiên cứu lý thuyết để kiểm định mối quan hệ này
và xác định những điều kiện trong đó chính sách cổ tức có thể tác động đến giá trị
doanh nghiệp. Các kết quả nghiên cứu cho thấy 02 khuynh hướng trái ngược nhau.
Khuynh hướng tiêu biểu với Walter (1963) cho rằng nhà đầu tư có xu hướng thích
thu nhập cụ thể trong hiện tại dưới hình thức cổ tức tiền mặt hơn là thu nhập hứa hẹn
trong tương lai. Do vậy, khi có lợi nhuận, các doanh nghiệp chia cổ tức cho nhà đầu
62
tư sẽ được đánh giá cao hơn các doanh nghiệp giữ lại lợi nhuận. Ngược lại, có khuynh
hướng cho rằng việc chi trả cổ tức sẽ làm giảm giá trị của doanh nghiệp, tiêu biểu là
lý thuyết người đại diện của Jensen và Meckling (1976) và lý thuyết về dòng tiền tự
do của Jensen (1986). Không tồn tại mối liên hệ nào giữa chính sách cổ tức với chỉ
tiêu lợi nhuận sau thuế trên 1 cổ phần (EPS) của cùng một thời kỳ. Các giả định hay
lập luận về tác động của chính sách cổ tức đến giá trị của công ty, cũng sẽ tương tự
như tác động của đến hệ số P/E.
Ngoài ra, Damoradan (2012) cũng dựa trên mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng,
tỷ lệ lợi nhuận giữ lại, và tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) theo công thức
1−
𝑔 𝑅𝑂𝐸
2.12 và công thức 2.9, để xác định mối quan hệ giữa ROE và P/E như sau:
𝐷1/𝐸1 𝑟−𝑔
𝑟−𝑔
𝑃0 𝐸1
(2.13) = =
Công thức 2.13 cho thấy, ROE có tác động cùng chiều tới hệ số P/E, ROE tăng
thì P/E sẽ tăng và ngược lại.
Về mặt thực nghiệm, nhiều nghiên cứu tiêu biểu như Ohlson (1995), Sharma
(2011), Nguyễn Thị Thục Đoan (2011) .... khẳng định mối quan hệ cùng chiều giữa
tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) và thị giá cổ phiếu. Tuy nhiên, giữa ROE
và chỉ tiêu lợi nhuận trên cổ phiếu (EPS) lại có mối quan hệ cùng chiều khá rõ ràng.
Do vậy, tác động của ROE tới P/E là một vấn đề tương đối khó xác định.
2.4.3. Tác động của đòn bẩy tài chính:
Mối quan hệ giữa đòn bẩy tài chính và giá trị doanh nghiệp cũng là một chủ đề
quan trọng của tài chính doanh nghiệp. Tác động của đòn bẩy tài chính đến giá trị
công ty cũng được thể hiện thông qua các lý thuyết về cơ cấu vốn. Mở đầu cho lý
thuyết về cơ cấu vốn là định đề Miller và Modigliani. Miller & Modigliani (1958)
cho rằng trong một thị trường hoàn hảo, cơ cấu vốn không ảnh hưởng đến giá trị
doanh nghiệp. Kế thừa kết quả nghiên cứu của Miller và Modigliani, các loạt lý thuyết
về cơ cấu vốn lần lượt ra đời để giải thích về cơ cấu vốn của doanh nghiệp, bao gồm:
lý thuyết đánh đổi tĩnh, lý thuyết đánh đổi động, lý thuyết trật tự phân hạng và lý
thuyết thời điểm thị trường.
Ta có thể thấy rằng, những giả định của một thị trường hoàn hảo theo Miller &
63
Modigliani (1958) như không có chi phí giao dịch, không thuế, thông tin cân xứng,
lãi suất vay bằng lãi suất phi rủi ro là không có trên thực tế. Do đó, chính Modigliani
và Miller ở nghiên cứu tiếp theo đã nới lỏng các giả định và bổ sung yếu tố thuế thu
nhập doanh nghiệp khi xem xét cơ cấu vốn. Modigliani và Miller (1963) cho rằng
trong trường hợp có thuế, giá trị của doanh nghiệp có vay nợ cao hơn giá trị của doanh
nghiệp không có vay nợ nhờ hiệu ứng lá chắn thuế, số thuế thu nhập phải đóng giảm
đi do lãi vay. Giá trị doanh nghiệp có sử dụng nợ vay bằng giá trị doanh nghiệp không
sử dụng nợ vay cộng với giá trị hiện tại của lá chắn thuế từ lãi vay. Quan điểm này
cho rằng doanh nghiệp nên sử dụng nợ càng nhiều càng tốt để tối đa hóa giá trị doanh
nghiệp. Theo Kraus và Litezenberger (1973), giá trị DN tỷ lệ thuận với hiện giá tấm
chắn thuế và tỷ lệ nghịch với chi phí kiệt quệ tài chính. Tăng mức độ sử dụng nợ sẽ
làm tăng gánh nặng trả gốc và lãi trong tương lai, qua đó làm tăng khả năng doanh
nghiệp rơi vào tình trạng phá sản. Cơ cấu vốn sẽ đạt mức tối ưu (điểm cân bằng) khi
giá trị hiện tại của lá chắn thuế từ nợ bằng với giá trị hiện tại của chi phí từ việc sử
dụng nợ.
Các lý thuyết nêu trên, đề cập đến tác động của cơ cấu vốn đến giá trị doanh
nghiệp. Tuy nhiên, đối với hệ số P/E hiệu ứng gia tăng lợi nhuận sau thuế (nếu có)
nhờ lá chắn thuế đã được phản ánh vào EPS. Hiện tại, việc xem xét tác động của cơ
cấu vốn đến hệ số P/E chủ yếu được tiến hành thông qua các nghiên cứu thực nghiệm,
chưa có cơ sở lý thuyết thống nhất về vấn đề này. Tuy nhiên, ta có thể tiếp cận theo
cách xem đòn bẩy tài chính chính là thước đo rủi ro tài chính, một loại rủi ro quan
trọng từ nội tại doanh nghiệp. Nếu các yếu tố khác không thay đổi, hệ số đòn bẩy tài
chính càng lớn thể hiện rủi ro tài chính của công ty càng lớn, nhà đầu tư chấp nhận
mặt bằng hệ số P/E của cổ phiếu càng thấp.
2.4.4. Tác động của giá trị sổ sách:
Tác động của giá trị sổ sách đến giá trị nội tại của cổ phiếu được thể hiện rõ nét
nhất qua Mô hình định giá thu nhập thặng dư (Residual Income Valuation Model –
RIV) do Ohlson (1995) đề xuất theo công thức 2.4. Mô hình RIV cho rằng giá trị nội
tại của cổ phiếu là tổng của 02 cấu phần: Giá trị sổ sách hiện tại của cổ phần và giá
trị hiện tại của thu nhập thặng dư. Như vậy, giá trị sổ sách là một bộ phận cấu thành
64
nên giá trị của cổ phiếu, giá trị sổ sách càng lớn là yếu tố góp phần làm cho giá trị
của cổ phiếu càng lớn và ngược lại. Ngoài ra, hướng tiếp cận cận định giá theo tài sản
(Asset Approach) cũng là cơ sở hậu thuẫn cho tác động của giá trị sổ sách đến giá trị
của cổ phiếu. Giá trị của công ty chính là giá thị trường hợp lý của tất cả các tài sản
và nguồn lực mà công ty đang sở hữu hoặc kiểm soát. Nhà phân tích định giá từng tài
sản riêng lẻ thuộc sở hữu của công ty rồi tập hợp lại để xác định giá trị của công ty.
Giá trị sổ sách cũng sẽ phần nào phản ánh giá trị thực tế của các tài sản và nguồn lực
của doanh nghiệp. Khi các chuẩn mực kế toán và định giá càng phát triển, khoảng
cách này sẽ càng có xu hướng gần lại.
Đặc biệt, giá trị sổ sách trên 1 cổ phần và thu nhập sau thuế trên 1 cổ phần
(EPS) không có mối liên hệ nào, do vậy mô hình định giá thu nhập thặng dư và hướng
tiếp cận định giá theo tài sản cũng chính là cơ sở lý thuyết hậu thuẫn cho tác động
của giá trị sổ sách trên 1 cổ phần đến hệ số P/E.
2.4.5. Tác động của các yếu tố phi tài chính:
Bên cạnh các yếu tố tài chính, các yếu tố phi tài chính đóng vai trò ngày càng
quan trọng khi phân tích, đánh giá công ty phục vụ cho quyết định đầu tư. Các yếu tố
này không được lượng hóa và ghi nhận trên báo cáo tài chính, nhưng lại đóng vai trò
rất quan trọng đối với kết quả hoạt động và triển vọng phát triển của các doanh nghiệp.
Theo Dorsey và Ctg (2019), các yếu tố phi tài chính cần đề cập khi phân tích công ty
bao gồm: lịch sử của công ty, sản phẩm và dịch vụ chính, thị phần và vị thế trên thị
trường, thương hiệu của công ty và thương hiệu của sản phẩm, dịch vụ, đánh giá chiến
lược kinh doanh, công nghệ, hoạt động nghiên cứu và phát triển, cấu trúc hội đồng
quản trị, cơ chế biểu quyết và các vấn để về quản trị công ty, thị trường tiêu thụ và
kênh phân phối, điểm mạnh, điểm yếu trong hệ thống quản trị và văn hóa công ty,
chất lượng nguồn nhân lực và chính sách đãi ngộ với người lao động….
Trong các yếu tố phi tài chính, thời gian gần đây, chất lượng quản trị công ty
(Corporate Governance) là yếu tố được quan tâm rất nhiều. Theo Hiệp hội Quản trị
Vương Quốc Anh và Ireland (Chartered Governance Institute UK &Ireland), Quản
trị công ty (Corporate Governance) là một hệ thống các nguyên tắc, chính sách,
65
luật lệ nhằm định hướng, vận hành và kiểm soát công ty cổ phần. Tổ chức Hợp tác
và Phát triển Kinh tế (OECD) đã đưa ra một định nghĩa về quản trị công ty đã được
chấp nhận phổ biến toàn cầu “Quản trị công ty là thủ tục và quy trình mà theo đó một
tổ chức được điều hành và kiểm soát. Cơ cấu quản trị công ty quy định rõ việc phân
chia quyền lợi và trách nhiệm giữa các đối tượng tham gia khác nhau trong tổ chức -
như Hội đồng quản trị, Ban điều hành, cổ đông và các bên có quyền lợi liên quan
khác - và đặt ra các nguyên tắc và thủ tục cho việc ra quyết định.”. Theo McEnally
và Kim (2018), chất lượng, sức mạnh và mức độ đáng tin cậy của hệ thống quản trị
công ty sẽ có tác động trực tiếp và sâu sắc đến sự đánh giá của các nhà đầu tư về
khoản đầu tư và từ đó tác động đến giá trị của công ty. Hệ thống quản trị công ty yếu
và lỏng lẻo dẫn đến những rủi ro tác động đến giá trị của công ty như: rủi ro kế toán,
rủi ro trách nhiệm, rủi ro tài sản, rủi ro chính sách chiến lược.
Nhiều tổ chức tiến hành đánh giá, định lượng chất lượng quản trị công ty bằng
hệ thống chấm điểm quản trị cấp công ty như: S&P, Governance metrics international
(GMI), Institutional shareholder services (CGQ), Tổ chức tài chính quốc tế (IFC)….
Đồng thời các nhà nghiên cứu cũng tiến hành các nghiên cứu thực nghiệm để đánh
giá mối quan hệ giữa chất lượng quản trị công ty với giá trị của công ty. Các nghiên
cứu của Gomper và Ctg (2003), Bauer và Otten (2004), Trần Nhân Phúc (2017) cho
thấy những công ty được quản trị tốt có giá trị công ty cao hơn.
2.4.6. Tác động của các yếu tố vĩ mô:
Railly và Brown (2009, 2012) đề cập đến quy trình phân tích từ trên xuống
(Top – down analysis) bao gồm các bước: (1) Phân tích nền kinh tế và thị trường
chứng khoán -> (2) Phân tích ngành - > (3) Phân tích công ty và cổ phiếu. Đây cũng
là cách tiếp cận phân tích được sử dụng rất phổ biến. Công đoạn phân tích kinh tế
được sử dụng để đánh giá tổng quát tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô đối với
triển vọng phát triển của các ngành và doanh nghiệp trong nền kinh tế; Đánh giá và
nhận định xu hướng chung của toàn bộ thị trường; Quyết định chính sách phân bổ tài
sản trong phạm vi một thị trường ( trái phiếu, cổ phiếu, tiền mặt…) hoặc quyết định
chính sách phân bổ tài sản giữa các thị trường đối với các nhà đầu tư có phạm vi đầu
66
tư toàn cầu.
Theo Bodie và Ctg (2014), các nhà phân tích cần quan tâm đánh giá các yếu tố
kinh tế vĩ mô như: tổng sản phẩm quốc nội (GDP), việc làm, lạm phát, lãi suất, thâm
hụt ngân sách, hay các yếu tố liên quan đến tâm lý như niềm tin tiêu dùng.
Chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ được thực thi bởi các cơ quan khác nhau
của nhà nước sẽ tác động đến tổng thể nền kinh tế và từ đó tác động đến tình tình cụ
thể của các ngành và các công ty. Đó cũng chính là nguyên lý để tình hình kinh tế vĩ
mô tác động đến giá chứng khoán trên thị trường.
Tác động của các yếu tố vĩ mô đến giá chứng khoán được thực hiện thông qua 02
cơ chế : (1) Chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ hay chu kỳ kinh doanh tác động
đến nền kinh tế thực trong nước và xuất nhập khẩu, tác động đến doanh thu và kết
quả kinh doanh của các công ty từ đó tác động đến giá chứng khoán. (2) Các yếu tố
vĩ mô tác động đến dòng tiền và kỳ vọng của nhà đầu tư trên thị trường tài chính, từ
đó tác động trực tiếp đến giá tài sản trong đó có giá chứng khoán. Ở cơ chế tác động
thứ nhất, có tác động của nền kinh tế thực đến kết quả kinh doanh của các công ty,
trong đó có tác động đến yếu tố lợi nhuận, giá cổ phiếu tăng lên do lợi nhuận của
công ty cũng tăng lên, nên tác động đến hệ số P/E là không rõ nét. Riêng cơ chế tác
động thứ 2, có thể tác động trực tiếp đến giá cổ phiếu trên thị trường mà không thông
qua tác động của nền kinh tế thực và kết quả kinh doanh của công ty ta thấy kênh tác
động này có tác động rõ nét đến hệ số P/E.
Theo Miskin (1996), giá tài sản, trong đó có giá cổ phiếu, là một kênh truyền dẫn
quan trọng của chính sách tiền tệ bên cạnh cách kênh như: tỷ giá hối đoái, tín dụng,
lãi suất. Các kênh truyền dẫn chính sách tiền tệ này được nhiều ngân hàng trung ương
trên thế giới sử dụng như: Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB), Ngân hàng Anh
67
(Bank of England), Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) …
Hình 2.3 : Cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ của NHTW Anh (Bank of England)
Nguồn: Báo cáo thường niên của BoE
Khi Ngân hàng Trung ương ấn định lãi suất chính thức hoặc các công cụ khác
của chính sách tiền tệ, giá tài sản sẽ bị tác động trực tiếp, đồng thời bị tác động gián
tiếp thông qua sự thay đổi của các mức lãi suất trên thị trường. Giá tài sản sẽ tiếp tục
tác động đến cầu nội địa và tổng cầu thông qua kênh đầu tư theo học thuyết q của
Tobin về đầu tư và những tác động của mức độ giàu có (wealth effect) lên tiêu dùng.
Nhìn chung, những phân tích trên, cho thấy trong các yếu tố vĩ mô, giá cổ phiếu chịu
tác động rất lớn của yếu tố lãi suất. Điều này cũng hoàn toàn thống nhất với phững
phân tích về tác động của các nhân tố tác động đến tỷ suất lợi nhuận yêu cầu tại mục
2.4.1.
2.5. Các nghiên cứu thực nghiệm về tác nhân tố tác động đến hệ số P/E và các nghiên cứu liên quan
Nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã được tiến hành trên cả các thị trường phát
triển và thị trường mới nổi bao gồm các nghiên cứu trực tiếp khám phá và giải thích
các nhân tố tác động đến hệ số P/E và các nghiên cứu có liên quan chủ yếu bao gồm:
Hướng nghiên cứu về các nhân tố tác động đến giá cổ phiếu và Hướng nghiên cứu so
68
sánh đo lường hiệu qủa của các chiến lược đầu tư theo hệ số P/E.
2.5.1. Các nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố tác động đến hệ số P/E Việc nghiên cứu các nhân tố các động đến hệ số P/E được chia thành ba nhóm
bao gồm: (1) Nhóm các nhân tố cụ thể của công ty và cổ phiếu như: Quy mô công ty,
đòn bẩy tài chính (financial leverage), sở hữu nước ngoài (foreign ownership), tỷ lệ
chi trả cổ tức, nhóm ngành công ty đang hoạt động, Hệ số Beta …(2) Nhóm các nhân
tố vĩ mô như: Lạm phát, lãi suất, tăng trưởng kinh tế, rủi ro tín dụng … (3) Một số
nghiên cứu kết hợp cả nhóm các nhân tố vĩ mô và nhóm nhân tố cụ thể của công ty
và cổ phiếu trong cùng một mô hình.
Kisor và Witbeck (1963), Malkiel và Cragg (1970) là những người tiên phong
trong việc nghiên cứu thực nghiệm xem xét việc các nhân tố cơ bản của công ty
(Fundamental corporate factors) có thể giải thích được sự khác nhau của hệ số P/E
của các công ty. Kisor và Witbeck (1963) lần đầu tiên sử dụng mô hình hồi quy với
biến phụ thuộc là hệ số P/E, 03 biến độc lập là tốc độ tăng trưởng lợi nhuận, hệ số
Beta và độ lệch chuẩn của mức độ thay đổi EPS, nghiên cứu này sử dụng dữ liệu vào
tháng 6/1962 của 135 cổ phiếu. Theo sau là nghiên cứu của Malkiel và Cragg (1970),
các biến độc lập bao gồm Hệ số Beta, tốc độ tăng trưởng lợi nhuận, tỷ lệ chi trả cổ
tức của các cổ phiếu trên thị trường Hoa Kỳ trong giai đoạn 1961 – 1965. 05 mô hình
hồi quy trong 5 năm liên tiếp này đều cho kết quả nhất quán trong đó tốc độ tăng
trưởng lợi nhuận và tỷ lệ chi trả cổ tức tác động cùng chiều đến hệ số P/E, hệ số Beta
có tác động ngược chiều đến hệ số P/E.
Awash Damoradan trong nhiều năm đã chạy các mô hình hồi quy để xác định
các biến giải thích hệ số P/E và công bố kết quả này tại các ấn bản của tác phẩm Định
giá đầu tư (Investment Valuation), sách chuyên khảo được sử dụng khá phổ biến trong
lĩnh vực định giá chứng khoán. Damoradan (2016) đã công bố kết quả mô hình hồi
quy trên các thị trường Hoa Kỳ, Châu Âu, Nhật Bản, Canada, Australia và toàn cầu.
Kết quả của các mô hình hồi quy cho thấy, tốc độ tăng trưởng EPS, tỷ lệ chi trả cổ
tức (payout ratio) tác động cùng chiều; hệ số Beta tác động ngược chiều với hệ số
P/E. Nhìn chung, chiều tác động của các nhân tố tác động đến hệ số P/E từ các nghiên
69
cứu của Damoradan qua nhiều năm và nhiều thị trường là tương đối nhất quán. Nhưng
chỉ số R2 của các mô hình hồi quy là khác nhau giữa các thị trường và đồng thời có
xu hướng giảm theo thời gian. Các nghiên cứu của Damoradan có quy mô mẫu lớn
hơn so với các nghiên cứu của Kisor và Witbeck (1963), Malkiel và Cragg (1970)
nhưng nhìn chung các nghiên cứu này có hai điểm chung: Nghiên cứu tác động của
03 biến là tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ chi trả cổ tức, hệ số Beta chưa mở rộng nghiên
cứu với các biến tác động khác; Nghiên cứu dựa trên dữ liệu của từng năm và chủ
yếu sử dụng mô hình hồi quy OLS (Ordinary Least Square).
Cho (1994) sử dụng đồng thời mô hình hồi quy OLS (Ordinary Least Square)
và mô hình Tobit censored regression đánh giá các nhân tố tác động đến hệ số E/P
(earnings – price) dựa trên dữ liệu của 1203 công ty tại thị trường Hoa Kỳ vào năm
1987 – 1988. Kết quả nghiên cứu cho thấy các chỉ tiêu đo lường rủi ro, tăng trưởng
và tỷ lệ chi trả cổ tức bằng tiền mặt (Payout Ratio) là những nhân tố chủ yếu tác động
đến hệ số E/P. Trong đó, tỷ lệ chi trả cổ tức bằng tiền mặt và tốc độ tăng trưởng lợi
nhuận theo dự báo của các nhà phân tích có tác động ngược chiều (có ý nghĩa thống
kê) tới hệ số E/P, tức là tác động cùng chiều tới hệ số P/E. Hệ số đòn bẩy tài chính có
tác động cùng chiều với hệ số E/P, tức là tác động ngược chiều tới hệ số P/E. Hệ số
Beta và tốc độ tăng trưởng lợi nhuận tính theo dữ liệu quá khứ lại không có ý nghĩa
thống kê trong mô hình nghiên cứu. Điểm đặc biệt trong nghiên cứu của Cho (1994)
là bổ sung đòn bẩy tài chính như là một thước đo của rủi ro bên cạnh hệ số Beta, và
theo kết quả của nghiên cứu này đòn bẩy tài chính là thước đo rủi ro hiệu quả hơn so
với hệ số Beta.
Anderson và Brooks (2005) đã tiến hành nghiên cứu hiện dựa trên các cổ
phiếu được giao dịch trên thị trường chứng khoán UK giai đoạn 1975 – 2003, sử
dụng chủ yếu phương pháp phân tích tương quan để bóc tách (Decomposing) các yếu
tố bên ngoài tác động đến hệ số P/E. Hệ số P/E của một cổ phiếu cụ thể có thể bị tác
động một phần bởi các yếu tố bên ngoài bao gồm : năm đo lường, quy mô công ty và
nhóm ngành mà công ty đang hoạt động . Trong đó quy mô công ty có mối tương
quan cao với hệ số P/E, tác động của nó góp phần quan trọng hơn so với các nhân tố
khác. Nghiên cứu của Anderson và Brooks (2005) không sử dụng mô hình hồi quy
70
để xem xét các nhân tố tác động đến hệ số P/E nhưng đã bổ sung và đặc biệt nhấn
mạnh tác động của yếu tố quy mô công ty được bằng giá trị vốn hóa đối với hệ số
P/E.
Afza và Tahir (2012) nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hệ số P/E của các
công ty đại chúng thuộc ngành hóa chất niêm yết trên Sở Giao Dịch Chứng Khoán
Karachi, Pakistan giai đoạn 2005 – 2009. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ chi trả
cổ tức, mức độ biến động giá, quy mô công ty, hệ số Tobin’s Q là những biến có khả
năng giải thích hệ số P/E. Trong đó, tỷ lệ chi trả cổ tức là biến giải thích quan trọng
nhất và có mối quan hệ cùng chiều với hệ số P/E, thể hiện nhà đầu tư có xu hướng
sẵn sàng trả mức giá cao cho những công ty có tỷ lệ chi trả cổ tức cao. Cơ hội tăng
trưởng được đo lường bằng hệ số Tobin’s Q có tác động cùng chiều với hệ số P/E.
Quy mô công ty thể hiện mối quan hệ ngược chiều với P/E thể hiện xu hướng nhà
đầu tư ưa thích việc đầu tư vào các công ty nhỏ nhiều hơn để tìm kiếm mức tỷ suất
sinh lời cao. Mức độ biến động giá lại có tác động cùng chiều đến hệ số P/E, thể hiện
nhà đầu tư có xu hướng ưa thích các cổ phiếu có mức độ biến động giá cao để tăng
cơ hội tìm kiếm lợi nhuận từ chênh lệch giá. Nghiên cứu của Afza và Tahir (2012)
đã bổ sung khá nhiều biến mới vào mô hình hồi quy bao gồm: mức độ biến động giá
được sử dụng là biến đo lường rủi ro thay thế cho hệ số Beta, biến quy mô công ty
được đo lường bằng tiêu chí doanh thu và được lấy Log tự nhiên để hạn chế tác động
của đơn vị đo lường, hệ số Tobin’s Q được sử dụng làm biến đại diện cho kỳ vọng
của thì trường về tốc độ tăng trưởng của công ty. Khác với các nghiên cứu của Kisor
và Witbeck (1963), Malkiel và Cragg (1970), Damoradan (2016) nghiên cứu của
Afza và Tahir (2012) sử dụng mô hình hồi quy OLS dành cho dữ liệu gộp (Pooled
data) trong giai đoạn 2005 – 2009 chứ không chỉ nghiên cứu từng năm. Tuy nhiên
thời gian và số mẫu nghiên cứu còn ít, tác giả cũng chưa sử dụng các mô hình phù
hợp với phân tích dữ liệu bảng như FEM, REM và các mô hình khác.
Lutfi và Arsitha (2016) xem xét các nhân tố tác động đến hệ số P/E của các
công ty trong chỉ số Jakarta Islamic Index tại Indonesia trong giai đoạn 2010 – 2013.
Kết quả nghiên cứu cho thấy quy mô công ty được đo lường bằng tổng tài sản có tác
động ngược chiều và có ý nghĩa thống kê đối với hệ số P/E; đòn bẩy tài chính đo bằng
71
tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu có tác động cùng chiều và có ý nghĩa thống kê đối với
hệ số P/E, trong khi đó tỷ lệ chi trả cổ tức (Dividend payout) không có tác động đáng
kể đối với hệ số P/E. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này các giả thuyết được kiểm định
bằng phương pháp F – Test (Simultaneous Test) và T – test (Partial Test) chứ không
sử dụng các mô hình hồi quy.
Dutta và Ctg (2018) xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến hệ số P/E của các công
ty ngành sản xuất giao dịch trên thị trường chứng khoán Dhaka, Bangladesh trong
giai đoạn 2011 – 2015. Kết qua nghiên cứu cho thấy tỷ lệ cổ tức trên thị giá (Dividend
Yield), tỷ suất đòn bẩy tài chính (Financial Leverage Ratio), quy mô công ty và giá
trị tài sản ròng trên cổ phiếu (net asset per share) ảnh hưởng rõ nét đến hệ số P/E. Cụ
thể hơn, các tác giả đã tìm thấy tỷ lệ cổ tức và quy mô công ty có tác động ngược
chiều, đòn bẩy tài chính và giá trị tài sản ròng trên 1 cổ phiếu tác động cùng chiều tới
hệ số P/E. Biến quy mô công ty cũng được đo lường bằng cách lấy log tự nhiên của
doanh số, biến tỷ lệ chi trả cổ tức cũng được đưa vào mô hình nhưng không có ý
nghĩa thống kê. Biến tỷ lệ cổ tức trên thị giá (Dividend Yield) tác giả đưa vào mô
hình không có nhiều ý nghĩa vì nó có bao gồm cả giá cổ phiếu trong công thức tính.
Cũng tương tự nghiên cứu của Afza và Tahir (2012), nghiên cứu này sử dụng mô
hình hồi quy OLS dành cho dữ liệu gộp (Pooled data) trong giai đoạn 2011 -2015,
thời gian và số mẫu nghiên cứu còn ít, tác giả cũng chưa sử dụng các mô hình phù
hợp với phân tích dữ liệu bảng như FEM, REM và các mô hình khác.
Arslan và Ctg (2017), nghiên cứu các nhân tố tác động đến hệ số P/E trên thị
trường chứng khoán Istanbul giai đoạn 2000 – 2014. Kết quả nghiên cứu cho thấy,
quy mô công ty, đầu tư, tốc độ tăng trưởng doanh thu có tác động cùng chiều đối với
hệ số P/E. Đòn bẩy tài chính, nhu cầu vốn lưu động, biến động lợi nhuận tác động
ngược chiều đối với hệ số P/E. Nghiên cứu của Arslan và Ctg (2017) đã bắt đầu sử
dụng mô hình GMM (Generalized Methods of Moments) một trong những mô hình
được sử dụng phù hợp cho phân tích dữ liệu bảng động (Dynamic Panel data) nhằm
loại bỏ hiện tượng nội sinh (endogenous). Arslan và Ctg (2017) cũng đưa vào mô
hình nghiên cứu các biến về thông tin tài chính của doanh nghiệp như: Tỷ lệ vốn lưu
động trên tổng tài sản, Đầu tư trên tổng tài sản. Nghiên cứu cũng có mẫu nghiên cứu
72
khá lớn và trong quãng thời gian tương đối dài 2000 – 2014.
Dựa trên dữ liệu của 60 công ty thuộc lĩnh vực sản xuất công nghiệp niêm yết
trên Sở Giao dịch chứng khoán Amman, Jordan, Freihat (2019) nghiên cứu tác động
của các các nhân tố bao gồm tỷ lệ chi trả cổ tức, giá trị vốn hóa (đại diện cho quy mô
công ty), đòn bẩy tài chính, lãi suất và tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận sau thuế (đại diện
cho tốc độ tăng trưởng) đến hệ số P/E. Nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ chi trả cổ tức và
quy mô công ty có tác động cùng chiều một cách đáng kể đối với hệ số P/E, trong khi
đó đòn bẩy tài chính, tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận và lãi suất không có tác động đối với
P/E. Nghiên cứu của Freihat (2019) sử dụng mô hình hồi quy dữ liệu bảng (panel
data regression) yếu tố tác động ngẫu nhiên (REM) với dữ liệu trong giai đoạn 2011
– 2016.
Krishnan và Chen (2020) sử dụng quy mô mẫu nghiên cứu rất lớn là dữ liệu theo
quý của tất cả các cổ phiếu trong S&P Composite 1500 Index trong giai đoạn 1995
– 2016 nghiên cứu mối quan hệ giữa tỷ lệ chi trả cổ tức (Dividend Payout Ratio) và
các nhân tố khác với hệ số P/E. Nghiên cứu sử dụng cả phương pháp đơn biến
(Univariate Test) và đa biến (Multivariate Test), các công ty cũng được phân loại theo
nhóm ngành, quy mô giá trị vốn hóa và hệ số giá trị sổ sách trên giá thị trường (Book
to market). Đối với nghiên cứu đơn biến (Univariate Test), kết quả cho thấy các công
ty công nghệ cao (high tech) và công ty trong lĩnh vực y tế (Health Care) có hệ số P/E
cao hơn, ngược lại các công ty thuộc lĩnh vực chế tạo (Manufacturing) có hệ số P/E
thấp nhất điều này có thể phản ánh kỳ vọng tăng trưởng của các nhóm ngành. Các
công ty có quy mô giá trị vốn hóa lớn thường hệ số P/E sẽ càng cao. Công ty có hệ
số giá trị sổ sách trên giá thị trường (book to market ratio), phản ánh nhận thức của
thị trường về tiềm năng tăng trưởng của công ty, càng thấp hệ số P/E càng cao. Theo
kết quả nghiên cứu hồi quy đa biến, tỷ lệ chi trả cổ tức năm hiện tại (Current – year
payout ratio) có tác động đáng kể và cùng chiều với hệ số P/E năm tới (next – year
P/E ratio). Ngược lại với nghiên cứu đơn biến, hệ số P/E lại có quan hệ ngược chiều
với quy mô vốn hóa công ty. Khi chạy hồi quy đa biến riêng từng nhóm ngành, kết
quả cho thấy đối với nhóm ngành Tiêu dùng (Consumer), nhóm ngành Công nghệ
cao (High technology), tỷ lệ chi trả cổ tức bằng tiền mặt hiện tại (Current – year
73
payout ratio) có tương quan ngược chiều với hệ số P/E năm tới (next – year P/E
ratio), trong khi nhóm ngành sản xuất chế tạo (manufacturing) và các nhóm ngành
khác lại có mối quan hệ cùng chiều. Các tác giả cũng đưa ra khuyến nghị, mô hình
về các nhân tố tác động đến hệ số P/E là khá phức tạp, cần phải tính đến các yếu tố
như ngành, quy mô, rủi ro và nhận thức của thị trường về tiềm năng tăng trưởng của
công ty. Nghiên cứu cũng cung cấp các bằng chứng thực nghiệm cho thấy tỷ lệ chi
trả cổ tức hiện tại tăng lên là dấu hiệu của việc sụt giảm cơ hội tái đầu tư và gia tăng
rủi ro do vậy có thể dẫn đến làm giảm hệ số P/E trong tương lai.
Bên cạnh các nghiên cứu về tác động của các nhân tố cơ bản của công ty
(Fundamental corporate factors), nhiều nghiên cứu cũng tiến hành nghiên cứu về tác
động của các yếu tố vĩ mô đối với hệ số P/E hoặc kết hợp các yếu tố vĩ mô với các
yếu tố cơ bản của công ty. Các kết quả nghiên cứu thực nghiệm về tác động của các
yếu tố vĩ mô có ý nghĩa quan trọng trong việc trả lời câu hỏi có nên so sánh hệ số P/E
giữa các quốc gia khác nhau hay so sánh hệ số P/E qua các thời kỳ trên cùng một thị
trường.
Kane và cộng sự (1996), nghiên cứu hệ số P/E toàn thị trường của chỉ số S&P
500 trong giai đoạn 1983 – 1994, các biến dự kiến tác động đến hệ số P/E bao gồm:
Mức độ giao động của thị trường (Market Volatility), phần bù rủi ro vỡ nợ của trái
phiếu doanh nghiệp, lãi suất, lạm phát, sản lượng công nghiệp. Kết quả nghiên cứu
đặc biệt nhấn mạnh tác động ngược chiều của mức độ dao động của thị trường đối
với hệ số P/E. Do vậy, nếu đánh giá mức độ định giá của thị trường mà bỏ qua tác
động của yếu tố này thì rõ ràng là thiếu sót rất lớn. Amoako – Adu và Smith (2002)
nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Canada đã tìm thấy rằng mối quan hệ ngược
chiều giữa lãi suất và hệ số P/E, điều đó cho thấy khi lãi suất tăng thì giá cổ phiếu có
xu hướng giảm. Độ chênh lệch (spread) giữa lợi suất của trái phiếu doanh nghiệp dài
hạn và trái phiếu chính phủ có quan hệ ngược chiều với hệ số P/E. Điều đó có nghĩa
là nếu mức ngại rủi ro của nhà đầu tư càng cao hệ số P/E sẽ càng thấp.
Shamsuddin và Hillier (2004) phân tích dữ liệu theo quý của các công ty nằm
trong chỉ số ASX 200 Index của thị trường Australia và dữ liệu vĩ mô từ Quý 1 năm
1984 đến Quý 3 năm 2001 . Kết quả nghiên cứu cho thấy hệ số P/E có xu hướng biến
74
động cùng chiều với tỷ lệ chi trả cổ tức bằng tiền mặt (Dividend Payout Ratio), tốc
độ tăng trưởng GDP , giá trị đồng Australian Dollar và niềm tin tiêu dùng. Lãi suất
và mức độ biến động của thị trường (Market Volatility) tăng sẽ làm cho hệ số P/E
giảm. Ta thấy nghiên cứu của Shamsuddin và Hillier (2004) có sự kết hợp giữa các
yếu tố vĩ mô với 01 yếu tố cụ thể của công ty đó là tỷ lệ chi trả cổ tức bằng tiền mặt
(Dividend Payout Ratio).
Các nghiên cứu của Kane và cộng sự (1996), Amoako – Adu và Smith (2002),
Shamsuddin và Hillier (2004) chủ yếu nghiên cứu tại một thị trường, tác động của
các yếu tố vĩ mô đến hệ số P/E được xem xét qua chuỗi dữ liệu thời gian. Ramcharran
(2002) nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hệ số P/E tại 21 thị trường cổ phiếu
mới nổi (Emerging Equity Market) đặc biệt là 2 nhân tố tốc độ tăng trưởng kinh tế
(Economic Growth) và rủi ro tín dụng (Credit Risk). Kết quả nghiên cứu cho thấy
tốc độ tăng trường kinh tế là nhân tố rất quan trọng tác động đến hệ số P/E tại các thị
trường mới nổi.
Nghiên cứu của Huang và Wirjanto (2012) có sự đối chiếu hai thị trường lớn,
khi nghiên cứu so sánh hệ số P/E của cổ phiếu A – shares các công ty Trung Quốc
niêm yết trên cả SGDCK Thượng Hải và SGDCK Thẩm Quyến trong giai đoạn 1997
– 2007 với các tổ phiếu thuộc chỉ số S&P 1500 của Hoa Kỳ. Kết quả nghiên cứu cho
thấy hệ số P/E có mối quan hệ ngược chiều với biến động lợi nhuận (earnings
volatility), tốc độ tăng trưởng EPS có tương quan dương với hệ số P/E. Tuy nhiên, hệ
số P/E trên thị trường Trung Quốc có khuynh hướng nhạy cảm hơn với mức biến
động lợi nhuận, tác động của biến động lợi nhuận có xu hướng lấn át tác động của
tăng trưởng lợi nhuận làm cho hệ số P/E của thị trường Trung Quốc có xu hướng thấp
hơn thị trường Hoa Kỳ.
Tại Việt Nam, Phạm Hữu Hồng Thái và Nguyễn Thành Đến (2017) nghiên cứu
số liệu thu thập từ các báo cáo tài chính của 191 công ty phi tài chính niêm yết trên
TTCK 6 năm từ 2010 – 2015, tác giả sử dụng mô hình hồi quy bình phương nhỏ nhất
gộp (Pooled OLS), kết quả nghiên cứu cho thấy 04 biến trong mô hình có ý nghĩa
thống kê bao gồm: Chỉ số Tobin’Q, tốc độ tăng trưởng lợi nhuận, tỷ lệ nợ trên vốn
75
chủ sở hữu (Lev) và lượng vốn tái đầu tư (Caex). Trong đó, chỉ số Tobin’Q, tốc độ
tăng trưởng có tác động có tác động cùng chiều với hệ số P/E; tỷ lệ nợ trên vốn chủ
sở hữu và lượng vốn tái đầu tư cùng có tác động ngược chiều với hệ số P/E.
Ta thấy, các nghiên cứu trực tiếp về các nhân tố tác động đến hệ số P/E đã đi
từ các nhân tố cơ bản theo công thức của Gordon (1962), Beaver và Morse (1978)
bao gồm tốc độ tăng trưởng lợi nhuận, tỷ lệ chi trả cổ tức, hệ số Beta. Khả năng giải
thích hệ số P/E của các mô hình hồi quy chỉ bao gồm 03 yếu tố cơ bản này có xu
hướng giảm dần theo thời gian. Các nhà nghiên cứu có xu hướng tiếp tục bổ sung
nhiều nhân tố tác động mới vào mô hình như quy mô, các thông tin tài chính, hoặc
kết hợp với các yếu tố vĩ mô. Các nghiên cứu của Lutfi và Arsitha (2016), Dutta và
Ctg (2018), Arslan và Ctg (2017), Freihat (2019) đưa nhiều nhân tố là các chỉ số tài
chính, thông tin tài chính vào mô hình các nhân tố tác động đến hệ số P/E nhưng lại
bỏ qua hệ số Beta nhân tố quan trọng tác động đến giá cổ phiếu và hệ số P/E.
Các nhân tố vĩ mô có khả năng giải thích sự khác nhau của hệ số P/E giữa các
thị trường khác nhau, hoặc cùng thị trường tại các thời điểm khác nhau. Trong khi
đó, các nhân tố cụ thể của công ty và cổ phiếu giải thích sự khác nhau giữa hệ số P/E
của các công ty khác nhau trên cùng 1 thị trường. Các nghiên cứu thường tập trung
hoàn toàn vào 1 trong 02 nhóm nhân tố này. Một số ít nghiên cứu nhân tố vĩ mô
nhưng có bổ sung thêm nhân tố cụ thể của công ty như Shamsuddin và Hillier (2004),
nghiên cứu tác động của các nhân tố cụ thể của công ty và cổ phiếu nhưng có bổ sung
thêm nhân tố vĩ mô như Freihat (2019) để làm tăng khả năng giải thích của mô hình.
Ngoài ra, không có nhiều các nghiên cứu có sự kết hợp giữa các yếu tố cụ thể của
công ty và cổ phiếu với các yếu tố vĩ mô trong mô hình nghiên cứu.
Ta có thể thấy tác động của các yếu tố phi tài chính đến hệ số P/E chưa được
nghiên cứu. Một số các nhân tố quan trọng khác như: Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ
sở hữu (ROE), Giá trị số sách trên 1 cổ phần (BVPS), tỷ lệ chi trả cổ tức (POR), đòn
bẩy tài chính (DA) ... còn có nhiều kết quả nghiên cứu thực nghiệm không thống nhất
hoặc không thống nhất với cơ sở lý thuyết.
Về phương pháp phân tích dữ liệu, các nghiên cứu đã có sự cái tiến khá rõ nét
từ các nghiên cứu chỉ sử dụng dữ liệu trong một năm cụ thể bằng mô hình hồi quy
76
OLS cho đến các nghiên cứu có chuỗi thời gian dài hơn và sử dụng các mô hình mô
hình phân tích phù hợp với dữ liệu bảng như Pooled OLS, FEM, REM, GMM ...
Nhưng việc xây dựng mô hình nghiên cứu với đầy đủ và toàn diện các biến nghiên
cứu còn khá hạn chế.
Tại Việt Nam, các nghiên cứu về chủ đề này còn thiếu hụt cả về chất lượng và số
lượng, nghiên cứu của Phạm Hữu Hồng Thái và Nguyễn Thành Đến (2017) là một
trong số rất ít các nghiên cứu về chủ đề này được chính thức công bố, tuy nhiên quy
mô mẫu nghiên cứu, thời gian nghiên cứu, các biến nghiên cứu cũng còn nhiều hạn
chế.
2.5.2. Các nghiên cứu có liên quan:
2.5.2.1. Các nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố tác động đến giá cổ phiếu
Các nhân tố tác động đến giá cổ phiếu là một chủ đề được rất nhiều nhà nghiên
cứu quan tâm. Các nhân tố tác động đến giá cổ phiếu có thể chia thành 03 nhóm bao
gồm: (1) nhóm nhân tố là các thông tin kế toán như: EPS, Giá trị sổ sách trên 1 cổ
phiếu, ROA, ROE, Dòng tiền hoạt động (CFO), đòn bẩy tài chính …(2) Nhóm nhân
tố liên quan đến các yếu tố vĩ mô và thị trường như: GDP, lạm phát, lãi suất, Giá
vàng, giá dầu, mức bù rủi ro, hệ số Beta … (3) Nhóm nhân tố phi tài chính như: chất
lượng công bố thông tin, xếp hạng quản trị công ty, trách nhiệm xã hội … Ngoại trừ
lợi nhuận trên 1 cổ phiếu (EPS), các nhân tố tác động đến giá cổ phiếu cũng sẽ có tác
động đối với hệ số P/E.
Ohlson (1995) đã xây dựng một mô hình lý thuyết vững chắc và có ảnh hưởng
mạnh mẽ đến dòng nghiên cứu về mối quan hệ giữa thông tin kế toán và giá cổ phiếu.
Nghiên cứu của ông khẳng định quan điểm cho rằng thông tin kế toán bao gồm các
chỉ tiêu của bảng cân đối kế toán và các chỉ tiêu của bảng báo cáo kết quả kinh doanh
có tác động đến giá thị trường của cổ phiếu.
Collins và Ctg (1997) đã nghiên cứu những thay đổi của giá trị cổ phiếu có liên
quan đến thông tin lợi nhuận và giá trị sổ sách của vốn chủ sở hữu trong khoảng thời
gian 40 năm. Kết quả nghiên cứu cho thấy, vai trò của lợi nhuận có xu hướng giảm
dần và vai trò của giá trị sổ sách có xu hướng tăng dần trong việc giải thích cho giá
77
trị trường của cổ phiếu.
Sharma (2011) đánh giá mối quan hệ giữa giá thị trường của cổ phiếu và các biến
thông tin kế toán như: Giá trị sổ sách trên mỗi cổ phiếu, cổ tức trên mỗi cổ phiếu, lợi
nhuận trên mỗi cổ phiếu trong giai đoạn 1993 – 2009 trên TTCK Ấn Độ. Kết quả
nghiên cứu cho thấy cả 03 yếu tố này đều có ảnh hưởng đến giá thị trường của cổ
phiếu. Trong đó cổ tức và lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu là yếu tố tác động mạnh nhất
đối với giá thị trường của cổ phiếu.
Nguyễn Thị Thục Đoan (2011), sử dụng dữ liệu các cổ phiếu niêm yết trên Sở
Giao dịch chứng khoán Hà Nội và Sở Giao dịch chứng khoán TP.HCM năm 2009
nghiên cứu các nhân tố tác động đến giá thị trường của cổ phiếu bao gồm: Giá trị sổ
sách, thu nhập trên cổ phiếu thường (EPS), tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE)
và hệ số đòn bẩy tài chính. Kết quả kiểm định cho thấy chỉ có hai biến EPS và ROE
là có mối quan hệ cùng chiếu và có ý nghĩa đối với giá cổ phiếu.
Lê Thị Khánh Phương (2015), nghiên cứu mối quan hệ giữa thông tin kế toán
và giá cổ phiếu dựa trên mẫu nghiên cứu là các công ty phi tài chính niêm yết trên
SGDCK TP.HCM và SGDCK Hà Nội giai đoạn 2008 – 2014. Kết quả nghiên cứu
cho thấy, lợi nhuận kế toán trên 1 cổ phiếu (EPS), giá trị sổ sách trên 1 cổ phiếu
(BVPS), dòng tiền từ hoạt động kinh doanh (CFO) tác động cùng chiều đối với giá
cổ phiếu.
Võ Xuân Vinh (2014), nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến giá thị trường cổ
phiếu tại Việt Nam bao gồm: Giá cổ phiếu trên TTCK Hoa Kỳ, Tỷ giá hối đoái, giá
vàng, Giá dầu thô sử dụng dữ liệu trong giai đoạn 2005 – 2012. Kết quả nghiên cứu
cho thấy giá cổ phiếu tại Việt Nam chịu tác động của giá dầu thô, chịu tác động đáng
kể của giá cổ phiếu Hoa Kỳ và tỷ giá hối đoái trong giai đoạn trước khủng hoảng
(2008).
Trương Đông Lộc (2014), sử dụng dữ liệu bao gồm chuỗi giá, lợi nhuận trên
mỗi cổ phiếu (EPS) của 20 cổ phiếu niêm yết trên HOSE, lãi suất cho vay, tỷ giá
USD/VND, giá vàng và chỉ số giá tiêu dùng (CPI) theo quý trong giai đoạn 2006 –
2012. Kết quả nghiên cứu cho thấy EPS và tỷ giá USD/VND có tương quan tỷ lệ
thuận với sự thay đổi giá của các cổ phiếu. Ngược lại, biến động giá vàng và tỷ lệ lạm
78
phát có tương quan nghịch với tỷ suất sinh lời của các cổ phiếu.
Trịnh Anh Khoa (2016), sử dụng dữ liệu nghiên cứu là chuỗi giá trị chỉ số HNX
– Index, lãi suất cho vay, giá vàng, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và tỷ giá VND/USD
theo tần suất quý trong giai đoạn 3/2008 đến 9/2015, giá cổ phiếu và thông tin tài
chính của 21 công ty niêm yết trên HNX. Kết quả nghiên cứu cho thấy EPS và lãi
suất cho vay có mối tương quan thuận với sự thay đổi của giá cổ phiếu. Ngược lại, tỷ
giá USD/VND, CPI, giá vàng và tâm lý bầy đàn của nhà đầu tư lại tương quan nghịch
chiều với sự thay đổi giá cổ phiếu.
Phạm Hữu Hồng Thái và Lê Dũng Hiệp (2016) sử dụng số liệu của 200 công
ty niêm yết trên TTCK Việt Nam giai đoạn 2008 – 2015 nghiên cứu các nhân tố quyết
định giá cổ phiếu niêm yết tại Việt Nam. Nghiên cứu đã chỉ ra các yếu tố có tác động
đến giá cổ phiếu như : Tỷ lệ chi trả cổ tức, lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu, tỷ lệ lạm phát,
giá trị tài sản ròng trên mỗi cổ phiếu.
Bên cạnh các nghiên cứu về tác động của các yếu tố tài chính, yếu tố vĩ mô đến
giá cổ phiếu, nhiều tác giả cũng tiến hành các nghiên cứu về tác động của các yếu tố
phi tài chính đến giá trị của công ty.
Gomper và Ctg (2003), nghiên cứu sự ảnh hưởng của quản trị công ty đến hiệu
quả hoạt động, sử dụng mẫu nghiên cứu bao gồm 1500 công ty tại Hoa Kỳ. Kết quả
nghiên cứu cho thấy những công ty có quyền cổ động mạnh (có chất lượng quản trị
công ty tốt) có giá trị công ty cao hơn, lợi nhuận cao hơn, tốc độ tăng trưởng doanh
thu cao hơn và ít các trường hợp thâu tóm, sáp nhập công ty hơn.
Bauer và Ctg (2004), tiến hành nghiên cứu dựa trên mẫu nghiên cứu bao gồm
các công ty trong bộ chỉ số FTFE Eurotop 300 năm 2000 và 2001 tại Châu Âu. Kết
quả nghiên cứu cho thấy, mặc dù có những khác biệt giữa Vương Quốc Anh (UK) và
các quốc gia trong Thị trường chung Châu Âu (Eurozone markets), nhưng nhìn chung
có mối quan hệ khá mạnh giữa quản trị công ty và giá trị công ty.
Luo và Salterio (2014) dựa trên số liệu năm 2006 của 650 công ty niêm yết tại
Canada, kết quả nghiên cứu cho thấy điểm quản trị công ty có tác động cùng chiều
đáng kể với giá trị công ty (đo lường bằng Tobin’Q) và tác động cùng chiều yếu hơn
79
với lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE).
Trần Nhân Phúc (2017), nghiên cứu tác động của xếp hạng quản trị công ty đối
với hiệu quả tài chính của các công ty niêm yết trên TTCK TP.HCM năm 2015. Kết
quả nghiên cứu khẳng định giả thuyết mối tương quan giữa giá trị công ty và mức
xếp hạng quản trị công ty khi cả hai biến PBV (hệ số giá trên giá trị sổ sách) và
Tobin‟Q đều tương quan dương với mức xếp hạng quản trị công ty.
Báo cáo Quản trị Công ty Việt Nam theo thẻ điểm Quản trị khu vực ASEAN
giai đoạn 2012 – 2017 cũng cho thấy tác động tích cực của quản trị công ty đối với
giá trị cổ phiếu. Các công ty thuộc nhóm điểm quản trị công ty cao nhất cũng là các
công ty có tỉ số P/B (tỉ số giữa giá thị trường và giá trị sổ sách của cổ phiếu cao nhất).
Tương tự, tỉ số Tobin’s Q (tỉ số giữa giá thị trường và giá trị sổ sách của tổng tài sản)
của nhóm công ty có điểm quản trị công ty cao nhất cũng cao hơn nhóm có điểm quản
trị công ty thấp nhất.
2.5.2.2 Các nghiên cứu đánh giá hiệu quả chiến lược đầu tư theo hệ số P/E: Nghiên cứu đánh giá hiệu quả chiến lược đầu tư theo hệ số P/E là hướng nghiên
cứu được thực hiện sớm nhất về chủ đề này, cung cấp những nền tảng thực nghiệm
quan trọng về hiệu quả đầu tư khi sử dụng hệ số P/E. Nhiều nghiên cứu tiến hành
phân loại các cổ phiếu theo hệ số P/E hoặc/và P/B, thành danh mục các cổ phiếu có
hệ số P/E cao (được xem là bị định giá cao) và có cổ phiếu có hệ số P/E thấp (được
xem là bị định giá thấp). Sau đó, đo lường hiệu quả của các danh mục này bằng cách
so sánh tỉ suất sinh lời của các danh mục hoặc với mức sinh lời tham chiếu
(benchmark).
Nghiên cứu thực nghiệm đầu tiên về hệ số P/E được tiến hành bởi Nicolson
(1960), cho thấy cổ phiếu các công ty có hệ số P/E thấp thường có mức sinh lời cao
hơn cổ phiếu của các công ty có hệ số P/E cao, phần chênh lệch này được gọi là phần
bù giá trị (Premium Value). Nicolson nghiên cứu 100 cổ phiếu trên thị trường chứng
khoán Hoa Kỳ trong thời gian từ 1939 đến năm 1959. Tác giả chia giai đoạn trên
thành 11 thời kỳ bao gồm các khung thời gian : 3 năm, 6 năm, 10 năm; so sánh mức
độ tăng giá của nhóm 20 - 40 cổ phiếu có hệ số P/E cao nhất và 20 - 40 cổ phiếu có
80
hệ số P/E thấp nhất và đi tới kết luận này.
Basu (1977) xem xét hiệu quả đầu tư của cổ phiếu phổ thông trong mối quan
hệ với hệ số P/E nhằm kiểm định lý thuyết thị trường hiệu quả. Nghiên cứu 753 cổ
phiếu được giao dịch tại Sở Giao dịch chứng khoán NewYork trong giai đoạn tháng
4 năm 1957 đến tháng 3 năm 1971. Tác giả sắp xếp thứ tự các cổ phiếu này theo hệ
số P/E và chia thành 5 danh mục cổ phiếu với hệ số P/E từ cao đến thấp; tính toán tỷ
suất sinh lời theo tháng của các danh mục qua từng năm. Dựa trên giả định các nhà
đầu tư trên thị trường vốn chủ yếu là các nhà đầu tư ngại rủi ro (Risk – averse
investors), cho nên việc đo lường hiệu quả đầu tư của chứng khoán hay danh mục đầu
tư phải tính đến cả lợi nhuận và rủi ro. Tác giả sử dụng cả các phương pháp đánh giá
rủi ro danh mục đầu tư của Jensen, Sharpe và Treynor …. Cả ba phương pháp này
đều dựa trên nền tảng ban đầu là mô hình CAPM và lý thuyết thị trường vốn. Trong
suốt giai đoạn tháng 4 năm 1957 đến tháng 3 năm 1971, bình quân, danh mục cổ
phiếu có hệ số P/E thấp (Low P/E Porfolio) có tỷ suất sinh lời tuyệt đối (Absolute) và
mức sinh lời có điều chỉnh rủi ro (Risk – Adjusted) cao hơn các cổ phiếu có hệ số P/E
cao (High P/E securities). Danh mục đầu tư bao gồm các cổ phiếu có hệ số P/E thấp
mang đến hệ số alphas hay lợi nhuận điều chỉnh rủi ro (risk adjusted return) cao hơn.
Đầu tư vào các cổ phiếu có hệ số P/E thấp sẽ mang lại lợi nhuận bất thường dự kiến
dương (future positive abnormal return). Kết quả nghiên cứu này cho thấy thông tin
về hệ số P/E chưa được “phản ánh đầy đủ - fully reflected” vào giá chứng khoán một
các nhanh chóng như khẳng định của hình thái hiệu quả dạng vừa (Semi – strongform)
của lý thuyết thị trường hiệu quả.
Fama & French (1992) nghiên cứu các cổ phiếu niêm yết tại NYSE, AMEX,
NASDAQ trong giai đoạn 1963 – 1990 về các yếu tố tác động đến tỉ suất sinh lời
danh mục đầu tư cổ phiếu. Theo đó, các cổ phiếu được chia thành 12 danh mục dựa
vào BM (hệ số giá trị sổ sách trên giá thị trường – Book to market) và 12 danh mục
dựa vào quy mô công ty (được đo lường bằng giá trị vốn hóa thị trường). Kết quả cho
thấy, danh mục đầu tư có hệ số BM càng cao (P/B càng thấp) xu hướng có tỷ suất
sinh lời càng cao. Các cổ phiếu có quy mô vốn hóa nhỏ có tỷ suất sinh lời cao hơn
các cổ phiếu có giá trị vốn hóa lớn. Hệ số BM và quy mô công ty là những yếu tố có
81
thể giải thích sự khác biệt về tỷ suất sinh lời bình quân giữa các cổ phiếu khác nhau.
Chahine (2008) nghiên cứu hiệu quả của các chiến lược đầu tư dựa trên dữ liệu
của 11 quốc gia trong khu vực Châu Âu giai đoạn từ 1988 đến 2003. Tác giả chia cổ
phiếu thành các nhóm bao gồm: cổ phiếu giá trị (Value stock) là các cổ phiếu có hệ
số P/E thấp, cổ phiếu tăng trưởng (Growth stock) là các cổ phiếu có hệ số P/E cao,
cổ phiếu định giá thấp (Undervalued stocks) là các cổ phiếu có P/E thấp và tốc độ
tăng trưởng lợi nhuận cao, cổ phiếu định giá cao (overvalued stocks) là các cổ phiếu
có P/E cao và tốc độ tăng trưởng lợi nhuận thấp. Nghiên cứu đã cung cấp bằng chứng
thực nghiệm cho thấy chiến lược đầu tư vào cổ phiếu giá trị có kết quả đầu tư tốt hơn
chiến lược đầu tư vào các cổ phiếu tăng trưởng. Chiến lược đầu tư vào cổ phiếu định
giá thấp (cổ phiếu giá trị có tốc độ tăng trưởng cao) có tỷ suất sinh lợi vượt trội so
với cả chiến lược đầu tư vào cổ phiếu giá trị, cổ phiếu tăng trưởng và đặc biệt là cổ
phiếu định giá cao.
Nguyễn Thị Hoàng Giang và Bùi Thị Hồng Nhung (2014), nghiên cứu dựa trên
chỉ số tài chính từ báo cáo tài chính năm 2011 của 307 công ty niêm yết trên Sở Giao
dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh và giá cổ phiếu vào 3 tháng cuối năm 2012 và
03 tháng đầu năm 2013. Tác giả xem xét 02 chỉ số định giá P/E và P/B, có phân loại
thành các nhóm: toàn thị trường, các công ty cùng ngành (phân loại theo ICB), các
công ty có chỉ số cơ bản giống nhau (ROA, ROE), Các công ty cùng ngành và có chỉ
số cơ bản giống nhau. Kết quả đánh giá dựa trên chiến lược đầu tư về giá cho thấy
chỉ số P/E mang lại kết quả đầu tư rõ rệt, còn chỉ số P/B không hiệu quả. Chiến lược
đầu tư theo hệ số P/E được hiệu quả hơn khi được xác định trên cơ sở phân biệt ngành.
Việc sử dụng phân loại dựa trên chỉ số cơ bản (ROA, ROE) mang lại kết quả đầu tư
cải thiện cho chỉ số P/B nhưng lại không mang kết quả cải thiện nào cho chỉ số P/E.
Phạm Hữu Hồng Thái và Nguyễn Vũ Hồng Phượng (2015) nghiên cứu việc kết
hợp cả hai chỉ tiêu P/E và P/B để xây dựng DMĐT cổ phiếu giá trị cho các cổ phiếu
niêm yết ở HOSE trong giai đoạn 2009 – 2013. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ suất
sinh lời của danh mục đầu tư cổ phiếu giá trị (bao gồm các cổ phiếu có hệ số P/E và
P/B thấp) vượt trội hơn so với danh mục cổ phiếu tăng trưởng (bao gồm các cổ phiếu
82
có hệ số P/E và P/B cao), tồn tại một phần bù giá trị có ý nghĩa thống kê.
Các kết quả nghiên cứu này củng cố cho việc xây dựng chiến lược đầu tư trong
đó các cổ phiếu có hệ số P/E hoặc P/B thấp là các cổ phiếu được định giá thấp và
mang đến mức lợi nhuận cao hơn các cổ phiếu có P/E hoặc P/B cao. Đồng thời, nó
cũng cung cấp bằng chứng thực nghiệm về hiệu quả của phương pháp định giá so
sánh nói chung và phương pháp định giá so sánh sử dụng hệ số P/E nói riêng.
2.6. Các nghiên cứu thực nghiệm về tình hình sử dụng và mức độ chính xác của các mô hình định giá
2.6.1. Các nghiên cứu thực nghiệm về tình hình sử dụng các mô hình định giá
Luôn tồn tại khoảng cách nhất định giữa các mô hình định giá được các nhà
nghiên cứu tạo ra trên lý thuyết và việc áp dụng trên thực tiễn. Do vậy, trên thế giới
có nhiều nghiên cứu được tiến hành nhằm đánh giá tình trạng sử dụng các mô hình
định giá trên thực tế. Các nghiên cứu này có 02 hướng tiếp cận chính: (1) Hướng thứ
nhất là khảo sát các nhà phân tích (survey) tiêu biểu như các nghiên cứu của: Block
(1999); Dukes và Ctg (2006), Bancel và Mitto (2014), Pinto và Ctg (2019) … (2)
Hướng thứ hai, là phân tích nội dung của các báo cáo phân tích cổ phiếu (Content
Analysis) tiêu biểu như các nghiên cứu của Bradshow (2002), Demirakos và Ctg
(2004), Imam và Ctg (2008), Sayed (2017) ….
Bradshaw (2002), tiến hành nghiên cứu 103 báo cáo phân tích (sell – side
analyst’s report) được lựa chọn ngẫu nhiên bao gồm các công ty thuộc nhiều ngành
khác nhau và báo cáo được xuất bản bởi khoảng 43 công ty tư vấn, môi giới chứng
khoán tại Hoa Kỳ. Kết quả nghiên cứu cho thấy, P/E là hệ số được sử dụng nhiều
nhất làm cơ sở của các khuyến nghị với 76% báo cáo sử dụng, xếp thứ hai là tốc độ
tăng trưởng với khoảng 37% báo cáo sử dụng. Các hệ số khác như P/B, P/S,
P/EBITDA … có tỷ lệ sử dụng rất thấp.
Asquith và Ctg (2004) tiến hành nghiên cứu 1.126 báo cáo phân tích cổ phiếu
được phát hành bởi các nhà đầu tư tổ chức tại Hoa Kỳ trong giai đoạn 1997 – 1999.
Các phương pháp định giá được chia thành 04 nhóm chính : Bội số thu nhập hoặc bội
số dòng tiền (P/E, EV/EBITDA, P/S), Chiết khấu dòng tiền (FCFE,FCFF), Bội số tài
83
sản (P/B) và nhóm các phương pháp khác. Kết quả nghiên cứu cho thấy có tới 99.1%
các báo cáo phân tích có sử dụng các bội số thu nhập hoặc bội số dòng tiền (mô hình
định giá so sánh), 12.8% sử dụng các mô hình chiết khấu dòng tiền và 25.1% sử dụng
bội số tài sản (P/B).
Roosenboom (2007), tập hợp mẫu nghiên cứu bao gồm 228 báo cáo phân tích
của các tổ chức bảo lãnh phát hành trên thị trường Pháp để xem xét, đánh giá chi tiết
việc định giá công ty trong các đợt IPO trước khi cổ phần được giao dịch tại Euronext
Paris. Định giá so sánh vẫn là phương pháp phổ biến nhất với 87% (199/228) báo cáo
phân tích của tổ chức bảo lãnh phát hành sử dụng, mô hình chiết khấu dòng cổ tức
(DDM) và chiết khấu dòng tiền cùng có 59% (135/228) nhà bảo lãnh phát hành sử
dụng, phương pháp giá trị kinh tế gia tăng (Economic Value Added) có 44/228 nhà
bảo lãnh phát hành sử dụng, các phương pháp đặc thù khác chỉ được sử dụng tại
26/228 báo cáo. Các tổ chức bảo lãnh phát hành thường sử dụng bình quân 2.4 phương
pháp để định giá một công ty IPO.
Imam và Ctg (2013) sử dụng phương pháp phân tích nội dung, đánh giá tình
hình sử dụng các mô hình định giá thông qua việc xem xét 62 báo cáo phân tích bao
gồm 45 công ty thuộc chỉ số DJ Euro Stoxx 50. Kết quả nghiên cứu cho thấy 56 %
báo cáo sử dụng các mô hình định giá so sánh là mô hình định giá chủ đạo, trong đó
theo hệ số P/E vẫn là mô hình định giá phổ biến nhất với 36% báo cáo sử dụng là mô
hình định giá chủ đạo. 28% báo cáo sử dụng mô hình định giá chiết khấu dòng tiền
là mô hình định giá chủ đạo. Đặc biệt nghiên cứu cho thấy sự khác biệt khá rõ về
tình hình sử dụng các phương pháp định giá áp dụng đối với các công ty thuộc lĩnh
vực tài chính so với các lĩnh vực còn lại. Các nhà phân tích hầu như không sử dụng
mô hình chiết khấu dòng tiền khi định giá các công ty thuộc lĩnh vực tài chính, thay
vào đó mô hình định giá dựa trên tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu và chi phí sử
dụng vốn có điều chỉnh theo tốc độ tăng trưởng (ROEg/COEg) được sử dụng là
phương pháp định giá chủ đạo tại 14 (trên tổng số 22) báo cáo phân tích các công ty
thuộc lĩnh vực tài chính và toàn bộ được sử dụng là mô hình định giá chủ đạo. Mô
hình ROEg/COEg hoàn toàn không được sử dụng trong các báo cáo phân tích các
công ty thuộc lĩnh vực khác. Trước đó, nghiên cứu của Imam và Ctg (2008) kết hợp
84
phân tích nội dung và phỏng vấn, khảo sát các nhà phân tích cũng khẳng định sự
thống trị của 02 mô hình định giá P/E và chiết khấu dòng tiền tự do (DCF). Tình trạng
sử dụng các phương pháp định giá trong báo cáo phân tích công ty thuộc ngành tài
chính cũng có sự khác biệt đáng kể có với các ngành khác. Nghiên cứu này cũng
cho thấy, mô hình chiết khấu dòng tiền có thể không được đề cập nhiều bằng mô hình
định giá so sánh nhưng lại được sử dụng là mô hình định giá đóng vai trò chính
(primary model) nhiều hơn.
Báo cáo khảo sát các nhà đầu tư tổ chức của BofA Merrill Lynch năm 2012
(BofA Merrill Lynch Institutional Factor Survey), tiến hành khảo sát các nhà đầu tư
tổ chức về các yếu tố (factors) được sử dụng trong việc ra quyết định đầu tư trong
giai đoạn 1989 đến 2012. Theo đó có khoảng 31 yếu tố cả cơ bản và kỹ thuật được
các nhà đầu tư sử dụng trong việc ra quyết định đầu tư. Trong 10 yếu tố được sử dụng
nhiều nhất, các bội số của phương pháp định giá so sánh đã đóng góp tới 04 nhân tố.
Trong đó hệ số P/E là nhân tố được sử dụng nhiều nhất với 81% nhà đầu tư trả lời
khảo sát có sử dụng, EV/EBITDA xếp vị trí thứ 3 với 60%, hệ số P/B và P/FCF xếp
ở vị trú thứ 6 và thứ 7 với 53% nhà đầu tư có sử dụng. Các mô hình chiết khấu dòng
tiền (DDM/DCF) chỉ xếp ở vị trí thứ 15 với khoảng 37% nhà đầu tư trả lời có sử
dụng.
Bancel và Mitoo (2014) tiến hành khảo sát hơn 7200 chuyên gia định giá chứng
khoán, đầu tư tại nhiều quốc gia Châu Âu trong khoảng thời gian từ 15/4 đến
15/5/2012 và nhận được phản hồi từ 356 chuyên gia từ hầu hết các quốc gia Châu Âu
trong đó: Pháp (chiếm 36%), UK(16%), Tây Ban Nha (13%), Thụy Sĩ (12%) và quốc
gia khác như Bỉ, Đức, Ba Lan, Bồ Đào Nha… Kết quả nghiên cứu cho thấy, định giá
so sánh (Relative valuation) và theo sát là mô hình DCF (FCFF) vẫn là mô hình định
giá phổ biến nhất với xấp xỉ 80% nhà phân tích có sử dụng. FCFF có mức độ phổ
biến cũng lớn hơn khá nhiều so với FCFE với chỉ khoảng gần 40% sử dụng. Mô hình
chiết khấu dòng cổ tức (DDM) và mô hình định giá theo tài sản ròng chỉ có khoảng
20% chuyển gia trả lời có sử dụng. Trong các nhà phân tích có sử dụng mô hình định
giá so sánh, có 83% sử dụng Firm value/EBITDA, 68% sử dụng P/E, các bội số giá
cổ phiếu trên giá tri sổ sách (Price – Book Ratio), giá trị công ty trên doanh thu (Firm
85
Value to Sale) có khoảng gần 50% sử dụng. Như vậy ta thấy tại khảo sát này, Firm
Value/EBITDA đã vượt qua P/E để trở thành bội số được sử dụng phổ biến nhất trong
định giá so sánh.
Cuộc khảo sát với quy mô và phạm vi lớn nhất được tiến hành bởi Pinto và Ctg
(2019). Đối tượng khảo sát được tập trung vào các nhà phân tích trực tiếp, những
người đang dành bình quân 62% thời gian làm việc hàng tuần cho việc đánh giá các
cổ phiếu riêng lẻ nhằm đưa ra các khuyến nghị đầu tư hoặc quyết định đầu tư. Khảo
sát nhận được 1980 phản hồi có thể sử dụng được, trong đó có 66% là các nhà phân
tích Hoa Kỳ, còn lại là các nhà phân tích đến từ khu vực Châu Á Thái Bình Dương
(Asia Pacific), Châu Âu, Trung Đông, Châu Phi. Theo kết quả nghiên cứu, hướng
tiếp cận các bội số thị trường (định giá so sánh) vẫn là phổ biến nhất với 92,8% nhà
phân tích trả lời có sử dụng, và sử dụng trong hơn 68% các trường hợp định giá mà
họ tiến hành; theo sau là hướng tiếp cận chiết khấu giá trị hiện tại với tỷ lệ lần lượt là
78,8% - 59,5%. Hướng tiếp cận trên cơ sở chiết khấu dòng tiền vẫn xếp sau các bội
số thị trường, nhưng mức độ phổ biến, tỷ lệ sử dụng đã tăng lên đáng kể so với các
nghiên cứu khảo sát trước. Đi sâu vào từng hướng tiếp cận, đối với các bội số thị
trường, P/E vẫn được sử dụng phổ biến nhất với tỷ lệ 88,1% người sử dụng hướng
tiếp cận bội số thị trường có sử dụng hệ số này và sử dụng trong hơn 67,2% trường
hợp định giá mà họ tiến hành. Bội số EV/EBITDA, EV/ EBIT cũng được sử dụng rất
phổ biến với tỷ lệ tương ứng là 76,7% - 61,1%, tiếp theo là các bội số như Giá thị
trường trên giá trị sổ sách - P/B (59% - 44,8%), Giá thị trường trên dòng tiền -
P/CF(57,2% - 54,6%), Giá thị trường trên doanh thu - P/S (40,3% - 45,7%), Cổ tức
trên giá - D/P (35,5% - 44,3%), các bội số khác bao gồm cả P/E trên tốc độ tăng
trưởng - PEG có tỷ lệ sử dụng rất thấp. Đối với hướng tiếp cận chiết khấu giá trị hiện
tại, mô hình chiết khấu dòng tiền tự do (Discounted Free Cashflow Model - DCF) là
mô hình được sử dụng phổ biến nhất với 86,8% nhà phân tích sử dụng hướng tiếp cận
này trả lời có sử dụng và sử dụng trong 80,1% các trường hợp định giá đã tiến hành,
tỷ lệ này vượt rất xa so với mô hình đứng thứ 2 là mô hình chiết khấu dòng cổ tức.
Mô hình thu nhập thặng dư (RIV) và mô hình Dòng tiền từ lợi nhuận trên dự án đầu
tư – Cashflow Return on Investment (CFROI) bắt đầu được các nhà phân tích quan
86
tâm sử dụng dù với tỷ lệ còn khiêm tốn. Nhóm các mô hình khác có tỷ lệ sử dụng
không đáng kể. Đối với mô hình chiết khấu dòng tiền tự do, phương pháp sử dụng
dòng ngân lưu thuộc về doanh nghiệp (Free Cashflow to Firm) được sử dụng phổ
biến hơn rất nhiều so với dòng ngân lưu thuộc về chủ sở hữu (Free Cashflow to
Equity), mô hình 02 giai đoạn và nhiều hơn 02 giai đoạn cũng được sử dụng nhiều
hơn đáng kể so với mô hình 1 giai đoạn tăng trưởng đều.
Các nghiên cứu, khảo sát tại nhiều giai đoạn vẫn cho thấy mức độ phổ biến vượt
trội về tần suất sử dụng của các mô hình định giá so sánh, trong đó đặc biệt là mô
hình định giá so sánh theo hệ số P/E. Tuy nhiên ta cũng thấy xu hướng sử dụng các
mô hình định giá phức tạp hơn (Sophisticated Models) như DCF có xu hướng tăng
lên và đặc biệt các mô hỉnh này được ưu tiên sử dụng là mô hình định giá chủ đạo.
Điều này có thể giải thích do sự xuất hiện của các khái niệm và định nghĩa mới về
dòng tiền như FCFF, FCFE, RI … đồng thời do bối cảnh trình độ chung của nhà đầu
tư không ngừng được nâng lên, khối lượng thông tin ngày càng phong phú, khả năng
tiếp cận thông tin ngày càng thuận lợi.
Một điểm đáng chú ý khác, bên cạnh các mô hình “truyền thống” như P/E, DCF,
P/B … ta thấy sự xuất hiện và gia tăng của các mô hình, cách tiếp cận định giá “mới”
như: EV/EBITDA, mô hình thu nhập thặng dư (Residual Income Valuation Model -
RIV) và mô hình Dòng tiền từ lợi nhuận trên dự án đầu tư – CFROI, mô hình định
giá dựa trên tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu và chi phí sử dụng vốn có điều
chỉnh theo tốc độ tăng trưởng (ROEg/COEg)…
2.6.2. Các nghiên cứu đo lường mức độ chính xác của của các mô hình định giá
Mức độ chính xác của các phương pháp định giá (Valuation Accuracy) cũng là
một chủ đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Trên thực tế, các nhà phân tích, nhà
đầu tư có thể sử dụng các phương pháp định giá khác nhau, hay cùng một mô hình
định giá nhưng cách tiếp cận, cách các tính thông số đầu vào cũng có thể khác nhau.
Việc đánh giá mức độ chính xác của các phương pháp định giá có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc lựa chọn mô hình định giá, lựa chọn các thông số đầu vào, ngoài ra
nó cung cấp bằng chứng thực nghiệm cho mức độ đáng tin cậy của từng phương pháp
87
định giá nói riêng cũng như toàn bộ triết lý đầu tư trên cơ sở xác định giá trị nội tại
của cổ phiếu nói chung. Một trong những mục tiêu quan trọng nhất của định giá là để
đưa ra các quyết định hay khuyến nghị đầu tư. Dựa trên giả định giá thị trường sẽ có
xu hướng phản phản ánh giá trị nội tại sau một khoảng thời gian nhất định, nhà đầu
tư sẽ so sánh giá trị nội tại được tính từ mô hình định giá với giá thị trường hiện tại
để dự đoán giá cổ phiếu và đưa ra các quyết định, khuyến nghị đầu tư. Cho nên việc
đo lường tính chính xác hay sai số của công tác định giá được dựa trên cơ sở chênh
lệch giữa giá trị nội tại/giá trị ước tính/giá mục tiêu (intrinsic value/estimated
value/target price) theo mô hình định giá và giá thị trường thực tế (actual market
price) sau một khoảng thời gian, hoặc mức độ chính xác của các quyết định đầu tư
dựa trên cơ sở sử dụng kết quả định giá.
2.6.2.1. Hướng nghiên cứu định giá lại cổ phiếu theo dữ liệu thực tế Hướng tiếp cận được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng là dựa trên các dữ liệu thực
tế của các công ty và thị trường tại một thời điểm nhất định để tính giá trị nội tại/ước
tính theo một mô hình định giá cụ thể và so sánh với giá thị trường thực tế. Afford
(1992), Kaplan và Ruback (1995), Cheng và Mcnamara (2000), Lie và Lie (2002) là
những nghiên cứu tiên phong và tiêu biểu của hướng tiếp cận này.
Afford (1992) đánh giá mức độ chính xác (valuation accuracy) của mô hình
định giá so sánh theo hệ số P/E khi sử dụng các phương pháp khác nhau để xác định
các công ty được sử dụng để so sánh (Comparable firms) bao gồm : toàn bộ thị trường,
theo ngành (dựa trên hệ thống phân ngành của SIC), quy mô công ty (được đo bằng
tổng tài sản), Khả năng sinh lời (ROE), kết hợp ngành và quy mô, ngành và ROE,
quy mô và ROE (được đo bằng tổng tài sản). Dữ liệu nghiên cứu là các công ty niêm
yết trên các sàn giao dịch chứng khoán của Hoa Kỳ như NYSE, NASDAQ, ASE, bao
gồm 1.636 công ty vào năm 1978, 1.591 công ty vào năm 1982 và 1.471 công ty vào
năm 1986. Tác giả tính toán giá ước lượng của cổ phiếu (predicted stock price) bằng
lấy lấy EPS nhân với trung vị (median) hệ số P/E của nhóm công ty so sánh trong
cùng thời kỳ. Sai số trong ước lượng (prediction errors) được tính trên cơ sở chênh
lệch giữa giá ước lượng và giá thị trường thực tế của cổ phiếu. Kết quả cho thấy mức
88
độ chính xác tăng lên khi nhóm ngành được thu hẹp lại từ cấp 0 (toàn bộ thị trường)
đến nhóm ngành cấp 3 (theo SIC), thu hẹp hơn đến nhóm ngành cấp 4 không cho thấy
kết quả tốt hơn nhóm ngành cấp 3. Nhìn chung, công ty so sánh được lựa chọn trên
cơ sở ngành mang đến sai số ước lượng nhỏ nhất khi định giá công ty bằng mô hình
định giá so sánh dựa trên hệ số P/E. Phương pháp kết hợp ngành và quy mô mang lại
mức độ chính xác cao đối với nhóm cổ phiếu có quy mô lớn (large firm).
Kaplan và Ruback (1995) nghiên cứu về mức độ đáng tin cậy của mô hình định
giá DCF trong việc ước tính giá giá thị trường, bằng cách so sánh giá trị ước tính
(estimate value) với giá của các giao dịch có đòn bẩy cao (high levered transaction -
HLT) như giao dịch mua lại của các quản trị viên (Management buyouts - MBO).
Dựa trên cơ sở các thông tin tài chính, kế hoạch kinh doanh, dự phóng tài chính của
các thương vụ này và các thông tin liên quan tác giá sử dựng mô hình DCF để tính
giá trị ước tính (estimated value) của các cổ phiếu và so sánh với giá thị trường.
Nghiên cứu cung cấp bằng chứng thực nghiệm cho thấy phương pháp chiết khấu dòng
tiền ước mang đến sự ước lượng giá thị trường một cách đáng tin cậy mức độ sai lệch
trong định giá trung bình là khoảng 10%.
Cheng và Mcnamara (2000) sử dụng dữ liệu từ Industrial Compusat Database
giai đoạn 1973 – 1992, đánh giá sự chính xác của các mô hình định giá so sánh dựa
trên hệ số P/E, hệ số P/B và kết hợp hệ số P/E và P/B. Tương tự như Afford (1992),
nghiên cứu cũng đặt giả thiết mức độ hiệu quả của mô hình định giá phụ thuộc vào
cách thức định nghĩa các công ty so sánh. Các công ty so sánh được lựa chọn dựa trên
các tiêu chí: ngành, quy mô công ty (được đo bằng tổng tài sản), ROE cũng như kết
hợp các tiêu chí này. Các phương pháp dự đoán sai số (Prediction Error) được sử
dụng để phân tích bao gồm: PAE/A (Percentage absolute error scale by the actual
price), PAE/P (Percentage absolute error scale by the predicted price), APAE
(Percentage absolute error scale by the adjusted price). Đánh giá phương pháp sử
dụng hệ số P/E cho thấy độ chính xác của công tác định giá được xếp theo thứ tự:
Yếu tố ngành kết hợp ROE, Ngành, ngành và quy mô, ROE, toàn bộ thị trường và
cuối cùng là quy mô. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy yếu tố ngành kết hợp ROE
có kết quả tốt hơn một cách đáng kể so với chỉ sử dụng yếu tố ngành. Cũng như
89
phương pháp P/E, phương pháp P/B sử dụng kết hợp ngành và ROE cũng là cách
định nghĩa hiệu quả nhất khi lựa chọn công ty so sánh. Tuy nhiên đối với phương
pháp kết hợp P/E và P/B chỉ có yếu tố ngành là cần thiết trong việc lựa chọn công ty
so sánh. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy phương pháp định giá P/E cho kết quả
chính xác hơn phương pháp P/B. Trong khi đó phương pháp kết hợp P/E và P/B cho
kết quả định giá chính xác hơn các phương pháp P/E và phương pháp P/B.
Lie và Lie (2002) nghiên cứu mẫu 8.621 công ty từ hệ thống dữ liệu của Standard
and Poor’s Research Insight. Các thông tin về tài chính được lấy của năm tài chính
1998 và thông tin dự báo lợi nhuận của năm 1999. Giá ước lượng (Estimated value)
được tính bằng cách nhân trung vị (median) của các bội số với các chỉ số liên quan
(ví dụ như, EPS, Book value per share, EBIT ..). Sai số định giá được tính bằng cách
lấy Logarit tự nhiên (Natural logarithm) của tỷ số giữa giá ước tính (Estimate Value)
và Giá thị trường (Market Value). Kết quả nghiên cứu cho thấy các điểm nổi bật bao
gồm: Thứ nhất bội số tài sản (Giá thị trường trên giá trị sổ sách của tài sản) có mức
độ chính sách cao hơn và ít bị sai lệch hơn so với các bội số doanh thu và thu nhập.
Thứ hai, sử dụng bội số P/E dựa trên lợi nhuận dự báo mang lại kết quả chính xác
hơn sử dụng lợi nhuận quá khứ. Thứ ba, sử dụng bội số lợi nhuận trước thuế, trước
lãi, khấu khao (EBITDA) có kết quả định giá chính xác hơn bội số EBIT.
2.6.2.2. Hướng nghiên cứu phân tích nội dung (Content Analysis) Phân tích nội dung (Content Analysis) là phương pháp nghiên cứu dựa trên báo
cáo nghiên cứu phân tích (analysts’ research report). Các báo cáo phân tích thường
chứa đựng các thông tin phân tích chuyên sâu về ngành, công ty, dự phóng lợi nhuận,
giá mục tiêu và khuyến nghị …Một trong những nội dung quan trọng nhất chính là
giá mục tiêu (target price), đây là giá trị nội tại hay giá trị ước tính của cổ phiếu được
tính toán từ các dữ liệu và mô hình. Các mức giá mục tiêu được lấy từ các báo cáo
phân tích này sẽ được so sánh với giá thị trường thực tế sau một khoảng thời gian để
xác định mức độ chính xác của công tác định giá. Thông thường, nhà phân tích thường
sử dụng giá mục tiêu để đưa ra khuyến nghị đầu tư trong thời hạn 12 tháng tới, mức
giá mục tiêu phản ánh giá cổ phiếu kỳ vọng của người phân tích trong khoảng thời
90
gian này. Do vậy, trong nhiều nghiên cứu mức giá thị trường thực tế của cổ phiếu sau
12 tháng thường được so sánh với giá mục tiêu từ báo cáo định giá để đo lường mức
độ chính xác của các mô hình định giá.
Kết quả nghiên cứu của Bradshaw (2002) cho thấy khoảng hơn 2/3 các báo
cáo sử dụng giá mục tiêu (target price) làm cơ sở đưa ra khuyến nghị đầu tư. Những
khuyến nghị mạnh mẽ (vd. Strong buy) thường được hỗ trợ bằng mức độ chênh lệch
lớn giữa giá thị trường thực tế của cổ phiếu và giá mục tiêu. Nghiên cứu của Bradshaw
(2002) không đo lường mức độ chính xác của các mô hình định giá nhưng lại là một
trong những nghiên cứu tiên phong trong hướng tiếp cận phân tích nội dung (Content
Analysis).
Asquith và Ctg (2004) tiến hành nghiên cứu 1.126 báo cáo phân tích cổ phiếu
được phát hành bởi các nhà đầu tư tổ chức tại Hoa Kỳ trong giai đoạn 1997 – 1999,
trong đó có 818 báo cáo có xác định giá mục tiêu (target price) từ các mô hình định
giá. Trường hợp giá mục tiêu cao hơn giá thị trường hiện tại, báo cáo được xem là có
kết quả định giá chính xác nếu giá thị trường tăng đến mức bằng hoặc cao hơn mức
giá mục tiêu tại bất cứ thời điểm nào trong vòng 12 tháng. Ngược lại, giá mục tiêu
thấp hơn giá thị trường hiện tại, báo cáo được xem là có kết quả định giá chính xác
nếu giá thị trường giảm đến mức bằng hoặc thấp hơn mức giá mục tiêu tại bất cứ thời
điểm nào trong vòng 12 tháng. Theo thước đó này, các báo cáo phân tích trong mẫu
nghiên cứu của Asquith và Ctg (2004) có tỷ lệ định giá chính xác xấp xỉ 54%. Tuy
nghiên, nghiên cứu không tìm thấy mối quan hệ giữa các mô hình định giá được sử
dụng với mức độ chính xác.
Demirakos và Ctg (2010) nghiên cứu tác động của việc lựa chọn các mô hình
định giá đến mức độ chính xác của giá mục tiêu (target price) dựa trên 490 báo cáo
phân tích cổ phiếu của các tổ chức đầu tư quốc tế, đối tượng được phân tích là 94
công ty niêm yết UK, các báo cáo được phát hành trong giai đoạn tháng 7 năm 2002
đến tháng 6 năm 2004. Các tác giả sử dụng 04 phương pháp đo lường mức độ chính
xác bao gồm: 02 thước đo tỷ lệ chính xác của giá mục tiêu (Target price accuracy):
(1) Met _in : Xem xét mức giá mục tiêu được đạt đến hay không đạt đến trong
suốt 12 tháng kể từ ngày báo cáo được công bố. Trường hợp, giá mục tiêu được định
91
bởi báo cáo định giá cao hơn giá thị trường tại thời điểm định giá, kết quả định giá
được xem là chính xác (nhận giá trị 1) nếu giá thị trường tại bất cứ thời điểm nào
trong vòng 12 tháng tính từ ngày định giá bằng hoặc cao hơn giá mục tiêu. Trường
hợp, giá mục tiêu được định bởi báo cáo định giá thấp hơn hơn giá thị trường tại thời
điểm định giá, kết quả định giá được xem là chính xác (nhận giá trị 1) nếu giá thị
trường tại bất cứ thời điểm nào trong vòng 12 tháng tính từ ngày định giá thấp hơn
hoặc bằng giá mục tiêu. Ngược lại được xem là không chính xác (nhận giá trị 0).
(2) Met _end: mức giá mục tiêu được đạt đến hay không đạt đến trong ngày
cuối cùng của 12 tháng dự báo. Trường hợp, giá mục tiêu được định bởi báo cáo định
giá cao hơn giá thị trường tại thời điểm định giá, kết quả định giá được xem là chính
xác (nhận giá trị 1) nếu giá thị trường tại ngày cuối cùng của tháng thứ 12 tính từ
ngày định giá bằng hoặc cao hơn giá mục tiêu. Trường hợp, giá mục tiêu được định
bởi báo cáo định giá thấp hơn giá thị trường tại thời điểm định giá, kết quả định giá
được xem là chính xác (nhận giá trị 1) nếu giá thị trường tại ngày cuối cùng của tháng
thứ 12 tính từ ngày định giá thấp hơn hoặc bằng hơn giá mục tiêu. Ngược lại được
xem là không chính xác (nhận giá trị 0).
Và 02 thước đo tỷ lệ sai số dự báo (Forecast error):
(3) abs_error = (Giá mục tiêu được giá định tại báo cáo định giá - Giá thị trường
thực tế của cổ phiếu trong ngày cuối cùng của tháng thứ 12 từ thời điểm định giá)
/Giá thị trường thực tế của cổ phiếu trong ngày cuối cùng của tháng thứ 12 từ thời
điểm định giá. Được tính chung cho tất cả các trường hợp.
(4) miss_err = (Giá mục tiêu được giá định tại báo cáo định giá - Giá thị trường
thực tế của cổ phiếu trong ngày cuối cùng của tháng thứ 12 từ thời điểm định giá)
/Giá thị trường thực tế của cổ phiếu trong ngày cuối cùng của tháng thứ 12 từ thời
điểm định giá. Được tính riêng cho trường hợp mức giá mục tiêu không được đạt đến
(miss).
Căn cứ vào kết quả của phương pháp đo lường (1) Met _in, mô định định giá
so sánh theo bội số P/E có tỷ lệ chính xác là 69.88%, mô hình DCF có tỷ lệ chính xác
là 56.28%. Theo phương pháp đo lường (2) Met _end, tỷ lệ chính xác của 02 mô hình
định giá không có sự khác biệt đáng kể, đều xấp xỉ 38%. Thước đo (3), sai số định
92
giá (abs_error) của mô hình định giá so sánh theo P/E là 24.22%, mô hình DCF là
31.36%. Thước đo (4), sai số định giá (miss_err) của mô hình định giá so sánh theo
P/E là 17.72%, mô hình DCF là 20.15%. Như vậy nếu theo phương pháp đo lường
(1) và (3), mô hình định giá so sánh theo bội số thu nhập (P/E) có hiệu quả cao hơn
mô hình DCF. Nếu theo phương pháp (2) hiệu quả của các mô hình định giá không
có sự khác biệt đáng kể. Theo phương pháp (4), mô hình DCF có mức độ chính xác
cao hơn P/E, nhưng sự khác biệt này là không lớn.
Kerl (2011) sử dụng mẫu nghiên cứu bao gồm 1000 báo cáo phân tích các công
ty trên thị trường chứng khoán Đức giai đoạn 2002 - 2004, trong đó có 950 báo cáo
có xác định giá mục tiêu (target price). Sử dụng phương pháp tương tự như Asquith
và Ctg (2004), xem việc giá thị trường đạt hay không đạt đến giá mục tiêu trong vòng
12 tháng kể từ ngày báo cáo phân tích định giá được chính thức công bố. Kết quả
nghiên cứu cho thấy 56.5% báo cáo phân tích có kết quả định giá chính xác. Tác giả
cũng sử dụng phương pháp đo lường mức độ chính xác (Accuracy Measurement)
theo Bonini (2010):
|)] (2.14) Với: 𝐴𝑀 = 1 − [(|𝑃𝐸𝑛𝑑 𝑇𝑃𝑡
PEnd : Giá thị trường vào cuối tháng thứ 12 kể từ ngày định giá
TPt : Giá mục tiêu là giá trị nội tại được định giá vào ngày t
Theo thước đo này, tỷ lệ chính xác của các mô hình định giá đạt trung vị (median)
73.64%, trung bình (mean) 67.35% (trường hợp giá thị trường sau 12 tháng hoàn toàn
trùng khớp với giá mục tiêu tỷ lệ AM sẽ là 100%).
Imam và Ctg (2013) nghiên cứu 62 báo cáo phân tích trong hệ thống cơ sở dữ
liệu Thomson One Banker được công bố bởi các công ty môi giới hàng đầu bao gồm
hầu hết các cổ phiếu thuộc chỉ số Dow Jones Euro Stoxx 50 Index được công bố trong
giai đoạn 2005 - 2007. Trước tiên, nhóm nghiên cứu xem xét việc giá mục tiêu (Target
price) có được đạt đến hay không được đạt đến trong khung thời gian dự báo 12 tháng.
Đối với các báo cáo khuyến nghị mua (buy recommendation), giá mục tiêu được đạt
đến nếu mức giá thị trường cao nhất trong khung thời gian dự báo 12 tháng cao hơn
hoặc bằng giá mục tiêu. Tương tự, đối với các báo cáo khuyến nghị bán (sell
93
recommendation), giá mục tiêu được đạt đến nếu mức giá thị trường nhỏ nhất trong
khung thời gian dự báo 12 tháng nhỏ hơn hoặc bằng giá mục tiêu. Trường hợp khuyến
nghị nắm giữ (hold recommendation), nếu giá thị trường cao nhất trong khung thời
gian dự báo nằm trong khoảng +/- 2.5% giá mục tiêu xem như được đạt đến. Đồng
thời cũng đo lường sai số dự báo (forecast error) khi giá mục tiêu không được đạt
đến. Theo tiêu chí giá mục tiêu được đạt đến trong khung thời gian dự báo (Target
price met), tỷ lệ chính xác bình quân của kết quả định giá tại các báo cáo trong mẫu
nghiên cứu là 49.09%. Sai số dự báo (forecast error) khi giá mục tiêu không được đạt
đến của các mô hình là 15.11%. Cũng theo tiêu chí giá mục tiêu được đạt đến hay
không (Target price met), mô hình định giá so sánh có tỷ lệ chính xác là 58% (riêng
mô hình định giá so sánh theo P/E có tỷ lệ chính xác là 44.83%) cao hơn mô hình
DCF (31.82%). Nhưng mô hình ROEg/COEg (thuộc nhóm các mô hình hỗn hợp –
Hybrids models) lại tỷ lệ chính xác là 61.54%, cao hơn so với mô hình định giá theo
P/E và mô hình định giá trên cơ sở dòng tiền. Nghiên cứu cũng đề cập đến việc sử
dụng kết hợp các mô hình định giá trong cùng một báo cáo. Chưa đủ cơ sở để kết
luận việc sử dụng mô hình định giá tương đối kết hợp cùng với mô hình chiết khấu
dòng tiền có thể giúp tăng tỷ lệ chính xác trong dự báo giá.
Sayed (2017) đã tiến hành nghiên cứu dựa trên mẫu bao gồm 502 báo cáo
nghiên cứu phân tích công ty đang có cổ phiếu giao dịch tại 07 thị trường mới nổi
khu vực Châu Á bao gồm: Thái Lan, Malaysia, Đài Loan (Trung Quốc), Ấn Độ, Hàn
Quốc, Philipines và Indonesia, các báo cáo được phát hành trong khoảng thời gian
2008 – 2013. Tác giả cũng sử dụng 02 thước đo tương tự như nghiên cứu của
Demirakos và Ctg (2010), TPMETANY (giá thị trường đạt đến hay không đến giá
mục tiêu trong vòng 12 tháng kể từ ngày định giá) và TPERROR (Sai số định giá),
được tính toán như sau:
𝑇𝑃
| (2.15) với: 𝑇𝑃𝐸𝑅𝑅𝑂𝑅 = |𝑃12−𝑇𝑃
Pt : Giá thị trường vào cuối tháng thứ 12 kể từ ngày định giá
94
TP : Giá mục tiêu/giá trị nội tại được xác định tại báo cáo định giá
Kết quả nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ định giá chính xác theo thước đo TPMETANY
của mô hình DCF đạt 58.8%, P/E đạt 60.3%. Tỷ lệ sai số định giá theo thước đo
TPERROR của mô hình DCF là 32.1%, mô hình định giá so sánh theo P/E đạt 30.7%.
Nghiên cứu của Erkilet và Ctg (2021) tại thị trường chứng khoán Đức giai
đoạn 2014 - 2017 sử dụng thước đo độ chênh lệch giữa giá mục tiêu và giá trị trường
sau 12 tháng chia cho giá thị trường sau 12 tháng (TPE – Target price error). Kết quả
nghiên cứu cho thấy, trung bình (mean) và trung vị (Median) của TPE lần lượt là
22%, 15% ; không có sự khác biệt đáng kể về sai số định giá giữa các mô hình định
giá theo hướng tiếp cận thu nhập (income approach), tức các mô hình dòng tiền và
các mô hình theo hướng tiếp cận thị trường (market approach), tức các mô hình định
giá so sánh. Tuy nhiên, sự kết hợp giữa các mô hình dòng tiền và mô hình định giá
so sánh (Hybrid Aprroach) lại có mức độ sai số cao hơn, tức mức độ chính xác trong
kết quả định giá thấp hơn so với các mô hình dòng tiền và mô hình định giá so sánh
khi sử dụng riêng rẽ, không có sự kết hợp.
2.7. Khoảng trống nghiên cứu: Từ việc khảo lược các nghiên cứu liên quan trên thế giới cũng như Việt Nam,
NCS nhận thấy các khoảng trống nghiên cứu như sau:
2.7.1. Khoảng trống về lý thuyết: Thứ nhất, nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến hệ số P/E chủ yếu đề cập
đến các nhân tố tài chính như: Hệ số Beta, tốc độ tăng trưởng, đòn bẩy tài chính, quy
mô công ty, khả năng sinh lợi … Nghiên cứu về tác động của các yếu tố phi tài chính
đến hệ số P/E, tiêu biểu như chất lượng quản trị công ty còn ít được đề cập. Các
nghiên cứu về tác động của chất lượng quản trị công ty đến giá trị công ty trên thế
giới và tại Việt Nam như nghiên cứu của Gomper và Ctg (2003), Bauer và Ctg (2004),
Luo và Salterio (2014), Trần Nhân Phúc (2017) … chủ yếu sử dụng hệ số Tobin’Q
hoặc hệ số P/B là chỉ tiêu đo lường giá trị công ty… Do đó, nghiên cứu tác động của
các yếu tố phi tài chính, trong đó có chất lượng quản trị công ty đến hệ số P/E là một
95
hướng nghiên cứu mới góp phần bổ sung thêm hiểu biết về vấn đề này, trong bối cảnh
các yếu tố phi tài chính ngày càng đóng vai trong quan trọng trong quyết định của các
nhà đầu tư.
Thứ hai, Afford (1992), Cheng và Mcnamara (2000) nghiên cứu về mức độ hiệu
quả của mô hình định giá so sánh phụ thuộc vào cách thức định nghĩa các công ty so
sánh. Các công ty so sánh được lựa chọn dựa trên các tiêu chí: ngành, quy mô công
ty (được đo bằng tổng tài sản), ROE, cũng như kết hợp các tiêu chí này. Tiêu chuẩn
định giá Việt Nam số 12 ban hành kèm theo Thông tư số 28/2021/TT – BTC quy định
về tiêu chí đánh giá, lựa chọn các doanh nghiệp so sánh, cũng có quy định Doanh
nghiệp so sánh tương tự với doanh nghiệp cần thẩm định giá về đa số các chỉ số tài
chính, trong đó có chỉ số phản ánh hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp như: tỷ suất
lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE), tỷ suất lợi nhuận trên tài sản (ROA). Như vậy,
ROE cũng là một yếu tố quan trọng khi lựa chọn các công ty so sánh trong mô hình
định giá theo P/E. Mặc dù, Damoradan (2006) đề xuất công thức 2.13 cho rằng ROE
có tác động cùng chiều đến hệ hệ số P/E. Nhưng tác động thực sự của ROE đến hệ số
P/E vẫn là một khoảng trống, chưa có hiểu biết đầy đủ và thống nhất về vấn đề này.
Nghiên cứu của Arslan và Ctg (2017), Dutta và Ctg (2018) có đề cập đến tỷ
suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) trong mô hình nghiên cứu nhưng không có
kết luận cụ thể. Nghiên cứu của Antalovski và Cox (2021) tại thị trưởng Canada trong
giai đoạn 2011 – 2018, có kết luận về tác động của 02 chỉ tiêu sinh lời là tỷ lệ lãi
ròng trên doanh thu và tỷ lệ lợi nhuận trên tổng đầu tư (EBIT/Tổng tài sản) đến hệ số
P/E nhưng chưa có kết luận về tác động của ROE, ROA đến hệ số P/E.
Ohlson (1995), Sharma (2011), Nguyễn Thị Thục Đoan (2011) nghiên cứu mối
quan hệ giữa giá thị trường của cổ phiếu và các biến thông tin kế toán, trong đó khẳng
định mối quan hệ cùng chiều giữa tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) và thị
giá cổ phiếu. Tuy nhiên, giữa ROE và chỉ tiêu lợi nhuận trên cổ phiếu (EPS) lại có
mối quan hệ cùng chiều khá rõ ràng. Tác động của ROE tới P/E là một vấn đề tương
đối khó xác định, phụ thuộc vào tác động của ROE đến giá cổ phiếu lớn hơn hay mối
96
liên hệ giữa ROE và EPS lớn hơn.
Thứ ba, Tác động của Tỷ lệ chi trả cổ tức (Payout ratio) đối với hệ số P/E nói
riêng và giá trị công ty nói chung còn là một vấn đề chưa thống nhất cả về cơ sở lý
thuyết và bằng chứng thực nghiệm.
Mối quan hệ giữa tỷ lệ chi trả cổ tức bằng tiền mặt và hệ số P/E được thể hiện
trong công thức của Beaver và Morse (1978)
𝑃/𝐸 = = 𝐷/𝐸 𝑟 − 𝑔 𝐾 𝑟 − 𝑔
Tỷ lệ chi trả cổ tức (K) có tác động trực tiếp đến P/E, tỷ lệ chi trả cổ tức càng
lớn P/E càng lớn.
Tuy nhiên, tỷ lệ chi trả cổ tức còn có quan hệ với tốc độ tăng trưởng. Công ty
có tỷ chi trả cổ tức bằng tiền mặt cao, tức là có tỷ lệ lợi nhuận giữ lại để tái đầu tư
thấp nên tiềm năng tăng trưởng thấp, mối liên hệ này thể hiện qua công thức 2.12: tốc
độ tăng trưởng lợi nhuận (g) = Tỷ lệ lợi nhuận giữ lại (1 – payout ratio) x Tỷ suất sinh
lời trên vốn chủ sở hữu (ROE), dẫn đến tác động ngược chiều của tỷ lệ chi trả cổ tức
tới hệ số P/E.
Mối quan hệ giữa tỷ lệ chi trả cổ tức bằng tiền mặt với giá trị công ty cũng là một
chủ đề quan trọng của tài chính hiện đại. Tuy nhiên, các lý thuyết liên quan Miller và
Modigliani (1961), Walter (1963), Jensen và Meckling (1976), Jensen (1986) cũng
chưa có sự thống nhất về mối quan hệ giữa chính sách cổ tức và giá trị của công ty.
Dưới góc độ thực nghiệm, nghiên cứu của Krishnan và Chen (2020) cung cấp các
bằng chứng thực nghiệm cho thấy tỷ lệ chi trả cổ tức hiện tại tăng lên là dấu hiệu của
việc sụt giảm cơ hội tái đầu tư và gia tăng rủi ro do vậy có thể dẫn đến làm giảm hệ
số P/E trong tương lai. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu thực nghiệm như các nghiên cứu
của Afza và Tahir (2012), Amman, Jordan, Farah Freihat (2019), và ngay cả nghiên
cứu Krishnan và Chen (2020) đối với nhóm ngành sản xuất và các nhóm ngành khác
lại cho thấy mối quan hệ cùng nhiều giữa tỷ lệ chi trả cổ tức và hệ số P/E.
Thứ 4, Có khá nhiều các nghiên cứu về tình hình sử dụng và mức độ chính xác
của các mô hình định giá tại nhiều thị trường khác nhau. Tuy nhiên, còn những vấn
đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đề cập, nhưng vẫn chưa có câu trả lời thống
97
nhất như: (1) Tầm quan trọng của việc lựa chọn mô hình định giá, liệu có sự khác
biệt về mức độ chính xác của các mô hình định giá, mức độ chính xác của mô hình
định giá so sánh theo hệ số P/E so với mô hình chiết khấu dòng tiền tự do (DCF) cũng
như các mô hình khác ? (2) Việc kết hợp các mô hình định giá liệu có góp phần cải
thiện mức độ chính xác của kết quả định giá ?
2.7.2. Khoảng trống về thực nghiệm tại thị trường Việt Nam Thứ nhất, trên thế giới, P/E là chỉ số được sử dụng nhiều nhất trong tất cả các
hệ số cơ bản và kỹ thuật trong việc ra quyết định đầu tư, P/E cũng là hệ số được sử
dụng nhiều nhất trong các mô hình định giá so sánh. Tại Việt Nam, việc sử dụng hệ
số P/E trong việc phân tích, định giá và đưa ra khuyến nghị đầu tư là rất phổ biến.
Trên thế giới có khá nhiều nghiên cứu về các nhân tố tác động đến hệ số P/E bao gồm
cả các nhóm nhân tố vĩ mô và nhân tố cụ thể của cổ phiếu tại các thị trường phát triển
như : Hoa Kỳ, Canada, Nhật Bản, Châu Âu… hay các thị trường mới nổi như
Paskistan, Bangladesh, Indonesia, Jordan, Thổ Nhĩ Kỳ … Tuy nhiên, việc nghiên cứu
về các nhân tố tác động đến hệ số P/E tại thị trường chứng khoán Việt Nam còn khá
hạn chế. Các nghiên cứu liên quan đến giá cổ phiếu chủ yếu tập trung vào chủ đề về
các nhân tố tác động đến giá cổ phiếu bao gồm cả các yếu tố cụ thể của công ty và
yếu tố vĩ mô như các nghiên cứu của Nguyễn Thị Thục Đoan (2011), Lê Thị Khánh
Phương (2015), Võ Xuân Vinh (2014), Trương Đông Lộc (2014), Trịnh Anh Khoa
(2016), Phạm Hữu Hồng Thái và Lê Dũng Hiệp (2016) … Hoặc một số nghiên cứu
về hiệu quả của các chiến lược đầu tư dựa trên hệ số P/E, hệ số P/B như nghiên cứu
của Nguyễn Thị Hoàng Giang và Bùi Thị Hồng Nhung (2014), Phạm Hữu Hồng
Thái và Nguyễn Vũ Hồng Phượng (2015). Nghiên cứu của Phạm Hữu Hồng Thái và
Nguyễn Thành Đến (2017) là một trong số rất ít các nghiên cứu về chủ đề này được
chính thức công bố, nghiên cứu này dựa trên số liệu thu thập từ các báo cáo tài chính
của 191 công ty phi tài chính niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam từ 2010
– 2015, nghiên cứu này cũng chưa đề cập hoặc đưa ra kết luận đối với các biến quan
trọng như: quy mô công ty, khả năng sinh lời, rủi ro, tỷ lệ chi trả cổ tức … Điều đó
làm cho việc sử dụng hệ số P/E trong phân tích, định giá và đưa ra khuyến nghị đầu
98
tư tại thị trường chứng khoán Việt Nam đang thiếu sự hậu thuẫn của những bằng
chứng thực nghiệm. Do vậy, rất cần có những nghiên cứu về các nhân tố ảnh hướng
đến hệ số P/E dựa trên mẫu nghiên cứu lớn hơn, thời gian nghiên cứu dài hơn và cập
nhật hơn, các biến nghiên cứu đa dạng hơn để bổ sung thêm tri thức, hiểu biết về vấn
đề này tại thị trường mới nổi như Việt Nam; đồng thời cung cấp thêm những bằng
chứng thực nghiệm vững chắc cho việc sử dụng hệ số P/E trong định giá và đưa ra
các quyết định đầu tư tại TTCK Việt Nam.
Thứ hai, Thị trường chứng khoán Việt Nam đã có hơn 20 năm với hoạt động
của khoảng 100 công ty chứng khoán, 40 công ty quản lý quỹ, và rất nhiều các nhà
đầu tư tổ chức, các chủ thể này đều phát hành rất nhiều các báo cáo phân tích, định
giá phục vụ cho các mục đích khác nhau như: tư vấn phát hành cổ phiếu lần đầu ra
công chúng (IPO), tư vấn niêm yết, mua bán, sáp nhập, ra quyết định đầu tư, khuyến
nghị đầu tư… Các công ty chứng khoán, các tổ chức cũng phát hành một khối lượng
lớn các báo cáo phân tích, đặc biệt là các báo cáo phân tích công ty phục vụ cho công
tác tư vấn và khuyến nghị đầu tư. Tuy nhiên, hầu như chưa có các nghiên cứu được
thực hiện về thực trạng sử dụng và tính chính xác của các mô hình định giá được sử
dụng trong các báo cáo này. Các nghiên cứu của Vũ Thị Kim Liên (2003), Trần Văn
Dũng (2007), Lâm Thị Thanh Huyền (2021) chủ yếu hệ thống hóa các phương pháp
định giá, đánh giá thực trạng công tác định giá doanh nghiệp trên các khía cạnh như:
cơ sở pháp lý, quy trình định giá, chất lượng thông tin đầu vào, chất lượng đội ngũ
chuyên gia… Các nghiên cứu về thực trạng sử dụng và đo lường mức độ chính xác
của các mô hình định giá hầu như chưa được thực hiện.
Từ các khoảng trống về lý thuyết và thực nghiệm tại thị trường Việt Nam, NCS
thực hiện nghiên cứu nhằm đánh giá đầy đủ các nhân tố tác động đến hệ số P/E của
các công ty niêm yết tại Việt Nam bao gồm cả các công ty phi tài chính và tài chính
được niêm yết tại SGDCK TP. Hồ Chí Minh và SGDCK Hà Nội trong giai đoạn 2010
– 2020. Đồng thời, NCS cũng sử dụng phương pháp phân tích nội dung (content
analysis), nghiên cứu các báo báo phân tích định giá công ty, được các công ty chứng
khoán thực hiện và công bố trong giai đoạn 2010 – 2020 nhằm đánh giá thực trạng
sử dụng các phương pháp định giá, đo lường mức độ chính xác của các phương pháp
99
định giá nói chung và phương pháp định giá so sánh sử dụng hệ số P/E nói riêng.
Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra những khuyến nghị khi sử dụng hệ số P/E trong định
giá so sánh và đưa ra các quyết định đầu tư; đưa ra những khuyến nghị cụ thể về lựa
chọn và sử dụng các mô hình định giá nhằm nâng cao hiệu quả của công tác định giá
100
cổ phần tại thị trường chứng khoán Việt Nam.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Ở Chương 2, NCS đã tổng hợp và trình bày tổng quan lý thuyết về các lý thuyết đầu
tư, các phương pháp định giá cổ phần, quy trình định giá so sánh, các định nghĩa và
cách tính hệ số P/E, các nhân tố ảnh hưởng đến hệ số P/E, quy trình và các cách tiếp
cận khi sử dụng mô hình định giá so sánh theo hệ số P/E. NCS tiến hành khảo lược
các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới cũng như tại Việt Nam theo 02 hướng
nghiên cứu chính (1) Các nghiên cứu thực nghiệm liên quan đến hệ số P/E, bao gồm:
các nhân tố tác động đến hệ số P/E, các nhân tố tác động đến giá cổ phiếu, đánh giá
hiệu quả chiến lược đầu tư theo hệ số P/E. (2) Các nghiên cứu về tình hình sử dụng
và mức độ chính xác của các mô hình định giá. Từ đó, nhận thấy khoảng trống nghiên
cứu bao gồm khoảng trống về lý thuyết và khoảng trống về thực nghiệm làm hậu
101
thuẫn cho mục tiêu nghiên cứu, đề xuất mô hình và giả thuyết nghiên cứu.
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Quy trình nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu
Câu hỏi nghiên cứu 2 Câu hỏi nghiên cứu 1
- Các cơ sở lý thuyết liên quan - Các nghiên cứu thực nghiệm
Giả thuyết 12 - 19 Giả thuyết 1 - 10 Giả thuyết 11
Sử dụng phương pháp phân tích nội dung (Content Analysis) dụng Sử thống kê mô tả, Kiểm định ANOVA Sử dụng thống kê mô tả, phân tích tương quan, phân tích hồi quy dữ liệu bảng
Các nhân tố tác động đến hệ số P/E
Tình hình sử dụng và mức độ chính xác của các mô hình định giá
Các gợi ý và khuyến nghị đối với các nhà phân tích, nhà đầu tư, cơ quan quản lý, công ty niêm yết
Hình 3.1: Quy trình nghiên cứu
102
Nguồn : Đề xuất của tác giả
Nhằm đạt được các mục tiêu nghiên cứu của luận án, quy trình nghiên cứu
được thiết kế như Hình 3.1.
Từ mục tiêu nghiên cứu tổng quát, NCS chia thành 02 mục tiêu nghiên cứu cụ
thể và tương ứng là 02 câu hỏi nghiên cứu.
NCS tiến hành nghiên cứu các cơ sở lý thuyết và khảo lược các nghiên cứu
thực nghiệm liên quan trong và ngoài nước.
Dựa trên cơ sở lý thuyết và các kết quả nghiên cứu thực nghiệm được khảo
lược, NCS tiến hành xây dựng các giả thuyết nghiên cứu tương ứng với từng câu hỏi
và mục tiêu nghiên cứu cụ thể:
+ Câu hỏi nghiên cứu 1 về các nhân tố tác động đến hệ số P/E trên TTCK Việt
nam bao gồm 11 giả thuyết, từ giả thuyết 1 đến giả thuyết 11
+ Câu hỏi nghiên cứu 2 về tình hình sử dụng và mức độ chính xác của các mô
hình định giá bao gồm 8 giả thuyết, từ giả thuyết 12 đến giả thuyết 19.
NCS áp dụng 02 hướng tiếp cận và phương pháp nghiên cứu riêng đối với 02
câu hỏi nghiên cứu chính.
- Đối với Câu hỏi nghiên cứu 1 về các nhân tố tác động đến hệ số P/E trên
TTCK Việt nam, NCS chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích định lượng, cụ thể:
+ Đối với giả thuyết nghiên cứu 1 đến giả thuyết 10, NCS sử dụng các phương
pháp phân tích định lượng bao gồm thống kê mô tả, phân tích tương quan, và đặc biệt
là phân tích hồi quy đa biến dữ liệu bảng không cân bằng để kiểm định và khám phá
các nhân tố tác động đến hệ số P/E.
+ Riêng đối với giả thuyết 11 về tác động của yếu tố ngành đối với hệ số P/E, NCS
chủ yếu sử dụng thống kê mô tả và kiểm định ANOVA để đánh giá tác động của yếu
tố ngành đối với hệ số P/E.
- Câu hỏi nghiên cứu 2 về tình hình sử dụng và mức độ chính xác của các mô
hình định giá, NCS sử dụng phương pháp phân tích nội dung (Content analyst), đánh
giá tình hình sử dụng và mức độ chính xác của các mô hình định giá từ báo cáo phân
định giá do các công ty chứng khoán phát hành.
Kết quả nghiên cứu câu hỏi nghiên cứu 1 với các giả thuyết từ 1 đến 11 là cơ
103
sở để kết luận về các nhân tố tác động đến hệ số P/E.
Kết quả nghiên cứu câu hỏi nghiên cứu 2 với các giả thuyết từ 12 đến 19 là cơ
sở để kết luận về tình hình sử dụng và mức độ chính xác của các mô hình định giá.
Kết quả nghiên cứu về các nhân tố tác động đến hệ số P/E; tình hình sử dụng
và mức độ chính xác của các mô hình định giá là cơ sở để NCS đưa ra các gợi ý và
khuyến nghị đối với các nhà phân tích, nhà đầu tư, cơ quan quản lý, công ty niêm yết.
3.2. Các giả thuyết nghiên cứu :
3.2.1. Giả thuyết nghiên cứu về các nhân tố tác động đến hệ số P/E: Nghiên cứu của Anderson và Brooks (2005) nhấn mạnh yếu tố quy mô công
ty có mối tương quan cao với hệ số P/E, tác động của nó góp phần quan trọng hơn so
với các nhân tố khác. Các nghiên cứu của Krishnan và Chen (2020), Farah Freihat
(2019) cũng khẳng định quy mô công ty có tác động cùng chiều tới hệ số P/E. Tuy
nhiên, các nghiên cứu của Afza và Tahir (2012), Lutfi và Arsitha (2016) lại cho thấy
mối quan hệ ngược chiều giữa hệ số P/E và quy mô công ty. Theo Mô hình Fama –
French (FFM), trong các phần bù rủi ro, có nhân tố phần bù liên quan đến quy mô
giá trị vốn hóa (small minus big - SMB). Một danh mục đầu tư có giá trị vốn hóa nhỏ
sẽ có lợi nhuận vượt trội so với danh mục thị trường trong dài hạn, các công ty có giá
trị vốn hóa nhỏ có phần bù về quy mô cao hơn.
Trong nghiên cứu này, tác giả giả định mối quan hệ giữa hệ số P/E và quy mô
công ty là cùng chiều, đối với các công ty có quy mô lớn nhà đầu tư chấp nhận mặt
bằng P/E cao hơn so với các công ty có quy mô vốn hóa nhỏ. Các công ty có quy mô
vốn lớn thường có mức độ biến động thấp tức là rủi ro thấp hơn so với các công ty
có giá trị vốn hóa nhỏ. Đồng thời, cổ phiếu của các công ty có quy mô lớn cũng có
tính thanh khoản cao hơn so với các công ty có quy mô nhỏ điều đó làm cho tỷ suất
lợi nhuận yêu cầu thấp và nhà đầu tư chấp nhận mặt bằng giá trị cao và hệ số P/E cao
hơn.
Giả thuyết 1(H1): Quy mô của công ty (SIZE) có tác động cùng chiều với hệ số
P/E. Các công ty có quy mô càng lớn hệ số P/E sẽ càng cao.
Rủi ro là nhân tố quan trọng tác động đến hệ số P/E trên cả góc độ lý thuyết
104
và thực nghiệm. Để đo lường rủi ro của các cổ phiếu, các nhà nghiên cứu có thể sử
dụng độ lệch chuẩn của tỷ suất sinh lời hoặc sử dụng hệ số Beta. Trong mô hình
CAPM do Sharpe (1964) phát triển , Beta là hệ số đo lường rủi ro hệ thống của cổ
phiếu. Hệ số Beta càng lớn tức là rủi ro hệ thống càng lớn, phần bù rủi ro càng lớn
dẫn đến nhà đầu tư chấp nhận mức giá cổ phiếu và mặt bằng hệ số P/E càng thấp, và
ngược lại. Các nghiên cứu thực nghiệm của Malkiel and Cragg (1970), Damoradan (
2012), Damoradan (2016) cũng khẳng định mối quan hệ ngược chiều giữa Beta và
hệ số P/E.
Giả thuyết 2(H2): Hệ số beta (BETA) có tác động ngược chiều đối với hệ số
P/E, các cổ phiếu có hệ số Beta càng lớn hệ số P/E càng thấp.
Như đã nêu ở phần trên, mức độ biến động giá (cụ thể được đo bằng độ lệch
chuẩn của giá thị trường) cũng là một thước đo khác của rủi ro biến động giá tương
tự như hệ số Beta. Mối liên hệ giữa mức độ biến động giá và tỷ suất lợi nhuận yêu
cầu và thông qua đó tác động đến giá cổ phiếu và hệ số P/E được thể hiện qua Đường
thị trường vốn (CML). Các nghiên cứu thực nghiệm của Kisor và Witbeck (1963),
Kane và Ctg (1996), Afza và Tahir (2012), Krishnan và Chen (2020), Shamsuddin và
Hillier (2004) cho thấy mức độ biến động giá có tác động ngược chiều tới hệ số P/E.
Rủi ro càng lớn, tỷ suất lợi nhuận yêu cầu càng cao, nhà đầu tư chấp nhận mặt bằng
hệ số P/E thấp và ngược lại.
Giả thuyết 3(H3): : Mức độ biến động giá (Market Price Volatility) được đo
lường bằng độ lệch chuẩn (SD) cũng có tác động ngược chiều với hệ số P/E.
Theo Mô hình tăng trưởng đều Gordon (GGM) và công thức của Beaver và
Morse (1978), tốc độ tăng trưởng lợi nhuận là một nhân tố quan trọng tác động đến
giá của cổ phiếu và hệ số P/E. Theo đó, tốc độ tăng trưởng cổ tức hay dòng tiền nói
chung có tác động cùng chiều với hệ số P/E, tốc độ tăng trưởng càng cao P/E càng
cao và ngược lại. Tác động của tốc độ tăng trưởng đến hệ số P/E còn được thể hiện
qua sự phổ biến của hệ số PEG (PE to growth) do Lynch (1989) phát triển. Các nghiên
cứu của Kisor và Witbeck (1963), Malkiel và Cragg (1970), Damoradan (2002,
105
2006, 2012,2016), Huang và Wirjanto (2012), Phạm Hữu Hồng Thái và Nguyễn
Thành Đến (2017) đều khẳng định tốc độ tăng trưởng tác động cùng chiều với hệ số
P/E. Krishnan và Chen (2020) sử dụng hệ số giá trị số sách trên giá thị trường (book
to market ratio), Afza và Tahir (2012) sử dụng hệ số Tobin’s Q là thước đo phản ánh
nhận thức của thị trường về tiềm năng tăng trưởng của công ty, hệ số này càng thấp
tức thị trường đánh giá công ty có tiềm năng tăng trưởng càng cao và hệ số P/E càng
cao. Trong luận án này, NCS giả định tốc độ tăng trưởng có tác động cùng chiều đối
với hệ số P/E.
Giả thuyết 4 (H4): Tốc độ tăng trưởng lợi nhuận ( Earnings Growth - EG) có
tác động cùng chiều đối với hệ số P/E, các công ty có tốc độ tăng trưởng lợi nhuận
càng lớn hệ số P/E sẽ càng cao.
Mối quan hệ giữa đòn bẩy tài chính và giá trị doanh nghiệp là một chủ đề quan
trọng của tài chính doanh nghiệp. Theo Modigliani và Miller (1963), trong trường
hợp có thuế, giá trị của DN có vay nợ cao hơn giá trị của DN không có vay nợ nhờ
hiệu ứng lá chắn thuế, số thuế thu nhập phải đóng giảm đi do lãi vay. Tuy nhiên, đối
với hệ số P/E hiệu ứng gia tăng lợi nhuận sau thuế (nếu có) đã được phản ánh vào
EPS. Đồng thời, theo Kraus và Litezenberger (1973) tăng mức độ sử dụng nợ sẽ làm
tăng gánh nặng trả gốc và lãi trong tương lai, tăng chi phí kiệt quệ tài chính và làm
giảm giá trị doanh nghiệp. Nếu các yếu tố khác không thay đổi, hệ số đòn bẩy tài
chính càng lớn thể hiện rủi ro tài chính của công ty càng lớn, nhà đầu tư chấp nhận
mặt bằng hệ số P/E của cổ phiếu càng thấp. Các nghiên cứu của Afza và Tahir (2012),
Phạm Hữu Hồng Thái và Nguyễn Thành Đến (2017), Arslan và Ctg (2017) cho thấy
đòn bẩy tài chính cũng có tác động ngược chiều với hệ số P/E. Tuy nhiên, Lutfi và
Arsitha (2016), Dutta và Ctg (2018) lại cho rằng đòn bẩy tài chính có tác động cùng
chiều với hệ số P/E. Trong nghiên cứu này, tác giả đưa ra giả thuyết như sau:
Giả thuyết 5(H5): Hệ số đòn bẩy tài chính (Financial Leverage), cụ thể là tỷ lệ
nợ trên tổng tài sàn (DA) có tác động ngược chiều đối với hệ số P/E, các công ty có
106
hệ số đòn bẩy tài chính càng cao nhà đầu tư chấp nhận hệ số P/E càng thấp.
Tác động của giá trị sổ sách đến hệ số P/E được hậu thuẫn bởi Mô hình định giá
thu nhập thặng dư (Residual Income Valuation Model – RIV), hướng tiếp cận cận
định giá theo tài sản (Asset Approach) và các nghiên cứu thực nghiệm. Kết quả
nghiên cứu Collins và Ctg (1997) cho thấy, vai trò của lợi nhuận có xu hướng giảm
dần và vai trò của giá trị sổ sách có xu hướng tăng dần trong việc giải thích giá trị
trường của cổ phiếu. Sharma (2011), Lê Thị Khánh Phương (2015), cũng cho rằng
giá trị sổ sách trên 1 cổ phiếu (Book value per share - BVPS) là một trong các nhân
tố quan trọng tác động đến giá cổ phiếu. Giá trị sổ sách trên 1 cổ phần là một nhân tố
quan trọng tác động đến giá thị trường của cổ phiếu. Không có mối liên hệ trực tiếp
và rõ ràng giữa giá trị sổ sách trên 1 cổ phần (BVPS) và lợi nhuận sau thuế trên 1 cổ
phần (EPS), nên BVPS cũng sẽ tác động đến hệ số P/E. Do vậy, Trong nghiên cứu
này, tác giả giả định mối quan hệ giữa hệ số P/E và giá trị sổ sách trên 1 cổ phần là
cùng chiều, đối với các cổ phiếu có BVPS lớn nhà đầu tư chấp nhận mặt bằng P/E
cao hơn so với các cổ phiếu có BVPS nhỏ. Nghiên cứu của Dutta và Ctg (2018) cũng
cho rằng BVPS có tác động cùng chiều với hệ số P/E.
- Giả thuyết 6(H6): Giá trị sổ sách trên một cổ phiếu (BVPS) có tác động cùng
chiều với hệ số P/E. Các cổ phiếu có BVPS càng lớn hệ số P/E càng cao.
Mối quan hệ giữa tỷ lệ chi trả cổ tức bằng tiền mặt với giá trị công ty cũng là
một chủ đề quan trọng của tài chính hiện đại. Tuy nhiên, các lý thuyết liên quan Miller
và Modigliani (1961), Walter (1963), Jensen và Meckling (1976), Jensen (1986) cũng
chưa có sự thống nhất về mối quan hệ giữa chính sách cổ tức và giá trị của công ty.
Công thức của Beaver và Morse (1978) và công thức 2.12 cũng không khẳng định
được mối quan hệ giữa tỷ lệ chi trả cổ tức bằng tiền mặt và hệ số P/E.
Nhiều nghiên cứu thực nghiệm như các nghiên cứu của Damoradan (2012),
Damoradan (2016), Cho (1994), Malkiel và Cragg (1970), Shamsuddin và Hillier
(2004), Afza và Tahir (2012), Freihat (2019), nghiên cứu Krishnan và Chen (2020)
đối với nhóm ngành sản xuất và các nhóm ngành khác cho thấy mối quan hệ cùng
nhiều giữa tỷ lệ chi trả cổ tức và hệ số P/E. Tuy nhiên cũng có những nghiên cứu cho
107
kết quả ngược lại. Nghiên cứu của Krishnan và Chen (2020) cung cấp các bằng chứng
thực nghiệm cho thấy tỷ lệ chi trả cổ tức hiện tại tăng lên là dấu hiệu của việc sụt
giảm cơ hội tái đầu tư và gia tăng rủi ro do vậy có thể dẫn đến làm giảm hệ số P/E
trong tương lai. Cụ thể, theo Krishnan và Chen (2020) nhóm ngành Tiêu dùng
(Consumer), nhóm ngành Công nghệ cao (High technology), tỷ lệ chi trả cổ tức bằng
tiền mặt hiện tại (Current – year payout ratio) có tương quan ngược chiều với hệ số
P/E năm tới (next – year P/E ratio). Tại luận án, NCS giả định rằng, tỷ lệ chi trả cổ
tức bằng tiền mặt có tác động cùng chiều tới hệ số P/E
- Giả thuyết 7(H7): Tỷ lệ chi trả cổ tức bằng tiền mặt (POR) tác động cùng chiều
với hệ số P/E. Các công ty có Tỷ lệ chi trả cổ tức bằng tiền mặt (Payout ratio) càng
lớn hệ số P/E sẽ càng cao.
Ohlson (1995), Sharma (2011), Nguyễn Thị Thục Đoan (2011) nghiên cứu mối
quan hệ giữa giá thị trường của cổ phiếu và các biến thông tin kế toán, trong đó khẳng
định mối quan hệ cùng chiều giữa tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) và thị
giá cổ phiếu. Tuy nhiên, giữa ROE và chỉ tiêu lợi nhuận trên cổ phiếu (EPS) lại có
mối quan hệ cùng chiều khá rõ ràng. Do vậy, tác động của ROE tới P/E là một vấn
đề tương đối khó xác định. Damoradan (2012) dựa trên mối quan hệ giữa tốc độ tăng
trưởng, tỷ lệ lợi nhuận giữ lại, cho rằng ROE có tác động cùng chiều tới hệ số P/E,
ROE tăng thì P/E sẽ tăng và ngược lại. Nhà đầu tư có khuynh hướng ưa thích những
công ty có tỷ suất sinh lời cao hơn so với các công ty tỷ suất sinh lời thấp, ROE cao
cũng là một những yếu tố hứa hẹn làm cho tốc độ tăng trưởng của công ty cao. Tuy
nhiên, hầu như chưa có những nghiên cứu thực nghiệm hậu thuẫn cho nhận định dựa
trên công thức 2.13 của Damoradan (2012). Trong nghiên cứu này, tác giả giả định
rằng Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) có tác động cùng chiều tới hệ số P/E.
- Giả thuyết 8(H8): Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) tác động cùng
chiều với hệ số P/E. Các công ty có ROE càng lớn hệ số P/E sẽ càng cao.
Một công ty có chất lượng quản trị công ty tốt sẽ hình thành cơ chế ra quyết
định, giám sát, bảo vệ quyền lợi cổ đông một cách hiệu quả, từ đó nâng cao hiệu quả
108
kinh doanh, tạo dựng niềm tin đối với nhà đầu tư và gia tăng giá trị công ty trong dài
hạn. Báo cáo của ACGS giai đoạn 2012 – 2017 cho thấy, các công ty thuộc nhóm
điểm quản trị công ty cao nhất cũng là các công ty có hệ số P/B và Tobin’s q cao
nhất. Các nghiên cứu của Gomper và Ctg (2003), Bauer và Otten (2004), Trần Nhân
Phúc (2017) cho thấy những công ty được quản trị tốt có giá trị công ty cao hơn. NCS
giả định, chất lượng công ty tác động cùng nhiều tới hệ số P/E.
- Giả thuyết 9 (H9): Chất lượng quản trị công ty (CG) tác động cùng chiều với
hệ số P/E. Các công ty có chất lượng quản trị càng cao hệ số P/E sẽ càng cao.
Beaver và Morse (1978) đã liên kết hệ số P/E với Mô hình tăng trưởng đều
của Gordon (Gordon Growth Model – GGM) để giải thích các nhân tố ảnh hưởng đến
hệ số P/E. Theo đó, lãi suất phi rủi ro là một bộ phận quan trọng của tỷ suất lợi nhuận
yêu cầu, có tác động ngược chiều đến hệ số P/E. Mở rộng hơn, lãi suất là nhân tố vĩ
mô quan trọng tác động đến giá cổ phiếu và hệ số P/E. Nhiều nghiên cứu thực nghiệm
sử dụng các loại lãi suất khác nhau như: lãi suất tín phiếu kho bạc, lãi suất trái phiếu
chính phủ, lãi suất trái phiếu doanh nghiệp, lãi suất liên ngân hàng, lãi suất huy động,
lãi suất cho vay bình quân… Các nghiên cứu của Kane và cộng sự (1996), Amoako
– Adu và Smith (2002), Shamsuddin và Hillier (2004) …cũng khẳng định tồn tại mối
quan hệ ngược chiều giữa lãi suất và hệ số P/E.
Giả thuyết 10 (H10): Lãi suất cho vay (LIR) có tác động ngược chiều với hệ số
P/E. Các giai đoạn lãi suất cho vay bình quân trên thị trường tăng, mặt bằng P/E
của các công ty trên thị trường sẽ có xu hướng giảm.
Nhân tố Dấu kỳ vọng Các nghiên cứu Các nghiên cứu thực nghiệm tác động thực nghiệm
Anderson và Brooks (2005),
Quy mô Krishnan và Chen (2020), Farah + +/- công ty Freihat (2019), Afza và Tahir
109
(2012), Lutfi và Arsitha (2016)
Hệ số Malkiel and Cragg (1970), - - BETA Damoradan (2002, 2012, 2016)
Kisor và Witbeck (1963), Malkiel Mức độ và Cragg (1970), Kane và Ctg - - biến động (1996), Shamsuddin và Hillier giá (2004)
Kisor và Witbeck (1963), Malkiel
và Cragg (1970), Cho (1994),
Tốc độ Damoradan (2002, 2006,
tăng 2012,2016), Huang và Wirjanto + + trưởng lợi (2012), Phạm Hữu Hồng Thái và
nhuận Nguyễn Thành Đến (2017),
Krishnan và Chen (2020), Afza và
Tahir (2012)
Afza và Tahir (2012), Phạm Hữu
Hồng Thái và Nguyễn Thành Đến Đòn bẩy (2017), Arslan và Ctg (2017), Lutfi - -/+ tài chính và Arsitha (2016), Dutta và Ctg
(2018)
Giá trị sổ Collins và công sự (1997), Sharma
sách trên (2011), Lê Thị Khánh Phương + +
1 cổ phần (2015),
Dutta, Saha, và Das (2018)
110
Cho (1994), Damoradan (2012), Tỷ lệ chi Damoradan (2016), Krishnan và trả cổ tức Chen (2020), Afza và Tahir (2012), + +/- bằng tiền Amman, Jordan, Freihat (2019), mặt Shamsuddin và Hillier (2004)
Tỷ suất Ohlson (1995), Sharma (2011),
+ sinh lời Nguyễn Thị Thục Đoan (2011) NA trên vốn
chủ sở
hữu
Chất Gomper và công sự (2003), Bauer và
+ lượng Otten (2004), Trần Nhân Phúc NA
quản trị (2017), Báo cáo của ACGS giai
công ty đoạn 2012 – 2017
Kane và cộng sự (1996), Amoako – Lãi suất - Adu và Smith (2002), Shamsuddin - cho vay và Hillier (2004)
Ghi chú: NA Chưa có nghiên cứu thực nghiệm trực tiếp Bảng 3.1 Tóm tắt các giả thuyết nghiên cứu
Nguồn: Tổng hợp của NCS
Ngoài các giả thuyết nêu trên, tác động của yếu tố ngành đối với hệ số P/E cũng
là một chủ đề được quan tâm. Trên thực tế, bội số theo ngành hay lĩnh vực (Industry
and Sector Multiples) là phương pháp được sử dụng phổ biến nhất khi xác định công
ty, nhóm công ty so sánh để tính P/E tham chiếu trong mô hình định giá so sánh theo
hệ số P/E. Dựa trên giả định, các công ty cùng ngành sẽ có hoạt động và các đặc điểm
tài chính tương đối giống nhau. Các nhà phân tích thường sử dụng các hệ thống phân
ngành như: Global Industry Classification System (GICS), Industry Classification
Benchmark (ICB), Standard Industrial Classification (SIC). Các hệ thống phân ngành
này được chia thành các cấp khác nhau từ rộng đến thu hẹp dần. Các công ty trong
mẫu nghiên cứu được phân vào 11 lĩnh vực lớn (sectors) thuộc cấp 1 theo Bộ tiêu
chuẩn chuẩn phân ngành của Global Industry Classification System (GICS). NCS giả
định rằng có sự khác biệt về hệ số P/E giữa các nhóm ngành/lĩnh vực khác nhau.
- Giả thuyết 11 (H11): Có sự khác biệt về hệ số P/E giữa các nhóm ngành/lĩnh
111
vực khác nhau.
3.2.2. Các giả thuyết về tình hình sử dụng và mức độ chính xác của các mô hình định giá
❖ Các giả thuyết về tình hình sử dụng các mô hình định giá:
Các nghiên cứu của Demirakos và Ctg (2004), Dukes và Ctg (2006), Pinto và
Ctg (2019), Imam và Ctg (2008, 2013) cho thấy tần suất xuất hiện của phương pháp
định giá so sánh là vượt trội so với các phương pháp khác kể cả phương pháp chiết
khấu dòng tiền, trong đó bội số thu nhập (P/E) là mô hình định giá so sánh được sử
dụng phổ biến nhất. Khi so sánh kết quả nghiên cứu vào giai đoạn cuối những năm
1990 đầu những năm 2000 như các nghiên cứu của Block (1999), Bradshaw (2002),
Asquith và Ctg (2004) với các nghiên cứu thuộc giai đoạn gần đây như Imam và Ctg
(2013), Pinto và Ctg (2019) ta thấy tỷ lệ sử dụng các mô hình định giá phức tạp như
DCF, RIV có xu hướng tăng lên đáng kể, nhưng mô hình định giá so sánh và P/E vẫn
là mô hình phổ biết nhất xét về tần suất sử dụng. Sự phổ biến của phương pháp định
giá so sánh có thể được giải thích bởi các ưu điểm nổi bật của nó so với các phương
pháp định giá khác như: Đơn giản và ít tốn thời gian thực hiện; dễ hiểu và dễ trình
bày cho nhà đầu tư, đặc biệt là dễ được phổ biến trên các phương tiện báo chí truyền
thông; kết quả định giá phản ánh sát với hình hình của thị trưởng.
Giả thuyết 12 (H12): Nhóm các mô hình định giá so sánh được sử dụng nhiều
hơn so với các mô hình dòng tiền, định giá theo hệ số P/E được sử dụng nhiều nhất
trong tất cả các mô hình định giá so sánh.
Các mô hình định giá so sánh nói chung và mô hình định giá theo P/E nói riêng
là các mô hình được sử dụng phổ biến với các ưu điểm như đã nêu trên. Nhưng nhiều
nhà nghiên cứu cũng chỉ ra những điểm yếu của phương pháp này như: bỏ qua các
thông số quan trọng của doanh nghiệp như tiềm năng tăng trưởng, rủi ro, dòng tiền;
các bội số thường chỉ phản ánh tình trạng của công ty tại một thời điểm xác định, và
giả định ngầm rằng tình trạng này sẽ duy trì ổn định trong một thời gian dài nên không
bao quát hết được tiềm năng và thách thức của công ty; kết quả định giá có thể sai
lệch khi thị trường đang định giá quá cao hoặc quá thấp công ty so sánh. Chính vì
112
vậy, các nhà phân tích ngày càng có xu hướng thận trọng khi sử dụng phương pháp
định giá so sánh nói chung và P/E nói riêng. Kết quả nghiên cứu của Imam và Ctg
(2008) cho thấy cách tiếp cận “Cashflow dominance” tức là mô hình dựa trên cơ sở
chiết khấu dòng tiền như DCF, DDM … được sử dụng là mô hình chủ đạo, nhưng
đồng thời mô hình định giá so sánh cũng được sử dụng kèm theo để tạo thêm cơ sở
cho giá mục tiêu/khuyến nghị được sử dụng nhiều nhất tại 61,2% báo cáo. Ta thấy,
mô hình chiết khấu dòng tiền có thể không được đề cập nhiều bằng mô hình định giá
so sánh nhưng lại được sử dụng là mô hình định giá chủ đạo nhiều nhất, mô hình định
giá so sánh được sử dụng chủ yếu như là mô hình kết hợp bổ sung thêm. Nghiên cứu
của Pinto và Ctg (2019) cho thấy, hướng tiếp cận trên cơ sở chiết khấu giá trị hiện
tại vẫn xếp sau các bội số thị trường, nhưng mức độ phổ biến, tỷ lệ sử dụng đã tăng
lên đáng kể so với các nghiên cứu khảo sát trước. Một trong những nguyên nhân
hướng tiếp cận này đã bổ sung thêm nhiều mô hình mới như: Dòng ngân lưu tự do
thuộc về chủ sở hữu (Free Cashflow to Equity - FCFE), Dòng ngân lưu tự do thuộc
về doanh nghiệp (Free Cashflow to Firm – FCFF)..
- Giả thuyết 13 (H13): Mô hình chiết khấu dòng tiền tự do (DCF) được sử dụng làm
mô hình định giá chủ đạo nhiều hơn so với mô hình định giá so sánh theo hệ số P/E.
Sử dụng kết hợp các mô hình định giá khác nhau khi xác định giá trị nội tại/giá
mục tiêu cuối cùng tại các báo cáo định giá là phương pháp được nhiều nhà phân tích
sử dụng. Nghiên cứu của Rosenboom (2007) cho thấy trung bình các tổ chức bảo lãnh
phát hành sử dụng 2.4 phương pháp định giá cho 1 thương vụ IPO. Nghiên cứu của
Imam và Ctg (2013) cho thấy có 119 lượt mô hình định giá được sử dụng tại 62 báo
cáo phân tích, bình quân 1 báo cáo sử dụng 1.92 mô hình định giá. Trong đó kết hợp
giữa mô hình chiết khấu dòng tiền với các mô hình định giá so sánh nói chung, hay
cụ thể hơn là sự kết hợp giữa DCF và P/E là xu hướng phổ biến. Theo kết quả nghiên
cứu của Imam và Ctg (2008), Cách tiếp cận “Cashflow dominance” tức là mô hình
dựa trên cơ sở chiết khấu dòng tiền như DCF, DDM… được sử dụng đồng thời mô
hình định giá so sánh nhưng mô hình chiết khấu dòng tiền là mô hình chủ đạo được
sử dụng tại 61,2% báo cáo. Kết quả khảo sát của Bancel và Mitto (2014) cho thấy có
113
khoảng 20% nhà phân tích chỉ sử dụng 01 mô hình định giá trong báo cáo. Theo
nghiên cứu của Erkilet và Ctg (2021), khoảng 40% báo cáo phân tích sự dụng kết hợp
các mô hình chiết khấu dòng tiền và định giá so sánh (Hybrid Approach).
- Giả thuyết 14 (H14): Các nhà phân tích có xu hướng ưa thích sử dụng kết hợp
mô hình định giá so sánh theo hệ số P/E với mô hình DCF.
Trong phương pháp định giá so sánh nói chung và mô hình định giá so sánh
theo hệ số P/E nói riêng, việc xác định hệ số P/E tham chiếu (Benchmark) đóng vai
trò rất quan trọng. Có 03 phương pháp xác định hệ số P/E tham chiếu thường được
sử dụng. Hướng tiếp cận thứ nhất là hướng tiếp cận so sánh (Valuation Based on
Comparables), tức là sử dụng hệ số P/E tham chiếu được xác dựa trên hệ số P/E của
công ty hoặc nhóm công ty được sử dụng để so sánh. Hướng tiếp cận thứ hai, là
hướng tiếp cận dựa trên cơ sở dự báo các yếu tố cơ bản (Valuation Based on
Forecasted Fundamentals). Hệ số P/E tham chiếu có thể được tính toán theo hệ số P/E
hợp lý (Justified P/E hay Fundamental P/E) trên cơ sở liên kết hệ số P/E với Mô hình
tăng trưởng đều của Gordon. Hướng tiếp cận thứ 3, là hướng tiếp cận có sự kết hợp
giữa hướng tiếp cận 1 và hướng tiếp cận 2, vừa dựa trên cơ sở so sánh, vừa có sự điều
chỉnh nhất định theo các yếu tố cơ bản. Trong đó, lấy bình quân bội số theo ngành
hay lĩnh vực (Industry and Sector Multiples) thuộc hướng tiếp cận thứ nhất là phương
pháp được sử dụng phổ biến nhất. Nghiên cứu của Dukes và Ctg (2006) khảo sát
phương pháp xác định hệ số P/E tham chiếu trong mô hình định giá so sánh theo hệ
số P/E của các nhà phân tich cho thấy: khoảng 44% nhà phân tích trả lời sử dụng hệ
số P/E trung bình trong quá khứ của công ty, 41% sử dụng P/E bình quân ngành, 32%
sử dụng P/E bình quân thị trường, khoảng 30% sử dụng P/E bình quân ngành và bình
quân thị trường có điều chỉnh rủi ro. Tại thị trường Việt Nam, NCS giả dịnh các nhà
phân tích chủ yếu sử dụng P/E bình quân các công ty cùng ngành để tính P/E tham
chiếu
- Giả thuyết 15 (H15): Các nhà phân tích chủ yếu sử dụng hệ số P/E bình quân
của các công ty cùng ngành khi xác định hệ số P/E tham chiếu sử dụng trong
114
mô hình định giá so sánh.
Kết quả khảo sát của Pinto và Ctg (2019) cho thấy, gần 70% các nhà phân tích
cho rằng quyết định lựa chọn mô hình định giá phụ thuộc vào ngành nghề, lĩnh vực
kinh doanh của công ty được định giá. Nghiên cứu của Imam và Ctg (2008, 2013)
dựa trên các báo cáo phân tích cổ phiếu trên thị trường UK và các nước Châu Âu
cho thấy các mô hình được sử dụng khi định giá các công ty thuộc lĩnh vực tài chính
có sự khác biệt khá lớn so với các ngành còn lại. Tài chính và bất động sản là hai lĩnh
vực kinh doanh có cơ cấu tài sản, dòng tiền khá khác biệt so với các lĩnh vực khác.
Do vậy, NCS giả định rằng việc sử dụng các mô hình định giá đối với các công ty
thuộc lĩnh vực tài chính và bất động sản có sự khác biệt khá lớn so với các ngành còn
lại.
- Giả thuyết 16 (H16): Việc sử dụng các mô hình định giá đối với các công ty
thuộc lĩnh vực tài chính và bất động sản có sự khác biệt đối với các ngành còn
lại.
❖ Các giả thuyết về mức độ chính xác của các mô hình định giá
Mô hình chiết khấu dòng tiền tự do (DCF) bao gồm 02 loại dòng tiền: Dòng
ngân lưu thuộc về chủ sở hữu (FCFE), dòng ngân lưu thuộc về doanh nghiệp (FCFF)
là mô hình chủ yếu của hướng tiếp cận thu nhập (Income Aproach). Mô hình định giá
so sánh theo hệ số P/E cũng là mô hình tiêu biểu và phổ biết nhất của hướng tiếp cận
thị trường (market approach). Các nghiên cứu đều cho thấy sự vượt trội về tần suất
sử dụng 02 mô hình này so với các mô hình khác. Nhưng mô hình nào có mức độ
chính xác cao hơn lại là một vấn đề chưa có câu trả lời thống nhất. Có quan điểm cho
rằng mô hình định giá so sánh theo hệ số P/E bỏ qua các thông số quan trọng của
doanh nghiệp như tiềm năng tăng trưởng, rủi ro, dòng tiền; không bao quát hết được
tiềm năng và thách thức của công ty nên kết quả định giá dễ có sai lệch. Trong khi
mô hình DCF khắc phục được hầu hết các hạn chế này nên sẽ là mô hình đáng tin cậy
hơn, có mức độ chính xác cao hơn. Tuy nhiên cũng có quan điểm cho rằng, mô hình
DCF yêu cầu rất nhiều thông số đầu vào, và đặc biệt nhạy cảm với các thông số như
suất chiết khấu, tốc độ tăng trưởng, càng nhiều thông số, càng nhiều giả định càng dễ
115
dẫn đến sai lệch. Các nghiên cứu thực nghiệm từ các báo cáo phân tích của Demirakos
và Ctg (2010), Imam và Ctg (2013), Sayed (2017) … cũng có các kết luận khác nhau
hoặc không trả lời được câu hỏi này. NCS giả định rằng tại thị trường Việt Nam, mô
hình định giá chiết khấu dòng tiền (DCF) có mức độ chính xác cao hơn so với mô
hình định giá so sánh theo hệ số P/E
Giá thuyết 17 (H17): Mô hình định giá chiết khấu dòng tiền (DCF) có mức
độ chính xác cao hơn so với mô hình định giá so sánh theo hệ số P/E
Như đã đề cập ở Giả thuyết 14, sử dụng kết hợp các mô hình định giá khác nhau
khi xác định giá trị nội tại/giá mục tiêu cuối cùng tại các báo cáo định giá là phương
pháp được nhiều nhà phân tích sử dụng. Các nghiên cứu của Rosenboom (2007),
Imam và Ctg (2008, 2013), Erkilet và Ctg (2021) đã cho thấy xu hướng này. Nghiên
cứu của Imam và Ctg (2013) cũng đề cập đến việc sử dụng kết hợp các mô hình định
giá trong cùng một báo cáo nhưng chưa đủ cơ sở để kết luận việc sử dụng mô hình
định giá tương đối kết hợp cùng với mô hình chiết khấu dòng tiền có thể giúp tăng tỷ
lệ chính xác trong dự báo giá. Nghiên cứu của Erkilet và Ctg (2021) cho thấy sự kết
hợp giữa các mô hình dòng tiền và mô hình định giá so sánh (Hybrid Aprroach) lại
có mức độ sai số cao hơn, tức mức độ chính xác trong kết quả định giá thấp hơn so
với các mô hình dòng tiền và mô hình định giá so sánh khi sử dụng riêng rẽ, không
có sự kết hợp. NCS giả định rằng do mỗi mô hình định giá có ưu nhược điểm riêng,
việc kết hợp các mô hình có thể giúp tận dụng các điểm mạnh và khắc phục điểm yếu
của từng mô hình từ đó góp phần cải thiện mức độ chính xác của kết quả định giá.
Giả thuyết 18 (H18): Việc kết hợp mô hình DCF và P/E khi định giá góp phần
cải thiện mức độ chính xác của kết quả định giá.
Các nghiên cứu về mức độ chính xác của các mô hình định giá như nghiên cứu
của Asquith và Ctg (2004), Demirakos và Ctg (2010), Kerl (2011), Imam và Ctg
(2013), Erkilet và Ctg (2021)… chủ yếu nghiên cứu tại một thị trường cụ thể, không
có sự so sánh mức độ chính xác của kết quả định giá tại các thị trường khác nhau.
Sayed (2017) nghiên cứu về tình hình sử dụng các mô hình định giá và mức độ chính
xác tại các thị trường mới nổi khu vực Châu Á giai đoạn 2008 – 2013 bao gồm các
116
nước như Singapore, Hongkong, ThaiLand, Malaysia, Indonesia, Ấn Độ … tuy nhiên
không đo lường và so sánh mức độ chính xác của kết quả định giá tại từng thị trường
cụ thể. Bilinski và Ctg (2013) nghiên cứu đo lường và mức độ chính xác của công
tác định giá cổ phần tại 16 quốc gia. Kết quả nghiên cứu cho thấy chất lượng thông
tin kế toán, hệ thống luật pháp có ảnh hưởng tới mức độ chính xác của mức giá mục
tiêu (target price). Kết quả nghiên cứu cũng khẳng định sự khác biệt trong khả năng
dự báo giá của các nhà phân tích, một số nhà phân tích có kết quả định giá chính xác
ổn định và vượt trội hơn. NCS giả định rằng là một thị trường cận biên; còn những
hạn chế nhất định về chất lượng thông tin kế toán, các quy định, trình độ và kinh
nghiệm của đội ngũ định giá, Kết quả định giá cổ phiếu tại các báo cáo phân tích
được phát hành tại thị trường chứng khoán Việt Nam có mức độ chính xác thấp hơn
so với các thị trường phát triển.
Giá thuyết 19 (H19): Kết quả định giá cổ phiếu tại các báo cáo phân tích được phát
hành tại thị trường chứng khoán Việt Nam có mức độ chính xác thấp hơn so với mẫu
nghiên cứu tại các thị trường phát triển.
3.3. Phương pháp nghiên cứu:
3.3.1. Phương pháp nghiên cứu các nhân tố tác động đến hệ số P/E tại thị trường
chứng khoán Việt Nam
3.3.1.1. Mô hình nghiên cứu đề xuất
Để trả lời các câu hỏi nghiên cứu về các nhân tố tác động đến hệ số P/E, nghiên
cứu sẽ tiếp cận mô hình hồi quy dữ liệu bảng. Căn cứ vào cơ sở lý thuyết và thực
nghiệm, NCS đề xuất mô hình nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hệ số P/E như
sau:
𝑷/𝑬𝒊𝒕 = 𝜶𝒊 + 𝜷𝟏. 𝑺𝑰𝒁𝑬𝒊𝒕 + + 𝜷𝟐. 𝑩𝑬𝑻𝑨𝒊𝒕 + 𝜷𝟑𝑺𝑫𝒊𝒕 + 𝜷𝟒. 𝑬𝑮𝒊𝒕 + 𝜷𝟓. 𝑫𝑨𝒊𝒕 +
117
𝜷𝟔. 𝑩𝑽𝑷𝑺𝒊𝒕+ 𝜷𝟕. 𝑷𝑶𝑹𝒊𝒕 + 𝜷𝟖. 𝑹𝑶𝑬𝒊𝒕 + 𝜷𝟗. 𝑪𝑮𝒊𝒕 + 𝜷𝟏𝟎. 𝑳𝑰𝑹𝒊𝒕 (3.1)
Mô hình nghiên cứu được xây dựng trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu của
Malkiel và Cragg (1970)4, Cho (1994)5, các nghiên cứu trong giai đoạn 1987 – 1991
của Damoradan (2002)6. Các nghiên cứu này, tuy còn giản đơn về biến nghiên cứu
và phương pháp phân tích dữ liệu, nhưng đây là những nghiên cứu mang tính tiên
phong, đặt nền móng cho việc ước lượng các nhân tố tác động đến hệ số P/E bằng
mô hình hồi quy. Đồng thời, đây đều là các nghiên cứu được công bố trên các tạp chí,
ấn phẩm uy tín và có tầm ảnh hưởng.
Việc lựa chọn các biến cụ thể để xây dựng mô hình nghiên cứu được căn cứ
chủ yếu vào các nguyên lý chung của mô hình định giá chiết khấu dòng tiền, mô hình
𝐷/𝐸
𝐾
tăng trưởng đều Gordon (GGM) và công thức do Beaver và Morse (1978) phát triển:
𝑟−𝑔
𝑟−𝑔
(2.9) 𝑃/𝐸 = =
K: Tỷ lệ chi trả cổ tức cố định (Payout ratio)
g: Tốc độ tăng trưởng EPS cố định
r : Lãi suất chiết khấu
Từ 03 yếu tố căn bản ban đầu trong công thức của Beaver và Morse (1978),
và những nguyên lý chung của mô hình định giá chiết khấu dòng tiền, NCS đã trình
bày Cơ sở lý thuyết về các nhân tố ảnh hưởng đến P/E tại Mục 2.4. Có thể kể đến
như, tác động của Hệ số Beta và mức độ biến động giá có thể giải thích thông qua Lý
thuyết thị trường vốn ( Capital Market Theory – CMT) do Sharpe (1964) phát triển
nhằm lượng hóa mối quan hệ giữa lợi nhuận và rủi ro với Đường thị trường vốn
(Capital Market Line - CML) và Đường thị trường chứng khoán (Securities Market
Line - SML) cũng chính là Mô hình định giá tài sản vốn (Capital Asset Pricing
Model_ CAPM). Tác động của yếu tố quy mô công ty đến tỷ suất lợi nhuận yêu cầu
4 Nghiên cứu đăng trên Tạp chí American Economic Review – Thuộc danh mục ISI và Scopus (Q1) chỉ số H – Index 312, tạp chí hàng đầu trong lĩnh vực Kinh tế, Kinh lượng, Tài chính 5 Nghiên cứu đăng trên Tạp chí Review of Financial Economics – Thuộc danh mục Scopus (Q2) chỉ số H – Index 43 6 Các nghiên cứu về các nhân tố tác động đến hệ số P/E của Aswash Damoradan được công bố trong sách Định giá đầu tư (Investment Valuation) được tái bản nhiều lần.
118
qua đó tác động tới giá trị công ty và hệ số P/E được thể hiện rất rõ qua mô hình 3
nhân tố còn được gọi là Mô hình Fama – French (FFM) được Fama và French (1993)
phát triển. Tác động của tốc độ tăng trưởng, chính sách cổ tức vừa dựa trên cơ sơ
công thức của Beaver và Morse (1978) vừa dựa trên các lý thuyết, quan điểm của
Miller & Modigliani (1958), Miller và Modigliani (1961), Modigliani và Miller
(1963), Walter (1963), Jensen và Meckling (1976), Kraus và Litezenberger (1973) …
về tác động của cơ cấu vốn và chính sách cổ tức đến giá trị doanh nghiệp. Tác động
của giá trị sổ sách đến giá trị nội tại của cổ phiếu được thể hiện rõ nét nhất qua Mô
hình định giá thu nhập thặng dư (Residual Income Valuation Model – RIV) do
Ohlson (1995) và hướng tiếp cận cận định giá theo tài sản (Asset Approach).
Các nghiên cứu thực nghiệm tiêu biểu như các nghiên cứu Afza và Tahir (2012),
Lutfi và Arsitha (2016), Dutta và Ctg (2018), Farah Freihat (2019), Krishnan và
Chen (2020), Phạm Hữu Hồng Thái và Nguyễn Thành Đến (2017), Shamsuddin và
Hillier (2004) Arslan và Ctg (2017), Amoako – Adu và Smith (2002) … cũng là các
cơ sở quan trọng để lựa chọn các biến vào mô hình nghiên cứu.
Luận án không sử dụng hoàn toàn một mô hình nghiên cứu của tác giả nào, mà
có sự kế thừa, chọn lọc lại và bổ sung. Các nghiên cứu của Kisor và Witbeck (1963),
Malkiel và Cragg (1970), Cho (1994), các nghiên cứu trong gian đoạn 1987 – 1991
của Damoradan (2002) chủ yếu nghiên cứu 03 yếu tố cơ bản tác động đến hệ số P/E
bao gồm tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ chi trả cổ tức bằng tiền mặt và hệ số Beta. Các
nghiên cứu của Lutfi và Arsitha (2016), Dutta và Ctg (2018), Arslan và Ctg (2017),
Freihat (2019) tiêu biểu cho xu hướng đưa nhiều nhân tố tác động là các chỉ số tài
chính, thông tin tài chính vào mô hình nghiên cứu nhưng lại bỏ qua các nhân tố đo
lường rủi ro quan trọng như Beta và mức độ biến động giá, các nhân tố quan trọng
tác động đến giá cổ phiếu và hệ số P/E. Nghiên cứu gần đây của Krishnan và Chen
(2020) có đề cập đến Beta và mức độ biến động giá, quy mô công ty, tỷ lệ chi trả cổ
tức bằng tiền mặt nhưng mô hình nghiên cứu lại thiếu các nhân tố tài chính. Các
nghiên cứu của Amoako – Adu và Smith (2002), Shamsuddin và Hillier (2004), Kane
và cộng sự (1996) … chủ yếu tập trung vào tác động của các yếu tố vĩ mô đến hệ số
P/E. Ngoại trừ nghiên cứu của Freihat (2019) có đưa lãi suất tín phiếu kho bạc vào
119
mô hình nghiên cứu, các nghiên cứu của Lutfi và Arsitha (2016), Dutta và Ctg (2018),
Arslan và Ctg (2017), Krishnan và Chen (2020) chủ yếu tập trung vào các nhân tố cụ
thể của công ty và cổ phiếu, hoàn toàn không đề cập đến lãi suất cũng như các nhân
tố vĩ mô khác. Đặc biệt, theo hiểu biết của tác giả, chưa có các nghiên cứu đưa biến
chất lượng quản trị công ty vào mô hình nghiên cứu các nhân tố tác động đến hệ số
P/E.
NCS đã căn cứ vào cơ sở lý thuyết về các nhân tố tác động đến hệ số P/E và
bằng chứng từ các nghiên cứu thực nghiệm để bổ sung thêm các biến nghiên cứu mới
vào mô hình như: Quy mô công ty, Đòn bẩy tài chính, giá trị sổ sách trên 1 cổ phần,
Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu bên cạnh các biến truyền thống như: Hệ số Beta,
mức độ biến động giá, tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ chi trả cổ tức bằng tiền mặt. Các biến
đưa vào mô hình nghiên cứu, được trình bày cụ thể sau đây:
❖ Biến phụ thuộc:
𝐺𝑖á 𝑡ℎị 𝑡𝑟ườ𝑛𝑔 𝑚ỗ𝑖 𝑐ổ 𝑝ℎầ𝑛 (𝑃)
Biến phụ thuộc trong mô hình nghiên cứu là hệ số P/E được tính theo công thức:
𝐿ợ𝑖 𝑛ℎ𝑢ậ𝑛 𝑠𝑎𝑢 𝑡ℎ𝑢ế 𝑡𝑟ê𝑛 𝑚ỗ𝑖 𝑐ổ 𝑝ℎầ𝑛 𝑝ℎổ 𝑡ℎô𝑛𝑔 (𝐸𝑃𝑆)
P/E =
Theo Pinto và các cộng sự (2018), P/E có thể bao gồm P/E quá khứ (Trailing
P/E) được xác định dựa trên EPS quá khứ (trailing EPS) và P/E dự phóng (Forward
P/E) được xác định dựa trên EPS dự phóng (Forward EPS). Do dữ liệu về EPS dự
phóng thường không thống nhất, hoặc khó tiếp cận, các nghiên cứu trước cũng chủ
yếu sử dụng P/E quá khứ làm biến phụ thuộc. Trong luận án, NCS cũng sử dụng P/E
quá khứ làm biến phụ thuộc, cụ thể:
Giá cổ phiếu (P): Được lấy theo giá đóng cửa phiên giao dịch cuối cùng trong năm của cổ phiếu. EPS: Lấy theo lãi cơ bản trên 1 cổ phiếu được công bố tại báo cáo tài chính của doanh nghiệp vào ngày 31/12 hàng năm.
❖ Các biến độc lập trong mô hình nghiên cứu:
Quy mô công ty (SIZE): Về cơ sở lý thuyết, sự tác động của yếu tố quy mô
120
công ty đến hệ số P/E được giải thích thông qua Mô hình 3 nhân tố còn được gọi là
Mô hình Fama – French (FFM) do Fama và French (1993) phát triển. Trong đó có
nhân tố phần bù liên quan đến quy mô giá trị vốn hóa (small minus big - SMB).
Nhiều nghiên cứu thực nghiệm nghiên cứu tác động của yếu tố quy mô công ty đến
hệ số P/E và sử dụng các cách đo lường biến khác nhau. Cụ thể, Afza và Tahir (2012),
Dutta và Ctg (2018) sử dụng thước đo doanh thu; Lutfi và Arsitha (2016) Arslan và
Ctg (2017) sử dụng thước đo giá trị tổng tài sản; Anderson và Brooks (2005) Freihat
(2019), Krishnan và Chen (2020) sử dụng thước đo giá trị vốn hóa. Trong mô hình
nghiên cứu, NCS sử dụng thước đo giá trị vốn hóa để đo lường quy mô công ty, vì
đối với công ty niêm yết, yếu tố giá trị thị trường được các nhà đầu tư quan tâm nhiều
hơn. Đồng thời biến SIZE sẽ được tính bằng cách lấy Ln (Giá trị vốn hóa) để hạn chế
tác động của sự chênh lệch về độ lớn giữa các biến do đơn vị đo lường.
Hệ số Beta (BETA)
Tác động của hệ số BETA đến hệ số P/E được thể hiện rất rõ ràng qua Mô hình
định giá tài sản vốn (CAPM) do Sharpe (1964) phát triển. Trong đó, hệ số BETA đại
𝐶𝑜𝑣 (𝑅𝑖,𝑅𝑚)
diện cho phần bù rủi ro hệ thống. Hệ số Beta được tính bằng công thức :
𝑉𝑎𝑟(𝑅𝑚)
𝐻ệ 𝑠ố 𝐵𝑒𝑡𝑎 (𝛽) =
Với :
- Cov (Ri, Rm): Hệ số hiệp phương sai giữa lợi nhuận của cổ phiếu riêng lẻ và
danh mục đầu tư thị trường
- Var (Rm): Phương sai của danh mục đầu tư thị trường
Trên thực tế, theo Garson (2013), Phương pháp hồi quy OLS để ước lượng
beta là phương pháp ước lượng thông dụng được sử dụng nhiều nhất. Đây cũng là
phương pháp được Damoradan sử dụng trong nhiều nghiên cứu của mình. Trong luận
án, NCS sử dụng mô hình hồi quy OLS để ước lượng Beta với biến phụ thuộc là tỷ
suất sinh lời của cổ phiếu cụ thể tính theo ngày, biến độc lập là tỷ suất sinh lời của
VN – Index theo ngày. Dữ liệu được tích lũy trong khung thời gian 2010 – 2020. Tuy
nhiên do lượng dữ liệu quá lớn, do đó NCS chỉ sử dụng dữ liệu giá theo ngày của 3
tháng cuối năm để tính tỷ suất sinh lời theo ngày của cả các cổ phiếu riêng lẻ và chỉ
121
số VN – Index.
Mức độ biến động giá (𝑺𝑫):
Mức độ biến động giá (cụ thể được đo bằng độ lệch chuẩn của giá thị trường)
cũng là một thước đo khác của rủi ro biến động giá tương tự như hệ số Beta. Cơ chế
tác động của mức độ biến động giá đến hệ số P/E có thể được giải thích thông qua
đường thị trường vốn (CML). Đường CML xác lập mối quan hệ giữa tỷ suất lợi nhuận
kỳ vọng với rủi ro của danh mục đầu tư nằm trên đường biên hiệu quả (efficient
frontier), rủi ro của danh mục đầu tư được đo lường bằng độ lệch chuẩn. Mặc dù mô
hình CML áp dụng đối với danh mục đầu tư nằm trên đường biên hiệu quả, nhưng ta
cũng có thể suy rộng áp dụng đối với các cổ phiếu.
Hệ số Beta, đòn bẩy tài chính, mức độ biến động là những thước đo rủi ro (risk
measures) truyền thống thường được các nghiên cứu sử dụng. Một số thước đo rủi
ro khác cũng có thể được sử dụng như: độ lệch chuẩn của mức độ thay đổi EPS được
sử dụng bởi Kisor và Witbeck (1963), Arslan và Ctg (2017) sử dụng tỷ lệ độ lệch
chuẩn của EBITDA. Cho (1994) sử dụng độ lệch chuẩn của tỷ lệ biến động giá theo
các kịch bản do các nhà phân tích dự báo. NCS sử dụng cách tiếp cận của Afza và
Tahir (2012), Krishnan và Chen (2020), tính độ lệch chuẩn mức độ biến động giá
thực tế của cổ phiếu trên thị trường, cụ thể:
𝑆𝐷𝑡 = 𝑆𝐷(𝑃𝑡) 𝑀𝑒𝑎𝑛 (𝑃𝑡)
𝑆𝐷𝑡 : Tỷ lệ biến động giá của cổ phiếu trong năm t (Theo tỷ lệ biến động tăng
giảm của giá cổ phiếu, không phụ thuộc vào mức giá của cổ phiếu lớn hay nhỏ)
𝑆𝐷(𝑃𝑡) : Độ lệch chuẩn giá đóng cửa của cổ phiếu tại các phiên giao dịch trong
năm t
𝑀𝑒𝑎𝑛 (𝑃𝑡) : Giá đóng cửa bình quân của cổ phiếu trong năm t
Tốc độ tăng trưởng lợi nhuận (EG): Tốc độ tăng trưởng lợi nhuận là một nhân
tố quan trọng tác động đến giá của cổ phiếu và hệ số P/E. Theo công thức của Beaver
và Morse (1978), tốc độ tăng trưởng cổ tức hay dòng tiền nói chung có tác động cùng
chiều với hệ số P/E, tốc độ tăng trưởng càng cao P/E càng cao và ngược lại. Lynch
122
(1989) sử dụng hệ số PEG thay cho hệ số P/E trong định giá :
P E⁄
g x 100
với g : Tốc độ tăng trưởng dự kiến PEG =
Thông qua hệ số PEG, Lynch (1989) cho rằng việc sử dụng hệ số P/E cần
lưu ý và điều chỉnh theo yếu tố tốc độ tăng trưởng. Nhà đầu tư có xu hướng chấp
nhận một cổ phiếu có hệ số P/E cao nếu nó có tốc độ tăng trưởng cao và ngược lại.
Các thước đo mức độ tăng trưởng của công ty cũng khá đa dạng. Krishnan và
Chen (2020) sử dụng hệ số giá trị số sách trên giá thị trường (book to market ratio).
Arslan và Ctg (2017) sử dụng tốc độ tăng trưởng doanh thu, Cho (1994) sử dụng cả
tốc độ tăng trưởng EPS theo dữ quá khứ , và tốc độ tăng trưởng EPS theo dự báo.
Afza và Tahir (2012), Phạm Hữu Hồng Thái và Nguyễn Thành Đến (2017) sử dụng
cả tốc độ tăng trưởng lợi nhuận theo dữ liệu quá khứ và hệ số Tobin’s Q. Trong đó
hệ số Tobin’s Q, là thước đo phản ánh nhận thức của thị trường về tiềm năng tăng
trưởng của công ty. NCS sử dụng tốc độ tăng trưởng lợi nhuận sau thuế của năm t
so với năm t-1 để đo lường tốc độ tăng trưởng của công ty tương tự như phương pháp
của Malkiel and Cragg (1970), Dutta và Ctg (2018), Farah Freihat (2019),
Damoradan(2016)..
Đòn bẩy tài chính (DA):
Điểm đặc biệt trong nghiên cứu của Cho (1994) cho rằng đòn bẩy tài chính là
là một thước đo của rủi ro bên cạnh và hệ số Beta, và theo kết quả của nghiên cứu
này đòn bẩy tài chính là thước đo hiệu quả hơn so với hệ số Beta. Theo cách tiếp cận
này, đòn bẩy tài chính chính là thước đo rủi ro tài chính, một loại rủi ro quan trọng từ
nội tại doanh nghiệp. Nếu các yếu tố khác không thay đổi, hệ số đòn bẩy tài chính
càng lớn thể hiện rủi ro tài chính của công ty càng lớn, nhà đầu tư chấp nhận mặt
bằng hệ số P/E của cổ phiếu càng thấp.
Tác động của đòn bẩy tài chính đến giá trị công ty cũng được thể hiện thông
qua các lý thuyết về cơ cấu vốn. Modigliani và Miller (1963) cho rằng trong trường
hợp có thuế, giá trị của doanh nghiệp có vay nợ cao hơn giá trị của doanh nghiệp
không có vay nợ nhờ hiệu ứng lá chắn thuế, số thuế thu nhập phải đóng giảm đi do
lãi vay. Giá trị doanh nghiệp có sử dụng nợ vay bằng giá trị doanh nghiệp không sử
123
dụng nợ vay cộng với giá trị hiện tại của lá chắn thuế từ lãi vay. Tuy nhiên, đối với
hệ số P/E hiệu ứng gia tăng lợi nhuận sau thuế (nếu có) nhờ lá chắn thuế đã được
phản ánh vào EPS. Ngoài ra, Kraus và Litezenberger (1973) cũng cho rằng tăng mức
độ sử dụng nợ sẽ làm tăng gánh nặng trả gốc và lãi trong tương lai, qua đó làm tăng
khả năng doanh nghiệp rơi vào tình trạng phá sản, tăng chi phí kiệt quệ tài chính và
làm giảm giá trị doanh nghiệp. Nhìn chung, các lý thuyết cơ cấu vốn cũng có xu
hướng giải thích được tác động ngược chiều của đòn bẩy tài chính đến hệ số P/E.
Cho (1994) đo lường hệ số đòn bẩy tài chính bằng cách lấy giá trị số sách của
nợ chia cho tổng giá trị thị trường của cổ phiếu cộng giá trị sổ sách của nợ. Tuy nhiên,
để phản ánh chính xác rủi ro tài chính từ góc độ nghĩa vụ trả nợ vay so với tổng tài
sản theo số sách kế toán, NCS sử dụng cùng thước đo với các nghiên cứu của Afza
và Tahir (2012), Lutfi và Arsitha (2016), Arslan và Ctg (2017), Dutta và Ctg (2018),
Farah Freihat (2019):
Tổng nợ theo số sách kế toán
Đòn bẩy tài chính (DA) =
Tổng tài sản theo số sách kế toán
Giá trị sổ sách trên 1 cổ phần (BVPS): Tác động của giá trị sổ sách đến giá
trị nội tại của cổ phiếu được thể hiện qua Mô hình định giá thu nhập thặng dư
(Residual Income Valuation Model – RIV) và hướng tiếp cận cận định giá theo tài
sản (Asset Approach). Giá trị sổ sách trên 1 cổ phần là một nhân tố quan trọng tác
động đến giá thị trường của cổ phiếu, bởi nó phản ánh giá trị của 1 cổ phần được ghi
nhận theo số sách kế toán và còn được coi là giá trị thanh lý dự kiến. Ngoại trừ, lợi
nhuận sau thuế của năm hiện tại có thể được ghi nhận tại mục lợi nhuận chưa phân
phối của phần vốn chủ sở hữu trên bảng cân đối kế toán, sự khác biệt giữa chỉ tiêu
giá trị sổ sách trên 1 cổ phần của các công ty chủ yếu do lợi nhuận giữ lại và thặng
dư vốn cổ phần, không có mối liên hệ nào khác rõ ràng giữa giá trị sổ sách trên 1 cổ
phần và EPS. Do đó, giá trị sổ sách trên 1 cổ phần là nhân tố có thể tác động đến hệ
số P/E. Một số nghiên cứu có thể sử dụng cách gọi khác như Giá trị tài sản ròng trên
một cổ phiếu (Net Asset value pershare), tuy nhiên các nghiên cứu hầu như thống
124
nhất sử dụng cách tính:
𝑇ổ𝑛𝑔 𝑡à𝑖 𝑠ả𝑛−𝑁ợ 𝑝ℎả𝑖 𝑡𝑟ả−𝐺𝑖á 𝑡𝑟ị 𝑐ổ 𝑝ℎ𝑖ế𝑢 ư𝑢 đã𝑖
𝑆ố 𝑙ượ𝑛𝑔 𝑐ổ 𝑝ℎ𝑖ế𝑢 đ𝑎𝑛𝑔 𝑙ư𝑢 ℎà𝑛ℎ 𝑏ì𝑛ℎ 𝑞𝑢â𝑛
𝐵𝑉𝑃𝑆 =
Tỷ lệ chi trả cổ tức bằng tiền mặt (POR): Tỷ lệ chi trả cổ tức (Payout ratio)
được định nghĩa là tổng giá trị cổ tức được chi trả bằng tiền mặt trên tổng lợi nhuận
sau thuế của công ty, đây chính là chính sách cổ tức (Dividend Policy) do công ty
quyết định hàng năm. Mối quan hệ giữa tỷ lệ chi trả cổ tức bằng tiền mặt và hệ số P/E
được thể hiện trong công thức của Beaver và Morse (1978)
𝑃/𝐸 = = 𝐷/𝐸 𝑟 − 𝑔 𝐾 𝑟 − 𝑔
Tỷ lệ chi trả cổ tức (K) có tác động trực tiếp đến P/E, tỷ lệ chi trả cổ tức càng
lớn P/E càng lớn. Tuy nhiên, tỷ lệ chi trả cổ tức còn có quan hệ với tốc độ tăng trưởng.
Công ty có tỷ chi trả cổ tức bằng tiền mặt cao, tức là có tỷ lệ lợi nhuận giữ lại để tái
đầu tư thấp nên tiềm năng tăng trưởng thấp, mối liên hệ này thể hiện qua công thức
2.12: tốc độ tăng trưởng lợi nhuận (g) = Tỷ lệ lợi nhuận giữ lại (1 – payout ratio) x
Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE), dẫn đến tác động ngược chiều tới hệ số
P/E.
Mối quan hệ giữa tỷ lệ chi trả cổ tức bằng tiền mặt với giá trị công ty cũng là một
chủ đề quan trọng của tài chính hiện đại. Tuy nhiên, các lý thuyết liên quan Miller và
Modigliani (1961), Walter (1963), Jensen và Meckling (1976), Jensen (1986) cũng
chưa có sự thống nhất về mối quan hệ giữa chính sách cổ tức và giá trị của công ty.
Trong luận án, NCS sử dụng cách tính được sử dụng tại các nghiên cứu của Afza
và Tahir (2012), Lutfi và Arsitha (2016), Farah Freihat (2019) :
Cổ tức trên 1 cổ phiếu (DPS)
Tỷ lệ chi trả cổ tức bằng tiền mặt (POR) =
Lợi nhuận ròng trên 1 cổ phiếu (EPS)
Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE):
125
Mối quan hệ giữa ROE và P/E được xác định qua công thức 2.13
1−
𝑔 𝑅𝑂𝐸
𝐷1/𝐸1 𝑟−𝑔
𝑟−𝑔
𝑃0 𝐸1
= =
Công thức 2.13 cho thấy, ROE có tác động cùng chiều tới hệ số P/E, ROE tăng
thì P/E sẽ tăng và ngược lại. ROE cao cũng là một những yếu tố hứa hẹn làm cho tốc
độ tăng trưởng của công ty cao. Afford (1992), Cheng và Mcnamara (2000) nghiên
cứu về mức độ hiệu quả của mô hình định giá so sánh phụ thuộc vào cách thức định
nghĩa các công ty so sánh.Theo đó, ROE cũng là một yếu tố quan trọng khi lựa chọn
các công ty so sánh trong mô hình định giá theo P/E. Tiêu chuẩn định giá Việt Nam
số 12 ban hành kèm theo Thông tư số 28/2021/TT – BTC quy định về tiêu chí đánh
giá, lựa chọn các doanh nghiệp so sánh tương tự với doanh nghiệp cần thẩm định giá
về đa số các chỉ số tài chính, trong đó có chỉ số phản ánh hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp như: tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE), tỷ suất lợi nhuận
trên tài sản (ROA).
Góc độ lý thuyết cũng như nhiều nghiên cứu thực nghiệm cho thấy tỷ suất lợi
nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) là một trong những nhân tố tác động cùng nhiều
quan trọng đến thị giá cổ phiếu. Tuy nhiên, giữa ROE và chỉ tiêu lợi nhuận trên cổ
phiếu (EPS) lại có mối quan hệ cùng chiều khá rõ ràng. Do vậy, tác động của ROE
tới P/E là một vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu và kiểm định. Tại luận án, NCS sử
dụng công thức: ROE = LNST/VCSH bình quân.
Xếp hạng quản trị công ty (CG): Xếp hạng quản trị công ty là một trong các
yếu tố phi tài chính tác động đến giá trị công ty và thông qua đó tác động đến hệ số
P/E. Theo McEnally và Kim (2018), chất lượng, sức mạnh và mức độ đáng tin cậy
của hệ thống quản trị công ty sẽ có tác động trực tiếp và sâu sắc đến sự đánh giá của
các nhà đầu tư về khoản đầu tư và từ đó tác động đến giá trị của công ty. Bộ nguyên
tắc Quản trị công ty được OECD ban hành năm 1999, sửa đổi năm 2004, đã trở thành
chuẩn mực quốc tế về quản trị công ty, chính thức được lãnh đạo G20 phê chuẩn năm
2015. Dựa trên nguyên tắc này, nhiều tổ chức thực hiện việc đánh giá, chấm điểm
quản trị cấp công ty như: S&P, Governance metrics international (GMI), Institutional
shareholder services (CGQ), Tổ chức tài chính quốc tế (IFC)…Tại Việt Nam, Dự án
126
Đánh giá Thẻ điểm Quản trị Công ty ASEAN (ACGS) đã tiến hành đánh giá, chấm
điểm về quản trị công ty của các công ty niêm yết của các quốc gia khu vực ASEAN,
trong đó có Việt Nam qua các năm. Tuy nhiên, do không thể thu nhập dữ liệu điểm
quản trị công ty (Corporate Governance Score) chính xác của các công ty trong mẫu
nghiên cứu trong khoảng thời gian nghiên cứu. Do đó, NCS đã phải dùng thước đo
dành cho biến giả (dummy variable) đối với biến chất lượng quản trị công ty (CG).
Các công ty nằm trong nhóm 30 công ty niêm yết có điểm quản trị công ty cao nhất
nhận giá trị 1; các công ty không nằm trong danh sách này nhận giá trị 0
Lãi suất cho vay (LIR):
Lãi suất phi rủi ro là một bộ phận quan trọng của tỷ suất lợi nhuận yêu cầu, có
tác động ngược chiều đến giá cổ phiếu và hệ số P/E cơ chế này được giải thích qua
công thức của Beaver và Morse (1978), mô hình CAPM và nguyên tắc chung của
hướng tiếp cận chiết khấu dòng tiền. Theo Miskin (1996), giá tài sản, trong đó có giá
cổ phiếu, là một kênh truyền dẫn quan trọng của chính sách tiền tệ. Khi NHTW ấn
định lãi suất chính thức hoặc các công cụ khác của chính sách tiền tệ, giá tài sản sẽ
bị tác động trực tiếp, đồng thời bị tác động gián tiếp thông qua sự thay đổi của các
mức lãi suất trên thị trường. Lãi suất là nhân tố vĩ mô quan trọng tác động đến giá cổ
phiếu và hệ số P/E, nó phản ánh cả những yếu tố khác như lạm phát, tín nhiệm quốc
gia. Nghiên cứu của Amoako – Adu và Smith (2002), Shamsuddin và Hillier (2004),
Freihat (2019) sử dụng sử dụng lãi suất tín phiếu kho bạc kỳ hạn 03 tháng hoặc 12
tháng. Nghiên cứu của Kane và cộng sự (1996) sử dụng lãi suất thực bằng cách lấy
lãi suất tín phiếu kho bạc kỳ hạn 1 tháng trừ đi tỷ lệ lạm phát, ngoài ra nghiên cứu
này cũng sử dụng các phần bù trái phiếu công ty (premium on corporate bonds) và
phần bù thương phiếu (premium on commercial paper). Tại Việt Nam, lãi suất cho
vay là chỉ báo quan trọng phản ánh mặt bằng lãi suất thị trường, NCS sử dụng lãi suất
cho vay bình quân của các ngân hàng thương mại được lấy từ nguồn dữ liệu của
127
Worldbank.
Định nghĩa Công thức Thuyết minh
Ký hiệu biến
P: Được lấy theo giá đóng cửa
Chỉ số giá phiên giao dịch cuối cùng trong năm của cổ phiếu
trên thu nhập Giá thị trường (P)/ Thu EPS: Lấy theo lãi cơ bản trên 1 P/E nhập mỗi CP (EPS) cổ phiếu được công bố tại báo (Price to
Earning
cáo tài chính của doanh nghiệp vào ngày 31/12 hàng năm
Giá trị vốn hóa được tính bằng
cách lấy giá đóng cửa phiên giao Quy mô Ln (Giá trị vốn hóa thị dịch cuối cùng trong năm của cổ SIZE công ty trường của công ty) phiếu nhân với số lượng cổ phiếu
đang lưu hành tại cùng thời điểm
Beta là hệ số tác động của hồi
quy đơn biến giữa: Hệ số Beta Tỷ suất lợi nhuận (tăng/giảm) giá đo lường rủi BETA cổ phiếu phiếu (Rj) và Tỷ suất 𝑅𝑗 = 𝛼 + 𝛽 × 𝑅𝑚 ro hệ thống lợi nhuận (tăng/giảm) của chỉ số của cổ phiếu VN – Index (Rm) dữ liệu hàng
ngày
SD
Biên độ biến động giá của cổ phiếu Tỷ lệ độ lệch chuẩn của giá cổ phiếu trên giá bình quân của cổ phiếu Độ lệch chuẩn giá cổ phiếu (số tuyệt đối) của các phiên giao dịch trong năm/giá bình quân của các phiên giao dịch trong năm
Lợi nhuận sau thuế được lấy từ Tốc độ tăng
128
Báo cáo kết quả kinh doanh EG (LNST(t)-LNST(t- 1))/LNST(t-1) trưởng lợi nhuận
Được tính bằng cách lấy tổng nợ
DA Đòn bẩy tài chính DA = Tổng nợ phải trả/Tổng tài sản phải trả chia cho tổng tài sản từ báo cáo tài chính năm của các
công ty
Giá trị sổ Được lấy từ bảng cân đối kế toán
năm của công ty (31/12) BVPS = (Tổng tài sản – Nợ phải trả - Giá trị cổ phần ưu BVPS sách trên 1 cổ phần phổ đãi)/Số lượng cổ phiếu thông: đang lưu hành
Tỷ lệ chi trả cổ tức bằng POR(Payout ratio) = Tổng cổ tức bằng tiền mặt/Tổng Tổng cổ tức bằng tiền mặt trên 01 cổ phiếu trong năm t chia cho POR
tiền mặt lợi nhuận sau thuế EPS năm t
Tỷ suất sinh Được tính từ bảng cân đối kế
lời trên vốn ROE = LNST/VCSH bình toán và báo cáo kết quả kinh ROE chủ sở hữu quân doanh hàng năm của công ty
Sử dụng Kết quả của dự án Đánh giá Thẻ điểm Quản trị Công Chất lượng ty ASEAN (ACGS). Các công ty nằm trong nhóm 30 công ty CG Quản trị niêm yết có điểm quản trị công ty cao nhất nhận giá trị 1; các công ty công ty không nằm trong danh sách này nhận giá trị 0
Lãi suất cho Sử dụng lãi suất cho vay bình quân của các ngân hàng thương LIR vay bình mại được lấy từ nguồn dữ liệu của Worldbank quân
Bảng 3.2 Xác định các biến trong mô hình
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Mô hình nghiên cứu của luận án, kế thừa nghiên cứu của Kisor và Witbeck
(1963), Malkiel và Cragg (1970), Cho (1994), các nghiên cứu trong gian đoạn 1987
– 1991 của Damoradan (2002) về phương pháp phân tích hồi quy. Tuy nhiên, các
nghiên cứu này chủ yếu nghiên cứu các nhân tố tác động đến hệ số P/E trong một
năm cụ thể bằng mô hình hồi quy OLS. NCS tham khảo thêm phương pháp tại các
129
nghiên cứu của Arslan và Ctg (2017), Krishnan và Chen (2020), sử dụng các mô hình
mô hình phân tích phù hợp với dữ liệu bảng như Pooled OLS, FEM, REM, GMM
...sử dụng các phương pháp kiểm định để lựa chọn mô hình phân tích dữ liệu phù
hợp.
3.3.1.2. Phương pháp phân tích dữ liệu: Để thực hiện phân tích dữ liệu cho nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương pháp sau
dưới dự hỗ trợ của phần mềm STATA 14.
Bước 1: Phân tích thống kê mô tả
Thống kê mô tả được sử dụng để mô tả, kiểm tra đặc tính của các biến, cũng như
so sánh để suy diễn thống kê về mối quan hệ giữa các biến thông qua các tiêu chí cơ
bản như giá trị trung bình, giá trị nhỏ nhất, giá trị lớn nhất, giá trị trung vị, phương
sai và độ lệch chuẩn của từng biến nghiên cứu. Từ đó, có thể xem xét dữ liệu có bị
bất thường hay không, làm tăng độ tin cậy của dữ liệu.
Bước 2: Phân tích chỉ số PE theo ngành
Để đo lường mối quan hệ giữa các nhóm ngành và chỉ số P/E, NCS sẽ sử dụng
phép kiểm t-test (ANOVA). Nếu kết quả kiểm định có mức ý nghĩa thống kê <0.05
có nghĩa là chỉ số P/E của các ngành là khác nhau.
Bước 3: Phân tích ma trận tương quan giữa các biến và kiểm định hiện tượng
đa cộng tuyến.
Phân tích ma trận tương quan được sử dụng là thước đo độ mạnh, yếu của các
mối liên hệ giữa các biến; xác định mối liên hệ tuyến tính giữa các biến độc lập, phụ
thuộc trong nghiên cứu. Mô hình có khả năng xuất hiện đa cộng tuyến nếu các biến
độc lập có tương quan mạnh với nhau.
Đa cộng tuyến là hiện tượng các biến độc lập trong mô hình có quan hệ tuyến
tính với nhau. Mô hình xảy ra hiện tượng đa công tuyến sẽ làm cho kết quả bị sai lệch
như hệ số R2 cao trong khi các biến có ý nghĩa thống kê thấp, làm sai lệch chiều
hướng tác động của các biến độc lập lên biến phụ thuộc. Để phát hiện đa cộng tuyến
130
cao, luận án xem xét hệ số phóng đại phương sai (VIF – Variance Inflation Factor).
Theo Nguyễn Quang Dong & Nguyễn Thị Minh (2013), một quy ước chung là nếu
VIF của các biến độc lập lớn hơn 10, chứng tỏ dấu hiệu đa cộng tuyến cao.
Bước 4: Phân tích và lựa chọn mô hình hồi quy
Để kiểm định giả thuyết về các nhân tố tác động đến hệ số P/E, NCS phân tích
hồi quy dữ liệu bảng không cân bằng (unbalanced panel data). Theo Hsiao C. (2003),
trong phân tích hồi quy dữ liệu bảng có các mô hình chủ yếu được sử dụng bao gồm:
Phương pháp bình phương nhỏ nhất dữ liệu gộp (Pooled OLS), Mô hình các yếu tố
tác động cố định (Fixed Effects Model - FEM), Mô hình tác động ngẫu nhiên
(Random Effects Model - REM).
Đầu tiên, NCS sử dụng Phương pháp bình phương nhỏ nhất dữ liệu gộp (Pooled
OLS) với giả định không có sự khác biệt giữa các đơn vị chéo. Trong mô hình, các
tham số ước lượng đều là tham số chung cho tất cả các đơn vị chéo. Khi sử dụng
phương pháp hồi quy này thì các giả định nghiêm ngặt của OLS bắt buộc phải đảm
bảo và rất dễ có khả năng xảy ra sai số chuẩn lớn, làm cho kết quả chệch và không
vững. Do đó, NCS tiến hành các kiểm định được nêu tại Bước 5… Nếu xảy ra một
trong các hiện tượng này, kết quả ước lượng bằng mô hình OLS không còn đáng tin
cậy. Luận án tiếp tục sử dụng các mô hình hồi quy chuyên sử dụng cho dữ liệu bảng
như mô hình yếu tố tác động cố định (FEM), mô hình tác động ngẫu nhiên (REM).
Theo Baltagi & Baltagi, (2008) phân tích với dữ liệu bảng sẽ mang lại một số lợi ích
như dữ liệu chứa nhiều thông tin hơn, tính biến thiên cao hơn và giảm thiểu khả năng
tự tương quan, nhiều bậc tự do hơn và hiệu quả ước lượng cao hơn.
Mô hình các yếu tố tác động cố định (FEM) cho rằng các biến bị bỏ sót tác
động cố định theo thời gian, các hệ số hồi quy của biến giải thích giống nhau giữa
các đơn vị chéo, nhưng hệ số chặn hồi quy được phân biệt giữa các đơn vị chéo.
Mô hình tác động ngẫu nhiên (REM) cho rằng biến bị bỏ sót tác động ngẫu
nhiên. Các hệ số chặn của từng đơn vị chéo được phát sinh từ: (i) một hệ số chặn
chung α không thay đổi theo đối tượng và thời gian; (ii) và một biến ngẫu nhiên εi là
131
một thành phần của sai số thay đổi theo đối tượng nhưng không đổi theo thời gian.
Như vậy, FEM cho rằng các đơn vị chéo khác nhau ở hệ số chặn cố định, trong khi
REM cho rằng các đơn vị chéo khác nhau ở sai số7.
Kiểm định Hausman test được sử dụng để lựa chọn giữa mô hình FEM và REM.
Bước 5: Kiểm định các khuyết tật và lựa chọn mô hình hồi quy
Sau khi đã lựa chọn được một trong ba mô hình Pooled OLS, FEM hoặc REM,
để đảm bảo kết quả ước lượng của các mô hình này đáng tin cậy, cần phải thực hiện
kiểm định các khuyết tật của mô hình. Nếu xảy ra một hoặc các khuyết tật như: đa
cộng tuyến, nội sinh, phương sai sai số thay đổi, thì NCS sẽ tiến hành khắc phục bằng
cách sử dụng phương pháp bình quân nhỏ nhất tổng quát khả thi hoặc ước tính
(Feasible/ Estimated Generalized Least Squares – FGLS/EGLS).
Kiểm định hiện tượng nội sinh: là hiện tượng xảy ra khi biến độc lập có tương
quan với sai số ngẫu nhiên của mô hình, khi đó, các ước lượng của OLS sẽ là ước
lượng chệch (Nguyễn Quang Dong & Nguyễn Thị Minh, 2013). Để kiểm định hiện
tượng nội sinh cho tất cả các biến độc lập, mô hình sử dụng hồi quy tuyến tính đa
biến với biến phụ thuộc là phần dư được trích xuất từ kết quả hồi quy.
Kiểm định phương sai sai số thay đổi: Theo giả thuyết của mô hình hồi quy
tuyến tính cổ điển thì phương sai của sai số ui tùy theo giá trị lựa chọn của biến giải
thích là một số không đổi. Giả thuyết về phương sai không đổi hay khoảng chênh
i ) = 𝜎2 ; i= 1,2,…,n.
lệch bằng nhau tức phương sai bằng nhau : E (u2
Theo đó, các khoảng tin cậy và kiểm định giả thuyết thông thường dựa trên
phân phối t và F sẽ không còn đáng tin cậy nữa. Do vậy, nếu chúng ta áp dụng các
kỹ thuật kiểm định giả thuyết thông thường sẽ cho ra kết quả sai. NCS sử dụng Kiểm
định Breusch – Pagan được đề xuất với Breusch – Pagan (1979) để kiểm tra hiện
tượng phương sai sai số thay đổi.
Kiểm định hiện tượng tự tương quan: hiện tượng tự tương quan xảy ra khi các
7 Phạm Thị Tuyết Trinh và Ctg (2016) Kinh tế lượng ứng dụng trong kinh tế tài chính, NXB Kinh tế TP.HCM
132
sai số không ngẫu nhiên mà có sự tương quan với nhau (Gujarati, 2009). Hiện tượng
tự tương quan cũng làm cho ước lượng OLS không còn là ước lượng hiệu quả nhất
và các kiểm định về hệ số hồi quy cũng không còn đáng tin cậy. Để phát hiện hiện
tượng tự tương quan, luận án sử dụng kiểm định Wooldridge (Wooldride Test).
Bước 6: Kiểm định sự phù hợp của mô hình và giả thuyết thống kê
Kiểm định sự phù hợp của mô hình dựa vào chỉ số R2 và R2 hiệu chỉnh, nếu R2
và R2 hiệu chỉnh càng gần 1 càng tốt.
Kiểm định ý nghĩa của mô hình bằng kiểm định F (F – Test) hoặc kiểm định Wald
(Wald – Test), căn cứ vào giá trị F và P (F) trong kết quả hồi quy thì F càng lớn và P
(F) < 0,05 thì các biến đưa vào mô hình có ý nghĩa.
Kiểm định hệ số hồi quy riêng bằng kiểm t, căn cứ vào Prob của kiểm định t
trong ket quả hồi quy nếu giá trị P (value) của biến độc lập < 0,05 (mức ý nghĩa 5%)
thì biến độc lập đó có có tác động có ý nghĩa trong mô hình hồi quy. Ngoài ra có thể
căn cứ vào giá trị tới hạn của kiểm định t nếu giá trị thống kê t > 1,96 (giá trị tới hạn
tương đương với mức ý nghĩa 5%) thì biến độc lập đó có tác động có ý nghĩa thống
kê trong mô hình.
Kiểm định giả thuyết (kiểm định dấu của hệ số tác động), căn cứ vào dấu của các
hệ số tác động của mô hình hồi quy để kiểm định các giả thuyết ban đầu của tác giả
đưa ra.
3.3.2. Phương pháp nghiên cứu tình hình sử dụng và mức độ chính xác của các mô hình định giá:
Dựa theo các nghiên cứu của Bradshaw (2002), Asquith và Ctg (2004),
Demirakos và Ctg (2010), Kerl (2011), Imam và Ctg (2013), Sayed (2017), Erkilet
và Ctg (2021)… NCS sử dụng phương pháp nghiên cứu nội dung (Content Analysis)
để trả lời các câu hỏi nghiên cứu về thực trạng sử dụng và mức độ chính xác của các
phương pháp định giá tại TTCK Việt Nam. Tác giả xem xét và phân tích nội dung về
phương pháp và kết quả định giá cổ phần từ mẫu nghiên cứu bao gồm 160 báo cáo
phân tích do các công ty chứng khoán phát hành trong giai đoạn 2010 – 2020.
133
❖ Nghiên cứu thực trạng sử dụng các mô hình định giá:
Để đánh giá về mức độ phổ biến hay tần suất sử dụng các mô hình định giá,
NCS sẽ xem xét kỹ lưỡng nội dung thuyết minh về định giá trong các báo cáo phân
tích và thống kê việc sử dụng các mô hình định giá trong trong các báo cáo phân tích
định giá. Các mô hình định giá được chia thành 04 nhóm theo cách phân loại như sau:
(1) Nhóm mô hình định giá so sánh: Bao gồm các mô hình định giá theo các bội
số như P/E, P/B, EV/EBITDA, P/S …
(2) Nhóm mô hình định giá chiết khấu dòng tiền, bao gồm: Mô hình chiết khấu
dòng tiền tự do DCF (bao gồm cả FCFF và FCFE), Mô hình chiết khấu dòng
cổ tức (DDM).
(3) Nhóm mô hình định giá theo hướng tiếp cận tài sản (Asset Based Approach):
Chủ yếu là phương pháp tính Giá trị tài sản ròng (NAV).
(4) Nhóm mô hình kết hợp giữa hướng tiếp cận tài sản và tiếp cận dòng tiền: Chủ
yếu là Mô hình giá trị thặng dự (RIV).
NCS sẽ đánh giá tình trạng sử dụng các mô hình định giá thông qua 02 tiêu chí
chủ yếu:
(1) Số lần được sử dụng trong các báo cáo phân tích, đặc biệt đối với các mô
hình định giá so sánh theo các bội số (P/E, P/B, P/S…), chỉ được được thống kê là có
sử dụng với tư cách một mô hình định giá khi các bội số này được sử dụng để tính
toán giá trị nội tại chính xác (target price) của cổ phiếu
(2) Số lần được sử dụng là phương pháp định giá chủ đạo. Trường hợp báo
cáo định giá sử dụng nhiều mô hình định giá khác nhau, mô hình định giá có tỷ trọng
lớn nhất trong kết quả định giá cuối cùng (target price) sẽ được xác định là mô hình
định giá chủ đạo. Trường hợp, các mô hình định giá có tỷ trọng ngang nhau trong
việc xác định kết quả định giá cuối cùng, không xác định được mô hình định giá chủ
đạo. Khi đó mô hình định giá chủ đạo được xác định là sự kết hợp của các mô hình
như: DCF - P/E, DCF – EV/EBITDA, P/E kết hợp với các bội số khác, P/E, các bội
số khác và DCF, RIV và các bội số khác, NAV và các bội số …
Ngoài ra, NCS cũng sẽ thống kê và xem xét việc sử dụng kết hợp
134
(combination) các mô hình định giá xác nhau để xác định giá trị nội tại tổng hợp của
cổ phiếu (Consolidated Value). Theo cách phân loại của Imam và cộng sự (2008),
NCS phân nhóm các phương thức kết hợp cụ thể như sau:
(1) Định giá so sánh thuần túy (Pure Multiples Valuation): Báo cáo phân tích
chỉ sử dụng mô hình định giá so sánh (P/E, P/B,P/S, EV/EBITDA…), không
sử dụng mô hình chiết khấu dòng tiến hay các mô hình định giá khác.
(2) Chiết khấu dòng tiền thuần túy (Pure Cashflow): Báo cáo phân tích chỉ sử
dụng các mô hình chiết khấu dòng tiền (DDM, DCF), không sử dụng mô hình
định giá so sánh và các mô hình định giá khác.
(3) Định giá so sánh chủ đạo (Multiples Dominance): Báo cáo phân tích sử
dụng mô hình định giá so sánh (P/E, P/B,EV/EBITDA…), đồng thời sử dụng
mô hình chiết khấu dòng tiền và các mô hình định giá khác, nhưng mô hình
định giá so sánh là mô hình chủ đạo.
(4) Chiếu khấu dòng tiền chủ đạo (Cashflow Dominance): Báo cáo phân tích sử
dụng mô hình chiết khấu dòng tiền (DDM, DCF), đồng thời sử dụng mô hình
định giá so sánh và các mô hình định giá khác, nhưng mô hình chiết khấu dòng
tiền là mô hình chủ đạo.
(5) Kết hợp đều dòng tiền và so sánh : Hai mô hình được kết hợp với tỷ trọng
ngang nhau, không xác định được mô hình nào là mô hình chủ đạo.
(6) Các trường hợp khác tương tự như : Thuần NAV, NAV chủ đạo, Thuần RIV,
RIV chủ đạo.
Ngoài các cách phân loại như nêu trên để nghiên cứu riêng về mô hình DCF,
mô hình định giá so sánh theo hệ số P/E và sự kết hợp giữa 02 mô hình này. NCS bổ
sung thêm cách phân loại bao gồm :
(7) Thuần DCF: các báo cáo sử dụng duy nhất phương pháp chiết khấu dòng
tiền tự do (DCF) không sử dụng cùng với bất cứ mô hình nào khác
(8) Thuần P/E: các báo cáo sử dụng duy nhất phương pháp định giá so sánh
135
theo hệ số P/E không sử dụng cùng với bất cứ mô hình nào khác.
(9) Kết hợp giữa 02 mô hình P/E và DCF theo nhiều hình thức khác nhau:
Kết hợp DCF (50%) – P/E (50%); kết hợp đồng thời P/E, các bội số khác với DCF
(định giá so sánh là mô hình chủ đạo); Kết hợp DCF – P/E với DCF là mô hình định
giá chủ đạo; kết hợp P/E – DCF với P/E là mô hình chủ đạo tại 02 báo cáo, kết hợp
đều P/E – DCF – và các bội số khác (không xác định mô hình định giá chủ đạo).
Để đánh giá về tình hình sử dụng các mô hình định giá khi phân tích các ngành,
nhóm ngành khác nhau, NCS chia các công ty được phân tích thành 03 nhóm
ngành/lĩnh vực: Tài chính, bất động sản và các lĩnh vực khác.
❖ Đo lường đo lường độ chính xác của các mô hình định giá:
Với giả định, trong dài hạn, giá thị trường sẽ có xu hướng tiệm cận với giá trị nội
tại. Mục tiêu quan trọng nhất của công tác định giá là phục vụ cho mục tiêu dự đoán
giá thị trường của cổ phiếu để ra các quyết định đầu tư. Do vậy, để xác định mức độ
chính xác của công tác định giá, mức giá trị nội tại/mục tiêu/giá ước tính (Intrinsic
Value/Target price/Estimated Price) được lấy từ các báo cáo phân tích sẽ được so
sánh với giá thị trường thực tế (Actual Price/Market Price). Kế thừa các nghiên cứu
của Demirakos và Ctg (2010), Kerl (2011), Imam và Ctg (2013), Sayed (2017) …
NCS sử dụng 02 phương pháp đo lường mức độ chính xác bao gồm:
(1) Mức giá mục tiêu được đạt đến hay không được đạt đến trong suốt 12
tháng kể từ ngày báo cáo được công bố (Met_in): Đối với các báo cáo khuyến nghị
mua (buy recommendation), giá mục tiêu được đạt đến nếu mức giá thị trường cao
nhất trong khung thời gian dự báo 12 tháng cao hơn hoặc bằng giá mục tiêu. Tương
tự, đối với các báo cáo khuyến nghị bán (sell recommendation), giá mục tiêu được
đạt đến nếu mức giá thị trường nhỏ nhất trong khung thời gian dự báo 12 tháng nhỏ
hơn hoặc bằng giá mục tiêu. Trường hợp khuyến nghị nắm giữ (hold
recommendation), nếu giá thị trường cao nhất hoặc thấp nhất trong khung thời gian
dự báo nằm trong khoảng +/- 10% giá mục tiêu xem như được đạt đến. Trường hợp
giá mục tiêu được đạt đến kết quả định giá được xem là chính xác và ngược lại.
(2) Sai số định giá (Valuation error): Được đo lường bằng độ chênh lệch
136
giữa giá mục tiêu và giá thị trường thực tế của cổ phiếu trong ngày cuối cùng của 12
tháng dự báo. Do phần chênh lệch này có thể âm hoặc dương, nên NCS sẽ sử dụng
giá trị tuyệt đối.
𝑉𝑒𝑟𝑟 = (3.2) |𝑇𝑃 − 𝐴𝑃| 𝑇𝑃
+ Verr : Là sai số trong định giá và dự báo
+ TP : Giá trị nội tại (giá mục tiêu – target price) là kết quả định giá trong
báo cáo phân tích định giá.
+ AP : Giá thị trường thực tế (Actual Price) vào ngày cuối của tháng thứ 12 kể từ
ngày báo cáo được thực hiện và phát hành.
Các phương pháp đo lường này sẽ sử dụng để đo lường mức độ chính xác của
các mô hình định giá, hoặc việc sử dụng kết hợp các mô hình định giá từ đó so sánh
mức độ chính xác của các mô hình định giá.
3.4. Dữ liệu và mẫu nghiên cứu:
3.4.1. Dữ liệu nghiên cứu các nhân tố tác động đến hệ số P/E
Dữ liệu được sử dụng trong nghiên cứu là dữ liệu được thu thập trực tiếp từ báo
cáo tài chính, báo cáo thường niên, báo cáo quản trị của doanh nghiệp từ website
chính thức của các doanh nghiệp niêm yết trên HSX và HNX, cơ sở dữ liệu của
Finance Vietstock (https://finance.vietstock.vn/), cơ sở dữ liệu của Công ty Cổ phần
Chứng khoán Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam (http://vcbs.com.vn) trong khoảng
thời gian 11 năm từ năm 2010 đến năm 2020. Để có được dữ liệu bảng đáp ứng các
yêu cầu của thống kê, sau khi thu thập dữ liệu, NCS loại các công ty không đạt được
những tiêu chí như dữ liệu không liên tục từ 2010 đến nay hoặc bị hủy niêm yết, để
tránh gây sai sót, gây nhiễu cho kết quả nghiên cứu dẫn tới kết luận không chính xác.
Kết quả, nghiên cứu đã lựa chọn được 406 công ty niêm yết ở HOSE và HNX thỏa
mãn điều kiện ở trên để phân tích với 3666 quan sát.
Dữ liệu các nhóm ngành lớn được phân thành 09 nhóm bao gồm: Dịch vụ tiện
ích, Nguyên vật liệu, Tài chính, Chăm sóc sức khỏe, CNTT – Viễn thông, Công
nghiệp, Hàng tiêu dùng, Bất động sản, Năng lượng. Cách phân ngành này cơ bản theo
Global Industry Classification Standard (GIGS), đang được sử dụng tại thị trường
137
Việt Nam. NCS có điều chỉnh cho phù hợp với việc thu thập dữ liệu của mẫu nghiên
cứu: công nghệ thông tin và lĩnh vực dịch vụ viễn thông được nhóm chung thành
CNTT – Viễn thông; hàng tiêu dùng và hàng tiêu dùng thiết yếu được nhóm thành
hàng tiêu dùng.
Danh sách các công ty nằm trong nhóm các công ty có điểm quản trị công ty
cao nhất được lấy từ website chính thức của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB),
https://www.adb.org/publications/series/asean-corporate-governance-scorecard.
Lãi suất cho vay được lấy từ nguồn cơ sở dữ liệu của Worldbank:
https://data.worldbank.org/indicator/FR.INR.LEND?locations=VN
3.4.2. Mẫu nghiên cứu về tình hình sử dụng và mức độ chính xác của các mô
hình định giá.
Tác giả lựa chọn ngẫu nhiên 160 báo báo phân tích cổ phiếu được các công ty
chứng khoán phát hành trong khoảng thời gian 2010 – 2020. Để đảm báo tính phổ
biến và chất lượng của các báo cáo, tác giả lựa chọn mẫu nghiên cứu là báo cáo phân
tích được phát hành bởi các công ty chứng khoán có uy tín hoặc nằm trong nhóm 10
công ty chứng khoán có thị phần môi giới cao nhất trên thị trường chứng khoán Việt
Nam trong giai đoạn 5 năm gần nhất. Các báo cáo có độ dài thấp nhất là 7 trang, dài
nhất là 53 trang, bình quân 18 trang, có đầy đủ thông tin thuyết minh và kết quả định
giá. Đồng thời đưa ra khuyến nghị chủ yếu bao gồm mua/bán/nắm giữ cổ phiếu.
STT Công ty chứng khoán phát hành báo cáo
Số lượng báo cáo trong mẫu nghiên cứu
1 Công ty Cổ Phần Chứng Khoán VNDirect - VNDS 16
Công ty Chứng khoán Ngân hàng Ngoại Thương – VCBS 2 15
Công ty Cổ phần chứng khoán VPS - VPS 3 15
Công ty Cổ Phần Chứng Khoán FPT- FPTS 4 14
Công ty Cổ phần chứng khoán KIS - KIS 5 14
Công ty Cổ Phần Chứng Khoán ACB - ACBS 6 13
138
Công ty Cổ Phần Chứng Khoán Ngân hàng Đầu tư 7 12
và Phát triển Việt Nam - BSC
8 Công ty Cổ phần chứng khoán Bảo Việt - BVSC 12
9 Công ty Cổ phần Chứng khoán MB - MBS 12
10 Công ty Cổ phần Chứng khoán APEC - APS 11
11 Công ty Cổ phần Chứng Khoán Sài Gòn - SSI 9
12 Công ty Cổ phần chứng khoán Mirea Assets 9
13 Công ty Cổ phần Chứng khoán TP.HCM - HSC 6
14 Công ty Cổ phần Chứng khoán Bản Việt - VCSC 2
Tổng số báo cáo 160
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ mẫu nghiên cứu
Bảng 3.3. Danh sách các công ty chứng khoán thực hiện và công bố báo cáo phân
tích trong mẫu nghiên cứu
Các công ty được phân tích và định giá tại 160 báo cáo phân tích bao gồm 90
công ty niêm yết tại SGCK TP.HCM (tại thời điểm được định giá), 14 công ty được
niêm yết tại SDGCK Hà Nội, 11 công ty đăng ký giao dịch tại UPCOM. Công ty
được phân tích nhiều nhất là tại 03 báo cáo, ít nhất là tại 01 báo cáo. Danh sách các
công ty được phân tích tại Phụ lục 1.
3.4.3. Dữ liệu về giá chứng khoán
Dữ liệu về giá của các công ty niêm yết, đăng ký giao dịch tại Sở giao dịch
chứng khoán TPHCM, Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội trong giai đoạn 2010 –
2021, bao gồm cả dữ liệu giá điều chỉnh và chưa điều chỉnh được thu thập từ HOSE
và HNX từ nguồn cơ sở dữ liệu của chuyên trang tài chính Cafef và dữ liệu của
Refinitive Datastream.
Trường hợp công ty có các sự kiện làm thay đổi giá tham chiếu của cổ phiếu
như: Trả cổ tức bằng tiền mặt với giá trị lớn, trả cổ tức bằng cổ phiếu, phát hành cổ
139
phiếu thưởng …NCS sẽ tiến hành điều chỉnh lại mức giá, nhằm đảm bảo đúng sự
biến động của giá thị trường khi so sánh với giá mục tiêu (target price) được lấy từ
140
mô hình định giá.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Chương 03 thiết kế 02 hướng nghiên cứu chính để trả lời các câu hỏi nghiên cứu
về các nhân tố tác động đến hệ số P/E; tình hình sử dụng và mức độ chính xác của
các mô hình định giá.
Để nghiên cứu các nhân tố tác động đến hệ số P/E, NCS đề xuất mô hình hồi
quy đa biến với biến phụ thuộc là hệ số P/E và 10 biến độc lập bao gồm: Tỷ suất sinh
lời trên vốn chủ sở hữu (ROE), Giá trị sổ sách trên 01 cổ phần (BVPS), Quy mô công
ty (SIZE), hệ số BETA, Mức độ biến động giá (SD), Tỷ lệ chi trả cổ tức bằng tiền
mặt (POR), Đòn bẩy tài chính (DA), Tốc độ tăng trưởng lợi nhuận (EG), Chất lượng
quản trị công ty (CG), Lãi suất cho vay (LIR). Dữ liệu nghiên cứu là thông tin tài
chính và giá cổ phiếu của 406 công ty niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng Khoán TP.
Hồ Chí Minh và Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội trong giai đoạn 2010 – 2020.
Các phương pháp phân tích dữ liệu được sử dụng bao gồm: thống kê mô tả, phân tích
tương quan và phân tích hồi quy dữ liệu bảng không cân bằng. Các phương pháp
kiểm định các khuyết tật của mô hình cũng sẽ được tiến hành để lựa chọn mô hình
phân tích hồi quy phù hợp.
Để nghiên cứu về tình hình sử dụng và mức độ chính xác của các mô hình định
giá, NCS chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu nội dung (Content Analysis), xem
xét và phân tích nội dung về phương pháp và kết quả định giá cổ phần từ mẫu nghiên
cứu bao gồm 160 báo cáo phân tích do các công ty chứng khoán phát hành trong giai
đoạn 2010 – 2020. Tác sử dụng thống kê mô tả, cùng các phương pháp phân tích, so
sánh để trả lời các câu hỏi nghiên cứu, kiểm định giả thuyết về thực trạng sử dụng
các mô hình định giá trên TTCK Việt Nam. Để đo lường mức độ chính xác của các
mô hình định giá, NCS sử dụng 02 thước đo Tỷ lệ chính xác của giá mục tiêu (Target
141
price accuracy) và Sai số dự báo (Forecast error).
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Kết quả nghiên cứu các nhân tố tác động đến hệ số P/E
4.1.1. Thống kê mô tả
Với dữ liệu nghiên cứu là các chỉ số tài chính của các công ty niêm yết trên
SGDCK TP.HCM và SGDCK Hà Nội trong giai đoạn 2010 đến 2020, các công ty
đưa vào nghiên cứu đảm bảo các điều kiện như P/E không âm, không bị trống, tổng
số công ty được lựa chọn là 406 công ty. Sau khi xem xét và kiểm tra về phân phối
của dữ liệu với mục đích loại bỏ 1 số quan sát dị biệt (outliers) để có bộ dữ liệu gần
với phối chuẩn nhất (trong thống kê dữ liệu có phân phối chuẩn sẽ cho các kết quả
thống kê đáng tin cậy), NCS loại bớt một số quan sát có chỉ số P/E>100, EPS<500.
Kết quả NCS thu được bộ dữ liệu bảng không cân bằng với 3.666 quan sát với các
đặc điểm như sau:
Variable Trung bình Độ lệch Nhỏ nhất Lớn nhất
Số quan sát 3666 3666 3666 3666 3666 3666 3666 3666 8,75 19.926 0,51 0,73 0,51 0,91 15,50 0,07 6,62 10.093 0,21 13,02 0,43 1,20 9,90 0,08 0,22 3.157 0,00 -489,69 0,00 -4,58 0,05 0,00 84,35 116.102 0,97 274,50 8,50 6,78 98,21 1,64
3666 3.540 20.800 1,11 379.000
3666 PE BVPS DA EG POR BETA ROE SD Giá trị Vốn hóa (*) LIR 9,64 3,21 6,96 16,95
Bảng 4.1: Thống kê mô tả các biến
Ghi chú: P/E là chỉ số giá trên thu nhập, ROE là lợi nhuận trên vốn
chủ, BVPS là giá trị sổ sách của cổ phiếu, DA là cơ cấu vốn, EG là tăng trưởng lợi
nhuận, SIZE là quy mô doanh nghiệp, BETA là hệ số Bê ta của cổ phiếu, SD độ lệch
chuẩn /giá của chứng khoán, POR tỷ lệ chi trả cổ tức bằng tiền mặt (payout ratio),
142
LIR lãi suất cho vay bình quân (Lending interest rate). Biến Chất lượng quản trị
công ty (CG) là giả (Dummy Variable) nhận giá trị 1 hoặc 0, không phân tích các chỉ
tiêu thống kê mô tả.
(*) Biến đo lường quy mô công ty được sử dụng trong mô hình hồi quy là biến
SIZE được tính bằng cách lấy Ln (Giá trị vốn hoá). Tuy nhiên, trong bảng thống kê
mô tả, NCS tính các chỉ tiêu trực tiếp của giá trị vốn hoá để biểu hiện quy mô vốn
hóa thực tế của các công ty với đơn vị tính là tỷ đồng
Bảng trên mô tả chi tiết về các đặc điểm như giá trị trung bình, độ lệch chuẩn,
giá trị lớn nhất và nhỏ nhất của các biến đưa vào phân tích, dựa vào kết quả này chúng
tôi đưa ra đưa ra một số nhận xét như sau:
Hệ số Beta trung bình đạt 0,91 (xấp xỉ Beta của danh mục thị trường), bên cạnh đó
độ lệch chuẩn là 1,2 điều này cho thấy hệ số Bê ta của các cổ phiếu hoặc của các
năm khác nhau có sự khác biệt lớn. Chỉ số P/E trung bình của các công ty trong 11
năm là 8,75, với độ lệch chuẩn là 6,62 điều này có nghĩa là chỉ số P/E có sự khác
biệt nhiều giữa các công ty, hệ số P/E nhỏ nhất là 0,22 (IDV – Công ty Cổ phần
Phát triển Hạ tầng Vĩnh Phúc năm 2016), lớn nhất là 100 do NCS loại bỏ các mẫu
nghiên cứu có P/E lớn hơn 100. Tỷ lệ chi trả cổ tức đạt trung bình là 0,51, theo lý
thuyết tỷ lệ này nằm trong khoảng 0 – 100%. Tuy nhiên, do một số lý do khác nhau,
có một số công ty có tỷ lệ chi trả cổ tức vượt quá 1, điển hình như công ty cổ phần
Bia Hà Nội – Hải Dương (HAD) năm 2018 với tỷ lệ là 8,50 (4 lần chi trả cổ tức,
tương đương số tiền là 21.950 đồng, trong khi đó thu nhập trên mỗi cổ phần trong
năm đạt 2.583 đồng), trường hợp khác công ty VCF năm 2017 tỷ lệ chi trả cổ tức là
4,71 tương ứng với 66.000đ và thu nhập trên mỗi cổ phiếu là 14.015 đ. Ngoài ra các
công ty trong nghiên cứu có giá trị vốn hóa đạt trung bình là 3.750 tỷ đồng, tuy
nghiên giá trị vốn hóa của các công ty cũng có sự khác biệt lớn (độ lệch chuẩn là
20.800 tỷ đồng). Trong mẫu nghiên cứu, giá trị vốn hóa nhỏ nhất là 1,10 tỷ đồng
(CTCP Bản đồ và tranh ảnh giáo dục – ECI, năm 2012), lớn nhất là 379.000 tỷ đồng
(Tập đoàn VinGroup – VIC năm 2019). Biến giá trị sổ sách trên 1 cổ phần (BVPS)
143
có giá trị trung bình là 19.926 đ, gần gấp đôi so với mệnh giá, độ lệch chuẩn xấp xỉ
10.000 đ, BVPS nhỏ nhất là 3.157 đ ( CMX – Camimex Group năm 2014), cao nhất
là 116.102 đ (WCS – Bến Xe Miền Tây năm 2018). Tỷ lệ nợ trên tổng tài sản (DA)
bình quân là 51%, độ lệch chuẩn là 21% , thấp nhất là 0% (SVT – Công ty Cổ
phần Công nghệ Sài Gòn Viễn Đông năm 2019) hầu như không có nợ vay, cao nhất
là 97% (VMD - Công ty Cổ phần Y Dược Vimdedimex năm 2015) vốn vay chiếm
tới 97%.
4.1.2 So sánh hệ số P/E theo các ngành
Để đánh giá sự khác biệt của chỉ số P/E giữa các ngành, nghiên cứu sử dụng
phép kiểm định ANOVA. Nếu giá trị P.value của 1 cặp so sánh <0.05 có nghĩa là có
sự khác biệt về chỉ số P/E giữa 2 ngành đó. Ngược lại P/E>0.05 thì không có sự khác
biệt có ý nghĩa về chỉ số P/E giữa 2 ngành. Kết quả kiểm định sự khác biệt được thể
hiện chi tiết qua bảng dưới đây
Bảng 4.2 Mô tả P/E theo ngành
Ngành Mean Std. Dev. Freq.
9,65 8,77 350 BĐS
9,01 6,60 674 DV TIỆN ÍCH
NGUYÊN VẬT LIỆU 7,48 5,22 447
TÀI CHÍNH 12,99 9,00 129
9,16 5,38 166 CHĂM SÓC SK
8,95 6,73 140 CNTT VIỄN THÔNG
CÔNG NGHIỆP 7,82 5,23 1,127
HÀNG TIÊU DÙNG 10,62 9,02 356
8,09 4,41 277 NĂNG LƯỢNG
144
Mean 8,75 6,62 3666
BĐS TÀI CHÍNH CÔNG NGHIỆP NĂNG LƯỢNG DV TIỆN ÍCH NGUYÊN VẬT LIỆU CHĂM SÓC SK CNTT VIỄN THÔNG HÀNG TIÊU DÙNG
BĐS P=1
P>0,05 P=1
P<0,05 P<0,05 P=1
P<0,05 P<0,05 P<0,05 P=1
P>0,05 P>0,05 P<0,05 P<0,05 P=1
P>0,05 P>0,05 P>0,05 P<0,05 P>0,05 P=1
P<0,05 P<0,05 P>0,05 P<0,05 P>0,05 P>0,05 P=1
P>0,05 P<0,05 P<0,05 P<0,05 P>0,05 P>0,05 P<0,05 P=1
P<0,05 P>0,05 P>0,05 P<0,05 P>0,05 P>0,05 P>0,05 P<0,05 P=1
DV TIỆN ÍCH NGUYÊN VẬT LIỆU TÀI CHÍNH CHĂM SÓC SK CNTT VIỄN THÔNG CÔNG NGHIỆP HÀNG TIÊU DÙNG NĂNG LƯỢNG
Bảng 4.3 Kiểm định sự khác biệt của P/E theo ngành
Kết quả phân tích ở bảng 4.2 cho thấy P/E của ngành tài chính là 12,99 cao nhất
trong tất cả các ngành, và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (mức ý nghĩa<5%).
Tiếp theo là P/E của lĩnh vực hàng tiêu dùng (10,62) và chỉ số này khác biệt có ý
nghĩa thống kê đối với ngành tài chính, dịch vụ tiện ích, công nghiệp và nguyên vật
liệu. Chỉ số P/E của bất động sản cao đứng ở vị trí thứ 3 (9,65) và có sự khác biệt có
ý nghĩa thống kê với ngành tài chính, nguyên vật liệu, công nghiệp, năng lượng. Ngoài
ra các ngành còn lại có chỉ số P/E dao động trong khoảng 7,48 đến 9,16. Như vậy,
với kết quả trên cho thấy P/E của ngành tài chính có khác biệt có ý nghĩa thống kê
145
với tất cả các ngành còn lại
4.1.3 Phân tích tương quan và kiểm định đa cộng tuyến
PE SIZE POR BETA ROE SD LIR
PE BVPS DA EG SIZE POR BETA ROE SD 1 -0,02 -0,03 -0,004 0,34 0,10 -0,08 -0,31 -0,08 EG BVPS DA 1 1 0,01 -0,01 -0,03 -0,01 -0,08 0,02 0,02 -0,09 0,04 0,02 0,06 1 -0,16 -0,02 0,20 -0,06 0,02 0,14 -0,05 1 -0,09 0,12 0,01 -0,02 1 -0,05 -0,09 -0,02 1 -0,03 1 0,05 0,03 1
LIR -0,23 -0,03 0,04 0,00 -0,22 -0,01 0,29 0,08 0,13 1
Bảng 4.4 Ma trận hệ số tương quan
Ghi chú: P/E là chỉ số giá trên thu nhập, ROE là lợi nhuận trên vốn chủ, BVPS
là giá trị sổ sách của cổ phiếu, DA là cơ cấu vốn, EG là tăng trưởng lợi nhuận, SIZE
là quy mô doanh nghiệp, BETA là hệ số Bê ta của cổ phiếu, SD độ lệch chuẩn /giá
của chứng khoán, POR tỷ lệ chi trả cổ tức bằng tiền mặt (payout ratio), LIR lãi suất
cho vay bình quân (Lending interest rate). Biến Chất lượng quản trị công ty (CG) là
giả (Dummy Variable) nhận giá trị 1 hoặc 0, không phân tích tương quan.
NCS sử dụng ma trận tương quan để xem xét mối quan hệ giữa các biến độc lập
với P/E, kết quả phân tích cho thấy mức độ tương quan của các biến này với P/E ở
mức thấp hoặc không đáng kể. Biến SIZE, ROE va LIR là 03 yếu tố có mối tương
quan lớn nhất đến P/E trong đó SIZE có hệ số là (0.34) và có tương quan cùng chiều
với P/E, ROE có hệ số tương quan là (-0,31) do đó có mối tương quan ngược chiều
với P/E, LIR có hệ số tương quan là (-0,23) và có tương quan ngược chiều với P/E.
Ngoài mối tương quan của các biến còn lại với P/E chủ yếu ở mức độ yếu hoặc không
đáng kể. Tuy nhiên, kết quả phân tích tương quan chỉ cho chúng ta xem xét ở góc độ
các cặp đơn lẻ, trên thực tế sự tác động của nó không phải là đơn lẻ mà là tác động
đồng thời của nhiều yếu tố do đó để xem xét sự tác động của các biến này tới P/E
nghiên cứu sẽ sử dụng hồi quy đa biến để đo lường.
146
Kiểm định đa cộng tuyến
Đa cộng tuyến là hiện tượng các biến độc lập có quan hệ mật thiết với nhau, nếu
xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến thì kết quả ước lượng hồi quy sẽ không đáng tin cậy.
Nghiên cứu sử dụng hệ số phóng đại phương sai (VIF) để đo lường hiện tượng đa
cộng tuyến, kết quả phân tích ở bảng dưới cho thấy tất các các giá trị VIF của các
biến và VIF trung bình đều <2 do đó chắc chắn không xảy ra hiện tượng đa cộng
tuyến. Như vậy các biến độc lập đưa vào nghiên cứu không có mối quan hệ tuyến
tính nên đủ điều kiện để tiến hành phân tích bằng hồi quy đa biến.
Variable
1/VIF 0,68 0,79 0,81 0,87 0,91 0,92 0,95 0,97 0,98 0,99 VIF 1,48 1,26 1,24 1,15 1,09 1,08 1,05 1,03 1,02 1,00
SIZE CG LIR BETA ROE BVPS DA POR SD EG Mean VIF 1,14
Bảng 4.5 Kiểm định đa cộng tuyến
Ghi chú: P/E là chỉ số giá trên thu nhập, ROE là lợi nhuận trên vốn chủ, BVPS
là giá trị sổ sách của cổ phiếu, DA là cơ cấu vốn, EG là tăng trưởng lợi nhuận, SIZE
là quy mô doanh nghiệp, BETA là hệ số Bê ta của cổ phiếu, SD độ lệch chuẩn /giá
của chứng khoán, POR tỷ lệ chi trả cổ tức bằng tiền mặt (payout ratio), LIR lãi suất
cho vay bình quân (Lending interest rate), CG là biến giả - Dummy variable ( Công
ty nằm trong danh sách Top 30 công ty có điểm quản trị công ty cao nhất nhận giá
147
trị 1, công ty không nằm trong danh sách nhận giá trị 0).
4.1.4. Phân tích hồi quy các yếu tố tác động đến P/E
4.1.4.1. Phân tích hồi quy bằng mô hình Bình phương nhỏ nhất (Ordinary Least Square – OLS).
Để phân tích dữ liệu tác giả sử dụng mô hình hồi quy gộp (Pooled) phương pháp bình
phương nhỏ nhất (OLS) với giả định không có sự khác biệt giữa các đơn vị chéo.
Hệ số beta -0,00004 -1,33 0,008 1,53 1,41 -0,62 -0,25 -3,13 1,03 -0,14 -14,67 Mức ý nghĩa 0,000 0,003 0,245 0,000 0,000 0,000 0,000 0,005 0,018 0,000 0,000
Biến độc lập BVPS DA EG SIZE POR BETA ROE SD CG LIR _cons F Prob (F) R2 Giá trị tới hạn -3,93 -3,02 1,16 24,36 6,63 -7,55 -26,28 -2,84 2,36 -4,49 -10,95 158,49 <0,001 0,303
Bảng 4.6: Kết quả hồi quy theo mô hình OLS
Ghi chú: P/E là chỉ số giá trên thu nhập, ROE là lợi nhuận trên vốn chủ, BVPS
là giá trị sổ sách của cổ phiếu, DA là cơ cấu vốn, EG là tăng trưởng lợi nhuận, SIZE
là quy mô doanh nghiệp, BETA là hệ số Bê ta của cổ phiếu, SD độ lệch chuẩn /giá
của chứng khoán, POR tỷ lệ chi trả cổ tức bằng tiền mặt (payout ratio), LIR lãi suất
cho vay bình quân (Lending interest rate), CG là biến giả - Dummy variable (Công
ty nằm trong danh sách Top 30 công ty có điểm quản trị công ty cao nhất nhận giá
trị 1, công ty không nằm trong danh sách nhận giá trị 0).
Kết quả phân tích cho thấy giá trị Prob > chi2 <0,001 do đó mô hình này tồn tại,
ngoài ra hệ số R2 = 0,303 có nghĩa là các biến đưa vào mô hình giải thích được 30,3%
148
sự thay đổi của P/E.
Để đảm bảo mức độ tin cậy của mô hình, NCS tiến hành kiểm định các khuyết
tật của mô hình
Kiểm định nội sinh
Để kiểm định hiện tượng nội sinh cho tất cả các biến độc lập, NCS mô hình sử
dụng hồi quy tuyến tính đa biến với biến phụ thuộc là phần dư được trích xuất từ kết
quả hồi quy ở trên.
Biến độc lập BVPS Giá trị tới hạn 0,00 Mức ý nghĩa 1,00
Hệ số beta <0,01 <0,01 DA 0,00 0,99
<0,01 EG 0,02 0,98
<0,01 SIZE 0,01 0,99
<0,01 POR -0,02 0,98
<0,01 BETA 0,00 0,99
<0,01 ROE 0,01 0,98
<0,01 SD -0,03 0,97
<0,01 CG -0,01 0,99
<0,01 LIR 0,00 0,99
<0,01 _cons -0,01 0,99
Bảng 4.7 Kiểm định mối quan hệ của các biến độc lập với phần dư của mô
hình đo lường (Ui)
Ghi chú: P/E là chỉ số giá trên thu nhập, ROE là lợi nhuận trên vốn chủ, BVPS
là giá trị sổ sách của cổ phiếu, DA là cơ cấu vốn, EG là tăng trưởng lợi nhuận, SIZE
là quy mô doanh nghiệp, BETA là hệ số Bê ta của cổ phiếu, SD độ lệch chuẩn /giá
của chứng khoán, POR tỷ lệ chi trả cổ tức bằng tiền mặt (payout ratio), LIR lãi suất
cho vay bình quân (Lending interest rate), CG là biến giả - Dummy variable ( Công
ty nằm trong danh sách Top 30 công ty có điểm quản trị công ty cao nhất nhận giá
149
trị 1, công ty không nằm trong danh sách nhận giá trị 0).
Kết quả phân tích mối quan hệ của các biến độc lập và phần dư của mô hình hồi
quy cho thấy: Tất cả các hệ số Beta đều tiến sát về 0, cùng với nó mọi sự tác động
đều không có ý nghĩa thống kê (P>0,05). Do đó mô hình đo lường các yếu tố ảnh
hưởng đến P/E không xảy ra hiện tượng nội sinh.
Kiểm định phương sai sai số thay đổi cho mô hình OLS:
Breusch-Pagan / Cook-Weisberg test for heteroskedasticity
Ho: Constant variance
Variables: fitted values of PE
Chi2(1) = 1811,93
Prob > chi2 = 0,0000
Bảng 4.8 Kiểm định Breusch-Pagan với mô hình OLS
Luận án sử dụng Breusch-Pagan để kiểm định phương sai sai số thay đổi cho
mô hình OLS với giả thuyết như sau:
Giả thuyết H0: Không xảy ra hiện tượng phương sai sai số thay đổi
Nếu giá trị Prob>chi2 của Breusch and Pagan Lagrangian multiplier test >0,05
thì mô hình không xảy ra hiện tượng phương sai sai số thay đổi.
Kết quả kiểm định ở hình trên cho thấy: giá trị Prob>chi2 của mô hình <0,05
(mức ý nghĩa 5%) do đó mô hình OLS xảy ra phương sai sai số thay đổi vì vậy kết
quả ước lượng bằng mô hình này không còn đáng tin cậy. Do vậy, NCS tiến hành
phân tích hồi quy với 02 mô hình đặc trưng sử dụng cho dữ liệu bảng là mô hình các
yếu tố tác động cố định (FEM) và mô hình các yếu tố tác động ngẫu nhiên (REM).
4.1.4.2. Phân tích hồi quy với mô hình các yếu tố tác động cố định (FEM), mô hình các yếu tố tác động ngẫu nhiên (REM)
NCS tiếp tục sử dụng mô hình các yếu tố tác động cố định (FEM), mô hình các
150
yếu tố tác động ngẫu nhiên (REM), kết quả phân tích như sau:
Biến độc lập REM FEM
Coef P -0,00006 0,72 0,005 2,19 1,39 -0,11 -0,30 -2,15 -0,06 -0,14 -27,75 Coef P -0,00007 4,28 0,0034 4,10 1,22 0,22 -0,35 -1,71 0,42 0,03 -68,15 P.value 0,000 0,239 0,409 0,000 0,000 0,235 0,000 0,045 0,899 0,000 0,000 P.value 0,000 0,000 0,556 0,000 0,000 0,035 0,000 0,113 0,365 0,345 0,000
BVPS DA EG SIZE POR BETA ROE SD CG LIR _cons 0,384 0,354 R2 198,12 1743,47 Wald/ F 0,000 0,000 Prob Bảng 4.9 kết quả phân tích với mô hình REM và FEM
Ghi chú: P/E là chỉ số giá trên thu nhập, ROE là lợi nhuận trên vốn chủ, BVPS
là giá trị sổ sách của cổ phiếu, DA là cơ cấu vốn, EG là tăng trưởng lợi nhuận, SIZE
là quy mô doanh nghiệp, BETA là hệ số Bê ta của cổ phiếu, SD độ lệch chuẩn /giá
của chứng khoán, POR tỷ lệ chi trả cổ tức bằng tiền mặt (payout ratio), LIR lãi suất
cho vay bình quân (Lending interest rate), CG là biến giả - Dummy variable ( Công
ty nằm trong danh sách Top 30 công ty có điểm quản trị công ty cao nhất nhận giá
trị 1, công ty không nằm trong danh sách nhận giá trị 0),
Kết quả phân tích dữ liệu bằng mô hình REM và REM cho thấy hệ số Prob F>
chi2 của 2 mô hình <0.05 do đó cả 2 mô hình đều tồn tại. Hệ số hồi quy R2 của 2 mô
hình lần lượt là 0,384 và 0,354, điều này có nghĩa là với các biến đưa vào nghiên cứu
thì mô hình các yếu tố tác động cố định (FEM), ngẫu nghiên (REM) lần lượt giải
thích được 38,4% và 35,4% sự thay đổi của P/E. Tuy nhiên, xét về hệ số hồi quy của
các biến giữa 2 mô hình có sự khác nhau về dấu, độ lớn, do vậy 2 mô hình này có sự
khác biệt nhau. Để lựa chọn được mô hình phù hợp, NCS sử dụng kiểm định Hausman
(Hausman test).
151
Lựa chọn mô hình
Để xem mô hình nào phù hợp giữa 2 phương pháp phân tích dữ liệu bảng (FEM
và REM) nghiên cứu sử dụng kiểm định Hausman để lựa chọn, kết quả như sau:
Test: Ho: difference in coefficients not systematic
chi2(9) = (b-B)'[(V_b-V_B)^(-1)](b-B) = 314,82
Prob>chi2 = 0,0000: (V_b-V_B is not positive definite)
Bảng 4.10: Kết quả kiểm định Hausman
Kết quả kiểm định cho giá trị Prob <0,05 (mức ý nghĩa 5%) vì vậy bác bỏ giả
thuyết Ho từ đó ta có mô hình các yếu tố tác động cố định (FEM) giải thích tốt hơn
mô hình các yếu tố tác cố định ngẫu nhiên (REM), mô hình được chọn là mô hình
các yếu tố tác động cố định (FEM).
Kiểm định hiện tượng tự tương quan với mô hình được chọn
Trước tiên, NCS sử dụng Wooldridge – Test để kiểm định hiện tượng tự tương
quan đối với mô hình FEM đã lựa chọn ở trên. Hiện tượng tự tương quan cũng làm
cho ước lượng theo các mô hình hồi quy dữ liệu bảng không còn là ước lượng hiệu
quả nhất và các kiểm định về hệ số hồi quy cũng không còn đáng tin cậy.
Wooldridge test for autocorrelation in panel data
Ho: no first – order autocorrelation
F (1, 442) = 1,9431
Prob > F = 0,0000
Bảng 4.11 Kết quả kiểm định Wooldridge – Test với mô hình FEM
Kết quả phân tích cho thấy giá trị Prob của kiểm định F =0,072 > 0,05 do đó mô
hình không xảy ra hiện tượng tự tương quan.
152
Kiểm định Phương sai sai số thay đổi với mô hình được chọn
NCS sử dụng Breusch-Pagan để kiểm định phương sai sai số thay đổi cho mô
hình FEM đã lựa chọn ở trên.
Giả thuyết H0: không xảy ra hiện tượng phương sai sai số thay đổi
Nếu giá trị Prob>chi2 của Breusch and Pagan Lagrangian multiplier test >0.05
thì mô hình không xảy ra hiện tượng phương sai sai số thay đổi.
Modified Wald test for groupwise heteroskedasticity in fixed effect
regression model
H0: sigma(i)^2 = sigma^2 for all i
chi2 (473) > 900
Prob>chi2 = 0.0000
Bảng 4.12 Kết quả kiểm định Breusch and Pagan với mô hình FEM
Kết quả kiểm định ở hình trên cho thấy: giá trị Prob>chi2 của mô hình <0,05
(mức ý nghĩa 5%) do đó mô hình FEM xảy ra phương sai sai số thay đổi.
Như vậy, với dữ liệu đưa vào không có hiện tượng tự tương quan nhưng xảy ra
hiện tượng phương sai sai số thay đổi, do đó việc sử dụng mô hình ở trên sẽ không
còn chính xác.
Để khắc phục hiện tượng trên nghiên cứu sử dụng mô hình bình phương tối
thiểu tổng quát GLS
4.1.4.3. Phân tích hồi quy với mô hình mô hình hồi quy Bình phương tối thiểu tổng quát (GLS)
153
Biến độc lập BVPS DA EG SIZE POR BETA ROE SD CG Hệ số beta -0,00004 -1,33 0,008 1,53 1,41 -0,62 -0,25 -3,13 1,03 Giá trị tới hạn -3,93 -3,03 1,17 24,40 6,64 -7,56 -26,32 -2,84 2,37 Mức ý nghĩa 0,000 0,002 0,244 0,000 0,000 0,000 0,000 0,004 0,018
-0,14 -14,67 0,000 0,000
LIR _cons Wald chi2 Prob > chi2 -4,50 -10,97 1589,66 <0,001
Bảng 4.13: Kết quả hồi quy Mô hình hồi quy Bình phương tối thiểu tổng quát (GLS)
Ghi chú: P/E là chỉ số giá trên thu nhập, ROE là lợi nhuận trên vốn chủ, BVPS
là giá trị sổ sách của cổ phiếu, DA là cơ cấu vốn, EG là tăng trưởng lợi nhuận, SIZE
là quy mô doanh nghiệp, BETA là hệ số Bê ta của cổ phiếu, SD độ lệch chuẩn /giá
của chứng khoán, POR tỷ lệ chi trả cổ tức bằng tiền mặt (payout ratio), LIR lãi suất
cho vay bình quân (Lending interest rate), CG là biến giả - Dummy variable ( Công
ty nằm trong danh sách Top 30 công ty có điểm quản trị công ty cao nhất nhận giá
trị 1, công ty không nằm trong danh sách nhận giá trị 0.)
Kiểm định độ phù hợp của mô hình:
NCS sử dụng kiểm định Wald (Wald – test) để kiểm định sự phù hợp của mô
hình hồi quy GLS. Kết quả phân tích ở bảng trên cho thấy giá trị Wald =5590,72 và
giá trị Prob <0,001 do đó mô hình này tồn tại, nói cách khác mô hình trên là phù
hợp.
Kiểm tra tính vững của mô hình GLS:
Bảng 4. 14: Kiểm tra tính vững của mô hình GLS
Để kiểm tra độ vững của các biến đưa vào mô hình nghiên cứu, NCS sử dụng
Max -.000035 MIN -0.00006 Mean -0.00005 AvgSTD <0.001 P (Signi) 1 Biến BVPS
DA EG SIZE POR BETA ROE SD CG LIR -0.34 0.008 1.56 1.86 -0.40 -0.24 -3.13 1.69 -0.13 0.45 <0.001 0.06 0.22 -0.08 0.009 -1.15 0.45 0.03 0.50 0.56 1 1 1 1 1 1 1 -1.70 0.003 1.09 1.40 -0.65 -0.26 -4.39 1.01 -0.34 -1.04 0.007 1.35 1.64 -0.52 -0.25 -3.7 1.37 -0.24
154
công cụ ước tính GLS kết hợp tối ưu khả thi (FOGLeSs), phương pháp này đã được
Lu và White (2013) phát triển nhằm đánh giá độ vững của các mô hình kinh tế lượng.
Lu và White (2013) cho rằng kết quả kiểm định tính vững (robustness checks) cho
mô hình GLS ban đầu có P>valule >0.05 thì các biến đưa vào mô hình và kết quả hồi
quy là vững.
Kết quả kiểm tra tính vững của mô hình ở trên cho thấy P.value của tất cả các biến
đưa vào mô hình là >0.05 do đó đảm bảo tính vững.
4.1.5. Thảo luận kết quả nghiên cứu các nhân tố tác động đến hệ số P/E
Như vậy, NCS đã tiến hành nghiên cứu thực nghiệm đối với 11 nhân tố được
giả định có tác động đến hệ số P/E. Trong đó có 10 nhân tố được phân tích bằng mô
hình hồi quy đa biến, riêng tác động của nhân tố ngành được nghiên cứu bằng phương
pháp thống kê mô tả và kiểm định ANOVA.
Kết quả nghiên cứu dựa trên mô hình hồi quy GLS cho thấy có 09 yếu tố
tác động đến hệ số P/E có ý nghĩa thống kê bao gồm: Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở
hữu (ROE), Giá trị sổ sách trên một cổ phần (BVPS), Đòn bẩy tài chính (Tỷ lệ nợ
trên tổng tài sản – DA), Biến Quy mô giá trị vốn hóa (SIZE), Biến Tỷ lệ chi trả cổ
tức bằng tiền mặt (POR), Biến Hệ số Beta của cổ phiếu (BETA), Biến Mức độ biến
động giá (Độ lệch chuẩn – SD), Chất lượng quản trị công ty (CG), Lãi suất cho vay
(LIR). Biến Tốc độ tăng trưởng lợi nhuận (EG) không có tác động có ý nghĩa thống
kê với P/E. Chi tiết kết quả nghiên cứu định lượng theo mô hình hồi quy Bình phương
tối thiểu tổng quát (GLS) như sau:
Thứ nhất, Biến Quy mô công ty (SIZE) có hệ số hồi quy >0 và mức ý nghĩa
<0,001 do đó biến này có tác động cùng chiều có ý nghĩa thống kê với P/E. Với hệ
số hồi quy là 1,53 có nghĩa là trong điều kiện các yếu tố khác không đổi khi SIZE
tăng lên 1 đơn vị sẽ làm cho P/E tăng lên 1,53 đơn vị. Kết quả nghiên cứu chấp nhận
Giả thuyết 1(H1). Quy mô công ty có tác động cùng chiều với hệ số P/E. Kết quả
nghiên cứu này phù hợp với các nghiên cứu của Anderson và Brooks (2005),
Krishnan và Chen (2020), Farah Freihat (2019). Đối với các công ty có quy mô vốn
hóa lớn, nhà đầu tư chấp nhận mặt bằng P/E cao hơn so với các công ty có quy mô
155
vốn hóa nhỏ. Các công ty có quy mô vốn lớn thường có mức độ biến động thấp tức
là rủi ro thấp hơn so với các công ty có giá trị vốn hóa nhỏ. Đồng thời, cổ phiếu của
các công ty có quy mô lớn cũng có tính thanh khoản cao hơn so với các công ty có
quy mô nhỏ điều đó làm cho tỷ suất lợi nhuận yêu cầu thấp và nhà đầu tư chấp nhận
mặt bằng giá cao và hệ số P/E cao hơn.
Thứ hai, Biến Hệ số Beta của phổ phiếu (BETA) có hệ số hồi quy <0 và mức
ý nghĩa < 0,001 do đó biến này tác động ngược chiều có ý nghĩa thống kê với P/E.
Với hệ số tác động là -0,62 có nghĩa là khi BETA tăng lên 1 đơn vị trong điều kiện
các yếu tố khác không đổi sẽ làm cho P/E giảm đi 0,62 đơn vị. Kết quả nghiên cứu
chấp nhận Giả thuyết 2(H2) , hệ số Beta có tác động ngược chiều với hệ số P/E. Kết
quả này phù hợp với các nghiên cứu của Malkiel and Cragg (1970), Damoradan
(2012), Damoradan (2016). Rủi ro là nhân tố quan trọng tác động đến giá cổ phiếu
và hệ số P/E trên cả góc độ lý thuyết và thực nghiệm. Trong mô hình CAPM, Beta là
hệ số đo lường rủi ro hệ thống của cổ phiếu. Hệ số Beta càng lớn tức là rủi ro hệ
thống càng lớn, phần bù rủi ro càng lớn dẫn đến nhà đầu tư chấp nhận mức giá cổ
phiếu và mặt bằng hệ số P/E càng thấp, và ngược lại.
Thứ ba, Biến mức độ biến động giá của cổ phiếu (SD) có hệ số hồi quy <0 và
mức ý nghĩa <0,001 do đó biến này có tác động ngược chiều có ý nghĩa thống kê với
P/E. Với hệ số hồi quy là -3,13 có nghĩa là khi SD tăng lên 1 đơn vị (hoặc 100%)
trong điều kiện các yếu tố khác không đổi sẽ làm cho P/E giảm đi 3,13 đơn vị. Kết
quả nghiên cứu cũng chấp nhận Giả thuyết 3(H3): mức độ biến động giá tác động
ngược chiều với hệ số P/E. Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu của Kisor và
Witbeck (1963), Malkiel và Cragg (1970), Kane và Ctg (1996), Afza và Tahir (2012),
Shamsuddin và Hillier (2004). Mức độ biến động giá (cụ thể được đo bằng độ lệch
chuẩn của giá thị trường), cũng là một thước đo khác của rủi ro. Trong khi Beta là hệ
số đo lường rủi ro hệ thống, mức độ biến động giá có thể xem là một chỉ tiêu đo lường
rủi ro tổng thể. Rủi ro càng lớn, tỷ suất lợi nhuận yêu cầu càng cao, nhà đầu tư chấp
nhận mặt bằng hệ số P/E thấp và ngược lại.
Thứ tư, Biến tốc độ tăng trưởng lợi nhuận (EG) có hệ số hồi quy >0 và mức
156
ý nghĩa >0,05 do đó biến này không có tác động có ý nghĩa thống kê với P/E. Theo
lý thuyết, tốc độ tăng trưởng lợi nhuận là một trong các nhân tố chủ chốt tác động
cùng chiều với hệ số P/E. Nhà đầu tư có khuynh hướng chấp nhận những cổ phiếu có
mặt bằng P/E cao nếu công ty có tiềm năng tăng trưởng cao. Tuy nhiên, tại nghiên
cứu này tác động của tốc độ tăng trưởng lợi nhuận (EG) tới P/E không có ý nghĩa
thống kê nên chưa đủ cơ sở để chấp nhận hay bác bỏ Giả thuyết 4(H4).
Thứ năm, Biến tỷ lệ nợ trên tổng tài sản (DA) có hệ số hồi quy <0 và mức ý
nghĩa <0,001 do đó biến này có tác động ngược chiều có ý nghĩa thống kê với P/E.
Hệ số tác động là -1,33 có nghĩa là trong điều kiện các yếu tố khác không đổi thì D/A
tăng thêm 1 đơn vị (100%) sẽ làm cho P/E giảm 1,33 đơn vị. Kết quả nghiên cứu
chấp nhận Giả thuyết 5(H5): Đòn bẩy tài chính có tác động ngược chiều với hệ số
P/E, phù hợp với các nghiên cứu của Cho (1994), Afza và Tahir (2012), Phạm Hữu
Hồng Thái và Nguyễn Thành Đến (2017), Arslan và Ctg (2017). Nếu các yếu tố khác
không thay đổi, hệ số đòn bẩy tài chính càng lớn thể hiện rủi ro tài chính của công ty
càng lớn, nhà đầu tư chấp nhận mặt bằng hệ số P/E của cổ phiếu càng thấp.
Thứ sáu, Biến giá trị sổ sách trên 1 cổ phần (BVPS) có hệ số hồi quy <0 và
mức ý nghĩa <0,001 do đó biến này có tác động ngược chiều có ý nghĩa thống kê với
P/E. Với hệ số hồi quy là -0,00004, trong điều kiện các yếu tố khác không đổi khi giá
trị sổ sách tăng lên 1 đồng sẽ làm cho P/E giảm 0,00004 đơn vị. (Giá trị sổ sách tăng
lên 10.000 đồng sẽ làm P/E giảm 0.4 đơn vị). Các nghiên cứu của Collins và Ctg
(1997), Lê Thị Khánh Phương (2015) cho thấy giá trị sổ sách trên một cổ phiếu có
tác động cùng chiều tới giá cổ phiếu. Nghiên cứu của Dutta & Ctg (2018) cũng cho
rằng BVPS có tác động cùng chiều với hệ số P/E. Đối với các cổ phiếu có BVPS lớn
nhà đầu tư chấp nhận mặt bằng P/E cao hơn so với các cổ phiếu có BVPS nhỏ. Tuy
nhiên kết quả nghiên cứu lại cho thấy BVPS có tác động ngược chiều đối với P/E,
ngược lại với các cơ sở lý thuyết và giả thuyết ban đầu. Do vậy, không chấp nhận
Giả thuyết 6(H6): Giá trị sổ sách trên 1 cổ phiếu (BVPS) có tác động cùng chiều với
hệ số P/E. NCS có nghiên cứu bổ sung hệ số tương quan và hệ số hồi quy của BVPS
với P/E đối với các công ty có EPS nhỏ hơn 500 đồng. (Tại bảng 10 – Phụ lục 1). Kết
quả phân tích tương quan cho thấy BVPS có hệ số tương quan dương nhỏ (0,133),
157
điều này có nghĩa là BVPS có tương quan cùng chiều với P/E. Hệ số hồi quy cũng
cho thấy BVPS có tác động cùng chiều có ý nghĩa thống kê với P/E. Tại thị trường
Việt Nam, khi các công ty có lợi nhuận cao, EPS cao, các nhà đầu tư sẽ không quan
tâm đến giá trị sổ sách trong các quyết định đầu tư. Chỉ trong các trường hợp công ty
có lợi nhuận thấp, EPS thấp nhà đầu tư mới quan tâm đến giá trị sổ sách trong các
quyết định đầu tư.
Thứ bảy, Biến tỷ lệ chi trả cổ tức bằng tiền mặt (POR) có hệ số hồi quy >0
và mức ý nghĩa <0,001 do đó biến này có tác động cùng chiều có ý nghĩa thống kê
với P/E. Với hệ số hồi quy là 1,41 có nghĩa là trong điều kiện các yếu tố khác không
đổi khi POR tăng lên 1 đơn vị (100%) sẽ làm cho P/E tăng lên 1,41 đơn vị. Kết quả
nghiên cứu chấp nhận Giả thuyết 7(H7): Tỷ lệ chi trả cổ tức bằng tiền mặt (Payout
Ratio) có tác động cùng chiều đối với hệ số P/E. Kết quả nghiên cứu cũng phù hợp
với các nghiên cứu của Cho (1994), Krishnan và Chen (2020), Afza và Tahir (2012),
Farah Freihat (2019), Shamsuddin và Hillier (2004). Nghiên cứu này cho kết quả
ngược lại với cơ sở lý thuyết về mối quan hệ giữa hệ số P/E và tỷ lệ chi trả cổ tức
bằng tiền mặt. Theo công thức 2.9 và 2.12, với ROE không đổi, tỷ lệ lợi nhuận giữ
lại càng lớn (tỷ lệ chi trả cổ tức bằng tiền mặt càng nhỏ), tốc độ tăng trường lợi nhuận
sẽ càng cao, hệ số P/E càng cao và ngược lại. Nhiều nghiên cứu thực nghiệm cũng
cho thấy những kết quả về hướng tác động của tỷ lệ chi trả cổ tức (Payout ratio) đối
với hệ số P/E. Kết quả tại nghiên cứu này có thể giải thích rằng, tại thị trường chứng
khoán Việt Nam, nhà đầu tư có xu hướng ưa thích những cổ phiếu có tỷ lệ chi trả cổ
tức bằng tiền mặt cao, do nhà đầu tư mong muốn có thu nhập thường xuyên cao và
tin tưởng vào dòng tiền thực của công ty khi công ty duy trì khả năng trả cổ tức bằng
tiền mặt.
Thứ tám, Biến Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) có hệ số hồi quy
<0 và mức ý nghĩa <0,001 do đó biến này có tác động ngược chiều có ý nghĩa thống
kê với P/E. Với hệ số hồi quy là -0,25 có nghĩa là trong điều kiện các yếu tố khác
không đổi khi lợi nhuận trên vốn chủ tăng lên 1% sẽ làm cho P/E giảm 0,25 đơn vị.
Theo công thức 2.13 do Damoradan (2012) đề xuất, ROE có tác động cùng chiều tới
158
hệ số P/E, ROE tăng thì P/E sẽ tăng và ngược lại. Kết quả nghiên cứu này khá bất
ngờ, ngược lại với cơ sở lý thuyết và giả thuyết ban đầu, khi ROE có mối tương quan
âm khá mạnh theo phân tích tương quan và hệ số hồi quy âm khá mạnh khi phân tích
hồi quy. Như đã đề cập ở phần trước, có mối quan hệ cùng chiều rất rõ ràng giữa
ROE và EPS. Thông thường khi ROE cao thì EPS cũng cao và làm cho P/E thấp
xuống, những tác động tích cực lên giá cổ phiếu có mức độ thấp hơn nhiều so với mối
quan hệ giữa ROE và EPS, dẫn đến tác động ngược chiều của ROE tới P/E.
Thứ chín, Biến chất lượng quản trị công ty (CG) có hệ số hồi quy > 0 và
mức ý nghĩa <0,05 do đó biến này có tác động cùng chiều có ý nghĩa thống kê với
P/E. Các công ty nằm trong danh sách 30 công ty đại chúng có điểm quản trị cao nhất
theo kết quả đánh giá của dự án Đánh giá Thẻ điểm Quản trị Công ty ASEAN (ACGS)
có hệ số P/E cao hơn so với các công ty không nằm trong danh sách này. Nhiều
nghiên cứu thực nghiệm cho thấy chất lượng quản trị có tác động đến hiệu quả hoạt
động và giá trị của công ty, trong đó giá trị công ty được đại diện bằng các hệ số như
P/B, Tobin’s q … Công ty có chất lượng quản trị công ty càng cao, càng gia tăng
niềm tin của nhà đầu tư về tính minh bạch, sự ổn định và bền vững, điều này có tác
động tích cực tới giá trị công ty. Nhà đầu tư chấp nhận mặt bằng hệ số P/E cao hơn
đối với các công ty có chất lượng quản trị cao.Một trong những điểm mới quan trọng
của luận án là nghiên cứu tác động của chất lượng quản trị công ty đến định giá cổ
phiếu, thể hiện qua hệ số P/E. Kết quả nghiên cứu chấp nhận Giả thuyết 9 (H9): Chất
lượng quản trị công ty (CG) tác động cùng chiều với hệ số P/E.
Thứ mười, Biến lãi suất cho vay (LIR) có hệ số hồi quy <0 và mức ý nghĩa
<0,001 do đó biến này có tác động ngược chiều có ý nghĩa thống kê với P/E, với hệ
số hồi quy là -0,14 có nghĩa là khi LIR tăng lên 1 đơn vị (1%) trong điều kiện các yếu
tố khác không đổi sẽ làm cho P/E giảm đi 0,14 đơn vị. Kết quả nghiên cứu thấp nhận
Giả thuyết 10 (H10): Lãi suất cho vay (LIR) có tác động ngược chiều với hệ số P/E.
Lãi suất là nhân tố vĩ mô quan trọng tác động đến giá cổ phiếu và hệ số P/E. Các giai
đoạn lãi suất cho vay bình quân trên thị trường tăng, mặt bằng P/E của các công ty
trên thị trường sẽ có xu hướng giảm. Mối quan hệ này được lượng hóa qua việc mặt
bằng lãi suất thị trường (cụ thể là mặt bằng lãi suất phi rủi ro) là một yếu tố cấu thành
159
suất chiết khấu của mô hình định giá chiết khấu dòng tiền. Lãi suất cũng tác động đến
giá cổ phiếu thông qua tác động đến chi phí đầu vào của doanh nghiệp; thông qua kỳ
vọng, hành vi của doanh nghiệp, người tiêu dùng và nhà đầu tư. Mặt bằng lãi suất
phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như : cung, cầu vốn trên thị trường tài chính,
chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ, lạm phát, xếp hạng tín nhiệm quốc gia …Kết
quả nghiên cứu cũng phù hợp với các nghiên cứu của Kane và cộng sự (1996),
Amoako – Adu và Smith (2002), Shamsuddin và Hillier (2004).
Thứ mười một , Riêng yếu tố tác động của ngành đối với hệ số P/E không được
nghiên cứu trong mô hình phân tích hồi quy mà được nghiên cứu thông qua thống kê
mô tả, và kiểm định ANOVA. Kết quả nghiên cứu cho thấy chỉ có hệ số P/E của
ngành tài chính có khác biệt có ý nghĩa thống kê với tất cả các ngành còn lại. Sự khác
biệt giữa hệ số P/E của tất cả các ngành khác phần lớn không có ý nghĩa thống kê.
Không đủ cơ sở để kết luận về Giả thuyết 11 (H11): Có sự khác biệt về hệ số P/E giữa
các nhóm ngành/lĩnh vực khác nhau.
Như vậy, ngoại trừ yếu tố tác động của ngành, mô hình hồi quy các yếu tố tác
động đến P/E được viết dưới dạng phương trình như sau:
PE= - 14.67 + 1.53 SIZE - 0.62 BETA – 3.13 SD -1.33 DA - 0.00004 BVPS + 1.41 POR - 0.25ROE + 1.03 CG - 0.14 LIR
4.2. Kết quả nghiên cứu về tình trạng sử dụng và mức độ chính xác của các mô
hình định giá:
4.2.1. Kết quả nghiên cứu về tình trạng sử dụng của các mô hình định giá:
Lĩnh vực
Tổng các lĩnh vực Tài chính Bất động sản Mô hình định giá Lĩnh vực khác
Số Số Số lượng Tỷ lệ lượng Tỷ lệ lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ
160
Mô hình định giá so sánh (1) P/E P/B EV/EBITDA P/S 29 10 18 1 0 73% 50% 109 70 18 19 2 56% 168 97 47 21 3 57% 30 17 11 1 1
2 1 1 5% 12 0 12 20% 84 1 83 43% 98 2 96 33%
0 0 18 18 2 2 20 20 0% 30% 1% 7%
9 9 0 0 1 1 10 10 23% 0% 1% 3%
40 100% 60 100% 196 100% 296 100%
Mô hình chiết khấu dòng tiền (2) DDM DCF Định giá theo tài sản (3) NAV Mô hình thu nhập thặng dư (4) RIV Tổng số mô hình định giá Tổng số báo cáo phân tích 18 31 111 160
Bảng 4.15. Số lần các mô hình định giá được sử dụng tại các báo cáo phân tích (*) Lưu ý: Một báo cáo phân tích có thể sử dụng nhiều mô hình định giá, nên tổng số lượt mô hình định giá được sử dụng là 296, lớn hơn số báo cáo Nguồn: Tác giả tổng hợp từ mẫu nghiên cứu
Có tổng số 296 lượt các mô hình định giá được sử dụng trong 160 báo cáo
phân tích công ty. Xét theo tần suất sử dụng, các mô hình định giá so sánh (hướng
tiếp cận thị trường – market approach) được sử dụng phổ biến nhất với 168 lần được
sử dụng trong các báo cáo, chiếm tỷ lệ 57% trên tổng số 296 lượt mô hình định giá
được sử dụng. Các mô hình chiết khấu dòng tiền (Hướng tiếp cận thu nhập – income
approach) được sử dụng 98 lần, chiếm tỷ lệ 33% trên tổng số lượt mô hình được sử
dụng, mô hình định giá theo tài sản và mô hình thu nhập thặng dư – RIV (kết hợp
hướng tiếp cận tài sản và hướng tiếp cận dòng tiền) có số lần sử dụng ít hơn đáng kể,
chiếm tỷ lệ lần lượt là 7% và 3% trên tổng số mô hình định giá được sử dụng. Như
vậy, định giá so sánh và chiết khấu dòng tiền là 02 hướng tiếp cận định giá được sử
dụng phổ biến vượt trội so với các hướng tiếp cận còn lại, trong đó số lần được sử
dụng của phương pháp định giá so sánh cũng nhiều hơn đáng kể so với các mô hình
chiết khấu dòng tiền.
Trong các mô hình định giá so sánh, hệ số P/E là bội số được sử dụng nhiều nhất
161
với 97 lần được sử dụng chiếm tỷ lệ 32,7% trên tổng số 296 lượt mô hình định giá
được sử dụng, chiếm 57,7 % trên tổng số 168 lượt mô hình định giá so sánh được sử
dụng. Hệ số P/B xếp thứ 02 với 47 lần được sử dụng chiếm tỷ lệ khoảng 28% trên
tổng số 168 lượt mô hình định giá so sánh được sử dụng, hệ số EV/EBITDA được sử
dụng 21 lần chiếm tỷ lệ khoảng 12,5% trên tổng số 168 lượt mô hình định giá so sánh
được sử dụng. Các bội số còn lại không được sử dụng hoặc được sử dụng rất ít, chiếm
tỷ lệ không đáng kể.
Trong các mô hình theo cách tiếp cận chiết khấu dòng tiền, các mô hình chiết
khấu dòng tiền tự do (bao gồm FCFE, FCFF) được sử dụng 96 lần, chiếm tỷ lệ gần
32,5% (tổng số 296 lượt mô hình định giá được sử dụng) và chiếm đến hơn 99% các
mô hình theo hướng tiếp cận dòng tiền. Trong khi đó, mô hình chiết khấu dòng cổ
tức hầu như rất ít được sử dụng với chỉ 02 lần xuất hiện, chiếm tỷ lệ chưa đến 1%.
Nếu xét riêng từng mô hình định giá cụ thể, ta có thể thấy mô hình định giá so
sánh theo hệ số P/E và mô hình chiết khấu dòng tiền tự do (DCF) là hai mô hình định
giá được sử dụng phổ biến nhất và vượt trội đáng kể so với các mô hình còn lại với
tỷ lệ sử dụng xấp xỉ 32,5% trong tổng số 296 lượt báo cáo được sử dụng, và khoảng
60% các báo cáo có sử dụng hai mô hình này (trong tổng số 160 báo cáo trong mẫu
nghiên cứu), sự khác biệt vể tần suất sử dụng giữa hai mô hình này là không đáng kể.
Mô hình định giá so sánh theo hệ số P/B cũng có tần suất sử dụng khá vượt trội so
với các mô hình định giá khác.
Nếu tập trung hơn vào các ngành, nhóm ngành theo cách phân loại tại nghiên
cứu này, lĩnh vực tài chính chủ yếu sử dụng mô hình định giá theo hệ số P/B, với 18
lần sử dụng (trên tổng số 40 lượt mô hình định giá được sử dụng trong các báo cáo
phân tích công ty thuộc lĩnh vực tài chính) chiếm tỷ lệ 45%, mô hình định giá so sánh
theo hệ số P/E được sử dụng 10 lần (trên tổng số 40 lượt mô hình định giá được sử
dụng trong các báo cáo phân tích công ty thuộc lĩnh vực tài chính) chiếm tỷ lệ 25%,
mô hình thu nhập thặng dư (RIV) được sử dụng 9 lần chiếm tỷ lệ 22,5%, tỷ lệ sử dụng
các mô hình chiết khấu dòng tiền hầu như không đáng kể. Tình hình sử dụng các mô
hình định giá các cổ phiếu thuộc lĩnh vực tài chính có sự khác biệt rất lớn đối với các
162
ngành khác. Trong đó, mô hình định giá so sánh theo hệ số P/B và mô hình định giá
thu nhập thặng dư (RIV) đóng vai trò rất quan trọng. Mô hình RIV chủ yếu được sử
dụng khi định giá các cổ phiếu thuộc lĩnh vực tài chính, mô hình này hầu như không
được sử dụng khi định giá các cổ phiếu thuộc các lĩnh vực khác.
Đối với lĩnh vực bất động sản, mô hình định giá theo giá trị tài sản ròng (NAV)
là có mức độ sử dụng phổ biến với 18 lần xuất hiện trên tổng số 60 lượt mô hình định
giá được sử dụng trong các báo cáo phân tích công ty thuộc lĩnh vực bất động sản,
chiếm tỷ lệ 30%, xếp sau các mô hình định giá so sánh (tỷ lệ 50%), nhưng nhiều hơn
các mô hình chiết khấu dòng tiền (tỷ lệ 20%). Phương pháp định giá này cũng chủ
yếu chỉ sử dụng khi định giá các công ty bất động sản, hầu như không được sử dụng
khi định giá các công ty thuộc lĩnh vực khác.
Lĩnh vực
Tổng các lĩnh vực Tài chính Bất động sản Mô hình định giá Lĩnh vực khác
Số Số Số Số lượng Tỷ lệ lượng Tỷ lệ lượng Tỷ lệ lượng Tỷ lệ
16 1 5 0 0 89% 6% 28% 0% 0% 35% 10% 0% 3% 3% 11 3 0 1 1 35% 14% 2% 2% 0% 39 15 2 2 0 41% 12% 4% 2% 1% 66 19 7 3 1
6% 11 10% 16 10% 3 17% 2
1 6 6% 33% 13% 0% 4 0 8% 0% 9 0 9% 4% 14 6
0 0 0 0% 0% 0% 16% 0% 16% 5 0 5 38% 0% 38% 42 0 42 29% 0% 29% 47 0 47
0 0 0% 0% 10 10 32% 32% 1% 1% 1 1 7% 7% 11 11
163
Mô hình định giá so sánh (1) P/E P/B EV/EBITDA P/S P/E kết hợp các bội số khác P/E, các bội số khác kết hợp DCF Các bội số và RIV Mô hình chiết khấu dòng tiền (2) DDM DCF Định giá theo tài sản (3) NAV Mô hình thu nhập thặng dư (4) RIV 0 0 0% 0% 0 0 0% 0% 0% 0% 0 0 0% 0% 0 0
2 0 11% 0% 5 2 16% 6% 29 21 26% 19% 36 23 23% 14%
0 0% 0 0% 4 4% 4 3%
0 0% 0 0% 3 3% 3 2%
Kết hợp đều các mô hình (5) DCF và P/E DCF và EV/EBITDA DCF và các bội số khác NAV kết hợp các bội số RI và các bội số DDM và P/E 0% 11% 0% 3 0 0 10% 0% 0% 0% 0% 1% 2% 1% 1%
0 2 0 18 0 0 1 111 3 2 1 160 31 100% 100% 100% 100%
Tổng Bảng 4.16: Số lần các mô hình định giá được sử dụng là mô hình định giá chủ đạo trong các báo cáo phân tích công ty Nguồn: Tác giả tổng hợp từ mẫu nghiên cứu
Bên cạnh việc nghiên cứu về tần suất xuất hiện của các mô hình định giá,
nghiên cứu cũng xem xét tần suất sử dụng làm mô hình định giá chủ đạo tại các báo
cáo phân tích. Tại một báo cáo phân tích có sử dụng cùng một lúc nhiều mô hình định
giá, việc các nhà phân tích lựa chọn mô hình định giá nào làm mô hình chủ đạo khi
tính giá trị nội tại cuối cùng cũng thể hiện được mức độ quan trọng của phương pháp
định giá đó.
Nếu xét các nhóm phương pháp định giá theo các hướng tiếp cận chính, nhóm
mô hình định giá so sánh được sử dụng làm phương pháp định giá chủ đạo tại 66 báo
cáo (chiếm tỷ lệ 41% trên tổng số 160 báo cáo); các mô hình theo hướng tiếp cận
dòng tiền được sử dụng làm mô hình định giá chủ đạo tại 47 báo cáo (Chiếm tỷ lệ
29%); hướng tiếp cận theo tài sản - mô hình định giá theo tài sản (NAV) được sử
dụng làm mô hình định giá chủ đạo tại 11 báo cáo chiếm tỷ lệ 7%, mô hình thu nhập
thặng dư (RIV) – kết hợp hướng tiếp cận tài sản và dòng tiền không được dùng làm
mô hình định giá chủ đạo tại bất cứ báo cáo nào. 36 báo cáo chiếm tỷ lệ 23% kết hợp
đều các mô hình trong việc tính toán giá trị nội tại, không xác định được mô hình
định giá chủ đạo cụ thể.
Nếu tính riêng lẻ từng mô hình cụ thể, Chiết khấu dòng tiền tự do (DCF) được
164
sử dụng là mô hình định giá chủ đạo nhiều nhất với 47 lần (chiếm tỷ lệ 29% trên tổng
số 160 báo cáo). P/E được sử dụng làm mô hình định giá chủ đạo 19 lần (chiếm tỷ lệ
12% trên tổng số 160 báo cáo), mô hình định giá theo tài sản (NAV) được sử dụng
tại 11 báo cáo chiếm tỷ lệ 7%, P/B được sử dụng làm mô hình định giá chủ đạo tại 7
báo cáo chiếm tỷ lệ 4%. Các mô hình còn lại có số lần và tỷ lệ được sử dụng làm mô
hình định giá chủ đạo không đáng kể.
Xét theo các nhóm ngành, trong 18 báo cáo phân tích các công ty thuộc lĩnh vực
tài chính, số báo cáo sử dụng phương pháp định giá so sánh theo hệ số P/B làm
phương pháp định giá chủ đạo chiếm 28%, các bội số kết hợp RIV chiếm 33%, các
mô hình chiết khấu dòng tiền hoàn toàn không được sử dụng làm phương pháp định
giá chủ đạo. Trong 31 báo cáo phân tích các công ty thuộc lĩnh vực bất động sản, có
10 báo cáo sử dụng phương pháp định giá theo tài sản (NAV) làm phương pháp định
giá chủ đạo chiếm 32%, mô hình chiết khấu dòng tiền chỉ được sử dụng làm mô hình
định giá chủ đạo tại 5 báo cáo chiếm tỷ lệ 16%. Phương pháp định giá theo tài sản
(NAV) hầu như không được sử dụng làm phương pháp định giá chủ đạo tại các lĩnh
vực khác ngoài bất động sản. Những thông tin cho thấy, mô hình định giá áp dụng
cho các công ty thuộc lĩnh vực tài chính và bất động sản có sự khác biệt so với các
lĩnh vực còn lại.
Số lượng Tỷ lệ
63 63 34 160 39,4% 39,4% 21,3% 100%
165
Chỉ tiêu Số lượng mô hình sử dụng trong báo cáo Chỉ sử dụng 1 mô hình Sử dụng 2 mô hình Sử dụng từ 3 mô hình trở lên Tổng số Phương thức kết hợp các mô hình Thuần so sánh Trong đó: Thuần P/E P/E kết hợp các bội số khác Thuần dòng tiền Trongđó: DCF Kết hợp đều DT và SS 38 13 16 34 34 31 23,8% 8,75 10% 22,5% 22,5% 19,4%
23 14,4%
Trong đó: Kết hợp đều P/E và DCF Kết hợp DCF và các bội số khác (trong đó có P/E) So sánh chủ đạo Trong đó: Kết hợp P/E và DCF PE, các bội số khác kết hợp DCF Các bội số kết hợp RI Dòng tiền chủ đạo Trong đó: Kết hợp DCF và P/E Thuần NAV NAV chủ đạo Kết hợp đều NAV và SS Khác Tổng số 3 28 2 14 6 13 10 10 1 3 2 160 17,5% 1,25% 8,75% 3,75% 6,9% 3,75% 6,3% 0,6% 1,9% 1,3% 100%
Bảng 4.17. Thống kê sự kết hợp giữa các mô hình định giá
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ mẫu nghiên cứu
Ta có thể thấy một xu hướng đáng lưu ý đó là sự kết hợp (combination) giữa
các mô hình định giá trong cùng 01 báo cáo để xác định giá trị nội tại/giá mục tiêu
(Intrinsic Value/Target Price). Tổng số 296 lượt mô hình định giá được sử dụng tại
160 báo cáo, các báo có xu hướng sử dụng kết hợp nhiều mô hình định giá, trung
bình 1 báo cáo phân tích sử dụng khoảng 1,85 mô hình định giá. Khoảng 39% báo
cáo chỉ sử dụng 01 mô hình định giá, 39% báo cáo sử dụng 02 mô hình định giá và
khoảng 22% báo cáo sử dụng từ 03 mô hình định giá trở lên. Có 36 báo cáo (chiếm
23%) kết hợp đều các mô hình thuộc các cách tiếp cận định giá khác nhau (không xác
định mô hình định giá chủ đạo). Trong đó, kết hợp đều DCF và P/E được sử dụng
trong 23 báo cáo chiếm tỷ trọng 14%, kết hợp đều DCF và EV/EBITDA được sử
dụng trong 4 báo cáo chiếm tỷ trọng 3%. Theo các tiêu chí đã nêu ở mục 3.2.2.2 về
phân nhóm các cách thức kết hợp (combination) các mô hình định giá để tính toán
giá mục tiêu cuối cùng trong các báo cáo phân tích và số liệu từ Bảng 4.12 ta có thể
thấy:
Nhóm Thuần so sánh (Pure Multiples Valuation) chỉ sử dụng một hoặc kết
hợp các mô hình định giá so sánh, không sử dụng kết hợp với các mô hình thuộc các
166
hướng tiếp cận khác như các mô hình chiết khấu dòng tiền hay định giá theo tài sản,
bao gồm 38 báo cáo, chiếm khoảng 28,3% (trên tổng số 160 báo cáo). Trong đó có
14 báo cáo thuần túy sử dụng mô hình định giá so sánh theo P/E, không có sự kết hợp
với các mô hình hay bội số khác; 16 báo cáo sử dụng mô hình định giá theo P/E kết
hợp với mô hình định giá so sánh theo các bội số khác chủ yếu là P/B, EV/EBITDA…
Nhóm Thuần dòng tiền (Pure Cashflow) chỉ sử dụng duy nhất mô hình chiết
khấu dòng tiền, bao gồm 36 báo cáo chiếm tỷ lệ 22,5% (trên tổng số 160 báo cáo),
trong đó toàn bộ là mô hình chiết khấu dòng tiền tự do (DCF).
Nhóm So sánh chủ đạo (Multiples Dominance), có sự kết hợp giữa các mô
hình định giá so sánh và các các hướng tiếp cận khác như: dòng tiền, định giá theo
tài sản nhưng định giá so sánh là mô hình định giá chủ đạo, bao gồm 28 báo cáo
chiếm tỷ trọng 17,5% (trên tổng số 160 báo cáo). Trong đó có 14 báo cáo kết hợp
đồng thời P/E, các bội số khác (P/B, EV/EBITDA, P/S) với DCF, 6 báo cáo kết hợp
giữa các bội số và RIV, chỉ có 2 báo cáo là kết hợp giữa P/E và DCF.
Nhóm dòng tiền chủ đạo (Cashflow Dominance), có sự kết hợp giữa các mô
hình định giá chiết khấu dòng tiền và các hướng tiếp cận khác như định giá so sánh,
định giá theo tài sản nhưng chiết khấu dòng tiền là mô hình định giá chủ đạo, bao
gồm 13 báo cáo chiếm tỷ trọng 6,9% (trên tổng số 160 báo cáo), trong đó có 10 báo
cáo kết hợp giữa DCF và P/E.
Nhóm thuần tiếp cận định giá theo tài sản (NAV), chỉ dùng định giá theo tài
sản, không dùng các mô hình định giá khác cũng được sử dụng tại 10 báo cáo chiếm
tỷ lệ 6,3%. Các nhóm khác chiếm số lượng và tỷ trọng không đáng kể.
Nhóm kết hợp đều các mô hình dòng tiền và định giá so sánh (Không xác định
cụ thể mô hình định giá chủ đạo) cũng là một cách kết hợp quan trọng được sử dụng
tại 31 báo cáo, chiếm tỷ trọng 19,4% (trong tổng số 160 báo cáo).
Chi tiết hơn vào từng mô hình cụ thể, 36 báo cáo chiếm tỷ lệ 22,5% (trên tổng
số 160 báo cáo), thuần túy sử dụng mô hình chiết khấu dòng tiền tự do (DCF), 14
báo cáo thuần túy sử dụng mô hình định giá so sánh theo P/E chiếm tỷ lệ 8,75% (trên
167
tổng số 160 báo cáo). Như vậy, nếu so riêng DCF và P/E với tư cách là những mô
hình định giá được sử dụng hoàn toàn độc lập thì DCF có tỷ lệ sử dụng vượt trội so
với P/E.
Sử dụng kết hợp giữa mô hình chiết khấu dòng tiền tự do (DCF) với mô hình
định giá so sánh theo P/E là một xu hướng rất quan trọng. Sự kết hợp giữa hai mô
hình này theo nhiều hình thức khác nhau: Kết hợp đều DCF và P/E (50%) tại 23 báo
cáo; kết hợp đồng thời P/E, các bội số khác với DCF (định giá so sánh là mô hình
chủ đạo) tại 14 báo cáo; Kết hợp DCF – P/E với DCF là mô hình định giá chủ đạo tại
10 báo cáo; kết hợp P/E – DCF với P/E là mô hình chủ đạo tại 02 báo cáo, kết hợp
đều P/E – DCF – và các bội số khác (không xác định mô hình định giá chủ đạo) tại
03 báo cáo. Tổng cộng, phương pháp sử dụng kết hợp giữa mô hình chiết khấu dòng
tiền tự do (DCF) với mô hình định giá so sánh theo P/E để xác định giá trị nội tại
được sử dụng tại 52 báo cáo, chiếm 32.5% (trên tổng số 160 báo cáo).
Riêng trong nhóm các mô hình định giá so sánh đóng vai trò chủ đạo ( bao gồm
nhóm thuần so sánh và so sánh chủ đạo), ta thấy phương pháp sử dụng mô hình định
giá so sánh theo P/E kết hợp với các mô hình định giá so sánh sử dụng các bội số
khác khác như P/B, EV/EBITDA (kết hợp theo tỷ trọng đều giữa các mô hình, không
xác định được mô hình chủ đạo cụ thể) được sử dụng trong 16 báo cáo chiếm tỷ lệ
10% trên tổng số 160 báo cáo trong mẫu nghiên cứu; phương pháp kết hợp P/E và
các bội số khác như P/E, P/B, EV/EBITDA, P/S với DCF, với RIV được sử dụng
trong 20 báo cáo, chiếm tỷ lệ 12,5%. Hai trường hợp này đã bao gồm 36 báo cáo,
chiếm 22.5% trên tổng số 160 báo cáo trong mẫu nghiên cứu và chiếm tới 54% trên
tổng số 66 báo cáo sử dụng định giá so sánh làm mô hình chủ đạo (38 báo cáo thuần
so sánh và 28 báo cáo so sánh chủ đạo). Như vậy ta có thể thấy, mô hình định giá so
sánh theo hệ số P/E ít được sử dụng là mô hình định giá duy nhất, mà thường được
168
sử dụng kết hợp với các mô hình định giá khác.
Phương pháp xác định P/E tham chiếu
Số lần sử dụng 49 14
12 2 1 17 2 97
P/E trung bình các công ty cùng ngành trong nước P/E trung bình các công ty cùng ngành nước ngoài Kết hợp P/E trung bình các công ty cùng ngành trong nước và nước ngoài Tính toán P/E nội tại hợp lý (Justified P/E) So sánh với P/E của 1 công ty tương tự Không thuyết minh rõ phương pháp Khác Grand Total
Bảng 4.18 Phương pháp xác định bội số tham chiếu khi sử dụng mô hình định
giá so sánh bằng hệ số P/E
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ mẫu nghiên cứu
Đối với phương pháp định giá so sánh theo hệ số P/E, việc xác định P/E tham
chiếu (Benchmark) được dùng để tính giá trị nội tại có ý nghĩa rất quan trọng. NCS
cũng thống kê các phương pháp được các nhà phân tích sử dụng để xác định P/E tham
chiếu tại thị trường chứng khoán Việt Nam. Trong 97 báo cáo phân tích có sử dụng
phương pháp định giá so sánh theo hệ số P/E, 50,5% sử dụng P/E bình quân của các
công ty cùng ngành trong nước, 14,4% sử dụng P/E bình quân của các công ty nước
ngoài, 12,4% sử dụng kết hợp bình quân P/E các công ty cùng ngành trong nước và
nước ngoài, 2,1% tính toán P/E nội tại hợp lý (Justified P/E), 3,1% sử dụng phương
pháp khác và 17,5% không thuyết minh rõ phương pháp.
4.2.2. Kết quả đo lường mức độ chính xác của các mô hình định giá:
Tỷ lệ
STT 1 2 3 Khuyến nghị Mua Bán Nắm giữ
Tổng Số lượng báo cáo 114 7 39 160 71,2% 4,4% 24,4% 100%
169
Bảng 4.19 Khuyến nghị tại các báo cáo phân tích Nguồn: Tác giả tổng hợp từ mẫu nghiên cứu
Cũng như kết quả nghiên cứu của Bradshaw (2002), mẫu nghiên cứu cũng cho
thấy, các nhà phân tích tại thị trường Việt Nam cũng sử dụng sử dụng giá mục tiêu/giá
trị nội tại (target price/intrinsic value) và so sánh với giá thị trường để làm cơ sở đưa
ra khuyến nghị đầu tư. Số lượng báo cáo khuyến nghị mua chiếm đa số với 114 báo
cáo chiếm tỷ lệ 71,2%, số báo cáo khuyến nghị nắm giữ chiếm tỷ lệ 21,4%, chỉ có
4,4% báo cáo khuyến nghị bán. Nghiên cứu của Asquith và cộng sự (2004) cho thấy
khuyến nghị mua mạnh (strong buy) và mua (buy) chiếm tỷ lệ 91,4%, khuyến nghị
giữ (hold) chiếm tỷ lệ 8.2%, khuyến nghị bán (sell) và bán mạnh (strong sell) chiếm
tỷ lệ 0,4%. Theo nghiên cứu của Kerl (2011), báo cáo khuyến nghị mua – nắm giữ -
bán lần lượt là 46,63% - 42,1% - 11,26%. Ta thấy, các nhà phân tích nhìn chung có
xu hướng đưa ra các khuyến nghị lạc quan nhiều hơn với các khuyến nghị bi quan.
Tuy nhiên, các nhà phân tích tại Việt Nam có xu hướng đưa ra các khuyến nghị lạc
quan khá vượt trội so với các khuyến nghị bi quan và cẩn trọng.
Mô hình định giá Sai số định giá Valuation Error Các tiêu chí đo lường chính xác Target price met Báo cáo Báo không cáo đạt đạt Tỷ lệ chính xác
Số lần được sử dụng là mô hình chủ đạo 66 43 23 35% 38%
19 7 3 1 16 14 3 2 1 11 5 4 1 0 5 26% 57% 33% 0% 31% 42% 48% 32% 6% 45%
14 9 5 36% 24%
6 47 3 26 3 21 50% 45% 10% 36%
170
Mô hình định giá so sánh (1) P/E P/B EV/EBITDA P/S P/E kết hợp các bội số khác P/E, các bội số khác kết hợp DCF Các bội số khác và RI Mô hình chiết khấu dòng tiền (2) DDM DCF Định giá theo tài sản (3) NAV 0 47 11 11 0 26 7 7 0 21 4 4 0% 45% 36% 36% 0% 36% 43% 43%
0 N/A N/A N/A N/A
N/A 30% 22% 46% 31% 22% 32% 63% 36% N/A 19% 0% 0% 26% 0% 33% 0% 34% N/A 29 4 3 17 1 2 2 105 N/A 7 0 0 6 0 1 0 55 0 36 4 3 23 1 3 2 160
Mô hình thu nhập thặng dư (4) RIV Kết hợp các mô hình (5) DCF và EV/EBITDA DCF và các bội số khác DCF và P/E DDM và P/E NAV kết hợp các bội số RI và các bội số Tổng Bảng 4.20 Đo lường mức độ chính xác của các mô hình định giá
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ mẫu nghiên cứu
Các tiêu chí đo lường chính xác
Target price met Mô hình định giá
Số lần được sử dụng là mô hình chủ đạo Báo cáo đạt Báo cáo không đạt Sai số định giá (Valuation Error)
17 15 3 35 52 34 13 99 35 19 10 64 32% 37% 45% N/A Tỷ lệ chính xác 33% 44% 23% 35%
Kết hợp DCF và P/E Thuần DCF Thuần P/E Tổng Bảng 4.21 Thống kê mức độ chính xác của các báo cáo sử dụng thuần
túy mô hình DCF, P/E và kết hợp 02 mô hình DCF – P/E
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ mẫu nghiên cứu
NCS sử dụng 02 phương pháp đo lường mức độ chính xác của các mô hình định giá
(Valuation Accuracy) bao gồm:
❖ Tỷ lệ chính xác của giá mục tiêu (Target price accuracy)
Tác giả xem xét và thống kê mức giá mục tiêu/giá trị nội tại (target price/intrinsic
value) tại các báo cáo phân tích được đạt đến hay không được đạt đến tại bất cứ thời
điểm nào trong vòng 12 tháng kể từ ngày báo cáo được công bố (Met_in). Kết quả
nghiên cứu từ mẫu 160 báo cáo phân tích cho thấy, tỷ lệ chính xác bình quân của các
mô hình định giá đạt 34%. 55/160 báo cáo sử dụng kết quả định giá để dự báo chính
171
xác giá thị trường trong vòng 12 tháng, và đưa ra các khuyến nghị chính xác, giá thị
trường tăng bằng hoặc cao hơn giá mục tiêu (trường hợp khuyến nghị mua), giá thị
trường giảm thấp hợn hoặc bằng giá mục tiêu (trường hợp khuyến nghị bán), giá thị
trường biến động không quá -/+ 10% (đối với khuyến nghị giữ). 66% báo cáo đưa ra
các khuyến nghị không chính xác.
Các báo cáo sử dụng mô hình chiết khấu dòng tiền là mô hình định giá chủ đạo
có tỷ lệ chính xác là 45% cao hơn so với các báo cáo sử dụng mô hình định giá so
sánh làm mô hình chủ đạo (35%) và nhóm các cáo báo sử dụng mô hình định giá theo
tài sản – NAV (36%).
Các báo cáo sử dụng kết hợp đều các mô hình định giá để xác định giá mục tiêu
(Không xác định được cụ thể phương pháp định giá chủ đạo) có tỷ lệ chính xác thấp
hơn đáng kể so với các báo cáo sử dụng mô hình định giá so sánh (1), chiết khấu dòng
tiền (2), định giá theo tài sản làm mô hình định giá chủ đạo (3), với tỷ lệ chính xác
chỉ đạt 19%.
Nếu xét cụ thể các mô hình, các báo cáo sử dụng mô hình DCF làm mô hình
định giá chủ đạo có tỷ lệ chính xác đạt 45%. Trong khi các báo cáo sử dụng mô hình
định giá so sánh theo hệ số P/E làm mô hình định giá chủ đạo có tỷ lệ chính xác chỉ
đạt 26%, thấp hơn mô hình DCF và tỷ lệ chính xác chung của toàn bộ các mô hình.
Việc sử dụng kết hợp đều DCF (50%) – P/E (50%) để xác định giá mục tiêu cuối
cùng tại các báo cáo cũng không mang lại hiệu quả cao khi tỷ lệ chính xác chỉ đạt
26%. NCS cũng bóc tách riêng để xem xét mức độ chính xác của các báo cáo chỉ sử
dụng duy nhất mô hình P/E, DCF và các báo cáo kết hợp 02 mô hình này. Các báo
cáo chỉ sử dụng DCF là mô hình định giá duy nhất có tỷ lệ chính xác là 44%, chỉ sử
dụng P/E là mô hình định giá duy nhất có tỷ lệ chính xác là 23%. Nhưng đã đề cập
ở phần trên, sự kết hợp giữa DCF và P/E là một xu hướng nổi bật, sự kết hợp này
dưới nhiều phương thức khác nhau và có tới 52/160 báo cáo sử dụng. Kết quả nghiên
cứu cho thấy các báo cáo sử dụng kết hợp 02 mô hình này có tỷ lệ chính xác đạt 33%.
Hai cách thống kê phân loại này, đều có kết quả rất tương đồng về mức độ chính xác
172
của DCF, P/E và sự kết hợp giữa hai mô hình.
Tỷ lệ chính xác của các mô hình định giá nói chung theo kết quả của nghiên cứu
này thấp hơn đáng kể so với các nghiên cứu của Asquith và cộng sự (2004) tại thị
trường Hoa Kỳ giai đoạn 1997 – 1999, Demirakos và cộng sự (2010) tại thị trường
UK giai đoạn 2002 – 2004, Kerl (2011) tại thị trường chứng khoán Đức giai đoạn
2002 – 2004, Imam và cộng sự (2013) và cộng sự tại thị trường Châu Âu giai đoạn
2005 – 2007, Sayed (2017) tại các thị trường mới nổi khu vực Châu Á giai đoạn 2008
– 2013.
Mô hình định giá Ghi chú
Nghiên cứu
DCF P/E Tổng thể các mô hình
54% NA NA Asquith và cộng sự (2004) tại thị trường Hoa Kỳ giai đoạn 1997 – 1999
NA 56,28% 69,88%
Demirakos và cộng sự (2010) nghiên cứu tại thị trường UK giai đoạn 2002 - 2004.
56,5% NA NA Kerl (2011) nghiên cứu tại thị trường chứng khoán Đức giai đoạn 2002 - 2004
49,09 % 31,82% 44,83%
Imam và cộng sự (2013) nghiên cứu tại thị trường Châu Âu giai đoạn 2005 – 2007,
NA 58,8% 60,3% Sayed (2017) tại các thị trường mới nổi khu vực Châu Á giai đoạn 2008 – 2013
34% 45% 26% Nghiên cứu của NCS tại thị trường Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020
Bảng 4.22 Thống kê về tỷ lệ chính xác của giá mục tiêu (target price accuracy) tại các nghiên cứu nước ngoài
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ khảo lược các nghiên cứu trước
173
❖ Sai số định giá (Valuation error)
Sai số dự báo (forecast error) là phương pháp đo lường độ chính xác của các
mô hình định giá cổ phần được sử dụng phổ biến tại các nghiên cứu trước. NCS, tính
toán sai số dự báo theo công thức (3.2). Dựa trên giả định, giá thị trường trong dài
hạn có xu hướng tiệm cận với giá trị nội tại/giá mục tiêu, do vậy giá mục tiêu được
tính từ các mô hình định giá là cơ sở để dự đoán giá thị trường trong khoảng thời gian
tới, các báo cáo phân tích thường đưa ra dự đoán và khuyến nghị trong khoảng thời
gian gian 12 tháng. Độ lệch giữa giá thị trường sau 12 tháng và giá mục tiêu càng lớn,
tức sai số của mô hình định giá càng cao, mức độ chính xác của mô hình định giá
càng thấp.
Kết quả nghiên cứu từ mẫu 160 báo cáo phân tích cho thấy, sai số dự báo bình
quân của các mô hình định giá là 36%, tức là bình quân giữa giá trị nội tại/giá mục
tiêu được xác định trong các báo cáo phân tích cao hơn hoặc thấp hơn 36% so với với
giá thị trường sau 12 tháng.
Sai số dự báo của các báo cáo sử dụng mô hình chiết khấu dòng tiền là mô hình
định giá chủ đạo là 36% chênh lệch không đáng kể so với sai số dự báo của các báo
cáo sử dụng mô hình định giá so sánh làm mô hình chủ đạo (38%). Nhóm các cáo
báo sử dụng mô hình định giá theo tài sản – NAV có sai số dự báo là 43%, cao hơn
nhóm chiết khấu dòng tiền và định giá so sánh. Các báo cáo sử dụng kết hợp đều các
mô hình định giá để xác định giá mục tiêu (Không xác định được cụ thể phương pháp
định giá chủ đạo) có sai số dự báo là 30% thấp hơn so với các báo cáo sử dụng mô
hình định giá so sánh (1), chiết khấu dòng tiền (2), định giá theo tài sản làm mô hình
định giá chủ đạo (3).
Nếu xét cụ thể các mô hình, các báo cáo sử dụng mô hình DCF làm mô hình
định giá chủ đạo có sai số dự báo là 36%. Sai số dự báo của báo cáo sử dụng mô hình
định giá so sánh theo hệ số P/E làm mô hình định giá chủ đạo là 42% cao hơn so với
mô hình DCF và sai số dự báo chung của toàn bộ các mô hình. Các báo cáo sử dụng
kết hợp đều DCF (50%) – P/E (50%) để xác định giá mục tiêu cuối cùng có sai số dự
báo là 31%, thấp hơn sai số dự báo của các báo cáo sử dụng DCF và P/E làm mô hình
174
định giá chủ đạo.
NCS cũng bóc tách riêng để xem xét mức độ chính xác của các mô hình chỉ sử
dụng P/E, DCF và kết hợp 02 mô hình này tại Bảng 4.17. Các báo cáo chỉ sử dụng
DCF là mô hình định giá duy nhất có sai số dự báo là 37%, chỉ sử dụng P/E là mô
hình định giá duy nhất có sai số dự báo là 45%. Bình quân 52 báo cáo sử dụng kết
hợp giữa DCF và P/E dưới những hình thức khác nhau có sai số dự báo đạt 32%, thấp
hơn sai số dự báo của các mô hình sử dụng duy nhất DCF và P/E. Hai cách thống kê
phân loại tại Bảng 4.16 và 4.17, không cho kết quả khác biệt về mức độ chính xác
của DCF, P/E và sự kết hợp giữa hai mô hình.
Sai số dự báo của các mô hình định giá theo kết của nghiên cứu của NCS tại
thị trường Việt Nam nhìn chung cao hơn so với các nghiên cứu Demirakos và cộng
sự (2010) tại thị trường UK giai đoạn 2002 – 2004, Imam và cộng sự (2013) và cộng
sự tại thị trường Châu Âu giai đoạn 2005 – 2007, Sayed (2017) tại các thị trường mới
nổi khu vực Châu Á giai đoạn 2008 – 2013, Erkilet và cộng sự (2021) tại thị trường
chứng khoán Đức giai đoạn 2014 – 2017. Tuy nhiên mức chênh lệch này thấp hơn so
với thước đo tỷ lệ chính xác giá mục tiêu (Target price accuracy).
Mô hình định giá chủ đạo Ghi chú
Nghiên cứu
DCF P/E
Tổng thể các mô hình NA 31,36% 24,22%
Demirakos và cộng sự (2010) nghiên cứu tại thị trường UK giai đoạn 2002 - 2004.
lệch 15.11% NA NA
Imam và cộng sự (2013) nghiên cứu tại thị trường Châu Âu giai đoạn 2005 – 2007,
175
Độ trong trường hợp không đạt đến giá mục tiêu
NA 32,1% 30,7%
Sayed (2017) tại các thị trường mới nổi khu vực Châu Á giai đoạn 2008 – 2013
22% NA NA
Erkilet và cộng sự (2021) tại thị trường chứng khoán Đức giai đoạn 2014 - 2017
36% 36% 42%
Nghiên cứu của NCS tại thị trường Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020
Bảng 4.23 Thống kê sai số định giá (Valuation Error) tại các nghiên cứu nước ngoài
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ khảo lược các nghiên cứu trước
Thước đo Tỷ lệ chính xác của giá mục tiêu (Target price accuracy) và Sai số dự
báo (forecast error) nhìn chung cho kết quả tương đồng nhau về mức độ chính xác
của công tác định giá tại TTCK Việt Nam so với các thị trường nước ngoài, tương
quan mức độ chính xác của mô hình chiết khấu dòng tiền tự do (DCF) và mô hình
định giá so sánh sử dụng hệ số P/E. Nhưng lại có kết quả khác nhau khi so sánh mức
độ chính xác của các báo cáo sử dụng kết hợp mô hình DCF – P/E với các báo cáo
chỉ dùng một mô hình P/E hoặc DCF.
4.2.3. Thảo luận kết quả nghiên cứu về tình hình sử dụng và mức độ chính xác của các mô hình định giá: ❖ Về tình hình sử dụng các mô hình định giá
Thứ nhất, Xét theo tần suất sử dụng, các mô hình định giá so sánh (hướng tiếp
cận thị trường – market approach) được sử dụng phổ biến nhất với 168 lần được sử
dụng trong các báo cáo, chiếm tỷ lệ 57% trên tổng số 296 lượt mô hình định giá được
sử dụng. Các mô hình chiết khấu dòng tiền (Hướng tiếp cận thu nhập – income
approach) được sử dụng 98 lần, chiếm tỷ lệ 33% trên tổng số lượt mô hình được sử
dụng. Xét theo số lần được sử dụng làm mô hình định giá chủ đạo, nhóm mô hình
định giá so sánh được sử dụng làm phương pháp định giá chủ đạo tại 66 báo cáo
(chiếm tỷ lệ 41% trên tổng số 160 báo cáo); các mô hình theo hướng tiếp cận dòng
176
tiền được sử dụng làm mô hình định giá chủ đạo tại 47 báo cáo (Chiếm tỷ lệ 29%).
Như vậy xét cả về tần suất sử dụng và số lần được sử dụng làm mô hình định giá,
định giá so sánh (Multiple valuation) là hướng tiếp cận định giá được sử dụng phổ
biến nhất, xếp thứ 02 là hướng tiếp cận dòng tiền, mức độ phổ biến của các mô hình
thuộc 02 hướng tiếp cận này hoàn toàn vượt trội so với các hướng tiếp cận khác.
Trong các mô hình định giá so sánh, hệ số P/E là bội số được sử dụng nhiều
nhất với 97 lần được sử dụng chiếm tỷ lệ 32,7% trên tổng số 296 lượt mô hình định
giá được sử dụng, chiếm 57,7 % trên tổng số 168 lượt mô hình định giá so sánh được
sử dụng. Nếu xét về số lần được sử dụng làm mô hình định giá chủ đạo, trong các mô
hình định giá so sánh, P/E được sử dụng làm mô hình định giá chủ đạo nhiều nhất với
19 lần chiếm tỷ lệ 29% trên tổng số 66 báo cáo sử dụng các mô hình định giá so sánh
làm mô hình định giá chủ đạo. Nhiều hơn đáng kể so với các mô hình còn lại như:
P/B, EV/EBITA, P/S …
Kết quả nghiên cứu chấp nhận Giả thuyết 12, Nhóm các mô hình định giá so
sánh được sử dụng nhiều hơn so với các mô hình dòng tiền, định giá theo hệ số P/E
được sử dụng nhiều nhất trong tất cả các mô hình định giá so sánh.
Thứ hai, Xét về các mô hình định giá cụ thể, P/E và DCF là hai mô hình phổ
biến nhất, tương đương nhau về số lần được sử dụng trong các báo cáo phân tích, và
hoàn toàn vượt trội so với các mô hình khác. Tuy nhiên, DCF lại có số lần được sử
dụng làm mô hình định giá chủ đạo tại các báo cáo phân tích nhiều hơn đáng kể so
với P/E. DCF được sử dụng là mô hình định giá chủ đạo nhiều nhất với 47 lần (chiếm
tỷ lệ 29% trên tổng số 160 báo cáo). Mô hình định giá so sánh theo hệ số P/E xếp thứ
hai với 19 lần được sử dụng làm mô hình định giá chủ (chiếm tỷ lệ 12%). Có 36 báo
cáo chiếm tỷ lệ 22,5% (trên tổng số 160 báo cáo) thuần túy sử dụng mô hình chiết
khấu dòng tiền tự do (DCF); 14 báo cáo thuần túy sử dụng mô hình định giá so sánh
theo P/E chiếm tỷ lệ 8,75% (trên tổng số 160 báo cáo).
Mặc dù là mô hình định giá có tần suất sử dụng nhiều nhất, nhưng các nhà phân
tích có xu hướng sử dụng P/E kết hợp với các mô hình định giá khác, mô hình định
giá so sánh theo hệ số P/E ít được sử dụng là mô hình định giá duy nhất và ít được
177
sử dụng là mô hình định giá chủ đạo.
Kết quả nghiên cứu chấp nhận Giả thuyết 13 (H13), Mô hình chiết khấu dòng
tiền tự do (DCF) được sử dụng làm mô hình định giá chủ đạo nhiều hơn so với mô
hình định giá so sánh theo hệ số P/E.
Thứ ba, sử dụng kết hợp các mô hình định giá trong cùng 01 báo cáo để xác định
giá trị nội tại/giá mục tiêu (Intrinsic Value/Target Price) và một cách làm phổ biến
được các nhà phân tích sử dụng. Tại mẫu nghiên cứu, trung bình 1 báo cáo phân tích
sử dụng khoảng 1.85 mô hình định giá. Trong 1 báo cáo, nhà phân tích sử dụng đồng
thời nhiều phương pháp, mỗi phương pháp cho một kết quả định giá riêng, mỗi
phương pháp định giá được đặt 1 trọng số xác định. Cuối cùng, giá tổng hợp được
tính bằng cách lấy bình quân có trọng số kết quả định giá của các mô hình được sử
dụng trong báo cáo. Trong đó, sự kết hợp giữa mô hình chiết khấu dòng tiền tự do
(DCF) và mô hình định giá theo so sánh theo hệ số P/E là một xu hướng đáng lưu ý.
Các nhà phân tích sử dụng kết hợp giữa mô hình chiết khấu dòng tiền tự do (DCF)
với mô hình định giá so sánh theo P/E để xác định giá trị nội tại trong 52 báo cáo,
chiếm 32,5%. Cần lưu ý, tổng tỷ trọng của các mô hình sự dụng thuần dòng tiền (chỉ
sử dụng chiết khấu dòng tiền không có sự kết hợp với các nhóm mô hình khác), thuần
so sánh (chỉ sử dụng định giá so sánh, không có sự kết hợp với các mô hình khác),
thuần định giá theo tài sản (chỉ sử dụng NAV, không có sự kết hợp với các mô hình
khác) đã được sử dụng tại 82 báo cáo chiếm đến 53,4%. Các báo cáo sử dụng kết hợp
giữa dòng tiền tự do (DCF) với mô hình định giá so sánh theo P/E chiếm đến 72%
(52/78) các báo cáo có sự kết hợp giữa các nhóm mô hình định giá như : Chiết khấu
dòng tiền – Định giá so sánh – Định giá theo tài sản – Thu nhập thặng dư (RIV).
Kết quả nghiên cứu chấp nhận Giả thuyết 14 (H14): Các nhà phân tích có xu
hướng ưa thích sử dụng kết hợp mô hình định giá so sánh theo hệ số P/E với mô
hình DCF.
Thứ 4, Đối với phương pháp định giá so sánh theo hệ số P/E, việc xác định P/E
tham chiếu (Benchmark) được dùng để tính giá trị nội tại có ý nghĩa rất quan trọng.
Trong 97 báo cáo phân tích sử dụng phương pháp định giá so sánh theo hệ số P/E tại
178
mẫu nghiên cứu, có 50,5% sử dụng P/E bình quân của các công ty cùng ngành trong
nước, 14,4% sử dụng P/E bình quân của các công ty nước ngoài, 12,4% sử dụng kết
hợp bình quân P/E các công ty cùng ngành trong nước và nước ngoài. Như vậy, tổng
tỷ trọng các cáo báo sử dụng phương pháp bình quân các công ty cùng ngành là 77%,
17,5% không thuyết minh rõ phương pháp, các báo cáo sử dụng phương pháp tính
toán P/E nội tại hợp lý (Justified P/E) và các phương pháp khác tính tỷ trọng rất nhỏ.
Kết quả nghiên cứu chấp nhận Giả thuyết 15 (H15): Các nhà phân tích chủ yếu
sử dụng hệ số P/E bình quân của các công ty cùng ngành khi xác định hệ số P/E tham
chiếu sử dụng trong mô hình định giá so sánh.
Thứ năm, NCS đã chia các công ty được phân tích trong các báo cáo tại mẫu
nghiên cứu thành 03 nhóm: Tài chính, bất động sản và các lĩnh vực khác. Khi định
giá các công ty thuộc lĩnh vực tài chính, phương pháp định giá so sánh theo hệ số P/B
được sử dụng 18 lần sử dụng ( chiếm tỷ lệ 45% trên tổng số 40 lượt mô hình định giá
được sử dụng trong các báo cáo phân tích công ty thuộc lĩnh vực tài chính), tỷ lệ sử
dụng phương pháp này khi định giá các lĩnh vực khác là 9,2 %. Mô hình thu nhập
thặng dư (RIV) được sử dụng 9 lần chiếm tỷ lệ (22,5% trên 40 lượt mô hình định giá
được sử dụng), tỷ lệ sử dụng mô hình RIV khi định giá các công ty thuộc các lĩnh
vực khác là chưa đến 1%. Các báo cáo phân tích công ty thuộc lĩnh vực tài chính cũng
chủ yếu sử dụng các mô hình định giá chủ đạo là P/B (28%), RIV kết hợp các bội số
(44.5%), các mô hình chiết khấu dòng tiền hoàn toàn không được sử dụng làm mô
hình định giá chủ đạo khi định giá các công ty thuộc lĩnh vực tài chính. Tình hình sử
dụng các mô hình định giá các cổ phiếu thuộc lĩnh vực tài chính có sự khác biệt rất
lớn đối với các ngành khác. Nổi bật là vai trò của mô hình định giá so sánh theo hệ
số P/B và mô hình định giá thu nhập thặng dư (RIV). Đặc biệt, mô hình RIV chủ yếu
được sử dụng khi định giá các cổ phiếu thuộc lĩnh vực tài chính, mô hình này hầu
như không được sử dụng khi định giá các cổ phiếu thuộc các lĩnh vực khác.
Đối với lĩnh vực bất động sản, mô hình định giá theo giá trị tài sản ròng (NAV)
là có mức độ sử dụng phổ biến với 18 lần xuất hiện, chiếm tỷ lệ 30% (trên tổng số 60
lượt mô hình định giá được sử dụng), tỷ lệ sử dụng mô hình NAV ở các ngành khác
179
là chưa đến 1%. Phương pháp NAV, NAV kết hợp các mô hình định giá so sánh theo
các bội số như P/E, P/B, EV/EBITDA cũng được sử dụng làm mô hình định giá chủ
đạo tại 13 báo cáo chiếm tỷ lệ 42% (trên tổng số 31 báo cáo phân tích các công ty
thuộc lĩnh vực bất động sản). Phương pháp định giá này cũng chủ yếu chỉ sử dụng
khi định giá các công ty bất động sản, hầu như không được sử dụng khi định giá các
công ty thuộc lĩnh vực khác.
Kết quả nghiên cứu chấp nhận Giả thuyết 16 (H16), Việc sử dụng các mô hình
định giá đối với các công ty thuộc lĩnh vực tài chính và bất động sản có sự khác biệt
đối với các ngành còn lại.
❖ Kết luận về mức độ chính xác của các mô hình định giá:
Thứ sáu, Theo thước đo tỷ lệ chính xác của giá mục tiêu (Target price accuracy),
các báo cáo sử dụng mô hình DCF làm mô hình định giá chủ đạo có tỷ lệ chính xác
đạt 45%. Trong khi các báo cáo sử dụng mô hình định giá so sánh theo hệ số P/E làm
mô hình định giá chủ đạo có tỷ lệ chính xác chỉ đạt 26%, thấp hơn mô hình DCF và
tỷ lệ chính xác chung của toàn bộ các mô hình. Các báo cáo chỉ sử dụng DCF là mô
hình định giá duy nhất có tỷ lệ chính xác là 44%, chỉ sử dụng P/E là mô hình định
giá duy nhất có tỷ lệ chính xác là 23%. Theo thước đo sai số dự báo (forecast error),
các báo cáo sử dụng mô hình DCF và mô hình định giá so sánh theo hệ số P/E làm
mô hình định giá chủ đạo có sai số dự báo lần lượt là 36% và 38%. Các báo cáo chỉ
sử dụng DCF là mô hình định giá duy nhất có sai số dự báo là 37%, chỉ sử dụng P/E
là mô hình định giá duy nhất có sai số dự báo là 45%. Tất cả các thước đo đều cho
thấy, DCF có mức độ chính xác cao hơn so với mô hình định giá so sánh theo hệ số
P/E.
Kết quả nghiên cứu chấp nhận Giá thuyết 17 (H17), Mô hình định giá chiết khấu
dòng tiền (DCF) có mức độ chính xác cao hơn so với mô hình định giá so sánh theo
hệ số P/E
Thứ bảy, Theo thước đo tỷ lệ chính xác của giá mục tiêu (Target price accuracy),
các báo cáo sử dụng kết hợp đều DCF (50%) – P/E (50%) có tỷ lệ chính xác đạt 26%.
180
Các báo cáo sử dụng kết hợp giữa DCF và P/E dưới nhiều phương thức khác nhau có
tỷ lệ chính xác đạt 33%. Tỷ lệ chính xác này cao hơn các báo cáo sử mô hình định
giá so sánh theo P/E làm mô hình định giá chủ đạo và các báo cáo sử dụng mô hình
duy nhất mô hình định giá so sánh theo P/E nhưng thấp hơn đáng kể so với tỷ lệ chính
xác của các báo cáo sử dụng mô hình DCF làm mô hình định giá chủ đạo và mô hình
định giá sử dụng duy nhất DCF. Theo thước đo sai số dự báo (Forecast Error), Các
báo cáo sử dụng kết hợp đều DCF (50%) – P/E (50%) để xác định giá mục tiêu cuối
cùng có sai số dự báo là 31%, các báo cáo sử dụng kết hợp giữa DCF và P/E dưới
những hình thức khác nhau có sai số dự báo là 32%, hai kết quả này đều thấp hơn sai
số dự báo của các báo cáo sử dụng duy nhất DCF và P/E, các báo cáo sử dụng DCF,
P/E làm mô hình định giá chủ đạo. Như vậy, hai thước đo cho những kết quả trái
ngược nhau về tương quan giữa mức độ chính xác của sử dụng kết hợp DCF – P/E
với mức độ chính xác của từng mô hình riêng lẻ.
Nghiên cứu không đủ cơ sở để chấp nhận Giá thuyết 18 (H18), việc kết hợp mô
hình DCF và P/E khi định giá góp phần cải thiện mức độ chính xác của kết quả định
giá.
Thứ bảy, Kết quả đo lường bằng cả 02 thước đo Tỷ lệ chính xác của giá mục
tiêu (Target price accuracy) và Sai số dự báo (Forecast error) đều cho thấy, mức độ
chính xác của kết quả định giá (Valuation Accurary) tại các báo cáo phân tích trên thị
trường Việt Nam thấp hơn so với kết quả đo lường tại các thị trường phát triển theo
các nghiên cứu của Asquith và cộng sự (2004), Demirakos và cộng sự (2010), Kerl
(2011), Imam và cộng sự (2013), Sayed (2017), Erkilet và cộng sự (2021).
Kết quả nghiên cứu chấp nhận Giá thuyết 19 (H19): Kết quả định giá cổ phiếu
tại các báo cáo phân tích được phát hành tại thị trường chứng khoán Việt Nam có
181
mức độ chính xác thấp hơn so với các nước phát triển.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4
Chương 4 đã thực hiện các nghiên cứu theo 02 hướng chính để trả lời các
câu hỏi nghiên cứu liên quan đến các nhân tố tác động đến hệ số P/E và tình hình sử
dụng, mức độ chính xác của các mô hình định giá:
(1) Các bước nghiên cứu định lượng bao gồm thống kê mô tả, phân tích tương quan,
đặc biệt là phân tích theo mô hình hồi quy Bình phương tối thiểu tổng quát (GLS)
và kết luận có 09 nhân tố ảnh hưởng đến hệ số P/E bao gồm: Tỷ suất sinh lời trên
vốn chủ sở hữu (ROE), Giá trị sổ sách trên một cổ phần (BVPS), Đòn bẩy tài
chính (Tỷ lệ nợ trên tổng tài sản – DA), Biến Quy mô giá trị vốn hóa (SIZE), Biến
Tỷ lệ chi trả cổ tức bằng tiền mặt (POR), Biến Hệ số Beta của cổ phiếu (BETA),
Biến Mức độ biến động giá (Độ lệch chuẩn – SD), Chất lượng quản trị công ty
(CG) và Lãi suất cho vay (LIR). Phương pháp thống kê mô tả và kiểm định
ANOVA được sử dụng để đánh giá tác động của yếu tố ngành đối với hệ số P/E
và kết luận chỉ ngành tài chính có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với các ngành
còn lại.
(2) Sử dụng phương pháp phân tích nội dung (Content analysis) dựa trên mẫu nghiên
cứu bao gồm 160 báo cáo phân tích và định giá công ty do các công ty chứng
khoán phát hành trong giai đoạn 2010 – 2020, NCS mô tả tình hình sử dụng các
mô hình định giá theo các nhóm mô hình, từng mô hình cụ thể và sự kết hợp giữa
các mô hình, bao gồm tần suất sử dụng các mô hình và tần suất sử dụng các mô
hình làm mô hình định giá chủ đạo. Đồng thời tiến hành đo lường mức độ chính
xác của các mô hình định giá bằng 02 thước đo: Tỷ lệ chính xác của giá mục tiêu
(Target price accuracy) và Sai số dự báo (forecast error). So sánh mức độ chính
xác của các mô hình định giá, so sánh với kết quả đo lường mức độ chính xác của
182
các mô hình định giá tại các thị trường nước ngoài.
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ CÁC KHUYẾN NGHỊ
5.1. Kết luận:
Trong bối cảnh hệ số P/E và mô hình định giá so sánh theo hệ số P/E đóng vai
trò là một trong những chỉ số tài chính và mô hình định giá được các nhà phân tích,
nhà đầu tư và cả các phương tiện truyền thông sử dụng một cách phổ biến nhất, các
nhân tố tác động đến hệ số P/E, cũng như mức độ chính xác của mô hình định giá
này là những câu hỏi rất được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, chuyên gia phân
tích, nhà đầu tư trên thực tiễn. Bằng hai hướng tiếp cận nghiên cứu được tiến hành
đồng thời, luận án về cơ bản đã đạt được các mục tiêu nghiên cứu đã đề ra.
Đối với mục tiêu nghiên cứu thứ nhất xác định về các nhân tố tác động đến hệ
số P/E trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Kết quả phân tích hồi quy đa biến dựa
trên dữ liệu tài chính và giá cổ phiếu của 406 công ty niêm yết trên Sở Giao dịch
Chứng Khoán TP. Hồ Chí Minh và Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội trong giai
đoạn 2010 – 2020 cho thấy có 09 biến tác động có ý nghĩa thống kê trong mô hình.
Ngoại trừ biến, tốc độ tăng trưởng lợi nhuận (EG) không có ý nghĩa thống kê trong
mô hình, các biến được đưa vào mô hình đều có ý nghĩa thống kê.
Trong đó, biến Quy mô công ty (SIZE) có tác động cùng chiều tới hệ số P/E.
Đối với các công ty có quy mô vốn hóa lớn, nhà đầu tư chấp nhận mặt bằng P/E cao
hơn so với các công ty có quy mô vốn hóa nhỏ. Các biến đại diện cho rủi ro, bao gồm
Hệ số BETA, Mức độ biến động giá (SD) đo lường rủi ro hệ thống và rủi ro tổng thể
trên cơ sở biến động giá cổ phiếu trên thị trường; biến Đòn bẩy tài chính (DA) đo
lường rủi ro tài chính của công ty đều có tác động ngược chiều đến hệ số P/E. Đối
với các công ty, các cổ phiếu tiềm ẩn rủi ro cao, nhà đầu tư có xu hướng chấp nhận
mặt băng hệ số P/E thấp hơn. Lãi suất cho vay (LIR) cũng có tác động ngược chiều
tới hệ số P/E, những giai đoạn lãi suất thị trường tăng cao, mặt bằng hệ số P/E bình
quân của các công ty sẽ có xu hướng giảm. Đối với các biến nghiên cứu này, các kết
183
quả nghiên cứu tại TTCK Việt Nam thống nhất với cơ sở lý thuyết và giả thuyết ban
đầu, góp phần bổ sung thêm bằng chứng thực nghiệm về tác động của các nhân tố
này đến hệ số hệ số P/E.
Bên cạnh đó luận án cũng có những phát hiện mới về các nhân tố tác động đến
hệ số P/E. Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE), Giá trị sổ sách trên 01 cổ phần
(BVPS) đều có tác động ngược chiều tới hệ số P/E. Hai kết quả này, ngược lại với cơ
sở lý thuyết và giả thuyết ban đầu. Damoradan (2012) xác định mối quan hệ giữa
ROE và P/E thông qua Công thức 2.13, ROE có tác động cùng chiều tới hệ số P/E.
Tuy nhiên, trên thực tế, tác động tích cực lên giá cổ phiếu của ROE thấp hơn so với
mối quan hệ cùng chiều giữa ROE và EPS, dẫn đến tác động ngược chiều khá mạnh
của ROE với P/E. BVPS cũng có tác động ngược chiều với hệ số P/E, ngược lại với
các lý thuyết về tác động của BVPS tới giá thị trường của cổ phiếu và thông qua đó
tác động tới P/E. Kết quả phân tích bổ sung đối với các công ty có EPS nhỏ hơn 500
đồng, củng cố cho hướng giải thích tại thị trường Việt Nam, nhà đầu tư chỉ quan tâm
đến chỉ tiêu BVPS khi các công ty có lợi nhuận (EPS) thấp, khi các công ty có lợi
nhuận (EPS) cao nhà đầu tư không quan tâm đến chỉ tiêu này. Trong bối cảnh tác
động của Tỷ lệ chi trả cổ tức (Payout ratio) đối với hệ số P/E nói riêng và giá trị công
ty nói chung còn là một vấn đề chưa thống nhất cả về cơ sở lý thuyết và bằng chứng
thực nghiệm. Kết quả nghiên cứu tại luận án cho thấy, tỷ lệ chi trả cổ tức bằng tiền
mặt (POR) có tác động cùng chiều tới hệ số P/E. Điều này cho thấy, nhà đầu tư có xu
hướng ưa thích và tin tưởng các công ty duy trì khả năng trả cổ tức bằng tiền mặt. Kết
quả nghiên cứu này ngược lại lập luận cho rằng tỷ lệ chi trả cổ tức bằng tiền mặt cao
tức là tỷ lệ lợi nhuận giữ lại thấp, dẫn đến tốc độ tăng trưởng thấp và hệ số P/E thấp.
Đặc biệt, tác động cùng chiều của Chất lượng quản trị công ty (CG) đến hệ số P/E
cũng là một trong những phát hiện mới quan trọng của luận án. Công ty có chất lượng
quản trị công ty cao nhà đầu tư sẽ chấp nhận mặt bằng hệ số P/E cao hơn do niểm tin
về tính minh bạch, sự ổn định và bền vững.
Riêng yếu tố tác động của ngành đối với hệ số P/E được nghiên cứu thông qua
thống kê mô tả và kiểm định ANOVA, kết quả nghiên cứu cho thấy chỉ có P/E của
184
ngành tài chính có khác biệt có ý nghĩa thống kê với tất cả các ngành còn lại.
Đối với mục tiêu nghiên cứu thứ hai về tình hình sử dụng và mức độ chính xác
của các mô hình định giá, Luận án sử dụng phương pháp phân tích nội dung (Content
analysis), xem xét mẫu nghiên cứu bao gồm 160 báo cáo phân tích công ty được các
công ty chứng khoán thực hiện và công bố trên thị trường chứng khoán Việt Nam
giai đoạn 2010 – 2020. Kết quả nghiên cứu cho thấy những điểm đáng lưu ý về tình
hình sử dụng các mô hình định giá tại TTCK Việt Nam như sau:
(1) Định giá so sánh là mô hình định giá được sử dụng phổ biến nhất, và mô
hình định giá so sánh sử dụng hệ số P/E (mô hình P/E) được sử dụng nhiều nhất trong
tất cả các mô hình định giá so sánh.
(2) DCF được sử dụng làm mô hình định giá chủ đạo nhiều hơn mô hình P/E
(3) Các nhà phân tích có xu hướng ưa thích sử dụng kết hợp mô hình P/E với
mô hình DCF.
(4) Các nhà phân tích chủ yếu sử dụng hệ số P/E bình quân của các công ty
cùng ngành khi xác định hệ số P/E tham chiếu sử dụng trong mô hình định giá so
sánh.
(5) Việc sử dụng các mô hình định giá đối với các công ty thuộc lĩnh vực tài
chính và bất động sản có sự khác biệt đối với các ngành còn lại.
(6) Mô hình định giá chiết khấu dòng tiền (DCF) có mức độ chính xác cao hơn
so với mô hình định giá so sánh theo hệ số P/E
(7) Việc sử dụng kết hợp (Combination) giữa mô hình DCF và mô hình P/E
không góp phần cải thiện kết quả định giá.
(8) Kết quả định giá cổ phiếu tại các báo cáo phân tích được phát hành tại thị
trường chứng khoán Việt Nam có mức độ chính xác thấp hơn so với các nước phát
triển.
Các kết quả từ mục tiêu nghiên cứu thứ nhất và mục tiêu nghiên cứu thứ hai, đã
cung cấp những cơ sở quan trọng để NCS thực hiện mục tiêu thứ 03 là xác định các
vấn đề cần lưu ý khi sử dụng mô hình định giá so sánh theo hệ số P/E tại TTCK Việt
Nam. Đưa ra các gợi ý, khuyến nghị cho các nhà đầu tư, nhà phân tích về việc lựa
chọn và sử dụng các mô hình định giá, sử dụng hệ số P/E trong công tác định giá cổ
185
phần và ra quyết định đầu tư tại thị trường chứng khoán Việt Nam; các gợi ý đối với
các cơ quan quản lý, doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác định giá,
gia tăng giá trị doanh nghiệp một cách bền vững.
5.2. Một số gợi ý và khuyến nghị
5.2.1. Các gợi ý đối với các nhà phân tích, nhà đầu tư:
5.2.1.1. Lựa chọn mô hình định giá phù hợp:
Theo Pinto và Ctg (2018), quy trình định giá công ty bao gồm 05 bước sau:
(1) Tìm hiểu về doanh nghiệp (2) Dự phóng kết quả hoạt động của công ty (3) Lựa
chọn mô hình định giá phù hợp (4) Tiến hành định giá dựa trên kết quả dự phóng (5)
Đưa ra kết luận, khuyến nghị và quyết định dựa trên kết quả định giá. Trong đó, lựa
chọn mô hình định giá phù hợp là công đoạn có vai trò rất quan trọng trong toàn bộ
quy trình định giá. Luận án có các kết quả nghiên cứu làm cơ sở cho những gợi ý
đối với các nhà phân tích, nhà đầu tư về lựa chọn mô hình định giá.
Thứ nhất, mô hình định giá chiết khấu dòng tiền (DCF) có mức độ chính xác
cao hơn so với mô hình định giá so sánh theo hệ số P/E. Đây là một phát hiện quan
trọng của luận án tại thị trường Việt Nam và cần những nghiên cứu bổ sung tăng thêm
bằng chứng thực nghiệm khi nhiều nghiên cứu tại các thị trường các nước cũng có
những kết luận khác nhau về mối liên hệ giữa việc lựa chọn các mô hình định giá với
mức độ chính xác của kết quả định giá. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của luận án
tại thị trường Việt Nam cho thấy các mô hình định giá có mức độ chính xác khác
nhau, các nhà phân tích cần đặc biệt lưu ý vấn đề này khi lựa chọn các mô hình định
giá,
Thứ hai, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, tình hình sử dụng các mô hình định
giá đối với các công ty thuộc lĩnh vực tài chính và bất động sản có sự khác biệt đối
với các ngành còn lại. Mô hình định giá so sánh theo hệ số P/B, mô hình định giá thu
nhập thặng dư (RIV) được sử dụng nhiều khi định giá các công ty thuộc lĩnh vực tài
chính, trong khi đó định giá theo tài sản (NAV) lại là phương pháp quan trọng khi
định giá các công ty bất động sản. Nghiên cứu của Imam và Ctg (2008), Imam và Ctg
(2013) cũng cho kết quả tương tự tại thị trường chứng khoán Anh và Châu Âu. Các
nhà phân tích tại thị trường Việt Nam cũng cần đặc biệt lưu ý khi lựa chọn mô hình
186
định giá phù hợp khi định giá các công ty thuộc hai lĩnh vực này. Suy rộng hơn, mỗi
ngành nghề, lĩnh vực có những đặc tính khác biệt của dòng tiền, mô hình kinh doanh
… nên phù hợp với các mô hình định giá khác nhau. Ngoài yếu tố ngành, các nghiên
cứu trước cũng cho thấy việc lựa chọn các mô hình định giá cũng phụ thuộc vào các
đặc tính của công ty được định giá như: quy mô công ty, độ ổn định của dòng tiền,
khả năng sinh lời, thời gian hoạt động … Các nhà phân tích cần hiểu rõ lĩnh vực kinh
doanh, mô hình kinh doanh và các đặc tính của công ty để lựa chọn mô hình định giá
phù hợp.
Thứ ba, kết quả nghiên cứu cho thấy các nhà phân tích có xu hướng ưa thích sử
dụng kết hợp mô hình định giá so sánh theo hệ số P/E với mô hình DCF. Theo mẫu
nghiên cứu của NCS, các nhà phân tích sử dụng bình quân 1.85 mô hình định giá cho
1 báo cáo phân tích. Khoảng 61% báo cáo sử dụng 02 mô hình định giá trở lên. Các
nghiên cứu về tình trạng sử dụng các mô hình định giá tại các thị trường khác nhau
cũng cho thấy các nhà phân tích có xu hướng sử dụng kết hợp nhiều phương pháp
định giá nhằm xác định giá mục tiêu cuối cùng của cổ phiếu. Tuy nhiên, kết quả
nghiên cứu của luận án tại thị trường Việt Nam cho thấy chưa đủ cơ sở để chưa thể
khẳng định việc kết hợp mô hình DCF và P/E nói riêng và việc kết hợp các mô hình
nói chung góp phần cải thiện, thậm chí có tiêu chí đo lường còn cho thấy sự kết hợp
này làm giảm mức độ chính xác của kết quả định giá. Chúng ta vẫn quan điểm rằng,
mỗi mô hình định giá đều có ưu và nhược điểm riêng việc kết hợp các mô hình định
giá theo một trọng số nhất định khi tính giá mục tiêu cuối cùng sẽ giúp tận dụng ưu
điểm và hạn chế nhược điểm của mỗi mô hình. Tuy nhiên, các nghiên cứu thực
nghiệm không đủ để hỗ trợ lập luận này. Các nghiên cứu trước tại các thị trường phát
triển cũng cho thấy có rất ít bằng chứng thực nghiệm khẳng định sự kết hợp này góp
phần cải thiện kết quả định giá. Nếu kết hợp 02 kết quả định giá kém chính xác chúng
ta sẽ có sẽ có kết quả định giá kém chính xác hơn, nếu chúng ta kết hợp 1 kết quả
định giá chính xác với 1 kết quả định giá kèm chính xác chúng ta sẽ làm giảm hiệu
quả của mô hình định giá chính xác. Các nhà phân tích có thể sử dụng cùng một lúc
nhiều phương pháp để so sánh, đối chiếu (double check) nhằm hạn chế những sai lệch
quá mức của từng phương pháp cụ thể, nhưng cần cân nhắc kỹ việc tính giá trị nội tại
187
cuối cùng bằng bình quân kết quả của các mô hình định giá khác nhau.
Các kết quả nghiên cứu về tình hình sử dụng và mức độ chính xác của các
mô hình định giá cung cấp những cơ sở khoa học làm gợi ý cho các nhà phân tích về
việc lựa chọn các mô hình định giá: bao gồm mức độ chính xác của các mô hình định
giá, sự phù hợp của mô hình định giá với ngành nghề và đặc tính của công ty được
định giá, sự kết hợp các mô hình định giá.
Ngoài ra, việc mô hình định giá theo P/E tại TTCK Việt Nam có mức độ chính
xác thấp hơn so với mô hình DCF, bên cạnh những lý do liên quan đến đặc tính của
phương pháp này, cũng cần phải xem xét lại cách áp dụng mô hình định giá này, đặc
biệt là cách tính toán hệ số P/E tham chiếu như nội dung được trình bày sau đây.
5.2.1.2. Sử dụng hệ số P/E trong phân tích và mô hình định giá so sánh theo hệ số P/E
Trên thực tế, hệ số P/E thường được sử dụng trong 02 trường hợp sau:
(1) Phân tích và so sánh sơ bộ: Các nhà phân tích có thể so sánh hệ số P/E giữa
hai công ty, giữa P/E của công ty tại một thời điểm với bình quân của nó trong
quá khứ, giữa P/E của một công ty với bình quân của nhóm công ty hay của
ngành, so sánh P/E bình quân của thị trường này với thị trường khác … để đưa
ra nhận định sơ bộ về định giá công ty cao hay thấp.
(2) Sử dụng trong mô hình định giá so sánh: Trong mô hình định giá so sánh nói
chung và cụ thể mô hình định giá so sánh theo hệ số P/E, công đoạn mang tính
then chốt là xác định bội số P/E tham chiếu (Benchmark Multiple). Bội số P/E
tham chiếu này sẽ được nhân với EPS để xác định giá trị nội tại/giá mục tiêu
chính xác của cổ phiếu.
Để xác định được hệ số P/E so sánh/tham chiếu phục vụ cho cả hai trường
hợp trên, hướng tiếp cận phổ biến nhất là hướng tiếp cận so sánh (Valuation Based
on Comparables), tức là sử dụng hệ số P/E tham chiếu được xác dựa trên hệ số
P/E của công ty hoặc nhóm công ty được sử dụng để so sánh. Nhưng trên thực tế,
việc các định công ty hay nhóm công ty để so sánh là không đơn giản, không thể
có hai công ty hoàn toàn giống nhau. Trên thực tế, bội số theo ngành hay lĩnh vực
188
(Industry and Sector Multiples) là phương pháp được sử dụng các nhà phân tích
thường sử dụng nhất nhất. Nhưng còn có rất nhiều yếu tố khác giải thích cho sự
khác biệt trong hệ số P/E của các công ty. Điều đó dẫn đến hướng tiếp cận kết hợp
vừa dựa trên cơ sở so sánh (comparables), vừa có sự điều chỉnh nhất định theo các
yếu tố cơ bản (Fundamental P/E). Kết quả nghiên cứu tại luận án này chưa giúp
xây dựng được mô hình hồi quy chuẩn để ước lượng hệ số P/E tham chiếu hợp lý
(P/E Based on Cross – Sectional Regression), nhưng cũng cho rất nhiều gợi ý đối
với các nhà phân tích, nhà đầu tư khi lựa chọn công ty/nhóm công ty so sánh và
xác định hệ số P/E tham chiếu.
Thứ nhất, Quy mô công ty với một trong các tiêu chí đo lường là giá trị vốn
hóa là một trong những nhân tố rất quan trọng tác động đến hệ số P/E theo hướng
cùng chiều. Nhà đầu tư có xu hướng chấp nhận mặt bằng hệ số P/E cao hơn đối với
các công ty có giá trị vốn hóa cao và ngược lại. Điều này đã được củng cố bằng nhiều
nghiên cứu thực nghiệm tại nhiều quốc gia và có thêm bằng chứng thực nghiệm tại
thị trường Việt Nam thông qua nghiên cứu này. Do vậy, khi chọn công ty/nhóm công
ty để tính toán P/E so sánh (Benchmark P/E) phục vụ cho việc định giá và ra quyết
định đầu tư, nhà đầu tư, nhà phân tích cần lưu ý đến yếu tố quy mô công ty. Nhà đầu
có thể xem xét sử dụng nhóm công ty so sánh là các công ty có quy mô tương đương
hoặc có thể chia thành các nhóm công ty có quy mô lớn/vừa/nhỏ hoặc có sự điều
chỉnh phù hợp khi so sánh hệ số P/E của các công ty có quy mô khác biệt quá lớn.
Ngoài giá trị vốn hóa, tổng tài sản, tổng vốn chủ sở hữu hay tổng doanh thu cũng có
thể là những tiêu chí phân loại quy mô công ty.
Thứ hai, Rủi ro là nhân tố quan trọng tác động đến giá cổ phiếu và hệ số P/E
trên cả góc độ lý thuyết và thực nghiệm. Có nhiều tiêu chí phân loại rủi ro khác nhau
như rủi ro hệ thống, rủi ro phi hệ thống; rủi ro được đo lường bằng sự biến động giá
cổ phiếu trên thị trường và rủi ro từ những yếu tố nội tại của doanh nghiệp. Trong mô
hình nghiên cứu, có 02 nhân tố đại diện cho rủi ro về giá là những biến rủi ro được
đo lường từ biến động giá cổ phiếu trên thị trường là hệ số Beta và mức độ biện động
giá. Trong khi hệ số Beta đại diện cho rủi ro hệ thống, Mức độ biến động giá đo lường
189
rủi ro tổng thể. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm tại TTCK Việt Nam cho thấy cả 02
biến này đều có tác động ngược chiều tới hệ số P/E. Trong đó, cần đặc biệt lưu ý hệ
số Beta, đây là chỉ tiêu đo lường rủi ro hệ thống rất bổ biến, là thông số đầu vào bắt
buộc của mô hình CAPM sử dụng cho việc xác định tỷ suất lợi nhuận yêu cầu phù
hợp. Do vậy, khi chọn công ty/nhóm công ty để tính toán P/E tham chiếu (Benchmark
P/E) phục vụ cho việc định giá và ra quyết định đầu tư, nhà đầu tư, nhà phân tích
không nên so sánh các công ty có hệ số Beta chênh lệch lớn, bởi đó là chỉ báo cho
thấy mức độ rủi ro của các cổ phiếu là khác nhau. Nhà phân tích cần xem xét lựa chọn
các công ty so sánh có hệ số Beta tương đồng hoặc có những điều chỉnh phù hợp khi
so sánh hệ số P/E của các công ty có khác biệt lớn về Beta. Tiêu chuẩn định giá Việt
Nam số 12 ban hành kèm theo Thông tư số 28/2021/TT – BTC cũng cần bổ sung Hệ
số Beta, độ lệch chuẩn của mức độ biến động giá vào các tiêu chí đánh giá, lựa chọn
các doanh nghiệp so sánh trong phương pháp định giá tỷ số bình quân (Phương pháp
định giá so sánh).
Hiện tại, việc cung cấp thông tin, dữ liệu về hệ số Beta trên TTCK Việt Nam
còn tương đối hạn chế và chưa thống nhất. Các nhà phân tích cần tìm nguồn dữ liệu
đáng tin cậy có sẵn hệ số Beta hoặc tự thu thập dữ liệu và chạy các mô hình hồi quy
để tính toán hệ số Beta của các cổ phiếu.
Thứ ba, Trong mô hình nghiên cứu, nếu hệ số Beta và mức độ biến động giá
đại diện cho rủi ro từ biến động giá cổ phiếu trên thị trường, thì Đòn bẩy tài chính
(được đo bằng tỷ lệ nợ trên tổng tài sản - DA) chính là rủi ro tài chính, loại rủi ro
quan trọng bậc nhất từ nội tại của doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu cho thấy, đòn
bẩy tài chính (DA) có tác động ngược chiểu tới hệ số P/E. Nhà đầu tư chấp nhận mặt
bằng hệ số P/E cao đối với các công ty có tỷ lệ nợ thấp và ngược lại. Ngoài tỷ lệ nợ
trên tổng tài sản, rủi ro tài chính của công ty còn có thể được đo lường bằng các công
thức khác như tổng tài sản trên vốn chủ sở hữu, vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản, nợ
phải trả trên vốn chủ sở hữu. Các nhà phân tích cần xem các chỉ số này là một trong
những tiêu chí khi lựa chọn các công ty so sánh, hoặc có sự điều chỉnh phù hợp đối
190
với hệ số P/E tham chiếu khi công ty được định giá và các công ty so sánh có sự khác
biệt lớn về đòn bẩy tài chính, các hệ số đòn bẩy tài chính khác nhau tiềm ẩn mức độ
rủi ro tài chính các nhau của các công ty.
Thứ tư, Afford (1992), Cheng và Mcnamara (2000) nghiên cứu về mức độ hiệu
quả của mô hình định giá so sánh phụ thuộc vào cách thức định nghĩa các công ty so
sánh. Theo đó, tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) cũng là một yếu tố quan
trọng khi lựa chọn các công ty so sánh trong mô hình định giá theo P/E. Tiêu chuẩn
định giá Việt Nam số 12 ban hành kèm theo Thông tư số 28/2021/TT – BTC quy định
về tiêu chí đánh giá, lựa chọn các doanh nghiệp so sánh, có quy định: Doanh nghiệp
so sánh tương tự với doanh nghiệp cần thẩm định giá về đa số các chỉ số tài chính,
trong đó có chỉ số phản ánh hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp như: tỷ suất lợi
nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE), tỷ suất lợi nhuận trên tài sản (ROA). Bên cạnh sử
dụng cách tiếp cận theo hướng so sánh với các công ty cùng ngành, ROE cũng là một
trong các tiêu chí được sử dụng để đánh giá, lựa chọn doanh nghiệp so sánh.
Tuy nhiên, bằng chứng thực nghiệm tại nghiên cứu này lại cho thấy, ROE có tác
động ngược chiều tới hệ số P/E. Điều này có thể giải thích bằng mối quan hệ mật thiết
giữa ROE và EPS (ROE = EPS/BVPS). ROE có tác động tích cực tới giá cổ phiếu,
nhưng tác động này thấp hơn mối quan hệ giữa ROE và EPS, dẫn đến những công ty
có ROE cao lại có mặt bằng hệ số P/E thấp và ngược lại. Kết quả nghiên cứu này
cho thấy, các phương pháp, khuyến nghị, quy định sử dụng các tỷ số phản ánh hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp như ROE, ROA làm tiêu chí đánh giá, lựa chọn các
công ty so sánh là không có cơ sở. Cần thêm các nghiên cứu thực nghiệm để xác định
rõ hơn mối quan hệ này. Tiêu chuẩn định giá Việt Nam số 12 ban hành kèm theo
Thông tư số 28/2021/TT – BTC cũng cần xem xét lại việc quy định sử dụng chỉ số
phản ánh hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp: tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu
(ROE), tỷ suất lợi nhuận trên tài sản (ROA) làm một trong các tiêu chí đánh giá, lựa
chọn các doanh nghiệp so sánh.
Thứ năm, Kết quả nghiên cứu cho thấy chất lượng quản trị công ty có tác động
tích cực tới hệ số P/E. Kết quả này, cũng cung cấp thêm bằng chứng thực nghiệm cho
thấy chất lượng quản trị công ty là một trong những nhân tố quan trọng tác động đến
191
giá trị công ty. Các công ty có chất lượng quản trị công ty càng cao, càng gia tăng
niềm tin của nhà đầu tư về tính minh bạch, sự ổn định và bền vững, nhà đầu tư chấp
nhận mặt bằng hệ số P/E cao hơn. Các phân tích, nhà đầu tư khi đánh giá, lựa chọn
các công ty so sánh cần lưu ý và bổ sung thêm tiêu chí quản trị công ty (Corporate
Governance) và các yếu tố phi tài chính khác, thay vì chỉ tập trung vào các yếu tố tài
chính. Hiện tại ở thị trường Việt Nam, nguồn dữ liệu về xếp hạng quản trị công ty nói
riêng và các yếu tố phi tài chính nói chung còn khá hạn chế. Nhà đầu tư có thể tham
khảo các thông tin, dữ liệu về xếp hạng quản trị công ty từ các nguồn đáng tin cậy
như : Báo cáo quản trị công ty Việt Nam theo thẻ điểm Quản trị Công ty ASEAN,
sáng kiến của Diễn đàn thị trường vốn ASEAN (ACMF) với hỗ trợ của ADB; Cuộc
bình chọn Doanh nghiệp niêm yết (Vietnam Listed Company Awards - VLCA) do
Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM, Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội, Báo Đầu
tư tổ chức trong đó nội dung Doanh nghiệp quản trị công ty tốt nhất Việt Nam. Các
nhà phân tích cũng cần cần phải xem xét, đánh giá các báo cáo phi tài chính của công
ty như: Báo cáo quản trị công ty, Báo cáo phát triển bền vững…bên cạnh các báo cáo
tài chính.
Thứ sáu, Kết quả nghiên cứu này cung cấp thêm bằng chứng thực nghiệm về
tác động ngược chiều của mặt bằng lãi suất thị trường, cụ thể là lãi suất cho vay của
các ngân hàng thương mại tới hệ số P/E. Điều này mang đến cho các nhà đầu tư, nhà
phân tích 02 điểm cần lưu ý khi sử dụng hệ số P/E trong định giá và ra quyết định
đầu tư. Thứ nhất, một trong những phương pháp được sử dụng là so sánh hệ số P/E
của cùng một cổ phiếu ở các thời điểm khác nhau, hay sử dụng P/E bình quân qua
nhiều năm làm P/E tham chiếu trong mô hình định giá so sánh. Cách tiếp cận này cần
xem lại, do mỗi thời kỳ các yếu tố trên thị trường tài chính, lạm phát, chính sách vĩ
mô khác nhau nên mặt bằng lãi suất thị trường khác nhau, dẫn đến mặt bằng hệ số
P/E cũng khác nhau. Thứ hai, các nhà phân tích cũng thường so sánh hệ số P/E bình
quân của thị trường Việt Nam với hệ số P/E bình quân của các thị trường nước ngoài;
so sánh hệ số P/E của các công ty Việt Nam với hệ số P/E của các công ty nước ngoài
hay sử dụng P/E bình quân của các công ty nước ngoài làm P/E tham chiếu trong mô
hình định giá so sánh. Cách tiếp cận này thiếu cơ sở khoa học vững chắc do các quốc
192
gia có nền tảng kinh tế vĩ mô, tình hình thị trường tài chính, lạm phát, rủi ro quốc gia,
rủi ro thị trường … dẫn đến mỗi thị trường có mặt bằng lãi suất khác nhau và mặt
bằng hệ số P/E khác nhau.
Thứ bảy, Kết quả nghiên cứu của luận án tại TTCK Việt Nam cho thấy, các nhà
phân tích chủ yếu sử dụng hệ số P/E bình quân của các công ty cùng ngành khi xác
định hệ số P/E tham chiếu sử dụng trong mô hình định giá so sánh. Trong 97 báo cáo
phân tích sử dụng phương pháp định giá so sánh theo hệ số P/E tại mẫu nghiên cứu,
có 50,5% sử dụng P/E bình quân của các công ty cùng ngành trong nước, 14,4% sử
dụng P/E bình quân của các công ty nước ngoài, 12,4% sử dụng kết hợp bình quân
P/E các công ty cùng ngành trong nước và nước ngoài. Không chỉ tại Việt Nam, đây
cũng là phương pháp thông dụng nhất trên thế giới cũng như tại Việt Nam khi lựa
chọn các công ty tương đương (peer group) để xác định tính toán P/E so sánh
(Benchmark P/E) phục vụ cho việc định giá và ra quyết định đầu tư. Tuy nhiên, kết
quả nghiên cứu của luận án về các nhân tố tác động đến hệ số P/E lại cho thấy cho
thấy chỉ P/E của ngành tài chính có khác biệt có ý nghĩa thống kê với tất cả các ngành
còn lại. Sự khác biệt giữa hệ số P/E của tất cả các ngành khác không có ý nghĩa thống
kê. Do vậy, ngoại trừ lĩnh vực tài chính (ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán) có cơ
cấu tài sản, biên lợi nhuận, hoạt động khá khác biệt với các ngành còn lại nên có mặt
bằng hệ số P/E tương đối khác biệt so với các ngành khác. Ta có thể sử dụng hệ số
P/E trung bình ngành/lĩnh vưc khi xác định hệ số P/E so sánh phục vụ cho công tác
định giá các công ty thuộc lĩnh vực tài chính. Đối với các công ty thuộc các ngành,
lĩnh vực khác cần xem xét cân nhắc khi áp dụng phương pháp này. Kết quả nghiên
cứu của Afford (1992) cho thấy mức độ chính xác tăng lên khi nhóm ngành được thu
hẹp lại từ cấp 0 (toàn bộ thị trường) đến nhóm ngành cấp 3 (theo SIC). Do vậy, cần
thêm bằng chứng thực nghiệm đặc biệt là đối với các nhóm ngành hẹp hơn trước khi
kết luận về vấn đề này.
5.2.2. Các khuyến nghị đối với các công ty đại chúng và cơ quan quản lý
Thứ nhất, Tác động của tỷ lệ chi trả cổ tức (Payout ratio)/tỷ lệ lợi nhuận giữ
lại (retention ratio) hay nói rộng hơn là chính sách cổ tức (Dividend Policy) đối với
193
giá trị của công ty là một chủ đề thường xuyên được thảo luận và có nhiều quan điểm
khác nhau. Mặc dù, có thể lập luận rằng tỷ lệ lợi nhuận giữ lại cao, tỷ lệ chi trả cổ tức
bằng tiền mặt thấp sẽ giúp công ty có khả năng tăng trưởng tốt hơn trong tương lai và
từ đó có ảnh hưởng tích cực tới giá cổ phiếu. Bằng chứng thực nghiệm của nghiên
cứu này tại thị trường Việt Nam cho thấy tỷ lệ chi trả cổ tức có tác động cùng chiều
đối với hệ số P/E. Kết quả nghiên cứu cũng phù hợp với các nghiên cứu của Krishnan
và Chen (2020), Afza và Tahir (2012), Farah Freihat (2019), Shamsuddin và Hillier
(2004). Do tỷ lệ chi trả cổ tức không có mối quan hệ gì với EPS cho nên có thể nói
rằng tỷ lệ chi trả cổ tức có tác động tích cực tới giá thị trường của cổ phiếu và giá trị
của công ty. Khi hoạch định chính sách cổ tức hàng năm, các doanh nghiệp cần lưu
ý vấn đề này. Mặc dù quan tâm đến tốc độ tăng trưởng của công ty nhưng các nhà
đầu tư có xu hướng quan tâm đến thu nhập thường xuyên, ưa thích các công ty có
mức độ trả cổ tức bằng tiền mặt hợp lý. Ngoài ra, việc duy trì trả cổ tức bằng tiền mặt
đều đặn cũng tạo thêm sự tin tưởng vào dòng tiền thực của công ty. Chính sách chi
trả cổ tức phù hợp cũng góp phần làm gia tăng giá trị doanh nghiệp một cách bền
vững.
Thứ hai, Đòn bẩy tài chính là một hoạt động cần thiết, giúp doanh nghiệp có
thể mở rộng quy mô kinh doanh, gia tăng lợi nhuận, gia tăng hiệu quả sinh lời, từ đó
góp phần làm gia tăng giá trị công ty. Nhưng kết quả nghiên cứu cho thấy, đòn bẩy
tài chính có tác động ngược chiều tới hệ số P/E. Nếu doanh nghiệp duy trì đòn bẩy
tài chính cao, sẽ làm gia tăng rủi ro, làm giảm sự hấp dẫn đối với nhà đầu tư và từ đó
làm giảm giá trị công ty. Đối với các doanh nghiệp, việc sử dụng đòn bẩy tài chính
cần được tính toán, cân nhắc một các kỹ lưỡng trong sự đánh đổi giữa khả năng sinh
lời, rủi ro và giá trị doanh nghiệp.
Thứ ba, Kết quả nghiên cứu cho thấy chất lượng quản trị công ty có tác động
cùng chiều tới hệ số P/E. Kết quả này cho thấy, đối với các doanh nghiệp, nâng cao
chất lượng quản trị công ty là một trong những giải pháp giúp gia tăng giá trị công ty
dài hạn và bền vững. Hiện tại, các cơ sở chủ yếu của hoạt động quản trị công ty bao
gồm: Bộ Nguyên tắc Quản trị công ty của OECD (G20/OECD Principles of Corporate
194
Governance) được phát hành vào năm 1999 và được các lãnh đạo G20 chính thức
chấp thuận vào năm 2015. Bộ nguyên tắc quản trị công ty theo thông lệ tốt nhất (dành
cho công ty đại chúng tại Việt Nam) do Ủy ban chứng khoán Nhà nước do Ủy ban
Chứng khoán Nhà nước xây dựng với sự hỗ trợ kỹ thuật từ Tổ chức Tài chính Quốc
tế IFC. Thông tư số 116/2020/TT-BTC ngày 31/12/2020 hướng dẫn một số điều về
quản trị công ty áp dụng đối với các công ty đại chúng. Các công ty đại chúng cần
chủ động áp dụng các nguyên tắc quản trị công ty như: Trách nhiệm của Hội đồng
quản trị, Môi trường kiểm soát, công bố thông tin minh bạch, Quyền của cổ đông,
Quan hệ với các bên có quyền lợi liên quan … từ đó nâng cao chất lượng quản trị,
tăng cường tính minh bạch, trách nhiệm giải trình, tạo dựng niềm tin cho các nhà đầu
tư từ đó góp phần gia tăng giá trị công ty. Việc chấm điểm, xếp hạng quản trị công ty
cũng cần được tổ chức thường niên và công bố công khai, được xem như một trong
những chỉ báo quan trọng trong quá trình ra quyết định đầu tư.
Thứ tư, Nghiên cứu cho thấy kết quả định giá cổ phiếu tại các báo cáo phân tích được
phát hành tại thị trường chứng khoán Việt Nam có mức độ chính xác thấp hơn so với
các nước phát triển. Kết quả nghiên cứu của Bilinski và Ctg (2013), công tác định giá
cổ phần tại 16 quốc gia cho thấy chất lượng thông tin kế toán, hệ thống luật pháp có
ảnh hưởng tới mức độ chính xác của mức giá mục tiêu (target price). Do vậy, để nâng
cao chất lượng thông tin kế toán, các cơ quan quản lý cần có các biện pháp hoàn thiện
chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) theo hướng tương thích với các chuẩn mực kế
toán quốc tế. Có các biện pháp chế tài đủ mạnh đối với các hành vi cố tình làm sai
lệch thông tin kế toán, che đậy các thông tin xấu hay ghi nhận doanh thu, lợi nhuận
không chính xác của bản thân các công ty đại chúng cũng như sự thỏa hiệp, tiếp tay
của các công ty kiểm toán. Bên cạnh đó, các công ty đại chúng cũng cần nâng cao
chất lượng của báo cáo tài chính thông qua xây dựng hệ thống thông tin kế toán hiện
đại, hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ; nâng cao chất lượng quản trị cấp cao, đảm
bảo tính chuyên nghiệp và đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ nhân sự kế toán. Khung
pháp lý cũng như các biện pháp kiểm tra, giám sát cũng cần được thực thi chặt chẽ
đồng bộ nhằm ngăn chặn các hành vi thao túng thị trường chứng khoán, cố tình cung
cấp thông tin sai lệch, tạo cung cung cầu giả tạo để bóp méo, làm sai lệch giá cổ
195
phiếu. Nghiên cứu của Bilinski và Ctg (2013) cũng cung cấp bằng chứng thực nghiệm
cho thấy mức độ chính xác của công tác định giá cũng phụ thuộc vào yếu tố chủ quan
của nhà phân tích. Do vậy để nâng cao chất lượng và mức độ chính xác của công tác
định giá, các nhà phân tích cũng cần không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn,
và đảm bảo tính khách quan, chuyên nghiệp khi thực hiện công tác phân tích, định
giá và đưa ra các khuyến nghị đầu tư.
5.3. Hạn chế của luận án và các hướng nghiên cứu tiếp theo:
Do khó khăn khách quan trong việc tiếp cận và xử lý dữ liệu của các công ty
niêm yết và báo cáo phân tích định giá của các nhà đầu tư tổ chức trên TTCK Việt
Nam, nên luận án có một số hạn chế sau:
Thứ nhất, Trong mô hình kiểm định chỉ số R2 = 38, 4% (FEM- tác động cố định)
và 35,4% (REM - tác động ngẫu nhiên) như vậy các biến trong mô hình có mức độ
giải thích cho sự biến động P/E là tương đối thấp. Điều này, làm cho mô hình nghiên
cứu mới chỉ sử dụng được là mô hình khám phá các nhân tố đến hệ số P/E, chưa thể
sử dụng làm mô hình ước lượng hệ số P/E nhằm sử dụng để so sánh hoặc làm hệ số
P/E tham chiếu trong mô hình định giá so sánh.
Thứ hai, do không thể thu nhập dữ liệu điểm quản trị công ty (Corporate
Governance Score) chính xác của các công ty trong mẫu nghiên cứu trong khoảng
thời gian nghiên cứu. Do đó, NCS đã phải dùng thước đo dành cho biến giả (dummy
variable) đối với biến chất lượng quản trị công ty (CG). Điều này làm giảm mức độ
chính xác và đáng tin cậy của ước lượng tác động của chất lượng quản trị công ty đến
hệ số P/E.
Thứ ba, Luận án chủ yếu tập trung nghiên cứu tác động của các nhân tố cụ thể
của công ty và cổ phiếu; không tập trung nghiên cứu các nhân tố vĩ mô, ngoại trừ việc
sử dụng biến lãi suất cho vay (lending rate). Trong tương lai, NCS dự kiến tiến hành
nghiên cứu tác động của các nhân tố vĩ mô đến hệ số P/E, với dữ liệu và hệ số P/E và
các biến số kinh tế vĩ mô của nhiều quốc gia trên thế giới.
Thứ 4, Khi nghiên cứu tác động của yếu tố ngành đối với hệ số P/E, luận án mới
chỉ nghiên cứu tác động theo nhóm phân ngành lớn (tier 1 – Sectors) theo bộ tiêu chí
196
phân ngành của Global Industry Classification System (GICS); chưa nghiên cứu các
nhóm phân ngành hẹp hơn như : nhóm ngành (Industry groups), ngành (industries),
phân ngành (sub – industries) nên kết luận đưa ra chưa được đầy đủ và toàn diện.
Thứ năm, số lượng mẫu nghiên cứu dựa trên 160 báo cáo phân tích được các
công ty chứng khoán phát hành trong giai đoạn 2010 -2020, quy mô mẫu nghiên cứu
còn tương đối hạn chế. Ngoài ra, mẫu nghiên cứu cũng chưa bao gồm các báo cáo
phân tích nội bộ của các nhà đầu tư tổ chức với mục tiêu phục vụ cho các quyết định
đầu tư. NCS cũng chưa sử dụng phương pháp khảo sát và phỏng vấn sâu các nhà phân
tích để có thể đánh giá đầy đủ và toàn diện hơn về tình hình sử dụng các mô hình
định giá tại TTCK Việt Nam.
Các hạn chế này chính là những khoảng trống trong nghiên cứu mà NCS sẽ giải quyết
197
trong các nghiên cứu tiếp theo.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 5 Trên cơ sở các kết luận, NCS đưa ra các gợi ý, khuyến nghị cho các nhà đầu tư,
nhà phân tích về việc lựa chọn và sử dụng các mô hình định giá, sử dụng hệ số P/E
trong công tác định giá cổ phần và ra quyết định đầu tư tại thị trường chứng khoán
Việt Nam; các gợi ý đối với các cơ quan quản lý, doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu
quả của công tác định giá, gia tăng giá trị doanh nghiệp một cách bền vững. Chương
198
5 cũng đè cập những hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt:
1. Phạm Hữu Hồng Thái và Nguyễn Vũ Hồng Phượng 2015, ‘Nghiên cứu tỉ suất sinh lợi của
danh mục cổ phiếu giá trị và phần bù giá trị trên thị trường chứng khoán Việt Nam’, Tạp chí
Công nghệ Ngân hàng, số 108 (Tháng 3/2015), Trang 16 – 29.
2. Nguyễn Thị Hoàng Giang và Bùi Thị Hồng Nhung 2014, ‘Nghiên cứu áp dụng mô hình
định giá tương đối với các doanh nghiệp niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Thành phố
Hồ Chí Minh’, Tạp chí Khoa học và Phát triển, tập 12, số 3:446 – 455
3. Lê Tấn Phước 2016, Các nhân tố ảnh hưởng đến giá cổ phiếu niêm yết, Tạp chí Tài chính,
số tháng 8 năm 2016.
4. Lê Thị Tuyết Hoa 2016, Giáo trình thị trường tài chính và các định chế tài chính, Nhà xuất
bản Kinh tế TP. HCM.
5. Phạm Hữu Hồng Thái và Nguyễn Thành Đến 2017, Yếu tố tác động đến chỉ số P/E của các
công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán, Tạp chí Tài chính, kỳ 1 tháng 4/2017.
6. Nguyễn Thị Thục Đoan 2011, Ảnh hưởng của thông tin kế toán và các chỉ số tài chính đến
giá của các cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam, Tạp chí Công nghệ Ngân hàng
số 62(2011).
7. Trịnh Anh Khoa 2018, Các yếu tố tác động đến sự thay đổi giá cổ phiếu giao dịch trên sở
giao dịch chứng khoán Hà Nội, Tạp chí Tài chính, tải về từ https://tapchitaichinh.vn/kinh-te-
vi-mo/cac-yeu-to-tac-dong-den-su-thay-doi-gia-co-phieu-giao-dich-tren-so-giao-dich-
chung-khoan-ha-noi-136881.html
8. Trương Đông Lộc 2014, Các nhân tố ảnh hưởng đến sự thay đổi giá của cổ phiếu: Các bằng
chứng từ Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh, Tạp chí Khoa học Đại học
Cần Thơ.
9. Nguyễn Thị Khánh Phương 2015, Nghiên cứu mối quan hệ giữa thông tin kế toán và giá cổ
phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Kinh
tế Quốc Dân.
10. Vũ Thị Kim Liên 2003, Luận cứ khoa học về các phương pháp định giá cổ phiếu trên thị
trường chứng khoán Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Ngân hàng.
11. Trần Văn Dũng 2007, Hoàn thiện công tác định giá doanh nghiệp ở Việt nam, Luận án tiến
sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội.
12. Trần Nhân Phúc 2017, Nghiên cứu ảnh hưởng của mức xếp hạng quản trị công ty đối với
hiệu quả tài chính của công ty niêm yết trên SGDCK TP.HCM, Luận án tiến sĩ, Đại học
Kinh tế TP.HCM.
13. Báo cáo đánh giá thẻ điểm ACGS 2017-2018 đối với các công ty Việt Nam do Chương trình
Quản trị công ty Việt Nam của IFC tài trợ, trong khuôn khổ hợp tác cùng Ủy ban Chứng
khoán Nhà nước và Cục Kinh tế Liên bang Thụy Sỹ (SECO).
14. Nguyễn Quang Dong & Nguyễn Thị Minh 2013, Giáo trình Kinh tế lượng, NXB Đại học
Kinh tế Quốc dân
15. Phạm Thị Tuyết Trinh 2016, Kinh tế lượng ứng dụng trong kinh tế và tài chính, NXB Đại
học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.
16. Bộ Tài chính (2005). Hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam, Chuẩn mực số 30 : Lãi trên cổ
phiếu, Ban hành và công bố theo Quyết định số 100/2005/QĐ-BTC ngày 28/12/2005 của Bộ
trưởng Bộ Tài chính.
17. Bộ Tài Chính (2021). Thông tư số 28/2021/TT – BTC ngày 27 tháng 4 năm 2021 Ban hành
Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam số 12.
18. Quốc hội (2019). Luật chứng khoán số 59/2019/QH 14.
19. Quốc hội (2020). Luật Doanh nghiệp số 59/2020/QH14).
Tài liệu tiếng Anh:
20. Anderson, K & Brooks, C. 2005, ‘Decomposing the price – earnings ratio’, Journal of Asset
Management Vol.6,6, 456-469
21. Antalovschi, N. P. ., & Cox, R. A. K. 2021, ‘Financial Factors Affecting Price-to-Earnings
Ratios in Canada.’ International Journal of Finance, 6(2), 43–61.
https://doi.org/10.47941/ijf.660.
22. Afza, T., & Tahir, S. 2012, ‘Determinants Of Price-Earnings Ratio: The Case Of Chemical
Sector Of Pakistan’, International Journal of Academic Research in Business and Social
Sciences, 2(8), 331.
23. Amoako‐Adu, B. and Smith, B. 2002, ‘Analysis of P/E ratios and interest rates’, Managerial
Finance, Vol. 28 No. 4, pp. 48-59.
24. Arslan, H, Iltas, Y & Kayhan, T. 2017, ‘Target P/E ratio determinants in the Turkish Stock
Market: Earning volatility effect’, Theoretical and Applied Economics, Asociatia Generala
a Economistilor din Romania - AGER, vol. 0(4(613), W), pages 65-74, Winter.
25. Asian Development Bank 2019, ASEAN Corporate Governance Scorecard Country Reports
and Assessments 2019
26. Baltagi, B. H., & Baltagi, B. H. 2008, ‘Econometric analysis of panel data’ (Vol. 4).
Chichester: John Wiley & Sons.
27. Bancel, F., & Mittoo, U. R. 2014, ‘The Gap between the Theory and Practice of Corporate
Valuation: Survey of European Experts’, Journal of Applied Corporate Finance, 26(4), 106–
117. doi:10.1111/jacf.12095
28. Bank of America Merrill Lynch 2012, BofA Merrill Lynch Institutional Factor Survey 2012.
29. Basu, S. 1977, ‘Investment performance of common stocks in relation to their price‐earnings
ratios: A test of the efficient market hypothesis’, The journal of finance 32(3): 663-682.
30. Bauer, R., Guenster, N. & Otten, R 2004, ‘Empirical evidence on corporate governance in
Europe: The effect on stock returns, firm value and performance’, Jounal of Asset
Management 5, 91–104
31. Beaver, W., and Morse, D. 1978, ‘What Determines Price-Earnings Ratios?’, Financial
Analysts Journal, Vol.34, No.4, pp. 65-76.
32. Bilinski, P. Lyssimachou, D. & Walker, M. 2013. ‘Target Price Accuracy: International
Evidence’, The Accounting Review, Vol. 88, No. 3 (MAY 2013), pp. 825-851 (27 pages),
published by: American Accounting Association. https://www.jstor.org/stable/23526306
33. Block Stanley B. 1999, ‘A Study of Financial Analysts: Practice and Theory’. Financial
Analysts Journal, Vol. 55, No. 4 (Jul. - Aug., 1999), pp. 86-95 (10 pages),
https://www.jstor.org/stable/4480185
34. Bodie, Kane, Markus 2014, Investment, McGraw – Hill Education, New York.
35. Bonini. S, Zanetti. L, Bianchini. R & Salvi, A 2010, ‘Target Price Accuracy in Equity
Research’, Journal of Business Finance & Accounting 37(9‐10):1177 – 1217
DOI:10.1111/j.1468-5957.2010.02209.x
36. Bradshaw, M.T 2002, ‘The Use of Target Prices to Justify Sell-Side Analysts' Stock
Recommendations’. Accounting Horizons, 16(1), 27 -41
37. Frensidy. B, Pelealu. R. J & Robiyanto R 2020, ‘Analysis of Equity Valuation Models and
Target Price Accuracy: An Evidence From Analyst Reports in Indonesia’, SAGE Open, ,
vol. 10(4), pages 21582440209, October.
38. Burmeister. E, Roll. R & Ross.S.A 1994. ‘A Practitioner’s Guide to Arbitrage Pricing
Theory’, A Practitioner’s Guide to Factor Models. Charlottesville, VA: The Research
Foundation of the Institute of Chartered Financial Analysts.
39. Chahine, S. 2008, ‘Value versus growth stocks and earnings growth in style investing
strategies in Euro-markets’, Journal of Asset Management, 9(5), 347–358
40. Cho, J. Y. 1994, ‘Determinants of earnings – price ratios: a reexamination’, Review of
Financial Economics, 3(2), 105–120. doi:10.1002/j.1873-5924.1994.tb00575.x
41. Collins, D W. & Maydew, E L. & Weiss, I S., 1997. ‘Changes in the value-relevance of
earnings and book values over the past forty years’, Journal of Accounting and Economics,
Elsevier, vol. 24(1), pages 39-67, December.
42. Damodaran, A. 2012, Investment valuation, 2. Aufl., New York 817.
43. Damoradan, A 2016, Relative valuation across the entire market: Why not ?, Lecture notes
from: https://pages.stern.nyu.edu/adamodar/pdfiles/eqnotes/othermults.pdf
44. Demirakos. E, Strong. N C & Walker. M 2004, ‘What Valuation Models Do Analysts Use
?’ (December 31, 2004). Accounting Horizons, 18 (4), pp. 221-240, 2004, Available at
SSRN: https://ssrn.com/abstract=3479656
45. Demirakos, E. G., Strong, N. C., & Walker, M. 2010, ‘Does Valuation Model Choice Affect
Target Price Accuracy?’, European Accounting Review, 19(1), 35–72.
46. Dorsey, P. W. , Fiore A M, O’Reilly, I R.2019, ‘Introduction to Industry and Company
Analysis’ (Reading 49), Volume 5 Equity and Fix Income. CFA program curriculum 2019
Level 1. CFA Institute.
47. Dukes. W P, Peng. Z & English P C. 2006, ‘How Do Practitioners Value Common Stock?’.
The Journal of Investing Fall 2006, 15 (3) 90-104; DOI:
https://doi.org/10.3905/joi.2006.650148
48. Dutta, K. D., Saha, M., & Das, D. C. 2018, ‘Determinants of P/E Ratio: An empirical study
on listed manufacturing companies in DSE’, International Journal of Scientific and Research
Publications, 8(4), 167-174.
49. Erkilet, G. Janke, G. & Kasperzak, R 2021, ‘How valuation approach choice affects
financial analysts’ target price accuracy’. Journal of Business Economics (2021).
50. Fama, E F & French K R 1992, ‘The Cross – Section of Expected Stock Returns’, Journal
of Finance, vol. XLVII, no. 2, June 1992
51. Fama. E F & French. K R. 1993. ‘Common Risk Factors in the Returns on Stocks and
Bonds’, Journal of Financial Economics, vol. 33, no. 1:3–56.
52. Farah Freihat, A. R. 2019, ‘Factors affecting price to earnings ratio (P/E): Evidence from the
emerging market’, Risk Governance and Control: Financial Markets & Institutions, 9(2), 47-
56
53. Feltham, G. and J. Ohlson. 1995. ‘Valuation and Clean Surplus Accounting for Operating
and Financial Activities’, Contemporary Accounting Research 11, 689-731.
54. G20/OECD 2015, Principles of Corporate Governance
55. Graham, Benjamin 1973, The Intelligent Investor, Harpers & Row, New York.
56. Graham, B. & Dodd, D. L. F., & Cottle, S. 1934, Security analysis, McGraw-Hill, New York.
57. Gompers, PA, Ishii, J L & Metrick, A.2003, ‘Corporate Governance and Equity Prices’,
Quarterly Journal of Economics, Vol. 118, No. 1, pp. 107-155.
58. Gode, D., Ohlson, J.A. 2006, ‘A Unified Valuation Framework for Dividends, Free Cash
Flows, Residual Income, and Earnings Growth Based Models’, Working
paper, New York University, Arizona State University.
59. Gujarati, D. N. 2009, Basic econometrics, Tata McGraw-Hill Education.
60. Hand, J R. M.; Coyne J G ; Green, J R; Zhang X. F 2017, ‘The Use of Residual Income
Valuation Methods by U.S. Sell-Side Equity Analysts’. Journal of Financial
Reporting (2017) 2 (1): 1–29. https://doi.org/10.2308/jfir-51932
61. Huang A G & Wirjanto T S. 2021, ‘Is China’s P/E Ratio Too Low ? Examining the Role of
Earnings Volatility’, Pacific-Basin Finance Journal 20(2012) 41 – 61
62. Hsiao C. 2003, Analysis of Panel Data (Second Edition), Cambridge Press
63. Imam, S., Chan, J., Shah, S. Z. A. 2013, ‘Equity valuation models and target price accuracy
in Europe: Evidence from equity reports’, International Review of Financial Analysis, 28, 9–
19.
64. Jensen, M. C. 1986. ‘Agency costs of free cash flow, corporate finance, and takeovers’.
American Economic Review, 76, 323-329.
65. Jensen, M. C., & Meckling, W. H. 1976. ‘Theory of the firm: Managerial behavior,
agency costs, and ownership structure’. Journal of Financial Economics, 3, 305-
360.
66. Joint Initiative of the ASEAN Capital Markets Forum and the Asian Development Bank,
ASEAN Corporate Governance Scorecard Country Reports and Assessments 2012–2013.
67. Joint Initiative of the ASEAN Capital Markets Forum and the Asian Development Bank,
ASEAN Corporate Governance Scorecard Country Reports and Assessments 2013–2014
68. Joint Initiative of the ASEAN Capital Markets Forum and the Asian Development Bank,
ASEAN Corporate Governance Scorecard Country Reports and Assessments 2019
69. Joint Initiative of the ASEAN Capital Markets Forum and the Asian Development Bank,
ASEAN Corporate Governance Scorecard Country Reports and Assessments 2015
70. Kane, Marcus & Noh 1996, ‘The P/E Multiple and Market Volatility’, Financial Analysts Journal
Vol. 52, No. 4 (Jul. - Aug., 1996), pp. 16-24
71. Kerl, G, ‘Target Price Accuracy’ (April 1, 2011). BuR Business Research Journal, Vol. 1,
No. 1, pp. 74-96, March 2011, Available at SSRN: https://ssrn.com/abstract=1806927
72. Keynes, J. M. 1937. ‘The general theory of employment’, The quarterly journal of
economics, 51(2), 209-223.
73. Kisor Jr., M. and Whitbeck, V.S. 1963, ‘A New Tool in Investment Decision-Making’,
Financial Analysts Journal, 19, 55-62. https://doi.org/10.2469/faj.v19.n3.55
74. Krishnan, CNV và Chen,Y 2020, ‘The Relationship between Dividend Payout and Price-to-
Earnings’, Journal of Accounting and Finance, vol. 20(2), 2020, pp. 111-130, May 2020.
75. Kraus, A. and Litzenberger, R.H. (1973) A State-Reference Model of Optimal Financial
Leverage. The Journal of Finance, 28, 911-922.
76. Luo, Y., & Salterio, S. E. 2014, ‘Governance Quality in a “Comply or Explain” Governance
Disclosure Regime’, Corporate Governance: An International Review, 22(6), 460–481.
77. Lutfi, M., & Arsitha, J. 2016, ‘The Analysis of Factors Affecting Price Earnings Ratio on the
Company Shares Registered in Jakarta Islamic Index’, Academic Journal of Economic
Studies, 2(3), 55-63.
78. Lynch, P. 1989, One up on Wall Street: How To Use What You Already Know To Make
Money In The Market, Simon & Schuster.
79. McEnally, R. T, Kim, K. 2018, ‘Corporate Governance’ (Reading 25), Volume 3 Corporate
Finance, 2018 CFA program curriculum Level 2. CFA Institute
80. Malkiel, B G & Cragg, J G, 1970. ‘Expectations and the Structure of Share Prices’, American
Economic Review, American Economic Association, vol. 60(4), pages 601-617, September.
81. Markiel, B G 2007, A Random Walk Down Wall Street, W.W. Norton & Company, Inc.
82. Markowitz, H. 1952. ‘Portfolio selection’. The journal of finance, 7(1), 77-91.
83. Modigliani, F. & Miller, M.H. 1958, ‘The cost of capital, corporation finance and the
theory of investment’, The American economic review, 48 (3), 261-297.
84. Miller, M., & Modigliani, F. 1961. ‘Dividend policy, growth and the valuation of
shares’. Journal of Business, 34, 411-433
85. Modigliani, F & Miller, M.H. 1963, ‘Corporate income taxes and the cost of capital:
a correction’, The American economic review, 53 (3), 433-443.
86. Mishkin, F.S. 1996 ‘The channels of monetary transmission:Lessions for monetary policy’,
Working Paper 5464, National Bureau of Economics Research February 1996
87. Morris, J. R. 2009, ‘Life and death of businesses: A review of research on firm mortality’,
Journal of Business Valuation and Economic Loss Analysis, 4(1), 1-39
88. Nagorniak, J, J. Wilcox, S, E.2019, Equity Valuation: Concept and Basic Tools (Reading
49), Volume 5 Equity and Fix Income. CFA program curriculum 2019 Level 1. CFA
Institute.
89. Nicholson, S. F 1960, ‘Price – Earnings Ratios’, Financial Analysts Journal, 16:4, 43 – 45
90. Ohlson, J.A. 1995, ‘Earnings, Book Values, and Dividends in Equity Valuation’,
Contemporary Accounting Research 11, 661-687
91. Palepu, K.G., Healy, P.M., Bernard, V.L., 2000, Business Analysis and Valuation
Using Financial Statements, 2nd edition. South-Western, Cincinnati, OH.
92. Pastor. L, & Stambaugh. R F. 2003, ‘Liquidity Risk and Expected Stock Returns’, Journal
of Political Economy,vol. 111, no. 3:642–685.
93. Pinto, J, E. Henry, E. Robinson T,R. Stowe, J D. 2018, Equity valuation: Applications and
Processes (Reading 27), Volume 4 Equity, 2018 CFA program curriculum Level 2. CFA
Institute
94. Pinto, J, E. Henry, E. Robinson T,R. Stowe, J D. 2018, Market – Based Valuation: Price and
Enterprise Value Multiples (Reading 32), Volume 4 Equity. 2018 CFA program curriculum
Level 2 . CFA Institute
95. Pinto. J E, Robinson T R. & Stowe J D. 2019. ‘Equity valuation: A survey of professional
practice’, Review of Financial Economics, John Wiley & Sons, vol. 37(2), pages 219-233,
April.
96. Ramcharran, H. 2002, ‘An empirical analysis of the determinants of the P/E ratio in emerging
markets’, Emerging Markets Review, 3(2), 165-178.
97. Rasheed. A, Muhammad K S, Shahab-Ud D & Muhammad I . 2018. ‘How Do Investment
Banks Price Initial Public Offerings?’ An Empirical Analysis of Emerging
Market" International Journal of Financial Studies 6, no. 3: 77.
https://doi.org/10.3390/ijfs6030077
98. Reilly. F K, Brown, Keith C. 2012, ‘Investment Analysis & Portfolio Management’, South-
Western, Cengage Learning 2012
99. Reis, N P. M., & Augusto, G M. 2014, ‘Determinants Of Firm Terminal Value: The
Perspective Of North American And European Financial Analysts’. International Business
& Economics Research Journal (IBER), 13(4), 793–808.
https://doi.org/10.19030/iber.v13i4.8687
Roosenboom, P., & Thomas, J. 2007, ‘How Do Underwriters Value Initial Public 100.
Offerings? An Empirical Analysis of the French IPO Market’, Contemporary Accounting
Research, 24(4), 1217–1243. doi:10.1506/car.24.4.7
Ross, S A (1976), ‘The arbitrage theory of capital asset pricing’, Journal of economic 101.
theory 13.3 (1976): 341-360.
Sayed, S.A. 2017, ‘How much does valuation model choice matter? Target price 102.
accuracy of PE and DCF model in Asian emerging markets’, Journal of Accounting in
Emerging Economies, Vol. 7 No. 1, pp. 90-107. https://doi.org/10.1108/JAEE-10-2014-0055
Schmidt, J 2022, The process of determining the present value of a company or an 103.
asset, Available from
https://corporatefinanceinstitute.com/resources/uncategorized/valuation/ (29/9/2022).
Schreiner, A 2007, Equity Valuation Using Multiples: An Empirical Investigation, 104.
Doctor of Business Administration Dissertation. University of St. Gallen.
Shamsuddin, A. F. M., & Hillier, J. R. 2004, ‘Fundamental determinants of the 105.
Australian price–earnings multiple’, Pacific-Basin Finance Journal, 12(5), 565–
576. doi:10.1016/j.pacfin.2004.02.001
Sharma, D. S. 2011, ‘Determinants of Equity Share Prices In India’, Journal of Arts, 106.
Science & Commerce, 2(4), 51-60
107. Sharpe, W. F. (1964), ‘Capital asset prices: A theory of market equilibrium under
conditions of risk’, The journal of finance, 19(3), 425-442.
108. Xun, L White, H. ‘Robustness tests and robustness tests in application.’ Journal of
Econometrics 178 (2014): 194-206).
109. Williams, J. B. 1938, The theory of investment value (Vol. 36), Cambridge, MA: Harvard
University Press.
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1 CÁC BẢNG SỐ LIỆU, DỮ LIỆU PHÂN TÍCH TỪ PHẦN MỀM STATA
Bảng 1: Thống kê mô tả các biến trong mô hình nghiên cứu:
Bảng 2: Ma trận hệ số tương quan các biến trong mô hình nghiên cứu
Bảng 03: Kết quả phân tích hồi quy theo Mô hình Bình phương nhỏ nhất (Ordinary Least Square – OLS)
Bảng 04: Kiểm định hiện tượng nội sinh đối với Mô hình Bình phương nhỏ nhất (Ordinary Least Square – OLS)
Bảng 05: Kết quả phân tích hồi quy theo Mô hình tác động cố định (Fixed effects model)
Bảng 06: Kết quả phân tích hồi quy theo Mô hình tác động ngẫu nhiên (Random effects model)
Bảng 07: Kết quả phân tích hồi quy theo Mô hình Bình phương tối thiểu tổng quát (Generalized least squares – GLS)
Bảng 08: Kết quả phân tích hồi quy theo Mô hình Bình phương tối thiểu tổng quát (Generalized least squares – GLS) dành cho nhóm cổ phiếu quy mô lớn
Bảng 09: Kết quả phân tích hồi quy theo Mô hình Bình phương tối thiểu tổng quát (Generalized least squares – GLS) dành cho nhóm cổ phiếu quy mô nhỏ
Bảng 10: Kết quả phân tích hồi quy dựa trên số mẫu EPS nhỏ hơn 500 đ
Bổ sung tác động BVPS đến P/E ( với các công ty có EPS< 500 đồng)
Kết quả phân tích tương quan cho thấy BVPS có hệ số tương quan dương, điều này có
nghĩa là BVPS có tương quan thận chiều với P/E
P/E
BVPS
P/E BVPS 1 0.1333 1
Hệ số hồi quy của PVPS >0 với mức ý nghĩa <0.05 do đó biến này có tác động cùng chiều
có ý nghĩa thống kê với P/E. Với hệ số hồi quy là 0.00066 có nghĩa là khi giá trị sổ sách tăng
lên 1 đồng, trong điều kiện các yêu tố khác không đổi thì P/E sẽ tăng lên 0.00066 đơn vị, nói
cách khác khi các yếu tố khác không đổi thì BVPS tăng lên hặc giảm đi 1 ngàn đồng thì làm
cho tỷ số P/E tăng lên hoặc giảm đi 0.66 đơn vị
Biến độc lập Hệ số beta
Biến Phụ thuộc P/E BVPS 0.00066 Giá trị tới hạn (t) 3.30 Mức ý nghĩa (P.value) 0.001
PHỤ LỤC 2: DANH SÁCH CÔNG TY NIÊM YẾT TRONG MẪU NGHIÊN CỨU CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HỆ SỐ P/E
STT MCK Tên công ty
1 2 3 4 5 6 7 AAA CTCP Nhựa An Phát Xanh AAM CTCP Thủy sản MeKong ABT CTCP Xuất nhập khẩu Thủy sản Bến Tre ACC CTCP Đầu tư và Xây dựng Bình Dương ACC ACL CTCP Xuất nhập khẩu Thủy sản Cửu Long An Giang AGR CTCP Chứng khoán Agribank ALT CTCP Văn hóa Tân Bình Nơi niêm yết và giao dịch HOSE HOSE HOSE HOSE HOSE HOSE HNX
8 AMV
9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 CTCP Sản xuất Kinh doanh Dược và Trang thiết bị Y tế Việt Mỹ ANV CTCP Nam Việt APC CTCP Chiếu xạ An Phú APG CTCP Chứng khoán APG API CTCP Đầu tư Châu Á - Thái Bình Dương APS CTCP Chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương ARM CTCP Xuất nhập khẩu Hàng không ASM CTCP Tập đoàn Sao Mai ASP CTCP Tập đoàn Dầu khí An Pha BBS CTCP VICEM Bao bì Bút Sơn BCE CTCP Xây dựng và Giao thông Bình Dương BED CTCP Sách và Thiết bị Trường học Đà Nẵng BKC CTCP khoáng sản Bắc Kạn BLF CTCP Thủy sản Bạc Liêu BMC CTCP Khoáng sản Bình Định BMI Tổng Công ty cổ phần Bảo Minh BMP CTCP Nhựa Bình Minh BPC CTCP VICEM Bao bì Bỉm Sơn BRC CTCP Cao su Bến Thành BTT CTCP Thương mại Dịch vụ Bến Thành BTW CTCP Cấp nước Bến Thành BVH Tập đoàn Bảo Việt BVS CTCP Chứng khoán Bảo Việt BXH CTCP VICEM Bao bì Hải Phòng C47 CTCP Xây dựng 47 CAN CTCP Đồ hộp Hạ Long CAP CTCP Lâm Nông sản Thực phẩm Yên Bái CCI CTCP Đầu tư Phát triển Công nghiệp Thương mại Củ Chi HNX HOSE HOSE HOSE HNX HNX HNX HOSE HOSE HNX HOSE HNX HNX HNX HOSE HOSE HOSE HNX HOSE HOSE HNX HOSE HNX HNX HOSE HNX HNX HOSE
36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 HOSE HOSE HOSE HNX HOSE HOSE HNX HOSE HNX HOSE HOSE HOSE HOSE HNX HNX HOSE HNX HNX HOSE HOSE HOSE HOSE
58 CTX CCL CTCP Đầu Tư và Phát triển Đô Thị Dầu khí Cửu Long CDC CTCP Chương Dương CII CTCP Đầu tư Hạ tầng Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh CKV CTCP COKYVINA CLC CTCP Cát Lợi CLW CTCP Cấp nước Chợ Lớn CMC CTCP Đầu tư CMC CMG CTCP Tập đoàn Công nghệ CMC CMS CTCP Tập Đoàn CMH VIETNAM CMV CTCP Thương nghiệp Cà Mau CMX CTCP Camimex Group CNG CTCP CNG Việt Nam COM CTCP Vật tư Xăng Dầu CPC CTCP Thuốc sát trùng Cần Thơ CSC CTCP Tập đoàn COTANA CSM CTCP Công nghiệp Cao su Miền Nam CTB CTCP Chế tạo Bơm Hải Dương CTC CTCP Tập đoàn Hoàng Kim Tây Nguyên CTD CTCP Xây dựng Coteccons CTG Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam CTI CTCP Đầu tư Phát triển Cường Thuận IDICO CTS CTCP Chứng khoán Ngân hàng Công thương Việt Nam Tổng Công ty cổ phần Đầu tư Xây dựng và Thương mại Việt Nam
59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 CVN CTCP Vinam CX8 CTCP Đầu tư và Xây lắp Constrexim Số 8 D11 CTCP Địa ốc 11 D2D CTCP Phát triển Đô thị Công nghiệp số 2 DAD CTCP Đầu tư và Phát triển Giáo dục Đà Nẵng DAG CTCP Tập đoàn Nhựa Đông Á DC2 CTCP Đầu tư - Phát triển - Xây dựng (DIC) Số 2 DCL CTCP Dược phẩm Cửu Long DHA CTCP Hóa An DHC CTCP Đông Hải Bến Tre DHG CTCP Dược Hậu Giang DHM CTCP Thương mại và Khai thác Khoáng sản Dương Hiếu DHP CTCP Điện cơ Hải Phòng DHT CTCP Dược phẩm Hà Tây DIG Tổng Công ty cổ phần Đầu tư Phát triển Xây dựng DIH CTCP Đầu tư Phát triển Xây dựng - Hội An DLG CTCP Tập đoàn Đức Long Gia Lai HNX HNX HNX HNX HOSE HNX HOSE HNX HOSE HOSE HOSE HOSE HOSE HNX HNX HOSE HNX HOSE
76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 DMC CTCP Xuất nhập khẩu Y Tế Domesco DNC CTCP Điện Nước Lắp máy Hải Phòng DNM Tổng Công ty cổ phần Y tế DANAMECO DNP CTCP DNP Holding DPM Tổng Công ty Phân bón và Hóa chất Dầu khí - CTCP DPR CTCP Cao su Đồng Phú DQC CTCP Bóng đèn Điện Quang DRC CTCP Cao su Đà Nẵng DRH CTCP DRH Holdings DRL CTCP Thủy điện - Điện Lực 3 DSN CTCP Công viên nước Đầm Sen DTA CTCP Đệ Tam DTL CTCP Đại Thiên Lộc DTT CTCP Kỹ nghệ Đô Thành DVP CTCP Đầu tư và Phát triển Cảng Đình Vũ DXG CTCP Tập đoàn Đất Xanh DXP CTCP Cảng Đoạn Xá DXV CTCP VICEM Vật liệu Xây dựng Đà Nẵng EBS CTCP Sách Giáo dục tại Thành phố Hà Nội EIB Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam EID CTCP Đầu tư và Phát triển Giáo dục Hà Nội ELC CTCP Công Nghệ - Viễn Thông Elcom EVE CTCP Everpia FCM CTCP Khoáng sản FECON FCN CTCP FECON HOSE HNX HNX HNX HOSE HOSE HOSE HOSE HOSE HOSE HOSE HOSE HOSE HOSE HOSE HOSE HNX HOSE HNX HOSE HNX HOSE HOSE HOSE HOSE
101 FDC CTCP Ngoại thương và Phát triển Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh
FLC CTCP Tập đoàn FLC FMC CTCP Thực phẩm Sao Ta FPT CTCP FPT GAS Tổng Công ty Khí Việt Nam - CTCP
102 103 104 105 106 GDT CTCP Chế biến Gỗ Đức Thành HOSE HOSE HOSE HOSE HOSE HOSE
107 GIL CTCP Sản xuất Kinh doanh và Xuất nhập khẩu Bình Thạnh
GLT CTCP Kỹ thuật Điện Toàn cầu
108 109 GMC CTCP Garmex Sài Gòn 110 GMD CTCP Gemadept 111 GMX CTCP Gạch ngói Gốm Xây dựng Mỹ Xuân GSP CTCP Vận tải Sản Phẩm Khí Quốc tế 112 113 GTA CTCP Chế biến gỗ Thuận An 114 HAD CTCP Bia Hà Nội - Hải Dương HOSE HNX HOSE HOSE HNX HOSE HOSE HNX
115 HAG CTCP Hoàng Anh Gia Lai 116 117 HAI CTCP Nông dược H.A.I HAP CTCP Tập đoàn Hapaco HOSE HOSE HOSE
118 HAR
CTCP Đầu tư Thương mại Bất động sản An Dương Thảo Điền HAS CTCP Hacisco
HJS CTCP Thủy điện Nậm Mu HLC CTCP Than Hà Lầm - Vinacomin
HPG CTCP Tập đoàn Hòa Phát HSG CTCP Tập đoàn Hoa Sen HT1 CTCP Xi Măng Vicem Hà Tiên HTC CTCP Thương mại Hóc Môn HTI CTCP Đầu tư Phát triển Hạ tầng IDICO HTL CTCP Kỹ thuật và Ô tô Trường Long
HU1 CTCP Đầu tư và Xây dựng HUD1 HU3 CTCP Đầu tư và Xây dựng HUD3
119 120 HAT CTCP Thương mại Bia Hà Nội 121 HAX CTCP Dịch vụ Ô tô Hàng Xanh 122 HBC CTCP Tập đoàn Xây dựng Hòa Bình HBS CTCP Chứng khoán Hòa Bình 123 124 HCC CTCP Bê tông Hòa Cầm - Intimex 125 HCM CTCP Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh 126 HDA CTCP Hãng sơn Đông Á 127 HDC CTCP Phát triển Nhà Bà Rịa - Vũng Tàu 128 HDG CTCP Tập đoàn Hà Đô 129 HHC CTCP Bánh kẹo Hải Hà 130 HHG CTCP Hoàng Hà 131 132 133 HLD CTCP Đầu tư và Phát triển Bất động sản HUDLAND 134 HMC CTCP Kim khí Thành phố Hồ Chí Minh - VNSTEEL 135 HMH CTCP Hải Minh 136 HOT CTCP Du lịch Dịch vụ Hội An 137 138 139 140 141 142 143 HTV CTCP Logistics Vicem 144 145 146 HUT CTCP Tasco 147 HVT CTCP Hóa chất Việt Trì 148 149 150 151 152 153 154 IDI CTCP Đầu tư và Phát triển Đa Quốc Gia - IDI IDJ CTCP Đầu tư IDJ Việt Nam IDV CTCP Phát triển Hạ tầng Vĩnh Phúc IJC CTCP Phát triển Hạ tầng Kỹ thuật IMP CTCP Dược phẩm Imexpharm ITC CTCP Đầu tư và Kinh doanh Nhà ITD CTCP Công nghệ Tiên Phong HOSE HOSE HNX HOSE HOSE HNX HNX HOSE HNX HOSE HOSE HNX HNX HNX HNX HNX HOSE HNX HOSE HOSE HOSE HOSE HNX HOSE HOSE HOSE HOSE HOSE HNX HNX HOSE HNX HNX HOSE HOSE HOSE HOSE
ITQ CTCP Tập đoàn Thiên Quang JVC CTCP Thiết bị Y tế Việt Nhật
KHP CTCP Điện lực Khánh Hòa
KLF CTCP Đầu tư Thương mại và Xuất nhập khẩu CFS
KSB CTCP Khoáng sản và Xây dựng Bình Dương KST CTCP KASATI KTS CTCP Đường Kon Tum KTT CTCP Tập đoàn Đầu tư KTT L10 CTCP Lilama 10 L14 CTCP Licogi 14 L18 CTCP Đầu tư và Xây dựng Số 18 L35 CTCP Cơ khí Lắp máy Lilama L61 CTCP Lilama 69-1 LAF CTCP Chế biến hàng Xuất khẩu Long An LAS CTCP Supe Phốt phát và Hóa chất Lâm Thao LBM CTCP Khoáng sản và Vật liệu Xây dựng Lâm Đồng LCD CTCP Lắp máy - Thí nghiệm Cơ điện LCG CTCP Lizen LCS CTCP Licogi 166 LDP CTCP Dược Lâm Đồng (Ladophar) LGC CTCP Đầu tư Cầu đường CII LGL CTCP Đầu tư và Phát triển Đô thị Long Giang LHC CTCP Đầu tư và Xây dựng Thủy lợi Lâm Đồng LHG CTCP Long Hậu LIG CTCP Licogi 13 LIX CTCP Bột Giặt Lix LSS CTCP Mía Đường Lam Sơn
155 156 157 KBC Tổng Công ty Phát triển Đô thị Kinh Bắc - CTCP 158 KDC CTCP Tập đoàn KIDO 159 KDH CTCP Đầu tư và Kinh doanh Nhà Khang Điền 160 161 KKC CTCP Tập Đoàn Thành Thái 162 163 KMR CTCP Mirae 164 KMT CTCP Kim khí Miền Trung 165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 182 183 184 185 186 187 188 MAC CTCP Cung ứng và Dịch vụ Kỹ thuật Hàng Hải 189 MAS CTCP Dịch vụ Hàng không Sân bay Đà Nẵng 190 MBB Ngân hàng TMCP Quân Đội 191 MCC CTCP Gạch ngói Cao cấp 192 MCF CTCP Xây lắp Cơ khí và Lương thực Thực phẩm 193 MCP CTCP In và Bao bì Mỹ Châu 194 MDC CTCP Than Mông Dương - Vinacomin 195 MDG CTCP Miền Đông HNX HOSE HOSE HOSE HOSE HOSE HNX HNX HOSE HNX HOSE HNX HNX HNX HOSE HNX HNX HNX HNX HOSE HNX HOSE HNX HOSE HNX HNX HOSE HOSE HNX HOSE HNX HOSE HOSE HNX HNX HOSE HNX HNX HOSE HNX HOSE
NSC CTCP Tập đoàn Giống cây trồng Việt Nam NST CTCP Ngân Sơn NT2 CTCP Điện lực Dầu khí Nhơn Trạch 2 NTL CTCP Phát triển Đô thị Từ Liêm NTP CTCP Nhựa Thiếu niên Tiền Phong
196 MHC CTCP MHC 197 MHL CTCP Minh Hữu Liên 198 MSN CTCP Tập đoàn Masan 199 NAV CTCP Nam Việt 200 NBB CTCP Đầu tư Năm Bảy Bảy 201 NBC CTCP Than Núi Béo - Vinacomin NBP CTCP Nhiệt điện Ninh Bình 202 203 NBW CTCP Cấp nước Nhà Bè 204 NDN CTCP Đầu tư Phát triển Nhà Đà Nẵng 205 NDX CTCP Xây lắp Phát triển Nhà Đà Nẵng 206 NET CTCP Bột giặt NET 207 NHC CTCP Gạch ngói Nhị Hiệp 208 NKG CTCP Thép Nam Kim 209 NLG CTCP Đầu tư Nam Long 210 211 212 213 214 215 OGC CTCP Tập đoàn Đại Dương 216 ONE CTCP Truyền thông Số 1 217 218 219 220 221 222 223 224 225 226 227 228 229 230 231 232 233 234 235 236 OPC CTCP Dược phẩm OPC PAC CTCP Pin Ắc quy Miền Nam PAN CTCP Tập đoàn Pan PCG CTCP Đầu tư Phát triển Gas Đô thị PDN CTCP Cảng Đồng Nai PDR CTCP Phát triển Bất động sản Phát Đạt PET Tổng Công ty cổ phần Dịch vụ Tổng hợp Dầu khí PGC Tổng Công ty Gas Petrolimex - CTCP PGD CTCP Phân phối khí thấp áp Dầu khí Việt Nam PGI Tổng Công ty cổ phần Bảo hiểm Petrolimex PGS CTCP Kinh doanh Khí Miền Nam PHR CTCP Cao su Phước Hòa PJC CTCP Thương mại và Vận tải Petrolimex Hà Nội PJT CTCP Vận tải Xăng dầu đường Thủy Petrolimex PLC Tổng Công ty Hóa dầu Petrolimex - CTCP PMC CTCP Dược phẩm Dược liệu Pharmedic PMS CTCP Cơ khí Xăng dầu PNJ CTCP Vàng bạc Đá quý Phú Nhuận POM CTCP Thép Pomina POT CTCP Thiết bị Bưu điện HOSE HNX HOSE HOSE HOSE HNX HNX HNX HNX HNX HNX HNX HOSE HOSE HOSE HNX HOSE HOSE HNX HOSE HNX HOSE HOSE HOSE HNX HOSE HOSE HOSE HOSE HOSE HOSE HNX HOSE HNX HOSE HNX HNX HNX HOSE HOSE HNX
PPC CTCP Nhiệt điện Phả Lại PPP CTCP Dược phẩm Phong Phú PPS CTCP Dịch vụ Kỹ thuật Điện lực Dầu khí Việt Nam PSC CTCP Vận tải và Dịch vụ Petrolimex Sài Gòn PSD CTCP Dịch vụ Phân phối Tổng hợp Dầu khí PSI CTCP Chứng khoán Dầu khí ptb CTCP Phú Tài ptc CTCP Đầu Tư Icapital ptd CTCP Thiết kế Xây dựng Thương mại Phúc Thịnh PTS CTCP Vận tải và Dịch vụ Petrolimex Hải Phòng PV2 CTCP Đầu tư PV2 PVB CTCP Bọc ống Dầu khí Việt Nam PVG CTCP Kinh doanh LPG Việt Nam PVS Tổng Công ty cổ phần Dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí Việt Nam PVT Tổng Công ty cổ phần Vận tải Dầu khí
237 238 239 240 241 242 243 244 245 246 247 248 249 250 251 252 QCG CTCP Quốc Cường Gia Lai 253 QHD CTCP Que hàn điện Việt Đức 254 255 256 257 258 259 260 261 262 263 264 265 266 267 268 269 270 271 272 273 274 275 276 277 QTC CTCP Công trình Giao thông Vận tải Quảng Nam RAL CTCP Bóng đèn Phích nước Rạng Đông RCL CTCP Địa ốc Chợ Lớn REE CTCP Cơ Điện Lạnh S55 CTCP Sông Đà 505 SAF CTCP Lương thực Thực phẩm Safoco SAM CTCP SAM HOLDINGS SAV CTCP Hợp tác Kinh tế và Xuất nhập khẩu Savimex SBA CTCP Sông Ba SBT CTCP Thành Thành Công - Biên Hòa SC5 CTCP Xây dựng Số 5 SCR CTCP Địa ốc Sài Gòn Thương Tín SD4 CTCP Sông Đà 4 SD5 CTCP Sông Đà 5 SD6 CTCP Sông Đà 6 SDA CTCP Simco Sông Đà SDG CTCP Sadico Cần Thơ SDN CTCP Sơn Đồng Nai SDT CTCP Sông Đà 10 SEB CTCP Đầu tư và Phát triển Điện Miền Trung SED CTCP Đầu tư và Phát triển Giáo dục Phương Nam SFC CTCP Nhiên liệu Sài Gòn SFI CTCP Đại lý Vận tải SAFI SGC CTCP Xuất nhập khẩu Sa Giang HOSE HNX HNX HNX HNX HNX HOSE HOSE HNX HNX HNX HNX HNX HNX HOSE HOSE HNX HNX HOSE HNX HOSE HNX HNX HOSE HOSE HOSE HOSE HOSE HOSE HNX HNX HNX HNX HNX HNX HNX HNX HNX HOSE HOSE HNX
278 279 280 281 282 283 284 285 286 287 288 289 SGD CTCP Sách Giáo dục tại Thành phố Hồ Chí Minh SGH CTCP Khách sạn Sài Gòn SGT CTCP Công nghệ Viễn Thông Sài Gòn SHA CTCP Sơn Hà Sài Gòn SHI CTCP Quốc tế Sơn Hà SHP CTCP Thủy điện Miền Nam SHS CTCP Chứng khoán Sài Gòn - Hà Nội SIC CTCP ANI SII CTCP Hạ tầng Nước Sài Gòn SJ1 CTCP Nông nghiệp Hùng Hậu SJD CTCP Thủy điện Cần Đơn SJE CTCP Sông Đà 11 HNX HNX HOSE HOSE HOSE HOSE HNX HNX HOSE HNX HOSE HNX
290 SJS CTCP Đầu tư Phát triển Đô thị và Khu công nghiệp Sông Đà
291 292 293 294 295 296 297 298 299 300 301 302 SLS CTCP Mía Đường Sơn La SMA CTCP Thiết bị Phụ tùng Sài Gòn SMC CTCP Đầu tư Thương mại SMC SMT CTCP Sametel SPI CTCP Spiral Galaxy SPM CTCP SPM SRA CTCP Sara Việt Nam SRC CTCP Cao su Sao Vàng SRF CTCP Searefico SSC CTCP Giống cây trồng Miền Nam ST8 CTCP Siêu Thanh STB Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín HOSE HNX HOSE HOSE HNX HNX HOSE HNX HOSE HOSE HOSE HOSE HOSE
303 STC CTCP Sách và Thiết bị Trường học Thành phố Hồ Chí Minh
304 305 306 307 308 309 310 311 312 313 314 315 316 STG CTCP Kho vận Miền Nam STP CTCP Công nghiệp Thương mại Sông Đà SVC CTCP Dịch vụ Tổng hợp Sài Gòn SVI CTCP Bao bì Biên Hòa SVN CTCP Tập đoàn Vexilla Việt Nam SZL CTCP Sonadezi Long Thành TBC CTCP Thủy điện Thác Bà TBX CTCP Xi măng Thái Bình TC6 CTCP Than Cọc Sáu - Vinacomin TCL CTCP Đại lý Giao nhận Vận tải Xếp dỡ Tân Cảng TCM CTCP Dệt may - Đầu tư - Thương mại Thành Công TCO CTCP Vận tải Đa phương thức Duyên Hải TCT CTCP Cáp treo Núi Bà Tây Ninh HNX HOSE HNX HOSE HOSE HNX HOSE HOSE HNX HNX HOSE HOSE HOSE HOSE
317 318 319 320 321 322 323 324 325 TDC CTCP Kinh doanh và Phát triển Bình Dương TDH CTCP Phát triển Nhà Thủ Đức TDN CTCP Than Đèo Nai - Vinacomin TDW CTCP Cấp nước Thủ Đức THB CTCP Bia Hà Nội - Thanh Hóa THG CTCP Đầu tư và Xây dựng Tiền Giang THS CTCP Thanh Hoa - Sông Đà THT CTCP Than Hà Tu - Vinacomin TIG CTCP Tập đoàn Đầu tư Thăng Long HOSE HOSE HNX HOSE HNX HOSE HNX HNX HNX
326 TIX CTCP Sản xuất Kinh doanh Xuất nhập khẩu Dịch vụ và Đầu tư Tân Bình
327 328 329 330 331 332 333 334 335 336 337 338 339 340 341 342 343 344 345 346 347 348 349 350 351 TKC CTCP Xây dựng và Kinh doanh Địa ốc Tân Kỷ TKU CTCP Công nghiệp Tung Kuang TLG CTCP Tập đoàn Thiên Long TLH CTCP Tập đoàn Thép Tiến Lên TMC CTCP Thương mại Xuất nhập khẩu Thủ Đức TMP CTCP Thủy điện Thác Mơ TMS CTCP Transimex TMX CTCP VICEM Thương mại Xi măng TNA CTCP Thương mại Xuất nhập khẩu Thiên Nam TNC CTCP Cao su Thống Nhất TNG CTCP Đầu tư và Thương mại TNG TNT CTCP Tập đoàn TNT TPC CTCP Nhựa Tân Đại Hưng TPH CTCP In sách giáo khoa tại Thành phố Hà Nội TPP CTCP Tân Phú Việt Nam TRA CTCP Traphaco TRC CTCP Cao su Tây Ninh TSB CTCP Ắc quy Tia Sáng TSC CTCP Vật tư Kỹ thuật nông nghiệp Cần Thơ TTF CTCP Tập đoàn Kỹ nghệ gỗ Trường Thành TV3 CTCP Tư vấn Xây dựng Điện 3 TV4 CTCP Tư vấn Xây dựng Điện 4 TVD CTCP Than Vàng Danh - Vinacomin TXM CTCP VICEM Thạch cao Xi măng TYA CTCP Dây và Cáp Điện Taya Việt Nam HOSE HNX HNX HOSE HOSE HNX HOSE HOSE HNX HOSE HOSE HNX HOSE HOSE HNX HNX HOSE HOSE HNX HOSE HOSE HNX HNX HNX HNX HOSE
352 UDC CTCP Xây dựng và Phát triển Đô thị Tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu
353 354 355 UIC CTCP Đầu tư Phát triển Nhà và Đô thị IDICO UNI CTCP Đầu Tư Và Phát Triển Sao Mai Việt V12 CTCP Xây dựng Số 12 HOSE HOSE HNX HNX
VC1 CTCP Xây dựng Số 1 VC2 CTCP Đầu tư và Xây dựng Vina2 VC3 CTCP Tập đoàn Nam Mê Kông VC6 CTCP Xây dựng và Đầu tư Visicons VC7 CTCP Tập đoàn BGI VC9 CTCP Xây dựng số 9 - VC9
356 V21 CTCP Vinaconex 21 357 VBC CTCP Nhựa - Bao bì Vinh 358 359 360 361 362 363 364 VCB Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam 365 VCC CTCP Vinaconex 25 366 VCF CTCP Vinacafé Biên Hòa HNX HNX HNX HNX HNX HNX HNX HNX HOSE HNX HOSE
367 VCG Tổng Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu và Xây dựng Việt Nam
VCS CTCP Vicostone VDS CTCP Chứng khoán Rồng Việt VE1 CTCP Xây dựng Điện VNECO 1 VE3 CTCP Xây dựng Điện VNECO 3 VE8 CTCP Xây dựng Điện VNECO 8 VFG CTCP Khử trùng Việt Nam VGP CTCP Cảng Rau Quả VGS CTCP Ống thép Việt Đức VG PIPE
368 VCM CTCP Nhân lực và Thương mại Vinaconex 369 370 371 372 373 374 375 376 377 VHC CTCP Vĩnh Hoàn 378 VHL CTCP Viglacera Hạ Long 379 380 VIC Tập đoàn VINGROUP - CTCP VID CTCP Đầu tư Phát triển Thương mại Viễn Đông HOSE HNX HNX HOSE HNX HNX HNX HOSE HNX HNX HOSE HNX HOSE HOSE
381 VIG CTCP Chứng khoán Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
VIP CTCP Vận tải Xăng dầu Vipco VIT CTCP Viglacera Tiên Sơn
VNF CTCP Vinafreight
382 383 384 VKC CTCP VKC Holdings 385 VMC CTCP Vimeco 386 VMD CTCP Y Dược phẩm Vimedimex 387 VNC CTCP Tập đoàn Vinacontrol 388 VNE Tổng Công ty cổ phần Xây dựng Điện Việt Nam 389 390 VNG CTCP Du lịch Thành Thành Công 391 VNL CTCP Logistics Vinalink 392 VNM CTCP Sữa Việt Nam 393 VNS CTCP Ánh Dương Việt Nam 394 VNT CTCP Giao nhận Vận tải Ngoại thương HNX HOSE HNX HNX HNX HOSE HNX HOSE HNX HOSE HOSE HOSE HOSE HNX
VOS CTCP Vận tải Biển Việt Nam VPH CTCP Vạn Phát Hưng
395 396 397 VRC CTCP Bất động sản và Đầu tư VRC VSC CTCP Container Việt Nam 398 VSI CTCP Đầu tư và Xây dựng Cấp thoát nước 399 VTB CTCP Viettronics Tân Bình 400 VTC CTCP Viễn thông VTC 401 402 VTL CTCP Vang Thăng Long 403 VTO CTCP Vận tải Xăng dầu Vitaco 404 VTV CTCP Năng lượng và Môi trường VICEM 405 WCS CTCP Bến xe Miền Tây 406 WSS CTCP Chứng khoán Phố Wall HOSE HOSE HOSE HOSE HOSE HOSE HNX HNX HOSE HNX HNX HNX
PHỤ LỤC 3: DANH MỤC CÁC BÁO CÁO PHÂN TÍCH ĐƯỢC SỬ DỤNG LÀM MẪU NGHIÊN CỨU CHO PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH NỘI DUNG
STT Tên công ty được định giá Mã CK Ngày định giá Nơi niêm yết/giao dịch Tên tổ chức định giá
HOSE ACBS 31/03/2010 1 CTCP Bibica BBC
- ACBS 11/05/2018 CTCP Thực phẩm đông lạnh FIDO FOODS 2 KDF
HOSE ACBS 25/06/2019 3 CTCP May Sông Hồng MSH Lĩnh vực kinh doanh Thực phẩm Thực phẩm May mặc
HOSE ACBS 01/06/2018 4 MWG
HOSE ACBS 10/02/2017 CTCP ĐẦU TƯ THẾ GIỚI DI ĐỘNG CTCP tập đoàn đầu tư địa ốc No Va 5 NVL
HOSE ACBS 17/11/2016
6 CTCP Xây lắp điện 1 7 CTCP Đường Quảng Ngãi
HOSE ACBS 29/11/2016 TCT Cổ phần Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn 8 SAB
HOSE ACBS 13/06/2018 9 CTCP Dịch vụ hàng hóa Sài Gòn SCS
ACBS 11/04/2019 HOSE Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam 10 TCB
ACBS 08/02/2018 HOSE 11 CTCP VĨNH HOÀN VHC
ACBS 16/05/2018 HOSE 12 CTCP VINHOMES VHM
ACBS 01/10/2018 HOSE 13 Tập đoàn VINGROUP VIC
12/09/2013 HNX BSC 14 CTCP XI MĂNG BỈM SƠN BCC
06/08/2016 HOSE BSC 15 Bán lẻ Bất động sản Công nghiệp PC1 QNS UPCOM Sản xuất ACBS 14/12/2016 Thực phẩm Công nghiệp Ngân hàng Thủy sản Bất động sản Bất động sản Công nghiệp Công nghiệp CTI
HOSE BSC 12/09/2013 CTCP Đầu tư Phát triển Cường Thuận Idico CTCP ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN CẢNG ĐÌNH VŨ
16 17 CTCP GEMADEPT 18 CTCP Tập đoàn Hòa Phát HOSE HOSE DVP GMD HPG Logistics Logistics BSC BSC 06/04/2016 19/05/2020
HNX BSC 10/01/2012 19 CTCP TASCO HUT
HOSE BSC 06/06/2017 CTCP Xây dựng và khoáng sản Bình Dương 20 KSB Thép Xây dựng Khoáng sản
HNX BSC 16/12/2014 21 PLC Xăng dầu
HOSE BSC 21/06/2017 22 PNJ
HOSE BSC 12/06/2016 23 SAB
HOSE BSC 31/03/2017 24 SAV
HOSE 04/03/2017 BSC 25 TỔNG CÔNG TY HÓA DẦU PETROLIMEX CTCP VÀNG BẠC đá quý Phú Nhuận Tổng CTCP Bia - rượu - NGK SÀI GÒN CTCP Hợp tác kinh tế và XNK Savimex CTCP ĐIẠ ỐC SÀI GÒN THƯƠNG TÍN SCR
HOSE BVSC 19/08/2020 26 CTCP NHỰA BÌNH MINH BMP
HOSE 27 CTCP THẾ GIỚI SỐ DGW
HOSE BVSC 13/11/2019 Tổng CTCP Đầu tư Phát triển Xây dựng Bán lẻ Thực phẩm Tiêu dùng Bất động sản Công nghiệp Bán lẻ BVSC 06/08/2019 Bất động sản
28 29 CTCP CAO SU ĐÀ NẴNG DIG DRC HOSE
HOSE BVSC 21/08/2019 CTCP PHÁT TRIỂN HẠ TẦNG KỸ THUẬT 30 IJC
HOSE BVSC 11/06/2020 31 CTCP Dược phẩm IMEXPHARM IMP
UPCOM BVSC 24/07/2017 32 CTCP LỘC TRỜI LTG
UPCOM BVSC 20/03/2019 33 CTCP THỦY SẢN MINH PHÚ MPC
UPCOM BVSC 25/08/2017 CTCP KHU CÔNG NGHIỆP NAM TÂN UYÊN 34 NTC
HOSE BVSC 08/06/2020 35 CTCP Sonadezi Châu Đức SZC
HOSE BVSC 23/09/2020 36 TPB
UPCOM BVSC 11/09/2019 NGÂN HÀNG TMCP TIÊN PHONG Tổng Công ty Máy động lực và máy nông nghiệp Việt Nam 37 VEA
HOSE FPTS 15/11/2019 38 CTCP nhựa Bình Minh BMP
HOSE FPTS 22/12/2017
39 CTCP CNG VIỆT NAM CNG Cao su BVSC 04/10/2019 Bất động sản Dược phẩm Nông nghiệp Thủy sản Bất động sản Bất động sản Ngân hàng Công nghiệp Công nghiệp Khí thiên nhiên
HOSE FPTS 12/06/2020 CÔNG TY CỔ PHẦN DƯỢC – TRANG THIẾT BỊ Y TẾ BÌNH ĐỊNH 40 DBD
HOSE FPTS 11/11/2020 41 CTCP Phân bón Cà Mau DCM Y tế Phân bón
HOSE FPTS 17/07/2020 CTCP Tập đoàn hóa chất Đức Giang 42 DGC
HNX FPTS 18/04/2019 43 CTCP Dược phẩm Hà Tây DHT Hóa chất Dược phẩm
HOSE FPTS 09/12/2019 May mặc
GMC 44 CTCP Garmex Sài Gòn 45 CTCP XI MĂNG HOÀNG MAI HOM HNX Xi măng FPTS 08/07/2019
UPCOM FPTS 21/05/2020 46 CTCP Tập đoàn Lộc Trời LTG
HNX FPTS 19/02/2020 47 CTCP Sông đà 505 S55
HOSE FPTS 13/07/2018 48 CTCP SÔNG BA SBA
HOSE FPTS 17/12/2019
49 CTCP Thủy điện Cần Đơn 50 CTCP BAO BÌ BIÊN HÒA SJD SVI Nông nghiệp Thủy điện Thủy điện Thủy điện Bao bì HOSE FPTS 16/09/2019
HOSE FPTS 12/05/2020 Công ty Cổ phần Đại lý Giao nhận Vận tải Xếp dỡ Tân Cảng 51 TCL
HOSE HSC 21/01/2010 52 CTCP Tập đoàn Công nghệ CMC CMG
HOSE HSC 15/07/2010 53 DMC
HOSE HSC 03/10/2010 CTCP Xuất Nhập Khẩu Y tế Domesco Ngân hàng TMCP Xuất Nhập Khẩu Việt Nam 54 EIB Logistics Công nghệ Dược phẩm Tài chính
HOSE HSC 29/07/2010 Công ty Phát triển Đầu tư Công nghệ FPT 55 FPT
HOSE HSC 29/01/2010 56 CTCP Tập đoàn MaSan MSN
HOSE 04/01/2010 57 CTCP Ánh Dương Việt Nam VNS Công nghệ Hàng tiêu dùng Dịch vụ hạ tầng
HOSE KIS 26/07/2018 58 CTCP NHỰA AN PHÁT XANH AAA
- KIS 04/04/2016 CTCP Đầu tư và Xây dựng Bình Chánh 59 BCI
HOSE KIS 12/05/2018
DXG FRT HOSE KIS 20/04/2018
HOSE KIS 04/01/2018 62 HDB
HOSE KIS 17/01/2019 60 CTCP Tập đoàn Đất Xanh 61 CTCP Bán lẻ kỹ thuật số FPT NGÂN HÀNG TMCP PHÁT TRIỂN TP.HCM Tổng Công ty Phát triển đô thị Kinh Bắc 63 KBC
HOSE KIS 14/04/2016 64 CTCP BỘT GIẶT LIX LIX
HOSE KIS 03/01/2019 65 CTCP Tập đoàn MaSan MSN Nhựa Bất động sản Bất động sản Bán lẻ Ngân hàng Bất động sản Tiêu dùng Hàng tiêu dùng
HOSE KIS 12/04/2018 66 POW Điện
HOSE KIS 17/05/2016 Tổng Công ty Điện lực Dầu khí Việt Nam TỔNG CTCP KHOAN VÀ DỊCH VỤ DẦU KHÍ 67 Dầu khí
PVD
HOSE KIS 01/03/2020 VGC
HOSE KIS 29/09/2017 68 Tổng Công ty Viglacera - CTCP NGÂN HÀNG TMCP VIỆT NAM THỊNH VƯỢNG 69 VPB
HOSE MBS 07/02/2020 70 CTCP ĐT &BĐS An Gia AGG
HNX MBS 31/10/2017 Bất động sản Ngân hàng Bất động sản Dược phẩm
71 CTCP dược phẩm Hà Tây 72 CTCP Đầu tư cao su đắk lắk DHT DRI UPCOM Cao su MBS 30/05/2017
HOSE MBS 28/08/2019 TCT CP THIẾT BỊ đIỆN VIỆT NAM
GEX INN HNX 22/11/2016
HOSE MBS 13/04/2018 73 74 CTCP Bao bì và In Nông nghiệp CTCP tập đoàn đầu tư địa ốc No Va 75 NVL Thiết bị Bao bì MBS Bất động sản
HOSE 30/12/2019 76 Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam PLX Dầu khí MBS
HOSE MBS 24/07/2018 77 PNJ Bán lẻ
HOSE MBS 05/04/2020 CTCP Vàng bạc đá quý Phú Nhuận TCT CP KHOAN VÀ DỊCH VỤ KHOAN DẦU KHÍ 78 PVD
UPCOM MBS 29/05/2018 79 CTCP May Việt Tiến VGG
HOSE MBS 25/12/2019 Dầu khí May mặc Hàng không
80 CTCP Hàng Không Vietjet 81 CTCP Container Việt Nam VJC VSC HOSE Logistics MBS 07/05/2018
HOSE SSI 14/08/2019 82 CTCP NHỰA AN PHÁT XANH AAA
HOSE SSI 12/12/2016 83 CTD
HOSE SSI 22/09/2011 Công ty Cổ phần Xây dựng Coteccons Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam 84 CTG
HOSE SSI 22/09/2020 85 CTCP Tập đoàn Hà Đô HDG Nhựa Bất động sản Ngân hàng Bất động sản
HOSE SSI 06/12/2019 HSG
HOSE SSI 24/12/2020 87 MSB Thép Ngân hàng
HOSE SSI 13/02/2020 88 POW
HOSE SSI 7/1/2013 89 TDH
HOSE SSI 07/01/2019 90 VPB Dầu khí Bất động sản Ngân hàng
HOSE VCBS 23/08/2018 91 DGC
HOSE VCBS 12/08/2014 86 CTCP TẬP ĐOÀN HOA SEN NGÂN HÀNG TMCP HÀNG HẢI VIỆT NAM TỔNG CÔNG TY ĐIỆN LỰC DẦU KHÍ VIỆT NAM Công ty cổ phần phát triển nhà Thủ Đức NGÂN HÀNG TMCP VIỆT NAM THỊNH VƯỢNG CTCP TẬP ĐOÀN HÓA CHẤT ĐỨC GIANG CTCP Xuất Nhập Khẩu Y tế Domesco
92 93 CTCP Cao su Đồng Phú DMC DPR HOSE Hóa chất Dược phẩm Cao su VCBS 28/09/2015
HOSE VCBS 31/07/2014 94 CTCP Tập đoàn Đất Xanh DXG
HOSE VCBS 13/08/2010 Ngân hàng TMCP Xuất Nhập Khẩu Việt Nam
95 96 CTCP Tập đoàn Hòa Phát EIB HPG HOSE VCBS 26/08/2014
HOSE VCBS 13/08/2015 97 CTCP Xi Măng Hà Tiên 1 HT1
HOSE VCBS 11/12/2019 98 CTCP May Sông Hồng MSH Bất động sản Ngân hàng Thép Công nghiệp May mặc
HOSE VCBS 22/11/2017 CTCP ĐẦU TƯ THẾ GIỚI DI ĐỘNG 99 MWG
HOSE VCBS 30/07/2018
100 CTCP XÂY LẮP ĐIỆN 1 101 CTCP Cảng Hải Phòng PC1 PHP HNX
HOSE VCBS 01/07/2016 102 TCT Vận tải dầu khí PVT
HOSE VCBS 24/09/2015 103 CTCP Sợi Thế Kỷ STK
HOSE VCBS 06/08/2019 Bán lẻ Công nghiệp Logistics VCBS 12/08/2015 Vận tải dầu khí Hàng tiêu dùng May mặc
CTCP DỆT MAY – ĐẦU TƯ – THƯƠNG MẠI THÀNH CÔNG TCM TRC 104 105 CTCP Cao su Tây Ninh HOSE Cao su VCBS 23/09/2019
HOSE VCSC 21/07/2017 106 PNJ Bán lẻ
HNX VCSC 13/10/2014 CTCP Vàng bạc đá quý Phú Nhuận CTCP Kỹ thuật dịch vụ dầu khí Việt Nam 107 PVS
HOSE VNDS 22/07/2020 108 CTCP BĐS Thế Kỷ CRE
HOSE VNDS 12/06/2019 CTCP TẬP ĐOÀN DABACO VIỆT NAM 109 DBC
HOSE VNDS 18/12/2019 Dầu khí Bất động sản Hàng tiêu dùng Công nghệ
110 Công ty Cổ phần FPT 111 CTCP Gemadept FPT GMD HOSE
HOSE VNDS 30/10/2020 112 CTCP TẬP ĐOÀN HÀ ĐÔ HDG
HOSE VNDS 16/09/2019 Tổng Công ty Phát triển đô thị Kinh Bắc 113 KBC
UPCOM VNDS 28/04/2020
114 CTCP MASAN MEATLIFE 115 CTCP ĐIỆN NHƠN TRẠCH 2 MML NT2 HOSE VNDS 28/09/2020
HOSE VNDS 27/10/2020 116 CTCP DV Hàng hóa Sài Gòn SCS
HOSE VNDS 13/08/2018 Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam 117 VCB Logistics VNDS 12/04/2019 Bất động sản Bất động sản Hàng tiêu dùng Điện Dịch vụ hàng không Ngân hàng
HOSE VNDS 15/10/2019 118 CTCP VĨNH HOÀN VHC
HOSE VNDS 30/09/2019 119 CTCP Vinhomes VHM
HOSE VNDS 19/09/2019 120 CTCP SỮA VIỆT NAM VNM
HOSE VNDS 21/10/2019 121 CTCP Vincom Retail VRE Thủy sản Bất động sản Thực phẩm Bất động sản
HNX KIS 24/11/2017 122 IDC Bất động sản
HNX KIS 28/10/2016 123 PVS
HOSE 11/10/2020 Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Đô thị và Khu công nghiệp Việt Nam CTCP Dịch vụ kỹ thuận dầu khí Việt Nam Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam 124 VCB
HOSE 11/09/2020 125 CTCP Đầu tư Nam Long NLG
UPCOM 17/08/2020 126 CTCP Đầu tư quốc tế Viettel VGI
HOSE 03/09/2020 127 BID Dầu khí Ngân hàng Bất động sản Viễn thông Ngân hàng
HOSE 12/08/2020 Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam CTCP Tập đoàn hoóa chất Đức Giang 128 DGC
- 14/11/2019 129 CTCP Pymephaco PME hóa chất Dược phẩm
HOSE 01/09/2020 130 CTCP Cao su Đà Nẵng DRC
HOSE 28/2/2020 CTCP Đầu tư và Phát triển Bất động sản An Gia 131 AGG
HOSE 08/06/2020 132 CTCP Hàng không Vietjet VJC Cao su Bất động sản Hàng không Mirae Asset Mirae Asset Mirae Asset Mirae Asset Mirae Asset Mirae Asset Mirae Asset Mirae Asset Mirae Asset
HOSE VPS 01/04/2017 133 SAB
HOSE VPS 22/09/2016 134 VCB
HOSE VPS 18/8/2015 TỔNG CTCP BIA RƯỢU NGK SÀI GÒN Ngân hàng TMCP ngoại thương Việt Nam Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương tín 135 STB
HNX VPS 08/07/2015 136 Tổng CTCP Tasco HUT
HOSE VPS 21/07/2015 137 CTCP Tập đoàn Bảo Việt BVH Bán lẻ Ngân hàng Ngân hàng Xây dựng Bảo hiểm
HOSE VPS 30/6/2015 CTCP Tập đoàn Dabaco Việt Nam
138 139 CTCP Cao su Đà Nẵng DBC DRC HOSE VPS 19/6/2015
HOSE VPS 18/06/2015 CTCP Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh
140 141 CTCP Tập đoàn Hoa Sen HCM HSG HOSE Sản xuất Cao su Chứng khoán Thép VPS 06/12/2015
VPS 05/04/2015 HOSE 142 Ngân hàng TMCP Á Châu ACB Ngân hàng
VPS 20/5/2015 HOSE
CTCP DỆT MAY – ĐẦU TƯ – THƯƠNG MẠI THÀNH CÔNG TCM TRC PVT 143 144 CTCP Cao su Tây Ninh 145 CTCP Vận tải dầu khí 14/5/2015 05/07/2015 HOSE HOSE
VPS 05/04/2015 HOSE 146 HBC
VPS 05/08/2015 HOSE 147 Dệt may VPS Cao su Dầu khí VPS Bất động sản Ngân hàng BID
APS 25/12/2015 HOSE CTCP Xây dựng và kinh doanh địa ốc Hòa Bình Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam CTCP Nhựa và môi trường xanh An Phát Nhựa
148 149 CTCP Mía đường Sơn La HNX Sản xuất APS 12/12/2015 AAA SLS
APS 25/11/2015 HNX 150 CTCP Xi măng Bỉm Sơn BCC
APS 23/10/2015 HNX 151 CTCP Viglacera Tiên Sơn VIT
APS 20/7/2015 HOSE CTCP ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN ĐA QUỐC GIA I.D.I 152 IDI
APS 17/07/2015 HOSE 153 CTCP Tập đoàn Sao Mai ASM
UPCOM APS 25/09/2015 154 MSR
HOSE APS 15/05/2015 CÔNG TY CỔ PHẦN TÀI NGUYÊN MASAN CTCP DỊCH VỤ VÀ XÂY DỰNG ĐỊA ỐC ĐẤT XANH 155 DXG
UPCOM APS 17/01/2015 156 CTCP Xuất nhập khẩu Khánh Hội KHA
APS 20/3/2012 HOSE 157 Ngân hàng TMCP Quân đội MBB
APS 01/05/2015 HNX 158 CTCP Địa ốc Chợ Lớn RCL Công nghiệp Vật liệu xây dựng Thủy sản Bất động sản Khoáng sản Bất động sản Bất động sản Ngân hàng Bất động sản
VNDS 14/08/2020 HOSE CTCP ĐẦU TƯ THẾ GIỚI DI ĐỘNG 159 MWG
VNDS 08/09/2018 HOSE 160 CTCP Tập đoàn Hoà Phát HPG Bán lẻ Công nghiệp
BẢNG TỔNG HỢP DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
TT Tên bài báo Tập/số Trang Tên tạp chí hoặc kỷ yếu khoa học Số trích dẫn của bài báo Số tác giả/ Mức độ, Vai trò tham gia Tạp chí quốc tế uy tín (và IF) Thán g/Nă m công bố
Số 10 2006 Tạp chí Ngân hàng thị 1 Đồng tác giả (2 tác giả)
2 Số 10 2006 Đồng tác giả (2 tác giả) Tạp chí Công nghệ ngân hàng
3 Tác giả 2008 Số 22- 23 Tạp chí Công nghệ ngân hàng
4 Tác giả Số 27 2008 Tạp chí Công nghệ ngân hàng –
5 Tác giả Số 39 2009 Tạp chí Công nghệ ngân hàng –
Kỷ yếu hội
thảo nghiên 6 2015 Đồng tác giả cứu khoa cấp Trước khi nghiên cứu sinh Chiến lược quản lý danh mục đầu tư trên trường chứng khoán Kinh nghiệm quản lý danh mục đầu tư thụ động trên thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán Việt Nam một năm nhìn lại Cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Ứng dụng chiến lược đầu tư theo chỉ số tại thị trường chứng khoán Việt Nam Các yếu tố ảnh hưởng đến nợ xấu tại các ngân hàng thương mại Việt nam (Mã số ISBN: 978 – 604 – 922 – 218 – 4) trường
7 Tác giả 2016 Chương Bảo hiểm và Chương Quỹ Đầu tư
9 Thành viên 2011 Xây dựng quyền chọn cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
10 Thành viên Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong hoạt động nghiên cứu Giáo trình Thị trường tài chính và các định chế tài chính Đề tài NCKH cấp Ngành (ĐH Kinh tế TP.HCM) Đề tài NCKH cấp Ngành
(ĐH Kinh tế TP.HCM) khoa tại học Trường ĐH Ngân hàng TP.HCM 2016
Từ khi bắt đầu nghiên cứu sinh
11 Tác giả 36 -41 2022 Số 14(599) Tạp Chí Thị trường Tài chính tiền tệ ISSN 1859 - 2805
12 Tác giả 197 58 – 72 8.202 2 Tạp chí Kinh tế và Ngân hàng Châu Á ISSN 2615- 9813
Thực trạng sử dụng các mô hình định giá cổ phần trên thị trường chứng khoán Việt Nam (*) Các nhân tố tác động đến hệ số P/E: Nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2010–2020 (*)
(*) Các công trình có liên quan trực tiếp đến luận án