BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH

PHẠM HẢI NAM

KHẢ NĂNG SINH LỜI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG

MẠI VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH KHỦNG HOẢNG

KINH TẾ THẾ GIỚI

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2021

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH

PHẠM HẢI NAM

KHẢ NĂNG SINH LỜI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG

MẠI VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH KHỦNG HOẢNG

KINH TẾ THẾ GIỚI

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG

Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng

Mã số: 9.34.02.01

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TSKH Nguyễn Ngọc Thạch

2. PGS.TS Hà Văn Dũng

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2021

i

LỜI CAM ĐOAN

Luận án này chưa từng được trình nộp để lấy học vị Tiến sĩ tại bất cứ một cơ

sở đào tạo nào. Luận án là công trình nghiên cứu riêng của tác giả, các số liệu, kết quả nêu trong

Luận án là trung thực và chưa từng công bố dưới bất kỳ hình thức nào trước đây, các trích dẫn

trong Luận án đã được ghi rõ nguồn gốc đầy đủ.

Nghiên cứu sinh

Phạm Hải Nam

ii

LỜI CẢM ƠN

Đầu tiên, tác giả muốn gửi lời tri ân sâu sắc nhất tới tập thể giảng viên hướng dẫn:

PGS.TSKH Nguyễn Ngọc Thạch đã tận tình chỉ bảo và đặt nền móng, định hướng nghiên

cứu trong suốt quá trình tác giả thực hiện Luận án, PGS.TS Hà Văn Dũng đã có những góp

ý chi tiết trong quá trình tác giả hoàn thiện Luận án và hỗ trợ tác giả trong việc công bố các

kết quả nghiên cứu của Luận án.

Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban lãnh đạo, cán bộ phụ trách Khoa

Sau Đại học – Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM đã tạo điều kiện tốt nhất để tác giả học

tập và hoàn thành chương trình đào tạo.

Cuối cùng, xin cảm ơn gia đình, đặc biệt là các con, là nguồn động viên tinh thần

cho tác giả trong suốt những năm học ở trường và trong thời gian hoàn thành Luận án. Sự

giúp đỡ của các thành viên trong gia đình chính là động lực giúp tác giả có thể nỗ lực để

hoàn thành Luận án này.

iii

TÓM TẮT

Luận án được thực hiện nhằm nghiên cứu các yếu tố tác động đến KNSL của các

NHTM Việt Nam trong giai đoạn khủng hoảng và hậu khủng hoảng kinh tế thế giới, so

sánh chiều hướng tác động của các yếu tố trong hai giai đoạn; tác động của khủng hoảng

kinh tế thế giới đến KNSL của các NHTM Việt Nam. Nghiên cứu được thực hiện bằng

phương pháp định tính và định lượng theo phương pháp Bayes thông qua thuật toán lấy

mẫu Gibbs nhằm thực hiện mục tiêu nghiên cứu. Dữ liệu được thu thập từ báo cáo tài chính

của 30 NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2007 – 2018.

Kết quả nghiên cứu cho thấy quy mô ngân hàng, vốn ngân hàng, dự phòng rủi ro tín

dụng, dư nợ cho vay là các yếu tố có chiều hướng tác động như nhau đến KNSL của NHTM

Việt Nam trong hai giai đoạn và trong toàn bộ thời kỳ nghiên cứu. Các yếu tố tài sản thanh

khoản, chi phí hoạt động có chiều hướng tác động thay đổi khi so sánh hai thời kỳ. Ngoài

ra, chi phí trả lãi, lạm phát, tăng trưởng kinh tế là các yếu tố tác động đến KNSL của NHTM,

mặc dù chiều hướng tác động khác nhau lên từng chỉ tiêu ROA và ROE. Nghiên cứu cũng

tìm thấy bằng chứng KNSL của NHTM Việt Nam trong giai đoạn khủng hoảng tốt hơn khi

so sánh với giai đoạn hậu khủng hoảng kinh tế thế giới. Ngoài ra, khi so sánh với phương

pháp GMM hệ thống (SGMM), kết quả nghiên cứu cũng cho thấy các NHTM Việt Nam

đạt được KNSL cao hơn trong giai đoạn khủng hoảng.

Từ các kết quả nghiên cứu của Luận án, tác giả đưa ra các kết luận và khuyến nghị

đối với ban lãnh đạo NHTM và các nhà hoạch định chính sách vĩ mô nhằm xây dựng hệ

thống ngân hàng vững chắc, đảm bảo việc kinh doanh ngân hàng an toàn, lành mạnh, hạn

chế tác động tiêu cực của khủng hoảng kinh tế thế giới và nâng cao hiệu quả hoạt động của

NHTM Việt Nam.

Từ khóa: Bayes, khả năng sinh lời, khủng hoảng kinh tế, ngân hàng thương mại.

iv

ABSTRACT

The puupose of this thesis is to study the factors affecting the profitability of

Vietnamese commercial banks in the world economic crisis and post-crisis period,

comparing the trend of impacts of factors in two phases; the impact of the world economic

crisis on the profitability of Vietnamese commercial banks. The research was done by

qualitative method and quantitative method by Bayesian method via Gibbs sampling

algorithm to accomplish research objectives. Data were collected from the financial

statements of 30 Vietnamese commercial banks for the period 2007 – 2018.

The research results show bank size, bank capital, loan loss provision, bank loans

are factors that tend to equally affect Vietnam's commercial banks in two periods and entire

period. Factors of liquid assets, operating expenses tend to change when comparing two

periods. In addition, interest expenses, inflation, economic growth are factors affecting the

profitability of commercial banks, although the trend of impacts varies with each indicator

ROA and ROE. The study also found evidence of better profitability of Vietnamese

commercial banks in the world economic crisis period when compared to the post-crisis

period. In addition, when compared with the system GMM method (SGMM), the research

results also show that Vietnamese commercial banks achieved higher profitability during

the crisis period.

From the research results of the thesis, the author gives conclusions and

recommendations for the leaders of commercial banks, and macro policy-makers to build a

sustainable banking system to ensure a safe and healthy banking operation, limit the

negative impacts of the world economic crisis and improve the operational efficiency of

Vietnamese commercial banks.

Keywords: Bayes, profitability, economic crisis, commercial bank.

v

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................................. i

TÓM TẮT ........................................................................................................................... iii

MỤC LỤC ............................................................................................................................ v

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ........................................................................................... viii

DANH MỤC BẢNG ........................................................................................................... ix

DANH MỤC HÌNH ............................................................................................................. x

CHƯƠNG 1 GIỚI THIỆU ................................................................................................... 1

1.1 LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI .............................................................................................. 1

1.1.1 Bối cảnh nghiên cứu trên thế giới và trong nước ............................................... 1

1.1.2 Tổng quan các nghiên cứu liên quan và khoảng trống khoa học ........................ 3

1.2 MỤC TIÊU VÀ CÂU HỎI NGHIÊN CỨU .............................................................. 7

1.2.1 Mục tiêu tổng quát ............................................................................................... 7

1.2.2 Mục tiêu cụ thể .................................................................................................... 7

1.2.3 Câu hỏi nghiên cứu .............................................................................................. 8

1.3 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ........................................................... 8

1.3.1 Đối tượng nghiên cứu .......................................................................................... 8

1.3.2 Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................. 8

1.4 PHƯƠNG PHÁP VÀ DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU ...................................................... 9

1.5 ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN .......................................................................... 9

1.6 KẾT CẤU LUẬN ÁN .............................................................................................. 12

CHƯƠNG 2 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ TÁC ĐỘNG CỦA KHỦNG HOẢNG KINH TẾ ĐẾN KHẢ NĂNG SINH LỜI CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI .............................. 13

2.1 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ CHU KỲ KINH TẾ VÀ KHỦNG HOẢNG KINH TẾ . 13

2.1.1 Khái niệm về chu kỳ kinh tế và khủng hoảng kinh tế ....................................... 13

2.1.2 Các lý thuyết về chu kỳ kinh tế và khủng hoảng kinh tế .................................. 14

2.2 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ KHẢ NĂNG SINH LỜI CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ................................................................................................................................ 19

vi

2.2.1 Các quan điểm về hiệu quả kinh doanh và khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại .................................................................................................................. 19

2.2.2 Các lý thuyết về khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại ......................... 24

2.2.3 Các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại ................ 26

2.3 TÁC ĐỘNG CỦA KHỦNG HOẢNG KINH TẾ ĐẾN KHẢ NĂNG SINH LỜI CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ............................................................................ 28

2.3.1 Khủng hoảng kinh tế ảnh hưởng đến kinh tế vĩ mô .......................................... 28

2.3.2 Khủng hoảng kinh tế làm tăng rủi ro tín dụng .................................................. 29

2.3.3 Khủng hoảng kinh tế làm tăng rủi ro thanh khoản ............................................ 29

2.4 CÁC NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM ................................................................... 31

2.4.1 Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại .............................................................................................................................. 31

2.4.2 Nghiên cứu thực nghiệm tác động của khủng hoảng kinh tế đến khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại .................................................................................... 45

2.5 THẢO LUẬN NHỮNG NGHIÊN CỨU TRƯỚC .................................................. 51

CHƯƠNG 3 PHƯƠNG PHÁP VÀ DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU ......................................... 55

3.1 THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU ...................................................................................... 55

3.2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................................................................ 56

3.2.1 Phương pháp Bayes ........................................................................................... 56

3.2.2 Tính ưu việt của phương pháp Bayes so với phương pháp tần suất .................. 59

3.3 MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU ....................................................................................... 61

3.3.1 Quy trình nghiên cứu ......................................................................................... 61

3.3.2 Mô hình nghiên cứu đề xuất .............................................................................. 62

3.3.3 Giả thuyết nghiên cứu ....................................................................................... 64

3.4 DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU ........................................................................................ 73

3.4.1 Mô tả dữ liệu nghiên cứu ................................................................................... 73

3.4.2 Kiểm định mô hình ............................................................................................ 74

CHƯƠNG 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ............................................ 76

4.1 KHẢ NĂNG SINH LỜI CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN KHỦNG HOẢNG KINH TẾ THẾ GIỚI .................................. 76

4.1.1 Thống kê mô tả và tương quan giữa các biến.................................................... 76

vii

4.1.2 Lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) ................................................................... 78

4.1.3 Lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) .............................................................. 82

4.1.4 Phân tích và thảo luận kết quả ........................................................................... 86

4.2 KHẢ NĂNG SINH LỜI CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HẬU KHỦNG HOẢNG KINH TẾ THẾ GIỚI ........................ 91

4.2.1 Thống kê mô tả và tương quan giữa các biến.................................................... 91

4.2.2 Lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) .................................................................... 93

4.2.3 Lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) .............................................................. 97

4.2.4 Phân tích và thảo luận kết quả ......................................................................... 100

4.3 TÁC ĐỘNG CỦA KHỦNG HOẢNG KINH TẾ THẾ GIỚI ĐẾN KHẢ NĂNG SINH LỜI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM .......................... 105

4.3.1 Lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) .................................................................. 105

4.3.2 Lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) ............................................................ 109

4.3.3 So sánh chiều hướng tác động của phương pháp Bayes với phương pháp truyền thống ......................................................................................................................... 112

4.3.4 Thảo luận tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới đến khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam ....................................................................... 114

4.4 THẢO LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ............................................................ 115

CHƯƠNG 5 KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH ĐỂ CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM ĐẠT ĐƯỢC KHẢ NĂNG SINH LỜI HỢP LÝ TRONG BỐI CẢNH KHỦNG HOẢNG KINH TẾ THẾ GIỚI ......................................................................... 122

5.1 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 122

5.2 GỢI Ý CHÍNH SÁCH ĐỂ CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM ĐẠT ĐƯỢC KHẢ NĂNG SINH LỜI HỢP LÝ TRONG BỐI CẢNH KHỦNG HOẢNG KINH TẾ THẾ GIỚI .................................................................................................... 124

5.2.1 Đối với các ngân hàng thương mại.................................................................. 125

5.2.2 Đối với cơ quan quản lý nhà nước .................................................................. 131

5.3 HẠN CHẾ CỦA LUẬN ÁN VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO ............ 133

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. i

CÁC CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN .......................... xiii

PHỤ LỤC .......................................................................................................................... xiv

viii

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

DIỄN GIẢI ĐẦY ĐỦ KÝ HIỆU

AN VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT TIẾNG ANH

HQKD Hiệu quả kinh doanh

ESS Số lượng mẫu hiệu quả Effective Sample Size

FEM Mô hình tác động cố định Fixed Effects Model

Phương pháp bình phương bé Feasible Generalized Least FGLS nhất tổng quát Squares

GMM Generalized Method of Moments

GDP Mô hình hồi quy moment tổng quát Tổng sản phẩm quốc nội Gross Domestic Product

IMF Quỹ tiền tệ Quốc tế International Monetary Fund

KNSL Khả năng sinh lời

MCMC Markov Chain Monte Carlo

NHNN Ngân hàng Nhà nước

NIM Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên Net Interest Margin

NHTM Ngân hàng thương mại

OLS Ordinary Least Squares

REM Bình phương nhỏ nhất thông thường Mô hình tác động ngẫu nhiên Random Effects Model

ROA Lợi nhuận trên tổng tài sản Return on Assets

ROE Lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu Return on Equity

RRTD Rủi ro tín dụng

RRTK Rủi ro thanh khoản

WB Ngân hàng Thế giới World Bank

ix

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1 Tổng kết các nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến KNSL của NHTM ...... 36

Bảng 2.2 Tổng kết các nghiên cứu về tác động của khủng hoảng kinh tế đến KNSL ..... 47

Bảng 3.1 Các mô hình dự kiến ......................................................................................... 63

Bảng 3.2 Tổng hợp các biến sử dụng trong mô hình nghiên cứu ..................................... 64

Bảng 3.3 Đo lường các biến sử dụng trong mô hình ......................................................... 71

Bảng 4.1 Thống kê mô tả các biến nghiên cứu trong giai đoạn 2007 – 2011 ................... 76

Bảng 4.2 Ma trận hệ số tương quan ................................................................................... 78

Bảng 4.3 Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc ROA ................................................... 79

Bảng 4.4 Số lượng mẫu hiệu quả ...................................................................................... 81

Bảng 4.5 Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc ROE ................................................... 83

Bảng 4.6 Số lượng mẫu hiệu quả ...................................................................................... 86

Bảng 4.7 Thống kê mô tả các biến nghiên cứu trong giai đoạn 2012 – 2018 ................... 91

Bảng 4.8 Ma trận hệ số tương quan ................................................................................... 93

Bảng 4.9 Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc ROA ................................................... 93

Bảng 4.10 Số lượng mẫu hiệu quả .................................................................................... 94

Bảng 4.11 Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc ROE ................................................. 97

Bảng 4.12 Số lượng mẫu hiệu quả .................................................................................... 97

Bảng 4.13 Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc ROA ................................................. 105

Bảng 4.14 Số lượng mẫu hiệu quả .................................................................................... 106

Bảng 4.15 Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc ROE ................................................. 109

Bảng 4.16 Số lượng mẫu hiệu quả .................................................................................... 109

Bảng 4.17 Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc ROA ................................................. 113

Bảng 4.18 Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc ROE ................................................. 113

Bảng 4.19 So sánh các yếu tố tác động đến KNSL của các NHTM Việt Nam ................ 115

x

DANH MỤC HÌNH

Hình 4.1 Kiểm định hội tụ của chuỗi MCMC đối với biến ROA ..................................... 81

Hình 4.2 Kiểm định hội tụ của chuỗi MCMC đối với biến ROE ...................................... 85

Hình 4.3 Kiểm định hội tụ của chuỗi MCMC đối với biến ROA ..................................... 96

Hình 4.4 Kiểm định hội tụ của chuỗi MCMC đối với biến ROE ...................................... 99

Hình 4.5 Kiểm định hội tụ của chuỗi MCMC đối với biến ROA ..................................... 109

Hình 4.6 Kiểm định hội tụ của chuỗi MCMC đối với biến ROE ...................................... 112

1

CHƯƠNG 1

GIỚI THIỆU

1.1 LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

1.1.1 Bối cảnh nghiên cứu trên thế giới và trong nước

Hệ thống ngân hàng thương mại đóng vai trò quan trọng trong hệ thống tài chính và nền

kinh tế của mỗi quốc gia, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định thị trường. Đặc biệt, tại Việt Nam,

thị trường chứng khoán chưa đáp ứng được là kênh dẫn vốn trung dài hạn chủ yếu cho nền kinh

tế thì vai trò của NHTM càng nổi bật, quyết định tới sự phát triển của nền kinh tế nói chung và

thị trường tài chính nói riêng. Tuy nhiên, hệ thống ngân hàng cũng bị tác động mạnh bởi các chu

kỳ kinh tế bao gồm các giai đoạn khủng hoảng, suy thoái, phục hồi, tăng trưởng công nghiệp

(Marx), vốn là một quy luật quan trọng của nền kinh tế thị trường. Trong năm 2007, kinh tế thế

giới đã bắt đầu xuất hiện dấu hiệu của một cuộc khủng hoảng kinh tế toàn diện, xuất phát từ thị

trường bất động sản và cho vay dưới chuẩn tại Mỹ. Khủng hoảng kinh tế là là một giai đoạn của

chu kỳ kinh tế (Gordon, 1994) có tác động tiêu cực một cách sâu rộng đến các doanh nghiệp, thị

trường tài chính, thị trường ngân hàng… Cuộc khủng hoảng từ Mỹ sau đó lan ra toàn thế giới với

đáy của cuộc khủng hoảng là năm 2009 khi tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới là -0,1% (IMF,

2009) hay - 1,67% (WB, 2009), hàng loạt các quốc gia có nền kinh tế phát triển như Mỹ, Nhật,

EU có mức tăng trưởng kinh tế âm (IMF, 2009), làm cho sản lượng sản xuất suy giảm, thất nghiệp

gia tăng, hoạt động kinh tế lâm vào tình trạng đình đốn, từ đó lan ra các nước khác và toàn cầu

(Bùi Tất Thắng, 2009). Nền kinh tế thế giới có dấu hiệu bước sang giai đoạn phục hồi với tốc độ

tăng trưởng kinh tế dương trở lại là 5,4% năm 2010 ( IMF, 2010), 4.30% năm 2010 (WB, 2010).

Mức tăng này tương đương với mức tăng năm 2006 là 5,5 % (IMF, 2006), trước giai đoạn khủng

hoảng. Điều này chứng tỏ kinh tế thế giới đã bước vào giai đoạn phục hồi, là một trong bốn giai

đoạn của chu kỳ kinh tế. Cũng trong năm 2010, các nền kinh tế trên thế giới đều có mức tăng

trưởng ấn tượng: Các nền kinh tế phát triển 3,1%, các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi 7,4%

(IMF, 2010).

Khủng hoảng kinh tế gây ra nhiều hậu quả nghiệm trọng và lan ra khắp thế giới, trong đó có Việt

Nam. Vốn là một quốc gia có nền kinh tế kế hoạch tập trung, năm 1986 Việt Nam quyết định

2

chuyển sang nền kinh tế thị trường, hội nhập ngày càng sâu rộng với kinh tế thế giới. Kinh tế Việt

Nam đã phát triển mạnh, kim ngạch xuất, nhập khẩu tăng lên một cách nhanh chóng, vốn đầu tư

trực tiếp nước ngoài ngày càng cao cho đến khi xảy ra khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2007.

Tăng trưởng GDP của Việt Nam giai đoạn 2000 – 2007 đạt tốc độ bình quân 7,6% (WB, 2007).

Từ năm 2008, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam bắt đầu giảm, chỉ đạt 5,7% và chạm đáy

vào năm 2009 với tốc độ 5,4% (WB, 2009). Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm từ 11,5 tỷ USD

năm 2008 còn 10 tỷ USD năm 2009 (Tổng cục Thống kê, 2009). Cán cân thương mại thâm hụt

nghiêm trọng, đặc biệt cao trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế thế giới. Năm 2008, cán cân

thương mại thâm hụt 18 tỷ USD, năm 2009 là 12,9 tỷ USD và năm 2010 giảm còn 12,6 tỷ USD

(Tổng cục Hải quan, 2010). Mức thâm hụt cao như vậy gây rủi ro cho an ninh tài chính quốc gia

(IMF, 2010), gây rất nhiều khó khăn trong việc điều hành chính sách tiền tệ và chính sách tài

khóa. Bên cạnh đó, trong giai đoạn khủng hoảng, tỷ lệ lạm phát biến động thất thường, tăng giảm

với biên độ lớn, phản ánh sự khó khăn của nền kinh tế. Tỷ lệ lạm phát năm 2007 là 8,3%, năm

2008 tăng mạnh lên 22,97%, năm 2009 giảm xuống còn 6,88%, năm 2010 tăng lên lại 9,19%, và

tăng mạnh lên 18,58% vào năm 2011 (Tổng cục Thống kê, 2011) và giảm dần trong các năm sau

đó. Sở dĩ lạm phát tăng cao vào năm 2011 là do hiệu ứng của gói kích thích kinh tế mà Chính phủ

Việt Nam đưa ra vào năm 2009 nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, việc triển khai gói

kích thích không hiệu quả dẫn đến không đạt được các mục tiêu mà Chính phủ đưa ra, đồng thời

làm tín dụng tăng trưởng nóng, hình thành bóng bóng giá cả tài sản, các doanh nghiệp hoạt động

khó khăn, đã làm cho lạm phát tăng cao vào năm 2010 và đạt mức rất cao vào năm 2011. Bên

cạnh đó, trong khi nền kinh tế các nước khác trên thế giới đã bước vào giai đoạn phục hồi thì kinh

tế Việt Nam chỉ thực sự vượt qua khủng hoảng kinh tế sau năm 2011, khi tác dụng phụ của gói

kích thích năm 2009 đã bớt ảnh hưởng.

Trong lĩnh vực ngân hàng, sau cải cách lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực ngân hàng, hệ thống

ngân hàng hai cấp ra đời năm 1988 đã tạo ra sự phát triển vượt bậc cả về số lượng lẫn chất lượng.

Nhiều ngân hàng thương mại tư nhân được thành lập và phát triển, đáp ứng nhu cầu về vốn cho

các thành phần kinh tế, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ. Hệ thống ngân hàng

thương mại đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung

sang nền kinh tế thị trường một cách có hiệu quả. Sự chuyển đổi nền kinh tế cùng với việc tham

gia các tổ chức quốc tế như IMF, WB, WTO… đã trở thành điều cốt lõi của sự thay đổi về kinh

3

tế và hoạt động ngân hàng ở Việt Nam. Tuy nhiên, sau giai đoạn phát triển, cuộc khủng hoảng

kinh tế thế giới đã tác động mạnh đến kinh tế Việt nam, đặc biệt là hệ thống ngân hàng. Sự biến

động của kinh tế vĩ mô có thể dẫn đến sự khủng hoảng trong hệ thống ngân hàng (Nkusu, 2011).

Sau giai đoạn tăng trưởng tín dụng nóng, các ngân hàng phải đối mặt với nợ xấu tăng cao, gặp rất

nhiều khó khăn về thanh khoản dẫn đến lợi nhuận sụt giảm mạnh, thậm chí thua lỗ, không có khả

năng hoạt động liên tục mà hậu quả cho đến tận ngày nay vẫn chưa thể giải quyết xong. Theo

Reinhart và Rogoff (2010), nợ xấu tăng cao có thể dẫn đến khủng hoảng trong hệ thống ngân

hàng. Các ngân hàng hoạt động vì mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, đẩy tăng trưởng tín dụng cao và

chấp nhận rủi ro cao dẫn đến nợ xấu tăng cao (Caprio & cộng sự, 2003). Kết quả là các ngân hàng

có nợ xấu cao, khó khăn về thanh khoản phải sáp nhập vào ngân hàng khác hoặc được mua lại

với giá 0 đồng. Đối với Việt Nam, nếu để cho 1 ngân hàng phá sản thì hậu quả để lại sẽ không

thể lường trước được, tác động rất lớn đến toàn bộ hệ thống ngân hàng, gây khủng hoảng niềm

tin đối với toàn xã hội. Do vậy, giải pháp sáp nhập, mua lại giá 0 đồng đã giúp ổn định hệ thống

ngân hàng, lấy lại niềm tin của xã hội, được đánh giá rất cao. Ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng

đã cho thấy những điểm yếu của hệ thống ngân hàng và nền kinh tế như bóng bóng giá tài sản,

sử dụng đòn bẩy tài chính quá mức, lệ thuộc quá nhiều vào tín dụng, đòi hỏi sự cải tổ mạnh mẽ

về tư duy quản lý lẫn cơ cấu tổ chức (Amba & Almukharreq, 2013). Điều quan trọng không phải

là tốc độ tăng trưởng cao mà là sự ổn định, có thể thích nghi tốt với các biến động của kinh tế thế

giới. Bản thân các NHTM cũng phải có sự kiểm soát chặt chẽ hơn, an toàn hơn, tập trung cấp tín

dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh thay vì bất động sản, chứng khoán, đa dạng hóa hoạt

động kinh doanh. Ngân hàng nhà nước, với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước đối với hệ thống

ngân hàng, cần định hướng cho các NHTM, giám sát chặt chẽ hoạt động của các NHTM. Sự khỏe

mạnh, an toàn của hệ thống ngân hàng cần được đặt lên hàng đầu, thay vì tốc độ tăng trưởng, đòi

hỏi sự thay đổi từ bản thân các ngân hàng lẫn cơ quan quản lý nhà nước. Vì vậy, nghiên cứu được

thực hiện nhằm cung cấp thông tin, hàm ý chính sách cho lãnh đạo ngân hàng và các nhà hoạch

định để xây dựng chiến lược phù hợp cho hệ thống NHTM và đạt được KNSL phù hợp trong bối

cảnh khủng hoảng kinh tế cũng như giai đoạn hậu khủng hoảng.

1.1.2 Tổng quan các nghiên cứu liên quan và khoảng trống khoa học

Các nghiên cứu trên thế giới về tác động của khủng hoảng kinh tế đến KNSL của các

4

NHTM hiện nay được thực hiện rải rác ở các khu vực trên thế giới, mỗi khu vực lại có những đặc

điểm khác nhau. Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008, các nghiên cứu này

đã phần nào làm sáng tỏ mối quan hệ giữa khủng hoảng tài chính (một khía cạnh của khủng hoảng

kinh tế) đến KNSL của các NHTM.

Ở khu vực châu Á, các nghiên cứu có thể kể đến như nghiên cứu của Sufian (2011) về

KNSL của các NHTM Hàn Quốc từ năm 1992 đến năm 2003, là giai đoạn xảy ra khủng hoảng

tài chính châu Á. Nghiên cứu cho thấy khủng hoảng tài chính tác động tiêu cực đến KNSL của

NHTM. Hay nghiên cứu của Kamarudin và cộng sự (2016) về tác động của khủng hoảng tài chính

đến KNSL của các ngân hàng nhà nước và ngân hàng tư nhân tại Bangladesh từ năm 2004 đến

năm 2011, so sánh mức độ tác động của khủng hoảng tài chính đến hai khu vực sở hữu tư nhân

và sở hữu nhà nước. Kết quả cho thấy, trong giai đoạn khủng hoảng tài chính, hiệu quả lợi nhuận

của ngân hàng nhà nước tăng 3,7%, ngân hàng tư nhân tăng 5,8%, tuy nhiên sau giai đoạn khủng

hoảng lại giảm lần lượt là 38,7% và 9,9%.

Ở khu vực vùng Vịnh thì có nghiên cứu của Amba và Almukharreq (2013), về tác động

của khủng hoảng tài chính đến KNSL của các ngân hàng Hồi giáo và ngân hàng thông thường tại

các nước vùng Vịnh từ năm 2006 đến năm 2013. Nghiên cứu cho thấy khủng hoảng tài chính tác

động tiêu cực đến KNSL đến các ngân hàng Hồi giáo và ngân hàng thông thường.

Ở khu vực châu Âu, có các nghiên cứu của Pawlowska (2016) tìm hiểu các yếu tố tác động

đến KNSL của các NHTM Ba Lan, giai đoạn khủng hoảng và trước khủng hoảng tài chính, từ

năm 1997 đến năm 2012. Kết quả cho thấy KNSL trong giai đoạn khủng hoảng giảm nhẹ so với

giai đoạn trước khủng hoảng. Hay nghiên cứu của Andries và cộng sự (2016), nghiên cứu mối

quan hệ giữa khủng hoảng tài chính và KNSL của các NHTM Đông và Tây Âu từ năm 2004 đến

năm 2013. Kết quả cho thấy khủng hoảng tài chính tác động tiêu cực đến KNSL của NHTM.

Ở khu vực Trung Đông và Bắc Phi có nghiên cứu của Mongid (2016) tìm hiểu về tác động

của khủng hoảng tài chính đến KNSL của các NHTM Hồi giáo tại các nước Trung Đông và Bắc

Phi từ năm 2003 đến năm 2011. Kết quả cho thấy khủng hoảng tài chính có tác động tiêu cực đến

KNSL của NHTM.

Ở khu vực Bắc Mỹ, Chronopoulos và cộng sự (2015) nghiên cứu tác động của khủng

hoảng tài chính đến KNSL của các ngân hàng tại Mỹ có tổng tài sản từ 10.000 $ trở lên theo

5

phương pháp GMM. Kết quả nghiên cứu cho thấy KNSL của NHTM tốt hơn trong giai đoạn

khủng hoảng.

Tại Việt Nam, nghiên cứu của Le (2017) về các yếu tố tác động đến KNSL của các NHTM

Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2015, trong đó sử dụng biến giả để chỉ giai đoạn

khủng hoảng trong 2 năm 2008 – 2009 (nhận giá trị 1 cho các năm 2008 và 2009, giá trị 0 cho

các năm còn lại). Kết quả cho thấy các ngân hàng có khả năng giảm giá sản phẩm, dịch vụ có

KNSL cao. Kết quả nghiên cứu cho thấy khủng hoảng tài chính có ảnh hưởng tiêu cực đến KNSL

của các NHTM.

Nguyễn Anh Tú và Phạm Trí Nghĩa (2019) tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến lãi suất cận

biên (NIM) của 27 NHTM tại Việt Nam giai đoạn 2005-2017. Các tác giả sử dụng biến giả để

chỉ giai đoạn khủng hoảng (nhận giá trị 1 cho các năm 2008 và 2009, giá trị 0 cho các năm còn

lại). Kết quả cho thấy rủi ro tín dụng, mức ngại rủi ro (risk aversion) và tỉ lệ vốn cho vay cùng

chiều với NIM, trong khi đó thanh khoản và chất lượng quản lý ảnh hưởng ngược chiều với NIM.

Ngoài ra, kết quả cũng cho thấy, bình quân trong giai đoạn khủng hoảng NIM của các NHTM

giảm khoảng 1,5 lần so với thời kỳ kinh tế ổn định

Như vậy, các công trình nghiên cứu trước đây về khủng hoảng kinh tế đến KNSL của

NHTM có kết quả không nhất quán. Một số công trình cho thấy khủng hoảng kinh tế có tác động

tiêu cực (Sufian, 2011; Amba & Almukharreq, 2013; Andries & cộng sự, 2016; Le, 2017; Nguyễn

Anh Tú & Phạm Trí Nghĩa, 2019). Một số công trình khác lại cho thấy khủng hoảng kinh tế có

tác động tích cực đến KNSL của NHTM (Chronopoulos, cộng sự, 2015; Kamarudin & cộng sự,

2016). Các kết quả khác nhau của các nghiên cứu là do khi đánh giá tác động tức thời của khủng

hoảng, kết quả sẽ là tiêu cực. Tuy nhiên, khi đánh giá một cách tổng thể dưới tác động của các

biện pháp kích thích kinh tế của các chính phủ nhằm vượt qua khủng hoảng, kết quả sẽ là tích

cực. Hơn nữa, các công trình nghiên cứu trước đây đều sử dụng phương pháp truyền thống như

FEM, REM, FGLS, GMM để thực hiện mục tiêu nghiên cứu. Do các phương pháp truyền thống

tồn tại nhiều nhược điểm như tự tương quan, nội sinh … nên cần nhiều phương pháp khác nhau

để khắc phục các nhược điểm đó. Vì vậy, sử dụng nhiều phương pháp ước lượng truyền thống

khác nhau nên kết quả có thể sẽ khác nhau.

Tại Việt Nam, một số công trình đánh giá tác động của khủng hoảng tài chính năm 2008

6

đến KNSL của NHTM như nghiên cứu của Le (2017) có liên quan đến đề tài, với mẫu nghiên

cứu gồm 40 ngân hàng từ năm 2005 đến năm 2015 và biến giả (D=1) để chỉ khủng hoảng trong

hai năm 2008 và 2009. Hay nghiên cứu của Nguyễn Anh Tú và Phạm Trí Nghĩa (2018), với mẫu

nghiên cứu gồm 27 ngân hàng từ năm 2005 đến năm 2017 sử dụng biến giả (D=1) để chỉ khủng

hoảng trong hai năm 2008 và 2009, tức là đáy của khủng hoảng. Theo lược khảo của tác giả, cho

tới thời điểm hiện tại, chưa có công trình nghiên cứu nào được thực hiện nhằm nghiên cứu tác

động của khủng hoảng kinh tế thế giới, xem xét một cách tổng thể dưới tác động của các biện

pháp kích thích kinh tế của Chính phủ Việt Nam, đồng thời gắn với cả thời kỳ khủng hoảng và

thời kỳ hậu khủng hoảng. Đây là khoảng trống khoa học trong nghiên cứu về KNSL của NHTM.

Bên cạnh đó, về mặt phương pháp, do các các nghiên cứu trước đây sử dụng các phương

pháp hồi quy truyền thống để nghiên cứu các yếu tố tác động đến KNSL của NHTM. Các phương

pháp này cho phép nghiên cứu tác động của các yếu tố vi mô và vĩ mô đến KNSL của NHTM

nhưng còn tồn tại nhiều nhược điểm. Các kết luận khoa học trong thống kê truyền thống (hay tần

suất) đều dựa trên bộ dữ liệu mà không quan tâm các thông tin đã biết trước (Nguyễn Ngọc Thạch,

2019). Trong thống kê tần suất, các tham số của tổng thể được coi là các hằng số cố định nhưng

chưa biết. Nhưng đối với dữ liệu chuỗi thời gian, các tham số này sẽ có sự thay đổi, chính vì vậy,

giả định các tham số là hằng số không còn phù hợp. Do đó, mở rộng hơn, trong thống kê Bayes,

các tham số được giả định như là biến ngẫu nhiên và tuân theo một quy luật phân phối (van de

Schoot & Depaoli, 2014; Bolstad & Curran, 2016; Nguyễn Ngọc Thạch, 2019). Các kết luận theo

phương pháp Bayes dựa trên thông tin tiên nghiệm kết hợp với bộ dữ liệu thu thập được nên có

độ chính xác cao hơn. Đối với thống kê tần suất, cần phải có bộ dữ liệu đủ lớn mới có thể đưa ra

kết luận. Trong khi đối với thống kê Bayes, việc đưa ra các kết luận không phụ thuộc vào kích cỡ

của dữ liệu (Baldwin & Fellingham, 2013; Depaoli & van de Schoot, 2016; Doron & Gaudreau,

2014), khắc phục được nhược điểm của thống kê tần suất. Ngoài ra, khác với phương pháp truyền

thống áp dụng các cách khác nhau để khắc phục nhược điểm, suy luận Bayes dựa trên một quy

tắc xác suất duy nhất, quy tắc Bayes, được áp dụng cho tất cả các mô hình tham số. Điều này làm

cho cách tiếp cận Bayes trở nên phổ biến và tạo điều kiện thuận lợi đáng kể cho việc áp dụng và

giải thích kết quả. Do đó, để nghiên cứu các yếu tố tác động đến KNSL của NHTM trong các giai

đoạn khác nhau của chu kỳ kinh tế, tác giả sử dụng phương pháp Bayes và thuật toán lấy mẫu

Gibbs, là cách tiếp cận mới so với các công trình nghiên cứu trước.

7

Chính những lý do về mặt lý luận và thực tiễn nêu trên cho thấy tính cấp thiết khi nghiên

cứu về KNSL của hệ thống NHTM Việt Nam trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới. Ngoài

ra, để tăng giá trị khoa học của kết quả nghiên cứu, Luận án tiếp cận mục tiêu nghiên cứu theo

phương pháp Bayes, xem xét vấn đề này trong thời kỳ hậu khủng hoảng, so sánh với thời kỳ

khủng hoảng vì trong thời kỳ hậu khủng hoảng, nhiều NHTM Việt Nam vẫn tiềm ẩn rủi ro tín

dụng, rủi ro thanh khoản, cần phải ổn định hoạt động kinh doanh, nâng cao hiệu quả hoạt động,

cải thiện khả năng thanh khoản, tránh được nguy cơ phá sản và tăng giá trị ngân hàng. Đây chính

là lý do tác giả lựa chọn đề tài “Khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam

trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới” làm Luận án nghiên cứu.

1.2 MỤC TIÊU VÀ CÂU HỎI NGHIÊN CỨU

1.2.1 Mục tiêu tổng quát

Mục tiêu tổng quát của Luận án là nghiên cứu tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới, các

yếu tố kinh tế vi mô, các yếu tố kinh tế vĩ mô đến KNSL của NHTM Việt Nam trong bối cảnh

khủng hoảng kinh tế thế giới, so sánh các mối quan hệ này với thời kỳ hậu khủng hoảng.

1.2.2 Mục tiêu cụ thể

Trên cơ sở mục tiêu nghiên cứu tổng quát, các mục tiêu cụ thể được đặt ra:

- Nghiên cứu nhận diện các yếu tố kinh tế vi mô tác động đến KNSL của các NHTM Việt Nam

trong các giai đoạn (pha) của chu kỳ kinh tế: bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới và so sánh

với thời kỳ hậu khủng hoảng.

- Nghiên cứu nhận diện yếu tố kinh tế vĩ mô tác động đến KNSL của các NHTM Việt Nam

trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới và so sánh với thời kỳ hậu khủng hoảng.

- Phân tích sự khác biệt về KNSL của các NHTM Việt Nam đạt được trong thời kỳ khủng hoảng

kinh tế thế giới so với thời kỳ hậu khủng hoảng.

- Gợi ý các giải pháp điều chỉnh KNSL của các NHTM Việt Nam trong thời kỳ khủng hoảng và

thời kỳ hậu khủng hoảng kinh tế thế giới, cung cấp kênh tham khảo cho các nhà hoạch định

chính sách, nhà quản lý trong việc tăng cường hiệu quả tài chính và phát triển vững chắc hệ

thống ngân hàng trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế cũng như trong toàn bộ thời kỳ.

8

1.2.3 Câu hỏi nghiên cứu

Để đạt được các mục tiêu trên, Luận án cần giải quyết các câu hỏi nghiên cứu chính sau

đây:

(1) Các yếu tố kinh tế vi mô nào có ảnh hưởng đến KNSL của NHTM Việt Nam trong bối cảnh

khủng hoảng và hậu khủng hoảng kinh tế thế giới? Chiều hướng tác động như thế nào? Có sự

khác biệt như thế nào khi so sánh chiều hướng tác động trong thời kỳ khủng hoảng với chiều

hướng tác động trong thời kỳ hậu khủng hoảng?

(2) Các yếu tố kinh tế vĩ mô nào có ảnh hưởng đến KNSL của NHTM trong bối cảnh khủng

hoảng và hậu khủng hoảng kinh tế thế giới? Chiều hướng tác động như thế nào? Có sự khác biệt

như thế nào khi so sánh chiều hướng tác động trong thời kỳ khủng hoảng với chiều hướng tác

động trong thời kỳ hậu khủng hoảng?

(3) Sự khác biệt như thế nào về KNSL của các NHTM Việt Nam đạt được trong thời kỳ khủng

hoảng so với thời kỳ hậu khủng hoảng kinh tế thế giới?

(4) Giải pháp nào nhằm điều chỉnh KNSL của các NHTM và phát triển vững chắc hệ thống

NHTM Việt Nam trong bối cảnh khủng hoảng và hậu khủng hoảng kinh tế thế giới?

1.3 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

1.3.1 Đối tượng nghiên cứu

Các yếu tố tác động đến KNSL của các NHTM Việt Nam trong thời kỳ khủng hoảng và

hậu khủng hoảng kinh tế thế giới, so sánh chiều hướng tác động của các yếu tố thời kỳ khủng

hoảng với thời kỳ hậu khủng hoảng kinh tế thế giới, tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới

đến KNSL của các NHTM Việt Nam.

1.3.2 Phạm vi nghiên cứu

Về không gian: Luận án tập trung nghiên cứu tại 30 NHTM Việt Nam. Theo thống kê của

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tại thời điểm 31/12/2018, tổng số NHTM là 35, trong đó có 31

NHTM cổ phần, 4 NHTM 100% vốn nhà nước. Tổng tài sản của 30 NHTM được tác giả sử dụng

trong nghiên cứu chiếm xấp xỉ 86% tổng tài sản của các NHTM, đảm bảo tính đại diện cho các

NHTM tại Việt Nam.

9

Về thời gian: Từ năm 2007 – 2018. Trong đó, tác giả lựa chọn giai đoạn 2007 – 2011 để

chỉ bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới. Việc lựa chọn khoảng thời gian đến năm 2011 vì cần

độ trễ tác động của các biện pháp kích cầu của Chính phủ và xét trong bối cảnh nền kinh tế Việt

Nam còn nhiều bất ổn đến năm 2011. Giai đoạn 2012 đến năm 2018 để chỉ giai đoạn hậu khủng

hoảng kinh tế.

1.4 PHƯƠNG PHÁP VÀ DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU

Để thực hiện các mục tiêu nghiên cứu đã đề cập ở trên, Luận án sử dụng phương pháp và

dữ liệu như sau:

- Phương pháp nghiên cứu định tính: Luận án sử dụng các phương pháp thống kê mô tả, phân

tích, tổng hợp, so sánh xuyên suốt toàn bộ nội dung của Luận án.

- Phương pháp nghiên cứu định lượng: Tác giả xây dựng các mô hình hồi quy tuyến tính Bayes

để ước lượng tác động của các yếu tố đến KNSL của NHTM trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế

thế giới và giai đoạn hậu khủng hoảng. Cụ thể, nghiên cứu tiến hành xây dựng mô hình hồi quy

tuyến tính Bayes dựa trên cơ sở lý thuyết và mô hình của các nghiên cứu trước và có điều chỉnh

phù hợp với đặc thù của hệ thống NHTM Việt Nam nhằm đánh giá tác động của các yếu tố đó

đến KNSL của NHTM trong giai đoạn khủng hoảng và giai đoạn hậu khủng hoảng của kinh tế

thế giới, tìm hiểu sự khác biệt về KNSL của các NHTM Việt Nam giữa thời kỳ khủng hoảng và

thời kỳ hậu khủng hoảng.

- Nghiên cứu sử dụng phương pháp hồi quy tuyến tính Bayes thông qua thuật toán lấy mẫu Gibbs

để đánh giá các yếu tố có ảnh hưởng như thế nào đến KNSL của NHTM trong từng giai đoạn

khác nhau. Ngoài ra, nghiên cứu thực hiện kiểm định tự tương quan các chuỗi MCMC của các

biến bằng biểu đồ Autocorrelation và Effective sample size (ESS) nhằm đánh giá suy diễn Bayes

là vững.

- Dữ liệu được thu thập từ báo cáo tài chính của 30 NHTM Việt Nam, số liệu kinh tế vĩ mô của

Tổng cục Thống kê, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2018.

1.5 ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN

Kết quả nghiên cứu trong Luận án có những đóng góp mới về mặt khoa học và thực

tiễn chủ yếu sau:

10

Về mặt khoa học:

- Thứ nhất, trên cơ sở cách tiếp cận kết hợp các lý thuyết về KNSL và các lý thuyết chu kỳ kinh

tế vả khủng hoảng kinh tế, tác giả nghiên cứu mối quan hệ giữa các thời kỳ kinh tế (giai đoạn

khủng hoảng và giai đoạn hậu khủng hoảng) và KNSL của NHTM. Từ đó tác giả xây dựng các

giả thuyết nghiên cứu: (i) tác động của các yếu tố vi mô đến KNSL; (ii) tác động của các yếu tố

vĩ mô đến KNSL; (iii) tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới đến KNSL của các NHTM.

- Thứ hai, xuất phát từ việc các nghiên cứu trước đây sử dụng các phương pháp ước lượng truyền

thống như FEM, REM, GMM, dẫn đến các kết quả khác nhau khi đánh giá tác động của khủng

hoảng kinh tế đến KNSL của NHTM. Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng phương pháp hồi

quy tuyến tính Bayes thông qua thuật toán lấy mẫu Gibbs, là một cách tiếp cận mới, nhằm đánh

giá các yếu tố có ảnh hưởng đến KNSL của NHTM theo hai giai đoạn khác nhau của chu kỳ

kinh tế. Kết quả ước lượng theo phương pháp Bayes không bị ảnh hưởng bởi các nhược điểm

như phương pháp truyền thống nên có sự nhất quán và đáng tin cậy.

- Thứ ba, nghiên cứu tiếp cận theo hướng đánh giá ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế đến

KNSL của NHTM Việt Nam trong toàn bộ giai đoạn của khủng hoảng kinh tế, khác với các

nghiên cứu trước đã được thực hiện tại Việt Nam, chỉ đánh giá tác động tức thời của khủng

hoảng kinh tế đến khả năng sinh lời của NHTM Việt Nam và chưa đánh giá dưới tác động của

các biện pháp kích thích kinh tế của Chính phủ.

- Thứ tư, một đóng góp khác của Luận án là so sánh chiều hướng tác động của các yếu tố đến

KNSL của NHTM Việt Nam trong hai giai đoạn, giai đoạn khủng hoảng và hậu khủng hoảng

kinh tế thế giới. Luận án cung cấp bằng chứng cho thấy chiều hướng tác động khác nhau của các

yếu tố khi so sánh giữa hai giai đoạn.

Về thực tiễn:

Mặc dù phạm vi nghiên cứu của luận án gắn với bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới

(2007 – 2011), tuy nhiên như đã phân tích ở trên, chu kỳ kinh tế và khủng hoảng kinh tế xảy ra

theo định kỳ, có tính quy luật không thể tránh khỏi. Do đó, những kết quả nghiên cứu và gợi ý

chính sách của Luận án không những có ý nghĩa thực tiễn đối với ngân hàng thương mại nhằm

đạt được khả năng sinh lời hợp lý trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế mà còn có ý nghĩa trong

11

việc định hướng và dự báo cho những cuộc khủng hoảng kinh tế trên thế giới cũng như tại Việt

Nam có thể xảy ra trong tương lai.

Nghiên cứu là cơ sở khoa học để Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, các NHTM có thể

đưa ra những chính sách, giải pháp kịp thời và hợp lý nhằm xây dựng hệ thống ngân hàng vững

chắc, đảm bảo việc kinh doanh ngân hàng lành mạnh, hạn chế tác động tiêu cực của khủng hoảng

kinh tế thế giới và nâng cao hiệu quả hoạt động của NHTM Việt Nam, cụ thể như sau:

- Thứ nhất, quy mô và vốn ngân hàng có tác động tích cực đến KNSL của NHTM trong từng giai

đoạn và trong toàn bộ thời kỳ. Vì vậy, các ngân hàng cần tăng quy mô và vốn với mức độ phù hợp,

tùy vào năng lực của từng ngân hàng cụ thể.

- Thứ hai, tương tự như quy mô và vốn ngân hàng, dư nợ cho vay được chứng minh có tác động

tích cực đến KNSL của NHTM trong từng giai đoạn và trong toàn bộ thời kỳ. Tuy nhiên, các ngân

hàng cần đa dạng hóa danh mục cho vay và đa dạng hóa hoạt động kính doanh, tăng tỷ trọng thu

nhập từ hoạt động phi tín dụng, tránh việc phụ thuộc quá nhiều vào một số ít khách hàng và lĩnh

vực cho vay cụ thể như chứng khoán, bất động sản.

- Thứ ba, tiền gửi khách hàng có tác động tích cực đến KNSL của NHTM trong thời kỳ khủng

hoảng kinh tế nhưng có tác động tiêu cực trong thời kỳ hậu khủng hoảng. Vì vậy, ngân hàng cần

phân bổ nguồn vốn huy động được qua các kênh khác nhau, tăng tỷ trọng cho vay ngắn hạn tương

ứng với tiền gửi ngắn hạn mà ngân hàng huy động được và không phụ thuộc nhiều vào hoạt động

tín dụng.

- Thứ tư, chi phí hoạt động có tác động trái ngược đến KNSL của NHTM trong từng giai đoạn.

Vì vậy, ngân hàng có thể tăng chi phí hoạt động nhưng phải sử dụng chi phí một cách có hiệu

quả mới có thể đảm bảo hiệu quả tài chính khi chi phí hoạt động gia tăng. Năng lực quản lý chi

phí hoạt động là yếu tố quan trọng đảm bảo lợi nhuận tăng nhanh hơn so với chi phí bỏ ra.

- Thứ năm, mặc dù KNSL của các NHTM tốt hơn trong bối cảnh khủng hoảng tài chính thế giới.

Tuy nhiên, việc bùng nổ tín dụng nhưng chất lượng tín dụng kém đã để lại hậu quả lâu dài cho

hệ thống ngân hàng mà cho đến nay vẫn chưa thể giải quyết được, đặc biệt là nợ xấu tăng mạnh

trong giai đoạn sau đó. Do vậy, chất lượng tín dụng là điều cực kỳ quan trọng. Ngân hàng Nhà

nước cần giám sát chặt chẽ các NHTM nhằm đảm bảo chất lượng khoản vay và mục đích sử dụng

12

vốn vay, không nên nôn nóng đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng quá cao cho hệ thống ngân hàng

mà không giám sát được một cách có hiệu quả.

- Thứ sáu, Ngân hàng Nhà nước cần thiết lập mức tăng trưởng tín dụng hợp lý hơn cho từng ngân

hàng và cho toàn bộ hệ thống ngân hàng trong giai đoạn khủng hoảng, có sự chuẩn bị kỹ lưỡng

hơn về mọi mặt khi thực hiện các biện pháp kích thích kinh tế. Chính phủ cần có cách tiếp cận

khác trong việc ứng phó với các cuộc khủng hoảng kinh tế tiềm tàng trong tương lai.

1.6 KẾT CẤU LUẬN ÁN

Nội dung của Luận án bao gồm 5 chương:

Chương 1: Giới thiệu

Chương 2: Cơ sở lý thuyết về tác động của khủng hoảng kinh tế đến khả năng sinh lời của

ngân hàng thương mại

Chương 3: Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu

Chương 4: Kết quả nghiên cứu và thảo luận

Chương 5: Kết luận và gợi ý chính sách để các ngân hàng thương mại Việt Nam đạt được

khả năng sinh lời hợp lý trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới.

13

CHƯƠNG 2

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ TÁC ĐỘNG CỦA KHỦNG HOẢNG KINH

TẾ ĐẾN KHẢ NĂNG SINH LỜI CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

2.1 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ CHU KỲ KINH TẾ VÀ KHỦNG HOẢNG KINH TẾ

2.1.1 Khái niệm về chu kỳ kinh tế và khủng hoảng kinh tế

Có nhiều quan điểm về khái niệm chu kỳ kinh tế. Kinh tế chính trị Marx-Lenin (2009)

cho rằng một chu kỳ kinh tế của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa gồm bốn giai đoạn là: khủng hoảng,

tiêu điều, phục hồi và hưng thịnh. Burns và Mitchell (1946) cho rằng chu kỳ kinh tế là một chu

kỳ kinh doanh, bao gồm bốn giai đoạn lần lượt: suy thoái, khủng hoảng, phục hồi và hưng thịnh.

Khi suy thoái kéo dài ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế và dẫn đến khủng hoảng kinh tế.

Do đó, chính phủ các nước thường hoạch định những chính sách can thiệp vào nền kinh tế nhằm

giảm nhẹ hậu quả do suy thoái gây ra. Vì thế, một số quan điểm mới mà tiêu biểu là Samuelson

và Nordhaus (2007) cho rằng, chu kỳ kinh tế là sự biến động của GDP thực theo trình tự ba giai

đoạn, lần lượt là giai đoạn suy thoái, giai đoạn phục hồi và giai đoạn hưng thịnh. Trong đó, giai

đoạn suy thoái là sự suy giảm của GDP thực trong thời gian liên tục hai hoặc hơn hai quý (tốc

độ tăng trưởng kinh tế âm liên tục trong hai quý).

Gordon (1994) cho rằng chu kỳ kinh tế bao gồm những giai đoạn bành trướng xảy ra hầu

như cùng một lúc trong nhiều hoạt động kinh tế, và tiếp theo đó lại có những giai đoạn khủng

hoảng và những giai đoạn hồi phục được hòa nhập vào giai đoạn bành trướng của chu kỳ tiếp

sau.

Begg và cộng sự (2007) cho rằng chu kỳ kinh tế là sự biến động của tổng sản lượng trong

ngắn hạn xung quanh đường xu thế của nó (đường xu thế của sản lượng là một tiến trình đều đặn

của sản lượng dài hạn khi mà những biến động trong ngắn hạn đã được tính bình quân).

Cơ quan Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia (NBER) của Hoa Kỳ cho rằng suy thoái kinh tế là

sự sụt giảm hoạt động kinh tế trên cả nước, kéo dài nhiều tháng đến hơn một năm. Suy thoái kinh

tế có thể liên quan tới sự suy giảm đồng thời nhiều chỉ số kinh tế như việc làm, đầu tư, lợi nhuận

14

doanh nghiệp và có thể gắn liền với lạm phát hoặc giảm phát. Sự suy thoái trầm trọng và lâu dài

được gọi là khủng hoảng kinh tế (NBER, 2010).

Giai đoạn phục hồi là khi GDP bắt đầu tăng trở lại và tăng cho đến khi đạt bằng mức GDP

trước suy thoái kinh tế. Quá trình phục hồi ra khỏi thời kỳ thu hẹp được xác định bằng việc nền

kinh tế đã tăng trưởng ngày một cao trong ba quý liên tiếp kể từ điểm đáy. Điểm ngoặt giữa hai

giai đoạn suy thoái và giai đoạn phục hồi là đáy của chu kỳ kinh tế (Samuelson và Nordhaus,

2007).

Giai đoạn hưng thịnh là khi GDP tăng lớn hơn mức GDP đạt lúc trước khi suy thoái xảy

ra thì nền kinh tế đang ở giai đoạn hưng thịnh và giai đoạn hưng thịnh kết thúc bằng sự bắt đầu

giai đoạn suy thoái mới. Điểm ngoặt từ giai đoạn hưng thịnh sang giai đoạn suy thoái mới gọi là

đỉnh của chu kỳ kinh tế (Samuelson và Nordhaus, 2007).

2.1.2 Các lý thuyết về chu kỳ kinh tế và khủng hoảng kinh tế

Lý thuyết chu kỳ kinh tế được nghiên cứu vào đầu thế kỷ 19, với 2 xu hướng chính.

Xu hướng thứ nhất, theo quan điểm kinh tế chính trị của Marx (1894), nguyên nhân chính

của chu kỳ kinh tế và khủng hoảng kinh tế là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của nền sản xuất

tư bản chủ nghĩa và phương thức chiếm hữu tư nhân mà nền kinh tế tư bản chủ nghĩa không thể

tránh khỏi. Tư bản là giá trị tự gia tăng mà xu hướng mở rộng bành trướng là bản chất cơ bản

của nó. Mục tiêu của nhà tư bản là tăng giá trị vốn, chứ không phải tiêu dùng. Nguyên nhân chính

này làm nảy sinh các mâu thuẫn khác giữa tư bản và lao động, sản xuất và tiêu dùng, sự tổ chức

sản xuất bài bản bên trong xí nghiệp riêng lẻ và tính vô chính phủ của nền sản xuất.

Xu hướng thứ hai, với đại diện là các nhà kinh tế học Sismondi, Rodbertus, Malthus, là

những người đầu tiên công nhận khả năng của cuộc khủng hoảng toàn diện – khủng hoảng sản

xuất thừa trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Bên cạnh đó, họ đã đặt vấn đề về các

nguyên nhân xuất hiện của khủng hoảng kinh tế. Sismondi (1819) cho rằng nguyên nhân chính

của chu kỳ kinh tế và khủng hoảng kinh tế nằm trong mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản. Vì

vậy, ông gần như hiểu được tính quy luật khách quan của khủng hoảng kinh tế, đó là hiện tượng

thường xuyên lập lại. Tính không hoàn thiện của nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa như

việc các doanh nhân đưa ra những quyết định sản xuất chỉ chủ yếu dựa trên giá và chi phí mà

15

không biết về các hành động của nhau. Kết quả là lượng cung được xác định bởi lượng vốn, chứ

không phải lượng cầu. Dẫn đến khả năng sản xuất thừa.

Theo Malthus (1820), nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế sản xuất thừa là một phần

sản phẩm tương ứng về giá trị với lợi nhuận không tìm thấy đủ cầu trên thị trường. Luận điểm

này giống lý thuyết cầu hiệu quả của Keynes sau này. Nhưng theo ông, khủng hoảng kinh tế chỉ

là hiện tượng tạm thời.

Rodbertus (1850) nghiên cứu vấn đề phân phối, nhận định rằng khủng hoảng kinh tế xuất

phát từ xu hướng thiểu dùng (tiêu dùng không đủ) của giai cấp công nhân do bởi tiền lương tăng

chậm hơn cung hàng hóa.

Sang thế kỷ 20, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 đã thúc đẩy khoa học kinh

tế mở rộng và đi sâu nghiên cứu chu kỳ kinh tế và khủng hoảng kinh tế.

Theo trường phái Keynes (1936), xuất phát từ sự tồn tại của sự không chắc chắn không

thể suy giảm trong một nền kinh tế sử dụng tiền tệ, kết quả là nền kinh tế có những giai đoạn

tăng trưởng nhanh và suy thoái, sau đó là khủng hoảng. Trong giai đoạn tăng trưởng chậm, các

doanh nghiệp thường tỏ ra bi quan, và trong thời kỳ bùng nổ, họ lại quá lạc quan. Khi không tin

rằng hoạt động đầu tư của mình sẽ có lợi thì doanh nghiệp giữ tiền mặt và trả bớt nợ (chứ không

tăng đầu tư trong dài hạn và giúp nền kinh tế tự điều chỉnh như trong quan điểm cổ điển). Do đó

tổng cầu sẽ dịch chuyển giữa đỉnh và đáy của chu kỳ kinh tế chủ yếu tùy vào tính bầy đàn của

nhà đầu tư. Một khi cầu bắt đầu đi xa khỏi quỹ đạo toàn dụng thì nền kinh tế có thể lao xuống

dốc theo hình trôn ốc, và rất khó để đưa nền kinh tế trở về hướng đi toàn dụng nếu không có sự

hỗ trợ của nhà nước. Do đó, một trong những hàm ý của quan điểm này là nền kinh tế không tự

điều tiết, và chính phủ phải hành động để kích cầu khi nền kinh tế suy yếu, và làm nguội nền

kinh tế khi quá nóng. Nếu không đủ dòng tiền chảy vào nền kinh tế để giúp cho quá trình tái tài

trợ thì tình trạng suy thoái kinh tế kéo dài và kết quả là khủng hoảng kinh tế xảy ra. Khi khủng

hoảng kinh tế xảy ra, việc thắt chặt chi tiêu của chính phủ, tâm lý ngại cho vay của các ngân

hàng càng làm cho khủng hoảng trở nên trầm trọng hơn. Do vậy, chính phủ cần đẩy mạnh chi

tiêu nhằm tăng tổng cầu trong thời kỳ khủng hoảng và thắt chặt chi tiêu trong thời kỳ tăng trưởng

nóng. Đối với thị trường tài chính, trong giai đoạn khủng hoảng, ngân hàng trung ương cần hành

động nhanh chóng nhằm tạo thanh khoản cho thị trường, ngăn chặn tình trạng găm giữ tiền mặt,

16

khơi thông dòng vốn trong nền kinh tế. Quan điểm của Keynes về lãi suất cho rằng, lãi suất

không nên giảm xuống thấp hơn một mức nào đó vì khi lãi suất quá thấp, các nhà đầu tư có xu

hướng nắm giữ tiền mặt nhiều hơn thay vì mua trái phiếu, làm cho đầu tư giảm trong khi tình

trạng tiết kiệm trở nên quá mức, làm giảm tổng cầu. Bên cạnh đó, Keynes còn cho rằng, lãi suất

giảm không hẳn sẽ dẫn đến tăng đầu tư. Lãi suất giảm, nhưng tiết kiệm chưa chắc đã giảm theo

do hiệu ứng thu nhập và hiệu ứng thay thế của giảm lãi suất triệt tiêu lẫn nhau. Và khi tiết kiệm

không giảm thì đầu tư không tăng. Đầu tư mang tính chất dài hạn nên không vì lãi suất giảm

trong ngắn hạn mà đầu tư sẽ tăng lên. Tiết kiệm quá cao có thể ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh

tế do hộ gia đình giảm tiêu dùng, doanh nghiệp không đầu tư để sản xuất nhiều hàng hóa hơn do

lo ngại không đủ cầu để tiêu thụ hàng hóa mà họ sản xuất ra và không chắc chắn về triển vọng

của nền kinh tế.

Trường phái tân cổ điển đồng ý với Keynes rằng nền kinh tế không thể tự điều tiết trong

ngắn hạn mà cần có sự can thiệp của chính phủ, nhưng lại bác bỏ quan điểm của Keynes về sự

không chắc chắn không thể suy giảm. Họ cho rằng thông tin là tốn kém, người lao động sẽ không

chấp nhận một mức cắt giảm lương danh nghĩa kể cả khi mức giá chung đang giảm. Theo trường

phái tân cổ điển, nguyên nhân của sự thu hẹp quy mô đầu tư của các nhà đầu tư cũng như sự

không sẵn sàng tiêu dùng của hộ gia đình là vì họ dự đoán thuế sẽ cao hơn trong tương lai để bù

đắp thâm hụt ngân sách ngày càng lớn của chính phủ. Bất kỳ nỗ lực nào của chính phủ nhằm

thúc đẩy việc làm trong suy thoái đều sẽ dẫn đến lạm phát mà không tăng được sản lượng. Do

đó, chính phủ chỉ cần giữ cân bằng ngân sách, và ngân hàng trung ương giữ cho cung tiền tăng

với tốc độ ổn định của GDP danh nghĩa, người dân sẽ điều chỉnh kỳ vọng hợp lý và nền kinh tế

sẽ tự đi đến mức độ cân bằng.

Theo trường phái hậu Keynes, điển hình là Minsky (1975), có một thời điểm mà ở đó hệ

thống tài chính thay đổi từ trạng thái ổn định sang trạng thái khủng hoảng (thường được gọi là

khoảnh khắc Minsky). Lý thuyết này cho rằng, các cú sốc về tài chính và hành vi sai lầm của các

nhà đầu tư là nguyên nhân gây nên các đợt khủng hoảng tài chính. Theo đó, khoảnh khắc Minsky

là khi các nhà đầu tư, do tài trợ cho danh mục đầu tư của mình bằng việc vay nợ quá mức, buộc

phải bán các tài sản tốt nhất của mình để có thể hoàn trả nợ vay, dẫn đến một sự suy giảm mạnh

cả về giá trị lẫn thanh khoản trên thị trường tài chính. Ở bất kỳ chu kỳ đặc thù nào của nền kinh

17

tế, như chu kỳ tín dụng hoặc chu kỳ kinh doanh, thì khoảnh khắc Minsky là thời điểm mà ở đó

các nhà đầu tư bắt đầu gặp khó khăn về thanh khoản do vòng xoáy nợ nần gây ra từ việc tài trợ

các khoản đầu tư mang tính rủi ro cao. Ở điểm này, tâm lý các nhà đầu tư trở nên hoảng loạn dẫn

đến làn sóng bán tháo diễn ra do không có nhà đầu tư nào có thể bán được tài sản của mình tại

mức giá mà nhà đầu tư chào bán cao được niêm yết trước đó, làm cho giá chào bán sụt giảm

nhanh chóng, dẫn đến một suy giảm thanh khoản nặng nề và điều đó kéo theo sự sụp đổ bất ngờ

theo chiều thẳng đứng của thị trường tài chính. Minsky cho rằng, tính dễ tổn thương được xem

là một đặc tính cơ bản của bất kỳ nền kinh tế tư bản nào. Theo đó, tính tổn thương càng cao sẽ

càng làm cho rủi ro khủng hoảng tài chính lớn hơn. Minsky chia các phương thức tài trợ tài chính

của các nhà đầu tư ra làm 3 phần (hay 3 giai đoạn) tương ứng với các mức độ rủi ro khác nhau,

đó là giai đoạn tài chính phòng vệ (hedge finance), giai đoạn tài chính đầu cơ (speculative

finance), và giai đoạn tài chính Ponzi (Ponzi finance). Trong đó, ở giai đoạn 3, hình thức tài trợ

là tài chính Ponzi, hệ thống tài chính trở nên rủi ro cao nhất và dễ tổn thương nhất. Mức độ dễ

tổn thương tài chính di chuyển cùng chiều với các chu kỳ kinh tế. Sau giai đoạn khủng hoảng,

các nhà đầu tư bị thua lỗ nhiều sẽ có xu hướng thận trọng hơn và chọn cách phòng vệ. Khi kinh

tế bắt đầu phục hồi trở lại và lợi nhuận mà nhà đầu tư kiếm được bắt đầu tăng lên, họ có khuynh

hướng tin rằng có thể thu được nhiều lợi nhuận hơn nữa bằng cách tham gia vào các hoạt động

mang tính chất đầu cơ. Trong trường hợp này, các nhà đầu tư nhận thức được rằng không phải

lúc nào lợi nhuận tạo ra cũng đủ để trang trải các khoản chi phí lãi vay. Tuy nhiên, họ tin rằng

lợi nhuận sẽ tăng lên và như vậy, các khoản nợ vay sẽ dễ dàng được thanh toán đúng hạn mà

không gặp khó khăn gì đáng kể. Khi nhà đầu tư vay mượn nhiều sẽ làm cho mức đầu tư tăng lên

trong nền kinh tế và dẫn đến nền kinh tế tăng trưởng. Sau đó, những người cho vay cũng có niềm

tin rằng họ có thể dễ dàng thu hồi các khoản nợ đã cho vay mà hầu như không gặp trở ngại nào

đáng kể. Do đó, các ngân hàng bắt đầu tăng cường cho các nhà đầu tư, các doanh nghiệp vay mà

không có một sự đảm bảo nào cho sự thành công của các khoản vay. Các ngân hàng cũng có thể

biết rằng các nhà đầu tư, doanh nghiệp này sẽ gặp khó khăn trong quá trình trả nợ. Tuy nhiên,

ngân hàng lại tin rằng các nhà đầu tư, doanh nghiệp sẽ có thể trả nợ bằng cách tái tài trợ khi lợi

nhuận kỳ vọng của chúng tăng lên. Đây chính là hình thức tài chính Ponzi. Ở hình thức tài chính

này, nền kinh tế đã tích lũy rủi ro tín dụng ở mức rất cao. Đến lúc chỉ còn vấn đề đáng quan tâm

nhất được đặt ra là thời điểm trước khi các công ty lớn sụp đổ. Khi đó, các ngân hàng bắt đầu

18

cảm nhận được những rủi ro tồn tại thực sự trong nền kinh tế và bắt đầu hạn chế hoặc ngừng cho

vay với các điều khoản dễ dãi. Tái tài trợ trở nên là điều không thể đối với nhiều doanh nghiệp

vỡ nợ. Nếu không còn đủ tiền chảy vào nền kinh tế để làm cho quá trình tái tài trợ này tiếp ttcu5

diễn ra thì sẽ bắt đầu cho một cuộc khủng hoảng kinh tế. Trong suốt thời kỳ khủng hoảng, các

nhà đầu tư thận trọng hơn trong các hành động của mình và bắt đầu trở về phương án phòng vệ,

và chu kỳ kinh tế khép lại. Như vậy, có thể tóm tắt quan điểm của Minsky về khủng hoảng tài

chính qua 3 giai đoạn như sau:

- Giai đoạn 1: Đây là giai đoạn mà nền kinh tế phục hồi và phát triển ổn định theo sau một cú

sốc hay 1 đợt khủng hoảng tài chính trước đó. Trong suốt giai đoạn này, các nhà đầu tư tỏ ra hào

hứng và có đánh giá đầy lạc quan về nền kinh tế. Tâm lý các nhà đầu tư khá ổn định, có xu hướng

lựa chọn đầu tư vào các danh mục hay tài sản an toàn. Từ nguồn vốn tự có hoặc đi vay ngân

hàng, họ thu được lợi nhuận ổn định, an toàn nhưng không có đột biến và đủ khả năng thanh toán

nợ gốc và lãi cho ngân hàng. Từ những thành công ban đầu như vậy, họ bắt đầu quan tâm đầu tư

vào các tài sản có thể mang lại lợi nhuận nhiều hơn.

- Giai đoạn 2: Dựa trên những thành công từ đầu tư ở giai đoạn 1, các nhà đầu tư bắt đầu mở

rộng danh mục đầu tư của mình. Một lĩnh vực kinh doanh có thể có nhiều nhà đầu tư cùng tham

gia và một nhà đầu tư tham gia vào nhiều lĩnh vực khác nhau. Do nhu cầu đầu tư gia tăng nhanh

chóng, các nhà đầu tư bắt đầu tăng cường vay nợ. Các ngân hàng cho vay nhiều hơn dẫn đến

tăng trưởng tín dụng cao, lợi nhuận nhiều hơn nhưng rủi ro cũng tăng lên tương ứng. Nguồn vốn

tín dụng đổ nhiều hơn vào các lĩnh vực khác nhau nên tạo ra bong bóng giá các tài sản. Rủi ro

tăng cao làm bào mòn lợi nhuận của các nhà đầu tư. Từ đó họ chỉ có thể cầm cự trả lãi cho ngân

hàng, còn nợ gốc trở nên khó khăn hơn và cần thêm thời gian để trả.

- Giai đoạn 3: Bong bóng tài chính thực sự bùng nổ làm cho nền kinh tế rơi vào khủng hoảng.

Các ngân hàng hạn chế cho vay, tăng cường các điều kiện cho vay hoặc ngừng cho vay do nhận

thấy rủi ro cao. Khi đó, hoạt động đầu cơ vào các tài sản, đặc biệt là các tài sản có tính rủi ro cao

như chứng khoán, bất động sản bị đóng băng. Các nhà đầu tư không thể trả nợ cho ngân hàng,

lâm vào tình trạng kiệt quệ về tài chính, phải bán tháo các tài sản của mình với các mức giá ngày

càng thấp hơn để trả nợ cho ngân hàng và cố gắng rút khỏi các danh mục đầu tư. Kết quả là họ

có nguy cơ bị mất vốn và rơi vào tình trạng phá sản. Bản thân các ngân hàng cũng lâm vào tình

19

trạng mất thanh khoản, không thể đáp ứng nhu cầu vay tiền tăng cao đột biến của các nhà đầu tư

cũng như người gửi tiền gia tăng việc rút tiền mặt khỏi ngân hàng.

Sau đó, nền kinh tế bắt đầu 1 chu kỳ mới, quay lại trạng thái ổn định, ưu tiên an toàn của

giai đoạn 1. Các nhà đầu tư hạn chế sử dụng nợ vay làm đòn bẩy tài chính, ưu tiên lựa chọn đầu

tư vào các lĩnh vực có mức độ an toàn cao, đồng thời tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng

cũng giảm xuống tương ứng với nhu cầu vay vốn giảm xuống của các nhà đầu tư.

Lý thuyết chu kỳ dài được xem là lý thuyết có khả năng dự báo cao nhưng ít được sử dụng

phổ biến. Chu kỳ dài là sự lặp lại những thời kỳ tăng trưởng (mở rộng) và suy thoái (thu hẹp)

của quá trình tái sản xuất kinh tế thế giới kéo dài trung bình 50 năm và được chia thành 4 giai

đoạn nhỏ. Là quy luật đặc trưng của kinh tế thị trường từ sau giai đoạn công nghiệp hoá, chu kỳ

dài ban đầu chỉ diễn ra trong thế giới tư bản phát triển nhưng ngày nay đang chiếm lĩnh nền kinh

tế toàn cầu. Nguyên nhân hình thành chu kỳ dài chính là sự thay đổi hệ thống công nghệ lớn. Các

phát minh khoa học, công nghệ đột phá và việc ứng dụng thực tiễn chúng cho ra đời và phát triển

những ngành công nghiệp mới ảnh hưởng lan tỏa tới năng suất lao động của toàn bộ nền kinh tế.

Mặc dù, các trường phái khác nhau có các hướng tiếp cận khác nhau nhưng chúng không

mâu thuẫn nhau và đóng vai trò là một nội dung trong hệ thống lý thuyết hoàn chỉnh về chu kỳ

kinh tế. Trong đó, trường phái Keynes và trường phái hậu Keynes (lý thuyết Minsky) đóng vai

trò trọng tâm, nền tảng về lý thuyết trong nghiên cứu của luận án này. Khủng hoảng kinh tế mang

tính chu kỳ, được xem xét như một giai đoạn của chu kỳ kinh tế, nó được gọi là khủng hoảng

chu kỳ. Còn khủng hoảng kinh tế xảy ra cục bộ ở một lĩnh vực nào là khủng hoảng đặc thù, như

khủng hoảng tài chính, tín dụng, kinh doanh... Cách tiếp cận khủng hoảng kinh tế như một giai

đoạn cấu thành của chu kỳ kinh tế được đa số những nhà kinh tế tên tuổi ủng hộ. Do đó, trong

nội dung tiếp theo, luận án sẽ vận dụng kết hợp các lý thuyết này với các lý thuyết về KNSL

nhằm phân tích mối quan hệ giữa khủng hoảng kinh tế và KNSL của ngân hàng thương mại.

Trong phạm vi của Luận án, tác giả giới hạn trong bối cảnh là khủng hoảng tài chính.

2.2 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ KHẢ NĂNG SINH LỜI CỦA NGÂN HÀNG

THƯƠNG MẠI

2.2.1 Các quan điểm về hiệu quả kinh doanh và khả năng sinh lời của ngân hàng thương

20

mại

HQKD của NHTM có thể được đánh giá bằng nhiều phương pháp và KNSL của NHTM

là một trong số các phương pháp để đánh giá HQKD của NHTM (ECB, 2010; Yuanita, 2019).

Khả năng tạo ra lợi nhuận được xem như là cách để đánh giá HQKD của NHTM (ECB, 2010).

Vì vậy, để nghiên cứu KNSL của NHTM, tác giả cần lược khảo cơ sở lý thuyết về HQKD của

NHTM.

Các nhà kinh tế học cổ điển cho rằng, tối đa hóa lợi nhuận trong điều kiện thị trường cạnh

tranh hoàn hảo là mục tiêu hoạt động của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cũng hướng tối

đa hóa lợi nhuận bằng cách tối đa hóa doanh thu và tối thiểu hóa chi phí trong điều kiện thị trường

độc quyền. Do đó, lợi nhuận là mục tiêu hoạt động của các doanh nghiệp, là thước đo hiệu quả

một doanh nghiệp. Farrell (1957) lập luận rằng, hiệu quả nhằm đánh giá khả năng một đơn vị

trong việc tối đa hóa doanh thu đầu ra với chi phí đầu vào cho trước. Theo lý thuyết hệ thống,

hiệu quả có thể được xem xét ở hai khía cạnh: khía cạnh thứ nhất là khả năng có thể kiểm soát

được khả năng sinh lời tạo ra hoặc giảm thiểu chi phí để có thể gia tăng khả năng cạnh tranh,

khía cạnh thứ hai là khả năng kết hợp một cách tối ưu các yếu tố đầu vào nhằm tạo ra một đơn

vị đầu ra.

KNSL là một trong các khía cạnh quan trọng để đánh giá hiệu quả kinh doanh của ngân

hàng. Có thể dựa vào hai chỉ tiêu đó là hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả tương đối để đánh giá hiệu

quả kinh doanh.

- Hiệu quả kinh doanh tuyệt đối: được đo lường bằng cách lấy kết quả kinh doanh được tạo ra và

trừ đi chi phí đã bỏ ra để thu được kết quả đó. Cách tính này có thể phản ánh quy mô doanh

nghiệp, khối lượng tạo ra, lợi nhuận đạt được trong điều kiện, thời gian và địa điểm cụ thể. Tuy

nhiên, điều này chưa hẳn là đúng hoàn toàn vì trong một số trường hợp, cách tính này khó có thể

so sánh được với các doanh nghiệp có thể cùng quy mô doanh nghiệp nhưng lại có chiến lược

kinh doanh hay chiến lược đầu tư theo hướng dài hạn, chưa thể hiện chính xác tuyệt đối kah3

năng sử dụng các nguồn lực khi so sánh hoạt động kinh doanh giữa các tổ chức.

- Hiệu quả kinh doanh tương đối: có thể được đánh giá bằng cách so sánh giữa tỷ lệ của kết quả

đầu ra và yếu tố đầu vào. Có thể so sánh các yếu tố đầu vào và đầu ra đối với trường hợp doanh

nghiệp, cách tính hiệu quả kinh doanh tương đối được xác định như sau: Hiệu quả = đầu ra/đầu

21

vào hoặc Hiệu quả = đầu vào/đầu ra. Cách đánh giá này là hợp lý khi so sánh giữa các doanh

nghiệp khác nhau về quy mô, về không gian, cũng như qua những thời kỳ khác nhau.

NHTM là một định chế tài chính trung gian có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế thị

trường, là huyết mạch của nền kinh tế thị trường, kết nối các lĩnh vực kinh tế khác nhau, luân

chuyển vốn từ nơi đang dư thừa sang nơi đang thiếu một cách hiệu quả (Rose & Hudgins, 2014),

nhưng xét về bản chất là một doanh nghiệp, các NHTM cũng hoạt động kinh doanh với mục tiêu

tối đa hóa lợi nhuận, tối đa hóa giá trị cho các cổ đông nhưng phả hoạt động trong mức độ rủi ro

cho phép. Vì vậy, việc đánh giá hiệu quả của NHTM cũng dựa trên những nền tảng lý thuyết như

đánh giá hiệu quả của một doanh nghiệp, đồng thời cần xem xét đến tính chất đặc thù của NHTM

là một doanh nghiệp đặc biệt, có mức độ ảnh hưởng rất lớn đến các doanh nghiệp khác cũng như

toàn bộ nền kinh tế nói chung.

Xét theo nghĩa hẹp, quan điểm về hiệu quả của NHTM chính là khả năng có thể tạo ra lợi nhuận

nhưng đồng thời, khác với các doanh nghiệp bình thường, các ngân hàng vẫn phải đảm bảo an

toàn cho các hoạt động của ngân hàng cũng như trong toàn bộ hệ thống ngân hàng, với mức độ

rủi ro hợp lý và được kiểm soát chặt chẽ.

Xét theo nghĩa rộng, hiệu quả không chỉ quan tâm đến tối đa hóa lợi nhuận mà lợi nhuận

đạt được với một cấu trúc vốn hợp lý, xu hướng tăng trưởng lợi nhuận ổn định, và rủi ro được

kiểm soát tốt. Chang và cộng sự (2010) khi nghiên cứu về KNSL của các NHTM Đài Loan cũng

cho rằng, hiệu quả thể hiện năng lực kiểm soát chi phí và sử dụng nguồn lực một cách hiệu quả

để tạo ra đầu ra.

Trong các nghiên cứu hiệu quả kinh doanh ngân hàng, có nhiều cách tiếp cận khác nhau.

Theo cách tiếp cận sản xuất với quan điểm ngân hàng như là đơn vị sản xuất có các tác giả

Benston (1965), Zenios và cộng sự (1999). Theo cách tiếp cận trung gian trung gian tài chính có

Sealey và Lindley (1977), Casu và Girardone (2003). Theo cách tiếp cận kết hợp của hai quan

điểm trên cho rằng ngân hàng đóng cả hai vai trò vừa là đơn vị sản xuất vừa là trung gian tài

chính có Denizer và cộng sự (2000), Athanassopoulos và Giokas (2000).

Quan điểm của Benston (1965) cho rằng các ngân hàng cũng được xem như là các nhà

cung cấp các dịch vụ cho khách hàng. Đầu vào bao gồm các yếu tố như lao động, vật liệu, không

gian, hệ thống thông tin… là các yếu tố có trạng thái vật lý, hoặc các chi phí liên quan. Đầu ra là

22

các dịch vụ tài chính mà ngân hàng có thể cung cấp cho khách hàng và được tính bằng số lượng

giao dịch, loại giao dịch, số lượng văn bản có khả năng xử lý hoặc các dịch vụ mà ngân hàng có

thể cung cấp trong một khoảng thời gian nhất định. Trong trường hợp không thể có số liệu chi

tiết, chúng ta có thể thay thế các số liệu đó bằng các số liệu khác, chẳng hạn như số liệu về các

tài khoản tiền gửi và cho vay như là một thay thế hợp lý cho các mức độ dịch vụ mà ngân hàng

cung cấp. Hướng tiếp cận này đã chủ yếu được áp dụng khi nghiên cứu về hiệu quả của các ngân

hàng cụ thể.

Quan điểm của Sealey và Lindley (1977) cho rằng các lý thuyết kinh tế vĩ mô truyền thống

nhận định các công ty và ngân hàng chỉ khác nhau về đặc điểm hoạt động. Các NHTM được xem

là nơi chuyển giao vốn giữa người tiết kiệm và đầu tư nên NHTM sản xuất dịch vụ trung gian tài

chính bằng cách huy động vốn từ nền kinh tế và đầu tư vào các tài sản có sinh lãi như các khoản

tín dụng, cổ phiếu, trái phiếu hoặc các khoản đầu tư khác. Cách tiếp cận này, chi phí của ngân

hàng bao gồm chi phí hoạt động và lãi suất huy động là yếu tố đầu vào, trong khi các khoản tín

dụng và tài sản có sinh lãi khác được xem là kết quả đầu ra. Tuy nhiên, khi tranh luận về phương

pháp này trong việc xác định tiền gửi được coi là đầu vào hay đầu ra, vẫn còn nhiều ý kiến khác

nhau. Mester (1987) cho rằng, thu nhập từ lãi vay là khoản mục đóng vai trò quan trọng nhất

trong cơ cấu lợi nhuận của ngân hàng, tài sản là đầu ra trong hoạt động kinh doanh của ngân

hàng, trong khi đó, đầu vào là các khoản tiền gửi, vốn, lao động. Do đó, khả năng tăng trưởng

tín dụng của ngân hàng là rất quan trọng. Nếu tín dụng của ngân hàng được xem như là một sản

phẩm thì giá cả của sản phẩm chính là lãi suất cho vay. Ngoài ra, nguồn vốn huy động của ngân

hàng là các khoản tiền gửi của người gửi tiền. Do đó, tiền gửi có thể được xem như là yếu tố đầu

vào để tạo ra đầu ra là các khoản cho vay như một sản phẩm trong giai đoạn sản xuất.

Quan điểm của Frexias (2009) có sự khác biệt so với hơn hai phương pháp trên khi kết

hợp một số hoạt động cụ thể của ngân hàng vào các lý thuyết cổ điển. Nghiên cứu về việc tìm

hiểu các yếu tố đầu ra trong hoạt động của NHTM đã xây dựng nên một số phương pháp tiếp cận

hiện đại như: hướng tiếp cận theo tài sản, hướng tiếp cận theo chi phí sử dụng, hướng tiếp cận

theo giá trị gia tăng, hướng tiếp cận theo phương diện hoạt động...

Quan điểm của Sealey và Lindley (1977) thể hiện sự chú trọng vào vai trò trung gian tài

chính của NHTM, đó là vai trò cầu nối giữa người gửi tiền và người sử dụng tài sản cuối cùng

23

của ngân hàng. Tiền gửi và các khoản nợ khác, cùng với nguồn lực thực tế, như vốn và lao động,

được xác định là yếu tố đầu vào, trong khi các yếu tố đầu ra là các tài sản của ngân hàng, cụ thể

như các khoản tín dụng mà ngân hàng đã cung cấp.

Hancock (1985) cho rằng việc xác định sản phẩm tài chính là đầu vào hay đầu ra được

dựa trên mức đóng góp vào thu nhập ròng của ngân hàng. Nếu lợi nhuận tài chính trên một đồng

tài sản lớn hơn chi phí cơ hội của một đồng vốn bỏ ra, hoặc nếu các chi phí tài chính của các

khoản nợ phải trả ít hơn chi phí cơ hội thì được xem như là kết quả đầu ra; nếu ngược lại là yếu

tố đầu vào.

Berger và cộng sự (1997) lập luận các số liệu trên bảng cân đối tài sản (tài sản hoặc nợ

phải trả) như là yếu tố đầu ra, đóng góp vào giá trị gia tăng của ngân hàng. Theo cách tiếp cận

này, các khoản mục chính của các khoản tiền gửi (như tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi không kỳ hạn,

tiền gửi tiết kiệm) và cấp tín dụng (như cho vay khách hàng, cho vay các TCTD khác, bảo lãnh,

tiền gửi tại các TCTD khác) là kết quả của đầu ra vì chúng thể hiện giá trị gia tăng của ngân

hàng.

Leightner và Lovell (1998) thì cho rằng ngân hàng là đơn vị kinh doanh với mục tiêu cuối

cùng là tạo lợi nhuận từ tổng chi phí phát sinh cho hoạt động kinh doanh. Vì vậy, định nghĩa yếu

tố đầu ra của ngân hàng là tổng doanh thu (từ tín dụng hoặc từ các hình thức cung cấp dịch vụ

phi tín dụng khác) và các yếu tố đầu vào như tổng chi phí (chi phí lãi suất và chi phí hoạt động).

Dựa trên các quan điểm đó, có thể khái quát HQKD của NHTM là khả năng kết hợp tối

ưu để tối thiểu hóa các yếu tố đầu vào như nguồn vốn, trang thiết bị, lao động… và các yếu tố

thược về sản xuất kinh doanh của bản thân NHTM như huy động vốn, cấp tín dụng, đầu tư, cung

cấp các dịch vụ khác nhằm đạt giá trị đầu ra tối đa. HQKD của NHTM có thể được đo lường

bằng cách so sánh với đường biên sản xuất của nó.

Do đó, HQKD của NHTM khá đa dạng, tùy theo mục đích nghiên cứu mà HQKD có thể

được xét theo những khía cạnh khác nhau. Với mục đích nghiên cứu của Luận án này, hiệu quả

kinh doanh sẽ được nghiên cứu trên cơ sở tiếp cận hoạt động hay dựa trên khả năng sinh lời của

các ngân hàng trong điều kiện các hoạt động của NHTM được duy trì ổn định và mức độ rủi ro

được kiểm soát ở mức hợp lý.

24

2.2.2 Các lý thuyết về khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại

Khả năng sinh lời của ngân hàng là chỉ tiêu đo lường hiệu quả hoạt động kinh doanh ngân

hàng. Các nghiên cứu về khả năng sinh lời của ngân hàng hay hiệu quả kinh doanh của ngân

hàng cơ bản dựa trên 2 lý thuyết: lý thuyết quyền lực thị trường (MP – market power) và lý thuyết

cấu trúc hiêụ quả (ES - efficient structure).

Lý thuyết quyền lực thị trường

Lý thuyết quyền lực thị trường (MP – market power) có hai hướng tiếp cận chính: lý

thuyết Cấu trúc-Hành vi-Hiệu quả (SCP, Structure-Conduct-Performance), do Chamberlin

(1933) và Robinson (1933) đề xuất, và lý thuyết quyền lực thị trường tương đối (RMP – Relative

market power), do Smirlock (1985) đề xuất.

Chamberlin (1933) và Robinson (1933) là những người đề xuất lý thuyết Cấu trúc-Hành

vi-Hiệu quả (SCP, Structure -Conduct-Performance) và sau đó được phát triển bởi Bain (1951).

Lý thuyết này cho rằng cấu trúc của thị trường quyết định hành vi của công ty và hành vi quyết

định kết quả của thị trường, chẳng hạn như khả năng sinh lời, tiến bộ về kỹ thuật và tăng trưởng.

Đặc biệt, những ngành có sự tập trung cao có thể tạo ra những hành vi dẫn đến kết quả nền kinh

tế yếu kém, dẫn đến hành vi làm giảm sản lượng và hình thành nên giá cả độc quyền.

Lập luận theo lý thuyết SCP, các ngân hàng càng có khả năng tập trung cao thì càng có

khả năng thao túng thị trường bằng cách áp lãi suất cho vay cao và lãi suất huy động thấp vì mức

độ cạnh tranh thấp đi (VanHoose, 2010). Lloyd - William và cộng sự (1994) đã tìm được bằng

chứng cho lý thuyết SCP trong trường hợp các ngân hàng tại Tây Ban Nha trong giai đoạn từ

năm 1986 – 1988.

Một trường hợp khác của lý thuyết quyền lực thị trường là lý thuyết quyền lực thị trường

tương đối (RMP, Relative market power), được phát triển bởi Smirlock (1985). Smirlock cho

rằng các ngân hàng có thị phần lớn, có sản phẩm, dịch vụ khác biệt sẽ có khả năng kiểm soát thị

trường và đạt được lợi nhuận cao hơn. Các ngân hàng lớn với thương hiệu và chất lượng sản

phẩm, dịch vụ tốt có thể tăng giá trên mức bình thường và có KNSL tốt hơn. (Berger, 1995).

Chẳng hạn một số ngân hàng lớn với ưu thế thương hiệu và chất lượng sản phẩm của mình có

thể tăng giá sản phẩm và dịch vụ để thu được nhiều lợi nhuận hơn do các ngân hàng khác không

25

có sản phẩm hoặc dịch vụ để có thể cạnh tranh lại. Lý thuyết này cho rằng, lĩnh vực nào càng có

thị trường tập trung thì khả năng sinh lời đạt được càng cao do lợi ích từ sức mạnh thị trường

mang lại. Do đó, tồn tại mối quan hê ̣cùng chiều giữa lợi nhuận đạt được và quyền lực thi ̣trường

(Maudos & de Guevara, 2007), giả thuyết hàm ý quyền lực thi ̣trường gia tăng thông qua quy

mô tăng làm tăng hiệu quả của các ngân hàng. Hay nói cách khác, quy mô càng tăng càng làm

tăng lợi nhuận của các ngân hàng. Nghiên cứu của Molyneux (1993) chỉ ra rằng có bằng chứng

cho thấy lợi nhuận từ sự câu kết của các ngân hàng tại các nước Bỉ, Pháp, Italia, Hà Lan và Tây

Ban Nha. Tuy nhiên, không có bằng chứng tại các nước ngoài EU.

Lý thuyết cấu trúc hiệu qủa

Demsetz (1973) là người đầu tiên nghiên cứu lý thuyết cấu trúc hiệu quả (ES - efficient

structure). Lý thuyết này cho rằng các ngân hàng hiệu quả nhất giành được cả lợi nhuận và

thi ̣phần cao hơn; các ngân hàng tăng KNSL là kết quả gián tiếp của việc cải thiện hiệu quả quản

trị ngân hàng chứ không phải sức mạnh từ lợi ích thi ̣trường. Anyanwaokoro (1996) đã khẳng

định rằng lợi nhuận đóng một vai trò quan trọng trong việc thuyết phục người dân tin tưởng và

gửi tiền tại ngân hàng. Ngoài ra để giảm thiểu xác suất của khủng hoảng tài chính, Anyanwaokoro

(1996) cho rằng con số lợi nhuận ấn tượng giúp trấn an các bên liên quan đến ngân hàng như các

nhà đầu tư, khách hàng vay, quản lý, nhân viên, nhà cung cấp sản phẩm và dịch vụ bên ngoài.

Do đó, quản lý rủi ro chi phí càng chặt chẽ, càng làm tăng lợi nhuận.

Lý thuyết cấu trúc hiêụ quả (Efficient structure) cho rằng hiệu suất công ty tạo nên cấu

trúc thị trường. Theo đó, các ngân hàng đạt được lợi nhuận cao hơn là do chúng hoạt động có

hiệu quả hơn (Olweny & Shipho , 2011). Lý thuyết cấu trúc hiệu quả (ES - efficient structure)

được đề xuất theo 2 hướng tiếp cận khác nhau là tiếp cận theo hiệu quả X và tiếp cận theo quy

mô, tùy thuộc vào loại hiệu suất được xem xét (Berger, 1995). Ở hướng tiếp cận theo hiệu quả X

(X-Efficiency), thâu tóm và sáp nhập là kết quả của việc tối thiểu hóa chi phí và tối đa hóa lợi

nhuận. Các ngân hàng hay công ty có khả năng giảm giá sản phẩm, dịch vụ có thể thu hút thêm

nhiều khách hàng. Từ đó, đạt thị phần lớn và lợi nhuận cao hơn, bởi vì họ có khả năng giảm thiểu

chi phí sản xuất ở bất kỳ sản lượng đầu ra nào (Muharrami & Matthews, 2009). Đối với hướng

tiếp cận hiệu quả theo quy mô (Scale-Efficiency), mối quan hệ được mô tả ở trên được giải thích

dựa theo quy mô. Các ngân hàng lớn hơn có chi phí sản xuất thấp hơn, nhờ đó lợi nhuận cao hơn

26

là nhờ tính kinh tế theo quy mô (Olweny & Shipho, 2011). Jayaratne và Strahan (1998) tìm được

bằng chứng cho thấy các ngân hàng giảm mạnh chi phí hoạt động và nợ xấu nhờ được phép mở

rộng chi nhánh.

Như vậy, có thể thấy lý thuyết quyền lực thị trường (MP – market power) cho rằng, khả

năng sinh lời của ngân hàng được xác định theo yếu tố thị trường, trong khi lý thuyết cấu trúc

hiệu quả (ES - efficient structure) cho rằng hiệu quả của ngân hàng chịu ảnh hưởng bởi các yếu

tố bên trong, tức là hiệu quả nội bộ và các quyết định quản trị.

Theo đó, nhiều nhà nghiên cứu đã dựa vào các lý thuyết trên để đưa một số biến vào mô

hình nhằm đo lường khả năng sinh lời của ngân hàng và phần lớn đều cho rằng, KNSL của ngân

hàng chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố bên trong và bên ngoài (Olweny & Shipho, 2011).

2.2.3 Các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại

Hai tỷ số cơ bản thường được sử dụng để đánh giá KNSL của NHTM là ROA và ROE

(Nguyễn Minh Kiều, 2009).

- Lợi nhuận trên tổng tài sản (Return on Assets - ROA). ROA là chỉ tiêu đo lường khả năng

các NHTM quản lý, sử dụng các nguồn lực tài chính để tạo ra lợi nhuận. Trong đó, lợi nhuận sau

thuế được lấy từ báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, tổng tài sản hay vốn chủ sở hữu được

lấy từ bảng cân đối kế toán của ngân hàng. Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản thể hiện lợi nhuận

được tạo ra trên mỗi đồng tài sản, phản ánh khả năng quản trị và sử dụng tài sản của ngân hàng

để tạo ra lợi nhuận. ROA cung cấp cho nhà đầu tư thông tin về các khoản lãi được tạo ra từ lượng

vốn đầu tư (hay lượng tài sản). Tài sản của một ngân hàng được hình thành từ vốn vay và vốn

chủ sở hữu. Cả hai nguồn vốn này được sử dụng để tài trợ cho các hoạt động của ngân hàng.

ROA càng cao cho thấy ban quản trị ngân hàng quản lý tốt tài sản và chuyển thành lợi nhuận

ròng một cách hợp lý. Tuy nhiên, ROA quá cao không phải là tín hiệu tốt đối với các ngân hàng

vì trong tình huống đó, ngân hàng đối mặt với nguy cơ rủi ro cao vì mối quan hệ thuận chiều

giữa lợi nhuận kỳ vọng và rủi ro. ROA thấp có thể là kết quả của một chính sách đầu tư hay cho

vay không năng động hoặc có thể chi phí hoạt động của ngân hàng quá mức. Nhược điểm của

ROA là không phản ánh các hoạt động ngoại bảng, đôi khi chiếm một tỷ trọng rất lớn trong hoạt

động ngân hàng. ROA được tính theo công thức:

27

𝑅𝑂𝐴 = 𝐿ợ 𝑖 𝑛ℎ𝑢ậ 𝑛 𝑠𝑎𝑢 𝑡ℎ𝑢ế 𝑇ổ 𝑛𝑔 𝑡𝑎̀𝑖 𝑠𝑎̉𝑛

- Lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (Return on Equity - ROE). ROE chính là chỉ số phản ánh hiệu

quả của vốn chủ sở hữu, nghĩa là thể hiện lợi nhuận ngân hàng thu được từ mỗi đồng vốn chủ sở

hữu. Do đó, ROE cho thấy khả năng quản trị và sử dụng vốn chủ sở hữu để tạo ra thu nhập cho

các cổ đông. ROE đánh giá lợi ích mà cổ đông có được từ nguồn vốn đầu tư vào ngân hàng. Do

đó, ROE là chỉ tiêu quan tâm hàng đầu của các cổ đông khi mục tiêu của họ là lợi nhuận. ROE

có một nhược điểm lớn đó chính là chịu ảnh hưởng từ đòn bẩy tài chính và tác động của các quy

định về đòn bẩy tài chính. Điều này làm cho những ngân hàng nào có xu hướng vay nợ cao hơn

thì thường có tỷ suất sinh lợi cao hơn các ngân hàng sử dụng nguồn vốn chủ sở hữu. ROE được

tính theo công thức:

𝑅𝑂𝐸 = 𝐿ợ 𝑖 𝑛ℎ𝑢ậ 𝑛 𝑠𝑎𝑢 𝑡ℎ𝑢ế 𝑉ố 𝑛 𝑐ℎ𝑢̉ 𝑠ở ℎữ 𝑢

Bên cạnh đó, chỉ tiêu tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM – Net Interest Margin) có thể

được sử dụng để đánh giá KNSL của NHTM (Nguyễn Minh Kiểu, 2009). NIM đo lường mức

chênh lệch giữa thu nhập từ lãi và chi phí trả lãi mà ngân hàng có thể đạt được thông qua kiểm

soát chặt chẽ tài sản sinh lời và theo đuổi các nguồn vốn có chi phí thấp nhất. Tỷ lệ này càng

cao thì càng tốt cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng vì lúc này ngân hàng thu lãi nhiều hơn

chi trả lãi. Nếu tỷ lệ này thấp chứng tỏ tài sản sinh lời của ngân hàng có mức sinh lời không cao

hoặc ngân hàng đã huy động nguồn vốn với lãi suất cao nên mức chênh lệch ngày càng thấp.

Mức lãi ròng biên tốt là chỉ dẫn về: thu nhập từ khoản cho vay tốt, tỷ lệ chi phí thấp, hiệu quả

sử dụng tài sản và khả năng thu được lợi nhuận từ nguồn vốn. NIM được tính theo công thức:

𝑁𝐼𝑀 = 𝑇ℎ𝑢 𝑛ℎậ 𝑝 𝑡ừ 𝑙𝑎̃𝑖 − 𝐶ℎ𝑖 𝑝ℎ𝑖́ 𝑡𝑟𝑎̉ 𝑙𝑎̃𝑖 ̉ 𝑛𝑔 𝑡𝑎̀𝑖 𝑠𝑎̉ 𝑛 𝑐𝑜́ sinh 𝑙𝑎̃𝑖 𝑇ô

Kết quả nghiên cứu của Tabari và cộng sự (2013) chỉ ra rằng KNSL của ngân hàng được

đo lường bởi chỉ tiêu: Lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) và lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA).

Theo Sufian (2011), để đo lường KNSL của NHTM, có một số chỉ số thường được sử

dụng như: ROA, ROE và NIM. Theo Murthy và Sree (2003), ROE là chỉ số tài chính chỉ ra được

mức lợi nhuận thu về được so với tổng vốn chủ sở hữu thể hiện trên bảng cân đối kế toán. ROA

28

là chỉ số then chốt để đánh giá KNSL của NHTM và được tính bằng thu nhập trên tổng tài sản

(Molyneux & Thornton, 1992).

Trong phạm vi của Luận án, tác giả giới hạn sử dụng 2 chỉ tiêu là ROA và ROE để đánh

giá KNSL của các NHTM Việt Nam vì ROA cung cấp thông tin cho nhiều đối tượng như chủ sở

hữu và nhà đầu tư, hoặc các cơ quan quản lý muốn xếp hạng, so sánh hiệu quả giữa các ngân

hàng với nhau. Trong khi đó, ROE là tỷ số được các chủ sở hữu đặc biệt quan tâm.

2.3 TÁC ĐỘNG CỦA KHỦNG HOẢNG KINH TẾ ĐẾN KHẢ NĂNG SINH LỜI

CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

2.3.1 Khủng hoảng kinh tế ảnh hưởng đến kinh tế vĩ mô

Theo Keynes (1936), khi nền kinh tế suy giảm, các doanh nghiệp thường tỏ ra bi quan.

Từ đó họ sẽ hạn chế đầu tư, cắt giảm sản lượng. Kết quả là toàn bộ nền kinh tế bị ảnh hưởng,

tăng trưởng GDP sụt giảm, thậm chí tăng trưởng âm. Trong khi đó, lạm phát tăng cao do hàng

hóa khan hiếm, tỷ giá tăng cao do nhà đầu tư nước ngoài rút vốn. Đối với hệ thống ngân hàng,

khi khủng hoảng kinh tế xảy ra, nợ xấu tăng cao làm cho lợi nhuận ngân hàng sụt giảm do phải

tăng trích lập dự phòng rủi ro tín dụng. Nợ xấu tăng đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp, người

dân không thể vay vốn ngân hàng nhằm đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như tiêu

dùng. Khi nhu cầu tiêu dùng và hoạt động đầu tư giảm, tăng trưởng tín dụng, huy động vốn của

ngân hàng bị suy giảm. Đối với các NHTM Việt Nam, lợi nhuận phụ thuộc rất lớn vào tín dụng,

nếu tín dụng không tăng trưởng hoặc tăng trưởng thấp, lợi nhuận sẽ bị suy giảm nghiêm trọng,

thậm chí bị thua lỗ. Không giống như một doanh nghiệp thông thường, NHTM có sự ảnh hưởng

rất lớn đến nền kinh tế cũng như ảnh hưởng lên toàn xã hội. Khi một ngân hàng bị phá sản sẽ kéo

theo các ngân hàng khác phá sản theo do mối quan hệ chặt chẽ lẫn nhau của các ngân hàng cũng

như tâm lý người gửi tiền thường tỏ ra hoang mang, lo sợ khi có một ngân hàng bị phá sản. Hậu

quả đối với nền kinh tế - xã hội sẽ vô cùng lớn, không thể ước tính được

Bên cạnh đó, NHTM là trung gian tín dụng, huy động từ các nguồn tiền nhàn rỗi để cho

vay và đầu tư. Khi nguồn vốn huy động bị suy giảm do khủng hoảng kinh tế, hoạt động cho vay

và đầu tư sẽ bị ảnh hưởng nặng nề, từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế vĩ mô: tăng trưởng

GDP sụt giảm, lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, nhiều doanh nghiệp bị phá sản hoặc giải

29

thể. Do vậy, chính phủ các nước thường có các gói kích thích kinh tế để thức đẩy tăng trưởng,

ổn định kinh tế vĩ mô. Nhờ đó, nền kinh tế nói chung và hệ thống NHTM nói riêng sẽ được

hưởng lợi từ biện pháp kích cầu của chính phủ. Cụ thể, các ngân hàng có thể cho vay nhiều hơn,

có thu nhập cao hơn từ việc cung cấp các dịch vụ, sản phẩm ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu

mở rộng đầu tư của doanh nghiệp, nhu cầu tiêu dùng tăng cao của dân chúng.

2.3.2 Khủng hoảng kinh tế làm tăng rủi ro tín dụng

Theo Keynes (1936), nền kinh tế có những giai đoạn tăng trưởng nhanh và suy thoái, sau

đó là khủng hoảng. Trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế, các doanh nghiệp hoạt động khó khăn

hơn, phải cắt giảm đầu tư do tiêu dùng suy yếu của cá nhân và hộ gia đình. Kết quả là các doanh

nghiệp, cá nhân, hộ gia đình không thể trả nợ đúng hạn, gia tăng rủi ro tín dụng, từ đó làm cho

nợ xấu của các ngân hàng và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng tăng mạnh, đặc biệt các ngân

hàng phụ thuộc nhiều vào tín dụng, không đa dạng hóa nguồn thu nhập. Khi nợ xấu tăng lên, dự

phòng rủi ro tín dụng cũng tăng, dẫn đến lợi nhuận của các ngân hàng giảm mạnh. Bên cạnh đó,

khi doanh nghiệp có nợ xấu tại ngân hàng sẽ không thể vay để đầu tư vào các dự án cũng như bổ

sung vốn lưu động, dẫn đến sự phá sản và tác động dây chuyền đến các doanh nghiệp khác. Tác

động cuối cùng là làm giảm mạnh lợi nhuận của ngân hàng, thậm chí làm phá sản ngân hàng nếu

không có sự hỗ trợ của Ngân hàng Trung ương. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm của Nguyễn

Quốc Anh (2016), Ayaydin (2014), Petria (2013) đều chỉ ra mối quan hệ ngược chiều giữa rủi ro

tín dụng và KNSL của ngân hàng thương mại. Rủi ro tín dụng càng cao càng làm giảm KNSL

và sự ổn định của NHTM. Dưới tác động của biện pháp kích cầu có thể làm dư nợ cho vay tăng

mạnh nhưng kèm theo đó là nợ xấu tăng nhanh nếu các ngân hàng không kiểm soát tốt chất lượng

khoản vay.

2.3.3 Khủng hoảng kinh tế làm tăng rủi ro thanh khoản

RRTK là rủi ro mà ngân hàng không có khả năng gia tăng quỹ trong tài sản hoăc ̣ nghiã vụ

nợ với chi phí thấp nhất (Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng, 2003). Trong điều kiện có khủng

hoảng hay điều kiện khắc nghiệt của nền kinh tế, các ngân hàng có xu hướng dự trữ thấp hơn

mức dự trữ tối ưu, từ đó có thể làm gia tăng lợi nhuận của ngân hàng trong khi đối với điều kiện

bình thường, các ngân hàng có mức dự trữ cao hơn để đáp ứng khả năng thanh khoản. Điều đó

có nghĩa là các ngân hàng có thể kiếm được lợi nhuận nhiều hơn nhờ giảm thanh khoản, tức tăng

30

rủi ro thanh khoản lên (Osborne & cộng sự, 2012). Lý thuyết đánh đổi rủi ro – lợi nhuận cho

rằng rủi ro cao thì lợi nhuận cao và ngược lại. Trong giai đoạn thị trường tài chính có những biến

động bất thường như suy thoái hay khủng hoảng, rủi ro thanh khoản trong toàn hệ thống tài chính

nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng sẽ tăng cao do người gửi tiền có xu hướng rút tiền

khỏi ngân hàng để đầu tư vào những tài sản an toàn hơn và có khả năng sinh lời cao hơn. Khi

ngân hàng không đủ thanh khoản nhằm đáp ứng nhu cầu rút tiền của người gửi tiền, các ngân

hàng đó sẽ phải huy động vốn bằng nhiều cách thức khác nhau như huy động trên thị trường liên

ngân hàng, bán các tài sản có trên thị trường tài chính, thực hiện các giao dịch phái sinh, và giải

pháp cuối cùng là sử dụng nghiệp vụ tái chiết khấu hoặc tái cấp vốn từ NHTW. Trong trường

hợp không nhận được sự hỗ trợ thanh khoản của NHTW, các NHTM sẽ bị phá sản. Nếu các thị

trường tài chính vẫn ổn định thì sự khó khăn thanh khoản tạm thời của một NHTM nào đó có thể

nhận được giải quyết một cách đơn giản bằng cách vay từ các NHTM khác trên thị trường liên

ngân hàng. Tuy nhiên, nếu thị trường tài chính đang trong giai đoạn không ổn định, biến động

với biên độ lớn, thì sự thiếu hụt về thanh khoản của một ngân hàng sẽ làm cho các ngân hàng

khác gặp khó khăn theo do sự ảnh hưởng qua lại lẫn nhau giữa các ngân hàng trong hệ thống.

Điều này sẽ dẫn đến một khả năng đó là hàng loạt các ngân hàng tìm cách duy trì thanh khoản

bằng cách bán tháo các tài sản của mình trên thị trường tài chính, dẫn nguy cơ rủi ro thanh khoản

thị trường ngày càng lớn. Sự bán tháo ồ ạt các tài sản trên thị trường càng làm cho lãi suất tăng

lên, giá trị của tài sản thế chấp sụt giảm nhanh chóng. Đối với những chủ thể đang thừa thanh

khoản cũng lo ngại ảnh hưởng lan truyền cho chính bản thân nên tìm cách găm giữ các tài sản có

tính thanh khoản cao, từ chối hoặc đưa ra các yêu cầu cao hơn khi cung cấp thanh khoản cho các

chủ thể thiếu hụt dù lãi suất cao, làm cho thị trường tài sản bị đóng băng (Brunnermeier &

Pedersen, 2009). Các nghiên cứu thực nghiệm chỉ ra kết quả khác nhau về mối quan hệ giữa rủi

ro thanh khoản và KNSL của NHTM. Các nghiên cứu của Fungáčová và Poghosyan (2011), Lee

và Hsieh (2013), Goddard và cộng sự (2004) chứng minh việc nắm giữ tài sản thanh khoản tác

động tiêu cực đến KNSL. Trong khi đó, các nghiên cứu của Kohlscheen và cộng sự (2018),

Kosmidou và cộng sự (2005), Poposka và Trpkoski (2013), Trần Thị Thanh Nga (2018) cho thấy

việc tăng cường nắm giữ tài sản thanh khoản tác động tích cực đến KNSL của NHTM.

31

2.4 CÁC NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM

Để đạt được mục tiêu nghiên cứu KNSL của NHTM trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế

thế giới, so sánh với thời kỳ hậu khủng hoảng, tác giả cần phải đánh giá được những yếu tố nào

tác động đến KNSL.

2.4.1 Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại

Nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới

Nghiên cứu của Petria và cộng sự (2013) tìm ra các yếu tố ảnh hưởng đến KNSL của các

ngân hàng khối EU từ năm 2004 – 2011. Chỉ tiêu ROA và ROE được sử dụng để đánh giá KNSL

và mô hình tác động cố định (fixed effects) được lựa chọn. Kết quả có các yếu tố là rủi ro tín

dụng, rủi ro thanh khoản, hiệu quả quản trị, mức độ đa dạng hóa kinh doanh, khả năng cạnh

tranh, tốc độ tăng trưởng kinh tế.

Nghiên cứu của Iskandar và cộng sự (2019) về KNSL của 8 NHTM tại Malaysia từ năm

2011 đến năm 2017. Kết quả nghiên cứu cho thấy rủi ro tín dụng, hiệu quả quản lý, rủi ro thanh

khoản là các yếu tố có tác động mạnh nhất đến KNSL của các NHTM tại Malaysia.

Kohlscheen và cộng sự (2018) nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến KNSL của 534 ngân

hàng tại 19 thị trường mới nổi, bao gồm 7 nước châu Á, 5 nước Mỹ Latinh, 5 nước Trung và

Đông Âu, Nam Phi và Israel. Biến phụ thuộc bao gồm ROA, ROE, NIM. Các yếu tố bao gồm

bên trong và bên ngoài ngân hàng. Kết quả chính của nghiên cứu cho thấy yếu tố tăng trưởng tín

dụng tác động mạnh tới KNSL hơn so với tốc độ tăng trưởng GDP. Điều đó có nghĩa là chu kỳ

tín dụng có nhiều tác động hơn so với chu kỳ kinh tế.

Staikouras và Wood (2004) xem xét các yếu tố tác động đến KNSL của các ngân hàng

châu Âu từ năm 1994 đến năm 1998. Kết quả nghiên cứu chỉ ra KNSL của NHTM bị tác động

bởi không chỉ các quyết định quản trị mà còn bởi những thay đổi sự thay đổi các yếu tố vĩ mô.

Iacobelli (2016) nghiên cứu các yếu tố tác động đến KNSL của 26 ngân hàng toàn cầu từ

năm 1980 đến năm 2015. Kết quả cho thấy vốn và năng suất làm tăng KNSL, rủi ro tín dụng và

chi phí quản lý tác động ngược lại, tốc độ tăng trưởng kinh tế và lạm phát tác động dương đến

KNSL.

32

Nghiên cứu của Yao và cộng sự (2018) về các yếu tố ảnh hưởng đến KNSL của 28 ngân

hàng tại Pakistan từ nam 2007 đến năm 2016. Kết quả cho thấy quy mô ngân hàng, cấu trúc tài

chính, chi phí hoạt động, khả năng thanh khoản, chi phí trả lãi, năng suất lao động, quyền lực thị

trường, tăng trưởng kinh tế. Trong đó, chi phí trả lãi tác động ngược chiều đến KNSL của NHTM.

Rahman và cộng sự (2015) tìm hiểu các yếu tố quyết định đến KNSL của các NHTM

Bangladesh từ năm 2006 đến năm 2013 với các chỉ tiêu là ROA, ROE, NIM. Kết quả cho thấy

vốn ngân hàng (bao gồm vốn chủ sở hữu chia cho tổng tài sản và hệ số an toàn vốn CAR) và

mức độ cho vay (khả năng thanh khoản) tác động dương đến KNSL, chi phí và hoạt động ngoại

bảng tác động ngược chiều đến KNSL, rủi ro tín dụng, thu nhập ngoài lãi, cấu trúc sở hữu, quy

mô ngân hàng, tốc độ tăng trưởng GDP và lạm phát có sự tác động không đồng đều đến ROA,

ROE, NIM. Thu nhập ngoài lãi tác động dương đến ROA và ROE nhưng tác động âm đến NIM,

rủi ro tín dụng chịu ảnh hưởng duy nhất đến NIM theo chiều dương. Chỉ có quy mô ngân hàng

tác động dương đến ROA, kết quả cũng cho thấy cấu trúc sở hữu có ảnh hưởng đáng kể đến

ROE. Trong khi các yếu tố vĩ mô như tốc độ tăng trưởng GDP ảnh hưởng mạnh đến NIM và lạm

phát có ảnh hưởng đến ROA và ROE.

Gaber (2018) nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến KNSL của các NHTM tại Palestine

từ năm 1995 đến năm 2015. Kết quả nghiên cứu cho thấy quy mô ngân hàng, vốn ngân hàng,

dư nợ cho vay, tiền gửi khách hàng, lạm phát, tăng trưởng kinh tế là các yếu tố ảnh hưởng đến

ROA và ROE. Trong đó, quy mô ngân hàng ảnh hưởng tích cực đến ROE, vốn ngân hàng ảnh

hưởng tích cực đến ROA, dư nợ cho vay ảnh hưởng tích cực đến ROA và ROE, tiền gửi khách

hàng có ảnh hưởng tiêu cực đến ROA và ROE.

Nghiên cứu của Zhang và Dong (2011) tìm hiểu các yếu tố tác động đến KNSL của NHTM

tại Mỹ từ năm 2000 đến năm 2008. Kết quả cho thấy các yếu tố bên trong ngân hàng là tỷ lệ vốn

tự có, tỷ lệ cho vay, tỷ lệ huy động trên tổng tài sản ảnh hưởng tích cực đến KNSL. Yếu tố bên

ngoài là tốc độ tăng trưởng GDP làm tăng KNSL, trong khi lãi suất tác động tiêu cực đến KNSL.

Nghiên cứu của Alexiou và Sofoklis (2009) về các yếu tố then chốt ảnh hưởng đến KNSL

của 6 NHTM chiếm 80% thị phần tại Hy Lạp từ năm 2000 đến năm 2007. Nghiên cứu sử dụng

chỉ tiêu ROA, ROE để đánh giá KNSL. Kết quả nghiên cứu chỉ ra có các biến vi mô là quy mô

ngân hàng, khả năng thanh khoản, rủi ro tín dụng, năng suất lao động, hiệu suất thu nhập, tỷ lệ

33

vốn tự có/tài sản; các biến vĩ mô là lạm phát, lãi suất, GDP, tiêu dùng nội địa và đầu tư. Mô hình

tác động cố định được sử dụng, ước lượng 3SLS xử lý vấn đề nội sinh trong mô hình, sử dụng

biến giả cho từng ngân hàng.

Ndoka và cộng sự (2016) nghiên cứu tác động của rủi ro thanh khoản đến KNSL cỉa các

NHTM tại Albania trong giai đoạn 2005 – 2015. Kết quả nghiên cứu cho thấy rủi ro thanh khoản

có tác động đáng kể đến KNSL của NHTM.

Nghiên cứu của Lee và Isa (2017) được thực hiện nhằm đánh giá các yếu tố tác động đến

biên lợi nhuận của các NHTM tại Malaysia từ năm 2008 đến năm 2014. Bằng phương pháp

GMM và bộ số liệu của 20 ngân hàng thông thường và 16 ngân hàng Hồi giáo, kết quả nghiên

cứu chỉ ra tỷ suất lợi nhuận của các ngân hàng thông thường bị ảnh hưởng bởi chi phí hoạt động,

hiệu quả, rủi ro tín dụng, mức độ ngại rủi ro, thị phần, quy mô hoạt động, các khoản thanh toán

lãi ngầm và chi phí tài trợ. Đối với các ngân hàng Hồi giáo, các yếu tố đó là chi phí hoạt động,

hiệu quả, rủi ro tín dụng, thị phần và các khoản thanh toán lãi ngầm.

Bassey và Moses (2015) kiểm tra sự đánh đổi thanh khoản-lợi nhuận của 15 NHTM tại

Nigieria. Kết quả thực nghiệm cho thấy rằng có mối quan hệ có ý nghĩa thống kê giữa thanh

khoản của ngân hàng - hệ số thanh toán hiện hành, hệ số khả năng thanh toán, tỷ lệ tiền mặt, tỷ

lệ cho vay trên tiền gửi, tỷ lệ vốn vay trên tài sản và tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu.

Athanasoglou và cộng sự (2008) nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố thuộc về đặc điểm

của từng ngân hàng, đặc điểm ngành kinh tế và các yếu tố vĩ mô đối với khả năng sinh lời của

ngân hàng, sử dụng một khuôn khổ thực nghiệm kết hợp giả thuyết cấu trúc-hành vi-hiệu quả

(SCP). Bằng phương pháp GMM cho dữ liệu bảng của các ngân hàng Hy Lạp trong giai đoạn

1985–2001, kết quả nghiên cứu cho thấy, tất cả các yếu tố thuộc về đặc điểm ngân hàng, ngoại

trừ quy mô, đều có tác động đáng kể đến KNSL của NHTM.

Kosmidou và cộng sự (2005) tìm hiểu tác động của các đặc điểm cụ thể của ngân hàng,

điều kiện kinh tế vĩ mô và cấu trúc thị trường tài chính đối với lợi nhuận của các NHTM tại Anh

trong giai đoạn 1995-2002. Kết quả nghiên cứu cho thấy sức mạnh vốn của các ngân hàng có

ảnh hưởng tích cực và chi phối đến lợi nhuận, các yếu tố quan trọng khác là hiệu quả quản lý chi

phí và quy mô ngân hàng.

34

Kosmidou và cộng sự (2007) nghiên cứu các yếu tố quyết định lợi nhuận của các ngân

hàng Hy Lạp hoạt động ở nước ngoài bằng cách phát triển mô hình tích hợp bao gồm một tập

hợp các yếu tố quyết định khả năng sinh lời của cả ngân hàng đa quốc gia và ngân hàng trong

nước. Nghiên cứu sử dụng tập dữ liệu bảng không cân bằng cho 19 ngân hàng Hy Lạp hoạt động

ở 11 quốc gia, bao gồm giai đoạn từ 1995 đến 2001. Kết quả cho thấy lợi nhuận của ngân hàng

mẹ và kinh nghiệm hoạt động của các công ty con ở nước sở tại có tác động tích cực và mạnh

mẽ đến lợi nhuận của các ngân hàng Hy Lạp ở nước ngoài, trong khi quy mô ngân hàng con có

tác động tiêu cực. Các yếu tố tài chính trong nước phản ánh sự phát triển của thị trường chứng

khoán, các yếu tố thuộc về đặc điểm ngân hàng như thanh khoản, dự phòng rủi ro cho vay hoặc

hiệu quả chi phí và các yếu tố cụ thể của thị trường như mức độ tập trung hoặc thị phần ở các

quốc gia sở tại, đều không có ý nghĩa trong việc giải thích lợi nhuận của các ngân hàng con Hy

Lạp.

Molyneux và Thornton (1992) nghiên cứu các yếu tố tác động đến KNSL của các NHTM

tại Châu Âu từ năm 1986 đến năm 1989. Kết quả nghiên cứu chỉ ra KNSL của các NHTM phù

hợp với lý thuyết Cấu trúc-Hành vi-Hiệu quả (SCP).

Trujillo-Ponce (2013) tìm hiểu các yếu tố quyết định KNSL của các ngân hàng Tây Ban

Nha trong giai đoạn 1999-2009. Kết quả nghiên cứu cho thấy KNSL của ngân hàng cao do dư

nợ cho vay lớn, tiền gửi của khách hàng cao, hiệu quả tốt và tỷ lệ tài sản khó đòi thấp. Ngoài ra,

vốn ngân hàng cao hơn cũng làm tăng lợi nhuận của ngân hàng, nhưng chỉ khi ROA được sử

dụng làm thước đo KNSL.

Kosmidou (2008) tìm hiểu các yếu tố tác động đến KNSL của 23 NHTM tại Châu Âu

trong giai đoạn 1990 – 2002. Kết quả cho thấy các ngân hàng đạt được ROA cao khi có giá trị

vốn hóa tốt và chi phí thấp. Quy mô ngân hàng có tương quan dương với ROA trong mọi trường

hợp nhưng chỉ có ý nghĩa thống kê khi các biến cơ cấu tài chính và kinh tế vĩ mô được đưa vào

mô hình. Bên cạnh đó, tăng trưởng GDP có tác động tích cực và đáng kể đến ROA, trong khi

lạm phát có tác động tiêu cực đáng kể.

Lim và Randhawa (2005) sử dụng phương pháp phân tích bao dữ liệu (DEA) để đánh giá

hiệu quả X của các ngân hàng ở Hồng Kông và Singapore thông qua hai giai đoạn (kết hợp cả

giai đoạn trung gian và sản xuất). Những thay đổi về hiệu quả X theo thời gian được tính toán để

35

xác định xem chính sách các sáng kiến đã tạo điều kiện cải tiến hiệu quả. Kết quả về hiệu quả X

của các ngân hàng được phân chia theo quy mô và quyền sở hữu cung cấp những hiểu biết có giá

trị về các vấn đề quy mô nền kinh tế và tác động của quyền sở hữu gia đình đối với hiệu quả X.

Islam và Nishiyama (2016) nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến KNSL của các NHTM

tại các nước Nam Á. Bằng phương pháp GMM và bộ số liệu gồm 259 NHTM trong giai đoạn

1997 – 2012, kết quả nghiên cứu cho thấy chi phí trả lãi, thanh khoản, chênh lệch nguồn vốn, cơ

cấu kỳ hạn của lãi suất và tốc độ tăng trưởng kinh tế ảnh hưởng tiêu cực trong khi tỷ lệ lạm phát

ảnh hưởng tích cực đến KNSL của ngân hàng.

Dietrich và Wanzenried (2011) nghiên cứu các yếu tố tác động đến KNSL của 372 NHTM

tại Thụy Sĩ trong giai đoạn 1999 – 2006. Kết quả nghiên cứu cho thấy KNSL của ngân hàng chủ

yếu được giải thích bằng hiệu quả hoạt động, sự tăng trưởng của tổng dư nợ, chi phí tài trợ và

mô hình kinh doanh. Các ngân hàng hoạt động hiệu quả có KNSL tốt hơn hơn các ngân hàng

kém hiệu quả. Mức tăng trưởng khối lượng cho vay trên mức bình quân ảnh hưởng tích cực đến

lợi nhuận của ngân hàng; chi phí tài trợ cao hơn dẫn đến lợi nhuận thấp hơn. Thu nhập từ lãi có

tác động đáng kể đến lợi nhuận. Những ngân hàng phụ thuộc nhiều vào thu nhập lãi có KNSL

kém hơn những ngân hàng có thu nhập đa dạng hơn.

Nghiên cứu trong nước

Batten và Vo (2019) tìm hiểu KNSL của 35 NHTM Việt Nam chịu sự tác động bởi những

yếu tố nào, trong khoảng thời gian từ 2006 đến năm 2014. Kết quả cho thấy quy mô ngân hàng,

khả năng an toàn vốn (CAR), rủi ro tín dụng, chi phí hoạt động, năng suất lao động tác động

mạnh đến KNSL. Ngoài ra, tính chất ngành ngân hàng và lạm phát có ảnh hưởng đến KNSL của

NHTM.

Nghiên cứu của Nguyễn Phạm Nhã Trúc và Nguyễn Phạm Thiên Thanh (2016) cho thấy

quy mô ngân hàng tác động tích cực đến ROA và ROE, vốn ngân hàng tác động tích cực đến

ROA nhưng tiêu cực đến ROE, NHTM cổ phần có KNSL tốt hơn NHTM quốc doanh, lạm phát,

tăng trưởng GDP, doanh số giao dịch chứng khoán tác động tích cực đến ROA và ROE, ROA và

ROE suy giảm từ năm 2002 đến 2013.

36

Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Hiền (2017) thực hiện từ năm 2006 đến 2015 cho thấy,

cho vay trên tổng tài sản, dự phòng rủi ro tín dụng trên cho vay, chi phí trả lãi trên nợ phải trả và

thu nhập phi lãi trên tài sản ảnh hưởng cùng chiều với KNSL của NHTM. Trong khi đó, nợ xấu,

chi phí hoạt động trên thu nhập và quy mô hội đồng thành viên có tương quan nghịch với KNSL.

Nghiên cứu chưa tìm thấy bằng chứng có ý nghĩa thống kê về ảnh hưởng của các biến đại diện

cho quản trị rủi ro thanh khoản, cấu trúc nguồn vốn, kiểm soát chi phí và quy mô.

Trần Thị Thanh Nga (2018) nghiên cứu tác động của thanh khoản và các yếu tố thuộc về

đặc điểm ngân hàng, các yếu tố vĩ mô đến hiệu quả hoạt động của các NHTM Việt Nam trong

giai đoạn 2004 - 2016. Kết quả nghiên cứu cho thấy tài sản thanh khoản có tác động cùng chiều

đến KNSL của các NHTM Việt Nam.

Trần Việt Dũng (2014) nghiên cứu các yếu tố tác động đến KNSL của 22 NHTM Việt

Nam từ năm 2006 đến năm 2012. Kết quả nghiên cứu cho thấy cổ phần hóa có ý nghĩa tích cực

đến KNSL của NHTM. Bên cạnh đó, các ngân hàng hoạt động hiệu quả hơn khi nắm nhiều vốn

chủ sở hữu và dự phòng rủi ro tín dụng làm giảm KNSL của NHTM.

Bảng 2.1. Tổng kết các nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến KNSL của NHTM

Tác giả (năm) Thời gian Phạm vi PPNC Kết quả nghiên cứu

Staikouras và 1994 - 1998 Các NHTM FEM KNSL của NHTM bị tác động

Wood (2004) Châu Âu bởi không chỉ các quyết định

quản trị mà còn bởi những thay

đổi sự thay đổi các yếu tố vĩ mô.

Lee và Isa 2008 - 2014 20 ngân GMM Kết quả nghiên cứu chỉ ra tỷ suất

(2017) lợi nhuận của các ngân hàng hàng thông

thông thường bị ảnh hưởng bởi thường và

chi phí hoạt động, hiệu quả, rủi 16 ngân

ro tín dụng, mức độ ngại rủi ro, hàng Hồi

thị phần, quy mô hoạt động, các giáo tại

khoản thanh toán lãi ngầm và Malaysia

chi phí tài trợ. Đối với các ngân

37

hàng Hồi giáo, các yếu tố đó là

chi phí hoạt động, hiệu quả, rủi

ro tín dụng, thị phần và các

khoản thanh toán lãi ngầm.

Bassey và 2010 - 2012 15 NHTM OLS Kết quả thực nghiệm cho thấy

Moses (2015) tại Nigieria rằng có mối quan hệ có ý nghĩa

thống kê giữa thanh khoản của

ngân hàng - hệ số thanh toán

hiện hành, hệ số khả năng thanh

toán, tỷ lệ tiền mặt, tỷ lệ cho vay

trên tiền gửi, tỷ lệ vốn vay trên

tài sản và tỷ suất sinh lời trên

vốn chủ sở hữu.

Athanasoglou 1985–2001 Các NHTM GMM Kết quả nghiên cứu cho thấy, tất

và cộng sự tại Hy lạp cả các yếu tố thuộc về đặc điểm

ngân hàng, ngoại trừ quy mô, (2008)

đều có tác động đáng kể đến

KNSL của NHTM.

Ndoka và cộng 2005 – 16 NHTM OLS Kết quả nghiên cứu cho thấy rủi

sự (2016) 2015 tại Albania ro thanh khoản có tác động đáng

kể đến KNSL của NHTM.

Islam và 1997 - 2012 Các NHTM GMM Chi phí trả lãi, thanh khoản,

Nam Á chênh lệch nguồn vốn, cơ cấu kỳ Nishiyama

hạn của lãi suất và tốc độ tăng (2016)

trưởng kinh tế ảnh hưởng tiêu

cực trong khi tỷ lệ lạm phát ảnh

hưởng tích cực đến KNSL của

ngân hàng ngân hàng

38

Alexiou và 2000 - 2007 6 NHTM tại 3SLS Các yếu tố tác động: Quy mô

Sofoklis (2009) Hy Lạp ngân hàng, khả năng thanh

khoản, rủi ro tín dụng, năng suất

lao động, hiệu suất thu nhập, tỷ

lệ vốn tự có/tài sản; các biến vĩ

mô là lạm phát, lãi suất, GDP,

tiêu dùng nội địa và đầu tư

Molyneux và 1986 - 1989 Các NHTM Pooled Nghiên cứu các yếu tố tác động

Thornton tại 18 nước time đến KNSL của các từ năm 1986

(1992) Châu Âu series đến năm 1989. Kết quả nghiên

cứu chỉ ra KNSL của các

NHTM phù hợp với lý thuyết

Cấu trúc-Hành vi-Hiệu quả

(SCP).

Zhang và Dong 2000- 2008 Các NHTM OLS các yếu tố bên trong ngân

(2011) tại Mỹ hàng là tỷ lệ vốn tự có, tỷ lệ cho

vay, tỷ lệ huy động trên tổng tài

sản ảnh hưởng tích cực đến

KNSL. Yếu tố bên ngoài là tốc

độ tăng trưởng GDP làm tăng

KNSL, trong khi lãi suất tác

động tiêu cực đến KNSL.

Kosmidou và 1995-2002 32 NHTM FEM Kết quả nghiên cứu cho thấy sức

cộng sự (2005) tại Anh mạnh vốn của các ngân hàng có

ảnh hưởng tích cực và chi phối

đến lợi nhuận, các yếu tố quan

trọng khác là hiệu quả quản lý

chi phí và quy mô ngân hàng.

39

Kosmidou và 1995 - 2001 19 ngân FEM Kết quả cho thấy lợi nhuận của

cộng sự (2007) hàng Hy Lạp ngân hàng mẹ và kinh nghiệm

hoạt động ở hoạt động của các công ty con ở

11 quốc gia nước sở tại có tác động tích cực

và mạnh mẽ đến lợi nhuận của

các ngân hàng Hy Lạp ở nước

ngoài, trong khi quy mô ngân

hàng con có tác động tiêu cực.

Các yếu tố tài chính trong nước

phản ánh sự phát triển của thị

trường chứng khoán, các yếu tố

thuộc về đặc điểm ngân hàng

như thanh khoản, dự phòng rủi

ro cho vay hoặc hiệu quả chi phí

và các yếu tố cụ thể của thị

trường như mức độ tập trung

hoặc thị phần ở các quốc gia sở

tại, đều không có ý nghĩa trong

việc giải thích lợi nhuận của các

ngân hàng con Hy Lạp.

Kosmidou 1990 – 23 NHTM FEM Kết quả cho thấy các ngân hàng

(2008) 2002 tại Châu Âu đạt được ROA cao khi có giá trị

vốn hóa tốt và chi phí thấp. Quy

mô ngân hàng có tương quan

dương với ROA trong mọi

trường hợp nhưng chỉ có ý nghĩa

thống kê khi các biến cơ cấu tài

chính và kinh tế vĩ mô được đưa

vào mô hình. Bên cạnh đó, tăng

40

trưởng GDP có tác động tích cực

và đáng kể đến ROA, trong khi

lạm phát có tác động tiêu cực

đáng kể.

Petria và cộng 2004 - 2011 Các NHTM FEM Các yếu tố là rủi ro tín dụng, rủi

sự (2013) khối EU ro thanh khoản, hiệu quả quản

trị, mức độ đa dạng hóa kinh

doanh, khả năng cạnh tranh, tốc

độ tăng trưởng kinh tế.

Rahman và 2006 - 2013 25 NHTM GMM Vốn ngân hàng và mức độ cho

cộng sự (2015) tại vay ( khả năng thanh khoản) tác

Bangladesh động dương đến KNSL, chi phí

và hoạt động ngoại bảng tác

động ngược chiều đến KNSL,

rủi ro tín dụng, thu nhập ngoài

lãi, cấu trúc sở hữu, quy mô

ngân hàng, tốc độ tăng trưởng

GDP và lạm phát có sự tác động

không đồng đều đến ROA,

ROE, NIM. Thu nhập ngoài lãi

tác động dương đến ROA và

ROE nhưng tác động âm đến

NIM, rủi ro tín dụng chịu ảnh

hưởng duy nhất đến NIM theo

chiều dương. Chỉ có quy mô

ngân hàng tác động dương đến

ROA, kết quả cũng cho thấy cấu

trúc sở hữu có ảnh hưởng đáng

kể đến ROE. Trong khi các yếu

41

tố vĩ mô như tốc độ tăng trưởng

GDP ảnh hưởng mạnh đến NIM

và lạm phát có ảnh hưởng đến

ROA và ROE.

Iacobelli (2016) 1980 - 2015 26 NHTM FEM, Vốn và năng suất làm tăng

toàn cầu GMM KNSL, rủi ro tín dụng và chi phí

quản lý tác động ngược lại, tốc

độ tăng trưởng kinh tế và lạm

phát tác động dương đến KNSL.

Gaber (2018) - 16 NHTM OLS Quy mô ngân hàng, vốn ngân 1995

tại Palestine hàng, dư nợ cho vay, tiền gửi 2015

khách hàng, lạm phát, tăng

trưởng kinh tế là các yếu tố ảnh

hưởng đến ROA và ROE. Trong

đó, quy mô ngân hàng ảnh

hưởng tích cực đến ROE, vốn

ngân hàng ảnh hưởng tích cực

đến ROE, dư nợ cho vay ảnh

hưởng tích cực đến ROA và

ROE, tiền gửi khách hàng có

ảnh hưởng tiêu cực đến ROA và

ROE.

Kohlscheen và 2000 - 2014 534 ngân GMM Tăng trưởng tín dụng và lãi suất

cộng sự (2018) hàng tại 19 dài hạn tác động tích cực, lãi

thị trường suất ngắn hạn tác động tiêu cực

mới nổi đến KNSL

42

và 1995 - 1999 Các ngân DEA Kết quả nghiên cứu cho thấy Lim

Randhawa hàng ở Hồng những thay đổi về hiệu quả X

(2005) Kông và theo thời gian được tính toán để

Singapore xác định xem chính sách các

sáng kiến đã tạo điều kiện cải

tiến hiệu quả. Kết quả về hiệu

quả X của các ngân hàng được

phân chia theo quy mô và quyền

sở hữu cung cấp những hiểu biết

có giá trị về các vấn đề quy mô

nền kinh tế và tác động của

quyền sở hữu gia đình đối với

hiệu quả X.

Yao và cộng sự 2007 - 2016 28 ngân GMM Quy mô ngân hàng, cấu trúc tài

(2018) hàng tại chính, chi phí hoạt động, khả

Pakistan năng thanh khoản, chi phí trả lãi,

năng suất lao động, quyền lực

thị trường, tăng trưởng kinh tế.

Trong đó, chi phí trả lãi tác động

ngược chiều đến KNSL của

NHTM.

Trujillo-Ponce 1999 - 2009 89 NHTM GMM Kết quả nghiên cứu cho thấy

(2013) Ban KNSL của ngân hàng cao do dư Tây

nợ cho vay lớn, tiền gửi của Nha

khách hàng cao, hiệu quả tốt và

tỷ lệ tài sản khó đòi thấp. Ngoài

ra, vốn ngân hàng cao hơn cũng

làm tăng lợi nhuận của ngân

43

hàng, nhưng chỉ khi ROA được

sử dụng làm thước đo KNSL

Dietrich và 1999 – 372 NHTM GMM Kết quả nghiên cứu cho thấy

Wanzenried 2006 tại Thụy Sĩ KNSL của ngân hàng chủ yếu

(2011) được giải thích bằng hiệu quả

hoạt động, sự tăng trưởng của

tổng dư nợ, chi phí tài trợ và mô

hình kinh doanh. Các ngân hàng

hoạt động hiệu quả có KNSL tốt

hơn hơn các ngân hàng kém hiệu

quả. Mức tăng trưởng khối

lượng cho vay trên mức bình

quân ảnh hưởng tích cực đến lợi

nhuận của ngân hàng; chi phí tài

trợ cao hơn dẫn đến lợi nhuận

thấp hơn. Thu nhập từ lãi có tác

động đáng kể đến lợi nhuận.

Những ngân hàng phụ thuộc

nhiều vào thu nhập lãi có KNSL

kém hơn những ngân hàng có

thu nhập đa dạng hơn.

Iskandar và 2011 - 2017 8 NHTM tại FEM Rủi ro tín dụng, hiệu quả quản

cộng sự (2019) Malaysia lý, rủi ro thanh khoản là các yếu

tố có tác động mạnh nhất đến

KNSL

Batten và Vo 2006 - 2014 35 NHTM FEM Quy mô ngân hàng, khả năng an

(2019) Việt Nam toàn vốn (CAR), rủi ro tín dụng,

chi phí hoạt động, năng suất lao

động tác động mạnh đến KNSL.

44

Ngoài ra, tính chất ngành công

nghiệp ngân hàng và lạm phát có

ảnh hưởng đến KNSL của

NHTM.

Nguyễn Phạm 2002 - 2013 28 NHTM OLS Quy mô ngân hàng tác động tích

Việt Nam cực đến ROA và ROE, vốn ngân Nhã Trúc và

Nguyễn Phạm hàng tác động tích cực đến ROA

Thiên Thanh nhưng tiêu cực đến ROE,

(2016) NHTM cổ phần có KNSL tốt

hơn NHTM quốc doanh, lạm

phát, tăng trưởng GDP, doanh

số giao dịch chứng khoán tác

động tích cực đến ROA và ROE,

ROA và ROE suy giảm từ năm

2002 đến 2013.

Trần Việt Dũng 2006 - 2012 22 NHTM GMM Cổ phần hóa có ý nghĩa tích cực

(2014) Việt Nam đến KNSL của NHTM. Bên

cạnh đó, các ngân hàng hoạt

động hiệu quả hơn khi nắm

nhiều vốn chủ sở hữu và dự

phòng rủi ro tín dụng làm giảm

KNSL của NHTM

Nguyễn Thị Thu 2006 - 2015 22 NHTM FEM, Cho vay trên tổng tài sản, dự

Hiền (2017) Việt Nam REM phòng rủi ro tín dụng trên cho

vay, chi phí trả lãi trên nợ phải

trả và thu nhập phi lãi trên tài

sản ảnh hưởng cùng chiều với

KNSL của NHTM. Trong khi

đó, nợ xấu, chi phí hoạt động

45

trên thu nhập và quy mô hội

đồng thành viên có tương quan

nghịch với KNSL.

Trần Thị Thanh 2004 - 2016 26 NHTM FEM, Kết quả nghiên cứu cho thấy tài

Nga (2018) Việt Nam REM, sản thanh khoản có tác động

GMM cùng chiều đến KNSL của các

NHTM Việt Nam.

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp

2.4.2 Nghiên cứu thực nghiệm tác động của khủng hoảng kinh tế đến khả năng sinh lời

của ngân hàng thương mại

Để đạt được mục tiêu nghiên cứu sự khác biệt về KNSL của các NHTM Việt Nam giữa

thời kỳ khủng hoảng kinh tế thế giới và thời kỳ hậu khủng hoảng, tác giả cần phải đánh giá được

những tác động của khủng hoảng kinh tế đến KNSL từ những nghiên cứu trước.

Nghiên cứu trên thế giới

Nghiên cứu của Sufian (2011) về KNSL của các NHTM Hàn Quốc từ năm 1992 đến năm

2003. Kết quả cho thấy các NHTM có thanh khoản kém làm tăng KNSL, nguồn thu nhập càng

đa dạng hóa, KNSL càng cao, rủi ro tín dụng và chi phí quản lý tác động ngược chiều đến KNSL,

mức độ tập trung ngành tác động tích cực, chu kỳ kinh tế biến động tương đồng với KNSL,

khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 tác động tiêu cực đến KNSL, các ngân hàng đạt KNSL

giai đoạn trước khủng hoảng cao hơn so với giai đoạn sau khủng hoảng.

Amba và Almukharreq (2013) nghiên cứu tác động của khủng hoảng tài chính đến KNSL

của các ngân hàng Hồi giáo và ngân hàng thông thường tại các nước vùng Vịnh từ năm 2006 đến

năm 2013. Nghiên cứu cho thấy khủng hoảng tài chính tác động tiêu cực đến KNSL đến các ngân

hàng Hồi giáo và ngân hàng thông thường, các ngân hàng Hồi giáo cũng có cấu trúc vốn tốt hơn

so với ngân hàng thông thường trong giai đoạn khủng hoảng tài chính, tuy nhiên các ngân hàng

thông thường lại có khả năng thanh khoản và tỷ lệ nợ tốt hơn.

Nghiên cứu của Pawlowska (2016) tìm hiểu các yếu tố tác động đến KNSL của các NHTM

Ba Lan, giai đoạn khủng hoảng và trước khủng hoảng tài chính, từ năm 1997 đến năm 2012. Kết

46

quả cho thấy KNSL trong giai đoạn khủng hoảng giảm nhẹ so với giai đoạn trước khủng hoảng,

tỷ lệ tổng huy động trên tổng tài sản, tổng nợ trên tổng tài sản tương quan âm với KNSL, tốc độ

tăng trưởng GDP và lạm phát tương quan dương đến KNSL, và WIBOR 3M có tương quan âm.

Khủng hoảng tài chính có tác động tiêu cực đến KNSL của các NHTM.

Chronopoulos và cộng sự (2015) nghiên cứu tác động của khủng hoảng tài chính đến

KNSL của các ngân hàng tại Mỹ có tổng tài sản từ 10.000 $ trở lên theo phương pháp GMM.

Kết quả nghiên cứu cho thấy KNSL của NHTM tốt hơn trong giai đoạn khủng hoảng (2007 –

2010).

Andries và cộng sự (2016) nghiên cứu mối quan hệ giữa khủng hoảng tài chính và KNSL

của các NHTM Đông và Tây Âu từ năm 2004 đến năm 2013. Kết quả cho thấy khủng hoảng tài

chính tác động tiêu cực đến KNSL, yếu tố bên trong tác động mạnh nhất đến KNSL là rủi ro tín

dụng.

Nghiên cứu của Kamarudin và cộng sự (2016) về tác động của khủng hoảng tài chính đến

KNSL của các ngân hàng nhà nước và ngân hàng tư nhân tại Banladesh từ năm 2004 đến năm

2011. Kết quả cho thấy, trong giai đoạn khủng hoảng tài chính, hiệu quả lợi nhuận của ngân hàng

nhà nước tăng 3,7%, ngân hàng tư nhân tăng 5,8%, tuy nhiên sau giai đoạn khủng hoảng lại giảm

lần lượt là 38,7% và 9,9%. Nghiên cứu cũng chứng minh rằng quy mô ngân hàng, khả năng thanh

khoản, tăng trương kinh tế, mức độ tập trung thị trường tác động ngược chiều đến hiệu quả lợi

nhuận của các NHTM nhà nước nhưng tác động cùng chiều đến các NHTM tư nhân. Yếu tố rủi

ro tín dụng, lạm phát làm giảm hiệu quả lợi nhuận của các NHTM nhà nước giai đoạn sau khủng

hoảng, tuy nhiên yếu tố giá trị vốn hóa thị trường lại có tác động ngược lại.

Nghiên cứu của Mongid (2016) tìm hiểu về tác động của khủng hoảng tài chính đến KNSL

của các NHTM Hồi giáo tại các nước Trung Đông và Bắc Phi từ năm 2003 đến năm 2011. Kết

quả cho thấy quy mô tài sản, tỷ lệ vốn tự có trên tổng tài sản, rủi ro thanh khoản tác động cùng

chiều đến KNSL. Tỷ lệ an toàn vốn, khả năng sáng tạo, khủng hoảng tài chính có tác động ngược

lại.

Gyulai và Szues (2017) phân tích tác động của khủng hoảng kinh tế đến KNSL của các

NHTM thuộc các nước nhóm V4 (bao gồm Cộng hòa Séc, Hungary, Ba Lan, Slovakia) từ năm

2005 đến năm 2014. Kết quả nghiên cứu cho thấy KNSL của các NHTM tại Hungary giảm dần

47

và cách xa so với 3 nước còn lại. Không có bằng chứng cho thấy KNSL cao do ảnh hưởng của

nền kinh tế mỗi quốc gia. Bên cạnh đó, lợi ích của các cổ đông có tác động tích cực đến chất

lượng và số lượng của các khoản nợ.

Nghiên cứu tại Việt Nam

Nghiên cứu của Le (2017) về các yếu tố tác động đến KNSL của các NHTM Việt Nam

trong giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2015, trong đó sử dụng biến giả để chỉ giai đoạn khủng

hoảng trong 2 năm 2008 – 2009 (nhận giá trị 1 cho các năm 2008 và 2009, giá trị 0 cho các năm

còn lại). Kết quả cho thấy các ngân hàng có khả năng giảm giá sản phẩm, dịch vụ có KNSL cao.

Kết quả này ủng hộ lý thuyết Cấu trúc hiệu quả (theo cách tiếp cận Hiệu quả X). Ngoài ra, các

NHTM phụ thuộc chủ yếu vào hoạt động tín dụng, có rủi ro thanh khoản thấp, quy mô nhỏ, đa

dạng hóa sản phẩm và dịch vụ, có niêm yết trên thị trường chứng khoán đạt được KNSL cao hơn.

Bên cạnh đó, khủng hoảng tài chính có ảnh hưởng tiêu cực đến KNSL của các NHTM.

Nguyễn Anh Tú và Phạm Trí Nghĩa (2019) tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến lãi suất cận

biên (NIM) của 27 NHTM tại Việt Nam giai đoạn 2005-2017. Các tác giả sử dụng biến giả để

chỉ giai đoạn khủng hoảng (nhận giá trị 1 cho các năm 2008 và 2009, giá trị 0 cho các năm còn

lại). Kết quả cho thấy rủi ro tín dụng, mức ngại rủi ro (risk aversion) và tỷ lệ vốn cho vay cùng

chiều với NIM, trong khi đó thanh khoản và chất lượng quản lý ảnh hưởng ngược chiều với NIM.

Ngoài ra, kết quả cũng cho thấy, bình quân trong giai đoạn khủng hoảng NIM của các NHTM

giảm khoảng 1,5 lần so với thời kỳ kinh tế ổn định.

Bảng 2.2. Tổng kết các nghiên cứu về tác động của khủng hoảng kinh tế đến KNSL của

NHTM

Tác giả (năm) Thời gian Phạm vi PPNC Kết quả nghiên cứu

Sufian (2011) 1992 - 2003 29 NHTM FEM, Các NHTM có thanh khoản kém

Hàn Quốc REM làm tăng KNSL, nguồn thu nhập

càng đa dạng hóa, KNSL càng

cao, rủi ro tín dụng và chi phí

quản lý tác động ngược chiều

đến KNSL, mức độ tập trung

48

ngành tác động tích cực, chu kỳ

kinh tế biến động tương đồng

với KNSL, khủng hoảng tài

chính châu Á năm 1997 tác động

tiêu cực đến KNSL, các ngân

hàng đạt KNSL giai đoạn trước

khủng hoảng cao hơn so với giai

đoạn sau khủng hoảng.

Amba và 2006 - 2013 92 NHTM T -Test Nghiên cứu cho thấy khủng

Almukharreq tại Vùng hoảng tài chính tác động tiêu

(2013) Vịnh cực đến KNSL đến các ngân

hàng Hồi giáo và ngân hàng

thông thường, các ngân hàng

Hồi giáo cũng có cấu trúc vốn

tốt hơn so với ngân hàng thông

thường trong giai đoạn khủng

hoảng tài chính, tuy nhiên các

ngân hàng thông thường lại có

khả năng thanh khoản và tỷ lệ nợ

tốt hơn.

Pawlowska 1997 - 2002 Tất cả các GMM KNSL trong giai đoạn khủng

(2016) NHTM tại hoảng giảm nhẹ so với giai đoạn

Ba Lan trước khủng hoảng, tỷ lệ tổng

huy động trên tổng tài sản, tổng

nợ trên tổng tài sản tương quan

âm với KNSL, tốc độ tăng

trưởng GDP và lạm phát tương

quan dương đến KNSL, và

WIBOR 3M có tương quan âm.

49

Andries và cộng 2004- 2013 128 NHTM OLS Khủng hoảng tài chính tác động

sự (2016) Đông và Tây tiêu cực đến KNSL, yếu tố bên

Âu trong tác động mạnh nhất đến

KNSL là rủi ro tín dụng

Kamarudin và 2002 - 2011 31 NHTM FEM, Trong giai đoạn khủng hoảng tài

cộng sự (2016) tại REM chính, hiệu quả lợi nhuận của

Bangladesh ngân hàng nhà nước tăng 3,7%,

ngân hàng tư nhân tăng 5,8%,

tuy nhiên sau giai đoạn khủng

hoảng lại giảm lần lượt là 38,7%

và 9,9%. Nghiên cứu cũng

chứng minh rằng quy mô ngân

hàng, khả năng thanh khoản,

tăng trương kinh tế, mức độ tập

trung thị trường tác động ngược

chiều đến hiệu quả lợi nhuận của

các NHTM nhà nước nhưng tác

động cùng chiều đến các NHTM

tư nhân. Yếu tố rủi ro tín dụng,

lạm phát làm giảm hiệu quả lợi

nhuận của các NHTM nhà nước

giai đoạn sau khủng hoảng, tuy

nhiên yếu tố giá trị vốn hóa thị

trường lại có tác động ngược lại.

Chronopoulos 1984 - 2010 Tất cả các GMM KNSL của NHTM tốt hơn trong

và cộng sự ngân hàng giai đoạn khủng hoảng (2007 –

(2015) tại Mỹ có 2010).

tổng tài sản

50

từ 10.000 $

trở lên

Mongid (2016) 2003 - 2011 117 NHTM REM Quy mô tài sản, tỷ lệ vốn tự có

tại Trung trên tổng tài sản, rủi ro thanh

Đông và Bắc khoản tác động cùng chiều đến

Phi KNSL, tỷ lệ an toàn vốn, khả

năng sáng tạo, khủng hoảng tài

chính có tác động ngược lại.

Gyulai và Szues 2005 - 2014 NHTM FEM KNSL của các NHTM tại

(2017) thuộc các Hungary giảm dần và cách xa so

nước nhóm với 3 nước còn lại. Không có

V4 (bao gồm bằng chứng cho thấy KNSL cao

Cộng hòa do ảnh hưởng của nền kinh tế

Séc, mỗi quốc gia. Bên cạnh đó, lợi

Hungary, Ba ích của các cổ đông có tác động

Lan, tích cực đến chất lượng và số

Slovakia) lượng của các khoản nợ.

Le (2017) 2005 - 2015 40 NHTM GMM các ngân hàng có khả năng giảm

Việt Nam giá sản phẩm, dịch vụ có KNSL

cao. Kết quả này ủng hộ lý

thuyết Cấu trúc – Hiệu quả (theo

cách tiếp cận Hiệu quả X).

Ngoài ra, các NHTM phụ thuộc

chủ yếu vào hoạt động tín dụng,

có rủi ro thanh khoản thấp, quy

mô nhỏ, đa dạng hóa sản phẩm

và dịch vụ, có niêm yết trên thị

trường chứng khoán đạt được

KNSL cao hơn. Bên cạnh đó,

51

khủng hoảng tài chính có ảnh

hưởng tiêu cực đến KNSL của

các NHTM.

Nguyễn Anh Tú 2005 - 2017 27 NHTM FEM Rủi ro tín dụng, mức ngại rủi ro

và Phạm Trí Việt Nam (risk aversion) và tỷ lệ vốn cho

Nghĩa (2018) vay cùng chiều với NIM, trong

khi đó thanh khoản và chất

lượng quản lý ảnh hưởng ngược

chiều với NIM. Ngoài ra, kết

quả cũng cho thấy, bình quân

trong giai đoạn khủng hoảng

NIM của các NHTM giảm

khoảng 1,5 lần so với thời kỳ

kinh tế ổn định.

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp

2.5 THẢO LUẬN NHỮNG NGHIÊN CỨU TRƯỚC

Thứ nhất, về mục tiêu nghiên cứu, các nghiên cứu đã chứng tỏ tồn tại mối quan hệ chặt chẽ giữa

KNSL của NHTM và khủng hoảng kinh tế trong những thập niên gần đây (khủng hoảng tài chính

châu Á năm 1997 và khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008). Hai cuộc khủng hoảng này, đặc

biệt là khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008, đã ảnh hưởng nặng nề đến nền kinh tế Việt Nam

nói chung và các doanh nghiệp nói riêng. Mặc dù các nghiên cứu đã chứng minh được tác động

của khủng hoảng tài chính (tích cực hoặc tiêu cực) nhưng chưa nghiên cứu nào lý giải được tại

sao có những tác động đó một cách chặt chẽ, khoa học dựa trên cơ sở lý thuyết và các bằng chứng

cụ thể. Theo lược khảo của tác giả, từ sau 2 cuộc khủng hoảng này, ở Việt Nam đã có một số có

công trình nghiên cứu về KNSL của NHTM trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới nhưng

có phạm vi và cách tiếp cận khác. Do vậy, Luận án này được thực hiện nhằm nghiên cứu KNSL

của NHTM trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới, và giải quyết các vấn đề sau: (i) xác

định các yếu tố ảnh hưởng đến KNSL của NHTM trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới

và giai đoạn phực hồi, (ii) nghiên cứu sự khác biệt về KNSL của NHTM trong thời kỳ khủng

52

hoảng và thời kỳ phục hồi, (iii) nghiên cứu mối quan hệ giữa các yếu tố vi mô và vĩ mô đến

KNSL của NHTM, các yếu tố có ảnh hưởng như thế nào đến KNSL của NHTM trong từng thời

kỳ. Đồng thời, nghiên cứu sẽ lý giải cơ chế tác động dựa trên quan điểm của trường phái Keynes

(1936).

Thứ hai, về mặt phương pháp nghiên cứu, các nghiên cứu sử dụng các phương pháp ước lượng

truyển thống (hay còn gọi là tần suất) như Pooled OLS, FEM, REM, GMM. Các phương pháp

này cho phép nghiên cứu tác động của các yếu tố vi mô và vĩ mô đến KNSL của NHTM nhưng

còn tồn tại nhiều nhược điểm. Cụ thể, các kết luận khoa học trong thống kê tần suất đều dựa trên

bộ dữ liệu mà không quan tâm các thông tin đã biết trước (Nguyễn Ngọc Thạch, 2019). Trong

thống kê tần suất, các tham số của tổng thể được coi là các hằng số cố định nhưng chưa biết.

Nhưng đối với dữ liệu chuỗi thời gian, các tham số này sẽ có sự thay đổi, chính vì vậy, giả định

các tham số là hằng số không còn phù hợp. Do đó, mở rộng hơn, trong thống kê Bayes, các tham

số được giả định như là biến ngẫu nhiên và tuân theo một quy luật phân phối (van de Schoot &

Depaoli, 2014; Bolstad & Curran, 2016). Các kết luận theo phương pháp Bayes dựa trên thông

tin tiên nghiệm kết hợp với bộ dữ liệu thu thập được nên có độ chính xác cao hơn. Đối với thống

kê tần suất, cần phải có bộ dữ liệu đủ lớn mới có thể đưa ra kết luận. Trong khi đối với thống kê

Bayes, việc đưa ra các kết luận không phụ thuộc vào kích cỡ của dữ liệu (Baldwin & Fellingham,

2013; Depaoli & van de Schoot, 2016; Doron & Gaudreau, 2014), khắc phục được nhược điểm

của thống kê tần suất. Gần đây, phương pháp Bayes được các nhà nghiên cứu trên thế giới cũng

như tại Việt Nam quan tâm sử dụng vì tính chính xác và khả năng dự đoán cao trong các vấn đề

kinh tế. Nghiên cứu về KNSL của NHTM tại Việt Nam sử dụng phương pháp Bayes hiện chưa

được tác giả nào thực hiện. Do đó, để đạt mục tiêu là nghiên cứu các yếu tố đặc thù tác động đến

KNSL của NHTM trong các giai đoạn khác nhau của chu kỳ kinh tế, đánh giá biến động KNSL

của NHTM dưới tác động của các cú sốc vĩ mô, tác giả sử dụng phương pháp Bayes để đạt được

các mục tiêu nghiên cứu và là cách tiếp cận mới so với các công trình nghiên cứu trước. Bên

cạnh đó, với kích cỡ mẫu là 30 ngân hàng cùng với khoảng thời gian tương đối ngắn trong bối

cảnh khủng hoảng kinh tế (2007 – 2011), phương pháp hồi quy Bayes được sử dụng là phù hợp.

Vì vậy, nếu xét về phương pháp nghiên cứu thì luận án đảm bảo tính mới và không trùng lắp với

các nghiên cứu trước đây.

53

Thứ ba, xét về phạm vi không gian và thời gian, Luận án đảm bảo tính không trùng lắp với các

nghiên cứu trước đây. Hầu hết các công trình nghiên cứu về KNSL của NHTM gắn với bối cảnh

khủng hoảng kinh tế tại các quốc gia khác nhau. Cụ thể, Andries và cộng sự (2016) nghiên cứu

mối quan hệ giữa khủng hoảng tài chính và KNSL của các NHTM Đông và Tây Âu từ năm 2004

đến năm 2013 thông qua biến giả thời gian (Dummy = 1 trong giai đoạn khủng hoảng 2009 –

2013). Tại Việt Nam, hiện có một số công trình đánh giá tác động của khủng hoảng tài chính

năm 2008 đến KNSL của NHTM như nghiên cứu của Le (2017) có liên quan đến đề tài, với mẫu

nghiên cứu gồm 40 ngân hàng từ năm 2005 đến năm 2015 và biến giả (D = 1) để chỉ khủng hoảng

trong hai năm 2008 và 2009. Hay nghiên cứu của Nguyễn Anh Tú và Phạm Trí Nghĩa (2018),

với mẫu nghiên cứu gồm 27 ngân hàng từ năm 2005 đến năm 2017 sử dụng biến giả (D = 1) để

chỉ khủng hoảng trong hai năm 2008 và 2009, tức là đáy của khủng hoảng. Theo lược khảo của

tác giả, cho tới thời điểm hiện tại, chưa có công trình nghiên cứu nào tại Việt Nam được thực

hiện gắn với cả thời kỳ khủng hoảng và thời kỳ phục hồi để đánh giá một cách đầy đủ tác động

của các yếu tố trong từng giai đoạn đến KNSL của NHTM. Do đó, phạm vi nghiên cứu ngoài

việc tìm hiểu tác động của toàn bộ chu kỳ khủng hoảng đến KNSL của NHTM, Luận án còn

nghiên cứu tác động của các yếu tố đến KNSL trong toàn bộ thời kỳ (2007 đến 2018) và chia

thành hai giai đoạn cụ thể tương ứng với hai giai đoạn của chu kỳ kinh tế thế giới – giai đoạn

khủng hoảng (2007 đến 2011) và giai đoạn hậu khủng hoảng (2012 đến 2018). Vì vậy, phạm vi

nghiên cứu của Luận án bao gồm phạm vi về không gian và thời gian không có tính trùng lắp với

các nghiên cứu trước.

Những phân tích trên chứng tỏ luận án có đối tượng, mục tiêu, phương pháp, phạm vi

nghiên cứu khác so với các nghiên cứu trước đây. Ngoài ra, Luận án còn đảm bảo tính mới, tính

khoa học và tính ứng dụng cao, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam nói chung và các

NHTM nói riêng vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, không chắc chắn, đặc biệt trong bối cảnh bất ổn

của kinh tế thế giới hiện nay.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Trên cơ sở hệ thống hóa các lý thuyết về khủng hoảng kinh tế và KNSL của NHTM,

nghiên cứu kết hợp các lý thuyết về khủng hoảng kinh tế với các lý thuyết KNSL của NHTM

nhằm tìm hiểu KNSL của NHTM trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế.

54

Mặt khác, thông qua việc tổng hợp các kết quả nghiên cứu thực nghiệm về các yếu tố tác

động đến KNSL của NHTM, các nghiên cứu về tác động của khủng hoảng kinh tế đến KNSL

của NHTM, nghiên cứu đã xác định được khoảng trống khoa học của các công trình trước –

hướng tiếp cận, mục tiêu, phương pháp, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, từ đó, xác định mục

tiêu, câu hỏi nghiên cứu và xây dựng mô hình kinh tế lượng phù hợp đối với đặc điểm cơ sở dữ

liệu của các NHTM Việt Nam ở Chương 3.

Bên cạnh đó, thông qua việc tìm hiểu các nghiên cứu có giá trị, tác giả đã khái quát các

phương pháp của các công trình trước đây. Từ đó, phân tích ưu và nhược điểm của các phương

pháp đó, trên cơ sở mục tiêu nghiên cứu, tác giả đã lựa chọn phương pháp nghiên cứu Bayes để

đảm bảo tính mới về phương pháp và đạt được các mục tiêu nghiên cứu.

55

CHƯƠNG 3

PHƯƠNG PHÁP VÀ DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU

3.1 THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU

Trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết về chu kỳ kinh tế và khủng hoảng kinh tế, lý thuyết về

KNSL của NHTM, tác giả lựa chọn và xác định các vấn đề nghiên cứu chủ yếu. Các phương

pháp thống kê mô tả, phân tích, tổng hợp, so sánh, diễn dịch và quy nạp được sử dụng xuyên

suốt toàn bộ nội dung của luận án. Phương pháp hồi quy Bayes được sử dụng để đánh giá các

yếu tố đặc thù có ảnh hưởng đến KNSL của NHTM trong từng giai đoạn khác nhau. Ngoài ra,

trong nội dung chương 3, tác giả trình bày nguồn dữ liệu thu thập được, mô hình nghiên cứu đề

xuất và kiểm định tính vững của mô hình. Cụ thể như sau:

Thiết kế nghiên cứu

Xác định vấn đề nghiên cứu

Các yếu tố ảnh hưởng đến KNSL của NHTM.

KNSL của NHTM trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới

Nội dung nghiên cứu Nghiên cứu cơ sở lý thuyết chu kỳ kinh tế và khủng hoảng kinh tế, lý thuyết về KNSL của NHTM. Nghiên cứu KNSL của NHTM trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới Dựa vào kết quả nghiên cứu đưa ra các hàm ý chính sách

Phương pháp nghiên cứu Sử dụng phương pháp định lượng Bayes với mô hình hồi quy đa biến trên dữ liệu bảng nhằm phân tích, đánh giá KNSL của các NHTM Việt Nam trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới.

Kết quả nghiên cứu Kết luận về KNSL của các NHTM Việt Nam trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới, chiều hướng tác động. Đề xuất hàm ý chính sách

56

3.2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.2.1 Phương pháp Bayes

Trong khoa học có hai trường phái thống kê: Trường phái thống kê tần suất (Frequentist)

và trường phái thống kê Bayes. Hai trường phái thống kê này khác nhau về triết lý khoa học và

nhất là cách hiểu về khái niệm xác suất (Nguyễn Văn Tuấn, 2011). Thống kê tần suất dựa vào

những kết quả quan sát mẫu của hiện tại mà không quan tâm đến những thông tin liên quan về

số liệu đã biết trước. Các kết luận trong thống kê tần suất đều dựa trên dữ liệu mẫu (Nguyễn

Ngọc Thạch, 2019). Trong khi đó, thống kê Bayes dựa trên những thông tin dữ liệu đã biết trước

về vấn đề đã quan sát để suy luận cho thống kê hiện tại (van de Schoot & cộng sự, 2014). Các

tham số trong thống kê tần suất là cố định nhưng không biết; trong khi đó, các tham số theo

trường phái Bayes là ngẫu nhiên và tuân theo một quy luật phân phối (van de Schoot & Depaoli,

2014; Bolstad & Curran, 2016). Trong thống kê Bayes, thông tin tiên nghiệm cấu thành nên cơ

sở lý thuyết, các kết luận dựa trên cơ sở đã biết kết hợp với dữ liệu quan sát (van de Schoot &

cộng sự, 2014). Do đó, các kết luận trong thống kê Bayes có độ chính xác cao hơn và ngày càng

được sử dụng phổ biến, đặc biệt trong lĩnh vực Y học, khoa học xã hội và nhiều ngành khoa học

khác (Nguyễn Văn Tuấn, 2011; van de Schoot, 2016). Trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa

học dữ liệu, big data cũng như những phần mềm tính toán, thống kê Bayes ngày càng có điều

kiện phát triển hơn. Nếu như trường phái tần suất thống trị trong thế kỷ 20 thì thế kỷ 21, sự thống

trị đó sẽ là trường phái Bayes (Kruschke, 2011).

Từ xác suất có điều kiện:

p(A|B) = p(A, B) p(B)

Chúng ta có định lý Bayes:

p(A|B) = p(B|A)p(A) p(B)

57

Trong đó:

p(A|B): Xác suất hậu nghiệm (posterior), cần tìm xác suất giả thuyết A đúng cho bởi dữ liệu thu

thập

p(B|A): Độ hợp lý của dữ liệu (lilkelihood), xác suất thu thập được dữ liệu dưới điều kiện giả

thuyết A đúng (dữ liệu thu thập được)

p(A): Xác suất tiên nghiệm (prior): Xác suất giả thuyết A mà chúng ta tin là xảy ra (đúng) trước

khi thu thập dữ liệu

p(B): Hằng số, xác suất của dữ liệu

A, B là các vectơ ngẫu nhiên

Chúng ta hãy giả sử rằng một vectơ dữ liệu X là một mẫu từ một mô hình xác suất với

𝑛

vectơ tham số Ѳ chưa biết. Sử dụng hàm hợp lý, mô hình này được xây dựng như sau:

𝑖=1

𝐿(Ѳ; 𝑋) = 𝑓(𝑋; Ѳ) = ∏ 𝑓(𝑋𝑖 |Ѳ )

Với 𝑓(𝑋; Ѳ) là hàm mật độ xác suất cùa X nếu cho trước Ѳ.

Dựa trên dữ liệu có sẵn, chúng ta muốn suy diễn một số đặc tính của Ѳ. Trong phân tích

Bayes, các tham số mô hình Ѳ là vectơ ngẫu nhiên. Tiếp theo, chúng ta tiến hành phân tích Bayes

bằng việc xác định một mô hình hậu nghiệm. Mô hình hậu nghiệm kết hợp dữ liệu cho trước và

thông tin tiên nghiệm để mô tả phân phối xác suất của tất cả các tham số.

Vì vậy, phân phối hậu nghiệm có hai thành phần: một hàm hợp lý bao gồm thông tin về

các tham số mô hình dựa trên dữ liệu được quan sát và phân phối tiên nghiệm bao gồm thông tin

trước đó về các tham số mô hình. Bằng quy luật Bayes, hàm hợp lý và phân phối tiên nghiệm

được kết hợp để tạo nên mô hình hậu nghiệm:

Hậu nghiệm ∝ hàm hợp lý x tiên nghiệm

Vì cả X lẫn Ѳ đều là các biến ngẫu nhiên, chúng ta sử dụng định lý Bayes để đạt được

phân phối hậu nghiệm của Ѳ nếu X được cho trước:

𝑝(Ѳ|𝑋) = = 𝑝(𝑋|Ѳ)𝑝(Ѳ) 𝑝(𝑋) 𝑓(𝑋|Ѳ)𝜋(Ѳ) 𝑚(𝑋)

58

Trong đó, 𝑚(𝑋) = 𝑝(𝑋) mà được hiểu như phân phối biên (marginal distribution) của X,

được định nghĩa như sau:

(3.1) 𝑚(𝑋) = ∫ 𝑓(𝑋; Ѳ)𝜋(Ѳ)𝑑(Ѳ),

Trong đó, 𝑓(𝑋; Ѳ) là hàm hợp lý của X khi cho trước Ѳ, 𝜋(Ѳ) là phân phối tiên nghiệm

cho Ѳ, 𝑚(𝑋) còn được gọi là phân phối dự báo tiên nghiệm.

Nếu phân phối hậu nghiệm có thể được dẫn xuất ở dạng khép kín, chúng ta có thể tiến

hành ngay giai đoạn suy diễn của phân tích Bayes. Tuy nhiên, ngoại trừ một số mô hình đặc biệt,

phân phối hậu nghiệm hiếm khi có sẵn và cần được ước lượng thông qua mô phỏng. Các phương

pháp Bayes có thể được sử dụng để mô phỏng nhiều mô hình, bao gồm cả những hàm rất phức

tạp với mức độ chính xác tùy ý. Các phương pháp MCMC để mô phỏng các mô hình Bayes

thường đòi hỏi thuật toán lấy mẫu hiệu quả và kiểm định sự hội tụ của chuỗi MCMC đến phân

phối hậu nghiệm dừng.

Các dự báo Bayes bao gồm các kết quả mô phỏng là các mẫu từ phân phối dự báo hậu

nghiệm của mô hình Bayes được xây dựng. Trước khi dữ liệu X được quan sát, phân phối của X

là (3.1).

Giả sử Xobs là dữ liệu được quan sát và Xfuture là dữ liệu dự báo. Phân phối dự báo hậu nghiệm

của Xfuture là:

(3.2) 𝑝(𝑋𝑓𝑢𝑡𝑢𝑟𝑒|𝑋𝑜𝑏𝑠) = ∫ 𝑝(𝑋𝑓𝑢𝑡𝑢𝑟𝑒 |Ѳ)𝑝(Ѳ|𝑋𝑜𝑏𝑠)𝑑(Ѳ),

Trong đó: 𝑝(Ѳ|𝑋𝑜𝑏𝑠) là phân phối dự báo hậu nghiệm của Ѳ. Như vậy, phân phối dự báo

hậu nghiệm (3.2) là phân phối tiên nghiệm (3.1) được cập nhật với dữ liệu Xobs. Các giá trị dự

báo Bayes là mô phỏng dữ liệu từ 𝑝(𝑋𝑓𝑢𝑡𝑢𝑟𝑒|𝑋𝑜𝑏𝑠). Dữ liệu này là kết quả mô phỏng.

Có nhiều loại phân phối tiên nghiệm khác nhau, thông tin (informative) và phi thông tin

(non-informative), có thể được sử dụng để tạo ra các mô hình hậu nghiệm. Thông tin tiên nghiệm

của các tham số là nhân tố quan trọng trong quá trình suy luận Bayes. Phân phối tiên nghiệm

chứa đựng đầy đủ thông tin và nếu lượng dữ liệu quan sát được càng nhiều sẽ ảnh hưởng càng

lớn lên phân phối hậu nghiệm. Ngược lại, khi lượng dữ liệu quá ít thì thông tin trong phân phối

tiên nghiệm sẽ đóng vai trò quan trọng trong phân phối hậu nghiệm.

59

Bên cạnh đó, cần phân tích độ nhạy (sensitivity analysis) giữa các mô hình ước lượng để

chọn ra mô hình tốt nhất là mô hình phù hợp với dữ liệu nghiên cứu. Trong số các phương pháp

MCMC, phương pháp Metropolis-Hastings (MH) và phương pháp Gibbs được sử dụng rất phổ

biến. Là một trường hợp đặc biệt của phương pháp MH, phương pháp Gibbs có hiệu quả rất cao

dù đòi hỏi chi phí tính toán đáng kể.

Trong Luận án này, tác giả áp dụng phương pháp Bayes thông qua thuật toán Random-

walk Metropolis-Hastings và phương pháp lấy mẫu Gibbs nhằm tìm hiểu các yếu tố đặc thù ảnh

hưởng đến KNSL của các NHTM Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2018. Metropolis và cộng sự

(1953) là người đầu tiên đề xuất thuật toán Metropolis. Sau đó, Hastings (1970) phát triển thuật

toán hiệu quả hơn. Phương pháp lấy mẫu Gibbs là một trường hợp đặc biệt của thuật toán

Metropolis-Hastings (Gelfand & cộng sự, 1990).

Do các nghiên cứu trước đây về các yếu tố tác động đến KNSL của NHTM được thực

hiện theo phương pháp tần suất, vì vậy chúng ta không có thông tin về phân phối tiên nghiệm

của các biến trong mô hình nghiên cứu. Hơn nữa, nếu cỡ mẫu số liệu trong nghiên cứu là lớn,

thông tin tiên nghiệm có tác động không đáng kể đến sự chính xác của mô hình (Nguyen, 2020).

Trên cơ sở đó, tác giả sử dụng phân phối chuẩn là N(1, 100) cho các biến quan sát và phân phối

Igamma (2,5; 2,5) cho các phương sai trong mô hình. Phân phối tiên nghiệm có thể được viết lại

như sau:

α ∼ N(1; 100)

σ2 ∼ Invgamma(2,5; 2,5)

3.2.2 Tính ưu việt của phương pháp Bayes so với phương pháp tần suất

Thứ nhất, phân tích Bayes là một công cụ phân tích mạnh mẽ để lập mô hình thống kê, giải thích

kết quả, và dự đoán dữ liệu. Phương pháp Bayes có thể được sử dụng khi không có phương pháp

tần suất chuẩn nào có sẵn hoặc các phương pháp tần suất hiện có không thành công.

Thứ hai, tính phổ quát của phương pháp Bayes có thể được xem là lợi thế về mặt phương pháp

so với phương pháp tiếp cận tần suất truyền thống. Suy luận Bayes dựa trên một quy tắc xác suất

duy nhất, quy tắc Bayes, được áp dụng cho tất cả các mô hình tham số. Điều này làm cho cách

tiếp cận Bayes trở nên phổ biến và tạo điều kiện thuận lợi đáng kể cho việc áp dụng và giải thích

60

kết quả. Trong khi đó, cách tiếp cận tần suất dựa trên nhiều phương pháp ước lượng được thiết

kế cho các vấn đề và mô hình thống kê cụ thể. Thông thường, các phương pháp suy luận được

thiết kế cho một lớp vấn đề không thể được áp dụng cho một lớp mô hình khác.

Thứ ba, trong phân tích Bayes, chúng ta có thể sử dụng thông tin trước đó, cả niềm tin hoặc bằng

chứng thực nghiệm, trong mô hình dữ liệu để thu được kết quả cân bằng hơn cho một vấn đề cụ

thể. Chẳng hạn như kết hợp thông tin tiên nghiệm có thể giảm thiểu ảnh hưởng của cỡ mẫu nhỏ.

Thứ tư, bằng cách sử dụng kiến thức về toàn bộ phân phối hậu nghiệm của các tham số mô hình,

suy luận Bayes toàn diện và linh hoạt hơn rất nhiều so với suy luận truyền thống.

Thứ năm, suy luận Bayes là chính xác, theo nghĩa là ước tính và dự đoán dựa trên phân phối hậu

nghiệm. Các phương pháp Bayes có thể được sử dụng để mô phỏng nhiều mô hình, bao gồm cả

những hàm phức tạp với độ chính xác tùy ý.

Thứ sáu, suy luận Bayes cung cấp một cách giải thích đơn giản và trực quan hơn về các kết quả

dưới dạng xác suất. Ví dụ, các khoảng tin cậy được hiểu là các khoảng mà các tham số thuộc về

một xác suất nhất định, không giống như cách diễn giải lấy mẫu lặp lại ít đơn giản hơn của các

khoảng tin cậy.

Thứ bảy, mô hình Bayes thỏa mãn nguyên tắc khả năng xảy ra, cho rằng thông tin trong một mẫu

được thể hiện đầy đủ bằng hàm khả năng (Berger & Wolpert, 1988). Nguyên tắc này yêu cầu

rằng nếu hàm khả năng của một mô hình tỷ lệ thuận với hàm khả năng của một mô hình khác,

thì các suy luận từ hai mô hình sẽ cho kết quả như nhau. Một số nhà nghiên cứu cho rằng các

phương pháp tần suất phụ thuộc vào thiết kế thử nghiệm có thể vi phạm nguyên tắc khả năng xảy

ra.

Cuối cùng, như đã đề cập ngắn gọn trước đó, độ chính xác ước tính trong phân tích Bayes không

bị giới hạn bởi kích thước mẫu - các phương pháp mô phỏng Bayes có thể cung cấp một mức độ

chính xác tùy ý và không bị ảnh hưởng bởi các hạn chế như tự tương quan, nội sinh, phương sai

sai số thay đổi mà phương pháp tần suất gặp phải.

61

3.3 MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU

3.3.1 Quy trình nghiên cứu

Bước 1 Nghiên cứu cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu trước, xác định khoảng trống nghiên cứu

Bước 2

Xây dựng mô hình và phương pháp nghiên cứu

Bước 3 Phân tích tác động của các yếu tố đến KNSL của các NHTM Việt Nam trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới

Phân tích hồi quy BAYES Xử lý dữ liệu định lượng Xây dựng và thiết kế biến

Bước 4

Kiểm định mô hình hồi quy

Phân tích kết quả và thảo luận

Bước 5

Bước 6

Gợi ý chính sách và hạn chế của đề tài

62

3.3.2 Mô hình nghiên cứu đề xuất

Từ cơ sở tổng thể lý luận đã trình bày và kế thừa mô hình nghiên cứu của tác giả Sufian

(2011), cùng các nghiên cứu trước được lược khảo ở chương 2, cho thấy có các yếu tố khác ảnh

hưởng đến KNSL của NHTM là tài sản thanh khoản, tiền gửi khách hàng, chi phí trả lãi, chi phí

hoạt động. Trên cơ sở đó, đề tài tập trung các yếu tố bên trong, yếu tố bên ngoài và thường xuyên

phát sinh để đưa vào mô hình nghiên cứu đề xuất nhằm đánh giá KNSL của các NHTM Việt

Nam trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới. Nghiên cứu sử dụng chỉ số ROA và ROE làm

biến phụ thuộc. Theo Sufian và Habibullah (2009), Naceur và Goaied (2009), Kosmidou (2008),

biến phụ thuộc được sử dụng là ROA, vì ROA cho thấy mỗi đồng tài sản có thể tạo ra bao nhiêu

đồng lợi nhuận, phản ánh rõ nhất khả năng cuả ban lãnh đạo ngân hàng sử dụng các nguồn lực

tài chính và đầu tư để tạo ra lợi nhuận. Đối với bất kỳ ngân hàng nào, tỷ số ROA phụ thuộc vào

các quyết sách của ngân hàng cũng như các yếu tố không thể kiểm soát được của nền kinh tế và

quy định của chính phủ. Rivard và Thomas (1997) cho rằng KNSL của ngân hàng được đo lường

tốt nhất thông qua tỷ số ROA do ROA không bị bóp méo bởi tỷ số tổng tài sản trên vốn cổ phần

cao và ROA đo lường tốt hơn khả năng ngân hàng tạo ra lợi nhuận từ danh mục tài sản, ROA là

chỉ số quan trọng để đánh giá KNSL của NHTM (Molyneux & Thornton, 1992). Trong khi đó

ROE phản ánh hiệu quả quản lý từ việc sử dụng vốn chủ sở hữu. Do vậy, ROA của các trung

gian tài chính thường thấp do các tổ chức này sử dụng đòn bẩy lớn để có thể gia tăng ROE

(Hassan & Bashir, 2005).

Mô hình tổng quát: ROAjt = ∝0 + ∝𝑗𝑡 𝑋𝑖𝑗𝑡 + ∝𝑖𝑡 𝑋𝑒𝑗𝑡 + 𝜀𝑗𝑡

ROEjt = 𝛽0 + 𝛽𝑗𝑡𝑋𝑖𝑗𝑡 + 𝛽𝑖𝑡𝑋𝑒𝑗𝑡 + 𝑢𝑗𝑡

Trong đó:

∝0, 𝛽0: Hệ số chặn

Xijt : Các biến nội tại trong ngân hàng

Xejt : Các biến vĩ mô

∝𝑗𝑡, βjt: Tác động của biến nội tại ngân hàng đến ROA, ROE

∝𝑖𝑡, 𝛽𝑖𝑡: Tác động của biến vĩ mô đến ROA, ROE

63

εjt, 𝑢𝑗𝑡: Phần dư của mô hình

Mô hình (1), (2), (3), (4) được sử dụng để nhận diện các yếu tố kinh tế vi mô và vĩ mô tác động

đến KNSL của các NHTM Việt Nam trong thời kỳ khủng hoảng (2007-2011) và thời kỳ hậu

khủng hoảng (2012-2018), so sánh giữa hai thời kỳ. Mô hình (5), (6) được dùng để phân tích sự

khác biệt giữa KNSL trong thời kỳ khủng hoảng (2007-2011) và thời kỳ hậu khủng hoảng (2012-

2018). Từ mô hình tổng quát được viết lại như sau:

Bảng 3.1. Các mô hình dự kiến trong luận án

, ROA = ∝0 + ∝1SIZE + ∝2LOAN + ∝3LLP

Mô hình 1 + ∝4DEP + ∝5LIQUI + ∝6INT + ∝7OPE +

Giai đoạn: 2007 - ∝8CAP + ∝9INF+ ∝10GGDP + ε1

2011 ROE = β0 + β1SIZE + β2LOAN + β3LLP +

Mô hình 2 β4DEP + β5LIQUI + β6INT + β 7OPE +

β8CAP + β9INF+ β10GGDP + u1

ROA = ∝0 + ∝1SIZE + ∝2LOAN + ∝3LLP

Mô hình 3 + ∝4DEP + ∝5LIQUI + ∝6INT + ∝7OPE +

Giai đoạn: 2012 - ∝8CAP + ∝9INF+ ∝10GGDP + ε2

2018 ROE = β0 + β1SIZE + β2LOAN + β3LLP +

Mô hình 4 β4DEP + β5LIQUI + β6INT + β 7OPE +

β8CAP + β9INF+ β10GGDP + u2

ROA = ∝0 + ∝1SIZE + ∝2LOAN + ∝3LLP

Mô hình 5 + ∝4DEP + ∝5LIQUI + ∝6INT + ∝7OPE +

+ ∝8CAP + ∝9INF+ ∝10GGDP

Giai đoạn: 2007 - ∝11DUMMY+ ε3

2018 ROE = β0 + β1SIZE + β2LOAN + β3LLP +

Mô hình 6 β4DEP + β5LIQUI + β6INT + β 7OPE +

β8CAP + β9INF+ β10GGDP + β 11DUMMY

+ u3

Nguồn: Tổng hợp của tác giả

64

Bảng 3.2. Đo lường các biến sử dụng trong mô hình

Công thức tính Biến

ROA Lợi nhuận sau thuế/Tổng tài sản phụ Biến

thuộc Lợi nhuận sau thuế/Vốn chủ sở hữu ROE

Logarit tổng tài sản SIZE

Vốn chủ sở hữu/tổng tài sản CAP

LOAN Tổng dư nợ/tổng tài sản

LLP Dự phòng rủi ro tín dụng/tổng dư nợ

LIQUI Tài sản thanh khoản/tổng tài sản

Tiền gửi khách hàng/tổng tài sản DEP

Chi phí trả lãi/tổng nợ phải trả INT

Biến độc lập OPE Chi phí hoạt động/tổng tài sản

INFL Lạm phát

GGDP Tốc độ tăng trưởng GDP

Nhận giá trị 1 cho giai đoạn khủng hoảng (2007 – DUMMY 2011) và giá trị 0 cho giai đoạn hậu khủng hoảng

Nguồn: Tổng hợp của tác giả

3.3.3 Giả thuyết nghiên cứu

Trên cơ sở hệ thống hóa các lý thuyết nền tảng về khủng hoảng kinh tế (trường phái

Keynes và trường phái hậu Keynes), các lý thuyết về KNSL của NHTM (Lý thuyết Quyền lực

thị trường và Lý thuyết Cấu trúc hiệu quả) và các nghiên cứu thực nghiệm đã được tác giả trình

bày ở chương 2, Luận án xây dựng các giả thuyết nghiên cứu về KNSL của các NHTM Việt

Nam trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới, giai đoạn 2007 – 2018 như sau:

65

Quy mô ngân hàng (SIZE)

Để đo lường quy mô ngân hàng, các nghiên cứu thực nghiệm trước đây thường sử dụng

là logarit của tổng tài sản như các nghiên cứu của Sufian (2011), Alexiou và Sofoklis (2009),

Petria và cộng sự (2013), Kohlscheen và cộng sự (2018), Batten và Vo (2019), Nguyễn Phạm

Nhã Trúc và Nguyễn Phạm Thiên Thanh (2016). Do vậy, để đánh giá quy mô ngân hàng, luận

án sẽ sử dụng chỉ tiêu logarit của tổng tài sản. Quy mô ngân hàng có ảnh hưởng tích cực, mạnh

mẽ đến KNSL của NHTM do có khả năng đa dạng hóa danh mục cho vay và đầu tư, mở rộng

mạng lưới rộng khắp, đầu tư mạnh mẽ về công nghệ, thương hiệu có uy tín và mức độ tín nhiệm

cao của khách hàng cũng như nhà đầu tư.Tuy nhiên, quy mô ngân hàng càng lớn có khả năng

làm giảm KNSL do năng lực ban lãnh đạo không theo kịp tốc độ tăng quy mô, làm giảm hiệu

quả quản lý chi phí, tăng rủi ro hoạt động và các lý do không thể kiểm soát. Các nghiên cứu thực

nghiệm cho thấy các kết quả khác nhau về mối liên hệ giữa quy mô ngân hàng và KNSL. Trong

khi đa số các nghiên cứu cho thấy quy mô ngân hàng tác động tích cực đến KNSL như nghiên

cứu của Sufian (2011), Alexiou và Sofoklis (2009), Kosmidou và cộng sự (2007), Nguyễn Phạm

Nhã Trúc và Nguyễn Phạm Thiên Thanh (2016). Ngược lại, nghiên cứu của Kohlscheen và cộng

sự (2018), Batten và Vo (2019), Rahman và cộng sự (2015). Nguyễn Thị Thu Hiền (2017) cho

thấy quy mô ngân hàng tác động tiêu cực đến KNSL của NHTM. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra

giả thuyết:

Giả thuyết 1: Quy mô ngân hàng tác động tích cực đến KNSL của NHTM.

Vốn ngân hàng (CAP)

Được đo lường bằng tỷ số vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản. Vốn ngân hàng cho thấy mức

độ an toàn của NHTM. Tỷ lệ này càng cao có nghĩa là đòn bẩy tài chính thấp, dẫn đến rủi ro thấp

và ngược lại. Các ngân hàng có tỷ lệ vốn chủ sở hữu lớn có khả năng ứng phó tốt hơn với các

biến động của thị trường, do đó có khả năng tồn tại tốt hơn so với các ngân hàng có tỷ lệ vốn

thấp. Các ngân hàng có vốn lớn dễ dàng nhận được uy tín từ khách hàng như người gửi tiền, sử

dụng dịch vụ ngân hàng và người vay tiền, từ đó có thể đa dạng hóa nguồn thu và tác động tích

cực đến KNSL. Bên cạnh đó, ngân hàng có nhiều vốn sẽ ít cần nguồn tài trợ bên ngoài và chi phí

vốn thấp hơn khi thiếu vốn, đồng thời có thể dung nguồn vốn này cho vay dài hạn với lãi suất

cao hơn và đạt được KNSL tốt hơn. Các nghiên cứu của Trần Việt Dũng (2014), Alexiou và

66

Sofoklis (2009), Petria và cộng sự (2013), Rahman và cộng sự (2015), Gyulai và Szucs (2017),

Berger (1995) cho thấy mối tương quan cùng chiều giữa vốn ngân hàng và KNSL. Bên cạnh đó,

các nghiên cứu của Nguyễn Phạm Nhã Trúc và Nguyễn Phạm Thiên Thanh (2016), Batten và

Vo (2019), Zhang và Dong (2011), Kohlscheen và cộng sự (2018) cho thấy vốn ngân hàng tác

động cùng chiều đến ROA nhưng ngược chiều đến ROE. Vì vậy, tác giả đưa ra giả thuyết:

Giả thuyết 2: Vốn ngân hàng tác động tích cực đến KNSL của NHTM.

Dự phòng rủi ro tín dụng (LLP)

Là tỷ số được tính bằng cách lấy dự phòng rủi ro tín dụng chia cho tổng dư nợ, là yếu tố

đại diện cho rủi ro tín dụng (Sufian, 2011). Theo quy định, các ngân hàng phải tiến hành trích

lập dự phòng RRTD khi không thu hồi đúng hạn các khoản đã cho vay, tùy theo thời hạn. Các

khoản cho vay càng rủi ro cao càng có khả năng phải trích lập dự phòng rủi ro tín dụng cao hơn,

dẫn đến giảm lợi nhuận. Tuy nhiên, các khoản vay có rủi ro cao sẽ được bù đắp bằng lãi suất cao.

Các ngân hàng tập trung vào tăng trưởng tín dụng có thể đạt được lợi nhuận cao trong ngắn hạn

nhưng trong dài hạn, khi các khoản cho vay có chất lượng kém có thể làm giảm lợi nhuận do

phải tăng trích lập dự phòng rủi ro tín dụng. Các nghiên cứu thực nghiệm cũng cho xu hướng

khác nhau về tác động của dự phòng RRTD đến KNSL của NHTM. Nghiên cứu của Iacobelli

(2016), Sufian (2011), Trần Việt Dũng (2014), Anathasoglou và cộng sự (2008), Alexiou và

Sofoklis (2009) cho thấy dự phòng RRTD tác động ngược chiều đến KNSL. Ngược lại, một số

nghiên cứu khác lại cho thấy dự phòng RRTD tác động cùng chiều đến KNSL như nghiên cứu

của Kosmidou và cộng sự (2005), Fernandez (2007), Trần Thị Thanh Nga (2018), Ayaydin và

Karakaya (2014), Nguyễn Thị Thu Hiền (2017). Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra giả thuyết:

Giả thuyết 3: Dự phòng RRTD tác động tiêu cực đến KNSL của NHTM.

Dư nợ cho vay (LOAN)

Được đo lường bằng tỷ số tổng dư nợ chia cho tổng tài sản, cho thấy dư nợ cho vay chiếm

bao nhiêu phần trăm so với tổng tài sản. Tỷ số này cao đồng nghĩa với việc ngân hàng sẽ gặp khó

khăn trong việc đáp ứng nhu cầu rút tiền của khách hàng, tức tăng rủi ro thanh khoản và tăng rủi

ro tín dụng nếu các khoản vay có chất lượng kém. Tuy nhiên, KNSL của NHTM cao hơn nếu tỷ

số dư nợ cho vay trên tổng tài sản cao do ngân hàng nắm giữ nhiều tài sản sinh lãi hơn. Có hai

67

xu hướng khi nghiên cứu tác động của dư nợ cho vay đến KNSL của NHTM. Ở xu hướng thứ

nhất tìm thấy mối quan hệ cùng chiều giữa tỷ số dư nợ cho vay trên tổng tài sản và KNSL của

NHTM như nghiên cứu của Sufian (2011), Le (2017), Zhang và Dong (2011), Rahman và cộng

sự (2015), Molyneux và Thornton (1992).

Tuy nhiên, nghiên cứu của Bourke (1989) đã phát hiện ra mối quan hệ ngược chiều giữa

dư nợ cho vay và KNSL của NHTM khi nghiên cứu các ngân hàng ở Châu Âu. Kết quả này cho

thấy các ngân hàng tăng cường cho vay nhưng không thực hiện thẩm định tốt, điều kiện cho vay

dễ dãi sẽ dẫn đến rủi ro tín dụng tăng cao và KNSL sẽ giảm xuống. Trong khi đó, nghiên cứu

của Nguyễn Phạm Nhã Trúc và Nguyễn Phạm Thiên Thanh (2016) không tìm thấy mối liên hệ

giữa tỷ số dư nợ cho vay trên tổng tài sản và KNSL. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra giả thuyết:

Giả thuyết 4: Dư nợ cho vay tác động tích cực đến KNSL của NHTM.

Tài sản thanh khoản (LIQUI)

Được tính bằng công thức tài sản thanh khoản chia cho tổng tài sản. Có hai xu hướng khi

NHTM tăng nắm giữ tài sản thanh khoản. Xu hướng thứ nhất, gia tăng nắm giữ tài sản thanh

khoản sẽ làm giảm khả năng xoay vòng đồng vốn đã bỏ ra, vì vậy sẽ làm giảm KNSL. Các nghiên

cứu cho thấy việc nắm giữ tài sản thanh khoản tác động ngược chiều đến KNSL của NHTM như

nghiên cứu của Fungáčová và Poghosyan (2011), Lee và Hsieh (2013), Goddard và cộng sự

(2004). Ở xu hướng thứ hai, việc tăng cường nắm giữ tài sản thanh khoản giúp các NHTM có

được tấm đệm tài chính nhằm chống chọi tốt hơn đối với các cú sốc bên ngoài như khủng hoảng

tài chính và ứng phó linh hoạt tốt hơn đối với sự không chắc chắn của thị trường cũng như chính

sách của nhà nước. Nhờ đó, các NHTM sẽ có hiệu quả hoạt động tốt hơn và đạt được KNSL cao

hơn. Kết quả này ủng hộ quan điểm trường phái hậu Keynes (Minsky, 1975), cho rằng trong bối

cảnh khủng hoảng tài chính, việc mất thanh khoản có thể làm giảm lợi nhuận của ngân hàng và

dẫn đến sự sụp đổ của thị trường tài chính nói chung và sự phá sản của NHTM nói riêng. Các

nghiên cứu của Kohlscheen và cộng sự (2018), Kosmidou và cộng sự (2005), Ndoka và cộng sự

(2016), Bassey và Moses (2015), Trần Thị Thanh Nga (2018) cho thấy việc tăng cường nắm giữ

tài sản thanh khoản tác động tích cực đến KNSL của NHTM . Trên cơ sở đó, yếu tố tài sản thanh

khoản được đưa vào mô hình với giả thuyết:

Giả thuyết 5: Tài sản thanh khoản tác động tích cực đến KNSL của NHTM.

68

Tiền gửi khách hàng (DEP)

Tiền gửi khách hàng là nguồn vốn lớn nhất, quan trọng nhất, chi phí thấp của NHTM, cho

biết khả năng huy động vốn thường xuyên của ngân hàng. Nguồn tiền huy động được từ người

gửi tiền đóng vai trò then chốt giúp ngân hàng duy trì hoạt động kinh doanh, mở rộng quy mô,

đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng. Ngân hàng huy động tiền gửi tốt có nghĩa là đã tạo dựng

được uy tín, chất lượng sản phẩm, dịch vụ tốt với số lượng lớn người gửi tiền, từ đó giúp ngân

hàng tiếp cận khách hàng ở những sản phẩm, dịch vụ khác. Tuy nhiên, huy động vốn từ tiền gửi

đòi hỏi các ngân hàng sử dụng nguồn vốn này một cách hợp lý, và có mối liên hệ chặt chẽ với

hiệu quả hoạt động của ngân hàng nhằm tạo ra lợi nhuận. Quan điểm của trường phái Keyes

(1936) cho rằng tiết kiệm, phản ánh thông qua lượng tiền gửi khách hàng, nếu quá cao có thể

ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế do hộ gia đình giảm tiêu dùng, doanh nghiệp không đầu tư

để sản xuất nhiều hàng hóa hơn do không chắc chắn triển vọng kinh tế trong tương lai. Vì vậy,

khi các ngân hàng nhận được lượng tiền gửi cao là dấu hiệu cho thấy tổng cầu của nền kinh tế

giảm, dẫn đến KNSL của ngân hàng giảm xuống. Các nghiên cứu trước chỉ ra mối quan hệ thuận

chiều giữa tiền gửi khách hàng và KNSL như nghiên cứu của Sufian (2011), Almaqtari và cộng

sự (2018), Lim và Randhawa (2005), Zhang và Dong (2011). Tuy nhiên, nghiên cứu của Gaber

(2018) chỉ ra mối quan hệ ngược chiều giữa tiền gửi khách hàng và KNSL của ngân hàng. Vì

vậy, yếu tố tiền gửi khách hàng được đưa vào mô hình nghiên cứu với giả thuyết:

Giả thuyết 6: Tiền gửi khách hàng tác động tích cực đến KNSL của NHTM.

Chi phí trả lãi (INT)

Được đo lường bằng cách lấy tổng chi phí trả lãi chia cho tổng nợ phải trả, phản ánh khả

năng quản trị nợ phải trả của ngân hàng. Tỷ số này cao có nghĩa là khả năng quản trị nợ phải trả

của ngân hàng kém, đồng nghĩa với lợi nhuận giảm. Lee và Isa (2017) cho rằng các ngân hàng

huy động vốn với lãi suất cao sẽ điều chỉnh lãi suất cho vay theo hướng cao hơn do chi phí đầu

vào cao, từ đó đạt được KNSL cao hơn. Mặt khác, chi phí huy động vốn cao do áp lực cạnh tranh

giữa các ngân hàng nhằm thu hút người gửi tiền, làm tăng lãi suất trên thị trường và các ưu đãi

dành cho khách hàng (Garcia & Guerreiro, 2016). Các nghiên cứu của Yao và cộng sự (2018),

Islam và Nishiyama (2016), Dietrich và Wanzenried (2011) cho thấy mối quan hệ ngược chiều

giữa chi phí trả lãi và KNSL của NHTM. Trong khi đó, nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Anh và

69

Võ Thị Bích Ngọc cho thấy chi phí trả lãi tác động tích cực đến NIM, và tiêu cực đến ROA

nhưng không có ý nghĩa thống kê. Trên cơ sở đó, yếu tố chi phí trả lãi được đưa vào mô hình với

giả thuyết:

Giả thuyết 7: Chi phí trả lãi tác động tiêu cực đến KNSL của NHTM.

Chi phí hoạt động (OPE)

Được đo lường bằng tỷ số chi phí hoạt động trên tổng tài sản. Chi phí hoạt động bao gồm

các chi phí như nhân sự, quản lý, khấu hao, quảng cáo … cho biết khả năng quản lý chi phí của

NHTM. Tỷ số này càng cao cho thấy khả năng kiểm soát chi phí hoạt động kém và ngược lại.

Nghiên cứu của Batten và Vo (2019), Sufian (2011), Kosmidou (2008) cho thấy mối quan hệ

ngược chiều giữa chi phí hoạt động và KNSL. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu khác cho thấy chi

phí hoạt động tác động tích cực tới KNSL của NHTM như nghiên cứu của Nguyễn Phạm Nhã

Trúc và Nguyễn Phạm Thiên Thanh (2016), Lee và Isa (2017), Molyneux và Thornton (1992).

Kết quả này cho thấy chi phí hoạt động, trong đó có chi phí tiền lương, gia tăng đã làm tăng năng

suất lao động, ủng hộ lý thuyết tiền lương hiệu quả. Mặc dù chi phí hoạt động tăng lên nhưng

KNSL tăng nhanh hơn do các ngân hàng đã sử dụng chi phí một cách có hiệu quả, thúc đẩy năng

suất lao động của nhân viên. Vì vậy, yếu tố chi phí hoạt động được sử dụng trong mô hình nghiên

cứu với giả thuyết:

Giả thuyết 8: Chi phí hoạt động tác động tiêu cực đến KNSL của NHTM.

Lạm phát (INFLAT)

KNSL của NHTM chịu sự tác động mạnh của lạm phát do lạm phát ảnh hưởng đến mức

lãi suất cho vay và huy động (Rahman & cộng sự, 2015). Mức tăng vừa phải của lạm phát hàng

năm có thể thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế bền vững, ổn định, tăng nhu cầu tiêu dùng và đầu

tư, qua đó tác động tích cực đến KNSL của NHTM. Lạm phát cao có thể giúp ngân hàng áp đặt

mức lãi suất cho vay cao, nhưng tiềm ẩn rủi ro trong tương lai vì với mức lãi suất vay cao sẽ tạo

nên gánh nặng cho ngân sách trả nợ. Vì vậy, nợ xấu tăng lên, khả năng trả nợ sẽ giảm xuống, tác

động tiêu cực đến KNSL của NHTM. Lạm phát quá cao cũng dẫn đến khả năng ngân hàng trung

ương thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt để giảm lạm phát (Bikker & Vervliet, 2017), qua đó

làm giảm tổng cầu của nền kinh tế và giảm KNSL của NHTM. Các nghiên cứu trước đây về ảnh

70

hưởng của lạm phát đến KNSL của NHTM có các kết quả khác nhau. Nghiên cứu của Sufian

(2011), Alexiou và Sofoklis (2009), Trujillio-Ponce (2013) cho thấy lạm phát tác động tích cực

đến KNSL. Nghiên cứu của Rahman và cộng sự (2015), Le (2017), Trần Việt Dũng (2014) cho

thấy lạm phát tác động tiêu cực đến KNSL. Nghiên cứu của Batten và Vo (2019) cho thấy lạm

phát tác động tiêu cực đến ROA nhưng tích cực đến ROE. Nghiên cứu của Nguyễn Phạm Nhã

Trúc và Nguyễn Phạm Thiên Thanh (2016) cho thấy lạm phát tác động tích cực đến ROE nhưng

không có tác động đến ROA. Trên cơ sở đó, yếu tố lạm phát được đưa vào mô hình nghiên cứu

với giả thuyết:

Giả thuyết 9: Lạm phát có tác động tiêu cực đến KNSL của NHTM.

Tăng trưởng GDP (GGDP)

Tăng trưởng GDP cao được kỳ vọng sẽ có tác động tích cực đến KNSL của NHTM do

kinh tế phát triển mạnh sẽ thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng và đầu tư, kích thích vay nợ nhiều hơn.

Ngoài ra, hoạt động của ngân hàng sẽ trở nên sôi động hơn, như huy động vốn, cho vay, cung

cấp các dịch vụ ngân hàng, dẫn đến tăng doanh thu và lợi nhuận cho ngân hàng. Bên cạnh đó,

tâm lý người dân, doanh nghiệp sẽ lạc quan hơn vào tương lai khi kinh tế phát triển, càng thúc

đẩy nhu cầu tiêu dùng và đầu tư. Một trong những nghiên cứu đầu tiên về mối quan hệ giữa tăng

trưởng kinh tế với KNSL của NHTM được thực hiện bởi Molyneux và Thornton (1992). Nhiều

nghiên cứu sau đó cũng chỉ ra tăng trưởng kinh tế tác động tích cực đến KNSL của NHTM như

nghiên cứu của Kohlscheen và cộng sự (2018), Athanasoglou và cộng sự (2008), Trujillo-Ponce

(2013), Nguyễn Phạm Nhã Trúc và Nguyễn Phạm Thiên Thanh (2016), Le (2017), Trần Việt

Dũng (2014). Từ những lập luận trên, đề tài đưa ra giả thuyết:

Giả thuyết 10: Tăng trưởng GDP có tác động tích cực đến KNSL của NHTM.

Khủng hoảng kinh tế thế giới

Khủng hoảng kinh tế có thể có tác động tích cực hoặc tiêu cực đến KNSL của NHTM.

Khi xảy ra khủng hoảng kinh tế, rủi ro tín dụng sẽ tăng lên do khách hàng vay vốn gặp nhiều khó

khăn trong việc trả nợ, kéo theo nợ xấu gia tăng và suy giảm lợi nhuận của ngân hàng, thậm chí

phá sản. Nhiều nghiên cứu chỉ ra tác động tiêu cực của khủng hoảng kinh tế như nghiên cứu của

Sufian (2011), Andries và cộng sự (2016), Amba và Almukharreq (2013). Tuy nhiên, một số

71

nghiên cứu khác như nghiên cứu của Chronopoulos và cộng sự (2015), Kamarudin và cộng sự

(2016) chỉ ra xu hướng ngược lại do các chính phủ thực hiện các chính sách tài chính và tiền tệ

đặc biệt nhằm tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô. Theo quan điểm của trường phái Keynes (1936),

trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, chính phủ các nước cần hành động nhằm kích cầu vì nền

kinh tế không thể tự điều tiết. Việc kích cầu có thể được thực hiện bằng cách tăng cường chi tiêu,

kích thích tiêu dùng và đầu tư, tăng tổng cầu của nền kinh tế. Bên cạnh đó, ngân hàng trung ương

cần nhanh chóng tạo thanh khoản cho thị trường, khơi thông dòng vốn trong nền kinh tế, tránh

tình trạng mất thanh khoản của các ngân hàng; các ngân hàng thương mại cần tăng cường cho

vay nhằm thực hiện các biện pháp kích cầu nền kinh tế của chính phủ. Trong giai đoạn khủng

hoảng kinh tế, việc thắt chặt chi tiêu của chính phủ, chính sách hạn chế cho vay của các ngân

hàng thương mại nhằm đề phòng rủi ro càng làm cho khủng hoảng trở nên nghiêm trọng hơn.

Tại Việt Nam, hiện có một số công trình đánh giá tác động của khủng hoảng tài chính năm 2008

đến KNSL của NHTM như nghiên cứu của Le (2017) có liên quan đến đề tài, với mẫu nghiên

cứu gồm 40 ngân hàng từ năm 2005 đến năm 2015 và biến giả (D=1) để chỉ khủng hoảng trong

hai năm 2008 và 2009. Hay nghiên cứu của Nguyễn Anh Tú và Phạm Trí Nghĩa (2018), với mẫu

nghiên cứu gồm 27 ngân hàng từ năm 2005 đến năm 2017 sử dụng biến giả (D=1) để chỉ khủng

hoảng trong hai năm 2008 và 2009, tức là đáy của khủng hoảng. Theo lược khảo của tác giả,

cho tới thời điểm hiện tại, chưa có công trình nghiên cứu nào tại Việt Nam được thực hiện gắn

với cả thời kỳ khủng hoảng và thời kỳ phục hồi để đánh giá một cách đầy đủ tác động của các

yếu tố đặc thù trong từng giai đoạn đến KNSL của NHTM. Việc lựa chọn khoảng thời gian đến

năm 2011 vì cần độ trễ tác động của các biện pháp kích cầu. Trên cơ sở lập luận như vậy, tác giả

đưa ra giả thuyết:

Giả thuyết 11: Khủng hoảng kinh tế thế giới tác động tích cực đến KNSL của các NHTM.

Bảng 3.3. Tổng hợp các biến sử dụng trong mô hình nghiên cứu

Biến độc lập Ký hiệu Các nghiên cứu trước Kỳ vọng

Sufian (2011), Alexiou và

Quy mô ngân hàng SIZE + Sofoklis (2009), Kosmidou và

cộng sự (2007), Nguyễn Phạm Nhã

72

Trúc và Nguyễn Phạm Thiên

Thanh (2016).

Trần Việt Dũng (2014), Alexiou và

Sofoklis (2009), Petria và cộng sự

Vốn ngân hàng CAP (2013), Rahman và cộng sự +

(2015), Gyulai và Szucs (2017),

Berger (1995).

Iacobelli (2016), Sufian (2011),

Anathasoglou và cộng sự (2008), Dự phòng rủi ro tín dụng LLP - Alexiou và Sofoklis (2009), Trần

Việt Dũng (2014).

Sufian (2011), Le (2017), Zhang

Dư nợ cho vay và Dong (2011), Rahman và cộng +

sự (2015).

Kohlscheen và cộng sự (2018),

Kosmidou và cộng sự (2005),

Tài sản thanh khoản LIQUI Ndoka và cộng sự (2016), Bassey +

và Moses (2015), Trần Thị Thanh

Nga (2018).

Sufian (2011), Lim và Randhawa + Tiền gửi khách hàng DEP (2005), Zhang và Dong (2011).

Yao và cộng sự (2018), Islam và

- Chi phí trả lãi INT Nishiyama (2016), Dietrich và

Wanzenried (2011).

Batten và Vo (2019), Sufian - Chi phí hoạt động OPE (2011), Kosmidou (2008), (2016)

73

Rahman và cộng sự (2015), Le Lạm phát INFLAT - (2017), Trần Việt Dũng (2014).

Kohlscheen và cộng sự (2018),

Athanasoglou và cộng sự (2008),

Trujillo-Ponce (2013), Nguyễn Tăng trưởng GDP GGDP + Phạm Nhã Trúc và Nguyễn Phạm

Thiên Thanh (2016), Le (2017),

Trần Việt Dũng (2014).

Chronopoulos và cộng sự (2015), Khủng hoảng kinh tế thế DUMMY Lindblom và Willesson (2010), + giới Kamarudin và cộng sự (2016).

Ghi chú: (+) tương quan dương, (-) tương quan âm

Nguồn: Tổng hợp của tác giả

3.4 DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU

3.4.1 Mô tả dữ liệu nghiên cứu

Luận án sử dụng dữ liệu bảng không cân bằng từ năm 2007 – 2018. Dữ liệu được thu thập

từ báo cáo tài chính của 30 NHTM Việt Nam, số liệu kinh tế vĩ mô của Tổng cục Thống kê, Ngân

hàng Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2018. Theo thống kê của Ngân

hàng Nhà nước Việt Nam, tại thời điểm 31/12/2018, tổng số NHTM là 35, trong đó có 31 NHTM

cổ phần, 4 NHTM 100% vốn nhà nước. Tổng tài sản của 30 NHTM được tác giả sử dụng trong

nghiên cứu chiếm xấp xỉ 86% tổng tài sản của các NHTM, đảm bảo tính đại diện cho các NHTM

tại Việt Nam. Theo Cơ quan Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia (2010) của Hoa Kỳ, suy thoái kinh tế

kéo dài gây ra khủng hoảng kinh tế và gây bất ổn các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như lạm phát, lãi

suất, việc làm … Tác giả lựa chọn giai đoạn 2007 – 2011 để chỉ bối cảnh khủng hoảng kinh tế

thế giới và nền kinh tế vĩ mô Việt Nam có nhiều bất ổn. Cụ thể, tỷ lệ lạm phát biến động thất

thường, tăng giảm với biên độ lớn, phản ánh sự khó khăn của nền kinh tế. Theo đó, tỷ lệ lạm phát

năm 2007 là 8,3%, năm 2008 tăng mạnh lên 22,97%, năm 2009 giảm xuống còn 6,88%, năm

2010 tăng lên lại 9,19%, và tăng mạnh lên 18,58% vào năm 2011 (Tổng cục Thống kê, 2011) và

74

giảm dần trong các năm sau đó. Cán cân thương mại thường xuyên thâm hụt qua các năm trong

giai đoạn này với mức thâm hụt cao nhất là 14,1 tỷ USD vào năm 2007 (Tổng cục Hải quan,

2007). Cán cân thương mại tiếp tục thâm hụt các năm sau dó, đạt mức 9,8 tỷ USD vào năm 2011

(Tổng cục Hải quan, 2011) và bắt đầu thặng dư vào năm 2012. Hơn nữa, năm 2012 là năm bắt

đầu giai đoạn mà các NHTM Việt Nam thực hiện tái cơ cấu, sắp xếp lại hệ thống ngân hàng, đổi

mới hệ thống quản trị ngân hàng theo hướng hiện đại, phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế

(Chính phủ, 2012). Vì vậy, giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2018 để chỉ giai đoạn hậu khủng

hoảng kinh tế.

3.4.2 Kiểm định mô hình

Nhằm đảm bảo suy luận Bayes dựa trên mô phỏng mẫu MCMC là hợp lý, nghiên cứu dựa

trên chẩn đoán sự hội tụ của chuỗi MCMC. Trong Bayes kiểm định tự tương quan các chuỗi

MCMC của các biến bằng biểu đồ Autocorrelation và Effective sample size (ESS). Trong biểu

đồ Autocorrelation và Correlation time (trong Effective sample size): độ trễ rớt (die off) sau 40

(<40) là mô hình vững (Nguyen & cộng sự, 2019; Kreinovich & cộng sự, 2019). Lợi thế của

Bayes so với tần suất là tính tổng hợp của Bayes nên không thực hiện nhiều kiểm định tương tự

tần suất như kiểm định nội sinh, tự tương quan... Khi các chuỗi MCMC hội tụ thì suy diễn Bayes

là vững. Nói cách khác, khi các chuỗi MCMC hội tụ thì đã giải quyết tất cả các vấn đề mà phương

pháp tần suất gặp phải và đó cũng chính là ưu việt của Bayes so với tần suất (Sriboonchitta &

cộng sự, 2019; Svítek & cộng sự, 2019; Nguyen, 2020).

Kiểm định sự hội tụ của chuỗi MCMC được thực hiện thông qua các biểu đồ vết (Trace

plot), biểu đồ phân phối hậu nghiệm (histogram), biểu đồ tự tương quan (Autocorrelation), ước

tính mật độ hạt nhân (Density plot). Nếu kết quả kiểm định cho thấy các biểu đồ vết chạy nhanh

qua phân phối, biểu đồ tự tương quan rớt nhanh thể hiện sự tự tương quan thấp, hình dạng của

các biểu đồ Histogram mô phỏng hình dạng của các phân phối xác suất là đồng nhất. Từ đó, có

thể kết luận rằng suy diễn Bayes là vững.

75

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Trong chương 3, nghiên cứu đã tổng hợp kiến thức về phân tích hồi quy dữ liệu bảng theo

phương pháp Bayes và thuật toán Metropolis-Hastings và phương pháp lấy mẫu Gibbs. Đồng

thời, nghiên cứu đã phân tích và lý giải về cách thức xây dựng mô hình, lựa chọn biến đo lường

phù hợp, xây dựng các giả thuyết nghiên cứu liên quan đến mô hình và kiểm định tính vững của

mô hình nghiên cứu.

Chương 4 sẽ trình bày các kết quả nghiên cứu về KNSL của NHTM trong bối cảnh khủng

hoảng kinh tế thế giới, cũng như so sánh tác động của các yếu tố trong giai đoạn khủng hoảng

với giai đoạn hậu khủng hoảng và thảo luận ý nghĩa của kết quả đạt được.

76

CHƯƠNG 4

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

4.1 KHẢ NĂNG SINH LỜI CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

TRONG GIAI ĐOẠN KHỦNG HOẢNG KINH TẾ THẾ GIỚI

4.1.1 Thống kê mô tả và tương quan giữa các biến

Thống kê mô tả các biến nghiên cứu được khái quát bằng các chỉ số thống kê như số quan

sát, giá trị trung bình, độ lệch chuẩn, giá trị lớn nhất, giá trị nhỏ nhất, qua đó cho thấy sự phân

tán giữa các biến trong mẫu nghiên cứu.

Bảng 4.1. Thống kê mô tả các biến nghiên cứu trong giai đoạn 2007 - 2011

Tên biến Số quan sát Giá trị trung Độ lệch Giá trị nhỏ Giá trị lớn

bình chuẩn nhất nhất

0,0122 0,0094 -0,0551 0,0595 ROA 132

0,1099 0,1006 -0,8200 0,2846 ROE 132

31,1731 1,2596 28,3422 33,7635 SIZE 133

0,0110 0,0064 0,0013 0,0378 LLP 128

0,4980 0,1460 0,1138 0,8516 LOAN 133

0,1282 0,0771 0,0425 0,4624 CAP 133

0,5197 0,1280 0,1851 0,7655 DEP 131

0,3467 0,1551 0,0508 0,8078 LIQUI 133

0,0675 0,0282 0,0237 0,1499 INT 132

0,0139 0,0057 0,0039 0,0519 OPE 132

0,1330 0,0640 0,0688 0,2297 INFLAT 133

0,0657 0,0100 0,0532 0,0846 GGDP 133

77

Nhìn chung, cơ sở dữ liệu bảng 4.1 cho thấy số liệu phản ánh đầy đủ tình hình tài chính

của các NHTM Việt Nam trong thời gian từ năm 2007 - 2011. Các giá trị tối đa và tối thiểu có

sự chênh lệch đáng kể do sự khác biệt về đặc điểm của các NHTM nhưng xoay quanh giá trị

trung bình.

Lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) có giá trị trung bình là 1,22% và dao động từ mức thấp

nhất là -5,11% cho đến cao nhất là 5,95%. Lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) có giá trị trung

bình là 10,99% và dao động trong khoảng từ -82% cho đến 28,46%.

Quy mô ngân hàng (SIZE) được đo lường bằng logarit tổng tài sản, có giá trị lớn nhất là

33,7635 và nhỏ nhất là 28,3422, giá trị trung bình là 31,1731. Quy mô ngân hàng có sự biến động

lớn thể hiện qua độ lệch chuẩn với giá trị 1,2596. Vốn ngân hàng (CAP) trong giai đoạn này

trung bình là 12,82%, có giá trị thấp nhất là 4,25% và cao nhất là 46,24%.

Dự phòng rủi ro tín dụng (LLP) trung bình trong giai đoạn này có giá trị 1,1%, biến động

trong khoảng 0,13% đến 3,78%. Dư nợ cho vay (LOAN) trung bình là 49,8%, cao nhất là 85,16%

và thấp nhất là 11,38%.

Tiền gửi khách hàng (DEP) trung bình là 51,97%, thấp nhất là 18,51% và cao nhất là

76,55%. Tài sản thanh khoản (LIQUI) biến động trong khoảng từ 5,08% đến 80,78% và có giá

trị trung bình là 34,67%.

Chi phí trả lãi (INT) có giá trị trung bình là 6,75%, cao nhất là 14,99% và thấp nhất là

2,37%. Chi phí hoạt động (OPE) biến thiên trong khoảng 0,39% đến 5,19% và có giá trị trung

bình là 1,39%.

Các chỉ tiêu về kinh tế vĩ mô là lạm phát và tăng trưởng GDP. Lạm phát trong giai đoạn

này khá cao, bình quân là 13,3%, cao nhất lên đến 22,97% và thấp nhất là 6,88%. Tốc độ tăng

trưởng GDP (GGDP) bình quân là 6,57%, tốc độ tăng trưởng thấp nhất là 5,32% và cao nhất là

8,46%.

Mối tương quan giữa các biến trong mô hình trong giai đoạn 2007 – 2011 được thể hiện

qua ma trận hệ số tương quan ở bảng 4.2

78

Bảng 4.2. Ma trận hệ số tương quan

Tên SIZE LLP LOAN CAP DEP LIQUI INT OPE INFLAT GGDP

biến

SIZE 1,00

LLP 0,58 1,00

LOAN -0,03 0,12 1,00

CAP 0,7036 -0,32 -0,00 1,00

DEP 0,3503 0,24 0,44 -0,35 1,00

LIQUI -0,03 - 0,18 -0,83 0,00 -0,30 1,00

INT -0,14 0,01 0,22 0,14 -0,02 -0.23 1,00

OPE -0,16 0,00 0,19 0,25 -0,01 -0,12 0,51 1,00

INFLAT -0,01 0,07 -0,08 0,16 -0,06 0,03 0,67 0,33 1,00

GGDP -0,12 -0,22 0.02 -0,01 -0,04 0,04 -0,20 -0,29 -0,17 1,00

Hệ số tương quan cho biết mối quan hệ tuyến tính giữa hai biến, không phân biệt biến

này phụ thuộc vào biến kia. Dựa vào bảng 4.2, ma trận hệ số tương quan giữa các biến trong

mô hình nghiên cứu trong giai đoạn 2007 – 2011 cho thấy, hệ số tương quan của các cặp biến

độc lập trong mô hình đa số đều nhỏ hơn 60%, điều đó có nghĩa là các biến độc lập trong mô

hình có tương quan với nhau thấp.

Nguồn: Tính toán của tác giả

4.1.2 Lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA)

ROA là chỉ số đo lường khả năng các NHTM quản lý, sử dụng các nguồn lực tài chính để

tạo ra lợi nhuận. Trong đó, số liệu lợi nhuận sau thuế được lấy từ báo cáo kết quả hoạt động kinh

doanh. Theo Sufian và Habibullah (2009), Naceur và Goaied (2009), Kosmidou (2008), ROA

cho thấy mỗi đồng tài sản có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận, phản ánh rõ ràng nhất khả năng

của ban lãnh đạo ngân hàng sử dụng các nguồn lực tài chính và đầu tư để tạo ra lợi nhuận. Đối

79

với bất kỳ ngân hàng nào, tỷ số ROA phụ thuộc vào các quyết sách của ngân hàng cũng như các

yếu tố không thể kiểm soát được của nền kinh tế và quy định của chính phủ. Rivard và Thomas

(1997) cho rằng KNSL của ngân hàng được đo lường tốt nhất thông qua tỷ số ROA do ROA

không bị bóp méo bởi tỷ số tổng tài sản trên vốn cổ phần cao và ROA đo lường tốt hơn khả năng

ngân hàng tạo ra lợi nhuận từ danh mục tài sản, ROA là chỉ số quan trọng để đánh giá KNSL của

NHTM (Molyneux & Thornton, 1992).

Bảng 4.3. Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc ROA

Giá trị trung bình hệ Độ lệch Sai số chuẩn

số hồi quy chuẩn MCMC

SIZE 0,0028 0,0238 0,0002

LLP -0,2124 3,1773 0,0307

LOAN 0,0059 0,2537 0,0025

CAP 0,0986 0,3433 0,0974

DEP 0,0157 0,1555 0,0015

LIQUI 0,0026 0,2176 0,0021

INT -0,0114 0,9827 0,0021

OPE -0,3451 3,5132 0,0035

INFLAT -0,0136 0,4035 0,0040

GGDP 0,1753 1,8488 0,0184

_cons -0,0932 0,8183 0,0081

var 0,0399 0,0051 0,0000

Nguồn: Tính toán của tác giả

Nhằm đảm bảo suy luận Bayes dựa trên mô phỏng mẫu MCMC là hợp lý, tác giả sử dụng chẩn

đoán sự hội tụ của chuỗi MCMC.

80

81

Hình 4.1. Kiểm định hội tụ của chuỗi MCMC đối với biến ROA

Kiểm định sự hội tụ của chuỗi MCMC được thực hiện thông qua các biểu đồ vết (trace

plot), biểu đồ phân phối hậu nghiệm (histogram), biểu đồ tự tương quan (autocorrelation), ước

tính mật độ hạt nhân (density plot). Kết quả kiểm định từ hình 3 cho thấy các biểu đồ vết chạy

nhanh qua phân phối, biểu đồ tự tương quan rớt nhanh thể hiện sự tự tương quan thấp, hình dạng

của các biểu đồ histogram mô phỏng hình dạng của các phân phối xác suất là đồng nhất. Từ đó,

có thể kết luận rằng suy diễn Bayes là vững.

Bên cạnh chẩn đoán bằng hình ảnh chuỗi MCMC, tác giả sử dụng chỉ tiêu ESS (effective

sample size) để đánh giá sự hội tụ của chuỗi MCMC. Số lượng ESS ước tính càng gần số lượng

của chuỗi MCMC (10.000) thì càng tốt.

Bảng 4.4. Số lượng mẫu hiệu quả

ESS Corr. time Efficiency

82

SIZE 1 10.000 1

LLP 1 10.000 1

LOAN 1 10.000 1

CAP 1 10.000 1

DEP 9622 1,04 0,9662

LIQUI 1 10.000 1

INT 1 10.000 1

OPE 1 10.000 1

1 INFLAT 10.000 1

GGDP 1 10.000 1

_cons 1 10.000 1

var 8556 1,17 0.8556

Nguồn: Tính toán của tác giả

Theo kết quả tính toán từ bảng 4.4, số lượng ESS ước tính của các tham số là 10.000 hoặc

xấp xỉ 10.000. Do đó, mức độ hội tụ của chuỗi MCMC là rất cao.

4.1.3 Lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE)

ROE chính là chỉ số phản ánh hiệu quả của vốn chủ sở hữu. Nói cách khác, tỷ số lợi nhuận

trên vốn chủ sở hữu là chỉ số đo lường hiệu quả đầu tư của vốn chủ sở hữu. Bản chất chỉ số này

phản ánh được khả năng tạo ra lợi nhuận từ một đồng vốn mà nhà đầu tư đầu tư vào ngân hàng

cho nên luôn nhận được sự quan tâm rất lớn từ các nhà đầu tư. Do đó, tỷ số ROE phản ánh hiệu

quả quản lý từ việc sử dụng vốn chủ sở hữu. Các trung gian tài chính thường sử dụng đòn bẩy

lớn có thể gia tăng ROE (Hassan & Bashir, 2005). Theo Murthy và Sree (2003), ROE là chỉ số

tài chính chỉ ra được mức lợi nhuận thu về được so với tổng vốn chủ sở hữu thể hiện trên bảng

cân đối kế toán.

83

Bảng 4.5. Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc ROE

Giá trị trung bình Độ lệch chuẩn Sai số chuẩn MCMC

hệ số hồi quy

SIZE 0,0453 0,0252 0,0002

LLP -4,1234 3,3891 0,0344

LOAN 0,1965 0,2747 0,0027

CAP 0,3312 0,3634 0,0036

DEP 0,1119 0,1653 0,0016

LIQUI 0,0684 0,2348 0,0023

INT 0,0287 1,0515 0,0107

OPE -8,5426 3,6737 0,0377

INFLAT 0,0122 0,4284 0,0042

GGDP -1,0492 1,9808 0,0198

_cons -1,2992 0,8648 0,0198

var 0,0453 0,0057 0,0000

Nguồn: Tính toán của tác giả

Để đảm bảo suy luận Bayes dựa trên mô phỏng mẫu MCMC là hợp lý, tác giả sử dụng

chẩn đoán sự hội tụ của chuỗi MCMC.

84

85

Hình 4.2. Kiểm định hội tụ của chuỗi MCMC đối với biến ROE

Tương tự như kiểm định sự hội tụ chuỗi MCMC đối với biến ROA, kiểm định sự hội tụ

của chuỗi MCMC đối với biến ROE sẽ được thực hiện thông qua các biểu đồ vết (trace plot),

biểu đồ phân phối hậu nghiệm (histogram), biểu đồ tự tương quan (autocorrelation), ước tính mật

độ hạt nhân (density plot). Kết quả kiểm định từ hình 4.2 cho thấy các biểu đồ vết chạy nhanh

qua phân phối, biểu đồ tự tương quan rớt nhanh thể hiện sự tự tương quan thấp, hình dạng của

các biểu đồ histogram mô phỏng hình dạng của các phân phối xác suất là đồng nhất. Từ đó, có

thể kết luận rằng suy diễn Bayes là vững.

Tác giả sử dụng chỉ tiêu ESS (effective sample size) để đánh giá sự hội tụ của chuỗi

MCMC bên cạnh chẩn đoán bằng hình ảnh chuỗi MCMC. Số lượng ESS ước tính càng gần số

lượng của chuỗi MCMC (10.000) thì càng tốt.

86

Bảng 4.6. Số lượng mẫu hiệu quả (ESS)

ESS Corr. time Efficiency

1 10.000 SIZE 1

9690 1,03 0,9690 LLP

LOAN 10.000 1 1

1,02 9803 CAP 1

1 10.000 DEP 0,9803

1 10.000 LIQUI 1

1,05 9556 INT 0,9556

1,06 9472 OPE 0,9472

1 INFLAT 10.000 1

1 10.000 GGDP 1

1 10.000 _cons 1

8637 var 1,16 0.8637

Nguồn: Tính toán của tác giả

Theo kết quả tính toán từ Bảng 4.6 cho thấy, số lượng ESS ước tính của các tham số là

10.000 hoặc xấp xỉ 10.000. Do đó, mức độ hội tụ của chuỗi MCMC là rất cao.

4.1.4 Phân tích và thảo luận kết quả

Quy mô ngân hàng (SIZE)

Kết quả nghiên cứu cho thấy, quy mô ngân hàng (SIZE) có tác động tích cực đến KNSL

của NHTM, ủng hộ quan điểm của lý thuyết quyền lực thị trường. Kết quả nghiên cứu này phù

hợp với giả thuyết nghiên cứu và các nghiên cứu của Sufian (2011), Alexiou và Sofoklis (2009),

Kosmidou và cộng sự (2007). Các ngân hàng có quy mô lớn có khả năng tiếp cận khách hàng tốt

hơn, sản phẩm đa dạng hóa hơn, thương hiệu có uy tín và mức độ tín nhiệm cao của khách hàng

cũng như nhà đầu tư, có khả năng đầu tư vào các công nghệ hiện đại hơn và có lợi thế cạnh tranh

87

nhờ quy mô, ủng hộ quan điểm hiệu quả theo quy mô (Scale-efficiency). Các NHTM Việt Nam,

đặc biệt là các ngân hàng nhà nước nắm quyền chi phối, có quy mô lớn và uy tín từ thương hiệu

có khả năng nhận được sự tin tưởng của khách hàng, đặc biệt là các khách hàng lớn như các tập

đoàn, tổng công ty nhà nước, kho bạc nhà nước... nhờ đó có khả năng huy động vốn với chi phí

thấp và cho vay với lãi suất thấp hơn, thu hút được lượng khách hàng lớn sử dụng các sản phẩm

và dịch vụ của ngân hàng. Từ đó đạt được KNSL cao hơn.

Vốn ngân hàng (CAP)

Vốn ngân hàng đại diện cho sức mạnh nội tại của ngân hàng. Các ngân hàng càng có tỷ lệ

vốn cao trong tổng nguồn vốn càng có khả năng tự chủ tài chính và ngược lại. Sức mạnh nội tại

càng quan trọng hơn khi kinh tế vĩ mô có nhiều bất ổn. Nghiên cứu tìm thấy mối quan hệ cùng

chiều giữa vốn ngân hàng với KNSL. Điều đó cho thấy các ngân hàng có vốn lớn sẽ có rủi ro vỡ

nợ thấp hơn, có khả năng chống chịu tốt hơn đối với khủng hoảng kinh tế. Hơn nữa, đối với một

nền kinh tế mới nổi và đang phát triển của Việt Nam dễ bị tổn thương bởi sự bất ổn vĩ mô trên

toàn cầu, quy mô vốn ngân hàng cần phải đủ lớn để đứng vững trong giai đoạn khủng hoảng kinh

tế thế giới, là tấm đệm an toàn về tài chính cho ngân hàng, tạo dựng niềm tin cho khách hàng về

sự ổn định trong hoạt động. Kết quả nghiên cứu tương đổng với các nghiên cứu của Trần Việt

Dũng (2014), Alexiou và Sofoklis (2009), Petria và cộng sự (2013), Rahman và cộng sự (2015),

Gyulai và Szucs (2017), Berger (1995), Trujillo-Ponce (2013) và phù hợp với giả thuyết nghiên

cứu.

Dự phòng rủi ro tín dụng (LLP)

Kết quả nghiên cứu cho thấy dự phòng rủi ro tín dụng tác động ngược chiều đến KNSL

của NHTM. điều này có nghĩa là các ngân hàng có mức dự phòng RRTD càng cao càng làm

KNSL giảm. Trong giai đoạn 2007 – 2011, các NHTM Việt Nam chủ trương tập trung vào hoạt

động tín dụng do chính sách kích cầu của Chính phủ. trong khi đó, khả năng quản lý RRTD của

mỗi ngân hàng khác nhau. Các ngân hàng nhỏ, mới thành lập thường tập trung cho vay bất động

sản, chứng khoán, là những lĩnh vực mang tính đầu cơ, có mức độ rủi ro cao và rất nhạy cảm với

sự biến động của nền kinh tế. Vì vậy, nợ xấu của nhóm ngân hàng này ở mức rất cao khi bong

bóng tài sản bị vỡ. Mức nợ xấu cao dẫn đến mức trích lập dự phòng RRTD tăng nhanh, bào mòn

lợi nhuận của các ngân hàng. Trong khi đó, các ngân hàng lớn, có lịch sử lâu đời thì khả năng

88

quản lý rủi ro tốt hơn, có danh mục cho vay đa dạng, có thu nhập từ nhiều nguồn khác nhau nên

ít bị ảnh hưởng bởi biến động của kinh tế vĩ mô hơn so với các ngân hàng còn lại. Kết quả nghiên

cứu cũng cho thấy sự tương đồng với nghiên cứu của Iacobelli (2016), Sufian (2011),

Anathasoglou và cộng sự (2008), Alexiou và Sofoklis (2009) và phù hợp với giả thuyết nghiên

cứu.

Dư nợ cho vay (LOAN)

Một ngân hàng có tỷ lệ dư nợ cho vay trên tổng tài sản cao có nghĩa là ngân hàng đó có

chiến lược tập trung vào hoạt động cho vay. Đây là hoạt động đem lại doanh thu và lợi nhuận

chủ yếu cho các NHTM Việt Nam. Kết quả cho thấy dư nợ cho vay tác động cùng chiều đến

KNSL của NHTM, có nghĩa là ngân hàng càng mở rộng hoạt động cho vay càng đạt được hiệu

quả tài chính cao hơn. Trong giai đoạn 2007 – 2011, tăng trưởng cho vay của các NHTM Việt

Nam luôn ở mức rất cao, là kết quả của chính sách kích cầu nền kinh tế mà Chính phủ Việt Nam

thực hiện nhằm ứng phó với cuộc khủng hoảng kinh tế trên toàn cầu. Điều này một mặt đem lại

lợi nhuận cao cho các NHTM, mặt khác, hệ thống ngân hàng chuyển sang giai đoạn hậu khủng

hoảng với rủi ro tín dụng ở mức cao do điều kiện cho vay có phần lỏng lẻo để đẩy mạnh dư nợ

cho vay trong giai đoạn 2007 – 2011. Kết quả nghiên cứu phù hợp với giả thuyết nghiên cứu và

các nghiên cứu của Sufian (2011), Le (2017), Zhang và Dong (2011), Rahman và cộng sự (2015),

Molyneux và Thornton (1992).

Tài sản thanh khoản (LIQUI)

Kết quả nghiên cứu cho thấy mối liên hệ tích cực giữa tài sản thanh khoản và KNSL của

NHTM trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế, ủng hộ quan điểm của lý thuyết Minsky (1975).

Nếu khả năng thanh khoản của ngân hàng kém sẽ dẫn đến suy giảm lợi nhuận hoặc phá sản ngân

hàng (là giai đoạn 3 theo lý thuyết Minsky). Điều này có thể được giải thích là trong giai đoạn

2007 – 2011, việc nắm giữ nhiều tài sản thanh khoản hơn giúp các ngân hàng ứng phó linh hoạt

hơn với biến động thị trường, có thể xoay vòng nhanh. Với trạng thái thanh khoản tốt, các ngân

hàng không phải huy động với lãi suất cao từ các nguồn khác để đáp ứng khả năng thanh khoản.

Hệ thống NHTM Việt Nam bao gồm một số ngân hàng lớn và phần lớn các ngân hàng có quy

mô nhỏ và trung bình. Trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế, trạng thái thanh khoản của nhiều

ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng quy mô nhỏ rất căng thẳng, phải vay trên thị trường liên

89

ngân hàng với mức lãi suất rất cao để duy trì thanh khoản. Vì vậy, các ngân hàng có thanh khoản

dồi dào, ngoài việc linh hoạt cho vay cá nhân và doanh nghiệp, có thể cho các ngân hàng khác

vay với lãi suất cao trên thị trường liên ngân hàng và thu được lợi nhuận lớn. Kết quả nghiên cứu

phù hợp với giả thuyết nghiên cứu và các nghiên cứu của Kohlscheen và cộng sự (2018),

Kosmidou và cộng sự (2005), Ndoka và cộng sự (2016), Bassey và Moses (2015), Trần Thị

Thanh Nga (2018)

Tiền gửi khách hàng (DEP)

Tiền gửi khách hàng đóng vai trò vô cùng quan trong trong hoạt động kinh doanh của

NHTM. Ngân hàng nào có khả năng huy động tiền gửi tốt sẽ có KNSL tốt hơn nhờ vào việc đáp

ứng được nhu cầu vay vốn của nhiều đối tượng khách nhau, nhiều kỳ hạn khách nhau, đồng thời

thu hút được nhiều khách hàng hơn trong việc sử dụng các sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng. Kết

quả nghiên cứu cho thấy tiền gửi khách hàng có tương quan cùng chiều đến KNSL, tức các ngân

hàng sử dụng có hiệu quả nguồn vốn huy động được. Giai đoạn 2007 – 2011 là giai đoạn mà nhu

cầu vay vốn rất cao nên các ngân hàng huy động tốt tiền gửi khách hàng đều có khả năng cho

vay tốt, không bị ứ đọng vốn và đạt được hiệu quả tài chính cao. Kết quả nghiên cứu phù hợp

với giả thuyết nghiên cứu và các nghiên cứu của Sufian (2011), Lim và Randhawa (2005), Zhang

và Dong (2011) .

Chi phí trả lãi (INT)

Tác động của chi phí trả lãi đến KNSL của NHTM trong giai đoạn này cũng không nhất

quán. Chi phí hoạt động có tác động tích cực đến ROE nhưng tiêu cực đến ROA. Chi phí trả lãi

cao cho thấy các ngân hàng phải huy động với mức lãi suất cao nhưng tiền lãi thu về không tương

ứng nên làm giảm ROA. Trả lãi cao cũng cho thấy ngân hàng đang sử dụng đòn bẩy tài chính

lớn để tài trợ cho các khoản cho vay của mình. Sử dụng đòn bẩy tài chính cao sẽ làm tăng rủi ro

cho ngân hàng nhưng sẽ làm KNSL cao hơn từ đồng vốn mà các cổ đông đã bỏ ra. Trong giai

đoạn 2007 – 2011, các ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng có quy mô nhỏ, phải huy động với

mức lãi suất rất cao do tình trạng thiếu hụt thanh khoản và lạm phát cao trong thời kỳ này.

Chi phí hoạt động (OPE)

90

Kết quả cho thấy chi phí hoạt động có tác động ngược chiều đến KNSL của NHTM. Trong

giai đoạn 2007 – 2011, các NHTM tăng cưởng mở rộng mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch

nhằm tăng khả năng tiếp cận khách hàng, năng lực cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần. Chính sách

chung của NHNN là không hạn chế các ngân hàng trong việc mở rộng mạng lưới. Việc nhanh

chóng mở rộng mạng lưới hoạt động trong khi năng lực quản trị điều hành không theo kịp, cần

thời gian để vận hành ổn định dẫn đến chi phí hoạt động tăng cao trong giai đoạn này, đặc biệt

là các ngân hàng nhỏ, mới thành lập. Chi phí hoạt động tăng nhanh hơn so với lợi nhuận thu được

đã làm giảm hiệu quả tài chính của các ngân hàng. Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của

Batten và Vo (2019), Sufian (2011), Kosmidou (2008) và phù hợp với giả thuyết nghiên cứu.

Lạm phát (INFLAT)

Kết quả cho thấy mối quan hệ không nhất quán giữa lạm phát và KNSL của NHTM. Lạm

phát có mối quan hệ tích cực đến ROE nhưng tiêu cực đến ROA. Có thể giải thích điều này như

sau: Khi lạm phát tăng lên, lãi suất thị trường sẽ tăng tương ứng và các ngân hàng sẽ tăng lãi suất

cho vay. Đồng thời, khi lạm phát cao, chênh lệch lãi suất của các ngân hàng cũng cao hơn khi so

với lạm phát thấp. Vì vậy, các ngân hàng sẽ tăng lãi suất khi lạm phát cao, gia tăng chênh lệch

giữa lãi suất huy động và cho vay và đạt được hiệu quả tài chính cao hơn. Tuy nhiên, các ngân

hàng cũng phải tăng chi phí đánh giá chất lượng khoản vay. Vì vậy, mặc dù doanh thu đạt được

cao hơn nhưng chi phí cho một đồng tài sản tăng nhanh hơn làm cho lợi nhuận thu được trên một

đồng tài sản giảm đi, tức ROA giảm. Bên cạnh đó, khi xét trên một đồng vốn ngân hàng thì sự

gia tăng doanh thu nhanh hơn chi phí đã bỏ ra nên lạm phát tăng dẫn đến lợi nhuận trên vốn chủ

sở hữu tăng, tức ROE tăng. Trong giai đoạn 2007 -–2011, lạm phát tại Việt Nam thường xuyên

ở mức rất cao và biến động thất thường đã có tác động khác nhau lên ROA và ROE. Kết quả

nghiên cứu cũng phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Phạm Nhã Trúc và Nguyễn Phạm Thiên

Thanh, Sufian và Habibullah (2009).

Tăng trưởng kinh tế (GGDP)

Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế có và KNSL của NHTM là không nhất quán trong

giai đoạn này. Tăng trưởng kinh tế có tác động tích cực đến ROA nhưng tiêu cực đến ROE.

Trong giai đoạn 2007 – 2011, mặc dù kinh tế tăng trưởng cao do chính sách kích cầu của chính

phủ, nhưng đây cũng là giai đoạn mà các ngân hàng phải tăng vốn điều lệ theo quy định, mở rộng

91

thị trường. Bên cạnh đó, vốn điều lệ tăng lên chủ yếu được đầu tư vào tài sản cố định phục vụ

cho việc mở rộng mạng lưới hoạt động nên không sinh lãi. Do vậy lợi nhuận của ngân hàng tăng

lên nhưng tốc độ tăng không theo kịp tốc độ tăng vốn nên ảnh hưởng của tăng trưởng GDP lên

ROE là ngược chiều. Áp lực tăng vốn đặc biệt cao đối với các ngân hàng quy mô nhỏ, mới thành

lập. Trong khi đó, các ngân hàng lớn, lâu đời ít bị ảnh hưởng hơn so với các ngân hàng quy mô

nhỏ.

Ngoài ra, quy mô ngân hàng và vốn ngân hàng là hai yếu tố tác động mạnh nhất đến cả

ROA và ROE khi so sánh mức độ tác động của các yếu tố với các tham số đã được chuẩn hóa.

4.2 KHẢ NĂNG SINH LỜI CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

TRONG GIAI ĐOẠN HẬU KHỦNG HOẢNG KINH TẾ THẾ GIỚI

4.2.1 Thống kê mô tả và tương quan giữa các biến

Bảng 4.7. Thống kê mô tả các biến nghiên cứu trong giai đoạn 2012 - 2018

Tên biến Số quan sát Giá trị trung Độ lệch Giá trị nhỏ Giá trị lớn

bình chuẩn nhất nhất

ROA 206 0,0060 0,0049 0,0000 0,0264

ROE 206 0,0704 0,0567 0,0006 0,2444

SIZE 206 32,2511 1,0855 30,2175 34,8111

LLP 206 0,0132 0,0047 0,0054 0,0340

LOAN 206 0,5534 0,1171 0,2223 0,7530

CAP 206 0,0923 0,0393 0,0322 0,2383

DEP 206 0,6692 0,1065 0,4140 0,8937

LIQUI 206 0,2714 0,1045 0,0545 0,6292

INT 206 0,0532 0,0194 0,0134 0,1345

OPE 206 0,0166 0,0052 0,0037 0,0328

92

INFLAT 206 0,0457 0,0248 0,0063 0,0921

GGDP 206 0,0621 0,0064 0,0525 0,0708

Nguồn: Tính toán của tác giả

Lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) của các NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2012 – 2018

đạt mức trung bình là 0,6%, cao nhất là 2,64% và thấp nhất xấp xỉ 0%. Trong giai đoạn này, lợi

nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) đạt trung bình 7,4%, biến động trong khoảng từ 0,06% đến

24,44%.

Quy mô ngân hàng (SIZE) trong giai đoạn này vẫn có sự biến động rất lớn với độ lệch

chuẩn lên đến 1,0855. Điều này cho thấy sự chênh lệch về quy mô tài sản giữa các NH Việt Nam

là khá lớn, có những ngân hàng với thị phần tài sản rất lớn có khả năng dẫn dắt thị trường. Trong

khi đó, vốn ngân hàng (CAP) chiếm trung bình 9,23% so với tổng tài sản, với giá trị cao nhất là

28,83% và thấp nhất là 3,22%.

Dự phòng rủi ro tín dụng (LLP) trung bình là 1,32%, thấp nhất là 0,54% và cao nhất là

3,4%. Dư nợ cho vay (LOAN) đo lường quy mô cho vay của các ngân hàng, có giá trị trung bình

đạt 55,34%, cho biết trung bình tỷ trọng tài sản cho vay của các NH chiếm 55,34% so với tổng

tài sản.

Tiền gửi khách hàng (DEP) giai đoạn này trung bình là 66,92%, giá trị thấp nhất là 41,4%

và cao nhất là 89,37%. Tài sản thanh khoản (LIQUI) của ngân hàng trung bình chiếm 27,14% so

với tổng tài sản, giá trị thấp nhất là 5,45% và cao nhất là 62,92%.

Chi phí trả lãi (INT) bình quân trong giai đoạn này là 5,32%. Tức các ngân hàng có lãi

suất chi trả cho các khoản nợ bình quân là 5,32%, giá trị cao nhất là 13,45% và thấp nhất là

1,34%. Chi phí hoạt động (OPE) của các ngân hàng bình quân trong giai đoạn này là 1,66% so

với tổng tài sản. Giá trị cao nhất là 3,28% và thấp nhất là 0,37%.

Lạm phát (INFLAT) nhìn chung trong giai đoạn này khá thấp, với mức bình quân là

4,57%, thấp nhất là 0,63% và cao nhất là 9,21%. Tốc độ tăng trưởng GDP (GDP) trung bình là

6,21%, thấp nhất là 5,25% và cao nhất là 7,08%.

93

Mối tương quan giữa các biến trong mô hình trong giai đoạn 2012 – 2018 được thể hiện

qua ma trận hệ số tương quan ở bảng 4.8

Bảng 4.8. Ma trận hệ số tương quan

SIZE LLP LOAN CAP DEP LIQUI INT OPE INFLAT GGDP Tên

biến

SIZE 1,00

LLP 0,13 1,00

LOAN 0,23 -0,37 1,00

CAP -0,67 0,00 -0,05 1,00

DEP 0,26 -0,18 0,53 - 0,21 1,00

LIQUI -0,15 0,21 -0,67 0,01 -0,58 1,00

INT -0,38 0,06 0,16 0,42 -0,11 -0,08 1,00

OPE -0,23 0,04 0,18 0,47 0,01 -0,15 0,26 1,00

INFLAT -0,19 0,31 -0,21 0,30 -0,29 0,04 0,65 0,19 1,00

GGDP 0,26 -0,32 0,34 -0,35 0,24 -0,08 -0,56 -0,13 -0,82 1,00

Dựa vào bảng 4.8, ma trận hệ số tương quan giữa các biến trong mô hình nghiên cứu

trong giai đoạn 2012 – 2018 cho thấy, tưởng tự như giai đoạn 2007 – 2011, hệ số tương quan

của các cặp biến độc lập trong mô hình đa số đều nhỏ hơn 60%, điều đó có nghĩa là các biến

độc lập trong mô hình có tương quan với nhau thấp.

Nguồn: Tính toán của tác giả

4.2.2 Lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA)

Bảng 4.9. Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc ROA

Giá trị trung bình Độ lệch chuẩn Sai số chuẩn MCMC

hệ số hồi quy

94

SIZE 0,0021 0,0152 0,0001

LLP -0,0417 2,7004 0,0270

LOAN 0,0105 0,1583 0,0015

CAP 0,0505 0,4518 0,0044

DEP -0,0024 0,1428 0,0014

LIQUI 0,0163 0,1619 0,0016

INT -0,0361 0,8495 0,0084

OPE 0,0187 2,4873 0,0251

INFLAT 0,0882 0,9200 0,0090

GGDP 0,2471 3,1559 0,0315

_cons -0,1004 0,5566 0,0053

var 0,0252 0,0025 0,0000

Nguồn: Tính toán của tác giả

Bảng 4.10. Số lượng mẫu hiệu quả (ESS)

ESS Corr. time Efficiency

10.000 1 1 SIZE

10.000 1 1 LLP

LOAN 10.000 1 1

10.000 1 1 CAP

10.000 1 1 DEP

10.000 1 1 LIQUI

10.000 1 1 INT

OPE 9766 1,02 0,9766

95

INFLAT 10.000 1 1

GGDP 10.000 1 1

_cons 10.000 1 1

var 8914 1,12 0.8914

Nguồn: Tính toán của tác giả

Tác giả tiến hành kiểm định sự hội tụ của chuỗi MCMC đối với biến ROA nhằm đảm bảo

suy luận Bayes dựa trên mẫu MCMC là hợp lý.

96

Hình 4.3. Kiểm định hội tụ của chuỗi MCMC đối với biến ROA

Kết quả kiểm định từ hình 4.3 cho thấy các biểu đồ vết chạy nhanh qua phân phối, biểu

đồ tự tương quan rớt nhanh thể hiện sự tự tương quan thấp, hình dạng của các biểu đồ histogram

mô phỏng hình dạng của các phân phối xác suất là đồng nhất. Từ đó, có thể kết luận rằng suy

diễn Bayes là vững.

97

Kết quả tính toán từ bảng 4.10 cho thấy số lượng ESS ước tính của các tham số là 10.000

hoặc xấp xỉ 10.000. Do đó, mức độ hội tụ của chuỗi MCMC là rất cao.

4.2.3 Lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE)

Bảng 4.11. Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc ROE

Giá trị trung bình Độ lệch chuẩn Sai số chuẩn MCMC

hệ số hồi quy

SIZE 0,0298 0,0157 0,0001

LLP -0,9005 2,7602 0,0276

LOAN 0,1779 0,1620 0,0016

0,0357 0,4689 0,0046 CAP

-0,0568 0,1464 0,0014 DEP

LIQUI 0,2005 0,1668 0,0016

-0,5087 0,8870 0,0088 INT

3,8821 2,5664 0,0256 OPE

INFLAT 0,6435 0,9522 0,0095

GGDP 1,1360 3,2588 0,0325

_cons -1,1351 0,5795 0,0057

var 0,0266 0,0026 0,0000

Nguồn:Tính toán của tác giả

Bảng 4.12. Số lượng mẫu hiệu quả

ESS Corr. time Efficiency

SIZE 10.000 1 1

LLP 10.000 1 1

1 1 LOAN 10.000

98

CAP 1 10.000 1

DEP 1 10.000 1

LIQUI 9800 1,02 1

INT 1 10.000 1

OPE 1 10.000 0,98

1 INFLAT 10.000 1

GGDP 1 10.000 1

_cons 1 10.000 1

var 8923 1,12 0,8923

Nguồn: Tính toán của tác giả

99

Hình 4.4. Kiểm định hội tụ của chuỗi MCMC đối với biến ROE

Kết quả kiểm định từ hình 4.4 đối với biến ROE cho thấy các biểu đồ vết chạy nhanh qua

phân phối, biểu đồ tự tương quan rớt nhanh thể hiện sự tự tương quan thấp, hình dạng của các

biểu đồ histogram mô phỏng hình dạng của các phân phối xác suất là đồng nhất. Từ đó, có thể

kết luận rằng suy diễn Bayes là vững.

100

Kết quả tính toán từ bảng 4.12 cho thấy số lượng ESS ước tính của các tham số là 10.000

hoặc xấp xỉ 10.000. Do đó, mức độ hội tụ của chuỗi MCMC là rất cao. Từ đó, có thể kết luận

rằng suy diễn Bayes là vững.

4.2.4 Phân tích và thảo luận kết quả

Quy mô ngân hàng (SIZE)

Quy mô ngân hàng (SIZE) có tác động tích cực đến ROA và ROE, ủng hộ quan điểm của

lý thuyết quyền lực thị trường. Kết quả nghiên cứu này phù hợp với giả thuyết nghiên cứu và các

nghiên cứu của Sufian (2011), Alexiou và Sofoklis (2009), Kosmidou và cộng sự (2007), Nguyễn

Phạm Nhã Trúc và Nguyễn Phạm Thiên Thanh (2016). Các ngân hàng có quy mô lớn có khả

năng tiếp cận khách hàng tốt hơn, sản phẩm đa dạng hóa hơn, thương hiệu có uy tín và mức độ

tín nhiệm cao của khách hàng cũng như nhà đầu tư, có khả năng đầu tư vào các công nghệ hiện

đại hơn và có lợi thế cạnh tranh nhờ quy mô. Các NHTM Việt Nam, đặc biệt là các ngân hàng

nhà nước nắm quyền chi phối, có quy mô lớn và uy tín từ thương hiệu có khả năng nhận được sự

tin tưởng của khách hàng, đặc biệt là các khách hàng lớn như các tập đoàn, tổng công ty nhà

nước, kho bạc nhà nước... nhờ đó có khả năng huy động vốn với chi phí thấp và cho vay với lãi

suất thấp hơn, thu hút được lượng khách hàng lớn sử dụng các sản phẩm và dịch vụ của ngân

hàng. Từ đó có khả năng sinh lời cao hơn.

Vốn ngân hàng (CAP)

Vốn ngân hàng (CAP) tác động tích cực đến ROA và ROE. Kết quả này ngụ ý rằng vốn

ngân hàng đóng vai trò quan trọng đến KNSL của NHTM. Khi các ngân hàng tăng vốn chủ sở

hữu đồng nghĩa với đòn bẩy tài chính mà các ngâ hàng sử dụng sẽ giảm xuống, rủi ro trong hoạt

động của ngân hàng sẽ thấp hơn, hiệu quả hoạt động sẽ cao hơn. Ngoài ra, các ngân hàng có thể

sử dụng vốn chủ sở hữu, là một nguồn vốn có tính chất dài hạn, để cho vay trung dài hạn, là các

khoản vay có lãi suất cao. Các ngân hàng có vốn lớn dễ dàng nhận được uy tín từ khách hàng,

từ người gửi tiền, sử dụng dịch vụ ngân hàng và người vay tiền. Từ đó có thể đa dạng hóa nguồn

thu và tác động tích cực đến KNSL. Trong giai đoạn hậu khủng hoảng kinh tế thế giới, nhiều

ngân hàng đã tiến hành niêm yết trên thị trường chứng khoán, minh bạch hóa thông tin, tạo dựng

được niềm tin cho các nhà đầu tư và khách hàng. Việc niêm yết trên thị trường chứng khoán đã

giúp cho các ngân hàng thuận lợi hơn trong việc tăng vốn điều lệ như phát hành cổ phiếu cho đối

101

tác chiến lược, người lao động, giữ lại lợi nhuận để tăng vốn, phát hành trái phiếu chuyển đổi.

Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy sự tương đồng với các nghiên cứu của Trần Việt Dũng (2014),

Alexiou và Sofoklis (2009), Petria và cộng sự (2013), Rahman và cộng sự (2015), Gyulai và

Szucs (2017), Berger (1995) và phù hợp với giả thuyết nghiên cứu.

Dự phòng rủi ro tín dụng (LLP)

Kết quả nghiên cứu cho thấy giá trị trung bình các tham số của biến dự phòng rủi ro tín

dụng có giá trị âm chứng tỏ rủi ro tín dụng và KNSL của NHTM có mối quan hệ nghịch chiều.

Nếu dự phòng rủi ro tín dụng cao cho thấy ngân hàng kiểm soát rủi ro tín dụng không tốt, dẫn

đến nợ xấu cao. Mặt khác, mức trích lập dự phòng rủi ro tín dụng càng cao càng làm cho lợi

nhuận của ngân hàng giảm xuống bởi nguồn để trích lập rủi ro tín dụng được lấy từ lợi nhuận

của ngân hàng, khi lợi nhuận tạo ra không đủ bù đắp rủi ro tín dụng sẽ dẫn đến khả năng ngân

hàng mất thanh khoản, thậm chí vỡ nợ. Trong giai đoạn hậu khủng hoảng kinh tế thế giới, cũng

chính là giai đoạn mà các NHTM Việt Nam phải tăng cường xử lý nợ xấu do sự bùng nổ cho vay

của giai đoạn trước đó. Do nợ xấu quá lớn, nhiều ngân hàng không thể duy trì hoạt động kinh

doanh của mình. Để xử lý vấn đề này, trong giai đoạn 2012 -–2018, dưới sự chỉ đạo của NHNN,

nhiều ngân hàng đã bắt buộc phải thực hiện việc sáp nhập hoặc được NHNN mua lại để tái cơ

cấu hoạt động. Như vậy, việc các NHTM thực hiện chiến lược cho vay mạnh mẽ nhưng không

kiểm soát tốt chất lượng khoản vay có thể dẫn đến lợi nhuận cao trong ngắn hạn nhựng chắc chắn

sẽ dẫn đến hậu quả lâu dài. Vì vậy, các NHTM không nên đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng cao

bằng mọi giá mà phải đặt mục tiêu kiểm soát được rủi ro tín dụng lên hàng đầu. Điều này không

chỉ bản thân các ngân hàng thương mại cần tăng cưởng kiểm soát rủi ro tín dụng, hoàn thiện quy

trình, chính sách cấp tín dụng mà cần có sự kiểm tra, giám sát, định hướng của NHNN với mục

tiêu nhất quán là đặt an toàn trong hoạt động ngân hàng lên hàng đầu. Kết quả nghiên cứu có sự

tương đồng với các nghiên cứu của Iacobelli (2016), Sufian (2011), Anathasoglou và cộng sự

(2008), Alexiou và Sofoklis (2009) và phù hợp với giả thuyết nghiên cứu.

Dư nợ cho vay (LOAN)

Dư nợ cho vay (LOAN) có tác động cùng chiều đến ROA và ROE. Các NHTM Việt Nam

có nguồn thu chủ yếu từ cho vay nên tăng cường cho vay có ảnh hưởng tích cực đến cả ROA và

ROE. Tuy nhiên, tỷ lệ dư nợ cho vay trên tổng tài sản quá cao có thể làm tăng rủi ro thanh khoản

102

của ngân hàng do ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc đáp ứng nhu cầu rút tiền của khách hàng.

Bên cạnh đó, để có thể tăng cho vay nhiều hơn, các ngân hàng sẽ chuyển đổi và sử dụng nguồn

vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung dài hạn. Tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung

dài hạn càng cao càng làm cho việc đáp ứng thanh khoản của ngân hàng thêm căng thẳng, phải

huy động các nguồn tiền có lãi suất cao để đáp ứng nhu cầu rút tiền của khách hàng. Kết quả này

phù hợp với giả thuyết nghiên cứu và các nghiên cứu của Sufian (2011), Le (2017), Zhang và

Dong (2011), Rahman và cộng sự (2015).

Tài sản thanh khoản (LIQUI)

Tài sản thanh khoản (LIQUI) có tác động cùng chiều đến ROA và ROE. Điều này hàm ý

ngân hàng nắm giữ các tài sản có tính thanh khoản cao càng có hiệu quả sinh lời cao, có khả

năng ứng phó tốt với các biến động của thị trường cũng như chính sách điều hành của cơ quan

quản lý nhà nước. Nói cách khác, rủi ro thanh khoản thấp làm tăng KNSL của NHTM. Tuy nhiên,

nếu NHTM nắm giữ lượng tài sản thanh khoản quá lớn có thể làm giảm KNSL do nguồn vốn

của ngân hàng bị ứ đọng, không có khả năng sinh lời. Kết quả nghiên cứu này phù hợp với giả

thuyết nghiên cứu và các nghiên cứu của Kohlscheen và cộng sự (2018), Kosmidou và cộng sự

(2005), Ndoka và cộng sự (2016), Bassey và Moses (2015), Trần Thị Thanh Nga (2018).

Tiền gửi khách hàng (DEP)

Tiền gửi khách hàng là nguồn vốn huy động lớn nhất và quan trọng nhất của NHTM, đóng

vai trò vô cùng quan trọng đối với hoạt động của NHTM. Các NHTM có thể huy động từ nhiều

đối tượng khách hàng khác nhau như khách hàng cá nhân, khách hàng doanh nghiệp, các tổ chức

khác. Đây là nguồn vốn huy động đa dạng về đối tượng khách hàng, thời hạn, loại tiền, giá trị

khoản tiền… Các ngân hàng huy động vốn tốt có khả năng đáp ứng nhu cầu cho vay nhiều hơn,

quy mô cấp tín dụng cao hơn. Tuy nhiên, quan điểm của trường phái Keyes (1936) cho rằng tiết

kiệm, phản ánh thông qua lượng tiền gửi khách hàng, quá cao có thể ảnh hưởng tiêu cực đến nền

kinh tế do hộ gia đình giảm tiêu dùng, doanh nghiệp không đầu tư để sản xuất nhiều hàng hóa

hơn do không chắc chắn triển vọng kinh tế trong tương lai. Vì vậy, khi các ngân hàng nhận được

lượng tiền gửi cao là dấu hiệu cho thấy tổng cầu của nền kinh tế giảm, dẫn đến KNSL của ngân

hàng giảm xuống. Như vậy, kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của tiền gửi khách hàng đến KNSL

của NHTM trong giai đoạn hậu khủng hoảng kinh tế thế giới ủng hộ quan điểm của trường phái

103

Keynes (1936). Với đặc thù của hệ thống NHTM Việt Nam, các ngân hàng có sự chi phối của

nhà nước như ngân hàng Ngoại thương, Công thương, Đầu tư & Phát triển có ưu thế lớn trong

việc tiếp cận các nguồn vốn giá rẻ từ các tập đoàn, công ty nhà nước, Kho bạc Nhà nước (VDSC,

2018). Nhưng đó cũng tạo nên sự cạnh tranh bất bình đẳng về khả năng huy động vốn giữa các

ngân hàng với nhau. Kết quả hồi quy cho thấy mối tương quan âm giữa yếu tố tiền gửi khách

hàng và KNSL của NHTM cho thấy sau giai đoạn khủng hoảng, các NHTM gặp khó khăn trong

việc sử dụng có hiệu quả nguồn tiền huy động được từ khách hàng. Đây cũng là giai đoạn mà

NHNN thực thi chính sách tiền tệ chặt chẽ nhằm kiềm chế lạm phát, hạn chế cho vay đối với các

lĩnh vực có đầu cơ, rủi ro cao như cho vay chứng khoán, bất động sản, ưu tiên cho vay đối với

lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Hơn nữa, đây cũng là giai đoạn mà nợ xấu tăng cao, các doanh

nghiệp không thể tiếp tục vay vốn đầu tư để duy trì, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh do

vướng nợ xấu. Vì vậy, việc huy động vốn từ tiền gửi khách hàng tốt không đồng nghĩa với KNSL

của NHTM sẽ tốt mà có sự liên hệ chặt chẽ với việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này và khả

năng vay vốn của doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu phù hợp với nghiên cứu của Gaber (2018)

nhưng trái với giả thuyết nghiên cứu và các nghiên cứu của Sufian (2011), Lim và Randhawa

(2005), Zhang và Dong (2011).

Chi phí trả lãi (INT)

Trong cơ cấu chi phí của NHTM, chi phí trả lãi chiếm tỷ trọng cao nhất. Vì vậy, ngân

hàng nào có chi phí trả lãi thấp sẽ đạt được KNSL cao hơn và ngược lại. Kết quả nghiên cứu cho

thấy, chi phí trả lãi tác động nghịch chiều đến KNSL của NHTM. Như đã phân tích ở trên, các

ngân hàng mà nhà nước nắm quyền chi phối có lợi thế rất lớn do chi phí trả lãi thấp hơn so với

các NHTM khác. Ngoài ra, ngân hàng nào càng có tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn cao càng có lợi

thế về chi phí trả lãi. Các NHTM nhà nước chi phối có cơ sở khách hàng lớn với số dư tiền gửi

không kỳ hạn rất lớn, là khoản tiền gửi có chi phí trả lãi cực kỳ thấp. Đặc biệt là tiền gửi không

kỳ hạn của kho bạc nhà nước, các tập đoàn, tổng công ty gửi tại các ngân hàng nhà nước chi phối

lớn hơn nhiều lần số dư huy động của một số NHTM khác quy mô nhỏ. Lợi thế về chi phí trả lãi

giúp cho các ngân hàng thu hút được nhiều đối tượng khách hàng hơn. Kết quả nghiên cứu cũng

tương đồng với các nghiên cứu của Yao và cộng sự (2018), Islam và Nishiyama (2016), Dietrich

và Wanzenried (2011) và phù hợp với giả thuyết nghiên cứu.

104

Chi phí hoạt động (OPE)

Chi phí hoạt động (OPE) tác động tích cực đến KNSL. Các ngân hàng có chi phí hoạt

động cao có thể làm tăng KNSL. Trong giai đoạn hậu khủng hoảng kinh tế thế giới, các ngân

hàng không còn ồ ạt mở rộng chi nhánh, chi tiêu thiếu hiệu quả mà đã nỗ lực cắt giảm các chi

phí không cần thiết, mạnh dạn đóng cửa các chi nhánh, phòng giao dịch kém hiệu quả, thúc đẩy

năng suất lao động của nhân viên. Vì vậy, các chi phí hoạt động mà ngân hàng đã bỏ ra đã thực

sự phát huy tác dụng, dẫn đến lợi nhuận tăng nhanh hơn so với chi phí. Đây cũng là giai đoạn

mà các NHTM Việt Nam thực hiện tái cơ cấu, sắp xếp lại hệ thống ngân hàng, đổi mới hệ thống

quản trị ngân hàng theo hướng hiện đại, phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế (Chính phủ,

2012). Đồng thời, các ngân hàng cũng tiến hành cơ cấu lại hoạt động kinh doanh theo hướng an

toàn, lành mạnh hơn. Nhờ đó, hoạt động quản trị, điều hành của các ngân hàng đã mang tính

chuyên nghiệp hơn, tiếp cận với chuẩn mực quản trị ngân hàng hiện đại, tích cực hợp tác chuyển

giao công nghệ, hợp tác chiến lược với các ngân hàng tầm vóc toàn cầu. Kết quả này trái ngược

với giả thuyết nghiên cứu và lý thuyết cấu trúc hiệu quả, cho rằng các ngân hàng đạt được hiệu

quả cao nhờ giảm chi phí hoạt động. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Molyneux va

Thornton (1992), Nguyễn Phạm Nhã Trúc và Nguyễn Phạm Thiên Thanh (2016), trong khi

nghiên cứu của Batten và Vo (2019) cho kết quả ngược lại.

Lạm phát (INFLAT)

Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ thuận chiều giữa lạm phát và KNSL của NHTM.

Trong giai đoạn hậu khủng hoảng kinh tế thế giới, chính sách chung của cơ quan quản lý nhà

nước là ổn định kinh tế là trọng tâm. Vì vậy, mức lạm phát vừa phải tại Việt Nam được duy trì

trong suốt giai đoạn này. Kết quả nghiên cứu phù hợp với nghiên cứu của Sufian (2011), Alexiou

và Sofoklis (2009), Trujillio-Ponce (2013) nhưng trái với giả thuyết nghiên cứu và các nghiên

cứu của Rahman và cộng sự (2015), Le (2017), Trần Việt Dũng (2014) .

Tăng trưởng GDP (GGDP)

Trong giai đoạn hậu khủng hoảng kinh tế thế giới, chính sách chung của Chính phủ Việt

Nam là ưu tiên chất lượng tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô chứ không phải là tốc độ

tăng trưởng. Vì vậy, các ngân hàng thận trọng hơn khi xét duyệt cho vay, chất lượng khoản vay

tốt hơn và khả năng trả nợ của người vay cũng được đảm bảo. Ngoài ra, chất lượng tăng trưởng

105

kinh tế tốt có tác động tích cực đến danh mục đầu tư, làm tăng giá trị tài sản, luồng tiền của các

ngân hàng, kết quả là ngân hàng có mức lợi nhuận cao hơn. Kết quả nghiên cứu tương đồng với

các nghiên cứu của Kohlscheen và cộng sự (2018), Athanasoglou và cộng sự (2008), Trujillo-

Ponce (2013), Nguyễn Phạm Nhã Trúc và Nguyễn Phạm Thiên Thanh (2016), Le (2017), Trần

Việt Dũng (2014) và phù hợp với giả thuyết nghiên cứu.

Ngoài ra, khi so sánh mức độ tác động của các yếu tố đến KNSL thông qua các tham số

đã được chuẩn hóa, quy mô ngân hàng và vốn ngân hàng là hai yếu tố có tác động mạnh nhất

đến KNSL của NHTM trong giai đoạn hậu khủng hoảng kinh tế thế giới.

4.3 TÁC ĐỘNG CỦA KHỦNG HOẢNG KINH TẾ THẾ GIỚI ĐẾN KHẢ NĂNG

SINH LỜI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

4.3.1 Lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA)

Bảng 4.13. Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc ROA

Giá trị trung bình Độ lệch Sai số chuẩn MCMC

hệ số hồi quy chuẩn

SIZE 0,0025 0,0087 0,0000

LLP -0,0941 1,3673 0,0136

LOAN 0,0121 0,0888 0,0009

CAP 0,0843 0,1696 0,0016

DEP 0,0035 0,0674 0,0006

LIQUI 0,0109 0,0859 0,0008

INT -0,0322 1,4214 0,0042

OPE -0,0219 1,4119 0,0138

DUMMY 0,0066 0,0240 0,0002

INFLAT -0,0044 0,2102 0,0021

GGDP -0,0083 0,9661 0,0096

106

_cons -0,09121 0,3009 0,0030

var 0,0151 0,0011 0,0000

Nguồn: Tính toán của tác giả

Bảng 4.14. Số lượng mẫu hiệu quả (ESS)

ESS Corr. time Efficiency

1 SIZE 10.000 1

1 LLP 10.000 1

LOAN 9682 1,03 0,9682

1 CAP 10.000 1

1 DEP 10.000 1

LIQUI 10.000 1,02 1

1 INT 10.000 1

1 OPE 10.000 0,98

DUMMY 9720 1,03 0,9720

1 INFLAT 10.000 1

1 GGDP 10.000 1

1 _cons 10.000 1

var 9446 1,06 0,9446

Nguồn: Tính toán của tác giả

107

108

Hình 4.5. Kiểm định hội tụ của chuỗi MCMC đối với biến ROA

109

4.3.2 Lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE)

Bảng 4.15. Tóm tắt kết quả hồi quy biến phụ thuộc ROE

Giá trị trung bình Độ lệch chuẩn Sai số chuẩn MCMC

hệ số hồi quy

SIZE 0,0318 0,0099 0,0000

LLP -1,3513 1,5305 0,0153

LOAN 0,1925 0,1023 0,0010

0,1830 0,1944 0,0019 CAP

0,0087 0,0770 0,0007 DEP

LIQUI 0,1281 0,0989 0,0009

-0,3503 0,4911 0,0048 INT

-1,6965 1,6202 0,0161 OPE

DUMMY 0,0657 0,0271 0,0002

INFLAT 0,0222 0,2389 0,0024

GGDP -0,6046 1,0693 0,0107

_cons -1,0212 0,3430 0,0034

var 0,0196 0,0015 0,0000

Nguồn: Tính toán của tác giả

Bảng 4.16. Số lượng mẫu hiệu quả (ESS)

ESS Corr. time Efficiency

10.000 1 1 SIZE

10.000 1 1 LLP

LOAN 9780 1,02 0,9780

110

1 CAP 10.000 1

1 DEP 10.000 1

1 LIQUI 10.000 1

1 INT 10.000 1

1 OPE 10.000 0,98

DUMMY 9739 1,07 0,9739

1 INFLAT 10.000 1

1 GGDP 10.000 1

1 _cons 10.000 1

var 9088 1,10 0,9089

111

112

Hình 4.6. Kiểm định hội tụ của chuỗi MCMC đối với biến ROE

Từ hình 4.5 và 4.6 có thể thấy tất cả các ước tính tham số trong các biểu đồ là tương đối

hợp lý: các biểu đồ dấu vết và biểu đồ tương quan thể hiện mối tự tương quan thấp; hình dạng

của biểu đồ là đồng nhất (unimodal). Ngoài ra, các đồ thị trên đều cho thấy sự pha trộn khá tốt,

theo đó hệ số tự tương quan chỉ giao động quanh mức dưới 0.02, nó cho thấy sự phù hợp với mật

độ mô phỏng phân phối, Autocorrelation plot phản ánh tất cả các độ trể nằm trong giới hạn hiệu

quả. Histogram và Density plots đều cho thấy sự mô phỏng hình dáng của phân phối chuẩn của

các tham số.

Ngoài ra, kết quả từ bảng 4.14 và 4.16 cho thấy, giá trị ESS gần bằng cỡ mẫu MCMC, tức

là 10.000. Vậy kết quả này đạt được giá trị chấp nhận và kết luận mô hình vững.

4.3.3 So sánh chiều hướng tác động của phương pháp Bayes với phương pháp truyền thống

Để đánh giá chiều hướng tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới đến KNSL của NHTM

Việt Nam theo phương pháp truyền thống, so sánh với phương pháp Bayes, tác giả lựa chọn

phương pháp System GMM (SGMM). Phương pháp này cho phép loại bỏ các khuyết tật của mô

hình như vấn đề của phương sai sai số thay đổi, tự tương quan hay nội sinh nên kết quả ước lượng

sẽ hiệu quả và vững. Để kiểm định tính vững cho kết quả mô hình bằng phương pháp SGMM,

tác giả sử dụng kiểm định Sargan – Hansen và kiểm định tự tương quan bậc hai để kiểm tra.

Bảng 4.17 Tóm tắt kết quả hồi quy đối với biến phụ thuộc ROA

Coef. P>t 95% Conf. Interval

113

SIZE 0,0056 0,0000 0,0006 0,4133

LLP -0,0588 0,0012 0,0025 0,0202

LOAN 0,0235 0,0020 0,0078 0,0350

CAP 0,1266 0,0360 -0,0180 -0,0006

DEP -0,0010 0,4850 0,0000 0,0001

LIQUI 0,0167 0,6300 -0,0031 0,0019

INT 0,0580 0,0000 -0,0014 0,0008

OPE -0,5804 0,0000 0,0035 0,0111

DUMMY 0,0060 0,0000 0,0039 0,0081

INFLAT 0,0716 0,0000 0,0629 0,0804

GGDP -0,3422 0,0000 -0,3153 0,1029

_cons -0,1919 0,0000 -0,2502 -0,1336

Sargan test 1,0000

AR(2) p-value 0,1836

Nguồn: Tính toán của tác giả

Bảng 4.18 Tóm tắt kết quả hồi quy đối với biến phụ thuộc ROE

Coef. P>t 95% Conf. Interval

SIZE 0,0496 0,0000 0,0028 0,0711

LLP 0,7620 0,7270 -0,3520 5,0440

LOAN 0,4802 0,0000 0,3409 0,6195

CAP 0,7392 0,0000 0,4698 1,0085

DEP -0,0444 0,3030 -0,1291 0,0401

LIQUI 10,8623 0,0000 0,1780 0,4590

INT 0,5585 0,0180 0,0958 1,0213

OPE -0,5804 0,0000 -13,9577 -7,7669

DUMMY 0,0414 0,0020 0,0149 0,0679

INFLAT -0,1695 0,0000 -0,2457 -0,0933

114

GGDP -1,4759 0,0000 -2,1837 -0,7680

_cons -1,3912 0,0000 -2,3595 -1,0230

Sargan test 1,0000

AR(2) p-value 0,5982

Nguồn: Tính toán của tác giả

Kết quả nghiên cứu từ bảng 4.17 và bảng 4.18 cho thấy khủng hoảng kinh tế thế giới có tác động cùng chiều đến KNSL của các NHTM Việt Nam, tương đồng với phương pháp Bayes.

4.3.4 Thảo luận tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới đến khả năng sinh lời của

các ngân hàng thương mại Việt Nam

Về tác động của khủng hoảng tài chính thế giới đến KNSL của NHTM Việt Nam, kết quả

nghiên cứu cho thấy, KNSL của NHTM Việt Nam tốt hơn so với giai đoạn hậu khủng hoảng, là

kết quả của các chính sách đặc biệt được ban hành và triển khai thực hiện nhằm ổn định nền kinh

tế. Theo quan điểm của trường phái Keynes (1936), trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, chính

phủ các nước cần hành động nhằm kích cầu vì nền kinh tế không thể tự điều tiết. Việc kích cầu

có thể được thực hiện bằng cách tăng cường chi tiêu, triển khai thực hiện các chương trình đầu

tư công quy mô lớn, kích thích tiêu dùng và đầu tư, tăng tổng cầu của nền kinh tế. Bên cạnh đó,

ngân hàng trung ương cần nhanh chóng tạo thanh khoản cho thị trường, khơi thông dòng vốn

trong nền kinh tế, tránh tình trạng mất thanh khoản của các ngân hàng; các ngân hàng thương

mại cần tăng cường cho vay nhằm thực hiện các biện pháp kích cầu nền kinh tế của chính phủ.

Trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế, việc thắt chặt chi tiêu của chính phủ, chính sách hạn chế

cho vay của các NHTM nhằm đề phòng rủi ro càng làm cho khủng hoảng trở nên nghiêm trọng

hơn. Trên cơ sở đó, nhằm hạn chế tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính thế giới, Chính

phủ Việt Nam đã thực hiện các chương trình đầu tư công quy mô lớn, có tác động lan tỏa tới

nhiều lĩnh vực, các doanh nghiệp tăng cường vay nợ nhằm hơn mua sắm máy móc thiết bị,

nguyên vật liệu phục vụ đầu tư, sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, Chính phủ thực hiện các

chính sách như miễn, giảm, giãn thời gian nộp một số loại thuế, tăng cường khả năng tiếp cận tín

dụng cho cá nhân và doanh nghiệp, tạo tâm lý lạc quan cho các doanh nghiệp. Ngoài ra, một

chính sách đặc biệt được Chính phủ ban hành năm 2009 nhằm kích thích tiêu dùng và đầu tư là

hỗ trợ lãi suất vay 4% cho cá nhân và doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng. Với những biện pháp

115

đó, tổng cầu tăng nhanh, nhu cầu vay vốn của nền kinh tế gia tăng nhanh chóng, các ngân hàng

nắm giữ nhiều tài sản sinh lãi hơn. Cùng với đặc thù của các NHTM Việt Nam có doanh thu và

lợi nhuận phụ thuộc chủ yếu vào tín dụng, đồng thời tăng trưởng tín dụng tăng mạnh dựa trên

các biện pháp kích cầu của Chính phủ, KNSL của các NHTM Việt Nam đạt được là rất cao trong

bối cảnh khủng hoảng tài chính thế giới. Tuy nhiên, các ngân hàng cho vay nhiều hơn, nắm giữ

nhiều tài sản sinh lãi hơn nhưng chất lượng tài sản không cao, ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả

tài chính của giai đoạn sau. Cụ thể, theo Ngân hàng Nhà nước, tỷ lệ nợ xấu tăng mạnh từ năm

2012 đến năm 2014 lần lượt là 4,86%, 3,79%, 3,7%, trong đó, đỉnh điểm của nợ xấu toàn hệ

thống ngân hàng là năm 2012. Kết quả nghiên cứu cũng phù hợp với các nghiên cứu của

Chronopoulos và cộng sự (2015), Lindblom và Willesson (2010), Kamarudin và cộng sự (2016)

và phù hợp với giả thuyết nghiên cứu nhưng trái với kết quả nghiên cứu của Sufian (2011), Amba

và Almukharreq, Le (2017). Sở dĩ có sự khác nhau như vậy do khi xem xét tác động tức thời,

ngắn hạn của khủng hoảng tài chính đến KNSL của NHTM, kết quả sẽ là tiêu cực. Tuy nhiên,

khi xem xét tác động dưới ảnh hưởng của các chính sách về tài chính và tiền tệ nhằm ổn định

kinh tế vĩ mô và hệ thống ngân hàng, kết quả sẽ là tích cực.

4.4 THẢO LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Bảng 4.19 dưới đây trình bày, tổng hợp, so sánh kết quả tác động của các yếu tố vi mô và

vĩ mô đến KNSL của các NHTM trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế thế giới và giai đoạn hậu

khủng hoảng, so sánh với các công trình nghiên cứu trước đây.

Bảng 4.19. So sánh các yếu tố tác động đến KNSL của các NHTM Việt Nam

Giai đoạn Giai đoạn Trong toàn bộ thời Các công

kỳ 2007 - 2018 Biến 2007 – 2011 2012 – 2018 trình trước

ROA ROE ROA ROE ROA ROE ROA ROE

SIZE + + + + + + +/- +/-

CAP + + + + + + + +/-

LLP - - - - - - +/- +/-

116

+ + + + LOAN + + + +

+ - - + DEP + + +/- +/-

+ + + + LIQUI + + + +

+ - - - INT - - - -

- + + - OPE - - +/- +/-

+ + + - INFLAT - + +/- +/-

- + + - GGDP + - + +

+ DUMMY + +/- +/-

Ghi chú: (+) tương quan dương, (-) tương quan âm, (+/-) phi tuyến

Nguồn: Tổng hợp của tác giả

Quy mô ngân hàng

Quy mô ngân hàng tác động tích cực đến KNSL của NHTM trong tất cả các giai đoạn.

Điều đó khẳng định tầm quan trọng trong việc mở rộng quy mô của NHTM trong bất kỳ giai

đoạn nào. Kết quả này cho thấy các ngân hàng có quy mô càng lớn càng có khả năng tiếp cận

khách hàng càng tốt, có thể áp đặt các chính sách về giá cả mà ít bị ảnh hưởng xấu, có khả năng

chống chịu được các rủi ro có thể xảy ra, tận dụng được lợi thế kinh tế về quy mô. Đồng thời cho

thấy năng lực quản lý tài sản có hiệu quả của các NHTM Việt Nam. Thực tế cho thấy các ngân

hàng có quy mô lớn tại Việt Nam như ngân hàng Ngoại thương, ngân hàng Đầu tư & Phát triển

lẫn các ngân hàng có quy mô nhỏ thường xuyên mở rộng quy mô nhằm tăng khả năng cạnh tranh.

Quy mô ngân hàng tăng giúp các ngân hàng có hiệu quả tài chính hơn ủng hộ các lý thuyết về

KNSL của NHTM như lý thuyết quyền lực thị trường và lý thuyết cấu trúc hiệu quả và phù hợp

với giả thuyết nghiên cứu và các nghiên cứu của Sufian (2011), Alexiou và Sofoklis (2009),

Kosmidou và cộng sự (2007).

Vốn ngân hàng

Ảnh hưởng của vốn ngân hàng là tích cực đến KNSL của NHTM trong tất cả các thời kỳ.

Kết quả này chứng minh rằng vốn ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra lợi nhuận

117

cho ngân hàng. Điều đó cho thấy các ngân hàng ít sử dụng đòn bẩy tài chính hơn, tức hoạt động

an toàn hơn, sẽ thu được lợi nhuận nhiều hơn. Như vậy, bất kể trong giai đoạn nào, khủng hoảng

kinh tế hay giai đoạn hậu khủng hoảng, vốn ngân hàng đều quan trọng, là tấm đệm tài chính nâng

cao sự ổn định của ngân hàng khi kinh tế biến động mạnh, là nguồn vốn có thể cho vay dài hạn

với lãi suất cao khi kinh tế ổn định. Tại Việt Nam, các ngân hàng có vốn lớn thường tập trung

vào các ngân hàng có sự chi phối của nhà nước. Các ngân hàng này đi đầu trong việc thực hiện

chủ trương, chính sách của nhà nước như giảm lãi suất, khoanh nợ, gia hạn nợ, cơ cấu lại nhóm

nợ. Điều đó có tác động tích cực trong việc hỗ trợ nền kinh tế khi có bất ổn kinh tế xảy ra.

Thực tế cũng cho thấy các NHTM Việt Nam, bất kể có quy mô vốn lơn hay nhỏ, thường

xuyên tăng vốn điều lệ nhằm nâng cao năng lực tài chính, đáp ứng các chuẩn mực tài chính quốc

tế. Mặc dù là những ngân hàng có quy mô vốn điều lệ lớn nhất tại Việt Nam nhưng khi so sánh

với các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới, quy mô vốn của ngân hàng Việt Nam rất khiêm

tốn, thậm chí là nhỏ bé khi đặt cạnh các ngân hàng toàn cầu. Điều đó gây nhiều khó khăn trong

việc mở rộng hoạt động ra toàn cầu của các ngân hàng của Việt Nam. Quy mô vốn nhỏ, thậm chí

như ngân hàng có vốn điều lệ lớn nhất Việt Nam TMCP Ngoại thương Việt Nam, đã cản trở các

ngân hàng Việt Nam trong việc tiếp cận các thị trường tài chính lớn trên thế giới. Hiện tại chưa

có ngân hàng nào của Việt Nam niêm yết trên các thị trường chứng khoán lớn của thế giới. Chưa

niêm yết được trên các thị trường chứng khoán lớn của thế giới đồng nghĩa với việc chưa có ngân

hàng Việt Nam là ngân hàng lớn, theo tiêu chuẩn quốc tế. Vì vậy, việc yêu cầu các ngân hàng

tăng vốn điều lệ nâng cao năng lực tài chính là giải pháp đúng đắn, phù hợp với bối cảnh của nền

kinh tế Việt Nam đang hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới và phù hợp với chủ trƣơng xây

dựng một hệ thống ngân hàng hoạt động và phát triển bền vững, có khả năng tiếp cận với các thị

trường tài chính lớn trong khu vực và trên thế giới. Kết quả nghiên cứu phù hợp với giả thuyết

nghiên cứu và các nghiên cứu của Trần Việt Dũng (2014), Alexiou và Sofoklis (2009), Petria và

cộng sự (2013), Rahman và cộng sự (2015), Gyulai và Szucs (2017), Berger (1995), Trujillo-

Ponce (2013).

Dự phòng rủi ro tín dụng

Khi so sánh tác động của dự phòng rủi ro tín dụng đến KNSL của NHTM, chiều hướng

tác động là như nhau trong tất cả các thời kỳ, dự phòng rủi ro tín dụng tác động ngược chiều đến

118

KNSL, phù hợp với giả thuyết nghiên cứu và các ới nghiên cứu của Iacobelli (2016), Sufian

(2011), Anathasoglou và cộng sự (2008), Alexiou và Sofoklis (2009), Trần Việt Dũng (2014).

Khi phát sinh nợ quá hạn do khách hàng không thể trả nợ đúng như cam kết, ngân hàng bắt buộc

phải trích lập dự phòng rủi ro tín dụng, làm giảm lợi nhuận của ngân hàng. Mức trích lập càng

cao, lợi nhuận càng giảm, thậm chí thua lỗ. Ngoài ra, khi nợ quá hạn gia tăng, nhà quản trị ngân

hàng thường thắt chặt các điều kiện cho vay, tăng cường giám sát các khoản cho vay hiện tại làm

tăng chi phí quản lý và giám sát nợ, từ đó làm giảm KNSL. Thực tế cho thấy trong những năm

qua, tại các NHTM Việt Nam, có nhiều nguyên nhân làm tăng nợ xấu và nợ quá hạn, từ đó làm

tăng dự phòng rủi ro tín dụng của NHTM, nhưng nguyên nhân quan trọng nhất vẫn là con người,

cả khách quan lẫn chủ quan, làm phát sinh nợ xấu và nợ quá hạn, ảnh hưởng lớn đến hoạt động

kinh doanh của NHTM.

Dư nợ cho vay

Có mối quan hệ nhất quán khi so sánh tác động của dư nợ cho vay đến KNSL của NHTM.

Kết quả từ bảng 4.15 cho thấy dư nợ cho vay làm tăng KNSL. Điều này có thể được giải thích là

các ngân hàng càng tập trung vào cho vay thì đạt được hiệu quả tài chính cao hơn. Đặc thù của

hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam là chủ yếu cung cấp tín dụng, các hoạt động phi tín

dụng là hoạt động thứ yếu chưa có đóng góp nhiều vào thu nhập của ngân hàng, chiếm chưa đến

12% so với tổng thu nhập của ngân hàng (Chính phủ, 2018). Ngân hàng càng tập trung cho vay

thì càng có thu nhập từ lãi vay nhiều hơn, giảm sự quan tâm và đầu tư vào các hoạt động phi tín

dụng. Mặc dù tập trung vào cho vay có thể đem lại lợi nhuận cao hơn nhưng đổng thời cũng ẩn

chứa nhiều rủi ro khi nhu cầu vay vốn của nền kinh tế suy giảm. Kết quả nghiên cứu phù hợp với

giả thuyết nghiên cứu và các nghiên cứu của Sufian (2011), Le (2017), Zhang và Dong (2011),

Rahman và cộng sự (2015), Molyneux và Thornton (1992).

Tài sản thanh khoản

Tài sản thanh khoản có tác động tích cực đến KNSL của NHTM trong từng giai đoạn và

trong toàn bộ thời kỳ 2007 -–2018. Kết quả này khẳng định rằng tài sản thanh khoản đóng vai

trò quan trọng trong việc tạo ra lợi nhuận cho NHTM, chống đỡ các cú sốc về tài chính. Minsky

(1975) cho rằng khi các ngân hàng mất thanh khoản không thể đáp ứng nhu cầu vay tiền của nhà

đầu tư và rút tiền của khách hàng gửi tiền có thể dẫn đến sự sụp đổ ngân hàng nói riêng và thị

119

trường tài chính nói chung. Vì vậy, các ngân hàng cần phải duy trì trạng thái thanh khoản tốt vừa

tạo ra sự ổn định cho ngân hàng vừa tạo ra KNSL tốt hơn. Kết quả nghiên cứu phù hợp với giả

thuyết nghiên cứu và các nghiên cứu của Kohlscheen và cộng sự (2018), Kosmidou và cộng sự

(2005), Ndoka và cộng sự (2016), Bassey và Moses (2015), Trần Thị Thanh Nga (2018).

Tiền gửi khách hàng

Kết quả khá thú vị khi so sánh ảnh hưởng của tiền gửi khách hàng đến KNSL của NHTM

trong các giai đoạn khủng hoảng kinh tế thế giới và giai đoạn hậu khủng hoảng. Ảnh hưởng của

tiền gửi khách hàng đảo chiều từ tác động tích cực trong giai đoạn khủng hoảng sang tác động

tiêu cực trong giai đoạn hậu khủng hoảng và tác động tích cực trong toàn bộ thời kỳ 2007 - 2018.

Trong giai đoạn 2007 – 2011, nhu cầu vay vốn của nền kinh tế rất cao do chính sách kích cầu

của chính phủ, các ngân hàng có thể cho vay một cách dễ dàng. Từ đó, tiền gửi khách hàng nhanh

chóng được các ngân hàng cho vay và không bị ứ đọng vốn kinh doanh. Tuy nhiên, sang giai

đoạn 2012 – 2018, chính sách kích cầu đã chấm dứt, chính sách thắt chặt tiền tệ được áp dụng

nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Vì vậy, các ngân hàng gặp khó khăn trong việc

cho vay, giải phóng nguốn vốn huy động được. Kết quả là huy động vốn càng tăng cao, ngân

hàng càng bị ứ đọng vốn và ảnh hưởng tiêu cực đến các chỉ tiêu tài chính. Việc thắt chặt được

giảm bớt từ năm 2015 khi nền kinh tế đã phát triển ổn định, lành mạnh nhưng tốc độ tăng trưởng

tín dụng vẫn thấp hơn rất nhiều so với giai đoạn 2007 – 2011. Tính chung trong toàn bộ thời kỳ

2007 – 2018, tiền gửi khách hàng vẫn đóng vai trò quan trọng và có tác động tích cực đến KNSL

của NHTM, phù hợp với giả thuyết nghiên cứu và các nghiên cứu của Sufian (2011), Lim và

Randhawa (2005), Zhang và Dong (2011).

Chi phí trả lãi

Trong toàn bộ thời kỳ từ 2007 – 2018, giai đoạn 2012 – 2018, chi phí trả lãi có tác động

nghịch chiều đến KNSL. Tuy nhiên, trong giai đoạn khủng hoảng từ năm 2007 đến năm 2018,

chi phí trả lãi có ảnh hưởng tích cực đến ROE nhưng tiêu cực đến ROA. Chiếm phần lớn trong

toàn bộ chi phí của ngân hàng, chi phí trả lãi có sức ảnh hưởng lớn đến hiệu quả tài chính của

NHTM. Đặc thù của hệ thống NHTM Việt Nam bao gồm các ngân có quy mô lớn do nhà nước

chi phối và các ngân hàng có quy mô nhỏ và trung bình. Trong đó, các ngân hàng quy mô lớn

ngoài việc có khả năng cạnh tranh tốt hơn theo lý thuyết quyền lực thị trường, có lợi thế chi phí

120

thấp nhờ quy mô lớn theo lý thuyết hiệu quả theo quy mô (scale efficiency), một lợi thế rất lớn

của các ngân hàng này là có thể huy động vốn với chi phí thấp nhờ các khoản tiền gửi của Kho

bạc Nhà nước, các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Trong bối cảnh lạm phát cao và biến động

với biên độ lớn trong giai đoạn 2007 – 2011, các ngân hàng có quy mô nhỏ và trung bình phải

huy động với chi phí rất cao, ngoài huy động trên thị trường dân cư và tổ chức kinh tế, còn phải

vay trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất lên đến vài chục phần trăm mỗi năm và làm cho

lợi nhuận rất thấp, thậm chí nhiều ngân hàng thua lỗ. Vì vậy, có sự phân hóa rất mạnh giữa các

ngân hàng về lợi nhuận trong giai đoạn này. Mặt khác, trong giai đoạn này, để đáp ứng nhu cầu

vay vốn tăng cao trong bối cảnh chính phủ thực hiện các biện pháp kích cầu, triển khai các

chương trình đầu tư công quy mô lớn nhằm vượt qua ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế

giới, mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính của các ngân hàng gia tăng nên hiệu quả trên 1 đồng vốn

chủ sở hữu tăng lên, tức tăng ROE. Qua giai đoạn hậu khủng hoảng (2012 -–2018), nhu cầu vay

vốn giảm xuống do chính sách ổn định kinh tế trong giai đoạn này nên mức độ sử dụng đòn bẩy

giảm xuống, các ngân hàng lớn cũng không còn thu lãi cao trên thị trường liên ngân hàng nhằm

gia tăng lợi nhuận. Do đó, chi phí trả lãi càng cao càng ảnh hưởng tiêu cực đến KNSL và ngược

lại. Khi xét trong toàn bộ thời kỳ từ 2007 đến 2018, các ngân hàng nào có chi phí trả lãi tháp sẽ

có khả năng gia tăng hiệu quả tài chính, tức chi phí trả lãi có tác động tiêu cực đến KNSL.

Chi phí hoạt động

Một phát hiện quan trọng của nghiên cứu khi so sánh tác động của chi phí hoạt động lên

KNSL của NHTM. Chi phí hoạt động có ảnh hưởng tiêu cực trong giai đoạn khủng hoảng kinh

tế thế giới. Tuy nhiên, qua giai đoạn hậu khủng hoảng từ năm 2012 đến năm 2018, sự ảnh hưởng

có sự đảo chiều từ tiêu cực sang tích cực. Trong giai đoạn 2007 -–2011 là giai đoạn mà các ngân

hàng tăng cường mở rộng mạng lưới hoạt động, chiếm lĩnh thị phần. do đó, cần phải đầu tư mạnh

vào tài sản cố định, cơ sở vật chất, tuyển dụng nhân sự số lượng lớn nhưng kinh nghiệm và năng

suất làm việc thấp. Vì vậy, chi phí ngân hàng bỏ ra càng nhiều càng làm giảm KNSL. Bước sang

giai đoạn hậu khủng hoảng, hệ thống ngân hàng được tái cơ cấu nhằm hoạt động có hiệu quả

hơn. Trong năm 2012, Ngân hàng Nhà nước thực hiện tái cơ cấu hệ thống ngân hàng (NHNN,

2012), đã xác định được 8 ngân hàng yếu kém, cần phải tái cơ cấu, sáp nhập. Kết quả của việc

tái cơ cấu hệ thống ngân hàng là các ngân hàng đã thực hiện củng cố, chấn chỉnh năng lực tài

121

chính, quản trị, hoạt động và năng lực cạnh tranh, khắc phục các sai phạm dưới sự giám sát của

NHNN. Bên cạnh đó, sau quá trình mở rộng mạng lưới, các chi nhánh, phòng giao dịch, nhân sự

kém hiệu quả được các ngân hàng đóng cửa hoặc cắt giảm. Nhờ đó lợi nhuận các ngân hàng thu

được đã tăng nhanh hơn so với chi phí đã bỏ ra.

Các yếu tố kinh tế vĩ mô

Đối với các yếu tố kinh tế vĩ mô là lạm phát và tăng trưởng GDP, khi xét trong giai đoạn

khủng hoảng 2007 - 2011, ảnh hưởng của các yếu tố này có sự thay đổi khi xem xét riêng rẽ

ROA và ROE. Sở dĩ như vậy vì đây là giai đoạn mà nền kinh tế trải qua cú sốc, lạm phát biến

động mạnh, các ngân hàng sử dụng đòn bẩy tài chính lớn và hoạt động phụ thuộc chủ yếu vào

tín dụng. Tuy nhiên, khi xét trong giai đoạn hậu khủng hoảng, các yếu tố này có tác động nhất

quán và tích cực lên KNSL của NHTM. Trong giai đoạn này, lạm phát luôn giữ ở mức 1 chữ số

và tăng trưởng GDP không có biến động quá lớn, tức nền kinh tế khá ổn định, có ảnh hưởng tích

cực lên tâm lý của nhà đầu tư và doanh nghiệp. Các ngân hàng dễ dàng tính toán được chênh

lệch giữa huy động và cho vay một cách hợp lý. Ngoài ra, các ngân hàng cũng đã nỗ lực đa dạng

hóa thu nhập, đẩy mạnh các hoạt động kinh doanh phi tín dụng như bán chéo bảo hiểm, dịch vụ

thu hộ chi hộ, ngân hàng điện tử... đã làm hiệu quả tài chính của ngân hàng cao hơn và bền vững

hơn.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 4

Chương 4 trình bày tóm tắt và cụ thể kết quả các mô hình hồi quy theo phương pháp Bayes

với dữ liệu bảng không cân bằng của 30 NHTM Việt Nam trong thời gian từ 2007 đến 2018.

Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá các yếu tố tác động đến KNSL của các NHTM Việt

Nam trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế thế giới (2007 – 2011), trong giai đoạn hậu khủng

hoảng (2012 -–2018) và trong toàn bộ thời kỳ (2007 – 2018), tác động của khủng hoảng kinh tế

thế giới đến KNSL của NHTM Việt Nam. Ngoài ra, tác giả còn tiến hành so sánh tác động của

các yếu tố đến KNSL của NHTM trong từng thời kỳ và trong toàn bộ thời kỳ. Các kiểm định

được thực hiện nhằm đảm bảo suy luận Bayes là vững được tác giả thực hiện nhằm giải thích các

kết quả nghiên cứu và rút ra các kết luận chuẩn xác.

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu của chương 4, chương 5 sẽ đề xuất các giải pháp và kiến nghị

giúp các NHTM hoạt động hiệu quả và đạt được KNSL hợp lý.

122

CHƯƠNG 5

KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH ĐỂ CÁC NGÂN HÀNG

THƯƠNG MẠI VIỆT NAM ĐẠT ĐƯỢC KHẢ NĂNG SINH LỜI HỢP

LÝ TRONG BỐI CẢNH KHỦNG HOẢNG KINH TẾ THẾ GIỚI

Chương này sẽ trình bày tóm tắt về các kết quả đạt được trong nghiên cứu đã được thực

hiện và thảo luận trong các chương trước. Bên cạnh đó, trong chương này tác giả cũng nêu lên

những đóng góp mới của nghiên cứu về mặt học thuật, từ đó gợi ý một số hàm ý chính sách cũng

như hạn chế của đề tài và hướng nghiên cứu tiếp theo.

5.1 KẾT LUẬN

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm tìm hiểu các yếu tố tác động đến KNSL của các

NHTM Việt Nam trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới, dựa trên khoảng trống nghiên cứu

đã được tác giả xác định trong chương 1, kết quả nghiên cứu đã:

- Đánh giá một cách tổng thể các yếu tố tác động đến KNSL của NHTM Việt Nam trong

toàn bộ giai đoạn khủng hoảng, từ năm 2007 đến năm 2011.

- Áp dụng phương pháp Bayes và thuật toán lấy mẫu Gibbs, nghiên cứu đã chỉ ra các yếu

tố tác động đến KNSL của các NHTM là quy mô ngân hàng, dự phòng RRTD, tài sản thanh

khoản, dư nợ cho vay, vốn ngân hàng, chi phí hoạt động, tiền gửi khách hàng, chi phí trả lãi, lạm

phát, tốc độ tăng trưởng GDP, khủng hoảng kinh tế thế giới.

- So sánh chiều hướng tác động của các yếu tố vi mô và vĩ mô đến KNSL của NHTM

trong hai giai đoạn, khủng hoảng kinh tế và hậu khủng hoảng kinh tế thế giới. Cụ thể như sau:

Các yếu tố tác động đến KNSL của NHTM Việt Nam trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế

thế giới

Thứ nhất, Luận án tìm thấy nhiều yếu tố mang tính đặc thù của hệ thống NHTM Việt Nam

có ảnh hưởng đến KNSL bao gồm quy mô ngân hàng, dự phòng rủi ro tín dụng, vốn ngân hàng,

dư nợ cho vay, tiền gửi khách hàng, tài sản thanh khoản, chi phí hoạt động, chi phí trả lãi.

123

Thứ hai, chiều hướng tác động của các yếu tố khác nhau, chứng tỏ một số yếu tố có tác

động tích cực, một số yếu tố khác có tác động tiêu cực đến KNSL của NHTM. Các yếu tố có tác

động tích cực đến KNSL là quy mô ngân hàng, vốn ngân hàng, dư nợ cho vay, tài sản thanh

khoản, tiền gửi khách hàng. các yếu tố có tác động tiêu cực là dự phòng RRTD, chi phí hoạt

động. Ngoài ra, chi phí trả lãi và lạm phát tác động tích cực đến ROE nhưng tiêu cực đến ROA,

tốc độ tăng trưởng GDP tác động tích cực đến ROA nhưng tiêu cực đến ROE.

Thứ ba, trong số các yếu tố đó, quy mô ngân hàng và vốn ngân hàng có sự tác động mạnh

nhất, tức có sự ảnh hưởng lớn nhất đến KNSL của NHTM Việt Nam.

Các yếu tố tác động đến KNSL của NHTM Việt Nam trong giai đoạn hậu khủng hoảng

kinh tế thế giới

Thứ nhất, Luận án cung cấp bằng chứng cho thấy sự tác động của các yếu tố đến KNSL

của NHTM là nhất quán đến ROA và ROE.

Thứ hai, các yếu tố tác động cùng chiều đến KNSL là quy mô ngân hàng, vốn ngân hàng,

dư nợ cho vay, tài sản thanh khoản, chi phí hoạt động, lạm phát, tăng trưởng GDP. Các yếu tố

tác động ngược lại là dự phòng RRTD, tiền gửi khách hàng, chi phí trả lãi,

Thứ ba, yếu tố tác động mạnh nhất đến KNSL của NHTM trong giai đoạn này là quy mô

ngân hàng và vốn ngân hàng.

So sánh chiều hướng tác động của các yếu tố đến KNSL của NHTM trong hai giai đoạn

Thứ nhất, các yếu tố có chiều hướng tác động tương tự nhau trong cả hai thời kỳ bao gồm

quy mô ngân hàng, vốn ngân hàng, dư nợ cho vay, tài sản thanh khoản, dự phòng RRTD. Trong

đó, quy mô ngân hàng, vốn ngân hàng, dư nợ cho vay, tài sản thanh khoản có tác động tích cực,

dự phòng RRTD có tác động tiêu cực đến KNSL.

Thứ hai, phát hiện quan trọng và thú vị của nghiên cứu là có sự đảo chiều vể hướng tác

động của tiền gửi khách hàng và chi phí hoạt động. Đối với yếu tố tiền gửi khách hàng, trong

giai đoạn 2007 – 2011, chiều hướng tác động là cùng chiều, chiều hướng tác động trong giai

đoạn 2012 – 2018 là ngược chiều. Trong khi đó, tác động của chi phí hoạt động trong giai đoạn

2007 – 2011 là tiêu cực nhưng trong giai đoạn sau là tích cực.

124

Thứ ba, chi phí trả lãi có tác động tích cực đến ROE nhưng tiêu cực đến ROA trong giai

đoạn 2007 -–2011, nhưng có tác động tiêu cực đến cả ROA và ROE trong giai đoạn sau. lạm

phát có tác động ngược chiều đến ROA nhưng củng chiều đến ROE trong giai đoạn 2007 – 2011,

có tác động cùng chiều đến cả ROA và ROE trong giai đoạn 2012 -–2018.

Tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới đến KNSL của NHTM Việt Nam

Nghiên cứu tìm thấy bằng chứng cho thấy, trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới,

KNSL của cac NHTM Việt Nam tốt hơn so với giai đoạn sau đó. Kết quả này được giải thích

dựa trên quan điểm của trường phái Keynes (1936), cho rằng khi nền kinh tế xảy ra khủng hoảng

hay bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng, chính phủ cần tăng cường chi tiêu bằng cách thực hiện các

chương trình đầu tư công quy mô lớn nhằm tạo công ăn việc làm, lan tỏa niềm tin cho cộng đồng

doanh nghiệp và nhà đầu tư, kích thích tiêu dùng và đầu tư. Trên cơ sở đó, nhu cầu vay vốn trong

nền kinh tế sẽ tăng mạnh và thúc đẩy lợi nhuận của các ngân hàng. Vì vậy, trong bối cảnh khủng

hoảng kinh tế thế giới, Chính phủ Việt Nam đã thực hiện các chương trình đầu tư công có quy

mô lớn, cấp bù lãi suất cho người vay vốn, miễn giảm thuế giãn thời gian nộp một số loại thuế,

tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng cho cá nhân và doanh nghiệp. Vì vậy, các ngân hàng đã

cò sự tăng trưởng lợi nhuận rất lớn và đạt được hiệu quả tài chính cao. Kết quả nghiên cứu cũng

phù hợp với các nghiên cứu của Chronopoulos và cộng sự (2015), Lindblom và Willesson (2010),

Kamarudin và cộng sự (2016).

Kết quả nghiên cứu này có ý nghĩa quan trọng trong việc bổ sung bằng chứng thực nghiệm

khá tin cậy về chiều hướng tác động của các yếu tố vi mô và vĩ mô đến KNSL của NHTM tại

Việt Nam trong từng thời kỳ và trong toàn bộ thời kỳ, tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới

đến KNSL của các NHTM Việt Nam. Với góc độ nhà quản lý, nhà đầu tư, cơ quan giám sát, kết

quả nghiên cứu này cũng góp phần định hướng điều hành, thực hiện chính sách lĩnh vực đầu tư,

qua đó góp phần ổn định hoạt động của hệ thống ngân hàng và đạt được KNSL hợp lý. Vì vậy,

kết quả nghiên cứu của luận án là cơ sở tham khảo cho các nhà hoạch định chính sách, nhà quản

lý trong việc tăng cường hiệu quả tài chính và ổn định hệ thống ngân hàng.

5.2 GỢI Ý CHÍNH SÁCH ĐỂ CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

ĐẠT ĐƯỢC KHẢ NĂNG SINH LỜI HỢP LÝ TRONG BỐI CẢNH KHỦNG

125

HOẢNG KINH TẾ THẾ GIỚI

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu thực nghiệm, Luận án rút ra một số gợi ý chính sách như sau:

5.2.1 Đối với các ngân hàng thương mại

5.2.1.1 Giải pháp về quy mô và vốn ngân hàng

Đối với quy mô ngân hàng: Kết quả nghiên cứu cho thấy quy mô ngân hàng có tác động

tích cực và mạnh nhất đến KNSL của NHTM Việt Nam trong cả hai giai đoạn và trong toàn bộ

thời kỳ. Vì vậy, tăng quy mô là giải pháp mà các ngân hàng cần ưu tiên thực hiện trong giai đoạn

khủng hoảng kinh tế thế giới cũng như giai đoạn hậu khủng hoảng. Trong chiến lược phát triển

ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 của Thủ tướng Chính phủ

đặt mục tiêu đến cuối năm 2020 có từ 1 đến 2 ngân hàng nằm trong nhóm 100 ngân hàng khu

vực Châu Á có tổng tài sản lớn nhất, đến năm 2025 có 2 đến 3 ngân hàng (Chính phủ, 2018).

Điều đó cho thấy tăng quy mô ngân hàng là mục tiêu quan trọng, được Chính phủ quan tâm và

chỉ đạo thực hiện. Tuy nhiên, một số nghiên cứu như nghiên cứu của Kohlscheen và cộng sự

(2018), Batten và Vo (2019), Rahman và cộng sự (2015). Nguyễn Thị Thu Hiền (2017) cho thấy

quy mô ngân hàng tác động tiêu cực đến KNSL của NHTM. Vì vậy, quy mô ngân hàng càng lớn

có khả năng làm giảm KNSL do năng lực ban lãnh đạo và chất lượng đội ngũ nhân sự không

theo kịp tốc độ tăng quy mô, làm giảm hiệu quả quản lý chi phí, tăng rủi ro hoạt động và các lý

do không thể kiểm soát. Do đó, trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế thế giới, các ngân hàng mở

rộng quy mô thì đặc biệt cần coi trọng đến việc phát triển năng lực lãnh đạo, phát triển nguồn

nhân lực có số lượng và năng lực tương xứng.

Các ngân hàng cần xem xét mở rộng mạng lưới hoạt động sang các nước trong khu vực

và trên thế giới nhằm tận dụng quá trình hội nhập sâu rộng của kinh tế Việt Nam vào các nền

kinh tế, liên minh kinh tế toàn cầu. Việc gia nhập Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam

và Liên minh châu Âu (EVFTA) và Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình

Dương (CPTPP) vào cuối năm 2019 của Việt Nam mở ra cơ hội vô cùng lớn cho các ngân hàng

Việt Nam trong việc tiếp cận các thị trường tư do có quy mô lớn này. Trước mắt, để hạn chế rủi

ro và nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản, các ngân hàng có thể ưu tiên mở rộng mạng lưới sang

các nước lớn nhất trong khối này như một số nước EU, Nhật Bản, Australia, Singapore, Canada,

126

trở thành cầu nối quan trọng cho các doanh nghiệp Việt Nam với các thị trường quan trọng này.

Có thể thực hiện thí điểm, không ồ ạt và cần tổ chức đánh giá những ưu nhược điểm trước khi

mở rộng thêm mạng lưới ở các quốc gia, vùng lãnh thổ này để có thể ứng phó tốt hơn với bất kỳ

cuộc khủng hoảng tiềm tàng nào trong tương lai.

Đối với vốn ngân hàng: Tương tự như quy mô ngân hàng, vốn ngân hàng được chứng

minh có tác động tích cực đến KNSL của NHTM Việt Nam trong cả 2 giai đoạn và trong toàn

bộ thời kỳ. Tăng quy mô vốn chủ sở hữu không chỉ làm tăng KNSL của NHTM mà còn góp phần

nâng cao mức độ ổn định tài chính của ngân hàng, là tấm đệm giúp các ngân hàng ứng phó tốt

hơn với các cú sốc tài chính, đáp ứng các chuẩn mực an toàn vốn quốc tế, đặc biệt trong bối cảnh

các ngân hàng của Việt Nam đang nỗ lực đáp ứng tiêu chuẩn an toàn vốn Basel II. Vì vậy, tăng

vốn ngân hàng cần được thực hiện trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế thế giới và thời kỳ hậu

khủng hoảng. Tuy nhiên, việc tăng vốn quá nhanh có thể có tác dụng ngược đến hiệu quả tài

chính của NHTM. Các nghiên cứu của Nguyễn Phạm Nhã Trúc và Nguyễn Phạm Thiên Thanh

(2016), Batten và Vo (2019), Zhang và Dong (2011), Kohlscheen và cộng sự (2018) cho thấy

vốn ngân hàng tác động cùng chiều đến ROA nhưng ngược chiều đến ROE. Điều đó cho thấy

bên cạnh việc tăng vốn, sử dụng vốn có hiệu quả là vấn đề cần được chú trọng nhằm đảm bảo

hiệu quả của đồng vốn tăng thêm. Để làm được điều đó, các ngân hàng cần nâng cao năng lực

quản trị vốn trong ngân hàng, nghiên cứu và đưa ra cách thức đánh giá về vốn chủ sở hữu và tài

sản rủi ro, qua đó hoạnh định vốn chính xác và khoa học, đồng thời đánh giá chính xác về hiệu

quả sử dụng vốn.

So với các nước trong khu vực và trên thế giới, quy mô vốn chủ sở hữu của các ngân hàng

Việt Nam còn rất nhỏ, kể cả các ngân hàng lớn do nhà nước chi phối (Phạm Thủy Tú, 2019).

Điều đó đã gây cản trở cho các ngân hàng của Việt Nam trong việc tiếp cận thị trường khu vực

và trên thế giới, cản trở việc tiếp cận nguồn tài chính của các nhà đầu tư quốc tế. Do đó, không

đáp ứng được sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh nước ta ngày càng hội nhập

sâu rộng vào các nền kinh tế và các liên minh kinh tế toàn cầu, tiêu biểu như Việt Nam đã gia

nhập Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương

mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA). Vì vậy, việc tăng vốn chủ sở hữu và

sử dụng vốn có hiệu quả càng trở nên cấp thiết. Các ngân hàng có nhiều cách để tăng vốn như sử

127

dụng lợi nhuận giữ lại, sáp nhập và hợp nhất các ngân hàng quy mô nhỏ hoặc các ngân hàng quy

mô lớn với ngân hàng quy mô nhỏ, phát hành cổ phiếu cho các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài.

Sự tham gia của các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài sẽ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong

việc nâng cao hiệu quả hoạt động cho các ngân hàng nhờ được chuyển giao công nghệ hiện đại,

hỗ trợ tài chính dồi dào, thương hiệu uy tín và chia sẻ những kinh nghiệm quản trị quý giá. Ngoài

ra, các ngân hàng nhà nước chi phối cần giảm tỷ lệ cổ phần nhà nước nắm giữ, nhanh chóng tiến

hành cổ phần hóa đối với ngân hàng nhà nước sở hữu 100%.

5.2.2.2 Giải pháp đối với dư nợ cho vay

Dư nợ cho vay được chứng minh thực nghiệm có ảnh hưởng tích cực đến KNSL của

NHTM Việt Nam trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế thế giới, giai đoạn hậu khủng hoảng và

trong toàn bộ thời kỳ. Kết quả này cho thấy hoạt động ngân hàng vẫn phụ thuộc chủ yếu vào cho

vay. Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới, Chính phủ Việt Nam thực hiện các biện pháp

để đối phó vời sự ảnh hưởng tiêu cực bằng cách thực hiện các chương trình đầu tư công quy mô

lớn, sử dụng ngân sách cấp bù lãi suất vay vốn... nên đã kích hoạt nhu cầu vay vốn tăng đột biến

của các cá nhân và doanh nghiệp trong giai đoạn này. Tuy nhiên, do kiểm soát không tốt nên

dòng vốn chảy chủ yếu vào bất động sản và chứng khoán, là những lĩnh vực mang tính chất đầu

cơ, làm méo mó và gây nguy hại cho nền kinh tế trong giai đoạn sau. Vì thế, các ngân hàng cần

thận trọng hơn khi cho vay, hạn chế bơm vốn cho bất động sản, chứng khoán… Việc tăng trưởng

tín dụng quá nóng có thể giúp ngân hàng thu được lợi nhuận lớn trước mắt nhưng để lại hậu quả

lâu dài về sau. Bên cạnh đó, cần xem xét thận trọng hơn khi thẩm định tín dụng và đặt các yêu

cầu cao hơn trong giai đoạn này vì đây chính là lúc tâm lý người vay rất hứng khởi, bỏ qua hoặc

không đánh giá được đầy đủ những rủi ro phát sinh trong tương lai khi vay vốn. Khi chính phủ

đột ngột dừng các chương trình kích thích kinh tế, các khoản đầu tư trước đây không đem lại

hiệu quả mong muốn sẽ dẫn đến nợ xấu, vốn là gánh nặng tài chính cho các ngân hàng. Khi nợ

xấu tăng lên, trích lập dự phòng RRTD tăng và hiệu quả tài chính giảm xuống. Kết quả nghiên

cứu thực nghiệm cũng cho thấy dự phòng RRTD có tác động tiêu cực đến KNSL của NHTM

trong tất cả các giai đoạn. Nâng cao chất lượng các khoản vay có thể hạn chế nợ xấu, hoạt động

của hệ thống ngân hàng ổn định hơn và hiệu quả tài chính cao hơn trong dài hạn. Thực tế cho

thấy, nhiều ngân hàng tại Việt Nam, đặc biệt là các ngân hàng quy mô nhỏ và trung bình, có

128

chiến lược tập trung cho vay đối với lĩnh vực bất động sản, chứng khoán trong giai đoạn khủng

hoảng kinh tế thế giới mà không đa dạng hóa danh mục cho vay. Vỉ thế, đa dạng hóa danh mục

cho vay là rất quan trọng cho tất cả các ngân hàng để có thể nâng cao chất lượng các khoản vay.

Bên cạnh đa dạng hóa danh mục cho vay, các ngân hàng cần đa dạng hóa hoạt động kính

doanh, tránh việc phụ thuộc quá nhiều vào cho vay. Đa dạng hóa hoạt động giúp các ngân hàng

có khả năng ổn định tài chính và hạn chế được ảnh hưởng của bất kỳ cuộc khủng hoảng nào tiềm

tàng trong tương lai. Điều đó cũng tương thích với chiến lược phát triển ngành ngân hàng đến

năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030. Theo đó, các ngân hàng cần chuyển đổi mạnh mẽ mô hình

kinh doanh, đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ ngân hàng phi tín dụng, thoái vốn đầu tư ngoài ngành,

gia tăng xuất khẩu dịch vụ tài chính... Phấn đấu đến cuối năm 2025 tỷ trọng thu nhập từ hoạt

động phi tín dụng chiếm 16% - 17% trong tổng thu nhập của các NHTM (Chính phủ, 2018).

Để đảm bảo ứng phó linh hoạt với sự biến động của nền kinh tế trong nước cũng như trên

thế giới, các ngân hàng cần giảm tỷ trọng cho vay trung và dài hạn mà tăng tỷ trọng cho vay ngắn

hạn. Bản thân các ngân hàng huy động tiền gửi ngắn hạn là chủ yếu nên khi khủng hoảng xảy ra,

các khoản cho vay dài hạn trở thành gánh nặng cho ngân hàng khi không thể cân đối nguồn vốn.

Vì vậy, giảm tỷ trọng cho vay trung dài hạn và tăng tỷ trọng cho vay ngắn hạn là vấn đề then

chốt mà các ngân hàng cần thực hiện để có thể ứng phó tốt hơn trong điều kiện khủng hoảng kinh

tế.

5.2.2.3 Giải pháp đối với công tác quản trị thanh khoản và tiền gửi khách hàng

Kết quả nghiên cứu thực nghiệm của Luận án cho thấy tiền gửi khách hàng có tác động

tích cực trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế nhưng có tác động tiêu cực trong thời kỳ hậu khủng

hoảng. Bên cạnh đo, tài sản thanh khoản có ảnh hưởng tích cực đến KNSL của NHTM trong tất

cả các thời kỳ. Vì vậy, các ngân hàng cần có chiến lược khác nhau nhằm thu hút vốn của người

gửi tiền trong từng thời kỳ và luôn đảm bảo khả năng thanh khoản của ngân hàng. Sở dĩ các ngân

hàng đạt được hiệu quả tài chính cao nhờ vào lượng tiền gửi tăng trong thời kỳ khủng hoảng là

vì nhu cầu vay vốn trong thời kỳ này tăng cao. Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, vì quá tập

trung vào cho vay làm bất ổn tài chính của các ngân hàng tăng lên. Và do đó, cần phân bổ nguồn

vốn huy động được qua các kênh khác nhau, tăng tỷ trọng cho vay ngắn hạn tương ứng với tiền

gửi ngắn hạn mà ngân hàng huy động được. Điều đó giúp các ngân hàng đạt được hai mục đích:

129

Thứ nhất, dòng vốn cho vay của ngân hàng sẽ tập trung cho các nhu cầu vay vốn đáp ứng

nhu cầu sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, qua đó tạo công ăn việc làm, thúc đẩy nền

kinh tế phát triển. Bản thân các doanh nghiệp sẽ có động lực cao hơn nhằm huy động vốn trung

và dài hạn trên thị trường chứng khoán, vốn đòi hỏi tình trạng tài chính tốt và mức độ minh bạch

thông tin cao. Đồng thời các nhu cầu cho hoạt động đầu cơ, đặc biệt là đầu cơ bất động sản, sẽ

giảm xuống vì vay mua bất động sản luôn cần thời hạn cho vay dài. Điều đó tốt cho sự phát triển

của thị trường chứng khoán lẫn khu vực ngân hàng. Sự phát triển của nền kinh tế sẽ lành mạnh

hơn, giảm bớt sự phụ thuộc vào tăng trưởng tín dụng, vốn ẩn chứa nhiều rủi ro.

Thứ hai, các ngân hàng sẽ linh hoạt hơn trong hoạt động và trạng thái thanh khoản luôn

được đảm bảo vì dòng vốn của ngân hàng sẽ luân chuyển liên tục, các ngân hàng luôn chủ động

trong việc cân đối nguồn vốn của mình.

Trên thực tế, trong giai đoạn 2007 – 2011, nhiều ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng có

quy mô vừa và nhỏ của Việt Nam tập trung một lượng vốn lớn để cho vay bất động sản, với mức

dư nợ cho vay bất động sản đạt đỉnh vào năm 2011, gây bóng bóng giá tài sản và làm méo mó

nền kinh tế (Đoàn Thanh Hà & Lê Thanh Ngọc, 2013). Trong giai đoạn sau, khi bất động sản bị

đóng băng, các ngân hàng này không thể cân đối nguồn vốn và hoàn toàn mất khả năng thanh

khoản, ảnh hưởng xấu đến hệ thống ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung. Vì vậy, trong

bối cảnh khủng hoảng kinh tế, các ngân hàng cần phải thận trọng hơn trong hoạt động của mình,

phân bổ nguồn vốn huy động được và cho vay một cách hợp lý, đảm bảo tình trạng thanh khoản

tốt, chú trọng cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên của nhà nước như xuất khẩu, công nghệ cao.

5.2.2.4 Giải pháp đối với chi phí hoạt động và chi phí trả lãi

Đối với chi phí hoạt động: Chi phí hoạt động có tác động khác nhau đến KNSL của NHTM

trong từng giai đoạn. Trong giai đoạn 2007 – 2011, chi phí hoạt động có tác động tiêu cực đến

KNSL nhưng có tác động tích cực trong giai đoạn sau đó. Phần lớn chi phí hoạt động dùng để

trả lương nhân viên và các chi phí để duy trì hoạt động hàng ngày của các chi nhánh, phòng giao

dịch. Với các chương trình đầu tư công quy mô lớn, kích thích tiêu dùng và đầu tư của Chính

phủ nhằm tránh ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng kinh tế thế giới, các ngân hàng Việt Nam

trong giai đoạn 2007 -–2011 đã có sự phát triển mạnh mạng lưới hoạt động và bộ máy nhân sự.

Kết quả là chi phí hoạt động của ngân hàng tăng mạnh trong khi lợi nhuận không tăng tương

130

ứng. Vì vậy, các ngân hàng không nên tuyển dụng nhân sự một cách ồ ạt mà chú trọng chất

lượng, năng suất nhân viên, sự phù hợp của vị trí công việc từng nhân viên và ban lãnh đạo.

Thường xuyên tổ chức các chương trình đào tạo kỹ năng, phẩm chất nghề nghiệp cho nhân viên,

tăng cường chất lượng của các chương trình đào tạo, tập trung sâu vào chuyên môn, nâng cao

trách nhiệm cũng như thái độ nghề nghiệp cho nhân viên. Bên cạnh đó, thường xuyên cập nhật

các chỉ tiêu kiểm tra đánh giá hiệu quả công việc của từng nhân viên. Ngoài ra, kết quả nghiên

cứu chỉ ra trong giai đoạn hậu khủng hoảng, chi phí hoạt động tác động tích cực đến KNSL của

NHTM. Đây cũng là giai đoạn mà các NHTM Việt Nam thực hiện tái cơ cấu, sắp xếp lại hệ thống

ngân hàng, đổi mới hệ thống quản trị ngân hàng theo hướng hiện đại, phù hợp với thông lệ, chuẩn

mực quốc tế. Đồng thời, các ngân hàng cũng tiến hành cơ cấu lại hoạt động kinh doanh theo

hướng an toàn, lành mạnh hơn. Nhờ đó, hoạt động quản trị, điều hành của các ngân hàng đã mang

tính chuyên nghiệp hơn, tiếp cận với chuẩn mực quản trị ngân hàng hiện đại, tích cực hợp tác

chuyển giao công nghệ, hợp tác chiến lược với các ngân hàng tầm vóc toàn cầu. Vì vậy, các ngân

hàng cần tiếp tục tái cơ cấu hoạt động, tiếp cận các chuẩn mực quản trị quốc tế, tích cực tìm kiếm

và hợp tác với các đối tác chiến lược quốc tế để được hỗ trợ về nguồn vốn, nhân sự chất lượng

cao, kinh nghiệm quản trị quý giá. Ngoài ra, các ngân hàng còn nhiều yếu kém cần sáp nhập vào

các ngân hàng đã đạt hoặc tiệm cận với các chuẩn mực quốc tế để cải thiện hoạt động và giảm

rủi ro cho hệ thống ngân hàng.

Đối với các vị trí lãnh đạo, quản lý chủ chốt của ngân hàng, ngoài năng lực chuyên môn,

kinh nghiệm làm việc thì phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp cực kỳ quan trọng. Thực tế cho thấy

những sai phạm lớn trong hoạt động ngân hàng chủ yếu do sự cố ý của lãnh đạo ngân hàng. Ở

bất kỳ công ty, đơn vị nào, con người vẫn là tài sản quý giá nhất. Trong lĩnh vực đặc thù như

ngân hàng, một lĩnh vực cần chiều sâu về kiến thức chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp, thì yếu

tố con người càng có ý nghĩa cho sự phát triển của ngân hàng. Do đó, sự gia tăng chi phí hoạt

động, phần lớn dành cho nhân viên của ngân hàng, sẽ dẫn đến lợi nhuận cao hơn, tăng hiệu quả

tài chính cho ngân hàng.

Đối với chi phí trả lãi: Trong giai đoạn 2007 – 2011, các ngân hàng đạt được hiệu quả tài

chính cao hơn trên mỗi đồng vốn chủ sở hữu bỏ ra khi chi phí trả lãi tăng lên. Điều đó cho thấy

các ngân hàng tăng lãi suất cho vay tương ứng với lãi suất huy động tăng lên. Mặc dù ngân hàng

131

vẫn có thể đạt hiệu quả tài chính ban đầu nhưng tiềm ẩn nhiều rủi ro trong tương lai do người

vay có thể rơi vào tình trạng kiệt quệ tài chính từ lãi vay phải trả quá cao. Kết quả là ngân hàng

sẽ tăng nợ xấu và tăng trích lập dự phòng RRTD, dẫn đến giảm KNSL. Vì vậy, các ngân hàng

hạn chế huy động vốn với lãi suất cao trong giai đoạn này, tích cực tìm kiếm các nguồn vốn ổn

định, lãi suất thấp trong và ngoài nước như phát hành trái phiếu quốc tế, vay các tổ chức tài chính

quốc tế.

Với đặc thù của hệ thống NHTM Việt Nam bao gồm các ngân hàng lớn do nhà nước chi

phối và các ngân hàng nhỏ và trung bình khác, khả năng huy động vốn rất khác nhau trong bối

cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới. Trong đó, các ngân hàng lớn luôn có lợi thế về nguồn vốn với

chi phí thấp từ Kho bạc Nhà nước, các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, các ngân hàng còn lại

không có được lợi thế như vậy và huy động vốn với lãi suất cao từ dân cư và trong một số trường

hợp, phải vay từ các ngân hàng lớn trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất rất cao. Vì vậy,

trong giai đoạn này, các ngân hàng lớn do nhà nước chi phối cần thể hiện vai trò dẫn dắt của

mình nhằm ổn định thị trường, hỗ trợ về nguồn vốn với chi phí thấp cho các ngân hàng khác khắc

phục tình trạng thiếu thanh khoản, tránh trường hợp cho vay lãi suất cao trên thị trường liên ngân

hàng.

5.2.2 Đối với cơ quan quản lý nhà nước

Thứ nhất, mặc dù KNSL của các NHTM tốt hơn trong bối cảnh khủng hoảng tài chính thế

giới. Kết quả này do chính sách kích thích tiêu dùng và đầu tư của Chính phủ nhằm vượt qua tác

động từ môi trường bất ổn bên ngoài đến kinh tế Việt Nam. Cách tiếp cận như vậy của Chính

phủ là phù hợp theo trường phái Keynes (1936). Tuy nhiên, việc bùng nổ tín dụng nhưng chất

lượng tín dụng kém đã để lại hậu quả lâu dài cho hệ thống ngân hàng mà cho đến nay vẫn chưa

thể giải quyết được, đặc biệt là nợ xấu tăng mạnh trong giai đoạn sau đó. Cụ thể, theo Ngân hàng

Nhà nước, tỷ lệ nợ xấu tăng mạnh từ năm 2012 đến năm 2014 lần lượt là 4,86%, 3,79%, 3,7%,

trong đó đỉnh điểm của nợ xấu toàn hệ thống ngân hàng là năm 2012. Do vậy, chất lượng tín

dụng là điều cực kỳ quan trọng. Ngân hàng Nhà nước cần giám sát chặt chẽ các NHTM nhằm

đảm bảo chất lượng khoản vay và đúng mục đích sử dụng vốn vay, không nên nôn nóng đặt mục

tiêu tăng trưởng tín dụng quá cao cho hệ thống ngân hàng mà không giám sát được một cách có

hiệu quả.

132

Thứ hai, Ngân hàng Nhà nước cần thiết lập mức tăng trưởng tín dụng hợp lý hơn cho từng

ngân hàng và cho toàn bộ hệ thống ngân hàng trong giai đoạn khủng hoảng, có sự chuẩn bị kỹ

lưỡng hơn về mọi mặt khi thực hiện các biện pháp kích thích kinh tế. Chính phủ cần có cách tiếp

cận khác trong việc ứng phó với các cuộc khủng hoảng kinh tế tiềm tàng trong tương lai. Với

cách tiếp cận cũ đã thúc đẩy tăng trưởng tín dụng ở mức cao của hệ thống ngân hàng. Cụ thể,

theo thống kê của NHNN, tăng trưởng tín dụng trung bình trong giai đoạn 2007 – 2011 là 32%,

rất cao so với mức trung bình 14,94% trong giai doạn 2012 – 2018. Điều đó giúp các ngân hàng

đạt được KNSL cao trong giai đoạn 2007 - 2011 nhưng tỷ lệ nợ xấu tăng mạnh trong giai đoạn

sau.

Thứ ba, đặc thù của hệ thống ngân hàng Việt Nam bao gồm các ngân hàng do nhà nước

chi phối được hưởng nhiều ưu đãi trong huy động vốn từ Kho bạc Nhà nước, các tập đoàn, tổng

công ty nhà nước (VDSC, 2018). Do đó, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước cần tạo ra cơ chế cạnh

tranh trong việc huy động các nguồn vốn từ Kho bạc Nhà nước hay các nguồn vốn tạm thời nhàn

rỗi của Ngân sách Nhà nước, thay vì chỉ tập trung vào các ngân hàng mà Nhà nước nắm chi phối

như hiện nay. Việc phân bổ nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của Ngân sách Nhà nước một cách hợp

lý hơn trong toàn bộ hệ thống ngân hàng không những giúp các ngân hàng nhỏ giảm bớt căng

thẳng thanh khoản khi gặp các cú sốc mà còn giúp nguồn vốn được sử dụng có hiệu quả hơn,

không bị ứ đọng vốn trong kinh doanh. Hơn nữa, hệ thống ngân hàng sẽ trở nên an toàn, lành

mạnh hơn, ứng phó tốt hơn với các cú sốc khi các nguồn lực được phân bổ một cách hợp lý. Một

hệ thống ngân hàng muốn an toàn, lành mạnh đòi hỏi từng ngân hàng phải an toàn, lành mạnh vì

hệ thống ngân hàng là một thể thống nhất, không thể tách rời.

Thứ tư, để thúc đẩy tiêu dùng và đầu tư cũng như hỗ trợ người dân vượt qua khó khăn khi

kinh tế suy yếu, ngoài các chính sách về tài khóa, Chính phủ có thể lựa chọn những giải pháp

khác như trợ giá một số sản phẩm, dịch vụ quan trọng, cung cấp các khoản hỗ trợ bằng tiền mặt

trực tiếp cho người dân để chi tiêu, kích thích một cách có chọn lọc các lĩnh vực chủ chốt của

nền kinh tế như du lịch, xuất khẩu, nông nghiệp, công nghệ cao... Việc kích thích một cách dàn

trải, không có trọng tâm vào lĩnh vực nào đã làm cho hiệu quả các chính sách bị giảm sút, thậm

chí là gánh nặng trong giai đoạn sau. Vì vậy, chính sách kích cầu là một chính sách đúng đắn,

133

nhưng cách thực hiện như thế nào là điều vô cùng quan trọng cho các nhà hoạch định chính sách

khi nền kinh tế trải qua những biến động mạnh.

5.3 HẠN CHẾ CỦA LUẬN ÁN VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO

Luận án đã có những phát hiện thú vị và quý giá, có những đóng góp nhất định cả về khoa

học lẫn thực tiễn về hiệu quả tài chính của NHTM Việt Nam. Tuy nhiên, Luận án cũng còn tồn

tại những mặt hạn chế như sau:

Thứ nhất, nghiên cứu chỉ sử dụng hai chỉ tiêu là ROA và ROE đại diện cho KNSL của

NHTM. Trong khi đó, bên cạnh ROA và ROE, chỉ tiêu NIM (Net interest margin) được nhiều

nghiên cứu sử dụng để đánh giá KNSL của NHTM (Fungáčová & Poghosyan; Dietrich &

Wanzenried, 2011; Rahman & cộng sự). Vì vậy, trong các nghiên cứu tiếp theo sẽ sử dụng chỉ

tiêu NIM đại diện cho KNSL của NHTM.

Thứ hai, nghiên cứu được thực hiện giới hạn trong phạm vi một quốc gia là Việt Nam.

Trong các nghiên cứu tiếp theo có thể xem xét sử dụng một bộ mẫu lớn hơn gồm nhiều quốc gia

và kéo dài thời gian nghiên cứu để cung cấp một phân tích toàn diện hơn về KNSL của NHTM

như các nước ASEAN hoặc các nước mới nổi.

Thứ ba, mẫu nghiên cứu là 30 NHTM và không bao gồm các loại hình ngân hàng khác

như ngân hàng 100% vốn nước ngoài, ngân hàng liên doanh, các tổ chức tín dụng phi ngân hàng.

Các ngân hàng này có năng lực tài chính, quy mô, năng lực quản trị, đối tượng khách hàng khác

nhau. Trong các nghiên cứu trong tương lai có thể được thực hiện đối với các loại hình ngân

hàng này.

Thứ tư, đặc thù của hệ thống NHTM Việt Nam bao gồm các ngân hàng do nhà nước chi

phối có quy mô lớn, lịch sử lâu đời, được hưởng nhiều ưu đãi và phải thực hiện một số nhiệm vụ

chính trị. Sẽ là thiếu sót nếu chưa so sánh về KNSL nhóm các ngân hàng này với nhóm các ngân

hàng còn lại. Do đó, trong các nghiên cứu tiếp theo sẽ đánh giá sự khác biệt giữa các nhóm ngân

hàng này về KNSL.

Thứ năm, Gordon (1994) cho rằng chu kỳ kinh tế gồm những thời kỳ bành trướng xảy ra

hầu như cùng một lúc trong nhiều hoạt động kinh tế, và tiếp theo đó lại có những thời kỳ khủng

hoảng và những thời kỳ hồi phục được hòa nhập vào giai đoạn bành trướng của chu kỳ tiếp sau.

134

Trong nghiên cứu của Luận án chia thành giai đoạn chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế

giới và giai đoạn hậu khủng hoảng. Do vậy, trong nghiên cứu trong tương lai, tác giả sẽ chia giai

đoạn hậu khủng hoảng thành thời kỳ phục hồi và thời kỳ bành trướng của nền kinh tế.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 5

Trong chương 5, tác giả trình bày tóm tắt những kết quả chính mà Luận án đã đạt được.

Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số hàm ý chính sách cho các nhà quản trị NHTM, cơ quan

quản lý nhà nước nhằm giúp các NHTM đạt được KNSL hợp lý, ổn định hệ thống ngân hàng cả

trong giai đoạn khủng hoảng và giai đoạn hậu khủng hoảng của kinh tế thế giới.

Luận án đã có những đóng góp nhất định về mặt khoa học và thực tiễn nhưng không tránh

khỏi những hạn chế nhất định. Vì vậy, trong chương 5, tác giả đề xuất một số hướng nghiên cứu

tiếp theo được phát triển từ Luận án.

i

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

Begg, Fisher & Dornburch. (2007). Kinh tế học, Mc Graw Hill Education và NXB Thống Kê.

Bùi Tất Thắng. (2009). Khủng hoảng kinh tế và kinh tế học. Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, Số 377,

3-22.

Chính phủ. (2012). Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 – 2015, Hà

Nội.

Chính phủ. (2018). Quyết định về việc phê duyệt Chiến lược phát triển ngành ngân hàng Việt

Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, Hà Nội.

Đoàn Thanh Hà & Lê Thanh Ngọc. (2013). Mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng và giá nhà đất.

Tạp chí Phát triển & Hội nhập, 11(21), 51-54.

Gordon. (1994). Giáo trình kinh tế học vĩ mô, NXB Khoa học Kỹ thuật.

Marx, K. (1894). Tư bản quyển 3. Nhà xuất bản quốc gia sự thật.

Phạm Văn Sinh & Phạm Quang Phan. (2009). Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

Ngân hàng Nhà nước. (2007 – 2018). Dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế và tốc độ tăng trưởng, truy cập tại < https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/trangchu/tk/dntddvnkt> [truy cập ngày 19/08/2019]

Nguyễn Anh Tú & Phạm Trí Nghĩa. (2018). Lãi suất cận biên của các ngân hàng thương mại Việt

Nam giai đoạn 2005-2017 - một nghiên cứu thực nghiệm. Tạp chí Ngân hàng, số tháng 7/2019.

Nguyễn Minh Kiều. (2009). Nghiệp vụ ngân hàng thương mại. Nhà xuất bản Thống kê, Tp.HCM.

Nguyễn Ngọc Anh & Võ Thị Bích Ngọc. (2018). Các nhân tố tác động đến khả năng sinh lợi của

ngân hàng thương mại Việt Nam. Tạp chí Công thương, 4, 323-328.

Nguyễn Ngọc Thạch. (2019). Một cách tiếp cận Bayes trong dự báo tổng sản phẩm quốc nội của

Mỹ. Tạp chí Kinh tế và Ngân hàng châu Á, 163, 5–18.

ii

Nguyễn Phạm Nhã Trúc & Nguyễn Phạm Thiên Thanh. (2016). Các nhân tố tác động đến khả

năng sinh lời của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam. Tạp chí Kinh tế và Phát triển, 52-59.

Nguyễn Quốc Anh. (2016). Tác động của rủi ro tín dụng đến hiệu quả kinh doanh của các ngân

hàng thương mại Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, trường Đại học Kinh tế Tp.HCM.

Nguyễn Thị Thu Hiền. (2017). Các yếu tố đặc trưng xác định khả năng sinh lời của các ngân

hàng thương mại Việt Nam. Tạp chí Công thương.

Nguyễn Văn Tuấn (2011). Giới thiệu phương pháp Bayes, Tạp chí Thời sự Y học, 63, 26-34.

Phạm Thủy Tú. (2019). Định vị hệ thống NHTM Việt Nam trong cộng đồng các nước CPTPP.

Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ, số 13 năm 2019.

Tổng cục Hải quan. Số liệu Thống kê trị giá xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam giai

đoạn 1996 - tháng 6/2016, truy cập tại:

S%EF%BF%BD&Group=> [truy cập ngày 15/04/2019]

Trần Thị Thanh Nga. (2018). Tác động của rủi ro thanh khoản đến hiệu quả hoạt động kinh doanh

ngân hàng: Nghiên cứu trường hợp các quốc gia Đông Nam Á, Luận án tiến sĩ kinh tế, trường

Đại học Ngân hàng Tp.HCM.

Trần Việt Dũng. (2014). Xác định các nhân tố tác động đến khả năng sinh lời của các ngân hàng

thương mại Việt Nam. Tạp chí Công nghệ ngân hàng, 16, 1-11.

VDSC. (2018). Giải ngân đầu tư công và tiền gửi Kho bạc nhà nước tại Ngân hàng thương mại.

Báo cáo chuyên đề vĩ mô.

Tiếng Anh

Alexiou, C., & Sofoklis, V. (2009). Determinants of bank profitability: Evidence from the Greek

banking sector. Economic annals, 182, 93-118.

Almaqtari, F, A., Al‐Homaidi, E. A., Tabash, M. I., & Farhan, N. H. (2018). The determinants

of profitability of Indian commercial banks: A panel data approach. International Journal of

Finance and Economics, 24, 168–185.

iii

Amba, M., &Almukharreq, F. (2013). Impact of the financial crisis on profitability of the Islamic

banks vs conventional banks – Evidence from GCC. International Journal of Financial Research,

4, 83-93.

Andries, A., Capraru, B., Muntean, F., & Ihnatov, I. (2016). The impact of financial crisis on

bank performance in Eastern and Central European countries. Euroeconomica, Danubius

University of Galati, 1(35), 111-126.

Athanasoglou, P., Brissimis, N., & Delis, D. (2008). Bank-specific,

industry-specific and macroeconomic determinants of bank profitability. Journal

of international financial Markets, Institutions and Money, 18(2), 121-136.

Athanassopoulos, A. D., & Giokas, D. (2000). The use of data envelopment analysis in

banking institutions: Evidence from the commercial bank of Greece. Interfaces 30(2), 81-

95.

Anyanwaokoro, M. (1996). Banking methods and processes. Enugu: Hosanna Publications.

Ayaydin, H., & Karakaya., A. (2014). The effect of bank capital on profitability and risk in

Turkish banking. International Journal of Business and Social Science. 5(1).

Bain, S. (1951). Relation of profit rate to industry concentration: American manufacturing, 1936–

1940. The Quarterly Journal of Economics, 65(3), 293-324.

Baldwin, A., & Fellingham, W. (2013). Bayesian methods for the analysis of small sample

multilevel data with a complex variance structure. Psychological Methods, 18, 151–164.

Basel Committee on Banking Supervision. (2003). Public disclosure by banks: Results of the

2001 disclosure survey.

Bassey, G. E., & Moses, C. E. (2015). Bank profitability and liquidity management: A case study

of selected Nigerian deposit money banks. International Journal of Economics, Commerce and

Management, 3(4), 1-24.

Batten, J., & Vo, X. V. (2019). Determinants of bank profitability – Evidence from

Vietnam. Emerging Markets Finance and Trade 55(1), 1-12.

Benston, G. J. (1965). Branch banking and economies of scale. Journal of Finance, 20, 312–331.

iv

Berger, A. (1995). The relationship between capital and earnings in banking. Journal of

Money, Credit and Banking 27 (2), 432-456.

Berger, A., & DeYoung, R. (1997). Problem loans and cost efficiency in commercial banks.

Journal of Banking and Finance, 21, 849–870.

Berger, J. O., & Wolper, R. L. (1988). The Likelihood Principle: A Review, Generalizations,

and Statistical Implications. Hayward, CA: Institute of Mathematical Statistics.

Bikker, J., & Vervliet, T. (2017). Bank profitability and risk‐taking under low interest rates.

International Journal of Finance & Economics, 1-16.

Burns, A., & Mitchell, A. (1946). Measuring business cycle. National Bureau of Economic

Research, New York.

Bolstad, M., & Curran, M. (2016). Introduction to Bayesian statistics (3rd ed.). New Jersey:

John Wiley & Sons.

Bourke, P. (1989). Concentration and other determinants of bank profitability in Europe,

North America and Australia. Journal of Banking and Finance, (13), 65-79.

Brunnermeier, K., & Pedersen, H. (2008). Market liquidity and funding liquidity. The Review of

Financial Studies, 22(6), 2201-2238.

Caprio, G., Klingebiel, D., Laeven, L., & Noguera, G. (2003). Banking crisis database. In P.

Honohan and L. Laeven (eds.) Systemic Financial Crises, Cambridge University Press,

Cambridge.

Casu, B., & Girardone C. (2003). Financial conglomeration: efficiency, productivity and

strategic drive. Applied Financial Economics, 14, 687-696.

Chamberlin, E. H. (1933). The Theory of Monopolistic Competition, MA: Harvard University

Press, Cambridge.

Chang, H., Boisvert, N., & Hung, L. (2010). Land subsidence, production efficiency, and the

decision of aquacultural firms in Taiwan to discontinue production. Ecological Economic, 69,

2448–2456.

Chronopoulos, D. K., Liu, H., McMillan, K, J., & Wilson, J. O. S. (2015). The dynamics of US

v

bank profitability. The European Journal of Finance, 21(5), 426-443.

Dietrich, A., & Wanzenried, G. (2011). Determinants of bank profitability before and during the

crisis: Evidence from Switzerland. Journal of International Financial Markets, Institutions and

Money, 21, 307–27.

Demsetz, H. (1973). Industry structure, market rivalry, and public policy. The Journal of

Law & Economics, 16(1), 1-9.

Denizer, C., Gultekin, B., & Gultekin, M. (2000). Distorted Incentives and Financial

Structure in Turkey, paper presented at the Financial Structure and Economic Development

Conference, in February 10-11, 2000 at the World Bank, Washington, D.C

Depaoli, S., & van de Schoot, R. (2016). Improving transparency and replication in

Bayesian statistics: The WAMBS-Checklist. Psychological Methods. Advance online

publication

Doron, J., & Gaudreau, P. (2014). A point-by-point analysis of performance in a fencing match:

Psychological processes associated with winning and losing streaks. Journal of Sport & Exercise

Psychology, 36, 3–13

Gaber ,A. (2018). Determinants of banking sector profitability: Empirical evidence from

Palestine. Journal of Islamic Economics and Finance, 4(1) , 49-67.

Hastings, W. K. (1970). Monte Carlo sampling methods using Markov chains and their

applications. Biometrika, 57, 97–109.

ECB. (2010). Beyond ROE – How to measure bank performance? Appendix to the report on EU

banking structures.

Farrell, J. (1957). The measurement of productive efficiency. Journal of the Royal

Statistical Society. SeriesA (General), 120(3), 253-290.

Fungáčová, Z., & Poghosyan, T. (2011). Determinants of bank interest margins in Russia:

Does bank ownership matter? Economic Systems, 35, 481–495.

Hancock, D. (1985). Bank profitability, interest rates and monetary policy. Journal of

Money Credit and Banking, 17, 189–202.

vi

Hassan, K., & Bashir, H. (2005). Determinants of Islamic banking profitability. Islamic

Perspectives on Wealth Creation, Edinburgh University Press, Edinburgh.

Garcia, M., & Guerreiro, M. (2016). Internal and external determinants of banks’ profitability:

The Portuguese case. Journal of Economic Studies, 43, 90–107.

Gelfand, A. E., Hills, S. E., Racine-Poon, A., & Smith A. F. M. (1990). Illustration of Bayesian

inference in normal data models using Gibbs sampling. Journal of the American Statistical

Association, 85, 972–985.

Gilks, W. R., Richardson, S., & Spiegelhalter, D. J. (1996). Markov Chain Monte Carlo in

Practice. London: Chapman and Hall.

Goddard, J., Molyneux, P., & Wilson, S. (2004). The profitability of European banks: a cross-

sectional and dynamic panel analysis. Manchester School, 72(3), 363–381.

Gyulai. L., & Szues, G. (2017). The effect of the economic crisis on the bank profitability in the

V4 countries. Management, Enterprise and Benchmarking in the 21st century Journal, 97-109.

Iacobelli, A. (2016). Determinants of profitability: Empirical evidence from the largest global

banks. Financial Analyst, 11.

Iskandar, A., Yahya, N., & Wahid, Z. (2019). Determinants of commercial banks’ profitability in

Malaysia. Journal of Entrepreneurship and Business, 1, 27-39.

International Monnetary Fund. World Real GDP growth. Available online:

https://www.imf.org/external/datamapper/NGDP_RPCH@WEO/OEMDC/ADVEC/WEOWOR

LD (accessed on 10 July 2019).

Islam, S., & Nishiyama, S. (2016). The determinants of bank profitability: Dynamic panel

evidence from South Asian Countries. Journal of Applied Finance and Banking, 6, 77–97.

Jayaratne, J., & Strahan, P. (1998). Entry restrictions, industry evolution, and dynamic efficiency:

evidence from commercial banking. The Journal of Law & Economics, 41(1), 239-274.

Kamarudin, F., Sufian, F., & Nassir, A. (2016). Global financial crisis, ownership and bank profit

efficiency in the Bangladesh's state owned and private commercial banks. Journal of Accounting

and Management, 61(4), 705-745.

vii

Keynes, J. (1936). The general theory of employment, interest and money. Macmillan, London.

Kohlscheen, E., Murcia, A., & Contreras, J. (2018). Determinants of bank profitability in

emerging markets. BIS Working Paper No. 686.

Kosmidou, K. (2008). The determinants of banks’ profits in Greece during the period of EU

financial integration. Managerial Finance, 34(3), 146-159.

Kosmidou, K., Pasiouras, F., & Tsaklanganos, A. (2007). Domestic and multinational

determinants of foreign bank profits: The case of Greek banks operating abroad. Journal of

Multinational Financial Management, 17, 1-15.

Kosmidou, K., Tanna, S., & Pasiouras, F. (2005). Determinants of profitability of domestic

UK commercial banks: Panel evidence from the period 1995-2002. Money Macro and

Finance (MMF) Research Group Conference, 45.

Kreinovich, V., Thach, N. N., Trung, N. D., & Thanh, D. V. (2019). Beyond Traditional

Probabilistic Methods in Economics. Springer, Cham. Doi: 10.1007/978-3-030-04200-4.

Kruschke, J. (2014). Doing Bayesian data analysis: A tutorial with R, JAGS, and Stan 2nd

Edition. Elsevier Inc.

Leightner, E. J., & Lovell, C. A. K. (1998). The Impact of financial liberalization on the

performance of Thai banks. Journal of Economics and Business, 50, 115–132.

Lee, S. P., & Isa, M. (2017). Determinants of bank margins in a dual banking system. Managerial

Finance, 43(6), 630–645.

Lim, G., & Randhawa, D. (2005). Competition, liberalization and efficiency: Evidence from

a two‐stage banking model on banks in Hong Kong and Singapore, Managerial Finance,

31(1), 52-77.

Lindblom, T., & Willesson, M. (2010). Financial crisis and bank profitability. Paper

presented at Wolpertinger Conference, Bangor University UK.

Le, Tu. (2017). The determinants of commercial bank profitability in Vietnam. SSRN Electronic

Journal, 1-30.

viii

Lee, C. C., & Hsieh, M. F. (2013). The impact of bank capital on profitability and risk in Asian

banking. Journal of International Money and Finance, 32, 251-281.

Lloyd-Williams, M., Molyneux, P. & Thornton, J. (1994). Market structure and

performance in Spanish banking. Journal of Banking and Finance, 18, 433-443.

Malthus, T. R. (1820). Principles of Political Economy Considered with a View of their

Practical Application, 1st edition. London: John Murray.

Maudos, J., & de Guevara, J. F. (2007). The cost of market power in banking: Social welfare

loss vs. cost inefficiency. Journal of Banking and Finance, 31(7), 2103-2125.

Mester, L.J. (1987). Efficient production of financial services: Scale and scope economies.

Business Review, Federal Reserve Bank of Philadelphia January/February, 15–25.

Metropolis, N., Rosenbluth, A. W., Rosenbluth, M. N., Teller, A. H, & Teller, E. (1953).

Equation of state calculations by fast computing machines. Journal of Chemical Physics,

21, 1087–1092.

Minsky, H. (1975). The financial instability hypothesis: an interpretation of Keynes and an

alternative to "Standard” Theory. Hyman P. Minsky Archive. Paper 38.

Molyneux, P. (1993). Market structure and profitability in European banking. Institute of

European Finance, University College of North Wales, Research Paper 9.

Molyneux, P., & Thornton, J. (1992). Determinants of European bank profitability: A note.

Journal of Banking and Finance, 16(6), 1173-1178.

Mongid, A. (2016). Global financial crisis (GFC) and Islamic banks profitability: Evidence from

MENA countries. Journal of Emerging Economies and Islamic Research, 4, 1-16.

Muharrami, S., & Matthews, K. (2009). Market power versus efficient- structure in

Arab GCC banking. Applied Financial Economics, 19(18), 1487-1496.

Murthy, Y., & Sree, R. (2003). A study on financial ratios of major commercial banks.

Research Studies, College of Banking & Financial Studies, Sultanate of Oman.

Naceur, B., & Goaied, M. (2009). The Determinants of commercial bank interest margin and

profitability: Evidence from Tunisia. Frontiers in Finance and Economics, 5(1), 106-130.

ix

NBER. (2010). The NBER's Business Cycle Dating Committee, Cambridge.

Ndoka, S., Islami, M., & Shima, J. (2016). The impact of liquidity risk management on the

performance of Albanian commercial banks during the period 2005-2015. International Journal

of Social Sciences and Education Research, 3(1), 70-76

Nkusu, M. (2011). Non-performing loans and macrofinancial vulnerabilities in advanced

economies. IMF Working Paper, 11/161.

Nguyen H. T., Trung N. D., & Thach N. N. (2019). Beyond Traditional Probabilistic Methods in

Econometrics. In: Kreinovich V., Thach N., Trung N., Van Thanh D. (eds) Beyond Traditional

Probabilistic Methods in Economics. ECONVN 2019. Studies in Computational Intelligence, vol

809. Springer, Cham. https://doi.org/10.1007/978-3-030-04200-4_1

Nguyen, N. T. (2020). How to explain when the ES is lower than one? A Bayesian nonlinear

mixed-effects approach. Journal of Risk and Financial Management, 13(2), 1–17.

https://doi.org/10.3390/jrfm13020021.

Nguyen, N. T. (2020). The variable elasticity of substitution function and endogenous growth:

An empirical evidence from Vietnam. International Journal of Economics and Business

Administration, 8(1), 263-277.

Olweny, T., & Shipho, T. M. (2011). Effects of banking sectoral factors on the profitability

of commercial banks in Kenya. Economics and Finance Review, 1(5), 1-30.

Osborn, M., Fuertes, A., & Milner, A. (2012). Capital and profitability in banking: Evidence

from US Banks. Business Journal, 4(9), 203-214.

Pawlowska, M. (2016). Market structure, business cycle and bank profitability: Evidence from

Polish banks. Journal of Bank and Credit, 47(4), 341 – 364.

Petria, N., Caprarub, B., & Ihnatovc, I. (2013). Determinants of banks’ profitability: evidence

from EU 27 banking systems. 7th International Conference on Globalization and Higher

Education in Economics and Business Administration.

Poposka, K., & Trpkoski, M. (2013). Secondary model for bank profitability management–test

on the case of Macedonian banking sector. Research Journal of Finance and Accounting, 4(6),

x

216-225.

Sufian, F., & Habibullah, S. (2009). Determinants of bank profitability in a developing economy:

Empirical evidence from Bangladesh. Journal of Business Economics and Management, 10(3),

207-217.

Sufian, F. (2011). Profitability of the Korean banking sector: Panel evidence on banking-specific

and macroeconomic determinants. Journal of Economic and Management, 7, 43-72.

Svítek M., Kosheleva O., Kreinovich V., & Nguyen T. N. (2019). Why Quantum (Wave

Probability) Models Are a Good Description of Many Non-quantum Complex Systems, and How

to Go Beyond Quantum Models. In: Kreinovich V., Thach N., Trung N., Van Thanh D. (eds)

Beyond Traditional Probabilistic Methods in Economics. ECONVN 2019. Studies in

Computational Intelligence, vol 809. Springer, Cham. https://doi.org/10.1007/978-3-030-04200-

4_13

Rahman, M., Hamid, M., & Khan, A. (2015). Determinants of bank profitability: Empirical

evidence from Bangladesh. International Journal of Business and Management, 10(8), 135-150.

Rivard, J., & Thomas, R. (1997). The effect of interstate banking on large bank holding company

profitability and risk. Journal of Economics and Business, 49, 61-76.

Reinhart, C., & Rogoff, K. (2011). From financial crash to debt crisis. American Economic

Review, 101(5), 1676- 1706.

Robinson, J. (1933). The economics of imperfect competition. Macmillan, London.

Rodbertus, J. K. (1850). Overproduction and Crises. HardPress Publishing

Rose, P., & Hudgins, S. ( 2014). Bank management & financial services. McGraw-Hill

Education.

Samuelson, P., & Nordhaus, W. (2007). Economics, McGrawhill.

Sismondi, J. C. L. (1819). New Principles of Political Economy. 2nd edition. Routledge.

Sealey, C., & Lindley, J.T. (1977). Inputs, outputs and a theory of production and cost at

depository financial institution. Journal of Finance, 32, 1251-1266.

xi

Smirlock, M. (1985). Evidence on the (non) relationship between concentration and

profitability in banking. Journal of Money, Credit, and Banking, 17(1), 69-83.

Sriboonchitta, S., Nguyen H.T., Kosheleva O., Kreinovich V., & Nguyen T. N. (2019). Quantum

Approach Explains the Need for Expert Knowledge: On the Example of Econometrics. In:

Kreinovich V., Sriboonchitta S. (eds) Structural Changes and their Econometric Modeling. TES

2019. Studies in Computational Intelligence, vol 808. Springer, Cham.

https://doi.org/10.1007/978-3-030-04263-9_15

Staikouras, C., & Wood, G. (2004). The determinants of European bank profitability.

International Business and Economics Journal, 3(4), 57-68.

Tabari,Y., Ahmadi, M., & Emami, M. (2013). The effect of liquidity risk on the performance of

commercial banks. International Research Journal of Applied and Basic Sciences, 4(6), 1624-

1631.

Trujillo-Ponce, A. (2013). What determines the profitability of banks? Evidence from Spain.

Accounting and Finance, 53(2), 561-586.

VanHoose, D. (2010). The industrial organization of banking: Bank behavior, market

structure, and regulation. Springer.

van de Schoot, R., & Depaoli, S. (2014). Bayesian analysis: Where to start and what to

report. The European Health Psychologist, 16(2), 75-84.

van de Schoot, R. (2016). 25 years of Bayes in psychology. Paper presented at the 7th

Mplus Users’ Meeting, Utrecht, The Netherlands.

World Bank. (2018). World Bank National Accounts Data, and OECD National Accounts

Data Files. Available online:

https://data.worldbank.org/indicator/NY.GDP.MKTP.KD.ZG (accessed on 10 July 2019).

https://data.worldbank.org/indicator/NY.GDP.MKTP.KD.ZG?locations=VN. (accessed on

10 July 2019).

Yao, H., Haris, M., & Tarig, G. (2018). Profitability determinants of financial institutions:

Evidence from banks in Pakistan. International Journal of Financial Studies, 6(53), 1-28.

xii

Yuanita, N. (2019). Competition and bank profitability. Journal of Economic Structures, 8(31), 2-15

Zhang, C., & Dong, L. (2011). Determinants of bank profitability: Evidence from the U.S

banking sector. Master of Financial Risk Management, Simon Fraser University.

Zenios, C.V., Zenios, S.A., Agathocleous, A., & Soteriou, A. (1999). Benchmarks of the

efficiency of bank branches. Interfaces, 29(3), 37-51.

xiii

CÁC CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Phạm Hải Nam. (2020). Khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam: Cách tiếp cận theo phương pháp Bayes. Tạp chí Kinh tế và Ngân hàng Châu Á, số 169, 26-41.

2. Phạm Hải Nam. (2020). Khủng hoảng tài chính thế giới và khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại Việt Nam: Cách tiếp cận theo phương pháp Bayes. (2020). Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á, 31(1), 29-47.

3. Phạm Hải Nam, Phạm Thị Hồng Nhung & Nguyễn Sơn Hải. (2020). Mối quan hệ giữa kiểm soát nội bộ và rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại: Bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam. Tạp chí Kinh tế và Ngân hàng Châu Á, số 177, 19-34.

4. Phạm Hải Nam & Nguyễn Ngọc Tân. (2021). Áp dụng phương pháp Bayes trong nghiên cứu nợ xấu tại các ngân hàng thương mại Việt Nam. Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Economics-Law and Management. 5(1), 1267-1277.

5. Ha, V. D., & Pham, H. N. (2019). The impact of the global financial crisis on bank profitability: evidence from Vietnam. Paper presented at International Finance and Accounting Research Conference, Academy of Finance.

6. Ha, V. D., & Pham, H. N. (2020). Determinants of bank profitability in Vietnam: An empirical Lasso study. Studies in Computational Intelligence, Springer, Cham (2020).

7. Pham, H. N. (2021). How does internal control affect bank credit risk in Vietnam? A Bayesian analysis. Journal of Asian Finance, Economics and Business. 8(1), 873-880.

8. Pham, H. N. & Pham, T. H. N. (2021). Determinants of bank liquidity – Evidence from Vietnam. Studies in Computational Intelligence, Springer, Cham (2021).

xiv

PHỤ LỤC

PHỤ LUC 1: Danh sách 30 NHTM ở Việt Nam trong nghiên cứu tại thời điểm 31/12/2018

VỐN ĐIỀU LỆ TT TÊN NHTM ĐỊA CHỈ ( tỷ đồng)

Công thương Việt Nam 108 Trần Hưng Đạo, 1 37.234 (Vietnam Joint Stock Commercial Hoàn Kiếm, Hà Nội Bank of Industry and Trade)

Đầu tư và Phát triển Việt Nam

Tháp BIDV 35 Hàng (Joint Stock Commercial Bank for 2 34.187,2 Vôi, Hoàn Kiếm, Hà Nội Investment and Development of

Vietnam)

Ngoại Thương Việt Nam 198 Trần Quang Khải, 3 37.088,8 (Joint Stock Commercial Bank for Hoàn Kiếm, Hà Nội Foreign Trade of Vietnam - VCB)

Á Châu 442 Nguyễn Thị Minh

4 Khai, Quận 3, TP. Hồ Chí 12.885,9 (Asia Commercial Joint Stock

Minh Bank - ACB)

An Bình 170 Hai Bà Trưng,

5 phường Đa Kao, Quận 1, 5.319,5 (An Binh Commercial Joint Stock

TP. Hồ Chí Minh Bank - ABB)

Tầng 1 và Tầng 5, Tòa Bảo Việt (Baoviet bank) nhà CornerStone, số 16 6 3.150 Bao Viet Joint Stock commercial Phan Chu Trinh, quận Bank Hoàn Kiếm, Hà Nội

xv

Bản Việt Toà Nhà HM TOWN, số

(trước đây là Gia Định) 412 đường Nguyễn Thị 7 3.171 Minh Khai, phường 5, (Viet Capital Commercial Joint

Quận 3, TP. Hồ Chí Minh Stock Bank - Viet Capital Bank)

Bắc Á 117 Quang Trung, TP. 8 5.500 (BAC A Commercial Joint Stock Vinh, tỉnh Nghệ An Bank - Bac A Bank)

Tòa nhà Capital Tower số Bưu điện Liên Việt 109 Trần Hưng Đạo, 9 8.881,4 (LienViet Commercial Joint Stock phường Cửa Nam, Quận Bank – Lienviet Post Bank - LPB) Hoàn Kiếm, TP. Hà Nội.

Đại Chúng Việt Nam

10 9.000 (Public Vietnam Bank Số 22 Ngô Quyền, Hoàn - Kiếm, Hà Nội PVcomBank)

Đông Nam Á 25 Trần Hưng Đạo, Hoàn 11 7.688 (Southeast Asia Commercial Joint Kiếm, Hà Nội Stock Bank - Seabank)

Số 54A Nguyễn Chí Hàng Hải Thanh, phường Láng 12 11.750 (The Maritime Commercial Joint Thượng, Quận Đống Đa, Stock Bank - MSB) Hà Nội

Kiên Long 40-42-44 Phạm Hồng

13 Thái, TP Rạch Giá, tỉnh 3.237 (Kien Long Commercial Joint

Kiên Giang. Stock Bank - KLB)

191 Bà Triệu, quậnHai 14 Kỹ Thương 34.965,9 Bà Trưng, Hà Nội

xvi

(Viet Nam Technological and

Commercial Joint Stock Bank -

TECHCOMBANK)

Nam Á 201-203 Cách mạng

15 tháng 8, phường 4, Quận 3.353,5 (Nam A Commercial Joint Stock

3, TP. Hồ Chí Minh Bank - NAM A BANK)

Phương Đông 45 Lê Duẩn, Quận 1, TP. 16 6.599,2 (Orient Commercial Joint Stock Hồ Chí Minh Bank - OCB)

Quân Đội 21 Cát Linh, Đống Đa, 17 21.604,5 (Military Commercial Joint Stock Hà Nội Bank - MB)

Quốc Tế (Vietnam International Tòa nhà Sailing Tower,

18 Commercial Joint Stock Bank - số 111A Pasteur, quận 1, 7.834,7

VIB) TP Hồ Chí Minh

Quốc dân

28C-28D Bà Triệu, quận 19 (Đổi tên từ Ngân hàng Nam Việt) 4.101,6 Hoàn Kiếm, Hà Nội

(National Citizen bank - NCB)

Sài Gòn 927 Trần Hưng Đạo, 20 15.231,7 (Sai Gon Commercial Joint Stock Quận 5, TP. Hồ Chí Minh Bank - SCB)

Sài Gòn Công Thương Số 2C Phó Đức Chính, 21 3.080 (Saigon Bank for Industry & Trade Quận 1, TP. Hồ Chí Minh - SGB)

xvii

Sài Gòn – Hà Nội 77 Trần Hưng Đạo, quận 22 12.036,2 (Saigon-Hanoi Commercial Joint Hoàn Kiếm, Hà Nội Stock Bank - SHB)

Sài Gòn Thương Tín 266-268 Nam Kỳ Khởi

23 Nghĩa, Quận 3, TP. Hồ 18.852,2 (Saigon Thuong TinCommercial

Chí Minh Joint Stock Bank - Sacombank)

Tiên Phong Số 57 Lý Thường Kiệt,

24 phường Trần Hưng Đạo, 8.565,9 (TienPhong Commercial Joint

Hoàn Kiếm, Hà Nội Stock Bank - TPB)

34A-34B Hàn Thuyên, Việt Á phường Phạm Đình Hổ, 25 3.500 (Viet A Commercial Joint Stock quận Hai Bà Trưng, Hà Bank - VIETA Bank) Nội

Việt Nam Thịnh Vượng

89 Láng Hạ, quận Đống (Vietnam Commercial Joint Stock 25.299,7 26 Đa, Hà Nội Bank for Private Enterprise -

VPBank)

Việt Nam Thương Tín 47 Trần Hưng Đạo, TP. (Viet Nam Thuong Tin 27 Sóc Trăng, tỉnh Sóc 4.190,2 Commercial Joint Stock Bank - Trăng Vietbank)

Tầng 16, 23, 24 tòa nhà Xăng dầu Petrolimex MIPEC số 229 Phố Tây 28 3.000 (Petrolimex Group Commercial Sơn, phường Ngã Tư Sở, Joint Stock Bank - PGBank) Đống Đa, Hà Nội

xviii

Tầng 8 Tòa nhà Vincom, Xuất Nhập Khẩu số 72 Lê Thánh Tôn và (Viet nam Export Import 29 12.355,2 Commercial Joint Stock 47 Lý Tự Trọng, phường - Bến Nghé, Quận 1, TP. Eximbank) Hồ Chí Minh

Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh 25 bis Nguyễn Thị Minh (Ho Chi Minh city Development 30 Khai, phường Bến Nghé, 9.810 Joint Stock Commercial Bank - Quận 1, TP. Hồ Chí Mịnh HDBank)

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

PHỤ LỤC 2: Thuật toán lấy mẫu Metropolis-Hastings và Gibbs

Trong Luận án này, tác giả áp dụng phương pháp Bayes thông qua thuật toán Random-walk

Metropolis-Hastings và phương pháp lấy mẫu Gibbs. Metropolis và cộng sự (1953) là người đầu

tiên đề xuất thuật toán Metropolis. Sau đó, Hastings (1970) phát triển thuật toán hiệu quả hơn.

Phương pháp lấy mẫu Gibbs là một trường hợp đặc biệt của thuật toán Metropolis-Hastings

(Gelfand & cộng sự, 1990).

Thuật toán Metropolis-Hastings được thực hiện thông qua 3 giai đoạn như sau:

Giai đoạn 1: Tạo ra một mẫu giá trị cho mỗi biến ngẫu nhiên. Phân phối đề xuất cho mỗi mẫu

là q(.)

x(0) ~ q(x)

Mẫu từ phân phối đề xuất là q(x(n)|x(n-1))

xproposal ~ q(x(n)|x(n-1))

Sau đó thực hiện vòng lặp của mẫu giá trị đó với 𝑛 = 1,2 … Phân phối đề xuất là một phân phối

đối xứng nếu 𝑞(𝑥(𝑛−1)|𝑎(𝑛)) = 𝑞(𝑥(𝑛)|𝑥(𝑛−1)).

Giai đoạn 2: Tính toán tỷ lệ chấp nhận. Hàm chấp nhận Metropolis-Hastings được thực hiện để

đảm bảo sự cân bằng giữa hai ràng buộc sau:

xix

𝜋(𝑥𝑝𝑟𝑜𝑝𝑜𝑠𝑎𝑙) 𝜋(𝑥(𝑛−1))

Ràng buộc này nhằm mục tiêu mẫu có xu hướng nằm trong khu vực phân phối cao dưới mật độ

kết hợp toàn bộ (full joint density):

𝜋(𝑥(𝑛−1)|𝑥𝑝𝑟𝑜𝑝𝑜𝑠𝑎𝑙) 𝜋(𝑥𝑝𝑟𝑜𝑝𝑜𝑠𝑎𝑙|𝑥(𝑛−1))

Giới hạn này làm mẫu khám phá không gian và tránh bị kẹt vào một khu vực, bởi vì mẫu này có

thể đảo ngược tính toán trước đó trong không gian vectơ này.

Hàm chấp nhận Metropolis-Hastings phải có một dạng cụ thể để đảm bảo rằng thuật toán

Metropolis-Hastings thỏa mãn điều kiện cân bằng (Gilks & cộng sự, 1996).

)𝜋(𝑥(𝑛))

Hàm chấp nhận trong trường hợp đề xuất đối xứng là:

)𝜋(𝑥(𝑛−1))

𝑞(𝑥(𝑛−1) 𝑞(𝑥(𝑛)

|𝑥(𝑛) |𝑥(𝑛−1)

} Ѳ(𝑥(𝑛)|𝑥(𝑛−1)) = min {1,

Trong đó Ѳ là xác suất chấp nhận 𝜋 (.) là mật độ kết hợp toàn bộ. Giá trị nhỏ nhất được tính để

đảm bảo xác suất chấp nhận không bao giờ lớn hơn 1.

Khi phân phối đề xuất là đối xứng 𝑞(𝑥(𝑛−1)|𝑥(𝑛)) = 𝑞(𝑥(𝑛)|𝑥(𝑛−1)), hàm chấp nhận có thể được

viết lại:

𝜋(𝑥(𝑛)) 𝜋(𝑥(𝑛−1))

} Ѳ(𝑥(𝑛)|𝑥(𝑛−1)) = min {1,

Giai đoạn 3: Đây là bước cuối cùng, dựa trên xác suất chấp nhận Ѳ, quyết định chấp nhận hay

bác bỏ đề xuất. Nếu giá trị đề xuất nhỏ hơn Ѳ, sẽ chấp nhận giá trị này, ngược lại sẽ bác bỏ nó.

Phương pháp lấy mẫu Gibbs (Gibbs sampling)

Phương pháp lấy mẫu Gibbs về cơ bản là một trường hợp đặc biệt của thuật toán Metropolis-

Hastings, thuật toán này cho phép tạo ra một mẫu số liệu từ hàm phân phối xác suất đồng thời

mà không đòi hỏi phải biết đầy đủ thông tin về phân phối này. Giả sử, với k mẫu của vectơ X =

(𝑖)). Thuật toán thực hiện như sau:

(𝑖), … , 𝑥𝑛

(x1, x2, …, xn) từ một xác suất hợp (joint probability) p (x1, x2…, xn). Đặt mẫu thứ i là 𝑋(𝑖) =

(𝑥1

xx

(𝑖+1)) là một vectơ, thuật toán

(𝑖+1) … , 𝑥𝑛

Bước 1: Bắt đầu với một vài giá trị 𝑋(𝑖) ban đầu.

(𝑖+1), 𝑥2

(𝑖+1) và sau

Bước 2: Gọi mẫu kế tiếp là 𝑋(𝑖+1). Do 𝑋(𝑖+1) = (𝑥1

(𝑖). Để đạt được điều này,

(𝑖) tới 𝑥𝑛

lấy mẫu mỗi thành phần của vectơ này. Điều kiện các thành phần của 𝑋(𝑖+1) tới 𝑥𝑗−1

(𝑖) nghiên cứu lấy mẫu các thành phần theo thứ tự, bắt đầu tự thành phần đầu tiên. Để lấy mẫu 𝑥𝑗−1

đó, điều kiện trên các thành phần của 𝑋(𝑖) được bắt đầu từ 𝑥𝑗−1

(𝑖). Lưu ý rằng, thuật toán sử dụng thành phần thứ (𝑗 + 1) đã

(𝑖) , … , 𝑥𝑛

(𝑖) |𝑥1

cần cập nhật suất điều kiện

(𝑖+1), … , 𝑥𝑗−1

𝑝(𝑥𝑗−1 theo phân phối được xác định bởi xác (𝑖+1), 𝑥𝑗+1

có trong mẫu thứ i, không phải trong mẫu thứ (𝑖 + 1).

Bước 3: Lặp lại các bước trên k lần.

Điều quan trọng phải thực hiện trong phương pháp lấy mẫu trên là:

- Tất cả các mẫu xấp xỉ phân phối xác suất hợp cho tất cả các biến.

- Phân phối biên của bất kỳ tập biến con (subset) có thể được xấp xỉ bằng việc xem xét đơn giản

cho tập biến con đó, lờ đi phần còn lại.

- Giá trị kỳ vọng của bất kỳ biến nào có thể được xấp xỉ bằng lấy trung bình của tất cả các mẫu.

Khi thực hiện lấy mẫu:

- Giá trị ban đầu của bất kỳ biến nào có thể được xác định ngẫu nhiên hoặc được thực hiện bằng

các thuật toán khác như tối đa hóa giá trị kỳ vọng (expectation-maximization).

- Không cần thiết phải xác định giá trị ban đầu cho mẫu biến đầu tiên.

- Do giá trị xuất phát không ảnh hưởng đến sự hội tụ do đó trong thực hành người ta thường bỏ

đi một vài giá trị đầu nó còn được gọi là quá trình burn-in period. Lý do của điều này là (1) do

phân phối dừng (Stationary distribution) của chuỗi Markov được thõa mãn phân phối hợp với tất

cả các biến, nhưng nó có thể tốn thời gian để đạt được phân phối dừng. (2) các mẫu liên tiếp

không phụ thuộc lẫn nhau, nhưng từ một chuỗi Markov với một sự tương quan nhất định. Thỉnh

thoảng, các thuật toán này được sử dụng để xác định mức độ tự tương quan (Autocorrelation)

giữa các mẫu và các giá trị của n được tính từ đây.

xxi

- Tiến trình của thuật toán mô phỏng luyện kim (Simulated Annealing – kỹ thuật xác suất để xấp

xỉ tối đa hóa trong một không gian tìm kiếm lớn của một siêu dữ liệu) thường được sử dụng để

giảm “bước ngẫu nhiên” (random walk) trong giai đoạn đầu của quá trình lấy mẫu).

PHỤ LỤC 3: Giai đoạn 2007 – 2011

xxii

xxiii

xxiv

xxv

PHỤ LỤC 4: Giai đoạn 2012 – 2018

xxvi

xxvii

xxviii

xxix

PHỤ LỤC 5: Toàn bộ thời kỳ 2007 – 2018

xxx

xxxi

xxxii

xxxiii