HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ THÙY LINH

THÀNH ỦY HÀ NỘI LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC

PHÕNG, CHỐNG LÃNG PHÍ GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

NGÀNH: XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC

HÀ NỘI – 2020

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ THÙY LINH

THÀNH ỦY HÀ NỘI LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC

PHÕNG, CHỐNG LÃNG PHÍ GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

NGÀNH: XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC

Mã số : 9310202

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS, TS. TRƢƠNG THỊ THÔNG

HÀ NỘI – 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các

số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng

và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Tác giả

Nguyễn Thị Thùy Linh

MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chƣơng 1: TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ......................................................... 9 1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài liên quan đến đề tài luận án ......... 9 1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước liên quan đến đề tài luận án ........... 16 1.3. Khái quát kết quả của các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài và những vấn đề luận án tập trung giải quyết ......................................................... 29

Chƣơng 2: THÀNH ỦY HÀ NỘI LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC PHÕNG, CHỐNG LÃNG PHÍ GIAI ĐOẠN HIỆN NAY - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ........................................................ 31 2.1. Thành ủy Hà Nội và công tác phòng, chống lãng phí ở Thành phố Hà Nội ............. 31 2.2. Thành ủy Hà Nội lãnh đạo công tác phòng, chống lãng phí - Khái niệm, nội dung và phương thức .......................................................................................... 57

Chƣơng 3: THÀNH ỦY HÀ NỘI LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC PHÕNG, CHỐNG LÃNG PHÍ – THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM ..................................................................................... 72 3.1. Tình hình công tác phòng, chống lãng phí ở Hà Nội giai đoạn 2013-2020 ........... 72 3.2. Thực trạng Thành ủy Hà Nội lãnh đạo công tác phòng, chống lãng phí – Kết quả, nguyên nhân và kinh nghiệm ................................................................. 86

Chƣơng 4: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TĂNG CƢỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA THÀNH ỦY HÀ NỘI ĐỐI VỚI CÔNG TÁC PHÕNG, CHỐNG LÃNG PHÍ ĐẾN NĂM 2030............... 116 4.1. Dự báo những nhân tố tác động và phương hướng tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy Hà Nội đối với công tác phòng, chống lãng phí ........ 116 4.2. Một số giải pháp chủ yếu tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy Hà Nội đối với công tác phòng, chống lãng phí đến năm 2030 ................................ 127 KẾT LUẬN .................................................................................................. 148

Danh mục công trình đã công bố của tác giả có liên quan đến đề tài luận án .......................................................................................................... 151 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 152

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

: Chính trị - xã hội CT-XH

: Hệ thống chính trị HTCT

: Hội đồng nhân dân HĐND

: Mặt trận Tổ quốc MTTQ

: Người đứng đầu NĐĐ

: Phòng, chống lãng phí PCLP

: Phòng, chống tham nhũng PCTN

: PCTN, LP Phòng, chống tham nhũng, lãng phí

: Phương thức lãnh đạo PTLĐ

: Sự lãnh đạo SLĐ

: THTK, CLP Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

: UBND Ủy ban nhân dân

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ, ẢNH

Trang

Hình 3.1. Đánh giá việc thực hiện công tác PCLP tại cơ quan, địa 82

phương nơi công tác/sinh sống

Hình 3.2 Việc thực hiện các nội dung công tác phòng, chống lãng 101

phí ở một số cơ quan, đơn vị tại Hà Nội

Hình 3.3. Số lượng cuộc kiểm tra, giám sát về PCLP tại một số cơ 105

quan, đơn vị ở Hà Nội

Hình 4.1. Giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy Hà Nội 127

đối với công tác PCLP

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài luận án

Lãng phí, đặc biệt là lãng phí trong khu vực công là vấn đề không mới

nhưng đã và đang trở thành vấn đề lớn, chậm được khắc phục, gây bức xúc

trong xã hội Việt Nam hiện nay. Lãng phí ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn lực

vật chất của Đảng, Nhà nước, tạo lực cản lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã

hội của đất nước; làm giảm sự tín nhiệm của cán bộ, đảng viên và nhân dân

đối với sự lãnh đạo (SLĐ) của Đảng, quản lý của Nhà nước và sự nghiệp xây

dựng đất nước. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định, lãng phí là

“có hại cho nhân dân, cho Chính phủ, cho đoàn thể, cho kháng chiến và kiến

quốc, nên mọi người có quyền và có nghĩa vụ phải chống” [57, tr. 457], “là kẻ

thù của nhân dân, của bộ đội và của Chính phủ”. Lãng phí xuất hiện trong tổ

chức sẽ làm mất đoàn kết, gây khó khăn cho hoạt động của tổ chức. Lãng phí

xuất hiện trọng cơ quan, đơn vị sẽ làm giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên.

Lãng phí được Bác Hồ coi là loại kẻ thù “khá nguy hiểm, vì nó không mang

gươm mang súng, mà nó nằm trong các tổ chức của ta, để làm hỏng công việc

của ta” [57, tr. 357]. Dù có cố ý hay không, tham ô, lãng phí, quan liêu “cũng

là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến… Nó làm hỏng tinh thần trong

sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta

là cần, kiệm, liêm, chính”; “phá hoại tinh thần, phí phạm sức lực, tiêu hao của

cải của Chính phủ và của nhân dân” [57, tr. 358]. Người cũng xác định rõ

rằng lãng phí là có tội với Nhân dân: “Có người lại nói tham ô mới có tội, còn

lãng phí thì không có tội. Thực ra việc khác nhau nhưng kết quả vẫn hao tổn

của công, của Chính phủ, của nhân dân.” [57, tr. 345].

Vấn đề phòng, chống lãng phí (PCLP) từ lâu đã trở thành xu thế tất yếu,

là vấn đề có tính quy luật của mọi quốc gia, dân tộc. Công tác PCLP là nhiệm

vụ, là công tác cần thiết và cấp bách, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Theo

Chủ tịch Hồ Chí Minh, PCLP, cùng với tham ô, quan liêu cũng quan trọng và

cần kíp như đánh giặc ngoài mặt trận. Người khẳng định: “Đây là mặt trận tư

2

tưởng và chính trị” rất quan trọng. Thực chất lãng phí, tham nhũng, quan liêu

là thứ “giặc ở trong lòng”, “giặc nội xâm”, phải phòng, chống một cách triệt

để, Người ví lãng phí như cỏ mọc trên đồng ruộng “Muốn lúa tốt thì phải nhổ

cỏ cho sạch, nếu không, thì dù cày bừa kỹ, bón phân nhiều, lúa vẫn xấu vì lúa

bị cỏ át đi. Muốn thành công trong việc tăng gia sản xuất và tiết kiệm cũng

phải nhổ cỏ cho sạch, nghĩa là phải tẩy sạch nạn tham ô, lãng phí và bệnh

quan liêu. Nếu không, thì nó sẽ làm hại đến công việc của ta” [57, tr. 355].

Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đến nay, công tác PCLP cùng

với tham nhũng, tiêu cực luôn được Đảng đặc biệt quan tâm, đánh giá là

nhiệm vụ thường xuyên, cấp thiết trong suốt quá trình lãnh đạo của Đảng, đặc

biệt là từ khi Đảng cầm quyền. Công tác PCLP đã và đang được Đảng và Nhà

nước quan tâm thực hiện và bước đầu đã có những chuyển biến tích cực và

đạt được nhiều kết quả quan trọng. Có thể nói, công tác đấu tranh, PCLP chưa

bao giờ được làm mạnh và quyết liệt như những năm gần đây. Tuy nhiên,

thực trạng lãng phí vẫn nghiêm trọng. Đảng ta xác định “Lãng phí trong chi

tiêu ngân sách nhà nước và tiêu dùng xã hội vẫn còn nghiêm trọng” [21, tr.

62], “công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí (PCTN, LP) chưa đạt được

yêu cầu đề ra. Quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với

những biểu hiện tinh vi, phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc

cho xã hội” [25, tr. 172]. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần

thứ XIII đánh giá “Công tác PCLP chưa được chú trọng đúng mức; quy định

và chế tài xử lý đối với tổ chức, cá nhân khi để xảy ra lãng phí chưa đầy đủ,

đồng bộ”[29, tr. 213]. Lãng phí quá lớn trong hoàn cảnh đất nước ta còn

nghèo, đời sống vật chất và tinh thần của người dân vẫn còn nhiều khó khăn,

đòi hỏi công tác PCLP phải được thực hiện quyết liệt hơn nữa.

Thành phố Hà Nội là Thủ đô nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt

Nam, là trung tâm chính trị, văn hoá và khoa học kỹ thuật, đồng thời là trung

tâm lớn về giao dịch kinh tế và quốc tế của cả nước. Với vị thế đặc biệt quan

3

trọng, Hà Nội cần nguồn lực rất lớn để đầu tư và phát triển kinh tế - xã hội,

đồng thời, cũng là địa phương có nguy cơ cao xảy ra lãng phí, thất thoát.

Những năm gần đây, cùng với các địa phương khác trên cả nước, công

tác PCLP ở Thủ đô Hà Nội đã có những chuyển biến rõ rệt. Nhận thức về

tham nhũng, lãng phí nói chung, lãng phí và đấu tranh PCLP nói riêng được

nâng lên trong toàn thể các cấp, các ngành, toàn hệ thống chính trị (HTCT),

trong cán bộ, đảng viên và nhân dân trên địa bàn thành phố. Cấp ủy và chính

quyền Thành phố Hà Nội luôn coi thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

(THTK, CLP) là yếu tố quan trọng góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ

phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố, là việc làm thường xuyên, liên tục

với sự tham gia của đông đảo cán bộ, công chức, viên chức và người lao

động. Thành phố cũng đề ra Chương trình THTK, CLP hàng năm và trong

từng giai đoạn để thực hiện và sơ kết, tổng kết thường xuyên. Bên cạnh những

kết quả đạt được, công tác PCLP ở Hà Nội vẫn còn nhiều hạn chế. Thủ đô

hiện nay vẫn là điểm nóng về vấn đề lãng phí, những dự án bỏ hoang thậm chí

hàng chục năm nhưng rất chậm được xử lý; những công trình lớn, trọng điểm

chậm tiến độ, những công trình xây dựng trái phép bị phá dỡ… gây lãng phí

hàng trăm tỷ đồng, xã hội rất bất bình… Lãng phí xảy ra trên cả bốn lĩnh vực

gây lãng phí nghiêm trọng gồm: Quản lý đất đai; sử dụng tài sản Nhà nước;

lĩnh vực đầu tư công và tổ chức lễ hội... Nhiều vi phạm đã sớm được các cơ

quan chức năng phát hiện, thậm chí được các phương tiện thông tin nêu ra và

chỉ rõ địa chỉ, có những số liệu cụ thể nhưng trong báo cáo và trong tổ chức

thực hiện mới chỉ nêu như một hiện tượng, thiếu các biện pháp xử lý, không

đưa ra đề xuất để có thể đi đến tận cùng, hoặc có thể truy cứu trách nhiệm...

Lãnh đạo công tác PCLP đi đôi với phòng, chống tham nhũng (PCTN)

được Thành ủy Hà Nội xác định là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên. Mặc

dù đã có nhiều cố gắng trong lãnh đạo thực hiện nhưng SLĐ của Thành ủy Hà

Nội đối với công tác PCLP thời gian qua vẫn bộc lộ nhiều khuyết điểm, hạn

4

chế: Việc phát hiện và xử lý các vụ việc lãng phí còn ít; chưa phát huy tốt vai

trò giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) và các tổ chức chính trị

- xã hội (CT-XH) đối với nhiều chủ trương, chính sách, nhất là những đề án,

dự án, công trình quan trọng; công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp

luật về THTK, CLP chưa sâu rộng; còn có cán bộ chủ chốt ở một số đơn vị

thiếu gương mẫu, chưa chỉ đạo quyết liệt, hiệu quả công tác PCLP;… dẫn đến

tình hình tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn tiềm ẩn những diễn biến

phức tạp trên nhiều lĩnh vực.

Tình hình mới hiện nay đặt ra yêu cầu cao đối với xây dựng và phát triển

đất nước nói chung, Thành phố Hà Nội nói riêng, đòi hỏi phải phát huy tối đa

nguồn lực hiện có, tất yếu phải PCLP. Bước vào thời kỳ công nghiệp hóa,

hiện đại hóa và đặc biệt từ sau quá trình hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh

tế quốc tế, Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội và thách thức lớn đan xen

nhau. Cùng với nguy cơ về tình trạng tham nhũng, lãng phí là các nguy cơ về

tụt hậu ngày càng xa hơn và kinh tế, nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các thế

lực thù địch trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của hệ thống thông tin mạng

đang là những thách thức đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN).

Trong khi đó, nguy cơ khủng hoảng kinh tế thế giới đang diễn biến hết sức

phức tạp, nhất là trong tình hình dịch bệnh COVID – 19 trên phạm vi toàn

cầu. Ở trong nước, thiên tai liên tiếp ảnh hướng lớn đến nhiều tỉnh, thành phố

cả nước cũng làm giá cả tăng cao, tăng nguy cơ mất ổn định kinh tế vĩ mô của

nước ta. Vì thế việc PCLP là yêu cầu tất yếu để vượt qua khó khăn, thử thách,

đưa đất nước tiến lên.

Do đó, tăng cường lãnh đạo công tác PCLP là yêu cầu, nhiệm vụ bức

thiết đối với Thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay, có ý nghĩa to lớn đối với

công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô, đáp ứng được nhu cầu cấp

thiết của tình hình hiện nay, cũng là mong mỏi của nhân dân Thủ đô và cả

nước. Đồng thời, đây là nhiệm vụ rất khó khăn, phức tạp, nhiều vấn đề cả về

lý luận và thực tiễn về SLĐ của Thành ủy Hà Nội đối với công tác PCLP đặt

5

ra cần được nghiên cứu, luận giải.

Chính vì vậy, nghiên cứu sinh chọn đề tài:“Thành ủy Hà Nội lãnh đạo

công tác phòng, chống lãng phí giai đoạn hiện nay” để nghiên cứu, tìm hiểu

với mong muốn góp phần tăng cường SLĐ của Thành ủy Hà Nội đối với công

tác PCLP trong thời gian tới.

2. Mục đích, nhiệm vụ của luận án

2.1. Mục đích

Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác PCLP và

Thành ủy Hà Nội lãnh đạo công tác PCLP hiện nay, luận án đề xuất những giải

pháp tăng cường SLĐ của Thành ủy Hà Nội đối với công tác PCLP đến năm 2030.

2.2. Nhiệm vụ

- Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án;

chắt lọc những giá trị khoa học mà luận án sẽ kế thừa, tiếp thu; xác định

những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu, làm rõ.

- Làm rõ những vấn đề lý luận về Thành ủy Hà Nội lãnh đạo công tác PCLP.

- Khảo sát, đánh giá đúng thực trạng công tác PCLP và SLĐ của Thành

ủy Hà Nội đối với công tác PCLP từ 2013 đến 2020; chỉ ra nguyên nhân và

rút ra những kinh nghiệm.

- Dự báo những nhân tố tác động, đề xuất những giải pháp tăng cường

SLĐ của Thành ủy Hà Nội đối với công tác PCLP đến năm 2030.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Thành ủy Hà Nội lãnh đạo công tác PCLP giai đoạn hiện nay.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về không gian: Luận án nghiên cứu trên địa bàn Thành phố Hà Nội.

- Về thời gian: Luận án khảo sát, nghiên cứu tổng kết thực tiễn SLĐ

của Thành ủy Hà Nội đối với công tác PCLP từ năm 2013 đến 2020 (từ khi

thực hiện Kết luận số 21-KL/TW của Hội nghị Trung ương 5 (khóa XI) về

6

tăng cường SLĐ của Đảng đối với công tác PCTN, LP đến nay), giải pháp đề

xuất trong luận án có giá trị tham khảo, vận dụng đến năm 2030.

4. Cơ sở lý luận thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án

4.1. Cơ sở lý luận

Cơ sở lý luận của luận án là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh và đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về SLĐ của Đảng

Cộng sản Việt Nam đối với công tác phòng, chống suy thoái về đạo đức, lối

sống, nhất là những là những hành vi tham nhũng, lãng phí và công tác PCLP.

4.2. Cơ sở thực tiễn

Thực trạng công tác phòng, chống lãng phí và SLĐ của Thành ủy Hà

Nội đối với công tác PCLP từ năm 2013 đến năm 2020.

4.3. Phương pháp nghiên cứu

Luận án được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa

Mác – Lênin và sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như:

- Phương pháp hệ thống hóa: được sử dụng ở phần tình hình nghiên cứu

và chương 2 của luận án nhằm nghiên cứu về SLĐ của Thành ủy Hà Nội đối

với công tác PCLP một cách đầy đủ và toàn diện về mặt lý luận; đồng thời

xác định rõ nội dung cần tập trung nghiên cứu của đề tài.

- Phương pháp phân tích và tổng hợp: được sử dụng chủ yếu trong đánh

giá thực trạng lãng phí và công tác PCLP trên địa bàn Thành phố Hà Nội từ

năm 2013 đến năm 2020.

- Phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp logic: Một mặt, Công

tác PCLP tại Thành phố Hà Nội được mô tả và phân tích trong khoảng thời

gian được xác định với bối cảnh và điều kiện cụ thể, có dẫn chứng minh họa

là các sự kiện, con số thống kê có nguồn gốc rõ ràng. Mặt khác, công tác

PCLP được xem xét trong mối quan hệ với các nhiệm vụ lãnh đạo các mặt

công tác, các lĩnh vực khác của Thành ủy Hà Nội.

- Phương pháp quy nạp và diễn dịch: được sử dụng để luận giải và làm

7

rõ những vấn đề cơ bản của luận án xác định từ thực tiễn.

- Phương pháp thống kê, so sánh: được sử dụng nhằm đánh giá, xử lý

các số liệu từ các nguồn tổng hợp được.

- Phương pháp điều tra xã hội học: Thông qua phiếu điều tra, khảo sát

để đánh giá tình hình công tác PCLP và SLĐ của cấp ủy, người đứng đầu

(NĐĐ) cấp ủy trong công tác PCLP ở Thành phố Hà Nội. Kết quả khảo sát

được xử lý trên phần mềm SPSS (viết tắt của Statistical Package for the

Social Sciences) - phần mềm thống kê được sử dụng phổ biến cho các nghiên

cứu điều tra xã hội học.

- Phương pháp tổng kết thực tiễn: Đây là phương pháp quan trọng, chủ yếu

và đặc trưng của khoa học xây dựng Đảng. Thông qua hoạt động thực tiễn lãnh

đạo, chỉ đạo của Thành ủy đối với công tác PCLP, được thể hiện trong các báo

cáo, các cuộc trao đổi, hội thảo, khảo sát… để đánh giá và rút ra những kinh

nghiệm. Nghiên cứu thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn để đề ra các giải pháp cần

thiết, khả thi, đáp ứng yêu cầu của mục tiêu lãnh đạo của Thành ủy.

Các phương pháp trên được sử dụng linh hoạt, đan xen, kết hợp để phát

huy hiệu quả tổng hợp nhằm hoàn thành mục tiêu nghiên cứu.

5. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án

- Luận án góp phần làm rõ khái niệm, 6 nội dung, 5 phương thức lãnh

đạo của Thành ủy Hà Nội đối với công tác PCLP.

- Đánh giá khách quan thực trạng Thành ủy Hà Nội lãnh đạo công tác

PCLP giai đoạn hiện nay, xác định nguyên nhân khách quan và chủ quan, rút

ra 05 kinh nghiệm của Thành ủy Hà Nội trong lãnh đạo công tác PCLP.

- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu tăng cường SLĐ của Thành ủy Hà

Nội đối với công tác PCLP đến năm 2030. Ngoài việc hệ thống hóa, làm rõ hơn

những giải pháp đã được sử dụng và phát huy tốt tác dụng trong lãnh đạo, chỉ

đạo PCLP thời gian qua, luận án đề xuất một số giải pháp mới, cụ thể, khả thi:

Một là, đổi mới nội dung lãnh đạo PCLP theo hướng tập trung vào các

8

lĩnh vực quan trọng, có nguy cơ cao về lãng phí lớn và thường gây bức xúc

cho xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng.

Hai là, đổi mới PTLĐ của Thành ủy đối với công tác PCLP đề cao

PTLĐ thông qua vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, nhất là người

đứng đầu.

Ba là, xây dựng tổ chức cơ sở đảng vững mạnh thực hiện tốt công tác

phòng, chống lãng phí, từ đó nâng cao năng lực lãnh đạo công tác PCLP của

toàn Đảng bộ

Bốn là, tăng cường kiểm tra, giám sát, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong

toàn Đảng bộ Thành phố Hà Nội, phát huy vai trò của Nhân dân, MTTQ và

các tổ chức chính trị - xã hội trong phản biện và giám sát xã hội trong thực

hiện công tác phòng, chống lãng phí

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

- Luận án góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận về lãng phí, công tác

PCLP và SLĐ của Thành ủy Hà Nội đối với công tác PCLP, chỉ ra khái niệm

Thành ủy Hà Nội lãnh đạo công tác PCLP, nội dung, PTLĐ của Thành ủy Hà

Nội đối với công tác PCLP.

- Kết quả nghiên cứu của luận án làm tài liệu tham khảo cho SLĐ của

các tỉnh ủy, thành ủy và cấp ủy các cấp đối với công tác PCLP.

- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, giảng

dạy Khoa học Chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng và chính quyền Nhà

nước tại Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, các Học viện trực thuộc và

các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,

nội dung của luận án được kết cấu thành 4 chương, 9 tiết.

9

Chƣơng 1

TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

Công tác PCLP cũng như SLĐ của Đảng đối với công tác PCLP là chủ

đề đang nhận được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, nhất là giai đoạn hiện

nay, khi mà cuộc đấu tranh PCTN, LP quyết liệt hơn bao giờ hết. Cho đến nay

chưa có một đề tài, một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách đầy đủ,

cụ thể, hệ thống về vấn đề Đảng lãnh đạo công tác PCLP. Mặc dù vậy, đã có

nhiều nghiên cứu có liên quan đến vấn đề lãng phí và công tác PCLP cũng

như SLĐ, chỉ đạo của các cấp ủy, chính quyền trong công tác PCLP, được thể

hiện ở các sách, các luận án, luận văn hay các bài viết được đăng tải trên các

tạp chí khoa học uy tín. Trên cơ sở đọc, nghiên cứu sách, đề tài, luận văn,

luận án, các bài viết khoa học đã được công bố, luận án giới thiệu tổng quan

một số công trình tiêu biểu trong nước và quốc tế như sau:

1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƢỚC NGOÀI LIÊN QUAN

ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1.1. Các công trình nghiên cứu về lãng phí và các giải pháp

phòng, chống lãng phí

Cuốn sách The Art of the Watchdog: Fighting Fraud, Waste, Abuse,

and Corruption in Government - “Sử dụng cơ quan giám sát: Giải pháp chống

gian lận, lãng phí, lạm dụng và tham nhũng trong chính phủ”[30] là cuốn sách

của Daniel L. Feldman and David R. Eichenthal - những chuyên gia Quản lý

công của New York. Nội dung cuốn sách đưa ra những tư vấn về giải pháp

chống tiêu cực, lãng phí, lạm quyền và tham nhũng. Tác giả khẳng định sự

giám sát của công dân chính là giải pháp tốt nhất, thường xuyên nhất để

chống tiêu cực, lãng phí. Trên cơ sở những ưu điểm và hạn chế của hoạt động

giám sát thời gian vừa qua, các tác giả đưa ra những chỉ dẫn cho người đọc về

các hình thức và phương pháp để giám sát công chức, tránh tiêu cực, tham

10

nhũng và lãng phí. Các tác giả khẳng định: giám sát hiệu quả là giải pháp hiệu

quả để có thể nâng cao chất lượng hoạt động của chính phủ và tăng cường dân

chủ, cải thiện niềm tin của công chúng đối với chính phủ.

Tác giả Jame P. Womack trong cuốn sách nổi tiếng Tư duy tinh gọn: từ

tư duy tinh gọn đến sản xuất tinh giản; từ loại bỏ lãng phí đến tiết kiệm chi phí [101] đã cung cấp 5 nguyên tắc của tư duy tinh gọn cùng các kỹ năng

trong quản lý. Năm nguyên tắc đó bao gồm: định rõ giá trị, xác định chuỗi giá

trị cho mỗi dòng sản phẩm, giá trị chảy liên tục và tạo điều kiện để khách

hàng kéo giá trị từ các chuỗi giá trị của bạn khi cần, không được phép ngừng

tay cho đến khi bạn đạt được sự hoàn hảo. Với góc nhìn quản lý kinh tế, tác

giả chỉ ra những biện pháp chống lãng phí và tiết kiệm chi phí trong sản xuất,

quản lý của doanh nghiệp. Loại bỏ lãng phí và tiết kiệm chi phí là mục tiêu

quan trọng trong sự phát triển của doanh nghiệp. Tác giả cũng đưa ra các ví

dụ cụ thể để các doanh nghiệp quản lý bằng tư duy tinh gọn một cách hiệu

quả, đạt được những thành công đầy ấn tượng.

Tài sản công là nguồn lực có ý nghĩa lớn đối với sự tăng trưởng bền

vững của mỗi quốc gia, nhưng việc quản lý và sử dụng tài sản công cũng là

một trong những lĩnh vực thường xuyên để xảy ra thất thoát, lãng phí. Quản

lý tài sản công hiệu quả sẽ tránh được những lãng phí lớn. Trong cuốn sách Quản lý hiệu quả tài sản công [19], các tác giả Dag Detter, Stefan Fölster tập

trung phân tích tài sản công mang tính thương mại; đưa ra một số biện pháp

để quản lý tài sản công hiệu quả, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế của những

biện pháp này một cách khách quan, khoa học trong điều kiện, bối cảnh của

quốc gia mà mình nghiên cứu, cụ thể là những kinh nghiệm quý báu trong

quản lý tài sản công của Thụy Điển và Singapore. Các tác giả cũng cho rằng,

việc thành lập các quỹ của cải quốc gia để tạo điều kiện cho tính minh bạch

trong quản lý tài sản công là biện pháp hiệu quả nhất đối với nhiều quốc gia.

Những biện pháp mà cuốn sách đề cập và phân tích là hữu ích đối với việc

11

nghiên cứu và đề xuất các giải pháp PCLP.

Việc xây dựng chính sách quản lý tài chính chặt chẽ là biện pháp quan

trọng để hạn chế tối đa xảy ra thất thoát, lãng phí… Đi sâu vào nghiên cứu về

sự thay đổi sâu sắc về thể chế và phương thức quản lý tài chính của Trung

Quốc trong quá trình đổi mới, tác giả Hạng Hoài Thành với cuốn sách Quản

lý tài chính của Trung Quốc [75] là tài liệu tham khảo hữu ích trong việc đánh

giá và đề xuất giải pháp phòng, chống thất thoát, lãng phí. Cuốn sách phân

tích sự thay đổi trong quản lý tài chính của Trung Quốc thể hiện trên ba mặt:

Một là, sự sáng tạo chế độ; hai là, vận dụng đúng đắn chính sách tài chính

phát huy tác dụng điều tiết, kiểm soát vĩ mô của tài chính; ba là, dựa vào luật

pháp để giải quyết vấn đề tài chính, thúc đẩy trình độ quản lý tài chính không

ngừng nâng cao. Quản lý tài chính là một bộ phận cấu thành có vai trò rất

quan trọng hoạt động quản lý của Chính phủ. Chính sách quản lý tài chính

phù hợp, cùng với đòn bẩy tiền tệ, trở thành bộ phận cốt lõi, mang tới những

thay đổi cơ bản trong cơ chế, chính sách quản lý nền kinh tế quốc dân. Nhờ

chính sách quản lý tài chính hợp lý, Trung Quốc đã tăng trưởng kinh tế nhanh

và mạnh trong nhiều năm liền, luôn ở mức trên dưới 10%/năm, một thành tích

đáng nể, đưa Trung Quốc lên vị thế mới trên trường quốc tế. Cuốn sách cũng

đề cập đến những nội dung quan trọng cần nắm vững để quản lý tốt công tác

tài chính, bao gồm: Một là, tầm quan trọng của tài chính đối với hoạt động

chính trị, kinh tế của nhà nước; hai là, tài chính có vị trí và tác dụng quan

trọng trong điều tiết kiểm soát vĩ mô của nhà nước; ba là, sức mạnh tài chính

nhà nước có liên quan chặt chẽ với sự hùng mạnh, ổn định và an ninh của nhà

nước; bốn là, trong công tác tài chính cần chú ý giải quyết tốt các mối quan

hệ, không những chú ý đến lợi ích kinh tế mà còn chú ý đến lợi ích chính trị,

lợi ích xã hội. Trong cuốn sách, các vấn đề quản lý tài chính bao gồm: quản lý

dự toán ngân sách, kho bạc nhà nước, chi tiêu công, bảo hiểm xã hội, thuế và

phí, công trái, nợ quốc gia, vốn nhà nước tại doanh nghiệp,… được trình bày

12

một cách đầy đủ, toàn diện. Bên cạnh đó, tác giả còn đi sâu phân tích những

vấn đề đang rất được quan tâm hiện nay như quản lý tài chính trong quá trình

toàn cầu hoá kinh tế, quản lý kế toán, giám sát tài chính, tin học hoá trong

quản lý tài chính,… Đây là những kinh nghiệm, bài học quý giá cho Việt

Nam, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi nước ta đã gia nhập Tổ chức

Thương mại Thế giới (WTO), hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế

khu vực và thế giới.

Viết về phương cách PCLP đối với mỗi cá nhân, có thể kể đến cuốn 7

Chiến lược thịnh vượng và hạnh phúc của Jim Rohn[49]. Cuốn sách chỉ ra các

cách phát huy tối đa khả năng của bản thân để thành công, đạt được cả thịnh

vượng và hạnh phúc. Qua cuốn sách này, người đọc sẽ nắm được các chiến

lược cá nhân để phát triển bản thân về kiểm soát tài chính và thời gian, tránh

lãng phí thời gian, công sức và tiền bạc. Tương tự, cuốn sách Quản lý thời

gian [31] của bộ đôi tác giả Richard Guare và Peg Dawson đưa ra những cách

thức khoa học và dễ thực hiện nhất để thay đổi thói quen tư duy và hành

động, để không chỉ sắp xếp được tốt hơn thời gian biểu, cân bằng công việc

với cuộc sống riêng tư mà còn cải thiện được trí nhớ một cách rõ rệt.

Những cuốn sách nói trên xoay quanh các vấn đề làm thế nào để tiết

kiệm chi phí, thời gian và công sức, đạt hiệu quả và lợi ích tối ưu cho các

nhóm đối tượng là tổ chức hay cá nhân. Tuy nhiên, chưa có cuốn sách nào

viết về lãng phí dưới hướng tiếp cận là một vấn đề riêng biệt, cụ thể, có ảnh

hưởng lớn tới xã hội.

1.1.2. Các công trình nghiên cứu về đảng cầm quyền lãnh đạo

phòng, chống lãng phí

- Cuốn sách Cầm quyền khoa học[39] được dịch từ nguyên bản tiếng

Trung, do Nhà xuất bản Nhân dân Giang Tô phát hành, khái quát quan điểm

của Đảng Cộng sản Trung Quốc về đảng cầm quyền: một là, cầm quyền khoa

học; hai là, cầm quyền dân chủ và ba là, cầm quyền theo pháp luật. Trong đó,

13

cuốn sách tập trung diễn giải về cầm quyền quyền khoa học. Với 3 phần, 10

chương, cuốn sách khẳng định: “Cầm quyền là khoa học, không thể chỉ dựa

vào kinh nghiệm mà phải làm việc tuân theo quy luật nội tại của sự việc. Cái

gọi là cầm quyền khoa học (ở đây chỉ Đảng Cộng sản Trung Quốc) là kết hợp

thực tế Trung Quốc, không ngừng tìm hiểu và tuân theo quy luật cầm quyền

của đảng cộng sản, quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội, quy luật phát triển xã

hội loài người, dùng tư tưởng khoa học, chế độ khoa học, phương pháp khoa

học để lãnh đạo sự nghiệp chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc”.

Đặc biệt, trong Phần thứ hai (từ chương 6 tới chương 8) có chỉ ra một

số yêu cầu cụ thể từ khía cạnh thao thác nhằm nắm bắt và vận dụng được tài

nguyên cầm quyền, làm thế nào để giảm chi phí cầm quyền, nâng cao hiệu

quả cầm quyền đến việc thông qua quyết sách khoa học, thực hiện cầm quyền

khoa học. Đây là những vấn đề mà luận án có thể tham khảo và làm rõ hơn.

Cuốn sách Đảng Cộng sản Trung Quốc 5 năm quản trị Đảng nghiêm

minh toàn diện (Thành tựu và kinh nghiệm trong công tác tổ chức và xây

dựng Đảng từ sau Đại hội XVIII) của Viện Nghiên cứu Xây dựng Đảng, Ban

Tổ chức Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc [98] với 12 chương, đã

phân tích những thành tựu và kinh nghiệm trong công tác tổ chức và xây dựng

Đảng từ sau Đại hội XVIII của Đảng Cộng sản Trung Quốc, khẳng định ý

nghĩa quan trọng của công tác quản trị Đảng nghiêm minh toàn diện trên

nhiều mặt, những kết quả nổi bật và đúc kết nhiều kinh nghiệm quý báu trong

quản trị đảng. Đặc biệt, tại Chương 8 của cuốn sách đã đưa ra nhiều kinh

nghiệm về SLĐ của Đảng đối với công tác PCLP. Lãng phí cùng với “chủ

nghĩa hình thức”, “chủ nghĩa quan liêu”, “chủ nghĩa hưởng lạc” được coi là

“bốn tác phong” phải sửa đổi của toàn Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trong 05

năm (từ năm 2013 đến năm 2019), Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đẩy mạnh

thực hiện xây dựng tác phong của Đảng, bắt đầu bằng việc ban hành và thực

hiện “8 điều quy định của Trung ương”, chỉnh đốn từng vấn đề nổi cộm về

14

“bốn tác phong”, tiến hành thực hiện thường xuyên, liên tục và ngày càng

phải nghiêm, tăng cường giám sát của nhân dân, xây dựng hệ thống THTK,

CLP “1+20”. Kết quả là một số tác phong xấu đã được ngăn chặn, tính kiên

định, tính tự giác trong thực hiện tôn chỉ của Đảng của cán bộ, đảng viên

được tăng cường rõ rệt; truyền thống và tác phong tốt đẹp của Đảng được

khôi phục và phát huy hơn nữa. Cuốn sách cũng chỉ ra các kinh nghiệm trong

lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCLP bao gồm: Một là, cần phải kiên trì

phát huy vai trò đi đầu, nêu gương của NĐĐ, của cấp trên đối với cấp dưới;

hai là, cần kiên trì đột phá trọng điểm, tập trung vấn đề; ba là, cần phải thực

hiện liên tục, thường xuyên và kiên trì; bốn là, cần kiên trì niềm tin vào quần

chúng nhân dân, mở cánh cửa lớn; năm là, cần kiên trì tiến hành lâu dài, thiết

lập thể chế, cơ chế. Các thành tựu và kinh nghiệm từ các chương khác cũng

có thể tham khảo để tăng cường SLĐ của Đảng đối với công tác PCLP như:

tăng cường xây dựng chính trị trong Đảng, rèn luyện tính cách mạng cho cán

bộ, đảng viên; kiên định niềm tin, củng cố nền tảng tư tưởng; xây dựng đội

ngũ cán bộ “mà Đảng và Nhân dân cần”; đặt kỷ luật và quy định trong Đảng

lên hàng đầu, cài chặt “chiếc lồng chế độ”…

Qua hàng loạt những giải pháp cụ thể, quyết liệt, quả PCLP, thực hành

tiết kiệm cũng được cuốn sách chia sẻ rất ấn tượng:

"Chi phí tiếp khách công vụ cấp Trung ương năm 2013, 2014, 2015,

2016 lần lượt là 1,209 tỷ NDT, 920 triệu NDT, 542 triệu NDT, 419 triệu

NDT, giảm liên tục trong 4 năm, mức độ giảm đạt đến 65%. Tháng 7 – 2014,

cải cách sử dụng xe công chính thức được khởi động. Tính đến cuối năm

2015, 140 ban ngành tham gia cải cách trong các cơ quan Trung ương và Nhà

nước đã hoàn thành toàn diện việc cải cách chế độ sử dụng xe công, hơn

49.000 công chức tham gia cải cách, cắt giảm được 3.868 xe, tỷ lệ cắt giảm

đạt 62%, ước tính tiết kiệm được 10,5% chi phí. Cải cách xe công ở các địa

phương cũng được thúc đẩy tích cực, ổn thỏa. Tính đến năm 2017, hơn 8,21

15

triệu công chức đã tham gia cải cách, cắt giảm 775.800 chiếc xe công, tỷ lệ

cắt giảm vượt quá 45%. Các địa phương thiết thực chỉnh đốn vấn đề dùng xe

công để đi du lịch, tổ chức ma chay hiếu hỉ, đi thăm hỏi người thân hay đến

những tụ điểm ăn chơi giải trí v.v... Việc cải cách đạt được kết quả rõ nét.

Nghiêm túc chỉnh đốn vấn đề sử dụng xe công vụ sai quy định, liên tục đưa ra

tín hiệu mạnh mẽ rằng “vi phạm kỷ luật sẽ bị truy cứu, chấp hành kỷ luật phải

nghiêm”. Báo cáo quyết toán của Trung ương cho thấy, chi phí mua, vận hành

và bảo dưỡng xe công của Trung ương năm 2016 là 2,587 tỷ NDT, ít hơn so

với dự toán 854 triệu NDT, giảm 24,8%; ít hơn 500 triệu so với năm 2015,

giảm 16,2%. Cơ bản thiết lập được chế độ sử dụng xe công kiểu mới. Hiện

tượng “dùng xe công vào việc tư” cơ bản được ngăn chặn tận gốc.

Trong vòng 5 năm từ năm 2012 đến năm 2016, các khoản chi tài chính

cho kinh phí “tam công” của cấp Trung ương lần lượt là 7,425 tỷ NDT, 7,015

tỷ NDT, 5,88 tỷ NDT, 5,373 tỷ NDT và 4,825 tỷ NDT, kinh phí quyết toán đi

nước ngoài vì lý do công vụ của Trung ương năm 2016 là 1,819 tỷ NDT,

giảm 208 triệu NDT so với dự toán. “Tiêu chuẩn xây dựng văn phòng làm

việc của các cơ quan Đảng, Nhà nước”, đưa ra những quy định cụ thể về phân

loại kiến trúc, cũng như chỉ tiêu diện tích v.v…, đưa ra “ràng buộc cứng” đối

với việc xây dựng văn phòng làm việc của các cơ quan Đảng, Nhà nước. Hầu

hết các địa phương, ban ngành, đơn vị đều đồng loạt rà soát, thanh lý những

văn phòng vượt chỉ tiêu. Cán bộ kiêm nhiệm nhiều chức vụ lãnh đạo hầu hết

chỉ giữ lại 1 văn phòng làm việc. Đa số cán bộ đều nghiêm túc thực hiện tiêu

chuẩn về sử dụng văn phòng theo đúng quy định. Một số ít cán bộ vi phạm

quy định, chiếm dụng văn phòng vượt chỉ tiêu đều bị xử lý nghiêm. 5 năm qua, cả nước tổng cộng đã điều chỉnh, rà soát và thanh lý 22.276.000 m2 nhà

sử dụng làm văn phòng".

Những cuốn sách trên viết về vấn đề lãnh đạo nói chung, lãnh đạo công

tác PCLP nói riêng của Đảng Cộng sản Trung Quốc - một đất nước có nhiều

16

nét tương đồng với thể chế chính trị của nước ta. Lãng phí ở Trung Quốc

cũng là vấn đề nóng hổi, gây nhiều bức xúc trong xã hội và Nhân dân Trung

Quốc, công tác PCLP cũng được Đảng Cộng sản Trung Quốc hết sức quan

tâm, coi là một trong “bốn tác phong” cần được sửa đổi ngay, quyết liệt.

Những kinh nghiệm PCLP và cầm quyền khoa học của Đảng Cộng sản Trung

Quốc được phân tích trong các công trình trên là những thông tin cần thiết,

hữu ích cho đề tài luận án nghiên cứu, tìm hiểu.

1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƢỚC LIÊN QUAN ĐẾN

ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.2.1. Các công trình nghiên cứu về lãng phí và phòng, chống lãng phí

Tiết kiệm, chống lãng phí cũng như chống tham ô, quan liêu và các

biểu hiện tiêu cực khác là một trong những nội dung lớn trong tư tưởng Hồ

Chí Minh. Nghiên cứu các quan điểm của Người cũng như những nội dung

học tập và THTK, CLP theo lời dạy của Bác là chủ đề của nhiều nhà khoa

học, thể hiện ở nhiều sách, bài viết được đăng trên nhiều tạp chí khác nhau, có

thể kể đến như:

- Cuốn sách Tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về thực hành

tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu [66] là Tài liệu học tập do Ban

Tuyên giáo Trung ương phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị quốc gia biên

soạn nhằm cung cấp tài liệu cho cuộc vận động Học tập và làm theo tấm

gương đạo đức Hồ Chí Minh. Cuốn sách gồm 2 chuyên đề: Chuyên đề 1 - Tư

tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về thực hành tiết kiệm, chống tham

ô, lãng phí, quan liêu; Chuyên đề 2 - Giới thiệu tác phẩm Sửa đổi lối làm việc.

Trong đó, chuyên đề 1 tập trung phân tích tư tưởng và tấm gương mẫu mực

của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tiết kiệm và thực hành tiết kiệm, về chống tham

ô, lãng phí, quan liêu, trong đó nêu rõ khái niệm, nội dung của tiết kiệm, tác

hại của tham ô, lãng phí, quan liêu, ý nghĩa và những biện pháp chống tham ô,

lãng phí, quan liêu, việc tổ chức học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo

17

đức Hồ Chí Minh về thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu.

- Bài viết “Hồ Chí Minh với vấn đề chống giặc nội xâm - suy thoái về

tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên” của tác giả

Nguyễn Hùng Hậu [38] đã phân tích những quan điểm của Hồ Chí Minh về

chống “giặc nội xâm” – các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức

lối sống, tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Bài viết cũng phân tích sự

vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh trong chống “giặc nội xâm” của Đảng,

thể hiện ở việc Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII đã cụ thể hóa trong việc

nhận diện những biểu hiện suy thoái, chỉ ra một cách có hệ thống 27 biểu hiện

và đề ra các giải pháp để ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng này. Các phân tích

trong bài viết về các nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề này có giá trị

thiết thực đối với công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay.

- Cùng một số bài viết khác: “Quan điểm của Hồ Chí Minh về THTK,

CLP” của tác giả Nguyễn Lan Anh đăng trên Tạp chí Lịch sử Đảng (số tháng

1/2015) [1]; bài viết “Học Bác sống tiết kiệm, ứng xử có nghĩa, có tình” của tác

giả Trần Quốc Vượng, đăng trên Tạp chí Tuyên giáo, số tháng 6 năm 2018

[100]; bài viết “Đẩy mạnh THTK, CLP theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai

đoạn hiện nay” của tác giả Đinh Ngọc Giang, Nguyễn Thị Hồng Hạnh đăng trên

Tạp chí Quản lý nhà nước số tháng 7 năm 2013 [37]; bài viết “Quan điểm "Cần,

kiệm, liêm, chính là nền tảng của thi đua ái quốc" trong tư tưởng Hồ Chí Minh

và ý nghĩa hiện thời của nó” của PGS, TS. Nguyễn Thị Nga, TS. Hoàng Thị Kim

Oanh đăng trên Tạp chí Thông tin khoa học lý luận chính trị số 6/2018 [67]; bài

viết “Phòng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong bộ máy hành chính nhà

nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh” của tác giả Trần Đình Thắng, Lê Văn Nam

trên Tạp chí Giáo dục lý luận số 245 năm 2016 [60];…

Nghiên cứu về lãng phí trong các mối quan hệ và nguyên nhân, tác hại

của lãng phí, có một số bài viết khác luận án có thể tham khảo như: bài viết

“Kiểm điểm trách nhiệm gây lãng phí”[36] đăng trên Tạp chí Nội chính; bài

18

viết “Mối quan hệ giữa tăng trưởng, lạm phát, tiết kiệm và đầu tư tại Việt

Nam” đăng trên Tạp chí Tài chính [32]; bài viết “Một biểu hiện của bệnh lãng

phí” đăng trên Tạp chí Quốc phòng Toàn dân [71],…

Về thực tế lãng phí và công tác PCLP của các địa phương, đơn vị, có

những bài viết như: bài viết “Công ty Duyên Hải THTK, CLP” của Đại

tá Phạm Đức Long đăng trên Tạp chí Quốc phòng toàn dân số tháng 6 năm

2019 [55]; bài viết “Làm theo lời Bác Hồ dạy, Quân đoàn 2 đẩy mạnh tăng

gia sản xuất, thực hành tiết kiệm” của tác giả Bùi Quang Khải đăng trên Tạp

chí Quốc phòng toàn dân số tháng 7 năm 2018 [50]… Cuốn sách Trách

nhiệm của chính quyền cơ sở trong tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và PCTN, LP của tác giả Nguyễn Tuấn Khanh [51] có nội dung gồm bốn

phần, trong đó, phần IV giới thiệu về Trách nhiệm của chính quyền cơ sở

trong PCTN, LP, cung cấp góc nhìn từ chính quyền cơ sở đối với công tác

PCTN, LP. Cuốn sách là tài liệu hữu ích không chỉ giúp cho đông đảo bạn

đọc, nhất là cán bộ, công chức và nhân dân tại cơ sở xã, phường, thị trấn giải

quyết tốt các công việc liên quan đến tiếp công dân, khiếu nại, tố cáo và

PCTN, LP một cách hiệu quả mà còn giúp tác giả luận án có góc nhìn cụ thể

và thực tiễn tốt đối với công tác PCTN, LP.

Nghiên cứu về các giải pháp PCLP trong các lĩnh vực, có các công

trình nghiên cứu như:

Bài viết "Phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí theo luật tục

của người Thái ở Tây Bắc Việt Nam" của tác giả Lừ Văn Tuyên được đăng

trên Tạp chí Nội chính số 31 năm 2016 [91] giới thiệu khái quát về luật tục

dân tộc Thái và phân tích những quy định trong Luật tục của người Thái về

phòng ngừa tham nhũng, quan liêu, lãng phí, trên cơ sở đó, tác giả đưa ra một

số đề xuất phát huy giá trị của luật tục để góp phần thực hiện có hiệu quả

công tác phòng ngừa tham nhũng, quan liêu, lãng phí tại vùng dân tộc Thái ở

Tây Bắc. Từ thực tiễn tại Tây Bắc, tác giả bài viết khẳng định bên cạnh các

19

quy định của Đảng, pháp luật Nhà nước, việc tìm hiểu các hương ước, các

quy tắc cộng đồng của địa phương là cần thiết để nâng cao hiệu quả phòng

ngừa, hạn chế tham nhũng, lãng phí ở những địa phương đặc thù.

Cùng nghiên cứu về báo chí và vai trò của báo chí đối với công tác PCLP

nói riêng, công tác PCTN, LP nói chung, có bài viết của Đại tá, PGS, TSKHQS

Trần Nam Chuân có tên “Báo chí cách mạng – Nhân tố quan trọng góp phần

cùng cả nước PCTN, LP”[17]; bài viết của tác giả Hồ Quang Lợi, có tên “Phát

huy vai trò của báo chí trong đấu tranh PCTN, LP”[54] và bài viết của tác giả Vũ

Trung Kiên với tên “Dùng báo chí để chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực theo

quan điểm của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh”[52]; bài viết “Tự phê bình và

phê bình trên báo chí – Giải pháp quan trọng góp phần PCTN, LP”[59] cùng

được đăng trên Tạp chí Nội Chính. Các tác giả đều thống nhất nhận định: là

nhóm “quyền lực thứ tư”, báo chí là công cụ hiệu quả, góp phần quan trọng vào

cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Báo chí không chỉ là

phương thức tuyên truyền tích cực về THTK, CLP mà còn là nguồn phát hiện

các biểu hiện tiêu cực, các hành vi sai phạm, tham nhũng.

Những công trình khoa học trên đã đề cập đến nhiều mặt của lãng phí

và công tác lãng phí, đặt lãng phí trong các mối quan hệ với tham ô, tham

nhũng, quan liêu để làm rõ hơn, khẳng định vai trò và sự cần thiết của công

tác PCLP cũng như đề xuất một số giải pháp PCLP trong nhiều lĩnh vực, điển

hình là trong đầu tư công. Đây là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho tác giả

luận án trong việc nghiên cứu về lãng phí và đấu tranh PCLP dưới nhiều góc

nhìn khác nhau.

Các công trình nghiên cứu xác định đến các giải pháp thậm chí hệ

thống giải pháp trên cơ sở phân tích thực trạng của từng địa phương, đơn vị

nhất định. Các giải pháp được đưa ra tương đối cụ thể và có tính khả thi cao.

Các công trình nghiên cứu về lãng phí có số lượng tương đối nhiều và đưa ra

những biện pháp, cách thức để loại bỏ hoặc hạn chế lãng phí. Tuy nhiên, hầu

20

hết các sách, báo về lãng phí mới chỉ đi vào một mặt, một lĩnh vực nào đó như

nghiên cứu lãng phí và phòng ngừa lãng phí trong các doanh nghiệp, trong

sản xuất kinh doanh hay nghiên cứu khắc phục lãng phí dưới góc độ cá nhân.

Số ít công trình còn lại tiếp cận lãng phí như một vấn nạn cần được giải quyết,

giống với đề tài luận án đang nghiên cứu, song mới dừng lại ở mức độ nghiên

cứu công tác PCTN, LP nói chung. Kết quả nghiên cứu chỉ ra những khó

khăn, phức tạp của công tác PCTN, LP, những hậu quả kinh tế - xã hội do

tham nhũng, lãng phí gây ra, những bài học thành công hay chưa thành công

của Việt Nam cũng như các nước trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng,

lãng phí. Các công trình nêu trên cũng đưa ra những giải pháp, biện pháp khác

nhau để thực hiện tốt hơn công tác PCTN, LP trong giai đoạn hiện nay, đồng

thời khẳng định để những giải pháp, biện pháp đó được thực hiện hiệu quả

cần có sự quyết tâm thực hiện không chỉ của riêng Đảng mà còn của cả HTCT

và toàn thể nhân dân.

Lãng phí xảy ra trên nhiều lĩnh vực. Trong đó, đầu tư công là lĩnh vực

thường xuyên xảy ra thất thoát, tham nhũng, lãng phí. Việc quản lý các dự án

đầu tư công hiệu quả là biện pháp quan trọng trong phòng ngừa lãng phí, thất thoát. Cuốn sách chuyên khảo Quản lý dự án đầu tư công [41] cung cấp kiến

thức, kỹ năng, công cụ và kỹ thuật vào việc lập, thẩm định và quyết định về

đầu tư công và quản lý đầu tư công; dự án đầu tư công và quản lý dự án đầu

tư công, các bên liên quan và tổ chức văn phòng quản lý dự án; phương pháp

lập, phân tích hiệu quả và thẩm định dự án đầu tư công; các hình thức, quy

trình, kỹ thuật và kiểm soát thực hiện dự án đầu tư công; cách thức giám sát,

đánh giá dự án đầu tư công và xử lý kết quả giám sát, đánh giá.

1.2.2. Các công trình nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng và cấp ủy

đảng các cấp đối với công tác phòng, chống lãng phí và các biểu hiện

tham nhũng, tiêu cực khác

- Nội dung cuốn sách Đảng với cuộc đấu tranh phòng và chống tham

nhũng, lãng phí [63] đưa ra cái nhìn đa chiều của nhiều tác giả về tham

21

nhũng, lãng phí và PCTN, LP nói chung với độ dày 400 trang bao gồm 5 phần

chính: Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về chống quan liêu, tham ô, lãng phí; những

văn bản của Đảng chỉ đạo cuộc đấu tranh phòng và chống tham nhũng, lãng

phí; tham nhũng, lãng phí ở nước ta đến năm 2016 – thực trạng và giải pháp

phòng, chống; Một số bài viết trên báo chí về tham nhũng, đặc biệt phân tích

một số vụ án tham nhũng cụ thể; thực tiễn tham nhũng và một số cách nhìn về

chống tham nhũng của quốc tế. Cuốn sách được ấn hành đã góp phần vào việc

đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động thực hiện chủ trương, đường lối,

chính sách của Đảng và Hướng dẫn số 160B-HD/BTGTW của Ban tuyên giáo

Trung ương ngày 07/9/2015 về việc đấu tranh PCTN, LP.

- Sách tham khảo Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với PCLP ở

nước ta hiện nay - Những vấn đề đặt ra và giải pháp [86] tập trung làm rõ

những nội dung cơ bản của công tác kiểm tra, giám sát của Đảng về PCLP từ

năm 2006 (từ khi có Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung

ương khóa X về tăng cường SLĐ của Đảng đối với công tác PCTN, LP),

những kết quả đạt được và những hạn chế, từ đó đề ra phương hướng, giải

pháp chủ yếu tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với PCLP ở

nước ta trong những năm tiếp theo. Tập thể tác giả công tác tại Ủy ban Kiểm

tra Trung ương khẳng định: “công tác kiểm tra, giám sát của Đảng không chỉ

là những chức năng lãnh đạo của Đảng mà còn là công cụ đắc lực góp phần

quan trọng, có hiệu quả nhất vào cuộc đấu tranh PCLP ở nước ta hiện nay”

[86]. Trong cuốn sách, một số kinh nghiệm và giải pháp chủ yếu tăng cường

công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với PCLP ở nước ta trong thời gian tới

cũng được trình bày cụ thể, chi tiết.

- Quan liêu cùng với tham nhũng, lãng phí là ba căn bệnh luôn đi liền

với nhau. Tệ quan liêu là yếu tố phát sinh, phát triển và nuôi dưỡng lãng phí.

Ở đâu có quan liêu thì ở đó có lãng phí. Quan liêu là căn bệnh nguy hiểm và

là nguy cơ lớn đối với Đảng cầm quyền. Trong cuốn sách Bệnh quan liêu

22

trong công tác cán bộ ở nước ta hiện nay - thực trạng, nguyên nhân và giải

pháp [99], các tác giả - những chuyên gia về Xây dựng Đảng khẳng định:

Bệnh quan liêu là căn bệnh tồn tại trong mọi chế độ xã hội và có thế xuất hiện

trong mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội, trong các tổ chức đảng, trong bộ

máy Nhà nước, trong các tổ chức CT-XH và ở mỗi cán bộ, đảng viên. Trong

lĩnh vực hoạt động nào bệnh quan liêu cũng đều là hiện tượng tiêu cực và

nguy hiểm, gây nhiều tác hại cho xã hội, nhưng tác hại nhất là bệnh quan liêu

trong công tác cán bộ. Tìm hiểu về quan liêu, tác hại của quan liêu cũng như

giải pháp đề phòng, khắc phục bệnh quan liêu nói chung, bệnh quan liêu trong

công tác cán bộ nói riêng là cần thiết để hiểu hơn về lãng phí và PCLP. Với

kết cấu ba chương, cuốn sách nghiên cứu làm rõ nguồn gốc, bản chất và

những tác hại của bệnh quan liêu trong công tác cán bộ, chỉ ra một số biểu

hiện chủ yếu và nguyên nhân của bệnh quan liêu trong công tác cán bộ, đưa ra

phương hướng và đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm đề phòng, khắc phục

bệnh quan liêu trong công tác cán bộ. Cuốn sách là tài liệu tham khảo hữu ích

để tác giả luận án nghiên cứu và học tập.

- Cùng nghiên cứu về việc thực hiện phòng, chống quan liêu, xa dân

nhưng tiếp cận theo chuyên ngành Hồ Chí Minh học, đề tài khoa học cấp bộ

“Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào phòng, chống căn bệnh quan liêu, xa

dân, coi thường quần chúng của Đảng cầm quyền” do PGS. TS Bùi Đình

Phong làm chủ nhiệm [70] đã đi sâu nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh và

việc thực hiện phòng, chống “quan liêu, xa dân, coi thường quần chúng”-

những biểu hiện của sự suy thoái về đạo đức, lối sống. Nội dung chính của đề

tài làm rõ một số vấn đề lý luận trong di sản Hồ Chí Minh về Đảng cầm

quyền và tập trung đánh giá thực trạng việc phòng chống bệnh quan liêu, xa

dân, coi thường quần chúng qua hơn 30 năm đổi mới của Đảng cầm quyền.

Đề tài thành công trong việc nhận diện những căn bệnh quan liêu, xa dân, coi

thường quần chúng và nêu ra hệ giải pháp phòng, chống bệnh quan liêu, xa

23

dân, coi thường quần chúng và nêu ra hệ giải pháp phòng, chống căn bệnh

quan liêu, xa dân trong tình hình hiện nay. Đề tài nhận định hiện nay Đảng ta

đã và đang vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực hiện phòng, chống các

biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống nói chung, phòng

chống quan liêu, xa dân, coi thường quần chúng nói riêng, tuy từng bước,

cách tiến hành cụ thể có những điểm khác nhưng nhìn chung vẫn xoay quanh

các giải pháp: tự phê bình và phê bình, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật

đảng; hoàn thiện cơ chế, chính sách, bảo đảm tính khoa học của bộ máy, phát

huy vai trò của MTTQ Việt Nam, các đoàn thể CT-XH và các tầng lớp nhân

dân, vai trò của báo chí, truyền thông.

- Lãng phí và tham nhũng thường đi đôi với nhau, nhiều hành vi lãng

phí thực chất là tham nhũng. Tham nhũng là vấn đề hết sức phức tạp và là vấn

đề được Đảng và Nhà nước quan tâm trong giai đoạn hiện nay. Cuốn sách Quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng xuất bản năm 2019 [87] gồm 31

bài phát biểu, bài viết, trả lời phỏng vấn của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước

Nguyễn Phú Trọng, Trưởng ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN, từ sau Đại

hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, nhất là từ Đại hội lần thứ XII đến

nay. Nhằm hệ thống hóa những chỉ đạo của Ông, các bài viết được Nxb Chính

trị quốc gia sắp xếp thành hai phần: Một là, một số bài phát biểu, bài viết và

trả lời phỏng vấn về công tác PCTN; hai là, phát biểu của Ông tại một số

phiên họp Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN. Với SLĐ quyết liệt của Đảng,

trong những năm qua, công tác PCTN đã đạt nhiều kết quả rõ rệt, nhận được

sự ủng hộ, đồng tình, phấn khởi của đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Việc phát hiện, xử lý các vụ việc, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham

nhũng, kinh tế được đẩy mạnh và có nhiều chuyển biến tích cực. Cuốn sách là

tài liệu hữu ích giúp các ngành, các cấp, các địa phương, các tổ chức đảng và

nhân dân nắm vững, quán triệt và triển khai có hiệu quả công tác PCTN, đồng

thời cũng là tài liệu tham khảo hữu ích đối với tác giả luận án.

24

- Luận án Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo PCTN trong giai

đoạn hiện nay của tác giả Lê Thị Nghĩa [61] đã đưa ra cơ sở lý luận, trong đó

có một số khái niệm về tham nhũng, PCTN và Đảng bộ Thành phố Hồ Chí

Minh lãnh đạo PCTN, những phân tích cụ thể nội dung và PTLĐ của Đảng bộ

Thành phố Hồ Chí Minh trong PCTN. Tham nhũng và lãng phí được coi là

“anh em sinh đôi”, bởi vậy, cuộc đấu tranh chống lãng phí cũng cần quyết liệt

không kém so với cuộc đấu tranh PCTN. Từ cơ sở lý luận, tác giả luận án đưa

ra những đánh giá về thực trạng tham nhũng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí

Minh, những tác động tiêu cực của nó đối với sự nghiệp xây dựng và phát

triển của Thành phố; đồng thời đánh giá SLĐ của Đảng bộ Thành phố Hồ Chí

Minh trong PCTN thời gian qua, xác định rõ nguyên nhân và rút ra những

kinh nghiệm. Trên cơ sở đó, luận án xác định mục tiêu, phương hướng và đề

xuất những giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường SLĐ của Đảng bộ Thành phố

Hồ Chí Minh trong PCTN đến năm 2020.

Có nhiều bài viết khoa học đăng trên báo, tạp chí nghiên cứu về PTLĐ

của Đảng gần đây có ý nghĩa tham khảo tốt và hữu ích đối với đề tài có thể kể

đến như:

- Bài viết "Tăng cường SLĐ của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý

vụ việc, vụ án tham nhũng tại Bình Thuận" của tác giả Ngô Minh Hòa đăng

trên Tạp chí Nội chính số 44 [42] đã nêu những kết quả chủ yếu trong việc

quán triệt và triển khai thực hiện Chỉ thị số 50-CT/TW ngày 07-12-2015 của

Bộ Chính trị về tăng cường SLĐ của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý

vụ việc, vụ án tham nhũng của Tỉnh ủy Bình Thuận, đồng thời nêu 06 nhóm

nhiệm vụ trọng tâm cho các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận,

đoàn thể, cơ quan, đơn vị, địa phương và các cơ quan bảo vệ pháp luật trên

địa bàn để tiếp tục thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 50-CT/TW của Bộ Chính

trị trong thời gian tới: Một là, tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả Chỉ thị

số 50-CT/TW cuả Bộ Chính trị, Kế hoạch số 06-KH/TU ngày 17-3-2016 của

25

Ban Thường vụ Tỉnh ủy gắn với quán triệt, triển khai Kết luận số 10-KL/TW

ngày 26-12-2016 của Bộ Chính trị, Kế hoạch số 48-KH/TU ngày 17-3-2017

của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bình Thuận về tiếp tục thực hiện Nghị quyết

Trung ương 3 (khóa X) về tăng cường SLĐ của Đảng đối với công tác PCTN,

LP, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về: “tăng cường xây dựng, chỉnh

đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối

sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; Chỉ thị

05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về học tập làm theo tư tưởng, đạo đức,

phong cách Hồ Chí Minh. Hai là, thực hiện nghiêm túc chế độ định kỳ ban

thường vụ cấp ủy, NĐĐ cấp ủy và cơ quan, đơn vị, địa phương trực tiếp nghe

báo cáo và chỉ đạo công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng theo

Kế hoạch số 06-KH/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bình Thuận; chủ động

phòng ngừa, phát hiện, xử lý các vụ việc có dấu hiệu tham nhũng, lãng phí

và các hành vi bao che, cản trở việc PCTN, LP; chủ động yêu cầu các cơ

quan chức năng báo cáo các vụ việc, vụ án nghiêm trọng, phức tạp, dư luận

xã hội quan tâm để kịp thời chỉ đạo xử lý. Ba là, các cơ quan chức năng

phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương tập trung chỉ đạo, xử

lý dứt điểm các vụ việc, vụ án tham nhũng, tiêu cực đang thụ lý, nhất là các

vụ việc tồn đọng; thực hiện tốt công tác giám định, nâng cao hiệu quả thu

hồi tài sản tham nhũng, lãng phí. Kịp thời xử lý nghiêm minh về trách

nhiệm của NĐĐ cơ quan, đơn vị để xảy ra tham nhũng. Bốn là, nâng cao

chất lượng, hiệu quả công tác điều tra, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán để

phát hiện, xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng, lãng phí. Các cấp, các

ngành rà soát chấn chỉnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tranh

tra kinh tế - xã hội. Năm là, thường xuyên tăng cường công tác kiểm tra,

giám sát việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện đối với công tác phát hiện, xử lý

vụ việc, vụ án tham nhũng gắn với kiểm tra, giám sát việc chỉ đạo, triển

khai thực hiện Kết luận số 10-KL/TW ngày 26-12-2016 của Bộ Chính trị,

26

Kế hoạch số 48-KH/TU ngày 17-3-2017 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bình

Thuận. Sáu là, tiếp tục nghiên cứu, triển khai các giải pháp phù hợp, thuận

lợi, an toàn để khuyến khích nhân dân phát hiện, phát hiện, phản ánh, tố

giác các hành vi tham nhũng, lãng phí. Tập trung giải quyết tốt đơn, thư

khiếu nại, tố cáo hành vi tham nhũng, tiêu cực, tránh bỏ lọt đơn thư phản

ánh, tố cáo, giữ bí mật và bảo vệ người tố cáo theo đúng quy định của Luật

Tố cáo và ý kiến chỉ đạo của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bình Thuận.

- Luận án Các tỉnh ủy ở đồng bằng sông Hồng lãnh đạo thực hiện công

bằng xã hội giai đoạn hiện nay [47] của tác giả Nguyễn Xuân Hưng đã làm rõ

khái niệm, nội dung và phương thức của các tỉnh ủy ở đồng bằng sông Hồng

lãnh đạo thực hiện công bằng xã hội; khảo sát, đánh giá thực trạng thực hiện

công bằng xã hội và thực trạng SLĐ của các tỉnh ủy ở đồng bằng sông Hồng

giai đoạn 2006 - 2016, chỉ ra ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân.

Luận án tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo thực hiện công bằng xã hội: các

tỉnh ủy tập trung lãnh đạo chính quyền tỉnh tổ chức thực hiện thắng lợi chủ

trương, nghị quyết của tỉnh uỷ về thực hiện công bằng xã hội; đồng thời phối

hợp chặt chẽ với lãnh đạo đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của

MTTQ, các tổ chức CT-XH và các tổ chức xã hội tham gia vào thực hiện

công bằng xã hội ở địa phương. Luận án khẳng định: “Tham nhũng, lãng phí

cùng với lợi ích nhóm là các tệ nạn rất nguy hiểm, một trong những nhân tố

nguy hiểm nhất gây nên bất công bằng xã hội. Tỉnh ủy, các cấp ủy, tổ chức

đảng, cán bộ, đảng viên và cả HTCT cần có quyết tâm chính trị cao, có các

giải pháp mạnh ngăn chặn và đẩy lùi các tệ nạn này”[47, tr. 134].

Trên cơ sở khẳng định công bằng xã hội là nguyện vọng chính đáng của

nhân dân, là nhu cầu bức thiết, là mục tiêu và động lực của công cuộc đổi mới

đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, luận án đề xuất hai giải pháp chủ

yếu nhằm tăng cường SLĐ thực hiện công bằng xã hội của các tỉnh ủy ở đồng

bằng sông Hồng đến năm 2025, bao gồm: Một là, đổi mới quá trình xây dựng

27

và tổ chức thực hiện tốt một số nghị quyết chuyên đề của tỉnh uỷ về phát triển

kinh tế tạo cơ sở vững chắc để thực hiện công bằng xã hội. Hai là, tỉnh ủy

lãnh đạo chặt chẽ công tác thanh tra, xử lý sai phạm trong thực hiện công

bằng xã hội; ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí và lợi ích nhóm. Đồng

thời, luận án cũng đề xuất 05 biện pháp cụ thể để ngăn chặn và đẩy lùi tham

nhũng, lãng phí và lợi ích nhóm.

Cùng nghiên cứu về PCTN là đề tài khoa học cấp bộ Đảng lãnh đạo

cuộc đấu tranh PCTN trong thời kỳ đổi mới – Lịch sử và Kinh nghiệm [89].

Đề tài tiếp cận công tác PCTN dưới góc nhìn của Khoa học Lịch sử Đảng.

Trong kết quả nghiên cứu của đề tài, những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa

Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về tham

nhũng và công tác PCTN được hệ thống hóa tương đối chi tiết. Trên cơ sở

đánh giá thực trạng tham nhũng và PCTN trong 25 năm đổi mới, các tác giả

thực hiện đề tài đã đưa ra hệ thống các giải pháp quan trọng nhằm tăng cường

SLĐ và đổi mới, nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

trong cuộc đấu tranh PCTN ở nước ta giai đoạn 2010-2015 và những giai

đoạn tiếp theo.

Bài viết “Đẩy mạnh PCTN, LP theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII

của Đảng Cộng sản Việt Nam” [76] đăng trên Tạp chí Giáo dục lý luận số

277+278 của tác giả Phạm Huy Thành đề cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh,

quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đấu tranh chống tham nhũng,

lãng phí, đưa ra thực trạng và một số giải pháp đấu tranh PCTN, LP theo tinh

thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng. Tác giả bài viết đưa ra 05 giải pháp

đẩy mạnh PCTN, LP, trong đó, giải pháp đầu tiên chính là tăng cường SLĐ

của Đảng đối với công tác PCLP đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ trong tình hình

mới. Bài viết khẳng định: để PCTN, LP hiệu quả “phải tạo ra được sự chuyển

biến từ nhận thức cho đến hành động của toàn HTCT và của toàn dân, trong

đó vai trò tiên phong, gương mẫu đi đầu và chỉ đạo trực tiếp, toàn diện của

Đảng”. Để thực hiện được giải pháp đó, phải “tăng cường vai trò lãnh đạo của

28

Đảng trên tất cả mọi lĩnh vực, ở bất cứ lĩnh vực nào cũng đều phải xác định

PCTN, LP là một trọng tâm lớn trong công tác xây dựng đảng ở các cấp, các

ngành, từ Trung ương cho đến địa phương; phải được tiến hành thường

xuyên, liên tục bằng nhiều hình thức, biện pháp cụ thể, phù hợp với từng nơi,

từng vùng, từng tổ chức” [76, tr. 19].

Bài viết "Quảng Bình tăng cường SLĐ của Đảng đối với công tác

PCTN, LP" của tác giả Võ Việt Hùng được đăng trên Tạp chí Kiểm tra số

tháng 10 năm 2016 [48] chỉ ra những kinh nghiệm trong thực tiễn tại

Quảng Bình về tăng cường SLĐ của cấp ủy đảng các cấp trong tỉnh đối với

công tác PCLP từ năm 2013 đến năm 2016. Bài viết có những số liệu tin

cậy cùng phương pháp đánh giá phù hợp, đưa ra những giải pháp có giá trị

tham khảo tốt.

“Chống quan liêu, tham ô, lãng phí: Giải pháp khôi phục lòng tin và

xứng đáng là “công bộc” của Nhân dân”[35], bài viết “Giải pháp nâng cao

hiệu quả đấu tranh PCTN, LP theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của

Đảng”[43], bài viết “Tăng cường SLĐ của Đảng trong công tác phát hiện vụ,

việc tham nhũng, lãng phí thông qua kiểm toán” đăng trên Tạp chí Cộng sản

[69], bài viết “Quan điểm của Đảng về PCTN, LP” [40]; bài viết “Giải pháp

ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về đạo đức, lối sống, tham nhũng, lãng phí, lợi

ích nhóm trong cán bộ, đảng viên”[72] đăng trên tạp chí Xây dựng Đảng…

Các bài viết khoa học cùng với sách, đề tài, luận án trên phần nào đã đề

cập đến công tác PCTN, LP của Đảng và những hoạt động cụ thể của Đảng

trong công tác PCLP, thể hiện được sự quyết liệt của Đảng, Nhà nước trong

cuộc đấu tranh PCTN, LP. Tuy nhiên, vấn đề lãng phí và PCLP chưa được đề

cập đến nhiều và độc lập mà thường được nghiên cứu chung với PCTN. Trên

thực tế, lãng phí và công tác PCLP không hoàn toàn trùng lắp với công tác

PCTN, LP mà có những đặc trưng riêng. Vì vậy, việc nghiên cứu chuyên sâu

về lý luận từ khái niệm, nội dung và PTLĐ của Đảng đối với công tác PCLP

là nội dung mà luận án cần làm sáng tỏ.

29

1.3. KHÁI QUÁT KẾT QUẢ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN

QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN TẬP TRUNG GIẢI QUYẾT

1.3.1. Khái quát kết quả của các công trình nghiên cứu liên quan

đến đề tài luận án

Qua nghiên cứu, tìm hiểu các bài viết khoa học, các sách và đề tài, luận

án có liên quan, tác giả luận án có thể tiếp thu, kế thừa và tiếp tục nghiên cứu

một số vấn đề sau:

Một là, khái niệm, biểu hiện và tác hại của lãng phí, mối quan hệ giữa

lãng phí với tham nhũng, quan liêu.

Hai là, luận giải những quan điểm, đường lối của Đảng về công tác

PCLP và vấn đề Đảng lãnh đạo công tác PCLP trong giai đoạn hiện nay.

Ba là, đánh giá thực trạng lãng phí, sự lãnh đạo của Đảng về PCLP;

một số nhiệm vụ, giải pháp về SLĐ của Đảng đối với công tác PCTN, LP.

Những kết quả nghiên cứu nói trên là những thông tin cần thiết, hữu ích

cung cấp cơ sở, căn cứ khoa học để tác giả luận án nghiên cứu và luận giải.

Đây là nguồn tài liệu đáng quý để tác giả luận án kế thừa, tiếp thu một cách

có chọn lọc vào việc thực hiện đề tài luận án.

Tuy nhiên, chưa có nhiều các công trình nghiên cứu có tính hệ thống về

SLĐ của Đảng đối với công tác PCLP hay công tác PCLP tại các địa phương,

ban ngành hay cơ quan, đơn vị. Ngay cả tại Hà Nội – thủ đô của đất nước,

trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội, nơi được đánh giá là có nguy cơ cao xảy ra

lãng phí nhưng cũng chỉ đề cập nhiều đến PCTN còn lãng phí chưa được đề

cập sâu sắc, thường xuyên, xứng tầm.

Có thể khẳng định: cho đến thời điểm này, chưa có công trình khoa học

nào đi sâu vào nghiên cứu một cách cụ thể, chuyên sâu về SLĐ của cấp ủy đối

với công tác PCLP và cũng chưa có đề tài nào nghiên cứu riêng về Thành ủy

Hà Nội lãnh đạo công tác PCLP.

1.3.2. Những vấn đề luận án cần tập trung nghiên cứu

Qua tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài, có thể

thấy cho đến thời điểm này, chưa có công trình khoa học nào đi sâu vào nghiên

30

cứu một cách cụ thể, riêng biệt về SLĐ của cấp ủy đối với công tác PCLP và

cũng chưa có đề tài nào nghiên cứu riêng về Thành ủy Hà Nội lãnh đạo công

tác PCLP. Vì vậy, luận án cần tập trung nghiên cứu những vấn đề sau:

Thứ nhất, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về Thành ủy Hà Nội lãnh

đạo công tác phòng, chống lãng phí: Nghiên cứu làm rõ hơn khái niệm về

lãng phí, các biểu hiện cũng như nguyên nhân gây ra tình trạng lãng phí; từ đó

xây dựng khái niệm, chỉ ra nội dung cụ thể của công tác PCLP tại Thành phố

Hà Nội. Đặc biệt, luận án dành thời lượng đáng kể để xây dựng khái niệm

Thành ủy Hà Nội lãnh đạo công tác PCLP; chỉ ra chủ thể, đối tượng tác động

và mục tiêu lãnh đạo cần đạt được; nghiên cứu và đề cập một cách cơ bản, có

hệ thống nội dung, PTLĐ của Thành ủy Hà Nội đối với công tác PCLP.

Thứ hai, khảo sát, phân tích đánh giá một cách khách quan thực trạng

Thành ủy Hà Nội lãnh đạo công tác phòng, chống lãng phí: Phân tích những

kết quả tích cực và những vấn đề còn tồn tại trong công tác PCLP ở thành phố

Hà Nội giai đoạn hiện nay. Đặc biệt, đề tài dành thời lượng đáng kể cho việc

khảo sát, phân tích những ưu điểm, hạn chế trong SLĐ của Thành ủy Hà Nội

trong PCLP; phân tích nguyên nhân, rút ra một số kinh nghiệm trong lãnh đạo

công tác PCLP.

Thứ ba, dự báo những nhân tố tác động đến SLĐ của Thành ủy Hà Nội

đối với công tác PCLP, đề xuất phương hướng và các giải pháp đồng bộ, khả

thi, trong đó có những giải pháp mới, phân tích sâu hơn những giải pháp

mang tính đột phá nhằm tăng cường SLĐ của Thành ủy Hà Nội đối với công

tác PCLP thời gian tới.

31

Chƣơng 2

THÀNH ỦY HÀ NỘI LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC

PHÕNG, CHỐNG LÃNG PHÍ GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

- NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

2.1. THÀNH ỦY HÀ NỘI VÀ CÔNG TÁC PHÕNG, CHỐNG LÃNG PHÍ Ở

THÀNH PHỐ HÀ NỘI

2.1.1. Khái quát về Thành ủy Hà Nội

Hà Nội là thủ đô của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là

thành phố trực thuộc trung ương, là một đô thị loại đặc biệt, có diện tích lớn

nhất cả nước, đồng thời cũng là địa phương đứng thứ nhì về dân số, chỉ sau

Thành phố Hồ Chí Minh. Mật độ dân số của Hà Nội là 2.398 người/km², mật

độ giao thông là 105,2 xe/km² mặt đường. Năm 2019, Hà Nội là đơn vị hành

chính Việt Nam xếp thứ 2 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 8

về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 41 về tốc độ tăng trưởng GRDP.

GRDP đạt 971.700 tỷ Đồng (tương ứng với 41,85 tỉ USD), GRDP bình quân

đầu người đạt 120,6 triệu đồng (tương ứng với 5200 USD), tốc độ tăng trưởng

GRDP đạt 7,62%. [65]

Hà Nội nằm giữa đồng bằng sông Hồng trù phú, nơi đây đã sớm trở

thành một trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa ngay từ những buổi đầu của

lịch sử Việt Nam. Năm 1010, vua Lý Thái Tổ, vị hoàng đế đầu tiên của nhà

Lý, quyết định xây dựng kinh đô mới ở vùng đất này với cái tên Thăng Long.

Sau đợt mở rộng địa giới hành chính vào tháng 8 năm 2008, Hà Nội hiện nay

gồm 12 quận, 1 thị xã và 17 huyện ngoại thành. Hiện nay, Hà Nội và Thành

phố Hồ Chí Minh là hai trung tâm kinh tế - xã hội đặc biệt quan trọng của

Việt Nam. Hà Nội được UNESCO trao tặng danh hiệu “Thành phố vì hòa

bình” vào ngày 16 tháng 7 năm 1999.

Đảng bộ thành phố Hà Nội được thành lập vào năm 1930. Đến nay,

32

Đảng bộ thành phố Hà Nội đã trải qua 16 kỳ đại hội. Mỗi kỳ đại hội là một

mốc son đánh dấu sự phát triển, trưởng thành của Đảng bộ Thành phố. Điều

lệ Đảng quy định: "Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban

Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là Ban Chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt

là cấp ủy)" [24, tr.17] và "Cấp ủy tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi

tắt là Tỉnh ủy, Thành ủy)” [24, tr.33].

Như vậy, có thể xác định: Thành ủy Hà Nội là tên gọi tắt của Ban Chấp

hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội, cơ quan lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố

Hà Nội giữa hai kỳ Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố.

2.1.1.1. Chức năng, nhiệm vụ

Sứ mệnh của Thành ủy Hà Nội là lãnh đạo Đảng bộ Thành phố Hà Nội

giữa hai kỳ Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt

Nam quy định: “Cấp ủy tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi tắt là Tỉnh

ủy, Thành ủy),… lãnh đạo thực hiện nghị quyết Đại hội đại biểu, nghị quyết,

chỉ thị của cấp trên” [24, tr.33]. Chức năng chủ yếu của Thành ủy Hà Nội là

chức năng lãnh đạo:

Một là, Thành ủy lãnh đạo Đảng bộ, chính quyền, các tổ chức CT-XH và

nhân dân Thành phố thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương

Nhiệm vụ chính trị của địa phương trong mỗi thời kỳ cụ thể được xác

định trong các Nghị quyết của Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố. Chức

năng trước hết của Thành ủy Hà Nội là lãnh đạo chính quyền và nhân dân địa

phương quán triệt và thực hiện thắng lợi nghị quyết của Đại hội đại biểu Đảng

bộ Thành phố Hà Nội trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: chính trị,

kinh tế, văn hoá - xã hội, quốc phòng, an ninh, trật tự,… hướng đến xây dựng

Thành phố Hà Nội ngày càng giàu đẹp, văn minh, hiện đại, phát huy vai trò

đầu tàu, trung tâm phát triển của Vùng đồng bằng sông Hồng và cả nước. Kết

thúc nhiệm kỳ, Thành ủy Hà Nội phải báo cáo về hoạt động của mình trước

Đại hội Đại biểu Đảng bộ.

33

Theo nguyên tắc tập trung dân chủ, Thành ủy có trách nhiệm thực hiện

đường lối, chủ trương của Đảng, chỉ thị, nghị quyết của Trung ương Đảng,

thực hiện các nhiệm vụ do Trung ương Đảng phân công, đồng thời tham mưu,

đóng góp ý kiến vào SLĐ của Trung ương Đảng và của Đảng về xây dựng

đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, góp

phần để đường lối, chủ trương, chính sách ấy đúng đắn, phù hợp thực tiễn và

có tính khả thi. Một số Thành ủy viên là ủy viên Ban Chấp hành Trung ương

Đảng, Bí thư Thành ủy còn là ủy viên Bộ Chính trị, 2 phó bí thư Thành ủy là

Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương và trong Thành ủy còn có một số cán bộ

là đại biểu quốc hội. Thông qua những cán bộ này, Thành ủy trực tiếp tham

gia xây dựng và quyết định về đường lối chiến lược của Đảng, chính sách,

pháp luật của Nhà nước.

Thành ủy Hà Nội lãnh đạo, chỉ đạo mọi hoạt động của Đảng bộ, chính

quyền và nhân dân địa phương theo quy định của Điều lệ Đảng và pháp luật

của Nhà nước. Đảng Cộng sản Việt Nam là thành viên của HTCT, đồng thời

là hạt nhân lãnh đạo HTCT. SLĐ của Đảng được hiến định tại Điều 4 Hiến

pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: "Đảng Cộng sản Việt Nam -

Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân

dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai

cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác -

Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo

Nhà nước và xã hội" [73, tr.10]. Thành ủy lãnh đạo các tổ chức trong HTCT

từ thành phố đến các phường, xã, thị trấn, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội

trên địa bàn Thành phố Hà Nội, lãnh đạo các lĩnh vực đời sống xã hội.

Chức năng lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của Thành ủy Hà Nội

thể hiện ở việc: triển khai và cụ thể hóa đường lối, nghị quyết, chiến lược phát

triển kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước và nghị quyết của Đại hội Đảng bộ

Thành phố, trên cơ sở đó xác định nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ Thành phố

34

một cách đúng đắn, sáng tạo, ban hành các nghị quyết của Thành uỷ; tổ chức

thực hiện nghị quyết trên địa bàn Thành phố; kiểm tra, giám sát việc thực hiện

nghị quyết của các cơ quan, đơn vị trực thuộc.

Hai là, Thành ủy lãnh đạo công tác xây dựng Đảng, xây dựng Đảng bộ

Thành phố Hà Nội

Thành ủy Hà Nội tiếp nhận và lãnh đạo thực hiện các nghị quyết, quyết

định của Đảng về công tác xây dựng Đảng. Đồng thời, xuất phát từ thực tế tại

Đảng bộ Thành phố, yêu cầu nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, Thành ủy xây

dựng, ban hành và lãnh đạo thực hiện các nghị quyết của Thành ủy về công

tác xây dựng Đảng bộ Thành phố ngang tầm nhiệm vụ chính trị.

Trực thuộc Đảng bộ Thành phố Hà Nội, tương tự các tổ chức đảng cấp

tỉnh khác, gồm có các cơ quan: Đảng bộ cấp huyện, quận, thị xã, thành phố

trực thuộc Thành phố; Đảng bộ cấp trên trực tiếp của cơ sở (tương đương cấp

huyện) trực thuộc Thành uỷ; một số tổ chức cơ sở đảng có vị trí quan trọng,

đông đảng viên, nhiều tổ chức đảng trực thuộc, được giao một số quyền của

cấp trên cơ sở; các đảng bộ, chi bộ cơ sở có vị trí quan trọng trực thuộc thành

uỷ. Thành ủy lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng bộ trong sạch,

vững mạnh; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức

đảng thuộc quyền; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; thường

xuyên chăm lo củng cố và xây dựng HTCT vững mạnh, củng cố mối quan hệ

gắn bó mật thiết giữa Đảng bộ với nhân dân.

Thực hiện lãnh đạo công tác xây dựng Đảng yêu cầu Thành ủy Hà Nội

phải thực hiện một cách toàn diện các nội dung công tác cơ bản: xây dựng

Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; công tác tổ chức, cán bộ; công

tác tư tưởng; công tác dân vận; công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật

của Đảng; công tác bảo vệ chính trị nội bộ; công tác phát triển đảng viên…

Hai chức năng nêu trên có mối quan hệ biện chứng lẫn nhau. Thành uỷ

không thể thực hiện tốt chức năng lãnh đạo chính trị, nếu không thực hiện tốt

chức năng xây dựng Đảng bộ Thành phố trong sạch, vững mạnh. Mục đích

35

của xây dựng nội bộ Đảng bộ Thành phố trong sạch, vững mạnh là để Thành

ủy lãnh đạo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ Thành phố.

Việc lãnh đạo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của đảng bộ tỉnh lại đặt

ra mục tiêu, yêu cầu xây dựng Đảng bộ Thành phố vững mạnh.

* Nhiệm vụ

Căn cứ Quyết định số 688-QĐ/TU, ngày 10 tháng 3 năm 2016 của

Thành ủy Hà Nội ban hành Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Đảng bộ

thành phố Hà Nội, nhiệm kỳ 2015 - 2020, Thành ủy là cơ quan lãnh đạo của

Đảng bộ giữa hai kỳ Đại hội có nhiệm vụ, quyền hạn như sau:

(1) Căn cứ quy định của Trung ương, quyết định số lượng Ủy viên Ban

Thường vụ Thành ủy, Ủy viên Ủy ban kiểm tra (UBKT) Thành ủy; bầu Ban

Thường vụ, Bí thư, Phó Bí thư Thành ủy; bầu UBKT, Chủ nhiệm UBKT

Thành ủy; Quyết định quy chế làm việc của Thành ủy, của Ban Thường vụ

Thành ủy, Thường trực Thành ủy và UBKT Thành ủy, chương trình công tác

toàn khóa và chương trình công tác năm Thành ủy.

(2) Quyết định những vấn đề chiến lược, các chương trình, đề án, kế

hoạch, chủ trương, biện pháp quan trọng trong các lĩnh vực công tác của

Thành phố nhằm cụ thể hóa và thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc,

các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và

các Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố.

(3) Chỉ đạo và thông qua phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu phát triển kinh

tế - xã hội, bảo đảm an ninh - quốc phòng 6 tháng, hàng năm và kế hoạch 5 năm

của Thành phố. Xem xét, xác định các cụm công trình trọng điểm toàn khóa, các

cụm công trình trọng điểm từng năm; chủ trương điều chỉnh quy hoạch tổng thể;

điều chỉnh chỉ tiêu kinh tế - xã hội của Thành phố; chủ trương triển khai một số

dự án đầu tư lớn và cơ chế chính sách đặc biệt quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến

kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại và một số đề án quan trọng thuộc

các lĩnh vực công tác Ban Thường vụ Thành ủy đề nghị.

(4) Thảo luận và quyết định việc lãnh đạo thực hiện nghị quyết của

36

Thành ủy về công tác tài chính Đảng, các báo cáo định kỳ hàng năm và bất

thường của UBKT Thành ủy trong các Hội nghị Thành ủy; nghe Ban Thường

vụ báo cáo những quyết định quan trọng của Ban Thường vụ Thành ủy giữa

hai kỳ Hội nghị Thành ủy.

(5) Đánh giá kết quả thực hiện nghị quyết Đại hội đảng bộ Thành phố

nửa đầu nhiệm kỳ và quyết định các nhiệm vụ, chủ trương, giải pháp trong

nửa cuối nhiệm kỳ. Cụ thể hóa đường lối, chủ trương, chính sách về công tác

tổ chức, cán bộ của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị để thực

hiện cho phù hợp với điều kiện cụ thể của đảng bộ. Trình Bộ Chính trị, Ban

Bí thư dự kiến nhân sự giới thiệu ứng cử, đề cử hoặc rút khỏi các chức danh:

Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân

(HĐND) Thành phố, Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND) Thành phố; nhân sự

bổ sung hoặc rút khỏi Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố. Chuẩn bị và quyết

định triệu tập đại hội nhiệm kỳ, đại hội bất thường Đảng bộ Thành phố theo

quy định của Điều lệ Đảng; chuẩn bị các dự thảo văn kiện trình đại hội, Đề án

nhân sự Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố khóa sau và đoàn đại biểu đi dự

Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng bộ Thành phố và Đại hội toàn

quốc của Đảng.

(6) Xem xét, quyết định kỷ luật đối với tổ chức đảng và đảng viên có vi

phạm theo quy định của Điều lệ Đảng; trình Bộ Chính trị, Ban Bí thư về chủ

trương thành lập, sát nhập, chia tách, giải thể các tổ chức đảng theo quy định

của Điều lệ Đảng và hướng dẫn của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Tổ chức

Trung ương; thảo luận và quyết định những vấn đề cần thiết khi có trên 1/3 số

Ủy viên Ban Chấp hành đảng bộ Thành phố yêu cầu.

2.1.1.2. Cơ cấu tổ chức, bộ máy

* Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội (Thành ủy Hà Nội)

Thành ủy Hà Nội bao gồm các ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Thành

phố Hà Nội (còn gọi là Thành ủy viên) do Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành

37

phố Hà Nội bầu ra, một số do Ban Chấp hành Trung ương chỉ định trong

trường hợp đặc biệt.

Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội khóa XV, nhiệm kỳ 2010 - 2015

gồm: 75 đồng chí, trong đó có 17 đồng chí trong Ban Thường vụ Thành ủy.

Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội khóa XVI, nhiệm kỳ 2015 - 2020

gồm: 74 đồng chí, trong đó có 16 đồng chí trong Ban Thường vụ Thành ủy.

Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội khóa XVII, nhiệm kỳ 2020 -

2025 gồm: 71 đồng chí, trong đó có 16 đồng chí trong Ban Thường vụ Thành

ủy. Số Ủy viên Ban Chấp hành tái cử là 46 người (chiếm 64,79%); số Ủy viên

Ban Chấp hành tham gia lần đầu là 25 người (chiếm 35,2%). Ủy viên Ban

Chấp hành là nữ có 14 người (chiếm 19,72%). Về độ tuổi, trong Ban Chấp

hành Đảng bộ thành phố Hà Nội khóa XVII có 3 người dưới 40 tuổi (4,23%);

35 người từ 40 – 50 tuổi (49,30%); 33 người trên 50 tuổi (46,48%). Độ tuổi

trung bình là 49,3 tuổi. Về học vị, có 25 người là Tiến sĩ (35,21%); có 34

người là Thạc sĩ (47,89%) và 12 người Đại học (16,90%). Về học hàm, có 1

Giáo sư và 01 Phó giáo sư. Bí thư Thành ủy Hà Nội khóa XVII Vương Đình

Huệ là Giáo sư, Tiến sĩ Kinh tế. Tất cả 71 Ủy viên Ban Chấp hành đều có Lý

luận chính trị cao cấp hoặc cử nhân [11-13].

Qua các nhiệm kỳ gần đây, có thể thấy, các thành viên Thành ủy Hà Nội

ngày càng được trẻ hóa, trình độ học vấn, kinh nghiệm và năng lực công tác

ngày một nâng lên, cơ cấu độ tuổi, dân tộc, giới tính, chuyên môn, nghiệp vụ

được cải thiện, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu được nâng lên. Đây chính

là một trong những nhân tố quan trọng trong việc chỉ đạo thực hiện các nhiệm

vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của Thành phố và các lĩnh

vực khác, trong đó có lãnh đạo công tác PCLP.

* Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội

Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội bầu ra Ban Thường vụ

38

Thành ủy Hà Nội, có nhiệm vụ lãnh đạo và kiểm tra việc thực hiện nghị quyết

của đại hội đại biểu đảng bộ, nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy cùng cấp và cấp

trên; quyết định những vấn đề về chủ trương, tổ chức, cán bộ; quyết định triệu

tập và chuẩn bị nội dung các kỳ họp của Thành ủy. Để giúp Thành ủy Hà Nội,

Ban Thường vụ Thành ủy chỉ đạo, kiểm tra thường xuyên các hoạt động của

đảng bộ, ban thường vụ phân công các đồng chí bí thư, phó bí thư làm

Thường trực cấp ủy.

* Thường trực Thành ủy Hà Nội

Thường trực Thành ủy Hà Nội gồm các đồng chí bí thư, các phó bí thư

do Thành ủy Hà Nội bầu trong Hội nghị Ban chấp hành Đảng bộ Thành phố,

có thể được bổ sung hoặc miễn chức vụ của các thành viên trong Thường trực

Thành ủy hoặc do Ban Thường vụ phân công. Trong thường trực bao gồm Bí

thư, các phó bí thư Thành ủy. Thường trực cấp ủy có nhiệm vụ kiểm tra thực

hiện nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy, của ban thường vụ và cấp ủy cấp trên; giải

quyết công việc hàng ngày của đảng bộ; quyết định triệu tập và chuẩn bị nội

dung các kỳ họp của Ban Thường vụ.

* Bí thư Thành ủy Hà Nội

Bí thư Thành ủy là người đứng đầu Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố

Hà Nội, Ban Thường vụ, Thường trực Thành ủy, trực tiếp chỉ đạo, kiểm tra và

chịu trách nhiệm trước cấp ủy cấp dưới và cấp trên về các mặt hoạt động của

Đảng bộ. Đối với cấp tỉnh, bí thư ban chấp hành đảng bộ (bí thư cấp ủy) do

ban chấp hành đảng bộ bầu ra trong số ủy viên ban thường vụ, có nơi do đại

hội bầu ra. Vừa qua, tại Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Đảng bộ thành

phố Hà Nội khóa XVII, Đồng chí Vương Đình Huệ, Bí thư Thành ủy Hà Nội

khóa XVI tiếp tục được bầu giữ chức Bí thư Thành ủy Hà Nội khóa XVII,

nhiệm kỳ 2020 – 2025 với tỷ lệ 100% (71/71) ủy viên Ban Chấp hành Đảng

bộ thành phố khóa XVII tán thành.

39

2.1.1.3. Các đảng bộ trực thuộc

Đảng bộ Thành phố Hà Nội hiện nay là Đảng bộ lớn nhất cả nước với 50

tổ chức đảng trực thuộc, 407.872 đảng viên (chiếm khoảng 10% tổng số đảng

viên của cả nước); sinh hoạt tại 18.014 chi bộ thuộc 3.000 tổ chức cơ sở đảng.

Thành ủy Hà Nội lãnh đạo trực tiếp các đảng ủy cấp huyện và các đảng

bộ trực thuộc khác, bao gồm:

- Các quận ủy: Ba Đình, Đống Đa, Hoàn Kiếm, Hà Đông, Hai Bà Trưng,

Hoàng Mai, Long Biên, Tây Hồ, Thanh Xuân, Bắc Từ Liêm, Nam Từ Liêm

- Thị ủy Sơn Tây

- Các huyện ủy: Mê Linh, Đông Anh, Ba Vì, Chương Mỹ, Đan Phượng,

Gia Lâm, Hoài Đức, Mỹ Đức, Phú Xuyên, Phúc Thọ, Quốc Oai, Sóc Sơn,

Thạch Thất, Thanh Oai, Thanh Trì, Thường Tín, Ứng Hòa

- Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Thành phố

- Đảng uỷ Khối Các cơ quan Thành phố

- Đảng ủy Khối Các trường đại học, cao đẳng Thành phố

- Đảng ủy Bộ Tư lệnh Thủ đô

- Đảng ủy Công an Thành phố

Các cơ quan tham mưu, giúp việc của Thành ủy: Văn phòng Thành ủy,

Ban Tổ chức Thành ủy, Ban Tuyên giáo Thành ủy, Ban Dân vận Thành ủy,

Ban Nội chính Thành ủy, Ủy ban Kiểm tra Thành ủy. Trực thuộc Thành ủy

Hà Nội còn có cơ quan Ban Bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cán bộ Thành phố.

Có 02 đơn vị sự nghiệp trực thuộc Thành ủy: Trường Chính trị Lê Hồng

Phong; Báo Hà Nội mới.

Ngoài ra, Thành ủy trực tiếp lập ra và chỉ đạo hoạt động của Ban cán sự

đảng, đảng đoàn trong cơ quan nhà nước, cơ quan hành pháp, tư pháp, các tổ

chức CT-XH ở Thành phố Hà Nội.

40

2.1.2. Quan niệm, nội dung công tác phòng, chống lãng phí ở

Thành phố Hà Nội

2.1.2.1. Quan niệm lãng phí và công tác phòng, chống lãng phí

* Quan niệm về lãng phí

Lãng phí là một từ thông dụng, được sử dụng phổ biến trong thực tiễn,

tuy nhiên, có nhiều cách định nghĩa lãng phí và nhìn nhận các tiêu chí để xác

định tình trạng lãng phí theo nhiều phương diện khác nhau.

Theo Đại từ điển tiếng Việt, lãng phí là “làm tiêu hao vật chất vào những

việc không cần thiết, gây thêm sự tốn kém” [102, tr.976]

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Trả lời câu hỏi “Lãng phí là gì?”, Bác liệt kê

ra các dạng lãng phí trong cán bộ và nhân dân ta lúc bấy giờ rất rõ ràng, cụ thể:

“Lãng phí có nhiều cách:

- Lãng phí sức lao động…

- Lãng phí thời giờ …

- Lãng phí tiền của…”[57, tr. 356-357]

Theo cuốn sách “Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với PCLP ở

nước ta hiện nay - Những vấn đề đặt ra và giải pháp” của Ủy ban Kiểm tra

Trung ương, tình trạng lãng phí được xác định dựa trên những điểm sau:

“Một là, những chi phí, tổn hao và sử dụng nguồn lực tài chính, nhân lực

và các nguồn lực khác trên mức hợp lý, phải có và cần thiết;

Hai là, không đạt được mục tiêu, kết quả như đã xác định, hoặc nếu có

thì hiệu suất có được ở mức thấp;

Ba là, những hư hao, tổn thất không đáng có hoặc không được phép có;

Bốn là, tất cả những điều trên xảy ra do hành vi của con người, được gọi

là hành vi gây ra lãng phí” [86, tr. 12]

Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là một trong những biểu hiện của suy

thoái đạo đức, lối sống, “tự diễn biến’, “tự chuyển hóa”. Theo Nghị quyết Hội

nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tăng cường xây dựng,

41

chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo

đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ,

lãng phí được xác định qua 05 biểu hiện cụ thể: một là, Quyết định hoặc tổ

chức thực hiện gây lãng phí, thất thoát tài chính, tài sản, ngân sách nhà nước,

đất đai, tài nguyên...; hai là, đầu tư công tràn lan, hiệu quả thấp hoặc không

hiệu quả; ba là, mua sắm, sử dụng tài sản công vượt quy định; bốn là, chi tiêu

công quỹ tùy tiện, vô nguyên tắc; năm là, sử dụng lãng phí nguồn nhân lực,

phí phạm thời gian lao động [28, tr. 31].

Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí 2013, khoản 2 điều 3, “Lãng

phí” được xác định “là việc quản lý, sử dụng vốn, tài sản, lao động, thời gian

lao động và tài nguyên không hiệu quả” [74]. Luật cũng quy định về “lãng

phí” trong các lĩnh vực đã có định mức, tiêu chuẩn, chế độ do cơ quan nhà

nước có thẩm quyền ban hành thì “lãng phí là việc quản lý, sử dụng ngân sách

nhà nước, vốn nhà nước, tài sản nhà nước, lao động, thời gian lao động trong

khu vực nhà nước và tài nguyên vượt định mức, tiêu chuẩn, chế độ hoặc

không đạt mục tiêu đã định” [74].

Từ những quan niệm, các nội dung xác định lãng phí, có thể hiểu: Lãng phí

là tình trạng cá nhân hoặc tổ chức sử dụng và quản lý tiền, tài sản, lao động,

thời gian, tài nguyên và các nguồn lực khác không hợp lý, không hiệu quả, dẫn

đến tốn kém, hao tổn một cách vô ích, không đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra.

Bản chất lãng phí là chi cho những việc không đáng chi và chi ở những

mức không đáng chi; sử dụng không hiệu quả nguồn nhân lực, vật lực của

quốc gia, của từng cá nhân cụ thể. Lãng phí có ngay trong tư duy của mỗi con

người qua các biểu hiện lệch lạc như thói xa hoa, phô trương hình thức, vung

tay qua trán… và là một căn bệnh nguy hiểm với bất kỳ loại hình xã hội nào.

Tiết kiệm và chống lãng phí luôn đi đôi với nhau. Tiết kiệm là giảm bớt hao

phí nhưng vẫn đạt được mục tiêu đã định hay sử dụng ở mức thấp hơn định mức,

42

tiêu chuẩn, chế độ nhưng vẫn đạt được mục tiêu đã định hoặc sử dụng đúng định

mức, tiêu chuẩn, chế độ nhưng đạt cao hơn mục tiêu đã định [74].

Để xây dựng và phát triển đất nước, mọi nguồn lực đều quý giá và cần

được phát huy tối đa. Lãng phí dù là nguồn lực nào cũng đều gây ra những tổn

thất, từ ít nghiêm trọng đến rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng, do đó, là

một trong những nguyên nhân kìm hãm tốc độ tăng trưởng kinh tế và sự phát

triển của quốc gia. Nguồn lực bị tổn hại bởi lãng phí đều là mồ hôi, nước mắt

của nhân dân, bởi vậy, lãng phí cũng là một tội ác, không khác gì tham nhũng.

Lãng phí biểu hiện ở các nội dung sau:

Một là, Lãng phí tiền, tài sản công

Trong quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước, vốn nhà nước bừa bãi,

không hợp lý, vượt mức quy định: thu, chi ngân quỹ cơ quan vào những nội

dung không cần thiết hoặc chi phí vượt quá mức quy định trong các buổi hội

họp, các sự kiện khánh thành, khai trương, kỷ niệm, các hoạt động tặng quà,

ăn uống...; chi tiếp khách quá tốn kém so với ngân sách hiện có; vốn đầu tư ứ

đọng, đầu tư không sinh lời hay thua lỗ; các dự án chậm triển khai, các vụ

việc thất thoát trong các công trình, dự án, trong đầu tư công, ở các chính

sách, chủ trương sai sót, không phù hợp với thực tiễn; một số nơi “chạy đua”

các tiêu chí nông thôn mới gây “nợ công” cho xã;…

Trong sử dụng, quản lý tài sản, phương tiện, thiết bị: sử dụng xe công, bừa

bãi, vì mục đích cá nhân; sử dụng tài sản cơ quan bừa bãi, vô trách nhiệm hoặc

dùng vào mục đích riêng; mua, bán tài sản công không đúng giá trị thị trường;

sửa chữa, thay mới tài sản, trang thiết bị mặc dù cái cũ còn sử dụng tốt…

Trong quản lý, sử dụng trụ sở, nhà ở công vụ hay công trình công cộng:

trụ sở cơ quan hoành tráng quá mức cần thiết; xây dựng những công trình lớn

như nhà văn hóa, tượng đài, trụ sở cơ quan… hoành tráng, rộng rãi, tiện nghi

nhưng không sử dụng, hoặc sử dụng không hết, dẫn đến bỏ hoang, đóng cửa

hoặc dùng sai mục đích;

43

Trong quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp: quản lý,

sử dụng vốn kém hiệu quả, gây thất thoát; sử dụng không đúng mục đích;…

Hai là, lãng phí lao động

Tình trạng thừa thiếu, bất hợp lý trong sắp xếp tổ chức bộ máy, biên chế,

nhân sự trong cơ quan, gây lãng phí thường xuyên, lâu dài ngân sách chung là

vấn đề nhức nhối trong nhiều cơ quan, tổ chức trong thời gian qua.

Tình trạng lãng phí sức lao động thể hiện ở việc sử dụng nhân lực, con

người, ở năng suất lao động không phù hợp. Đối với việc tổ chức thực hiện một

công việc bất kỳ, một mặt, nếu bố trí nhiều người trong khi không cần thiết

hoặc bố trí nhân lực không phù hợp dẫn đến chất lượng kém tức là lãng phí sức

lao động, mặt khác, quá ít người dẫn đến công việc không hoàn thành, chất

lượng không cao, phải làm lại hoặc sửa chữa cũng là lãng phí về sức lao động.

Một biểu hiện rõ nét của lãng phí lao động, nhân lực đó là hiện tượng lãng

phí chất xám hay còn gọi là “chảy máu chất xám”, bao gồm: chất xám không

được sử dụng, chất xám thừa chưa sử dụng hết, chất xám đáng lý phục vụ cho

lĩnh vực này thì lại sử dụng cho lĩnh vực khác, sử dụng không đúng chuyên

môn đào tạo... Với sự phát triển của khoa học – công nghệ hiện đại và kinh tế

tri thức, với tư liệu sản xuất chủ yếu chính là trí tuệ, vấn đề lãng phí chất xám

trở thành vấn đề nghiêm trọng, cần đặc biệt quan tâm. Trên thực tế, lãng phí

chất xám đã được chỉ ra rất nhiều: các đề tài khoa học, phát minh sáng chế

không được khai thác, ứng dụng mà chỉ nằm trong thư viện, kho lưu trữ; người

lao động được cử đi đào tạo, sinh viên đi du học ngoài nước song không quay

về phục vụ cơ quan, phục vụ đất nước; những nhân tài được đào tạo trong nước

với trình độ cao, chuyên môn giỏi nhưng không được bố trí công việc đúng với

khả năng hoặc không thích nghi được với môi trường làm việc được sắp xếp;

những nhà khoa học, nhà nghiên cứu có rất nhiều sách vở, tài liệu nghiên cứu

song thiếu điều kiện thực hành trong khi nhiều doanh nghiệp đang phải "thả

nổi" các yêu cầu ứng dụng công nghệ, đổi mới kỹ thuật sản xuất, vì không tìm

44

ra đầu mối kiểm chứng khoa học; sinh viên ra trường với bằng giỏi, bằng khá

song không kiếm được việc làm hoặc làm việc không đúng với chuyên môn

được đào tạo…

Ba là, lãng phí thời gian

Lãng phí thời gian được hiểu là việc sử dụng, quản lý thời gian không

hợp lý. Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra giải thích rất đơn giản: “Việc gì có thể

làm trong một ngày một buổi, cũng kéo dài đến mấy ngày”, đồng thời còn nêu

ví dụ: “Những cuộc khai hội, vì người phụ trách chuẩn bị chương trình không

đầy đủ, người đến dự hội thì không chuẩn bị ý kiến, đáng lẽ chỉ một ngày thì

bàn bạc và giải quyết xong vấn đề, song cuộc khai hội kéo dài đến 5, 3 ngày”

[57, tr. 356-357]. Các chỉ thị, quyết định, quy định khi ban hành không xem

xét kỹ, dẫn đến ban hành ra không triển khai thực hiện được, phải thu hồi

cũng là lãng phí thời gian của cán bộ và nhân dân. Tình trạng một bộ phận

cán bộ, công chức, người lao động trong cơ quan, tổ chức đi sớm, về muộn,

làm việc kém hiệu quả, làm việc riêng trong giờ làm - “ăn cắp” thời gian của

nhà nước cũng là một biểu hiện lãng phí thời gian.

Bốn là, lãng phí tài nguyên

Tài nguyên được hiểu là bao gồm đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên

khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa, vùng trời, tài nguyên thiên

nhiên khác [74]. Lãng phí tài nguyên là việc sử dụng, quản lý tiền của, tài sản,

tài nguyên không hiệu quả, vượt mức quy định

Năm là, lãng phí trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng của

tổ chức, hộ gia đình, cá nhân.

Một số lãng phí từ các tổ chức, hộ gia đình trong xã hội có thể kể đến

như: tổ chức lễ hội, cưới hỏi, ma chay linh đình, tốn kém trong khi điều kiện

kinh tế hạn chế…

Lãng phí cá nhân thể hiện ở việc tiêu dùng hoang phí, mua sắm vô độ;

lối sống xa hoa, hưởng thụ hay lười biếng, vô trách nhiệm trong sinh hoạt,

45

công tác; có quá nhiều thời gian rảnh rỗi; tổ chức cưới hỏi, ma chay linh đình

vượt quá khả năng; bán trâu cày, bán ruộng để ăn chơi, khoe mẽ; mua sắm đồ

hiệu, hàng đắt tiền cho “bằng bạn bằng bè” trong khi không có tiền ăn, học,

khám chữa bệnh cho người thân trong gia đình của mình…

Nguyên nhân xảy ra lãng phí

Lãng phí có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân, song có ba nguyên

nhân chính:

Một là, Do ngẫu nhiên, vô tình, do nhận thức, trình độ quản lý còn hạn

chế khi gây ra hành vi không lường trước được hậu quả.

Đối với cá nhân, lãng phí thời gian và sức lao động dẫn đến năng suất

làm việc kém, không hiệu quả có thể xảy ra do: do thiếu kinh nghiệm, không

lên kế hoạch, xác lập mục tiêu làm việc đúng đắn, do phương pháp làm việc

không phù hợp.

Đối với tổ chức, nhiều biểu hiện như khả năng quản lý, tổ chức kém dẫn

đến phân công công việc không phù hợp với nhân lực, chất lượng công việc

không đảm bảo; xác lập mục tiêu sai lầm dẫn đến mất thời gian, lãng phí nhân

lực và tài nguyên; thiếu sự phối hợp giữa các bộ phận có liên quan dẫn đến

phải làm đi làm lại nhiều lần một thao tác; cơ chế, chính sách chồng chéo

cũng là nguyên nhân gây thất thoát, lãng phí tài sản công [46] …

Trong thực tế, có thể thấy một số tình huống xảy ra lãng phí xuất phát từ

nguyên nhân này như: vỉa hè, lòng đường bị đào xới nhiều lần, dẫn đến nham

nhở, hư hại, gây ngập úng, xấu mỹ quan đô thị do không có kế hoạch thi công

đồng bộ giữa các hạng mục xây sửa cống thoát nước, nâng đường, lắp cáp

quang chạy ngầm,…[44]; cơ quan thực hiện tinh giản biên chế bằng cách sa

thải một số nhân viên, sau đó để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ lại tiếp tục tuyển

dụng trở lại chính những nhân viên mới sa thải, gây mất thời gian, ảnh hưởng

đến tâm tư, quyền lợi của người lao động, đến công việc chung của cơ quan,

xuất phát từ việc kế hoạch, phương án tinh giản không khoa học, thiếu sự tính

46

toán, công tác tổ chức – cán bộ của cơ quan đó còn lúng túng, sai lầm [16];…

Những trường hợp này tuy gây ra lãng phí cho cá nhân và tổ chức về tiền bạc,

của cải, thời gian và tài nguyên, song cũng mang lại những bài học kinh

nghiệm đắt giá. Bằng cách học tập, rèn luyện, trao đổi kinh nghiệm, trưng cầu

ý dân, phát huy vai trò phản biện của các nhà khoa học, quản lý thì cá nhân, tổ

chức có thể khắc phục được và tránh xảy ra lãng phí sau này.

Hai là, do quan liêu, thói quen hoang phí, cố ý, mục đích khoa trương,

biết lãng phí nhưng vẫn làm

Đây là nguyên nhân chính, phổ biến nhất gây ra tình trạng lãng phí. Chủ

tịch Hồ Chí Minh khẳng định:

“Vì đâu mà có lãng phí và tham ô? Vì cán bộ phụ trách lãnh đạo các

cấp, các ngành quan liêu không đi sát công việc, cán bộ, quần

chúng nhân dân. Có thể nói bệnh quan liêu là chỗ gieo hạt vun

trồng cho tham ô lãng phí nảy nở được” [57, tr. 345].

Đồng thời, quan liêu không chỉ gây ra lãng phí mà còn làm lãng phí ngày

càng trầm trọng hơn. Người viết:

“Vì những người và những cơ quan lãnh đạo mắc bệnh quan liêu

thành thử có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu,

có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững. Kết

quả là những người xấu, những cán bộ kém tha hồ tham ô, lãng phí.

Thế là bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham ô,

lãng phí” [57, tr. 347].

Quan liêu được hiểu là những cá nhân, cơ quan cấp trên có thẩm quyền,

trách nhiệm nhưng không sát công việc thực tế, không theo dõi kiểm tra, giám

sát cán bộ, không gần gũi quần chúng, đối với công việc thì trọng hình thức

mà xem nhẹ thực chất. Bệnh quan liêu thể hiện ở phong cách, tác phong, thói

quen, cách ứng xử khoa trương, hình thức, bệnh thành tích, thói trưởng giả,…

47

Để chữa được “bệnh quan liêu”, phải sử dụng các giải pháp tác động như giáo

dục, dư luận xã hội để thay đổi nhận thức, từ đó thay đổi thói quen, cách nghĩ,

cách làm của cá nhân, tổ chức. Tự phê bình và phê bình, kiểm tra, giám sát

thường xuyên và giáo dục, thuyết phục cá nhân, tổ chức,… là những giải pháp

hữu ích có thể sử dụng.

Ba là, do lợi ích nhóm, chủ nghĩa cá nhân, tham nhũng

Lãng phí, thất thoát nguồn lực công còn có thể là hành vi cố ý, tạo điều

kiện để gây ra do các đối tượng sử dụng chức vụ, quyền hạn nhằm trục lợi.

Lãng phí có mối quan hệ chặt chẽ với tham nhũng và đều là nguyên nhân trực

tiếp làm thâm hụt ngân sách nhà nước, suy yếu các nguồn lực phát triển, đe

dọa đến sự ổn định chính trị, xã hội. Tham nhũng phát triển tất yếu dẫn đến

lãng phí, thất thoát lớn. Lãng phí, thất thoát không được ngăn chặn kịp thời là

mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng phát triển.

Nhiều trường hợp đã bị phát hiện là “tham nhũng đội lốt lãng phí” như:

chi khống ngân sách cho việc đi lại, tiếp khách, hội nghị để chia nhau; chỉ đạo

thay tài sản cũ bằng tài sản mới (xe cộ, bàn ghế, tu sửa phòng ốc cá nhân, phá

đi làm lại các công trình…) mặc dù cái cũ còn đang sử dụng tốt để thanh lý

giá rẻ cho người thân, bạn bè; tự tạo ra “lực lượng phục vụ xung quanh” làm

các việc vượt quy chế, sai quy định gây lãng phí tài sản và nhân lực; sử dụng

công sản vào việc riêng…

Về thực chất, những trường hợp nói trên là tham nhũng, song được

“núp” dưới dạng lãng phí, có sự sắp đặt, kế hoạch từ trước. Tài sản, tiền của,

tài nguyên của tổ chức, cơ quan, của nhà nước, thay vì “biến mất”, sẽ “chảy

vào túi” của một số ít cá nhân.. Chính vì vậy, rất khó để vạch rõ ranh giới

giữa tham nhũng và lãng phí. Để PCLP do lợi ích nhóm, chủ nghĩa cá nhân,

tham nhũng, cần phải có sự quyết tâm, kiên quyết, cứng rắn trong phát hiện

và xử lý vụ việc sai phạm.

48

* Quan niệm về công tác phòng, chống lãng phí

Theo Đại từ điển Tiếng Việt, “công tác” là công việc của Đảng, Nhà

nước và đoàn thể, “Phòng” được định nghĩa là “Tìm cách ngăn ngừa, đối phó

với điều không hay có thể xảy ra gây tai hại cho mình” [102, tr. 1339],

“Chống” là “gây tác động, trở lực ngược lại với hoạt động của ai hoặc của cái

gì” [102, tr. 382].

Như vậy, công tác PCLP có thể hiểu là những hoạt động của các cơ

quan, tổ chức, cá nhân trong phòng ngừa, ngăn chặn, phát hiện, xử lý các

hành vi vi phạm trong việc sử dụng, quản lý tiền, tài sản, sức lao động, thời

gian, tài nguyên và các nguồn lực khác để tránh lãng phí, thực hành tiết kiệm,

xây dựng xã hội cần kiệm, lành mạnh, góp phần phát triển kinh tế - xã hội,

giữ vững ổn định chính trị, xây dựng đất nước Việt Nam dân giàu, nước

mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Chủ thể thực hiện công tác PCLP bao gồm: các cơ quan, tổ chức, cá

nhân quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước, vốn nhà nước, tài sản nhà nước,

lao động, thời gian lao động… Mỗi hộ gia đình, tổ chức, cá nhân người dân

cũng có trách nhiệm tham gia vào công tác phòng, chống lãng phí bằng việc

chủ động, tích cực thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong cả nhận thức,

thói quen và hành vi của mình.

Đối tượng tác động chính là tổ chức, cá nhân làm việc trong khu vực nhà

nước. Đồng thời, đối tượng tác động còn là các cơ quan, tổ chức, hộ gia đình,

cá nhân quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên; tổ chức, hộ gia đình và cá

nhân khác.

Mục đích của công tác PCLP là phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi lãng phí,

tiết kiệm, phát huy cao nhất mọi nguồn lực hoàn thành các mục tiêu tăng

trưởng, phát triển kinh tế, ổn định đời sống của nhân dân, bảo đảm an sinh xã

hội; xây dựng đất nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,

văn minh.

49

Nội dung công tác phòng, chống lãng phí là toàn bộ những hoạt động

phòng ngừa, ngăn chặn, phát hiện, xử lý các hành vi lãng phí: “phòng” và

“chống”. Giữa “phòng” và “chống” lãng phí, cần xác định “phòng bệnh hơn

chữa bệnh”, phòng ngừa lãng phí là việc làm cần thiết, cơ bản, thường xuyên.

Công tác "phòng" chu đáo, "từ sớm, từ xa" sẽ tốt hơn rất nhiều so với để lãng

phí xảy ra rồi mới xử lý, khắc phục hậu quả. “Phòng” cũng là sự chuẩn bị ứng

phó trước để không bị động trước những tình huống xấu có thể xảy ra, tránh

được những tiêu cực phát sinh, gây ảnh hưởng đến nguồn lực của đất nước.

Tất nhiên, khi đã xảy ra lãng phí thì phải kịp thời kiểm tra, xác minh, kết luận,

xử lý kỷ luật nghiêm minh những sai phạm. Lúc này, "chống" lại là cần thiết,

quan trọng và cấp bách.

2.1.2.2. Nội dung công tác phòng, chống lãng phí ở Thành phố Hà Nội

Căn cứ nội dung Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Nghị định số

84/2014/NĐ-CP ngày 08/9/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều

của Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và Quyết định số 2544/QĐ-TTg

ngày 30/12/2016 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình tổng thể

của Chính phủ về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí giai đoạn 2016 – 2020,

Chương trình thực hành tiết kiệm, chống lãng phí của thành phố Hà Nội giai

đoạn 2016 – 2020,… Có thể xác định nội dung công tác PCLP ở Thành phố

Hà Nội mà các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị thuộc Thành phố phải

thực hiện bao gồm:

Một là, ban hành, thực hiện định mức, tiêu chuẩn, chế độ, thực hiện

nghiêm các quy định của Nhà nước trên tất cả các khâu lập, thẩm định, phê

duyệt dự toán, quyết toán, quản lý, sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước

Định mức, tiêu chuẩn, chế độ do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xây

dựng và ban hành theo quy định của pháp luật, áp dụng chung trong cả nước

hoặc trong phạm vi ngành, lĩnh vực, địa phương. Ở Thành phố Hà Nội, trách

nhiệm ban hành định mức, tiêu chuẩn, chế độ thuộc về Chủ tịch UBND

50

Thành phố Hà Nội, bao gồm: Tổ chức xây dựng, rà soát, sửa đổi, bổ sung

định mức, tiêu chuẩn, chế độ trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc ban

hành theo thẩm quyền; Thực hiện công khai định mức, tiêu chuẩn, chế độ áp

dụng tại địa phương; Tổ chức kiểm tra việc xây dựng định mức, tiêu chuẩn,

chế độ thuộc nội dung quy chế chi tiêu nội bộ do các cơ quan, tổ chức thuộc

phạm vi quản lý ban hành.

Đối với các cơ quan, tổ chức sử dụng ngân sách nhà nước, vốn nhà nước,

tài sản nhà nước, lao động, thời gian lao động trong lĩnh vực nhà nước; cơ

quan, tổ chức quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên trên địa bàn, NĐĐ có

trách nhiệm xây dựng và công khai định mức, tiêu chuẩn, chế độ, quy chế chi

tiêu nội bộ áp dụng trong cơ quan, tổ chức.

Các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị trong Thành phố phải rà soát các

chế độ, tiêu chuẩn, định mức đã ban hành trên tất cả các lĩnh vực để làm cơ sở

triển khai xây dựng, ban hành bộ định mức mới. Quản lý chặt chẽ các khoản

chi, đảm bảo theo đúng dự toán đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt và

đúng chế độ hiện hành. Thực hiện quản lý, sử dụng kinh phí thường xuyên

được giao theo đúng quy định của Nhà nước và các chính sách, chế độ, tiêu

chuẩn, định mức chi tiêu đã được Trung ương và Thành phố ban hành, đảm

bảo đúng mục đích, tiết kiệm, hiệu quả, chống thất thoát, lãng phí.

Triển khai phân bổ, điều hành, quản lý chi dự toán ngân sách ngay từ đầu

năm trong phạm vi dự toán được cấp có thẩm quyền phê duyệt, đúng tiêu

chuẩn, định mức, chế độ quy định; thực hiện triệt để tiết kiệm toàn diện trên

các nội dung chi, nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách. Bám sát tồn quỹ ngân

sách của cấp mình để đảm bảo nguồn lực thực hiện các nhiệm vụ chi, trong đó

đặc biệt đảm bảo chi lương và các khoản liên quan đến con người, đảm bảo

hoạt động thường xuyên của các cơ quan, đơn vị. Thực hiện cơ cấu lại các

khoản chi ngân sách nhà nước theo hướng tiết kiệm chi thường xuyên để dành

nguồn cho đầu tư phát triển và nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước.

51

Trong giai đoạn hiện nay, trước tình hình thiên tai, dịch bệnh có nhiều

diễn biến phức tạp, ngân sách nhà nước giảm thu, các cấp, các ngành, cơ

quan, đơn vị phảu điều hành ngân sách chủ động, tích cực, đảm bảo an sinh

xã hội và các cân đối lớn; rà soát dự toán chi thường xuyên đã giao cho các

đơn vị, sắp xếp thứ tự ưu tiên theo tính cấp thiết của các nhiệm vụ chi và cắt,

giảm, giãn, hoãn sang các năm tiếp theo đối với các nhiệm vụ chưa thực sự

cấp thiết, cấp bách...

Hai là, thực hiện PCLP trong quản lý, sử dụng tài sản công, mua sắm, sử

dụng phương tiện đi lại và phương tiện, thiết bị làm việc của cơ quan, tổ chức

trong khu vực nhà nước

Trong quản lý, sử dụng tài sản công, phải xây dựng Quy chế Quản lý, sử

dụng tài sản công. Thực hiện mua sắm tài sản theo đúng quy định tại Luật

Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017 và tiêu chuẩn, định mức và chế độ

quy định đảm bảo tiết kiệm, công khai, hiệu quả. Xác định công năng sử dụng

của tài sản để trang bị cho nhiều đối tượng dùng chung phù hợp với chức

năng, nhiệm vụ và thực tế… để góp phần chống lãng phí, thất thoát, tham

nhũng, phát huy nguồn lực nhằm tái tạo tài sản và phát triến kinh tế - xã hội.

Một số trường hợp quản lý, sử dụng tiền công trong cơ quan, đơn vị: Tổ chức

hội nghị, hội thảo, tọa đàm; Cử cán bộ, công chức, viên chức đi công tác,

khảo sát trong và ngoài nước; Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên

chức; Sử dụng điện, nước; Sử dụng văn phòng phẩm, sách báo, tạp chí; Tiếp

khách, khánh tiết; tổ chức lễ hội, lễ kỷ niệm.

Chống lãng phí trong mua sắm tài sản công thông qua việc triển khai đồng

bộ, có hiệu quả phương thức mua sắm tập trung, mua sắm qua hệ thống mạng

đấu thầu quốc gia. Không đưa vào kế hoạch mua sắm những tài sản chưa phải là

nhu cầu bức thiết, đảm bảo việc mua sắm tài sản được tiết kiệm, chống lãng phí.

Đối với phương tiện đi lại: Mua sắm, trang bị phương tiện đi lại phải

đúng đối tượng, phục vụ thiết thực cho công việc; không vượt định mức, tiêu

52

chuẩn, chế độ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và phải thực hiện

theo quy định của pháp luật về đấu thầu và pháp luật về quản lý, sử dụng tài

sản nhà nước. Sửa chữa, thay thế phương tiện đi lại phải căn cứ vào định mức,

tiêu chuẩn, chế độ và các quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật của cơ quan, tổ

chức có thẩm quyền. Sử dụng phương tiện đi lại của cơ quan, tổ chức phải

đúng mục đích, đối tượng và không vượt định mức, tiêu chuẩn, chế độ do cơ

quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.

Đối với phương tiện, thiết bị làm việc: Mua sắm, trang bị, quản lý, sử

dụng phương tiện, thiết bị làm việc phải đúng mục đích, đối tượng; không

vượt định mức, tiêu chuẩn, chế độ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban

hành, phục vụ thiết thực, hiệu quả cho công việc, đáp ứng yêu cầu đổi mới

công nghệ và phải thực hiện theo quy định của pháp luật về đấu thầu và pháp

luật về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước.

Đối với phương tiện thông tin, liên lạc: Mua sắm, trang bị phương tiện

thông tin, liên lạc tại trụ sở làm việc phải theo yêu cầu công việc, không vượt

định mức, tiêu chuẩn, chế độ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.

Phương tiện thông tin, liên lạc tại trụ sở làm việc chỉ được sử dụng vào mục

đích công vụ. Việc trang bị, sử dụng phương tiện thông tin, liên lạc cho cá

nhân hoặc tại nhà riêng của cán bộ, công chức phải theo định mức, tiêu chuẩn,

chế độ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và dự toán được duyệt;

thực hiện khoán đến người sử dụng khoản kinh phí này.

Cơ quan, tổ chức có trách nhiệm: xây dựng kế hoạch mua sắm, trang bị

mới, sửa chữa phương tiện; ban hành quy chế nội bộ về sử dụng phương tiện,

thiết bị làm việc, phương tiện thông tin, liên lạc; giao mục tiêu, chỉ tiêu tiết

kiệm và yêu cầu chống lãng phí đến từng bộ phận, cá nhân sử dụng để thực

hiện; bố trí, phân công người quản lý, sử dụng; bảo trì, bảo dưỡng và mở sổ

theo dõi các loại phương tiện, thiết bị đi lại, làm việc; rà soát toàn bộ phương

tiện thuộc phạm vi quản lý, thu hồi những phương tiện được trang bị không

53

đúng đối tượng và lập kế hoạch trang bị, điều chuyển phương tiện phù hợp

với yêu cầu công việc, tiết kiệm và hiệu quả. Xử lý theo thẩm quyền hoặc báo

cáo cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý phương tiện, thiết bị không cần sử

dụng, sử dụng không hiệu quả hoặc không còn sử dụng được bằng hình thức

điều chuyển, thu hồi, thanh lý hoặc bán theo quy định của pháp luật

Ba là, PCLP trong đầu tư xây dựng; quản lý, sử dụng trụ sở làm việc,

nhà ở công vụ và công trình phúc lợi công cộng

Trong đầu tư công: thực hiện các nguyên tắc PCLP trong lập, thẩm định,

phê duyệt quy hoạch, kế hoạch và danh mục dự án đầu tư; lập, thẩm định, phê

duyệt dự án đầu tư; khảo sát, thiết kế xây dựng công trình; lập, thẩm định, phê

duyệt tổng dự toán, dự toán công trình; lựa chọn nhà thầu, tổ chức tư vấn

giám sát thực hiện dự án đầu tư; thực hiện dự án đầu tư, thi công công trình;

quản lý vốn đầu tư xây dựng, Sử dụng vốn đầu tư xây dựng; tổ chức lễ động

thổ, lễ khởi công, lễ khánh thành công trình xây dựng. Theo đó, các cấp, các

ngành có thẩm quyền phải rà soát, sắp xếp các dự án theo thứ tự ưu tiên, giãn

tiến độ các công trình chưa cấp bách, cắt giảm các công trình chưa cần thiết.

Tập trung vốn để hoàn thành các công trình trọng điểm, các công trình hoàn

thành quyết toán và xây dựng xong, các công trình thiết thực phục vụ an sinh

xã hội, vốn đối ứng cho các dự án ODA; đối với các dự án mới chỉ tập trung

những công trình trọng điểm, công trình thực sự cấp bách và cần thiết. Tăng

cường công tác kiểm tra, đánh giá việc thực hiện các dự án; thường xuyên

thanh tra, giám sát, đảm bảo tiến độ, chất lượng công trình, chống lãng phí

thất thoát; có biện pháp chế tài đối với các chủ đầu tư, ban quản lý dự án, đơn

vị thi công không thực hiện đúng các quy định về quản lý đầu tư xây dựng.

Trong quản lý, sử dụng trụ sở làm việc, nhà ở công vụ và công trình

phúc lợi công cộng: xây dựng mới, nâng cấp, cải tạo, sửa chữa hoặc thuê trụ

sở làm việc, cơ sở hoạt động sự nghiệp của cơ quan, tổ chức sử dụng ngân

sách nhà nước, bố trí, sắp xếp nhà ở công vụ phải phù hợp với định mức, tiêu

54

chuẩn, chế độ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành; quản lý, sử dụng

công trình phúc lợi công cộng đúng mục đích, có quy chế quản lý, kế hoạch

sử dụng hiệu quả; thực hiện giám sát, kiểm tra, quản lý việc sử dụng; thu hồi

và xử lý những trụ sở làm việc, nhà ở công vụ và công trình phúc lợi công

cộng sử dụng không đúng mục đích, hết hạn sử dụng hoặc không sử dụng

theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước và pháp luật

về ngân sách nhà nước.

Bốn là, PCLP trong quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên

Quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên đúng quy hoạch, kế hoạch, quy

trình đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Bảo vệ tài nguyên;

thực hiện các giải pháp, biện pháp bảo vệ môi trường.

Ở Hà Nội, PCLP trong quản lý, sử dụng tài nguyên đất là một trong

những vấn đề nóng, gây bức xúc trong nhiều năm. Theo đó, thực hiện quản lý,

sử dụng đất của cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân ở Thành phố phải

bảo đảm: Đúng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; đúng mục đích sử dụng đất;

tiết kiệm, hiệu quả, bảo vệ môi trường và không làm tổn hại đến lợi ích chính

đáng của người sử dụng đất có liên quan; xây dựng biện pháp để thực hiện

mục tiêu, chỉ tiêu tiết kiệm và yêu cầu chống lãng phí trong quản lý, khai

thác, sử dụng tài nguyên.

Xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm quy định của pháp luật về thăm

dò, khai thác, chế biến tài nguyên, khoáng sản. Tăng cường giám sát, kiểm tra

việc thực hiện Luật Đất đai, quy hoạch sử dụng đất và các văn bản quy phạm

pháp luật về sử dụng đất; xử lý nghiêm các hành vi vi phạm về sử dụng đất.

Các cơ quan, đơn vị xây dựng quy chế sử dụng điện năng, nước sinh

hoạt; nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức trong việc sử

dụng tiết kiệm điện năng, nước sinh hoạt. Rút ngắn thời gian tiếp cận điện

năng còn dưới 26 ngày.

55

Năm là, PCLP trong tổ chức bộ máy, quản lý, sử dụng lao động và thời

gian lao động trong khu vực nhà nước

Đối với công tác quản lý sử dụng lao động, tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ

chức bộ máy cơ quan tinh gọn, hoạt động có hiệu quả. Triển khai sắp xếp, tổ

chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc bảo đảm tinh gọn, có cơ cấu

hợp lý, có năng lực tự chủ, hoạt động hiệu quả. Tinh giản biên chế gắn với cơ

cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ công chức và người lao động để sử dụng

hiệu quả chi thường xuyên, góp phần nâng cao đời sống thu nhập cho công

chức, người lao động.

Thực hiện quản lý chặt chẽ thời giờ lao động, kiểm tra, giám sát chất

lượng và đảm bảo hiệu quả công việc của công chức, người lao động. Nâng

cao trách nhiệm của thủ trưởng đơn vị trong quản lý công chức, người lao

động; tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nội quy, quy chế về

thời gian làm việc.

Đẩy mạnh cải cách hành chính, hiện đại hóa quản lý; gắn THTK, CLP

với công tác đấu tranh PCTN, cụ thể: Tiếp tục thực hiện cải cách thủ tục hành

chính theo hướng đơn giản, rõ ràng, công khai, minh bạch, hiệu quả nhằm

giảm thiểu thời gian, chi phí liên quan đến thủ tục hành chính của người dân.

Tăng cường công tác kiểm tra trong việc giải quyết thủ tục hành chính, xử lý

nghiêm những hành vi nhũng nhiễu, gây khó khăn của cán bộ, công chức

trong việc giải quyết hồ sơ thủ tục cho công dân.

Sáu là, PCLP trong quản lý, sử dụng vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp

Cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung hoàn

thiện cơ chế, chính sách phục vụ quá trình sắp xếp, cổ phần hóa, cơ cấu lại và

nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước

và doanh nghiệp có vốn nhà nước.

Tất cả các doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn phải thực hiện minh bạch

thông tin theo các tiêu chuẩn áp dụng đối với công ty đại chúng. Cơ quan

56

quản lý nhà nước nghiên cứu, đề xuất xây dựng bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả

hoạt động sản xuất, kinh doanh đối với doanh nghiệp nhà nước theo từng loại

hình, lĩnh vực, địa bàn hoạt động đặc thù của doanh nghiệp. Triển khai tích

cực, có hiệu quả Chương trình hành động cắt giảm chi phí cho doanh nghiệp

nhằm cắt giảm triệt để các chi phí bất hợp lý trong tuân thủ quy định pháp luật

về kinh doanh, đẩy lùi và ngăn chặn các hành vi làm phát sinh chi phí không

chính thức cho doanh nghiệp.

Đẩy mạnh thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám sát

việc thực hiện chính sách, pháp luật về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước,

không để xảy ra tiêu cực, thất thoát vốn, tài sản nhà nước; Thực hiện công

khai 100% các kết luận thanh tra theo quy định của pháp luật.

Bảy là, PCLP trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng của

nhân dân.

Các cơ quan, đơn vị chức năng có trách nhiệm tuyên tuyền, phổ biến,

giáo dục pháp luật, nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm của các tổ chức

và cá nhân đối với THTK, CLP. Đảng và chính quyền các cấp phải thực hiện

công tác hướng dẫn thông tin, định hướng dư luận xã hội nhằm tạo nên sự

thống nhất, quyết tâm chung của HTCT và toàn xã hội trong PCLP. Tuyên

truyền sâu rộng trên các phương tiện thông tin, truyền thông, kịp thời biểu

dương những tấm gương người tốt, việc tốt, những cá nhân tiêu biểu; có cơ

chế, chính sách thực hiện việc bảo vệ, khen thưởng, động viên những người

tích cực, dũng cảm đấu tranh PCTN, LP; kiến nghị xử lý nghiêm khắc việc

đưa tin sai sự thật, vu cáo, bịa đặt, gây hậu quả xấu trong dư luận. Đẩy mạnh

việc giáo dục đạo đức, rèn luyện tính liêm khiết của đảng viên, cán bộ, công

chức, giáo dục tinh thần biết trọng danh dự; tạo dư luận xã hội, phê phán

nghiêm khắc đối với hành vi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.

Các cơ quan, ban, ngành, địa phương có trách nhiệm thường xuyên cập

nhật thông tin của từng ngành, từng địa phương và công khai đường dây nóng

57

tiếp nhận thông tin khiếu nại, tố cáo liên quan tham nhũng, lãng phí, tiêu cực,

tạo ra cuộc đấu tranh mạnh mẽ, không khoan nhượng đối với hành vi tham

nhũng, lãng phí, tiêu cực, góp phần loại bỏ các cơ hội phát sinh lãng phí.

2.2. THÀNH ỦY HÀ NỘI LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC PHÕNG, CHỐNG LÃNG

PHÍ - KHÁI NIỆM, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG THỨC

2.2.1. Khái niệm Thành ủy Hà Nội lãnh đạo công tác phòng, chống

lãng phí

Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trò lãnh đạo công tác PCLP. Nghị quyết

Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa X xác định: “Đảng lãnh

đạo chặt chẽ công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; phát huy sức mạnh

tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của toàn dân; thực hiện đồng bộ các

biện pháp chính trị, tư tưởng, tổ chức hành chính, kinh tế, hình sự”[3].

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Lãnh đạo đúng nghĩa là: 1. Phải quyết

định mọi vấn đề một cách cho đúng… 2. Phải tổ chức sự thi hành cho đúng…

3. Phải tổ chức sự kiểm soát” [56, tr. 325].

Dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh về lãnh đạo, các tác giả cuốn sách "Một

số vấn đề lý luận – thực tiễn cấp thiết liên quan trực tiếp đến đổi mới nội

dung, PTLĐ của Đảng và quản lý nhà nước" đưa ra khái niệm “sự “lãnh đạo”

của Đảng là toàn bộ hoạt động đề ra các quyết định, tổ chức các lực lượng

thực hiện và tiến hành kiểm tra, giám sát, nhằm thực hiện thắng lợi các quyết

định của Đảng” [62, tr.99].

Trong cuốn sách, các tác giả cũng xác định đối tượng lãnh đạo của Đảng

là: các tổ chức trong HTCT (Nhà nước, MTTQ Việt Nam và các tổ chức CT-

XH), các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và các tổ chức khác; các lĩnh vực của

đời sống xã hội, như: kinh tế, quốc phòng, an ninh, giáo dục và đào tạo, khoa

học và công nghệ… [62, tr.99-100]

Trên cơ sở lý luận về SLĐ của Đảng các cấp, tham khảo khái niệm cấp

ủy lãnh đạo một số lĩnh vực trong các cuốn sách, luận án có liên quan, có thể

58

rút ra khái niệm Thành ủy Hà Nội lãnh đạo công tác PCLP như sau: Thành ủy

Hà Nội lãnh đạo công tác PCLP là toàn bộ hoạt động của Thành ủy Hà Nội

tác động vào công tác phòng, chống lãng phí, từ việc xây dựng, ban hành

phương hướng, nhiệm vụ thực hiện công tác PCLP của toàn Đảng bộ Thành

phố Hà Nội, lãnh đạo HTCT và nhân dân Thành phố Hà Nội thực hiện công

tác PCLP… đến việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện công tác PCLP nhằm

đẩy mạnh công tác PCLP trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội

trên địa bàn Thành phố, tạo bước đột phá quan trọng trong PCLP, góp phần

ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội, góp phần sử dụng hiệu quả các

nguồn lực để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội.

Theo khái niệm trên, có thể xác định:

Chủ thể lãnh đạo công tác PCLP là Thành ủy Hà Nội, trong đó trách

nhiệm trực tiếp, thường xuyên là Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội.

Thành ủy Hà Nội lãnh đạo triển khai và cụ thể hóa những nội dung công

tác PCLP trong đường lối, nghị quyết, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội

của Đảng, Nhà nước và nghị quyết của Đại hội Đảng bộ Thành phố, trên cơ

sở đó xác định phương hướng, giải pháp thực hiện công tác PCLP trong quá

trình thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ Thành phố, đưa các nội dung

lãnh đạo công tác PCLP vào xây dựng và ban hành các nghị quyết của Thành

uỷ; kiện toàn và phân công tổ chức và cá nhân cụ thể có trách nhiệm trong

thực hiện công tác PCLP, tổ chức thực hiện công tác PCLP thông qua tổ chức

thực hiện các Nghị quyết trên địa bàn Thành phố; kiểm tra, giám sát việc thực

hiện của các cơ quan, đơn vị trực thuộc.

Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội lãnh đạo và kiểm tra việc thực hiện

công tác PCLP theo nghị quyết của Đại hội đại biểu đảng bộ Thành phố Hà

Nội, nghị quyết, chỉ thị của Thành ủy Hà Nội; có vai trò rất lớn trong Thành

ủy Hà Nội đối với việc quyết định những vấn đề về chủ trương, tổ chức, cán

59

bộ đối với công tác PCLP; quyết định triệu tập và chuẩn bị nội dung các kỳ

họp của Thành ủy; chỉ đạo, kiểm tra thường xuyên các hoạt động của đảng bộ.

Thường trực Thành ủy Hà Nội có nhiệm vụ kiểm tra việc thực hiện công

tác PCLP theo nghị quyết, chỉ thị của Thành ủy, của Ban thường vụ Thành

ủy; chỉ đạo, quyết định các phương án giải quyết các công việc cụ thể về

PCLP trong Đảng bộ Thành phố; quyết định triệu tập và chuẩn bị nội dung

các kỳ họp của Ban Thường vụ Thành ủy.

Đối tượng lãnh đạo của Thành ủy Hà Nội là toàn bộ tổ chức đảng và cán

bộ, đảng viên thuộc Đảng bộ Thành phố Hà Nội, bao gồm: 30 đảng bộ quận,

huyện, thị, 4 đảng bộ khối, 23 đảng bộ cấp trên cơ sở và 02 đảng bộ cơ sở trực

thuộc Thành uỷ; 3.000 tổ chức cơ sở đảng triển khai thực hiện các nội dung

trong nghị quyết, chỉ thị… của Thành ủy Hà Nội về PCLP.

Thông qua các PTLĐ cụ thể, Thành ủy lãnh đạo HTCT và nhân dân

Thành phố cụ thể hóa phương hướng, nhiệm vụ thực hiện công tác PCLP

trong chương trình, kế hoạch làm việc của cơ quan, đơn vị, cá nhân, cụ thể là

các đối tượng: Ban cán sự Đảng UBND, Đảng đoàn HĐND Thành phố Hà

Nội, Đảng đoàn trong MTTQ và các tổ chức CT-XH Thành phố Hà Nội,…

Mục đích của Thành ủy Hà Nội lãnh đạo công tác PCLP là đẩy mạnh

công tác PCLP trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội trên địa bàn

Thành phố, công tác PCLP được thực hiện có hiệu quả, lãng phí được ngăn

chặn, đẩy lùi, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Thành phố Hà

Nội ngày càng vững mạnh, giàu đẹp, văn minh, thanh lịch.

Thành ủy Hà Nội lãnh đạo công tác PCLP là một quá trình được thực

hiện một cách liên tục, ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả thực hiện công tác

PCLP trong thực tiễn; đồng thời, những kết quả đạt được từ công tác PCLP là

cơ sở để Thành ủy Hà Nội chỉnh sửa, bổ sung nghị quyết, chỉ thị định hướng

cho việc tổ chức thực hiện công tác PCLP cho phù hợp, hiệu quả hơn.

60

2.2.2. Nội dung Thành ủy Hà Nội lãnh đạo công tác phòng, chống

lãng phí

Nội dung Thành ủy Hà Nội lãnh đạo công tác PCLP hiện nay bao gồm:

2.2.2.1. Lãnh đạo xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác phòng,

chống lãng phí trên địa bàn Thành phố Hà Nội

SLĐ của Đảng đối với một lĩnh vực đời sống xã hội chủ yếu là lãnh đạo về

mặt chính trị, vì vậy, nội dung lãnh đạo đầu tiên, cũng là nội dung quan trọng

nhất trong những nội dung Đảng lãnh đạo công tác PCLP là phải đề ra đường

lối, chủ trương định hướng cho việc thực hiện công tác PCLP. Từ khi cầm quyền

đến nay, qua các thời kỳ, Đảng Cộng sản Việt Nam đều xác định PCLP là một

trong những nhiệm vụ của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Ngay từ

những ngày đầu tiên nắm chính quyền, Đảng và Nhà nước ta đã có những động

thái xử lý nghiêm khắc các hiện tượng tiêu cực gây lãng phí trong bộ máy chính

quyền như: ban hành các Sắc lệnh số 64/SL ngày 23/11/1945 về thành lập Ban

Thanh tra đặc biệt để giám sát, kiểm soát hoạt động của các cơ quan chính quyền

và nhân viên nhà nước, Sắc lệnh số 223/SL ngày 27/11/1946 truy tố các tội hối

lộ, phù lạm, biển thủ công quỹ; Sắc lệnh số 138/SL ngày 18/12/1949 thành lập

Ban Thanh tra Chính phủ thay thế Ban Thanh tra đặc biệt để xử lý nghiêm khắc

hành vi lãng phí của công. Đặc biệt, từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay,

Đảng ta đã có nhiều văn kiện có tính định hướng cho công tác phòng, chống lãng

phí, có thể kể đến như: Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung

ương khóa X về tăng cường SLĐ của Đảng đối với công tác PCTN, LP; Nghị

quyết số 12-NQ/TW của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ tư khóa

XI về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay; Kết luận số 21-

KL/TW của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ năm khóa XI, Kết luận

số 10-KL/TW của Bộ Chính trị về “Việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị

lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa X về tăng cường SLĐ của Đảng đối

với công tác PCTN, LP”;…

61

Trong hệ thống các văn bản của Đảng về công tác phòng, chống lãng phí,

các quan điểm cũng như nhiệm vụ, giải pháp thực hiện đã được Đảng ta xác định

tương đối đầy đủ, có sự thay đổi, cập nhật và các bước phát triển phù hợp với

yêu cầu của từng thời kỳ cụ thể. Công tác PCLP không đơn thuần là lồng ghép

hoặc luôn đi kèm với công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực mà nay đã có

sự cụ thể hóa, nhận diện lãng phí và công tác PCLP một cách sâu sắc, đưa vào

các văn bản pháp luật như Pháp lệnh số 02/1998/PL-UBTVQH10 về THTK,

CLP ban hành năm 1998, Luật THTK, CLP năm 2005, Luật THTK, CLP năm

2013 với phạm vi điều chỉnh bao trùm hết các lĩnh vực, cho thấy quyết tâm của

Đảng và Nhà nước trong cuộc đấu tranh PCLP.

Thực hiện chủ trương chung của Đảng và pháp luật của Nhà nước về

phòng, chống lãng phí, Thành ủy căn cứ vào tình hình địa phương để xác định

phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp thực hiện công tác PCLP tại

Thành phố Hà Nội đạt hiệu quả, thể hiện trong các nghị quyết, chương trình,

kế hoạch do Thành ủy ban hành. Những định hướng mà Thành ủy đề ra là căn

cứ, cơ sở, tiền đề để các tổ chức đảng, đảng viên, các tổ chức thành viên trong

HTCT thành phố Hà Nội tổ chức thực hiện công tác PCLP trong thực tế đạt

hiệu quả. Nội dung này được thực hiện liên tục, những định hướng, mục tiêu,

nhiệm vụ, giải pháp Thành ủy đưa ra được xây dựng phụ thuộc vào tình hình

thực tế trên địa bàn, sự tổng kết về lý luận và thực tiễn và tầm nhìn của Thành

ủy. Với việc xác định công tác PCLP là nhiệm vụ lớn, cấp thiết, phức tạp,

những nhiệm vụ, giải pháp được Thành ủy đưa ra cần đi kèm với sự phân

công trách nhiệm cho mỗi lực lượng rõ ràng, cụ thể. Thành ủy chịu trách

nhiệm chính về kết quả thực hiện công tác, phân công nhiệm vụ của các tổ

chức: các cấp ủy trực thuộc, UBND, sở, ban, ngành, MTTQ… trong việc

tham gia vào công tác PCLP.

62

2.2.2.2. Lãnh đạo hệ thống chính trị và nhân dân Thành phố Hà Nội

thực hiện công tác phòng, chống lãng phí

Thành ủy Hà Nội xây dựng phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải

pháp thực hiện công tác PCLP tại Thành phố Hà Nội và triển khai đến các tổ

chức đảng trực thuộc để thực hiện thống nhất trong toàn Đảng bộ Thành phố

Hà Nội. Các tổ chức đảng căn cứ vào những nội dung đó để xây dựng kế

hoạch, phương hướng thực hiện phù hợp với tình hình thực tế ở đơn vị mình.

Thành ủy Hà Nội lãnh đạo Đảng đoàn, ban cán sự đảng trong chính

quyền Thành phố, MTTQ và các tổ chức CT-XH trên địa bàn nhanh chóng cụ

thể hóa các nghị quyết, chương trình, kế hoạch của Thành ủy liên quan đến

lãng phí và PCLP thành các chỉ thị, quy chế, quy định, chương trình,… để

triển khai thực hiện tại các ban, sở, ngành, quận, huyện, thị xã…

Thành ủy Hà Nội lãnh đạo, chỉ đạo Đảng đoàn HĐND Thành phố cụ thể

hóa các mục tiêu, nhiệm vụ PCLP thông qua tác động đến việc xây dựng nghị

quyết của HĐND; bố trí kinh phí để thực hiện các kế hoạch, đề án, chuyên đề

công tác theo nội dung Chương trình mà Thành ủy đã xác định. Thành ủy

cũng lãnh đạo Đảng đoàn HĐND Thành phố xây dựng kế hoạch, tăng cường

giám sát hoạt động của các cấp chính quyền và các cơ quan, đơn vị của Thành

phố trong việc triển khai, thực hiện công tác PCLP.

Thành ủy lãnh đạo Ban Cán sự Đảng UBND Thành phố tác động đến

UBND Thành phố và cơ quan chức năng của Thành phố xây dựng kế hoạch

thực hiện; cụ thể hóa các nội dung công tác PCLP bằng các đề án, chuyên đề

công tác để triển khai thực hiện công tác PCLP có hiệu quả; tăng cường đôn

đốc, hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra các lĩnh vực kinh tế - xã hội và việc thực

hiện Luật THTK, CLP; định kỳ báo cáo Ban Thường vụ Thành ủy kết quả

thực hiện công tác PCLP. UBND Thành phố chỉ đạo các sở, ngành, quận,

huyện, thị xã tập trung triển khai thực hiện các giải pháp PCLP cũng như

tham gia vào phát hiện, xử lý các hành vi, biểu hiện lãng phí.

63

Thành ủy lãnh đạo Đảng đoàn MTTQ và các tổ chức CT-XH Thành phố

xây dựng kế hoạch để chỉ đạo hệ thống MTTQ từ Thành phố đến cơ sở, phối

hợp với các tổ chức CT-XH tổ chức thực hiện công tác phòng, chống lãng

phí; tăng cường thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở và thực hiện giám sát tổ

chức đảng và cán bộ, đảng viên, công chức sinh hoạt ở nơi cư trú; phổ biến

công tác PCLP tới các đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân trên địa

bàn Thành phố. Thành ủy lãnh đạo Ủy ban MTTQ Thành phố Hà Nội và các

tổ chức CT-XH chủ động phối hợp với chính quyền Thành phố để thực hiện

công tác phòng, chống lãng phí; đẩy mạnh công tác giám sát, phản biện xã

hội, giải quyết tố cáo, khiếu nại, thực hành dân chủ ở xã, phường, thị trấn.

2.2.2.3. Lãnh đạo thực hiện kiểm tra, giám sát nhằm phòng ngừa,

phát hiện các hành vi, biểu hiện lãng phí

Việc kiểm tra, giám sát là nội dung thường xuyên và được đánh giá là

một trong những giải pháp hữu hiệu nhằm phòng, chống lãng phí, Thành ủy

phải xây dựng và lãnh đạo cấp ủy các cấp trực thuộc xây dựng kế hoạch kiểm

tra, giám sát hàng năm, trong đó, nội dung THTK, CLP là nội dung thường

xuyên được kiểm tra, giám sát. Ủy ban kiểm tra các cấp trong Thành phố tăng

cường kiểm tra các tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm.

Hội đồng nhân dân các cấp hàng năm có kế hoạch tăng cường giám sát

chuyên đề các cơ quan nhà nước về hoạt động kinh tế - xã hội; thanh tra nhà

nước, thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành tập trung thanh tra công

vụ và thanh tra các lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.

Thông qua công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán phải có kết luận

quy rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân để thất thoát tiền, tài sản của Nhà

nước, kiên quyết thu hồi tài sản bị thất thoát, tài sản do tham nhũng, lãng phí.

Xử lý nghiêm khắc người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tham nhũng, thiếu

trách nhiệm gây lãng phí đến tài sản Nhà nước, có hành vi bao che sai phạm,

trù dập người tố cáo. Khi phát hiện sai phạm đến mức cần xử lý hình sự, phải

64

kịp thời chuyển hồ sơ vụ việc cho cơ quan điều tra tiến hành điều tra, xử lý

theo quy định pháp luật và công khai kết quả xử lý.

Thành ủy Hà Nội lãnh đạo phát huy mạnh mẽ vai trò của MTTQ, các tổ

chức CT-XH, xã hội nghề nghiệp, của cộng đồng và nhân dân Thành phố

trong việc phát hiện, đấu tranh PCTN; THTK, CLP. Cụ thể là triển khai và

thực hiện có hiệu quả Kế hoạch số 109-KH/TU của Thành uỷ Hà Nội về thực

hiện Quy định số: 217-QĐ/TW ngày 12 tháng 12 năm 2013 của Bộ Chính trị

ban hành “Quy chế giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam và các

đoàn thể CT-XH”. Lãnh đạo, tạo điều kiện để MTTQ, các tổ chức CT-XH và

nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền theo Quy

định số 218-QĐ/TW ngày 12 tháng 12 năm 2013 của Bộ Chính trị “về MTTQ

Việt Nam, các đoàn thể CT-XH và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng,

xây dựng chính quyền”. Chú trọng phát huy vai trò của hoạt động thanh tra

nhân dân, giám sát đầu tư cộng đồng; thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở;

đề cao tự phê bình và phê bình, kiên quyết đấu tranh với hành vi tiêu cực,

tham nhũng, lãng phí.

Bên cạnh đó, phải phát huy vai trò của các cơ quan thông tin, báo chí,

các tổ chức CT-XH, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và nhân dân Thành phố

trong công tác PCTN; THTK, CLP. Xây dựng quy chế bảo vệ an toàn đối với

người tích cực đấu tranh PCTN; kịp thời biểu dương, khen thưởng những tập

thể và cá nhân cán bộ, đảng viên, người dân dũng cảm tố cáo, phát hiện hành

vi tham nhũng, lãng phí.

2.2.2.4. Lãnh đạo xử lý các vụ việc, hành vi lãng phí hoặc có biểu

hiện lãng phí

Một trong những nội dung lãnh đạo thể hiện sự quyết tâm của Thành ủy

trong PCLP là SLĐ của Thành ủy trong xử lý các vụ việc, hành vi lãng phí

hoặc có biểu hiện lãng phí, nhất là những vấn đề lớn, gây bức xúc trong xã

hội. Thành ủy trực tiếp lãnh đạo tổ chức thực hiện PCLP. Khi phát hiện dấu

65

hiệu vi phạm hoặc hành vi vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà

nước về THTK, CLP, Thành ủy, cấp ủy đảng có trách nhiệm lãnh đạo xử lý,

nhất là đối với các vụ việc nghiêm trọng, có ảnh hưởng tiêu cực đến dư luận

trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Thực hiện Chỉ thị 50-CT/TW năm 2015 về tăng cường SLĐ của Đảng

đối với công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng do Ban Chấp

hành trung ương ban hành, NĐĐ cấp uỷ, tổ chức đảng, nhà nước, đoàn thể, cơ

quan, đơn vị phải gương mẫu thực hiện và có trách nhiệm trực tiếp chỉ đạo

công tác PCTN, LP; chủ động tự phát hiện vụ việc có dấu hiệu tham nhũng,

lãng phí trong tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương mình. Kết quả công tác

PCTN, LP là thước đo đánh giá phẩm chất, năng lực, trách nhiệm và mức độ

hoàn thành nhiệm vụ của NĐĐ. Xử lý kịp thời, nghiêm minh NĐĐ để xảy ra

tham nhũng, lãng phí trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình trực tiếp lãnh

đạo, quản lý nhưng không chủ động phát hiện, xử lý, nhất là đối với trường

hợp bao che, ngăn cản việc phát hiện, xử lý tham nhũng, lãng phí.

Phải xác minh, điều tra làm rõ, xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật

những vụ việc, vụ án tham nhũng, lãng phí được phát hiện, với nguyên tắc:

Tích cực, khẩn trương; làm rõ đến đâu xử lý đến đó; không phân biệt người

có hành vi tham nhũng, lãng phí là ai, đã có dấu hiệu tội phạm phải khởi tố

điều tra và đã kết luận có tội thì phải truy tố, xét xử. Chú trọng áp dụng các

biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt theo quy định của pháp luật để kịp thời

phát hiện, xử lý hành vi tham nhũng, lãng phí. Chấn chỉnh, xử lý kịp thời các

vi phạm trong công tác phát hiện, xử lý tham nhũng, lãng phí; khắc phục tình

trạng hành vi tham nhũng, lãng phí có dấu hiệu tội phạm, nhưng chỉ xử lý kỷ

luật hành chính, kinh tế. Hằng năm, ở từng cấp cần chọn án điểm để chỉ đạo

xử lý, qua đó rút kinh nghiệm để làm tốt hơn. Tăng cường phối hợp giữa các

66

cơ quan, tổ chức, đơn vị chức năng, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc

trong phát hiện, điều tra, xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng, lãng phí.

2.2.2.5. Lãnh đạo sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm công tác phòng,

chống lãng phí

Tổng kết kinh nghiệm để không ngừng nâng cao trình độ lãnh đạo là nhu

cầu tất yếu trong mọi công việc, vì vậy, trong lãnh đạo công tác phòng, chống

lãng phí, Thành ủy phải thường xuyên sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm qua

từng thời kỳ. Mục đích tổng kết là giúp cấp ủy trưởng thành hơn trong việc

nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan để hoạt động chủ động hơn,

tránh lặp lại các hạn chế, sai lầm có thể mang đến thiệt hại cho Đảng, Nhà

nước và Nhân dân. Công tác sơ kết, tổng kết phải mang tính đảng và tính

khoa học nghiêm túc, tránh thái độ coi nhẹ, né tránh, che giấu sai lầm hoặc lợi

dụng sơ kết, tổng kết vì mục đích tiêu cực.

2.2.3. Phƣơng thức lãnh đạo phòng, chống lãng phí của Thành ủy

Hà Nội

PTLĐ của Đảng là tổng thể các hình thức, phương pháp, cách thức, quy

chế, quy trình, phong cách, lề lối làm việc... mà Đảng sử dụng để tác động

vào đối tượng lãnh đạo nhằm thực hiện thắng lợi Cương lĩnh chính trị, đường

lối, các nghị quyết của Đảng, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ

vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa [45, tr.220].

Như vậy, có thể hiểu: PTLĐ của Thành ủy Hà Nội đối với công tác

PCLP là toàn bộ các cách thức, hình thức, phương pháp, quy chế, quy định,

quy trình, phong cách, lề lối làm việc… mà Thành ủy Hà Nội sử dụng để tác

động vào các tổ chức đảng trực thuộc, đảng viên, cơ quan chính quyền, Mặt

trận Tổ quốc, các tổ chức CT-XH và nhân dân nhằm thực hiện tốt các nghị

quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác PCLP.

PTLĐ của Thành ủy Hà Nội đối với công tác PCLP gồm:

67

2.2.3.1. Thành ủy lãnh đạo bằng các văn bản nghị quyết, quyết định,

chỉ thị, chương trình, kế hoạch công tác… về phòng, chống lãng phí

SLĐ của Thành ủy thể hiện rõ nhất thông qua các văn bản do Thành ủy

xây dựng và ban hành, không chỉ ở các nghị quyết, quyết định cụ thể và chi

tiết về lãng phí và PCLP mà còn được lồng ghép trong các nghị quyết, quyết

định, chương trình, kế hoạch chung về phát triển kinh tế - xã hội của Thành

phố, về lãnh đạo các lĩnh vực đời sống xã hội tại địa phương... Các văn bản

được ban hành thể hiện những mục tiêu, định hướng công tác, nhiệm vụ, giải

pháp, phân công công việc trong thực hiện công tác PCLP trong thực tiễn.

Những văn bản nghị quyết, quyết định của Thành ủy là căn cứ, tiền đề để

các cấp ủy, tổ chức đảng, các tổ chức, đơn vị chính quyền, MTTQ và các tổ

chức CT-XH triển khai thực hiện công tác PCLP. Định kỳ hàng tháng, quý,

năm, các cấp ủy, tổ chức đảng, các tổ chức, đơn vị có trách nhiệm báo cáo kết

quả thực hiện công tác PCLP dựa trên việc thực hiện các nghị quyết, quyết

định của Thành ủy.

2.3.2.2. Thành ủy lãnh đạo bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục,

vận động

Tuyên truyền, thuyết phục, vận động, giáo dục là phương thức quan

trọng để Thành ủy Hà Nội tác động vào tổ chức đảng và đảng viên, toàn

HTCT và nhân dân bằng cách tác động vào suy nghĩ, tình cảm của đối tượng,

từ đó nâng cao nhận thức, trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân

trong PCLP. Cụ thể, Thành ủy tổ chức các buổi, các khóa học tập lý luận như

các buổi học nghị quyết, các cuộc sinh hoạt chuyên đề, các lớp sơ cấp, trung

cấp, cao cấp lý luận chính trị… trên địa bàn, khéo léo lồng ghép nội dung về

PCTN, LP vào các chương trình đào tạo, phổ biến nhằm nâng cao nhận thức

về công tác PCLP trong cán bộ, đảng viên. Nội dung tuyên truyền, giáo dục tư

tưởng, vận động PCLP không chỉ khẳng định tác hại của lãng phí, tính cấp

thiết phải PCLP mà còn phải chỉ rõ cho cán bộ, đảng viên giải pháp phòng,

68

chống và trách nhiệm của mỗi cá nhân, tổ chức trong thực hiện công tác

phòng, chống lãng phí, đặc biệt là trong tự phê bình và phê bình thường

xuyên hay tham gia phát hiện dấu hiệu lãng phí, kiên quyết đấu tranh chống

các biểu hiện lãng phí trong công tác và sinh hoạt…

Thành ủy lãnh đạo các hoạt động nghiên cứu, tổng kết thực tiễn qua các

chương trình, đề tài khoa học, hội thảo khoa học, báo cáo chuyên đề; các

phương tiện truyền thông đại chúng như phát thanh, truyền hình, báo chí và các

thiết chế, ấn phẩm khác; sinh hoạt và hoạt động của các tổ chức đảng các tổ

chức CT-XH, các cơ quan, đơn vị, các tổ chức hiệp hội, các cơ sở sản xuất,

kinh doanh, các câu lạc bộ…; các hoạt động văn hóa, văn nghệ, hoạt động biểu

diễn văn nghệ, biểu diễn nghệ thuật, điện ảnh, văn nghệ quần chúng…; thông

qua hoạt động tuyên truyền, giáo dục của cán bộ, đảng viên Đảng bộ Thành

phố Hà Nội; thông qua các phong trào do Thành ủy phát động. Với nhiều hình

thức đa dạng, phong phú, phương thức này là cơ bản nhất, được thực hiện

thường xuyên nhất và mang lại hiệu quả lâu dài đối với công tác PCLP.

2.3.2.3. Thành ủy Hà Nội lãnh đạo thông qua tổ chức đảng, đảng

viên trong cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị -

xã hội của Thành phố

Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng cử cán bộ, đảng viên vào các cơ

quan nhà nước, các tổ chức CT-XH. Thông qua công tác tổ chức, cán bộ,

Đảng lãnh đạo tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các cơ quan nhà

nước, các tổ chức CT-XH thực hiện và tuyên truyền chủ trương, đường lối

của Đảng. Vì vậy, đối với Thành ủy Hà Nội, công tác tổ chức - cán bộ có ý

nghĩa hết sức quan trọng đối với việc lãnh đạo công tác PCLP. Thành ủy

thông qua việc lãnh đạo trực tiếp Ban cán sự Đảng UBND Thành phố, đảng

đoàn HĐND Thành phố, đảng đoàn trong MTTQ và các tổ chức CT-XH trên

địa bàn để lãnh đạo chính quyền Thành phố và MTTQ các tổ chức CT-XH

trên địa bàn thực hiện công tác PCLP có hiệu quả. Thông qua hệ thống tổ

69

chức đảng rộng khắp đến các đơn vị trên địa bàn Thành phố Hà Nội, công tác

PCLP được triển khai sâu rộng đến mỗi phường, xã, mỗi tổ dân phố, mỗi cơ

quan, đoàn thể, mỗi công ty, doanh nghiệp.

Định kỳ sau mỗi lần sơ kết, tổng kết, Thành ủy xây dựng và thực hiện kế

hoạch khen thưởng, động viên đối với những cán bộ, tổ chức làm tốt hoặc

những đơn vị kiểu mẫu, cán bộ điển hình trong thực hiện công tác PCLP. Chú

trọng nâng cao chất lượng quản lý cán bộ, siết chặt việc thực hiện các quy

định trong Đảng về cán bộ nhằm phòng, ngừa những lãng phí do cố ý, xuất

phát từ cá nhân, tham nhũng, lợi ích nhóm. Đối với các công tác sử dụng, bổ

nhiệm cán bộ, cần thực hiện tốt việc đánh giá cán bộ, đặc biệt là về phẩm chất

chính trị, đạo đức, lối sống, không để những cán bộ không đủ uy tín, bị thoái

hóa, biến chất để làm NĐĐ.

2.3.2.4. Thành ủy Hà Nội lãnh đạo thông qua vai trò tiên phong

gương mẫu của cán bộ, đảng viên

Với việc hệ thống tổ chức của đảng được kiện toàn, đảm bảo “nơi nào có

nhân dân nơi đó có đảng viên”, thì việc nêu gương của đảng viên, đặc biệt là

NĐĐ là một trong những phương thức hữu hiệu để triển khai thực hiện công

tác PCLP tại mọi cơ quan, đơn vị, đồng thời cũng là yêu cầu bắt buộc đối với

mỗi đảng viên. Như cố Tổng bí thư Lê Duẩn đã từng căn dặn: “Mỗi đảng viên

phải tích cực phấn đấu để thực hiện có hiệu quả các đường lối, chính sách, các

nghị quyết của Đảng, gương mẫu dẫn đầu trong chiến đấu và sản xuất… Đảng

viên phải hết sức chăm lo nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân

dân, phải tôn trọng quyền làm chủ tập thể của nhân dân, không bao giờ được

phép tự cho mình có bất cứ đặc quyền, đặc lợi gì đối với quần chúng nhân

dân, phải chí công vô tư, phải là người lãnh đạo quần chúng nhân dân, vừa là

người lãnh đạo, vừa là đầy tớ của nhân dân, đúng như lời dạy của Hồ Chủ

tịch” [2]. Người đảng viên phải gương mẫu thực hiện phòng, chống lãng phí,

giữ gìn tác phong cần, kiệm, liên chính, thực hiện nghiêm Chỉ thị số 21-

70

CT/TW của Ban Bí thư về việc đẩy mạnh THTK, CLP, gương mẫu chấp hành

các quy định của Trung ương và địa phương về việc cưới, việc tang, lễ hội.

NĐĐ cũng phải chịu trách nhiệm về việc PCLP tại đơn vị mình phụ trách.

2.3.2.5. Thành ủy lãnh đạo thông qua công tác kiểm tra, giám sát

Thực tế đã khẳng định, công tác kiểm tra, giám sát không chỉ là chức

năng lãnh đạo của Đảng mà còn góp phần quan trọng, có hiệu quả nhất vào

cuộc đấu tranh PCLP ở nước ta hiện nay. Bởi vậy, thông qua công tác kiểm

tra, giám sát là PTLĐ rất quan trọng của Thành ủy Hà Nội trong lãnh đạo

công tác PCLP.

Công tác kiểm tra, giám sát có tác dụng rất quan trọng trong phòng,

chống lãng phí, bởi lẽ trong điều kiện Đảng cầm quyền, là lực lượng lãnh đạo

HTCT và toàn xã hội, hầu hết những người có chức, có quyền là đảng viên

đều chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng. Qua công tác kiểm tra, giám sát, đặc

biệt là kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm, kiểm tra tài chính đảng, giải quyết tố

cáo, khiếu nại… nhiều vụ việc lãng phí nổi cộm đã được giải quyết, ngăn

chặn được nhiều biểu hiện lãng phí, tiêu cực, tránh những hậu quả nghiêm

trọng, đồng thời cũng đóng góp rất lớn trong việc giáo dục, răn đe, phòng

ngừa lãng phí xảy ra.

Tiểu kết chƣơng 2

Công tác PCLP từ trước đến nay luôn được Đảng ta quan tâm, coi là

nhiệm vụ thường xuyên, cần thiết của mọi tổ chức đảng, mọi địa phương, đơn

vị. Trong giai đoạn hiện nay, đối với Việt Nam nói chung, Thành phố Hà Nội

nói riêng, để thực hiện “mục tiêu kép”, vừa phòng, chống dịch bệnh Covid

hiệu quả, vừa phát triển kinh tế - xã hội, việc thực hiện công tác PCLP nhằm

tiết kiệm và phát huy tối đa các nguồn lực lại càng trở nên cấp bách.

Để công tác PCLP được thực hiện thành công thì giải pháp quan trọng,

mang tính quyết định là phải tăng cường SLĐ của Thành ủy đối với công tác

PCLP. Thành ủy Hà Nội là cơ quan lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố Hà Nội

71

giữa hai kỳ Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố, có chức năng lãnh đạo mọi

mặt hoạt động của Đảng bộ Thành phố, trong đó có lãnh đạo công tác PCLP.

Thành ủy Hà Nội lãnh đạo công tác PCLP một cách toàn diện từ xác

định chủ trương, đường lối đến tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát và sơ

kết, tổng kết việc thực hiện công tác PCLP. Để thực hiện được những nội

dung đó, Thành ủy lãnh đạo thông qua các văn bản nghị quyết, chỉ thị, kế

hoạch…, qua công tác tuyên truyền, vận động, qua tổ chức đảng và đảng viên

và qua công tác kiểm tra, giám sát.

72

Chƣơng 3

THÀNH ỦY HÀ NỘI LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC PHÕNG, CHỐNG

LÃNG PHÍ – THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM

3.1. TÌNH HÌNH CÔNG TÁC PHÕNG, CHỐNG LÃNG PHÍ Ở HÀ NỘI GIAI

ĐOẠN 2013-2020

3.1.1. Những kết quả đạt đƣợc trong phòng, chống lãng phí

Công tác PCLP tại Hà Nội thời gian qua đã được các cấp ủy đảng quan

tâm lãnh đạo, chỉ đạo và đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Đã có sự

chuyển biến tích cực và rõ nét cả trong nhận thức và hành động của cán bộ,

đảng viên và nhân dân đối với cuộc chiến chống lãng phí, được dư luận đánh

giá cao. Tình trạng tham nhũng, lãng phí bước đầu được kiềm chế, góp phần

giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố niềm tin của

nhân dân với Đảng, Nhà nước.

Kết quả công tác PCLP trong một số lĩnh vực cụ thể như sau:

Một là, nhiều văn bản quy định về định mức, tiêu chuẩn, chế độ được

ban hành, các quy định của Nhà nước trên tất cả các khâu lập, thẩm định, phê

duyệt dự toán, quyết toán, quản lý, sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước được

thực hiện nghiêm túc

Trong những năm gần đây, Hà Nội đã thực hiện tốt PCLP trong quản lý,

sử dụng kinh phí nhà nước, đảm bảo phù hợp yêu cầu, mục đích, đối tượng,

định mức gắn với thực hiện nhiệm vụ được giao. Là cơ quan quản lý kinh phí

nhà nước, UBND Thành phố theo nhiệm kỳ và hàng năm đã xây dựng trong

Chương trình THTK, CLP xác định cụ thể mục tiêu, chỉ tiêu và yêu cầu

PCLP. Số liệu quyết toán ngân sách hàng năm đều được công khai theo quy

định của Luật Ngân sách Nhà nước và hướng dẫn của Bộ Tài chính; rà soát,

cơ cấu lại các khoản chi ngân sách nhà nước theo hướng tiết kiệm, hiệu quả,

rà soát lại các khoản chi thường xuyên về duy trì các dịch vụ công ích đô thị

để tiết giảm và bổ sung cho chi đầu tư phát triển.

73

Thành phố đã thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm tiết kiệm chi thường

xuyên, dành vốn cho đầu tư phát triển và nâng cao hiệu quả sử dụng ngân

sách nhà nước: sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, hiệu quả; rà soát quy trình,

quy định; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành;

rà soát tiết kiệm, giảm tối đa kinh phí tổ chức hội nghị, hội thảo, tọa đàm, đi

công tác nước ngoài, mua sắm trang thiết bị đắt tiền, các nhiệm vụ chưa thực

sự cấp bách; giảm chi tiếp khách, khánh tiết, tổ chức lễ hội, lễ kỷ niệm; sử

dụng hợp lý điện nước, văn phòng phẩm, sách, báo, tạp chí; không bố trí chi

đoàn ra trong chi thường xuyên các Chương trình mục tiêu Thành phố. Không

đề xuất, phê duyệt các đề tài nghiên cứu khoa học có nội dung trùng lặp,

không có tính khả thi. Thực hiện khoán kinh phí thực hiện nhiệm vụ khoa học

và công nghệ trên cơ sở định mức nghiên cứu khoa học, công nghệ và kết quả

đầu ra.

Trong giai đoạn 2016-2020, Thành phố đã tiết kiệm được 27.704 tỷ đồng

trong lập, thẩm định, phê duyệt dự toán, quyết toán, quản lý, sử dụng kinh phí

chi thường xuyên (trong định mức và ngoài định mức); 3.830 tỷ trong quản lý

vốn đầu tư xây dựng cơ bản và 1.923 tỷ trong quản lý, sử dụng vốn và tài sản

nhà nước tại doanh nghiệp. Theo đánh giá của Ban Chỉ đạo Chương trình 07-

CTr/TU, nhờ thực hiện nghiêm túc tất cả các đơn vị, ngay từ khâu giao dự

toán hàng năm, Thành phố đã đạt và vượt chỉ tiêu 10% tiết kiệm chi thường

xuyên đặt ra vào đầu nhiệm kỳ, riêng năm 2016, Thành phố đã thực hiện tiết

kiệm được tới 20% so với chỉ đạo của Chính phủ. Đồng thời, Thành phố cũng

về cơ bản đạt chỉ tiêu tiết kiệm 12% kinh phí chi hội nghị, hội thảo, tiếp

khách, khánh tiết, tổ chức lễ hội, lễ kỷ niệm…và 100% vốn đầu tư được phân

bổ tuân thủ đúng nguyên tắc [Xem Phụ lục 3]. Tính riêng năm 2019, tiết kiệm

chi ngân sách 2.587 tỷ đồng, đưa tổng số tiết kiệm chi thường xuyên từ tỷ lệ

58,8% vào năm 2015 xuống còn 50,4% (tổng số tiết kiệm trong 04 năm:

11.803 tỷ đồng) [Xem Phụ lục 3].

74

Hai là, Thành phố đã thực hiện nghiêm việc quản lý, mua sắm tài sản

công và quản lý xe công hiệu quả

Về quản lý, sử dụng tài sản công: các đơn vị trong Thành phố đã thực

hiện mua sắm, quản lý, sử dụng tài sản công theo đúng quy định của Nhà

nước, tăng cường công tác quản lý tài sản không còn nhu cầu sử dụng, thực

hiện điều chuyển tài sản từ nơi thừa sang nơi thiếu để nâng cao hiệu quả sử

dụng tài sản công. Thực hiện Quyết định số 08/2016/QĐ-TTg ngày

26/02/2016 của Thủ tướng Chính phủ quy định việc mua sắm tài sản nhà

nước theo phương thức tập trung; Thông tư số 34/2016/TT-BTC ngày

26/02/2016 của Bộ Tài chính hướng dẫn việc mua sắm tài sản nhà nước theo

phương thức tập trung. Thành phố đã tổ chức lại và giao nhiệm vụ này cho

Trung tâm mua sắm tài sản công và Thông tin tư vấn tài chính trực thuộc Sở

Tài chính, đồng thời ban hành Quyết định số 3525/QĐ-UBND ngày

27/06/2016 về danh mục tài sản nhà nước mua sắm theo phương thức tập

trung, Quyết định số 4711/QĐ-UBND ngày 29/8/2016 bổ sung thêm danh

mục dịch vụ. Thành phố Hà Nội là đơn vị đầu tiên trong cả nước triển khai

nhiệm vụ mua sắm tài sản nhà nước theo phương thức tập trung.

Nhiều văn bản quy định về quản lý, sử dụng tài sản công được ban hành

nhằm đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả, đúng tiêu chuẩn, định mức quy định của

Nhà nước và Thành phố như: Nghị quyết số 01/2018/NQ-HĐND ngày

05/7/2018 về phân cấp quản lý, sử dụng tài sản công thuộc phạm vi quản lý

của thành phố Hà Nội; Văn bản số 2267/UBND-KT ngày 24/5/2018 chỉ đạo

các Sở, ban, ngành, UBND các quận, huyện, thị xã xây dựng tiêu chuẩn, định

mức sử dụng tài sản công theo quy định…

Về mua sắm, trang bị, sửa chữa, quản lý, sử dụng phương tiện đi lại:

trước đây, một số đơn vị đã phát hiện công chức nhà nước sử dụng xe công đi

chơi, đi du lịch, đi lễ chùa trong giờ hành chính, hay dùng xe công đưa đón

người nhà, người thân của lãnh đạo, dùng xe công đi làm việc riêng, gây phản

75

cảm trong con mắt người dân. Giải quyết tình trạng này, tại Thành phố Hà

Nội đã thực hiện thí điểm khoán kinh phí sử dụng xe ô tô phục vụ công tác

chung khi đi công tác đối với chức danh lãnh đạo (từ ngày 01/3/2017) tại 08

cơ quan, đơn vị thuộc phạm vi quản lý của thành phố, gồm 4 sở: Tài chính,

Kế hoạch và Đầu tư, Giao thông vận tải, Lao động - Thương binh và Xã hội;

2 quận (Long Biên, Hà Đông); 2 huyện (Gia Lâm, Thanh Trì). Trên cơ sở báo

cáo của các cơ quan, đơn vị triển khai thí điểm khoán xe ô tô phục vụ công

tác chung, tổng chi phí tiết kiệm so với chi phí thực tế sử dụng cùng kỳ là

1.771 tỷ đồng, trung bình tiết kiệm 6,7 triệu đồng/xe/tháng. Trong năm 2018,

Thành phố cũng đã rà soát, lập phương án xử lý 176/491 xe ô tô phục vụ công

tác chung hết niên hạn sử dụng. [92, 93, 95, 96]

Ba là, Thành phố đã ban hành nhiều văn bản và thực hiện rà soát đồng

bộ trong đầu tư xây dựng, quản lý, sử dụng trụ sở làm việc, nhà ở công vụ và

công trình phúc lợi công cộng

Thành phố đã ban hành Chỉ thị số 04/CT-UBND, ngày 16/3/2017 về việc

tăng cường quản lý, nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản công; tiếp tục chỉ đạo

triển khai thực hiện Kế hoạch số 65/KH-UBND về đẩy nhanh tiến độ thực

hiện sắp xếp lại, xử lý nhà đất thuộc sở hữu nhà nước theo Quyết định số

09/2007/QĐ-TTg, ngày 19/01/2007 của Thủ tướng Chính phủ, phát hiện, xử

lý kịp thời những trường hợp sử dụng sai mục đích, cho thuê, cho mượn, để

trống không sử dụng hoặc sử dụng vượt tiêu chuẩn, định mức; nâng cao hiệu

quả sử dụng, khai thác nguồn lực từ tài sản công là nhà đất thuộc sở hữu nhà

nước; ban hành văn bản số 4754/UBND-KT, ngày 28/9/2017 về việc kê khai

đánh giá tài sản thuộc phạm vi quản lý của Thành phố.

Kết quả qua rà soát, sắp xếp Thành phố đã tiến hành xử phạt hành chính

3,9 tỷ đồng, thu hồi 25.140 m2 đất sử dụng sai mục đích, bỏ hoang hóa...

Riêng với Bảo tàng Hà Nội - một trong những công trình được đánh giá gây

lãng phí do hiệu quả sử dụng thấp sau 10 năm đi vào hoạt động, giai đoạn 2

76

của dự án đã được khởi động: đầu tư các hiện vật, đồ trưng bày, đồng thời đa

dạng hóa các hoạt động tại Bảo tàng. Đối với các dự án kéo dài, chậm tiến độ,

gây đội vốn, lãng phí tiền của trên địa bàn, Thành phố cũng đã ban hành nhiều

văn bản, chỉ thị rà soát, xử lý. Các văn bản được ban hành như văn bản số

934/UBND-KT, ngày 06/3/2017 công khai tình hình phê duyệt quyết toán dự

án đầu tư xây dựng hoàn thành năm 2016; tiếp tục chỉ đạo các cơ quan, đơn vị

lập, phê duyệt, triển khai thực hiện và quản lý dự án đầu tư đúng quy định,

đúng quy chế quản lý đầu tư, thực hiện đầu tư tập trung, không dàn trải; xác

định rõ trách nhiệm của mỗi cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân trong các khâu

của quá trình đầu tư; tăng cường công tác quyết toán vốn đầu tư, tất toán tài

khoản dự án và thu hồi công nợ phải trả ngân sách theo quy định; ban hành

văn bản số 4973/UBND-KHĐT, ngày 10/10/2017 về việc tăng cường công

tác giám sát, đánh giá đầu tư trên địa bàn Thành phố. Kết quả qua thẩm tra

quyết toán vốn đầu tư dự án hoàn thành 87 dự án với giá trị phê duyệt quyết

toán 4.918 triệu đồng, tiết kiệm 48.245 triệu đồng cho ngân sách Thành phố.

Bốn là, Thành phố đã đạt được nhiều kết quả quan trọng trong quản lý,

khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên

Thành phố đã đạt được nhiều kết quả quan trọng trong công tác quản lý,

khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên, công tác quản lý nhà nước về tài

nguyên môi trường được đẩy mạnh. Hệ thống chính sách, văn bản quy phạm

pháp luật cơ bản được hoàn thiện, điều chỉnh, bổ sung để tạo môi trường

thông thoáng, huy động nguồn lực cho đầu tư phát triển. Cải cách hành chính

và thủ tục hành chính đạt được kết quả bước đầu quan trọng, phục vụ tốt cho

người dân và doanh nghiệp trên các mặt: về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất;

về thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất;

về công tác đấu giá quyền sử dụng đất, thu nghĩa vụ tài chính từ đất; công tác

cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đặc biệt, công tác cấp giấy chứng

nhận sau dồn điền, đổi thửa đã được thực hiện quyết liệt và cơ bản đã hoàn

77

thành (đạt 99,8%).

Công tác quản lý tài nguyên nước, đất đai, khoáng sản ngày càng chặt

chẽ hơn, phát huy được hiệu quả, đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội của

Thủ đô. Thành phố đã tích cực triển khai thực hiện kế hoạch khắc phục các

hạn chế còn tồn tại, nâng cao hiệu quả công tác quản lý tài nguyên khoáng sản

trên địa bàn, tăng cường công tác quản lý hoạt động khoáng sản và bảo vệ

khoáng sản chưa khai thác trên địa bàn Thành phố.

UBND Thành phố đã ban hành nhiều văn bản như Quyết định số

43/2017/QĐ-UBND ngày 15/12/2017 sửa đổi, bổ sung Quyết định

40/2013/QĐ-UBND ngày 24/9/2013 Quy định về quản lý hoạt động khoáng

sản trên địa bàn Thành phố; Quyết định số 34/2017/QĐ-UBND ngày

16/10/2017 sửa đổi, bổ sung Quyết định số 44/2013/QĐ-UBND ngày

16/10/2013 Quy định đấu giá quyền khai thác khoáng sản trên địa bàn Thành

phố; Quyết định số 4140/QĐ-UBND ngày 07/7/2017 về việc công bố thủ tục

hành chính mới, sửa đổi, bổ sung trong lĩnh vực khoáng sản thuộc thẩm

quyền giải quyết của Sở Tài nguyên và Môi trường trên địa bàn Thành phố.

Thành phố cũng tăng cường công tác kiểm tra hoạt động khai thác khoáng

sản, hoạt động bãi chứa ven sông trên địa bàn Thành phố, yêu cầu thực hiện

nghiêm các quy định của pháp luật khoáng sản.

Công tác bảo vệ môi trường, công tác quản lý tài nguyên nước, công tác

khí tượng thủy văn và ứng phó biến đổi khí hậu cũng được thực hiện tốt, có

kế hoạch, đề án khắc phục các tồn tại, hạn chế, tổ chức triển khai thực hiện

các nhiệm vụ, giải pháp cấp bách. Công tác kiểm tra lĩnh vực này cũng được

tăng cường, đổi mới, giải quyết được các bức xúc của người dân và các điểm

nóng về môi trường. Nhờ vậy, Thành phố đã hạn chế được nhiều các vụ việc

lãng phí trong lĩnh vực môi trường, xử phạt nhiều vụ việc vi phạm hành chính

về đất đai, môi trường, tài nguyên nước.

Năm là, thực hiện nghiêm túc, đúng quy định việc sử dụng lao động và

78

thời gian lao động trong khu vực nhà nước

Hiện nay, Thành phố Hà Nội dẫn đầu cả nước trong giảm chi thường

xuyên nhờ các biện pháp, đặc biệt là tinh gọn tổ chức bộ máy. Các cấp ủy đã

dành nhiều công sức củng cố, sắp xếp, kiện toàn, hoàn thiện mô hình tổ chức,

bộ máy của cả HTCT, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến

đấu. Công tác sắp xếp tổ chức bộ máy của HTCT và tinh giản biên chế cơ cấu

lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo tinh thần Nghị quyết Trung

ương 6 khóa XII và Nghị quyết 39-NQ/Trung ương của Bộ Chính trị khóa XI

được triển khai thực hiện nghiêm túc, bài bản, khoa học với nhiều cách làm

đổi mới, sáng tạo, dân chủ. Các đảng ủy trực thuộc Thành ủy được sắp xếp,

củng cố, kiện toàn từ 59 đảng bộ đến nay còn 50 đảng bộ, kiện toàn 20 đơn vị

gồm các ban đảng Thành ủy, củng cố, chuyển giao, giải thế 215 tổ chức cơ sở

đảng trong doanh nghiệp. Thành ủy đã lãnh đạo sắp xếp, giảm 05/17 ban chỉ

đạo do Thành ủy thành lập, giảm 74/102 ban chỉ đạo do UBND Thành phố

thành lập; sắp xếp giảm 21/26 ban quản lý dự án, 121/401 đơn vị sự nghiệp

công lập thuộc UBND Thành phố, 45/204 đơn vị chuyên môn thuộc sở,

ngành, giảm 110/206 đơn vị sự nghiệp công lập cấp huyện, chỉ đạo triển khai

thực hiện kế hoạc đảm bảo tự chủ chi thường xuyên và phấn đấu nâng mức tự

chủ chi đâì tư đối với 257 đơn vị sự nghiệp công lập.[78]

Cơ bản đã hoàn thành rà soát, sắp xếp, kiện toàn toàn bộ các cơ quan,

đơn vị khối Đảng, nhà nước, MTTQ và các tổ chức CT-XH. Sau rà soát, ban

hành quy định chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và mối quan hệ công tác

13 đơn vị. Sau sắp xếp, giảm 13 đầu mối phòng, ban; 10 đơn vị sự nghiệp, 13

cán bộ cấp trưởng phòng, ban, 27 cán bộ cấp phó phòng, ban và tương đương,

giảm 04 đơn vị sự nghiệp trực thuộc các tổ chức CT-XH. Hoàn thành sắp xếp

lại tổ chức bộ máy, đổi mới cơ chế hoạt động của Ban Bảo vệ, chăm sóc sức

khỏe cán bộ Thành phố; mô hình Trường đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong; tổ

chức lại văn phòng cấp ủy để phục vụ chung các cơ quan tham mưu, giúp việc

79

Thành ủy. Hoàn thành công tác rà soát, sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy

khối cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội

ngũ cán bộ. Việc thực hiện sắp xếp, tinh gọn bộ máy được thực hiện khoa

học, đồng bộ, đảm bảo công khai, dân chủ, đúng quy trình. Thành phố đã bám

sát quan điểm chỉ đạo, nguyên tắc kế hoạch, khẩn trương nghiêm túc rà soát

hoàn thiện, bổ sung quy định chức năng nhiệm vụ, kiện toàn, sắp xếp tổ chức

bộ máy, thống nhất số lượng, cơ cấu các phòng, ban; số cán bộ cấp trưởng,

phó cơ quan đơn vị; trưởng phó các phòng, ban. Kiên quyết sắp xếp, hợp

nhất, giải thể những đơn vị sự nghiệp không hiệu quả kéo dài hoặc chồng

chéo về chức năng, nhiệm vụ; tổ chức lại các đơn vị theo hướng giảm chi

ngân sách, tăng dần tự chủ, tiến tới tự chủ hoàn toàn kinh phí.

Thành phố cũng thường xuyên thực hiện quản lý sử dụng lao động và

thời gian lao động trong các sở, ban, ngành, các quận, huyện, thị xã. UBND

Thành phố Hà Nội đã ban hành Chỉ thị số 14/CT-UBND về việc tăng cường

quản lý cán bộ, công chức, viên chức và người quản lý doanh nghiệp. Trong

đó, UBND Hà Nội vừa yêu cầu tập trung thanh tra công vụ để kịp thời phát

hiện và xử lý nghiêm các vi phạm về nghĩa vụ, đạo đức, văn hóa giao tiếp của

cán bộ, công chức, viên chức. Đặc biệt, phải chú ý các vi phạm về bảo đảm

thời gian làm việc, đi muộn về sớm, làm việc riêng trong giờ hành chính; vi

phạm quy định về THTK, CLP và các vi phạm khác trái với thuần phong mỹ

tục và quy định của pháp luật...[53]

Thành phố cũng yêu cầu đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin

trong hoạt động nghiệp vụ; đưa vào áp dụng các phần mềm dùng chung trong

công tác quản lý nhằm giám sát kết quả thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, công

chức và người lao động. Đảm bảo trang thiết bị, phương tiện và các điều kiện

làm việc phù hợp. Thực hiện nghiêm túc chế độ thông tin, báo cáo. Tăng

cường hội họp, giao ban bằng hình thức trực tuyến để tiết kiệm thời gian, chi

phí. Mô hình cơ quan điện tử được xây dựng, chất lượng các cuộc họp trực

80

tuyến được tăng lên. Việc giải quyết thủ tục hành chính công trực tuyến mức

độ 3, mức độ 4 được triển khai ở nhiều đơn vị, tổ chức góp phần thực hiện tốt

việc tiết kiệm, chống lãng phí.

Đồng thời, thành phố cũng đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức,

ý thức của mỗi cán bộ, công chức về tác phong, trách nhiệm trong THTK,

CLP. Chủ trương của Đảng, quy định pháp luật của Nhà nước về THTK, CLP

được phổ biến quán triệt đến các tổ chức, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và

cán bộ, công nhân viên chức, người lao động trên địa bàn Thành phố. Thành

phố đã tổ chức, phát động các phong trào nâng cao ý thức chung cho cán bộ,

công chức như cuộc thi Nét đẹp văn hóa công sở, lồng ghép các nội dung

trong phong trào thi đua hàng năm...

Sáu là, Thành phố vừa quản lý chặt chẽ vừa tạo phong trào tiết kiệm,

chống lãng phí trong sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng của nhân dân

Thành phố đã ban hành các chỉ thị về việc chỉ đạo các sở, ban ngành,

đoàn thể và UBND các quận, huyện thị xã phối hợp tổ chức các dịp lễ, tết vui

tươi, lành mạnh, an toàn, quản lý chặt chẽ việc tổ chức lễ hội trên địa bàn, xử

lý nghiêm các trường hợp vi phạm các quy định của Nhà nước và Thành phố

về quản lý lễ hội. Thường xuyên thực hiện công tác tuyên truyền, vận động

nhân dân thực hiện nếp sống văn minh và THTK, CLP trong việc cưới, việc

tang, việc lễ hội; tuyên truyền, vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống

văn hóa tại khu dân cư, triển khai thực hiện cuộc vận động người Việt Nam

ưu tiên dùng hàng Việt Nam.

Thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu

theo Quyết định số 158/2008/QĐ-TTg ngày 02/12/2008 của Thủ tướng Chính

phủ, UBND Thành phố đã ban hành các chỉ thị, kế hoạch về việc sử dụng điện

tiết kiệm và hiệu quả trên địa bàn Thành phố. Hàng năm, UBND Thành phố đều

ban hành kế hoạch về việc tham gia hưởng ứng chiến dịch Giờ Trái đất.

Những kết quả đạt được trong công tác PCLP tại Thành phố Hà Nội thời

81

gian qua xuất phát từ sự quyết tâm của toàn HTCT và nhân dân trong Thành phố

và nhờ sự chỉ đạo quyết liệt, thường xuyên của cấp ủy, chính quyền các cấp.

3.1.2. Hạn chế trong công tác phòng, chống lãng phí

Kết quả khảo sát trên địa bàn Thành phố Hà Nội cho thấy: Bên cạnh

những kết quả tốt mà công tác PCLP đã đạt được, ở thành phố Hà Nội, tình

hình lãng phí, cùng với các biểu hiện tham nhũng, tiêu cực vẫn còn tiềm ẩn

những diễn biến phức tạp trên nhiều lĩnh vực, nhất là lĩnh vực quản lý, sử

dụng đất đai, đầu tư xây dựng, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, quản lý,

sử dụng vốn, tài sản nhà nước...

Khi được hỏi về đánh giá việc thực hiện công tác PCLP tại cơ quan, địa

phương, đơn vị nơi công tác/sinh sống, theo mức độ đánh giá của 1048 người

được hỏi, có thể phân loại các hoạt động được đánh giá thành 03 nhóm:

Nhóm được đánh giá cao bao gồm các hoạt động: Tuyên truyền, phổ

biến về PCLP, Quản lý, kiểm tra, giám sát chất lượng và đảm bảo hiệu quả

công việc của công chức, người lao động, Quản lý, sử dụng thời gian lao

động, Sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, Quản lý và sử dụng trụ sở

làm việc, nhà ở công vụ, Quản lý, mua sắm và sử dụng phương tiện, thiết bị

làm việc của cơ quan (tỷ lệ người được hỏi đánh giá ở mức độ Tốt và Rất tốt

các hoạt động này đều trên 70%), đặc biệt được đánh giá cao nhất là Ban hành

và thực hiện quy chế, quy định, định mức về chi tiêu nội bộ (tỷ lệ người được

hỏi đánh giá ở mức độ Tốt và Rất tốt là 93.9%, 6.1% đánh giá ở mức độ Bình

thường, không có ai đánh giá Không tốt).

Nhóm được đánh giá Bình thường bao gồm các hoạt động: Tạo dư luận

xã hội, phong trào tiết kiệm, chống lãng phí; Quản lý, sử dụng vốn đầu tư xây

dựng; Quản lý, sử dụng công trình phúc lợi công cộng với tỷ lệ người được

hỏi đánh giá ở mức độ Tốt và Rất tốt lần lượt là 58%, 48,8% và 45.1%.

Nhóm được đánh giá Chưa tốt bao gồm các hoạt động: Quản lý, khai

thác, sử dụng tài nguyên; Rà soát, sắp xếp các dự án; Kiểm tra, thanh tra việc

82

thực hiện các dự án, tiến độ, chất lượng công trình; THTK, CLP trong doanh

nghiệp sử dụng vốn nhà nước; Bảo vệ tài nguyên, môi trường; Minh bạch

thông tin hoạt động của doanh nghiệp nhà nước với tỷ lệ người được hỏi đánh

giá ở mức độ Không tốt và Khó đánh giá lần lượt là 17.5%, 16,9%, 16%,

16%, 14.4% và 13%. [Chi tiết xem Phụ lục 6]

Hình 3.1. Đánh giá việc thực hiện công tác PCLP tại cơ quan, địa

phương nơi công tác/sinh sống

Trên cơ sở kết quả khảo sát, tổng hợp các báo cáo của các cơ quan, tổ

chức có thẩm quyền cũng như các thông tin thực tiễn công tác PCLP được

phản ảnh trên báo đài, các phương tiện truyền thông đại chúng, có thể chỉ ra

một số hạn chế cơ bản trong công tác PCLP ở Thành phố Hà Nội bao gồm:

83

Một là, vẫn còn vi phạm trong quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước cho

mua sắm, quản lý, sử dụng phương tiện đi lại, phương tiện làm việc của cơ

quan, tổ chức trong khu vực nhà nước, quản lý trụ sở, công trình công cộng

Tuy thuộc nhóm được đánh giá Cao và Bình thường, song hệ thống định

mức kinh tế, kỹ thuật và tiêu chuẩn trong việc sử dụng kinh phí ngân sách nhà

nước, vốn nhà nước và tài sản nhà nước được các cơ quan có thầm quyền

nhận định: tuy đã được cập nhật, sửa đổi, bổ sung khá thường xuyên tuy nhiên

vẫn có một số nội dung chưa sát với thực tế, dẫn đến ý thức chấp hành còn

hạn chế, thực hiện chưa nghiêm, gây lãng phí vốn và tài sản nhà nước trong

nhiều lĩnh vực. Việc sử dụng ngân sách nhà nước, tài sản công vẫn còn tình

trạng vi phạm tiêu chuẩn; định mức; bố trí vốn đầu tư các công trình, dự án sử

dụng tiền, tài sản của nhà nước dàn trải, thực hiện chậm tiến độ.

Trong thời gian từ năm 2013 đến nay, đã có nhiều vụ việc gây lãng phí tài

sản công trong lĩnh vực đất đai, tài sản nhà nước được báo chí phản ánh, có thể

kể đến như các công trình bị bỏ hoang, sử dụng không hiệu quả hoặc sử dụng sai

mục đích, như công viên Hòa Bình với tổng mức đầu tư lên tới 282 tỷ đồng lâm

vào tình trạng “ế khách” thường xuyên [90]. Công trình hệ thống cấp nước sạch

xã Thượng Cát (nay là phường Thượng Cát) được triển khai xây dựng năm 2009

với số vốn ban đầu lên đến 29 tỷ đồng không được vận hành, bị “bỏ hoang” do

thiếu nguồn nước thô cấp cho trạm để vận hành, xử lý.

Không chỉ các công trình “nghìn tỷ”, các công trình ở một số phường,

cụm dân cư như nhà văn hóa, nhà sinh hoạt cộng đồng cũng có tình trạng bị

bỏ hoang, “vỏ có, ruột không”, cửa đóng then cài hoặc sử dụng sai mục đích

trong khi người dân vẫn thiếu những địa điểm sinh hoạt cộng đồng [64]. Một

số dự án có “tuổi thọ” còn rất non trẻ nhưng vẫn phải “khai tử” để dự án khác

chồng lên như việc di dời hai cây cầu vượt cho người đi bộ trên đường

Nguyễn Chí Thanh và Trần Khát Chân để nhường chỗ cho cầu vượt dành cho

xe cơ giới [85] …

84

Hai là, một số công trình, dự án chậm tiến độ, đội vốn trên địa bàn gây

bức xúc trong nhân dân Thủ đô, khai thác tài nguyên thiên nhiên trên địa bàn

còn biểu hiện lãng phí, nhất là tài nguyên đất

Một số công trình, dự án kéo dài do chậm tiến độ, đội vốn trên địa bàn

Hà Nội mặc dù không hoàn toàn do Thành phố Hà Nội chịu trách nhiệm, song

cũng gây bức xúc trong nhân dân Thủ đô như Dự án đường sắt cao tốc đô thị

các tuyến Cát Linh - Hà Đông; Nhổn - Ga Hà Nội thi công chậm chạp so với

mục tiêu ban đầu, chi phí xây dựng đội lên cao so với dự toán, gây lãng phí

lớn tiền, tài sản nhà nước; Dự án Trung tâm giao dịch công nghệ thường

xuyên Hà Nội - Khu liên cơ Võ Chí Công, vị trí tại Khu X2, phường Xuân La,

quận Tây Hồ… Lãnh đạo Ban quản lý dự án khẳng định quá trình làm dự án

đã để xảy ra sơ suất từ đơn vị thiết kế, đơn vị thẩm tra...phải khắc phục sự cố,

chậm tiến độ [84].

Tài nguyên đất bị lãng phí là một trong những vấn đề nổi cộm: ở giữa

Thủ đô, một số lô đất vàng bị bỏ quên trong khi người dân thì thiếu đất ở,

sống chen chúc trong nhiều khu tập thể. Báo chí đã chỉ ra nhiều địa chỉ như: lô đất vàng của "Bầu Hiển" rộng 2.200 m2 có tới 3 mặt tiền tại phố Lý

Thường Kiệt, Hàng Bài và Vọng Đức, cách hồ Hoàn Kiếm chỉ khoảng 200 m; lô đất rộng hơn 4.000 m2 tại ngã tư Hàng Bài - Hai Bà Trưng chỉ cách hồ

Hoàn Kiếm khoảng 100 m, đối diện Trung tâm thương mại Tràng Tiền Plaza; lô đất rộng tới 8.000 m2 có tới 3 mặt tiền: Lò Đúc - Nguyễn Công Trứ - Ngô

Thì Nhậm; Nam Đàn Plaza và Lotus Hotel (quận Nam Từ Liêm), Tháp Thiên

Niên Kỷ (quận Hà Đông), dự án 131 Thái Hà, dự án Twin Tower (đường

Láng); căn nhà khách của tỉnh ủy Lai Châu trên đường Phan Bội Châu - Quận

Hoàn Kiếm đã bị bỏ không nhiều năm, ngày càng xuống cấp, xập xệ và có

nguy cơ đổ sập bất cứ lúc nào…)…[18]. Những lô đất này không chỉ tạo ra sự

lãng phí khổng lồ mà còn gây mất mỹ quan đô thị, thậm chí gây mất an toàn,

ảnh hưởng đến các công trình, dự án xung quanh.

85

Việc bảo vệ tài nguyên, môi trường cũng là vấn đề nóng của Thủ đô hiện

nay. Hà Nội hiện “ô nhiễm về mọi mặt”, từ ô nhiễm nước, ô nhiễm đất đến ô

nhiễm từ các chất thải rắn và đặc biệt là ô nhiễm không khí, ảnh hưởng

nghiêm trọng đến các hoạt động đời sống xã hội, đặc biệt là sức khỏe con

người [68].

Ba là, việc thực hiện các giải pháp PCLP tại nhiều cơ quan, tổ chức, đơn

vị còn hình thức

Nhiều báo cáo đánh giá công tác PCLP ở một số cấp ủy đảng chưa được

nhận thức đầy đủ và coi trọng xứng tầm. Tình trạng “tham nhũng vặt”, nhũng

nhiễu, tiêu cực trong khu vực hành chính, dịch vụ công, gây lãng phí thời gian

và tiền bạc của người dân, doanh nghiệp sẽ tiếp tục là vấn đề phức tạp cần tập

trung giải quyết.

Tính hình thức trong việc thực hiện tại nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị có

thể hiện ở kết quả khảo sát, cụ thể là: Khi được hỏi về 04 văn bản chỉ đạo công

tác PCLP ở Thành phố Hà Nội được triển khai đến chi bộ, thì vẫn còn nhiều

người được hỏi chưa biết đến các văn bản này, có đến gần 20% người được hỏi

chưa biết đến các văn bản: Chương trình số 07-CT/TU, ngày 26/4/2016 của

Thành uỷ về "Nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, thực hành

tiết kiệm, chống lãng phí giai đoạn 2016-2020", Kế hoạch của cấp ủy thực hiện

Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về “tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với

công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí" và Kế hoạch của cấp ủy thực hiện

Kết luận số 10-KL/TW, ngày 26/12/2016 của Bộ Chính trị "Về việc tiếp tục thực

hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khoá X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối

với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí". Khi được hỏi về số lượng các

cuộc kiểm tra, giám sát việc THTK, CLP trong xây dựng và thực hiện kế hoạch

kiểm tra, giám sát tại chi bộ, đảng bộ, có một số chi bộ, đảng bộ trong 02 nhiệm

kỳ không có cuộc nào, hoặc có thể có thực hiện song người được hỏi không biết,

hoặc chưa quan tâm đến vấn đề này. [Chi tiết xem Phụ lục 6]

86

Trước tình hình hiện nay, những hạn chế còn tồn tại trong PCLP tại Hà

Nội đặt ra những yêu cầu bức thiết đối với cấp ủy địa phương, mà đứng đầu là

Thành ủy Hà Nội trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác này.

3.2. THỰC TRẠNG THÀNH ỦY HÀ NỘI LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC PHÕNG,

CHỐNG LÃNG PHÍ – KẾT QUẢ, NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM

3.2.1. Kết quả lãnh đạo công tác phòng, chống lãng phí của Thành

ủy Hà Nội

3.2.1.1. Những ưu điểm

* Về nội dung lãnh đạo

Thành ủy Hà Nội đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác PCLP trên địa

bàn một cách bài bản, khoa học, quyết liệt trên tất cả các nội dung:

Một là, Thành ủy Hà Nội đã lãnh đạo, chỉ đạo, xác định rõ các chủ

trương, mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp thực hiện công tác

PCLP trên địa bàn Thành phố

Từ năm 2013 đến nay, công tác PCLP luôn được Thành ủy Hà Nội xác

định là nhiệm vụ trọng tâm và thường xuyên, đồng thời tập trung chỉ đạo các

cấp, các ngành triển khai thực hiện, chú trọng vào các giải pháp phòng ngừa,

đẩy mạnh cải cách hành chính và phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong

phát hiện, xử lý lãng phí và đạt được nhiều kết quả tích cực. Thành ủy đã chú

trọng việc tổng kết thực tiễn, lựa chọn, chuẩn bị ban hành các chủ trương sát

đúng với tình hình gắn chặt với điều kiện thực hiện. Các chủ trương, mục

tiêu, phương hướng nhiệm vụ giải pháp thực hiện công tác PCLP trên địa bàn

Thành phố Hà Nội được xác định không chỉ từ chủ trương nghị quyết mà chú

trọng xây dựng chương trình hành động, thành lập Ban chỉ đạo Chương trình

số 07-Ctr/TU, với quyền hạn, trách nhiệm cụ thể và chịu trách nhiệm trước

Thành ủy, Ban Thường vụ Thành ủy.

Thành ủy Hà Nội đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng các định

hướng về PCLP, trên cơ sở các phương hướng, giải pháp trong Nghị quyết

87

Đại hội Đảng bộ Thành phố Hà Nội về phát triển kinh tế -xã hội, PCTN, LP,

chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, các

biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng bộ và các nghị

quyết của Đảng về PCTN, LP.

Thành ủy thành lập Ban Chỉ đạo Chương trình 07-CTr/TU về Nâng cao

hiệu quả công tác PCTN; THTK, CLP giai đoạn 2016-2020, Hà Nội để thực

hiện các nội dung nâng cao hiệu quả công tác PCTN; THTK, CLP. Đồng thời,

Thành ủy dựa trên cơ sở thực tế ở Thành phố Hà Nội, định hướng Ban Chỉ

đạo xác định nhiệm vụ trọng tâm và chương trình hành động hàng năm. Nhờ

đó, Ban Chỉ đạo Chương trình 07-CTr/TU đã thực hiện rất tốt các nhiệm vụ

của mình cũng như thể hiện được vai trò chỉ đạo đối với các cơ quan, đơn vị,

có tính quyết định đến thành công trong thực hiện các chuyên đề của Chương

trình 07-Ctr/TU.

Hai là, Thành ủy đã lãnh đạo chính quyền, MTTQ các tổ chức CT-XH

cụ thể hóa chủ trương của Thành ủy thành chương trình, kế hoạch công tác và

tổ chức thực hiện đồng bộ và toàn diện

Hàng năm, căn cứ Chương trình, kế hoạch công tác của Thành ủy, Ban

Chỉ đạo Chương trình 07-Ctr/TU, UBND Thành phố đã ban hành các kế

hoạch, chương trình để thực hiện trên toàn Thành phố [94], chỉ đạo các sở,

ngành, quận, huyện, thị xã tập trung triển khai thực hiện đồng bộ các giải

pháp PCLP và kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm các hành vi lãng phí, tiêu cực.

UBND Thành phố cũng đã ban hành đầy đủ, kịp thời các văn bản quy phạm

pháp luật về tiêu chuẩn, định mức, chế độ quản lý chuyên ngành thuộc thẩm

quyền, trách nhiệm của Thành phố theo quy định của Luật THTK, CLP và

yêu cầu của cấp có thẩm quyền trong các lĩnh vực như: Quản lý tài chính -

ngân sách, quản lý; sử dụng tài sản nhà nước; quản lý giá, phí, lệ phí trên địa

bàn; huy động, quản lý nguồn vốn thuộc chương trình xây dựng nông thôn

mới… làm cơ sở cho việc quản lý, sử dụng, chi tiêu ngân sách của các cơ

88

quan, tổ chức thuộc Thành phố và thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí [Chi tiết

xem Phụ lục 2]

UBND Thành phố giao Sở Tài chính hướng dẫn các cơ quan, tổ chức sử

dụng ngân sách nhà nước xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ, quy chế quản lý, sử

dụng tài sản công, quy định chế độ hội nghị, hội thảo, tiếp khách, công tác phí;

quy định về quản lý, sử dụng xe ô tô đảm bảo công khai, minh bạch, đúng mục

đích, tiêu chuẩn, chế độ, đạt hiệu quả và mục tiêu tiết kiệm đã đề ra.

Để thực hiện tốt công tác phòng ngừa, phát hiện hành vi lãng phí, Ủy ban

MTTQ Việt Nam Thành phố Hà Nội đã chủ động phối hợp với chính quyền

Thành phố tập trung hướng dẫn chỉ đạo thực hiện “Năm kỷ cương hành

chính”; đẩy mạnh công tác giám sát, phản biện xã hội, phối hợp với Đoàn đại

biểu Quốc hội Thành phố Hà Nội, HĐND Thành phố, Ban Dân vận Thành ủy

tham gia giám sát việc thực hiện các chính sách pháp luật của Trung ương và

Thành phố, nhất là cải cách thủ tục hành chính, giải quyết khiếu nại, tố cáo

thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn.

Thành ủy lãnh đạo các cơ quan, đơn vị chủ động làm tốt công tác phòng

ngừa như: thực hiện các quy định về công khai, minh bạch trong hoạt động

các cơ quan được đẩy mạnh; rà soát luân chuyển cán bộ…

Ba là, Thành ủy đã tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và lãnh đạo

phát huy vai trò của MTTQ và các tổ chức CT-XH tham gia giám sát và phản

biện xã hội, góp phần phòng ngừa và phát hiện lãng phí

Việc kiểm tra, giám sát đôn đốc thực hiện công tác PCLP, thanh tra, giải

quyết khiếu nại, tố cáo được tăng cường, nhất là giải quyết những vướng mắc,

tồn đọng từ nhiều năm được tập trung chỉ đạo giải quyết như: rà soát số kết

luận được thực hiện sau thanh tra tồn đọng từ 2011 đến 2016; rà soát các vụ

việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, đông người cần tập trung theo dõi, kiểm tra,

đôn đốc giải quyết.

Thành ủy lãnh đạo tổ chức đảng các cấp chủ động xây dựng các kế

89

hoạch tăng cường kiểm tra, đôn đốc, xử lý những lĩnh vực dễ xảy ra lãng phí

như công tác quản lý đất đai, trật tự xây dựng, tài chính… thể hiện ở các văn

bản như: Quyết định số 30-QĐ/BCĐ ngày 06/3/2018 thành lập Đoàn khảo sát

của Ban Chỉ đạo Chương trình 07-CTr/TU; Kế hoạch số 36-KH/BCĐ và

Quyết định số 37-QĐ/BCĐ ngày 30/5/2018 về kiểm tra THTK, CLP trong

quản lý đầu tư một số dự án, công trình trọng điểm của Thành phố; Báo cáo

số 244-BC/TU ngày 02/01/2018 về kết quả kiểm tra, rà soát các cuộc thanh

tra về kinh tế- xã hội và kiến nghị của kiểm toán Nhà nước năm 2016 đến

tháng 11 năm 2017… Kế hoạch công tác kiểm tra, giám sát các năm được

Thành ủy ban hành gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của Thành

phố. Các cuộc thanh tra, kiểm tra đã thực hiện đều có nội dung kiểm tra tập

trung vào các lĩnh vực dễ xảy ra lãng phí, tiêu cực. Tính riêng năm 2017, Ủy

ban kiểm tra các cấp trong Đảng bộ Thành phố đã kiểm tra khi có dấu hiệu vi

phạm đối với 119 tổ chức đảng và 381 đảng viên, đã có 312 cuộc thanh tra,

kết luận 212 cuộc, qua đã phát hiện vi phạm 35,8 tỷ đồng và 18,58 ha đất, kiến nghị thu hồi 32,8 tỷ đồng và 17.695 m2 đất; kiểm điểm trách nhiệm, rút

kinh nghiệm với 57 tập thể và 116 cá nhân thiếu trách nhiệm, buông lỏng

công tác quản lý dẫn đến vi phạm [4].

Ủy ban MTTQ Việt Nam Thành phố Hà Nội đã ban hành kế hoạch,

hướng dẫn tiếp tục triển khai thực hiện Quy định số 217-QĐ/TW ngày 12

tháng 12 năm 2013 của Bộ Chính trị ban hành “Quy chế giám sát và phản

biện xã hội của MTTQ Việt Nam và các đoàn thể CT-XH” và Quy định số

218-QĐ/TW ngày 12 tháng 12 năm 2013 của Bộ Chính trị “về MTTQ Việt

Nam, các đoàn thể CT-XH và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây

dựng chính quyền”.

Thành ủy đã ban hành và triển khai Quyết định 2200-QĐ/TU ngày

25/5/2017 về Quy chế tiếp xúc, đối thoại giữa NĐĐ cấp ủy, chính quyền các

cấp với MTTQ, các tổ chức CT-XH và nhân dân trên địa bàn Thành phố Hà

90

Nội nhằm phát huy vai trò, trách nhiệm trong công tác PCLP.

Những năm qua, Ủy ban MTTQ Việt Nam Thành phố Hà Nội phối hợp

với Đoàn đại biểu Quốc hội Hà Nội, Thường trực HĐND, các ban HĐND

Thành phố giám sát và nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố

cáo; giám sát về kết quả triển khai Quy hoạch mạng lưới các điểm đỗ xe, bãi

đỗ xe công cộng; giám sát đối với một số quận, huyện và Sở Tài nguyên và

Môi trường trong công tác quản lý đất đai…; phản biện xã hội 05 vấn đề mà

UBND Thành phố trình HĐND Thành phố tại các kỳ họp. Hướng dẫn MTTQ

các quận, huyện, thị xã chỉ đạo MTTQ xã, phường, thị trấn đẩy mạnh hoạt

động giám sát của Ban Thanh tra nhân dân và Ban Giám sát đầu tư cộng đồng

ở các cơ sở. Kết quả tính riêng năm 2017 đã tổ chức giám sát được 17.462

cuộc, phát hiện 2460 vụ vi phạm, chuyển đề xuất, kiến nghị 2.356 vụ cho các

cơ quan có thẩm quyền, giải quyết, kiến nghị thu hồi về cho Nhà nước 11.132 m2 đất [97].

Bốn là, Thành ủy đã lãnh đạo xử lý một số vụ việc, hành vi lãng phí hoặc

có biểu hiện lãng phí

Trong nhiệm kỳ 2015-2020, Thành ủy đã lãnh đạo rà soát, kiểm tra và xử

lý các vụ việc, hành vi lãng phí hoặc có biểu hiện lãng phí, xem xét ý kiến tham

mưu của Ban Chỉ đạo Chương trình 07-CTr/Tu và và kiến nghị của kiểm toán

nhà nước, tiến hành chỉ đạo, kiểm tra, xử lý việc THTK, CLP trong quản lý đầu

tư một số dự án trọng điểm của Thành phố như: dự án “Cải thiện hệ thống tiêu

nước khu vực phía Tây thành phố Hà Nội (Trạm bơm tiêu Yên Nghĩa) – Giai

đoạn I…[33]. Thành ủy chỉ đạo Ban Chỉ đạo cũng thành lập các đoàn kiểm tra

theo Kế hoạch số 36-KH/BCĐ và Quyết định số 37-QĐ/BCĐ ngày 30/5/2017

về việc THTK, CLP trong đầu tư một số công trình, dự án trọng điểm của

Thành phố, tiến hành kiểm tra nhiều dự án Dự án Công viên hồ điều hòa Nhân

Chính, Thanh Xuân; Dự án đường vành đai 3,5; Dự án đầu tư trang thiết bị

PCCC, cứu nạn cứu hộ cho 10 Phòng Cảnh sát Phòng cháy chữa cháy hiện có;

91

Dự án Xây dựng cầu vượt [7]; dự án “Xây dựng Trung tâm nghiên cứu chuyển

giao công nghệ và giám định công nghệ Hòa Lạc”[34].

Qua kiểm tra, thanh tra cho thấy, cấp ủy, chính quyền các đơn vị đều xác

định việc PCLP là nhiệm vụ quan trọng, đã quan tâm phổ biến và triển khai

công tác một cách chủ động, đã phát hiện nhiều vấn đề, hạn chế trong công

tác PCLP như tình trạng lãng phí, thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản vẫn

còn xảy ra ở nhiều khâu của quá trình đầu tư; nhiều lĩnh vực trong một số dự

án còn chậm, thực hiện không triệt để dẫn đến tình trạng thi công chậm tiến

độ còn phổ biến, chậm được khắc phục…[7]. Đối với một số dự án, đã kết

luận một số yêu cầu của Đoàn kiểm tra về việc giảm trừ cấp phát thanh toán

đối với giá trị khối lượng hoàn thành, giảm giá giá trị dự toán,… tiết kiệm

được hàng tỷ đồng cho ngân sách [7]. Việc trực tiếp chỉ ra những hạn chế,

những kết quả, kết luận kiểm tra cụ thể đã có tác dụng rất tốt trong giáo dục,

phòng ngừa sai phạm; tạo sự đồng tình, ủng hộ, tin tưởng của nhân dân.

Năm là, Thành ủy đã tăng cường sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm công

tác PCLP

Công tác sơ kết, tổng kết và rút kinh nghiệm được Thành ủy lãnh đạo

đưa vào kế hoạch, chương trình làm việc của cấp ủy đảng các cấp trong

Thành phố, các cơ quan, đơn vị trong toàn HTCT và thực hiện thường xuyên

qua các năm và các kỳ. Ban Chỉ đạo Chương trình 07-CTr/TU tổng hợp và

báo cáo Thành ủy về các mặt công tác PCLP định kỳ 6 tháng, một năm, giữa

nhiệm kỳ và nhiệm kỳ [5, 6, 8].

* Về phương thức lãnh đạo

Phương thức lãnh đạo của Thành ủy và các cấp ủy đảng nói chung,

PTLĐ của Thành ủy và các cấp ủy đảng đối với công tác PCLP nói riêng

được đổi mới.

Một là, Thành ủy chú trọng lãnh đạo công tác PCLP bằng việc ban hành

các văn bản nghị quyết, chỉ thị, chương trình, kế hoạch… về PCLP

92

Trong các hội nghị, các nội dung bàn bạc được thảo luận dân chủ, thẳng

thắn, tập trung, thể hiện được trách nhiệm và trí tuệ của tập thể; các vấn đề

được kết luận rõ ràng và văn bản hóa kịp thời các nội dung quan trọng để chỉ

đạo triển khai thực hiện. Các văn bản được xây dựng, ban hành và triển khai

thực hiện một các bài bản, khoa học và quyết liệt, thể hiện ở các văn bản lãnh

đạo, chỉ đạo chuyên đề về PCLP nói riêng, PCTN, LP nói chung như: Kế

hoạch số 43-KH/TU ngày 28/4/2017 thực hiện Kết luận số 10-KL/TW ngày

26/12/2016 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung

ương 3, khóa X về tăng cường SLĐ của Đảng đối với công tác PCTN, LP; Kế

hoạch số 17-KH/BCĐ ngày 20/4/2017 của Ban Chỉ đạo Chương trình số 07-

Ctr/TU về thông tin, tuyên truyền về công tác PCTN, THTK, CLP giai đoạn

2016-2020; Kế hoạch số 54-KH/TU ngày 24/7/2017 và Quyết định số 2372-

QĐ/TU ngày 24/7/2017 về việc kiểm tra, giám sát việc thanh tra vụ việc; khởi

tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng, lãng phí;… [Xem thêm tại

Phụ lục 1]

Bên cạnh những văn bản chuyên đề đi thẳng vào vấn đề PCLP, Thành ủy

cũng tích cực gắn công tác PCLP với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4

khóa XII về tăng cường xây dựng chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy

thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến",

"tự chuyển hóa" trong nội bộ, thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị

khóa XII về học tập làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”,

lồng ghép nội dung PCLP trong nhiều hội nghị, hội thảo tổng kết, sơ kết việc

thực hiện nhiệm vụ của Thành ủy.

Để tránh chồng chéo, phân định rõ trách nhiệm của từng chủ thể trong

lãnh đạo, Quy chế làm việc được Thành ủy, Ban Thường vụ Thành ủy chủ

động quán triệt và gương mẫu thực hiện nghiêm túc trong cả quá trình thực

hiện các nhiệm vụ chính trị. Thành ủy đã chủ động rà soát, sửa đổi, bổ sung

quy chế làm việc, đảm bảo phù hợp với các quy định mới của Trung ương và

93

phù hợp tình hình thực tiễn của Thành phố. Thành ủy cũng hỉ đạo ban hành

các quy chế, quy định đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ thực hiện từ Thành

phố đến cơ sở. Chương trình hành động, chương trình công tác toàn khóa, kế

hoạch thực hiện nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp được xây dựng và triển

khai, đảm bảo thiết thực, hiệu quả. Chương trình 07-CT/TU của Thành ủy

(khóa XVI) về “Nâng cao hiệu quả công tác PCTN, thực hành tiết kiệm,

chống lãng phí giai đoạn 2016-2020” là một trong 08 chương trình công tác

lớn toàn khóa mà Thành ủy đã lựa chọn trong nhiệm kỳ với các nhiệm vụ,

giải pháp có tính đột phá, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong công tác xây dựng

Đảng, xây dựng HTCT của Thành phố.

Hai là, Thành ủy đã thường xuyên lãnh đạo công tác PCLP bằng công tác

tuyên truyền, thuyết phục, vận động, giáo dục, tạo được sự thống nhất chung về

nhận thức của HTCT và nhân dân Thủ đô về vai trò của công tác PCLP

Công tác tuyên truyền, giáo dục trong lãnh đạo công tác PCLP được chú

trọng thực hiện, được Cấp ủy, chính quyền từ Thành phố đến cơ sở coi trọng,

xác định là nhiệm vụ thường xuyên của mỗi cơ quan, đơn vị, tổ chức, địa

phương. Trong nhiệm kỳ 2016-2020, đã tổ chức 1221 lớp, hội nghị với

khoảng 210 nghìn lượt người tham gia [78, tr. 19]. Việc thực hiện công tác

tuyên truyền được Thành ủy lãnh đạo thực hiện một cách chủ động và tích

cực, lan tỏa đến tất cả các cấp ủy trực thuộc, các quận, huyện, thị ủy, sở, ban,

ngành, cơ quan công an, Viện kiểm sát, Tòa án nhân dân Thành phố. Hoạt

động tuyên truyền với đa dạng các hình thức, có trọng tâm, trọng điểm, phù

hợp với từng nhóm đối tượng, địa bàn đã giúp nâng cao nhận thức chung của

cán bộ, đảng viên và nhân dân về công tác PCLP, từ đó tạo hiệu quả đáng kể

trong việc lãnh đạo công tác PCLP của Thành ủy Hà Nội.

Công tác tuyên truyền, vận động, phổ biến, giáo dục pháp luật về PCLP

được Thành ủy xác định là một trong những nhiệm vụ thường xuyên. Nhiều

văn bản về tuyên truyền, vận động, phổ biến, giáo dục nội dung này đã được

94

ban hành thực hiện trên địa bàn Thành phố Hà Nội như Kế hoạch số 17-

KH/BCĐ ngày 20/4/2017 của Ban Chỉ đạo Chương trình 07-CTr/TU về thông

tin, tuyên truyền về công tác PCTN, LP, THTK, CLP giai đoạn 2016-2020;

Kế hoạch số 237/KH-UBND ngày 27/12/2016 của UBND Thành phố về phổ

biến giáo dục pháp luật trên địa bàn Thành phố năm 2017. Thành ủy cũng chỉ

đạo các cơ quan chuyên môn, thành viên Ban Chỉ đạo Chương trình ban hành

các văn bản hướng dẫn công tác tuyên truyền như Hướng dẫn số 33-HD/BTG

ngày 17/3/2017 của Ban Tuyên giáo Thành ủy hướng dẫn công tác tuyên

truyền về PCTN, LP năm 2017; xây dựng các chuyên đề thực hiện tuyên

truyền về PCLP như Chuyên đề “Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền

trên phương tiện thông tin đại chúng về lĩnh vực PCTN, THTK, CLP” do Ban

Tuyên giáo Thành ủy chủ trì, chuyên đề “Đẩy mạnh công tác giáo dục PCTN,

THTK, CLP vào các trường học và cơ sở giáo dục trên địa bàn Thành phố Hà

Nội” do Sở Tư pháp chủ trì….

Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về pháp luật nói chung và

pháp luật về PCLP nói riêng được tăng cường thực hiện với nhiều hình thức

đa dạng, phong phú như giảng dạy trong các cơ sở giáo dục, đào tạo, thông

qua các hội nghị, các kệnh thông tin báo chí, phát thanh – truyền hình,

internet… nhất là các cơ quan báo chí có vai trò, tác dụng rất lớn trong định

hướng dư luận và nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về

công tác PCLP.

Thành ủy đã lãnh đạo cấp ủy, chính quyền các đơn vị tuyên truyền, phổ

biến quán triệt các văn bản về chủ trương của Đảng, pháp luật về PCLP như tổ

chức nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết Trung ương 3 khóa X, Nghị quyết Trung

ương 5 khóa XI, Luật THTK, CLP và các Luật có liên quan như Luật Đầu tư

công, Luật Ngân sách Nhà nước và các văn bản, nghị định của Chính phủ,

Thông tư hướng dẫn thi hành. Việc tổ chức, nghiên cứu, quán triệt bằng nhiều

hình thức phù hợp như: tổ chức các hội nghị chuyên đề, thông qua các cuộc họp

95

Đảng ủy, họp giao ban giữa lãnh đạo đơn vị với các phòng, ban, đơn vị trực

thuộc, sao gửi văn bản đến các đơn vị để nghiên cứu và tổ chức thực hiện.

Ba là, Thành ủy đã thông qua công tác tổ chức - cán bộ và vai trò tiên

phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên để thực hiện công tác PCLP đạt

được kết quả tích cực

Thành ủy đã lãnh đạo phát huy tốt vai trò của các tổ chức đảng trong chỉ

đạo, phối hợp để nhằm lãnh đạo các cơ quan, đơn vị, cán bộ, đảng viên và

nhân dân trong thực hiện công tác PCLP, nòng cốt là Ban Chỉ đạo Chương

trình 07-CTr/TU, mà thường trực là Ban Nội chính Thành ủy. Thành ủy cũng

thông qua các tổ chức đảng trong các cơ quan nhà nước, MTTQ và các tổ

chức CT-XH để lãnh đạo thực hiện công tác PCLP trong toàn HTCT và từ đó

lãnh đạo toàn xã hội trong thực hiện công tác. Một số cán bộ lãnh đạo, quản

lý, kể cả NĐĐ cơ quan đơn vị có trách nhiệm ở một số địa phương để xảy ra

tình trạng lãng phí như buông lỏng quản lý, để xây dựng nhiều công trình trái

phép trên địa bàn gây tốn kém khi phải phá dỡ đã bị xử lý kỷ luật hoặc điều

chuyển sang công việc khác.

Thông qua Đảng đoàn HĐND Thành phố, Ban Cán sự Đảng UBND

Thành phố, Thành ủy lãnh đạo HĐND và UBND Thành phố cùng cơ quan

chức năng của Thành phố xây dựng kế hoạch thực hiện; cụ thể hóa các nội

dung công tác PCLP có hiệu quả.

Thông qua Đảng đoàn MTTQ và các tổ chức CT-XH Thành phố, Thành

ủy cũng chỉ đạo hệ thống MTTQ từ Thành phố đến cơ sở, phối hợp với các tổ

chức CT-XH tổ chức thực hiện công tác PCLP; phổ biến công tác PCLP tới

các đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân trên địa bàn Thành phố.

Bốn là, việc lãnh đạo công tác PCLP thông qua công tác kiểm tra, giám

sát được Thành ủy chú trọng và tăng cường

Việc lãnh đạo công tác PCLP thông qua công tác thanh tra, kiểm tra,

giám sát, điều tra, truy tố, xét xử được tăng cường. Hàng năm, Ban Thường

96

vụ Thành ủy triển khai kế hoạch và thành lập các đoàn kiểm tra, giám sát theo

Điều 30 Điều lệ Đảng, trong đó, nội dung PCTN, LP được chú trọng. Năm

2016, 2017, Thành ủy giám sát công tác lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện Chương

trinh 08-CTr/TU của Thành ủy. Năm 2017, kiểm tra công tác lãnh đạo, chỉ

đạo và tổ chức thực hiện Chương trình 01-CTr/TU của Thành ủy; Nghị quyết

Trung ương 4 khóa XII; Chỉ thị 05-CT/Trung ương của Bộ Chính trị. Năm

2018, Thành ủy kiểm tra công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện

Chương trình 06-CTr/TU của Thành ủy. Năm 2019, Thành ủy kiểm tra công

tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện Chương trình 07-CTr/TU của

Thành ủy. Công tác kiểm tra được thực hiện đối với 3.547 đảng viên và 7.791

tổ chức đảng; giám sát đối với 3.312 đảng viên và 2.652 tổ chức đảng.

Từ năm 2016 đến năm 2020, Ủy ban Kiểm tra các cấp trong Thành phố

đã kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với 402 tổ chức đảng và 1.232 đảng

viên. Qua kiểm tra đã kết luận 251 tổ chức đảng và 968 đảng viên có vi phạm;

phải thi hành kỷ luật 26 tổ chức đảng, 578 đảng viên. Ủy ban Kiểm tra các

cấp cũng đã tiến hành giám sát 2.983 tổ chức đảng và 4.452 đảng viên, trong

đó có 2.806 đảng viên là cấp ủy viên các cấp. Thông qua công tác giám sát

phát hiện 12 tổ chức đảng và 70 đảng viên có dấu hiệu vi phạm, chuyển sang

kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với 05 tổ chức đảng và 31 đảng viên.

Một số cán bộ bị xử lý kỷ luật do vi phạm quy định về tiết kiệm, chống lãng

phí đã bị xử lý kỷ luật thông qua kiểm tra, giám sát thường xuyên. [9]

Kiểm tra, giám sát đã thể hiện rõ mục đích và ý nghĩa là PTLĐ quan

trọng của Thành ủy Hà Nội, đúng như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng

định: “Nếu tổ chức việc kiểm tra cho chu đáo thì cũng như có ngọn đèn "pha".

Bao nhiêu tình hình, bao nhiêu ưu điểm và khuyết điểm, bao nhiêu cán bộ

chúng ta đều thấy rõ”[56, tr. 637]. Thông qua công tác kiểm tra, giám sát, kỷ

luật, kỷ cương của Đảng bộ Thành phố được giữ gìn và năng lực lãnh đạo,

97

sức chiến đấu của các tổ chức đảng trong Đảng bộ cũng được củng cố. Công

tác kiểm tra, giám sát không chỉ phát hiện, xử lý tổ chức đảng, đảng viên vi

phạm quy định về PCLP mà còn góp phần phát hiện, biểu dương những tập

thể và cá nhân tiêu biểu, xuất sắc trong công tác này.

Năm là, Thành ủy đã luôn coi trọng lãnh đạo công tác PCLP thông qua

chính quyền Thành phố, MTTQ và các tổ chức CT-XH

Nhận thức đúng đắn vai trò của PTLĐ thông qua chính quyền trong điều

kiện Đảng cầm quyền hiện nay, Thành ủy Hà Nội đã luôn coi trọng việc thực

hiện phương thức này. Thông qua định hướng của Thành ủy, Chính quyền

Thành phố đã ban hành các cơ chế, chính sách, chế độ định mức, tiêu chuẩn,

nhất là cơ chế chính sách trên một số lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, lãng

phí, đồng thời rà soát, sửa đổi, bổ sung, bảo đảm công khai, minh bạch.

Thông qua chính quyền với việc triển khai thực hiện Luật PCTN, Luật

THTK, CLP từng bước đi vào nền nếp; công tác cải cách hành chính, tiếp

công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo được đẩy mạnh,… việc thực hiện công

tác PCLP trên địa bàn Thành phố đã có được nhiều kết quả tích cực.

3.2.1.2. Khuyết điểm, hạn chế trong lãnh đạo công tác phòng, chống

lãng phí của Thành ủy Hà Nội

Một là, việc xác định nhiệm vụ, giải pháp thực hiện công tác PCLP ở một

* Về nội dung lãnh đạo

số cấp ủy, tổ chức đảng có lúc chưa được đề cao, còn thiếu quyết liệt

Tuy Thành ủy đã thể hiện quyết tâm cao trong xác định chủ trương, mục

tiêu, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp thực hiện công tác PCLP của Thành

phố, song khi triển khai tới các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc thì không phải

cấp ủy, tổ chức đảng nào cũng xác định đúng đắn vị trí của công tác này. Bởi

vậy, qua báo cáo sơ kết, tổng kết của Thành ủy, Ban Chỉ đạo, một trong

những hạn chế đầu tiên được thừa nhận trong PCLP là việc thực hiện PCLP ở

98

một số địa phương, đơn vị chưa được quan tâm đúng mức, nhất là NĐĐ. Việc

nắm, dự báo tình hình ở một số lĩnh vực có lúc chưa sâu, chưa kịp thời. Nhiều

vụ việc, biểu hiện lãng phí, tiêu cực ở một số cơ quan, đơn vị còn được xử lý

một cách nể nang, né tránh hay xử lý nội bộ. Trách nhiệm chỉ đạo, lãnh đạo,

đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các biện pháp PCLP có nơi, có lúc còn chưa

được đề cao [9].

Hai là, Thành ủy lãnh đạo HTCT và Nhân dân Thành phố thực hiện

công tác PCLP chưa đồng đều, dẫn đến việc triển khai thực hiện hiệu quả

chưa cao

Việc tổ chức, triển khai thực hiện công tác THTK, CLP tại một số cơ

quan, đơn vị thuộc Thành phố tuy được thực hiện đầy đủ song chưa thực sự

chất lượng. Nhiều chương trình, kế hoạch PCLP hàng năm được xây dựng tại

một số cơ quan, đơn vị còn chung chung, chưa xác định rõ mục tiêu, chỉ tiêu

tiết kiệm, chống lãng phí cụ thể và chưa chủ động trong việc xây dựng các

giải pháp triển khai PCLP trong lĩnh vực, phạm vi được giao quản lý.

Việc thực hiện các giải pháp phòng ngừa lãng phí tại một số cơ quan,

đơn vị, nhất là tự phát hiện trong nội bộ còn ít, chưa đáp ứng được yêu cầu.

Công tác phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức, đơn vị chức năng có lúc còn

chưa kịp thời, việc thực hiện các giải pháp THTK, CLP tại nhiều cơ quan, tổ

chức, đơn vị còn hình thức, hiệu quả chưa cao.

Trong một số cơ quan, địa phương, đơn vị, đặc biệt ở cấp cơ sở, nhiều tổ

chức đảng chưa thực hiện tốt việc lãnh đạo triển khai thực hiện ở cơ quan, đơn

vị. Công tác quản lý nhà nước có mặt còn yếu, nhất là trên các lĩnh vực, như:

thu, chi ngân sách, quy hoạch, dự án treo, đầu tư dàn trải, kéo dài, thiếu đồng

bộ; thủ tục hành chính chậm đổi mới, việc công khai, minh bạch chưa thường

xuyên, gây lãng phí thời gian cho tổ chức, doanh nghiệp và nhân dân…

Khả năng lãnh đạo chính quyền, MTTQ và các tổ chức CT-XH còn hạn

99

chế, chưa tạo được tạo được sự đồng thuận, phối hợp và vào cuộc của cả

HTCT trong PCLP. Một số cấp ủy còn coi nhẹ, chưa quan tâm việc lãnh đạo,

không tạo được điều kiện tối đa để MTTQ, các tổ chức CT-XH và nhân dân

tham gia giám sát, phản biện xã hội.

Ba là, lãnh đạo thực hiện kiểm tra, giám sát nhằm phòng ngừa, phát hiện

các hành vi, biểu hiện lãng phí còn một số khó khăn, vướng mắc, chưa phát

huy tốt vai trò của MTTQ Thành phố Hà Nội và các tổ chức CT-XH

Việc kiểm tra, giám sát, đôn đốc trong công tác PCLP có nơi, có lúc

chưa được đề cao, nhất là trong lãnh đạo, chỉ đạo phát hiện tham nhũng, lãng

phí. Công tác thanh tra, kiểm tra về THTK, CLP tại một số cơ quan, đơn vị

chưa được thực hiện thường xuyên, liên tục và chưa có hiệu quả. Các quy

định về kiểm tra, thanh tra trong THTK, CLP còn chưa cụ thể làm hạn chế

tính hiệu lực, hiệu quả trong triển khai Luật THTK, CLP. Việc xử lý kết luận

sau thanh tra, kiến nghị kiểm toán còn chưa triệt để, nhất là xử lý trách nhiệm

của cán bộ, đảng viên vi phạm.

Hoạt động giám sát còn có một số khó khăn, vướng mắc. Cấp ủy đảng,

chính quyền ở một số cơ sở còn chưa thường xuyên quan tâm và tạo điều kiện

đối với hoạt động giám sát, phản biện; việc xử lý, giải quyết các kiến nghị của

MTTQ và các tổ chức CT-XH còn chậm hoặc chưa được giải quyết. Ở một số

xã phường, thị trấn, các tổ chức thực hiện chức năng giám sát còn chưa chủ

động đề ra kế hoạch hoạt động cụ thể, việc xây dựng chương trình công tác,

chế độ sinh hoạt chưa được duy trì thường xuyên; công tác phát hiện, nắm bắt

những vụ việc phát sinh trong nhân dân chưa kịp thời. Kinh phí hoạt động của

các ban giám sát đầu tư cộng đồng đối với các dự án đầu tư trên địa bàn dân

cư còn hạn hẹp, trình độ, trách nhiệm của một số thành viên chưa đáp ứng

được yêu cầu, dẫn đến chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát còn hạn chế,

Hầu hết các hoạt động giám sát đối với đầu tư cộng đồng mới chỉ tập trung

100

vào các dự án đầu tư các công trình phúc lợi của địa phương, việc tiếp cận để

thực hiện giám sát đối với các dự án do Thành phố, cấp huyện làm chủ đầu tư

còn hạn chế, gặp nhiều khó khăn. Chưa phát huy tốt sức mạnh tổng hợp của

cả HTCT, của các cơ quan truyền thông và nhân dân trong phát hiện, xử lý

lãng phí.

Công tác tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền theo

Quy định số 218-QĐ/TW ngày 12 tháng 12 năm 2013 của Bộ Chính trị “về

MTTQ Việt Nam các tổ chức CT-XH và nhân dân tham gia góp ý xây dựng

Đảng, xây dựng chính quyền” chưa thường xuyên. Việc phát huy vai trò của

hoạt động thanh tra nhân dân, giám sát đầu tư cộng đồng; thực hiện quy chế

dân chủ ở cơ sở; đề cao tự phê bình và phê bình, kiên quyết đấu tranh với

hành vi lãng phí có lúc chưa được chú trọng, hiệu quả thấp.

Bốn là, lãnh đạo phát hiện và xử lý các vụ việc, hành vi lãng phí còn ít

và rất ít so với thực tế

Qua khảo sát việc thực hiện công tác PCLP ở các cơ quan, đơn vị tại Hà

Nội, các nội dung thực hiện công tác PCLP đều được thực hiện tương đối

đồng bộ. Phần lớn người được hỏi đều cho rằng cơ quan nơi họ công tác đã

thực hiện các nội dung công tác PCLP như Xây dựng, ban hành và thực hiện

Chương trình THTK, CLP (816/1048 phiếu, chiếm 77.9%), Có nội dung

PCLP trong quy chế làm việc (824 phiếu, chiếm 78.6%), Có nội dung PCLP

trong đánh giá chất lượng công tác của cán bộ, nhân viên (584 phiếu, chiếm

55.7%), Có tuyên truyền, hoạt động phong trào PCLP (744 phiếu, chiếm

71%), Sơ kết, tổng kết việc THTK, CLP (600 phiếu, chiếm 57.3%). Tuy

nhiên, có rất ít người được hỏi cho rằng ở cơ quan họ có Phát hiện, xử lý hành

vi lãng phí, chỉ 192/1048 phiếu, chiếm tỷ lệ 18.3%, rất thấp so với các nội

dung còn lại (đều trên 50%). [Phụ lục 6]

101

Hình 3.2. Việc thực hiện các nội dung công tác phòng, chống lãng phí

ở một số cơ quan, đơn vị tại Hà Nội

Đối với công tác PCTN, LP, Thành ủy đã tiến hành xử lý, giải quyết

nhiều vụ việc, hành vi vi phạm. Từ năm 2016 đến nay, có 18 vụ việc, vụ án

tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp thuộc diện Ban Thường vụ chỉ đạo giải

quyết. trong đó đã giải quyết và đưa ra khỏi diện theo dõi, chỉ đạo 05 vụ việc,

vụ án, có 29 vụ thuộc diện Ban Nội chính Thành ủy phối hợp với các cơ quan

nội chính, tư pháp thành phố theo dõi, đôn đốc, trong đó đã giải quyết và đưa

ra khỏi diện theo dõi, chỉ đạo 15 vụ việc, vụ án. Tất cả các vụ việc đó đều là

tham nhũng [9]. Hiếm thấy phát hiện các vụ việc lãng phí, thất thoát cả do vô

ý và cố ý, cho dù dạng lãng phí do vô ý được đánh giá là phổ biến hơn nhưng

cũng ít được phanh phui, chứ chưa chưa nói đến lãng phí do tham nhũng, vì

102

động cơ vụ lợi hay các hành vi bảo kê mà gây lãng phí xã hội với quy mô lớn

và tính chất rất nghiêm trọng.

Việc thu hồi tài sản thất thoát, lãng phí sau các vụ việc gặp nhiều khó

khăn, nhất là các vụ án ở lĩnh vực đất đai, gần như không thực hiện được. Do

người phạm tội là các cán bộ xã, thôn có hành vi bán đất, giao đất trái thẩm

quyền nhưng sử dụng tiền để xây dựng các công trình phúc lợi địa phương,

các bị can không có khả năng khắc phục, người dân mua đất hầu hết đã được

cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, xây dựng những công trình có giá trị

cao trên đất, sinh sống ổn định, nếu cưỡng chế, thu hồi đất của dân sẽ ảnh

hưởng đến tình hình trật tự an ninh tại địa phương, do đó đến nay chưa có cơ

chế để giải quyết thu hồi tài sản của Nhà nước.

Nhiều dự án, công trình đội vốn, lãng phí có chưa có hướng giải quyết

hợp lý như: dự án Đường sắt đô thị Nam Thăng Long - Trần Hưng Đạo xin

lùi thời hạn hoàn thành 12 năm và đội vốn hơn 16.000 tỷ, Dự án Nhà máy xử

lý nước thải Yên Sở (Quận Hoàng Mai) do Công ty TNHH Gamuda Land

Việt Nam làm chủ đầu tư bị chậm tiến độ, chi phí phát sinh ngoài hợp đồng

lên tới 11,5 triệu USD (Khoảng 250 tỉ đồng), Dự án đường bao quanh khu

tưởng niệm danh nhân Chu Văn An (Q.Thanh Xuân) đội vốn lên tới 36,79 tỷ

đồng…Ngay cả công trình xây dựng số tầng tòa nhà trái phép tòa nhà số 8b

phố Lê Trực dù phát hiện, chỉ đạo kiên quyết từ Thành phố đến Thủ tướng

Chính phủ để tháo dỡ nhưng đã 4 năm vẫn chưa được giải quyết xong cho dù

dư luận xã hội rất bức xúc, bất bình. Giai đoạn hai phá dỡ tầng 18 của tòa nhà

này thời gian tới, với chi phí tạm tính khoảng 17 tỉ đồng, tạm ứng từ ngân sách.

Năm là, lãnh đạo sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm công tác PCLP tại

một số cơ quan, đơn vị chưa được thực hiện thường xuyên, liên tục và chưa

có hiệu quả

Công tác lập báo cáo kết quả PCLP trong các lĩnh vực còn sơ sài về nội

dung, số liệu chưa đầy đủ và chưa thống nhất về các tiêu chí đánh giá trong

103

báo cáo, thời gian nộp báo cáo thường chậm so với quy định của cơ quan có

thẩm quyền.

Một số đơn vị thực hiện nội dung này còn mang tính hình thức. Sơ kết,

tổng kết không lấy ý kiến của cán bộ, đảng viên trong đơn vị. Tuy việc sơ kết,

tổng kết công tác PCTN, LP được triển khai trong toàn Đảng bộ, là một nội

dung trong đánh giá, xếp loại tổ chức và cá nhân hàng năm song không phải ở

đâu cũng được cán bộ, đảng viên quan tâm, để ý đến.

*Về phƣơng thức lãnh đạo

Một là, Thành ủy lãnh đạo bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận

động, giáo dục về công tác PCLP ở một số địa phương, đơn vị còn chưa phát

huy hết hiệu quả

Công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, giáo dục cán bộ, đảng

viên và nhân dân được Thành ủy Hà Nội coi trọng và mang lại nhiều hiệu quả

thiết thực đối với kết quả của công tác PCLP, tuy nhiên, không phải ở địa

phương, đơn vị nào thuộc quản lý của Thành ủy, công tác tuyên truyền, giáo

dục cũng phát huy được hết hiệu quả của mình. Thực tế cho thấy, sự quyết

liệt, kiên trì trong cuộc đấu tranh PCTN, LP có sự khác nhau giữa các cấp

thực hiện. Tình trạng “trên nóng dưới lạnh” ở Hà Nội tuy đã được cải thiện

nhưng vẫn còn tổn tại. Công tác giáo dục đảng viên, cán bộ, công chức, viên

chức ở một số tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị, địa phương còn quản lý lỏng

lẻo. Đặc biệt, ở nhiều đơn vị thực hiện các nhiệm vụ có tính kỹ thuật, chuyên

môn sâu, việc giáo dục, rèn luyện đảng viên không được coi là nhiệm vụ bắt

buộc của cấp ủy mà lại cho rằng đó là nhiệm vụ của các cơ quan tuyên giáo,

dân vận… dẫn đến việc thờ ơ, vô cảm, quan liêu, đùn đẩy trách nhiệm tuyên

truyền, giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Công tác tuyên truyền, vận động cán bộ, đảng viên và nhân dân Hà Nội

tham gia thực hiện công tác PCLP có nơi, có lúc còn hình thức, chưa đi vào

chiều sâu. Tính hình thức trong công tác tuyên truyền, vận động cán bộ, đảng

104

viên và nhân dân Hà Nội tham gia thực hiện công tác PCLP thể hiện ở: một số

cơ quan, đơn vị có kế hoạch và báo cáo việc thực hiện nhưng trong thực tế lại

không triển khai; một số cơ quan, đơn vị có triển khai thực hiện song ít đôn

đốc, kiểm tra, giám sát chưa thường xuyên, dẫn đến việc tuyên truyền hời hợt,

không hiệu quả; tuyên truyền về tác hại của lãng phí nhưng lại không chỉ ra

giải pháp phòng, chống hay trách nhiệm cá nhân trong PCLP, dẫn đến việc

nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và nhân

dân còn hạn chế. Một số cán bộ, đảng viên vẫn có quan niệm sai lầm, có phần

xem nhẹ PCLP mà chỉ hướng vào coi trọng PCTN. Họ cho rằng tham nhũng

là phạm tội, gây ra những hậu quả lớn, còn lãng lãng phí thì không phải phạm

tội, gây hậu quả không lớn và chỉ cần rút kinh nghiệm là xong. Vì vậy, PCLP

có nơi, có lúc mới chỉ dừng lại ở “phong trào” mà chưa được đẩy thành “đấu

tranh” như với PCTN.

Hai là, việc lãnh đạo thông qua tổ chức đảng, đảng viên và vai trò tiên

phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong công tác PCLP còn một số hạn

chế, yếu kém

Vai trò của một số tổ chức đảng trong các cơ quan, đặc biệt là các cơ

quan thực hiện các nhiệm vụ có tính kỹ thuật, chuyên môn sâu, còn mờ nhạt..

Địa bàn Hà Nội đông dân cư, số lượng cán bộ, đảng viên cũng đông đảo bậc

nhất cả nước, lại có vị trí kinh tế - chính trị quan trọng nên thái độ, hành động

của cán bộ, đảng viên rất được chú ý. Tuy hầu hết cán bộ, đảng viên đều có

đạo đức, lối sống lành mạnh, nhưng vẫn còn một số cán bộ, đảng viên có

những biểu hiện tiêu cực, thiếu gương mẫu trong việc giữ gìn phẩm chất, đạo

đức, lối sống. Thành phố đã phát hiện và chấn chỉnh một số nơi xảy ra tình

trạng sách nhiễu, tiêu cực của một số cán bộ, công chức trong thực thi công

vụ. Còn có cán bộ chủ chốt ở một số đơn vị thiếu gương mẫu trong việc giữ

gìn phẩm chất, đạo đức, lối sống, chưa chỉ đạo quyết liệt, hiệu quả công tác

PCTN; THTK, CLP.

105

Ba là, công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của các tổ chức đảng và

đảng viên còn chưa đạt yêu cầu đề ra, nhất là đối với lãng phí ở một số dự án,

công trình trọng điểm

Hình 3.3. Số lượng cuộc kiểm tra, giám sát về PCLP tại một số cơ quan,

đơn vị ở Hà Nội

Liên quan đến phát hiện và thu hồi tài sản tham nhũng, lãng phí, nhất là

từ các công trình, dự án công, Thành ủy đánh giá việc kiểm tra, giám sát hoạt

động của tổ chức đảng và đảng viên vẫn chưa phát huy được hết vai trò của

mình trong đấu tranh PCLP. Công tác quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực

trọng yếu, như: tài chính, ngân hàng, đầu tư công, quản lý quy hoạch, quản lý

đất đai, trật tự xây dựng, quản lý thị trường chưa đồng bộ, chặt chẽ, hiệu quả

thấp. Nhiều dự án, công trình trọng điểm triển khai chậm tiến độ, một số công

trình công cộng, công trình phúc lợi sử dụng kém hiệu quả, việc khởi công,

khánh thành, việc sử dụng lao động còn gây lãng phí về thời gian, nguồn lực

và vật chất. Công tác kiểm tra, đôn đốc chưa thường xuyên, thậm chí có tình

trạng nể nang, né tránh, đùn đẩy trách nhiệm.

106

3.2.2. Nguyên nhân và kinh nghiệm của Thành ủy Hà Nội trong lãnh

đạo công tác phòng, chống lãng phí

3.2.2.1. Nguyên nhân

* Nguyên nhân ưu điểm

Những ưu điểm trong việc lãnh đạo công tác PCLP của Thành ủy Hà

Nội xuất phát từ nhiều nguyên nhân như:

Thứ nhất, Việc ngày càng hoàn thiện các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo của

Trung ương Đảng và hệ thống pháp luật của Nhà nước đã tạo tiền đề, cơ sở

quan trọng để Thành ủy Hà Nội lãnh đạo, chỉ đạo công tác PCLP

Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã coi trọng và đánh giá công tác

PCTN, LP là vấn đề cần thiết và cấp bách. Vì vậy, Đảng đã ban hành đường

lối, chủ trương đúng đắn về công tác PCTN, LP như Nghị quyết Hội nghị lần

thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa X về tăng cường SLĐ của Đảng đối

với công tác PCTN, LP; Nghị quyết số 12-NQ/TW của Hội nghị Ban chấp

hành Trung ương lần thứ tư khóa XI về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng

Đảng hiện nay; Kết luận số 21-KL/Trung ương của Hội nghị Ban chấp hành

Trung ương lần thứ năm khóa XI về “Việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội

nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa X về tăng cường SLĐ của

Đảng đối với công tác PCTN, LP”;… Chủ trương, đường lối đúng đắn và kịp

thời từ Trung ương Đảng đã định hướng, tạo tiền đề, cơ sở để Thành ủy Hà

Nội lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời công tác PCLP ở địa phương đạt kết quả đáng

ghi nhận.

Trên cơ sở quan điểm, chủ trương của Đảng về PCLP, hệ thống pháp

luật, chính sách của Nhà nước về công tác PCLP cũng được xây dựng, ngày

càng hoàn thiện, bổ sung các văn bản Luật, Chương trình hành động PCLP

được ban hành và triển khai đến sâu rộng các cấp, các ngành, các địa phương.

Đảng và Nhà nước ta xác định chống lãng phí là trọng tâm, trên cơ sở thực

hiện tốt thực hành tiết kiệm, đề cao mục tiêu đẩy mạnh chống lãng phí trong

107

chi tiêu ngân sách, tăng cường kỷ luật, kỷ cương tài khóa và công khai minh

bạch, bảo đảm sự kiểm tra giám sát của Nhà nước và xã hội.

Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đúng

đắn, kịp thời và phù hợp là những căn cứ chính trị - pháp lý để Thành ủy Hà

Nội, HĐND và UBND Thành phố xác định chủ trương, biện pháp thực hiện

công tác PCLP hiệu quả, mang lại những ưu điểm trong thực tiễn công tác.

Thứ hai, SLĐ, chỉ đạo, điều hành sâu sát, quyết liệt của Trung ương

Đảng, Chính phủ, Quốc hội; sự ủng hộ, hợp tác tích cực của các ban, bộ,

ngành Trung ương, của các tỉnh, thành phố trong cả nước và bạn bè quốc tế

Là Thủ đô nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội có được

sự quan tâm rất lớn từ Trung ương. Địa bàn Hà Nội là nơi tập trung nhiều cơ

quan của Trung ương Đảng, vì vậy có nhiều thuận lợi trong tiếp nhận và xử

lý, triển khai các văn bản, chỉ thị, nghị quyết một cách nhanh chóng và hiệu

quả nhất. Hà Nội cũng là trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội hàng đầu cả nước,

theo đánh giá, trình độ cán bộ, đảng viên và nhân dân Thành phố Hà Nội nói

chung, cả về học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ đều ở mức cao hơn mặt bằng

chung của cả nước. Quy mô dân số đông với cơ cấu trẻ, lực lượng lao động

chất lượng cao, quy tụ được đội ngũ cán bộ, chuyên gia, văn nghệ sỹ, tri thức

có trình độ cao. Vì vậy, khả năng nhận định vấn đề, tiếp thu sự tuyên truyền,

tạo sự thống nhất chung về nhận thức và triển khai thực hiện của các tầng lớp

cán bộ, đảng viên và nhân dân cũng là một trong những ưu thế hơn so với các

địa phương khác.

Thứ ba, Thành ủy Hà Nội đã có tinh thần chủ động và quyết tâm trong

việc thực hiện công tác PCLP.

Những chỉ thị, chương trình, kế hoạch do Thành ủy ban hành kịp thời và

triển khai nhanh chóng đến các tổ chức đảng trực thuộc là minh chứng cho

thấy sự nghiêm túc, quyết tâm của Thành ủy trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác

PCLP. Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân Thủ đô luôn đề cao và phát huy

108

truyền thống đoàn kết, thống nhất, chủ động, sáng tạo, bản lĩnh, quyết tâm

vượt khó, đã bước đầu khai thác hiệu quả các tiềm năng, lợi thế và nguồn lực

to lớn của Thủ đô phục vụ xây dựng và phát triển Thành phố. Mở rộng dân

chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và trong xã hội, phát

huy sức mạnh tổng hợp của cả HTCT, sự đồng thuận, vào cuộc, chung sức,

đồng lòng của các tầng lớp nhân dân trong công tác PCLP, xây dựng Thủ đô

ngày càng giàu đẹp, văn minh, hiện đại

Đây là nguyên nhân quan trọng, thể hiện sự kiên trì, quyết tâm cao trong

cả lãnh đạo, chỉ đạo cả HTCT thực hiện các chủ trương của Thành ủy về

phòng, chông tham nhũng, lãng phí nói chung và PCLP, kể cả lãnh đạo, chỉ

đạo xử lý các hành vi gây lãng phí mà đã được phát hiện.

Thứ tư, tổ chức đảng, chính quyền các cấp, đội ngũ cán bộ, đảng viên

công chức đã ngày càng có ý thức cao hơn trong THTK, CLP, MTTQ, các tổ

chức CT-XH và nhân dân tham gia có hiệu quả vào công tác PCLP trên địa

bàn Thành phố

Những thành tựu rõ nét trong tiết kiệm chi tiêu từ ngân sách nhà nước

hay sử dụng cơ sở vật chất hiện có của cơ quan công sở, kể cả tiết kiệm trong

cưới, tang, lễ hội… đều phản ánh sự nỗ lực phấn đấu và sự trưởng thành trong

nhận thức và hành động của đội ngũ cán bộ, công chức, khẳng định sự quyết

tâm của tổ chức đảng, chính quyền các cấp. Nhiều thói quen xấu trong sinh

hoạt, công tác đã từng bước được khắc phục, tinh thần làm việc, phục vụ công

vụ có chuyển biến rõ nét và gần như không còn hiện tượng lãng phí thời gian

đi du lịch, chùa chiền vào giờ hành chính như trước đây nữa.

Kết quả trong lãnh đạo PCLP của Thành ủy Hà Nội còn ghi nhận sự vai

trò và vị thế của Nhân dân trong đấu tranh PCLP trên nhiều phương diện của

Thủ đô thời gian qua. Nhân dân ngày càng tham gia có hiệu quả vào việc

PCLP trên địa bàn Thành phố. Có thể nói, những vụ việc lãng phí được phát

hiện chủ yếu từ nhân dân, thông qua các tổ chức dân cử như HĐND, thông

109

qua MTTQ và các tổ chức CT-XH. Nhiều thông tin được cung cấp cho các cơ

quan báo chí phản ánh kịp thời lên các phương tiện thông tin đại chúng, tạo

sức ép quan trọng để các cơ quan, tổ chức, cán bộ có chức năng, nhiệm vụ xử

lý, đem lại hiệu quả tích cực, rõ nét.

* Nguyên nhân khuyết điểm

Những khuyết điểm trong lãnh đạo công tác PCLP của Thành ủy Hà Nội

xuất phát từ nhiều nguyên nhân, bao gồm cả các nguyên nhân khách quan và

các nguyên nhân chủ quan. Có thể khái quát lại một số nguyên nhân sau:

Một là, diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế - xã hội trong nước và

quốc tế và mặt trái của nền kinh tế thị trường tác động tiêu cực đến đời sống,

tư tưởng, tình cảm của cán bộ, đảng viên và Nhân dân Thành phố.

Thành phố Hà Nội là thành phố lớn với tốc độ phát triển kinh tế - xã hội

nhanh. Bên cạnh những mặt tác động tích cực, tình hình kinh tế - xã hội và

mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng gây ra hàng loạt những hiện tượng

tiêu cực ảnh hưởng không nhỏ đến nhân cách của đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Sự phân hoá giàu nghèo làm sâu sắc thêm những mâu thuẫn xã hội; dễ nảy

sinh những tệ nạn tham nhũng, tội phạm, bạo lực; kích thích chủ nghĩa thực

dụng, chủ nghĩa cá nhân, lối sống chạy theo đồng tiền bất chấp đạo lý.

Vai trò của đồng tiền được đề cao quá mức dẫn đến nhiều biểu hiện tiêu

cực phát sinh trong xã hội. Phát triển kinh tế nhanh, sự giàu lên nhanh chóng

của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân mang đến nguy cơ “phú quý

sinh lễ nghĩa” một cách thái quá, tức là thói xa hoa, phô trương, lãng phí. Tác

động tiêu cực từ mặt trái của kinh tế thị trường đến nay chưa có giải pháp

khắc phục hữu hiệu, trong khi có những mặt trở nên nghiêm trọng, nhất là

tình trạng quan liêu, tham nhũng, hối lộ, sự suy thoái về đạo đức, lối sống

trong một số cán bộ có chức, có quyền… Tình hình đó đã tạo sự tác động tiêu

cực đến tư tưởng chính trị, nhân cách của cán bộ, đảng viên.

Hai là, công tác PCLP là công việc khó khăn và có tính chất phức tạp.

110

Các biểu hiện lãng phí, nhất là lãng phí do lợi ích nhóm, chủ nghĩa cá nhân,

tham nhũng thường rất tinh vi, phức tạp, gây khó khăn cho quá trình điều tra,

phát hiện, xử lý. Lãng phí không đơn thuần là những số tiền thất thoát được

công bố mà còn có những lãng phí âm thầm diễn ra không lượng hóa được:

lãng phí thời gian, lãng phí năng lượng và lãng phí nguồn nhân lực. Nhiều

lãng phí đã trở thành phổ biến, diễn ra hàng ngày, hàng giờ. Tham nhũng

được gây ra bởi những người có chức, có quyền, còn lãng phí có thể được gây

ra bởi tất cả mọi chủ thể từ tổ chức đến cá nhân với mức độ từ nhỏ nhất đến

lớn nhất. Vì vậy, tuy việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác PCLP đã đạt được nhiều

ưu điểm nhất định, song lãng phí vẫn còn xảy ra trên địa bàn Thành phố.

Ba là, đặc điểm Thành phố Hà Nội có địa bàn rộng lớn, các tầng lớp

nhân dân ở các huyện, quận khác nhau có sự chênh lệch và khác biệt về mức

sống, trình độ và nhiều đặc điểm khác. Sự không đồng đều về đặc điểm dân

cư khiến công tác tuyên truyền và triển khai thực hiện các nội dung cụ thể của

công tác PCLP gặp nhiều khó khăn, đòi hỏi không chỉ Thành ủy Hà Nội mà

cấp ủy mỗi địa phương, đơn vị đều phải có khả năng phân tích tình hình thực

tiễn tại địa phương, đơn vị mình và từ đó xây dựng kế hoạch, biện pháp PCLP

cho phù hợp.

Bốn là, một số chính sách, pháp luật còn bộc lộ những bất cập, sơ hở,

hạn chế, chưa theo kịp sự phát triển của xã hội, tính khả thi không cao, chưa

có cơ chế đủ mạnh để kiểm soát chặt chẽ quyền lực. Ví dụ như: trong lĩnh vực

quản lý tài sản nhà, đất, kết cấu hạ tầng, quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, một

số chính sách, chế độ của Nhà nước mới ban hành còn chưa đồng bộ, từ Nghị

định của Chính phủ đến Thông tư hướng dẫn của Bộ chủ quản còn khoảng

cách thời gian khá xa gây tạm thời gián đoạn công việc và lúng túng cho các

cơ quan và cán bộ trong việc xử lý, giải quyết công việc, dẫn đến một số khó

khăn, vướng mắc. Hệ thống định mức kinh tế, kỹ thuật và tiêu chuẩn trong

việc sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước, vốn nhà nước và tài sản nhà nước

111

đã được cập nhật, sửa đổi, bổ sung khá thường xuyên tuy nhiên vẫn còn một

số nội dung chưa sát với thực tế dẫn đến ý thức chấp hành còn hạn chế, vẫn

còn kẽ hở tạo cơ chế "xin - cho" nên thực hiện chưa nghiêm, gây lãng phí vốn

và tài sản nhà nước trong nhiều lĩnh vực.

Năm là, nhận thức của một số cấp ủy về công tác PCLP còn hạn chế.

Đây là nguyên nhân chủ quan, đồng thời cũng là nguyên nhân chủ yếu dẫn

đến các khuyết điểm trong lãnh đạo công tác PCLP đến từ cấp ủy các cấp, đặc

biệt là cơ sở. Báo cáo công tác PCLP qua các năm của Thành phố Hà Nội đều

nhận định một trong những nguyên nhân là từ nhận thức của một số cấp ủy

[4]. Một số cấp ủy, nhất là NĐĐ chưa quan tâm hoặc chưa thể hiện quyết tâm

cao trong công tác PCLP, còn coi đây là nhiệm vụ của chính quyền và các cơ

quan thực thi pháp luật nên chưa xác định được quyết tâm chính trị trong lãnh

đạo, chỉ đạo.

Sáu là, một số cơ quan nhà nước, chính quyền địa phương, NĐĐ chưa

phát huy tốt trách nhiệm và một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức chưa tự

giác rèn luyện tác phong làm việc hiệu quả, trách nhiệm trong công vụ

Đây là nguyên nhân chính dẫn đến chất lượng, hiệu quả PCTN chưa cao

và chưa thực sự ổn định và nền nếp. Suy cho cùng, lãng phí chủ yếu diễn ra

trong các cơ quan công quyền và tính chất, mức độ, hậu quả lãng phí đều phụ

thuộc chủ yếu ở công tác quản lý và các quyết định quản lý của cơ quan có

thẩm quyền. Vì thế, nhận thức, ý thức của từng cán bộ, đảng viên trong thực

thi công vụ là yếu tố tác động trực tiếp hằng ngày đến việc thực hành tiết

kiệm, chống tham nhũng và là đối tượng chính để hướng đến trong PCLP.

Những khuyết điểm có thể nhận thấy rõ trong THTK, CLP là chất lượng tham

mưu cho cấp ủy đảng, chính quyền và mọi hoạt động công vụ của họ đều có

liên quan đến PCLP.

Bảy là, vai trò của MTTQ và các tổ chức CT-XH trong công tác PCLP

chưa thực sự rõ nét

112

MTTQ và các tổ chức CT-XH ở nhiều nơi chưa phát huy hết trách nhiệm

trong công tác PCLP thể hiện ở sự chủ động trong kế hoạch hành động, hiệu

quả tham góp với cấp ủy đảng, chính quyền trong công tác PCLP. Sự tham

gia của MTTQ và các tổ chức CT-XH vào việc giám sát và phản biện xã hội

còn ít về số lượng và yếu về chất lượng là khá rõ ở nhiều địa phương, cơ sở.

Tư tưởng trông chờ, thụ động, không dám mạnh dạn phát hiện, đấu tranh

chống những hành vi lãng phí của cán bộ đảng, chính quyền nhà nước còn rất

hạn chế, có nơi còn bị hành chính hóa trong hoạt động.

3.2.2.2. Kinh nghiệm

Từ thực trạng lãnh đạo công tác PCLP của Thành ủy Hà Nội thời gian

qua, có thể rút ra một số kinh nghiệm như sau:

Một là, phải luôn quan tâm lãnh đạo xây dựng, bổ sung, hoàn thiện các

quy định có liên quan đến PCLP, luôn quán triệt và chấp hành nghiêm túc,

đồng thời vận dụng sáng tạo, có hiệu quả SLĐ, chỉ đạo, các chủ trương của

Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước vào tình hình thực tiễn của Thủ đô.

Một mặt, Nhà nước phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về PCLP để làm

căn cứ pháp lý quan trọng để các địa phương làm căn cứ triển khai thực hiện

có hiệu lực, hiệu quả. Mặt khác, chính quyền địa phương phải năng động,

sáng tạo trong việc triển khai thực hiện phù hợp với đặc thù của địa phương,

cơ sở mình. Những chính sách, quy chế, quy định đầy đủ, chặt chẽ là căn cứ

không chỉ để cấp ủy đảng, chính quyền và cán bộ công chức thực hiện đúng

mà còn để nhân dân tham gia giám sát, phản biện xã hội trong quá trình xây

dựng quyết sách và triển khai thực hiện.

Luôn quán triệt và chấp hành nghiêm túc, đồng thời vận dụng sáng tạo, có

hiệu quả SLĐ, chỉ đạo, các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà

nước vào tình hình thực tiễn của Thủ đô; chủ động, tích cực tranh thủ sự phối

hợp, giúp đỡ của các bộ, ban, ngành Trung ương, các tỉnh, thành, có cơ chế

khai thác, phát huy hiệu quả các nguồn lực, nhất là nguồn lực tri thức từ các cơ

113

quan Trung ương và trong xã hội để triển khai thực hiện các nhiệm vụ chính trị,

nhất là đối với những nhiệm vụ khó khăn, phức tạp như công tác PCLP.

Hai là, phải thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo

dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về công tác PCLP

Yếu tố tiên quyết mang lại hiệu quả của công tác PCLP là sự thống nhất

về nhận thức, thái độ và hành động của toàn HTCT và các tầng lớp nhân dân

trong Thành phố về PCLP. Vì vậy, các cấp, các ngành phải thường xuyên làm

tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt các chủ trương của Đảng, chính

sách, pháp luật của nhà nước về THTK, CLP nhằm nâng cao nhận thức, vai

trò, trách nhiệm của HTCT, các cấp, của cán bộ, công chức, viên chức và

nhân dân trong công tác PCTN, LP.

Ba là, phải thực hiện nhiều giải pháp tổng thể, đồng bộ

Một mặt, việc lãnh đạo thực hiện công tác PCLP phải gắn liền với việc

đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Thực tế đã khẳng định hiệu quả của tuyên truyền, học tập và làm theo tư tưởng,

đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về tiết kiệm, THTK, CLP trong Đảng, Nhà

nước và xã hội đã có một quá trình lịch sử, lâu dài và mang lại những chuyển

biến tích cực. Đối với Đảng bộ Thành phố Hà Nội, việc học tập và làm theo tư

tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã trở thành nhiệm vụ thường xuyên

đối với từng tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên. THTK, CLP là một trong

những nội dung lớn trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì vậy, trong thời gian qua,

Thành ủy trong các nghị quyết, chương trình, kế hoạch đều yêu cầu phải gắn

PCLP với việc thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về học

tập làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Mặt khác, hiệu quả PCLP không chỉ từ sự giáo dục mà còn phải gắn với

kiểm tra, xử lý những vi phạm để vừa phải đảm bảo tính toàn diện, đồng bộ,

vừa tích cực, chủ động phòng ngừa, vừa kiên quyết đấu tranh, phát hiện và xử

lý kịp thời các vụ việc tham nhũng, lãng phí. Cùng với tham nhũng, lãng phí

114

là một vấn đề nhức nhối và phức tạp. Việc tổ chức thực hiện công tác PCLP

phải vừa tích cực, chủ động phòng ngừa, vừa kiên quyết đấu tranh, phát hiện

và xử lý kịp thời các vụ việc tham nhũng, lãng phí.

Bốn là, việc tổ chức thực hiện công tác PCLP cần có sự tham gia của cả

HTCT và của toàn dân

Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: “Đảng lãnh đạo chặt chẽ công tác

phòng, chống tham nhũng, lãng phí; phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ

thống chính trị và của toàn dân; thực hiện đồng bộ các biện pháp chính trị, tư

tưởng, tổ chức hành chính, kinh tế, hình sự”[3]. Thực hiện chủ trương của

Đảng, Thành ủy Hà Nội trong thời gian qua luôn yêu cầu toàn bộ các tổ chức

thuộc HTCT Thành phố tham gia tích cực vào công tác PCLP trên địa bàn.

Việc lãnh đạo công tác PCLP phải được thực hiện một cách toàn diện: từ định

hướng, đề ra chủ trương cho đến tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát và tổng

kết, sơ kết, rút kinh nghiệm.

Sự tham gia của cả HTCT bắt đầu từ sáng kiến tiết kiệm và PCLP, xây

dựng nghị quyết chủ trương, kế hoạch của cấp ủy đảng các cấp, các quy định

của nhà nước có thẩm quyền có sự tham gia của nhân dân, thực hành phản

biện xã hội, công khai, dân chủ, tăng cường giám sát của cấp ủy, ủy ban kiểm

tra đảng các cấp và của nhân dân.

Năm là, phát huy vai trò của cấp ủy đảng, NĐĐ cơ quan, đơn vị trong

công tác PCLP

Trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện các chương trình, kế hoạch đã

đề ra, phải xác định rõ vai trò, trách nhiệm cá nhân của NĐĐ các cấp, các

ngành, các cơ quan, tổ chức, đơn vị và xử lý kịp thời, nghiêm minh đối với

các trường hợp vi phạm pháp luật về tham nhũng và THTK, CLP. Phải xử lý

nghiêm minh những tổ chức, cá nhân vi phạm, bao che, tiếp tay, bảo kê cho

các hành vi lãng phí do động cơ tham nhũng và NĐĐ để cơ quan, đơn vị, cán

bộ cấp dưới vi phạm. Thậm chí cần xây dựng cơ chế PCLP cụ thể cho từng

115

lĩnh vực, gắn trách nhiệm cụ thể cho mỗi chức việc để gắn trách nhiệm, quy

trách nhiệm một cách minh bạch.

Tiểu kết chƣơng 3

Trong thời gian qua, công tác PCLP trên địa bàn Thành phố Hà Nội đã

đạt được nhiều kết quả tích cực, SLĐ của Thành ủy Hà Nội đối với công tác

PCLP đã đạt được nhiều ưu điểm. Những tác động tích cực từ kết quả của

công tác PCTN, LP cũng như ưu điểm của Thành ủy Hà Nội đối với công tác

PCLP đã củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, tạo khí thế, động lực,

quyết tâm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân Thủ đô tích cực tham gia xây

dựng, bảo vệ Đảng, Thủ đô và đất nước.

Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, SLĐ của Thành ủy Hà Nội đối với

công tác PCLP vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định, dẫn đến tình hình

tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn tiềm ẩn những diễn biến phức tạp trên

nhiều lĩnh vực. Những hạn chế đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau,

song chủ yếu xuất phát từ tính chất khó khăn, phức tạp của công tác PCLP và

nhận thức, trách nhiệm của một số cấp ủy về công tác PCLP còn hạn chế.

Luận án chỉ ra 4 nguyên nhân ưu điểm. 7 nguyên nhân hạn chế, khuyết điểm

và 5 kinh nghiệm rút ra trong công tác lãnh đạo PCLP của Thành ủy Hà Nội.

Tình hình mới đặt ra yêu cầu cao đối với xây dựng và phát triển đất

nước nói chung, Thành phố Hà Nội nói riêng, đòi hỏi phải phát huy tối đa

nguồn lực hiện có, tất yếu phải PCLP. Tăng cường SLĐ của Thành ủy Hà

Nội, nâng cao hiệu quả công tác PCLP trở thành vấn đề cấp thiết hiện nay.

116

Chƣơng 4

PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TĂNG CƢỜNG

SỰ LÃNH ĐẠO CỦA THÀNH ỦY HÀ NỘI ĐỐI VỚI CÔNG TÁC

PHÕNG, CHỐNG LÃNG PHÍ ĐẾN NĂM 2030

4.1. DỰ BÁO NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG VÀ PHƢƠNG HƢỚNG TĂNG

CƢỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA THÀNH ỦY HÀ NỘI ĐỐI VỚI CÔNG TÁC

PHÕNG, CHỐNG LÃNG PHÍ

4.1.1. Dự báo những nhân tố tác động đến sự lãnh đạo công tác

phòng, chống lãng phí của Thành ủy Hà Nội

4.1.1.1. Thuận lợi

Một là, tình hình thế giới và trong nước được dự báo có nhiều yếu tố

thuận lợi đối với việc thực hiện thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng, trong

đó có công tác PCLP tại Thành phố Hà Nội

Trên thế giới và trong khu vực, xu thế hòa bình, độc lập, dân tộc, dân

chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế

tiếp tục được đẩy mạnh. Những năm gần đây, cuộc Cách mạng công nghiệp

4.0 đang diễn ra tại nhiều nước phát triển với tốc độ “không có tiền lệ lịch

sử”, kinh tế số và kinh tế tri thức tạo cơ hội cho kinh tế - xã hội phát triển

nhảy vọt. Nhờ vậy, Hà Nội - Thủ đô của cả nước có điều kiện thuận lợi hơn

cả để giao lưu, tiếp xúc với các địa phương và với quốc tế tìm hiểu, học tập và

tiếp cận các kinh nghiệm trong quản lý công nhằm THTK, CLP từ nhiều nước

trên thế giới.

Ở trong nước, dưới SLĐ của Đảng, nhất là từ sau gần 35 năm đổi mới,

kinh tế - xã hội đã đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Nền kinh tế

tăng trưởng liên tục với tốc độ khá cao, quốc phòng, an ninh được giữ vững,

quan hệ đối ngoại được rộng mở. Đặc biệt, với những gì Việt Nam thể hiện

trong cuộc chiến chống Covid - 19, vị thế Việt Nam trên trường quốc tế ngày

117

càng được củng cố. Những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của đất nước

sau gần 35 năm đổi mới đã đem lại sức mạnh để cả nước vững vàng bước tiếp

trong giai đoạn mới, như lời Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng

đã phát biểu “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy

tín như ngày nay”[10].

Cùng với công tác PCTN, công tác PCLP tiếp tục được Đảng quan tâm

đặc biệt. Theo “Dự thảo Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành

Điều lệ Đảng của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII tại Đại hội đại biểu

toàn quốc lần thứ XIII của Đảng” đã đánh giá: Công tác PCLP “đã được

nhiều cấp ủy, tổ chức đảng quan tâm chỉ đạo và đạt được kết quả bước đầu

quan trọng”: Đã “giảm chi thường xuyên, tăng tỷ trọng đầu tư cho phát triển.

Việc thực hiện mua sắm tài sản công theo phương thức tập trung; sắp xếp xe ô

tô công theo tiêu chuẩn, định mức, chế độ, khoán kinh phí sử dụng xe công tại

nhiều bộ, ngành, địa phương đã phát huy hiệu quả, giảm số lượng xe ô tô

công, kinh phí sử dụng xe, nhân viên lái xe, tăng hiệu suất sử dụng xe, góp

phần tiết kiệm ngân sách nhà nước, dư luận xã hội đồng tình. Năm 2020, giảm

dự toán chi ngân sách nhà nước gắn với tinh giản biên chế, sắp xếp lại tổ chức

bộ máy đạt 5.544 tỉ đồng. Dự toán chi cho đầu tư phát triển đạt 470.600 tỉ

đồng so với năm 2016” [10]. Trong nhiệm kỳ tới, Đảng tiếp tục “Coi phòng,

chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của công tác xây

dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh,

củng cố khối đại doàn kết toàn dân tộc” [10].

Hai là, cùng với cả nước, vị thế của Thủ đô Hà Nội ngày càng tăng lên,

đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với công tác PCLP

Phát biểu tại Đại hội Đại biểu lần thứ XVII nhiệm kỳ 2020 - 2025 Đảng

bộ thành phố Hà Nội, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã đánh

giá: “Hà Nội cũng chưa khi nào có được quy mô, vị thế, tầm vóc và cơ hội

phát triển như bây giờ” [10].

118

Về vị thế và truyền thống, Hà Nội được đánh giá là một trong những

Thủ đô có bề dày lịch sử và sự phát triển phong phú nhất Thế giới. Trong hơn

1.000 năm lịch sử đã qua, Hà Nội luôn là một trung tâm quyền lực, trong đó

850 năm là kinh đô đất nước. Từ ngày 02/9/1945, Hà Nội chính thức được

chọn là Thủ đô của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho đến nay, Hà Nội

trở thành trung tâm chính trị - hành chính quốc gia; là trung tâm lớn về văn

hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ, kinh tế và giao dịch quốc tế.

Về diện tích và quy mô dân số, sau khi thực hiện Nghị quyết số

15/NQ/QH12 của Quốc hội khóa XII về việc điều chỉnh địa giới hành chính

thủ đô Hà Nội, diện tích Thành phố đạt 3.344,7 km2, gấp 3,6 lần diện tích cũ,

Hà Nội là 1 trong 17 thủ đô có diện tích lớn nhất thế giới, tạo thêm thuận lợi

cho phát triển kinh tế - xã hội, đô thị thông qua thu hút nguồn đầu tư, góp

phần khai thác, mở rộng tiềm năng sẵn có. Về quy mô hành chính: Hà Nội có

30 quận, huyện, thị xã (gồm 12 quận, 1 thị xã và 17 huyện) với 584 xã,

phường, thị trấn. Về dân số: Theo Báo cáo tổng điều tra dân số ngày

01/4/2019, dân số Hà Nội là 8.053.663 người, chiếm 8,38% dân số cả nước,

đông dân chỉ sau Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, nếu tính cả những

người cư trú tạm thời, chưa có hộ khẩu thì dân số thực tế của Hà Nội hiện nay

lên đến hơn 9 triệu người. Nguồn nhân lực dồi dào sẽ gia tăng sức hấp dẫn

của Thủ đô bằng lợi thế đội ngũ lao động chất lượng cao. Sự hội tụ của các

nền văn hóa với bề dày truyền thống tạo thêm động lực để thúc đẩy phát triển

Thủ đô bền vững…Việc mở rộng địa giới hành chính Thủ đô với quy mô, tầm

vóc to lớn, đã tạo ra thời cơ, động lực mới để sớm khắc phục những khó khăn,

bất cập trong quá trình phát triển, thúc đẩy Hà Nội phát huy tốt hơn vai trò

của đô thị trung tâm, hạt nhân phát triển Vùng Thủ đô.

Về những thành tựu đổi mới, Thành phố Hà Nội cũng đã đạt được

nhiều thành tựu to lớn và khá toàn diện. Những kết quả của sự phát triển kinh

tế, văn hóa, xã hội là tiền đề, củng cố niềm tin cho cán bộ, đảng viên và nhân

119

dân vào SLĐ duy nhất của Đảng ta. Vị thế, vai trò và trách nhiệm của Hà Nội

ngày nay càng trở nên đặc biệt quan trọng, sau khi được mở rộng về quy mô

diện tích, hành chính, dân số và phát triển vượt bậc về kinh tế, văn hóa, xã

hội:

Về kinh tế, Hà Nội là trung tâm kinh tế, tài chính, dịch vụ, thương mại

và du lịch lớn nhất ở phía Bắc, đứng thứ hai của cả nước và có vị trí cao trong

khu vực. Kinh tế Thủ đô cũng có sự thay đổi rõ rệt, tốc độ tăng trưởng kinh tế

khá, đóng góp quan trọng trong tăng trưởng cả nước. Bình quân giai đoạn

2016 - 2020, tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) ước tăng 7,39%, đạt mục

tiêu đề ra (từ 7,3 - 7,8%), cao hơn giai đoạn 2011 - 2015 (6,93%). Năm 2020,

quy mô GRDP ước đạt 1,06 triệu tỷ đồng, khoảng 45 tỷ đô la Mỹ. GRDP bình

quân đầu người ước đạt 5.420 đô la Mỹ, tăng 1,5 lần so với năm 2015, gấp

1,8 lần bình quân cả nước. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, theo hướng

hiện đại, tỷ trọng khu vực công nghiệp và dịch vụ tăng; khu vực nông nghiệp

giảm còn 2,09%. Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn liên tục tăng và vượt

dự toán; lũy kế giai đoạn 2016 - 2020 ước đạt gần 1.200 nghìn tỷ đồng, tăng

11,1%/năm, gấp 1,64 lần giai đoạn 2011-2015.[78]

Về văn hóa, xã hội, Hà Nội đã quan tâm đầu tư, thực hiện hiệu quả

Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững; đời sống nhân dân

được cải thiện rõ rệt, nhất là nông dân, thu nhập bình quân cao hơn trước.

Thấu suốt quan điểm văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội, vừa là mục tiêu,

động lực phát triển, Hà Nội luôn quan tâm chăm lo giữ gìn, bảo tồn, phát huy

các giá trị văn hóa phong phú, đa dạng để quá trình hòa quyện, kết tinh, lan

tỏa thấm sâu vào đời sống xã hội. Tỷ lệ tổ dân phố, làng, gia đình văn hóa

tăng; tổ chức việc cưới, việc tang ngày càng phù hợp với nếp sống văn minh.

Một số di sản đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới như

Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội, Hội Gióng đền Phù Đổng

và Đền Sóc, 82 bia tiến sĩ triều Lê - Mạc...; Văn Miếu - Quốc Tử Giám được

120

công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt... Sự nghiệp giáo dục, y tế, thể thao của

Thành phố luôn nằm trong tốp đầu của đất nước. An ninh chính trị được giữ

vững; trật tự xã hội được bảo đảm; bảo vệ an toàn tuyệt đối các mục tiêu,

công trình trọng điểm, hàng nghìn sự kiện chính trị lớn của đất nước và các

hoạt động quốc tế mỗi năm; giải quyết thành công các tình huống phức tạp

phát sinh; làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù

địch. Hà Nội đã thiết lập quan hệ hợp tác hữu nghị với hơn 100 thủ đô, thành

phố của các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Năm 2010, thành phố tổ

chức thành công Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, được dư

luận trong nước, quốc tế đánh giá cao.

Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết chuyên đề về Thủ đô Hà Nội.

Luật Thủ đô cũng được thông qua tại Kỳ họp thứ tư Quốc hội khóa XIII ngày

21/11/2012 (Luật số 25/2012/QH13) tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho xây

dựng và phát triển Thủ đô Hà Nội. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyện Quy

hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm

2050 với mục tiêu xây dựng Thủ đô phát triển bền vững, có hệ thống cơ sở hạ

tầng xã hội và kỹ thuật đồng bộ, hiện đại, phát triển hài hòa giữa văn hóa với

phát triển kinh tế, chú trọng kinh tế tri thức và bảo vệ môi trường.

Ba là, trong quá trình lãnh đạo, Thành ủy Hà Nội đã có được một số

kinh nghiệm trong lãnh đạo công tác PCLP trên địa bàn

Với quyết tâm của HTCT và nhân dân Thành phố, công tác PCLP trên

địa bàn thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Tuy vẫn còn một số

hạn chế, song những kết quả đạt được đã củng cố niềm tin và tạo điều kiện

thuận lợi cho SLĐ của Thành ủy trong thời gian tới. Những ưu điểm và cả

những khuyết điểm đều mang lại những bài học, những kinh nghiệm có giá trị

để Thành ủy vận dụng, phát huy trong tiếp tục lãnh đạo công tác PCLP nhằm

đạt được mục tiêu, phương hướng đặt ra.

121

4.1.1.2. Khó khăn

Một là, tình hình thế giới và trong nước có nhiều diễn biến phức tạp,

mang lại những thời cơ và thách thức đan xen nhau

Bối cảnh tình hình quốc tế đang có những diễn biến phức tạp, khó

lường, quá trình hội nhập quốc tế với những thời cơ, thuận lợi và thách thức

đan xen nhau, phát triển kinh tế đứng trước sự cạnh tranh quyết liệt. Đông

Nam Á là khu vực phát triển năng động nhưng tiềm ẩn những yếu tố mất ổn

định. Tình hình biển Đông phức tạp, “điểm nóng”, phát sinh mâu thuẫn giữa

các quốc gia. Sự phức tạp của mạng xã hội và nguy hiểm của tội phạm mạng,

tội phạm công nghệ cao, cùng với công tác quản lý kinh tế yếu kém, tình hình

dịch bệnh phức tạp… gây ra hiệu quả nguy hại cho nền kinh tế quốc gia, nhất

là những quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Hơn nữa, qua kết

quả chống dịch COVID – 19, uy tín của Việt Nam với quốc tế tiếp tục tăng

nhanh, làn sóng đầu tư lớn về Việt Nam và Hà Nội cũng đặt ra cho công tác

quản lý nhà nước những thách thức lớn trong đó có việc kiểm soát ngăn ngừa

và xử lý tình trạng tham nhũng, lãng phí.

Trong nước, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong

khu vực và trên thế giới vẫn đang hiện hữu. Nước ta vẫn là nước có thu nhập

trung bình. Thời kỳ “dân số vàng” sớm qua đi nếu không tận dụng tốt cơ hội

này trong đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng

cao. Tốc độ tăng trưởng kinh tế khá song chưa tương xứng với tiềm năng và

yêu cầu, chưa thực sự bền vững. Mặt trái của nền kinh tế thị trường tác động

rất mạnh vào đời sống, vào tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Sự

phân hóa giàu nghèo giữa các vùng, miền, giữa các tầng lớp dân cư được thể

hiện khá rõ nét, vấn đề ô nhiễm môi trường, các tệ nạn xã hội có chiều hướng

gia tăng.

Hai là, vị thế ngày càng cao của Thành phố Hà Nội đặt ra những yêu

122

cầu mới trong phát triển kinh tế - xã hội

Với vị thế và tầm cao mới, Hà Nội có trách nhiệm cao cả và nặng nề

với cả nước: giữ vững vị thế là trung tâm chính trị, hành chính, ngoại giao,

kinh tế đầu não của quốc gia; xây dựng Thủ đô văn hiến, văn minh, thanh lịch

và hiện đại, là trung tâm văn hóa lớn, giàu bản sắc dân tộc; là thành phố xanh,

sạch, đẹp, có hệ sinh thái bền vững, môi trường được bảo vệ tốt; là điểm đến

an toàn, hấp dẫn trong khu vực và trên thế giới. Hà Nội cần chủ động đi trước

cả nước, phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững gắn với tăng cường

quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hội nhập quốc tế. Đảng bộ Thành phố Hà

Nội là Đảng bộ lớn nhất cả nước với hơn 40 vạn đảng viên, vì vậy, phải phấn

đấu gương mẫu đi đầu, là Đảng bộ tiêu biểu của cả nước. Thành ủy Hà Nội

phải nâng cao năng lực lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, trong đó có

năng lực lãnh đạo công tác PCLP.

Ba là, nhiều yếu tố tác động dễ dẫn đến nguy cơ lãng phí đang ngày

càng gia tăng về số lượng và mức độ nguy hại, nhất là khi nhiều trường hợp

lãng phí gắn liền với tham nhũng

Công tác PCLP là công tác khó khăn, phức tạp, nhất là quy mô đầu tư

ngày càng lớn, sự phát triển đô thị ngày càng nhanh, tính chất của công tác

quản lý đô thị ngày càng phức tạp về mọi mặt. Việc tính toán giá trị thất thoát

là rất khó, nhưng không khó nhận ra sự lãng phí khá phổ biến trong thực tế.

Về cảm quan, người dân ở nhiều địa phương trên cả nước đều có thể nhìn

thấy các loại chợ đầu mối, siêu thị đầu tư xong không có tiểu thương buôn

bán; cảng biển đầu tư hàng ngàn tỷ đồng nhưng quá ít tàu thuyền cập bến;

bệnh viện không khai thác hết công suất do thiếu thiết bị, máy móc; trung tâm

đào tạo nghề xây xong gần như bỏ đó vì không thu hút được người học; hàng

loạt công trình phục vụ cho thể dục, thể thao, văn hóa đang cho thuê kinh

doanh nhà hàng, bán bia, cafe do không sử dụng hết công năng… Trong khi

123

đó, nhiều nơi vẫn có tâm lý coi nhẹ các hành vi lãng phí ngay trong hoạt động

quản lý, chỉ coi lãng phí là hành vi cần phải khắc phục, nhưng chưa đến mức

nghiêm trọng, công tác PCLP trong toàn xã hội vẫn còn bị coi nhẹ.

Các hành vi gây lãng phí có tính chất “dễ lây lan”. Nếu không có sự

kiểm soát về lãng phí sẽ tạo tâm lý “làm theo” người khác, địa phương khác,

cơ quan khác… trong điều hành và thực thi các hoạt động quản lý. Các hành

vi lãng phí thường không gặp trở ngại gì về nhận thức, nhiều khi còn giúp gia

tăng sự chây lười trong nghiên cứu các giải pháp tiết kiệm. Người lãnh đạo có

tâm lý cục bộ lợi ích thường bỏ qua những công đoạn cần thiết của quản lý.

Từ đó dẫn đến lãng phí mang tính xã hội. Ví dụ, thay vì khai thác khoáng sản

phải có chi phí xử lý chất thải (chi phí vận chuyển, thuê nơi đổ, chôn cất…)

thì họ có thể đổ ngay bên cạnh những con sông, hay ruộng vườn của nông

dân; chất đống vật liệu đồ dùng cũ khi mua tài sản mới… thay bằng việc tính

toán sử dụng một cách hợp lý những gì còn dùng được, thậm chí là không

mua sắm nếu không cần thiết…

Tuy vậy, chế tài xử lý lãng phí chưa đủ sức tính răn đe, ngăn chặn hieuj

lực và hiệu quả. Nhiều văn bản pháp chế ban hành nhằm ngăn chặn lãng phí,

thực hành tiết kiệm đã có hiệu lực, trong đó có những quy định được hướng

dẫn bằng cách lượng hóa như thế nào là hành vi lãng phí, phải chịu trách

nhiệm cá nhân và trách nhiệm bồi hoàn nhưng chủ yếu là cảnh báo, nhắc nhở

mà ít có biện pháp mạnh, cụ thể ngăn chặn các hành vi lãng phí. Trong rất

nhiều trường hợp, lãng phí là rất lớn và có thể nhận diện được nhưng việc

phát hiện, quy trách nhiệm và xử lý người gây ra lãng phí đó rất khó khăn do

nhiều cơ chế không rõ ràng trách nhiệm pháp lý, ngay cả cơ chế công khai và

trách nhiệm giải trình. Những thủ tục để xét một hành vi trong các hoạt động

quản lý của các dự án, các công trình, các đề án quy hoạch… có lãng phí hay

không cũng khá phức tạp, đã cho thấy đó là việc không đơn giản, mất nhiều

124

thời gian nhưng không dễ phát hiện được.

Những thuận lợi và khó khăn trên đã đặt ra cho Thành ủy Hà Nội

những vấn đề cần quan tâm trong công tác PCLP, nhất là trong phòng ngừa,

phát hiện và xác định nguy cơ tiềm ẩn lãng phí trong khu vực quản lý của cơ

quan, đơn vị và xây dựng kế hoạch cụ thể đối với các lĩnh vực, vị trí có thể

phát sinh lãng phí để có giải pháp khắc phục, xây dựng HTCT và đội ngũ cán

bộ thực sự trong sạch, vững mạnh, gương mẫu, góp phần ổn định chính trị,

đảm bảo an ninh trật tự để xây dựng và phát triển Thủ đô.

Đại hội đại biểu lần thứ XVII Đảng bộ Thành phố Hà Nội xác định

4.1.2. Phƣơng hƣớng

định hướng lớn và nhiệm vụ trọng tâm đầu tiên trong nhiệm kỳ 2020-2025 là:

“Tiếp tục tạo chuyển biến mạnh mẽ về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng,

xây dựng hệ thống chính trị thực sự trong sạch, vững mạnh, tiêu biểu, bộ máy

tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả... Đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng,

thực hành tiết kiệm, chống lãng phí... Củng cố và tăng cường niềm tin của

nhân dân đối với Đảng bộ”[20].

Phát biểu chỉ đạo Đại hội, Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú

Trọng cũng lưu ý và nhấn mạnh: “Thường xuyên giáo dục, rèn luyện nâng

cao bản lĩnh chính trị, bồi dưỡng nhân cách, đạo đức cách mạng cho đội ngũ

cán bộ, đảng viên, phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả với các căn bệnh của

chủ nghĩa cá nhân. Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng chính trị của Đảng,

kiên quyết và thường xuyên đấu tranh, phê phán, bác bỏ các quan điểm sai

trái, xuyên tạc, thù địch; đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư

tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển

hoá" trong nội bộ…Tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng,

thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tiêu cực, với quyết tâm cao hơn, hành

động mạnh mẽ, quyết liệt hơn, hiệu quả hơn, không có vùng cấm, không có

125

ngoại lệ; khắc phục bằng được những yếu kém, khuyết điểm trong nhiệm kỳ

qua về vấn đề này”[88].

Nhằm “xây dựng Đảng bộ và hệ thống chính trị trong sạch, vững

mạnh; khơi dậy ý chí, phát huy truyền thống ngàn năm văn hiến, anh hùng,

sức mạnh đại đoàn kết toàn dân; đẩy mạnh đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc

tế; xây dựng Thủ đô ngày càng giàu đẹp, văn minh, hiện đại”[20] theo tinh

thần Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Hà Nội lần thứ XVII, xuất phát từ

tình hình thực tế và kết quả lãnh đạo công tác PCLP qua các năm, việc lãnh

đạo công tác PCLP của Thành phố Hà Nội trong những năm tới tập trung vào

những phương hướng chủ yếu sau đây:

Kiên quyết, kiên trì trong lãnh đạo công tác PCLP, kết hợp chặt chẽ

giữa tích cực phòng ngừa với chủ động phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời

những hành vi lãng phí và bao che, dung túng những hành vi lãng phí. Phát

huy sức mạnh tổng hợp của toàn hệ thống chính trị và của nhân dân trong đấu

tranh PCLP. Một mặt, công tác PCLP phải tập trung vào những lĩnh vực quan

trọng trong đời sống xã hội, mặt khác, đấu tranh PCLP phải trở thành công

việc của toàn xã hội, dấy lên phong trào toàn dân PCLP, xây dựng lối sống

tiết kiệm đẹp đẽ của xã hội, tạo sức sống bền vững lâu dài cho cuộc đấu tranh

PCLP.

Tăng cường công tác tuyên truyền đấu tranh phòng, chống lãng phí;

nâng cao nhận thức, trách nhiệm, kiên trì xây dựng văn hóa không tham

nhũng, lãng phí; tạo sự thống nhất cao về ý chí và hành động trong cán bộ,

đảng viên và nhân dân, trước hết là sự gương mẫu, quyết liệt của NĐĐ cấp

ủy, NĐĐ trong công tác PCLP, góp phần củng cố niềm tin của cán bộ, đảng

viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Kiên trì giáo dục, rèn luyện cán bộ,

đảng viên, công chức, viên chức Thủ đô về đức tính cần kiệm, xây dựng văn

hóa tiết kiệm, không tham nhũng, lãng phí.

126

Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách, quy chế, quy định của Thành

phố trong các lĩnh vực quản lý và sử dụng tài sản nhà nước, đầu tư xây dựng

cơ bản; quản lý quy hoạch, quản lý, sử dụng đai đất, phân bổ ngân sách, tuyển

dụng và bổ nhiệm cán bộ, trong thanh tra, kiểm tra, điều tra, truy tố, xét xử, thi

hành án.…, bảo đảm thực hiện công khai, minh bạch trên các lĩnh vực; đẩy

mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, đổi mới công tác cán

bộ; kiểm soát có hiệu quả tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn,

trước hết là lãnh đạo, quản lý. Kịp thời điều chuyển, thay thế lãnh đạo, quản lý

khi xác định có biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, uy tín thấp; xử lý nghiêm cán

bộ nhũng nhiễu, vòi vĩnh, phiền hà cho doanh nghiệp và người dân.

Tăng cường hiệu lực, hiệu quả công việc kiểm tra, giám sát, kỷ luật

Đảng, Thanh tra Nhà nước và giám sát HĐND, Đoàn đại biểu Quốc hội,

MTTQ Thành phố, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và bộ máy Nhà

nước; xây dựng bộ ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, liêm khiết, năng lực và uy

tín, ngang tầm nhiệm vụ trong tình hình mới. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phát

hiện sớm, xử lý kịp thời, nghiêm minh các vụ việc, vụ án tham nhũng, lãng

phí; nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản tham nhũng, lãng phí. Nâng cao hiệu

quả hoạt động, công tác phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị có chức năng

PCTN, LP. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức CT-XH, các cơ

quan thông tin, truyền thông của Thành phố và Nhân dân trong công tác

phòng, chống tham phí, THTK, CLP, tiêu cực.

Nâng cao trách nhiệm, tính tiên phong, gương mẫu của cấp ủy, chính

quyền, NĐĐ trong THTK, CLP; tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hệ thống cơ chế,

chính sách của Thành phố về định mức, tiêu chuẩn, chế độ làm cơ sở để thực

hiện tiết kiệm. Đẩy mạnh thực hiện công khai, minh bạch, cải cách hành

chính; phát huy mạnh mẽ dân chủ, xây dựng cơ chế, quy trình giám sát, kiểm

tra về THTK, CLP, xử lý nghiêm các vi phạm về lãng phí; chú trọng THTK,

127

CLP trong quản lý ngân sách, đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý sử dụng đất

đai, tài nguyên.

4.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TĂNG CƢỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA

THÀNH ỦY HÀ NỘI ĐỐI VỚI CÔNG TÁC PHÕNG, CHỐNG LÃNG PHÍ ĐẾN

NĂM 2030

Để tăng cường SLĐ của Thành ủy Hà Nội đối với công tác PCLP đến

năm 2030, luận án đã dự kiến 07 giải pháp và xin ý kiến mở (có phần đề xuất

Ý kiến khác) trong phiếu trưng cầu ý kiến. Kết quả khảo sát cho thấy: 100%

người được hỏi không đề xuất thêm giải pháp hay biện pháp cụ thể nào, phần

lớn người được hỏi đều tán đồng với 07 giải pháp được đưa ra với tỷ lệ cao,

đều trên 70%. [chi tiết xem Phụ lục 6].

Hình 4.1. Giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy Hà Nội

đối với công tác PCLP

128

4.2.1. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức

đảng, trƣớc hết là của Thành ủy và Bí thƣ Thành ủy về vai trò lãnh đạo

đối với công tác phòng, chống lãng phí

Nhận thức là nhân tố quan trọng, đầu tiên tác động đến mỗi tổ chức, mỗi

cá nhân về tác hại của lãng phí để có quyết tâm ngăn chặn, đẩy lùi. Nâng cao

nhận thức là việc làm đầu tiên, cần thiết nhằm tạo nên quyết tâm chính trị cao,

nỗ lực lớn của toàn Đảng bộ và nhân dân trong việc thực hiện đường lối của

Đảng, pháp luật của Nhà nước về PCLP. Hiện nay, nhận thức về lãng phí và

PCLP đã có sự thay đổi so với trước đây do tình trạng lãng phí với quy mô

ngày càng lớn, tính chất ngày càng phức tạp. Lãng phí không chỉ là một biểu

hiện của sự suy thoái về đạo đức mà còn là tệ nạn, là tội ác và cùng với tham

nhũng vẫn là “giặc nội xâm” của nhân dân ta, là một trong những nguy cơ đối

với Đảng cầm quyền. Vì vậy, công tác PCLP cũng cần được nhận thức đầy đủ

và thực hiện ở một cấp độ mới, cao hơn, quyết liệt hơn và trước hết là từ việc

thay đổi tư duy.

Thực tiễn tại Đảng bộ Thành phố Hà Nội cho thấy, Thành ủy Hà Nội đã

quan tâm và có nhiều hoạt động lãnh đạo công tác PCLP và đạt được nhiều

kết quả tích cực, tuy nhiên, vẫn còn tình trạng “trên nóng, dưới lạnh” trong

lãnh đạo, chỉ đạo, cấp ủy các cấp trực thuộc, tổ chức đảng ở một số cơ quan,

địa phương, đơn vị trên địa bàn vẫn chưa quan tâm đúng mức đến công tác

PCLP, triển khai thực hiện còn thiếu quyết liệt. Vì vậy, giải pháp đầu tiên

trong tăng cường SLĐ của Thành ủy Hà Nội đối với công tác PCLP là nâng

cao trách nhiệm, thống nhất nhận thức và hành động của từng cấp, từng ngành

và mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và nhân dân, đặc biệt là trách

nhiệm của NĐĐ cơ quan, đơn vị, từ đó tạo được sự thống nhất chung về nhận

thức trong toàn HTCT và xã hội Thành phố về vai trò của Thành ủy Hà Nội

và cấp ủy đảng, tổ chức đảng các cấp trong công tác này.

129

Để nâng cao nhận thức của các cấp ủy, tổ chức đảng, cả HTCT, toàn thể

cán bộ, đảng viên và nhân dân Thành phố Hà Nội về công tác PCLP, Thành

ủy phải coi trọng thực hiện một số nội dung sau đây:

Thứ nhất, Thành ủy phải tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng

cao nhận thức, trách nhiệm cho các đồng chí thành ủy viên, cho các cấp ủy viên

các cấp trong Thành phố về tính cấp thiết của công tác PCLP và vai trò quan

trọng của việc tăng cường SLĐ của Đảng đối với công tác PCLP. Với tinh

thần, ý chí lãnh đạo công tác PCLP phải quyết liệt như cuộc đấu tranh PCTN.

Công tác PCLP phải thật sự được các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền và

NĐĐ các cơ quan, tổ chức, đơn vị coi là một nhiệm vụ trọng tâm, thường

xuyên và tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện. Thành ủy cần tuyên truyền sâu

rộng các nội dung PCLP đã được xác định đến các tổ chức đảng, chính quyền,

các tổ chức CT-XH và các địa phương, đơn vị trên địa bàn Thành phố Hà Nội.

Trong các kỳ sinh hoạt đảng, PCLP phải được đưa vào thảo luận và xây dựng

giải pháp thực hiện. Nội dung này cũng có thể đưa vào chương trình đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ, đảng viên tại Trường cán bộ Lê Hồng Phong và trung tâm

bồi dưỡng chính trị quận, huyện. Tiếp tục lấy kết quả công tác PCLP làm một

trong các tiêu chí để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của tổ chức đảng,

cơ quan, đơn vị và của cán bộ, đảng viên hàng năm.

Thứ hai, Thành ủy lãnh đạo công tác tuyên truyền, phát huy vai trò của

các lực lượng, nhất là các cơ quan báo chí, truyền thông của Thành phố tăng

cường thông tin, tuyên truyền về PCLP. Tuyên truyền, giáo dục không chỉ

nhằm nâng cao nhận thức mà còn phải hướng đến tạo lập thói quen, tác phong

làm việc của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Với mỗi tổ chức, bên cạnh tuyên

truyền, giáo dục, cần thiết phải có những chính sách, cơ chế cụ thể, hợp lý

trong công tác cán bộ nhằm thúc đẩy động lực làm việc của cán bộ, nâng cao

hiệu quả làm việc, tránh tình trạng lãng phí “sức lao động”, “thời giờ”, “tiền

bạc”. Với mỗi cá nhân, THTK, CLP phải trở thành thói quen, lối sống tốt đẹp,

130

lành mạnh. Tiết kiệm phải trở thành nét văn hóa của cán bộ, công chức và

nhân dân Thủ đô. Nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình, làm cho tự phê

bình và phê bình trở thành nền nếp để giáo dục lẫn nhau THTK, CLP. Tuyên

truyền PCLP cần gắn việc thực hiện Nghị quyết hội nghị lần thứ 4, Ban chấp

hành Trung ương Đảng khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng;

ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những

biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ và "Chỉ thị số 05-

CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị "về tiếp tục đẩy mạnh học tập và

làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Lãnh đạo chính quyền

chủ động, tích cực chỉ đạo đưa nội dung Luật THTK, CLP vào chương trình

giáo dục theo các quy định của Nhà nước, phù hợp với đặc điểm của Thủ đô

trong giai đoạn hiện nay.

Thứ ba, lãnh đạo công tác PCLP cần được coi là một trong những lĩnh

vực và nhiệm vụ quan trọng và thường xuyên của các cấp ủy đảng.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định “Coi

phòng, chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của công

tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững

mạnh, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc” [29, tr. 251]. Điều đó đòi hỏi

các cấp ủy đảng phải thấm nhuần tư tưởng, quan điểm chỉ đạo của Đảng, đưa

công tác PCLP trở thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm thường xuyên

của cấp ủy đảng và chính quyền để tập trung chỉ đạo. Các cấp ủy, tổ chức

khác trong HTCT đều phải xác định PCTN; THTK, CLP là nhiệm vụ quan

trọng vừa cấp bách, vừa lâu dài; tổ chức triển khai có trọng tâm, trọng điểm,

có sơ kết, tổng kết để có giải pháp tiếu tục lãnh đạo, chỉ đạo hiệu lực và hiệu

quả hơn.

Thành ủy và cấp ủy các cấp cần xác định công tác PCLP phải chú trọng

cả phòng và chống, trong đó lấy phòng ngừa là chính, chống là cần thiết, cấp

bách, thực hiện tốt phương châm: “Chủ động phòng ngừa, phát hiện kịp thời,

131

ngăn chặn hiệu quả, xử lí nghiêm minh”, “vừa tích cực chủ động phòng ngừa,

vừa kiên quyết, kiên trì đấu tranh” PCLP. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả

HTCT và của toàn dân, nòng cốt là các cơ quan nội chính, cơ quan bảo vệ

pháp luật các cấp.

4.2.2. Đổi mới nội dung lãnh đạo phòng, chống lãng phí theo hƣớng

tập trung vào các lĩnh vực quan trọng, có nguy cơ lãng phí lớn, gây bức

xúc trong xã hội

Việc xác định nội dung lãnh đạo PCLP đúng đắn, phù hợp với điều kiện

thực tế và yêu cầu đối với công tác PCLP là yếu tố quyết định đối với hiệu

quả lãnh đạo của Thành ủy nhằm đạt kết quả thiết thực trong công tác PCLP.

Vẫn còn rất ít những vụ việc lãng phí lớn được phát hiện và xử lý kịp thời,

nghiêm minh so với thực tế lãng phí xảy ra. Nhiều vụ việc, biểu hiện lãng phí,

tiêu cực ở một số cơ quan, đơn vị còn được xử lý một cách nể nang, né tránh

hay chỉ rút kinh nghiệm chung chung. Vì vậy, trong thời gian tới, Thành ủy

cần đổi mới nội dung lãnh đạo PCLP nhằm tăng cường SLĐ của Đảng, nâng

cao chất lượng công tác PCLP.

Tập trung lãnh đạo đối với những vấn đề, lĩnh vực bức xúc về lãng phí

Việc lãnh đạo cần toàn diện, nhưng trong mỗi hoàn cảnh, giai đoạn cụ

thể, thường có một số nội dung cần tập trung ưu tiên lãnh đạo, chỉ đạo. Trong

thời gian tới, khó khăn đến từ tình hình lãng phí ngày càng phức tạp đòi hỏi

nội dung lãnh đạo cần đổi mới theo hướng tập trung vào những lĩnh vực có

thể gây lãng phí lớn, gây bức xúc xã hội. Những lĩnh vực hiện nay đang

"nóng" về lãng phí tại Hà Nội có thể kể đến là đầu tư xây dựng, quản lý, sử

dụng các công trình phúc lợi công cộng, quản lý sử dụng tài nguyên đất…

Cần chú trọng ngay từ khâu quy hoạch và quản lý theo quy hoạch, không để

xảy ra tình trạng vừa xây xong rồi lại phá dỡ, làm đi, làm lại. Rà soát lại toàn

bộ các dự án đầu tư đã quá hạn, thậm chí quá hạn khá nhiều năm, gây lãng phí

nguồn lực xã hội, xác định nguyên nhân, quy trách nhiệm của tổ chức, cơ

132

quan quản lý có thẩm quyền, nâng cao trách nhiệm giải trình và đề xuất

phương án xử lý dứt điểm, kể cả việc thu hồi và xử lý kỷ luật cán bộ có liên

quan. Nâng cao chất lượng xây dựng định hướng, nhiệm vụ, giải pháp PCLP

trong các lĩnh vực, có chính sách, quy chế, quy định rõ ràng, cụ thể trong thực

hiện. Lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan phối hợp, xử

lý các vụ việc, hành vi lãng phí hoặc có dấu hiệu lãng phí, nhất là trong các

lĩnh vực đầu tư xây dựng, quản lý sử dụng các công trình phúc lợi công cộng.

Chú trọng tăng cường ứng dụng tiến bộ của khoa học công nghệ trong

phòng, chống lãng phí

Thành ủy quan tâm hơn trong lãnh đạo các cấp ủy, chính quyền các cấp

về nội dung lãnh đạo xã hội, trước hết là HTCT về ứng dụng những tiến bộ

vượt bậc của công nghệ thông tin hiện nay - trong thời đại 4.0. Công nghệ

thông tin đã giúp cải cách hành chính trong thời gian qua là rất rõ ràng và

được khẳng định hiệu quả thiết thực về tiết kiệm, chống lãng phí. Tuy nhiên,

vẫn còn nhiều lãnh địa để ứng dụng công nghệ thông tin trong cải cách hành

chính, tinh gọn bộ máy hành chính nhà nước, cải tiến, nâng cao năng lực phục

vụ, giảm thiểu lao động hành chính, tiết kiệm ngân sách.

Ứng dụng công nghệ thông tin, xử lý đáp ứng nhu cầu người dân trực

tiếp tận nhà, mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng chia sẻ nguồn lực thông

tin, tạo dữ liệu dùng chung đang là vấn đề chưa được chú trọng triển khai.

SLĐ của Thành ủy đối với các tổ chức đảng, chính quyền các cấp chính là sự

kết nối, tạo sức mạnh tổng hợp để khai thức nguồn lợi vô cùng lớn từ sự ứng

dụng của công nghệ thông tin, chia sẻ nguồn lực xã hội sẽ tạo sự đột phá

trong dịch vụ công, thực hành tiết kiệm và PCLP có hiệu quả nhất. Nếu có

SLĐ bài bản bằng chủ trương, chương trình, đề án cụ thể, khoa học, công phu

và quyết liệt trong hành động sẽ khắc phục căn bản tình trạng cát cứ địa

phương, sự khép kín trong hoạt động thực thi nhiệm vụ của các cơ quan, đơn

vị mà lẽ ra có thể tiết kiệm, chống lãng phí được rất nhiều.

133

4.2.3. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Thành ủy đối với

công tác phòng, chống lãng phí

Đổi mới PTLĐ Thành ủy Hà Nội đối với công tác PCLP là nhiệm vụ

quan trọng để nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo PCLP trong điều kiện hiện

nay. Trong khi lãng phí để lại hậu quả nặng nề về tài chính, thiệt hại lớn về

vật chất, gây bức xúc trong dư luận xã hội với mưu mô ngày càng phức tạp,

khí đoán định thì càng phải chú trọng đến đổi mới phương thức lãnh đạo của

Thành ủy đối với các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực tham nhũng, lãng phí.

Đổi mới việc lãnh đạo thông qua các văn bản do Thành ủy ban hành

Trước hết, đối với việc lãnh đạo thông qua các văn bản do Thành ủy ban

hành, có thể nâng cao chất lượng các nghị quyết, quyết định lãnh đạo đối với

từng nhiệm vụ, nội dung PCLP ở địa phương. Các nghị quyết, quyết định phải

đảm bảo phù hợp với đường lối, quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà

nước, xu thế hội nhập quốc tế, điều kiện và khả năng thực tế của địa phương.

Có thể có nghị quyết chuyên đề chung cho PCTN, LP hoặc nghị quyết về

PCLP nhưng vấn đề đáng chú ý là phải coi trọng cả PCTN và PCLP vì trong

thực tế, PCLP thường ít được coi trọng (ngay cả trong các văn bản của Đảng),

thậm chí không tương xứng với PCTN, thậm chí thiếu nhất quán (tiêu đề thì

có đề cập cả PCTN, LP nhưng nội dung thì chỉ nói về PCTN). Trong khi đó,

nhiều trường hợp, lãng phí có liên hệ mật thiết với tham nhũng và hậu quả của

lãng phí cũng không thua kém gì so với lãng phí, đôi khi có những trường hợp

còn nghiêm trọng hơn. Các nghị quyết, quyết định được ban hành phải là sản

phẩm trí tuệ tập thể, được bàn bạc, thảo luận dân chủ trước khi ban hành. Việc

ban hành nghị quyết phải đúng quy trình, đảm bảo sự đồng thuận của cán bộ,

đảng viên và nhân dân. Đổi mới quy trình ban hành, đảm bảo chặt chẽ, khoa

học, phát huy cao độ trí tuệ, bản lĩnh, tính sáng tạo của Ban chấp hành Đảng

bộ Thành phố. Đổi mới, nâng cao năng lực dự báo, tầm nhìn chiến lược trong

xây dựng, ban hành các chủ trương, nghị quyết, chương trình, kế hoạch, đề án

công tác của Thành ủy và cấp ủy các cấp.

134

Đổi mới việc phân công công việc trong Ban chấp hành và phân định rõ

mối quan hệ công tác của các tổ chức trong HTCT trong thực hiện nhiệm vụ

công tác PCLP

Đây là nội dung tiếp nối để thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong

Đảng. Khi đã ban hành các văn bản của Đảng thì việc phân công đảng viên,

cấp ủy viên thực hiện hay chủ trì thực hiện có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả

thực hiện chủ trương của Đảng. Thành ủy cần khẳng định rõ vai trò lãnh đạo

của tập thể Thành ủy và trách nhiệm của từng đồng chí Thành ủy viên đối với

nhiệm vụ PCLP tại Thành phố Hà Nội. Việc phân công cho mỗi thành ủy viên

thường thể hiện trước hết trong quy chế làm việc của Thành ủy. Vì thế cần xây

dựng quy chế và xác định trách nhiệm cá nhân của từng đồng chí cấp ủy viên,

trước hết là người đứng đầu, thành viên trong Ban Thường vụ. Quy chế, quy

định phải tường minh, dễ kiểm tra, dễ xác định và quy kết trách nhiệm.

Lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, bổ sung hoàn thiện quy chế làm việc của

cấp ủy trực thuộc theo đúng quy định, hướng dẫn của Trung ương, chú trọng

khâu tổ chức thực hiện quy chế làm việc, các quy định, quy trình công tác,

trong đó có nhiệm vụ công tác PCLP. Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ,

thực hiện tự phê bình và phê bình, phát huy vai trò, trách nhiệm, tính chủ

động, sáng tạo của các tổ chức và NĐĐ cấp ủy, đơn vị. Phân định rõ chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ công tác của các tổ chức trong

HTCT gắn với phân công, phân cấp mạnh cho cơ sở, mở rộng dân chủ đi liền

với trật tự, kỷ cương trong Đảng và trong xã hội. Đặc biệt, coi trọng nguyên

tắc tập trung dân chủ, quyết định tập thể cấp ủy nhưng phải gắn chặt với phân

công "cá nhân phụ trách", kể cả nơi thực hiện chế độ thủ trưởng phải thực

hiện nguyên tắc: một việc chỉ giao cho một người, một người chịu trách

nhiệm chính, công khai cho dân biết để giám sát và quy trách nhiệm nếu để

xảy ra lãng phí.

Chú trọng việc lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, đôn đốc, kiểm tra,

đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm công tác chỉ đạo gắn với đẩy mạnh cải

135

cách hành chính, khắc phục bệnh bảo thủ, quan liêu, trì trệ… Tiếp tục đổi mới

mạnh mẽ tư duy, cách làm, tính chủ động, sáng tạo, quyết liệt, hiệu quả, thích

ứng với mô hình tổ chức mới và phù hợp với tình hình thực tiễn của Thủ đô.

Thành ủy cũng cần quan tâm tăng cường vai trò lãnh đạo của cấp ủy đảng các

cấp trong Thành phố đối với chính quyền, MTTQ các tổ chức CT-XH cùng

cấp trong thực hiện PCLP, phát huy hơn nữa vai trò của các lực lượng trong

công tác PCLP, nhất là vai trò giám sát.

Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền PCLP

Tuyên truyền và phải kiên trì tuyên truyền về tác hại của tham nhũng,

lãng phí mới tạo ra được dư luận xã hội PCTN, LP. Ngay cả tuyên truyền

cũng không coi nhẹ tuyên truyền PCLP kém hơn so với PCTN. Thành ủy lãnh

đạo công tác tuyên truyền nói chung và tuyên truyền PCLP trong nội bộ tổ

chức đảng, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thẻ chính trị - xã hội và trong các

nhà trường và trong toàn xã hội, trên các phương tiện thông tin đại chúng. Để

nâng cao hiệu lực, hiệu quả, khắc phục tính hình thức trong công tác tuyên

truyền, vận động của Thành ủy Hà Nội và cấp ủy các cấp trong công tác

PCLP, cần thực hiện tốt một số vấn đề cơ bản như: nâng cao tính khoa học,

đầy đủ, minh bạch và kịp thời cung cấp trong thông tin về công tác PCLP cho

cán bộ, đảng viên và nhân dân. Cần công khai đầy đủ, kịp thời các dự án,

công trình, quy chế, quy định về mọi lĩnh vực liên quan đến lãng phí để nhân

dân biết, giám sát việc thực hiện. Đổi mới nội dung, cách thức triển khai

tuyên truyền, vận động; thường xuyên chủ động nắm bắt tư tưởng, thái độ của

các tầng lớp trong xã hội đối với lãng phí và công tác PCLP; gắn kết chặt chẽ

công tác tuyên truyền với nhiệm vụ phát triển các lĩnh vực của đời sống xã

hội và nâng cao tính chủ động trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa

bình” và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán

bộ đảng viên, không để lãng phí trở thành mục tiêu chống phá của các phần tử

cơ hội, thế lực thù địch.

136

Theo đó, thông tin tuyên truyền liên quan đến công tác PCLP cần đa

dạng, việc cung cấp thông tin phải kịp thời, đúng đối tượng và đúng thời

điểm. Các cơ sở đảng cần có sự nhận diện thông tin thật sáng suốt. Thông tin

có giá trị nhất định khi nó có thể thay đổi niềm tin và hành động nhưng nó

cũng có thể phản tác dụng khi xuất hiện không đúng thời điểm, không phù

hợp với đối tượng. Cùng với việc mở rộng nội dung và minh bạch thông tin

cần phải thực hiện bảo vệ bí mật nhà nước nhưng phải tránh tình trạng lợi

dụng quy định để “mật hóa” văn bản, bưng bít thông tin gây phiền hà cho

người dân, doanh nghiệp. Cần chuyển hướng mạnh mẽ từ thông tin một chiều,

định hướng từ trên xuống dưới sang chú trọng thông tin hai chiều. Tăng

cường đối thoại, lắng nghe thông tin thực tiễn từ cơ sở. Thường xuyên nắm

bắt dư luận xã hội để có những giải pháp phát huy mặt tích cực; kịp thời chấn

chỉnh và uốn nắn những biểu hiện tiêu cực...

Tiến hành công tác tuyên truyền thông qua mạng internet một cách trực

diện, liên tục, xây dựng những kênh thông tin trên môi trường mạng vừa tin

cậy đối với Đảng và Nhà nước, vừa thân thiện với cộng đồng mạng để thực

hành công tác thông tin, tuyên truyền một cách nhanh nhạy, hiệu quả. Tiếp

tục phát triển sự nghiệp báo chí, xuất bản đi liền với việc tăng cường SLĐ của

Đảng, sự quản lý của Nhà nước.

Việc gắn kết chặt chẽ công tác tuyên truyền công tác PCLP với nhiệm vụ

phát triển tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội... nhằm theo sát diễn biến,

góp phần kịp thời xử lý, giải quyết các tình huống. Thực tiễn đòi hỏi công tác

tuyên truyền cần và phải có mặt trong cả các tiến trình, sự kiện, hiện tượng,

phong trào để có tiếng nói có sức thuyết phục, có tác động thực tế. Phát huy

vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong

đấu tranh PCLP. Cần có quy định cụ thể về các dự án lớn, các công trình, đề

án có liên quan và có nguy cơ lãng phí cao phải được tổ chức phản biện xã

hội do MTTQ chủ trì. Thông qua các cơ quan truyền thông, tạo dư luận xã hội

137

lên án, phê phán mạnh mẽ những hành vi lãng phí nguồn lực xã hội, nhất là

lãng phí do tham nhũng và gắn với tham nhũng để vụ lợi.

Đề cao PTLĐ thông qua vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ,

đảng viên

Đặc biệt, đề cao vai trò, trách nhiệm nêu gương, thực hiện “nói đi đôi với

làm”, thống nhất tư tưởng và hành động, khắc phục tình trạng độc đoán,

chuyên quyền, quan liêu, xa dân và các biểu hiện suy thoái, tiêu cực. Nêu

gương là một trong những PTLĐ của Đảng, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên nói

chung, cán bộ, đảng viên Thủ đô phải nhận thức đầy đủ và rèn luyện, thực

hành một cách thường xuyên, xứng đáng với kỳ vọng to lớn của Trung ương

Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cả nước nhìn về Thủ đô ta. Thế giới trông

vào Thủ đô ta. Tất cả chúng ta phải ra sức giữ gìn trật tự, an ninh, làm cho

Thủ đô ta thành một Thủ đô bình yên, tươi đẹp, mạnh khỏe cả về vật chất và

tinh thần”[58, tr. 78], “Nhân dân Thủ đô ta có truyền thống cách mạng vẻ

vang và lòng nồng nàn yêu nước, tôi chắc rằng đồng bào Thủ đô sẽ hăng hái

phấn đấu làm cho mọi ngành hoạt động của Thủ đô ngày thêm phát triển, để

làm gương mẫu, để dẫn đầu cho nhân dân cả nước ta trong công cuộc củng cố

hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong khắp

nước ta; để xây dựng một đời sống sung sướng, tươi đẹp, thái bình mãi mãi

cho con cháu chúng ta”[58, tr. 91].

Các cá nhân Thành ủy viên đều là cán bộ chủ chốt, có vị trí quan trọng,

thường là NĐĐ trong nhiều cơ quan, đơn vị trọng yếu của Thành phố, có sức

ảnh hưởng lớn trong HTCT và xã hội, vì vậy, có trách nhiệm không nhỏ trong

PCLP. Cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp phải không ngừng tự học tập, tu

dưỡng, rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất, đạo đức, lối sống; phát huy vai

trò tiền phong, gương mẫu, ý thức, trách nhiệm đi đầu và thực hiện có hiệu quả

các nhiệm vụ chính trị; kiên quyết PCTN, LP, quan liêu và các biểu hiện tiêu

cực khác. NĐĐ phải thật sự gương mẫu trong chấp hành các quy định của

138

Đảng, Luật THTK, CLP, nhất là thực hiện trách nhiệm của NĐĐ được quy

định rất cụ thể trong Luật. Bên cạnh đó, NĐĐ phải dành thời gian thỏa đáng để

lãnh đạo, chỉ đạo công tác PCLP tại địa phương cơ quan, đơn vị mình.

Cấp ủy các cấp tăng cường công tác chỉ đạo giáo dục, kiểm tra, giám sát,

quản lý, phân công nhiệm vụ và định kỳ đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ

của đảng viên. Thường xuyên nắm chắc tình hình tư tưởng, phát hiện kịp thời

những cán bộ, đảng viên vi phạm về đạo đức, lối sống, tham nhũng, lãng phí,

tiêu cực, có biện pháp cụ thể để phòng ngừa, giáo dục, giúp đỡ và xử lý

nghiêm minh đối với những cán bộ, đảng viên sai phạm.

Cấp ủy các cấp và mỗi cán bộ, đảng viên phải thực hiện nghiêm và thực

chất Quyết định số 3814-QĐ/TU, ngày 16-5-2018, của Ban Thường vụ Thành

ủy Hà Nội, về “Việc ban hành Quy định khung tiêu chí đánh giá hằng tháng

đối với cán bộ, công chức, viên chức, lao động hợp đồng trong HTCT TP Hà

Nội”. Cốt lõi là thúc đẩy liêm chính công vụ, tạo sự chuyển biến về chất trong

thực thi nhiệm vụ, nâng cao chất lượng và hiệu quả mọi mặt công tác của đội

ngũ cán bộ, công chức, viên chức, lao động. Trong đó, cần cụ thể hóa các tiêu

chí ý thức tổ chức kỷ luật, lề lối làm việc, thực hiện quy tắc ứng xử với các

nội dung THTK,CLP. Hiệu suất làm việc được nâng lên cũng là nội dung

trọng tâm trong công tác PCLP trong sử dụng lao động và thời gian lao động

trong bộ máy nhà nước. Đẩy mạnh thực hiện cải cách hành chính trong Đảng,

nâng cao năng lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện của cấp ủy

các cấp; kiên quyết chống bệnh phô trương, hình thức, quan liêu, giảm hội

họp, THTK, CLP.

4.2.4. Xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, thực

hiện tốt công tác phòng, chống lãng phí

Lãng phí thường diễn ra trong từng cơ quan, tổ chức, địa phương, đơn vị

với tính chất mức độ khác nhau và từ các nguyên nhân khách quan, chủ quan

khác nhau nhưng giống nhau ở tác hại đối với cơ quan, đơn vị và xã hội. Các

139

tổ chức cơ sở đảng đều có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát

công tác PCLP trong phạm vi cơ quan, tổ chức, địa phương, đơn vị mình.

Toàn Đảng bộ Thành phố Hà Nội cần tiếp tục thực hiện tốt Chương trình 01-

Ctr/TU về “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng và

chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng bộ; tiếp tục thực hiện

Nghị quyết T.Ư 4 (khóa XI) tạo chuyển biến mạnh về công tác xây dựng,

chỉnh đốn Đảng; xây dựng HTCT các cấp thực sự trong sạch, vững mạnh giai

đoạn 2016 - 2020”, coi đây là chương trình “xương sống, cốt lõi”.

Sự lãnh đạo của Thành ủy đối với các đảng bộ trực thuộc nhằm phát huy

mọi tổ chức cơ sở đảng, nâng cao năng lực, nâng cao tầm nhìn, đổi mới tư

duy và quyết tâm lãnh đạo PCLP. Từng cấp ủy các cấp phải tự xây dựng dựng

thể chế quản lý cơ quan, đơn vị không để xảy ra lãng phí trên cơ sở tư duy

khoa học, hiện đại, xây dựng chế tài đủ mạnh và khả thi để giảm thiểu nguy

cơ dẫn đến lãng phí. Thường xuyên quan tâm lãnh đạo cải cách cơ chế quản

lý hành chính, xã hội hóa những ngành nghề dịch vụ để những việc do tư

nhân làm được, làm tốt sẽ đảm trách, tránh lãng phí nguồn lực công. Lãnh đạo

các cấp ủy trực thuộc thực hành tiết kiệm trên mọi lĩnh vực có thể tiết kiệm

được như xây dựng trụ sở dùng chung, thuê hay thuê mua các trụ sở cơ quan,

cơ sở hạ tầng dịch vụ, hạn chế tối đa sử dụng xe công chuyển mạnh sang xã

hội hóa, sử dụng phương tiện giao thông công cộng, xe tư nhân. Thuê nhân

lực theo thời điểm, sử dụng chuyên gia tự do, sự phối hợp của các cơ quan,

đơn vị, tổ chức khác…

Nâng cao năng lực lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng đối với công

tác PCLP cần tập trung vào: thực hiện nghiêm túc các khâu của công tác cán

bộ từ lựa chọn, quy hoạch, bổ nhiệm đến luân chuyển, đánh giá cán bộ. Tiêu

chuẩn cấp ủy viên từ Thành ủy viên, ủy viên ban thường vụ thành ủy, bí thư,

phó bí thư thành ủy đến cấp ủy viên các cấp cần được cụ thể hóa trên tinh

thần quán triệt sâu sắc Nghị quyết số 26-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung

ương Đảng và tiêu chuẩn cán bộ nêu tại Quy định số 89-QĐ/TW, Quy định số

140

90-QĐ/TW của Bộ Chính trị khóa XII. Kiên quyết sàng lọc, không để lọt vào

cấp ủy những người bản lĩnh chính trị không vững vàng; phẩm chất, năng lực,

uy tín giảm sút; thiếu gương mẫu, mất đoàn kết, cục bộ, bè phái, cơ hội, thấy

đúng không dám bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh; có biểu hiện suy thoái

về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong

nội bộ; chạy chức, chạy quyền, tham nhũng, tiêu cực, "lợi ích nhóm"; vi phạm

nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế, quy định hiện hành của Đảng, Nhà

nước, tiêu chuẩn chính trị và những điều đảng viên không được làm; quan

liêu, cửa quyền, thiếu gắn bó mật thiết với nhân dân; bản thân hoặc vợ

(chồng), con vi phạm các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà

nước làm ảnh hưởng tới uy tín cơ quan, đơn vị, bản thân cán bộ; kết quả thực

hiện nhiệm vụ không cao. Nâng cao chất lượng quy hoạch, cơ cấu hợp lý theo

hướng dẫn, quy định của Đảng. Đẩy mạnh đào tạo cơ bản, bồi dưỡng Thành

ủy viên, cấp ủy viên đương chức, cấp ủy viên các cấp trong đó chú trọng bồi

dưỡng kiến thức, kỹ năng về lãnh đạo công tác PCLP.

4.2.5. Tăng cƣờng kiểm tra, giám sát, siết chặt kỷ luật, kỷ cƣơng

trong toàn Đảng bộ Thành phố Hà Nội, phát huy vai trò của Nhân dân,

MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội trong phản biện và giám sát xã

hội trong thực hiện công tác phòng, chống lãng phí

Tăng cường kiểm tra, giám sát của Thành ủy Hà Nội và Ủy ban Kiểm

tra các cấp của Thành phố, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong toàn Đảng bộ

Thành phố Hà Nội trong thực hiện công tác PCLP

Trong thời gian qua, công tác kiểm tra, giám sát đã góp phần quan

trọng, có hiệu quả nhất vào cuộc đấu tranh PCLP. Nhờ có công tác kiểm tra,

giám sát, công tác PCLP đã đạt được những kết quả nhất định, cả trong ngăn

chặn hành vi lãng phí cũng như trong giáo dục, răn đe nhằm phòng ngừa lãng

phí xảy ra. Kiểm tra, giám sát là chức năng lãnh đạo cơ bản của Đảng, tăng

cường kiểm tra, giám sát, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng bộ chính là

141

giải pháp quan trọng nhằm tăng cường SLĐ của Thành ủy Hà Nội đối với

công tác PCLP. Do đó, cùng với việc tổ chức nghiên cứu, quán triệt công tác

kiểm tra, giám sát, các cấp ủy, tổ chức đảng phải có chương trình, kế hoạch cụ

thể và bằng nhiều hình thức phong phú, thiết thực. Kế hoạch kiểm tra, giám

sát nhằm PCLP phải được xây dựng một cách cụ thể, kiểm tra có trọng tâm,

trọng điểm, giám sát mở rộng. Tăng cường hoạt động chỉ đạo, hướng dẫn của

cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra cấp trên đối với cấp ủy, tổ chức đảng,

ủy ban kiểm tra cấp dưới trong thực hiện. Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao

chất lượng cán bộ ngành Kiểm tra Đảng ở Thành phố trong PCLP. Phát huy

vai trò các tổ chức trong HTCT và Nhân dân Thành phố Hà Nội tham gia

giám sát đấu tranh PCLP. Các cấp ủy đảng phải xây dựng kế hoạch kiểm tra,

giám sát hàng năm; Ủy ban kiểm tra các cấp tăng cường kiểm tra các tổ chức

đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm.

Thông qua công tác kiểm tra, giám sát phải có kết luận quy rõ trách

nhiệm của tập thể, cá nhân để thất thoát tiền, tài sản của Nhà nước, kiên quyết

thu hồi tài sản bị thất thoát, tài sản do lãng phí. Xử lý nghiêm khắc người lợi

dụng chức vụ, quyền hạn để tham nhũng, thiếu trách nhiệm gây lãng phí đến

tài sản Nhà nước, có hành vi bao che sai phạm, trù dập người tố cáo. Khi phát

hiện sai phạm đến mức cần xử lý hình sự, phải kịp thời chuyển hồ sơ vụ việc

cho cơ quan điều tra tiến hành điều tra, xử lý theo quy định pháp luật và công

khai kết quả xử lý. Phải kiên quyết đấu tranh có hiệu quả đối với hành vi gây

thất thoát, lãng phí. Đối với những vi phạm, thủ trưởng đơn vị phải kịp thời

khắc phục, xử lý hoặc đề xuất, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền có biện pháp

xử lý. Thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm đối với

NĐĐ cơ quan, đơn vị để xảy ra lãng phí.

Cũng như tố cáo tham nhũng, tố cáo lãng phí phải được tiếp nhận một

cách thuận tiện và xử lý kịp thời. Có cơ chế và chính sách để người tích cực

tố cáo lãng phí phải được bảo vệ và khen thưởng đúng mức về vật chất và tinh

142

thần. Đồng thời, xử lý nghiêm những người lợi dụng chống lãng phí để vu

khống, gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ. Người gây ra lãng phí hoặc vi

phạm pháp luật về THTK, CLP phải xử lý kiên quyết, kịp thời, nghiêm minh

về trách nhiệm chính trị, hành chính hoặc hình sự, “bất kể người đó là ai và ở

cương vị nào”.

Siết chặt việc rà soát, đánh giá vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ

chức đảng, chính quyền và NĐĐ mỗi cơ quan, tổ chức, đơn vị trong PCLP,

đặc biệt là các cơ quan, tổ chức sử dụng ngân sách, tài sản của Nhà nước và

doanh nghiệp sử dụng tài nguyên thiên nhiên, trong việc chấp hành pháp luật

về THTK, CLP. Hoàn thiện các quy định về PCLP, nhất là các quy định về

kiểm soát quyền lực, trách nhiệm giải trình, cơ chế công khai, minh bạch.

Quy định rõ trách nhiệm của người đứng đầu trong kiểm tra, phát hiện, xử lý

lãng phí, nâng cao hiệu lực và hiệu quả thu hồi, đền bù tiền và tài sản do để

xảy ra lãng phí, nhất là với động cơ vụ lợi, vì lợi ích cá nhân, “lợi ích nhóm”

mà làm thất thoát lớn tiền và tài sản của Nhà nước.

Thực sự phát huy vai trò của Nhân dân, MTTQ và các tổ chức CT-XH

trong phản biện và giám sát xã hội nhằm PCLP

Công tác PCLP nói riêng, việc đấu tranh chống các biểu hiện suy thoái

về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự

chuyển hóa” nói chung là công việc khó khăn, phức tạp, không thể lơ là, chủ

quan, mất cảnh giác nhưng cũng không thể nóng vội. Việc lãnh đạo công tác

PCLP phải thực hiện thường xuyên, lâu dài đồng thời phải linh hoạt, thường

xuyên đổi mới. Qua việc cụ thể hóa các quy định về THTK, CLP trong từng

nội dung, lĩnh vực cụ thể, đưa vào chương trình, kế hoạch của từng tổ chức

đảng, cơ quan, đơn vị trên địa bàn Thành phố Hà Nội, việc thực hiện công tác

PCLP được thực hiện liên tục từ giai đoạn này sang giai đoạn khác. Qua các

năm, quyết tâm của cấp ủy đảng, cán bộ, đảng viên và Nhân dân Thành phố

143

Hà Nội phải được nâng cao hơn, cuộc đấu tranh PCTN, LP phải ngày càng

quyết liệt hơn. Tuy nhiên, qua nhiều giai đoạn cách mạng, tình trạng lãng phí

ngày càng nhiều và có quy mô ngày càng lớn, tính chất ngày càng phức tạp.

Những nguyên nhân vẫn được xác định là do cơ chế chính sách còn nhiều kẽ

hở để dễ bị lợi dụng, lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm chi phối đến lãng phí ngày

càng phức tạp nhưng ý thức phòng, chống và biện pháp phòng chống chưa đủ

mạnh để ngăn chặn, đẩy lùi. Để phát hiện và phòng ngừa lãng phí, một trong

những biện pháp hữu hiệu, mang lại hiệu quả lâu dài là phải thực sự phát huy

mạnh mẽ vai trò của Nhân dân, MTTQ và các tổ chức CT-XH Thành phố.

Triển khai và thực hiện có hiệu quả Quyết định số 217-QĐ/TW, 218-

QĐ/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) về Mặt trận Tổ quốc tham gia giám sát và

phản biện xã hội; các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý

xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.

Chú trọng phát huy vai trò của hoạt động thanh tra nhân dân, giám sát

đầu tư cộng đồng; thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; đề cao tự phê bình

và phê bình, kiên quyết đấu tranh với hành vi tiêu cực, tham nhũng, lãng phí.

Phát huy vai trò của các cơ quan thông tin, báo chí, các tổ chức chính trị

- xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và nhân dân trong công tác PCLP. Kịp

thời biểu dương, khen thưởng những tập thể và cá nhân cán bộ, đảng viên,

người dân dũng cảm tố cáo, phát hiện hành vi tham nhũng, lãng phí.

Tổ chức thực hiện tốt Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 26/5/2014 của Bộ

Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp công

dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo”; Chỉ thị số 27-CT/TW ngày 10/01/2019

của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo

vệ người phát hiện, tố giác, người đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu

cực”; nâng cao hiệu quả việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân về

tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.

144

4.2.6. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, sự

phối hợp, hỗ trợ của các cơ quan, tổ chức có liên quan trong công tác

phòng, chống lãng phí

Việc tăng cường sự chỉ đạo, lãnh đạo của Trung ương Đảng sẽ có tác

động mạnh và hiệu quả rất lớn về sự lãnh đạo của Thành ủy Hà Nội đối với

công tác PCLP.

Trung ương Đảng, cụ thể là Bộ Chính trị, Ban Bí thư lãnh đạo, chỉ đạo

việc tổng kết việc thực hiện, xác định phương hướng, nhiệm vụ của Thành ủy

Hà Nội, trong đó có nhiệm vụ thực hiện công tác PCLP thông qua việc ban

hành các nghị quyết chuyên đề về PCTN, LP để tạo cơ sở để Thành ủy ban

hành nghị quyết, quyết định phù hợp.

Đảng và Chính phủ tăng cường chỉ đạo việc nghiên cứu khoa học, tổ

chức các hội nghị, hội thảo làm sáng tỏ hơn những vấn đề liên quan trực tiếp

đến việc lãnh đạo công tác PCLP trong điều kiện hiện nay, như: nội dung và

PTLĐ của Đảng, Đảng cầm quyền; đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi các biểu

hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, các biểu hiện "tự diễn

biến”, "tự chuyển hóa” trong nội bộ, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,

phong cách Hồ Chí Minh,...

Trước hết, Trung ương cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách về

quản lý kinh tế, xã hội nhằm PCLP

Quốc hội, Chính phủ tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về

THTK, CLP, xây dựng một cơ chế phòng ngừa thất thoát, lãng phí một cách

chặt chẽ. Qua đó, tạo cơ sở pháp lý cho Thành ủy Hà Nội thực hiện lãnh đạo

công tác PCLP hiệu quả. Trong việc phổ biến, tuyên truyền về các văn bản

pháp luật, quy định về PCLP, các bộ, ban, ngành của Đảng, Nhà nước có thể

tạo thuận lợi về tài liệu, báo cáo viên để nâng cao chất lượng công tác tuyên

truyền, phổ biến phục vụ công tác PCLP.

145

Tiếp tục xây dựng và thực hiện các cơ chế giám sát tài chính trong các

doanh nghiệp, đặc biệt chú ý phát huy quyền giám sát của người lao động.

Thực hiện nghiêm công khai, minh bạch trong hoạt động của các doanh

nghiệp sử dụng vốn nhà nước. Trong giai đoạn hiện nay, khi mà việc cổ phần

hóa doanh nghiệp nhà nước đang được đẩy nhanh tiến độ theo tinh thần Nghị

quyết Trung ương 3 Nghị quyết Trung ương 9 (khóa IX) và Nghị quyết Đại

hội X của Đảng, thì quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp phải được kiểm soát

chặt chẽ nhằm ngăn chặn những vi phạm, tiêu cực trong định giá, đấu giá tài

sản, mua-bán cổ phần doanh nghiệp được chuyển đổi.

Thứ hai, Tăng cường chỉ đạo tăng cường phối hợp giữa các bộ, ngành,

địa phương trong công tác THTK, CLP

Lãnh đạo phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Đảng, Nhà nước, MTTQ

Việt Nam, các tổ chức CT-XH để nâng cao hiệu quả THTK, CLP. Các bộ,

ngành, địa phương triển khai có hiệu quả pháp luật về THTK, CLP; đề ra các

biện pháp cụ thể để tăng cường tính công khai, minh bạch, trách nhiệm trong

hoạt động công vụ; tăng cường các hình thức tiếp nhận thông tin phát hiện

lãng phí và nghiêm túc xử lý các thông tin phát hiện lãng phí theo quy định.

Thứ ba, Bộ Chính trị, Ban Bí thư cần tăng cường theo dõi sát sao và

kiểm tra, giám sát hoạt động của Thành ủy về lãnh đạo công tác PCLP, nhằm

tránh xảy ra những sơ suất trong điều kiện hiện nay, khi mà công tác PCLP có

tính chất và mức độ ngày càng khó khăn, phức tạp, đặc biệt là đối với đặc

điểm tình hình tại Thủ đô Hà Nội. Bộ Chính trị, Ban Bí thư nắm chắc hoạt

động lãnh đạo công tác PCLP của Thành ủy Hà Nội thông qua báo cáo của

Thành ủy hàng quý, hàng năm, qua đó phát hiện các ưu điểm để khuyến

khích, phát huy, phát hiện các khuyết điểm để sửa chữa, ngăn chặn kịp thời,

cho ý kiến chỉ đạo giải quyết kịp thời những vấn đề mới nảy sinh trong thực

tiễn, tạo thuận lợi để Thành ủy tiếp tục lãnh đạo công tác PCLP đạt kết quả.

Đặc biệt, cần có chính sách, cơ chế để khuyến khích, bảo vệ khả thi đối với

146

những người dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, vì lợi ích chung, dám

đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí.

4.2.7. Tổng kết thực tiễn, nghiên cứu hoàn thiện lý luận về phòng,

chống lãng phí

Thực tiễn là cơ sở của lý luận, là động lực của lý luận và thực tiễn luôn

đề ra những nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển nhận thức, đòi hỏi

phải có tri thức mới, nhất là những tri thức được khái quát thành lý luận để trở

lại chỉ đạo thực tiễn. Do đó, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận là nhiệm vụ

quan trọng của Thành ủy trong hoạt động lãnh đạo của mình. Đúng như Chủ

tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Hiểu biết do thực hành mà ra. Hiểu biết lại trải qua

thực hành mà thành lý luận. Lý luận ấy lại phải dùng vào thực hành” [62,

tr.99]. Rồi Người khái quát lại: “Thực hành sinh ra hiểu hiết. Hiểu biết tiến

lên lý luận. Lý luận lãnh đạo thực hành” [62, tr.99]. Đại hội XII của Đảng

nhấn mạnh: phải “đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận,

cung cấp các luận cứ khoa học, lý luận cho việc hoạch định, phát triển đường

lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”[62, tr.99].

Trách nhiệm của cấp ủy đảng các cấp, các ngành trong tổng kết thực tiễn ngày

càng được quy định rõ hơn. Trên cơ sở thẩm quyền được phân định, cấp ủy

đảng các cấp ra sức kiện toàn các cơ quan tham mưu có nhiệm vụ chuyên

trách nòng cốt trong tổng kết thực tiễn, xây dựng kế hoạch tổng kết các nội

dung theo chương trình làm việc toàn khóa.

Để nâng cao chất lượng, trước hết, việc sơ kết, tổng kết phải tiếp tục

được thực hiện thường xuyên, trở thành nền nếp; các vấn đề sơ kết, tổng kết

phải được cụ thể hóa hướng đến các mục tiêu PCLP đã được xác định theo kế

hoạch, chương trình đã xác định. Những kinh nghiệm sau sơ kết, tổng kết

phải được phổ biến đến các cấp trong Thành phố để mỗi cán bộ, đảng viên

được biết và thực hiện. Việc sơ kết, tổng kết sẽ thể hiện cho các tổ chức đảng,

cán bộ, đảng viên và nhân dân thấy được hiệu quả thực tế của công tác PCLP,

147

tạo được động lực mạnh mẽ hơn nữa để củng cố thành quả đạt được, hướng

tới thực hiện mạnh mẽ và lâu dài, bền bỉ hơn nữa trong thời gian tiếp theo.

Đặc biệt, việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về PCLP tại Hà Nội sẽ

cung cấp luận cứ để Đảng bổ sung hoàn thiện đường lối, quan điểm, chủ

trương, giải pháp để lãnh đạo PCLP hiệu lực, hiệu quả hơn.

Các giải pháp PCLP đã được thực hiện cần phải được tổng kết thực tiễn

một cách công phu, nghiêm túc. Những giải pháp về thay đổi cách quản lý

phương tiện làm việc, xe công đã và đang được nhiều người quan tâm nhưng

không có sự tổng kết (như thí điểm khoán kinh phí sử dụng xe công từ ngày

01/3/2017 tại 08 cơ quan, đơn vị thuộc Thành phố đã tiết kiệm so với chi phí

thực tế sử dụng cùng kỳ là 1,771 tỷ đồng, trung bình tiết kiệm 6,7 triệu

đồng/xe/tháng) nhưng chưa tổng kết để nhân rộng. Hay các nguyên nhân của

việc để xảy ra xây dựng nhà trái phép, công trình phải tháo dỡ dù không ảnh

hưởng ngân sách nhà nước nhưng ảnh hướng lớn đến tiền của xã hội, của nhà

đầu tư thì có cách nào ngăn chặn, khắc phục một cách căn cơ để không còn

xảy ra nữa và xử lý cán bộ để xảy ra lãng phí đó như thế nào… Hoặc những

lãng phí do quy hoạch, chồng chéo quản lý, gây lãng phí cho ngành khác, đơn

vị khác như đào bới vỉa hè, lòng đường làm các công trình thoát nước, điện,

bưu chính viễn thông…ai chịu trách nhiệm cả trước đó và sau này nếu còn

xảy ra. Trong tổng kết thực tiễn, phải chú ý lắng nghe các báo cáo kiến nghị

từ thực tiễn, nhất là các mô hình mới, cách làm hay, gương điển hình tiên tiến,

để làm tốt công tác thi đua - khen thưởng, tôn vinh các nhân tố mới. Thực

hiện dân chủ hóa trong nghiên cứu khoa học giúp cho nhiều vấn đề được đưa

ra thảo luận, tranh luận cả trên báo chí, hội thảo trước khi có kết luận, tránh

hình thức, đối phó, không tạo được những kiến nghị, tham mưu để hoạch định

chính sách PCLP có hiệu lực, hiệu quả, sớm đi vào cuộc sống.

148

KẾT LUẬN

1. Lãng phí là việc cá nhân hoặc tổ chức sử dụng và quản lý tiền, tài sản,

lao động, thời gian và tài nguyên không hợp lý, dẫn đến tốn kém, hao tổn một

cách vô ích. Vấn đề PCLP từ lâu đã trở thành xu thế tất yếu, là vấn đề có tính

quy luật của mọi quốc gia, dân tộc. Công tác PCLP, được hiểu là “những hoạt

động của Đảng, Nhà nước, MTTQ và các tổ chức CT-XH các cấp và Nhân

dân trong ngăn chặn, kiềm chế, xử lý, từng bước đẩy lùi các hành vi sử dụng,

quản lý tiền, tài sản, sức lao động và tài nguyên hao tổn, lãng phí, nhằm củng

cố niềm tin trong nội bộ Đảng và trong nhân dân, giữ vững ổn định chính trị,

phát triển kinh tế - xã hội”, là nhiệm vụ cần thiết và cấp bách, nhất là trong

giai đoạn hiện nay.

2. Công tác PCLP được xác định là trách nhiệm của toàn HTCT và toàn

dân, trong đó, Đảng Cộng sản Việt Nam, cụ thể là tổ chức đảng và cấp ủy các

cấp đóng vai trò hết sức quan trọng, có tính chất quyết định đến chất lượng và

hiệu quả công tác PCLP. Thành ủy Hà Nội là cơ quan lãnh đạo Đảng bộ

Thành phố Hà Nội giữa hai kỳ Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố, có vai trò

quyết định đến kết quả công tác PCLP tại Thành phố. Thành ủy Hà Nội lãnh

đạo công tác PCLP là toàn bộ hoạt động của Thành ủy Hà Nội tác động vào

công tác phòng, chống lãng phí, từ xây dựng, ban hành phương hướng, nhiệm

vụ thực hiện công tác PCLP của toàn Đảng bộ Thành phố Hà Nội, lãnh đạo

HTCT và nhân dân Thành phố Hà Nội thực hiện công tác PCLP và kiểm tra,

giám sát việc thực hiện công tác PCLP nhằm đẩy mạnh công tác PCLP trong

mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội trên địa bàn Thành phố, tạo bước đột

phá quan trọng trong PCLP, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh

xã hội, góp phần sử dụng hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển kinh tế

xã hội.

3. Từ năm 2013 đến nay, công tác PCLP luôn được Thành ủy Hà Nội

xác định là nhiệm vụ trọng tâm và thường xuyên, đồng thời tập trung chỉ đạo

149

các cấp, các ngành triển khai thực hiện, chú trọng vào các giải pháp phòng

ngừa, đẩy mạnh cải cách hành chính và phối hợp giữa các cơ quan chức năng

trong phát hiện, xử lý lãng phí. Thành ủy Hà Nội đã tập trung lãnh đạo, chỉ

đạo xây dựng các định hướng về PCLP, trên cơ sở các phương hướng, giải

pháp trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố Hà Nội về phát triển kinh

tế -xã hội, PCTN, LP, chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo

đức, lối sống, các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ

Đảng bộ và các nghị quyết của Đảng về PCTN, LP. Với SLĐ của Thành ủy,

chính quyền, MTTQ và các tổ chức CT-XH cụ thể hóa chủ trương, phương

hướng của Thành ủy thành chương trình, kế hoạch công tác và tổ chức thực

hiện đồng bộ và toàn diện trên toàn Thành phố. Thành ủy cũng đã trực tiếp

lãnh đạo xử lý, ngăn chặn một số vụ việc, hành vi lãng phí hoặc có biểu hiện

lãng phí. Công tác kiểm tra, giám sát và sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm

công tác PCLP được tăng cường. Các PTLĐ cũng phát huy hiệu quả trong tác

động vào công tác PCLP: Các văn bản được xây dựng, ban hành và triển khai

thực hiện một các bài bản, khoa học và quyết liệt; công tác tuyên truyền,

thuyết phục, vận động, giáo dục được coi trọng, được Thành ủy lãnh đạo thực

hiện một cách chủ động và tích cực, lan tỏa đến tất cả các cấp ủy, tổ chức

đảng trực thuộc, từ chính quyền Thành phố, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể

CT-XH đến các quận, huyện, thị ủy, sở, ban, ngành, cơ quan công an, Viện

kiểm sát, Tòa án nhân dân Thành phố… Nhờ đó, công tác PCLP tại Hà Nội

thời gian qua đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận, đã có sự chuyển biến tích

cực và rõ nét cả trong nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên và nhân

dân đối với cuộc chiến chống lãng phí, được dư luận đánh giá cao. Tình trạng

lãng phí bước đầu được kiềm chế, góp phần giữ vững ổn định chính trị, phát

triển kinh tế - xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước.

Tuy nhiên, SLĐ của Thành ủy Hà Nội đối với công tác PCLP vẫn còn

một số khuyết điểm, hạn chế, nổi bật như: Việc phát hiện và xử lý các vụ việc

150

lãng phí còn ít; chưa phát huy tốt vai trò giám sát, phản biện của MTTQ và

các tổ chức CT-XH; công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về

THTK, CLP chưa sâu rộng; còn có cán bộ chủ chốt ở một số đơn vị thiếu

gương mẫu, chưa chỉ đạo quyết liệt, hiệu quả công tác PCLP;… dẫn đến tình

hình tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn tiềm ẩn những diễn biến phức tạp

trên nhiều lĩnh vực. Nguyên nhân của những khuyết điểm, hạn chế nói trên

xuất phát từ nhiều nguyên nhân, song chủ yếu xuất phát từ tính chất khó khăn,

phức tạp của công tác PCLP và nhận thức, trách nhiệm của một số cấp ủy về

công tác PCLP còn hạn chế.

4. Tình hình mới hiện nay đòi hỏi việc thực hiện công tác PCLP phải tiếp

tục được đẩy mạnh với nhiều giải pháp hữu hiệu, trong đó, tiếp tục tăng

cường SLĐ của Đảng chính là giải pháp quyết định nhằm PCLP hiệu quả. Để

tăng cường SLĐ của các Thành ủy Hà Nội đối với công tác PCLP cần thực

hiện một số giải pháp: Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp

ủy, tổ chức đảng, trước hết là của Thành ủy và NĐĐ về vai trò lãnh đạo đối

với công tác PCLP; hai là, đổi mới nội dung lãnh đạo PCLP theo hướng tập

trung vào các lĩnh vực gây bức xúc; ba là, tiếp tục đổi mới PTLĐ của Thành

ủy đối với công tác PCLP; bốn là, xây dựng tổ chức cơ sở đảng vững mạnh

thực hiện tốt công tác phòng, chống lãng phí; năm là, Tăng cường kiểm tra,

giám sát, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong toàn Đảng bộ Thành phố Hà Nội,

phát huy vai trò của Nhân dân, MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội trong

phản biện và giám sát xã hội trong thực hiện công tác phòng, chống lãng phí;

sáu là, tăng cường SLĐ, chỉ đạo của Trung ương Đảng, sự phối hợp, hỗ trợ

của các cơ quan, tổ chức có liên quan trong công tác phòng, chống lãng phí;

bẩy là, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu hoàn thiện lý luận về PCLP./.

151

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Nguyễn Thị Thùy Linh (2017), "Nâng cao giải pháp tiết kiệm và chống lãng phí trong sinh viên", Tạp chí Thanh niên, (32, 36 tháng 9/2017), tr. 12-13. 2. Nguyễn Thị Thùy Linh (2018), “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong phòng, chống lãng phí ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Thông tin khoa học Lý luận Chính trị, (49 tháng 12/2018).

3. Nguyễn Thị Thùy Linh, Nguyễn Hoàng Lĩnh (2018), “Kinh nghiệm tuyên truyền thực hành tiết kiệm, chống lãng phí”, Tạp chí Thanh niên (43 ngày 24/11/2018), tr. 14-15.

4. Nguyễn Thị Thùy Linh, Tạ Thị Minh Phú (2019), “Kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng của Đảng Cộng sản Trung Quốc”, Tạp chí Thông tin khoa học Lý luận Chính trị, (số 12 (61)/2019)

5. Nguyễn Thị Thùy Linh (2019), "Kinh nghiệm thực hành tiết kiệm, chống lãng phí ở Trung Quốc", Tạp chí Sinh hoạt lý luận, Số 08 (165) – 2019. 6. Nguyễn Thị Thùy Linh (2020), "Nhận thức rõ hơn và hành động quyết liệt hơn trong phòng, chống lãng phí", Tạp chí Lý luận chính trị, Số 03– 2020, tr. 73-77.

7. Nguyễn Thị Thùy Linh (2020), "Thực hiện Kết luận số 10-KL/TW về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phòng, chống lãng phí của Thành ủy Hà Nội", Tạp chí Giáo dục lý luận, Số 5 – 2020, tr.36-43. 8. Nguyễn Thị Thùy Linh (2020), "Chống lãng phí, thực hành tiết kiệm từ việc sắp xếp bộ máy, tinh giản biên chế", Tạp chí Sinh hoạt lý luận, Số 05 (170) – 2020, tr.45-48.

9. Nguyen Thi Thuy Linh (2020), "Better awareness of and more decisive actions in watse prevention and combat", Political Theory Journal, Vol 25 – June 2020, pg 83-88.

10. Nguyen Thi Thuy Linh (2020), "The implement-ation of

the Conclusion No.10-KL/TW on strengthening Party’s leadership in preventing wastefulness in Hanoi ", Journal of Theoretical education, Vol 309 – June 2020, pg 31-35.

152

[14, 15, 22, 23, 26, 27, 77-83]

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Lan Anh (2015), "Quan điểm của Hồ Chí Minh về thực hành tiết

kiệm, chống lãng phí", Tạp chí Lịch sử Đảng (1), tr. 45-47.

2. B.T (2017), Phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản cầm quyền, Báo

Yên Bái, truy cập ngày 05/04/2017, tại trang web

http://baoyenbai.com.vn/11/147493/Phuong_thuc_lanh_dao_cua_Dang

_Cong_san_cam_quyen.htm.

3. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa X (2006),

Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 21 tháng 8 năm 2006 về tăng cường sự

lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng

phí, Hà Nội.

4. Ban Chỉ đạo Chương trình 07-Ctr/TU (2017), Báo cáo số 27-BC/BCĐ

ngày 29 tháng 12 năm 2017 về kết quả thực hiện Chương trình 07-

Ctr/TU của Thành ủy (khóa XVI) về “Nâng cao hiệu quả công tác

phòng, chống tham nhũng; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí giai

đoạn 2016-2020” năm 2017 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm

2018, Hà Nội.

5. Ban Chỉ đạo Chương trình 07-Ctr/TU (2018), Báo cáo số 38-BC/BCĐ

ngày 20/6/2018 sơ kết giữa nhiệm kỳ thực hiện Chương trình 07-

CTr/TU của Thành ủy (khóa XVI) về “nâng cao hiệu quả công tác

phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí giai

đoạn 2016-2020”, Hà Nội.

6. Ban Chỉ đạo Chương trình 07-Ctr/TU (2018), Báo cáo số 39-BC/BCĐ

ngày 20/6/2018 sơ kết việc thực hiện thực hiện Chương trình 07-

CTr/TU của Thành ủy (khóa XVI) về “nâng cao hiệu quả công tác

phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí giai

đoạn 2016-2020” 6 tháng đầu năm, nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2018,

Hà Nội.

153

7. Ban Chỉ đạo Chương trình 07-Ctr/TU (2018), Báo cáo số 42-BC/BCĐ

ngày 29 tháng 12 năm 2018 về kết quả kiểm tra công tác lãnh đạo, chỉ

đạo, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong quản lý đầu tư dự án,

công trình trọng điểm của Thành phố, Hà Nội.

8. Ban Chỉ đạo Chương trình 07-Ctr/TU (2018), Kế hoạch số 29-KH/BCĐ

ngày 06/3/2018 tổ chức sơ kết giữa nhiệm kỳ thực hiện Chương trình

07-CTr/TU của Thành ủy (khóa XVI) về “nâng cao hiệu quả công tác

phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí giai

đoạn 2016-2020”, Hà Nội.

9. Ban Chỉ đạo Chương trình 07-Ctr/TU (2019), Báo cáo số 57-BC/BCĐ

ngày 02 tháng 12 năm 2019 về Tổng kết việc thực hiện Chương trình số

07-CTr/TU, ngày 26/4/2016 của Thành ủy Hà Nội về "Nâng cao hiệu

quả công tác phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống

lãng phí giai đoạn 2016-2020", Hà Nội.

10. Báo Dân sinh - cơ quan của Bộ Lao động Thương binh và xã hội (2020),

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng: Hà Nội chưa bao giờ

có vị thế, tầm vóc và cơ hội phát triển như bây giờ, truy cập ngày

12/10/2020, tại trang web https://baodansinh.vn/tong-bi-thu-chu-tich-

nuoc-nguyen-phu-trong-ha-noi-chua-bao-gio-co-vi-the-tam-voc-va-co-

hoi-phat-trien-nhu-bay-gio-20201012134833015.htm.

11. Báo Hà Nội mới (2010), Danh sách Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố

Hà Nội khóa XV (2010-2015), truy cập ngày, tại trang web

http://hanoimoi.com.vn/Tin-tuc/Chinh-tri/392298/danh-sach-ban-chap-

hanh-dang-bo-thanh-pho-ha-noi-khoa-xv-nhiem-ky-2010---2015.

12. Báo Hà Nội mới (2015), Danh sách Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Hà

Nội khóa XVI, truy cập ngày, tại trang web https://hanoimoi.com.vn/tin-

tuc/Chinh-tri/813541/danh-sach-ban-chap-hanh-dang-bo-tp-ha-noi-khoa-xvi.

154

13. Báo Hà Nội mới (2020), Danh sách Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Hà

Nội khóa XVII, truy cập ngày, tại trang web

http://hanoimoi.com.vn/megastory/2020/ban-chap-hanh-ha-noi/index.html.

14. Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Quy định số 164-QĐ/TW

ngày 01-2-2013 về chế độ bồi dưỡng, cập nhật kiến thức đối với cán

bộ, lãnh đạo quản lý các cấp, Hà Nội.

15. Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Kết luận số 10-KL/TW về

tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành

Trung ương Đảng (khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối

với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, Hà Nội.

16. Nguyệt Chi (2016), Sa thải 647 giáo viên rồi lại kêu thiếu người: “Thả

cửa” tuyển dụng, lỗi từ đâu?, Báo Pháp luật Việt Nam, truy cập ngày

20/10/2016, tại trang web https://www.phapluatplus.vn/chinh-tri-xa-

hoi/sa-thai-647-giao-vien-roi-lai-keu-thieu-nguoi-tha-cua-tuyen-dung-

loi-tu-dau-d27257.html.

17. Trần Nam Chuân (2017), "Báo chí cách mạng – Nhân tố quan trọng góp

phần cùng cả nước phòng, chống tham nhũng, lãng phí", Tạp chí Nội

chính (45), tr. 34-37.

18. Hiếu Công (2018), Đất vàng „ngủ quên‟ và sự lãng phí khó giải quyết ở

Hà Nội, Báo Điện tử Zing.vn, truy cập ngày 22/05/2018, tại trang web

https://news.zing.vn/dat-vang-ngu-quen-va-su-lang-phi-kho-giai-quyet-

o-ha-noi-post842092.html.

19. Stefan Fölster Dag Detter (2018), Quản lý hiệu quả tài sản công, Nxb

Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

20. Đảng bộ Thành phố Hà Nội (2020), Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ

XVII, Hà Nội.

21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

155

22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp

hành trung ương Đảng khóa X, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban

Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb

Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Kết luận số 21-KL/TW về tăng cường

sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng

phí, Hà Nội.

27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

của Đảng lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp

hành Trung ương Đảng khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.

29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ XIII (tập II), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

30. Daniel L. Feldman and David R. Eichenthal (2013), The Art of the

Watchdog: Fighting Fraud, Waste, Abuse, and Corruption in

Government Nxb State University of New York, New York.

31. Richard Guare và Peg Dawson (2018), Quản lý thời gian, Nxb Lao động,

Hà Nội.

32. Nguyễn Đức Độ (2014), "Mối quan hệ giữa tăng trưởng, lạm phát, tiết

kiệm và đầu tư tại Việt Nam", Tạp chí Tài chính(592), tr. 14-17.

33. Đoàn Kiểm tra Thành ủy Hà Nội (2015), Báo cáo Kết quả kiểm tra việc

lãnh đạo, chỉ đạo, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong quản lý

đầu tư dự án "Cải thiện hệ thống tiêu nước khu vực phía Tây thành phố

Hà Nội (Trạm bơm tiêu Yên Nghĩa)- giai đoạn I" Hà Nội.

156

34. Đoàn Kiểm tra Thành ủy Hà Nội (2015), Báo cáo kết quả kiểm tra việc

lãnh đạo, chỉ đạo, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong quản lý

đầu tư dự án "Xây dựng Trung tâm nghiên cứu chuyển giao công nghệ

và giám định công nghệ Hòa Lạc", Hà Nội.

35. Nguyễn Bá Dương (2017), "Chống quan liêu, tham ô, lãng phí: Giải pháp

khôi phục lòng tin và xứng đáng là “công bộc” của Nhân dân", Tạp chí

Nội chính(48), tr. 8-12.

36. Hồng Hà (2015), "Kiểm điểm trách nhiệm gây lãng phí", Tạp chí Nội

chính (28), tr. 60-62.

37. Đinh Ngọc Giang - Nguyễn Thị Hồng Hạnh (2013), "Đẩy mạnh thực hành

tiết kiệm, chống lãng phí theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn

hiện nay", Tạp chí Quản lý nhà nước(7), tr. 7-10.

38. Nguyễn Hùng Hậu (2016), "Hồ Chí Minh với vấn đề chống giặc nội xâm -

suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng

viên", Tạp chí Lý luận chính trị (11), tr. 21-25.

39. Hoàng Văn Hổ (2014), Cầm quyền khoa học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

40. Lâm Bá Hòa (2016), "Quan điểm của Đảng về phòng, chống tham nhũng,

lãng phí", Tạp chí Lý luận chính trị (12), tr. 37-42.

41. Lê Như Thanh - Lê Văn Hòa (2017), Quản lý dự án đầu tư công, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

42. Ngô Minh Hòa (2017), "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công

tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng tại Bình Thuận", Tạp chí

Nội chính(44), tr. 47-50.

43. Phương Minh Hòa (2017), "Giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng,

chống tham nhũng, lãng phí theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của

Đảng", Tạp chí Nội chính(43).

44. Trần Hoàng (2018), Hà Nội: Sau vỉa hè, lại khốn khổ vì đường bị đào xới

khắp nơi, Báo Tiền phong điện tử, truy cập ngày 12/10/2018, tại trang

157

web https://www.tienphong.vn/nhip-song-thu-do/ha-noi-sau-via-he-lai-

khon-kho-vi-duong-bi-dao-xoi-khap-noi-1333605.tpo.

45. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình Xây dựng

Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

46. Nguyễn Dương Hùng Bệnh lãng phí, nguyên nhân và giải pháp khắc phục,

Tạp chí Lý luận chính trị điện tử, truy cập ngày 8/8/2017, tại trang web

http://www.lyluanchinhtri.vn/home/index.php/dien-dan/item/2119-benh-

lang-phi-nguyen-nhan-va-giai-phap-khac-phuc.html.

47. Nguyễn Xuân Hưng (2016), Các tỉnh ủy ở đồng bằng sông Hồng lãnh đạo

thực hiện công bằng xã hội giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ chuyên

ngành Xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước, Học viện Chính trị

quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

48. Võ Việt Hùng (2016), "Quảng Bình tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối

với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí", Tạp chí Kiểm tra

(10), tr. 35-37.

49. Jim Rohn (2012), 7 Chiến lược thịnh vượng và hạnh phúc, Nxb Thế giới,

Hà Nội.

50. Bùi Quang Khải (2018), "Làm theo lời Bác Hồ dạy, Quân đoàn 2 đẩy

mạnh tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm", Tạp chí Quốc phòng toàn

dân(7), tr. 26-28.

51. Nguyễn Tuấn Khanh (2015), Trách nhiệm của chính quyền cơ sở trong

tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham

nhũng, lãng phí, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

52. Vũ Trung Kiên (2018), "Dùng báo chí để chống tham nhũng, lãng phí,

tiêu cực theo quan điểm của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh", Tạp chí

Nội chính(62), tr. 43-45.

158

53. Mai Lan (2013), Hà Nội ra quân „truy quét‟ công chức ăn cắp giờ công, Báo

điện tử VTC News, truy cập ngày 27/6/2013, tại trang web https://vtc.vn/ha-

noi-ra-quan-truy-quet-cong-chuc-an-cap-gio-cong-d120185.html.

54. Hồ Quang Lợi (2018), "Phát huy vai trò của báo chí trong đấu tranh phòng,

chống tham nhũng, lãng phí", Tạp chí Nội chính(56), tr. tr. 42-45.

55. Phạm Đức Long (2016), "Công ty Duyên Hải thực hành tiết kiệm, chống

lãng phí", Tạp chí Quốc phòng toàn dân (6).

56. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

57. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

58. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

59. Vũ Bình Minh (2016), "Tự phê bình và phê bình trên báo chí – Giải pháp

quan trọng góp phần phòng, chống tham nhũng, lãng phí", Tạp chí Nội

chính(34), tr. 12-14.

60. Trần Đình Thắng - Lê Văn Nam (2016), "Phòng chống quan liêu, tham

nhũng, lãng phí trong bộ máy hành chính nhà nước theo tư tưởng Hồ

Chí Minh", Tạp chí Giáo dục lý luận(245), tr. 8-11.

61. Lê Thị Nghĩa (2011), Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo phòng,

chống tham nhũng trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ chuyên

ngành Xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước, Học viện Chính trị

quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

62. Nguyễn Viết Thông Nguyễn Văn Thạo (2018), Một số vấn đề lý luận –

thực tiễn cấp thiết liên quan trực tiếp đến đổi mới nội dung, phương

thức lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, Nxb Chính trị quốc

gia Sự thật, Hà Nội.

63. Nhiều tác giả (2016), Đảng với cuộc đấu tranh phòng và chống tham

nhũng lãng phí, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

64. Nhóm Phóng Viên Báo Gia đình và Xã hội (2018), Quận Tây Hồ, Hà Nội:

Lãng phí Nhà sinh hoạt cụm dân cư, Báo Điện tử Gia đình và Xã hội, truy

159

cập ngày 4/12/2018, tại trang web http://giadinh.net.vn/xa-hoi/quan-tay-ho-

ha-noi-lang-phi-nha-sinh-hoat-cum-dan-cu-20181203204038644.htm.

65. Cục Thống kê Thành phố Hà Nội (2019), Báo cáo số 609/BC-CTK ngày 25

tháng 12 năm 2019 Tình hình kinh tế xã hội quý IV và năm 2019, Hà Nội.

66. Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật (2008), Tư tưởng, tấm gương đạo đức

Hồ Chí Minh về thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu,

Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật Hà Nội.

67. Nguyễn Thị Nga - Hoàng Thị Kim Oanh (2018), "Quan điểm "Cần, kiệm,

liêm, chính là nền tảng của thi đua ái quốc" trong tư tưởng Hồ Chí

Minh và ý nghĩa hiện thời của nó", Tạp chí Thông tin khoa học lý luận

chính trị(6), tr. 9-12.

68. PC (2019), Giảm thiểu ô nhiễm môi trường ở Hà Nội: Cần các giải pháp

đồng bộ, truy cập ngày 19/12/2019, tại trang web

https://dangcongsan.vn/xa-hoi/giam-thieu-o-nhiem-moi-truong-o-ha-

noi-can-cac-giai-phap-dong-bo-545193.html.

69. Hồ Đức Phớc (2016), "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác

phát hiện vụ, việc tham nhũng, lãng phí thông qua kiểm toán", Tạp chí

Cộng sản (886).

70. Bùi Đình Phong (2019), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào phòng,

chống căn bệnh quan liêu, xa dân, coi thường quần chúng của Đảng

cầm quyền, Đề tài khoa học cấp bộ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí

Minh, Hà Nội.

71. Vĩnh Phúc (2018), "Một biểu hiện của bệnh lãng phí", Tạp chí Quốc

phòng Toàn dân(6).

72. Vũ Văn Phúc (2018), "Giải pháp ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về đạo đức,

lối sống, tham nhũng, lãng phí, lợi ích nhóm trong cán bộ, đảng viên",

Tạp chí Xây dựng Đảng(9).

160

73. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội.

74. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Luật số:

44/2013/QH13 thực hành tiết kiệm, chống lãng phí Hà Nội.

75. Hạng Hoài Thành (2008), Quản lý tài chính của Trung Quốc Nxb Kinh tế

Tài chính Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia dịch,, Hà Nội.

76. Phạm Huy Thành (2018), "Đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, lãng phí

theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam",

Tạp chí Giáo dục lý luận(277-278), tr. 15-21.

77. Thành ủy Hà Nội (2016), Chương trình 07-CTr/TU về Nâng cao hiệu quả

công tác phòng, chống tham nhũng; thực hành tiết kiệm, chống lãng

phí giai đoạn 2016-2020, Hà Nội.

78. Thành ủy Hà Nội (2020), Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ

Thành phố khóa XVI tại Đại hội đại biểu lần thứ XVII Đảng bộ Thành

phố Hà Nội, Hà Nội.

79. Thành ủy Hà Nội (2020), Báo cáo số 66-BC/TU, ngày 09/9/2016 về tổng

kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X), Hà Nội.

80. Thành ủy Hà Nội (2020), Kế hoạch số 14-KH/TU, ngày 08/7/2016 về tổng

kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về “tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham

nhũng, lãng phí", Hà Nội.

81. Thành ủy Hà Nội (2020), Kế hoạch số 15-KH/TU, ngày 13/7/2016 của

Thành uỷ về thực hiện Chương trình 07-CTr/TU “Nâng cao hiệu quả

công tác phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm chống lãng phí,

giai đoạn 2016-2020" và thực hiện kế hoạch số 19-KH/BCĐTW của

Ban Chỉ đạo Trung ương thực hiện Chỉ thị số 50-CT/TW, Hà Nội.

82. Thành ủy Hà Nội (2020), Kế hoạch số 43-KH/TU, ngày 28/4/2017 của

Thành uỷ thực hiện Kết luận số 10-KL/TW, ngày 26/12/2016 của Bộ

161

Chính trị "Về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khoá X)

về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống

tham nhũng, lãng phí", Hà Nội.

83. Thành ủy Hà Nội (2020), Kế hoạch số 127-KH/TU, ngày 28/3/2019 thực hiện

Chỉ thị 27-CT/TW, ngày 10/01/2019 của Bộ Chính trị về "Tăng cường sự

lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo vệ người phát hiện, tố giác, người

đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực", Hà Nội.

84. P. Thảo (2018), Đường sắt đô thị Hà Nội, TPHCM tiêu biểu cho dự án

lãng phí, Báo Điện tử Dân trí, truy cập ngày 12/4/2018, tại trang web

https://dantri.com.vn/xa-hoi/duong-sat-do-thi-ha-noi-tphcm-tieu-bieu-

cho-du-an-lang-phi-20180412095036912.htm.

85. Như Trang (2013), Điển hình lãng phí từ những công trình "đoản thọ" ở

Hà Nội, Báo Điện tử Pháp luật Việt Nam, truy cập ngày 25/4/2013, tại

trang web https://baophapluat.vn/trong-nuoc/dien-hinh-lang-phi-tu-

nhung-cong-trinh-quotdoan-thoquot-o-ha-noi-166568.html.

86. Hà Quốc Trị (2018), Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với phòng,

chống lãng phí ở nước ta hiện nay - Những vấn đề đặt ra và giải pháp,

Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật Hà Nội.

87. Nguyễn Phú Trọng (2019), Quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng,

Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

88. Nguyễn Phú Trọng (2020), Toàn văn bài phát biểu tại Đại hội Đảng bộ

thành phố Hà Nội lần thứ XVII, Báo Pháp luật & Xã hội, truy cập ngày

12/10/2020, tại trang web https://phapluatxahoi.vn/toan-van-phat-bieu-

cua-tong-bi-thu-chu-tich-nuoc-tai-dai-hoi-dang-bo-thanh-pho-ha-noi-

lan-thu-xvii-213326.html.

89. Đỗ Xuân Tuất (2011), Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh phòng, chống tham

nhũng trong thời kỳ đổi mới – Lịch sử và Kinh nghiệm, Đề tài khoa học cấp

bộ, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

162

90. Dương Tùng (2012), Bảo tàng, công viên tiền tỉ... ế khách, Tạp chí Khám

phá điện tử, truy cập ngày 11/9/2012, tại trang web

http://khampha.vn/tin-nhanh/nhung-cong-trinh-nghin-ty-lang-phi-

c4a27845.html.

91. Lừ Văn Tuyên (2016), "Phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí

theo luật tục của người Thái ở Tây Bắc Việt Nam", Tạp chí Nội chính

(31), tr. 41-44.

92. Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội (2016), Quyết định só 7071/QĐ-

UBND vè tiêu chuẩn định mức trang bị xe ô tô chuyên dùng, Hà Nội.

93. Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội (2016), Quyết định số 107/QĐ-

UBND ngày 23/12/2016 Quy định tiêu chuẩn, định mức trang bị xe ô tô

chuyên dùng cho các cơ quan, đơn vị thuộc phạm vi quản lý của Thành

phố, Hà Nội.

94. Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội (2017), Quyết định 3278/QĐ-UBND

ngày 29/5/2017 ban hành Chương trình thực hành tiết kiệm, chống

lãng phí của Thành phố Hà Nội năm 2017, Hà Nội.

95. Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội (2017), Quyết định số 1215/QĐ-

UBND ngày 20/02/2017 triển khai thí điểm khoán kinh phí sử dụng xe

ô tô phục vụ công tác chung, Hà Nội.

96. Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội (2017), Văn bản số 2962/VP-KT

ngày 04/04/2017 chỉ đạo việc xử lý xe dôi dư, Hà Nội.

97. Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội (2018), Báo cáo số 52/BC-UBND

ngày 08 tháng 3 năm 2018 về kết quả thực hành tiết kiệm, chống lãng

phí năm 2017., Hà Nội.

98. Ban Tổ chức Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc Viện Nghiên cứu Xây

dựng Đảng (2018), Đảng Cộng sản Trung Quốc 5 năm quản trị Đảng

nghiêm minh toàn diện (Thành tựu và kinh nghiệm trong công tác tổ chức và

xây dựng Đảng từ sau Đại hội XVIII), Nxb Xây dựng Đảng, Trung Quốc.

163

99. Trương Thị Thông - Lê Kim Việt (2010), Bệnh quan liêu trong công tác

cán bộ ở nước ta hiện nay – thực trạng, nguyên nhân và giải pháp, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

100. Trần Quốc Vượng (2018), "Học Bác sống tiết kiệm, ứng xử có nghĩa,

có tình", Tạp chí Tuyên giáo(6), tr. 3-6.

101. Jame P. Womack (2018), Tư duy tinh gọn: từ tư duy tinh gọn đến sản

xuất tinh giản; từ loại bỏ lãng phí đến tiết kiệm chi phí, Nxb. Lao động,

Hà Nội.

102. Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa - thông tin,

Hà Nội.

164

PHỤ LỤC 1

MỘT SỐ VĂN BẢN THÀNH ỦY BAN HÀNH

LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC PHÕNG CHỐNG LÃNG PHÍ

Giai đoạn 2016-2020

STT Tên văn bản

1 Chương trình số 07-CT/TU, ngày 26/4/2016 của Thành uỷ về "Nâng

cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm,

chống lãng phí giai đoạn 2016-2020"

2 Kế hoạch số 15-KH/TU, ngày 13/7/2016 của Thành uỷ về thực hiện

Chương trình 07-CTr/TU “Nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống

tham nhũng, thực hành tiết kiệm chống lãng phí, giai đoạn 2016-2020"

và thực hiện kế hoạch số 19-KH/BCĐTW của Ban Chỉ đạo Trung ương

thực hiện Chỉ thị số 50-CT/TW

3 Kế hoạch số 14-KH/TU, ngày 08/7/2016 về tổng kết 10 năm thực hiện

Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về “tăng cường sự lãnh đạo của

Đảng đối với công tác PCTN, LP"

4 Kế hoạch số 16-KH/TU, ngày 13/7/2016 của Thành uỷ về rà soát các

cuộc thanh tra kinh tế - xã hội trên địa bàn Thành phố giai đoạn năm

2015 và 6 tháng đầu năm 2016

5 Quyết định 1279-QĐ/TU, ngày 05/9/2016 của Thành uỷ về thành lập

Đoàn kiểm tra, rà soát các cuộc thanh tra kinh tế - xã hội

6 Báo cáo số 66-BC/TU, ngày 09/9/2016 về tổng kết 10 năm thực hiện

Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X)

7 Kết luận 02-KL/TU, ngày 30/12/2016 của Thành uỷ về kiểm tra, rà soát

các cuộc thanh tra kinh tế - xã hội năm 2015 và 6 tháng đầu năm 2016

8 Kế hoạch số 43-KH/TU, ngày 28/4/2017 của Thành uỷ thực hiện Kết

luận số 10-KL/TW, ngày 26/12/2016 của Bộ Chính trị "Về việc tiếp tục

thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khoá X) về tăng cường sự lãnh đạo

của Đảng đối với công tác PCTN, LP"

9 Thông báo số 838-TB/TU, ngày 31/7/2017 kết luận của đồng chí Bí thư

165

Thành uỷ, Trưởng Ban Chỉ đạo Chương trình 07-CTr/TU tại phiên họp

sơ kết 6 tháng đầu năm; triển khai công tác trọng tâm 6 tháng cuối năm

2017 của Ban Chỉ đạo

10 Báo cáo số 244-BC/TU, ngày 02/01/2018 của Thành uỷ về rà soát các

cuộc thanh tra kinh tế - xã hội năm 2016 và 11 tháng đầu năm 2017

11 Thông báo số 1394-TB/TU, ngày 16/5/2018 kết luận của đông chí Bí

thư Thành uỷ, Trưởng Ban Chỉ đạo Chương trình số 07-CTr/TU tại

cuộc họp BCĐ về nội dung sơ kết giữa nhiệm kỳ thực hiện Chương

trình số 07- CTr/TU của Thành uỷ

12 Báo cáo số 387-BC/TU, ngày 10/12/2018 kết quả kiểm tra, rà soát các

cuộc thanh tra về kinh tế - xã hội và kiến nghị của Kiểm toán Nhà nước

từ tháng 12 năm 2017 đến tháng 10 năm 2018

13 Kế hoạch số 127-KH/TU, ngày 28/3/2019 thực hiện Chỉ thị 27-CT/TW,

ngày 10/01/2019 của Bộ Chính trị về "Tăng cường sự lãnh đạo của

Đảng đối với công tác bảo vệ người phát hiện, tố giác, người đấu tranh

chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực"

14 Quyết định số 6715-QĐ/TU, ngày 08/7/2019 của Ban Thường vụ

Thành ủy kiểm tra công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện

Chương trình số 07- CTr/TU, ngày 26/4/2016 của Thành ủy (khóa XVI)

về “Nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, thực hành

tiết kiệm, chống lãng phí giai đoạn 2016- 2020"

15 Thông báo số 2079-TB/TU, ngày 11/7/2019 kết luận của đồng chí Bí thư

Thành ủy, Trưởng Ban Chi đạo Chương trình 07-CTr/TU tại Hội nghị sơ

kết 6 tháng đầu năm; triển khai công tác trọng tâm 6 tháng cuối năm 2019

16 Báo cáo số 501-BC/TU, ngày 12/8/2019 sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số

33-CT/TW, ngày 03/01/2014 của Bộ Chính trị về "Tăng cường sự lãnh đạo

của Đảng đối với việc kê khai và kiểm soát kê khai tài sản, thu nhập"

17 Kết luận 45-KL/TU, ngày 16/9/2019 kiểm tra công tác lãnh đạo, chỉ đạo

và tổ chức thực hiện Chương trình số 07-CTr/TU của Thành ủy

18 Kết luận 46-KL/TU, ngày 16/9/2019 kiểm tra Công an Thành phố về

166

công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện Chương trình số 07-

CTr/TU của Thành ủy

19 Kết luận 47-KL/TU, ngày 16/9/2019 kiểm tra Huyện ủy Chương Mỹ về

công tác lãnh đạo, chi đạo và tổ chức thực hiện Chương trình số 07-

CTr/TU của Thành ủy

20 Kết luận 48-KL/TU, ngày 16/9/2019 kiểm tra Ban Thường vụ huyện ủy

Đông Anh về công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện Chương

trình số 07-CTr/TU của Thành ủy

21 Kết luận 49-KL/TU, ngày 16/9/2019 kiểm tra Quận ủy Đống Đa về

công tác lãnh đạo, chi dạo và tổ chức thực hiện Chương trình số 07-

CTr/TU của Thành ủy

22 Kết luận 50-KL/TU, ngày 16/9/2019 kiểm tra Ban Thường vụ huyện ủy

Hoài Đức về công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện Chương

trình số 07- CTr/TU của Thành ủy

23 Kết luận 51-KL/TU, ngày 16/9/2019 kiếm tra Ban Thường vụ Quận ủy

Hoàng Mai về công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện Chương

trình số 07-CTr/TU của Thành ủy

24 Kết luận 52-KL/TU, ngày 16/9/2019 kiểm tra Sở Giao thông vận tải về

công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện Chương trình số 07-

CTr/TU của Thành ủy

25 Kết luận 53-KL/TU, ngày 16/9/2019 kiểm tra Sở Tư pháp Hà Nội về

công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện Chương trình số 07-

CTr/TU của Thành ủy

26 Kết luận 54-KL/TU, ngày 16/9/2019 kiểm tra Sở Y tế Hà Nội về công

tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện Chương trình số 07-CTr/TU

của Thành ủy

27 Kết luận 55-KL/TU, ngày 16/9/2019 kiểm tra Tòa án nhân dân Thành

phố về công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện Chương trình số

07-CTr/TU của Thành ủy

28 Kết luận 56-KL/TU, ngày 16/9/2019 kiểm tra Ban Thường vụ Quận ủy

167

Tây Hồ về công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện Chương trình

số 07-CTr/TU của Thành ủy

29 Kết luận 57-KL/TU, ngày 16/9/2019 kiểm tra Viện Kiểm sát nhân dân

thành phố Hà Nội về công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện

Chương trình số 07-CTr/TU của Thành ủy

Một số văn bản do Ban Chỉ đạo Chương trình 07-CTr/TU ban hành

1 Kế hoạch số 08-KH/BCĐ, ngày 13/7/2016 kế hoạch công tác của BCĐ

Chương trình 07-CTr/TU, ngày 26/4/2016 của Thành ủy về "Nâng cao

hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, THTKCLP giai đoạn

2016-2020"

2 Báo cáo số 10-BC/BCĐ, ngày 30/12/2016 kết quả triển khai thực hiện

Chương trình 07-CTr/TU, ngày 26/4/2016 của Thành uỷ về "Nâng cao

hiệu quả công tác PCTN, THTKCLP giai đoạn 2016-2020" năm 2016

3 Báo cáo số 12-BC/BCĐ, ngày 08/02/2017 báo cáo 13 chuyên đề theo

Kế hoạch số 08-KH/BCĐ, ngày 13/7/2016 về kế hoạch công tác của

Ban Chỉ đạo Chương trình 07-CTr/TU, ngày 26/4/2016 của Thành uỷ

về "Nâng cao hiệu quả công tác PCTN; THTKCLP giai đoạn 2016-

2020"

4 Kế hoạch số 15-KH/BCĐ, ngày 09/3/2017 kế hoạch các nhiệm vụ, công

tác trọng tâm chỉ đạo của BCĐ Chương trình số 07-CTr/TU của Thành

uỷ (khoá XVI) năm 2017

5 Kế hoạch số 17-KH/BCĐ, ngày 20/4/2017 của Ban Chỉ đạo Chương trình

12 07-CTr/TU về thông tin, tuyên truyền về công tác phòng, chống tham

nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí giai đoạn 2016-2020

6 Báo cáo số 20-BC/BCĐ, ngày 31/7/2017 kết quả thực hiện Chương

trình 07- CTr/TU, ngày 26/4/2016 của Thành uỷ về "Nâng cao hiệu quả

công tác PCTN, THTKCLP giai đoạn 2016-2020" 6 tháng đầu năm,

nhiệm vụ trọng tâm 6 tháng cuối năm 2017

7 Báo cáo số 25-BC/BCĐ, ngày 29/11/2017 kết quả 1 năm thực hiện

Chương trình 07-CTr/TU, ngày 26/4/2016 của Thành uỷ về "Nâng cao

168

hiệu quả công tác PCTN, THTKCLP giai đoạn 2016-2020

8 Báo cáo số 27-BC/BCĐ, ngày 29/12/2017 kết quả thực hiện Chương

trình 07-CTr/TU của Thành uỷ (khoá XVI) về "Nâng cao hiệu quả công

tác PCTN; THTKCLP giai đoạn 2016-2020" năm 2017 và phương

hướng, nhiệm vụ công tác năm 2018

9 Báo cáo số 38-BC/BCĐ, ngày 20/6/2018 sơ kết giữa nhiệm kỳ thực

hiện Chương trình số 07-CTr/TU của Thành ủy (khóa XVI) về “Nâng

cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng; thực hành tiết kiệm,

chống lãng phí giai đoạn 2016 - 2020"

10 Báo cáo số 39-BC/BCĐ, ngày 05/7/2018 kết quả thực hiện Chương

trình số 07-CTr/TU của Thành ủy (khóa XVI) về “Nâng cao hiệu quả

công tác phòng, chống tham nhũng; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

giai đoạn 2016 - 2020" 6 tháng đầu năm, nhiệm vụ trọng tâm 6 tháng

cuối năm 2018

11 Kế hoạch số 36-KH/BCĐ, ngày 30/5/2018 của Ban Chỉ đạo Chương trình

07-CTr/TU về kiểm tra việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong quản

lý, đầu tư một số dự án, công trình trọng điểm của Thành phố

12 Quyết định số 37-QĐ/BCĐ, ngày 30/5/2018 của Ban Chỉ đạo Chương

trình 07-CTr/TU về thành lập Đoàn kiểm tra việc thực hành tiết kiệm,

chống lãng phí trong quản lý, đầu tư một số dự án, công trình trọng

điểm của Thành phố

13 Báo cáo số 42-BC/BCĐ, ngày 29-12-2018 kết quả kiểm tra công tác

lãnh đạo, chỉ đạo, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong quản lý đầu

tư dự án, công trình trọng điểm của Thành phố

14 Thông báo số 43-TB/BCĐ, ngày 29-12-2018 kết luận về kết quả kiểm tra

22 công tác lãnh đạo, chỉ đạo, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong

quản lý 28 đầu tư dự án, công trình trọng điểm của Thành phố đối với dự án

"Đường vành đai 3,5: Đoạn từ Đại lộ Thăng Long đến Quốc lộ 32"

15 Thông báo số 44-TB/BCĐ, ngày 29-12-2018 kết luận về kết quả kiểm tra

công tác lãnh đạo, chỉ đạo, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong quản

169

lý đầu tư dự án, công trình trọng điểm của Thành phố đối với dự án "Đầu tư

xây dựng Công viên Hồ điều hoà Nhân Chính, quận Thanh Xuân"

16 Thông báo số 45-TB/BCĐ, ngày 29-12-2018 kết luận về kết quả kiểm

tra công tác lãnh đạo, chỉ đạo, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong

quản lý đầu tư du án, công trình trọng điểm của Thành phố đối với dự

án "Đầu tư trang thiết bị PCCC, cứu hộ, cứu nạn và cơ sở vật chất cho

10 phòng CSPCCC khu vực hiện có"

17 Thông báo số 46-TB/BCĐ, ngày 29-12-2018 kết luận về kết quả kiểm

tra công tác lãnh đạo, chỉ đạo, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong

quản lý đầu tư dự án, công trình trọng điểm của Thành phố đối với dự

án "Xây dựng cầu vượt tại nút giao giữa đường Nam Hồng với tuyến

đường Mai Dịch - Nội Bài để hạn chế ùn tắc giao thông"

18 Báo cáo số 47-BC/BCĐ, ngày 29/12/2018 kết quả thực hiện Chương

trình 07-CTr/TU, ngày 26/4/2016 của Thành uỷ (khoá XVI) về "Nâng

cao hiệu quả công tác PCTN; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí giai

đoạn 2016- 2020" năm 2018 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2019

19 Báo cáo số 54-BC/BCĐ, ngày 5/7/2019 kết quả thực hiện Chương trình 07-

CTr/TU, ngày 26/4/2016 của Thành uỷ (khoá XVI) về "Nâng cao hiệu quả

công tác PCTN; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí giai đoạn 2016-2020"

6 tháng đầu năm, nhiệm vụ trọng tâm 6 tháng cuối năm 2019

20 Kế hoạch số 55-KH/BCĐ, ngày 19/9/2019 về việc Tổng kết Chương

trình 07-CTr/TU của Thành ủy khóa XVI giai đoạn 2016-2020

21 Báo cáo số 57-BC/BCĐ ngày 02 tháng 12 năm 2019 về Tổng kết việc

thực hiện Chương trình số 07-CTr/TU, ngày 26/4/2016 của Thành ủy

Hà Nội về "Nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, thực

hành tiết kiệm, chống lãng phí giai đoạn 2016-2020", Hà Nội.

170

PHỤ LỤC 2

MỘT SỐ VĂN BẢN CHÍNH QUYỀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI BAN HÀNH

LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC PHÕNG, CHỐNG LÃNG PHÍ

Giai đoạn 2016-2020

STT Tên văn bản

I Văn bản lãnh đạo, chỉ đạo chung

1 Kế hoạch số 141/KH-UBND, ngày 27/4/2016 về triển khai thực hiện

Chương trình số 07- CTr/TU

2 Báo cáo số 50/BC-UBND, ngày 15/3/2016 tổng kết 10 năm thực hiện

Luật PCTN

3 Chương trình số 60/CTr-UBND, ngày 18/3/2016 thực hành tiết kiệm,

chống lãng phí của thành phố Hà Nội năm 2016

4 Kế hoạch số 81/KH-UBND, ngày 27/4/2016 triển khai thực hiện Kế

hoạch số 09-KH/TU ngày 15/3/2016 của Thành ủy về việc thực hiện

Chi thị số 50-CT/TW, ngày 07/12/2015 của Bộ Chính trị "về tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ việc,

vụ án tham nhũng".

5 Công văn số 3422/UBND-NC, ngày 09/6/2016 về việc triển khai

chương trình số 07-CTr/TU, ngày 26/4/2016 của Thành ủy

6 Công văn số 4392/UBND-NC, ngày 26/7/2016 về việc triển khai Kế

hoạch số 15-KH/TU ngày 13/7/2016 của Thành ủy Báo cáo số 248-

BC/BCS, ngày 01/8/2016 Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết TW 3

(khóa X) về "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng,

chống tham nhũng, lãng phí"

7 Báo cáo số 61/BC-UBND, ngày 27/3/2017 về kết quả thực hành tiết

kiệm, chống lãng phí năm 2016

8 Quyết định số 2041/QĐ-UBND, ngày 31/3/2017 ban hành chương trình

thực hành tiết kiệm chống lãng phí của Thành phố Hà Nội giai đoạn

2016-2020

9 Công văn số 2590/UBND-NC, ngày 26/5/2017 về việc thực hiện Kế

171

hoạch số 43-KH/TU ngày 28/4/2017 của Thành uỷ

10 Quyết định số 3278/QĐ-UBND, ngày 29/5/2017 ban hành chương trình

thực hành tiết kiệm chống lãng phí của Thành phố Hà Nội năm 2017

11 Công văn số 396/UBND-ĐT, ngày 29/01/2018 về việc triển khai các

chuyên đề thực hiện Chương trình 07-CTr/TU

12 Báo cáo số 52/BC-UBND, ngày 08/3/2018 về kết quả thực hành tiết

kiệm, chống lãng phí năm 2017

13 Quyết định số 1715/QĐ-UBND, ngày 09/4/2018 về việc ban hành

Chương trình THTKCLP của Thành phố Hà Nội năm 2018

14 Báo cáo số 52/BC-UBND, ngày 27/2/2019 Kết quả thực hành tiết kiệm

chống lãng phí năm 2018 của Thành phố Hà Nội

15 Quyết định số 1350/QĐ-UBND, ngày 22/3/2019 v/v ban hành Chương

trình thực hành tiết kiệm chống lãng phí của Thành phố Hà Nội năm 2019

16 Kế hoạch số 161/KH-UBND, ngày 24/7/2019 thực hiện Chỉ thị số 27-

CT/TW, ngày 10/01/2019 của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo

của Đảng đối với công tác bảo vệ người phát hiện tố giác, người đấu

tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực”

II Trong công tác quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước

1 Chỉ thị số 15/CT-UBND ngày 15/7/2016 chỉ đạo điều hành thực hiện

nhiệm vụ ngân sách nhà nước năm 2016

2 Chương trình hành động số 43/CTr-UBND ngày 24/02/2017 thực hiện

các Nghị quyết, kết luận của Trung ương, Quốc hội, Chính phủ và Nghị

quyết của HĐND Thành phố về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ

đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán

ngân sách nhà nước năm 2017

3 Chỉ thị số 15/CT-UBND ngày 25/12/2018 về chấn chỉnh, tăng cường kỷ

luật, kỷ cương trong việc chấp hành pháp luật về ngân sách nhà nước

4 Công văn số 6149/UBND-KT ngày 14/12/2018 chỉ đạo các sở, ngành

có liên quan thực hiện công khai ngân sách Thành phố theo quy định

5 Quyết định số 6688/QĐ-UBND ngày 07/12/2018 về việc giao chi tiêu

172

Kế hoạch kinh tế - xã hội và dự toán thu, chi ngân sách năm 2019

6 Kế hoạch số 44/KH-UBND ngày 19/02/2019 triển khai thực hiện nâng

mức tự chủ tài chính các đơn vị sự nghiệp giai đoạn 2018-2021

7 Nghị quyết số 13/2016/NQ-HĐND, ngày 05/12/2016 của HĐND TP về

phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách và định mức

phân bổ chi ngân sách thành phố Hà Nội giai đoạn 2017-2020

8 Quyết định số 605/QĐ-UBND, ngày 07/02/2017 về việc công bố công

khai số liệu dự toán NSTP Hà Nội năm 2017

9 Quyết định 415/QĐ-UBND, ngày 21/01/2017 về việc công bố công

khai số liệu quyết toán ngân sách năm 2015

10 Quyết định số 8586/QĐ-UBND, ngày 08/12/2017 về việc giao chỉ tiêu

kế hoạch kinh tế - xã hội và dự toán thu, chi ngân sách năm 2018

11 Quyết định số 9081/QĐ-UBND, ngày 30/12/2017 về việc công bố công

khai số liệu dự toán ngân sách thành phố Hà Nội năm 2018

12 Công văn số 12/UBND-KT, ngày 02/01/2018 chỉ đạo các sở, ngành có

liên quan thực hiện công khai ngân sách Thành phố đảm bảo đúng quy

định của Luật Ngân sách nhà nước và hướng dẫn của Bộ Tài chính

13 Chương trình hành động số 34/CTr-UBND ngày 28/01/2018 thực hiện

Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2018 của Chính phủ về việc thực

hiện các nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và dự toán

NSNN năm 2019

14 Chỉ thị số 08/CT-UBND ngày 09/7/2018 về xây dựng kế hoạch phát

triển kinh tế - xã hội và Dự toán NSNN năm 2019

15 Quyết định số 5883/QĐ-UBND ngày 30/10/2018 về việc điều chỉnh dự

toán chi thường xuyên ngân sách Thành phố năm 2018

16 Quyết định số 6910/QĐ-UBND ngày 21/12/2018 về việc công bố công

khai số liệu quyết toán NSNN năm 2017

17 Quyết định số 6983/QĐ-UBND ngày 16/12/2018 về việc công bố công

khai số liệu dự toán ngân sách Thành phố năm 2019

18 Công văn số 6149/UBND-KT, ngày 14/12/2018 chỉ đạo các sở, ngành

173

có liên quan thực hiện công khai ngân sách Thành phố theo quy định

19 Chỉ thị số 12/CT-UBND ngày 25/7/2019 về việc xây dựng Kế hoạch

phát triển kinh tế - xã hội và Dự toán ngân sách Nhà nước năm 2020

III Trong công tác quản lý đầu tư xây dựng

1 Văn bản số 1152/UBND-KT ngày 01/3/2016 công khai tình hình quyết

toán dự án hoàn thành năm 2015

2 Văn bản số 934/UBND-KT ngày 06/3/2017 công khai tình hình phê

duyệt quyết toán dự án đầu tư xây dựng hoàn thành năm 2016

3 Văn bản số 4973/UBND-KHĐT ngày 10/10/2017 về việc tăng cường

công tác giám sát, đánh giá đầu tư

4 Văn bản số 536/UBND-KH&ĐT, ngày 05/02/2018 chi đạo triển khai

giám sát, đánh giá đầu tư năm 2018 trên địa bàn thành phố Hà Nội

5 Văn bản số 812/UBND-KT ngày 02/3/2018 về công khai tình hình phê

duyệt quyết toán dự án đầu tư xây dựng hoàn thành năm 2017

6 Văn bản số 821/UBND-KH&ĐT ngày 02/3/2018 triển khai thực hiện

Chỉ thị số 47/CT-TTg ngày 27/12/2017 của Thủ tướng Chính phủ về

chấn chỉnh công tác đấu thầu trong các dự án đầu tư phát triên và hoạt

động mua sắm thường xuyên sử dụng vốn nhà nước

7 Văn bản số 3974/UBND-KT ngày 27/8/2018 tiếp tục đẩy mạnh công

tác quyết toán dự án hoàn thành của Thành phố

8 Quyết định số 20/2018/QĐ-UBND ngày 28/8/2018 quy định một số nội

dung về quản lý đầu tư các dự án đầu tư công của Thành phố

9 Văn bản số 4445/UBND-KH&ĐT ngày 21/9/2018 triển khai giám sát,

đánh giá đầu tư trên địa bàn Thành phố

10 Văn bản số 5125/UBND-KHĐT ngày 22/10/2018 triển khai Nghị định

số 120/2018/NĐ-CP ngày 13/9/2018 của Chính phủ về kế hoạch đầu tư

công trung hạn và hàng năm

11 Văn bản số 57/UBND-KT ngày 03/01/2019 về việc rà soát các dự án

đầu tư công giai đoạn 2013-2018

12 Nghị quyết số 04/NQ-HĐND, ngày 09/4/2019 của HĐND Thành phố

174

về phê duyệt chủ trương đầu tư, điều chỉnh chủ trương đầu tư một số dự

án sử dụng vốn đầu tư công trung hạn 5 năm giai đoạn 2016 – 2020

13 Quyết định số 04/2019/QĐ-UBND, ngày 18/03/2019 của UBND Thành

phố về việc ban hành Quy định quản lý trật tự xây dựng trên địa bàn

thành phố Hà Nội

14 Công văn số 1542/UBND-KH&ĐT, ngày 22/4/2019 của UBND Thành

phố về việc triển khai giám sát, đánh giá đầu tư của thành phố Hà Nội

IV Trong quản lý, sử dụng trụ sở, đất đai, tài sản nhà nước

1 Chỉ thị số 04/CT-UBND, ngày 16/3/2017 về việc tăng cường quản lý,

nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản công

2 Quyết định số 1215/QĐ-UBND, ngày 20/02/2017 thí điểm khoán kinh

phí sử dụng xe ô tô phục vụ chung khi đi công tác đối với các chức

danh lãnh đạo tại một số đơn vị

3 Văn bản số 278/UBND-ĐT, ngày 22/01/2018 chỉ đạo triển khai thực

hiện Chỉ thị số 01/CT-TTg, ngày 03/01/2018 của Thủ tướng Chính phủ

về chấn chỉnh, tăng cường công tác quản lý đất đai và xây dựng hệ

thống thông tin đất đai

4 Kế hoạch số 99/KH-UBND ngày 27/4/2018 về đấu giá quyền sử dụng

đất năm 2018 và giai đoạn 2018-2020 trên địa bàn Thành phố

5 Văn bản số 2267/UBND-KT ngày 24/5/2018 về việc triển khai thi hành

Luật quản lý, sử dụng tài sản công

6 Quyết định 17/2018/QĐ-UBND ngày 06/8/2018 ban hành Quy định chi tiết

một số nội dung thuộc thẩm quyền của UBND Thành phố về quản lý, sử

dụng nhà ở cũ thuộc sở hữu nhà nước trên địa bàn Thành phố Hà Nội

7 Văn bản số 5518/UBND-KT, ngày 09/11/2018, chỉ đạo các sở, ban

ngành, UBND các quận, huyện, thị xã và các doanh nghiệp do Nhà

nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ rà soát, để xuất phương án sắp xếp

lại, xử lý nhà, đất

8 Kế hoạch số 02/KH-UBND, ngày 02/01/2019 tổ chức rà soát, kiểm tra,

nghiên cứu, đánh giá các dự án có sử dụng đất vào mục đích sản xuất,

175

kinh doanh trên địa bàn Thành phố

9 Kế hoạch số 98/KH-UBND chỉ đạo tổ chức điều tra, xây dựng Bảng giá

các loại đất trên địa bàn thành phố Hà Nội, áp dụng từ ngày 01/01/2020

đến ngày 31/12/2024

V Trong lĩnh vực quy hoạch, đất đai, tài nguyên, môi trường

1 Chỉ thị số 11/CT-UBND ngày 17/5/2016 chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ cấp

giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn

liền với đất cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân

2 Chỉ thị số 09-CT/TU, ngày 01/9/2016 về tăng cường sự lãnh đạo của

cấp ủy đảng đối với công tác cấp Giấy chứng nhận (GCN) quyền sử

dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất trên địa bàn Thành phố

3 Văn bản số 103/UBND-ĐT ngày 09/01/2017 về việc tăng cường sự

lãnh đạo, chỉ đạo trong công tác kiểm tra, xử lý vi phạm về đất đai, trật

tự xây dựng trên địa bàn Thành phố

4 Quyết định số 2459/QĐ-UBND về việc kiện toàn Ban chỉ đạo đôn đốc

thu hồi nợ đọng thuế và nợ tiền sử dụng đất, tiền thuê đất trên địa bàn

thành phố Hà Nội

5 Quyết định số 5234/QĐ-UBND ngày 02/10/2018 về việc phân bổ chỉ

tiêu điều chỉnh Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử

dụng đất 5 năm kỳ cuối (2016-2020) của Thành phố Hà Nội

6 Kế hoạch số 02/KH-UBND ngày 02/01/2019 tổ chức rà soát, kiểm tra,

nghiên cứu, đánh giá các dự án có sử dụng đất vào mục đích sản xuất,

kinh doanh trên địa bàn Thành phố

7 Kế hoạch số 76/KH-UBND ngày 12/8/2019 về kiểm kê đất đại, lập bản

đồ hiện trạng sử dụng đất năm 2019

VI Trong thực hiện cải cách hành chính và ứng dụng công nghệ thông

tin trong quản lý, điều hành hoạt động

8 Kế hoạch số 39/KH-UBND ngày 15/02/2016 về tuyên truyển cải cách

hành chính năm 2016

9 Kế hoạch số 158/KH-UBND ngày 24/8/2016 về CCHC nhà nước của

176

thành phố Hà Nội giai đoạn 2016-2020

10 Chỉ thị số 11/CT-UBND, ngày 11/5/2016 về các nhiệm vụ, giải pháp

đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở

hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất cho các tổ chức, hộ gia đình, cá

nhân trên địa bàn Thành phố

11 Quyết định số 993/QĐ-UBND, ngày 29/02/2016 của UBND Thành phố

công bố TTHC đặc thù, TTHC liên thông thuộc thẩm quyền quản lý của

thành phố Hà Nội

12 Chỉ thị số 01/CT-UBND ngày 03/2/2017, về việc tổ chức thực hiện|

"Năm kỷ cương hành chính 2017"

13 Kế hoạch số 87/KH-UBND ngày 14/4/2017 tiếp tục triển khai thực hiện

trong giai đoạn 2017-2020 các nhiệm vụ trọng tâm của Đề án “Nâng

cao hiệu lực, quản lý điều hành của hệ thống cơ quan hành chính của

các cấp thành phố Hà Nội giai đoạn 2012 - 2016"

14 Kế hoạch số 138/KH-UBND ngày 12/6/2017 về xây dựng và triển khai

xác định Chỉ số cải cách hành chính năm 2017 của các các Sở, cơ quan

tương đương Sở, UBND các quận, huyện, thị xã

15 Kế hoạch số 52/KH-UBND, ngày 26/02/2018 triển khai thực hiện

“Năm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị"

16 Quyết định số 993/QĐ-UBND, ngày 29/02/2016 về việc công bố thủ

tục hành chính đặc thù, thủ tục hành chính liên thông thuộc thầm quyền

quản lý của thành phố Hà Nội

17 Quyết định số 07/2016/QĐ-UBND, ngày 08/3/2016 ban hành Quy định

thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông trong giải quyết

công việc của cá nhân, tổ chức tại cơ quan hành chính nhà nước thuộc

thành phố Hà Nội

18 Kế hoạch số 68/KH-UBND, ngày 17/3/2017 về triển khai tiếp nhận hồ

sơ và trả kết quả giải quyết TTHC qua dịch vụ bưu chính công ích trên

địa bàn Thành phố

19 Công văn số 894/UBND-KT, ngày 03/3/2017 chỉ đạo các đơn vị tập

177

trung thực hiện tốt việc công khai và niêm yết các TTHC tại nơi tiếp

nhận, giải quyết TTHC

20 Quyết định số 05/2017/QĐ-UBND, ngày 28/02/2017 về việc tổ chức làm

việc vào buổi sáng thứ Bảy hàng tuần để tiếp nhận, giải quyết TTHC

21 Công văn số 4691/UBND-NC, ngày 25/9/2017 chấn chỉnh thực hiện cơ

chế một cửa, một cửa liên thông, nghiêm cấm cán bộ, công chức, viên

chức có hành vi cửa quyền, phiên hà, nhũng nhiễu, tiêu cực

22 Quyết định số 5994/QĐ-UBND, ngày 28/8/2017 về việc ban hành danh

mục TTHC thực hiện tiếp nhận và trả kết quả giải quyết qua dịch vụ

bưu chính công ích trên địa bàn thành phố Hà Nội

23 Quyết định số 5505/QĐ-UBND, ngày 15/10/2018 về việc ban hành

Khung chỉ số đánh giá kết quả CCHC đối với UBND các xã, phường,

thị trấn

24 Chỉ thị số 12/CT-UBND ngày 26/11/2018 về việc nâng cao chất lượng

giải quyết TTHC trong các cơ quan, đơn vị thuộc Thành phố

25 Kế hoạch số 19/KH-UBND ngày 12/01/2019 về kiểm tra hoạt động

kiểm soát TTHC năm 2019 trên địa bàn Thành phố

26 Quyết định số 1943/QĐ-UBND, ngày 21/04/2016 thành lập Ban Chỉ

đạo ứng dụng CNTT thành phố Hà Nội

27 Văn bản số 1613/UBND-THCB, ngày 24/4/2019 về việc tổ chức thực

hiện gửi, nhận văn bàn điện tử có ký số trên trục liên thông văn bản

quốc gia và trong Thành phố

178

PHỤ LỤC 3

KẾT QUẢ TIẾT KIỆM, CHỐNG LÃNG PHÍ THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Giai đoạn 2016-2020

Đơn vị tính: Triệu đồng

STT

Nội dung

Tổng số

Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018 Năm 2019 Năm 2020

I

Trong lập, thấm định, phê duyệt dự toán, quyết

27.704.605

3.399.883

5.060.458

6.671.665

6.577.268

5.995.331

toán, quản lý, sử dụng kinh phí chi thƣờng xuyên

(trong định mức và ngoài định mức)

1

Lập, thấm định, phê duyệt, phân bổ dự toán NSNN

24.792.384

3.297.991

4.487.791

5.908.592

5.796.590

5.301.420

1.1

Số tiền tiết kiệm dự toán chi thường xuyên theo chỉ đạo,

15.224.248

3.265.995

3.619.404

3.519.044

2.734.051

2.085.754

điều hành của Chính phủ, Thành phố

a

Tiết kiệm 10% để cải cách tiền lương

5.283.859

1.472.266

815.744

876.044

1.034.051

1.085.754

b

Tiết giảm dự toán so với dự toán TW giao để trả nợ và

9.940.389

1.793.729

2.803.660

2.643.000

1.700.000

1.000.000

chi đầu tư

1.2

Số tiền cắt giảm qua thẩm định, phân bổ, điều chỉnh dự

9.568.136

31.996

868.387

2.389.548

3.062.539

3.215.666

toán NSNN...|(*)

2

Sử dụng và thanh, quyết toán NSNN

2.900.936

101.856

572.197

756.634

778.363

691.885

2.1 Tiết kiệm chi quản lý hành chính

2.414.655

68.267

462.650

631.613

667.800

584.325

2.2 Tiết kiệm trong chi nghiệp vụ chuyên môn, mua sắm,

36.667

10.601

3.936

7.420

7.845

6.864

sửa chữa

2.3 Tiết kiệm trong đấu thầu tập trung

449.614

22.988

105.611

117.601

102.718

100.696

179

3

Các nội dung khác

11.286

36

470

6.439

2.315

2.026

II

Tiết kiệm trong quản lý vốn đầu tƣ xây dựng cơ bản

3.830.171

602.687

807.562

759.526

809.950

850.447

1

Cắt giảm vốn do chậm, chưa phân bố

152.498

45.127

32.365

29.129

26.216

19.662

2

Thẩm định, phê duyệt dự án, tổng dự toán

1.573.931

87.539

391.726

425.113

382.602

286.951

3

Thực hiện đấu thầu, chào hàng cạnh tranh...

477.916

105.701

89.683

109.721

98.749

74.062

4

239.826

66.451

108.776

25.087

22.578

16.934

Thực hiện đầu tư, thi công

5

921.857

297.869

185.012

170.476

153.428

115.071

Thẩm tra, phê duyệt quyết toán

III Trong quản lý, sử dụng vốn và tài sản nhà nƣớc tại

1.923.872

496.855

332.373

386.763

386.119

321.762

doanh nghiệp

Tiết kiệm chi phí, giá thành sản xuất kinh đoanh

1.673.097

412.225

282.035

344.286

346.119

288.432

1

Quản lý đầu tư xây dựng

250.775

84.630

50.338

42.477

40.000

33.330

2

Ghi chú: (*) Số tiền cắt giảm qua thẩm định, phân bổ, điều chỉnh dự toán NSNN của các năm từ năm 2017 đến năm 2020: bao gồm cả số

chênh lệch khi Sở Tài chính rà soát, thẩm định dự toán đầu năm của các đơn vị xây dựng để tham mưu, báo cáo UBND Thành phố

trình HĐND Thành phố quyết định phân bổ, giao dự toán cho các đơn vị

Nguồn: [9]

180

PHỤ LỤC 4

KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÁC CHỈ TIÊU CHƢƠNG TRÌNH 07-CTr/TU

1

100% các kết luận thanh tra kinh tế -

Cơ bản đạt chỉ tiêu Chương

Cơ bản đạt

xã hội, thanh tra chuyên ngành khi

trình 07 để ra

phát hiện dấu hiệu tham nhũng phải

được chuyên đến cơ quan điều tra để

xử lý theo quy định của pháp luật

2 Tập trung giải quyết kịp thời 90%

Đã đạt 91,8%

Đạt chỉ tiêu

tố giác, tin báo về tội phạm tham

Chương trình

nhũng

đề ra

3

100% các vụ án về tham nhũng

Đã đạt 100%

Đạt chỉ tiêu

nghiêm trọng, phức tạp phải được

Chương trình

điều tra, truy tố, xét xử kịp thời

đề ra

4 Hạn chế tỷ lệ trả hồ sơ dưới 5%

Tỷ lệ hồ sơ điều tra bổ sung

Đạt chỉ tiêu

có trách nhiệm là

Chương trình

để ra

5 Thu hồi tiền, tài sản đối với các án

Thu hồi tiền, tài sản đối với các

Chưa đạt chỉ

tham nhũng đạt tỷ lệ trên 65%

án tham nhũng trong 4 năm

tiêu Chương

(2016-2019) đạt tỷ lệ 75,53%

trình đề ra

về việc, 16,43% về tiền

Chưa đạt chỉ

6 Phấn đấu 100% không có án về

Đã đạt 97,54%

tiêu Chương

tham nhũng bị cấp trên huỷ, sửa

trình đề ra

Đạt chỉ tiêu

7

100% không xét xử oan sai, bỏ lọt

Chương trình

tội phạm

đề ra

8

100% các vụ án về tham nhũng giải

Đã đạt 100%

Đạt chỉ tiêu

TT CHỈ TIÊU CTR07 ĐỀ RA KẾT QUẢ ĐẠT ĐƢỢC GHI CHÚ

quyết trong hạn theo quy định của

Chương trình

pháp luật

đề ra

9 Phấn đấu 100% các chức danh tư

Đã đạt 100%

Đạt chỉ tiêu

pháp, cán bộ điều tra viên, kiểm sát

Chương trình

viên, thẩm phán được đào tạo đúng

đề ra

chuyên ngành, có năng lực, trình

độ chuyên môn sâu, có phẩm chất

đạo đức tốt, công minh, liêm chính

10 Phấn đấu tiết kiệm 10% chi thường

Chỉ tiêu này đã được Thành phố

Đạt (vượt chỉ

xuyên

thực hiện nghiêm túc đối với tất

tiêu)

cả các đơn vị ngay từ khâu giao

dự toán đầu năm (riêng năm

2016, thực hiện tiết kiệm 20%

theo chỉ đạo của Chính phủ).

11 Phấn đấu tiết kiệm 12% kinh phí chi

UBND Thành phố đã xây dựng

Cơ bản đạt

hội nghị, hội thảo, tiếp khách, khánh

cụ thể chỉ tiêu này. Trên cơ sở

tiết, tổ chức lễ hội, lễ kỷ niệm;...

đó, các đơn vị đã xây. dựng tỷ

lệ tiết kiệm theo chỉ tiêu Thành

phố giao trong Chương trình

THTKCLP của đơn vị mình và

nghiêm túc thực hiện.

12 100% vốn đầu tư được phân bổ

Công tác phân bổ vốn đầu tư

Cơ bản đạt

tuân thủ đúng nguyên tắc

thuộc ngân sách Thành phố,

ngân sách quận, huyện, thị xã

cơ bản các đơn vị thực hiện

thực hiện phân bổ vốn đầu tư

đảm bảo theo đúng quy định

của Luật Đầu tư công

181

Nguồn: [9]

182

PHỤ LỤC 5

Đồng chí thân mến!

Để phục vụ cho đề tài: “Thành ủy Hà Nội lãnh đạo công tác phòng, chống

PHIẾU TRƢNG CẦU Ý KIẾN

lãng phí giai đoạn hiện nay”, kính mời đồng chí tham gia khảo sát thông qua phiếu

này. Chúng tôi cam đoan mọi thông tin mà đồng chí cung cấp chỉ được sử dụng cho

mục đích nghiên cứu đề tài, không nhằm bất cứ mục đích nào khác.

Rất mong nhận được sự hợp tác tích cực của đồng chí!

Xin trân trọng cảm ơn!

Đồng chí vui lòng trả lời đầy đủ các câu hỏi dưới đây bằng cách đánh dấu (x)

vào ô  trước phương án mà đồng chí lựa chọn, hoặc trình bày ý kiến của mình vào

chỗ trống (….). Một câu hỏi có thể lựa chọn nhiều phương án trả lời.

Xin đồng chí cho biết một số thông tin cá nhân:

- Giới tính:

 Nam

 Nữ

- Tuổi:

 18-30 tuổi

 30-45 tuổi

 45-60 tuổi

 Trên 60 tuổi

- Trình độ

 Trung học phổ thông

 Cao đẳng, đại học

 Sau Đại học

- Cơ quan công tác:

 1. Cơ quan Thành ủy, cấp ủy cấp huyện, cấp cơ sở

 2. Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân Thành phố, cấp huyện, cấp cơ sở

 3. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể

 4. Đơn vị sự nghiệp/Doanh nghiệp nhà nước

 5. Lực lượng vũ trang

Câu 1. Đồng chí đã biết tới những văn bản nào dưới đây?

 Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Hà Nội lần thứ XV

 Chương trình số 07-CT/TU, ngày 26/4/2016 của Thành uỷ về "Nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí giai đoạn

183

2016-2020"

 Kế hoạch của cấp ủy thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về “tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí"

 Kế hoạch của cấp ủy thực hiện Kết luận số 10-KL/TW, ngày 26/12/2016 của Bộ Chính trị "Về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khoá X) về tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí"

Câu 2. Đồng chí biết đến chủ trương, quy định về phòng, chống lãng phí

thông qua những phương thức nào?

 Qua học nghị quyết

 Qua triển khai ở chi bộ, đảng bộ

 Qua các phương tiện truyền thông đại chúng

 Qua thực hiện tại cơ quan, đơn vị

 Qua đồng chí, đồng nghiệp

 Khác ………………………………………………………………. Câu 3. Từ năm 2013 đến nay, ở chi bộ/đảng bộ đồng chí trong xây dựng và

thực hiện kế hoạch kiểm tra, giám sát có bao nhiêu cuộc kiểm tra, giám sát việc

thực hành tiết kiệm, chống lãng phí?

 Không có

 01 cuộc

 02 cuộc

 03 cuộc

 Trên 03 cuộc

Câu 4. Qua kiểm tra, giám sát có phát hiện vi phạm trong phòng, chống lãng

phí không? Xử lý như thế nào?

 Không có vi phạm

184

 Có vi phạm, không xử lý kỷ luật

 Có vi phạm, có xử lý kỷ luật

Câu 5. Ở cơ quan, địa phương đồng chí thực hiện những nội dung nào trong

các nội dung dưới đây?

 Xây dựng, ban hành và thực hiện Chương trình thực hành tiết kiệm, chống

lãng phí

 Có nội dung phòng, chống lãng phí trong quy chế làm việc

 Có nội dung phòng, chống lãng phí trong đánh giá chất lượng công tác của

cán bộ, nhân viên

 Có tuyên truyền, hoạt động phong trào phòng, chống lãng phí

 Sơ kết, tổng kết việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

 Có phát hiện, xử lý hành vi lãng phí

 Khác…………………………………………………………… Câu 6. Đồng chí đánh giá việc thực hiện công tác phòng chống lãng phí ở

cơ quan, địa phương phương nơi đồng chí công tác và sinh sống như thế nào?

6.1. Tại cơ quan nơi đồng chí đang công tác

Mức độ đánh giá

Khó

Bình

Không

Rất tốt

Tốt

đánh

Nội dung đánh giá

thường

tốt

giá

1

2

3

4

5

Ban hành và thực hiện quy chế,

1

quy định, định mức về chi tiêu

nội bộ

Quản lý, mua sắm và sử dụng xe

2

công

Quản lý, mua sắm và sử dụng

3

phương tiện, thiết bị làm việc

của cơ quan

Quản lý và sử dụng trụ sở làm

4

việc, nhà ở công vụ

Sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh

5

giản biên chế

Quản lý, sử dụng thời gian lao

6

động

Quản lý, kiểm tra, giám sát chất

7

lượng và đảm bảo hiệu quả công

việc của công chức, người lao động

6.2. Tại địa phương nơi đồng chí đang sinh sống

185

Mức độ đánh giá

Khó

Bình

Không

Rất tốt

Tốt

đánh

Nội dung đánh giá

thường

tốt

giá

5

1

2

3

4

Quản lý, sử dụng vốn đầu tư xây

1

dựng

2 Rà soát, sắp xếp các dự án

Kiểm tra, thanh tra việc thực

3

hiện các dự án, tiến độ, chất

lượng công trình

Quản lý, sử dụng công trình

4

phúc lợi công cộng

Quản lý, khai thác, sử dụng tài

5

nguyên

6 Bảo vệ tài nguyên, môi trường

Minh bạch thông tin hoạt động

7

của doanh nghiệp nhà nước

Thực hành tiết kiệm, chống lãng

8

phí trong doanh nghiệp sử dụng

vốn nhà nước

Tuyên

truyền, phổ biến về

9

phòng, chống lãng phí đối với

các tổ chức, cá nhân

Tạo dư luận xã hội, phong trào

10

tiết kiệm, chống lãng phí

186

Câu 7. Thực hiện công tác phòng, chống lãng phí dưới sự lãnh đạo của

Thành ủy Hà Nội, đồng chí vui lòng cho biết mức độ chuyển biến của hành vi lãng

phí ở cơ quan, đơn vị từ năm 2013 đến nay:

Khó

giảm

Giảm

Không

Tăng

đánh

Nhưng

Hành vi lãng phí

hẳn

giảm

thêm

giá

không

đáng kể

Tổ chức hội nghị, hội thảo, tọa đàm

1

vượt quá định mức, tiêu chuẩn, chế độ

Cử cán bộ, công chức, viên chức đi

công tác, khảo sát trong và ngoài nước

không đúng mục đích, đối tượng, dự

2

toán được giao; vượt định mức, tiêu

chuẩn, chế độ; không xây dựng kế

hoạch, biện pháp và tổ chức thực hiện.

Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức,

viên chức không đúng mục đích, đối

3

tượng, dự toán được giao; vượt định

mức, tiêu chuẩn, chế độ

Sử dụng điện, nước bừa bãi, không tiết

4

kiệm

Sử dụng văn phòng phẩm, sách báo,

5

tạp chí vượt định mức, tiêu chuẩn.

Tiếp khách, khánh tiết; tổ chức lễ hội, lễ

6

kỷ niệm hoành tráng quá mức cần thiết

Mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng không

7

căn cứ vào nhu cầu và điều kiện

Mua sắm trang bị xe công, trang thiết bị

làm việc không đúng mục đích, trùng lắp

8

với các nguồn kinh phí khác, mua sắm

vượt quá nhu cầu dẫn đến không sử

dụng hoặc sử dụng kém hiệu quả

Bố trí sử dụng xe công, trang thiết bị

9

làm việc không đúng mục đích; vượt

định mức, tiêu chuẩn, chế độ

Sử dụng xe công, trang thiết bị làm

10

việc vào mục đích riêng

Thiếu trách nhiệm trong việc bảo quản

11

xe công, trang thiết bị làm việc gây hư

hỏng, thất thoát tài sản

Sử dụng trụ sở làm việc, nhà ở công vụ

12

không đúng mục đích, không đúng đối

tượng, vượt định mức, tiêu chuẩn, chế độ

Không xử lý kịp thời đối với công

trình do nhà nước đầu tư không sử

13

dụng được, không có nhu cầu sử dụng

hoặc sử dụng hiệu quả thấp, không đạt

mục tiêu đã định.

187

Tuyển dụng công chức, viên chức,

người lao động vượt quá chỉ tiêu biên

14

chế; sai đối tượng, không đúng quy

định hoặc thẩm quyền

Tuyển dụng, ký hợp đồng lao động,

15

hợp đồng làm việc với hình thức

không hợp lý

Tuyển dụng viên chức không căn cứ vào

yêu cầu công việc, vị trí việc làm, tiêu

16

chuẩn chức danh nghề nghiệp và quỹ

tiền lương của đơn vị sự nghiệp công lập

Bố trí, sử dụng cán bộ, công chức, viên

chức không căn cứ vào yêu cầu công

17

việc, trình độ đào tạo, năng lực chuyên

môn, ngạch, chức danh theo quy định.

Sử dụng thời gian lao động vào việc

18

riêng, sử dụng thời gian lao động

không hiệu quả.

Hành vi khác ……………………..…

19

………………………………………

188

Câu 8. Thực hiện công tác phòng, chống lãng phí dưới sự lãnh đạo của

Thành ủy Hà Nội, đồng chí vui lòng cho biết mức độ chuyển biến của hành vi lãng

phí ở địa phương từ năm 2013 đến nay:

giảm

Khó

Giảm

Nhưng

Không

Tăng

đánh

Hành vi lãng phí

hẳn

không

giảm

thêm

giá

đáng

kể

Đầu tư công tràn lan, hiệu quả thấp

1

hoặc không hiệu quả

Dự án đầu tư không khoa học, không

2

đúng tiêu chuẩn, vượt định mức, đơn

giá theo quy định

Vốn đầu tư ứ đọng, đầu tư không

3

sinh lời hay thua lỗ

Dự án chậm triển khai, chậm tiến độ,

4

gây đội vốn…

Thất thoát trong các công trình, dự

5

án, trong đầu tư công

Chính sách, chủ trương sai sót, không

6

phù hợp với thực tiễn

Quản lý, sử dụng vốn gây thất thoát;

7

sử dụng không đúng mục đích;…

Quản lý, khai thác, sử dụng tài

nguyên không đúng quy hoạch, kế

8

hoạch, quy trình đã được cơ quan nhà

nước có thẩm quyền phê duyệt

Gây ô nhiễm, hủy hoại tài nguyên;

9

không thực hiện các giải pháp, biện

pháp bảo vệ môi trường

Giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất,

10

cho phép chuyển mục đích sử dụng

đất không đúng quy hoạch

Nhân dân tổ chức lễ hội, cưới hỏi, ma

11

chay linh đình, tốn kém trong khi

điều kiện kinh tế hạn chế

12 Người dân tiêu dùng hoang phí, mua

189

sắm vô độ; lối sống xa hoa, hưởng

thụ hay lười biếng, vô trách nhiệm

trong sinh hoạt, công tác

Lười lao động, lười làm việc trong

13

thanh niên, người lao động

Hành vi khác …………………..…

14

………………..…………………..

190

Câu 9. Đồng chí đánh giá như thế nào về mức độ lãng phí ở Hà Nội hiện nay?

Rất

Nghiêm

Bình

Ít nghiêm

Không

nghiêm

trọng

thường

trọng

nghiêm

trọng

trọng

1

2

3

4

5

1

Lãng phí tiền, tài

sản công

2

Lãng phí về

tổ

chức bộ máy, lao

động

3

Lãng phí thời gian

lao động

4

Lãng

phí

tài

nguyên

5

Lãng phí trong sản

xuất, kinh doanh,

tiêu

dùng

của

Nhân dân

Câu 10. Theo đồng chí, những hạn chế của Thành ủy Hà Nội trong lãnh đạo

công tác phòng, chống lãng phí xuất phát từ những nguyên nhân nào?

 Diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế và

mặt trái của nền kinh tế thị trường

191

 Công tác phòng, chống lãng phí là công việc khó khăn và phức tạp

 Nhận thức của một số cấp ủy về công tác phòng, chống lãng phí còn hạn chế

 Một số cơ quan nhà nước, chính quyền địa phương, người đứng đầu chưa

phát huy tốt trách nhiệm

 Một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức chưa tự giác rèn luyện tác phong

Làm việc hiệu quả, trách nhiệm trong công vụ

 Đặc điểm xã hội, dân cư Thành phố Hà Nội không đồng đều Câu 11. Theo đồng chí, để tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy Hà Nội đối

với công tác phòng, chống lãng phí có thể thực hiện giải pháp nào sau đây?

 1. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, trước hết

là của Thành ủy và người đứng đầu về vai trò lãnh đạo đối với công tác phòng,

chống lãng phí

 2. Đổi mới nội dung lãnh đạo phòng, chống lãng phí theo hướng tập trung

vào các lĩnh vực gây bức xúc

 3. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Thành ủy đối với công tác phòng,

chống lãng phí

 4. Nâng cao năng lực lãnh đạo công tác phòng, chống lãng phí của Thành ủy

Hà Nội và các tổ chức đảng trong Thành phố, đặc biệt là cấp cơ sở

 5. Tăng cường kiểm tra, giám sát của Thành ủy, UBKT Trung ương , siết

chặt kỷ luật, kỷ cương trong toàn Đảng bộ Thành phố Hà Nội trong thực hiện công

tác phòng, chống lãng phí

 6. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, sự phối hợp, hỗ

trợ của các cơ quan, tổ chức có liên quan trong công tác phòng, chống lãng phí

 7. Tổng kết thực tiễn, nghiên cứu hoàn thiện lý luận về phòng, chống lãng phí

 8. Ý kiến khác …………………………………………………………..

………………….…………………………………………………………..

Trân trọng cảm ơn ý kiến đóng góp của đồng chí!

192

PHỤ LỤC 6 BÁO CÁO TỔNG HỢP KẾT QUẢ XỬ LÝ PHIẾU TRƢNG CẦU Ý KIẾN

- Địa điểm phát phiếu điều tra: Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng, Cầu Giấy, Thanh

Xuân, Bắc Từ Liêm, Hà Đông, Đông Anh, Chương Mỹ.

- Thời gian: từ ngày 05/10 đến ngày 05/11/2020

- Số phiếu phát ra: 1100 - Số phiếu thu về: 1048 (Chiếm 95.3%)

- Số phiếu hợp lệ: 1048

- Số phiếu không hợp lệ: 0

Kết quả:

Thông tin cá nhân:

Số lượng

Tỷ lệ (%)

Nam

646

61.6

- Giới tính

Nữ

402

38.4

20-30 tuổi

72

6.9

30-40 tuổi

296

28.2

- Tuổi

40-50 tuổi

648

61.8

Trên 50

32

3.1

Trung học phổ thông

0

0

- Trình độ

Cao đẳng, đại học

575

54.9

Sau đại học

464

44.3

1. Cơ quan Thành ủy, cấp ủy cấp huyện,

307

29.3

cấp cơ sở

170

16.2

2. Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân Thành phố, cấp huyện, cấp cơ sở

- Cơ quan

66

6.3

công tác

3. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể

441

42.1

4. Đơn vị sự nghiệp/Doanh nghiệp nhà nước

64

6.1

5. Lực lượng vũ trang

Câu 1. Đồng chí đã biết tới những văn bản nào dưới đây?

Số lượng

Tỷ lệ (%)

Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Hà

968

92.4

193

Chương trình số 07-CT/TU, ngày 26/4/2016 của Thành

uỷ về "Nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham

872

83.2

nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí giai đoạn 2016-2020"

Kế hoạch của cấp ủy thực hiện Nghị quyết Trung ương

3 (khóa X) về “tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối

856

81.7

với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí"

Kế hoạch của cấp ủy thực hiện Kết luận số 10-KL/TW,

ngày 26/12/2016 của Bộ Chính trị "Về việc tiếp tục thực

hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khoá X) về tăng cường

856

81.7

sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống

tham nhũng, lãng phí"

Nội lần thứ XV

Câu 2. Đồng chí biết đến chủ trương, quy định về phòng, chống lãng phí

thông qua những phương thức nào?

Số lượng

Tỷ lệ (%)

Qua học nghị quyết

840

80.2

Qua triển khai ở chi bộ, đảng bộ

968

92.4

Qua các phương tiện truyền thông đại chúng

688

65.6

Qua thực hiện tại cơ quan, đơn vị

808

77.1

Qua đồng chí, đồng nghiệp

344

32.8

Khác:

1

- Tự nghiên cứu

Câu 3. Từ năm 2013 đến nay, ở chi bộ/đảng bộ đồng chí trong xây dựng và thực hiện kế hoạch kiểm tra, giám sát có bao nhiêu cuộc kiểm tra, giám sát việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí?

Số lượng

Tỷ lệ (%)

Không có

128

12.2

01 cuộc

152

14.5

02 cuộc

144

13.7

03 cuộc

152

14.5

Trên 03 cuộc

472

45

Câu 4. Qua kiểm tra, giám sát có phát hiện vi phạm trong phòng, chống lãng

phí không? Xử lý như thế nào?

194

Số lượng

Tỷ lệ (%)

Không có vi phạm

856

8.2

Có vi phạm, không xử lý kỷ luật

96

9.2

Có vi phạm, có xử lý kỷ luật

88

8.4

Câu 5. Ở cơ quan, địa phương đồng chí thực hiện những nội dung nào trong

các nội dung dưới đây?

Số lượng

Tỷ lệ (%)

816

77.9

Xây dựng, ban hành và thực hiện Chương trình thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Có nội dung phòng, chống lãng phí trong quy chế làm việc

824

78.6

Có nội dung phòng, chống lãng phí trong đánh giá chất

584

55.7

lượng công tác của cán bộ, nhân viên

Có tuyên truyền, hoạt động phong trào phòng, chống

744

71

lãng phí

Sơ kết, tổng kết việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

600

57.3

Có phát hiện, xử lý hành vi lãng phí

192

18.3

Khác…………………………

0

0

Câu 6. Đồng chí đánh giá việc thực hiện công tác phòng chống lãng phí ở

cơ quan, địa phương phương nơi đồng chí công tác và sinh sống như thế nào?

6.1. Tại cơ quan nơi đồng chí đang công tác

Mức độ đánh giá

Tốt

Khó đánh

Kết quả

Nội dung đánh giá

Rất tốt

Bình thường

Không tốt

giá

1

2

3

4

5

Số phiếu

368

616

64

0

0

1 Ban hành và thực hiện quy chế, quy định, định mức

về chi tiêu nội bộ

Tỷ lệ (%)

35.1

58.8

6.1

0

0

Số phiếu

2 Quản lý, mua sắm và sử

208

616

120

104

0

dụng xe công

Tỷ lệ (%)

19.8

58.8

11.5

9.9

0

Số phiếu

224

640

160

16

8

3 Quản lý, mua sắm và sử dụng phương tiện, thiết bị làm việc của cơ quan

Tỷ lệ (%)

21.4

61.1

15.3

1.5

0.8

Số phiếu

4 Quản lý và sử dụng trụ sở

224

632

168

0

24

làm việc, nhà ở công vụ

Tỷ lệ (%)

21.4

60.3

16.0

0

2.3

Số phiếu

5 Sắp xếp tổ chức bộ máy,

208

584

208

8

40

tinh giản biên chế

Tỷ lệ (%)

19.8

55.7

19.8

0.8

3.9

Số phiếu

6 Quản lý, sử dụng thời gian

168

592

256

8

24

lao động

Tỷ lệ (%)

16.0

56.5

24.4

0.8

2.3

7 Quản lý, kiểm tra, giám

Số phiếu

120

648

240

8

30

sát chất lượng và đảm bảo hiệu quả công việc của

Tỷ lệ (%)

11.5

61.8

22.9

0.8

3.1

công chức, người lao động

6.2. Tại địa phương nơi đồng chí đang sinh sống

195

Mức độ đánh giá

Rất

Tốt

Bình

Không

Khó

tốt

thường

tốt

đánh

Kết quả

Nội dung đánh giá

giá

1

2

4

3

5

Số phiếu

Quản lý, sử dụng vốn đầu

40 472

376

152

8

1

tư xây dựng

Tỷ lệ (%)

3.8 45.0

35.9

14.5

0.8

Số phiếu

32 432

408

168

8

2 Rà soát, sắp xếp các dự án

Tỷ lệ (%)

3.1 41.2

38.9

16.1

0.8

Kiểm tra, thanh tra việc

Số phiếu

56 400

424

144

24

thực hiện các dự án, tiến

3

độ, chất lượng công trình

Tỷ lệ (%)

5.3 38.2

40.5

13.7

2.3

Số phiếu

Quản lý, sử dụng công

72 400

440

112

24

4

trình phúc lợi công cộng

Tỷ lệ (%)

6.9 38.2

42.0

10.7

2.3

Số phiếu

Quản lý, khai thác, sử

56 328

480

144

40

5

dụng tài nguyên

Tỷ lệ (%)

5.3 31.3

45.8

13.7

3.8

Số phiếu

40 376

456

120

56

6

Bảo vệ tài nguyên, môi trường

Tỷ lệ (%)

3.8 35.9

43.5

9.1

5.3

Số phiếu

40 352

520

120

16

Minh bạch thông tin hoạt động của doanh nghiệp

7

nhà nước

Tỷ lệ (%)

3.8 33.6

49.6

1.5

11.5

Thực hành

tiết kiệm,

Số phiếu

48 320

512

24

144

chống

lãng phí

trong

8

doanh nghiệp sử dụng vốn

Tỷ lệ (%)

4.6 30.5

48.9

2.3

13.7

nhà nước

Tuyên truyền, phổ biến về

Số phiếu

96 648

264

8

32

9

phòng, chống lãng phí đối với các tổ chức, cá nhân

Tỷ lệ (%)

9.2 61.8

25.2

0.8

3.1

Tạo dư luận xã hội, phong

Số phiếu

64 544

336

16

88

trào tiết kiệm, chống lãng

10

phí

Tỷ lệ (%)

6.1 51.9

32.1

1.5

8.4

196

Câu 7. Thực hiện công tác phòng, chống lãng phí dưới sự lãnh đạo của Thành ủy Hà Nội, đồng chí vui lòng cho biết mức độ chuyển biến của hành vi lãng

phí ở cơ quan, đơn vị từ năm 2013 đến nay:

Có giảm

Khó

Giảm

Không

Tăng

Hành vi lãng phí

Kết quả

hẳn

giảm

thêm

Nhưng không

đánh giá

đáng kể

Tổ chức hội nghị, hội thảo, tọa

Số phiếu

776

192

24

0

56

đàm vượt quá định mức, tiêu

1

chuẩn, chế độ

Tỷ lệ (%)

74.0

18.3

2.3

0

5.3

Cử cán bộ, công chức, viên

chức đi công tác, khảo sát

Số phiếu

824

104

48

0

72

trong và ngoài nước không

2

đúng mục đích, đối tượng, dự toán được giao; vượt định tiêu chuẩn, chế độ; mức,

Tỷ lệ (%)

78.6

9.9

4.6

0

6.9

không xây dựng kế hoạch, biện pháp và tổ chức thực hiện.

197

Số phiếu

776

184

40

0

48

công chức, viên chức không

đúng mục đích, đối tượng, dự

3

Tỷ lệ (%)

74.0

17.6

3.8

0

4.6

toán được giao; vượt định mức, tiêu chuẩn, chế độ

Số phiếu

640

304

0

32

72

4

Sử dụng điện, nước bừa bãi, không tiết kiệm

Tỷ lệ (%)

61.1

29.0

0

3.1

6.9

Số phiếu

Sử dụng văn phòng phẩm,

728

256

0

40

24

5

sách báo, tạp chí vượt định

Tỷ lệ (%)

69.5

24.4

0

3.8

2.3

mức, tiêu chuẩn.

Số phiếu

Tiếp khách, khánh tiết; tổ chức

704

280

0

32

32

6

lễ hội, lễ kỷ niệm hoành tráng

Tỷ lệ (%)

67.2

26.7

0

3.1

3.1

quá mức cần thiết

Mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng

Số phiếu

736

224

24

0

64

không căn cứ vào nhu cầu và

7

điều kiện

Tỷ lệ (%)

70.2

21.4

2.3

0

6.1

Mua sắm trang bị xe công,

trang thiết bị làm việc không

Số phiếu

784

160

48

0

56

đúng mục đích, trùng lắp với

các nguồn kinh phí khác, mua

8

sắm vượt quá nhu cầu dẫn đến

không sử dụng hoặc sử dụng

Tỷ lệ (%)

74.8

15.3

4.6

0

5.3

kém hiệu quả

Số phiếu

768

200

24

0

56

Bố trí sử dụng xe công, trang thiết bị làm việc không đúng

9

Tỷ lệ (%)

73.3

19.1

0

5.3

2.3

mục đích; vượt định mức, tiêu chuẩn, chế độ

Số phiếu

816

176

0

40

16

10

Sử dụng xe công, trang thiết bị làm việc vào mục đích riêng

Tỷ lệ (%)

77.9

16.8

0

3.8

1.5

Số phiếu

792

200

0

32

24

11

Thiếu trách nhiệm trong việc bảo quản xe công, trang thiết

Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

198

Tỷ lệ (%)

75.6

19.1

2.3

0

3.1

thoát tài sản

Sử dụng trụ sở làm việc, nhà ở

Số phiếu

808

184

16

0

40

12

công vụ không đúng mục đích, không đúng đối tượng, vượt

Tỷ lệ (%)

77.1

17.6

1.5

0

3.8

định mức, tiêu chuẩn, chế độ

Không xử lý kịp thời đối với

công trình do nhà nước đầu tư

Số phiếu

528

392

56

8

64

không sử dụng được, không có

13

nhu cầu sử dụng hoặc sử dụng

Tỷ lệ (%)

50.4

37.4

5.3

0.8

6.1

hiệu quả thấp, không đạt mục tiêu đã định.

Tuyển dụng công chức, viên

Số phiếu

chức, người lao động vượt quá

728

248

32

0

40

chỉ tiêu biên chế; sai đối

14

tượng, không đúng quy định

Tỷ lệ (%)

69.5

23.7

3.1

0

3.8

hoặc thẩm quyền

Tuyển dụng, ký hợp đồng lao

Số phiếu

768

216

16

0

48

động, hợp đồng làm việc với

15

hình thức không hợp lý

Tỷ lệ (%)

73.3

20.6

1.5

0

4.6

Tuyển dụng viên chức không

căn cứ vào yêu cầu công việc,

Số phiếu

768

200

24

8

48

vị trí việc làm, tiêu chuẩn chức

16

danh nghề nghiệp và quỹ tiền lương của đơn vị sự nghiệp

Tỷ lệ (%)

73.3

19.1

2.3

0.8

4.6

công lập

Số phiếu

17

632

320

40

8

48

Bố trí, sử dụng cán bộ, công chức, viên chức không căn cứ vào yêu cầu công việc, trình

bị làm việc gây hư hỏng, thất

199

môn, ngạch, chức danh theo

Tỷ lệ (%)

60.3

30.5

3.8

0.8

4.6

quy định.

Sử dụng thời gian lao động

Số phiếu

592

384

32

8

32

vào việc riêng, sử dụng thời

18

gian lao động không hiệu quả.

Tỷ lệ (%)

56.5

36.6

3.1

.8

3.1

Hành vi khác ………………

Số phiếu

19

0

0

0

0

0

……………………………..

độ đào tạo, năng lực chuyên

Câu 8. Thực hiện công tác phòng, chống lãng phí dưới sự lãnh đạo của Thành ủy Hà Nội, đồng chí vui lòng cho biết mức độ chuyển biến của hành vi lãng

phí ở địa phương từ năm 2013 đến nay:

Hành vi lãng phí

Có giảm

Khó

Giảm

Không

Tăng

Kết quả

hẳn

giảm

thêm

Nhưng không

đánh giá

Số phiếu

đáng kể 312

Đầu tư công tràn lan, hiệu

648

48

0

40

1

quả thấp hoặc không hiệu

Tỷ lệ (%)

61.8

29.8

4.6

0

3.8

quả

Dự án đầu tư không khoa

Số phiếu

616

336

32

64

0

học, không đúng tiêu chuẩn,

2

vượt định mức, đơn giá

Tỷ lệ (%)

58.8

32.1

6.1

0

3.1

theo quy định

Số phiếu

Vốn đầu tư ứ đọng, đầu tư

584

328

112

0

24

3

không sinh lời hay thua lỗ

Tỷ lệ (%)

55.7

31.3

10.7

0

2.3

Số phiếu

Dự án chậm triển khai, chậm

512

408

64

8

56

4

tiến độ, gây đội vốn…

Tỷ lệ (%)

48.9

38.9

6.1

0.8

5.3

Số phiếu

536

368

80

8

56

5

Thất thoát trong các công trình, dự án, trong đầu tư công

Tỷ lệ (%)

51.1

35.1

7.6

0.8

5.3

Số phiếu

664

296

64

0

24

6

Tỷ lệ (%)

63.4

28.2

6.1

0

2.3

Chính sách, chủ trương sai sót, không phù hợp với thực tiễn

200

Số phiếu

608

328

48

0

64

thất thoát; sử dụng không

7

đúng mục đích;…

Tỷ lệ (%)

58.0

31.3

4.6

0

6.1

Số phiếu

560

368

40

0

80

Quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên không đúng quy

8

hoạch, kế hoạch, quy trình đã được cơ quan nhà nước

Tỷ lệ (%)

53.4

35.1

3.8

0

7.6

có thẩm quyền phê duyệt

Gây ô nhiễm, hủy hoại tài

Số phiếu

480 424

72

16

56

nguyên; không thực hiện

9

Tỷ lệ (%)

45.8

40.5

6.9

1.5

5.3

các giải pháp, biện pháp bảo vệ môi trường

Số phiếu

520

376

72

0

80

Giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, cho phép chuyển

10

mục đích sử dụng đất không

Tỷ lệ (%)

49.6

35.9

6.9

0

7.6

đúng quy hoạch

Nhân dân tổ chức lễ hội,

Số phiếu

512

360

96

0

80

cưới hỏi, ma chay linh đình,

11

tốn kém trong khi điều kiện

Tỷ lệ (%)

48.9

34.4

9.2

0

7.6

kinh tế hạn chế

Người dân tiêu dùng hoang

Số phiếu

568

352

64

8

56

phí, mua sắm vô độ; lối

12

sống xa hoa, hưởng thụ hay lười biếng, vô trách nhiệm

Tỷ lệ (%)

54.2

33.6

6.1

0.8

5.3

trong sinh hoạt, công tác

Số phiếu

488

408

72

16

64

13

Lười lao động, lười làm việc trong thanh niên, người lao động

Tỷ lệ (%)

46.6

38.9

6.9

1.5

6.1

14

0

0

0

0

0

Hành vi khác …………… ………………..…………

Quản lý, sử dụng vốn gây

201

Câu 9. Đồng chí đánh giá như thế nào về mức độ lãng phí ở Hà Nội hiện nay?

Rất nghiêm

Nghiêm trọng

Bình thường

Ít nghiêm

Không nghiêm

Khó đánh

Kết quả

trọng

trọng

trọng

giá

1

2

3

4

5

1 Lãng

phí

Số phiếu

16

64

456

296

176

40

tiền, tài sản

Tỷ lệ (%)

1.5

6.1

43.5

28.2

16.8

3.8

công

2 Lãng

phí

Số phiếu

16

80

440

280

184

48

về tổ chức

bộ máy, lao

Tỷ lệ (%)

1.5

7.6

42.0

26.7

17.6

4.6

động

3 Lãng

phí

Số phiếu

16

96

448

248

176

64

thời

gian

lao động

Tỷ lệ (%)

1.5

9.2

42.7

23.7

16.8

6.1

4 Lãng

phí

Số phiếu

16

128

456

232

160

56

tài nguyên

Tỷ lệ (%)

1.5

12.2

43.5

22.1

15.3

5.3

5 Lãng

phí

trong

sản

Số phiếu

16

88

480

232

184

48

xuất, kinh

doanh, tiêu

dùng

của

Tỷ lệ (%)

1.5

8.4

45.8

22.1

17.6

4.6

Nhân dân

Câu 10. Theo đồng chí, những hạn chế của Thành ủy Hà Nội trong lãnh đạo

công tác phòng, chống lãng phí xuất phát từ những nguyên nhân nào?

Số lượng

Tỷ lệ (%)

584

55.7

Diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế và mặt trái của nền kinh tế thị trường

712

67.9

Công tác phòng, chống lãng phí là công việc khó khăn và phức tạp

704

67.2

Nhận thức của một số cấp ủy về công tác phòng, chống lãng phí còn hạn chế

202

768

73.3

người đứng đầu chưa phát huy tốt trách nhiệm

Một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức chưa tự giác

848

80.9

rèn luyện tác phong Làm việc hiệu quả, trách nhiệm trong công vụ

Đặc điểm xã hội, dân cư Thành phố Hà Nội không đồng đều

488

46.6

Một số cơ quan nhà nước, chính quyền địa phương,

Câu 11. Theo đồng chí, để tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy Hà Nội đối với

công tác phòng, chống lãng phí có thể thực hiện giải pháp nào sau đây?

Số lượng

Tỷ lệ (%)

936

89.3

1. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, trước hết là của Thành ủy và người đứng đầu về vai trò lãnh đạo đối với công tác phòng, chống lãng phí

2. Đổi mới nội dung lãnh đạo phòng, chống lãng phí

760

72.5

theo hướng tập trung vào các lĩnh vực gây bức xúc

3. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Thành ủy đối với

784

74.8

công tác phòng, chống lãng phí

4. Nâng cao năng lực lãnh đạo công tác phòng, chống

lãng phí của Thành ủy Hà Nội và các tổ chức đảng

792

75.6

trong Thành phố, đặc biệt là cấp cơ sở

5. Tăng cường kiểm tra, giám sát của Thành ủy, UBKT

Trung ương , siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong toàn

928

88.5

Đảng bộ Thành phố Hà Nội trong thực hiện công tác

phòng, chống lãng phí

6. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương

Đảng, sự phối hợp, hỗ trợ của các cơ quan, tổ chức có

760

72.5

liên quan trong công tác phòng, chống lãng phí

7. Tổng kết thực tiễn, nghiên cứu hoàn thiện lý luận về

832

79.4

phòng, chống lãng phí

8. Ý kiến khác ……………………………

0

0