
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đến nay, thể chân dung văn học
phát triển rất mạnh. Rất nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình tham gia viết từ
nhiều góc nhìn khác nhau, đồng thời cũng được dư luận xã hội cùng giới văn
chương, báo chí đón nhận nồng nhiệt, thậm chí như một hiện tượng độc đáo,
nhận nhiều ý kiến khen chê sôi nổi. Mở đầu có thể kể đến Trần Đăng Khoa với
tập Chân dung và đối thoại (1998) gần như trở thành hiện tượng best-seller
trong văn học. Gần đây là Nguyễn Quang Lập với một loạt tản văn viết về chân
dung lạ lẫm gây nhiều bàn cãi: Kí ức vụn (2009), Bạn văn (2011) và Chuyện
đời vớ vẩn (2011). Độc đáo hơn, nhà văn nữ trẻ Di Li đã làm rung động văn
đàn với tập sách phác họa chân dung giới văn nghệ sĩ mới mẻ, hiện đại từ góc
nhìn đến cách thể hiện qua tập Chuyện làng văn (2012). Rồi tác phẩm chân
dung Dị-nghị-luận, Đồng-chân-dung (2013) của Đặng Thân cũng cho thấy một
cách nghĩ, cách viết rất mới lạ và táo bạo.
Như vậy, với sự ra đời ngày càng đa dạng, thể chân dung văn học đã có
đóng góp lớn trong việc giúp người đọc khám phá, hiểu sâu hơn về đời sống
của nhà văn và những sáng tác của họ, từ đó nắm bắt đầy đủ hơn diện mạo nền
văn học Việt Nam đương đại.
Với những đóng góp đó cùng sự vận động rõ rệt theo chiều hướng tích cực
so với chặng trước 1986, thể chân dung văn học rất cần có những công trình
nghiên cứu nghiêm túc, từ nhiều góc nhìn khác nhau để nhận diện, tổng kết một
cách cụ thể, toàn diện nhất về thể này cũng như định vị vị trí của nó trên bản
đồ văn học dân tộc.
Cũng từ năm 1986, bên cạnh những thành tựu của Dụng học (Pragmatics),
phân ngành Phân tích diễn ngôn (Discourse Analysis) đã có những tác động
mạnh mẽ đến văn học, nhất là trong việc phân tích ngôn ngữ văn chương. Đây
cũng là lí do chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu Thể chân dung văn học trong