BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN ĐÀO THỊ LÝ THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT CỦA NGUYÊN HỒNG THỜI KỲ TRƢỚC NĂM 1945 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
ĐÀO THỊ LÝ
THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT CỦA NGUYÊN HỒNG THỜI KỲ TRƢỚC NĂM 1945 Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 62 22 01 21 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: 1. GS.TS. Trần Đăng Xuyền
2. PGS.TS. Trần Thị Việt Trung
THÁI NGUYÊN - 2015
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong luận án là trung thực và chƣa từng đƣợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Tác giả luận án
Đào Thị Lý
ii
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, các cán bộ Khoa Ngữ văn, Phòng Quản lý và Đào tạo Sau đại học, Ban Giám hiệu Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã tạo điều kiện cho tôi học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt, tôi xin trân trọng cảm ơn GS.TS. Trần Đăng Xuyền, PGS. TS Trần Thị Việt Trung - những người thầy đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ rất nhiều để tôi có thể hoàn thành luận án này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, khuyến khích, tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Tác giả luận án
Đào Thị Lý
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ i
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................. ii
MỤC LỤC ................................................................................................................. iii
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................... 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................... 2
3. Đối tƣợng nghiên cứu .............................................................................................. 3
4. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 3
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ......................................................................................... 4
6. Dự kiến đóng góp mới của đề tài ............................................................................ 4
7. Kết cấu của đề tài .................................................................................................... 5
Chƣơng 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU .............................................. 6
1.1. Tình hình nghiên cứu chung về Nguyên Hồng .................................................... 6
1.2. Tình hình nghiên cứu về Thế giới nghệ thuật trong sáng tác của Nguyên Hồng ........ 15
1.2.1. Về đề tài sáng tác ............................................................................................ 15
1.2.2. Về chủ đề sáng tác ........................................................................................... 16
1.2.3. Về nhân vật ..................................................................................................... 17
1.2.4. Về không gian và thời gian ............................................................................. 20
1.2.5. Về ngôn ngữ, giọng điệu nghệ thuật ............................................................... 23
Chƣơng 2. KHÁI NIỆM THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT VÀ NHỮNG CƠ SỞ HÌNH
THÀNH NÊN THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT CỦA NGUYÊN HỒNG ................... 31
2.1. Giới thuyết chung về Thế giới nghệ thuật .......................................................... 31
2.2. Những cơ sở hình thành Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng ...................... 37
2.2.1. Hoàn cảnh lịch sử - xã hội ............................................................................... 37
2.2.2. Hoàn cảnh gia đình, môi trƣờng sống và hoạt động văn học của Nguyên Hồng .... 42
2.2.3. Cá tính Nguyên Hồng...................................................................................... 49
iv
Chƣơng 3. THẾ GIỚI NHÂN VẬT ....................................................................... 53
3.1. Một thế giới nhân vật phong phú, phức tạp thuộc tầng lớp thị dân và lao
động dƣới đáy xã hội .................................................................................... 53
3.1.1. Những ngƣời phụ nữ nghèo khổ, bất hạnh, cùng đƣờng, nổi loạn ................. 55
3.1.2. Những đứa trẻ nghèo dƣới đáy xã hội, “không có tuổi thơ” ........................... 65
3.1.3. Những ngƣời trí thức tiểu tƣ sản nghèo, giàu hoài bão nhƣng bất lực và
bế tắc trƣớc cuộc sống .................................................................................. 71
3.1.4. Những nhân vật con ngƣời tha hoá ................................................................. 77
3.2. Một số thủ pháp nghệ thuật tiêu biểu xây dựng nhân vật .................................. 83
3.2.1. Nghệ thuật tạo dựng hoàn cảnh và tình huống ................................................ 83
3.2.2. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình để khắc họa tâm trạng và tính cách nhân vật ....... 91
3.2.3. Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật qua độc thoại nội tâm ............................. 95
Chƣơng 4. THỜI GIAN, KHÔNG GIAN VÀ NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT ..... 100
4.1. Thời gian nghệ thuật ........................................................................................ 100
4.1.1. Thời gian gắn liền với những sự kiện và biến cố dữ dội của cuộc đời
nhân vật ...................................................................................................... 100
4.1.2. Thời gian của con ngƣời cá nhân, của sự hồi tƣởng đan xen giữa quá
khứ, hiện tại và tƣơng lai ........................................................................... 106
4.2. Không gian nghệ thuật ..................................................................................... 109
4.2.1. Không gian xã hội đen tối, nhức nhối, chứa đựng đầy bất công và tội lỗi ... 109
4.2.2. Không gian gia đình chứa đầy bi kịch buồn đau, tan tác .............................. 113
4.2.3. Không gian mang sắc thái tôn giáo - trầm, buồn ảm đạm ............................ 115
4.3. Ngôn ngữ nghệ thuật ........................................................................................ 124
4.3.1. Ngôn ngữ đầy ắp chất liệu cuộc sống cần lao, phù hợp với tâm lý, tính
cách của từng kiểu nhân vật ....................................................................... 125
4.3.2. Ngôn ngữ mang sắc thái tôn giáo .................................................................. 142
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 146
DANH MỤC BÀI BÁO, CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ............................................................................................................... 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 152
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nguyên Hồng (1918-1982) là một trong những nhà văn xuất sắc nhất của
trào lƣu văn học hiện thực nói riêng, của nền văn học Việt Nam hiện đại nói
chung. Ông là ngƣời đến với nghề văn khá sớm và đã thành công ngay từ tác
phẩm đầu tay: Bỉ vỏ (1937). Nguyên Hồng có sức viết phi thƣờng, viết với tất cả
sự đam mê và nhiệt huyết của mình. Hơn bốn mƣơi năm cầm bút, ông đã để lại
gần bốn mƣơi tác phẩm, trong đó có những sáng tác đặc sắc và có những tác
phẩm đƣợc đánh giá là một trong những tác phẩm bề thế nhất của tiểu thuyết Việt
Nam hiện đại.
1.2. Nhƣ đã biết, “Thế giới nghệ thuật” là chỉnh thể của hình thức văn học”,
[140, tr. 29, 30], “Thế giới nghệ thuật là khái niệm chỉ tính chỉnh thể của sáng
tác nghệ thuật (một tác phẩm, một loại hình tác phẩm, sáng tác của tác giả, một
trào lưu)... Thế giới nghệ thuật có không gian riêng, thời gian riêng, có quy
luật tâm lý riêng, có quan hệ xã hội riêng, quan niệm đạo đức, thang bậc giá trị
riêng” [52, tr. 251]... Trong Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng, ở mọi phƣơng
diện nghệ thuật nhƣ: đề tài, chủ đề, nhân vật, không gian, thời gian, ngôn ngữ nghệ
thuật,... đều đƣợc thống nhất trong một chỉnh thể nghệ thuật, giúp ngƣời đọc dễ
hình dung ra những nét riêng biệt những đóng góp cụ thể trong quá trình sáng tạo
không ngừng của nhà văn.
Với một số lƣợng tác phẩm khá lớn ở nhiều thể loại (tiểu thuyết, truyện ngắn,
bút ký, thơ...) qua hai giai đoạn sáng tác, trƣớc và sau năm 1945, Nguyên Hồng đã
phản ánh một cách chân thực, cảm động cuộc sống với những số phận cụ thể của
những ngƣời lao động nghèo khổ và quá trình đổi đời nhờ Đảng, nhờ Cách mạng
của họ. Khi viết về vấn đề này, Nguyên Hồng đã thể hiện đƣợc cái nhìn hiện thực
sâu sắc và tấm lòng nhân đạo thiết tha của nhà văn đối với những con ngƣời lao
động. Vì vậy, khi đặt vấn đề nghiên cứu: Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng
thời kỳ trƣớc năm 1945 cũng có nghĩa là đã đi vào nghiên cứu về những đặc
điểm nổi bật trong nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm, khẳng định giá trị
hiện thực sâu sắc và giá trị nhân đạo cao cả trong sáng tác của nhà văn hiện thực
xuất sắc này trong một giai đoạn sáng tác cụ thể của ông.
2
1.3. Theo khảo sát của chúng tôi, cho tới nay đã có khoảng hơn 50 công trình
viết về Nguyên Hồng và riêng việc nghiên cứu về Thế giới nghệ thuật của ông đã
có trên 20 bài (đề cập đến nhiều khía cạnh, ví dụ nhƣ: Chủ đề, đề tài sáng tác, cảm
hứng sáng tạo, chủ nghĩa nhân đạo, cảm quan tôn giáo, lời văn nghệ thuật,... trong
sáng tác của nhà văn). Trong các công trình nghiên cứu này, các tác giả đã chú ý
đề cập đến giai đoạn sáng tác trƣớc Cách mạng tháng 8/1945 của Nguyên Hồng,
trong đó đã có sự khảo sát, đề cập đến một số phƣơng diện trong Thế giới nghệ
thuật của ông nhƣ: đề tài, chủ đề nhân vật, không gian và thời gian, lời văn nghệ
thuật... nhƣng chúng tôi nhận thấy rằng, phần lớn đây là những nhận xét, nhận định
mang tính khái quát; hoặc đó có thể là những khảo sát, phân tích khá cụ thể ở một
số phƣơng diện trong Thế giới nghệ thuật chứ chƣa phải toàn bộ Thế giới nghệ
thuật của Nguyên Hồng. Do đó, vẫn rất cần phải có một công trình chuyên biệt
nghiên cứu một cách khá hệ thống và toàn diện về Thế giới nghệ thuật của nhà
văn Nguyên Hồng. Thực hiện đề tài nghiên cứu này, chúng tôi muốn góp phần
nhìn nhận một cách tƣơng đối toàn diện, hệ thống về Thế giới nghệ thuật của
Nguyên Hồng trong một giai đoạn sáng tác cụ thể - giai đoạn trƣớc Cách mạng
tháng Tám năm 1945, để chỉ ra những đặc điểm riêng, những sáng tạo riêng trong
Thế giới nghệ thuật của nhà văn; đồng thời qua đó khẳng định những đóng góp
đáng trân trọng của ông đối với sự vận động và phát triển của trào lƣu văn học hiện
thực phê phán nói riêng, của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại nói chung một cách
cụ thể và đầy đủ hơn.
1.4. Hiện nay, một số tác phẩm tiêu biểu của Nguyên Hồng đã đƣợc đƣa vào
trong chƣơng trình giáo dục ở bậc phổ thông và đại học. Nếu đề tài này đƣợc thực
hiện thành công, đây sẽ là cuốn tài liệu tham khảo có ý nghĩa đối với học sinh, sinh
viên, giáo viên các cấp và những ai quan tâm đến nhà văn hiện thực xuất sắc suốt
đời nặng lòng với những ngƣời nghèo khổ này.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu về Thế giới nghệ thuật của nhà văn
Nguyên Hồng, luận án góp phần khẳng định: Trong quá trình sáng tác của mình,
Nguyên Hồng đã tạo ra một Thế giới nghệ thuật riêng độc đáo và đặc sắc; và qua
đó ghi nhận những đóng góp quan trọng của ông đối với quá trình phát triển của
3
văn học hiện thực phê phán Việt Nam nói riêng và văn xuôi Việt Nam hiện đại giai
đoạn đầu thế kỷ XX đến năm 1945 nói chung.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Nghiên cứu những phƣơng diện quan trọng của
Thế giới nghệ thuật trong sáng tác của Nguyên Hồng giai đoạn trƣớc Cách mạng
tháng Tám năm 1945, nhằm chỉ ra những đặc điểm cơ bản trong Thế giới nghệ
thuật của nhà văn (nghệ thuật xây dựng nhân vật; không gian, thời gian nghệ thuật
và ngôn ngữ nghệ thuật). Qua đó khẳng định những giá trị nghệ thuật và giá trị
hiện thực sâu sắc, giá trị nhân đạo cao cả trong những sáng tác của Nguyên Hồng -
“nhà văn của những ngƣời khốn khổ” Việt Nam giai đoạn trƣớc năm 1945.
3. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài luận án là những sáng tác của Nguyên Hồng
giai đoạn trƣớc 1945. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, những sáng tác sau
Cách mạng tháng Tám năm 1945 của ông cũng đƣợc chúng tôi quan tâm khảo sát,
nhằm so sánh làm rõ hơn những đặc điểm riêng trong Thế giới nghệ thuật của
Nguyên Hồng thời kỳ trƣớc năm 1945, cũng nhƣ một số đặc điểm chung trong quá
trình sáng tác của nhà văn sau cách mạng.
Bên cạnh đó, chúng tôi cũng tiến hành khảo sát một số tác phẩm tiêu biểu của
các tác giả cùng khuynh hƣớng, cùng thời với ông để so sánh, đối chiếu nhằm chỉ
ra những nét riêng, nét độc đáo trong Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng.
4. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu
Nhƣ đã biết, Thế giới nghệ thuật bao gồm nhiều phƣơng diện nhƣ: đề tài, chủ
đề, nhân vật, nghệ thuật xây dựng nhân vật, thời gian, không gian nghệ thuật và
ngôn ngữ nghệ thuật... Tuy nhiên, trong khuôn khổ luận án của mình, chúng tôi
xác định phạm vi nghiên cứu cụ thể là đi sâu vào nghiên cứu một số phƣơng diện
cơ bản của Thế giới nghệ thuật nhƣ: thế giới nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân
vật, thời gian, không gian nghệ thuật và ngôn ngữ nghệ thuật trong các sáng tác
của nhà văn Nguyên Hồng giai đoạn trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945 - vì
đây là giai đoạn sáng tác nhiều, tiêu biểu và thành công nhất của Nguyên Hồng.
Còn một số phƣơng diện khác nhƣ: đề tài, chủ đề, lời văn nghệ thuật, giọng điệu
nghệ thuật... cũng đã đƣợc một số tác giả đề cập đến khá rõ trong các chuyên luận
và bài báo của mình, nên chúng tôi không chủ trƣơng đi sâu vào nghiên cứu.
4
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã sử dụng các phƣơng pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: phân tích tác phẩm để tìm hiểu kỹ
những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong sáng tác của Nguyên Hồng giai
đoạn trƣớc Cách mạng. Đó là cơ sở để có những nhận xét, đánh giá tổng hợp nhất
về Thế giới nghệ thuật của nhà văn.
- Phương pháp thống kê, phân loại: Phƣơng pháp này đƣợc áp dụng trong
quá trình khảo sát các tác phẩm cụ thể của nhà văn, thống kê và phân loại từng
kiểu nhân vật, ngôn ngữ, không gian và thời gian nghệ thuật trong Thế giới nghệ
thuật của Nguyên Hồng.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: để có sự đối sánh và có cái nhìn sâu hơn
về đối tƣợng nghiên cứu, chúng tôi nghiên cứu và so sánh sáng tác của Nguyên
Hồng trƣớc và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945; so sánh với một số tác phẩm,
một số nhân vật trong tác phẩm của các tác giả cùng thời, cùng hoặc khác khuynh
hƣớng sáng tác của Nguyên Hồng, nhằm chỉ ra những nét riêng, nét độc đáo trong
Thế giới nghệ thuật của nhà văn.
- Vận dụng lý thuyết thi pháp học (về thời gian, không gian nghệ thuật,
ngôn ngữ nghệ thuật...) để phục vụ trong quá trình nghiên cứu.
6. Dự kiến đóng góp mới của đề tài
6.1. Đây là công trình chuyên biệt đầu tiên nghiên cứu một cách khá toàn
diện và hệ thống về Thế giới nghệ thuật trong sáng tác của Nguyên Hồng thời
kỳ trước 1945. Luận án đi sâu vào khảo sát, nghiên cứu các sáng tác của
Nguyên Hồng nhằm chỉ ra những đặc điểm nổi bật trong Thế giới nghệ thuật
của nhà văn, nhất là trong việc dựng lên một thế giới nhân vật phong phú, phức
tạp, độc đáo và sinh động của những con ngƣời lao động sống dƣới đáy xã hội
thực dân phong kiến; Chỉ ra những đặc điểm về không gian và thời gian nghệ
thuật, cũng nhƣ những nét đặc sắc riêng về ngôn ngữ nghệ thuật trong sáng tác
của nhà văn. Qua đó khẳng định: Trong quá trình sáng tác của mình, Nguyên
Hồng đã xây dựng đƣợc một Thế giới nghệ thuật riêng, độc đáo không lẫn với
5
bất cứ nhà văn nào. Và qua Thế giới nghệ thuật này, nhà văn đã thể hiện đƣợc
một cách sâu sắc và cảm động chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa nhân đạo cao
cả của mình.
6.2. Kết quả nghiên cứu trên là cơ sở để khẳng định những đóng góp quan trọng
của Nguyên Hồng vào quá trình phát triển trào lƣu văn học hiện thực phê phán giai
đoạn 1930 - 1945 nói riêng và đối với nền văn xuôi Việt Nam hiện đại nói chung.
6.3. Nếu luận án này thành công, hy vọng đây sẽ là một tài liệu tham khảo hữu
ích cho học sinh, sinh viên và những ngƣời quan tâm đến tác giả Nguyên Hồng nói
riêng và văn xuôi Việt Nam thời kỳ hiện đại giai đoạn trƣớc Cách mạng tháng Tám
nói chung.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Tài liệu tham khảo, kết cấu của luận án
bao gồm bốn chƣơng. Cụ thể nhƣ sau:
Chƣơng 1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu.
Chƣơng 2. Khái niệm Thế giới nghệ thuật và những cơ sở hình thành nên Thế
giới nghệ thuật của Nguyên Hồng.
Chƣơng 3. Thế giới nhân vật.
Chƣơng 4. Thời gian, không gian và ngôn ngữ nghệ thuật.
6
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu chung về Nguyên Hồng
Gần 3/4 thế kỷ trôi qua - kể từ khi cuốn tiểu thuyết Bỉ vỏ của Nguyên Hồng
ra đời và đƣợc nhận Giải thƣởng của Tự lực văn đoàn (1937) - đã có rất nhiều bài
viết, những công trình nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp, những đóng góp của
nhà văn. Cho đến nay, việc nghiên cứu về Nguyên Hồng cũng vẫn đang đƣợc tiếp
tục và đã đạt đƣợc nhiều thành tựu đáng trân trọng. Điều đó chứng tỏ sức sống của
tác phẩm Nguyên Hồng rất bền vững trong lòng ngƣời đọc nhiều thế hệ, và theo
thời gian những giá trị đặc biệt của nó ngày càng đƣợc phát hiện, đƣợc khẳng định
một cách trân trọng.
Theo khảo sát của chúng tôi, đến nay đã có khoảng hơn 50 công trình
nghiên cứu chung về Nguyên Hồng, trong đó có khoảng 20 bài nghiên cứu có đề
cập đến phƣơng diện Thế giới nghệ thuật. Bên cạnh đó có hàng chục luận án, luận
văn khoa học nghiên cứu về sáng tác của ông. Đặc biệt khi ông qua đời, đã có hơn
20 bài viết về những Hồi ức và kỷ niệm về nhà văn, thể hiện tình cảm trân trọng tài
năng và nhân cách của Nguyên Hồng trong lòng bạn bè, đồng nghiệp và bạn đọc.
Ngay từ trƣớc năm 1945, có một số nhà nghiên cứu đã phát hiện tài năng
văn học của nhà văn, đã đánh giá đƣợc những mặt mạnh, mặt hạn chế của ngòi bút
Nguyên Hồng. Theo khảo sát của chúng tôi, đã có một số bài viết nhận xét, đánh
giá về văn chƣơng của Nguyên Hồng của các tác giả: Thạch Lam, Trọng Quy,
Trƣơng Chính, Vũ Ngọc Phan… Cụ thể, khi tiểu thuyết Bỉ vỏ đƣợc nhận Giải
thƣởng của Tự lực văn đoàn, Thạch Lam đã nhận xét về văn của Nguyên Hồng
nhƣ sau: ''Văn lúc nào cũng minh bạch, giản dị, một đôi khi thấm thía, rung động,
có nhiều đoạn đẹp đẽ và sâu sắc… ông quan sát khéo, chỉ tả những cái gì đáng để
ý, những tình cảm chân thật, những cảm giác đúng” [116, tr. 39]. Đồng thời tác giả
cũng chỉ ra nhƣợc điểm khó tránh khỏi của một ngƣời mới vào nghề viết văn, đó
là:“Nhiều chỗ vụng về, cẩu thả, nhiều câu văn chưa gãy gọn. Nhưng đó là những
lỗi của một người mới viết văn và sẽ mất đi với kinh nghiệm và từng trải trong
nghề ” [116; tr. 39]. Tuy nhiên, trong khuôn khổ nhận xét của một Giải thƣởng,
Thạch Lam mới chỉ dừng lại ở một vài dòng nhƣ vậy về tác giả trẻ tuổi này.
7
Cũng năm 1938, khi giới thiệu Bỉ vỏ, tác giả Trọng Quy đã nhận xét: “Tác
phẩm không hổ thẹn với sự được Ban giám khảo chú ý đến”, vì đây là “một thiên
phóng sự tả rõ cách sinh hoạt của một hạng người” của “một cán bút linh hoạt mới
mẻ”, “biết làm cho người khác phải cảm động” [127, tr. 8]). Trọng Quy đã khẳng
định vị trí xứng đáng của Bỉ vỏ khi đƣợc nhận Giải thƣởng Tự lực văn đoàn chính là
ở sự mới mẻ của cây bút Nguyên Hồng cũng nhƣ tính nhân đạo của tác phẩm.
Tuy nhiên, không chỉ có những ý kiến ghi nhận sự thành công của Bỉ vỏ, mà
còn có những đánh giá về hạn chế của tác phẩm này. Năm 1939, Trƣơng Chính đã
nhận xét về Bỉ vỏ khi ông nhìn nhận từ góc độ Dưới mắt tôi nhƣ sau: “Quyển Bỉ
vỏ là một quyển tiểu thuyết tầm thường, không đặc sắc. Tác giả còn thiếu nghệ
thuật, thiếu kinh nghiệm, ngòi bút của ông còn non nớt, vụng về”...; các tình tiết
“được sắp đặt một cách thô sơ… Nhà văn ấy kiên tâm và thành thực, nhưng ông
chỉ thành công lúc ông giản dị và sâu sắc hơn” [17, tr. 173], đây là một nhận xét
nghiêm khắc và khách quan về nghệ thuật của một cuốn tiểu thuyết đầu tay của
Nguyên Hồng.
Năm 1940, khi viết Lời tựa cho tập tiểu thuyết tự truyện Những ngày thơ
ấu, Thạch Lam đã nhận thấy khả năng thể hiện “những rung động cực điểm của
một linh hồn trẻ dại” của ngòi bút Nguyên Hồng… Tác giả của Gió lạnh đầu mùa
đã rất tinh tế khi nhận thấy những cảm xúc chân thành của một trái tim dễ xúc
động qua từng trang hồi ký đẫm nƣớc mắt của nhà văn hiện thực trẻ tuổi này.
Trong cuốn Nhà văn hiện đại, năm 1942, Vũ Ngọc Phan đã công phu giới
thiệu gƣơng mặt 78 nhà văn Việt Nam, trong đó có nhà văn Nguyên Hồng. Về
Nguyên Hồng, tác giả đã khẳng định sự thành công của nhà văn qua những sáng
tác đầu tay, nhất là cuốn Bỉ vỏ của ông. Vũ Ngọc Phan nhận xét: “truyện thật là
hay… cách viết có mạch lạc mà đi đến đoạn kết một cách tự nhiên”, đồng thời ông
cũng đƣa ra một nhận định khái quát khá chính xác về tƣ tƣởng nghệ thuật của
“nhà văn xã hội này”: “Ở tập văn nào của Nguyên Hồng cũng vậy, tư tưởng nhân
từ, bác ái của tác giả bao giờ cũng tràn lan và đó chính là cái phần cốt yếu của
nhà văn xã hội cầu mong ánh sáng” [116, tr. 48]. Nhƣ vậy, nhà phê bình Vũ Ngọc
Phan đã chỉ ra đƣợc cái cốt lõi, cái đặc trƣng và giá trị trong sáng tác của Nguyên
Hồng, đó là: Tƣ tƣởng nhân đạo và khát vọng có một xã hội công bằng tốt đẹp hơn,
nhất là đối với những ngƣời nghèo khổ.
8
Năm 1944, trong cuốn “Văn chương và xã hội” (Đại học Thƣ xã Hà Nội), khi nghiên cứu một số tác phẩm của Nguyên Hồng thời kỳ trƣớc cách mạng nhƣ “Bỉ vỏ”, “Bảy Hựu”, “Những ngày thơ ấu”, tác giả Lƣơng Đức Thiệp nhận xét: đây là “cây bút linh động cho ta cảm thấy sâu xa lòng yêu thiết tha của chính tác giả đối với các nhân vật trong truyện” [159, tr. 98]. Nhận xét này khẳng định thêm tính nhân đạo của nhà văn Nguyên Hồng.
Qua một số ý kiến, nhận xét trên, chúng ta nhận thấy khá rõ một điểm: ngay đƣơng thời, ngƣời ta cũng đã chỉ ra những mặt mạnh, những thành công của nhà văn Nguyên Hồng. Đó là chủ nghĩa nhân đạo, là tƣ tƣởng nhân từ bác ái, cũng nhƣ đã chỉ ra những mặt hạn chế của Nguyên Hồng khi buổi đầu đến nghề văn còn đầy non nớt này.
Đồng thời cũng qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy: Trong vòng 10 năm (1936 - 1945), Nguyên Hồng đã có khá nhiều sáng tác (54 truyện ngắn, 03 truyện vừa, 01 hồi ký, 03 tiểu thuyết) với mảng nội dung hiện thực đặc sắc nhƣng thực sự những sáng tác này của Nguyên Hồng cũng chƣa thu hút đƣợc sự quan tâm của giới nghiên cứu, phê bình nhƣ những trƣờng hợp nhà văn hiện thực khác. Hầu hết các ý kiến nhận định, phê bình chỉ tập trung vào hai tác phẩm nổi tiếng của Nguyên Hồng là: Bỉ vỏ và Những ngày thơ ấu, còn những sáng tác khác của ông đều chƣa hoặc rất ít đề cập đến. Các tác giả (do những lý do chủ quan và khách quan nào đó) cũng chƣa thấy hết đƣợc giá trị nhiều mặt của các sáng tác ấy, cũng nhƣ chƣa phát hiện và đánh giá đúng mức đƣợc tài năng và cống hiến của Nguyên Hồng, mặc dù bƣớc đầu cũng đã ít nhiều động chạm vào những vấn đề đó khi nhận xét đánh giá về ông.
Từ sau năm 1945 cho tới tận hiện nay, Nguyên Hồng và tác phẩm của ông tiếp tục đƣợc nhiều ngƣời quan tâm, chú ý nhìn nhận, đánh giá và khẳng định những giá trị nổi bật về nội dung và nghệ thuật. Những tác phẩm của nhà văn vẫn tiếp tục trở thành đối tƣợng nghiên cứu hấp dẫn trong đời sống nghiên cứu, phê bình văn học của nƣớc nhà. Trong khi đó, một số những nhà văn hiện thực khác nhƣ Vũ Trọng Phụng, Nam Cao... vẫn chƣa thu hút đƣợc sự quan tâm của giới nghiên cứu, phê bình, mà phải đợi đến thời kỳ đổi mới, các tác phẩm của họ mới đƣợc chú ý nghiên cứu và đƣợc đánh giá sâu sắc, công bằng và toàn diện hơn.
Có thể nhắc đến những công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu, phê bình tiêu biểu nhƣ: Nguyễn Đăng Mạnh, Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Vũ Ngọc
9
Phan, Chu Nga, Trần Đăng Suyền,... cùng các mục từ giới thiệu về Nguyên Hồng, tiểu thuyết Bỉ vỏ, Hồi ký Những ngày thơ ấu trong cuốn Từ điển Văn học của tác giả Nguyễn Hoành Khung; Những đề tài nghiên cứu về sáng tác của nhà văn Nguyên Hồng của các tác giả: Lê Hồng My, Bạch Văn Hợp, Phạm Hồng Lan, Nguyễn Duy Tờ, Lê Thị Hải Vân... Qua các công trình nghiên cứu này, chúng tôi thấy các vấn đề về tƣ tƣởng nghệ thuật, phong cách nghệ thuật, lời văn nghệ thuật, cảm hứng sáng tạo,… trong sáng tác của Nguyên Hồng đã đƣợc đề cập đến ở những mức độ khác nhau. Các ý kiến, nhận xét đều sâu sắc và tinh tế nhƣng phần lớn là những nhận xét, nhận định có tính chất khái quát, hoặc nghiên cứu sâu một phƣơng diện nào đó thuộc về nội dung hoặc nghệ thuật trong sáng tác của Nguyên Hồng, cụ thể là một số ý kiến tiêu biểu nhƣ sau:
- Đánh giá sự đóng góp của Nguyên Hồng đối với sự vận động và phát triển khuynh hƣớng văn học hiện thực phê phán Việt Nam trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945 nói riêng và đối với nền Văn học hiện đại Việt Nam nói chung trên những phƣơng diện cụ thể. Tiêu biểu cho xu hƣớng đánh giá này là các công trình nghiên cứu: “Nguyên Hồng” [Phan Cự Đệ -116], “Nguyên Hồng, con người và sự nghiệp” [Nguyễn Đăng Mạnh -116], “Nguyên Hồng và quá trình sáng tác của anh” [Chu Nga -116]...
- Khẳng định chủ nghĩa nhân đạo thống thiết của Nguyên Hồng khi viết về các nhân vật dƣới đáy xã hội thực dân phong kiến, đặc biệt là nhân vật ngƣời phụ nữ và trẻ em. Xu hƣớng này đƣợc thể hiện trong các công trình nghiên cứu: “Nguyên Hồng, con người và sự nghiệp” [Nguyễn Đăng Mạnh -116], “Một cuộc đời sáng tạo trong đau khổ” [Vƣơng Trí Nhàn - 111], “Cảm hứng cần lao trong sáng tác của Nguyên Hồng” [Phan Diễm Phƣơng -116]...
- Chỉ ra đặc điểm phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng là “nhà văn của niềm tin và ánh sáng”, “nhà văn của lòng thương cảm thống thiết”, “một ngòi bút hiện thực giàu chất lãng mạn”… “Nguyên Hồng, nhà văn của những khát vọng sống” [Hà Minh Đức - 116], “Phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng” [77], “Nhà văn của tình thương” [1]...
- Khẳng định mặt mạnh của Nguyên Hồng trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, cũng nhƣ trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ, giọng điệu... nhƣ bài viết: “Đặc sắc hồi ký Nguyên Hồng” [Nguyễn Đăng Điệp -116], “Giọt lệ lớn và đoàn tàu chợ” [Linh Thi - 116]; hay chuyên luận: “Lời văn nghệ thuật Nguyên Hồng” [Lê Hồng My - 101]...
10
Khi cắt nghĩa cảm hứng chủ đạo của Nguyên Hồng, Phan Cự Đệ cho rằng
cảm hứng chủ đạo trong sáng tác của nhà văn “Bắt nguồn từ một chủ nghĩa nhân
đạo sâu sắc với những lớp người cùng khổ. Anh là một cây bút đôn hậu, luôn
hướng tới cái cao đẹp, trong sáng, niềm tin yêu thắm thiết” [116, tr. 112]. Khái
quát về “Nguyên Hồng và quá trình sáng tác của anh” tác giả Chu Nga đã giới
thiệu và khái quát: “Nguyên Hồng sau cách mạng chỉ là sự kế tiếp một cách logic
Nguyên Hồng những năm trước cách mạng” [116, tr. 157] - Đây là một nhận xét
rất chính xác về sự nhất quán trong quan niệm sáng tác của Nguyên Hồng cả ở hai
giai đoạn trƣớc và sau năm 1945. Đồng thời Chu Nga cũng nhấn mạnh đến sự
đóng góp riêng biệt của Nguyên Hồng vào dòng văn học hiện thực phê phán:
“Trước tiên cần khẳng định ở anh những đóng góp đáng kể với tư cách là một nhà
văn hiện thực phê phán tiến bộ nhất, tiếp cận gần nhất với cách mạng. Anh không
chỉ hiểu cách mạng mà còn viết về cách mạng, cũng không phải chỉ viết một cách
cảm tính, mà ít nhiều có quan điểm, có lý luận” [116, tr. 157], và đó còn là “tiếng
nói yêu thương nhân đạo (…) sôi nổi, lạc quan, tràn đầy một lòng tin ở ngày mai
tươi sáng vì nhìn thấy được những phẩm chất đẹp đẽ ở những con người nghèo
khổ hôm nay”[116, tr. 158]… Nhƣ vậy, tác giả đã đề cập đến cảm hứng chủ đạo
trong sáng tác của Nguyên Hồng, đó là tình cảm yêu thƣơng, trân trọng con ngƣời
lao động.
Cùng quan điểm nhƣ trên, Phan Diễm Phƣơng, Vƣơng Trí Nhàn, Đỗ
Trung Thoại... đều cho rằng cảm hứng sáng tác của Nguyên Hồng là cảm hứng về
cuộc sống lầm than, đói khổ của ngƣời lao động trong xã hội cũ. “Cảm hứng cần
lao… đã được phô diễn một cách ám ảnh, đầy sức lay động đối với những con
người đồng cảm” [116, tr. 225]… “Cảm hứng cần lao và tranh đấu của Nguyên
Hồng cũng chính là cảm hứng nhân đạo nơi ông” [116, tr. 227]… “Giá trị phổ
biến của hàng ngàn, hàng ngàn trang sách được bắt nguồn vào những cảnh sống
của con người, hướng về con người ” [116, tr. 229]. Vƣơng Trí Nhàn khẳng định
cuộc đời Nguyên Hồng là “Một cuộc đời sáng tạo trong đau khổ”, “Văn xuôi
Nguyên Hồng là một thứ sản phẩm giàu chất tự truyện”, đồng thời tác giả cũng
đánh giá Những ngày thơ ấu là tác phẩm đỉnh cao của Nguyên Hồng: “Khách
quan và tỉnh táo mà đánh giá, phải nhận toàn bộ cuộc đời và sáng tác của Nguyên
Hồng về sau không có cái nào vượt được Những ngày thơ ấu” [116, tr. 219]. Và
“Trước đau khổ, Nguyên Hồng thấy nên cam chịu, và tìm thấy lẽ sống, cảm hứng
11
sáng tạo của mình trong chính sự đau khổ” [116, tr. 220]. Đỗ Trung Thoại thấy ở
Nguyên Hồng là“một nhà văn lớn, một nhân cách lớn… chủ nghĩa nhân đạo là tư
tưởng chủ đạo trong hầu hết các tác phẩm của ông… Nguyên Hồng là nhà văn của
nhân dân lao động và ông thuộc về những người lao động” [119].
Trong giáo trình Văn học Việt Nam thế kỷ XX, tập 2, tác giả Lê Hồng My,
Trần Đăng Suyền đã chỉ rõ quan điểm nghệ thuật của Nguyên Hồng là “Đề cao
vai trò của văn chương nghệ thuật, khẳng định ý nghĩa cao quý của nghề cầm bút”
[134, tr. 134]... “Nhà văn, (người nghệ sĩ) phải trung thực, chân thành trên trang
viết: say mê, tin tưởng vào cuộc sống; phải cần cù học hỏi và không ngừng sáng
tạo” ”[134, tr. 135]... “Nghệ thuật phải “bắt rễ” vào cuộc sống của người lao
động và hướng tới tương lai tốt đẹp. Bạn đọc quần chúng là “lẽ sống của ngòi bút”
[134, tr. 137]. Đây chính là quan điểm nghệ thuật nhất quán của Nguyên Hồng
trong sự nghiệp sáng tác của mình.
Đánh giá Nguyên Hồng ở một góc nhìn khác, GS.TS. Trần Đăng Suyền đã
phân tích một cách sâu sắc Sự gặp gỡ, giao thoa của những khuynh hướng, trào
lưu văn học trong sáng tác của Nguyên Hồng trƣớc cách mạng. Tác giả đã phân
tích và khẳng định: “Văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 đã xuất hiện nhiều
khuynh hướng, nhiều trào lưu văn ọhc: Chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện thực
và khuynh hướng văn học cách mạng; chúng vừa đấu tranh với nhau, vừa bổ sung
cho nhau để cùng phát triển. Sáng tác của Nguyên Hồng thể hiện quy luật vận
động và phát triển, sự gặp gỡ và giao thoa của nhiều khuynh hướng, trào lưu văn
học… Có được điều đó là do ngòi bút Nguyên Hồng gắn bó sâu sắc với thời đại,
với cuộc đời rộng lớn, với những người cùng khổ. Có được điều đó còn do những
sáng tác hiện thực chủ nghĩa của ông được xây dựng trên cơ sở của chủ nghĩa
nhân đạo, đi sâu vào bản chất của sự sáng tạo nghệ thuật, thể hiện quy luật vận
động và phát triển tất yếu của tiến trình lịch sử văn học dân tộc” [137, tr. 55-59].
Nhƣ vậy, về cảm hứng sáng tạo, chủ nghĩa nhân đạo của Nguyên Hồng, các
nhà nghiên cứu, phê bình đều nhất trí rằng cảm hứng sáng tác của Nguyên Hồng là
cảm hứng cần lao, bắt nguồn từ cuộc sống tăm tối, cực khổ của những ngƣời dƣới
đáy xã hội thực dân phong kiến trƣớc Cách mạng. Cảm hứng sáng tác ấy đƣợc thể
hiện qua một tấm lòng nhân đạo thiết tha, trĩu nặng với những cảnh đời đen tối
trong xã hội đƣơng thời.
12
Khi nói đến Phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng, nhiều tác giả đều cho rằng Nguyên Hồng có phong cách nghệ thuật riêng. Nguyễn Đăng Mạnh là một trong những nhà nghiên cứu chuyên sâu về Nguyên Hồng, trong các công trình nghiên cứu của mình, tác giả cũng đặc biệt chú ý đến tƣ tƣởng và phong cách nghệ thuật của nhà văn. Ngay từ những năm 70 của thế kỷ XX, trong cuốn Giáo trình Lịch sử Văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945, Nguyễn Đăng Mạnh đã khẳng định: "Nguyên Hồng là nhà văn có phong cách rõ rệt quy định bởi những đặc điểm về hoàn cảnh gia đình, môi trường sống, về tư tưởng, tình cảm, về sự tiếp thu ảnh hưởng xã hội và văn học" [100, tr. 20]; Đồng thời tác giả cũng chỉ ra một vài nét tiêu biểu của phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng trƣớc Cách mạng tháng Tám là "tình cảm say sưa bồng bột", và "tinh thần nhân đạo chủ nghĩa thiết tha", "... một nội dung trữ tình sôi nổi, một cảm hứng lãng mạn mãnh liệt...”. Ở một công trình nghiên cứu khác, ông cũng đã bàn về phong cách lãng mạn của Nguyên Hồng: “Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng có một cái gì rất gần gũi với thần thoại, cổ tích, truyện Tàu, lại giông giống như thế giới đầy dông bão của những trường ca, những thiên truyện ngắn lãng mạn chủ nghĩa của Mácxim Goorki hay tiểu thuyết của Víchto Huygô, trong đó có sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, giữa bão táp và nắng vàng, giữa quỷ dữ và thiên thần…” [116, tr. 100] và “Nguyên Hồng có thiên hướng xây dựng những tích cách phi thường, những hình tượng kỳ dị, những tâm trạng được phóng đại, những tình huống dữ dội, những quang cảnh rộng lớn, náo động đầy dông bão (…) phù hợp với một giọng văn thống thiết của một tâm hồn nồng nhiệt muốn giãi bày trực tiếp trên những trang sách...” [116, tr. 100,101]...
Phan Cự Đệ là một trong những nhà nghiên cứu dành nhiều tâm huyết nghiên cứu về Nguyên Hồng, ông đã tiếp cận sáng tác của nhà văn từ nhiều góc độ khác nhau nhƣ: cảm hứng sáng tạo, chủ nghĩa nhân đạo, màu sắc trữ tình... Về phong cách nghệ thuật, tác giả khẳng định: "Cùng đứng trong chủ nghĩa hiện thực phê phán nhưng Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Nguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng... mỗi người có một phong cách riêng. Phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng cũng mang những màu sắc thẩm mỹ độc đáo” [116, tr. 112]. Nhà nghiên cứu cũng chỉ ra yếu tố trữ tình lãng mạn nhƣ một đặc điểm phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng: "Không phải lúc nào Nguyên Hồng cũng viết bằng một bút pháp hiện thực tỉnh táo và nói chung, ít khi anh sử dụng một lối viết nặng nề về trí tuệ. Ở anh, những yếu tố nội tâm, những tình cảm sôi nổi, dạt dào từ bên
13
trong đôi lúc cứ muốn lấn lướt, trùm lên cái hiện thực khách quan được miêu tả" [116, tr. 121]. Khi giới thiệu quá trình sáng tác từ Bỉ vỏ đến Cửa biển, Phan Cự Đệ cũng đã lý giải sự chuyển biến về tƣ tƣởng và nghệ thuật của Nguyên Hồng từ sau Cách mạng tháng Tám gắn liền với quá trình nhận thức về cách mạng, đi theo cách mạng của nhà văn. Tác giả khẳng định sự nhất quán trong phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng, "Phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng giờ đây giàu có, phong phú hơn trước nhưng nhìn chung vẫn là một phong cách hiện thực giàu chất lãng mạn cách mạng và chất trữ tình say đắm" [116, tr. 142].
Tác giả Bạch Văn Hợp khi đi sâu vào nghiên cứu Đặc điểm phong cách
nghệ thuật của Nguyên Hồng đã chỉ ra phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng
là: nhà văn của “lòng thương cảm thống thiết những kiếp người cùng khổ” [77, tr.
200], một “ngòi bút hiện thực giàu chất lãng mạn” [77, tr. 66] và một “bút pháp
sôi nổi, nồng nhiệt” [77, tr. 123];… có những nhân vật khác thường nhƣ: “nhân vật
giàu nghĩa khí mang dáng dấp anh hùng hảo hán” [77, tr. 110], “nhân vật mang
dáng dấp cổ tích huyền thoại” [77, tr. 114], “nhân vật thánh thiện” [77, tr. 116],
“nhân vật quỷ sứ” [77, tr. 119]; mặt mạnh của Nguyên Hồng là “cách sử dụng
thành ngữ độc đáo” [77, tr. 125], “ngôn ngữ gây ấn tượng” [77, tr. 134], “ngôn
ngữ giàu cảm xúc” [77, tr. ]; một “giọng điệu sôi nổi thiết tha và cấu trúc chồng
tầng của lời văn nghệ thuật” [77, tr.159]; một “thủ pháp trần thuật giàu xúc cảm”
[77, tr. 173] trong sáng tác của nhà văn.
Nhƣ vậy, ý kiến của các nhà nghiên cứu đều thống nhất cho rằng phong
cách nghệ thuật của Nguyên Hồng là phong cách hiện thực, giàu chất lãng mạn và
chất trữ tình, là nhà văn của chủ nghĩa nhân đạo, của lòng thƣơng cảm thống thiết
đối với những ngƣời cùng khổ trong xã hội cũ.
Ngoài ra còn một số ý kiến, nhận xét khác về sự nghiệp và quá trình sáng
tác của Nguyên Hồng, về Thế giới nghệ thuật của nhà văn thời kỳ trƣớc năm
1945, nhưng thực sự chưa có một công trình chuyên biệt nào nghiên cứu một cách
hệ thống, toàn diện về Thế giới nghệ thuật trong sáng tác của Nguyên Hồng giai
đoạn trước và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Đặc biệt, sau khi nhà văn qua đời đã có một số công trình nghiên cứu tổng
hợp về Nguyên Hồng, một số bài viết của các tác giả là các nhà thơ, nhà văn
cùng thời với Nguyên Hồng nhƣ Kim Lân, Nguyễn Tuân, Huy Cận,... và các nhà
14
nghiên cứu, phê bình, các nhà thơ thuộc các thế hệ sau nhƣ: Hà Minh Đức, Tế
Hanh, Bùi Hiển, Bùi Ngọc Tấn, Nguyễn Quang Thân, Ngô Văn Phú,... Nội dung
những bài viết này là những hồi ức, kỷ niệm liên quan đến nhà văn của các tác
giả, bày tỏ lòng yêu quý, trân trọng, ngợi ca tài năng, phẩm chất nghệ sĩ và những
bài học đầy ý nghĩa đƣợc rút ra từ cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn hiện thực
xuất sắc Nguyên Hồng.
Gần đây nhất, tháng 11/2013, Hội Văn học nghệ thuật Hải Phòng đã tổ chức
Hội thảo “Nhà văn Nguyên Hồng - cuộc đời và sự nghiệp văn chương” (Nhân
Kỷ niệm 95 năm ngày sinh của nhà văn Nguyên Hồng, tại Hải Phòng). Trong
khuôn khổ của một Hội thảo, các ý kiến của GS. TS. Trần Đăng Suyền, PGS. TS.
Nguyễn Ngọc Thiện, TS. Lê Thị Bích Hồng, TS. Nguyễn Đức Thuận... nhà thơ
Hữu Thỉnh, nhà văn Đình Kính, nhà văn Đỗ Nhật Minh, nhà văn Cao Năm, Lƣu
Văn Khuê, nhà sử học Lê Văn Lợi, nghệ sĩ nhiếp ảnh Hoàng Minh Đáng… đều thể
hiện sự ngƣỡng mộ, trân trọng tài năng và nhân cách Nguyên Hồng. Các ý kiến đều
đánh giá cao sự đóng góp của Nguyên Hồng đối với sự phát triển của nền văn
chƣơng Việt Nam hiện đại. Nhà thơ Hữu Thỉnh - Chủ tịch Hội Liên hiệp các Hội
Văn học nghệ thuật Việt Nam, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam đã ghi nhận những
đóng góp của Nguyên Hồng, đó là: “Nguyên Hồng là một tác gia lớn, một tác giả sử
thi tầm cỡ nhất của văn chương Việt Nam hiện đại, một nhà văn thực sự xuất sắc
của thế kỷ XX” [119]. GS. TS. Trần Đăng Suyền đã khẳng định: “Nguyên Hồng là
nhà văn của chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc, thống thiết; sáng tác của ông làm phong
phú thêm chủ nghĩa nhân đạo của nền văn học dân tộc” [119]. Với một cái nhìn
tổng quan về Nguyên Hồng từ “một cái nhìn thế kỷ” - PGS.TS. Đoàn Trọng Huy
[119] đã có những đánh giá rất trân trọng và xác đáng về nhà văn: “Nguyên Hồng đã
sống với những sự kiện lớn lao của đất nước… với tư cách chứng nhân lịch sử, cũng
là người tham gia làm nên lịch sử, Nguyên Hồng đã sống và viết hết mình. Những
trang viết của nhà văn có sự mặn mòi của mồ hôi lao động, có cái nồng ấm của
nước mắt pha lẫn vẻ rạng rỡ của nụ cười. Tất cả những gì trên mặt giấy đều được
giãi bày tươi thắm bằng máu huyết tâm hồn” (Nguyên Hồng từ cái nhìn thế kỷ)...
Tóm lại: Khi nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Nguyên
Hồng, các nhà nghiên cứu phê bình đều đánh giá cao tài năng và nhân cách của
ông, khẳng định Nguyên Hồng là một trong những nhà văn xuất sắc nhất của trào
15
lƣu văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945. Với những đóng góp của mình,
Nguyên Hồng đã có vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện quá trình hiện đại hóa
văn học Việt Nam thế kỷ XX.
1.2. Tình hình nghiên cứu về Thế giới nghệ thuật trong sáng tác của Nguyên Hồng
Nhƣ chúng tôi đã trình bày ở trên, đã có những công trình nghiên cứu,
những bài viết về Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng ở những phƣơng diện
nhƣ: đề tài, chủ đề, nhân vật, thời gian, không gian nghệ thuật, ngôn ngữ nghệ
thuật,... trong sáng tác của nhà văn trƣớc cách mạng. Tuy nhiên, theo khảo sát,
chúng tôi nhận thấy, những nhà nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở những nhận định
chung nhất, hoặc đi sâu vào một số phƣơng diện nhƣ: nhân vật, ngôn ngữ nghệ
thuật... mà chƣa có một công trình nghiên cứu toàn diện, hệ thống về Thế giới nghệ
thuật của nhà văn.
Xuất phát từ quan niệm: Thế giới nghệ thuật “là chỉnh thể của hình thức
văn học”, “là sản phẩm sáng tạo mang tính cảm tính, có thể cảm thấy được của
người nghệ sĩ, một kiểu tồn tại đặc thù, vừa trong chất liệu, vừa trong cảm nhận
của người thưởng thức, là sự thống nhất của mọi yếu tố đa dạng trong tác phẩm”
[140, tr. 30], chúng ta hiểu rằng: Thế giới nghệ thuật chính là sự thống nhất của
mọi yếu tố: Đề tài, chủ đề, nhân vật, thời gian và không gian, ngôn từ nghệ thuật...
tất cả tạo nên một Thế giới nghệ thuật mang nét riêng, mang cá tính sáng tạo của
nhà văn.
Từ cơ sở lý thuyết, lý luận nhƣ trên, tác giả luận án đã tìm hiểu lịch sử
nghiên cứu về Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng ở các phƣơng diện sau:
1.2.1. Về đề tài sáng tác
Trong cuốn Việt Nam văn học sử yếu của Dƣơng Quảng Hàm (xuất bản
lần đầu1941, tái bản năm 1993), NXB Tổng hợp Đồng Tháp, có nội dung nghiên
cứu về “Các khuynh hướng phổ thông của tư tưởng trong quốc văn hiện đại”, đã
chia ra 3 khuynh hƣớng: Khuynh hƣớng về học thuật, khuynh hƣớng lãng mạn,
khuynh hƣớng tả thực. Tác giả đã xếp sáng tác của Nguyên Hồng vào khuynh
hướng tả thực cùng với Vũ Trọng Phụng, Trọng Lang [51, tr. 466]. Cũng cùng
quan điểm này, Thế Phong khẳng định: “Nguyên Hồng là nhà văn xã hội hơn hết
theo đúng danh từ. Xã hội tính trong văn chương Nguyên Hồng là tả chân thực
16
sự” [123, tr. 77]. Giáo sƣ tiến sĩ khoa học N.I. Nikulin khi nghiên cứu Lịch sử văn
học Việt Nam, cho rằng “cuộc sống của tầng lớp dân nghèo thành thị cũng được
phản ánh trong những tác phẩm hiện thực”, và tác giả dẫn ra ví dụ tiêu biểu là
“tiểu thuyết Bỉ vỏ của Nguyên Hồng” [103, tr. 749].
Nhiều nhà nghiên cứu về Nguyên Hồng sau này nhƣ Nguyễn Đăng Mạnh,
Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức… cũng đều thống nhất cho rằng đề tài sáng tác mà
Nguyên Hồng hƣớng đến là cuộc sống của những ngƣời lao động nghèo khổ dƣới
đáy xã hội thực dân phong kiến. “Từ thế giới những người lao động cực khổ nhất
trong xã hội. Nguyên Hồng đã đến với nghề văn” [116, tr. 78]; “Mỗi nhà văn đều
có một nguồn suối tinh thần yêu thương của họ, Ngô Tất Tố tiếp thu được cái hơi
thở khỏe mạnh, hồn hậu, lạc quan của nông dân, còn Nguyên Hồng thì bắt rễ sâu
vào cuộc sống và những tình cảm tốt đẹp của những người dân nghèo, thợ thuyền
thành phố. Anh luôn luôn nói đến người lao động nghèo khổ với lòng biết ơn tình
nghĩa, với sự gắn bó trọn đời chung thủy” [116, tr. 106]…
Có thể thấy rằng: các ý kiến, nhận xét, đánh giá của các nhà nghiên cứu,
phê bình (trƣớc và sau cách mạng) đều đã chỉ rõ: Đề tài sáng tác trong tác phẩm
của Nguyên Hồng là cuộc sống của những con ngƣời khốn khổ trong xã hội
đƣơng thời, nhà văn đã rất thành công khi viết về đề tài này - và điều này là
hoàn toàn chính xác. Chính vì vậy, trong luận án của mình, chúng tôi sẽ không
đi sâu vào nghiên cứu phƣơng diện này mà sẽ tập trung vào một số phƣơng diện
khác trong Thế giới nghệ thuật của nhà văn hiện thực Nguyên Hồng.
1.2.2. Về chủ đề sáng tác
Trong nhận xét của Giải thưởng Tự lực văn đoàn, năm 1937 (báo Ngày nay,
năm 1938), Thạch Lam đánh giá sự thành công cũng nhƣ hạn chế trong tiểu thuyết Bỉ vỏ nhƣ sau: “Cái đặc biệt của Nguyên Hồng có lẽ là cái màu sắc tự nhiên và sự
linh động. Người ta mừng rằng với một đầu đề như thế (đời một cô gái trụy lạc) ông Nguyên Hồng đã khéo đứng trong phạm vi sự thật và sự cảm thấy, mà không
sa ngã vào những câu sáo và hoa mỹ,… còn nhiều chỗ vụng về… nhiều câu văn chưa gãy gọn. Nhưng đó là lỗi của một người viết văn và sẽ mất đi với kinh
nghiệm và sự từng trải trong nghề”. Trong khuôn khổ của một Nhận xét Giải thưởng Thạch Lam cũng mới chỉ nêu ý kiến nhận xét về sự tự nhiên và linh động
cũng nhƣ một số hạn chế trong văn Nguyên Hồng mà thôi.
17
Phan Cự Đệ khẳng định rằng: “Vấn đề chính trong tác phẩm của Nguyên Hồng trước Cách mạng là: những con người quằn quại trong sự đau khổ nhưng vẫn lạc quan, yêu đời, vẫn muốn “ngoi lên ánh sáng như những mầm cây xanh” [116, tr. 111]. Tác giả đã nhấn mạnh đến bản chất nhân vật của Nguyên Hồng, đó là: những ngƣời dân nghèo tuy bị xã hội đẩy đến sự bần cùng hóa (thậm chí lƣu manh hóa), nhƣng ở họ luôn là niềm khao khát cuộc sống lƣơng thiện trong một xã hội công bằng, đẹp đẽ hơn.
Còn nhà phê bình Vũ Ngọc Phan thấy ở truyện ngắn của Nguyên Hồng "phần nhiều pha một giọng phóng sự chua cay và kín đáo, phần nhiều dùng việc thay lời, nên cái nghệ thuật của ông thật là sâu sắc” [116, tr. 44], “Ông đã đi từ cuộc sống nghèo nàn của mấy hạng người bị xã hội khinh bỉ đến những cuộc sống bên trong rất phức tạp và không kém phần ồn ào, nhộn nhịp” [116, tr. 48], “chỉ khi nào lòng yêu nhân loại lên tới cực điểm, là người ta mới thiết tha đến những người bị xã hội ruồng bỏ” [116, tr. 43]. Vũ Ngọc Phan cũng đã nói đến cảm hứng sáng tạo và giá trị nhân đạo toát ra trong sáng tác của Nguyên Hồng, đây là một ý kiến rất đáng chú ý khi cắt nghĩa ngọn nguồn cảm hứng sáng tạo của nhà văn.
Khái quát về toàn bộ đời văn Nguyên Hồng, Nguyễn Minh Châu thấy “Ngổn ngang gò đống kéo lên biết bao nhiêu là hạng người, là mẫu người của xã hội cũ”... “bao giờ ông cũng đặt niềm tin tưởng vững chắc vào cái cốt lõi tốt đẹp của tính cách những con người lao động nghèo khổ” [116, tr. 379]. Đồng thời, tác giả cũng cho rằng: Nguyên Hồng là “Nhà văn của thập loại chúng sinh”.., “từ trong lòng cái xã hội “thập loại chúng sinh” bước ra, cầm cây bút sắt chấm vào mồ hôi, nước mắt và máu của mình mà viết ra văn chương riêng của mình” [116, tr. 378]. Chúng ta thấy rằng: Nguyễn Minh Châu cũng nhƣ các nhà nghiên cứu, phê bình trên đã nhấn mạnh đến đối tƣợng thẩm mỹ trong sáng tác của Nguyên Hồng là những con ngƣời nghèo khổ trong xã hội cũ, đồng thời tác giả cũng khẳng định niềm tin tƣởng vững chắc của Nguyên Hồng vào bản chất tốt đẹp của ngƣời lao động - đó chính là chủ đề nổi bật, bao trùm trong toàn bộ sáng tác của nhà văn hiện thực này.
1.2.3. Về nhân vật
Ngay từ trƣớc Cách mạng, Trƣơng Chính tuy có những nhận xét khắt khe về cuốn tiểu thuyết Bỉ vỏ nhƣ: còn thiếu nghệ thuật, thiếu kinh nghiệm, nhƣng ông cũng đƣa ra nhận định khách quan về cách xây dựng nhân vật của Nguyên Hồng:
18
"Tác giả dồn hết nạn này đến nạn khác trên đầu Bính cho đến khi cô bị bắt, ở tù, mới chịu thôi”, đó là nhận xét về một trong những đặc điểm xây dựng nhân vật ở Nguyên Hồng trong một cuốn tiểu thuyết cụ thể.
Tác giả Hà Minh Đức khi đánh giá tổng quát về Nguyên Hồng và quá trình sáng tác của nhà văn - đã nhận định: “Nguyên Hồng, nhà văn của những khát vọng sống”… “nhà văn của những xóm thợ”, “người đã đem vào trang sách muối mặn, mồ hôi và đất bụi của cuộc đời” [116, tr. 13]. Đồng thời, tác giả nhấn mạnh đến đặc điểm nhân vật của Nguyên Hồng “thế giới nhân vật của Nguyên Hồng bị vây bọc trong sự nghèo khổ không có lối ra (…) nhưng bao giờ cũng nuôi khát vọng sống chân chính của con người… Cũng dễ nhận ra người dân lao động trong tác phẩm của Nguyên Hồng ở cuộc đời nghèo khổ, lòng nhân ái và những khát vọng sống của họ” [116, tr. 17]… Ở đây, nhà nghiên cứu đã khẳng định lòng nhân ái, sự lạc quan và sức sống bất diệt ở các nhân vật của Nguyên Hồng. Đồng thời tác giả cũng chỉ ra nhƣợc điểm trong cách xây dựng nhân vật của Nguyên Hồng là: “còn thiếu những nhân vật phản diện để tạo nên những đối trọng của các nhân vật thuộc tầng lớp giàu nghèo khác nhau” [116, tr. 18]. Nói về những hạn chế của Nguyên Hồng khi xây dựng nhân vật, Vũ Đức Phúc, Nguyễn Đức Đàn cho rằng: “Nếu như tư tưởng của Nguyên Hồng tương đối ngày càng tiến bộ, thì về nghệ thuật ông lại hay mắc phải nhược điểm là lý luận dài dòng và trực tiếp nói lên nhiều ý nghĩa của mình thay cho việc mô tả sự việc và tính cách con người. Nhân vật của ông thường triết lý về cảnh khổ của mình và của người khác hơn là hành động… trong sáng tác của ông nhiều trang có tính chất bài báo hoặc bút ký trữ tình, ông không chú trọng xây dựng điển hình cho thật sinh động” [125, tr.149 ]. Ý kiến về hạn chế của Nguyên Hồng khi xây dựng nhân vật nhƣ trên không thấy có ngƣời hƣởng ứng.
Tác giả Phan Cự Đệ cho rằng nhân vật của Nguyên Hồng “là những con
người quằn quại trong sự đau khổ nhưng vẫn lạc quan, yêu đời, vẫn ngoi lên ánh
sáng như những mầm cây xanh” [116, tr. 111]. Tác giả cũng nhận xét những đức
tính quý báu của nhân vật trong sáng tác của Nguyên Hồng nhƣ: “tình thương yêu,
đùm bọc lẫn nhau giữa những người cùng khổ”, “tình nghĩa chung thủy và lòng hi
sinh cho hạnh phúc người khác”, “lòng tự trọng dù đói khổ vẫn không chấp nhận
lối sống trụy lạc, bán rẻ nhân phẩm để chạy theo đồng tiền và danh vọng”. Đồng
thời Phan Cự Đệ cũng thẳng thắn chỉ ra những hạn chế trong cách xây dựng nhân
19
vật của Nguyên Hồng nhƣ: “dù sao, nhiều nhân vật dân nghèo của Nguyên Hồng
vẫn còn giữ một thái độ cam phận, nhẫn nhục, chịu đựng trước cảnh ngộ. Đôi lúc ta
có cảm tưởng dường như ngòi bút nhà văn chìm sâu một cách triền miên trong sự
khổ đau, say sưa trong một thứ chủ nghĩa cùng khổ”… “Nhược điểm này từ năm
1938 trở đi, dần dần được khắc phục” [116, tr. 111]. Nhƣ vậy, tác giả đã ghi nhận
sự thành công cũng nhƣ hạn chế về cách xây dựng nhân vật của Nguyên Hồng.
Khi nghiên cứu tổng quát “Nguyên Hồng - con người và sự nghiệp” [116],
tác giả Nguyễn Đăng Mạnh cũng đã khái quát quá trình sáng tác trƣớc và sau
Cách mạng của Nguyên Hồng, đã chỉ ra những đặc điểm quan trọng trong sáng tác
của nhà văn. Đó là chủ nghĩa nhân đạo, là cảm hứng sáng tạo, là ba loại nhân vật
quen thuộc của nhà văn: “những người làm các nghề phu phen, tạp dịch nặng nề”
[tr. 82], “những người đàn bà dân nghèo thường kiếm ăn bằng việc buôn thúng
bán mẹt, hay bán hàng cơm, hàng nước”[tr. 83]; “những trẻ em nhà nghèo”
[tr. 86]; Ngoài ra còn có“loại nhân vật trẻ tuổi thuộc tầng lớp tiểu tư sản nghèo”
[tr. 86] và “những hạng người lưu manh côn đồ” [tr. 80]. Tuy nhiên, với một công
trình nghiên cứu tổng quan về “Nguyên Hồng, con ngƣời và sự nghiệp”, Nguyễn
Đăng Mạnh cũng mới chỉ dừng lại ở mức độ giới thiệu chung về các loại nhân vật
của Nguyên Hồng, mà chƣa chỉ ra đặc điểm cụ thể của từng loại nhân vật cũng nhƣ
chƣa đi sâu vào nghiên cứu nghệ thuật xây dựng từng loại nhân vật ấy.
Nhận xét về tính cách nhân vật của Nguyên Hồng, có ý kiến nhận định rằng
“Trong thế giới nhân vật của ông, ta thường bắt gặp những tính cách phi thường,
những con người thánh thiện nhuốm vẻ tôn giáo và màu sắc lãng mạn. Đó là những
con người khác thường với những nét tính cách được tô đậm, phóng đại, được đẩy
lên đến mức cực đoan. Tất cả đều mang một nét chung nào đó khiến người đọc nhận
ra đây chính là những nhân vật, những đứa con tinh thần của Nguyên Hồng” [131,
tr. 420]. Theo chúng tôi, đây chính là một nhận xét chính xác và tinh tế bởi tác giả
đã chỉ ra sự khác biệt về nhân vật của Nguyên Hồng so với nhân vật của các nhà văn
khác cùng thời với ông, kể cả nhà văn hiện thực phê phán.
Về nghệ thuật sáng tạo của Nguyên Hồng, PGS.TS. Đoàn Trọng Huy cũng
khẳng định “Nguyên Hồng có nhiều hứng khởi để sáng tạo, đổi mới trên lĩnh vực
văn xuôi. Nghệ thuật ngôn từ phát triển do đi sâu vào đời sống nhiều mặt phong
phú và hết sức sinh động”. Từ góc nhìn của một nhà đạo diễn sân khấu, nghệ sĩ ƣu
20
tú (NSƢT) Đào Quang nhận thấy mối quan hệ gắn bó giữa văn học và sân khấu mà
sáng tác của nhà văn Nguyên Hồng là một ví dụ. Tác giả nhận xét: “Chất kịch và
chất sân khấu đậm đặc trong văn Nguyên Hồng”, “Tiểu thuyết và truyện ngắn của
Nguyên Hồng đầy ắp chất kịch”… “Nhân vật của Nguyên Hồng thường được đặt
trong những tình thế hết sức căng thẳng, buộc phải lựa chọn để tìm sự giải quyết
cho mình... Chính vì vậy, sáng tác của Nguyên Hồng giàu chất kịch và chất sân
khấu” [Chất kịch và chất sân khấu trong văn Nguyên Hồng - 119]… Chính nhờ
chất kịch và chất sân khấu ấy mà văn xuôi Nguyên Hồng không chỉ làm xúc động
những độc giả yêu thích văn chƣơng Nguyên Hồng, mà nó còn “có một sức tác
động và cảm hóa thật thấm thía và mạnh mẽ khôn lường, gần như thôi miên đám
đông khán giả, tạo nên cảm xúc thăng hoa trong thưởng thức của người xem như
từng đợt sóng dâng trào bất tận” [119].
Có thể thấy rằng, đã có khá nhiều ý kiến nhận xét về đặc điểm nhân vật của
Nguyên Hồng, về thành công cũng nhƣ hạn chế trong cách xây dựng nhân vật của
nhà văn. Tuy nhiên các ý kiến đó vẫn là những nhận xét, nhận định chung có tính
khái quát. Các tác giả chƣa đi sâu vào đặc điểm của từng loại nhân vật cũng nhƣ
nghệ thuật xây dựng từng loại nhân vật ấy của Nguyên Hồng - nhất là trong những
sáng tác của ông ở giai đoạn trƣớc năm 1945.
1.2.4. Về không gian và thời gian
Về Thời gian và không gian nghệ thuật trong sáng tác của Nguyên Hồng
trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945, qua khảo sát, chúng tôi thấy không có
nhiều ý kiến về vấn đề này. Tuy nhiên, trong công trình nghiên cứu “Nguyên
Hồng, con người và sự nghiệp” tác giả Nguyễn Đăng Mạnh đã ít nhiều đề cập
đến không gian và thời gian trong sáng tác của Nguyên Hồng. Nhận xét chung về
toàn bộ sáng tác của Nguyên Hồng trƣớc và sau Cách mạng tháng Tám, tác giả đã
khẳng định: “dù ông viết về nơi đâu, thuộc địa chỉ nào, người đọc cũng như cảm
thấy mở ra trước mắt cảnh vật, con người và không khí của thành phố Hải
Phòng”… “Tất cả diễn ra dưới cái nắng chói chang và màu hoa phượng vĩ cũng
rất tiêu biểu cho cảnh sắc của thành phố Hải Phòng” [116, tr. 98,99]. Đây là một
nhận xét rất chính xác về một đặc điểm nổi bật trong các sáng tác của Nguyên
Hồng kể từ những tác phẩm đầu tay trƣớc 1945 cho đến bộ tiểu thuyết Cửa biển
sau Cách mạng.
21
Trong công trình nghiên cứu “Thi pháp hoàn cảnh trong tác phẩm của Ngô
Tất Tố, Vũ Trọng Phụng và Nam Cao”, tác giả Phạm Mạnh Hùng đã đi sâu
nghiên cứu quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh trong văn xuôi hiện thực thời kỳ
1930 - 1945. Trong chuyên luận này, tác giả nhấn mạnh đến “mối quan hệ giữa
tính cách và hoàn cảnh” [79, tr. 7] khi nghiên cứu trào lƣu văn học hiện thực phê
phán. Tác giả đã chú ý nói về yếu tố thiên nhiên, và cho rằng: thiên nhiên “nhiều
khi nó là yếu tố biểu hiện tâm lý. Và đứng ở góc độ hoàn cảnh nghệ thuật, nó có
thể là yếu tố tạo không khí cho hoàn cảnh” [79, tr. 316]. Tuy không trực tiếp bàn
về không gian, thời gian trong sáng tác của Nguyên Hồng, nhƣng những “quan
niệm nghệ thuật về hoàn cảnh” trong Tắt đèn (Ngô Tất Tố), Giông tố (Vũ Trọng
Phụng), Sống mòn và một số truyện ngắn tiêu biểu của Nam Cao - những tác
phẩm của các tác giả cùng khuynh hƣớng, cùng thời với Nguyên Hồng - là cơ sở
và những gợi ý thiết thực để chúng tôi tìm hiểu về không gian, thời gian nghệ
thuật trong sáng tác của Nguyên Hồng.
Khi nghiên cứu về Chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam nửa đầu
thế kỷ XX, GS.TS. Trần Đăng Suyền cũng chỉ ra sự khác biệt về không gian,
thời gian nghệ thuật trong sáng tác Nguyên Hồng so với các nhà văn cùng thời,
đó là: “không có những xung đột giai cấp như tiểu thuyết của Nguyễn Công
Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố mà là một vùng quê tăm tối, cổ hủ hàng trăm
năm bị giam hãm, trói buộc bởi những luật lệ nghiệt ngã, vô lý của lễ giáo phong
kiến” [135, tr. 422]… đó là:“không gian rùng rợn nặng nề với những cảnh cướp
giật, chết người”… không gian của “những nhà chứa nhớp nhúa, tanh tưởi, hôi
hám”… là “không gian của một xã hội gian phi” [135, tr. 423]. Đây là một nhận
xét rất chính xác trên cái nhìn tổng quan về không gian nghệ thuật trong sáng tác
của Nguyên Hồng trong sự đối sánh với các tác giả cùng khuynh hƣớng hiện thực
khác đƣơng thời.
Trong luận án: “Không gian và thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết hiện
thực phê phán 1930 -1945 qua một số tác phẩm tiêu biểu” (2009), tác giả Phạm Hồng Lan đã chọn vấn đề nghiên cứu về không gian và thời gian trong tiểu thuyết
Bỉ vỏ của Nguyên Hồng. Tác giả luận án đã có một số nhận xét cụ thể về đặc điểm thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết này là: “thời gian đêm tối”,(“những sự kiện
của cuộc đời nhân vật chính diễn ra trong đêm tối”) và thời gian này rất “phù hợp với nhân vật hành động” [85, tr. 119,120); cụ thể hơn nữa là: “Thời gian tâm
22
trạng trong Bỉ vỏ là thời gian dằng dặc, lê thê kéo dài vô tận” [85, tr. 129]...
Không gian trong Bỉ vỏ là không gian nông thôn “tăm tối tù đọng và ngột ngạt bởi
những hủ tục lạc hậu”; là không gian thành thị “là nơi cuốn con người vào vòng
quay tội lỗi”... Và “Việc mở rộng không gian nghệ thuật gắn liền với cảm hứng
phân tích xã hội của Nguyên Hồng. Xã hội Việt Nam trước cách mạng chỉ có thể là
môi trường sản sinh ra cái xấu và cái ác, ở trong môi trường đó, con người không
thể giữ được nhân phẩm mà ngược lại bị môi trường làm cho tha hóa. Với sự mở
rộng không gian, dường như Nguyên Hồng đã có ý thức sâu sắc hơn về sự tác
động của môi trường, hoàn cảnh sống lên thân phận con người” [85, tr. 42]. Do
mục đích và giới hạn của mục tiêu nghiên cứu, tác giả luận án cũng mới chỉ dừng
lại ở những nhận xét, những phân tích về không gian, thời gian trong một cuốn tiểu
thuyết tiêu biểu là Bỉ vỏ của Nguyên Hồng, chứ chƣa nghiên cứu tất cả các tác
phẩm khác trong giai đoạn sáng tác trƣớc 1945 của ông.
Tác giả Lê Hồng My trong chuyên luận Lời văn nghệ thuật Nguyên Hồng
cũng nhắc đến không gian trong sáng của Nguyên Hồng, đó là: “không gian sinh
hoạt tăm tối”,“không gian và cảnh vật triền miên trong trạng thái nặng
nề”,“không gian giam cầm đầy đọa con người” [101, tr. 38,39]. Còn nhà đạo diễn
sân khấu - NSƢT Đào Quang bƣớc đầu chỉ ra: “Trong tiểu thuyết và truyện ngắn
của Nguyên Hồng, không gian và thời gian được miêu tả rất chi tiết làm thành môi
trường sống cụ thể, thành khung cảnh sinh động sắc nét của các nhân vật sống và
tồn tại... Không gian ấy là mảnh đất Hải Phòng trước Cách mạng tháng Tám với
những khu phố nghèo, chen chúc người cư ngụ, với những căn nhà lụp xụp, tăm
tối, ngột ngạt là môi trường không gian quen thuộc trong những trang văn đầy ắp
những chi tiết sinh động, chân thực và dạt dào cảm xúc của Nguyên Hồng” [Chất
kịch và chất sân khấu trong văn Nguyên Hồng - 119].
Tóm lại, có thể thấy rằng các nhà nghiên cứu trên đều đã chỉ ra: không gian
nghệ thuật của Nguyên Hồng chủ yếu là không gian Hải Phòng - một không gian
tăm tối ngột ngạt, bế tắc đại diện cho cả một xã hội Việt Nam nói chung trƣớc
Cách mạng tháng Tám. Không gian ấy đã đầy đọa, bủa vây những con ngƣời lao
động bần cùng, đẩy họ xuống tận bùn đen của sự đói rách. Không gian này có tác
dụng hữu hiệu trong nghệ thuật xây dựng tính cách và bản chất nhân vật.
23
1.2.5. Về ngôn ngữ, giọng điệu nghệ thuật
Nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật trong những sáng tác của
Nguyên Hồng trƣớc Cách mạng, chúng tôi thấy rằng đã có các tác giả nhƣ:
Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Đăng Điệp, Chu Nga, Lê Hồng My, Nguyễn Minh
Châu, Linh Thi... đề cập đến ở một số phƣơng diện nhƣ sau:
Nghiên cứu sáng tác của Nguyên Hồng cả hai giai đoạn trƣớc và sau cách
mạng, Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng, giọng điệu văn Nguyên Hồng “ Là giọng văn
thống thiết của một tâm hồn nồng nhiệt” [116, tr. 101], giọng văn “cuồn cuộn, sục
sôi, hăm hở tràn đầy cảm xúc dù là kể việc, vẽ người hay tả cảnh” [116, tr. 100].
Khi đọc Những ngày thơ ấu, tác giả Nguyễn Đăng Điệp đã chỉ ra những
nét đặc sắc trong hồi ký Nguyên Hồng: “Không chỉ viết truyện mà ngay cả với
hồi ký, văn Nguyên Hồng là thứ văn dạt dào xúc cảm. Trên những dòng chữ lấp
lánh ánh lửa lòng nồng ấm, và sau nó là “giọt lệ lớn” của một trái tim dễ xúc
động” [116, tr. 233]… “thứ văn giàu tình cảm, nồng say”… “chất thơ, chất trữ
tình trội át chất phân tích tự sự” [116, tr. 234]. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng
Điệp đã rất tinh tế khi cảm nhận giọng điệu trữ tình đầy xúc cảm qua hồi ký của
Nguyên Hồng. Tác giả Nguyễn Minh Châu cũng đồng quan điểm này khi nhận xét
câu văn Nguyên Hồng có “cái mập mạp khỏe khoắn đầy chất "đời sống cần lao”
của ngay cú pháp” (…) Nguyên Hồng viết văn như một ông lão thợ đấu cứ lễ mễ
vác từng mảng thực tế sự đời mà huỳnh huỵch đắp lên mặt giấy [116, tr. 379)]..
Chu Nga khi viết về quá trình sáng tác của Nguyên Hồng có nhấn mạnh đến giọng
điệu riêng biệt của ông so với các nhà văn khác cùng thời, cùng khuynh hƣớng,
"Tiếng nói mới, riêng biệt của Nguyên Hồng góp vào dòng văn học hiện thực phê
phán về căn bản vẫn là tiếng nói yêu thương, nhân đạo, có phê phán nhưng không
mỉa mai trào lộng như Nguyễn Công Hoan, không chì chiết và đau đớn như Nam
Cao, hay sâu cay nặng nề như Ngô Tất Tố” [116, tr. 158]. Tác giả Chu Nga đã chỉ
ra sự khác biệt về giọng điệu của Nguyên Hồng so với các nhà văn khác cùng
khuynh hƣớng, cùng thời với ông, mà chƣa đi sâu vào từng đặc điểm lời văn cũng
nhƣ giọng điệu của Nguyên Hồng.
Linh Thi cảm nhận đặc điểm câu văn Nguyên Hồng:“câu văn Nguyên
Hồng cứ ngồn ngộn, ngồn ngộn chi tiết, đôi khi được chất lên, được tấp lên, được
24
chằng buộc đến ngốt mắt” [116, tr. 239]... “Đúng là câu văn của Nguyên Hồng lúc
nào cũng như con cá đang thở gấp, lúc nào cũng cựa quậy, phập phồng sự sống,
lấp lánh sự sống” [116, tr. 240], “như một cái cây sum sê, lúc lỉu những thành
phần, như một đoàn tàu chợ” [116, tr. 240]...
Nhìn lại một trong những sáng tác đầu tay của Nguyên Hồng, PGS.TS.
Nguyễn Ngọc Thiện chỉ ra và nhấn mạnh đến giọng điệu “thống thiết” của cuốn
tiểu thuyết tự truyện Những ngày thơ ấu:“Sức sống mạnh mẽ, giọng điệu thống
thiết, đằm thắm, tình cảm tươi mới, trẻ trung, lúc nào cũng biểu hiện ở cường độ
cao, mãnh liệt, cảnh sắc rực rỡ, âm thanh náo động trong văn Nguyên Hồng luôn
có sức thu hút người đọc”, (Những ngày thơ ấu - cuốn hồi ký tự truyện đặc sắc,
mở đầu cho một thể tài của văn học Việt Nam hiện đại - 119).
Cuốn sách chuyên luận của tiến sĩ Lê Hồng My: Lời văn nghệ thuật Nguyên Hồng đã nghiên cứu và tiếp cận sáng tác của Nguyên Hồng từ góc độ: Lời văn nghệ thuật trên phạm vi toàn bộ sáng tác trƣớc và sau Cách mạng tháng Tám của nhà văn. Trong chuyên luận này, tác giả đã phân tích một cách kỹ lƣỡng, chuyên sâu Phương thức tổ chức lời văn nghệ thuật. Đó là “Nguyên tắc cụ thể hóa tới mức tối đa, bão hòa đối tượng phản ánh của lời văn”… tác giả đã phân tích cụ thể các thành phần cơ bản trong lời văn nghệ thuật nhƣ: lời trần thuật, lời đối thoại của nhân vật, lời độc thoại nội tâm… và những phương thức tu từ đặc sắc tạo hiệu quả thẩm mỹ cho lời văn nhƣ: tiếng lóng, biệt ngữ tôn giáo, từ láy, phép điệp ngữ,... trong sáng tác của nhà văn. Đây là một chuyên luận chuyên sâu về một yếu tố trong Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng, đó là Lời văn nghệ thuật của Nguyên Hồng cả hai giai đoạn trƣớc và sau năm 1945. Kết quả nghiên cứu này của tiến sĩ Lê Hồng My là tƣ liệu thiết thực khi chúng tôi nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật của Nguyên Hồng giai đoạn trƣớc năm 1945.
Về nghệ thuật sáng tạo ngôn ngữ của Nguyên Hồng, PGS.TS. Đoàn Trọng Huy [119] cũng khẳng định: “Nguyên Hồng có nhiều hứng khởi để sáng tạo, đổi mới trên lĩnh vực văn xuôi. Nghệ thuật ngôn từ phát triển do đi sâu vào đời sống nhiều mặt phong phú và hết sức sinh động” (Nguyên Hồng, từ cái nhìn thế kỷ)…
Ngoài ra, chúng tôi còn thấy có một số bài nghiên cứu đi vào tìm hiểu những phƣơng diện khác trong sáng tác của Nguyên Hồng nhƣ: Cảm quan tôn giáo trong sáng tác của Nguyên Hồng (Đào Đức Doãn), tác giả này cho rằng:
25
“Trong sự tiếp thu tôn giáo, Nguyên Hồng không bị cuốn đi bởi sự mê muội mà luôn chắt lọc, một sự chắt lọc tự nhiên - lấy phần nhân văn cao cả của nó. Đó là tinh thần tôn giáo hiểu theo nghĩa như là đức tin tuyệt đối về sự hy sinh cao cả (…). Và nhất là lúc nào cũng tin ở con người” [20, tr. 1]. Tiến sĩ Bạch Văn Hợp cũng đồng quan điểm này và cắt nghĩa nguồn gốc cảm hứng thương cảm của Nguyên Hồng là “việc tiếp nhận những ảnh hưởng của tư tưởng bác ái Thiên Chúa giáo ở Nguyên Hồng có quá trình lịch sử và có mức độ đậm, nhạt khác nhau trên từng chặng đường sáng tác. Thời kỳ đầu, sáng tác của Nguyên Hồng có ảnh hưởng của tinh thần bác ái Thiên Chúa giáo trên phương diện nội dung tư tưởng, tình cảm lẫn hình thức biểu hiện. Từ khi tiếp nhận được ánh sáng của lý tưởng Cách mạng, sáng tác của ông chỉ còn dấu vết ảnh hưởng của đạo Thiên Chúa ở hình thức biểu hiện các trạng thái tâm lý nhân vật mà thôi. Mặt khác, có lẽ Nguyên Hồng không hiểu nhiều lắm về những triết lý sâu xa của đạo Thiên Chúa nên sự ảnh hưởng của nó đối với nhà văn rất hồn nhiên và phù hợp với cuộc sống cũng như cá tính của ông. Đó là cái ý nghĩa nhân văn đích thực của Thiên Chúa giáo phù hợp với đạo lý của người lao động mà Nguyên Hồng đã tiếp thu được qua trường học cuộc đời” [78; tr. 6].
Về vấn đề Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng còn một số luận án tiến
sĩ, luận văn thạc sĩ đã quan tâm đề cập đến ở một số phƣơng diện, ví dụ nhƣ:
Luận án tiến sĩ “Sự vận động của dòng văn học hiện thực Việt Nam 1930 -
1945 (qua khảo sát tiểu thuyết và truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố,
Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao)”, tác giả Nguyễn Duy Tờ đã chỉ ra
những đóng góp riêng biệt của các tác giả Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ
Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao - thông qua việc khảo sát và phân tích hai
thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết. Về Nguyên Hồng, tác giả luận án đã đƣa ra
những nhận xét cơ bản về cảm hứng sáng tạo của nhà văn: “Ông viết, ngay từ những
trang văn đầu tay, cuộc sống của đám lưu manh, cảnh sát, mật thám, đĩ điếm... với
những hành vi phản bội, dối lừa... Ngòi bút của ông bị lôi cuốn mạnh mẽ theo chiều
quan sát muốn ghi lấy, chép lấy, không bỏ sót. Nhờ vậy mà Bỉ vỏ và sau đó là
Những ngày thơ ấu không bị khuất lấp sau “thác lũ” của những Giông tố, Số đỏ,
Vỡ đê, Làm đĩ, Kép Tư Bền...” [144, tr. 168]; “Ở hầu hết các nhân vật của ông,
nhân vật chính luôn rơi vào trạng thái tự vấn mình ráo riết, tự vò xé, dằn vặt bản
thân tới tận cùng” [144, tr. 175]. Do phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả luận án
26
chỉ tập trung giới thiệu, khảo cứu, nghiên cứu, phê bình sự vận động của dòng văn
học hiện thực Việt Nam 1930 -1945, và chủ yếu ở thể loại tiểu thuyết, truyện ngắn
của 5 tác giả trên, nên những nhận xét chỉ mang tính khái quát.
Luận án tiến sĩ của tác giả Phạm Hồng Lan “Không gian và thời gian nghệ
thuật trong tiểu thuyết hiện thực phê phán 1930 -1945” (2009), đã nghiên cứu
không gian và thời gian nghệ thuật của tiểu thuyết Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất
Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao. Do đối tƣợng và phạm vi nghiên
cứu, tác giả luận án cũng mới chỉ dừng lại nghiên cứu Không gian và thời gian
nghệ thuật trong một cuốn tiểu thuyết Bỉ vỏ nổi tiếng của Nguyên Hồng, mà chƣa
bao quát đƣợc những đặc điểm về không gian, thời gian nghệ thuật trong toàn bộ
sáng tác của nhà văn.
Luận văn thạc sĩ “Bước đầu tìm hiểu lý tưởng thẩm mỹ trong tiểu thuyết của
Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao” của Nguyễn Thị Thu Hoài
đã khảo sát về lý tưởng thẩm mỹ của các nhà văn hiện thực trong đó có Nguyên
Hồng qua tiểu thuyết xuất sắc Bỉ vỏ. Tác giả luận văn đã nhấn mạnh Bỉ vỏ “là bức
tranh cuộc sống của lớp người dưới đáy xã hội” [60, tr. 58] và “là hiện thực khắc
nghiệt của thành phố Cảng” “đầy cạm bẫy”, “lừa lọc”, “môi trường hỗn độn, vô
luân lý”. Từ đó, tác giả khẳng định: “ca ngợi phẩm chất của người phụ nữ đáng
thương để lên tiếng tố cáo hiện thực nghiệt ngã chính là nét riêng trong lý tưởng
thẩm mĩ của Nguyên Hồng” [60, tr. 71].
Tìm hiểu về “Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Nguyên Hồng trước Cách mạng tháng Tám năm 1945”, luận văn thạc sĩ của tác giả Trần Thị Thanh Yến [171] đã nghiên cứu các kiểu nhân vật của Nguyên Hồng qua thể loại truyện ngắn trước 1945. Tác giả luận văn xác định các kiểu nhân vật của Nguyên Hồng trƣớc Cách mạng là: nhân vật cam chịu, nhân vật vượt lên hoàn cảnh, nhân vật vị tha giàu đức hy sinh. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, tác giả cũng chỉ dừng lại ở sự khu biệt các loại nhân vật, nghệ thuật xây dựng nhân vật (tạo tình huống, miêu tả ngoại hình, hành động, ngôn ngữ…) của Nguyên Hồng ở thể loại truyện ngắn mà chƣa bao quát đƣợc toàn bộ các thể loại sáng tác của nhà văn giai đoạn trƣớc Cách mạng.
Ngoài ra, theo khảo sát của chúng tôi, trên một số báo điện tử và trên một
số tạp chí khoa học cũng có những bài viết về nhà văn Nguyên Hồng, ví dụ nhƣ:
27
- Báo Sài Gòn online, có bài viết: “Nhà văn lớn của người nghèo” của
Đoàn Minh Tuấn 04/11/2008;
- Báo Điện tử VN EXPRESS có bài viết: “Nguyên Hồng, Nhà văn mau nước
mắt” (Quách Liêu), ngày 07/4/2008, nguồn Báo Tổ Quốc.
- Tạp chí Khoa học, Trƣờng Đại học Sƣ phạm thành phố Hồ Chí Minh có bài: “Văn xuôi nghệ thuật của Nguyên Hồng và cội nguồn của lòng thương cảm” của Tiến sĩ Bạch Văn Hợp, số 29, năm 2011...
Nhìn chung, những bài viết trên đều thể hiện thái độ trân trọng, ngƣỡng mộ tài năng và nhân cách Nguyên Hồng. Tuy nhiên, với khuôn khổ bài báo nên chƣa có những bài chuyên sâu về Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng. Qua khảo sát, chúng tôi thấy đáng chú ý nhất là bài báo:“Văn xuôi nghệ thuật của Nguyên Hồng và cội nguồn của lòng thương cảm” của Tiến sĩ Bạch Văn Hợp, số 29, năm 2011. Tác giả bài báo cắt nghĩa nguồn gốc sự thương cảm của Nguyên Hồng trong sáng tác, đó là do: hoàn cảnh gia đình, môi trường sống; tư tưởng bác ái của đạo Thiên chúa; tư tưởng nhân đạo của Chủ nghĩa cộng sản và cá tính nhà văn. Tác giả đã lý giải nguồn gốc sự thƣơng cảm của Nguyên Hồng là do bốn yếu tố nhƣ trên, mà chƣa bao quát Thế giới nghệ thuật của nhà văn.
Đó là những nét khái quát nhất về tình hình nghiên cứu về Nguyên Hồng nói chung và Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng nói riêng ở Việt Nam. Ngoài ra, trong khả năng có hạn của mình, chúng tôi cũng đã cố gắng tìm hiểu việc nghiên cứu Nguyên Hồng và về Thế giới nghệ thuật của ông của các tác giả nƣớc ngoài, nhƣ:
- Trong cuốn Lịch sử Văn học Việt Nam, Giáo sƣ - viện sĩ N.I. NICULIN giới thiệu Lịch sử Văn học Việt Nam nói chung và Văn học Việt Nam giai đoạn 1930 -1945 nói riêng. Trong giai đoạn văn học này, tác giả nêu sơ lƣợc đặc điểm sáng tác của các tác giả thuộc trào lƣu văn học hiện thực phê phán nhƣ: Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao. Về Nguyên Hồng, nhà nghiên cứu ngƣời Nga đã giới thiệu hai sáng tác là tiểu thuyết Bỉ vỏ và truyện ngắn Một người mẹ Trung Quốc. Với Bỉ vỏ, “nhà Việt học” nhận xét: “Chủ đề về những nỗi cơ cực của người phụ nữ bất hạnh được nêu lên trên phương diện đạo đức - tâm lý (…), tác giả nhìn thấy cội nguồn của số phận bi đát của nàng là những điều kiện của cuộc sống xã hội” [103, tr. 749, 750]; với truyện ngắn Một
28
người mẹ Trung Quốc, Giáo sƣ - viện sĩ Niculin nhận định: “Trong thời kỳ Mặt trận bình dân, những tác phẩm của những nhà văn hiện thực đã tham gia tích cực vào công tác công khai của Đảng cộng sản, xuất hiện hình tượng người chiến sĩ đấu tranh cho quyền lợi của nhân dân lao động” [103, tr. 750] mà truyện ngắn Người đàn bà Tàu là một ví dụ điển hình. Câu chuyện “đã trở thành tấm gương sinh động của mối tình đoàn kết quốc tế thắm thiết” [103, tr. 750]. Nhƣ vậy, nhà nghiên cứu cũng chỉ dừng lại ở việc giới thiệu qua hai tác phẩm tiêu biểu của Nguyên Hồng thời kỳ trƣớc Cách mạng.
Bài báo “Sự gặp gỡ giữa nhà văn Hàn Quốc Huyn Jin Geon và nhà văn Việt Nam Nguyên Hồng” của tác giả KangHaNa (Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam số 7&8 năm 2000), tác giả đã vận dụng phƣơng pháp so sánh để tìm hiểu những nét tƣơng đồng về tƣ tƣởng và nghệ thuật trong sáng tác của hai nhà văn hiện thực Huyn Jin Geon (Hàn Quốc) và Nguyên Hồng (Việt Nam). Đó là sự tƣơng đồng “về tư tưởng nhân đạo” [81, tr. 52], “đều sáng tác theo khuynh hướng trữ tình” [81, tr. 56],… “cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm của họ là cảm hứng yêu thương cảm thông, chứ không phải là cảm hứng phê phán (tất nhiên, ý nghĩa phê phán vẫn toát ra từ chính cái hiện thực mà họ miêu tả)” [81, tr. 54], nhƣng cũng có sự khác nhau ở chỗ “cái nhìn của Huyn Jin Geon thiên về khía cạnh bi quan, còn Nguyên Hồng thì đậm màu sắc lạc quan” [81, tr. 53]…
Nhìn lại lịch sử vấn đề nghiên cứu về Nguyên Hồng, chúng tôi thấy: từ năm 1946 đến thời kỳ Đổi Mới (1986), tác phẩm của Nguyên Hồng luôn đƣợc giới nghiên cứu, phê bình chú ý và đánh giá cao về mặt nội dung tƣ tƣởng, trong đó cũng có một số bài nghiên cứu đã đề cập đến những giá trị về nghệ thuật trong các tác phẩm của ông.
Đặc biệt, từ 1986 đến nay, vấn đề Nguyên Hồng vẫn tiếp tục đƣợc giới nghiên cứu, phê bình quan tâm nghiên cứu và ngày càng khám phá ra những giá trị mới, và đã thấy đƣợc những nét đặc sắc cùng những đóng góp quan trọng về mặt nghệ thuật. Đã xuất hiện khá nhiều công trình đi sâu vào nghiên cứu nghệ thuật trong các tác phẩm của ông (chuyên luận: Lời văn nghệ thuật Nguyên Hồng - tác giả Lê Hồng My; Phong cách nghệ thuật Nguyên Hồng - tác giả Bạch Văn Hợp; Không gian và thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết hiện thực phê phán 1930 - 1945, tác giả Phạm Hồng Lan...). Trong những công trình nghiên cứu này, các tác giả đã nhấn mạnh và khẳng định: Nhà văn Nguyên Hồng đã góp phần một cách
29
trực tiếp vào quá trình hiện đại hóa nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Việc nghiên cứu, nhận xét và đánh giá về những sáng tác của Nguyên Hồng đã có một quá trình, đã có một độ lùi về thời gian một cách đáng kể (đã gần 70 năm trôi qua), đã trải qua sự vận động và phát triển của nền văn học dân tộc qua các thời kỳ lịch sử khác nhau, và qua đó những giá trị của những sáng tác của Nguyên Hồng ngày càng đƣợc trân trọng. Hiện nay, Nguyên Hồng và những tác phẩm tiêu biểu của ông vẫn tiếp tục đƣợc đƣa vào giảng dạy trong nhà trƣờng phổ thông và đại học; Vấn đề Nguyên Hồng vẫn đƣợc đƣa ra thảo luận trong các Hội thảo khoa học; Sự nghiệp sáng tác của nhà văn vẫn tiếp tục đƣợc giới nghiên cứu, phê bình văn học quan tâm. Điều đó chứng tỏ rằng, tác phẩm của Nguyên Hồng mang nhiều giá trị, nó là văn chƣơng của mọi thời vì nó đã động chạm đến vấn đề cốt lõi nhất của con ngƣời - đó là quyền sống, quyền tự do, quyền đƣợc hạnh phúc của con ngƣời nói chung, nhất là những con ngƣời lao động nghèo khổ, những con ngƣời nhỏ bé, yếu đuối nhất trong xã hội. Tác phẩm của Nguyên Hồng “sống” đƣợc với thời gian bởi nó xuất phát từ tấm lòng thƣơng yêu, trân trọng con ngƣời của một nhà văn có tấm lòng nhân đạo thiết tha, một chủ nghĩa nhân đạo thống thiết đối với con ngƣời lao động cần lao, đâu khổ.
Nhƣ vậy, khảo sát khoảng trên 50 công trình, bài viết nghiên cứu về
Nguyên Hồng ở các mức độ khác nhau cùng hàng chục luận án, luận văn nghiên
cứu về sáng tác của Nguyên Hồng, chúng tôi nhận thấy: đã có những ý kiến,
những nhận xét về Thế giới nghệ thuật của nhà văn nhƣng nhìn chung mới chỉ
dừng lại ở mức độ là những nhận xét chung, hoặc đi sâu vào một số phƣơng diện
của Thế giới nghệ thuật nhƣ: Lời văn nghệ thuật của Nguyên Hồng, Thế giới
nhân vật trong truyện ngắn của Nguyên Hồng… Cho tới nay, thực sự chƣa có
một công trình chuyên biệt nào nghiên cứu về toàn bộ Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng (kể cả những sáng tác thuộc giai đoạn trƣớc và sau năm 1945).
Chính vì thế, khi thực hiện đề tài này, chúng tôi đã đƣợc thừa hƣởng rất nhiều ý kiến đánh giá, nhận xét quý báu của những nhà nghiên cứu đi trƣớc về con
ngƣời và sự nghiệp sáng tác của Nguyên Hồng, trong đó có những khía cạnh trong thế giới nghệ thuật của ông - nhƣ đã nêu trên. Với đề tài này, chúng tôi sẽ tiến
hành khảo sát toàn bộ sáng tác của Nguyên Hồng, cố gắng nghiên cứu một cách hệ
thống và khá toàn diện về Thế giới nghệ thuật của nhà văn giai đoạn trƣớc 1945.
Và để tránh trùng lặp với những công trình nghiên cứu đi trƣớc, chúng tôi đi sâu
30
tìm hiểu một số phƣơng diện cơ bản trong Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng
nhƣ: Thế giới nhân vật và một số đặc điểm về nghệ thuật xây dựng nhân vật; đặc
điểm về không gian, thời gian nghệ thuật; ngôn ngữ nghệ thuật…trong các sáng
tác của ông giai đoạn trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhằm khẳng định
những sáng tạo, những đóng góp đặc sắc của tác giả ở những phƣơng diện trên qua
Thế giới nghệ thuật của nhà văn. Từ đó chỉ ra một số đặc điểm nổi bật trong Thế
giới nghệ thuật của Nguyên Hồng, khẳng định sự đóng góp có giá trị nhiều mặt
của nhà văn đối với khuynh hƣớng văn học hiện thực phê phán nói riêng và quá
trình vận động và phát triển của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại nói chung - đặc
biệt là ở giai đoạn trƣớc năm 1945.
31
Chƣơng 2 KHÁI NIỆM THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT VÀ NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH NÊN THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT CỦA NGUYÊN HỒNG
2.1. Giới thuyết chung về Thế giới nghệ thuật
Khái niệm "Thế giới nghệ thuật": Nhƣ chúng ta đã biết, quan niệm về
“Thế giới nghệ thuật” trong sáng tác của nhà văn hiện có khá nhiều những quan
niệm khác nhau. Ví dụ nhƣ quan niệm: Thế giới nghệ thuật “Là chỉnh thể của
hình thức văn học” [140, tr. 29]. Việc dùng “thế giới” để chỉ tác phẩm văn học
có cơ sở khoa học bởi “Thế giới” là khái niệm có ý nghĩa sau: 1/Chỉ sự thống
nhất vật chất của các biểu hiện đa dạng; 2/Có tính vô cùng vô tận về không
gian thời gian... 3/Phạm vi tác động tột cùng của các quy luật chung, chứng tỏ
có một trật tự thống nhất cho toàn bộ. 4/Có tính tự đầy đủ về các quy luật nội
tại; 5/ Là một kiểu tồn tại thực tại [140, tr. 29]. Với khái niệm này, ngƣời ta
thƣờng nói tới thế giới vĩ mô, thế giới vi mô, thế giới động vật, thế giới thực vật
theo ý nghĩa trên. Nhà phê bình văn học ngƣời Nga V. Biêlinxki nhận xét:“Mọi
sản phẩm nghệ thuật đều là thế giới riêng, mà khi đi vào nó, ta buộc phải sống
theo các quy luật của nó, hít thở không khí của nó”; nhà văn Sêđơrin cũng nói:
Tác phẩm văn học là vũ trụ thu nhỏ, mỗi sản phẩm nghệ thuật là một thế giới
khép kín trong bản thân nó” (dẫn theo Trần Đình Sử, 140; tr. 29). Theo tác giả
cuốn Dẫn luận thi pháp học, thì: “Thế giới nghệ thuật là một sản phẩm sáng
tạo của con người. Về mặt tâm lý học nó phục tùng quy luật sau: con người
sống trong thế giới khách thể bốn chiều (ba chiều không gian và một chiều thời
gian), nó phải thích nghi với ba chiều không gian và sự biến đổi của thời gian.
Mọi cảm xúc, tri giác đều gắn với thế giới đó, không thể miêu tả sự sống mà
không miêu tả thế giới của con người” [140, tr. 30]. Các tác giả của Từ điển
thuật ngữ văn học quan niệm: Thế giới nghệ thuật là khái niệm chỉ tính chỉnh
thể của sáng tác nghệ thuật (một tác phẩm, một loại hình tác phẩm, sáng tác
của tác giả, một trào lưu)... Thế giới nghệ thuật có không gian riêng, thời gian
riêng, có quy luật tâm lý riêng, có quan hệ xã hội riêng, quan niệm đạo đức,
thang bậc giá trị riêng” [52, tr. 251]. Qua Thế giới nghệ thuật, ngƣời đọc thấy
đƣợc tính độc đáo về tƣ duy nghệ thuật của từng tác giả, tức là thấy đƣợc cá tính
sáng tạo của ngƣời nghệ sĩ:“Khái niệm thế giới nghệ thuật giúp hình dung tính
32
độc đáo về tư duy nghệ thuật của sáng tác nghệ thuật, có cội nguồn trong thế
giới quan, văn hóa chung, văn hóa nghệ thuật và cá tính sáng tạo của người
nghệ sĩ” [52, tr. 252]. Thế giới nghệ thuật còn “là sản phẩm sáng tạo mang tính
cảm tính, có thể cảm thấy được của nghệ sĩ, một kiểu tồn tại đặc thù, vừa trong
chất liệu, vừa trong cảm nhận của người thưởng thức, là sự thống nhất của mọi
yếu tố đa dạng trong tác phẩm” [140, tr. 30].
Từ những quan niệm trên, cho phép ta hiểu Thế giới nghệ thuật chính là
sự thống nhất của các yếu tố: Đề tài, chủ đề, nhân vật, thời gian và không gian
nghệ thuật, ngôn từ và giọng điệu... trong một tác phẩm văn học, tất cả những
yếu tố này tạo nên một Thế giới nghệ thuật trong sáng tác của nhà văn.
Và cũng từ những quan niệm về Thế giới nghệ thuật nhƣ trên, chúng tôi
nhận thấy rằng, khái niệm có tính khái quát hơn cả là khái niệm của các tác giả Từ
điển thuật ngữ văn học. Và đây sẽ là cơ sở lý thuyết, lý luận để chúng tôi vận
dụng trong quá trình nghiên cứu Thế giới nghệ thuật của nhà văn Nguyên Hồng.
Trong các yếu tố tạo nên Thế giới nghệ thuật của nhà văn, chúng tôi chú
ý đến những yếu tố cơ bản sau:
Đề tài: là một yếu tố nghệ thuật của tác phẩm văn học, là khái niệm “chỉ
loại các hiện tượng đời sống được miêu tả, phản ánh trực tiếp trong sáng tác
văn học. Đề tài là phương diện khách quan của nội dung tác phẩm” [52, tr. 96].
Có nhiều loại đề tài nhƣ: đề tài thiên nhiên, đề tài loài vật, đề tài sản xuất, đề tài
chiến đấu, đề tài nông thôn, đề tài thành thị, đề tài công nhân, đề tài nông dân,
đề tài về cuộc sống cá nhân... Các nhà văn thƣờng chọn đề tài phù hợp với nhu
cầu thẩm mỹ, sáng tạo của mình. Ví dụ nhƣ, trƣớc Cách mạng tháng Tám năm
1945, các nhà văn lãng mạn thƣờng chọn viết về loại đề tài tâm lý xã hội, những
truyện tình cảm để phản đối sự khắc nghiệt của lễ giáo phong kiến, đấu tranh
cho quyền tự do yêu đƣơng, quyền sống của con ngƣời; còn các nhà văn cách
mạng hay chọn những đề tài về đấu tranh giai cấp nhằm thức tỉnh mọi ngƣời
đấu tranh để thay đổi xã hội, đấu tranh vì quyền sống, quyền độc lập tự do của
đất nƣớc, con ngƣời. Các nhà văn hiện thực thƣờng chọn đề tài về cuộc sống
của ngƣời lao động nghèo khổ trong xã hội thực dân phong kiến (những ngƣời
nông dân, công nhân, dân nghèo thành thị...) để phê phán xã hội đƣơng thời.
33
Nếu yếu tố "Đề tài" giúp ta xác định: Tác phẩm viết về cái gì? thì khái
niệm Chủ đề lại giải đáp câu hỏi: Vấn đề cơ bản của tác phẩm là gì? Bởi “Chủ
đề và tư tưởng là hạt nhân cơ bản của nội dung tác phẩm… Chủ đề bao giờ
cũng được hình thành và được thể hiện trên cơ sở đề tài” [52, tr. 53]. Chủ đề
thƣờng gặp trong các sáng tác của những nhà văn hiện thực trƣớc Cách mạng
tháng Tám nói chung đều tập trung phản ánh về cuộc sống cơ cực, đói khát, bế
tắc của ngƣời dân lao động nghèo khổ trong xã hội thực dân phong kiến. Chủ đề
mà các nhà văn phản ánh trong tác phẩm thể hiện chiều sâu tƣ tƣởng, khả năng
nắm bắt nhạy bén của các tác giả đối với những vấn đề hiện thực của cuộc sống.
Từ những đề tài cụ thể nhƣ: viết về ngƣời công nhân, viết về ngƣời nông dân,
viết về cuộc sống của những ngƣời lao động nghèo khổ... các nhà văn hiện thực
phê phán đã thể hiện đƣợc những chủ đề mang ý nghĩa khái quát to lớn, sâu sắc:
“Cùng với tư tưởng, chủ đề tạo ra tầm vóc của tác phẩm... Trong nghiên cứu
văn học hiện đại, chủ đề được xem là phạm vi quan tâm chủ quan của nhà văn
đối với thế giới, là hằng số tâm lý của nhà văn, gắn với quan niệm thế giới của
anh ta” [52, tr. 54].
Khi nói đến Thế giới nghệ thuật của nhà văn không thể không kể đến yếu
tố nhân vật. Nhân vật chính là cốt lõi của tác phẩm văn học, là linh hồn của tác
phẩm, là một yếu tố quan trọng làm nên tác phẩm. Nhân vật thể hiện “Quan
niệm nghệ thuật và lý tưởng thẩm mỹ của nhà văn về con người” [52, tr. 203],
“Thể hiện những hiểu biết, những ước ao, những kỳ vọng của con người” [45, tr. 64]
qua sáng tác của nhà văn. Và nhƣ vậy, ta hiểu con ngƣời luôn là đối tƣợng
khám phá đầy phong phú, phức tạp và bí ẩn của văn chƣơng nghệ thuật. Việc
miêu tả con ngƣời với tất cả hình thức, hành vi, tính cách và những trạng thái
tinh thần nhƣ vậy chính là công việc xây dựng nhân vật của nhà văn. Vậy, nhân
vật trong tác phẩm văn học nói chung đƣợc quan niệm nhƣ thế nào?
Theo “Từ điển tiếng Việt” của Viện ngôn ngữ học, năm 1992, thì “Nhân vật
là đối tượng (thường là con người) được miêu tả thể hiện trong tác phẩm nghệ
thuật” [149, tr. 916]. Còn theo các tác giả cuốn Từ điển thuật ngữ văn học thì
nhân vật văn học đƣợc hiểu là: “Con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm
văn học. Nhân vật văn học có thể có tên riêng (...) cũng có thể không có tên riêng
(...). Khái niệm nhân vật văn học có khi được sử dụng như một ẩn dụ, không chỉ
34
một con người cụ thể nào cả, mà chỉ một hiện tượng nổi bật nào đó trong tác
phẩm” [52, tr. 202]. “Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật đầy tính ước lệ,
không thể đồng nhất nó với con người có thật trong đời sống...” [52, tr. 203].
Trong truyện ngắn, truyện dài hay trong văn xuôi nghệ thuật nói chung, nhân
vật có vai trò không thể phủ nhận. Văn học không thể thiếu nhân vật bởi đó là
hình thức cơ bản để qua đó văn học miêu tả thế giới một cách hình tƣợng.
Chẳng hạn các nhà văn hiện thực trƣớc cách mạng tháng Tám năm 1945 chỉ có
thể tái hiện đời sống xã hội thông qua những nhân vật, để khái quát lên thành ý
đồ nghệ thuật của mình. Qua những nhân vật Chị Dậu (Tắt đèn của Ngô Tất
Tố), Chí Phèo, Bá Kiến (Chí Phèo của Nam Cao), Tám Bính (Bỉ vỏ của Nguyên
Hồng), Xuân tóc đỏ (Số đỏ của Vũ Trọng Phụng), Kép Tƣ Bền (Kép Tư Bền
của Nguyễn Công Hoan)… ta thấy rõ đƣợc ý đồ nghệ thuật của nhà văn là: phản
ánh hiện thực đen tối dƣới chế độ thực dân phong kiến, phản ánh nỗi thống khổ
của nhân dân lao động trong xã hội ấy, đồng thời cũng góp thêm tiếng nói phê
phán mang tính phủ nhận xã hội và đòi quyền sống cho con ngƣời - nhất là
những ngƣời lao động nghèo khổ.
Nhƣ vậy, nhân vật văn học có một vai trò rất quan trọng trong tác phẩm
văn chƣơng: “Nhân vật văn học còn thể hiện quan niệm nghệ thuật và lý tưởng
thẩm mỹ của nhà văn về con người. Vì thế, nhân vật luôn gắn chặt với chủ đề
tác phẩm” [52, tr. 203]. Điều đó cũng có ý nghĩa là: với chủ đề cụ thể, thể hiện
những tƣ tƣởng nghệ thuật của mình, nhà văn đã tham gia tích cực vào đời
sống, góp phần giải quyết những vấn đề của xã hội và của nhân sinh. Nhân vật
là một yếu tố quan trọng, không thể thiếu trong tác phẩm văn học, những hình
tƣợng nhân vật sống động bao giờ cũng chứa đựng những quan niệm của nhà
văn về cuộc sống, về con ngƣời. Nếu trong tác phẩm văn học, nhà văn không
khắc họa đƣợc hệ thống nhân vật phù hợp với ý đồ tƣ tƣởng của mình thì sáng
tác ấy trở nên vô nghĩa. Vì thế, khi xây dựng nhân vật các nhà văn bao giờ cũng
có ý đồ nghệ thuật nhất định để thể hiện tƣ tƣởng nghệ thuật của mình. Nam
Cao thƣờng đi sâu vào số phận ngƣời nông dân sau lũy tre làng với những nhân
vật: Chí Phèo (Chí Phèo), Lão Hạc (Lão Hạc)… hoặc cuộc sống của ngƣời trí
thức tiểu tƣ sản với những nhân vật nhƣ: Thứ (Sống mòn), Điền (Trăng sáng)…
để thể hiện nỗi đau trƣớc tình trạng con ngƣời bị chà đạp về tâm hồn và thể xác,
35
bị tha hóa đến mức không giữ nổi nhân tính, nhân phẩm vì miếng ăn trong một
xã hội hết sức bất công, vô lý. Loại nhân vật thƣờng trở đi trở lại trong sáng tác
của Vũ Trọng Phụng là những nhân vật nhƣ: Nghị Hách (Giông tố), Xuân Tóc
Đỏ, Phó Đoan, Cố Hồng (Số đỏ)… Những nhân vật này đƣợc tô đậm những nét
giả dối, tàn bạo, dâm ác, đểu cáng, tráo trở, cơ hội… nhằm thể hiện bản chất
của xã hội thực dân phong kiến và thể hiện tâm trạng phẫn uất, mãnh liệt đối
với xã hội “chó đểu” của một nhà văn “Tài cao, phận thấp, chí khí uất”.
Cũng cần lƣu ý rằng: khi nói đến vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn học, nhà văn thƣờng lấy những nguyên mẫu của con ngƣời trong đời sống để xây dựng nhân vật văn học, song không thể đồng nhất nhân vật văn học với con ngƣời của đời sống, vì nhân vật văn học là sản phẩm của lao động sáng tạo của nhà văn. Bởi “Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật đầy tính ước lệ, không thể đồng nhất nó với con người có thật trong đời sống” [52, tr. 202]. Các nhân vật trong tác phẩm nghệ thuật không phải giản đơn là những bản dập của con ngƣời sống, mà là những hình tƣợng đƣợc khắc họa phù hợp với ý tƣởng của tác giả. Mặt khác, nó còn là quan niệm về thế giới và con ngƣời mà tác giả muốn thể hiện qua tác phẩm. Nhân vật trong truyện ngắn, truyện dài, truyện vừa trong văn xuôi nghệ thuật cũng rất đa dạng, các nhân vật thành công thƣờng là những sáng tạo độc đáo chỉ xuất hiện trong tác phẩm của một nhà văn. Ví dụ nhƣ: hình tƣợng nhân vật Chí Phèo (Nam Cao), nhân vật chị Dậu (Ngô Tất Tố), nhân vật Nghị Hách, Xuân tóc đỏ (Vũ Trọng Phụng), nhân vật Tám Bính (Nguyên Hồng)… Qua những hình tƣợng nhân vật này, ngƣời đọc cũng thấy đƣợc tƣ tƣởng và phong cách nghệ thuật của nhà văn.
Thời gian và không gian nghệ thuật cũng là một yếu tố quan trọng trong thế giới nghệ thuật của nhà văn, bởi "Thời gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của tác giả trên cơ sở tổ chức chất liệu" và: thời gian nghệ thuật “gắn liền với tổ chức bên trong của hình tượng nghệ thuật” - nó là “sự tự cảm thấy của con người trong thế giới”…; "Trong thế giới nghệ thuật, thời gian nghệ thuật xuất hiện như một hệ quy chiếu có tính tiêu đề được dấu kín để miêu tả đời sống trong tác phẩm, cho thấy đặc điểm tư duy của tác giả" [52, tr. 322,323]. Thời gian nghệ thuật chẳng những cho thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm văn học, mà qua đó ngƣời đọc còn cảm thấy đƣợc quan niệm về thế giới, về con ngƣời và cuộc đời, thể hiện ƣớc mơ và lý tƣởng của nhà văn.
36
Còn Không gian nghệ thuật “là hình thức bên trong của hình tượng
nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó” [52, tr. 134]. “Không gian nghệ
thuật gắn với cảm thụ về không gian nên mang tính chủ quan, ngoài không gian
vật thể có không gian tâm tưởng”; “không gian nghệ thuật không chỉ cho thấy
cấu trúc nội tại của tác phẩm văn học, các ngôn ngữ tượng trưng mà còn cho
thấy quan niệm về thế giới, chiều sâu cảm thụ của tác giả hay của một giai
đoạn văn học. Nó cung cấp cơ sở khách quan để khám phá tính độc đáo cũng
như nghiên cứu loại hình của các hình tượng nghệ thuật” [52, tr. 135].
Ngôn ngữ nghệ thuật cũng chính là một yếu tố, một phƣơng diện quan
trọng trong Thế giới nghệ thuật, bởi: “Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học”
(M.Gorki), ngôn ngữ chính là công cụ, là chất liệu cơ bản của văn học. Với khái
niệm “Văn học được coi là loại hình ngôn từ” [52, tr. 215], thì ngôn ngữ là một
trong những yếu tố quan trọng tạo nên Thế giới nghệ thuật của nhà văn. Do đó, khi
nghiên cứu Thế giới nghệ thuật của nhà văn không thể không nghiên cứu những
đặc điểm về ngôn ngữ nghệ thuật của tác giả đó. Khảo sát ngôn ngữ của các nhà
văn hiện thực trƣớc 1945, chúng tôi nhận thấy: các nhà văn hiện thực đều có ý thức
đƣa vào trong tác phẩm của mình ngôn ngữ đời thƣờng rất mộc mạc, giản dị, giàu
hình ảnh gắn với đời sống của nhân nhân lao động. Đó là thứ ngôn ngữ đa dạng, đa
sắc thái, khi là thứ ngôn ngữ tự nhiên, sinh động, hóm hỉnh trong sáng tác của
Nguyễn Công Hoan; là thứ ngôn ngữ sắc sảo mang tính trào phúng sâu cay của Vũ
Trọng Phụng; hay thứ ngôn ngữ chắc nịch và phong phú của Ngô Tất Tố; ngôn
ngữ “bề bộn lấp lánh sự sống” trong văn Nguyên Hồng; ngôn ngữ lạnh lùng sắc
sảo nhƣng đầy sự thƣơng cảm của Nam Cao… Chính thứ ngôn ngữ đa dạng mà
phong phú đó đã góp phần tạo nên nét rất riêng của các nhà văn hiện thực phê
phán Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945.
Tóm lại, có thể thấy rằng: Thế giới nghệ thuật là sự thống nhất chung của
mọi yếu tố nghệ thuật trong tác phẩm văn học. Các yếu tố đó bao gồm: đề tài,
chủ đề, nhân vật, thời gian, không gian và ngôn từ nghệ thuật,... mỗi yếu tố đều
có đặc điểm riêng và tất cả góp phần thể hiện tƣ tƣởng và phong cách nghệ
thuật của nhà văn. Tuy nhiên, khi nghiên cứu về thế giới nghệ thuật của Nguyên
Hồng, chúng tôi tập trung đi sâu vào nghiên cứu ba yếu tố chính, đó là: nhân
vật, không gian, thời gian nghệ thuật và ngôn ngữ nghệ thuật, bởi hai yếu tố:
37
chủ đề và đề tài trong sáng tác của Nguyên Hồng cũng đã đƣợc nhiều ngƣời đề
cập tới và hầu nhƣ đã đƣợc làm rõ, do đó chúng tôi không đi vào hai yếu tố này
trong khuôn khổ luận án của mình.
2.2. Những cơ sở hình thành Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng
Sự nghiệp sáng tác của Nguyên Hồng trƣớc và sau Cách mạng tháng
Tám năm 1945 khá đồ sộ. Ngót 50 năm cầm bút, Nguyên Hồng đã sáng tác
đƣợc hơn 60 tác phẩm, trong đó có những sáng tác đƣợc đánh giá là mang đậm
tính sử thi, đồ sộ và bề thế nhất của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Tác phẩm
của Nguyên Hồng luôn thể hiện sự nhất quán về quan điểm nghệ thuật, đó là:
“Nhà văn luôn đề cao ý nghĩa vai trò của văn chương nghệ thuật, khẳng định ý
nghĩa cao quý của nghề cầm bút”, nhà văn (người nghệ sĩ) phải trung thực,
chân thành trên trang viết, say mê tin tưởng vào cuộc sống; phải cần cù học hỏi
và không ngừng sáng tạo” [134, tr. 134,135]. Quan niệm đó đã tạo nên sự thống
nhất cao độ trong toàn bộ sáng tác của nhà văn từ nội dung phản ánh đến nghệ
thuật biểu hiện. Tuy nhiên, để tìm hiểu đến tận cội nguồn những cơ sở tạo nên
thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng, chúng ta không thể không nhắc tới các
yếu tố nhƣ: xã hội, gia đình và chính bản thân con ngƣời với những tính cách và
tình cảm của chính tác giả.
2.2.1. Hoàn cảnh lịch sử - xã hội
Nguyên Hồng sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh xã hội có nhiều sự kiện
đặc biệt: Đất nƣớc bị xâm lăng, nhân dân sống trong cảnh đói khổ, khốn cùng.
Thực dân Pháp một mặt củng cố bộ máy thống trị, một mặt đẩy mạnh công cuộc
khai thác thuộc địa nhằm vơ vét tài nguyên, khoáng sản đem về làm giàu cho
"Mẫu quốc". Xã hội Việt Nam đang có sự chuyển biến toàn diện và sâu sắc.
Một đất nƣớc sống thuần bằng nông nghiệp vốn lạc hậu đã có nhiều sự thay đổi.
Nhiều khu đô thị mới, nhiều khu công nghiệp khai khoáng mỏ, nhiều đồn điền...
mọc lên. Những giai cấp, tầng lớp mới cũng xuất hiện (vô sản, tƣ sản, tiểu tƣ
sản và tầng lớp dân nghèo thành thị) ngày càng đông đảo. Một lớp công chúng
sinh hoạt theo lối Âu hóa cùng những quan điểm thẩm mĩ mới trong đời sống
văn hóa, văn học mới đã hình thành.
38
Năm 1939, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, thực dân Pháp thẳng tay
đàn áp các phong trào cách mạng, chúng tăng cƣờng chính sách “Kinh tế chỉ
huy” bóc lột sức ngƣời, sức của để cung ứng cho chiến tranh đế quốc. Cuộc
khủng hoảng của nền kinh tế thế giới và thiên tai hoành hành đã tác động nặng
nề đến tình hình kinh tế, xã hội Việt Nam. Năm 1940, đế quốc Nhật nhảy vào
đánh chiếm Đông Dƣơng, thực dân Pháp đầu hàng, nhân dân ta lại phải chịu
cảnh “Một cổ hai tròng" áp bức. Phát xít Nhật bắt dân ta phải nhổ lúa trồng đay,
bông, thầu dầu, thuốc phiện... nộp cho chúng để phục vụ chiến tranh. Vì thế,
đời sống của nhân dân ta vô cùng cực khổ, công nhân bị bóc lột nặng nề (làm
việc từ 12 đến 14 tiếng một ngày); nông dân thì bị tô cao, thuế nặng; trí thức thì
rơi vào tình trạng thất nghiệp; các nhà tƣ sản dân tộc bị chèn ép không ngóc đầu
lên đƣợc... Mâu thuẫn giữa dân tộc ta và thực dân Pháp, giữa quần chúng lao
động và bọn thống trị vốn đã âm ỉ từ lâu, nay càng trở nên sâu sắc, quyết liệt.
Phong trào cách mạng, đặc biệt từ khi Đảng cộng sản Đông Dƣơng ra đời ngày
càng phát triển mạnh mẽ. Phong trào đấu tranh của nhân dân ta diễn ra sôi nổi
khắp nơi, với hàng loạt các cuộc đấu tranh của công nhân các nhà máy Xi măng
Hải Phòng, nhà máy Dệt Nam Định, hãng dầu Xôcôni (Sài Gòn)... đòi tăng
lƣơng, giảm giờ làm, giảm tô thuế...
Từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nền văn hóa, văn học Việt Nam dần
dần thoát khỏi ảnh hƣởng của nền văn hóa phong kiến Trung Hoa, bắt đầu tiếp
xúc với văn hóa phƣơng Tây, đặc biệt là văn hóa Pháp. Những tƣ tƣởng tiến bộ,
nhất là tƣ tƣởng Mácxít đƣợc tiếp nhận qua con đƣờng Tân Thƣ (sách của các
nhà tƣ tƣởng dân chủ sản phƣơng Tây đƣợc dịch sang tiếng Trung Quốc và của
các nhà nho phái Duy Tân Trung Quốc; hoặc là sách báo tiến bộ) đã làm thay
đổi nhận thức không chỉ của lớp thanh niên trí thức mà cả những nhà nho yêu
nƣớc. Lớp thanh niên trí thức Tây học ngày càng đông đảo và đóng vai trò quan
trọng trên lĩnh vực tƣ tƣởng và văn hóa, họ tiếp thu tƣ tƣởng hiện đại của văn
hóa, văn học phƣơng Tây nên có những quan niệm thẩm mỹ mới, khác với
những quan niệm của tầng lớp trí thức Nho học mà đến nay đã trở nên lỗi thời.
Họ đã có những quan niệm mới về cuộc sống, con ngƣời, về thẩm mỹ. Điều đó
dẫn đến một làn sóng văn hóa mới nhằm chống lại tƣ tƣởng “phi ngã” của văn
học trung đại phong kiến, đề cao, đấu tranh cho cái Tôi - cá nhân trong đời sống
39
thời kỳ hiện đại. Vì vậy, vào đầu những năm 1930 mối xung đột cũ - mới trong
xã hội đã trở nên gay gắt và quyết liệt hơn.
Nhƣ đã nói, từ năm 1930, Đảng Cộng sản Đông Dƣơng ra đời và ngày càng
có vai trò to lớn đối với sự phát triển của Cách mạng Việt Nam nói chung, và sự
phát triển của đời sống văn hóa, văn học Việt Nam nói riêng. Đặc biệt, ở thời kỳ
Mặt trận Dân chủ (1936 - 1939), với quan điểm Mác xít chân chính, các nhà văn
cách mạng đã có những tác động rất mạnh mẽ đối với đời sống văn học nƣớc nhà
qua các bài viết, các cuộc tranh luận về bản chất, chức năng và nhiệm vụ của văn
học đối với xã hội, đối với con ngƣời. Tiêu biểu là cuộc tranh luận: “Nghệ thuật vị
nghệ thuật” và “Nghệ thuật vị nhân sinh”. Những nhà văn có quan điểm Mác xít
đã chủ trƣơng: dùng văn học để phục vụ con ngƣời. Chính vì vậy, họ đã kiên quyết
phản bác thứ văn chƣơng “Nghệ thuật vị nghệ thuật”, họ dùng “ngòi bút lột trần
cái xã hội hiện tại để cho dân chúng trông rõ cái nguồn gốc của mọi đau thương
mà tìm lấy con đường sống” (Tạp chí Tao Đàn, ra ngày 16/9/1939).
Một văn kiện quan trọng của Đảng về văn hóa văn nghệ ra đời, đó là cuốn
Đề cương về Văn hóa Việt Nam (1943) - Đây chính là bản cƣơng lĩnh văn hóa đầu
tiên của Đảng ta - đã chỉ rõ đƣờng lối văn nghệ cho văn nghệ sĩ, đó là: xây dựng
nền văn hóa Việt Nam trên ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học và đại chúng. Từ bản
Đề cương về Văn hóa Việt Nam này mà nhiều văn nghệ sĩ đã tìm đƣợc hƣớng đi
đúng đắn cho mình (trong đó có nhà văn Nguyên Hồng). Những hoạt động trên
lĩnh vực văn hóa, văn nghệ của Đảng đã có ảnh hƣởng tích cực và ngày càng sâu
rộng đối với sự phát triển của Văn học Việt Nam thời kỳ này cũng nhƣ về sau.
Cũng từ đầu thế kỷ XX, chữ Quốc ngữ đã hoàn toàn thay thế chữ Nôm. Chữ
Quốc ngữ đƣợc phổ biến rộng rãi đã tạo điều kiện nâng cao dân trí cho mọi ngƣời,
nhất là đối với tầng lớp công chúng thị dân. Cùng với nó, một số những nhà in,
xuất bản theo công nghệ hiện đại ngày càng phát triển. Sách, báo, tạp chí đến với
bạn đọc ngày càng nhiều hơn. Phong trào dịch thuật đầu thế kỷ XX cũng có tác
động khá quan trọng tới sự hình thành và phát triển văn xuôi quốc ngữ. Sự phát
triển của chữ Quốc ngữ đã phần nào làm cho tiếng Việt ngày càng trở nên hiện đại,
uyển chuyển, tinh tế hơn. Tất cả các nhân tố trên đã tạo điều kiện chín muồi cho sự
hình thành nền văn học Việt Nam hiện đại.
40
Nhƣ vậy, từ đầu thế kỷ XX đến năm 1945, văn học Việt Nam từng bƣớc phát
triển theo hƣớng hiện đại hóa, với tốc độ ngày càng mau lẹ. Văn học phát triển đa
dạng hơn, phong phú hơn với sự xuất hiện của nhiều khuynh hƣớng, nhiều trào lƣu
khác nhau nhƣ: trào lƣu văn học cách mạng, trào lƣu văn học lãng mạn, trào lƣu văn
học hiện thực phê phán. Mỗi trào lƣu văn học đều có những đóng góp riêng đối với
sự vận động và phát triển theo xu hƣớng hiện đại của nền văn học nƣớc nhà. Văn
học hiện thực phê phán cũng đã khẳng định đƣợc sự đóng góp to lớn của mình vào
quá trình phát triển và hiện đại hóa văn học Việt Nam. Bởi Chủ nghĩa hiện thực
trong văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX là một trào lƣu văn học lớn. Đó là một
trào lƣu có sức cuốn hút và tập hợp nhiều cây bút đƣơng thời, trong đó có nhiều nhà
văn lớn của văn học hiện đại Việt Nam. Tên tuổi và những tác phẩm xuất sắc của
một số nhà văn hiện thực tiêu biểu nhƣ: Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng
Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao... có sức hấp dẫn đối với nhiều thế hệ ngƣời đọc
không chỉ ở thời điểm hiện tại mà còn cho đến tận hôm nay.
Nguyên Hồng là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc của trào lƣu
văn học hiện thực phê phán. Ngƣời ta nhận thấy rất rõ là: Hiện thực đen tối đầy
máu và nƣớc mắt của xã hội Việt Nam cùng với cuộc sống cơ cực, khốn khổ
của những ngƣời dân lao động giai đoạn trƣớc Cách mạng tháng Tám 1945 là
nguồn cảm hứng chủ đạo trong sáng tác của nhà văn. Thành phố Hải Phòng đầy
khói bụi với bao kiếp ngƣời khổ đau, bất hạnh luôn là đối tƣợng thẩm mỹ trong
sáng tác của tác giả. Nhắc đến một Hải Phòng trong văn học là ngƣời ta nghĩ
ngay đến tên tuổi nhà văn Nguyên Hồng, và ngƣợc lại nhắc đến sự nghiệp sáng
tác của Nguyên Hồng thì không thể bỏ qua những tác phẩm viết về con ngƣời
cũng nhƣ mảnh đất đã góp phần nuôi dƣỡng tài năng văn chƣơng của ông.
Nguyên Hồng không sinh ra tại Hải Phòng, nhƣng những năm tháng đáng nhớ
nhất trong cuộc đời ông đều gắn liền với từng góc phố, bến tàu, bến xe, xƣởng
máy... và những con ngƣời lam lũ cùng khổ nơi đất Cảng, nên Hải Phòng có ý
nghĩa đặc biệt đối với cuộc đời nhà văn. Hải Phòng - một tỉnh duyên hải thuộc
đồng bằng châu thổ sông Hồng, có hải cảng lớn nhất miền Bắc. Hải Phòng vừa
có lợi thế kinh tế đƣờng biển, đƣờng bộ và hàng không. Chính vị trí địa lý thuận
lợi nhƣ vậy đã khiến Hải Phòng trở thành một trung tâm công nghiệp lớn, thu
hút nhiều nhân công lao động của các tỉnh nhƣ: Hà Tây, Hà Nội, Hƣng Yên,
41
Nam Định, Thái Bình... đến sinh sống, lập nghiệp. “Vào những năm cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX dưới thời Pháp thuộc, Hải Phòng cùng với Sài Gòn có vai
trò như những cửa ngõ kinh tế của Liên bang Đông Dương trong giao thương
với Quốc tế vùng Viễn Đông” (Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/Hải Phòng).
Trƣớc năm 1945, Hải Phòng đã trở thành một trong những cái nôi đánh dấu sự
ra đời của giai cấp công nhân và phong trào công nhân Việt Nam đấu tranh
chống lại sự áp bức bóc lột của thực dân Pháp. Hải Phòng cũng là một trong
những trung tâm của phong trào cách mạng cả nƣớc trong các cao trào Cách
mạng: 1930 - 1931, 1936 - 1939 và 1939 - 1945. Hải Phòng trong những năm
tháng đặc biệt ấy, đã có sự ảnh hƣởng không nhỏ đến cảm hứng sáng tạo của
Nguyên Hồng. Viết về những ngƣời nghèo đói, lầm than, bị lăng nhục, bị chà
đạp đến thảm hại để phản ánh, tố cáo xã hội đƣơng thời, và cũng để khẳng định
những bản chất đẹp đẽ, lƣơng thiện của những con ngƣời lao động - Đó là niềm
đam mê và cũng là khát vọng sáng tác của Nguyên Hồng giai đoạn trƣớc Cách
mạng. Đặc biệt là sau khi đƣợc tiếp xúc với báo chí cách mạng, nhƣ: năm 1937,
Nguyên Hồng đƣợc đọc Tuyên ngôn Đảng cộng sản của Các Mác và Ăng ghen,
Vấn đề dân cày của Qua Ninh và Vân Đình, Ngục Kontum của Lê Văn Hiến...
Năm 1943, khi đƣợc tiếp nhận tƣ tƣởng cách mạng trong Đề cương về văn hóa
Việt Nam của Đảng cộng sản, và là một trong những Hội viên đầu tiên của Hội
Văn hóa cứu quốc… thì nhà văn càng hiểu sâu sắc hơn nguyên nhân nỗi khốn
khổ của mọi tầng lớp ngƣời lao động trong xã hội. Điều đó đã giúp Nguyên
Hồng mài sắc thêm ý chí chiến đấu, hƣớng ngòi bút của mình về những con
ngƣời cần lao đau khổ. Nguyên Hồng xứng đáng đƣợc gọi là “Nhà văn chân
chính của những ngƣời cùng khổ”, “Nhà văn của niềm tin và ánh sáng” [134].
Nhƣ đã nói, Nguyên Hồng đã từng sống ở Hải Phòng - một trong những
trung tâm của phong trào đấu tranh đòi quyền dân chủ, đòi quyền sống cho con
ngƣời của nƣớc ta lúc bấy giờ, nên ông đã sớm đƣợc giác ngộ lý tƣởng cách
mạng và đã tham gia vào phong trào Mặt trận Dân chủ. Ánh sáng của lý tƣởng
cách mạng đem đến cho nhiều trang viết của Nguyên Hồng vƣợt qua phạm trù
phản ánh của trào lƣu văn học hiện thực phê phán, gần gũi với nội dung phản
ánh của trào lƣu văn học cách mạng. Có lẽ, trong các nhà văn hiện thực phê
phán giai đoạn 1930 - 1945, ở Nguyên Hồng có sự giao thoa rõ nhất giữa hai
42
khuynh hƣớng văn học: văn học hiện thực phê phán và văn học cách mạng. Vì
vậy, quan điểm nghệ thuật của Nguyên Hồng rất đúng đắn và tiến bộ. Bƣớc vào
nghề văn, ông đã xác định đƣợc ngay con đƣờng và chỗ đứng của mình: “Là
người viết văn trong đám những người nghèo đói, đau khổ và lầm than” (Bước
đường viết văn). Chính vì thế mà hầu nhƣ toàn bộ thế giới nhân vật của ông là
thế giới những ngƣời lao động nghèo khổ, dƣới đáy xã hội, có số phận bất hạnh,
có cuộc đời chứa đầy bi kịch, khổ đau và bế tắc. Đồng thời, Nguyên Hồng cũng
thể hiện rõ quan điểm và mục đích sáng tác: “Tôi sẽ viết về những cảnh đời đói
khổ, về sự áp bức, về nỗi trái ngược, bất công. Tôi cũng sẽ đứng về những con
người bị đày đọa, bị lăng nhục. Tôi cũng sẽ vạch trần ra những vết thương xã
hội, những việc làm lộng hành thời bấy giờ” (Bước đường viết văn). Quan
niệm nghệ thuật đó đã chi phối toàn bộ sáng tác của Nguyên Hồng, tạo ra sự
nhất quán trong tƣ tƣởng nghệ thuật của nhà văn. Đó cũng là một trong những
cơ sở quan trọng tạo nên một Thế giới nghệ thuật riêng biệt mang đậm dấu ấn
Nguyên Hồng trong quá trình sáng tác hơn 50 năm của mình.
2.2.2. Hoàn cảnh gia đình, môi trường sống và hoạt động văn học của Nguyên Hồng
Nguyên Hồng tên thật là Nguyễn Nguyên Hồng, sinh 05 tháng 11 năm
1918 tại Nam Định. Sinh trƣởng trong một gia đình theo đạo Thiên chúa đã
từng có một thời khá giả. Ngƣời cha làm cai ngục nhƣng sau khi mất việc thì sa
vào nghiện ngập, sống cô độc, u uất. Ngƣời mẹ xinh đẹp, hiền dịu, tảo tần,
nhƣng luôn buồn rầu, nặng trĩu ƣu tƣ. Nguyên Hồng không có đƣợc tuổi thơ
tƣơi đẹp trong một gia đình hạnh phúc, bởi: “Hai thân tôi lấy nhau không phải
vì quen biết nhau lâu mà thương yêu nhau. Chỉ vì hai bên cha mẹ, một bên hiếm
muộn cháu và có của, một bên sợ nguy hiểm giữ con gái đẹp trong nhà và muốn
cho người con gái ấy có chỗ nương tựa chắc chắn” (Những ngày thơ ấu).
Ngƣời mẹ của Nguyên Hồng phải sống một cuộc sống nhẫn nhục bên ngƣời
chồng già lạnh lùng, gia trƣởng; sống một cách thầm lặng và đầy buồn tủi ở gia
đình nhà chồng, sống “Như một cái bóng ngắn của bức tường dày mãi mãi thần
phục ở dưới chân để rồi sẽ tan xuống đất nếu ánh sáng soi tắt” (Những ngày
thơ ấu). Cả tuổi ấu thơ Nguyên Hồng phải sống trong bầu không khí bình yên
một cách gƣợng gạo của gia đình, là sự cảm nhận nỗi đau âm thầm, nhẫn nhục,
buồn tủi, chịu đựng của ngƣời mẹ, và trong sự u uất, câm lặng của ngƣời cha…
43
Năm 12 tuổi, chú bé Hồng bị mồ côi cha, mẹ đi bƣớc nữa và phải đi làm ăn xa,
chú sống chủ yếu với bà nội và thƣờng xuyên phải chịu sự hắt hủi của những bà
cô ruột vì “tội” có một ngƣời mẹ chƣa đoạn tang chồng đã đi bƣớc nữa. Đó là
những năm tháng bơ vơ, côi cút, cùng cực, đắng cay nhất của chú bé Hồng:
sống một cuộc đời không có tuổi thơ, thiếu thốn về tất cả - thiếu ăn, thiếu mặc
và đặc biệt thiếu tình thƣơng yêu chăm sóc của ngƣời thân. Trong những nhà
văn hiện thực phê phán trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945, có lẽ hoàn cảnh
của Nguyên Hồng thuộc diện đặc biệt nhất và đáng thƣơng nhất, (Thạch Lam
cũng bị mồ côi cha từ nhỏ nhƣng lại đƣợc sống trong sự đùm bọc của mẹ và chị
trong cảnh gia đình đầm ấm; Vũ Trọng Phụng cũng sớm mồ côi cha, nhƣng
cũng đƣợc bà mẹ đành thân góa bụa nuôi ăn học cho đến ngày khôn lớn...).
Nguyên Hồng cơ cực và cay đắng hơn hơn rất nhiều. Năm 14 tuổi, Nguyên
Hồng đã phải nếm trải cảnh tù tội (vì bảo vệ bà mẹ đẻ bị chú dƣợng đánh đập dã
man, Nguyên Hồng uất ức quá đã chém ông ấy một nhát vào bả vai). Cậu tù trẻ
con cô đơn đau khổ này đã từng phải ôm mặt khóc mỗi khi đi làm “cỏ vê” về,
khóc ngay dƣới gốc cây, bên cạnh xe bò rác và lại vội vội, vàng vàng lấy vạt áo
chùi nƣớc mắt khi thấy ngƣời lạ đi qua. Rồi đến năm 16 tuổi, Nguyên Hồng đã
phải thôi học, rời quê hƣơng và ngƣời bà mộ đạo, theo mẹ và chú dƣợng ra Hải
Phòng để kiếm sống trong xóm chợ nghèo. Cảnh ngộ ấy đã ném Nguyên Hồng
vào môi trường sống của những ngƣời cùng khổ nhất trong xã hội cũ. Nguyên
Hồng phải lăn lộn trong đời sống của những ngƣời dân nghèo thành thị để tự
kiếm sống bằng đủ mọi nghề nơi vƣờn hoa, cổng chợ, bến phà,... chung đụng
với đủ hạng trẻ con hƣ hỏng, làm đủ mọi nghề nhƣ: đi ở, bán báo, bán xôi, bán
chè, bế em hoặc ăn xin, ăn cắp, làm thuê, làm mƣớn... Bản thân Nguyên Hồng
và gia đình cũng phải sống trong túp lều “trông ra vũng nước đen ngầu bọt và
chuồng lợn ngập ngụa phân tro”, nhiều đêm mƣa dầm gió bấc, Nguyên Hồng
và ngƣời chú dƣợng phải nằm “trên một chiếc phản lung lay, hai thân hình
nhọc lả, co quắp trong một chiếc chăn rách mướp”. Rồi phải chịu cảnh thất
nghiệp, muốn sống mà không có việc làm để sống, nhiều lúc Nguyên Hồng đã
bị ám ảnh bởi cái chữ đen tối khủng khiếp: cái chết! Nhƣng mảnh đất Hải
Phòng cần lao đã giúp Nguyên Hồng đứng dậy và cũng chính bởi môi trƣờng
sống đặc biệt đó đã giúp nhà văn am hiểu một cách sâu sắc đời sống xã hội
đƣơng thời, bồi đắp thêm vốn sống về cuộc đời tối tăm, lam lũ của những con
44
ngƣời sống cuộc sống dƣới đáy xã hội, đồng thời có đƣợc niềm tin tƣởng tuyệt
đối vào bản chất tốt đẹp của ngƣời lao động - Điều đó đã mang lại “Sức sống
của một ngòi bút” đầy căm hận và cũng đầy yêu thƣơng của Nguyên Hồng.
Từ hoàn cảnh riêng nhƣ vậy nên Nguyên Hồng luôn khao khát tình
thƣơng, đặc biệt là tình mẫu tử. Hình ảnh và ấn tƣợng về một ngƣời mẹ “hiền
từ” và “đau khổ” trong ký ức Nguyên Hồng đã có ảnh hƣởng sâu sắc khi nhà
văn viết về nhân vật ngƣời phụ nữ. Mọi nỗi khổ, nỗi oan ức của cuộc đời đều đã
đƣợc nhà văn đặt vào số phận ngƣời phụ nữ. Đã có nhiều nhà văn viết về tình
mẫu tử, nhƣng viết nhiều nhất, viết hay và cảm động phải kể đến Nguyên Hồng.
Nhân vật ngƣời phụ nữ trong sáng tác của Nguyên Hồng “nhiều khi không được
dịu dàng, nhưng bao giờ cũng mang bản chất tốt đẹp. Đức tính phổ biến của họ
là tình mẫu tử được thể hiện như là một bản năng mãnh liệt” [116, tr. 84] và
Nguyên Hồng đã thể hiện rất sâu sắc tình mẫu tử đó.
Hoàn cảnh và cá tính Nguyên Hồng in đậm dấu trong sáng tác của ông.
Hoàn cảnh sống đặc biệt đã tạo nên cốt cách Nguyên Hồng, ông có một vẻ
ngoài lam lũ, ăn mặc xuềnh xoàng; bản chất con ngƣời ông là bản chất của giới
cần lao. Hoàn cảnh sống đặc biệt của ông đã tạo nên một sự gắn bó sâu nặng
giữa ông với những con ngƣời cùng khổ trong xã hội, “Chất nghèo, chất lao
động đã thấm sâu vào văn chương, vào thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng”
[116, tr. 77]. Nguyên Hồng viết về họ bằng cả một trái tim nhạy cảm, giàu cảm
xúc, giàu tình thƣơng và luôn có một thái độ cảm thông sâu sắc, một sự thƣơng
xót chân thành. Vì vậy, các nhân vật trong sáng tác của Nguyên Hồng thƣờng
đƣợc gọi là loại “nhân vật trái tim”.
Nguyên Hồng sinh trƣởng trong một gia đình theo đạo Thiên chúa ở Nam
Định. Ngay từ nhỏ, Nguyên Hồng đã sống trong một không khí tôn giáo của
quê hƣơng với tiếng chuông nhà thờ ngày ngày ngân nga, với những ngƣời hiền
lành, nhẫn nhịn một lòng hƣớng về Đức Chúa. Bà nội nhà văn vốn là một ngƣời
rất mộ đạo, kính Chúa. Tiếng lầm rầm cầu kinh của bà nội hàng đêm dần dần
thấm sâu vào tâm trí chú bé Hồng, chú cũng hay đƣợc bà cho đi lễ nhà thờ,
đƣợc dạy dỗ theo giáo lý của đạo Thiên chúa. “Lọt lòng mẹ, tôi đã được ôm đến
nhà thờ chịu phép rửa tội và nhận lấy tên Thánh là Jiuminhghê. Rồi năm lên
45
chín, lên mười, bà nội tôi đã khảo tôi đủ các kinh để đi xưng tội lần đầu với một
cha người Tây. Cả đêm ấy tới sáng sau, tôi chỉ được xúc miệng chứ không được
uống nước, rồi cùng bà tôi đến nhà thờ đi lễ chịu mình thánh chúa lần đầu”
(Một tuổi thơ văn). Ngƣời mẹ của Nguyên Hồng sống không hạnh phúc bên
ngƣời chồng già, ốm yếu và cũng đã phải lấy Đức tin Thiên chúa giáo làm chỗ
dựa tinh thần. Nguyên Hồng đã chịu ảnh hƣởng sâu sắc tƣ tƣởng bác ái của
Thiên chúa giáo từ bà và mẹ, bởi tôn giáo đích thực bao giờ cũng hƣớng con
ngƣời đến cõi thiện, đến sự hi sinh vì ngƣời khác. Hình ảnh chúa Jêsu chịu nạn
đóng đinh mình trên cây thánh giá để chuộc tội cho chúng sinh là một biểu
tƣợng vĩ đại và cảm động của tinh thần bác ái của Đạo Thiên chúa. Ý nghĩa
nhân văn ấy phù hợp với đạo lý của ngƣời lao động mà nhà văn đã tiếp thu
đƣợc qua trƣờng học cuộc đời, ít nhiều chi phối ngòi bút sáng tạo nghệ thuật
của ông, đặc biệt là trong cách xây dựng nhân vật. Có thể nói, sự mộ đạo của
ngƣời bà, sự nhẫn nhịn của ngƣời mẹ và nhất tƣ tƣởng bác ái của Đạo Thiên
chúa đã có sự ảnh hƣởng đến tƣ tƣởng và tình cảm của nhà văn Nguyên Hồng.
Cảm quan tôn giáo của Nguyên Hồng cũng là một trong những yếu tố đã có sự
ảnh hƣởng đến Thế giới nghệ thuật của nhà văn: từ cách xây dựng nhân vật
(kiểu nhân vật chịu nạn) đến không gian, thời gian, ngôn ngữ nghệ thuật trong
sáng tác của ông. Điều này chúng tôi sẽ nói kỹ hơn ở các chƣơng sau.
Con đƣờng đến với văn chƣơng, đến với Cách mạng của Nguyên Hồng
có nhiều nét đặc biệt. Hoàn cảnh xã hội, hoàn cảnh gia đình đã ảnh hƣởng sâu
sắc đến nhận thức và tƣ tƣởng của Nguyên Hồng. Nhƣng có lẽ điều tác động
mạnh mẽ nhất đối với Nguyên Hồng là các phong trào đấu tranh của công nhân
và những ngƣời lao động Hải Phòng thời kỳ Mặt trận Dân chủ Đông Dƣơng.
Đây là cơ sở hiện thực đã có ảnh hƣởng tích cực đến nhận thức chính trị, nội
dung tƣ tƣởng trong sáng tác của nhà văn. Nguyên Hồng là một trong số không
nhiều những cây bút hiện thực có may mắn đƣợc tiếp xúc với bản “Đề cương về
văn hóa Việt Nam”, sớm xác định đƣợc hƣớng đi đúng đắn cho ngòi bút của
mình. Phan Cự Đệ nhận xét: “Từ sau năm 1940, nhất là từ khi tham gia tổ chức
Văn hóa Cứu quốc bí mật, tính chất luận chiến nổi lên rất rõ rệt trong các tác
phẩm của Nguyên Hồng” [116, tr. 131]. Tính chất luận chiến ấy nổi bật nhất
trong những tuyên ngôn về nghệ thuật của nhà văn qua các tác phẩm: Cái bào
46
thai, Hai dòng sữa, Một trưa nắng... Nguyên Hồng quan niệm: nghệ thuật phải
bắt rễ vào cuộc sống “Càng đi sâu vào cuộc sống bao nhiêu, ta lại càng nhận
thấy không gì cô độc và nhỏ nhen bằng ta xa người, hay đi lừa người bởi sự
nghèo nàn và ích kỷ của tâm hồn ta”, “Bất cứ một tác phẩm nghệ thuật nào
thiếu những cái đó là không có tất cả” (Cuộc sống).
Từ cuộc sống lầm than đau khổ của mọi tầng lớp nhân dân lao động và từ
chính bản thân mình, Nguyên Hồng đã sớm xác định đƣợc mục đích viết. Anh
nghĩ: “dù có phải chết cũng phải để lại cho cõi đời mà anh yêu mến một cái gì
vừa tinh khiết, trong sáng vừa tha thiết yêu thương nhất của tâm hồn”, “chỉ còn
một cách tồn tại trong cuộc sống bằng cái cao quý trong sạch của văn
chương”. Ngƣời thanh niên ấy nhận thức sâu sắc mối quan hệ chặt chẽ, có ý
nghĩa giữa cuộc sống với văn chƣơng nghệ thuật. Nhà văn xác định: Nghệ thuật
chân chính phải hƣớng vào cuộc sống để tìm nguồn sống “Như rễ cây bám riết
vào lấy lòng đất, càng sâu bao nhiêu, càng vững chắc bấy nhiêu, nảy nở bấy
nhiêu với những màu mỡ không bao giờ vơi cạn”. Cuộc sống luôn vận động,
phát triển nảy nở những mầm sống đang lên “Mới mẻ, hé sáng như những tia
nắng đầu tiên của một ngày bình minh đang lên”. Trong nhiều tác phẩm,
Nguyên Hồng kêu gọi các nhà văn phải chiến đấu vì những ngƣời cùng khổ, tác
phẩm phải cất lên tiếng nói “đòi sữa cho trẻ em”, âm nhạc phải là tiếng “của
những lòng thương yêu, những niềm tha thiết, những trí mạnh mẽ, những ý thức
của con người biết rung động trong sự đau khổ và biết cùng nhau vượt tới
những cõi đời tươi tốt, rộng rãi”. Trong truyện ngắn “Ngọn lửa”, qua suy nghĩ
của nhân vật An, nhà văn đã chỉ rõ mục đích, nhiệm vụ của ngƣời cầm bút:
“Cuộc sống phải được nhìn nhận khác từ đây. Với An, ngòi bút của An tất cả
những khó khăn, đau khổ, đen tối phải là những cái bị đẩy lùi dần, với một tinh
thần mới của An, cuộc sống không phải là những cái cớ để An rên xiết, ủ rũ
nữa. Cuộc sống phải là những cuộc kích thích không ngừng của những tha thiết
yêu thương mới, của những chứa chan tin tưởng mới, làm việc trên mặt đất mà
không ai dám thấy mình tàn héo và chắc chắn phải thay đổi xóa bỏ hết những
đói khổ, đau xót”. Nguyên Hồng khẳng định ngòi bút của nhà văn phải góp
phần làm thay đổi cuộc sống, đẩy lùi cuộc sống đau khổ, đen tối. Nếu trƣớc kia,
nghệ thuật chỉ là nơi nhà văn trút tiếng thở dài ảo não, thì nay nghệ thuật phải vì
47
con ngƣời, đấu tranh cho cuộc sống con ngƣời, đồng thời nghệ thuật còn là nơi
gửi gắm những tình cảm cao đẹp, thể hiện niềm tin tƣởng vào tƣơng lai. Nghệ
thuật phải hƣớng về những con ngƣời cùng khổ để giúp họ “tìm thấy một con
đường, một chân trời êm mát, tốt tươi qua những ngày mưa dầm, nắng lửa”
(Một trưa nắng). Nhƣ vậy, rõ ràng Nguyên Hồng đã có những nhận thức rất
tiến bộ, ông đã nâng cao quan điểm nghệ thuật của chủ nghĩa hiện thực phê
phán lên một tầm cao mới, quan điểm đó gần với quan điểm của văn học cách
mạng. Trong các nhà văn hiện thực, Nguyên Hồng là một trong những nhà văn
đƣợc tiếp xúc với cách mạng sớm nhất, và những sáng tác của ông đã “tiến gần
lại với văn học cách mạng, hay có thể nói, đã giao lưu với văn học cách mạng”
[135, tr. 97].
Ngay từ nhỏ, Nguyên Hồng đã say mê văn chƣơng một cách kỳ lạ, chú bé Hồng thƣờng phải đọc truyện cho bà nội và cha mình nghe. Điều đó đã khiến Nguyên Hồng đã thẩm thấu một cách tự nhiên nội dung và ý nghĩa của những bộ tiểu thuyết Tàu cổ nhƣ: Tây Du ký, Tam Quốc, Thủy Hử, Đông Chu liệt quốc…; những tác phẩm của các tác giả nổi tiếng ở phƣơng Tây nhƣ: Không gia đình (Héc to - Ma lô), Những ngƣời khốn khổ (V. Huy Gô), Ngƣời mẹ (Macxim Gorki)… Và tất nhiên, những câu chuyện truyền thuyết, cổ tích, những vần thơ ca dao, dân ca của dân tộc Việt đã thấm sâu vào tâm trí bé Hồng ngay từ thời thơ ấu. Nguyên Hồng ngƣỡng mộ và cảm phục những tấm gƣơng anh hùng cứu nƣớc nhƣ: Phù Đổng Thiên Vƣơng; Bà Trƣng Trắc, Trƣng Nhị, Ngô Quyền, Lý Thƣờng Kiệt, Đinh Bộ Lĩnh, Trần Quốc Tuấn, Quang Trung,… và Nguyên Hồng cũng thuộc cả tiếng hát của những ngƣời hát rong ngoài đƣờng, Truyện Kiều của Nguyễn Du, Thơ của bà Huyện Thanh Quan... ngay từ khi đi học. Bên cạnh đó, Nguyên Hồng còn đƣợc bà nội “một tủ truyện” kể cho nghe những câu chuyện cổ Tấm Cám, Nhị Khanh, Cúc Hoa, Thạch Sanh… những câu chuyện ấy đã giúp Nguyên Hồng hiểu thêm tình nghĩa thủy chung, nhân hậu của con ngƣời Việt Nam, sự thƣởng phạt công bằng và niềm tin vào bản chất tốt đẹp của ngƣời lao động. Nhƣ vậy, nguồn suối văn học dân gian, những tác phẩm nổi tiếng thế giới đã thấm sâu vào tâm trí chú bé Hồng một cách rất tự nhiên, bồi dƣỡng thêm lòng nhân hậu, tình yêu thƣơng con ngƣời của một trái tim vốn đa cảm nhƣ Nguyên Hồng.
Một sự kiện quan trọng khác có tác động sâu sắc đối với Nguyên Hồng là vào năm 1935 ở Hải Phòng, Nguyên Hồng gặp đƣợc Thế Lữ - chủ soái của
48
phong trào Thơ Mới. Đƣợc “Nhà thơ ngõ Nghè” chỉ bảo tận tình, cộng với tài năng và niềm say mê sáng tác văn học, Nguyên Hồng đã nuôi ƣớc vọng đi vào con đƣờng sáng tác văn chƣơng, lấy văn chƣơng làm lẽ sống cho cuộc đời của mình. Đồng thời, là con ngƣời của lịch sử, của thời đại, đƣợc sống trong không khí đổi mới của văn học giai đoạn 1930 - 1945, Nguyên Hồng cũng chịu ảnh hƣởng của xu hƣớng lãng mạn của phong trào Thơ Mới, của tiểu thuyết Tự lực Văn đoàn nên giai đoạn sáng tác đầu tiên của mình, nhà văn đã có sự ảnh hƣởng rõ nét bút pháp lãng mạn của các nhà thơ, nhà tiểu thuyết lãng mạn đƣơng thời.
Đặc biệt, qua những tác phẩm của văn học Nga nhƣ: Tội ác và trừng phạt
(Đốtxtôiépxki), Thời thơ ấu (M.Goorki), Thơ Puskin... đã ảnh hƣởng sâu sắc
đến Nguyên Hồng. Qua những tác phẩm này, nhà văn ý thức rõ hơn, hiểu sâu
hơn về những nỗi bất công trong xã hội. Cũng từ những tác phẩm này mà
Nguyên Hồng chịu ảnh hƣởng khá rõ nét phƣơng pháp sáng tác và quan điểm
nghệ thuật, cũng nhƣ tƣ tƣởng nhân đạo của M.Goorki. Nhà văn có ý thức tìm
đọc những sách báo tiến bộ của Đảng, có mặt trong đoàn đại biểu quần chúng
Hải Phòng tham dự cuộc biểu tình ở Hà Nội nhân ngày 1 tháng 5 năm 1938.
Nguyên Hồng đã gia nhập Đoàn thanh niên Dân chủ Đông Dƣơng, bị mật thám
bắt giam tại Hải Phòng, bị kết án 6 tháng tù giam, bị đày đi trại giam Bắc Mê
(Hà Giang), sau đó lần lƣợt bị quản thúc tại Nam Định, Hải Phòng. Ở trong tù,
Nguyên Hồng tiếp tục đƣợc giác ngộ ý thức chính trị. Bối cảnh xã hội, hoàn
cảnh gia đình, cảnh ngộ của bản thân đã khiến Nguyên Hồng càng hiểu sâu sắc
thêm cuộc sống của nhân dân trong vòng nô lệ. Từ thế giới của những nhân vật
là những con ngƣời cực khổ, cùng đƣờng, bất lực, dễ sa ngã vào cuộc đời lƣu
manh, gái điếm (Bỉ vỏ, Bảy Hựu, Chín Huyền…), Nguyên Hồng chú ý nhiều
hơn đến giai cấp công nhân, nên tác phẩm của ông xét về nội dung tƣ tƣởng rất
gần với văn học Cách mạng (Những mầm sống, Người đàn bà Tàu,...). Sau
thời kỳ Mặt trận Dân chủ, đặc biệt sau khi ở tù ra, tƣ tƣởng tiến bộ của Nguyên
Hồng phải bộc lộ một cách kín đáo hơn. Nhân vật trong sáng tác của Nguyên
Hồng ở thời kỳ này thƣờng là nhân vật những thanh niên trí thức tiểu tƣ sản
hoặc những nghệ sĩ nghèo, sống gắn bó với nhân dân lao động, khao khát thoát
khỏi cuộc sống hiện tại và tâm hồn luôn tin tƣởng hƣớng về tƣơng lai (Cuộc
sống, Hơi thở tàn, Hai dòng sữa, Buổi chiều xám…).
49
Nhƣ vậy, từ hoàn cảnh riêng đặc biệt cùng với môi trƣờng sống khắc nghiệt
đã tạo nên cốt cách và bản lĩnh Nguyên Hồng, đã định hƣớng thị hiếu thẩm mĩ của
ông, đƣa Nguyên Hồng đến với văn học nhƣ một sự thôi thúc tự bên trong. Tiếp
xúc với di sản văn hóa của dân tộc và nhân loại, đã giúp nhà văn tin yêu hơn vào
bản chất của ngƣời lao động. Chính vì vậy, tác phẩm của Nguyên Hồng luôn thấm
đƣợm tinh thần nhân đạo, chan chứa tình cảm yêu thƣơng và niềm tin trong sáng
vào con ngƣời.
2.2.3. Cá tính Nguyên Hồng
Cũng từ hoàn cảnh xã hội và hoàn cảnh gia đình nhƣ trên đã tạo nên tính
cách và bản lĩnh của Nguyên Hồng. Nguyên Hồng đã phải sống trong một môi
trƣờng phức tạp, sống dƣới đáy xã hội, va chạm với đủ mọi hạng ngƣời, sống
bằng đủ mọi nghề để tồn tại. Trong xã hội cũ, không có gì cực khổ hơn là bị tù
tội, vậy mà nhà văn đã phải đi tù khi mới 14 tuổi và đến năm 21 tuổi (1939) ông
lại phải đi tù lần nữa do hoạt động cách mạng. Trong các nhà văn hiện thực phê
phán nói riêng và các nhà văn Việt Nam nói chung không ai có cảnh ngộ đặc
biệt nhƣ Nguyên Hồng. Đa số các nhà văn cùng thời với Nguyên Hồng đều
sống và sáng tác trong hoàn cảnh khó khăn, nhƣng có lẽ Nguyên Hồng là ngƣời
thấm thía hơn nỗi khổ cực đau đớn của những con ngƣời sống dƣới đáy xã hội
thực dân phong kiến hơn ai hết. Điều đó cắt nghĩa tại sao trong hầu hết sáng tác
của Nguyên Hồng trƣớc Cách mạng, ngƣời đọc thƣờng bắt gặp hình ảnh những
con ngƣời lao động cùng khổ, đói rách, bê tha. Họ là những phu phen tạp dịch
lem luốc; những ngƣời đàn bà buôn thúng bán bƣng gầy gò, mệt mỏi; những
đứa trẻ lả đi vì khát sữa, thiếu ăn... Những con ngƣời ấy, ta đã từng gặp họ
trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam
Cao,… nhƣng trong tác phẩm của Nguyên Hồng, họ hiện lên nhiều hơn, đậm đặc
hơn, lấm lem, bụi bặm, quằn quại và đau đớn hơn. Cuộc đời và tƣ tƣởng sáng tác
của Nguyên Hồng có nhiều nét giống với Macxim Goorki (tuy hai nhà văn có sự
khác nhau về tầm cỡ): Cả hai đều sống cuộc sống không có tuổi thơ, sống lăn lộn
với những ngƣời lao động nghèo khổ dƣới đáy xã hội để kiếm sống, để viết về họ
với một trái tim yêu thƣơng, sự đồng cảm tha thiết và niềm tin vào bản chất hƣớng
50
thiện của con ngƣời. Họ đều là những ngƣời sớm giác ngộ tƣ tƣởng cách mạng. Xã
hội cũ đã dìm họ xuống tận bùn đen, nhƣng bằng tình yêu cuộc sống và nghị lực
phi thƣờng, Macxim Gorki và Nguyên Hồng đã vƣơn tới ánh sáng văn hóa và trở
thành những nhà văn lớn của dân tộc. Trong lịch sử văn học của hai dân tộc Nga,
Việt - họ đều thuộc số những nhà văn dẫn đầu trong việc ngợi ca con ngƣời lao
động, phát hiện thế giới cần lao là một đối tƣợng thẩm mỹ thực sự, đó là những
con ngƣời lao động nghèo khổ nhƣng chứa đựng bao bản chất tốt đẹp. Nguyên
Hồng đã đứng trong lao khổ, sống cuộc đời cùng khổ với những ngƣời khốn khổ
để rồi trở thành một cây bút “Bị ám ảnh đến cùng đời mãn kiếp bởi những số phận
tối tăm” (Nguyễn Đăng Mạnh). Chất dân nghèo, chất lao động đã thấm sâu vào
văn chƣơng, vào Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng. Bản lĩnh của Nguyên
Hồng đƣợc thể hiện ở chỗ: Dù bị cuộc sống xô đẩy đến đâu, cơ cực, đắng cay đến
mức nào, ông vẫn giữ đƣợc tâm hồn trong sáng, thánh thiện của một con ngƣời rất
giàu tình cảm, khát khao tình cảm, trân trọng tình cảm, nên nhà văn nhìn đời,
nhìn ngƣời bằng bằng cặp mắt yêu thƣơng và sự cảm thông sâu sắc.
Không chỉ trong cuộc sống mà cả với văn chƣơng Nguyên Hồng cũng thể
hiện mình là con ngƣời có cá tính và bản lĩnh: Ngay từ những tác phẩm đầu tay,
Nguyên Hồng đã thể hiện đƣợc bản lĩnh nghệ thuật của mình, cuốn tiểu thuyết
tự truyện Những ngày thơ ấu ghi lại những năm tháng tuổi thơ đắng cay, tủi
cực của chú bé Hồng - hình ảnh của chính tác giả. Nhà văn Vũ Ngọc Phan khi
điểm mặt các anh tài thời ấy, đã nhận xét về Nguyễn Tuân: “Chỉ thỉnh thoảng cho
ta biết anh chàng Tuân từng mẩu vụn” [116, tr. 45]; về Thiết Can: “Thiết Can
cũng cho biết cái phần đời đầy tội lỗi nhỏ nhen của ông ta, nhưng ông cho biết
một cách kín đáo ở tên Đông trong tập “Dã tràng”, một tập văn chưa dám mang
rõ hẳn cái danh là tự truyện” [116, tr. 45]; Còn với Nguyên Hồng, Vũ Ngọc Phan
nhận xét: “Trong Những ngày thơ ấu, Nguyên Hồng cho ta biết rõ hẳn một quãng
đời quá khứ của ông. Lối tự truyện này, ở Anh, ở Mỹ, ở Nga, rất thịnh hành;
Nhưng ở nước Việt Nam ta, viết được tôi cho là can đảm lắm…” [116, tr. 45].
Thạch Lam - nhà văn, nhà phê bình tài hoa của Tự lực Văn đoàn phát hiện ra ở cây
bút trẻ tuổi này một cách viết thành thật, thể hiện đƣợc “Những rung động cực
51
điểm của một linh hồn trẻ dại”, “Ông quan sát khéo, chỉ tả những cái gì đáng để
ý. Những tình cảm chân thật, những cảm giác đúng. Người ta mừng rằng với một
đầu đề thường như thế (Đời một cô gái trụy lạc), ông Nguyên Hồng đã khéo đứng
trong phạm vi sự thật và sự cảm thấy, mà không sa vào những câu sáo và hoa mỹ”
(Thạch Lam, Trích Nhận xét giải thƣởng Tự lực Văn đoàn, năm 1937, báo Ngày
nay, 1938).
“Những rung động cực điểm” của một tấm lòng tha thiết yêu thƣơng - cũng
chính là cá tính sáng tạo của nhà văn. Trong cuộc sống đời thƣờng, Nguyên Hồng
là ngƣời dễ xúc động, dễ khóc, đặc điểm về tính cách này đã góp phần tạo nên chất
trữ tình nồng đậm trong sáng tác của nhà văn. Chúng ta hoàn toàn đồng ý với ý
kiến cho rằng “Trong nền văn học Việt Nam, Nguyên Hồng được coi là nhà văn đa
cảm nhất thế kỷ XX” [134, tr. 133].
Nguyên Hồng lao động miệt mài và say mê công việc sáng tạo của mình.
Ông viết về cuộc sống của những con ngƣời cùng khổ bằng cả trái tim giàu cảm
xúc, một vốn sống đầy ắp, một sự khát khao đem tiếng nói yêu thƣơng của mình để
cảm thông, chia sẻ cho những con ngƣời khốn khổ. Nhà văn đã sống một cuộc
sống đầy gian khó nhƣng cũng đầy bản lĩnh, dám chấp nhận những sự thiệt thòi để
có thể sống và cống hiến hết mình cho nghệ thuật. Ông là một nhà văn suốt đời
“Thiết tha với cuộc sống, trân trọng và tin yêu mọi người, chân thực trong sáng
tác” (Kim Lân). Chính vì thế, ông đã tạo dựng nên một Thế giới nghệ thuật mang
đậm dấu ấn, phong cách Nguyên Hồng - một Thế giới nghệ thuật không thể trộn
lẫn với bất kỳ tác giả nào khác. Đúng nhƣ Tuốc-ghê-nhép từng khẳng định: "Cái
quan trọng trong một tài năng văn học là tiếng nói của riêng mình”, tài năng của
Nguyên Hồng chính là việc ông đã tạo ra cho mình một Thế giới nghệ thuật riêng
biệt trong những sáng tác trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945. Thế giới nghệ
thuật ấy cũng đã góp phần khẳng định giá trị hiện thực sâu sắc, giá trị nhân đạo
cao cả và giá trị nghệ thuật lớn trong di sản văn học của nhà văn.
Có thể thấy rằng: Hoàn cảnh lịch sử - xã hội, hoàn cảnh gia đình và cá
tính, tài năng văn học của nhà văn cùng với những trải nghiệm khắc nghiệt của
bản thân trong cuộc sống của những ngƣời lao động nghèo khổ dƣới đáy xã
52
hội - là những yếu tố, những điều kiện quan trọng đã đƣa Nguyên Hồng đến
với văn chƣơng, đã tạo nên một NHÀ VĂN NGUYÊN HỒNG. Đó là nhà văn
của những người khốn khổ, nhà văn của lòng nhân đạo luôn tha thiết yêu thƣơng
cuộc sống - một trong những tên tuổi lớn của trào lƣu văn học hiện thực phê phán
thời kỳ trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945 nói riêng, của nền văn học Việt
Nam hiện đại nói chung. Hay nói một cách khác, từ hoàn cảnh xã hội, hoàn cảnh
đã gia đình, môi trƣờng sống, đã chi phối cảm hứng chủ đạo của Nguyên Hồng ở
từng phƣơng diện trong Thế giới nghệ thuật. Điều này, chúng tôi sẽ nói rõ hơn ở
các chƣơng sau.
53
Chƣơng 3
THẾ GIỚI NHÂN VẬT
3.1. Một thế giới nhân vật phong phú, phức tạp thuộc tầng lớp thị dân và lao động dƣới đáy xã hội
Con ngƣời luôn luôn là đối tƣợng chủ yếu của văn học, vậy quan niệm nghệ
thuật về con ngƣời nói chung đƣợc hiểu nhƣ thế nào? Theo GS Trần Đình Sử trong
Dẫn luận thi pháp học thì: “Quan niệm nghệ thuật về con người là sự lý giải, cắt
nghĩa, sự cảm thấy của con người đã được hóa thân thành các nguyên tắc, phương
tiện, biện pháp thể hiện con người trong văn học, tạo nên giá trị nghệ thuật và
thẩm mỹ cho các hình tượng nhân vật trong đó”[140, tr. 41]. “Quan niệm nghệ
thuật về con người là yếu tố cơ bản, then chốt nhất của một chỉnh thể nghệ thuật,
chi phối tính độc đáo của chỉnh thể ấy” [140, tr. 59]... Tuy nhiên, ở mỗi thời đại,
mỗi trào lƣu văn học, mỗi nhà văn lại có cách biểu hiện quan niệm về con ngƣời
khác nhau - chính điều đó đã tạo nên tính chất phong phú đa dạng của từng trào
lƣu văn học, của từng thời đại văn học. Các nhà văn hiện đại nói chung, các nhà
văn thuộc trào lƣu văn học hiện thực nói riêng giai đoạn đầu thế kỷ XX, đặc biệt
là ở thời kỳ 1930 - 1945 đã rất chú ý đi vào khai thác cái Tôi - cá nhân bên cạnh
cái Ta mang tính cộng đồng, con ngƣời của xã hội bên cạnh con ngƣời của tự
nhiên. Họ đã miêu tả con ngƣời thời kỳ hiện đại trong mối quan hệ xã hội phức
tạp, trong đó con ngƣời vừa là tác nhân đối với xã hội, vừa là sản phẩm của chính
xã hội sinh ra qua thế giới nhân vật phong phú, phức tạp mà mình phản ánh.
Hầu nhƣ những cây bút hiện thực đƣơng thời đều tạo dựng đƣợc cho mình
một thế giới nhân vật riêng. Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố... tập trung phản ánh,
miêu tả con ngƣời trong những mối xung đột giàu - nghèo ở những vùng nông thôn lạc hậu, nơi mà những ngƣời nông dân phải hứng chịu biết bao nhiêu tai hoạ nặng
nề; Vũ Trọng Phụng tập trung miêu tả những cảnh sống đầy giả dối ở thành thị, nhằm lột trần thực chất một xã hội "chó đểu" qua những tấn trò đời đang diễn ra
dƣới mọi dạng vẻ; Nam Cao tập trung miêu tả cuộc sống mòn mỏi, bế tắc cực độ của những ngƣời nông dân sau lũy tre làng và cuộc “sống mòn” của những ngƣời
trí thức tiểu tƣ sản. Còn thế giới nhân vật của Nguyên Hồng là thế giới những con
ngƣời nghèo khổ thuộc tầng lớp thị dân và lao động nghèo khổ, những con ngƣời
khốn cùng dƣới đáy trong xã hội Việt Nam thời kỳ trƣớc cách mạng.
54
Vậy, Nguyên Hồng đã có quan niệm nghệ thuật về con ngƣời nhƣ thế nào?
Điều gì đã tác động đến quan niệm của nhà văn về những con ngƣời ấy?
Nhƣ đã phân tích ở Chƣơng 2, hoàn cảnh xã hội, hoàn cảnh gia đình là một
trong những yếu tố trực tiếp đã ảnh hƣởng không nhỏ đến quan niệm nghệ thuật
của Nguyên Hồng. Nhà văn đã sống trong không khí “cách mạng” của văn học
theo xu hƣớng hiện đại hóa. Ở thời kỳ này, dƣới ảnh hƣởng của nền văn minh
phƣơng Tây các vấn đề về con ngƣời đƣợc đề cập đến với những quan niệm hết
sức mới mẻ. Các tờ báo nhƣ Phụ nữ tân văn, Phụ nữ thời đàm... có đăng nhiều bài
viết về phụ nữ và trẻ em, thể hiện tƣ tƣởng bênh vực quyền sống, quyền tự do,
quyền hạnh phúc của ngƣời phụ nữ; quyền trẻ em đƣợc chăm sóc, nuôi dƣỡng,
đƣợc sống trong tình yêu thƣơng ở gia đình và xã hội, tiêu biểu nhƣ những bài viết
của Phan Khôi, của Đạm Phƣơng nữ sĩ... Những tƣ tƣởng tiến bộ hiện đại này đã
ảnh hƣởng ít nhiều đến quan niệm và tƣ tƣởng nhân đạo của Nguyên Hồng khi viết
về phụ nữ và trẻ em trong xã hội đƣơng thời trong các trang sách của mình.
Nguyên Hồng quan niệm: con ngƣời trƣớc hết phải chính là con ngƣời - con
ngƣời đƣợc sống và tồn tại với các quyền của con ngƣời trong cuộc đời thực. Đó là
con ngƣời bằng xƣơng bằng thịt trên cõi trần, là con ngƣời cá nhân với tất cả
những trạng thái cảm xúc, với đời sống tâm lý đa dạng. Con ngƣời tồn tại với các
mặt đối lập tốt /xấu, cao thƣợng / thấp hèn, ích kỷ / vị tha, vừa nhân ái bao dung lại
vừa nhỏ nhen, ti tiện... Quan niệm này đƣợc bắt nguồn từ chính cuộc sống và cuộc
đời đầy cay đắng tủi cực của nhà văn - một cuộc đời gắn bó sâu sắc với những
ngƣời dân nghèo dƣới đáy xã hội. Từ cuộc sống cần lao của họ, Nguyên Hồng đã
tạo nên một bức tranh cuộc sống hiện thực sinh động đầy màu sắc nhƣng không
kém phần chân thực. Nếu các nhà văn đƣơng thời khi viết về những con ngƣời
dƣới đáy xã hội bằng một tấm lòng cảm thông của ngƣời ngoài cuộc, thì Nguyên
Hồng lại viết về họ bằng sự yêu thƣơng, cảm thông của ngƣời trong cuộc. Vì vậy,
Nguyên Hồng đã tạo dựng cho mình một thế giới nhân vật riêng: thế giới của
những ngƣời lao động nghèo khổ dƣới đáy xã hội ở môi trƣờng thành thị. Đó là
những người bị bần cùng hoá và những kẻ bị tha hoá trong xã hội thực dân phong
kiến đƣơng thời.
Từ những quan điểm sáng tạo nhƣ trên đã chi phối ngòi bút Nguyên Hồng
khi ông xây dựng thế giới nhân vật của mình, đó chính là thế giới của những người
55
nghèo khổ thuộc tầng lớp thị dân và lao động nghèo dưới đáy xã hội. Cụ thể là:
những ngƣời lao động bị bần cùng hóa và tha hóa (những nhân vật phu phen tạp
dịch, những ngƣời công nhân, phu khuân vác ở những bến tàu, bến xe, những
ngƣời đàn bà buôn bán lặt vặt, những em bé phải làm đủ mọi nghề để sống, những
gái điếm, me tây, những trí thức tiểu tƣ sản thất nghiệp, những nhân vật lƣu manh,
trộm cắp...). Qua sáng tác của nhà văn, ngƣời ta thấy số phận bất hạnh, những nỗi
cơ cực khôn cùng của những con ngƣời đƣợc phơi bày một cách cụ thể, đó là:
nghèo đói, gia đình tan nát, mẹ - con, cha - con, vợ - chồng ly tán, sự ngƣợc đãi, sự
đọa đầy, tù tội, chiến tranh… Suốt cuộc đời cầm bút của mình (đặc biệt là giai
đoạn trƣớc cách mạng), Nguyên Hồng đã tập trung toàn bộ sức lực, tâm huyết để
viết về những cảnh đời đau khổ lầm than, để phơi bày bao nỗi oan trái bất công, để
bênh vực, sẻ chia với những con ngƣời lao động nghèo khổ dƣới đáy xã hội này.
Trong thế giới nhân vật của mình, Nguyên Hồng đặc biệt quan tâm đến nhân
vật phụ nữ và trẻ em - đó là những nhân vật yếu đuối nhất, ít có khả năng tự vệ nhất
trong xã hội - vì thế, viết về những nhân vật này nhà văn đã phản ánh đƣợc đến tận
cùng những nỗi đau khổ của con ngƣời trong một xã hội đầy tội ác, bất công.
3.1.1. Những người phụ nữ nghèo khổ, bất hạnh, cùng đường, nổi loạn
Theo thống kê của chúng tôi thì trong hơn 60 sáng tác của nhà văn trƣớc
Cách mạng đã có tới 38 truyện viết về đề tài phụ nữ (chiếm tỷ lệ 62,2%). Điều đó
chứng tỏ sự xuất hiện của loại nhân vật này ở Nguyên Hồng đậm đặc hơn so với
những nhà văn khác. Qua khảo sát, chúng tôi thấy nhân vật phụ nữ của Nguyên
Hồng đƣợc xuất hiện trong tất cả các thể loại sáng tác (truyện ngắn, truyện vừa, tiểu
thuyết, ký) của ông. Những nhân vật phụ nữ này có hai đặc điểm nổi bật, đó là:
Là những con người đau khổ, vất vả, có một cuộc sống cơ cực, bị đánh đập,
chà đạp nhưng vẫn nhẫn nhục, cam chịu và rất bất hạnh vì không có hạnh phúc
gia đình (kiểu nhân vật này đƣợc thể hiện ở 25/38 sáng tác)
Là những người phụ nữ có số phận bất hạnh, bị xã hội dồn đẩy vào chân
tường, cùng đường, bế tắc trở nên phản ứng cực đoan, nổi loạn trở thành những kẻ
giang hồ, lưu manh, tha hóa… (kiểu nhân vật này đƣợc thể hiện ở 9/38 sáng tác).
Với đặc điểm thứ nhất, Nguyên Hồng đã miêu tả một cách rất cụ thể, cặn
kẽ, đa dạng và phong phú cuộc sống nghèo khổ dƣới đáy của họ với bao nỗi bất
56
hạnh khôn cùng. Trƣớc hết, họ bất hạnh vì gánh nặng của cuộc sống nghèo đói,
túng quẫn, ví dụ nhƣ các nhân vật: Mũn (trong Đây bóng tối), Láng (trong Quán
Nải), Vịnh (trong Hàng cơm đêm), Chị Năng (trong Sông Máu)… Cuộc sống đói
nghèo cùng quẫn luôn đè nặng lên đôi vai những ngƣời phụ nữ, quanh năm tảo tần,
đầu tắt mặt tối không lúc nào ngẩng mặt lên đƣợc. Nguyên Hồng thấu hiểu cảnh
ngộ và đau xót cho thân phận họ "người đàn bà Việt Nam cằn cỗi vì cùng khổ, vì
con cái nheo nhóc, vì bị cầm xích bởi những thành kiến, phong tục lễ nghi đè nén
nặng nề đã để tất cả lòng phẫn uất kêu lên trong tiếng khóc những lúc họ không có
thể chịu đựng được" [73, tr. 134]. Biết rằng từ xƣa đến nay, gánh nặng gia đình
luôn dồn cả lên đôi vai gầy yếu của ngƣời phụ nữ, nên Nguyên Hồng bày tỏ sự
cảm thông sâu sắc của mình đối với những số phận bất hạnh của họ (nhƣ những
nhân vật: Vịnh, bác Nấu gái, mụ Đen, Mũn,...).
Người phụ nữ bất hạnh vì phải chịu đựng sự ngược đãi, hành hạ của chính
những ông chồng bế tắc trƣớc cuộc sống, phản ứng cực đoan bằng cờ bạc, rƣợu
chè và quay ra đánh đập vợ, con. Thông thƣờng trong cuộc sống, ngƣời đàn ông
phải là ngƣời trụ cột gia đình, gánh vác công việc lớn, nuôi vợ con - nhƣng trong
sáng tác của Nguyên Hồng thì không phải là nhƣ vậy. Trong nhiều tác phẩm của
nhà văn không thấy bóng dáng của những ngƣời đàn ông, nếu có thì họ cũng bị
động, mờ nhạt, thậm chí họ còn là gánh nặng cho những ngƣời vợ tần tảo, nhẫn
nhục, chịu đựng. Nhân vật bà mẹ (trong Vực thẳm) nuôi chồng rồi cung phụng cả
ngƣời anh chồng không biết bao nhiêu năm, suốt đời bà cứ "nhất nhất vâng theo và
cúi đầu chịu đựng như đối với thần thánh", làm quần quật để nuôi con, để cho
chồng "quần chùng, áo dài, ăn uống thoả thuê rồi rong chơi" [74, tr. 282]. Nhân
vật mụ Mão (trong Người mẹ không con) cũng có số phận khốn khổ nhƣ vậy,
chồng mụ “thấy mình cứ ngoi ngóp mãi trong sự túng thiếu nợ nần rạc rài, và cả
những lúc thua thấy trần trụi mà về… Mão Chột lại đổ cái đen đủi, xúi quẩy lên
đầu mụ vợ, lên sự xấu xí quái gở của mụ” [73, tr. 416]. Thƣờng xuyên mụ Mão bị
chồng đánh đập một cách vô cớ, một cách tàn bạo: “đầu toạc ra, môi vều lên”,
“rồi bị đánh đập thâm tím mình mẩy” [73, tr. 417]. Sự nhẫn nhục chịu đựng của
những ngƣời phụ nữ ấy một phần do bản chất vốn có của họ, do thói quen hi sinh
hết mình vì chồng, vì con, vì gia đình, nhƣng một phần có lẽ là do ảnh hƣởng của
chữ “Nhẫn” trong đạo Thiên Chúa đã chi phối ngòi bút của Nguyên Hồng từ cách
57
lựa chọn đối tƣợng đến cách xây dựng loại nhân vật này chăng (kiểu nhân vật
chịu nạn)? Vì thế, mà hầu hết các nhân vật phụ nữ của Nguyên Hồng thƣờng cứ
phải chịu đựng biết bao nỗi khổ đau, biết bao bất hạnh trong cuộc đời của họ.
Ngoài loại nhân vật “chịu nạn” này, ta còn gặp một kiểu nhân vật phụ nữ
bất hạnh khác, đó là những người phụ nữ bị đẩy vào tình trạng bi đát, khốn cùng,
kết thúc bằng cái chết bi thảm. Đó là những ngƣời phụ nữ nửa điên, nửa dại nhƣ
nhân vật chị của An (trong Ngọn lửa), mới có hăm hai tuổi đầu mà còn còm cõi,
khắc khổ nhƣ mẹ của An, công nợ dồn dập, thiếu thốn đủ đƣờng, làm việc cật lực
mà vẫn túng quẫn, nên "chị thành một hình hài không thể gọi là một cơ thể sống để
chịu những nặng nhọc dầu dãi và cằn cỗi ở cái đời sống này nếu nó cứ thế mãi,
với những thiếu thốn lầm than dày dặc, mà con người không thể nào được gọi là
con người và đời sống còn đáng sống nữa" [73, tr. 375]. Chính sách bóc lột khiến
ngƣời dân phải chịu nhiều tầng áp bức "một cổ hai tròng" khiến ngƣời ta không
chịu nổi, hoá điên, hoá dại nhƣ nhân vật chị Bồng (trong Ngòi lửa). Nguyên Hồng
viết truyện này trƣớc cách mạng tháng Tám năm 1945, tác phẩm đã ẩn chứa một
sức mạnh căm thù, một sức mạnh góp phần làm nên cuộc cách mạng vĩ đại của dân
tộc: đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập tự do và quyền sống cho con ngƣời.
Một số nhân vật phụ nữ của Nguyên Hồng còn bị rơi vào hoàn cảnh tù đầy
thảm khốc trong nhà tù thực dân phong kiến, sống cuộc đời tù tội, bất kể là ở lứa
tuổi nào, bất kể là vì lý do gì, nhƣ: nhân vật bà cụ Vỉ (trong Cát bụi lầm), nhân vật
Hai mƣơi hai (trong Linh hồn), nhân vật những ngƣời đàn bà ở trong tù (trong Tết
của những người đàn bà trong tù). Tết đến - là thời điểm sum họp gia đình, vậy
mà “những người đàn bà hiền lành không biết tội ác là gì, họ đã bị đày ải hàng
giờ trước gió lộng, một chiều cuối đông đầy nước mắt”… “mồng một… mồng hai,
đến mồng ba, mồng bốn, đời của những người đàn bà khốn nạn ấy trong những
ngày đầu xuân vẫn tối tăm, yên lặng trong nhà giam chật hẹp hôi hám” [73, tr.
131]. Trong nhà tù, họ chỉ còn biết cầu nguyện Chúa trời để quên đi những nỗi nhục hình, những trận giá rét mà mình đang phải gánh chịu một cách oan uổng.
Là ngƣời phụ nữ, niềm khao khát chính đáng nhất của họ là đƣợc làm vợ,
làm mẹ đúng nghĩa, nhƣng nhiều nhân vật phụ nữ của Nguyên Hồng lại không
đƣợc hƣởng niềm khao khát chính đáng này. Họ bất hạnh vì không có tình yêu,
hạnh phúc gia đình thực sự, lấy chồng nhƣng không đƣợc chồng yêu, nhƣ nhân vật
58
mẹ bé Hồng (trong Những ngày thơ ấu), Muống (trong Quán Nải), hoặc có con
mà không đƣợc nuôi con nhƣ nhân vật mợ Du (trong Mợ Du); hoặc không thể có
con, nhƣ nhân vật Hai Liên (trong Bỉ vỏ), hoặc phải chịu bao thiệt thòi vất vả để
đƣợc nuôi nấng đứa con riêng của chồng, nhƣ nhân vật mụ Mão (trong Người mẹ
không con). Nguyên Hồng đã khắc sâu những nỗi niềm sâu thẳm ấy, những khao
khát cháy bỏng về tình mẫu tử của họ của họ để tố cáo xã hội đƣơng thời, để mà
cảm thông sâu sắc cho những thân phận bất hạnh khôn cùng đó của những ngƣời
phụ nữ trong xã hội cũ. Viết về loại chủ đề này, ngƣời ta thƣờng nói đến sự gặp gỡ
ở một mức độ nào đó giữa Nguyên Hồng và Thạch Lam. Thạch Lam cũng thƣờng
gợi lại cảnh nghèo khổ rất đáng thƣơng của ngƣời phụ nữ, ví dụ nhƣ: nhân vật Tâm
(trong Cô hàng xén), hay nhân vật mẹ Lê (trong Nhà mẹ Lê)... Song so với Thạch
Lam, Nguyên Hồng viết nhiều hơn, đa dạng hơn, chân thực và trần trụi hơn về
những cảnh đời ngƣời phụ nữ bất hạnh đó. Vì thế mà sức khái quát về đề tài này
của Nguyên Hồng có lẽ cao hơn, và giá trị tố cáo xã hội cũng sâu đậm hơn.
Đặc điểm nổi bật thứ hai trong hệ thống những nhân vật phụ nữ của
Nguyên Hồng là: họ bị dồn đẩy đến tận chân tường, cùng đường và bế tắc, có
những phản ứng cực đoan đã trở thành những kẻ nổi loạn, bị tha hóa rồi trở thành
những kẻ giang hồ, lưu manh, trộm cướp… Nguyên Hồng cũng miêu tả rất thành
công kiểu nhân vật phụ nữ này - những con ngƣời bất hạnh vì nhân phẩm và thể
xác đều bị chà đạp thảm khốc. Họ bị đẩy vào bƣớc đƣờng cùng, vào ranh giới giữa
sự sống và cái chết, giữa nhân phẩm, danh dự và những ham muốn tầm thƣờng,
thậm chí là tội lỗi. Đó là những ngƣời phụ nữ sống ngoài vòng pháp luật nhƣ các
nhân vật: Bảy Hựu (trong Bảy Hựu), Chín Huyền (trong Chín Huyền)…; hay
những ngƣời phụ nữ cùng đƣờng bị đẩy vào nhà chứa, sống cuộc sống cặn bã, ê
chề nhục nhã nhƣ nhân vật Tám Bính, Hai Liên và một số ngƣời phụ nữ khác
(trong Bỉ vỏ)... dẫu muốn trở lại thành những con ngƣời bình thƣờng, họ
cũng“không thể xóa hết được cuộc đời của một con “bỉ vỏ” mà quay lại sống cuộc
sống lương thiện trong xã hội ấy được” (Chín Huyền)...
Tại sao thời kỳ đó ở Hải Phòng lại xuất hiện nhiều loại ngƣời tha hóa, lƣu manh, trộm cƣớp đến thế? Có lẽ nguyên nhân là: “Hải Phòng, một hải cảng sầm uất bậc nhất của Đông Dương, một thành phố công nghệ mở mang, với hơn ba mươi nghìn dân lao động bần cùng ở các tỉnh dồn về, cũng có một đặc điểm là sản xuất được một số “anh chị”, gian ác liều lĩnh không biết là bao nhiêu” [74, tr. 335].
59
Tỷ lệ những ngƣời phụ nữ làm nghề bán dâm chiếm một tỷ lệ khá lớn trong xã hội - điều mà trƣớc đây xã hội Việt Nam không hề có. Nhà văn Vũ Trọng Phụng qua phóng sự Lục xì của mình, đã đƣa ra một con số so sánh, phản ánh thực trạng gái mại dâm ở Hà Nội: “dân Hà Thành có 18 vạn người, có năm nghìn gái mại dâm chính thức, bình quân “cứ 35 người tử tế thì lại có một người làm đĩ”, nếu so với tỉ lệ ở Pari, một thành phố ăn chơi nổi tiếng, thì tỷ lệ gái mại dâm ở Hà Nội cao hơn mười lần” [135, tr. 165]. Nhà báo Phan Khôi cũng lý giải nguyên nhân của hiện tƣợng này trong xã hội với tƣ tƣởng bênh vực ngƣời phụ nữ “Thuở trước người con gái nào đi làm đĩ, người ta cho rằng đồ cẩu trệ, đồ thối thây, có ai thèm kể đến làm chi, huống nữa là đem ra làm thành vấn đề. Nhưng ngày nay thì không thể, bởi sự sống khó khăn quá mà hạng kỹ nữ ngày càng nhiều thêm ra, ta phải nhìn nhận đó là tội lỗi chung của xã hội” [84, tr. 6 - 8]. Thực tế cuộc sống của họ thật là đen tối, thê thảm. Họ bán sức lực, bán nhan sắc, tuổi trẻ và tấm thân của mình và sống ở những khu nhà chứa nhầy nhụa trong một không gian hôi hám, tối tăm, ngộp thở. Hậu quả là nhiều ngƣời trong số họ kiệt sức, ho ra máu rồi chết. Tuy nhiên trong sâu thẳm tâm hồn của họ, đâu đó vẫn ánh lên những thoáng khát vọng muốn từ bỏ cuộc sống tăm tối, tội lỗi của mình để trở về cuộc sống bình yên, lƣơng thiện. Đáng quý nhất ở họ là lòng hy sinh, dám xả thân vì nghĩa cử. Ví dụ nhƣ: nhân vật Tám Bính đã từ bỏ cuộc sống yên ổn với ngƣời chồng mật thám để cứu Năm Sài Gòn, cũng có nghĩa là phải trở về với cuộc đời “bỉ vỏ” mà cô vô cùng ghê sợ, lúc nào cũng muốn dứt bỏ. Chỉ vì một lý do: Năm là ngƣời đàn ông duy nhất đã thƣơng yêu cô một cách chân thành, đã chở che cho cô sau bao ngày phải sống trong một nhà chứa mạt hạng. Hay nhân vật Bảy Hựu (trong Bảy Hựu) cũng vậy! Tuy còn ít tuổi nhƣng để cứu Hai Răng vàng - ngƣời anh mà Bảy Hựu theo từ nhỏ, cô sẵn sàng xả thân mình để giải thoát cho Hai khi bị đối thủ tấn công; Nhân vật Chín Huyền (trong Chín Huyền) mặc dù phải sống trong sự quản thúc, lần hồi nuôi hai đứa con nhỏ, chồng đi tù rồi chết, bản thân lại đang đau yếu, nhƣng thấy Sáu Lẹm cằm bị bắt, với tinh thần nghĩa cử của một con nhà võ sống giang hồ, Chín Huyền đã không ngần ngại ra tay cứu Sáu, cho dù biết mình sẽ lại ngồi tù thay! Tính cách can trƣờng, trọng nghĩa khí của họ có gì phảng phất tính cách của những nhân vật anh hùng ở Lƣơng Sơn Bạc trong Thủy Hử (Thi Nại Am) vậy, lại vừa có cái gì giống nhƣ những nhân vật trong các cuốn tiểu thuyết của M.Goorki khi viết về loại ngƣời lƣu manh sống ngoài vòng pháp luật, sống dƣới đáy xã hội.
60
Hơn ai hết, Nguyên Hồng hiểu sâu sắc nỗi đau khổ và sự ê chề, khốn nạn
của những phụ nữ phải sống bằng nghề mại dâm, phải làm trò chơi cho thiên hạ để
kiếm tiền nuôi thân, nuôi gia đình. Đây cũng là nét khác biệt của Nguyên Hồng so
với những nhà văn khác cùng thời. Nguyên Hồng đặc biệt chú ý đến những ngƣời
phụ nữ đƣợc sinh ra ở nông thôn, bị đẩy ra thành thị và bị trƣợt dài trên con đƣờng
lƣu manh hoá và tha hoá nhƣ nhân vật Tám Bính, Chín Huyền, Bảy Hựu... Với
kiểu nhân vật này, Nguyên Hồng đã rất chú ý miêu tả sự tƣơng phản trong bản chất
và tính cách của họ (giữa cái tốt - xấu, cao thƣợng - thấp hèn...), để làm nổi bật bản
chất lƣơng thiện của con ngƣời cho dù bị hoàn cảnh xô đẩy, phải sống cuộc sống
dữ dằn, tội lỗi, tủi nhục để tồn tại - nhƣng trong sâu thẳm bản chất họ vẫn là
những con ngƣời giàu tình cảm, sống nhân nghĩa và đặc biệt là sẵn sàng hy sinh
tính mạng của mình cho những ngƣời cùng cảnh ngộ. Trong sáng tác của Ngô Tất
Tố, Thạch Lam, ta cũng gặp hình ảnh những ngƣời phụ nữ bất hạnh vì cuộc sống
đen tối, bế tắc, không lối thoát nhƣ nhân vật chị Dậu (trong Tắt đèn của Ngô Tất
Tố), mẹ Lê (trong Nhà mẹ Lê của Thạch Lam), hoặc nhân vật Dần (trong Một
đám cưới), Dì Hảo (trong Dì Hảo), Nhu (trong Ở hiền) của Nam Cao… Tuy
nhiên, những ngƣời phụ nữ khốn khổ này chỉ bị đẩy đến cùng đƣờng vì đói khát
và bế tắc - chứ chƣa bị đẩy vào con đƣờng bị tha hóa, bị lƣu manh hóa nhƣ một
số nhân vật phụ nữ của Nguyên Hồng.
Không chỉ phản ánh một cách sâu sắc những nỗi bất hạnh khôn cùng của
ngƣời phụ nữ Việt Nam trƣớc năm 1945, mà Nguyên Hồng còn miêu tả cụ thể
những đức tính tốt đẹp mang tính truyền thống của họ - đó là tấm chân tình và
lòng yêu thƣơng của tác giả giàu lòng nhân ái này.
Các nhân vật phụ nữ trong tác phẩm của Nguyên Hồng thƣờng là những
người hiền lành, thậm chí rất nhẫn nhục chịu đựng, rất chịu khó, luôn khát khao
hạnh phúc gia đình, muốn được làm vợ, làm mẹ, muốn có một cuộc sống lương thiện
cho dù phải chịu bao khó khăn, vất vả, bao tủi nhục, đày đọa, đớn đau. Đây cũng là
điểm mạnh và điểm khác của ngòi bút Nguyên Hồng so với một số các nhà văn khác
cùng thời, cùng khuynh hƣớng - bởi ông đã đi vào phần sâu thẳm thiêng liêng nhất
của đáy lòng và trái tim ngƣời phụ nữ Việt Nam.
Nhƣ đã nói, hầu hết các nhân vật phụ nữ của Nguyên Hồng đều là những
con ngƣời chịu thƣơng, chịu khó, tảo tần chăm lo cho cuộc sống gia đình, hi sinh
61
hết thảy vì chồng, vì con. Đó là những bà mẹ buôn thúng bán bƣng, đầu tắt mặt
tối để nuôi gia đình “buôn bán rau đậu, trầu cau lần hồi ở các chợ và trên đường
sông Nam Định”, với “những đêm lạnh dài để mà thao thức lo toan, bàn tán vun
đắp cho nhà cửa, cho tuổi già, cho con cái…” [73, tr. 755] nhƣ bà và mẹ bé
Hồng (trong Những ngày thơ ấu); Hay Mũn “người đàn bà yếu đuối nhưng can
đảm”, nuôi một ngƣời chồng mù lòa và bốn đứa con thơ dại (trong Đây, bóng
tối); bác Nấu gái (trong Nhà bố Nấu) "say mê buôn bán đến quên cả ăn, cả ngủ.
Và bác còn bỏ cả ăn, cả ngủ vì nợ… bác không muốn chồng thấy sự thua lỗ
chồng chất trong cái lúc khó khăn, thà một mình bác chịu tất cả mọi nỗi còn hơn
để chồng con hay biết” [73, tr. 270]. Nguyên Hồng hiểu rằng: “Lòng vị tha quí
hóa ấy, người ta chỉ tìm thấy trong những người nghèo, người bị bóc lột, bị đè
nén, những người có bao nhiêu năng lực và đức tính bị dập tắt dưới chế độ xã
hội tàn ác này” [73, tr. 163].
Có một điểm khá đặc biệt là: khi viết về những ngƣời phụ nữ nghèo khổ dƣới
đáy xã hội với biết bao bi kịch của cuộc đời họ, hình nhƣ ngòi bút của Nguyên Hồng
đã chạm đến một vấn đề quan trọng - đó là vấn đề giai cấp và vấn đề Giới. Do nhạy
cảm đặc biệt với thân phận ngƣời phụ nữ, do tiếp thu văn hóa phƣơng Tây, do ảnh
hƣởng của Đạo Thiên chúa giáo... nên Nguyên Hồng nhìn ngƣời phụ nữ không phải
chỉ là nạn nhân của xã hội đƣơng thời mà còn là nạn nhân của chế độ nam quyền,
của những hủ tục ngàn đời của làng quê Việt Nam trong đó có sự thống trị của chế
độ nam quyền dai dẳng có từ thời phong kiến, hay những hủ tục trừng phạt ngƣời
đàn bà mang thai, nạn ngả vạ chè chén... Khi viết về họ, Nguyên Hồng đã đề cập tới
một vấn đề lớn mang tính nhân loại và thời đại - đó là vấn đề gia đình, vấn đề tình
yêu và hôn nhân, vấn đề hạnh phúc cá nhân của những ngƣời phụ nữ - cho dù đó là
những ngƣời phụ nữ nghèo khổ dƣới đáy xã hội.
Hình ảnh ngƣời mẹ của chú bé Hồng (trong Những ngày thơ ấu) là hình
ảnh của ngƣời phụ nữ trẻ, có nhan sắc, sống bên ngƣời chồng già mà mình không
yêu, những ƣớc mơ, những khao khát yêu thƣơng của chị hầu nhƣ không đƣợc
chồng biết đến. Cuộc hôn nhân không có hạnh phúc ấy làm tâm hồn chị “quằn
quại”, “đau đớn”. Tiếng gọi của tuổi trẻ, của tình yêu đôi lứa nhiều lúc làm chị rạo
rực, cặp má ửng hồng “khi gặp cặp mắt long lanh của người đàn ông nọ chiếu
tới”, và chị đã có những buổi chiều dắt con ra sân trƣớc để “đón những tốp lính
62
kia đi qua với tiếng kèn rộn rã tưng bừng” [73, tr. 194]. Vì khát khao tình yêu,
khát khao hạnh phúc gia đình nên một thời gian sau khi chồng chết chị đã đi bƣớc
nữa, nhƣng cũng thật bi kịch. Hạnh phúc riêng tƣ của chị có thể nào trọn vẹn khi
chị phải xa con, đi tha phƣơng cầu thực kiếm ăn, mà trong lòng lúc nào cũng đau
đáu một niềm nhớ con vô hạn?
Không chỉ khát khao hạnh phúc lứa đôi mà nhân vật ngƣời phụ nữ của
Nguyên Hồng còn có sự khát khao sâu thẳm hơn, thiêng liêng hơn, đó là họ luôn
đau đáu khát khao tình mẫu tử. Nhân vật mẹ Hồng (trong Những ngày thơ ấu),
Tám Bính, Hai Liên (trong Bỉ vỏ), Mợ Du (trong Mợ Du), mẹ của Tuyên (trong
Cuộc sống), Bà mẹ Thƣởng (trong Hai mẹ con)... mụ Mão (trong Người mẹ
không con), Muống (trong Quán Nải)... khát khao đƣợc làm vợ, làm mẹ, khát
khao có đƣợc những đứa con để nuôi nấng, để ôm ấp, dù mình phải cực khổ nhƣ
thế nào. Ở họ “Tình mẫu tử như một bản năng mãnh liệt”, và những nhân vật phụ
nữ trong tác phẩm của Nguyên Hồng đều đƣợc khắc họa rất đậm nét mẫu tính ấy.
Tình mẫu tử khiến ngƣời phụ nữ quên đi nỗi nhọc nhằn mà họ đang phải chịu
đựng: Tám Bính (trong Bỉ vỏ) sống cuộc đời trộm cắp, lƣu manh va chạm đủ mọi
thói ô trọc của cuộc đời, nhiều khi sống bằng lừa lọc và tàn nhẫn, vậy mà trong sâu
thẳm tấm lòng mình lúc nào Bính cũng nhớ đến đứa con tội nghiệp của mình đã bị
bán đi. Đứa con, chính là niềm hy vọng để Bính có thể đứng dậy sau mỗi lần bị vùi
dập tả tơi! Nhân vật mụ Mão (trong Người mẹ không con) cũng nhƣ bao ngƣời
phụ nữ khác thấm thía rằng, ngƣời đàn bà không có con thì “phải chịu cái cảnh cô
độc còn ghê gớm hơn là tù tội” [73, tr. 418], mụ bị chồng bỏ, phải đi lấy ông
chồng khác, thƣờng xuyên phải chịu những đánh “thừa sống thiếu chết” của ông
chồng mới cũng vũ phu không kém, nhƣng khi ông ta chết, mụ lại quay về nuôi
nấng đàn con lóc nhóc của ông chồng cũ.
Đối với kiểu nhân vật phụ nữ cùng đƣờng, phải làm những nghề xấu xa nhất
để tồn tại, thì ở họ cũng luôn có một sự khát khao trở về cuộc sống lương thiện,
cuộc sống của những người phụ nữ có chồng, có con, có gia đình ấm cúng. Những
nhân vật nhƣ Tám Bính, Chín Huyền, chị Năng,… cũng vì đói nghèo, bị áp bức,
bóc lột trở nên tha hoá, biến chất, bị xô đẩy vào con đƣờng tăm tối (đĩ điếm), tội
lỗi (ăn cắp, ăn cƣớp, buôn lậu…), nhƣng trong sâu thẳm tâm hồn họ vẫn luôn ánh
lên niềm hi vọng, niềm khát khao đƣợc sống một cuộc sống lƣơng thiện với một
63
gia đình ấm cúng. Nhƣng xã hội dƣờng nhƣ đã chặn đứng những ƣớc mong rất
chính đáng của họ, khiến họ có khi phải chết trong oan ức nhƣ nhân vật chị Năng
(Sông máu), chết thảm nhƣ nhân vật Bảy Hựu (Bảy Hựu), chết nhục nhã, thảm hại
trong những nhà chứa nhƣ một số cô gái trong Bỉ vỏ, hoặc mãi mãi sống trong tù
tội nhƣ nhân vật Chín Huyền (trong Chín Huyền), Tám Bính (trong Bỉ vỏ)... Với
cách xây dựng nhân vật theo kiểu tương phản đối lập (là thủ pháp nghệ thuật quen
thuộc của Nguyên Hồng), nhà văn khẳng định: hoàn cảnh sống thực tại đen tối,
nghiệt ngã, đau khổ, bất hạnh bao nhiêu thì tấm lòng nhân vật vẫn ngời sáng, vẫn
ánh lên nét đẹp của sự vị tha, của tình mẫu tử và của sự hƣớng thiện. Và họ luôn
sống với những khát khao bình dị nhất: đƣợc làm vợ, làm mẹ, đƣợc hi sinh vì
những ngƣời thân yêu nhất của mình!
Khảo sát những sáng tác của Nguyên Hồng từ năm 1939 đến năm 1945, qua
các truyện ngắn: Người đàn bà Tàu (1939), Bà cụ Việt (1945), Hơi thở tàn
(1944)… chúng tôi nhận thấy, từ năm 1939 trở đi, do đã đƣợc tiếp cận với tƣ tƣởng
cách mạng của Đảng, nên khi viết về ngƣời phụ nữ Nguyên Hồng đã phản ánh,
miêu tả họ ở một tầm nhận thức mới. Ở họ, tính nhân đạo gắn với ý thức chính trị.
Những ngƣời phụ nữ nghèo khổ luôn nhẫn nhục cam chịu kia đã có một sự phản
kháng (kể cả trong tƣ tƣởng và hành động). Họ đã “muốn hất tung đi”, thực tại đen
tối đang bủa vây cuộc đời họ. Trong truyện ngắn Cuộc sống (1942) bà mẹ Tuyên
đã yêu thƣơng con, yêu luôn cả bạn bè và lý tƣởng của con, nên khi ngƣời con bị
bắt vì hoạt động chính trị, bà “tuy mênh mông đau khổ nhưng cũng lại man mác
sung sướng” [97, tr. 143]. Đó là một tâm trạng, một suy nghĩ, một lối ứng xử hoàn
toàn mới của ngƣời phụ nữ Việt Nam nghèo khổ ngày đó. Cũng vậy, trong tiểu
thuyết Hơi thở tàn, tác giả cũng đã khắc họa hình ảnh những con ngƣời lao động
dƣới đáy với một góc nhìn khác, ngƣời lao động ở đây không còn chỉ là những con
ngƣời khốn khổ đáng thƣơng nữa, ở họ đã hình thành tinh thần hữu ái giai cấp. Họ
trở thành chỗ dựa cho nhau, bao bọc nhau. Thậm chí họ “dám đối chọi chứ không
chỉ một mực van xin” trƣớc bọn ngƣời áp bức mà nhân vật bà cụ An, bác Năng là
những ngƣời nhƣ thế. Nổi bật trong truyện ngắn Bà cụ Việt, tác giả đã khắc họa
một không khí ngột ngạt, căng thẳng của xã hội Việt Nam trƣớc ngày tổng khởi
nghĩa 1945, hình ảnh bà mẹ nghèo kiên quyết đấu tranh với giặc, tuyên truyền giác
ngộ binh lính, giành lúa gạo về tay nông dân đã đƣợc Nguyên Hồng tô đậm bằng
niềm kính phục vô hạn. Bà cụ Việt đã nêu cao tinh thần đấu tranh với quan niệm:
64
“Càng già yếu lúc này càng phải ra. Bảy tám mươi tuổi đầu rồi có sao tôi cũng
chẳng ân hận gì vì gánh vác được cho dân làng, cho đất nước, để cho các anh em
giai trẻ ở lại… Đằng nào con người ta cũng chết một lần để được mãi mãi tự do
sung sướng, mở mày mở mặt, thì lại càng không nên sợ chết… Chúng ta phải sống
cho ra người. Chúng ta phải nổi lên mà tranh đấu. Hy sinh mà tranh đấu” [73, tr.
631-632]. Tinh thần đấu tranh bất khuất của bà mẹ là nguồn động viên khích lệ dân
làng đoàn kết đứng lên để chống lại bộ máy thống trị tàn bạo của kẻ thù, để giành
quyền sống về mình thật đáng trân trọng biết bao!
Năm 1939, Nguyên Hồng viết truyện ngắn Người đàn bà Tàu phản ánh
phong trào đấu tranh của công nhân Bắc Kỳ, đặc biệt là ở Hải Phòng. Trong truyện
ngắn này, nhà văn đã miêu tả hình ảnh ngƣời đàn bà Tàu giơ nắm tay đấu tranh
quyết liệt: “Tả tào khủng phu... Tả tào khủng phu...” - hình ảnh ấy đã gây ấn
tƣợng mạnh cho ngƣời đọc về một bà mẹ cần lao tha hƣơng, không phân biệt tiếng
nói, quê hƣơng, đã xuống đƣờng cùng nhân dân Việt Nam đấu tranh với bọn bóc
lột để giành quyền sống. Có lẽ Nguyên Hồng là ngƣời đầu tiên trong văn xuôi Việt
Nam gia đoạn trƣớc năm 1945 xây dựng đƣợc hình tƣợng ngƣời phụ nữ công nhân
đấu tranh dũng cảm, chứa đựng tinh thần giai cấp và tinh thần quốc tế vô sản. Đây
cũng là sự tiến bộ trong tƣ tƣởng của nhà văn khi viết về ngƣời phụ nữ nghèo khổ
trong xã hội cũ. Các nhà văn hiện thực khác nhƣ Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan,
Vũ Trọng Phụng, Nam Cao... khi viết về ngƣời phụ nữ thì chúng ta nhận thấy rất
rõ là: các tác giả này mới chỉ dừng lại ở chỗ cảm thông, thƣơng xót và phát hiện ra
vẻ đẹp, lòng vị tha và sự hy sinh hết mình của họ - chứ chƣa thấy đƣợc sức mạnh
phản kháng mạnh mẽ của họ đối với xã hội và khát vọng đứng lên đấu tranh, giành
lại cuộc sống, quyền sống cho mình nhƣ nhân vật ngƣời phụ nữ của Nguyên Hồng.
Tóm lại, nhân vật phụ nữ trong sáng tác của Nguyên Hồng hầu hết là những
ngƣời nghèo khổ, bất hạnh và cuộc đời chịu nhiều bi kịch. Nguyên Hồng đã phản
ánh một cách chân thực đa dạng và sinh động những nỗi khổ khôn cùng của họ,
đồng thời nhà văn cũng đã phát hiện và nâng niu từng chút sáng của lòng vị tha, đức hi sinh cùng với những khát vọng trong tâm hồn của họ (đó là khát vọng đƣợc
làm ngƣời lƣơng thiện, khát vọng đƣợc làm vợ, làm mẹ một cách chính đáng, khát vọng sống một cuộc sống bình dị nhƣ bao ngƣời khác). Điều đó đã thể hiện sự cảm
thông sâu sắc và tấm lòng thƣơng yêu tha thiết của Nguyên Hồng đối với những nhân vật phụ nữ trong sáng tác của mình.
65
3.1.2. Những đứa trẻ nghèo dưới đáy xã hội, “không có tuổi thơ”
Văn xuôi Việt Nam thời kỳ đầu thế kỷ XX đến năm 1945 nói chung, văn
xuôi hiện thực phê phán nói riêng đã có khá nhiều tác phẩm viết về số phận của trẻ
em trong xã hội thực dân phong kiến và đã để lại nỗi xót xa, thƣơng cảm cho bao
thế hệ ngƣời đọc, nhƣ: truyện ngắn:“Hai đứa trẻ” (Thạch Lam), truyện dài Sống
nhờ (Mạnh Phú Tƣ), các truyện ngắn: “Trẻ em không được ăn thịt chó”, “Một
bữa no”, “Một đám cưới” (Nam Cao)... Những tác phẩm trên đều đã thể hiện rõ
thái độ lên án, phê phán quyết liệt đối với xã hội thực dân phong kiến vô nhân đạo
xƣa và tấm lòng thƣơng yêu tha thiết đối với trẻ em - những đối tƣợng mà ở bất cứ
chế độ xã hội nào cũng cần đƣợc nâng niu, yêu quý, bảo vệ và nuôi dƣỡng - của
các nhà văn giàu lòng nhân ái trên. Tuy nhiên viết nhiều và phản ánh một cách
toàn diện, khái quát về cuộc sống thiếu thốn cả về tinh thần và vật chất của trẻ em
nghèo giai đoạn trƣớc cách mạng tháng Tám 1945, thì đầu tiên phải kể đến những
sáng tác của nhà văn Nguyên Hồng. Nguyên Hồng đã viết về những sinh mệnh
đáng thƣơng này bằng cả trái tim, bằng chính những trải nghiệm đầy xót xa trong
thời thơ ấu của mình nên có sức lay động lòng ngƣời hết sức sâu sắc và cảm động.
Qua khảo sát 61 sáng tác của Nguyên Hồng trƣớc cách mạng, chúng tôi
thấy đã có 20 truyện viết về đề tài trẻ em (chiếm tỉ lệ 32,7%), đó là chƣa tính đến
sự xuất hiện của nhân vật trẻ em rải rác trong một số truyện khác. Qua những
sáng tác này, chúng tôi nhận thấy một số đặc điểm nổi bật ở loại nhân vật đáng
thƣơng này nhƣ sau:
Trước hết, đó là những đứa trẻ nghèo, có số phận bất hạnh và “không có tuổi
thơ”, chúng đều là những đứa trẻ nghèo khổ, sống thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh
thần, phải làm đủ mọi nghề để kiếm sống, bị lạm dụng sức lao động một cách tàn
nhẫn, chúng không có quyền và không tự bảo vệ đƣợc mình trong xã hội đen tối
đầy cạm bẫy, bất công. “Những ngày thơ ấu” là một cuốn tiểu thuyết tự truyện
ghi lại những năm tháng ấu thơ đầy tủi cực cay đắng của nhân vật “tôi” - chú bé
Hồng. Mồ côi cha từ năm 12 tuổi, mẹ đi bƣớc nữa và thƣờng phải đi làm ăn xa,
cậu bé thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu tình chăm sóc của ngƣời thân nên đã phải lang
thang khắp đầu đƣờng xó chợ, khắp các vƣờn hoa, bến tàu, bến xe, để làm thuê,
đánh bi, đánh đáo kiếm ăn; phải sống chung đụng với đủ hạng trẻ bơ vơ, đói khát,
66
du đãng trong xã hội thị thành. Một trong những nguyên nhân khiến cho dòng tự
thuật trở thành một tác phẩm xuất sắc chính là Nguyên Hồng đã xây dựng thành
công nhân vật văn học “Chú bé Hồng” - một điển hình về cuộc đời những em bé bất
hạnh trong xã hội cũ, đã khơi gợi ở ngƣời đọc những rung động sâu xa. Cũng qua
cuốn hồi ký này, ta bắt gặp những em bé khác nữa “làm đủ mọi nghề nhỏ mọn” nhƣ:
bán báo, bán xôi, đi ở, bế em hay nhặt bóng thuê, ăn mày, ăn cắp... ở khắp các ngõ
hẻm, vƣờn hoa, cổng chợ, bến phà... Mỗi em mỗi gƣơng mặt, mỗi cảnh ngộ nhƣng
đều giống nhau ở cảnh đói nghèo lam lũ, cơ cực bị đọa đầy, bất hạnh. Trong sáng
tác của Nguyên Hồng trƣớc 8/1945, chúng ta gặp rất nhiều những trẻ em nhƣ vậy,
đó là bé Hồng (trong Những ngày thơ ấu), Tý con, Tần (trong Những mầm non),
Nhân (trong Hai nhà nghề), nhân vật Mũn (trong Đây, bóng tối)...
Nỗi khốn khổ, sự đọa đày tàn nhẫn của xã hội thực dân phong kiến đối với
những trẻ em nghèo đƣợc nhà văn phản ánh một cách đa dạng, cụ thể và sinh động,
mỗi em mỗi hoàn cảnh, mỗi nỗi trái ngang. Đã từng bị đẩy vào nhà tù thực dân từ
khi còn là trẻ con, sống ở một nơi chỉ có thói tàn nhẫn, độc ác, nên không ít lần cậu
bé Hồng - hình ảnh nhà văn - đã từng phải ôm mặt khóc mỗi khi đi làm “cỏ vê” về,
khóc ngay dƣới gốc cây, bên cạnh xe bò rác. Có lẽ do có một tâm hồn đặc biệt
nhạy cảm với nỗi khốn khổ của trẻ em, nên Nguyên Hồng nhiều khi quặn đau ứa
nƣớc mắt khi phải chứng kiến những cảnh giữa gió mƣa, rét mƣớt biết bao trẻ em
khóc nhƣ xé vải ở trong nhà tù thực dân: “Mưa phùn tạnh từ hôm kia, nhưng gió
rét càng thổi mạnh. Da thịt người nhức buốt vì khí lạnh. Con nhỏ của tù đàn bà
khóc suốt đêm. Chúng khát sữa, sữa của mẹ chúng như cạn mất rồi” [73, tr.
142]. Những ngày tết đến, khi mọi ngƣời đƣợc hƣởng sự ấm cúng trong gia đình
của mình, thì những tù nhân trẻ con cùng với những bà mẹ tội nghiệp của chúng
vẫn ở trong tù. Cảnh đọa đày làm cho chúng không những thiếu sữa, mà đến cả
ngủ cũng không đƣợc yên giấc: “Ở trại giam bên kia, trẻ con thức giấc từ lâu
khóc thét mãi lên, những trẻ con ốm yếu của các tù đàn bà vô tội” [73, tr. 152]...
Rồi cuộc sống của chúng sẽ ra sao? Nỗi khổ đau, bất hạnh nào của con ngƣời
cũng đều đáng đƣợc cảm thông, chia sẻ, nhƣng khi nỗi khổ đau bất hạnh ấy giáng
xuống đầu con trẻ, thì tự nhiên và ngay lập tức ngƣời lớn chúng ta cảm thấy đớn
đau và xót xa hơn rất nhiều lần.
67
Trong truyện ngắn Đi nhà văn đã miêu tả cảnh một đoàn ngƣời đói khát bỏ
làng, bỏ xóm ra thành phố để làm bất cứ việc gì, miễn là để có ăn, để giành giật lấy
cuộc sống. Họ cứ đi mà không biết sẽ đến đâu, sẽ chết ở bất cứ nơi nào? Bên
những xác chết la liệt hai bên đƣờng ấy có một ngƣời mẹ đã chết “nằm ưỡn ngực
lên, ngực đã khô cứng đen cóc đen cáy. Ở cái đầu vú to thây lẩy, một đứa bé cứ
rúc vào bú, miệng nó nhay nhay, một tay luồn vào nách, một tay vân vê cái vú lép
hơn. Cái núm thịt chết khô căng lên ấy đã được đứa bé tưởng là còn sữa, đầy sữa,
như người mẹ đã lại được no, nên đứa bé lại cố nún ụt à ụt ịt một cách hăm hở và
lại vân vê một cách sung sướng” [73, tr. 466]. Một hình ảnh thật thƣơng tâm, thật
xót xa, đắng đót. Cảnh tƣợng này đƣợc nhà văn “viết bằng nước mắt, những dòng
nước mắt không có giọt cuối cùng” (Linh Thi) làm đau đớn đến tê dại cả lòng
ngƣời đọc. Đó cũng chính là tiếng kêu thƣơng vút lên từ những số phận khốn cùng
trong xã hội cũ, trong đó có số phận tội nghiệp của những bé em chƣa rời vú mẹ.
Em bé có thể sống sót không khi mẹ em đã chết vì đói, khi bầu vú đã khô đét
không còn giọt sữa? Những câu hỏi nhức nhối xoáy sâu vào lòng ngƣời đọc khiến
cho bao trái tim quặn đau vì xót thƣơng.
Nguyên Hồng tham gia phong trào Mặt trận Dân chủ (1936 -1939) ở Hải
Phòng. Tháng 9 năm 1939, ông bị mật thám bắt và bị đƣa đi trại tập trung ở Bắc
Mê (Hà Giang). Ở trong tù, nhà văn đƣợc tiếp xúc với nhiều chiến sĩ Cách mạng
nên lại càng có điều kiện tiếp nhận lý tƣởng tiến bộ - lý tƣởng cộng sản. Ông đã
hiểu sâu hơn những nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự khốn cùng của tầng lớp dân
nghèo. Vì vậy, vấn đề nhà văn đặt ra qua số phận những nhân vật trẻ em đã đƣợc
nâng lên ở một chiều sâu mới đó là: việc phải cứu lấy trẻ em, cứu lấy những sinh
linh vô tội, cứu lấy thế hệ tƣơng lai của dân tộc trong cảnh khốn cùng này: “Phải
đem sữa lại cho những bà mẹ nhiều con dại ở các nước chiến tranh tàn phá... Phải
trả sữa lại cho những cái miệng bé nhỏ há rộng, lưỡi gần cứng đó, dưới những
bầu vú lép. (...) Sữa! Sữa!... Người ta đương chờ đợi ở một thi sỹ một bài thơ, ở
một nhà văn một trang truyện, kêu đòi sữa cho trẻ em” [73, tr. 187]. Tiếng gọi
khẩn thiết ấy vang lên qua từng tác phẩm của nhà văn - đây cũng là một nét khác
biệt của Nguyên Hồng so với các nhà văn cùng khuynh hƣớng, và cũng là một
đóng góp đáng quí của một nhà văn hiện thực sớm tìm đƣờng đến với Cách mạng
đƣợc bắt đầu từ những rung động, sự đau đớn tột cùng vì số phận của trẻ thơ.
68
Các nhân vật trẻ em trong sáng tác của Nguyên Hồng trƣớc Cách mạng
tháng Tám năm 1945 không chỉ thiếu thốn về vật chất mà chúng còn thiếu thốn cả
về tinh thần. Chúng thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu sự chăm sóc của ngƣời thân và sự
quan tâm của toàn xã hội. Chúng bị chà đạp về tinh thần, đặc biệt là phải sống
thiếu tình mẫu tử, hình nhƣ trong những nhân vật trẻ em này ít nhiều đều mang
bóng dáng của tác giả thời thơ ấu. Từ cuộc sống thiếu thốn tình cảm của cả cha và
mẹ, đặc biệt là sống thiếu tình mẹ của chính mình, Nguyên Hồng am hiểu và cảm
thông biết bao những em bé cùng cảnh ngộ nhƣ nhân vật Dũng (trong Mợ Du),
đàn con của Mũn (trong Đây, bóng tối), đám con của chị Năng (trong Sông máu),
nhân vật ngƣời con gái (trong Người con gái)... Viết về một ngƣời phụ nữ và trẻ
em, ngòi bút Nguyên Hồng toát lên một chất thơ tha thiết. Chất thơ ấy đặc biệt tỏa
sáng khi nhà văn miêu tả tình mẫu tử thiêng liêng, và cũng thiết tha khi nói đến
những trẻ em nghèo sống thiếu tình mẹ. Nhân vật chú bé Hồng (Những ngày thơ
ấu) thầm gọi tên ngƣời mẹ “hiền từ” và “xinh đẹp” của em không biết bao lần khi
đơn côi, trơ trọi giữa cuộc đời. Hoàn cảnh sống khiến mẹ con phải xa nhau nhƣng
không lúc nào Hồng không nghĩ về mẹ với câu hỏi luôn khắc khoải trong lòng: Mẹ
ơi, sao mẹ đi lâu quá không về? và không ít lần Hồng sống trong tâm trạng “đau
đớn tê dại” bởi nhớ thƣơng ngƣời mẹ “hiền dịu” và “âu yếm” của mình. Sống
trong sự thiếu thốn tình cảm của ngƣời mẹ, những đứa trẻ mồ côi bao giờ cũng có
một cái gì đó trông tội nghiệp và ngơ ngác. Ngƣời con gái trong truyện Người
con gái bị mồ côi cha lại thiếu vắng tình mẹ, phải ở nhờ nhà chú thím và phải
làm đủ mọi mọi việc để giúp gia đình. Nguyên Hồng đã nắm bắt rất “nhạy” tâm
trạng của cô bé khi: “Trẻ con đứa nào đứa nấy đều quấn quít lấy bố mẹ, y có
muốn nô đùa cũng không có bạn. Y chỉ còn biết thơ thẩn nhìn cái ồn ào rực rỡ
tỏa ra mọi nơi, trong khi thằng bé em lò dò dưới những tủ hàng, mắt ngơ ngác”
[73, tr. 128]. Chỉ vài dòng gợi tả, nhà văn đã nói hộ cô bé kia sự cô đơn, tủi thân,
trơ trọi của cô bé không có mái ấm gia đình. Nguyên Hồng xứng đáng đƣợc gọi
là nhà văn của ngƣời phụ nữ và trẻ em dƣới chế độ cũ, bởi những nhân vật này
của ông đều có số phận vô cùng bất hạnh, đáng thƣơng.
Nhân vật trẻ em của Nguyên Hồng không chỉ bị xã hội, ngƣời đời rẻ rúng,
mà ngay trong cả gia đình, trong nhà trƣờng chúng cũng bị hắt hủi, ngƣợc đãi. Nhà
trƣờng là nơi dạy chữ nghĩa và giáo dục lòng nhân ái cho con ngƣời, dạy cho trẻ
69
biết yêu thƣơng đùm bọc lẫn nhau, vậy mà oái oăm thay, nhà trƣờng trong xã hội
thực dân phong kiến lại tàn bạo và bất công vô cùng đối với học trò. Nhân vật
ngƣời thầy giáo trong Những ngày thơ ấu đã đày đọa, đánh đập một cách tàn nhẫn
cậu học trò Hồng chỉ vì ông ta lầm tƣởng rằng Hồng đã cãi lại một cách vô ý thức:
“Bốp! chát! bốp! chát! Một cái tát đập mạnh vào mặt tôi bằng sức mạnh của một
con thú dữ đương cuồng lên, lại một cái tát khác... rồi một cái tát khác. Hai bàn
tay của thầy giáo vả vào mặt tôi chẳng kỳ mắt mũi, gò má thái dương. Tôi phải ôm
lấy đầu. Thầy giáo liền giằng tôi ra và đưa những quả đấm nắm chắc vào mặt tôi...
làm máu mũi chảy ròng ròng... ống chân mông đít sống lưng bả vai và hai cánh
tay tôi như bị vặt ra từng miếng thịt bởi những đầu thước kẻ... Rắc!cái thước kẻ
quật lên rồi vọt xuống trần nhà” [73, tr. 245]. Sự ngƣợc đãi của một ông thầy thật
là tàn nhẫn, qua trận đòn ác liệt ấy chú bé Hồng đã phải quỳ mọp ở lớp học, “một
ngày quỳ 5 giờ... ở một góc tường hôi hám” chƣa biết bao giờ ông thầy tàn bạo ấy
mới tha cho! Nhƣ vậy, ta đã thấy rõ sự ngƣợc đãi bất công đối với con trẻ không
chỉ diễn ra ở ngoài xã hội, mà nó còn ở cả trong gia đình, trong nhà trƣờng. Ở
trong gia đình, chúng bị ngƣời thân của mình hắt hủi, đối xử một cách vô trách
nhiệm, ở trong nhà trƣờng chúng bị đánh đập một cách dã man. Ở ngoài xã hội
chúng bị rẻ rúng, bị lạm dụng sức lao động một cách tàn nhẫn. Trƣớc những
nghịch cảnh ấy, trẻ em không tự bảo vệ đƣợc mình, chỉ còn biết chống đỡ bằng
cách... khóc. Qua những cảnh đời này Nguyên Hồng đã vạch trần ra những “vết
thƣơng xã hội” đã khiến trẻ em phải chịu nhiều những tai ƣơng, đau đớn, uất ức
về tinh thần, thiếu thốn về vật chất. Nguyên Hồng thể hiện nỗi đau đớn ấy vào
từng trang viết, nên trang viết nào cũng khiến cho ngƣời đọc phải bàng hoàng,
đau xót trƣớc thân phận của những trẻ em nghèo.
Đặc điểm nổi bật thứ hai khi viết về nhân vật trẻ em của Nguyên Hồng là:
những nhân vật trẻ em bị cuộc sống nghèo đói đẩy vào con đường lưu manh hóa.
Để phản ánh những nỗi khổ, những nỗi đọa đầy của những thân phận bé
nhỏ trong xã hội cũ, Nguyên Hồng đã có một cái nhìn bao quát về tất cả những sự
đau khổ của con ngƣời - trong đó có nhân vật trẻ em. Sự đọa đày về thể xác thôi
chƣa đủ, chúng còn chịu đọa đày về tinh thần, và đau xót hơn nữa là chúng đã bị
đẩy vào con đƣờng lƣu manh, trộm cắp, lừa lọc… để tồn tại (nhƣ các nhân vật:
70
Điều, Tý Sáu (trong Con chó vàng) và một số nhân vật trẻ em khác trong tiểu
thuyết tự truyện Những ngày thơ ấu, tiểu thuyết Bỉ vỏ, truyện ngắn Hai nhà nghề,
Bảy Hựu)… Cả một thế giới nhân vật trẻ em vì phải kiếm sống (hoặc do những
hoàn cảnh éo le đem lại) đã phải sống lang thang, vất vƣởng nơi đầu đƣờng xó
chợ, học đủ mọi “ngón nghề” của cờ bạc, ăn cắp, lừa lọc đề tồn tại. Nhân vật Điều
và Tý Sáu (Con chó vàng), những “vỏ lỏi”, những “tiểu yêu” nhƣ Hiếu, Sẹo,
Minh… (Bỉ vỏ) tuy còn ít tuổi mà đã phải va chạm với đủ mọi cái phức tạp để
kiếm sống nhƣ: chơi xóc đĩa, đánh bạc, ăn cắp, lừa lọc... Tuổi thơ của chúng là cả
một chuỗi ngày tháng đói rét, thiếu thốn, là phải chịu áp bức, bất công. Cuộc sống
“đầu đƣờng, xó chợ” của chúng thật là nghiệt ngã, chúng luôn bị chèn ép, bóc lột
bởi những quy định ngầm của “xã hội đen”, phải cống nạp cho những tay “anh
chị” thì mới có đất để mà làm ăn, mà tồn tại. Phản ánh thực tế nghiệt ngã này,
Nguyên Hồng xót xa chỉ ra rằng: Cho dù chúng là những đứa trẻ nghèo khổ, sống
thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần - thậm chí bị đẩy vào con đƣờng lƣu manh
hóa thì chúng vẫn là những đứa trẻ giàu tình cảm, nhân hậu, luôn khao khát hạnh
phúc gia đình, khát khao tình mẫu tử, giàu nghị lực và luôn mơ ước có một cuộc
sống tốt đẹp hơn. Nếu Vũ Trọng Phụng nhìn nhân vật trẻ em lƣu manh hóa nhƣ
những con ngƣời hƣ hỏng về bản chất, thì Nguyên Hồng lại nhận thấy ở chúng vẫn
còn nhiều phẩm chất tốt đẹp, chúng luôn có sự tƣơng thân tƣơng tƣơng ái, biết yêu
thƣơng đùm bọc nhau trong cảnh nghèo khổ (Hai nhà nghề... ); chúng biết đồng
cảm, chia sẻ những nỗi buồn đau với nhau (Con chó vàng; Đây, bóng tối...);
chúng luôn khát khao cuộc sống lƣơng thiện, trong sạch và đặc biệt là luôn khát
khao tình mẫu tử nhƣ: nhân vật bé Hồng (trong Những ngày thơ ấu), nhân vật
Dũng (trong Mợ Du)…
Tóm lại, thế giới trẻ em trong sáng tác của Nguyên Hồng trƣớc Cách mạng
8/1945 hầu hết đều là những đứa trẻ nghèo đói, bất hạnh, sống một cuộc đời không
có tuổi thơ, thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần, không đƣợc yêu thƣơng, đùm
bọc, chăm sóc của gia đình và xã hội. Mỗi số phận, mỗi cảnh ngộ đáng thƣơng của
chúng đƣợc nhà văn miêu tả rất sinh động, đa dạng và sắc nét, gợi nỗi niềm thƣơng
cảm và xót xa với ngƣời đọc. Tuy nhiên, nhân vật trẻ em trong sáng tác của
Nguyên Hồng dù rơi vào hoàn cảnh bất hạnh nhƣ thế nào thì chúng vẫn là những
đứa trẻ nhân hậu, giàu tình tƣơng thân tƣơng ái, khao khát đƣợc sống trong tình
71
mẫu tử, khao khát một cuộc sống gia đình tốt đẹp, sống trong một xã hội giàu tình
thƣơng và lòng nhân ái với con ngƣời. Thể hiện và khẳng định những đức tính tốt
đẹp này của nhân vật trẻ em, Nguyên Hồng luôn thể hiện tấm lòng thƣơng yêu
thắm thiết và nâng niu trân trọng - cũng là điểm mạnh, điểm tiến bộ của Nguyên
Hồng - một nhà văn hiện thực giàu lòng nhân ái.
Ngoài hai loại nhân vật phụ nữ và trẻ em, Nguyên Hồng còn khắc họa khá
thành công và có những nét đặc sắc riêng khi viết về loại nhân vật thanh niên trí
thức tiểu tƣ sản nghèo. Loại nhân vật này có một số đặc điểm nhƣ sau:
3.1.3. Những người trí thức tiểu tư sản nghèo, giàu hoài bão nhưng bất lực và
bế tắc trước cuộc sống
Viết về cuộc sống và tình cảnh bi đát của ngƣời trí thức tiểu tƣ sản nghèo
trƣớc cách mạng tháng Tám đã có khá nhiều sáng tác của nhà văn (kể cả nhà văn
hiện thực phê phán và nhà văn lãng mạn). Các tác phẩm của Thạch Lam, Nam
Cao, Lan Khai... viết về ngƣời trí thức tiểu tƣ sản nghèo sống trong nỗi cô đơn,
khốn khó, bị rơi vào tấn bi kịch của cuộc đời khi “áo cơm ghì sát đất”, với những
mơ ƣớc, khát khao ngày càng bị “mòn đi”, “rỉ ra” một cách thảm hại. Nguyên
Hồng cũng là một trong các nhà văn thời đó có sự quan tâm sâu sắc về đề tài này.
Trong hàng loạt các tác phẩm của ông, nhân vật ngƣời trí thức tiểu tƣ sản nghèo đã
hiện lên một cách sinh động với những đặc điểm vừa mang những đặc tính chung
giống nhƣ một số nhà văn khác, vừa mang những nét riêng chỉ có ở Nguyên Hồng.
Và chính ở mảng đề tài này, ở loại nhân vật này, Nguyên Hồng cũng đã khẳng
định đƣợc sức sáng tạo và những đóng góp riêng của mình.
Qua khảo sát những sáng tác của Nguyên Hồng thời kỳ trƣớc cách mạng,
chúng tôi nhận thấy kiểu nhân vật này xuất hiện có phần ít hơn so với kiểu nhân vật
ngƣời phụ nữ và trẻ em (chiếm 24,5%), nhƣng sự phản ánh và sức khái quát của nó
thì cũng không kém phần sâu sắc. Nguyên Hồng đã từng là thầy giáo dạy học một
cách lén lút cho những con em ở xóm trọ nghèo nàn; đã từng nếm trải cảnh thất
nghiệp, cùng quẫn của tầng lớp trí thức tiểu tƣ sản nghèo trong xã hội cũ - nên nhà
văn hiểu sâu sắc đời sống vật chất và tinh thần của họ. Khi xây dựng kiểu nhân vật
ngƣời trí thức tiểu tƣ sản nghèo, Nguyên Hồng đã tỏ ra rất giàu vốn sống, rất am
hiểu về cuộc sống tối tăm, bế tắc cùng những khát vọng sáng tạo nghệ thuật không
72
thể thực hiện đƣợc của họ trong hoàn cảnh xã hội đầy bất công, đầy tội ác này. Cũng
qua kiểu nhân vật này, nhà văn đã thể hiện khá rõ quan điểm nghệ thuật của mình.
Sống trong xã hội thực dân nửa phong kiến, ngƣời trí thức tiểu tƣ sản cũng
không thoát khỏi cảnh nghèo đói và thất nghiệp. Nhân vật Hƣng (trong Miếng
bánh), Huyên (trong Những mầm sống), Sinh (trong Hơi thở tàn), An, Giang
(trong Ngọn lửa),… là những văn sĩ hiểu sâu sắc sứ mệnh chân chính của văn
chƣơng và khát khao có nhiều sáng tạo văn chƣơng, nhƣng xã hội thực dân phong
kiến đen tối đó đã không tạo điều kiện cho phép họ sáng tạo và thể hiện năng lực
của mình để cống hiến cho xã hội. Ngƣời trí thức tiểu tƣ sản nghèo khổ bị rơi vào
bi kịch tinh thần, đó là sự day dứt giữa hoài bão khát vọng trong lĩnh vực sáng tạo
nghệ thuật với thực tiễn đói nghèo tăm tối khiến họ rơi vào cảnh bế tắc, bất lực.
Họ khát khao sáng tạo với hy vọng đóng góp đƣợc những tác phẩm có ý nghĩa cho
cuộc đời, nhƣng thực tế là họ phải sống trong tình trạng thất nghiệp, không công
ăn việc làm, sống trong những cái “xóm cặn bã”, kiếm sống bằng cách “dạy học
lẩn lút từng giờ”, “dạy học một cách khốn nạn”, “lo sợ hồi hộp” để kiếm “món
tiền nuôi sống một cách hèn hạ những con người nheo nhóc: dở trò, dở thầy” [73,
tr. 201]. Thất nghiệp kéo dài, bệnh tật giày vò, nhân vật Giang (trong Ngọn lửa) đã
phải bán dần đi “những quần áo, sách học, những tập truyện và những tập thơ loại
giấy đẹp của tôi dần dần bán đi (...) Và tôi càng phải lại nghĩ đến không phải chỉ
có mình tôi mà chung quanh tôi, ngay cạnh tôi, biết bao nhiêu kẻ còn lại cùng
cực đói khổ hơn tôi nữa” [73, tr. 133]. Ngƣời trí thức chỉ thấy: “rõ ràng đời mình
đen tối và khốn nạn vô cùng, không còn một cái gì để tô điểm che đậy, lấp láp
được nữa” [73, tr. 527]. Những lo lắng kiếm sống, những toan tính tủn mủn về vật
chất đã ngốn hết thời gian sáng tạo nghệ thuật của họ. Càng ngày họ càng cảm thấy
bất lực, bế tắc, càng cảm thấy đau đớn, khổ tâm, bởi hơn ai hết họ hiểu sâu sắc sứ
mệnh của văn chƣơng là “Văn chương phải thể hiện những đau buồn thương xót,
những mừng vui khao khát, những ước mong tin tưởng” của những ngƣời lao động
nghèo khổ. Có nhƣ vậy nghệ thuật mới đích thực là nghệ thuật phục vụ cho con
ngƣời. Nhƣng sống trong xã hội phong kiến thực dân thối nát đƣơng thời, ƣớc mơ
của họ không thể trở thành hiện thực.
Ngƣời trí thức tiểu tƣ sản nghèo trong sáng tác của Nguyên Hồng luôn bị
đau đớn, giày vò giữa nhân phẩm, danh dự nghề nghiệp với thực tế đen tối, phũ
73
phàng. Với kiểu nhân vật này, Nguyên Hồng cũng chú ý phân tích quá trình bị bần
cùng hóa của họ. Trong truyện ngắn Vũng máu, Nguyên Hồng đã đƣa ra một so
sánh về thu nhập của một nhà văn và một ngƣời bồi bàn ở những tiệm ăn sang
trọng trong xã hội. Nhà văn sáng tác “mỗi năm, tiền sách, tiền báo anh được 1.200
đồng… một người bồi hầu hạ ở cái nơi “quý phái” này, ngày nào mạt nhất cũng
được hơn 40 đồng của chúng nó quẳng cho ” [73, tr. 620], đủ thấy “công lao
động” của một nhà văn rẻ rúng biết nhƣờng nào. Vì vậy, ngƣời trí thức không chỉ
bị bần cùng hóa vì lâm vào cảnh thất nghiệp đói khát kéo dài, mà họ còn bị đau
đớn, xúc phạm về tinh thần, nhân cách. Nhân vật Hƣng (Miếng bánh) do ăn uống
kham khổ lâu ngày, muốn mua cho mình một tấm bánh để ăn, một ý muốn rất nhỏ
và chính đáng, nhƣng anh đã phải dằn vặt và suy nghĩ mãi vì gia tài còn lại của hai
vợ chồng là hai hào bạc, là món tiền vợ chồng anh chạy vạy mãi để đi xin việc.
Đấu tranh tƣ tƣởng mãi rồi Hƣng mới mua miếng bánh, nhƣng vừa đƣa miếng
bánh vào miệng, chƣa kịp cảm nhận cái vị thơm ngon của nó, thì hình ảnh ngƣời
vợ ốm o, đói khát hiện lên trƣớc mắt Hƣng. Ngay lập tức, anh cảm thấy đấy là
hành động tội lỗi. Hƣng cảm thấy mình chỉ là “một thằng khốn nạn”. Hƣng tự xỉ
vả mình, tự lên án, chất vấn lƣơng tâm, cảm thấy miếng bánh giờ đây “như mảnh
thủy tinh tẩm mật cá” trong miệng. Miếng ăn đã trở thành miếng nhục, thành sự
tủi hổ đối với Hƣng. Cực thay, chỉ vì miếng bánh ăn lúc đói lòng mà anh phải day
dứt, xỉ vả mình. Càng day dứt bao nhiêu, lòng tự trọng của Hƣng càng tổn thƣơng
bấy nhiêu và anh lại càng đau khổ vì điều đó. Nhân vật Sinh (Hơi thở tàn) một trí
thức tiểu tƣ sản nghèo cũng đã từng phải nếm trải cảm giác đói khát “Cái đói đã
mở hết móng vuốt ra, cào vào giác quan Sinh, Sinh không thể đứng, ngồi, ngồi yên
và quên được nữa với cả cái xác thịt và tâm trí rã rời, ê ẩm” (74, tr. 702). Nhân
vật Giang (trong Ngọn lửa) cũng vậy, sau những ngày không có việc làm, cái gì có
thể bán đƣợc để ăn, Giang đã bán hết. Nhịn đói kéo dài, lúc nào anh cũng có cảm
giác thèm thuồng vì đói. Lúc nào anh cũng luẩn quẩn nghĩ tới cái ăn. Một lần, vì
quá đói mà không đấu tranh nổi mình, anh đã toan tính và làm cái việc mà anh cho
là đáng xấu hổ là ăn trộm cơm nguội của gia đình ngƣời chủ nhà trong đêm tối.
Sau hành động đó, ngay lập tức, Giang tự vấn lƣơng tâm, tự xỉ vả mình “được ăn
học, chữ nghĩa hẳn hoi mà ăn xó mó niêu như thế đấy”, “Bao nhiêu sự khốn nạn
sẽ tới… tôi sẽ làm cho bao kẻ “gọi là có học” bị họ rẻ rúng khi liên tưởng đến tôi”
74
[73, tr. 146]. Anh rơi vào sự giằng xé giữa lƣơng tâm, danh dự và hành động của
mình. Sự chất vấn và day dứt lƣơng tâm của Giang cũng phần nào giống tâm trạng
nhân vật Hộ của Nam Cao (Đời thừa). Hộ khi phải đứng trƣớc một sự lựa chọn
nghiệt ngã: Một bên là nghiệp văn của cá nhân mình, một bên là sự sống của gia
đình. Dù say mê văn chƣơng nhƣng anh cũng đành phải gác bỏ sự nghiệp văn
chƣơng của mình để lao vào kiếm tiền nuôi vợ con. Là ngƣời luôn coi trọng tình
thƣơng, nhƣng cuộc sống tàn bạo đã giết chết luôn cả nguyên tắc tình thƣơng của
Hộ. Nó đã đầu độc cuộc sống của Hộ và huỷ hoại tất cả những gì là tốt đẹp nhất
của một ngƣời trí thức. Viết về mảng đề tài này, giữa Nguyên Hồng và Nam Cao
đều thể hiện đƣợc những bi kịch tinh thần của ngƣời trí thức tiểu tƣ sản nghèo
trong xã hội thực dân phong kiến đƣơng thời.
Sách luôn là món ăn tinh thần, là sản phẩm tinh thần vô giá của mọi ngƣời
nói chung, giới trí thức nói riêng. Vậy mà nhân vật Lƣu (Lúc chiều xuống) đã phải
đau đớn bán đi những quyển sách mà anh coi là báu vật, vì gia đình anh đã không
còn một thứ gì có thể bán đƣợc để đổi lấy cái ăn trƣớc mắt. Bản thân lại đang thất
nghiệp, vợ anh đã phải bán cả tấm áo ngày cƣới để mà… ăn! Nghèo đói kiệt quệ
đã bòn rút sức lực của anh, “Lưu phờ phạc chẳng còn thiết cơm nước như người
sắp lên cơn sốt... mắt ngầu ngầu quầng thâm, má tóp...”, những quyển sách mà
anh quý giá vô cùng bị rẻ rúng, bị mặc cả mua với cái giá rẻ mạt. Dù đau lòng và
cảm thấy bị sỉ nhục, anh cũng phải chấp nhận bán, nhƣng trớ trêu thay, ngƣời ta
cũng chẳng mua sách cho anh vì anh... không mang thẻ căn cƣớc! Lƣu cảm thấy bị
xúc phạm, đau đớn vì một trong những thứ quý giá nhất với anh là sách thì sách bị
rẻ rúng, chẳng có giá trị gì với ngƣời mua, nhân phẩm của anh thì bị coi thƣờng,
cuộc sống trƣớc mắt thì bế tắc, anh hoàn toàn bất lực trƣớc hiện thực đen tối ấy!...
Ngƣời trí thức tiểu tƣ sản trong sáng tác của Nguyên Hồng trƣớc Cách mạng tháng
Tám năm 1945 mỗi ngƣời một cảnh ngộ riêng, qua ngòi bút Nguyên Hồng, chân
dung của họ hiện lên chân thực và đau xót. Và đâu đó, qua những trang văn ít
nhiều đã để lại những phần đời thực của tác giả đồng điệu với chân dung nhân vật
trong tác phẩm.
Điểm qua đặc điểm tính cách của những nhân vật trí thức tiểu tƣ sản
nghèo của Nguyên Hồng, ta còn thấy rất rõ ở họ những nét nhu nhƣợc, yếu
đuối, thậm chí là hơi hèn nữa. Ví dụ nhƣ: nhân vật ngƣời trí thức trong Giọt
75
máu khi thấy kẻ ác hoành hành (mụ chủ nhà chửi mắng và nhẫn tâm tƣớc đi
những bắp ngô mà Thạo bé chăm chút để trừ vào tiền nợ của gia đình em, tƣớc
đi niềm hi vọng nhỏ nhoi của bé Thạo), họ chỉ bó tay chịu bất lực, không dám
bênh vực, bảo vệ ngƣời bị hại, bị đối xử tàn nhẫn, tuy rằng thâm tâm có sự
cảm thông và sự căm phẫn rõ ràng. Nhân vật Thân (trong Quán Nải) cũng
thƣờng dè dặt trong giao tiếp, ứng xử, nặng về suy nghĩ nội tâm hơn hành
động; Nhân vật Minh (trong Lưới sắt) sau khi đi tù về, nhìn cái gì cũng sợ sệt,
hốt hoảng, muốn né tránh mọi chuyện. Tuy nhiên, khi chứng kiến những cảnh
đời đau khổ lầm than của nhân dân lao động, Minh đã nhận thức lại và tin
tƣởng vào thắng lợi cuối cùng của cuộc cách mạng - Và đây chính là sự tiến
bộ trong nhận thức tƣ tƣởng của Nguyên Hồng khi phản ánh về hình tƣợng
ngƣời trí thức tiểu tƣ sản khi họ nghĩ về nhân dân lao động, về cách mạng.
Tuy rơi vào hoàn cảnh bế tắc, bất lực và phải chịu đựng sự uất ức tủi hổ về
tinh thần, nhƣng nhân vật ngƣời trí thức tiểu tƣ sản của Nguyên Hồng không vì thế
mà trở nên khinh bạc, hoặc trốn đời, rời xa những ngƣời lao động nghèo khổ, trái
lại họ có một trái tim chan chứa yêu thƣơng đối với những ngƣời dân nghèo lam
lũ. Bản thân Nguyên Hồng khi phải vật lộn kiếm sống và chính trong những ngày
đau khổ, đói khát, lang thang đi tìm việc làm ở Sáu Kho, Xi Măng, Cốt Phát,…
Nguyên Hồng lại thấy cuộc sống có ý nghĩa hơn bởi ông biết mình đang sống giữa
những con ngƣời giàu tình cảm, trọng tình nghĩa. Tình cảm và sự lạc quan của
ngƣời lao động đã thôi thúc nhà văn viết về những con ngƣời lao khổ ngay từ
những tác phẩm đầu tay của mình. Cũng nhƣ vậy, nhân vật ngƣời trí thức tiểu tƣ
sản nghèo của Nguyên Hồng tuy bất lực trƣớc cuộc sống đen tối, nhƣng họ không
hề tuyệt vọng - đó là điều vô cùng quý giá trong hoàn cảnh ngặt nghèo này.
Mặt khác, những ngƣời trí thức tiểu tƣ sản nghèo trong xã hội đen tối ấy đã
tìm thấy đƣợc chất thơ từ đời sống cần lao, từ những con ngƣời “bán mặt cho đất,
bán lƣng cho trời” quanh năm suốt tháng để kiếm sống. Họ thấy mình phải gần gũi
“cảm thông” và “tin tưởng tha thiết”, “một tình yêu thương đắm đuối”, “một
niềm đồng cảm sâu sắc” vào những ngƣời “cùng hoàn cảnh, cùng một đời sống
thấp kém và tối tăm, vì thiếu thốn đủ mọi thứ, vì phải chịu đựng đủ mọi thứ” (Lớp
học lẩn lút). Đồng thời ngƣời trí thức cũng xác định phải gắn bó với nhân dân lao
động nhƣ “rễ dây tơ bám riết lấy lòng đất, càng lâu bao nhiêu càng vững chắc,
76
nảy nở bấy nhiêu”. Họ hiểu sâu sắc rằng, chỉ có nhƣ vậy thì nghệ thuật mới có ý
nghĩa và họ luôn mơ ƣớc để sáng tạo những tác phẩm nghệ thuật đúng nghĩa:
“Chúng ta phải nói gì về người, làm gì về người, để tìm thấy một con đường, một
chân trời êm mát, tốt tươi qua những ngày mưa dầu, nắng lửa” [73, tr. 474]. Xác
định đƣợc đúng đắn mối quan hệ giữa văn chƣơng và cuộc sống thể hiện quan
điểm rất tiến bộ của Nguyên Hồng so với các nhà văn hiện thực khác.
Viết về nhân vật trí thức tiểu tƣ sản trƣớc cách mạng tháng Tám 1945,
Nguyên Hồng và Nam Cao đều có điểm gặp gỡ nhất định, nhƣng nhân vật trí thức
của Nguyên Hồng cảm nhận được cái tất yếu phải thay đổi xã hội rõ rệt và mạnh
mẽ hơn so với nhân vật trí thức của Nam Cao. Nguyên Hồng đã thể hiện quan
điểm của mình qua một cuộc đối thoại giữa nhân vật Quang (một ngƣời có bằng
thành chung) và Tâm - một nhà văn (có chút tiếng tăm) trong Vũng máu: “Anh!
Anh có biết những tin gì đang âm ỉ ở các vùng quê không? Và những tin gì bừng
bừng của thế giới đang bị bịt đi không? Cách mạng! Phải có một cuộc cách mạng
mà máu của chính mình đổ ra, phải có một trận cuối cùng của quần chúng lật hẳn
cái chế độ xã hội này đi, nếu không thì đến tắc thở, đến phát điên cả mất” [73, tr.
623]. Nhƣ vậy, ngƣời trí thức trong sáng tác của Nguyên Hồng đã xác định rõ ràng
hơn về con đƣờng đi của mình, đồng thời cũng thể hiện thái độ phẫn uất, căm thù
của họ đối với xã hội bất công đƣơng thời. Điều đáng nói là qua kiểu nhân vật này,
Nguyên Hồng đã bƣớc đầu thể hiện sự vƣơn tới lý tƣởng mới của nhà văn - và có
lẽ qua họ - Nguyên Hồng dễ dàng phát biểu những suy nghĩ và lòng nhiệt tình của
mình đối với lý tƣởng cộng sản. "Từ sau năm 1940, nhất là khi tham gia tổ chức văn
hoá cứu quốc bí mật, tính chất luận chiến nổi lên rất rõ rệt trong các tác phẩm của
Nguyên Hồng" [116, tr. 131]. Khảo sát những sáng tác của Nguyên Hồng từ Lớp
học lẩn lút (1939), Cuộc sống (1942) đến Một trưa nắng (1943), Lúc chiều
xuống (1943), Hai dòng sữa (1943), Hơi thở tàn (1944), Vực thẳm (1945), Ngọn
lửa (1945), Miếng bánh (1945)... chúng tôi nhận thấy: nhân vật ngƣời trí thức của
Nguyên Hồng có sự chuyển biến tích cực về mặt tƣ tƣởng. Ngƣời trí thức tiểu tƣ
sản từ chỗ cảm nhận thấm thía sự gắn bó của mình với nhân dân lao động nghèo
khổ bằng mối tình ruột thịt (Lớp học lẩn lút) đến chỗ chủ động đến với nhân dân
(Cuộc sống), cũng có nghĩa là đi đến với cảm hứng nghệ thuật chân chính của
mình “như dây tơ bám riết vào cuộc sống” (Hai dòng sữa). Họ xác định: cuộc
77
sống cần lao của nhân dân lao khổ chính là bầu sữa mẹ nuôi dƣỡng nghệ thuật,
nuôi dƣỡng lòng tin tƣởng của họ đối với con ngƣời. Nhân vật Sinh (Hơi thở tàn)
đã có một lý tƣởng mới mẻ khi anh thực sự tham gia lao động chân tay với những
anh em thợ thuyền, với dân nghèo thành thị - đó là nơi rèn luyện nghị lực cho anh
để trong lúc “hơi thở tàn” anh vẫn có thể vƣợt qua những khó khăn, thử thách.
Cũng vậy, nhân vật anh tiểu tƣ sản Tuyên (Cuộc sống), Minh (Lưới sắt) đã thực
sự tham gia cách mạng, gắn bó với cách mạng, “Minh chỉ có mỗi vui sướng là
được gần gụi họ, làm việc với họ, giải thích cho họ những băn khoăn, những nỗi
đau khổ. Khuyến khích họ hoạt động, tổ chức, tranh đấu trong những lúc bị bọn
thống trị Pháp khủng bố ghê gớm; và sôi nổi cùng họ niềm tin tưởng ở cuộc cách
mệnh giải phóng sau này” [73, tr. 664]. Nhân vật trí thức tiểu tƣ sản nghèo của
Nguyên Hồng không hề bi quan, tác giả đã hé ra một viễn cảnh mà sau này sẽ trở
thành hiện thực: nhân vật Tuyên, Minh,... đang sống trong những ngày giông bão
của cuộc cách mạng lớn - cách mạng giải phóng dân tộc. Ngƣời trí thức chỉ cần có
lòng tin tƣởng vào nhân dân, anh sẽ có vị trí tất yếu trong cuộc đổi đời của cả dân
tộc. Nhƣ vậy, qua những nhân vật trí thức tiểu tƣ sản nghèo, nhà văn đã đặt ra vấn
đề lý tƣởng của thanh niên và gửi gắm những suy nghĩ sôi nổi, náo nức của ông về
thời cuộc đang dẫn đến những hy vọng mới với một tƣơng lai đầy hứa hẹn (Cuộc
sống, Miếng bánh, Hai dòng sữa...).
Tóm lại, viết về nhân vật nhân vật trí thức tiểu tƣ sản trƣớc Cách mạng
tháng Tám năm 1945, Nguyên Hồng đã có những thành công nhất định. Nhà văn
đã miêu tả chi tiết, xúc động bi kịch cuộc sống tinh thần và vật chất của họ, đặc
biệt là quá trình nhận thức của họ: từ chỗ cảm nhận thấm thía cuộc sống cơ cực
của nhân dân lao động nghèo khổ đến chỗ chủ động đến với nhân dân. Khi xây
dựng nhân vật này, Nguyên Hồng cũng gửi gắm quan niệm về nghệ thuật của mình
qua sự khai thác triệt để sự tƣơng phản giữa hoàn cảnh sống và khát vọng sống,
khát vọng sáng tạo của ngƣời trí thức. Viết về họ, Nguyên Hồng góp thêm tiếng
nói đòi quyền sống đích thực, quyền tự do cho con ngƣời góp phần đấu tranh đòi
thay đổi xã hội, một xã hội đầy sự bất công, vô nhân đạo đƣơng thời.
3.1.4. Những nhân vật con người tha hoá
Trong thế giới nhân vật phong phú đông đảo của mình, Nguyên Hồng cũng
đặc biệt tập trung khắc họa kiểu nhân vật bị tha hóa. Nhìn con ngƣời nhƣ là nạn
78
nhân của hoàn cảnh sống ngột ngạt, bế tắc, tăm tối, nhiều nhà văn hiện thực cũng
đã nhìn thấy vấn đề tha hóa nhƣ một hệ quả tất yếu của sự biến đổi phẩm chất và
tính cách con ngƣời dƣới sự tác động của môi trƣờng, hoàn cảnh sống. Trong ý
thức của những nhà văn này, con ngƣời bị tha hóa là một sự tất nhiên, bởi những
con ngƣời ấy là sản phẩm tất yếu của xã hội thực dân phong kiến bất công, vô nhân
đạo đƣơng thời. Tuy nhiên ở mỗi một nhà văn hiện thực, việc thể hiện con ngƣời
tha hóa có khác nhau, Nguyễn Công Hoan quan niệm: bản chất xã hội thực dân
phong kiến là nguyên nhân trực tiếp làm tha hóa con ngƣời, nên thƣờng nhìn nhân
vật từ cái xấu và sự nhạy cảm với cái xấu đã trở thành ý thức thẩm mỹ của nhà
văn, (Ông chủ, Mất cái ví, Bước đường cùng, Đồng hào có ma, Bà chủ mất
trộm…); Vũ Trọng Phụng chú ý đến những nguyên nhân cụ thể dẫn đến tình trạng
tha hóa của con ngƣời, đó là do con ngƣời không cƣỡng lại nổi “cái bả của vật
chất”, “nền luân lý ích kỷ” và “sự tín ngưỡng thế lực hoàng kim” (Giông tố, Số
đỏ, Trúng số độc đắc…); Nam Cao quan niệm môi trƣờng phi nhân tính của xã
hội Việt Nam đƣơng thời đã đẩy ngƣời lƣơng thiện tới bƣớc bần cùng hóa, dẫn đến
tha hóa và lƣu manh (Chí Phèo, Tư cách mõ, Nửa đêm…). Tuy nhiên, Nam Cao
vẫn tin vào bản chất lƣơng thiện của con ngƣời, cho dù họ bị xã hội bất công hủy
hoại cả nhân hình lẫn nhân tính... So với những nhà văn hiện thực khác thì Nguyên
Hồng rất thành công khi viết về nhân vật tha hóa, lƣu manh hóa. Có thể nói đây là
kiểu nhân vật đặc biệt của nhà văn. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Nguyên
Hồng rất thành công khi xây dựng kiểu nhân vật này [1, tr. 801]. Nguyên Hồng là
ngƣời có thế mạnh khi viết về những hạng ngƣời lƣu manh trong xã hội. “Xu
hướng lưu manh trong văn chương Việt Nam có nhiều điều kiện để nảy nở mạnh
mẽ… Trong phạm vi văn học và đứng về quan điểm duy vật biện chứng, ta có thể
lấy Nguyên Hồng làm đại biểu chính thức cho xu hướng lưu manh Việt Nam hiện
đại” [156, tr. 90]. Ngay từ những tác phẩm đầu tay, Nguyên Hồng đã chú ý đến hai
đối tƣợng đặc biệt trong xã hội, con ngƣời tha hóa và bị lƣu manh hóa, đó là những
nhân vật gái điếm và trộm cƣớp. Đi vào tận cùng nỗi khổ của con ngƣời, Nguyên
Hồng đã chú ý khai thác kiểu nhân vật bị cùng đƣờng, bế tắc trong cuộc sống, phải
làm những nghề mạt hạng trong xã hội nhƣ: làm gái mại dâm, ăn cắp, ăn cƣớp, đâm
thuê chém mƣớn, giết ngƣời, cờ bạc... để tồn tại. Nguyên Hồng đã lấy chính tính
chất nghề nghiệp của họ mà đặt tên cho các nhân vật của mình, nhƣ: nhân vật Hai
79
Răng vàng, Bảy Hựu, Tƣ Chơi, Xuân Rồng, Hai Béo, Hàn Rám má, Ba Đen, Sửu
Nháy, Sáu Lẹm cằm... (trong Bảy Hựu), Năm Sài Gòn, Tám Bính, Chín Hiếc, Mƣời
Khai, Ba Bay, Tƣ - lập - lơ... (trong Bỉ vỏ), Chín Huyền (trong Chín Huyền), Sáu
H.G (trong Con đoàn cuối cùng)… Những cái tên ấy đã phần nào phản ánh đƣợc
thế giới của những “dân chạy vỏ” trong xã hội đƣơng thời ngày ấy.
Họ đến với nghề nghiệp đặc biệt này do nhiều nguyên nhân khác nhau. Hầu
hết các nhà nghiên cứu cho rằng, nguyên nhân đầu tiên “đẻ” ra loại nhân vật này
chính là xã hội đƣơng thời đầy bất công và tội lỗi. Trong xã hội đó, một số lớn
nông dân bị cƣớp ruộng vƣờn, hoặc phải cầm cố ruộng đất, bị nợ nần chồng chất,
họ phải đổ sô ra thành thị để kiếm sống; Công nhân phải lao động kiệt quệ sức lực
mà đồng lƣơng đƣợc trả thì rẻ mạt, không đủ sống; dân nghèo thành thị thì phải
sống vất vƣởng, đói khát, làm trăm nghề mạt hạng để kiếm ăn... Tất cả họ bị xã hội
đẩy vào vực thẳm của sự đói khát, bệnh tật: “Xứ Đông Dương Pháp mới kĩ nghệ
hóa có một phần. Các xưởng máy ít ỏi không thu hút xuể sức lao động đã rẻ rúng
lại quá thừa thãi ấy. Những người không kiếm được việc làm tại các xưởng công
nghệ hoặc phải làm thuê bắt buộc, cũng cứ phải cố bám vào thành thị mà lay lắt
sống. Không tham gia vào sự sản xuất, họ sống vất vưởng một cuộc đời ký sinh.
Họ thuộc dạng lưu manh vô sản. Du côn “anh chị”, đĩ điếm, ả đào, con hát, bọn
chuyên cờ bạc bịp, trộm cắp, lưu đãng, hành khất rất đông đảo” [156, tr. 87].
Cuộc sống vô cùng túng quẫn, họ làm lụng tới kiệt sức mà cũng không đủ nuôi
sống bản thân, không cả dám nghĩ đến chuyện vợ con, những ngƣời nhƣ họ muốn
tồn tại đƣợc thì chỉ còn cách là lao đầu vào các nghề khốn cùng, nhục nhã trong xã
hội. Ví dụ nhƣ: nhân vật Giản (trong Mối hờn) sinh ra trong một gia đình tử tế,
đƣợc ăn học hẳn hoi, có công ăn việc làm ổn định. Nhƣng nhìn ra xung quanh
mình chỉ những cảnh: “người ta chăm chỉ làm ăn quanh năm suốt tháng tới già,
chỉ càng ngày càng xơ xác, túng thiếu cùng cực… rồi cũng lâm vào cảnh sống dở
chết dở để sau cùng thì phải bán thân đi phu cao su, phu mỏ, dốc nốt khí lực ra mà
chết”. Giản không dám nghĩ đến chuyện lấy vợ, bởi “nếu có vợ con mà con bồng
con dắt, thì cái nhà Giản đi về thành địa ngục. Với cái lương ấy, với những công
việc dài dằng dặc ấy… Giản sẽ không còn một phút nào nghĩ đến sự nghỉ ngơi,
được một giấc ngủ đẫy mắt và biết thế nào là ánh sáng, là không khí, là hoa cỏ
của trời đất ngoài ba chữ “vợ”, “con” và “đói” [73, tr. 264]. Giản so sánh đời
80
mình với sự sung sƣớng của ngƣời “hàng phố”, nhất là với những ngƣời Tây,
Giản thấy họ “sướng hơn cả tiên”. Giản ao ƣớc “được ăn mặc, đi chơi, ngồi ô tô
và xem chớp bóng một giờ như họ thôi. Giản có chết cũng xin cam. Đời Giản, một
người An Nam như Giản, được như thế quá đủ mãn nguyện rồi” [73, tr. 266].
Thấm thía nỗi bất công trong xã hội nhƣ vậy, Giản thấy đời mình chỉ còn cách
“đón đường chặn đồ lậu, gác sòng bạc, chém người thuê” mà sống. Kết cục của
sự chọn lựa ấy là Giản phải đi tù hết nhà lao này đến nhà lao khác khi mới có hai
mƣơi sáu tuổi! Chín Huyền (trong Chín Huyền) xuất thân là con của một đô vật ở
huyện Hải Hậu (Nam Định), nhƣng rồi“sự buôn bán vất vả lam lũ là cái cớ đầu
tiên để nàng đi vào con đường tội lỗi” “làm nghề “chạy vỏ” được ăn tiêu đầy đủ,
được biết những lúc sung sướng”, “sống cuộc đời dân “chạy vỏ” xông xáo, không
chịu cảnh bó buộc, tù hãm, thiếu thốn” [73, tr. 175,176]. Những con ngƣời này
phản ứng với xã hội một cách cực đoan bằng những thành tích bất hảo. Đó là Năm
Sài Gòn - trùm lƣu manh đất cảng với những “thành tích” mà “Án tích đã kê chật
cả tờ giấy”, hắn có: “Một oai quyền cho ai sống được sống, bắt ai chết phải chết,
bảo tù phải ngồi tù”... “Non hai phần ba đời bị cảnh tù tội cướp mất... đi đầy ở
Côn Lôn bảy năm, ở khám lớn Sài Gòn, ở Hỏa Lò Hà Nội hai năm... không vợ con,
không anh em, cha mẹ, sống du đãng hết ngày này sang ngày khác” [74, tr. 338];
Đó là Tƣ lập lơ “Trùm chạy vỏ”; là Sáu gáo đồng kẻ “cầm đầu các kẻ chuyên dắt
díu những cơm thầy cơm cô ở “Vườn hoa Đưa Người”; hay những Chín Hiếc,
Mƣời Khai cũng “trùm chạy vỏ” cai quản các gánh ăn cắp suốt dọc bến tàu, suốt
phố Khách, phố Cầm Dầu và những phố đông đúc khác; là Thiết Giản (Mối hờn)
chuyên chém giết thuê để kiếm sống, cả cuộc đời Giản là “tù” và “biệt xứ” “hết
hạn tù với lưỡi dao, Giản lại nay sòng bạc này, mai một cổng kho, một ngõ hẻm
khác. Chưa được mấy tháng, vòng xích lại khóa chặt cổ tay Giản, và đây kia, xa một
chút, sau những lùm cây lù mù, cái đề lao ấy lại giam Giản… Hà Giang, Lai
Châu, Côn Lôn… tù… tù mãi rồi lại đi đầy… rồi hết đời! Năm nay Giản mới hăm
sáu” [73, tr. 264]”. Hầu hết họ là những ngƣời tuổi đời còn rất trẻ, nhƣng đều có
“thâm niên” trong nghề nghiệp của mình. Bảy Hựu (Bảy Hựu) giang hồ từ nhỏ,
không cha mẹ, không quê hƣơng, mới hai mƣơi tuổi mà đã “can án sáu lần, cộng
bốn năm tù” [73, tr. 124]; Tƣ Chơi “hai mươi tư tuổi, can án tám lần tổng cộng
bảy năm tù” [73, tr. 123]; Sửu Nháy hai mƣơi mốt tuổi “can án sáu lần, tổng cộng
81
bốn năm tù”; Hai Răng Vàng “hai mươi tám tuổi, tám lần tù và một lần đi đày”,
và vẫn đang chịu án đày biệt xứ. Họ trở thành những kẻ “sống ngoài vòng pháp
luật” một cách có ý thức - bởi đây là sự phản kháng, sự chống lại xã hội theo cách
của họ. Những con ngƣời này “quyết chống chọi lại với mọi sức mạnh của pháp
luật mà sống cuộc đời như đế vương” [74, tr. 378] nhƣ Năm Sài Gòn, hoặc không
thể “xóa hết được cuộc đời của một con “bỉ vỏ” mà quay lại sống cuộc sống
lương thiện trong xã hội ấy được” nhƣ nhân vật Chín Huyền, Tám Bính..., cho dù
họ biết đấy là những nghề bất lƣơng, dù biết sẽ phải chấp nhận tù tội có thể là án
đầy biệt xứ, là chung thân, là sống mãn đời ở trong những nhà chứa... nhƣng đành
chịu! Những “bỉ vỏ”, những “so chạy” suốt cuộc đời sống lang thang, lẩn lút, sống
bằng lừa bịp, chém giết (thậm chí chém giết lẫn nhau) rồi nhận lại những kết cục
thảm khốc do chính tội lỗi mà mình gây ra. Những nhân vật lƣu manh, tha hóa này
hoạt động dƣới những “tổ chức” của một “thế giới ngầm” nhƣ: Đảng du côn, hội
ăn cắp, phƣờng ăn mày, phƣờng cờ bạc… để tồn tại. Môi trƣờng hoạt động của họ
cũng đa dạng và thƣờng ở những thành phố lớn, trong các chợ, bến ô tô, trong các
sòng bạc lẩn lút, trong các tiệm hút, các hàng cao lâu, những khu ổ chuột, nhà
chứa… Do cuộc sống vất vƣởng nay đây mai đó để kiếm ăn, nên sự gắn bó của
những con ngƣời này cũng không đƣợc chặt chẽ, cho dù nhiều khi họ phải kết bè,
kết đảng để kiếm sống, để thanh toán, sát phạt nhau mà tồn tại. Là những kẻ sống
ngoài vòng pháp luật, nên tất yếu họ không chịu ràng buộc bởi luật pháp, song họ
luôn phải chống chọi với nhiều mối nguy hiểm trong xã hội, nên tính cách những
con ngƣời này rất phức tạp và hung bạo nhƣng cũng đầy nghĩa khí. Nhƣng mặt
khác, qua ngòi bút Nguyên Hồng, những nhân vật này đều tỏ ra là những tay can
trƣờng, nghĩa khí, yêu - ghét, thù hận rõ ràng. Xã hội của tầng lớp lƣu manh dƣới
đáy này cũng có những quy định riêng với những cảnh: uống máu ăn thề, báo thù,
sẵn sàng chết để cứu nhau khỏi cảnh hiểm nguy... và cũng có sự phân chia thứ bậc
trên - dƣới trong một sự ràng buộc chặt chẽ giữa cá nhân với tổ chức riêng của họ.
Với nghệ thuật xây dựng nhân vật theo nguyên tắc tƣơng phản - đối lập,
Nguyên Hồng đã nhận thấy đặc điểm chung ở những con ngƣời tƣởng nhƣ mất hết
nhân tính, chai sạn, trơ trẽn, dửng dƣng, bất mãn với xã hội này lại là những con
ngƣời trọng tình nặng nghĩa. Họ có thể sống, chết vì nhau mà không cần so đo,
tính toán. Ví dụ nhƣ những nhân vật: Chín Huyền, Bảy Hựu, Sáu HG… điều này
82
cũng là tất yếu, bởi trong xã hội đầy cạm bẫy, đầy thủ đoạn ấy những con ngƣời
này muốn sống đƣợc buộc phải dựa vào nhau để tồn tại. “Hạng lưu manh cũng có
những nguyện vọng xã hội nhưng không thành hình rõ ràng. Tuy thiên về cá nhân
nhiều nhưng họ cũng biết đoàn kết cả một xã hội lương dân, mà lường gạt lương
dân cho có hiệu lực… họ căm hờn và thù ghét xã hội, song vì điều kiện sinh hoạt
bất định… sức đoàn kết của họ không chặt chẽ” [156, tr. 88]. Viết về cuộc đời
khốn khổ của những nhân vật lƣu manh dƣới đáy này, Nguyên Hồng đã khắc họa
khá rõ nét và sinh động những suy nghĩ, những hành vi của họ. Những suy nghĩ
phức tạp và đầy mâu thuẫn của các nhân vật (nhƣ nhân vật Giản, Năm Sài gòn,
Tám Bính, Chín Huyền, Hai Răng Vàng)… đã đƣợc nhà văn phân tích một cách
chân thực và sắc nét. Đôi khi Nguyên Hồng cũng muốn lý tƣởng hóa những đức
tính tốt đẹp của những nhân vật này - đó là sự hy sinh tuyệt đối với ngƣời chồng
của nhân vật nhà sư nữ chùa Âm Hồn, của Bảy Hựu với các chiến hữu, của Chín
Huyền với những ngƣời cùng hội cùng thuyền, sự chung thủy của Tám Bính với
Năm Sài Gòn…
Có lẽ, Nguyên Hồng là nhà văn hiện đại đầu tiên viết về tầng lớp lƣu manh
“dƣới đáy”, về những ngƣời phụ nữ sống ngoài vòng pháp luật một cách chân thật
và thành công. Với một cách viết rất hiện thực và khách quan, với một trái tim
đồng cảm sâu sắc, Nguyên Hồng luôn có ý thức phát hiện vẻ đẹp tinh thần của
“những ngƣời khốn khổ” này. Trong khi phơi bày tình cảnh khốn khổ của những
con ngƣời đó, nhà văn cũng đã thể hiện niềm tin của mình về những phẩm chất tốt
đẹp của những con ngƣời tƣởng nhƣ là “cặn bã” trong xã hội. Cho dù cuộc sống
của họ có bị đẩy xuống tận bùn đen, phải sống bằng nghề mà cả xã hội khinh bỉ thì
trong sâu thẳm tâm hồn những con ngƣời này vẫn le lói một thứ ánh sáng, đó là
khát vọng đƣợc sống cuộc sống “êm đềm, trong sạch, lƣơng thiện”. Nguyên Hồng
đã phát hiện và luôn có ý thức nâng niu từng chút ánh sáng le lói trong tâm hồn họ
- vì thế, giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo, giá trị tố cáo xã hội trong các sáng tác
của Nguyên Hồng càng trở nên sâu sắc hơn, cụ thể hơn.
Tóm lại, thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyên Hồng trƣớc cách
mạng tháng Tám năm 1945 là một thế giới nhân vật phong phú, phức tạp và sinh
động - thế giới của những con ngƣời lao động thuộc tầng lớp thị dân, những con
ngƣời lao động nghèo khổ dƣới đáy xã hội, có số phận bất hạnh, bao gồm: từ trẻ
83
em đến ngƣời già; từ phụ nữ đến kẻ trai tráng; từ những ngƣời nông dân ở nông
thôn đến những ngƣời nghèo làm đủ mọi nghề ở thành thị; từ những trí thức tiểu tƣ
sản nghèo đến những kẻ lƣu manh trộm cắp, gái điếm… Mỗi ngƣời mỗi cảnh, mỗi
cuộc đời, mỗi số phận, nhƣng tựu trung lại họ đều có số phận rất đáng thƣơng và
cũng đáng đƣợc cảm thông. Viết về họ với thái độ khách quan, chân thực và một
trái tim thấm đẫm yêu thƣơng, nhà văn của “ những ngƣời khốn khổ này” luôn làm
cho ngƣời đọc phải thổn thức, xúc động và cảm thông, đồng thời cũng gây cho
ngƣời đọc một sự căm phẫn đớn đau đến tận cùng cái chế độ xã hội thực dân
phong kiến đen tối, vô nhân đạo. Chính vì thế, tính hiện thực sâu sắc, tính nhân
đạo cao cả trong tác phẩm của Nguyên Hồng luôn đƣợc toát ra từ chính hệ thống
nhân vật của ông. Đồng thời, khi viết về những nhân vật này, Nguyên Hồng đã thể
hiện tình yêu đối với những con ngƣời lao động khốn khổ của mình. Và đằng sau
tất cả những điều đó, nhà văn đã thể hiện đƣợc lòng yêu nƣớc của ông - đó cũng là
lý do Nguyên Hồng đến với Cách mạng từ rất sớm - Đây cũng là điểm khác biệt
của Nguyên Hồng so với những nhà văn cùng khuynh hƣớng, cùng thời.
3.2. Một số thủ pháp nghệ thuật tiêu biểu xây dựng nhân vật
3.2.1. Nghệ thuật tạo dựng hoàn cảnh và tình huống
Nhƣ chúng ta đã biết, một trong những nguyên tắc tái hiện cuộc sống của chủ
nghĩa hiện thực là chú trọng mối quan hệ biện chứng giữa tính cách điển hình và
hoàn cảnh điển hình. Trong thế giới nghệ thuật của nhà văn, nghệ thuật xây dựng
nhân vật đóng vai trò vô cùng quan trọng, để nhân vật có thể “sống” đƣợc, gây đƣợc
những ấn tƣợng sâu sắc trong lòng bạn đọc thì phải kể tới nghệ thuật tạo dựng tình
huống, hoàn cảnh để qua đó nhân vật bộc lộ tính cách và tâm lý của mình.
Theo Từ điển Tiếng Việt, Tình huống là: “Sự diễn biến của tình hình về mặt
cần phải đối phó” [149, tr. 1275]; còn Hoàn cảnh là: “Toàn thể nói chung những
nhân tố khách quan bên ngoài có tác động đến sự sinh sống, sự hoạt động của con
người, đến sự xảy ra hoặc diễn biến của sự việc nào đó” [149, tr. 582]. Hai khái niệm này có những nét tƣơng đồng nhau về mặt ý nghĩa: tình huống là toàn thể những sự việc xảy ra tại một nơi, trong một thời gian buộc ta phải suy nghĩ, đối
phó hành động hoặc chịu đựng, còn hoàn cảnh là những nhân tố khách quan có tác
động đến con ngƣời hay sự vật, hiện tƣợng nào đó.
84
Khảo sát những sáng tác của Nguyên Hồng thời kỳ trƣớc Cách mạng tháng
Tám năm 1945, chúng tôi nhận thấy rằng: nhà văn hiện thực này đã rất chú ý đến
việc tạo dựng những hoàn cảnh, những tình huống độc đáo để khắc họa tính cách
và tâm lý nhân vật. Hoàn cảnh nổi bật, bao trùm, có tính chất điển hình trong toàn
bộ tác phẩm của Nguyên Hồng trƣớc cách mạng là: Hoàn cảnh sống tăm tối, đói
khổ, cùng quẫn kéo dài đã góp phần tạo nên kiểu nhân vật chịu đựng, nhẫn nại. Và
cũng chính hoàn cảnh sống đen tối, khốn khó, bế tắc đã góp phần tạo nên kiểu
nhân vật tha hóa, lưu manh, trộm cướp.
Cuộc sống và số phận của ngƣời dân nghèo thành thị đƣợc Nguyên Hồng
miêu tả chân thực và chi tiết, đồng thời ông cũng đã chỉ rõ nguyên nhân của sự cơ
cực, nghèo đói đó chính là: hậu quả của chính sách bóc lột đến tận xƣơng, tận tủy
ngƣời dân của bọn thực dân phong kiến. Nhà văn khẳng định: chính chúng là
nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự bần cùng hóa, lƣu manh hóa đối với những ngƣời
nông dân nghèo khi họ ra thành phố, để “Thử xem ngoài những nơi chôn rau cắt
rốn của họ, đời họ có thay đổi chút nào không” (Ngọn lửa)... Nhƣng cuộc sống đô
thị phồn hoa một cách giả tạo và đầy cạm bẫy ấy lại tiếp tục đẩy họ vào tình trạng
bi đát, bất hạnh hơn. Hoàn cảnh, môi trƣờng sống tăm tối, đói khổ, cùng quẫn kéo
dài nhƣ vậy đã tạo ra loại nhân vật cam chịu, nhẫn nhục không còn sức để phản
kháng nữa. Họ là những ngƣời phụ nữ bị“cằn cỗi vì cùng khổ, vì con cái nheo nhóc,
vì bị cầm xích bởi những thành kiến, phong tục lễ nghi đè nén nặng nề đã để tất cả
lòng phẫn uất kêu lên trong tiếng khóc, những lúc họ không còn thể chịu đựng, chứ
không biết tìm cách tự giải phóng, thoát khỏi những sự áp chế bằng năng lực dồi
dào sẵn có của mình” [73, tr. 278], nhƣ nhân vật ngƣời mẹ trẻ của bé Hồng (Những
ngày thơ ấu) - đại diện cho bao ngƣời phụ nữ khác - khi mới “mười bảy, mười tám
tuổi đã trở thành một người con gái cằn cỗi, lúc nào cũng khép nép, lo sợ, rồi thì về
nhà chồng với một lòng nhẫn nhục ngày càng dạn dày, một đức tính thuyết phục
ngày càng mạnh mẽ” [73, tr. 746]; hay Nhân vật mụ Mão (Người mẹ không con)
thƣờng xuyên phải chịu đựng những trận đòn thừa sống thiếu chết của ông chồng vũ
phu nát rƣợu, điên khùng. Sự vũ phu, ngƣợc đãi của chồng ngày càng làm cho mụ
Mão trở nên sợ hãi, nhẫn nhục hơn. Mụ tự an ủi: “mụ thấy rằng mụ cứ phải ăn ở
như thế còn mặc giời với hắn. Số phận mụ bắt mụ phải thế, mụ còn phải vâng theo
cho đến chết. Không thế, ai bảo mụ đi lấy chồng...” [37, tr. 417). Nhân vật mụ Mão
85
là đại diện của những ngƣời phụ nữ bị hành hạ quá nhiều trở lên cam chịu, nhẫn
nhục, không thể và không dám phản kháng để thay đổi số phận của mình.
Bên cạnh đó, hoàn cảnh sống đói khát, tăm tối, bế tắc, đầy giả dối, đầy tội
lỗi ở cả nông thôn và thành thị đã nảy sinh ra loại nhân vật nổi loạn (nhân vật lƣu
manh, trộm cắp,...) nhằm phản ứng một cách tiêu cực xã hội đen tối, bất công, vô
nhân đạo đƣơng thời.
Đầu tiên phải kể đến các nhân vật là phu phen, thợ thuyền… cùng quẫn quá
đâm ra phản ứng cực đoan: rƣợu chè, cờ bạc, đánh chửi vợ con, ngày càng chìm
sâu vào sự bê tha bế tắc, thậm chí là tội lỗi nhƣ các nhân vật trong các truyện: Bố
con lão Đen, Sau hai mươi năm, Người mẹ không con... Sau đó là những loại
nhân vật cùng khổ “buôn bán đầu đường cuối chợ, kéo xe, khuân vác, cúp tóc, đốt
lửa, thợ sắt, giang hồ” [73, tr. 229]. Có biết bao ngƣời lao động chăm chỉ, cần mẫn
ở nhà quê đã phải trôi dạt ra thành phố kiếm sống, bị vắt kiệt sức lao động mà tồn
tại nhƣng rốt cục càng chăm chỉ chịu khó, họ càng bị bọn thống trị lợi dụng, bòn
rút đến tận xƣơng tủy. Chỉ nói riêng đến môi trƣờng thành phố Hải Phòng với
những địa danh nhƣ Cầu Ca Rông, Vườn hoa đưa người, Ngõ Cấm, Sáu Kho, Hạ
Lý, chợ Con... là những khu công nghiệp Cảng, nơi tập trung đủ mọi hạng ngƣời,
muốn tồn tại đƣợc thì phải lừa lọc, chém giết lẫn nhau để mƣu sinh. Vì thế, nó “đẻ
ra” những hạng ngƣời lƣu manh, trộm cắp, đĩ điếm, giang hồ. Họ đều là dân “tứ
xứ” gặp nhau, đều là những cảnh “cùng đƣờng mạt lộ” bỏ quê hƣơng gia đình đi
kiếm sống, muốn tồn tại đƣợc phải liều lĩnh, phải tranh giành quyết liệt, thậm chí
phải triệt hạ lẫn nhau. Tiêu biểu cho loại nhân vật này phải kể đến các nhân vật nhƣ:
Năm Sài Gòn, Tƣ lập lơ, Chín hiếc, Chín Huyền, Bảy Hựu... những tay trùm có oai
quyền mà “các cánh chạy vỏ phải nép mình dưới một oai quyền cho ai sống được
sống, cho ai chết được chết, bảo ngồi tù phải ngồi tù” [74, tr. 383]. Trong một xã
hội mà con ngƣời “lấy quê hương và gia đình làm đề lao, anh em thân thích là tụi
đồng nghệ quỷ quyệt” [74, tr. 393] ấy đã tạo nên những tính cách tàn nhẫn, thậm chí
độc ác, thủ đoạn, vô cảm, dửng dƣng trƣớc những tội ác của đồng loại. Một xã hội
đầy sự tranh giành lừa lọc, trộm cƣớp, chém giết… ấy đã không còn có chỗ sống
cho những con ngƣời lƣơng thiện, nên muốn sống đƣợc thì… một là phải nhịn nhục,
hai là phải lừa lọc, chém giết, trộm cƣớp lẫn nhau… mà thôi! Có những cô gái quê
vì những hủ tục, những luật lệ khe khắt, lạc hậu của chế độ phong kiến đã phải bỏ
86
làng mà ra thành phố, để rồi bị lừa bịp, bị cƣỡng hiếp, bị đẩy vào nhà chứa… trở
thành gái điếm, trở thành những bỉ vỏ (nhân vật Tám Bính trong Bỉ vỏ); hay rơi vào
ổ của bọn cờ bạc và buôn lậu (nhân vật Muống trong Quán Nải), hoặc trở thành lƣu
manh, trộm cƣớp (nhân vật Bảy Hựu trong Bảy Hựu)…
Ngoài hoàn cảnh, môi trƣờng sống ấy tạo nên những tính cách (nhƣ kể trên)
của nhân vật, thì bản chất xấu xa của chế độ thực dân phong kiến vô nhân đạo ấy
cũng đã tác động sâu sắc đến từng số phận con ngƣời. Môi trƣờng sống và bản chất
xã hội đó đã khiến cho rất nhiều ngƣời muốn quay trở lại cuộc sống lƣơng thiện
cũng không thể nào quay lại đƣợc. Bởi xã hội có những “ông quan công minh đến
nỗi nhiều kẻ, nhà không có mà ở, bát không có mà ăn, vợ lìa chồng, bố bỏ con,
nhưng chẳng hề dám hé răng kêu nửa lời, vì kêu vào đâu? Ai nghe cho?”, thế là con
đƣờng trở thành ngƣời lƣơng thiện của họ chỉ còn là ảo tƣởng! Bọn cảnh sát thì luôn
cấu kết với bọn buôn thịt bán người ở nhà nhà chứa. Bọn chủ tây, chủ ta trong các
nhà máy, hầm mỏ thì bòn rút, bóc lột, thậm chí cƣỡng bức tàn nhẫn phụ nữ - kể cả
phụ nữ có thai đến mức trụy thai hoặc biến họ thành những cái xác không hồn. Đó là
ở thành phố, còn ở thôn quê thì bọn cƣờng hào, ác bá sau lũy tre xanh lừa lọc, lợi
dụng hủ tục o ép, bóc lột dân nghèo. Chỉ một cô gái quê chửa hoang mà cả làng
đƣợc ăn vạ, bọn cƣờng hào ác bá lợi dụng để phạt vạ, kiếm chác. Để lo đƣợc cái vạ
ấy, ngƣời ta chỉ còn cách bán cả nhà cửa, ruộng vƣờn mà đi tha phƣơng cầu thực,
phải bỏ làng đi vất vƣởng nơi đầu đƣờng xó chợ, hoặc bán mình trong các nhà chứa
mạt hạng nơi thành phố. Tất cả môi trƣờng hỗn độn vô nhân đạo ấy đã hùa vào nhau
để ức hiếp những con ngƣời lao động nhỏ bé, khốn khổ, đẩy họ vào những thảm
cảnh khác nhau. Hiện thực cuộc sống ấy tất yếu tạo ra những con ngƣời nổi loạn,
không làm chủ đƣợc lý trí, tình cảm và hành vi của mình - họ trở thành những kẻ lƣu
manh, trộm cắp, gái điếm... Xây dựng những kiểu nhân vật có tính cách nhƣ vậy,
một mặt Nguyên Hồng đã phản ánh sinh động và sâu sắc hiện thực đen tối trong xã
hội đƣơng thời, mặt khác ông cũng cố gắng lý giải ngọn nguồn nguyên nhân đã tạo
nên những loại ngƣời có tính cách ấy. Vì thế, nhân vật “nổi loạn” của nhà văn dù là
ở dạng nào cũng đều là đáng thƣơng hơn đáng giận - bởi họ là sản phẩm của một xã
hội, một môi trƣờng đen tối, bế tắc, không lối thoát - Đó cũng chính là ý nghĩa nhân
đạo cao cả đƣợc toát ra từ những sáng tác của Nguyên Hồng.
87
Để thể hiện đƣợc một tính cách nhân vật một cách sống động cũng nhƣ để
khẳng định môi trƣờng, hoàn cảnh sống đã tạo nên tính cách con ngƣời, Nguyên
Hồng đã luôn đặt nhân vật vào tình huống đặc biệt và cực độ. (Cực độ là “mức cao
nhất của một trạng thái” [149, tr. 305], nhƣ: Khốn khổ cực độ, bất hạnh cực độ, và
những thử thách cực độ để bộc lộ những tính cách (có khi là tính cách cao thƣợng,
hay tính cách mềm yếu nhu nhƣợc, hoặc tính cách mạnh mẽ ngỗ ngƣợc, tính cách
lƣu manh),… còn đặc biệt chính là sự “khác hẳn với những trường hợp thông
thường về tính chất, chức năng hoặc mức độ” [149, tr. 383]). Việc tạo nên những
tình huống cực độ và những hoàn cảnh đặc biệt nhƣ vậy, Nguyên Hồng đã thể hiện
tính cách nhân vật của mình một cách chân thực và sinh động nhất.
Khảo sát một số sáng tác của Nguyên Hồng nhƣ: Bỉ vỏ, Mợ Du, Linh hồn, Bố
con lão Đen, Nhà sư nữ chùa Âm Hồn, Đây, bóng tối, Người con gái, Vực thẳm,
Giọt máu, Miếng bánh, Trong cảnh khốn cùng, Con chó vàng... chúng tôi thấy, nhà
văn đã tạo ra nhiều tình huống nghệ thuật nhằm thể hiện sức chịu đựng kỳ lạ của nhân
vật cũng nhƣ để khẳng định bản chất tốt đẹp của họ. Ví dụ nhƣ, khi xây dựng hình
tƣợng nhân vật Tám Bính (Bỉ vỏ), tác giả đã đặt nhân vật này vào trong những tình
huống hết sức đặc biệt để miêu tả quá trình từ một cô gái quê trong sáng, lƣơng thiện,
bị xô đẩy vào con đƣờng tha hóa và trƣợt dài đến lƣu manh hóa. Quá trình ấy là cả
một chuỗi những sự kiện, tình huống đầy bất hạnh của nhân vật: Khi là cô gái quê
ngây thơ, trong sáng tin vào tình yêu, tin vào cuộc đời thì Tám Bính bị lừa dối, bị phụ
bạc; khi là ngƣời mẹ với những khát khao đau đáu đƣợc làm mẹ thì Bính bị chia lìa
tình mẫu tử; khi là ngƣời vợ với ƣớc muốn có một gia đình ấm cúng, bình yên thì luôn
phải sống trong sự sợ hãi và luôn tự giày vò mình vì tội lỗi. Là ngƣời lúc nào cũng
khao khát cuộc sống lƣơng thiện thì kết cục Bính không thể nào quay lại cuộc sống
bình thƣờng nhƣ bao ngƣời khác bởi tội ác mà cô đã gây ra... Tám Bính chính là hiện
thân của số phận vừa đau đớn, đắng cay, vừa tủi nhục, bất hạnh. Nhân vật Tám Bính
thực sự đã trở thành điển hình cho loại nhân vật “chịu nạn” của Nguyên Hồng. Trong
truyện ngắn Linh hồn, Nguyên Hồng cũng đã đặt nhân vật vào hoàn cảnh đầy kịch
tính. Nhân vật Hai mươi hai đã phải đi tù thay chồng tám tháng trong lúc bụng mang
dạ chửa vì nhà đoan khám thấy có rƣợu lậu trong nhà. Nhƣng đi tù nào đã đƣợc yên,
Hai mươi hai phải đi làm cỏ vê, rồi bị cai ngục “tò mò lật áo, lật yếm, lật khăn” làm
cho cô cảm thấy bị xúc phạm mà đành chịu. Chƣa hết, Nguyên Hồng lại đặt nhân vật
88
vào tình huống cực độ hơn nữa, Hai mươi hai bị cai ngục hãm hiếp đến sảy thai rồi
chết! Tình huống này làm ngƣời đọc càng tăng thêm sự xót thƣơng vô hạn với thân
phận ngƣời phụ nữ và sự căm hận đối với những kẻ đểu giả, độc ác, táng tận lƣơng
tâm. Đặt nhân vật vào tình huống đầy thử thách và đau khổ cực độ ấy, nhà văn nhằm
khẳng định tâm hồn trong sáng của Hai mươi hai, tuy thân xác bị làm nhục nhƣng vẫn
thủy chung với ngƣời chồng nghèo khổ ở quê nhà. Qua đó, nhà văn đã khắc sâu hơn
nữa bản chất tàn ác, dã man mất hết tính ngƣời của lũ “mặt ngƣời dạ thú” - những kẻ
bóc lột thống trị đƣơng thời.
Nguyên Hồng luôn có ý thức đặt nhân vật của mình vào những tình huống
thử thách cực độ, cố xoáy sâu vào những tình huống bi thảm với những nỗi khổ bất
hạnh chồng chất lên nhau. Nếu tình huống truyện của Thạch Lam đƣợc diễn ra trong
khoảng khắc nào đó (nhƣ khi Gió lạnh đầu mùa về, hay Tối ba mươi đến…) thì tình
huống truyện của Nguyên Hồng mỗi lúc càng thêm căng thẳng, bức bối ngột ngạt,
các nhân vật phải hứng chịu những nỗi khổ tƣởng nhƣ không thể khổ hơn. Những
kiểu nhân vật này của Nguyên Hồng mang một nét gì đó nhƣ kiểu nhân vật “chịu
nạn”, mang màu sắc của Thiên chúa giáo. Nhân vật Bính (Bỉ vỏ), Hai mƣơi hai
(Linh hồn), những ngƣời đàn bà trong tù (Tết của tù đàn bà),... trong những lúc đau
khổ tột cùng đều hƣớng về Chúa với một niềm an ủi về sự nhẫn nhịn, sự chịu đựng
của mình. Và cũng đúng nhƣ một số nhà nghiên cứu đã khẳng định: Nguyên Hồng
có thói quen đã trút lên đầu nhân vật của mình đủ mọi nỗi khổ nhục, nỗi éo le để nói
cho hết cho thỏa nỗi khốn khổ của nhân vật, và cũng là để cho thỏa cái tình thương mênh mông của mình đối với những con người khốn khổ ấy.
Mặt khác, khi tạo những tình huống cực độ và đặc biệt nhƣ vậy, Nguyên
Hồng đã thể hiện đƣợc bản chất tốt đẹp của con ngƣời lao động. Ta thấy nhà văn
luôn tin vào bản chất tốt đẹp (giầu đức hy sinh, cao thƣợng, đầy tình nhân ái…)
của họ, phát hiện ở họ tiềm tàng một bản năng mãnh liệt để hƣớng tới thiện căn
bền vững. Vẻ đẹp tâm hồn nhân vật đƣợc thể hiện ngay trong những hoàn cảnh
nghiệt ngã và bi kịch nhất. Chẳng hạn khi Bính sa chân vào nhà chứa, khi là một bỉ
vỏ nhƣng vẫn luôn luôn khát khao cuộc sống lƣơng thiện; Mợ Du gặp lại đứa con
trong sự khao khát cháy bỏng mà xót xa của tình mẫu tử; Mụ Mão thƣờng xuyên bị
chồng đánh bầm dập, thâm tím cả mình mẩy nhƣng vẫn hầu hạ chồng cơm ngày
89
hai bữa, vẫn chui ra rúc vào với những đứa con riêng của chồng… thì vẻ đẹp
thiêng liêng của tình mẫu tử lại ngời sáng làm cảm động lòng ngƣời.
Khảo sát các tác phẩm của Nguyên Hồng, chúng tôi thấy nhà văn đã tỏ ra
rất có ý thức xây dựng hoàn cảnh, môi trƣờng sống để khắc họa tính cách nhân vật.
Đó là khi nhà văn đã đặt nhân vật vào những tình huống căng thẳng, ngặt nghèo,
quyết liệt; hoặc khi phải đối mặt với những điều kiện sống khắc nghiệt, phi nhân
tính, đẩy con ngƣời vào bƣớc đƣờng cùng, buộc phải có những sự lựa chọn dứt
khoát. Đó là những lúc họ phải đụng độ với những xung đột một mất một còn với
ngƣời đối lập (Bảy Hựu, Buổi chiều xám…), hay lúc có những xung đột về danh
dự, nhân phẩm và thực tế nghiệt ngã, phũ phàng (Con chó vàng, Miếng bánh…).
Đó là sự lựa chọn của ngƣời trí thức tiểu tƣ sản trƣớc nhu cầu thông thƣờng của
con ngƣời, đó là nhu cầu về miếng ăn trƣớc cái đói đang hành hạ và tình thƣơng
đối với vợ của một ngƣời chồng, và cao hơn là danh dự, lòng tự trọng của ngƣời trí
thức. Đó là sự lựa chọn của mợ Du (Mợ Du), khi gặp lại đứa con trong hoàn cảnh
lén lút, đầy kịch tính: sau bao ngày xa cách, cảm xúc dồn nén đẩy căng, ứ tràn
thành tiếng khóc vỡ òa. Cảm xúc vừa hạnh phúc khi gặp lại con, vừa đau đớn, tủi
phận cho hoàn cảnh oái oăm của mình và cả sự linh cảm về nỗi biệt ly tình mẫu
tử… tất cả hòa vào trong tiếng khóc nức nở của hai mẹ con mợ Du trên nền của
một không gian đầy sự tƣơng phản. Không gian thì đẹp đẽ thơ mộng đầy ánh trăng,
ngát hƣơng hoa cau, hoa lý và tâm trạng con ngƣời thì lại đầy ai oán, xót thƣơng.
Chúng ta đều biết, giữa tác phẩm văn học với loại hình sân khấu, điện ảnh
có mối quan hệ lẫn nhau, tất nhiên mối quan hệ đó chỉ có thể xảy ra khi có những
tác phẩm văn xuôi chứa đựng nhiều kịch tính. Nhiều tác phẩm của Nguyên Hồng
đã mang đậm tính kịch của nghệ thuật sân khấu, bởi nhà văn đã tạo ra những tình
huống căng thẳng và sống động, buộc nhân vật phải thể hiện đời sống nội tâm của
mình hay những giằng xé, thao thức, những đớn đau trong ý thức của nhân vật. Là
một trong những tác phẩm văn học xuất sắc nói về sự tha hóa của những con ngƣời
ở dƣới đáy xã hội, ngay từ cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX,
Bỉ vỏ đã đƣợc các nhà đạo diễn điện ảnh, sân khấu nổi tiếng quan tâm và dàn dựng
thành kịch bản sân khấu, điện ảnh. Nhà đạo diễn điện ảnh, Nghệ sĩ nhân dân
(NSND) Doãn Hoàng Giang đã nhận thấy tính kịch rất rõ trong tiểu thuyết Bỉ vỏ
của Nguyên Hồng. Đã hai lần nhà đạo diễn tài hoa này đã đƣa nội dung Bỉ vỏ lên
90
sân khấu. Vở cải lƣơng, cũng nhƣ kịch nói do ông đạo diễn đã đạt đƣợc những
thành tựu đáng trân trọng, đƣợc giới phê bình sân khấu và khán giả đánh giá cao
("Bỉ vỏ" Đoàn Cải lương Quảng Ninh, đoạt Huy chương vàng, năm 1990, năm
2002, đƣợc dàn dựng thành vở kịch nói “Bỉ vỏ - cô gái ăn cắp” công diễn trên sân
khấu kịch Hồng Vân, thành phố Hồ Chí Minh). NSND Doãn Hoàng Giang cho
rằng: “Ở Bỉ vỏ, số phận của tất cả các nhân vật đều hay, thông qua họ, tính phê
phán xã hội đạt được hiệu quả rất cao… thân phận dân đen thời ấy bị bủa vây tứ
phía, muốn sống một cuộc đời lương thiện như mong muốn thật không phải dễ (…)
Bỉ vỏ là chính kịch chứa đầy sự bi thương khốc liệt” (NSND Doãn Hoàng Giang
đưa "Bỉ vỏ" lên sàn kịch - Báo VN EXPRESS, ngày 18/5/2002”). Đấy là sự giằng
xé và đau đớn của những con ngƣời bị xã hội tha hóa và sự khát khao cháy bỏng
đƣợc làm ngƣời lƣơng thiện.
Nói tóm lại, để có thể có đƣợc những nhân vật chân thực, sống động với
những tính cách phong phú, phức tạp, điển hình cho thế giới của những con ngƣời
lao động nghèo khổ dƣới đáy xã hội, nhà văn Nguyên Hồng đã luôn ý thức tạo
dựng một hoàn cảnh, một môi trƣờng sống với những tình huống đặc biệt. Hay nói
một cách khác, ông đã rất thành công trong nghệ thuật tạo dựng hoàn cảnh, tình
huống. Cụ thể ở đây là hoàn cảnh sống cơ cực lầm than của những ngƣời lao động
nghèo trƣớc cách mạng. Hoàn cảnh ấy đã nảy sinh ra những kiểu nhân vật đặc biệt
mang dấu ấn Nguyên Hồng. Các nhân vật của nhà văn luôn đƣợc đặt vào tình
huống cực độ, khó khăn chồng chất khó khăn, bất hạnh chồng chất bất hạnh với
những thử thách nghiệt ngã. Qua những tình huống ấy, nhân vật của Nguyên Hồng
đã bộc lộ sức chịu đựng phi thƣờng. Sức chịu đựng ấy bắt nguồn từ những con
ngƣời có tâm hồn và trái tim nhân hậu, luôn mang trong mình một đức tin về sự
thánh thiện của con ngƣời. Vẻ đẹp tinh thần của họ là sự hòa hợp giữa tình yêu
thƣơng, sự hy sinh tới mức quên mình của những con ngƣời cùng khổ. Đó chính là
sự kết hợp của truyền thống nhân nghĩa thủy chung của dân tộc với tinh thần bác ái
của Chúa Jesu. Viết về họ, một mặt Nguyên Hồng đã phản ánh đƣợc một cách
chân thực cuộc sống cơ cực lầm than của lớp ngƣời lao động nghèo khổ dƣới đáy
trong xã hội đƣơng thời, mặt khác nhà văn cũng ca ngợi bản chất tốt đẹp của ngƣời
lao động: càng trong hoàn cảnh ngặt nghèo, càng gặp những thử thách éo le thì tâm
hồn họ càng ngời sáng. Viết về họ với ngòi bút chan chứa yêu thƣơng và một sự
91
đồng cảm sâu sắc Nguyên Hồng đã tạo nên một nét riêng trong phong cách nghệ
thuật của mình, đó là bút pháp hiện thực nghiêm ngặt nhưng lại thấm đượm ý vị
trữ tình - và đây cũng là một trong những nguyên nhân đƣa Nguyên Hồng đến với
đỉnh cao của chủ nghĩa hiện thực.
3.2.2. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình để khắc họa tâm trạng và tính cách nhân vật
Nhƣ đã biết, “nhân vật văn học chỉ xuất hiện qua sự trần thuật miêu tả
bằng những phương tiện văn học” [94, tr. 291] mà các phƣơng thức, phƣơng tiện
thể hiện nhân vật lại hết sức đa dạng. Một trong những phƣơng thức đó là “nhân
vật được miêu tả bằng chi tiết… dùng chi tiết để miêu tả chân dung, ngoại hình, tả
hành động, tâm trạng thể hiện quá trình nội tâm” [94, tr. 291]. Khi miêu tả ngoại
hình, Nguyên Hồng chú ý miêu tả những nét, cử chỉ và hành động để biểu lộ thế
giới nội tâm của nhân vật, nhất là nhân vật ngƣời phụ nữ bất hạnh. Ví dụ nhƣ, khi
miêu tả nhân vật mợ Du (Mợ Du), Nguyên Hồng viết: “gương mặt trắng mát, gò
má hơi cao, mắt có quầng thâm ... tiếng nói nhẹ và ấm”, biểu hiện một con ngƣời
sống có nội tâm. Vì “bị mẹ chồng và em chồng bắt được quả tang tình tự với anh
thợ may trẻ có duyên, làm cho nhà mợ”, nên mợ không đƣợc ở gần và không đƣợc
thăm nom con khiến lòng ngƣời mẹ ấy day dứt và đau đớn vô cùng. Để miêu tả
những cung bậc cảm xúc của mợ sau bao ngày xa cách, nỗi nhớ thƣơng con bị kìm
nén, đến khi chuẩn bị đƣợc gặp lại đứa con của mình, nhà văn đặc biệt chú ý miêu
tả cặp mắt của mợ Du: “bỗng long lanh như hai viên ngọc” cùng với những những
hành động dồn dập thể hiện sự vội vàng, cuống quýt, mợ: “lao sầm ra, ôm chặt lấy
thằng Dũng vừa nức nở kêu tên Dũng... hôn rít vào má, vào trán, vào cằm Dũng
rồi khóc nức nở: - Giời ơi! giời ơi! mợ chết mất! Dũng ơi! Dũng ơi!”. Hành động
ấy thể hiện niềm vui, niềm hạnh phúc vô bờ khi gặp đƣợc con, và cũng thể hiện sự
tủi cực, cay đắng của thân phận ngƣời phụ nữ lấy chồng, có con mà không đƣợc ở
cùng con: “Thoáng cái, ánh mắt mợ Du quắc lên sáng ngời và gương mặt trắng
mát của mợ tái hẳn đi” [73, tr. 376], ánh mắt mợ Du bộc lộ tâm trạng quằn quại
đau đớn của ngƣời phụ nữ bất hạnh khi cảm nhận thấm thía nỗi đau của sự chia lìa
tình mẫu tử.
Giọt máu là một thiên truyện cảm động viết về bé Thạo. Cuộc sống tối tăm,
nặng nề, vất vả đè nặng lên Thạo, khiến lúc nào em cũng có dáng vẻ len lét, lo sợ
92
ngay cả khi ăn uống hay vui chơi. Niềm vui duy nhất của em là chăm sóc hai luống
ngô với mơ ƣớc khi thu hoạch ngô sẽ có tiền mua gà nuôi, để Tết bán gà đi sẽ có
tiền may áo mới. Khi ngô sắp đƣợc thu hoạch, mụ chủ nhà nhẫn tâm bẻ trụi những
bắp ngô non để trừ nợ tiền nhà của bố mẹ em, tƣớc đi niềm hi vọng và niềm vui
nhỏ bé của Thạo. Thạo tiếc nuối và đau xót. Sau trận ốm kịch liệt, Thạo chỉ còn là
một cái bóng, “cái bóng còm cõi ấy thường thần mặt ra mà nhìn thiếp vào khoảng
không”. Tả vẻ mặt ngây thơ và “đôi mắt lƣu ly” của Thạo, tác giả đã xoáy sâu vào
sự thất vọng, đau đớn của em khi bị mụ chủ nhà đối xử tàn nhẫn “trong khối lưu ly
của hai lòng mắt nâu sáng của Thạo bé, những ngấn long lanh lại luôn luôn hiện
lên và mờ đi, hàng my dài, cong và tơ càng đờ đẫn thêm trong cái quầng thâm hằn
như cắt khỏi nước da xanh mướt” [73, tr. 550]. Tình huống truyện ngày càng đƣợc
đẩy căng nhằm khắc họa sâu sắc sự tổn thƣơng của bé Thạo. Em nhƣ một con
chim non nhỏ nhoi đến tội nghiệp, không chống nổi sự phũ phàng, tàn nhẫn của kẻ
mạnh. Chính vì vậy, ngƣời đọc càng xót xa và căm giận trƣớc những hành động vô
nhân đạo, táng tận lƣơng tâm của bọn nhà giàu trong xã hội xấu xa đó.
Trong Những ngày thơ ấu, nhân vật bà nội của bé Hồng đƣợc nhà văn tập
trung miêu tả biết bao sự chán chƣờng mệt nhọc thể hiện trên gƣơng mặt già nua
cằn cỗi của bà: “từ trong hốc mắt tối những giọt nước mắt tràn ra lai láng trên gò
má hóp răn reo, như một đập nước khô cạn bỗng đầy ứ đến vỡ lở” [73, tr. 747]; Sự
từng trải với những khổ đau của cả đời ngƣời đƣợc đọng lại qua những nếp nhăn
trên mặt và lời nói thể hiện sự uất ức, giận hờn “gương mặt hốc hác nhăn nheo
trong hai quầng mắt sâu thẳm” của “một đời tối tăm của một người đàn bà thường
dân, nhanh chóng nhưng thấm thía rõ rệt, đã kêu lên bằng giọng khan khan rền
rĩ” [73, tr. 747]. Hay hình ảnh ngƣời cha bé Hồng với “vẻ ốm yếu rũ rượi”... chán
ngán nhƣ không còn thiết đến sự sống nữa. Với lòng kính yêu ngƣời mẹ “hiền từ”
và “đau khổ” của mình, nhà văn cũng đã dụng công miêu tả nhân vật ngƣời mẹ bé
Hồng: “vẻ mặt xinh tươi ... giọng cười nói nhẹ nhàng, sự thùy mỵ kính cẩn... hai
con mắt sáng ngời trên nước da mịn màng như trứng gà bóc”, nhƣng “lại chứa
đựng những tâm tư hằng giá buốt vì những phiền muộn, những đau đớn chua cay
nhất, tối tăm nhất” [73, tr. 736] của ngƣời phụ nữ còn quá trẻ lấy ngƣời chồng già
mà mình không yêu, không có hạnh phúc gia đình. Hình ảnh “Mặt mẹ tôi rầu rầu,
đầu hơi cúi, mắt nhìn như không thấy gì, đi rất chậm” biểu lộ một tâm trạng mệt
93
mỏi, buồn thảm khi cảnh nhà sa sút và tâm trí đã hoàn toàn tê buốt về những ý
nghĩ thấm thía về sự trụy lạc không phƣơng cứu chữa của gia đình... Nhà văn đã
diễn tả những biến thái tinh vi trong tâm hồn ngƣời mẹ bé Hồng, những thổn thức,
hồi hộp lạ thƣờng của chị khi nghe tiếng kèn của cai H. Trong cuốn hồi ký này,
nhân vật cai H chỉ đƣợc miêu tả thoáng qua có 3 lần về ngoại hình. Đó là ngƣời
đàn ông có dáng ngƣời “tầm thước”, gƣơng mặt “trắng trẻo”, “mắt sáng, sống
mũi hơi cao, hai hàm răng trắng phau, ăn vận gọn ghẽ” [73, tr. 741] với tiếng kèn
rộn rã đã để lại ấn tƣợng sâu sắc về một ngƣời đàn ông trẻ tuổi, căng tràn sức sống,
đối lập với vẻ “ốm yếu, rũ rượi” của ông bố Hồng. Tuổi trẻ và sức sống của ngƣời
thổi kèn đã khơi gợi những thổn thức, những ƣớc mong thầm kín trong lòng ngƣời
phụ nữ trẻ, hứa hẹn một tƣơng lai tƣơi sáng, đối lập với cuộc sống hiện tại âm
thầm tẻ nhạt của chị. Tiếng kèn của cai H. náo nức, âm vang nhƣ nhƣ lời mời gọi
tình yêu thiết tha đối với những trái tim khao khát yêu đƣơng đang bị dập vùi.
Nghe tiếng kèn và khi nhìn ngƣời thổi kèn, bắt gặp ánh mắt long lanh của ngƣời
đàn ông nọ chiếu tới, “trống ngực mẹ tôi đập lạ thường”, “những con mắt của mẹ
tôi sáng lên nhìn người thổi kèn và hai gò má mẹ tôi ửng hồng khi gặp cặp mắt
long lanh của người đàn ông nọ chiếu tới” [73, tr. 743]. Nhiều lần nhà văn miêu tả
đôi mắt sáng và gò má ửng hồng của ngƣời mẹ, nhằm khắc họa cái hạnh phúc nhỏ
nhoi, tội nghiệp, sự bâng khuâng, e thẹn của một ngƣời phụ nữ trẻ, những rung
động thầm kín của một con tim trƣớc một tình yêu không thể có. Ngòi bút của
Nguyên Hồng thƣờng phân tích tỉ mỉ, tƣờng tận những cảm xúc mơ hồ, những diễn
biến tâm lý tinh vi của nhân vật qua những nét ngoại hình nhƣ thế.
Trong cả 174 trang tiểu thuyết Bỉ vỏ chỉ có 4 lần tác giả miêu tả thoáng qua
chân dung Tham Chung, kẻ đã gây ra sự đau khổ khốn nạn đầu tiên của cuộc đời
Bính, đó là “Một người đàn ông sang trọng và trai trẻ,... một người vận quần áo
tây chải chuốt,... thân hình thanh tú, đầu óc bóng mượt và thơm tho” [74, tr. 298].
Nhân vật chỉ đƣợc miêu tả có vài dòng về ngoại hình, nhƣng ngƣời đọc vẫn thấy
đƣợc bản chất đểu giả, lừa dối, trai lơ một gã Sở khanh hiện đại qua vẻ ngoài
“sạch sẽ, thơm tho” ấy. Cũng vậy, trong tiểu thuyết này, sự tham lam và độc ác,
giả dối của cha mẹ Tám Bính đƣợc tác giả miêu tả có 7 lần qua hình ảnh: “cặp mắt
kèm nhèm cau có”, “luôn luôn lườm Bính”, qua âm sắc của giọng nói “tiếng rít
mắng,... tiếng nghiến đay chì... tiếng rít lanh lảnh...” của mẹ Bính, và “tiếng ho
94
khàn khàn”, “cặp mắt gườm gườm” của ngƣời cha thể hiện sự cay nghiệt và tàn
nhẫn. Việc bán đứa con của Bính cho Phó lý đƣợc mặc cả qua đối thoại lúc thì
“ngọt ngào”, lúc thì “kèo nhèo” , coi đứa bé nhƣ “một con trâu, con lợn”. Sự
“nâng lên, đặt xuống” của cha mẹ Bính khi bán đứa cháu ruột của mình thật cạn
tình, cạn nghĩa “đang tay quyết cắt đứt tình yêu thương của mẹ con Bính như khúc
dồi, một miếng phèo” và “được hàng chục bạc,... vừa hết lo sợ ngả vạ, vừa được
món tiền mừng chân trưởng giáo và ăn tiêu” [74, tr. 304] - tham lam và tàn nhẫn
đến tận cùng. Hay miêu tả cuộc sống thê thảm của những cô gái nhà thổ rạc rài
“tiếp khách” làng chơi, Nguyên Hồng đã chọn những chi tiết miêu tả ngoại hình
thật đắt giá. Đây là những thân hình “nhọc lả”, “xanh xám, gầy rạc, ngực lép kẹp,
chân tay khẳng khiu” [74, tr. 330] vì bị bóc lột thân xác một cách tàn nhẫn. Có khi
họ phải tiếp khách “sáu mươi ngày đêm ròng rã ít khi chợp mắt”, đến “ho ra máu,
thuốc thang không có”, rồi chết thảm hại: “Mỗi ngày thây một rữa ra, mãi khi bốc
hơi thối và nhung nhúc dòi bọ, hàng xóm mới biết... Tấm áo quan bằng gỗ mỏng
đưa đi đưa lại, cọ vào chiếc thừng tre treo lủng lẳng ở đầu đòn gánh ống làm
thành những tiếng kẽo kẹt thay cho tiếng khóc viếng” [74, tr. 329]...
Không chỉ sử dụng chi tiết miêu tả ngoại hình những nhân vật lƣơng thiện,
mà ngay cả với những nhân vật lƣu manh, trộm cƣớp nhƣ: nhân vật Chín Huyền
(Chín Huyền) Giản (Mối hờn) Năm Sài Gòn, Ba Bay, Chín Hiếc, (Bỉ vỏ), tác giả
cũng chú ý khắc họa tính cách qua hình thức bên ngoài của nhân vật. Chín Huyền,
một “bỉ vỏ” có ngoại hình khá ấn tƣợng: “Một người đàn bà có nước da ngăm đen,
khổ mặt gầy xương, tóc rễ tre, đôi mắt ti hí mà sắc sảo, cặp môi cong cớn, luôn
luôn cười, tiếng nói lanh lảnh, dáng điệu cứng cỏi mà nhanh nhẹn như đàn ông”
[73, tr. 174]. Ngoại hình ấy và cuộc đời “bỉ vỏ” đã tạo nên ở cô vẻ “trơ trẽn, táo
bạo và liều lĩnh vô cùng”, “Hết ngày này ngày khác trong chợ Đồng Xuân, ở bến
ôtô, trong các sòng bạc lẩn lút dưới bãi Nhà Dàu, trong các tiệm hút, các hàng
cao lâu rải rác ở các vùng ngoại ô”. Ngoại hình ấy rất phù hợp với tính cách
“xông xáo, không chịu cảnh bó buộc, tù hãm thiếu thốn” và với vẻ can trƣờng đầy
nghĩa hiệp của Chín Huyền. Tính cách “anh hùng” đã khiến Chín Huyền quên cả
bản thân mình mà cứu ngƣời “cùng hội cùng thuyền” - một nghĩa cử đáng quý của
những con ngƣời tƣởng chừng nhƣ mất hết nhân tính này. Nhân vật Năm Sài Gòn
khét tiếng là “anh chị” của đám lƣu manh, trộm cƣớp ở Hải Phòng. Ngoại hình của
95
hắn đƣợc tác giả tập trung miêu tả qua vẻ mặt dữ dằn, bặm trợn: “Năm đen cháy,
cằm bạnh, xạm râu, hai mắt xếch, mé trên mắt bên phải vẹt hẳn một nửa lông mày
dưới vết dao chém sâu hõm” [74, tr. 357]. Mấy vết sẹo chằng chịt trên mặt Năm đã
thể hiện “chiến tích” “dày dặn” của tay trùm du côn này: “Trên má Năm, trên trán
Năm mấy cái sẹo chằng chịt như những vết rạn của chiếc vại sành”. Chỉ vài dòng
miêu tả, tác giả đã thể hiện sắc nét chân dung “mất hết tính ngƣời” của tay trùm
lƣu manh trong xã hội. Hay miêu tả ngoại hình của Hai con, Ba con, Tƣ con -
những tay “anh chị” trong chốn giang hồ, tác giả đã chọn những chi tiết tiêu biểu,
diễn đạt một cách ngắn gọn: “Ba gã này đều mảnh khảnh, mắt nhìn đều nhanh như
chớp, lông mày đều rậm, đuôi nhọn và xếch” [74, tr. 349] nhằm lột trần đƣợc vẻ
dữ dằn của những tay lƣu manh chuyên ăn cƣớp, đâm thuê chém mƣớn.
Nhƣ vậy, với cách miêu tả ngoại hình sắc sảo, nhiều chi tiết chọn lọc đắt
giá, Nguyên Hồng đã rất thành công khi thể hiện tâm trạng nhân vật hay khắc họa
tính cách, bản chất của từng kiểu nhân vật trong tác phẩm của mình.
3.2.3. Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật qua độc thoại nội tâm
“Thể hiện tâm lý là phương thức quan trọng nhất để chiếm lĩnh đời sống con
người bằng văn học nghệ thuật” [42, tr. 24]. Vì vậy, nghệ thuật miêu tả tâm lý có
vai trò quan trọng đối với việc xây dựng chân dung một nhân vật văn học. Qua việc
miêu tả tâm lý nhân vật, ngƣời đọc không chỉ thấy rõ hơn chân dung một con ngƣời
mà còn thấy đƣợc những nét sinh động thuộc bản chất xã hội. Tâm lý càng biểu hiện
chân thực, chi tiết bao nhiêu thì sức tác động của nhân vật đối với ngƣời đọc càng
mạnh mẽ, sâu sắc bấy nhiêu. Tuy nhiên ở mỗi giai đoạn, mỗi trào lƣu văn học, thậm
chí ở mỗi nhà văn lại có những cách biểu hiện tâm lý nhân vật của riêng mình.
Các nhà văn hiện đại cùng với quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam đầu
thế kỷ XX đã chú ý nhiều đến biểu hiện tâm lý của con ngƣời, họ không nhìn nhận
con ngƣời theo một kiểu, một chiều giản đơn mà nhiều chiều, nhiều mặt khác nhau.
Hơn nữa, họ còn phản ánh con ngƣời từ bên trong, từ chiều sâu nội tâm, với những
suy nghĩ, những tính cách, những hành động, những phẩm chất khác nhau, phong
phú và phức tạp, thậm chí đối lập nhau, (vừa tầm thƣờng, vừa cao thƣợng, vừa giàu
lòng nhân ái, vừa vị tha lại vừa cay độc dữ dằn...). “Văn học hiện thực xem con
người là sản phẩm của hoàn cảnh, là tiêu bản của hoàn cảnh. Mổ xẻ con người là
96
khám phá tác động của hoàn cảnh lên con người. Đó là quan niệm mới về con người
khác với quan niệm con người là kẻ mang đạo lý chống lại kẻ vô đạo, là người anh
hùng thay trời hành đạo” [27, tr. 5]. Do vậy, các nhà văn, đặc biệt là các nhà văn
hiện thực đã rất chú trọng đến việc miêu tả tâm lý, tính cách nhân vật - mà nhờ đó đã
tạo ra hiệu quả nâng cao chất lƣợng nghệ thuật trong các sáng tác của mình.
Bên cạnh việc sử dụng biện pháp miêu tả ngoại hình, nhà văn Nguyên
Hồng còn chú trọng đến việc miêu tả nội tâm để thể hiện tính cách, phẩm chất
của nhân vật. Theo quan niệm của PGS. TS Phạm Mạnh Hùng thì “Thiên nhiên
nhiều khi nó là yếu tố biểu hiện tâm lý” [79, tr.316], và Nguyên Hồng đã rất chú ý
miêu tả thiên nhiên như một phương tiện hữu hiệu để thể hiện nội tâm, tâm lý nhân
vật. Trong tiểu thuyết Bỉ vỏ - theo thống kê của chúng tôi - đã có 29 lần miêu tả
cảnh thiên nhiên, trong hồi ký Những ngày thơ ấu là 21 lần, truyện ngắn: Trong
cảnh khốn cùng là 9 lần, trong Mợ Du là 7 lần... Bức tranh thiên nhiên qua ngòi
bút của nhà văn đã trở thành bức tranh tâm trạng, giữa thiên nhiên và con ngƣời
luôn có sự đồng điệu về tâm trạng. Đây là cảnh gặp gỡ tội nghiệp của hai mẹ con
mợ Du trong một “đêm trăng sáng lắm... Ánh trăng vằng vặc đã giội xuống tràn
trề hai gương mặt đầm đìa nước mắt áp lên nhau và hai mái tóc ngắn dài trộn lẫn
với nhau. Hương hoa cau và hoa lý sáng và ấm đã xao xuyến lên bởi những tiếng
khóc dồn dập vỡ lở ở một góc vườn, rì rì tiếng dế” [73, tr. 376]. Ánh trăng hòa
quyện với hƣơng hoa cau, hoa lý thấm đẫm cảm xúc và tâm trạng nhân vật. Vẻ đẹp
của đêm thu đầy trăng ấy làm cho hình ảnh quấn quýt của hai mẹ con Dũng trở nên
huyền ảo và xúc động lòng ngƣời. Vẻ đẹp thiên nhiên đã tô đậm thêm tình mẹ con
thắm thiết và sự ám ảnh khôn nguôi, sự xúc động sâu sắc của ngƣời đọc về sự chia
lìa của tình mẫu tử trong hoàn cảnh đầy éo le ngang trái. Truyện ngắn Trong cảnh
khốn cùng nhà văn đã miêu tả những diễn biến phức tạp của nhân vật Quyến khi
chèo đò trong một khung cảnh thiên nhiên “tiếng ruộng rì rào, tiếng ngàn cây man
mác mơ hồ”. Khung cảnh ấy gợi trong lòng Quyến những ước mong rạo rực của
một quá khứ êm đềm vui vẻ khi mà ngƣời chồng chƣa ốm đau, làm ăn còn gặp
may mắn, sống trong những ngày tháng êm đềm. Sự biến đổi của hoàn cảnh tạo
nên sự biến đổi của tâm trạng Quyến, thiên nhiên nhƣ đồng điệu với tâm trạng
nhân vật: “Gió thổi rất nhẹ”, rồi “gió xuân thổi mạnh”, “dòng sông xanh biếc lấp
lánh những ánh sáng vàng nhạt sau vàng tươi, sau hồng phớt, rồi cả mảng trời bên
97
bờ tay trái óng mượt như tấm màn nhung đỏ viền lơ” [73, tr. 145]. Khung cảnh thơ
mộng đã gợi trong lòng Quyến những “rạo rực khi nghĩ đến anh chân sào trẻ tuổi
đẹp đẽ mà bấy lâu nàng mơ ước”. Nhƣng ý nghĩ tội lỗi của Quyến qua nhanh khi
nàng chứng kiến cảnh hai vợ chồng ngƣời đi đò: ngƣời chồng nhƣờng cơm cho
vợ con đến mức đói lả ngất đi. Quyến “xúc động trước tình yêu thương thấm thía
nồng nàn của người đàn ông nọ trong cảnh khốn cùng đối với vợ con”. Nàng ân
hận vì đã có ý nghĩ tội lỗi muốn bỏ ngƣời chồng ốm yếu của mình mà mơ tƣởng
đến anh chân sào trẻ tuổi. Khung cảnh thiên nhiên lúc này dƣờng nhƣ cũng đồng
cảm với ý nghĩ của nhân vật “đêm nay thật êm ả trong cảnh đêm mờ sao thưa...
trong dòng sông lặng lẽ” nhƣ tâm hồn bình an của Quyến vậy.
Trong Những ngày thơ ấu, cảnh thiên nhiên trữ tình, thơ mộng đƣợc cảm
nhận qua tâm hồn trẻ thơ hồn nhiên trong trẻo của nhân vật chú bé Hồng. Vẻ đẹp
thiên nhiên tƣơi sáng đầy quyến rũ đƣợc miêu tả bằng một cảm xúc lãng mạn đắm
say của tuổi trẻ. Có khi đó là một buổi chiều tĩnh thơ mộng “vòm trời bao la như
bằng thủy tinh xanh phớt”, “làn mây trắng bồng bềnh tan về một phía trời... gió
thổi vù vù, bướm say hoa trong ánh nắng” [73, tr. 801]; Có khi là cảnh hè rực rỡ,
tràn đầy nhựa sống và tràn ngập âm thanh: “Mùa hè mới bắt đầu trên các cành lá
óng ả mượt nõn và những chòm xoan xanh tươi hứa hẹn màu thắm của các vừng
hoa đỏ. Tiếng ve liên miên ghen ghét với vạn vật tưng bừng đã thấy vang tới” [73,
tr. 799]. Và cũng có khi là vẻ đẹp của ánh trăng trong ký ức tuổi thơ: “Dưới ánh
trăng bàng bạc bỗng xuất hiện một bóng người mảnh dẻ, nhẹ bước trên những
cành xoan tây mờ mờ xao động suốt dải đường nhựa lấp loáng... Tôi thoáng thấy
hai con mắt long lanh trên gương mặt trắng mát chiếu lên nhìn tôi. Trước chiều
gió, những sợi tóc bay xõa như tơ, phấp phới dưới vành trăng ngọc... bụi của vành
trăng loang loáng rơi xuống rắc lên mái tóc... bay cả vào lòng chúng tôi” [73, tr.
780]. Ánh trăng man mác và bóng dáng ngƣời bạn nhỏ đã xoa dịu vết thƣơng tâm
hồn cậu bé Hồng, khiến em “chẳng còn nghĩ đến cảnh đời đầy đọa nữa”, hình ảnh
“ánh trăng ngọc” dù chỉ thoáng hiện trong giấc mơ cũng trở thành kỷ niệm êm
đềm lƣu luyến mãi trong tuổi thơ của em.
Nếu Nam Cao thƣờng phân tích tâm lý nhân vật và sự thay đổi của tính cách
của họ dƣới sự tác động của hoàn cảnh, Ngô Tất Tố thƣờng tập trung miêu tả hành
động nhân vật, thì Nguyên Hồng lại thƣờng quan tâm đến trạng thái, suy nghĩ cảm
98
xúc của con ngƣời. Nhà văn hay sử dụng biện pháp độc thoại nội tâm nhƣ một thủ
pháp nghệ thuật chủ yếu để miêu tả thế giới nội tâm nhân vật. Theo thống kê của
chúng tôi, độc thoại nội tâm trong Bỉ vỏ là 25 lần/174 trang truyện, Miếng bánh là
9 lần/ 13 trang truyện, Hai dòng sữa là 11/22 trang truyện trong đó có 5 trang có
nhiều đoạn độc thoại nội tâm tương đối dài ... Tiểu thuyết Cửa biển viết sau cách
mạng của Nguyên Hồng, ngƣời ta đã xác định đƣợc có 927 trang có độc thoại nội
tâm/ hơn hai ngàn trang truyện [30, tr. 18]. Và khi dùng biện pháp độc thoại nội
tâm nhà văn sử dụng nhiều từ ngữ nhƣ: tự hỏi, tự nhủ thầm, lòng nhủ thầm, kêu
thầm lên, bụng bảo dạ, thấy tâm trí bâng khuâng, thấy rằng, ước thầm, những ý
nghĩ sôi nổi mở ra, cảm thấy, những câu nói chỉ trực trào ra, hồi tưởng lại...
Không chỉ sử dụng từ ngữ nhƣ trên mà độc thoại nội tâm trong sáng tác của
Nguyên Hồng còn đƣợc thể hiện dƣới nhiều hình thức khác nhau nhƣ: nhật ký, ghi
chép sổ tay (Những ngày thơ ấu, Cuộc sống, Hơi thở tàn, Bỉ vỏ... ) hoặc ở những
dạng nhân vật tự đối thoại ngầm (Miếng bánh, Bỉ vỏ, Những ngày thơ ấu...), hoặc
ở lời nửa trực tiếp, nghĩa là về thực chất là tiếng nói của ngƣời kể chuyện, nhƣng
thể hiện suy nghĩ của nhân vật. Độc thoại nội tâm thƣờng xuất hiện trong trạng thái
xúc động mạnh, hoặc trong trạng thái tâm lý căng thẳng. Độc thoại nội tâm thƣờng
thể hiện qua dòng hồi tƣởng, tâm tƣởng, suy nghĩ của nhân vật, qua đó nhân vật tự
bộc lộ, tự giãi bày những cảm xúc, tình cảm trong lòng mình một cách thành thật
nhất. Những nhân vật nhƣ Tám Bính, Mợ Du, mẹ bé Hồng, bé Hồng, Hƣng, Hai
mƣơi hai, Muống, An... là những nhân vật giàu cảm xúc nội tâm. Nguyên Hồng đã
sử dụng nhiều phƣơng tiện độc thoại nội tâm để triển khai đời sống tƣ tƣởng, tình
cảm của nhân vật. Trong sáng tác của Nam Cao thƣờng có những xung đột trong
tƣ tƣởng hoặc qua đối thoại tạo nên phản ứng tâm lý làm nảy sinh độc thoại nội
tâm. Chẳng hạn, Chí Phèo sau khi gặp gỡ với Thị Nở và sau khi đƣợc Thị Nở
chăm sóc ân cần - đã tạo ra một sự tỉnh ngộ và sự biến đổi tâm lý sâu sắc. Trong
sáng tác của Vũ Trọng Phụng độc thoại nội tâm thƣờng xuất khi những biến cố, sự
kiện bất ngờ tác động trực tiếp đến tinh thần nhân vật, nhƣ Mịch cảm thấy đời độc
ác vô cùng khi bị Nghị Hách hãm hiếp phải nằm trong nhà thƣơng… Tuy nhiên, ở
thủ pháp xây dựng nhân vật của Nguyên Hồng, độc thoại nội tâm thƣờng gắn với
sự hồi tƣởng, tâm tƣởng của nhân vật, biểu hiện những cảm xúc mãnh liệt, những suy nghĩ căng thẳng nên đôi khi còn nặng nề và thiếu sự tỉnh táo cần thiết.
99
Tóm lại, “Sức mạnh của Nguyên Hồng là yếu tố tâm lý, khi cần nhấn mạnh
chỗ nào, ông chỉ việc gia tăng yếu tố cảm xúc tâm lý lên thôi. Tính chất đa tâm lý đó
lại không hề vượt quá ngưỡng tâm lý của người đọc. Nó chỉ làm tăng biên độ xúc
cảm chứ không hề vượt quá tần số cảm xúc của người đọc” [18, tr. 88]. Bằng nhiều
thủ pháp và bút pháp nghệ thuật, Nguyên Hồng đã khám phá ra thế giới nội tâm
phong phú của con ngƣời. Chính vì vậy, ông đã tạo dựng nên đƣợc cả một hệ thống
các nhân vật là những ngƣời lao động nghèo khổ, nhƣng mỗi nhân vật có một bộ
mặt riêng, một tính cách riêng và để lại ấn tƣợng riêng cho ngƣời đọc. Đó chính là
bằng chứng cho sự thành công của Nguyên Hồng về nghệ thuật xây dựng nhân vật
trong các tác phẩm của mình.
100
Chƣơng 4
THỜI GIAN, KHÔNG GIAN VÀ NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT
Nhƣ đã biết, thời gian, không gian nghệ thuật và ngôn ngữ nghệ thuật là một yếu tố trong thế giới nghệ thuật của nhà văn: “Thời gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của tác giả trên cơ sở tổ chức chất liệu” [140, tr. 664] và “Sự miêu tả trần thuật trong văn học nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn nhất định trong thời gian. Và cái được trần thuật bao giờ cũng diễn ra trong thời gian, được biết qua thời gian trần thuật, sự kết hợp của hai yếu tố này tạo thành thời gian nghệ thuật, một hiện tượng ước lệ chỉ có trong thế giới nghệ thuật” [52, tr. 272]. Theo khái niệm trên, thời gian nghệ thuật là tổ chức bên trong của hình tượng nghệ thuật, là sản phẩm sáng tạo của tác giả và nó là một hiện tượng ước lệ chỉ có trong thế giới nghệ thuật. Thời gian nghệ thuật gắn với phƣơng thức, phƣơng tiện thể hiện, mỗi thể loại văn học có kiểu thời gian nghệ thuật riêng. Còn “Không gian nghệ thuật là hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật, thể hiện tính chỉnh thể của nó” [52, tr. 134]. Giữa thời gian và không gian nghệ thuật có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, chúng không thể tách rời nhau, bởi thế giới thực tại chỉ tồn tại trong một không gian và thời gian cụ thể nào đó, và tất yếu thế giới nghệ thuật cũng chỉ có thể tồn tại trong một không gian và thời gian nghệ thuật với những đặc điểm cụ thể của nó. thể hiện lối tƣ duy và tƣ tƣởng nghệ thuật của nhà văn. Cùng với không gian và thời gian nghệ thuật, “ngôn ngữ văn học cũng là một trong những yếu tố quan trọng thể hiện cá tính, sáng tạo, phong cách, tài năng của nhà văn” [52, tr. 185]. Vì vậy, “khi nghiên cứu một tác phẩm, một tác gia hay một trào lưu văn học, không thể không quan tâm tới đặc điểm và sự sáng tạo về ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn” [ 135, tr. 486].
Khảo sát những sáng tác của Nguyên Hồng trƣớc năm 1945, chúng tôi nhận thấy: thời gian nghệ thuật của Nguyên Hồng có một số đặc điểm nổi bật sau: đó là thời gian gắn với sự kiện, biến cố của cuộc đời nhân vật; thời gian của sự hồi tưởng đan xen giữa quá khứ, hiện tại và tương lai.
4.1. Thời gian nghệ thuật
4.1.1. Thời gian gắn liền với những sự kiện và biến cố dữ dội của cuộc đời nhân vật
Thống kê toàn bộ những sáng tác của Nguyên Hồng trƣớc Cách mạng
tháng Tám năm 1945, chúng tôi nhận thấy thời gian nghệ thuật của Nguyên Hồng
101
nói chung là Thời gian gắn với những sự kiện và biến cố dữ dội của cuộc đời nhân
vật. Nhà văn luôn có ý thức miêu tả sự tác động mạnh mẽ của những biến cố,
những bƣớc ngoặt trong đời sống đối với nhân vật qua thời gian cụ thể. Nhân vật
Tám Bính (Bỉ vỏ) sau khi bị Tham Chung lừa, bị gia đình hắt hủi và bán đứa con
của cô đi, biến cố đầu đời ấy đã đƣa cô đến với thành phố cảng Hải Phòng. Thời
gian từ lúc Bính trốn làng Sòi quê cô ra Hải Phòng chỉ vẻn vẹn có bốn hôm,
nhƣng bốn hôm ấy đã làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời cô. Trong khoảng thời
gian ngắn ngủi ấy, Bính phải trải qua biết bao sự kiện, biến cố: Bính bị thằng “ăn
vận lạ mắt” định cƣỡng hiếp cô tại vƣờn hoa; bị thằng trẻ tuổi trai lơ lừa gạt, rồi
bị vợ hắn báo nhà chức trách đẩy cô vào nhà chứa. Chỉ trong bốn ngày, từ một cô
thôn nữ trong sáng, cả tin, ngây thơ đã bị đẩy vào nhà chứa, rồi dần dần sau này
đã trở thành một “bỉ vỏ” xuất sắc mà những tay “anh chị” trong giới giang hồ
phải kính nể. Hay trong tác phẩm Những ngày thơ ấu đã ghi lại một cách tƣờng
tận những sự kiện trong cuộc đời bé Hồng qua những nút thời gian cụ thể. Từ khi
Hồng lên 8 tuổi đã phải nếm trải những cay đắng trong một gia đình thiếu hạnh
phúc; lớn lên chút nữa, Hồng lại lâm vào cảnh mồ côi cha; khi mẹ bé Hồng đi
bƣớc nữa, khi Hồng ở với bà nội và ngƣời cô; khi Hồng đến trƣờng trong nỗi cô
đơn và bị hành hạ, hay những khi đi đánh đáo để kiếm ăn nuôi thân... Nhà văn
miêu tả chi tiết những cảm xúc của một đứa trẻ mồ côi, xa mẹ, hàng ngày phải
chịu cảnh đối xử ghẻ lạnh của chính những ngƣời thân trong gia đình qua những
mốc thời gian ngày, tháng rõ ràng.
Đặc biệt thời gian hoạt động của các nhân vật của Nguyên Hồng thường tập
trung vào thời điểm ban đêm, cho dù đó là những kiểu nhân vật nào, dù là ngƣời
làm ăn lƣơng thiện (Đây, bóng tối, Hàng cơm đêm, Trong cảnh khốn cùng, Bà
mẹ, Người con gái…) hay những kẻ lƣu manh, trộm cắp, đĩ điếm, (Sông máu,
Chín Huyền, Bỉ vỏ, Con đoản cuối cùng, Bảy Hựu…). Thời điểm ban đêm ấy gợi
lên trong lòng ngƣời đọc những nỗi ám ảnh về những kiếp ngƣời trong đêm trƣờng
nô lệ. Truyện ngắn Linh hồn nhân vật Hai mươi hai chết trong khoảng đêm vắng
lặng, anh Tín chồng nàng vẩn vơ dƣới ánh trăng lạnh lẽo mong đợi vợ ra tù trên
tay bế đứa con khỏe mạnh. Hay hoạt động của nhân vật Nhà sư nữ chùa Âm Hồn
(Nhà sư nữ chùa Âm Hồn) diễn ra toàn vào ban đêm, nhân vật Vịnh (Hàng cơm
đêm), nhân vật Cô gái quê (Cô gái quê),… đều đƣợc miêu tả làm việc trong đêm
102
tối. Rồi nhân vật Bảy Hựu (Bảy Hựu) cũng chết trong một đêm trăng; chị Năng,
anh Năng (Sông máu) bị bỏ mạng trong đêm tối dữ dằn; bà mẹ Thƣởng (Hai mẹ
con) làm việc và suy tƣ đều diễn ra trong đêm tối (thời gian về đêm đƣợc miêu tả 7
lần), trong truyện Tết của tù đàn bà thời gian trôi chậm chạp nhƣ đếm từng
khoảng khắc: ngày 27… 28… giao thừa… Các hoạt động chậm chạp diễn ra nhƣ
kéo dài sự đày ải của những ngƣời tù đàn bà và trẻ con trong thời khắc giao thừa
(đêm, bóng tối đƣợc nhắc đến 9 lần). Trong truyện (Mợ Du) nhân vật Mợ Du gặp
con trong lét lút, đau khổ cũng diễn ra vào đêm trăng (đêm tối đƣợc nhắc tới 7
lần); Truyện ngắn Chín Huyền, nhân vật Chín Huyền cứu Sáu Lẹm cằm vào đêm
khuya và cũng chính đêm đó Chín Huyền bị bắt, bỏ lại hai con dại và lại vào tù...
Trong tiểu thuyết Bỉ vỏ, hầu hết những sự kiện có tính chất bƣớc ngoặt trong cuộc
đời nhân vật chính đều diễn ra trong đêm tối. Đó là đêm Bính âm thầm lén lút đi
sinh nở; là đêm mà cha mẹ Bính mặc cả bán đứa con của Bính; Hay đêm Bính suýt
bị làm nhục ở vƣờn hoa sông Lấp. Là một buổi tối khuya Bính gặp Năm ở nhà
chứa và Năm giúp cô thoát khỏi cuộc đời nhơ nhớp của gái làng chơi. Đó là đêm
khi chứng kiến Năm Sài Gòn móc túi, đã để lại cho Bính cảm giác lo lắng và run
sợ. Và cũng từ đêm ấy, Bính bắt đầu sống cuộc sống của một bỉ vỏ. Hay một đêm
khuya khi đã làm vợ ngƣời mật thám, Bính nghe giọng hát nẫu ruột của Năm trong
nhà giam, cô quyết định cứu Năm và chấp nhận cuộc đời bỉ vỏ. Kết thúc tác phẩm
là đêm bi kịch nhất trong cuộc đời khốn khổ của Bính: con Bính chết trong tay
Năm, Bính và Năm bị bắt, Bính vào tù... Có thể nói, cả cuộc đời Bính (từ khi có
con với Tham Chung) là đêm đen bao phủ cuộc sống tăm tối, tội lỗi và tù đày.
Nhƣ vậy, hầu hết những sự kiện có tính chất bƣớc ngoặt của cuộc đời
những nhân vật chính đều diễn ra trong đêm tối. Đêm tối, không chỉ phù hợp để
nhân vật hành động (nhất là đối với những nhân vật lƣu manh, tha hóa), mà thời
gian đêm tối còn là thời điểm mà nhân vật của Nguyên Hồng bộc lộ thế giới nội
tâm của mình. Nhân vật ngƣời mẹ bé Hồng (Những ngày thơ ấu) từng có “Nhiều
đêm lạnh và dài để mà thao thức lo toan, bàn tán, vun đắp cho nhà cửa, cho tuổi
già, cho con cái” [73, tr. 755]. Nhân vật ngƣời bà của bé Hồng (Những ngày thơ
ấu) trong cảnh nhà sa sút, hàng đêm bà cũng chỉ còn biết gửi gắm ý nguyện của
mình vào những lời cầu nguyện chúa, mong chúa thƣơng xót cứu vớt mà thôi!
103
Nhân vật Tám Bính (Bỉ vỏ) cũng từng có nhiều đêm suy ngẫm về cuộc đời bỉ vỏ
tội lỗi của mình, nghĩ đến làng Sòi quê hƣơng, đến đứa con với nỗi niềm “thèm
thuồng”, “khát khao” đƣợc sống một cuộc đời trong sạch, và cũng bao đêm Bính
sống trong đau tủi, xót xa cho thân phận mình vì biết rằng ƣớc mơ giản dị, chính
đáng ấy với Bính không bao giờ có đƣợc!
Lựa chọn thời gian đêm tối để miêu tả hành động và thể hiện những suy tƣ
của nhân vật là một biện pháp nghệ thuật quen thuộc của các nhà văn thời kỳ này
nhƣ: Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Thạch Lam... Tiểu thuyết Tắt đèn
(Ngô Tất Tố) mở đầu và kết thúc đều vào thời điểm đêm tối; những trang đầu tiên
của Giông tố (Vũ Trọng Phụng) là hình ảnh chiếc xe hòm của Nghị Hách chạy
trong đêm, kết thúc tác phẩm là một đêm tối mùa hạ năm sau; thời gian đêm tối
cũng là thời gian hoạt động kiếm sống của những con ngƣời nhỏ bé ở một ga xép
tỉnh lẻ trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam... Vì sao các nhà văn ở thời
kỳ này thƣờng chọn thời gian ban đêm làm bối cảnh cho hoạt động và suy tƣ của
nhân vật nhƣ vậy? Phải chăng vào thời điểm những năm 1930 - 1945 là thời kỳ xã
hội Việt Nam đầy tăm tối và đi vào con đƣờng bế tắc cực độ, không khí xã hội
căng thẳng, ngột ngạt đòi hỏi có một sự thay đổi. Nhiều nhà văn muốn lột tả cái
gọi là “đêm trƣờng nô lệ” đầy giông bão của cả dân tộc Việt Nam trƣớc thời điểm
khởi nghĩa này. Nguyên Hồng cũng vậy, chọn lựa thời gian về đêm làm bối cảnh
hoạt động và suy tƣ của nhân vật, nhà văn nhằm thể hiện sâu sắc không khí ngột
ngạt, bế tắc phủ chụp lên cuộc sống của những con ngƣời bé nhỏ trong một xã hội
đầy tăm tối, bất công và tội lỗi.
Trong nhiều tác phẩm của Nguyên Hồng, nhịp điệu thời gian có khi đƣợc
miêu tả rất chậm rãi, nhƣ trong Những ngày thơ ấu, tác giả khắc họa tâm trạng
nhớ mong thổn thức của chú bé mồ côi xa mẹ qua nhịp điệu thời gian chậm nhƣ
đếm từng ngày, tháng: “Một tuần... hai tuần... rồi một tháng, hai tháng cũng
chẳng thấy mẹ tôi về, và tôi cũng chẳng nhận được lấy một lá thư của mẹ tôi” [73,
tr. 786]. Nhịp điệu thời gian trong truyện ngắn Tiếng nói càng chậm rãi hơn. Cái
đói và sự chết chóc chầm chậm đến dần trong từng khoảnh khắc đƣợc miêu tả chi
tiết, cụ thể: “từ hôm qua đến đây” ngƣời đàn ông cũng chỉ ngồi “suốt ngày, suốt
đêm, bốn hôm rồi anh chỉ ngồi ngả người vào cái cổng nọ”, “trong khoảng hai
mươi bốn tiếng đồng hồ”, “hôm ấy tới giờ đã bảy hôm”...“Hôm sau và mấy hôm
104
ròng nữa, cái xác khô đét, đen sạm ấy lại cũng như những cái xác trần truồng và
bê bết cứt đái khác, cứ nằm phơi nắng, phơi sương mãi” [73, tr. 696]... Không chỉ
sử dụng nhịp điệu thời gian chậm rãi để xoáy sâu vào từng chi tiết miêu tả, mà
trong nhiều sáng tác của Nguyên Hồng chúng tôi còn thấy nhịp điệu thời gian lại
đƣợc đẩy lên một cách hối hả, khẩn trƣơng, đầy kịch tính nhằm miêu tả những sự
kiện, những biến cố diễn ra trong đời sống hàng ngày hoặc trong ký ức nhân vật.
Đó là hình ảnh mợ Du (trong Mợ Du) lén lút gặp lại đứa con của mình trong
khoảng thời gian ngắn ngủi vào ban đêm với những hành động vội vàng; Chín
Huyền (trong Chín Huyền) quyết định cứu Sáu lẹm cằm chỉ trong một khoảng
khắc; Điều và Tý Sáu (trong Con chó vàng) ăn cắp tiền của ông lão mù diễn ra
trong một đêm tối với những hành động nhanh gọn mang tính chuyên nghiệp; Bảy
Hựu (trong Bảy Hựu) quyết định cứu Hai Răng vàng chỉ trong khoảng vài giây;
Tám Bính (trong Bỉ vỏ) quyết định cứu Năm Sài Gòn trong một đêm tối với những
hành động hết sức liều lĩnh, gọn gàng... Cho dù sử dụng nhịp điệu thời gian nhanh
hay chậm thì thời gian nghệ thuật của Nguyên Hồng luôn gắn với những sự kiện,
biến cố của cuộc đời nhân vật. Có lẽ việc tạo dựng nên một thời gian nghệ thuật
nhƣ vậy, nhà văn nhấn mạnh đến sự thay đổi nhanh chóng có ý nghĩa quyết định
đến số phận nhân vật dƣới tác động của một xã hội đầy sự bất trắc, khó lƣờng.
Những tác phẩm của Nguyên Hồng từ giai đoạn 1939 trở về sau và nhất là
những sáng tác vào những năm 1943 đến năm 1945 thì hiện thực cuộc sống tăm tối
thê thảm vì nạn đói, sự chết chóc, cùng không khí căm thù phẫn uất chế độ - đƣợc
nhà văn khắc họa chi tiết, chân thực, sinh động trong những tác phẩm: Hai dòng
sữa (1943), Buổi chiều xám (1944), Lửa thiêu (1945), Đi (1945), Bà cụ Việt (1945),
Cơn sốt (1945), Lưới sắt (1945), Ngòi lửa (1945)… Đã có nhiều nhà văn hiện thực
đã chú ý phản ánh sự khốn cùng của nhân dân lao động lầm than trƣớc Cách mạng,
nhƣng có lẽ miêu tả nhiều, sâu sắc và chân thực về nạn đói, về cái chết trƣớc năm
1945 thì Nguyên Hồng có nhiều sáng tác hơn cả. Để phản ánh hiện thực nghiệt ngã
với hàng triệu ngƣời Việt Nam bị chết đói, trong nhiều truyện ngắn của Nguyên
Hồng, nhịp điệu thời gian trần thuật chậm rãi nhằm để nhằm xoáy sâu, xoáy sâu
và từng chi tiết của nạn đói. Thôi thì đủ thảm cảnh: mẹ vứt con xuống sông vì
đói quá không nuôi nổi con, rồi cũng nhảy xuống sông tự vẫn theo con; có
những đứa trẻ bố mẹ đói quá không nuôi nổi con, phải đƣa con vào trại tế bần,
105
ở đó ngƣời ta nhốt chúng nhƣ nhốt lợn, mặc trời mƣa, nắng, sớm, tối, chúng
chết mòn mỏi; có những em bé chƣa chết, đói quá lả đi thoi thóp cũng bị ngƣời
ta đem lên xe bò vứt xuống hố chôn (Tàu đêm), hoặc có những em bé khát sữa
mà chết (Trước xác chết)… đói đến mức có tên to béo ăn uống no say nôn mửa
ra, mà ngƣời ta còn nháo lên tranh nhau ăn cả vũng nôn (Vũng máu); đói đến
độ cả làng, cả xã lũ lƣợt bồng bế nhau đi,“Họ ra đi bán mình cho bất cứ công
việc gì… với bất cứ giá nào để sống” [73, tr. 614].
Năm 1943, khi Nguyên Hồng tham gia tổ chức Văn hóa cứu quốc và tiếp
nhận tƣ tƣởng của Đề cương về văn hóa Việt Nam thì sáng tác của nhà văn ngày
càng gần gũi hơn với văn học Cách mạng. Vẫn là hiện thực cuộc sống của ngƣời
lao động dƣới đáy xã hội nhƣng nhà văn đã phản ánh cụ thể, chi tiết sự bế tắc, tù
túng, ngột ngạt, quằn quại của cuộc sống trƣớc khi cơn bão cách mạng ập đến.
Đồng thời những tác phẩm này còn thể hiện một không khí đấu tranh sôi sục của
quần chúng lao động và bộ mặt thật của kẻ thù đƣợc nhận diện rõ hơn. Sau này
trong tiểu thuyết Cửa biển, Nguyên Hồng cũng đã phản ánh lại không khí quằn
quại, trở dạ trong đêm đen của xã hội Việt Nam trƣớc Cách mạng để chuẩn bị
bƣớc sang ngày mới. Đấy là một “địa ngục” đau khổ chất chứa bao bất công, một
“lò lửa” nung nấu ý chí căm hờn, hƣớng những ngƣời nghèo khổ quyết tâm đi theo
cách mạng để giành quyền sống, quyền tự do cho mình. Cũng ở giai đoạn này Nam
Cao đã viết truyện ngắn Chí Phèo (1941), tiểu thuyết Sống mòn (1944) phần nào
thể hiện không khí ngột ngạt, nhức nhối của xã hội Việt Nam đƣơng thời. Có thể
nói, hiện thực cuộc sống Việt Nam trƣớc năm 1945 là nguồn cảm hứng vô tận cho
các nhà văn hiện thực trong đó có Nguyên Hồng. Các nhân vật của nhà văn cứ
luôn bị xoáy sâu vào sự khốn cùng của cuộc sống tăm tối, bế tắc - và đôi khi bị đẩy
vào tận chân tƣờng - họ cũng đã vùng dậy (từ tự phát đến tự giác) để đấu tranh đòi
quyền sống của mình. Tạo dựng một thời gian nghệ thuật luôn gắn liền với những
biến cố, sự kiện của cuộc đời nhân vật và gắn với sự vận động của thời đại, lịch sử
nhƣ vậy, Nguyên Hồng đã “tạo ra được bầu không khí xã hội vô cùng phức tạp và
tinh tế xung quanh nhân vật” [6, tr. 250]. Chính bầu không khí ấy bắt buộc các
nhân vật phải bộc lộ mình qua hành động, qua đối thoại hay độc thoại nội tâm.
Trong môi trƣờng, hoàn cảnh thực tế ấy, nhân vật của Nguyên Hồng đƣợc bộc lộ
đầy đủ chân dung, số phận với những phẩm chất, những tính cách riêng biệt.
106
4.1.2. Thời gian của con người cá nhân, của sự hồi tưởng đan xen giữa quá
khứ, hiện tại và tương lai
Đi ngƣợc về thời gian quá khứ, “hồi tƣởng” có một vai trò quan trọng thể
hiện sinh động đời sống nội tâm phong phú của nhân vật. Hồi tƣởng là “nhớ lại,
làm sống lại trong tâm trí sự việc nào đó đã qua, nhớ lại điều bản thân đã trải qua
một cách có chủ định” [149, tr. 459]. Khảo sát những tác phẩm của Nguyên Hồng
trƣớc cách mạng, chúng tôi thấy nhà văn hay sử dụng biện pháp hồi tƣởng đan xen
quá khứ, hiện tại và tƣơng lai để miêu tả thế giới nội tâm với bao suy nghĩ bộn bề
của nhân vật. Theo dòng thời gian quá khứ, những hồi ức, những cảm xúc của
nhân vật đƣợc bộc lộ một cách trực tiếp biểu hiện tình cảm trong lòng mình một
cách thành thật nhất.
Ví dụ nhƣ trong truyện ngắn Tôi dạy học thời gian hồi tƣởng qua tâm trạng
nhân vật đƣợc lặp lại khá nhiều (14 lần), “Hơn ba năm… Ba tháng… Hơn ba
năm… Hơn ba năm… Đầu tháng, giữa tháng, cuối tháng… Hơn ba năm … Nhưng
ba năm ấy… Trong ba năm… Hơn bốn năm… Bốn năm… Ba năm tôi kiếm
sống…” chứng tỏ dấu ấn thời gian, ký ức về tôi dạy học kiếm sống một cách lẩn
lút đã để lại ấn tƣợng sâu sắc trong lòng nhân vật. Đấy là khoảng thời gian vô cùng
ý nghĩa đối với “cậu giáo”, vì chính thời gian đó, ngƣời trí thức tiểu tƣ sản nghèo
nàn thấm thía sự nhân nghĩa thủy chung, lá lành đùm lá rách của những con ngƣời
lao động khốn khổ. Đặc biệt, khoảng thời gian quá khứ ấy đã để lại những dƣ vị
hạnh phúc cũng nhƣ đắng cay trong lòng của một ngƣời thầy giáo dạy học không
có giấy phép: “các em đã cho tôi hưởng một cách thầm lặng nhưng thấm thía tình
quyến luyến trìu mến của bầy chim nhỏ với một bàn tay thương mến dịu dàng tung
thóc” [73, tr. 204]. Tiểu thuyết Bỉ vỏ có 16 lần nhà văn miêu tả nhân vật Tám Bính
có sự hồi tƣởng về quá khứ, đan xen giữa hiện tại và tƣơng lai. Khi Bính trót lỡ có
con với Tham Chung, trong những lúc bị cha mẹ đay nghiến, Bính lo sợ nhớ lại
chị Minh, ngƣời cùng cảnh với Bính, bị làng phạt vạ, bế đứa con còn đỏ hỏn quỳ
giữa sân đình. Và nghĩ đến hiện tại của mình, nếu thoát khỏi cảnh ô nhục mà lại
phải xa lìa đứa con, bao nhiêu nỗi cay đắng xót xa trào lên trong lòng Bính. Hay
đó là vào buổi đêm khi Bính đi tìm Tham Chung ở Hải Phòng, Bính có những dự
cảm về tƣơng lai mù mịt của cuộc đời mình: “Bính chợt nghĩ tới ngày mai, tới một
107
sự sống ở một nơi xa lạ mà Bính hiện không còn một đồng chữ dính túi… Bính
tưởng con đường Bính đi tối tăm hoang vắng như một bãi tha ma”; hoặc những
khi Tám Bính cảm nhận sự đau đớn ê chề của cuộc sống nhà chứa, khi day dứt vì
tội lỗi mà mình gây ra,… hay thời gian tết đến, xuân sang - thời điểm của sự đoàn
tụ trong gia đình, Bính chạnh lòng tủi phận và lại nhớ về quá khứ êm đẹp, hy vọng
có một cuộc sống lƣơng thiện, đƣợc sống trong tình mẫu tử... Còn trong truyện
ngắn Người con gái lại là lối kể đan xen giữa hiện tại và quá khứ. Hồi ức về cuộc
đời một ngƣời con gái qua những chặng thời gian của cuộc đời từ nhỏ đến lớn, khi
trƣởng thành, khi lấy chồng, rồi khi biệt tăm, chìm nghỉm trong cuộc sống vì sự
mƣu sinh và sự vô vọng của số phận. Truyện ngắn Mợ Du thời gian đƣợc kể qua
ký ức của ngƣời kể chuyện là nhân vật An. Đó là ký ức và cảm xúc về những lần
mẹ con mợ Du gặp nhau trong lén lút, về ngƣời phụ nữ buôn thúng bán bƣng chết
nơi đất khách quê ngƣời, không có một ai thân thích bên cạnh… Bản thân tiểu
thuyết tự truyện Những ngày thơ ấu đã là thời gian của những hoài niệm, của ký
ức nhân vật chú bé Hồng. Đây là thời gian hồi tƣởng kết hợp với thời gian đồng
tuyến một chiều diễn ra theo số phận nhân vật, giống nhƣ một cuộn băng ghi hình
chân dung một cậu bé không có tuổi thơ. Từng nút thời gian đƣợc nhà văn thể hiện
chi tiết, cụ thể, tái hiện cuộc đời của nhân vật chú bé Hồng về những năm tháng ấu
thơ cay cực. Đó là ký ức về một cảnh nhà sa sút, là cuộc hôn nhân không có tình
yêu của cha mẹ, về cuộc sống “âm thầm chịu đựng” của ngƣời mẹ và vẻ “ốm yếu
rũ rƣợi” của ngƣời cha bé Hồng. Hay đó còn là ký ức kinh hoàng về trận đòn thù
của ngƣời thầy giáo trong trƣờng học, là ký ức về một tuổi thơ nhọc nhằn kiếm
sống, là tâm trạng đắng cay, bơ vơ trơ trọi của nhân vật “tôi” - ngƣời tự truyện. Có
lẽ trong hồi ức của mình, ấn tƣợng đậm nét nhất đối với bé Hồng chính là những
cảm xúc về ngƣời mẹ hiền từ và đau khổ, là cảm xúc của tình mẫu tử thiêng liêng,
là khao khát đƣợc sống trong lòng mẹ. Cảm giác đƣợc gặp mẹ sau bao ngày xa
cách đã xóa nhòa thời gian quá khứ, hiện tại và tƣơng lai. Qua dòng ký ức của
nhân vật đã làm hiện lên tình mẫu tử nhƣ “một thứ bản năng mãnh liệt” và giá trị
tinh thần thiêng liêng nhất của con ngƣời. Những khoảnh khắc thời gian đƣợc ghi
lại bằng những con số cụ thể qua những trang nhật ký ấy rất giàu tính thuyết phục,
đã gợi lên trong lòng ngƣời đọc sự xót xa, đồng cảm cho cuộc đời của một chú bé
mồ côi xa mẹ, phải nếm trải bao tủi nhục đắng cay.
108
Trong truyện ngắn Bảy Hựu, sự hồi tƣởng về quá khứ đƣợc nhắc lại 8 lần
đều phản ánh ký ức của Hai Răng vàng về cuộc đời “anh chị” oanh liệt khi xƣa “…
Bữa tiệc ấy cách đây hơn mười năm… Hai Răng vàng lơ mơ nghĩ đến thời xưa.
Cái quá vãng…” [73, tr. 119]… Truyện ngắn Đây, bóng tối thời gian đƣợc hồi
tƣởng qua tâm trạng nhân vật Nhân (12 lần) khi nghĩ về cuộc đời, những kỷ niệm của
mình với Mũn “Một buổi chiều đã lâu lắm rồi… Trong tám năm lầm than lầm lũi…
Tám năm… Những tám năm… Cuối năm thứ tám… Giữa một buổi trưa mùa hè…
Ngày này…” . Đây là những khoảng thời gian in dấu cuộc sống nghèo nàn của hai vợ
chồng Nhân, từ kỷ niệm tuổi thơ, đến khi lấy nhau, khi bƣơn chải mƣu sinh, khi Nhân
bị mù, khi Mũn chết… Cũng vậy, ở truyện ngắn Trong cảnh khốn cùng ta cũng
gặp những khoảng thời gian ký ức gắn với hiện tại qua tâm trạng nhân vật Quyến.
Hai vợ chồng ngƣời chèo đò đã có những năm tháng hạnh phúc dù công việc hiểm
nguy, vất vả. Rồi con chết, rồi ngƣời chồng ốm yếu mà ngƣời vợ tuổi xuân còn hơ
hớ. Nhìn anh chân sào trẻ tuổi, cƣờng tráng chèo đò cho nhà mình đã gợi lên trong
lòng Quyến những suy nghĩ mơ hồ, những ƣớc mong khao khát… Sự diễn biến
tâm trạng Quyến đƣợc nhà văn diễn tả qua hồi ức nhân vật, lúc đầu là sự “phảng
phất thấy những hình ảnh hiển hiện từ từ” với quá khứ “cũng trên dòng sông luôn
êm ả này, cũng với cái đò này nhưng còn mới mẻ và vững chãi. Quyến nách hai
con sống cuộc đời giản dị mà vui tươi. Ngày ấy cách đây tám năm, dạo Quyến còn
trẻ măng và bác Phấn thì sức lực cường tráng” [73, tr. 142]. Ƣớc muốn về tƣơng
lai có một cuộc sống êm đềm “sáng sủa rực rỡ” liên tiếp vẽ ra trong trí tƣởng của
Quyến “Quyến cùng anh chân sào trẻ tuổi đẹp đẽ mà bấy lâu nàng mơ ước kia
sống cuộc đời êm đềm như xưa. Một cái đò mới mẻ, chắc chắn, người chồng tráng
kiện nở nang, sự làm việc hòa hợp, vui vẻ và tình yêu nồng nàn tha thiết với đời”
[73, tr. 145]. Những ý nghĩ tội lỗi về tƣơng lai của nàng đã nhƣờng chỗ cho sự
“rung động trước tình yêu thương thấm thía nồng nàn của người đàn ông nọ trong
cảnh khốn cùng đối với vợ con”. Quyến hổ thẹn và hối hận vì những ý nghĩ tội lỗi
của nàng muốn xa lánh ngƣời chồng tàn tật để đi tìm hạnh phúc riêng mình. Và giờ
đây, thực tại, tâm trạng Quyến lại nhẹ nhàng, sáng sủa và êm đềm dễ chịu nhƣ về
mấy năm xƣa đầy đủ, hạnh phúc. Sử dụng biện pháp hồi tƣởng đan xen giữa thời
gian quá khứ, hiện tại và tƣơng lai nhƣ vậy, Nguyên Hồng đã miêu tả chân thật và
sinh động những diễn biến tâm lý tinh vi, phức tạp, thậm chí cả những rung động
109
mơ hồ trong lòng ngƣời phụ nữ trẻ. Thời gian hồi tâm của nhân vật rất ngắn, chỉ từ
“đêm trƣớc” đến “đêm hôm sau”, qua tình huống truyện đặc biệt, giàu tính tƣơng
phản. Khoảng thời gian ấy đủ làm thay đổi những suy nghĩ tội lỗi của ngƣời phụ
nữ trong những phút xao lòng, làm ấm lòng ngƣời đọc tin tƣởng vào sự thủy chung
vốn có của ngƣời phụ nữ cho dù đang “trong cảnh khốn cùng” của cuộc sống.
Tóm lại, trong nghệ thuật xây dựng hình tƣợng nhân vật, Nguyên Hồng hay sử
dụng thời gian của con ngƣời cá nhân qua sự hồi tƣởng, đan xen giữa quá khứ, hiện
tại và tƣơng lai để miêu tả những sự kiện có ảnh hƣởng sâu sắc đến cuộc đời các nhân
vật. Vì vậy, nhân vật của ông hiện lên chân thực với những nét tính cách vô cùng
phong phú, phức tạp nhƣ vốn có trong cuộc đời - và đây cũng là một trong những
thủ pháp nghệ thuật độc đáo để nhà văn xây dựng thành công các nhân vật của mình.
Với cách xây dựng nhân vật giàu sức thuyết phục, nhiều nhân vật của Nguyên
Hồng đã để lại những ấn tƣợng không phai trong lòng ngƣời đọc.
4.2. Không gian nghệ thuật
Không gian nghệ thuật là một yếu tố quan trọng trong thế giới nghệ
thuật của nhà văn, “Không gian nghệ thuật là hình thức bên trong của hình
tượng nghệ thuật, thể hiện tính chỉnh thể của nó” [52; tr.134]. Không gian nghệ
thuật chẳng những cho thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm văn học, mà qua đó
ngƣời đọc còn cảm thấy đƣợc quan niệm về thế giới, về con ngƣời và cuộc đời,
thể hiện ƣớc mơ và lý tƣởng của nhà văn. Các nhà văn hiện thực mỗi ngƣời đều tạo
cho mình một không gian riêng. Nếu “Tiểu thuyết của Ngô Tất Tố có sự dồn nén cao
độ về không gian, thời gian, tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan chỉ bao quát một
không gian hẹp, tác phẩm của Nam Cao chủ yếu tập trung xoáy vào thế giới vi mô,
cái cá thể của đời sống” [134, tr. 90], thì Nguyên Hồng lại tạo dựng nên một không
gian nghệ thuật khá độc đáo, mang dấu ấn riêng. Đó là không gian xã hội đen tối,
nhức nhối, chứa đựng đầy bất công và tội lỗi; không gian gia đình chứa đầy bi
kịch và là một không gian mang sắc thái tôn giáo trầm buồn và ảm đạm.
4.2.1. Không gian xã hội đen tối, nhức nhối, chứa đựng đầy bất công và tội lỗi
Cuộc sống lầm than, cơ cực của những con ngƣời lao động dƣới đáy xã hội ở
các thành phố lớn nhƣ Nam Định, Hải Phòng, Hà Nội (đặc biệt là ở Hải Phòng) có
mặt hầu hết trong các sáng tác của nhà văn. Có thể nói, Hải Phòng đã gắn bó máu
110
thịt với nhà văn trong cuộc sống và cả sự nghiệp sáng tác. Điều dễ nhận ra trong tác
phẩm của Nguyên Hồng trƣớc và sau Cách mạng là dù ông viết về đề tài nào, nhân
vật nào thì ngƣời đọc vẫn thấy không gian của thành phố Hải Phòng. Trong không
gian ấy, nổi lên là hình ảnh của những chợ, những bến cảng, bến tầu, nhà ga, giờ
tan tầm của nhà máy, thợ thuyền, nhân công… với một nhịp sống khẩn trƣơng, bụi
bặm dƣới cái nắng chói chang và bầu trời cao xanh lồng lộng, màu hoa phƣợng vĩ
đỏ rực và tiếng sóng biển rì rào, mang đậm hƣơng vị của thành phố cảng, biển Hải
Phòng. Những địa danh trong nhiều tác phẩm của ông đã làm sống lại không gian
Hải Phòng nhƣ: Vƣờn - hoa - đƣa - ngƣời, Ngõ Nhà Đái, ngõ Chè Chai, Vƣờn hoa
Dái ngựa, Vƣờn hoa Năm xu, Cửa Cấm, Sáu Kho, Bến tàu Tây Điếc, ngõ Máy
nƣớc hai vòi… Chợ Vƣờn hoa sông Lấp thƣa thớt ngƣời buôn bán nhƣng lại tập
trung đủ mọi hạng ngƣời từ mật thám đến lƣu manh, trộm cắp, gái điếm. Hay
không gian của những “cái xóm cặn bã”, cái xóm mà “người lạ đi vào thì không
thể nào tránh được nạn bớp mũ, giật khăn ở những con đường chật hẹp, ngoằn
ngoèo, hai bên ngập ngụa rác rưởi”, cái xóm mà “đường đi thường lụt máu! Vì
một cái mở bát chạc, một ván bài ù không được tiền, một giọng cười khiêu khích”,
một cái xóm “chứa chấp phần đông phu Sáu Kho, những phu đanh đá, ngỗ ngược
cả từ đứa con gái còn để tóc xõa, đến người đàn bà có bảy, tám con, những tốp
làm xe thất thường, những bọn thợ linh tinh, những đàn bà buôn thúng bán bưng
và những me Tây, gái điếm kiếm tiền cùng mạt nhất” [73, tr. 201] - Đây chính là
những không gian sống, không gian sinh hoạt của những ngƣời lao động ở những
khu công nghiệp mà Hải Phòng là một ví dụ. Sau này, trong bộ tiểu thuyết Cửa
biển đồ sộ, Nguyên Hồng vẫn trở về với không gian Hải Phòng, với nhiều nhân
vật quen thuộc của nhà văn - tất nhiên họ không còn “lấm lem, bụi bặm, quằn
quại” nhƣ ở thời kỳ trƣớc Cách mạng, không phải sống tù túng eo hẹp trong một
sự bế tắc, cùng quẫn mà giờ đây họ là những con ngƣời đƣợc tắm mình trong
dòng chảy của Cách mạng, đƣợc sống trong một không gian mới, trong một hoàn
cảnh xã hội rộng lớn hơn. Có thể nói, Hải Phòng chính là vùng thẩm mỹ trong
sáng tác của nhà văn, ông đã viết về thành phố Cảng này nhiều nhất, đậm sắc
nhất so với những nhà văn khác. Và cho tới tận hôm nay, Hải Phòng vẫn luôn tự
hào bởi sự đóng góp lớn lao ấy của Nguyên Hồng.
111
Trở lại với không gian nghệ thuật của Nguyên Hồng trong sáng tác thời kỳ
trƣớc Cách mạng, chúng tôi thấy đó là một không gian xã hội đen tối, nhức nhối
chứa đầy những bất công và tội lỗi. Không gian ấy ngày một ngột ngạt hơn, căng
thẳng hơn, gắn với những xung đột xã hội rõ rệt hơn. Không gian trong những tác
phẩm nhƣ: Cuộc sống (1942), Hai dòng sữa (1943), Buổi chiều xám (1944), Hơi
thở tàn (1944), Vực thẳm (1944), Miếng bánh (1945), Ngọn lửa (1945), Đi
(1945), Bà cụ Việt (1945),… nhìn chung đó là thứ không gian căng thẳng, bức bối
của cả xã hội Việt Nam trƣớc ngày tổng khởi nghĩa. Nó quánh đặc một không khí
chết chóc bao trùm từ thôn quê ra đến thành thị - là hậu quả bóc lột tàn khốc của
chế độ của thực dân phong kiến, mà đỉnh điểm là giai đoạn nhân dân ta phải chịu
đựng cảnh “một cổ hai tròng”, đói khát, khốn cùng trong giai đoạn Nhật - Pháp
cùng đè đầu cưỡi cổ. Bằng sự phản ánh cụ thể, chân thực, nhiều tác phẩm của
Nguyên Hồng đã tái hiện một không gian u ám nặng nề - không gian của sự chết
chóc, chất chứa đầy sự đau đớn, phẫn uất. Không gian này trải rộng từ thành thị
đến nông thôn. Nơi thị thành hứa hẹn một cuộc sống phồn hoa thì thực tế chỉ là
“Những ống khói thở mù trời… những dòng than chảy dài dằng dặc, những con
người xơ xác lúc nhúc trong than bụi… những chỗ nằm nhớp nhúa, hôi hám,
những bầy trẻ trần truồng, đen thui... những bữa ăn bốc trên mặt đất” [73, tr.593].
Không gian sống của những con ngƣời lao động khốn khổ sống trong những cái
khu ổ chuột hôi thối ấy đƣợc Nguyên Hồng miêu tả cặn kẽ, chi tiết. Đặc biệt,
Nguyên Hồng cũng rất chú ý đến không gian sinh tồn của những hạng ngƣời sống
ngoài vòng pháp luật. Đó là không gian của một môi trƣờng sống cạnh tranh,
nghiệt ngã, phi nhân tính, không gian hoạt động của những kẻ lƣu manh, trộm cắp
ở xóm Chợ con, ở dọc bến tầu hỏa, tàu thủy, bến ô tô, các sòng bạc, suốt Phố
khách, phố Cầm Dầu và những phố đông đúc khác… Không gian rùng rợn, nặng
nề với những cảnh đâm chém, cƣớp giật, giết ngƣời xảy ra thƣờng xuyên. Không
gian của những trại giam với những âm thanh rít ghê rợn của những cánh cửa sắt,
những cặp mắt rình mò của mật thám. Không gian nhơ nhớp, bẩn thỉu, tanh tƣởi
của phố mãi dâm Hạ Lý. Không gian nhọc nhằn mƣu sinh của những đứa trẻ bơ vơ
đầu đƣờng xó chợ, dắt díu cơm thầy, cơm cô ở khắp các nhà ga, cổng chợ, bến
phà… Không gian đặc quánh bụi lầm của thành phố Cảng “một hải cảng sầm uất
112
bậc nhất Dông Dương, một thành phố công nghệ mở mang với hơn 30.000 dân lao
động bần cùng ở các tỉnh dồn về” (Bỉ vỏ)
Không gian ở thành thị thì nhƣ vậy, còn ở nông thôn thì không gian lại càng
thê thảm hơn: “Trời đã nhờ nhờ càng tối thêm. Gió thổi cũng lồng lộn hơn. Những
cánh đồng lúa mới xanh tím bầm lại, heo hút tiếng quạ rền” [73, tr.596]. “Những
bước chân ê ẩm lại như lê đi trong đám người lũ lượt trần truồng, tả tơi run rẩy.
Trên đầu họ, trước mặt họ, trời mây xám đặc, gió càng lồng lộng, hun hút” [73, tr.
604]. Không gian thâm u, tối sầm lại bởi cái đói, cái rét và sự chết chóc bao trùm,
khiến ngƣời ta nhƣ mất hết sinh khí, sức lực: “Bên ngoài đen như mực… làng mạc,
ruộng nương, bờ bến âm u, thăm thẳm. Họa hoằn mới có vài ánh lửa leo lét… Mặt
ai đều nhăn nhó, phờ phạc... Đây ban đêm ánh đèn cũng đục lầm và trên mặt đất,
người sống và xác chết cũng rũ ra, ngổn ngang không chăn, không chiếu… [73,
tr.613]. Ngƣời chết nhƣ ngả rạ “họ chết ngay bên vệ đường, ngay bờ cỏ, ngay mé
ruộng, ngay trước các quán, chẳng thấy ai chôn cất, khóc lóc…” [73, tr.597]. Sự
sống đang dần lụi tắt, nhiều ngƣời chỉ còn là những cái xác không hồn, dở sống dở
chết với những câu hỏi khắc khoải: “Đến bao giờ mới hết chiến tranh?... đến bao
giờ người ta mới có cơm ăn việc làm no đủ,… đến bao giờ dân Việt Nam mới cất
đầu mở mặt? Những câu hỏi trên đây cũng lại thấy thốt lên như đã thốt lên trong
mọi đám đông, từ tờ mờ sáng cho tới đêm khuya, khi mà người ta mệt lịm đi, ở các
ngả đường, các hang cùng ngõ hẻm” [73, tr.613]. Nhƣ một tất yếu, có áp bức phải
có đấu tranh. Những con ngƣời bị đẩy vào tận đáy đƣờng hầm tăm tối kia chỉ còn
cách vùng lên chống chính quyền, phá kho thóc của Nhật giành quyền sống cho
chính mình dƣới sự lãnh đạo của Đảng. Nhà văn đã tái hiện thành công không
gian sục sôi căm hờn của xã hội Việt Nam trước ngày Tổng khởi nghĩa tháng
Tám, đó là một không gian đặc quánh, ngột ngạt, căng thẳng, dồn nén đầy kịch
tính. Ví dụ nhƣ: trong không gian ngôi nhà của hai vợ chồng ngƣời thƣ ký làm
thuê, không gian bức bối ngột ngạt của xã hội đƣợc đẩy căng qua cảm nhận của
nhân vật: “Một cánh cửa bật tung rít lên một tiếng dài, nó kêu gọi sự phẫn uất của
con người, nó kêu gọi tất cả những năng lực hãy chồm dậy, phá tung những cái gì
đè ép và dập nát đời sống con người… gian buồng tối mờ … không khí lạnh buốt
thêm, thở nhức mũi… Gió kêu gọi mãi. Gió thúc giục mãi, thúc giục mãi. Nó chờ
đợi sự tức tối và thê thảm trong căn nhà của vợ chồng Thân lỡ vỡ tan tành” [73,
113
tr.591]. Tức nƣớc ắt phải vỡ bờ, sự căm thù, phẫn uất chế độ đƣơng thời đã lên đến
đỉnh điểm bằng những hành động thiết thực: “Ngùn ngụt. Tiếng hò reo kêu thét.
Những xe bò thóc hất ngược càng lên. Những quang gánh, thúng mủng sục vào tới
tấp. Trên hai con đường làng dưới và làng trên, người đã đổ ra ùn ùn đen kín cả
các bờ ruộng. Cũng quang gánh, thúng mủng, cũng hò reo… tiếng chiêng khua
thêm… Cả một vùng giời chuyển động” [73, tr.637].
Tóm lại, không gian bao trùm đời sống tràn vào trong các tác phẩm của
Nguyên Hồng là một không gian xã hội đen tối, ngột ngạt gắn với những xung đột
dữ dội của xã hội Việt Nam trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945. Số phận các
nhân vật dù là ở thành thị hay nông thôn đều rơi vào cảnh tù đọng, bế tắc cực độ,
đòi hỏi phải có một sự thay đổi tất yếu bằng chính sự phản kháng, sự vùng lên của
những con ngƣời lao động nghèo khổ dƣới đáy này.
4.2.2. Không gian gia đình chứa đầy bi kịch buồn đau, tan tác
Khảo sát các tác phẩm của nhà văn Nguyên Hồng trƣớc Cách mạng tháng
Tám, chúng tôi thấy, nhà văn đã tạo dựng một không gian nghệ thuật khá rộng lớn
từ nông thôn đến thành thị, từ vùng núi trung du đến miền xuôi, cảng biển. Không
gian đó gắn với những biến cố, những sự kiện đầy biến động của xã hội Việt Nam.
Cuộc sống của đủ mọi tầng lớp, đủ mọi hạng ngƣời trong xã hội đều bị xoáy vào
cuộc sống thê thảm tăm tối của những thân phận nô lệ trong xã hội Việt Nam trƣớc
Cách mạng tháng Tám năm 1945. Tuy nhiên để khắc sâu nỗi khốn khổ nhọc nhằn
của những con ngƣời lao động trong xã hội cũ, nhà văn đã tập trung miêu tả không
gian sống riêng của họ, đó là không gian gia đình chứa đầy bi kịch.
Cụ thể đó là không gian của các gia đình trong một vùng quê cổ hủ, tăm tối
giam hãm, trói buộc con ngƣời với những luật lệ vô lý của lễ giáo phong kiến.
Không gian làng Sòi với tục lệ trừng phạt ngƣời đàn bà hoang thai, nạn ngả vạ, chè
chén; là không gian gia đình Bính “chật hẹp, tối tăm” mà trong đó lúc nào cũng
thƣờng trực một không khí căng thẳng, “cắn rứt nhau luôn vì thiếu thốn”, hay
không gian của “gian buồng hôi hám không mấy khi nổi ánh sáng mặt trời” [74,
tr.297] mang nặng tâm trạng phấp phỏng lo sợ và tâm sự dằn vặt, éo le của một
ngƣời con gái trót lỡ lầm. Hay không gian sống của cả một gia đình với gần hai
chục con ngƣời sống trong một gian nhà bếp chật chội (Những ngày thơ ấu); là
114
không gian của “một gian nhà lụp xụp, đồ đạc ọp ẹp, lắt nhắt không bao giờ thay
đổi, khói bếp luôn ùa vào đầy nhà. Những ngày hè nung nấu ở gian nhà ấy, từ cái
giường, cánh phản, cái bàn mất chân đến những quần áo, tã, rổ rá nồng hẳn lên
trong một làn bụi nhảy múa và mùi mồ hôi gây làm nghẹn cả thở, rồi những ngày
mưa… nước mưa ngập lại ở sân, tràn vào nhà, dềnh đến nửa giường là thường”
(Nhà bố Nấu), là không gian trong những ngôi nhà “nồng nực vì mồ hơi người và
quần áo nhớp nháp” (Cái xích cũ). Không gian gia đình ngột ngạt càng ngột ngạt
hơn khi mà ở đó chỉ có những eo sèo, riếc móc, cắn rứt nhau vì mƣu sinh, hay vì
cuộc sống túng bẫn quá mà sinh ra đánh đập chửi nhau đẩy nhau đến bi kịch
(Hàng cơm đêm, Cái xích cũ, Người con gái, Người mẹ không con, Bố con lão
Đen…). Hoặc đó là không gian gia đình thê thảm, tê tái vì những đứa trẻ lần lƣợt
chết do khát sữa mẹ (Trước xác chết)…
Không chỉ có nguyên nhân của sự đói nghèo dẫn đến bi kịch trong gia đình,
mà trong không gian gia đình ấy còn chứa nhiều những bi kịch với những nguyên
nhân khác nhau:
Bi kịch của những gia đình không có hạnh phúc nhƣ gia đình của bé Hồng
(Những ngày thơ ấu),luôn luôn phải sống trong một bầu không khí gƣợng gạo, êm
ấm một cách giả dối - hậu quả của một cuộc hôn nhân gƣợng ép trong xã hội xƣa;
Hay đó là sự bị đày đọa thƣờng xuyên và chịu sự ghẻ lạnh, sự thiệt thòi của những
thân phận lẽ mọn trong gia đình, nhƣ nhân vật Muống (Quán Nải)…;
Bi kịch của nạn bạo hành đối với ngƣời phụ nữ trong gia đình. Do cuộc
sống cùng quẫn kéo dài, một số phu phen, thợ thuyền đâm ra phản ứng cực đoan
trở nên bê tha, cờ bạc, đánh đập vợ con - mà gia đình mụ Mão (Người mẹ không
con) là một ví dụ. Trong không gian của gia đình ấy luôn luôn chứa đầy bi kịch,
bởi đây là nơi thƣờng xuyên ngƣời vợ bị bạo hành bởi gã chồng nát rƣợu, vũ phu
mà mỗi khi thua tha cờ bạc, hay khi “say bứ họng” hắn lại trút giận lên đầu mụ
Mão những trận đòn roi thừa sống thiếu chết - mà lão cũng chẳng hiểu để làm gì?
Bi kịch trong gia đình của những con ngƣời sống ngoài vòng pháp luật nhƣ:
gia đình Bính và Năm Sài Gòn (Bỉ vỏ), gia đình Chín Huyền (Chín Huyền), trong
nhà của Hai Răng Vàng (Bảy Hựu)… Trong không gian của những gia đình ấy
đều chỉ có những chuyện mƣu mẹo về ăn cắp, cờ bạc, chém giết lẫn nhau, cắt máu
115
ăn thề… Một không gian tanh nồng mùi máu của những kẻ du côn, “anh chị” trong
xã hội. Là không gian mà ở nơi ấy chƣa bao giờ có sự ấm cúng, bình yên và lƣơng
thiện. Không gian ấy chất chứa những hiểm họa khôn lƣờng của cuộc sống đầy
hiểm nguy, nó đẩy con ngƣời ta vào bi kịch. Trong những gia đình ấy, ngƣời phụ
nữ là những ngƣời phải chịu nhiều bi kịch nhất, bởi ở họ luôn luôn có những khát
khao đƣợc làm mẹ, làm vợ, đƣợc thực hiện chức phận của mình, Nhƣng để tồn tại,
để mƣu sinh, những ngƣời phụ nữ ấy phải xa con (mợ Du, mẹ bé Hồng), hoặc phải
mất chồng (Chín Huyền), hoặc phải dấn thân vào con đƣờng hiểm nguy, tội lỗi
(Tám Bính, Chín Huyền)… Hay nói một cách khác là họ phải rơi vào bi kịch: đó là
nỗi khát khao sự bình yên trong gia đình hạnh phúc với cuộc sống giang hồ đầy
giông tố và tội lỗi (nhƣ gia đình Chín Huyền, Tám Bính…).
Tóm lại, có thể nhận thấy rất rõ: một trong những đặc điểm nổi bật của không
gian nghệ thuật trong các sáng tác trƣớc năm 1945 của Nguyên Hồng là một không
gian gia đình tăm tối và ngột ngạt, chứa đầy bi kịch. Không gian ấy tạo cho ngƣời
đọc cảm giác đau đớn và phẫn uất về số phận và cuộc sống đầy tăm tối và bế tắc
của những con ngƣời cùng khổ dƣới đáy trong xã hội xƣa.
4.2.3. Không gian mang sắc thái tôn giáo - trầm, buồn ảm đạm
Trong thế giới nghệ thuật của mình từ cách xây dựng nhân vật đến không
gian nghệ thuật, ngôn ngữ nghệ thuật, Nguyên Hồng đã để lại dấu ấn khá đậm nét về
sắc thái tôn giáo. Điều đó xuất phát từ một thực tế là nhà văn vốn xuất thân trong
một gia đình theo đạo Cơ Đốc và sống bên cạnh những ngƣời thân mộ đạo, nên
những hình thức lễ nghi, những nguyên lý sâu xa của đạo Cơ đốc đã có sự ảnh
hƣởng không nhỏ đến tƣ tƣởng nghệ thuật và thế giới nghệ thuật của nhà văn.
Ngay từ thời thơ ấu, không gian tôn giáo đã in dấu trong đời sống của chú
bé Hồng. Sự mộ đạo của bà nội, giọng rên rỉ cầu kinh hàng đêm của bà đã thấm
sâu vào tâm trí của nhà văn: “Từ khi bắt đầu nói sõi bà bắt tôi đọc đi đọc lại không
biết bao nhiêu vạn lần” những đàng thánh giá, những bản kinh [74, tr.753]. Trong
nhiều tác phẩm của ông, ta thấy thƣờng trở đi, trở lại hình ảnh của một xóm đạo
nghèo với nhà thờ với những tầng gác cửa xám lạnh ngắt, những nóc nhà đem
xạm, những đỉnh gác chuông im lìm, nhạt nhòa trong những chiều sâu thẳm,
những bức ảnh chúa Jêsu chịu nạn máu nhỏ ròng ròng từ chỗ đóng đinh... Trên nền
116
xi măng ẩm ƣớt bao ngƣời quỳ lạy dƣới chân Chúa để xƣng tội và xin cứu rỗi linh
hồn, đọc những bản kinh “Vực sâu”, hay “Ăn năn tội” với những giọng rền rĩ,
miên man, buồn bã. Cảm quan tôn giáo đã ảnh hƣởng sâu sắc đến Nguyên Hồng,
nhất là tƣ tƣởng nhân từ bác ác, tƣ tƣởng chịu nạn của đạo Cơ đốc. Các nhân vật
của Nguyên Hồng - đặc biệt là nhân vật ngƣời phụ nữ thƣờng là những nhân vật
“chịu nạn”. Ví dụ nhƣ nhân vật Hai mƣơi hai (trong Linh hồn), Tám Bính (trong
Bỉ vỏ), những ngƣời đàn bà trong tù (trong Tết của tù đàn bà), mụ Mão (trong
Người mẹ không con), Mũn (trong Đây, bóng tối) và sau này là nhân vật Huệ Chi
(trong Cửa biển)… họ phải chịu đựng đƣợc hết sự đoạ đầy này đến sự đoạ đầy
khác, hết tai họa nọ đến tai họa kia. Họ có sức chịu đựng nhiều nhƣ vậy là bởi
những ngƣời phụ nữ này đều là những ngƣời ngoan đạo, luôn tìm thấy nhiều sự an
ủi từ tấm gƣơng chịu đựng đau khổ của Chúa Jêsu và của Thánh nữ Đồng trinh
Maria. Càng đau khổ, bất hạnh bao nhiêu thì họ lại càng đi tìm sự an ủi, sự cứu rỗi
linh hồn ở Chúa và của Đức mẹ bấy nhiêu. Họ tin tƣởng mãnh liệt nơi Chúa và ý
nghĩa cứu mạng của Ngƣời. Các nhân vật của nhà văn, những khi phải chịu đựng
hết nạn này đến nạn khác, hoặc những khi bế tắc cùng đƣờng đều hƣớng về Chúa.
Chẳng hạn, đêm Bính từ nhà quê ra Hải Phòng tìm Tham Chung, lang thang trong
đêm Bính nghe “Tiếng đọc kinh đâu đây nhẹ nhàng thoáng vang trước gió lạnh
réo rắt và thấm thía, những giọng đều đều và ngâm nga thoáng nhắc trong tâm trí
Bính hai mắt lờ đờ rầu rĩ, hai cánh tay rã rời đang trên cây thánh giá của Đức
chúa Jêsu khi hấp hối” [74, tr.308]; Vào một buổi chiều kia, sau khi bị Năm ruồng
bỏ, Tám Bính trở về Nam Định và nỗi khao khát một cuộc sống lƣơng thiện lại trỗi
dậy trong lòng, Bính tìm đến sự cứu rỗi linh hồn bằng nguyện ngắm và xưng tội
với Cha đạo, đƣợc Cha an ủi “Muốn được bình an trong đời, muốn được cha mẹ
thương yêu con, muốn gặp con con, con phải giữ linh hồn cho trong sạch, con quý
nó hơn phần xác của con, con giữ cho nó trong sạch mãi mãi để đón rước sự
thương xót của Chúa” [74, tr.409]. Trong một không gian về đêm ở một vùng quê
yên tĩnh khi Tám Bính và Năm Sài Gòn chạy trốn khỏi mật thám, hai ngƣời ở nhờ
nhà đôi vợ chồng trẻ theo đạo. Trong hoàn cảnh ngặt nghèo, bấp bênh ấy, Bính
cảm nhận sâu sắc sự trơ trọi và khốn nạn của cuộc đời mình. Bế tắc, Bính lại cầu
nguyện mong tìm sự an ủi nơi Chúa “ Lần tràng hạt đọc 50 kinh, ngắm 14 đàng
thánh giá” Bính thấy “đau đớn”, “tủi thẹn” và “tê tái” cho cuộc đời “bỉ vỏ” của
117
mình. Trong không gian tôn giáo đậm đặc với mùi hoa huệ ngát hƣơng, tiếng lầm
rầm cầu nguyện của ngƣời vợ trẻ, ký ức của những ngày xƣa trong sáng lại trở về,
làm khắc khoải thêm khát khao đƣợc sống cuộc sống êm đềm và lƣơng thiện khi
xƣa “Bính thấy mình lùi dần về quãng đời tươi trẻ”, “lương thiện và trong sáng”,
“tượng Đức Thánh nữ trọn đời đồng trinh vẻ mặt trang nghiêm mà hiền từ… Chúa
Jesu mặt trầu rĩ, mắt lờ đờ, một tay chỉ vào ngực. Giữa ngực phanh ra một trái tim
rỉ máu, hàng chục lưỡi gươm sáng xuyên qua” [74, tr.461]. Đây là lúc Nguyên
Hồng đặt nhân vật vào trong tình thế đấu tranh nội tâm căng thẳng, đó là cuộc vật
lộn âm thầm quyết liệt giữa Thiện và Ác trong tâm hồn Bính, những lúc nhƣ thế
Bính lại cầu nguyện và sám hối. Nhà văn đã gợi lên trong tâm trí Bính hình ảnh
Đức chúa Jêsu dừng lại an ủi dân vùng Jêruydalem khi chính mình không đƣợc ai
an ủi, ái ngại, mà còn bị xỉ vả, phải vác cây “thập ác” nặng nề. Tấm gƣơng của
Chúa đã an ủi Tám Bính để cô quyết noi theo gƣơng Chúa mà nhẫn nại chịu đựng.
Tám Bính những lúc tủi thân cho thân phận của mình, sau những lần bị đoạ đầy ô
nhục trong nhà chứa, hoặc sau những lần nhúng tay vào tội ác, cô lại tìm đến Chúa
để cứu rỗi linh hồn và nhƣ để thanh minh cho tội lỗi của mình. Khi viết những
dòng này, trái tim của nhà văn nhƣ rỉ máu, thƣơng xót những cuộc đời bị vùi dập
không còn biết bấu víu vào đâu. Đồng thời Nguyên Hồng cũng muốn khẳng định,
những ngƣời nhƣ Bính dù bị tha hóa nhƣng lòng vẫn hƣớng về cõi thiện. Điều đó
cũng khiến ngƣời đọc “xót thƣơng cả những kẻ tội lỗi” - Đấy chính là ý nghĩa nhân
đạo cao cả toát lên từ ngòi bút Nguyên Hồng.
Có thể nói, không gian mang sắc thái tôn giáo đã gợi cho con ngƣời ta một
sự hƣớng thiện, hƣớng đến sự trong sạch của tâm hồn - vậy mà một ngƣời ngoan
đạo nhƣ Tám Bính luôn muốn có cuộc sống bình yên, lƣơng thiện lại bị xã hội đƣa
đẩy trở thành một bỉ vỏ thuộc thành phần lƣu manh, trộm cắp cùng đƣờng dƣới đáy
xã hội - vì thế mà giá trị tố cáo và phủ nhận xã hội trong tác phẩm Nguyên Hồng
lại càng trở nên mạnh mẽ hơn.
Từ nhỏ, Nguyên Hồng đã nếm trải cuộc sống cay cực trong nhà lao của thực
dân phong kiến, nên trong sáng tác của mình, nhà văn cũng có nhiều truyện viết về
cuộc sống tù đày (Linh hồn, Tết của tù đàn bà, Khói ken nếp và xà lim, Bỉ vỏ…).
Không gian trong nhà tù là một không gian rất đặc biệt, nơi chỉ có tàn nhẫn và sự
đọa đầy khổ ải, nhƣng không gian tôn giáo vẫn hiện hữu đâu đó trong cảnh những
118
ngƣời đàn bà tội nghiệp bị đày ải trong đề lao ngày mùng Một Tết. Tết đến - là thời
điểm sum họp của mọi ngƣời trong gia đình, thì với họ là mọi sự đoạ đầy, ai oán và
bất công. Những ngƣời phụ nữ này cũng chỉ biết tìm đến sự an ủi của Chúa trời, cầu
nguyện Chúa với “lòng tin tưởng của những con người sống cực nhục, tối tăm không
còn biết bấu víu vào đâu, đầm đìa và chan chứa trong những bản kinh “Lạy Nữ
vương”, “Tôi ở vực sâu”, “Đức Mẹ hằng cứu giúp” [74, tr.311]. Họ cầu nguyện
“bằng một thứ giọng riêng, càng kéo dài, càng rên xiết” lại càng gợi lên sự ai oán
thƣơng tâm của những kiếp ngƣời nô lệ chỉ còn biết tin vào đấng thiêng liêng là Chúa
“Lúc này, trên đầu bọn tội nhân đầy đọa kia sẽ nhỏ những giọt nước mắt cảm động vì
tấm lòng tin tưởng tha thiết một sự thưởng phạt công bằng” [74, tr.312].
Nhân vật Hai mƣơi hai (Linh hồn) đi tù thay chồng trong lúc bụng mang dạ
chửa. Trƣớc những đe dọa và chịu sự cƣỡng hiếp của tên cai ngục, nàng chỉ còn
biết cầu nguyện Chúa, tin vào Chúa minh chứng cho sự trong sạch và lòng chung
thủy của nàng [73, tr. 89]. Ngƣời bà mộ đạo của bé Hồng (Những ngày thơ ấu)
khi cảnh nhà sa sút, chia lìa, bất hạnh nhất cũng chỉ biết cầu nguyện vào Chúa, bà
thƣờng “lầm rầm đọc kinh cầu nguyện trong những đêm im lặng:- Chúa tha tội
cho chúng tôi! - Chúa thương xót chúng tôi!... - Chúa phá mọi sự dữ, ban sự lành
cho chúng tôi!!! [73, tr.753]. Nhƣng Chúa đâu “phá được sự dữ, ban được sự
lành” cho các con chiên của Chúa khi xã hội này còn đầy những ai oán, bất công.
Lời cầu nguyện thiết tha, rền rĩ ấy chỉ để “cứu rỗi linh hồn” khi ngƣời ta tuyệt
vọng không còn biết bấu víu vào đâu. “Bao nhiêu tia sáng trong cặp mắt bao lâu
nay không còn ánh vẻ vui sướng gì của bà tôi dần dần tắt đi” [73, tr.752] theo tất
cả sự tuyệt vọng không phƣơng gì cứu chữa của gia đình bé Hồng.
Sắc thái tôn giáo còn thấm đƣợm trong không gian của đêm Nôen rực rỡ âm
thanh và sắc màu “ Tiếng chuông bỗng nổi dậy. Rồi cả bầu trời rung chuyển lên
bởi những vang động dồn dập đổ hồi. Cửa nhà thờ đã mở rộng. Một vòm trời lòa
ánh sáng đèn nến và ánh ngời của thủy tinh, của pha-lê và của vàng son tỏa ra.
Tây đầm đi vào trước. Cả bầu đoàn, vú bế, vú dắt, chị hai, chị khâu, bé con cầm
áo choàng và làn mây đựng đầy bánh kẹo hoa quả, ríu rít theo sau... Rồi đến
những chức sắc, những quyền quý giàu có trong bốn "họ" khệnh khạng, bệ vệ, hớn
hở. Khi nhà thờ nóng rực lên vì các lớp quần áo lấp lánh và mùi phấn sáp nước
hoa ngào ngạt, khi các thứ đàn sáo nhịp với chiếc đàn to bằng cả một gian nhà và
119
hàng trăm đồng nhi và con gái thơ kinh cùng cất tiếng lên để đón tiếp sự thanh
bình, vinh hiển của những lớp người sang trọng...” (73; tr.770). Một không gian
rực rỡ âm thanh, ánh sáng trong đêm Nôen ấy đúng ra là không gian hạnh phúc
cho tất cả các con chiên của Chúa, vậy mà trong đêm linh thiêng này, nơi tôn
nghiêm kính Chúa này cũng có sự phân biệt sâu sắc giàu - nghèo. Cậu bé Hồng đã
cảm nhận thấm thía nỗi bất công và sự phân biệt sang - hèn trong xã hội “tôi cảm
thấy một cách cay chua bên sự trơ trọi hèn hạ của tôi, một đứa trẻ côi cút cùng khổ”
[73; tr.771). Trong nhiều tác phẩm của Nguyên Hồng sắc thái tôn giáo thƣờng xuất
hiện đây đó nhƣ một điều tất yếu. Bởi sự tín ngƣỡng, niềm tin tôn giáo đã chi phối
nhiều đến cách xây dựng nhân vật cũng nhƣ tính cách nhân vật của Nguyên Hồng.
Nhiều nhân vật của ông càng đau khổ thì họ càng muốn tìm đến Chúa nhƣ một điểm
tựa tinh thần, làm dịu nỗi đau khổ, oan ức, bất công mà họ phải gánh chịu. Điều đó
đã lý giải vì sao trong sáng tác của nhà văn có rất nhiều hình ảnh Chúa Jêsu chịu
nạn, khi thì “đội mũ gai” “hai bàn tay hai nốt đinh ròng ròng máu chảy”, “khi thì
vác cây thánh giá rất nặng”, “vẻ mặt khiêm nhường, chỉ tay vào ngực áo phanh ra
một trái tim máu chảy với hàng chục lưỡi gươm sáng xuyên qua”… Sự lặp lại ấy là
biểu tƣợng cho sự hy sinh cao cả đầy tự nguyện của Chúa.
Sau Cách mạng, nhiều trang viết của Nguyên Hồng cũng vẫn mang đậm sắc
thái tôn giáo, tiêu biểu là trong tiểu thuyết Cửa biển, những trang viết về nhân vật
Huệ Chi là những trang viết đậm sắc thái tôn giáo hơn cả. Đó là chƣơng miêu tả
Huệ Chi trƣớc lễ cƣới- cũng là lúc khi Huệ Chi chuẩn bị về với Chúa - bởi lẽ nàng
bế tắc trƣớc cuộc đời, không chịu theo cái ác, cái bất công. Nàng là một tín đồ
ngoan đạo, lúc nào cũng chỉ nghĩ đến đức Chúa và cầu nguyện. Huệ Chi trong
trắng, thánh thiện nhƣ một thiên thần, nên không chấp nhận sự áp đặt đầy toan tính
của ngƣời chú Kim Tú là phải lấy tên sĩ quan Nhật. Để bảo toàn đƣợc tâm hồn
trong sáng của mình, trong hoàn cảnh ấy, Huệ Chi chỉ còn một cách là tìm đến cái
chết. Khi miêu tả Huệ Chi về với Chúa, Nguyên Hồng đã nâng bƣớc Huệ Chi
trong không gian tràn ngập hƣơng hoa, bƣớc chân Huệ Chi nhẹ nhàng lên cõi thiên
đàng đã đƣợc nâng đỡ bởi tình mẫu tử tha thiết. Cảm hứng lãng mạn hòa với chất
thơ vời vợi của ngòi bút Nguyên Hồng đã đƣa Huệ Chi về cõi vĩnh hằng thật nhẹ
nhàng và đầy xúc cảm. Chọn cái chết, Huệ Chi đã đi ngƣợc lại với tín đồ Thiên
Chúa giáo, đi ngƣợc lại với số mệnh do Chúa định đoạt. Phải chăng đây cũng là
120
sự chống đối lại Chúa trời dù Huệ Chi có kính Chúa đến đâu? Vì sao có sự mâu
thuẫn này, bởi Nguyên Hồng ý thức rõ ràng về sự bất công trong xã hội không
thể giải quyết bằng niềm tin nơi Chúa mà phải bằng sự đấu tranh giai cấp:
“Nhưng ta đã thấy bao nhiêu xương thịt tan tành, thối nát, bao nhiêu nước mắt
và máu đã ngập lụt tỉnh thành, bao nhiêu sinh mạng đã chết và đương chết trong
cảnh đói rét bên một đám người hả hê sung sướng, mà có bao giờ tìm sự giải
quyết ở chúa Trời” [74, tr.39]. Hay nói cách khác, nỗi đau khổ của con ngƣời đâu
phải chỉ Chúa trời cứu đƣợc, mà phải đứng lên đấu tranh “hất tung những cái đè
nén đi may mới sống được” (Hàng cơm đêm).
Nhƣ vậy, từ sự nhận thức sâu sắc về những nỗi bất công trong xã hội, từ ý
thức tự giác của một nhà văn hiện thực đã ảnh hƣởng đến Nguyên Hồng khi viết về
tôn giáo. Từ cảm quan tôn giáo của mình, Nguyên Hồng đã phê phán mạnh mẽ sự
mê muội và đức tin mù quáng vào sự cứu vớt của Chúa đối với những ngƣời lao
động nghèo khổ. Đó cũng là cơ sở để Nguyên Hồng tin vào những con ngƣời bằng
xƣơng, bằng thịt trên cõi trần này, tin vào bản chất lƣơng thiện và sự thánh thiện
của con ngƣời - kể cả khi họ bị đẩy vào tình trạng bi đát, đau đớn nhất.
Có thể nói thêm rằng, không gian nghệ thuật của Nguyên Hồng có tác dụng
hữu hiệu trong việc khắc họa nội tâm nhân vật. Không gian nhiều lúc tƣơng đồng
với tâm trạng và cảnh ngộ nhân vật. Chẳng hạn, không gian tăm tối bẩn thỉu nhơ
nhuốc của nhà chứa đƣợc cảm nhận qua tâm trạng mệt mỏi, chán chƣờng, tuyệt
vọng của nhân vật Tám Bính, “Tám Bính rùng mình đưa cặp mắt ám khói trông
gian buồng chật hẹp, ngăn cách buồng bên bằng những ván gỗ ghép liền đã mục
nát và nhơ nhớp những vệt quết trầu như máu đọng, có một chiếc mành sơn trắng
chằng chịt ở lối ra vào và ngọn đèn vách lù mù vì thông phong chẳng bao giờ
trong sáng ở góc tường” [74, tr. 327]. Hay đó là không gian rộng mở, tƣơi tắn, đầy
màu sắc khi Tám Bính nhớ lại những ngày tháng sống êm đềm ở làng quê: “Ánh
nắng vàng tươi và trong suốt một ngày ấm luôn ùa vào đầy nhà. Mắt Bính vụt như
hoa lên với biết bao hình ảnh biểu hiện. Dưới bóng cụm chuối xanh phấp phới,
gần con đường nhỏ lượn giữa thửa ruộng dưới trời lơ biếc ở đằng xa, Bính thấy từ
từ nổi lên một bóng dáng nhẹ nhõm, da dẻ hồng hào tươi cười hớn hở và một chiếc
đòn gánh dẻo dai nhún nhảy nhịp cùng những bước thoăn thoắt, những cánh tay
mềm mại vung tà áo nâu ra trước gió. Đó là hình ảnh của Bính, người con gái
121
chất phác chỉ có biết đua đòi các chị em đi các chợ xa gần, cái hình ảnh tươi thắm
cách đây không bao xa” (Bỉ vỏ). Trong nhiều sáng tác của Nguyên Hồng những
hình ảnh thiên nhiên nhƣ ánh trăng, ánh nắng, bầu trời, những đêm mƣa, âm thanh
của sự sống... đƣợc nhà văn sử dụng để miêu tả những diễn biến tâm lý phức tạp
của nhân vật. Miêu tả tâm trạng tê tái, buồn đau của một ngƣời phụ nữ trẻ lấy
chồng không có tình yêu (Những ngày thơ ấu), phải sống trong sự “câm lặng và
chua xót”, nhà văn đã miêu tả thiên nhiên nhƣ đồng điệu, phù hợp với tâm trạng
nhân vật “Những buổi chiều vàng lặng lẽ, lạnh lẽo của mùa đông, những buổi
chiều mà bụi mưa như một tiếng van lơn thầm thì trong hơi gió vi vu, lửa lò than
rực rỡ vờn lên tường những ánh hồng lấp lánh hay rủ rê tâm trí người ta vào
những cõi buồn nhớ, là những buổi chiều làm tê tái mẹ tôi hơn hết” [73, tr. 736],
những ƣớc mong thầm kín của chị làm sao ngƣời chồng già nua, nghiện ngập ấy
thấu hiểu? Âm vang của tiếng kèn khơi gợi trong tâm hồn ngƣời phụ nữ trẻ những
khao khát yêu đƣơng, những xúc cảm thầm kín nhất về một tình yêu không bao giờ
có “tiếng kèn mỗi giây một rướn cao, một vang to, rung động cả làn không khí êm
ả của một góc trời. Rồi nương tiếng gió lao xao trong những chòm cây phấp phới,
âm thanh náo nức dồn dập của tiếng kèn càng cuốn lên cao, tràn ra xa, rất xa, đến
những vùng xa sáng tươi nào đó. Càng về sau, tiếng kèn càng niềm nở, ân cần như
những lời thúc giục thống thiết… Hãy bước đi, hãy bước đi như làn gió nhỏ bay
theo gió. Tiếng kèn vẫn vồn vã rõ ràng, trong sáng và bầu trời vẫn rộng mở, rung
vang” [73, tr. 742-743].
Và đây là tâm trạng đầy xúc cảm của nhân vật mợ Du (trong Mợ Du) khi
gặp lại con trong một đêm trăng bàng bạc ngát hƣơng hoa cau, hoa lý. Sau bao
ngày xa cách đứa con máu mủ của mình, giờ đƣợc gặp con - tình mẫu tử trào dâng
tha thiết. Thoáng chốc, nghĩ đến sự chia tay với con, tâm trạng hạnh phúc của mợ
đã không còn, mà nhƣờng chỗ cho nỗi đau của sự chia ly, sự giằng xé vì lại phải
đối mặt với thực tế nghiệt ngã: “thoáng cái, mắt mợ quắc lên sáng ngời và gương
mặt trắng mát của mợ tái hẳn đi. Mợ cắn chặt môi dưới, lắc mạnh đầu luôn mấy
cái, ánh trăng càng chảy cuồn cuộn trong những đợt tóc đen ánh trở nên hung dài
chấm gót của mợ Dũng” [73, tr. 376]. Không gian thơ mộng của đêm trăng sáng
ấm đã không còn, mà giờ chỉ còn tràn trề nƣớc mắt trên gƣơng mặt của hai mẹ con
mợ Du, của cậu bé An “mắt người mẹ khốn nạn, mắt đứa con đầy đọa và mắt tôi
122
đắm vào nhau không biết bao nhiêu phút, yên lặng và tê mê”. Từ sự cảm thông sâu
sắc về cuộc đời của bà mẹ mình, Nguyên Hồng đã có những trang viết về tình mẫu
tử thật cảm động. Trong các nhà văn Việt Nam, có lẽ Nguyên Hồng là một trong
các nhà văn viết hay nhất, xúc động nhất về ngƣời mẹ, về tình mẫu tử thiêng liêng.
Nói tóm lại, không gian nghệ thuật trong các sáng tác của Nguyên Hồng thời
kỳ trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945 chủ yếu là không gian xã hội đen tối, tù
túng và ngột ngạt. Đó là không gian sống của tầng lớp lao động nghèo khổ dƣới
đáy xã hội thực dân phong kiến, là thứ không gian gia đình chứa đầy bi kịch đói
nghèo, và đó còn là không gian mang sắc thái tôn giáo trầm, buồn ảm đạm nhƣ
chính số phận các nhân vật trong đó. Đồng thời không gian nghệ thuật của Nguyên
Hồng cũng đƣợc mở ra nhiều chiều gắn với những biến cố của xã hội. Tạo dựng
một không gian nghệ thuật nhƣ vây, Nguyên Hồng đã khắc họa sâu sắc hoàn cảnh
sống của những con ngƣời bé nhỏ trong xã hội đƣơng thời.
Có thể nói thêm rằng, Nguyên Hồng là một trong những nhà văn sớm đƣợc
giác ngộ cách mạng, sáng tác của ông gần gũi với khuynh hƣớng văn học cách
mạng, nên trong nhiều tác phẩm của ông nhƣ: Những mầm sống, Một trưa nắng,
Hai dòng sữa, Quán Nải,… còn có một thứ không gian khác - tƣơi sáng hơn, lấp
lánh sự sống và ánh sáng. Đây cũng là một đặc điểm khác biệt của Nguyên Hồng
so với các nhà văn cùng thời, cùng khuynh hƣớng. Theo khảo sát của chúng tôi,
trong các truyện ngắn Những mầm sống: từ “ánh sáng” đƣợc nhắc tới 13 lần/ 3
trang truyện; Một trưa nắng: từ “ánh sáng” đƣợc nhắc tới 12 lần/ 8 trang truyện;
Hai dòng sữa: từ “ánh sáng” đƣợc nhắc tới 05 lần/ 22 trang truyện; trong tiểu
thuyết Quán Nải từ “ánh sáng” đƣợc nhắc tới 15 lần/ 180 trang truyện… Điều đó
chứng tỏ rằng, Nguyên Hồng một mặt lấy hiện thực cuộc sống đầy đen tối, bế tắc
của những ngƣời lao động nghèo khổ làm cảm hứng sáng tác, nhƣng mặt khác ông
lại nhìn cuộc đời bằng cái nhìn tin yêu, lạc quan tƣơi sáng - điều đó khiến cho một
số nhân vật của Nguyên Hồng dù ở trong vũng bùn của sự tăm tối, đói rách nhƣng
vẫn có sự lạc quan và có lòng tin vào một tƣơng lai tốt đẹp hơn. Đúng nhƣ nhà
nghiên cứu Phan Cự Đệ nhận xét: “Vấn đề chính trong tác phẩm của Nguyên Hồng
trước Cách mạng là: Những con người quằn quại trong sự đau khổ nhưng vẫn lạc
quan, yêu đời, vẫn muốn ngoi lên ánh sáng như những mầm cây xanh” [116,
123
tr. 11]. Niềm tin đó - xét cho cùng - chính là do sự rung động của Nguyên Hồng
trƣớc cái đẹp của cuộc sống lam lũ, vất vả của những ngƣời lao động cùng niềm tin
vào bản chất tốt đẹp của họ cũng nhƣ tin vào một ngày mai của đất nƣớc. Trong
Những mầm sống, Nguyên Hồng say sƣa miêu tả cảnh sắc thiên nhiên, ca ngợi lao
động của thợ thuyền với một niềm tin thắm thiết vào tƣơng lai: “Ánh nắng mênh
mông tràn ngập. Đường nhựa sáng lóa như dát bằng vằng diệp. Lá cây rung lên,
muôn vàn tia hào quang bay phấp phới. Các mái ngói, các ống máng, các cửa
kính, các biển hàng lấp lánh những ánh ngời. Sự huyên náo không bao giờ tắt.
Tiếng guốc khua vang vang trên bờ hè, những lớp sóng cười nói trào lên cuồn
cuộn, rồi trào lan, rồi tung cao… Bánh xe bò chuyển rầm rầm, lăn loang loáng
những vòng lửa trong nắng xuân chói lòa… Những xẻng cuốc và ván gỗ đẩy trong
hòm xe bắn ra những trận mưa rào rào… và những tà áo, những nón lá, những
chóp mũ trắng thở ra những làn bụi bạc li ti. Sự sống mãnh liệt quá, đè lên, vượt
qua và cuốn theo tất cả những ủy mị, những cái tối tăm, những gì có vẻ chậm
chạp” [73, tr. 323]. Trong Những ngày thơ ấu bên cạnh những trang hồi ký đẫm
nƣớc mắt về một tuổi thơ cay cực là những trang tả ánh sáng chan hòa, rực rỡ nhƣ
một nguồn sống tuôn trào, nhƣ niềm lạc quan hy vọng: “Mùa hè mới bắt đầu, với
ánh nắng rực rỡ, phấp phới trên các cành lá óng ả mượt nõn và những chòm xoan
xanh tươi hứa hẹn màu thẫm của các vừng hoa đỏ. Tiếng ve liên miên ghen ghen
ghét với vạn vật tưng bừng đã thấy vang tới (…). Trên vỉa đường, các gánh dưa
chuột, dưa gang và mận nhót, mềm mại, nhún nhảy nối tiếp nhau, hết tốp này đến
tốp khác” [73, tr. 799]; “Gió thổi vù vù… bướm say hoa trong ánh nắng” [73, tr.
801]; “Tiếng ve sầu lanh lảnh càng rướn cao (…). Tức thì một ánh nắng trên trời
rào xuống. Tôi có cái cảm giác trông thấy muôn vàn cánh hoa bướm phấp phới
trong đám bụi bạc và trong ánh sáng ngời của pha lê chói điện”. [73, tr. 803]…
Phải có một sức sống mãnh liệt, một tâm hồn say sƣa nồng nhiệt với con ngƣời,
với cuộc đời mới có thể có những trang văn sinh động, nhiều sắc màu về cuộc sống
và thiên nhiên nhƣ thế!
Có thể nói rằng, trong thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng ngoài những
cảnh đời tăm tối, ngoài những không gian xám xịt còn có những trang viết về
phong cảnh thiên nhiên, về con ngƣời chan hòa ánh nắng chứa đựng đầy sinh khí
của đất trời với một niềm tin bất diệt vào vẻ đẹp nhân ái của con ngƣời, niềm tin
124
vào sự đổi thay của xã hội. Không gian nghệ thuật ấy có lẽ chỉ xuất hiện trên
những trang viết đầy chất thơ và lòng nhân ái của Nguyên Hồng.
4.3. Ngôn ngữ nghệ thuật
Nhƣ đã biết, “Văn học là nghệ thuật của ngôn từ” nên khi nghiên cứu một
tác phẩm, một tác gia hay một trào lƣu văn học, ngƣời ta không thể không nghiên
cứu đến đặc điểm ngôn ngữ, sự sáng tạo ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn. Nhà
văn có tạo ra cho mình một phong cách nghệ thuật riêng biệt hay không chính một
phần cũng là bởi ngôn ngữ mang dấu ấn riêng biệt của từng nhà văn ấy. Bởi thực
tế “ngôn từ là chất liệu của văn học”, “là lời nói được sử dụng với tất cả phẩm
chất thẩm mỹ và khả năng nghệ thuật của nó”, “nói văn học là nghệ thuật ngôn từ,
thực chất là nói văn học là nghệ thuật sử dụng câu văn, lời văn, bài văn (nói, viết)
vào mục đích nghệ thuật” [93, tr. 183,184]. Nhìn chung, các nhà văn hiện thực
nhƣ Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao, Mạnh Phú
Tƣ,… đều có ý thức vận dụng ngôn ngữ đời thƣờng vào trong tác phẩm của mình,
khai thác vốn ngôn ngữ dân tộc mộc mạc, bình dân, giản dị, gần gũi với đời sống
của nhân dân lao động. Nguyễn Công Hoan cho rằng: “Khi văn chương mà viết
đúng như tiếng nói của dân tộc thì nó hay, nó đứng vững mãi vì ngôn ngữ dân tộc
là trường cửu, ít đổi thay vì thời thế”; Nam Cao quan niệm “Nghệ thuật không cần
phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là
tiếng nói đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than”; Vũ Trọng Phụng coi “tiểu
thuyết là sự thật của đời”. Và Nguyên Hồng cũng đã có những nhận thức sâu sắc
mối quan hệ máu thịt giữa nghệ thuật và cuộc sống, “Nghệ thuật phải bắt rễ từ
cuộc sống”, thiếu cuộc sống nghệ thuật sẽ chết, nghệ thuật chân chính phải hƣớng
vào cuộc sống để tìm nguồn sống “như rễ cây bám riết lấy lòng đất, càng sâu bao
nhiêu càng vững chắc bấy nhiêu, nảy nở bấy nhiêu với những màu mỡ không bao
giờ cạn…” (Hai dòng sữa). Vì vậy, các nhà văn hiện thực nói chung đã khai thác
và sử dụng rất thành công thứ ngôn ngữ mộc mạc bình dân, gần gũi với lời ăn,
tiếng nói hàng ngày của nhân dân lao động. Có thể nói, với những đóng góp của
riêng mình, các nhà văn hiện thực, mỗi ngƣời mỗi vẻ, mỗi phong cách và mỗi cách
sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật khác nhau đã góp phần làm phong phú, giàu có thêm
nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.
125
Khảo sát toàn bộ những sáng tác của Nguyên Hồng giai đoạn trƣớc Cách
mạng tháng Tám năm 1945, chúng tôi nhận thấy rằng: đặc điểm nổi bật về ngôn
ngữ nghệ thuật của nhà văn chính là việc nhà văn đã sử dụng ngôn ngữ chứa đựng
đầy ắp chất liệu cuộc sống cần lao, thứ ngôn ngữ phù hợp với tâm lý, tính cách
của từng kiểu nhân vật và cũng là thứ ngôn ngữ mang sắc thái tôn giáo khá rõ rệt.
4.3.1. Ngôn ngữ đầy ắp chất liệu cuộc sống cần lao, phù hợp với tâm lý, tính
cách của từng kiểu nhân vật
4.3.1.1. Ngôn ngữ đầy ắp chất liệu cuộc sống cần lao với vốn từ vựng phong phú
Do hoàn cảnh riêng, Nguyên Hồng từ nhỏ đã phải sống trong một môi
trƣờng lao động cực nhọc, lam lũ của những con ngƣời sống dƣới đáy xã hội
đƣơng thời, va chạm với đủ loại ngƣời trong xã hội ấy, nên nhà văn am hiểu sâu
sắc những nỗi khổ đau, sự vất vả, cực nhục trong cuộc sống cũng nhƣ lời ăn, tiếng
nói của họ. Vì thế, ngôn ngữ đƣợc sử dụng trong văn Nguyên Hồng là ngôn ngữ
gắn bó sâu sắc, máu thịt với ngôn ngữ đời sống, đƣợc chắt ra từ những cuộc đời
cần lao đau khổ. Đặc điểm này gắn liền với khuynh hƣớng thẩm mỹ của chủ nghĩa
hiện thực. Đó là những từ ngữ giản dị, gần với lời ăn tiếng nói của tầng lớp lao
động nghèo dƣới đáy xã hội, những từ ngữ gắn với công việc lam lũ, cực nhọc;
những từ ngữ của những ngƣời thuộc các thành phần phức tạp (giang hồ, trộm
cƣớp…), và cả thứ ngôn ngữ mang dấu ấn của những ngƣời theo đạo Thiên chúa.
Thứ ngôn ngữ mà nhà văn sử dụng thƣờng phù hợp với đặc tính xã hội của nhân
vật, phù hợp với các trạng thái tâm lý phức tạp của nhân vật trong từng trƣờng hợp
cụ thể. Trong sáng tác trƣớc Cách mạng của Nguyên Hồng có nhiều loại nhân vật,
nhƣ: nhân vật phụ nữ, nhân vật trẻ em, nhân vật trí thức, nhân vật lƣu manh, trộm
cắp, gái điếm… Ở mỗi loại nhân vật khác nhau, tác giả lại sử dụng các loại từ ngữ
khác nhau phù hợp với tính cách, bản chất của nhân vật.
Điều đầu tiên, ngƣời ta dễ nhận thấy một trong đặc điểm ngôn ngữ nghệ
thuật của Nguyên Hồng là một thứ ngôn ngữ rất giàu chất liệu cuộc sống, nó cứ
“ngồn ngộn, ngồn ngộn chi tiết, đôi khi được cất lên, được tấp lên, được chằng
buộc đến ngốt mắt” [116, tr. 239]. Hay nói cách khác, ngôn ngữ của Nguyên Hồng
là thứ ngôn ngữ giàu chi tiết biểu hiện - mà một trong những phƣơng thức, phƣơng
tiện thể hiện nhân vật quan trọng nhất chính là chi tiết. Chi tiết - đó là những biểu
126
hiện về mọi mặt của con ngƣời mà ngƣời ta có thể căn cứ để cảm biết về nó. “Sự
tồn tại của các chi tiết là một trong những đặc trưng cơ bản của tác phẩm tự sự”
(…). Trong truyện tình tiết, sự kiện quả là có vai trò quan trọng. Nhưng trung tâm
của sự việc, của sự kiện, biến cố là con người, trung tâm của chi tiết, tình tiết là
nhân vật” [136, tr. 124]. Trong thế giới nghệ thuật của nhà văn, nhân vật là một
trong những yếu tố quan trọng. Nhƣng để xây dựng đƣợc nhân vật thì nhà văn phải
gắn nhân vật với những những tình tiết, chi tiết cụ thể, bởi: “Nếu tách nhân vật ra
khỏi những tình tiết, chi tiết thì nó trở nên những con người chung chung, trừu
tượng, mất hết sức sống. Ở đây, nhân vật chỉ có thể sống cuộc đời của nó qua
những tình tiết, chi tiết”[136, tr. 125]. Vì vậy, Nguyên Hồng rất chú trọng đến chi
tiết trong việc xây dựng nhân vật, ông sử dụng rất nhiều chi tiết cụ thể, sinh động
trong câu văn để thể hiện, để chuyển tải hết những suy tƣ bộn bề, những hiểu biết,
những cảm nhận sâu sắc của mình đối với cuộc sống, với con ngƣời xung quanh.
Nguyên Hồng có một vốn sống rất giàu có, phong phú, nên mỗi khi đặt bút
xuống là những dòng chữ đầy chi tiết cứ “cựa quậy phập phồng” và “lấp lánh sự
sống” tuôn trào lên từng trang viết của nhà văn. Ngôn ngữ của Nguyên Hồng giàu
chi tiết, thể hiện sự quan sát tỉ mỉ, đôi khi ta có cảm tƣởng nhƣ ngòi bút của ông đã
lăn xả vào cuộc sống, muốn lột trần nó ra để phơi bày tất cả những hiện thực đa
chiều của cuộc sống, nhất là mặt đen tối, khuất lấp của nó để lật tẩy những gì là
cặn bã, những gì là xấu xa, là vô nhân đạo nhất của xã hội đƣơng thời.
Trong truyện ngắn Đi, tác giả miêu tả những ngƣời nông dân lũ lƣợt bỏ làng
quê ra tỉnh để kiếm sống, tránh nạn đói đang cận kề. Thảm cảnh đó đƣợc nhà văn
miêu tả cụ thể từng chi tiết: “Suốt hai bên đường, người đổ ra chỉ càng thêm đông.
Xóm nào, làng nào cũng chỉ toàn người đi thôi. Bọn năm người, bọn mười người, có
bọn hàng năm, sáu mươi người… Thỉnh thoảng, có vài cái xe tay ì ạch đi ngược lại
thì người ta bâu lấy đen ngòm. Một cái quần vá đũng, một cái áo bợt vai, cả khuỷu
tay, cả nách, một cái khăn vuông dúm mấy chỗ, một cái bao tải mướp, một cái màn
như vó bè, một bát đĩa cóc cáy, một cái điếu bát cổ sứt sẹo bịt chi chít, một cái nồi đồng bẹp, một cái thau xoạc miệng… tất cả những đồ vật lăm lăm muốn trở thành
cơm, thành khoai, thành ngô kia lại nhốn nháo giơ lên” [73, tr. 596]…
Nhƣ đã nói, ngôn ngữ của Nguyên Hồng mang đậm cá tính sáng tạo của
ông, cái độc đáo của nhà văn là sử dụng những từ ngữ rất đỗi bình dân nhƣng rất
127
giàu tính nghệ thuật. Nhà văn thƣờng sử dụng những biện pháp tu từ (liệt kê,
những từ láy, phép lặp, câu hỏi tu từ, tiếng lóng… - mang đậm dụng ý đặc tả, miêu
tả rất chi tiết. Khảo sát một số sáng tác tiêu biểu của Nguyên Hồng, chúng tôi đã
thấy: trong truyện ngắn Đi có dƣới 10 trang truyện đã sử dụng 60 cặp từ láy;
truyện vừa Qua những màn tối có 66 trang truyện đã sử dụng 66 cặp từ láy; tiểu
thuyết Bỉ vỏ (khảo sát 50 trang đầu) có 258 cặp từ láy/50 trang; hồi ký Những
ngày thơ ấu (khảo sát 50 trang đầu) có 204 cặp từ láy/50 trang… Cách sử dụng
những biện pháp tu từ nhƣ điệp từ, liệt kê, từ láy… mang đậm dụng ý đặc tả nhƣ
trên nhằm biểu thị trạng thái tột cùng của hành động, hoặc biểu đạt những sắc thái
diễn ra phức tạp, tinh vi trong đời sống nội tâm của nhân vật.
Cũng trong truyện ngắn “Đi”, nhà văn đã dùng nhiều biện pháp tu từ nhƣ:
phép lặp, phép liệt kê, những từ láy gợi cảm để miêu tả sự mệt mỏi, rã rời của
những ngƣời dân quê phải bỏ làng đi kiếm sống: “Trƣớc hai con mắt bừng bừng
của y, càng rộn rập những bƣớc chân, những gồng gánh, những đùm chiếu, những
sống lƣng khặc khừ, những bụng mọng lặc lừ, những cái đùi tóp lẩy bẩy, những
đầu óc bù xù, những đứa bé bèo nhèo, lờ ngờ. Và hai bên tai ù ù của y càng ran
ran những tiếng nói hổn hển, những tiếng gọi thất thanh, những tiếng ho sù sụ,
những tiếng rên thoi thóp, tiếng chửi, tiếng lạy van tiếng trách móc và những tiếng
cƣời, những tiếng hát … Những tiếng cƣời hô hố, khách khách, những tiếng hát
gào lên nhƣ điên dại…” [73, tr. 596].
Trong truyện vừa “Qua những màn tối”, nhà văn đã dùng nhiều biện pháp tu từ
nhƣ: liệt kê, từ láy gợi cảm và biểu cảm để miêu tả tâm trạng nhân vật Trung khi nghĩ
về quá khứ êm đềm: “Lòng Trung lại rưng rưng muốn khóc và lần lượt bao nhiêu hình
ảnh của cái đêm trước kia khi lìa bỏ quê hương lại xuất hiện. Dưới ánh trăng xanh
biêng biếc sáng, mình Trung lủi thủi bước thong thả trên những bóng lá xanh nhợt rung
rinh ngả trên đường đất nâu bạc gồ ghề. Mùi hoa cau hiền lành thoang thoảng. Tiếng
sáo diều mơ hồ. Thỉnh thoảng gió cuồn cuộn lồng lên, dào dạt lướt những lớp sóng lấp
lánh như thiếc trên đồng lúa, tỏa rộng mùi tám thơm ấm và ngọt” [74, tr. 23].
Miêu tả một cách chi tiết, sinh động nhƣ vậy, chứng tỏ vốn từ vựng của
Nguyên Hồng vô cùng phong phú. Một số nhà nghiên cứu đã phát hiện ra là:
Nguyên Hồng rất có tài tả nắng. Quả vậy, chỉ trong truyện Một trưa nắng chỉ vẻn
128
vẹn hơn 7 trang, nhƣng nhà văn đã có rất nhiều những từ ngữ khác nhau để miêu tả
nắng. Nắng là “thác lửa ngùn ngụt chói lòa mặt trời”, “biển lửa mênh mông”,
“nắng chang chang”, “mặt trời vầng lửa đỏ rực”, “nắng xém lại”, “nắng ngây
ngất”, “tiếng cháy sôi của nắng”, “nắng chói chang”, “tia nắng chói xuống mắt”,
“nắng vàng rực” [73, tr. 473]. Vốn từ vựng phong phú đã giúp Nguyên Hồng có
những trang tả nắng đặc sắc, “Miêu tả cát bụi và ánh sáng là tín hiệu thẩm mỹ đặc
biệt trong lời văn trần thuật của nhà văn” [101, tr. 71]. Hay miêu tả sự khốn cùng,
thảm hại của con ngƣời khi đứng bên vực thẳm của nạn đói năm 1945, nhà văn chọn
miêu tả nét mặt ngƣời: “phờ phạc, đen xám lại” [73, tr. 679], “phờ phạc, xanh xám
hơn, lờ đờ nhìn” [73, tr. 596], “mặt mày vêu vao”, “thần mặt”, “nhợt nhạt”, “mắt
vàng lờ”, “mắt trắng lờ đờ”, “mắt lờ ngờ”, “nhìn trừng trừng”, [73, tr. 597], “mặt
ai nấy đều nhăn nhúm phờ phạc… sắc mặt đen xạm… những con mắt vàng lờ sâu
hoắm” [73, tr. 613]… Hay sử dụng các động từ biểu thị sự tranh giành quyết liệt vì
sự sống: “họ cứ lăn xả vào các hàng, đè sấn lên nhau mà nhặt những hạt cơm rụng.
Họ móc cả mồm mà giật những lá bánh, gói cơm, gói cá. Lắm ngƣời vứt cả con đi
để cướp cái vỏ chuối giằng từ mồm ngƣời ăn xuống và tranh nhau đến nỗi vỏ chuối
đã gí bét với đất mà vẫn cứ quào lấy mà ăn” [73, tr. 597]…
Sự sống đƣợc khắc họa qua lời văn của Nguyên Hồng không chỉ hiện lên
một cách rất chi tiết mà còn rất giàu cảm xúc - những cảm xúc tinh tế làm rung
động trái tim ngƣời đọc bởi sự cảm thông sâu sắc và những nỗi niềm trắc ẩn khôn
nguôi đối với những con ngƣời bị dồn đẩy, bị xã hội ruồng bỏ. Hãy lắng nghe câu
văn Nguyên Hồng khi ông miêu tả giọng hát nẫu ruột, tê tái của đám dân “chạy
vỏ” qua những ngôn từ đầy gợi cảm:“Những câu hát ấy chỉ thấy cất lên trong
những khi mưa gió buồn bã mà một trinh không dính túi, hay sắp lâm vào bước
gian nan cảnh tù tội. Không biết ai đã đặt ra những câu hát ấy, và ai đã dùng cái
giọng lẳng lơ, bổng không ra bổng, chìm không ra chìm, lờ lờ và từ từ như dòng
nước xanh rêu nhờn nhụa chảy vào một vũng tối - cái giọng nôm na gọi là giọng
nhà thổ ế - để bấy giờ nó trở thành câu hát cửa miệng từ trẻ con đến người lớn
trong cái xã hội ăn cắp tối tăm kia” (Bỉ vỏ). Nguyên Hồng đã sử dụng những từ
ngữ, biệt ngữ mà chỉ riêng đám dân chạy vỏ mới hiểu đƣợc, đó là sự cô đơn cùng
cực, là sự đau đớn khôn cùng, những nỗi niềm tê tái của những con ngƣời “cực
chẳng đã” phải “chạy vỏ” để kiếm sống. Ngôn ngữ đặc sắc hòa cùng với một giọng
129
văn đầy cảm xúc trăn trở cho những kiếp ngƣời cùng khổ tạo nên sự ám ảnh không
nguôi đối với ngƣời đọc về những kiếp ngƣời bé nhỏ, mong manh, vô nghĩa trong
xã hội cũ. Nhiều khi không kìm nén đƣợc cảm xúc của mình, nhà văn phải kêu lên
khi miêu tả những nỗi đớn đau, bất hạnh của con ngƣời: “Lẽ nào lại như thế được?
Tại sao lại như thế được? Có bao giờ tìm sự giải quyết ở trời?... Bao nhiêu buổi
chiều như thế? Đã mấy trăm buổi chiều như thế?”… Có rất nhiều những câu hỏi
tu từ nhƣ vậy để thể hiện nỗi niềm cảm thƣơng vô hạn của nhà văn đối với những
ngƣời cùng khổ, cùng đƣờng trong một xã hội đầy cạm bẫy và bất công.
Là một nhà văn thiết tha yêu cuộc sống, yêu con ngƣời nên hình nhƣ cái
khuôn khổ của những câu văn ngắn không diễn đạt đƣợc cho thỏa tình ý chất chứa
trong trái tim của nhà văn, nên nó đã phải thể hiện trong những câu văn dài, với
“Những dòng chữ đầy chi tiết cứ cựa quậy, phập phồng. Một thứ văn bám riết lấy
cuộc đời, quấn quýt lấy con người” (Nguyễn Đăng Mạnh).
Bênh vực và xót thƣơng cho số phận ngƣời phụ nữ và trẻ em nghèo trong xã
hội cũ, nhà văn kêu lên những lời khẩn cầu thống thiết cho cuộc sống của họ bằng một
loạt những câu văn dài với ngôn ngữ cảm động, thấm đẫm một tình cảm yêu thƣơng:
“Phải đem sữa lại cho những người mẹ hiền nhiều con dại ở các nước bị chiến tranh
tàn phá; những người mẹ đương để tang cha, chồng, anh em; những người mẹ đương
phải thay những người đã chết vì chiến tranh kia, làm đủ mọi việc để có đủ quần áo
và lương thực cho tụi quân lính hung hãn đi xâm chiếm các nước yếu hèn.
Phải trả sữa lại cho những cái miệng bé nhỏ há rộng, lưỡi gần cứng đó,
dưới những bầu vú lép. Những cái miệng khát sữa chờ mong trong khi những mụ
đàn bà phú hào quý tộc tắm bằng sữa cho da thịt mịn màng, trong khi bọn tư sản
đổ hàng ngàn, vạn thùng sữa xuống biển để có thể bán nốt chỗ sữa còn lại với giá
đắt trong thời kỳ kinh tế khủng hoảng…” [73, tr. 187].
Hoặc thể hiện sự đồng cảm sâu sắc của nhân vật cậu bé An (Mợ Du) khi
chứng kiến cảnh ngộ éo le của hai mẹ con Mợ Du, “Tuy còn nhỏ tuổi, nhưng chỉ
nghe mợ Du nói ngần ấy câu, tôi nhận thấy ngay tại sao lại có sự gặp mặt vụng
trộm giữa hai mẹ con nhà này, và tôi cảm thấy rõ ràng sự lo lắng và đau khổ của
người đàn bà đã bị đuổi ra khỏi của một gia đình nay lẩn lút trở về để được thăm
nom con giây phút” [73, tr. 190]. Có lẽ do “Ngôn từ là lời nói vốn lấy câu làm cơ sở
130
nên nó tương ứng với những hình thức tạo hình và biểu hiện trong văn học, ứng với
sự phản ánh các tương quan, quan hệ đời sống thực tại” [93, tr. 183] - Vì thế mà
Nguyên Hồng hay sử dụng những câu văn dài với vốn từ vựng phong phú, nhiều chi
tiết nhƣ vậy để khẩn cầu cho những kiếp ngƣời cùng khổ nhƣ mẹ bé Hồng, Tám
Bính, mụ Mão, Tần, Nhân… Những câu văn ấy đƣợc Nguyên Hồng viết bằng cả
một tình thƣơng và một sự cảm thông không kiềm chế đƣợc. Ngƣời ta có cảm
tƣởng rằng, dƣới đáy sâu của mỗi câu văn Nguyên Hồng là cả một sự cảm thƣơng
sâu sắc đối với từng số phận con ngƣời (đặc biệt là số phận ngƣời phụ nữ và trẻ
em). Nguyên Hồng lý giải nỗi đau khổ của những trẻ em nghèo bằng tình cảm yêu
thƣơng của ngƣời cùng cảnh ngộ: “Cảnh đời đày đọa của chúng như phải có cái
mà say sưa trong bê tha kia để mà an ủi. Và mỗi một tính cách tinh nghịch, quỷ
quái gian ác là kết quả của cái gia đình trụy lạc, hoặc vì một người cha cờ bạc
rượu chè, hút sách rạc rài, hoặc vì người mẹ dốt nát đanh đá quá, hoặc vì sự tàn
tật đến kết liễu một đời làm việc tối tăm, hoặc cái chết thê thảm đã bóp nghẹt một
đời sống chỉ để nhẫn nhục và đau khổ” [73, tr. 242]. Quả thực Nguyên Hồng đã
“rút ruột” mình ra để viết, “vắt kiệt mình ra” để tâm tư với cuộc đời, với số phận
nghiệt ngã của những con người dưới đáy xã hội, nhà văn của “thập loại chúng
sinh” ấy lấy từ trong lòng xã hội “thập loại chúng sinh” bước ra, cầm lấy cây bút
sắt chấm vào mồ hôi, nước mắt và máu của mình và viết ra văn chương của riêng
mình” [116, tr. 378]. Phải có một lòng cảm thông sâu sắc, với những ngƣời cùng
khổ thì nhà văn mới có những câu văn trĩu nặng một nỗi đau khôn cùng nhƣ vậy,
“như ta đã thấy, bao nhiêu xương thịt tan tành thối nát, bao nhiêu nước mắt và
máu đã lụt ngập tỉnh thành, bao nhiêu sinh mệnh đã chết và đương chết trong
cảnh đói rét nên một đám người hả hê sung sướng mà có bao giờ tìm ra được sự
giải quyết ở trời?” [73, tr. 156]…
Ta thấy, ngôn ngữ của Nguyên Hồng không chỉ giàu chi tiết và cảm xúc mà
còn giàu hình ảnh, những hình ảnh đƣợc thể hiện một cách tỉ mỉ và sinh động.
Dƣờng nhƣ nhà văn đã hòa vào với nhân vật để quan sát cụ thể sự sống, cảnh đời,
tình đời và say sƣa, hối hả “tấp lên”, chằng buộc lên những câu văn. Sự kiện, hiện
tƣợng cuộc sống và tình cảm của nhà văn cứ xoắn xuýt, cuộn chảy trong câu văn.
Ví dụ nhƣ đoạn nhà văn miêu tả sự hồi tƣởng của Bính vào một buổi chiều trong
131
Bỉ vỏ chẳng hạn: “Nắng đã xế bóng. Trời của một buổi chiều mùa đông ấm áp, rực
rỡ. Trời cao và mây sáng, mây trắng như bông, như tuyết trôi về phía xa.
Trên bờ đê, dưới rặng xoan lao xao, phấp phới, phu phen thợ thuyền đã về
hầm. Những chiếc mũ dạ lấm láp hắt ánh nắng và bụi. Những nón lá vàng rực lên.
Những lồng ngực bóng nhẫy phơi ra giữa những tà áo vải thô nhuộm xanh. Những
chiếc quần láng cộc nổi gọn lên những bắp chân tròn trĩnh đầy mạt than và cát
lấm tấm như vảy bạc. Những bao gạo lấm láp quấn đằng trước theo những bước
chân hắt ra những làn bụi nhảy múa” [74, tr. 372]. Hoặc trong một đoạn văn miêu
tả một cách tƣờng tận tỉ mỉ, chi tiết đối tƣợng miêu tả, là căn nhà ổ chuột của một
gia đình nghèo khổ nhƣ: “Cái gia đình lam lũ kia vẫn lúc nhúc trong gian nhà úp
xúp và hôi nồng đã ba năm không vật gì mới hiện ra dưới những mái lá tối mờ.
Vẫn cái giường tre đu đưa kêu răng rắc mỗi lần những đứa trẻ nhún nhẩy, những
cái phản lè tè mọt nghiến rền rĩ vẫn cái bàn mất chân buộc vào cột vách. Trưa hè,
dưới nắng lửa, vẫn những làn bụi lầm lên chập chờn. Ngày mưa to gió lớn, trên
mặt đất ngập nước và rác rưởi, người cha vẫn làm thuyền cho những đứa trẻ
chơi...” (Nhà bố Nấu).
Hay trƣờng hợp miêu tả nhân vật Quang (trong Lửa thiêu) khi anh ta chứng
kiến một buổi tổ chức Đại hội cứu tế tại Nhà hát lớn của những kẻ làm tay sai cho
Pháp, anh đã không giấu nổi sự căm hờn, khinh bỉ và phẫn uất. Tâm trạng của
Quang đƣợc tác giả khắc họa rõ nét qua những ngôn từ giàu sắc thái biểu đạt nhƣ:
“Chúng hòa nhạc, chúng tung hoa, chúng bán hoa, chúng quăng tiền, chúng thu
tiền và chúng cười, vỗ tay, reo hò ầm ầm…”, “ Những cố vấn đại thần, những
thượng thư, những tai nọ, mặt kia, giàu sang nhất nhì. Những cái bụng lặc lè…
Những cái má sề sệ… những gươm lê thê sáng loáng. Những lon vàng chỉ bạc, bài
ngà, hoa vóc… những cái đầu bóng soi gương được… những cái mặt lồm lộp
không thể cái gì nhẵn lì hơn được… những bộ ngực, những cặp môi không thể cái
gì núng nính hơn được. Cả một phè phỡn mê tơi… cả một mùi thơm nồng nặc… cả
một ánh sáng rực người” [73, tr. 638].
Ta luôn gặp trong tác phẩm của Nguyên Hồng một thứ ngôn ngữ phong phú
đến mức “bề bộn”, luôn “lấp lánh sự sống”. Văn và câu văn của Nguyên Hồng vì
thế mà đã xác lập một chỗ đứng riêng, tạo dấu ấn riêng, khó phai trong tâm trí
132
ngƣời đọc cũng chính bởi thứ ngôn từ giản dị, thô mộc mà đặc sắc với những câu
văn “lúc lỉu những thành phần như một đoàn tàu chợ”… Văn của ông là tiếng nói
đau đáu, thiết tha đòi quyền sống cho những kiếp ngƣời cùng khổ, bởi “Nguyên
Hồng viết bằng tình thương, một tình thương không kiềm chế được. Nguyên Hồng
viết bằng nước mắt, nước mắt không có giọt cuối cùng. Chìm dưới đáy mỗi một
câu văn Nguyên Hồng là những giọt nước mắt như thế” (Linh Thi). Những câu
văn dài bộn bề chi tiết “như một cái cây xum xuê, lúc lỉu những thành phần như
một đoàn tàu chợ”, đƣợc bắt nguồn từ một vốn sống phong phú, một tấm lòng
giàu tình cảm, và một tâm hồn dạt dào sức sống của Nguyên Hồng. Phải chăng viết
nhƣ vậy nhà văn mới “chuyển tải” hết đƣợc nỗi khổ đau vô bờ bến của các nhân
vật (đặc biệt là nhân vật phụ nữ và trẻ em) trong xã hội cũ. Và cũng chỉ mới nhƣ
vậy, nhà văn mới thể hiện đƣợc chủ nghĩa nhân đạo thống thiết của mình đối với
con ngƣời, đối với cuộc đời và tình yêu đối với văn chƣơng nghệ thuật.
4.3.1.2. Ngôn ngữ phù hợp với tâm lý, tính cách của từng kiểu nhân vật
Nhƣ đã nói, thế giới nhân vật của Nguyên Hồng là thế giới của những con
ngƣời lao động nghèo khổ dƣới đáy trong xã hội thực dân phong kiến. Và để khắc
họa cụ thể, sinh động từng kiểu nhân vật đó, nhà văn đã sử dụng thứ ngôn ngữ
nghệ thuật phù hợp với từng kiểu nhân vật, phù hợp với các nét bản chất và tính
cách riêng biệt của họ.
Với những người lao động nghèo khổ nhƣ: phu phen, thợ thuyền, những
ngƣời buôn thúng, bán bƣng… thì ngôn ngữ của họ phần lớn là những từ ngữ bình
dân xô bồ, bạo dạn. Tuy nhiên đó là những lúc họ phải bƣơn chải vật lộn để kiếm
ăn, để tồn tại, “hoàn cảnh sống đã rèn đúc nên ở họ tính can đảm đến táo tợn”,
còn với những ngƣời cùng cảnh ngộ, với cha mẹ, chồng vợ, con cái, hàng xóm…
họ dành cho nhau những câu nói tình nghĩa thật xúc động. Chẳng hạn nhƣ lời nói
đầy động viên, an ủi của Mũn (trong Đây bóng tối) nói với Nhân lúc Nhân bị mù
lòa, đau đớn, phiền muộn muốn quyên sinh: “- Thôi mình ạ, cảnh ngộ eo hẹp bắt
buộc phải thế mình cũng đừng nên phiền muộn làm gì… mà mình trông ba đứa
con hay vòi vĩnh, hay quấy khóc kia kìa, chăm nom chúng thật bận bịu vô cùng,
thế mà mình còn phải coi cả cơm nước cho cả nhà thì sự vất vả, nắng nôi của tôi
có thấm thía gì”. Sự cảm thông và lời nói đầy tình nghĩa ấy đã làm dịu lòng
133
Nhân, làm cho Nhân quên hẳn cái ý định tự tử để cho Mũn “nhẹ gánh” trên vai.
Hoặc đó là lời an ủi của một ngƣời mẹ già với con trai khi cả nhà họ đang bị cái đói
đe dọa từng ngày, khi xung quanh họ là cảnh ngƣời đói lần lƣợt chết nhƣ ngả rạ hai
bên đƣờng “- Đã có giời! không ai cưu mang được ai nữa thì đã có giời. Chẳng nhẽ
giời lại đoản hết cả mọi người? (…) Giờ đã ngoài đôi mươi tháng giêng, mà cuối
tháng ba sang tháng tư thì giời có mưa. Giời để cho sống qua mấy tháng nữa là
không việc gì nữa. Phải! Không lo nữa, có thóc chiêm, hơn hai tháng nữa có thóc
chiêm” [73, tr. 602]. Trong khung cảnh tối tăm vì sự đói khát chết chóc ấy, bà lão
gần đất xa trời đã động viên con trai tin tƣởng vào những ngày tháng trƣớc mắt. Sự
lạc quan của bà mẹ nghèo ấy thật đáng quý, nó xuất phát từ triết lý muôn đời của
nhân dân lao động “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”, nhất là ở trong những hoàn cảnh
nghiệt ngã nhƣ vậy! Những đối thoại tình nghĩa ấy thể hiện bản chất tốt đẹp, tình
nghĩa sâu sắc của những ngƣời dân lao động, đồng thời cũng thể hiện đƣợc quan
niệm của nhà văn về con ngƣời: “Tất cả những con người bị coi là cặn bã ấy đều
không ít chau chuốt cho sự sống những tình cảm sâu xa tươi thắm mà các bọn người
trong giai cấp bóc lột không thể nào có được, không thể nào xử sự được” [67].
Nhƣ đã nói, ngôn ngữ của Nguyên Hồng là thứ ngôn ngữ giản dị, gần với
lời ăn tiếng nói của tầng lớp lao động dƣới đáy xã hội đƣơng thời. Trong các tác
phẩm Láng, Quán Nải, Những ngày thơ ấu, Mợ Du… ta nhận thấy có nhiều
những từ ngữ nói về những công việc nặng nhọc của nhà nông, nhƣ: cắt cỏ, cày,
vác, cuốc, đập, làm đất… “họ, kẻ vác cày cuốc đập, đòn gánh người dắt trâu hay
mang những nón áo, ấm đất, điếu cày. Tất cả đều lặng lẽ, phờ phạc vì đói mệt”
[73]; Những từ ngữ của những ngƣời làm nghề buôn thúng, bán bƣng, (hoặc những
nghề nhỏ mọn khác) cũng có rất nhiều trong sáng tác của Nguyên Hồng trƣớc
Cách mạng. Những từ ngữ chỉ những dụng cụ lao động của họ nhƣ thúng, mủng,
mẹt, vỉ buồm, chõng, xay bột, làm bánh, thạch, chè, xôi chè, luộc khoai, nhà đò,
luồng nước, hàng quà, bán rong… Nhiều hơn cả là từ ngữ gắn liền với công việc
cực khổ của những ngƣời thợ thuyền, của phu khuân vác, đội than ở các nhà máy,
bến tàu, bến cảng, nhƣ: máy hập, băng, xe goòng, chở, vác, đèo, đội, thợ nề, làm
phu, cu ly, đòn bẩy, thanh sắt, dây curoa, đất, đá, bánh xe, dây da, chuyển động, ổ
sắt, búa lớn, quai… Điều đặc biệt là với những từ ngữ giản dị, bình thƣờng mang
đậm hơi thở cần lao ấy đã đƣợc Nguyên Hồng tái hiện thành một bức tranh đầy
134
màu sắc về sự khốn khổ lam lũ của những con ngƣời sống dƣới đáy xã hội. Đúng
nhƣ Nguyễn Minh Châu nhận xét về ngôn ngữ Nguyên Hồng “câu chữ nào cũng
lấm láp cuộc sống, mang hơi thở hổn hển của cuộc sống lam lũ”. Những từ, những
câu chữ ấy luôn “cựa quậy, phập phồng” đánh vào tâm thức ngƣời đọc, ám ảnh
ngƣời đọc về cuộc sống nô lệ của nhân dân ta dƣới thời thực dân phong kiến.
Nguyên Hồng có thói quen lúc rỗi rãi thƣờng hay đến những nơi đông ngƣời nhƣ
vƣờn hoa, chợ, bến tầu, bến xe,… để lắng nghe ngôn ngữ đối thoại đời thƣờng, ngôn
ngữ chợ búa, ngôn ngữ của những ngƣời lao động buôn thúng, bán bƣng vất vả cực
nhọc để chắt lọc và đƣa vào văn chƣơng của mình. Vì thế, ngôn ngữ của Nguyên
Hồng là ngôn ngữ của đời sống cần lao, “mang hơi thở nóng hổi” của cuộc sống.
Với những nhân vật tha hóa, lưu manh hóa, tác giả đã sử dụng một thứ
ngôn ngữ đặc biệt - thứ ngôn ngữ phù hợp với tính chất nghề nghiệp và bản chất,
tính cách của những con ngƣời táo tợn, bất cần, sống cuộc sống ngoài vòng pháp
luật. Khác với những nhà văn khác cùng thời, cùng khuynh hƣớng, Nguyên Hồng
là ngƣời đặc biệt dành sự quan tâm nhiều đối với loại nhân vật tha hóa, lƣu manh
hóa - và cái khác biệt của nhà văn cũng chính là ở kiểu xây dựng loại nhân vật này.
Có lẽ do hoàn cảnh sống dƣới đáy xã hội mà Nguyên Hồng đã phải nếm trải, nên
ông gần gũi và rất am hiểu họ. Với kiểu nhân vật này nhà văn sử dụng những từ
ngữ ăn nói trợn trạo, bất cần đời, đầy tiếng lóng của những dân “anh chị”. Ta hãy
lắng nghe một cuộc đối thoại trong Bỉ vỏ giữa nhân vật Năm Sài Gòn và đồng bọn:
“Hắn nói đến đây, cả bọn nhao nhao lên hỏi:
- Có “Tế bướu” (nhiều tiền) không?
- Bao nhiêu “thạch” (đồng)?…
- Tôi biếu anh Năm “trách chợm” (một chục), còn mỗi anh “kẹo thạch”
(năm đồng).
Tư lập lơ lấm lét chờ Năm nhận lời mới hất hàm hỏi Chín:
- Thế “khánh vọt” (khánh vàng) với “khong bẹt” (khóa vòng bạc) đâu?
Chín hiếc cười đáp:
- Ấy suýt tôi quên thằng “vỏ lỏi” bế em bé đưa ra ao than, chực tháo khánh
và vòng, xích thì có bốn “so quéo” ở trong ấy đi ra bắt gặp nó, nó hoảng hốt vứt
135
đứa bé xuống một cái hố rồi chạy mất… Lại thấy bóng “cớm chùng” và “cớm
tẩy”, tôi phải bấm nó rồi cả hai “ngũ dị” đi thẳng” [74, tr. 338].
Và đây là ngôn ngữ đối thoại trong cuộc cắt máu ăn thề của những tay “anh
chị” đất Hải Phòng: “Tôi là Sửu Nháy, hai mươi mốt tuổi, không cha mẹ, không
anh em, vợ con không quê quán… can án sáu lần, tổng cộng bốn năm tù… xin
nguyện hết lòng giúp đỡ, bênh vực anh em, nếu sai lời sẽ bị trời tru, đất diệt”;
“Tôi là Tư Chơi, hai mươi tư tuổi, không quê quán, anh em, cha mẹ, can án tám
lần, tổng cộng 7 năm tù, nguyện như Sửu Nháy nếu sai lời xin quỷ thần hai vai bắt
hộc máu chết tươi”;“Tôi là Bảy Hựu, hai mươi tuổi, không cha mẹ, không quê
quán… không cả chồng con, theo anh Hai Răng vàng giang hồ từ thuở nhỏ, can án
sáu lần, cộng bốn năm tù, xin nguyện như anh em, nếu sai lời, sẽ bị chết đâm, chết
chém ở đầu đường, xó chợ”… [73, tr. 124].
Ta thấy qua những đoạn đối thoại trên, tác giả đã tạo đƣợc một loại ngôn
ngữ có sắc thái riêng của những kẻ giang hồ hành nghề cƣớp giật, đâm thuê, chém
mƣớn. Họ muốn tồn tại đƣợc thì phải bất chấp tất cả, nên họ “yêng hùng” ngay cả
trong khẩu khí. Nguyên Hồng đã chú ý sử dụng ngôn ngữ đối thoại để thể hiện bản
chất và nghề nghiệp của loại nhân vật này. Đặc biệt, trong tiểu thuyết Bỉ vỏ những
tiếng lóng, những biệt ngữ mà các nhân vật lƣu manh, tha hóa sử dụng là 272 lƣợt
(tần số đƣợc Nguyên Hồng sử dụng hết sức đậm đặc). Có thể kể ra hàng trăm từ
lóng mà tác giả đã sử dụng nhƣ: “Hồ lỳ” (ngƣời tính toán ở chiếu bạc),“chạy dọc”
(kẻ ăn cắp trên tàu thủy, tàu hỏa hay ô tô), “cớm chùng” (mật thám), “phụ cớm”
(phụ mật thám), “cớm độc” (đội xếp), “Cớm tẩy” (mật thám tây, đội sếp tây),
“tôm”(bắt), “mõi” (móc, rút) hay những biệt ngữ:“vỏ lỏi” (ăn cắp nhỏ tuổi), “tiểu
yêu” (chỉ trẻ con ăn cắp), “yêu tạ” (kẻ cắp lâu năm), “bỉ vỏ” (đàn bà ăn
cắp),“quấy” (đi chơi nhà chứa);“diễn xưa” (uống rƣợu say),“phiện phò” (hút sách
chơi bời);“bùng” (án biệt xứ),“pét bích” (tám lần can án),“củ” (chết), “ngũ dị”
(chạy trốn), te (đẹp), “tiền bồi” (tiền ăn cắp của bọn ăn cắp trích nộp cho đàn anh),
hiếc (lần lƣng, móc túi), “khai” (cắt túi, xẻo đẫy), “hắc” (cẩn thận, khôn ngoan),
“thắt đớm” (thắt lƣng), “tễ biếu” (nhiều tiền), “đi phiên” (đi khám bệnh), “bét
dịp” (tám tháng), “nhỡ” (bị tù), “đét” (không ăn cắp đƣợc), “mổ chạc” (ăn nhờ),
“ngũ dị” (chạy trốn)… Nguyên Hồng dùng nhiều những tiếng lóng, những biệt
ngữ nhƣ trên với mục đích để phản ánh cuộc sống tối tăm đầy tội lỗi và cũng đầy
136
nguy hiểm của những kẻ lƣu manh, trộm cắp, cùng đƣờng nổi loạn. Các nhân vật
này sử dụng những tiếng lóng, những biệt ngữ nhƣ vậy là để thông báo cho nhau
trong những hoàn cảnh bị dồn đẩy, hoặc trong những tình huống cực kỳ nguy
hiểm, hoặc khi trốn chạy để khỏi bị mật thám bắt… Cuộc sống tăm tối bấp bênh
của họ đƣợc nhà văn miêu tả bằng nhiều tiếng lóng mà chỉ có những kẻ “trong
nghề” mới hiểu đƣợc. Tài năng của Nguyên Hồng là ở chỗ nhà văn đã dùng chính
ngôn ngữ của họ để miêu tả thực tế cuộc sống của họ, một cuộc sống ăn cắp, ăn
cƣớp, đâm thuê, chém mƣớn, trong sự lo sợ bị bắt, bị vào tù hoặc sự thanh toán lẫn
nhau có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Ngay cả khi bày tỏ tình cảm, họ cũng nói với
nhau bằng thứ ngôn ngữ của riêng họ: "Tám Bính vênh mặt nũng nịu:
- Khi nào cớm mó được đến người em.
Năm Sài Gòn lườm yêu Bính:
- Mình chỉ kiêu ngạo thôi, tài giỏi sành sỏi như Tư Lập Lơ còn “cáy”
không dám làm tiền nữa là mình thứ vị gì.
- Nhưng em…
- Em là “bỉ” chứ gì?
... Năm liền quàng tay qua Bính, kéo mặt Bính sát tận mặt mình, thều thào:
- Em gái nhỏ tôi “te” quá”. [73, tr. 392].
Nhƣ vậy, chủ ý đƣa tiếng lóng vào trong đối thoại của các nhân vật này, nhà
văn nói lên bản chất nghề nghiệp của họ, đó là thứ ngôn ngữ chỉ bản chất hung hãn
và thái độ bất cần đời của những con ngƣời bị dồn đẩy phải sống một cuộc sống
ngoài vòng pháp luật. Đúng nhƣ tác giả Lê Hồng My đã nhận xét: “Tiếng lóng của
Nguyên Hồng đã đưa người đọc đến với tầng lớp cặn bã nhất của xã hội để nhận
biết về sự đau xót của hạng đĩ điếm, trộm cắp, sát nhân vẫn bị người đời khinh rẻ.
Đó là mảng hiện thực mà bao thế hệ nhà văn đã không ngừng trăn trở, tìm hiểu,
khám phá. Dưới ngòi bút Nguyên Hồng, tiếng lóng đã bồi đắp thêm giá trị hiện
thực của tác phẩm, làm cho bức tranh đời sống xã hội Việt Nam trước cách mạng
tháng Tám trong văn học nước nhà thêm chân thực và sâu sắc” [101, tr. 127].
Có thể thấy, với những nhân vật tha hóa, lƣu manh, trộm cƣớp… nhà văn
thƣờng sử dụng những ngôn ngữ của những kẻ bợm trạo, bất cần, hoặc những
137
tiếng lóng của giới giang hồ để lột tả bản chất và tính nghề nghiệp của họ. Cũng
vậy, khi miêu tả cuộc sống của những đứa trẻ lang thang nơi đầu đƣờng xó chợ,
nhà văn sử dụng những từ ngữ phù hợp với hoàn cảnh sống và tâm lý của lứa tuổi
này. Tuy nhiên, trong ngôn ngữ của kiểu nhân vật trẻ em, ngƣời đọc nhận thấy đó
là thứ ngôn ngữ vừa trẻ con, lại vừa già dặn của ngƣời lớn. Phải chăng môi trƣờng
lao động cực nhục bắt buộc chúng phải bƣơn trải, phải giành giật, phải mánh lới…
nhƣ những tay “anh chị” lớn tuổi để tồn tại? Chúng có những từ ngữ riêng, không
ngang ngƣợc bất cần nhƣ những tay “anh chị”, nhƣng cũng đầy tính “bụi đời” - thứ
ngôn ngữ đã ngấm vào chúng trong những ngày kiếm sống. Đây là đoạn đối thoại
của hai nhân vật Điều và Tý Sáu, chúng bàn nhau ăn cắp tiền của ông già mù trong
truyện ngắn Con chó vàng: “- Con chó vẫn thức mày ạ. Mà tao biết hai thằng
mình khờ rồi, ban ngày đi ăn xin, ông lão mới bỏ quần áo vào bị chứ đi ngủ, thế
nào bố già chẳng lẩn vào người. Mà bên bố già lại có con chó tai quái kia thì có
giời mà lấy được.
- Ức thật, hai thằng sáng mà lại chịu thua con chó của bố mù” [73, tr. 156].
Lẽ ra, bình thƣờng ngƣời đi ăn xin lại bị mù làm ngƣời ta thƣơng xót, nhất là tình cảm ấy ở trẻ em lại càng trong sáng và thể hiện sự thƣơng xót nhiều hơn, nhƣng cuộc sống kiếm sống lang thang nơi đầu đƣờng xó chợ làm các em trở nên chai sạn mất dần đi những tình cảm tốt đẹp, dửng dƣng với những cảnh ngộ rất đáng thƣơng tâm của ngƣời đời. Chúng gọi ông lão là “bố già”, là “bố mù” một cách dửng dƣng và còn định giết chó, cƣớp tiền của ông lão - ngƣời còn khốn cùng hơn chúng. Trong Bỉ vỏ, Nguyên Hồng miêu tả cảnh những đứa trẻ lang thang đầu đƣờng xó chợ, ăn cắp, lừa lọc để tồn tại, nhƣng cũng có nhiều lúc chúng bị các tay “anh chị” “hớt tay trên” “sản phẩm” ăn trộm của chúng, đẩy chúng vào tình trạng sắp chết vì đói, chúng đã bộc bạch những nỗi tức tối qua những lời nói đầy hằn học, đầy biệt ngữ và tiếng lóng:
“Hiếu chêm một câu:
- Mà Tám Bính “siêu” (lấy đi) mới thần tình chứ.
… Hiếu chuyên môn ăn cắp, nên các cử chỉ của Bính nó diễn lại một cách
khéo léo, tự nhiên vô cùng làm Sẹo phải tròn mắt kêu lên:
- Tám Bính “dựa nhẩu” (lấy nhanh) đến thế cơ à?
138
Minh hất hàm cười:
- Ấy chết, bà mày có biết “làm tiền” tí nào đâu!
Mất hết cả ngờ vực, thằng Sẹo gật gù:
- Khoái đấy, thích đấy!... Nó vui vẻ cất tiếng:
- Chúng mày nhỉ, “bỉ” (ăn cắp) ấy dễ lắm, tốt lắm, làm thế nào những lúc “đét” (túng thiếu), chúng ta chả “trách phõ” (xin nhờ vả) được tí tỉnh” [74, tr. 381].
Qua những đối thoại trên, ta thấy nhân vật trẻ em, tuy còn ít tuổi nhƣng đã
sử dụng các tiếng lóng, những biệt ngữ nghề nghiệp của chúng một cách thành
thục, trơn tru. Cuộc đời của chúng nhiều lúc phải trải qua những ngày đói khát, rét
mƣớt ê chề, chênh vênh giữa sự sống và cái chết, nhƣ nhân vật Minh có lúc “đói
quá lả đi mê mệt, nằm rũ trên thềm gạch xây cạnh chuồng tiêu… May mà sáng
hôm sau thằng Hiếu ăn cắp được đôi giày ta mới, bán được hai hào rưỡi mua phở
cho nó ăn, chứ không nó chết đói mất” [74, tr. 383]. Ta thấy, trong những hoàn
cảnh nghiệt ngã nhƣ vậy, tận đáy sâu tâm hồn các em vẫn ngời lên sự tƣơng thân,
tƣơng ái, đùm bọc lẫn nhau của những ngƣời cùng cảnh ngộ. Điều đó làm ngƣời
đọc ấm lòng hơn bởi thấy các em là những đứa trẻ đáng thƣơng chứ không đáng
giận cho dù bị rơi vào hoàn cảnh nào.
Để miêu tả cuộc đời những ngƣời phụ nữ phải làm nghề mại dâm để tồn tại,
Nguyên Hồng cũng dùng những từ ngữ phù hợp với nghề nghiệp của họ, nhƣ:
“sộp”, “đồ chơi”, “đi phiên”, “lẳng giai”, “sộp kê”, “xé giấy”,… hoặc những từ
ngữ thể hiện những trạng thái cảm xúc khi tủi thân, khi ê chề, tủi nhục, đau đớn
của những ngƣời đàn bà bị sa chân vào nhà chứa nhƣ: Tám Bính, Hai Liên… “Sau
sáu mươi ngày đêm ròng rã ít khi chợp mắt làm “đồ chơi” cho mọi hạng người,
tiếp những ông khách “sộp” của chủ chứa mà đến tiền đi “phiên” (đi khám bệnh)
cũng không có” …
…“Dứt lời, Hai Liên bấm Tám Bính, ghé vào tai Bính nói thầm: Thằng cha
này có vợ nhưng vợ ở tận Hà Đông, ít khi gặp xuống chơi, nó lẳng giai lắm mà “sộp kê” (nhiều tiền) lắm, lại đi đạo nữa đấy”;
…“Hai Liên ái ngại, cau mày ngẫm nghĩ một lát rồi bảo Bính:
Chị muốn rời bỏ chốn này lắm phải không?... thôi được… khi nào chị thật
khỏe mạnh, em sẽ đánh mối giúp chị một người có thể xé giấy lấy chị…
139
“Em không lừa dối chị đâu tuy em thường “khấu bộp” mọi người để lấy
tiền” (Bỉ vỏ) …
Vào thời điểm đó, các tác phẩm của văn học lãng mạn đang đến với bạn đọc
bằng những từ ngữ nuột nà, trơn tru đầy mộng mơ của những chàng và nàng,
những nhân vật chàng trai, cô gái Mới tân thời, đã chinh phục và ru ngủ độc giả
bằng những tác phẩm: Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân, Đời mưa gió, Đoạn
tuyệt… thì Nguyên Hồng đã dũng cảm đƣa vào trang viết của mình những từ ngữ
đầy gân guốc, bụi bặm, đầy tính bình dân của nhà máy, của than bụi, của nhà máy,
của bến phà, từ ngữ của đời sống cần lao để miêu tả chân thực đời sống lam lũ của
họ. Điều đặc biệt cũng là khác biệt của nhà văn là ông đã sử dụng những biệt ngữ,
những tiếng lóng để miêu tả cuộc sống hỗn độn, khốn cùng của những con ngƣời
sống dƣới đáy xã hội, sống ngoài vòng pháp luật. Giáo sƣ Hà Minh Đức khẳng
định: “Không thể làm sống dậy cuộc sống giang hồ, lưu manh của những kẻ như
Tám Bính, Năm Sài Gòn, Ba Bay nếu như trong Bỉ vỏ Nguyên Hồng không dùng
tiếng lóng”. Thành công của Nguyên Hồng chính là ở chỗ ông đã đƣa tiếng lóng
trở thành một thứ ngôn ngữ nghệ thuật vào văn chƣơng và giúp ta hiểu thêm về
những con ngƣời tội lỗi bị xã hội cũ ruồng bỏ, để cảm thông và thƣơng xót cho họ.
Đồng thời, tiếng lóng của Nguyên Hồng đã góp phần làm phong phú thêm ngôn
ngữ văn xuôi hiện đại.
Còn với những nhân vật thanh niên trí thức tiểu tư sản nghèo khổ thì ngôn
ngữ đối thoại của họ rất ít mà thƣờng nặng về suy nghĩ nội tâm. Trong các sáng tác
Tôi dạy học, Lớp học lẩn lút, Một trưa nắng, Hai dòng sữa… các nhân vật thanh
niên trí thức đều ít hành động, ít đối thoại, mà nặng về độc thoại, suy nghĩ. Ví dụ
nhƣ trƣờng hợp nhân vật Hƣng (trong Miếng bánh) vì đói ăn dài ngày mà anh đã
bỏ ra hai hào để mua bánh để tận hƣởng thỏa mãn cơn khát thèm, bỗng hình ảnh
đói khát, xác xơ của ngƣời vợ hiện ra khiến cho anh cảm thấy tê dại, miếng bánh
bỗng nhiên thành “mảnh thủy tinh tẩm mật cá”. Và anh tự chất vấn mình, toàn bộ
tâm trí anh quay cuồng bởi tiếng rít mắng của cõi lòng: “Khốn nạn! Sao mày lại
lén lút ăn không chia sẻ với vợ con như thế này! Mày thèm khát thế vợ con mày no
đủ hay sao? Mày còm cõi thế vợ con mày béo tốt hay sao? Mày nhẫn tâm thế à?”.
Biết đó là hành động xấu xa, ích kỷ, Hƣng không nén nổi giận dữ, anh tự xỉ vả
mình là “khốn nạn”, “nhẫn tâm”. Những tiếng nói lên án gay gắt lên án tự trong
140
tâm trí “mỗi khi nhớ tiếng miếng ăn này, Hưng sẽ bị một nhục nhã như chàm, như
lửa táp vào mặt, Hưng sẽ đau đớn còn hơn bị xác thịt kìm cặp” [73, tr. 439]. Cuộc
sống nghèo khổ khiến anh phải có những tính toán chi li, phải ích kỷ nghĩ cho
riêng mình rồi lại phân tích, tự nhận thức trong sự tủi hổ, ân hận, đau đớn. Và cứ
thế, tâm lý nhân vật triền miên day dứt, căng thẳng nối tiếp nhau. Nhân vật rất ít đối
thoại, mà chủ yếu nặng về những suy nghĩ nội tâm (trong 12 trang truyện, Hƣng đối
thoại có 11 lần, còn lại là những suy nghĩ “tự nhủ”, tự chất vấn, tự lên án mình qua
dòng độc thoại nội tâm là chủ yếu). Cũng tƣơng tự nhƣ Hƣng, nhân vật Giang (trong
Ngọn lửa) chỉ vì bốc vụng một miếng cơm nguội trong lúc quá đói, mà cũng xỉ vả
mình thậm tệ. Sự day dứt lƣơng tâm của ngƣời trí thức bộc lộ sự đấu tranh nội tâm
căng thẳng của nhân vật khi họ rơi vào những cảnh ngộ oái oăm đầy nƣớc mắt đắng
cay. Những hành động “ăn vụng” “ăn lén” để tồn tại cũng đƣợc thể hiện qua suy
nghĩ dằn vặt của nhân vật: “mang tiếng được ăn học chữ nghĩa hẳn hoi mà ăn xó mó
niêu như thế đấy! Đói khát đến thế nào mà ăn như một kẻ ăn mày, ăn nhặt vậy” [73,
tr. 114]. Ngƣời thầy giáo nghèo - nhân vật Thân (trong Quán Nải) rất ít nói, kín
đáo trong cƣ xử với mọi ngƣời. Ngay cả với ngƣời thầm yêu, trộm nhớ là Muống,
Thân cũng kín đáo, khách sáo qua cách xƣng hô “tôi”- “cô”:
“ - Vâng! Thôi chào cô về”...
“- Về! Cô về bây giờ có lẽ đã quá nửa đêm” [74, tr. 498].
Đối thoại trên thể hiện tính cách nhu mỳ, mềm yếu, thậm chí là hơi hèn của
nhân vật Thân. Cách đối thoại này cũng đã thể hiện sự rụt rè trong ứng xử của kiểu
nhân vật này. Nhân vật Lƣu trong Lúc chiều xuống phải đem mấy cuốn sách là tài
sản quý báu nhất của anh đi bán để cầm hơi trong khổ sở tủi nhục, trong sự bê tha
bệ rạc, ngƣời đọc cũng ít thấy anh đối thoại mà chủ yếu là độc thoại nội tâm (trong
15 trang truyện có 11 đối thoại).
Truyện ngắn Hai dòng sữa thể hiện quan điểm nghệ thuật của ngƣời trí
thức tiểu tƣ sản trƣớc cuộc sống, nhƣng cơ bản cũng lại đƣợc biểu đạt qua dòng
độc thoại nội tâm của nhân vật (trong 22 trang truyện cũng chỉ có 9 đối thoại).
Huyên là một nhạc sĩ có đủ điều kiện sống đầy đủ, thậm chí thừa thãi về vật chất,
nhƣng tâm hồn gần nhƣ bại liệt. Có dịp gần gũi với những ngƣời lao động nghèo
141
khổ, Huyên đã thức tỉnh, anh nhận ra rằng, cuộc đời anh cũng nhƣ nghệ thuật của
anh chỉ có thể hồi sinh khi biết gắn bó với nhân dân nhƣ gắn với hai dòng sữa mẹ.
Để có sự thức tỉnh về bản thân, ý thức về giá trị của nghệ thuật chân chính, Huyên
cũng đã trải qua những “dằn vặt”, những “day dứt”, những suy nghĩ nội tâm căng
thẳng. Huyên tự nhận thấy mình “núp dưới cái danh nghệ sĩ mà bám vào lưng
người ta”, “tâm hồn Huyên đau như xé ra” thấy mình là “người nghệ sĩ ăn mày,
thứ nghệ sĩ trùng bệnh độc, sống bằng khí lực người ta và làm trụy lạc bao cuộc
đời mà nhiều hạng người vẫn ca tụng và khao khát gần gũi” [73, tr. 521]. Nhận
thức đƣợc nghệ thuật của mình “chỉ là cái âm nhạc phóng đãng, trụy lạc”, Huyên
day dứt, ghê rợn cho mình: “Huyên thấy rõ ràng đời mình đen tối và khốn nạn vô
cùng, không còn có cái gì để mà tô điểm, che đậy, lấp láp được nữa… Và những
cái là hay, là đẹp, là tuyệt diệu ấy, có ích lợi chút nào cho người đời, hay chỉ để
vui tai, mê hồn và đắm đuối cho một hạng người lười biếng, nhẫn tâm” [73,
tr.527]. Huyên thấm thía sau cái lần “chua xót tê dại này”, “bắt đầu từ những phút
sôi nổi sung sướng này, Huyên không thể nào xa những con người kia, Huyên phải
mãi mãi đứng bên tay trái họ, cảm thông tận tâm hồn với họ mọi sự đau khổ vui
tươi, mong ước và tin tưởng. Đời Huyên bắt vào đời họ như dây tơ bám riết lấy
lòng đất, càng sâu bao nhiêu càng vững chắc bấy nhiêu” [73, tr. 530].
Thể hiện sự đấu tranh nội tâm căng thẳng của ngƣời trí thức, Nguyên Hồng
cũng chỉ thể hiện qua suy nghĩ và tâm trạng của nhân vật mà rất ít sử dụng ngôn
ngữ đối thoại trực tiếp. Điều này phù hợp với tính cách kín đáo, sống nội tâm của
phần lớn những nhân vật trí thức tiểu tƣ sản. Thông qua ngôn ngữ độc thoại nội
tâm, các tình tiết, tính cách nhân vật đƣợc hình thành và phát triển. Từ đó, Nguyên
Hồng đã làm nổi bật những nỗi đau xót trƣớc bi kịch vật chất và tinh thần của
ngƣời trí thức tiểu tƣ sản trong xã hội cũ.
Là ngƣời tinh tế và dễ xúc động, giàu tình thƣơng cảm với những số phận
bất hạnh, nên ngôn ngữ của Nguyên Hồng cũng thấm đẫm tình yêu thƣơng khi
biểu đạt những trạng thái tình cảm của nhân vật. Có những từ ngữ biểu đạt "những
rung động cực điểm của một linh hồn trẻ dại" (Thạch Lam) xúc động sâu xa mà
đằm thắm trữ tình, có những từ ngữ biểu đạt những trạng thái tâm lý căng thẳng
của nhân vật khi rơi vào cảnh ngộ khốn cùng, hoặc chênh vênh giữa sự sống và cái
142
chết của các nhân vật sống ngoài vòng pháp luật, hoặc những từ ngữ biểu đạt niềm
hứng khởi, say mê sự sống…
Nhƣ vậy, khi xây dựng nhân vật, cho dù ở loại nhân vật nào, Nguyên Hồng
rất chú ý đến ngôn ngữ nhân vật. Sử dụng ngôn ngữ phù hợp với đặc điểm, tính
cách của nhân vật là một thành công của Nguyên Hồng trong quá trình sáng tạo
nghệ thuật của mình.
4.3.2. Ngôn ngữ mang sắc thái tôn giáo
Nghiên cứu về một số đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong sáng tác của
Nguyên Hồng, chúng tôi nhận thấy, nhà văn không chỉ mạnh dạn đƣa từ lóng
vào trong tác phẩm văn chƣơng, ông còn mạnh dạn sử dụng những từ ngữ
thƣờng dùng của những ngƣời theo đạo Cơ đốc. Có lẽ lớp từ ngữ này đã khiến
cho tác phẩm của Nguyên Hồng ít nhiều mang sắc thái tôn giáo, thể hiện tinh
thần xả thân, độ lƣợng, thương đến cả những kẻ ác của đạo Cơ đốc. Chính đặc
điểm này thể hiện phong cách rất riêng của Nguyên Hồng so với những nhà văn
cùng thời.
Ngôn ngữ mang sắc thái tôn giáo thể hiện ngay từ những sáng tác đầu
tay Linh hồn, bởi không khí tôn giáo thấm sâu vào tâm thức Nguyên Hồng,
thấm vào từng trang viết của nhà văn. Ta bắt gặp trong nhiều sáng tác của
Nguyên Hồng trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945 có nhiều những từ ngữ
của những ngƣời theo đạo Cơ đốc. Các biệt ngữ tôn giáo đƣợc ông sử dụng rất
phong phú, có khi đó là từ chỉ các chức phận trong dòng tu: Đức Mẹ, Đức Chúa
Jêsu, con chiên, giai hàng xứ, bõ, đồng nhi, con gái thơ kinh, lề lối Hội
thánh,… Hay hình ảnh nhà thờ, thánh đƣờng với những tòa giảng, bàn thờ Đức
Mẹ, cây thập ác, cây thánh giá, tranh Chúa Jêsu bị đóng đinh trên cây thập ác,
Chúa vẻ mặt rầu rĩ, tượng Chúa chịu nạn… Hoặc những hoạt động quen thuộc
của giáo dân: đọc kinh, cầu nguyện, xưng tội, rửa tội, lần đàng thánh giá, chịu
phép Chúa, tiếng đọc kinh rền rĩ, miên man, linh hồn, chầu Chúa,… Những lời
cầu nguyện: Giê su ma, Lạy Chúa Tôi, Đức mẹ lòng lành, Chúa nhân từ, Chúa
thương xót chúng con… các bản kinh “Ăn năn tội”, “Lạy Nữ vương”, “Tôi ở
dưới vực sâu”, “Đức Mẹ hằng cứu giúp”…
143
Có khi là cả một câu, là cả một đoạn văn: “Bính xanh mắt lên trông gian
buồng âm u giữa buổi trưa mùa thu trong sáng, và ú ớ nói những tiếng nhỏ nhỏ
trong cổ họng như một người bị cơn mê bóp nghẹt - Giê su ma… con chết mất!
Lạy chúa con!Không! Không!...” (Bỉ vỏ); “Chúa vẻ mặt rầu rĩ… cây “thập
ác”, - Chúa thương xót chúng con, - Chúa cứu chữa chúng tôi, - Chúa nhận lời
chúng tôi…, những linh hồn quen chịu cực nhục…”; “Nhìn mẫu ảnh đức chúa
Jesu bị đóng đinh trên cây thập giá treo trên tường, họ thì thầm đọc kinh”…
“Lạy Nữ Vương”, “Tôi ở dưới vực sâu” [73, tr. 111], “Đức Mẹ hằng cứu
giúp”, “Tượng Chúa chịu nạn trên tường lờ mờ dưới một thứ ánh sáng lạnh
giòn của pha lê, hai cánh tay rỉ máu dang ra một vệt mực tím loãng dài. Mắt
Chúa lờ đờ dưới vầng trán bọc gai nhọn đẫm thêm bóng tối…” [73, tr. 112], “Jê
Su ma, Chúa thương xót chúng con, Đức Mẹ lòng lành”, “Lạy nữ vương mẹ rất
nhân lành vô cùng”, “Lạy chúa tôi hằng có ở khắp thế gian này” [73], [74]…
Hoặc miêu tả những âm thanh quen thuộc của xứ Đạo “Tiếng chuông nhà thờ”,
“những tiếng cầu kinh rền rĩ”, “ chấm nước Thánh”, “đọc kinh”, bõ nhà thờ’,
“tan lễ”, “tan chầu”… Hay cảnh tƣợng một đêm Noen: “Tiếng chuông bỗng
nổi dậy… Tây đầm đi vào trước, cả bầu đoàn vú bế, vú dắt, chị hai, chị khâu,
bé con cầm áo choàng và làn mây đựng đầy bánh kẹo, hoa quả ríu rít theo sau.
Tất cả nghênh ngang ở lối đi giữa nhà thờ rộng thênh thang với những hàng
ghế trên cùng lót nhung cả ở chỗ quỳ chân. Rồi đến các chức sắc, những quyền
quý trong bốn “họ” khệnh khạng, bệ vệ, hớn hở hàng trăm đồng nhi và con gái thơ
kinh cùng cất tiếng lên để đón tiếp sự thanh bình vinh hiển của những lớp người
sang trọng”… [73, tr. 220-221]. Những thứ ngôn ngữ mang đậm sắc thái tôn
giáo này đã thể hiện đƣợc nét rất riêng về phong cách nghệ thuật của Nguyên
Hồng. Điều đáng quý là với những từ ngữ này, nhà văn đã có sự đóng góp
không nhỏ vào sự phát triển của ngôn ngữ văn xuôi hiện đại. Nhờ lớp từ ngữ
này, Nguyên Hồng đã mở rộng phạm vi phản ánh hiện thực, mở rộng sự hiểu
biết về đời sống của những ngƣời theo đạo, giúp ngƣời đọc thấy đƣợc rõ hơn sự
thật cuộc sống của những ngƣời theo đạo Thiên Chúa lúc bấy giờ sau tấm màn
tôn giáo huyền bí.
Các nhân vật của Nguyên Hồng (đặc biệt là những ngƣời phụ nữ) trong
cảnh khốn cùng họ thƣờng cầu nguyện với một niềm tin tôn giáo “Chúa lòng
144
lành nhân từ”. Những ngƣời đàn bà bị đọa đày trong tù, khi Tết đến chỉ còn
biết cầu nguyện Chúa để vơi đi những tâm trạng tủi cực của kiếp sống đọa đầy,
“Để cầu kinh, họ có một thứ giọng riêng, càng kéo dài càng rên xiết” ,“Tất cả
hướng mặt về mẫu ảnh đức chúa Jesu bị đóng đinh trên cây thánh giá treo trên
tường. Họ thì thầm đọc kinh. Giọng đọc đều đều không phân biệt, âm thầm trong
bóng mờ mờ của nhà tù. Lòng tin tưởng của những con người sống trong tối tăm
kia không còn biết bấu víu vào đâu đầm đìa, chan chứa trong những bản kinh
“Lạy Nữ Vương”, “Tôi ở dưới vực sâu” “Đức Mẹ hằng cứu giúp” [73, tr. 211].
Nhân vật Hai mƣơi hai (Linh hồn) khi bị Cai Năm hãm hiếp, không thể chống trả,
nàng cũng đành nhắm mắt mà âm thầm cầu nguyện: - “Chúa thương xót chúng
tôi! - Chúa cứu chữa chúng tôi ! - Chúa nhận lời chúng tôi…! Nàng chỉ có thể
trong cậy vào quyền pháp của đấng cao siêu phù hộ nàng… Hai mươi hai vội hơi
hé mắt, chua xót lờ đờ nhìn xuống mẫu ảnh Đức Chúa Jesu treo ở ngực, trong
thâm tâm nàng như muốn thì thầm phân trần sự bị ức hiếp quá tàn bạo và sự trong
sạch của linh hồn mình” [73, tr. 92]. Bà của bé Hồng (Những ngày thơ ấu) trƣớc
cảnh gia đình sa sút chỉ còn biết ngày ngày ngồi trƣớc cây thánh giá “những đầu
ngón tay khô róc, lẩy bẩy lần chuỗi tràng hạt”, “khuôn mặt hốc hác nhăn nheo,
quầng mắt sâu thẳm” “lầm rầm cầu nguyện” - Chúa tha tội cho chúng tôi! Chúa
thương xót chúng tôi…! Chúa phá mọi sự dữ, ban mọi sự lành cho chúng tôi” , bà
nhìn chúa Jesu rầu rĩ mệt lả dang hai cánh tay rỉ máu trên cây thánh giá hồi lâu
rồi từ từ cúi xuống hôn mẫu ảnh nhỏ, tròn bằng bạc ở tràng hạt” [73, tr. 752]…
Nhƣ vậy, sử dụng những từ ngữ Cơ đốc giáo, Nguyên Hồng đã có thêm một
phƣơng tiện ngôn ngữ để phản ánh một sự thật nghiệt ngã: Chúa lòng lành, nhân
từ, Chúa cứu vớt chúng con cũng không thể nào cứu vớt đƣợc cuộc sống lầm than,
nô lệ của dân nghèo. Các con chiên của Chúa càng ngoan đạo thì lại càng khốn
khổ, càng bị bọn thống trị bóc lột cả về thể xác lẫn tinh thần. Kẻ cầu nguyện vì bế
tắc trƣớc cuộc đời nên tìm đến tình thƣơng bao la và sự an ủi ở nơi Chúa - nhƣng
thực tế là họ cầu nguyện để tìm thấy “sự cứu rỗi” ở chính mình. Nguyên Hồng
cũng gửi gắm những câu cầu nguyện đó của mình cho những con ngƣời khốn khổ,
bế tắc trƣớc cuộc đời qua những trang văn thấm đẫm tình thƣơng yêu sâu sắc! Sử
dụng nhiều từ ngữ mang sắc thái tôn giáo nhƣ thế, nhà văn đã giúp ngƣời đọc hiểu
145
sâu hơn về đời sống tinh thần của những ngƣời theo đạo Thiên chúa - đây cũng là
sự khác biệt trong lời văn của Nguyên Hồng so với lời văn của các tác giả cùng
khuynh hƣớng, cùng thời.
Tóm lại, để tạo dựng cho mình một Thế giới nghệ thuật riêng, ngoài việc xây
dựng thành công một thế giới nhân vật lao động nghèo khổ dƣới đáy xã hội,
Nguyên Hồng cũng đã rất thành công khi tạo dựng một không gian, thời gian và ngôn ngữ nghệ thuật mang đậm dấu ấn nhà văn đất Cảng. Đó là một thứ thời gian
gắn liền với những sự kiện, biến cố của cuộc đời nhân vật, thời gian của sự hồi
tƣởng đan xen giữa quá khứ, hiện tại và tƣơng lai của nhân vật. Một không gian xã
hội đen tối đầy tội lỗi, một không gian gia đình chứa đầy bi kịch buồn đau, tan tác,
và đâu đó còn là một không gian mang sắc thái tôn giáo trầm buồn, ảm đạm. Đồng
thời, để khắc họa thành công những nét tính cách và phẩm chất các nhân vật của
mình, Nguyên Hồng đã sử dụng hiệu quả thứ ngôn ngữ giàu chất liệu của cuộc
sống cần lao, thứ ngôn ngữ phù hợp với đặc tính và nghề nghiệp của từng loại
nhân vật. Nhà văn cũng hay sử dụng những biện pháp tu từ, những biệt ngữ, tiếng
lóng, những từ ngữ mang sắc thái tôn giáo để khắc họa rõ nét tâm lý, tính cách
nhân vật. Cũng qua các yếu tố thời gian, không gian và ngôn ngữ nghệ thuật trong
sáng tác của Nguyên Hồng giai đoạn trƣớc Cách mạng, ngƣời đọc đã thấy rõ đƣợc
quan niệm nghệ thuật, tƣ tƣởng nghệ thuật của nhà văn.
146
KẾT LUẬN
1. Là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc của Việt Nam giai đoạn
đầu thế kỉ XX đến năm 1945 và cũng là một trong những tác gia lớn của văn
chƣơng Việt Nam hiện đại, Nguyên Hồng đã khẳng định đƣợc vị trí của mình
trong đời sống văn học nƣớc nhà ngay từ những tác phẩm đầu tiên khi tuổi đời còn
rất trẻ. Với một tuổi thơ dữ dội, đầy đau đớn và bất hạnh; với một trái tim đặc biệt
nhạy cảm với nỗi đau của những ngƣời lao động nghèo khổ; với một vốn sống giàu
có, phong phú về đời sống của lớp ngƣời nghèo dƣới chế độ thực dân phong kiến -
và với một tấm lòng thấm đẫm yêu thƣơng và giàu lòng trắc ẩn - Nguyên Hồng đã
để lại cho chúng ta một sự nghiệp văn chƣơng đầy giá trị hiện thực và nhân đạo.
2. Một trong những yếu tố quan trọng tạo nên những giá trị lớn lao đó trong
các tác phẩm của Nguyên Hồng chính là Thế giới nghệ thuật đặc sắc của ông.
Trong thế giới nghệ thuật, các phƣơng diện: từ hệ thống nhân vật đến không gian,
thời gian nghệ thuật, ngôn ngữ nghệ thuật ... đều mang đậm cá tính sáng tạo và tƣ
tƣởng nghệ thuật của nhà văn.
Thế giới nhân vật của Nguyên Hồng thật phong phú và phức tạp, đó là cả
một thế giới những ngƣời lao động nghèo khổ, dƣới đáy xã hội thực dân phong
kiến. Nhà văn đã khắc họa một cách sinh động, cụ thể những cuộc đời, những số
phận bé nhỏ, bất hạnh bị đày đọa, bị bóc lột đến tận xƣơng, tận tủy, bị đẩy vào tận
cuối đƣờng hầm đen tối của cuộc sống, để rồi trở thành những kẻ cùng đƣờng liều
lĩnh, nổi loạn và tội lỗi. Cụ thể: đó là những nhân vật phụ nữ lao động nghèo khổ,
có số phận bất hạnh, bị dồn đẩy vào con đƣờng lƣu manh hóa; là những đứa trẻ
nghèo sống dƣới đáy xã hội “không có tuổi thơ”, bơ vơ, đói khát; là những ngƣời
trí thức tiểu tƣ sản nghèo, giàu hoài bão nhƣng bất lực và bế tắc trƣớc xã hội đen
tối đầy bất công, vô nhân đạo đƣơng thời. Nhƣng với một tấm lòng, một trái tim
yêu thƣơng vô hạn và một niềm tin vào bản chất lƣơng thiện của con ngƣời, nhất là
con ngƣời lao động chân chính - dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, dù khắc nghiệt
đến đâu, thì các nhân vật thuộc thế giới những ngƣời lao động nghèo khổ này vẫn
đƣợc tác giả chở che, bênh vực và phát hiện ra những ánh sáng le lói luôn hƣớng
147
tới cái thiện trong tâm hồn của họ. Đặc biệt, càng về giai đoạn sau (1939 -1945)
tác giả càng phát hiện, càng thêm trân trọng những phẩm chất đáng quý của tầng
lớp ngƣời lao động nghèo khổ này. Đó là lòng căm thù, là sức mạnh tiềm tàng, là
sự phản kháng, sự đấu tranh để giành lại quyền sống, quyền làm ngƣời của họ. Và
đây cũng chính là điểm mới, điểm tiến bộ trong nhận thức của Nguyên Hồng về
những ngƣời lao động nghèo khổ trong xã hội, cũng nhƣ trong cách xây dựng nhân
vật của ông so với nhiều nhà văn khác cùng thời.
3. Ở phƣơng diện Thời gian, không gian nghệ thuật trong sáng tác của
Nguyên Hồng giai đoạn trƣớc Cách mạng cũng mang đậm cá tính sáng tạo của nhà
văn. Đó là thời gian gắn liền với những sự kiện, những biến cố dữ dội của cuộc đời
nhân vật, gắn với những xung đột xã hội đầy biến động trƣớc năm 1945. Trong
nghệ thuật xây dựng nhân vật, Nguyên Hồng thƣờng hay sử dụng kiểu thời gian
hồi tƣởng, đan xen giữa quá khứ, hiện tại và tƣơng lai để miêu tả những sự kiện có
ảnh hƣởng sâu sắc đến số phận và cuộc đời các nhân vật. Thời gian đƣợc nhấn
mạnh là thời gian ban đêm với nhịp điệu chậm chạp, với sự vận động nặng nề chứa
chất bao hiểm họa đau đớn… gợi lên sự ám ảnh về những kiếp ngƣời khổ ải sống
trong đêm trƣờng nô lệ đen tối đầy rẫy những bất công, tội lỗi dƣới chế độ thực
dân phong kiến. Thời gian đôi khi cũng đƣợc đẩy lên, có nhịp độ nhanh, khẩn
trƣơng, chứa đầy kịch tính… trong một số thời điểm nhất định, gắn liền với những
sự kiện đáng nhớ của nhân vật, thời gian ấy có tác dụng khắc họa tính cách quyết
liệt của nhân vật cũng nhƣ khắc họa không khí khẩn trƣơng của sự kiện.
Không gian nghệ thuật trong sáng tác của nhà văn là không gian xã hội đen
tối, nhức nhối, chứa đựng đầy bất công và tội lỗi, bủa vây, dồn đẩy con ngƣời vào
tận cùng của đói khát, bệnh tật và vào con đƣờng tội lỗi; một không gian gia đình
buồn đau và tan tác chứa đầy bi kịch, mà ở trong đó con ngƣời luôn phải chịu đựng
mọi sự thiếu thốn, khổ sở vì mƣu sinh, luôn phải chịu hậu quả của những hủ tục
phong kiến nặng nề trói buộc; một không gian mang sắc thái tôn giáo trầm, buồn
và ảm đạm. Không gian mang sắc thái tôn giáo ấy càng khắc sâu thêm bi kịch
tuyệt vọng của con ngƣời mà cuộc sống của họ chỉ còn cách cầu nguyện Chúa - để
148
mong Chúa “phá được sự dữ, ban được sự lành” cho họ, cứu vớt họ - nhƣng
“Chúa lòng lành nhân từ” đâu có cứu đƣợc các con chiên ngoan đạo trong khi xã
hội ấy còn đầy những tội ác, bất công!
4. Nét đặc trƣng về Ngôn ngữ nghệ thuật của Nguyên Hồng cũng có sự
khác biệt so với các nhà văn khác. Nếu nhƣ ngôn ngữ của Nam Cao là thứ ngôn
ngữ lạnh lùng, sắc sảo đầy tính triết lý; ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan là thứ
ngôn ngữ hóm hỉnh, trào phúng sâu cay… thì ngôn ngữ của Nguyên Hồng lại
mang đậm cá tính sáng tạo của một cây bút chuyên viết về cuộc sống của những
con ngƣời lao động nghèo khổ dƣới đáy xã hội. Với một vốn sống phong phú và sự
am hiểu sâu sắc ngôn ngữ của những con ngƣời nghèo khổ, bất hạnh, Nguyên
Hồng đã đƣa vào tác phẩm của mình một thứ ngôn ngữ bình dân, đầy ắp chất liệu
của cuộc sống, mang hơi thở nóng hổi của cuộc sống cần lao. Với vốn từ vựng
phong phú, vốn ngôn ngữ bình dân giàu có của mình, nhà văn đã đan dệt thành
một bức tranh đa dạng, nhiều màu sắc về cuộc sống của những con người khốn khổ
trong xã hội thực dân phong kiến đƣơng thời.
Để xây dựng thành công các nhân vật trong sáng tác của mình, Nguyên
Hồng cũng đã chọn lựa sử dụng những lớp từ ngữ phù hợp với đặc tính và nghề
nghiệp của từng loại nhân vật. Đặc biệt nhà văn cũng hay sử dụng những biện
pháp tu từ (phép liệt kê, từ láy…), những từ ngữ mang sắc thái tôn giáo … để
khắc họa tâm lý, tính cách nhân vật. Nhà văn cũng rất thành công khi đƣa
những biệt ngữ, những tiếng lóng… phù hợp với những loại nhân vật lƣu manh,
trộm cƣớp dƣới đáy. Qua lớp từ ngữ này, ngƣời đọc thấy rõ hơn đời sống khốn
khổ cùng với những tính cách phức tạp của những kẻ cùng đƣờng phải sống
ngoài vòng pháp luật - đây cũng là nét riêng về ngôn ngữ của Nguyên Hồng so
với những nhà văn khác cùng thời. Trong sáng tác của mình, nhà văn cũng hay
sử dụng những câu văn dài, bộn bề chi tiết, ngồn ngộn chất liệu cuộc sống, thể
hiện một niềm tâm tƣ không dứt và một vốn sống phong phú cứ ào ạt, dạt dào
tuôn chảy nhƣ dòng thác trên từng trang viết về những con ngƣời cùng khổ
trong xã hội đƣơng thời của ông... Đồng thời, điều đó cũng giúp ngƣời đọc thấy
149
rõ đƣợc quan niệm nghệ thuật, tƣ tƣởng nghệ thuật của nhà văn, thấy đƣợc sự
phong phú, đa dạng trong Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng.
5. Thông qua việc nghiên cứu về Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng, ta
càng thấy rõ hơn hiện thực cuộc sống đầy đen tối, bế tắc chứa đựng bao bất công
và tội lỗi của xã hội thực dân phong kiến xƣa - qua những số phận đớn đau, bất
hạnh của những con ngƣời lao động nghèo khổ - đây chính là ý nghĩa tố cáo, xã
hội, phủ nhận xã hội rất cụ thể, sâu sắc của nhà văn Nguyên Hồng. Cũng trong quá
trình tìm hiểu về Thế giới nghệ thuật của ông, chúng ta càng thấu hiểu tấm lòng
nhân đạo cao cả của Nguyên Hồng đã dành cho những con ngƣời lao động nghèo
khổ trong xã hội cũ. Nhân vật của nhà văn dù ở loại ngƣời nào, là loại đối tƣợng
nào, thì trong những hoàn cảnh bi đát nhất, khốn cùng nhất, Nguyên Hồng vẫn
luôn phát hiện, trân trọng và nâng niu từng chút ánh sáng le lói trong tâm hồn họ.
Tác giả đã bày tỏ sự thƣơng yêu, chia sẻ, cảm thông và tin tƣởng vào bản chất tốt
đẹp của ngƣời lao động; tin tƣởng vào sức mạnh phản kháng tiềm tàng của họ đối
với xã hội đƣơng thời (từ tự phát đến tự giác) - Đây chính là quan điểm rất tiến bộ
của Nguyên Hồng so với những nhà văn khác, bởi tƣ tƣởng nhân đạo của ông rất
gần với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Vì lẽ đó, tác phẩm của Nguyên Hồng giai
đoạn trƣớc năm 1945 luôn thể hiện khát vọng đổi mới xã hội, khát vọng khám phá
về con ngƣời và cuộc đời, nhằm khẳng định những giá trị bền vững, đích thực của
con ngƣời, của cuộc sống. Cùng với các nhà văn hiện thực khác, Nguyên Hồng đã
đóng góp vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện quá trình hiện đại hóa văn học
Việt Nam thế kỷ XX ở thể loại văn xuôi.
6. Với những đặc điểm trên trong Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng,
một lần nữa chúng ta có thể khẳng định rằng: Những sáng tác của Nguyên Hồng
(kể cả trƣớc và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945) luôn mang nhiều giá trị về
nội dung và nghệ thuật, nhiều giá trị nhân văn sâu sắc. Cho tới ngày nay, sau gần
70 năm vận động và phát triển trên con đƣờng hiện đại hóa, văn học Việt Nam đã
trải qua bao bƣớc thăng trầm và cũng đã gặt hái đƣợc nhiều thành tựu đáng ghi
nhận và tự hào. Trên con đƣờng ấy, những tác phẩm văn học có giá trị đích thực
150
vẫn luôn tồn tại, vẫn luôn đƣợc ghi nhận và trân trọng - bên cạnh nhiều tác phẩm
đã bị lãng quên. Những sáng tác của Nguyên Hồng trƣớc Cách mạng tháng Tám
thuộc về những tác phẩm văn học mang nhiều giá trị ấy. Trong đời sống văn học
hôm nay, những tác phẩm văn học của ông vẫn đƣợc nhiều ngƣời ƣa thích và tìm
hiểu, bởi một trong những giá trị có tính bền vững nhất luôn thấm đẫm trong từng
trang viết của nhà văn vẫn luôn cho ngƣời đọc hôm nay buốt nhói và xúc động -
đó là tình yêu thƣơng và trân trọng con ngƣời, là sự cảm thông và chia sẻ mọi nỗi
niềm đớn đau và bất hạnh của con ngƣời. Xét cho cùng, đó chính là giá trị giáo dục
và bồi dƣỡng nhân cách, tình cảm cho con ngƣời, giá trị nhân văn, giá trị nhân đạo
- những giá trị không bao giờ cũ đối với văn chƣơng. Văn Nguyên Hồng không
cũ, có lẽ bởi nhƣ thế!
151
DANH MỤC BÀI BÁO, CÔNG TRÌNH
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
I. Sách xuất bản
1. Đào Thị Lý (2009), “Đặc điểm nhân vật phụ nữ trong sáng tác của
Nguyên Hồng (thời kỳ trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945)”, tr. 63 - 112; In
trong cuốn: Hình tượng nhân vật phụ nữ trong văn xuôi Việt Nam hiện đại, PGS.
TS. Trần Thị Việt Trung (Chủ biên), NXB Đại học Thái Nguyên.
II. Đề tài Nghiên cứu khoa học cấp Bộ
1. Đào Thị Lý (2011), Nghiên cứu đặc điểm thế giới nghệ thuật trong sáng
tác của Nguyên Hồng (giai đoạn trước năm 1945); Mã số: B2010 - TN 03 - 02;
Đã đƣợc nghiệm thu, đạt loại: Khá.
III. Bài báo
1. Đào Thị Lý (2010), " Đặc điểm nhân vật trẻ em trong sáng tác của Nguyên
Hồng trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945", Tạp chí Khoa học và Công nghệ
Đại học Thái Nguyên, tập 65, số 3 năm 2010, tr. 61- 66.
2. Đào Thị Lý (2011), "Một số đặc điểm về nghệ thuật xây dựng nhân vật
phụ nữ trong sáng tác của Nguyên Hồng", Tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam,
tháng 12 năm 2011, tr. 17- 21.
3. Đào Thị Lý (2013), "Nghệ thuật tạo dựng hoàn cảnh trong sáng tác của
Nguyên Hồng trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945", Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ
Việt Nam, số 277, tháng 12, năm 2013, tr. 30 - 34; Tạp chí Văn hiến Việt Nam, Dân tộc
- Hội nhập - Nhân văn (Báo điện tử) ngày 07 tháng 2 năm 2014.
Hồng thời kỳ trƣớc năm 1945”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Thái
4. Đào Thị Lý (2014), “Không gian nghệ thuật trong sáng tác của Nguyên
Nguyên, tập 129, số 15, năm 2014, tr. 51-58.
152
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoài Anh (2001), “Nhà văn của tình thƣơng”, Chân dung Văn học, NXB
Hội Nhà văn, Hà Nội.
2. Vũ Tuấn Anh (2001), Văn học Việt Nam hiện đại - nhận thức và thẩm định,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
3. Vũ Tuấn Anh, Lê Dục Tú (tuyển chọn và giới thiệu) (2006), Thạch Lam về
tác gia tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội.
4. Lại Nguyên Ân (2003), 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
5. Baktin M. (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Trƣờng viết văn Nguyễn
Du, Hà Nội.
6. Bakhtin M. (1993), Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
7. Lê Bảo, Hà Minh Đức, Đỗ Kim Hồi (2002), Giảng văn Văn học Việt Nam,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
8. Nam Cao (2002), Tuyển tập, (Hà Minh Đức tuyển soạn, giới thiệu), NXB Văn
học, Hà Nội.
9. Xuân Cang (1997), “Nguyên Hồng trong lớp ngƣời viết trẻ”, Nguyên Hồng
thân thế và sự nghiệp, NXB Hải Phòng.
10. Huy Cận (2001), “Một kỷ niệm về Nguyên Hồng”, Nguyên Hồng, về tác gia
và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr. 245 - 247.
11. Phạm Vĩnh Cƣ (Chủ biên), Nguyễn Xuân Giao, Lƣu Huy Khánh, Nguyên
Ngọc, Vũ Đình Phòng, Nguyễn Văn Vỹ (2002), Từ điển biểu tượng văn hóa
thế giới (dịch), NXB Đà Nẵng.
12. Nguyễn Minh Châu (1994), Trang giấy trước đèn, NXB Khoa học xã hội,
Hà Nội.
13. Nguyễn Minh Châu (2001), “Vô cùng thƣơng tiếc nhà văn Nguyên Hồng”,
Nguyên Hồng về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr. 377 - 383.
153
14. Ân Thị Vân Chi (1998), “ Độc thoại nội tâm trong tiểu thuyết Cửa biển của
Nguyên Hồng”, Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Trƣờng Đại học Sƣ
phạm, Hà Nội.
15. Phạm Bá Chi (1982), Điếu văn - Đọc trong lễ tƣởng niệm nhà văn Nguyên
Hồng ngày 05/5/1982 tại Hội Văn học Nghệ thuật Hải Phòng.
16. Trƣờng Chinh (1974), Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam, NXB Sự thật,
Hà Nội.
17. Trƣơng Chính (1939), Dưới mắt tôi, NXB Thụy Ký, Hà Nội.
18. Nguyễn Văn Dân (1999), Nghiên cứu văn học - Lý luận và ứng dụng, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
19. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
20. Đào Đức Doãn (1992), “Cảm quan tôn giáo trong sáng tác của Nguyên
Hồng”, Nguyên Hồng, cát bụi và ánh sáng, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
21. Đỗ Đức Dục (1981), Chủ nghĩa hiện thực phê phán trong văn học phương
Tây, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
22. Trƣơng Đăng Dung, Nguyễn Cƣơng (1990), Các vấn đề của khoa học văn
học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
23. Nguyễn Hồng Dƣơng, Ngô Quốc Đông (2012), Công giáo Việt Nam, trí
thức cơ bản, NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
24. Nguyễn Đức Đàn (1964), Đặc điểm văn học hiện thực phê phán Việt Nam,
NXB Khoa học và Xã hội, Hà Nội.
25. Nguyễn Đức Đàn (1968), Mấy vấn đề văn học hiện thực phê phán Việt
Nam, NXB Khoa học và Xã hội, Hà Nội.
26. Phan Cự Đệ (1974), “Những đặc trƣng thẩm mỹ của ngôn ngữ tiểu thuyết”,
Tạp chí Ngôn ngữ, số 1, 1974.
27. Phan Cự Đệ (1975), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, tập 2, NXB Đại học và
trung học chuyên nghiệp.
154
28. Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức (1979), Nhà văn Việt Nam, tập 1, NXB Đại học
và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
29. Phan Cự Đệ (1984), Tác phẩm và chân dung, NXB Văn học, Hà Nội.
30. Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Nguyễn Hoành Khung (1988), Lịch sử Văn học
Việt Nam 1930 - 1945, tập 1, NXB Đại học và trung học chuyên nghiệp.
31. Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức (1993), Nhà văn Việt Nam (1945 - 1975), tập 2,
NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp.
32. Phan Cự Đệ (1997), Văn học lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945, tập 1, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
33. Phan Cự Đệ (2001) “Nguyên Hồng”, Nguyên Hồng, về tác gia và tác phẩm,
NXB Giáo dục, Hà Nội, tr. 103 - 146.
34. Phan Cự Đệ (2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXB Giáo dục, Hà Nội.
35. Phan Cự Đệ (2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XX - những vấn đề lịch sử và
lý luận, NXB Giáo dục, Hà Nội.
36. Phan Cự Đệ, Trần Đình Hƣợu, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành Khung, Lê Trí
Dũng, Hà Văn Đức (2009), Văn học Việt Nam 1900 - 1945, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
37. Nguyễn Khoa Điềm (1988), “Kính tặng nhà văn Nguyên Hồng”, Nguyên
Hồng con người và sự nghiệp, NXB Hải Phòng.
38. Nguyễn Đăng Điệp (2001), “Đặc sắc hồi ký Nguyên Hồng”, Nguyên Hồng
về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr. 230 - 235
39. Nguyễn Đăng Điệp (2003), Vọng từ con chữ (tiểu luận, phê bình), NXB Văn
học, Hà Nội.
40. Nguyễn Đăng Điệp, Nguyễn Văn Tùng (2010), Thi pháp học ở Việt Nam,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
41. Hà Minh Đức (1961), Nam Cao - nhà văn hiện thực xuất sắc, NXB Văn
hóa, Hà Nội.
155
42. Hà Minh Đức, Lê Bá Hán (1985), Cơ sở lý luận văn học, tập 2, NXB Đại
học và trung học chuyên nghiệp.
43. Hà Minh Đức (1989), Khảo luận văn chương (thể loại tác giả), NXB Khoa
học và Xã hội.
44. Hà Minh Đức (chủ biên) (1997), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
45. Hà Minh Đức (chủ biên) (1999), Lý luận văn học, NXB Văn học, Hà Nội
46. Hà Minh Đức (2001), "Nguyên Hồng - nhà văn của những khát vọng sống",
Nguyên Hồng về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục Hà Nội, tr. 13 - 29.
47. Hà Minh Đức (2013), "Nguyên Hồng (1918 -1982) những trang sách thấm
mồ hôi và đất”, Tạp chí Lý luận phê bình văn học nghệ thuật, số 15, tháng
11/2013, tr. 51 - 59.
48. G.N.Pospelov (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học, tập 1, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
49. G.N.Pospelov (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học, tập 2, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
50. G. W. Ph. Hê Ghen (1999), Mĩ học (Phan Ngọc giới thiệu và dịch), NXB Văn
học, Hà Nội.
51. Dƣơng Quảng Hàm (1993), Việt Nam Văn học sử yếu (tái bản), NXB Tổng hợp
Đồng Tháp.
52. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2000), Từ điển thuật ngữ Văn
học, NXB Đại học quốc gia, Hà Nội.
53. Tế Hanh (2001), “Làm báo văn nghệ với Nguyên Hồng”, Nguyên Hồng về
tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr. 282 - 283.
54. Nguyễn Thừa Hỷ (2012), Văn hóa Việt Nam truyền thống - một góc nhìn ,
NXB Thông tin và truyền thông.
55. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Nhƣ Phƣơng (1995), Lý luận văn học, vấn đề và
suy nghĩ, NXB Giáo dục, Hà Nội.
156
56. Nguyễn Đức Hạnh (2011), Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của Chu
Lai, NXB Đại học Thái Nguyên.
57. Tô Hoài (1958), Mười năm, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
58. Tô Hoài (1988), Những gương mặt, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội.
59. Tô Hoài (2001), “Nguyên Hồng trong đời sống”, Nguyên Hồng về tác gia
và tác phẩm, NXB Giáo dục Hà Nội, tr. 248 - 269.
60. Nguyễn Thị Thu Hoài (2006), Bước đầu tìm hiểu lý tưởng thẩm mỹ trong
tiểu thuyết của Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao,
Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Trƣờng Đại học Sƣ phạm, Hà Nội.
61. Nguyễn Trọng Hoàn (2003), Nhà văn trong mắt nhà văn, NXB Giáo dục, Hà Nội.
62. Nguyên Hồng (1963), Sức sống của một ngòi bút, NXB Văn học, Hà Nội.
63. Nguyên Hồng (1970), Bước đường viết văn, NXB Văn học, Hà Nội.
64. Nguyên Hồng (1973), Thời kỳ đen tối, NXB Văn học, Hà Nội.
65. Nguyên Hồng (1978), Những nhân vật ấy đã sống với tôi, NXB Tác phẩm
mới, Hà Nội.
66. Nguyên Hồng (1981), Thù nhà nợ nước, Hội Văn học nghệ thuật Hà Bắc.
67. Nguyên Hồng (1985), Một tuổi thơ văn, NXB Kim Đồng.
68. Nguyên Hồng (1988), Bẩy Hựu (tái bản), Hội văn học nghệ thuật Hà Bắc.
69. Nguyên Hồng (2000), Tuyển tập (Phan Cự Đệ tuyển soạn và giới thiệu),
tập1, NXB Văn học, Hà Nội.
70. Nguyên Hồng (2000), Tuyển tập (Phan Cự Đệ tuyển soạn và giới thiệu), tập
2, NXB Văn học, Hà Nội.
71. Nguyên Hồng (2000), Tuyển tập (Phan Cự Đệ tuyển soạn và giới thiệu),
tập3, NXB Văn học, Hà Nội.
72. Nguyên Hồng (2001), Nguyên Hồng những tác phẩm tiêu biểu trước 1945,
(Bạch Văn Hợp tuyển chọn và giới thiệu), NXB Giáo dục, Hà Nội.
157
73. Nguyên Hồng (2008), Nguyên Hồng toàn tập, (Phan Cự Đệ tuyển soạn và
giới thiệu), tập1, NXB Văn học, Hà Nội.
74. Nguyên Hồng (2008), Nguyên Hồng toàn tập, (Phan Cự Đệ tuyển soạn và
giới thiệu), tập 2, NXB Văn học, Hà Nội.
75. Nguyên Hồng (2008), Nguyên Hồng toàn tập, (Phan Cự Đệ tuyển soạn và
giới thiệu), tập 3, NXB Văn học, Hà Nội.
76. Nguyên Hồng (2008), Nguyên Hồng toàn tập, (Phan Cự Đệ tuyển soạn và
giới thiệu), tập 4, NXB Văn học, Hà Nội.
77. Bạch Văn Hợp (2002), Đặc điểm phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng,
Luận án tiến sĩ Ngữ văn, trƣờng Đại học Sƣ phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
78. Bạch Văn Hợp (2011), “Văn xuôi nghệ thuật của Nguyên Hồng và cội
nguồn của lòng thƣơng cảm”, Tạp chí Khoa học, Trƣờng Đại học Sƣ phạm
thành phố Hồ Chí Minh, số 29, tr. 1 - 10 .
79. Phạm Mạnh Hùng (2001), Thi pháp hoàn cảnh trong tác phẩm của Ngô Tất
Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, NXB Thanh niên, Hà Nội.
80. Trần Đình Hƣợu (1990), “Thực tại, cái thực và vấn đề chủ nghĩa hiện thực
trong văn học Việt Nam trung cận đại”, Văn học và hiện thực, NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội.
81. Kang HaNa (2000), “Sự gặp gỡ giữa nhà văn Hàn Quốc Hyun jin Geon
và nhà văn Việt Nam Nguyên Hồng”, Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt
Nam số 7& 8 năm 2000.
82. Nguyễn Thanh Kim (2000), Người sinh ra Năm Sài Gòn, NXB Thanh niên,
Hà Nội.
83. Lê Đình Kỵ (1999), Phê bình, nghiên cứu văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
84. Phan Khôi (1932), “Cái ý nghĩa của vấn đề phụ nữ ở xứ ta”, Tạp chí Phụ nữ
thời đàm, Hà Nội, ngày 17 tháng 9 năm 1993, tr. 6 - 8.
85. Phạm Hồng Lan (2009), Không gian và thời gian nghệ thuật trong tiểu
thuyết hiện thực phê phán 1930 -1945, Luận án tiến sĩ Đại học Sƣ phạm,
Hà Nội.
158
86. Kim Lân (1992), “Một nhà văn”, Nguyên Hồng cát bụi và ánh sáng, NXB
Hội nhà văn, Hà Nội.
87. Kim Lân (2001), “Nguyên Hồng, một nhà văn”, Nguyên Hồng về tác gia tác
phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr. 64 - 74.
88. Mã Giang Lân (chủ biên) (2000), Quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam
1990 - 1945, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
89. Phong Lê (chủ biên) (1990), Văn học và hiện thực, NXB Khoa học xã hội,
Hà Nội.
90. Phong Lê (1997), Nam Cao - Phác thảo sự nghiệp và chân dung, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
91. Phong Lê (2001), Một số gương mặt văn chương học thuật Việt Nam hiện
đại, NXB Giáo dục, Hà Nội.
92. Lê Lựu (2001), “Với nhà văn Nguyên Hồng”, Nguyên Hồng về tác gia và
tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr. 367 - 371.
93. Phƣơng Lựu, Trần Đình Sử, Lê Ngọc Trà (1986), Lí luận văn học, tập 1, NXB
94.
Phƣơng Lựu (chủ biên) (2001), Lý luận văn học tập 3, NXB Giáo dục, Hà Nội.
Giáo dục, Hà Nội.
95. Phƣơng Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, La Khắc Hòa,
Thành Thế Thái Bình (2003), Lí luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
96. M.B.Krapchencô (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn
học, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội.
97. Nguyễn Đăng Mạnh (1978), “Nguyên Hồng”, Giáo trình lịch sử văn học
Việt Nam 1930 - 1945, phần 2, NXB Giáo dục, Hà Nội.
98. Nguyễn Đăng Mạnh (1993), Dẫn luận nghiên cứu tác gia văn học, trƣờng
Đại học Sƣ phạm, Hà Nội.
99. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà
văn, NXB Giáo dục Hà Nội.
159
100. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam 1930 - 1945,
NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
101. Lê Hồng My (2006), Lời văn nghệ thuật Nguyên Hồng, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
102. Vũ Tú Nam (1997), “Trong tình cảm tiếc thƣơng ấm áp”, Nguyên Hồng,
thân thế và sự nghiệp, NXB Hải Phòng.
103. NI. Nikulin (2007), Lịch sử văn học Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội.
104. Phạm Thế Ngũ (1997), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, NXB Tổng
hợp Đồng Tháp.
105. Chu Nga (2001),“Nguyên Hồng và quá trình sáng tác của anh”, Nguyên Hồng về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr.147 - 158.
106. Nguyễn Thị Phi Nga (2003), Cảm hứng nghệ thuật và Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Cửa biển của Nguyên Hồng, Luận văn thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội.
107. Phan Ngọc (1995), Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ học, NXB Trẻ,
thành phố Hồ Chí Minh.
108. Lã Nguyên (2012), Lý luận văn học - những vấn đề hiện đại (tuyển dịch),
NXB Đại học Sƣ phạm, Hà Nội.
109. Vƣơng Trí Nhàn (2001), “Một cuộc đời sáng tạo trong đau khổ”, Nguyên
Hồng về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr. 213-220.
110. Ý Nhi (1988), “Nhà văn Nguyên Hồng”, Nguyên Hồng con người và sự
nghiệp, NXB Hải Phòng.
111. Nhiều tác giả (1981), Tổng tập văn học Việt Nam, tập 30A, (Nguyễn Đăng
Mạnh tuyển chọn và giới thiệu), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
112. Nhiều tác giả (1982), Tổng tập văn học Việt Nam tập 30B, (Nguyễn Đăng Mạnh, Hoàng Dung, Trần Hữu Tá tuyển chọn và giới thiệu), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
113. Nhiều tác giả (1984), Từ điển văn học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
114. Nhiều tác giả (1996), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ văn học NXB
Giáo dục, Hà Nội.
160
115. Nhiều tác giả (2000), Nguyễn Công Hoan, về tác gia và tác phẩm, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
116. Nhiều tác giả (2001), Nguyên Hồng, về tác gia và tác phẩm, (Hà Minh Đức
giới thiệu, Hữu Nhuận tuyển chọn), NXB Giáo dục, Hà Nội.
117. Nhiều tác giả (2007) Vũ Trọng Phụng, về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
118. Nhiều tác giả (2009), Truyện ngắn hiện thực 1930 - 1945, NXB Văn
học, Hà Nội.
119. Nhiều tác giả (2013), “Nhà văn Nguyên Hồng, cuộc đời và sự nghiệp văn
chƣơng”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Hội Văn học nghệ thuật Hải Phòng.
120. Vũ Ngọc Phan (1951), “Nguyên Hồng”, Nhà văn hiện đại, quyển 4, tập hạ,
NXB Vĩnh Thịnh.
121. Vũ Ngọc Phan (1998), Nhà văn hiện đại (tái bản), NXB Văn học.
122. Nhƣ Phong (2001), “Sóng gầm, một tác phẩm nói về con ngƣời trong xã hội
cũ”, Nguyên Hồng về tác gia, tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr. 159 - 184.
123. Thế Phong (1974), “Lƣợc sử văn nghệ Việt Nam”, Nhà văn tiền chiến 1930
-1945 (Nhận định văn học), Xuất bản Sài Gòn.
124. Trần Thanh Phƣơng, Phan Thu Hƣơng (2008), Chân dung, bút tích nhà văn,
tập 1, NXB Giáo dục, Hà Nội.
125. Vũ Đức Phúc, Nguyễn Đức Đàn (1964), Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam
1930 -1945, NXB Văn học, Hà Nội.
126. Vũ Trọng Phụng (1998), “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố”, Tuyển tập Vũ Trọng
Phụng, tập 2, NXB Văn học, Hà Nội.
127. Trọng Quy (1938), “Bỉ vỏ và gia đình”, báo Ngày nay, số 126/9, tr.8.
128. Lê Hồng Sâm, Đặng Thị Hạnh (1981), Văn học lãng mạn và hiện thực phương
Tây thế kỷ XIX, NXB Đại học và trung học chuyên nghiệp.
129. Thế Sinh (1988), “Với Nguyên Hồng”, Nguyên Hồng con người và sự nghiệp,
NXB Hải Phòng.
161
130. Chu Văn Sơn (1988), “Thơ của một nhà tiểu thuyết”, Nguyên Hồng, con
người và sự nghiệp, NXB Hải Phòng.
131. Trần Đăng Suyền (2002), Nhà văn, hiện thực đời sống và cá tính sáng tạo,
NXB Văn học, Hà Nội.
132. Trần Đăng Suyền (2009), Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao, NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội.
133. Trần Đăng Suyền (chủ biên), Lê Quang Hƣng (đồng chủ biên), Trịnh Thu Tiết, Trần Văn Toàn (2009), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, tập 1, NXB Đại học Sƣ phạm, Hà Nội.
134. Trần Đăng Suyền (Chủ biên), Lê Quang Hƣng, Lê Hồng My (2009), Văn
học Việt Nam thế kỷ XX, tập 2, NXB Đại học Sƣ phạm, Hà Nội.
135. Trần Đăng Suyền (2010), Chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam đầu
thế kỷ XX, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
136. Trần Đăng Suyền (2012), Phương pháp nghiên cứu và phân tích tác phẩm
văn học, NXB Giáo dục Việt Nam.
137. Trần Đăng Suyền (2013), “Sáng tác của Nguyên Hồng - sự gặp gỡ và giao thoa của những khuynh hƣớng, trào lƣu văn học”, Tạp chí Lý luận phê bình văn học nghệ thuật, số 15, tháng 11/2013, tr. 55 - 59.
138. Trần Đình Sử (1986), Lý luận văn học, tập 2, NXB Giáo dục, Hà Nội.
139. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Bộ Giáo dục và
Đào tạo.
140. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
141. Trần Đình Sử (2007), Tự sự học, NXB Đại học Sƣ phạm Hà Nội.
142. Bùi Ngọc Tấn (1995), Một thời để mất, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
143. Dƣơng Thị Tân (1994), Phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng trong tiểu thuyết Cửa biển, Luận văn thạc sĩ ngữ văn, Trƣờng Đại học Sƣ phạm, Hà Nội.
144. Nguyễn Duy Tờ (2006), Sự vận động của dòng Văn học hiện thực Việt Nam
1930 - 1945, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Viện Văn học, Hà Nội.
162
145. Cù Đình Tú (1983), Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, NXB Đại
học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
146. Nguyễn Tuân (2001), “Con ngƣời Nguyên Hồng”, Nguyên Hồng về tác gia
và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr. 49 - 52.
147. Bùi Văn Tiếng (1997), Thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Vũ Trọng
Phụng, NXB Văn hóa, Hà Nội.
148. Đoàn Minh Tuấn (2008), “Nhà văn của những ngƣời nghèo”, Báo Sài Gòn
Giải phóng, nguồn http:// www.sggp. org.vn/van hoavannghe/2008/11/1.
149. Từ điển tiếng Việt (1992), Viện Ngôn ngữ học, NXB Văn học, Hà Nội.
150. Đoàn Thị Thái (2001), Tư tưởng và đặc sắc nghệ thuật trong tiểu thuyết Bỉ vỏ
của Nguyên Hồng, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Đại học Sƣ phạm, Hà Nội.
151. Ngô Thảo (1988), “Nguyên Hồng, một cuộc đời sáng tạo”, Nguyên Hồng,
thân thế và sự nghiệp, NXB Hải Phòng.
152. Bùi Việt Thắng, Nguyên Hồng - một đời văn, nguồn http/www.bình
thuan.gov.vn/khtt/vanhoa/0001/0000/dnhan00A.htm.
153. Linh Thi (2001), “Giọt lệ lớn và đoàn tàu chợ”, Nguyên Hồng về tác gia và
tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr. 236 - 244.
154. Nguyễn Ngọc Thiện (2010), Lý luận, phê bình và đời sống văn chương,
NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
155. Nguyễn Ngọc Thiện (2014), “Phác họa con ngƣời thời đại và nhân vật trong văn xuôi Việt nam hiện đại”, Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam số 237, tháng 10/2014, tr. 21 - 27.
156. Lƣơng Đức Thiệp (1944), Văn chương và xã hội, Đại học Thƣ xã, Hà Nội.
157. Nguyễn Thị Thu Thủy (2006), Điển hình hóa trong văn xuôi hiện thực phê phán Việt Nam (giai đoạn 1930 -1945), Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
158. Trần Nho Thìn (2014), “Tƣ tƣởng nữ học của Đạm Phƣơng nữ sĩ”, Báo điện
tử Văn hóa Nghệ An, ngày 26/10/2014.
159. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận và văn học, NXB Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.
163
160. Nguyễn Trác (1978), “Văn học hiện thực phê phán”, Lịch sử văn học Việt Nam,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
161. Ngọc Trai (1988), “Tản mạn về Nguyên Hồng”, Nguyên Hồng, thân thế và
sự nghiệp, NXB Hải Phòng.
162. Trần Thị Việt Trung (chủ biên), Nguyễn Thị Thoa, Đào Thị Lý, Lê Thị Bằng Giang (2009), Hình tượng nhân vật phụ nữ trong văn xuôi Việt Nam hiện đại, NXB Đại học Thái Nguyên.
163. Trần Thị Việt Trung (2011), Lịch sử phê bình văn học Việt Nam hiện
đại (tái bản), NXB Đại học Thái Nguyên.
164. Trần Thị Việt Trung (2014), “Bản sắc dân tộc - yếu tố quan trọng tạo nên giá trị và nét đặc sắc độc đáo của văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại”, Tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam, số 237, tháng 10/2014, tr. 16 - 20.
165. Lê Thị Hải Vân (2004), “Những kiếp ngƣời lầm than trong tiểu thuyết thực 1940 -1945”, (Thông báo Khoa học, Đại học Quy Nhơn, số 26, 2004).
166. Lê Thị Hải Vân (2005), Nhân vật trong tiểu thuyết hiện thực từ đầu thế kỷ XX -
1945, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trƣờng Đại học Sƣ phạm, Hà Nội.
167. Lê Thị Hải Vân (2005), “Vấn đề nhân vật trong tiểu thuyết hiện thực 1940 -
1945”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 2/ 2005.
168. Viện Văn học (1988), Từ trong di sản, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội.
169. Anh Vũ (2001), “Nguyên Hồng với Đề Thám”, Nguyên Hồng về tác gia và
tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr. 436 - 350.
170. Khái Vinh (1974), “Nguyên Hồng - nhà văn của những ngƣời lao động”, Vì một nền văn học thuộc về nhân dân lao động, NXB Lao động, Hà Nội.
171. Trần Thị Thanh Yến (2011),“Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Nguyên Hồng trước Cách mạng tháng Tám năm 1945”, Luận văn thạc sĩ, Trƣờng Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn.
164
PHỤ LỤC
Phụ lục 1. THỐNG KÊ CÁC LOẠI NHÂN VẬT
Nhân vật
Nhân vật phụ
Nhân vật trí
Nhân vật lƣu
Thể loại
thức
manh
nữ
trẻ em
18
12
5
Truyện ngắn (53)
33
1
Truyện vừa (3)
2
1
2
1
Tiểu thuyết (4)
2
1
1
Ký (1)
1
Tổng số tác
38 = 62,29%
20 = 32,78%
15 =24,59%
7= 11,47%
phẩm (61)
(Ghi chú: Có những tác phẩm đan xen nhiều loại nhân vật)
Phụ lục 2. THỐNG KÊ
VIỆC SỬ DỤNG TIẾNG LÓNG TRONG TÁC PHẨM
Tác phẩm
Số lƣợt sử dụng/ số trang
Tỷ lệ
272/174
156, 32%
Bỉ vỏ
47/12
391,66%
Bảy Hựu
30/8
375,0%
Con đoàn cuối cùng
18/12
150,0%
Mối hờn
165
Phụ lục 3. NGÔN NGỮ MANG SẮC THÁI TÔN GIÁO
Tác phẩm
Số lƣợt sử dụng/ số trang
Tỷ lệ
49/174
Bỉ vỏ
35,5%
29/50
Những ngày thơ ấu
58,0%
15/14
Tết của tù đàn bà
107, 14%
8/7
Linh hồn
114,28%
Phụ lục 4. THỐNG KÊ CÁC CẶP TỪ LÁY
Tác phẩm
Số lƣợt sử dụng/ số trang
Tỷ lệ
Bỉ vỏ
258/50
516 %
Qua những màn tối
66/66
100%
Những ngày thơ ấu
204/50
408%
Đi
60/10
600%