BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN ĐÀO THỊ LÝ THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT CỦA NGUYÊN HỒNG THỜI KỲ TRƢỚC NĂM 1945 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2015

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

ĐÀO THỊ LÝ

THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT CỦA NGUYÊN HỒNG THỜI KỲ TRƢỚC NĂM 1945 Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 62 22 01 21 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: 1. GS.TS. Trần Đăng Xuyền

2. PGS.TS. Trần Thị Việt Trung

THÁI NGUYÊN - 2015

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết

quả nêu trong luận án là trung thực và chƣa từng đƣợc ai công bố trong bất kỳ

công trình nào khác.

Tác giả luận án

Đào Thị Lý

ii

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, các cán bộ Khoa Ngữ văn, Phòng Quản lý và Đào tạo Sau đại học, Ban Giám hiệu Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã tạo điều kiện cho tôi học tập và nghiên cứu.

Đặc biệt, tôi xin trân trọng cảm ơn GS.TS. Trần Đăng Xuyền, PGS. TS Trần Thị Việt Trung - những người thầy đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ rất nhiều để tôi có thể hoàn thành luận án này.

Tôi xin trân trọng cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, khuyến khích, tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.

Tác giả luận án

Đào Thị Lý

iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ i

LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................. ii

MỤC LỤC ................................................................................................................. iii

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................... 1

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................... 2

3. Đối tƣợng nghiên cứu .............................................................................................. 3

4. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 3

5. Phƣơng pháp nghiên cứu ......................................................................................... 4

6. Dự kiến đóng góp mới của đề tài ............................................................................ 4

7. Kết cấu của đề tài .................................................................................................... 5

Chƣơng 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU .............................................. 6

1.1. Tình hình nghiên cứu chung về Nguyên Hồng .................................................... 6

1.2. Tình hình nghiên cứu về Thế giới nghệ thuật trong sáng tác của Nguyên Hồng ........ 15

1.2.1. Về đề tài sáng tác ............................................................................................ 15

1.2.2. Về chủ đề sáng tác ........................................................................................... 16

1.2.3. Về nhân vật ..................................................................................................... 17

1.2.4. Về không gian và thời gian ............................................................................. 20

1.2.5. Về ngôn ngữ, giọng điệu nghệ thuật ............................................................... 23

Chƣơng 2. KHÁI NIỆM THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT VÀ NHỮNG CƠ SỞ HÌNH

THÀNH NÊN THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT CỦA NGUYÊN HỒNG ................... 31

2.1. Giới thuyết chung về Thế giới nghệ thuật .......................................................... 31

2.2. Những cơ sở hình thành Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng ...................... 37

2.2.1. Hoàn cảnh lịch sử - xã hội ............................................................................... 37

2.2.2. Hoàn cảnh gia đình, môi trƣờng sống và hoạt động văn học của Nguyên Hồng .... 42

2.2.3. Cá tính Nguyên Hồng...................................................................................... 49

iv

Chƣơng 3. THẾ GIỚI NHÂN VẬT ....................................................................... 53

3.1. Một thế giới nhân vật phong phú, phức tạp thuộc tầng lớp thị dân và lao

động dƣới đáy xã hội .................................................................................... 53

3.1.1. Những ngƣời phụ nữ nghèo khổ, bất hạnh, cùng đƣờng, nổi loạn ................. 55

3.1.2. Những đứa trẻ nghèo dƣới đáy xã hội, “không có tuổi thơ” ........................... 65

3.1.3. Những ngƣời trí thức tiểu tƣ sản nghèo, giàu hoài bão nhƣng bất lực và

bế tắc trƣớc cuộc sống .................................................................................. 71

3.1.4. Những nhân vật con ngƣời tha hoá ................................................................. 77

3.2. Một số thủ pháp nghệ thuật tiêu biểu xây dựng nhân vật .................................. 83

3.2.1. Nghệ thuật tạo dựng hoàn cảnh và tình huống ................................................ 83

3.2.2. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình để khắc họa tâm trạng và tính cách nhân vật ....... 91

3.2.3. Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật qua độc thoại nội tâm ............................. 95

Chƣơng 4. THỜI GIAN, KHÔNG GIAN VÀ NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT ..... 100

4.1. Thời gian nghệ thuật ........................................................................................ 100

4.1.1. Thời gian gắn liền với những sự kiện và biến cố dữ dội của cuộc đời

nhân vật ...................................................................................................... 100

4.1.2. Thời gian của con ngƣời cá nhân, của sự hồi tƣởng đan xen giữa quá

khứ, hiện tại và tƣơng lai ........................................................................... 106

4.2. Không gian nghệ thuật ..................................................................................... 109

4.2.1. Không gian xã hội đen tối, nhức nhối, chứa đựng đầy bất công và tội lỗi ... 109

4.2.2. Không gian gia đình chứa đầy bi kịch buồn đau, tan tác .............................. 113

4.2.3. Không gian mang sắc thái tôn giáo - trầm, buồn ảm đạm ............................ 115

4.3. Ngôn ngữ nghệ thuật ........................................................................................ 124

4.3.1. Ngôn ngữ đầy ắp chất liệu cuộc sống cần lao, phù hợp với tâm lý, tính

cách của từng kiểu nhân vật ....................................................................... 125

4.3.2. Ngôn ngữ mang sắc thái tôn giáo .................................................................. 142

KẾT LUẬN ............................................................................................................ 146

DANH MỤC BÀI BÁO, CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ............................................................................................................... 151

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 152

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Nguyên Hồng (1918-1982) là một trong những nhà văn xuất sắc nhất của

trào lƣu văn học hiện thực nói riêng, của nền văn học Việt Nam hiện đại nói

chung. Ông là ngƣời đến với nghề văn khá sớm và đã thành công ngay từ tác

phẩm đầu tay: Bỉ vỏ (1937). Nguyên Hồng có sức viết phi thƣờng, viết với tất cả

sự đam mê và nhiệt huyết của mình. Hơn bốn mƣơi năm cầm bút, ông đã để lại

gần bốn mƣơi tác phẩm, trong đó có những sáng tác đặc sắc và có những tác

phẩm đƣợc đánh giá là một trong những tác phẩm bề thế nhất của tiểu thuyết Việt

Nam hiện đại.

1.2. Nhƣ đã biết, “Thế giới nghệ thuật” là chỉnh thể của hình thức văn học”,

[140, tr. 29, 30], “Thế giới nghệ thuật là khái niệm chỉ tính chỉnh thể của sáng

tác nghệ thuật (một tác phẩm, một loại hình tác phẩm, sáng tác của tác giả, một

trào lưu)... Thế giới nghệ thuật có không gian riêng, thời gian riêng, có quy

luật tâm lý riêng, có quan hệ xã hội riêng, quan niệm đạo đức, thang bậc giá trị

riêng” [52, tr. 251]... Trong Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng, ở mọi phƣơng

diện nghệ thuật nhƣ: đề tài, chủ đề, nhân vật, không gian, thời gian, ngôn ngữ nghệ

thuật,... đều đƣợc thống nhất trong một chỉnh thể nghệ thuật, giúp ngƣời đọc dễ

hình dung ra những nét riêng biệt những đóng góp cụ thể trong quá trình sáng tạo

không ngừng của nhà văn.

Với một số lƣợng tác phẩm khá lớn ở nhiều thể loại (tiểu thuyết, truyện ngắn,

bút ký, thơ...) qua hai giai đoạn sáng tác, trƣớc và sau năm 1945, Nguyên Hồng đã

phản ánh một cách chân thực, cảm động cuộc sống với những số phận cụ thể của

những ngƣời lao động nghèo khổ và quá trình đổi đời nhờ Đảng, nhờ Cách mạng

của họ. Khi viết về vấn đề này, Nguyên Hồng đã thể hiện đƣợc cái nhìn hiện thực

sâu sắc và tấm lòng nhân đạo thiết tha của nhà văn đối với những con ngƣời lao

động. Vì vậy, khi đặt vấn đề nghiên cứu: Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng

thời kỳ trƣớc năm 1945 cũng có nghĩa là đã đi vào nghiên cứu về những đặc

điểm nổi bật trong nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm, khẳng định giá trị

hiện thực sâu sắc và giá trị nhân đạo cao cả trong sáng tác của nhà văn hiện thực

xuất sắc này trong một giai đoạn sáng tác cụ thể của ông.

2

1.3. Theo khảo sát của chúng tôi, cho tới nay đã có khoảng hơn 50 công trình

viết về Nguyên Hồng và riêng việc nghiên cứu về Thế giới nghệ thuật của ông đã

có trên 20 bài (đề cập đến nhiều khía cạnh, ví dụ nhƣ: Chủ đề, đề tài sáng tác, cảm

hứng sáng tạo, chủ nghĩa nhân đạo, cảm quan tôn giáo, lời văn nghệ thuật,... trong

sáng tác của nhà văn). Trong các công trình nghiên cứu này, các tác giả đã chú ý

đề cập đến giai đoạn sáng tác trƣớc Cách mạng tháng 8/1945 của Nguyên Hồng,

trong đó đã có sự khảo sát, đề cập đến một số phƣơng diện trong Thế giới nghệ

thuật của ông nhƣ: đề tài, chủ đề nhân vật, không gian và thời gian, lời văn nghệ

thuật... nhƣng chúng tôi nhận thấy rằng, phần lớn đây là những nhận xét, nhận định

mang tính khái quát; hoặc đó có thể là những khảo sát, phân tích khá cụ thể ở một

số phƣơng diện trong Thế giới nghệ thuật chứ chƣa phải toàn bộ Thế giới nghệ

thuật của Nguyên Hồng. Do đó, vẫn rất cần phải có một công trình chuyên biệt

nghiên cứu một cách khá hệ thống và toàn diện về Thế giới nghệ thuật của nhà

văn Nguyên Hồng. Thực hiện đề tài nghiên cứu này, chúng tôi muốn góp phần

nhìn nhận một cách tƣơng đối toàn diện, hệ thống về Thế giới nghệ thuật của

Nguyên Hồng trong một giai đoạn sáng tác cụ thể - giai đoạn trƣớc Cách mạng

tháng Tám năm 1945, để chỉ ra những đặc điểm riêng, những sáng tạo riêng trong

Thế giới nghệ thuật của nhà văn; đồng thời qua đó khẳng định những đóng góp

đáng trân trọng của ông đối với sự vận động và phát triển của trào lƣu văn học hiện

thực phê phán nói riêng, của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại nói chung một cách

cụ thể và đầy đủ hơn.

1.4. Hiện nay, một số tác phẩm tiêu biểu của Nguyên Hồng đã đƣợc đƣa vào

trong chƣơng trình giáo dục ở bậc phổ thông và đại học. Nếu đề tài này đƣợc thực

hiện thành công, đây sẽ là cuốn tài liệu tham khảo có ý nghĩa đối với học sinh, sinh

viên, giáo viên các cấp và những ai quan tâm đến nhà văn hiện thực xuất sắc suốt

đời nặng lòng với những ngƣời nghèo khổ này.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu về Thế giới nghệ thuật của nhà văn

Nguyên Hồng, luận án góp phần khẳng định: Trong quá trình sáng tác của mình,

Nguyên Hồng đã tạo ra một Thế giới nghệ thuật riêng độc đáo và đặc sắc; và qua

đó ghi nhận những đóng góp quan trọng của ông đối với quá trình phát triển của

3

văn học hiện thực phê phán Việt Nam nói riêng và văn xuôi Việt Nam hiện đại giai

đoạn đầu thế kỷ XX đến năm 1945 nói chung.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Nghiên cứu những phƣơng diện quan trọng của

Thế giới nghệ thuật trong sáng tác của Nguyên Hồng giai đoạn trƣớc Cách mạng

tháng Tám năm 1945, nhằm chỉ ra những đặc điểm cơ bản trong Thế giới nghệ

thuật của nhà văn (nghệ thuật xây dựng nhân vật; không gian, thời gian nghệ thuật

và ngôn ngữ nghệ thuật). Qua đó khẳng định những giá trị nghệ thuật và giá trị

hiện thực sâu sắc, giá trị nhân đạo cao cả trong những sáng tác của Nguyên Hồng -

“nhà văn của những ngƣời khốn khổ” Việt Nam giai đoạn trƣớc năm 1945.

3. Đối tƣợng nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài luận án là những sáng tác của Nguyên Hồng

giai đoạn trƣớc 1945. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, những sáng tác sau

Cách mạng tháng Tám năm 1945 của ông cũng đƣợc chúng tôi quan tâm khảo sát,

nhằm so sánh làm rõ hơn những đặc điểm riêng trong Thế giới nghệ thuật của

Nguyên Hồng thời kỳ trƣớc năm 1945, cũng nhƣ một số đặc điểm chung trong quá

trình sáng tác của nhà văn sau cách mạng.

Bên cạnh đó, chúng tôi cũng tiến hành khảo sát một số tác phẩm tiêu biểu của

các tác giả cùng khuynh hƣớng, cùng thời với ông để so sánh, đối chiếu nhằm chỉ

ra những nét riêng, nét độc đáo trong Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng.

4. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu

Nhƣ đã biết, Thế giới nghệ thuật bao gồm nhiều phƣơng diện nhƣ: đề tài, chủ

đề, nhân vật, nghệ thuật xây dựng nhân vật, thời gian, không gian nghệ thuật và

ngôn ngữ nghệ thuật... Tuy nhiên, trong khuôn khổ luận án của mình, chúng tôi

xác định phạm vi nghiên cứu cụ thể là đi sâu vào nghiên cứu một số phƣơng diện

cơ bản của Thế giới nghệ thuật nhƣ: thế giới nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân

vật, thời gian, không gian nghệ thuật và ngôn ngữ nghệ thuật trong các sáng tác

của nhà văn Nguyên Hồng giai đoạn trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945 - vì

đây là giai đoạn sáng tác nhiều, tiêu biểu và thành công nhất của Nguyên Hồng.

Còn một số phƣơng diện khác nhƣ: đề tài, chủ đề, lời văn nghệ thuật, giọng điệu

nghệ thuật... cũng đã đƣợc một số tác giả đề cập đến khá rõ trong các chuyên luận

và bài báo của mình, nên chúng tôi không chủ trƣơng đi sâu vào nghiên cứu.

4

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã sử dụng các phƣơng pháp

nghiên cứu sau:

- Phương pháp phân tích, tổng hợp: phân tích tác phẩm để tìm hiểu kỹ

những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong sáng tác của Nguyên Hồng giai

đoạn trƣớc Cách mạng. Đó là cơ sở để có những nhận xét, đánh giá tổng hợp nhất

về Thế giới nghệ thuật của nhà văn.

- Phương pháp thống kê, phân loại: Phƣơng pháp này đƣợc áp dụng trong

quá trình khảo sát các tác phẩm cụ thể của nhà văn, thống kê và phân loại từng

kiểu nhân vật, ngôn ngữ, không gian và thời gian nghệ thuật trong Thế giới nghệ

thuật của Nguyên Hồng.

- Phương pháp so sánh, đối chiếu: để có sự đối sánh và có cái nhìn sâu hơn

về đối tƣợng nghiên cứu, chúng tôi nghiên cứu và so sánh sáng tác của Nguyên

Hồng trƣớc và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945; so sánh với một số tác phẩm,

một số nhân vật trong tác phẩm của các tác giả cùng thời, cùng hoặc khác khuynh

hƣớng sáng tác của Nguyên Hồng, nhằm chỉ ra những nét riêng, nét độc đáo trong

Thế giới nghệ thuật của nhà văn.

- Vận dụng lý thuyết thi pháp học (về thời gian, không gian nghệ thuật,

ngôn ngữ nghệ thuật...) để phục vụ trong quá trình nghiên cứu.

6. Dự kiến đóng góp mới của đề tài

6.1. Đây là công trình chuyên biệt đầu tiên nghiên cứu một cách khá toàn

diện và hệ thống về Thế giới nghệ thuật trong sáng tác của Nguyên Hồng thời

kỳ trước 1945. Luận án đi sâu vào khảo sát, nghiên cứu các sáng tác của

Nguyên Hồng nhằm chỉ ra những đặc điểm nổi bật trong Thế giới nghệ thuật

của nhà văn, nhất là trong việc dựng lên một thế giới nhân vật phong phú, phức

tạp, độc đáo và sinh động của những con ngƣời lao động sống dƣới đáy xã hội

thực dân phong kiến; Chỉ ra những đặc điểm về không gian và thời gian nghệ

thuật, cũng nhƣ những nét đặc sắc riêng về ngôn ngữ nghệ thuật trong sáng tác

của nhà văn. Qua đó khẳng định: Trong quá trình sáng tác của mình, Nguyên

Hồng đã xây dựng đƣợc một Thế giới nghệ thuật riêng, độc đáo không lẫn với

5

bất cứ nhà văn nào. Và qua Thế giới nghệ thuật này, nhà văn đã thể hiện đƣợc

một cách sâu sắc và cảm động chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa nhân đạo cao

cả của mình.

6.2. Kết quả nghiên cứu trên là cơ sở để khẳng định những đóng góp quan trọng

của Nguyên Hồng vào quá trình phát triển trào lƣu văn học hiện thực phê phán giai

đoạn 1930 - 1945 nói riêng và đối với nền văn xuôi Việt Nam hiện đại nói chung.

6.3. Nếu luận án này thành công, hy vọng đây sẽ là một tài liệu tham khảo hữu

ích cho học sinh, sinh viên và những ngƣời quan tâm đến tác giả Nguyên Hồng nói

riêng và văn xuôi Việt Nam thời kỳ hiện đại giai đoạn trƣớc Cách mạng tháng Tám

nói chung.

7. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Tài liệu tham khảo, kết cấu của luận án

bao gồm bốn chƣơng. Cụ thể nhƣ sau:

Chƣơng 1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu.

Chƣơng 2. Khái niệm Thế giới nghệ thuật và những cơ sở hình thành nên Thế

giới nghệ thuật của Nguyên Hồng.

Chƣơng 3. Thế giới nhân vật.

Chƣơng 4. Thời gian, không gian và ngôn ngữ nghệ thuật.

6

Chƣơng 1

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Tình hình nghiên cứu chung về Nguyên Hồng

Gần 3/4 thế kỷ trôi qua - kể từ khi cuốn tiểu thuyết Bỉ vỏ của Nguyên Hồng

ra đời và đƣợc nhận Giải thƣởng của Tự lực văn đoàn (1937) - đã có rất nhiều bài

viết, những công trình nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp, những đóng góp của

nhà văn. Cho đến nay, việc nghiên cứu về Nguyên Hồng cũng vẫn đang đƣợc tiếp

tục và đã đạt đƣợc nhiều thành tựu đáng trân trọng. Điều đó chứng tỏ sức sống của

tác phẩm Nguyên Hồng rất bền vững trong lòng ngƣời đọc nhiều thế hệ, và theo

thời gian những giá trị đặc biệt của nó ngày càng đƣợc phát hiện, đƣợc khẳng định

một cách trân trọng.

Theo khảo sát của chúng tôi, đến nay đã có khoảng hơn 50 công trình

nghiên cứu chung về Nguyên Hồng, trong đó có khoảng 20 bài nghiên cứu có đề

cập đến phƣơng diện Thế giới nghệ thuật. Bên cạnh đó có hàng chục luận án, luận

văn khoa học nghiên cứu về sáng tác của ông. Đặc biệt khi ông qua đời, đã có hơn

20 bài viết về những Hồi ức và kỷ niệm về nhà văn, thể hiện tình cảm trân trọng tài

năng và nhân cách của Nguyên Hồng trong lòng bạn bè, đồng nghiệp và bạn đọc.

Ngay từ trƣớc năm 1945, có một số nhà nghiên cứu đã phát hiện tài năng

văn học của nhà văn, đã đánh giá đƣợc những mặt mạnh, mặt hạn chế của ngòi bút

Nguyên Hồng. Theo khảo sát của chúng tôi, đã có một số bài viết nhận xét, đánh

giá về văn chƣơng của Nguyên Hồng của các tác giả: Thạch Lam, Trọng Quy,

Trƣơng Chính, Vũ Ngọc Phan… Cụ thể, khi tiểu thuyết Bỉ vỏ đƣợc nhận Giải

thƣởng của Tự lực văn đoàn, Thạch Lam đã nhận xét về văn của Nguyên Hồng

nhƣ sau: ''Văn lúc nào cũng minh bạch, giản dị, một đôi khi thấm thía, rung động,

có nhiều đoạn đẹp đẽ và sâu sắc… ông quan sát khéo, chỉ tả những cái gì đáng để

ý, những tình cảm chân thật, những cảm giác đúng” [116, tr. 39]. Đồng thời tác giả

cũng chỉ ra nhƣợc điểm khó tránh khỏi của một ngƣời mới vào nghề viết văn, đó

là:“Nhiều chỗ vụng về, cẩu thả, nhiều câu văn chưa gãy gọn. Nhưng đó là những

lỗi của một người mới viết văn và sẽ mất đi với kinh nghiệm và từng trải trong

nghề ” [116; tr. 39]. Tuy nhiên, trong khuôn khổ nhận xét của một Giải thƣởng,

Thạch Lam mới chỉ dừng lại ở một vài dòng nhƣ vậy về tác giả trẻ tuổi này.

7

Cũng năm 1938, khi giới thiệu Bỉ vỏ, tác giả Trọng Quy đã nhận xét: “Tác

phẩm không hổ thẹn với sự được Ban giám khảo chú ý đến”, vì đây là “một thiên

phóng sự tả rõ cách sinh hoạt của một hạng người” của “một cán bút linh hoạt mới

mẻ”, “biết làm cho người khác phải cảm động” [127, tr. 8]). Trọng Quy đã khẳng

định vị trí xứng đáng của Bỉ vỏ khi đƣợc nhận Giải thƣởng Tự lực văn đoàn chính là

ở sự mới mẻ của cây bút Nguyên Hồng cũng nhƣ tính nhân đạo của tác phẩm.

Tuy nhiên, không chỉ có những ý kiến ghi nhận sự thành công của Bỉ vỏ, mà

còn có những đánh giá về hạn chế của tác phẩm này. Năm 1939, Trƣơng Chính đã

nhận xét về Bỉ vỏ khi ông nhìn nhận từ góc độ Dưới mắt tôi nhƣ sau: “Quyển Bỉ

vỏ là một quyển tiểu thuyết tầm thường, không đặc sắc. Tác giả còn thiếu nghệ

thuật, thiếu kinh nghiệm, ngòi bút của ông còn non nớt, vụng về”...; các tình tiết

“được sắp đặt một cách thô sơ… Nhà văn ấy kiên tâm và thành thực, nhưng ông

chỉ thành công lúc ông giản dị và sâu sắc hơn” [17, tr. 173], đây là một nhận xét

nghiêm khắc và khách quan về nghệ thuật của một cuốn tiểu thuyết đầu tay của

Nguyên Hồng.

Năm 1940, khi viết Lời tựa cho tập tiểu thuyết tự truyện Những ngày thơ

ấu, Thạch Lam đã nhận thấy khả năng thể hiện “những rung động cực điểm của

một linh hồn trẻ dại” của ngòi bút Nguyên Hồng… Tác giả của Gió lạnh đầu mùa

đã rất tinh tế khi nhận thấy những cảm xúc chân thành của một trái tim dễ xúc

động qua từng trang hồi ký đẫm nƣớc mắt của nhà văn hiện thực trẻ tuổi này.

Trong cuốn Nhà văn hiện đại, năm 1942, Vũ Ngọc Phan đã công phu giới

thiệu gƣơng mặt 78 nhà văn Việt Nam, trong đó có nhà văn Nguyên Hồng. Về

Nguyên Hồng, tác giả đã khẳng định sự thành công của nhà văn qua những sáng

tác đầu tay, nhất là cuốn Bỉ vỏ của ông. Vũ Ngọc Phan nhận xét: “truyện thật là

hay… cách viết có mạch lạc mà đi đến đoạn kết một cách tự nhiên”, đồng thời ông

cũng đƣa ra một nhận định khái quát khá chính xác về tƣ tƣởng nghệ thuật của

“nhà văn xã hội này”: “Ở tập văn nào của Nguyên Hồng cũng vậy, tư tưởng nhân

từ, bác ái của tác giả bao giờ cũng tràn lan và đó chính là cái phần cốt yếu của

nhà văn xã hội cầu mong ánh sáng” [116, tr. 48]. Nhƣ vậy, nhà phê bình Vũ Ngọc

Phan đã chỉ ra đƣợc cái cốt lõi, cái đặc trƣng và giá trị trong sáng tác của Nguyên

Hồng, đó là: Tƣ tƣởng nhân đạo và khát vọng có một xã hội công bằng tốt đẹp hơn,

nhất là đối với những ngƣời nghèo khổ.

8

Năm 1944, trong cuốn “Văn chương và xã hội” (Đại học Thƣ xã Hà Nội), khi nghiên cứu một số tác phẩm của Nguyên Hồng thời kỳ trƣớc cách mạng nhƣ “Bỉ vỏ”, “Bảy Hựu”, “Những ngày thơ ấu”, tác giả Lƣơng Đức Thiệp nhận xét: đây là “cây bút linh động cho ta cảm thấy sâu xa lòng yêu thiết tha của chính tác giả đối với các nhân vật trong truyện” [159, tr. 98]. Nhận xét này khẳng định thêm tính nhân đạo của nhà văn Nguyên Hồng.

Qua một số ý kiến, nhận xét trên, chúng ta nhận thấy khá rõ một điểm: ngay đƣơng thời, ngƣời ta cũng đã chỉ ra những mặt mạnh, những thành công của nhà văn Nguyên Hồng. Đó là chủ nghĩa nhân đạo, là tƣ tƣởng nhân từ bác ái, cũng nhƣ đã chỉ ra những mặt hạn chế của Nguyên Hồng khi buổi đầu đến nghề văn còn đầy non nớt này.

Đồng thời cũng qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy: Trong vòng 10 năm (1936 - 1945), Nguyên Hồng đã có khá nhiều sáng tác (54 truyện ngắn, 03 truyện vừa, 01 hồi ký, 03 tiểu thuyết) với mảng nội dung hiện thực đặc sắc nhƣng thực sự những sáng tác này của Nguyên Hồng cũng chƣa thu hút đƣợc sự quan tâm của giới nghiên cứu, phê bình nhƣ những trƣờng hợp nhà văn hiện thực khác. Hầu hết các ý kiến nhận định, phê bình chỉ tập trung vào hai tác phẩm nổi tiếng của Nguyên Hồng là: Bỉ vỏ và Những ngày thơ ấu, còn những sáng tác khác của ông đều chƣa hoặc rất ít đề cập đến. Các tác giả (do những lý do chủ quan và khách quan nào đó) cũng chƣa thấy hết đƣợc giá trị nhiều mặt của các sáng tác ấy, cũng nhƣ chƣa phát hiện và đánh giá đúng mức đƣợc tài năng và cống hiến của Nguyên Hồng, mặc dù bƣớc đầu cũng đã ít nhiều động chạm vào những vấn đề đó khi nhận xét đánh giá về ông.

Từ sau năm 1945 cho tới tận hiện nay, Nguyên Hồng và tác phẩm của ông tiếp tục đƣợc nhiều ngƣời quan tâm, chú ý nhìn nhận, đánh giá và khẳng định những giá trị nổi bật về nội dung và nghệ thuật. Những tác phẩm của nhà văn vẫn tiếp tục trở thành đối tƣợng nghiên cứu hấp dẫn trong đời sống nghiên cứu, phê bình văn học của nƣớc nhà. Trong khi đó, một số những nhà văn hiện thực khác nhƣ Vũ Trọng Phụng, Nam Cao... vẫn chƣa thu hút đƣợc sự quan tâm của giới nghiên cứu, phê bình, mà phải đợi đến thời kỳ đổi mới, các tác phẩm của họ mới đƣợc chú ý nghiên cứu và đƣợc đánh giá sâu sắc, công bằng và toàn diện hơn.

Có thể nhắc đến những công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu, phê bình tiêu biểu nhƣ: Nguyễn Đăng Mạnh, Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Vũ Ngọc

9

Phan, Chu Nga, Trần Đăng Suyền,... cùng các mục từ giới thiệu về Nguyên Hồng, tiểu thuyết Bỉ vỏ, Hồi ký Những ngày thơ ấu trong cuốn Từ điển Văn học của tác giả Nguyễn Hoành Khung; Những đề tài nghiên cứu về sáng tác của nhà văn Nguyên Hồng của các tác giả: Lê Hồng My, Bạch Văn Hợp, Phạm Hồng Lan, Nguyễn Duy Tờ, Lê Thị Hải Vân... Qua các công trình nghiên cứu này, chúng tôi thấy các vấn đề về tƣ tƣởng nghệ thuật, phong cách nghệ thuật, lời văn nghệ thuật, cảm hứng sáng tạo,… trong sáng tác của Nguyên Hồng đã đƣợc đề cập đến ở những mức độ khác nhau. Các ý kiến, nhận xét đều sâu sắc và tinh tế nhƣng phần lớn là những nhận xét, nhận định có tính chất khái quát, hoặc nghiên cứu sâu một phƣơng diện nào đó thuộc về nội dung hoặc nghệ thuật trong sáng tác của Nguyên Hồng, cụ thể là một số ý kiến tiêu biểu nhƣ sau:

- Đánh giá sự đóng góp của Nguyên Hồng đối với sự vận động và phát triển khuynh hƣớng văn học hiện thực phê phán Việt Nam trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945 nói riêng và đối với nền Văn học hiện đại Việt Nam nói chung trên những phƣơng diện cụ thể. Tiêu biểu cho xu hƣớng đánh giá này là các công trình nghiên cứu: “Nguyên Hồng” [Phan Cự Đệ -116], “Nguyên Hồng, con người và sự nghiệp” [Nguyễn Đăng Mạnh -116], “Nguyên Hồng và quá trình sáng tác của anh” [Chu Nga -116]...

- Khẳng định chủ nghĩa nhân đạo thống thiết của Nguyên Hồng khi viết về các nhân vật dƣới đáy xã hội thực dân phong kiến, đặc biệt là nhân vật ngƣời phụ nữ và trẻ em. Xu hƣớng này đƣợc thể hiện trong các công trình nghiên cứu: “Nguyên Hồng, con người và sự nghiệp” [Nguyễn Đăng Mạnh -116], “Một cuộc đời sáng tạo trong đau khổ” [Vƣơng Trí Nhàn - 111], “Cảm hứng cần lao trong sáng tác của Nguyên Hồng” [Phan Diễm Phƣơng -116]...

- Chỉ ra đặc điểm phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng là “nhà văn của niềm tin và ánh sáng”, “nhà văn của lòng thương cảm thống thiết”, “một ngòi bút hiện thực giàu chất lãng mạn”… “Nguyên Hồng, nhà văn của những khát vọng sống” [Hà Minh Đức - 116], “Phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng” [77], “Nhà văn của tình thương” [1]...

- Khẳng định mặt mạnh của Nguyên Hồng trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, cũng nhƣ trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ, giọng điệu... nhƣ bài viết: “Đặc sắc hồi ký Nguyên Hồng” [Nguyễn Đăng Điệp -116], “Giọt lệ lớn và đoàn tàu chợ” [Linh Thi - 116]; hay chuyên luận: “Lời văn nghệ thuật Nguyên Hồng” [Lê Hồng My - 101]...

10

Khi cắt nghĩa cảm hứng chủ đạo của Nguyên Hồng, Phan Cự Đệ cho rằng

cảm hứng chủ đạo trong sáng tác của nhà văn “Bắt nguồn từ một chủ nghĩa nhân

đạo sâu sắc với những lớp người cùng khổ. Anh là một cây bút đôn hậu, luôn

hướng tới cái cao đẹp, trong sáng, niềm tin yêu thắm thiết” [116, tr. 112]. Khái

quát về “Nguyên Hồng và quá trình sáng tác của anh” tác giả Chu Nga đã giới

thiệu và khái quát: “Nguyên Hồng sau cách mạng chỉ là sự kế tiếp một cách logic

Nguyên Hồng những năm trước cách mạng” [116, tr. 157] - Đây là một nhận xét

rất chính xác về sự nhất quán trong quan niệm sáng tác của Nguyên Hồng cả ở hai

giai đoạn trƣớc và sau năm 1945. Đồng thời Chu Nga cũng nhấn mạnh đến sự

đóng góp riêng biệt của Nguyên Hồng vào dòng văn học hiện thực phê phán:

“Trước tiên cần khẳng định ở anh những đóng góp đáng kể với tư cách là một nhà

văn hiện thực phê phán tiến bộ nhất, tiếp cận gần nhất với cách mạng. Anh không

chỉ hiểu cách mạng mà còn viết về cách mạng, cũng không phải chỉ viết một cách

cảm tính, mà ít nhiều có quan điểm, có lý luận” [116, tr. 157], và đó còn là “tiếng

nói yêu thương nhân đạo (…) sôi nổi, lạc quan, tràn đầy một lòng tin ở ngày mai

tươi sáng vì nhìn thấy được những phẩm chất đẹp đẽ ở những con người nghèo

khổ hôm nay”[116, tr. 158]… Nhƣ vậy, tác giả đã đề cập đến cảm hứng chủ đạo

trong sáng tác của Nguyên Hồng, đó là tình cảm yêu thƣơng, trân trọng con ngƣời

lao động.

Cùng quan điểm nhƣ trên, Phan Diễm Phƣơng, Vƣơng Trí Nhàn, Đỗ

Trung Thoại... đều cho rằng cảm hứng sáng tác của Nguyên Hồng là cảm hứng về

cuộc sống lầm than, đói khổ của ngƣời lao động trong xã hội cũ. “Cảm hứng cần

lao… đã được phô diễn một cách ám ảnh, đầy sức lay động đối với những con

người đồng cảm” [116, tr. 225]… “Cảm hứng cần lao và tranh đấu của Nguyên

Hồng cũng chính là cảm hứng nhân đạo nơi ông” [116, tr. 227]… “Giá trị phổ

biến của hàng ngàn, hàng ngàn trang sách được bắt nguồn vào những cảnh sống

của con người, hướng về con người ” [116, tr. 229]. Vƣơng Trí Nhàn khẳng định

cuộc đời Nguyên Hồng là “Một cuộc đời sáng tạo trong đau khổ”, “Văn xuôi

Nguyên Hồng là một thứ sản phẩm giàu chất tự truyện”, đồng thời tác giả cũng

đánh giá Những ngày thơ ấu là tác phẩm đỉnh cao của Nguyên Hồng: “Khách

quan và tỉnh táo mà đánh giá, phải nhận toàn bộ cuộc đời và sáng tác của Nguyên

Hồng về sau không có cái nào vượt được Những ngày thơ ấu” [116, tr. 219]. Và

“Trước đau khổ, Nguyên Hồng thấy nên cam chịu, và tìm thấy lẽ sống, cảm hứng

11

sáng tạo của mình trong chính sự đau khổ” [116, tr. 220]. Đỗ Trung Thoại thấy ở

Nguyên Hồng là“một nhà văn lớn, một nhân cách lớn… chủ nghĩa nhân đạo là tư

tưởng chủ đạo trong hầu hết các tác phẩm của ông… Nguyên Hồng là nhà văn của

nhân dân lao động và ông thuộc về những người lao động” [119].

Trong giáo trình Văn học Việt Nam thế kỷ XX, tập 2, tác giả Lê Hồng My,

Trần Đăng Suyền đã chỉ rõ quan điểm nghệ thuật của Nguyên Hồng là “Đề cao

vai trò của văn chương nghệ thuật, khẳng định ý nghĩa cao quý của nghề cầm bút”

[134, tr. 134]... “Nhà văn, (người nghệ sĩ) phải trung thực, chân thành trên trang

viết: say mê, tin tưởng vào cuộc sống; phải cần cù học hỏi và không ngừng sáng

tạo” ”[134, tr. 135]... “Nghệ thuật phải “bắt rễ” vào cuộc sống của người lao

động và hướng tới tương lai tốt đẹp. Bạn đọc quần chúng là “lẽ sống của ngòi bút”

[134, tr. 137]. Đây chính là quan điểm nghệ thuật nhất quán của Nguyên Hồng

trong sự nghiệp sáng tác của mình.

Đánh giá Nguyên Hồng ở một góc nhìn khác, GS.TS. Trần Đăng Suyền đã

phân tích một cách sâu sắc Sự gặp gỡ, giao thoa của những khuynh hướng, trào

lưu văn học trong sáng tác của Nguyên Hồng trƣớc cách mạng. Tác giả đã phân

tích và khẳng định: “Văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 đã xuất hiện nhiều

khuynh hướng, nhiều trào lưu văn ọhc: Chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện thực

và khuynh hướng văn học cách mạng; chúng vừa đấu tranh với nhau, vừa bổ sung

cho nhau để cùng phát triển. Sáng tác của Nguyên Hồng thể hiện quy luật vận

động và phát triển, sự gặp gỡ và giao thoa của nhiều khuynh hướng, trào lưu văn

học… Có được điều đó là do ngòi bút Nguyên Hồng gắn bó sâu sắc với thời đại,

với cuộc đời rộng lớn, với những người cùng khổ. Có được điều đó còn do những

sáng tác hiện thực chủ nghĩa của ông được xây dựng trên cơ sở của chủ nghĩa

nhân đạo, đi sâu vào bản chất của sự sáng tạo nghệ thuật, thể hiện quy luật vận

động và phát triển tất yếu của tiến trình lịch sử văn học dân tộc” [137, tr. 55-59].

Nhƣ vậy, về cảm hứng sáng tạo, chủ nghĩa nhân đạo của Nguyên Hồng, các

nhà nghiên cứu, phê bình đều nhất trí rằng cảm hứng sáng tác của Nguyên Hồng là

cảm hứng cần lao, bắt nguồn từ cuộc sống tăm tối, cực khổ của những ngƣời dƣới

đáy xã hội thực dân phong kiến trƣớc Cách mạng. Cảm hứng sáng tác ấy đƣợc thể

hiện qua một tấm lòng nhân đạo thiết tha, trĩu nặng với những cảnh đời đen tối

trong xã hội đƣơng thời.

12

Khi nói đến Phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng, nhiều tác giả đều cho rằng Nguyên Hồng có phong cách nghệ thuật riêng. Nguyễn Đăng Mạnh là một trong những nhà nghiên cứu chuyên sâu về Nguyên Hồng, trong các công trình nghiên cứu của mình, tác giả cũng đặc biệt chú ý đến tƣ tƣởng và phong cách nghệ thuật của nhà văn. Ngay từ những năm 70 của thế kỷ XX, trong cuốn Giáo trình Lịch sử Văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945, Nguyễn Đăng Mạnh đã khẳng định: "Nguyên Hồng là nhà văn có phong cách rõ rệt quy định bởi những đặc điểm về hoàn cảnh gia đình, môi trường sống, về tư tưởng, tình cảm, về sự tiếp thu ảnh hưởng xã hội và văn học" [100, tr. 20]; Đồng thời tác giả cũng chỉ ra một vài nét tiêu biểu của phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng trƣớc Cách mạng tháng Tám là "tình cảm say sưa bồng bột", và "tinh thần nhân đạo chủ nghĩa thiết tha", "... một nội dung trữ tình sôi nổi, một cảm hứng lãng mạn mãnh liệt...”. Ở một công trình nghiên cứu khác, ông cũng đã bàn về phong cách lãng mạn của Nguyên Hồng: “Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng có một cái gì rất gần gũi với thần thoại, cổ tích, truyện Tàu, lại giông giống như thế giới đầy dông bão của những trường ca, những thiên truyện ngắn lãng mạn chủ nghĩa của Mácxim Goorki hay tiểu thuyết của Víchto Huygô, trong đó có sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, giữa bão táp và nắng vàng, giữa quỷ dữ và thiên thần…” [116, tr. 100] và “Nguyên Hồng có thiên hướng xây dựng những tích cách phi thường, những hình tượng kỳ dị, những tâm trạng được phóng đại, những tình huống dữ dội, những quang cảnh rộng lớn, náo động đầy dông bão (…) phù hợp với một giọng văn thống thiết của một tâm hồn nồng nhiệt muốn giãi bày trực tiếp trên những trang sách...” [116, tr. 100,101]...

Phan Cự Đệ là một trong những nhà nghiên cứu dành nhiều tâm huyết nghiên cứu về Nguyên Hồng, ông đã tiếp cận sáng tác của nhà văn từ nhiều góc độ khác nhau nhƣ: cảm hứng sáng tạo, chủ nghĩa nhân đạo, màu sắc trữ tình... Về phong cách nghệ thuật, tác giả khẳng định: "Cùng đứng trong chủ nghĩa hiện thực phê phán nhưng Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Nguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng... mỗi người có một phong cách riêng. Phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng cũng mang những màu sắc thẩm mỹ độc đáo” [116, tr. 112]. Nhà nghiên cứu cũng chỉ ra yếu tố trữ tình lãng mạn nhƣ một đặc điểm phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng: "Không phải lúc nào Nguyên Hồng cũng viết bằng một bút pháp hiện thực tỉnh táo và nói chung, ít khi anh sử dụng một lối viết nặng nề về trí tuệ. Ở anh, những yếu tố nội tâm, những tình cảm sôi nổi, dạt dào từ bên

13

trong đôi lúc cứ muốn lấn lướt, trùm lên cái hiện thực khách quan được miêu tả" [116, tr. 121]. Khi giới thiệu quá trình sáng tác từ Bỉ vỏ đến Cửa biển, Phan Cự Đệ cũng đã lý giải sự chuyển biến về tƣ tƣởng và nghệ thuật của Nguyên Hồng từ sau Cách mạng tháng Tám gắn liền với quá trình nhận thức về cách mạng, đi theo cách mạng của nhà văn. Tác giả khẳng định sự nhất quán trong phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng, "Phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng giờ đây giàu có, phong phú hơn trước nhưng nhìn chung vẫn là một phong cách hiện thực giàu chất lãng mạn cách mạng và chất trữ tình say đắm" [116, tr. 142].

Tác giả Bạch Văn Hợp khi đi sâu vào nghiên cứu Đặc điểm phong cách

nghệ thuật của Nguyên Hồng đã chỉ ra phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng

là: nhà văn của “lòng thương cảm thống thiết những kiếp người cùng khổ” [77, tr.

200], một “ngòi bút hiện thực giàu chất lãng mạn” [77, tr. 66] và một “bút pháp

sôi nổi, nồng nhiệt” [77, tr. 123];… có những nhân vật khác thường nhƣ: “nhân vật

giàu nghĩa khí mang dáng dấp anh hùng hảo hán” [77, tr. 110], “nhân vật mang

dáng dấp cổ tích huyền thoại” [77, tr. 114], “nhân vật thánh thiện” [77, tr. 116],

“nhân vật quỷ sứ” [77, tr. 119]; mặt mạnh của Nguyên Hồng là “cách sử dụng

thành ngữ độc đáo” [77, tr. 125], “ngôn ngữ gây ấn tượng” [77, tr. 134], “ngôn

ngữ giàu cảm xúc” [77, tr. ]; một “giọng điệu sôi nổi thiết tha và cấu trúc chồng

tầng của lời văn nghệ thuật” [77, tr.159]; một “thủ pháp trần thuật giàu xúc cảm”

[77, tr. 173] trong sáng tác của nhà văn.

Nhƣ vậy, ý kiến của các nhà nghiên cứu đều thống nhất cho rằng phong

cách nghệ thuật của Nguyên Hồng là phong cách hiện thực, giàu chất lãng mạn và

chất trữ tình, là nhà văn của chủ nghĩa nhân đạo, của lòng thƣơng cảm thống thiết

đối với những ngƣời cùng khổ trong xã hội cũ.

Ngoài ra còn một số ý kiến, nhận xét khác về sự nghiệp và quá trình sáng

tác của Nguyên Hồng, về Thế giới nghệ thuật của nhà văn thời kỳ trƣớc năm

1945, nhưng thực sự chưa có một công trình chuyên biệt nào nghiên cứu một cách

hệ thống, toàn diện về Thế giới nghệ thuật trong sáng tác của Nguyên Hồng giai

đoạn trước và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Đặc biệt, sau khi nhà văn qua đời đã có một số công trình nghiên cứu tổng

hợp về Nguyên Hồng, một số bài viết của các tác giả là các nhà thơ, nhà văn

cùng thời với Nguyên Hồng nhƣ Kim Lân, Nguyễn Tuân, Huy Cận,... và các nhà

14

nghiên cứu, phê bình, các nhà thơ thuộc các thế hệ sau nhƣ: Hà Minh Đức, Tế

Hanh, Bùi Hiển, Bùi Ngọc Tấn, Nguyễn Quang Thân, Ngô Văn Phú,... Nội dung

những bài viết này là những hồi ức, kỷ niệm liên quan đến nhà văn của các tác

giả, bày tỏ lòng yêu quý, trân trọng, ngợi ca tài năng, phẩm chất nghệ sĩ và những

bài học đầy ý nghĩa đƣợc rút ra từ cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn hiện thực

xuất sắc Nguyên Hồng.

Gần đây nhất, tháng 11/2013, Hội Văn học nghệ thuật Hải Phòng đã tổ chức

Hội thảo “Nhà văn Nguyên Hồng - cuộc đời và sự nghiệp văn chương” (Nhân

Kỷ niệm 95 năm ngày sinh của nhà văn Nguyên Hồng, tại Hải Phòng). Trong

khuôn khổ của một Hội thảo, các ý kiến của GS. TS. Trần Đăng Suyền, PGS. TS.

Nguyễn Ngọc Thiện, TS. Lê Thị Bích Hồng, TS. Nguyễn Đức Thuận... nhà thơ

Hữu Thỉnh, nhà văn Đình Kính, nhà văn Đỗ Nhật Minh, nhà văn Cao Năm, Lƣu

Văn Khuê, nhà sử học Lê Văn Lợi, nghệ sĩ nhiếp ảnh Hoàng Minh Đáng… đều thể

hiện sự ngƣỡng mộ, trân trọng tài năng và nhân cách Nguyên Hồng. Các ý kiến đều

đánh giá cao sự đóng góp của Nguyên Hồng đối với sự phát triển của nền văn

chƣơng Việt Nam hiện đại. Nhà thơ Hữu Thỉnh - Chủ tịch Hội Liên hiệp các Hội

Văn học nghệ thuật Việt Nam, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam đã ghi nhận những

đóng góp của Nguyên Hồng, đó là: “Nguyên Hồng là một tác gia lớn, một tác giả sử

thi tầm cỡ nhất của văn chương Việt Nam hiện đại, một nhà văn thực sự xuất sắc

của thế kỷ XX” [119]. GS. TS. Trần Đăng Suyền đã khẳng định: “Nguyên Hồng là

nhà văn của chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc, thống thiết; sáng tác của ông làm phong

phú thêm chủ nghĩa nhân đạo của nền văn học dân tộc” [119]. Với một cái nhìn

tổng quan về Nguyên Hồng từ “một cái nhìn thế kỷ” - PGS.TS. Đoàn Trọng Huy

[119] đã có những đánh giá rất trân trọng và xác đáng về nhà văn: “Nguyên Hồng đã

sống với những sự kiện lớn lao của đất nước… với tư cách chứng nhân lịch sử, cũng

là người tham gia làm nên lịch sử, Nguyên Hồng đã sống và viết hết mình. Những

trang viết của nhà văn có sự mặn mòi của mồ hôi lao động, có cái nồng ấm của

nước mắt pha lẫn vẻ rạng rỡ của nụ cười. Tất cả những gì trên mặt giấy đều được

giãi bày tươi thắm bằng máu huyết tâm hồn” (Nguyên Hồng từ cái nhìn thế kỷ)...

Tóm lại: Khi nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Nguyên

Hồng, các nhà nghiên cứu phê bình đều đánh giá cao tài năng và nhân cách của

ông, khẳng định Nguyên Hồng là một trong những nhà văn xuất sắc nhất của trào

15

lƣu văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945. Với những đóng góp của mình,

Nguyên Hồng đã có vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện quá trình hiện đại hóa

văn học Việt Nam thế kỷ XX.

1.2. Tình hình nghiên cứu về Thế giới nghệ thuật trong sáng tác của Nguyên Hồng

Nhƣ chúng tôi đã trình bày ở trên, đã có những công trình nghiên cứu,

những bài viết về Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng ở những phƣơng diện

nhƣ: đề tài, chủ đề, nhân vật, thời gian, không gian nghệ thuật, ngôn ngữ nghệ

thuật,... trong sáng tác của nhà văn trƣớc cách mạng. Tuy nhiên, theo khảo sát,

chúng tôi nhận thấy, những nhà nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở những nhận định

chung nhất, hoặc đi sâu vào một số phƣơng diện nhƣ: nhân vật, ngôn ngữ nghệ

thuật... mà chƣa có một công trình nghiên cứu toàn diện, hệ thống về Thế giới nghệ

thuật của nhà văn.

Xuất phát từ quan niệm: Thế giới nghệ thuật “là chỉnh thể của hình thức

văn học”, “là sản phẩm sáng tạo mang tính cảm tính, có thể cảm thấy được của

người nghệ sĩ, một kiểu tồn tại đặc thù, vừa trong chất liệu, vừa trong cảm nhận

của người thưởng thức, là sự thống nhất của mọi yếu tố đa dạng trong tác phẩm”

[140, tr. 30], chúng ta hiểu rằng: Thế giới nghệ thuật chính là sự thống nhất của

mọi yếu tố: Đề tài, chủ đề, nhân vật, thời gian và không gian, ngôn từ nghệ thuật...

tất cả tạo nên một Thế giới nghệ thuật mang nét riêng, mang cá tính sáng tạo của

nhà văn.

Từ cơ sở lý thuyết, lý luận nhƣ trên, tác giả luận án đã tìm hiểu lịch sử

nghiên cứu về Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng ở các phƣơng diện sau:

1.2.1. Về đề tài sáng tác

Trong cuốn Việt Nam văn học sử yếu của Dƣơng Quảng Hàm (xuất bản

lần đầu1941, tái bản năm 1993), NXB Tổng hợp Đồng Tháp, có nội dung nghiên

cứu về “Các khuynh hướng phổ thông của tư tưởng trong quốc văn hiện đại”, đã

chia ra 3 khuynh hƣớng: Khuynh hƣớng về học thuật, khuynh hƣớng lãng mạn,

khuynh hƣớng tả thực. Tác giả đã xếp sáng tác của Nguyên Hồng vào khuynh

hướng tả thực cùng với Vũ Trọng Phụng, Trọng Lang [51, tr. 466]. Cũng cùng

quan điểm này, Thế Phong khẳng định: “Nguyên Hồng là nhà văn xã hội hơn hết

theo đúng danh từ. Xã hội tính trong văn chương Nguyên Hồng là tả chân thực

16

sự” [123, tr. 77]. Giáo sƣ tiến sĩ khoa học N.I. Nikulin khi nghiên cứu Lịch sử văn

học Việt Nam, cho rằng “cuộc sống của tầng lớp dân nghèo thành thị cũng được

phản ánh trong những tác phẩm hiện thực”, và tác giả dẫn ra ví dụ tiêu biểu là

“tiểu thuyết Bỉ vỏ của Nguyên Hồng” [103, tr. 749].

Nhiều nhà nghiên cứu về Nguyên Hồng sau này nhƣ Nguyễn Đăng Mạnh,

Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức… cũng đều thống nhất cho rằng đề tài sáng tác mà

Nguyên Hồng hƣớng đến là cuộc sống của những ngƣời lao động nghèo khổ dƣới

đáy xã hội thực dân phong kiến. “Từ thế giới những người lao động cực khổ nhất

trong xã hội. Nguyên Hồng đã đến với nghề văn” [116, tr. 78]; “Mỗi nhà văn đều

có một nguồn suối tinh thần yêu thương của họ, Ngô Tất Tố tiếp thu được cái hơi

thở khỏe mạnh, hồn hậu, lạc quan của nông dân, còn Nguyên Hồng thì bắt rễ sâu

vào cuộc sống và những tình cảm tốt đẹp của những người dân nghèo, thợ thuyền

thành phố. Anh luôn luôn nói đến người lao động nghèo khổ với lòng biết ơn tình

nghĩa, với sự gắn bó trọn đời chung thủy” [116, tr. 106]…

Có thể thấy rằng: các ý kiến, nhận xét, đánh giá của các nhà nghiên cứu,

phê bình (trƣớc và sau cách mạng) đều đã chỉ rõ: Đề tài sáng tác trong tác phẩm

của Nguyên Hồng là cuộc sống của những con ngƣời khốn khổ trong xã hội

đƣơng thời, nhà văn đã rất thành công khi viết về đề tài này - và điều này là

hoàn toàn chính xác. Chính vì vậy, trong luận án của mình, chúng tôi sẽ không

đi sâu vào nghiên cứu phƣơng diện này mà sẽ tập trung vào một số phƣơng diện

khác trong Thế giới nghệ thuật của nhà văn hiện thực Nguyên Hồng.

1.2.2. Về chủ đề sáng tác

Trong nhận xét của Giải thưởng Tự lực văn đoàn, năm 1937 (báo Ngày nay,

năm 1938), Thạch Lam đánh giá sự thành công cũng nhƣ hạn chế trong tiểu thuyết Bỉ vỏ nhƣ sau: “Cái đặc biệt của Nguyên Hồng có lẽ là cái màu sắc tự nhiên và sự

linh động. Người ta mừng rằng với một đầu đề như thế (đời một cô gái trụy lạc) ông Nguyên Hồng đã khéo đứng trong phạm vi sự thật và sự cảm thấy, mà không

sa ngã vào những câu sáo và hoa mỹ,… còn nhiều chỗ vụng về… nhiều câu văn chưa gãy gọn. Nhưng đó là lỗi của một người viết văn và sẽ mất đi với kinh

nghiệm và sự từng trải trong nghề”. Trong khuôn khổ của một Nhận xét Giải thưởng Thạch Lam cũng mới chỉ nêu ý kiến nhận xét về sự tự nhiên và linh động

cũng nhƣ một số hạn chế trong văn Nguyên Hồng mà thôi.

17

Phan Cự Đệ khẳng định rằng: “Vấn đề chính trong tác phẩm của Nguyên Hồng trước Cách mạng là: những con người quằn quại trong sự đau khổ nhưng vẫn lạc quan, yêu đời, vẫn muốn “ngoi lên ánh sáng như những mầm cây xanh” [116, tr. 111]. Tác giả đã nhấn mạnh đến bản chất nhân vật của Nguyên Hồng, đó là: những ngƣời dân nghèo tuy bị xã hội đẩy đến sự bần cùng hóa (thậm chí lƣu manh hóa), nhƣng ở họ luôn là niềm khao khát cuộc sống lƣơng thiện trong một xã hội công bằng, đẹp đẽ hơn.

Còn nhà phê bình Vũ Ngọc Phan thấy ở truyện ngắn của Nguyên Hồng "phần nhiều pha một giọng phóng sự chua cay và kín đáo, phần nhiều dùng việc thay lời, nên cái nghệ thuật của ông thật là sâu sắc” [116, tr. 44], “Ông đã đi từ cuộc sống nghèo nàn của mấy hạng người bị xã hội khinh bỉ đến những cuộc sống bên trong rất phức tạp và không kém phần ồn ào, nhộn nhịp” [116, tr. 48], “chỉ khi nào lòng yêu nhân loại lên tới cực điểm, là người ta mới thiết tha đến những người bị xã hội ruồng bỏ” [116, tr. 43]. Vũ Ngọc Phan cũng đã nói đến cảm hứng sáng tạo và giá trị nhân đạo toát ra trong sáng tác của Nguyên Hồng, đây là một ý kiến rất đáng chú ý khi cắt nghĩa ngọn nguồn cảm hứng sáng tạo của nhà văn.

Khái quát về toàn bộ đời văn Nguyên Hồng, Nguyễn Minh Châu thấy “Ngổn ngang gò đống kéo lên biết bao nhiêu là hạng người, là mẫu người của xã hội cũ”... “bao giờ ông cũng đặt niềm tin tưởng vững chắc vào cái cốt lõi tốt đẹp của tính cách những con người lao động nghèo khổ” [116, tr. 379]. Đồng thời, tác giả cũng cho rằng: Nguyên Hồng là “Nhà văn của thập loại chúng sinh”.., “từ trong lòng cái xã hội “thập loại chúng sinh” bước ra, cầm cây bút sắt chấm vào mồ hôi, nước mắt và máu của mình mà viết ra văn chương riêng của mình” [116, tr. 378]. Chúng ta thấy rằng: Nguyễn Minh Châu cũng nhƣ các nhà nghiên cứu, phê bình trên đã nhấn mạnh đến đối tƣợng thẩm mỹ trong sáng tác của Nguyên Hồng là những con ngƣời nghèo khổ trong xã hội cũ, đồng thời tác giả cũng khẳng định niềm tin tƣởng vững chắc của Nguyên Hồng vào bản chất tốt đẹp của ngƣời lao động - đó chính là chủ đề nổi bật, bao trùm trong toàn bộ sáng tác của nhà văn hiện thực này.

1.2.3. Về nhân vật

Ngay từ trƣớc Cách mạng, Trƣơng Chính tuy có những nhận xét khắt khe về cuốn tiểu thuyết Bỉ vỏ nhƣ: còn thiếu nghệ thuật, thiếu kinh nghiệm, nhƣng ông cũng đƣa ra nhận định khách quan về cách xây dựng nhân vật của Nguyên Hồng:

18

"Tác giả dồn hết nạn này đến nạn khác trên đầu Bính cho đến khi cô bị bắt, ở tù, mới chịu thôi”, đó là nhận xét về một trong những đặc điểm xây dựng nhân vật ở Nguyên Hồng trong một cuốn tiểu thuyết cụ thể.

Tác giả Hà Minh Đức khi đánh giá tổng quát về Nguyên Hồng và quá trình sáng tác của nhà văn - đã nhận định: “Nguyên Hồng, nhà văn của những khát vọng sống”… “nhà văn của những xóm thợ”, “người đã đem vào trang sách muối mặn, mồ hôi và đất bụi của cuộc đời” [116, tr. 13]. Đồng thời, tác giả nhấn mạnh đến đặc điểm nhân vật của Nguyên Hồng “thế giới nhân vật của Nguyên Hồng bị vây bọc trong sự nghèo khổ không có lối ra (…) nhưng bao giờ cũng nuôi khát vọng sống chân chính của con người… Cũng dễ nhận ra người dân lao động trong tác phẩm của Nguyên Hồng ở cuộc đời nghèo khổ, lòng nhân ái và những khát vọng sống của họ” [116, tr. 17]… Ở đây, nhà nghiên cứu đã khẳng định lòng nhân ái, sự lạc quan và sức sống bất diệt ở các nhân vật của Nguyên Hồng. Đồng thời tác giả cũng chỉ ra nhƣợc điểm trong cách xây dựng nhân vật của Nguyên Hồng là: “còn thiếu những nhân vật phản diện để tạo nên những đối trọng của các nhân vật thuộc tầng lớp giàu nghèo khác nhau” [116, tr. 18]. Nói về những hạn chế của Nguyên Hồng khi xây dựng nhân vật, Vũ Đức Phúc, Nguyễn Đức Đàn cho rằng: “Nếu như tư tưởng của Nguyên Hồng tương đối ngày càng tiến bộ, thì về nghệ thuật ông lại hay mắc phải nhược điểm là lý luận dài dòng và trực tiếp nói lên nhiều ý nghĩa của mình thay cho việc mô tả sự việc và tính cách con người. Nhân vật của ông thường triết lý về cảnh khổ của mình và của người khác hơn là hành động… trong sáng tác của ông nhiều trang có tính chất bài báo hoặc bút ký trữ tình, ông không chú trọng xây dựng điển hình cho thật sinh động” [125, tr.149 ]. Ý kiến về hạn chế của Nguyên Hồng khi xây dựng nhân vật nhƣ trên không thấy có ngƣời hƣởng ứng.

Tác giả Phan Cự Đệ cho rằng nhân vật của Nguyên Hồng “là những con

người quằn quại trong sự đau khổ nhưng vẫn lạc quan, yêu đời, vẫn ngoi lên ánh

sáng như những mầm cây xanh” [116, tr. 111]. Tác giả cũng nhận xét những đức

tính quý báu của nhân vật trong sáng tác của Nguyên Hồng nhƣ: “tình thương yêu,

đùm bọc lẫn nhau giữa những người cùng khổ”, “tình nghĩa chung thủy và lòng hi

sinh cho hạnh phúc người khác”, “lòng tự trọng dù đói khổ vẫn không chấp nhận

lối sống trụy lạc, bán rẻ nhân phẩm để chạy theo đồng tiền và danh vọng”. Đồng

thời Phan Cự Đệ cũng thẳng thắn chỉ ra những hạn chế trong cách xây dựng nhân

19

vật của Nguyên Hồng nhƣ: “dù sao, nhiều nhân vật dân nghèo của Nguyên Hồng

vẫn còn giữ một thái độ cam phận, nhẫn nhục, chịu đựng trước cảnh ngộ. Đôi lúc ta

có cảm tưởng dường như ngòi bút nhà văn chìm sâu một cách triền miên trong sự

khổ đau, say sưa trong một thứ chủ nghĩa cùng khổ”… “Nhược điểm này từ năm

1938 trở đi, dần dần được khắc phục” [116, tr. 111]. Nhƣ vậy, tác giả đã ghi nhận

sự thành công cũng nhƣ hạn chế về cách xây dựng nhân vật của Nguyên Hồng.

Khi nghiên cứu tổng quát “Nguyên Hồng - con người và sự nghiệp” [116],

tác giả Nguyễn Đăng Mạnh cũng đã khái quát quá trình sáng tác trƣớc và sau

Cách mạng của Nguyên Hồng, đã chỉ ra những đặc điểm quan trọng trong sáng tác

của nhà văn. Đó là chủ nghĩa nhân đạo, là cảm hứng sáng tạo, là ba loại nhân vật

quen thuộc của nhà văn: “những người làm các nghề phu phen, tạp dịch nặng nề”

[tr. 82], “những người đàn bà dân nghèo thường kiếm ăn bằng việc buôn thúng

bán mẹt, hay bán hàng cơm, hàng nước”[tr. 83]; “những trẻ em nhà nghèo”

[tr. 86]; Ngoài ra còn có“loại nhân vật trẻ tuổi thuộc tầng lớp tiểu tư sản nghèo”

[tr. 86] và “những hạng người lưu manh côn đồ” [tr. 80]. Tuy nhiên, với một công

trình nghiên cứu tổng quan về “Nguyên Hồng, con ngƣời và sự nghiệp”, Nguyễn

Đăng Mạnh cũng mới chỉ dừng lại ở mức độ giới thiệu chung về các loại nhân vật

của Nguyên Hồng, mà chƣa chỉ ra đặc điểm cụ thể của từng loại nhân vật cũng nhƣ

chƣa đi sâu vào nghiên cứu nghệ thuật xây dựng từng loại nhân vật ấy.

Nhận xét về tính cách nhân vật của Nguyên Hồng, có ý kiến nhận định rằng

“Trong thế giới nhân vật của ông, ta thường bắt gặp những tính cách phi thường,

những con người thánh thiện nhuốm vẻ tôn giáo và màu sắc lãng mạn. Đó là những

con người khác thường với những nét tính cách được tô đậm, phóng đại, được đẩy

lên đến mức cực đoan. Tất cả đều mang một nét chung nào đó khiến người đọc nhận

ra đây chính là những nhân vật, những đứa con tinh thần của Nguyên Hồng” [131,

tr. 420]. Theo chúng tôi, đây chính là một nhận xét chính xác và tinh tế bởi tác giả

đã chỉ ra sự khác biệt về nhân vật của Nguyên Hồng so với nhân vật của các nhà văn

khác cùng thời với ông, kể cả nhà văn hiện thực phê phán.

Về nghệ thuật sáng tạo của Nguyên Hồng, PGS.TS. Đoàn Trọng Huy cũng

khẳng định “Nguyên Hồng có nhiều hứng khởi để sáng tạo, đổi mới trên lĩnh vực

văn xuôi. Nghệ thuật ngôn từ phát triển do đi sâu vào đời sống nhiều mặt phong

phú và hết sức sinh động”. Từ góc nhìn của một nhà đạo diễn sân khấu, nghệ sĩ ƣu

20

tú (NSƢT) Đào Quang nhận thấy mối quan hệ gắn bó giữa văn học và sân khấu mà

sáng tác của nhà văn Nguyên Hồng là một ví dụ. Tác giả nhận xét: “Chất kịch và

chất sân khấu đậm đặc trong văn Nguyên Hồng”, “Tiểu thuyết và truyện ngắn của

Nguyên Hồng đầy ắp chất kịch”… “Nhân vật của Nguyên Hồng thường được đặt

trong những tình thế hết sức căng thẳng, buộc phải lựa chọn để tìm sự giải quyết

cho mình... Chính vì vậy, sáng tác của Nguyên Hồng giàu chất kịch và chất sân

khấu” [Chất kịch và chất sân khấu trong văn Nguyên Hồng - 119]… Chính nhờ

chất kịch và chất sân khấu ấy mà văn xuôi Nguyên Hồng không chỉ làm xúc động

những độc giả yêu thích văn chƣơng Nguyên Hồng, mà nó còn “có một sức tác

động và cảm hóa thật thấm thía và mạnh mẽ khôn lường, gần như thôi miên đám

đông khán giả, tạo nên cảm xúc thăng hoa trong thưởng thức của người xem như

từng đợt sóng dâng trào bất tận” [119].

Có thể thấy rằng, đã có khá nhiều ý kiến nhận xét về đặc điểm nhân vật của

Nguyên Hồng, về thành công cũng nhƣ hạn chế trong cách xây dựng nhân vật của

nhà văn. Tuy nhiên các ý kiến đó vẫn là những nhận xét, nhận định chung có tính

khái quát. Các tác giả chƣa đi sâu vào đặc điểm của từng loại nhân vật cũng nhƣ

nghệ thuật xây dựng từng loại nhân vật ấy của Nguyên Hồng - nhất là trong những

sáng tác của ông ở giai đoạn trƣớc năm 1945.

1.2.4. Về không gian và thời gian

Về Thời gian và không gian nghệ thuật trong sáng tác của Nguyên Hồng

trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945, qua khảo sát, chúng tôi thấy không có

nhiều ý kiến về vấn đề này. Tuy nhiên, trong công trình nghiên cứu “Nguyên

Hồng, con người và sự nghiệp” tác giả Nguyễn Đăng Mạnh đã ít nhiều đề cập

đến không gian và thời gian trong sáng tác của Nguyên Hồng. Nhận xét chung về

toàn bộ sáng tác của Nguyên Hồng trƣớc và sau Cách mạng tháng Tám, tác giả đã

khẳng định: “dù ông viết về nơi đâu, thuộc địa chỉ nào, người đọc cũng như cảm

thấy mở ra trước mắt cảnh vật, con người và không khí của thành phố Hải

Phòng”… “Tất cả diễn ra dưới cái nắng chói chang và màu hoa phượng vĩ cũng

rất tiêu biểu cho cảnh sắc của thành phố Hải Phòng” [116, tr. 98,99]. Đây là một

nhận xét rất chính xác về một đặc điểm nổi bật trong các sáng tác của Nguyên

Hồng kể từ những tác phẩm đầu tay trƣớc 1945 cho đến bộ tiểu thuyết Cửa biển

sau Cách mạng.

21

Trong công trình nghiên cứu “Thi pháp hoàn cảnh trong tác phẩm của Ngô

Tất Tố, Vũ Trọng Phụng và Nam Cao”, tác giả Phạm Mạnh Hùng đã đi sâu

nghiên cứu quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh trong văn xuôi hiện thực thời kỳ

1930 - 1945. Trong chuyên luận này, tác giả nhấn mạnh đến “mối quan hệ giữa

tính cách và hoàn cảnh” [79, tr. 7] khi nghiên cứu trào lƣu văn học hiện thực phê

phán. Tác giả đã chú ý nói về yếu tố thiên nhiên, và cho rằng: thiên nhiên “nhiều

khi nó là yếu tố biểu hiện tâm lý. Và đứng ở góc độ hoàn cảnh nghệ thuật, nó có

thể là yếu tố tạo không khí cho hoàn cảnh” [79, tr. 316]. Tuy không trực tiếp bàn

về không gian, thời gian trong sáng tác của Nguyên Hồng, nhƣng những “quan

niệm nghệ thuật về hoàn cảnh” trong Tắt đèn (Ngô Tất Tố), Giông tố (Vũ Trọng

Phụng), Sống mòn và một số truyện ngắn tiêu biểu của Nam Cao - những tác

phẩm của các tác giả cùng khuynh hƣớng, cùng thời với Nguyên Hồng - là cơ sở

và những gợi ý thiết thực để chúng tôi tìm hiểu về không gian, thời gian nghệ

thuật trong sáng tác của Nguyên Hồng.

Khi nghiên cứu về Chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam nửa đầu

thế kỷ XX, GS.TS. Trần Đăng Suyền cũng chỉ ra sự khác biệt về không gian,

thời gian nghệ thuật trong sáng tác Nguyên Hồng so với các nhà văn cùng thời,

đó là: “không có những xung đột giai cấp như tiểu thuyết của Nguyễn Công

Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố mà là một vùng quê tăm tối, cổ hủ hàng trăm

năm bị giam hãm, trói buộc bởi những luật lệ nghiệt ngã, vô lý của lễ giáo phong

kiến” [135, tr. 422]… đó là:“không gian rùng rợn nặng nề với những cảnh cướp

giật, chết người”… không gian của “những nhà chứa nhớp nhúa, tanh tưởi, hôi

hám”… là “không gian của một xã hội gian phi” [135, tr. 423]. Đây là một nhận

xét rất chính xác trên cái nhìn tổng quan về không gian nghệ thuật trong sáng tác

của Nguyên Hồng trong sự đối sánh với các tác giả cùng khuynh hƣớng hiện thực

khác đƣơng thời.

Trong luận án: “Không gian và thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết hiện

thực phê phán 1930 -1945 qua một số tác phẩm tiêu biểu” (2009), tác giả Phạm Hồng Lan đã chọn vấn đề nghiên cứu về không gian và thời gian trong tiểu thuyết

Bỉ vỏ của Nguyên Hồng. Tác giả luận án đã có một số nhận xét cụ thể về đặc điểm thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết này là: “thời gian đêm tối”,(“những sự kiện

của cuộc đời nhân vật chính diễn ra trong đêm tối”) và thời gian này rất “phù hợp với nhân vật hành động” [85, tr. 119,120); cụ thể hơn nữa là: “Thời gian tâm

22

trạng trong Bỉ vỏ là thời gian dằng dặc, lê thê kéo dài vô tận” [85, tr. 129]...

Không gian trong Bỉ vỏ là không gian nông thôn “tăm tối tù đọng và ngột ngạt bởi

những hủ tục lạc hậu”; là không gian thành thị “là nơi cuốn con người vào vòng

quay tội lỗi”... Và “Việc mở rộng không gian nghệ thuật gắn liền với cảm hứng

phân tích xã hội của Nguyên Hồng. Xã hội Việt Nam trước cách mạng chỉ có thể là

môi trường sản sinh ra cái xấu và cái ác, ở trong môi trường đó, con người không

thể giữ được nhân phẩm mà ngược lại bị môi trường làm cho tha hóa. Với sự mở

rộng không gian, dường như Nguyên Hồng đã có ý thức sâu sắc hơn về sự tác

động của môi trường, hoàn cảnh sống lên thân phận con người” [85, tr. 42]. Do

mục đích và giới hạn của mục tiêu nghiên cứu, tác giả luận án cũng mới chỉ dừng

lại ở những nhận xét, những phân tích về không gian, thời gian trong một cuốn tiểu

thuyết tiêu biểu là Bỉ vỏ của Nguyên Hồng, chứ chƣa nghiên cứu tất cả các tác

phẩm khác trong giai đoạn sáng tác trƣớc 1945 của ông.

Tác giả Lê Hồng My trong chuyên luận Lời văn nghệ thuật Nguyên Hồng

cũng nhắc đến không gian trong sáng của Nguyên Hồng, đó là: “không gian sinh

hoạt tăm tối”,“không gian và cảnh vật triền miên trong trạng thái nặng

nề”,“không gian giam cầm đầy đọa con người” [101, tr. 38,39]. Còn nhà đạo diễn

sân khấu - NSƢT Đào Quang bƣớc đầu chỉ ra: “Trong tiểu thuyết và truyện ngắn

của Nguyên Hồng, không gian và thời gian được miêu tả rất chi tiết làm thành môi

trường sống cụ thể, thành khung cảnh sinh động sắc nét của các nhân vật sống và

tồn tại... Không gian ấy là mảnh đất Hải Phòng trước Cách mạng tháng Tám với

những khu phố nghèo, chen chúc người cư ngụ, với những căn nhà lụp xụp, tăm

tối, ngột ngạt là môi trường không gian quen thuộc trong những trang văn đầy ắp

những chi tiết sinh động, chân thực và dạt dào cảm xúc của Nguyên Hồng” [Chất

kịch và chất sân khấu trong văn Nguyên Hồng - 119].

Tóm lại, có thể thấy rằng các nhà nghiên cứu trên đều đã chỉ ra: không gian

nghệ thuật của Nguyên Hồng chủ yếu là không gian Hải Phòng - một không gian

tăm tối ngột ngạt, bế tắc đại diện cho cả một xã hội Việt Nam nói chung trƣớc

Cách mạng tháng Tám. Không gian ấy đã đầy đọa, bủa vây những con ngƣời lao

động bần cùng, đẩy họ xuống tận bùn đen của sự đói rách. Không gian này có tác

dụng hữu hiệu trong nghệ thuật xây dựng tính cách và bản chất nhân vật.

23

1.2.5. Về ngôn ngữ, giọng điệu nghệ thuật

Nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật trong những sáng tác của

Nguyên Hồng trƣớc Cách mạng, chúng tôi thấy rằng đã có các tác giả nhƣ:

Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Đăng Điệp, Chu Nga, Lê Hồng My, Nguyễn Minh

Châu, Linh Thi... đề cập đến ở một số phƣơng diện nhƣ sau:

Nghiên cứu sáng tác của Nguyên Hồng cả hai giai đoạn trƣớc và sau cách

mạng, Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng, giọng điệu văn Nguyên Hồng “ Là giọng văn

thống thiết của một tâm hồn nồng nhiệt” [116, tr. 101], giọng văn “cuồn cuộn, sục

sôi, hăm hở tràn đầy cảm xúc dù là kể việc, vẽ người hay tả cảnh” [116, tr. 100].

Khi đọc Những ngày thơ ấu, tác giả Nguyễn Đăng Điệp đã chỉ ra những

nét đặc sắc trong hồi ký Nguyên Hồng: “Không chỉ viết truyện mà ngay cả với

hồi ký, văn Nguyên Hồng là thứ văn dạt dào xúc cảm. Trên những dòng chữ lấp

lánh ánh lửa lòng nồng ấm, và sau nó là “giọt lệ lớn” của một trái tim dễ xúc

động” [116, tr. 233]… “thứ văn giàu tình cảm, nồng say”… “chất thơ, chất trữ

tình trội át chất phân tích tự sự” [116, tr. 234]. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng

Điệp đã rất tinh tế khi cảm nhận giọng điệu trữ tình đầy xúc cảm qua hồi ký của

Nguyên Hồng. Tác giả Nguyễn Minh Châu cũng đồng quan điểm này khi nhận xét

câu văn Nguyên Hồng có “cái mập mạp khỏe khoắn đầy chất "đời sống cần lao”

của ngay cú pháp” (…) Nguyên Hồng viết văn như một ông lão thợ đấu cứ lễ mễ

vác từng mảng thực tế sự đời mà huỳnh huỵch đắp lên mặt giấy [116, tr. 379)]..

Chu Nga khi viết về quá trình sáng tác của Nguyên Hồng có nhấn mạnh đến giọng

điệu riêng biệt của ông so với các nhà văn khác cùng thời, cùng khuynh hƣớng,

"Tiếng nói mới, riêng biệt của Nguyên Hồng góp vào dòng văn học hiện thực phê

phán về căn bản vẫn là tiếng nói yêu thương, nhân đạo, có phê phán nhưng không

mỉa mai trào lộng như Nguyễn Công Hoan, không chì chiết và đau đớn như Nam

Cao, hay sâu cay nặng nề như Ngô Tất Tố” [116, tr. 158]. Tác giả Chu Nga đã chỉ

ra sự khác biệt về giọng điệu của Nguyên Hồng so với các nhà văn khác cùng

khuynh hƣớng, cùng thời với ông, mà chƣa đi sâu vào từng đặc điểm lời văn cũng

nhƣ giọng điệu của Nguyên Hồng.

Linh Thi cảm nhận đặc điểm câu văn Nguyên Hồng:“câu văn Nguyên

Hồng cứ ngồn ngộn, ngồn ngộn chi tiết, đôi khi được chất lên, được tấp lên, được

24

chằng buộc đến ngốt mắt” [116, tr. 239]... “Đúng là câu văn của Nguyên Hồng lúc

nào cũng như con cá đang thở gấp, lúc nào cũng cựa quậy, phập phồng sự sống,

lấp lánh sự sống” [116, tr. 240], “như một cái cây sum sê, lúc lỉu những thành

phần, như một đoàn tàu chợ” [116, tr. 240]...

Nhìn lại một trong những sáng tác đầu tay của Nguyên Hồng, PGS.TS.

Nguyễn Ngọc Thiện chỉ ra và nhấn mạnh đến giọng điệu “thống thiết” của cuốn

tiểu thuyết tự truyện Những ngày thơ ấu:“Sức sống mạnh mẽ, giọng điệu thống

thiết, đằm thắm, tình cảm tươi mới, trẻ trung, lúc nào cũng biểu hiện ở cường độ

cao, mãnh liệt, cảnh sắc rực rỡ, âm thanh náo động trong văn Nguyên Hồng luôn

có sức thu hút người đọc”, (Những ngày thơ ấu - cuốn hồi ký tự truyện đặc sắc,

mở đầu cho một thể tài của văn học Việt Nam hiện đại - 119).

Cuốn sách chuyên luận của tiến sĩ Lê Hồng My: Lời văn nghệ thuật Nguyên Hồng đã nghiên cứu và tiếp cận sáng tác của Nguyên Hồng từ góc độ: Lời văn nghệ thuật trên phạm vi toàn bộ sáng tác trƣớc và sau Cách mạng tháng Tám của nhà văn. Trong chuyên luận này, tác giả đã phân tích một cách kỹ lƣỡng, chuyên sâu Phương thức tổ chức lời văn nghệ thuật. Đó là “Nguyên tắc cụ thể hóa tới mức tối đa, bão hòa đối tượng phản ánh của lời văn”… tác giả đã phân tích cụ thể các thành phần cơ bản trong lời văn nghệ thuật nhƣ: lời trần thuật, lời đối thoại của nhân vật, lời độc thoại nội tâm… và những phương thức tu từ đặc sắc tạo hiệu quả thẩm mỹ cho lời văn nhƣ: tiếng lóng, biệt ngữ tôn giáo, từ láy, phép điệp ngữ,... trong sáng tác của nhà văn. Đây là một chuyên luận chuyên sâu về một yếu tố trong Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng, đó là Lời văn nghệ thuật của Nguyên Hồng cả hai giai đoạn trƣớc và sau năm 1945. Kết quả nghiên cứu này của tiến sĩ Lê Hồng My là tƣ liệu thiết thực khi chúng tôi nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật của Nguyên Hồng giai đoạn trƣớc năm 1945.

Về nghệ thuật sáng tạo ngôn ngữ của Nguyên Hồng, PGS.TS. Đoàn Trọng Huy [119] cũng khẳng định: “Nguyên Hồng có nhiều hứng khởi để sáng tạo, đổi mới trên lĩnh vực văn xuôi. Nghệ thuật ngôn từ phát triển do đi sâu vào đời sống nhiều mặt phong phú và hết sức sinh động” (Nguyên Hồng, từ cái nhìn thế kỷ)…

Ngoài ra, chúng tôi còn thấy có một số bài nghiên cứu đi vào tìm hiểu những phƣơng diện khác trong sáng tác của Nguyên Hồng nhƣ: Cảm quan tôn giáo trong sáng tác của Nguyên Hồng (Đào Đức Doãn), tác giả này cho rằng:

25

“Trong sự tiếp thu tôn giáo, Nguyên Hồng không bị cuốn đi bởi sự mê muội mà luôn chắt lọc, một sự chắt lọc tự nhiên - lấy phần nhân văn cao cả của nó. Đó là tinh thần tôn giáo hiểu theo nghĩa như là đức tin tuyệt đối về sự hy sinh cao cả (…). Và nhất là lúc nào cũng tin ở con người” [20, tr. 1]. Tiến sĩ Bạch Văn Hợp cũng đồng quan điểm này và cắt nghĩa nguồn gốc cảm hứng thương cảm của Nguyên Hồng là “việc tiếp nhận những ảnh hưởng của tư tưởng bác ái Thiên Chúa giáo ở Nguyên Hồng có quá trình lịch sử và có mức độ đậm, nhạt khác nhau trên từng chặng đường sáng tác. Thời kỳ đầu, sáng tác của Nguyên Hồng có ảnh hưởng của tinh thần bác ái Thiên Chúa giáo trên phương diện nội dung tư tưởng, tình cảm lẫn hình thức biểu hiện. Từ khi tiếp nhận được ánh sáng của lý tưởng Cách mạng, sáng tác của ông chỉ còn dấu vết ảnh hưởng của đạo Thiên Chúa ở hình thức biểu hiện các trạng thái tâm lý nhân vật mà thôi. Mặt khác, có lẽ Nguyên Hồng không hiểu nhiều lắm về những triết lý sâu xa của đạo Thiên Chúa nên sự ảnh hưởng của nó đối với nhà văn rất hồn nhiên và phù hợp với cuộc sống cũng như cá tính của ông. Đó là cái ý nghĩa nhân văn đích thực của Thiên Chúa giáo phù hợp với đạo lý của người lao động mà Nguyên Hồng đã tiếp thu được qua trường học cuộc đời” [78; tr. 6].

Về vấn đề Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng còn một số luận án tiến

sĩ, luận văn thạc sĩ đã quan tâm đề cập đến ở một số phƣơng diện, ví dụ nhƣ:

Luận án tiến sĩ “Sự vận động của dòng văn học hiện thực Việt Nam 1930 -

1945 (qua khảo sát tiểu thuyết và truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố,

Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao)”, tác giả Nguyễn Duy Tờ đã chỉ ra

những đóng góp riêng biệt của các tác giả Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ

Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao - thông qua việc khảo sát và phân tích hai

thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết. Về Nguyên Hồng, tác giả luận án đã đƣa ra

những nhận xét cơ bản về cảm hứng sáng tạo của nhà văn: “Ông viết, ngay từ những

trang văn đầu tay, cuộc sống của đám lưu manh, cảnh sát, mật thám, đĩ điếm... với

những hành vi phản bội, dối lừa... Ngòi bút của ông bị lôi cuốn mạnh mẽ theo chiều

quan sát muốn ghi lấy, chép lấy, không bỏ sót. Nhờ vậy mà Bỉ vỏ và sau đó là

Những ngày thơ ấu không bị khuất lấp sau “thác lũ” của những Giông tố, Số đỏ,

Vỡ đê, Làm đĩ, Kép Tư Bền...” [144, tr. 168]; “Ở hầu hết các nhân vật của ông,

nhân vật chính luôn rơi vào trạng thái tự vấn mình ráo riết, tự vò xé, dằn vặt bản

thân tới tận cùng” [144, tr. 175]. Do phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả luận án

26

chỉ tập trung giới thiệu, khảo cứu, nghiên cứu, phê bình sự vận động của dòng văn

học hiện thực Việt Nam 1930 -1945, và chủ yếu ở thể loại tiểu thuyết, truyện ngắn

của 5 tác giả trên, nên những nhận xét chỉ mang tính khái quát.

Luận án tiến sĩ của tác giả Phạm Hồng Lan “Không gian và thời gian nghệ

thuật trong tiểu thuyết hiện thực phê phán 1930 -1945” (2009), đã nghiên cứu

không gian và thời gian nghệ thuật của tiểu thuyết Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất

Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao. Do đối tƣợng và phạm vi nghiên

cứu, tác giả luận án cũng mới chỉ dừng lại nghiên cứu Không gian và thời gian

nghệ thuật trong một cuốn tiểu thuyết Bỉ vỏ nổi tiếng của Nguyên Hồng, mà chƣa

bao quát đƣợc những đặc điểm về không gian, thời gian nghệ thuật trong toàn bộ

sáng tác của nhà văn.

Luận văn thạc sĩ “Bước đầu tìm hiểu lý tưởng thẩm mỹ trong tiểu thuyết của

Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao” của Nguyễn Thị Thu Hoài

đã khảo sát về lý tưởng thẩm mỹ của các nhà văn hiện thực trong đó có Nguyên

Hồng qua tiểu thuyết xuất sắc Bỉ vỏ. Tác giả luận văn đã nhấn mạnh Bỉ vỏ “là bức

tranh cuộc sống của lớp người dưới đáy xã hội” [60, tr. 58] và “là hiện thực khắc

nghiệt của thành phố Cảng” “đầy cạm bẫy”, “lừa lọc”, “môi trường hỗn độn, vô

luân lý”. Từ đó, tác giả khẳng định: “ca ngợi phẩm chất của người phụ nữ đáng

thương để lên tiếng tố cáo hiện thực nghiệt ngã chính là nét riêng trong lý tưởng

thẩm mĩ của Nguyên Hồng” [60, tr. 71].

Tìm hiểu về “Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Nguyên Hồng trước Cách mạng tháng Tám năm 1945”, luận văn thạc sĩ của tác giả Trần Thị Thanh Yến [171] đã nghiên cứu các kiểu nhân vật của Nguyên Hồng qua thể loại truyện ngắn trước 1945. Tác giả luận văn xác định các kiểu nhân vật của Nguyên Hồng trƣớc Cách mạng là: nhân vật cam chịu, nhân vật vượt lên hoàn cảnh, nhân vật vị tha giàu đức hy sinh. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, tác giả cũng chỉ dừng lại ở sự khu biệt các loại nhân vật, nghệ thuật xây dựng nhân vật (tạo tình huống, miêu tả ngoại hình, hành động, ngôn ngữ…) của Nguyên Hồng ở thể loại truyện ngắn mà chƣa bao quát đƣợc toàn bộ các thể loại sáng tác của nhà văn giai đoạn trƣớc Cách mạng.

Ngoài ra, theo khảo sát của chúng tôi, trên một số báo điện tử và trên một

số tạp chí khoa học cũng có những bài viết về nhà văn Nguyên Hồng, ví dụ nhƣ:

27

- Báo Sài Gòn online, có bài viết: “Nhà văn lớn của người nghèo” của

Đoàn Minh Tuấn 04/11/2008;

- Báo Điện tử VN EXPRESS có bài viết: “Nguyên Hồng, Nhà văn mau nước

mắt” (Quách Liêu), ngày 07/4/2008, nguồn Báo Tổ Quốc.

- Tạp chí Khoa học, Trƣờng Đại học Sƣ phạm thành phố Hồ Chí Minh có bài: “Văn xuôi nghệ thuật của Nguyên Hồng và cội nguồn của lòng thương cảm” của Tiến sĩ Bạch Văn Hợp, số 29, năm 2011...

Nhìn chung, những bài viết trên đều thể hiện thái độ trân trọng, ngƣỡng mộ tài năng và nhân cách Nguyên Hồng. Tuy nhiên, với khuôn khổ bài báo nên chƣa có những bài chuyên sâu về Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng. Qua khảo sát, chúng tôi thấy đáng chú ý nhất là bài báo:“Văn xuôi nghệ thuật của Nguyên Hồng và cội nguồn của lòng thương cảm” của Tiến sĩ Bạch Văn Hợp, số 29, năm 2011. Tác giả bài báo cắt nghĩa nguồn gốc sự thương cảm của Nguyên Hồng trong sáng tác, đó là do: hoàn cảnh gia đình, môi trường sống; tư tưởng bác ái của đạo Thiên chúa; tư tưởng nhân đạo của Chủ nghĩa cộng sản và cá tính nhà văn. Tác giả đã lý giải nguồn gốc sự thƣơng cảm của Nguyên Hồng là do bốn yếu tố nhƣ trên, mà chƣa bao quát Thế giới nghệ thuật của nhà văn.

Đó là những nét khái quát nhất về tình hình nghiên cứu về Nguyên Hồng nói chung và Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng nói riêng ở Việt Nam. Ngoài ra, trong khả năng có hạn của mình, chúng tôi cũng đã cố gắng tìm hiểu việc nghiên cứu Nguyên Hồng và về Thế giới nghệ thuật của ông của các tác giả nƣớc ngoài, nhƣ:

- Trong cuốn Lịch sử Văn học Việt Nam, Giáo sƣ - viện sĩ N.I. NICULIN giới thiệu Lịch sử Văn học Việt Nam nói chung và Văn học Việt Nam giai đoạn 1930 -1945 nói riêng. Trong giai đoạn văn học này, tác giả nêu sơ lƣợc đặc điểm sáng tác của các tác giả thuộc trào lƣu văn học hiện thực phê phán nhƣ: Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao. Về Nguyên Hồng, nhà nghiên cứu ngƣời Nga đã giới thiệu hai sáng tác là tiểu thuyết Bỉ vỏ và truyện ngắn Một người mẹ Trung Quốc. Với Bỉ vỏ, “nhà Việt học” nhận xét: “Chủ đề về những nỗi cơ cực của người phụ nữ bất hạnh được nêu lên trên phương diện đạo đức - tâm lý (…), tác giả nhìn thấy cội nguồn của số phận bi đát của nàng là những điều kiện của cuộc sống xã hội” [103, tr. 749, 750]; với truyện ngắn Một

28

người mẹ Trung Quốc, Giáo sƣ - viện sĩ Niculin nhận định: “Trong thời kỳ Mặt trận bình dân, những tác phẩm của những nhà văn hiện thực đã tham gia tích cực vào công tác công khai của Đảng cộng sản, xuất hiện hình tượng người chiến sĩ đấu tranh cho quyền lợi của nhân dân lao động” [103, tr. 750] mà truyện ngắn Người đàn bà Tàu là một ví dụ điển hình. Câu chuyện “đã trở thành tấm gương sinh động của mối tình đoàn kết quốc tế thắm thiết” [103, tr. 750]. Nhƣ vậy, nhà nghiên cứu cũng chỉ dừng lại ở việc giới thiệu qua hai tác phẩm tiêu biểu của Nguyên Hồng thời kỳ trƣớc Cách mạng.

Bài báo “Sự gặp gỡ giữa nhà văn Hàn Quốc Huyn Jin Geon và nhà văn Việt Nam Nguyên Hồng” của tác giả KangHaNa (Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam số 7&8 năm 2000), tác giả đã vận dụng phƣơng pháp so sánh để tìm hiểu những nét tƣơng đồng về tƣ tƣởng và nghệ thuật trong sáng tác của hai nhà văn hiện thực Huyn Jin Geon (Hàn Quốc) và Nguyên Hồng (Việt Nam). Đó là sự tƣơng đồng “về tư tưởng nhân đạo” [81, tr. 52], “đều sáng tác theo khuynh hướng trữ tình” [81, tr. 56],… “cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm của họ là cảm hứng yêu thương cảm thông, chứ không phải là cảm hứng phê phán (tất nhiên, ý nghĩa phê phán vẫn toát ra từ chính cái hiện thực mà họ miêu tả)” [81, tr. 54], nhƣng cũng có sự khác nhau ở chỗ “cái nhìn của Huyn Jin Geon thiên về khía cạnh bi quan, còn Nguyên Hồng thì đậm màu sắc lạc quan” [81, tr. 53]…

Nhìn lại lịch sử vấn đề nghiên cứu về Nguyên Hồng, chúng tôi thấy: từ năm 1946 đến thời kỳ Đổi Mới (1986), tác phẩm của Nguyên Hồng luôn đƣợc giới nghiên cứu, phê bình chú ý và đánh giá cao về mặt nội dung tƣ tƣởng, trong đó cũng có một số bài nghiên cứu đã đề cập đến những giá trị về nghệ thuật trong các tác phẩm của ông.

Đặc biệt, từ 1986 đến nay, vấn đề Nguyên Hồng vẫn tiếp tục đƣợc giới nghiên cứu, phê bình quan tâm nghiên cứu và ngày càng khám phá ra những giá trị mới, và đã thấy đƣợc những nét đặc sắc cùng những đóng góp quan trọng về mặt nghệ thuật. Đã xuất hiện khá nhiều công trình đi sâu vào nghiên cứu nghệ thuật trong các tác phẩm của ông (chuyên luận: Lời văn nghệ thuật Nguyên Hồng - tác giả Lê Hồng My; Phong cách nghệ thuật Nguyên Hồng - tác giả Bạch Văn Hợp; Không gian và thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết hiện thực phê phán 1930 - 1945, tác giả Phạm Hồng Lan...). Trong những công trình nghiên cứu này, các tác giả đã nhấn mạnh và khẳng định: Nhà văn Nguyên Hồng đã góp phần một cách

29

trực tiếp vào quá trình hiện đại hóa nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Việc nghiên cứu, nhận xét và đánh giá về những sáng tác của Nguyên Hồng đã có một quá trình, đã có một độ lùi về thời gian một cách đáng kể (đã gần 70 năm trôi qua), đã trải qua sự vận động và phát triển của nền văn học dân tộc qua các thời kỳ lịch sử khác nhau, và qua đó những giá trị của những sáng tác của Nguyên Hồng ngày càng đƣợc trân trọng. Hiện nay, Nguyên Hồng và những tác phẩm tiêu biểu của ông vẫn tiếp tục đƣợc đƣa vào giảng dạy trong nhà trƣờng phổ thông và đại học; Vấn đề Nguyên Hồng vẫn đƣợc đƣa ra thảo luận trong các Hội thảo khoa học; Sự nghiệp sáng tác của nhà văn vẫn tiếp tục đƣợc giới nghiên cứu, phê bình văn học quan tâm. Điều đó chứng tỏ rằng, tác phẩm của Nguyên Hồng mang nhiều giá trị, nó là văn chƣơng của mọi thời vì nó đã động chạm đến vấn đề cốt lõi nhất của con ngƣời - đó là quyền sống, quyền tự do, quyền đƣợc hạnh phúc của con ngƣời nói chung, nhất là những con ngƣời lao động nghèo khổ, những con ngƣời nhỏ bé, yếu đuối nhất trong xã hội. Tác phẩm của Nguyên Hồng “sống” đƣợc với thời gian bởi nó xuất phát từ tấm lòng thƣơng yêu, trân trọng con ngƣời của một nhà văn có tấm lòng nhân đạo thiết tha, một chủ nghĩa nhân đạo thống thiết đối với con ngƣời lao động cần lao, đâu khổ.

Nhƣ vậy, khảo sát khoảng trên 50 công trình, bài viết nghiên cứu về

Nguyên Hồng ở các mức độ khác nhau cùng hàng chục luận án, luận văn nghiên

cứu về sáng tác của Nguyên Hồng, chúng tôi nhận thấy: đã có những ý kiến,

những nhận xét về Thế giới nghệ thuật của nhà văn nhƣng nhìn chung mới chỉ

dừng lại ở mức độ là những nhận xét chung, hoặc đi sâu vào một số phƣơng diện

của Thế giới nghệ thuật nhƣ: Lời văn nghệ thuật của Nguyên Hồng, Thế giới

nhân vật trong truyện ngắn của Nguyên Hồng… Cho tới nay, thực sự chƣa có

một công trình chuyên biệt nào nghiên cứu về toàn bộ Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng (kể cả những sáng tác thuộc giai đoạn trƣớc và sau năm 1945).

Chính vì thế, khi thực hiện đề tài này, chúng tôi đã đƣợc thừa hƣởng rất nhiều ý kiến đánh giá, nhận xét quý báu của những nhà nghiên cứu đi trƣớc về con

ngƣời và sự nghiệp sáng tác của Nguyên Hồng, trong đó có những khía cạnh trong thế giới nghệ thuật của ông - nhƣ đã nêu trên. Với đề tài này, chúng tôi sẽ tiến

hành khảo sát toàn bộ sáng tác của Nguyên Hồng, cố gắng nghiên cứu một cách hệ

thống và khá toàn diện về Thế giới nghệ thuật của nhà văn giai đoạn trƣớc 1945.

Và để tránh trùng lặp với những công trình nghiên cứu đi trƣớc, chúng tôi đi sâu

30

tìm hiểu một số phƣơng diện cơ bản trong Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng

nhƣ: Thế giới nhân vật và một số đặc điểm về nghệ thuật xây dựng nhân vật; đặc

điểm về không gian, thời gian nghệ thuật; ngôn ngữ nghệ thuật…trong các sáng

tác của ông giai đoạn trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhằm khẳng định

những sáng tạo, những đóng góp đặc sắc của tác giả ở những phƣơng diện trên qua

Thế giới nghệ thuật của nhà văn. Từ đó chỉ ra một số đặc điểm nổi bật trong Thế

giới nghệ thuật của Nguyên Hồng, khẳng định sự đóng góp có giá trị nhiều mặt

của nhà văn đối với khuynh hƣớng văn học hiện thực phê phán nói riêng và quá

trình vận động và phát triển của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại nói chung - đặc

biệt là ở giai đoạn trƣớc năm 1945.

31

Chƣơng 2 KHÁI NIỆM THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT VÀ NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH NÊN THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT CỦA NGUYÊN HỒNG

2.1. Giới thuyết chung về Thế giới nghệ thuật

Khái niệm "Thế giới nghệ thuật": Nhƣ chúng ta đã biết, quan niệm về

“Thế giới nghệ thuật” trong sáng tác của nhà văn hiện có khá nhiều những quan

niệm khác nhau. Ví dụ nhƣ quan niệm: Thế giới nghệ thuật “Là chỉnh thể của

hình thức văn học” [140, tr. 29]. Việc dùng “thế giới” để chỉ tác phẩm văn học

có cơ sở khoa học bởi “Thế giới” là khái niệm có ý nghĩa sau: 1/Chỉ sự thống

nhất vật chất của các biểu hiện đa dạng; 2/Có tính vô cùng vô tận về không

gian thời gian... 3/Phạm vi tác động tột cùng của các quy luật chung, chứng tỏ

có một trật tự thống nhất cho toàn bộ. 4/Có tính tự đầy đủ về các quy luật nội

tại; 5/ Là một kiểu tồn tại thực tại [140, tr. 29]. Với khái niệm này, ngƣời ta

thƣờng nói tới thế giới vĩ mô, thế giới vi mô, thế giới động vật, thế giới thực vật

theo ý nghĩa trên. Nhà phê bình văn học ngƣời Nga V. Biêlinxki nhận xét:“Mọi

sản phẩm nghệ thuật đều là thế giới riêng, mà khi đi vào nó, ta buộc phải sống

theo các quy luật của nó, hít thở không khí của nó”; nhà văn Sêđơrin cũng nói:

Tác phẩm văn học là vũ trụ thu nhỏ, mỗi sản phẩm nghệ thuật là một thế giới

khép kín trong bản thân nó” (dẫn theo Trần Đình Sử, 140; tr. 29). Theo tác giả

cuốn Dẫn luận thi pháp học, thì: “Thế giới nghệ thuật là một sản phẩm sáng

tạo của con người. Về mặt tâm lý học nó phục tùng quy luật sau: con người

sống trong thế giới khách thể bốn chiều (ba chiều không gian và một chiều thời

gian), nó phải thích nghi với ba chiều không gian và sự biến đổi của thời gian.

Mọi cảm xúc, tri giác đều gắn với thế giới đó, không thể miêu tả sự sống mà

không miêu tả thế giới của con người” [140, tr. 30]. Các tác giả của Từ điển

thuật ngữ văn học quan niệm: Thế giới nghệ thuật là khái niệm chỉ tính chỉnh

thể của sáng tác nghệ thuật (một tác phẩm, một loại hình tác phẩm, sáng tác

của tác giả, một trào lưu)... Thế giới nghệ thuật có không gian riêng, thời gian

riêng, có quy luật tâm lý riêng, có quan hệ xã hội riêng, quan niệm đạo đức,

thang bậc giá trị riêng” [52, tr. 251]. Qua Thế giới nghệ thuật, ngƣời đọc thấy

đƣợc tính độc đáo về tƣ duy nghệ thuật của từng tác giả, tức là thấy đƣợc cá tính

sáng tạo của ngƣời nghệ sĩ:“Khái niệm thế giới nghệ thuật giúp hình dung tính

32

độc đáo về tư duy nghệ thuật của sáng tác nghệ thuật, có cội nguồn trong thế

giới quan, văn hóa chung, văn hóa nghệ thuật và cá tính sáng tạo của người

nghệ sĩ” [52, tr. 252]. Thế giới nghệ thuật còn “là sản phẩm sáng tạo mang tính

cảm tính, có thể cảm thấy được của nghệ sĩ, một kiểu tồn tại đặc thù, vừa trong

chất liệu, vừa trong cảm nhận của người thưởng thức, là sự thống nhất của mọi

yếu tố đa dạng trong tác phẩm” [140, tr. 30].

Từ những quan niệm trên, cho phép ta hiểu Thế giới nghệ thuật chính là

sự thống nhất của các yếu tố: Đề tài, chủ đề, nhân vật, thời gian và không gian

nghệ thuật, ngôn từ và giọng điệu... trong một tác phẩm văn học, tất cả những

yếu tố này tạo nên một Thế giới nghệ thuật trong sáng tác của nhà văn.

Và cũng từ những quan niệm về Thế giới nghệ thuật nhƣ trên, chúng tôi

nhận thấy rằng, khái niệm có tính khái quát hơn cả là khái niệm của các tác giả Từ

điển thuật ngữ văn học. Và đây sẽ là cơ sở lý thuyết, lý luận để chúng tôi vận

dụng trong quá trình nghiên cứu Thế giới nghệ thuật của nhà văn Nguyên Hồng.

Trong các yếu tố tạo nên Thế giới nghệ thuật của nhà văn, chúng tôi chú

ý đến những yếu tố cơ bản sau:

Đề tài: là một yếu tố nghệ thuật của tác phẩm văn học, là khái niệm “chỉ

loại các hiện tượng đời sống được miêu tả, phản ánh trực tiếp trong sáng tác

văn học. Đề tài là phương diện khách quan của nội dung tác phẩm” [52, tr. 96].

Có nhiều loại đề tài nhƣ: đề tài thiên nhiên, đề tài loài vật, đề tài sản xuất, đề tài

chiến đấu, đề tài nông thôn, đề tài thành thị, đề tài công nhân, đề tài nông dân,

đề tài về cuộc sống cá nhân... Các nhà văn thƣờng chọn đề tài phù hợp với nhu

cầu thẩm mỹ, sáng tạo của mình. Ví dụ nhƣ, trƣớc Cách mạng tháng Tám năm

1945, các nhà văn lãng mạn thƣờng chọn viết về loại đề tài tâm lý xã hội, những

truyện tình cảm để phản đối sự khắc nghiệt của lễ giáo phong kiến, đấu tranh

cho quyền tự do yêu đƣơng, quyền sống của con ngƣời; còn các nhà văn cách

mạng hay chọn những đề tài về đấu tranh giai cấp nhằm thức tỉnh mọi ngƣời

đấu tranh để thay đổi xã hội, đấu tranh vì quyền sống, quyền độc lập tự do của

đất nƣớc, con ngƣời. Các nhà văn hiện thực thƣờng chọn đề tài về cuộc sống

của ngƣời lao động nghèo khổ trong xã hội thực dân phong kiến (những ngƣời

nông dân, công nhân, dân nghèo thành thị...) để phê phán xã hội đƣơng thời.

33

Nếu yếu tố "Đề tài" giúp ta xác định: Tác phẩm viết về cái gì? thì khái

niệm Chủ đề lại giải đáp câu hỏi: Vấn đề cơ bản của tác phẩm là gì? Bởi “Chủ

đề và tư tưởng là hạt nhân cơ bản của nội dung tác phẩm… Chủ đề bao giờ

cũng được hình thành và được thể hiện trên cơ sở đề tài” [52, tr. 53]. Chủ đề

thƣờng gặp trong các sáng tác của những nhà văn hiện thực trƣớc Cách mạng

tháng Tám nói chung đều tập trung phản ánh về cuộc sống cơ cực, đói khát, bế

tắc của ngƣời dân lao động nghèo khổ trong xã hội thực dân phong kiến. Chủ đề

mà các nhà văn phản ánh trong tác phẩm thể hiện chiều sâu tƣ tƣởng, khả năng

nắm bắt nhạy bén của các tác giả đối với những vấn đề hiện thực của cuộc sống.

Từ những đề tài cụ thể nhƣ: viết về ngƣời công nhân, viết về ngƣời nông dân,

viết về cuộc sống của những ngƣời lao động nghèo khổ... các nhà văn hiện thực

phê phán đã thể hiện đƣợc những chủ đề mang ý nghĩa khái quát to lớn, sâu sắc:

“Cùng với tư tưởng, chủ đề tạo ra tầm vóc của tác phẩm... Trong nghiên cứu

văn học hiện đại, chủ đề được xem là phạm vi quan tâm chủ quan của nhà văn

đối với thế giới, là hằng số tâm lý của nhà văn, gắn với quan niệm thế giới của

anh ta” [52, tr. 54].

Khi nói đến Thế giới nghệ thuật của nhà văn không thể không kể đến yếu

tố nhân vật. Nhân vật chính là cốt lõi của tác phẩm văn học, là linh hồn của tác

phẩm, là một yếu tố quan trọng làm nên tác phẩm. Nhân vật thể hiện “Quan

niệm nghệ thuật và lý tưởng thẩm mỹ của nhà văn về con người” [52, tr. 203],

“Thể hiện những hiểu biết, những ước ao, những kỳ vọng của con người” [45, tr. 64]

qua sáng tác của nhà văn. Và nhƣ vậy, ta hiểu con ngƣời luôn là đối tƣợng

khám phá đầy phong phú, phức tạp và bí ẩn của văn chƣơng nghệ thuật. Việc

miêu tả con ngƣời với tất cả hình thức, hành vi, tính cách và những trạng thái

tinh thần nhƣ vậy chính là công việc xây dựng nhân vật của nhà văn. Vậy, nhân

vật trong tác phẩm văn học nói chung đƣợc quan niệm nhƣ thế nào?

Theo “Từ điển tiếng Việt” của Viện ngôn ngữ học, năm 1992, thì “Nhân vật

là đối tượng (thường là con người) được miêu tả thể hiện trong tác phẩm nghệ

thuật” [149, tr. 916]. Còn theo các tác giả cuốn Từ điển thuật ngữ văn học thì

nhân vật văn học đƣợc hiểu là: “Con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm

văn học. Nhân vật văn học có thể có tên riêng (...) cũng có thể không có tên riêng

(...). Khái niệm nhân vật văn học có khi được sử dụng như một ẩn dụ, không chỉ

34

một con người cụ thể nào cả, mà chỉ một hiện tượng nổi bật nào đó trong tác

phẩm” [52, tr. 202]. “Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật đầy tính ước lệ,

không thể đồng nhất nó với con người có thật trong đời sống...” [52, tr. 203].

Trong truyện ngắn, truyện dài hay trong văn xuôi nghệ thuật nói chung, nhân

vật có vai trò không thể phủ nhận. Văn học không thể thiếu nhân vật bởi đó là

hình thức cơ bản để qua đó văn học miêu tả thế giới một cách hình tƣợng.

Chẳng hạn các nhà văn hiện thực trƣớc cách mạng tháng Tám năm 1945 chỉ có

thể tái hiện đời sống xã hội thông qua những nhân vật, để khái quát lên thành ý

đồ nghệ thuật của mình. Qua những nhân vật Chị Dậu (Tắt đèn của Ngô Tất

Tố), Chí Phèo, Bá Kiến (Chí Phèo của Nam Cao), Tám Bính (Bỉ vỏ của Nguyên

Hồng), Xuân tóc đỏ (Số đỏ của Vũ Trọng Phụng), Kép Tƣ Bền (Kép Tư Bền

của Nguyễn Công Hoan)… ta thấy rõ đƣợc ý đồ nghệ thuật của nhà văn là: phản

ánh hiện thực đen tối dƣới chế độ thực dân phong kiến, phản ánh nỗi thống khổ

của nhân dân lao động trong xã hội ấy, đồng thời cũng góp thêm tiếng nói phê

phán mang tính phủ nhận xã hội và đòi quyền sống cho con ngƣời - nhất là

những ngƣời lao động nghèo khổ.

Nhƣ vậy, nhân vật văn học có một vai trò rất quan trọng trong tác phẩm

văn chƣơng: “Nhân vật văn học còn thể hiện quan niệm nghệ thuật và lý tưởng

thẩm mỹ của nhà văn về con người. Vì thế, nhân vật luôn gắn chặt với chủ đề

tác phẩm” [52, tr. 203]. Điều đó cũng có ý nghĩa là: với chủ đề cụ thể, thể hiện

những tƣ tƣởng nghệ thuật của mình, nhà văn đã tham gia tích cực vào đời

sống, góp phần giải quyết những vấn đề của xã hội và của nhân sinh. Nhân vật

là một yếu tố quan trọng, không thể thiếu trong tác phẩm văn học, những hình

tƣợng nhân vật sống động bao giờ cũng chứa đựng những quan niệm của nhà

văn về cuộc sống, về con ngƣời. Nếu trong tác phẩm văn học, nhà văn không

khắc họa đƣợc hệ thống nhân vật phù hợp với ý đồ tƣ tƣởng của mình thì sáng

tác ấy trở nên vô nghĩa. Vì thế, khi xây dựng nhân vật các nhà văn bao giờ cũng

có ý đồ nghệ thuật nhất định để thể hiện tƣ tƣởng nghệ thuật của mình. Nam

Cao thƣờng đi sâu vào số phận ngƣời nông dân sau lũy tre làng với những nhân

vật: Chí Phèo (Chí Phèo), Lão Hạc (Lão Hạc)… hoặc cuộc sống của ngƣời trí

thức tiểu tƣ sản với những nhân vật nhƣ: Thứ (Sống mòn), Điền (Trăng sáng)…

để thể hiện nỗi đau trƣớc tình trạng con ngƣời bị chà đạp về tâm hồn và thể xác,

35

bị tha hóa đến mức không giữ nổi nhân tính, nhân phẩm vì miếng ăn trong một

xã hội hết sức bất công, vô lý. Loại nhân vật thƣờng trở đi trở lại trong sáng tác

của Vũ Trọng Phụng là những nhân vật nhƣ: Nghị Hách (Giông tố), Xuân Tóc

Đỏ, Phó Đoan, Cố Hồng (Số đỏ)… Những nhân vật này đƣợc tô đậm những nét

giả dối, tàn bạo, dâm ác, đểu cáng, tráo trở, cơ hội… nhằm thể hiện bản chất

của xã hội thực dân phong kiến và thể hiện tâm trạng phẫn uất, mãnh liệt đối

với xã hội “chó đểu” của một nhà văn “Tài cao, phận thấp, chí khí uất”.

Cũng cần lƣu ý rằng: khi nói đến vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn học, nhà văn thƣờng lấy những nguyên mẫu của con ngƣời trong đời sống để xây dựng nhân vật văn học, song không thể đồng nhất nhân vật văn học với con ngƣời của đời sống, vì nhân vật văn học là sản phẩm của lao động sáng tạo của nhà văn. Bởi “Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật đầy tính ước lệ, không thể đồng nhất nó với con người có thật trong đời sống” [52, tr. 202]. Các nhân vật trong tác phẩm nghệ thuật không phải giản đơn là những bản dập của con ngƣời sống, mà là những hình tƣợng đƣợc khắc họa phù hợp với ý tƣởng của tác giả. Mặt khác, nó còn là quan niệm về thế giới và con ngƣời mà tác giả muốn thể hiện qua tác phẩm. Nhân vật trong truyện ngắn, truyện dài, truyện vừa trong văn xuôi nghệ thuật cũng rất đa dạng, các nhân vật thành công thƣờng là những sáng tạo độc đáo chỉ xuất hiện trong tác phẩm của một nhà văn. Ví dụ nhƣ: hình tƣợng nhân vật Chí Phèo (Nam Cao), nhân vật chị Dậu (Ngô Tất Tố), nhân vật Nghị Hách, Xuân tóc đỏ (Vũ Trọng Phụng), nhân vật Tám Bính (Nguyên Hồng)… Qua những hình tƣợng nhân vật này, ngƣời đọc cũng thấy đƣợc tƣ tƣởng và phong cách nghệ thuật của nhà văn.

Thời gian và không gian nghệ thuật cũng là một yếu tố quan trọng trong thế giới nghệ thuật của nhà văn, bởi "Thời gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của tác giả trên cơ sở tổ chức chất liệu" và: thời gian nghệ thuật “gắn liền với tổ chức bên trong của hình tượng nghệ thuật” - nó là “sự tự cảm thấy của con người trong thế giới”…; "Trong thế giới nghệ thuật, thời gian nghệ thuật xuất hiện như một hệ quy chiếu có tính tiêu đề được dấu kín để miêu tả đời sống trong tác phẩm, cho thấy đặc điểm tư duy của tác giả" [52, tr. 322,323]. Thời gian nghệ thuật chẳng những cho thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm văn học, mà qua đó ngƣời đọc còn cảm thấy đƣợc quan niệm về thế giới, về con ngƣời và cuộc đời, thể hiện ƣớc mơ và lý tƣởng của nhà văn.

36

Còn Không gian nghệ thuật “là hình thức bên trong của hình tượng

nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó” [52, tr. 134]. “Không gian nghệ

thuật gắn với cảm thụ về không gian nên mang tính chủ quan, ngoài không gian

vật thể có không gian tâm tưởng”; “không gian nghệ thuật không chỉ cho thấy

cấu trúc nội tại của tác phẩm văn học, các ngôn ngữ tượng trưng mà còn cho

thấy quan niệm về thế giới, chiều sâu cảm thụ của tác giả hay của một giai

đoạn văn học. Nó cung cấp cơ sở khách quan để khám phá tính độc đáo cũng

như nghiên cứu loại hình của các hình tượng nghệ thuật” [52, tr. 135].

Ngôn ngữ nghệ thuật cũng chính là một yếu tố, một phƣơng diện quan

trọng trong Thế giới nghệ thuật, bởi: “Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học”

(M.Gorki), ngôn ngữ chính là công cụ, là chất liệu cơ bản của văn học. Với khái

niệm “Văn học được coi là loại hình ngôn từ” [52, tr. 215], thì ngôn ngữ là một

trong những yếu tố quan trọng tạo nên Thế giới nghệ thuật của nhà văn. Do đó, khi

nghiên cứu Thế giới nghệ thuật của nhà văn không thể không nghiên cứu những

đặc điểm về ngôn ngữ nghệ thuật của tác giả đó. Khảo sát ngôn ngữ của các nhà

văn hiện thực trƣớc 1945, chúng tôi nhận thấy: các nhà văn hiện thực đều có ý thức

đƣa vào trong tác phẩm của mình ngôn ngữ đời thƣờng rất mộc mạc, giản dị, giàu

hình ảnh gắn với đời sống của nhân nhân lao động. Đó là thứ ngôn ngữ đa dạng, đa

sắc thái, khi là thứ ngôn ngữ tự nhiên, sinh động, hóm hỉnh trong sáng tác của

Nguyễn Công Hoan; là thứ ngôn ngữ sắc sảo mang tính trào phúng sâu cay của Vũ

Trọng Phụng; hay thứ ngôn ngữ chắc nịch và phong phú của Ngô Tất Tố; ngôn

ngữ “bề bộn lấp lánh sự sống” trong văn Nguyên Hồng; ngôn ngữ lạnh lùng sắc

sảo nhƣng đầy sự thƣơng cảm của Nam Cao… Chính thứ ngôn ngữ đa dạng mà

phong phú đó đã góp phần tạo nên nét rất riêng của các nhà văn hiện thực phê

phán Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945.

Tóm lại, có thể thấy rằng: Thế giới nghệ thuật là sự thống nhất chung của

mọi yếu tố nghệ thuật trong tác phẩm văn học. Các yếu tố đó bao gồm: đề tài,

chủ đề, nhân vật, thời gian, không gian và ngôn từ nghệ thuật,... mỗi yếu tố đều

có đặc điểm riêng và tất cả góp phần thể hiện tƣ tƣởng và phong cách nghệ

thuật của nhà văn. Tuy nhiên, khi nghiên cứu về thế giới nghệ thuật của Nguyên

Hồng, chúng tôi tập trung đi sâu vào nghiên cứu ba yếu tố chính, đó là: nhân

vật, không gian, thời gian nghệ thuật và ngôn ngữ nghệ thuật, bởi hai yếu tố:

37

chủ đề và đề tài trong sáng tác của Nguyên Hồng cũng đã đƣợc nhiều ngƣời đề

cập tới và hầu nhƣ đã đƣợc làm rõ, do đó chúng tôi không đi vào hai yếu tố này

trong khuôn khổ luận án của mình.

2.2. Những cơ sở hình thành Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng

Sự nghiệp sáng tác của Nguyên Hồng trƣớc và sau Cách mạng tháng

Tám năm 1945 khá đồ sộ. Ngót 50 năm cầm bút, Nguyên Hồng đã sáng tác

đƣợc hơn 60 tác phẩm, trong đó có những sáng tác đƣợc đánh giá là mang đậm

tính sử thi, đồ sộ và bề thế nhất của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Tác phẩm

của Nguyên Hồng luôn thể hiện sự nhất quán về quan điểm nghệ thuật, đó là:

“Nhà văn luôn đề cao ý nghĩa vai trò của văn chương nghệ thuật, khẳng định ý

nghĩa cao quý của nghề cầm bút”, nhà văn (người nghệ sĩ) phải trung thực,

chân thành trên trang viết, say mê tin tưởng vào cuộc sống; phải cần cù học hỏi

và không ngừng sáng tạo” [134, tr. 134,135]. Quan niệm đó đã tạo nên sự thống

nhất cao độ trong toàn bộ sáng tác của nhà văn từ nội dung phản ánh đến nghệ

thuật biểu hiện. Tuy nhiên, để tìm hiểu đến tận cội nguồn những cơ sở tạo nên

thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng, chúng ta không thể không nhắc tới các

yếu tố nhƣ: xã hội, gia đình và chính bản thân con ngƣời với những tính cách và

tình cảm của chính tác giả.

2.2.1. Hoàn cảnh lịch sử - xã hội

Nguyên Hồng sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh xã hội có nhiều sự kiện

đặc biệt: Đất nƣớc bị xâm lăng, nhân dân sống trong cảnh đói khổ, khốn cùng.

Thực dân Pháp một mặt củng cố bộ máy thống trị, một mặt đẩy mạnh công cuộc

khai thác thuộc địa nhằm vơ vét tài nguyên, khoáng sản đem về làm giàu cho

"Mẫu quốc". Xã hội Việt Nam đang có sự chuyển biến toàn diện và sâu sắc.

Một đất nƣớc sống thuần bằng nông nghiệp vốn lạc hậu đã có nhiều sự thay đổi.

Nhiều khu đô thị mới, nhiều khu công nghiệp khai khoáng mỏ, nhiều đồn điền...

mọc lên. Những giai cấp, tầng lớp mới cũng xuất hiện (vô sản, tƣ sản, tiểu tƣ

sản và tầng lớp dân nghèo thành thị) ngày càng đông đảo. Một lớp công chúng

sinh hoạt theo lối Âu hóa cùng những quan điểm thẩm mĩ mới trong đời sống

văn hóa, văn học mới đã hình thành.

38

Năm 1939, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, thực dân Pháp thẳng tay

đàn áp các phong trào cách mạng, chúng tăng cƣờng chính sách “Kinh tế chỉ

huy” bóc lột sức ngƣời, sức của để cung ứng cho chiến tranh đế quốc. Cuộc

khủng hoảng của nền kinh tế thế giới và thiên tai hoành hành đã tác động nặng

nề đến tình hình kinh tế, xã hội Việt Nam. Năm 1940, đế quốc Nhật nhảy vào

đánh chiếm Đông Dƣơng, thực dân Pháp đầu hàng, nhân dân ta lại phải chịu

cảnh “Một cổ hai tròng" áp bức. Phát xít Nhật bắt dân ta phải nhổ lúa trồng đay,

bông, thầu dầu, thuốc phiện... nộp cho chúng để phục vụ chiến tranh. Vì thế,

đời sống của nhân dân ta vô cùng cực khổ, công nhân bị bóc lột nặng nề (làm

việc từ 12 đến 14 tiếng một ngày); nông dân thì bị tô cao, thuế nặng; trí thức thì

rơi vào tình trạng thất nghiệp; các nhà tƣ sản dân tộc bị chèn ép không ngóc đầu

lên đƣợc... Mâu thuẫn giữa dân tộc ta và thực dân Pháp, giữa quần chúng lao

động và bọn thống trị vốn đã âm ỉ từ lâu, nay càng trở nên sâu sắc, quyết liệt.

Phong trào cách mạng, đặc biệt từ khi Đảng cộng sản Đông Dƣơng ra đời ngày

càng phát triển mạnh mẽ. Phong trào đấu tranh của nhân dân ta diễn ra sôi nổi

khắp nơi, với hàng loạt các cuộc đấu tranh của công nhân các nhà máy Xi măng

Hải Phòng, nhà máy Dệt Nam Định, hãng dầu Xôcôni (Sài Gòn)... đòi tăng

lƣơng, giảm giờ làm, giảm tô thuế...

Từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nền văn hóa, văn học Việt Nam dần

dần thoát khỏi ảnh hƣởng của nền văn hóa phong kiến Trung Hoa, bắt đầu tiếp

xúc với văn hóa phƣơng Tây, đặc biệt là văn hóa Pháp. Những tƣ tƣởng tiến bộ,

nhất là tƣ tƣởng Mácxít đƣợc tiếp nhận qua con đƣờng Tân Thƣ (sách của các

nhà tƣ tƣởng dân chủ sản phƣơng Tây đƣợc dịch sang tiếng Trung Quốc và của

các nhà nho phái Duy Tân Trung Quốc; hoặc là sách báo tiến bộ) đã làm thay

đổi nhận thức không chỉ của lớp thanh niên trí thức mà cả những nhà nho yêu

nƣớc. Lớp thanh niên trí thức Tây học ngày càng đông đảo và đóng vai trò quan

trọng trên lĩnh vực tƣ tƣởng và văn hóa, họ tiếp thu tƣ tƣởng hiện đại của văn

hóa, văn học phƣơng Tây nên có những quan niệm thẩm mỹ mới, khác với

những quan niệm của tầng lớp trí thức Nho học mà đến nay đã trở nên lỗi thời.

Họ đã có những quan niệm mới về cuộc sống, con ngƣời, về thẩm mỹ. Điều đó

dẫn đến một làn sóng văn hóa mới nhằm chống lại tƣ tƣởng “phi ngã” của văn

học trung đại phong kiến, đề cao, đấu tranh cho cái Tôi - cá nhân trong đời sống

39

thời kỳ hiện đại. Vì vậy, vào đầu những năm 1930 mối xung đột cũ - mới trong

xã hội đã trở nên gay gắt và quyết liệt hơn.

Nhƣ đã nói, từ năm 1930, Đảng Cộng sản Đông Dƣơng ra đời và ngày càng

có vai trò to lớn đối với sự phát triển của Cách mạng Việt Nam nói chung, và sự

phát triển của đời sống văn hóa, văn học Việt Nam nói riêng. Đặc biệt, ở thời kỳ

Mặt trận Dân chủ (1936 - 1939), với quan điểm Mác xít chân chính, các nhà văn

cách mạng đã có những tác động rất mạnh mẽ đối với đời sống văn học nƣớc nhà

qua các bài viết, các cuộc tranh luận về bản chất, chức năng và nhiệm vụ của văn

học đối với xã hội, đối với con ngƣời. Tiêu biểu là cuộc tranh luận: “Nghệ thuật vị

nghệ thuật” và “Nghệ thuật vị nhân sinh”. Những nhà văn có quan điểm Mác xít

đã chủ trƣơng: dùng văn học để phục vụ con ngƣời. Chính vì vậy, họ đã kiên quyết

phản bác thứ văn chƣơng “Nghệ thuật vị nghệ thuật”, họ dùng “ngòi bút lột trần

cái xã hội hiện tại để cho dân chúng trông rõ cái nguồn gốc của mọi đau thương

mà tìm lấy con đường sống” (Tạp chí Tao Đàn, ra ngày 16/9/1939).

Một văn kiện quan trọng của Đảng về văn hóa văn nghệ ra đời, đó là cuốn

Đề cương về Văn hóa Việt Nam (1943) - Đây chính là bản cƣơng lĩnh văn hóa đầu

tiên của Đảng ta - đã chỉ rõ đƣờng lối văn nghệ cho văn nghệ sĩ, đó là: xây dựng

nền văn hóa Việt Nam trên ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học và đại chúng. Từ bản

Đề cương về Văn hóa Việt Nam này mà nhiều văn nghệ sĩ đã tìm đƣợc hƣớng đi

đúng đắn cho mình (trong đó có nhà văn Nguyên Hồng). Những hoạt động trên

lĩnh vực văn hóa, văn nghệ của Đảng đã có ảnh hƣởng tích cực và ngày càng sâu

rộng đối với sự phát triển của Văn học Việt Nam thời kỳ này cũng nhƣ về sau.

Cũng từ đầu thế kỷ XX, chữ Quốc ngữ đã hoàn toàn thay thế chữ Nôm. Chữ

Quốc ngữ đƣợc phổ biến rộng rãi đã tạo điều kiện nâng cao dân trí cho mọi ngƣời,

nhất là đối với tầng lớp công chúng thị dân. Cùng với nó, một số những nhà in,

xuất bản theo công nghệ hiện đại ngày càng phát triển. Sách, báo, tạp chí đến với

bạn đọc ngày càng nhiều hơn. Phong trào dịch thuật đầu thế kỷ XX cũng có tác

động khá quan trọng tới sự hình thành và phát triển văn xuôi quốc ngữ. Sự phát

triển của chữ Quốc ngữ đã phần nào làm cho tiếng Việt ngày càng trở nên hiện đại,

uyển chuyển, tinh tế hơn. Tất cả các nhân tố trên đã tạo điều kiện chín muồi cho sự

hình thành nền văn học Việt Nam hiện đại.

40

Nhƣ vậy, từ đầu thế kỷ XX đến năm 1945, văn học Việt Nam từng bƣớc phát

triển theo hƣớng hiện đại hóa, với tốc độ ngày càng mau lẹ. Văn học phát triển đa

dạng hơn, phong phú hơn với sự xuất hiện của nhiều khuynh hƣớng, nhiều trào lƣu

khác nhau nhƣ: trào lƣu văn học cách mạng, trào lƣu văn học lãng mạn, trào lƣu văn

học hiện thực phê phán. Mỗi trào lƣu văn học đều có những đóng góp riêng đối với

sự vận động và phát triển theo xu hƣớng hiện đại của nền văn học nƣớc nhà. Văn

học hiện thực phê phán cũng đã khẳng định đƣợc sự đóng góp to lớn của mình vào

quá trình phát triển và hiện đại hóa văn học Việt Nam. Bởi Chủ nghĩa hiện thực

trong văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX là một trào lƣu văn học lớn. Đó là một

trào lƣu có sức cuốn hút và tập hợp nhiều cây bút đƣơng thời, trong đó có nhiều nhà

văn lớn của văn học hiện đại Việt Nam. Tên tuổi và những tác phẩm xuất sắc của

một số nhà văn hiện thực tiêu biểu nhƣ: Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng

Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao... có sức hấp dẫn đối với nhiều thế hệ ngƣời đọc

không chỉ ở thời điểm hiện tại mà còn cho đến tận hôm nay.

Nguyên Hồng là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc của trào lƣu

văn học hiện thực phê phán. Ngƣời ta nhận thấy rất rõ là: Hiện thực đen tối đầy

máu và nƣớc mắt của xã hội Việt Nam cùng với cuộc sống cơ cực, khốn khổ

của những ngƣời dân lao động giai đoạn trƣớc Cách mạng tháng Tám 1945 là

nguồn cảm hứng chủ đạo trong sáng tác của nhà văn. Thành phố Hải Phòng đầy

khói bụi với bao kiếp ngƣời khổ đau, bất hạnh luôn là đối tƣợng thẩm mỹ trong

sáng tác của tác giả. Nhắc đến một Hải Phòng trong văn học là ngƣời ta nghĩ

ngay đến tên tuổi nhà văn Nguyên Hồng, và ngƣợc lại nhắc đến sự nghiệp sáng

tác của Nguyên Hồng thì không thể bỏ qua những tác phẩm viết về con ngƣời

cũng nhƣ mảnh đất đã góp phần nuôi dƣỡng tài năng văn chƣơng của ông.

Nguyên Hồng không sinh ra tại Hải Phòng, nhƣng những năm tháng đáng nhớ

nhất trong cuộc đời ông đều gắn liền với từng góc phố, bến tàu, bến xe, xƣởng

máy... và những con ngƣời lam lũ cùng khổ nơi đất Cảng, nên Hải Phòng có ý

nghĩa đặc biệt đối với cuộc đời nhà văn. Hải Phòng - một tỉnh duyên hải thuộc

đồng bằng châu thổ sông Hồng, có hải cảng lớn nhất miền Bắc. Hải Phòng vừa

có lợi thế kinh tế đƣờng biển, đƣờng bộ và hàng không. Chính vị trí địa lý thuận

lợi nhƣ vậy đã khiến Hải Phòng trở thành một trung tâm công nghiệp lớn, thu

hút nhiều nhân công lao động của các tỉnh nhƣ: Hà Tây, Hà Nội, Hƣng Yên,

41

Nam Định, Thái Bình... đến sinh sống, lập nghiệp. “Vào những năm cuối thế kỷ

XIX đầu thế kỷ XX dưới thời Pháp thuộc, Hải Phòng cùng với Sài Gòn có vai

trò như những cửa ngõ kinh tế của Liên bang Đông Dương trong giao thương

với Quốc tế vùng Viễn Đông” (Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/Hải Phòng).

Trƣớc năm 1945, Hải Phòng đã trở thành một trong những cái nôi đánh dấu sự

ra đời của giai cấp công nhân và phong trào công nhân Việt Nam đấu tranh

chống lại sự áp bức bóc lột của thực dân Pháp. Hải Phòng cũng là một trong

những trung tâm của phong trào cách mạng cả nƣớc trong các cao trào Cách

mạng: 1930 - 1931, 1936 - 1939 và 1939 - 1945. Hải Phòng trong những năm

tháng đặc biệt ấy, đã có sự ảnh hƣởng không nhỏ đến cảm hứng sáng tạo của

Nguyên Hồng. Viết về những ngƣời nghèo đói, lầm than, bị lăng nhục, bị chà

đạp đến thảm hại để phản ánh, tố cáo xã hội đƣơng thời, và cũng để khẳng định

những bản chất đẹp đẽ, lƣơng thiện của những con ngƣời lao động - Đó là niềm

đam mê và cũng là khát vọng sáng tác của Nguyên Hồng giai đoạn trƣớc Cách

mạng. Đặc biệt là sau khi đƣợc tiếp xúc với báo chí cách mạng, nhƣ: năm 1937,

Nguyên Hồng đƣợc đọc Tuyên ngôn Đảng cộng sản của Các Mác và Ăng ghen,

Vấn đề dân cày của Qua Ninh và Vân Đình, Ngục Kontum của Lê Văn Hiến...

Năm 1943, khi đƣợc tiếp nhận tƣ tƣởng cách mạng trong Đề cương về văn hóa

Việt Nam của Đảng cộng sản, và là một trong những Hội viên đầu tiên của Hội

Văn hóa cứu quốc… thì nhà văn càng hiểu sâu sắc hơn nguyên nhân nỗi khốn

khổ của mọi tầng lớp ngƣời lao động trong xã hội. Điều đó đã giúp Nguyên

Hồng mài sắc thêm ý chí chiến đấu, hƣớng ngòi bút của mình về những con

ngƣời cần lao đau khổ. Nguyên Hồng xứng đáng đƣợc gọi là “Nhà văn chân

chính của những ngƣời cùng khổ”, “Nhà văn của niềm tin và ánh sáng” [134].

Nhƣ đã nói, Nguyên Hồng đã từng sống ở Hải Phòng - một trong những

trung tâm của phong trào đấu tranh đòi quyền dân chủ, đòi quyền sống cho con

ngƣời của nƣớc ta lúc bấy giờ, nên ông đã sớm đƣợc giác ngộ lý tƣởng cách

mạng và đã tham gia vào phong trào Mặt trận Dân chủ. Ánh sáng của lý tƣởng

cách mạng đem đến cho nhiều trang viết của Nguyên Hồng vƣợt qua phạm trù

phản ánh của trào lƣu văn học hiện thực phê phán, gần gũi với nội dung phản

ánh của trào lƣu văn học cách mạng. Có lẽ, trong các nhà văn hiện thực phê

phán giai đoạn 1930 - 1945, ở Nguyên Hồng có sự giao thoa rõ nhất giữa hai

42

khuynh hƣớng văn học: văn học hiện thực phê phán và văn học cách mạng. Vì

vậy, quan điểm nghệ thuật của Nguyên Hồng rất đúng đắn và tiến bộ. Bƣớc vào

nghề văn, ông đã xác định đƣợc ngay con đƣờng và chỗ đứng của mình: “Là

người viết văn trong đám những người nghèo đói, đau khổ và lầm than” (Bước

đường viết văn). Chính vì thế mà hầu nhƣ toàn bộ thế giới nhân vật của ông là

thế giới những ngƣời lao động nghèo khổ, dƣới đáy xã hội, có số phận bất hạnh,

có cuộc đời chứa đầy bi kịch, khổ đau và bế tắc. Đồng thời, Nguyên Hồng cũng

thể hiện rõ quan điểm và mục đích sáng tác: “Tôi sẽ viết về những cảnh đời đói

khổ, về sự áp bức, về nỗi trái ngược, bất công. Tôi cũng sẽ đứng về những con

người bị đày đọa, bị lăng nhục. Tôi cũng sẽ vạch trần ra những vết thương xã

hội, những việc làm lộng hành thời bấy giờ” (Bước đường viết văn). Quan

niệm nghệ thuật đó đã chi phối toàn bộ sáng tác của Nguyên Hồng, tạo ra sự

nhất quán trong tƣ tƣởng nghệ thuật của nhà văn. Đó cũng là một trong những

cơ sở quan trọng tạo nên một Thế giới nghệ thuật riêng biệt mang đậm dấu ấn

Nguyên Hồng trong quá trình sáng tác hơn 50 năm của mình.

2.2.2. Hoàn cảnh gia đình, môi trường sống và hoạt động văn học của Nguyên Hồng

Nguyên Hồng tên thật là Nguyễn Nguyên Hồng, sinh 05 tháng 11 năm

1918 tại Nam Định. Sinh trƣởng trong một gia đình theo đạo Thiên chúa đã

từng có một thời khá giả. Ngƣời cha làm cai ngục nhƣng sau khi mất việc thì sa

vào nghiện ngập, sống cô độc, u uất. Ngƣời mẹ xinh đẹp, hiền dịu, tảo tần,

nhƣng luôn buồn rầu, nặng trĩu ƣu tƣ. Nguyên Hồng không có đƣợc tuổi thơ

tƣơi đẹp trong một gia đình hạnh phúc, bởi: “Hai thân tôi lấy nhau không phải

vì quen biết nhau lâu mà thương yêu nhau. Chỉ vì hai bên cha mẹ, một bên hiếm

muộn cháu và có của, một bên sợ nguy hiểm giữ con gái đẹp trong nhà và muốn

cho người con gái ấy có chỗ nương tựa chắc chắn” (Những ngày thơ ấu).

Ngƣời mẹ của Nguyên Hồng phải sống một cuộc sống nhẫn nhục bên ngƣời

chồng già lạnh lùng, gia trƣởng; sống một cách thầm lặng và đầy buồn tủi ở gia

đình nhà chồng, sống “Như một cái bóng ngắn của bức tường dày mãi mãi thần

phục ở dưới chân để rồi sẽ tan xuống đất nếu ánh sáng soi tắt” (Những ngày

thơ ấu). Cả tuổi ấu thơ Nguyên Hồng phải sống trong bầu không khí bình yên

một cách gƣợng gạo của gia đình, là sự cảm nhận nỗi đau âm thầm, nhẫn nhục,

buồn tủi, chịu đựng của ngƣời mẹ, và trong sự u uất, câm lặng của ngƣời cha…

43

Năm 12 tuổi, chú bé Hồng bị mồ côi cha, mẹ đi bƣớc nữa và phải đi làm ăn xa,

chú sống chủ yếu với bà nội và thƣờng xuyên phải chịu sự hắt hủi của những bà

cô ruột vì “tội” có một ngƣời mẹ chƣa đoạn tang chồng đã đi bƣớc nữa. Đó là

những năm tháng bơ vơ, côi cút, cùng cực, đắng cay nhất của chú bé Hồng:

sống một cuộc đời không có tuổi thơ, thiếu thốn về tất cả - thiếu ăn, thiếu mặc

và đặc biệt thiếu tình thƣơng yêu chăm sóc của ngƣời thân. Trong những nhà

văn hiện thực phê phán trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945, có lẽ hoàn cảnh

của Nguyên Hồng thuộc diện đặc biệt nhất và đáng thƣơng nhất, (Thạch Lam

cũng bị mồ côi cha từ nhỏ nhƣng lại đƣợc sống trong sự đùm bọc của mẹ và chị

trong cảnh gia đình đầm ấm; Vũ Trọng Phụng cũng sớm mồ côi cha, nhƣng

cũng đƣợc bà mẹ đành thân góa bụa nuôi ăn học cho đến ngày khôn lớn...).

Nguyên Hồng cơ cực và cay đắng hơn hơn rất nhiều. Năm 14 tuổi, Nguyên

Hồng đã phải nếm trải cảnh tù tội (vì bảo vệ bà mẹ đẻ bị chú dƣợng đánh đập dã

man, Nguyên Hồng uất ức quá đã chém ông ấy một nhát vào bả vai). Cậu tù trẻ

con cô đơn đau khổ này đã từng phải ôm mặt khóc mỗi khi đi làm “cỏ vê” về,

khóc ngay dƣới gốc cây, bên cạnh xe bò rác và lại vội vội, vàng vàng lấy vạt áo

chùi nƣớc mắt khi thấy ngƣời lạ đi qua. Rồi đến năm 16 tuổi, Nguyên Hồng đã

phải thôi học, rời quê hƣơng và ngƣời bà mộ đạo, theo mẹ và chú dƣợng ra Hải

Phòng để kiếm sống trong xóm chợ nghèo. Cảnh ngộ ấy đã ném Nguyên Hồng

vào môi trường sống của những ngƣời cùng khổ nhất trong xã hội cũ. Nguyên

Hồng phải lăn lộn trong đời sống của những ngƣời dân nghèo thành thị để tự

kiếm sống bằng đủ mọi nghề nơi vƣờn hoa, cổng chợ, bến phà,... chung đụng

với đủ hạng trẻ con hƣ hỏng, làm đủ mọi nghề nhƣ: đi ở, bán báo, bán xôi, bán

chè, bế em hoặc ăn xin, ăn cắp, làm thuê, làm mƣớn... Bản thân Nguyên Hồng

và gia đình cũng phải sống trong túp lều “trông ra vũng nước đen ngầu bọt và

chuồng lợn ngập ngụa phân tro”, nhiều đêm mƣa dầm gió bấc, Nguyên Hồng

và ngƣời chú dƣợng phải nằm “trên một chiếc phản lung lay, hai thân hình

nhọc lả, co quắp trong một chiếc chăn rách mướp”. Rồi phải chịu cảnh thất

nghiệp, muốn sống mà không có việc làm để sống, nhiều lúc Nguyên Hồng đã

bị ám ảnh bởi cái chữ đen tối khủng khiếp: cái chết! Nhƣng mảnh đất Hải

Phòng cần lao đã giúp Nguyên Hồng đứng dậy và cũng chính bởi môi trƣờng

sống đặc biệt đó đã giúp nhà văn am hiểu một cách sâu sắc đời sống xã hội

đƣơng thời, bồi đắp thêm vốn sống về cuộc đời tối tăm, lam lũ của những con

44

ngƣời sống cuộc sống dƣới đáy xã hội, đồng thời có đƣợc niềm tin tƣởng tuyệt

đối vào bản chất tốt đẹp của ngƣời lao động - Điều đó đã mang lại “Sức sống

của một ngòi bút” đầy căm hận và cũng đầy yêu thƣơng của Nguyên Hồng.

Từ hoàn cảnh riêng nhƣ vậy nên Nguyên Hồng luôn khao khát tình

thƣơng, đặc biệt là tình mẫu tử. Hình ảnh và ấn tƣợng về một ngƣời mẹ “hiền

từ” và “đau khổ” trong ký ức Nguyên Hồng đã có ảnh hƣởng sâu sắc khi nhà

văn viết về nhân vật ngƣời phụ nữ. Mọi nỗi khổ, nỗi oan ức của cuộc đời đều đã

đƣợc nhà văn đặt vào số phận ngƣời phụ nữ. Đã có nhiều nhà văn viết về tình

mẫu tử, nhƣng viết nhiều nhất, viết hay và cảm động phải kể đến Nguyên Hồng.

Nhân vật ngƣời phụ nữ trong sáng tác của Nguyên Hồng “nhiều khi không được

dịu dàng, nhưng bao giờ cũng mang bản chất tốt đẹp. Đức tính phổ biến của họ

là tình mẫu tử được thể hiện như là một bản năng mãnh liệt” [116, tr. 84] và

Nguyên Hồng đã thể hiện rất sâu sắc tình mẫu tử đó.

Hoàn cảnh và cá tính Nguyên Hồng in đậm dấu trong sáng tác của ông.

Hoàn cảnh sống đặc biệt đã tạo nên cốt cách Nguyên Hồng, ông có một vẻ

ngoài lam lũ, ăn mặc xuềnh xoàng; bản chất con ngƣời ông là bản chất của giới

cần lao. Hoàn cảnh sống đặc biệt của ông đã tạo nên một sự gắn bó sâu nặng

giữa ông với những con ngƣời cùng khổ trong xã hội, “Chất nghèo, chất lao

động đã thấm sâu vào văn chương, vào thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng”

[116, tr. 77]. Nguyên Hồng viết về họ bằng cả một trái tim nhạy cảm, giàu cảm

xúc, giàu tình thƣơng và luôn có một thái độ cảm thông sâu sắc, một sự thƣơng

xót chân thành. Vì vậy, các nhân vật trong sáng tác của Nguyên Hồng thƣờng

đƣợc gọi là loại “nhân vật trái tim”.

Nguyên Hồng sinh trƣởng trong một gia đình theo đạo Thiên chúa ở Nam

Định. Ngay từ nhỏ, Nguyên Hồng đã sống trong một không khí tôn giáo của

quê hƣơng với tiếng chuông nhà thờ ngày ngày ngân nga, với những ngƣời hiền

lành, nhẫn nhịn một lòng hƣớng về Đức Chúa. Bà nội nhà văn vốn là một ngƣời

rất mộ đạo, kính Chúa. Tiếng lầm rầm cầu kinh của bà nội hàng đêm dần dần

thấm sâu vào tâm trí chú bé Hồng, chú cũng hay đƣợc bà cho đi lễ nhà thờ,

đƣợc dạy dỗ theo giáo lý của đạo Thiên chúa. “Lọt lòng mẹ, tôi đã được ôm đến

nhà thờ chịu phép rửa tội và nhận lấy tên Thánh là Jiuminhghê. Rồi năm lên

45

chín, lên mười, bà nội tôi đã khảo tôi đủ các kinh để đi xưng tội lần đầu với một

cha người Tây. Cả đêm ấy tới sáng sau, tôi chỉ được xúc miệng chứ không được

uống nước, rồi cùng bà tôi đến nhà thờ đi lễ chịu mình thánh chúa lần đầu”

(Một tuổi thơ văn). Ngƣời mẹ của Nguyên Hồng sống không hạnh phúc bên

ngƣời chồng già, ốm yếu và cũng đã phải lấy Đức tin Thiên chúa giáo làm chỗ

dựa tinh thần. Nguyên Hồng đã chịu ảnh hƣởng sâu sắc tƣ tƣởng bác ái của

Thiên chúa giáo từ bà và mẹ, bởi tôn giáo đích thực bao giờ cũng hƣớng con

ngƣời đến cõi thiện, đến sự hi sinh vì ngƣời khác. Hình ảnh chúa Jêsu chịu nạn

đóng đinh mình trên cây thánh giá để chuộc tội cho chúng sinh là một biểu

tƣợng vĩ đại và cảm động của tinh thần bác ái của Đạo Thiên chúa. Ý nghĩa

nhân văn ấy phù hợp với đạo lý của ngƣời lao động mà nhà văn đã tiếp thu

đƣợc qua trƣờng học cuộc đời, ít nhiều chi phối ngòi bút sáng tạo nghệ thuật

của ông, đặc biệt là trong cách xây dựng nhân vật. Có thể nói, sự mộ đạo của

ngƣời bà, sự nhẫn nhịn của ngƣời mẹ và nhất tƣ tƣởng bác ái của Đạo Thiên

chúa đã có sự ảnh hƣởng đến tƣ tƣởng và tình cảm của nhà văn Nguyên Hồng.

Cảm quan tôn giáo của Nguyên Hồng cũng là một trong những yếu tố đã có sự

ảnh hƣởng đến Thế giới nghệ thuật của nhà văn: từ cách xây dựng nhân vật

(kiểu nhân vật chịu nạn) đến không gian, thời gian, ngôn ngữ nghệ thuật trong

sáng tác của ông. Điều này chúng tôi sẽ nói kỹ hơn ở các chƣơng sau.

Con đƣờng đến với văn chƣơng, đến với Cách mạng của Nguyên Hồng

có nhiều nét đặc biệt. Hoàn cảnh xã hội, hoàn cảnh gia đình đã ảnh hƣởng sâu

sắc đến nhận thức và tƣ tƣởng của Nguyên Hồng. Nhƣng có lẽ điều tác động

mạnh mẽ nhất đối với Nguyên Hồng là các phong trào đấu tranh của công nhân

và những ngƣời lao động Hải Phòng thời kỳ Mặt trận Dân chủ Đông Dƣơng.

Đây là cơ sở hiện thực đã có ảnh hƣởng tích cực đến nhận thức chính trị, nội

dung tƣ tƣởng trong sáng tác của nhà văn. Nguyên Hồng là một trong số không

nhiều những cây bút hiện thực có may mắn đƣợc tiếp xúc với bản “Đề cương về

văn hóa Việt Nam”, sớm xác định đƣợc hƣớng đi đúng đắn cho ngòi bút của

mình. Phan Cự Đệ nhận xét: “Từ sau năm 1940, nhất là từ khi tham gia tổ chức

Văn hóa Cứu quốc bí mật, tính chất luận chiến nổi lên rất rõ rệt trong các tác

phẩm của Nguyên Hồng” [116, tr. 131]. Tính chất luận chiến ấy nổi bật nhất

trong những tuyên ngôn về nghệ thuật của nhà văn qua các tác phẩm: Cái bào

46

thai, Hai dòng sữa, Một trưa nắng... Nguyên Hồng quan niệm: nghệ thuật phải

bắt rễ vào cuộc sống “Càng đi sâu vào cuộc sống bao nhiêu, ta lại càng nhận

thấy không gì cô độc và nhỏ nhen bằng ta xa người, hay đi lừa người bởi sự

nghèo nàn và ích kỷ của tâm hồn ta”, “Bất cứ một tác phẩm nghệ thuật nào

thiếu những cái đó là không có tất cả” (Cuộc sống).

Từ cuộc sống lầm than đau khổ của mọi tầng lớp nhân dân lao động và từ

chính bản thân mình, Nguyên Hồng đã sớm xác định đƣợc mục đích viết. Anh

nghĩ: “dù có phải chết cũng phải để lại cho cõi đời mà anh yêu mến một cái gì

vừa tinh khiết, trong sáng vừa tha thiết yêu thương nhất của tâm hồn”, “chỉ còn

một cách tồn tại trong cuộc sống bằng cái cao quý trong sạch của văn

chương”. Ngƣời thanh niên ấy nhận thức sâu sắc mối quan hệ chặt chẽ, có ý

nghĩa giữa cuộc sống với văn chƣơng nghệ thuật. Nhà văn xác định: Nghệ thuật

chân chính phải hƣớng vào cuộc sống để tìm nguồn sống “Như rễ cây bám riết

vào lấy lòng đất, càng sâu bao nhiêu, càng vững chắc bấy nhiêu, nảy nở bấy

nhiêu với những màu mỡ không bao giờ vơi cạn”. Cuộc sống luôn vận động,

phát triển nảy nở những mầm sống đang lên “Mới mẻ, hé sáng như những tia

nắng đầu tiên của một ngày bình minh đang lên”. Trong nhiều tác phẩm,

Nguyên Hồng kêu gọi các nhà văn phải chiến đấu vì những ngƣời cùng khổ, tác

phẩm phải cất lên tiếng nói “đòi sữa cho trẻ em”, âm nhạc phải là tiếng “của

những lòng thương yêu, những niềm tha thiết, những trí mạnh mẽ, những ý thức

của con người biết rung động trong sự đau khổ và biết cùng nhau vượt tới

những cõi đời tươi tốt, rộng rãi”. Trong truyện ngắn “Ngọn lửa”, qua suy nghĩ

của nhân vật An, nhà văn đã chỉ rõ mục đích, nhiệm vụ của ngƣời cầm bút:

“Cuộc sống phải được nhìn nhận khác từ đây. Với An, ngòi bút của An tất cả

những khó khăn, đau khổ, đen tối phải là những cái bị đẩy lùi dần, với một tinh

thần mới của An, cuộc sống không phải là những cái cớ để An rên xiết, ủ rũ

nữa. Cuộc sống phải là những cuộc kích thích không ngừng của những tha thiết

yêu thương mới, của những chứa chan tin tưởng mới, làm việc trên mặt đất mà

không ai dám thấy mình tàn héo và chắc chắn phải thay đổi xóa bỏ hết những

đói khổ, đau xót”. Nguyên Hồng khẳng định ngòi bút của nhà văn phải góp

phần làm thay đổi cuộc sống, đẩy lùi cuộc sống đau khổ, đen tối. Nếu trƣớc kia,

nghệ thuật chỉ là nơi nhà văn trút tiếng thở dài ảo não, thì nay nghệ thuật phải vì

47

con ngƣời, đấu tranh cho cuộc sống con ngƣời, đồng thời nghệ thuật còn là nơi

gửi gắm những tình cảm cao đẹp, thể hiện niềm tin tƣởng vào tƣơng lai. Nghệ

thuật phải hƣớng về những con ngƣời cùng khổ để giúp họ “tìm thấy một con

đường, một chân trời êm mát, tốt tươi qua những ngày mưa dầm, nắng lửa”

(Một trưa nắng). Nhƣ vậy, rõ ràng Nguyên Hồng đã có những nhận thức rất

tiến bộ, ông đã nâng cao quan điểm nghệ thuật của chủ nghĩa hiện thực phê

phán lên một tầm cao mới, quan điểm đó gần với quan điểm của văn học cách

mạng. Trong các nhà văn hiện thực, Nguyên Hồng là một trong những nhà văn

đƣợc tiếp xúc với cách mạng sớm nhất, và những sáng tác của ông đã “tiến gần

lại với văn học cách mạng, hay có thể nói, đã giao lưu với văn học cách mạng”

[135, tr. 97].

Ngay từ nhỏ, Nguyên Hồng đã say mê văn chƣơng một cách kỳ lạ, chú bé Hồng thƣờng phải đọc truyện cho bà nội và cha mình nghe. Điều đó đã khiến Nguyên Hồng đã thẩm thấu một cách tự nhiên nội dung và ý nghĩa của những bộ tiểu thuyết Tàu cổ nhƣ: Tây Du ký, Tam Quốc, Thủy Hử, Đông Chu liệt quốc…; những tác phẩm của các tác giả nổi tiếng ở phƣơng Tây nhƣ: Không gia đình (Héc to - Ma lô), Những ngƣời khốn khổ (V. Huy Gô), Ngƣời mẹ (Macxim Gorki)… Và tất nhiên, những câu chuyện truyền thuyết, cổ tích, những vần thơ ca dao, dân ca của dân tộc Việt đã thấm sâu vào tâm trí bé Hồng ngay từ thời thơ ấu. Nguyên Hồng ngƣỡng mộ và cảm phục những tấm gƣơng anh hùng cứu nƣớc nhƣ: Phù Đổng Thiên Vƣơng; Bà Trƣng Trắc, Trƣng Nhị, Ngô Quyền, Lý Thƣờng Kiệt, Đinh Bộ Lĩnh, Trần Quốc Tuấn, Quang Trung,… và Nguyên Hồng cũng thuộc cả tiếng hát của những ngƣời hát rong ngoài đƣờng, Truyện Kiều của Nguyễn Du, Thơ của bà Huyện Thanh Quan... ngay từ khi đi học. Bên cạnh đó, Nguyên Hồng còn đƣợc bà nội “một tủ truyện” kể cho nghe những câu chuyện cổ Tấm Cám, Nhị Khanh, Cúc Hoa, Thạch Sanh… những câu chuyện ấy đã giúp Nguyên Hồng hiểu thêm tình nghĩa thủy chung, nhân hậu của con ngƣời Việt Nam, sự thƣởng phạt công bằng và niềm tin vào bản chất tốt đẹp của ngƣời lao động. Nhƣ vậy, nguồn suối văn học dân gian, những tác phẩm nổi tiếng thế giới đã thấm sâu vào tâm trí chú bé Hồng một cách rất tự nhiên, bồi dƣỡng thêm lòng nhân hậu, tình yêu thƣơng con ngƣời của một trái tim vốn đa cảm nhƣ Nguyên Hồng.

Một sự kiện quan trọng khác có tác động sâu sắc đối với Nguyên Hồng là vào năm 1935 ở Hải Phòng, Nguyên Hồng gặp đƣợc Thế Lữ - chủ soái của

48

phong trào Thơ Mới. Đƣợc “Nhà thơ ngõ Nghè” chỉ bảo tận tình, cộng với tài năng và niềm say mê sáng tác văn học, Nguyên Hồng đã nuôi ƣớc vọng đi vào con đƣờng sáng tác văn chƣơng, lấy văn chƣơng làm lẽ sống cho cuộc đời của mình. Đồng thời, là con ngƣời của lịch sử, của thời đại, đƣợc sống trong không khí đổi mới của văn học giai đoạn 1930 - 1945, Nguyên Hồng cũng chịu ảnh hƣởng của xu hƣớng lãng mạn của phong trào Thơ Mới, của tiểu thuyết Tự lực Văn đoàn nên giai đoạn sáng tác đầu tiên của mình, nhà văn đã có sự ảnh hƣởng rõ nét bút pháp lãng mạn của các nhà thơ, nhà tiểu thuyết lãng mạn đƣơng thời.

Đặc biệt, qua những tác phẩm của văn học Nga nhƣ: Tội ác và trừng phạt

(Đốtxtôiépxki), Thời thơ ấu (M.Goorki), Thơ Puskin... đã ảnh hƣởng sâu sắc

đến Nguyên Hồng. Qua những tác phẩm này, nhà văn ý thức rõ hơn, hiểu sâu

hơn về những nỗi bất công trong xã hội. Cũng từ những tác phẩm này mà

Nguyên Hồng chịu ảnh hƣởng khá rõ nét phƣơng pháp sáng tác và quan điểm

nghệ thuật, cũng nhƣ tƣ tƣởng nhân đạo của M.Goorki. Nhà văn có ý thức tìm

đọc những sách báo tiến bộ của Đảng, có mặt trong đoàn đại biểu quần chúng

Hải Phòng tham dự cuộc biểu tình ở Hà Nội nhân ngày 1 tháng 5 năm 1938.

Nguyên Hồng đã gia nhập Đoàn thanh niên Dân chủ Đông Dƣơng, bị mật thám

bắt giam tại Hải Phòng, bị kết án 6 tháng tù giam, bị đày đi trại giam Bắc Mê

(Hà Giang), sau đó lần lƣợt bị quản thúc tại Nam Định, Hải Phòng. Ở trong tù,

Nguyên Hồng tiếp tục đƣợc giác ngộ ý thức chính trị. Bối cảnh xã hội, hoàn

cảnh gia đình, cảnh ngộ của bản thân đã khiến Nguyên Hồng càng hiểu sâu sắc

thêm cuộc sống của nhân dân trong vòng nô lệ. Từ thế giới của những nhân vật

là những con ngƣời cực khổ, cùng đƣờng, bất lực, dễ sa ngã vào cuộc đời lƣu

manh, gái điếm (Bỉ vỏ, Bảy Hựu, Chín Huyền…), Nguyên Hồng chú ý nhiều

hơn đến giai cấp công nhân, nên tác phẩm của ông xét về nội dung tƣ tƣởng rất

gần với văn học Cách mạng (Những mầm sống, Người đàn bà Tàu,...). Sau

thời kỳ Mặt trận Dân chủ, đặc biệt sau khi ở tù ra, tƣ tƣởng tiến bộ của Nguyên

Hồng phải bộc lộ một cách kín đáo hơn. Nhân vật trong sáng tác của Nguyên

Hồng ở thời kỳ này thƣờng là nhân vật những thanh niên trí thức tiểu tƣ sản

hoặc những nghệ sĩ nghèo, sống gắn bó với nhân dân lao động, khao khát thoát

khỏi cuộc sống hiện tại và tâm hồn luôn tin tƣởng hƣớng về tƣơng lai (Cuộc

sống, Hơi thở tàn, Hai dòng sữa, Buổi chiều xám…).

49

Nhƣ vậy, từ hoàn cảnh riêng đặc biệt cùng với môi trƣờng sống khắc nghiệt

đã tạo nên cốt cách và bản lĩnh Nguyên Hồng, đã định hƣớng thị hiếu thẩm mĩ của

ông, đƣa Nguyên Hồng đến với văn học nhƣ một sự thôi thúc tự bên trong. Tiếp

xúc với di sản văn hóa của dân tộc và nhân loại, đã giúp nhà văn tin yêu hơn vào

bản chất của ngƣời lao động. Chính vì vậy, tác phẩm của Nguyên Hồng luôn thấm

đƣợm tinh thần nhân đạo, chan chứa tình cảm yêu thƣơng và niềm tin trong sáng

vào con ngƣời.

2.2.3. Cá tính Nguyên Hồng

Cũng từ hoàn cảnh xã hội và hoàn cảnh gia đình nhƣ trên đã tạo nên tính

cách và bản lĩnh của Nguyên Hồng. Nguyên Hồng đã phải sống trong một môi

trƣờng phức tạp, sống dƣới đáy xã hội, va chạm với đủ mọi hạng ngƣời, sống

bằng đủ mọi nghề để tồn tại. Trong xã hội cũ, không có gì cực khổ hơn là bị tù

tội, vậy mà nhà văn đã phải đi tù khi mới 14 tuổi và đến năm 21 tuổi (1939) ông

lại phải đi tù lần nữa do hoạt động cách mạng. Trong các nhà văn hiện thực phê

phán nói riêng và các nhà văn Việt Nam nói chung không ai có cảnh ngộ đặc

biệt nhƣ Nguyên Hồng. Đa số các nhà văn cùng thời với Nguyên Hồng đều

sống và sáng tác trong hoàn cảnh khó khăn, nhƣng có lẽ Nguyên Hồng là ngƣời

thấm thía hơn nỗi khổ cực đau đớn của những con ngƣời sống dƣới đáy xã hội

thực dân phong kiến hơn ai hết. Điều đó cắt nghĩa tại sao trong hầu hết sáng tác

của Nguyên Hồng trƣớc Cách mạng, ngƣời đọc thƣờng bắt gặp hình ảnh những

con ngƣời lao động cùng khổ, đói rách, bê tha. Họ là những phu phen tạp dịch

lem luốc; những ngƣời đàn bà buôn thúng bán bƣng gầy gò, mệt mỏi; những

đứa trẻ lả đi vì khát sữa, thiếu ăn... Những con ngƣời ấy, ta đã từng gặp họ

trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam

Cao,… nhƣng trong tác phẩm của Nguyên Hồng, họ hiện lên nhiều hơn, đậm đặc

hơn, lấm lem, bụi bặm, quằn quại và đau đớn hơn. Cuộc đời và tƣ tƣởng sáng tác

của Nguyên Hồng có nhiều nét giống với Macxim Goorki (tuy hai nhà văn có sự

khác nhau về tầm cỡ): Cả hai đều sống cuộc sống không có tuổi thơ, sống lăn lộn

với những ngƣời lao động nghèo khổ dƣới đáy xã hội để kiếm sống, để viết về họ

với một trái tim yêu thƣơng, sự đồng cảm tha thiết và niềm tin vào bản chất hƣớng

50

thiện của con ngƣời. Họ đều là những ngƣời sớm giác ngộ tƣ tƣởng cách mạng. Xã

hội cũ đã dìm họ xuống tận bùn đen, nhƣng bằng tình yêu cuộc sống và nghị lực

phi thƣờng, Macxim Gorki và Nguyên Hồng đã vƣơn tới ánh sáng văn hóa và trở

thành những nhà văn lớn của dân tộc. Trong lịch sử văn học của hai dân tộc Nga,

Việt - họ đều thuộc số những nhà văn dẫn đầu trong việc ngợi ca con ngƣời lao

động, phát hiện thế giới cần lao là một đối tƣợng thẩm mỹ thực sự, đó là những

con ngƣời lao động nghèo khổ nhƣng chứa đựng bao bản chất tốt đẹp. Nguyên

Hồng đã đứng trong lao khổ, sống cuộc đời cùng khổ với những ngƣời khốn khổ

để rồi trở thành một cây bút “Bị ám ảnh đến cùng đời mãn kiếp bởi những số phận

tối tăm” (Nguyễn Đăng Mạnh). Chất dân nghèo, chất lao động đã thấm sâu vào

văn chƣơng, vào Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng. Bản lĩnh của Nguyên

Hồng đƣợc thể hiện ở chỗ: Dù bị cuộc sống xô đẩy đến đâu, cơ cực, đắng cay đến

mức nào, ông vẫn giữ đƣợc tâm hồn trong sáng, thánh thiện của một con ngƣời rất

giàu tình cảm, khát khao tình cảm, trân trọng tình cảm, nên nhà văn nhìn đời,

nhìn ngƣời bằng bằng cặp mắt yêu thƣơng và sự cảm thông sâu sắc.

Không chỉ trong cuộc sống mà cả với văn chƣơng Nguyên Hồng cũng thể

hiện mình là con ngƣời có cá tính và bản lĩnh: Ngay từ những tác phẩm đầu tay,

Nguyên Hồng đã thể hiện đƣợc bản lĩnh nghệ thuật của mình, cuốn tiểu thuyết

tự truyện Những ngày thơ ấu ghi lại những năm tháng tuổi thơ đắng cay, tủi

cực của chú bé Hồng - hình ảnh của chính tác giả. Nhà văn Vũ Ngọc Phan khi

điểm mặt các anh tài thời ấy, đã nhận xét về Nguyễn Tuân: “Chỉ thỉnh thoảng cho

ta biết anh chàng Tuân từng mẩu vụn” [116, tr. 45]; về Thiết Can: “Thiết Can

cũng cho biết cái phần đời đầy tội lỗi nhỏ nhen của ông ta, nhưng ông cho biết

một cách kín đáo ở tên Đông trong tập “Dã tràng”, một tập văn chưa dám mang

rõ hẳn cái danh là tự truyện” [116, tr. 45]; Còn với Nguyên Hồng, Vũ Ngọc Phan

nhận xét: “Trong Những ngày thơ ấu, Nguyên Hồng cho ta biết rõ hẳn một quãng

đời quá khứ của ông. Lối tự truyện này, ở Anh, ở Mỹ, ở Nga, rất thịnh hành;

Nhưng ở nước Việt Nam ta, viết được tôi cho là can đảm lắm…” [116, tr. 45].

Thạch Lam - nhà văn, nhà phê bình tài hoa của Tự lực Văn đoàn phát hiện ra ở cây

bút trẻ tuổi này một cách viết thành thật, thể hiện đƣợc “Những rung động cực

51

điểm của một linh hồn trẻ dại”, “Ông quan sát khéo, chỉ tả những cái gì đáng để

ý. Những tình cảm chân thật, những cảm giác đúng. Người ta mừng rằng với một

đầu đề thường như thế (Đời một cô gái trụy lạc), ông Nguyên Hồng đã khéo đứng

trong phạm vi sự thật và sự cảm thấy, mà không sa vào những câu sáo và hoa mỹ”

(Thạch Lam, Trích Nhận xét giải thƣởng Tự lực Văn đoàn, năm 1937, báo Ngày

nay, 1938).

“Những rung động cực điểm” của một tấm lòng tha thiết yêu thƣơng - cũng

chính là cá tính sáng tạo của nhà văn. Trong cuộc sống đời thƣờng, Nguyên Hồng

là ngƣời dễ xúc động, dễ khóc, đặc điểm về tính cách này đã góp phần tạo nên chất

trữ tình nồng đậm trong sáng tác của nhà văn. Chúng ta hoàn toàn đồng ý với ý

kiến cho rằng “Trong nền văn học Việt Nam, Nguyên Hồng được coi là nhà văn đa

cảm nhất thế kỷ XX” [134, tr. 133].

Nguyên Hồng lao động miệt mài và say mê công việc sáng tạo của mình.

Ông viết về cuộc sống của những con ngƣời cùng khổ bằng cả trái tim giàu cảm

xúc, một vốn sống đầy ắp, một sự khát khao đem tiếng nói yêu thƣơng của mình để

cảm thông, chia sẻ cho những con ngƣời khốn khổ. Nhà văn đã sống một cuộc

sống đầy gian khó nhƣng cũng đầy bản lĩnh, dám chấp nhận những sự thiệt thòi để

có thể sống và cống hiến hết mình cho nghệ thuật. Ông là một nhà văn suốt đời

“Thiết tha với cuộc sống, trân trọng và tin yêu mọi người, chân thực trong sáng

tác” (Kim Lân). Chính vì thế, ông đã tạo dựng nên một Thế giới nghệ thuật mang

đậm dấu ấn, phong cách Nguyên Hồng - một Thế giới nghệ thuật không thể trộn

lẫn với bất kỳ tác giả nào khác. Đúng nhƣ Tuốc-ghê-nhép từng khẳng định: "Cái

quan trọng trong một tài năng văn học là tiếng nói của riêng mình”, tài năng của

Nguyên Hồng chính là việc ông đã tạo ra cho mình một Thế giới nghệ thuật riêng

biệt trong những sáng tác trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945. Thế giới nghệ

thuật ấy cũng đã góp phần khẳng định giá trị hiện thực sâu sắc, giá trị nhân đạo

cao cả và giá trị nghệ thuật lớn trong di sản văn học của nhà văn.

Có thể thấy rằng: Hoàn cảnh lịch sử - xã hội, hoàn cảnh gia đình và cá

tính, tài năng văn học của nhà văn cùng với những trải nghiệm khắc nghiệt của

bản thân trong cuộc sống của những ngƣời lao động nghèo khổ dƣới đáy xã

52

hội - là những yếu tố, những điều kiện quan trọng đã đƣa Nguyên Hồng đến

với văn chƣơng, đã tạo nên một NHÀ VĂN NGUYÊN HỒNG. Đó là nhà văn

của những người khốn khổ, nhà văn của lòng nhân đạo luôn tha thiết yêu thƣơng

cuộc sống - một trong những tên tuổi lớn của trào lƣu văn học hiện thực phê phán

thời kỳ trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945 nói riêng, của nền văn học Việt

Nam hiện đại nói chung. Hay nói một cách khác, từ hoàn cảnh xã hội, hoàn cảnh

đã gia đình, môi trƣờng sống, đã chi phối cảm hứng chủ đạo của Nguyên Hồng ở

từng phƣơng diện trong Thế giới nghệ thuật. Điều này, chúng tôi sẽ nói rõ hơn ở

các chƣơng sau.

53

Chƣơng 3

THẾ GIỚI NHÂN VẬT

3.1. Một thế giới nhân vật phong phú, phức tạp thuộc tầng lớp thị dân và lao động dƣới đáy xã hội

Con ngƣời luôn luôn là đối tƣợng chủ yếu của văn học, vậy quan niệm nghệ

thuật về con ngƣời nói chung đƣợc hiểu nhƣ thế nào? Theo GS Trần Đình Sử trong

Dẫn luận thi pháp học thì: “Quan niệm nghệ thuật về con người là sự lý giải, cắt

nghĩa, sự cảm thấy của con người đã được hóa thân thành các nguyên tắc, phương

tiện, biện pháp thể hiện con người trong văn học, tạo nên giá trị nghệ thuật và

thẩm mỹ cho các hình tượng nhân vật trong đó”[140, tr. 41]. “Quan niệm nghệ

thuật về con người là yếu tố cơ bản, then chốt nhất của một chỉnh thể nghệ thuật,

chi phối tính độc đáo của chỉnh thể ấy” [140, tr. 59]... Tuy nhiên, ở mỗi thời đại,

mỗi trào lƣu văn học, mỗi nhà văn lại có cách biểu hiện quan niệm về con ngƣời

khác nhau - chính điều đó đã tạo nên tính chất phong phú đa dạng của từng trào

lƣu văn học, của từng thời đại văn học. Các nhà văn hiện đại nói chung, các nhà

văn thuộc trào lƣu văn học hiện thực nói riêng giai đoạn đầu thế kỷ XX, đặc biệt

là ở thời kỳ 1930 - 1945 đã rất chú ý đi vào khai thác cái Tôi - cá nhân bên cạnh

cái Ta mang tính cộng đồng, con ngƣời của xã hội bên cạnh con ngƣời của tự

nhiên. Họ đã miêu tả con ngƣời thời kỳ hiện đại trong mối quan hệ xã hội phức

tạp, trong đó con ngƣời vừa là tác nhân đối với xã hội, vừa là sản phẩm của chính

xã hội sinh ra qua thế giới nhân vật phong phú, phức tạp mà mình phản ánh.

Hầu nhƣ những cây bút hiện thực đƣơng thời đều tạo dựng đƣợc cho mình

một thế giới nhân vật riêng. Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố... tập trung phản ánh,

miêu tả con ngƣời trong những mối xung đột giàu - nghèo ở những vùng nông thôn lạc hậu, nơi mà những ngƣời nông dân phải hứng chịu biết bao nhiêu tai hoạ nặng

nề; Vũ Trọng Phụng tập trung miêu tả những cảnh sống đầy giả dối ở thành thị, nhằm lột trần thực chất một xã hội "chó đểu" qua những tấn trò đời đang diễn ra

dƣới mọi dạng vẻ; Nam Cao tập trung miêu tả cuộc sống mòn mỏi, bế tắc cực độ của những ngƣời nông dân sau lũy tre làng và cuộc “sống mòn” của những ngƣời

trí thức tiểu tƣ sản. Còn thế giới nhân vật của Nguyên Hồng là thế giới những con

ngƣời nghèo khổ thuộc tầng lớp thị dân và lao động nghèo khổ, những con ngƣời

khốn cùng dƣới đáy trong xã hội Việt Nam thời kỳ trƣớc cách mạng.

54

Vậy, Nguyên Hồng đã có quan niệm nghệ thuật về con ngƣời nhƣ thế nào?

Điều gì đã tác động đến quan niệm của nhà văn về những con ngƣời ấy?

Nhƣ đã phân tích ở Chƣơng 2, hoàn cảnh xã hội, hoàn cảnh gia đình là một

trong những yếu tố trực tiếp đã ảnh hƣởng không nhỏ đến quan niệm nghệ thuật

của Nguyên Hồng. Nhà văn đã sống trong không khí “cách mạng” của văn học

theo xu hƣớng hiện đại hóa. Ở thời kỳ này, dƣới ảnh hƣởng của nền văn minh

phƣơng Tây các vấn đề về con ngƣời đƣợc đề cập đến với những quan niệm hết

sức mới mẻ. Các tờ báo nhƣ Phụ nữ tân văn, Phụ nữ thời đàm... có đăng nhiều bài

viết về phụ nữ và trẻ em, thể hiện tƣ tƣởng bênh vực quyền sống, quyền tự do,

quyền hạnh phúc của ngƣời phụ nữ; quyền trẻ em đƣợc chăm sóc, nuôi dƣỡng,

đƣợc sống trong tình yêu thƣơng ở gia đình và xã hội, tiêu biểu nhƣ những bài viết

của Phan Khôi, của Đạm Phƣơng nữ sĩ... Những tƣ tƣởng tiến bộ hiện đại này đã

ảnh hƣởng ít nhiều đến quan niệm và tƣ tƣởng nhân đạo của Nguyên Hồng khi viết

về phụ nữ và trẻ em trong xã hội đƣơng thời trong các trang sách của mình.

Nguyên Hồng quan niệm: con ngƣời trƣớc hết phải chính là con ngƣời - con

ngƣời đƣợc sống và tồn tại với các quyền của con ngƣời trong cuộc đời thực. Đó là

con ngƣời bằng xƣơng bằng thịt trên cõi trần, là con ngƣời cá nhân với tất cả

những trạng thái cảm xúc, với đời sống tâm lý đa dạng. Con ngƣời tồn tại với các

mặt đối lập tốt /xấu, cao thƣợng / thấp hèn, ích kỷ / vị tha, vừa nhân ái bao dung lại

vừa nhỏ nhen, ti tiện... Quan niệm này đƣợc bắt nguồn từ chính cuộc sống và cuộc

đời đầy cay đắng tủi cực của nhà văn - một cuộc đời gắn bó sâu sắc với những

ngƣời dân nghèo dƣới đáy xã hội. Từ cuộc sống cần lao của họ, Nguyên Hồng đã

tạo nên một bức tranh cuộc sống hiện thực sinh động đầy màu sắc nhƣng không

kém phần chân thực. Nếu các nhà văn đƣơng thời khi viết về những con ngƣời

dƣới đáy xã hội bằng một tấm lòng cảm thông của ngƣời ngoài cuộc, thì Nguyên

Hồng lại viết về họ bằng sự yêu thƣơng, cảm thông của ngƣời trong cuộc. Vì vậy,

Nguyên Hồng đã tạo dựng cho mình một thế giới nhân vật riêng: thế giới của

những ngƣời lao động nghèo khổ dƣới đáy xã hội ở môi trƣờng thành thị. Đó là

những người bị bần cùng hoá và những kẻ bị tha hoá trong xã hội thực dân phong

kiến đƣơng thời.

Từ những quan điểm sáng tạo nhƣ trên đã chi phối ngòi bút Nguyên Hồng

khi ông xây dựng thế giới nhân vật của mình, đó chính là thế giới của những người

55

nghèo khổ thuộc tầng lớp thị dân và lao động nghèo dưới đáy xã hội. Cụ thể là:

những ngƣời lao động bị bần cùng hóa và tha hóa (những nhân vật phu phen tạp

dịch, những ngƣời công nhân, phu khuân vác ở những bến tàu, bến xe, những

ngƣời đàn bà buôn bán lặt vặt, những em bé phải làm đủ mọi nghề để sống, những

gái điếm, me tây, những trí thức tiểu tƣ sản thất nghiệp, những nhân vật lƣu manh,

trộm cắp...). Qua sáng tác của nhà văn, ngƣời ta thấy số phận bất hạnh, những nỗi

cơ cực khôn cùng của những con ngƣời đƣợc phơi bày một cách cụ thể, đó là:

nghèo đói, gia đình tan nát, mẹ - con, cha - con, vợ - chồng ly tán, sự ngƣợc đãi, sự

đọa đầy, tù tội, chiến tranh… Suốt cuộc đời cầm bút của mình (đặc biệt là giai

đoạn trƣớc cách mạng), Nguyên Hồng đã tập trung toàn bộ sức lực, tâm huyết để

viết về những cảnh đời đau khổ lầm than, để phơi bày bao nỗi oan trái bất công, để

bênh vực, sẻ chia với những con ngƣời lao động nghèo khổ dƣới đáy xã hội này.

Trong thế giới nhân vật của mình, Nguyên Hồng đặc biệt quan tâm đến nhân

vật phụ nữ và trẻ em - đó là những nhân vật yếu đuối nhất, ít có khả năng tự vệ nhất

trong xã hội - vì thế, viết về những nhân vật này nhà văn đã phản ánh đƣợc đến tận

cùng những nỗi đau khổ của con ngƣời trong một xã hội đầy tội ác, bất công.

3.1.1. Những người phụ nữ nghèo khổ, bất hạnh, cùng đường, nổi loạn

Theo thống kê của chúng tôi thì trong hơn 60 sáng tác của nhà văn trƣớc

Cách mạng đã có tới 38 truyện viết về đề tài phụ nữ (chiếm tỷ lệ 62,2%). Điều đó

chứng tỏ sự xuất hiện của loại nhân vật này ở Nguyên Hồng đậm đặc hơn so với

những nhà văn khác. Qua khảo sát, chúng tôi thấy nhân vật phụ nữ của Nguyên

Hồng đƣợc xuất hiện trong tất cả các thể loại sáng tác (truyện ngắn, truyện vừa, tiểu

thuyết, ký) của ông. Những nhân vật phụ nữ này có hai đặc điểm nổi bật, đó là:

Là những con người đau khổ, vất vả, có một cuộc sống cơ cực, bị đánh đập,

chà đạp nhưng vẫn nhẫn nhục, cam chịu và rất bất hạnh vì không có hạnh phúc

gia đình (kiểu nhân vật này đƣợc thể hiện ở 25/38 sáng tác)

Là những người phụ nữ có số phận bất hạnh, bị xã hội dồn đẩy vào chân

tường, cùng đường, bế tắc trở nên phản ứng cực đoan, nổi loạn trở thành những kẻ

giang hồ, lưu manh, tha hóa… (kiểu nhân vật này đƣợc thể hiện ở 9/38 sáng tác).

Với đặc điểm thứ nhất, Nguyên Hồng đã miêu tả một cách rất cụ thể, cặn

kẽ, đa dạng và phong phú cuộc sống nghèo khổ dƣới đáy của họ với bao nỗi bất

56

hạnh khôn cùng. Trƣớc hết, họ bất hạnh vì gánh nặng của cuộc sống nghèo đói,

túng quẫn, ví dụ nhƣ các nhân vật: Mũn (trong Đây bóng tối), Láng (trong Quán

Nải), Vịnh (trong Hàng cơm đêm), Chị Năng (trong Sông Máu)… Cuộc sống đói

nghèo cùng quẫn luôn đè nặng lên đôi vai những ngƣời phụ nữ, quanh năm tảo tần,

đầu tắt mặt tối không lúc nào ngẩng mặt lên đƣợc. Nguyên Hồng thấu hiểu cảnh

ngộ và đau xót cho thân phận họ "người đàn bà Việt Nam cằn cỗi vì cùng khổ, vì

con cái nheo nhóc, vì bị cầm xích bởi những thành kiến, phong tục lễ nghi đè nén

nặng nề đã để tất cả lòng phẫn uất kêu lên trong tiếng khóc những lúc họ không có

thể chịu đựng được" [73, tr. 134]. Biết rằng từ xƣa đến nay, gánh nặng gia đình

luôn dồn cả lên đôi vai gầy yếu của ngƣời phụ nữ, nên Nguyên Hồng bày tỏ sự

cảm thông sâu sắc của mình đối với những số phận bất hạnh của họ (nhƣ những

nhân vật: Vịnh, bác Nấu gái, mụ Đen, Mũn,...).

Người phụ nữ bất hạnh vì phải chịu đựng sự ngược đãi, hành hạ của chính

những ông chồng bế tắc trƣớc cuộc sống, phản ứng cực đoan bằng cờ bạc, rƣợu

chè và quay ra đánh đập vợ, con. Thông thƣờng trong cuộc sống, ngƣời đàn ông

phải là ngƣời trụ cột gia đình, gánh vác công việc lớn, nuôi vợ con - nhƣng trong

sáng tác của Nguyên Hồng thì không phải là nhƣ vậy. Trong nhiều tác phẩm của

nhà văn không thấy bóng dáng của những ngƣời đàn ông, nếu có thì họ cũng bị

động, mờ nhạt, thậm chí họ còn là gánh nặng cho những ngƣời vợ tần tảo, nhẫn

nhục, chịu đựng. Nhân vật bà mẹ (trong Vực thẳm) nuôi chồng rồi cung phụng cả

ngƣời anh chồng không biết bao nhiêu năm, suốt đời bà cứ "nhất nhất vâng theo và

cúi đầu chịu đựng như đối với thần thánh", làm quần quật để nuôi con, để cho

chồng "quần chùng, áo dài, ăn uống thoả thuê rồi rong chơi" [74, tr. 282]. Nhân

vật mụ Mão (trong Người mẹ không con) cũng có số phận khốn khổ nhƣ vậy,

chồng mụ “thấy mình cứ ngoi ngóp mãi trong sự túng thiếu nợ nần rạc rài, và cả

những lúc thua thấy trần trụi mà về… Mão Chột lại đổ cái đen đủi, xúi quẩy lên

đầu mụ vợ, lên sự xấu xí quái gở của mụ” [73, tr. 416]. Thƣờng xuyên mụ Mão bị

chồng đánh đập một cách vô cớ, một cách tàn bạo: “đầu toạc ra, môi vều lên”,

“rồi bị đánh đập thâm tím mình mẩy” [73, tr. 417]. Sự nhẫn nhục chịu đựng của

những ngƣời phụ nữ ấy một phần do bản chất vốn có của họ, do thói quen hi sinh

hết mình vì chồng, vì con, vì gia đình, nhƣng một phần có lẽ là do ảnh hƣởng của

chữ “Nhẫn” trong đạo Thiên Chúa đã chi phối ngòi bút của Nguyên Hồng từ cách

57

lựa chọn đối tƣợng đến cách xây dựng loại nhân vật này chăng (kiểu nhân vật

chịu nạn)? Vì thế, mà hầu hết các nhân vật phụ nữ của Nguyên Hồng thƣờng cứ

phải chịu đựng biết bao nỗi khổ đau, biết bao bất hạnh trong cuộc đời của họ.

Ngoài loại nhân vật “chịu nạn” này, ta còn gặp một kiểu nhân vật phụ nữ

bất hạnh khác, đó là những người phụ nữ bị đẩy vào tình trạng bi đát, khốn cùng,

kết thúc bằng cái chết bi thảm. Đó là những ngƣời phụ nữ nửa điên, nửa dại nhƣ

nhân vật chị của An (trong Ngọn lửa), mới có hăm hai tuổi đầu mà còn còm cõi,

khắc khổ nhƣ mẹ của An, công nợ dồn dập, thiếu thốn đủ đƣờng, làm việc cật lực

mà vẫn túng quẫn, nên "chị thành một hình hài không thể gọi là một cơ thể sống để

chịu những nặng nhọc dầu dãi và cằn cỗi ở cái đời sống này nếu nó cứ thế mãi,

với những thiếu thốn lầm than dày dặc, mà con người không thể nào được gọi là

con người và đời sống còn đáng sống nữa" [73, tr. 375]. Chính sách bóc lột khiến

ngƣời dân phải chịu nhiều tầng áp bức "một cổ hai tròng" khiến ngƣời ta không

chịu nổi, hoá điên, hoá dại nhƣ nhân vật chị Bồng (trong Ngòi lửa). Nguyên Hồng

viết truyện này trƣớc cách mạng tháng Tám năm 1945, tác phẩm đã ẩn chứa một

sức mạnh căm thù, một sức mạnh góp phần làm nên cuộc cách mạng vĩ đại của dân

tộc: đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập tự do và quyền sống cho con ngƣời.

Một số nhân vật phụ nữ của Nguyên Hồng còn bị rơi vào hoàn cảnh tù đầy

thảm khốc trong nhà tù thực dân phong kiến, sống cuộc đời tù tội, bất kể là ở lứa

tuổi nào, bất kể là vì lý do gì, nhƣ: nhân vật bà cụ Vỉ (trong Cát bụi lầm), nhân vật

Hai mƣơi hai (trong Linh hồn), nhân vật những ngƣời đàn bà ở trong tù (trong Tết

của những người đàn bà trong tù). Tết đến - là thời điểm sum họp gia đình, vậy

mà “những người đàn bà hiền lành không biết tội ác là gì, họ đã bị đày ải hàng

giờ trước gió lộng, một chiều cuối đông đầy nước mắt”… “mồng một… mồng hai,

đến mồng ba, mồng bốn, đời của những người đàn bà khốn nạn ấy trong những

ngày đầu xuân vẫn tối tăm, yên lặng trong nhà giam chật hẹp hôi hám” [73, tr.

131]. Trong nhà tù, họ chỉ còn biết cầu nguyện Chúa trời để quên đi những nỗi nhục hình, những trận giá rét mà mình đang phải gánh chịu một cách oan uổng.

Là ngƣời phụ nữ, niềm khao khát chính đáng nhất của họ là đƣợc làm vợ,

làm mẹ đúng nghĩa, nhƣng nhiều nhân vật phụ nữ của Nguyên Hồng lại không

đƣợc hƣởng niềm khao khát chính đáng này. Họ bất hạnh vì không có tình yêu,

hạnh phúc gia đình thực sự, lấy chồng nhƣng không đƣợc chồng yêu, nhƣ nhân vật

58

mẹ bé Hồng (trong Những ngày thơ ấu), Muống (trong Quán Nải), hoặc có con

mà không đƣợc nuôi con nhƣ nhân vật mợ Du (trong Mợ Du); hoặc không thể có

con, nhƣ nhân vật Hai Liên (trong Bỉ vỏ), hoặc phải chịu bao thiệt thòi vất vả để

đƣợc nuôi nấng đứa con riêng của chồng, nhƣ nhân vật mụ Mão (trong Người mẹ

không con). Nguyên Hồng đã khắc sâu những nỗi niềm sâu thẳm ấy, những khao

khát cháy bỏng về tình mẫu tử của họ của họ để tố cáo xã hội đƣơng thời, để mà

cảm thông sâu sắc cho những thân phận bất hạnh khôn cùng đó của những ngƣời

phụ nữ trong xã hội cũ. Viết về loại chủ đề này, ngƣời ta thƣờng nói đến sự gặp gỡ

ở một mức độ nào đó giữa Nguyên Hồng và Thạch Lam. Thạch Lam cũng thƣờng

gợi lại cảnh nghèo khổ rất đáng thƣơng của ngƣời phụ nữ, ví dụ nhƣ: nhân vật Tâm

(trong Cô hàng xén), hay nhân vật mẹ Lê (trong Nhà mẹ Lê)... Song so với Thạch

Lam, Nguyên Hồng viết nhiều hơn, đa dạng hơn, chân thực và trần trụi hơn về

những cảnh đời ngƣời phụ nữ bất hạnh đó. Vì thế mà sức khái quát về đề tài này

của Nguyên Hồng có lẽ cao hơn, và giá trị tố cáo xã hội cũng sâu đậm hơn.

Đặc điểm nổi bật thứ hai trong hệ thống những nhân vật phụ nữ của

Nguyên Hồng là: họ bị dồn đẩy đến tận chân tường, cùng đường và bế tắc, có

những phản ứng cực đoan đã trở thành những kẻ nổi loạn, bị tha hóa rồi trở thành

những kẻ giang hồ, lưu manh, trộm cướp… Nguyên Hồng cũng miêu tả rất thành

công kiểu nhân vật phụ nữ này - những con ngƣời bất hạnh vì nhân phẩm và thể

xác đều bị chà đạp thảm khốc. Họ bị đẩy vào bƣớc đƣờng cùng, vào ranh giới giữa

sự sống và cái chết, giữa nhân phẩm, danh dự và những ham muốn tầm thƣờng,

thậm chí là tội lỗi. Đó là những ngƣời phụ nữ sống ngoài vòng pháp luật nhƣ các

nhân vật: Bảy Hựu (trong Bảy Hựu), Chín Huyền (trong Chín Huyền)…; hay

những ngƣời phụ nữ cùng đƣờng bị đẩy vào nhà chứa, sống cuộc sống cặn bã, ê

chề nhục nhã nhƣ nhân vật Tám Bính, Hai Liên và một số ngƣời phụ nữ khác

(trong Bỉ vỏ)... dẫu muốn trở lại thành những con ngƣời bình thƣờng, họ

cũng“không thể xóa hết được cuộc đời của một con “bỉ vỏ” mà quay lại sống cuộc

sống lương thiện trong xã hội ấy được” (Chín Huyền)...

Tại sao thời kỳ đó ở Hải Phòng lại xuất hiện nhiều loại ngƣời tha hóa, lƣu manh, trộm cƣớp đến thế? Có lẽ nguyên nhân là: “Hải Phòng, một hải cảng sầm uất bậc nhất của Đông Dương, một thành phố công nghệ mở mang, với hơn ba mươi nghìn dân lao động bần cùng ở các tỉnh dồn về, cũng có một đặc điểm là sản xuất được một số “anh chị”, gian ác liều lĩnh không biết là bao nhiêu” [74, tr. 335].

59

Tỷ lệ những ngƣời phụ nữ làm nghề bán dâm chiếm một tỷ lệ khá lớn trong xã hội - điều mà trƣớc đây xã hội Việt Nam không hề có. Nhà văn Vũ Trọng Phụng qua phóng sự Lục xì của mình, đã đƣa ra một con số so sánh, phản ánh thực trạng gái mại dâm ở Hà Nội: “dân Hà Thành có 18 vạn người, có năm nghìn gái mại dâm chính thức, bình quân “cứ 35 người tử tế thì lại có một người làm đĩ”, nếu so với tỉ lệ ở Pari, một thành phố ăn chơi nổi tiếng, thì tỷ lệ gái mại dâm ở Hà Nội cao hơn mười lần” [135, tr. 165]. Nhà báo Phan Khôi cũng lý giải nguyên nhân của hiện tƣợng này trong xã hội với tƣ tƣởng bênh vực ngƣời phụ nữ “Thuở trước người con gái nào đi làm đĩ, người ta cho rằng đồ cẩu trệ, đồ thối thây, có ai thèm kể đến làm chi, huống nữa là đem ra làm thành vấn đề. Nhưng ngày nay thì không thể, bởi sự sống khó khăn quá mà hạng kỹ nữ ngày càng nhiều thêm ra, ta phải nhìn nhận đó là tội lỗi chung của xã hội” [84, tr. 6 - 8]. Thực tế cuộc sống của họ thật là đen tối, thê thảm. Họ bán sức lực, bán nhan sắc, tuổi trẻ và tấm thân của mình và sống ở những khu nhà chứa nhầy nhụa trong một không gian hôi hám, tối tăm, ngộp thở. Hậu quả là nhiều ngƣời trong số họ kiệt sức, ho ra máu rồi chết. Tuy nhiên trong sâu thẳm tâm hồn của họ, đâu đó vẫn ánh lên những thoáng khát vọng muốn từ bỏ cuộc sống tăm tối, tội lỗi của mình để trở về cuộc sống bình yên, lƣơng thiện. Đáng quý nhất ở họ là lòng hy sinh, dám xả thân vì nghĩa cử. Ví dụ nhƣ: nhân vật Tám Bính đã từ bỏ cuộc sống yên ổn với ngƣời chồng mật thám để cứu Năm Sài Gòn, cũng có nghĩa là phải trở về với cuộc đời “bỉ vỏ” mà cô vô cùng ghê sợ, lúc nào cũng muốn dứt bỏ. Chỉ vì một lý do: Năm là ngƣời đàn ông duy nhất đã thƣơng yêu cô một cách chân thành, đã chở che cho cô sau bao ngày phải sống trong một nhà chứa mạt hạng. Hay nhân vật Bảy Hựu (trong Bảy Hựu) cũng vậy! Tuy còn ít tuổi nhƣng để cứu Hai Răng vàng - ngƣời anh mà Bảy Hựu theo từ nhỏ, cô sẵn sàng xả thân mình để giải thoát cho Hai khi bị đối thủ tấn công; Nhân vật Chín Huyền (trong Chín Huyền) mặc dù phải sống trong sự quản thúc, lần hồi nuôi hai đứa con nhỏ, chồng đi tù rồi chết, bản thân lại đang đau yếu, nhƣng thấy Sáu Lẹm cằm bị bắt, với tinh thần nghĩa cử của một con nhà võ sống giang hồ, Chín Huyền đã không ngần ngại ra tay cứu Sáu, cho dù biết mình sẽ lại ngồi tù thay! Tính cách can trƣờng, trọng nghĩa khí của họ có gì phảng phất tính cách của những nhân vật anh hùng ở Lƣơng Sơn Bạc trong Thủy Hử (Thi Nại Am) vậy, lại vừa có cái gì giống nhƣ những nhân vật trong các cuốn tiểu thuyết của M.Goorki khi viết về loại ngƣời lƣu manh sống ngoài vòng pháp luật, sống dƣới đáy xã hội.

60

Hơn ai hết, Nguyên Hồng hiểu sâu sắc nỗi đau khổ và sự ê chề, khốn nạn

của những phụ nữ phải sống bằng nghề mại dâm, phải làm trò chơi cho thiên hạ để

kiếm tiền nuôi thân, nuôi gia đình. Đây cũng là nét khác biệt của Nguyên Hồng so

với những nhà văn khác cùng thời. Nguyên Hồng đặc biệt chú ý đến những ngƣời

phụ nữ đƣợc sinh ra ở nông thôn, bị đẩy ra thành thị và bị trƣợt dài trên con đƣờng

lƣu manh hoá và tha hoá nhƣ nhân vật Tám Bính, Chín Huyền, Bảy Hựu... Với

kiểu nhân vật này, Nguyên Hồng đã rất chú ý miêu tả sự tƣơng phản trong bản chất

và tính cách của họ (giữa cái tốt - xấu, cao thƣợng - thấp hèn...), để làm nổi bật bản

chất lƣơng thiện của con ngƣời cho dù bị hoàn cảnh xô đẩy, phải sống cuộc sống

dữ dằn, tội lỗi, tủi nhục để tồn tại - nhƣng trong sâu thẳm bản chất họ vẫn là

những con ngƣời giàu tình cảm, sống nhân nghĩa và đặc biệt là sẵn sàng hy sinh

tính mạng của mình cho những ngƣời cùng cảnh ngộ. Trong sáng tác của Ngô Tất

Tố, Thạch Lam, ta cũng gặp hình ảnh những ngƣời phụ nữ bất hạnh vì cuộc sống

đen tối, bế tắc, không lối thoát nhƣ nhân vật chị Dậu (trong Tắt đèn của Ngô Tất

Tố), mẹ Lê (trong Nhà mẹ Lê của Thạch Lam), hoặc nhân vật Dần (trong Một

đám cưới), Dì Hảo (trong Dì Hảo), Nhu (trong Ở hiền) của Nam Cao… Tuy

nhiên, những ngƣời phụ nữ khốn khổ này chỉ bị đẩy đến cùng đƣờng vì đói khát

và bế tắc - chứ chƣa bị đẩy vào con đƣờng bị tha hóa, bị lƣu manh hóa nhƣ một

số nhân vật phụ nữ của Nguyên Hồng.

Không chỉ phản ánh một cách sâu sắc những nỗi bất hạnh khôn cùng của

ngƣời phụ nữ Việt Nam trƣớc năm 1945, mà Nguyên Hồng còn miêu tả cụ thể

những đức tính tốt đẹp mang tính truyền thống của họ - đó là tấm chân tình và

lòng yêu thƣơng của tác giả giàu lòng nhân ái này.

Các nhân vật phụ nữ trong tác phẩm của Nguyên Hồng thƣờng là những

người hiền lành, thậm chí rất nhẫn nhục chịu đựng, rất chịu khó, luôn khát khao

hạnh phúc gia đình, muốn được làm vợ, làm mẹ, muốn có một cuộc sống lương thiện

cho dù phải chịu bao khó khăn, vất vả, bao tủi nhục, đày đọa, đớn đau. Đây cũng là

điểm mạnh và điểm khác của ngòi bút Nguyên Hồng so với một số các nhà văn khác

cùng thời, cùng khuynh hƣớng - bởi ông đã đi vào phần sâu thẳm thiêng liêng nhất

của đáy lòng và trái tim ngƣời phụ nữ Việt Nam.

Nhƣ đã nói, hầu hết các nhân vật phụ nữ của Nguyên Hồng đều là những

con ngƣời chịu thƣơng, chịu khó, tảo tần chăm lo cho cuộc sống gia đình, hi sinh

61

hết thảy vì chồng, vì con. Đó là những bà mẹ buôn thúng bán bƣng, đầu tắt mặt

tối để nuôi gia đình “buôn bán rau đậu, trầu cau lần hồi ở các chợ và trên đường

sông Nam Định”, với “những đêm lạnh dài để mà thao thức lo toan, bàn tán vun

đắp cho nhà cửa, cho tuổi già, cho con cái…” [73, tr. 755] nhƣ bà và mẹ bé

Hồng (trong Những ngày thơ ấu); Hay Mũn “người đàn bà yếu đuối nhưng can

đảm”, nuôi một ngƣời chồng mù lòa và bốn đứa con thơ dại (trong Đây, bóng

tối); bác Nấu gái (trong Nhà bố Nấu) "say mê buôn bán đến quên cả ăn, cả ngủ.

Và bác còn bỏ cả ăn, cả ngủ vì nợ… bác không muốn chồng thấy sự thua lỗ

chồng chất trong cái lúc khó khăn, thà một mình bác chịu tất cả mọi nỗi còn hơn

để chồng con hay biết” [73, tr. 270]. Nguyên Hồng hiểu rằng: “Lòng vị tha quí

hóa ấy, người ta chỉ tìm thấy trong những người nghèo, người bị bóc lột, bị đè

nén, những người có bao nhiêu năng lực và đức tính bị dập tắt dưới chế độ xã

hội tàn ác này” [73, tr. 163].

Có một điểm khá đặc biệt là: khi viết về những ngƣời phụ nữ nghèo khổ dƣới

đáy xã hội với biết bao bi kịch của cuộc đời họ, hình nhƣ ngòi bút của Nguyên Hồng

đã chạm đến một vấn đề quan trọng - đó là vấn đề giai cấp và vấn đề Giới. Do nhạy

cảm đặc biệt với thân phận ngƣời phụ nữ, do tiếp thu văn hóa phƣơng Tây, do ảnh

hƣởng của Đạo Thiên chúa giáo... nên Nguyên Hồng nhìn ngƣời phụ nữ không phải

chỉ là nạn nhân của xã hội đƣơng thời mà còn là nạn nhân của chế độ nam quyền,

của những hủ tục ngàn đời của làng quê Việt Nam trong đó có sự thống trị của chế

độ nam quyền dai dẳng có từ thời phong kiến, hay những hủ tục trừng phạt ngƣời

đàn bà mang thai, nạn ngả vạ chè chén... Khi viết về họ, Nguyên Hồng đã đề cập tới

một vấn đề lớn mang tính nhân loại và thời đại - đó là vấn đề gia đình, vấn đề tình

yêu và hôn nhân, vấn đề hạnh phúc cá nhân của những ngƣời phụ nữ - cho dù đó là

những ngƣời phụ nữ nghèo khổ dƣới đáy xã hội.

Hình ảnh ngƣời mẹ của chú bé Hồng (trong Những ngày thơ ấu) là hình

ảnh của ngƣời phụ nữ trẻ, có nhan sắc, sống bên ngƣời chồng già mà mình không

yêu, những ƣớc mơ, những khao khát yêu thƣơng của chị hầu nhƣ không đƣợc

chồng biết đến. Cuộc hôn nhân không có hạnh phúc ấy làm tâm hồn chị “quằn

quại”, “đau đớn”. Tiếng gọi của tuổi trẻ, của tình yêu đôi lứa nhiều lúc làm chị rạo

rực, cặp má ửng hồng “khi gặp cặp mắt long lanh của người đàn ông nọ chiếu

tới”, và chị đã có những buổi chiều dắt con ra sân trƣớc để “đón những tốp lính

62

kia đi qua với tiếng kèn rộn rã tưng bừng” [73, tr. 194]. Vì khát khao tình yêu,

khát khao hạnh phúc gia đình nên một thời gian sau khi chồng chết chị đã đi bƣớc

nữa, nhƣng cũng thật bi kịch. Hạnh phúc riêng tƣ của chị có thể nào trọn vẹn khi

chị phải xa con, đi tha phƣơng cầu thực kiếm ăn, mà trong lòng lúc nào cũng đau

đáu một niềm nhớ con vô hạn?

Không chỉ khát khao hạnh phúc lứa đôi mà nhân vật ngƣời phụ nữ của

Nguyên Hồng còn có sự khát khao sâu thẳm hơn, thiêng liêng hơn, đó là họ luôn

đau đáu khát khao tình mẫu tử. Nhân vật mẹ Hồng (trong Những ngày thơ ấu),

Tám Bính, Hai Liên (trong Bỉ vỏ), Mợ Du (trong Mợ Du), mẹ của Tuyên (trong

Cuộc sống), Bà mẹ Thƣởng (trong Hai mẹ con)... mụ Mão (trong Người mẹ

không con), Muống (trong Quán Nải)... khát khao đƣợc làm vợ, làm mẹ, khát

khao có đƣợc những đứa con để nuôi nấng, để ôm ấp, dù mình phải cực khổ nhƣ

thế nào. Ở họ “Tình mẫu tử như một bản năng mãnh liệt”, và những nhân vật phụ

nữ trong tác phẩm của Nguyên Hồng đều đƣợc khắc họa rất đậm nét mẫu tính ấy.

Tình mẫu tử khiến ngƣời phụ nữ quên đi nỗi nhọc nhằn mà họ đang phải chịu

đựng: Tám Bính (trong Bỉ vỏ) sống cuộc đời trộm cắp, lƣu manh va chạm đủ mọi

thói ô trọc của cuộc đời, nhiều khi sống bằng lừa lọc và tàn nhẫn, vậy mà trong sâu

thẳm tấm lòng mình lúc nào Bính cũng nhớ đến đứa con tội nghiệp của mình đã bị

bán đi. Đứa con, chính là niềm hy vọng để Bính có thể đứng dậy sau mỗi lần bị vùi

dập tả tơi! Nhân vật mụ Mão (trong Người mẹ không con) cũng nhƣ bao ngƣời

phụ nữ khác thấm thía rằng, ngƣời đàn bà không có con thì “phải chịu cái cảnh cô

độc còn ghê gớm hơn là tù tội” [73, tr. 418], mụ bị chồng bỏ, phải đi lấy ông

chồng khác, thƣờng xuyên phải chịu những đánh “thừa sống thiếu chết” của ông

chồng mới cũng vũ phu không kém, nhƣng khi ông ta chết, mụ lại quay về nuôi

nấng đàn con lóc nhóc của ông chồng cũ.

Đối với kiểu nhân vật phụ nữ cùng đƣờng, phải làm những nghề xấu xa nhất

để tồn tại, thì ở họ cũng luôn có một sự khát khao trở về cuộc sống lương thiện,

cuộc sống của những người phụ nữ có chồng, có con, có gia đình ấm cúng. Những

nhân vật nhƣ Tám Bính, Chín Huyền, chị Năng,… cũng vì đói nghèo, bị áp bức,

bóc lột trở nên tha hoá, biến chất, bị xô đẩy vào con đƣờng tăm tối (đĩ điếm), tội

lỗi (ăn cắp, ăn cƣớp, buôn lậu…), nhƣng trong sâu thẳm tâm hồn họ vẫn luôn ánh

lên niềm hi vọng, niềm khát khao đƣợc sống một cuộc sống lƣơng thiện với một

63

gia đình ấm cúng. Nhƣng xã hội dƣờng nhƣ đã chặn đứng những ƣớc mong rất

chính đáng của họ, khiến họ có khi phải chết trong oan ức nhƣ nhân vật chị Năng

(Sông máu), chết thảm nhƣ nhân vật Bảy Hựu (Bảy Hựu), chết nhục nhã, thảm hại

trong những nhà chứa nhƣ một số cô gái trong Bỉ vỏ, hoặc mãi mãi sống trong tù

tội nhƣ nhân vật Chín Huyền (trong Chín Huyền), Tám Bính (trong Bỉ vỏ)... Với

cách xây dựng nhân vật theo kiểu tương phản đối lập (là thủ pháp nghệ thuật quen

thuộc của Nguyên Hồng), nhà văn khẳng định: hoàn cảnh sống thực tại đen tối,

nghiệt ngã, đau khổ, bất hạnh bao nhiêu thì tấm lòng nhân vật vẫn ngời sáng, vẫn

ánh lên nét đẹp của sự vị tha, của tình mẫu tử và của sự hƣớng thiện. Và họ luôn

sống với những khát khao bình dị nhất: đƣợc làm vợ, làm mẹ, đƣợc hi sinh vì

những ngƣời thân yêu nhất của mình!

Khảo sát những sáng tác của Nguyên Hồng từ năm 1939 đến năm 1945, qua

các truyện ngắn: Người đàn bà Tàu (1939), Bà cụ Việt (1945), Hơi thở tàn

(1944)… chúng tôi nhận thấy, từ năm 1939 trở đi, do đã đƣợc tiếp cận với tƣ tƣởng

cách mạng của Đảng, nên khi viết về ngƣời phụ nữ Nguyên Hồng đã phản ánh,

miêu tả họ ở một tầm nhận thức mới. Ở họ, tính nhân đạo gắn với ý thức chính trị.

Những ngƣời phụ nữ nghèo khổ luôn nhẫn nhục cam chịu kia đã có một sự phản

kháng (kể cả trong tƣ tƣởng và hành động). Họ đã “muốn hất tung đi”, thực tại đen

tối đang bủa vây cuộc đời họ. Trong truyện ngắn Cuộc sống (1942) bà mẹ Tuyên

đã yêu thƣơng con, yêu luôn cả bạn bè và lý tƣởng của con, nên khi ngƣời con bị

bắt vì hoạt động chính trị, bà “tuy mênh mông đau khổ nhưng cũng lại man mác

sung sướng” [97, tr. 143]. Đó là một tâm trạng, một suy nghĩ, một lối ứng xử hoàn

toàn mới của ngƣời phụ nữ Việt Nam nghèo khổ ngày đó. Cũng vậy, trong tiểu

thuyết Hơi thở tàn, tác giả cũng đã khắc họa hình ảnh những con ngƣời lao động

dƣới đáy với một góc nhìn khác, ngƣời lao động ở đây không còn chỉ là những con

ngƣời khốn khổ đáng thƣơng nữa, ở họ đã hình thành tinh thần hữu ái giai cấp. Họ

trở thành chỗ dựa cho nhau, bao bọc nhau. Thậm chí họ “dám đối chọi chứ không

chỉ một mực van xin” trƣớc bọn ngƣời áp bức mà nhân vật bà cụ An, bác Năng là

những ngƣời nhƣ thế. Nổi bật trong truyện ngắn Bà cụ Việt, tác giả đã khắc họa

một không khí ngột ngạt, căng thẳng của xã hội Việt Nam trƣớc ngày tổng khởi

nghĩa 1945, hình ảnh bà mẹ nghèo kiên quyết đấu tranh với giặc, tuyên truyền giác

ngộ binh lính, giành lúa gạo về tay nông dân đã đƣợc Nguyên Hồng tô đậm bằng

niềm kính phục vô hạn. Bà cụ Việt đã nêu cao tinh thần đấu tranh với quan niệm:

64

“Càng già yếu lúc này càng phải ra. Bảy tám mươi tuổi đầu rồi có sao tôi cũng

chẳng ân hận gì vì gánh vác được cho dân làng, cho đất nước, để cho các anh em

giai trẻ ở lại… Đằng nào con người ta cũng chết một lần để được mãi mãi tự do

sung sướng, mở mày mở mặt, thì lại càng không nên sợ chết… Chúng ta phải sống

cho ra người. Chúng ta phải nổi lên mà tranh đấu. Hy sinh mà tranh đấu” [73, tr.

631-632]. Tinh thần đấu tranh bất khuất của bà mẹ là nguồn động viên khích lệ dân

làng đoàn kết đứng lên để chống lại bộ máy thống trị tàn bạo của kẻ thù, để giành

quyền sống về mình thật đáng trân trọng biết bao!

Năm 1939, Nguyên Hồng viết truyện ngắn Người đàn bà Tàu phản ánh

phong trào đấu tranh của công nhân Bắc Kỳ, đặc biệt là ở Hải Phòng. Trong truyện

ngắn này, nhà văn đã miêu tả hình ảnh ngƣời đàn bà Tàu giơ nắm tay đấu tranh

quyết liệt: “Tả tào khủng phu... Tả tào khủng phu...” - hình ảnh ấy đã gây ấn

tƣợng mạnh cho ngƣời đọc về một bà mẹ cần lao tha hƣơng, không phân biệt tiếng

nói, quê hƣơng, đã xuống đƣờng cùng nhân dân Việt Nam đấu tranh với bọn bóc

lột để giành quyền sống. Có lẽ Nguyên Hồng là ngƣời đầu tiên trong văn xuôi Việt

Nam gia đoạn trƣớc năm 1945 xây dựng đƣợc hình tƣợng ngƣời phụ nữ công nhân

đấu tranh dũng cảm, chứa đựng tinh thần giai cấp và tinh thần quốc tế vô sản. Đây

cũng là sự tiến bộ trong tƣ tƣởng của nhà văn khi viết về ngƣời phụ nữ nghèo khổ

trong xã hội cũ. Các nhà văn hiện thực khác nhƣ Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan,

Vũ Trọng Phụng, Nam Cao... khi viết về ngƣời phụ nữ thì chúng ta nhận thấy rất

rõ là: các tác giả này mới chỉ dừng lại ở chỗ cảm thông, thƣơng xót và phát hiện ra

vẻ đẹp, lòng vị tha và sự hy sinh hết mình của họ - chứ chƣa thấy đƣợc sức mạnh

phản kháng mạnh mẽ của họ đối với xã hội và khát vọng đứng lên đấu tranh, giành

lại cuộc sống, quyền sống cho mình nhƣ nhân vật ngƣời phụ nữ của Nguyên Hồng.

Tóm lại, nhân vật phụ nữ trong sáng tác của Nguyên Hồng hầu hết là những

ngƣời nghèo khổ, bất hạnh và cuộc đời chịu nhiều bi kịch. Nguyên Hồng đã phản

ánh một cách chân thực đa dạng và sinh động những nỗi khổ khôn cùng của họ,

đồng thời nhà văn cũng đã phát hiện và nâng niu từng chút sáng của lòng vị tha, đức hi sinh cùng với những khát vọng trong tâm hồn của họ (đó là khát vọng đƣợc

làm ngƣời lƣơng thiện, khát vọng đƣợc làm vợ, làm mẹ một cách chính đáng, khát vọng sống một cuộc sống bình dị nhƣ bao ngƣời khác). Điều đó đã thể hiện sự cảm

thông sâu sắc và tấm lòng thƣơng yêu tha thiết của Nguyên Hồng đối với những nhân vật phụ nữ trong sáng tác của mình.

65

3.1.2. Những đứa trẻ nghèo dưới đáy xã hội, “không có tuổi thơ”

Văn xuôi Việt Nam thời kỳ đầu thế kỷ XX đến năm 1945 nói chung, văn

xuôi hiện thực phê phán nói riêng đã có khá nhiều tác phẩm viết về số phận của trẻ

em trong xã hội thực dân phong kiến và đã để lại nỗi xót xa, thƣơng cảm cho bao

thế hệ ngƣời đọc, nhƣ: truyện ngắn:“Hai đứa trẻ” (Thạch Lam), truyện dài Sống

nhờ (Mạnh Phú Tƣ), các truyện ngắn: “Trẻ em không được ăn thịt chó”, “Một

bữa no”, “Một đám cưới” (Nam Cao)... Những tác phẩm trên đều đã thể hiện rõ

thái độ lên án, phê phán quyết liệt đối với xã hội thực dân phong kiến vô nhân đạo

xƣa và tấm lòng thƣơng yêu tha thiết đối với trẻ em - những đối tƣợng mà ở bất cứ

chế độ xã hội nào cũng cần đƣợc nâng niu, yêu quý, bảo vệ và nuôi dƣỡng - của

các nhà văn giàu lòng nhân ái trên. Tuy nhiên viết nhiều và phản ánh một cách

toàn diện, khái quát về cuộc sống thiếu thốn cả về tinh thần và vật chất của trẻ em

nghèo giai đoạn trƣớc cách mạng tháng Tám 1945, thì đầu tiên phải kể đến những

sáng tác của nhà văn Nguyên Hồng. Nguyên Hồng đã viết về những sinh mệnh

đáng thƣơng này bằng cả trái tim, bằng chính những trải nghiệm đầy xót xa trong

thời thơ ấu của mình nên có sức lay động lòng ngƣời hết sức sâu sắc và cảm động.

Qua khảo sát 61 sáng tác của Nguyên Hồng trƣớc cách mạng, chúng tôi

thấy đã có 20 truyện viết về đề tài trẻ em (chiếm tỉ lệ 32,7%), đó là chƣa tính đến

sự xuất hiện của nhân vật trẻ em rải rác trong một số truyện khác. Qua những

sáng tác này, chúng tôi nhận thấy một số đặc điểm nổi bật ở loại nhân vật đáng

thƣơng này nhƣ sau:

Trước hết, đó là những đứa trẻ nghèo, có số phận bất hạnh và “không có tuổi

thơ”, chúng đều là những đứa trẻ nghèo khổ, sống thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh

thần, phải làm đủ mọi nghề để kiếm sống, bị lạm dụng sức lao động một cách tàn

nhẫn, chúng không có quyền và không tự bảo vệ đƣợc mình trong xã hội đen tối

đầy cạm bẫy, bất công. “Những ngày thơ ấu” là một cuốn tiểu thuyết tự truyện

ghi lại những năm tháng ấu thơ đầy tủi cực cay đắng của nhân vật “tôi” - chú bé

Hồng. Mồ côi cha từ năm 12 tuổi, mẹ đi bƣớc nữa và thƣờng phải đi làm ăn xa,

cậu bé thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu tình chăm sóc của ngƣời thân nên đã phải lang

thang khắp đầu đƣờng xó chợ, khắp các vƣờn hoa, bến tàu, bến xe, để làm thuê,

đánh bi, đánh đáo kiếm ăn; phải sống chung đụng với đủ hạng trẻ bơ vơ, đói khát,

66

du đãng trong xã hội thị thành. Một trong những nguyên nhân khiến cho dòng tự

thuật trở thành một tác phẩm xuất sắc chính là Nguyên Hồng đã xây dựng thành

công nhân vật văn học “Chú bé Hồng” - một điển hình về cuộc đời những em bé bất

hạnh trong xã hội cũ, đã khơi gợi ở ngƣời đọc những rung động sâu xa. Cũng qua

cuốn hồi ký này, ta bắt gặp những em bé khác nữa “làm đủ mọi nghề nhỏ mọn” nhƣ:

bán báo, bán xôi, đi ở, bế em hay nhặt bóng thuê, ăn mày, ăn cắp... ở khắp các ngõ

hẻm, vƣờn hoa, cổng chợ, bến phà... Mỗi em mỗi gƣơng mặt, mỗi cảnh ngộ nhƣng

đều giống nhau ở cảnh đói nghèo lam lũ, cơ cực bị đọa đầy, bất hạnh. Trong sáng

tác của Nguyên Hồng trƣớc 8/1945, chúng ta gặp rất nhiều những trẻ em nhƣ vậy,

đó là bé Hồng (trong Những ngày thơ ấu), Tý con, Tần (trong Những mầm non),

Nhân (trong Hai nhà nghề), nhân vật Mũn (trong Đây, bóng tối)...

Nỗi khốn khổ, sự đọa đày tàn nhẫn của xã hội thực dân phong kiến đối với

những trẻ em nghèo đƣợc nhà văn phản ánh một cách đa dạng, cụ thể và sinh động,

mỗi em mỗi hoàn cảnh, mỗi nỗi trái ngang. Đã từng bị đẩy vào nhà tù thực dân từ

khi còn là trẻ con, sống ở một nơi chỉ có thói tàn nhẫn, độc ác, nên không ít lần cậu

bé Hồng - hình ảnh nhà văn - đã từng phải ôm mặt khóc mỗi khi đi làm “cỏ vê” về,

khóc ngay dƣới gốc cây, bên cạnh xe bò rác. Có lẽ do có một tâm hồn đặc biệt

nhạy cảm với nỗi khốn khổ của trẻ em, nên Nguyên Hồng nhiều khi quặn đau ứa

nƣớc mắt khi phải chứng kiến những cảnh giữa gió mƣa, rét mƣớt biết bao trẻ em

khóc nhƣ xé vải ở trong nhà tù thực dân: “Mưa phùn tạnh từ hôm kia, nhưng gió

rét càng thổi mạnh. Da thịt người nhức buốt vì khí lạnh. Con nhỏ của tù đàn bà

khóc suốt đêm. Chúng khát sữa, sữa của mẹ chúng như cạn mất rồi” [73, tr.

142]. Những ngày tết đến, khi mọi ngƣời đƣợc hƣởng sự ấm cúng trong gia đình

của mình, thì những tù nhân trẻ con cùng với những bà mẹ tội nghiệp của chúng

vẫn ở trong tù. Cảnh đọa đày làm cho chúng không những thiếu sữa, mà đến cả

ngủ cũng không đƣợc yên giấc: “Ở trại giam bên kia, trẻ con thức giấc từ lâu

khóc thét mãi lên, những trẻ con ốm yếu của các tù đàn bà vô tội” [73, tr. 152]...

Rồi cuộc sống của chúng sẽ ra sao? Nỗi khổ đau, bất hạnh nào của con ngƣời

cũng đều đáng đƣợc cảm thông, chia sẻ, nhƣng khi nỗi khổ đau bất hạnh ấy giáng

xuống đầu con trẻ, thì tự nhiên và ngay lập tức ngƣời lớn chúng ta cảm thấy đớn

đau và xót xa hơn rất nhiều lần.

67

Trong truyện ngắn Đi nhà văn đã miêu tả cảnh một đoàn ngƣời đói khát bỏ

làng, bỏ xóm ra thành phố để làm bất cứ việc gì, miễn là để có ăn, để giành giật lấy

cuộc sống. Họ cứ đi mà không biết sẽ đến đâu, sẽ chết ở bất cứ nơi nào? Bên

những xác chết la liệt hai bên đƣờng ấy có một ngƣời mẹ đã chết “nằm ưỡn ngực

lên, ngực đã khô cứng đen cóc đen cáy. Ở cái đầu vú to thây lẩy, một đứa bé cứ

rúc vào bú, miệng nó nhay nhay, một tay luồn vào nách, một tay vân vê cái vú lép

hơn. Cái núm thịt chết khô căng lên ấy đã được đứa bé tưởng là còn sữa, đầy sữa,

như người mẹ đã lại được no, nên đứa bé lại cố nún ụt à ụt ịt một cách hăm hở và

lại vân vê một cách sung sướng” [73, tr. 466]. Một hình ảnh thật thƣơng tâm, thật

xót xa, đắng đót. Cảnh tƣợng này đƣợc nhà văn “viết bằng nước mắt, những dòng

nước mắt không có giọt cuối cùng” (Linh Thi) làm đau đớn đến tê dại cả lòng

ngƣời đọc. Đó cũng chính là tiếng kêu thƣơng vút lên từ những số phận khốn cùng

trong xã hội cũ, trong đó có số phận tội nghiệp của những bé em chƣa rời vú mẹ.

Em bé có thể sống sót không khi mẹ em đã chết vì đói, khi bầu vú đã khô đét

không còn giọt sữa? Những câu hỏi nhức nhối xoáy sâu vào lòng ngƣời đọc khiến

cho bao trái tim quặn đau vì xót thƣơng.

Nguyên Hồng tham gia phong trào Mặt trận Dân chủ (1936 -1939) ở Hải

Phòng. Tháng 9 năm 1939, ông bị mật thám bắt và bị đƣa đi trại tập trung ở Bắc

Mê (Hà Giang). Ở trong tù, nhà văn đƣợc tiếp xúc với nhiều chiến sĩ Cách mạng

nên lại càng có điều kiện tiếp nhận lý tƣởng tiến bộ - lý tƣởng cộng sản. Ông đã

hiểu sâu hơn những nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự khốn cùng của tầng lớp dân

nghèo. Vì vậy, vấn đề nhà văn đặt ra qua số phận những nhân vật trẻ em đã đƣợc

nâng lên ở một chiều sâu mới đó là: việc phải cứu lấy trẻ em, cứu lấy những sinh

linh vô tội, cứu lấy thế hệ tƣơng lai của dân tộc trong cảnh khốn cùng này: “Phải

đem sữa lại cho những bà mẹ nhiều con dại ở các nước chiến tranh tàn phá... Phải

trả sữa lại cho những cái miệng bé nhỏ há rộng, lưỡi gần cứng đó, dưới những

bầu vú lép. (...) Sữa! Sữa!... Người ta đương chờ đợi ở một thi sỹ một bài thơ, ở

một nhà văn một trang truyện, kêu đòi sữa cho trẻ em” [73, tr. 187]. Tiếng gọi

khẩn thiết ấy vang lên qua từng tác phẩm của nhà văn - đây cũng là một nét khác

biệt của Nguyên Hồng so với các nhà văn cùng khuynh hƣớng, và cũng là một

đóng góp đáng quí của một nhà văn hiện thực sớm tìm đƣờng đến với Cách mạng

đƣợc bắt đầu từ những rung động, sự đau đớn tột cùng vì số phận của trẻ thơ.

68

Các nhân vật trẻ em trong sáng tác của Nguyên Hồng trƣớc Cách mạng

tháng Tám năm 1945 không chỉ thiếu thốn về vật chất mà chúng còn thiếu thốn cả

về tinh thần. Chúng thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu sự chăm sóc của ngƣời thân và sự

quan tâm của toàn xã hội. Chúng bị chà đạp về tinh thần, đặc biệt là phải sống

thiếu tình mẫu tử, hình nhƣ trong những nhân vật trẻ em này ít nhiều đều mang

bóng dáng của tác giả thời thơ ấu. Từ cuộc sống thiếu thốn tình cảm của cả cha và

mẹ, đặc biệt là sống thiếu tình mẹ của chính mình, Nguyên Hồng am hiểu và cảm

thông biết bao những em bé cùng cảnh ngộ nhƣ nhân vật Dũng (trong Mợ Du),

đàn con của Mũn (trong Đây, bóng tối), đám con của chị Năng (trong Sông máu),

nhân vật ngƣời con gái (trong Người con gái)... Viết về một ngƣời phụ nữ và trẻ

em, ngòi bút Nguyên Hồng toát lên một chất thơ tha thiết. Chất thơ ấy đặc biệt tỏa

sáng khi nhà văn miêu tả tình mẫu tử thiêng liêng, và cũng thiết tha khi nói đến

những trẻ em nghèo sống thiếu tình mẹ. Nhân vật chú bé Hồng (Những ngày thơ

ấu) thầm gọi tên ngƣời mẹ “hiền từ” và “xinh đẹp” của em không biết bao lần khi

đơn côi, trơ trọi giữa cuộc đời. Hoàn cảnh sống khiến mẹ con phải xa nhau nhƣng

không lúc nào Hồng không nghĩ về mẹ với câu hỏi luôn khắc khoải trong lòng: Mẹ

ơi, sao mẹ đi lâu quá không về? và không ít lần Hồng sống trong tâm trạng “đau

đớn tê dại” bởi nhớ thƣơng ngƣời mẹ “hiền dịu” và “âu yếm” của mình. Sống

trong sự thiếu thốn tình cảm của ngƣời mẹ, những đứa trẻ mồ côi bao giờ cũng có

một cái gì đó trông tội nghiệp và ngơ ngác. Ngƣời con gái trong truyện Người

con gái bị mồ côi cha lại thiếu vắng tình mẹ, phải ở nhờ nhà chú thím và phải

làm đủ mọi mọi việc để giúp gia đình. Nguyên Hồng đã nắm bắt rất “nhạy” tâm

trạng của cô bé khi: “Trẻ con đứa nào đứa nấy đều quấn quít lấy bố mẹ, y có

muốn nô đùa cũng không có bạn. Y chỉ còn biết thơ thẩn nhìn cái ồn ào rực rỡ

tỏa ra mọi nơi, trong khi thằng bé em lò dò dưới những tủ hàng, mắt ngơ ngác”

[73, tr. 128]. Chỉ vài dòng gợi tả, nhà văn đã nói hộ cô bé kia sự cô đơn, tủi thân,

trơ trọi của cô bé không có mái ấm gia đình. Nguyên Hồng xứng đáng đƣợc gọi

là nhà văn của ngƣời phụ nữ và trẻ em dƣới chế độ cũ, bởi những nhân vật này

của ông đều có số phận vô cùng bất hạnh, đáng thƣơng.

Nhân vật trẻ em của Nguyên Hồng không chỉ bị xã hội, ngƣời đời rẻ rúng,

mà ngay trong cả gia đình, trong nhà trƣờng chúng cũng bị hắt hủi, ngƣợc đãi. Nhà

trƣờng là nơi dạy chữ nghĩa và giáo dục lòng nhân ái cho con ngƣời, dạy cho trẻ

69

biết yêu thƣơng đùm bọc lẫn nhau, vậy mà oái oăm thay, nhà trƣờng trong xã hội

thực dân phong kiến lại tàn bạo và bất công vô cùng đối với học trò. Nhân vật

ngƣời thầy giáo trong Những ngày thơ ấu đã đày đọa, đánh đập một cách tàn nhẫn

cậu học trò Hồng chỉ vì ông ta lầm tƣởng rằng Hồng đã cãi lại một cách vô ý thức:

“Bốp! chát! bốp! chát! Một cái tát đập mạnh vào mặt tôi bằng sức mạnh của một

con thú dữ đương cuồng lên, lại một cái tát khác... rồi một cái tát khác. Hai bàn

tay của thầy giáo vả vào mặt tôi chẳng kỳ mắt mũi, gò má thái dương. Tôi phải ôm

lấy đầu. Thầy giáo liền giằng tôi ra và đưa những quả đấm nắm chắc vào mặt tôi...

làm máu mũi chảy ròng ròng... ống chân mông đít sống lưng bả vai và hai cánh

tay tôi như bị vặt ra từng miếng thịt bởi những đầu thước kẻ... Rắc!cái thước kẻ

quật lên rồi vọt xuống trần nhà” [73, tr. 245]. Sự ngƣợc đãi của một ông thầy thật

là tàn nhẫn, qua trận đòn ác liệt ấy chú bé Hồng đã phải quỳ mọp ở lớp học, “một

ngày quỳ 5 giờ... ở một góc tường hôi hám” chƣa biết bao giờ ông thầy tàn bạo ấy

mới tha cho! Nhƣ vậy, ta đã thấy rõ sự ngƣợc đãi bất công đối với con trẻ không

chỉ diễn ra ở ngoài xã hội, mà nó còn ở cả trong gia đình, trong nhà trƣờng. Ở

trong gia đình, chúng bị ngƣời thân của mình hắt hủi, đối xử một cách vô trách

nhiệm, ở trong nhà trƣờng chúng bị đánh đập một cách dã man. Ở ngoài xã hội

chúng bị rẻ rúng, bị lạm dụng sức lao động một cách tàn nhẫn. Trƣớc những

nghịch cảnh ấy, trẻ em không tự bảo vệ đƣợc mình, chỉ còn biết chống đỡ bằng

cách... khóc. Qua những cảnh đời này Nguyên Hồng đã vạch trần ra những “vết

thƣơng xã hội” đã khiến trẻ em phải chịu nhiều những tai ƣơng, đau đớn, uất ức

về tinh thần, thiếu thốn về vật chất. Nguyên Hồng thể hiện nỗi đau đớn ấy vào

từng trang viết, nên trang viết nào cũng khiến cho ngƣời đọc phải bàng hoàng,

đau xót trƣớc thân phận của những trẻ em nghèo.

Đặc điểm nổi bật thứ hai khi viết về nhân vật trẻ em của Nguyên Hồng là:

những nhân vật trẻ em bị cuộc sống nghèo đói đẩy vào con đường lưu manh hóa.

Để phản ánh những nỗi khổ, những nỗi đọa đầy của những thân phận bé

nhỏ trong xã hội cũ, Nguyên Hồng đã có một cái nhìn bao quát về tất cả những sự

đau khổ của con ngƣời - trong đó có nhân vật trẻ em. Sự đọa đày về thể xác thôi

chƣa đủ, chúng còn chịu đọa đày về tinh thần, và đau xót hơn nữa là chúng đã bị

đẩy vào con đƣờng lƣu manh, trộm cắp, lừa lọc… để tồn tại (nhƣ các nhân vật:

70

Điều, Tý Sáu (trong Con chó vàng) và một số nhân vật trẻ em khác trong tiểu

thuyết tự truyện Những ngày thơ ấu, tiểu thuyết Bỉ vỏ, truyện ngắn Hai nhà nghề,

Bảy Hựu)… Cả một thế giới nhân vật trẻ em vì phải kiếm sống (hoặc do những

hoàn cảnh éo le đem lại) đã phải sống lang thang, vất vƣởng nơi đầu đƣờng xó

chợ, học đủ mọi “ngón nghề” của cờ bạc, ăn cắp, lừa lọc đề tồn tại. Nhân vật Điều

và Tý Sáu (Con chó vàng), những “vỏ lỏi”, những “tiểu yêu” nhƣ Hiếu, Sẹo,

Minh… (Bỉ vỏ) tuy còn ít tuổi mà đã phải va chạm với đủ mọi cái phức tạp để

kiếm sống nhƣ: chơi xóc đĩa, đánh bạc, ăn cắp, lừa lọc... Tuổi thơ của chúng là cả

một chuỗi ngày tháng đói rét, thiếu thốn, là phải chịu áp bức, bất công. Cuộc sống

“đầu đƣờng, xó chợ” của chúng thật là nghiệt ngã, chúng luôn bị chèn ép, bóc lột

bởi những quy định ngầm của “xã hội đen”, phải cống nạp cho những tay “anh

chị” thì mới có đất để mà làm ăn, mà tồn tại. Phản ánh thực tế nghiệt ngã này,

Nguyên Hồng xót xa chỉ ra rằng: Cho dù chúng là những đứa trẻ nghèo khổ, sống

thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần - thậm chí bị đẩy vào con đƣờng lƣu manh

hóa thì chúng vẫn là những đứa trẻ giàu tình cảm, nhân hậu, luôn khao khát hạnh

phúc gia đình, khát khao tình mẫu tử, giàu nghị lực và luôn mơ ước có một cuộc

sống tốt đẹp hơn. Nếu Vũ Trọng Phụng nhìn nhân vật trẻ em lƣu manh hóa nhƣ

những con ngƣời hƣ hỏng về bản chất, thì Nguyên Hồng lại nhận thấy ở chúng vẫn

còn nhiều phẩm chất tốt đẹp, chúng luôn có sự tƣơng thân tƣơng tƣơng ái, biết yêu

thƣơng đùm bọc nhau trong cảnh nghèo khổ (Hai nhà nghề... ); chúng biết đồng

cảm, chia sẻ những nỗi buồn đau với nhau (Con chó vàng; Đây, bóng tối...);

chúng luôn khát khao cuộc sống lƣơng thiện, trong sạch và đặc biệt là luôn khát

khao tình mẫu tử nhƣ: nhân vật bé Hồng (trong Những ngày thơ ấu), nhân vật

Dũng (trong Mợ Du)…

Tóm lại, thế giới trẻ em trong sáng tác của Nguyên Hồng trƣớc Cách mạng

8/1945 hầu hết đều là những đứa trẻ nghèo đói, bất hạnh, sống một cuộc đời không

có tuổi thơ, thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần, không đƣợc yêu thƣơng, đùm

bọc, chăm sóc của gia đình và xã hội. Mỗi số phận, mỗi cảnh ngộ đáng thƣơng của

chúng đƣợc nhà văn miêu tả rất sinh động, đa dạng và sắc nét, gợi nỗi niềm thƣơng

cảm và xót xa với ngƣời đọc. Tuy nhiên, nhân vật trẻ em trong sáng tác của

Nguyên Hồng dù rơi vào hoàn cảnh bất hạnh nhƣ thế nào thì chúng vẫn là những

đứa trẻ nhân hậu, giàu tình tƣơng thân tƣơng ái, khao khát đƣợc sống trong tình

71

mẫu tử, khao khát một cuộc sống gia đình tốt đẹp, sống trong một xã hội giàu tình

thƣơng và lòng nhân ái với con ngƣời. Thể hiện và khẳng định những đức tính tốt

đẹp này của nhân vật trẻ em, Nguyên Hồng luôn thể hiện tấm lòng thƣơng yêu

thắm thiết và nâng niu trân trọng - cũng là điểm mạnh, điểm tiến bộ của Nguyên

Hồng - một nhà văn hiện thực giàu lòng nhân ái.

Ngoài hai loại nhân vật phụ nữ và trẻ em, Nguyên Hồng còn khắc họa khá

thành công và có những nét đặc sắc riêng khi viết về loại nhân vật thanh niên trí

thức tiểu tƣ sản nghèo. Loại nhân vật này có một số đặc điểm nhƣ sau:

3.1.3. Những người trí thức tiểu tư sản nghèo, giàu hoài bão nhưng bất lực và

bế tắc trước cuộc sống

Viết về cuộc sống và tình cảnh bi đát của ngƣời trí thức tiểu tƣ sản nghèo

trƣớc cách mạng tháng Tám đã có khá nhiều sáng tác của nhà văn (kể cả nhà văn

hiện thực phê phán và nhà văn lãng mạn). Các tác phẩm của Thạch Lam, Nam

Cao, Lan Khai... viết về ngƣời trí thức tiểu tƣ sản nghèo sống trong nỗi cô đơn,

khốn khó, bị rơi vào tấn bi kịch của cuộc đời khi “áo cơm ghì sát đất”, với những

mơ ƣớc, khát khao ngày càng bị “mòn đi”, “rỉ ra” một cách thảm hại. Nguyên

Hồng cũng là một trong các nhà văn thời đó có sự quan tâm sâu sắc về đề tài này.

Trong hàng loạt các tác phẩm của ông, nhân vật ngƣời trí thức tiểu tƣ sản nghèo đã

hiện lên một cách sinh động với những đặc điểm vừa mang những đặc tính chung

giống nhƣ một số nhà văn khác, vừa mang những nét riêng chỉ có ở Nguyên Hồng.

Và chính ở mảng đề tài này, ở loại nhân vật này, Nguyên Hồng cũng đã khẳng

định đƣợc sức sáng tạo và những đóng góp riêng của mình.

Qua khảo sát những sáng tác của Nguyên Hồng thời kỳ trƣớc cách mạng,

chúng tôi nhận thấy kiểu nhân vật này xuất hiện có phần ít hơn so với kiểu nhân vật

ngƣời phụ nữ và trẻ em (chiếm 24,5%), nhƣng sự phản ánh và sức khái quát của nó

thì cũng không kém phần sâu sắc. Nguyên Hồng đã từng là thầy giáo dạy học một

cách lén lút cho những con em ở xóm trọ nghèo nàn; đã từng nếm trải cảnh thất

nghiệp, cùng quẫn của tầng lớp trí thức tiểu tƣ sản nghèo trong xã hội cũ - nên nhà

văn hiểu sâu sắc đời sống vật chất và tinh thần của họ. Khi xây dựng kiểu nhân vật

ngƣời trí thức tiểu tƣ sản nghèo, Nguyên Hồng đã tỏ ra rất giàu vốn sống, rất am

hiểu về cuộc sống tối tăm, bế tắc cùng những khát vọng sáng tạo nghệ thuật không

72

thể thực hiện đƣợc của họ trong hoàn cảnh xã hội đầy bất công, đầy tội ác này. Cũng

qua kiểu nhân vật này, nhà văn đã thể hiện khá rõ quan điểm nghệ thuật của mình.

Sống trong xã hội thực dân nửa phong kiến, ngƣời trí thức tiểu tƣ sản cũng

không thoát khỏi cảnh nghèo đói và thất nghiệp. Nhân vật Hƣng (trong Miếng

bánh), Huyên (trong Những mầm sống), Sinh (trong Hơi thở tàn), An, Giang

(trong Ngọn lửa),… là những văn sĩ hiểu sâu sắc sứ mệnh chân chính của văn

chƣơng và khát khao có nhiều sáng tạo văn chƣơng, nhƣng xã hội thực dân phong

kiến đen tối đó đã không tạo điều kiện cho phép họ sáng tạo và thể hiện năng lực

của mình để cống hiến cho xã hội. Ngƣời trí thức tiểu tƣ sản nghèo khổ bị rơi vào

bi kịch tinh thần, đó là sự day dứt giữa hoài bão khát vọng trong lĩnh vực sáng tạo

nghệ thuật với thực tiễn đói nghèo tăm tối khiến họ rơi vào cảnh bế tắc, bất lực.

Họ khát khao sáng tạo với hy vọng đóng góp đƣợc những tác phẩm có ý nghĩa cho

cuộc đời, nhƣng thực tế là họ phải sống trong tình trạng thất nghiệp, không công

ăn việc làm, sống trong những cái “xóm cặn bã”, kiếm sống bằng cách “dạy học

lẩn lút từng giờ”, “dạy học một cách khốn nạn”, “lo sợ hồi hộp” để kiếm “món

tiền nuôi sống một cách hèn hạ những con người nheo nhóc: dở trò, dở thầy” [73,

tr. 201]. Thất nghiệp kéo dài, bệnh tật giày vò, nhân vật Giang (trong Ngọn lửa) đã

phải bán dần đi “những quần áo, sách học, những tập truyện và những tập thơ loại

giấy đẹp của tôi dần dần bán đi (...) Và tôi càng phải lại nghĩ đến không phải chỉ

có mình tôi mà chung quanh tôi, ngay cạnh tôi, biết bao nhiêu kẻ còn lại cùng

cực đói khổ hơn tôi nữa” [73, tr. 133]. Ngƣời trí thức chỉ thấy: “rõ ràng đời mình

đen tối và khốn nạn vô cùng, không còn một cái gì để tô điểm che đậy, lấp láp

được nữa” [73, tr. 527]. Những lo lắng kiếm sống, những toan tính tủn mủn về vật

chất đã ngốn hết thời gian sáng tạo nghệ thuật của họ. Càng ngày họ càng cảm thấy

bất lực, bế tắc, càng cảm thấy đau đớn, khổ tâm, bởi hơn ai hết họ hiểu sâu sắc sứ

mệnh của văn chƣơng là “Văn chương phải thể hiện những đau buồn thương xót,

những mừng vui khao khát, những ước mong tin tưởng” của những ngƣời lao động

nghèo khổ. Có nhƣ vậy nghệ thuật mới đích thực là nghệ thuật phục vụ cho con

ngƣời. Nhƣng sống trong xã hội phong kiến thực dân thối nát đƣơng thời, ƣớc mơ

của họ không thể trở thành hiện thực.

Ngƣời trí thức tiểu tƣ sản nghèo trong sáng tác của Nguyên Hồng luôn bị

đau đớn, giày vò giữa nhân phẩm, danh dự nghề nghiệp với thực tế đen tối, phũ

73

phàng. Với kiểu nhân vật này, Nguyên Hồng cũng chú ý phân tích quá trình bị bần

cùng hóa của họ. Trong truyện ngắn Vũng máu, Nguyên Hồng đã đƣa ra một so

sánh về thu nhập của một nhà văn và một ngƣời bồi bàn ở những tiệm ăn sang

trọng trong xã hội. Nhà văn sáng tác “mỗi năm, tiền sách, tiền báo anh được 1.200

đồng… một người bồi hầu hạ ở cái nơi “quý phái” này, ngày nào mạt nhất cũng

được hơn 40 đồng của chúng nó quẳng cho ” [73, tr. 620], đủ thấy “công lao

động” của một nhà văn rẻ rúng biết nhƣờng nào. Vì vậy, ngƣời trí thức không chỉ

bị bần cùng hóa vì lâm vào cảnh thất nghiệp đói khát kéo dài, mà họ còn bị đau

đớn, xúc phạm về tinh thần, nhân cách. Nhân vật Hƣng (Miếng bánh) do ăn uống

kham khổ lâu ngày, muốn mua cho mình một tấm bánh để ăn, một ý muốn rất nhỏ

và chính đáng, nhƣng anh đã phải dằn vặt và suy nghĩ mãi vì gia tài còn lại của hai

vợ chồng là hai hào bạc, là món tiền vợ chồng anh chạy vạy mãi để đi xin việc.

Đấu tranh tƣ tƣởng mãi rồi Hƣng mới mua miếng bánh, nhƣng vừa đƣa miếng

bánh vào miệng, chƣa kịp cảm nhận cái vị thơm ngon của nó, thì hình ảnh ngƣời

vợ ốm o, đói khát hiện lên trƣớc mắt Hƣng. Ngay lập tức, anh cảm thấy đấy là

hành động tội lỗi. Hƣng cảm thấy mình chỉ là “một thằng khốn nạn”. Hƣng tự xỉ

vả mình, tự lên án, chất vấn lƣơng tâm, cảm thấy miếng bánh giờ đây “như mảnh

thủy tinh tẩm mật cá” trong miệng. Miếng ăn đã trở thành miếng nhục, thành sự

tủi hổ đối với Hƣng. Cực thay, chỉ vì miếng bánh ăn lúc đói lòng mà anh phải day

dứt, xỉ vả mình. Càng day dứt bao nhiêu, lòng tự trọng của Hƣng càng tổn thƣơng

bấy nhiêu và anh lại càng đau khổ vì điều đó. Nhân vật Sinh (Hơi thở tàn) một trí

thức tiểu tƣ sản nghèo cũng đã từng phải nếm trải cảm giác đói khát “Cái đói đã

mở hết móng vuốt ra, cào vào giác quan Sinh, Sinh không thể đứng, ngồi, ngồi yên

và quên được nữa với cả cái xác thịt và tâm trí rã rời, ê ẩm” (74, tr. 702). Nhân

vật Giang (trong Ngọn lửa) cũng vậy, sau những ngày không có việc làm, cái gì có

thể bán đƣợc để ăn, Giang đã bán hết. Nhịn đói kéo dài, lúc nào anh cũng có cảm

giác thèm thuồng vì đói. Lúc nào anh cũng luẩn quẩn nghĩ tới cái ăn. Một lần, vì

quá đói mà không đấu tranh nổi mình, anh đã toan tính và làm cái việc mà anh cho

là đáng xấu hổ là ăn trộm cơm nguội của gia đình ngƣời chủ nhà trong đêm tối.

Sau hành động đó, ngay lập tức, Giang tự vấn lƣơng tâm, tự xỉ vả mình “được ăn

học, chữ nghĩa hẳn hoi mà ăn xó mó niêu như thế đấy”, “Bao nhiêu sự khốn nạn

sẽ tới… tôi sẽ làm cho bao kẻ “gọi là có học” bị họ rẻ rúng khi liên tưởng đến tôi”

74

[73, tr. 146]. Anh rơi vào sự giằng xé giữa lƣơng tâm, danh dự và hành động của

mình. Sự chất vấn và day dứt lƣơng tâm của Giang cũng phần nào giống tâm trạng

nhân vật Hộ của Nam Cao (Đời thừa). Hộ khi phải đứng trƣớc một sự lựa chọn

nghiệt ngã: Một bên là nghiệp văn của cá nhân mình, một bên là sự sống của gia

đình. Dù say mê văn chƣơng nhƣng anh cũng đành phải gác bỏ sự nghiệp văn

chƣơng của mình để lao vào kiếm tiền nuôi vợ con. Là ngƣời luôn coi trọng tình

thƣơng, nhƣng cuộc sống tàn bạo đã giết chết luôn cả nguyên tắc tình thƣơng của

Hộ. Nó đã đầu độc cuộc sống của Hộ và huỷ hoại tất cả những gì là tốt đẹp nhất

của một ngƣời trí thức. Viết về mảng đề tài này, giữa Nguyên Hồng và Nam Cao

đều thể hiện đƣợc những bi kịch tinh thần của ngƣời trí thức tiểu tƣ sản nghèo

trong xã hội thực dân phong kiến đƣơng thời.

Sách luôn là món ăn tinh thần, là sản phẩm tinh thần vô giá của mọi ngƣời

nói chung, giới trí thức nói riêng. Vậy mà nhân vật Lƣu (Lúc chiều xuống) đã phải

đau đớn bán đi những quyển sách mà anh coi là báu vật, vì gia đình anh đã không

còn một thứ gì có thể bán đƣợc để đổi lấy cái ăn trƣớc mắt. Bản thân lại đang thất

nghiệp, vợ anh đã phải bán cả tấm áo ngày cƣới để mà… ăn! Nghèo đói kiệt quệ

đã bòn rút sức lực của anh, “Lưu phờ phạc chẳng còn thiết cơm nước như người

sắp lên cơn sốt... mắt ngầu ngầu quầng thâm, má tóp...”, những quyển sách mà

anh quý giá vô cùng bị rẻ rúng, bị mặc cả mua với cái giá rẻ mạt. Dù đau lòng và

cảm thấy bị sỉ nhục, anh cũng phải chấp nhận bán, nhƣng trớ trêu thay, ngƣời ta

cũng chẳng mua sách cho anh vì anh... không mang thẻ căn cƣớc! Lƣu cảm thấy bị

xúc phạm, đau đớn vì một trong những thứ quý giá nhất với anh là sách thì sách bị

rẻ rúng, chẳng có giá trị gì với ngƣời mua, nhân phẩm của anh thì bị coi thƣờng,

cuộc sống trƣớc mắt thì bế tắc, anh hoàn toàn bất lực trƣớc hiện thực đen tối ấy!...

Ngƣời trí thức tiểu tƣ sản trong sáng tác của Nguyên Hồng trƣớc Cách mạng tháng

Tám năm 1945 mỗi ngƣời một cảnh ngộ riêng, qua ngòi bút Nguyên Hồng, chân

dung của họ hiện lên chân thực và đau xót. Và đâu đó, qua những trang văn ít

nhiều đã để lại những phần đời thực của tác giả đồng điệu với chân dung nhân vật

trong tác phẩm.

Điểm qua đặc điểm tính cách của những nhân vật trí thức tiểu tƣ sản

nghèo của Nguyên Hồng, ta còn thấy rất rõ ở họ những nét nhu nhƣợc, yếu

đuối, thậm chí là hơi hèn nữa. Ví dụ nhƣ: nhân vật ngƣời trí thức trong Giọt

75

máu khi thấy kẻ ác hoành hành (mụ chủ nhà chửi mắng và nhẫn tâm tƣớc đi

những bắp ngô mà Thạo bé chăm chút để trừ vào tiền nợ của gia đình em, tƣớc

đi niềm hi vọng nhỏ nhoi của bé Thạo), họ chỉ bó tay chịu bất lực, không dám

bênh vực, bảo vệ ngƣời bị hại, bị đối xử tàn nhẫn, tuy rằng thâm tâm có sự

cảm thông và sự căm phẫn rõ ràng. Nhân vật Thân (trong Quán Nải) cũng

thƣờng dè dặt trong giao tiếp, ứng xử, nặng về suy nghĩ nội tâm hơn hành

động; Nhân vật Minh (trong Lưới sắt) sau khi đi tù về, nhìn cái gì cũng sợ sệt,

hốt hoảng, muốn né tránh mọi chuyện. Tuy nhiên, khi chứng kiến những cảnh

đời đau khổ lầm than của nhân dân lao động, Minh đã nhận thức lại và tin

tƣởng vào thắng lợi cuối cùng của cuộc cách mạng - Và đây chính là sự tiến

bộ trong nhận thức tƣ tƣởng của Nguyên Hồng khi phản ánh về hình tƣợng

ngƣời trí thức tiểu tƣ sản khi họ nghĩ về nhân dân lao động, về cách mạng.

Tuy rơi vào hoàn cảnh bế tắc, bất lực và phải chịu đựng sự uất ức tủi hổ về

tinh thần, nhƣng nhân vật ngƣời trí thức tiểu tƣ sản của Nguyên Hồng không vì thế

mà trở nên khinh bạc, hoặc trốn đời, rời xa những ngƣời lao động nghèo khổ, trái

lại họ có một trái tim chan chứa yêu thƣơng đối với những ngƣời dân nghèo lam

lũ. Bản thân Nguyên Hồng khi phải vật lộn kiếm sống và chính trong những ngày

đau khổ, đói khát, lang thang đi tìm việc làm ở Sáu Kho, Xi Măng, Cốt Phát,…

Nguyên Hồng lại thấy cuộc sống có ý nghĩa hơn bởi ông biết mình đang sống giữa

những con ngƣời giàu tình cảm, trọng tình nghĩa. Tình cảm và sự lạc quan của

ngƣời lao động đã thôi thúc nhà văn viết về những con ngƣời lao khổ ngay từ

những tác phẩm đầu tay của mình. Cũng nhƣ vậy, nhân vật ngƣời trí thức tiểu tƣ

sản nghèo của Nguyên Hồng tuy bất lực trƣớc cuộc sống đen tối, nhƣng họ không

hề tuyệt vọng - đó là điều vô cùng quý giá trong hoàn cảnh ngặt nghèo này.

Mặt khác, những ngƣời trí thức tiểu tƣ sản nghèo trong xã hội đen tối ấy đã

tìm thấy đƣợc chất thơ từ đời sống cần lao, từ những con ngƣời “bán mặt cho đất,

bán lƣng cho trời” quanh năm suốt tháng để kiếm sống. Họ thấy mình phải gần gũi

“cảm thông” và “tin tưởng tha thiết”, “một tình yêu thương đắm đuối”, “một

niềm đồng cảm sâu sắc” vào những ngƣời “cùng hoàn cảnh, cùng một đời sống

thấp kém và tối tăm, vì thiếu thốn đủ mọi thứ, vì phải chịu đựng đủ mọi thứ” (Lớp

học lẩn lút). Đồng thời ngƣời trí thức cũng xác định phải gắn bó với nhân dân lao

động nhƣ “rễ dây tơ bám riết lấy lòng đất, càng lâu bao nhiêu càng vững chắc,

76

nảy nở bấy nhiêu”. Họ hiểu sâu sắc rằng, chỉ có nhƣ vậy thì nghệ thuật mới có ý

nghĩa và họ luôn mơ ƣớc để sáng tạo những tác phẩm nghệ thuật đúng nghĩa:

“Chúng ta phải nói gì về người, làm gì về người, để tìm thấy một con đường, một

chân trời êm mát, tốt tươi qua những ngày mưa dầu, nắng lửa” [73, tr. 474]. Xác

định đƣợc đúng đắn mối quan hệ giữa văn chƣơng và cuộc sống thể hiện quan

điểm rất tiến bộ của Nguyên Hồng so với các nhà văn hiện thực khác.

Viết về nhân vật trí thức tiểu tƣ sản trƣớc cách mạng tháng Tám 1945,

Nguyên Hồng và Nam Cao đều có điểm gặp gỡ nhất định, nhƣng nhân vật trí thức

của Nguyên Hồng cảm nhận được cái tất yếu phải thay đổi xã hội rõ rệt và mạnh

mẽ hơn so với nhân vật trí thức của Nam Cao. Nguyên Hồng đã thể hiện quan

điểm của mình qua một cuộc đối thoại giữa nhân vật Quang (một ngƣời có bằng

thành chung) và Tâm - một nhà văn (có chút tiếng tăm) trong Vũng máu: “Anh!

Anh có biết những tin gì đang âm ỉ ở các vùng quê không? Và những tin gì bừng

bừng của thế giới đang bị bịt đi không? Cách mạng! Phải có một cuộc cách mạng

mà máu của chính mình đổ ra, phải có một trận cuối cùng của quần chúng lật hẳn

cái chế độ xã hội này đi, nếu không thì đến tắc thở, đến phát điên cả mất” [73, tr.

623]. Nhƣ vậy, ngƣời trí thức trong sáng tác của Nguyên Hồng đã xác định rõ ràng

hơn về con đƣờng đi của mình, đồng thời cũng thể hiện thái độ phẫn uất, căm thù

của họ đối với xã hội bất công đƣơng thời. Điều đáng nói là qua kiểu nhân vật này,

Nguyên Hồng đã bƣớc đầu thể hiện sự vƣơn tới lý tƣởng mới của nhà văn - và có

lẽ qua họ - Nguyên Hồng dễ dàng phát biểu những suy nghĩ và lòng nhiệt tình của

mình đối với lý tƣởng cộng sản. "Từ sau năm 1940, nhất là khi tham gia tổ chức văn

hoá cứu quốc bí mật, tính chất luận chiến nổi lên rất rõ rệt trong các tác phẩm của

Nguyên Hồng" [116, tr. 131]. Khảo sát những sáng tác của Nguyên Hồng từ Lớp

học lẩn lút (1939), Cuộc sống (1942) đến Một trưa nắng (1943), Lúc chiều

xuống (1943), Hai dòng sữa (1943), Hơi thở tàn (1944), Vực thẳm (1945), Ngọn

lửa (1945), Miếng bánh (1945)... chúng tôi nhận thấy: nhân vật ngƣời trí thức của

Nguyên Hồng có sự chuyển biến tích cực về mặt tƣ tƣởng. Ngƣời trí thức tiểu tƣ

sản từ chỗ cảm nhận thấm thía sự gắn bó của mình với nhân dân lao động nghèo

khổ bằng mối tình ruột thịt (Lớp học lẩn lút) đến chỗ chủ động đến với nhân dân

(Cuộc sống), cũng có nghĩa là đi đến với cảm hứng nghệ thuật chân chính của

mình “như dây tơ bám riết vào cuộc sống” (Hai dòng sữa). Họ xác định: cuộc

77

sống cần lao của nhân dân lao khổ chính là bầu sữa mẹ nuôi dƣỡng nghệ thuật,

nuôi dƣỡng lòng tin tƣởng của họ đối với con ngƣời. Nhân vật Sinh (Hơi thở tàn)

đã có một lý tƣởng mới mẻ khi anh thực sự tham gia lao động chân tay với những

anh em thợ thuyền, với dân nghèo thành thị - đó là nơi rèn luyện nghị lực cho anh

để trong lúc “hơi thở tàn” anh vẫn có thể vƣợt qua những khó khăn, thử thách.

Cũng vậy, nhân vật anh tiểu tƣ sản Tuyên (Cuộc sống), Minh (Lưới sắt) đã thực

sự tham gia cách mạng, gắn bó với cách mạng, “Minh chỉ có mỗi vui sướng là

được gần gụi họ, làm việc với họ, giải thích cho họ những băn khoăn, những nỗi

đau khổ. Khuyến khích họ hoạt động, tổ chức, tranh đấu trong những lúc bị bọn

thống trị Pháp khủng bố ghê gớm; và sôi nổi cùng họ niềm tin tưởng ở cuộc cách

mệnh giải phóng sau này” [73, tr. 664]. Nhân vật trí thức tiểu tƣ sản nghèo của

Nguyên Hồng không hề bi quan, tác giả đã hé ra một viễn cảnh mà sau này sẽ trở

thành hiện thực: nhân vật Tuyên, Minh,... đang sống trong những ngày giông bão

của cuộc cách mạng lớn - cách mạng giải phóng dân tộc. Ngƣời trí thức chỉ cần có

lòng tin tƣởng vào nhân dân, anh sẽ có vị trí tất yếu trong cuộc đổi đời của cả dân

tộc. Nhƣ vậy, qua những nhân vật trí thức tiểu tƣ sản nghèo, nhà văn đã đặt ra vấn

đề lý tƣởng của thanh niên và gửi gắm những suy nghĩ sôi nổi, náo nức của ông về

thời cuộc đang dẫn đến những hy vọng mới với một tƣơng lai đầy hứa hẹn (Cuộc

sống, Miếng bánh, Hai dòng sữa...).

Tóm lại, viết về nhân vật nhân vật trí thức tiểu tƣ sản trƣớc Cách mạng

tháng Tám năm 1945, Nguyên Hồng đã có những thành công nhất định. Nhà văn

đã miêu tả chi tiết, xúc động bi kịch cuộc sống tinh thần và vật chất của họ, đặc

biệt là quá trình nhận thức của họ: từ chỗ cảm nhận thấm thía cuộc sống cơ cực

của nhân dân lao động nghèo khổ đến chỗ chủ động đến với nhân dân. Khi xây

dựng nhân vật này, Nguyên Hồng cũng gửi gắm quan niệm về nghệ thuật của mình

qua sự khai thác triệt để sự tƣơng phản giữa hoàn cảnh sống và khát vọng sống,

khát vọng sáng tạo của ngƣời trí thức. Viết về họ, Nguyên Hồng góp thêm tiếng

nói đòi quyền sống đích thực, quyền tự do cho con ngƣời góp phần đấu tranh đòi

thay đổi xã hội, một xã hội đầy sự bất công, vô nhân đạo đƣơng thời.

3.1.4. Những nhân vật con người tha hoá

Trong thế giới nhân vật phong phú đông đảo của mình, Nguyên Hồng cũng

đặc biệt tập trung khắc họa kiểu nhân vật bị tha hóa. Nhìn con ngƣời nhƣ là nạn

78

nhân của hoàn cảnh sống ngột ngạt, bế tắc, tăm tối, nhiều nhà văn hiện thực cũng

đã nhìn thấy vấn đề tha hóa nhƣ một hệ quả tất yếu của sự biến đổi phẩm chất và

tính cách con ngƣời dƣới sự tác động của môi trƣờng, hoàn cảnh sống. Trong ý

thức của những nhà văn này, con ngƣời bị tha hóa là một sự tất nhiên, bởi những

con ngƣời ấy là sản phẩm tất yếu của xã hội thực dân phong kiến bất công, vô nhân

đạo đƣơng thời. Tuy nhiên ở mỗi một nhà văn hiện thực, việc thể hiện con ngƣời

tha hóa có khác nhau, Nguyễn Công Hoan quan niệm: bản chất xã hội thực dân

phong kiến là nguyên nhân trực tiếp làm tha hóa con ngƣời, nên thƣờng nhìn nhân

vật từ cái xấu và sự nhạy cảm với cái xấu đã trở thành ý thức thẩm mỹ của nhà

văn, (Ông chủ, Mất cái ví, Bước đường cùng, Đồng hào có ma, Bà chủ mất

trộm…); Vũ Trọng Phụng chú ý đến những nguyên nhân cụ thể dẫn đến tình trạng

tha hóa của con ngƣời, đó là do con ngƣời không cƣỡng lại nổi “cái bả của vật

chất”, “nền luân lý ích kỷ” và “sự tín ngưỡng thế lực hoàng kim” (Giông tố, Số

đỏ, Trúng số độc đắc…); Nam Cao quan niệm môi trƣờng phi nhân tính của xã

hội Việt Nam đƣơng thời đã đẩy ngƣời lƣơng thiện tới bƣớc bần cùng hóa, dẫn đến

tha hóa và lƣu manh (Chí Phèo, Tư cách mõ, Nửa đêm…). Tuy nhiên, Nam Cao

vẫn tin vào bản chất lƣơng thiện của con ngƣời, cho dù họ bị xã hội bất công hủy

hoại cả nhân hình lẫn nhân tính... So với những nhà văn hiện thực khác thì Nguyên

Hồng rất thành công khi viết về nhân vật tha hóa, lƣu manh hóa. Có thể nói đây là

kiểu nhân vật đặc biệt của nhà văn. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Nguyên

Hồng rất thành công khi xây dựng kiểu nhân vật này [1, tr. 801]. Nguyên Hồng là

ngƣời có thế mạnh khi viết về những hạng ngƣời lƣu manh trong xã hội. “Xu

hướng lưu manh trong văn chương Việt Nam có nhiều điều kiện để nảy nở mạnh

mẽ… Trong phạm vi văn học và đứng về quan điểm duy vật biện chứng, ta có thể

lấy Nguyên Hồng làm đại biểu chính thức cho xu hướng lưu manh Việt Nam hiện

đại” [156, tr. 90]. Ngay từ những tác phẩm đầu tay, Nguyên Hồng đã chú ý đến hai

đối tƣợng đặc biệt trong xã hội, con ngƣời tha hóa và bị lƣu manh hóa, đó là những

nhân vật gái điếm và trộm cƣớp. Đi vào tận cùng nỗi khổ của con ngƣời, Nguyên

Hồng đã chú ý khai thác kiểu nhân vật bị cùng đƣờng, bế tắc trong cuộc sống, phải

làm những nghề mạt hạng trong xã hội nhƣ: làm gái mại dâm, ăn cắp, ăn cƣớp, đâm

thuê chém mƣớn, giết ngƣời, cờ bạc... để tồn tại. Nguyên Hồng đã lấy chính tính

chất nghề nghiệp của họ mà đặt tên cho các nhân vật của mình, nhƣ: nhân vật Hai

79

Răng vàng, Bảy Hựu, Tƣ Chơi, Xuân Rồng, Hai Béo, Hàn Rám má, Ba Đen, Sửu

Nháy, Sáu Lẹm cằm... (trong Bảy Hựu), Năm Sài Gòn, Tám Bính, Chín Hiếc, Mƣời

Khai, Ba Bay, Tƣ - lập - lơ... (trong Bỉ vỏ), Chín Huyền (trong Chín Huyền), Sáu

H.G (trong Con đoàn cuối cùng)… Những cái tên ấy đã phần nào phản ánh đƣợc

thế giới của những “dân chạy vỏ” trong xã hội đƣơng thời ngày ấy.

Họ đến với nghề nghiệp đặc biệt này do nhiều nguyên nhân khác nhau. Hầu

hết các nhà nghiên cứu cho rằng, nguyên nhân đầu tiên “đẻ” ra loại nhân vật này

chính là xã hội đƣơng thời đầy bất công và tội lỗi. Trong xã hội đó, một số lớn

nông dân bị cƣớp ruộng vƣờn, hoặc phải cầm cố ruộng đất, bị nợ nần chồng chất,

họ phải đổ sô ra thành thị để kiếm sống; Công nhân phải lao động kiệt quệ sức lực

mà đồng lƣơng đƣợc trả thì rẻ mạt, không đủ sống; dân nghèo thành thị thì phải

sống vất vƣởng, đói khát, làm trăm nghề mạt hạng để kiếm ăn... Tất cả họ bị xã hội

đẩy vào vực thẳm của sự đói khát, bệnh tật: “Xứ Đông Dương Pháp mới kĩ nghệ

hóa có một phần. Các xưởng máy ít ỏi không thu hút xuể sức lao động đã rẻ rúng

lại quá thừa thãi ấy. Những người không kiếm được việc làm tại các xưởng công

nghệ hoặc phải làm thuê bắt buộc, cũng cứ phải cố bám vào thành thị mà lay lắt

sống. Không tham gia vào sự sản xuất, họ sống vất vưởng một cuộc đời ký sinh.

Họ thuộc dạng lưu manh vô sản. Du côn “anh chị”, đĩ điếm, ả đào, con hát, bọn

chuyên cờ bạc bịp, trộm cắp, lưu đãng, hành khất rất đông đảo” [156, tr. 87].

Cuộc sống vô cùng túng quẫn, họ làm lụng tới kiệt sức mà cũng không đủ nuôi

sống bản thân, không cả dám nghĩ đến chuyện vợ con, những ngƣời nhƣ họ muốn

tồn tại đƣợc thì chỉ còn cách là lao đầu vào các nghề khốn cùng, nhục nhã trong xã

hội. Ví dụ nhƣ: nhân vật Giản (trong Mối hờn) sinh ra trong một gia đình tử tế,

đƣợc ăn học hẳn hoi, có công ăn việc làm ổn định. Nhƣng nhìn ra xung quanh

mình chỉ những cảnh: “người ta chăm chỉ làm ăn quanh năm suốt tháng tới già,

chỉ càng ngày càng xơ xác, túng thiếu cùng cực… rồi cũng lâm vào cảnh sống dở

chết dở để sau cùng thì phải bán thân đi phu cao su, phu mỏ, dốc nốt khí lực ra mà

chết”. Giản không dám nghĩ đến chuyện lấy vợ, bởi “nếu có vợ con mà con bồng

con dắt, thì cái nhà Giản đi về thành địa ngục. Với cái lương ấy, với những công

việc dài dằng dặc ấy… Giản sẽ không còn một phút nào nghĩ đến sự nghỉ ngơi,

được một giấc ngủ đẫy mắt và biết thế nào là ánh sáng, là không khí, là hoa cỏ

của trời đất ngoài ba chữ “vợ”, “con” và “đói” [73, tr. 264]. Giản so sánh đời

80

mình với sự sung sƣớng của ngƣời “hàng phố”, nhất là với những ngƣời Tây,

Giản thấy họ “sướng hơn cả tiên”. Giản ao ƣớc “được ăn mặc, đi chơi, ngồi ô tô

và xem chớp bóng một giờ như họ thôi. Giản có chết cũng xin cam. Đời Giản, một

người An Nam như Giản, được như thế quá đủ mãn nguyện rồi” [73, tr. 266].

Thấm thía nỗi bất công trong xã hội nhƣ vậy, Giản thấy đời mình chỉ còn cách

“đón đường chặn đồ lậu, gác sòng bạc, chém người thuê” mà sống. Kết cục của

sự chọn lựa ấy là Giản phải đi tù hết nhà lao này đến nhà lao khác khi mới có hai

mƣơi sáu tuổi! Chín Huyền (trong Chín Huyền) xuất thân là con của một đô vật ở

huyện Hải Hậu (Nam Định), nhƣng rồi“sự buôn bán vất vả lam lũ là cái cớ đầu

tiên để nàng đi vào con đường tội lỗi” “làm nghề “chạy vỏ” được ăn tiêu đầy đủ,

được biết những lúc sung sướng”, “sống cuộc đời dân “chạy vỏ” xông xáo, không

chịu cảnh bó buộc, tù hãm, thiếu thốn” [73, tr. 175,176]. Những con ngƣời này

phản ứng với xã hội một cách cực đoan bằng những thành tích bất hảo. Đó là Năm

Sài Gòn - trùm lƣu manh đất cảng với những “thành tích” mà “Án tích đã kê chật

cả tờ giấy”, hắn có: “Một oai quyền cho ai sống được sống, bắt ai chết phải chết,

bảo tù phải ngồi tù”... “Non hai phần ba đời bị cảnh tù tội cướp mất... đi đầy ở

Côn Lôn bảy năm, ở khám lớn Sài Gòn, ở Hỏa Lò Hà Nội hai năm... không vợ con,

không anh em, cha mẹ, sống du đãng hết ngày này sang ngày khác” [74, tr. 338];

Đó là Tƣ lập lơ “Trùm chạy vỏ”; là Sáu gáo đồng kẻ “cầm đầu các kẻ chuyên dắt

díu những cơm thầy cơm cô ở “Vườn hoa Đưa Người”; hay những Chín Hiếc,

Mƣời Khai cũng “trùm chạy vỏ” cai quản các gánh ăn cắp suốt dọc bến tàu, suốt

phố Khách, phố Cầm Dầu và những phố đông đúc khác; là Thiết Giản (Mối hờn)

chuyên chém giết thuê để kiếm sống, cả cuộc đời Giản là “tù” và “biệt xứ” “hết

hạn tù với lưỡi dao, Giản lại nay sòng bạc này, mai một cổng kho, một ngõ hẻm

khác. Chưa được mấy tháng, vòng xích lại khóa chặt cổ tay Giản, và đây kia, xa một

chút, sau những lùm cây lù mù, cái đề lao ấy lại giam Giản… Hà Giang, Lai

Châu, Côn Lôn… tù… tù mãi rồi lại đi đầy… rồi hết đời! Năm nay Giản mới hăm

sáu” [73, tr. 264]”. Hầu hết họ là những ngƣời tuổi đời còn rất trẻ, nhƣng đều có

“thâm niên” trong nghề nghiệp của mình. Bảy Hựu (Bảy Hựu) giang hồ từ nhỏ,

không cha mẹ, không quê hƣơng, mới hai mƣơi tuổi mà đã “can án sáu lần, cộng

bốn năm tù” [73, tr. 124]; Tƣ Chơi “hai mươi tư tuổi, can án tám lần tổng cộng

bảy năm tù” [73, tr. 123]; Sửu Nháy hai mƣơi mốt tuổi “can án sáu lần, tổng cộng

81

bốn năm tù”; Hai Răng Vàng “hai mươi tám tuổi, tám lần tù và một lần đi đày”,

và vẫn đang chịu án đày biệt xứ. Họ trở thành những kẻ “sống ngoài vòng pháp

luật” một cách có ý thức - bởi đây là sự phản kháng, sự chống lại xã hội theo cách

của họ. Những con ngƣời này “quyết chống chọi lại với mọi sức mạnh của pháp

luật mà sống cuộc đời như đế vương” [74, tr. 378] nhƣ Năm Sài Gòn, hoặc không

thể “xóa hết được cuộc đời của một con “bỉ vỏ” mà quay lại sống cuộc sống

lương thiện trong xã hội ấy được” nhƣ nhân vật Chín Huyền, Tám Bính..., cho dù

họ biết đấy là những nghề bất lƣơng, dù biết sẽ phải chấp nhận tù tội có thể là án

đầy biệt xứ, là chung thân, là sống mãn đời ở trong những nhà chứa... nhƣng đành

chịu! Những “bỉ vỏ”, những “so chạy” suốt cuộc đời sống lang thang, lẩn lút, sống

bằng lừa bịp, chém giết (thậm chí chém giết lẫn nhau) rồi nhận lại những kết cục

thảm khốc do chính tội lỗi mà mình gây ra. Những nhân vật lƣu manh, tha hóa này

hoạt động dƣới những “tổ chức” của một “thế giới ngầm” nhƣ: Đảng du côn, hội

ăn cắp, phƣờng ăn mày, phƣờng cờ bạc… để tồn tại. Môi trƣờng hoạt động của họ

cũng đa dạng và thƣờng ở những thành phố lớn, trong các chợ, bến ô tô, trong các

sòng bạc lẩn lút, trong các tiệm hút, các hàng cao lâu, những khu ổ chuột, nhà

chứa… Do cuộc sống vất vƣởng nay đây mai đó để kiếm ăn, nên sự gắn bó của

những con ngƣời này cũng không đƣợc chặt chẽ, cho dù nhiều khi họ phải kết bè,

kết đảng để kiếm sống, để thanh toán, sát phạt nhau mà tồn tại. Là những kẻ sống

ngoài vòng pháp luật, nên tất yếu họ không chịu ràng buộc bởi luật pháp, song họ

luôn phải chống chọi với nhiều mối nguy hiểm trong xã hội, nên tính cách những

con ngƣời này rất phức tạp và hung bạo nhƣng cũng đầy nghĩa khí. Nhƣng mặt

khác, qua ngòi bút Nguyên Hồng, những nhân vật này đều tỏ ra là những tay can

trƣờng, nghĩa khí, yêu - ghét, thù hận rõ ràng. Xã hội của tầng lớp lƣu manh dƣới

đáy này cũng có những quy định riêng với những cảnh: uống máu ăn thề, báo thù,

sẵn sàng chết để cứu nhau khỏi cảnh hiểm nguy... và cũng có sự phân chia thứ bậc

trên - dƣới trong một sự ràng buộc chặt chẽ giữa cá nhân với tổ chức riêng của họ.

Với nghệ thuật xây dựng nhân vật theo nguyên tắc tƣơng phản - đối lập,

Nguyên Hồng đã nhận thấy đặc điểm chung ở những con ngƣời tƣởng nhƣ mất hết

nhân tính, chai sạn, trơ trẽn, dửng dƣng, bất mãn với xã hội này lại là những con

ngƣời trọng tình nặng nghĩa. Họ có thể sống, chết vì nhau mà không cần so đo,

tính toán. Ví dụ nhƣ những nhân vật: Chín Huyền, Bảy Hựu, Sáu HG… điều này

82

cũng là tất yếu, bởi trong xã hội đầy cạm bẫy, đầy thủ đoạn ấy những con ngƣời

này muốn sống đƣợc buộc phải dựa vào nhau để tồn tại. “Hạng lưu manh cũng có

những nguyện vọng xã hội nhưng không thành hình rõ ràng. Tuy thiên về cá nhân

nhiều nhưng họ cũng biết đoàn kết cả một xã hội lương dân, mà lường gạt lương

dân cho có hiệu lực… họ căm hờn và thù ghét xã hội, song vì điều kiện sinh hoạt

bất định… sức đoàn kết của họ không chặt chẽ” [156, tr. 88]. Viết về cuộc đời

khốn khổ của những nhân vật lƣu manh dƣới đáy này, Nguyên Hồng đã khắc họa

khá rõ nét và sinh động những suy nghĩ, những hành vi của họ. Những suy nghĩ

phức tạp và đầy mâu thuẫn của các nhân vật (nhƣ nhân vật Giản, Năm Sài gòn,

Tám Bính, Chín Huyền, Hai Răng Vàng)… đã đƣợc nhà văn phân tích một cách

chân thực và sắc nét. Đôi khi Nguyên Hồng cũng muốn lý tƣởng hóa những đức

tính tốt đẹp của những nhân vật này - đó là sự hy sinh tuyệt đối với ngƣời chồng

của nhân vật nhà sư nữ chùa Âm Hồn, của Bảy Hựu với các chiến hữu, của Chín

Huyền với những ngƣời cùng hội cùng thuyền, sự chung thủy của Tám Bính với

Năm Sài Gòn…

Có lẽ, Nguyên Hồng là nhà văn hiện đại đầu tiên viết về tầng lớp lƣu manh

“dƣới đáy”, về những ngƣời phụ nữ sống ngoài vòng pháp luật một cách chân thật

và thành công. Với một cách viết rất hiện thực và khách quan, với một trái tim

đồng cảm sâu sắc, Nguyên Hồng luôn có ý thức phát hiện vẻ đẹp tinh thần của

“những ngƣời khốn khổ” này. Trong khi phơi bày tình cảnh khốn khổ của những

con ngƣời đó, nhà văn cũng đã thể hiện niềm tin của mình về những phẩm chất tốt

đẹp của những con ngƣời tƣởng nhƣ là “cặn bã” trong xã hội. Cho dù cuộc sống

của họ có bị đẩy xuống tận bùn đen, phải sống bằng nghề mà cả xã hội khinh bỉ thì

trong sâu thẳm tâm hồn những con ngƣời này vẫn le lói một thứ ánh sáng, đó là

khát vọng đƣợc sống cuộc sống “êm đềm, trong sạch, lƣơng thiện”. Nguyên Hồng

đã phát hiện và luôn có ý thức nâng niu từng chút ánh sáng le lói trong tâm hồn họ

- vì thế, giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo, giá trị tố cáo xã hội trong các sáng tác

của Nguyên Hồng càng trở nên sâu sắc hơn, cụ thể hơn.

Tóm lại, thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyên Hồng trƣớc cách

mạng tháng Tám năm 1945 là một thế giới nhân vật phong phú, phức tạp và sinh

động - thế giới của những con ngƣời lao động thuộc tầng lớp thị dân, những con

ngƣời lao động nghèo khổ dƣới đáy xã hội, có số phận bất hạnh, bao gồm: từ trẻ

83

em đến ngƣời già; từ phụ nữ đến kẻ trai tráng; từ những ngƣời nông dân ở nông

thôn đến những ngƣời nghèo làm đủ mọi nghề ở thành thị; từ những trí thức tiểu tƣ

sản nghèo đến những kẻ lƣu manh trộm cắp, gái điếm… Mỗi ngƣời mỗi cảnh, mỗi

cuộc đời, mỗi số phận, nhƣng tựu trung lại họ đều có số phận rất đáng thƣơng và

cũng đáng đƣợc cảm thông. Viết về họ với thái độ khách quan, chân thực và một

trái tim thấm đẫm yêu thƣơng, nhà văn của “ những ngƣời khốn khổ này” luôn làm

cho ngƣời đọc phải thổn thức, xúc động và cảm thông, đồng thời cũng gây cho

ngƣời đọc một sự căm phẫn đớn đau đến tận cùng cái chế độ xã hội thực dân

phong kiến đen tối, vô nhân đạo. Chính vì thế, tính hiện thực sâu sắc, tính nhân

đạo cao cả trong tác phẩm của Nguyên Hồng luôn đƣợc toát ra từ chính hệ thống

nhân vật của ông. Đồng thời, khi viết về những nhân vật này, Nguyên Hồng đã thể

hiện tình yêu đối với những con ngƣời lao động khốn khổ của mình. Và đằng sau

tất cả những điều đó, nhà văn đã thể hiện đƣợc lòng yêu nƣớc của ông - đó cũng là

lý do Nguyên Hồng đến với Cách mạng từ rất sớm - Đây cũng là điểm khác biệt

của Nguyên Hồng so với những nhà văn cùng khuynh hƣớng, cùng thời.

3.2. Một số thủ pháp nghệ thuật tiêu biểu xây dựng nhân vật

3.2.1. Nghệ thuật tạo dựng hoàn cảnh và tình huống

Nhƣ chúng ta đã biết, một trong những nguyên tắc tái hiện cuộc sống của chủ

nghĩa hiện thực là chú trọng mối quan hệ biện chứng giữa tính cách điển hình và

hoàn cảnh điển hình. Trong thế giới nghệ thuật của nhà văn, nghệ thuật xây dựng

nhân vật đóng vai trò vô cùng quan trọng, để nhân vật có thể “sống” đƣợc, gây đƣợc

những ấn tƣợng sâu sắc trong lòng bạn đọc thì phải kể tới nghệ thuật tạo dựng tình

huống, hoàn cảnh để qua đó nhân vật bộc lộ tính cách và tâm lý của mình.

Theo Từ điển Tiếng Việt, Tình huống là: “Sự diễn biến của tình hình về mặt

cần phải đối phó” [149, tr. 1275]; còn Hoàn cảnh là: “Toàn thể nói chung những

nhân tố khách quan bên ngoài có tác động đến sự sinh sống, sự hoạt động của con

người, đến sự xảy ra hoặc diễn biến của sự việc nào đó” [149, tr. 582]. Hai khái niệm này có những nét tƣơng đồng nhau về mặt ý nghĩa: tình huống là toàn thể những sự việc xảy ra tại một nơi, trong một thời gian buộc ta phải suy nghĩ, đối

phó hành động hoặc chịu đựng, còn hoàn cảnh là những nhân tố khách quan có tác

động đến con ngƣời hay sự vật, hiện tƣợng nào đó.

84

Khảo sát những sáng tác của Nguyên Hồng thời kỳ trƣớc Cách mạng tháng

Tám năm 1945, chúng tôi nhận thấy rằng: nhà văn hiện thực này đã rất chú ý đến

việc tạo dựng những hoàn cảnh, những tình huống độc đáo để khắc họa tính cách

và tâm lý nhân vật. Hoàn cảnh nổi bật, bao trùm, có tính chất điển hình trong toàn

bộ tác phẩm của Nguyên Hồng trƣớc cách mạng là: Hoàn cảnh sống tăm tối, đói

khổ, cùng quẫn kéo dài đã góp phần tạo nên kiểu nhân vật chịu đựng, nhẫn nại. Và

cũng chính hoàn cảnh sống đen tối, khốn khó, bế tắc đã góp phần tạo nên kiểu

nhân vật tha hóa, lưu manh, trộm cướp.

Cuộc sống và số phận của ngƣời dân nghèo thành thị đƣợc Nguyên Hồng

miêu tả chân thực và chi tiết, đồng thời ông cũng đã chỉ rõ nguyên nhân của sự cơ

cực, nghèo đói đó chính là: hậu quả của chính sách bóc lột đến tận xƣơng, tận tủy

ngƣời dân của bọn thực dân phong kiến. Nhà văn khẳng định: chính chúng là

nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự bần cùng hóa, lƣu manh hóa đối với những ngƣời

nông dân nghèo khi họ ra thành phố, để “Thử xem ngoài những nơi chôn rau cắt

rốn của họ, đời họ có thay đổi chút nào không” (Ngọn lửa)... Nhƣng cuộc sống đô

thị phồn hoa một cách giả tạo và đầy cạm bẫy ấy lại tiếp tục đẩy họ vào tình trạng

bi đát, bất hạnh hơn. Hoàn cảnh, môi trƣờng sống tăm tối, đói khổ, cùng quẫn kéo

dài nhƣ vậy đã tạo ra loại nhân vật cam chịu, nhẫn nhục không còn sức để phản

kháng nữa. Họ là những ngƣời phụ nữ bị“cằn cỗi vì cùng khổ, vì con cái nheo nhóc,

vì bị cầm xích bởi những thành kiến, phong tục lễ nghi đè nén nặng nề đã để tất cả

lòng phẫn uất kêu lên trong tiếng khóc, những lúc họ không còn thể chịu đựng, chứ

không biết tìm cách tự giải phóng, thoát khỏi những sự áp chế bằng năng lực dồi

dào sẵn có của mình” [73, tr. 278], nhƣ nhân vật ngƣời mẹ trẻ của bé Hồng (Những

ngày thơ ấu) - đại diện cho bao ngƣời phụ nữ khác - khi mới “mười bảy, mười tám

tuổi đã trở thành một người con gái cằn cỗi, lúc nào cũng khép nép, lo sợ, rồi thì về

nhà chồng với một lòng nhẫn nhục ngày càng dạn dày, một đức tính thuyết phục

ngày càng mạnh mẽ” [73, tr. 746]; hay Nhân vật mụ Mão (Người mẹ không con)

thƣờng xuyên phải chịu đựng những trận đòn thừa sống thiếu chết của ông chồng vũ

phu nát rƣợu, điên khùng. Sự vũ phu, ngƣợc đãi của chồng ngày càng làm cho mụ

Mão trở nên sợ hãi, nhẫn nhục hơn. Mụ tự an ủi: “mụ thấy rằng mụ cứ phải ăn ở

như thế còn mặc giời với hắn. Số phận mụ bắt mụ phải thế, mụ còn phải vâng theo

cho đến chết. Không thế, ai bảo mụ đi lấy chồng...” [37, tr. 417). Nhân vật mụ Mão

85

là đại diện của những ngƣời phụ nữ bị hành hạ quá nhiều trở lên cam chịu, nhẫn

nhục, không thể và không dám phản kháng để thay đổi số phận của mình.

Bên cạnh đó, hoàn cảnh sống đói khát, tăm tối, bế tắc, đầy giả dối, đầy tội

lỗi ở cả nông thôn và thành thị đã nảy sinh ra loại nhân vật nổi loạn (nhân vật lƣu

manh, trộm cắp,...) nhằm phản ứng một cách tiêu cực xã hội đen tối, bất công, vô

nhân đạo đƣơng thời.

Đầu tiên phải kể đến các nhân vật là phu phen, thợ thuyền… cùng quẫn quá

đâm ra phản ứng cực đoan: rƣợu chè, cờ bạc, đánh chửi vợ con, ngày càng chìm

sâu vào sự bê tha bế tắc, thậm chí là tội lỗi nhƣ các nhân vật trong các truyện: Bố

con lão Đen, Sau hai mươi năm, Người mẹ không con... Sau đó là những loại

nhân vật cùng khổ “buôn bán đầu đường cuối chợ, kéo xe, khuân vác, cúp tóc, đốt

lửa, thợ sắt, giang hồ” [73, tr. 229]. Có biết bao ngƣời lao động chăm chỉ, cần mẫn

ở nhà quê đã phải trôi dạt ra thành phố kiếm sống, bị vắt kiệt sức lao động mà tồn

tại nhƣng rốt cục càng chăm chỉ chịu khó, họ càng bị bọn thống trị lợi dụng, bòn

rút đến tận xƣơng tủy. Chỉ nói riêng đến môi trƣờng thành phố Hải Phòng với

những địa danh nhƣ Cầu Ca Rông, Vườn hoa đưa người, Ngõ Cấm, Sáu Kho, Hạ

Lý, chợ Con... là những khu công nghiệp Cảng, nơi tập trung đủ mọi hạng ngƣời,

muốn tồn tại đƣợc thì phải lừa lọc, chém giết lẫn nhau để mƣu sinh. Vì thế, nó “đẻ

ra” những hạng ngƣời lƣu manh, trộm cắp, đĩ điếm, giang hồ. Họ đều là dân “tứ

xứ” gặp nhau, đều là những cảnh “cùng đƣờng mạt lộ” bỏ quê hƣơng gia đình đi

kiếm sống, muốn tồn tại đƣợc phải liều lĩnh, phải tranh giành quyết liệt, thậm chí

phải triệt hạ lẫn nhau. Tiêu biểu cho loại nhân vật này phải kể đến các nhân vật nhƣ:

Năm Sài Gòn, Tƣ lập lơ, Chín hiếc, Chín Huyền, Bảy Hựu... những tay trùm có oai

quyền mà “các cánh chạy vỏ phải nép mình dưới một oai quyền cho ai sống được

sống, cho ai chết được chết, bảo ngồi tù phải ngồi tù” [74, tr. 383]. Trong một xã

hội mà con ngƣời “lấy quê hương và gia đình làm đề lao, anh em thân thích là tụi

đồng nghệ quỷ quyệt” [74, tr. 393] ấy đã tạo nên những tính cách tàn nhẫn, thậm chí

độc ác, thủ đoạn, vô cảm, dửng dƣng trƣớc những tội ác của đồng loại. Một xã hội

đầy sự tranh giành lừa lọc, trộm cƣớp, chém giết… ấy đã không còn có chỗ sống

cho những con ngƣời lƣơng thiện, nên muốn sống đƣợc thì… một là phải nhịn nhục,

hai là phải lừa lọc, chém giết, trộm cƣớp lẫn nhau… mà thôi! Có những cô gái quê

vì những hủ tục, những luật lệ khe khắt, lạc hậu của chế độ phong kiến đã phải bỏ

86

làng mà ra thành phố, để rồi bị lừa bịp, bị cƣỡng hiếp, bị đẩy vào nhà chứa… trở

thành gái điếm, trở thành những bỉ vỏ (nhân vật Tám Bính trong Bỉ vỏ); hay rơi vào

ổ của bọn cờ bạc và buôn lậu (nhân vật Muống trong Quán Nải), hoặc trở thành lƣu

manh, trộm cƣớp (nhân vật Bảy Hựu trong Bảy Hựu)…

Ngoài hoàn cảnh, môi trƣờng sống ấy tạo nên những tính cách (nhƣ kể trên)

của nhân vật, thì bản chất xấu xa của chế độ thực dân phong kiến vô nhân đạo ấy

cũng đã tác động sâu sắc đến từng số phận con ngƣời. Môi trƣờng sống và bản chất

xã hội đó đã khiến cho rất nhiều ngƣời muốn quay trở lại cuộc sống lƣơng thiện

cũng không thể nào quay lại đƣợc. Bởi xã hội có những “ông quan công minh đến

nỗi nhiều kẻ, nhà không có mà ở, bát không có mà ăn, vợ lìa chồng, bố bỏ con,

nhưng chẳng hề dám hé răng kêu nửa lời, vì kêu vào đâu? Ai nghe cho?”, thế là con

đƣờng trở thành ngƣời lƣơng thiện của họ chỉ còn là ảo tƣởng! Bọn cảnh sát thì luôn

cấu kết với bọn buôn thịt bán người ở nhà nhà chứa. Bọn chủ tây, chủ ta trong các

nhà máy, hầm mỏ thì bòn rút, bóc lột, thậm chí cƣỡng bức tàn nhẫn phụ nữ - kể cả

phụ nữ có thai đến mức trụy thai hoặc biến họ thành những cái xác không hồn. Đó là

ở thành phố, còn ở thôn quê thì bọn cƣờng hào, ác bá sau lũy tre xanh lừa lọc, lợi

dụng hủ tục o ép, bóc lột dân nghèo. Chỉ một cô gái quê chửa hoang mà cả làng

đƣợc ăn vạ, bọn cƣờng hào ác bá lợi dụng để phạt vạ, kiếm chác. Để lo đƣợc cái vạ

ấy, ngƣời ta chỉ còn cách bán cả nhà cửa, ruộng vƣờn mà đi tha phƣơng cầu thực,

phải bỏ làng đi vất vƣởng nơi đầu đƣờng xó chợ, hoặc bán mình trong các nhà chứa

mạt hạng nơi thành phố. Tất cả môi trƣờng hỗn độn vô nhân đạo ấy đã hùa vào nhau

để ức hiếp những con ngƣời lao động nhỏ bé, khốn khổ, đẩy họ vào những thảm

cảnh khác nhau. Hiện thực cuộc sống ấy tất yếu tạo ra những con ngƣời nổi loạn,

không làm chủ đƣợc lý trí, tình cảm và hành vi của mình - họ trở thành những kẻ lƣu

manh, trộm cắp, gái điếm... Xây dựng những kiểu nhân vật có tính cách nhƣ vậy,

một mặt Nguyên Hồng đã phản ánh sinh động và sâu sắc hiện thực đen tối trong xã

hội đƣơng thời, mặt khác ông cũng cố gắng lý giải ngọn nguồn nguyên nhân đã tạo

nên những loại ngƣời có tính cách ấy. Vì thế, nhân vật “nổi loạn” của nhà văn dù là

ở dạng nào cũng đều là đáng thƣơng hơn đáng giận - bởi họ là sản phẩm của một xã

hội, một môi trƣờng đen tối, bế tắc, không lối thoát - Đó cũng chính là ý nghĩa nhân

đạo cao cả đƣợc toát ra từ những sáng tác của Nguyên Hồng.

87

Để thể hiện đƣợc một tính cách nhân vật một cách sống động cũng nhƣ để

khẳng định môi trƣờng, hoàn cảnh sống đã tạo nên tính cách con ngƣời, Nguyên

Hồng đã luôn đặt nhân vật vào tình huống đặc biệt và cực độ. (Cực độ là “mức cao

nhất của một trạng thái” [149, tr. 305], nhƣ: Khốn khổ cực độ, bất hạnh cực độ, và

những thử thách cực độ để bộc lộ những tính cách (có khi là tính cách cao thƣợng,

hay tính cách mềm yếu nhu nhƣợc, hoặc tính cách mạnh mẽ ngỗ ngƣợc, tính cách

lƣu manh),… còn đặc biệt chính là sự “khác hẳn với những trường hợp thông

thường về tính chất, chức năng hoặc mức độ” [149, tr. 383]). Việc tạo nên những

tình huống cực độ và những hoàn cảnh đặc biệt nhƣ vậy, Nguyên Hồng đã thể hiện

tính cách nhân vật của mình một cách chân thực và sinh động nhất.

Khảo sát một số sáng tác của Nguyên Hồng nhƣ: Bỉ vỏ, Mợ Du, Linh hồn, Bố

con lão Đen, Nhà sư nữ chùa Âm Hồn, Đây, bóng tối, Người con gái, Vực thẳm,

Giọt máu, Miếng bánh, Trong cảnh khốn cùng, Con chó vàng... chúng tôi thấy, nhà

văn đã tạo ra nhiều tình huống nghệ thuật nhằm thể hiện sức chịu đựng kỳ lạ của nhân

vật cũng nhƣ để khẳng định bản chất tốt đẹp của họ. Ví dụ nhƣ, khi xây dựng hình

tƣợng nhân vật Tám Bính (Bỉ vỏ), tác giả đã đặt nhân vật này vào trong những tình

huống hết sức đặc biệt để miêu tả quá trình từ một cô gái quê trong sáng, lƣơng thiện,

bị xô đẩy vào con đƣờng tha hóa và trƣợt dài đến lƣu manh hóa. Quá trình ấy là cả

một chuỗi những sự kiện, tình huống đầy bất hạnh của nhân vật: Khi là cô gái quê

ngây thơ, trong sáng tin vào tình yêu, tin vào cuộc đời thì Tám Bính bị lừa dối, bị phụ

bạc; khi là ngƣời mẹ với những khát khao đau đáu đƣợc làm mẹ thì Bính bị chia lìa

tình mẫu tử; khi là ngƣời vợ với ƣớc muốn có một gia đình ấm cúng, bình yên thì luôn

phải sống trong sự sợ hãi và luôn tự giày vò mình vì tội lỗi. Là ngƣời lúc nào cũng

khao khát cuộc sống lƣơng thiện thì kết cục Bính không thể nào quay lại cuộc sống

bình thƣờng nhƣ bao ngƣời khác bởi tội ác mà cô đã gây ra... Tám Bính chính là hiện

thân của số phận vừa đau đớn, đắng cay, vừa tủi nhục, bất hạnh. Nhân vật Tám Bính

thực sự đã trở thành điển hình cho loại nhân vật “chịu nạn” của Nguyên Hồng. Trong

truyện ngắn Linh hồn, Nguyên Hồng cũng đã đặt nhân vật vào hoàn cảnh đầy kịch

tính. Nhân vật Hai mươi hai đã phải đi tù thay chồng tám tháng trong lúc bụng mang

dạ chửa vì nhà đoan khám thấy có rƣợu lậu trong nhà. Nhƣng đi tù nào đã đƣợc yên,

Hai mươi hai phải đi làm cỏ vê, rồi bị cai ngục “tò mò lật áo, lật yếm, lật khăn” làm

cho cô cảm thấy bị xúc phạm mà đành chịu. Chƣa hết, Nguyên Hồng lại đặt nhân vật

88

vào tình huống cực độ hơn nữa, Hai mươi hai bị cai ngục hãm hiếp đến sảy thai rồi

chết! Tình huống này làm ngƣời đọc càng tăng thêm sự xót thƣơng vô hạn với thân

phận ngƣời phụ nữ và sự căm hận đối với những kẻ đểu giả, độc ác, táng tận lƣơng

tâm. Đặt nhân vật vào tình huống đầy thử thách và đau khổ cực độ ấy, nhà văn nhằm

khẳng định tâm hồn trong sáng của Hai mươi hai, tuy thân xác bị làm nhục nhƣng vẫn

thủy chung với ngƣời chồng nghèo khổ ở quê nhà. Qua đó, nhà văn đã khắc sâu hơn

nữa bản chất tàn ác, dã man mất hết tính ngƣời của lũ “mặt ngƣời dạ thú” - những kẻ

bóc lột thống trị đƣơng thời.

Nguyên Hồng luôn có ý thức đặt nhân vật của mình vào những tình huống

thử thách cực độ, cố xoáy sâu vào những tình huống bi thảm với những nỗi khổ bất

hạnh chồng chất lên nhau. Nếu tình huống truyện của Thạch Lam đƣợc diễn ra trong

khoảng khắc nào đó (nhƣ khi Gió lạnh đầu mùa về, hay Tối ba mươi đến…) thì tình

huống truyện của Nguyên Hồng mỗi lúc càng thêm căng thẳng, bức bối ngột ngạt,

các nhân vật phải hứng chịu những nỗi khổ tƣởng nhƣ không thể khổ hơn. Những

kiểu nhân vật này của Nguyên Hồng mang một nét gì đó nhƣ kiểu nhân vật “chịu

nạn”, mang màu sắc của Thiên chúa giáo. Nhân vật Bính (Bỉ vỏ), Hai mƣơi hai

(Linh hồn), những ngƣời đàn bà trong tù (Tết của tù đàn bà),... trong những lúc đau

khổ tột cùng đều hƣớng về Chúa với một niềm an ủi về sự nhẫn nhịn, sự chịu đựng

của mình. Và cũng đúng nhƣ một số nhà nghiên cứu đã khẳng định: Nguyên Hồng

có thói quen đã trút lên đầu nhân vật của mình đủ mọi nỗi khổ nhục, nỗi éo le để nói

cho hết cho thỏa nỗi khốn khổ của nhân vật, và cũng là để cho thỏa cái tình thương mênh mông của mình đối với những con người khốn khổ ấy.

Mặt khác, khi tạo những tình huống cực độ và đặc biệt nhƣ vậy, Nguyên

Hồng đã thể hiện đƣợc bản chất tốt đẹp của con ngƣời lao động. Ta thấy nhà văn

luôn tin vào bản chất tốt đẹp (giầu đức hy sinh, cao thƣợng, đầy tình nhân ái…)

của họ, phát hiện ở họ tiềm tàng một bản năng mãnh liệt để hƣớng tới thiện căn

bền vững. Vẻ đẹp tâm hồn nhân vật đƣợc thể hiện ngay trong những hoàn cảnh

nghiệt ngã và bi kịch nhất. Chẳng hạn khi Bính sa chân vào nhà chứa, khi là một bỉ

vỏ nhƣng vẫn luôn luôn khát khao cuộc sống lƣơng thiện; Mợ Du gặp lại đứa con

trong sự khao khát cháy bỏng mà xót xa của tình mẫu tử; Mụ Mão thƣờng xuyên bị

chồng đánh bầm dập, thâm tím cả mình mẩy nhƣng vẫn hầu hạ chồng cơm ngày

89

hai bữa, vẫn chui ra rúc vào với những đứa con riêng của chồng… thì vẻ đẹp

thiêng liêng của tình mẫu tử lại ngời sáng làm cảm động lòng ngƣời.

Khảo sát các tác phẩm của Nguyên Hồng, chúng tôi thấy nhà văn đã tỏ ra

rất có ý thức xây dựng hoàn cảnh, môi trƣờng sống để khắc họa tính cách nhân vật.

Đó là khi nhà văn đã đặt nhân vật vào những tình huống căng thẳng, ngặt nghèo,

quyết liệt; hoặc khi phải đối mặt với những điều kiện sống khắc nghiệt, phi nhân

tính, đẩy con ngƣời vào bƣớc đƣờng cùng, buộc phải có những sự lựa chọn dứt

khoát. Đó là những lúc họ phải đụng độ với những xung đột một mất một còn với

ngƣời đối lập (Bảy Hựu, Buổi chiều xám…), hay lúc có những xung đột về danh

dự, nhân phẩm và thực tế nghiệt ngã, phũ phàng (Con chó vàng, Miếng bánh…).

Đó là sự lựa chọn của ngƣời trí thức tiểu tƣ sản trƣớc nhu cầu thông thƣờng của

con ngƣời, đó là nhu cầu về miếng ăn trƣớc cái đói đang hành hạ và tình thƣơng

đối với vợ của một ngƣời chồng, và cao hơn là danh dự, lòng tự trọng của ngƣời trí

thức. Đó là sự lựa chọn của mợ Du (Mợ Du), khi gặp lại đứa con trong hoàn cảnh

lén lút, đầy kịch tính: sau bao ngày xa cách, cảm xúc dồn nén đẩy căng, ứ tràn

thành tiếng khóc vỡ òa. Cảm xúc vừa hạnh phúc khi gặp lại con, vừa đau đớn, tủi

phận cho hoàn cảnh oái oăm của mình và cả sự linh cảm về nỗi biệt ly tình mẫu

tử… tất cả hòa vào trong tiếng khóc nức nở của hai mẹ con mợ Du trên nền của

một không gian đầy sự tƣơng phản. Không gian thì đẹp đẽ thơ mộng đầy ánh trăng,

ngát hƣơng hoa cau, hoa lý và tâm trạng con ngƣời thì lại đầy ai oán, xót thƣơng.

Chúng ta đều biết, giữa tác phẩm văn học với loại hình sân khấu, điện ảnh

có mối quan hệ lẫn nhau, tất nhiên mối quan hệ đó chỉ có thể xảy ra khi có những

tác phẩm văn xuôi chứa đựng nhiều kịch tính. Nhiều tác phẩm của Nguyên Hồng

đã mang đậm tính kịch của nghệ thuật sân khấu, bởi nhà văn đã tạo ra những tình

huống căng thẳng và sống động, buộc nhân vật phải thể hiện đời sống nội tâm của

mình hay những giằng xé, thao thức, những đớn đau trong ý thức của nhân vật. Là

một trong những tác phẩm văn học xuất sắc nói về sự tha hóa của những con ngƣời

ở dƣới đáy xã hội, ngay từ cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX,

Bỉ vỏ đã đƣợc các nhà đạo diễn điện ảnh, sân khấu nổi tiếng quan tâm và dàn dựng

thành kịch bản sân khấu, điện ảnh. Nhà đạo diễn điện ảnh, Nghệ sĩ nhân dân

(NSND) Doãn Hoàng Giang đã nhận thấy tính kịch rất rõ trong tiểu thuyết Bỉ vỏ

của Nguyên Hồng. Đã hai lần nhà đạo diễn tài hoa này đã đƣa nội dung Bỉ vỏ lên

90

sân khấu. Vở cải lƣơng, cũng nhƣ kịch nói do ông đạo diễn đã đạt đƣợc những

thành tựu đáng trân trọng, đƣợc giới phê bình sân khấu và khán giả đánh giá cao

("Bỉ vỏ" Đoàn Cải lương Quảng Ninh, đoạt Huy chương vàng, năm 1990, năm

2002, đƣợc dàn dựng thành vở kịch nói “Bỉ vỏ - cô gái ăn cắp” công diễn trên sân

khấu kịch Hồng Vân, thành phố Hồ Chí Minh). NSND Doãn Hoàng Giang cho

rằng: “Ở Bỉ vỏ, số phận của tất cả các nhân vật đều hay, thông qua họ, tính phê

phán xã hội đạt được hiệu quả rất cao… thân phận dân đen thời ấy bị bủa vây tứ

phía, muốn sống một cuộc đời lương thiện như mong muốn thật không phải dễ (…)

Bỉ vỏ là chính kịch chứa đầy sự bi thương khốc liệt” (NSND Doãn Hoàng Giang

đưa "Bỉ vỏ" lên sàn kịch - Báo VN EXPRESS, ngày 18/5/2002”). Đấy là sự giằng

xé và đau đớn của những con ngƣời bị xã hội tha hóa và sự khát khao cháy bỏng

đƣợc làm ngƣời lƣơng thiện.

Nói tóm lại, để có thể có đƣợc những nhân vật chân thực, sống động với

những tính cách phong phú, phức tạp, điển hình cho thế giới của những con ngƣời

lao động nghèo khổ dƣới đáy xã hội, nhà văn Nguyên Hồng đã luôn ý thức tạo

dựng một hoàn cảnh, một môi trƣờng sống với những tình huống đặc biệt. Hay nói

một cách khác, ông đã rất thành công trong nghệ thuật tạo dựng hoàn cảnh, tình

huống. Cụ thể ở đây là hoàn cảnh sống cơ cực lầm than của những ngƣời lao động

nghèo trƣớc cách mạng. Hoàn cảnh ấy đã nảy sinh ra những kiểu nhân vật đặc biệt

mang dấu ấn Nguyên Hồng. Các nhân vật của nhà văn luôn đƣợc đặt vào tình

huống cực độ, khó khăn chồng chất khó khăn, bất hạnh chồng chất bất hạnh với

những thử thách nghiệt ngã. Qua những tình huống ấy, nhân vật của Nguyên Hồng

đã bộc lộ sức chịu đựng phi thƣờng. Sức chịu đựng ấy bắt nguồn từ những con

ngƣời có tâm hồn và trái tim nhân hậu, luôn mang trong mình một đức tin về sự

thánh thiện của con ngƣời. Vẻ đẹp tinh thần của họ là sự hòa hợp giữa tình yêu

thƣơng, sự hy sinh tới mức quên mình của những con ngƣời cùng khổ. Đó chính là

sự kết hợp của truyền thống nhân nghĩa thủy chung của dân tộc với tinh thần bác ái

của Chúa Jesu. Viết về họ, một mặt Nguyên Hồng đã phản ánh đƣợc một cách

chân thực cuộc sống cơ cực lầm than của lớp ngƣời lao động nghèo khổ dƣới đáy

trong xã hội đƣơng thời, mặt khác nhà văn cũng ca ngợi bản chất tốt đẹp của ngƣời

lao động: càng trong hoàn cảnh ngặt nghèo, càng gặp những thử thách éo le thì tâm

hồn họ càng ngời sáng. Viết về họ với ngòi bút chan chứa yêu thƣơng và một sự

91

đồng cảm sâu sắc Nguyên Hồng đã tạo nên một nét riêng trong phong cách nghệ

thuật của mình, đó là bút pháp hiện thực nghiêm ngặt nhưng lại thấm đượm ý vị

trữ tình - và đây cũng là một trong những nguyên nhân đƣa Nguyên Hồng đến với

đỉnh cao của chủ nghĩa hiện thực.

3.2.2. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình để khắc họa tâm trạng và tính cách nhân vật

Nhƣ đã biết, “nhân vật văn học chỉ xuất hiện qua sự trần thuật miêu tả

bằng những phương tiện văn học” [94, tr. 291] mà các phƣơng thức, phƣơng tiện

thể hiện nhân vật lại hết sức đa dạng. Một trong những phƣơng thức đó là “nhân

vật được miêu tả bằng chi tiết… dùng chi tiết để miêu tả chân dung, ngoại hình, tả

hành động, tâm trạng thể hiện quá trình nội tâm” [94, tr. 291]. Khi miêu tả ngoại

hình, Nguyên Hồng chú ý miêu tả những nét, cử chỉ và hành động để biểu lộ thế

giới nội tâm của nhân vật, nhất là nhân vật ngƣời phụ nữ bất hạnh. Ví dụ nhƣ, khi

miêu tả nhân vật mợ Du (Mợ Du), Nguyên Hồng viết: “gương mặt trắng mát, gò

má hơi cao, mắt có quầng thâm ... tiếng nói nhẹ và ấm”, biểu hiện một con ngƣời

sống có nội tâm. Vì “bị mẹ chồng và em chồng bắt được quả tang tình tự với anh

thợ may trẻ có duyên, làm cho nhà mợ”, nên mợ không đƣợc ở gần và không đƣợc

thăm nom con khiến lòng ngƣời mẹ ấy day dứt và đau đớn vô cùng. Để miêu tả

những cung bậc cảm xúc của mợ sau bao ngày xa cách, nỗi nhớ thƣơng con bị kìm

nén, đến khi chuẩn bị đƣợc gặp lại đứa con của mình, nhà văn đặc biệt chú ý miêu

tả cặp mắt của mợ Du: “bỗng long lanh như hai viên ngọc” cùng với những những

hành động dồn dập thể hiện sự vội vàng, cuống quýt, mợ: “lao sầm ra, ôm chặt lấy

thằng Dũng vừa nức nở kêu tên Dũng... hôn rít vào má, vào trán, vào cằm Dũng

rồi khóc nức nở: - Giời ơi! giời ơi! mợ chết mất! Dũng ơi! Dũng ơi!”. Hành động

ấy thể hiện niềm vui, niềm hạnh phúc vô bờ khi gặp đƣợc con, và cũng thể hiện sự

tủi cực, cay đắng của thân phận ngƣời phụ nữ lấy chồng, có con mà không đƣợc ở

cùng con: “Thoáng cái, ánh mắt mợ Du quắc lên sáng ngời và gương mặt trắng

mát của mợ tái hẳn đi” [73, tr. 376], ánh mắt mợ Du bộc lộ tâm trạng quằn quại

đau đớn của ngƣời phụ nữ bất hạnh khi cảm nhận thấm thía nỗi đau của sự chia lìa

tình mẫu tử.

Giọt máu là một thiên truyện cảm động viết về bé Thạo. Cuộc sống tối tăm,

nặng nề, vất vả đè nặng lên Thạo, khiến lúc nào em cũng có dáng vẻ len lét, lo sợ

92

ngay cả khi ăn uống hay vui chơi. Niềm vui duy nhất của em là chăm sóc hai luống

ngô với mơ ƣớc khi thu hoạch ngô sẽ có tiền mua gà nuôi, để Tết bán gà đi sẽ có

tiền may áo mới. Khi ngô sắp đƣợc thu hoạch, mụ chủ nhà nhẫn tâm bẻ trụi những

bắp ngô non để trừ nợ tiền nhà của bố mẹ em, tƣớc đi niềm hi vọng và niềm vui

nhỏ bé của Thạo. Thạo tiếc nuối và đau xót. Sau trận ốm kịch liệt, Thạo chỉ còn là

một cái bóng, “cái bóng còm cõi ấy thường thần mặt ra mà nhìn thiếp vào khoảng

không”. Tả vẻ mặt ngây thơ và “đôi mắt lƣu ly” của Thạo, tác giả đã xoáy sâu vào

sự thất vọng, đau đớn của em khi bị mụ chủ nhà đối xử tàn nhẫn “trong khối lưu ly

của hai lòng mắt nâu sáng của Thạo bé, những ngấn long lanh lại luôn luôn hiện

lên và mờ đi, hàng my dài, cong và tơ càng đờ đẫn thêm trong cái quầng thâm hằn

như cắt khỏi nước da xanh mướt” [73, tr. 550]. Tình huống truyện ngày càng đƣợc

đẩy căng nhằm khắc họa sâu sắc sự tổn thƣơng của bé Thạo. Em nhƣ một con

chim non nhỏ nhoi đến tội nghiệp, không chống nổi sự phũ phàng, tàn nhẫn của kẻ

mạnh. Chính vì vậy, ngƣời đọc càng xót xa và căm giận trƣớc những hành động vô

nhân đạo, táng tận lƣơng tâm của bọn nhà giàu trong xã hội xấu xa đó.

Trong Những ngày thơ ấu, nhân vật bà nội của bé Hồng đƣợc nhà văn tập

trung miêu tả biết bao sự chán chƣờng mệt nhọc thể hiện trên gƣơng mặt già nua

cằn cỗi của bà: “từ trong hốc mắt tối những giọt nước mắt tràn ra lai láng trên gò

má hóp răn reo, như một đập nước khô cạn bỗng đầy ứ đến vỡ lở” [73, tr. 747]; Sự

từng trải với những khổ đau của cả đời ngƣời đƣợc đọng lại qua những nếp nhăn

trên mặt và lời nói thể hiện sự uất ức, giận hờn “gương mặt hốc hác nhăn nheo

trong hai quầng mắt sâu thẳm” của “một đời tối tăm của một người đàn bà thường

dân, nhanh chóng nhưng thấm thía rõ rệt, đã kêu lên bằng giọng khan khan rền

rĩ” [73, tr. 747]. Hay hình ảnh ngƣời cha bé Hồng với “vẻ ốm yếu rũ rượi”... chán

ngán nhƣ không còn thiết đến sự sống nữa. Với lòng kính yêu ngƣời mẹ “hiền từ”

và “đau khổ” của mình, nhà văn cũng đã dụng công miêu tả nhân vật ngƣời mẹ bé

Hồng: “vẻ mặt xinh tươi ... giọng cười nói nhẹ nhàng, sự thùy mỵ kính cẩn... hai

con mắt sáng ngời trên nước da mịn màng như trứng gà bóc”, nhƣng “lại chứa

đựng những tâm tư hằng giá buốt vì những phiền muộn, những đau đớn chua cay

nhất, tối tăm nhất” [73, tr. 736] của ngƣời phụ nữ còn quá trẻ lấy ngƣời chồng già

mà mình không yêu, không có hạnh phúc gia đình. Hình ảnh “Mặt mẹ tôi rầu rầu,

đầu hơi cúi, mắt nhìn như không thấy gì, đi rất chậm” biểu lộ một tâm trạng mệt

93

mỏi, buồn thảm khi cảnh nhà sa sút và tâm trí đã hoàn toàn tê buốt về những ý

nghĩ thấm thía về sự trụy lạc không phƣơng cứu chữa của gia đình... Nhà văn đã

diễn tả những biến thái tinh vi trong tâm hồn ngƣời mẹ bé Hồng, những thổn thức,

hồi hộp lạ thƣờng của chị khi nghe tiếng kèn của cai H. Trong cuốn hồi ký này,

nhân vật cai H chỉ đƣợc miêu tả thoáng qua có 3 lần về ngoại hình. Đó là ngƣời

đàn ông có dáng ngƣời “tầm thước”, gƣơng mặt “trắng trẻo”, “mắt sáng, sống

mũi hơi cao, hai hàm răng trắng phau, ăn vận gọn ghẽ” [73, tr. 741] với tiếng kèn

rộn rã đã để lại ấn tƣợng sâu sắc về một ngƣời đàn ông trẻ tuổi, căng tràn sức sống,

đối lập với vẻ “ốm yếu, rũ rượi” của ông bố Hồng. Tuổi trẻ và sức sống của ngƣời

thổi kèn đã khơi gợi những thổn thức, những ƣớc mong thầm kín trong lòng ngƣời

phụ nữ trẻ, hứa hẹn một tƣơng lai tƣơi sáng, đối lập với cuộc sống hiện tại âm

thầm tẻ nhạt của chị. Tiếng kèn của cai H. náo nức, âm vang nhƣ nhƣ lời mời gọi

tình yêu thiết tha đối với những trái tim khao khát yêu đƣơng đang bị dập vùi.

Nghe tiếng kèn và khi nhìn ngƣời thổi kèn, bắt gặp ánh mắt long lanh của ngƣời

đàn ông nọ chiếu tới, “trống ngực mẹ tôi đập lạ thường”, “những con mắt của mẹ

tôi sáng lên nhìn người thổi kèn và hai gò má mẹ tôi ửng hồng khi gặp cặp mắt

long lanh của người đàn ông nọ chiếu tới” [73, tr. 743]. Nhiều lần nhà văn miêu tả

đôi mắt sáng và gò má ửng hồng của ngƣời mẹ, nhằm khắc họa cái hạnh phúc nhỏ

nhoi, tội nghiệp, sự bâng khuâng, e thẹn của một ngƣời phụ nữ trẻ, những rung

động thầm kín của một con tim trƣớc một tình yêu không thể có. Ngòi bút của

Nguyên Hồng thƣờng phân tích tỉ mỉ, tƣờng tận những cảm xúc mơ hồ, những diễn

biến tâm lý tinh vi của nhân vật qua những nét ngoại hình nhƣ thế.

Trong cả 174 trang tiểu thuyết Bỉ vỏ chỉ có 4 lần tác giả miêu tả thoáng qua

chân dung Tham Chung, kẻ đã gây ra sự đau khổ khốn nạn đầu tiên của cuộc đời

Bính, đó là “Một người đàn ông sang trọng và trai trẻ,... một người vận quần áo

tây chải chuốt,... thân hình thanh tú, đầu óc bóng mượt và thơm tho” [74, tr. 298].

Nhân vật chỉ đƣợc miêu tả có vài dòng về ngoại hình, nhƣng ngƣời đọc vẫn thấy

đƣợc bản chất đểu giả, lừa dối, trai lơ một gã Sở khanh hiện đại qua vẻ ngoài

“sạch sẽ, thơm tho” ấy. Cũng vậy, trong tiểu thuyết này, sự tham lam và độc ác,

giả dối của cha mẹ Tám Bính đƣợc tác giả miêu tả có 7 lần qua hình ảnh: “cặp mắt

kèm nhèm cau có”, “luôn luôn lườm Bính”, qua âm sắc của giọng nói “tiếng rít

mắng,... tiếng nghiến đay chì... tiếng rít lanh lảnh...” của mẹ Bính, và “tiếng ho

94

khàn khàn”, “cặp mắt gườm gườm” của ngƣời cha thể hiện sự cay nghiệt và tàn

nhẫn. Việc bán đứa con của Bính cho Phó lý đƣợc mặc cả qua đối thoại lúc thì

“ngọt ngào”, lúc thì “kèo nhèo” , coi đứa bé nhƣ “một con trâu, con lợn”. Sự

“nâng lên, đặt xuống” của cha mẹ Bính khi bán đứa cháu ruột của mình thật cạn

tình, cạn nghĩa “đang tay quyết cắt đứt tình yêu thương của mẹ con Bính như khúc

dồi, một miếng phèo” và “được hàng chục bạc,... vừa hết lo sợ ngả vạ, vừa được

món tiền mừng chân trưởng giáo và ăn tiêu” [74, tr. 304] - tham lam và tàn nhẫn

đến tận cùng. Hay miêu tả cuộc sống thê thảm của những cô gái nhà thổ rạc rài

“tiếp khách” làng chơi, Nguyên Hồng đã chọn những chi tiết miêu tả ngoại hình

thật đắt giá. Đây là những thân hình “nhọc lả”, “xanh xám, gầy rạc, ngực lép kẹp,

chân tay khẳng khiu” [74, tr. 330] vì bị bóc lột thân xác một cách tàn nhẫn. Có khi

họ phải tiếp khách “sáu mươi ngày đêm ròng rã ít khi chợp mắt”, đến “ho ra máu,

thuốc thang không có”, rồi chết thảm hại: “Mỗi ngày thây một rữa ra, mãi khi bốc

hơi thối và nhung nhúc dòi bọ, hàng xóm mới biết... Tấm áo quan bằng gỗ mỏng

đưa đi đưa lại, cọ vào chiếc thừng tre treo lủng lẳng ở đầu đòn gánh ống làm

thành những tiếng kẽo kẹt thay cho tiếng khóc viếng” [74, tr. 329]...

Không chỉ sử dụng chi tiết miêu tả ngoại hình những nhân vật lƣơng thiện,

mà ngay cả với những nhân vật lƣu manh, trộm cƣớp nhƣ: nhân vật Chín Huyền

(Chín Huyền) Giản (Mối hờn) Năm Sài Gòn, Ba Bay, Chín Hiếc, (Bỉ vỏ), tác giả

cũng chú ý khắc họa tính cách qua hình thức bên ngoài của nhân vật. Chín Huyền,

một “bỉ vỏ” có ngoại hình khá ấn tƣợng: “Một người đàn bà có nước da ngăm đen,

khổ mặt gầy xương, tóc rễ tre, đôi mắt ti hí mà sắc sảo, cặp môi cong cớn, luôn

luôn cười, tiếng nói lanh lảnh, dáng điệu cứng cỏi mà nhanh nhẹn như đàn ông”

[73, tr. 174]. Ngoại hình ấy và cuộc đời “bỉ vỏ” đã tạo nên ở cô vẻ “trơ trẽn, táo

bạo và liều lĩnh vô cùng”, “Hết ngày này ngày khác trong chợ Đồng Xuân, ở bến

ôtô, trong các sòng bạc lẩn lút dưới bãi Nhà Dàu, trong các tiệm hút, các hàng

cao lâu rải rác ở các vùng ngoại ô”. Ngoại hình ấy rất phù hợp với tính cách

“xông xáo, không chịu cảnh bó buộc, tù hãm thiếu thốn” và với vẻ can trƣờng đầy

nghĩa hiệp của Chín Huyền. Tính cách “anh hùng” đã khiến Chín Huyền quên cả

bản thân mình mà cứu ngƣời “cùng hội cùng thuyền” - một nghĩa cử đáng quý của

những con ngƣời tƣởng chừng nhƣ mất hết nhân tính này. Nhân vật Năm Sài Gòn

khét tiếng là “anh chị” của đám lƣu manh, trộm cƣớp ở Hải Phòng. Ngoại hình của

95

hắn đƣợc tác giả tập trung miêu tả qua vẻ mặt dữ dằn, bặm trợn: “Năm đen cháy,

cằm bạnh, xạm râu, hai mắt xếch, mé trên mắt bên phải vẹt hẳn một nửa lông mày

dưới vết dao chém sâu hõm” [74, tr. 357]. Mấy vết sẹo chằng chịt trên mặt Năm đã

thể hiện “chiến tích” “dày dặn” của tay trùm du côn này: “Trên má Năm, trên trán

Năm mấy cái sẹo chằng chịt như những vết rạn của chiếc vại sành”. Chỉ vài dòng

miêu tả, tác giả đã thể hiện sắc nét chân dung “mất hết tính ngƣời” của tay trùm

lƣu manh trong xã hội. Hay miêu tả ngoại hình của Hai con, Ba con, Tƣ con -

những tay “anh chị” trong chốn giang hồ, tác giả đã chọn những chi tiết tiêu biểu,

diễn đạt một cách ngắn gọn: “Ba gã này đều mảnh khảnh, mắt nhìn đều nhanh như

chớp, lông mày đều rậm, đuôi nhọn và xếch” [74, tr. 349] nhằm lột trần đƣợc vẻ

dữ dằn của những tay lƣu manh chuyên ăn cƣớp, đâm thuê chém mƣớn.

Nhƣ vậy, với cách miêu tả ngoại hình sắc sảo, nhiều chi tiết chọn lọc đắt

giá, Nguyên Hồng đã rất thành công khi thể hiện tâm trạng nhân vật hay khắc họa

tính cách, bản chất của từng kiểu nhân vật trong tác phẩm của mình.

3.2.3. Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật qua độc thoại nội tâm

“Thể hiện tâm lý là phương thức quan trọng nhất để chiếm lĩnh đời sống con

người bằng văn học nghệ thuật” [42, tr. 24]. Vì vậy, nghệ thuật miêu tả tâm lý có

vai trò quan trọng đối với việc xây dựng chân dung một nhân vật văn học. Qua việc

miêu tả tâm lý nhân vật, ngƣời đọc không chỉ thấy rõ hơn chân dung một con ngƣời

mà còn thấy đƣợc những nét sinh động thuộc bản chất xã hội. Tâm lý càng biểu hiện

chân thực, chi tiết bao nhiêu thì sức tác động của nhân vật đối với ngƣời đọc càng

mạnh mẽ, sâu sắc bấy nhiêu. Tuy nhiên ở mỗi giai đoạn, mỗi trào lƣu văn học, thậm

chí ở mỗi nhà văn lại có những cách biểu hiện tâm lý nhân vật của riêng mình.

Các nhà văn hiện đại cùng với quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam đầu

thế kỷ XX đã chú ý nhiều đến biểu hiện tâm lý của con ngƣời, họ không nhìn nhận

con ngƣời theo một kiểu, một chiều giản đơn mà nhiều chiều, nhiều mặt khác nhau.

Hơn nữa, họ còn phản ánh con ngƣời từ bên trong, từ chiều sâu nội tâm, với những

suy nghĩ, những tính cách, những hành động, những phẩm chất khác nhau, phong

phú và phức tạp, thậm chí đối lập nhau, (vừa tầm thƣờng, vừa cao thƣợng, vừa giàu

lòng nhân ái, vừa vị tha lại vừa cay độc dữ dằn...). “Văn học hiện thực xem con

người là sản phẩm của hoàn cảnh, là tiêu bản của hoàn cảnh. Mổ xẻ con người là

96

khám phá tác động của hoàn cảnh lên con người. Đó là quan niệm mới về con người

khác với quan niệm con người là kẻ mang đạo lý chống lại kẻ vô đạo, là người anh

hùng thay trời hành đạo” [27, tr. 5]. Do vậy, các nhà văn, đặc biệt là các nhà văn

hiện thực đã rất chú trọng đến việc miêu tả tâm lý, tính cách nhân vật - mà nhờ đó đã

tạo ra hiệu quả nâng cao chất lƣợng nghệ thuật trong các sáng tác của mình.

Bên cạnh việc sử dụng biện pháp miêu tả ngoại hình, nhà văn Nguyên

Hồng còn chú trọng đến việc miêu tả nội tâm để thể hiện tính cách, phẩm chất

của nhân vật. Theo quan niệm của PGS. TS Phạm Mạnh Hùng thì “Thiên nhiên

nhiều khi nó là yếu tố biểu hiện tâm lý” [79, tr.316], và Nguyên Hồng đã rất chú ý

miêu tả thiên nhiên như một phương tiện hữu hiệu để thể hiện nội tâm, tâm lý nhân

vật. Trong tiểu thuyết Bỉ vỏ - theo thống kê của chúng tôi - đã có 29 lần miêu tả

cảnh thiên nhiên, trong hồi ký Những ngày thơ ấu là 21 lần, truyện ngắn: Trong

cảnh khốn cùng là 9 lần, trong Mợ Du là 7 lần... Bức tranh thiên nhiên qua ngòi

bút của nhà văn đã trở thành bức tranh tâm trạng, giữa thiên nhiên và con ngƣời

luôn có sự đồng điệu về tâm trạng. Đây là cảnh gặp gỡ tội nghiệp của hai mẹ con

mợ Du trong một “đêm trăng sáng lắm... Ánh trăng vằng vặc đã giội xuống tràn

trề hai gương mặt đầm đìa nước mắt áp lên nhau và hai mái tóc ngắn dài trộn lẫn

với nhau. Hương hoa cau và hoa lý sáng và ấm đã xao xuyến lên bởi những tiếng

khóc dồn dập vỡ lở ở một góc vườn, rì rì tiếng dế” [73, tr. 376]. Ánh trăng hòa

quyện với hƣơng hoa cau, hoa lý thấm đẫm cảm xúc và tâm trạng nhân vật. Vẻ đẹp

của đêm thu đầy trăng ấy làm cho hình ảnh quấn quýt của hai mẹ con Dũng trở nên

huyền ảo và xúc động lòng ngƣời. Vẻ đẹp thiên nhiên đã tô đậm thêm tình mẹ con

thắm thiết và sự ám ảnh khôn nguôi, sự xúc động sâu sắc của ngƣời đọc về sự chia

lìa của tình mẫu tử trong hoàn cảnh đầy éo le ngang trái. Truyện ngắn Trong cảnh

khốn cùng nhà văn đã miêu tả những diễn biến phức tạp của nhân vật Quyến khi

chèo đò trong một khung cảnh thiên nhiên “tiếng ruộng rì rào, tiếng ngàn cây man

mác mơ hồ”. Khung cảnh ấy gợi trong lòng Quyến những ước mong rạo rực của

một quá khứ êm đềm vui vẻ khi mà ngƣời chồng chƣa ốm đau, làm ăn còn gặp

may mắn, sống trong những ngày tháng êm đềm. Sự biến đổi của hoàn cảnh tạo

nên sự biến đổi của tâm trạng Quyến, thiên nhiên nhƣ đồng điệu với tâm trạng

nhân vật: “Gió thổi rất nhẹ”, rồi “gió xuân thổi mạnh”, “dòng sông xanh biếc lấp

lánh những ánh sáng vàng nhạt sau vàng tươi, sau hồng phớt, rồi cả mảng trời bên

97

bờ tay trái óng mượt như tấm màn nhung đỏ viền lơ” [73, tr. 145]. Khung cảnh thơ

mộng đã gợi trong lòng Quyến những “rạo rực khi nghĩ đến anh chân sào trẻ tuổi

đẹp đẽ mà bấy lâu nàng mơ ước”. Nhƣng ý nghĩ tội lỗi của Quyến qua nhanh khi

nàng chứng kiến cảnh hai vợ chồng ngƣời đi đò: ngƣời chồng nhƣờng cơm cho

vợ con đến mức đói lả ngất đi. Quyến “xúc động trước tình yêu thương thấm thía

nồng nàn của người đàn ông nọ trong cảnh khốn cùng đối với vợ con”. Nàng ân

hận vì đã có ý nghĩ tội lỗi muốn bỏ ngƣời chồng ốm yếu của mình mà mơ tƣởng

đến anh chân sào trẻ tuổi. Khung cảnh thiên nhiên lúc này dƣờng nhƣ cũng đồng

cảm với ý nghĩ của nhân vật “đêm nay thật êm ả trong cảnh đêm mờ sao thưa...

trong dòng sông lặng lẽ” nhƣ tâm hồn bình an của Quyến vậy.

Trong Những ngày thơ ấu, cảnh thiên nhiên trữ tình, thơ mộng đƣợc cảm

nhận qua tâm hồn trẻ thơ hồn nhiên trong trẻo của nhân vật chú bé Hồng. Vẻ đẹp

thiên nhiên tƣơi sáng đầy quyến rũ đƣợc miêu tả bằng một cảm xúc lãng mạn đắm

say của tuổi trẻ. Có khi đó là một buổi chiều tĩnh thơ mộng “vòm trời bao la như

bằng thủy tinh xanh phớt”, “làn mây trắng bồng bềnh tan về một phía trời... gió

thổi vù vù, bướm say hoa trong ánh nắng” [73, tr. 801]; Có khi là cảnh hè rực rỡ,

tràn đầy nhựa sống và tràn ngập âm thanh: “Mùa hè mới bắt đầu trên các cành lá

óng ả mượt nõn và những chòm xoan xanh tươi hứa hẹn màu thắm của các vừng

hoa đỏ. Tiếng ve liên miên ghen ghét với vạn vật tưng bừng đã thấy vang tới” [73,

tr. 799]. Và cũng có khi là vẻ đẹp của ánh trăng trong ký ức tuổi thơ: “Dưới ánh

trăng bàng bạc bỗng xuất hiện một bóng người mảnh dẻ, nhẹ bước trên những

cành xoan tây mờ mờ xao động suốt dải đường nhựa lấp loáng... Tôi thoáng thấy

hai con mắt long lanh trên gương mặt trắng mát chiếu lên nhìn tôi. Trước chiều

gió, những sợi tóc bay xõa như tơ, phấp phới dưới vành trăng ngọc... bụi của vành

trăng loang loáng rơi xuống rắc lên mái tóc... bay cả vào lòng chúng tôi” [73, tr.

780]. Ánh trăng man mác và bóng dáng ngƣời bạn nhỏ đã xoa dịu vết thƣơng tâm

hồn cậu bé Hồng, khiến em “chẳng còn nghĩ đến cảnh đời đầy đọa nữa”, hình ảnh

“ánh trăng ngọc” dù chỉ thoáng hiện trong giấc mơ cũng trở thành kỷ niệm êm

đềm lƣu luyến mãi trong tuổi thơ của em.

Nếu Nam Cao thƣờng phân tích tâm lý nhân vật và sự thay đổi của tính cách

của họ dƣới sự tác động của hoàn cảnh, Ngô Tất Tố thƣờng tập trung miêu tả hành

động nhân vật, thì Nguyên Hồng lại thƣờng quan tâm đến trạng thái, suy nghĩ cảm

98

xúc của con ngƣời. Nhà văn hay sử dụng biện pháp độc thoại nội tâm nhƣ một thủ

pháp nghệ thuật chủ yếu để miêu tả thế giới nội tâm nhân vật. Theo thống kê của

chúng tôi, độc thoại nội tâm trong Bỉ vỏ là 25 lần/174 trang truyện, Miếng bánh là

9 lần/ 13 trang truyện, Hai dòng sữa là 11/22 trang truyện trong đó có 5 trang có

nhiều đoạn độc thoại nội tâm tương đối dài ... Tiểu thuyết Cửa biển viết sau cách

mạng của Nguyên Hồng, ngƣời ta đã xác định đƣợc có 927 trang có độc thoại nội

tâm/ hơn hai ngàn trang truyện [30, tr. 18]. Và khi dùng biện pháp độc thoại nội

tâm nhà văn sử dụng nhiều từ ngữ nhƣ: tự hỏi, tự nhủ thầm, lòng nhủ thầm, kêu

thầm lên, bụng bảo dạ, thấy tâm trí bâng khuâng, thấy rằng, ước thầm, những ý

nghĩ sôi nổi mở ra, cảm thấy, những câu nói chỉ trực trào ra, hồi tưởng lại...

Không chỉ sử dụng từ ngữ nhƣ trên mà độc thoại nội tâm trong sáng tác của

Nguyên Hồng còn đƣợc thể hiện dƣới nhiều hình thức khác nhau nhƣ: nhật ký, ghi

chép sổ tay (Những ngày thơ ấu, Cuộc sống, Hơi thở tàn, Bỉ vỏ... ) hoặc ở những

dạng nhân vật tự đối thoại ngầm (Miếng bánh, Bỉ vỏ, Những ngày thơ ấu...), hoặc

ở lời nửa trực tiếp, nghĩa là về thực chất là tiếng nói của ngƣời kể chuyện, nhƣng

thể hiện suy nghĩ của nhân vật. Độc thoại nội tâm thƣờng xuất hiện trong trạng thái

xúc động mạnh, hoặc trong trạng thái tâm lý căng thẳng. Độc thoại nội tâm thƣờng

thể hiện qua dòng hồi tƣởng, tâm tƣởng, suy nghĩ của nhân vật, qua đó nhân vật tự

bộc lộ, tự giãi bày những cảm xúc, tình cảm trong lòng mình một cách thành thật

nhất. Những nhân vật nhƣ Tám Bính, Mợ Du, mẹ bé Hồng, bé Hồng, Hƣng, Hai

mƣơi hai, Muống, An... là những nhân vật giàu cảm xúc nội tâm. Nguyên Hồng đã

sử dụng nhiều phƣơng tiện độc thoại nội tâm để triển khai đời sống tƣ tƣởng, tình

cảm của nhân vật. Trong sáng tác của Nam Cao thƣờng có những xung đột trong

tƣ tƣởng hoặc qua đối thoại tạo nên phản ứng tâm lý làm nảy sinh độc thoại nội

tâm. Chẳng hạn, Chí Phèo sau khi gặp gỡ với Thị Nở và sau khi đƣợc Thị Nở

chăm sóc ân cần - đã tạo ra một sự tỉnh ngộ và sự biến đổi tâm lý sâu sắc. Trong

sáng tác của Vũ Trọng Phụng độc thoại nội tâm thƣờng xuất khi những biến cố, sự

kiện bất ngờ tác động trực tiếp đến tinh thần nhân vật, nhƣ Mịch cảm thấy đời độc

ác vô cùng khi bị Nghị Hách hãm hiếp phải nằm trong nhà thƣơng… Tuy nhiên, ở

thủ pháp xây dựng nhân vật của Nguyên Hồng, độc thoại nội tâm thƣờng gắn với

sự hồi tƣởng, tâm tƣởng của nhân vật, biểu hiện những cảm xúc mãnh liệt, những suy nghĩ căng thẳng nên đôi khi còn nặng nề và thiếu sự tỉnh táo cần thiết.

99

Tóm lại, “Sức mạnh của Nguyên Hồng là yếu tố tâm lý, khi cần nhấn mạnh

chỗ nào, ông chỉ việc gia tăng yếu tố cảm xúc tâm lý lên thôi. Tính chất đa tâm lý đó

lại không hề vượt quá ngưỡng tâm lý của người đọc. Nó chỉ làm tăng biên độ xúc

cảm chứ không hề vượt quá tần số cảm xúc của người đọc” [18, tr. 88]. Bằng nhiều

thủ pháp và bút pháp nghệ thuật, Nguyên Hồng đã khám phá ra thế giới nội tâm

phong phú của con ngƣời. Chính vì vậy, ông đã tạo dựng nên đƣợc cả một hệ thống

các nhân vật là những ngƣời lao động nghèo khổ, nhƣng mỗi nhân vật có một bộ

mặt riêng, một tính cách riêng và để lại ấn tƣợng riêng cho ngƣời đọc. Đó chính là

bằng chứng cho sự thành công của Nguyên Hồng về nghệ thuật xây dựng nhân vật

trong các tác phẩm của mình.

100

Chƣơng 4

THỜI GIAN, KHÔNG GIAN VÀ NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT

Nhƣ đã biết, thời gian, không gian nghệ thuật và ngôn ngữ nghệ thuật là một yếu tố trong thế giới nghệ thuật của nhà văn: “Thời gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của tác giả trên cơ sở tổ chức chất liệu” [140, tr. 664] và “Sự miêu tả trần thuật trong văn học nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn nhất định trong thời gian. Và cái được trần thuật bao giờ cũng diễn ra trong thời gian, được biết qua thời gian trần thuật, sự kết hợp của hai yếu tố này tạo thành thời gian nghệ thuật, một hiện tượng ước lệ chỉ có trong thế giới nghệ thuật” [52, tr. 272]. Theo khái niệm trên, thời gian nghệ thuật là tổ chức bên trong của hình tượng nghệ thuật, là sản phẩm sáng tạo của tác giả và nó là một hiện tượng ước lệ chỉ có trong thế giới nghệ thuật. Thời gian nghệ thuật gắn với phƣơng thức, phƣơng tiện thể hiện, mỗi thể loại văn học có kiểu thời gian nghệ thuật riêng. Còn “Không gian nghệ thuật là hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật, thể hiện tính chỉnh thể của nó” [52, tr. 134]. Giữa thời gian và không gian nghệ thuật có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, chúng không thể tách rời nhau, bởi thế giới thực tại chỉ tồn tại trong một không gian và thời gian cụ thể nào đó, và tất yếu thế giới nghệ thuật cũng chỉ có thể tồn tại trong một không gian và thời gian nghệ thuật với những đặc điểm cụ thể của nó. thể hiện lối tƣ duy và tƣ tƣởng nghệ thuật của nhà văn. Cùng với không gian và thời gian nghệ thuật, “ngôn ngữ văn học cũng là một trong những yếu tố quan trọng thể hiện cá tính, sáng tạo, phong cách, tài năng của nhà văn” [52, tr. 185]. Vì vậy, “khi nghiên cứu một tác phẩm, một tác gia hay một trào lưu văn học, không thể không quan tâm tới đặc điểm và sự sáng tạo về ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn” [ 135, tr. 486].

Khảo sát những sáng tác của Nguyên Hồng trƣớc năm 1945, chúng tôi nhận thấy: thời gian nghệ thuật của Nguyên Hồng có một số đặc điểm nổi bật sau: đó là thời gian gắn với sự kiện, biến cố của cuộc đời nhân vật; thời gian của sự hồi tưởng đan xen giữa quá khứ, hiện tại và tương lai.

4.1. Thời gian nghệ thuật

4.1.1. Thời gian gắn liền với những sự kiện và biến cố dữ dội của cuộc đời nhân vật

Thống kê toàn bộ những sáng tác của Nguyên Hồng trƣớc Cách mạng

tháng Tám năm 1945, chúng tôi nhận thấy thời gian nghệ thuật của Nguyên Hồng

101

nói chung là Thời gian gắn với những sự kiện và biến cố dữ dội của cuộc đời nhân

vật. Nhà văn luôn có ý thức miêu tả sự tác động mạnh mẽ của những biến cố,

những bƣớc ngoặt trong đời sống đối với nhân vật qua thời gian cụ thể. Nhân vật

Tám Bính (Bỉ vỏ) sau khi bị Tham Chung lừa, bị gia đình hắt hủi và bán đứa con

của cô đi, biến cố đầu đời ấy đã đƣa cô đến với thành phố cảng Hải Phòng. Thời

gian từ lúc Bính trốn làng Sòi quê cô ra Hải Phòng chỉ vẻn vẹn có bốn hôm,

nhƣng bốn hôm ấy đã làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời cô. Trong khoảng thời

gian ngắn ngủi ấy, Bính phải trải qua biết bao sự kiện, biến cố: Bính bị thằng “ăn

vận lạ mắt” định cƣỡng hiếp cô tại vƣờn hoa; bị thằng trẻ tuổi trai lơ lừa gạt, rồi

bị vợ hắn báo nhà chức trách đẩy cô vào nhà chứa. Chỉ trong bốn ngày, từ một cô

thôn nữ trong sáng, cả tin, ngây thơ đã bị đẩy vào nhà chứa, rồi dần dần sau này

đã trở thành một “bỉ vỏ” xuất sắc mà những tay “anh chị” trong giới giang hồ

phải kính nể. Hay trong tác phẩm Những ngày thơ ấu đã ghi lại một cách tƣờng

tận những sự kiện trong cuộc đời bé Hồng qua những nút thời gian cụ thể. Từ khi

Hồng lên 8 tuổi đã phải nếm trải những cay đắng trong một gia đình thiếu hạnh

phúc; lớn lên chút nữa, Hồng lại lâm vào cảnh mồ côi cha; khi mẹ bé Hồng đi

bƣớc nữa, khi Hồng ở với bà nội và ngƣời cô; khi Hồng đến trƣờng trong nỗi cô

đơn và bị hành hạ, hay những khi đi đánh đáo để kiếm ăn nuôi thân... Nhà văn

miêu tả chi tiết những cảm xúc của một đứa trẻ mồ côi, xa mẹ, hàng ngày phải

chịu cảnh đối xử ghẻ lạnh của chính những ngƣời thân trong gia đình qua những

mốc thời gian ngày, tháng rõ ràng.

Đặc biệt thời gian hoạt động của các nhân vật của Nguyên Hồng thường tập

trung vào thời điểm ban đêm, cho dù đó là những kiểu nhân vật nào, dù là ngƣời

làm ăn lƣơng thiện (Đây, bóng tối, Hàng cơm đêm, Trong cảnh khốn cùng, Bà

mẹ, Người con gái…) hay những kẻ lƣu manh, trộm cắp, đĩ điếm, (Sông máu,

Chín Huyền, Bỉ vỏ, Con đoản cuối cùng, Bảy Hựu…). Thời điểm ban đêm ấy gợi

lên trong lòng ngƣời đọc những nỗi ám ảnh về những kiếp ngƣời trong đêm trƣờng

nô lệ. Truyện ngắn Linh hồn nhân vật Hai mươi hai chết trong khoảng đêm vắng

lặng, anh Tín chồng nàng vẩn vơ dƣới ánh trăng lạnh lẽo mong đợi vợ ra tù trên

tay bế đứa con khỏe mạnh. Hay hoạt động của nhân vật Nhà sư nữ chùa Âm Hồn

(Nhà sư nữ chùa Âm Hồn) diễn ra toàn vào ban đêm, nhân vật Vịnh (Hàng cơm

đêm), nhân vật Cô gái quê (Cô gái quê),… đều đƣợc miêu tả làm việc trong đêm

102

tối. Rồi nhân vật Bảy Hựu (Bảy Hựu) cũng chết trong một đêm trăng; chị Năng,

anh Năng (Sông máu) bị bỏ mạng trong đêm tối dữ dằn; bà mẹ Thƣởng (Hai mẹ

con) làm việc và suy tƣ đều diễn ra trong đêm tối (thời gian về đêm đƣợc miêu tả 7

lần), trong truyện Tết của tù đàn bà thời gian trôi chậm chạp nhƣ đếm từng

khoảng khắc: ngày 27… 28… giao thừa… Các hoạt động chậm chạp diễn ra nhƣ

kéo dài sự đày ải của những ngƣời tù đàn bà và trẻ con trong thời khắc giao thừa

(đêm, bóng tối đƣợc nhắc đến 9 lần). Trong truyện (Mợ Du) nhân vật Mợ Du gặp

con trong lét lút, đau khổ cũng diễn ra vào đêm trăng (đêm tối đƣợc nhắc tới 7

lần); Truyện ngắn Chín Huyền, nhân vật Chín Huyền cứu Sáu Lẹm cằm vào đêm

khuya và cũng chính đêm đó Chín Huyền bị bắt, bỏ lại hai con dại và lại vào tù...

Trong tiểu thuyết Bỉ vỏ, hầu hết những sự kiện có tính chất bƣớc ngoặt trong cuộc

đời nhân vật chính đều diễn ra trong đêm tối. Đó là đêm Bính âm thầm lén lút đi

sinh nở; là đêm mà cha mẹ Bính mặc cả bán đứa con của Bính; Hay đêm Bính suýt

bị làm nhục ở vƣờn hoa sông Lấp. Là một buổi tối khuya Bính gặp Năm ở nhà

chứa và Năm giúp cô thoát khỏi cuộc đời nhơ nhớp của gái làng chơi. Đó là đêm

khi chứng kiến Năm Sài Gòn móc túi, đã để lại cho Bính cảm giác lo lắng và run

sợ. Và cũng từ đêm ấy, Bính bắt đầu sống cuộc sống của một bỉ vỏ. Hay một đêm

khuya khi đã làm vợ ngƣời mật thám, Bính nghe giọng hát nẫu ruột của Năm trong

nhà giam, cô quyết định cứu Năm và chấp nhận cuộc đời bỉ vỏ. Kết thúc tác phẩm

là đêm bi kịch nhất trong cuộc đời khốn khổ của Bính: con Bính chết trong tay

Năm, Bính và Năm bị bắt, Bính vào tù... Có thể nói, cả cuộc đời Bính (từ khi có

con với Tham Chung) là đêm đen bao phủ cuộc sống tăm tối, tội lỗi và tù đày.

Nhƣ vậy, hầu hết những sự kiện có tính chất bƣớc ngoặt của cuộc đời

những nhân vật chính đều diễn ra trong đêm tối. Đêm tối, không chỉ phù hợp để

nhân vật hành động (nhất là đối với những nhân vật lƣu manh, tha hóa), mà thời

gian đêm tối còn là thời điểm mà nhân vật của Nguyên Hồng bộc lộ thế giới nội

tâm của mình. Nhân vật ngƣời mẹ bé Hồng (Những ngày thơ ấu) từng có “Nhiều

đêm lạnh và dài để mà thao thức lo toan, bàn tán, vun đắp cho nhà cửa, cho tuổi

già, cho con cái” [73, tr. 755]. Nhân vật ngƣời bà của bé Hồng (Những ngày thơ

ấu) trong cảnh nhà sa sút, hàng đêm bà cũng chỉ còn biết gửi gắm ý nguyện của

mình vào những lời cầu nguyện chúa, mong chúa thƣơng xót cứu vớt mà thôi!

103

Nhân vật Tám Bính (Bỉ vỏ) cũng từng có nhiều đêm suy ngẫm về cuộc đời bỉ vỏ

tội lỗi của mình, nghĩ đến làng Sòi quê hƣơng, đến đứa con với nỗi niềm “thèm

thuồng”, “khát khao” đƣợc sống một cuộc đời trong sạch, và cũng bao đêm Bính

sống trong đau tủi, xót xa cho thân phận mình vì biết rằng ƣớc mơ giản dị, chính

đáng ấy với Bính không bao giờ có đƣợc!

Lựa chọn thời gian đêm tối để miêu tả hành động và thể hiện những suy tƣ

của nhân vật là một biện pháp nghệ thuật quen thuộc của các nhà văn thời kỳ này

nhƣ: Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Thạch Lam... Tiểu thuyết Tắt đèn

(Ngô Tất Tố) mở đầu và kết thúc đều vào thời điểm đêm tối; những trang đầu tiên

của Giông tố (Vũ Trọng Phụng) là hình ảnh chiếc xe hòm của Nghị Hách chạy

trong đêm, kết thúc tác phẩm là một đêm tối mùa hạ năm sau; thời gian đêm tối

cũng là thời gian hoạt động kiếm sống của những con ngƣời nhỏ bé ở một ga xép

tỉnh lẻ trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam... Vì sao các nhà văn ở thời

kỳ này thƣờng chọn thời gian ban đêm làm bối cảnh cho hoạt động và suy tƣ của

nhân vật nhƣ vậy? Phải chăng vào thời điểm những năm 1930 - 1945 là thời kỳ xã

hội Việt Nam đầy tăm tối và đi vào con đƣờng bế tắc cực độ, không khí xã hội

căng thẳng, ngột ngạt đòi hỏi có một sự thay đổi. Nhiều nhà văn muốn lột tả cái

gọi là “đêm trƣờng nô lệ” đầy giông bão của cả dân tộc Việt Nam trƣớc thời điểm

khởi nghĩa này. Nguyên Hồng cũng vậy, chọn lựa thời gian về đêm làm bối cảnh

hoạt động và suy tƣ của nhân vật, nhà văn nhằm thể hiện sâu sắc không khí ngột

ngạt, bế tắc phủ chụp lên cuộc sống của những con ngƣời bé nhỏ trong một xã hội

đầy tăm tối, bất công và tội lỗi.

Trong nhiều tác phẩm của Nguyên Hồng, nhịp điệu thời gian có khi đƣợc

miêu tả rất chậm rãi, nhƣ trong Những ngày thơ ấu, tác giả khắc họa tâm trạng

nhớ mong thổn thức của chú bé mồ côi xa mẹ qua nhịp điệu thời gian chậm nhƣ

đếm từng ngày, tháng: “Một tuần... hai tuần... rồi một tháng, hai tháng cũng

chẳng thấy mẹ tôi về, và tôi cũng chẳng nhận được lấy một lá thư của mẹ tôi” [73,

tr. 786]. Nhịp điệu thời gian trong truyện ngắn Tiếng nói càng chậm rãi hơn. Cái

đói và sự chết chóc chầm chậm đến dần trong từng khoảnh khắc đƣợc miêu tả chi

tiết, cụ thể: “từ hôm qua đến đây” ngƣời đàn ông cũng chỉ ngồi “suốt ngày, suốt

đêm, bốn hôm rồi anh chỉ ngồi ngả người vào cái cổng nọ”, “trong khoảng hai

mươi bốn tiếng đồng hồ”, “hôm ấy tới giờ đã bảy hôm”...“Hôm sau và mấy hôm

104

ròng nữa, cái xác khô đét, đen sạm ấy lại cũng như những cái xác trần truồng và

bê bết cứt đái khác, cứ nằm phơi nắng, phơi sương mãi” [73, tr. 696]... Không chỉ

sử dụng nhịp điệu thời gian chậm rãi để xoáy sâu vào từng chi tiết miêu tả, mà

trong nhiều sáng tác của Nguyên Hồng chúng tôi còn thấy nhịp điệu thời gian lại

đƣợc đẩy lên một cách hối hả, khẩn trƣơng, đầy kịch tính nhằm miêu tả những sự

kiện, những biến cố diễn ra trong đời sống hàng ngày hoặc trong ký ức nhân vật.

Đó là hình ảnh mợ Du (trong Mợ Du) lén lút gặp lại đứa con của mình trong

khoảng thời gian ngắn ngủi vào ban đêm với những hành động vội vàng; Chín

Huyền (trong Chín Huyền) quyết định cứu Sáu lẹm cằm chỉ trong một khoảng

khắc; Điều và Tý Sáu (trong Con chó vàng) ăn cắp tiền của ông lão mù diễn ra

trong một đêm tối với những hành động nhanh gọn mang tính chuyên nghiệp; Bảy

Hựu (trong Bảy Hựu) quyết định cứu Hai Răng vàng chỉ trong khoảng vài giây;

Tám Bính (trong Bỉ vỏ) quyết định cứu Năm Sài Gòn trong một đêm tối với những

hành động hết sức liều lĩnh, gọn gàng... Cho dù sử dụng nhịp điệu thời gian nhanh

hay chậm thì thời gian nghệ thuật của Nguyên Hồng luôn gắn với những sự kiện,

biến cố của cuộc đời nhân vật. Có lẽ việc tạo dựng nên một thời gian nghệ thuật

nhƣ vậy, nhà văn nhấn mạnh đến sự thay đổi nhanh chóng có ý nghĩa quyết định

đến số phận nhân vật dƣới tác động của một xã hội đầy sự bất trắc, khó lƣờng.

Những tác phẩm của Nguyên Hồng từ giai đoạn 1939 trở về sau và nhất là

những sáng tác vào những năm 1943 đến năm 1945 thì hiện thực cuộc sống tăm tối

thê thảm vì nạn đói, sự chết chóc, cùng không khí căm thù phẫn uất chế độ - đƣợc

nhà văn khắc họa chi tiết, chân thực, sinh động trong những tác phẩm: Hai dòng

sữa (1943), Buổi chiều xám (1944), Lửa thiêu (1945), Đi (1945), Bà cụ Việt (1945),

Cơn sốt (1945), Lưới sắt (1945), Ngòi lửa (1945)… Đã có nhiều nhà văn hiện thực

đã chú ý phản ánh sự khốn cùng của nhân dân lao động lầm than trƣớc Cách mạng,

nhƣng có lẽ miêu tả nhiều, sâu sắc và chân thực về nạn đói, về cái chết trƣớc năm

1945 thì Nguyên Hồng có nhiều sáng tác hơn cả. Để phản ánh hiện thực nghiệt ngã

với hàng triệu ngƣời Việt Nam bị chết đói, trong nhiều truyện ngắn của Nguyên

Hồng, nhịp điệu thời gian trần thuật chậm rãi nhằm để nhằm xoáy sâu, xoáy sâu

và từng chi tiết của nạn đói. Thôi thì đủ thảm cảnh: mẹ vứt con xuống sông vì

đói quá không nuôi nổi con, rồi cũng nhảy xuống sông tự vẫn theo con; có

những đứa trẻ bố mẹ đói quá không nuôi nổi con, phải đƣa con vào trại tế bần,

105

ở đó ngƣời ta nhốt chúng nhƣ nhốt lợn, mặc trời mƣa, nắng, sớm, tối, chúng

chết mòn mỏi; có những em bé chƣa chết, đói quá lả đi thoi thóp cũng bị ngƣời

ta đem lên xe bò vứt xuống hố chôn (Tàu đêm), hoặc có những em bé khát sữa

mà chết (Trước xác chết)… đói đến mức có tên to béo ăn uống no say nôn mửa

ra, mà ngƣời ta còn nháo lên tranh nhau ăn cả vũng nôn (Vũng máu); đói đến

độ cả làng, cả xã lũ lƣợt bồng bế nhau đi,“Họ ra đi bán mình cho bất cứ công

việc gì… với bất cứ giá nào để sống” [73, tr. 614].

Năm 1943, khi Nguyên Hồng tham gia tổ chức Văn hóa cứu quốc và tiếp

nhận tƣ tƣởng của Đề cương về văn hóa Việt Nam thì sáng tác của nhà văn ngày

càng gần gũi hơn với văn học Cách mạng. Vẫn là hiện thực cuộc sống của ngƣời

lao động dƣới đáy xã hội nhƣng nhà văn đã phản ánh cụ thể, chi tiết sự bế tắc, tù

túng, ngột ngạt, quằn quại của cuộc sống trƣớc khi cơn bão cách mạng ập đến.

Đồng thời những tác phẩm này còn thể hiện một không khí đấu tranh sôi sục của

quần chúng lao động và bộ mặt thật của kẻ thù đƣợc nhận diện rõ hơn. Sau này

trong tiểu thuyết Cửa biển, Nguyên Hồng cũng đã phản ánh lại không khí quằn

quại, trở dạ trong đêm đen của xã hội Việt Nam trƣớc Cách mạng để chuẩn bị

bƣớc sang ngày mới. Đấy là một “địa ngục” đau khổ chất chứa bao bất công, một

“lò lửa” nung nấu ý chí căm hờn, hƣớng những ngƣời nghèo khổ quyết tâm đi theo

cách mạng để giành quyền sống, quyền tự do cho mình. Cũng ở giai đoạn này Nam

Cao đã viết truyện ngắn Chí Phèo (1941), tiểu thuyết Sống mòn (1944) phần nào

thể hiện không khí ngột ngạt, nhức nhối của xã hội Việt Nam đƣơng thời. Có thể

nói, hiện thực cuộc sống Việt Nam trƣớc năm 1945 là nguồn cảm hứng vô tận cho

các nhà văn hiện thực trong đó có Nguyên Hồng. Các nhân vật của nhà văn cứ

luôn bị xoáy sâu vào sự khốn cùng của cuộc sống tăm tối, bế tắc - và đôi khi bị đẩy

vào tận chân tƣờng - họ cũng đã vùng dậy (từ tự phát đến tự giác) để đấu tranh đòi

quyền sống của mình. Tạo dựng một thời gian nghệ thuật luôn gắn liền với những

biến cố, sự kiện của cuộc đời nhân vật và gắn với sự vận động của thời đại, lịch sử

nhƣ vậy, Nguyên Hồng đã “tạo ra được bầu không khí xã hội vô cùng phức tạp và

tinh tế xung quanh nhân vật” [6, tr. 250]. Chính bầu không khí ấy bắt buộc các

nhân vật phải bộc lộ mình qua hành động, qua đối thoại hay độc thoại nội tâm.

Trong môi trƣờng, hoàn cảnh thực tế ấy, nhân vật của Nguyên Hồng đƣợc bộc lộ

đầy đủ chân dung, số phận với những phẩm chất, những tính cách riêng biệt.

106

4.1.2. Thời gian của con người cá nhân, của sự hồi tưởng đan xen giữa quá

khứ, hiện tại và tương lai

Đi ngƣợc về thời gian quá khứ, “hồi tƣởng” có một vai trò quan trọng thể

hiện sinh động đời sống nội tâm phong phú của nhân vật. Hồi tƣởng là “nhớ lại,

làm sống lại trong tâm trí sự việc nào đó đã qua, nhớ lại điều bản thân đã trải qua

một cách có chủ định” [149, tr. 459]. Khảo sát những tác phẩm của Nguyên Hồng

trƣớc cách mạng, chúng tôi thấy nhà văn hay sử dụng biện pháp hồi tƣởng đan xen

quá khứ, hiện tại và tƣơng lai để miêu tả thế giới nội tâm với bao suy nghĩ bộn bề

của nhân vật. Theo dòng thời gian quá khứ, những hồi ức, những cảm xúc của

nhân vật đƣợc bộc lộ một cách trực tiếp biểu hiện tình cảm trong lòng mình một

cách thành thật nhất.

Ví dụ nhƣ trong truyện ngắn Tôi dạy học thời gian hồi tƣởng qua tâm trạng

nhân vật đƣợc lặp lại khá nhiều (14 lần), “Hơn ba năm… Ba tháng… Hơn ba

năm… Hơn ba năm… Đầu tháng, giữa tháng, cuối tháng… Hơn ba năm … Nhưng

ba năm ấy… Trong ba năm… Hơn bốn năm… Bốn năm… Ba năm tôi kiếm

sống…” chứng tỏ dấu ấn thời gian, ký ức về tôi dạy học kiếm sống một cách lẩn

lút đã để lại ấn tƣợng sâu sắc trong lòng nhân vật. Đấy là khoảng thời gian vô cùng

ý nghĩa đối với “cậu giáo”, vì chính thời gian đó, ngƣời trí thức tiểu tƣ sản nghèo

nàn thấm thía sự nhân nghĩa thủy chung, lá lành đùm lá rách của những con ngƣời

lao động khốn khổ. Đặc biệt, khoảng thời gian quá khứ ấy đã để lại những dƣ vị

hạnh phúc cũng nhƣ đắng cay trong lòng của một ngƣời thầy giáo dạy học không

có giấy phép: “các em đã cho tôi hưởng một cách thầm lặng nhưng thấm thía tình

quyến luyến trìu mến của bầy chim nhỏ với một bàn tay thương mến dịu dàng tung

thóc” [73, tr. 204]. Tiểu thuyết Bỉ vỏ có 16 lần nhà văn miêu tả nhân vật Tám Bính

có sự hồi tƣởng về quá khứ, đan xen giữa hiện tại và tƣơng lai. Khi Bính trót lỡ có

con với Tham Chung, trong những lúc bị cha mẹ đay nghiến, Bính lo sợ nhớ lại

chị Minh, ngƣời cùng cảnh với Bính, bị làng phạt vạ, bế đứa con còn đỏ hỏn quỳ

giữa sân đình. Và nghĩ đến hiện tại của mình, nếu thoát khỏi cảnh ô nhục mà lại

phải xa lìa đứa con, bao nhiêu nỗi cay đắng xót xa trào lên trong lòng Bính. Hay

đó là vào buổi đêm khi Bính đi tìm Tham Chung ở Hải Phòng, Bính có những dự

cảm về tƣơng lai mù mịt của cuộc đời mình: “Bính chợt nghĩ tới ngày mai, tới một

107

sự sống ở một nơi xa lạ mà Bính hiện không còn một đồng chữ dính túi… Bính

tưởng con đường Bính đi tối tăm hoang vắng như một bãi tha ma”; hoặc những

khi Tám Bính cảm nhận sự đau đớn ê chề của cuộc sống nhà chứa, khi day dứt vì

tội lỗi mà mình gây ra,… hay thời gian tết đến, xuân sang - thời điểm của sự đoàn

tụ trong gia đình, Bính chạnh lòng tủi phận và lại nhớ về quá khứ êm đẹp, hy vọng

có một cuộc sống lƣơng thiện, đƣợc sống trong tình mẫu tử... Còn trong truyện

ngắn Người con gái lại là lối kể đan xen giữa hiện tại và quá khứ. Hồi ức về cuộc

đời một ngƣời con gái qua những chặng thời gian của cuộc đời từ nhỏ đến lớn, khi

trƣởng thành, khi lấy chồng, rồi khi biệt tăm, chìm nghỉm trong cuộc sống vì sự

mƣu sinh và sự vô vọng của số phận. Truyện ngắn Mợ Du thời gian đƣợc kể qua

ký ức của ngƣời kể chuyện là nhân vật An. Đó là ký ức và cảm xúc về những lần

mẹ con mợ Du gặp nhau trong lén lút, về ngƣời phụ nữ buôn thúng bán bƣng chết

nơi đất khách quê ngƣời, không có một ai thân thích bên cạnh… Bản thân tiểu

thuyết tự truyện Những ngày thơ ấu đã là thời gian của những hoài niệm, của ký

ức nhân vật chú bé Hồng. Đây là thời gian hồi tƣởng kết hợp với thời gian đồng

tuyến một chiều diễn ra theo số phận nhân vật, giống nhƣ một cuộn băng ghi hình

chân dung một cậu bé không có tuổi thơ. Từng nút thời gian đƣợc nhà văn thể hiện

chi tiết, cụ thể, tái hiện cuộc đời của nhân vật chú bé Hồng về những năm tháng ấu

thơ cay cực. Đó là ký ức về một cảnh nhà sa sút, là cuộc hôn nhân không có tình

yêu của cha mẹ, về cuộc sống “âm thầm chịu đựng” của ngƣời mẹ và vẻ “ốm yếu

rũ rƣợi” của ngƣời cha bé Hồng. Hay đó còn là ký ức kinh hoàng về trận đòn thù

của ngƣời thầy giáo trong trƣờng học, là ký ức về một tuổi thơ nhọc nhằn kiếm

sống, là tâm trạng đắng cay, bơ vơ trơ trọi của nhân vật “tôi” - ngƣời tự truyện. Có

lẽ trong hồi ức của mình, ấn tƣợng đậm nét nhất đối với bé Hồng chính là những

cảm xúc về ngƣời mẹ hiền từ và đau khổ, là cảm xúc của tình mẫu tử thiêng liêng,

là khao khát đƣợc sống trong lòng mẹ. Cảm giác đƣợc gặp mẹ sau bao ngày xa

cách đã xóa nhòa thời gian quá khứ, hiện tại và tƣơng lai. Qua dòng ký ức của

nhân vật đã làm hiện lên tình mẫu tử nhƣ “một thứ bản năng mãnh liệt” và giá trị

tinh thần thiêng liêng nhất của con ngƣời. Những khoảnh khắc thời gian đƣợc ghi

lại bằng những con số cụ thể qua những trang nhật ký ấy rất giàu tính thuyết phục,

đã gợi lên trong lòng ngƣời đọc sự xót xa, đồng cảm cho cuộc đời của một chú bé

mồ côi xa mẹ, phải nếm trải bao tủi nhục đắng cay.

108

Trong truyện ngắn Bảy Hựu, sự hồi tƣởng về quá khứ đƣợc nhắc lại 8 lần

đều phản ánh ký ức của Hai Răng vàng về cuộc đời “anh chị” oanh liệt khi xƣa “…

Bữa tiệc ấy cách đây hơn mười năm… Hai Răng vàng lơ mơ nghĩ đến thời xưa.

Cái quá vãng…” [73, tr. 119]… Truyện ngắn Đây, bóng tối thời gian đƣợc hồi

tƣởng qua tâm trạng nhân vật Nhân (12 lần) khi nghĩ về cuộc đời, những kỷ niệm của

mình với Mũn “Một buổi chiều đã lâu lắm rồi… Trong tám năm lầm than lầm lũi…

Tám năm… Những tám năm… Cuối năm thứ tám… Giữa một buổi trưa mùa hè…

Ngày này…” . Đây là những khoảng thời gian in dấu cuộc sống nghèo nàn của hai vợ

chồng Nhân, từ kỷ niệm tuổi thơ, đến khi lấy nhau, khi bƣơn chải mƣu sinh, khi Nhân

bị mù, khi Mũn chết… Cũng vậy, ở truyện ngắn Trong cảnh khốn cùng ta cũng

gặp những khoảng thời gian ký ức gắn với hiện tại qua tâm trạng nhân vật Quyến.

Hai vợ chồng ngƣời chèo đò đã có những năm tháng hạnh phúc dù công việc hiểm

nguy, vất vả. Rồi con chết, rồi ngƣời chồng ốm yếu mà ngƣời vợ tuổi xuân còn hơ

hớ. Nhìn anh chân sào trẻ tuổi, cƣờng tráng chèo đò cho nhà mình đã gợi lên trong

lòng Quyến những suy nghĩ mơ hồ, những ƣớc mong khao khát… Sự diễn biến

tâm trạng Quyến đƣợc nhà văn diễn tả qua hồi ức nhân vật, lúc đầu là sự “phảng

phất thấy những hình ảnh hiển hiện từ từ” với quá khứ “cũng trên dòng sông luôn

êm ả này, cũng với cái đò này nhưng còn mới mẻ và vững chãi. Quyến nách hai

con sống cuộc đời giản dị mà vui tươi. Ngày ấy cách đây tám năm, dạo Quyến còn

trẻ măng và bác Phấn thì sức lực cường tráng” [73, tr. 142]. Ƣớc muốn về tƣơng

lai có một cuộc sống êm đềm “sáng sủa rực rỡ” liên tiếp vẽ ra trong trí tƣởng của

Quyến “Quyến cùng anh chân sào trẻ tuổi đẹp đẽ mà bấy lâu nàng mơ ước kia

sống cuộc đời êm đềm như xưa. Một cái đò mới mẻ, chắc chắn, người chồng tráng

kiện nở nang, sự làm việc hòa hợp, vui vẻ và tình yêu nồng nàn tha thiết với đời”

[73, tr. 145]. Những ý nghĩ tội lỗi về tƣơng lai của nàng đã nhƣờng chỗ cho sự

“rung động trước tình yêu thương thấm thía nồng nàn của người đàn ông nọ trong

cảnh khốn cùng đối với vợ con”. Quyến hổ thẹn và hối hận vì những ý nghĩ tội lỗi

của nàng muốn xa lánh ngƣời chồng tàn tật để đi tìm hạnh phúc riêng mình. Và giờ

đây, thực tại, tâm trạng Quyến lại nhẹ nhàng, sáng sủa và êm đềm dễ chịu nhƣ về

mấy năm xƣa đầy đủ, hạnh phúc. Sử dụng biện pháp hồi tƣởng đan xen giữa thời

gian quá khứ, hiện tại và tƣơng lai nhƣ vậy, Nguyên Hồng đã miêu tả chân thật và

sinh động những diễn biến tâm lý tinh vi, phức tạp, thậm chí cả những rung động

109

mơ hồ trong lòng ngƣời phụ nữ trẻ. Thời gian hồi tâm của nhân vật rất ngắn, chỉ từ

“đêm trƣớc” đến “đêm hôm sau”, qua tình huống truyện đặc biệt, giàu tính tƣơng

phản. Khoảng thời gian ấy đủ làm thay đổi những suy nghĩ tội lỗi của ngƣời phụ

nữ trong những phút xao lòng, làm ấm lòng ngƣời đọc tin tƣởng vào sự thủy chung

vốn có của ngƣời phụ nữ cho dù đang “trong cảnh khốn cùng” của cuộc sống.

Tóm lại, trong nghệ thuật xây dựng hình tƣợng nhân vật, Nguyên Hồng hay sử

dụng thời gian của con ngƣời cá nhân qua sự hồi tƣởng, đan xen giữa quá khứ, hiện

tại và tƣơng lai để miêu tả những sự kiện có ảnh hƣởng sâu sắc đến cuộc đời các nhân

vật. Vì vậy, nhân vật của ông hiện lên chân thực với những nét tính cách vô cùng

phong phú, phức tạp nhƣ vốn có trong cuộc đời - và đây cũng là một trong những

thủ pháp nghệ thuật độc đáo để nhà văn xây dựng thành công các nhân vật của mình.

Với cách xây dựng nhân vật giàu sức thuyết phục, nhiều nhân vật của Nguyên

Hồng đã để lại những ấn tƣợng không phai trong lòng ngƣời đọc.

4.2. Không gian nghệ thuật

Không gian nghệ thuật là một yếu tố quan trọng trong thế giới nghệ

thuật của nhà văn, “Không gian nghệ thuật là hình thức bên trong của hình

tượng nghệ thuật, thể hiện tính chỉnh thể của nó” [52; tr.134]. Không gian nghệ

thuật chẳng những cho thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm văn học, mà qua đó

ngƣời đọc còn cảm thấy đƣợc quan niệm về thế giới, về con ngƣời và cuộc đời,

thể hiện ƣớc mơ và lý tƣởng của nhà văn. Các nhà văn hiện thực mỗi ngƣời đều tạo

cho mình một không gian riêng. Nếu “Tiểu thuyết của Ngô Tất Tố có sự dồn nén cao

độ về không gian, thời gian, tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan chỉ bao quát một

không gian hẹp, tác phẩm của Nam Cao chủ yếu tập trung xoáy vào thế giới vi mô,

cái cá thể của đời sống” [134, tr. 90], thì Nguyên Hồng lại tạo dựng nên một không

gian nghệ thuật khá độc đáo, mang dấu ấn riêng. Đó là không gian xã hội đen tối,

nhức nhối, chứa đựng đầy bất công và tội lỗi; không gian gia đình chứa đầy bi

kịch và là một không gian mang sắc thái tôn giáo trầm buồn và ảm đạm.

4.2.1. Không gian xã hội đen tối, nhức nhối, chứa đựng đầy bất công và tội lỗi

Cuộc sống lầm than, cơ cực của những con ngƣời lao động dƣới đáy xã hội ở

các thành phố lớn nhƣ Nam Định, Hải Phòng, Hà Nội (đặc biệt là ở Hải Phòng) có

mặt hầu hết trong các sáng tác của nhà văn. Có thể nói, Hải Phòng đã gắn bó máu

110

thịt với nhà văn trong cuộc sống và cả sự nghiệp sáng tác. Điều dễ nhận ra trong tác

phẩm của Nguyên Hồng trƣớc và sau Cách mạng là dù ông viết về đề tài nào, nhân

vật nào thì ngƣời đọc vẫn thấy không gian của thành phố Hải Phòng. Trong không

gian ấy, nổi lên là hình ảnh của những chợ, những bến cảng, bến tầu, nhà ga, giờ

tan tầm của nhà máy, thợ thuyền, nhân công… với một nhịp sống khẩn trƣơng, bụi

bặm dƣới cái nắng chói chang và bầu trời cao xanh lồng lộng, màu hoa phƣợng vĩ

đỏ rực và tiếng sóng biển rì rào, mang đậm hƣơng vị của thành phố cảng, biển Hải

Phòng. Những địa danh trong nhiều tác phẩm của ông đã làm sống lại không gian

Hải Phòng nhƣ: Vƣờn - hoa - đƣa - ngƣời, Ngõ Nhà Đái, ngõ Chè Chai, Vƣờn hoa

Dái ngựa, Vƣờn hoa Năm xu, Cửa Cấm, Sáu Kho, Bến tàu Tây Điếc, ngõ Máy

nƣớc hai vòi… Chợ Vƣờn hoa sông Lấp thƣa thớt ngƣời buôn bán nhƣng lại tập

trung đủ mọi hạng ngƣời từ mật thám đến lƣu manh, trộm cắp, gái điếm. Hay

không gian của những “cái xóm cặn bã”, cái xóm mà “người lạ đi vào thì không

thể nào tránh được nạn bớp mũ, giật khăn ở những con đường chật hẹp, ngoằn

ngoèo, hai bên ngập ngụa rác rưởi”, cái xóm mà “đường đi thường lụt máu! Vì

một cái mở bát chạc, một ván bài ù không được tiền, một giọng cười khiêu khích”,

một cái xóm “chứa chấp phần đông phu Sáu Kho, những phu đanh đá, ngỗ ngược

cả từ đứa con gái còn để tóc xõa, đến người đàn bà có bảy, tám con, những tốp

làm xe thất thường, những bọn thợ linh tinh, những đàn bà buôn thúng bán bưng

và những me Tây, gái điếm kiếm tiền cùng mạt nhất” [73, tr. 201] - Đây chính là

những không gian sống, không gian sinh hoạt của những ngƣời lao động ở những

khu công nghiệp mà Hải Phòng là một ví dụ. Sau này, trong bộ tiểu thuyết Cửa

biển đồ sộ, Nguyên Hồng vẫn trở về với không gian Hải Phòng, với nhiều nhân

vật quen thuộc của nhà văn - tất nhiên họ không còn “lấm lem, bụi bặm, quằn

quại” nhƣ ở thời kỳ trƣớc Cách mạng, không phải sống tù túng eo hẹp trong một

sự bế tắc, cùng quẫn mà giờ đây họ là những con ngƣời đƣợc tắm mình trong

dòng chảy của Cách mạng, đƣợc sống trong một không gian mới, trong một hoàn

cảnh xã hội rộng lớn hơn. Có thể nói, Hải Phòng chính là vùng thẩm mỹ trong

sáng tác của nhà văn, ông đã viết về thành phố Cảng này nhiều nhất, đậm sắc

nhất so với những nhà văn khác. Và cho tới tận hôm nay, Hải Phòng vẫn luôn tự

hào bởi sự đóng góp lớn lao ấy của Nguyên Hồng.

111

Trở lại với không gian nghệ thuật của Nguyên Hồng trong sáng tác thời kỳ

trƣớc Cách mạng, chúng tôi thấy đó là một không gian xã hội đen tối, nhức nhối

chứa đầy những bất công và tội lỗi. Không gian ấy ngày một ngột ngạt hơn, căng

thẳng hơn, gắn với những xung đột xã hội rõ rệt hơn. Không gian trong những tác

phẩm nhƣ: Cuộc sống (1942), Hai dòng sữa (1943), Buổi chiều xám (1944), Hơi

thở tàn (1944), Vực thẳm (1944), Miếng bánh (1945), Ngọn lửa (1945), Đi

(1945), Bà cụ Việt (1945),… nhìn chung đó là thứ không gian căng thẳng, bức bối

của cả xã hội Việt Nam trƣớc ngày tổng khởi nghĩa. Nó quánh đặc một không khí

chết chóc bao trùm từ thôn quê ra đến thành thị - là hậu quả bóc lột tàn khốc của

chế độ của thực dân phong kiến, mà đỉnh điểm là giai đoạn nhân dân ta phải chịu

đựng cảnh “một cổ hai tròng”, đói khát, khốn cùng trong giai đoạn Nhật - Pháp

cùng đè đầu cưỡi cổ. Bằng sự phản ánh cụ thể, chân thực, nhiều tác phẩm của

Nguyên Hồng đã tái hiện một không gian u ám nặng nề - không gian của sự chết

chóc, chất chứa đầy sự đau đớn, phẫn uất. Không gian này trải rộng từ thành thị

đến nông thôn. Nơi thị thành hứa hẹn một cuộc sống phồn hoa thì thực tế chỉ là

“Những ống khói thở mù trời… những dòng than chảy dài dằng dặc, những con

người xơ xác lúc nhúc trong than bụi… những chỗ nằm nhớp nhúa, hôi hám,

những bầy trẻ trần truồng, đen thui... những bữa ăn bốc trên mặt đất” [73, tr.593].

Không gian sống của những con ngƣời lao động khốn khổ sống trong những cái

khu ổ chuột hôi thối ấy đƣợc Nguyên Hồng miêu tả cặn kẽ, chi tiết. Đặc biệt,

Nguyên Hồng cũng rất chú ý đến không gian sinh tồn của những hạng ngƣời sống

ngoài vòng pháp luật. Đó là không gian của một môi trƣờng sống cạnh tranh,

nghiệt ngã, phi nhân tính, không gian hoạt động của những kẻ lƣu manh, trộm cắp

ở xóm Chợ con, ở dọc bến tầu hỏa, tàu thủy, bến ô tô, các sòng bạc, suốt Phố

khách, phố Cầm Dầu và những phố đông đúc khác… Không gian rùng rợn, nặng

nề với những cảnh đâm chém, cƣớp giật, giết ngƣời xảy ra thƣờng xuyên. Không

gian của những trại giam với những âm thanh rít ghê rợn của những cánh cửa sắt,

những cặp mắt rình mò của mật thám. Không gian nhơ nhớp, bẩn thỉu, tanh tƣởi

của phố mãi dâm Hạ Lý. Không gian nhọc nhằn mƣu sinh của những đứa trẻ bơ vơ

đầu đƣờng xó chợ, dắt díu cơm thầy, cơm cô ở khắp các nhà ga, cổng chợ, bến

phà… Không gian đặc quánh bụi lầm của thành phố Cảng “một hải cảng sầm uất

112

bậc nhất Dông Dương, một thành phố công nghệ mở mang với hơn 30.000 dân lao

động bần cùng ở các tỉnh dồn về” (Bỉ vỏ)

Không gian ở thành thị thì nhƣ vậy, còn ở nông thôn thì không gian lại càng

thê thảm hơn: “Trời đã nhờ nhờ càng tối thêm. Gió thổi cũng lồng lộn hơn. Những

cánh đồng lúa mới xanh tím bầm lại, heo hút tiếng quạ rền” [73, tr.596]. “Những

bước chân ê ẩm lại như lê đi trong đám người lũ lượt trần truồng, tả tơi run rẩy.

Trên đầu họ, trước mặt họ, trời mây xám đặc, gió càng lồng lộng, hun hút” [73, tr.

604]. Không gian thâm u, tối sầm lại bởi cái đói, cái rét và sự chết chóc bao trùm,

khiến ngƣời ta nhƣ mất hết sinh khí, sức lực: “Bên ngoài đen như mực… làng mạc,

ruộng nương, bờ bến âm u, thăm thẳm. Họa hoằn mới có vài ánh lửa leo lét… Mặt

ai đều nhăn nhó, phờ phạc... Đây ban đêm ánh đèn cũng đục lầm và trên mặt đất,

người sống và xác chết cũng rũ ra, ngổn ngang không chăn, không chiếu… [73,

tr.613]. Ngƣời chết nhƣ ngả rạ “họ chết ngay bên vệ đường, ngay bờ cỏ, ngay mé

ruộng, ngay trước các quán, chẳng thấy ai chôn cất, khóc lóc…” [73, tr.597]. Sự

sống đang dần lụi tắt, nhiều ngƣời chỉ còn là những cái xác không hồn, dở sống dở

chết với những câu hỏi khắc khoải: “Đến bao giờ mới hết chiến tranh?... đến bao

giờ người ta mới có cơm ăn việc làm no đủ,… đến bao giờ dân Việt Nam mới cất

đầu mở mặt? Những câu hỏi trên đây cũng lại thấy thốt lên như đã thốt lên trong

mọi đám đông, từ tờ mờ sáng cho tới đêm khuya, khi mà người ta mệt lịm đi, ở các

ngả đường, các hang cùng ngõ hẻm” [73, tr.613]. Nhƣ một tất yếu, có áp bức phải

có đấu tranh. Những con ngƣời bị đẩy vào tận đáy đƣờng hầm tăm tối kia chỉ còn

cách vùng lên chống chính quyền, phá kho thóc của Nhật giành quyền sống cho

chính mình dƣới sự lãnh đạo của Đảng. Nhà văn đã tái hiện thành công không

gian sục sôi căm hờn của xã hội Việt Nam trước ngày Tổng khởi nghĩa tháng

Tám, đó là một không gian đặc quánh, ngột ngạt, căng thẳng, dồn nén đầy kịch

tính. Ví dụ nhƣ: trong không gian ngôi nhà của hai vợ chồng ngƣời thƣ ký làm

thuê, không gian bức bối ngột ngạt của xã hội đƣợc đẩy căng qua cảm nhận của

nhân vật: “Một cánh cửa bật tung rít lên một tiếng dài, nó kêu gọi sự phẫn uất của

con người, nó kêu gọi tất cả những năng lực hãy chồm dậy, phá tung những cái gì

đè ép và dập nát đời sống con người… gian buồng tối mờ … không khí lạnh buốt

thêm, thở nhức mũi… Gió kêu gọi mãi. Gió thúc giục mãi, thúc giục mãi. Nó chờ

đợi sự tức tối và thê thảm trong căn nhà của vợ chồng Thân lỡ vỡ tan tành” [73,

113

tr.591]. Tức nƣớc ắt phải vỡ bờ, sự căm thù, phẫn uất chế độ đƣơng thời đã lên đến

đỉnh điểm bằng những hành động thiết thực: “Ngùn ngụt. Tiếng hò reo kêu thét.

Những xe bò thóc hất ngược càng lên. Những quang gánh, thúng mủng sục vào tới

tấp. Trên hai con đường làng dưới và làng trên, người đã đổ ra ùn ùn đen kín cả

các bờ ruộng. Cũng quang gánh, thúng mủng, cũng hò reo… tiếng chiêng khua

thêm… Cả một vùng giời chuyển động” [73, tr.637].

Tóm lại, không gian bao trùm đời sống tràn vào trong các tác phẩm của

Nguyên Hồng là một không gian xã hội đen tối, ngột ngạt gắn với những xung đột

dữ dội của xã hội Việt Nam trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945. Số phận các

nhân vật dù là ở thành thị hay nông thôn đều rơi vào cảnh tù đọng, bế tắc cực độ,

đòi hỏi phải có một sự thay đổi tất yếu bằng chính sự phản kháng, sự vùng lên của

những con ngƣời lao động nghèo khổ dƣới đáy này.

4.2.2. Không gian gia đình chứa đầy bi kịch buồn đau, tan tác

Khảo sát các tác phẩm của nhà văn Nguyên Hồng trƣớc Cách mạng tháng

Tám, chúng tôi thấy, nhà văn đã tạo dựng một không gian nghệ thuật khá rộng lớn

từ nông thôn đến thành thị, từ vùng núi trung du đến miền xuôi, cảng biển. Không

gian đó gắn với những biến cố, những sự kiện đầy biến động của xã hội Việt Nam.

Cuộc sống của đủ mọi tầng lớp, đủ mọi hạng ngƣời trong xã hội đều bị xoáy vào

cuộc sống thê thảm tăm tối của những thân phận nô lệ trong xã hội Việt Nam trƣớc

Cách mạng tháng Tám năm 1945. Tuy nhiên để khắc sâu nỗi khốn khổ nhọc nhằn

của những con ngƣời lao động trong xã hội cũ, nhà văn đã tập trung miêu tả không

gian sống riêng của họ, đó là không gian gia đình chứa đầy bi kịch.

Cụ thể đó là không gian của các gia đình trong một vùng quê cổ hủ, tăm tối

giam hãm, trói buộc con ngƣời với những luật lệ vô lý của lễ giáo phong kiến.

Không gian làng Sòi với tục lệ trừng phạt ngƣời đàn bà hoang thai, nạn ngả vạ, chè

chén; là không gian gia đình Bính “chật hẹp, tối tăm” mà trong đó lúc nào cũng

thƣờng trực một không khí căng thẳng, “cắn rứt nhau luôn vì thiếu thốn”, hay

không gian của “gian buồng hôi hám không mấy khi nổi ánh sáng mặt trời” [74,

tr.297] mang nặng tâm trạng phấp phỏng lo sợ và tâm sự dằn vặt, éo le của một

ngƣời con gái trót lỡ lầm. Hay không gian sống của cả một gia đình với gần hai

chục con ngƣời sống trong một gian nhà bếp chật chội (Những ngày thơ ấu); là

114

không gian của “một gian nhà lụp xụp, đồ đạc ọp ẹp, lắt nhắt không bao giờ thay

đổi, khói bếp luôn ùa vào đầy nhà. Những ngày hè nung nấu ở gian nhà ấy, từ cái

giường, cánh phản, cái bàn mất chân đến những quần áo, tã, rổ rá nồng hẳn lên

trong một làn bụi nhảy múa và mùi mồ hôi gây làm nghẹn cả thở, rồi những ngày

mưa… nước mưa ngập lại ở sân, tràn vào nhà, dềnh đến nửa giường là thường”

(Nhà bố Nấu), là không gian trong những ngôi nhà “nồng nực vì mồ hơi người và

quần áo nhớp nháp” (Cái xích cũ). Không gian gia đình ngột ngạt càng ngột ngạt

hơn khi mà ở đó chỉ có những eo sèo, riếc móc, cắn rứt nhau vì mƣu sinh, hay vì

cuộc sống túng bẫn quá mà sinh ra đánh đập chửi nhau đẩy nhau đến bi kịch

(Hàng cơm đêm, Cái xích cũ, Người con gái, Người mẹ không con, Bố con lão

Đen…). Hoặc đó là không gian gia đình thê thảm, tê tái vì những đứa trẻ lần lƣợt

chết do khát sữa mẹ (Trước xác chết)…

Không chỉ có nguyên nhân của sự đói nghèo dẫn đến bi kịch trong gia đình,

mà trong không gian gia đình ấy còn chứa nhiều những bi kịch với những nguyên

nhân khác nhau:

Bi kịch của những gia đình không có hạnh phúc nhƣ gia đình của bé Hồng

(Những ngày thơ ấu),luôn luôn phải sống trong một bầu không khí gƣợng gạo, êm

ấm một cách giả dối - hậu quả của một cuộc hôn nhân gƣợng ép trong xã hội xƣa;

Hay đó là sự bị đày đọa thƣờng xuyên và chịu sự ghẻ lạnh, sự thiệt thòi của những

thân phận lẽ mọn trong gia đình, nhƣ nhân vật Muống (Quán Nải)…;

Bi kịch của nạn bạo hành đối với ngƣời phụ nữ trong gia đình. Do cuộc

sống cùng quẫn kéo dài, một số phu phen, thợ thuyền đâm ra phản ứng cực đoan

trở nên bê tha, cờ bạc, đánh đập vợ con - mà gia đình mụ Mão (Người mẹ không

con) là một ví dụ. Trong không gian của gia đình ấy luôn luôn chứa đầy bi kịch,

bởi đây là nơi thƣờng xuyên ngƣời vợ bị bạo hành bởi gã chồng nát rƣợu, vũ phu

mà mỗi khi thua tha cờ bạc, hay khi “say bứ họng” hắn lại trút giận lên đầu mụ

Mão những trận đòn roi thừa sống thiếu chết - mà lão cũng chẳng hiểu để làm gì?

Bi kịch trong gia đình của những con ngƣời sống ngoài vòng pháp luật nhƣ:

gia đình Bính và Năm Sài Gòn (Bỉ vỏ), gia đình Chín Huyền (Chín Huyền), trong

nhà của Hai Răng Vàng (Bảy Hựu)… Trong không gian của những gia đình ấy

đều chỉ có những chuyện mƣu mẹo về ăn cắp, cờ bạc, chém giết lẫn nhau, cắt máu

115

ăn thề… Một không gian tanh nồng mùi máu của những kẻ du côn, “anh chị” trong

xã hội. Là không gian mà ở nơi ấy chƣa bao giờ có sự ấm cúng, bình yên và lƣơng

thiện. Không gian ấy chất chứa những hiểm họa khôn lƣờng của cuộc sống đầy

hiểm nguy, nó đẩy con ngƣời ta vào bi kịch. Trong những gia đình ấy, ngƣời phụ

nữ là những ngƣời phải chịu nhiều bi kịch nhất, bởi ở họ luôn luôn có những khát

khao đƣợc làm mẹ, làm vợ, đƣợc thực hiện chức phận của mình, Nhƣng để tồn tại,

để mƣu sinh, những ngƣời phụ nữ ấy phải xa con (mợ Du, mẹ bé Hồng), hoặc phải

mất chồng (Chín Huyền), hoặc phải dấn thân vào con đƣờng hiểm nguy, tội lỗi

(Tám Bính, Chín Huyền)… Hay nói một cách khác là họ phải rơi vào bi kịch: đó là

nỗi khát khao sự bình yên trong gia đình hạnh phúc với cuộc sống giang hồ đầy

giông tố và tội lỗi (nhƣ gia đình Chín Huyền, Tám Bính…).

Tóm lại, có thể nhận thấy rất rõ: một trong những đặc điểm nổi bật của không

gian nghệ thuật trong các sáng tác trƣớc năm 1945 của Nguyên Hồng là một không

gian gia đình tăm tối và ngột ngạt, chứa đầy bi kịch. Không gian ấy tạo cho ngƣời

đọc cảm giác đau đớn và phẫn uất về số phận và cuộc sống đầy tăm tối và bế tắc

của những con ngƣời cùng khổ dƣới đáy trong xã hội xƣa.

4.2.3. Không gian mang sắc thái tôn giáo - trầm, buồn ảm đạm

Trong thế giới nghệ thuật của mình từ cách xây dựng nhân vật đến không

gian nghệ thuật, ngôn ngữ nghệ thuật, Nguyên Hồng đã để lại dấu ấn khá đậm nét về

sắc thái tôn giáo. Điều đó xuất phát từ một thực tế là nhà văn vốn xuất thân trong

một gia đình theo đạo Cơ Đốc và sống bên cạnh những ngƣời thân mộ đạo, nên

những hình thức lễ nghi, những nguyên lý sâu xa của đạo Cơ đốc đã có sự ảnh

hƣởng không nhỏ đến tƣ tƣởng nghệ thuật và thế giới nghệ thuật của nhà văn.

Ngay từ thời thơ ấu, không gian tôn giáo đã in dấu trong đời sống của chú

bé Hồng. Sự mộ đạo của bà nội, giọng rên rỉ cầu kinh hàng đêm của bà đã thấm

sâu vào tâm trí của nhà văn: “Từ khi bắt đầu nói sõi bà bắt tôi đọc đi đọc lại không

biết bao nhiêu vạn lần” những đàng thánh giá, những bản kinh [74, tr.753]. Trong

nhiều tác phẩm của ông, ta thấy thƣờng trở đi, trở lại hình ảnh của một xóm đạo

nghèo với nhà thờ với những tầng gác cửa xám lạnh ngắt, những nóc nhà đem

xạm, những đỉnh gác chuông im lìm, nhạt nhòa trong những chiều sâu thẳm,

những bức ảnh chúa Jêsu chịu nạn máu nhỏ ròng ròng từ chỗ đóng đinh... Trên nền

116

xi măng ẩm ƣớt bao ngƣời quỳ lạy dƣới chân Chúa để xƣng tội và xin cứu rỗi linh

hồn, đọc những bản kinh “Vực sâu”, hay “Ăn năn tội” với những giọng rền rĩ,

miên man, buồn bã. Cảm quan tôn giáo đã ảnh hƣởng sâu sắc đến Nguyên Hồng,

nhất là tƣ tƣởng nhân từ bác ác, tƣ tƣởng chịu nạn của đạo Cơ đốc. Các nhân vật

của Nguyên Hồng - đặc biệt là nhân vật ngƣời phụ nữ thƣờng là những nhân vật

“chịu nạn”. Ví dụ nhƣ nhân vật Hai mƣơi hai (trong Linh hồn), Tám Bính (trong

Bỉ vỏ), những ngƣời đàn bà trong tù (trong Tết của tù đàn bà), mụ Mão (trong

Người mẹ không con), Mũn (trong Đây, bóng tối) và sau này là nhân vật Huệ Chi

(trong Cửa biển)… họ phải chịu đựng đƣợc hết sự đoạ đầy này đến sự đoạ đầy

khác, hết tai họa nọ đến tai họa kia. Họ có sức chịu đựng nhiều nhƣ vậy là bởi

những ngƣời phụ nữ này đều là những ngƣời ngoan đạo, luôn tìm thấy nhiều sự an

ủi từ tấm gƣơng chịu đựng đau khổ của Chúa Jêsu và của Thánh nữ Đồng trinh

Maria. Càng đau khổ, bất hạnh bao nhiêu thì họ lại càng đi tìm sự an ủi, sự cứu rỗi

linh hồn ở Chúa và của Đức mẹ bấy nhiêu. Họ tin tƣởng mãnh liệt nơi Chúa và ý

nghĩa cứu mạng của Ngƣời. Các nhân vật của nhà văn, những khi phải chịu đựng

hết nạn này đến nạn khác, hoặc những khi bế tắc cùng đƣờng đều hƣớng về Chúa.

Chẳng hạn, đêm Bính từ nhà quê ra Hải Phòng tìm Tham Chung, lang thang trong

đêm Bính nghe “Tiếng đọc kinh đâu đây nhẹ nhàng thoáng vang trước gió lạnh

réo rắt và thấm thía, những giọng đều đều và ngâm nga thoáng nhắc trong tâm trí

Bính hai mắt lờ đờ rầu rĩ, hai cánh tay rã rời đang trên cây thánh giá của Đức

chúa Jêsu khi hấp hối” [74, tr.308]; Vào một buổi chiều kia, sau khi bị Năm ruồng

bỏ, Tám Bính trở về Nam Định và nỗi khao khát một cuộc sống lƣơng thiện lại trỗi

dậy trong lòng, Bính tìm đến sự cứu rỗi linh hồn bằng nguyện ngắm và xưng tội

với Cha đạo, đƣợc Cha an ủi “Muốn được bình an trong đời, muốn được cha mẹ

thương yêu con, muốn gặp con con, con phải giữ linh hồn cho trong sạch, con quý

nó hơn phần xác của con, con giữ cho nó trong sạch mãi mãi để đón rước sự

thương xót của Chúa” [74, tr.409]. Trong một không gian về đêm ở một vùng quê

yên tĩnh khi Tám Bính và Năm Sài Gòn chạy trốn khỏi mật thám, hai ngƣời ở nhờ

nhà đôi vợ chồng trẻ theo đạo. Trong hoàn cảnh ngặt nghèo, bấp bênh ấy, Bính

cảm nhận sâu sắc sự trơ trọi và khốn nạn của cuộc đời mình. Bế tắc, Bính lại cầu

nguyện mong tìm sự an ủi nơi Chúa “ Lần tràng hạt đọc 50 kinh, ngắm 14 đàng

thánh giá” Bính thấy “đau đớn”, “tủi thẹn” và “tê tái” cho cuộc đời “bỉ vỏ” của

117

mình. Trong không gian tôn giáo đậm đặc với mùi hoa huệ ngát hƣơng, tiếng lầm

rầm cầu nguyện của ngƣời vợ trẻ, ký ức của những ngày xƣa trong sáng lại trở về,

làm khắc khoải thêm khát khao đƣợc sống cuộc sống êm đềm và lƣơng thiện khi

xƣa “Bính thấy mình lùi dần về quãng đời tươi trẻ”, “lương thiện và trong sáng”,

“tượng Đức Thánh nữ trọn đời đồng trinh vẻ mặt trang nghiêm mà hiền từ… Chúa

Jesu mặt trầu rĩ, mắt lờ đờ, một tay chỉ vào ngực. Giữa ngực phanh ra một trái tim

rỉ máu, hàng chục lưỡi gươm sáng xuyên qua” [74, tr.461]. Đây là lúc Nguyên

Hồng đặt nhân vật vào trong tình thế đấu tranh nội tâm căng thẳng, đó là cuộc vật

lộn âm thầm quyết liệt giữa Thiện và Ác trong tâm hồn Bính, những lúc nhƣ thế

Bính lại cầu nguyện và sám hối. Nhà văn đã gợi lên trong tâm trí Bính hình ảnh

Đức chúa Jêsu dừng lại an ủi dân vùng Jêruydalem khi chính mình không đƣợc ai

an ủi, ái ngại, mà còn bị xỉ vả, phải vác cây “thập ác” nặng nề. Tấm gƣơng của

Chúa đã an ủi Tám Bính để cô quyết noi theo gƣơng Chúa mà nhẫn nại chịu đựng.

Tám Bính những lúc tủi thân cho thân phận của mình, sau những lần bị đoạ đầy ô

nhục trong nhà chứa, hoặc sau những lần nhúng tay vào tội ác, cô lại tìm đến Chúa

để cứu rỗi linh hồn và nhƣ để thanh minh cho tội lỗi của mình. Khi viết những

dòng này, trái tim của nhà văn nhƣ rỉ máu, thƣơng xót những cuộc đời bị vùi dập

không còn biết bấu víu vào đâu. Đồng thời Nguyên Hồng cũng muốn khẳng định,

những ngƣời nhƣ Bính dù bị tha hóa nhƣng lòng vẫn hƣớng về cõi thiện. Điều đó

cũng khiến ngƣời đọc “xót thƣơng cả những kẻ tội lỗi” - Đấy chính là ý nghĩa nhân

đạo cao cả toát lên từ ngòi bút Nguyên Hồng.

Có thể nói, không gian mang sắc thái tôn giáo đã gợi cho con ngƣời ta một

sự hƣớng thiện, hƣớng đến sự trong sạch của tâm hồn - vậy mà một ngƣời ngoan

đạo nhƣ Tám Bính luôn muốn có cuộc sống bình yên, lƣơng thiện lại bị xã hội đƣa

đẩy trở thành một bỉ vỏ thuộc thành phần lƣu manh, trộm cắp cùng đƣờng dƣới đáy

xã hội - vì thế mà giá trị tố cáo và phủ nhận xã hội trong tác phẩm Nguyên Hồng

lại càng trở nên mạnh mẽ hơn.

Từ nhỏ, Nguyên Hồng đã nếm trải cuộc sống cay cực trong nhà lao của thực

dân phong kiến, nên trong sáng tác của mình, nhà văn cũng có nhiều truyện viết về

cuộc sống tù đày (Linh hồn, Tết của tù đàn bà, Khói ken nếp và xà lim, Bỉ vỏ…).

Không gian trong nhà tù là một không gian rất đặc biệt, nơi chỉ có tàn nhẫn và sự

đọa đầy khổ ải, nhƣng không gian tôn giáo vẫn hiện hữu đâu đó trong cảnh những

118

ngƣời đàn bà tội nghiệp bị đày ải trong đề lao ngày mùng Một Tết. Tết đến - là thời

điểm sum họp của mọi ngƣời trong gia đình, thì với họ là mọi sự đoạ đầy, ai oán và

bất công. Những ngƣời phụ nữ này cũng chỉ biết tìm đến sự an ủi của Chúa trời, cầu

nguyện Chúa với “lòng tin tưởng của những con người sống cực nhục, tối tăm không

còn biết bấu víu vào đâu, đầm đìa và chan chứa trong những bản kinh “Lạy Nữ

vương”, “Tôi ở vực sâu”, “Đức Mẹ hằng cứu giúp” [74, tr.311]. Họ cầu nguyện

“bằng một thứ giọng riêng, càng kéo dài, càng rên xiết” lại càng gợi lên sự ai oán

thƣơng tâm của những kiếp ngƣời nô lệ chỉ còn biết tin vào đấng thiêng liêng là Chúa

“Lúc này, trên đầu bọn tội nhân đầy đọa kia sẽ nhỏ những giọt nước mắt cảm động vì

tấm lòng tin tưởng tha thiết một sự thưởng phạt công bằng” [74, tr.312].

Nhân vật Hai mƣơi hai (Linh hồn) đi tù thay chồng trong lúc bụng mang dạ

chửa. Trƣớc những đe dọa và chịu sự cƣỡng hiếp của tên cai ngục, nàng chỉ còn

biết cầu nguyện Chúa, tin vào Chúa minh chứng cho sự trong sạch và lòng chung

thủy của nàng [73, tr. 89]. Ngƣời bà mộ đạo của bé Hồng (Những ngày thơ ấu)

khi cảnh nhà sa sút, chia lìa, bất hạnh nhất cũng chỉ biết cầu nguyện vào Chúa, bà

thƣờng “lầm rầm đọc kinh cầu nguyện trong những đêm im lặng:- Chúa tha tội

cho chúng tôi! - Chúa thương xót chúng tôi!... - Chúa phá mọi sự dữ, ban sự lành

cho chúng tôi!!! [73, tr.753]. Nhƣng Chúa đâu “phá được sự dữ, ban được sự

lành” cho các con chiên của Chúa khi xã hội này còn đầy những ai oán, bất công.

Lời cầu nguyện thiết tha, rền rĩ ấy chỉ để “cứu rỗi linh hồn” khi ngƣời ta tuyệt

vọng không còn biết bấu víu vào đâu. “Bao nhiêu tia sáng trong cặp mắt bao lâu

nay không còn ánh vẻ vui sướng gì của bà tôi dần dần tắt đi” [73, tr.752] theo tất

cả sự tuyệt vọng không phƣơng gì cứu chữa của gia đình bé Hồng.

Sắc thái tôn giáo còn thấm đƣợm trong không gian của đêm Nôen rực rỡ âm

thanh và sắc màu “ Tiếng chuông bỗng nổi dậy. Rồi cả bầu trời rung chuyển lên

bởi những vang động dồn dập đổ hồi. Cửa nhà thờ đã mở rộng. Một vòm trời lòa

ánh sáng đèn nến và ánh ngời của thủy tinh, của pha-lê và của vàng son tỏa ra.

Tây đầm đi vào trước. Cả bầu đoàn, vú bế, vú dắt, chị hai, chị khâu, bé con cầm

áo choàng và làn mây đựng đầy bánh kẹo hoa quả, ríu rít theo sau... Rồi đến

những chức sắc, những quyền quý giàu có trong bốn "họ" khệnh khạng, bệ vệ, hớn

hở. Khi nhà thờ nóng rực lên vì các lớp quần áo lấp lánh và mùi phấn sáp nước

hoa ngào ngạt, khi các thứ đàn sáo nhịp với chiếc đàn to bằng cả một gian nhà và

119

hàng trăm đồng nhi và con gái thơ kinh cùng cất tiếng lên để đón tiếp sự thanh

bình, vinh hiển của những lớp người sang trọng...” (73; tr.770). Một không gian

rực rỡ âm thanh, ánh sáng trong đêm Nôen ấy đúng ra là không gian hạnh phúc

cho tất cả các con chiên của Chúa, vậy mà trong đêm linh thiêng này, nơi tôn

nghiêm kính Chúa này cũng có sự phân biệt sâu sắc giàu - nghèo. Cậu bé Hồng đã

cảm nhận thấm thía nỗi bất công và sự phân biệt sang - hèn trong xã hội “tôi cảm

thấy một cách cay chua bên sự trơ trọi hèn hạ của tôi, một đứa trẻ côi cút cùng khổ”

[73; tr.771). Trong nhiều tác phẩm của Nguyên Hồng sắc thái tôn giáo thƣờng xuất

hiện đây đó nhƣ một điều tất yếu. Bởi sự tín ngƣỡng, niềm tin tôn giáo đã chi phối

nhiều đến cách xây dựng nhân vật cũng nhƣ tính cách nhân vật của Nguyên Hồng.

Nhiều nhân vật của ông càng đau khổ thì họ càng muốn tìm đến Chúa nhƣ một điểm

tựa tinh thần, làm dịu nỗi đau khổ, oan ức, bất công mà họ phải gánh chịu. Điều đó

đã lý giải vì sao trong sáng tác của nhà văn có rất nhiều hình ảnh Chúa Jêsu chịu

nạn, khi thì “đội mũ gai” “hai bàn tay hai nốt đinh ròng ròng máu chảy”, “khi thì

vác cây thánh giá rất nặng”, “vẻ mặt khiêm nhường, chỉ tay vào ngực áo phanh ra

một trái tim máu chảy với hàng chục lưỡi gươm sáng xuyên qua”… Sự lặp lại ấy là

biểu tƣợng cho sự hy sinh cao cả đầy tự nguyện của Chúa.

Sau Cách mạng, nhiều trang viết của Nguyên Hồng cũng vẫn mang đậm sắc

thái tôn giáo, tiêu biểu là trong tiểu thuyết Cửa biển, những trang viết về nhân vật

Huệ Chi là những trang viết đậm sắc thái tôn giáo hơn cả. Đó là chƣơng miêu tả

Huệ Chi trƣớc lễ cƣới- cũng là lúc khi Huệ Chi chuẩn bị về với Chúa - bởi lẽ nàng

bế tắc trƣớc cuộc đời, không chịu theo cái ác, cái bất công. Nàng là một tín đồ

ngoan đạo, lúc nào cũng chỉ nghĩ đến đức Chúa và cầu nguyện. Huệ Chi trong

trắng, thánh thiện nhƣ một thiên thần, nên không chấp nhận sự áp đặt đầy toan tính

của ngƣời chú Kim Tú là phải lấy tên sĩ quan Nhật. Để bảo toàn đƣợc tâm hồn

trong sáng của mình, trong hoàn cảnh ấy, Huệ Chi chỉ còn một cách là tìm đến cái

chết. Khi miêu tả Huệ Chi về với Chúa, Nguyên Hồng đã nâng bƣớc Huệ Chi

trong không gian tràn ngập hƣơng hoa, bƣớc chân Huệ Chi nhẹ nhàng lên cõi thiên

đàng đã đƣợc nâng đỡ bởi tình mẫu tử tha thiết. Cảm hứng lãng mạn hòa với chất

thơ vời vợi của ngòi bút Nguyên Hồng đã đƣa Huệ Chi về cõi vĩnh hằng thật nhẹ

nhàng và đầy xúc cảm. Chọn cái chết, Huệ Chi đã đi ngƣợc lại với tín đồ Thiên

Chúa giáo, đi ngƣợc lại với số mệnh do Chúa định đoạt. Phải chăng đây cũng là

120

sự chống đối lại Chúa trời dù Huệ Chi có kính Chúa đến đâu? Vì sao có sự mâu

thuẫn này, bởi Nguyên Hồng ý thức rõ ràng về sự bất công trong xã hội không

thể giải quyết bằng niềm tin nơi Chúa mà phải bằng sự đấu tranh giai cấp:

“Nhưng ta đã thấy bao nhiêu xương thịt tan tành, thối nát, bao nhiêu nước mắt

và máu đã ngập lụt tỉnh thành, bao nhiêu sinh mạng đã chết và đương chết trong

cảnh đói rét bên một đám người hả hê sung sướng, mà có bao giờ tìm sự giải

quyết ở chúa Trời” [74, tr.39]. Hay nói cách khác, nỗi đau khổ của con ngƣời đâu

phải chỉ Chúa trời cứu đƣợc, mà phải đứng lên đấu tranh “hất tung những cái đè

nén đi may mới sống được” (Hàng cơm đêm).

Nhƣ vậy, từ sự nhận thức sâu sắc về những nỗi bất công trong xã hội, từ ý

thức tự giác của một nhà văn hiện thực đã ảnh hƣởng đến Nguyên Hồng khi viết về

tôn giáo. Từ cảm quan tôn giáo của mình, Nguyên Hồng đã phê phán mạnh mẽ sự

mê muội và đức tin mù quáng vào sự cứu vớt của Chúa đối với những ngƣời lao

động nghèo khổ. Đó cũng là cơ sở để Nguyên Hồng tin vào những con ngƣời bằng

xƣơng, bằng thịt trên cõi trần này, tin vào bản chất lƣơng thiện và sự thánh thiện

của con ngƣời - kể cả khi họ bị đẩy vào tình trạng bi đát, đau đớn nhất.

Có thể nói thêm rằng, không gian nghệ thuật của Nguyên Hồng có tác dụng

hữu hiệu trong việc khắc họa nội tâm nhân vật. Không gian nhiều lúc tƣơng đồng

với tâm trạng và cảnh ngộ nhân vật. Chẳng hạn, không gian tăm tối bẩn thỉu nhơ

nhuốc của nhà chứa đƣợc cảm nhận qua tâm trạng mệt mỏi, chán chƣờng, tuyệt

vọng của nhân vật Tám Bính, “Tám Bính rùng mình đưa cặp mắt ám khói trông

gian buồng chật hẹp, ngăn cách buồng bên bằng những ván gỗ ghép liền đã mục

nát và nhơ nhớp những vệt quết trầu như máu đọng, có một chiếc mành sơn trắng

chằng chịt ở lối ra vào và ngọn đèn vách lù mù vì thông phong chẳng bao giờ

trong sáng ở góc tường” [74, tr. 327]. Hay đó là không gian rộng mở, tƣơi tắn, đầy

màu sắc khi Tám Bính nhớ lại những ngày tháng sống êm đềm ở làng quê: “Ánh

nắng vàng tươi và trong suốt một ngày ấm luôn ùa vào đầy nhà. Mắt Bính vụt như

hoa lên với biết bao hình ảnh biểu hiện. Dưới bóng cụm chuối xanh phấp phới,

gần con đường nhỏ lượn giữa thửa ruộng dưới trời lơ biếc ở đằng xa, Bính thấy từ

từ nổi lên một bóng dáng nhẹ nhõm, da dẻ hồng hào tươi cười hớn hở và một chiếc

đòn gánh dẻo dai nhún nhảy nhịp cùng những bước thoăn thoắt, những cánh tay

mềm mại vung tà áo nâu ra trước gió. Đó là hình ảnh của Bính, người con gái

121

chất phác chỉ có biết đua đòi các chị em đi các chợ xa gần, cái hình ảnh tươi thắm

cách đây không bao xa” (Bỉ vỏ). Trong nhiều sáng tác của Nguyên Hồng những

hình ảnh thiên nhiên nhƣ ánh trăng, ánh nắng, bầu trời, những đêm mƣa, âm thanh

của sự sống... đƣợc nhà văn sử dụng để miêu tả những diễn biến tâm lý phức tạp

của nhân vật. Miêu tả tâm trạng tê tái, buồn đau của một ngƣời phụ nữ trẻ lấy

chồng không có tình yêu (Những ngày thơ ấu), phải sống trong sự “câm lặng và

chua xót”, nhà văn đã miêu tả thiên nhiên nhƣ đồng điệu, phù hợp với tâm trạng

nhân vật “Những buổi chiều vàng lặng lẽ, lạnh lẽo của mùa đông, những buổi

chiều mà bụi mưa như một tiếng van lơn thầm thì trong hơi gió vi vu, lửa lò than

rực rỡ vờn lên tường những ánh hồng lấp lánh hay rủ rê tâm trí người ta vào

những cõi buồn nhớ, là những buổi chiều làm tê tái mẹ tôi hơn hết” [73, tr. 736],

những ƣớc mong thầm kín của chị làm sao ngƣời chồng già nua, nghiện ngập ấy

thấu hiểu? Âm vang của tiếng kèn khơi gợi trong tâm hồn ngƣời phụ nữ trẻ những

khao khát yêu đƣơng, những xúc cảm thầm kín nhất về một tình yêu không bao giờ

có “tiếng kèn mỗi giây một rướn cao, một vang to, rung động cả làn không khí êm

ả của một góc trời. Rồi nương tiếng gió lao xao trong những chòm cây phấp phới,

âm thanh náo nức dồn dập của tiếng kèn càng cuốn lên cao, tràn ra xa, rất xa, đến

những vùng xa sáng tươi nào đó. Càng về sau, tiếng kèn càng niềm nở, ân cần như

những lời thúc giục thống thiết… Hãy bước đi, hãy bước đi như làn gió nhỏ bay

theo gió. Tiếng kèn vẫn vồn vã rõ ràng, trong sáng và bầu trời vẫn rộng mở, rung

vang” [73, tr. 742-743].

Và đây là tâm trạng đầy xúc cảm của nhân vật mợ Du (trong Mợ Du) khi

gặp lại con trong một đêm trăng bàng bạc ngát hƣơng hoa cau, hoa lý. Sau bao

ngày xa cách đứa con máu mủ của mình, giờ đƣợc gặp con - tình mẫu tử trào dâng

tha thiết. Thoáng chốc, nghĩ đến sự chia tay với con, tâm trạng hạnh phúc của mợ

đã không còn, mà nhƣờng chỗ cho nỗi đau của sự chia ly, sự giằng xé vì lại phải

đối mặt với thực tế nghiệt ngã: “thoáng cái, mắt mợ quắc lên sáng ngời và gương

mặt trắng mát của mợ tái hẳn đi. Mợ cắn chặt môi dưới, lắc mạnh đầu luôn mấy

cái, ánh trăng càng chảy cuồn cuộn trong những đợt tóc đen ánh trở nên hung dài

chấm gót của mợ Dũng” [73, tr. 376]. Không gian thơ mộng của đêm trăng sáng

ấm đã không còn, mà giờ chỉ còn tràn trề nƣớc mắt trên gƣơng mặt của hai mẹ con

mợ Du, của cậu bé An “mắt người mẹ khốn nạn, mắt đứa con đầy đọa và mắt tôi

122

đắm vào nhau không biết bao nhiêu phút, yên lặng và tê mê”. Từ sự cảm thông sâu

sắc về cuộc đời của bà mẹ mình, Nguyên Hồng đã có những trang viết về tình mẫu

tử thật cảm động. Trong các nhà văn Việt Nam, có lẽ Nguyên Hồng là một trong

các nhà văn viết hay nhất, xúc động nhất về ngƣời mẹ, về tình mẫu tử thiêng liêng.

Nói tóm lại, không gian nghệ thuật trong các sáng tác của Nguyên Hồng thời

kỳ trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945 chủ yếu là không gian xã hội đen tối, tù

túng và ngột ngạt. Đó là không gian sống của tầng lớp lao động nghèo khổ dƣới

đáy xã hội thực dân phong kiến, là thứ không gian gia đình chứa đầy bi kịch đói

nghèo, và đó còn là không gian mang sắc thái tôn giáo trầm, buồn ảm đạm nhƣ

chính số phận các nhân vật trong đó. Đồng thời không gian nghệ thuật của Nguyên

Hồng cũng đƣợc mở ra nhiều chiều gắn với những biến cố của xã hội. Tạo dựng

một không gian nghệ thuật nhƣ vây, Nguyên Hồng đã khắc họa sâu sắc hoàn cảnh

sống của những con ngƣời bé nhỏ trong xã hội đƣơng thời.

Có thể nói thêm rằng, Nguyên Hồng là một trong những nhà văn sớm đƣợc

giác ngộ cách mạng, sáng tác của ông gần gũi với khuynh hƣớng văn học cách

mạng, nên trong nhiều tác phẩm của ông nhƣ: Những mầm sống, Một trưa nắng,

Hai dòng sữa, Quán Nải,… còn có một thứ không gian khác - tƣơi sáng hơn, lấp

lánh sự sống và ánh sáng. Đây cũng là một đặc điểm khác biệt của Nguyên Hồng

so với các nhà văn cùng thời, cùng khuynh hƣớng. Theo khảo sát của chúng tôi,

trong các truyện ngắn Những mầm sống: từ “ánh sáng” đƣợc nhắc tới 13 lần/ 3

trang truyện; Một trưa nắng: từ “ánh sáng” đƣợc nhắc tới 12 lần/ 8 trang truyện;

Hai dòng sữa: từ “ánh sáng” đƣợc nhắc tới 05 lần/ 22 trang truyện; trong tiểu

thuyết Quán Nải từ “ánh sáng” đƣợc nhắc tới 15 lần/ 180 trang truyện… Điều đó

chứng tỏ rằng, Nguyên Hồng một mặt lấy hiện thực cuộc sống đầy đen tối, bế tắc

của những ngƣời lao động nghèo khổ làm cảm hứng sáng tác, nhƣng mặt khác ông

lại nhìn cuộc đời bằng cái nhìn tin yêu, lạc quan tƣơi sáng - điều đó khiến cho một

số nhân vật của Nguyên Hồng dù ở trong vũng bùn của sự tăm tối, đói rách nhƣng

vẫn có sự lạc quan và có lòng tin vào một tƣơng lai tốt đẹp hơn. Đúng nhƣ nhà

nghiên cứu Phan Cự Đệ nhận xét: “Vấn đề chính trong tác phẩm của Nguyên Hồng

trước Cách mạng là: Những con người quằn quại trong sự đau khổ nhưng vẫn lạc

quan, yêu đời, vẫn muốn ngoi lên ánh sáng như những mầm cây xanh” [116,

123

tr. 11]. Niềm tin đó - xét cho cùng - chính là do sự rung động của Nguyên Hồng

trƣớc cái đẹp của cuộc sống lam lũ, vất vả của những ngƣời lao động cùng niềm tin

vào bản chất tốt đẹp của họ cũng nhƣ tin vào một ngày mai của đất nƣớc. Trong

Những mầm sống, Nguyên Hồng say sƣa miêu tả cảnh sắc thiên nhiên, ca ngợi lao

động của thợ thuyền với một niềm tin thắm thiết vào tƣơng lai: “Ánh nắng mênh

mông tràn ngập. Đường nhựa sáng lóa như dát bằng vằng diệp. Lá cây rung lên,

muôn vàn tia hào quang bay phấp phới. Các mái ngói, các ống máng, các cửa

kính, các biển hàng lấp lánh những ánh ngời. Sự huyên náo không bao giờ tắt.

Tiếng guốc khua vang vang trên bờ hè, những lớp sóng cười nói trào lên cuồn

cuộn, rồi trào lan, rồi tung cao… Bánh xe bò chuyển rầm rầm, lăn loang loáng

những vòng lửa trong nắng xuân chói lòa… Những xẻng cuốc và ván gỗ đẩy trong

hòm xe bắn ra những trận mưa rào rào… và những tà áo, những nón lá, những

chóp mũ trắng thở ra những làn bụi bạc li ti. Sự sống mãnh liệt quá, đè lên, vượt

qua và cuốn theo tất cả những ủy mị, những cái tối tăm, những gì có vẻ chậm

chạp” [73, tr. 323]. Trong Những ngày thơ ấu bên cạnh những trang hồi ký đẫm

nƣớc mắt về một tuổi thơ cay cực là những trang tả ánh sáng chan hòa, rực rỡ nhƣ

một nguồn sống tuôn trào, nhƣ niềm lạc quan hy vọng: “Mùa hè mới bắt đầu, với

ánh nắng rực rỡ, phấp phới trên các cành lá óng ả mượt nõn và những chòm xoan

xanh tươi hứa hẹn màu thẫm của các vừng hoa đỏ. Tiếng ve liên miên ghen ghen

ghét với vạn vật tưng bừng đã thấy vang tới (…). Trên vỉa đường, các gánh dưa

chuột, dưa gang và mận nhót, mềm mại, nhún nhảy nối tiếp nhau, hết tốp này đến

tốp khác” [73, tr. 799]; “Gió thổi vù vù… bướm say hoa trong ánh nắng” [73, tr.

801]; “Tiếng ve sầu lanh lảnh càng rướn cao (…). Tức thì một ánh nắng trên trời

rào xuống. Tôi có cái cảm giác trông thấy muôn vàn cánh hoa bướm phấp phới

trong đám bụi bạc và trong ánh sáng ngời của pha lê chói điện”. [73, tr. 803]…

Phải có một sức sống mãnh liệt, một tâm hồn say sƣa nồng nhiệt với con ngƣời,

với cuộc đời mới có thể có những trang văn sinh động, nhiều sắc màu về cuộc sống

và thiên nhiên nhƣ thế!

Có thể nói rằng, trong thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng ngoài những

cảnh đời tăm tối, ngoài những không gian xám xịt còn có những trang viết về

phong cảnh thiên nhiên, về con ngƣời chan hòa ánh nắng chứa đựng đầy sinh khí

của đất trời với một niềm tin bất diệt vào vẻ đẹp nhân ái của con ngƣời, niềm tin

124

vào sự đổi thay của xã hội. Không gian nghệ thuật ấy có lẽ chỉ xuất hiện trên

những trang viết đầy chất thơ và lòng nhân ái của Nguyên Hồng.

4.3. Ngôn ngữ nghệ thuật

Nhƣ đã biết, “Văn học là nghệ thuật của ngôn từ” nên khi nghiên cứu một

tác phẩm, một tác gia hay một trào lƣu văn học, ngƣời ta không thể không nghiên

cứu đến đặc điểm ngôn ngữ, sự sáng tạo ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn. Nhà

văn có tạo ra cho mình một phong cách nghệ thuật riêng biệt hay không chính một

phần cũng là bởi ngôn ngữ mang dấu ấn riêng biệt của từng nhà văn ấy. Bởi thực

tế “ngôn từ là chất liệu của văn học”, “là lời nói được sử dụng với tất cả phẩm

chất thẩm mỹ và khả năng nghệ thuật của nó”, “nói văn học là nghệ thuật ngôn từ,

thực chất là nói văn học là nghệ thuật sử dụng câu văn, lời văn, bài văn (nói, viết)

vào mục đích nghệ thuật” [93, tr. 183,184]. Nhìn chung, các nhà văn hiện thực

nhƣ Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao, Mạnh Phú

Tƣ,… đều có ý thức vận dụng ngôn ngữ đời thƣờng vào trong tác phẩm của mình,

khai thác vốn ngôn ngữ dân tộc mộc mạc, bình dân, giản dị, gần gũi với đời sống

của nhân dân lao động. Nguyễn Công Hoan cho rằng: “Khi văn chương mà viết

đúng như tiếng nói của dân tộc thì nó hay, nó đứng vững mãi vì ngôn ngữ dân tộc

là trường cửu, ít đổi thay vì thời thế”; Nam Cao quan niệm “Nghệ thuật không cần

phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là

tiếng nói đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than”; Vũ Trọng Phụng coi “tiểu

thuyết là sự thật của đời”. Và Nguyên Hồng cũng đã có những nhận thức sâu sắc

mối quan hệ máu thịt giữa nghệ thuật và cuộc sống, “Nghệ thuật phải bắt rễ từ

cuộc sống”, thiếu cuộc sống nghệ thuật sẽ chết, nghệ thuật chân chính phải hƣớng

vào cuộc sống để tìm nguồn sống “như rễ cây bám riết lấy lòng đất, càng sâu bao

nhiêu càng vững chắc bấy nhiêu, nảy nở bấy nhiêu với những màu mỡ không bao

giờ cạn…” (Hai dòng sữa). Vì vậy, các nhà văn hiện thực nói chung đã khai thác

và sử dụng rất thành công thứ ngôn ngữ mộc mạc bình dân, gần gũi với lời ăn,

tiếng nói hàng ngày của nhân dân lao động. Có thể nói, với những đóng góp của

riêng mình, các nhà văn hiện thực, mỗi ngƣời mỗi vẻ, mỗi phong cách và mỗi cách

sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật khác nhau đã góp phần làm phong phú, giàu có thêm

nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.

125

Khảo sát toàn bộ những sáng tác của Nguyên Hồng giai đoạn trƣớc Cách

mạng tháng Tám năm 1945, chúng tôi nhận thấy rằng: đặc điểm nổi bật về ngôn

ngữ nghệ thuật của nhà văn chính là việc nhà văn đã sử dụng ngôn ngữ chứa đựng

đầy ắp chất liệu cuộc sống cần lao, thứ ngôn ngữ phù hợp với tâm lý, tính cách

của từng kiểu nhân vật và cũng là thứ ngôn ngữ mang sắc thái tôn giáo khá rõ rệt.

4.3.1. Ngôn ngữ đầy ắp chất liệu cuộc sống cần lao, phù hợp với tâm lý, tính

cách của từng kiểu nhân vật

4.3.1.1. Ngôn ngữ đầy ắp chất liệu cuộc sống cần lao với vốn từ vựng phong phú

Do hoàn cảnh riêng, Nguyên Hồng từ nhỏ đã phải sống trong một môi

trƣờng lao động cực nhọc, lam lũ của những con ngƣời sống dƣới đáy xã hội

đƣơng thời, va chạm với đủ loại ngƣời trong xã hội ấy, nên nhà văn am hiểu sâu

sắc những nỗi khổ đau, sự vất vả, cực nhục trong cuộc sống cũng nhƣ lời ăn, tiếng

nói của họ. Vì thế, ngôn ngữ đƣợc sử dụng trong văn Nguyên Hồng là ngôn ngữ

gắn bó sâu sắc, máu thịt với ngôn ngữ đời sống, đƣợc chắt ra từ những cuộc đời

cần lao đau khổ. Đặc điểm này gắn liền với khuynh hƣớng thẩm mỹ của chủ nghĩa

hiện thực. Đó là những từ ngữ giản dị, gần với lời ăn tiếng nói của tầng lớp lao

động nghèo dƣới đáy xã hội, những từ ngữ gắn với công việc lam lũ, cực nhọc;

những từ ngữ của những ngƣời thuộc các thành phần phức tạp (giang hồ, trộm

cƣớp…), và cả thứ ngôn ngữ mang dấu ấn của những ngƣời theo đạo Thiên chúa.

Thứ ngôn ngữ mà nhà văn sử dụng thƣờng phù hợp với đặc tính xã hội của nhân

vật, phù hợp với các trạng thái tâm lý phức tạp của nhân vật trong từng trƣờng hợp

cụ thể. Trong sáng tác trƣớc Cách mạng của Nguyên Hồng có nhiều loại nhân vật,

nhƣ: nhân vật phụ nữ, nhân vật trẻ em, nhân vật trí thức, nhân vật lƣu manh, trộm

cắp, gái điếm… Ở mỗi loại nhân vật khác nhau, tác giả lại sử dụng các loại từ ngữ

khác nhau phù hợp với tính cách, bản chất của nhân vật.

Điều đầu tiên, ngƣời ta dễ nhận thấy một trong đặc điểm ngôn ngữ nghệ

thuật của Nguyên Hồng là một thứ ngôn ngữ rất giàu chất liệu cuộc sống, nó cứ

“ngồn ngộn, ngồn ngộn chi tiết, đôi khi được cất lên, được tấp lên, được chằng

buộc đến ngốt mắt” [116, tr. 239]. Hay nói cách khác, ngôn ngữ của Nguyên Hồng

là thứ ngôn ngữ giàu chi tiết biểu hiện - mà một trong những phƣơng thức, phƣơng

tiện thể hiện nhân vật quan trọng nhất chính là chi tiết. Chi tiết - đó là những biểu

126

hiện về mọi mặt của con ngƣời mà ngƣời ta có thể căn cứ để cảm biết về nó. “Sự

tồn tại của các chi tiết là một trong những đặc trưng cơ bản của tác phẩm tự sự”

(…). Trong truyện tình tiết, sự kiện quả là có vai trò quan trọng. Nhưng trung tâm

của sự việc, của sự kiện, biến cố là con người, trung tâm của chi tiết, tình tiết là

nhân vật” [136, tr. 124]. Trong thế giới nghệ thuật của nhà văn, nhân vật là một

trong những yếu tố quan trọng. Nhƣng để xây dựng đƣợc nhân vật thì nhà văn phải

gắn nhân vật với những những tình tiết, chi tiết cụ thể, bởi: “Nếu tách nhân vật ra

khỏi những tình tiết, chi tiết thì nó trở nên những con người chung chung, trừu

tượng, mất hết sức sống. Ở đây, nhân vật chỉ có thể sống cuộc đời của nó qua

những tình tiết, chi tiết”[136, tr. 125]. Vì vậy, Nguyên Hồng rất chú trọng đến chi

tiết trong việc xây dựng nhân vật, ông sử dụng rất nhiều chi tiết cụ thể, sinh động

trong câu văn để thể hiện, để chuyển tải hết những suy tƣ bộn bề, những hiểu biết,

những cảm nhận sâu sắc của mình đối với cuộc sống, với con ngƣời xung quanh.

Nguyên Hồng có một vốn sống rất giàu có, phong phú, nên mỗi khi đặt bút

xuống là những dòng chữ đầy chi tiết cứ “cựa quậy phập phồng” và “lấp lánh sự

sống” tuôn trào lên từng trang viết của nhà văn. Ngôn ngữ của Nguyên Hồng giàu

chi tiết, thể hiện sự quan sát tỉ mỉ, đôi khi ta có cảm tƣởng nhƣ ngòi bút của ông đã

lăn xả vào cuộc sống, muốn lột trần nó ra để phơi bày tất cả những hiện thực đa

chiều của cuộc sống, nhất là mặt đen tối, khuất lấp của nó để lật tẩy những gì là

cặn bã, những gì là xấu xa, là vô nhân đạo nhất của xã hội đƣơng thời.

Trong truyện ngắn Đi, tác giả miêu tả những ngƣời nông dân lũ lƣợt bỏ làng

quê ra tỉnh để kiếm sống, tránh nạn đói đang cận kề. Thảm cảnh đó đƣợc nhà văn

miêu tả cụ thể từng chi tiết: “Suốt hai bên đường, người đổ ra chỉ càng thêm đông.

Xóm nào, làng nào cũng chỉ toàn người đi thôi. Bọn năm người, bọn mười người, có

bọn hàng năm, sáu mươi người… Thỉnh thoảng, có vài cái xe tay ì ạch đi ngược lại

thì người ta bâu lấy đen ngòm. Một cái quần vá đũng, một cái áo bợt vai, cả khuỷu

tay, cả nách, một cái khăn vuông dúm mấy chỗ, một cái bao tải mướp, một cái màn

như vó bè, một bát đĩa cóc cáy, một cái điếu bát cổ sứt sẹo bịt chi chít, một cái nồi đồng bẹp, một cái thau xoạc miệng… tất cả những đồ vật lăm lăm muốn trở thành

cơm, thành khoai, thành ngô kia lại nhốn nháo giơ lên” [73, tr. 596]…

Nhƣ đã nói, ngôn ngữ của Nguyên Hồng mang đậm cá tính sáng tạo của

ông, cái độc đáo của nhà văn là sử dụng những từ ngữ rất đỗi bình dân nhƣng rất

127

giàu tính nghệ thuật. Nhà văn thƣờng sử dụng những biện pháp tu từ (liệt kê,

những từ láy, phép lặp, câu hỏi tu từ, tiếng lóng… - mang đậm dụng ý đặc tả, miêu

tả rất chi tiết. Khảo sát một số sáng tác tiêu biểu của Nguyên Hồng, chúng tôi đã

thấy: trong truyện ngắn Đi có dƣới 10 trang truyện đã sử dụng 60 cặp từ láy;

truyện vừa Qua những màn tối có 66 trang truyện đã sử dụng 66 cặp từ láy; tiểu

thuyết Bỉ vỏ (khảo sát 50 trang đầu) có 258 cặp từ láy/50 trang; hồi ký Những

ngày thơ ấu (khảo sát 50 trang đầu) có 204 cặp từ láy/50 trang… Cách sử dụng

những biện pháp tu từ nhƣ điệp từ, liệt kê, từ láy… mang đậm dụng ý đặc tả nhƣ

trên nhằm biểu thị trạng thái tột cùng của hành động, hoặc biểu đạt những sắc thái

diễn ra phức tạp, tinh vi trong đời sống nội tâm của nhân vật.

Cũng trong truyện ngắn “Đi”, nhà văn đã dùng nhiều biện pháp tu từ nhƣ:

phép lặp, phép liệt kê, những từ láy gợi cảm để miêu tả sự mệt mỏi, rã rời của

những ngƣời dân quê phải bỏ làng đi kiếm sống: “Trƣớc hai con mắt bừng bừng

của y, càng rộn rập những bƣớc chân, những gồng gánh, những đùm chiếu, những

sống lƣng khặc khừ, những bụng mọng lặc lừ, những cái đùi tóp lẩy bẩy, những

đầu óc bù xù, những đứa bé bèo nhèo, lờ ngờ. Và hai bên tai ù ù của y càng ran

ran những tiếng nói hổn hển, những tiếng gọi thất thanh, những tiếng ho sù sụ,

những tiếng rên thoi thóp, tiếng chửi, tiếng lạy van tiếng trách móc và những tiếng

cƣời, những tiếng hát … Những tiếng cƣời hô hố, khách khách, những tiếng hát

gào lên nhƣ điên dại…” [73, tr. 596].

Trong truyện vừa “Qua những màn tối”, nhà văn đã dùng nhiều biện pháp tu từ

nhƣ: liệt kê, từ láy gợi cảm và biểu cảm để miêu tả tâm trạng nhân vật Trung khi nghĩ

về quá khứ êm đềm: “Lòng Trung lại rưng rưng muốn khóc và lần lượt bao nhiêu hình

ảnh của cái đêm trước kia khi lìa bỏ quê hương lại xuất hiện. Dưới ánh trăng xanh

biêng biếc sáng, mình Trung lủi thủi bước thong thả trên những bóng lá xanh nhợt rung

rinh ngả trên đường đất nâu bạc gồ ghề. Mùi hoa cau hiền lành thoang thoảng. Tiếng

sáo diều mơ hồ. Thỉnh thoảng gió cuồn cuộn lồng lên, dào dạt lướt những lớp sóng lấp

lánh như thiếc trên đồng lúa, tỏa rộng mùi tám thơm ấm và ngọt” [74, tr. 23].

Miêu tả một cách chi tiết, sinh động nhƣ vậy, chứng tỏ vốn từ vựng của

Nguyên Hồng vô cùng phong phú. Một số nhà nghiên cứu đã phát hiện ra là:

Nguyên Hồng rất có tài tả nắng. Quả vậy, chỉ trong truyện Một trưa nắng chỉ vẻn

128

vẹn hơn 7 trang, nhƣng nhà văn đã có rất nhiều những từ ngữ khác nhau để miêu tả

nắng. Nắng là “thác lửa ngùn ngụt chói lòa mặt trời”, “biển lửa mênh mông”,

“nắng chang chang”, “mặt trời vầng lửa đỏ rực”, “nắng xém lại”, “nắng ngây

ngất”, “tiếng cháy sôi của nắng”, “nắng chói chang”, “tia nắng chói xuống mắt”,

“nắng vàng rực” [73, tr. 473]. Vốn từ vựng phong phú đã giúp Nguyên Hồng có

những trang tả nắng đặc sắc, “Miêu tả cát bụi và ánh sáng là tín hiệu thẩm mỹ đặc

biệt trong lời văn trần thuật của nhà văn” [101, tr. 71]. Hay miêu tả sự khốn cùng,

thảm hại của con ngƣời khi đứng bên vực thẳm của nạn đói năm 1945, nhà văn chọn

miêu tả nét mặt ngƣời: “phờ phạc, đen xám lại” [73, tr. 679], “phờ phạc, xanh xám

hơn, lờ đờ nhìn” [73, tr. 596], “mặt mày vêu vao”, “thần mặt”, “nhợt nhạt”, “mắt

vàng lờ”, “mắt trắng lờ đờ”, “mắt lờ ngờ”, “nhìn trừng trừng”, [73, tr. 597], “mặt

ai nấy đều nhăn nhúm phờ phạc… sắc mặt đen xạm… những con mắt vàng lờ sâu

hoắm” [73, tr. 613]… Hay sử dụng các động từ biểu thị sự tranh giành quyết liệt vì

sự sống: “họ cứ lăn xả vào các hàng, đè sấn lên nhau mà nhặt những hạt cơm rụng.

Họ móc cả mồm mà giật những lá bánh, gói cơm, gói cá. Lắm ngƣời vứt cả con đi

để cướp cái vỏ chuối giằng từ mồm ngƣời ăn xuống và tranh nhau đến nỗi vỏ chuối

đã gí bét với đất mà vẫn cứ quào lấy mà ăn” [73, tr. 597]…

Sự sống đƣợc khắc họa qua lời văn của Nguyên Hồng không chỉ hiện lên

một cách rất chi tiết mà còn rất giàu cảm xúc - những cảm xúc tinh tế làm rung

động trái tim ngƣời đọc bởi sự cảm thông sâu sắc và những nỗi niềm trắc ẩn khôn

nguôi đối với những con ngƣời bị dồn đẩy, bị xã hội ruồng bỏ. Hãy lắng nghe câu

văn Nguyên Hồng khi ông miêu tả giọng hát nẫu ruột, tê tái của đám dân “chạy

vỏ” qua những ngôn từ đầy gợi cảm:“Những câu hát ấy chỉ thấy cất lên trong

những khi mưa gió buồn bã mà một trinh không dính túi, hay sắp lâm vào bước

gian nan cảnh tù tội. Không biết ai đã đặt ra những câu hát ấy, và ai đã dùng cái

giọng lẳng lơ, bổng không ra bổng, chìm không ra chìm, lờ lờ và từ từ như dòng

nước xanh rêu nhờn nhụa chảy vào một vũng tối - cái giọng nôm na gọi là giọng

nhà thổ ế - để bấy giờ nó trở thành câu hát cửa miệng từ trẻ con đến người lớn

trong cái xã hội ăn cắp tối tăm kia” (Bỉ vỏ). Nguyên Hồng đã sử dụng những từ

ngữ, biệt ngữ mà chỉ riêng đám dân chạy vỏ mới hiểu đƣợc, đó là sự cô đơn cùng

cực, là sự đau đớn khôn cùng, những nỗi niềm tê tái của những con ngƣời “cực

chẳng đã” phải “chạy vỏ” để kiếm sống. Ngôn ngữ đặc sắc hòa cùng với một giọng

129

văn đầy cảm xúc trăn trở cho những kiếp ngƣời cùng khổ tạo nên sự ám ảnh không

nguôi đối với ngƣời đọc về những kiếp ngƣời bé nhỏ, mong manh, vô nghĩa trong

xã hội cũ. Nhiều khi không kìm nén đƣợc cảm xúc của mình, nhà văn phải kêu lên

khi miêu tả những nỗi đớn đau, bất hạnh của con ngƣời: “Lẽ nào lại như thế được?

Tại sao lại như thế được? Có bao giờ tìm sự giải quyết ở trời?... Bao nhiêu buổi

chiều như thế? Đã mấy trăm buổi chiều như thế?”… Có rất nhiều những câu hỏi

tu từ nhƣ vậy để thể hiện nỗi niềm cảm thƣơng vô hạn của nhà văn đối với những

ngƣời cùng khổ, cùng đƣờng trong một xã hội đầy cạm bẫy và bất công.

Là một nhà văn thiết tha yêu cuộc sống, yêu con ngƣời nên hình nhƣ cái

khuôn khổ của những câu văn ngắn không diễn đạt đƣợc cho thỏa tình ý chất chứa

trong trái tim của nhà văn, nên nó đã phải thể hiện trong những câu văn dài, với

“Những dòng chữ đầy chi tiết cứ cựa quậy, phập phồng. Một thứ văn bám riết lấy

cuộc đời, quấn quýt lấy con người” (Nguyễn Đăng Mạnh).

Bênh vực và xót thƣơng cho số phận ngƣời phụ nữ và trẻ em nghèo trong xã

hội cũ, nhà văn kêu lên những lời khẩn cầu thống thiết cho cuộc sống của họ bằng một

loạt những câu văn dài với ngôn ngữ cảm động, thấm đẫm một tình cảm yêu thƣơng:

“Phải đem sữa lại cho những người mẹ hiền nhiều con dại ở các nước bị chiến tranh

tàn phá; những người mẹ đương để tang cha, chồng, anh em; những người mẹ đương

phải thay những người đã chết vì chiến tranh kia, làm đủ mọi việc để có đủ quần áo

và lương thực cho tụi quân lính hung hãn đi xâm chiếm các nước yếu hèn.

Phải trả sữa lại cho những cái miệng bé nhỏ há rộng, lưỡi gần cứng đó,

dưới những bầu vú lép. Những cái miệng khát sữa chờ mong trong khi những mụ

đàn bà phú hào quý tộc tắm bằng sữa cho da thịt mịn màng, trong khi bọn tư sản

đổ hàng ngàn, vạn thùng sữa xuống biển để có thể bán nốt chỗ sữa còn lại với giá

đắt trong thời kỳ kinh tế khủng hoảng…” [73, tr. 187].

Hoặc thể hiện sự đồng cảm sâu sắc của nhân vật cậu bé An (Mợ Du) khi

chứng kiến cảnh ngộ éo le của hai mẹ con Mợ Du, “Tuy còn nhỏ tuổi, nhưng chỉ

nghe mợ Du nói ngần ấy câu, tôi nhận thấy ngay tại sao lại có sự gặp mặt vụng

trộm giữa hai mẹ con nhà này, và tôi cảm thấy rõ ràng sự lo lắng và đau khổ của

người đàn bà đã bị đuổi ra khỏi của một gia đình nay lẩn lút trở về để được thăm

nom con giây phút” [73, tr. 190]. Có lẽ do “Ngôn từ là lời nói vốn lấy câu làm cơ sở

130

nên nó tương ứng với những hình thức tạo hình và biểu hiện trong văn học, ứng với

sự phản ánh các tương quan, quan hệ đời sống thực tại” [93, tr. 183] - Vì thế mà

Nguyên Hồng hay sử dụng những câu văn dài với vốn từ vựng phong phú, nhiều chi

tiết nhƣ vậy để khẩn cầu cho những kiếp ngƣời cùng khổ nhƣ mẹ bé Hồng, Tám

Bính, mụ Mão, Tần, Nhân… Những câu văn ấy đƣợc Nguyên Hồng viết bằng cả

một tình thƣơng và một sự cảm thông không kiềm chế đƣợc. Ngƣời ta có cảm

tƣởng rằng, dƣới đáy sâu của mỗi câu văn Nguyên Hồng là cả một sự cảm thƣơng

sâu sắc đối với từng số phận con ngƣời (đặc biệt là số phận ngƣời phụ nữ và trẻ

em). Nguyên Hồng lý giải nỗi đau khổ của những trẻ em nghèo bằng tình cảm yêu

thƣơng của ngƣời cùng cảnh ngộ: “Cảnh đời đày đọa của chúng như phải có cái

mà say sưa trong bê tha kia để mà an ủi. Và mỗi một tính cách tinh nghịch, quỷ

quái gian ác là kết quả của cái gia đình trụy lạc, hoặc vì một người cha cờ bạc

rượu chè, hút sách rạc rài, hoặc vì người mẹ dốt nát đanh đá quá, hoặc vì sự tàn

tật đến kết liễu một đời làm việc tối tăm, hoặc cái chết thê thảm đã bóp nghẹt một

đời sống chỉ để nhẫn nhục và đau khổ” [73, tr. 242]. Quả thực Nguyên Hồng đã

“rút ruột” mình ra để viết, “vắt kiệt mình ra” để tâm tư với cuộc đời, với số phận

nghiệt ngã của những con người dưới đáy xã hội, nhà văn của “thập loại chúng

sinh” ấy lấy từ trong lòng xã hội “thập loại chúng sinh” bước ra, cầm lấy cây bút

sắt chấm vào mồ hôi, nước mắt và máu của mình và viết ra văn chương của riêng

mình” [116, tr. 378]. Phải có một lòng cảm thông sâu sắc, với những ngƣời cùng

khổ thì nhà văn mới có những câu văn trĩu nặng một nỗi đau khôn cùng nhƣ vậy,

“như ta đã thấy, bao nhiêu xương thịt tan tành thối nát, bao nhiêu nước mắt và

máu đã lụt ngập tỉnh thành, bao nhiêu sinh mệnh đã chết và đương chết trong

cảnh đói rét nên một đám người hả hê sung sướng mà có bao giờ tìm ra được sự

giải quyết ở trời?” [73, tr. 156]…

Ta thấy, ngôn ngữ của Nguyên Hồng không chỉ giàu chi tiết và cảm xúc mà

còn giàu hình ảnh, những hình ảnh đƣợc thể hiện một cách tỉ mỉ và sinh động.

Dƣờng nhƣ nhà văn đã hòa vào với nhân vật để quan sát cụ thể sự sống, cảnh đời,

tình đời và say sƣa, hối hả “tấp lên”, chằng buộc lên những câu văn. Sự kiện, hiện

tƣợng cuộc sống và tình cảm của nhà văn cứ xoắn xuýt, cuộn chảy trong câu văn.

Ví dụ nhƣ đoạn nhà văn miêu tả sự hồi tƣởng của Bính vào một buổi chiều trong

131

Bỉ vỏ chẳng hạn: “Nắng đã xế bóng. Trời của một buổi chiều mùa đông ấm áp, rực

rỡ. Trời cao và mây sáng, mây trắng như bông, như tuyết trôi về phía xa.

Trên bờ đê, dưới rặng xoan lao xao, phấp phới, phu phen thợ thuyền đã về

hầm. Những chiếc mũ dạ lấm láp hắt ánh nắng và bụi. Những nón lá vàng rực lên.

Những lồng ngực bóng nhẫy phơi ra giữa những tà áo vải thô nhuộm xanh. Những

chiếc quần láng cộc nổi gọn lên những bắp chân tròn trĩnh đầy mạt than và cát

lấm tấm như vảy bạc. Những bao gạo lấm láp quấn đằng trước theo những bước

chân hắt ra những làn bụi nhảy múa” [74, tr. 372]. Hoặc trong một đoạn văn miêu

tả một cách tƣờng tận tỉ mỉ, chi tiết đối tƣợng miêu tả, là căn nhà ổ chuột của một

gia đình nghèo khổ nhƣ: “Cái gia đình lam lũ kia vẫn lúc nhúc trong gian nhà úp

xúp và hôi nồng đã ba năm không vật gì mới hiện ra dưới những mái lá tối mờ.

Vẫn cái giường tre đu đưa kêu răng rắc mỗi lần những đứa trẻ nhún nhẩy, những

cái phản lè tè mọt nghiến rền rĩ vẫn cái bàn mất chân buộc vào cột vách. Trưa hè,

dưới nắng lửa, vẫn những làn bụi lầm lên chập chờn. Ngày mưa to gió lớn, trên

mặt đất ngập nước và rác rưởi, người cha vẫn làm thuyền cho những đứa trẻ

chơi...” (Nhà bố Nấu).

Hay trƣờng hợp miêu tả nhân vật Quang (trong Lửa thiêu) khi anh ta chứng

kiến một buổi tổ chức Đại hội cứu tế tại Nhà hát lớn của những kẻ làm tay sai cho

Pháp, anh đã không giấu nổi sự căm hờn, khinh bỉ và phẫn uất. Tâm trạng của

Quang đƣợc tác giả khắc họa rõ nét qua những ngôn từ giàu sắc thái biểu đạt nhƣ:

“Chúng hòa nhạc, chúng tung hoa, chúng bán hoa, chúng quăng tiền, chúng thu

tiền và chúng cười, vỗ tay, reo hò ầm ầm…”, “ Những cố vấn đại thần, những

thượng thư, những tai nọ, mặt kia, giàu sang nhất nhì. Những cái bụng lặc lè…

Những cái má sề sệ… những gươm lê thê sáng loáng. Những lon vàng chỉ bạc, bài

ngà, hoa vóc… những cái đầu bóng soi gương được… những cái mặt lồm lộp

không thể cái gì nhẵn lì hơn được… những bộ ngực, những cặp môi không thể cái

gì núng nính hơn được. Cả một phè phỡn mê tơi… cả một mùi thơm nồng nặc… cả

một ánh sáng rực người” [73, tr. 638].

Ta luôn gặp trong tác phẩm của Nguyên Hồng một thứ ngôn ngữ phong phú

đến mức “bề bộn”, luôn “lấp lánh sự sống”. Văn và câu văn của Nguyên Hồng vì

thế mà đã xác lập một chỗ đứng riêng, tạo dấu ấn riêng, khó phai trong tâm trí

132

ngƣời đọc cũng chính bởi thứ ngôn từ giản dị, thô mộc mà đặc sắc với những câu

văn “lúc lỉu những thành phần như một đoàn tàu chợ”… Văn của ông là tiếng nói

đau đáu, thiết tha đòi quyền sống cho những kiếp ngƣời cùng khổ, bởi “Nguyên

Hồng viết bằng tình thương, một tình thương không kiềm chế được. Nguyên Hồng

viết bằng nước mắt, nước mắt không có giọt cuối cùng. Chìm dưới đáy mỗi một

câu văn Nguyên Hồng là những giọt nước mắt như thế” (Linh Thi). Những câu

văn dài bộn bề chi tiết “như một cái cây xum xuê, lúc lỉu những thành phần như

một đoàn tàu chợ”, đƣợc bắt nguồn từ một vốn sống phong phú, một tấm lòng

giàu tình cảm, và một tâm hồn dạt dào sức sống của Nguyên Hồng. Phải chăng viết

nhƣ vậy nhà văn mới “chuyển tải” hết đƣợc nỗi khổ đau vô bờ bến của các nhân

vật (đặc biệt là nhân vật phụ nữ và trẻ em) trong xã hội cũ. Và cũng chỉ mới nhƣ

vậy, nhà văn mới thể hiện đƣợc chủ nghĩa nhân đạo thống thiết của mình đối với

con ngƣời, đối với cuộc đời và tình yêu đối với văn chƣơng nghệ thuật.

4.3.1.2. Ngôn ngữ phù hợp với tâm lý, tính cách của từng kiểu nhân vật

Nhƣ đã nói, thế giới nhân vật của Nguyên Hồng là thế giới của những con

ngƣời lao động nghèo khổ dƣới đáy trong xã hội thực dân phong kiến. Và để khắc

họa cụ thể, sinh động từng kiểu nhân vật đó, nhà văn đã sử dụng thứ ngôn ngữ

nghệ thuật phù hợp với từng kiểu nhân vật, phù hợp với các nét bản chất và tính

cách riêng biệt của họ.

Với những người lao động nghèo khổ nhƣ: phu phen, thợ thuyền, những

ngƣời buôn thúng, bán bƣng… thì ngôn ngữ của họ phần lớn là những từ ngữ bình

dân xô bồ, bạo dạn. Tuy nhiên đó là những lúc họ phải bƣơn chải vật lộn để kiếm

ăn, để tồn tại, “hoàn cảnh sống đã rèn đúc nên ở họ tính can đảm đến táo tợn”,

còn với những ngƣời cùng cảnh ngộ, với cha mẹ, chồng vợ, con cái, hàng xóm…

họ dành cho nhau những câu nói tình nghĩa thật xúc động. Chẳng hạn nhƣ lời nói

đầy động viên, an ủi của Mũn (trong Đây bóng tối) nói với Nhân lúc Nhân bị mù

lòa, đau đớn, phiền muộn muốn quyên sinh: “- Thôi mình ạ, cảnh ngộ eo hẹp bắt

buộc phải thế mình cũng đừng nên phiền muộn làm gì… mà mình trông ba đứa

con hay vòi vĩnh, hay quấy khóc kia kìa, chăm nom chúng thật bận bịu vô cùng,

thế mà mình còn phải coi cả cơm nước cho cả nhà thì sự vất vả, nắng nôi của tôi

có thấm thía gì”. Sự cảm thông và lời nói đầy tình nghĩa ấy đã làm dịu lòng

133

Nhân, làm cho Nhân quên hẳn cái ý định tự tử để cho Mũn “nhẹ gánh” trên vai.

Hoặc đó là lời an ủi của một ngƣời mẹ già với con trai khi cả nhà họ đang bị cái đói

đe dọa từng ngày, khi xung quanh họ là cảnh ngƣời đói lần lƣợt chết nhƣ ngả rạ hai

bên đƣờng “- Đã có giời! không ai cưu mang được ai nữa thì đã có giời. Chẳng nhẽ

giời lại đoản hết cả mọi người? (…) Giờ đã ngoài đôi mươi tháng giêng, mà cuối

tháng ba sang tháng tư thì giời có mưa. Giời để cho sống qua mấy tháng nữa là

không việc gì nữa. Phải! Không lo nữa, có thóc chiêm, hơn hai tháng nữa có thóc

chiêm” [73, tr. 602]. Trong khung cảnh tối tăm vì sự đói khát chết chóc ấy, bà lão

gần đất xa trời đã động viên con trai tin tƣởng vào những ngày tháng trƣớc mắt. Sự

lạc quan của bà mẹ nghèo ấy thật đáng quý, nó xuất phát từ triết lý muôn đời của

nhân dân lao động “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”, nhất là ở trong những hoàn cảnh

nghiệt ngã nhƣ vậy! Những đối thoại tình nghĩa ấy thể hiện bản chất tốt đẹp, tình

nghĩa sâu sắc của những ngƣời dân lao động, đồng thời cũng thể hiện đƣợc quan

niệm của nhà văn về con ngƣời: “Tất cả những con người bị coi là cặn bã ấy đều

không ít chau chuốt cho sự sống những tình cảm sâu xa tươi thắm mà các bọn người

trong giai cấp bóc lột không thể nào có được, không thể nào xử sự được” [67].

Nhƣ đã nói, ngôn ngữ của Nguyên Hồng là thứ ngôn ngữ giản dị, gần với

lời ăn tiếng nói của tầng lớp lao động dƣới đáy xã hội đƣơng thời. Trong các tác

phẩm Láng, Quán Nải, Những ngày thơ ấu, Mợ Du… ta nhận thấy có nhiều

những từ ngữ nói về những công việc nặng nhọc của nhà nông, nhƣ: cắt cỏ, cày,

vác, cuốc, đập, làm đất… “họ, kẻ vác cày cuốc đập, đòn gánh người dắt trâu hay

mang những nón áo, ấm đất, điếu cày. Tất cả đều lặng lẽ, phờ phạc vì đói mệt”

[73]; Những từ ngữ của những ngƣời làm nghề buôn thúng, bán bƣng, (hoặc những

nghề nhỏ mọn khác) cũng có rất nhiều trong sáng tác của Nguyên Hồng trƣớc

Cách mạng. Những từ ngữ chỉ những dụng cụ lao động của họ nhƣ thúng, mủng,

mẹt, vỉ buồm, chõng, xay bột, làm bánh, thạch, chè, xôi chè, luộc khoai, nhà đò,

luồng nước, hàng quà, bán rong… Nhiều hơn cả là từ ngữ gắn liền với công việc

cực khổ của những ngƣời thợ thuyền, của phu khuân vác, đội than ở các nhà máy,

bến tàu, bến cảng, nhƣ: máy hập, băng, xe goòng, chở, vác, đèo, đội, thợ nề, làm

phu, cu ly, đòn bẩy, thanh sắt, dây curoa, đất, đá, bánh xe, dây da, chuyển động, ổ

sắt, búa lớn, quai… Điều đặc biệt là với những từ ngữ giản dị, bình thƣờng mang

đậm hơi thở cần lao ấy đã đƣợc Nguyên Hồng tái hiện thành một bức tranh đầy

134

màu sắc về sự khốn khổ lam lũ của những con ngƣời sống dƣới đáy xã hội. Đúng

nhƣ Nguyễn Minh Châu nhận xét về ngôn ngữ Nguyên Hồng “câu chữ nào cũng

lấm láp cuộc sống, mang hơi thở hổn hển của cuộc sống lam lũ”. Những từ, những

câu chữ ấy luôn “cựa quậy, phập phồng” đánh vào tâm thức ngƣời đọc, ám ảnh

ngƣời đọc về cuộc sống nô lệ của nhân dân ta dƣới thời thực dân phong kiến.

Nguyên Hồng có thói quen lúc rỗi rãi thƣờng hay đến những nơi đông ngƣời nhƣ

vƣờn hoa, chợ, bến tầu, bến xe,… để lắng nghe ngôn ngữ đối thoại đời thƣờng, ngôn

ngữ chợ búa, ngôn ngữ của những ngƣời lao động buôn thúng, bán bƣng vất vả cực

nhọc để chắt lọc và đƣa vào văn chƣơng của mình. Vì thế, ngôn ngữ của Nguyên

Hồng là ngôn ngữ của đời sống cần lao, “mang hơi thở nóng hổi” của cuộc sống.

Với những nhân vật tha hóa, lưu manh hóa, tác giả đã sử dụng một thứ

ngôn ngữ đặc biệt - thứ ngôn ngữ phù hợp với tính chất nghề nghiệp và bản chất,

tính cách của những con ngƣời táo tợn, bất cần, sống cuộc sống ngoài vòng pháp

luật. Khác với những nhà văn khác cùng thời, cùng khuynh hƣớng, Nguyên Hồng

là ngƣời đặc biệt dành sự quan tâm nhiều đối với loại nhân vật tha hóa, lƣu manh

hóa - và cái khác biệt của nhà văn cũng chính là ở kiểu xây dựng loại nhân vật này.

Có lẽ do hoàn cảnh sống dƣới đáy xã hội mà Nguyên Hồng đã phải nếm trải, nên

ông gần gũi và rất am hiểu họ. Với kiểu nhân vật này nhà văn sử dụng những từ

ngữ ăn nói trợn trạo, bất cần đời, đầy tiếng lóng của những dân “anh chị”. Ta hãy

lắng nghe một cuộc đối thoại trong Bỉ vỏ giữa nhân vật Năm Sài Gòn và đồng bọn:

“Hắn nói đến đây, cả bọn nhao nhao lên hỏi:

- Có “Tế bướu” (nhiều tiền) không?

- Bao nhiêu “thạch” (đồng)?…

- Tôi biếu anh Năm “trách chợm” (một chục), còn mỗi anh “kẹo thạch”

(năm đồng).

Tư lập lơ lấm lét chờ Năm nhận lời mới hất hàm hỏi Chín:

- Thế “khánh vọt” (khánh vàng) với “khong bẹt” (khóa vòng bạc) đâu?

Chín hiếc cười đáp:

- Ấy suýt tôi quên thằng “vỏ lỏi” bế em bé đưa ra ao than, chực tháo khánh

và vòng, xích thì có bốn “so quéo” ở trong ấy đi ra bắt gặp nó, nó hoảng hốt vứt

135

đứa bé xuống một cái hố rồi chạy mất… Lại thấy bóng “cớm chùng” và “cớm

tẩy”, tôi phải bấm nó rồi cả hai “ngũ dị” đi thẳng” [74, tr. 338].

Và đây là ngôn ngữ đối thoại trong cuộc cắt máu ăn thề của những tay “anh

chị” đất Hải Phòng: “Tôi là Sửu Nháy, hai mươi mốt tuổi, không cha mẹ, không

anh em, vợ con không quê quán… can án sáu lần, tổng cộng bốn năm tù… xin

nguyện hết lòng giúp đỡ, bênh vực anh em, nếu sai lời sẽ bị trời tru, đất diệt”;

“Tôi là Tư Chơi, hai mươi tư tuổi, không quê quán, anh em, cha mẹ, can án tám

lần, tổng cộng 7 năm tù, nguyện như Sửu Nháy nếu sai lời xin quỷ thần hai vai bắt

hộc máu chết tươi”;“Tôi là Bảy Hựu, hai mươi tuổi, không cha mẹ, không quê

quán… không cả chồng con, theo anh Hai Răng vàng giang hồ từ thuở nhỏ, can án

sáu lần, cộng bốn năm tù, xin nguyện như anh em, nếu sai lời, sẽ bị chết đâm, chết

chém ở đầu đường, xó chợ”… [73, tr. 124].

Ta thấy qua những đoạn đối thoại trên, tác giả đã tạo đƣợc một loại ngôn

ngữ có sắc thái riêng của những kẻ giang hồ hành nghề cƣớp giật, đâm thuê, chém

mƣớn. Họ muốn tồn tại đƣợc thì phải bất chấp tất cả, nên họ “yêng hùng” ngay cả

trong khẩu khí. Nguyên Hồng đã chú ý sử dụng ngôn ngữ đối thoại để thể hiện bản

chất và nghề nghiệp của loại nhân vật này. Đặc biệt, trong tiểu thuyết Bỉ vỏ những

tiếng lóng, những biệt ngữ mà các nhân vật lƣu manh, tha hóa sử dụng là 272 lƣợt

(tần số đƣợc Nguyên Hồng sử dụng hết sức đậm đặc). Có thể kể ra hàng trăm từ

lóng mà tác giả đã sử dụng nhƣ: “Hồ lỳ” (ngƣời tính toán ở chiếu bạc),“chạy dọc”

(kẻ ăn cắp trên tàu thủy, tàu hỏa hay ô tô), “cớm chùng” (mật thám), “phụ cớm”

(phụ mật thám), “cớm độc” (đội xếp), “Cớm tẩy” (mật thám tây, đội sếp tây),

“tôm”(bắt), “mõi” (móc, rút) hay những biệt ngữ:“vỏ lỏi” (ăn cắp nhỏ tuổi), “tiểu

yêu” (chỉ trẻ con ăn cắp), “yêu tạ” (kẻ cắp lâu năm), “bỉ vỏ” (đàn bà ăn

cắp),“quấy” (đi chơi nhà chứa);“diễn xưa” (uống rƣợu say),“phiện phò” (hút sách

chơi bời);“bùng” (án biệt xứ),“pét bích” (tám lần can án),“củ” (chết), “ngũ dị”

(chạy trốn), te (đẹp), “tiền bồi” (tiền ăn cắp của bọn ăn cắp trích nộp cho đàn anh),

hiếc (lần lƣng, móc túi), “khai” (cắt túi, xẻo đẫy), “hắc” (cẩn thận, khôn ngoan),

“thắt đớm” (thắt lƣng), “tễ biếu” (nhiều tiền), “đi phiên” (đi khám bệnh), “bét

dịp” (tám tháng), “nhỡ” (bị tù), “đét” (không ăn cắp đƣợc), “mổ chạc” (ăn nhờ),

“ngũ dị” (chạy trốn)… Nguyên Hồng dùng nhiều những tiếng lóng, những biệt

ngữ nhƣ trên với mục đích để phản ánh cuộc sống tối tăm đầy tội lỗi và cũng đầy

136

nguy hiểm của những kẻ lƣu manh, trộm cắp, cùng đƣờng nổi loạn. Các nhân vật

này sử dụng những tiếng lóng, những biệt ngữ nhƣ vậy là để thông báo cho nhau

trong những hoàn cảnh bị dồn đẩy, hoặc trong những tình huống cực kỳ nguy

hiểm, hoặc khi trốn chạy để khỏi bị mật thám bắt… Cuộc sống tăm tối bấp bênh

của họ đƣợc nhà văn miêu tả bằng nhiều tiếng lóng mà chỉ có những kẻ “trong

nghề” mới hiểu đƣợc. Tài năng của Nguyên Hồng là ở chỗ nhà văn đã dùng chính

ngôn ngữ của họ để miêu tả thực tế cuộc sống của họ, một cuộc sống ăn cắp, ăn

cƣớp, đâm thuê, chém mƣớn, trong sự lo sợ bị bắt, bị vào tù hoặc sự thanh toán lẫn

nhau có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Ngay cả khi bày tỏ tình cảm, họ cũng nói với

nhau bằng thứ ngôn ngữ của riêng họ: "Tám Bính vênh mặt nũng nịu:

- Khi nào cớm mó được đến người em.

Năm Sài Gòn lườm yêu Bính:

- Mình chỉ kiêu ngạo thôi, tài giỏi sành sỏi như Tư Lập Lơ còn “cáy”

không dám làm tiền nữa là mình thứ vị gì.

- Nhưng em…

- Em là “bỉ” chứ gì?

... Năm liền quàng tay qua Bính, kéo mặt Bính sát tận mặt mình, thều thào:

- Em gái nhỏ tôi “te” quá”. [73, tr. 392].

Nhƣ vậy, chủ ý đƣa tiếng lóng vào trong đối thoại của các nhân vật này, nhà

văn nói lên bản chất nghề nghiệp của họ, đó là thứ ngôn ngữ chỉ bản chất hung hãn

và thái độ bất cần đời của những con ngƣời bị dồn đẩy phải sống một cuộc sống

ngoài vòng pháp luật. Đúng nhƣ tác giả Lê Hồng My đã nhận xét: “Tiếng lóng của

Nguyên Hồng đã đưa người đọc đến với tầng lớp cặn bã nhất của xã hội để nhận

biết về sự đau xót của hạng đĩ điếm, trộm cắp, sát nhân vẫn bị người đời khinh rẻ.

Đó là mảng hiện thực mà bao thế hệ nhà văn đã không ngừng trăn trở, tìm hiểu,

khám phá. Dưới ngòi bút Nguyên Hồng, tiếng lóng đã bồi đắp thêm giá trị hiện

thực của tác phẩm, làm cho bức tranh đời sống xã hội Việt Nam trước cách mạng

tháng Tám trong văn học nước nhà thêm chân thực và sâu sắc” [101, tr. 127].

Có thể thấy, với những nhân vật tha hóa, lƣu manh, trộm cƣớp… nhà văn

thƣờng sử dụng những ngôn ngữ của những kẻ bợm trạo, bất cần, hoặc những

137

tiếng lóng của giới giang hồ để lột tả bản chất và tính nghề nghiệp của họ. Cũng

vậy, khi miêu tả cuộc sống của những đứa trẻ lang thang nơi đầu đƣờng xó chợ,

nhà văn sử dụng những từ ngữ phù hợp với hoàn cảnh sống và tâm lý của lứa tuổi

này. Tuy nhiên, trong ngôn ngữ của kiểu nhân vật trẻ em, ngƣời đọc nhận thấy đó

là thứ ngôn ngữ vừa trẻ con, lại vừa già dặn của ngƣời lớn. Phải chăng môi trƣờng

lao động cực nhục bắt buộc chúng phải bƣơn trải, phải giành giật, phải mánh lới…

nhƣ những tay “anh chị” lớn tuổi để tồn tại? Chúng có những từ ngữ riêng, không

ngang ngƣợc bất cần nhƣ những tay “anh chị”, nhƣng cũng đầy tính “bụi đời” - thứ

ngôn ngữ đã ngấm vào chúng trong những ngày kiếm sống. Đây là đoạn đối thoại

của hai nhân vật Điều và Tý Sáu, chúng bàn nhau ăn cắp tiền của ông già mù trong

truyện ngắn Con chó vàng: “- Con chó vẫn thức mày ạ. Mà tao biết hai thằng

mình khờ rồi, ban ngày đi ăn xin, ông lão mới bỏ quần áo vào bị chứ đi ngủ, thế

nào bố già chẳng lẩn vào người. Mà bên bố già lại có con chó tai quái kia thì có

giời mà lấy được.

- Ức thật, hai thằng sáng mà lại chịu thua con chó của bố mù” [73, tr. 156].

Lẽ ra, bình thƣờng ngƣời đi ăn xin lại bị mù làm ngƣời ta thƣơng xót, nhất là tình cảm ấy ở trẻ em lại càng trong sáng và thể hiện sự thƣơng xót nhiều hơn, nhƣng cuộc sống kiếm sống lang thang nơi đầu đƣờng xó chợ làm các em trở nên chai sạn mất dần đi những tình cảm tốt đẹp, dửng dƣng với những cảnh ngộ rất đáng thƣơng tâm của ngƣời đời. Chúng gọi ông lão là “bố già”, là “bố mù” một cách dửng dƣng và còn định giết chó, cƣớp tiền của ông lão - ngƣời còn khốn cùng hơn chúng. Trong Bỉ vỏ, Nguyên Hồng miêu tả cảnh những đứa trẻ lang thang đầu đƣờng xó chợ, ăn cắp, lừa lọc để tồn tại, nhƣng cũng có nhiều lúc chúng bị các tay “anh chị” “hớt tay trên” “sản phẩm” ăn trộm của chúng, đẩy chúng vào tình trạng sắp chết vì đói, chúng đã bộc bạch những nỗi tức tối qua những lời nói đầy hằn học, đầy biệt ngữ và tiếng lóng:

“Hiếu chêm một câu:

- Mà Tám Bính “siêu” (lấy đi) mới thần tình chứ.

… Hiếu chuyên môn ăn cắp, nên các cử chỉ của Bính nó diễn lại một cách

khéo léo, tự nhiên vô cùng làm Sẹo phải tròn mắt kêu lên:

- Tám Bính “dựa nhẩu” (lấy nhanh) đến thế cơ à?

138

Minh hất hàm cười:

- Ấy chết, bà mày có biết “làm tiền” tí nào đâu!

Mất hết cả ngờ vực, thằng Sẹo gật gù:

- Khoái đấy, thích đấy!... Nó vui vẻ cất tiếng:

- Chúng mày nhỉ, “bỉ” (ăn cắp) ấy dễ lắm, tốt lắm, làm thế nào những lúc “đét” (túng thiếu), chúng ta chả “trách phõ” (xin nhờ vả) được tí tỉnh” [74, tr. 381].

Qua những đối thoại trên, ta thấy nhân vật trẻ em, tuy còn ít tuổi nhƣng đã

sử dụng các tiếng lóng, những biệt ngữ nghề nghiệp của chúng một cách thành

thục, trơn tru. Cuộc đời của chúng nhiều lúc phải trải qua những ngày đói khát, rét

mƣớt ê chề, chênh vênh giữa sự sống và cái chết, nhƣ nhân vật Minh có lúc “đói

quá lả đi mê mệt, nằm rũ trên thềm gạch xây cạnh chuồng tiêu… May mà sáng

hôm sau thằng Hiếu ăn cắp được đôi giày ta mới, bán được hai hào rưỡi mua phở

cho nó ăn, chứ không nó chết đói mất” [74, tr. 383]. Ta thấy, trong những hoàn

cảnh nghiệt ngã nhƣ vậy, tận đáy sâu tâm hồn các em vẫn ngời lên sự tƣơng thân,

tƣơng ái, đùm bọc lẫn nhau của những ngƣời cùng cảnh ngộ. Điều đó làm ngƣời

đọc ấm lòng hơn bởi thấy các em là những đứa trẻ đáng thƣơng chứ không đáng

giận cho dù bị rơi vào hoàn cảnh nào.

Để miêu tả cuộc đời những ngƣời phụ nữ phải làm nghề mại dâm để tồn tại,

Nguyên Hồng cũng dùng những từ ngữ phù hợp với nghề nghiệp của họ, nhƣ:

“sộp”, “đồ chơi”, “đi phiên”, “lẳng giai”, “sộp kê”, “xé giấy”,… hoặc những từ

ngữ thể hiện những trạng thái cảm xúc khi tủi thân, khi ê chề, tủi nhục, đau đớn

của những ngƣời đàn bà bị sa chân vào nhà chứa nhƣ: Tám Bính, Hai Liên… “Sau

sáu mươi ngày đêm ròng rã ít khi chợp mắt làm “đồ chơi” cho mọi hạng người,

tiếp những ông khách “sộp” của chủ chứa mà đến tiền đi “phiên” (đi khám bệnh)

cũng không có” …

…“Dứt lời, Hai Liên bấm Tám Bính, ghé vào tai Bính nói thầm: Thằng cha

này có vợ nhưng vợ ở tận Hà Đông, ít khi gặp xuống chơi, nó lẳng giai lắm mà “sộp kê” (nhiều tiền) lắm, lại đi đạo nữa đấy”;

…“Hai Liên ái ngại, cau mày ngẫm nghĩ một lát rồi bảo Bính:

Chị muốn rời bỏ chốn này lắm phải không?... thôi được… khi nào chị thật

khỏe mạnh, em sẽ đánh mối giúp chị một người có thể xé giấy lấy chị…

139

“Em không lừa dối chị đâu tuy em thường “khấu bộp” mọi người để lấy

tiền” (Bỉ vỏ) …

Vào thời điểm đó, các tác phẩm của văn học lãng mạn đang đến với bạn đọc

bằng những từ ngữ nuột nà, trơn tru đầy mộng mơ của những chàng và nàng,

những nhân vật chàng trai, cô gái Mới tân thời, đã chinh phục và ru ngủ độc giả

bằng những tác phẩm: Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân, Đời mưa gió, Đoạn

tuyệt… thì Nguyên Hồng đã dũng cảm đƣa vào trang viết của mình những từ ngữ

đầy gân guốc, bụi bặm, đầy tính bình dân của nhà máy, của than bụi, của nhà máy,

của bến phà, từ ngữ của đời sống cần lao để miêu tả chân thực đời sống lam lũ của

họ. Điều đặc biệt cũng là khác biệt của nhà văn là ông đã sử dụng những biệt ngữ,

những tiếng lóng để miêu tả cuộc sống hỗn độn, khốn cùng của những con ngƣời

sống dƣới đáy xã hội, sống ngoài vòng pháp luật. Giáo sƣ Hà Minh Đức khẳng

định: “Không thể làm sống dậy cuộc sống giang hồ, lưu manh của những kẻ như

Tám Bính, Năm Sài Gòn, Ba Bay nếu như trong Bỉ vỏ Nguyên Hồng không dùng

tiếng lóng”. Thành công của Nguyên Hồng chính là ở chỗ ông đã đƣa tiếng lóng

trở thành một thứ ngôn ngữ nghệ thuật vào văn chƣơng và giúp ta hiểu thêm về

những con ngƣời tội lỗi bị xã hội cũ ruồng bỏ, để cảm thông và thƣơng xót cho họ.

Đồng thời, tiếng lóng của Nguyên Hồng đã góp phần làm phong phú thêm ngôn

ngữ văn xuôi hiện đại.

Còn với những nhân vật thanh niên trí thức tiểu tư sản nghèo khổ thì ngôn

ngữ đối thoại của họ rất ít mà thƣờng nặng về suy nghĩ nội tâm. Trong các sáng tác

Tôi dạy học, Lớp học lẩn lút, Một trưa nắng, Hai dòng sữa… các nhân vật thanh

niên trí thức đều ít hành động, ít đối thoại, mà nặng về độc thoại, suy nghĩ. Ví dụ

nhƣ trƣờng hợp nhân vật Hƣng (trong Miếng bánh) vì đói ăn dài ngày mà anh đã

bỏ ra hai hào để mua bánh để tận hƣởng thỏa mãn cơn khát thèm, bỗng hình ảnh

đói khát, xác xơ của ngƣời vợ hiện ra khiến cho anh cảm thấy tê dại, miếng bánh

bỗng nhiên thành “mảnh thủy tinh tẩm mật cá”. Và anh tự chất vấn mình, toàn bộ

tâm trí anh quay cuồng bởi tiếng rít mắng của cõi lòng: “Khốn nạn! Sao mày lại

lén lút ăn không chia sẻ với vợ con như thế này! Mày thèm khát thế vợ con mày no

đủ hay sao? Mày còm cõi thế vợ con mày béo tốt hay sao? Mày nhẫn tâm thế à?”.

Biết đó là hành động xấu xa, ích kỷ, Hƣng không nén nổi giận dữ, anh tự xỉ vả

mình là “khốn nạn”, “nhẫn tâm”. Những tiếng nói lên án gay gắt lên án tự trong

140

tâm trí “mỗi khi nhớ tiếng miếng ăn này, Hưng sẽ bị một nhục nhã như chàm, như

lửa táp vào mặt, Hưng sẽ đau đớn còn hơn bị xác thịt kìm cặp” [73, tr. 439]. Cuộc

sống nghèo khổ khiến anh phải có những tính toán chi li, phải ích kỷ nghĩ cho

riêng mình rồi lại phân tích, tự nhận thức trong sự tủi hổ, ân hận, đau đớn. Và cứ

thế, tâm lý nhân vật triền miên day dứt, căng thẳng nối tiếp nhau. Nhân vật rất ít đối

thoại, mà chủ yếu nặng về những suy nghĩ nội tâm (trong 12 trang truyện, Hƣng đối

thoại có 11 lần, còn lại là những suy nghĩ “tự nhủ”, tự chất vấn, tự lên án mình qua

dòng độc thoại nội tâm là chủ yếu). Cũng tƣơng tự nhƣ Hƣng, nhân vật Giang (trong

Ngọn lửa) chỉ vì bốc vụng một miếng cơm nguội trong lúc quá đói, mà cũng xỉ vả

mình thậm tệ. Sự day dứt lƣơng tâm của ngƣời trí thức bộc lộ sự đấu tranh nội tâm

căng thẳng của nhân vật khi họ rơi vào những cảnh ngộ oái oăm đầy nƣớc mắt đắng

cay. Những hành động “ăn vụng” “ăn lén” để tồn tại cũng đƣợc thể hiện qua suy

nghĩ dằn vặt của nhân vật: “mang tiếng được ăn học chữ nghĩa hẳn hoi mà ăn xó mó

niêu như thế đấy! Đói khát đến thế nào mà ăn như một kẻ ăn mày, ăn nhặt vậy” [73,

tr. 114]. Ngƣời thầy giáo nghèo - nhân vật Thân (trong Quán Nải) rất ít nói, kín

đáo trong cƣ xử với mọi ngƣời. Ngay cả với ngƣời thầm yêu, trộm nhớ là Muống,

Thân cũng kín đáo, khách sáo qua cách xƣng hô “tôi”- “cô”:

“ - Vâng! Thôi chào cô về”...

“- Về! Cô về bây giờ có lẽ đã quá nửa đêm” [74, tr. 498].

Đối thoại trên thể hiện tính cách nhu mỳ, mềm yếu, thậm chí là hơi hèn của

nhân vật Thân. Cách đối thoại này cũng đã thể hiện sự rụt rè trong ứng xử của kiểu

nhân vật này. Nhân vật Lƣu trong Lúc chiều xuống phải đem mấy cuốn sách là tài

sản quý báu nhất của anh đi bán để cầm hơi trong khổ sở tủi nhục, trong sự bê tha

bệ rạc, ngƣời đọc cũng ít thấy anh đối thoại mà chủ yếu là độc thoại nội tâm (trong

15 trang truyện có 11 đối thoại).

Truyện ngắn Hai dòng sữa thể hiện quan điểm nghệ thuật của ngƣời trí

thức tiểu tƣ sản trƣớc cuộc sống, nhƣng cơ bản cũng lại đƣợc biểu đạt qua dòng

độc thoại nội tâm của nhân vật (trong 22 trang truyện cũng chỉ có 9 đối thoại).

Huyên là một nhạc sĩ có đủ điều kiện sống đầy đủ, thậm chí thừa thãi về vật chất,

nhƣng tâm hồn gần nhƣ bại liệt. Có dịp gần gũi với những ngƣời lao động nghèo

141

khổ, Huyên đã thức tỉnh, anh nhận ra rằng, cuộc đời anh cũng nhƣ nghệ thuật của

anh chỉ có thể hồi sinh khi biết gắn bó với nhân dân nhƣ gắn với hai dòng sữa mẹ.

Để có sự thức tỉnh về bản thân, ý thức về giá trị của nghệ thuật chân chính, Huyên

cũng đã trải qua những “dằn vặt”, những “day dứt”, những suy nghĩ nội tâm căng

thẳng. Huyên tự nhận thấy mình “núp dưới cái danh nghệ sĩ mà bám vào lưng

người ta”, “tâm hồn Huyên đau như xé ra” thấy mình là “người nghệ sĩ ăn mày,

thứ nghệ sĩ trùng bệnh độc, sống bằng khí lực người ta và làm trụy lạc bao cuộc

đời mà nhiều hạng người vẫn ca tụng và khao khát gần gũi” [73, tr. 521]. Nhận

thức đƣợc nghệ thuật của mình “chỉ là cái âm nhạc phóng đãng, trụy lạc”, Huyên

day dứt, ghê rợn cho mình: “Huyên thấy rõ ràng đời mình đen tối và khốn nạn vô

cùng, không còn có cái gì để mà tô điểm, che đậy, lấp láp được nữa… Và những

cái là hay, là đẹp, là tuyệt diệu ấy, có ích lợi chút nào cho người đời, hay chỉ để

vui tai, mê hồn và đắm đuối cho một hạng người lười biếng, nhẫn tâm” [73,

tr.527]. Huyên thấm thía sau cái lần “chua xót tê dại này”, “bắt đầu từ những phút

sôi nổi sung sướng này, Huyên không thể nào xa những con người kia, Huyên phải

mãi mãi đứng bên tay trái họ, cảm thông tận tâm hồn với họ mọi sự đau khổ vui

tươi, mong ước và tin tưởng. Đời Huyên bắt vào đời họ như dây tơ bám riết lấy

lòng đất, càng sâu bao nhiêu càng vững chắc bấy nhiêu” [73, tr. 530].

Thể hiện sự đấu tranh nội tâm căng thẳng của ngƣời trí thức, Nguyên Hồng

cũng chỉ thể hiện qua suy nghĩ và tâm trạng của nhân vật mà rất ít sử dụng ngôn

ngữ đối thoại trực tiếp. Điều này phù hợp với tính cách kín đáo, sống nội tâm của

phần lớn những nhân vật trí thức tiểu tƣ sản. Thông qua ngôn ngữ độc thoại nội

tâm, các tình tiết, tính cách nhân vật đƣợc hình thành và phát triển. Từ đó, Nguyên

Hồng đã làm nổi bật những nỗi đau xót trƣớc bi kịch vật chất và tinh thần của

ngƣời trí thức tiểu tƣ sản trong xã hội cũ.

Là ngƣời tinh tế và dễ xúc động, giàu tình thƣơng cảm với những số phận

bất hạnh, nên ngôn ngữ của Nguyên Hồng cũng thấm đẫm tình yêu thƣơng khi

biểu đạt những trạng thái tình cảm của nhân vật. Có những từ ngữ biểu đạt "những

rung động cực điểm của một linh hồn trẻ dại" (Thạch Lam) xúc động sâu xa mà

đằm thắm trữ tình, có những từ ngữ biểu đạt những trạng thái tâm lý căng thẳng

của nhân vật khi rơi vào cảnh ngộ khốn cùng, hoặc chênh vênh giữa sự sống và cái

142

chết của các nhân vật sống ngoài vòng pháp luật, hoặc những từ ngữ biểu đạt niềm

hứng khởi, say mê sự sống…

Nhƣ vậy, khi xây dựng nhân vật, cho dù ở loại nhân vật nào, Nguyên Hồng

rất chú ý đến ngôn ngữ nhân vật. Sử dụng ngôn ngữ phù hợp với đặc điểm, tính

cách của nhân vật là một thành công của Nguyên Hồng trong quá trình sáng tạo

nghệ thuật của mình.

4.3.2. Ngôn ngữ mang sắc thái tôn giáo

Nghiên cứu về một số đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong sáng tác của

Nguyên Hồng, chúng tôi nhận thấy, nhà văn không chỉ mạnh dạn đƣa từ lóng

vào trong tác phẩm văn chƣơng, ông còn mạnh dạn sử dụng những từ ngữ

thƣờng dùng của những ngƣời theo đạo Cơ đốc. Có lẽ lớp từ ngữ này đã khiến

cho tác phẩm của Nguyên Hồng ít nhiều mang sắc thái tôn giáo, thể hiện tinh

thần xả thân, độ lƣợng, thương đến cả những kẻ ác của đạo Cơ đốc. Chính đặc

điểm này thể hiện phong cách rất riêng của Nguyên Hồng so với những nhà văn

cùng thời.

Ngôn ngữ mang sắc thái tôn giáo thể hiện ngay từ những sáng tác đầu

tay Linh hồn, bởi không khí tôn giáo thấm sâu vào tâm thức Nguyên Hồng,

thấm vào từng trang viết của nhà văn. Ta bắt gặp trong nhiều sáng tác của

Nguyên Hồng trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945 có nhiều những từ ngữ

của những ngƣời theo đạo Cơ đốc. Các biệt ngữ tôn giáo đƣợc ông sử dụng rất

phong phú, có khi đó là từ chỉ các chức phận trong dòng tu: Đức Mẹ, Đức Chúa

Jêsu, con chiên, giai hàng xứ, bõ, đồng nhi, con gái thơ kinh, lề lối Hội

thánh,… Hay hình ảnh nhà thờ, thánh đƣờng với những tòa giảng, bàn thờ Đức

Mẹ, cây thập ác, cây thánh giá, tranh Chúa Jêsu bị đóng đinh trên cây thập ác,

Chúa vẻ mặt rầu rĩ, tượng Chúa chịu nạn… Hoặc những hoạt động quen thuộc

của giáo dân: đọc kinh, cầu nguyện, xưng tội, rửa tội, lần đàng thánh giá, chịu

phép Chúa, tiếng đọc kinh rền rĩ, miên man, linh hồn, chầu Chúa,… Những lời

cầu nguyện: Giê su ma, Lạy Chúa Tôi, Đức mẹ lòng lành, Chúa nhân từ, Chúa

thương xót chúng con… các bản kinh “Ăn năn tội”, “Lạy Nữ vương”, “Tôi ở

dưới vực sâu”, “Đức Mẹ hằng cứu giúp”…

143

Có khi là cả một câu, là cả một đoạn văn: “Bính xanh mắt lên trông gian

buồng âm u giữa buổi trưa mùa thu trong sáng, và ú ớ nói những tiếng nhỏ nhỏ

trong cổ họng như một người bị cơn mê bóp nghẹt - Giê su ma… con chết mất!

Lạy chúa con!Không! Không!...” (Bỉ vỏ); “Chúa vẻ mặt rầu rĩ… cây “thập

ác”, - Chúa thương xót chúng con, - Chúa cứu chữa chúng tôi, - Chúa nhận lời

chúng tôi…, những linh hồn quen chịu cực nhục…”; “Nhìn mẫu ảnh đức chúa

Jesu bị đóng đinh trên cây thập giá treo trên tường, họ thì thầm đọc kinh”…

“Lạy Nữ Vương”, “Tôi ở dưới vực sâu” [73, tr. 111], “Đức Mẹ hằng cứu

giúp”, “Tượng Chúa chịu nạn trên tường lờ mờ dưới một thứ ánh sáng lạnh

giòn của pha lê, hai cánh tay rỉ máu dang ra một vệt mực tím loãng dài. Mắt

Chúa lờ đờ dưới vầng trán bọc gai nhọn đẫm thêm bóng tối…” [73, tr. 112], “Jê

Su ma, Chúa thương xót chúng con, Đức Mẹ lòng lành”, “Lạy nữ vương mẹ rất

nhân lành vô cùng”, “Lạy chúa tôi hằng có ở khắp thế gian này” [73], [74]…

Hoặc miêu tả những âm thanh quen thuộc của xứ Đạo “Tiếng chuông nhà thờ”,

“những tiếng cầu kinh rền rĩ”, “ chấm nước Thánh”, “đọc kinh”, bõ nhà thờ’,

“tan lễ”, “tan chầu”… Hay cảnh tƣợng một đêm Noen: “Tiếng chuông bỗng

nổi dậy… Tây đầm đi vào trước, cả bầu đoàn vú bế, vú dắt, chị hai, chị khâu,

bé con cầm áo choàng và làn mây đựng đầy bánh kẹo, hoa quả ríu rít theo sau.

Tất cả nghênh ngang ở lối đi giữa nhà thờ rộng thênh thang với những hàng

ghế trên cùng lót nhung cả ở chỗ quỳ chân. Rồi đến các chức sắc, những quyền

quý trong bốn “họ” khệnh khạng, bệ vệ, hớn hở hàng trăm đồng nhi và con gái thơ

kinh cùng cất tiếng lên để đón tiếp sự thanh bình vinh hiển của những lớp người

sang trọng”… [73, tr. 220-221]. Những thứ ngôn ngữ mang đậm sắc thái tôn

giáo này đã thể hiện đƣợc nét rất riêng về phong cách nghệ thuật của Nguyên

Hồng. Điều đáng quý là với những từ ngữ này, nhà văn đã có sự đóng góp

không nhỏ vào sự phát triển của ngôn ngữ văn xuôi hiện đại. Nhờ lớp từ ngữ

này, Nguyên Hồng đã mở rộng phạm vi phản ánh hiện thực, mở rộng sự hiểu

biết về đời sống của những ngƣời theo đạo, giúp ngƣời đọc thấy đƣợc rõ hơn sự

thật cuộc sống của những ngƣời theo đạo Thiên Chúa lúc bấy giờ sau tấm màn

tôn giáo huyền bí.

Các nhân vật của Nguyên Hồng (đặc biệt là những ngƣời phụ nữ) trong

cảnh khốn cùng họ thƣờng cầu nguyện với một niềm tin tôn giáo “Chúa lòng

144

lành nhân từ”. Những ngƣời đàn bà bị đọa đày trong tù, khi Tết đến chỉ còn

biết cầu nguyện Chúa để vơi đi những tâm trạng tủi cực của kiếp sống đọa đầy,

“Để cầu kinh, họ có một thứ giọng riêng, càng kéo dài càng rên xiết” ,“Tất cả

hướng mặt về mẫu ảnh đức chúa Jesu bị đóng đinh trên cây thánh giá treo trên

tường. Họ thì thầm đọc kinh. Giọng đọc đều đều không phân biệt, âm thầm trong

bóng mờ mờ của nhà tù. Lòng tin tưởng của những con người sống trong tối tăm

kia không còn biết bấu víu vào đâu đầm đìa, chan chứa trong những bản kinh

“Lạy Nữ Vương”, “Tôi ở dưới vực sâu” “Đức Mẹ hằng cứu giúp” [73, tr. 211].

Nhân vật Hai mƣơi hai (Linh hồn) khi bị Cai Năm hãm hiếp, không thể chống trả,

nàng cũng đành nhắm mắt mà âm thầm cầu nguyện: - “Chúa thương xót chúng

tôi! - Chúa cứu chữa chúng tôi ! - Chúa nhận lời chúng tôi…! Nàng chỉ có thể

trong cậy vào quyền pháp của đấng cao siêu phù hộ nàng… Hai mươi hai vội hơi

hé mắt, chua xót lờ đờ nhìn xuống mẫu ảnh Đức Chúa Jesu treo ở ngực, trong

thâm tâm nàng như muốn thì thầm phân trần sự bị ức hiếp quá tàn bạo và sự trong

sạch của linh hồn mình” [73, tr. 92]. Bà của bé Hồng (Những ngày thơ ấu) trƣớc

cảnh gia đình sa sút chỉ còn biết ngày ngày ngồi trƣớc cây thánh giá “những đầu

ngón tay khô róc, lẩy bẩy lần chuỗi tràng hạt”, “khuôn mặt hốc hác nhăn nheo,

quầng mắt sâu thẳm” “lầm rầm cầu nguyện” - Chúa tha tội cho chúng tôi! Chúa

thương xót chúng tôi…! Chúa phá mọi sự dữ, ban mọi sự lành cho chúng tôi” , bà

nhìn chúa Jesu rầu rĩ mệt lả dang hai cánh tay rỉ máu trên cây thánh giá hồi lâu

rồi từ từ cúi xuống hôn mẫu ảnh nhỏ, tròn bằng bạc ở tràng hạt” [73, tr. 752]…

Nhƣ vậy, sử dụng những từ ngữ Cơ đốc giáo, Nguyên Hồng đã có thêm một

phƣơng tiện ngôn ngữ để phản ánh một sự thật nghiệt ngã: Chúa lòng lành, nhân

từ, Chúa cứu vớt chúng con cũng không thể nào cứu vớt đƣợc cuộc sống lầm than,

nô lệ của dân nghèo. Các con chiên của Chúa càng ngoan đạo thì lại càng khốn

khổ, càng bị bọn thống trị bóc lột cả về thể xác lẫn tinh thần. Kẻ cầu nguyện vì bế

tắc trƣớc cuộc đời nên tìm đến tình thƣơng bao la và sự an ủi ở nơi Chúa - nhƣng

thực tế là họ cầu nguyện để tìm thấy “sự cứu rỗi” ở chính mình. Nguyên Hồng

cũng gửi gắm những câu cầu nguyện đó của mình cho những con ngƣời khốn khổ,

bế tắc trƣớc cuộc đời qua những trang văn thấm đẫm tình thƣơng yêu sâu sắc! Sử

dụng nhiều từ ngữ mang sắc thái tôn giáo nhƣ thế, nhà văn đã giúp ngƣời đọc hiểu

145

sâu hơn về đời sống tinh thần của những ngƣời theo đạo Thiên chúa - đây cũng là

sự khác biệt trong lời văn của Nguyên Hồng so với lời văn của các tác giả cùng

khuynh hƣớng, cùng thời.

Tóm lại, để tạo dựng cho mình một Thế giới nghệ thuật riêng, ngoài việc xây

dựng thành công một thế giới nhân vật lao động nghèo khổ dƣới đáy xã hội,

Nguyên Hồng cũng đã rất thành công khi tạo dựng một không gian, thời gian và ngôn ngữ nghệ thuật mang đậm dấu ấn nhà văn đất Cảng. Đó là một thứ thời gian

gắn liền với những sự kiện, biến cố của cuộc đời nhân vật, thời gian của sự hồi

tƣởng đan xen giữa quá khứ, hiện tại và tƣơng lai của nhân vật. Một không gian xã

hội đen tối đầy tội lỗi, một không gian gia đình chứa đầy bi kịch buồn đau, tan tác,

và đâu đó còn là một không gian mang sắc thái tôn giáo trầm buồn, ảm đạm. Đồng

thời, để khắc họa thành công những nét tính cách và phẩm chất các nhân vật của

mình, Nguyên Hồng đã sử dụng hiệu quả thứ ngôn ngữ giàu chất liệu của cuộc

sống cần lao, thứ ngôn ngữ phù hợp với đặc tính và nghề nghiệp của từng loại

nhân vật. Nhà văn cũng hay sử dụng những biện pháp tu từ, những biệt ngữ, tiếng

lóng, những từ ngữ mang sắc thái tôn giáo để khắc họa rõ nét tâm lý, tính cách

nhân vật. Cũng qua các yếu tố thời gian, không gian và ngôn ngữ nghệ thuật trong

sáng tác của Nguyên Hồng giai đoạn trƣớc Cách mạng, ngƣời đọc đã thấy rõ đƣợc

quan niệm nghệ thuật, tƣ tƣởng nghệ thuật của nhà văn.

146

KẾT LUẬN

1. Là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc của Việt Nam giai đoạn

đầu thế kỉ XX đến năm 1945 và cũng là một trong những tác gia lớn của văn

chƣơng Việt Nam hiện đại, Nguyên Hồng đã khẳng định đƣợc vị trí của mình

trong đời sống văn học nƣớc nhà ngay từ những tác phẩm đầu tiên khi tuổi đời còn

rất trẻ. Với một tuổi thơ dữ dội, đầy đau đớn và bất hạnh; với một trái tim đặc biệt

nhạy cảm với nỗi đau của những ngƣời lao động nghèo khổ; với một vốn sống giàu

có, phong phú về đời sống của lớp ngƣời nghèo dƣới chế độ thực dân phong kiến -

và với một tấm lòng thấm đẫm yêu thƣơng và giàu lòng trắc ẩn - Nguyên Hồng đã

để lại cho chúng ta một sự nghiệp văn chƣơng đầy giá trị hiện thực và nhân đạo.

2. Một trong những yếu tố quan trọng tạo nên những giá trị lớn lao đó trong

các tác phẩm của Nguyên Hồng chính là Thế giới nghệ thuật đặc sắc của ông.

Trong thế giới nghệ thuật, các phƣơng diện: từ hệ thống nhân vật đến không gian,

thời gian nghệ thuật, ngôn ngữ nghệ thuật ... đều mang đậm cá tính sáng tạo và tƣ

tƣởng nghệ thuật của nhà văn.

Thế giới nhân vật của Nguyên Hồng thật phong phú và phức tạp, đó là cả

một thế giới những ngƣời lao động nghèo khổ, dƣới đáy xã hội thực dân phong

kiến. Nhà văn đã khắc họa một cách sinh động, cụ thể những cuộc đời, những số

phận bé nhỏ, bất hạnh bị đày đọa, bị bóc lột đến tận xƣơng, tận tủy, bị đẩy vào tận

cuối đƣờng hầm đen tối của cuộc sống, để rồi trở thành những kẻ cùng đƣờng liều

lĩnh, nổi loạn và tội lỗi. Cụ thể: đó là những nhân vật phụ nữ lao động nghèo khổ,

có số phận bất hạnh, bị dồn đẩy vào con đƣờng lƣu manh hóa; là những đứa trẻ

nghèo sống dƣới đáy xã hội “không có tuổi thơ”, bơ vơ, đói khát; là những ngƣời

trí thức tiểu tƣ sản nghèo, giàu hoài bão nhƣng bất lực và bế tắc trƣớc xã hội đen

tối đầy bất công, vô nhân đạo đƣơng thời. Nhƣng với một tấm lòng, một trái tim

yêu thƣơng vô hạn và một niềm tin vào bản chất lƣơng thiện của con ngƣời, nhất là

con ngƣời lao động chân chính - dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, dù khắc nghiệt

đến đâu, thì các nhân vật thuộc thế giới những ngƣời lao động nghèo khổ này vẫn

đƣợc tác giả chở che, bênh vực và phát hiện ra những ánh sáng le lói luôn hƣớng

147

tới cái thiện trong tâm hồn của họ. Đặc biệt, càng về giai đoạn sau (1939 -1945)

tác giả càng phát hiện, càng thêm trân trọng những phẩm chất đáng quý của tầng

lớp ngƣời lao động nghèo khổ này. Đó là lòng căm thù, là sức mạnh tiềm tàng, là

sự phản kháng, sự đấu tranh để giành lại quyền sống, quyền làm ngƣời của họ. Và

đây cũng chính là điểm mới, điểm tiến bộ trong nhận thức của Nguyên Hồng về

những ngƣời lao động nghèo khổ trong xã hội, cũng nhƣ trong cách xây dựng nhân

vật của ông so với nhiều nhà văn khác cùng thời.

3. Ở phƣơng diện Thời gian, không gian nghệ thuật trong sáng tác của

Nguyên Hồng giai đoạn trƣớc Cách mạng cũng mang đậm cá tính sáng tạo của nhà

văn. Đó là thời gian gắn liền với những sự kiện, những biến cố dữ dội của cuộc đời

nhân vật, gắn với những xung đột xã hội đầy biến động trƣớc năm 1945. Trong

nghệ thuật xây dựng nhân vật, Nguyên Hồng thƣờng hay sử dụng kiểu thời gian

hồi tƣởng, đan xen giữa quá khứ, hiện tại và tƣơng lai để miêu tả những sự kiện có

ảnh hƣởng sâu sắc đến số phận và cuộc đời các nhân vật. Thời gian đƣợc nhấn

mạnh là thời gian ban đêm với nhịp điệu chậm chạp, với sự vận động nặng nề chứa

chất bao hiểm họa đau đớn… gợi lên sự ám ảnh về những kiếp ngƣời khổ ải sống

trong đêm trƣờng nô lệ đen tối đầy rẫy những bất công, tội lỗi dƣới chế độ thực

dân phong kiến. Thời gian đôi khi cũng đƣợc đẩy lên, có nhịp độ nhanh, khẩn

trƣơng, chứa đầy kịch tính… trong một số thời điểm nhất định, gắn liền với những

sự kiện đáng nhớ của nhân vật, thời gian ấy có tác dụng khắc họa tính cách quyết

liệt của nhân vật cũng nhƣ khắc họa không khí khẩn trƣơng của sự kiện.

Không gian nghệ thuật trong sáng tác của nhà văn là không gian xã hội đen

tối, nhức nhối, chứa đựng đầy bất công và tội lỗi, bủa vây, dồn đẩy con ngƣời vào

tận cùng của đói khát, bệnh tật và vào con đƣờng tội lỗi; một không gian gia đình

buồn đau và tan tác chứa đầy bi kịch, mà ở trong đó con ngƣời luôn phải chịu đựng

mọi sự thiếu thốn, khổ sở vì mƣu sinh, luôn phải chịu hậu quả của những hủ tục

phong kiến nặng nề trói buộc; một không gian mang sắc thái tôn giáo trầm, buồn

và ảm đạm. Không gian mang sắc thái tôn giáo ấy càng khắc sâu thêm bi kịch

tuyệt vọng của con ngƣời mà cuộc sống của họ chỉ còn cách cầu nguyện Chúa - để

148

mong Chúa “phá được sự dữ, ban được sự lành” cho họ, cứu vớt họ - nhƣng

“Chúa lòng lành nhân từ” đâu có cứu đƣợc các con chiên ngoan đạo trong khi xã

hội ấy còn đầy những tội ác, bất công!

4. Nét đặc trƣng về Ngôn ngữ nghệ thuật của Nguyên Hồng cũng có sự

khác biệt so với các nhà văn khác. Nếu nhƣ ngôn ngữ của Nam Cao là thứ ngôn

ngữ lạnh lùng, sắc sảo đầy tính triết lý; ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan là thứ

ngôn ngữ hóm hỉnh, trào phúng sâu cay… thì ngôn ngữ của Nguyên Hồng lại

mang đậm cá tính sáng tạo của một cây bút chuyên viết về cuộc sống của những

con ngƣời lao động nghèo khổ dƣới đáy xã hội. Với một vốn sống phong phú và sự

am hiểu sâu sắc ngôn ngữ của những con ngƣời nghèo khổ, bất hạnh, Nguyên

Hồng đã đƣa vào tác phẩm của mình một thứ ngôn ngữ bình dân, đầy ắp chất liệu

của cuộc sống, mang hơi thở nóng hổi của cuộc sống cần lao. Với vốn từ vựng

phong phú, vốn ngôn ngữ bình dân giàu có của mình, nhà văn đã đan dệt thành

một bức tranh đa dạng, nhiều màu sắc về cuộc sống của những con người khốn khổ

trong xã hội thực dân phong kiến đƣơng thời.

Để xây dựng thành công các nhân vật trong sáng tác của mình, Nguyên

Hồng cũng đã chọn lựa sử dụng những lớp từ ngữ phù hợp với đặc tính và nghề

nghiệp của từng loại nhân vật. Đặc biệt nhà văn cũng hay sử dụng những biện

pháp tu từ (phép liệt kê, từ láy…), những từ ngữ mang sắc thái tôn giáo … để

khắc họa tâm lý, tính cách nhân vật. Nhà văn cũng rất thành công khi đƣa

những biệt ngữ, những tiếng lóng… phù hợp với những loại nhân vật lƣu manh,

trộm cƣớp dƣới đáy. Qua lớp từ ngữ này, ngƣời đọc thấy rõ hơn đời sống khốn

khổ cùng với những tính cách phức tạp của những kẻ cùng đƣờng phải sống

ngoài vòng pháp luật - đây cũng là nét riêng về ngôn ngữ của Nguyên Hồng so

với những nhà văn khác cùng thời. Trong sáng tác của mình, nhà văn cũng hay

sử dụng những câu văn dài, bộn bề chi tiết, ngồn ngộn chất liệu cuộc sống, thể

hiện một niềm tâm tƣ không dứt và một vốn sống phong phú cứ ào ạt, dạt dào

tuôn chảy nhƣ dòng thác trên từng trang viết về những con ngƣời cùng khổ

trong xã hội đƣơng thời của ông... Đồng thời, điều đó cũng giúp ngƣời đọc thấy

149

rõ đƣợc quan niệm nghệ thuật, tƣ tƣởng nghệ thuật của nhà văn, thấy đƣợc sự

phong phú, đa dạng trong Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng.

5. Thông qua việc nghiên cứu về Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng, ta

càng thấy rõ hơn hiện thực cuộc sống đầy đen tối, bế tắc chứa đựng bao bất công

và tội lỗi của xã hội thực dân phong kiến xƣa - qua những số phận đớn đau, bất

hạnh của những con ngƣời lao động nghèo khổ - đây chính là ý nghĩa tố cáo, xã

hội, phủ nhận xã hội rất cụ thể, sâu sắc của nhà văn Nguyên Hồng. Cũng trong quá

trình tìm hiểu về Thế giới nghệ thuật của ông, chúng ta càng thấu hiểu tấm lòng

nhân đạo cao cả của Nguyên Hồng đã dành cho những con ngƣời lao động nghèo

khổ trong xã hội cũ. Nhân vật của nhà văn dù ở loại ngƣời nào, là loại đối tƣợng

nào, thì trong những hoàn cảnh bi đát nhất, khốn cùng nhất, Nguyên Hồng vẫn

luôn phát hiện, trân trọng và nâng niu từng chút ánh sáng le lói trong tâm hồn họ.

Tác giả đã bày tỏ sự thƣơng yêu, chia sẻ, cảm thông và tin tƣởng vào bản chất tốt

đẹp của ngƣời lao động; tin tƣởng vào sức mạnh phản kháng tiềm tàng của họ đối

với xã hội đƣơng thời (từ tự phát đến tự giác) - Đây chính là quan điểm rất tiến bộ

của Nguyên Hồng so với những nhà văn khác, bởi tƣ tƣởng nhân đạo của ông rất

gần với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Vì lẽ đó, tác phẩm của Nguyên Hồng giai

đoạn trƣớc năm 1945 luôn thể hiện khát vọng đổi mới xã hội, khát vọng khám phá

về con ngƣời và cuộc đời, nhằm khẳng định những giá trị bền vững, đích thực của

con ngƣời, của cuộc sống. Cùng với các nhà văn hiện thực khác, Nguyên Hồng đã

đóng góp vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện quá trình hiện đại hóa văn học

Việt Nam thế kỷ XX ở thể loại văn xuôi.

6. Với những đặc điểm trên trong Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng,

một lần nữa chúng ta có thể khẳng định rằng: Những sáng tác của Nguyên Hồng

(kể cả trƣớc và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945) luôn mang nhiều giá trị về

nội dung và nghệ thuật, nhiều giá trị nhân văn sâu sắc. Cho tới ngày nay, sau gần

70 năm vận động và phát triển trên con đƣờng hiện đại hóa, văn học Việt Nam đã

trải qua bao bƣớc thăng trầm và cũng đã gặt hái đƣợc nhiều thành tựu đáng ghi

nhận và tự hào. Trên con đƣờng ấy, những tác phẩm văn học có giá trị đích thực

150

vẫn luôn tồn tại, vẫn luôn đƣợc ghi nhận và trân trọng - bên cạnh nhiều tác phẩm

đã bị lãng quên. Những sáng tác của Nguyên Hồng trƣớc Cách mạng tháng Tám

thuộc về những tác phẩm văn học mang nhiều giá trị ấy. Trong đời sống văn học

hôm nay, những tác phẩm văn học của ông vẫn đƣợc nhiều ngƣời ƣa thích và tìm

hiểu, bởi một trong những giá trị có tính bền vững nhất luôn thấm đẫm trong từng

trang viết của nhà văn vẫn luôn cho ngƣời đọc hôm nay buốt nhói và xúc động -

đó là tình yêu thƣơng và trân trọng con ngƣời, là sự cảm thông và chia sẻ mọi nỗi

niềm đớn đau và bất hạnh của con ngƣời. Xét cho cùng, đó chính là giá trị giáo dục

và bồi dƣỡng nhân cách, tình cảm cho con ngƣời, giá trị nhân văn, giá trị nhân đạo

- những giá trị không bao giờ cũ đối với văn chƣơng. Văn Nguyên Hồng không

cũ, có lẽ bởi nhƣ thế!

151

DANH MỤC BÀI BÁO, CÔNG TRÌNH

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

I. Sách xuất bản

1. Đào Thị Lý (2009), “Đặc điểm nhân vật phụ nữ trong sáng tác của

Nguyên Hồng (thời kỳ trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945)”, tr. 63 - 112; In

trong cuốn: Hình tượng nhân vật phụ nữ trong văn xuôi Việt Nam hiện đại, PGS.

TS. Trần Thị Việt Trung (Chủ biên), NXB Đại học Thái Nguyên.

II. Đề tài Nghiên cứu khoa học cấp Bộ

1. Đào Thị Lý (2011), Nghiên cứu đặc điểm thế giới nghệ thuật trong sáng

tác của Nguyên Hồng (giai đoạn trước năm 1945); Mã số: B2010 - TN 03 - 02;

Đã đƣợc nghiệm thu, đạt loại: Khá.

III. Bài báo

1. Đào Thị Lý (2010), " Đặc điểm nhân vật trẻ em trong sáng tác của Nguyên

Hồng trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945", Tạp chí Khoa học và Công nghệ

Đại học Thái Nguyên, tập 65, số 3 năm 2010, tr. 61- 66.

2. Đào Thị Lý (2011), "Một số đặc điểm về nghệ thuật xây dựng nhân vật

phụ nữ trong sáng tác của Nguyên Hồng", Tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam,

tháng 12 năm 2011, tr. 17- 21.

3. Đào Thị Lý (2013), "Nghệ thuật tạo dựng hoàn cảnh trong sáng tác của

Nguyên Hồng trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945", Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ

Việt Nam, số 277, tháng 12, năm 2013, tr. 30 - 34; Tạp chí Văn hiến Việt Nam, Dân tộc

- Hội nhập - Nhân văn (Báo điện tử) ngày 07 tháng 2 năm 2014.

Hồng thời kỳ trƣớc năm 1945”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Thái

4. Đào Thị Lý (2014), “Không gian nghệ thuật trong sáng tác của Nguyên

Nguyên, tập 129, số 15, năm 2014, tr. 51-58.

152

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hoài Anh (2001), “Nhà văn của tình thƣơng”, Chân dung Văn học, NXB

Hội Nhà văn, Hà Nội.

2. Vũ Tuấn Anh (2001), Văn học Việt Nam hiện đại - nhận thức và thẩm định,

NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

3. Vũ Tuấn Anh, Lê Dục Tú (tuyển chọn và giới thiệu) (2006), Thạch Lam về

tác gia tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội.

4. Lại Nguyên Ân (2003), 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

5. Baktin M. (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Trƣờng viết văn Nguyễn

Du, Hà Nội.

6. Bakhtin M. (1993), Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki, NXB Giáo dục,

Hà Nội.

7. Lê Bảo, Hà Minh Đức, Đỗ Kim Hồi (2002), Giảng văn Văn học Việt Nam,

NXB Giáo dục, Hà Nội.

8. Nam Cao (2002), Tuyển tập, (Hà Minh Đức tuyển soạn, giới thiệu), NXB Văn

học, Hà Nội.

9. Xuân Cang (1997), “Nguyên Hồng trong lớp ngƣời viết trẻ”, Nguyên Hồng

thân thế và sự nghiệp, NXB Hải Phòng.

10. Huy Cận (2001), “Một kỷ niệm về Nguyên Hồng”, Nguyên Hồng, về tác gia

và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr. 245 - 247.

11. Phạm Vĩnh Cƣ (Chủ biên), Nguyễn Xuân Giao, Lƣu Huy Khánh, Nguyên

Ngọc, Vũ Đình Phòng, Nguyễn Văn Vỹ (2002), Từ điển biểu tượng văn hóa

thế giới (dịch), NXB Đà Nẵng.

12. Nguyễn Minh Châu (1994), Trang giấy trước đèn, NXB Khoa học xã hội,

Hà Nội.

13. Nguyễn Minh Châu (2001), “Vô cùng thƣơng tiếc nhà văn Nguyên Hồng”,

Nguyên Hồng về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr. 377 - 383.

153

14. Ân Thị Vân Chi (1998), “ Độc thoại nội tâm trong tiểu thuyết Cửa biển của

Nguyên Hồng”, Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Trƣờng Đại học Sƣ

phạm, Hà Nội.

15. Phạm Bá Chi (1982), Điếu văn - Đọc trong lễ tƣởng niệm nhà văn Nguyên

Hồng ngày 05/5/1982 tại Hội Văn học Nghệ thuật Hải Phòng.

16. Trƣờng Chinh (1974), Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam, NXB Sự thật,

Hà Nội.

17. Trƣơng Chính (1939), Dưới mắt tôi, NXB Thụy Ký, Hà Nội.

18. Nguyễn Văn Dân (1999), Nghiên cứu văn học - Lý luận và ứng dụng, NXB

Giáo dục, Hà Nội.

19. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, NXB

Khoa học xã hội, Hà Nội.

20. Đào Đức Doãn (1992), “Cảm quan tôn giáo trong sáng tác của Nguyên

Hồng”, Nguyên Hồng, cát bụi và ánh sáng, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.

21. Đỗ Đức Dục (1981), Chủ nghĩa hiện thực phê phán trong văn học phương

Tây, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

22. Trƣơng Đăng Dung, Nguyễn Cƣơng (1990), Các vấn đề của khoa học văn

học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

23. Nguyễn Hồng Dƣơng, Ngô Quốc Đông (2012), Công giáo Việt Nam, trí

thức cơ bản, NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

24. Nguyễn Đức Đàn (1964), Đặc điểm văn học hiện thực phê phán Việt Nam,

NXB Khoa học và Xã hội, Hà Nội.

25. Nguyễn Đức Đàn (1968), Mấy vấn đề văn học hiện thực phê phán Việt

Nam, NXB Khoa học và Xã hội, Hà Nội.

26. Phan Cự Đệ (1974), “Những đặc trƣng thẩm mỹ của ngôn ngữ tiểu thuyết”,

Tạp chí Ngôn ngữ, số 1, 1974.

27. Phan Cự Đệ (1975), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, tập 2, NXB Đại học và

trung học chuyên nghiệp.

154

28. Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức (1979), Nhà văn Việt Nam, tập 1, NXB Đại học

và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

29. Phan Cự Đệ (1984), Tác phẩm và chân dung, NXB Văn học, Hà Nội.

30. Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Nguyễn Hoành Khung (1988), Lịch sử Văn học

Việt Nam 1930 - 1945, tập 1, NXB Đại học và trung học chuyên nghiệp.

31. Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức (1993), Nhà văn Việt Nam (1945 - 1975), tập 2,

NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp.

32. Phan Cự Đệ (1997), Văn học lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945, tập 1, NXB

Giáo dục, Hà Nội.

33. Phan Cự Đệ (2001) “Nguyên Hồng”, Nguyên Hồng, về tác gia và tác phẩm,

NXB Giáo dục, Hà Nội, tr. 103 - 146.

34. Phan Cự Đệ (2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXB Giáo dục, Hà Nội.

35. Phan Cự Đệ (2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XX - những vấn đề lịch sử và

lý luận, NXB Giáo dục, Hà Nội.

36. Phan Cự Đệ, Trần Đình Hƣợu, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành Khung, Lê Trí

Dũng, Hà Văn Đức (2009), Văn học Việt Nam 1900 - 1945, NXB Giáo dục,

Hà Nội.

37. Nguyễn Khoa Điềm (1988), “Kính tặng nhà văn Nguyên Hồng”, Nguyên

Hồng con người và sự nghiệp, NXB Hải Phòng.

38. Nguyễn Đăng Điệp (2001), “Đặc sắc hồi ký Nguyên Hồng”, Nguyên Hồng

về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr. 230 - 235

39. Nguyễn Đăng Điệp (2003), Vọng từ con chữ (tiểu luận, phê bình), NXB Văn

học, Hà Nội.

40. Nguyễn Đăng Điệp, Nguyễn Văn Tùng (2010), Thi pháp học ở Việt Nam,

NXB Giáo dục, Hà Nội.

41. Hà Minh Đức (1961), Nam Cao - nhà văn hiện thực xuất sắc, NXB Văn

hóa, Hà Nội.

155

42. Hà Minh Đức, Lê Bá Hán (1985), Cơ sở lý luận văn học, tập 2, NXB Đại

học và trung học chuyên nghiệp.

43. Hà Minh Đức (1989), Khảo luận văn chương (thể loại tác giả), NXB Khoa

học và Xã hội.

44. Hà Minh Đức (chủ biên) (1997), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

45. Hà Minh Đức (chủ biên) (1999), Lý luận văn học, NXB Văn học, Hà Nội

46. Hà Minh Đức (2001), "Nguyên Hồng - nhà văn của những khát vọng sống",

Nguyên Hồng về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục Hà Nội, tr. 13 - 29.

47. Hà Minh Đức (2013), "Nguyên Hồng (1918 -1982) những trang sách thấm

mồ hôi và đất”, Tạp chí Lý luận phê bình văn học nghệ thuật, số 15, tháng

11/2013, tr. 51 - 59.

48. G.N.Pospelov (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học, tập 1, NXB Giáo dục,

Hà Nội.

49. G.N.Pospelov (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học, tập 2, NXB Giáo dục,

Hà Nội.

50. G. W. Ph. Hê Ghen (1999), Mĩ học (Phan Ngọc giới thiệu và dịch), NXB Văn

học, Hà Nội.

51. Dƣơng Quảng Hàm (1993), Việt Nam Văn học sử yếu (tái bản), NXB Tổng hợp

Đồng Tháp.

52. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2000), Từ điển thuật ngữ Văn

học, NXB Đại học quốc gia, Hà Nội.

53. Tế Hanh (2001), “Làm báo văn nghệ với Nguyên Hồng”, Nguyên Hồng về

tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr. 282 - 283.

54. Nguyễn Thừa Hỷ (2012), Văn hóa Việt Nam truyền thống - một góc nhìn ,

NXB Thông tin và truyền thông.

55. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Nhƣ Phƣơng (1995), Lý luận văn học, vấn đề và

suy nghĩ, NXB Giáo dục, Hà Nội.

156

56. Nguyễn Đức Hạnh (2011), Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của Chu

Lai, NXB Đại học Thái Nguyên.

57. Tô Hoài (1958), Mười năm, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.

58. Tô Hoài (1988), Những gương mặt, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội.

59. Tô Hoài (2001), “Nguyên Hồng trong đời sống”, Nguyên Hồng về tác gia

và tác phẩm, NXB Giáo dục Hà Nội, tr. 248 - 269.

60. Nguyễn Thị Thu Hoài (2006), Bước đầu tìm hiểu lý tưởng thẩm mỹ trong

tiểu thuyết của Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao,

Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Trƣờng Đại học Sƣ phạm, Hà Nội.

61. Nguyễn Trọng Hoàn (2003), Nhà văn trong mắt nhà văn, NXB Giáo dục, Hà Nội.

62. Nguyên Hồng (1963), Sức sống của một ngòi bút, NXB Văn học, Hà Nội.

63. Nguyên Hồng (1970), Bước đường viết văn, NXB Văn học, Hà Nội.

64. Nguyên Hồng (1973), Thời kỳ đen tối, NXB Văn học, Hà Nội.

65. Nguyên Hồng (1978), Những nhân vật ấy đã sống với tôi, NXB Tác phẩm

mới, Hà Nội.

66. Nguyên Hồng (1981), Thù nhà nợ nước, Hội Văn học nghệ thuật Hà Bắc.

67. Nguyên Hồng (1985), Một tuổi thơ văn, NXB Kim Đồng.

68. Nguyên Hồng (1988), Bẩy Hựu (tái bản), Hội văn học nghệ thuật Hà Bắc.

69. Nguyên Hồng (2000), Tuyển tập (Phan Cự Đệ tuyển soạn và giới thiệu),

tập1, NXB Văn học, Hà Nội.

70. Nguyên Hồng (2000), Tuyển tập (Phan Cự Đệ tuyển soạn và giới thiệu), tập

2, NXB Văn học, Hà Nội.

71. Nguyên Hồng (2000), Tuyển tập (Phan Cự Đệ tuyển soạn và giới thiệu),

tập3, NXB Văn học, Hà Nội.

72. Nguyên Hồng (2001), Nguyên Hồng những tác phẩm tiêu biểu trước 1945,

(Bạch Văn Hợp tuyển chọn và giới thiệu), NXB Giáo dục, Hà Nội.

157

73. Nguyên Hồng (2008), Nguyên Hồng toàn tập, (Phan Cự Đệ tuyển soạn và

giới thiệu), tập1, NXB Văn học, Hà Nội.

74. Nguyên Hồng (2008), Nguyên Hồng toàn tập, (Phan Cự Đệ tuyển soạn và

giới thiệu), tập 2, NXB Văn học, Hà Nội.

75. Nguyên Hồng (2008), Nguyên Hồng toàn tập, (Phan Cự Đệ tuyển soạn và

giới thiệu), tập 3, NXB Văn học, Hà Nội.

76. Nguyên Hồng (2008), Nguyên Hồng toàn tập, (Phan Cự Đệ tuyển soạn và

giới thiệu), tập 4, NXB Văn học, Hà Nội.

77. Bạch Văn Hợp (2002), Đặc điểm phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng,

Luận án tiến sĩ Ngữ văn, trƣờng Đại học Sƣ phạm Thành phố Hồ Chí Minh.

78. Bạch Văn Hợp (2011), “Văn xuôi nghệ thuật của Nguyên Hồng và cội

nguồn của lòng thƣơng cảm”, Tạp chí Khoa học, Trƣờng Đại học Sƣ phạm

thành phố Hồ Chí Minh, số 29, tr. 1 - 10 .

79. Phạm Mạnh Hùng (2001), Thi pháp hoàn cảnh trong tác phẩm của Ngô Tất

Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, NXB Thanh niên, Hà Nội.

80. Trần Đình Hƣợu (1990), “Thực tại, cái thực và vấn đề chủ nghĩa hiện thực

trong văn học Việt Nam trung cận đại”, Văn học và hiện thực, NXB Khoa

học xã hội, Hà Nội.

81. Kang HaNa (2000), “Sự gặp gỡ giữa nhà văn Hàn Quốc Hyun jin Geon

và nhà văn Việt Nam Nguyên Hồng”, Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt

Nam số 7& 8 năm 2000.

82. Nguyễn Thanh Kim (2000), Người sinh ra Năm Sài Gòn, NXB Thanh niên,

Hà Nội.

83. Lê Đình Kỵ (1999), Phê bình, nghiên cứu văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

84. Phan Khôi (1932), “Cái ý nghĩa của vấn đề phụ nữ ở xứ ta”, Tạp chí Phụ nữ

thời đàm, Hà Nội, ngày 17 tháng 9 năm 1993, tr. 6 - 8.

85. Phạm Hồng Lan (2009), Không gian và thời gian nghệ thuật trong tiểu

thuyết hiện thực phê phán 1930 -1945, Luận án tiến sĩ Đại học Sƣ phạm,

Hà Nội.

158

86. Kim Lân (1992), “Một nhà văn”, Nguyên Hồng cát bụi và ánh sáng, NXB

Hội nhà văn, Hà Nội.

87. Kim Lân (2001), “Nguyên Hồng, một nhà văn”, Nguyên Hồng về tác gia tác

phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr. 64 - 74.

88. Mã Giang Lân (chủ biên) (2000), Quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam

1990 - 1945, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.

89. Phong Lê (chủ biên) (1990), Văn học và hiện thực, NXB Khoa học xã hội,

Hà Nội.

90. Phong Lê (1997), Nam Cao - Phác thảo sự nghiệp và chân dung, NXB

Khoa học xã hội, Hà Nội.

91. Phong Lê (2001), Một số gương mặt văn chương học thuật Việt Nam hiện

đại, NXB Giáo dục, Hà Nội.

92. Lê Lựu (2001), “Với nhà văn Nguyên Hồng”, Nguyên Hồng về tác gia và

tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr. 367 - 371.

93. Phƣơng Lựu, Trần Đình Sử, Lê Ngọc Trà (1986), Lí luận văn học, tập 1, NXB

94.

Phƣơng Lựu (chủ biên) (2001), Lý luận văn học tập 3, NXB Giáo dục, Hà Nội.

Giáo dục, Hà Nội.

95. Phƣơng Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, La Khắc Hòa,

Thành Thế Thái Bình (2003), Lí luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

96. M.B.Krapchencô (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn

học, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội.

97. Nguyễn Đăng Mạnh (1978), “Nguyên Hồng”, Giáo trình lịch sử văn học

Việt Nam 1930 - 1945, phần 2, NXB Giáo dục, Hà Nội.

98. Nguyễn Đăng Mạnh (1993), Dẫn luận nghiên cứu tác gia văn học, trƣờng

Đại học Sƣ phạm, Hà Nội.

99. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà

văn, NXB Giáo dục Hà Nội.

159

100. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam 1930 - 1945,

NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.

101. Lê Hồng My (2006), Lời văn nghệ thuật Nguyên Hồng, NXB Giáo dục,

Hà Nội.

102. Vũ Tú Nam (1997), “Trong tình cảm tiếc thƣơng ấm áp”, Nguyên Hồng,

thân thế và sự nghiệp, NXB Hải Phòng.

103. NI. Nikulin (2007), Lịch sử văn học Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội.

104. Phạm Thế Ngũ (1997), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, NXB Tổng

hợp Đồng Tháp.

105. Chu Nga (2001),“Nguyên Hồng và quá trình sáng tác của anh”, Nguyên Hồng về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr.147 - 158.

106. Nguyễn Thị Phi Nga (2003), Cảm hứng nghệ thuật và Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Cửa biển của Nguyên Hồng, Luận văn thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội.

107. Phan Ngọc (1995), Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ học, NXB Trẻ,

thành phố Hồ Chí Minh.

108. Lã Nguyên (2012), Lý luận văn học - những vấn đề hiện đại (tuyển dịch),

NXB Đại học Sƣ phạm, Hà Nội.

109. Vƣơng Trí Nhàn (2001), “Một cuộc đời sáng tạo trong đau khổ”, Nguyên

Hồng về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr. 213-220.

110. Ý Nhi (1988), “Nhà văn Nguyên Hồng”, Nguyên Hồng con người và sự

nghiệp, NXB Hải Phòng.

111. Nhiều tác giả (1981), Tổng tập văn học Việt Nam, tập 30A, (Nguyễn Đăng

Mạnh tuyển chọn và giới thiệu), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

112. Nhiều tác giả (1982), Tổng tập văn học Việt Nam tập 30B, (Nguyễn Đăng Mạnh, Hoàng Dung, Trần Hữu Tá tuyển chọn và giới thiệu), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

113. Nhiều tác giả (1984), Từ điển văn học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

114. Nhiều tác giả (1996), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ văn học NXB

Giáo dục, Hà Nội.

160

115. Nhiều tác giả (2000), Nguyễn Công Hoan, về tác gia và tác phẩm, NXB

Giáo dục, Hà Nội.

116. Nhiều tác giả (2001), Nguyên Hồng, về tác gia và tác phẩm, (Hà Minh Đức

giới thiệu, Hữu Nhuận tuyển chọn), NXB Giáo dục, Hà Nội.

117. Nhiều tác giả (2007) Vũ Trọng Phụng, về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo

dục, Hà Nội.

118. Nhiều tác giả (2009), Truyện ngắn hiện thực 1930 - 1945, NXB Văn

học, Hà Nội.

119. Nhiều tác giả (2013), “Nhà văn Nguyên Hồng, cuộc đời và sự nghiệp văn

chƣơng”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Hội Văn học nghệ thuật Hải Phòng.

120. Vũ Ngọc Phan (1951), “Nguyên Hồng”, Nhà văn hiện đại, quyển 4, tập hạ,

NXB Vĩnh Thịnh.

121. Vũ Ngọc Phan (1998), Nhà văn hiện đại (tái bản), NXB Văn học.

122. Nhƣ Phong (2001), “Sóng gầm, một tác phẩm nói về con ngƣời trong xã hội

cũ”, Nguyên Hồng về tác gia, tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr. 159 - 184.

123. Thế Phong (1974), “Lƣợc sử văn nghệ Việt Nam”, Nhà văn tiền chiến 1930

-1945 (Nhận định văn học), Xuất bản Sài Gòn.

124. Trần Thanh Phƣơng, Phan Thu Hƣơng (2008), Chân dung, bút tích nhà văn,

tập 1, NXB Giáo dục, Hà Nội.

125. Vũ Đức Phúc, Nguyễn Đức Đàn (1964), Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam

1930 -1945, NXB Văn học, Hà Nội.

126. Vũ Trọng Phụng (1998), “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố”, Tuyển tập Vũ Trọng

Phụng, tập 2, NXB Văn học, Hà Nội.

127. Trọng Quy (1938), “Bỉ vỏ và gia đình”, báo Ngày nay, số 126/9, tr.8.

128. Lê Hồng Sâm, Đặng Thị Hạnh (1981), Văn học lãng mạn và hiện thực phương

Tây thế kỷ XIX, NXB Đại học và trung học chuyên nghiệp.

129. Thế Sinh (1988), “Với Nguyên Hồng”, Nguyên Hồng con người và sự nghiệp,

NXB Hải Phòng.

161

130. Chu Văn Sơn (1988), “Thơ của một nhà tiểu thuyết”, Nguyên Hồng, con

người và sự nghiệp, NXB Hải Phòng.

131. Trần Đăng Suyền (2002), Nhà văn, hiện thực đời sống và cá tính sáng tạo,

NXB Văn học, Hà Nội.

132. Trần Đăng Suyền (2009), Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao, NXB Khoa học xã

hội, Hà Nội.

133. Trần Đăng Suyền (chủ biên), Lê Quang Hƣng (đồng chủ biên), Trịnh Thu Tiết, Trần Văn Toàn (2009), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, tập 1, NXB Đại học Sƣ phạm, Hà Nội.

134. Trần Đăng Suyền (Chủ biên), Lê Quang Hƣng, Lê Hồng My (2009), Văn

học Việt Nam thế kỷ XX, tập 2, NXB Đại học Sƣ phạm, Hà Nội.

135. Trần Đăng Suyền (2010), Chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam đầu

thế kỷ XX, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

136. Trần Đăng Suyền (2012), Phương pháp nghiên cứu và phân tích tác phẩm

văn học, NXB Giáo dục Việt Nam.

137. Trần Đăng Suyền (2013), “Sáng tác của Nguyên Hồng - sự gặp gỡ và giao thoa của những khuynh hƣớng, trào lƣu văn học”, Tạp chí Lý luận phê bình văn học nghệ thuật, số 15, tháng 11/2013, tr. 55 - 59.

138. Trần Đình Sử (1986), Lý luận văn học, tập 2, NXB Giáo dục, Hà Nội.

139. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Bộ Giáo dục và

Đào tạo.

140. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

141. Trần Đình Sử (2007), Tự sự học, NXB Đại học Sƣ phạm Hà Nội.

142. Bùi Ngọc Tấn (1995), Một thời để mất, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.

143. Dƣơng Thị Tân (1994), Phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng trong tiểu thuyết Cửa biển, Luận văn thạc sĩ ngữ văn, Trƣờng Đại học Sƣ phạm, Hà Nội.

144. Nguyễn Duy Tờ (2006), Sự vận động của dòng Văn học hiện thực Việt Nam

1930 - 1945, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Viện Văn học, Hà Nội.

162

145. Cù Đình Tú (1983), Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, NXB Đại

học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

146. Nguyễn Tuân (2001), “Con ngƣời Nguyên Hồng”, Nguyên Hồng về tác gia

và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr. 49 - 52.

147. Bùi Văn Tiếng (1997), Thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Vũ Trọng

Phụng, NXB Văn hóa, Hà Nội.

148. Đoàn Minh Tuấn (2008), “Nhà văn của những ngƣời nghèo”, Báo Sài Gòn

Giải phóng, nguồn http:// www.sggp. org.vn/van hoavannghe/2008/11/1.

149. Từ điển tiếng Việt (1992), Viện Ngôn ngữ học, NXB Văn học, Hà Nội.

150. Đoàn Thị Thái (2001), Tư tưởng và đặc sắc nghệ thuật trong tiểu thuyết Bỉ vỏ

của Nguyên Hồng, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Đại học Sƣ phạm, Hà Nội.

151. Ngô Thảo (1988), “Nguyên Hồng, một cuộc đời sáng tạo”, Nguyên Hồng,

thân thế và sự nghiệp, NXB Hải Phòng.

152. Bùi Việt Thắng, Nguyên Hồng - một đời văn, nguồn http/www.bình

thuan.gov.vn/khtt/vanhoa/0001/0000/dnhan00A.htm.

153. Linh Thi (2001), “Giọt lệ lớn và đoàn tàu chợ”, Nguyên Hồng về tác gia và

tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr. 236 - 244.

154. Nguyễn Ngọc Thiện (2010), Lý luận, phê bình và đời sống văn chương,

NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.

155. Nguyễn Ngọc Thiện (2014), “Phác họa con ngƣời thời đại và nhân vật trong văn xuôi Việt nam hiện đại”, Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam số 237, tháng 10/2014, tr. 21 - 27.

156. Lƣơng Đức Thiệp (1944), Văn chương và xã hội, Đại học Thƣ xã, Hà Nội.

157. Nguyễn Thị Thu Thủy (2006), Điển hình hóa trong văn xuôi hiện thực phê phán Việt Nam (giai đoạn 1930 -1945), Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.

158. Trần Nho Thìn (2014), “Tƣ tƣởng nữ học của Đạm Phƣơng nữ sĩ”, Báo điện

tử Văn hóa Nghệ An, ngày 26/10/2014.

159. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận và văn học, NXB Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.

163

160. Nguyễn Trác (1978), “Văn học hiện thực phê phán”, Lịch sử văn học Việt Nam,

NXB Giáo dục, Hà Nội.

161. Ngọc Trai (1988), “Tản mạn về Nguyên Hồng”, Nguyên Hồng, thân thế và

sự nghiệp, NXB Hải Phòng.

162. Trần Thị Việt Trung (chủ biên), Nguyễn Thị Thoa, Đào Thị Lý, Lê Thị Bằng Giang (2009), Hình tượng nhân vật phụ nữ trong văn xuôi Việt Nam hiện đại, NXB Đại học Thái Nguyên.

163. Trần Thị Việt Trung (2011), Lịch sử phê bình văn học Việt Nam hiện

đại (tái bản), NXB Đại học Thái Nguyên.

164. Trần Thị Việt Trung (2014), “Bản sắc dân tộc - yếu tố quan trọng tạo nên giá trị và nét đặc sắc độc đáo của văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại”, Tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam, số 237, tháng 10/2014, tr. 16 - 20.

165. Lê Thị Hải Vân (2004), “Những kiếp ngƣời lầm than trong tiểu thuyết thực 1940 -1945”, (Thông báo Khoa học, Đại học Quy Nhơn, số 26, 2004).

166. Lê Thị Hải Vân (2005), Nhân vật trong tiểu thuyết hiện thực từ đầu thế kỷ XX -

1945, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trƣờng Đại học Sƣ phạm, Hà Nội.

167. Lê Thị Hải Vân (2005), “Vấn đề nhân vật trong tiểu thuyết hiện thực 1940 -

1945”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 2/ 2005.

168. Viện Văn học (1988), Từ trong di sản, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội.

169. Anh Vũ (2001), “Nguyên Hồng với Đề Thám”, Nguyên Hồng về tác gia và

tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr. 436 - 350.

170. Khái Vinh (1974), “Nguyên Hồng - nhà văn của những ngƣời lao động”, Vì một nền văn học thuộc về nhân dân lao động, NXB Lao động, Hà Nội.

171. Trần Thị Thanh Yến (2011),“Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Nguyên Hồng trước Cách mạng tháng Tám năm 1945”, Luận văn thạc sĩ, Trƣờng Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn.

164

PHỤ LỤC

Phụ lục 1. THỐNG KÊ CÁC LOẠI NHÂN VẬT

Nhân vật

Nhân vật phụ

Nhân vật trí

Nhân vật lƣu

Thể loại

thức

manh

nữ

trẻ em

18

12

5

Truyện ngắn (53)

33

1

Truyện vừa (3)

2

1

2

1

Tiểu thuyết (4)

2

1

1

Ký (1)

1

Tổng số tác

38 = 62,29%

20 = 32,78%

15 =24,59%

7= 11,47%

phẩm (61)

(Ghi chú: Có những tác phẩm đan xen nhiều loại nhân vật)

Phụ lục 2. THỐNG KÊ

VIỆC SỬ DỤNG TIẾNG LÓNG TRONG TÁC PHẨM

Tác phẩm

Số lƣợt sử dụng/ số trang

Tỷ lệ

272/174

156, 32%

Bỉ vỏ

47/12

391,66%

Bảy Hựu

30/8

375,0%

Con đoàn cuối cùng

18/12

150,0%

Mối hờn

165

Phụ lục 3. NGÔN NGỮ MANG SẮC THÁI TÔN GIÁO

Tác phẩm

Số lƣợt sử dụng/ số trang

Tỷ lệ

49/174

Bỉ vỏ

35,5%

29/50

Những ngày thơ ấu

58,0%

15/14

Tết của tù đàn bà

107, 14%

8/7

Linh hồn

114,28%

Phụ lục 4. THỐNG KÊ CÁC CẶP TỪ LÁY

Tác phẩm

Số lƣợt sử dụng/ số trang

Tỷ lệ

Bỉ vỏ

258/50

516 %

Qua những màn tối

66/66

100%

Những ngày thơ ấu

204/50

408%

Đi

60/10

600%