BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
HÁN THỊ THU HIỀN
THƠ TỐNG BIỆT TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
THẾ KỶ XVIII - XIX
Chuyên ngành
: Văn học Việt Nam
Mã số
: 9.22.01.21
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS. TS. LÃ NHÂM THÌN
HÀ NỘI - 2020
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dƣới sự hƣớng dẫn
khoa học của GS.TS. Lã Nhâm Thìn. Các số liệu, kết quả nghiên cứu sử dụng trong
luận án là trung thực và chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công trình nào trƣớc đó. Các
trích dẫn ý kiến của các nhà khoa học và nguồn tài liệu đƣợc thực hiện nghiêm chỉnh
theo đúng quy định chung. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về công trình nghiên
cứu này.
Tác giả
Hán Thị Thu Hiền
ii
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới GS.TS. Lã Nhâm. Trong suốt quá trình
học tập và thực hiện luận án, tôi đã luôn nhận đƣợc sự hƣớng dẫn khoa học, sự khích
lệ, động viên tinh thần kịp thời của thầy để tôi hoàn thành luận án này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy, các cô trong tổ bộ môn Văn học
Việt Nam, Khoa Ngữ văn, Phòng Sau Đại học, Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn sự quan tâm, ủng hộ của tập thể lãnh đạo, cán
bộ giảng viên khoa Khoa học xã hội và Văn hóa du lịch, Trƣờng Đại học Hùng Vƣơng
đã tạo mọi điều kiện cho tôi đƣợc học tập và hoàn thành luận án.
Cuối cùng, xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới ngƣời thân và bạn bè đã
luôn động viên, chia sẻ, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình hoàn thành luận án.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng năm 2020
Tác giả luận án
Hán Thị Thu Hiền
iii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................................... 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................. 2
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu ................................................................................... 2
4. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................................. 3
6. Cấu trúc luận án ........................................................................................................... 5
CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT
CỦA ĐỀ TÀI .................................................................................................................. 6
1.1. Giới thuyết một số khái niệm ................................................................................ 6
1.1.1. Khái niệm “tống biệt” ........................................................................................... 6
1.1.2. Khái niệm “thơ tống biệt” ..................................................................................... 7
1.2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu ............................................................................. 10
1.2.1. Những nghiên cứu chung về thơ tống biệt ........................................................... 10
1.2.2. Những nghiên cứu về thơ tống biệt trung đại Việt Nam ...................................... 14
1.3. Cơ sở lý thuyết của đề tài ..................................................................................... 26
1.3.1. Lý thuyết loại hình học ........................................................................................ 26
1.3.2. Lý thuyết nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa ............................................. 28
Tiểu kết Chƣơng 1 ......................................................................................................... 31
CHƢƠNG 2 TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH VÀ THỐNG KÊ, PHÂN LOẠI THƠ
TỐNG BIỆT VIỆT NAM THẾ KỶ XVIII - XIX ..................................................... 32
2.1. Tiền đề hình thành thơ tống biệt Việt Nam thế kỷ XVIII - XIX .......................... 32
2.1.1. Tiền đề lịch sử...................................................................................................... 32
2.1.2. Tiền đề văn hóa, tƣ tƣởng .................................................................................... 36
2.1.3. Tiền đề văn học .................................................................................................... 41
2.2. Thống kê, phân loại thơ tống biệt Việt Nam thế kỷ XVIII - XIX .................... 48
2.2.1. Tiêu chí khảo sát và kết quả thống kê.................................................................. 48
2.2.2. Phân loại thơ tống biệt Việt Nam thế kỵ XVIII - XIX .......................................... 49
Tiểu kết Chƣơng 2 ......................................................................................................... 57
iv
CHƢƠNG 3 HÌNH TƢỢNG NHÂN VẬT TRỮ TÌNH VÀ BỨC TRANH HIỆN
THỰC MANG TÍNH THỜI SỰ TRONG THƠ TỐNG BIỆT VIỆT NAM THẾ
KỶ XVIII – XIX .......................................................................................................... 58
3.1. Hình tƣợng nhân vật trữ tình .............................................................................. 58
3.1.1. Hình tƣợng nhân vật trữ tình từ phƣơng diện con ngƣời chức năng, phận vị ......... 58
3.1.2. Hình tƣợng nhân vật trữ tình từ phƣơng diện con ngƣời cá nhân ...................... 65
3.2. Bức tranh hiện thực mang tính thời sự .............................................................. 84
3.2.1. Hiện thực ly tán và đời sống đói khổ của nhân dân ............................................ 84
3.2.2. Hiện thực công cuộc mở mang, bảo vệ cƣơng vực lãnh thổ ............................... 86
3.2.3. Hiện thực cuộc xâm lăng của thực dân Pháp...................................................... 90
Tiểu kết Chƣơng 3 ......................................................................................................... 95
CHƢƠNG 4 NGHỆ THUẬT THƠ TỐNG BIỆT VIỆT NAM THẾ KỶ XVIII – XIX .. 96
4.1. Tính kỷ sự và yếu tố tự sự trong thơ................................................................... 96
4.1.1. Tính kỵ sự ............................................................................................................. 96
4.1.2. Yếu tố tự sự ........................................................................................................ 107
4.2. Không gian, thời gian nghệ thuật ...................................................................... 108
4.2.1. Không gian nghệ thuật ...................................................................................... 108
4.2.2. Thời gian nghệ thuật.......................................................................................... 116
4.3. Ngôn ngữ nghệ thuật và thể loại ....................................................................... 124
4.3.1. Ngôn ngữ nghệ thuật ......................................................................................... 124
4.3.2. Thể loại .............................................................................................................. 140
Tiểu kết Chƣơng 4 ..................................................................................................... 147
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 148
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ........................................................................................... 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 152
PHỤ LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Gặp gỡ và chia biệt vốn là quy luật bình thƣờng của cuộc sống. Nhƣng có lẽ khi đã gặp gỡ và gắn bó thì không ai muốn phải chia xa. Mỗi cuộc chia tay đều mang những dƣ vị riêng biệt. Có những cuộc chia tay tạm thời, có những cuộc tiễn biệt để cách xa trong khoảng thời gian dài, cũng có những cuộc tống biệt là vĩnh biệt... Có những cuộc chia ly ngậm ngùi gắn với dự cảm đầy âu lo, lại có những cuộc chia xa mang lại nhiều hi vọng tốt đẹp cho tƣơng lai... Vì thế, giây phút tiễn biệt là thời khắc đặc biệt của cảm xúc bởi nó dồn nén nhiều cung bậc tình cảm khác nhau. Thời khắc này cũng là lúc con ngƣời nhận ra và muốn thổ lộ hết những tâm sự thật nhất của lòng mình. Nhƣ thế, dù trong hoàn cảnh nào, lí do nào thì những cuộc tiễn đƣa luôn khơi gợi nhiều nỗi niềm của cả ngƣời đi và kẻ ở. Khoảnh khắc tiễn biệt với bộn bề tâm trạng, cảm xúc sẽ ghi dấu ấn khó phai trong cuộc đời mỗi con ngƣời. Có lẽ vì thế mà tống biệt luôn là đề tài tìm đƣợc sự đồng điệu, khơi gợi cảm hứng sáng tác, có sức hấp dẫn, hứa hẹn nhiều điều mới mẻ, thú vị với cả ngƣời sáng tác và ngƣời nghiên cứu.
1.2. Thơ ca Đông Á có nhiều tác phẩm viết về đề tài tống biệt. Có những tác phẩm đã trở thành kinh điển để mỗi khi nhắc đến chia tay, tiễn biệt mọi ngƣời đều nhớ tới nhƣ Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng (Lí Bạch), Tống biệt (Vƣơng Duy), Tặng biệt (Đỗ Mục) hay Hoài thƣợng biệt hữu nhân (Trịnh Cốc)... Thơ tống biệt một mặt thể hiện đƣợc tính quy phạm, tính trang nhã của văn học, mặt khác cũng phản ánh sâu sắc đời sống tâm lý, văn hóa của ngƣời Đông Á. Nếu nhƣ ngƣời phƣơng Tây với loại hình văn hóa gốc du mục, thích sự di chuyển, khám phá cái mới thì ngƣời Đông Á với loại hình văn hóa gốc nông nghiệp lại ƣa ổn định, ngại di chuyển. Do đó, ngƣời đi xa bao giờ cũng đƣợc nhìn với con mắt đầy yêu thƣơng, lo lắng. Nhƣ vậy, nghiên cứu thơ tống biệt không chỉ là nghiên cứu một đề tài tiêu biểu của văn học Đông Á mà còn là nghiên cứu về văn hóa. Đây là một hƣớng nghiên cứu có ý nghĩa.
1.3. Nằm trong nguồn mạch chung của thơ ca dân tộc, thơ trung đại Việt Nam là một bộ phận quan trọng góp phần làm nên thành công và giá trị của văn học trung đại. Thơ trung đại khai thác nhiều đề tài, trong đó tống biệt là một đề tài nổi bật. Giai đoạn thế kỵ X – XVII, một số tác giả đã sáng tác thơ tống biệt . Sang giai đoạn thế kỵ XVIII – XIX cùng với những biến động đặc biệt của thời đại cũng nhƣ sự trƣởng thành của văn học, đề tài tống biệt lại càng đƣợc mở rộng trong thơ ca. Số lƣợng tác phẩm thơ tống biệt giai đoạn này tƣơng đối lớn và có đóng góp thực sự ý nghĩa về giá trị nội dung, nghệ thuật. Tuy nhiên, những nghiên cứu về thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX lại chƣa đƣợc quan tâm đầy đủ. Hiện tại, chƣa có một công trình nghiên cứu có hệ thống về thơ tống biệt giai đoạn này. Vì vậy lựa chọn đề tài “Thơ tống biệt trung đại Việt Nam thế kỷ XVIII – XIX” là một hƣớng tiếp cận mà chúng tôi muốn khơi mở để góp phần nhìn nhận thấu đáo hơn những đặc
2
sắc và đóng góp của thơ tống biệt Việt Nam thế kỵ XVIII – XIX. Nghiên cứu thơ tống biệt giai đoạn này cũng giúp ta hiểu sâu hơn, rộng hơn những vấn đề khác của văn học trung đại Việt Nam nhƣ cảm hứng sáng tác, ngôn ngữ văn học, tác gia văn học…
1.4. Việc tìm hiểu đề tài tống biệt trong thơ trung đại thế kỵ XVIII - XIX còn có ý nghĩa thực tiễn với việc giảng dạy trong nhà trƣờng. Nhiều tác phẩm văn học nƣớc ngoài cũng nhƣ văn học Việt Nam có đề tài tống biệt đƣợc lựa chọn đƣa vào chƣơng trình các cấp. Định hƣớng giảng dạy văn học trung đại từ góc nhìn thể loại cũng ngày càng đƣợc chú trọng. Vì vậy, nghiên cứu đề tài có ý nghĩa thiết thực, bổ sung những tƣ liệu cần thiết cho việc giảng dạy.
Chính vì những lí do trên, chúng tôi lựa chọn Thơ tống biệt trung đại Việt Nam thế
kỷ XVIII - XIX làm đề tài nghiên cứu của luận án. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu hƣớng tới việc đánh giá đặc điểm nội dung và nghệ thuật của thơ tống biệt Việt Nam thế kỵ XVIII – XIX, qua đó khẳng định những nét riêng cũng nhƣ vị trí, vai trò cùng những đóng góp của thơ tống biệt giai đoạn này.
Phù hợp với mục đích nghiên cứu đó, những nhiệm vụ cụ thể của luận án đã đƣợc xác
định nhƣ sau:
Thứ nhất: Giới thuyết khái niệm thơ tống biệt. Thứ hai: Tìm hiểu những tiền đề chủ yếu dẫn tới sự hình thành và phát triển của thơ
tống biệt thế kỵ XVIII – XIX. Khảo sát, thống kê, phân loại thơ tống biệt giai đoạn này.
Thứ ba: Nghiên cứu hình tƣợng nhân vật trữ tình trên phƣơng diện con ngƣời chức năng, phận vị, con ngƣời cá nhân và bức tranh hiện thực mang tính thời sự qua những bài thơ tống biệt.
Thứ tƣ: Nghiên cứu nghệ thuật thể hiện của thơ tống biệt thế kỵ XVIII - XIX trên các phƣơng diện tính kỵ sự và yếu tố tự sự trong thơ, không gian, thời gian nghệ thuật, ngôn ngữ nghệ thuật, thể loại. 3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu chính của luận án là 515 bài thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX
đã đƣợc dịch ra tiếng Việt. 3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi ngữ liệu: Trên thực tế, số lƣợng các tác giả văn học giai đoạn thế kỵ XVIII – XIX có sáng tác thơ tống biệt khá nhiều, song do khuôn khổ của luận án chúng tôi khảo sát sáng tác thơ tống biệt của 33 tác giả có trong một cuốn tổng tập văn học (Tổng tập văn học Việt Nam (tập 17) và 41 cuốn tổng tập, toàn tập, tuyển tập thơ văn khác (xin xem phụ lục 1). Số lƣợng các bài thơ tống biệt mà chúng tôi khảo sát đƣợc là 515 bài (trong tổng số bài thơ khảo sát là 8223 bài).
3
- Phạm vi nội dung: Giới thuyết khái niệm thơ tống biệt, nghiên cứu những tiền đề hình thành, phát triển thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX, khảo sát, thống kê, phân loại thơ tống biệt giai đoạn này. Phân tích, đánh giá những đặc điểm nổi bật của thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài, chúng tôi phối hợp sử dụng các phƣơng pháp cơ bản sau:
4.1. Phƣơng pháp nghiên cứu văn học sử
Phƣơng pháp nghiên cứu văn học sử là phƣơng pháp nghiên cứu văn học trong tiến trình lịch sử để thấy đƣợc diễn biến của đời sống văn học cũng nhƣ sự tƣơng tác của văn học với môi trƣờng lịch sử. Luận án nghiên cứu thơ tống biệt trong một giai đoạn lịch sử nhất định (thế kỵ XVIII – XIX). Đây là giai đoạn có nhiều biến động của lịch sử của chế độ phong kiến Việt Nam. Phƣơng pháp văn học sử đƣợc sử dụng để phân tích các yếu tố lịch sử và ảnh hƣởng của nó đến sự hình thành, vận động, phát triển của thơ tống biệt nói chung, thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX nói riêng. Ở một mức độ nhất định, phƣơng pháp lịch sử đƣợc sử dụng để nghiên cứu thơ tống biệt trong sự vận động mang tính lịch sử của thể loại. 4.2. Phƣơng pháp loại hình
Phƣơng pháp loại hình là phƣơng pháp nghiên cứu những sự việc, hiện tƣợng có chung nhau một số đặc trƣng nào đó để khái quát và phân loại chúng thành những kiểu riêng biệt, từ đó tìm ra quy luật của sự tƣơng đồng. Luận án sử dụng phƣơng pháp loại hình để nghiên cứu loại hình thơ tống biệt ở cấp độ tác phẩm. Với phƣơng pháp này, chúng tôi phân tích đƣợc những nét tƣơng đồng, khác biệt của thơ tống biệt giữa các giai đoạn, các tác giả khác nhau... đồng thời cho thấy những đặc trƣng riêng cũng nhƣ đóng góp của thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX với sự phát triển của thơ ca trung đại nói riêng, văn học trung đại nói chung. 4.3. Phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành
Phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành sử dụng kiến thức các ngành liên quan nhƣ văn hóa, lịch sử, tƣ tƣởng, ngôn ngữ, lí luận văn học, triết học… để thấy đƣợc những tác động, ảnh hƣởng của các yếu tố đó với đối tƣợng nghiên cứu. Phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành giúp chúng tôi hình thành cơ sở lí thuyết, giải quyết một số nội dung trọng yếu của đề tài, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến khái niệm thơ tống biệt, lí giải tiền đề văn hóa tƣ tƣởng thơ tống biệt trung đại Việt Nam nói chung, những tiền đề lịch sử, văn học cho sự phát triển thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX nói riêng. Phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành cũng giúp chúng tôi lý giải một số vấn đề liên quan đến nội dung, nghệ thuật của thơ tống biệt. 4.4. Phƣơng pháp so sánh văn học
Phƣơng pháp này đƣợc hiểu là so sánh các hiện tƣợng trong cùng một nền văn học, so sánh nền văn học này với nền văn học khác. Từ kết quả so sánh, ngƣời nghiên cứu đƣa ra
4
đƣợc những đánh giá khách quan và có cơ sở về vấn đề tìm hiểu. Triển khai đề tài trong những trƣờng hợp cần thiết, chúng tôi sử dụng phƣơng pháp so sánh giữa những bài thơ tống biệt trong giai đoạn thế kỵ XVIII – XIX với giai đoạn trƣớc, giữa những bài thơ tống biệt của các tác giả khác nhau trong cùng một giai đoạn. Khi cần thiết sẽ so sánh mở rộng với các loại hình thơ ca khác. Việc vận dụng phƣơng pháp so sánh sẽ giúp chúng tôi nhận diện đƣợc những nét riêng của thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX. 4.5. Phƣơng pháp hệ thống
Phƣơng pháp hệ thống sử dụng cách thức đặt đối tƣợng nghiên cứu trong một chỉnh thể để thấy đƣợc những quy luật phát triển của đối tƣợng. Chúng tôi sử dụng phƣơng pháp này khi đặt những tác phẩm thơ tống biệt thế kỵ XVIII - XIX trong sự phát triển của thơ tống biệt trung đại Việt Nam để nhìn nhận sự vận động của thể tài theo tiến trình lịch sử. Ngoài ra, chúng tôi cũng đặt thơ tống biệt trong hệ thống những tác phẩm thơ ở thế kỵ XVIII – XIX nhằm tìm ra quy luật vận động chung của thơ tống biệt so với những tác phẩm cùng giai đoạn. 4.6. Phƣơng pháp nghiên cứu văn học dƣới góc độ thi pháp
Nghiên cứu văn học dƣới góc độ thi pháp là việc vận dụng các kiến thức thi pháp học để nhìn nhận, đánh giá đối tƣợng. Luận án sử dụng phƣơng pháp thi pháp học để nghiên cứu các đặc điểm về nội dung, tƣ tƣởng, quan niệm thơ văn cũng nhƣ các phƣơng thức biểu đạt nhƣ không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, biểu tƣợng nghệ thuật, cách sử dụng điển cố, thi văn liệu Hán học... 5. Đóng góp mới của luận án
5.1. Luận án là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách tƣơng đối hệ thống
về thơ tống biệt Việt Nam thế kỵ XVIII – XIX.
5.2. Luận án giới thuyết sáng rõ khái niệm tống biệt, thơ tống biệt, từ đó bổ sung những vấn đề lý luận liên quan tới khái niệm này. Luận án bƣớc đầu làm sáng tỏ tiền đề hình thành thơ tống biệt trung đại Việt Nam thế kỵ XVIII – XIX, trong đó phân tích sâu các tiền đề văn hóa, văn học. Luận án khảo sát tƣơng đối đầy đủ các tác giả giai đoạn thế kỵ XVIII – XIX và thống kê đƣợc 33 tác giả tiêu biểu có sáng tác thơ tống biệt với tổng số 515 tác phẩm (trong tổng số 8223 bài thơ khảo sát). Từ các kết quả khảo cứu, ngƣời viết đã phân loại thơ tống biệt giai đoạn này trên hai phƣơng diện đối tƣợng đƣa tiễn và lý do đƣa tiễn. Kết quả khảo sát và phân loại giúp luận án khái lƣợc đƣợc diện mạo thơ tống biệt giai đoạn này.
5.3. Luận án đã mô tả và phân tích, khái quát nội dung của thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX thông qua hình tƣợng nhân vật trữ tình và bức tranh hiện thực mang tính thời sự. Hình tƣợng nhân vật trữ tình đƣợc luận án khai thác trên hai phƣơng diện con ngƣời xã hội với chức năng, phận vị và con ngƣời cá nhân với những suy tƣ, cảm xúc cùng mối qua hệ riêng tƣ. Luận án cũng đã phân tích bức tranh hiện thực mang tính thời sự của thơ tống biệt
5
qua hiện thực ly tán và đời sống đói khổ của nhân dân, hiện thực công cuộc mở mang, bảo vệ cƣơng vực lãnh thổ, hiện thực cuộc xâm lăng của thực dân Pháp. Đây chính là một nội dung mới của thơ tống biệt.
5.4. Luận án cũng chỉ ra đƣợc những đặc điểm nghệ thuật cơ bản nhất của thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX. Bằng những số liệu khảo sát cụ thể: 402/515 bài thơ có sự xác thực các địa điểm, địa danh, khoảng 493/515 (95,7%) tác phẩm thể hiện sự tƣờng minh sự việc, con ngƣời ngay từ trong nhan đề, 147 bài có chú với tổng số 232 chú, 12 bài có thi tự đi kèm cũng nhƣ việc phân tích biểu hiện của yếu tố tự sự, luận án đã làm rõ và khẳng định đây là nét nghệ thuật độc đáo của thơ tống biệt giai đoạn này. Luận án đã phân tích sự thể hiện của các kiểu thời gian, không gian tiêu biểu của thơ tống biệt giai đoạn này: thời gian theo ngày, theo mùa, thời gian khoảnh khắc, thời gian đan xen quá khứ, hiện tại, tƣơng lai và sự đan chéo của không gian thực, không gian ảo. Từ việc thống kê đƣợc 418 điển cố, thi văn liệu Hán học trong 515 bài thơ tống biệt, luận án đã chỉ ra hệ thống điển cổ, thi văn liệu Hán học không chỉ gắn với việc chia tay, tống tiễn mà còn đƣợc vận dụng linh hoạt để diễn tả những vấn đề mang tính thời sự. Luận án cũng phân tích ba biểu tƣợng tiêu biểu, giúp thể hiện sâu sắc hơn suy tƣ, cảm xúc đƣa tiễn: biểu tƣợng rƣợu, biểu tƣợng dòng sông, biểu tƣợng liễu. Ngoài 453 bài thơ bát cú, tứ tuyệt truyền thống, sự xuất hiện của 3 bài thơ Đƣờng luật trƣờng thiên và 49 bài thơ cổ phong cho thấy dấu hiệu sự phát triển, hoàn thiện về mặt thể loại của thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX. Luận án đã lí giải nguyên nhân và ý nghĩa, tác dụng của thể loại trong việc thể hiện nội dung thơ tống biệt. 5.5. Ngoài phần chính văn, luận án còn có phần Phụ lục với 515 bài thơ tống biệt. 5.6. Luận án cung cấp những tƣ liệu tham khảo có ý nghĩa cho giáo viên, sinh viên, học viên khi học tập và giảng dạy những tác phẩm có đề tài tống biệt nói riêng và thơ ca trung đại Việt Nam nói chung. 6. Cấu trúc luận án
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, phần Nội dung chính
của luận án đƣợc trình bày theo 4 chƣơng:
Chƣơng 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu và cơ sở lý thuyết của đề tài (26 trang, từ
trang 6 đến trang 31).
Chƣơng 2: Tiền đề hình thành và thống kê, phân loại thơ tống biệt Việt Nam thế kỵ
VIII - XIX (26 trang, từ trang 32 đến trang 57).
Chƣơng 3: Hình tƣợng nhân vật trữ tình và bức tranh hiện thực mang tính thời sự
trong thơ tống biệt Việt Nam thế kỵ XVIII – XIX (38 trang, từ trang 58 đến trang 95).
Chƣơng 4: Nghệ thuật thơ tống biệt Việt Nam thế kỵ XVIII – XIX (52 trang, từ trang
96 đến trang 147).
6
CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI
Đối với bất cứ một đề tài khoa học nào, tổng quan vấn đề nghiên cứu có ý nghĩa thiết thực, giúp ngƣời viết có đƣợc cái nhìn bao quát nhất về hƣớng nghiên cứu của mình. Ý thức đƣợc điều đó, trong chƣơng này chúng tôi đi từ việc giới thuyết khái niệm thơ tống biệt đến nhìn nhận một cách bao quát lịch sử nghiên cứu thơ tống biệt nói chung cũng nhƣ thơ tống biệt trung đại Việt Nam nói riêng để tìm ra những khoảng trống chƣa đƣợc nghiên cứu về thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng đƣa ra một số cơ sở lý thuyết của đề tài. 1.1. Giới thuyết một số khái niệm 1.1.1. Khái niệm “tống biệt”
Chúng tôi tiến hành tra cứu từ “tống biệt” ( 送 别) trong một số từ điển Trung
Hoa nhƣ Từ hải [173], Từ nguyên [174], Hán ngữ đại từ điển [175], nhƣng không thấy có mục từ “tống biệt”. Tra cứu một số từ điển Việt Nam chúng tôi thống kê đƣợc một số định nghĩa khác nhau. Từ điển Hán - Việt từ nguyên của Bửu Kế định nghĩa: tống: đƣa tiễn, biệt: từ giã, tống biệt: đƣa tiễn lúc từ giã nhau [56, tr 1837]. Hán - Việt từ điển của Đào Duy Anh thì định nghĩa: tống: đƣa tiễn, biệt: chia cắt, tống biệt: Đƣa ngƣời lên đƣờng [1, tr 309]. Hán - Việt tự điển của Thiều Chửu lại định nghĩa: tống: tiễn đi, biệt: chia xa, tống biệt: tiễn nhau đi xa [19, tr 1406]. Nhƣ vậy, có thể thấy rằng các tài liệu có thể có cách diễn đạt khác nhau nhƣng đều có một mẫu số chung tống biệt là hành động đƣa tiễn một ngƣời đi xa.
Để làm rõ hơn khái niệm tống biệt, chúng tôi cũng tìm hiểu thêm một số từ liên quan nhƣ lƣu biệt, bái biệt, biệt ly, biệt phái, biệt xứ, cáo biệt, ly biệt, tạm biệt, tặng biệt, tiễn biệt, từ biệt, viễn biệt, vĩnh biệt, lâm biệt, phụng tống, tống tiễn... Các từ này có chung một ý nghĩa là chỉ về sự chia xa, tuy nhiên vẫn có những sắc thái khác nhau. Bái biệt hay cáo biệt nhấn mạnh vào hành động lúc chia tay, bái biệt là lạy chào mà đi, cáo biệt là nói những điều khi chia tay. Để nhấn mạnh vào khoảng thời gian xa cách có các từ nhƣ tạm biệt hay viễn biệt. Tạm biệt là rời xa trong khoảng thời gian ngắn, viễn biệt là cách xa lâu ngày, vĩnh biệt là cách xa mãi mãi. Từ lâm biệt nhấn mạnh vào thời điểm sắp chia tay. Một số từ nhƣ biệt phái hay biệt xứ lại hàm ý nói về việc chia tay để đi làm việc của cá nhân hay đại diện cho quốc gia đi ra nƣớc ngoài. Khi muốn diễn tả về các món quà, đồ vật đem cho ngƣời khác lúc chia tay có thể dùng từ tặng biệt hoặc phụng tống. Từ lƣu biệt nhấn mạnh về phía ngƣời đi, lƣu biệt là lời của ngƣời đi viết dành cho ngƣời ở lại. Ở một góc độ nào đó lƣu biệt và tống biệt đối lập với nhau. Bên cạnh đó, các từ nhƣ biệt li, li biệt, từ biệt, chia ly... chỉ trạng thái
7
đang ở xa nhau, lìa nhau, chia cách không thể tụ hợp. Khái niệm này nội hàm cảm xúc và ý nghĩa rộng hơn so với tống biệt. Một số khái niệm gần nghĩa và có thể thay thế với tống biệt là tiễn biệt, tống tiễn. Các từ này đều nhấn mạnh sự việc chia tay, chia ly trong đó chú ý vào phía ngƣời ở lại. 1.1.2. Khái niệm “thơ tống biệt”
Trong một số công trình nghiên cứu về thơ tống biệt ở Trung Quốc, khái niệm thơ tống biệt cũng đã bƣớc đầu đƣợc quan tâm. Tác giả Tả Anh Anh trong Nghiên cứu thơ tống biệt thời trung, vãn Đƣờng cho rằng: “Thơ tống biệt là thơ miêu tả khung cảnh chia ly, ghi lại những cảm xúc buồn lúc biệt ly, gửi gắm những tâm sự khác ở trong đó” [177, tr 5]. Vƣơng Lệ Kiều ở nghiên cứu Dạy đọc thơ tống biệt trong chƣơng trình ngữ văn trung học cơ sở dƣới quan điểm kết cấu chủ nghĩa thì định nghĩa: “Thơ tống biệt là loại thơ ca dùng để biểu đạt những tình cảm, cảm xúc biệt ly” [184, tr 5]. Tác giả Húc Nhật, Lữ Viên, Diệp Hủy, Thôi Liễu Thanh đều cho rằng định nghĩa về thơ tống biệt xƣa nay không thống nhất và có những cách hiểu ở cả nghĩa rộng lẫn nghĩa hẹp. Húc Nhật trong công trình Bàn về quá trình vận động và biến đổi của thơ tống biệt thời Nam triều và sơ Đƣờng cho rằng: “Theo nghĩa hẹp thơ tống biệt để chỉ những tác phẩm thơ ca đƣợc sáng tác trong lúc tống biệt, bao gồm ngƣời tiễn đƣa tặng cho ngƣời ra đi, ngƣời đi tặng cho ngƣời tiễn đƣa trong lúc hai ngƣời còn nắm tay từ biệt, đem tình cảm của mình ngƣng tụ lại vào trong thơ ca để tặng cho ngƣời bạn. Theo nghĩa rộng phạm vi của thơ tống biệt rộng hơn rất nhiều. Những tác phẩm thơ ca này ghi lại tình cảm ly biệt, chia cắt cho đến những việc phải ly biệt nhau. Chẳng hạn có ngƣời nào đó thể hiện cảm xúc nhớ nhung khi ở xa cũng đƣợc coi là thơ tống biệt” [186, tr 9]. Trong công trình Nghiên cứu thơ tống biệt thời Ngụy - Tấn Nam Bắc triều tác giả Thôi Liễu Thanh cho rằng: “Theo nghĩa rộng, thơ tống biệt chỉ những tác phẩm thơ ca có nội dung liên quan đến việc tống biệt nhƣ miêu tả cảnh tống biệt, những tình cảm khi tống biệt, bao gồm trƣớc khi tống biệt, khi tống biệt, sau khi tống biệt. Còn theo nghĩa hẹp, thơ tống biệt chỉ những tác phẩm thơ ca đƣợc sáng tác trong lúc chia tay, có tính tức thời rất cao. Những tác phẩm thơ ca này hoặc là ngƣời đƣa tiễn hoặc là ngƣời đƣợc đƣa tiễn hoặc ngƣời gặp cảnh ngƣời đƣa tiễn viết nhƣng nội dung không nằm ngoài việc miêu tả cảm xúc trong lúc chia tay và những biểu hiện lƣu luyến” [194, tr 5]. Tác giả Diệp Hủy trong nghiên cứu Bƣớc đầu tìm hiểu thơ tống biệt của mƣời vị tài tử Đại Lịch cũng khẳng định chƣa có sự nhất quán trong cách hiểu về thơ tống biệt, có hai cách hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Phần lớn học giả đƣơng đại lấy theo nghĩa rộng [182]. Trong Nghiên cứu thơ tống biệt đời Đƣờng đi về đất Lĩnh Nam, tác giả Lữ Viên cũng cho rằng “Thơ tống biệt có những tên gọi tƣơng tự nhƣ li biệt thi, lƣu biệt thi, tặng biệt thi” [198, tr 7]. Từ đó, ngƣời nghiên cứu khẳng định “Thơ tống biệt nên phải là những tác phẩm thơ ca trong lúc biệt ly thể hiện ra
8
cảm xúc, những thông tin, những điều nghe thấy, nhìn thấy của ngƣời ra đi và ngƣời đƣa tiễn” [198, tr 9]. Bàn thêm về thơ tống biệt, Tôn Hâm Dung đã đƣa ra một nghiên cứu đáng chú ý. Tác giả khẳng định: “Thơ tống biệt xƣa nay đƣợc các nhà thơ rất yêu thích. Ban đầu thơ tống biệt đƣợc gọi là thơ Tổ tiễn. Trong sách Tứ dân nguyệt lệnh có viết: “Tổ là thần đƣờng đi. Con trai của Hoàng Đế gọi là Lũy Tổ thích viễn du, chết ở trên đƣờng cho nên đƣợc thờ làm thần đƣờng đi”. Ban đầu thơ tống biệt chủ yếu dùng để hát dâng lên thần linh cầu xin đi đƣờng bình an. Đến đời Ngụy - Tấn, cùng với nhận thức về thẩm mỷ không ngừng thay đổi thơ tống biệt cũng dần dần thoát khỏi nhận thức về ý nghĩa tôn giáo mà chuyển đổi thành thẩm mỷ văn nghệ, thơ tống biệt đời Đƣờng trở thành một loại đề tài đƣợc yêu thích bậc nhất với số lƣợng lớn tác phẩm” [199, tr 53]. Theo nghiên cứu này, có thể thấy thơ tống biệt vốn là một loại chúc từ (祝詞)(lời chúc, lời khấn dâng lên thánh thần) dùng để cầu xin. Ban đầu nó nhƣ một loại văn học chức năng tôn giáo, hƣớng đến cầu mong những điều tốt đẹp cho ngƣời đi. Dần dần, nó thoát ly khỏi loại hình văn học chức năng và trở thành những tác phẩm văn học nghệ thuật hƣớng tới việc thể hiện cảm xúc khi chia tay, tiễn biệt. Nhƣ vậy, ngoài chức năng dùng để tống biệt, thơ tống biệt có thể coi là một thể tài thơ, thuộc loại hình văn học nghệ thuật.
Các nhà nghiên cứu Việt Nam cũng đã đƣa ra những cách hiểu về thơ tống biệt. Tác giả Nguyễn Khắc Phi trong bài phân tích về tác phẩm Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng cho rằng tên gọi đầy đủ của thơ tống biệt là tống hành tặng biệt, nghĩa là “thơ tiễn chân và thơ từ biệt” [91, tr 908]. Căn cứ vào ý kiến của Nguyễn Khắc Phi, Trịnh Thị Hoa trong luận án Thơ tống biệt đời Đƣờng đã đi đến một cách hiểu về thơ tống biệt là “...những bài thơ miêu tả hoạt động tiễn đƣa, từ biệt nhau của con ngƣời trƣớc khi lên đƣờng đi xa, chỉ diễn ra trong một thời khắc nhất định, nhằm biểu đạt sâu sắc mối thâm tình gắn bó giữa kẻ ở ngƣời đi trong buổi chia tay” [49, tr 5].
Tìm hiểu về thơ tống biệt, chúng tôi cũng thấy đƣợc mối liên hệ giữa kiểu loại thơ này và thơ bang giao. Về thơ bang giao, tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau, ở cách hiểu khái quát nhất thì: “...thơ bang giao là tên gọi định danh những sáng tác của các bậc quân vƣơng, tƣớng lĩnh, những nhà ngoại giao Việt Nam trong quá trình làm nhiệm vụ bang giao với các nƣớc lân bang, chủ yếu là Trung Hoa. Những sáng tác bang giao đƣợc tính từ khi công việc bang giao bắt đầu và đến khi công việc bang giao kết thúc. Thơ bang giao bao gồm cả thơ đi sứ và thơ tiếp sứ. Đó là những sáng tác vừa là văn học chức năng vừa là văn học nghệ thuật” [117, tr 8]. Nhƣ thế, trong thơ bang giao có các bài thơ tiếp sứ và thơ đi sứ. Thơ tiếp sứ là những bài thơ của các tác giả Việt Nam xƣớng họa, đối đáp, tặng tiễn... các sứ giả khi đến nƣớc ta. Do vậy, trong các bài thơ tiếp sứ có một phần là các bài thơ tống biệt dùng để tiễn đƣa các sứ thần nƣớc ngoài trở về nƣớc sau khi đã hoàn thành xong công việc. Thơ đi sứ là những vần thơ của các sứ thần Việt Nam làm khi đi sứ để thực hiện công việc bang giao giữa Việt Nam và các nƣớc. Trong khoảng thời gian ở
9
nƣớc bạn, các sứ thần có những bài thơ viết để tiễn tặng sứ thần của các nƣớc khác khi họ về nƣớc hoặc tiễn tặng quan lại của nƣớc bạn trong những dịp gặp gỡ, xƣớng họa. Đó cũng là những bài thơ tống biệt rất đặc sắc. Từ những mối liên hệ trên đã cho thấy một bộ phận thơ tống biệt nằm trong thơ bang giao, thơ đi sứ.
Tìm hiểu khái niệm thơ tống biệt, chúng tôi còn thấy có một số từ nhƣ tống thi, tặng thi, phụng họa, tặng đáp thi trực tiếp hoặc gián tiếp có liên quan đến tình huống tống – tiễn. Tống thi hay tặng thi chỉ việc ngƣời tiễn làm thơ tặng cho ngƣời đi. Ngoài ra còn có những bài thơ phụng họa tức là làm thơ tiễn theo mệnh lệnh của ai đó hoặc viết giúp ai đó để tiễn biệt. Còn có những bài tặng đáp thi dùng để tán tụng nhau trong những tình huống chia tay thƣờng là ngẫu nhiên. Tất cả các khái niệm tống thi, tặng thi, phụng họa, tặng đáp thi đều liên quan đến thơ tống biệt và chúng tôi cho rằng đây chính là những hình thức của thơ tống biệt.
Nhƣ vậy, chúng tôi nhận thấy trong các công bố khoa học trƣớc đây, khái niệm thơ tống biệt còn chƣa thống nhất và thƣờng đƣợc hiểu theo nghĩa rất rộng. Tuy nhiên, bản thân khái niệm tống biệt là: Đƣa ngƣời lên đƣờng [1, tr. 309] hoặc tiễn nhau đi xa [19, tr 1406]. Từ tất cả các vấn đề đã trình bày ở trên, chúng tôi đề xuất thống nhất khái niệm thơ tống biệt là những tác phẩm thơ mà chủ thể sáng tác là ngƣời ở lại viết để tiễn biệt một ai đó khi họ dịch chuyển không gian sống từ một nơi này đến một nơi khác. Nhƣ vậy, thơ tống biệt là một thể tài văn học, đa dạng trong loại hình sáng tác. Nội dung chính của thơ tống biệt là thể hiện tình cảm, cảm xúc cùng những lời chúc, những tâm sự của ngƣời ở lại với ngƣời ra đi. Trong định nghĩa này, chúng tôi nhấn mạnh vào vai trò chủ thể trữ tình của một bài thơ tống biệt phải là ngƣời ở lại. Tình cảm dành cho ngƣời đi là nội dung chủ yếu nhƣng đôi khi cuộc tiễn đƣa chỉ là cái cớ giúp ngƣời tiễn kín đáo gửi gắm tâm tƣ của mình.
Để rõ hơn cách hiểu về thơ tống biệt, chúng tôi có một số lƣu ý nhƣ sau: Thứ nhất, những bài thơ tống biệt yêu cầu bắt buộc phải có ngƣời tiễn và ngƣời đi. Những bài thơ có nói tới việc chia xa nhƣng nếu ngƣời làm thơ là ngƣời đi viết cho ngƣời tiễn thì không đƣợc coi là tống biệt, trƣờng hợp này là thơ lƣu biệt hay còn gọi là biệt thi. Thƣờng ở những tác phẩm này nhan đề sẽ xuất hiện từ lƣu biệt. Cũng có trƣờng hợp ngƣời viết vừa là ngƣời tiễn nhƣng đồng thời cũng là ngƣời đi (gặp nhau giữa đƣờng rồi cả hai cùng từ biệt đi về hai nơi khác nhau), nhƣng ngƣời viết ở trong vị thế của ngƣời tiễn, trƣờng hợp này chúng tôi vẫn xếp là thơ tống biệt.
Thứ hai, thơ tống biệt, về cơ bản, nhan đề thƣờng xuất hiện những từ và cụm từ quen thuộc nhƣ tống, biệt, tặng, tiễn... nhƣng cũng có những bài nhan đề không xuất hiện các từ cho biết dấu hiệu về tống biệt, tuy nhiên tìm hiểu tác phẩm có thể nhận thấy đƣợc đây là lời của ngƣời ở lại viết cho ngƣời đi. Những bài này vẫn đƣợc coi là thơ tống biệt.
10
Thứ ba, thơ tống biệt, phần lớn rất rõ về hoàn cảnh đƣa tiễn, bao gồm không gian đƣa tiễn, thời gian đƣa tiễn..., nhƣng cũng có nhiều trƣờng hợp những bài thơ tống biệt không rõ về hoàn cảnh đƣa tiễn, chỉ thiên nói về cảm xúc của ngƣời tiễn đối với ngƣời đi. Những bài thơ đó chúng tôi vẫn xếp là thơ tống biệt.
Thống nhất khái niệm về thơ tống biệt và các khái niệm khác có liên quan chính là cơ sở và tiền đề giúp chúng tôi có định hƣớng khoa học và sáng rõ trong quá trình nghiên cứu đề tài. 1.2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu 1.2.1. Những nghiên cứu chung về thơ tống biệt
Trong phạm vi tƣ liệu khảo sát đƣợc, chúng tôi xin khái quát một số nghiên cứu
chính về mảng thơ tống biệt.
Ở Trung Hoa, những công trình nghiên cứu về thơ tống biệt khá đa dạng, nhƣng
tập trung ở một số hƣớng nhƣ sau:
Thứ nhất, nghiên cứu về thơ tống biệt của các triều đại cụ thể hoặc đặt nó trong sự phát triển của lịch sử các triều đại. Hƣớng nghiên cứu này chúng tôi tìm thấy trong một số công trình nhƣ: Nghiên cứu thơ tống biệt thời Ngụy Tấn Nam Bắc triều [178], Nghiên cứu thơ tống biệt thời trung, vãn Đƣờng [177], Bàn về quá trình vận động và biến đổi của thơ tống biệt thời Nam triều và sơ Đƣờng [186], Nghiên cứu thơ tống biệt đời Đƣờng đi về đất Lĩnh Nam [198], Nghiên cứu diễn biến và sự thay đổi của thơ tống biệt trƣớc đời Đƣờng [190], Thơ tống biệt Trƣờng An (đời Đƣờng) và văn hóa liễu sông Bá [196], Liễu và thơ tống biệt đời Đƣờng [189], Biểu hiện thẩm mỹ của thơ tống biệt đời Đƣờng [203]... Các công trình đều có những nghiên cứu rất ý nghĩa về thơ tống biệt ở từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Trong công trình Nghiên cứu thơ tống biệt thời trung, vãn Đƣờng tác giả Tả Anh Anh đã khẳng định: “Sáng tác thơ tống biệt thời trung, vãn Đƣờng đã kế thừa đƣợc sơ thịnh Đƣờng tuy không có đƣợc sự phồn thịnh bằng nhƣng về mặt tƣ tƣởng và nghệ thuật vẫn có đƣợc độ chín một cách toàn diện, đồng thời do ảnh hƣởng những nhân tố riêng của thời đại, những sáng tác thơ tống biệt thời trung vãn đƣờng có đƣợc diện mạo nghệ thuật mang tinh thần thời đại của nó, đồng thời ở một mức độ nhất định có đƣợc sự sáng tạo” [177, tr 43]. Ngoài ra, tác giả cũng cho thấy bốn hƣớng nghiên cứu cần đi sâu khi tìm hiểu về thơ tống biệt thời trung, vãn Đƣờng: tăng cƣờng nghiên cứu phân loại thơ tống biệt, nghiên cứu hoàn cảnh sáng tác thơ tống biệt, từ góc độ văn học sử đối với phân kỳ thơ tống biệt cần chú ý sự khác nhau về tƣ tƣởng của thơ ca, cần chú ý việc nghiên cứu những tác giả riêng rẽ gắn với việc phân tích những đặc điểm sáng tác của thơ tống biệt [177, tr 44]... Về cơ bản, những nghiên cứu theo hƣớng này tập trung khai thác đặc điểm thơ tống biệt ở những giai đoạn lịch sử khác nhau, trong đó thơ tống biệt đời Đƣờng đƣợc chú ý hơn cả.
11
Thứ hai, nghiên cứu về thơ tống biệt của các tác giả cụ thể. Có thể tìm thấy hƣớng nghiên cứu này ở một số công trình nhƣ: Bƣớc đầu tìm hiểu thơ tống biệt của mƣời vị tài tử Đại Lịch [182], Bƣớc đầu nghiên cứu thơ tống biệt Sầm Tham [192], Nghiên cứu ẩn dụ và hoán dụ khái niệm trong thơ tống biệt Lý Bạch [181] Nghiên cứu đặc sắc nghệ thuật thơ tống biệt Lý Bạch [188], Nghiên cứu thơ li biệt Đỗ Phủ [181], Nghiên cứu thơ tống biệt của Mai Nghiêu Thần [185], Nghiên cứu thơ tống biệt Tô Thức [179], Nghiên cứu thơ tống biệt của Gian Nguyên Đạo Chân [197], Phân tích cảm xúc biệt ly không nuối tiếc trong thơ tống biệt Lý Bạch [201]... Tác giả Lƣu Văn Quyên, khi nghiên cứu về thơ tống biệt Sầm Tham đã chỉ ra rằng “Trong suốt cuộc đời của mình, Sầm Tham sáng tác rất nhiều thơ tống biệt. Trong số thơ tống biệt này có một số tác phẩm có giá trị nghệ thuật tuy không cao, cũng không khiến cho ngƣời ta phải chú ý nhƣ những bài thơ biên tái, nhƣng nó đã bao quát đƣợc cuộc đời của thi nhân, phản ánh một cách toàn diện những trải nghiệm nội tâm riêng có của chính thi nhân [192, tr 47]. Trong công trình Nghiên cứu đặc sắc nghệ thuật thơ tống biệt Lý Bạch, tác giả Trƣơng Thai đã nhấn mạnh “Lý Bạch đƣợc xƣng tụng là bậc cao thủ viết thơ tống biệt, không chỉ bởi vì những tình cảm chân thực trong thơ tống biệt của ông” [188, tr 49]. Ngƣời viết cho rằng trong đó nguyên nhân quan trọng nhất là “Lý Bạch đã dung hợp rất nhiều thể thơ (thi thể) lại làm một, hình thành đƣợc một kiểu thơ tống biệt đặc sắc, riêng có. Thơ tống biệt của ông có khí thế ngút trời, sự tƣởng tƣợng phong phú, tính biến hóa cao, đem lại cho thơ tống biệt một dấu ấn rất sâu của Lý Bạch” [188, tr 49]... Những công trình nghiên cứu thơ tống biệt của từng tác giả đã dựa trên cơ sở khảo cứu, thống kê tác phẩm và từ đó phân tích đƣợc nét đặc sắc riêng cùng những đóng góp của mỗi tác giả ở mảng sáng tác này.
Thứ ba, nghiên cứu thơ tống biệt Trung Hoa trong mối quan hệ so sánh với thơ tống biệt của các nƣớc khác nhƣ công trình Nghiên cứu thơ tống biệt Trung Quốc và Nhật Bản [191], Sơ bộ phân tích thơ tống biệt Triều Tiên – Trung Quốc [200]... hoặc nghiên cứu thơ tống biệt của các học giả nƣớc ngoài ở Trung Hoa nhƣ Nghiên cứu thơ tống biệt của các sứ thần Triều Tiên trong thời nhà Minh [195]... Trong công trình Nghiên cứu so sánh thơ tống biệt Trung Quốc và Nhật Bản tác giả Ngũ Ái Phƣợng đã có kết luận đáng chú ý: “Thơ tống biệt của Nhật Bản mô phỏng và noi theo thơ Trung Quốc về chủ đề, phƣơng thức biểu đạt” [191, tr 8]. Tác giả của công trình Nghiên cứu thơ tống biệt của các sứ thần triều Tiên trong thời nhà Minh lại khẳng định: “ Những bài thơ tống biệt trong đó đã phản ánh những tình cảm nồng hậu giữa sứ thần Triều Tiên với bạn bè với những ngƣời cùng làm quan, cũng phản ánh mối quan hệ hữu hảo giữa họ và văn nhân và quan lại Trung Quốc. Từ việc nghiên cứu thơ tống biệt của sứ thần Triều Tiên trên các phƣơng diện chủ đề nội dung, xúc cảm, ý tƣợng, thủ pháp... có thể khiến chúng ta hiểu sâu hơn hoàn cảnh sáng tác những tác phẩm thơ ca tống biệt
12
của các sứ thần Triều Tiên” [195, tr 68]. Hƣớng nghiên cứu này đã bƣớc đầu so sánh thơ tống biệt Trung Hoa với thơ tống biệt của các nƣớc lân cận. Ngoài ra, qua nghiên cứu thơ tống biệt Trung Hoa trong mối quan hệ so sánh với thơ tống biệt của các nƣớc khác cũng chỉ ra đƣợc những vấn đề có ý nghĩa lịch sử trong quan hệ bang giao giữa Trung Hoa với các nƣớc khác.
Thứ tƣ, nghiên cứu thơ tống biệt gắn liền với việc giảng dạy ở nhà trƣờng phổ thông Trung Hoa. Một số công trình tiêu biểu cho hƣớng nghiên cứu này là: Nghiên cứu giảng dạy thơ tống biệt trong chƣơng trình ngữ văn trung học [184], Dạy đọc thơ tống biệt trong chƣơng trình ngữ văn trung học cơ sở dƣới quan điểm kết cấu chủ nghĩa [184]... Trong các nghiên cứu này, đáng chú ý là công trình Nghiên cứu giảng dạy thơ tống biệt trong chƣơng trình ngữ văn trung học của Cát Nguyệt. Từ việc nghiên cứu thơ tống biệt tác giả đã kết luận: “Việc dạy học thơ ca cổ đại đặc biệt là thơ tống biệt trong chƣơng trình Ngữ văn ở bậc trung học không nên câu nệ vào những mô thức dạy học thơ ca truyền thống mà nên chú trọng khai thác những giá trị phong phú ẩn chứa trong mỗi tác phẩm thi ca, đồng thời khiến cho những giá trị này có thể đƣợc học sinh hấp thụ” [184, tr 32]. Hƣớng nghiên cứu này mặc dù còn khá khiêm tốn nhƣng cũng cho thấy đƣợc vị trí nhất định của thơ tống biệt trong chƣơng trình Ngữ văn phổ thông ở Trung Hoa.
Nhƣ vậy, các công trình nghiên cứu về thơ tống biệt Trung Hoa phong phú và các hƣớng nghiên cứu cũng rất đa dạng. Điều này khẳng định số lƣợng, giá trị của thơ tống biệt trong văn học Trung Hoa cũng nhƣ hứng thú đặc biệt của các nhà nghiên cứu về mảng thơ này. Những nghiên cứu này là gợi ý rất quý báu cho chúng tôi khi tìm hiểu về thơ tống biệt trung đại Việt Nam nói chung, thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX nói riêng.
Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu cũng dành sự quan tâm lớn tới mảng thơ tống biệt nƣớc ngoài. Thơ tống biệt Trung Hoa đƣợc các nhà nghiên cứu đặc biệt chú ý. Tác giả Trịnh Thị Hoa trong công trình Thơ tống biệt đời Đƣờng [49] từ việc đi tìm hiểu nguyên nhân hƣng thịnh của thơ tống biệt đời Đƣờng đã đi sâu nghiên cứu hai phƣơng diện của thơ tống biệt trong giai đoạn này, đó là ý tƣợng trong thơ tống biệt bao gồm: ý tƣợng không gian, thời gian, phƣơng thức, trạng thái và ngôn ngữ thơ tống biệt đời Đƣờng với các nét đặc sắc: xu hƣớng cụ thể hóa ngôn ngữ, yếu tố tự sự trong ngôn ngữ và lạ hóa ngôn ngữ trong thơ tống biệt. Bên cạnh đó, thơ tống biệt còn đƣợc nhắc tới trong các công trình nghiên cứu chuyên biệt về văn học Trung Hoa nhƣ cuốn Về thi pháp thơ Đƣờng [90] của tác giả Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử, Nghệ thuật ngôn ngữ thơ Đƣờng [21] của tác giả Cao Hữu Công, Mai Tố Lân, Thi pháp thơ Đƣờng [42] của tác giả Nguyễn Thị Bích Hải... Các nhà nghiên cứu Việt Nam còn dành sự quan tâm đặc biệt tới một số thi phẩm thơ tống biệt Trung Hoa, tiêu biểu nhƣ: Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng của Lý Bạch, Hoài thƣợng biệt hữu nhân của Trịnh Cốc...
13
Bên cạnh văn học Trung Hoa, thơ tống biệt Hàn Quốc, Nhật Bản cũng dành đƣợc sự quan tâm nhất định của các nhà nghiên cứu Việt Nam. Ở một loạt các công trình nghiên cứu văn học Hàn Quốc nhƣ Giáo trình văn học Hàn Quốc [44], Văn học cổ điển Hàn Quốc, tiến trình và bản sắc [46], Dạo bƣớc vƣờn văn Hàn Quốc [45], tác giả Phan Thị Thu Hiền đều có nhắc tới mảng thơ tống biệt, trong đó quan tâm chú ý nhiều hơn cả là ở bài thơ Tống nhân của Trịnh Tri Thƣờng. Nhà nghiên cứu khẳng định: “Tống nhân là một trong những bài thơ nổi tiếng của Jeong Ii Sang, gắn với cảnh tình đặc trƣng của xứ sở. Hai câu đầu thể hiện nỗi buồn tiễn biệt ở bến Nam càng thấm thía khi tƣơng phản với khung cảnh bờ đê sau mƣa, cỏ tƣơi đẹp tràn đầy sức sống. Hai câu cuối lại dựa trên sự đồng nhất sông nƣớc Đại Đồng không cạn vơi qua năm tháng, sóng biếc thẳm sâu hơn vì muôn giọt lệ chia ly” [46, tr 212]. Trong cuốn Giáo trình văn học Hàn Quốc, tác giả lại một lần nữa khẳng định: “Trịnh Tri Thƣờng là nhà thơ nổi tiếng của phái Quốc phong. Mặc dù xuất thân hàn vi, ông đã khẳng định vị thế qua tài năng văn chƣơng xuất chúng. Bài thơ Tống nhân của ông đƣợc đánh giá là tuyệt tao suốt cả ngàn năm” [45, tr 193]. Trong cuốn Tổng quan văn học Nhật Bản [158], tác giả Nguyễn Nam Trân cũng nhắc tới một số bài thơ tống biệt nhƣ bài Ame no furu Shinagawa eki (Mƣa trên ga Shinagawa) của Nakano nói về cảnh tiễn đƣa các ngƣời lao động Triều Tiên về nƣớc hay bài Ikite ware kaerazan to của Shaku Chôkuu nói lên sự lo lắng của tác giả khi tiễn ngƣời con nuôi của mình đi tòng quân...
Các nhà nghiên cứu trong nƣớc cũng đã dành sự quan tâm nhất định tới thơ tống biệt Việt Nam. Công trình mang tính chất khái quát liên quan đến thơ tống biệt Việt Nam mà chúng tôi có đƣợc là chuyên luận Biệt li qua thơ ca Việt Nam [142] của Nguyễn Hữu Thì. Chuyên luận đƣợc chia thành bốn phần: Bối cảnh, tiễn biệt, ly tình, hợp tan. Tác giả đã mô tả sự thể hiện của từng phần qua một loạt những tác phẩm có chủ đề ly biệt. Chuyên luận đã đƣa ra một số luận điểm đáng chú ý. Trong phần bối cảnh, tác giả khẳng định: “Ngày xƣa, sự di chuyển có thể thực hiện bằng hai cách: đƣờng thủy và đƣờng bộ, sông và lộ, do đó cuộc tiễn biệt diễn ra tại bến thuyền hay bên đƣờng cái quan, ngoài cổng làng hoặc trƣớc một quán nƣớc, dƣới gốc cây, bóng mát. Nhƣng trong thi ca thì cảnh trí bên sông hay trên lộ là một khung cảnh ƣớc lệ, điển cố hơn là xác thực, sống động” [142, tr 5]. Lúc nói về biệt ly, nhà nghiên cứu rất tinh tế khi cho rằng: “Thực ra tiễn biệt đã bắt đầu ngay khi có quyết định xa cách, từ lúc hai bên ý thức sự chia ly sắp tới. Đã tiễn đƣa thì phải có biệt ly nhƣng nhiều khi có biệt ly mà không có tiễn biệt” [142, tr 41]. Tuy nhiên, vì đây là một công trình mang tính chất bao quát nên tác giả chỉ khảo sát và dẫn chứng một số tác phẩm thơ ca biệt li tiêu biểu và việc phân tích nhìn chung còn khái quát, ngắn gọn, chủ yếu hƣớng tới những tác phẩm mang chủ đề biệt ly của thơ ca hiện đại. Ngoài ra, một số bài thơ tống biệt tiêu biểu nhƣ Tống biệt hành - Thâm Tâm, Tống biệt - Tản Đà, Tiễn bạn xuất dƣơng
14
- Lam Sơn, Tiễn đƣa - Tố Hữu... cũng đã đƣợc nhiều nhà nghiên cứu thẩm bình. Bài thơ Tống biệt của Tản Đà đƣợc coi “là một trong những bài thơ phá thể khá gần với thơ mới” [150] . Nói về bài thơ Tống biệt hành, tác giả Chu Văn Sơn khẳng định: “...thi phẩm là sự thăng hoa đột xuất của ngòi bút Thâm Tâm” [40, tr 201]...
Những tài liệu mà chúng tôi thu thập đƣợc, mặc dù mới chỉ là tƣơng đối nhƣng cũng cho thấy thơ tống biệt là một mảng thơ lớn thời trung đại của các nƣớc Đông Á và mảng thơ này đã đƣợc nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, tìm hiểu. Ở Trung Hoa, những nghiên cứu về thơ tống biệt phong phú, khẳng định đƣợc ảnh hƣởng của dòng thơ này. Ở Việt Nam, những nghiên cứu chung về thơ tống biệt mới chỉ là bƣớc đầu. Ngoài chuyên luận mang tính chất bao quát của Nguyễn Hữu Thì, các học giả Việt Nam thƣờng chú ý hơn tới một số bài thơ tống biệt tiêu biểu. Những thành tựu của ngƣời đi trƣớc đã gợi mở việc cần thiết phải có những nghiên cứu hệ thống về thơ tống biệt. 1.2.2. Những nghiên cứu về thơ tống biệt trung đại Việt Nam
Những nghiên cứu chung về thơ tống biệt trung đại Việt Nam không nhiều. Trong những công trình nghiên cứu tiêu biểu về văn học trung đại, đâu đó, thơ tống biệt đã đƣợc nhắc tới nhƣng chủ yếu chỉ trên khía cạnh khẳng định đây là một đề tài tiêu biểu của văn học trung đại. Nhà nghiên cứu Lê Trí Viễn trong công trình Đặc trƣng văn học trung đại Việt Nam khi nói về tính cao nhã trong quan niệm sáng tác có nhắc tới một loại thơ tức tịch, tẩu bút, trong những dịp đƣa tiễn:...“Thƣờng nó nằm trong một phong thái thanh nhã phƣơng Đông là gặp dịp vui mừng, tiễn đƣa, đón rƣớc, cả lúc chia buồn, thƣơng cảm, gặp rồi chia tay... thƣờng có thơ trao tặng, kẻ đƣa ngƣời đáp, trong đó không phải không có lời hay” [167, tr 148]. Khi nói tới tính quy phạm trong văn học trung đại, ông lại một lần nữa khẳng định “Thơ xoay quanh các đề: “cảm, thuật, hoài, tặng, đề, tán, tiễn, tống, biệt, hứng, vịnh, ngâm, tức, điếu, văn…” [167, tr 230]. Trần Nho Thìn trong công trình Văn học trung đại Việt Nam dƣới góc nhìn văn hóa thì khẳng định đề tài li biệt là đề tài phổ biến trong thơ ca xƣa [146, tr 173]... Để có thể thấy rõ hơn đƣợc lịch sử nghiên cứu về thơ tống biệt trung đại Việt Nam, ngƣời viết tạm phân chia thành hai phần: thứ nhất là những nghiên cứu về thơ tống biệt thế kỵ X - XVII, thứ hai là những nghiên cứu về thơ tống biệt thế kỵ XVIII - XIX. 1.2.2.1. Những nghiên cứu về thơ tống biệt Việt Nam thế kỵ X - XVII
Giai đoạn thế kỵ X - XVII, đã có một số công trình nghiên cứu trong và ngoài
nƣớc liên quan đến mảng thơ tống biệt nhƣ sau:
Công trình nghiên cứu ngoài nƣớc mà chúng tôi hết sức chú ý đó là Nghiên cứu thơ tống biệt trƣớc đời Nguyễn ở Việt Nam của tác giả Vƣơng Hân [180]. Trong công trình này, tác giả đã đi từ những giới thuyết chung về thơ tống biệt cũng nhƣ khái lƣợc chung về thơ tống biệt trƣớc đời Nguyễn ở Việt Nam từ đó tìm hiểu sâu về chủ đề,
15
cảm xúc cũng nhƣ đặc trƣng nghệ thuật thơ tống biệt trƣớc đời Nguyễn. Ngƣời nghiên cứu đã thể hiện một bảng khảo sát khá công phu khi thống kê chủ đề tống biệt theo từng đối tƣợng: tiễn sứ thần (95 tác phẩm), tiễn sứ thần nƣớc mình đi sứ phƣơng Bắc (70 tác phẩm), tiễn thân hữu (56 tác phẩm), tiễn ngƣời trở về quê (40 tác phẩm).... Trong phần nghệ thuật, nghiên cứu chú ý vào ba phƣơng diện đó là đặc trƣng tả cảnh, đặc trƣng ý tƣợng và đặc trƣng của các điển cố trong thơ tống biệt trƣớc đời Nguyễn. Phần kết luận tác giả khẳng định: “Thông qua những nghiên cứu trên có thể phát hiện ra rằng: giống nhƣ Trung Quốc đặc biệt là khi so sánh với thơ ca đời Đƣờng, thơ tống biệt trƣớc đời Nguyễn của Việt Nam về thể tài chủ đề, kỷ xảo nghệ thuật... đều không có đƣợc sự phong phú, đa dạng nhƣ thơ đời Đƣờng, bất kể là những sáng tác, mô phỏng theo thơ đời Đƣờng hay là những tác phẩm phát huy đƣợc tính sáng tạo của ngƣời Việt Nam. Nói tóm lại, diện mạo của thơ tống biệt trƣớc đời Nguyễn ở Việt Nam có mấy đặc điểm sau đây: thứ nhất, nhìn từ góc độ thể tài, thơ tống biệt trƣớc nhà Nguyễn ở Việt Nam chủ yếu dùng thơ luật thất ngôn làm thể tài, nguyên nhân bởi mối quan hệ mật thiết với chế độ khoa cử ở Việt Nam. Kế đến nói về chủ đề thơ, thơ ca trƣớc nhà Nguyễn ở Việt Nam chủ yếu lấy thơ tống biệt của sứ thần làm chính, bao gồm thơ các sứ thần đi sứ Trung Quốc rời khỏi đất nƣớc cho đến thơ trở về từ Trung Quốc của các sứ thần. Hai bộ phận này chiếm tuyệt đại bộ phận thơ tống biệt trƣớc nhà Nguyễn ở Việt Nam, do đó có thể thấy rằng ngƣời Việt Nam rất coi trọng hoạt động đối ngoại” [180, tr 81]. Theo chúng tôi, đây là một công trình có ý nghĩa, thể hiện sự quan tâm nhất định của các nhà nghiên cứu nƣớc ngoài tới mảng thơ tống biệt trung đại Việt Nam giai đoạn trƣớc thế kỵ XVIII.
Những nghiên cứu trong nƣớc, tuy không nhiều, nhƣng cũng đã đề cập đến thơ
tống biệt. Có hai hƣớng nghiên cứu chính nhƣ sau:
Thứ nhất là những nghiên cứu về thơ tống biệt nhƣ một bộ phận của mảng thơ đi
sứ, thơ bang giao
Thơ bang giao, thơ đi sứ là một trong những mảng thơ nổi bật của văn học trung đại. Trong mảng thơ này, bên cạnh những bài vịnh cảnh gắn liền với cảm hứng về thiên nhiên, đất nƣớc, con ngƣời còn có nhiều bài thơ xƣớng họa, thù tạc giữa sứ thần hai nƣớc, trong đó có những bài thơ tiễn tặng. Chính vì thế, những công trình nghiên cứu về thơ đi sứ, thơ bang giao tuy không trực diện, nhƣng đã có những đề cập tới mảng thơ tống biệt.
Phần giới thiệu của cuốn Thơ đi sứ, nhóm biên soạn Phạm Thiều và Đào Phƣơng Bình đã có những nhận định liên quan đến thơ tống biệt. Nói về thơ đi sứ đời Trần, các tác giả đã khẳng định: “thơ tiễn sứ, tiếp sứ của các vua Trần bài nào lời cũng rất đẹp, rất khiêm nhƣờng, từ tốn nhƣng tình ý thì mạnh bạo, tự tin” [10, tr 10]. Nhóm nghiên cứu cũng chỉ ra qua các câu thơ tiếp sứ, tiễn sứ thời Trần “giữa những lời lẽ nhún
16
nhƣờng, mềm dẻo, vẫn sáng ngời những câu thơ thấm thía sâu sắc cái đẹp của đất nƣớc mình” [10, tr 25] hoặc cách Trần Nghệ Tông “mƣợn chuyện tiễn đƣa để nói lên cái tƣơi thắm của đất nƣớc mình” [10, tr 26].
Trần Thị Băng Thanh, Phạm Tú Châu trong bài nghiên cứu Vài nét về văn thơ bang giao, đi sứ đời Trần trong giai đoạn giao thiệp với nhà Nguyên - Tạp chí văn học số 6,1974 cho rằng việc “chủ khách làm thơ tặng nhau trên chiếu tiệc đã trở thành lệ của nhà Trần” [109, tr 20] và từ đó đã dẫn ra những bài thơ tống biệt rất đặc sắc trong giai đoạn này nhƣ thơ Trần Minh Tông tiễn sứ giả Tát Chỉ Ngõa và Triệu Tử Kỳ, thơ Trần Quang Khải tiễn Sài Thung....
Vu Tại Chiếu trong bài viết Thơ bang giao chữ Hán - Việt trong sự giao lƣu văn hóa Việt Nam và Trung Quốc trên lịch sử trung đại cũng đã khẳng định: “Thời trung đại, ở Việt Nam cũng nhƣ Trung Quốc, các văn nhân có một thói quen xƣớng họa thơ khi gặp mặt, uống rƣợu và tiễn biệt” [16, tr 44]. Ngƣời viết đã dẫn ra một loạt các bài thơ tống biệt của vua và các văn nhân triều Trần nhƣ Tống Bắc sứ Trƣơng Hiển Khanh của Trần Thái Tông, Tống Bắc sứ Ngƣu Lƣợng của Trần Nghệ Tông, Tống Thiên sứ An Lỗ Uy của Trần Anh Tông....
Trần Thị The trong luận án Thơ bang giao Việt Nam thế kỵ X - XIV, cũng đã ít nhiều nhắc tới thơ tống biệt. Trƣớc hết, trong phần phân loại thơ bang giao, tác giả đã xếp thơ tiễn sứ là một tiểu loại trong thơ tiếp sứ của thơ bang giao [117, tr 10]. Trong quá trình phân tích nội dung thơ bang giao thế kỵ X - XIV, tác giả luận án cũng nhiều lần nhắc tới những bài thơ tống biệt để minh chứng cho những nội dung nhƣ tinh thần tự hào về văn hóa dân tộc [117, tr 75], thể hiện bản lĩnh khí phách, trí tuệ của những chủ nhân đất Việt [117, tr 84], thái độ cảm thông chia sẻ với những ngƣời bạn phƣơng Bắc [117, tr 90], khát vọng hòa bình [117, tr 91], thái độ khiêm nhƣờng, hiếu khách [117, tr 93]... Bên cạnh đó luận án cũng đã có những đóng góp nhất định trong việc khảo sát thêm một số bài thơ đi sứ của Trung Hoa để đặt những bài thơ tống biệt Việt Nam vào những cặp xƣớng họa với các sứ thần phƣơng Bắc [117, tr 86]...
Nhƣ vậy, mặc dù không phải là mục đích tìm hiểu chính nhƣng những nghiên cứu về mảng thơ đi sứ đã ít nhiều khẳng định những bài thơ tiễn sứ giả, tiễn ngƣời đi sứ thuộc mảng thơ bang giao, thơ đi sứ.
Thứ hai là những nghiên cứu về thơ tống biệt qua những nghiên cứu về tác giả,
tác phẩm.
Nghiên cứu thơ tống biệt qua những nghiên cứu về tác giả, tác phẩm ở giai đoạn thế kỵ XV - XVII chƣa nhiều, chỉ tập trung ở những nghiên cứu về Nguyễn Bảo – tác giả sáng tác tƣơng đối nhiều thơ tống biệt. Nhà nghiên cứu Bùi Duy Tân trong Nguyễn Bảo - nhà thơ, danh nhân văn hóa đã dành một phần tiểu luận viết về Nguyễn Bảo và Châu Khê thi tập. Ở phần tiểu luận này, tác giả đã đề cập một số vấn đề liên quan tới
17
thơ tống biệt Nguyễn Bảo. Ngƣời viết đã chỉ ra đối tƣợng tiễn biệt đƣợc Nguyễn Bảo thể hiện rất nhiều đó là bạn bè, ở đó “không ít bài làm trong hoàn cảnh tiễn sứ” [106, tr 74], “...Thơ tiễn sứ của Nguyễn Bảo còn chừng vài chục bài, nhƣ thế là nhiều. Đáng quý ở đây là một quan niệm đúng về đƣờng lối bang giao tự lập, tự cƣờng, uyển chuyển, linh hoạt của nƣớc Đại Việt độc lập...” [106, tr 75]. Bùi Duy Tân cũng dùng một số bài thơ tống biệt của Nguyễn Bảo nhƣ Tiễn quan Hiệu thƣ họ Đàm phụng mệnh đi sứ Phƣơng Bắc hay bài Tiễn Giám sát họ Hoàng ở Thanh Oai đi sứ phƣơng Bắc để chứng minh cho nghệ thuật thể hiện khoáng đạt, bình dị trong thơ ông. Trong bài viết Thơ ca Nguyễn Bảo - văn bản và tác phẩm, tác giả Hà Văn Minh, Vũ Anh Tuấn đã nhấn mạnh sự thể hiện tình cảm bạn bè, tình cảm với quê hƣơng, tình cảm với cha mẹ trong thơ Nguyễn Bảo thông qua một số bài thơ tiễn nhƣ Tiễn cấp sự vƣơng công hồi hƣơng, Tiễn bạn về Nghệ An thăm đấng thân, Tiễn ngƣời về làng... Ngƣời viết cũng cảm nhận rất tinh tế về thơ tống biệt của Nguyễn Bảo: “Những vần thơ giản dị nhƣng chân tình: “Mắt dõi Hoan châu đất phía Nam, Đƣờng về một vệt núi xanh lam. Mây sà ngoài biển buồm cô lƣớt, Nƣớc nối trời sông sóng lớn tan” (Tiễn bạn về Nghệ An thăm đấng thân). Khi đọc những câu thơ này, có cảm giác phảng phất đâu đó hơi thơ Đƣờng, với cảnh tiễn biệt trên sông Trƣờng Giang, “Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu – Yên ba tam nguyệt há Dƣơng Châu”. Vẫn cảnh thiên nhiên hùng vĩ với trời mây, thậm chí còn rộng mở hơn với biển và sông, nhƣng ngƣời đọc có cảm giác quen thuộc, sự vật đƣợc nhắc đến trong câu thơ đúng là cảnh nƣớc Nam ta chứ không lạc lối trong dòng sông Trƣờng Giang của phƣơng Bắc. Vẫn là cảm giác buồn man mác khi tiễn bạn lên đƣờng nhƣng trong thơ Nguyễn Bảo, ngƣời ta thấy sự gần gũi, bình dị, mang một vẻ đẹp riêng, khác biệt với cảm giác tiễn đƣa sầu li trong thơ của Lí Bạch” [78].
Qua những khái quát ở trên, có thể khẳng định những nghiên cứu về thơ tống biệt giai đoạn trƣớc thế kỵ XVIII mặc dù không quá phong phú nhƣng cũng cho thấy đƣợc những quan tâm nhất định của các nhà nghiên cứu về mảng thơ này. Thơ tống biệt sứ giả, tống biệt ngƣời đi sứ đã đƣợc chỉ ra nhƣ một bộ phận của thơ bang giao, thơ đi sứ. Ngoài ra, một số tác phẩm thơ tống biệt tiêu biểu cũng đã đƣợc tập trung khai thác. Theo chúng tôi đây là những tƣ liệu rất có ý nghĩa khi tìm hiểu về thơ tống biệt trung đại Việt Nam. 1.2.2.2. Những nghiên cứu về thơ tống biệt Việt Nam thế kỵ XVIII- XIX.
Những hƣớng nghiên cứu về mảng thơ tống biệt ở giai đoạn trƣớc, đến giai đoạn
này vẫn tiếp tục và đã đƣợc chú ý quan tâm sâu hơn.
Thứ nhất là hƣớng nghiên cứu về thơ tống biệt qua những nghiên cứu về mảng
thơ đi sứ, thơ bang giao
Trong nghiên cứu về Thơ bang giao chữ Hán - Việt trong sự giao lƣu văn hóa Việt Nam và Trung Quốc trên lịch sử trung đại (2006), Vu Tại Chiếu đã ghi nhận nhiều bài thơ tống biệt giai đoạn này nhƣ Tiễn Đại Thanh sứ Trình Phƣơng Triều hoặc
18
Tiễn sách phong phó sứ Trƣơng Dị Bí và khẳng định “Nhiều văn nhân, quan chức Việt Nam còn xƣớng họa với các sứ thần Trung Quốc sang sứ Việt Nam trong khi đón, tiễn họ” [16, tr 38]. Nhà nghiên cứu cũng đã thống kê trong số 8 bài thơ chữ Hán của Vũ Duy Khuông ở Toàn Việt thi lục thì có tới 7 bài thơ họa vần, tiễn biệt sứ thần nhà Thanh Chu Sán.
Đỗ Thị Thu Thủy (2015) trong luận án Thơ đi sứ Việt Nam từ cuối triều Lê đến đầu triều Nguyễn (1740 - 1820), ở phần viết về các tập thơ đi sứ tiêu biểu, có nói về tập Thạc Đình di cảo của Nguyễn Huy Oánh, khẳng định có ít nhất 21 bài thơ Đƣờng luật chữ Hán viết trong các cuộc giao lƣu, gặp gỡ với quan lại - nhân sĩ Trung Hoa và sứ thần Triều Tiên, Nhật Bản và có 4/21 bài “tống” tiễn [149, tr 58]. Khi nói về Hải Ông thi tập của Đoàn Nguyễn Tuấn, ngƣời viết có nhắc tới 10 bài không phải sáng tác trong dịp đi sứ, trong đó 2/10 bài là thơ tống biệt: Tiễn Vũ thị lang Bắc sứ, Đại Quỳnh Côi tiễn Chiêu Viễn tƣớng quân chánh sứ [149, tr 61]. Luận án còn nhắc tới bài Tiễn Nhật Bản sứ hồi trình của Nguyễn Huy Oánh và khẳng định “bài thơ là một trong những tƣ liệu quý hiện còn chứng thực giao lƣu văn hóa Việt - Nhật” [149, tr 72] và bài Tiễn Cao Ly quốc sứ của Đoàn Nguyễn Thục với khẳng định bài thơ:...“tuy không đề cập trực tiếp về biển, đảo song Đoàn Nguyễn Thục cũng thể hiện cảm nhận của ông về sự xa cách địa lý giữa hai nƣớc” [149, tr 78]. Một phát hiện quan trọng của Đỗ Thị Thu Thủy với thơ thù tạc, tặng tiễn giai đoạn này đó là: “Trong thơ sứ thần cuối Lê - đầu Nguyễn, nhiều bài thơ xƣớng họa, thù tạc, tặng, tiễn đã vƣợt ra khỏi tính chất lễ nghi giao tế, thể hiện cảm xúc tự nhiên, nhiều khi sâu lắng của thứ tình cảm “thiên nhai tri kỉ” (tri kỵ chốn chân trời), “giải tƣơng thanh khí” (mối giao tình văn chƣơng) giữa những tao nhân may mắn có duyên kì ngộ...” [149, tr 79]. Cách đánh giá thể hiện đƣợc cảm nhận tinh tế, sâu sắc của ngƣời viết về mảng thơ thù tạc, tặng tiễn giai đoạn này.
Tác giả Nguyễn Thị Hòa (2016) trong luận án Nghiên cứu thơ đi sứ của Đoàn Nguyễn Thục và Đoàn Nguyễn Tuấn, đã khảo sát thêm 12 bài thơ bang giao xƣớng họa của Đoàn Nguyễn Tuấn và kết hợp thêm với 9 bài ở Đoàn Nguyễn Tuấn - Hải ông thi tập và phân chia nhƣ sau: “Thơ bang giao xƣớng họa của Đoàn Nguyễn Tuấn đƣợc chia làm hai loại họa đáp và tặng tiễn, trong đó có 10 bài họa đáp và 11 bài tặng tiễn... Thơ tặng tiễn của Đoàn Nguyễn Tuấn dành cho hai đối tƣợng chủ yếu đó là quan lại Trung Hoa và sứ thần Việt Nam mà tác giả gặp trên đƣờng đi sứ” [50, tr 56]. Ngƣời viết cũng chỉ rõ sự khác biệt về thời gian sáng tác những bài thơ họa đáp, tặng tiễn. Điều khác biệt giữa Đoàn Nguyễn Tuấn, Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích đó là Phan Huy Ích viết thơ họa đáp, tặng tiễn bạn bè khi đang trên đƣờng đi sứ còn Đoàn Nguyễn Tuấn và Ngô Thì Nhậm thì lại viết khi đã hoàn thành sứ sự trở về. Nguyễn Thị Hòa cũng khẳng định giá trị những vần thơ tặng tiễn của ba tác giả nhƣ sau: “Những vần thơ họa đáp,
19
tặng tiễn của Đoàn Nguyễn Tuấn, Phan Huy Ích, Ngô Thì Nhậm đã khẳng định những nét đẹp trong tâm hồn các thi nhân. Họ vừa giỏi thơ văn, vừa tài ứng đối. Đối với đất nƣớc, họ đã hoàn thành sứ mệnh của những bề tôi trung. Đối với quê hƣơng, họ bày tỏ tình cảm yêu mến thiết tha. Đối với gia đình, họ là những ngƣời con hiếu lễ và là những ngƣời bạn chân thành, tình nghĩa. Có thể nói, họ đã sống hết mình vì quê hƣơng, đất nƣớc, gia đình, bạn bè. Phẩm chất, tính cách và tâm hồn họ mãi ngời sáng trên những trang thơ và trong tâm trí ngƣời đọc” [50, tr 131]. Trong luận án này, ngƣời viết dành sự quan tâm cho tác phẩm Tiễn Thái Bình phủ hộ tống Nghiêu Ngộ Thái để chứng minh cho nội dung đề cao tình cảm hòa hiếu dân tộc cũng nhƣ thái độ trân trọng, quý mến những ngƣời bạn Trung Hoa.
Nhƣ vậy, qua những nghiên cứu về mảng thơ đi sứ, thơ bang giao, các tác giả cũng nhƣ các tác phẩm thơ tống biệt đã ít nhiều đƣợc chú ý tới vấn đề văn bản hoặc giá trị nhất định của một số tác phẩm tiêu biểu. Những nghiên cứu này là gợi ý quý báu cho chúng tôi trong quá trình triển khai đề tài nghiên cứu của luận án này.
Thứ hai là những nghiên cứu về tác giả, tác phẩm có đề cập tới thơ tống biệt. Tìm hiểu những bài nghiên cứu, giới thiệu về các tác giả, giá trị sáng tác cũng nhƣ những nghiên cứu về tác phẩm, chúng tôi tìm thấy những ghi nhận liên quan tới thơ tống biệt về thời gian sáng tác, về giá trị nội dung, nghệ thuật của thơ tống biệt, về một số bài thơ tống biệt nổi bật. Về thời gian sáng tác Các nhà nghiên cứu thƣờng dựa trên sự sắp xếp về thứ tự trong các tập thơ hoặc căn cứ từ nội dung của các bài thơ để suy luận về thời điểm ra đời của tác phẩm. Những suy luận này về cơ bản chúng tôi đều thấy khá hợp lý. Trong bài viết Thơ Nguyễn Văn Siêu [100], nhà nghiên cứu Trần Lê Sáng đã xác định thời điểm sáng tác một số tác phẩm thơ trong đó có những bài thơ tống biệt của Nguyễn Văn Siêu ở hai tập Lƣu lãm tập và Mạn hứng. Theo nhà nghiên cứu, những bài thơ ở Lƣu lãm tập, trong đó có các bài thơ tống biệt chủ yếu làm trong khoảng thời gian tác giả ở Huế và bài thơ kết thúc tập này cũng là một bài thơ tống biệt: Tống Bùi Hữu Trúc chi Tuyên Quang Án sát (Tiễn Bùi Hữu Trúc đi Tuyên Quang làm án sát). Với tập Mạn hứng nhà nghiên cứu cho rằng một số bài thơ, trong đó ông dẫn chứng chủ yếu là các bài thơ tống biệt nhƣ: Nhƣ Yên Phó sứ Phạm Quân Lƣợng hối thúc phỏng Vạn lý tập biệt thi kiêm tống (Phó sứ đi Yên Kinh hối thúc Phạm Lƣợng xem biệt thi Vạn lý tập và tiễn), Nghĩ Thọ Xƣơng huyện Văn hội hạ nhƣ Yên Phó sứ thi tịnh dẫn (Làm thay thơ cho Văn hội huyện Thọ Xƣơng mừng Phó sứ đi Yên Kinh), Tống Chính sứ Thị lang Nguyễn quân Hữu Lập (Tiến Chánh sứ Thị lang Nguyễn Hữu Lập), Tống Ất sứ Trần quân Văn Chuẩn (Tiễn Ất Sứ Trần Văn Chuẩn), Tống Lạng Bình Tuyên Thái Tham tán quân vụ nguyên Hƣng phủ Nguyễn Hòa Khanh (Tiễn Tham tán quân vụ nguyên Hƣng
20
phủ Nguyễn Hòa Khanh)... và cho rằng đây là những bài giúp ta hiểu thêm về chuyến đi sứ và thơ Vạn lý của Phƣơng Đình.
Nghiên cứu thơ Nguyễn Văn Lý, tác giả Trần Thị Băng Thanh đã khẳng định có một số bài thơ tống biệt của tác giả đƣợc sáng tác trong khoảng thời gian 1834 - 1841 là khoảng thời gian dƣờng nhƣ rất nhàn hạ của Chí Am: “... có vẻ công việc rất nhàn, xem hoa, cảm nhận thời gian trôi đi và thù tiếp các bạn đồng liêu. Tiễn ngƣời sung một chức nào đó thuyên chuyển đi xa, tiễn ngƣời về hƣu, tiễn ngƣời đi hiệu lực, tiễn ngƣời bị bãi chức cho về quê trong đó có cả ngƣời bạn thân thiết của ông là Ngô Thế Vinh...” [112, tr 49].
Khi tìm hiểu về các chặng đƣờng đời của tác giả Phạm Phú Thứ, nhà nghiên cứu Phạm Phú Viết, Phạm Ngô Minh đã khẳng định trong những tháng ngày rảnh rỗi khi Phạm Phú Thứ ở Lạng Giang nhà thơ bên cạnh rất nhiều hoạt động đã có hoạt động đƣa tiễn bạn bè: “Những ngày rảnh rỗi ở Lạng Giang cụ đi những đâu?...dạo thuyền trên Xƣơng Giang, tiễn bạn bè, nói chuyện với ngƣời đỗ đạt, thăm những nhà nho” [165, tr 27].
Nhƣ vậy, một số nghiên cứu trên đã cho chúng ta những căn cứ đầu tiên về vấn đề văn bản cũng nhƣ thời điểm sáng tác của một số tác phẩm thơ tống biệt. Những nghiên cứu này này cũng tạo thuận lợi lớn trong quá trình chúng tôi thống kê khảo sát cũng nhƣ tìm hiểu nội dung tƣ tƣởng của tác phẩm.
Về giá trị nội dung, nghệ thuật của thơ tống biệt. Về mặt nội dung, vấn đề nổi bật nhất đƣợc nói tới nhiều hơn cả là chủ đề về tình cảm bạn bè. Tác giả Nguyễn Thanh Tùng trong phần viết về thơ chữ Hán Cao Bá Quát (Giáo trình Văn học trung đại Việt Nam – tập 2) đã dẫn chứng một số câu thơ tống biệt để khẳng định tình cảm bạn bè chân thành, trân trọng trong thơ Cao Bá Quát: “Nhìn chung, với bè bạn, Cao Bá quát thể hiện một tình cảm chân thành, trân trọng, thân thiết. Ông quan niệm: “Thƣơng bạn nhƣ thƣơng mình” (Biệt Phạm lang trung), bởi vậy “Mỗi lần tiễn bạn là mỗi lần chiếc khăn đẫm lệ” và “Một ngày trăm lần nhớ bạn” (Thù hữu nhân úy vấn),... Đó không hề là tình bạn tầm thƣờng, đó phải là tình bạn tri âm, tri kỵ [145, tr 239]. Tác giả Nguyễn Thị Tính trong luận án Thơ chữ Hán Cao Bá Quát, những điểm mới về nội dung và nghệ thuật khi nói những điểm mới về tình cảm bạn bè trong thơ Cao Bá Quát, đã nói tới các chủ đề mà Cao Bá Quát viết về bạn bè, trong đó cũng khẳng định bên cạnh các chủ đề khác nhƣ gặp gỡ, vui chơi, xƣớng họa cùng bạn, mong bạn đến chơi, mơ đƣợc gặp bạn... chủ đề tiễn bạn là một chủ đề tiêu biểu trong sáng tác Cao Bá Quát [155, tr 81].
Ở phần giới thiệu về Phạm Phú Thứ, tác giả Phạm Phú Viết và Phạm Ngô Minh đã rất nhấn mạnh vào những bài thơ đƣa tiễn bạn bè của thi nhân. Khi viết về 5 quyển Kinh hƣơng thi lục, nhà nghiên cứu đã khẳng định: “... Đọc hơn 300 bài thơ trong Kinh hƣơng thi lục chúng ta có thể thấy hầu hết là những bài thơ hay và rất hay của cụ, dù
21
đó là thơ thù tạc, tả cảnh, tả tình, băn khoăn về việc quan, việc nƣớc, tâm sự nỗi lòng, tiễn bạn đi nhậm chức hay về hƣu trí, khi đi sứ hoặc tháp tùng vua trong những cuộc vua kinh lý, thăm dân cho biết sự tình...” [165, tr 38]. Trong đó nhấn mạnh: “Cụ Phạm làm rất nhiều thơ thù tạc, tiễn chân bạn đi nhậm chức nơi lỳ sở mới, đơn cử ở quyển 5 có các bài số 7 (Đƣa ngƣời đồng khoa thi Hƣơng là Cử nhân Phan Cung Phủ đi làm Hậu bổ ở Tây Sơn), số 8 (Tiễn cử nhân Phan Khắc Tuân đi làm Hậu bổ ở Gia Định), số 16 (Tiễn Võ Thụ Ích đi nhậm chức Tri phủ Hoài Nhơn), số 20 (Tiễn Đỗ Thứ Khanh đi nhậm chức quan huyện Tuy Hòa), số 53 (Tiễn nội các Biên Tu Lê Khiêm đi nhậm chức tri huyện Vĩnh Trí). Không chỉ mang tính xã giao, các bài thơ đều có ẩn ý khích lệ, do việc ra đi của những ngƣời bạn đồng liêu này với cụ, thảy đều quyết định bởi minh quân biết tài đức, bố trí đúng khả năng vốn có, cho nên, không cần phải dài dòng khen bạn mà chỉ nhắc bạn cẩn trọng phục mạng xứng đáng với lòng tin của triều đình (của vua) đơn giản bằng vài câu ngắn gọn: Ơn vua ban sâu, dày; Sắp tới bàn cứu giúp; Đƣa dạo tới dân ngay hay Chính sự chờ công tích; Dâng lên chốn triều đình”. [165, tr 38].
Tác giả Ngô Văn Chƣơng, trong luận án nghiên cứu về Những khuynh hƣớng tình cảm, đạo lý, xã hội trong thi ca Tùng Thiện Vƣơng [18] đã đƣa ra 6 khuynh hƣớng tình cảm trong thi ca Tùng Thiện Vƣơng đó là tự tình, tình mẹ con, tình anh em, tình bạn bè, tình thƣơng vay khóc mƣớn, tình yêu thiên nhiên và tình hoài cổ. Trong sáu khuynh hƣớng này, ở khuynh hƣớng tình bạn bè, tác giả đã dẫn chứng 8 bài thơ tống biệt : 1. Tống nhân Bắc du, 2. Tống nhân Nam hành, 3. Tống nhân tòng quân, 4. Tống khách hồi Trƣờng An kiêm ký chƣ cố nhân, 5. Tống khách chi Quảng Ngãi kiêm ký Phạm Kế Chi, 6. Tống Nguyễn Vũ, Thiện - Bích Nhân, thành tiến sĩ hậu thỉnh giả hoàn hƣơng, 7. Tống Nguyễn Lê - Quang qui Hà Nội, 8. Tống khách vãng Hà Nội.
Trong phần viết giới thiệu về tác giả Nguyễn Thông, hai nhà nghiên cứu Ca Văn Thỉnh, Bảo Định Giang đã dẫn một loạt các bài thơ tống biệt nhƣ: Ở An Giang đƣa ông Trần Tử Mẫn đổi đi quản đạo Phú Yên; Mừng ông Trần Tử Mẫn đƣợc về kinh, làm thơ đƣa; Đƣa bạn đồng châu là Trà Quý Bình đi nhậm chức tri phủ Tĩnh Gia và khẳng định: “Bên cạnh tình cảm đối với gia đình làng mạc, nhà thơ còn có tình cảm nồng nàn đối với bạn bè” [148, tr 42], “Nhƣng nhà thơ không chỉ tỏ lòng thƣơng nhớ trong phạm vi tình cảm riêng tƣ mà còn luôn luôn quan tâm đến công việc của bạn bè đang làm cũng nhƣ sự nghiệp họ đang theo đuổi” [148, tr 43], “... ngoài sự cảm thông về tình bạn, còn có sự cảm thông của những ngƣời cùng một chí nguyện thƣơng dân yêu nƣớc mà gặp phải cảnh ngộ không may bị gian thần gièm pha, nhà vua nghi kỳ” [148, tr 43]... Nguyễn Lộc trong Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỵ XVIII - hết thế kỵ XIX [72], cũng dẫn chứng một số bài thơ nhƣ Tống Bùi lang chi Gia Định, Tống nội tử Ngô Vũ Khanh Nam quy để nói về chủ đề thƣơng nhớ quê hƣơng trong thơ Nguyễn Thông.
22
Ngoài ra, một số nghiên cứu về sáng tác của các tác giả khác nhƣ Trịnh Hoài Đức, Nguyễn Án... cũng đề cập tới chủ đề tình cảm bạn bè trong thơ tống biệt. Trong Gia Định tam gia, Hoài Anh đã dẫn bài Tống Ngô Nhữ Sơn chi Quảng Đông [35, tr 61] khi viết về nội dung: Trịnh Hoài Đức là ngƣời nặng tình cảm với bạn bè. Một số bài thơ tống biệt của tác giả Nguyễn Án viết cho Phạm Đình Hổ nhƣ Thù Phạm Kiều Niên kiến ký, Tiễn Kiều Niên đông quy cố viên, Thù Kiều Niên Vân Kiều tống biệt chi tác... cũng đƣợc Phạm Ngọc Lan đƣa ra để minh chứng cho sự thể hiện của chủ đề tình bạn: “Dƣờng nhƣ Nguyễn Án có quá nhiều tâm sự không biết ngỏ cùng ai, nên ông khao khát sẻ chia, bộc bạch với những ngƣời bạn tri âm, tri kỉ. Và chính tình bạn với Phạm Đình Hổ đã phần nào bù lấp đƣợc khoảng trống này, nên khá nhiều bài thơ ông dành viết cho Phạm Kiều Niên: Thù Phạm Kiều Niên kiến ký... Tiễn Kiều Niên đông quy cố viên, Thù Kiều Niên Vân Kiều tống biệt chi tác...” [63, tr 29].
Về nghệ thuật: Giá trị nghệ thuật trong thơ tống biệt chƣa thực sự đƣợc quan tâm nhƣng qua một số tƣ liệu chúng tôi cũng thấy các nhà nghiên cứu đã ít nhiều nhắc tới nghệ thuật thể hiện trong một số bài thơ tống biệt. Khi tìm hiểu về con ngƣời Nguyễn Du qua thơ chữ Hán, Xuân Diệu đã dẫn chứng bài thơ Tiễn bạn họ Nguyễn vào Nam để nói về hình tƣợng trào phúng trong thơ chữ Hán Nguyễn Du [23, tr 63]. Ngô Văn Chƣơng, khi phân tích khuynh hƣớng cảm hứng tình bạn bè trong thơ Miên Thẩm đã chú ý tới một số đặc sắc nghệ thuật nhƣ hình ảnh chén rƣợu giã từ trong bài Tống nhân Bắc du [18, tr 203], hình ảnh thu liễu trong bài Tống nhân Nam hành [18, tr 205], nét cổ điển trong bài Tống nhân tòng quân [18, tr 208]... Nguyễn Hữu Sơn khi nghiên cứu về loại thơ trƣờng thiên của Cao Bá Quát có nhắc tới bài Tặng Thổ Khối Đỗ Vệ úy xuất Thanh Hóa [101, tr 492]... Nguyễn Thị Tính lại chú ý tới cách diễn đạt thể hiện cảm xúc cao nhƣ nhớ ngày mấy lần, nhớ hàng trăm lần... trong một số bài thơ tống biệt của Cao Bá Quát. Tác giả còn dẫn các bài nhƣ Biệt Phạm Đôn Nhân Lang trung, Châu Long tự ức biệt, Biệt Nguyễn Vĩnh Trai tinh trí Phƣơng Đình, Tống Nguyễn Tuần Phủ hồi kinh... và khẳng định: “... yếu tố khiến cho tình bạn của Cao Bá Quát có chiều sâu và sự mới mẻ so với các tác giả khác là ở cách diễn đạt cụ thể những dấu mốc thời gian, những hành động và sự chia sẻ. Vì sâu sắc, tình cảm nên tình bạn của Cao Bá Quát thƣờng có dấu mốc thời gian cụ thể” [155, tr 82]. Mai Quốc Liên còn dẫn hai bài Trà Giang thu nguyệt ca và Tống Nguyễn Trúc Khê xuất lị Thƣờng Tín để nói về thể loại bài ca, thể loại sở trƣờng - sở đắc nhất của Cao Bá Quát và nhấn mạnh: “rất khác với sự gò bó của thơ luật đăng đối... đó là những khúc ca tự do, dào dạt tình điệu lãng mạn và trùng hợp hoàn toàn với một khí chất nhƣ Cao Bá Quát” [67, tr 30]. Khi phân tích về hai bài thơ tiễn bạn về thăm cha mẹ của Phạm Phú Thứ, ngƣời viết lời giới thiệu cũng đã chú ý so sánh về mặt thể loại: “Sinh thời, cụ Phạm là ngƣời con chí hiếu, vì thế đối với cụ, cụ rất quý trọng những ngƣời biết đặt chữ hiếu đúng vị trí tam cƣơng
23
của Nho giáo. Ở bài số 36 “Tiễn Trần Đình Tùng đi Lạng Sơn thăm cha mẹ” khi cụ làm việc tại triều có nội dung thắm thiết nhƣ chính cụ từng trằn trọc đạo làm con, từng quay quắt nhớ song thân cùng nỗi mừng khôn tả đƣợc về thăm cha mẹ. Nhƣng bài 36 này chỉ đóng khung trong 8 câu theo thể cổ phong, chƣa súc tích bằng bài số 76 (Q5) với nhan đề Đỗ Lữ Tùng về thăm mẹ và dâng rƣợu thọ. Lúc này cụ xúc động làm hẳn bài trƣờng cú để tiễn bạn” [165, tr 40].
Về một số bài thơ tống biệt tiêu biểu Chúng tôi cũng thấy đƣợc những quan tâm đặc biệt hơn của các nhà nghiên cứu tới một số tác phẩm thơ tống biệt tiêu biểu. Bài viết duy nhất nghiên cứu trực tiếp tới một tác phẩm thơ tống biệt của giai đoạn này đó là bài Một tƣ liệu độc đáo về quan hệ ngoại giao Việt Nam - Nhật Bản giữa thế kỵ XVIII của tác giả Nguyễn Thanh Tùng [162]. Bài viết đề cập tới bài thơ Tiễn sứ thần Nhật Bản của Nguyễn Huy Oánh. Trong phần nghiên cứu của mình, tác giả đã chỉ ra đƣợc ba điểm độc đáo của bài thơ: Thứ nhất, bài thơ này góp thêm vào số tƣ liệu ít ỏi về mối quan hệ bang giao giữa Việt Nam và Nhật Bản và làm dày thêm tƣ liệu về quan hệ ngoại giao Việt Nam - Nhật Bản trong quá khứ, thứ hai là việc Nguyễn Huy Oánh sử dụng những từ có trong các bản từ vựng Nhật - Hán để sáng tác bài thơ tặng sứ giả Nhật Bản, thứ ba là sự hòa trộn ngôn ngữ, và qua đó là văn hóa, Nhật - Hán trong một bài thơ chữ Hán của ngƣời Việt.
Ngoài bài viết này, chúng tôi chƣa tìm đƣợc thêm bất cứ một bài viết nghiên cứu trực tiếp về một tác phẩm thơ tống biệt ở giai đoạn này, tuy nhiên chúng tôi cũng thấy một số bài thơ tống biệt đƣợc dành đƣợc sự quan tâm nhất định của các nhà nghiên cứu qua những công trình có liên quan. Tiêu biểu có thể kể tới thi phẩm của một số tác giả nhƣ sau:
Tác giả Cao Bá Quát có hai bài thơ tống biệt đƣợc chú ý quan tâm là Tống Nguyễn Trúc Khê xuất lị Thƣờng Tín và Trà Giang thu nguyệt ca. Bài thơ Tống Nguyễn Trúc Khê xuất lị Thƣờng Tín (đƣợc nhắc tới trong 9 bài viết): Cao Bá Quát - một thiên tài kì vĩ của văn học Việt Nam [67], Cuộc đời và những bƣớc đƣờng phát triển tƣ tƣởng của Cao Bá Quát [151], Cao Bá Quát với cuộc khởi nghĩa chống triều Nguyễn (1854 - 1856) [8], Cao Bá Quát, những khoảng đời và thơ [17], Cao Bá Quát - cuộc đời và văn thơ [73], Đọc thơ Cao Bá Quát [24], Cao Bá Quát, tinh thần phản kháng vẫn còn sáng soi [58], Khí phách Cao Bá Quát [14], Thơ chữ Hán Cao Bá Quát [145]. Trong những bài này, các tác giả đều thống nhất khẳng định giá trị nội dung tƣ tƣởng của tác phẩm. Mai Quốc Liên thì cho rằng bài thơ “là một kiệt tác về nhiều mặt của Cao Bá Quát [67, tr 24]. Nguyễn Tài Thƣ lại đi từ thời điểm sáng tác (khoảng thời gian 1853, 1854 khi Cao Bá Quát đang khẩn trƣơng chuẩn bị cho kế hoạch khởi nghĩa chống lại triều đình) và khẳng định: “Những bài này, mới nhìn ta tƣởng không có gì khác trƣớc, song thực ra qua cái vỏ sáo ngữ để che mắt triều đình, là nội dung sâu xa,
24
thái độ kiên quyết, ý chí sắt đá, phản ánh lên quyết tâm chống đối của ông” [151, tr 138]. Cùng với hƣớng nghiên cứu nhƣ vậy, Vũ Khiêu một lần nữa nhìn nhận cái “điên” của Cao Bá Quát trong bài thơ là “cái điên của ngƣời phản kháng lại triều đình, khinh ghét những bọn chạy theo danh lợi, luồn cúi bọn vua quan để làm hại nhân dân. Cái điên đó nói lên sự oán giận tột bậc của Cao Bá Quát đang thôi thúc ông đứng dậy hành động. Ông bắt đầu vận động những ngƣời cùng chí hƣớng với mình để đi tuyên truyền và chuẩn bị khởi nghĩa” [58, tr 449]. Bài Trà Giang thu nguyệt ca cũng đƣợc nhắc tới trong 3 bài nghiên cứu: Nguyễn Lộc trong bài Cao Bá Quát - cuộc đời và thơ văn, Nguyễn Huệ Chi trong bài Tiếp cận nghệ thuật đối với hai chủ đề độc đáo trong thơ Cao Bá Quát, Mai Quốc Liên trong bài Cao Bá Quát - một thiên tài kì vĩ của văn học Việt Nam... Nguyễn Lộc đã gọi đây là một cuộc chia tay hào hùng dƣới ánh trăng [73, tr 292], Nguyễn Huệ Chi thì cho rằng cuộc chia tay chỉ là cái cớ để nhà thơ thể hiện những tâm sự với trăng [14, tr 463]...
Trong số các bài thơ tống biệt của Nguyễn Du, bài Tống nhân đã đƣợc nhà nghiên cứu Ngô Thị Thanh Tâm cảm nhận rất tinh tế về hình ảnh “đối bóng” ở hai câu thơ Trù trƣớng thâm tiêu cô đối ảnh, Mãn sàng trệ vũ bất kham thinh: “Trong đêm tối, Nguyễn Du thƣờng tự thu mình lại với cái bóng của chính mình. “Bóng” là hình ảnh do phản chiếu mà có; hiểu theo nghĩa sâu hơn là “bóng vía” – yếu tố vô hình tồn tại trong con ngƣời, tạo ra sức mạnh, sức sống về tinh thần theo quan niệm duy tâm. Ngƣời Việt thƣờng coi trọng cái bóng của mình, luôn có ý thức gìn giữ bóng, sợ vô tình giẫm đạp hoặc chặt chém lên bóng. Với Nguyễn Du cũng vậy, cái bóng thiêng liêng còn là ngƣời bạn tâm tình cùng ông mỗi lúc đêm về ”. [105].
Số lƣợng thơ tống biệt của Phan Thanh Giản không nhiều, trong đó Tức sự - một bài chỉ có 4 câu lại đƣợc nhà biên soạn Chƣơng Thâu chú ý hơn cả: “... và ở những hoàn cảnh tiễn đƣa, xa cách, gửi tặng, với những sƣơng sớm, mƣa chiều, gió nồm, nắng hạ... ở từng chặng đƣờng trên sông, bên suối, trong nƣớc, dƣới ghềnh... đã hình thành trong nhà thơ những tứ thơ hay, những bức tranh đẹp, nhất là khi có hoạt động của con ngƣời, ngắn gọn thì 4 câu, dài thì đến 60 câu. Nhƣ bài Tức sự chỉ có 4 câu: “Tiễn khách mƣa trƣớc núi/Đƣa ngƣời gió trên sông/Về ngồi dƣới trăng sáng/Lẳng lặng nhìn tiểu đồng” (Tống khách sơn tiền vĩ/ Biệt nhân giang thƣợng phong/ Qui lai tọa minh nguyệt/ Vô ngữ đối thƣ đồng)” [116, tr 16].
Trong số 17 bài thơ tống biệt của Vũ Phạm Khải, bài thơ tiễn Nguyễn Văn Siêu đƣợc đặc biệt quan tâm bởi hoàn cảnh sáng tác của nó. Năm 1848, cần một sứ đoàn sang nhà Thanh. Vũ Phạm Khải đã đƣợc đình thần công cử tham gia, nhƣng bị các đại thần gạt đi. Trong buổi tiễn đƣa sứ bộ, trên chiếu rƣợu, ông cùng bạn tâm giao Nguyễn Văn Siêu - đƣợc cử làm Phó sứ chuyến ấy - cao đàm khoát luận về học thuật, không khỏi rƣợu vào lời ra, to tiếng khiếm nhã. Trong phần viết giới thiệu về Vũ Phạm Khải,
25
Nguyễn Văn Huyền đã cảm nhận rất sâu sắc và tinh tế về con ngƣời tác giả qua bài thơ này: “Ông nghiêm khắc với bản thân đến cả trong sinh hoạt. Đầu mối vụ to tiếng với ông Nguyễn Văn Siêu là từ trên chiếu rƣợu, khiến ông vô cùng ân hận. Bài thơ đƣa tiễn bạn đi sứ ngay sau đó là lời hối lỗi chân thành khi tự coi mình là “kẻ thiếu niên ăn sóng nói gió” và nhƣ tự hứa: Bàn tiệc ai mời Thừa chỉ mới/ Cáo lời chừa rƣợu, ghé ngồi chung” [57, tr 37].
Về thơ tống biệt Miên Thẩm, bài thơ đƣợc quan tâm nhiều hơn là Tiễn ông hiệu thục sở văn quy Trần Tử Mẫn đi vào Hàm Thuận (Trƣờng ca hành tống Văn quy sở hiệu thục Trần Tử Mẫn phó hàm Thuận. Trong bài viết Qua tập thơ Lƣơng Sơn thử tìm hiểu tƣ tƣởng yêu nƣớc của Miên Thẩm, Lƣơng An đã khẳng định “Có lẽ trong thơ tống tiễn của Miên Thẩm, chƣa có một cuộc đƣa chân nào diễn ra đầy khí thế nhƣ tiễn Trần Tử Mẫn đi vào Hàm Thuận” [2, tr 123].
Bài thơ tống biệt của Phạm Phú Thứ đƣợc cho là cảm động nhất chính là Tiễn Hồng Lô tự khanh Đỗ La Phong. Các nhà nghiên cứu đã cho rằng: “Cảm động nhất là lời lẽ trong bài thơ số 12 (Q7), cụ tiễn Hồng Lô tự khanh Đỗ La Phong - tức Đỗ Thúc Tĩnh, quê Hòa Vang, đồng châu và cũng là vị tiến sĩ đồng khoa (khoa 1847), vị lƣơng đống tin cậy nhất của vua Tự Đức lúc bấy giờ đi Nam Kỳ chiêu mộ quân đánh Pháp... Chứng kiến hành động đội đá vá trời này của bạn thâm giao Đỗ Thúc Tĩnh, cụ Phạm gửi cho bạn Đỗ bài thơ tiễn, vừa để chia sớt nỗi lo với bạn đồng thời cũng biểu dƣơng tƣ duy mang tính chiến lƣợc khi đối đầu với giặc Pháp: “Trên bộ phá lũy giặc, Dƣới sông chặn đốt tàu”. Một ông quan văn mà hiểu và cùng chia sẻ mƣu kế đánh giặc với một viên quan văn khác khi ông này vào lo việc chiến trận, mà lại là mƣu sâu thì quả cũng là điều bất ngờ với chúng ta hôm nay” [165, tr 39].
Với thơ tống biệt Nguyễn Thông, bài thơ đƣợc chú ý nhiều nhất đó là bài Đƣa vợ Ngô Vũ Khanh về Nam. Hầu hết các tác giả đều khẳng định sự thể hiện tình cảm đối với quê hƣơng qua bài thơ này. Ca Văn Thỉnh, Bảo Định Giang đã nhận xét: “... Đối với Nguyễn Thông, cuộc đi của bà vợ có làm cho ông đỡ đƣợc một phần thƣơng nhớ miền Nam nhƣng chính lúc tiễn biệt lại khơi thêm mối cảm hoài thầm thía...” [148, tr 40], Nguyễn Lộc thì cho rằng “nhà thơ rạo rực xao xuyến, vừa lo cho bà đƣờng về hiểm trở... lại vừa có cái sung sƣớng tƣởng tƣợng thấy mình cũng đƣợc về nhà với vợ...”[72, tr 674].
Tóm lại, từ kết quả nghiên cứu khoa học của những ngƣời đi trƣớc, tác giả luận
án nhận thấy:
Thứ nhất: Giai đoạn trƣớc và sau thế kỵ XVIII có hai hƣớng nghiên cứu chính đề cập tới thơ tống biệt là: nghiên cứu về thơ tống biệt qua mảng thơ đi sứ, thơ bang giao và nghiên cứu về thơ tống biệt qua những nghiên cứu về tác giả, tác phẩm. Trong đó, giai đoạn sau thế kỵ XVIII, hai hƣớng nghiên cứu này đƣợc quan tâm đầy đủ hơn. Tuy
26
nhiên, đến nay chƣa có một nghiên cứu hệ thống về thơ tống biệt trung đại Việt Nam nói chung, thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX nói riêng đƣợc công bố.
Thứ hai: Mặc dù thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX đã đƣợc nghiên cứu nhiều hơn, song về cơ bản chƣa bao quát đƣợc đầy đủ giá trị của mảng thơ này. Những nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở việc chỉ ra một số vấn đề liên quan đến công tác văn bản, thời gian sáng tác. Về mặt nội dung mới bƣớc đầu khẳng định chủ đề nổi bật về tình cảm bạn bè. Về mặt nghệ thuật mới chỉ dừng lại ở một số phân tích về hình tƣợng, thể loại. Vài bài thơ tống biệt tiêu biểu cũng đƣợc chú ý. Nhìn chung, các ý kiến mới chỉ dừng lại ở những nhận xét riêng lẻ hoặc những gợi ý mang tính khái quát, chƣa toàn diện và chuyên sâu.
Thứ ba: Chúng tôi cho rằng những giá trị nổi bật của thơ tống biệt trung đại giai đoạn thế kỵ XVIII - XIX chƣa đƣợc khai thác một cách đầy đủ. Hình tƣợng nhân vật trữ tình với đất nƣớc, quê hƣơng, gia đình, bạn hữu và với những nỗi niềm riêng tƣ đã thể hiện sâu sắc cảm xúc tống biệt. Ngoài ra, giá trị hiện thực mang tính thời sự cũng là một phƣơng diện nội dung tiêu biểu. Bên cạnh đó, các phƣơng diện nghệ thuật trong cách tạo dựng không gian, thời gian, cách sử dụng điển cố, thi văn liệu Hán học, tính kỵ sự... cũng là những đặc điểm nổi bật của dòng thơ này. Đây chính là những phần khuyết thiếu mà chúng tôi mong muốn sẽ bổ sung đƣợc trong luận án của mình.
Những thành tựu nghiên cứu của ngƣời đi trƣớc là định hƣớng vô cùng quý báu để tác giả
luận án tiếp tục tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX. 1.3. Cơ sở lý thuyết của đề tài 1.3.1. Lý thuyết loại hình học
Thuật ngữ loại hình học (tiếng Anh: typology, tiếng Pháp: typologie) đƣợc hiểu là hệ thống phân loại kiểu hình, loại hình. Đối tƣợng nghiên cứu của loại hình học là những sự việc, hiện tƣợng có chung nhau một số đặc trƣng nào đó, có thể khái quát và phân loại thành những kiểu loại riêng biệt. Loại hình học đƣợc coi là “một khoa học có đối tƣợng, mục đích và phƣơng pháp nghiên cứu đặc thù để trở thành một khoa học độc lập” [31, tr 28]. Sử dụng phƣơng pháp loại hình trong nghiên cứu “không phải đơn giản liệt kê, miêu tả sự tƣơng đồng, giống nhau bề ngoài của các hiện tƣợng văn học. Điều quan trọng hơn nhiều là phải tìm cho ra đƣợc tính quy luật của sự tƣơng đồng, giống nhau ấy...”[104, tr 44].
Đối với văn học, nghiên cứu theo phƣơng pháp loại hình giúp truy tìm những quy luật phổ biến, chi phối sự hình thành, phát triển của các loại hình văn học, chỉ ra sự đa dạng trong phong phú nhƣng thống nhất trong loại hình, lý giải cơ sở tồn tại của các hiện tƣợng văn học đó. Khoa học loại hình học đã đƣợc sử dụng từ lâu trong nghiên cứu văn học và có ý nghĩa rất lớn đối với ngành nghệ thuật này. Trên thế giới, những công trình tiêu biểu sử dụng nghiên cứu loại hình có thể kể tới là cuốn Nghệ thuật thơ ca của Aristote [3] phân loại
27
ba loại hình nghệ thuật là tự sự, trữ tình, kịch hay trong cuốn Mỹ học [43] Hegel đã phân chia các loại hình nghệ thuật thành kiến trúc, điêu khắc, hội họa, âm nhạc, thơ, bài viết “Mấy vấn đề nghiên cứu những nền văn học trung cổ của phƣơng Đông theo phƣơng pháp loại hình” của B.L. Riptin [98]... Một tác giả rất tiêu biểu nghiên cứu phƣơng pháp loại hình thƣờng đƣợc nhắc tới đó là V.I.A. Propp. Trong quá trình nghiên cứu truyện cổ tích thần kỳ [92], Propp đã phát hiện thấy sự lặp lại trong cốt truyện của nhiều nƣớc và từ đó ông đã nhóm truyện cổ tích thành những nhóm khác nhau... Ở Việt Nam, loại hình học cũng nhƣ phƣơng pháp loại hình đã đƣợc sử dụng trong nhiều công trình khác nhau của các nhà nghiên cứu nhƣ Đặng Thanh Lê với Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm (1979) [64], Trần Ngọc Vƣơng với Loại hình học tác giả văn học - Nhà Nho tài tử và văn học Việt Nam (1999) [169], công trình Tác giả nhà nho ẩn dật và văn học trung đại Việt Nam (2013) [107] của Lê Văn Tấn, Vấn đề tác giả và loại hình tác giả văn học trung đại Việt Nam (2015) [31] của Biện Minh Điền, Loại hình thơ mới Việt Nam (1932 - 1945) (2015) [104] của Nguyễn Thanh Tâm...
Có nhiều quan niệm khác nhau liên quan tới lý thuyết loại hình học với lý thuyết về văn học so sánh. Quan niệm thứ nhất cho rằng, văn học so sánh là so sánh các nền văn học của các quốc gia khác nhau. So sánh văn học là so sánh văn học trong một quốc gia trên các phƣơng diện có mối liên quan nhƣ giai đoạn văn học, tác giả, tác phẩm... Loại hình văn học đƣợc hiểu là so sánh nền văn học của các quốc gia khác nhau hoặc của chính trong một nƣớc, mặc dù không có mối liên quan nhƣng có những điểm tƣơng đồng và phƣơng pháp loại hình sẽ giúp ngƣời nghiên cứu tìm ra các nét tƣơng đồng đó. Nhƣ vậy, theo quan niệm này phƣơng pháp loại hình là phƣơng pháp nghiên cứu độc lập so với lý thuyết về văn học so sánh. Quan niệm thứ hai cho rằng lý thuyết loại hình văn học nằm trong lý thuyết văn học so sánh. Nhƣ vậy, văn học so sánh có hai loại. Một loại là so sánh nền văn học của các quốc gia khác nhau nhƣng có mối liên hệ nhất định nhƣ văn học Trung Quốc - Nhật Bản, Trung Quốc - Việt Nam... Loại khác là so sánh những nền văn học không có mối quan hệ nhƣng có những điểm tƣơng đồng về cơ sở xã hội, tƣ tƣởng, văn hóa... Những tƣơng đồng đó dẫn tới sự giống nhau về mặt loại hình. Chúng tôi nghiêng theo quan điểm thứ nhất. Ở đây, lý thuyết loại hình học đƣợc sử dụng để tìm ra những nét tƣơng đồng của một thời kỳ, hiện tƣợng, thể loại, tác phẩm, tác giả... văn học. Theo đó sẽ có các loại hình hiện tƣợng văn học, loại hình thể loại văn học, loại hình tác phẩm văn học, loại hình tác giả văn học...
Vận dụng lý thuyết loại hình học nghiên cứu thơ tống biệt là cách vận dụng khoa học và cần thiết. Bởi lẽ, kiểu loại thơ này đã đƣợc hình thành và phát triển theo dọc suốt chiều dài của lịch sử văn học trung đại. Nó không đơn thuần chỉ là những bài thơ tiễn tặng mang tính chất lễ nghi, xƣớng họa mà thực sự đã trở thành một dòng thơ vừa
28
mang những nét chung trong quy luật vận động của văn học trung đại lại vừa có những nét cá thể, cá biệt.
Xét trên bình diện cái chung, cái phổ biến có thể thấy thơ tống biệt không nằm ngoài sự chi phối về quan niệm sáng tác, loại hình tác giả cũng nhƣ những đặc trƣng nổi bật của văn học trung đại. Kiểu loại thơ này phản ánh tính chất cao nhã trong quan niệm sáng tác bởi ở một khía cạnh nào đó nó là loại thơ xƣớng họa, đƣợc viết ra trong những dịp mừng vui gặp gỡ hay buồn bã vì phải chia xa. Loại hình sáng tác thơ tống biệt cũng chủ yếu là các nhà nho hành đạo và một số vua, quan lại. Thơ tống biệt cũng phản ánh rõ đặc trƣng tính quy phạm về đề tài của văn học trung đại bên cạnh các đề tài tiêu biểu nhƣ cảm, thuật, vịnh, ngâm... Ngoài ra, thơ tống biệt, đặc biệt ở một số bài thơ tiễn sứ giả, tiễn ngƣời đi sứ hay tiễn ngƣời đi nhậm chức cũng cho thấy đƣợc tính chất “tải đạo”, “ngôn chí” của văn học trung đại. Những thi phẩm này phản ánh đƣợc lòng tự hào, tự tôn dân tộc, khát vọng cống hiến, ý chí bảo vệ chủ quyền cƣơng vực lãnh thổ... Bên cạnh đó, một số đặc trƣng nghệ thuật về ngôn ngữ, thể loại của văn học trung đại cũng đƣợc thể hiện khá rõ nét trong các sáng tác thơ tống biệt.
Vận dụng lý thuyết loại hình học, đặc biệt là soi chiếu loại hình học tác phẩm thơ tống biệt có nhiều cái riêng, nhiều nét đặc thù. Các tác phẩm này là kết quả của những cuộc đƣa tiễn giữa ngƣời ở với ngƣời đi. Giá trị lịch sử - thời sự của thơ tống biệt do đó khá rõ nét. Kiểu loại thơ này cũng mang những nét riêng trong nghệ thuật thể hiện về thời gian, không gian tống biệt. Những hình tƣợng tiêu biểu nhƣ li bôi, li liễu... là những hình tƣợng gắn liền với hoạt động tống tiễn. Thơ tống biệt cũng sử dụng nhiều điển cố và thi liệu Hán học nhƣng vận dụng nhiều những điển cố và thi liệu liên quan trực tiếp đến đề tài tống tiễn. Đặc biệt, tính chất kí sự với sự sáng rõ trong cách định danh nhân vật tiễn – đƣa, lý do hành trình đƣa tiễn, thời gian chia biệt, cách sử dụng hệ thống thi tự, các nguyên chú, nguyên dẫn và vận dụng yếu tố tự sự trong thơ là một dấu ấn nổi bật của thơ tống biệt. Nhìn nhận trên mức độ khái quát hơn, vận dụng lý thuyết loại hình học, chúng ta có thể định danh loại hình đề tài tống biệt, loại hình thể tài thơ tống biệt... Dù ở mức độ và góc độ nào, thơ tống biệt đều có đƣợc những nét đặc thù, khác biệt.
Sử dụng lý thuyết loại hình giúp chúng tôi có thể phân loại và tìm ra đƣợc những nét chung cũng nhƣ đánh giá chính xác hơn những đóng góp của các tác giả qua những bài thơ tống biệt. Hơn nữa, lý thuyết loại hình học còn giúp ngƣời viết phân tích, lý giải nguyên nhân những tƣơng đồng và khác biệt giữa các giai đoạn, giữa các tác giả, các tác phẩm thơ tống biệt. 1.3.2. Lý thuyết nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa
Nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa là hƣớng nghiên cứu dựa trên cơ sở mối quan hệ ảnh hƣởng qua lại chặt chẽ, gắn bó giữa văn học và văn hóa. Nhà nghiên cứu Trần Lê Bảo đã từng khẳng định: “Văn học chẳng những là một bộ phận của văn hóa,
29
chịu sự chi phối ảnh hƣởng trực tiếp của văn hóa mà còn là một trong những phƣơng tiện tồn tại và bảo lƣu văn hóa. Văn học chịu ảnh hƣởng trực tiếp từ môi trƣờng văn hóa của một thời đại và truyền thống văn hóa độc đáo của một dân tộc, đồng thời thể hiện cả nội hàm tâm lý văn hóa độc đáo của một thời đại và một cộng đồng dân tộc” [7, tr 5]. Hƣớng nghiên cứu văn học từ lăng kính văn hóa ở trên thế giới đã bắt đầu xuất hiện từ “những năm đầu thế kỵ XIX mà điển hình là trƣờng phái văn hóa - lịch sử gắn với quan điểm thực chứng luận của H.Taine” [149, tr 26]. Ở Việt Nam, hƣớng nghiên cứu này đã dành đƣợc sự quan tâm nhất định. Những công trình tiêu biểu có thể kể đến nhƣ Thi nhân Việt Nam (1942) của Hoài Thanh, Hoài Chân [113], Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian (1976) của Cao Huy Đỉnh [33], Giải mã văn học từ mã văn hóa (2011) [7] của Trần Lê Bảo...
Trong sự phát triển của văn học Việt Nam, văn học trung đại có mối quan hệ gắn bó và mật thiết với văn hóa thời trung đại. Nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc đã cho rằng nền văn học Việt Nam từ cuối thế kỵ XIX trở về trƣớc là “thời kì văn học truyền thống”, “tồn tại trong quỷ đạo của nền văn học phƣơng Đông, chịu ảnh hƣởng của văn hóa láng giềng và chịu sự chi phối sâu sắc của văn hóa truyền thống” [72]. Trong bài viết Tiếp cận và dạy - học văn học trung đại Việt Nam ở trƣờng phổ thông, nhà nghiên cứu Lã Nhâm Thìn cũng đã khẳng định: “Văn học trung đại gắn liền với văn hóa trung đại, văn học chứa đựng trong nó những yếu tố khác của văn hóa. Vì vậy, con đƣờng tiếp cận văn học trung đại là phải rộng về văn hóa để sâu về văn học” [144, tr 785]. Tác giả bài viết cũng nhấn mạnh: “Những kiến thức về văn hóa trung đại có thể chia thành hai bộ phận, vừa độc lập, vừa liên quan mật thiết với nhau. Đó là bộ phận văn hóa bản địa, kết tinh ở văn hóa dân gian và bộ phận văn hóa ảnh hƣởng tiếp thu từ nƣớc ngoài mà rõ nhất là ảnh hƣởng tiếp thu từ Nho giáo, thứ đến Phật giáo, thứ nữa là Đạo giáo” [144, tr 786]. Nhƣ vậy, có thể khẳng định đƣợc rằng văn học trung đại chịu sự chi phối mạnh mẽ của văn hóa truyền thống cũng nhƣ văn hóa Trung Hoa. Những yếu tố văn hóa này đƣợc thể hiện sâu sắc từ phƣơng thức sáng tác cho tới nội dung sáng tác. Con đƣờng tiếp cận những tác phẩm văn học trung đại từ góc nhìn văn hóa là hƣớng tiếp cận khoa học và thiết thực. Nhận thức sâu sắc về vấn đề đó, đã có nhiều công trình chuyên sâu về văn học trung đại đi theo hƣớng nghiên cứu này nhƣ tìm hiểu Truyện Kiều và thời đại Nguyễn Du (1956) [164] của Trƣơng Tửu, Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại (1995) [54] của Trần Đình Hƣợu, Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều (2003) [85] của Phan Ngọc, Văn học trung đại Việt Nam dƣới góc nhìn văn hóa (2003) [146] của Trần Nho Thìn...
Là một bộ phận của văn học trung đại, thơ tống biệt cũng chịu sự ảnh hƣởng rất sâu sắc từ các yếu tố văn hóa bản địa và tiếp thu. Dƣới góc nhìn văn hóa có thể lý
30
giải sự hình thành thơ tống biệt trên một số yếu tố cơ bản về văn hóa đƣa tiễn, đời sống tâm lý, văn hóa khoa cử... Văn hóa đƣa tiễn vốn là văn hóa có truyền thống lâu đời của Trung Hoa. Những nghi thức tiễn biệt, các phong tục xuất hành, các hoạt động chúc tụng, thiết tiệc, các phƣơng thức chia tay nhƣ bẻ liễu, uống rƣợu, ca hát, làm thơ tặng nhau... vốn là những nét đẹp của văn hóa Trung Hoa. Trong quá trình tiếp biến, giao lƣu văn hóa đặc biệt là ảnh hƣởng của 1000 năm Bắc thuộc, những truyền thống văn hóa đó, theo một cách rất tự nhiên, cũng đã trở thành nét đặc trƣng trong văn hóa đƣa tiễn của ngƣời Việt. Mặt khác, bản thân ngƣời Việt vốn cũng rất coi trọng sự xuất hành. Tâm lí ƣa ổn định và lối sống quần tụ đã khiến cho việc dịch chuyển không gian sống luôn là sự kiện quan trọng trong đời sống của con ngƣời. Thơ tống biệt, trƣớc hết là sản phẩm đƣợc hình thành từ chính đời sống tâm lý đặc trƣng đó kết hợp với việc tiếp thu các nghi thức, phong tục xuất hành của Trung Hoa. Bên cạnh đó, thơ tống biệt cũng là sự phản ánh chân thực và rõ nét văn hóa về khoa cử, bổ nhiệm, miễn nhiệm, đi sứ, tiếp sứ, văn hóa giao thông, di chuyển thời trung đại.
Một số vấn đề về nội dung cảm xúc và nghệ thuật đặc trƣng của thơ tống biệt cũng có thể lý giải đƣợc dƣới góc nhìn văn hóa. Thơ tống biệt trƣớc hết là một hành vi văn hóa thể hiện lối sống quần tụ, gắn bó, quan tâm sâu sắc lẫn nhau trong đời sống tình cảm của ngƣời Việt. Một trong nội dung cảm xúc nổi bật của thơ tống biệt đó là tình cảm bịn rịn, lƣu luyến, là những lời chúc mong ƣớc tốt lành của ngƣời tiễn dành cho ngƣời đi. Tâm lý ngại dịch chuyển cũng nhƣ tâm thức luôn hƣớng về quê hƣơng khiến cho nhân vật trữ tình trong thơ tống biệt thƣờng hiện lên với cảm thức cô đơn, lạc loài nơi đất khách quê ngƣời. Bên cạnh đó, cách tạo dựng không gian, thời gian chia tay, cách thể hiện các hình tƣợng nghệ thuật đặc trƣng... trong thơ tống biệt đều phản ánh đậm nét các yếu tố văn hóa. Nếu không xuất phát từ những góc nhìn văn hóa thì khó lý giải thấu đáo những vấn đề đƣợc đặt ra trong thơ tống biệt trung đại. Do đó, trong luận án này, hƣớng tiếp cận một số vấn đề từ góc nhìn văn hóa là chìa khóa để chúng tôi lý giải và thẩm bình một phần nội dung cảm xúc cũng nhƣ giá trị nghệ thuật của các bài thơ tống biệt.
Lý thuyết loại hình học và Lý thuyết nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa là hai trong số rất nhiều lý thuyết khác nhau để tiếp cận các vấn đề văn học. Trên cơ sở vận dụng linh hoạt các lý thuyết đã nêu cùng với việc kế thừa các kết quả nghiên cứu của ngƣời đi trƣớc, chúng tôi tiếp tục nghiên cứu và tìm hiểu thêm những nét đặc sắc của thơ tống biệt trung đại Việt Nam giai đoạn thế kỵ XVIII - XIX.
31
Tiểu kết Chƣơng 1
Thơ tống biệt đƣợc hiểu là thơ của ngƣời ở lại, viết để tiễn biệt một ngƣời khác khi có sự dịch chuyển về không gian sống. Trong cách hiểu về khái niệm thơ tống biệt cần khẳng định chủ thể trữ tình trong các bài thơ này phải là ngƣời tiễn/ngƣời ở lại. Ở Trung Hoa, những nghiên cứu về thơ tống biệt tƣơng đối phong phú, đa dạng, không chỉ dừng lại ở những nghiên cứu về tác giả, tác phẩm mà còn nghiên cứu tiến trình phát triển của dòng thơ này trong lịch sử văn học hoặc tìm hiểu phƣơng pháp giảng dạy thơ tống biệt trong nhà trƣờng. Điều này cho thấy sự quan tâm đặc biệt của các học giả Trung Hoa với mảng thơ tống biệt. Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu cũng đã bƣớc đầu dành sự quan tâm tới mảng thơ tống biệt nói chung, thơ tống biệt trung đại nói riêng. Có hai hƣớng nghiên cứu văn học trung đại có liên quan tới thơ tống biệt. Thứ nhất là nghiên cứu thơ tống biệt nhƣ là một bộ phận của thơ bang giao, thơ đi sứ. Thứ hai là một số nghiên cứu về tác giả có sáng tác thơ tống biệt đã ít nhiều khẳng định đƣợc đặc sắc nội dung và nghệ thuật của dòng thơ này. Mặc dù ở giai đoạn thế kỵ XVIII – XIX hai hƣớng nghiên cứu này đã đƣợc quan tâm hơn, tuy nhiên, về cơ bản, những đánh giá về giá trị và đóng góp của thơ tống biệt trung đại nói chung, thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX nói riêng vẫn còn rất nhiều vấn đề còn bỏ ngỏ, cần có những nghiên cứu chuyên sâu, có hệ thống hơn. Nghiên cứu đề tài luận án, lý thuyết loại hình học và lý thuyết văn hóa học đã đƣợc sử dụng nhƣ là cơ sở khoa học quan trọng để khai thác đề tài. Sử dụng lý thuyết loại hình học, ngƣời viết phân loại, nhận diện các phƣơng diện khác nhau, sự đa dạng trong thống nhất của dòng thơ này. Lý thuyết nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa đƣợc vận dụng để lý giải và phân tích những ảnh hƣởng cũng nhƣ sự thể hiện của văn hóa trung đại trong thơ tống biệt. Kế thừa thành tựu nghiên cứu của ngƣời đi trƣớc, dựa trên hai cơ sở lý thuyết tiêu biểu, luận án đặt ra những vấn đề cần nghiên cứu bài bản về thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX, bao gồm: nghiên cứu cơ sở hình thành, phát triển, khảo sát, phân loại, khái quát những đặc điểm, thành tựu về nội dung, nghệ thuật của thơ tống biệt giai đoạn này. Tất cả những nội dung trên sẽ đƣợc cụ thể hóa trong các chƣơng tiếp theo.
32
CHƢƠNG 2 TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH VÀ THỐNG KÊ, PHÂN LOẠI THƠ TỐNG BIỆT VIỆT NAM THẾ KỶ XVIII - XIX
Thơ tống biệt đƣợc đƣợc hình thành và phát triển từ những tiền đề đặc biệt về văn hóa tƣ tƣởng, văn học và lịch sử. Trong Chƣơng 2, phần đầu tiên của chƣơng sẽ phân tích các tiền đề hình thành và phát triển thơ tống biệt Việt Nam thế kỵ XVIII - XIX. Phần sau của chƣơng sẽ khái lƣợc về diện mạo về thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX, vấn đề liên quan trực tiếp đến nội dung nghiên cứu của luận án. 2.1. Tiền đề hình thành thơ tống biệt Việt Nam thế kỷ XVIII - XIX 2.1.1. Tiền đề lịch sử 2.1.1.1. Sự khủng hoảng của chế độ phong kiến
Giai đoạn thế kỵ XVIII - XIX là giai đoạn có nhiều biến động và thay đổi của xã hội phong kiến Việt Nam. Ở Đàng Ngoài, triều đình vua Lê chỉ là hƣ danh và vua Lê thực chất chỉ là bù nhìn. Toàn bộ quyền hành trong nƣớc tập trung vào tay họ Trịnh. Điều này dẫn tới sự đảo lộn của trật tự xã hội truyền thống. Sau khi cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn kết thúc, nhà Nguyễn củng cố quyền lực thống trị ở Đàng Trong. Với một số chính sách nhƣ mở rộng buôn bán giao thƣơng, khai phá các vùng đất mới... tình hình ở Đàng Trong bƣớc đầu ổn định và phát triển hơn. Mặc dù vậy, chính sách thuế khóa hà khắc và tăng cƣờng đánh thuế ở hầu hết các mặt hàng trong cả nƣớc cùng với việc ruộng đất, kể cả những vùng đất khẩn hoang tập trung vào tay cƣờng hào, địa chủ khiến cho nông nghiệp không phát triển. Nạn đói, lƣu vong diễn ra thƣờng xuyên. Đầu thế kỵ XVIII, một nạn đói dữ dội hoành hành, giá lúa gạo tăng vọt. Đỉnh điểm của nạn đói vào năm 1741, có nơi, số ngƣời chết lên đến 9 phần 10. Những mâu thuẫn về vấn đề ruộng đất, chính sách thuế khóa hà khắc, nạn đói, nạn trộm cƣớp, nạn lƣu vong, sự lộng hành của giai cấp thống trị... đã làm cho rất nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra, tiêu biểu là khởi nghĩa Nguyễn Danh Phƣơng, Nguyễn Hữu Cầu, Hoàng Công Chất, Lê Duy Mật... Đến giai đoạn đầu thế kỵ XIX, các cuộc khởi nghĩa vẫn lan tràn khắp cả nƣớc, tiêu biểu có thể kể tới cuộc khởi nghĩa của Phan Bá Vành, Lê Duy Lƣơng, Lê Văn Khôi, Nông Văn Vân, Lâm Sâm, Cao Bá Quát... Sự khủng hoảng mọi mặt của chế độ phong kiến đã tạo nên những bất ổn rất lớn trong đời sống xã hội. Nhƣ một quy luật, lịch sử càng loạn lạc thì sẽ càng nhiều cuộc tống tiễn, chia ly. Mặt khác, trong hoàn cảnh xã hội nhƣ vậy, việc di chuyển tiềm ẩn nhiều nguy hiểm, rủi ro. Con ngƣời không đƣợc đảm bảo an toàn khi họ tách ra khỏi cộng đồng làng xã quen thuộc. Điều đó đã hình thành nên tâm lý sợ đi, lo âu khi phải di chuyển của con ngƣời trong giai đoạn này. Nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn khi bàn về không gian xã hội trong văn học truyền thống đã nói tới tâm lý sợ hãi của con ngƣời khi đi xa và chỉ ra một trong những
33
nguyên nhân đến từ những “bất công và tội ác về mặt xã hội hay sự yếu kém của hệ thống luật pháp” [146, 28]. Trần Ngọc Thêm đã tổng kết ngƣời Việt phần lớn di chuyển khi bị bắt buộc: tù binh bị bắt đi, đi sứ, đi lánh nạn [118]. Tâm lý sợ hãi khi phải di chuyển làm cho những cuộc lên đƣờng đều trở thành một việc rất hệ trọng với cả ngƣời đi và ngƣời tiễn. Có lẽ, đây cũng chính là một trong những nguyên nhân làm cho thơ tống biệt giai đoạn này đƣợc sáng tác nhiều. 2.1.1.2. Điều kiện giao thông, di chuyển thời trung đại
Vào thời phong kiến, việc di chuyển, đi lại nhìn chung khá khó khăn. Có hai hệ thống giao thông chính là bằng đƣờng bộ và đƣờng sông. Ngƣời ta ƣớc tính, di chuyển theo đƣờng bộ, nếu đi dọc chiều dài đất nƣớc sẽ phải mất cả năm trời. Tốc độ di chuyển trung bình của ngƣời Việt khá chậm, nếu đi bộ, tối đa khoảng 4 - 5 km/h, nếu đi ngựa khoảng 15 - 20 km/h. Phƣơng tiện di chuyển bằng đƣờng bộ chủ yếu là đi bộ hoặc đi ngựa và “thực ra con ngựa Việt bé nhỏ, ngƣời ta cƣỡi để khỏi tự đi bộ, chứ không phi mà cũng đi thủng thẳng nhƣ ngƣời chân đất” [153]. Ngoài sử dụng ngựa, ngƣời trung đại còn sử dụng sức kéo của trâu, bò, voi... Tuy nhiên, các phƣơng tiện di chuyển này cũng rất hạn chế về tốc độ. Phƣơng tiện đi lại khó khăn, chất lƣợng đƣờng lại kém, hầu hết là đƣờng đất. Những con đƣờng đất đƣợc hình thành bằng cách đắp đất ở giữa cao lên và đào những con mƣơng dẫn nƣớc ở hai bên đƣờng. Tuy nhiên, với nhu cầu đi lại hàng ngày cộng với việc khí hậu Việt Nam nhiều mƣa bão lũ nên chất lƣợng những con đƣờng đất nhìn chung chƣa đảm bảo cho việc di chuyển. Chính vì thế, mỗi cuộc di chuyển là một sự kiện lớn trong cuộc đời con ngƣời bởi nó tiềm ẩn yếu tố nguy hiểm không lƣờng trƣớc đƣợc. Do đó, những cuộc chia tay cũng bịn rịn, lƣu luyến hơn. Cũng do đƣờng xấu, tốc độ di chuyển chậm nên ngày xƣa ngƣời ta thƣờng lập những trạm dừng chân. Khoảng 10 dặm có một trạm nghỉ gọi là trƣờng đình. Cũng có nơi khoảng 5 dặm đã lập một trạm dừng nghỉ gọi là đoản đình. Thơ tống biệt trung đại Việt Nam ghi nhận nhiều bài thơ tống tiễn đƣợc sáng tác từ những trạm dừng nghỉ nhƣ thế. Có thể là những cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên trên đƣờng khi hai ngƣời bạn, hai ngƣời cùng quê... cùng ngừng nghỉ ở trạm dừng đỗ. Sau một đêm hai ngƣời chia hai ngả và làm thơ từ biệt. Chính các trạm dừng nghỉ này là nơi đánh dấu mốc không gian đƣa tiễn cho nhiều cuộc tiễn biệt.
Đặc điểm địa hình của Việt Nam là có đƣờng bờ biển dài hàng nghìn cây số. Từ Bắc vào Nam có hệ thống sông ngòi chằng chịt cắt ngang. Bắc Bộ vùng đất thấp, mƣa nhiều, miền Trung nhiều bão lũ, miền Nam, đặc biệt vùng đồng bằng sông Cửu Long hệ thống sông dày đặc. Sống nhiều trong môi trƣờng sông nƣớc, đã định hình cho con ngƣời một phƣơng thức di chuyển thuận lợi, phù hợp với môi trƣờng đó là giao thông bằng đƣờng sông. Chính vì thế giao thông đƣờng sông khá phát triển. Có rất nhiều tuyến giao thông bằng đƣờng sông ở cả ba miền đi qua những con sông chính nhƣ sông Hồng,
34
sông Đà, sông Hƣơng và hệ thống các con sông ở đồng bằng sông Cửu Long. Ngƣời trung đại đã sử dụng rất nhiều phƣơng tiện giao thông nhƣ đò, bè hoặc các loại thuyền (thuyền thúng, thuyền độc mộc, thuyền đóng ván). Năm 1839, thời vua Minh Mạng còn xuất hiện thuyền máy hơi nƣớc. Bên cạnh đó, do địa hình sông rạch, kênh suối, thời trung đại còn có rất nhiều cây cầu bắc ngang qua sông, tạo điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển. Các cây cầu này cũng rất đa dạng nhƣ cầu khỉ, cầu tre, cầu dừa, cầu treo, cầu gỗ, cầu đá... Mặt khác, do giao thông đƣờng bộ có nhiều hạn chế nên giao thông đƣờng sông càng phát triển. Nhiều cuộc di chuyển không sử dụng đƣờng bộ mà sử dụng đƣờng sông và không gian sông nƣớc cùng hình tƣợng chiếc cầu đã trở thành những tín hiệu nghệ thuật đặc sắc trong các bài thơ tống biệt.
Điều kiện giao thông di chuyển thời trung đại tạo nên những rào cản về khả năng khắc phục không gian của con ngƣời. Chính vì thế, thơ tống biệt ra đời vừa phản ánh văn hóa đƣa tiễn của ngƣời Việt cổ, vừa cho thấy những dấu ấn văn hóa vật chất của họ. So sánh với điều kiện vật chất thời hiện đại, có thể lý giải tại sao thơ tống biệt dần dần biến mất trong văn học hiện đại. Về vấn đề này nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn cũng đã chỉ ra: “Nếu so sánh không gian xã hội thời trung đại với không gian xã hội hiện đại, dễ thấy trình độ tổ chức kỷ thuật của xã hội hiện đại cao hơn. Đƣờng sá, cầu cống, các phƣơng tiện liên lạc khác nhau (từ cánh nhạn, thƣ tín, dây thép – điện thoại, tiến đến bƣu điện liên lạc, vô tuyến và cuối cùng là thực tại ảo của thế giới Internet...), nghĩa là khả năng con ngƣời khắc phục những cản trở không gian khác nhau bằng kĩ thuật, công nghệ đã thay đổi mạnh mẽ trong thế kỵ XX. Thay đổi tƣơng ứng với trình độ tổ chức này là sự thay đổi của đề tài và cảm hứng về xã hội trong thơ văn các thời đại khác nhau. Chẳng hạn, đề tài tống biệt, tâm trạng tha hƣơng nặng nề, cảm giác sợ đi xa vốn rất phổ biến trong quá khứ đang dần biến mất trong văn học hiện đại” [146, tr 28]. 2.1.1.3. Một số chính sách của nhà Nguyễn
Một số chính sách của nhà Nguyễn ở giai đoạn thế kỵ XVIII – XIX cũng tạo nên nhiều cuộc di chuyển, đi lại trong cả nƣớc. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho thơ tống biệt ở giai đoạn này phát triển.
Thứ nhất là sự luân chuyển nhân sự liên quan đến chính sách lƣu quan của nhà Nguyễn. Theo Đại Nam thực lục vua dụ Nội các rằng: “Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng, nhiều lần không yên, đều do các thổ huyện, thổ châu, địa thế xa vắng, gián hoặc có thổ ty không tốt, dễ hay nổi loạn. Vậy không thể không có một phen xếp đặt, để tính chuyện yên ổn lâu dài. Vậy ra lệnh cho đình thần hết lòng bàn tính. Hoặc nên tùy chỗ chia đặt thổ quan, hoặc nên liệu định điều bổ và đổi đặt lƣu quan, xen với thổ quan để ràng buộc gìn giữ lẫn nhau. Làm nhƣ thế nào có thể lâu dài mà không sinh tệ, thì bàn cho thỏa đáng rồi tâu lên” [96, tr 582]. Theo quy định của chính sách này thì “nơi nào địa thế hơi gần mà lam chƣớng thuộc hạng nhẹ thì cho lấy cử nhân, giám
35
sinh, tú tài phân phái chờ bổ, chiểu khoản để bổ... Đối với các hạt mà địa thế xa xôi hoặc tuy hơi gần nhƣng điều kiện tự nhiên (lam chƣớng) khó khăn thì phải dò địa phƣơng để chọn bổ... Theo quy định từ đó về sau, nếu có khuyết chức quan nào thì tâu lên để tiếp tục đƣợc phân bổ. Các quan ở địa phƣơng nếu xét thấy có ngƣời địa phƣơng thanh liêm, cẩn thận, làm việc chăm chì thỉ tâu lên nhà vua” [82, tr 50]. Chính sách lƣu quan cũng chỉ rõ: “Ngƣời đƣợc bổ nhiệm phải thực hiện thay đổi cƣ trú, ngƣời châu này đem bổ châu khác, không đƣợc bổ ngƣời trong châu” [82, tr 51]. Chính sách lƣu quan đã tạo nên số lƣợng lớn các cuộc di chuyển nhân sự trong nội bộ chính quyền phong kiến để nhậm chức mới, hay thay đổi chức vụ với nhiều lý do khác nhau. Mặt khác, có thể thấy thực chất chủ trƣơng chính của chính sách lƣu quan là thƣờng xuyên điều chuyển các quan lại vùng xuôi lên trấn giữ các tỉnh miền núi phía Bắc để hạn chế tối đa quyền lực của các tù trƣởng dân tộc thiểu số, vừa để củng cố sức mạnh triều đình vừa giúp việc thu thuế đƣợc thuận lợi hơn. Điều này đã gây ra phản ứng từ các đồng bào dân tộc thiểu số. Một số cuộc nổi dậy đã diễn ra, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của Nông Văn Vần vào năm 1833. Cuộc khởi nghĩa đánh chiếm các tỉnh thành Tuyên Quang, Cao Bằng và đánh rộng ra Thái Nguyên, Lạng Sơn, Quảng Yên. Do đó, nhà Nguyễn đã nhiều lần phải cử quan lại đến các khu vực này để dẹp các cuộc khởi nghĩa nông dân. Một số các cuộc tống tiễn cũng xuất phát từ lý do đó.
Thứ hai là sự cắt cử ngƣời bảo vệ biên cƣơng phía Bắc. Ở phía Bắc, công cuộc bảo vệ bờ cõi giai đoạn này khá phức tạp, đặc biệt là sự xuất hiện của các nhóm Thanh phỉ, đó là “những nhóm thổ phỉ ngƣời Thanh xâm nhập vào Việt Nam qua đƣờng biên giới trên bộ với số lƣợng khá đông đảo, trang bị vũ khí khá mạnh, tạo sự bất ổn dọc biên giới Việt Nam - Trung Quốc, đặc biệt là các tỉnh Cao Bằng, Thái Nguyên, Hƣng Hóa, Tuyên Quang của Việt Nam...” [82, tr 82]. Các nhóm Thanh phỉ này hoạt động ngày càng mạnh mẽ đặc biệt ở thời Thiệu Trị và Tự Đức. Có hai bộ phận của nhóm này: “Bộ phận đầu tiên là những nông dân bị bần cùng hóa vì chiến tranh, loạn lạc, suy thoái kinh tế và tràn xuống vùng Bắc Việt Nam thành phỉ, bộ phận thứ hai là những quan binh bất mãn với triều đình Mãn Thanh, bị truy quét, chạy trốn xuống vùng biên giới Việt Nam và ly khai thành thổ phỉ. Đặc biệt khi phong trào Thái bình thiên quốc thất bại, một số lãnh tụ và tàn quân của phong trào này đã chạy xuống vùng biên giới Việt Nam, các nhóm phỉ này đã tiến hành cƣớp bóc tàn phá nhà cửa của nhân dân, gây cho dân chúng địa phƣơng những tổn thất nặng. Tiêu biểu là các nhóm quân Cờ Đen do Lƣu Vĩnh Phúc đứng đầu, quân Cờ Vàng của Hoàng Sùng Anh, Cờ Trắng của Bàn Văn Nhị...” [82, tr 81]. Để đối phó với các nhóm Thanh phỉ nhà Nguyễn đã đƣa ra rất nhiều biện pháp, trong đó biện pháp đƣợc sử dụng triệt để là tấn công quân sự: “lực lƣợng quân đội triều đình và quân đội địa phƣơng đều đƣợc huy động nhằm tập trung đánh vào các căn cứ của các toán phỉ” [82, tr 84]. Đây cũng là một trong những lý do
36
khiến cho giai đoạn này có nhiều bài thơ tiễn ngƣời di chuyển lên các khu vực biên giới phía Bắc để bảo vệ bờ cõi, lãnh thổ.
Thứ ba là sự điều động phân công quan lại gắn liền với công cuộc bảo vệ và mở rộng lãnh thổ phía Nam. Lịch sử Việt Nam ghi nhận chính sách Nam tiến của các triều đại phong kiến ngay từ thời nhà Lý. Vua Lý Thánh Tông, Hồ Hán Thƣơng, vua Lê Thánh Tông đều đã từng chinh phạt Chiêm Thành. Dƣới thời chúa Nguyễn, chính sách này càng đƣợc củng cố. Từ Nguyễn Hoàng, Nguyễn Phúc Chu, Nguyễn Phúc Khoát cho tới Nguyễn Ánh đã có những cuộc chinh phạt để mở rộng bờ cõi đến tận Bình Dƣơng, Bình Phƣớc, Côn Đảo, Phú Quốc... Vào giai đoạn thế kỵ XIX, nhà Nguyễn đã tiến hành chinh phạt Cao Miên và Ai Lao. Năm 1835, diện tích Việt Nam vô cùng rộng lớn, bao gồm vùng đất Ai Lao (tức Lào ngày nay), hầu hết phần đất của Campuchia, diện tích rộng 575.000km2, gấp 1,7 lần so với Việt Nam bây giờ [52]. Bên cạnh công cuộc mở rộng lãnh thổ là công cuộc cắt cử ngƣời đi bảo vệ nhằm khống chế sự nổi dậy của nhân dân địa phƣơng, đặc biệt ở những vùng đất thu phục đƣợc của Ai Lao và Cao Miên. Công cuộc mở rộng và bảo vệ lãnh thổ phía Nam đã tạo ra một lƣợng lớn những cuộc di chuyển, cắt cử quan lại, binh sĩ... đến những vùng miền biên cƣơng xa xôi, hẻo lánh của đất nƣớc. Điều đó đồng nghĩa với việc có rất nhiều những cuộc tống tiễn, tiễn biệt. 2.1.2. Tiền đề văn hóa, tƣ tƣởng 2.1.2.1. Đời sống tâm lý và văn hóa đƣa tiễn của ngƣời Đông Á
Ngƣời Việt Nam mang đậm nét văn hóa Đông Á có tâm lý sống khép kín, ƣa sự yên tĩnh, thích sự yên ổn. Ngƣời Đông Á quan niệm: an cƣ lạc nghiệp. Một trong ba việc lớn của ngƣời đàn ông thời xƣa đó là làm nhà bởi quan niệm phải có nhà thì mới yên tâm làm ăn, phát triển kinh tế, ổn định cuộc sống gia đình. Tâm lý ƣa ổn định tạo nên lối sống quần tụ, không gian sống khép kín, có khi cả làng đều cùng một họ, đều là anh em, chỉ khác nhau ở chi trên, nhánh dƣới. Đặc biệt với ngƣời con gái, nếu lấy chồng, ở gần cha mẹ thì cha mẹ mới an lòng, vui vẻ: Có con mà gả chồng gần/ Có bát canh cần nó cũng đem cho/ Có con mà gả chồng xa/ Một là mất giỗ, hai là mất con. Có không ít những câu ca đẫm lệ của những cô gái phải lấy chồng xa gia đình: Chiều chiều ra đứng ngõ sau/ Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều. Tâm lý thích ở gần, ƣa sự ổn định đi liền với tâm lý ngại di chuyển, ngại đi xa, sợ đi xa. Trong tiềm thức của ngƣời Việt xƣa, đi là rời khỏi nơi chốn quen thuộc, nơi chốn an toàn. Ra đi là tách rời khỏi cộng đồng, phải tự lập, là sẽ gặp khó khăn gian khổ. Đi sẽ đƣợc tiếp xúc, va chạm và trải nghiệm những cái mới. Điều đó có thể thú vị nhƣng cũng tiềm ẩn rất nhiều bất an, nguy hiểm. Thời trung đại, những cuộc di chuyển qua ngày đƣợc quan niệm là đi xa và đó là cả một vấn đề. Bên cạnh tâm lý ƣa ổn định là lối sống trọng tình nghĩa, gắn bó, hòa thuận giữa làng trên xóm dƣới. Chính vì vậy, mỗi khi có sự di chuyển, thay đổi của một ai đó thì lập tức đã trở thành sự kiện đƣợc cả làng quan tâm. Đi thi hay đi nhận chức
37
hoặc đơn giản là một chuyến đi xa, những ngƣời hàng xóm láng giềng đều đến hỏi thăm, chúc may mắn, chúc lên đƣờng thƣợng lộ bình an, chân cứng đá mềm... Có lẽ vì vậy mà thơ tống biệt là một phần không thể thiếu trong đời sống văn hóa tinh thần của ngƣời Đông Á, đặc biệt là ngƣời Đông Á xƣa.
Tiễn biệt là một trong những nét văn hóa đẹp, tiêu biểu của ngƣời Đông Á. Ở Trung Hoa, văn hóa đƣa tiễn đã có truyền thống lâu đời. Theo Trịnh Thị Hoa ngay từ thời Tiên Tần đã có nghi lễ xuất hành. Trƣớc khi xuất hành, ngƣời đi phải làm lễ tế lộ thần. Một trong ba hoạt động tế lễ chính là lời cầu chúc. Ban đầu, sự yên lặng thay thế cho những biểu đạt bằng lời nói nhƣng càng về sau các từ ngữ chúc tụng càng xuất hiện nhiều [49, tr 30]. Đến đời nhà Ngụy, nhà Đƣờng các hoạt động thiết tiệc tiễn biệt lại càng phong phú hơn. Vào thời nhà Đƣờng, nghi thức tống biệt đã trở thành phong tục tống biệt với các phƣơng thức chia tay cụ thể nhƣ bẻ liễu, uống rƣợu, ca hát, làm thơ tặng nhau [49, tr 31]. Không chỉ ở Trung Hoa, ngƣời Việt cũng rất coi trọng việc xuất hành. Trong những chuyến công tác xa, những khi có việc quan trọng cần di chuyển, với mong muốn chuyến đi đƣợc bình an ngƣời Việt thƣờng chú trọng đến ngày, giờ xuất hành. Ngày xuất hành thƣờng đƣợc chọn là những ngày hoàng đạo. Giờ xuất hành cũng phải là giờ tốt, hợp với gia chủ... Dân gian thƣờng tránh những ngày 3, ngày 7, mùng 5, 14, 23 bởi quan niệm: Mùng 5, 14, 23/ Đi chơi cũng thiệt nữa là đi buôn hoặc Chớ đi ngày 7, chớ về ngày 3... Tâm lý coi trọng việc xuất hành, nên ngƣời Việt cũng coi trọng việc tiễn đƣa. Ngƣời đi xa thƣờng sẽ đƣợc tiễn đƣa cẩn trọng, cho tới khi ngƣời ở lại chắc chắn rằng chuyến đi bắt đầu an toàn, đúng lịch trình thì ngƣời tiễn mới yên tâm trở ra về. Nhƣ thế, về cơ bản, văn hóa tiễn đƣa là một nét đẹp từ ngàn đời của ngƣời dân Việt. Thơ tống biệt chính là một biểu hiện tiêu biểu cho nét đẹp truyền thống ấy. 2.1.2.2. Văn hóa khoa cử, bổ nhiệm, miễn nhiệm, đi sứ, tiếp sứ thời trung đại
Giáo dục thời xƣa đƣợc diễn ra khá nghiêm ngặt và chặt chẽ. Để đƣợc làm quan, sĩ tử phải trải qua ba lần thi chính: thi Hƣơng, thi Hội, thi Đình. Cả ba lần thi này việc di chuyển rất nhiều. Thi Hƣơng là kì thi đầu tiên, nhƣng không phải địa phƣơng nào cũng đƣợc tổ chức thi Hƣơng. Trƣờng thi tổ chức ở nhiều vùng, thƣờng ba hoặc bốn tỉnh sẽ có một trƣờng thi. Mỗi trƣờng thi có khi có cả ngàn sĩ tử. Hai kì thi sau là thi Hội và thi Đình đều diễn ra ở kinh đô. Những ngƣời dự thi Hội là ngƣời đã đỗ thi Hƣơng ở các địa phƣơng, tụ hội lại ở kinh đô để thi. Những ngƣời đỗ ở kì thi Hội sẽ tiếp tục dự thi Đình. Theo một số liệu thống kê chƣa đầy đủ thì trong 844 năm của chế độ phong kiến Việt Nam, trung bình bốn năm rƣỡi sẽ diễn ra một khoa thi. Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Viện trong công trình Bàn về đạo Nho đã mô tả: “Ngƣời ta thấy những nhà nho 50, 60 tuổi vẫn còn đi thi cùng những thanh niên 18 tuổi. Trên khắp đất nƣớc, có hàng chục ngàn nhà nho sống nhƣ thế đó. Suốt cuộc đời họ chỉ lo nấu sử sôi
38
kinh, mang mãi hy vọng một ngày kia sẽ thi đỗ ra làm quan” [168, tr 18]. Chính vì thế, số lƣợng ngƣời di chuyển để tham dự thi là rất lớn và số lần chia tay, tiễn biệt ngƣời đi thi là khá nhiều. Mặt khác, ngoài kì thi Hƣơng tổ chức theo cụm, còn các kì thi khác là thi Hội và thi Đình đƣợc tổ chức ở kinh thành. Điều này đã tạo điều kiện cho các sĩ tử, văn nhân có cơ hội giao lƣu, kết thân cùng nhau. Nhiều tình bạn nảy nở, thậm chí trở thành tri âm, tri kỉ, nhiều cuộc chia tay tống biệt cũng vì thế mà lƣu luyến, bịn rịn.
Bên cạnh chế độ thi cử, chế độ bổ nhiệm, thay đổi chức vụ, miễn nhiệm... của luật pháp thời phong kiến cũng là một cơ sở quan trọng giúp cho sự ra đời của thơ tống biệt. Thời trung đại, các chức vụ chính quyền đƣợc chia làm hai loại là quan lại và nha môn. Quan lại là những ngƣời đứng đầu nhƣ tổng đốc, tri phủ, tri huyện... Nhà nƣớc phong kiến áp dụng chế độ “quan khứ nha tồn”. Quan lại sẽ thƣờng đƣợc điều động, luân chuyển và thuần túy là sự thay đổi về mặt không gian, làm quan ở địa phƣơng này chuyển đi địa phƣơng khác và ngƣợc lại. Bên cạnh đó, luật pháp phong kiến còn khá khắt khe với những quy định trong luật Hồi tỳ. Theo luật này, quan lại không đƣợc cai quản tại nơi mình trú quán, quê vợ thậm chí là nơi mình học lúc nhỏ... Thời Hồng Đức quy định quan địa phƣơng không đƣợc lấy vợ nơi mình cai quản. Vua Minh Mạng đƣợc cho là “ngƣời thực hiện luật Hồi tỳ một cách tích cực và triệt để. Trong cuộc đời hơn 20 năm làm vua của mình, từ năm Canh Thìn (1820) đến năm cuối năm Canh Tý (đầu năm 1841), ông đã nhiều lần ra chỉ dụ về quy định Hồi tỳ” [38]. Ông đƣa ra một số quy định nhƣ: lại dịch ở tất cả các nha môn, hễ có bố con, anh em ruột, anh em con chú bác cùng làm phải đổi nơi khác. Lại dịch ở các nha mà ngƣời cùng làng cũng phải đổi đi nơi khác, lại ở huyện nào thì không đƣợc làm ở đấy. Chính vì thế, thƣờng có rất nhiều cuộc tiễn biệt đi nhậm chức ở nơi mới, thay đổi chỗ làm từ nơi này đến nơi kia, những cuộc tiễn biệt ngƣời đƣơng nhiệm về thăm quê, về gia đình lo việc quan trọng hay tiễn ngƣời nghỉ hƣu về quê... Ngoài ra, chế độ bãi quan, tƣớc nhiệm của luật pháp phong kiến cũng rất gắt gao. Khi mắc những tội nhẹ, có khi chỉ không đến nơi làm việc mà không có lý do là có thể bị bãi chức hoặc mắc tội nhỏ có thể bị chuyển đi nơi khác, đặc biệt là vùng biên cƣơng hoặc những nơi hẻo lánh. Nếu mắc tội nặng, sẽ bắt di chuyển tới một nơi khác để lập công chuộc tội với hai hình thức: ra trận đánh giặc lập công (gọi là tiền quân hiệu lực) hoặc ra nƣớc ngoài lập công chuộc tội, đi bằng đƣờng biển (gọi là dƣơng trình hiệu lực hoặc xuất dƣơng hiệu lực). Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam ghi nhận những chuyến tiền quân hiệu lực, dƣơng trình hiệu lực của Ông Ích Khiêm, Nguyễn Tƣ Giản, Cao Bá Quát... Cũng chính vì thế, thơ tống biệt cho thấy nhiều cuộc chia tay về quê do mất chức hoặc chuyển công việc, hoặc ra nƣớc ngoài hay ra trận do mắc lỗi.
Ngoài ra, việc đi sứ và tiếp sứ thời xƣa cũng là một trong những nguyên nhân hình thành nên những bài thơ tống biệt. Với quan điểm ngoại giao khéo léo, mềm
39
mỏng, ngay từ khi thành lập, các triều đại phong kiến Việt Nam đã thực hiện thƣờng xuyên cống nạp, xin phong vƣơng, báo tin, đàm phán với Trung Hoa. Đi sứ thời xƣa là một công việc quan trọng nhƣng nguy hiểm và kéo dài thời gian bởi lẽ phƣơng tiện đi lại, đƣờng sá rất khó khăn. Ngoài ra còn có thể gặp dịch bệnh, cƣớp bóc... trên đƣờng. Thƣờng một chuyến đi sứ kéo dài cả mấy năm trời. Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam ghi nhận chuyến đi sứ dài nhất là gần 20 năm (sứ thần Lê Quang Bí thời nhà Mạc). Chính vì tính chất của những cuộc đi sứ nhƣ vậy nên các cuộc tiễn sứ cũng rất đƣợc chú ý, có khi đích thân nhà vua ra tiễn hoặc lệnh cho các quan lại tiễn, viết thơ tiễn. Những bạn bè đồng nghiệp, đặc biệt là những bạn bè thân thiết cũng tiễn đƣa hoặc gửi thơ tiễn. Mỗi lần đƣa tiễn là một cuộc chia tay với những vần thơ tống biệt gửi tới ngƣời đi sứ những lời ngợi ca, những lời chúc tốt đẹp và lời hẹn ƣớc ngày trở về bình an. Những ngƣời cử đi sứ đƣợc chọn lọc kỷ, thƣờng là những ngƣời có phẩm chất đạo đức tốt, có chí khí, bản lĩnh, kiến thức uyên thâm và phải giỏi ứng đối, có tài thơ văn... Tài sáng tác thơ văn dƣờng nhƣ là một yêu cầu bắt buộc. Theo Ngô Thế Long trong Những mẩu chuyện bang giao trong lịch sử thì “Chính sứ thần Tiền Phổ nhà Minh đã yêu cầu việc làm thơ tiễn sứ nhƣ một bằng chứng để chứng tỏ vua quan nƣớc chủ nhà là những ngƣời có học thức. Theo Tiền Phổ, qua những vần thơ tiễn sứ, họ “thu nhặt mang về nƣớc để hiểu biết thêm phong tục tốt xấu của nƣớc đó, cái chí của ngƣời làm thơ”. Đây cũng chính là điều gần nhƣ là tiêu chuẩn của một con ngƣời toàn diện của xã hội phƣơng Đông, lấy Nho học làm cơ sở giáo dục và hoàn thiện con ngƣời” [68, tr 10]. Chính vì vậy, tác giả đã khẳng định: “Tuy không phải là một nghi thức bắt buộc trong việc tiếp sứ thần nhƣng để chứng tỏ là ngƣời có học thức, tiêu biểu cho một quốc gia văn hiến thì những quan lại nƣớc ta đƣợc cử tiếp sứ thần nƣớc ngoài (phƣơng Bắc) phải biết làm thơ xƣớng họa trong lúc đón và tiễn sứ, sau những nghi thức chính thức, trong những bữa yến tiệc do vua hay triều đình thiết sứ nƣớc ngoài” [68, tr 10]. Thơ trung đại Việt Nam có hẳn một mảng thơ đi sứ, thơ bang giao, trong đó có những bài thơ tiễn sứ vừa mang tính chất ngoại giao vừa có giá trị văn chƣơng đặc sắc. 2.1.2.3. Văn hóa Nho giáo và Phật giáo
Dƣới góc độ tôn giáo, thơ tống biệt cũng ảnh hƣởng rất nhiều từ các tôn giáo khác nhau, trong đó ảnh hƣởng sâu sắc nhất có lẽ là từ văn hóa Nho giáo và văn hóa Phật giáo.
Nho giáo là một học thuyết có ảnh hƣởng lớn ở vùng Đông Á trong đó có Việt Nam. Ở thời trung đại, ảnh hƣởng của Nho giáo là vô cùng sâu sắc. Nho giáo không chỉ dạy các kiến thức mà còn dạy nhiều về luân lý, đạo đức, các phép tắc trong đời sống, các nguyên tắc ứng xử. Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Viện khi bàn về đạo Nho đã khẳng định những câu châm ngôn về luân lý, đạo đức của Nho giáo “thấm sâu vào đầu óc học trò, vừa có sự chấp nhận một cách duy lý, vừa có một quá trình tiêm nhiễm liên tục,
40
khiến mọi ngƣời đều thấm nhuần những phép tắc của đời sống đó” [168, tr 29]. Nho giáo đặt ngƣời quân tử trong các mối quan hệ xã hội. Một trong những phẩm chất ngƣời quân tử phải có đó là nghĩa. Nghĩa là chỉ làm và nên làm những việc để duy trì đạo lý, lẽ phải. Trong quan hệ bạn bè, nghĩa là sống với bạn bè phải có nghĩa, có tình. Văn hóa Nho giáo rất đề cao lễ nghi. Khổng Tử khuyên con ngƣời nên khép mình vào lễ, hành động theo lễ. Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Viện khẳng định: “Mỗi lời nói, mỗi hành động của ngƣời quân tử phải làm theo đúng lễ. Đây là nét đặc biệt của học thuyết Nho giáo. Có lễ để thờ kính cha mẹ, để đối xử giữa vợ chồng, giữa anh chị em, lễ trong quan hệ với bạn bè, với ngƣời dƣới và ngƣời trên, lễ độ với vua” [168, tr 29]. Ông cũng cho rằng, ngƣời quân tử phải giữ đúng lễ nghi trong các quan hệ xã hội, phải biết tự trọng ngay cả khi ở một mình. Hành động đƣa tiễn ngƣời lên đƣờng vốn là một hoạt động mang tính chất lễ nghi và ngƣời đƣa tiễn thực hiện các nghi thức để tiễn biệt ngƣời đi. Bên cạnh các hoạt động yến tiệc thì làm thơ tiễn là một trong những nghi thức tiễn biệt đó. Ở những phần viết sau, từ kết quả khảo sát, chúng tôi sẽ chỉ ra đƣợc rằng loại hình sáng tác thơ tống biệt chủ yếu là vua, quan lại và các nhà nho hành đạo – những ngƣời thấm nhuần lễ nghi Nho giáo. Bên cạnh việc thực hiện lễ nghi, làm thơ tống biệt còn để thực hiện chữ nghĩa với bạn bè. Bạn bè đồng triều, bạn bè cùng khoa thi, bạn bè đồng hƣơng, những ngƣời bạn đồng tâm thân thiết, đây đều là những mối quan hệ gắn bó. Khi bạn di chuyển, đặc biệt là những chuyến đi xa, những chuyến đi ẩn chứa nhiều bất trắc, nguy hiểm, thậm chí những chuyến đi khó có cơ hội gặp lại, việc làm thơ tiễn biệt bạn nhƣ một cách để ngƣời quân tử làm tròn chữ nghĩa vốn đã đƣợc thuyết lý của Nho giáo ăn sâu, bám rễ trong tƣ tƣởng, trong hành động. Nhƣ vậy, văn hóa Nho giáo với các quy định về đạo lý, với những phép tắc về lễ nghi chính là tiền đề quan trọng ảnh hƣởng đến sự ra đời của thơ tống biệt.
Bên cạnh ảnh hƣởng từ văn hóa Nho giáo, thơ tống biệt còn ảnh hƣởng từ những quan niệm trong văn hóa Phật giáo đặc biệt là những quan niệm Nhân duyên, bát khổ, thuyết vô thƣờng. Nhân duyên trong thập nhị nhân duyên có hàm nghĩa là nhân duyên khởi. Nhân là nguyên nhân, là năng lực tiềm ẩn của mọi sự hình thành, biến đổi. Không có gì là không có nguyên nhân. Duyên là những quan hệ, những điều kiện, những ảnh hƣởng chung quanh giúp cho nhân phát khởi hiện hành. Nhân là yếu tố quyết định, điều kiện để sinh khởi, duyên là điều kiện hỗ trợ, tác động làm cho nhân sinh khởi. Nhƣ thế, nhân duyên chính là sự nƣơng tựa vào nhau để sinh khởi. Cây lúa có nhân là hạt lúa, có các điều kiện về ánh sáng, độ ẩm, không khí... là duyên để sinh trƣởng và phát triển. Cũng giống nhƣ con ngƣời, mỗi ngƣời đều có những nhân duyên khác nhau trong cuộc đời. Đức Phật vẫn thƣờng dạy rằng nếu không nợ nhau thì không thể gặp gỡ, con ngƣời kết duyên vợ chồng, kết duyên bạn bè hay con cái với bố mẹ đều bắt đầu bởi một chữ duyên... Gặp gỡ, kết giao, kết thân, kết duyên hay có lúc phải tạm xa, chia ly hoặc là rời xa nhau mãi
41
mãi. Tất cả đều do chữ duyên chi phối. Kinh Phật cũng cho rằng vật, vạn pháp sẽ biến diệt khi nhân duyên tan rã. “Nhất thiết pháp, nhân duyên sinh” có nghĩa là mọi sự vật, vạn pháp trên thế gian đều do các nhân duyên hội họp mà thành. Do vậy, sinh cũng không phải là thực sinh mà diệt cũng chẳng phải là thực diệt. Khi nhân duyên hội họp thì tức là sinh, khi nhân duyên tan rã thì có nghĩa là diệt. Nhiều cuộc tống biệt phải chăng vì thế đã luôn có nguồn gốc sâu xa từ chữ Duyên trong Phật pháp? Ngƣời ta gặp gỡ nhau là nhờ có duyên, chia xa nhau cũng là vì hết duyên và gặp gỡ trở lại cũng bởi một chữ duyên. Có những cuộc tống tiễn diễn ra rất nhẹ nhàng từ cả hai phía nhƣng phần lớn những cuộc tiễn biệt thấm đẫm nhiều buồn thƣơng. Tần số những từ buồn, rầu, sầu, tiếc, nhớ vô hạn, đau đớn... xuất hiện nhiều trong các bài thơ tống biệt. Tâm lý này có lẽ cũng một phần do ảnh hƣởng từ quan niệm về bát khổ của đạo Phật. Trong quan niệm về bát khổ của đạo Phật thì nỗi khổ thứ sáu chính là “Ái biệt ly khổ”. Đức Phật quan niệm những ngƣời yêu thƣơng nhau, gắn bó với nhau mà phải xa nhau thì sự cách biệt, chia ly đã đƣa con ngƣời vào thế giới đau khổ, bất hạnh, nhớ nhung, phiền não... Con ngƣời không ý thức đƣợc quy luật cuộc đời, cứ khƣ khƣ giữ lấy ngƣời mình yêu thƣơng, vật mình yêu thích. Do đó, lúc không giữ đƣợc sẽ sinh ra phiền não, đau khổ. Bên cạnh đó, thuyết vô thƣờng của Phật pháp cũng ảnh hƣởng khá rõ tới thơ tống biệt. Theo Phật pháp thì vô thƣờng là một thực tế không thể phủ nhận và không thể tránh đƣợc, không có gì thuộc về trái đất này tồn tại vĩnh viễn, không thay đổi và tất cả sự vật, hiện tƣợng đều không thể nằm ngoài quy luật này. Theo đó, con ngƣời không tránh đƣợc các quy luật ngàn đời nhƣ sinh lão bệnh tử. Thời gian trôi chảy và cuộc sống không ngừng vận động, con ngƣời phải chấp nhận và tuân theo quy luật ấy. Chính vì thế, ngƣời trung đại thƣờng bình thản đón nhận những thay đổi trong cuộc sống, không gấp gáp, vội vàng, không âu lo, oán trách. Do đó, con ngƣời chấp nhận những cuộc chia tay tạm thời hay có thể là mãi mãi vì biết rằng đó là quy luật, không thể tránh đƣợc, không thể thay đổi đƣợc. Cả ngƣời đi và kẻ ở đều ý thức và hiểu rằng việc tạm chia xa một ai đó âu cũng là điều bình thƣờng và là quy luật trong cuộc đời. Và dẫu có buồn, có tiếc, có nhớ nhƣng đằng sau đó vẫn là một tâm thế chấp nhận và đón nhận. Phật giáo có ảnh hƣởng tới thơ tống biệt bởi những lẽ trên. 2.1.3. Tiền đề văn học 2.1.3.1. Thơ tống biệt Trung Hoa và cảm hứng ly biệt trong văn học dân gian Việt Nam
Trong văn học Trung Hoa, thơ tống biệt có bề dày lịch sử đồ sộ từ đời Tần Hán, thời Lục Triều tới thời Đƣờng. Thơ tống biệt trong Kinh thi với những tác phẩm nhƣ Yến Yến (Bội Phong), Vị Dƣơng (Tần Phong), Tùng cao, Trƣng dân, Hàn dịch (Đại nhã) đã “cung cấp ba phƣơng diện có ý nghĩa điển hình cho dòng thơ tống biệt gồm: tống biệt ngóng trông, tống biệt tặng vật, tống biệt tặng thơ” [49, tr 38]. Thời Tần Hán thơ tống biệt nổi bật với những sáng tác trong Cổ thi. Sang đến thời Lục Triều “phƣơng thức tống biệt thi ngày càng lan rộng, phổ biến” [49, tr 40] với những sáng tác của Tào Phi, Thẩm Ƣớc, Tiêu
42
Thống... [49, tr 40]. Thơ tống biệt Trung Hoa đặc biệt phát triển trong thời nhà Đƣờng. Tác giả Trịnh Thị Hoa cho biết, trong Toàn Đƣờng thi, Dƣơng Ngọc Vân đã sƣu tầm đƣợc 48.900 bài thơ và gần 10% trong số đó là thơ tống biệt [49]. Thơ tống biệt đời Đƣờng đã cung cấp đƣợc hệ thống các ý tƣợng tống biệt tiêu biểu về không gian, thời gian, phƣơng thức, trạng thái cùng hệ thống ngôn ngữ vừa cụ thể, vừa mang yếu tố tự sự rõ nét nhƣng cũng có tính chất lạ hóa cao. Những bài thơ tống biệt tiêu biểu của thơ Đƣờng nhƣ Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng của Lý Bạch hay Bạch tuyết ca tống Vũ phán quan quy kinh của Sầm Tham là những bài thơ có sức ảnh hƣởng sâu sắc tới cảm hứng về chủ đề tiễn biệt cho các tác giả Việt Nam. Có thể khẳng định, thơ tống biệt Trung Hoa với lịch sử phát triển lâu đời cùng số lƣợng tác phẩm lớn và giá trị nghệ thuật đặc sắc không chỉ cung cấp đề tài, chủ đề mà còn cung cấp hệ thống thi liệu, ngôn ngữ phong phú, đặc sắc, tạo nên nền tảng vững chắc cho sự hình thành, phát triển của thơ tống biệt trung đại Việt Nam.
Bên cạnh ảnh hƣởng từ văn học Trung Hoa, thơ tống biệt trung đại Việt Nam còn đƣợc khơi gợi từ nguồn cảm hứng biệt ly trong văn học dân gian. Truyện cổ dân gian ngàn đời vẫn lƣu truyền về hình ảnh ngƣời vợ ngóng trông chồng hóa đá. Trong kho tàng văn học dân gian thiểu số Việt Nam, truyện thơ Tiễn dặn ngƣời yêu [154] là niềm tự hào của ngƣời dân Thái. Xuyên suốt tác phẩm là ba cuộc chia tay với ba cung bậc cảm xúc khác nhau. Lần chia tay thứ nhất là khi ngƣời con trai quyết tâm đi làm ăn xa, kiếm thật nhiều tiền để trở về cƣới đƣợc ngƣời con gái anh thƣơng. Có bịn rịn, buồn thƣơng: Tiễn anh yêu chẳng lấy đâu gà béo/ Chỉ nắm xôi không gửi nhớ theo nhƣng đầy hy vọng: “Đợi anh vài tháng thôi”. Cuộc chia tay thứ hai là khi ngƣời con trai trở về vào đúng ngày ngƣời thƣơng đi lấy chồng. Không thể thay đổi đƣợc thực tế cay đắng, anh liều mình tiễn chân ngƣời thƣơng đến tận nhà chồng với những lời dặn dò ân cần, tỉ mỉ. Lời tiễn dặn cuối cùng là khi trải qua rất nhiều sóng gió, hai ngƣời nhận ra nhau, ngƣời vợ của chàng trai tình nguyện ra ở riêng. Chàng trai tiễn đƣa ngƣời vợ cũ về nhà cha mẹ nàng. Một cuộc tiễn đƣa thanh thản và giàu tính nhân văn: Lòng thƣơng em, ta đƣa em đến tận đầu đƣờng,/ Ta tiễn theo ngƣời vợ bỏ/ Xin chúc bình an nẹp áo trong viền xanh viền đỏ/ Thu vén giữ gìn đừng để cho dầu dãi mƣa sƣơng... Ca dao ngƣời Việt cũng viết nhiều về cảm hứng ly biệt. Khảo sát kho tàng ca dao, dân ca ngƣời Việt [61], [62] chúng tôi thấy những bài ca tiễn biệt tập trung ở mảng ca dao tình yêu đôi lứa, mặc dù không rõ hoàn cảnh và lý do đƣa tiễn nhƣng nội dung những bài ca dao thƣờng là lời của ngƣời con gái thể hiện những lời nhắn gửi đầy thƣơng nhớ, những dặn dò âu yếm, những mong ngóng ngày gặp mặt đối với chàng trai: Chàng đi thiếp vẫn trông theo, Trông nƣớc, nƣớc chảy, trông bèo, bèo trôi, Chàng đi thiếp đứng trông chừng, Trông sông lai láng trông rừng, rừng xanh hay Anh về em nắm cổ tay, Em dặn câu này, anh chớ có quên, Đôi ta đã trót lời nguyền, Chớ xa xôi
43
mặt mà quên mảng lòng... Ca dao viết về chiến tranh phong kiến cũng có một số bài miêu tả những cuộc tiễn đƣa chồng đi chiến trận: Chàng ơi! Trẩy sớm hay trƣa?, Để em gánh gạo tiễn đƣa hành trình... Bên cạnh kho tàng ca dao, những làn điệu dân ca tiễn bạn cũng thật thiết tha ân tình. Ngƣời ơi, ngƣời ở đừng về là lời đƣa tiễn nổi tiếng trong làn điệu giã bạn dân ca quan họ Bắc Ninh, vừa níu giữ, vừa bịn rịn ngập tràn xúc cảm của ngƣời ở lại dành cho ngƣời đi khiến ngƣời đi khó lòng bƣớc tiếp. Hát phƣờng vải, một trong những điệu tiêu biểu của hát ví dặm Nghệ Tĩnh gồm có bốn giai đoạn: giai đoạn thứ nhất là hát dạo, hát mừng, hát chào và hát hỏi; giai đoạn thứ hai là hát đố và hát đối; giai đoạn thứ ba là hát mời và hát xe kết; giai đoạn thứ tƣ là hát tiễn. Những lời hát tiễn của hát phƣờng vải xen nhớ, xen thƣơng, xen trách móc giận hờn của đôi trai gái: Ra về gửi bốn câu thơ, Câu thƣơng, câu nhớ, câu chờ, câu mong/ Chƣa đi anh đã vội về, Đã đi đừng vội, vội về đừng đi [37]... Đề tài tiễn biệt trong văn học dân gian từ truyện cổ, truyện thơ đến ca dao, dân ca tập trung vào những cuộc tiễn đƣa giữa những đôi trai gái, thể hiện đa dạng các cung bậc cảm xúc chia ly. Điều này cho thấy có một mạch ngầm âm ỉ và mãnh liệt của đề tài tống biệt ngay từ những sáng tác dân gian. Mạch ngầm này đã góp phần tạo nên nguồn cảm hứng mạnh mẽ cho thơ tống biệt trung đại Việt Nam. 2.1.3.2. Thơ tống biệt Việt Nam thế kỵ X - XVII
Thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX không chỉ hình thành từ tiền đề về thơ tống biệt Trung Hoa và cảm hứng biệt ly trong văn học dân gian Việt Nam mà còn có tiền đề vững chắc từ thành tựu của thơ tống biệt thế kỵ X – XVII. Khảo sát trong 3 tập Thơ văn Lý Trần [11], [12], [13] và một số tài liệu tiêu biểu nhƣ Thơ đi sứ [10], Thơ văn Nguyễn Phi Khanh [128], Nguyễn Bảo, nhà thơ - danh nhân văn hóa [106]... Chúng tôi nhận thấy giai đoạn thế kỵ X – XVII, thơ tống biệt đã có những thành tựu bƣớc đầu:
Thứ nhất về số lƣợng tác giả và tác phẩm Số lƣợng tác giả sáng tác thơ tống biệt và số lƣợng tác phẩm tƣơng đối phong phú. Các tác giả tiêu biểu sáng tác thơ tống biệt giai đoạn X - XIV là Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Trần Minh Tông, Trần Quang Khải, Nguyễn Ức, Nguyễn Sƣởng, Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trung Ngạn... Giai đoạn thế kỵ XV - XVII ghi nhận sáng tác thơ tống biệt ở một số tác giả tiêu biểu nhƣ Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Sĩ Dƣơng, Trần Cảnh, Nguyễn Quý Đức, Đặng Đề, Nguyễn Bảo..., trong đó tiêu biểu là tác giả Nguyễn Bảo. Khảo sát bƣớc đầu cho thấy thơ đi sứ của Phùng Khắc Khoan cũng xuất hiện thơ tống biệt. Nhƣ vậy, có thể nhận thấy loại hình tác giả sáng tác thơ tống biệt giai đoạn này chủ yếu là vua, quan lại và một số nho sĩ. Về số lƣợng tác phẩm, theo khảo sát của Bùi Kim Ánh [4] có hơn 60 tác phẩm thơ tống biệt. Trong đó, có những tác giả có nhiều thi phẩm nhƣ Nguyễn Bảo (10 bài), Nguyễn Phi Khanh (5 bài), Nguyễn Sƣởng (4 bài), Nguyễn Ức (3 bài), Trần Nguyên Đán (3 bài)... Mặc dù số lƣợng không quá nhiều
44
nhƣng đã cho ta thấy sự xuất hiện của thơ tống biệt ngay từ những giai đoạn đầu tiên của văn học trung đại.
Thứ hai về đối tƣợng đƣa tiễn và lý do đƣa tiễn Về đối tƣợng đƣa tiễn, thơ tống biệt giai đoạn trƣớc thế kỵ XVIII tập trung vào hai đối tƣợng đƣa tiễn chính là tiễn bạn bè và tiễn sứ giả Trung Hoa, số lƣợng những bài thơ tiễn ngƣời thân cũng nhƣ những đối tƣợng khác khá ít. Tác giả Nguyễn Bảo - ngƣời sáng tác thơ tống biệt nhiều trong giai đoạn thế kỵ XV - XVII có 10/34 bài thơ tống biệt trong đó 9/10 bài thơ tiễn bạn, 1/10 bài thơ chƣa xác định rõ đối tƣợng đƣa tiễn. Lý do đƣa tiễn có sự khác nhau gắn với từng đối tƣợng đƣa tiễn nhƣng tập trung vào một số lý do chính nhƣ tiễn sứ giả về nƣớc, tiễn bạn đi sứ, đi nhậm chức, đi về quê... Ngoài ra còn một số lý do khác nhƣ đƣa tiễn ngƣời đi đánh giặc, tiễn bạn đi tiễn khách...
Thứ ba về nội dung cảm xúc Gắn với từng đối tƣợng đƣa tiễn khác nhau, nội dung cảm xúc cũng có sự khác biệt. Những bài thơ tiễn sứ, nội dung nổi bật là thể hiện tinh thần tự hào, tự tôn truyền thống văn hóa dân tộc, tinh thần giao hảo, hữu nghị giữa hai nƣớc Việt - Trung. Tinh thần tự hào, tự tôn về truyền thống văn hóa dân tộc thƣờng đƣợc thể hiện trong thế đối sánh với Bắc quốc và tập trung ở lòng tự hào về tài năng văn chƣơng. Tiễn sứ Bắc Tát Chỉ Ngõa, Triệu Tử Kỳ, vua Trần Minh Tông khẳng định: Việt quốc sơn hà cung kiệt cú/ Chu gia vũ lộ bả luân âm (Non sông nƣớc Việt cung cấp những câu thơ tuyệt hay/ Mƣa móc nhà Chu truyền bá tiếng nói đẹp nhƣ lụa) (Tống Bắc sứ Tát Chi Ngõa, Triệu Tử Kỳ). Tinh thần giao hảo, hữu nghị là một trong những đặc trƣng nổi bật của các bài thơ tiễn sứ giai đoạn này. Hầu hết, những bài thơ đều thể hiện mối giao tình gắn bó giữa hai nƣớc Việt - Trung bằng thái độ ân cần, lịch thiệp khi đƣa tiễn, lòng quyến luyến cho ngày chia xa. Tống Bắc sứ Sài Trang Khanh, Trần Quang Khải ngậm ngùi: Nam Bắc tâm tình huyền phản bái/ Chủ tân đạo vị phiếm ly trƣờng, Nhất đàm tiếu khoảnh ta phân duệ/ Cộng xƣởng thù giai tích đối sàng (Nỗi lòng kẻ Nam ngƣời Bắc vẫn lƣu luyến trên ngọn cở về/ Tình khách chủ dạt dào trong chén rƣợu ly biệt/ Vừa nói cƣời đó mà thoắt đã ngậm ngùi chia tay/ Cùng nhau xƣớng họa tiếc những lúc hai giƣờng đối diện) (Tống Bắc sứ Sài Trang Khanh). Những bài thơ tiễn sứ giai đoạn này còn thể hiện rõ thái độ cầu thị, sách lƣợc ngoại giao mềm mỏng, khôn khéo cùng niềm tin vào tƣơng lai tốt đẹp trong mối quan hệ hai nƣớc. Tiêu biểu nhƣ các bài Tặng Đại Thanh sứ Chu Xán - Nguyễn Đình Trụ, Tiễn Đại Thanh sứ Trình Phƣơng Triều – Hồ Sĩ Dƣơng...
Nếu nhƣ thơ tiễn sứ còn mang nhiều tính chất ngoại giao, thù tạc thì những bài thơ tống biệt bạn bè giai đoạn này đã bƣớc đầu thể hiện chân thực mối quan hệ gắn bó, thân tình giữa những ngƣời bằng hữu. Tiễn bạn về quê nghỉ hƣu, Nguyễn Bảo luôn ghi lại những dấu ấn rất đẹp về ngƣời trở về: Quân nhân hỵ đắc nghênh tiền kỳ/ Hành khách
45
không lao vọng hậu trần (Ngƣời trong vùng mừng xe ngựa đón rƣớc ông về/ Khách qua đƣờng tranh nhau đi xem khổ vì bụi bốc) (Tiễn Thừa chỉ Thân công hồi hƣơng). Bên cạnh đó, những bài thơ tiễn bạn còn là nơi các tác giả kín đảo gửi gắm những nỗi niềm tâm sự của cá nhân mà tập trung nhất chính là khát vọng sống nhàn, mong muốn trở về sống hòa mình vào thiên nhiên quê hƣơng. Tiêu biểu nhƣ các bài: Tống Lãm Sơn Quốc sƣ hoàn sơn - Phạm Nhân Khanh, Tống Lê công Năng Nhƣợng - Trần Cảnh hoặc một số bài thơ tiễn bạn về hƣu của Nguyễn Bảo nhƣ Tống nhân hồi hƣơng, Tống binh bộ thị lang Hải Thiên Bùi công trí sĩ, Tống hữu nhân quy Nghệ An tỉnh thân...
Thứ tƣ về nghệ thuật thể hiện Thơ tống biệt giai đoạn trƣớc thế kỵ XVIII đã thể hiện một số đặc điểm nổi bật về không gian, thời gian nghệ thuật, hình tƣợng và ngôn ngữ nghệ thuật. Không gian vũ trụ - không gian quen thuộc trong đặc trƣng thi pháp của văn học trung đại đã đƣợc thơ tống biệt giai đoạn này tái hiện khá thành công. Các thi phẩm thƣờng sử dụng từ mang tính chất định lƣợng ƣớc lệ nhƣ vạn lí, thiên lí, vó câu nghìn dặm, thiên trùng điểu đạo... Những cuộc chia ly mở rộng không gian nghệ thuật từ phƣơng Bắc tới phƣơng Nam: Hoàng chiếu cửa trùng ban Bắc khuyết/ Sứ thần vạn lí cực Nam minh (Chiếu vua nơi chín trùng từ cửa Bắc ban xuống/ Sứ thần đi muôn dặm, đến tận biển Nam) (Tiễn Vũ Văn Đồng nhất dụ Chiêm Thành quốc - Phạm Sƣ Mạnh)... Thời gian nghệ thuật nổi bật với cách thể hiện đan xen thời gian quá khứ - hiện tại - tƣơng lai. Quá khứ thƣờng gắn với nỗi nhớ: Khoa trƣờng lịch lịch ức đồng du (Còn nhớ nhƣ in bạn cùng đi thi nơi khoa trƣờng) (Tống hành nhân Đỗ Tòng Chu - Nguyễn Phi Khanh). Thời gian hiện tại là thời gian thực của cuộc chia ly gắn với nỗi niềm xúc động trong giờ phút chia xa: Tân bằng khiển quyến tam bôi tửu (Bạn bè quyến luyến ba chén rƣợu tiễn đƣa) (Phƣợng Thành tảo phát - Đào Nghiễm). Thời gian tƣơng lai đƣợc hƣớng tới với hy vọng về sự sum họp và những điều tốt đẹp: Bình an dự hỉ quy lai hậu/ Thiên ngữ ôn ôn hà sủng bao (Đoán sẽ mừng vui khi trở về bình an/ Tiếng trời ấm áp, đội ơn đƣợc sủng ái bao phong) (Tiễn Hàn lâm Viện Kiểm thảo Từ Liêm Nguyễn công phụng Bắc sứ - Vũ Cán). Ngoài ra, thơ tống biệt giai đoạn này còn có một số nét nổi bật trong việc thể hiện các hình tƣợng nghệ thuật gắn liền với tống biệt nhƣ ly bôi, ly ca, dòng sông, con đƣờng... Bên cạnh đó, dòng thơ này cũng ghi nhận việc vận dụng khá nhiều điển cố, thi liệu Hán học. Điều này đã giúp cho ngƣời tiễn thể hiện sâu sắc, hàm súc những tâm tình trong buổi tống biệt.
Nhƣ vậy, có thể khẳng định ngay từ giai đoạn đầu tiên của văn học trung đại, thơ tống biệt đã xuất hiện, tồn tại và phát triển cùng với nền văn học trung đại Việt Nam. Những tác phẩm thơ tống biệt trải dài trong suốt bảy thế kỵ chứng tỏ một dòng thơ đã đƣợc nhen nhóm hình thành và dần khẳng định đƣợc vị thế của mình. Ở giai đoạn đầu tiên, thơ tống biệt chủ yếu mang tính chất ngoại giao, tập trung vào các bài thơ tiễn sứ, tiễn bạn đi sứ... Loại hình tác giả sáng tác thơ tống biệt nếu nhƣ ở giai đoạn đầu chủ
46
yếu là vua và quan lại thì về giai đoạn sau chủ yếu là các quan. Tính chất công thức, ngoại giao cũng đã dần giảm bớt. Nội dung cảm hứng thơ tống biệt giai đoạn này đa dạng nhƣng tập trung thể hiện tình yêu quê hƣơng đất nƣớc, tình cảm bằng hữu hay những khát vọng, tâm sự thời thế... Thơ tống biệt giai đoạn này cũng khá thành công trong việc thể hiện không gian, thời gian nghệ thuật, hình tƣợng, ngôn ngữ nghệ thuật. Với tất cả sự phong phú và đa dạng trong sáng tác, thơ tống biệt giai đoạn trƣớc thế kỵ XVIII đã trở thành cơ sở và nền tảng vững chắc cho sự tiếp nối kiểu loại thơ này ở giai đoạn sau thế kỵ XVIII. 2.1.3.3. Sự trƣởng thành của nền văn học dân tộc, sự phát triển của không khí dân chủ, tự do trong sáng tác giai đoạn thế kỵ XVIII – XIX.
Sự trƣởng thành của nền văn học dân tộc, sự phát triển của không khí dân chủ, tự do trong sáng tác và quan niệm sáng tác hƣớng về những điều “nghe thấy”, “trông thấy”, “cảm nhận thấy” trong đó đặc biệt là sự trƣởng thành của nền văn học dân tộc ở giai đoạn thế kỵ XVIII – XIX là tiền đề quan trọng giúp thơ tống biệt giai đoạn này phát triển.
Thứ nhất là sự trƣởng thành của nền văn học dân tộc. Ngƣợc lại với tình trạng xuống cấp, mục ruỗng của tầng lớp phong kiến, sự tan rã của ý thức hệ phong kiến, văn học giai đoạn này, đặc biệt là từ nửa cuối thế kỵ XVIII đến nửa đầu XIX lại phát triển mạnh mẽ và là thời kỳ hoàng kim của văn học trung đại. Giai đoạn này đƣợc coi là “thế kỵ vàng của văn học dân tộc, thế kỵ kết tinh tinh hoa của gần một nghìn năm văn học” [145, tr 47]. Trong các thành tựu nổi bật của văn học, thành tựu về thể loại và ngôn ngữ là tiền đề trực tiếp nhất ảnh hƣởng tới sự phát triển của thơ tống biệt. Các thể loại văn học giai đoạn trƣớc đã có, đến giai đoạn này phát triển ở mức đỉnh cao trong đó có thơ chữ Hán. Nhiều nhà nghiên cứu khẳng định đây là giai đoạn thơ chữ Hán phát triển rực rỡ và có nhiều thành tựu nhất. Điều đáng chú ý là thơ chữ Hán giai đoạn này có một diện mạo mới “hƣớng về hiện thực, hƣớng về tình cảm tự nhiên và bản chất thẩm mỷ, nghệ thuật của thơ ca” [145, tr 222] và xu hƣớng “quý chân”, “chủ tình” giúp “giảm bớt tính chất đạo lý, tính chất nghi thức và gia tăng cảm xúc cá nhân của thơ” [145, tr 222]. Hai đặc điểm trên vừa tác động tới thơ tống biệt lại vừa đƣợc thể hiện sâu sắc trong những thi phẩm này. Bên cạnh tính chất quy phạm của đề tài hay tính chất lễ nghi vốn có của một buổi tiễn biệt thì bản chất thơ tống biệt là ghi lại cảm xúc của ngƣời đƣa tiễn trong giây phút chia ly và đây là xúc cảm tự nhiên, chân thành trong thời khắc hết sức đặc biệt. Do vậy, việc thơ chữ Hán giai đoạn này hƣớng nhiều về tình cảm tự nhiên cũng nhƣ xu hƣớng gia tăng xúc cảm cá nhân của thơ thực sự tạo ra môi trƣờng phát triển phù hợp cho thơ tống biệt. Điều này một phần lý giải vì sao số lƣợng thơ tống biệt chữ Hán ở thế kỵ XVIII – XIX tƣơng đối lớn. Bên cạnh sự phát triển của thơ chữ Hán, sự phát triển hai thể loại nội sinh của văn học dân tộc là
47
Ngâm khúc và Truyện thơ Nôm cũng là tiền đề quan trọng ảnh hƣởng tới thơ tống biệt. Các tác phẩm này đã miêu tả rất nhiều cuộc tống tiễn, có những cuộc chia tay nổi tiếng đến mức trở thành điển hình trong văn học. Cuộc chia tay giữa ngƣời chinh phu và chinh phụ trong Chinh phụ ngâm khúc khuất lấp trong ngàn dâu xanh ngút ngàn: Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy/ Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu (Chinh phụ ngâm). Nguyễn Huy Tự trong Hoa Tiên đã tái hiện cuộc tiễn biệt giữa Lƣơng Sinh và Giao Tiên đầy bịn rịn, sầu thƣơng: Thanh gƣơm cặp sách xuống thuyền/ Lƣng khoang chất thảm, đầy then chứa sầu. Những cuộc chia ly trong Đoạn trƣờng tân thanh của Nguyễn Du lại đƣợc dụng công nhiều hơn trong việc miêu tả các mảng cảnh. Cuộc chia tay Kim - Kiều bên cầu tơ liễu đầy bâng khuâng với những xúc cảm hồn nhiên tuổi mới lớn: Khách đà lên ngựa, ngƣời còn nghé theo. Cuộc chia tay Kiều - Thúc lại diễn ra trên nền cảnh tuyệt đẹp của rừng phong khi vào thu: Ngƣời lên ngựa, kẻ chia bào/ Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san. Những cuộc tống tiễn này ít nhiều góp phần tạo nên cảm hứng sáng tác cho thơ tống biệt. Song hành với thành tựu về thể loại, thành tựu về ngôn ngữ cũng ảnh hƣởng tới sự phát triển của thơ tống biệt. Ngôn ngữ thơ chữ Hán thế kỵ XVIII – XIX chuyển dần từ “phong cách thơ Tống (nặng về học vấn, triết lý, khô khan, hình ảnh nghèo nàn...) sang phong cách thơ Đƣờng mang tính trực cảm, giàu hình ảnh, nhạc điệu, liên tƣởng...)” [145, tr 222]. Mặt khác, do sự thay đổi trong quan niệm sáng tác hƣớng nhiều hơn tới cuộc đời, ngôn ngữ thơ giai đoạn này gần hơn với hơi thở cuộc đời thực, bớt đi tính chất ƣớc lệ, công thức. Nhiều khi trong ngôn ngữ thơ vận dụng những tích xƣa, điển cũ nhƣng không gợi cảm hứng cổ, cũ, xƣa mà tạo sự phù hợp linh hoạt với hiện thực của buổi giao. Thành tựu về ngôn ngữ giúp thơ tống biệt có đƣợc những tiền đề cơ bản để phát triển. Ra đời trong giai đoạn kết tinh rực rỡ của văn học nhƣ thế thơ tống biệt cũng nằm trong quy luật phát triển tất yếu. Kế thừa những thành tựu của thơ tống biệt giai đoạn trƣớc, thơ tống biệt giai đoạn này vẫn tiếp tục mảng đề tài quen thuộc, đồng thời có những biến chuyển để phù hợp với sự phát triển của thời đại.
Thứ hai là sự phát triển không khí dân chủ, tự do trong sáng tác và quan niệm sáng tác hƣớng về những điều “nghe thấy”, “trông thấy”, “cảm nhận thấy”. Văn học giai đoạn này cởi mở hơn trong việc giãi bày cảm xúc cá nhân. Nếu nhƣ trƣớc đây, các tác giả nhà nho chịu ảnh hƣởng sâu sắc của quan niệm văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn chí, trong thơ chỉ đề cập tới vấn đề trung hiếu, nói chí, tỏ lòng... thì bây giờ nhân vật trữ tình mạnh dạn bày tỏ tâm tƣ, nguyện vọng đôi khi cả những phẫn uất và bi kịch. Những tâm sự, triết lý về thời thế về con đƣờng quan lộ, sự mệt mỏi trên hành trình cuộc đời... cũng đƣợc đƣa vào thơ chân thực và sâu sắc. Đời sống tình cảm cá nhân cũng đƣợc quan tâm chú ý, vì thế, những mối giao tình bạn bè, đồng nghiệp, những cuộc chia xa cũng bƣớc vào thơ tự nhiên và sống động hơn. Mối thân tình giữa kẻ đi
48
ngƣời ở cũng đƣợc khắc họa rõ nét và sinh động. Sự thay đổi trong quan niệm sáng tác viết về những điều “nghe thấy”, “trông thấy”, “cảm nhận thấy” giúp cho văn học mang hơi thở cuộc sống, hƣớng tới viết về những hoạt động bình thƣờng, giản dị diễn ra trong đời sống hàng ngày mà tống tiễn là một hoạt động nhƣ thế.
Trong ba tiền đề lịch sử, văn hóa tƣ tƣởng, văn học, chúng tôi cho rằng văn hóa tƣ tƣởng và văn học là hai tiền đề quan trọng nhất ảnh hƣởng tới sự hình thành và phát triển của thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX. 2.2. Thống kê, phân loại thơ tống biệt Việt Nam thế kỷ XVIII - XIX 2.2.1. Tiêu chí khảo sát và kết quả thống kê
Tiêu chí khảo sát: để khảo sát, thống kê thơ tống biệt giai đoạn thế kỵ XVIII -
XIX, luận án dựa trên những tiêu chí sau:
Thứ nhất: Nghiên cứu dựa trên khái niệm về thơ tống biệt nhƣ đã trình bày ở chƣơng 1 để tiến hành khảo sát. Tất cả những tác phẩm thơ tiêu biểu trong giai đoạn này mà chủ thể trữ tình là ngƣời ở lại, viết tiễn một ngƣời khác khi ngƣời đó có sự di chuyển không gian sống đều đƣợc thống kê. Thời điểm sáng tác có thể là trƣớc hoặc trong cuộc đƣa tiễn. Những tác phẩm là lời của ngƣời đi, viết tặng cho ngƣời ở lại (lƣu biệt), hoặc những tác phẩm nói về cảm hứng chia ly, xa cách... đều không thuộc phạm vi khảo sát của luận án.
Thứ hai: Có những tác giả, trong số những tác phẩm khảo sát chỉ xuất hiện 1 bài thơ tống biệt nhƣ Bùi Huy Bích [9], Lê Quang Định [35], Ninh Tốn [166], Phạm Bành [166], Phan Trọng Mƣu [166], Nguyễn Hữu Cƣơng [166]... Những trƣờng hợp nhƣ thế, chúng tôi không đƣa vào kết quả thống kê.
Thứ ba: Với một số tác giả, mặc dù số lƣợng thơ tống biệt ít (khoảng 2 - 5 bài) nhƣ Ngô Thì Sĩ [110], Trịnh Hoài Đức [32], Lý Văn Phức [46], Ngô Thì Lữ [111], Phạm Văn Nghị [134], Đào Tấn [166], nhƣng nhận thấy những tác phẩm có ý nghĩa nhất định trong việc nhìn nhận, đánh giá thơ tống biệt giai đoạn này, chúng tôi vẫn đƣa vào kết quả thống kê.
Thứ tƣ: Bên cạnh các cuốn tổng tập, tinh tuyển trong từng thời kì hoặc nhóm tác giả... chúng tôi khảo sát chủ yếu ở những cuốn tổng tập, tuyển tập, tuyển thơ của riêng từng tác giả vì số lƣợng tác phẩm trong những cuốn này đầy đủ hơn và kết quả thống kê chủ yếu dựa vào các cuốn tổng tập, tuyển tập riêng của từng tác giả. Phần lớn các tác phẩm khảo sát đều đã đƣợc xuất bản. Chỉ duy nhất trƣờng hợp tác giả Lý Văn Phức, do tập Mân hành chƣa đƣợc xuất bản nên chúng tôi sử dụng văn bản dịch là kết quả luận án của tác giả Phan Thị Thu Hiền.
Kết quả thống kê Từ những tiêu chí nhƣ trên, luận án đã thống kê đƣợc 515 bài thơ tống biệt (trên tổng số 8223 bài thơ khảo sát) của 33 tác giả trong 42 tƣ liệu (xin xem phụ lục 2).
49
Nhiều tác giả, số lƣợng sáng tác tƣơng đối lớn nhƣng không có thơ tống biệt nhƣ Tự Đức [125], Nguyễn Công Trứ [138], Hồ Xuân Hƣơng [126], Phạm Nguyễn Du [25], Nguyễn Cao [122], Bùi Dƣơng Lịch [133], Trần Tế Xƣơng [141]... Về loại hình tác giả, phần lớn đều là những nhà nho và thuộc tầng lớp quan lại. Điều này cho thấy sự khác biệt với giai đoạn trƣớc. Trƣớc thế kỵ XVIII, có xuất hiện loại hình tác giả nhà vua sáng tác thơ tống biệt, tiêu biểu nhƣ Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Trần Minh Tông… Giai đoạn này loại hình tác giả trên không xuất hiện.
Kết quả khảo sát theo nhƣ bảng thống kê cho thấy rằng trong tổng số 8223 bài thơ đƣợc khảo sát, có 515 bài thơ tống biệt (chiếm 6,26%). Theo chúng tôi đây là một tỵ lệ tƣơng đối lớn. Tỉ lệ thơ tống biệt của các tác giả cũng khác nhau, dao động từ 1,12 đến 24,6%. Trong số 33 tác giả mà chúng tôi khảo sát, có tới 24 ngƣời có số tác phẩm thơ tống biệt dƣới 10 bài, 11 tác giả có số tác phẩm tống biệt trên 10 bài. Cá biệt có năm tác giả có số lƣợng thơ tống biệt nhiều là: Nguyễn Văn Lý (110 bài), Phạm Phú Thứ (99 bài), Cao Bá Quát (66 bài), Nguyễn Văn Siêu (30 bài), Ngô Thì Nhậm (26 bài)… Bƣớc đầu lý giải sự vƣợt trội về số lƣợng thơ tống biệt của năm tác giả này chúng tôi cho rằng một trong những nguyên nhân khách quan rất quan trọng là những sáng tác của họ đều đã đƣợc tuyển chọn, dịch và in thành các cuốn tổng tập khá đầy đủ và hoàn chỉnh. Thơ văn của Chí Đình Nguyễn Văn Lý tập hợp trong 2 cuốn Chí Đình Nguyễn Văn Lý - tổng tập thơ văn, xuất bản năm 2015. Hơn 1000 bài thơ của Cao Bá Quát đã đƣợc in trong cuốn Cao Bá Quát, tập 1 và tập 2 do Nxb Văn học phát hành. Thơ văn Ngô Thì Nhậm đƣợc tập hợp đầy đủ trong 5 cuốn Ngô Thì Nhậm toàn tập. Phần lớn các sáng tác của Nguyễn Văn Siêu đều có trong Tuyển tập thơ văn Phƣơng Đình - Nguyễn Văn Siêu. Sáng tác của Phạm Phú Thứ đã đƣợc biên tập công phu trong Phạm Phú Thứ toàn tập với hơn 800 bài thơ. Đây là yếu tố thuận lợi giúp ngƣời nghiên cứu dễ dàng khảo cứu các tác phẩm thơ tống biệt đƣợc hệ thống và trọn vẹn. Ở đây, cũng đặt ra một khoảng trống cho ngƣời nghiên cứu, đó là còn rất nhiều tác phẩm của các tác giả chƣa đƣợc dịch và chắc chắn số lƣợng những bài thơ tống biệt giai đoạn này còn khá lớn. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, điều này không ảnh hƣởng đến kết quả luận án vì những tác phẩm đƣợc dịch, xuất bản phần lớn là những tác phẩm có ý nghĩa. Vì vậy, trong phạm vi tƣ liệu hiện có, luận án chỉ nghiên cứu về thơ tống biệt dựa trên những tác phẩm khảo sát đƣợc. 2.2.2. Phân loại thơ tống biệt Việt Nam thế kỷ XVIII - XIX
Ở mục “tống biệt thi” (https://baike.baidu.com/) có phân thơ tống biệt thành mấy loại: tạ biệt, luyến biệt, tráng biệt, khoát biệt. Cách phân chia này dựa vào cảm xúc khi ly biệt nhƣng đôi khi trong một thi phẩm có sự hòa trộn của rất nhiều cung bậc cảm xúc, khó phân tách rạch ròi. Tác giả Cao Xuân Yến trong công trình Giải thích loại hình thơ Đƣờng từ góc nhìn văn hóa [176], căn cứ vào lý do đƣa tiễn và đối tƣợng đƣa tiễn, chia
50
thơ tống biệt thành 7 loại: khoa cử tống biệt, quan trƣờng tiễn biệt, biên tái tặng biệt, cận thân hoặc lƣu biệt thân hữu, tống nhân mạn du hoặc đăng sơn phỏng thắng (ngắm cảnh đẹp), tình lữ hoặc phu thê li biệt, tống pháp sƣ đạo nhân vân du hoặc quy tiên. Cách phân loại này nhìn chung sáng rõ và cũng là gợi ý cho chúng tôi trong cách phân loại thơ tống biệt. Với thơ tống biệt Việt Nam giai đoạn thế kỵ XVIII - XIX, chúng tôi tạm đƣa ra một số cách phân loại nhƣ sau. Xét ở khía cạnh đối tƣợng đƣợc đƣa tiễn, có ba nhóm nổi bật: bạn bè, đồng nghiệp, ngƣời thân trong gia đình, và một số đối tƣợng khác nhƣ sứ giả, học trò hoặc một số đối tƣợng chƣa xác định. Xét về lý do đƣa tiễn cũng có thể phân làm ba nhóm đó là: Tiễn về quê (nghỉ hƣu, mất chức, nghỉ phép…), tiễn đi nhậm chức (bắt đầu nhậm chức hoặc chuyển nơi làm việc), tiễn đi sứ (đi sứ lập công, chuộc tội). Bên cạnh đó còn có một số lý do đƣa tiễn khác nhƣ tiễn đi thi, tiễn vào kinh, tiễn đi đánh giặc, tiễn đến một địa điểm nào đó... Ngoài ra, nếu xét về hình thức đƣa tiễn có thể phân loại thành một số hình thức đƣa tiễn nổi bật nhƣ trực tiếp đƣa tiễn, tặng vật kỉ niệm và đƣa tiễn, tổ chức ăn uống tiệc rƣợu và đƣa tiễn, không trực tiếp đƣa tiễn mà chỉ viết thơ tiễn, thay ngƣời khác làm thơ tiễn, mƣợn vần nào đó làm thơ tiễn... Tuy nhiên, cách phân loại dựa trên hình thức đƣa tiễn đôi khi chƣa thể làm rõ ở một số thi phẩm. Do vậy, để tập trung hơn cho vấn đề phân loại thơ tống biệt giai đoạn thế kỵ XVIII - XIX, chúng tôi đi sâu trình bày hai cách: phân loại theo đối tƣợng đƣa tiễn và phân loại theo lý do đƣa tiễn. 2.2.2.1. Phân loại theo đối tƣợng đƣợc đƣa tiễn
Khảo sát đối tƣợng đƣợc đƣa tiễn trong các bài thơ tống biệt trung đại giai đoạn
thế kỵ XVIII - XIX, chúng tôi có bảng thống kê nhƣ sau: Bảng 2.1: Bảng thống kê đối tƣợng đƣợc đƣa tiễn trong thơ tống biệt Việt Nam thế kỷ XVIII - XIX STT Đối tƣợng đƣợc đƣa tiễn 1 2
Tỷ lệ (%) 93,8 (%) 3,9 (%)
Số bài 483 20
3
12
2,3 (%)
Bạn bè, đồng nghiệp Ngƣời thân trong gia đình Một số đối tƣợng khác (học trò, sứ giả…) Tổng
515
100 (%)
Nhìn vào bảng khảo sát, có thể nhận thấy, đối tƣợng đƣợc đƣa tiễn trong các bài thơ tống biệt giai đoạn thế kỵ XVIII - XIX phần lớn là bạn bè, đồng nghiệp (chiếm tới 93,8 %), đối tƣợng đƣa tiễn là ngƣời thân trong gia đình hoặc các đối tƣợng khác nhƣ học trò, sứ giả… chiếm tỵ lệ nhỏ. Điều này cũng dễ hiểu bởi loại hình tác giả sáng tác thơ tống biệt chủ yếu là nhà nho hành đạo nên các mối quan hệ bạn bè, đồng nghiệp rất nhiều.
51
Với đối tƣợng đƣa tiễn là bạn bè, đồng nghiệp, cách định danh rất đa dạng. Có những bài thơ gọi đích danh tên ngƣời đƣợc đƣa tiễn, tuy nhiên ở một số bài thơ ngƣời đi chỉ hiện lên với cách gọi nhƣ bạn, ngƣời bạn nhƣ các bài Tống hữu, Trùng tiễn y hữu, Tiễn hữu nhân chi An Nhân phủ tân nhậm... của Nguyễn Văn Lý hay Tống hữu nhân xuất tái của Cao Bá Quát, Tiễn hữu nhân hồi phú Xuân Kinh, Tiễn hữu nhân tòng quân Nam chinh của Nguyễn Án... Cũng có thể ngƣời đƣợc đƣa tiễn chỉ định danh bằng họ nhƣ ông họ Đỗ, ngƣời họ Nguyễn... Đây cũng là một khó khăn rất lớn cho bản thân ngƣời nghiên cứu vì bƣớc đầu không thể nhận diện bao quát về đối tƣợng đƣợc nói tới và những lý giải chỉ đơn thuần dựa vào việc cảm nhận nội dung bài thơ. Với đối tƣợng đƣợc đƣa tiễn là bạn bè, đồng nghiệp chúng tôi còn thấy phần lớn các đối tƣợng này xuất hiện 1 lần tuy nhiên có một số đối tƣợng đƣợc đƣa tiễn xuất hiện lặp lại tới 2, 3 lần ở những bài thơ khác nhau, gắn với những hành trình khác nhau. Điều đó giúp chúng tôi lý giải đƣợc mối quan hệ gắn bó của tác giả đối với bản thân ngƣời đƣợc đƣa tiễn. Đối tƣợng đƣợc đƣa tiễn là bạn bè, đồng nghiệp có thể phân thành ba kiểu loại nhỏ hơn. Trƣớc hết, có khi chỉ đơn thuần là một ngƣời bạn cùng khoa thi, một ngƣời bạn cùng quê, cùng ấp, một ngƣời bạn lâu không gặp, tình cờ gặp trên đƣờng hay một ngƣời bạn đi xa đến nhà từ biệt, xúc động mà thành thơ... Nhiều hơn là những ngƣời bạn đồng nghiệp. Thƣờng những đối tƣợng này tên tuổi và chức vụ đƣợc thể hiện ngay trong tiêu đề bài thơ, và bản dịch thơ thƣờng gọi là ông hay bác. Chân thành và xúc động nhất là những bài thơ với đối tƣợng đƣợc đƣa tiễn vừa là đồng nghiệp, vừa là bạn nhƣng không phải những ngƣời bạn bình thƣờng mà là những ngƣời bạn thân, tri âm, tri kỉ. Những đối tƣợng này xuất hiện nhiều trong sáng tác của Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Lý... Với những ngƣời bạn thân thiết nhƣ thế, ngay tiêu đề bài thơ, đã thấy đƣợc cách gọi rất gắn bó, trìu mến nhƣ khế hữu, khế nghị, tâm khế, đồng khế... Nội dung tiễn biệt cũng đằm sâu ân tình với những sẻ chia xúc động và chân thành. Nhìn chung, với những bài thơ tiễn bạn bè, đồng nghiệp, ngƣời tiễn luôn cho thấy đƣợc tình cảm gắn bó sâu sắc với ngƣời bạn của mình. Tình cảm ấy đƣợc thể hiện ở sự lƣu luyến, bịn rịn trong giờ khắc chia tay, ở cảm giác buồn đau, chán nản, tiếc nuối, xót xa khi phải ly biệt. Gạt sang bên cách nói thậm xƣng, hoa mĩ của văn chƣơng trung đại thì thái độ ngợi ca, trân trọng với những hình ảnh so sánh đẹp và những từ so sánh ở mức độ tuyệt đối cũng cho thấy đƣợc sự ngƣỡng mộ của ngƣời tiễn với ngƣời đƣợc đƣa tiễn. Những bài thơ tiễn bạn bè đồng nghiệp đặc biệt là những ngƣời bạn gắn bó, tri âm tri kỉ chính là đối tƣợng giúp chủ thể trữ tình - ngƣời tiễn - thể hiện sâu sắc nhất những tâm sự, suy ngẫm về cuộc đời, con ngƣời, nhân tình thế thái... Những cuộc tiễn đƣa vì thế đôi khi không đơn thuần là viết cho ngƣời ra đi mà còn là viết cho chính mình, là cách để ngƣời ở lại sống thật nhất với những cảm xúc của mình. Ở một phƣơng
52
diện nào đó, có thể khẳng định rằng những cuộc tống biệt với bạn bè, đồng nghiệp là những cuộc chia tay có ý nghĩa và giá trị nhiều hơn cả trong những bài thơ tống biệt giai đoạn này.
Chiếm một tỵ lệ khiêm tốn nhƣng đối tƣợng đƣợc đƣa tiễn là ngƣời trong gia đình cũng vẫn làm nên nét độc đáo cho các bài thơ tống biệt giai đoạn thế kỵ XVIII - XIX. Ngƣời thân có thể là cha, vợ, em, con, cháu, ngƣời trong họ... Nhân dịp cha phụng mệnh làm đốc trấn ở Cao Bằng vào mùa thu năm Quý mão, Phan Huy Ích làm một bài thơ tiễn chân để ghi nhớ (Quý Mão thu, gia tôn phụng mệnh đốc trấn Cao Bằng thƣợng quan nhật, bái tiễn kí hoài). Cuối năm Quý Sửu (1793), đƣợc em trai là Nguyễn Du vào kinh đô Phú Xuân thăm, lúc em trở về, Nguyễn Đề đã làm đến năm bài thơ tiễn (Tống Tố Nhƣ đệ tự Phú Xuân). Vào ngày xuân tiễn con gái về quê, Nguyễn Văn Lý viết một bài thơ tống biệt đầy xúc động (Thu tống nữ tử hoàn gia ngẫu thành)... So với những bài thơ tống biệt bạn bè, đồng nghiệp những bài thơ tống biệt này mang sắc thái hoàn toàn khác. Vì ngƣời đƣợc tiễn là những ngƣời thân yêu trong gia đình nên lời thơ tống biệt thƣờng dùng những từ ngữ xƣng hô rất gần gũi để thể hiện tình cảm gắn kết. Năm bài thơ tiễn em về Bắc của Nguyễn Đề đều đƣợc lặp đi lặp lại cụm từ: ân cần thiên lý (Ân cần vạn dặm). Tiễn con đến mé ngoài thành Đồ Bàn, Nguyễn Văn Lý nén nỗi nhớ thƣơng âm thầm (Ám nhiên hữu sở ti - trong lòng âm thầm nhớ thƣơng)... Tiễn anh vợ hết hạn nghỉ, trở về kinh, Cao Bá Quát đã không giấu nổi niềm xúc động vô hạn: Tòng lai tống khách tình vô hạn (Từ xƣa đến nay đi tiễn khách thƣờng xúc động vô hạn)... Cũng vì là tiễn những ngƣời trong gia đình, nên nội dung cảm xúc thể hiện sự đồng cảm và thấu hiểu của ngƣời tiễn. Tiễn cha đi nhậm chức, Phan Huy Ích khẳng định: Ngô ông nghĩa mệnh bản lai an (Phụ thân ta giữ nghĩa theo mệnh nên xƣa nay đƣợc yên ổn). Tiễn em về Bắc, Nguyễn Đề không ngại ngần sẻ chia tình cảnh phân ly mỗi ngƣời mỗi ngả của gia đình mình: Nhạn tự phân phi hạt ký tình (Anh em phân tán sao nói nổi nỗi lòng), Bắc thụ nam vân phục các thiên (Lại mỗi ngƣời mỗi phƣơng trời nhƣ cây bắc mây nam)... Một nội dung thƣờng đƣợc thể hiện trong những bài thơ tống biệt này đó là ngƣời ở lại luôn nói về tình cảm gắn bó với quê hƣơng và dƣờng nhƣ tìm thấy sự đồng cảm đó với ngƣời ra đi. Tiễn vợ về Nam, Nguyễn Thông nằm mơ thấy rau rút, cá vƣợc - những hình ảnh biểu trƣng cho nỗi nhớ quê sâu đậm. Vô tình gặp ngƣời cùng họ Cao Dƣơng nơi đất Thanh Hóa, làm thơ đƣa tiễn, càng khơi thêm nỗi lòng bồn chồn mong ngóng về quê hƣơng trong lòng thi sĩ họ Cao: Quy tâm hữu để mang (Nóng lòng về quê hƣơng không khỏi bồn chồn)... Những bài thơ tiễn ngƣời thân vì thế luôn khiến cho ngƣời đọc cảm nhận đƣợc sự gần gũi, thân quen mà vẫn xúc động vô hạn.
Bên cạnh đối tƣợng đƣợc đƣa tiễn là bạn bè, ngƣời thân, khảo sát cho ta thấy một số đối tƣợng tống biệt xuất hiện với tần số ít hơn nhƣ học trò, sứ giả hoặc những
53
nhân vật không xác định đƣợc rõ ràng... tất cả những đối tƣợng nhƣ thế, chúng tôi xếp chung vào mục: một số đối tƣợng khác. Chính vì những đối tƣợng này khá đa dạng nên sự thể hiện cũng rất phong phú. Có bốn bài thơ tiễn học trò. Hai bài của Phạm Đình Hổ và hai bài của Nguyễn Khuyến. Ở cả bốn bài này, ngƣời tiễn đều cho thấy đƣợc sự thấu hiểu của ngƣời thầy với trò của mình. Đi kèm với những lời dặn dò còn là những lời động viên, an ủi và cả những tâm sự về cuộc đời, thời thế nhƣ của một ngƣời bạn dành cho một ngƣời bạn. Nếu ở giai đoạn trƣớc, những bài thơ tiễn sứ giả chiếm tỵ lệ khá lớn thì ở giai đoạn này, thơ tiễn sứ lại rất khiêm tốn. Trong số những bài thơ tống biệt sứ giả, bài thơ tiêu biểu nhất là Tiễn Nhật Bản sứ hồi trình của Nguyễn Huy Oánh và bài Tống Triều Tiên sứ thần Kim Hữu Uyên đẳng quy quốc tịnh giản của Nguyễn Tƣ Giản. Cả hai bài thơ đã thể hiện mối bang giao tốt đẹp giữa Việt Nam với Nhật Bản, Triều Tiên. Bên cạnh học trò, sứ giả, thơ tống biệt giai đoạn này còn có những bài tiễn các đối tƣợng khác nhƣ tiễn quan viên nƣớc ngoài gặp nạn trên bờ biển nƣớc ta nhƣ bài Chu hành tống nạn viên Trần Khải (Lý Văn Phức) hoặc những đối tƣợng chƣa xác định đƣợc rõ nhƣ bài Thiều Châu giang thứ, phụng tiễn Quảng Đông Trƣơng Niết đài hối trị (Phan Huy Ích)…
Nhƣ vậy, kết quả phân loại với những số liệu cụ thể không chỉ giúp chúng tôi có một cái nhìn bao quát về đối tƣợng đƣa tiễn trong thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX mà còn giúp định hƣớng sáng rõ hơn trong quá trình nghiên cứu về hình tƣợng nhân vật trữ tình ngƣời đi, kẻ ở trong các bài thơ tống biệt. 2.2.2.2. Phân loại theo lý do đƣa tiễn
Khảo sát các bài thơ tống biệt giai đoạn thế kỵ XVIII - XIX, chúng tôi đã phân
loại lý do đƣa tiễn với các số liệu cụ thể nhƣ sau: Bảng 2.2:
Bảng thống kê lý do đƣa tiễn trong thơ tống biệt Việt Nam thế kỷ XVIII - XIX
STT
Lý do đƣa tiễn
1 Tiễn về quê 2 Tiễn đi nhậm chức 3 Tiễn đi sứ 4 Một số lý do đƣa tiễn khác
Tổng
Số bài Tỷ lệ (%) 16,9 % 27,6% 11,5 % 44 % 100%
87 142 59 227 515
Qua bảng thống kê, có thể thấy ngoài những lý do nhƣ tiễn về quê, tiễn đi nhậm chức hay tiễn đi sứ thì gần một nửa số bài thơ còn lại (44%) là những lý do đƣa tiễn khác nhau. Điều này đã khẳng định đƣợc lý do đƣa tiễn trong thơ tống biệt giai đoạn này rất phong phú, đa dạng, phù hợp với những cảnh huống tống biệt trong đời sống thƣờng ngày.
54
Tiễn ngƣời về quê là một trong những lý do đƣa tiễn rất nổi bật. Ngƣời về quê có thể là bạn bè, đồng nghiệp, ngƣời thân hoặc thậm chí là những đối tƣợng không xác định. Lý do ngƣời đi về quê cũng rất đa dạng: về nghỉ hƣu, đƣợc về (xin về) nghỉ phép một thời gian ngắn, cáo bệnh xin về quê, xin về quê chăm sóc cha mẹ, về quê để dời mộ tổ tiên, về quê vì bị mất chức, cách chức, đƣợc miễn tội, về quê để báo tin thi đỗ hoặc vì thi hỏng mà về quê... Mặc dù ngƣời đi về quê với những lý do khác nhau nhƣng trong những bài thơ này chúng tôi thấy nổi bật lên hai đặc điểm lớn. Thứ nhất, ngƣời tiễn thể hiện sâu sắc sự thấu hiểu, cảm thông, sẻ chia với ngƣời đi. Thứ hai, thông qua việc tiễn ngƣời về quê, ngƣời tiễn thể hiện sự gắn bó sâu sắc với quê hƣơng và khát vọng trở về âm thầm nhƣng cháy bỏng. Các bài thơ tiễn bạn về nghỉ hƣu, thƣờng tổng kết cuộc đời làm quan, cống hiến của ngƣời về trí sĩ với những lời lẽ trang trọng: Tam thập dƣ niên kiến tố trung - Ba chục năm qua đã tỏ rõ tấm lòng trung trinh) (Tống Ngô Đình Oánh trí sĩ thi - Nguyễn Huy Oánh), Phong sƣơng thất cổn tứ triều di - Sƣơng gió trải bốn triều, bảy chục tuổi còn sót lại (Tiễn trí sự kinh doãn Nguyễn Công Trứ - Vũ Phạm Khải)... Điều này đã thể hiện đƣợc mối quan hệ gắn bó và thái độ trân trọng của ngƣời ở lại dành cho ngƣời đi. Xúc động hơn cả là những bài thơ tiễn bạn về quê với những lý do nhƣ bị mất chức, cách chức hay đƣợc miễn tội. Ở những bài này, ngƣời tiễn thực sự đồng cảm, sẻ chia chân thành và sâu sắc với ngƣời lên đƣờng. Những vần thơ đầy ân tình nhƣ thế xuất hiện nhiều trong thơ Nguyễn Văn Lý hoặc thơ Cao Bá Quát... Tình yêu quê hƣơng sâu sắc và khát vọng trở về chính là nét nổi bật ở những bài thơ tiễn ngƣời về quê. Ngƣời đi về cố hƣơng khiến ngƣời ở lại nao lòng và nỗi nhớ về quê càng cháy bỏng, da diết hơn. Tha phƣơng nơi đất khách quê ngƣời, tiễn bạn về quê Nguyễn Du không khỏi chạnh lòng khi nhớ tới khung cảnh thanh bình của làng quê hay những món ăn gần gũi, giản dị nơi quê nhà, tiêu biểu nhƣ các bài Tống Nguyễn Sĩ Hữu nam quy, Tống nhân... Tiễn một ngƣời bạn về quê, Cao Bá Quát đợi chờ tha thiết tin tức từ quê nhà: Cố hƣơng tiêu tức đãi quân văn (Tin tức quê nhà đợi ông báo cho nghe) (Tống Hà Thành học sứ Phan). Càng nhớ quê lòng ngƣời lại càng thêm sầu vô hạn: Qui nhân dao tống sầu thiêm bội/ Độc lập tà dƣơng thính Đỗ Quyên (Xa tiễn ngƣời về, mối sầu tăng gấp bội/ Đứng một mình trong ánh chiều nghe chim cuốc kêu) (Tống qui nhân - Nguyễn Quang Bích)... Nỗi buồn, nỗi sầu, nỗi nhớ là những biểu hiện thƣờng trực cho thấy tình yêu quê sâu sắc và mong muốn trở về quê dƣờng nhƣ luôn thƣờng trực trong tâm can khi tiễn ngƣời về quê.
Không giống nhƣ những bài thơ tiễn ngƣời về quê, thơ tiễn ngƣời đi nhậm chức thƣờng rất rõ về danh tính, chức vụ của ngƣời đƣợc tiễn. Tần số xuất hiện của lý do đƣa tiễn này tƣơng đối nhiều, đặc biệt trong sáng tác của một loạt các tác giả:
55
Nguyễn Huy Oánh, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Du, Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án, Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát, Đặng Huy Trứ, Miên Thẩm, Nguyễn Xuân Ôn, Nguyễn Thông... Những ngƣời đi nhậm chức có thể là lần đầu tiên đƣợc bổ nhiệm chức vụ hoặc thay đổi công việc từ nơi này đến nơi khác. Tiễn ngƣời đi nhậm chức, sau những lời khẳng định tài năng, phẩm chất, ngƣời tiễn luôn bày tỏ lòng tin tƣởng và hy vọng về những đóng góp mà ngƣời đi sẽ làm đƣợc khi đến vùng đất mới: Bắc môn tỏa thƣợc tri quân khả/ Vạn lý di tƣơng tại thử hành (Giữ gìn cửa Bắc biết ông là ngƣời có thể làm đƣợc/ Muôn dặm lặng yên, trông ở chuyến đi này) (Nghĩ tiễn biệt lý Nguyễn Tán Tu chi Bắc Ninh bố chánh - Nguyễn Xuân Ôn), Thử hồi tiện điện mông tiền tịch/ Phiền bị Hoan Châu chửng tệ manh (Lần này ở tiện điện, nhờ ơn đƣợc tới trƣớc chiếu/ Phiền cho ông cứu dân nghèo ở Châu Hoan) (Tặng biệt Nghệ An trấn Hộ tả phụng nghị Dụ Lộc Hầu - Nguyễn Đề)... Thơ tiễn ngƣời đi sứ chỉ xuất hiện ở 14 tác giả là Nguyễn Huy Oánh, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Đề, Trịnh Hoài Đức, Nguyễn Hành, Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Văn Siêu, Đoàn Nguyễn Tuấn, Trƣơng Đăng Quế, Cao Bá Quát, Vũ Phạm Khải, Phạm Phú Thứ, Trần Thiện Chánh, Nguyễn Khuyến. Giống nhƣ thơ tiễn ngƣời đi nhậm chức, ngƣời đƣợc tiễn đi sứ thƣờng rất rõ về danh tính, chức vụ và nội dung nổi bật ở những bài thơ này là thái độ ngợi ca, trân trọng, lòng tin tƣởng, hy vọng... của ngƣời tiễn dành cho ngƣời đi. Thông thƣờng, ngƣời tiễn sẽ dành những lời đẹp nhất, những đánh giá cao nhất về phẩm chất, tài năng của ngƣời đi. Đặc biệt khi tiễn ngƣời đi sứ ngƣời tiễn thƣờng bày tỏ mong muốn ngày gặp lại và đón nhận những điều tốt đẹp sau chuyến đi dài, đầy gian khổ: Cảnh phục khâm kỳ quýnh xuất thân (Khâm phục ông sáng suốt, hoài bão hơn hẳn ngƣời thƣờng) (Tiễn cựu Hiến Bắc - Ngô Thì Nhậm), Phân phàm ná thị trùng phùng nhật/ Đan bệ uyên hàng tiếp ngọc âm (Đã chia tay thì sẽ ngày gặp lại/ Sẽ nghe tiếng ngọc vàng của triều quan ở bệ son) (Phụng nghĩ tiễn Quảng Đông Án sát sứ phó đại nhân hộ tống quá giới hồi tình - Đoàn Nguyễn Tuấn)... Nhìn chung, ở những bài thơ tiễn ngƣời đi sứ hay đi nhậm chức, tính chất công thức là một đặc điểm nổi bật. Bởi lẽ, bản thân ngƣời đƣợc đi sứ hay đƣợc bổ nhiệm chức vụ mới/ khác đều là những ngƣời rất tài năng và xứng đáng với trọng trách mà họ đƣợc giao phó. Do vậy, ngƣời tiễn luôn dành những lời ngợi ca đối với ngƣời đi.
Phần lớn lý do đƣa tiễn trong những bài thơ tống biệt giai đoạn này, chúng tôi sắp xếp vào mục những lý do khác. Những lý do khác ở đây rất đa dạng và phức tạp gắn với những cảnh huống thƣờng ngày trong đời sống sinh hoạt. Đó có thể là lý do công việc nhƣ tiễn ngƣời đi thi, đi làm giám khảo trƣờng thi, đi kinh lƣợc một vùng đất nào đó, đi tòng quân đánh Tây, về kinh chầu vua, đi mở trƣờng dạy học, lên
56
biên giới dẹp giặc hoặc ra khơi dẹp cƣớp biển, đi thực hiện một nhiệm vụ khác... Đó cũng có thể đơn giản là tiễn ngƣời đi đến một vùng đất với những lý do cá nhân, xác định hoặc không xác định. Cũng có khi là cuộc gặp gỡ giữa đƣờng giữa hai ngƣời trong chốc lát để rồi cả hai cùng tiễn biệt. Có trƣờng hợp ngƣời đi đến gặp chào từ biệt, ngƣời ở lại xúc động mà thành thơ hoặc đơn thuần là một ngƣời bạn đến chơi hay một ngƣời bạn thân thiết ở nơi khác đi qua, đến chơi, lúc từ biệt về gia chủ trân trọng làm thơ tặng biệt... Cũng có trƣờng hợp chúng tôi không xác định đƣợc lý do đƣa tiễn, có những bài ngƣời biên soạn có chú giải nhƣng cũng nhiều bài ngƣời soạn sách cũng chƣa chú thích đƣợc. Thơ tống biệt Cao Bá Quát tiêu biểu cho kiểu loại không xác định đƣợc đối tƣợng tống biệt. Nhan đề bài thơ xác định rõ đƣợc tên của ngƣời đi nhƣng không biết đƣợc lý do cuộc đƣa tiễn vì phần lớn nội dung các thi phẩm là những giãi bày của ngƣời ở lại với ngƣời đi và với chính mình. Tiêu biểu có thể kể tới các bài nhƣ: Biệt Phạm Đôn Nhân Lang Trung, Hiểu biệt, phục họa Phƣơng Đình thứ vận, Trà giang thu nguyệt ca, Tống nhân quy Tứ Kỳ, Kí Bình Lục doãn Nguyễn cử nhân... Những bài thơ tống biệt với các lý do khác nhau giúp thơ tống biệt giai đoạn thế kỵ XVIII - XIX gần gũi với cuộc đời thực hơn, bớt đi tính chất công thức, ƣớc lệ. Trong cuộc đời mỗi con ngƣời có nhiều cuộc chia tay mà không cuộc chia tay nào giống cuộc chia tay nào, có những cuộc chia tay chủ động nhƣng cũng có những lần tiễn biệt ngẫu nhiên, tình cờ, có những cuộc chia ly mà ngƣời trong cuộc bày tỏ rõ lý do nhƣng cũng có những chia ly chỉ hai ngƣời biết. Tất cả những cuộc tống biệt với đủ các cung bậc nhƣ thế đã bƣớc vào thơ tống biệt giai đoạn này chân thực nhƣ chính cuộc đời.
57
Tiểu kết Chƣơng 2
Giai đoạn thế kỵ XVIII - XIX có nhiều tiền đề cơ bản giúp hình thành và phát triển thơ tống biệt. Sự khủng hoảng của chế độ phong kiến dẫn đến tình trạng loạn lạc và nhiều bất ẩn trong xã hội. Nhƣ một quy luật tất yếu của lịch sử, xã hội càng loạn lạc thì càng nhiều chia ly. Một số chính sách đƣợc nhà Nguyễn tăng cƣờng áp dụng nhƣ luật Hồi tỳ, chính sách lƣu quan... đã tạo nên một số lƣợng lớn các cuộc di chuyển trong cả nƣớc. Điều kiện giao thông còn nhiều hạn chế của thời trung đại càng làm tăng thêm tâm lý ƣa sự ổn định, ngại di chuyển của con ngƣời thời trung đại. Bên cạnh đó lối sống quần tụ, trọng nghĩa tình khiến cho văn hóa đƣa tiễn cũng rất đƣợc chú ý. Các quy định về khoa cử, bổ nhiệm, miễn nhiệm, đi sứ, tiếp sứ cùng những ảnh hƣởng của tƣ tƣởng Nho giáo, Phật giáo... là những yếu tố quan trọng giúp hình thành dòng thơ tống biệt trung đại. Ngoài ra, thơ tống biệt Trung Hoa với truyền thống kết tinh rực rỡ cũng nhƣ cảm hứng ly biệt ăn sâu bám rễ từ văn học dân gian Việt Nam cũng là nguồn cội hình thành nên đề tài tống biệt trong thơ trung đại Việt Nam. Đặc biệt, những thành tựu của thơ tống biệt trung đại giai đoạn trƣớc thế kỵ XVIII đã tạo nên tiền đề vững chắc cho sự phát triển của dòng thơ này ở giai đoạn thế kỵ XVIII – XIX. Khảo sát 33 tác giả tiêu biểu trong 42 ngữ liệu, ngƣời viết đã thống kê đƣợc 515 bài thơ tống biệt. Không chỉ phong phú về số lƣợng, các bài thơ còn đa dạng trong đối tƣợng đƣa tiễn, lý do đƣa tiễn. Đối tƣợng đƣa tiễn phần lớn là bạn bè, đồng nghiệp. Ngoài ra còn có những bài thơ tiễn ngƣời thân trong gia đình, tiễn học trò, tiễn ngƣời cùng quê... Lý do đƣa tiễn có thể là tiễn đi nhậm chức, tiễn về quê, tiễn đi sứ nhƣng phần lớn là những lý do khác, rất đa dạng, gắn với những cảnh huống tống biệt trong cuộc sống thƣờng ngày. Sự phong phú về số lƣợng, sự đa dạng trong đối tƣợng đƣa tiễn, lý do đƣa tiễn bƣớc đầu khẳng định đƣợc những dấu hiệu trƣởng thành của thơ tống biệt trong tiến trình phát triển của thể tài. Tất cả những nghiên cứu về điều kiện hình thành, phát triển cũng nhƣ những khái lƣợc về thơ tống biệt thế kỵ XVIII - XIX là cơ sở nền tảng để chúng tôi tiếp tục nghiên cứu sâu hơn những giá trị nội dung và nghệ thuật của thơ tống biệt Việt Nam giai đoạn này.
58
CHƢƠNG 3 HÌNH TƢỢNG NHÂN VẬT TRỮ TÌNH VÀ BỨC TRANH HIỆN THỰC MANG TÍNH THỜI SỰ TRONG THƠ TỐNG BIỆT VIỆT NAM THẾ KỶ XVIII – XIX
Thơ tống biệt vừa mang tính chất hƣớng nội, vừa mang tính chất hƣớng ngoại. Với tính chất hƣớng nội, thơ tống biệt thể hiện nhân vật trữ tình - con ngƣời tác giả. Với tính chất hƣớng ngoại, thơ tống biệt phản ánh hiện thực đời sống, hiện thực xã hội mang tính thời sự. Trong chƣơng này, chúng tôi nghiên cứu thơ tống biệt Việt Nam thế kỵ XVIII – XIX trên hai phƣơng diện hình tƣợng nhân vật trữ tình và bức tranh hiện thực mang tính thời sự. Cả hai bình diện này góp phần làm nên giá trị nội dung của thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX. 3.1. Hình tƣợng nhân vật trữ tình
Nhân vật trữ tình là “kẻ song sinh đồng dạng với nhà thơ tác giả, nó đƣợc hình thành từ văn bản của kết cấu trữ tình (một chùm thơ, một tập thơ, một trƣờng ca trữ tình, hoặc toàn bộ sáng tác thơ trữ tình, nhƣ một dáng ngƣời có đƣờng nét rõ rệt hoặc một vai sống động, nhƣ một gƣơng mặt có tính xác định của số phận cá nhân, có đƣờng nét tâm lý của thế giới nội tâm, và đôi khi có cả những đƣờng nét tạo hình của một nhân vật văn học nhƣ trong các thể loại tự sự hoặc kịch” [5, tr 252]. Nhân vật trữ tình còn đƣợc hiểu là “hình tƣợng ngƣời trực tiếp thổ lộ suy nghĩ, cảm xúc, tâm trạng trong tác phẩm. Nhân vật trữ tình không có diện mạo, hành động, lời nói, quan hệ cụ thể nhƣ nhân vật tự sự và kịch. Nhƣng nhân vật trữ tình cụ thể trong giọng điệu, cảm xúc, trong cách cảm, cách nghĩ. Qua những trang thơ ta nhƣ gặp tâm hồn ngƣời, tấm lòng ngƣời. Đó chính là nhân vật trữ tình” [74, tr 359]... “nhân vật trữ tình trong thơ thƣờng là hiện thân của tác giả [74, tr 360], là “...một hình tƣợng khái quát... mang tâm trạng, cảm xúc, ý nghĩ cho một loại ngƣời, thế hệ ngƣời” [74, tr 360]. Nhƣ vậy, trong thơ trữ tình, nhân vật trữ tình là hình tƣợng trung tâm giúp thể hiện tâm trạng, cảm xúc của tác giả. Hình tƣợng nhân vật trữ tình trong thơ tống biệt là hình tƣợng mang tính khái quát vừa song hành với chính tác giả - ngƣời đƣa tiễn lại vừa là nhân vật ngƣời đi trong cảm nhận và thể hiện của ngƣời đƣa tiễn. Nghiên cứu sự thể hiện hình tƣợng nhân vật này, chúng tôi thấy nổi bật trên hai phƣơng diện hình tƣợng con ngƣời chức năng, phận vị và hình tƣợng con ngƣời cá nhân. Sự phân chia cũng chỉ mang tính chất tƣơng đối bởi hai phƣơng diện này không phải lúc cũng tách biệt rõ ràng. Ở đây, chúng tôi chủ yếu khai thác những khía cạnh nổi bật trong nội dung cảm xúc của hình tƣợng nhân vật trữ tình thể hiện tính chất chức năng, phận vị và tính chất cá nhân. 3.1.1. Hình tƣợng nhân vật trữ tình từ phƣơng diện con ngƣời chức năng, phận vị
Nhƣ đã đề cập ở những phần trƣớc, nhà nghiên cứu Lê Trí Viễn trong công trình Đặc trƣng văn học trung đại Việt Nam cho rằng thơ tống biệt là thơ thể hiện tính cao
59
nhã, tính quy phạm trong quan niệm sáng tác của văn học trung đại. Nhƣ vậy, thơ tống biệt trƣớc hết là một loại văn học chức năng, dùng để đƣa tiễn trong những cuộc tiễn biệt. Nó mang tính chất thù tạc, xƣớng họa giữa ngƣời tiễn và ngƣời đi. Chính vì tính chất chức năng, thù tạc nên trƣớc hết, nhân vật trữ tình thể hiện con ngƣời của chức năng, phận vị. Mặt khác, loại hình tác giả sáng tác thơ tống biệt phần nhiều là các nhà nho hành đạo. Nhà nghiên cứu Trần Đình Hƣợu trong bài viết Mấy ý kiến bàn về nghiên cứu Nho giáo đã khẳng định: “Con ngƣời theo cách hình dung của Nho giáo, kể cả trong xã hội lý tƣởng của họ, sống theo trật tự đẳng cấp. Cái định giá con ngƣời là tƣớc vị. Cuộc sống cộng đồng, xã hội hay nhà nƣớc cũng giống nhƣ ở gia đình, mỗi ngƣời hoặc là cha, con, là anh em hoặc là vợ, chồng, hoặc là vua tôi, tức là có một chức năng luân thƣờng. Giá trị con ngƣời là ở đạo đức, hoàn thành tốt hay xấu chức năng của mình” [53]. Trong công trình Các bài giảng về tƣ tƣởng phƣơng Đông, ông cũng một lần nữa cho rằng Nho giáo răn dạy bậc quân tử phải làm cho đúng lễ, lễ ở đây là “những quy định mà mọi ngƣời cho là đúng và nghe theo để giữ đúng vị trí từng ngƣời trong tƣơng quan giữa mọi ngƣời, tùy theo “phận vị” mà mỗi ngƣời đƣợc phép làm gì, nói gì, mặc gì, ăn gì...” [55, Tr 220]. Nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn trong công trình Văn học Việt Nam từ thế kỵ X đến hết thế kỵ XIX cũng chỉ ra rằng: “Nhà nho làm quan thì phải có quan hệ với vua chúa, với quan trên, đồng liêu. Những khi có cảm hứng về chính trị xã hội, vua chúa có thể cao hứng tặng thơ, ra đề để xƣớng họa. Khi đó, dễ đoán đƣợc nội dung của những bài thơ xƣớng họa đó xoay quanh chủ đề ca tụng công đức, vua tôi một lòng, trên dƣới hòa hợp. Có thể gọi đó là thứ văn chƣơng thù tạc và tác giả khi đó là những con ngƣời chức năng, con ngƣời của phận sự, con ngƣời đặt trong các mối quan hệ luân thƣờng đạo lý, thƣờng rất ít nếu nhƣ không muốn nói rằng không có “cái tôi” [146, tr 198]. Nhƣ vậy, Nho giáo đặt nhà Nho trong các mối quan hệ cùng những ràng buộc về đạo đức, luân lý. Hình tƣợng con ngƣời chức năng, phận vị trong thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX cũng đƣợc đặt trong các mối quan hệ với vua, với đất nƣớc và thƣờng tập trung trong nhóm bài thơ tiễn đồng nghiệp (đi sứ, đi nhậm chức, đi làm giám khảo trƣờng thi), tiễn học trò đi thi. Trong các mối quan hệ này, con ngƣời chức năng, phận vị đƣợc thể hiện rõ trên ba khía cạnh: trung thành với đấng quân vƣơng, tự hào về triều đại thanh bình và cảnh sắc non sông gấm vóc, cảm hoài trƣớc cảnh nƣớc nhà loạn ly. 3.1.1.1. Trung thành với đấng quân vƣơng
Khi nói về vua, con ngƣời chức năng, phận vị trong thơ tống biệt thể hiện sự trung thành tuyệt đối với đấng quân vƣơng bằng thái độ ngợi ca, biết ơn và chịu ơn cùng ý thức về sự phục tùng. Hình tƣợng con ngƣời trung thành với đấng quân vƣơng tập trung chủ yếu trong những sáng tác thơ tống biệt ở giai đoạn thế kỵ XVIII và nửa đầu thế kỵ XIX.
60
Ngợi ca nhà vua: Các tác giả thể hiện quan niệm đồng nhất bậc quân vƣơng với đất nƣớc. Khoảng 132 bài thơ nhắc tới vua với những cách gọi khác nhau nhƣ thánh minh, thánh đức, thiên tử, minh quân... Dù gọi theo cách nào thì đều thể hiện thái độ cung kính, ngợi ca, tôn sùng với ngƣời đứng đầu nhà nƣớc. Tiễn ngƣời đi nhậm chức, nhân vật trữ tình tỏ bày thái độ ca ngợi sự sáng suốt, mƣu lƣợc của ngƣời đứng đầu đất nƣớc trong việc tuyển lựa, phân bổ ngƣời tài: Đế vị lƣơng dân tuyển sô mục (Vua vì dân lành chọn ngƣời ra (cai quản) chăn dắt) (Tống Tôn Thất thúc lệ xuất thủ Nghĩa Hƣng - Cao Bá Quát), Đế giản tuần lƣơng hữu thử hành (Vua đã kén chọn ngƣời bầy tôi giỏi nên mới có cuộc đi này) (Tiễn Đặng Thiện Đình ra trấn thủ đất Yên Bình - Đặng Huy Trứ). Tiễn thuyền quan viên nƣớc bạn bị nạn, dạt vào bờ biển nƣớc ta, Lý Văn Phức gián tiếp thể hiện thái độ ca ngợi ân đức của nhà vua: Quân tử hữu cùng ƣng đại thụ/ Hoàng ân nhất thị thẩn Nho lƣu (Ngƣời quân tử khi khốn khó nhận đƣợc lớn/ Ân vua ban khắp, huống hồ đối với ngƣời thuộc dòng Nho) (Chu hành tống nạn viên Trần Khải). Tiếng thơ ngợi ca nhà vua còn thể hiện qua việc nhân vật trữ tình xây dựng, khắc họa những hình ảnh đẹp về đấng quân vƣơng. Thơ Nguyễn Văn Lý miêu tả hình ảnh nhà vua giản dị, gần gũi thông qua hành động đích thân đẩy xe tiễn ngƣời tài: Thôi cốc quân vƣơng đắc trọng tài (Quân vƣơng thân đẩy xe tiễn, tỏ lòng trọng ngƣời tài) (Chế đài Đặng Tƣớng Công điều cải Định An tổng đốc bái tiễn). Hình ảnh nhà vua ngày đêm lo lắng, bàn tính kế sách đánh giặc cũng là một hình ảnh rất đẹp trong thơ Nguyễn Xuân Ôn: Tuyệt dạ quân vƣơng hạ cẩm nhân (Đêm tuyết nhà vua xuống ngồi nơi nệm gấm) (Tiễn Lê Trung Lƣợng thăng thụ Bình Thuận án sát chi lỳ), Quân vƣơng nhân tuyết trù phƣơng lƣợc (Nhà vua đem tuyết ngồi nệm, trù tính phƣơng lƣợc) (Tiễn Khánh Hòa án sát sứ Phạm Văn Bính phó lỳ chi thứ)... Có thể thấy, nhà vua - ngƣời đứng đầu vƣơng triều đất nƣớc, luôn đƣợc dành những lời ngợi ca tốt đẹp với thái độ sùng kính, trân trọng. Điều này cũng thể hiện sự kỳ vọng rất lớn của nhân vật trữ tình vào điều kiện lý tƣởng để ngƣời đi có thể khẳng định đƣợc bản thân.
Biết ơn nhà vua: Có khoảng 37 bài thơ nhân vật trữ tình nhắc tới lòng biết ơn với những cách diễn đạt nhƣ ơn vua, ơn mƣa móc, ơn chúa thƣợng, ơn trên... Cảm xúc này của nhân vật trữ tình cũng gắn với nhiều cảnh huống khác nhau trong đời sống nhƣ khi đƣợc đi nhậm một chức mới, đƣợc đến chầu cận vua, đƣợc cho về hƣu quan, đƣợc miễn tội... Nguyễn Văn Siêu bày tỏ lòng ơn vua đã tái tạo cho cuộc sống này: Quân ân vi tái tạo (Ơn vua đã tái tạo cho ta cuộc sống này) (Tống Vĩnh Thuận Nguyến Ƣớc Phu trấn tây tòng quân), Nguyễn Văn Lý thể hiện lòng biết ơn với những ƣu ái mà nhà vua dành cho quần thần: Đế ân trù tích đa ƣu lão (Ơn vua khi trƣớc nhiều ƣu ái cho bậc lão thành) (Kí tiễn lễ bộ thƣợng thƣ phan công trí sĩ), Vũ lộ tùng thiên bồ tứ nhuận (Ơn mƣa móc thiên tử ƣu đãi, ban cỗ xe tứ mã bánh bọc cỏ bồ đi rất êm) (Bùi Công trí sự, thƣ tiễn)... Tiễn các học trò đi thi, Phạm Đình Hổ dành những lời tâm huyết để khích lệ
61
tinh thần cống hiến, báo đền ơn vua sau mƣời năm đã tôi luyện: Miễn hiệu quyên trần đáp thánh minh (Gắng đƣa tấm thân giọt nƣớc hạt bụi báo đáp vua sáng) (Tiễn môn nhân Nguyễn Xuân Phƣợng, Lê Tông Quang, Trƣơng Mãn, Trƣơng Đức Hoằng phó kinh hội thi). Lòng biết ơn luôn đƣợc diễn tả ở trạng thái đong đầy: Hoàng ân tƣởng dục thâm (Ơn vua thấm sâu vào công dƣỡng dục) (Tống Ngô Dƣơng Đình phụng vãng giám khảo Hà Nội trƣờng – Phan Thanh Giản), Thể thần thánh đức chân nguy nguy (Thể hiện kẻ làm tôi, ơn đức vua thật là lồng lộng) (Tống thị giảng học sĩ Hoàng Tĩnh Trai quy tỉnh – Phạm Phú Thứ), Thành toàn huống thị quốc ân đa (Huống chi đƣợc thành đạt vẹn toàn, là nhờ ơn nƣớc rất nhiều) (Cửu nhật tống Nguyễn Niết quy điền – Nguyễn Văn Lý)... Nhƣ vậy, lòng biết ơn nhƣ một minh chứng sáng rõ nhất cho tấm lòng trung thành của kẻ sĩ.
Ý thức về lòng trung thành, tận tụy báo đáp quân vƣơng: Nhân vật trữ tình ngƣời đƣa tiễn có khi tự nhận, tự xƣng là kẻ bề tôi. Đặt trong tƣ thế đó, con ngƣời tự coi việc phục vụ, phục tùng là đƣơng nhiên. Nhân vật trữ tình trong thơ tống biệt Ngô Thì Nhậm thể hiện sâu sắc ý thức này. Tiễn bạn đi theo xa giá nhà vua, ông viết: Thần chức đƣơng nhiên tiết dĩ xu (Chức phận bầy tôi, đƣơng nhiên phải đi theo xa giá) (Tống hữu Nguyễn Hiếu Đức bồi giá hạnh vạn niên cung y vận). Tự coi mình là nhà Nho chân chính và tự nhận trách nhiệm: Nho giả do lai vũ trụ thân (Tấm thân nhà nho, việc trong vũ trụ vốn phải lo toan (Thƣ tiễn thị lang Điển Ngọc Hầu phụng sứ)... Cũng chính vì ý thức sâu sắc mình là kẻ bề tôi, là nhà Nho nên ông luôn đặt ra những yêu cầu khắt khe với chính mình: Cần lao ngô hữu lƣỡng niên tƣ (Việc hôm nay, phận sự làm tôi phải gắng sức) (Tống khế hữu hành biên). Với Nguyễn Hành, sự gắng sức báo đáp không còn là trách nhiệm mà là sự tự nguyện và quan trọng, điều đó mang lại cho con ngƣời niềm vui: Vƣơng thần kiển kiển tự khang trang (Bề tôi chịu mọi gian khó vì vua, vì nƣớc, tự thấy thoải mái) (Hải Dƣơng hiệp trấn Hà Tôn thai nhập quan nhi lai tiện đọa tỉnh hƣơng đáo thành hựu huệ cố lâm đƣơng hồi trấn kính tiễn dĩ thi). Nguyễn Văn Lý hay nói tới tấm lòng kẻ bề tôi nhƣ một cách để nhấn mạnh ý thức về trách nhiệm: Nhất phiến xích tâm nan đắc tự (Một tấm lòng sắt son khó ai đƣợc nhƣ thế) (Tâm khế Tân Xuyên dĩ Thái Phiên thăng bổ Hà Tiên bố chính, hộ lí tuần phủ, đạo kinh Hà Thành, thƣ tiễn), Thần tâm chiêm khuyết đối tam niên (Tấm lòng kẻ bề tôi trông về nơi cửa khuyết đã ba năm (Hà Nội nguyên phiên đài xu cận, thƣ tiễn). Ông còn thƣờng dùng hình ảnh mái tóc bạc nhƣ một cách chứng minh chân thực nhất cho tấm lòng của mình: Nhung mã thần lao bạch phát trì (Việc quân sự, kẻ bề tôi khó nhọc, mái tóc bạc từ lâu) (Tâm khế Tân Xuyên dĩ Thái Phiên thăng bổ Hà Tiên bố chính, hộ lí tuần phủ, đạo kinh Hà Thành, thƣ tiễn). Nguyễn Văn Siêu khẳng định sự tận tâm, tận lực với việc nƣớc, việc vua luôn đƣợc đặt lên hàng đầu. Mọi sự có thể bỏ bê nhƣng việc quân quốc không hề dám trễ nải: Tức tuy nhàn phế cửu/ Quân quốc cảm
62
vong hoài (Gần đây tuy nhàn bỏ bê mọi sự/ Nhƣng việc vua, việc nƣớc không hề dám trễ nài) (Sơn phiên điều lại bộ hữu thị lang quá môn lƣu giản y vận tống chi). Ý thức bổn phận trong ông đã vƣợt qua cả những ham muốn danh lợi tầm thƣờng: Danh lợi phi ngô ý (Danh lợi chẳng phải là điều mong muốn của mình) (Tống Bình Chuẩn Đặng Quân Hoàng Trung phù hải nhƣ đông)...
Nhƣ vậy, nhân vật trữ tình đã cho thấy đƣợc ý thức sâu sắc về chức năng, phận vị của kẻ bề tôi với bậc quân vƣơng. Về cơ bản, ở phƣơng diện này, hình tƣợng nhân vật trữ tình trong thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX cho thấy sự tiếp nối tƣ tƣởng trung quân trong văn học trung đại ở những giai đoạn trƣớc đó. 3.1.1.2. Tự hào về triều đại thanh bình và cảnh sắc non sông gấm vóc
Con ngƣời chức năng, phận vị trong thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX còn thể hiện sự tự hào về triều đại thanh bình và cảnh sắc non sông gấm vóc. Những biểu hiện này gắn với các mốc thời gian khác nhau.
Giai đoạn thế kỵ XVIII nhân vật trữ tình nghiêng nhiều về ngợi ca triều đại thanh bình. Ngô Thì Nhậm hay dùng những từ hoặc cụm từ nhƣ thánh thế, minh thời, thanh bình, hảo cập phi thời, thụy thế lân hoàng, thiên tải minh lƣơng, trị triều chi nhật... Tiễn bạn theo xa giá nhà vua đến cung, nhân vật trữ tình dành những lời thơ trác tuyệt tụng ca triều đại: Thánh thế vô ba trƣờng phán hoán/ Trị triều chi nhật thậm thung dung (Đời thánh minh không nổi sóng, luôn luôn phẳng lặng/ Buổi triều đình thịnh trị, rất mực thung dung) (Tống hữu Nguyễn Hiếu Đức (Thạch Động) bồi giá hạnh vạn niên cung y vận). Tiếng thơ ngợi ca bậc thiên tử, ngợi ca triều đình phong kiến và cuộc sống ấm no, thanh bình đã thể hiện quan niệm của các tác giả về sự hòa hợp giữa vua sáng, tôi hiền, giữa thánh minh với đời thịnh: Thiên tải minh lƣơng trùng khế hợp/ Nhất đƣờng thƣợng hạ cánh tinh thông (Vua sáng tôi hiền ngàn năm lại đƣợc hòa hợp/ Trên dƣới một nhà càng thấu hiểu lẫn nhau) (Tống liêu hữu tuân Phan nhập cận chi tác - Ngô Thì Nhậm).
Ở giai đoạn đầu thế kỵ XIX, tình hình lịch sử có nhiều biến động rối ren, có lẽ vì vậy nhân vật trữ tình không ngợi ca cuộc sống thanh bình thịnh trị mà lại nghiêng về ngợi ca danh lam thắng cảnh với những địa danh nổi tiếng. Những dòng sông, ngọn núi nhƣ núi Thiên Thai, sông Thiên Đức, hồ Tây, sông Hƣơng, núi Ngũ Hành, sông Vĩnh Điện... đƣợc nhân vật trữ tình cảm nhận với vẻ đẹp rất riêng. Tiễn bạn đi nhậm chức ở phủ Tiên Hƣng, Nguyễn Án bắt đầu với hai câu thơ miêu tả cảnh đẹp nơi đây: Yểu điệu Thai xuất tú/ Hồi hoàn Đức thủy thanh (Núi Thiên Thai lộ vẻ đẹp mềm mại/ Sông Thiên Đức trong trẻo chảy quanh co) (Tiễn Trần Mộng Hạc tân trừ Tiên Hƣng tri phủ chi nhậm). Các địa danh từ Bắc vào Nam nhƣ Bắc Giang, Kỳ Sơn, Thạch Bàn, Gia Định... cũng đƣợc nhắc đến không chỉ bởi có cảnh sắc kì thú mà còn nổi tiếng với những truyền thống văn hóa tốt đẹp. Nguyễn Văn Lý dành những lời ngợi ca cho đất và ngƣời Bắc Giang: Bắc Giang
63
thiên địa chân thần tú/ Đông Ngạn lƣ diêm tẫn tuấn tài (Trời đất Bắc Giang thật đẹp, đến thần kỳ/ Làng quê Đông Ngàn thảy là bậc anh tài) (Đồng Châu binh bộ chủ sự thăng bổ Từ Sơn thái thú Phƣơng Uyên Đình tiễn hàn). Tiễn bạn đến Điện Bàn, Phạm Phú Thứ diễn tả tinh tế vẻ đẹp của cảnh cũng nhƣ truyền thống riêng của mảnh đất miền Trung: Hành sơn tú nhƣ họa/ Điện thủy thanh khả cúc/ Thạch Am danh hoạn từ/ Tuế thời triển thi chúc (Núi Ngũ Hành đẹp nhƣ tranh vẽ/ Nƣớc sông Vĩnh Điện trong muốn vốc tay uống/ Đền thờ vị danh thần Thạch Am/ Suốt năm, ngƣời đến khấn vái) (Tống Điện Bàn Phạm tri phủ phó lỳ).
Những lời ngợi ca về triều đại, cảnh đẹp, con ngƣời... đều gắn với nơi ngƣời đi sẽ tới và đều đƣợc tái hiện bằng trí tƣởng tƣợng của nhân vật trữ tình - ngƣời tiễn nhƣng đã trực tiếp thể hiện đƣợc lòng tự hào, kiêu hãnh của các tác giả về non sông gấm vóc và thời đại. Ẩn sâu trong đó là tình yêu quê hƣơng đất nƣớc - một nguồn mạch âm ỉ và mãnh liệt theo suốt chiều dài thời gian trong lịch sử văn học nói chung, trong thơ tống biệt nói riêng. 3.1.1.3. Cảm hoài trƣớc cảnh nƣớc nhà loạn ly
Từ khoảng gần nửa sau thế kỵ XIX, tình hình đất nƣớc càng trở nên rối ren. Ở miền Bắc giặc phỉ Thanh liên tiếp quấy nhiễu. Ở khu vực phía Nam những cuộc tranh chấp cƣơng vực lãnh thổ cũng nhƣ việc thực dân Pháp nhòm ngó và từng bƣớc thôn tính đất nƣớc càng làm cho tình hình chiến sự trở nên căng thẳng. Trƣớc yêu cầu của hoàn cảnh lịch sử mới tinh thần yêu nƣớc của nhân vật trữ tình gắn với các cuộc tống tiễn ngƣời đi nhậm chức ở các vùng biên, đi dẹp giặc, dẹp loạn... đã thể hiện niềm cảm hoài trƣớc cảnh nƣớc nhà loạn ly với lòng căm thù giặc sâu sắc, nỗi niềm thời cuộc và ý chí quyết tâm tiêu diệt kẻ thù giữ vững độc lập, chủ quyền nƣớc nhà. Việc xếp nội dung cảm xúc này của nhân vật trữ tình vào phƣơng diện chức năng, phận vị cũng chỉ mang ý nghĩa tƣơng đối bởi tình cảm với đất nƣớc là tình cảm mang tính phổ quát.
Lòng căm thù giặc sâu sắc: Nhân vật trữ tình bộc lộ lòng căm thù giặc thông qua cách gọi kẻ thù (chủ yếu là phỉ Thanh và thực dân Pháp) đầy khinh bỉ nhƣ cuồng lỗ (bọn giặc cuồng bạo), thiên lang (bầy lang sói nhà trời), thảo lai (bọn giặc cỏ dại), cuồng phu (bọn điên cuồng)... Những tác phẩm trực tiếp thể hiện nội dung cảm xúc này không nhiều, tiêu biểu có thể kể đến các bài nhƣ Tống hàn lâm Tôn Thất Thuyết tòng quân Bắc Ninh (Đặng Huy Trứ), Tiễn Ninh Bình Nguyễn Tán Tƣơng hồi Nam (Nguyễn Quang Bích)... Tuy nhiên, cách thể hiện lòng căm giận với kẻ thù lại rất sâu sắc, quyết liệt. Tiễn Tôn Thất Thuyết theo quân đội ra Bắc Ninh, Đặng Huy Trứ viết:
Ngọc đƣờng thi tuyển thảo sơ thành Tráng chí xung quan hữu thị hành Tây yết hận tiêu Hƣơng thủy bạch Bắc chinh chí tại Đức giang thanh
64
Dịch nghĩa:
Ở Viện Hàn lâm bản thảo “thi tuyển” của vua vừa mới tạm sắp xếp lại xong. Mang chí lớn, lòng căm giận xung lên làm dựng cả mũ nên phải ra đi. Tây đến yết kiến, mối hận tan đi làm trắng dòng nƣớc sông Hƣơng. Ra Bắc đánh dẹp, chí đặt ở việc làm trong dòng Đức giang Tháng 3 năm 1875, Tôn Thất Thuyết đƣợc vua Tự Đức phong chức Tổng đốc Ninh – Thái kiêm Tổng đốc các việc quân Ninh – Thái – Lạng – Bằng. Bài thơ này có lẽ Đặng Huy Trứ viết trong dịp tiễn Tôn Thất Thuyết đi nhậm chức đó. Câu thơ Tráng chí xung quan hữu thị hành có vận dụng thành ngữ của Hán văn: “Nộ phát xung quan” nghĩa là tức giận làm cho tóc dựng đứng đụng mũ đội trên đầu. Cách nói đầy hình ảnh giúp diễn tả nỗi căm giận giặc rất sâu sắc của ngƣời đi. Cuộc ra đi mang đầy chí lớn và lòng căm phẫn nên càng thêm chí khí, quyết tâm. Bài thơ còn nhắc tới sự kiện của năm 1863. Năm đó phái đoàn Pháp và Tây Ban Nha do Bôna và Palăngca đến Huế trao đổi về việc phê chuẩn Hiệp ƣớc 1862 và đƣợc nhà vua cho yết kiến ngày 16 tháng 4 năm 1863. Việc này vấp phải sự phản đối quyết liệt của phái chủ chiến. Tác giả đã thể hiện sự phản đối quyết liệt đó qua hình ảnh: Tây yết hận tiêu Hƣơng thủy bạch (Tây đến yết kiến, mối hận tan đi làm trắng dòng nƣớc sông Hƣơng). Cách sử dụng hình ảnh liên tƣởng độc đáo, ví mối hận tan đi nhƣ dòng sông trắng xóa tạo ám ảnh về nỗi căm thù trải rộng, rợn ngợp không gian, đằm sâu trong lòng ngƣời. Bài thơ không chỉ thể hiện sự thấu cảm của tác giả - nhân vật trữ tình ngƣời đƣa tiễn đối với ngƣời ra đi mà qua đó kín đáo gửi gắm những tâm sự yêu nƣớc của chính thi nhân.
Không những thể hiện nỗi căm hận đối với kẻ thù, trƣớc tình cảnh nƣớc nhà loạn ly, đói khổ, nhân vật trữ tình còn bộc lộ cái nhìn cảm khái trƣớc thời cuộc. Nỗi niềm ấy có thể là nỗi xót xa thƣơng tiếc khi giang sơn bị chiếm đóng: Giang sơn căng tuấn bạt (Thƣơng tiếc cho giang sơn hùng vĩ bị chiếm đóng) (Tống lại bộ Dƣơng Lang Trung Quảng Nam án sát – Phạm Phú Thứ), có khi là nỗi niềm cay đắng cho những ngƣời con sau loạn ly: Tân khổ đông cao tử/ Thùy liên loạn hậu quy (Cay đắng thay những ngƣời con của ruộng nƣớc phía Đông/ Ai thƣơng kẻ về sau cơn ly loạn) (Tống Lƣơng Tứ chi Quảng Nam – Tùng Thiện Vƣơng). Nỗi niềm ấy còn là tâm trạng “xấu hổ” khi chƣa diệt hết đƣợc kẻ thù: Cừu địch vi vong do thị sỉ (Kẻ thù chƣa bị diệt hết thì còn xấu hổ) (Tặng Nguyễn Hồng Lô Nguyễn Quân văn vĩ lãnh Cao Bằng án sát – Nguyễn Văn Siêu)... Đây là những biểu hiện thật xúc động về tinh thần yêu nƣớc của nhân vật trữ tình trƣớc cảnh nƣớc nhà ly loạn.
Ý chí quyết tâm tiêu diệt kẻ thù giữ vững độc lập, chủ quyền dân tộc: Đây là một biểu hiện rất sâu sắc của tinh thần yêu nƣớc trong buổi giao thời. Qua những lời tiễn tặng viết cho ngƣời đi, viết về ngƣời đi, có thể nhận thấy ngƣời tiễn thể hiện rõ quyết tâm tiêu diệt kẻ thù. Nội dung cảm xúc này đƣợc thể hiện sâu sắc trong thơ Phạm Văn
65
Nghị, Vũ Phạm Khải, Nguyễn Quang Bích, Đào Tấn... Đây đều là những ngƣời tiêu biểu cho phái chủ chiến. Thơ Phạm Văn Nghị hay Vũ Phạm Khải thƣờng mang tính chất khẳng định chí khí và quyết tâm của một con ngƣời có trách nhiệm với thời cuộc: Tráng hoài bất vị phong sƣơng biến (Chí khí cƣờng tráng, chẳng vì gió sƣơng mà biến đổi) (Tiễn Quảng Nam cố nhân, nguyên án sát đắc cữu, vãng Thái Nguyên – Phạm Văn Nghị), Cán tiêu bất nhẫn ƣu quân phụ/ Quan kỹ hà kham loạn Hạ, Di (Ông đâu nỡ để vua cha phải lo lắng ngày đêm/ Là ngƣời đội mũ, đi giày, há chịu cho bọn mọi rợ làm loạn) (Tiễn Nghĩa Trai tiên sinh vãng Quảng Nam tiễu Tây – Vũ Phạm Khải). Ý chí quyết tâm tiêu diệt kẻ thù trong thơ Nguyễn Quang Bích đƣợc thể hiện ở ý thức đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích của cá nhân, lên trên sinh mạng của chính mình. Trong bài Tống quy nhân, cảm tác ông viết: Vị hữu quyên ai năng báo quốc/ Khả kham bôn thoán cận toàn thân (Ơn nƣớc báo đền chƣa đƣợc mảy may/ Sao đành lẩn lút để bảo toàn riêng lấy thân mình). Ở bài Tống quy nhân ông lại một lần nữa khẳng định: Quyên ai vị bảo gia hà hữu (Nợ nƣớc chƣa báo đền mảy may, nói gì đến nhà). Đây là những dòng tâm sự thật xúc động và tràn đầy hào khí. Thơ tiễn bạn của Đào Tấn lại thể hiện ý chí quyết tâm giữ gìn non sông gấm vóc khi so sánh giữa “thốn giang sơn” với “thốn huyết” để khẳng định việc giữ gìn bờ cõi non sông cũng là giữ gìn chính sinh mạng và sự sống của mình. Chính ý thức đó đã tạo nên quyết tâm bền bỉ, sắt đá của con ngƣời:
Hƣơng Giang giang thƣợng tống quân hành Gia Định trùng qui cẩm tú thành Nhất thốn giang sơn nhất thốn huyết Vệ bang, thù thổ, chí nan canh
Dịch nghĩa:
Trên sông Hƣơng đƣa bạn lên đƣờng Một lần nữa trở về thành Gia Định gấm vóc Một tấc núi sông, một tấc máu Giữ nƣớc, giữ đất, chí khó đổi thay.
(Tống hữu Nam quy)
Nỗi niềm cảm hoài của nhân vật trữ tình một mặt là sự tiếp nối truyền thống yêu nƣớc nhƣng mặt khác còn mang hơi thở thời đại. Nó cho thấy các nhà Nho yêu nƣớc chân chính dù ở hoàn cảnh lịch sử nào khi đất nƣớc thanh bình hay có nhiều biến động thì con ngƣời vẫn thể hiện đƣợc sâu sắc chức năng, phận vị của mình. 3.1.2. Hình tƣợng nhân vật trữ tình từ phƣơng diện con ngƣời cá nhân
Nếu nhƣ hình tƣợng nhân vật trữ tình từ phƣơng diện con ngƣời chức năng, phận vị nghiêng nhiều về tính chất công thức của văn học chức năng, thì từ phƣơng diện con ngƣời cá nhân lại cho thấy hình ảnh nhân vật trữ tình với những cảm xúc rất riêng tƣ,
66
không bị chi phối bởi phận vị, trách nhiệm. Ở phƣơng diện con ngƣời cá nhân, hình tƣợng nhân vật trữ tình trong thơ tống biệt thế kỵ XVIII - XIX hiện lên với nhiều biểu hiện phong phú: Tình cảm gia đình, bằng hữu, thân phận lữ khách tha hƣơng, ám ảnh ý niệm về con ngƣời nhỏ bé, bất lực, thất bại, khát khao ẩn dật sâu sắc. 3.1.2.1. Tình cảm gia đình, bằng hữu
Nhân vật trữ tình trong thơ tống biệt cho thấy hình ảnh con ngƣời chan chứa tình ngƣời qua các sắc điệu tình cảm với những ngƣời thân trong gia đình, với những ngƣời bạn đồng tâm thân thiết.
Tình cảm tha thiết với những ngƣời thân trong gia đình Khảo sát thơ tống biệt trƣớc thể kỉ XVIII dƣờng nhƣ không thấy sự xuất hiện của thơ tiễn ngƣời thân thì giai đoạn này, thơ tống biệt ghi nhận sự xuất hiện của những bài thơ tiễn vợ, tiễn em, tiễn con... Mặc dù số lƣợng không nhiều (chỉ có 20 tác phẩm) nhƣng đều là những thi phẩm xúc động và có ý nghĩa về tình cảm gia đình.
Hình tƣợng nhân vật trữ tình với tình cảm vợ chồng đằm thắm: Trong thơ tống biệt trung đại Việt Nam nói chung và thơ tống biệt giai đoạn thế kỵ XVIII - XIX nói riêng, bài Tống nội tử Ngô Vũ Khanh nam quy của Nguyễn Thông có lẽ là bài thơ duy nhất tiễn biệt giữa chồng với vợ. Bài thơ không có cái bịn rịn, lƣu luyến trong những cuộc tiễn biệt thƣờng thấy giữa những cặp vợ chồng khi phải chia xa, kiểu nhƣ Bƣớc đi một bƣớc giây giây lại dừng [20] hay Ngƣời lên ngựa, kẻ chia bào/ Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san [28] nhƣng lại có cái đằm sâu của tình cảm, cảm xúc. Trong hoàn cảnh loạn lạc, không có điều kiện về quê cùng vợ, nhà thơ đành ngậm ngùi tiễn biệt vợ về quê trƣớc. Tình cảm vợ chồng không phải là nội dung cảm xúc chủ đạo của bài thơ nhƣng qua cách cảm nhận của ông về ngƣời vợ có thể thấy đƣợc tình cảm thiết tha, gắn bó mà ông dành cho vợ:
Mộng hồi la trƣớng, lệ châu san Lãn hoán kinh thoa liễm thúy hoàn
Dịch nghĩa:
Giấc mơ về nơi la trƣớng, thấy bà rơi hạt châu Ra chiều lƣời biếng không thay cái kinh thoa cài trên mái tóc xanh Nhà nghiên cứu Trần Hoa Lê đã tinh tế khi cảm nhận về hình ảnh ngƣời vợ “lặng lẽ giã biệt chồng” trong bài thơ [65]. Cái lặng lẽ ấy là cái lặng lẽ qua lăng kính của chính tác giả. Tiễn vợ về quê, ngƣời chồng đủ sự thấu hiểu để sẻ chia và hình dung ra hình ảnh ngƣời vợ âm thầm rơi hạt châu hay lƣời biếng đến mức không thay cái kinh thoa cài trên mái tóc. Nguyễn Thông không chỉ hiểu vợ mà phải thực sự gắn bó và thƣơng yêu ngƣời vợ của mình mới có thể viết ra đƣợc những lời tiễn biệt giản dị và chân thành, xúc động đến thế.
67
Hình tƣợng nhân vật trữ tình với tình cảm cha con chân thành, xúc động: Hình tƣợng nhân vật trữ tình ngƣời cha tiễn con về quê trong tác phẩm Thu tống nữ từ hoàn gia ngẫu thành là một hình tƣợng đặc biệt. Nhan đề thi phẩm có cụm từ ngẫu thành, tức là cảm xúc bất chợt, ngẫu nhiên mà thành thơ. Chính vì ngẫu nhiên nên xúc cảm rất đỗi tự nhiên, chân thành và dào dạt. Nét đặc sắc của bài thơ là cách thể hiện tình cảm của nhân vật trữ tình ngƣời cha dành cho con dung dị, kín đáo nhƣng không kém phần sâu sắc. Bao nhớ thƣơng cha gói kín trong lòng: Ám nhiên hữu sở ti (Trong lòng âm thầm nỗi nhớ thƣơng). Không kể lể dài dòng nhƣng qua từng câu chữ ngƣời đọc thấy đƣợc cả khoảng thời gian dài khi con đƣợc sinh ra, lớn lên, quấn quýt bên cha đều đƣợc ngƣời cha lƣu giữ thật cẩn trọng trong tâm trí. Cảm xúc trào dâng khiến ngƣời cha bật khóc trƣớc cuộc chia ly: Bất tằng thất nhật lệ/ Nhi kim cảnh hà kì (Từ trƣớc cha chƣa từng một lần rơi nƣớc mắt/ Thế mà hôm nay cha sao vậy?). Ly lệ vốn là hình tƣợng quen thuộc trong thơ tống biệt nhƣng giọt nƣớc mắt tiễn con nhƣ thế này thật hiếm hoi và cảm động. Nó mang sức nặng của tình phụ tử với những nhớ thƣơng, đau đớn, hy vọng... Sức nặng của tình cha con đằm sâu hơn bởi hai câu kết:
Nhĩ quy thành đắc sở Ngô tại tƣơng hà vi?
Dịch nghĩa:
Con về thật thích hợp cho con Nhƣng cha ở lại biết làm thế nào cho khuây khỏa đây! Sự lớn lao cùa ngƣời cha chính là nằm ở chỗ hiểu, chấp nhận những điều gì là tốt nhất cho con. Bài thơ đọng lại hình ảnh nhân vật trữ tình ngƣời cha cô đơn và chƣa biết làm sao để vƣợt thoát khỏi nỗi buồn, niềm nhớ thƣơng khi chia xa ngƣời con của mình. Đây có lẽ là một trong những cuộc chia tay nhiều xúc cảm nhất trong thơ tống biệt giai đoạn thế kỵ XVIII - XIX. Cùng với những bài thơ nổi tiếng của Cao Bá Quát viết về con nhƣ Hữu sở tƣ, Mộng vong nữ hay chùm thơ Xuân nhật thị chƣ nhi của Nguyễn Khuyến, bài thơ Thu tống nữ từ hoàn gia ngẫu thành của Nguyễn Văn Lý đã góp phần thể hiện trọn vẹn hơn chủ đề tình cảm cha con trong thơ trung đại.
Hình tƣợng nhân vật trữ tình với tình cảm anh em gắn bó khăng khít: Trong những bài thơ tống biệt giữa những ngƣời anh em, họ hàng, bài Tống xá đệ phó Nam Chân huyện nhậm của Ngô Thì Sĩ cũng là một thi phẩm rất xúc động về tình anh em. Nho giáo đề cao thứ tự trong quan hệ anh em. Ngƣời anh, đặc biệt là ngƣời anh cả luôn có vị thế, quyền lợi hơn so với em. Thế nhƣng, bài thơ của Ngô Thì Sĩ xóa nhòa ranh giới giữa khoảng cách, phận vị đó. Tiễn em đi nhậm chức, anh không dành những lời chúc hoa mỷ, khách sáo mà thể hiện sự thấu hiểu của mình về chí hƣớng của em cũng nhƣ hiểu rõ sự khác biệt giữa hai anh em: Trí viễn bản lai quân tráng chí/ Thiện tƣ hoàn thị ngã đa tình (Vỗ yên dân nơi xa vốn là chí hƣớng của em/ Nhớ nhung lo lắng lại là bản
68
tính đa tình của anh). Trên tất cả, anh nhấn mạnh tình cảm gắn bó keo sơn, thân thiết giữa anh em mình: Tự duy huynh đệ nhƣ ngô bối/ Hoặc giả phu thê tại túc sinh (Tự nghĩ anh em mà thân thiết nhƣ chúng mình/ Có lẽ kiếp trƣớc từng là vợ chồng thì phải). Suy nghĩ của ngƣời anh tuy có ảnh hƣởng từ quan niệm về thuyết luân hồi của Phật pháp nhƣng nó chứng tỏ một điều là tình cảm này thực sự sâu đậm. Trong văn học trung đại, có lẽ hiếm có những bài thơ diễn tả tình anh em ở mức độ sâu sắc đến thế. Bên cạnh bài thơ này, năm bài Nguyễn Đề tiễn Nguyễn Du trở về Bắc cũng thể hiện chân thực và xúc động tình cảm anh em trong gia đình. Nguyễn Đề và Nguyễn Du là anh em cùng cha nhƣng do thời buổi loạn ly mà gia đình phân tán. Theo Niên biểu Nguyễn Du [102, tr 27], năm 1789 Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh, Nguyễn Du về quê vợ ở Quỳnh Côi, trấn Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Thái Bình). Năm 1793 Nguyễn Du về thăm quê Tiên Điền, cuối năm đó vào kinh đô Phú Xuân thăm anh là Nguyễn Đề đang làm thái sử ở Viện cơ mật và anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn, sau đó lại trở ra Bắc. Chùm năm bài Tống Tố Nhƣ đệ tự Phú Xuân Kinh Bắc hoàn có lẽ đƣợc Nguyễn Đề sáng tác trong khoảng thời gian đó. Nét đặc sắc của chùm thơ là tất cả các bài đều đƣợc bắt đầu bằng cụm từ “Ân cần thiên lý” kết hợp với các cụm từ nhƣ tống quân hồi, tống quân hoàn, tống quân hoành, tống quân quy, tống quân tuyền. Sự kết hợp này vừa gợi tả đƣợc khoảng cách chia xa nghìn trùng thiên lý vừa diễn tả đƣợc cảm xúc bịn rịn, lƣu luyến, không nỡ rời xa của ngƣời anh khi tiễn biệt em mình. Mạch cảm xúc xuyên suốt năm bài thơ là tâm trạng cô đơn, buồn bã khi anh em biệt li, là nỗi lòng cảm khái vì gia cảnh phân tán, là nỗi niềm nhớ quê hƣơng da diết, nhƣng nổi bật nhất vẫn là khát vọng sum họp anh em một nhà. Khát vọng đó đã khẳng định đƣợc tình cảm anh em gắn bó khăng khít ruột thịt giữa ngƣời đi kẻ tiễn.
Hình tƣợng nhân vật trữ tình trong những cuộc tiễn biệt giữa vợ chồng, cha con, anh em đều toát lên đƣợc sự dung dị, chân thành mà không kém phần sâu sắc. Hình tƣợng này giúp cho thơ tống biệt thế kỵ XVIII - XIX gần hơn với cuộc sống đời thƣờng. Những cuộc chia tay tống tiễn trong thơ không đơn thuần mang tính chất công việc mà còn gắn liền với những cuộc chia ly trong gia đình. Hình tƣợng nhân vật trữ tình với gia đình góp phần làm rõ thêm tính chất nhân văn, dân chủ của văn học trung đại trong giai đoạn cuối.
Tình cảm bằng hữu Thơ trung đại viết nhiều về tình cảm bằng hữu. Nguyễn Trãi [157], Nguyễn Du [27] đều có những bài thơ với tựa đề Ký hữu (Gửi bạn) để kín đáo gửi gắm nỗi niềm tâm sự với tri âm, tri kỉ. Nguyễn Khuyến nổi tiếng bởi những bài thơ về tình bè bạn nhƣ Khóc Dƣơng Khuê, Bác đến chơi nhà [60]... Trần Tế Xƣơng có bài Nhớ bạn phƣơng trời [141] cũng là một thi phẩm tiêu biểu về tình cảm bạn bè. Nằm trong nguồn mạch cảm xúc chung đó, thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX có nhiều bài tiễn bạn hữu (483/515 bài). Tình cảm bằng hữu của nhân vật trữ tình từ phƣơng diện con ngƣời
69
cá nhân đƣợc thể hiện ở hai khía cạnh đó là thái độ trân trọng bạn bè đồng triều và tình cảm gắn bó tri âm, tri kỵ
Thái độ trân trọng bạn bè đồng triều: Khảo sát thơ tống biệt thế kỵ XVIII, XIX, ở nhóm thơ tiễn bạn bè (đi nhậm chức, đi sứ), đặc biệt với những ngƣời bạn liên quan chủ yếu đến công việc, nhân vật trữ tình cho thấy thái độ trân trọng bạn bè đồng triều trong cả hành động đƣa tiễn và lời đƣa tiễn.
Trong hành động, nhân vật trữ tình – ngƣời tiễn thƣờng thể hiện sự trân trọng với ngƣời lên đƣờng thông qua cách đƣa chén tiễn biệt. Nâng chén rƣợu tiễn biệt bằng cử chỉ kính trọng một cách trang trọng: Trịnh trọng ly bôi bả duệ tình (Chén đƣa trang trọng tình bạn vấn vƣơng) (Tiễn Vũ Thị Lang Bắc sứ - Đoàn Nguyễn Tuấn), Lân kỳ trịnh trọng thuộc hành bai (bôi) (Trịnh trọng chia tay, rót tiếp chén rƣợu tiễn hành) (Tống nội các Trần Biên Tu (danh Công Bình) vãng Biên Hòa Long Thành tri huyện - Phạm Phú Thứ), Trịnh trọng lâm kỳ tá tửu tôn (Trịnh trọng dùng chén rƣợu đƣa tiễn lúc chia tay nhau) (Tống Ngụy Phiên Thản Chi hồi Nghệ An – Phạm Phú Thứ)...
Trong lời đƣa tiễn, nhân vật trữ tình thể hiện sự trân trọng với bạn bè thông qua những lời ngợi ca. Có khoảng 199/515 bài thơ ngợi ca bạn bè, trong đó có khoảng 37 tác phẩm mà toàn bài chỉ đơn thuần là những lời ca tụng ngƣời tiễn dành cho ngƣời đi. Theo đó, tiếng thơ ngợi ca của nhân vật trữ tình nghiêng nhiều tính chất công thức, quy phạm. Dù bạn đi sứ, đi nhậm chức, đi làm chủ khảo trƣờng thi, thậm chí là về quê nghỉ hƣu thì trong mắt ngƣời tiễn, bạn vẫn là ngƣời tốt nhất, đẹp nhất, tài năng nhất. Ngƣời tiễn thƣờng dùng những lời đánh giá, ngợi ca ở mức độ cao, đôi khi là tuyệt đối để nói về ngƣời đi. Các từ nhƣ anh kiệt, tuấn kiệt, phi thƣờng, kinh luân, lỗi lạc, kỳ tài... đƣợc sử dụng lặp đi lặp lại trong nhiều bài thơ tống biệt. Thái độ ngợi ca đôi khi đƣợc bộc lộ kín đáo bằng cách thể hiện cảm xúc tiếc nhớ, bịn rịn của những ngƣời dân địa phƣơng về sự kiện lên đƣờng của ngƣời đi hoặc sự mừng vui của ngƣời dân nơi ngƣời đi sẽ tới. Nguyễn Văn Lý hay dùng cách diễn đạt theo kiểu này: Thử châu tƣơng hỵ vị/ Minh phƣợng cánh trùng lai (Ngƣời châu này mừng bảo nhau/ Chim phƣợng hót mừng lại đến thành lần này nữa) (Phan Thị Lang Mai Xuyên khâm mệnh thƣ tiễn), Trị hạ phan viên tƣ phụ mẫu (Nơi đang làm quan, dân chúng vin xe, nhớ nhung nhƣ nhớ cha mẹ) (Tiễn Thọ Xƣơng Doãn Phan Kỳ Chi thăng Lạng Bình ngự sử - kì nhất), Lai xa nhân hỉ, khứ nhân ti (tƣ) (Xe ông đến mọi ngƣời vui nừng, ông đi mọi ngƣời nhớ tiếc (Tống bản huyện Doãn Nguyên Khánh Hải thăng thái thủ chi hành)...
Tính chất công thức trong lời ca ngợi cũng đƣợc thể hiện ở chỗ nhân vật trữ tình thƣờng tập trung ngợi ca về tài năng, phẩm chất, công lao đóng góp... của ngƣời đi. Gắn với mỗi một lý do đƣa tiễn khác nhau, lời ngợi ca mang những sắc thái riêng. Khi tiễn ngƣời đi sứ, các tác giả thƣờng chú ý khẳng định tài năng hơn ngƣời của ngƣời lên đƣờng. Họ đƣợc gọi là những bậc “phong lƣu” (bài Tiễn Đông Dƣ Nguyễn các lão
70
phụng sứ nhƣ Thanh - Cao Bá Quát) hoặc là những con ngƣời “phi thƣờng” (bài Tống binh bộ tả phụng nghị nghi thành hầu phụng sứ - Phan Huy Ích). Khi tiễn ngƣời đi nhậm chức hay làm chủ khảo trƣờng thi, lời ngợi ca lại thƣờng nhấn mạnh và khẳng định ngƣời lên đƣờng hoàn toàn phù hợp với chức vụ mới đƣợc giao. Một loạt các bài nhƣ Tống bản huyện Doãn Nguyễn Khánh Hải thăng thái thú chi hành, Tiễn Lạng Sơn tuẩn phủ Phan Quân nhập vi hộ bộ tham tri của Nguyễn Văn Lý hay các bài Tống Điện Bàn Phạm tri phủ phó lỳ, Tống Trần Niết Đài hồi kinh... của Phạm Phú Thứ thể hiện rất rõ cách ngợi ca nhƣ thế.
Nội dung ngợi ca của nhân vật trữ tình – ngƣời đƣa tiễn dành cho ngƣời đi cũng nghiêng nhiều tính chất công thức. Nho giáo coi trọng tài năng văn chƣơng, chính vì thế trong rất nhiều tài năng của ngƣời lên đƣờng, tài năng văn chƣơng đƣợc chú ý ca tụng hơn cả. Viết về Ngô Nhữ Sơn, Nguyễn Du so sánh: Bát đại kỳ văn hoa lƣỡng quốc (Văn của ông hay nhƣ văn của tám nhà văn lớn đời Đƣờng, Tống, làm đẹp cho cả hai nƣớc) (Tống Ngô Nhữ Sơn công xuất trấn Nghệ An). “Đƣờng Tống bát đại gia” bao gồm: Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên, Âu Dƣơng Tu, Tô Tuân, Tô Thức, Tô Triệt, Vƣơng An Thạch, Tăng Củng. Đặt ngang hàng ngƣời đƣợc đƣa tiễn với tám nhân vật nổi tiếng thời Đƣờng, Tống ngƣời tiễn thể hiện sự đánh giá rất cao tài năng của ngƣời đi. Tiễn bạn đi thi, Nguyễn Hành gọi bạn là bậc “kỳ tài văn học” (bài Tiễn Vân Canh Phạm Gia Lâm cống sĩ phó Phú Xuân kinh hội thi). Tiễn bạn đi nhậm chức ở Gia Định, Phan Thanh Giản khẳng định sự nghiệp văn chƣơng ít có ngƣời sánh vai (bài Tống lại bộ thị lang Hoàng Kiện Trai - Quýnh Chi nhậm Gia Định bố chánh)... Về phẩm chất, Nho giáo đề cao chữ trung, do đó phẩm chất nổi bật thƣờng đƣợc nhân vật trữ tình ca ngợi cũng chính là chữ “trung”. Nói về Ngô Đình Oánh, Nguyễn Huy Oánh viết: Tam thập dƣ niên kiến tố trung (Ba chục năm qua đã tỏ rõ tấm lòng trung trinh) (Tống Ngô Đình Oánh trí sĩ thi). Tiễn bạn đi sứ, Phạm Phú Thứ thể hiện lòng tin tƣởng: Trinh thành trƣợng vãn hồi (Thành thật giữ lòng trung trinh của bậc trƣợng phu lúc trở về) (Tống Nhƣ Thanh sứ bộ - kỳ nhị). Nguyễn Đề khẳng định lòng trung tín là bản chất của bạn: Phỉ thị bình sinh trung tín đốc (Chẳng phải lúc bình sinh đã giầu lòng trung tín) (Tiễn thị trung đại học sĩ Ngô Thai Công Bắc hoàn)...
Thái độ trân trọng của nhân vật trữ tình với bạn bè đồng triều qua cung cách tiễn đƣa, qua những lời ca tụng về phẩm chất, về tài năng không hoàn toàn là công thức, sáo rỗng nhƣng bị quy định và ảnh hƣởng nhiều tính chất thù tạc, xƣớng họa của thơ tống biệt. Khi tiễn biệt bạn bè, đặc biệt là tiễn ngƣời đi sứ, đi nhậm chức, phần nhiều ngƣời tiễn sẽ dành cho ngƣời đi những lời ngợi ca để khích lệ, động viên ngƣời lên đƣờng hoàn thành tốt nhiệm vụ đƣợc giao. Tiễn ngƣời về hƣu ngợi ca để khẳng định những công lao và đóng góp của họ. Ở một phƣơng diện nhất định, nhân vật trữ tình đã thực hiện đƣợc trọn vẹn chức năng chính của thơ tống biệt.
71
Những ngƣời bạn, nhiều khi không chỉ đơn thuần là bạn đồng nghiệp, đồng môn với những quan hệ mang tính chất công việc mà còn là những ngƣời bạn thân thiết, gắn bó. Vì thế, trong những bài thơ tiễn bạn bè, đặc biệt là những ngƣời bạn tri âm, tri kỵ, nhân vật trữ tình đã thể hiện tình cảm gắn bó, lƣu luyến chân thành và xúc động. Nếu nhƣ sự trân trọng bạn bè đồng triều ở một phƣơng diện nào đó còn mang tính chất xã giao, nghi thức thì những cung bậc cảm xúc tinh tế và xúc động, nỗi buồn, sầu, tiếc, tâm trạng thẫn thờ, nỗi nhớ chia biệt hay tâm thế cô đơn khi chia xa đã cho thấy một hình ảnh khác của nhân vật trữ tình. Có khoảng 165 tác phẩm thể hiện đƣợc hình tƣợng nhân vật trữ tình nhƣ thế.
Nhân vật trữ tình thƣờng gọi ngƣời lên đƣờng trìu mến bằng những cách khác nhau nhƣ tƣơng thân, tri âm, cố tri, tri kỵ, tƣơng tri, đồng tâm... Những cách gọi tên đủ cho thấy tình cảm gắn bó, trìu mến, mối giao tình gắn bó keo sơn giữa ngƣời đi, kẻ ở. Không chỉ dừng lại ở cách gọi tên, mối giao tình này còn đƣợc thể hiện sống động qua các hành động, cử chỉ nhƣ cầm tay, nắm tay, vẫy tay, nắm áo, nghển cổ trông theo, giữ yên cƣơng lại, chuốc chén... Nhiều nhất là hành động cầm tay, nắm tay. Dƣờng nhƣ ngƣời tiễn muốn gói trọn tình cảm, tâm sự trong cái nắm tay đầy lƣu luyến tiêu biểu nhƣ các bài Tịch thƣợng nhân đại Phan hành phủ - Cao Bá Quát, Ƣớc phu tự trấn Tây lộ hoàn tƣơng quá Gia Định yêu quy lị sở lƣu túc, cập hoàn thƣ tiễn - Nguyễn Văn Lý)...
Nhân vật trữ tình thể hiện rõ các cung bậc cảm xúc trong và sau khi chia tay đầy xúc động. Cảm xúc dồn nén trong lúc chia biệt khiến ngƣời trong cuộc bịn rịn đầy lƣu luyến. Nhiều vần thơ đã thể hiện trạng thái tâm lý này chân thực giống nhƣ bộ phim quay chậm. Buồn, tiếc, đau đớn, sợ ly biệt... là những phức hợp cảm xúc của nhân vật trữ tình đƣợc diễn tả rất thành công trong các thi phẩm thơ tống biệt giai đoạn này. Nỗi buồn khi chia biệt không phải là nỗi buồn bình thƣờng mà là nỗi buồn khiến con ngƣời “phiêu tán cả hồn”: Quan hà duy biệt tức hồn tiêu (Trong chốn quan hà, chỉ khi chia biệt là buồn đến phiêu tán cả hồn) (Tuyên Quang niết sứ Bùi Hữu Trúc nội chuyển quốc sử quán Toản Tu, thƣ tiễn - Nguyễn Văn Lý). Nỗi buồn có lúc còn trở thành nỗi hận, thành giấc mộng “kinh hãi” khi chia biệt: Hận biệt hoa kinh mộng (Giấc mộng hoa kinh hãi lúc chia tay) (Tống Nguyễn Tuần Phủ hồi kinh - Cao Bá Quát). Tiếc nỗi biệt ly đôi khi khiến nhân vật trữ tình không đủ tỉnh táo để làm thơ tiễn biệt: Bá Kiều thi cú bất thành ngâm (Không làm nổi bài thơ tiễn đƣa ở Cầu Bá) (Tống Ngô Nhữ Sơn chi Quảng Đông - Trịnh Hoài Đức). Cảm xúc tiễn biệt của nhân vật trữ tình trong thơ Nguyễn Quang Bích vô cùng xúc động bởi nhƣ nhà nghiên cứu Vũ Thanh trong bài viết Nguyễn Quang Bích – nhà thơ lớn, ngƣời anh hùng của núi rừng Tây Bắc qua Ngƣ phong thi văn tập đã phát hiện có nhiều “cuộc chia ly đầy thƣơng nhớ luôn biết trƣớc sẽ không có ngày gặp lại” [111], tống biệt mà nhƣ vĩnh biệt. Chính vì thế, cảm xúc của nhân vật trữ tình với bạn hữu là sự dồn nén đến cao độ: Cửu xử nan vi biệt/ Trung tình nhƣợc hữu tƣ (Đã ở bên
72
nhau lâu, lúc chia tay khó rời/ Phải xa nhau, lòng đầy thƣơng nhớ) (Tiễn Nguyễn Tốn Hoàng). Đi liền với nỗi cô đơn là nỗi nhớ. Nỗi nhớ trải rộng không gian: Du tai lao ngã ti (Dài thay nỗi nhớ của tôi) (Tiễn Kiều Niên đông quy cố viên - Nguyễn Án). Nỗi nhớ kéo dài theo thời gian: Tạm trung phân thủ tƣ thần tịch (Trong lúc tạm chia tay, sớm tối nhớ nhung) (Cửu nhật Hàn Vũ, tiễn khế nhị Vũ Ninh phủ chi Nam Định trƣởng khảo quan - Nguyễn Văn Lý). Không chỉ thời gian theo ngày mà còn là thời gian tính bằng năm: Biệt hậu tam thu bội tƣơng ức (Ba năm sau càng thêm nhớ nhau) (Lâm biệt tẩu bút tặng đại lý Nguyễn Viên Ngoại - Cao Bá Quát). Nỗi nhớ đi vào trong giấc mộng: Thiên lý nhƣợc vi thông ức mộng (Ngàn dặm nhớ nhau cảm thông trong giấc mộng) (Hòa Đa huyện Trần Minh phủ phó lỳ uống phỏng thƣ tiễn - Phạm Phú Thứ)...
Không chỉ dừng lại ở những cung bậc cảm xúc khác nhau khi chia biệt, những cuộc tống tiễn vô hình trở thành minh chứng sống động nhất cho sự đồng cảm, thấu hiểu giữa nhân vật trữ tình ngƣời đƣa tiễn và ngƣời lên đƣờng. Sự thấu hiểu đó có khi đƣợc thể hiện từ cảm xúc của ngƣời tiễn: Tình ƣ tƣơng chiếu phỉ bào nhƣ (Đã tỏ lòng nhau, chẳng còn là phôi thai nữa) (Tống khế hữu hành biên - Ngô Thì Nhậm), Tồn vong khổ tiết đồng (Phục hồi cái đã mất, khí tiết chịu khổ ải, tôi và bác nhƣ nhau) (Biệt Nguyễn Đại Lang - Nguyễn Du). Trong đêm trò chuyện với cử nhân Thƣợng Ấn và có lời từ biệt, bên cạnh tấc lòng rầu rĩ, bên cạnh cái nắm tay đầy chân tình là lời chỉ tự tri để nhấn mạnh chỉ tôi là ngƣời biết, là ngƣời hiểu bạn nhất, thƣơng bạn nhất: Cách tuế lân quân chỉ tự tri (Năm trƣớc thƣơng anh quá chỉ có tôi biết) (Đồng Thƣợng Ấn cử nhân dạ thoại nhân tống chi biệt - Cao Bá Quát). Hiểu đƣợc cả những sở thích, mong ƣớc của bạn: Tùng cúc giải liên thanh mộng viễn (Hiểu đƣợc niềm yêu thích giấc mộng tùng cúc trong trẻo xa xôi) (Vũ Tốn Hiên cấp sự trung bổ vi Hải Dƣơng đốc học, thƣ tiễn - Nguyễn Văn Lý). Sự đồng cảm đạt đến mức độ tuyệt đối để không cần nói ra nhƣng vẫn hiểu đƣợc lòng nhau: Lƣơng nguyệt tống quân cộng tâm chiếu (Dƣới trăng thanh tiễn ông, lòng cùng hiểu mặc dù không nói ra) (Tiễn thƣơng chính chính quản lý Phan phúc Thanh - Phạm Phú Thứ). Những mối giao tình không mang tính hình thức, phô trƣơng màu mè mà giản dị, đời thƣờng, chân thành nhƣ chính cuộc đời bƣớc vào trang thơ. Dòng đời thay đổi, thời thế đã khác xƣa nhƣng tình bạn thì vẫn vẹn nguyên. Tình bạn vƣợt lên trên những giá trị vật chất tầm thƣờng: Bần bạc quân gia tần sách mễ/ Tống tƣơng liên phẩm trị thiên câm (Nhà anh nghèo khó, nhiều lần phải kiếm gạo/ Lại đem tặng tôi thuốc tiên đáng giá ngàn vàng) (Cựu thuộc thông phán Trƣơng Hữu Quýnh hộ thủy xá quốc sử thƣợng kinh, phỏng ngụ sở cập hoàn, thƣ dữ chi - Nguyễn Văn Lý). Tình bạn ấy còn vƣợt qua cả những lễ nghi vốn đƣợc coi là trang trọng: Đảo lí tƣơng phùng thả yểu luân (Xỏ lẫn guốc ra đón nhau, lại bàn luận những việc quan trọng) (Tiền kiến thụy thái thú Bảo Triện Trần Quân tƣơng phỏng, cặp hoàn thƣ tiễn - Nguyễn Văn Lý). Câu thơ dùng điển Truyện Vƣơng Sán, chỉ việc tiếp đón một cách vội vã đến mức xỏ lẫn guốc nhƣng là cái vội của sự nhiệt tình, trọng thị dành cho ngƣời
73
đƣợc tiếp đón. Thậm chí, tình bạn còn vƣợt qua cả những thử thách về sự sống, cái chết: Sinh tử giao tình tại (Giữa cái sống, cái chết liền kề, tình bạn vẫn nguyên vẹn) (Biệt Nguyễn Đại Lang, kì tam - Nguyễn Du).
Thực ra, ở giai đoạn trƣớc thế kỵ XVIII, nhân vật trữ tình trong một số thi phẩm cũng đã thể hiện nội dung cảm xúc về tình bè bạn rất xúc động. Nỗi sầu, nỗi buồn chan chứa trong những vần thơ (bài Thu dạ lƣu biệt Hồng Châu Kiểm chính - Nguyễn Phi Khanh, bài Quách châu phán quan hồi kinh, tổng quan, đái, thƣ trật, dƣợc tài, tẩu bút tạ chi - Phạm Nhữ Dục). Điều này cũng rất dễ hiểu bởi lẽ tình bạn vốn là thứ tính cảm mang tính phổ quát của toàn nhân loại. Thơ tống biệt giai đoạn này một mặt nối dài cho mạch cảm xúc vốn đã rất chứa chan ấy. Tuy nhiên, với xu hƣớng “quý chân, chủ tình” trong thơ chữ Hán giai đoạn thế kỵ XVIII - XIX cảm xúc này đã đƣợc khắc họa rõ nét, sâu sắc hơn. Các cung bậc cảm xúc cũng phong phú và đa dạng hơn. Nhân vật trữ tình không chỉ buồn đau tiếc nhớ cho cuộc chia xa mà còn thực sự là những tri âm, tri kỉ với ngƣời lên đƣờng. Tình bạn ấy đã thoát ly hoàn toàn với vẻ đạo mạo, trang trọng của lễ giáo phong kiến. Nó cũng cởi bỏ hoàn toàn vỏ bề ngoài nghi thức xã giao của một buổi tiễn biệt. Neo lại trong lòng ngƣời là những cuộc chia biệt đời thƣờng, dung dị, gần gụi của chính cuộc sống thƣờng ngày. Đó cũng là cách thơ tống biệt đời thƣờng hóa một chủ đề vốn nghiêng nhiều tính chất công thức. 3.1.2.2. Thân phận lữ khách, tha hƣơng
Hình tƣợng ngƣời lữ khách, tha hƣơng thƣờng đƣợc thể hiện rõ ở những bài thơ tiễn ngƣời về hƣu, về quê hoặc những bài tiễn họ hàng, tiễn ngƣời cùng quê bất chợt gặp nơi đất khách quê ngƣời. Chủ thể trữ tình trong những bài thơ tống biệt giai đoạn thế kỵ XVIII - XIX hầu hết là những ngƣời đang ở xa quê hƣơng. Nhƣ thế, tự bản thân nhân vật trữ tình đã mang nhiều nỗi niềm trăn trở, nhiều cảm xúc khi nhắc nhớ về quê nhà. Vì vậy, khi tiễn bạn về quê, khi tiễn anh em, họ hàng hay những ngƣời cùng quê, ngƣời tiễn vừa thể hiện sự đồng cảm, thấu hiểu với ngƣời lên đƣờng nhƣng qua đó cũng kín đáo bộc lộ nỗi niềm trong chính cõi lòng mình. Nhân vật trữ tình thƣờng tự nhận mình là lữ nhân, khách, lữ khách, viễn khách, tác khách... Không gian tống biệt cũng nhuốm màu tha hƣơng với những khách lộ, quán cố, quan san...
Hình tƣợng nhân vật trữ tình tha hƣơng, lƣu lạc trong thơ tống biệt hay đƣợc đặt vào những khoảng không gian, thời gian đặc biệt. Trƣớc hết, các tác giả thƣờng đặt nhân vật trong không gian rộng lớn để tạo ra sự đối lập giữa con ngƣời nhỏ bé với không gian nghìn trùng, ngút ngàn. Phan Huy Ích hay diễn tả hình ảnh con ngƣời một mình trên đƣờng: Thục đạo duy cẩm hạc (Trên đƣờng Thục xa vời vợi, chỉ làm bạn với chim hạc, cây đàn) (Họa tiễn hình thị thanh phái Lê Hầu phó Hòa Nghĩa nhậm), Chinh tử đa du nhật địch trƣờng (Cƣỡi ngựa đi đƣờng xa, lòng khách những man mác) (Trùng Dƣơng nhật đồ ngộ Hải Phái Đoàn tự Bắc hồi, tri gia tín chiểu chƣớc tác biệt ngẫu đắc)... Nguyễn Đề, Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Lý... lại hay đặt nhân vật vào không gian đƣợc
74
định danh sẵn là đất khách, nơi tha hƣơng: Tha hƣơng tố biệt nan chung ngữ (Từ biệt nơi đất khách khó nói hết lời) (Tống Tố Nhƣ đệ tự Phú Xuân Kinh Bắc hoàn - Nguyễn Đề), Tha hƣơng phong vũ do ngô cố (Mƣa gió nơi tha hƣơng mà ta vẫn là ta xƣa) (Tống nhân đệ cử nhân Giản Phu chi Bắc Ninh hậu bổ - Nguyễn Văn Lý)... Nhân vật trữ tình cũng đƣợc đặt vào khoảng thời gian đặc biệt nhƣ ngày tết Trùng Dƣơng. Cũng có lúc, nhân vật trữ tình đƣợc đặt vào khoảng thời gian dài để khắc sâu hơn tâm thế tha hƣơng, lƣu lạc: Tam thập nhất niên lƣu lạc giả/ Vị năng thành kỵ huống thành nhân/ Hồi đầu tứ hải thân do khách/ Khuất chỉ tam đông tuế hựu xuân (Ba mƣơi mốt năm là kẻ lƣu lạc/ Chƣa thể thành đạt cho mình huống chi thành đạt cho ngƣời/ Ngoái đầu nhìn lại, vẫn làm thân khách nơi bốn biển/ Bấm đốt tay đã ba năm mà năm lại đã sang xuân) (Tống môn nhân Lê Sƣ Do quy tỉnh - Phạm Đình Hổ). Những cụm từ tam thập nhất niên, tam đông, hựu xuân tạo cảm giác tâm thế tha hƣơng lƣu lạc dƣờng nhƣ cứ lặp lại và chƣa biết bao giờ sẽ chấm dứt.
Ám ảnh tha hƣơng, lƣu lạc khiến cho nhân vật trữ tình luôn sống trong trạng thái mặc cảm. Ngô Thì Sĩ mặc cảm mình là khách tha hƣơng ngay chính nơi quê hƣơng mình: Phù sinh lữ cố hƣơng (Cuộc đời nổi nênh làm lữ khách ngay trên quê cũ) (Tống biệt). Nguyễn Du, Nguyễn Thông mặc cảm có nhà mà không đƣợc về nhà, có quê mà phải sống nơi đất khách: Bạch đầu vô lại bất gia hoàn (Ta bạc đầu không chốn tựa nƣơng không về đƣợc nhà) (Tống Nguyễn Sĩ Hữu Nam quy – Nguyễn Du), Hữu gia giai tác khách (Chúng ta có nhà nhƣng đều làm khách xa nhà) (An Giang tống Trần Tử Mẫn, Phú Yên quan đạo - Nguyễn Thông). Con ngƣời nhiều lúc còn tự đẩy mình vào trạng thái tội lỗi:
Kim quân hội viễn thích Vị ngã tạ cố sơn Cố sơn tại chỉ xích Cô vân hà thời hoàn
Nay nhân bác tiện đƣờng đi xa Phiền bác vì tôi xin lỗi với quê hƣơng Quê hƣơng chỉ cách gang tấc Chòm mây lẻ loi này biết bao giờ về
(Trấn An lệnh tử chi nhiệm đặc lai tƣơng phỏng, kỳ hữu sở tặng, thƣ dĩ
dữ chi - Cao Bá Quát)
Quê hƣơng gần đấy mà cũng thật xa đấy. Gần trong gang tấc mà thật xa xôi cách trở vì chẳng hẹn đƣợc ngày trở lại. Chính vì thế, con ngƣời luôn sống trong mặc cảm mình là ngƣời có lỗi với quê hƣơng, luôn nghĩ mình là một tội đồ.
Tình cảm trực diện nhất với quê hƣơng là nỗi nhớ. Tiễn bạn về quê nỗi nhớ của Trƣơng Đăng Quế cồn cào, da diết: Tống quan thứ khứ hoàn tăng cảm, Tang tử quan tình bội trƣớng nhiên (Tiễn ông về đó, nôn nao lắm, Bao nỗi u hoài thƣơng nhớ quê) (Tống Bùi giải Nguyên Văn Lý tế Mộ Đức). Nỗi nhớ quê hƣơng của Nguyễn Văn Lý dài nhƣ những bài trƣờng ngâm bất tận: Bắc vãng trƣờng ngâm hữu sở tƣ (Ngâm nga bài thơ dài về Bắc có nỗi nhớ nhung) (Tống hữu)... Dù nhiều cách thể hiện nỗi nhớ khác nhau nhƣng
75
đều có thể nhận thấy một đặc điểm chung nhất khi nói về nỗi nhớ quê hƣơng chính là độ đậm, độ sâu của cảm xúc. Nỗi nhớ dƣờng nhƣ lúc nào cũng thƣờng trực trong tận sâu đáy lòng chỉ chờ dịp để con ngƣời đƣợc bày tỏ.
Nỗi nhớ luôn thƣờng trực khiến con ngƣời càng khao khát trở về, khao khát muốn về. Nỗi niềm ấy đƣợc thể hiện qua cả hành động, cử chỉ và lời nói. Nguyễn Văn Lý lên đài cao ngóng trông về quê hƣơng: Mãn thành thu vũ vọng hƣơng đài (Khắp thành mƣa thu, lên đài ngóng cố hƣơng) (Tống biệt hữu hoài). Cuối năm tiễn đƣa bạn, Cao Bá Quát đợi chờ tin tức nơi quê nhà: Cố hƣơng tiêu tức đãi quân văn (Tin tức quê nhà đợi ông báo cho nghe) (Tống Hà Thành học sứ Phan). Bên cạnh trông ngóng, đợi chờ là những lời nhắn gửi. Tiễn ngƣời về quê, Nguyễn Đề nhắn lời: Nhất ngôn phiền báo ngã bình ninh (Phiền báo một lời: tôi vẫn bình an) (Thu nguyệt tống nhân Bắc hoàn)... Nguyễn Thông nhờ bạn hỏi thăm tin tức quê hƣơng: Ân cần tấn tiêu tức/ Tuế yến ủy khê vi (Nhờ anh hỏi thăm tin tức ra sao? Đƣợc yên ủi lúc cuối năm mà tôi còn xa cách chƣa về đƣợc) (Tống nhân chi Gia Định). Không những thế, ông còn muốn đƣợc đổi vị trí cho bạn để đƣợc trở về quê nhà: Ngã dục hoán quân quan chức tiểu/ Mỗi nhân công cán đắc hoàn hƣơng (Tôi cũng muốn đổi cho ông cái chức quan nhỏ ấy/ Để mỗi khi nhận việc công đƣợc về thăm quê hƣơng) (Tống Bùi Lang chi Gia Định (Kỵ Mão). Trƣơng Đăng Quế ƣớc đƣợc mọc thêm đôi cánh để bay ngay về quê hƣơng: Vô nhân sanh vũ hàn/ Nhiễu hƣớng cố viên phi (Ƣớc gì mọc đôi cánh/ Bay về quê tức thì) (Tống cố nhân hoàn lý). Trần Thiện Chánh tiễn bạn về Nam, nhờ bạn chuyển lời thăm hỏi nặng trĩu nỗi lòng đau đáu nơi quê nhà: Vạn lý bằng quân phỏng tiêu tức/ Giang Nam tang tử cận nhƣ hà? (Muôn dặm nhờ ông chuyển lời hỏi thăm/ “Dâu thị Giang Nam gần đây ra sao?” (Tống bang biện Trƣơng Thanh Vân Nam hồi)... Những hành động, cử chỉ hay lời nói, suy nghĩ vừa làm tăng yếu tố tự sự cho lời thơ vừa giúp khắc họa rõ nét cảm xúc gắn bó thiết tha đối với quê nhà của ngƣời tiễn. Lặp đi lặp lại trong nhiều bài thơ tống biệt giai đoạn này là sự xuất hiện của hình ảnh rau thuần, cá vƣợc hay hình ảnh Bành Trạch trở về vui vầy bên luống cúc. Những hình ảnh này đều có nguồn gốc từ điển tích Trung Hoa liên quan đến hai nhân vật nổi tiếng là Trƣơng Hàn và Đào Tiềm. Mƣợn tích của ngƣời xƣa là cách để nhân vật trữ tình kín đáo thể hiện khao khát thầm kín và cháy bỏng đƣợc trở về quê hƣơng - nơi bình dị nhƣng lúc nào cũng đẹp nhất, tƣơi vui nhất: Cánh thuyết gia cƣ lạc/ Hồi đầu tự mộng trung (Lại phải nói rằng ở nhà vui (hơn)/ Quay đầu (nhìn quá khứ) nhƣ trong mơ) (Tiễn Phù Khê Nguyễn Tỉnh Nguyên hạ đệ Bắc quy - Cao Bá Quát). Nơi ấy có tiếng cƣời ríu rít của con trẻ, có mẹ già tựa cửa ngóng trông (bài Tống Tố Nhƣ đệ tự Phú Xuân Kinh Bắc hoàn - tứ thủ , bài Tiễn Ninh Thân Nguyễn Huấn Đạo Bắc Hoàn - Nguyễn Đề). Nguyễn Văn Lý hay dùng cách nói khẳng định việc trở về là đúng (xứng lão quy), là cần thiết (đáng trú du), là phù hợp: Tháng lai lƣ thất quả hà tham (Nếu đƣợc về ngôi nhà ở quê thì có gì
76
là tham đâu) (Tiễn Thƣờng Tín Trần Thái Thú hồi quá tỉnh thân). Cao Bá Quát lại dùng tính từ chỉ mức độ để nhấn mạnh khát vọng muốn về: Hƣơng quốc vọng quy thâm (Mong nhớ quê hƣơng muốn về lắm rồi) (Trùng Dƣơng nhật đắc Cù Tiên Công khách lai, túy trung phú tiễn), Quy tâm hữu để mang (Nóng lòng về quê hƣơng, không khỏi bồn chồn) (Tiễn Thanh Hóa tộc nhân).
Hình ảnh nhân vật trữ tình – khách tha hƣơng, lƣu lạc không phải là hình ảnh mới trong thơ trung đại nhƣng là một hình ảnh mới trong thơ tống biệt. Ở giai đoạn trƣớc, tình cảm của nhân vật trữ tình với quê hƣơng chỉ đơn thuần dừng lại ở nỗi nhớ quê hay mong muốn trở về quê. Những biến động của lịch sử giai đoạn sau thế kỵ XVIII khiến cho các tác giả, đặc biệt là những ngƣời con sống xa quê càng đau đáu cảm giác tha hƣơng, lƣu lạc, bơ vơ. Thơ tống biệt đã hòa chung nhịp thở thời đại để thể hiện sâu sắc cảm thức cá nhân này trong buổi giao thời. 3.1.2.3. Ám ảnh ý niệm về con ngƣời nhỏ bé, bất lực, thất bại
Ở phƣơng diện khác của con ngƣời cá nhân, nhân vật trữ tình trong thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX thể hiện ám ảnh ý niệm về con ngƣời nhỏ bé, bất lực, thất bại. Con ngƣời ấy mang trong mình ám ảnh ốm đau, bệnh tật và lo sợ sự chảy trôi của thời gian. Con ngƣời tự nhận mình hèn kém, bất tài, già nua, bé nhỏ, con ngƣời chán nản với con đƣờng hoạn lộ và có khi mang trong mình những tâm sự bi phẫn trƣớc thời cuộc.
Ám ảnh ốm đau, bệnh tật: Một số từ thƣờng lặp lại, trực tiếp chỉ trạng thái này của nhân vật trữ tình nhƣ bệnh khách, ngọa bệnh, lão bệnh, bệnh ngã, đa bệnh, bệnh trung, suy bệnh, tật bệnh, khổ bệnh... Hình ảnh con ngƣời ốm đau, bệnh tật đƣợc hiện lên với nhiều xúc cảm khác nhau. Nhân vật trữ tình có khi nhận thức rất rõ đƣợc hoàn cảnh thực tại của mình nhƣng cũng chính vì sự tự nhận thức sâu sắc ấy mà bao trùm trong cảm xúc thơ là tâm trạng buông xuôi, phó mặc. Thơ Nguyễn Văn Lý thể hiện rất rõ trạng thái tâm lý đó: Bệnh khách na kham kí biệt hoài (Kẻ khách đau ốm sao kham đƣợc khi gửi nỗi niềm chia biệt) (Tống Hƣng Hóa bố chánh Ngụy Thiện phủ chi trị), Bệnh ngã vị ƣng trƣờng luyến sủng (Tôi yếu ốm không nên quyến luyến lâu ơn sủng bề trên (Cửu nhận tống Nguyễn Niết quy điền), Sầu ngô đã bệnh tự điền viên (Xin nói tôi gầy yếu lắm bệnh đang ở chốn ruộng vƣờn) (Hà Nội nguyên phiên dài xu cận, thƣ tiễn). Bệnh tật có lúc làm con ngƣời rơi vào trạng thái chán nản, buồn bã: Khổ bệnh lãn châm khƣ hận tửu (Bệnh nặng nên uể oải chuốc rƣợu để xua đuổi nỗi hận) (Đồng thƣợng ấn cử nhân dạ thoại nhân tống chi biệt - Cao Bá Quát). Trong lúc ốm yếu, nỗi nhớ ùa về nhƣ một dạng thức cảm xúc đặc biệt thể hiện những ƣớc vọng khó trở thành hiện thực trong tâm tƣởng của nhân vật trữ tình. Nỗi nhớ gắn với những ngƣời bạn thân thiết: Vãn niên suy bệnh tƣ lƣơng hữu (Cuối đời hay bệnh nhớ bạn tốt) (Trần Đốc học tự Quảng Nghĩa cái hà Tĩnh quá kinh ngụ lƣu sổ nhật tống chi - Nguyễn Văn Siêu). Nỗi nhớ gắn với những cuộc li biệt đã qua: Bệnh trung thiên ức giang đình liễu
77
(Trong lúc mang bệnh càng nhớ cành liễu chia tay nơi giang đình) (Tiễn đồng niên binh biện Phạm Nghĩa Khê sung Gia Định trƣờng chủ khảo - Nguyễn Văn Lý). Bệnh tật khiến cho con ngƣời trở nên thật đáng thƣơng, tội nghiệp. Nhân vật trữ tình thƣờng đƣợc đặt vào những không gian, thời gian đặc biệt, giàu sức gợi. Giữa giang thôn vắng vẻ, bệnh tật làm nỗi cô đơn, cô độc càng thấm sâu: Tịch mịch giang thông ngọa bệnh thân/ Cô đăng hình ảnh độc tƣơng thân (Giang thôn vắng vẻ, thân thì nằm trên giƣờng bệnh/ Dƣới ánh đèn cô độc, hình ảnh con ngƣời cũng hiện lên cô độc (Đặng Giải Nguyên (danh Huy Trứ) đồng Nguyễn Hoàng Giáp (danh Văn Hiển) kiến phỏng nguyễn vân dữ quân tuy vị bán diện nhiên dĩ thanh khí cố đặc tƣơng tình nhĩ sổ nhật ngọa bệnh thậm vô liêu trọng cảm tƣ ngôn ƣ nhị nhân chi hồi chu dã thú thử vi biệt - Phạm Phú Thứ). Giữa cảnh chiều tối với gió thổi điên cuồng càng làm con ngƣời trở nên bệ rạc hơn: Cuồng phong xuy mộng lâm ngụy bộ/ Mộ cảnh khu cầu phạt bệnh thân (Gió điên cuồng thổi giấc mộng đến bƣớc nguy nan/ Cảnh chiều tối xua nỗi buồn hành hạ thân ốm) (Kỉ mùi trọng hạ y nguyên vận tiễn Ngự quan Nam hoàn - Đoàn Nguyễn Tuấn)... Bệnh tật lại càng làm cho nỗi nhớ quê hƣơng trở nên tha thiết: Hàm giang bệnh khách nam chi tử (Ở Hàm Giang khách bệnh nghĩ Nam chi mà nhớ quê hƣơng) (Ký Yên sứ chính hành giới Bùi Thị Lang thiều thứ - Phạm Phú Thứ). Hình ảnh nhân vật trữ tình với trạng thái ốm đau, bệnh tật khiến những cuộc chia ly thêm buồn bã hơn, vì thế cảm xúc tiễn biệt cũng bi thƣơng, bi lụy hơn.
Lo sợ sự chảy trôi của thời gian: Không chỉ đau ốm, bệnh tật, tuổi già và nỗi lo sợ thời gian chảy trôi cũng là một ám ảnh nguôi yên của nhân vật trữ tình trong các bài thơ tống biệt. Ám ảnh này đƣợc thể hiện trực tiếp bằng các từ ngữ nhƣ lão (dĩ lão, lão đại, tƣơng lão, lão ngã, cộng lão, dĩ lão, kim lão hĩ, lão bệnh...). Cũng có khi tác giả dùng những hình ảnh mang tính biểu tƣợng nhƣ ngựa ký già hay tóc trắng, trong đó hình ảnh tóc trắng đƣợc lặp đi lặp lại nhiều lần với những cách thể hiện khác nhau nhƣ bạch đầu, bạch phát, tinh tinh bạch phát, bạch thủ, bạch đầu... Trong 110 bài thơ tống biệt của Nguyễn Văn Lý có tới 14 lần ông nhắc tới hình ảnh này nhƣ một ám ảnh rất sâu sắc của nhân vật trữ tình về sự chảy trôi của thời gian. Có thể nhận thấy nhân vật trữ tình trong thơ tống biệt là ngƣời ý thức rất rõ về tuổi tác: tự gia lão khứ (tự biết đã già), lão ngã (ta đã già), nhân cộng lão (chúng ta đều già cả). Bên cạnh nhận thức rất tỉnh táo ấy là những mạch cảm xúc đầy tâm trạng. Ám ảnh tuổi già gắn với những vất vả khó nhọc trong quãng thời gian dài đã qua: Cần lao ƣởng chƣởng mấn thành sƣơng (Chăm chỉ, nhọc nhằn cho đến lúc hai hàng tóc mai trắng nhƣ sƣơng) (Tống Trần Lệ trí sĩ thi - Nguyễn Huy Oánh). Ám ảnh tuổi già gắn với lo lắng về thân phận bơ vơ trong thời gian sắp tới: Bạch đầu vô lại bất hoàn gia (Ta bạc đầu không chốn tựa nƣơng không về đƣợc nhà) (Tống Nguyễn Sĩ Hữu nam quy - Nguyễn Du). Đặc biệt hơn, ám ảnh tuổi già còn gắn với tâm trạng bâng khuâng, tiếc nuối vô hạn và lo sợ
78
trƣớc sự chảy trôi của thời gian. Tiễn bạn tâm giao đi nhậm chức, giãi bày những suy ngẫm về nhân tình thế thái về những xáo trộn không thể cứu vãn đƣợc của thời cuộc, Cao Bá Quát bùi ngùi tiếc nuối và không đành lòng vì lực bất tòng tâm: Tọa niệm thử sự thành khái khang/ Y ngô lão hỹ hà sở vƣơng (vọng) (Ngồi nghĩ đến chuyện ấy mà dạ những bùi ngùi/ Than ôi! Tôi già rồi, còn trông mong gì nữa) (Tống Nguyễn Trúc Khê xuất lỳ Thƣờng Tín kiêm trí Lê Hy Vĩnh lão khế). Con ngƣời vốn khí phách ngang tàng, khẳng khái cùng những ƣớc vọng dời non lấp bể nhƣ ông rồi cũng phải khuất phục trƣớc tuổi già: Nhƣ ngã sơ cuồng kim lão hĩ (Nhƣ tôi tính vốn sơ cuồng, nay đã già rồi) (Tống Lê Dũng Hòa bị mệnh hồi kinh). Không chỉ là những tiếc nuối, nhân vật trữ tình còn cho thấy tâm trạng thảng thốt trƣớc sự chảy trôi của thời gian. Thơ tống biệt Nguyễn Văn Lý thể hiện rất rõ trạng thái tâm lý ấy thông qua cái giật mình đầy ngỡ ngàng: kinh sƣơng mấn cải (giật mình khi tóc mai đổi màu) (Biên Hòa đốc học Dƣơng Hiệp Phủ (Bá Cung) chi quan, thƣ tiễn, y Ngô Dƣơng Đình nguyên vận), kinh suy mấn (giật mình thấy tóc mai suy bạc) (Hà Ninh tổng đốc, kinh lƣợc sử Nguyễn Công quy triều, dụng Sơn Đốc Nguyễn Ức Trai nguyên vận phụng tiễn), kinh lão đại (giật mình vì đã quá già) (Tiễn hữu nhân chi An Nhân phủ tân nhậm)... Giật mình vì con ngƣời chƣa chuẩn bị tâm thế đón nhận, giật mình vì tiếc nuối những gì đã qua và những dự định còn dở dang, giật mình vì lo sợ sự chảy trôi miên viễn của thời gian mà con ngƣời không thể nắm bắt đƣợc.
Tự nhận mình hèn kém, bất tài, già nua, nhỏ bé: Khảo sát các bài thơ tống biệt giai đoạn thế kỵ 18, 19 chúng tôi thấy có 104 lần nhân vật trữ tình tự xƣng là ngã (tôi/ta). Trong số 104 lần tự xƣng là tôi/ta thì có 14 lần cái tôi/ta tự làm xấu mình, tự bôi đen mình bằng cách tự nhận ngã lão lai, lão ngã (ta đã già), lãn ngã (lƣời nhƣ ta), ngã si (tôi ngu si), bất tài ngã, tự ngã bất tài (ta vì bất tài), bệnh ngã (tôi ốm yếu), chuyết ngã đa tình, (tôi là ngƣời vụng về), nhƣ ngã sơ cuồng (tôi tính vốn sơ cuồng)... Cách bôi đen, làm xấu mình nhƣ thế thể hiện sự tự nhận thức về bản thân ở nhân vật trữ tình rất rõ nét. Là một con ngƣời cả đời tận tụy dâng hiến mà đầy ẩn ức [57, tr 16] bởi lẽ luôn có quan điểm độc lập, không chịu xu phụ kẻ quyền thế, chỉ phục tùng lẽ phải, dũng cảm và kiên quyết bảo vệ chân lý [57, tr 22], hơn ai hết Vũ Phạm Khải nhận thức rõ đƣợc điểm yếu của mình. Ông thƣờng tự nhận mình là kẻ vụng về: Chuyết ngã chuyển giao tâm diệc chuyết (Tống Hà Nội án sát). Lắm kẻ ganh ghét cũng bởi bản tính đó: Tăng đa chuyết ngã ngộ phù danh (Tống đồng quận Bình Thuận đốc học La Đức Điển hồi kha). Tự nhận mình hèn kém, bất tài, già nua, nhỏ bé... cũng cho thấy ẩn sâu ở nhân vật trữ tình là những tâm sự đầy tâm trạng đặc biệt là sự mệt mỏi sau quãng thời gian cống hiến: Lão ngã cấm viên tần thƣợng trực (Ta đã già vì hầu bề trên ở nơi vƣờn cấm) (Tống nội các thị độc Mai Thám Hoa chi Nam Định trƣờng phân khảo – Nguyễn Văn Siêu). Không chỉ tự làm xấu, nhiều lần nhân vật trữ
79
tình tự thƣơng cho mình: Quế ngọc trƣờng trung cảnh tự linh (Tiễn Ninh Thân Nguyễn Huấn Đạo Bắc hoàn – Nguyễn Đề)...
Tâm trạng chán nản với con đƣờng hoạn lộ: Nhân vật trữ tình trong thơ tống biệt giai đoạn này con thể hiện tâm trạng chán nản với con đƣờng hoạn lộ. Tiễn bạn tới giáo sở làm việc, bản thân mình cũng đến hạn lên đƣờng “nhận một chức nhỏ”, chia tay hai ngƣời hai ngả, giữa cảnh “Gƣơm đàn nơi chân trời, ai cũng lênh đênh” Phan Huy Ích thấm thía hơn bao giờ hết sợi dây trói buộc của danh lợi: Vân cù trƣớc cƣớc trần anh bạn/ Nguyệt ốc nghi nhan lữ mộng tinh (Bị giải mũ trói buộc phải bƣớc chân vào đƣờng mây/ Khi giấc mộng lữ khách tỉnh dậy, trông trăng trên mái nhà từng thấy mặt) (Giáp Ngọ quỹ xuân hƣơng thi sắc chỉ phân tông Hà Trung huấn đạo Nguyễn Khê phó giáo sở ứng vụ, ngã diệc đính kỳ tựu nam ty dĩ thi tác biệt). Nguyễn Văn Lý có lúc phải thốt lên tự hỏi: Dịch dịch phù danh thị hoặc phi (Vất vả vì chút danh hão là phải hay là sai) (Tống khế nghị Điệu Phủ Cao đài hồi). Tự hỏi cũng là tự nghi ngờ, tự chất vấn về chính sự lựa chọn của mình. Con ngƣời thiếu sự tự tin hay quá mệt mỏi trên bƣớc đƣờng công danh? Có lẽ phần nhiều là đã quá mỏi mệt nên có lần tiễn bạn về quê, ông đã hòa theo dòng cảm xúc buông xuôi, phó mặc của ngƣời đi: Hƣ chu giang thƣợng phỏng xuân quy/ Nhất phiến phù vân thính sở chi (Con thuyền trống không trên sông thả cho gió xuân đƣa về/ Một chòm mây nổi mặc cho tự đến nơi định đến) (Tống khế nghị Đông Bình Hoàng Hƣ Trai lạc chức quy điền, do chu hành hồi gia). Giống nhƣ Nguyễn Văn Lý, Cao Bá Quát cũng thể hiện nhận thức rất sâu sắc về con đƣờng danh lợi. Tiễn bạn về làng, ông nói tới giấc mộng công danh nhƣ bả hƣ vinh cuốn con ngƣời vào vòng xoáy khó thoát ra đƣợc: Hoạn đồ tối thị tiên tinh thiểu (Đƣờng làm quan (nhƣ giấc mơ) ít ai tỉnh sớm) (Ký Nguyễn Cố Hữu hồi tịch). Có những lúc nhân vật trữ tình nhận thức sâu sắc rằng con đƣờng danh lợi chính là nguyên nhân đẩy ngƣời quân tử vào bƣớc đƣờng lầm lỗi: Quân lai my mấn danh tần ngộ (Những khách mày râu từng trải đƣờng đời, thƣờng hay vì danh mà lầm lỡ) (Lâm biệt tẩu bút tặng đại lý Nguyễn Viên Ngoại)...
Tâm sự đầy bi phẫn về thời cuộc: Bên cạnh tâm trạng mệt mỏi, nhân vật trữ tình bộc lộ nhiều tâm sự đầy bi phẫn. Nỗi niềm ấy xuất phát từ chính nhận thức sâu sắc, khách quan về những biến thiên của cuộc giao thời. Nỗi niềm ấy còn là cảm giác bất lực, là tiếc nuối, là sự sụp đổ của giấc mộng công danh... Tiễn bạn đi thi, Nguyễn Văn Siêu cay đắng trƣớc hiện thực: Ám liên ngu ngạn các thành gia (Ngầm xót thấy kẻ thô độn, quê mùa đều thành các nhà) (Tống Lê Phúc Xuyên chi Nam Định ứng cử). Trƣớc hiện thực đói kém, loạn ly, quan lại điều chuyển liên tục, ông chẳng còn cách nào khác là thở than rồi lại tự trách mình già nua nên cứ hay ngồi thở than nhƣ thế: Thán thức thậm ngô suy (Than thở mãi thật là tôi đã suy lão rồi) (Tặng Nguyên Hồng Lô Nguyễn Quân văn vĩ lãnh Cao Bằng án sát).
80
Những tâm sự bi phẫn có lẽ đƣợc thể hiện sâu sắc nhất trong thơ tống biệt Cao Bá Quát. Trong nhiều cuộc tống tiễn, nhân vật trữ tình thƣờng hiện lên với hình ảnh con ngƣời mang đầy tâm trạng. Con ngƣời ấy dƣờng nhƣ lúc nào cũng mang trong mình một nỗi sầu buồn không thể giải tỏa: Dục tá đại quan tiêu lữ muộn/ Khƣớc tu tuyền thạch hƣớng nhân (Muốn mƣợn cả vũ trụ để làm khuây mối sầu lữ thứ/ Nhƣng lại sợ dòng suối mỏm đá chế giễu cho) (Ký Nguyễn Cố Hữu hồi tịch). Lòng trĩu nặng tâm trạng đến mất ngủ, viết thơ tiễn bạn mà thực ra là để trút bỏ những sầu muộn trong lòng: Dạ bất thành miên thôi chẩm khởi/ Đốt đốt thùy vi thiên hạ sĩ? (Đêm không ngủ đƣợc đẩy gối dậy/ Chậc chậc, ai là kẻ sĩ trong thiên hạ? (Phù Liệt nữ đình tống Đỗ Miễn Chi ngự sử). Con ngƣời tự giận mình, tự trách mình đã không đủ dũng khí để thực hiện cho hết những hoài bão, ƣớc vọng, tự thấy xấu hổ khi cứ phải ra vào luồn cúi: Phủ ngƣỡng sinh tăng tuế nguyệt lƣu (Giận năm tháng trôi cứ phải cúi ngửa mãi) (Tẩu bút tặng Nguyễn Giản Phu), Ải ốc đê nhan ngô sở sỉ (Còn ra vào luồn cúi là điều ta lấy làm xấu hổ) (Tống Lê Dũng Hòa bị mệnh hồi kinh). Bài thơ Tặng thổ khối Đỗ Vệ Úy xuất Thanh Hóa mở đầu bằng hình ảnh con ngƣời trong buổi sáng sớm ngồi chải đầu, xõa tóc, lấy giấy bút viết thơ tiễn bạn rồi bỗng nhiên ngửa mặt lên trời cƣời vang (Hốt nhiên đại tiếu diện ngƣỡng thiên). Cách nhân vật trữ tình tự khắc họa mình đã cho thấy ẩn đằng sau hình dáng, hành động khác thƣờng ấy là những ngổn ngang bao nỗi niềm, tâm sự. Tiễn bạn đi nhƣng thực chất là một cuộc đối thoại, một câu chuyện dài của ngƣời tiễn với ngƣời đi về nhân tình thế thái, về thời cuộc: Ngô châu chi hào, bang chi kiệt Kim thế kỵ nhân, quân thả quyết Trịch nhĩ trƣợng bát Thanh xà mâu Khán ngã tam tiền kê mao bút Quân bất kiến Cổ lai kỳ cá cân đồng cốt thiết Đầu thƣợng thanh ty thúc nhƣ tuyết Xa trần mã túc lão tiêu ma Trừu đáo can trƣờng không thị huyết
Bác thử tính xem:/ Những trang anh hào của đất ta,những bậc tuấn kiệt của nƣớc ta/ Bác hãy nói xem đời này đƣợc bao nhiêu ngƣời?/ Hãy quẳng ngọn mâu Thanh và trƣợng tám của bác đi/ Và xem ngọn bút lông gà ba đồng tiền của tôi đây/ Bác há chẳng thấy?/ Xƣa nay bao kẻ xƣơng đồng da sắt / Mái đầu đang nhƣ tơ xanh bỗng thành tuyết trắng/ Bụi xe vó ngựa đã cùn tới/ Rút hết ruột gan cuối cùng chỉ còn lại có máu
Nếu nhƣ bài Tặng thổ khối Đỗ Vệ Úy xuất Thanh Hóa mới chỉ dừng lại ở những đối thoại thể hiện nhận thức rất chung về nhân tình thế thái, thời cuộc thì đến bài Tống Nguyễn Trúc Khê xuất lỳ Thƣờng Tín kiêm trí Lê Hy Vĩnh lão khế những nhận thức về hiện thực đã đƣợc thể hiện trực diện hơn. Bài thơ đƣợc Mai Quốc Liên đánh giá “viết 200 năm rồi giờ vẫn mang tính thời sự nóng hổi” [67, tr 25] có lẽ bởi ông đã không ngần ngại, không tô vẽ mà thể hiện trần trụi nhất những gì đang diễn ra ở thời đại của mình: Tình ấp chi hào đa cố lỳ/ Nội ngu đố dịch, ngoại tham quan/ Thƣợng úy vƣơng chƣơng, hạ thanh nghị (Những kẻ hào trƣởng trong làng xóm, phần nhiều là ngƣời làm việc cũ/ Trong thì
81
phải lo đám sai dịch mọt già, ngoài thì lo đám quan lại tham nhũng/Trên thì sợ phép lệnh nhà vua, dƣới thì sợ dƣ luận). Bài thơ cũng đƣợc cho rằng đã kín đáo gửi gắm ý đồ “phản loạn” của Cao Bá Quát khi ông không ngần ngại thể hiện quan điểm sống của mình trong những lời thơ tiễn biệt. Nhiều nhà nghiên cứu cũng nói về “chứng điên” trong hai câu kết của bài: Thả báo cố nhân Lê Hy Vĩnh/ Đạo ngã hảo tại, bất tử duy mệnh cuồng! (Và cũng báo cho bạn cũ tôi là Lê Hy Vĩnh biết/ Rằng tôi còn khỏe, không chết, chỉ mắc chứng điên mà thôi). Vũ Khiêu cho rằng “Cái điên đó nói lên sự oán giận tột bậc của Cao Bá Quát đang thôi thúc ông đứng dậy hành động. Ông bắt đầu vận động những ngƣời cùng chí hƣớng với mình để đi tuyên truyền và chuẩn bị khởi nghĩa” [58, tr 449]. Trƣơng Chính cũng khẳng định: “Nói là điên, vì ông đang định bụng làm chuyện khác thƣờng” [17, tr 279].
Ý niệm về con ngƣời nhỏ bé, bất lực, thất bại đã đem đến một góc nhìn rất riêng cho thơ tống biệt giai đoạn thế kỵ XVIII - XIX. Vƣợt thoát khỏi hình ảnh con ngƣời luôn khuôn mình cho đúng với chức năng, phận vị, con ngƣời trong thơ tống biệt giai đoạn này nhƣ cởi bỏ đƣợc lớp phục trang quen thuộc và phức tạp của một vị quan nơi triều chính, thay vào đó là sống với những cảm xúc dung dị, chân thật của một con ngƣời bình thƣờng trong cuộc sống hàng ngày. Ý niệm về con ngƣời nhỏ bé, bất lực, thất bại cũng đã góp phần thể hiện sâu sắc hơn khuynh hƣớng tự do, dân chủ trong việc thể hiện cảm xúc của văn học trung đại thế kỵ XVIII – XIX. 3.1.2.4. Khát vọng ẩn dật sâu sắc
Mệt mỏi nên bất chợt trên con đƣờng danh lợi, con ngƣời muốn đƣợc trở về, muốn đƣợc nghỉ ngơi. Khoảng 50 tác phẩm thơ tống biệt thể hiện khát vọng ẩn dật của nhân vật trữ tình với những dạng thức thể hiện khác nhau.
Trƣớc hết, khát vọng ẩn dật thƣờng gắn với khát vọng hòa hợp với tự nhiên, hòa hợp với thiên nhiên, mang hơi hƣớng của tƣ tƣởng thiền tông. Có thể tìm thấy biểu hiện này trong một số bài thơ tống biệt của Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Văn Siêu... Tiễn bạn về hƣu, Nguyễn Văn Lý vẽ ra viễn cảnh trở về giống nhƣ trở về cõi tiên cảnh. Nơi đó, con ngƣời tìm đƣợc chỗ nƣơng náu:
Nhất phiến thiền tâm y Phật tích/ Trùng lai bạch phát đối thanh san (sơn)/ Tiên trần dao tiện đô môn ngoại/ Mai hiểu giang nam tảo nhạn hoàn
Một tấm lòng thiền nƣơng náu nơi Phật Tích/ Trở về tóc bạc đối diện với non xanh/ Là cõi tiên hay cõi trần tục, ham thích cảnh ngoài kinh đô/ Hoa mai buổi sớm ở phía nam sông, nhạn sớm trở về
(Kí tiễn Lễ Bộ Thƣợng Thƣ Phan Công trí sĩ)
Cũng tiễn bạn về hƣu, Nguyễn Văn Siêu khắc sâu tâm thế thanh thản, không vƣớng gợn bụi trần của ngƣời trở về. Con ngƣời hƣởng thụ trọn vẹn thú an nhàn nhƣ tiên ông giữa chốn núi non:
82
Trạch ký Sài nham hƣ bán gian Hoạn du tích tự vân du hoàn Tâm không cổ Phật trần cơ tĩnh Lực tận thu phong lão hạc nhàn
Nhà làm tạm bên vách núi Sài Sơn có đƣợc nửa gian/ Gót chân trên đƣờng công danh nhƣ áng mây trở về/ Hƣ tâm nhƣ vị cổ Phật nên mọi cơ trần đều tĩnh lặng/ Sức tận nhƣ gió cuối thu, hƣởng sự nhàn của tuổi già
(Tống Lễ Bộ Thƣợng Thƣ Khuê Nhạc Phan tiên sinh hoàn hƣơng)
Bài thơ Tống Cao Bằng đốc đồng của Ngô Thì Nhậm là thi phẩm thể hiện rất rõ
cho khát vọng trở về hòa hợp với thiên nhiên: Viên lâm thú chiếm lợi danh trƣờng Thích hứng du nhiên tự điểm trang Tiên các thí cầu triền nhật vựng Cẩm thành phô ngọc ánh hoa đƣờng Thiền cơ tỉnh hát nghi chung lãng Nhạc khúc truyền ca đối nguyệt soang Liên nhiễm bích ty pha lục liễu Viên lâm thú chiếm lợi danh trƣờng.
Thú vui vƣờn rừng hơn hẳn nơi danh lợi Theo hứng dạt dào, tự nó điểm trang Gác tiên thi tung cầu vây quanh vầng nhật Thành gấm phô vẻ ngọc, dọi ánh ao trong Tiếng chuông vang là tiếng hát thức tỉnh cơ thiền Trƣớc vành trăng, truyền khúc ca điệu nhạc Sen nhuốm tơ biếc, liễu rủ xanh trên dốc Thú vui vƣờn rừng hơn hẳn nơi danh lợi.
Bài thơ có kết cấu khá chặt chẽ, mở đầu và kết thúc lặp lại câu thơ “Viên lâm thú chiếm lợi danh trƣờng” và đây cũng là tƣ tƣởng chủ đạo của tác phẩm. Sáu câu thơ còn lại tập trung khắc họa một không gian đẹp, tràn ngập ánh sáng, màu sắc của vầng nhật, vành trăng, sen, liễu. Trong không gian thanh tịnh và yên lành ấy, tiếng chuông vang lên nhƣ sợi dây đánh thức con ngƣời trở về với bản thể của chính mình.
Không chỉ thể hiện khát vọng hòa hợp với thiên nhiên, khát vọng ẩn dật còn gắn với khát vọng trở về, nghỉ ngơi vui với thú điền viên. Các tác giả thƣờng sử dụng điển về Đào Tiềm để khắc họa hình ảnh con ngƣời khƣớc từ công danh, bổng lộc hoặc điển về Trƣơng Hàn quyết chí từ quan vui thú với cảnh rau rút, cá vƣợc. Lấy ý trong bài Quy khứ lai từ của Đào Tiềm: Chƣa thực đi xa trên đƣờng mê, thấy hôm nay đúng mà hôm qua sai... Nhà nông bảo ta mùa xuân đến, sắp có việc làm ở ruộng đồng phía tây, Cao Bá Quát viết: Huy thủ tri kim thị/ Tây trù dĩ báo xuân (Phẩy tay biết nay đúng/ Ruộng phía tây đã báo tin xuân) (Tiễn Vũ Khố Nguyễn Tƣ Vụ đắc giá hồi hƣơng). Phạm Phú Thứ tiễn Đỗ Lữ Tùng về quê thăm mẹ lại dùng điển Đào Tiềm không vì năm đấu gạo đã cáo quan về ở ẩn: Cổ nhân bất dĩ Tam công hoán/ Bạc hoạn hà tàm ngũ đấu bần (Ngƣời xƣa không lấy chức Tam công mà đổi/ Thì một viên nhàn quan thẹn gì năm đấu gạo quèn) để vẽ ra viễn cảnh thanh bạch nhƣng đầy vui thú và thanh thản với ngƣời trở về:
Chu sơn hữu lƣ giang hữu ngƣ Sái lễ thiết khoái đăng bàn sơ Huân trì thanh vận âm chi ngọc Đƣờng bắc huyên hoa xuân bất nhƣ
Chu Sơn có nhà, sông có cá/ Rót rƣợu, cắt nem, đem mâm rau lên/ Tiếng còi sáo hòa nhau trong trẻo, cỏ chi cây ngọc rợp bóng/ Hoa cỏ huyên nơi nhà phía Bắc tƣơi đẹp hơn cả mùa xuân.
83
Thơ Nguyễn Văn Lý nói nhiều tới những hình ảnh xanh tƣơi nơi thôn dã nhƣ rau rút, rau cải tốt mƣợt trong gió thu (Thu phong thuần lai hoạt) (bài Tống Lê Bảo Xuyên bệnh quy), hình ảnh rau thuần mƣợt mà (Tân thu thuần thái kiêm phong hoạt) (bài Tiễn Trƣơng Học Chính họa lƣu giản nguyên vận). Tiễn quan thái thú Thƣờng Tín, ông khẳng định: Kính cúc hƣơng thuần đáng trú du (Luống cúc, rau thuần ở quê hƣơng, đáng phải trở về giữa ban ngày (Tiễn Thƣờng Tín Trần Thái Thú hồi quán tỉnh thân). Ông nhắc tới chốn ruộng vƣờn nhƣ một sự lựa chọn, nhƣ một chốn đi về thanh thản, an toàn với con ngƣời. Tiễn Phƣơng Đình, ông tự nhận về sự lựa chọn của mình: Thân sự tự điền viên (Việc của thân này tự chọn ở chốn ruộng vƣờn) (Thứ Phƣơng Đình lƣu giản nguyên vận phụng tiễn). Ở một bài thơ khác, ông cũng viết: Lộ hạ cố nhân nhƣ hữu vấn/ Sấu ngô đa bệnh tự điền viên (Trên đƣờng đi, nếu bạn cũ có hỏi/ Xin nói tôi gầy yếu, lắm bệnh đang ở chốn ruộng vƣờn) (Hà Nội nguyên đài xu cận, thƣ tiễn). Tiễn bạn về hƣu, ông khẳng định chốn vƣờn rừng là nơi an nhàn, thanh thản nhất. Lấy ý từ văn đời Thanh: Sĩ hoạn hà thƣờng thích khả tức chỉ (Quan chức không thƣờng, thích hợp thì nghỉ ngay), ông viết: Sĩ hoạn hà thƣờng duy thích chỉ/ Viên lâm đáo để tối trƣờng nhàn (Quan chức đâu làm mãi, chỉ có dịp phù hợp là nghỉ/ Chốn vƣờn rừng rốt cục là nơi thanh nhàn nhất) (Tiễn bản quận Lƣu giáo thụ quy hƣu họa lƣu giản nguyên vận)...
Khát vọng ẩn dật còn hƣớng nhiều tới việc khắc họa hình ảnh con ngƣời buông bỏ mọi sự đời, không bận tâm đến thế sự. Hai câu thơ cuối trong bài Tống Nguyễn Sĩ Hữu Nam quy của Nguyễn Du thể hiện rất rõ tâm thế đó: Quy khứ cố hƣơng hảo phong nguyệt/ Ngọ song vô mộng đáo thiên nha (nhai) (Bạn về quê cũ trăng trong gió mát/ Trong giấc ngủ trƣa bên cửa sổ, không còn mộng đến chân trời). Tiễn bạn về quê, Nguyễn Du thấu hiểu sâu sắc sự lựa chọn của ngƣời đi. Sự lựa chọn đó cũng có lúc làm con ngƣời thanh thản. Hình ảnh ngƣời đi với giấc ngủ trƣa say sƣa giữa làng quê yên bình, tâm hồn không vƣớng bận, không mộng ƣớc xa xôi là khát vọng của chính Nguyễn Du. Trên bƣớc đƣờng danh lợi mỏi mệt, bi kịch vỡ mộng của một kẻ sĩ đau đáu nỗi niềm lập danh khiến ông ông muốn quay về, buông bỏ, chẳng còn mộng ƣớc xa xôi nơi chân trời góc bể. Viết về bạn cũng chính là viết cho mình. Nếu nhƣ thẳm sâu trong lời thơ Nguyễn Du, việc buông bỏ dƣờng nhƣ vẫn làm con ngƣời day dứt thì với Vũ Phạm Khải, nhân vật trữ tình thể hiện tâm thế ẩn dật quyết liệt và tuyệt giao hơn rất nhiều. Tiễn Nguyễn Văn Lý về kinh, ông tự họa bức chân dung về cuộc sống của mình. Gian nhà tiêu sơ, tềnh toàng, tựa lƣng vào núi, ngoảnh mặt ra biển, rét thì xuống núi làm ông già làng, nắng ấm thì lên núi làm ông tiều ngày ngày đọc thơ Xƣơng Lê và thổi cơm nhƣ ông Thiếu Lăng. Bốn câu thơ cuối bài Hƣng Yên đốc học Nguyễn Văn Lý tuân triệu lai kinh, lâm biệt tác thể hiện rõ nét dứt khoát trong tƣ tƣởng của nhà thơ:
84
Khổng thánh lão ƣ hành Vô khả vô bất khả Nguyệt dữ thử sơn minh Trƣờng đắc tự kim hạ
Đức Khổng Tử trọn đời ƣa hành động Mà cũng còn băn khoăn nên hay không nên Phần tôi xin thề cùng ngọn núi Xin đƣợc cứ mãi mãi nhƣ mùa hè này.
Khát vọng ẩn dật của nhân vật trữ tình trong thơ tống biệt thế kỵ XVIII - XIX không mâu thuẫn với tinh thần yêu nƣớc, lòng căm thù giặc, khát vọng cống hiến đã đƣợc đề cập trƣớc đó. Khát vọng này một mặt phản ánh mong muốn hòa hợp với thiên nhiên của nhân vật trữ tình. Mặt khác, cũng cho thấy ở một khía cạnh nào đó, trên bƣớc đƣờng công danh, hoạn lộ rối ren của buổi giao thời nhân vật trữ tình thông qua các cuộc tống tiễn kín đáo thể hiện mong muốn đƣợc trở về, nghỉ ngơi, vƣợt thoát khỏi vòng danh lợi. 3.2. Bức tranh hiện thực mang tính thời sự
Thơ tống biệt nghiêng nhiều về thể hiện cảm xúc của nhân vật trữ tình nhƣng thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX ra đời trong giai đoạn có nhiều biến động dữ dội của lịch sử. Bên cạnh đó, với sự mở rộng khuynh hƣớng chức năng của thơ ca, văn học trung đại đã theo sát và phản ánh sinh động, chân thực sự đổi thay của thời đại. Nằm trong nguồn mạch chung ấy, thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX mang giá trị hiện thực sâu sắc. Qua các cuộc tống tiễn, gắn với các đối tƣợng đƣa tiễn, lý do đƣa tiễn khác nhau cũng nhƣ cách thức nhân vật trữ tình miêu tả hiện thực hay trực tiếp bộc lộ tâm trạng, thơ tống biệt đã tái hiện lại hiện thực giai đoạn này trên ba khía cạnh tiêu biểu: hiện thực ly tán và đời sống đói khổ của nhân dân, hiện thực công cuộc bảo vệ biên cƣơng ở phía Bắc và phía Nam, hiện thực cuộc xâm lƣợc của thực dân Pháp. 3.2.1. Hiện thực ly tán và đời sống đói khổ của nhân dân
Thế kỵ XVI - XVII, nội bộ nhà nƣớc phong kiến Việt Nam đã bắt đầu phân chia giữa Đàng Trong, Đàng Ngoài. Đến thế kỵ XVIII, tình hình loạn lạc xảy ra ở khắp nơi, đời sống nhân dân đói khổ. Việt sử thông giám cƣơng mục viết “Ngƣời dân bỏ cày cấy, trong làng xóm không còn nhà nào có thóc gạo dự trữ. Dân lƣu tán bồng bế, dắt díu nhau đi kiếm ăn đầy đƣờng. Giá gạo cao vọt, một quan không ăn đƣợc một bữa cho no. Dân phần nhiều ăn rễ cây, thịt chuột, thịt rắn. Số dân đi lang thang mƣời phần chết đói mất chín, những làng xƣa có tiếng là trù phú nay chỉ còn có hai, ba nhà mà thôi” [95]. Khoảng 23 bài thơ tống biệt đã phản ánh đƣợc phần nào hiện thực loạn ly, đời sống đói khổ quẫn cùng của nhân dân nhƣ thế.
Trong một số bài thơ nhƣ Biệt Nguyễn Đại lang (Nguyễn Du), Tống Ngô Nhữ Sơn chi Quảng Đông, Tống Lƣơng Sán Triều quy Quảng Đông (Trịnh Hoài Đức), Tặng hành nhân Nguyễn Đài (Nguyễn Khuyến), Tống Lƣơng Tứ chi Quảng Nam (Nguyễn Thông)... thƣờng xuất hiện những từ ngữ trực tiếp thể hiện tình hình loạn lạc, cảnh loạn ly nhƣ loạn, loạn ly, quốc loạn, loạn bang... Thơ tiễn em của Nguyễn Đề (Tống Tố Nhƣ đệ tự Phú Xuân kinh Bắc hoàn), cuộc chia tay của Nguyễn Văn Lý với con gái (Thu tống nữ tử hoàn gia ngẫu thành),
85
của Nguyễn Thông với vợ (Tống nội tử Ngô Vũ Khanh nam quy), thơ Nguyễn Tƣ Giản tiễn Nguyễn Thông đƣa gia đình về Khánh Hòa khi Nam Kỳ thất thủ (bài Tống Tỉ Bộ Nguyễn Hy Phần cáo qui Khánh Hòa)... đã phản ánh sắc nét hiện thực ly tán không thể khác ngay từ trong gia đình. Cuộc sống nghèo đói, vất vả cũng đƣợc tái hiện rất sinh động trong một số bài thơ tống biệt. Các tác giả thƣờng sử dụng các từ, các cụm từ trực tiếp nói tới cái nghèo nhƣ gia bần, thập niên bần, thân bần... Phạm Phú Thứ trong bài Hòa Đa huyện Trần Minh phủ phó lỳ uống phỏng thƣ tiễn còn tự nhận mình là Phạm thúc hàn (chú Phạm nghèo). Nguyễn Đề gọi những ngƣời dân ở Nghệ An là tệ manh (ngƣời dân nghèo khổ). Lũ lụt, hạn hán, mất mùa... cũng đƣợc nhắc tới trong các cuộc tống tiễn của Phạm Phú Thứ với bạn bè: Văn đạo Nam trung báo ngƣu suyển (Nghe nói trong Nam nóng nực lắm, trâu phải thở hổn hển) (Tống đồng bộ Đỗ Thứ Khanh quy lý tình tảo bộ lƣu giản nguyên vận), Hạp quân kinh thời hạn (Toàn quận đang trải qua thời kỳ nắng hạn) (Tống bản tỉnh Trần phủ viện phó lỳ), Phiền thử huy tồ hạ (Cái nóng phiền phức vẫy gọi mùa hạ đi qua) (Tống Trần Tán Tƣơng Tử Mẫn Bắc phạt kiêm hoài bắc sứ Nguyễn Tuân Thúc)...
Hiện thực về cuộc sống loạn ly, đói khổ của quần chúng nhân dân có lẽ đƣợc tái hiện chân thực nhất trong một số bài thơ tống biệt của Nguyễn Văn Siêu, Miên Thẩm. Ở bài Lãnh Thọ Xƣơng, Vĩnh Thuận đồng tri Phan Quân Huy Khiêm thăng ngự sử tống chi Nguyễn Văn Siêu đã diễn tả sâu sắc hiện thực hoang tàn cũng nhƣ sự thay đổi ghê gớm của cảnh vật: Lƣỡng huyện hoàn thành cổ đại đô Trung gian yên hỏa bán tần vu Khả kham tiệm dực yêm thê cức Tòng thử minh triêu úy tập ngô
Hai huyện quanh thành là đại đô xƣa/ Giữa chừng khói lửa, đến nay quá nửa đã trở thành hoang vu/ Dần dần biến thành nơi chim chóc ở lâu trong đám gai góc/ Từ nay tiếng chim kêu buổi sáng nhƣ niềm an ủi đậu cây ngô đồng
Bốn câu thơ gợi ra đƣợc sự dài rộng của cả không gian và thời gian. Nói tới đại đô là nói tới sự trù phú, nhộn nhịp, giàu có... nhƣng giờ đây vùng đất đƣợc gọi là đại đô hiện lên với những hoang vu, khói lửa, là nơi chim chóc ở và âm thanh duy nhất gợi đƣợc sự sống lại chỉ là tiếng chim kêu vào mỗi buổi sáng. Câu thơ giàu sức gợi và âm thanh tiếng chim không thể làm cho cảnh vật rộn rã, vui tƣơi hơn mà chỉ càng tăng thêm cảm giác về sự hoang vu, vắng vẻ, thê lƣơng. Một sự thay đổi thật nghiệt ngã của hiện thực cuộc sống.
Trong bài Tống Phạm Tử Xuân Trạch quy Nghệ An Nguyễn Văn Siêu lại lựa
chọn những nét điển hình nhất để phản ánh về hiện thực đƣơng thời: Cơ cận niên niên bức Binh qua xứ xứ bì Vi quan bôn tẩu ngoại
Nạn đói kém cứ liên miên bức bách năm này sang năm khác/ Việc loạn lạc đánh nhau làm cho nơi nơi mỏi mệt/ Ngƣời làm quan nhỏ bị điều đi nơi này nơi kia ở biên ngoại
86
Nạn đói kém, loạn lạc và việc điều chuyển quan lại khắp nơi là ba hiện thực tiêu biểu trong buổi giao thời. Nguyễn Văn Siêu tỏ ra rất tinh tế và sâu sắc trong việc lựa chọn và phản ánh hiện thực. Ông cũng đủ sự thấu cảm để hiểu đƣợc sự bí bách (bức), mỏi mệt (bì) trong lòng quần chúng nhân dân và cũng chính là sự mỏi mệt, bí bách chính trong lòng mình.
Cũng giống nhƣ Nguyễn Văn Siêu, tiễn bạn đi vào Quảng Nam, Tùng Thiện Vƣơng đã miêu tả chân thực sự thay đổi đến đau lòng của mảnh đất này. Các hình ảnh Ruộng tối đầm sâu, Chồn đứng ngậm xƣơng khô, Quạ bay tha khúc ruột là những hình ảnh giàu sức gợi tả về sự hoang phế, hoang tàn xơ xác của mảnh đất chiến địa Quảng Nam. Chợ vốn là một trong những thƣớc đo cho cuộc sống sinh hoạt của ngƣời dân. Dù đói nghèo đến mấy thì chợ vẫn luôn đƣợc duy trì. Thế nhƣng giờ đây chợ cũng phải dời đi xa, có nghĩa là cuộc sống bất ổn đã đến mức cùng cực. Trƣớc hiện thực ấy, ngƣời tiễn không khỏi ngậm ngùi thƣơng xót cho chính ngƣời đi mà còn ngậm ngùi thay cho tất cả những ngƣời dân chốn đó:
Quảng Nam kim chiến địa Ốc trạch tích niên phi Cẩm Thủy thâm di thị Trà sơn lũ hiệp vi Hồ trì khô cốt lập Nha trác đoạn trƣờng phi
Quảng Nam nay đang là chiến địa Ruộng tối đầm sâu chẳng còn nhƣ năm xƣa Sông Cẩm Lệ đã dời chợ đi xa Núi Trà Sơn bao lần vây kín Chồn đứng ngậm xƣơng khô Quạ bay tha khúc ruột (Tống Lƣơng Tứ chi Quảng Nam)
Nội dung miêu tả và tái hiện hiện thực không phải là mục đích của những cuộc tống tiễn. Tuy nhiên, qua một số chi tiết đặc tả của ngƣời tiễn về mảnh đất ngƣời đi đặt chân đến đã phần nảo giúp ngƣời đọc cảm nhận đƣợc hiện thực hoang tàn, ly tán, đói nghèo và xơ xác trong những tháng ngày cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam. 3.2.2. Hiện thực công cuộc mở mang, bảo vệ cƣơng vực lãnh thổ
Không chỉ diễn tả hiện thực loạn ly và đói khổ, thơ tống biệt còn góp phần phản ánh đƣợc công cuộc mở rộng, bảo vệ cƣơng vực lãnh thổ của chế độ phong kiến Việt Nam trong giai đoạn thế kỵ XIX cả ở phía Nam và phía Bắc. Khoảng 37 tác phẩm làm rõ cho nội dung này.
Thơ tống biệt đã ghi lại đƣợc những cuộc tiễn biệt bạn bè ra bảo vệ các vùng đất xa xôi, hẻo lánh - kết quả của quá trình Nam tiến. Tiễn ông Nghi Thành Hầu đến Quy Nhơn, Phan Huy Ích nhấn mạnh: Hạo điểu hải chí nam/ Hy đại tân khai thác (Phía Nam miền biển mênh mang/ Đất mới khai thác của triều thịnh), Triều đình trọng hành biên (Triều đình cần ngƣời ra trấn giữ bờ cõi)... (Tiễn binh bộ tả Phụng Nghị Nghi Thành nguyên Hầu phó Quy Nhơn thành). Cùng với Quy Nhơn, Hà Tiên cũng là vùng biên cƣơng quan trọng nhà Nguyễn thay nhau cắt cử quan lại ra coi giữ. Nguyễn Văn Lý có tới ba bài tống biệt bạn bè tới làm việc ở Hà Tiên, bài nào cũng khẳng định vị trí quan trọng của khu vực này: Phù tiết Nam lai hựu trọng biên (Mang cờ tiết đến phía nam, lại là nơi biên viễn quan trọng),
87
(Nguyễn Ức Trai tuần phủ Hà Tiên khởi mã, thƣ tặng), Quan hà tân sủng thanh phiên trọng (Nơi quan hà, tuy mới đƣợc sủng ái, song nhiệm vụ nơi phiên trấn rất trọng) (Tâm khế Tân Xuyên dĩ Thái Phiên thăng bổ Hà Tiên bố chính, hộ lí tuần phủ, đạo kinh Hà Thành, thƣ tiễn), Sứ tiết vinh lai dao tái ngoại (Cờ tiết sứ giả đem vinh dự tới miền biên tái xa xôi) (Đồng sự phiên đài Lê Hàn Phủ cải bổ Hà Tiên, bôi thứ họa lƣu vận di tiễn)... Ngoài ra còn rất nhiều cuộc tống tiễn khác gắn liền với những địa danh do nhà Nguyễn chiếm giữ từ công cuộc mở mang bờ cõi đƣợc nhắc tới trong thơ tống biệt giai đoạn này nhƣ Quảng Ngãi, Khánh Hòa, Định An, Kim Sơn...
Bên cạnh những cuộc tống tiễn ngƣời đi làm việc ở các vùng đất xa xôi, hẻo lánh của cuộc Nam tiến còn là những cuộc tống tiễn ngƣời đi chinh chiến để bảo vệ vùng đất ấy. Nguyễn Án có bài Tiễn hữu nhân tòng quân Nam chinh viết tặng ngƣời khách đi tòng quân chinh chiến phƣơng Nam. Theo nội dung bài thơ, ngƣời bạn này có tài thao lƣợc, có khả năng kinh bang tế thế (Tôn trở bình sinh học). Cuộc tiễn đƣa bắt đầu vào buổi sáng đầy khí thế với ngựa chiến, với tinh kì cuốn liền mây. Bài thơ đƣợc ghi nguyên chú “Năm Tân Dậu - 1801” [119, tr 94]. Soi chiếu vào lịch sử trong khoảng thời gian đó cũng thấy đƣợc năm 1800 Tây Sơn lấy lại đƣợc Phú Yên [66, tr 374] nhƣng đến tháng 2, năm 1801 Nguyễn Ánh đã tập trung lực lƣợng tấn công thủy quân Tây Sơn [66, tr 375]. Thừa thắng, Nguyễn Ánh sai Lê Văn Duyệt đem quân bộ vào đánh lấy lại Quảng Nam [66, tr 376]. Nhƣ vậy, có lẽ cuộc tống biệt này chính là cuộc tống tiễn bạn tham gia vào cuộc phản công của Nguyễn Ánh với quân Tây Sơn để chiếm lại khu vực Bình Định.
Thơ tống biệt ngƣời đi tòng quân Trấn Tây cũng là minh chứng rõ nét về những cuộc chinh chiến bảo vệ bờ cõi. Trấn Tây vốn là lãnh thổ thuộc Đông Nam Campuchia ngày nay. Năm 1835, với tầm nhìn chiến lƣợc, Minh Mạng “sát nhập vùng Cao Miên vào hẳn lãnh thổ Việt Nam, đổi Nam Vang làm Trấn Tây thành, chia làm 32 phủ, 2 huyện” [66, tr 479]. Do triều đình nhà Nguyễn thực hiện cai trị triệt để với nhiều loại thuế khóa cùng những chính sách bộc lộ ý định đồng hóa nên năm 1840 dân Miên đã nổi lên chống lại. Quân Xiêm đóng ở U Đông, “Minh Mạng phải cử chƣởng phủ tả quân Phạm Văn Điển kinh lƣợc sứ Trấn Tây và thống chế Nguyễn Tiến Lâm làm tham tán sang giúp việc đàn áp” [66, tr 480]. Nguyễn Văn Lý có hai bài thơ tiễn tặng Nguyễn Ƣớc Phu. Bài thứ nhất là Tặng khế nghị Bảo Khê Nguyễn Ƣớc Phu Trấn Tây tòng quân. Nguyễn Ƣớc Phu là “Nguyễn Văn Thắng, bị án trảm giam hậu, năm 1837 tạm thả cho đi bắt thổ mục nổi loạn, năm 1839 đƣợc tha tội chết, sung quân, năm 1840 cùng 40 ngƣời bị phái đi An Giang, Hà Tiên, Trấn Tây chuộc tội” [75, tr 323]. Nhƣ vậy, bài thơ này chắc chắn Nguyễn Văn Lý làm tiễn Nguyễn Ƣớc Phu sung quân của Phạm Văn Điển đi kinh lƣợc vùng Trấn Tây lập công chuộc tội. Câu thơ Lâm lí căn cơ tòng lập thái (Đặt chân đến thì nền móng từ đó mà lập nên sự thịnh vƣợng) cũng thể hiện ý rằng Bảo Khê có thể từ đây mà gây dựng lại sự nghiệp. Bài thứ hai là Ƣớc Phu tự Trấn Tây lộ hoàn tƣơng quá Gia Định yêu quy lị sở lƣu túc, cập hoàn thƣ tiễn. Bài này Nguyễn Văn Lý làm
88
trong dịp Nguyễn Ƣớc Phu từ Trấn Tây về, có qua Gia Định, ông mời về trị sở nghỉ lại một đêm và viết thơ tiễn. Bài này có lẽ đƣợc viết vào mùa xuân năm 1847 khi quân Nguyễn chấp nhận giảng hòa với Cao Miên, rút về An Giang. Trong bài thơ có câu: Giang mai tiết lậu càn khôn ý (Cây mai bên sông tiết lộ ý của đất trời), ý nói sắp sang xuân. Ý thơ hoàn toàn trùng khít với các mốc lịch sử nhƣ đã dẫn. Ngoài Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Văn Siêu có bài Tống Vĩnh Thuận Nguyễn Ƣớc Phu Trấn Tây tỏng quân. Nội dung thi phẩm cũng cho thấy đƣợc cuộc tống tiễn này là tiễn Trấn Phu đi tiền quân hiệu lực vào năm 1840 bởi có câu: Quân ân vi tái tạo/ Thân hỉ hữu kim hành (Ơn vua đã tái tạo cho ta cuộc sống này/ Cha mẹ vui mừng vì có cuộc đi hôm nay). Bài thơ cũng tái hiện đƣợc hiện thực khắc nghiệt của con đƣờng chinh chiến nơi Trấn Tây:
Nam chuyến thiên sơn tận Tây lai vạn hác khuynh Tƣơng tƣ nhung mã lộ Nhất nhật tạm phùng nghênh
Tới phía nam nơi các ngọn núi đều tận cùng Tới phía tây nơi mọi dòng suối đều khô cạn Cùng tƣởng nhớ đến con đƣờng chinh chiến Một ngày này thôi tạm gặp gỡ nhau.
Ngoài công cuộc bảo vệ lãnh thổ phía Nam, biên cƣơng miền núi phía Bắc cũng đƣợc nhà Nguyễn rất chú ý. Trong các bài thơ tống biệt giai đoạn này có khoảng 25 bài tống biệt ngƣời di chuyển lên làm việc ở các vùng miền núi phía Bắc nhƣ Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang...
Trƣớc hết các thi phẩm này đã cho thấy đƣợc ý thức của triều Nguyễn về sự phức tạp cũng nhƣ vị trí quan trọng của biên vực. Thơ tiễn bạn đi Cao Bằng, đi Lạng Sơn của Nguyễn Văn Lý luôn nhấn mạnh: Bắc lân quan tái sự phi khinh (Việc nơi quan ải với nƣớc láng giềng phía Bắc chẳng thể coi nhẹ) (Tiễn Cao Bằng niết sứ Nguyễn Quân Tiến lục chi dị), Bàn thố hà nan đáo lập công, Nam Quan tiết việt thú lâu không (Nơi công việc khó khăn, phức tạp lập công có khó gì, ở Nam Quan thiếu ngƣời nghiêm trị, canh phòng trễ nải) (Tiễn Lạng Sơn tuần phủ Phan Quân nhập vi hộ bộ tham tri)... Tiễn bạn ra trấn thủ An Bình, Đặng Huy Trứ viết: Tuyên Quang yếu địa thị An Bình/ Đế giản tuần lƣơng hữu thử hành (Yên Bình là nơi hiểm yếu của Tuyên Quang/ Vua đã kén chọn ngƣời bầy tôi giỏi nên mới có cuộc đi này) (Tống Đặng Thiện Đình xuất thủ An Bình)...
Bên cạnh đó, thơ tống biệt cũng đã phản ánh đƣợc tình hình chiến sự và công cuộc bảo vệ bờ cõi khá phức tạp của khu vực phía Bắc giai đoạn này. Soi chiếu thơ vào các sự kiện lịch sử có thể nhận thấy đƣợc tính thời sự của các bài thơ này.
Bài Tiễn nguyên Nam Định đốc học Doãn Khuê hồi lỳ đƣợc Vũ Phạm Khải làm năm 1866. Câu thơ: Cức căng hà nhật chiến cô quân (Gƣơm giáo mới ngày nào chiến đấu bằng một đạo cô quân) đã nhắc lại sự kiện năm 1862. Năm đó, khi Doãn Khuê đang làm đốc học Sơn Tây, bọn phỉ Thanh nổi dậy xâm phạm vùng Sơn - Hƣng - Tuyên. Ông tập hợp các nghĩa sĩ là học trò ở địa phƣơng thành một đội quân đặt tên là Sơn trƣờng nghĩa dũng đạo (Đạo quân nghĩa dũng trƣờng Sơn Tây), hợp với Tổng đốc Bùi Án cùng đánh dẹp [57, tr 190].
89
Bài Tống Tây Bắc quân thứ tán lý Phan Thuấn Cử của Phạm Phú Thứ có nguyên chú Đình Tuyển Canh Tuất có thể biết đƣợc chính xác năm sáng tác là 1850. Trong bài, ông có viết: Tặc tình hiểm dị đa thành kiến/ Nhung khốn trù mƣu phú độc hiền (Tình hình giặc khó dễ thế nào phần nhiều đã rõ/ Việc trù liệu cơ mƣu của nhà tƣớng riêng anh đã đƣợc giao phó). Câu thơ đã phản ánh chân thực tình hình năm 1850. Theo Đại Nam thực lục: Tháng 8 năm 1850 toán giặc ngƣời Thanh xuất phát từ châu Bằng Tƣờng tràn sang vùng biên giới nƣớc ta cƣớp bóc ở địa phận phủ Trƣờng Định (thuộc tỉnh Lạng Sơn). Tri phủ là Phạm Duy Nhiên chống lại không nổi, giặc bèn tiến sát đến thành Lạng Sơn... [97, tr 177]. Cùng năm ấy, nhiều đoàn ngƣời Thanh cũng sang lánh nạn ở vùng Cao Bằng, Lạng Sơn nƣớc ta. Nhà vua lệnh cho các bang trƣớng trông coi, khi địa phƣơng hết loạn thì trả về [97, tr 180]. Tháng 11/1851, các nhóm Thanh phỉ nhƣ Ngô Côn, Trƣơng Cận Bang, Tô Tử, Trung Hòa... Đây là những nhóm Thanh phỉ có lực lƣợng khá đông, hoạt động mạnh mẽ, từng bao vây đánh chiếm nhiều tỉnh thành quan trọng ở vùng biên giới phía Bắc. Mục đích chủ yếu của nhóm này là hoạt động quân sự, chiếm đánh thành trì, đất đai, tìm chỗ đứng chân để mƣu đồ sự nghiệp lâu dài...
Nguyên chú bài Tống Hoàng Tham Tán Trọng Tú vãng Thái Nguyên thảo Thanh phỉ có nhắc tới phỉ Ngô Côn: Bọn phỉ Ngô Côn của ngƣời Thanh thƣờng lén trốn tránh ở các châu Quy Thuận, Hạ Đống vùng biên giới Trung Quốc, tràn vào hạt Cao Bằng, lén chiếm kho đồn ở tỉnh thành, bèn vây đồn Lạc Dƣơng ở huyện Thất Khế tỉnh Lạng Sơn. Quan binh ta tấn công đồn họ, giải vây và tiến gần sát thành Cao Bằng. Bè Đảng giặc Tàu lại bị Phùng Đề đốc nhà Thanh đánh cho khốn đốn. Chúng dắt nhau chạy vào Cao Bằng đến 1 vạn 5 ngàn ngƣời chia ra đi quấy nhiễu các đồn. Quan binh ta bị mất lợi thế. Có tin báo nguy cấp. Quan binh ta vâng chỉ dụ phái ba đạo quân. Bình khấu thảo nghịch Tả hữu Tƣớng quân Tham tán tiến tới đánh dẹp. Một đạo từ ngả Lạng Sơn, một đạo từ ngả Tuyên Quang, một đạo từ ngả Thái Nguyên có Hoàng Trọng Tú làm Tham tán. Trong bài, Phạm Phú Thứ cũng phản ánh rõ đƣợc tình hình thời sự rối ren lúc đó: Biên viễn cùng nhi đạo Thanh nhân tức ngã nhân Vƣơng sƣ nghiêm thù ác Vũ đức tại an dân Trƣợng việt tham nhung khốn Điều quân thị kế thần Yếu khán trần viễn tái
Vùng biên giới xa xôi cùng tận bị cƣớp phá Ngƣời nhà Thanh liền với ngƣời nƣớc ta Quân của vua rất nghiêm khắc đối với tên giặc cầm đầu Cái đức của việc võ bị là an dân Cầm binh khí tham dự ở quân môn Điều động quân đội là kẻ mƣu thần Biên ải xa xôi đầy bụi trần cần xem xét
Ở bài Tống Nghĩa Hƣng tri phủ Lê Bắc thứ tán tƣơng, tác giả một lần nữa phản
ánh những vấn đề thời sự nóng hổi lúc bấy giờ:
Thái châu nghịch phỉ phƣơng cầu thủ Khâm động cuồng phu cảm trở binh
Ở châu Thái Nguyên, giặc cƣớp vừa xin hàng phục vỗ yên/ Ở Khâm Động, bọn điên
90
Súy mạc cận truyền tam tiệp chí Quân tƣ công trữ nhất tâm thành Thê phong sóc tuyết lân phu hƣớng Hề chỉ thƣơng manh khánh đãng bình
cuồng dám đâu ngăn trở việc binh/ Trong trƣớng của quan Súy gần đây tin truyền ba lần thắng trận/ Công lao chất chứa, một lòng lo thành mƣu lƣợc quân cơ/ Gió lạnh và tuyết rơi đất Bắc, càng thƣơng xót cho dân phu tải lƣơng/ Đâu chỉ có dân buôn bán mới mừng việc dẹp yên quân giặc.
Tiễn bạn đi nhận chức án sát Cao Bằng, Nguyễn Văn Siêu gọi bọn giặc này là thảo lai và thể hiện mong ƣớc diệt hết đƣợc loại cỏ dại này: Tuyệt biên hữu mệnh lƣu bàn thác/ Uy nguyện hà thời toại thảo lai (Mệnh vua giao cho lƣu giữ biên cƣơng xa nhiều khó khăn/ Mong ƣớc khi nào diệt hết đƣợc bọn giặc cỏ dại) (Tặng Nguyễn Hồng Lô Nguyễn Quân Văn Vĩ lãnh Cao Bằng án sát).
Nhƣ vậy, thơ tống biệt đã góp phần tạo nên minh chứng rõ nét cho những cố gắng của nhà Nguyễn về việc mở rộng và bảo vệ bờ cõi, cƣơng vực lãnh thổ. Các cuộc tống tiễn vì thế không chỉ là thơ mà còn là lịch sử, là căn cứ để các nhà nghiên cứu đánh giá và nhìn nhận khách quan hơn những đóng góp của nhà Nguyễn đối với chế độ phong kiến Việt Nam nói riêng cũng nhƣ đối với vấn đề bảo vệ cƣơng vực lãnh thổ nói chung. 3.2.3. Hiện thực cuộc xâm lăng của thực dân Pháp
Không chỉ phản ánh những nỗ lực của triều Nguyễn trong việc bảo vệ biên cƣơng phía Nam cũng nhƣ phía Bắc, khoảng 27 bài thơ tống biệt, tiêu biểu là thơ của Vũ Phạm Khải, Đặng Huy Trứ, Phạm Phú Thứ, Nguyễn Xuân Ôn, Trần Thiện Chánh, Đào Tấn đã phản ánh hiện thực về cuộc xâm lặng của thực dân Pháp giai đoạn nửa cuối thế kỵ XIX.
Trƣớc hết, thơ tống biệt đã ghi lại những sự kiện tiêu biểu theo dọc chiều dài lịch sử
nửa cuối thế kỵ XIX liên quan đến cuộc xâm lăng của thực dân Pháp với Việt Nam.
Năm 1858, Pháp nổ phát súng đầu tiên lên bán đảo Sơn Trà - Đà Nẵng, chính thức mở màn cho công cuộc xâm lƣợc Việt Nam. Năm 1859, Quân Pháp phối hợp với quân Tây Ban Nha kéo quân vào Gia Định theo hai cánh thủy bộ. Gia Định thất thủ, các tỉnh Biên Hòa, Vĩnh Long nhiều lần dâng sớ xin cầu viện nhƣng không thể đáp ứng đƣợc vì đƣờng sá bị ngăn trở. Trƣớc tình thế hiểm nghèo đó, Đỗ La Phong (Đỗ Khắc Tĩnh) cả quyết xin đi Nam Kỳ để an ủi tƣớng sĩ, tập hợp lực lƣợng mƣu tính đánh đuổi quân xâm lƣợc. Bài thơ Tống Hồng Lô tự khanh Đỗ La Phong vãng Nam Kỳ chiêu thảo của Phạm Phú Thứ đã tái hiện sinh động những dấu ấn lịch sử đó:
Nam cố vu thần lự Tây chinh kỵ nhật hƣu Lƣỡng giang phƣơng đãi viện Quần sách thục phân ƣu ...
Việc phƣơng Nam khiến nhà vua lo lắng Đánh Pháp bao ngày đã phải dừng Hai sông (Tiền, Hậu) đang chờ viện Mƣu kế nào để giải mối lo ...
91
Lục san Y Pha lũy Hà phần Phú Lãng chu
Lúy Ý Pha Nho tìm phƣơng chia cắt Thuyền Phú Lãng nghĩ cách đốt chìm
Năm 1860, bài thơ Tống Nguyễn Tƣớng quân Tri Phƣơng Nam chinh của Đào Tấn nói tới sự kiện Nguyễn Tri Phƣơng đƣợc sung chức Gia Định quân thứ, thống đốc quân vụ cùng Tham tán đại thần Phạm Thế Hiển trông coi việc quân sự ở miền Nam. Lời tiễn biệt vừa ngợi ca phẩm chất, khí phách của ngƣời đi vừa thể hiện lòng mong ngóng, hy vọng ngày trở về rực rỡ chiến thắng của ngƣời tiễn:
Trƣơng kiếm Nam chinh diệt Lăng Sa Anh hùng báo quốc bất tƣ gia Vọng quân mã đáo thành công nhật Bắc phán kinh thành xƣớng khởi ca
Ông chống gƣơm vào Nam diệt giặc Pháp/ Là bậc anh hùng báo đền ơn nƣớc, không nghĩ đến nhà/ Mong ông đến ngày ngựa tới là thành công/ Khi trở về đất Bắc,đến kinh thành, sẽ hát bài chiến thắng.
Cũng trong khoảng thời gian đó, Phạm Văn Nghị đã tâu sớ lên vua Tự Đức để xin tổ chức một đội quân tình nguyện vào Đà Nẵng đánh giặc. Bản tấu trình đƣợc chuẩn y, ông đã “chiêu tập đƣợc 365 nghĩa dũng” [134, tr 18] và “ngày 29 tháng 2 năm 1860 đoàn nghĩa dũng làm lễ xuất phát ở Nha học chính Nam Định” [134, tr 18]. Bài Tiễn Nghĩa Trai tiên sinh vãng Quảng Nam tiễu Tây của Vũ Phạm Khải làm tiễn Phạm Văn Nghị cùng đoàn quân tình nguyện tự mộ vào Đà Nẵng đánh giặc:
Cán tiêu bất nhẫn ƣu quân phụ Quan kỹ hà kham loạn Hạ, Di Trực Bắc tƣơng khan thanh giá trọng Chinh Tây ninh hứa vũ thƣ trì
Ông đâu nỡ để vua cha phải lo lắng ngày đêm/ Là ngƣời đội mũ, đi giày, há chịu cho bọn mọi rợ làm loạn/ Ở Bắc, thanh danh ông đƣợc mọi ngƣời trọng vọng/ Việc đánh Tây đâu chịu đề tờ thƣ lông gà bị chậm.
Năm 1862 diễn ra sự kiện quan trọng liên quan đến Hòa ƣớc Nhâm Tuất. Đây là bản hòa ƣớc đầu tiên đƣợc kí kết giữa triều Nguyễn và thực dân Pháp. Theo đó, Việt Nam nhƣờng lại ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tƣờng cho thực dân Pháp. Lúc Pháp chiếm đóng Gia Định, Đỗ Tông Quang đang làm tuần phủ ở đây, ông lui về Tân Hòa cùng Trƣơng Định. Sau khi hòa ƣớc đƣợc kí kết, triều đình triệu ông về Kinh. Trên đƣờng về Kinh ông có ghé thăm Vũ Phạm Khải đang cƣ tang ở Phƣợng Trì [57, tr 175]. Bài thơ Nguyên Gia Định tuần phủ Đỗ Quang Tự Nam Quy phục bị Trƣng Lai Kinh, khuất phỏng lâm biệt thứ nguyên vận của Vũ Phạm Khải thể hiện sự cảm thông sâu sắc với hoàn cảnh của bạn và cũng kín đáo gửi gắm nỗi niềm cảm khái với tình thế lịch sử lúc bấy giờ: Đắc lộ nhƣ công thoái diệc nan Chinh xa phong vũ bức đông hàn Tam phƣơng vị giải nhung thần giáp Nhất nhật ninh vong chiến sĩ xan
Gặp bƣớc nhƣ ông mà lui về nghỉ cũng khó Xe đi trong cảnh đông giá gió mƣa Khắp ba miền, áo giáp bậc nhung thần chƣa cởi Mỗi lần ăn, quên sao đƣợc bữa cơm các chiến sĩ
92
Năm 1873, sau khi chiếm đƣợc Nam Kỳ và trong lúc đang muốn tìm đƣờng thông thƣơng với Trung Hoa, Pháp nhận thấy di chuyển theo đƣờng sông Hồng rất thuận tiện cho việc đi lại lên vùng Vân Nam Trung Hoa, do vậy chúng âm mƣu đánh chiếm Bắc Kỳ và coi đó là “một vấn đề sống chết cho tƣơng lai quyền thống trị của Pháp ở Viễn Đông”. Pháp đƣa quân ra Bắc kỳ bắt đầu thực hiện âm mƣu này. Tự Đức đã giao cho Hoàng Diệu làm tổng đốc Hà Ninh. Bài thơ Tống Hoàng Công Quang viễn Bắc hành là cuộc tiễn biệt của Đào Tấn với Hoàng Diệu. Thi phẩm vừa nhấn mạnh đƣợc vị trí trọng yếu của thành Thăng Long gắn với nhiệm vụ nặng nề ngƣời đi đƣợc giao phó lại vừa kín đáo nhận định đƣợc âm mƣu của thực dân Pháp qua lời dặn dò ân cần của ngƣời tiễn:
Thánh thƣợng điều quân trấn trọng thành Thăng Long thiên tài sử lƣu danh Chúc quân tận lực ƣ nhung mạc Bất sử Lang Sa dục đắc hoành
Vua điều ông ra trấn thành trọng yếu/ Thăng Long từ nghìn năm tên để lại trong sử sách/ Chúc ông hết sức lo về quân sự/ Đừng để sự thèm khát của giặc Pháp đƣợc rộng càn
Năm 1874, hiệp ƣớc Giáp Tuất đƣợc kí kết, Pháp rút quân khỏi Bắc Kỳ nhƣng “tình hình vẫn chƣa yên do tàn dƣ của giặc Ngô Côn, Tạ Văn Phụng; sự xung đột lƣơng - giáo ở vùng Bắc Ninh, Quảng Yên; tình hình tranh thƣơng giữa ta với hai thế lực Pháp – Trung. Triều đình bối rối không biết chọn ngƣời nào giỏi cả về nội trị lẫn ngoại giao để có thể ra nơi “đầu sóng ngọn gió” này. Suy đi tính lại, vua Tự Đức thấy không ai hơn Phạm Phú Thứ, lúc này đang là Thƣợng thƣ Bộ Hộ. Thế là ông ra Bắc lãnh chức Tổng đốc Hải Yên (Hải Dƣơng, Quảng Yên) kiêm Tổng lý Thƣơng chánh Đại thần” [119]. Bài Tống Trúc Đƣờng Phạm Công hộ bộ kiến tiết Hải An - kiêm thƣơng chánh đại thần của Nguyễn Thông là cuộc tống tiễn của tác giả với Phạm Phú Thứ trong dịp này:
Đông tỉnh y thƣờng hội Tây minh hỗ thị thuyền Nhân kiêm tân thế giới Địa tiếp cổ Long biên Tạm truyết trung xu bính Phân tƣ chế khổn quyền Tùng lai thu ngũ lợi Di sách ỵ tiền hiền.
Tỉnh đông mở hội y thƣờng Để thƣơng thuyết về việc thuyền buôn của Pháp Ngƣời dự hội gồm có ngƣời thuộc thế giới mới Nơi hội thƣơng tiếp thành Long Biên xƣa Ông tạm nghỉ chức quan trọng trong triều Ra giữ quyền thƣơng thuyết ở ngoài quận Từ xƣa việc hòa nhung nói là thu đƣợc năm điều lợi Cái kế sách đó nhờ bậc tiền hiền nhân vạch ra để lại đến nay
Bên cạnh đó, các bài thơ tống biệt còn ghi dấu ấn những nhân vật lịch sử tiêu biểu có ảnh hƣởng tới cục diện chính trị ở giai đoạn này nhƣ Phan Thanh Giản, Nguyễn Tri Phƣơng, Phạm phú Thứ, Phan Văn Nghị, Ngụy Thản Chi... Bài Tống Ngụy Phiên Thản Chi hồi Nghệ An lỳ của Phạm Phú Thứ là một ví dụ:
93
Lịch quốc nhãn trung tam thế giới Phù chu hải thƣợng bán kiền khôn Tức kim nhật sự vô Phán sứ Thị tích du nhân hữu Ngụy phiên Hán quận cổ quăng kiêm tứ triệu Ngô thành hoa thảo cựu thừa ân Thử hồi lƣợng phỉ ta hành dịch Trịnh trọng lâm kỳ tá tửu tôn
Trải qua các nƣớc, trong mắt quan sát của mình có ba thế giới/ Đi tàu thuyền trên biển đã đƣợc phân nửa vòng trời đất rồi/ Trong việc hôm nay thì không còn Phan Thanh Giản nữa/ Khi trƣớc ngƣời đi Tây có ông Bố chính Ngụy Thản Chi/ Ông là bề tôi phụ tá của nƣớc Nam và đƣợc triệu vời đến/ Hoa cỏ thành Ngô đƣợc ân huệ nhƣ xƣa/ Quay về là để xem xét tình hình giặc phỉ, than ôi! lại phải đi làm việc quan/ Trịnh trọng dùng chén rƣợu đƣa tiễn lúc chia tay nhau.
Trong bài thơ Phạm Phú Thứ nhắc tới hai tên tuổi tiêu biểu là Phan Thanh Giản và Ngụy Thản Chi. Phan Thanh Giản là một nhân vật lịch sử có vai trò nhất định trong giai đoạn nửa cuối thế kỵ XIX. Ông là đại diện cho triều đình Tự Đức ký kết hiệp ƣớc Nhâm Tuất năm 1862. Năm 1863, ông lại đƣợc cử làm chánh sứ sang Pháp để điều đình về việc chuộc lại ba tỉnh miền Đông. Năm 1867, khi Pháp đánh chiếm Vĩnh Long, ông lúc này đang làm Kinh lƣợc sứ ba tỉnh miền Tây, đã quyết định trao thành không kháng cự. Sau sự việc đó, ông uống thuốc phiện hòa với giấm thanh tự sát và qua đời. Bài của Phạm Phú Thứ nói tới sự việc này trong câu: Tức kim nhật sự vô Phán sứ (Trong việc hôm nay thì không còn Phan Thanh Giản nữa). Ngụy Thản Chi là Ngụy Khắc Đản. Ông là ngƣời đỗ đầu trong kỳ thi Đình năm 1856. Năm 1863, ông đƣợc cử làm phó sứ trong phái đoàn của Phan Thanh Giản sang Pháp. Câu thơ Thị tích du nhân hữu Ngụy phiên (Khi trƣớc ngƣời đi Tây có ông Bố chính Ngụy Thản Chi) đã nhắc tới sự kiện đó.
Bài Tống Trúc Đƣờng Phạm Công hộ bộ kiến tiết Hải An - kiêm thƣơng chánh đại thần của Nguyễn Thông không chỉ ghi lại những dấu mốc tiêu biểu của lịch sử mà còn ghi nhận những đóng góp của Trúc Đƣờng trong việc thực hiện tƣ tƣởng canh tân, mở rộng quan hệ ngoại thƣơng với nƣớc ngoài: Đông tỉnh y thƣờng hội Tây minh hỗ thị thuyền Nhân kiêm tân thế giới Địa tiếp cổ Long biên Tạm truyết trung xu bính Phân tƣ chế khổn quyền Tùng lai thu ngũ lợi Di sách ỵ tiền hiền.
Tỉnh đông mở hội y thƣờng Để thƣơng thuyết về việc thuyền buôn của Pháp Ngƣời dự hội gồm có ngƣời thuộc thế giới mới Nơi hội thƣơng tiếp thành Long Biên xƣa Ông tạm nghỉ chức quan trọng trong triều Ra giữ quyền thƣơng thuyết ở ngoài quận Từ xƣa việc hòa nhung nói là thu đƣợc năm điều lợi Cái kế sách đó nhờ bậc tiền hiền nhân vạch ra để lại đến nay
Trúc Đƣờng chính là Phạm Phú Thứ : “Trong thời kỳ bảo thủ “bế quan tỏa cảng” của triều đình, Phạm Phú Thứ đã có nhiều ý tƣởng canh tân về giáo dục, về ứng dụng khoa học kỷ thuật Phƣơng Tây. Ví nhƣ, việc buôn bán giao thƣơng, một hình thức sơ khởi của nền kinh tế thị trƣờng, trang bị vũ khí quân đội hiện đại, tự do tín ngƣỡng… Ông tiếp thu thêm tƣ tƣởng canh tân của Nguyễn Trƣờng Tộ và đề xuất triều đình những vấn đề
94
nhƣ: Ban bố sách của nhà nƣớc để việc học hành đƣợc thiết thực; Lập khoa thủy học (hàng hải) để quản lý ghe thuyền; Dịch sách nƣớc ngoài để theo dõi tình hình thế giới; Khuyến khích các nghề thủ công, cho tự do dùng sắt, gỗ; cấm ngƣời Hoa buôn bán gạo, bỏ thuế nấu rƣợu, giảm các khoản chi phí về tuần tra ngoài biển; Mở rộng buôn bán với nƣớc ngoài; Khai thác quặng và than đá… ” [59].
Ngoài ra, còn có nhiều bài thơ thơ tống tiễn khác làm để tiễn biệt các nhân vật lịch sử, những vị tƣớng đồng thời cũng là những ngƣời tiêu biểu cho phái chủ chiến nhƣ Hoàng Diệu (bài Tống Hoàng Công Quang viễn Bắc hành – Đào Tấn), Nguyễn Tri Phƣơng (bài Tống Nguyễn tƣớng quân Tri Phƣơng Nam chinh – Đào Tấn), Tôn Thất Thuyết (Tống Hàn Lâm Tôn Thất Thuyết tòng quân Bắc Ninh – Đặng Huy Trứ)…
Nhƣ vậy, những tác phẩm thơ tống biệt tiêu biểu thế kỵ XVIII - XIX, không chỉ tái hiện đƣợc hiện thực đời sống loạn ly, đói khổ của nhân dân mà còn cho thấy đƣợc công cuộc bảo vệ biên giới lãnh thổ của triều Nguyễn. Bên cạnh đó, từng cuộc tống tiễn đã theo sát phản ánh các sự kiện lịch sử tiêu biểu về cuộc xâm lăng của thực dân Pháp và ghi nhận một số nhân vật lịch sử quan trọng trong khoảng thời gian nửa cuối thế kỵ XIX. Qua đây có thể khẳng định đƣợc giá trị lịch sử rất ý nghĩa của thơ tống biệt giai đoạn này. Xét trên một khía cạnh nào đó những thi phẩm này hoàn toàn có thể trở thành một đối chứng sinh động, xác thực khi cần soi chiếu các sự kiện lịch sử. Giá trị độc đáo này không phải bất cứ một thể tài nào cũng có đƣợc. Lý giải cho giá trị hiện thực độc đáo này chúng tôi cắt nghĩa trên hai khía cạnh. Thứ nhất, là sự chi phối của lịch sử. Trong suốt chiều dài phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam giai đoạn nào cũng có nhiều sự kiện, thay đổi. Tuy nhiên, hai thế kỵ cuối cùng là hai thế kỵ đánh dấu nhiều biến động nhất. Sự xuống cấp, thay đổi ngôi vị của các triều đại phong kiến, sự nổi dậy mạnh mẽ của các phong trào nông dân khởi nghĩa, sự nhòm ngó của nhà Thanh và đặc biệt là cuộc xâm lăng của thực dân Pháp... Tất cả những biến động ấy dồn nén vào hai thế kỵ đã trở thành nguồn tƣ liệu độc đáo cho văn học trong đó có thơ tống biệt. Thứ hai, là sự phát triển tự thân của văn học. Nếu nhƣ ở những giai đoạn trƣớc, văn học trung đại nghiêng về việc nói chí, tỏ lòng thì đến giai đoạn này, chức năng thơ ca đã đƣợc mở rộng, các tác phẩm hƣớng tới phản ánh những điều trông thấy, nghe thấy. Thơ tống biệt cũng không nằm ngoài mạch cảm hứng ấy. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng đặt ra vấn đề về sự chi phối loại hình tác giả. Loại hình tác giả sáng tác thơ tống biệt chủ yếu là các nhà nho hành đạo. Phần lớn họ đều là những vị quan nắm giữ những chức vụ quan trọng trong triều đình cũng nhƣ có vai trò nhất định trong sự phát triển của lịch sử. Chính vì vậy, hầu hết các cuộc tống tiễn liên quan đến công việc. Bên cạnh những chuyến đi do điều chuyển công việc thông thƣờng còn có cả những chuyến đi liên quan đến vận mệnh quốc gia, dân tộc. Chính vì thế trong giai đoạn có nhiều biến động thơ tống biệt rất gần với lịch sử, gắn với một số sự kiện tiêu biểu của lịch sử. Giá trị hiện thực riêng biệt này là một nét riêng làm nên đặc sắc của thơ tống biệt thế kỵ XVIII - XIX.
95
Tiểu kết Chƣơng 3
Hình tƣợng nhân vật trữ tình và bức tranh hiện thực mang tính thời sự là hai khía cạnh nổi bật làm nên giá trị nội dung của thơ tống biệt Việt Nam thế kỵ XVIII – XIX. Hình tƣợng nhân vật trữ tình là hình tƣợng trung tâm trong các bài thơ tống biệt. Hình tƣợng này đƣợc thể hiện trên hai phƣơng diện: con ngƣời chức năng, phận vị và con ngƣời cá nhân. Trên phƣơng diện con ngƣời chức năng, phận vị, nhân vật trữ tình thể hiện những lời ngợi ca, biết ơn sâu sắc với nhà vua, ý thức về lòng trung thành báo đáp quân vƣơng cũng nhƣ dành những lời ngợi ca về triều đại thanh bình, về cảnh sắc của non sông gấm vóc. Trong hoàn cảnh nƣớc nhà loạn ly ở giai đoạn nửa cuối thế kỵ XIX, nhân vật trữ tình còn đã thể hiện lòng căm thù giặc sâu sắc, ý chí quyết tâm tiêu diệt kẻ thù giữ vững độc lập, chủ quyền nƣớc nhà. Điều này cho thấy, dù trong hoàn cảnh đất nƣớc thanh bình hay biến động thì nhân vật trữ tình trong các bài thơ tống biệt vẫn thể hiện đƣợc sâu sắc chức năng, phận vị của mình. Nếu nhƣ sự thể hiện nhân vật trữ tình ở phƣơng diện con ngƣời chức năng, phận vị còn mang nhiều tính chất công thức thì trên phƣơng diện con ngƣời cá nhân, nhân vật trữ tình đƣợc khắc họa khá thành công trên nhiều khía cạnh khác nhau. Nhân vật trữ tình cho thấy hình ảnh con ngƣời với những tình cảm tha thiết về những ngƣời thân trong gia đình, tình cảm bạn hữu trân trọng, gắn bó. Tâm thế kẻ lữ khách tha hƣơng thể hiện đƣợc nhiều trăn trở, nỗi niềm mang cảm thức thời đại. Những ám ảnh ốm đau, bệnh tật, lo sợ sự chảy trôi của thời gian hay cảm giác hèn kém, bất tài, già nua, nhỏ bé cùng tâm trạng chán nản với con đƣờng hoạn lộ và những tâm sự đầy bi phẫn trƣớc thời cuộc đã cho thấy ý niệm sâu sắc về con ngƣời nhỏ bé, bất lực, thất bại của nhân vật trữ tình trong thơ tống biệt giai đoạn này. Qua các cuộc tống tiễn, nhân vật trữ tình cũng thể hiện mong muốn đƣợc trở về, vƣợt thoát khỏi vòng danh lợi. Thơ tống biệt giai đoạn này cũng ghi nhận giá trị hiện thực – lịch sử sâu sắc khi phản ánh hiện thực ly tán, đời sống đói khổ của quần chúng nhân dân trong giai đoạn này. Các cuộc tống tiễn ngƣời đến các vùng biên giới cũng cho thấy đƣợc công cuộc mở rộng và gìn giữ vùng biên cƣơng của tổ quốc cả ở phía Bắc và phía Nam. Những thi phẩm này cũng ghi lại nhiều sự kiện lịch sử và nhân vật lịch sử tiêu biểu của thời đại. Nhƣ vậy, nếu nhƣ hình tƣợng nhân vật trữ tình cho thấy tính chất hƣớng nội của thơ tống biệt thì bức tranh hiện thực lịch sử cho thấy tính chất hƣớng ngoại của những tác phẩm này. Hai khía cạnh nổi bật đó đã góp phần khẳng định giá trị nội dung cũng nhƣ những đóng góp của thể tài thơ tống biệt với tiến trình phát triển của văn học trung đại Việt Nam nói chung, thơ trung đại thế kỵ XVIII – XIX nói riêng. Những nghiên cứu về hình tƣợng nhân vật trữ tình và bức tranh hiện thực mang tính thời sự đã góp phần gợi mở để chúng tôi tiếp tục tìm hiểu những đặc sắc nghệ thuật của thơ tống biệt Việt Nam thế kỵ XVIII – XIX.
96
CHƢƠNG 4 NGHỆ THUẬT THƠ TỐNG BIỆT VIỆT NAM THẾ KỶ XVIII – XIX
Trong chƣơng này chúng tôi sẽ tập trung khảo sát, mô tả và phân tích những đặc điểm nghệ thuật của thơ tống biệt Việt Nam thế kỵ XVIII – XIX. Trong các phƣơng diện nghệ thuật, tính kỵ sự và yếu tố tự sự đƣợc coi là đặc sắc nghệ thuật tiêu biểu, cho thấy những nét mới, nét riêng của thơ tống biệt giai đoạn này so với giai đoạn trƣớc. Bên cạnh đó, sự đan xen của các mô hình thời gian, các miền không gian nghệ thuật khác nhau, cách sử dụng điển cố và thi văn liệu Hán học cũng nhƣ một số biểu tƣợng ngôn ngữ tiêu biểu, sự đa dạng của thể thơ cũng là những phƣơng diện nghệ thuật nổi bật. 4.1. Tính kỷ sự và yếu tố tự sự trong thơ 4.1.1. Tính kỷ sự
Kỵ sự đƣợc hiểu là “ghi lại những diễn biến của cuộc sống xã hội, không hoặc rất ít xen vào những bình luận chủ quan của ngƣời viết” [89, tr 520]. Kỵ sự thực chất là lịch sử, là sự ghi chép những điều tai nghe mắt thấy, có thật. Thơ trung đại, ở những giai đoạn đầu cũng đã có dấu hiệu của tính kỵ sự, tuy nhiên đến giai đoạn thế kỵ XVIII, với việc mở rộng chức năng thi ca cũng nhƣ những thay đổi trong quan niệm văn học, đặc biệt là quan niệm văn học hƣớng tới những điều trông thấy, nghe thấy, cảm nhận thấy thì tính kỵ sự trở nên sắc nét hơn. Ghi nhận về vấn đề này, nhà nghiên cứu Vũ Thanh đã viết: “Thơ ca giai đoạn này xuất hiện nhiều bài có tính chất thi sử, thi ký nhƣ những bức tranh chân thật về đời sống hiện thực... Các bài thi sử, thi ký đó đều đƣợc ngƣời viết ghi chú rõ ràng thời gian, địa điểm sáng tác, bối cảnh lịch sử, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm... Có nhiều bài đƣợc ghi xuất xứ cụ thể. Đôi lúc, những dòng ghi chú đó còn dài hơn cả bài thơ, có tác dụng định hƣớng cho ngƣời đọc, giúp họ có thể cảm nhận trực tiếp hiện thực đƣợc phản ánh trong các tác phẩm” [145, tr 36]. Thơ tống biệt thế kỵ XVIII - XIX cũng có những biểu hiện rất rõ nét về tính kỵ sự. Biểu hiện này không đơn thuần chỉ phản ánh sự phát triển mang tính chất chung của văn học giai đoạn mà nó còn xuất phát từ chính bản thân tính chất của thơ tống biệt là thơ ghi lại sự kiện chia tay và sự thay đổi không gian sống của một ai đó. Nghiên cứu biểu hiện của tính kỵ sự trong thơ tống biệt, chúng tôi chú ý ở ba phƣơng diện: Sự xác thực của các địa điểm, địa danh; Sự tƣờng minh qua nhan đề; Sự sáng rõ của hệ thống thi tự. 4.1.1.1. Sự xác thực của các địa điểm, địa danh
Khảo sát các bài thơ tống biệt giai đoạn này, chúng tôi thấy khoảng 402/515 bài thơ có sự xác thực các địa điểm, địa danh, bao gồm: địa điểm ngƣời đi di chuyển tới, các con sông, ngọn núi ghi nhận dấu mốc của cuộc hành trình.
Các địa điểm ngƣời đi di chuyển tới khá đa dạng. Với những bài thơ tiễn ngƣời đi sứ hoặc tiễn sứ giả thƣờng xuất hiện các địa danh của Trung Hoa với các tên gọi khác
97
nhau nhƣ Yên Kinh (10 bài), Yên Đài (7 bài), Quảng Đông (6 bài) hoặc các cách định danh khác nhƣ xứ Thanh, Bắc sứ... Ngoài ra, địa danh Tân Gia Ba xuất hiện trong 2 bài, Giang Lƣu Ba xuất hiện trong 3 bài. Nhiều hơn cả là những cuộc di chuyển trong nƣớc. Điểm xuất phát của ngƣời tiễn thƣờng là ở miền Trung bởi cách diễn đạt Bắc hoàn hay Nam qui hay việc xuất hiện các địa điểm ở trong kinh thành Huế nhƣ cầu Đốc Sơ, cầu sông Hƣơng... Từ điểm nhìn đƣa tiễn, các địa danh xuất hiện dọc từ Bắc - Trung - Nam. Ở Miền Bắc, thƣờng có các địa điểm nhƣ Hà Nội, Nam Định, Hải Dƣơng, Quảng Ninh, Cao Bằng, Từ Sơn, Bắc Ninh, Hƣng Hóa, Sơn Tây, Cao Bằng, Tuyên Quang, Hoài Đức, Kim Sơn... Ở Miền Trung các địa danh ngƣời đi hay tới thƣờng là Phú Xuân, Nghệ An, Quy Nhơn, Bình Thuận, Quảng Nam, Hoài Nhơn, Hòa Nghĩa, Tuy Hòa, Thuận An, Quảng Yên, Quảng Ngãi... Ở Miền Nam là tên các địa danh nhƣ Biên Hòa, Gia Định, Kiên Giang, Hà Tiên... Trong đó các địa danh thƣờng đƣợc nhắc đến là Hà Nội, Phú Xuân, Gia Định...
Tính chất xác thực về địa điểm còn đƣợc thể hiện thông qua tên của các con sông, ngọn núi. Tên các con sông, hồ thƣờng xuất hiện nhƣ: Quế Giang, Tam Đức, sông Hán, sông Giang, sông phủ Thiều Châu, Sông Triệu, phía Bắc sông, phía Nam sông, sông Cẩm La, sông Tô, Lƣơng Thủy, sông Hoàng, sông Lƣơng, sông Nghi, sông Thiên Đức, sông Hồng (bến Nhĩ Thủy), sông Hãn, sông Tuyết, sông Liêm, sông Vị, sông Nhị, sông Giang, sông Lô, sông Ngân Hà, sông Bá, sông Hƣơng, sông Nhân, hồ Trúc Bạch, sông Tiền, sông Hậu, sông Tƣơng, sông Nông, sông Trà, sông Điện Bàn, sông Đức Giang, sông Lƣơng, sông Cẩm Lệ, sông Ba, sông Thu Bồn, sông Đức Thủy, sông Vĩnh Điện, sông Kỳ, sông Lam, sông Điện, sông Vy, sông Đằng... Trong đó, sông Hƣơng, sông Tô Lịch và sông Nhị đƣợc nhắc tới nhiều lần. Các địa danh là núi non thƣờng xuất hiện nhƣ: núi Nhị Cầu, Ngự Bình, núi Cù Mông, núi Thiều, núi Nam, núi Hồng, núi Bút La, núi Thái, núi Thiên Thai, núi Hành Dƣơng, núi Phân Mao, núi Nam, núi Bút, núi Nùng, núi Sài Sơn, Tản Viên, Hải Vân, núi Ngự, núi Khán Sơn, núi Ninh Bình, núi Thúy, núi Càn Nhai, núi Tam Điệp, núi Ngu Sơn, núi Liêu, núi Quỳnh Sơn, núi Nƣa, núi Mẫn Sơn, núi Bạch Sắc, núi Trà Sơn, núi Bát Hoàn, núi Tản, núi Nhạc, núi Nga My, núi Ngũ Hành, núi Bàng, núi Ngô, núi Thái Sơn, núi Côn Lôn, núi Bút, núi Thầy, núi Lĩnh Nam, núi Hàn, núi Đại Lãnh, núi Tu... Các con sông, ngọn núi này có thể là dấu mốc nơi diễn ra cuộc tống tiễn nhƣng phần lớn các địa danh xuất hiện trên hành trình chuyến đi trong sự ghi nhận hoặc tƣởng tƣợng của ngƣời tiễn.
Sự xác thực của các địa điểm, địa danh, các con sông và ngọn núi... đã đem đến cho thơ tống biệt tính sáng rõ, lịch sử, cụ thể. Thông qua các địa danh này có thể thấy các cuộc di chuyển trong hai thế kỵ tƣơng đối lớn và diễn ra trong phạm vi khá rộng. Nhiều bài thơ tống biệt đã ghi nhận những cuộc di chuyển trong nƣớc kéo dài từ Bắc vào Nam nhƣ từ Bình Định - Nam Định (bài Tống Bình Định hoàng phó bảng chi Nam
98
Định Nghĩa Hƣng phân phủ - Phạm Phú Thứ), hay từ Thái Nguyên - Hà Nội - Hà Tiên (bài Tâm khế Tân Xuyên dĩ Thái Phiên thăng bổ Hà Tiên bố chính, hộ lí tuần phủ, đạo kinh Hà Thành, thƣ tiễn - Nguyễn Văn Lý)... Điều này là minh chứng sáng rõ cho chính sách luân phiên chức vụ, miễn nhiệm hay điều động vì phạm tội trong luật pháp thời phong kiến. Những cuộc hành trình cũng khá vất vả vì phải vƣợt qua lắm sông nhiều núi, đặc biệt là những nơi có địa hình bất lợi nhƣ đèo Cù Mông: Cù Mông thiên ngoại bích vân thâm (Cựu thuộc thông phán Trƣơng Hữu Quỳnh hộ thủy xá quốc sử thƣợng kinh, phỏng ngụ sở cập hoàn, thƣ dữ chi - Nguyễn Văn Lý) hay đi qua sông vào những ngày lạnh giá: Nhật mộ Hƣơng thủy hàn (Trấn An lệnh tứ chi nhiệm đặc lai tƣơng phóng, kỳ hữu sở tặng thƣ dĩ dữ chi - Cao Bá Quát)... Cảm xúc đƣa tiễn vì thế cũng bùi ngùi và xúc động hơn. 4.1.1.2. Sự tƣờng minh qua nhan đề
Bên cạnh sự xác thực bởi những địa danh, các bài thơ tống biệt còn cho thấy tính chất kỵ sự đƣợc thể hiện ngay trong cách đặt nhan đề tƣờng minh. Khoảng 493/515 (95,7%) tác phẩm thể hiện sự tƣờng minh ngay từ trong nhan đề.
Nhan đề là là điểm tiếp xúc đầu tiên giữa độc giả và tác phẩm. Với thơ trung đại, cách đặt nhan đề khá đa dạng. Tác giả Thùy Dƣơng cho rằng: “Nhan đề của kiểu tác giả ngôn chí trong văn học trung đại thƣờng nêu lý tƣởng, chí hƣớng của loại ngƣời nào đó hay của chính tác giả. Cũng có khi nhan đề nêu hoàn cảnh cảm hứng, cách thức thể hiện tình cảm, tâm trạng, cho biết tâm thế trữ tình của ngƣời phát ngôn... Nhan đề thơ chữ Hán của các nhà Nho, thƣờng trang trọng, đậm chất quan phƣơng và chất kí...” [30]. Trên nền chung về cách đặt nhan đề của thơ trung đại, đến với thơ tống biệt, có thể nhận thấy sự chuyển biến trong các giai đoạn khác nhau.
Trƣớc thế kỵ XVIII, nhan đề các bài thơ tống biệt dung lƣợng thƣờng ngắn (khoảng 2 - 17 ký tự) và phần lớn theo những mô hình đơn giản nhƣ: Tống/ tiễn/ tặng + tên nhân vật dạng nhƣ: Tống Bắc sứ Trƣơng Hiền Khanh (Trần Thái Tông), Tống Trung sứ Vũ Thích Chi (Nguyễn Phi Khanh)... hoặc Tống/ tiễn/ tặng + tên nhân vật + nơi đi + mục đích đi, kiểu nhƣ: Tống Bình Tây đô đốc Trang Định Đại Vƣơng phụng chiếu chinh Chiêm Thành (Trần Nguyên Đán), Tống Phạm công Phạm Sƣ Mạnh bắc sứ (Lê Quát)... Sau thế kỵ XVIII, thơ tống biệt vẫn có một số bài nhan đề đƣợc thể hiện theo mô hình đơn giản nhƣ vậy. Tuy nhiên đã xuất hiện nhiều nhan đề dài cùng mô hình với các thông tin cụ thể, xác thực. Theo khảo sát của chúng tôi, nhan đề bài thơ tống biệt giai đoạn này dài nhất là 54 kí tự (bài Đặng Giải Nguyên (danh Huy Trứ) đồng Nguyễn Hoàng Giáp (danh Văn Hiển) kiến phỏng nguyễn vân dữ quân tuy vị bán diện nhiên dĩ thanh khí cố đặc tƣơng tình nhĩ sổ nhật ngọa bệnh thậm vô liêu trọng cảm tƣ ngôn ƣ nhị nhân chi hồi chu dã thú thử vi biệt - Phạm Phú Thứ). Ngoài ra, còn có rất nhiều nhan đề khác dung lƣợng khá lớn nhƣ: Ấp hữu thận tƣ Trần Thai chi
99
Quảng Nghĩa học chính, tƣơng phùng ƣ kinh ngụ tƣơng sở tác thi thảo, mạnh duyệt ái kỳ nhã, bình thả hỵ hữu thị hành phú dĩ tống chi (36 kí tự) - Nguyễn Văn Siêu, hay Hoan Châu niết sứ kim đôi Phạm Thuật Phủ lai kinh tiến lễ hồi trị, thƣ tiễn kiêm trình đồng niên Phan Phù Xuyên, Đỗ Thận Hiên, Vũ Tiết Hiên, Phạm Ôn Kỳ, Trần Thành Trai, Nguyễn Ức Trai, kiêm thị binh bộ thị lang Tiểu Phạm (47 kí tự) - Nguyễn Văn Lý...
Đi kèm với dung lƣợng dài, hệ thống thông tin mà nhan đề cung cấp cũng phong phú và đa dạng, xuất hiện những mô hình cụ thể và chi tiết kiểu nhƣ: Tống/tiễn + tên ngƣời đi + chức vụ + nơi ở hiện tại + nơi đến + lý do đi: Tiễn Ỵ La Dƣơng Hiến sứ tuyên chỉ Phú Xuân thành (Ngô Thì Nhậm), Tống Trần Quân Tú dĩnh thừa vân bằng thuyền vãng Tân Gia Ba công vụ, thứ Quảng Nam tuần phủ Ngụy công thiện phủ nguyên vận (Nguyễn Văn Lý), Tặng Thổ Khối Đỗ Vệ úy xuất Thanh Hóa (Cao Bá Quát), Tống thuận phủ Lê Công Đình Tuấn tả thiên Hà Nội bố chánh sứ (Nguyễn Thông)... Hoặc mô hình: Thời gian + trạng thái, tình hình + nhân vật + nơi đến + lý do đi + trạng thái nhân vật trữ tình: Giáp ngọ quỹ xuân hƣơng thi sắc chỉ phân tông hà trung huấn đạo Nguyễn Khê phó giáo sở ứng vụ, ngã diệc đính kỳ tựu nam ty dĩ thi tác biệt, Trùng Dƣơng nhật đồ ngộ Hải Phái Đoàn khê tự Bắc hồi, tuân tri gia tín tiểu chƣớc tác biệt ngẫu đắc (Phan Huy Ích)...
Các thông tin về mối quan hệ giữa ngƣời tiễn, ngƣời đi, hành trình đi... cũng đƣợc đƣa vào trong nhan đề: Tâm khế Tân Xuyên dĩ Thái Phiên thăng bổ Hà Tiên bố chính, hộ lí tuần phủ, đạo kinh Hà Thành, thƣ tiễn (Nguyễn Văn Lý), Tống Tố Nhƣ đệ tứ Phú Xuân kinh Bắc Hoàn (Nguyễn Đề)... Thể thơ, cách gieo vần... cũng đƣợc thể hiện trong nhan đề: Viễn di thiên tống liên hồ Lê Thúc Tung chính sứ kiêm Giản Nguyễn phó sứ (Phạm Phú Thứ), Dụng Cúc Đƣờng nguyên vận, tống Quảng Bình hƣu tẩu Nguyễn Thuận Chi hoàn hƣơng (Nguyễn Văn Lý), Hối nhật Bắc quy, dụng khứ niên trừ dạ vận tấu biệt Trần, Phạm Chƣ Hữu (Cao Bá Quát)... Thậm chí, có nhan đề còn đƣa ra tuổi ngƣời đi, phƣơng tiện đi lại: Tống khế nghị Đông Bình Hoàng Hƣ Trai lạc chức quy điền, do chu hành hồi gia, Tống Trần Quân Tú dĩnh thừa vân bằng thuyền vãng Tân Gia Ba công vụ, thứ Quảng Nam tuần phủ Ngụy công thiện phủ nguyên vận, An Giang đốc học Nguyễn Đốc Hiên niên lục thập cửu tuế thƣợng kinh dẫn kiến, lộ phỏng vu Phú Yên, thƣ tiễn (Nguyễn Văn Lý)... Có khi, nhan đề còn nêu lên một phần trạng thái, cảm xúc của ngƣời tiễn và lý do để có bài thơ tiễn: Ấp hữu thận tƣ Trần Thai chi Quảng Nghĩa học chính, tƣơng phùng ƣ kinh ngụ tƣơng sở tác thi thảo, mạnh duyệt ái kỳ nhã, bình thả hỵ hữu thị hành phú dĩ tống chi (Nguyễn Văn Siêu)...
Nhƣ vậy, với các chi tiết cụ thể đƣợc thể hiện ngay trong nhan đề đã khẳng định đƣợc sự tƣờng minh của những cuộc tiễn đƣa, cung cấp cho ngƣời đọc những thông tin xác thực định hƣớng đọc hiểu bài thơ.
100
4.1.1.3. Sự sáng rõ của chú và thi tự
Song hành cùng với những mốc địa danh, những tên con sông, ngọn núi, hệ thống nhan đề tƣờng minh, các bài thơ tống biệt thế kỵ XVIII - XIX cũng thể hiện tính chất kỵ sự rõ nét từ hệ thống chú và thi tự.
Sự sáng rõ từ hệ thống chú Chú (注) đƣợc hiểu là “giải thích văn từ” [19, tr 407]. Trong nhiều bài thơ tống
biệt thƣờng xuất hiện những chú thích của nguyên tác và đƣợc ngƣời biên soạn sách ghi là nguyên chú hoặc những trƣờng hợp tác giả chú thích thêm ở nhan đề, viết thêm một vài dòng trƣớc khi trích thơ nhằm muốn nói rõ hơn về một phƣơng diện nào đó trong tác phẩm. Việc khảo sát hệ thống “chú” cũng chỉ mang tính chất tƣơng đối bởi không tiếp cận đƣợc đầy đủ văn bản chữ Hán nên có một số những nguyên chú, chú thích chúng tôi chƣa xác định đƣợc là của tác giả hay của ngƣời soạn sách. Vì vậy, khi trình bày về vấn đề này, chúng tôi sẽ dựa trên những “chú” khẳng định đƣợc chắc chắn là của tác giả.
Khảo sát chú trong 515 bài thơ tống biệt của 33 tác giả giai đoạn thế kỵ XVIII - XIX, chúng tôi thấy có sự khác nhau về số lƣợng. Phạm Phú Thứ là ngƣời sử dụng nhiều chú nhất, khoảng 63/99 bài [152], Nguyễn Văn Lý 48/110 bài [75], [76], Ngô Thì Nhậm 4/25 bài [79], [80], [81], Cao Bá Quát khoảng 5/67 bài [93], [94]... Nguyễn Văn Siêu chỉ xác định đƣợc 1/30 bài [159], [160] có nguyên chú. Ngoài ra, những tác giả số lƣợng thơ tống biệt ít, nhƣng số các nguyên chú nhiều nhƣ Nguyễn Quang Bích 5/7 bài, Trịnh Hoài Đức 1/2 bài [35], Nguyễn Án 2/6 bài [121], Lã Xuân Oai 2/4 bài [87]... Bên cạnh đó, nhiều tác giả không xuất hiện chú trong sáng tác thơ tống biệt nhƣ Nguyễn Xuân Ôn, Đào Tấn... Tổng số bài xuất hiện chú mà chúng tôi khảo sát đƣợc là 147 bài với tổng số chú là 232. Căn cứ vào lƣợng thông tin của các chú đã khảo sát đƣợc, chúng tôi thấy chú có những đóng góp nhất định trong việc định hƣớng tìm hiểu tác phẩm.
Thứ nhất, chú nhằm làm rõ hơn cho nhan đề. Những chú này chủ yếu là các chú thích, nguyên chú xuất hiện ngay trong nhan đề, có thể giữa hoặc sau nhan đề. Nội dung có khi đơn thuần là làm rõ thêm về thời gian nhƣ ở bài Tặng Định Tƣờng án sát sứ Nguyễn Cƣ Sĩ chi chức (Nguyễn Văn Lý) có dòng Cửu nguyệt nhị thập tứ dạ (Đêm 24 tháng 9), bài Tống Bùi Lang chi Gia Định của Nguyễn Thông có ghi thêm năm Kỵ Mão, bài Tiễn Phan Hoành Hải tại khách quán xứ Điệp Sơn của Nguyễn Án có nguyên chú viết vào năm Bính Thìn hoặc bài Tiễn môn nhân Nguyễn Xuân Phƣơng, Lê Tông Quang, Trƣơng Mãn, Trƣơng Đức Hoằng phó kinh hội thi của Phạm Đình Hổ có chú Nhâm ngọ nhị nguyệt... Cũng có khi các chú đƣa ra nhằm giải thích rõ hơn về lý do đƣa tiễn nhƣ chú “hạ thọ lễ” trong bài Phụng tiễn cửu thị Nhƣ Hành công Bắc sứ (hạ thọ lễ) - Nguyễn Hành hoặc nhằm nói rõ hơn về cách thức sáng tác nhƣ nhan đề Nguyệt dạ chiêu Từ Mẫn tập hƣơng Giang Châu thứ tống Hy Phần Nam hoàn thiên táng tiên mộ - nhị thủ của Tùng Thiện Vƣơng có ghi Hạn đồng dụng quy tự lai tự (hạn định cùng dùng hai chữ quy (về) và lai (lại)).
101
Tuy nhiên, phần lớn các chú liên quan đến nhan đề nhằm mục đích làm rõ hơn về nhân vật đƣợc đƣa tiễn. Có thể làm rõ về tên, húy của nhân vật nhƣ Tống nội các thừa chỉ Nguyễn Ngọc Nhữ (danh Đức Thành) vãng Nam Kỳ thừa biện, Tống xuân khúc tống Nguyễn Quảng Thúc (Tƣờng Phố) Nam quy (Phạm Phú Thứ)... hoặc có khi giải thích thêm về công việc của ngƣời đƣợc tiễn nhƣ Tiễn Đồng Xuân phƣờng mỗ nhân tòng vãng Bắc sứ (y điệt vi thông ngôn) (cháu ấy là thông ngôn trong đoàn) (Nguyễn Hành)... Nguyễn Văn Lý hay có những nguyên chú khá dài và chi tiết về nhan đề, ngoài giải thích rõ về tên, quê quán, tính cách của nhân vật còn đƣa thêm 1 số sự kiện, chi tiết liên quan đến nhân vật, thậm chí cả với mình. Trong bài Vũ Tôn Hiến cấp sự trung bổ vi Hải Dƣơng đốc học, thƣ tiễn có nguyên chú: “Tốn Hiên tên là Quyền, ngƣời Xuân Quan, Bắc Ninh, là cháu của Vũ Miên, quan Tham tụng đời Lê, ông có đạo đức và hiểu biết rộng, tôi rất thân thiết”. Bài Tiễn Trƣơng Học Chính họa lƣu giản nguyên vận ông chú: “Học chính họ Trƣơng tự là Sắt, ngƣời xã Vĩnh Lại, tỉnh Hải Dƣơng, có khí khái, đỗ cử nhân trong kỳ thi Hƣơng thời bản triều ta, làm quan đến chức tri phủ. Năm Ất Tị (1845), vì làm quan lâu năm, đƣợc thăng chức Học chính Bình Định, tôi vì can án ấy tình cờ gặp nhau ở đây. Trƣơng học chính lúc mới gặp có nói: Điền viên là chí của tôi vậy đó, Tình cở bị ốm, liền xin từ chức về quê”. Bài Cựu thuộc thông phán Trƣơng Hữu Quỳnh hộ thủy xá quốc sử thƣợng kinh, phỏng ngụ sở cập hoàn, thƣ dữ chi ông nguyên chú: “Hữu Quỳnh là ngƣời ở Quảng Ngãi, đƣợc sung làm Thông phán Phú Yên, tính thuần phác, hay thơ. Tôi giải quyết việc công chậm chạp, việc trong niết ty bận rộn, thƣờng mừng đƣợc những ngƣời giúp việc mẫn tiệp. Đến khi tôi bị nghỉ việc, anh vẫn giữ lễ rất nghiêm cẩn, có lúc còn từ phƣơng xa tặng lộc hƣơu để tôi làm thuốc. Năm Tự Đức nguyên niên 1848, hộ vệ sứ nƣớc Thủy Xá lên kinh, đến thăm hỏi rất ân cần. Thƣờng ngày tôi thƣờng thân thiện với bọn ngƣời dƣới quyền, nếu không thế thì sẽ tự hối hận vì biết ngƣời muộn màng mà Trƣơng tử là ngƣời nhân cách tốt vậy”. Phan Thanh Giản thƣờng có những nguyên chú về tên tuổi, quê quán, chức vụ và một số nét chính về nhân vật nhƣ: “Lƣơng Trai hiệu Quýnh Xuyên, ngƣời Gia Định. Đậu giải nguyên khoa Kỵ Mão, quan đến chức Tham hiệp tại Thái Nguyên. Bị cách chức. Chƣa bao lâu, đƣợc phục hồi chức này trong bài Tống Trƣơng Lƣợng Trai hảo hợp chi nhậm Hoài Đức tri phủ hoặc: Cƣ Sĩ là cháu đích tôn của Nguyễn Cƣ Trinh nguyên là quan bộ Lại tiền triều cai quản tƣớng sĩ năm doanh thuộc thành Gia Định trong bài Tống Nguyễn Cƣ Sĩ chi nhậm Kim Sơn”. Lã Xuân Oai thƣờng nhấn mạnh đến tính cách nhân vật. Bài Tiễn tĩnh ông chi Côn Đảo có viết thêm: “Ông này ngƣời Hà Tĩnh, là kẻ sĩ có chí, bình sinh từng trải nhiều, bị tây bắt đi đày. Lúc đó ta còn ở Nam Vang tiễn ông đi Côn Đảo”, bài Tiễn Tổng Trƣởng Bến Tre ông chú thích: “Ông này hết hạn bốn năm đƣợc về, là ngƣời hào sảng khí khái”... Nhƣ vậy, hệ thống chú làm rõ cho nhan đề rất phong phú về dung lƣợng, cách thức, nội dung thông tin... và có ý nghĩa rất thiết thực với ngƣời đọc, giúp hiểu cặn kẽ hơn về một số thông tin liên quan đến bài thơ, đặc biệt là về nhân vật đƣợc đƣa tiễn.
102
Thứ hai, là các chú xuất hiện trong bài thơ nhằm giải thích rõ hơn cho từ ngữ hoặc câu thơ, ý thơ trong bài. Cùng với các chú về nhan đề, chú này xuất hiện phổ biến. Có khi là một lời chú thích về địa danh. Trong bài Tiễn Lƣơng Sán Triều quy Quảng Đông, Trịnh Hoài Đức có chú thích về hai địa danh Bút La và Cẩm Thạch: “Núi Bút La ở Quảng Nam dinh trong biển, phàm thuyền buôn ra biển coi núi này là cột mốc để quay trở về, Khe Cẩm Thạch ở Quảng Đông”. Địa danh Xƣơng Giang trong bài Tống Tây Bắc quân thứ tán lý Phan Thuấn Cử đƣợc Phạm Phú Thứ nguyên chú sáng rõ: “Năm Thiệu Trị thứ 7 (1847 - Đinh Mùi) tôi làm tri phủ Lạng Giang, Phan làm đồng tri phủ Đa Phúc nhân lúc rảnh việc công, liền qua thƣởng trăng trên sông Đức thuộc huyện Việt An vốn là phân phủ kiêm quản lý cả hạt Xƣơng Giang. Ngày ấy, sông Đức chảy qua xã Thọ Xƣơng, nên đặt tên ấy, xã gần phủ lỳ”... Những nguyên chú nhƣ thế không chỉ giúp ngƣời đọc định hƣớng đúng các địa điểm, địa danh mà còn giúp tăng thêm tính xác thực cho lời thơ. Cũng có khi những chú đƣa ra để giải thích về một điển đƣợc tác giả sử dụng nhƣ Đặng Huy Trứ nguyên chú về điển Mai Công Ngũ Chƣớng trong bài Tống Đặng Thiện Đình xuất thủ An Bình hay Phạm Phú Phứ chú về điển Nghiêm Trợ trở về giữ Cối Kê trong bài Tống Ngụy Phiên Thản Chi hồi Nghệ An lỳ...
Tuy nhiên, phần lớn các chú loại này là để tác giả làm sáng rõ hơn câu thơ, ý thơ. Có thể đó là những nguyên chú liên quan đến chính bản thân tác giả. Chú cho câu Dự bệnh niệu huyết cơ khốn giả du niên, thử cái đạo kỳ thực dã trong bài Tặng Thổ Khối Đỗ Vệ Úy xuất Thanh Hóa, Cao Bá Quát viết: “Ta mắc bệnh đi tiểu ra máu, suýt nguy, hơn một năm mới khỏi, đây là nói sự thực”. Hoặc là lời chú liên quan đến ngƣời đi. Làm rõ cho ý thơ “Đau đáu nỗi niềm nhớ quê nơi có mẹ già cao tuổi” (Vũ Tôn Hiến cấp sự trung bổ vi Hải Dƣơng đốc học), Nguyễn Văn Lý chú: “Ông có mẹ già ở nhà”. Chú cho câu thơ Tằng ức nhân đồ hữu cố nhân (Tống Phan Hoành Hải Điệp Sơn xứ quan) Nguyễn Án viết: “Bấy giờ vì đất Bắc đói kém, vâng lời gia mẫu đến Kinh thành kiếm ăn, ngụ ở ngôi nhà cạnh Hồ Hoàn Kiếm”. Cũng có khi là những chú về các sự việc, hành động có liên quan giữa tác giả và ngƣời đi. Để làm rõ cho câu Phƣợng Hoàng thiên nhận bạc thiên phi (Tống khế nghị Đông Bình Hoàng Hƣ Trai lạc chức quy điền, do chu hành hồi gia), Nguyễn Văn Lý chú: “Ngày trƣớc tôi cùng Hƣ Trai đi chơi các núi vùng Hải Đông, còn núi Phƣợng Hoàng chƣa đến”. Nguyên chú cho câu Tinh mao phong quyển hiểu yên trung (Bộ Chuyết Viên Công tống Bắc Ninh án sát Diệu Thúc nguyên vận tái ký Diệu Thúc), Phạm Phú Thứ viết: “Khi Diệu Thúc lên đƣờng, công đƣờng sai ngƣời tiễn đến Bắc Ninh nhƣng ko kịp, cậy ta tiễn giùm”... Những chú loại này giúp ngƣời đọc có đƣợc một định hƣớng đầy đủ để hiểu, cảm nhận và phân tích lời thơ.
Nhƣ vậy, “chú” trong thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX xuất hiện với số lƣợng tƣơng đối phong phú, vị trí đa dạng và góp phần làm sáng rõ hơn cho nhan đề cũng nhƣ ý thơ, câu thơ.
103
Sự sáng rõ từ những thi tự
Thi (詩) là “thơ, văn, vần” [1, tr 398] hoặc “thơ, văn có vần gọi là thơ” [19, tr 773],
Tự (序) là “bày, bài tựa, sách nào cũng có một bài đầu bày tỏ ý kiến của ngƣời làm sách
gọi là tự” [19, tr 211] hoặc theo cách nói của Đào Duy Anh thì tự là “một thể làm văn, bài
tựa đầu sách” [1, tr 398]. Nhƣ vậy, thi tự (詩 序) đƣợc hiểu là những bài tựa tƣơng đối dài
đƣợc tác giả đặt trƣớc bài thơ nhằm nói rõ hơn về sáng tác của mình. Các thi tự thƣờng xuất hiện với những cách gọi tên khác nhau nhƣ hữu tự, tính tự, tịnh ngữ, tịnh dẫn và đây cũng là tiêu chí để chúng tôi khảo sát. Tất cả những bài viết xuất hiện trƣớc khi trích thơ và đi kèm với một trong những cụm từ nhƣ trên đƣợc chúng tôi thống kê là thi tự. Theo đó, số lƣợng xuất hiện thi tự trong thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX không nhiều (12 bài). Cụ thể: Ngô Thì Nhậm (2 bài), Cao Bá Quát (2 bài), Nguyễn Văn Lý (1 bài), Phạm Phú Thứ (6 bài), Lý Văn Phức (1 bài). Về dung lƣợng, các thi tự tƣơng đối dài Bài Tiễn Hồng Lô Phạm Đài Phụng sứ Nhƣ Thanh của Cao Bá Quát, đoạn tính tự 326 kí tự/bài thơ 40 kí tự (gấp 8,15 lần), bài Tống Bùi Niết Đài Đông Đôi (húy ái) điển bổ Lạng Sơn của Phạm Phú Thứ 583 kí tự /bài thơ 56 kí tự (gấp 15,2 lần). Các thi tự cho thấy khả năng lập luận chặt chẽ, sắc sảo của ngƣời viết. Một số tính tự, hữu tự không đơn thuần dừng lại ở hình thức một đoạn văn mà còn đƣợc thể hiện dƣới hình thức một bài văn, bài luận ngắn với kết cấu sáng rõ, sự sắp xếp các chi tiết mạch lạc, lô gic. Tịnh ngữ trong bài Tống hình bộ hữu thị lang Cừ Châu Hầu thụ Quảng Nam hiệp trấn chi mệnh của Ngô Thì Nhậm dài 388 từ, đƣợc chia thành 4 đoạn. Đoạn 1 nói về đất Quảng Nam (nơi ngƣời đi sẽ đến) và nhân vật ngƣời đi để dẫn đến kết luận việc Cừ Châu làm hiệp trấn ở Quảng Nam là hoàn toàn phù hợp với đất, với ngƣời. Đoạn 2 nói về mối thâm tình gắn bó giữa ngƣời đi kẻ tiễn cũng nhƣ giới thiệu kĩ hơn về cuộc đời, con ngƣời của ngƣời đƣợc đƣa tiễn. Đoạn 3 từ việc dẫn ra câu nói của Kinh thi để khẳng định quy luật về sự tiếp nối liền mạch giữa các thế hệ. Từ đó, đoạn 4 đƣa ra lời dẫn để bắt đầu trích thơ: “Nay đƣơng lúc ra đi nhậm chức, rất vui với niềm vui của bạn, tình cảm phải nói ra bằng lời, nhƣng không thể nói hết đƣợc, nên tiếp đây làm bài thơ, tạm tỏ lòng mình mà thôi”. Với độ dài 583 kí tự, lời tựa trong bài Tống Bùi Niết Đài Đông Đôi (Hú Ái) điều bổ Lạng Sơn của Phạm Phú Thứ đƣợc chia thành 6 đoạn với cách liên kết nội dung tƣơng đối chặt chẽ, lôgic. Đầu bài tựa, từ việc dẫn ý ngƣời xƣa, tác giả thể hiện quan điểm của mình về việc dạy đạo đức và thi hành hình phạt. Đoạn 2 khẳng định ngƣời đi đủ năng lực, phẩm chất để hoàn thành tốt cả hai việc này. Đoạn 3, 4, 5 tổng kết lại quãng thời gian của ngƣời đi ở nơi đƣơng nhiệm với những việc đã làm, những đóng góp, những lời đánh giá của ngƣời dân, qua đó kín đáo thể hiện thái độ ngợi ca, trân trọng. Đoạn cuối cùng kết lại rằng tôi (ngƣời tiễn) chỉ nói lại những lời đƣợc nghe: “Thứ tôi đến nơi này vừa chỉ hơn tháng, còn tiếc theo giúp ông quá muộn, xin thuật lại điều mình nghe biết, viết đôi lời, đặt vào đó ý của
104
ngƣời dân trong châu đối với ông. Vả lại, tôi thấy ông lấy đức làm thay hình phạt rất có hiệu quả mà sẽ không riêng chỉ một nơi này đâu”. Đoạn kết ngắn gọn nhƣng tạo đƣợc sự hô ứng chặt chẽ khi một lần nữa nhắc lại vấn đề về đạo đức và hình phạt nêu ra ở phần đầu, đồng thời khẳng định cách làm ấy của ngƣời đi chắc chắn sẽ vẫn còn đƣợc tiếp tục ở nơi sắp tới.
Mặc dù số lƣợng ít nhƣng với dung lƣợng khá dài, kết cấu chặt chẽ, sáng rõ những thi tự có giá trị tƣơng đối lớn vì bản thân nó chứa đựng lƣợng thông tin phong phú về nhân vật, lý do đƣa tiễn, hoàn cảnh đƣa tiễn… Bên cạnh đó phần viết này còn thể hiện tâm trạng, cảm xúc của tác giả với ngƣời đi, gửi gắm những suy tƣ, đánh giá của tác giả.
Thứ nhất, thi tự đã cung cấp tƣơng đối đầy đủ về nhân vật đƣợc đƣa tiễn, lý do, hoàn cảnh đƣa tiễn. Nhƣng thông tin về nhân vật không đơn thuần về tên tuổi quê quán mà nói nhiều hơn đến tính cách, phẩm chất. Phần hữu tự ở bài Tống từ tế ty phó sứ Tôn Thất Hữu Thƣờng phó Nam Kỳ kinh lƣợc sứ Trƣng Mạc Phạm Phú Thứ đã tóm lƣợc quá trình làm quan cũng nhƣ tính cách của ngƣời đi: “Hữu Thƣờng phủ xuất thân Trụ giám hơn hai mƣơi năm cai trị phủ huyện mà chính trị đƣợc yên, chăm non thanh miếu thì việc lễ đƣợc thi hành nghiêm túc. Bình thƣờng thì suy nghĩ thâm trầm, hâm mộ cách làm ngƣời của Tử Chính, khi gặp việc thì mƣu kế hay, có cái thao lƣợc của Triệu Kỳ”. Hữu tự ở bài Tống đồng huyện cử nhân Lê Trọng vãng Bình Định huấn đạo Phạm Phú Thứ cũng viết: “Lê đài giảng dạy đến nay đã ba năm. Học vì cử nghiệp, văn chƣơng tƣơi đẹp đáng yêu, nức tiếng tăm các trƣờng trong nƣớc, nhƣ chim nhạn bay thành hàng, đông đảo ngƣời đang dõi mắt theo”.
Các lý do đƣa tiễn cũng đƣợc cắt nghĩa rất sáng rõ và cụ thể nhờ những bài tính tự này nhƣ: “Trần Ngộ Hiên có mẹ già tám mƣơi tuổi, ông xin nghỉ về quê nuôi mẹ, đƣợc chuẩn y, ngày lên đƣờng, ông chạy đi báo với mấy bạn tri kỵ và có thơ lƣu tặng” (Tiễn Kim Động Trần Ngộ Hiên quy dƣỡng tính tự - Nguyễn Văn Lý). Hay: “Năm Quý Sửu (1853), tháng Tám, Đông các Đại học sĩ Nguyễn công lãnh chức Nam Kỳ Kinh lƣợc Đại sứ. Tuân theo lời vua dạy, ngài chọn những ngƣời mình biết gồm bảy quan văn từ ngũ phẩm trở xuống để theo giúp việc chính trị trong trƣớng. Về văn học đây cũng là thời thế của kẻ sĩ vậy. Quan từ tế Phó sứ ty Tôn Thất Hữu Thƣờng đƣợc vào số ngƣời đƣợc tuyển chọn. Đƣợc chỉ, ta qua thăm, uống rƣợu rồi giúp đỡ ông mà dặn dò” (Tống từ tế ty phó sứ Tôn Thất Hữu Thƣờng phó Nam Kỳ kinh lƣợc sứ Trƣng Mạc – Phạm Phú Thứ).
Không chỉ làm rõ về nhân vật, lý do đƣa tiễn, hoàn cảnh tiễn đƣa cũng đƣợc tái hiện sáng rõ qua các thi tự. Tịnh dẫn của bài Tống binh bộ tả phụng nghị nghi thành hầu phụng sứ Ngô Thì Nhậm tái hiện không gian đƣa tiễn đầy âm thanh, màu với ngôn ngữ sang trọng: “Nay cửa ải mở khóa, ông đem cờ tiết, vâng mệnh đi sứ Yên Kinh, thăm thú phong cảnh Thƣợng quốc. Xe sứ bon bon vang tiếng, ánh sáng trong lành
105
bao trùm, tiếp đó tiếng hoa rộn ràng, lời tiễn đƣa rạng vẻ. Kính cẩn dâng lời, thành vần thơ trao tặng”. Phần kết của Hữu tự trong bài Tống từ tế ty phó sứ Tôn Thất Hữu Thƣờng phó Nam Kỳ kinh lƣợc sứ Trƣng Mạc của Phạm Phú Thứ đem đến không gian đƣa tiễn phảng phất phong vị Đƣờng Thi: “Bẻ cảnh liễu trƣớc gió thu, tiễn ông lên đƣờng, khẳng khái và hào hùng để tôn vinh chuyến đi”.
Thứ hai, thi tự thể hiện tâm trạng, cảm xúc của tác giả với ngƣời đi cũng nhƣ gửi gắm những suy tƣ, đánh giá của tác giả. Tính tự trong bài Tống hƣơng niên cử nhân Trần Cung Phủ chi Sơn Tây hậu bổ của Phạm Phú Thứ sử dụng lối viết mềm mại, uyển chuyển, bày tỏ đƣợc tình bạn sâu đậm, chia tay nhau mà nhớ cả thời tiễt buổi tiễn đƣa: “Dắt tay nhau ba Thu, tiễn anh đi ngàn dặm. Đƣợc biết hoài bão lớn của trang quốc sĩ là chí ở bốn phƣơng. Một lời bàn luận mà nên quen, huống hồ là bạn cũ trong khoa thi hƣơng. Hồi ấy, đến tiết gió thu, sao Đại Hỏa ở hƣớng tây, mây kết tụ, nhạn ngang trời, đƣa khách đi mà dò đƣợc thời tiết. Sƣơng đọng ve tàn, hóng mát tƣờng phía đông mà ngậm tình”. Tác giả còn thể hiện đƣợc cảm xúc buồn bã, bịn rịn, lƣu luyến khi chia biệt: “Từ đây, cỏ biếc nƣớc trong, tôi ắt tƣơng tƣ, còn biết trăng thanh, gió lộng anh nên cùng nhớ. Bày tỏ tấm lòng hẹn ƣớc cùng nhau sau khi ly biệt, viết thành lời phú gieo nên bốn vần”. Tính tự trong bài Tiễn Kim Động Trần Ngộ Hiên quy dƣỡng tính tự của Nguyễn Văn Lý đã thể hiện sự đồng cảm sâu sắc của ngƣời tiễn dành cho ngƣời đi: “Ôi Ngộ Hiên xa nhà đã gần ba mƣơi năm. Mẹ già tựa cửa mong chờ, con trai đi làm quan xa, cuộc đời trôi nổi, tƣởng nhƣ không thể có ngày trở về vậy. Chợt một hôm, ông mạo muội giãi tỏ lòng thành xin về nghỉ, dâng lên vua. Thế là, từ một bề tôi vƣớng víu trên hoạn lộ, đƣợc thành ngƣời con hiếu múa áo hoa trên sân, lại nhân đó mà đƣợc thấy cái cây, gò đất chốn quê nhà. Nhƣ thế là đƣợc an ủi rồi. Trăng sáng trên không, hoa vàng đầy giậu, nhƣ thế mà coi là Ngộ Hiên phải về vƣờn chăng? Tƣơi khô, đƣợc mất đều là chuyện thoảng qua; còn tóc da mà ta sở hữu, mới thật hoàn toàn là của ta vậy”.
Các bài tịnh dẫn, hữu tự còn là nơi ngƣời viết kín đáo thể hiện suy nghĩ, gửi gắm tâm sự, triết lý của mình. Tiễn bạn học cũ về quê nghỉ phép, Cao Bá Quát có bài tựa dài nêu ra một loạt các nhân vật nổi tiếng đời xƣa nhƣ Trƣơng Quý Ƣng, Đƣờng Bá Hổ, Đào Uyên Minh... đều là những ngƣời tiêu biểu từ bỏ hết danh lợi, về sống vui vầy với cảnh điền viên ruộng vƣờn để từ đó kết lời: “Dám mong mấy lời này là một chút trợ giúp thích hợp cho cuộc trở về của bậc nhân giả danh tiếng chăng?” (Tiễn cố nhân Bình Định học chính Trƣơng Giải Trai đắc giả hồi hƣơng). Tiễn bạn đi sứ, ông không ngại ngần bày tỏ những quan điểm mới mẻ, cách nhìn nhận, đánh giá sự vật mang tính khách quan, thẳng thắn và không kém phần táo bạo qua lời tựa: “Cuộc đời trƣợng phu không đƣợc phóng túng rong chơi bốn phƣơng, hàng ngày cúi ngẩn trong khoảng tƣờng vách với vợ con trong nhà thôi. Dù anh ta ăn nói phóng túng bàn chuyện thiên hạ, nghị
106
luận văn chƣơng thiên hạ, nói thẳng ra là trò trẻ con thôi! Đối với tôi thƣờng bực tức về điều đó... Năm nay có công việc sang nƣớc Thanh, bạn tôi, Phạm Hầu tƣớc Hồng lô đƣợc chọn lầm cấp phó đi sứ. Phạm hầu vốn là ngƣời lỗi lạc tài ba. Chuyến đi này có dịp đƣợc tham quan phong cảnh thƣợng quốc. Đi khắp cảnh thổ các nƣớc Sở, Tống, Yên, Triệu, tai mắt ông đƣợc nghe thấy những cảnh kì vĩ rộng lớn hẳn gấp trăm lần những gì tôi đã thấy – [gặp những cái cũ thì vui với điều đã gặp mà chỉ thầm tiếc cho những điều chƣa đƣợc đủ trong kiến thức]. Một ngày nào đó Phạm Hầu sẽ bảo tôi sao đây?” (Tiễn Hồng Lô Phạm Đài phụng sứ Nhƣ Thanh). Tiễn bạn đi làm huấn đạo, Phạm Phú Thứ dặn dò bạn cũng là kín đáo thể hiện quan điểm của mình về giáo dục: “Phép thi cử thời nay ngày một mới, con đƣờng của kẻ sĩ ngày một rộng. Ngƣời làm quan khi lui về, khi nghỉ hƣu, ắt lấy việc dạy học làm nghề. Học trò có tên trong danh sách đi thi thì cũng lấy việc dạy học làm nền. Thế thù giáo chức là chỗ thực hiện đức độ của giới sĩ phu vậy... Ta nghĩ: Nhà nƣớc chọn kẻ sĩ cho nên lấy sự hiểu hết kinh điển học vấn uyên bác để thành tài. Tất nhiên phải dùng con đƣờng trƣờng ốc, không chia kinh thuật và thi cử thành hai ngả khác nhau. Ông Lê nếu có chí nhƣ thế thì còn phải lo gì về sự tối tăm trong điều mình chọn, lầm lạc trong điều mình theo” (Tống đồng huyện cử nhân Lê Trọng Vãng Bình Định huấn đạo).
Nhƣ vậy, có thể thấy rằng thi tự trong thơ tống biệt có một ý nghĩa rất lớn khi cung cấp cho độc giả một lƣợng thông tin để hiểu đƣợc cặn kẽ và sáng rõ về ngƣời đi, hoàn cảnh, lý do đƣa tiễn... cũng nhƣ mối quan hệ giữa ngƣời đi và ngƣời tiễn. Đồng thời, các thi tự này là cách để các tác giả thể hiện quan điểm và những suy lý của mình.
Chú và thi tự trong thơ tống biệt giai đoạn thế kỵ XVIII - XIX có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trƣớc hết, những thông tin đƣa ra qua những phần chú và thi tự đã giúp khẳng định sự xác thực của lời thơ, khẳng định những cuộc tống tiễn này là có thực. Không chỉ vậy, đây là mắt xích quan trọng giúp ngƣời đọc hiểu đủ, hiểu đúng về ngƣời đi, mối quan hệ với ngƣời tiễn, hoàn cảnh, lý do đƣa tiễn, không khí buổi tiễn đƣa cũng nhƣ xác thực đƣợc một số nội dung trong bài. Bên cạnh đó, những nguyên chú dài và các thi tự dài đã cho thấy đƣợc dấu hiệu về ý muốn vƣợt thoái khỏi khuôn khổ chật hẹp của những bài thơ Đƣờng luật. Sự hạn định về số câu, chữ cũng nhƣ những quy định bắt buộc về niêm luật trong một số trƣờng hợp không đủ để ngƣời viết trình bày, dẫn dắt cặn kẽ vấn đề cũng nhƣ không đủ để thể hiện đƣợc cảm xúc đƣa tiễn. Sự xâm nhập của văn xuôi cho thấy tính giới hạn của thể loại thơ về mặt câu chữ, niêm luật, dung lƣợng, khả năng phản ánh hiện thực. Vì thế, chú và thi tự nhƣ một giải pháp giúp ngƣời viết diễn đạt thấu đáo và trọn vẹn hơn hiện thực phản ánh và nội dung cảm xúc. Điều này không chỉ cho thấy thơ tống biệt có sự phù hợp và bắt kịp đƣợc với xu thế chung của thơ ca trung đại mà còn thể hiện sự trƣởng thành của thể tài trong tiến trình phát triển.
107
4.1.2. Yếu tố tự sự
Một nét độc đáo của thơ tống biệt giai đoạn này chính là biểu hiện những yếu tố tự sự trong thơ. Yếu tố tự sự đƣợc thể hiện thông qua hệ thống chi tiết miêu tả về nhân vật cũng nhƣ sự sắp xếp các chi tiết thơ lô gic, mạch lạc.
Nhân vật trong thơ tống biệt bao gồm ngƣời đƣợc đƣa tiễn và ngƣời tiễn. Nhân vật đƣợc đƣa tiễn, ngoài một số ít bài không rõ danh tính, còn lại phần lớn đều rõ tên, quê quán, nơi ở. Nhân vật đƣa tiễn phần nhiều đƣợc hiện lên bằng đại từ nhân xƣng ngôi thứ nhất nhƣ ngã, tự, kỉ... hoặc có khi đƣợc đích danh xƣng tên. Những miêu tả về hình dáng, hành động, hệ thống ngôn ngữ của nhân vật cũng bƣớc đầu đƣợc chú trọng. Về hình dáng, thƣờng xuất hiện những câu miêu tả về vóc dáng gầy gò: Bệnh ngã vị ƣng trƣờng luyến sủng (Tôi yếu ốm không nên quyến luyến lâu ơn sủng bề trên) (Trần Giáo Thụ chi chức thƣ tiễn - Nguyễn Văn Lý), Hoài nhân suy bệnh độc giang hồ (Nhớ ngƣời ốm đau phải một mình nơi tam giang) (Lãnh Thọ Xƣơng, Vĩnh Thuận đồng tri phan quân huy khiêm thăng ngự sử tống chi - Nguyễn Văn Siêu), Lão bệnh cũng giao ƣng tích biệt (Bạn nghèo, tuổi già yếu, buồn cho lúc ly biệt) (Tặng hành nhân Nguyễn Đài - Nguyễn Khuyến)... hay mái tóc bạc: Trùng lai bạch phát đối thanh san (Trở về tóc bạc đối diện với non xanh) (Kí tiễn lễ bộ thƣợng thƣ phan công trí sĩ - Nguyễn Văn Lý), Tọa thảng mấn phát toàn thành ông (Vậy nên ngồi buồn, đầu râu tóc bạc, đều hầu thành ông già cả rồi) (Tống Nguyễn Thiện Quan trì tiết Gia Định kiêm lãnh sự - Nguyễn Thông), Bạch đầu vô lại bất hoàn gia (Ta bạc đầu không chốn tựa nƣơng không về đƣợc nhà) (Tống Nguyễn Sĩ Hữu Nam quy - Nguyễn Du)...
Các hành động, cử chỉ khi tiễn biệt cũng thƣờng đƣợc miêu tả nhƣ hành động cầm tay, nắm tay, vẫy tay, kéo áo, nâng chén, rót rƣợu, bẻ liễu... Qua các hành động, nhân vật hiện lên chân thực, rõ nét, sinh động. Bên cạnh đó, nhân vật còn đƣợc thể hiện bằng hệ thống ngôn ngữ độc thoại, đối thoại. Phần nhiều là những câu tự hỏi, hỏi chính mình: Thái bình khách hội tri hà nhật (Không biết ngày nào mới có hội mừng thái bình?) (Tống Ngô Nhữ Sơn chi Quảng Đông - Trịnh Hoài Đức), Hậu hội thị hà nhân (Lần gặp nhau sau biết có nhân duyên nào?) (Tống Nguyễn Tử Hựu miễn tội Ninh Gia - Nguyễn Văn Lý), Khan vân kim tịch tại hà phong (Đêm nay (ông ta) trông mây ở ngọn nào?) (Tống khách chi Quảng Nam kiêm ký Phạm Kế Chi - Tùng Thiện Vƣơng)... Cũng có khi là những câu đối thoại: Bất tri tƣơng phỏng hậu/ Tằng phủ mộng Giang Nam (Không biết sau chuyến viếng thăm này, Bác thƣờng có giấc mộng Giang Nam không ?) (Hy Ngôn huynh lai phỏng tống biệt chi tác - Phạm Đình Hổ), Quân bất biến/ Cổ lai kỳ cá cân đồng cốt thiết, Đầu thƣợng thanh ty thúc nhƣ tuyết (Bác há chẳng thấy? Xƣa nay bao kẻ xƣơng đồng da sắt, Mái đầu đang nhƣ tơ xanh bỗng thành tuyết trắng) (Tặng Thổ Khối Đỗ Vệ Úy xuất Thanh Hóa - Cao Bá Quát)... Đây là những dấu hiệu ban đầu cho thấy đƣợc tính chất tự sự của những bài thơ tống
108
biệt giai đoạn này. Cảm xúc đƣa tiễn đƣợc hòa lẫn vào những yếu tố miêu tả cụ thể, sáng rõ về nhân vật đã làm tăng thêm tính chân thực của những cuộc tống tiễn. Nó không còn là những cuộc tiễn đƣa mang đậm hơi thở của Đƣờng thi mà đã là những cuộc tiễn đƣa của đời thƣờng, ngƣời thật, việc thật.
Sự sắp xếp các chi tiết thơ lôgic, sáng rõ giúp tạo nên những câu chuyện tống biệt bằng thơ độc đáo. Câu chuyện Phan Huy Ích tiễn bạn là Nghi Thành Hầu họ Nguyễn đến thành Quy Nhơn đƣợc bắt đầu bằng nơi bạn sinh ra, vùng đất Châu Hoan - một vùng đất chung đúc nên lắm bậc kỳ tài (Chung bầm đa kỳ trác). Bạn sinh ra đã có điềm lành báo trƣớc nên từ nhỏ tỏ ra xuất sắc về trí tuệ, khí tiết, phẩm chất... Các hành động, cử chỉ đều lỗi lạc (Động tức thƣờng lỗi lạc). Việc đời từng trải và lúc nào cũng giữ đƣợc sự đoan trang đúng mực (Binh chí hà đoan xác)... Từ câu chuyện cuộc đời của ngƣời bạn tác giả chuyển sang miêu tả vùng đất Quy Nhơn - nơi bạn sẽ đến nhậm chức là nơi cần bậc anh tài trấn giữ. Câu chuyện kết thúc bằng hình ảnh lá cờ đƣa tiễn cùng hành động nâng chén tiễn biệt: Bả bôi tống chinh huy và cảm xúc của ngƣời tiễn đƣa: Cƣ giả diệc tâm tạc (Tiễn binh bộ tả Phụng Nghị Nghi Thành nguyên hầu phó Qui Nhơn thành). Bài thơ Nguyễn Văn Lý tiễn con lại là một câu chuyện tống biệt thật cảm động. Một ngày mùa thu mát mẻ, cha tiễn con ở phía ngoài thành Đồ Bàn để đi về Bắc. Cha nhớ lại những ngày xa xƣa, khi cha đến đây thì con chƣa ra đời. Theo năm tháng, con sinh ra và lớn dần lên, cƣời nói tự nhiên và luôn sát bên cha mọi lúc mọi nơi. Vì hoàn cảnh mà phải cách xa, lòng cha biết việc con về là thích hợp nhƣng tiễn con mà cha rơi nƣớc mắt và chẳng biết phải làm sao cho khuây khỏa: Ngô tại tƣơng hà vi? (Thu tống nữ tử hoàn gia ngẫu thành). Mỗi câu chuyện tống biệt một sắc thái, một dạng vẻ đã góp phần làm cho thơ tống biệt giai đoạn này không chỉ phong phú mà còn giúp cho những cuộc tống biệt chân thực và xúc động hơn.
Nhƣ vậy, tính kỵ sự và yếu tố tự sự trong thơ là một trong những đặc điểm mới mẻ của thơ tống biệt giai đoạn thế kỵ XVIII - XIX so với giai đoạn trƣớc thế kỵ XVIII. Với những biểu hiện cụ thể nhƣ sự xác thực của các địa điểm, địa danh, sự tƣờng minh trong nhan đề, sự sáng rõ đến từ hệ thống thi tự và yếu tố tự sự trong thơ, thơ tống biệt gần hơn với cuộc đời thực và thoát dần ảnh hƣởng những quy phạm, ƣớc lệ, đƣa văn học tiếp cận và song hành cùng thời cuộc. Sự thay đổi này hoàn toàn phù hợp với tiến trình phát triển của văn học. Đồng thời, đây cũng là một trong những yếu tố đem đến cho thơ tống biệt giá trị lịch sử sâu sắc. Sự xác thực của những cuộc tống tiễn, di chuyển... là một minh chứng phần nào phản ánh bối cảnh rối ren của thời đại cũng nhƣ căn cứ để xác định một số sự kiện, yếu tố lịch sử. 4.2. Không gian, thời gian nghệ thuật 4.2.1. Không gian nghệ thuật
Không gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học đƣợc coi là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật. Nó chính là “mô hình thế giới của tác giả cụ thể đƣợc biểu hiện
109
bằng ngôn ngữ của các biểu tƣợng không gian” [103, tr 109]. Các hình thức không gian nghệ thuật trong văn học khá đa dạng. Với văn học trung đại, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử đã khái quát một số mô hình không gian tiêu biểu nhƣ không gian vũ trụ, không gian đời thƣờng hoặc sự đối lập không gian cố hƣơng, tha hƣơng, xu hƣớng thời gian hóa không gian [103]... Tuy nhiên, mỗi thể loại, mỗi tác giả cụ thể, mỗi thời kỳ văn học đều có những đặc trƣng không gian riêng. Khảo sát thơ tống biệt thế kỵ XVIII - XIX dễ thấy một điều là cả ba miền không gian: không gian đƣa tiễn trong thực tại, không gian tƣởng tƣợng về hành trình đƣờng đi, không gian hình dung về nơi đến, những sắc màu tƣơi vui, trong sáng không nhiều mà nghiêng nhiều về kiểu không gian chia cắt. Cách thể hiện không gian thƣờng theo xu hƣớng phân tách thành hai nửa. Các từ chỉ hƣớng (nam, bắc, đông tây) và thủ pháp đối lập đƣợc sử dụng triệt để. Các cặp song hành thƣờng đƣợc xuất hiện nhƣ giang Bắc - giang Nam, Bắc thụ - Nam vân, Nam Bắc phân huề, Bắc vãng - Nam quy, Tây khứ - Đông qua, Bắc khứ - Nam phi, Đông Tây vãng, sơn biên - hải đảo... vừa tạo cảm giác khoảng cách chia xa nhƣ dài ra bất tận, vừa làm cho không gian chia ly thêm tăng thêm cảm giác mênh mông sầu buồn. Sự phân tách này phản ánh chân thực cảm xúc trong lòng ngƣời tiễn. Kết hợp với các cặp từ chỉ hƣớng đối lập là các từ chỉ số lƣợng không xác định nhƣ: thiên lí, vạn lý (nghìn dặm, ngàn dặm), càn khôn (trời đất), hải giác thiên nhai (bên trời góc bể)... Sự có mặt dày đặc của những từ này làm tăng thêm khoảng cách xa xôi vạn dặm, khó có ngày trở về, không hẹn ngày gặp lại của những cuộc chia tay. Tống biệt mà nhƣ sẽ cách xa mãi mãi. Ở đây các tác giả lấy cái rộng của không gian để tăng thêm cảm giác vô vọng của con ngƣời về ngày gặp mặt. Vì thế, cảm xúc trong lòng ngƣời càng thêm miên man: Giang Bắc, giang Nam vô hạn tình (Kẻ đi về phía Bắc sông, ngƣời ở lại phía nam sông, tình vô hạn) (Tống nhân - Nguyễn Du).
Nếu nhƣ thơ tống biệt trung đại trƣớc thế kỵ XVIII thƣờng xuất hiện không gian vũ trụ, không gian nhàn dật, không gian biên tái... thì đến thơ tống biệt sau thế kỵ XVIIII lại thấy các miền không gian đặc trƣng và phong phú hơn nhiều. Thơ tống biệt giai đoạn này có xuất hiện những không gian mang tính ƣớc lệ, tƣợng trƣng, dạng nhƣ: Tử tiêu nhất khúc tấu vân ngao/ Khổng hạc tham loan lãng uyển cao/ Lâu dạ tứ canh thu đạp nguyệt/ Trì tây thiên tuế bích bạt đào (Một hồi thanh la tấu lên vang động tầng mây, Cƣỡi hạc cƣỡi loan lên chốn vƣờn đào tiên cao xa, Canh tƣ ban đêm dạo chơi trên lầu đạp ánh trăng thu, Ngàn năm ở ao nƣớc phía tây vin cành bích đào (Phóng ca tống Hy Phần hồi Quảng Nghĩa lỳ - Phạm Phú Thứ)... Tuy nhiên, những không gian sang trọng và ƣớc lệ nhƣ thế không nhiều, phần lớn là không gian gần gũi của đời thƣờng. Làm rõ hơn cho cách thể hiện không gian trong thơ tống biệt giai đoạn này, chúng tôi phân chia hai kiểu đó là không gian thực và không gian tƣởng tƣợng, trong đó không gian tƣởng tƣợng chiếm ƣu thế.
110
4.2.1.1. Không gian thực
Mặc dù thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX rất sáng rõ trong các địa điểm, địa danh nơi đến cũng nhƣ hành trình di chuyển, nhƣng không gian thực của buổi tống tiễn lại thƣờng không đƣợc thể hiện rõ. Tuy nhiên, ở một số bài thơ chúng tôi vẫn nhận ra đƣợc sự xác thực của không gian đƣa tiễn ở đoản đình, trƣờng đình và ở những bến sông.
Qua khảo sát, chúng tôi thấy có khoảng 55 bài thơ xuất hiện không gian tống biệt tại các đình, dịch trạm. Nhƣ đã trình bày ở các phần trƣớc, thời trung đại giao thông đi lại khó khăn, để thuận tiện cho việc di chuyển ngƣời ta lại dựng một chỗ nghỉ chân, tiễn biệt nhau, cứ 5 dặm gọi là đoản đình, 10 dặm gọi trƣờng đình. Những đoản đình, trƣờng đình đã đi vào thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX nhƣ một không gian đƣa tiễn quen thuộc thời trung đại. Nhiều bài thơ còn xác thực rõ địa điểm của các đình. Có những cuộc chia tay ở Bắc đình (đình ở cửa Bắc, kinh thành Huế) nhƣ bài Tống Hƣng hóa bố chánh Ngụy Thiện Phủ chi trị - Nguyễn Văn Lý, Hiểu xuất Bắc đình biệt tƣơng tống chƣ cố nhân – Cao Bá Quát, Tống Nguyễn Biện Lý Tuân Thúc đi Thanh Hóa hƣơng thí phó chủ khảo – Phạm Phú Thứ... Hoặc những cuộc tống biệt ở Nam đình (đặt tại làng An Cựu, phía Nam kinh đô) nhƣ các bài Tống Hình bộ lang Mộng Phụ Nguyễn Thai Chai Quảng Nam Án Sát – Nguyễn Văn Siêu, Tống đồng tỉnh cử nhân Phan Khắc Tuân chi Gia Định hậu bổ - Phạm Phú Thứ... Nhiều trƣờng hợp, ngƣời đi xa còn đƣợc bạn bè bày tiệc rƣợu tiễn đƣa tại chính đoản đình hay trƣờng đình. Thơ tống biệt đã thể hiện rõ nét đặc trƣng nhƣ thế của không gian tiễn biệt này. Nhiều bài thơ tái hiện không gian đình gắn liền với tiệc rƣợu chia biệt nhƣ các bài Tống Tố Nhƣ đệ tự Phú Xuân kinh Bắc hoàn – Nguyễn Đề, Tiễn hữu nhân tòng quân Nam chinh – Nguyễn Án... Nếu đoản đình, trƣờng đình do nhà nƣớc lập bên đƣờng cái quan làm nơi nghỉ chân hoặc đón đƣa thì dã đình là nhà ngoài đồng, loại nhà không có vách của mỗi địa phƣơng, lập ở cuối làng làm điếm canh. Thơ tống biệt giai đoạn này xuất hiện một bài thơ ở không gian tống biệt dã đình (bài Tự sơn tống Ngọc Tiên quy tỉnh – Cao Bá Quát). Bên cạnh các đình, các trạm dịch cũng trở thành không gian tống biệt thực gắn liền với nhiều cuộc chia tay của thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX. Khi nghiên cứu về lƣợc sử con đƣờng cái quan dƣới thời nhà Nguyễn, Bùi Thụy Đào Nguyên đã mô tả về trạm dịch nhƣ sau: “Lúc bấy giờ, con đƣờng cũng đƣợc chia thành nhiều cung, mỗi cung trung bình dài khoảng 25 – 30 dặm (15 – 20km). Để có chỗ canh phòng, vận chuyển công văn giấy tờ, và làm nơi đón đƣa quan lại trú đêm trên đƣờng; ngay từ thời Gia Long, triều đình đã cho dựng ở giữa hai cung một nhà trạm gồm ba gian hai chái bằng gạch ngói hay cây lá, theo cùng một kiểu do bộ Công quy định, có hào và tƣờng bao bọc chung quanh, lại có chòi gác bốn phía. Trên cửa ra vào có treo biển khắc tên trạm. Ở mỗi trạm đều có nhiều phu trạm (khoảng 50 ngƣời) và ngựa (khoảng 3 con) để làm nhiệm vụ chuyển tải công văn giấy tờ, khiêng cáng và đồ dùng của quan lại qua đƣờng” [84]. Thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX cũng tái hiện không
111
gian trạm dịch nhƣ là dấu mốc của không gian chia tay: Dịch lộ chinh bào thả tạm phân (Nơi trạm dịch, khoác áo bào đi xa, hãy tạm chia tay) (Tống Phan Hoành Hải điệp sơn xứ quán – Nguyễn Án), Tống quân Nhuệ kiều dịch (Tiễn bác tại dịch trạm bên cầu sông Nhuệ) ( Tống biệt – Ngô Thì Lữ). Không gian đó đƣợc tái hiện sống động với những dấu ấn văn hóa giao thông thời trung đại nhƣ việc đổi ngựa tại các dịch trạm: Thiên trùng nhật dịch chu tƣu khách (Nghìn lần đổi ngựa trạm chọn lọc cho khách đƣờng xa) (Tiễn Đông Dƣ nguyên Các Lão phụng sứ Nhƣ Thanh – Cao Bá Quát) hay hình ảnh những ngƣời phu trạm: Lƣu nhân dịch cấp thôi (Lƣu giữ ngƣời ở lại nhƣng ngựa trạm lại giục gấp lên đƣờng) (Sơn phiên điều lại bộ Hữu Thị lang quá môn lƣu giản y vận tống chi – Nguyễn Văn Siêu)...
Nếu nhƣ không gian đƣa tiễn thực trên đƣờng bộ thƣờng diễn ra ở những đình và trạm dịch thì không gian đƣa tiễn bằng đƣờng thủy lại gắn liền với những bến sông. Theo khảo sát của chúng tôi có khoảng 63 bài thơ tống biệt thế kỵ XVIII - XIX tái hiện không gian tống biệt tại các bến sông. Dòng sông lúc này đơn thuần trở thành dấu mốc của cuộc tống biệt. Trên sông Cẩm La Nguyễn Du tiễn Ngô Nhữ Sơn đi Nghệ An (Tống Ngô Nhữ Sơn xuất trấn Nghệ An), ở bờ đông sông Nguyễn Án tiễn bạn Kiều Niên về quê (Tiễn Kiều Niên đông quy cố viên), Sông Hồng là nơi Nguyễn Hành tiễn biệt cậu họ đi sứ (Phụng tiễn cửu thị Nhƣ Hành công Bắc sứ (hạ thọ lễ). Ở một bờ sông khác trong buổi sáng tháng Năm Nguyễn Văn Lý tiễn bạn về thăm nhà (Phó bảng Phƣơng Đình Nguyễn tử hội thí hậu ninh gia, thƣ tống)... Những bến sông nhƣ sông Nhĩ Thủy, sông Nhị, sông Lƣơng, sông Lục Đầu, sông Hƣơng, sông Vị... đã là nơi bắt đầu và kết thúc của cuộc chia biệt. Những cuộc chia tay trên bến sông thƣờng đi liền với gió, trăng, hơi lạnh của sóng nƣớc. Có nhiều buổi tiễn đƣa đƣợc bày tiệc rƣợu trên những ngôi đình bên sông. Cái rộng lớn của không gian sông nƣớc đã làm cho cảm xúc biệt ly thêm trào dâng. Những cuộc chia tay trên sông Trà của Cao Bá Quát, trên bờ Giang Thụ Sào của Phạm Phú Thứ hay trên sông Hƣơng của Đào Tấn thực sự là những cuộc chia tay từ bến sông nhiều tâm trạng.
Nhƣ vậy, không gian tống biệt thực trong những cuộc tống tiễn gắn liền với các đình, trạm dịch và những bến sông đã tái hiện đƣợc không gian đƣa tiễn mang đậm dấu ấn văn hóa thời trung đại. Những không gian này đã mờ dần và mất hẳn theo sự phát triển của lịch sử và thơ tống biệt nhƣ một chiếc cầu nối nhịp gợi mở về những dấu ấn văn hóa của một thời đã qua. 4.2.1.2. Không gian tƣởng tƣợng
Thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX phần nhiều gợi không gian ảo, đây là không gian trong tƣởng tƣợng của ngƣời đƣa tiễn. Gắn với những lý do đƣa tiễn khác nhau là những miền không gian khác nhau trong đó nổi bật là sự đan xen của hai miền không gian: không gian tha hƣơng và không gian cố hƣơng.
112
Không gian tha hƣơng: Không gian tha hƣơng trong thơ tống biệt giai đoạn này thƣờng gắn với những bài thơ tiễn ngƣời đi sứ và tiễn ngƣời đi nhậm chức. Đó là không gian trong tƣởng tƣợng của ngƣời tiễn về nơi ngƣời đi sẽ tới. Không gian tha hƣơng thƣờng biểu hiện ở hai kiểu: Không gian thiên lý, dặm trƣờng, không gian biên tái
Không gian thiên lý, dặm trƣờng: Trong các bài thơ tiễn ngƣời đi sứ xuất hiện một miền không gian mang những đặc trƣng riêng. Khoảng 59 bài có miền không gian này với cách thể hiện chân thực và có sự khác biệt giữa các vùng miền.
Thơ Nguyễn Văn Lý tiễn bạn đi sứ sang Tân Gia Ba, Giang Lƣu Ba thƣờng xuất hiện không gian biển khơi ngàn dặm với hành trình lòng vòng: Đà Nẵng sà phù vân diếu diếu/ Côn Luân phàm ảnh nguyệt mang mang (Thuyền sứ ra đi từ Đà Nẵng mây mờ mịt/ Bóng cánh buồm qua Côn Lôn, trăng mênh mang (Tống Đỗ Kính Hồ chi Giang Lƣu Ba). Cùng với không gian đó là hình ảnh cánh buồm lênh đênh, cô lẻ giữa trùng dƣơng: Thiên ngoại cô phàm nhân khứ quốc (Cánh buồm lẻ loi ngoài trời thẳm, ngƣời rời xa đất nƣớc) (Tống Trần Quân Tú dĩnh thừa vân bằng thuyền vãng Tân Gia Ba công vụ, thứ Quảng Nam tuần phủ Ngụy công thiện phủ nguyên vận). Với những bài thơ tiễn bạn đi sứ Tây thì đó lại là miền không gian lạ lẫm với cả ngƣời đi, kẻ tiễn, lạ vì chƣa từng đặt chân đến: Tinh sà cổ vị đáo Trƣơng Khiên (Bè sứ, thời cổ Trƣơng Khiên chƣa từng đến) (Tiễn Trần Tú Dĩnh phục nhƣ Tây sứ).
Nhiều hơn cả vẫn là không gian phƣơng Bắc vì thơ tiễn bạn đi sứ phần lớn là đi sứ Trung Hoa. Để đến đƣợc không gian này là cả một hành trình dài. Nhiều cụm từ chỉ khoảng cách tƣơng đối hay xuất hiện nhƣ vạn lý, lộ bát thiên... hoặc những hình ảnh nhƣ: Thiên trùng nhật dịch chu tƣu khách (Nghìn lần đổi ngựa trạm chọn lọc cho khách đƣờng xa) (Tiễn Đông Dƣ các lão phụng sứ Nhƣ Thanh - Cao Bá Quát) đều cho thấy đƣợc khoảng cách nghìn trùng của miền không gian hải ngoại. Không gian Yên Kinh xa xôi hiện lên trong những bài thơ tống biệt đẹp đẽ, rộng lớn, nhộn nhịp nhƣng cũng rất khắc nghiệt. Lời của ngƣời tiễn thƣờng dặn dò ngƣời đi hãy thỏa sức ghi lại những cảnh sắc kì thú của nơi đây. Những khung cảnh của hồ Động Đình hay núi Lãng Bạc đƣợc nhắc đến với niềm yêu thích: Yên ba bão duyệt Động Đình xuân (Thỏa thích xem khói sóng mùa xuân ở Động Đình) (Tống hữu Bắc sứ - Ngô Thì Nhậm), Lãng Bạc yên hoa xuân dục bán/ Động Đình vân thủy nguyệt cƣ tam (Khói hoa trên hồ Lãng Bạc, mùa xuân đã qua gần nửa /Mây nƣớc trên hồ Động Đình, đã vào tháng ba rồi (Tống Nhƣ Yên bồi thần Nguyễn Chiếu Lê Quang - Nguyễn Văn Lý). Hình ảnh những núi non xanh ngắt một màu cũng tôn thêm vẻ kỳ vĩ của xứ sở này: Tây Sở phàm thông thiên thủy viễn/ Bắc Yên thiên nhập vạn sơn thƣơng (Buồm thông đến Tây Sở, ngàn sông xa xôi/ Trời vào Bắc Yên, muôn núi xanh ngắt) (Phụng tống lễ bộ thị lang Vƣơng Tế Trai sung Nhƣ Yên giáp sứ - Nguyễn Văn Lý)... Không gian ấy không chỉ đẹp mà còn rất nhộn nhịp, tấp nập: Trung Nguyên tự cổ chu xa địa (Vùng Trung
113
Nguyên từ xƣa, vẫn là đất xe, thuyền tấp nập) (Thƣ tiễn thị lang Điển Ngọc Hầu phụng sứ - Ngô Thì Nhậm). Tuyết - đặc trƣng nổi bật của miền không gian này thƣờng đƣợc xuất hiện trở đi trở lại với những cách diễn tả khác nhau nhƣ lƣỡng kỳ sƣơng tuyết, băng tuyết, tuyết điểm y, phong tuyết, tuyết thê phong lý... Tuyết trải dài suốt thời gian hành trình: Chu niên kinh băng tuyết (Suốt một năm ông trải qua băng tuyết) (Nghĩ tiễn mỗ quan phụng Bắc sứ - Nguyễn Hành). Tuyết phủ mờ cả không gian: Thu mãn Kinh hồ, tuyết mãn Yên (Thu đầy Kinh hồ, tuyết phủ đầy vùng Yên) (Tống Nhƣ Yên chính sứ Trƣơng Quýnh Xuyên - Nguyễn Văn Siêu). Khắc nghiệt, hiểm nguy là thế, nhƣng không gian ấy không làm cho tâm trạng buổi tiễn đƣa bi lụy hay buồn thƣơng. Ngƣợc lại, trong những lời gửi gắm của ngƣời tiễn luôn thể hiện tâm thế lạc quan, tin tƣởng với những lời chúc tốt đẹp, vui vẻ: Phong tuyết phát tân nga (Trong cảnh gió tuyết sẽ làm đƣợc những bài thơ mới) (Tống chánh sứ Hoàng Thiện Trƣờng), Tuyết diêu nguyệt phóng huề dƣ hứng/Thiên thủ ngâm thành tục thử chinh (Xe sứ đi trên tuyết, thuyền lƣớt dƣới trăng có mang theo hứng thú dồi dào/Ngàn bài thơ ngâm xong thì tiếp tục chuyến đi lên phía Bắc) (Tống nội các Nguyễn thị lang nhƣ Yên chánh sứ - Phạm Phú Thứ).
Không gian biên tái: Thơ tống biệt giai đoạn thế kỵ XV - XVII có xuất hiện không gian biên tái nhƣng thƣờng ở những bài thơ tiễn bạn đi sứ hoặc đi chinh chiến. Giai đoạn thế kỵ XVIII - XIX, không gian biên tái mở rộng hơn với cả những bài thơ tiễn ngƣời đi nhậm chức ở những khu vực giáp ranh. Và nếu nhƣ ở giai đoạn trƣớc vùng biên tái chủ yếu là ở phía Bắc thì ở giai đoạn này xuất hiện những vùng biên cƣơng ở phía Trung, phía Nam của tổ quốc nhƣ Gia Định, Hà Tiên, Quy Nhơn... Điều này phản ánh chân thực về việc mở rộng bờ cõi đất nƣớc của triều đình phong kiến ở những giai đoạn cuối. Khoảng 62 thi phẩm xuất hiện kiểu không gian này. Đặc điểm của miền không gian biên tái là xa xôi, mờ mịt trong mây khói. Vì vậy, khi nói tới không gian này, các tác giả thƣờng dùng những cụm từ chỉ sự tận cùng, cách trở nhƣ cực biên, viễn tái, viễn xứ, tuyệt biên, tuyệt tái... Thời tiết thì luôn khắc nghiệt: Viêm cƣơng thiên vị thuộc tƣ văn (Nơi biên cƣơng nóng nực cũng đƣợc trời cho thuộc vào tƣ văn) (Tống Ngô Châu giáo thụ - Nguyễn Huy Oánh), Thiên mạt bi phong khởi tái hàn (Cuối trời, gió lạnh, làm cho nơi quan tái trở rét) (Tống thuận phủ Lê Công Đình Tuấn tả thiên Hà Nội bố chánh sứ - Nguyễn Thông)... Mây, khói mờ mịt làm không gian nhƣ xóa nhòa đi các ranh giới, tạo cảm giác về sự u ám bất tận: Mục Mã vân thâm vạn lĩnh bình (Trạm Mục Mã mây dầy, muôn núi bằng phẳng) (Tiễn Cao Bằng niết sứ Nguyễn Quân Tiến lục chi dị - Nguyễn Văn Lý), Hàn vân nhƣơng tuyết thiên sơn mộ (Mây lạnh ủ tuyết nghìn núi triều) (Tống hữu nhân xuất tái - Cao Bá Quát), Tịch mịch sơn đầu chƣớng hựu yên (Trên đỉnh núi vắng ngắt, chỉ có khói và hơi lam chƣớng) (Tống qui nhân - Nguyễn Quang Bích)...
114
Không gian biên tái còn đƣợc hiện lên với những khó khăn, bất trắc, hiểm nguy: Địa tại khâm hầu biên nhiệm trọng (Nơi ấy với kinh đô nhƣ vạt áo, nhƣ cổ họng, việc coi giữ biên cƣơng rất nặng nề) (Họa tiễn hình thị Thanh Phái Lê Hầu phó Hòa Nghĩa Nhậm - Phan Huy Ích), Tuyệt biên hữu mệnh lƣu bàn thác (Mệnh vua giao cho lƣu giữ biên cƣơng xa nhiều khó khăn (Tặng Nguyên Hồng Lô Nguyễn Quân Văn vĩ lãnh Cao Bằng án sát - Nguyễn Văn Siêu)... Có lẽ, trong những miền không gian của thơ tống biệt, đây là miền không gian ẩn chứa nhiều thử thách nhất với con ngƣời. Điều đặc biệt là khi miêu tả miền không gian này, các tác giả không dùng hình ảnh ƣớc lệ, tƣợng trƣng mà chủ yếu là sử dụng những từ đặc tả, tả thực. Điều này giúp cho không gian biên cƣơng, biên tái hiện lên sống động, chân thực, lột tả sắc nét những gian nan, hiểm nguy mà con ngƣời sẽ phải trải qua
Không gian biên tái còn gắn với những cuộc tòng quân chinh chiến. Một số bài thơ tiễn bạn của Vũ Phạm Khải, Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Thông, Phạm Phú Thứ... đã tái hiện thành công sự khốc liệt với những giới hạn tận cùng của miền không gian này: Nam chuyến thiên sơn tận/ Tây lai vạn hác khuynh (Tới phía nam nơi các ngọn núi đều tận cùng/ Tới phía tây nơi mọi dòng suối đều khô cạn) (Tống Vĩnh Thuận Nguyễn Ƣớc Phu trấn Tây tòng quân - Nguyễn Văn Siêu)... Cảnh tƣợng tan tác, chia lìa, hoang vu là đặc trƣng nổi bật: Hồ trì khô cốt lập/ Nha trác đoạn trƣờng phi (Chồn đứng ngậm xƣơng khô/ Quạ bay tha khúc ruột) (Tống Lƣơng Tứ chi Quảng Nam - Tùng Thiện Vƣơng), Lƣỡng huyện hoàn thành cổ đại đô/ Trung gian yên hỏa bán tần vu (Hai huyện quanh thành là đại đô xƣa/ Giữa chừng khói lửa, đến nay quá nửa) (Lãnh Thọ Xƣơng, Vĩnh Thuận đồng tri phan quân huy khiêm thăng ngự sử tống chi - Nguyễn Văn Siêu)... Cách tạo dựng miền không gian nhƣ thế đã thể hiện tập trung và sâu sắc tình hình thời sự với những đổi thay khốc liệt của hiện thực xã hội thời bấy giờ. Điều đó làm cho thơ tống biệt giai đoạn thế kỵ XVIII - XIX mang đƣợc những nét riêng khác so với giai đoạn trƣớc. Đồng thời, với việc dựng lên miền không gian biên tái gắn liền với không gian chinh chiến ác liệt cũng đã phản ánh rõ nét xu thế đời thƣờng hóa, hiện thực hóa của thơ trung đại trong những giai đoạn cuối cùng. Kiểu thơ nói chí, tỏ lòng theo khuôn mẫu, sách vở đã dần đƣợc thay thế bằng chính những vần thơ mang hơi thở của cuộc sống hiện thực.
Không gian cố hƣơng: Phần lớn ở những bài thơ tiễn ngƣời về hƣu, tiễn ngƣời về quê đã tạo cho thơ tống biệt một miền không gian rất riêng đó là miền không gian quê nhà. Trái ngƣợc với không gian hải ngoại xa xôi, đẹp và đầy khắc nghiệt, không gian biên tái nghìn trùng ẩn chứa nhiều bất trắc nguy hiểm, đây là miền không gian đẹp đẽ hiếm hoi trong những vần thơ tống biệt.
Không gian trở về trƣớc hết là miền không gian rực rỡ sắc màu. Niềm vui của lòng ngƣời nhƣ hòa vào niềm vui cảnh vật. Nghệ thuật vừa đi đƣờng vừa tả cảnh đã giúp tạo ra những mảng không gian đầy tƣơi sáng: Đình trạm sơ khai toàn cẩm lộ/ Nhất giang xuân
115
sắc liễu đề oanh (Từ đình trạm, bắt đầu con đƣờng trở về rực rỡ gấm hoa, Một dòng sông xuân, chim oanh ríu rít trên cành liễu) (Bùi Công trí sự, thƣ tiễn - Nguyễn Văn Lý). Con đƣờng trở về rực rỡ gấm hoa, dòng sông mùa xuân đẹp đến nao lòng và tiếng ríu rít của chim oanh trên cành liễu... Những hình ảnh gợi tả đầy sắc màu và âm thanh đã giúp thể hiện rất sâu tâm trạng phấn chấn trong lòng con ngƣời.
Không gian trở về còn là không gian ngập tràn niềm vui. Niềm vui ấy có khi đƣợc gợi ra bởi những bữa tiệc mừng ngày quay lại rộn rã tiếng cƣời, chủ khách cùng bồi tiếp thù tạc thân thiết: Tƣơng bồi ứng tại quy diêu nhật/Chƣớc nhƣợng châm hòa, điệt chủ tân (Bồi tiếp nhau có lẽ nên để đến ngày quay xe trở về/(lúc ấy) chủ khách thay nhau rót mời, thù tạc thân thiết (Tống Quế Bình huyện chánh đƣờng Ngô Chí Quản - Nguyễn Huy Oánh). Cũng có khi niềm vui đƣợc tạo bởi không gian ngập tràn tiếng cƣời trẻ thơ mừng vui hớn hở: Dự toán hồi lai chân lạc thú /Nghinh môn trĩ tử tiếu hy hy (Dự tính khi trở về thật là vui thú /Lũ trẻ đón trƣớc cửa tiếng cƣời ríu rít) (Tống Tố Nhƣ đệ tự Phú Xuân kinh Bắc hoàn (tứ thủ) - Nguyễn Đề). Không gian vui vẻ còn là không gian của sự sum họp với mẹ cha: Cao đƣờng ban vũ tâm thiên ủy /Danh giáo tƣơng khan lạc sự tồn (Mặc áo hoa múa trên nhà, lòng riêng muốn an ủi cha mẹ /Nhìn vào nền danh giáo của gia đình, chuyện vui vẫn còn (Tiễn Tiên Điền tiến sĩ Nguyễn - Nguyễn Văn Lý).
Không gian trở về còn là miền không gian của sự yên ổn, an toàn và thanh thản trong lòng ngƣời. Đây là nét đặc trƣng nhất của miền không gian này. Điển tích Bành Trạch trở về vui vầy bên ba luống cúc hay hình ảnh ruộng vƣờn với những món ăn dân dã, bình dị nơi quê nhà nhƣ cá vƣợc, rau thuần, rau rút đƣợc trở đi trở lại trong nhiều bài thơ đã gợi đƣợc cảm giác đầy thanh thản của miền không gian trở về: Phong thanh nguyệt bạch nhƣ hành lí/ Kính cúc hƣơng thuần đáng trú du (Gió mát trăng thanh nhƣ hành lý mang theo/ Luống cúc, rau thuần ở quê hƣơng, đáng phải trở về giữa ban ngày). Ở không gian đó, con ngƣời đƣợc thƣ thái, không còn chút vƣớng bận lợi danh: Quy khứ cố hƣơng hảo phong nguyệt/ Ngọ song vô mộng đáo thiên nha (nhai) (Bạn về quê cũ trăng trong gió mát, Trong giấc ngủ trƣa bên cửa sổ, không còn mộng đến chân trời) (Tống Nguyễn Sĩ Hữu Nam quy - Nguyễn Du). Miền không gian đó là miền không gian an toàn nhất: Nhị thủy liên Tô chử/ Phong ba bất đảo gian (Sông Nhị liền bên sông Tô /Là nơi sóng gió không đến (Tống Lê Bảo Xuyên bệnh quy - Nguyễn Văn Lý). Nhƣ thế, mặc dù chỉ là miền không gian của mơ ƣớc trong suy nghĩ và trong sự thấu hiểu của ngƣời tiễn với ngƣời đi nhƣng có thể thấy đây là miền không gian thể hiện sâu sắc nhất tình yêu quê hƣơng và khát vọng trở về của nhân vật trữ tình. Dù có dịch chuyển, dù có chia xa nhƣng không gian quê hƣơng luôn khắc khoải và là nơi con ngƣời muốn neo về trong những cuộc chia xa. Miền không gian trở về lại một lần nữa giúp thể hiện sâu sắc hơn không khí tự do, cởi mở trong việc bộc lộ cảm xúc thơ - một yếu tố góp phần tạo nên giá trị nhân văn mới mẻ cho văn học trung đại giai đoạn thế kỵ XVIII - XIX.
116
Những mảng không gian khác nhau của thơ tống biệt giai đoạn này đã thể hiện sâu sắc cho xu hƣớng hiện thực hóa của thơ trung đại trong hai thế kỵ cuối. Trên nền của một đề tài rất Đƣờng thi, những cảnh, những miền không gian vẫn gần gũi, chân thực, đời thƣờng, xóa nhòa đi ranh giới ƣớc lệ, sang trọng vốn có của văn học Trung Hoa. Dù là không gian thực hay không gian tƣởng tƣợng thì đều đƣa các cuộc tống biệt trở về đúng quỷ đạo của nó, là những cuộc chia tay ở trên chính mảnh đất Việt Nam với cảnh và con ngƣời đất Việt. 4.2.2. Thời gian nghệ thuật
Đóng một vai trò quan trọng đối với việc thể hiện nội dung, thời gian nghệ thuật là một tín hiệu thẩm mỷ giúp ngƣời đọc khai phá thế giới cảm xúc của ngƣời sáng tác. Nó đƣợc hiểu là “thời gian mà ta có thể thể nghiệm đƣợc trong tác phẩm nghệ thuật với tính liên tục và độ dài của nó, với nhịp độ nhanh hay chậm, với các chiều thời gian hiện tại, quá khứ hay tƣơng lai” [103, tr 77]. Khác với ngƣời hiện đại luôn sống gấp gáp, vội vã, ngƣời trung đại quan niệm thời gian mang tính chu kỳ, tuần hoàn. Thời gian giống nhƣ một bánh xe quay, nó là sự lặp đi lặp lại hết mùa này đến mùa khác, hết năm này sang năm khác. Nhận thức từ quy luật ấy, ngƣời trung đại thƣờng có cái nhìn bình tâm và tĩnh tại khi đối mặt với sự chảy trôi của thời gian. Gắn với những đặc trƣng trong quan niệm của ngƣời trung đại và văn học trung đại, thời gian nghệ thuật trong các bài thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX có những đặc trƣng trong cách thể hiện thời gian lễ tiết, thời gian theo mùa, theo ngày. Bên cạnh đó, song hành với sự kiện tống biệt các bài thơ còn thể hiện thời gian khoảnh khắc, thời gian đan xen quá khứ - hiện tại – tƣơng lai. Những kiểu thời gian này vừa có những nét chung đồng điệu với quan niệm thời gian trong văn học trung đại, vừa mang những nét riêng, nét khác trong cách thể hiện thời gian tống biệt. 4.2.2.1. Thời gian theo ngày, theo mùa
Khảo sát các bài thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX, chúng tôi thấy chỉ 84/515 bài thể hiện thời gian tống biệt theo ngày, trong đó 28 bài tống biệt vào buổi sáng, 14 bài tống biệt vào buổi chiều, 40 bài tống biệt vào buổi tối. Có 162 bài thơ thể hiện thời gian tống biệt theo mùa, trong đó 70 bài chia tay vào mùa xuân, 85 bài chia tay vào mùa thu, 10 bài chia tay vào mùa đông và 4 bài chia tay vào mùa hè. Sự thể hiện thời gian theo ngày, theo mùa bƣớc đầu cho thấy những dấu hiệu nghệ thuật đặc trƣng của thời gian tống biệt.
Thời gian tống biệt theo ngày: Theo kết quả khảo sát, gần một nửa số bài thơ thể hiện thời gian tống biệt theo ngày vào buổi tối (40/84 bài). Thƣờng các cuộc chia tay này gắn liền với tiệc rƣợu đƣa tiễn, trong đó nhiều tiệc rƣợu ở các bến sông, dƣới trăng sáng. Đây là kiểu thời gian đƣa tiễn rất đặc biệt nhƣng cũng cho thấy rõ nét văn hóa đƣa tiễn của ngƣời trung đại, đặc biệt là những cuộc tiễn đƣa giữa những ngƣời bạn tâm giao. Thông thƣờng, buổi tối trƣớc khi chia biệt, ngƣời đi kẻ tiễn thƣờng bày tiệc rƣợu hàn huyên, tâm sự. Thời
117
gian buổi tối là thời gian của cảm xúc. Sau một ngày làm việc, buổi tối là lúc nghỉ ngơi nên cũng là lúc con ngƣời thoải mái chuyện trò, tâm sự và buổi tối cũng là khoảng thời gian con ngƣời dễ chia xẻ xúc cảm, nhất là với ngƣời sắp chia xa. Nhiều cuộc tống tiễn trong thơ tống biệt giai đoạn này đã miêu tả buổi chuyện trò, tiễn biệt kéo dài quá nửa đêm, thậm chí đến khi trời sắp sáng. Những bài nhƣ Tống Ninh Chuyết Sơn hiệp đ (chồng huy Quận công xuất Dƣơng thảo thủy phỉ (Ngô Thì Nhậm), Tống Đỗ Kính Hồ chi Giang Lƣu Ba (Nguyễn Văn Lý), Đồng Thƣợng ấn cử nhân dạ thoại nhân tống chi biệt (Cao Bá Quát), Bộ vận tống Nguyễn học chính Lý An Nam hành (Phạm Phú Thứ), Tống Lƣu Tán Tƣơng vãng Thái Nguyên quân thứ (Trần Thiện Chánh)... tiêu biểu cho kiểu thời gian tống biệt nhƣ thế. Khác với thời gian buổi tối, những bài thơ tống biệt vào buổi sáng và buổi chiều thƣờng diễn ra rất nhanh. Buổi sáng thƣờng là vào sáng sớm: Tàn nguyệt kê thanh yết (Vừa lúc trăng tàn tiếng gà thôi gáy) (Tống Nguyễn Khoái Châu đồng tri phủ Nguyễn hồi kinh, tịch thƣợng thứ Lê Trác Phong vận, đồng Phƣơng Đình – Cao Bá Quát). Những cuộc tiễn biệt vào buổi chiều số lƣợng ít hơn và thƣờng là những cuộc tống tiễn đƣợc diễn ra trong cảnh huống đặc biệt nhƣ cuộc tiễn biệt của Cao Bá Quát với bác Lê làm huyện lệnh Trấn An trong ngày cuối năm hành trình sắp hết, phải đi ngay, không thong thả đƣợc (bài Trấn An lệnh tử chi nhiệm đặc lai tƣơng phỏng, kỳ hữu sở tặng, thƣ dĩ chi), cuộc tiễn biệt của Trần Thiện Chánh với ông họ Tôn Thất Thƣơng Biện Sơn Tây về kinh hộ tang (bài Tống Sơn Tây thƣơng biện tôn thất hồi kinh ngụ hộ tang), hay cuộc tống biệt của Nguyễn Quang Bích với những ngƣời bạn hữu trong khoảng thời gian cam go của cuộc khởi nghĩa (bài Tống qui nhân)...
Thời gian tống biệt theo mùa: So với thời gian tống biệt theo ngày, những bài thơ thời gian tống biệt theo mùa có số lƣợng nhiều hơn, trong đó các cuộc tống tiễn chủ yếu diễn ra vào mùa thu và mùa xuân, chỉ một số ít các cuộc tống tiễn vào mùa hè và mùa đông. Có lẽ một phần do khí hậu mùa hè và mùa đông khắc nghiệt, không thích hợp cho những cuộc chia tay, di chuyển. Những bài thơ tống biệt vào mùa đông thƣờng là khoảng thời gian cuối đông gắn với những cuộc tiễn biệt về quê, về hƣu. Đầu năm là khoảng thời gian thƣờng diễn những thay đổi trong công việc, đầu năm cũng là lúc con ngƣời hay bắt đầu cho những dự định mới cùng những quyết định di chuyển và thay đổi không gian. Phải chăng vì thế có nhiều những cuộc tống biệt vào mùa xuân (70/162 bài). Thơ tống biệt vào mùa thu nhiều hơn cả, chiếm hơn một nửa (85/162 bài). Có lẽ, mùa thu là mùa khí hậu mát mẻ, dễ chịu, thích hợp cho những chuyến đi. Hơn nữa, bản thân mùa thu cũng là mùa dễ gợi cho con ngƣời cảm hứng về sự ly biệt. Sƣơng thu bàng bạc, hơi may lành lạnh hay những khóm cúc vàng bên bờ sông vắng làm cho nỗi sầu buồn của buổi tống tiễn càng thêm đong đầy. Do vậy, thơ tống biệt vào mùa thu gắn nhiều hơn với thời gian của tâm trạng, cảm xúc. Trong số
118
những bài thơ tống biệt vào mùa thu, đáng chú ý hơn cả là những bài tống biệt vào ngày tết Trùng Dƣơng. Đây không chỉ là những bài thơ tống biệt gắn với thời gian theo mùa mà còn gắn với thời gian lễ tiết. Theo tục cũ, ngày tiết Trùng Cửu ngƣời ta kéo nhau lên đồi cao, uống rƣợu, ngắm hoa cúc, cài cành thù du để xua đuổi tà ma. Tết Trùng Dƣơng trở thành ngày lễ hội rất sôi động. Do vậy, ngày này là ngày đem đến cho con ngƣời niềm vui sum họp. Xa nhà trong ngày tết Trùng Dƣơng khiến cho lữ khách không khỏi buồn phiền và cảm nhận rõ hơn bao giờ hết nỗi niềm của kẻ lữ khách. Có 8 bài thơ trực tiếp nói tới ngày tết Trùng Dƣơng trong thơ tống biệt của Phan Huy Ích, Nguyễn Văn Lý, Cao Bá Quát, Phạm Phú Thứ trong đó tiêu biểu có bài Trùng Dƣơng nhật đồ ngộ Hải Phái Đoàn khê tự Bắc hồi, tuân tri gia tín tiểu chƣớc tác biệt ngẫu đắc của Phan Huy Ích. Bài thơ mở đầu bằng cách tạo dựng hình ảnh đối lập giữa ngƣời lữ thứ đang cƣỡi ngựa trên con đƣờng dài dằng dặc với hình ảnh hoa cúc nở vàng mênh mang nơi quê nhà trong ngày tết Trùng Dƣơng. Cách tạo dựng hình ảnh nhƣ thế đã khắc sâu đƣợc tâm thế cô đơn, buồn bã trong lòng ngƣời. Trong hoàn cảnh ấy, gặp ngƣời khách đƣờng xa từ Bắc vào, hỏi thăm đƣợc tin tức nơi quê nhà nhƣ đem đến cho ngƣời lữ thứ một niềm an ủi nhỏ nhoi. Chén rƣợu ngày tết, chén rƣợu chia tay càng vì thế mà thêm đong đầy cảm xúc: Chinh tử đa du nhật địch trƣờng Nhân gia kim cúc giới Trùng dƣơng Tam thì ky hoạn ngu tuyền bái Thiên lý lai thƣ báo lộng chƣơng Giai tiết số bôi tài dinh đính Cồ giao bán diện các thông mang
Cƣỡi ngựa đi đƣờng xa, lòng khách những man mác/ Tết Trùng Dƣơng đến, mọi nhà đã nở cúc vàng/ Ba mùa làm quan xa, nay mừng đƣợc trở về/ Nghìn dặm thƣ gửi đến, báo tin đẻ con trai/ Vài chén rƣợu ngày tết vừa mới chếnh choáng/ Bạn cũ gặp mặt chốc lát, đã vội chia tay
Nhƣ vậy, thời gian tống biệt theo ngày, theo mùa trong thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX không chỉ cho thấy đặc trƣng riêng về thời gian tống biệt mà còn gắn liền với những dấu ấn văn hóa thời trung đại. 4.2.2.2. Thời gian khoảnh khắc
Trong mỗi cuộc chia ly, giây phút xúc động nhất chính là khi thời khắc chia ly tới. Đó chính là lúc đánh dấu cho sự kết thúc của cuộc tiễn đƣa. Chính vì thế, đây cũng là giây phút con ngƣời dồn nén cảm xúc nhất, là lúc con ngƣời thể hiện chân thành nhất nỗi lòng của mình. Thời khắc đó có thể đƣợc tính bằng phút: Thập tải tƣơng phùng chuyển cánh bi (Xui chi gặp bạn mƣời năm, phút xa nhau thực là đau đớn) (Biệt Nguyễn Vĩnh Trai tinh trí Phƣơng Đình - Cao Bá Quát), bằng hình ảnh xe bắt đầu chuyển bánh lên đƣờng: Biệt lộ lâm thái thức (Xe chuyển bánh từ biệt lên đƣờng) (Tiễn Trần Mộng Hạc tân trừ Tiên Hƣng tri phủ chi nhậm - Nguyễn Án)... Gắn với giây phút này thơ tống biệt có cách thể hiện một kiểu thời gian rất đặc biệt – thời gian khoảnh khắc. Khoảng 45 bài thơ tống biệt thế kỵ XVIII - XIX xuất hiện kiểu thời gian này.
119
Nét đặc trƣng nổi bật dễ nhận thấy nhất của thời gian khoảnh khắc chính là cách thể hiện trạng thái nhanh, vội vã. Dƣờng nhƣ, con ngƣời chƣa kịp chuẩn bị tâm thế cho cuộc chia tay nhƣng thời khắc chia tay đã tới. Tƣởng chừng vừa mới gặp nhau mà cánh buồm chia xa đã ra tới đầu sông: Ngã mã phƣơng văn huyên bộ nội/ Phiến phàm thúc dĩ xuất giang đầu (Đang nghe tiếng năm ngựa huyên náo trong bộ/ Cánh buồm thoắt đã ra đầu sông) (Tiễn Thƣờng Tín Trần Thái Thú hồi quán tỉnh thân - Nguyễn Văn Lý). Trạng thái này có khi đƣợc diễn tả bằng hình ảnh bánh xe di chuyển thật nhanh: Đình bắc chinh xa kịch chuyển bồng (Phía bắc đình, cỗ xe đi xa chuyển nhanh nhƣ cỏ bồng) (Bộ Chuyết Viên Công tống Bắc Ninh án sát Diệu Thúc nguyên vận tái ký Diệu Thúc - Phạm Phú Thứ). Cũng có lúc cuộc chia tay vội vã đến mức chẳng kịp nhìn nhau: Biệt thời bất tiếp quân nhan sắc (Lúc chia tay chẳng kịp nhìn nét mặt anh) (Lâm biệt tẩu bút tặng Đại Lý Nguyễn viên ngoại - Cao Bá Quát). Vội vã làm cho ngƣời trong cuộc chƣa kịp nhận ra đã gặp lại và rồi lại đang phải chia xa. Đặc biệt, với những ngƣời bạn tri âm, tri kỉ, thời gian khoảnh khắc làm cho cảm xúc của ngƣời trong cuộc thêm muôn phần xúc động: Nhân sinh hành chỉ tống tùy duyên (Đƣợc gặp nhau thoáng chốc nên kinh sợ khi tiễn biệt) (Cao Chu Thần bất nhập hội thí quy, thƣ tống - Nguyễn Văn Lý). Và chén chia tay nhanh đến mức làm cho ngƣời đi, ngƣời tiễn cũng phải thảng thốt: Tài hoan hội tửu thúc ly trƣờng (Vừa mới họp mặt uống rƣợu mừng vui, bỗng lại nhắp chén biệt ly) (Tống Lƣơng Sán Triều quy Quảng Đông - Trịnh Hoài Đức), Hốt mạn tƣơng phùng hựu biệt bôi (Vừa tình cờ gặp nhau, lại đã cất chén chia tay) (Kinh hồi tống thƣợng phúc Lê Duy Trung phó hội thi - Vũ Phạm Khải). Vội vàng ngay cả trong lời nói chia xa: Bích chàng nam chỉ vạn sơn trì (Nói lời chia biệt vội vàng bên bờ sông Nhị) (Tâm khế Tân Xuyên dĩ Thái Phiên thăng bổ Hà Tiên bố chính, hộ lí tuần phủ, đạo kinh Hà Thành, thƣ tiễn - Nguyễn Văn Lý), Vị tả ly quần tứ, Hồ vi phục tống nhân (Chƣa kịp bày tỏ nỗi lòng lìa đàn, Làm sao đã lại đành phải) (Thứ Phƣơng Đình vận tống Lê Hy Vĩnh chi Sơn Tây học quán - Vũ Tông Phan). Có những cuộc chia tay mà ngƣời đi và kẻ ở đều là những ngƣời bị động, bị động hơn nữa khi mệnh lệnh lên đƣờng rất gấp rút do đó ngƣời tiễn chƣa thực sự sẵn sàng cho cuộc chia tay: Tôn tửu bồi hồi dĩ bất chi (Cầm chén thẫn thờ, nhƣ không sao chịu nổi) (Đông Chí bôi thứ thƣ tiễn Định Tƣờng niết sứ Cao Hi Phùng). Cũng vì bị động và chia tay vội vã nên luyến tiếc càng tăng thêm bội phần: Thùy liệu Gia Hƣng hựu thử hành, Tƣơng tri đồng tích sậu phân trình (Ai biết đƣợc lại có cuộc hành trình đến Gia Hƣng này /Bạn bè ai cũng luyến tiếc trƣớc cuộc chia ly vội vã) (Tống hộ phủ Ngụy Thai Thiện Phủ phục chi hƣng - Nguyễn Văn Siêu)... Trạng thái vội vàng, gấp rút còn đƣợc thể hiện bằng lời thúc giục lên đƣờng của ngƣời đánh xe ngựa: Lƣu nhân dịch cấp thôi (Lƣu giữ ngƣời ở lại nhƣng ngựa trạm lại giục gấp lên đƣờng) (Sơn phiên điều lại bộ hữu thị lang quá môn lƣu giản y vận tống chi - Nguyễn Văn Siêu). Cũng có khi, sự thúc giục lại nằm chính trong cảm nhận của ngƣời tiễn. Trong những bài nhƣ Tống bản huyện Doãn Nguyễn Khánh Hải thăng thái thú chỉ hành
120
hay Phan Sài Phong dĩ kim hạ hồi triều, thƣ thử vi tiễn, Nguyễn Văn Lý hay dùng hình ảnh màu vàng của hoa mai nhƣ một ám ảnh giục ngƣời lên đƣờng...
Thời gian khoảnh khắc còn đƣợc đánh dấu bằng những hành động ân cần và tha thiết lúc chia tay. Cầm áo, cầm tay, vẫy tay, cầm bút, nghển cổ... là những cử chỉ nhƣ thế. Hình ảnh cầm tay thƣờng xuất hiện nhiều trong thơ tống biệt Cao Bá Quát. Nắm tay nhau ân cần, nấn ná để tỉ tê tất cả những gì vẫn còn đang ngổn ngang trong lòng. Con ngƣời lúc nào cũng trong tâm thế chƣa nói hết, chƣa muốn chia xa: Bả duệ ân cần cánh hồi thủ (Nắm tay nhau ân cần, tỉ tê rồi ngoái cổ nhìn lại) (Tịch thƣợng nhân đại phan hành phủ). Cầm tay chỉ là cái cớ để con ngƣời dồn hết những tâm sự xúc động, đau đớn cho giây phút chia tay: Tức kim huề thủ cộng thƣơng ly (Cầm tay nhau lúc này mà đau cho cảnh biệt ly) (Đồng thƣợng ấn cử nhân dạ thoại nhân tống chi biệt). Cũng có cái cầm tay nhẹ nhàng và thanh thản hơn bởi thời gian không cho phép lâu hơn hay bởi cuộc chia tay đó với ngƣời ở lại cũng nhẹ nhàng: Kì ƣng nhất bả duệ, Hồ hải mạn tƣơng tri (Cầm tay nhau tạm biệt, Hồ hải nhiều tƣơng tri) (Văn Giang huyện thừa vũ duy hàn di lị Tiền Hải tức tịch tẩu bút)...
Bên cạnh hành động cầm tay là hành động cầm áo, hành động này cũng nhƣ một cách đánh dấu giây phút chia ly. Chiếc áo trong văn hóa phƣơng Đông không chỉ là trang phục, là nét đẹp văn hóa mà chiếc áo còn là nơi lƣu giữ linh hồn con ngƣời. Vì thế khi chia xa, chiếc áo nhƣ là cầu nối lƣu giữ hơi ấm, hình ảnh của ngƣời đi. Ca dao tình yêu ngƣời Việt khi viết về giây phút chia tay hay nhắc tới hành động nắm áo, đề thơ. Cô gái xứ Kinh Bắc duyên dáng, tế nhị, e ấp: Chàng về em chẳng cho về/ Em nắm vạt áo em đề câu thơ/ Câu thƣơng, câu nhớ, câu đợi, câu chờ... Cô gái Nam Bộ thì mạnh mẽ, cá tính và quyết liệt trong cả ngôn ngữ, cử chỉ: Chàng về em nắm vạt áo em la làng/ Bỏ chữ thƣơng, chữ nhớ giữa đàng cho ai. Cũng lấy ý từ ca dao, thơ tống biệt nói nhiều tới hành động cầm vạt áo: Y u bả duệ hƣớng trƣờng đình (Bịn rịn cầm vạt áo hƣớng về trƣờng đình) (Thu nguyệt tống nhân Bắc hoàn - Nguyễn Đề), Bả duệ Ngƣu Giang hựu biệt châm (Nắm vạt áo nơi Bến Nghé đã lại rót rƣợu tiễn biệt) (Tiễn đồng sự phiên đài Lê lai kinh cung hậu thánh tổ nhân Hoàng Đế đại tƣờng lễ hội Ban Chiêm bái chi hành - Nguyễn Văn Lý), Tây trù dĩ báo xuân (Nắm tay áo mà lòng bâng khuâng vô hạn) (Tiễn Vũ Khố Nguyễn Tƣ vụ đắc giá hồi hƣơng - Cao Bá Quát)... Dễ nhận thấy bên cạnh cử chỉ cầm áo bao giờ cũng gắn với tâm trạng bâng khuâng, bịn rịn đầy lƣu luyến.
Ngoài ra, các hành động nhƣ vẫy tay, nghển cổ, trông theo bánh xe quay cũng là một cách đánh dấu giây phút chia ly rất đặc sắc. Trong bài Tiễn Kiều niên đông quy cố viên, Nguyễn Án tiễn bạn về chốn cũ với cái vẫy tay đầy ngập ngừng: Huy thủ phục trù trừ thể hiện sự đan xen của rất nhiều xúc cảm, trong đó phần nhiều là sự tiếc nuối không muốn chia xa. Bạn đi rồi nhƣng vẫn: Cố giao trƣờng dẫn lĩnh (Bạn cũ nghển cổ trông theo mãi). Tiễn bạn về Nam Phạm Phú Thứ cứ trông theo bánh xe quay dần xa:
121
Tống quân không nhĩ vọng luân đề (Chỉ tiễn suông anh đi, cứ nhón chân trông theo bánh xe quay) (Bộ vận tống Nguyễn học chính Lý An Nam hành)... Những cử chỉ này đã ghi lại hình ảnh về khoảnh khắc chia tay thật đẹp, thể hiện xúc động mà giản dị tình cảm của ngƣời tiễn. Dù chỉ là khoảnh khắc thôi nhƣng gói trọn đƣợc bao ý nghĩa và dấu ấn của cuộc tống biệt.
Thời gian khoảnh khắc là một trong những cách thể hiện thời gian rất đặc sắc của thơ tống biệt. Nó giúp cho cảm xúc thơ chân thực, đời thƣờng. Ngƣời đọc cũng nhƣ bị cuốn vào cuộc chia ly, thấu cảm từng giây phút của buổi tiễn đƣa. Trái ngƣợc với cách nhìn thời gian theo kiểu bình thản, tĩnh lặng của ngƣời trung đại, trạng thái vội vàng, thúc giục, gấp gáp trong cách thể hiện thời gian khoảnh khắc của thơ tống biệt gần với cách nhìn và tƣ duy của ngƣời hiện đại. Bên cạnh đó, nó còn làm cho cảm xúc thơ trở nên dồn nén và xúc động hơn. Đồng thời, thời gian khoảnh khắc cũng là cách thơ tống biệt ghi lại những hình ảnh đẹp của buổi chia ly, là cách để ngƣời tiễn gửi trọn tình cảm của mình trong buổi đƣa tiễn. 4.2.2.3. Thời gian đan xen quá khứ - hiện tại - tƣơng lai
Trong cách thể hiện thời gian của thơ tống biệt, dễ dàng nhận thấy một dấu hiệu rất nổi bật đó là có sự đan xen của nhiều chiều thời gian. Từ thời gian hiện tại của cuộc chia ly, ngƣời tiễn có thể nhớ về quá khứ với những kỵ niệm đƣợc hồi tƣởng lại. Cũng từ thời gian hiện tại, ngƣời tiễn có khi tƣởng tƣợng ra thời gian của tƣơng lai. Cũng có lúc, sự đan chéo thời gian cả quá khứ, hiện tại và tƣơng lai đƣợc lồng ghép trong cùng một bài thơ... Điều này, vừa thể hiện đƣợc sự lôgic trong tâm trạng, vừa giúp cho cảm xúc của các bài thơ tống biệt chân thực và đa dạng hơn. Khoảng 157 bài thơ tống biệt giai đoạn thế kỵ XVIII - XIX xuất hiện kiểu thời gian đan xen quá khứ - hiện tại – tƣơng lai.
Ngƣời đi và ngƣời tiễn, dù là bạn bè, đồng nghiệp hay những ngƣời thân quen trong gia đình thì đều có rất nhiều kỉ niệm gắn bó. Vì thế, thời khắc chia tay, những kỵ niệm ùa về nhƣ một cách nhắc nhớ mối quan hệ thân tình, lâu dài đã qua. Thời gian quá khứ trong thơ tống biệt giai đoạn này đƣợc thể hiện với nhiều dạng thức khác nhau. Có thể đó là thời gian chính xác tới từng năm: Sách danh đồng thị Mậu Thìn xuân (Nhƣng tôi cùng ngài) đều đỗ Tiến sĩ vào mùa xuân năm Mậu Thìn) (Tống Quế Bình huyện chánh đƣờng Ngô Chí Quản - Nguyễn Huy Oánh, Tằng ký Mậu Thân liên cận bí (Từng nhớ năm Mậu Thân cùng gióng xe vào chầu) (Tiễn niên quyến thụy nham Phan Hầu nhập cận họa đãi chiếu Vũ Hầu nguyên vận - Ngô Thì Nhậm). Đây không chỉ đơn thuần là những mốc thời gian mà nó là cách chứng minh rằng với ngƣời tiễn, những kỵ niệm gắn bó giữa hai ngƣời là những dấu mốc đáng nhớ, đã in hằn sâu vào ký ức. Ngoài ra, thời gian quá khứ cụ thể này còn đem đến cho thơ tống biệt giá trị lịch sử trong việc soi chiếu các sự kiện, tƣ liệu. Trong bài Tiễn Vân Canh Phạm Gia Lâm cống sĩ phó Phú Xuân kinh hội thi, Nguyễn Án có nhắc tới kỳ thi năm Kỵ Hợi thời
122
Cảnh Hƣng: Ức tích Cảnh Hƣng Kỵ Hợi khoa (Nhớ đến năm xƣa, vào khoa Kỵ Hợi đời Cảnh Hƣng). Về khoa thi này, sách Đại Việt sử ký tục biên cũng ghi lại rằng: “Tháng 11 (Kỵ Hợi, 1799), chúa Trịnh Sâm mở thịnh khoa, thân thi Cống sĩ thiên hạ ở Bãi Cát, lấy bọn Phạm Nguyễn Du, 15 ngƣời Trúng cách. Tháng 12, thi điện, ngày hôm sau thi ở phủ chúa...” [69, tr 440].
Thời gian quá khứ còn nổi bật với cách thể hiện một khoảng thời gian cụ thể nhƣng kéo dài cùng những số liệu thời gian chính xác nhƣ bảy năm, mƣời tám năm, hai chục năm, ba mƣơi mốt năm, bốn mƣơi năm... Có thể tìm thấy những con số chỉ thời gian nhƣ thế trong một loạt các bài nhƣ: Đại hoãn quận công tiễn Cổn quận công trí sĩ chi tác của Ngô Thì Nhậm, Tống môn nhân Lê Sƣ Do quy tỉnh của Phạm Đình Hổ, Kí tiễn lễ bộ thƣợng thƣ Phan Công trí sĩ hay Tống Đồng Khế Yên Thái tiễn sĩ Nguyễn Ƣớc Phu, bị thôi, tầm khất hoàn hƣơng của Nguyễn Văn Lý, Tống phó bảng Nguyễn Phƣơng Đình chi kinh hậu bổ của Vũ Tông Phan, Tống Nguyễn Mã Trai niên ông đắc giá Bắc hồi của Cao Bá Quát, Tống bái dƣơng nguyên tiễn sĩ Ngô Trọng Phu quy ly của Phạm Phú Thứ... Diễn tả quá khứ với khoảng thời gian kéo dài không chỉ minh chứng cho sự gắn bó kết thân lâu năm giữa ngƣời đi và ngƣời ở mà còn là cách để ngƣời tiễn gửi gắm nhiều xúc cảm khác nhau đối với ngƣời đi.
Khoảng thời gian dài cũng có khi là cách để ngƣời tiễn nhắc nhở lại những kỉ niệm ở quá khứ giữa hai ngƣời. Viết nhanh tặng bạn lúc lên đƣờng, Cao Bá Quát gợi lại những kỉ niệm năm tháng đã qua: Trì khu cộng kí quan sơn viễn/ Phủ ngƣỡng sinh tăng thuế nguyệt lƣu (Cùng nhớ lúc ruổi rong chốn quan sơn xa tít, Giận năm tháng trôi cứ phải cúi ngửa mãi) (Tẩu bút tặng Nguyễn Giản Phu). Thời gian quá khứ nhiều khi chính là thời gian đời ngƣời. Mấy chục năm của đời ngƣời cũng đủ để ngƣời tiễn thể hiện sự thấu hiểu, đồng cảm với bạn trong những chặng đƣờng đã qua: Thác kiện truy tùy tứ kỵ trung (Bao tên trên lƣng ngựa, bốn mƣơi năm đeo đuổi) (Đại hoãn quận công tiễn Cổn Quận Công trí sĩ chi tác - Ngô Thì Nhậm), Tam thập dƣ niên kiến tố trung (Ba chục năm qua đã tỏ rõ tấm lòng trung trinh) (Tống Ngô Đình Oánh trí sĩ thi - Nguyễn Huy Oánh); Phong sƣơng thất cổn tứ triều di (Sƣơng gió trải bốn triều, bảy chục tuổi còn sót lại) (Tiễn trí sự kinh doãn Nguyễn Công Trứ - Vũ Phạm Khải). Là những ngƣời bạn thân thiết trong nhóm trí thức tiêu biểu của đất kinh thành giai đoạn đầu thế kỵ XIX, Vũ Tông Phan và Nguyễn Văn Siêu đã có mối giao tình keo sơn gắn bó. Tiễn bạn về kinh chờ bổ dụng, Vũ Tông Phan nhắc nhở khoảng thời gian đã hơn mƣời năm qua: Tƣơng tƣơng hồi thủ tức Đào Nguyên/ Nhất thập niên dƣ thủy xuất môn (Cùng dắt nhau quay lại chốn Đào Nguyên, Hơn chục năm rồi anh mới xuất môn) (Tống phó bảng Nguyễn Phƣơng Đình chi kinh hậu bổ).
Ngoài những dấu mốc cụ thể, thời gian quá khứ còn đƣợc đo lƣờng bằng những con số phiếm chỉ, không xác định theo kiểu nhƣ lâu rồi, cuộc chia tay lần trƣớc, từng
123
nhớ... Tất cả những cách định vị nhƣ vậy mang tới cho các bài thơ tống biệt cảm hứng hoài cổ về một khoảng thời gian dài đã qua. Điều này, khiến cho tâm trạng ngƣời đi, kẻ ở thêm bùi ngùi, xúc động.
Bên cạnh việc tái hiện thời gian trong quá khứ, thơ tống biệt giai đoạn này viết nhiều về thời gian trong tƣơng lai. Đây là kiểu thời gian của mong ƣớc, của hy vọng, của niềm tin tƣởng... So với thời gian quá khứ, thời gian tƣơng lai đƣợc nói tới nhiều hơn. Điểm nổi bật dễ nhận thấy nhất của kiểu thời gian này đó là viết về tƣơng lai gắn với những điều tƣơi sáng, tốt đẹp cùng rất nhiều hy vọng về bổng lộc, tƣớc vị. Những bài thơ tiễn bạn đi sứ của Ngô Thì Nhậm tiêu biểu cho cách thể hiện thời gian này nhƣ bài Tống hữu Bắc sứ: Quy biền tái tích sủng quang (Xe sứ trở về, ân sủng mới sẽ ban),bài Thƣ tiễn thị lang điển ngọc hầu phụng sứ: Chỉ nhật đàm công triều đế khuyết/ Mai hoa chiếm thủ cẩm bào xuân (Chẳng bao lâu sẽ về chầu cửa khuyết để dâng công trạng/ Chiếm đƣợc hoa mai, khiến áo cẩm bào đẹp vẻ xuân), bài Tống binh bộ tả phụng nghị nghi thành hầu phụng sứ: Tình tiết hồi triều bình hiệp bốc/ Hoàng phi ấn khoán cánh tăng quang (Cờ sứ trở về triều, điềm lành hợp quẻ bói/ Thêm rực rỡ khoán thƣ nơi gác vàng)...
Thời gian tƣơng lai còn là thời gian của sự sum họp. Tiễn bạn, Nguyễn Huy Oánh tƣởng tƣợng ra ngày bạn trở về cùng nhau thù tạc bên chiếu rƣợu. Khung cảnh bình dị, tao nhã đã giúp cuộc tiễn đƣa không bi lụy, buồn bã mà tràn đầy niềm hy vọng cho ngày gặp mặt: Tƣơng bồi ứng tại quy diêu nhật/ Chƣớc nhƣợng châm hòa, điệt chủ tân (Bồi tiếp nhau có lẽ nên để đến ngày quay xe trở về, (lúc ấy) chủ khách thay nhau rót mời, thù tạc thân thiết) (Tống Quế Bình huyện chánh đƣờng Ngô Chí Quản). Phạm Đình Hổ tiễn bạn lại tƣởng tƣợng ngày cùng trở lại nơi Hồ Gƣơm để hứng gió mát, một tƣơng lai bình dị mà không kém phần tao nhã: Lâm kì ƣớc lƣợc quy lai nhật/ Mãn tụ thanh phong phản Kiếm hồ (Lúc chia tay, ƣớc hẹn ngày về, Trở lại bên Hồ Gƣơm hứng gió mát đầy tay áo) (Tống Liên Cừ Mai Công phó Vị Hoàng). Tiễn em, Nguyễn Đề lại nói về thời gian tƣơng lai mang ƣớc vọng sum hợp gia đình với tiếng cƣời ríu rít của con trẻ: Dự toán hồi lai chân lạc thú/ Nghinh môn trĩ tử tiếu hy hy (Dự tính khi trở về thật là vui thú, Lũ trẻ đón trƣớc cửa tiếng cƣời ríu rít) (Tống Tố Nhƣ đệ tự Phú Xuân kinh Bắc hoàn - tứ thủ)...
Thời gian tƣơng lai có khi đƣợc khẳng định một cách đầy tin tƣởng về ngày gặp lại: Đáo đắc tƣơng phùng hựu cách niên (Chúng mình sẽ gặp mặt nhau, cách một năm nữa thôi) (Long Hồ biệt Nguyễn Nguyên) nhƣng cũng có lúc lại là thời gian tƣơng lai của mịt mờ, vô vọng. Kiểu thời gian này thƣờng đƣợc đặc trƣng bằng cách đặt câu hỏi với các từ để hỏi nhƣ hà nhân, hà nhật trong một số bài thơ tống biệt của Nguyễn Văn Lý nhƣ Phong sƣơng giang thƣợng biệt/ Hậu hội thị hà nhân (Từ biệt nhau trên sông trong gió sƣơng, Lần gặp nhau sau biết có nhân duyên nào?) (Tống Nguyễn Tử Hựu miễn tội Ninh Gia); Hà nhật luận văn trùng ác thủ (Đến ngày nào mới đƣợc cầm tay cùng bàn luận văn chƣơng) (Đông Chí bôi thứ thƣ tiễn Định Tƣờng niết sứ Cao Hi Phùng) hoặc thơ tống biệt Cao Bá Quát: Hà nhật trùng phùng khả hữu kỳ/ Tức kim huề thủ cộng thƣơng ly (Ngày
124
nào gặp lại nhau có thể hẹn đƣợc chứ, Cầm tay nhau lúc này mà đau cho cảnh biệt ly) (Đồng Thƣợng Ẩn cử nhân dạ thoại nhân tống chi biệt). Chia tay mà không hẹn ngày gặp lại càng làm cho cuộc chia ly thêm bùi ngùi, đau thƣơng và lƣu luyến bịn rịn hơn. Tuy nhiên, kiểu thời gian tƣơng lai không xác định nhƣ thế này thƣờng ít xuất hiện. Phần lớn, những bài thơ tống biệt giai đoạn này nói nhiều về thời gian tƣơng lai trong tƣởng tƣợng đầy hy vọng, tốt đẹp, vui vẻ.
Sự đan xen quá khứ - hiện tại – tƣơng lai thể hiện trạng thái lặp đi lặp lại của những cuộc đƣa tiễn - hội ngộ - đƣa tiễn: Khứ niên tƣơng biệt Đức Giang đầu/ Thùy liệu kim tiêu Nhĩ Thủy lâu (Năm ngoái mới chia tay nhau trên bến Đức Giang, Ai ngờ đêm nay lại tiễn nhau tại lầu bên sông Nhị Hà) (Tiễn Thuận An tri phủ Nguyễn Tuân Phủ chi kinh - Vũ Tông Phan), Khứ niêm tống xuân hoàn ngộ quân/ Kim niên tống quân kiêm tống xuân (Năm ngoái tiễn xuân rồi lại gặp ông, Năm nay tiễn ông lẫn tiễn xuân) (Tống xuân khúc tống Nguyễn Quảng Thúc (Tƣờng Phố) Nam quy - Phạm Phú Thứ)... Cách thể hiện nhƣ thế tạo cảm giác những cuộc đƣa tiễn và hội ngộ giống nhƣ bánh xe quay không bao giờ có điểm dừng, cứ gặp mặt rồi lại chia tay, chia tay chắc chắn sẽ có ngày gặp lại. Trong vòng bánh xe quay ấy, con ngƣời vừa chịu sự chi phối của quy luật, vừa bình thản đón nhận nó nhƣ cách nhìn thời gian chảy trôi vĩnh hằng của ngƣời trung đại. Nỗi nhớ xa cách nén vào trong lòng: Hƣơng thủy lâm ly nhật mộ vân, Tô giang tống khách hựu phùng quân. Tƣơng tƣ mạc tả Giang Nam tự, Mai liễu lai thì cánh nhất xuân.
Lần trƣớc) mây chiều (giăng) sông Hƣơng lúc sắp chia tay, (lần này) tiễn khách ở sông Tô lại gặp ông. Nhớ nhau chớ viết chữ Giang Nam, Lúc mai liễu đến lại một lần xuân.
(Tiễn sứ bộ hành nhân, kỳ nhất - Cao Bá Quát)
Thể hiện thời gian đan xen quá khứ - hiện tại - tƣơng lai không phải là cách thể hiện mới trong thơ tống biệt. Tuy nhiên, nếu nhƣ ở giai đoạn trƣớc thế kỵ XVIII, đặc biệt là giai đoạn Lý Trần, thơ tống biệt chủ yếu dừng lại ở đối tƣợng đƣa tiễn là các sứ giả, mối quan hệ của ngƣời tiễn với đối tƣợng này phần lớn mang tính chất xã giao nên thời gian đƣa tiễn đƣợc tái hiện thƣờng là thời gian hiện tại. Sự gắn bó giữa ngƣời đi, kẻ ở không đủ dài để gợi đƣợc thời gian quá khứ. Thơ tống biệt giai đoạn này chủ yếu là tống biệt bạn bè trong đó nhiều bạn bè thân thiết, tri âm, tri kỉ nên thời gian đa chiều đƣợc thể hiện rõ nét hơn. Thời gian đan xen đã giúp cảm xúc thơ tống biệt có chiều sâu và đồng thời giúp ngƣời tiễn giãi bày trọn vẹn những kỵ niệm, những cảm xúc trong ngày tiễn đƣa. 4.3. Ngôn ngữ nghệ thuật và thể loại 4.3.1. Ngôn ngữ nghệ thuật 4.3.1.1. Nghệ thuật sử dụng điển cố, thi văn liệu Hán học
Xuất phát từ quan niệm cái đẹp thuộc về quá khứ, cái đẹp là khuôn mẫu của tiền nhân và quan niệm “thuật nhi bất tác” (làm theo và không sáng tạo), việc sử dụng điển cố, thi văn liệu Hán học vào sáng tác thơ văn trở thành một trong những đặc điểm thi
125
pháp ngôn ngữ cơ bản của văn học trung đại. Điển cố đƣợc hiểu là “sự việc hay câu chữ trong sách đời trƣớc đƣợc dẫn trong thơ văn” [99, tr 318] hoặc là “viết gọn chuyện cũ lời xƣa thành đôi ba câu chữ để đƣa vào trong văn chƣơng” [99, tr 3]. Thi văn liệu là nguồn tƣ liệu lấy từ các trƣớc tác văn chƣơng của ngƣời đi trƣớc. Ngƣời đời sau có thể mƣợn một từ ngữ, câu thơ/văn, sử dụng một hình tƣợng hoặc sử dụng ý trong các trƣớc tác đó vào sáng tác của mình. Dƣơng Quảng Hàm trong công trình Việt Nam văn học sử yếu đã khẳng định sự đa dạng của cách sử dụng điển cố, thi văn liệu nhƣ sau: “có thể mƣợn 1 sự tích xƣa hay một câu thơ, câu văn cổ để diễn tình ý của mình nhƣng không kể rõ việc ấy hoặc dẫn cả nguyên văn mà chỉ dùng một vài chữ để ám chỉ việc ấy hoặc câu văn ấy” [39, tr 183]. Sử dụng điển cố, thi văn liệu không chỉ giúp cho các sáng tác hàm súc, lời ít, ý nhiều mà đây còn là cách thức giúp diễn tả và truyền tải thấu đạt nội dung tƣ tƣởng của tác phẩm. Đồng thời, việc sử dụng điển cố, thi văn liệu cũng phần nào chứng tỏ đƣợc sự uyên bác, tinh thông kinh sử của ngƣời sáng tác. Cũng giống nhƣ các sáng tác thơ trung đại, thơ tống biệt giai đoạn thế kỵ XVIII - XIX sử dụng khá nhiều điển cố, thi liệu Hán học. Làm rõ hơn cho vấn đề này, ngƣời viết trình bày trên ba phƣơng diện: số lƣợng, xuất xứ nguồn gốc và nội dung, ý nghĩa nổi bật của việc sử dụng điển cố, thi văn liệu trong thơ tống biệt giai đoạn thế kỵ XVIII - XIX.
Về số lƣợng, tần số xuất hiện Do tính chất phức tạp của việc xác định điển cố, thi văn liệu nên những số liệu về số lƣợng khảo sát đƣợc chỉ mang tính chất tƣơng đối. Theo đó, số lƣợng điển cố, thi văn liệu trong 515 bài thơ tống biệt giai đoạn thế kỵ XVIII - XIX là khoảng 418 (266 điển cố và 249 thi văn liệu). Những tác giả sử dụng nhiều điển cố, thi văn liệu là Nguyễn Huy Oánh (khoảng 2,125 điển cố, thi văn liệu/bài), Nguyễn Xuân Ôn (khoảng 2,75 điển cố, thi văn liệu/bài), Phạm Thận Duật (khoảng 2 điển cố, thi văn liệu/bài)... Một số tác giả sử dụng điển ít nhƣ Miên Thẩm (khoảng 0,28 điển cố, thi văn liệu/bài), Nguyễn Thông (khoảng 0,46 điển cố, thi văn liệu/bài)... Một số tác giả có nhiều thơ tống biệt nhƣng số lƣợng điển cố, thi văn liệu xuất hiện trong sáng tác không quá nhiều: Nguyễn Văn Lý (khoảng 0.86 điển cố, thi văn liệu/bài), Phạm Phú Thứ (0,89 điển cố, thi văn liệu/bài)... Nhìn chung, số lƣợng điển cố, thi văn liệu trong các bài thơ tống biệt giai đoạn này dao động trong khoảng từ 0,5 - 1 điển cố, thi văn liệu/bài.
Về nguồn gốc, xuất xứ Cũng giống nhƣ thơ bang giao, thơ đi sứ hay phần lớn những tác phẩm thơ ca trung đại, các điển cố, thi văn liệu sử dụng trong thơ tống biệt giai đoạn thế kỵ XVIII - XIX thƣờng có hai nguồn gốc xuất xứ. Thứ nhất, là xuất xứ từ các sách sử và truyện kinh điển của Nho giáo nhƣ Luận ngữ, Kinh Thi, Kinh Dịch, Hậu hán thƣ, Kinh Xuân Thu, Tả truyện, sách Tôn Tử, Trang Tử... Thứ hai, là lấy thi liệu từ sáng tác của các tác giả nổi tiếng Trung Hoa nhƣ Đỗ Phủ, Lý Bạch, Bạch Cƣ Dị, Đào Tiềm... Tuy nhiên, một số tác
126
giả có những dấu ấn riêng trong việc sử dụng điển. Nguyễn Huy Oánh, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích thƣờng sử dụng những điển có xuất xứ từ Kinh Thi, Kinh Dịch, Tấn Thƣ, Luận ngữ... Một số tác giả nhƣ Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Văn Siêu hay sử dụng những điển nói về các nhân vật nổi tiếng... Cao Bá Quát lại thƣờng trích dẫn những trƣớc tác nổi tiếng nhƣ các bài Tống Hạ Giám quy Tứ Minh, Hành lộ nan của Lý Bạch, Vị thành khúc của Vƣơng Duy, Quy khứ lai từ của Đào Tiềm... Trong các tác giả đã khảo sát, Phạm Phú Thứ là trƣờng hợp tiêu biểu. Ông là ngƣời duy nhất dùng hình thức tập Đƣờng để sáng tác thơ tống biệt. Bài Tập Đƣờng tiễn Hoài Nhơn tri phủ võ thụ ích phó lỳ của ông lấy thơ của Hồ Tú, Tiền Khởi, Triệu Hỗ, Đỗ Mục, Bạch Cƣ Dị, Cao Thích, Lƣu Vũ Tích gom lại mà thành. Có những bài thơ, ông sử dụng rất nhiều điển cố, thi văn liệu khác nhau ở các nguồn khác nhau để cùng biểu thị một nội dung. Bài Tống thị giảng học sĩ Hoàng Tĩnh Trai quy tỉnh có tới 8 điển/21 câu để cùng nói về đạo hiếu của con cái với cha mẹ: Lập sử thốn thảo thù xuân huy (lấy từ Đƣờng thi, ý nói con cái khó báo đáp đƣợc cha mẹ), xuân huyên dƣ cổ hy (lấy từ Đƣờng thi, ý nói con ngƣời sống đƣợc 70 tuổi xƣa nay hiếm), Đình giai chi ngọc ấm phƣơng phi (lấy từ câu nói của Tấn Tạ Huyền, ý nói con cháu nên ngƣời tuấn kiệt, Lão Lai (ngƣời nƣớc Sở, nổi tiếng chí hiếu), trú cẩm (lời nói của cổ nhân, ý nói vinh quy phụng dƣỡng cha mẹ, Thừa hoan khẳng sử ý tử vi (sách Luận ngữ, ý nói con ngƣời thờ cha mẹ không đƣợc làm trái đạo lý, Đông ôn tảo kiến trình gia ky (lấy điển từ trong Kinh Lễ, ý nói về việc phụng dƣỡng cha mẹ), Nam cai (lấy từ bài Quốc phong trong Kinh thi, ý tả ngƣời con phụng dƣỡng cha mẹ). Hiện tƣợng này cũng có thể tìm thấy ở một số tác phẩm của một số tác giả khác nhƣ bài Nghĩ tiễn mỗ quan phụng Bắc sứ của Nguyễn Hành (5 điển cố, thi văn liệu/bài), Tiễn Lê Trung Lƣợng thăng thụ Bình Thuận án sát chi lỳ, Tiễn Khánh Hòa án sát sứ Phạm Văn Bính phó lỳ chi thứ của Nguyễn Xuân Ôn (5 điển cố, thi văn liệu/bài), Đại Quỳnh Côi tiễn chiêu viễn tƣớng quân chánh sứ của Đoàn Nguyễn Tuấn (5 điển cố, thi văn liệu/bài)... Nhƣ vậy có thể thấy xuất xứ, nguồn gốc các điển cố, thi văn liệu trong thơ tống biệt giai đoạn này tƣơng đối phong phú, đa dạng và việc vận dụng cũng có những nét khác biệt nhất định ở các tác giả. Về ý nghĩa của việc sử dụng điển cố, thi văn liệu Hán học Giá trị các điển cố, thi văn liệu trong sáng tác thƣờng đƣợc thể hiện trên hai khía cạnh. Khía cạnh thứ nhất là giá trị tự thân của nó, đó chính là tính lịch sử, cụ thể mà bản thân điển tạo ra. Khía cạnh thứ hai là tính biểu trƣng khi đƣợc vận dụng vào trong sáng tác. Tính biểu trƣng này chính là yếu tố tạo nên giá trị ý nghĩa đích thực cho các điển cố, thi văn liệu. Do vậy, điều quan trọng khi xem xét các điển cố, thi văn liệu trong sáng tác thơ văn không đơn thuần là chỉ ra sự tồn tại, nguồn gốc, xuất xứ của điển mà quan trọng hơn là chỉ ra đƣợc ý nghĩa, giá trị mà nó mang lại. Một số công trình nghiên cứu về thơ trung đại đã khẳng định những giá trị khác nhau của việc sử dụng điển cố, thi văn liệu. Điển cố, thi văn liệu trong thơ bang giao thế kỵ X - XIV chủ yếu
127
gắn liền với những vấn đề liên quan tới công việc bang giao và cảm xúc của các nhà ngoại giao trong cả quá trình đi sứ, tiếp sứ [117, tr 133]. Trong thơ Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh điển cố, thi văn liệu thƣờng dùng để hƣớng đến hình mẫu xã hội Nghiêu Thuấn lí tƣởng [70, tr 126]. Trong thơ đi sứ Việt Nam từ cuối triều Lê đến đầu triều Nguyễn, điển thƣờng gắn với những vấn đề liên quan đến công việc sự vụ và cảm xúc của sứ thần trên hành trình đi sứ [149, tr 126]. Với thơ tống biệt trung đại Việt Nam giai đoạn thế kỵ XVIII - XIX, việc sử dụng điển cố, thi văn liệu cũng góp phần thể hiện những nội dung ý nghĩa nhất định.
Trƣớc hết, vì là thơ tống biệt nên các điển cố, thi văn liệu đƣợc sử dụng thƣờng biểu trƣng cho sự chia ly, chia tay, đi xa - chủ đề trực tiếp của thơ tống biệt. Các điển cố, thi văn liệu nói về việc chia ly, chia tay thƣờng đƣợc nhắc tới là những địa điểm nhƣ Giang Nam, Cầu Bá Lăng... hay chỉ những sáng tác nghệ thuật nhƣ Khúc Dƣơng Quan, khúc Bạch Tuyết, khúc Ly câu... các tích truyện nhƣ chiết liễu... Cách vận dụng điển cố, thi văn liệu trong từng bài thơ tống biệt khá đa dạng. Bài thơ Vị thành khúc của Vƣơng Duy đời Đƣờng là bài thơ nổi tiếng tả cảnh tiễn biệt. Trong bài Giáp ngọ quỹ xuân hƣơng thi sắc chỉ phân tông hà trung huấn đạo Nguyễn Khê phó giáo sở ứng vụ, ngã diệc đính kỳ tựu nam ty dĩ, Phan Huy Ích dùng cụm từ Dƣơng quan từ khúc. Cao Bá Quát, trong bài Tẩu bút tặng Nguyễn Giản Phu, lại lấy ý trong câu khách xa thanh thanh liễu sắc tân để miêu tả hình ảnh liễu chi thu nhƣng trong bài Tiễn Đông Dƣ Nguyễn Các lão phụng sứ nhƣ Thanh (kì tam) ông lại dùng cụm từ Dƣơng quan đệ tứ thanh dựa trên bài Vị thành khúc có 4 câu, câu 1 hát 1 lần, câu 2 hát 2 lần, qua câu 3 gọi là đệ tứ thanh. Phạm Phú Thứ thì dùng cách gọi tên Vị thành (trong bài Tống gia huynh cử nhân Bá Thông Thị nhu thứ Bình Định) hay Dƣơng quan vận (trong bài Bộ Chuyết Viên Công tống Bắc Ninh án sát Diệu Thúc nguyên vận tái ký Diệu Thúc) để nói về điển này... Sự đa dạng trong cách diễn đạt không chỉ thể hiện sự vận dụng linh hoạt của các tác giả mà còn giúp cho mỗi bài thơ tống biệt có những nét sắc thái riêng. Tất cả những điển cố, thi văn liệu nói về sự chia xa, chia ly bên cạnh ý nghĩa gợi cảm hứng biệt ly còn giúp thể hiện sâu sắc tâm trạng, cảm xúc của nhân vật trữ tình trong cuộc tiễn đƣa. Điều đặc biệt là giá trị biểu trƣng xúc cảm ở cùng một điển khá linh hoạt. Ví dụ tiêu biểu nhƣ điển Giang nam. Trong bài Tiễn sứ bộ hành nhân (kì nhất), Cao Bá Quát dùng điển này để làm cho mối sầu ly biệt trong ý thơ tăng thêm bội phần. Trong bài Tống Nguyễn Thiện Quan trì tiết Gia Định kiêm lãnh sự của Nguyễn Thông, điển này lại lấy ý từ thơ Đỗ Phủ (Ngƣời ở vị Bắc mùa xuân trồng cây, ngƣời ở Giang Nam buổi chiều trông mây) để thể hiện cho nỗi nhớ bạn bè da diết. Trong thơ Phạm Đình Hổ, bài Hy ngôn huynh lai phỏng tống biệt chi tác lại nhắc tới mộng Giang Nam nhƣng lấy ý từ bài Ai Giang Nam phú của Dữu Tín thời Nam Bắc triều để nói về nỗi nhớ quê... Sự linh hoạt này đã góp phần làm cho các điển nói về chia ly, xa cách thể hiện trọn vẹn hơn các cung bậc cảm xúc của ngƣời tiễn.
128
Bên cạnh các điển nói đến chia ly, chia tay, thơ tống biệt giai đoạn này còn có nhiều điển cố, thi văn liệu thể hiện trực tiếp lý do đƣa tiễn. Khi đọc những bài thơ xuất hiện điển về Trƣơng Khiên, Ban Siêu, Kinh Kha, thơ Hoàng Hoa, sà Hán, bè sao, ngân hà... ngƣời đọc có thể biết đƣợc chính xác lý do đƣa tiễn là tiễn ngƣời đi sứ. Ngoài ra, những điển này còn gợi tả đƣợc mức độ quan trọng cũng nhƣ những khó khăn, vất vả, thậm chí là không hẹn ngày trở về của ngƣời đi. Những bài thơ tống biệt ngƣời về quê thƣờng sử dụng các điển trong thơ Lý Bạch (toại y sơ), Đào Tiềm (gác lê) hay điển về Trƣơng Hàn trong Tấn thƣ (rau thuần, rau nhút)... Trƣơng Hàn làm quan ở xa, gặp lúc mùa thu, chợt nhớ món canh rau thuần gỏi cá vƣợc ở nhà nên quyết ý từ quan về quê. Đào Tiềm làm bài Quy khứ lai từ để nói về thú vui ẩn dật. Lý Bạch viết bài Tống Hạ Giám qui Tứ Minh ứng chế để nói về việc khƣớc từ vinh lộc, mặc áo ngày trƣớc... Tất cả những điển cố, thi văn liệu này thể hiện sự đồng cảm sâu sắc của ngƣời tiễn đối với khát vọng trở về của ngƣời đi.
Ngoài ra, còn có thể tìm thấy rất nhiều điển cố, thi văn liệu nhắc tên những nhân vật nổi tiếng Trung Hoa trong các bài thơ tống biệt thế kỵ XVIII - XIX. Có thể đó là những tấm gƣơng hiếu nghĩa nổi tiếng nhƣ Lão Lai, Mẫn Tử Khiên, Tăng Sâm, Mao Nghĩa... Những tác giả văn học nổi tiếng nhƣ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cƣ Dị, Khuất Nguyên... đôi lúc cũng đƣợc nhắc đến. Cũng có khi là những nhân vật tài năng, đức độ, những vua sáng, tôi hiền, những học giả, những tƣớng giỏi nhƣ Nghiêu, Thuấn, Thiệu Bá, Cao Dao, Nguyên Hiệu, Đồng Tuân, Phả, Mục, Mao Toại, Quai Nhai, Nguyên Long, Tào Thứ, Trịnh Giải, Dƣơng Hùng, Giả Nghị, Tín Lăng Quân... hoặc những ngƣời có phẩm chất cao đẹp, không màng danh lợi, tiết sạch giá trong nhƣ Hàn Tửu, Phạm Chu, Hƣu Văn, Trƣơng Hà, Lỗ Trọng Liên, Tạ Đông Sơn, Thiếu Du... Cách vận các dụng các điển trên cũng rất linh hoạt. Nổi bật nhất là ngƣời tiễn thƣờng so sánh những nhân vật kiệt xuất này với ngƣời đi để thể hiện cảm hứng ngợi ca, thái độ trân trọng, lòng tin tƣởng hay gửi gắm những ƣớc vọng của mình. Nhiều khi, trong một bài thơ tống biệt, có sự kết hợp của rất nhiều tên những nhân vật nổi tiếng. Nói về học sĩ Vũ Thái Sứ, Phạm Phú Thứ đã so sánh ông với bốn ngƣời là Hàn Tín, Bạch Khởi, Tiết Đào Âu Dƣơng Tu để ngợi ca sự nghiệp lẫy lừng cũng nhƣ tài năng văn chƣơng nổi tiếng (bài Tống trực học sĩ Vũ Thái Sử hồi Ninh Bình thƣơng biện phỏng thủ). Tiễn bạn về quê thăm cha mẹ Nguyễn Văn Siêu so sánh bạn với Mao Nghĩa, Lão Lai là những tấm gƣơng nổi tiếng hiếu nghĩa (bài Nam Định Nguyễn Niết Đài xuân phong sớ thỉnh hồi Gia Định tỉnh thân trí thƣ từ biệt nhân ký tặng). Trong bài Tống Bình Vọng tỉnh nguyên Lê Thúc Sƣớng, Cao Bá Quát gọi bạn là Ƣng Khanh - một ngƣời đất Nhữ Nam, nƣớc Ngụy thời Tam Quốc, có tài về văn chƣơng nhƣ là cách để ngầm ngợi ca tài năng văn chƣơng của bạn. Tuy nhiên, cũng có khi những điển về các nhân vật nổi tiếng lại gắn với những trạng thái cảm xúc khác nhau của ngƣời tiễn. Để an ủi một ngƣời bạn bị
129
giáng bổ giáo thụ phủ Đức Thọ, Nguyễn Văn Lý nhắc đến điển Giả sinh - một ngƣời cũng đã từng bị gièm pha, Hán Văn Đế phải cử ông đi Trƣờng Sa, một thời gian nhớ quá lại vời về nhà Tuyên thất chuyện trò thâu đêm (Bài Tống niên huynh bộ hộ viên ngoại lang Phạm Quân giáng bổ Đức Thọ phủ giáo thụ). Cũng có lúc, những điển về các nhân vật nổi tiếng đƣợc ngƣời tiễn dùng để nói về chính mình. Trong bài Hƣng Yên đốc học Nguyễn Văn Lý tuân triêu lai kinh, lâm biệt tác, Vũ Phạm Khải nhắc tới Hàn Dũ và Thiếu Lăng là những ngƣời đã từng can gián vua và phải sống một cuộc đời gian khổ luân lạc để ví với tính cách cƣơng trực và cảnh ngộ tƣơng tự nhƣ mình. Tiễn học trò, Nguyễn Khuyến nhắc đến Huyền Án tiên sinh tức Hoàng Phú Dật, một ẩn sĩ đời Tấn để tự ví với mình đồng thời thể hiện cảm xúc của ngƣời ẩn dật bất đắc chí (Bài Tiễn môn đệ Nghĩa Định sứ quân Lê Nhƣ Bạch, nhân ký kinh thành chƣ môn đệ II)...
Nét đặc sắc nhất của việc sử dụng điển cố, thi văn liệu trong thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX có lẽ là cách vận dụng điển linh hoạt và khéo léo để thể hiện những vấn đề thời sự nóng hổi của một thời kì có nhiều biến cố và rất rối ren. Đặc trƣng cơ bản của việc dùng điển cố là thƣờng gợi cảm hứng cổ, cũ, xƣa. Tuy nhiên, một số điển cố trong thơ tống biệt giai đoạn này lại thể hiện hơi thở thời đại. Là một nhà thơ cũng là một trong những ngƣời rất tích cực trong phong trào kháng Pháp, Nguyễn Quang Bích đã có thời gian đóng quân tại các tỉnh miền núi phía Bắc. Bài thơ Tống qui nhân có lẽ đƣợc sáng tác trong khoảng thời gian đó bởi hai câu đầu ông viết: Tịch mịch sơn đầu chƣớng hựu yên, Mƣu sinh vô kế nhật nhƣ niên (Trên đỉnh núi vắng ngắt, chỉ có khói và hơi lam chƣớng, Không có cách mƣu sinh nên ngày dài nhƣ năm). Ở hai câu luận ông dùng điển chẩm qua miên. Điển này nói về việc Ngũ Hồ đánh chiếm Trung Quốc, tƣớng nhà Tấn là Lƣu Côn kê đầu lên ngọn giáo suốt đêm không ngủ đợi trời sáng để ra đánh giặc. Sách chữ Hán có câu Chẩm qua đãi dán có nghĩa là kê đầu lên ngọn giáo đợi trời sáng. Điển này đã thể hiện rõ cho hoàn cảnh đầy cam go, chỉ có cách duy nhất là chờ đợi thời cơ mà ngƣời tiễn - tác giả đang phải trải qua: Thân thế dĩ cam tùy hóa chuyển, Nghĩa sƣ do thị chẩm qua miên (Thân thế đã đành theo con tạo chuyển vần, Nghĩa quán đƣơng còn gối giáo nằm đợi). Thơ tống biệt Nguyễn Xuân Ôn không nhiều, nhƣng hầu hết những điển trong thơ của ông đều đƣợc vận dụng rất sáng tạo để kín đáo gửi gắm tình hình thời sự của đất nƣớc. Bài Tiễn Lê Trung Lƣợng thăng thụ Bình Thuận án sát chi lỳ có câu: Tru tri U, Kế Trung Nguyên vật, Tuyệt dạ quân vƣơng hạ cẩm nhân (Phải biết rằng Châu U, Châu Kế là đất Trung Nguyên, Đêm tuyết nhà vua xuống ngồi nơi nệm gấm). Câu đầu lấy điển về châu U, Kế là hai châu của Trung Quốc, Thạch Kính Đƣờng đời Ngũ quí cắt nhƣờng cho nƣớc Khiết Đan. Ông vận dụng điển này để ý nói Nam Kỳ đã bị giặc Pháp chiếm đóng. Câu thứ hai đƣợc lấy từ điển Tống Thái Tổ một đêm trời mƣa tuyết rất lớn, đến nhà ông Triêu Phố, ngồi trên nệm gấm, uống rƣợu cùng bàn chuyện thiên hạ. Ở đây ý nói vua tôi cần lo lắng đến việc lấy lại Nam Kỳ đã bị mất.
130
Trong bài Tiễn Khánh Hòa án sát sứ Phạm Bính phó lỳ chi thứ ông có dùng điển Tần đình nói về một cái đình ở đất Giang Nam. Hồi Ngũ Hồ chiếm giữ Trung nguyên, sĩ phu chạy sang Giang Nam lên đình này trông phong cảnh mà than khóc với nhau. Điển này đƣợc sử dụng để ý nói phong cảnh nƣớc ta hồi đó cũng giống nhƣ lúc các sĩ phu ngắm cảnh ở Tân đình. Trong bài Nghĩ tiễn biệt Lý Nguyễn Tán Tu chi Bắc Ninh bố chánh ông có dùng điển Tỏa thƣợc. Tỏa thƣợc nghĩa là chìa khóa, trong Tống sử có viết Bắc môn tỏa thƣợc, nghĩa là cái khóa cửa Bắc. Ở đây ý muốn nói tới việc phải giữ gìn thành Bắc Ninh. Cách vận dụng điển sáng tạo nhƣ vậy rất có ý nghĩa khi thể hiện giá trị hiện thực, lịch sử, thời sự trong thơ tống biệt, đặc biệt ở giai đoạn nửa cuối thế kỵ XIX.
Nhƣ vậy, có thể thấy, ý nghĩa, giá trị của các điển cố, thi văn liệu trong thơ tống biệt thế kỵ XVIII - XIX tƣơng đối đa dạng, phong phú. Các điển cố, thi văn liệu không đơn thuẩn chỉ làm rõ cho đề tài chia ly, tống tiễn mà còn góp phần quan trọng thể hiện các cung bậc cảm xúc của ngƣời tiễn đối với ngƣời đi hoặc đối với chính mình. Đặc biệt hơn, một số điển đã đƣợc vận dụng linh hoạt để kín đáo thể hiện những vấn đề thời sự trong giai đoạn giao thời. Điều này đã góp phần làm cho thơ tống biệt gần hơn với hiện thực cũng nhƣ làm cho những yếu tố tƣởng nhƣ rất công thức, ƣớc lệ trở nên bình dị và bớt đi tính bác học, sáo rỗng. 4.3.1.2. Một số biểu tƣợng nghệ thuật
Biểu tƣợng đƣợc hiểu là “hình ảnh tƣợng trƣng” [89, tr 66], là “ hình thức của nhận thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong đầu óc sau khi tác động của sự vật vào giác quan đã chấm dứt” [89, tr 67]. Nhà nghiên cứu Đinh Hồng Thái trong cuốn sách Nghiên cứu biểu tƣợng, một số hƣớng tiếp cận lý thuyết đã khẳng định “có thể coi biểu tƣợng là những hình ảnh tƣợng trƣng do con ngƣời tạo ra, tồn tại trong đời sống của con ngƣời và có tác động đến đời sống văn hóa của con ngƣời” [115, tr 12]. Nhà nghiên cứu Trịnh Bá Đĩnh trong công trình Từ kí hiệu đến biểu tƣợng thì cho rằng: “Biểu tƣợng là sự chụp ảnh, tái tạo hiện thực, biểu tƣợng là sự ngƣng đọng của hiện thực. Ở biểu tƣợng dấu ấn cá nhân sáng tạo của nghệ sĩ nổi bật trong khi đó, ở biểu tƣợng, dấu ấn cộng đồng lại chiếm ƣu thế” [34, tr 30]. Ông cũng nhấn mạnh thêm: “Biểu tƣợng trong tác phẩm văn học là hình ảnh, biểu tƣợng nghệ thuật nhƣ biểu tƣợng trong các nghệ thuật khác (điêu khắc, kiến trúc, hội họa, điện ảnh...), nhƣng nó đƣợc tạo nên không phải bằng các vật liệu tự nhiên (gỗ, đá, bột màu...), mà bởi ngôn ngữ của con ngƣời. Mà ngôn ngữ, tự bản thân cũng là sản phẩm có tính tƣợng trƣng cao” [34, tr 39]. Nhƣ vậy, biểu tƣợng trong tác phẩm văn học, đƣợc coi là một loại biểu tƣợng nghệ thuật đặc biệt, đƣợc tạo nên bằng chất liệu ngôn ngữ, thể hiện dấu ấn cộng đồng và tác động đến đời sống văn hóa của con ngƣời. Khảo sát thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX chúng tôi nhận thấy có rất nhiều biểu tƣợng nghệ thuật tiêu biểu của thể tài này nhƣ dòng sông (xuất hiện trong gần 200 bài), liễu (xuất hiện trong khoảng 50 bài), rƣợu (xuất hiện trong khoảng 130 bài), con đƣờng (xuất hiện trong khoảng
131
127 bài), ngựa (xuất hiện trong khoảng 84 bài)... Mặc dù số lƣợng các biểu tƣợng khác nhau nhƣng chúng tôi thấy dòng sông, liễu, rƣợu là ba biểu tƣợng đƣợc thể hiện sâu sắc hơn cả.
Biểu tƣợng dòng sông Dòng sông vốn là biểu tƣợng gắn liền với nhiều cuộc chia tay. Đƣờng thi nổi tiếng với bài Hoài thƣợng biệt hữu nhân (Trên sông Hoài từ biệt bạn) của Trịnh Cốc. Chia tay bạn trên sông mà sầu buồn đến tan nát tâm hồn, nỗi buồn tƣởng nhƣ có thể giết chết con ngƣời và dòng sông nhƣ một ám ảnh của cả hai ngƣời trong cuộc tiễn đƣa: Dƣơng Tử giang đầu dƣơng liễu xuân/ Dƣơng hoa sầu sát độ giang nhân/ Sổ thanh phong địch ly đình vãn/ Quân hƣớng Tiêu Tƣơng, ngã hƣớng Tần (Bên sông Dƣơng Tử, dƣơng liễu đƣợm sắc xuân, Hoa dƣơng liễu khiến ngƣời qua sông buồn chết ngƣời/ Vài tiếng gió vi vút ở đình ly biệt chiều xuân/ Anh đi tới sông Tiêu Tƣơng, tôi đi tới đất Tần). Ca dao Việt cũng thƣờng viết về dòng sông nhƣ là nơi minh chứng cho những cuộc chia tay của các đôi trai gái và bến sông thƣờng ẩn dụ cho sự đợi chờ của ngƣời phụ nữ. Dòng sông cũng đi vào các cuộc tống tiễn trong thơ tống biệt nhƣ biểu tƣợng đặc trƣng của chia ly. Tác giả Vƣơng Di Ninh khi bàn về ý tƣợng nƣớc trong thơ tống biệt đời Đƣờng cũng chỉ ra các tác giả đã dùng cái dòng chảy không dứt của sông để so sánh với nỗi buồn không dứt khi biệt ly [202]. Theo khảo sát của chúng tôi, khoảng 200 bài thơ tống biệt Việt Nam thế kỵ XVIII - XIX có xuất hiện biểu tƣợng dòng sông. Đó có thể là dòng sông chia tay thực nhƣng cũng có thể là dòng sông tƣởng tƣợng hay hoài niệm. Dòng sông ấy thƣờng có tên gọi xác định nhƣng cũng có khi đƣợc gọi chung chung nhƣ giang, thủy, hải... Dòng sông không chỉ là là nơi đánh dấu mốc của cuộc chia ly, là ám ảnh chia biệt, là giới hạn không gian của sự xa cách mà nó dƣờng nhƣ còn là tác nhân làm tăng thêm mối sầu biệt ly. Dòng sông trở thành hoài niệm, nỗi nhớ, ƣớc vọng khi chia xa.
Dòng sông - dấu mốc ám ảnh của cuộc chia ly: Các bến sông không đơn thuần chỉ là nơi đánh dấu cho cuộc tống tiễn mà đôi khi nó còn trở thành một ám ảnh của cuộc chia ly. Biết bao lần chia tay tại dòng sông, những cuộc chia tay lặp lại trƣớc sông nƣớc mênh mông khiến con ngƣời không khỏi chạnh lòng và không khỏi bùi ngùi man mác bên sông nƣớc bao la. Cứ nhìn thấy sông là lại không nguôi cảm hứng chia biệt: Khứ niên tƣơng biệt Đức Giang đầu/Thùy liệu kim tiêu Nhĩ Thủy lâu/Hội ngộ tha thần ƣng vị bốc/Cƣ hành thử lý thuộc du du (Năm ngoái mới chia tay nhau trên bến Đức Giang/Ai ngờ đêm nay lại tiễn nhau tại lầu bên sông Nhị Hà/Cuộc gặp lại ngày sau hẳn chƣa biết trƣớc đƣợc/Thế cho nên kẻ ở ngƣời đi đều cảm thấy bến sông này bao la man mác (Tiễn Thuận An tri phủ Nguyễn Tuân Phủ chi kinh - Vũ Tông Phan). Hẹn nhau ở bến sông và chia tay cũng chính tại nơi bến sông hò hẹn ấy: Niên niên tính lại bộ giang đầu/ Khứ niên giang quán lai ban cúc /Dạ cộng Trừng Giang tống Vân Lộc/ Kim niên nguyệt hạ Giang Thụ Sào/ Cánh xƣớng Trừng Giang viễn hành khúc (Hằng năm họp nhau ở đầu sông/ Năm qua ở quán bên sông tới đem hoa cúc/ Ban đêm
132
cùng với Trừng Giang đƣa tiễn Vân Lộc/ Năm nay dƣới ánh trăng ở Giang Thụ Sào/ Lại hát khúc đi xa của Trừng Giang (Tống Trần tán tƣơng Tử Mẫn bắc phạt kiêm hoài bắc sứ Nguyễn Tuân Thúc - Phạm Phú Thứ). Bến sông đã đi vào tiềm thức và trở thành biểu trƣng trong thơ Phạm Phú Thứ để mỗi khi nhớ nhau lại nhớ về dòng sông: Tƣơng liên hà vật kham tƣơng tống/Minh nguyệt tƣơng tƣ Nhĩ Thủy đầu (Thƣơng nhau đâu biết lấy món gì mà tiễn biệt/Chợt nhớ lúc trăng sáng ở đầu sông Nhị) (Tống kiêm thảo Bùi Phác Nghĩa Hƣng tri phủ). Nhƣ vậy, sông vừa là nơi đánh dấu sự gặp gỡ, tiễn biệt vừa đi vào thơ tống biệt nhƣ một biểu trƣng, một ám ảnh cho sự ly biệt.
Dòng sông - giới hạn của sự xa cách: Không chỉ là dấu mốc ám ảnh của cuộc tiễn đƣa dòng sông còn nhƣ là giới hạn của sự xa cách. Dòng sông lúc này đƣợc chia làm hai nửa. Có những cuộc chia tay hai ngƣời chia biệt hai phƣơng trời và dòng sông là giới hạn cách ngăn: Kinh kỳ bán niên tằng cộng tháp/Giang can phân thủ các thiên biên (Nửa năm cùng chung giƣờng chiếu ở Kinh đô/ Trên bờ sông, chia tay nhau mỗi ngƣời một phƣơng trời) (Long Hồ biệt Nguyễn Nguyên - Phan Thanh Giản). Cũng có cuộc chia tay, một ngƣời sang sông và một ngƣời ở lại, dòng sông chia nửa cho ngƣời ở lại và nửa cho ngƣời rời đi: Giang Bắc giang nam vô hạn tình (Kẻ đi về phía Bắc sông, ngƣời ở lại phía nam sông, tình vô hạn) (Tống nhân - Nguyễn Du). Cái chung còn lại của hai nửa đó chính là xúc cảm của sự chia cách, rời xa. Ngƣời ở lại, chỉ biết ngóng trông, chỉ dõi theo ngƣời đi bằng ánh nhìn: Minh thần khƣớc vọng giang kiều lộ (Sáng mai lại trông ngóng về phía đƣờng cách sông, cách cầu) (Biệt Phạm Đôn Nhân Lang Trung - Cao Bá Quát). Dƣờng nhƣ ra khỏi bến sông ấy là con ngƣời đã hoàn toàn sang một không gian khác, một tâm thế khác: Giang cao hồi thủ kim chi miễn (Đứng đầu sông ngoảnh lại, bạn đã thấy mình tự do ra khỏi vòng nhập thế rồi) (Tặng Thổ Khối Nguyễn Kinh Lịch Bắc hồi - Cao Bá Quát). Giới hạn xa cách càng nhƣ dài rộng diệu vợi hơn bởi sông nƣớc mênh mang, bởi tâm thức con ngƣời: Trù tƣớng minh triêu thiên lý lộ/ Vỳ vân, Đằng nguyệt các du nhiên (Buồn nỗi sáng mai bác đã lên đƣờng ngàn dặm/ Mây sông Vỳ, trăng sông Đằng vời vợi cách xa) (Tặng hành nhân Nguyễn Đài - Nguyễn Khuyến). Nhƣ thế, dòng sông không còn là một ám ảnh nó còn nhƣ một vật cản hữu hình mà con ngƣời không thể vƣợt qua.
Dòng sông – dòng sầu biệt ly: Có những cuộc tống tiễn ở bến sông thật nhộn nhịp và náo nhiệt: Thịnh tiễn tức kim lâm Nhĩ Thủy (Buổi tiễn đƣa nay rộn rịp đến bến Nhĩ Thủy) (Phụng tiễn cửu thị Nhƣ Hành công Bắc sứ (hạ thọ lễ) - Nguyễn Hành). Nhƣng những cuộc chia tay ở bến sông vui vẻ, phấn chấn nhƣ thế không nhiều, phần lớn là những xúc cảm sầu buồn thƣơng nhớ. Trong tâm trạng ấy, dòng sông dƣờng nhƣ càng làm cho nỗi sầu biệt ly tăng thêm gấp bội. Nƣớc sông mênh mang nhƣ càng trào thêm những cơn sóng lòng: Xuân giang thủy khoát ba sầu lệ (Nƣớc sông xuân mênh mang, trào sóng lệ sầu) (Thu nguyệt tống nhân Bắc hoàn - Nguyễn Đề). Khảo sát biểu tƣợng này chúng
133
tôi thấy dòng sông thƣờng xuất hiện kèm với những cụm từ gợi cảm giác lạnh giá nhƣ phong sƣơng, hàn giang, hàn dạ, thủy hàn... Không gian sông nƣớc vốn đã mênh mang diệu vợi lại kết hợp thêm với hơi lạnh, gió sƣơng... càng làm cho lòng ngƣời thổn thức và nỗi buồn tê tái. Nguyễn Văn Lý tiễn bạn về quê trong tâm thế vốn không mấy vui vẻ lại thêm gió sƣơng mịt mờ bên sông khiến lòng ngƣời bâng khuâng tự hỏi không biết lần gặp nhau sau này còn có nhân duyên nào (Tống Nguyễn Tử Hựu miễn tội Ninh Gia ). Lần khác, tiễn bạn ở bãi sông Nhị gió bấc lạnh giá, tâm trạng con ngƣời càng thêm miên man (Tống Đốc Lâm Công Chất Hiên lai kinh điều dụng, phụng tiễn). Nƣớc sông đã lạnh lại vào thời gian buổi chiều, cái lạnh càng tăng thêm: Huy thủ tống quân khứ/Nhật mộ Hƣơng thủy hàn (Vẫy tay tiễn bác lên đƣờng/ Ngày về triều nƣớc sông Hƣơng lạnh ngắt). Cái lạnh của nƣớc sông hay chính là cái lạnh trong tâm hồn con ngƣời bởi ngay sau ý thơ là một cử chỉ đầy ngông cuồng và tâm trạng của Mẫn Hiên: Nhất tiếu vọng sơn đầu/ Trƣờng ca Hành lộ nan (Cƣời xòa một tiếng nhìn lên đỉnh núi /Hát vang lên khúc Hành lộ nan) (Trấn An lệnh tử chi nhiệm đặc lai tƣơng phỏng, kỳ hữu sở tặng, thƣ dĩ dữ chi - Cao Bá Quát). Ở một bài thơ tống biệt khác của Cao Bá Quát, thời gian buổi chiều còn nhƣ thúc giục vội vã cho chuyến lên đƣờng và vì thế mà lòng ngƣời càng thêm não nề: Giang đình tiêu hồn vãn cánh di (Thuyền trên sông về chiều càng đi nhanh, thêm nát lòng (Hối nhật Bắc quy, dụng khứ niên trừ dạ vận tấu biệt Trần, Phạm chƣ hữu).
Mối sầu biệt ly cũng nhƣ đƣợc nhân lên gấp bội khi đi cùng với dòng sông là biểu tƣợng ly bôi, ly ca. Trƣớc chén rƣợu ở đầu thuyền, con ngƣời buồn bã đến mức phiêu tán cả tâm hồn, một nỗi buồn biệt ly không thể đong đếm, không gọi thành tên, nó mênh mông nhƣ sóng nƣớc và nồng nàn nhƣ hơi rƣợu: Nhị thủy thuyền đầu tôn tửu lí/ Quan hà duy biệt tức hồn tiêu (Đầu thuyền trên sông Nhị, lúc đối diện với chén rƣợu (Trong chốn quan hà, chỉ khi chia biệt là buồn đến phiêu tán cả hồn) (Tuyên Quang niết sứ Bùi Hữu Trúc nội chuyển quốc sử quán Toản Tu, thƣ tiễn - Nguyễn Văn Lý). Dòng sông Hƣơng trong những cuộc chia tay ở thơ Phạm Phú Thứ hay song hành cùng biểu tƣợng ly ca: Hƣơng chử ly ca xƣớng Vị thành (Trên bến sông Hƣơng, khúc ly ca hát bài Vị thành) (Tống gia huynh cử nhân Bá Thông Thị nhu thứ Bình Định), Hƣơng chử ly ca tích vũ tình (Trên bến sông Hƣơng ngâm khúc ly ca, mƣa rào đã tạnh) (Tống đồng huyện cử nhân Lê Trọng vãng Bình Định huấn đạo)... Tự bản thân khúc ly ca đã gợi nỗi sầu buồn ly biệt nên khi cất lên nỗi sầu ấy nhƣ bao trùm cả không gian mêng mang của sông nƣớc. Có thể thấy, biểu tƣợng dòng sông khi đƣợc kết hợp với thời gian buổi chiều, với hơi lạnh giá của sƣơng gió hay với những biểu tƣợng nghệ thuật nhƣ ly bôi, ly ca vô hình nó đã trở thành tác nhân để nỗi sầu biệt ly tăng lên gấp bội.
Dòng sông – dòng của hoài niệm và ƣớc vọng: Dòng sông trong thơ tống biệt giai đoạn này đôi khi không phải là không gian thực mà nó đƣợc tái hiện bằng trí tƣởng tƣợng của ngƣời tiễn. Chúng tôi gọi là dòng sông của hoài niệm và ƣớc vọng. Dòng sông hoài niệm đến từ kí ức, nó gắn với những kỉ niệm giản dị mà da diết: Sạ
134
kiến phiên thành tích/ Tƣơng khan hốt cánh nghi/ Sổ bôi Điện giang tửu/ Nhị thủ Chí Đình thi (Mới gặp đã thành quen biết cũ/ Nhìn nhau bỗng càng ngờ/ Uống mấy chén rƣợu trên sông Điện Bàn/ Đọc cho tôi nghe hai bài thơ của Chí Đình (Tiễn cố nhân Bình Định học chính Trƣơng Giản Trai đắc giả hồi hƣơng - Cao Bá Quát). Những kỵ niệm đã trở thành nỗi nhớ, có lúc nỗi nhớ làm con ngƣời muốn lẩn trốn và lãng quên: Biệt lai bất trƣớc Tô giang mộng (Từ khi xa nhau chẳng còn mộng về sông Tô Lịch nữa) (Ký tiễn hoan niết Nguyễn Nhân Trai phó lị - Cao Bá Quát).
Dòng sông hoài niệm thƣờng khiến ngƣời tiễn day dứt thì dòng sông trong tƣởng tƣợng của ngƣời tiễn với ngày về lại thƣờng rất đẹp. Tiễn bạn về hƣu, Nguyễn Văn Lý đã hình dung không gian sông nƣớc đầy sắc xuân với oanh hót ríu rít: Nhất giang xuân sắc liễu đề oanh (Một dòng sông tràn đầy sắc xuân và oanh hót trên rặng liễu) (Đông Khanh Bùi Mão Hiên trí chính phụng tiễn). Tiễn bạn về quê, ngay mở đầu bài thơ, Phạm Phú Thứ đã gợi ra không gian sông Hƣơng tràn ngập ánh sáng: Hƣơng Giang ái nhật trừng thanh huy (Sông Hƣơng ƣu ái một ngày lắng trong sáng rỡ) (Tống thị giảng học sĩ Hoàng Tĩnh Trai quy tỉnh). Không gian sông nƣớc còn gợi trong lòng ngƣời tiễn khát vọng về sự sum họp: Lâm kì ƣớc lƣợc quy lai nhật/ Mãn tụ thanh phong phản Kiếm hồ (Lúc chia tay, ƣớc hẹn ngày về, Trở lại bên Hồ Gƣơm hứng gió mát đầy tay áo) (Tống Liên cừ Mai công phó Vị Hoàng)... Những hoài niệm và ƣớc vọng đã làm cho dòng sông trong các bài thơ tống biệt trở nên gần gụi, gắn bó và thân thuộc hơn rất nhiều trong tâm hồn, cảm nhận của ngƣời tiễn. Nó nhƣ biểu tƣợng để nhân vật trữ tình neo đậu và gửi gắm những nỗi nhớ cũng nhƣ ƣớc mong của mình.
Xuất hiện nhiều trong thơ tống biệt, dòng sông không chỉ trở thành một nhân vật chứng kiến buổi tiễn biệt mà chính dòng sông với không gian mênh mang của nó còn là một ám ảnh đối với những cuộc tiễn đƣa. Dòng sông ấy vừa là vật cản cho sự xa cách của ngƣời đi kẻ ở lại vừa làm tâm trạng xúc cảm của ngƣời trong cuộc bùi ngùi, xúc động hơn. Nó cũng là nơi ngƣời tiễn tìm về kí ức hay mơ ƣớc một ngày gặp lại.
Biểu tƣợng rƣợu Tiệc rƣợu đƣa tiễn là một nét văn hóa truyền thống trong những cuộc tiễn biệt xa xƣa. Chén rƣợu thay cho lời nói, chén rƣợu làm ấm lòng ngƣời đi kẻ ở, chén rƣợu giúp giải tỏa mối sầu biệt li... Hầu nhƣ các cuộc chia tay đều có rƣợu. Do vậy, không phải ngẫu nhiên mà hình ảnh này xuất hiện khá nhiều trong thơ tống biệt. Khảo sát thơ tống biệt giai đoạn thế kỵ XVIII - XIX, chúng tôi thống kê đƣợc khoảng 130 bài thơ xuất hiện biểu tƣợng rƣợu, trực tiếp hoặc gián tiếp. Không chỉ xuất hiện với tần suất lớn, hình ảnh này còn rất đa dạng trong cách thể hiện. Có khi xuất hiện ngay trong nhan đề bài thơ nhƣ Trung thu dạ đồng Bảo Xuyên ông thống ẩm vi biệt, Tiểu chƣớc dữ Đỗ Lang Trung thoại biệt (Cao Bá Quát)... Cũng có khi, sự xuất hiện của rƣợu gắn với các hành động nhƣ châm tửu, bả bôi, cử tửu, hàm bôi, ngự bôi, tái tửu, tận bôi, truyền
135
bôi... Cũng có lúc, ngƣời đọc nhận diện sự xuất hiện của rƣợu thông qua trạng thái của ngƣời đi kẻ ở trong cuộc tiễn biệt nhƣ túy đảo, túy nhan, túy nê, quận túy, tửu bán tinh, lảo đảo tôn tiền... Rƣợu có khi đi liền với những số đếm khác nhau nhƣ tam bôi tửu, sổ bôi, nhất bôi, tửu bán, phƣơng tôn... nhƣng cũng có lúc gắn với các từ chỉ tính chất nhƣ thanh tôn (rƣợu trong), trọc tửu, bạc tửu (rƣợu đục, rƣợu nhạt)... Hình ảnh này có khi chỉ đơn thuần là hình ảnh biểu trƣng cho buổi đƣa tiễn nhƣng cũng có lúc nó trở thành duyên cớ để gắn kết tình cảm bạn bè hoặc là phƣơng tiện để nhân vật trữ tình gửi gắm những nỗi niềm tâm sự. Chén rƣợu phần lớn là hình ảnh thực nhƣng đôi lúc cũng là hình ảnh ảo hiện lên trong ký ức hay trong trí tƣởng tƣợng của ngƣời tiễn.
Rƣợu - biểu trƣng cho hình thức của buổi chia ly: Rƣợu, ban đầu và trƣớc hết vẫn là hình ảnh quen thuộc biểu tƣợng cho hình thức của một buổi chia ly. Với ý nghĩa đó, rất nhiều bài thơ tống biệt giai đoạn này trực tiếp xuất hiện những buổi tiệc rƣợu tiễn với cách gọi khác nhau nhƣ tửu diên (chiếu rƣợu), bán chƣớc (nửa cuộc rƣợu), bôi thú (cuộc rƣợu vui). Dấu hiệu của buổi chia ly còn đƣợc thể hiện bằng cách gắn các cuộc rƣợu, chén rƣợu với các từ chỉ sự chia xa, chia cách, chia tay nhƣ ly diên (bữa rƣợu ly biệt), li bôi (chén rƣợu chia tay), biệt tửu (chén rƣợu tiễn đƣa) hoặc các cách diễn đạt: nhất tôn biệt tửu (một chén tiễn biệt), nhất bôi tƣơng tiễn (tiễn nhau một chén)... Sự gắn kết này làm cho hình ảnh rƣợu vô hình thêm sức nặng của xúc cảm. Nó không còn là chén rƣợu hay bữa tiệc rƣợu thông thƣờng mà là chén chia tay, bữa rƣợu chia tay. Do vậy, tự bản thân biểu tƣợng đã mang ý nghĩa của sự chia ly, chia biệt. Bên cạnh các cử chỉ nhƣ nhƣ rót rƣợu, cạn chén, nhắp môi thì cử chỉ nâng chén rƣợu khi chia biệt đƣợc xuất hiện nhiều hơn cả nhƣ một cách đánh dấu thời khắc lên đƣờng: Bả bôi tống chinh huy (Nâng chén rƣợu tiễn lá cờ lên đƣờng) (Tiễn binh bộ tả Phụng Nghị Nghi Thành nguyên hầu phó Quy Nhơn thành - Ngô Thì Nhậm), Nhị nguyệt hà đình bôi trở tiếp (Nâng chén tiễn đƣa ở đình vào bên sông vào tháng hai) (Ký tiễn Sơn Hƣng Tuyên tổng đốc Ngụy Hạc Sơn nhập vi hộ bộ thƣợng thƣ - Nguyễn Văn Lý)... Sau khi uống hết chén rƣợu tiễn thì hai ngƣời chia hai ngả, chính thức cho cuộc chia xa: Nhất bôi tƣơng tiễn các phân trình (Tiễn nhau một chén rồi lại mỗi ngƣời một ngả) (Tặng biệt Nghệ An Trấn Hộ Tả phụng nghị dụ Lộc Hầu - Nguyễn Đề), Nhất tôn tƣơng tiếp tức quan hà (Tiếp nhau xong một chén, đã thành quan hà xa cách) (Phan Sài Phong dĩ kim hạ hồi triều, thƣ thử vi viễn - Nguyễn Văn Lý)... Nhƣ vậy, rƣợu là một dấu hiệu hình thức tiêu biểu đƣợc các thi nhân sử dụng đánh dấu cho buổi tiễn biệt.
Rƣợu - phƣơng tiện gợi cảm hứng li biệt, là phƣơng tiện bộc lộ nỗi sầu, buồn, cô đơn khi biệt li: Mỗi cuộc tống tiễn là một lần ngƣời tiễn trải qua những xúc cảm khác nhau và chắc hẳn đều đặc biệt. Chén rƣợu trong buổi tiễn đƣa càng làm cho cảm xúc ấy đặc biệt hơn. Hơi rƣợu nồng nàn giúp con ngƣời sống thật, giãi bày thật với tâm trạng trong lòng mình và cảm xúc chia ly theo đó mà trọn vẹn. Do vậy, rƣợu không đơn thuần
136
là dấu hiệu của buổi chia tay, rƣợu còn là phƣơng tiện gợi cảm hứng li biệt, là phƣơng tiện bộc lộ nỗi sầu, buồn, cô đơn khi biệt li. Trong những bài thơ tống biệt của Nguyễn Văn Lý có nhiều bài hình ảnh rƣợu gắn với tiết Trùng Dƣơng. Tết Trùng Dƣơng hay còn gọi là tết Trùng Cửu, theo tập tục Trung Hoa xƣa, đây là ngày các thi nhân lên núi, uống rƣợu, làm thơ. Đúng ngày này, tiễn bạn về quê, dƣới tiết trời mƣa gió xào xạc, cúc vàng gầy guộc càng khiến cho cảm hứng ly biệt chứa chan hơn bao giờ hết: Tôn tửu trùng dƣơng biệt hứng xa (Chén rƣợu Trùng Dƣơng gợi nhiều cảm hứng khi chia biệt) (Cửu nhật tống Nguyễn Niết quy điền). Nỗi buồn li biệt lại vào đúng tiết Trùng Dƣơng làm con ngƣời rơi vào trạng thái say đến mức không thể làm thơ để tiễn khách: Trùng Dƣơng dƣ hứng thử hàm bôi/ Túy bất thành ngâm tống khách hồi (Thừa hứng tiết Trùng Dƣơng, lúc này nâng chén, Say không làm đƣợc thơ để tiễn khách về) (Tống biệt hữu hoài)... Vì sầu ly biệt mà rót rƣợu cạn chén, vì cạn chén mà mối sầu tăng lên bội phần: Tích biệt tƣơng thù mạn tửu châm (Tiếc nỗi ly biệt rót rƣợu chuốc nhau) (Tống Ngô Nhữ Sơn chi Quảng Đông - Trịnh Hoài Đức). Nỗi sầu, buồn không đáng sợ bằng tâm trạng cô đơn, lẻ loi khi tiễn biệt. Rƣợu không còn làm ấm lòng ngƣời ở lại mà càng làm cho con ngƣời cảm nhận rõ rệt hơn bao giờ hết nỗi cô đơn của mình. Vì thế, đi cùng với hình ảnh rƣợu thƣờng là các từ chỉ cảm giác lạnh hoặc sự cô độc của con ngƣời, nhất là sau buổi biệt ly: Lãnh đạm trƣờng đình tửu nhất bôi (Uống một chén rƣợu ở trƣờng đình lạnh lẽo) (Tống Tố Nhƣ đệ tự Phú Xuân kinh Bắc hoàn - Nguyễn Đề), Cúc li sƣơng vãn độc phù bôi (Giậu cúc sƣơng muộn một mình cạn chén) (Cửu nhật Hàn Vũ tiễn khế nhị Vũ Ninh phủ chi Nam Định trƣởng khảo quan - Nguyễn Văn Lý)... Nhƣ thế, rƣợu không đơn thuần chỉ tham gia vào buổi tiễn đƣa mà nó trở thành một tác nhân làm tăng cảm hứng ly biệt, làm cho nỗi sầu buồn cô đơn khi chia tay thấm thía và đằm sâu hơn.
Rƣợu - phƣơng tiện thể hiện tình cảm gắn bó giữa ngƣời tiễn - ngƣời đi: Hình ảnh rƣợu còn giúp thể hiện rõ hơn tình cảm ân cần, gắn bó, trân trọng của ngƣời tiễn với ngƣời đi. Tình cảm ấy đƣợc thể hiện ngay trong cách cầm chén rƣợu đƣa tiễn, không chỉ đơn thuần là cử chỉ cầm chén bình thƣờng mà nó gửi gắm vào đó bao tình cảm yêu mến, chắt chiu: Ân cần tƣơng tống tam bôi tửu (Ân cần tiễn nhau ba chén rƣợu) (Tặng Nguyễn Dƣơng Xuyên Trƣơng Ngô Xuyên - Ngô Thì Nhậm), Ân cần tôn tửu chƣớc trƣờng đình (Tiễn ninh thân Nguyễn Huấn Đạo Bắc hoàn - Nguyễn Đề), Tôn tửu ân cần thù bá thị (Chén rƣợu ân cần mời ông bác) (Tống Tam Đăng Phạm Thị Độc gia huynh quy Nam Định - Nguyễn Văn Siêu)... Cảm xúc đong đầy của hai ngƣời trong cuộc còn đƣợc thể hiện bằng các hành động khác nhƣ cạn chén, uống cạn. Uống cạn vì tiếc nhớ, uống cạn vì tình cảm dạt dào mà chỉ có cách gửi gắm qua chén rƣợu: Nhất tôn biệt tửu tích đồng khuynh (Một chén tiễn biệt, vì tiếc nhớ nên cùng uống cạn) (Hà Nội đốc học thăng tƣ nghiệp Trang Liệt Phan Hữu Phủ chi hành - Nguyễn Văn Lý), Tƣơng phùng bất tích đảo phƣơng tôn (Gặp nhau không tiếc dốc cạn hũ rƣợu thơm) (Tịch thƣợng nhân đại Phan Hành Phủ - Cao Bá Quát). Sự gắn bó tha thiết của
137
ngƣời tiễn với ngƣời lên đƣờng còn đƣợc thể hiện ở tình cảm lƣu luyến, vấn vƣơng không nỡ dứt, không nỡ rời. Nguyễn Văn Lý đã rất chân tình khi viết: Nhƣợc hữu li tình tằng cộng tháp/ Nếu lúc li biệt lòng nhiều quyến luyến, là chính vì từng đã thân thiết (Tặng an tĩnh đạo ngự sử Nguyễn Công xuất Bình Thuận). Nâng chén rƣợu, uống cạn chén mà ngƣời tiễn vẫn luyến lƣu cho cuộc tiễn biệt, chính vì thế mà cứ uống mãi không dứt làm cho cuộc chia biệt nhƣ kéo dài ra bất tận: Nhất bôi phục nhất bôi (Một chén rƣợu mời rồi lại chén nữa) (Hƣng Yên đốc học Nguyễn Văn Lý tuân triêu lai kinh, lâm biệt tác - Vũ Phạm Khải). Tất cả những tình cảm lƣu luyến, bịn rịn dƣờng nhƣ chỉ biết gửi gắm vào trong chén rƣợu. Do vậy, đi liền với hình ảnh chén rƣợu thƣờng là những từ chỉ trạng thái tình cảm đầy bịn rịn: Ngự bôi đa khiển quyển (Nâng chén nhiều lƣu luyến) (Tiễn Trần Mộng Hạc tân trừ Tiên Hƣng tri phủ chi nhậm - Nguyễn Án), Cao ca khoản khúc tích ly thƣơng (Ca lớn một khúc chân thành, nâng chén rƣợu biệt ly trong luyến tiếc) (Tống xuân khúc tống Nguyễn Quảng Thúc (Tƣờng Phố) Nam quy - Phạm Phú Thứ)... Nhƣ thế, rƣợu không chỉ giúp ngƣời trong cuộc thể hiện chân tình sự gắn bó thân thiết của mình mà còn giúp kéo gần những ngƣời trong cuộc với nhau.
Không chỉ giúp thể hiện các cung bậc cảm xúc đối với ngƣời tiễn, rƣợu còn làm cho nhân vật trữ tình có những trạng thái cảm xúc rất đặc biệt. Trạng thái dễ nhận thấy nhất là say, thơ tống biệt giai đoạn này thƣờng diễn tả trạng thái say ở mức độ không bình thƣờng theo kiểu túy đảo (say lảo đảo): Bôi tàn túy đảo khúc lô tiền (Rƣợu tàn, say lảo đảo ở trƣớc lò ủ men) (Tống Tố Nhƣ đệ tự Phú Xuân kinh Bắc hoàn - Nguyễn Đề), túy nê (say mềm): Tọa lý thuần giao điểm túy nê (Trong cuộc họp mặt, rƣợu ngon uống đến say mềm) (Tống Trƣơng Lƣợng Trai hảo hợp chi nhậm Hoài Đức tri phủ - Phan Thanh Giản), tận túy (say túy lúy): Kim dạ nghĩ đồng quân tận túy (Đêm nay cùng ông say túy lúy) (U ca quán tống lạng thành bang biện Thọ Xƣơng doãn Phạm Tử xuân trạch - Nguyễn Văn Siêu)... Trạng thái nhƣ thế dƣờng nhƣ là cách để ngƣời đi kẻ ở ghi nhớ những kỵ niệm khi vẫn đang còn gặp gỡ, ghi dấu ấn cho ngày chia biệt.
Uống rƣợu và say ở một phƣơng diện nào đó vẫn là trạng thái bình thƣờng, bi kịch hơn khi uống mà không say đƣợc, có rƣợu để uống mà không muốn uống hay muốn uống mà không có rƣợu để uống. Tiễn những ngƣời bạn thân thiết, Nguyễn Văn Siêu cảm khái về thời gian, tuổi tác đến mức chẳng thể uống say: Trọc tửu vô đa túy bất lai (Rƣợu đục không nhiều đâu có thể uống say đƣợc nữa) (Tống hình bộ lang mộng phụ Nguyễn Thai Chai Quảng Nam án sát). Cũng có lúc, bao nhiêu tâm sự muốn sẻ chia với bạn trƣớc lúc lên đƣờng mà không thể nói hết đƣợc, khiến con ngƣời càng thêm bế tắc, không cả muốn uống: Dục ẩm, ẩm hà vi (Muốn uống nhƣng uống mà làm gì) (Tống Phạm Tử Xuân Trạch quy Nghệ An). Tiễn bạn ra nhận chức tại phủ Thƣờng Tín, Cao Bá Quát nhân đó gửi gắm bao tâm sự, phẫn uất về đƣờng đời rối ren và bản thân mình thì ốm, lại không có rƣợu tiễn bạn, chỉ biết dõi mắt trông theo nghìn dặm trƣờng: Bệnh trung vô tửu tống quân hành (Tôi đang ốm, không có rƣợu tiễn bạn lên đƣờng) (Tống Nguyễn Trúc Khê xuất lỳ Thƣờng Tín kiêm trí Lê Hy Vĩnh Lão Khế)... Trong những
138
trạng thái nhƣ thế này, rƣợu dƣờng nhƣ trở thành một tác nhân làm cho nỗi lòng ngƣời tiễn thêm tâm trạng và bi kịch hơn.
Nhƣ thế, có thể thấy rằng, rƣợu có mặt ở rất nhiều cuộc đƣa tiễn trong thơ tống biệt giai đoạn thế kỵ XVIII - XIX và có những ý nghĩa nhất định. Rƣợu có khi là dấu hiệu biểu trƣng cho buổi tiễn đƣa, là phƣơng tiện gợi cảm hứng li biệt, gợi nỗi buồn, cô đơn khi chia tay. Bên cạnh đó, rƣợu còn là cách để ngƣời đi thể hiện tình cảm cũng nhƣ sự gắn bó với ngƣời lên đƣờng. Ngoài ra, rƣợu có khi còn làm cho cảm xúc nhân vật trữ tình khi biệt ly thêm xúc động. Nhƣ thế, ở một khía cạnh nào đó, rƣợu có thể coi là một nhân vật không tên góp mặt quan trọng vào những cuộc tiễn đƣa trong thơ tống biệt giai đoạn này.
Biểu tƣợng liễu Không chỉ là một loài cây quen thuộc trong tự nhiên liễu còn là một hình ảnh mang nhiều ý nghĩa biểu trƣng. Trong Từ điển văn liệu, cây liễu, cây bồ đƣợc coi là “Hai thứ cây yếu ớt, ẻo lả, mùa thu thì rụng lá nên các nhà văn thƣờng ví với ngƣời con gái, đàn bà” [77]. Dƣới góc độ văn hóa, liễu đƣợc coi nhƣ biểu tƣợng của sự bất tử [163]. Trong văn học, biểu tƣợng liễu nhƣ một tín hiệu nghệ thuật độc đáo. Thơ Đƣờng dùng sắc liễu xanh rờn để biểu trƣng cho mùa xuân (Lƣỡng cá hoàng li minh thúy liễu/ Nhất hàng bạch lộ hƣớng thanh thiên (Hai con chim oanh vàng kêu trong liễu biếc/ Một hàng cò trắng bay vút lên trời xanh (Tuyệt cú - Đỗ Phủ) hay miêu tả dáng thƣớt tha, mềm mại của liễu để nói về ngƣời phụ nữ (Thái dịch phù dung Vy Ƣơng liễu /Phù Dung nhƣ diện liễu nhƣ mi (Sen hồ Thái Dịch, liễu cung Vị Ƣơng/ Thấy hoa sen nhớ đến mặt, thấy lá liễu nhớ lông mày (Trƣờng hận ca - Bạch Cƣ Dị). Tác giả Chu Minh Lƣợng trong nghiên cứu Liễu và thơ tống biệt đời Đƣờng đã đƣa ra bốn ý nghĩa biểu trƣng tiêu biểu của hình ảnh này: “Liễu đƣợc coi nhƣ vật bảo hộ cho chuyến đi xa, Liễu có tác dụng trừ tà, đuổi quỵ bảo vệ cho con ngƣời tránh khỏi sự xâm hại của các loại ma quỵ, Liễu dễ sống, có sức tái sinh mạnh mẽ nên ngƣời ta bẻ liễu để tặng bạn cũng thay lời muốn nói rằng muốn sức khỏe ngƣời ấy đƣợc tốt để rồi có thể tái ngộ bình an, liễu tƣợng trƣng cho quê hƣơng, đem bẻ mà tặng cho bạn là mong bạn thƣợng lộ bình an” [189, tr 22]. Nhƣ vậy, giá trị biểu trƣng nổi bật của liễu trong thơ Đƣờng là gắn với sự chia ly, chia biệt. Vƣơng Duy có bài Vị thành khúc nổi tiếng với câu thơ “Khách xa thanh thanh liễu sắc tân”. Màu xanh của liễu lúc này đã trở thành màu biệt ly. Phải chăng, chính tự bản thân hình ảnh thực của liễu trong tự nhiên đã vô hình gợi cảm hứng biệt ly. Lá liễu dài và mảnh, phất phơ trƣớc gió giống nhƣ động tác vẫy tay chào từ biệt ngƣời lên đƣờng. Dáng liễu lúc nào cũng thƣớt tha, buông rủ luôn gợi cho con ngƣời cảm giác bâng khuâng, xao xuyến, nao nao buồn. Tâm trạng cảm xúc này gần gũi với cảm xúc của phần lớn các cuộc chia ly. Có lẽ vì thế, liễu đi vào thơ tống biệt trung đại Việt Nam nhƣ một biểu tƣợng nghệ thuật độc đáo. Khảo sát thơ tống biệt thế kỵ XVIII - XIX, có khoảng 50 bài xuất hiện biểu tƣợng liễu. Phƣơng thức thể hiện hình ảnh này tập trung vào hai kiểu. Kiểu thứ nhất, liễu hiện lên thông qua cảm nhận về thị giác với những hàng liễu, rặng liễu, cây liễu, cành liễu. Kiểu thứ hai, liễu hiện lên thông qua cảm nhận về xúc giác gắn liền với hành động “chiết liễu”. Dù xuất hiện trực
139
tiếp hay gián tiếp biểu tƣợng liễu góp phần thể hiện những ý nghĩa và cung bậc cảm xúc khác nhau trong ngày đƣa tiễn.
Liễu - biểu tƣợng đặc tả không gian đƣa tiễn: Hình ảnh liễu trƣớc hết là hình ảnh đặc tả tạo nên không gian đƣa tiễn. Không gian đó là những hàng liễu dài nơi bờ sông (hàng giang liễu, giang hàng liễu, giang thƣợng liễu...), trên đƣờng đi, trên bờ đê (dƣơng liễu đê, đê liễu, liễu đê âm...). Đôi khi là không gian với những hàng liễu thƣa thớt (liễu chi sơ). Cũng có lúc không gian đó chỉ là những cành liễu dài ngắn đan xen (liễu đoản trƣờng) hoặc là những bông liễu mỏng manh bay trong gió (liễu nhứ phong). Liễu đã giúp thơ tống biệt thế kỵ XVIII - XIX có đƣợc những không gian đƣa tiễn thật đẹp, phảng phất phong vị Đƣờng thi: Dƣơng liễu y y tử mạch xuân/ Lục bào nhất sắc diệu hồng trần (Cây dƣơng liễu dịu dàng tha thƣớt trên đƣờng màu tía/ Áo bào màu lục rực rỡ chói lọi trong bụi hồng) (Tống Dƣơng tiến sĩ - Phạm Phú Thứ). Không gian ấy ngập tràn sắc xuân với tiếng chim oanh ríu rít: Nhất giang xuân sắc liễu đề oanh (Một dòng sông xuân, chim oanh ríu rít trên cành liễu) (Bùi Công trí sự, thƣ tiễn - Nguyễn Văn Lý).
Nhƣng những không gian chia tay gắn liền với hình ảnh liễu trong thơ tống biệt giai đoạn thế kỵ XVIII - XIX phần nhiều là không gian buồn. Những hàng liễu thƣa thớt làm cho không gian vắng vẻ và cô quạnh: Bất ngôn giang thƣợng liễu chi sơ (Chẳng nói, liễu trên sông đã thƣa thớt rồi) (Lâm biệt tẩu bút tặng đại lý Nguyễn viên ngoại - Cao Bá Quát). Liễu mỏng manh trong gió sƣơng làm không gian nhƣ phảng phất nỗi sầu buồn li biệt: Phong sƣơng liễu dịch nhập Trùng dƣơng (Vào tiết Trùng dƣơng nhà dịch trạm cây liễu đầy sƣơng gió) (Tống Nguyễn Chuyết Am Hà Nội thu thí phó chủ khảo - Phạm Phú Thứ). Ám ảnh nhất trong không gian chia tay này là sắc xanh của liễu. Màu xanh rợn ngợp nhƣ là cách đánh dấu không gian chia biệt: Hƣơng Cần quan đạo liễu thanh thanh/ Giang bắc giang nam vô hạn tình (Trên đƣờng cái quan Hƣơng Cần, liễu xanh xanh / Kẻ đi về phía Bắc sông, ngƣời ở lại phía nam sông, tình vô hạn) (Tống nhân - Nguyễn Du). Màu xanh làm con ngƣời ngẩn ngơ và tự hỏi: Đê liễu hà man man / Liễu ven đê sao mƣớt xanh (Tống Đồng Khế Yên Thái tiến sĩ Nguyễn Ƣớc Phu, bị thôi, tầm khất hoàn hƣơng - Nguyễn Văn Lý). Nhƣ vậy, liễu đã góp phần tạo nên những không gian tiễn đƣa khác nhau trong thơ tống biệt giai đoạn thế kỵ XVIII - XIX.
Liễu và sự thể hiện những cung bậc cảm xúc đƣa tiễn: Không chỉ góp phần tạo lập không gian đƣa tiễn liễu còn tham gia vào câu chuyện tống biệt để gợi đƣợc những cung bậc cảm xúc khác nhau trong lòng ngƣời tiễn. Trƣớc hết, là nỗi sầu, buồn của sự biệt li. Liễu lúc này nhƣ một tác nhân khơi gợi nỗi buồn li biệt Liễu kiều tự ngã sầu tân biệt (Bên cầu liễu, tự ta buồn nỗi biệt li mới) (Tống Tố Nhƣ đệ tự Phú Xuân kinh Bắc hoàn - Nguyễn Đề). Nỗi buồn đó khiến con ngƣời rơi vào trạng thái “không chịu nổi”: Bá liễu hồi hồi phân duệ viễn/ Dƣơng quan từ khúc bát kham thinh (Nhìn cây liễu ở cầu Bá, bồi hồi dứt áo đi xa/ Khúc hát Dƣơng quan, nghe không chịu nổi) (Giáp ngọ quỹ xuân hƣơng thi sắc chỉ phân tông hà trung huấn đạo Nguyễn Khê phó giáo sở ứng vụ, ngã diệc đính kỳ tựu nam ty dĩ thi tác biệt - Phan Huy Ích).
140
Nhiều hơn nỗi sầu buồn li biệt là tình cảm lƣu luyến, bịn rịn khi chia tay. Chiết liễu vốn là tục lệ của ngƣời đời Hán. Khi tiễn khách qua cầu, ngƣời tiễn thƣờng bẻ cảnh liễu tặng khách rồi từ biệt. Nhƣng ở đây ngƣời tiễn không nỡ vin cành bẻ liễu:
Lục ý phong tiền liễu Giao nhân bất nhẫn phan
Dịch nghĩa:
Trƣớc gió liễu vẫn xanh Khiến ngƣời không nỡ vin cành
Tống Trần Niết Đài hồi kinh - Phạm Phú Thứ
Đây là hai câu kết của bài thơ. Những câu thơ trƣớc, ngƣời viết thể hiện thái độ ngợi ca trân trọng tài năng, đức độ và sự đóng góp của ngƣời lên đƣờng. Thái độ không nỡ bẻ cành là cách thể hiện rất sâu sắc cho mong ƣớc thiết tha muốn níu giữ ngƣời đi.
Tình cảm bịn rịn, lƣu luyến thiết tha đến mức ngƣời tiễn đôi khi tự dặn lòng: Bất tu phan chiết sinh ly hận (Chẳng nên bẻ nó mà sinh ra mối hận biệt ly) (Hiểu xuất Bắc Đình biệt tƣơng tống chƣ cố nhân - Cao Bá Quát). Một buổi sáng sớm ra cửa Bắc kinh thành Huế tiễn các bạn cũ, nhìn mấy rặng liễu đang đu đƣa bên dòng sông mà lòng ngƣời dƣờng nhƣ không muốn nhắc tới chuyện biệt ly. Ở đây tác giả dùng cụm từ sinh ly hận không đơn thuần chỉ là nỗi buồn ly biệt mà còn là mối hận biệt ly. Không chỉ hiện diện trong khi ly biệt, liễu còn đi vào nỗi nhớ khi xa cách: Biệt lai khổ ức lũng đầu chi (Từ lúc chia tay buồn nhớ cành liễu ở đầu lũng) (Tiễn Hƣơng Ngãi Nguyễn cử nhân bắc hành, nhân giản Quảng Bình bố chính Nguyễn niên ông - Cao Bá Quát). Trên bƣớc đƣờng đời dài dặc, nhớ về nhau là nhớ về cành liễu chia tay thủa nào: Bệnh trung thiên ức giang đình liễu (Trong lúc mang bệnh càng nhớ cành liễu chia tay nơi giang đình) (Tiễn đồng niên binh biện Phạm Nghĩa Khê sung Gia Định trƣờng chủ khảo - Nguyễn Văn Lý). Lúc mang bệnh là lúc con ngƣời ở trong trạng thái không vui vẻ nhƣng cũng là lúc mà con ngƣời thƣờng nghĩ tới những mong ƣớc thiết tha nhất tự đáy lòng. Liễu xuất hiện trong tâm thức nhƣ một ám ảnh trở đi trở lại làm con ngƣời không thể nguôi yên.
Biểu tƣợng liễu trong thơ tống biệt Việt Nam thế kỵ XVIII - XIX có sự tƣơng đồng với biểu tƣợng liễu mang ý nghĩa chia ly trong thơ cổ và Trung đại của nhiều quốc gia Đông Á nhƣ Trung Quốc [161], [170], [171], Hàn Quốc [172]. Sự xuất hiện biểu tƣợng liễu giúp cho thơ tống biệt giai đoạn này vừa mang màu sắc Đƣờng thi nhƣng đồng thời vẫn góp phần thể hiện rất chân thực những cung bậc cảm xúc tiễn đƣa. 4.3.2. Thể loại
Việc tìm hiểu thể loại có vai trò đặc biệt trong quá trình nghiên cứu các tác phẩm văn học trung đại. Nhà nghiên cứu Lã Nhâm Thìn đã khẳng định: “Lịch sử văn học trung đại Việt Nam, ở những vấn đề cơ bản nhất, ở những quy luật cơ bản nhất chính là lịch sử phát triển thể loại văn học. Những vấn đề về nội dung, về nghệ thuật của văn học không nằm ngoài thể loại văn học. Số phận lịch sử của các thể loại văn học phản ánh con đƣờng phát triển của lịch sử văn học.” [143, tr 5]. Ra đời và phát triển cùng lịch sử
141
văn học trung đại Việt Nam, thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX với số lƣợng tác phẩm tƣơng đối lớn đã cho thấy dấu hiệu về sự trƣởng thành của thể tài. Do vậy, nhận diện đặc điểm thể loại sẽ giúp nhìn nhận thấu đáo hơn vai trò của nó trong việc thể hiện cảm xúc tống biệt cũng nhƣ khẳng định đƣợc sự phát triển thể loại trong tiến trình phát triển của văn học trung đại Việt Nam. Nhìn từ hình thức thể loại, khảo sát 515 bài thơ tống biệt tiêu biểu từ thế kỵ XVIII đến hết thế kỵ XIX chúng tôi nhận thấy có sự đa dạng trong cách sử dụng thể thơ. Bên cạnh khoảng 10 bài đƣợc viết theo các thể loại khác nhau, khá tự do về câu chữ và thanh điệu thì các bài làm theo thể Đƣờng luật chiếm đa số: 456/515 bài (chiếm 88,54%). Thơ tống biệt giai đoạn này cũng ghi nhận một số bài viết theo thể cổ phong 49/515 bài (chiếm 9,5%). Để làm rõ hơn vấn đề thể loại trong thơ tống biệt chúng tôi đi sâu hơn về những bài viết theo thể Đƣờng luật và Cổ phong.
Thơ Đƣờng luật Thơ Đƣờng luật là thể thơ đƣợc đặt ra từ đời Đƣờng. Thể thơ này có những quy định chặt chẽ về thanh điệu, bố cục, cấu tứ. Tính theo số từ trong câu, thơ Đƣờng luật chia làm ba loại: ngũ ngôn, lục ngôn, thất ngôn, trong đó, thơ thất ngôn là phổ biến nhất, thơ lục ngôn rất ít. Tính theo số câu trong bài, có thể phân chia thể thơ này thành ba loại: tứ tuyệt (tuyệt cú) (bốn câu), bát cú (tám câu), bài luật (hành, Đƣờng luật trƣờng thiên, từ tám câu trở lên). Thể bài luật ít đƣợc sử dụng bởi thể thức cách luật gò bó và dễ lầm với thơ cổ phong. Thể tứ tuyệt và bát cú phổ biến hơn, trong đó, bát cú đƣợc coi là dạng cơ bản nhất. Khảo sát 456 bài thơ tống biệt đƣợc viết theo thể Đƣờng luật, chúng tôi thấy về cơ bản thể tài tống biệt cũng thể hiện quy luật chung về cách sử dụng thể thơ Đƣờng luật trong văn học trung đại Việt Nam. Theo đó, trong 456 bài thơ Đƣờng luật, chủ yếu là các bài viết theo thể bát cú, có 417 bài chiếm 91,4% (trong đó thất ngôn bát cú 325 bài, chiếm 71,3%, ngũ ngôn bát cú 92 bài chiếm 28,3%). Có 39 bài tứ tuyệt, chiếm 8,33% (trong đó 31 bài thất ngôn tứ tuyệt (chiếm 6,8 %), 7 bài ngũ ngôn tứ tuyệt (chiếm 1,5%), 1 bài lục ngôn tứ tuyệt). Đặc biệt, có 3 bài thơ đƣợc viết theo thể bài luật. Thơ tống biệt, nhƣ đã trình bày ở các phần trên, trƣớc hết đây là thể loại văn học chức năng, dùng để tiễn biệt ngƣời lên đƣờng. Bên cạnh hành động đƣa tiễn, ngƣời tiễn thƣờng bày tỏ lời ngợi ca trân trọng và những lời chúc may mắn, tốt đẹp tới ngƣời đi, tính chất trang trọng của thơ Đƣờng, phù hợp với chức năng này. Bên cạnh đó, tính chất cô đúc của thơ Đƣờng luật phù hợp với việc diễn tả thời gian gấp rút của các cuộc tiễn đƣa. Mặt khác, việc sử dụng thể thơ Đƣờng cũng cho thấy sự phù hợp với loại hình tác giả sáng tác thơ tống biệt chủ yếu là các nhà nho - những ngƣời không chỉ thấm nhuần lối văn chƣơng mang nặng quy định chặt chẽ về niêm, luật, vần, đối mà còn là những học giả có vốn kiến thức uyên thâm. Thơ Đƣờng là thể thơ quen thuộc của loại hình tác giả này. Tuy nhiên, ở đây, chúng ta vẫn thấy đƣợc sự chi phối các thể khác nhau của thơ Đƣờng luật trong việc diễn tả nội dung, cảm xúc tống biệt.
Thơ bát cú: Với dung lƣợng 8 câu/bài, thơ bát cú có ƣu thế trong việc diễn tả tƣơng đối sáng rõ về thời gian, không gian, lý do tống biệt – đây là những phƣơng
142
diện cơ bản trong một bài thơ tống biệt. Kết cấu chặt chẽ: đề - thực – luận – kết, hoặc kết cấu tiền giải, hậu giải… cùng với những quy định của niêm, luật giúp ngƣời đƣa tiễn diễn tả vừa đủ những nội dung tình ý cần triển khai. Hai câu đề thƣờng miêu tả không gian, thời gian hoặc giới thiệu về ngƣời đi. Hai câu thực thƣờng nghiêng nhiều nói về lý do đƣa tiễn. Hai câu luận chủ yếu thể hiện tâm trạng, cảm xúc của ngƣời đƣa tiễn. Hai câu kết có thể là lời hẹn tái ngộ hoặc đƣa ra suy ngẫm qua buổi tiễn đƣa. Với sự hô ứng chặt chẽ giữa câu đề và câu kết, nhiều bài bát cú tạo kiểu bố cục mạch thời gian tuyến tính. Thông thƣờng trong một bài thơ, hai câu đầu tái hiện thời gian quá khứ hoặc hiện tại, hai câu kết viết về thời gian tƣơng lai trong tƣởng tƣợng, mơ ƣớc. Tính chất đối của thơ bát cú cũng tỏ ra hiệu quả khi muốn diễn tả sâu sắc khát vọng về ngày gặp lại: Hoa trình phát nhẫn nhƣ kim nhật/ Xuân phố hàm bôi thị cách niên (Đƣờng sứ sang Trung Hoa bắt đầu từ hôm nay/ Chứa chén rƣợu mừng xuân vào năm sau) (Tiễn Đồng Xuân phƣờng mỗ nhân tòng vãng Bắc sứ (Tiễn một ngƣời ở phƣờng Đồng Xuân theo chuyến đi sứ phƣơng Bắc – cháu ấy là thông ngôn trong đoàn - Nguyễn Hành). Điều này, tạo đƣợc sự phù hợp với tâm lý tiễn đƣa. Bởi lẽ, khi chia biệt, cả ngƣời đi và ngƣời ở đều ƣớc vọng về một ngày tái ngộ. Mỗi chuyến đi gửi gắm trong đó bao mong ngóng về những điều tốt đẹp trong tƣơng lai.
Thơ tứ tuyệt: Nếu những bài thơ bát cú có lợi thế trong việc cung cấp nhiều thông tin khác nhau liên quan đến buổi tiễn biệt thì những bài tứ tuyệt với sự dồn nén, khuôn đúc câu chữ lại tỏ ra hiệu quả khi tác giả muốn khắc sâu cảm xúc trong buổi chia ly. Bài Tặng Nguyễn Dƣơng Xuyên Trƣơng Ngô Xuyên (Ngô Thì Nhậm) không miêu tả không gian, thời gian đƣa tiễn, lý do đƣa tiễn mà tập trung thể hiện cảm xúc quyến luyến, ân cần khi chia tay và hy vọng về tin tức ngày trở lại. Bài Đỗ trung biệt Trần Vấn Chi (Trên đƣờng từ biệt Trần Vấn Chi - Nguyễn Án) lại dùng sự cô đúc của câu chữ để thể hiện sự bùi ngùi của cả kẻ đi, ngƣời ở về những trắc trở trên đƣờng đời gió bụi. Phạm Đình Hổ, Nguyễn Thông lại dùng sự dồn nén dòng thơ để gửi gắm nỗi niềm nhớ quê hƣơng qua cuộc tống tiễn với bạn bè. Trong số những bài thơ tống biệt viết theo thể tứ tuyệt, bài Tức sự (Phan Thanh Giản) là một trong những thi phẩm đặc sắc. Mặc dù, hai câu đầu bài thơ dựng lên không gian đƣa tiễn có sông, có núi với gió thổi bên sông và cơn mƣa trƣớc núi nhƣng việc miêu tả này không phải là mục đích chính. Điều mà tác giả muốn tập trung nhấn mạnh chính là cảm xúc của con ngƣời sau cuộc tiễn đƣa:
Tống khách sơn tiền vũ Biệt nhân giang thƣợng phong Quy lai tọa minh nguyệt Vô ngữ đối thƣ đồng
Tiễn đƣa khách trong cơn mƣa trƣớc núi Chia tay ngƣời (bạn) trong gió thổi trên sông Trở về nhà ngồi tắm ánh trăng sáng Im lặng không nói đối mặt với thƣ đồng.
Không gian nhƣ mở rộng với ánh sáng dàn trải của trăng và cái tĩnh của cảnh vật, điều đó càng làm nổi bật vẻ bên ngoài tƣởng chừng bình thản nhƣng bên trong là cảm xúc cô đơn đến cô độc của con ngƣời. Cô độc giữa cái mênh mang của không gian
143
đêm trăng sáng, cô độc đến mức vẫn lặng im ngay cả với ngƣời ngồi đối diện. Sự cô đúc của câu chữ càng làm tăng khả năng gợi của cảm xúc tống biệt.
Thơ bài luật: Thơ bài luật (còn gọi là Đƣờng luật trƣờng thiên, hành) là thể cách theo luật (không hạn chế số câu (từ 8 câu trở lên), toàn bài thống nhất số chữ trong câu (ngũ ngôn, thất ngôn, có khi cả lục ngôn). Trừ hai câu đầu và hai câu cuối bài không đối, còn lại một cặp hai câu đối nhau, câu thơ theo luật bằng, trắc. Một bài thơ gồm các bài tứ tuyệt nối tiếp nhau về ý, tình cũng đƣợc xem là Đƣờng luật trƣờng thiên. Theo khảo sát, thơ tống biệt Việt Nam thế kỵ XVIII - XIX có ba bài thơ bài luật, đều đƣợc viết theo kiểu các bài thơ tứ tuyệt nối tiếp nhau: bài Tống Hy Thƣờng hoàn sơn (Tiễn Hy Thƣờng về núi) và Đỗ Lữ Tùng Nam quy tỉnh thân thả hiến thọ tửu tác trƣờng cú tiễn chi (Đỗ Lữ Tùng về thăm mẹ và dâng rƣợu thọ, ta làm bài trƣờng cú để tiễn) của Phạm Phú Thứ và Tiễn Ninh Bình Nguyễn Tán Tƣơng hồi Nam (Tiễn ông Tán tƣơng họ Nguyễn tỉnh Ninh Bình) của Nguyễn Quang Bích.
Mặc dù chỉ có 3/456 bài thơ Đƣờng viết theo thể bài luật nhƣng đây đều là những tác phẩm đặc sắc. Do đặc điểm thể loại, mỗi thi phẩm thƣờng có dung lƣợng tƣơng đối lớn (từ trên tám câu đến vài trăm câu) nên những tác phẩm viết theo thể bài luật đã có lợi thế trong việc thuật kể cũng nhƣ cung cấp thông tin. Cả hai bài tống biệt viết theo thể bài luật của Phạm Phú Thú đều có kết cấu chặt chẽ, tựa hồ nhƣ một câu chuyện. Bài Tống Hy Thƣờng hoàn sơn dài 20 câu, gồm 5 bài tứ tuyệt đã khắc họa khá tỉ mỉ, chi tiết về ngƣời đƣợc đƣa tiễn. Bài 1 giới thiệu khái quát về ngƣời đi. Bài 2, 3 giải thích rõ lý do có cuộc di chuyển này. Bài 4 khẳng định lại một lần nữa thái độ dứt khoát, tuyệt giao về ở ẩn của Hy Thƣờng. Bài 5 kết thúc bằng hình ảnh ngƣời đi đang ẩn dật ở chốn núi non trong tƣởng tƣợng của ngƣời đƣa tiễn. Bài Đỗ Lữ Tùng Nam quy tỉnh thân thả hiến thọ tửu tác trƣờng cú dài 24 câu là sự hợp lại của sáu bài thơ tứ tuyệt. Bài 1, 2 đi từ việc trình bày đạo lý hiếu nghĩa để nói tới lý do ngƣời đi xin về quê thăm cha mẹ, dâng rƣợu thọ. Bài 3, 4, 5 ngƣời tiễn đã bằng tƣởng tƣợng để thuật kể hành trình trên đƣờng cùng những hành động, việc làm của ngƣời đi chốn quê nhà. Bài 6 kết lại khẳng định đạo hiếu nhƣ một cách giữ gìn nề nếp gia phong của ngƣời đi. Bài Tiễn Ninh Bình Nguyễn Tán Tƣơng hồi Nam của Nguyễn Quang Bích là một bài thơ theo thể thức cách luật rất độc đáo. Sự pha trộn giữa thể thức cách luật gò bó với không khí mới mẻ, cam go của thời đại đã tạo nên một thi phẩm tống biệt đầy rắn rỏi, hào sảng, vừa uy nghiêm, trang trọng lại vừa thân thiết, cảm thông, vừa có nghĩa, vừa có tình. Bài thơ này Nguyễn Quang Bích sáng tác để từ biệt Nguyễn Tán Tƣơng - một ngƣời thuộc cấp đã từng gắn bó, chia sẻ những khó khăn với mình trong những tháng ngày ở rừng núi Tây Bắc. Nguyễn Tán Tƣơng đƣợc tin tƣởng giao trọng trách về gây dựng căn cứ ở đồng bằng Bắc Bộ. Gạt bỏ cảm xúc lƣu luyến, bi lụy của buổi chia tay, ngƣời tiễn đƣa ra những lời dặn dò ân cần ngƣời đi phải chú ý thu thập tình hình để kịp thời thông tin. Ngƣời tiễn cũng thể hiện sự đồng cảm, thấu hiểu với ngƣời đi khi gác việc riêng mà lo cho việc chung. Đồng thời, cũng nhắc đến truyền thống gia đình, gia
144
phong để khơi gợi chí khí, quyết tâm diệt quân thù với ngƣời lên đƣờng. Thể thức cách luật gò bó cũng phần nào phát huy hiệu quả trong việc khẳng định tính chất trang nghiêm của chỉ dụ (Nguyên nhung tín chỉ) từ ngƣời chỉ huy – đây cũng là chỗ dựa tinh thần cho ngƣời lên đƣờng yên tâm thực thi nhiệm vụ. Kết thúc bài tống biệt ngƣời tiễn đã khẳng định chủ quyền dân tộc - điều thiêng liêng với bất cứ kẻ sĩ nào: Ngã Nam thiên định Lạc - Hồng sơ. Thơ cổ phong Cổ phong là thể loại mà thể cách khá tự do (số câu không hạn định, số chữ trong câu: các câu thơ cùng là ngũ ngôn, hoặc thất ngôn), không cần đối, luật thơ tự do. Thơ cổ phong giống các bài cách luật ở dung lƣợng thƣờng khá lớn nhƣng lại khác biệt căn bản ở sự quy định luật thơ: “Đặc điểm nổi bật về sự khác nhau giữa thơ cách luật và thơ cổ phong là sự quy định thanh bằng, thanh trắc trong từng câu và trong toàn bài (mà ngƣời ta gọi một cách khái quát là niêm luật) ở thơ cách luật rất chặt chẽ khác với thơ cổ phong là phóng túng” [83, tr 279]. Khảo sát thơ tống biệt Việt Nam thế kỵ XVIII – XIX chúng tôi thấy có 49/515 bài thơ cổ phong (chiếm 9,5%). Theo chúng tôi đây là một tỵ lệ tƣơng đối lớn, khẳng định sự đa dạng và phát triển về mặt thể loại của thơ tống biệt. Trong 49 bài, có tới 37/49 bài của Cao Bá Quát và Phạm Phú Thứ (11 bài của Cao Bá Quát và 26 bài của Phạm Phú Thứ). Điều này cũng cho thấy mối liên hệ giữa con ngƣời tác giả với thể loại sáng tác. Cao Bá Quát là nhà nho tài tử, cá tính, phóng túng và có nhiều tƣ tƣởng tiến bộ. Cuộc đời ông là hàng loạt những trắc trở. Ông đã từng làm Hành tẩu ở bộ Lễ nhƣng cuối đời lại khởi sự chống triều Nguyễn. Phạm Phú Thứ trong lịch sử, đƣợc đánh giá là một nhà canh tân hàng đầu. Ông là ngƣời cƣơng trực dám nói thẳng quan điểm của mình, thậm chí còn dám phê phán cả vua. Mặc khác, vì đƣợc tiếp cận nhiều với sách tân học nên ông là ngƣời mạnh dạn đề xuất những chính sách canh tân đất nƣớc. Nhƣ vậy, cả hai tác giả đều là những nhà nho nhƣng với cá tính riêng đã vƣợt qua đƣợc những tƣ tƣởng cổ hủ của đƣơng thời để thể hiện quan điểm, ý kiến cá nhân mới mẻ, tiến bộ. Thể cổ phong không bị ràng buộc bởi những quy phạm về luật, thực sự phù hợp với cá tính, con ngƣời hai tác giả.
Nghiên cứu những bài thơ tống biệt viết theo thể cổ phong chúng tôi đều nhận thấy bên cạnh tác dụng thể hiện đƣợc câu chuyện tống biệt với những nội dung dài hơi thì sự tự do về câu chữ và thanh điệu giúp tác giả diễn tả đƣợc thoải mái và cởi mở hơn những cung bậc cảm xúc đƣa tiễn.
Trƣớc hết, những bài thơ cổ phong đã giúp cung cấp đƣợc lƣợng thông tin rất lớn liên quan đến ngƣời đi, lý do, hành trình di chuyển. Những bài cổ phong nhƣ Tiễn Binh bộ Tả Phụng Nghị Nghi thành nguyên hầu phó Quy Nhơn (Tiễn ông Tả Phụng Nghị Nghi thành nguyên hầu phó Quy Nhơn - Phan Huy Ích), Thu tống nữ tử hoàn gia ngẫu thành (Ngày thu tiễn con gái về quê bất chợt thành thơ), Tống tòng tử Mậu Tùng Tiến Phủ chi Nga Sơn Huấn đạo (Tiễn cháu là Tiến Phủ, tên tự là Mậu Tùng đi làm huấn đạo ở Nga Sơn) (Nguyễn Văn Lý), Tống tiến sĩ Nguyễn Văn San, Ngô Văn Độ
145
chi hậu bổ (Đƣa tiến sĩ Nguyễn Văn San, Ngô Văn Độ đi đợi bổ) (Vũ Phạm Khải)... nhƣ đã phân tích ở những phần trƣớc giống một câu chuyện tống biệt với kết cấu sáng rõ, nhiều sự kiện, chi tiết, tình tiết. Bài Tiễn Trần Mộng Hạc tân trừ Tiên Hƣng Tri phủ chi nhậm (Tiễn Trần Mộng Hạc mới đƣợc bổ dụng đi nhậm chức tri phủ Tiên Hƣng - Nguyễn Án) dài 32 câu ngũ ngôn đã đi từ việc kể về truyền thống gia đình đến ngợi ca tài năng, phẩm hạnh ngƣời đi, từ miêu tả không gian đƣa tiễn đến thời khắc bắt đầu lên đƣờng, thời khắc xe chuyển bánh... Bài Tống tiến sĩ Nguyễn Văn San, Ngô Văn Độ chi hậu bổ (Vũ Phạm Khải) dài 26 câu ngũ ngôn mở đầu bằng việc giới thiệu không gian sống của ngƣời viết để dẫn dắt câu chuyện hai ngƣời bạn đến thăm, cùng nhau chuốc chén, xƣớng họa thơ văn cho đến khi cùng nhau tiễn biệt. Bài Tống Bái Dƣơng nguyên tiến sĩ Ngô Trọng Phu quy ly (Phạm Phú Thứ) dài 42 câu thơ ngũ ngôn bắt đầu bằng những bàn luận về lịch sử, đạo lý, bằng những lời giới thiệu về ngƣời lên đƣờng để từ đó khẳng định việc ngƣời về hƣu là phù hợp. Đồng thời ngƣời tiễn cũng nhắc lại những sự kiện trong quá khứ liên quan đến ngƣời đi cũng nhƣ kết nối với hiện tại để cho thấy ngƣời đi luôn luôn giữ đƣợc tấc lòng của bậc Nho gia chân chính. Có thể khẳng định, việc không hạn định về dung lƣợng câu thơ với thể cách khá tự do đã giúp cho các tác giả mở rộng phạm vi hiện thực phản ánh, làm rõ hơn cho câu chuyện tống biệt.
Tuy nhiên, nét đặc sắc nhất của những bài thơ tống biệt viết theo thể cổ phong chính là việc tận dụng sự tự do của vần điệu để thể hiện chiều sâu các cung bậc cảm xúc khác nhau của buổi tiễn đƣa. Đó có thể là cảm xúc dành cho ngƣời đi nhƣng có khi là cảm xúc, tâm sự dành cho chính mình. Bài Tống Lại bộ Thị lang Hoàng Kiện Trai – Quýnh Chi nhậm Gia Định Bố Chánh (Tiễn Thị Lang bộ Lại Hoàng Kiện Trai Quýnh Chi đi làm Bố chánh tỉnh Gia Định - Phan Thanh Giản) với dung lƣợng 16 câu thất ngôn, bài Tiễn hữu nhân tòng quân Nam chinh (Tiễn ngƣời bạn đi tòng quân chinh chiến phƣơng Nam - Nguyễn Án) dài 12 câu ngũ ngôn đã giúp tác giả diễn tả sâu sắc những lời ngợi ca đầy trân trọng của ngƣời tiễn dành cho ngƣời đi. Nhƣng có lẽ, những bài cổ phong nghiêng nhiều về tâm sự, cảm xúc dành cho chính mình mới là những bài đặc sắc nhất. Có nhiều bài dung lƣợng khá dài, mặc dù là thơ tống biệt, nhƣng tống biệt chỉ là cái cớ để tác giả bộc lộ cảm xúc, tâm trạng cá nhân. Một loạt các bài của Cao Bá Quát nhƣ Hiểu biệt, phục họa Phƣơng Đình thứ vận (Từ biệt nhau buổi sáng, lại họa vần Phƣơng Đình), Phù Liệt lữ đình tống Đỗ Miễn Chi Ngự Sử (Tiễn Ngự sử Đỗ Miễn Chi ở Lữ Đình bến Phù Liệt), Tặng Thổ Khối Đỗ Vệ Úy xuất Thanh Hóa (Tặng ông Vệ Úy họ Đỗ ngƣời làng Thổ Khối ra làm việc ở Thanh Hóa), Tống Nguyễn Trúc Khê xuất lỳ Thƣờng Tín kiêm Lê Hy Vĩnh lão khế (Tiễn Nguyễn Trúc Khê ra nhận chức tại phủ Thƣờng Tín, đồng thời gửi cho ông bạn già là Lê Hy Vĩnh)... nghiêng nhiều thể hiện nhận thức về nhân tình, thế thái, thời cuộc cũng nhƣ tâm trạng chán nản có phần nổi loạn của nhà thơ. Các bài Tống Tử Mẫn chi Hàm
146
Thuận phú kiêm Giản Phan Điền Nông Tử Đan (Tiễn Tử Mẫn đi làm tri phủ Hàm Thuận và gửi cho quan Điền nông Phan Tử Đan), Tống Đông tỉnh Nguyễn Đức Học chính thỉnh giá quy lý (Đƣa quan học chính tỉnh Hải Dƣơng Nguyễn Đức Học xin nghỉ về làng), Giang Thụ Sào tiểu tập tái tác trƣờng ca tiễn Hà Đình (Họp mặt ở Giang Thụ Sào, lại làm bài trƣờng ca để tiễn Hà Đình) ... của Phạm Phú Thứ chủ yếu diễn tả tƣ tƣởng của nhà Nho lúc nào cũng mong ngóng thực hiện canh tân đất nƣớc trong buổi loạn ly. Ngoài các bài cổ phong của hai tác giả tiêu biểu trên, bài Tống hữu nhân vãng Tuyên (Đƣa ngƣời bạn đi Tuyên Quang) của Trần Thiện Chánh là một thi phẩm tƣơng đối đặc sắc. Bài thơ dài 32 câu, mỗi câu 4 chữ, hài hòa, cân đối. Kết cấu chia làm 3 phần, phần 1 và phần 3 mỗi phần 10 câu, phần 2 dài 12 câu. Nét đặc biệt là tác giả đã tận dụng sự linh hoạt trong việc phối hợp thanh bằng, thanh trắc, việc sử dụng các câu hỏi, thủ pháp lặp... để tạo nên vần điệu bài thơ giống nhƣ một bài hát. Cảm xúc dƣờng nhƣ phá vỡ mọi bờ thi luật để thể hiện những tâm trạng đầy mâu thuẫn về tƣ tƣởng, tình cảm mà nguồn gốc là không đƣợc thỏa mãn giữa hoài bão, khát vọng với thực tế. Mở đầu bài thơ là hình ảnh con ngƣời đƣợc chính tác giả hóa thân với tâm trạng mệt mỏi, buồn bã, nƣớc mắt đẫm áo đang đi trên quãng đƣờng đầy hiểm trở. Ngƣời mệt, ngựa cũng mệt. Bầy chim kia còn có chốn nƣơng thân, nhƣng con ngƣời thì không biết đi đâu, về đâu. Con ngƣời tỏ ra một nỗi chán chƣờng sâu sắc vì công danh không sự nghiệp: Thao thao trọc hà/ Trầm phù kỳ chu/ Ta ngã hữu sinh/ Thệ tƣơng an cầu ? (Dòng đục cuồn cuộn, Thuyền kia chìm nổi, Than ôi đời bạn ta, Định cầu gì mà đi xa ?). Con ngƣời trở nên bơ vơ, lạc lõng trên bƣớc đƣờng danh lợi nhƣ đám mây không nơi nƣơng tựa (Cô vân vô y). Nỗi chán chƣờng đã thôi thúc suy nghĩ trở về, an phận, không đua chen với đời: Dữ vật vô tranh/ Lạc thiên tri mệnh/ Quy tai quy tai/ Kỳ mại duy vĩnh (Không tranh giành gì với ngoại vật/ Vui với đạo trời mà biết phận mình/ Về đi thôi, về đi thôi/ Đƣờng đi của ngƣời ấy còn xa! ). Thơ tống biệt mà nhƣ không phải tống biệt. Tiễn bạn mà xúc cảm trào dâng chỉ để thể hiện những bộn bề trong tâm trạng cá nhân. Thể cổ phong đã giúp ngƣời đƣa tiễn bộc lộ xúc động, sâu sắc những tâm sự từ đáy lòng nhƣ thế.
Có thể thấy, thể thơ đóng vai trò tƣơng đối quan trọng trong thơ tống biệt Việt Nam thế kỵ XVIII - XIX. Tính chất trang trọng cũng nhƣ quy định chặt chẽ của thơ Đƣờng phù hợp để thực hiện chức năng tống biệt của thể tài này. Bên cạnh việc sử dụng thể bát cú, tứ tuyệt truyền thống, để mở rộng phạm vi hiện thực phản ánh cũng nhƣ cảm xúc, thơ tống biệt đã tìm đến thể Đƣờng luật trƣờng thiên và đặc biệt là cổ phong. Sự đa dạng về thể thơ không chỉ giúp thơ tống biệt có những nét độc đáo riêng mà còn cho thấy dấu hiệu của sự phát triển và trƣởng thành về mặt thể loại.
147
Tiểu kết Chƣơng 4
Trên phƣơng diện nghệ thuật, thơ tống biệt thế kỵ XVIII - XIX đã có những thành công nhất định. Trong các phƣơng diện nghệ thuật, tính kỵ sự và yếu tố tự sự là đặc điểm tiêu biểu, mới mẻ của thơ tống biệt giai đoạn này so với giai đoạn trƣớc đó. Với hơn 400 bài thơ có sự xác thực của các địa điểm địa danh đã giúp khẳng định những cuộc tống biệt này là có thực, diễn ra trên chính mảnh đất Việt Nam. Hơn 95% số bài thơ thể hiện sự tƣờng minh ngay từ trong nhan đề cùng với số lƣợng các nguyên chú lớn (232 chú/147 bài) đã cung cấp cho ngƣời đọc những thông tin sáng rõ về ngƣời đƣợc tiễn, hành trình di chuyển hoặc giải thích cặn kẽ hơn một câu thơ, ý thơ trong bài. Sự xuất hiện của 12 thi tự, trong đó có những thi tự dài (gấp 15,2 lần ký tự nhan đề bài thơ) cho thấy dấu hiệu về ý muốn vƣợt thoát khỏi khuôn khổ chật hẹp của thể loại để phản ánh đầy đủ hơn về cuộc tống tiễn. Sự xuất hiện của các yếu tố tự sự trong một số bài thơ đã tạo nên những câu chuyện tiễn biệt bằng thơ chi tiết, sáng rõ, xúc động. Thơ tống biệt giai đoạn này cũng ghi nhận sự thể hiện các kiểu thời gian, không gian nghệ thuật đặc trƣng. Thời gian theo ngày, theo mùa cho thấy dấu ấn văn hóa về thời gian tống biệt thời trung đại. Thời gian khoảnh khắc là kiểu thời gian đặc trƣng nhất vì nó thể hiện đƣợc cảm xúc dồn nén của buổi tống tiễn. Ngoài ra, sự đan xen thời gian quá khứ - hiện tại – tƣơng lai cũng là kiểu thời gian đặc trƣng của thơ tống biệt. Không gian trong thơ tống biệt giai đoạn này thực sự phong phú với sự đan chéo của không gian thực và không gian tƣởng tƣợng, trong đó không gian tƣởng tƣợng xen lẫn giữa không gian cố hƣơng và tha hƣơng chiếm ƣu thế. Không gian nghệ thuật đa dạng đã tạo nên những dấu ấn riêng biệt cho thơ tống biệt giai đoạn này, kéo gần thơ trung đại tới những không gian đời thƣờng, chân thực, gần gụi. Ngôn ngữ thơ tống biệt nổi bật với cách sử dụng điển cố, thi văn liệu Hán học và các biểu tƣợng nghệ thuật. Với 418 điển cố, thi văn liệu Hán học trong 515 bài thơ đã góp một phần rất lớn trong việc khai thác đề tài tống biệt cũng nhƣ giúp lời thơ hàm súc, trở nên trang trọng hơn. Bên cạnh đó, các điển cố, thi văn liệu Hán học trong thơ tống biệt giai đoạn này còn đƣợc vận dụng linh hoạt để thể hiện những vấn đề thời sự nóng hổi của một thời kỳ nhiều biến cố. Dòng sông, rƣợu và liễu là biểu tƣợng nghệ thuật tiêu biểu, xuất hiện nhiều trong các bài thơ tống biệt thế kỵ XVIII - XIX và góp phần rất lớn trong việc thể hiện các cung bậc cảm xúc tiễn biệt. Các thể thơ tống biệt giai đoạn này cũng rất đa dạng, ngoài 453 bài thơ bát cú, tứ tuyệt truyền thống, sự xuất hiện của 3 bài thơ Đƣờng luật trƣờng thiên và 49 bài cổ phong cho thấy dấu hiệu sự phát triển, hoàn thiện về mặt thể loại. Các yếu tố nghệ thuật tiêu biểu trên hòa quyện chặt chẽ đã giúp truyền tải sâu sắc, chân thực nội dung cảm xúc và hiện thực về những cuộc tống tiễn trong hai thế kỵ cuối cùng của chế độ phong kiến.
148
KẾT LUẬN
1. Thơ tống biệt đƣợc hiểu là thơ dùng để tiễn biệt một ai đó, khi họ có sự thay đổi về không gian sống. Chủ thể trữ tình trong thơ tống biệt phải là ngƣời ở lại viết tiễn ngƣời lên đƣờng. Tìm hiểu tiến trình phát triển của thơ trung đại Việt Nam có thể thấy ngay từ giai đoạn thế kỵ X – XVII đã có những sáng tác thơ tống biệt. Đến thế kỵ XVIII – XIX nhờ những tiền đề cơ bản về lịch sử, văn hóa tƣ tƣởng, văn học, dòng thơ này phát triển mạnh mẽ hơn. Giai đoạn này ghi nhận số lƣợng thơ tống biệt tƣơng đối nhiều và khá đa dạng trong đối tƣợng đƣa tiễn cũng nhƣ lý do tiễn đƣa. Xét về đối tƣợng đƣa tiễn, hơn 90% các bài thơ tống biệt là tiễn bạn bè. Bên cạnh đó là những bài thơ tiễn ngƣời thân – đối tƣợng tống biệt mới so với thơ tống biệt giai đoạn trƣớc. Lý do tống biệt khá phong phú, có thể tiễn ngƣời về quê, tiễn ngƣời đi nhậm chức, tiễn ngƣời đi thi... trong đó các bài thơ tiễn ngƣời đi nhậm chức chiếm khoảng gần ¼ tổng số tác phẩm. Gần một nửa số bài thơ tống biệt thuộc lý do đƣa tiễn khác cho thấy thơ tống biệt giai đoạn này rất gần với hiện thực, gắn bó với những cảnh huống đƣa tiễn khác nhau trong cuộc sống thƣờng ngày. Sự phát triển thơ tống biệt trong hai thế kỵ cuối của chế độ phong kiến Việt Nam đã ghi nhận sự hoàn thiện của thể tài trong văn học trung đại Việt Nam nói chung, trong thơ trung đại Việt Nam nói riêng.
2. Thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX đã thể hiện tính chất hƣớng nội và hƣớng ngoại sâu sắc khi xây dựng đƣợc hình tƣợng nhân vật trữ tình và bức tranh hiện thực mang giá trị lịch sử. Hình tƣợng nhân vật trữ tình phần lớn đồng nhất với chính bản thân tác giả - ngƣời tiễn nhƣng đôi khi hình tƣợng này còn là ngƣời đi đƣợc cảm nhận qua lăng kính của ngƣời tiễn. Nhân vật trữ tình trong thơ tống biệt giai đoạn này một mặt đƣợc thể hiện trên phƣơng diện chức năng, phận vị, mặt khác lại đƣợc thể hiện trên phƣơng diện con ngƣời cá nhân. Nếu nhƣ ở phƣơng diện chức năng, phận vị, nhân vật trữ tình thể hiện tròn vai của một công dân, một con ngƣời xã hội, một con ngƣời theo học Nho học thì ở phƣơng diện cá nhân, nhân vật trữ tình đã thể hiện hình ảnh con ngƣời rất đời thƣờng với những cung bậc cảm xúc cá nhân, ít bị chi phối bởi phận vị. Chúng tôi cho rằng giá trị hiện thực mang tính lịch sử cũng là một đóng góp quan trọng trong nội dung của thơ tống biệt. Các cuộc tống tiễn của cha với con, anh với em, vợ với chồng phần nào tái hiện đƣợc hiện thực ly tán ngay từ chính trong gia đình. Đời sống đói khổ của quần chúng nhân dân, sự hoang tàn, đổ nát ở một số vùng miền cũng đƣợc tái hiện chân thực trong những thi phẩm này. Thơ tống biệt đã góp phần khẳng định sự phát triển mạnh mẽ của cảm hứng thế sự, viết về “những điều trông thấy” của văn học từ thế kỵ XVIII. Đặc biệt hơn, những cuộc tống tiễn ngƣời đi đến các miền biên viễn xa xôi hẻo lánh ở phía Bắc và phía Nam là minh chứng sống động và chân thực nhất cho công cuộc mở rộng, giữ gìn bờ cõi của triều đình phong kiến, nhất là vào khoảng thế kỵ XIX. Bên cạnh đó, giá trị hiện thực – lịch sử của thơ tống
149
biệt còn đƣợc khẳng định khi đã ghi lại rất nhiều sự kiện và nhân vật lịch sử liên quan đến công cuộc kháng Pháp ở nửa cuối thế kỵ XIX. Những cuộc tiễn biệt vì thế không chỉ là thơ mà còn là thi sử. Sự hòa quyện này đã tạo nên nét riêng cho thơ tống biệt.
3. Xét trên phƣơng diện nghệ thuật, thơ tống biệt cũng mang đƣợc những dấu ấn đặc sắc. Tính kỵ sự và yếu tố tự sự trong thơ đƣợc coi là nghệ thuật đặc sắc nhất của thơ tống biệt thế kỵ XVIII - XIX. Tính kỵ sự với sự tƣờng minh trong nhan đề, sự sáng rõ của hệ thống chú, thi tự, trong đó, hệ thống chú với sự phong phú về số lƣợng, đa dạng trong vị trí xuất hiện, các thi tự với dung lƣợng tƣơng đối lớn, kết cấu chặt chẽ đã làm nên dấu ấn riêng biệt và mới mẻ cho thơ tống biệt. Yếu tố tự với hệ thống thuật tả về nhân vật, sự sắp xếp các sự kiện, chi tiết thơ đã giúp cho các cuộc tống tiễn thực sự mang hơi thở của cuộc sống với những sự kiện, những ngƣời thật, việc thật. Những câu chuyện tống biệt bằng thơ xúc động và chân thực bởi hệ thống các chi tiết thơ rất logic. Đó là những dấu hiệu cho thấy mong muốn vƣợt thoát khỏi khuôn khổ thể loại thơ Đƣờng có khi gò bó và hạn định sự sáng tạo. Thơ tống biệt giai đoạn này cũng có những đặc trƣng trong cách thể hiện thời gian, không gian nghệ thuật. Thời gian theo ngày, theo mùa hoặc những không gian chia tay thực giúp độc giả phục dựng đƣợc những đặc trƣng văn hóa thời gian, không gian đƣa tiễn thời trung đại. Bên cạnh đó cách thể hiện thời gian khoảnh khắc, thời gian đan xen vừa thể hiện sự đổi mới trong tƣ duy và quan niệm của ngƣời trung đại về mặt thời gian vừa cho thấy đƣợc mối quan hệ gắn bó giữa ngƣời tiễn và ngƣời lên đƣờng. Sự đan chéo của các mảng không gian tƣởng tƣợng với không gian thiên lý, dặm trƣờng, không gian biên tái, không gian quê nhà giúp cho không gian nghệ thuật trong thơ tống biệt thực sự phong phú, đa dạng. Hệ thống điển cố, thi văn liệu Hán học phong phú, đa dạng về số lƣợng và nguồn gốc xuất xứ trong đó có nhiều điển cố liên quan đến chia ly, chia tay. Cách vận dụng điển cố, thi văn liệu Hán học cũng khá linh hoạt. Giá trị nổi bật của hệ thống điển cố trong thơ tống biệt giai đoạn này không chỉ tạo cho các tác phẩm ý nghĩa cổ xƣa, sang trọng mà còn đặc biệt ở chỗ nhiều tác phẩm đã vận dụng khéo léo những điển cố để kín đáo phản ánh hiện thực đƣơng thời. Điều này tạo cho các điển có đƣợc ý nghĩa thời sự. Đây là nét riêng của hệ thống điển cố trong thơ tống biệt so với nhiều tác phẩm khác. Dòng sông, liễu và rƣợu là ba biểu tƣợng nghệ thuật tiêu biểu trong thơ tống biệt. Dòng sông trở đi trở lại trong nhiều buổi tống tiễn đến mức trở thành ám ảnh chia ly, thành hoài niệm và nỗi nhớ. Cũng có khi dòng sông làm tăng thêm mối sầu ly biệt. Rƣợu xuất hiện với tần suất lớn giúp cho cảm xúc chia ly thêm sâu sắc, xúc động và ân tình. Biểu tƣợng liễu mang đặc trƣng cho sự chia tay, chia biệt, giúp tạo nên những không gian đƣa tiễn đẹp và đầy dấu ấn. Không phải là những biểu tƣợng mới trong văn học nói chung, trong thơ tống biệt nói riêng nhƣng dòng sông, liễu và rƣợu là ba biểu tƣợng nghệ thuật đƣợc các tác giả thể hiện thành công trong thơ tống biệt giai đoạn
150
này. Về mặt thể loại, thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX cũng ghi nhận những nét riêng. Bên cạnh những bài Đƣờng luật quen thuộc, sự xuất hiện của các bài Đƣờng luật trƣờng thiên và thơ cổ phong cho thấy ngƣời viết mong muốn mở rộng phạm vi phản ánh hiện thực cũng nhƣ cảm xúc tống tiễn. Sự đa dạng này phản ánh hành trình hoàn thiện thể loại trong giai đoạn cuối của thơ tống biệt nói riêng, của văn học trung đại Việt Nam nói chung.
4. Thơ tống biệt trung đại Việt Nam nói chung và thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX nói riêng, với những đặc điểm nổi bật về nội dung, nghệ thuật đã có đóng góp nhất định vào tiến trình phát triển và hoàn thiện mảng thơ trung đại Việt Nam, đặc biệt là thơ chữ Hán. Hƣớng nghiên cứu của luận án đã khẳng định đƣợc vai trò, vị trí của thể tài thơ tống biệt trong nền thơ ca dân tộc. Tuy nhiên, đây cũng là công việc đồ sộ và cần có thêm nhiều thời gian để tìm tòi sâu hơn nữa. Trong tình hình nghiên cứu còn nhiều trở ngại, đặc biệt là về văn bản còn nhiều vấn đề bỏ ngỏ, một số tác phẩm thơ có ý nghĩa chƣa đƣợc dịch thuật và tập hợp thì những số liệu khảo sát của luận án chắc hẳn chƣa là con số thực sự đầy đủ trong giai đoạn có quá nhiều thành tựu nhƣ thế kỵ XVIII – XIX. Để vấn đề đƣợc khai thác toàn diện hơn, chắc chắn cần nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu, có hệ thống. Từ quá trình triển khai luận án, ngƣời viết đề xuất một số hƣớng nghiên cứu tiếp theo:
Thứ nhất: Mở rộng khảo sát văn bản thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX. Không chỉ dừng lại ở những tƣ liệu đã có mà còn khảo sát cả những tƣ liệu chƣa đƣợc dịch trong các thƣ viện trong và ngoài nƣớc. Việc tập hợp đầy đủ tƣ liệu sẽ giúp cho nội dung nghiên cứu chuyên sâu và đầy đủ hơn.
Thứ hai: Mở rộng hƣớng nghiên cứu của đề tài. Khảo sát thơ tống biệt của các tác giả tiêu biểu trong văn học Việt Nam từ thế kỵ X đến hết thế kỵ XIX để có cái nhìn bao quát về tiến trình hình thành, phát triển của dòng thơ này.
Thứ ba: Nghiên cứu thơ tống biệt thế kỵ XVIII - XIX nói riêng, thơ tống biệt trung đại Việt Nam nói chung trong thế đối sánh với thơ tống biệt của các nƣớc trong khu vực thuộc về văn học chữ Hán nhƣ Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên...
Chúng tôi mong muốn những kết quả nghiên cứu ban đầu về thơ tống biệt thế kỵ XVIII – XIX đƣợc trình bày trong luận án và những đề xuất nhƣ trên sẽ mở ra những hƣớng nghiên cứu có ý nghĩa về thơ tống biệt. Hy vọng bên cạnh những kết quả nghiên cứu khoa học của luận án, chúng tôi sẽ có điều kiện tiếp tục nghiên cứu thơ tống biệt trung đại Việt Nam ở những công trình tiếp theo.
151
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1. Hán Thị Thu Hiền (2016), “Không gian tống biệt trong thơ chữ Hán Nguyễn Du”,
Tạp chí dạy và học ngày nay, số 6/2016, Tr 130, 131, 142
2. Hán Thị Thu Hiền (2017), “Thời gian nghệ thuật trong thơ tống biệt Cao Bá Quát”,
Tạp chí Khoa học công nghệ Đại học Hùng Vƣơng số 1/2017, Tr 39 – 43.
3. Hán Thị Thu Hiền (2018), “Thơ tống biệt Cao Bá Quát” in trong Kỵ yếu Hội nghị khoa học Tri thức trẻ với cách mạng công nghiệp 4.0, Trƣờng Đại học sƣ phạm
Hà Nội 2, Nxb Lao động, Tr 224 – 230.
4. Hán Thị Thu Hiền (2018), “Khát vọng trở về trong thơ tống biệt Chí Đình
Nguyễn Văn Lý”, Tạp chí giáo dục số đặc biệt tháng 11/2018, Tr 78 – 81.
5. Hán Thị Thu Hiền (2019), “Những tiền đề của sự hình thành dòng thơ tống biệt trong
văn học trung đại Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 11, Tr 99 - 107
6. Hán Thị Thu Hiền (2020), “Thể tài tống biệt trong thơ Việt Nam thế kỵ XVIII – XIX”,
Tạp chí khoa học trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội, số 2, Tr 34-42.
7. Hán Thị Thu Hiền (2020), “Nghiên cứu chú và thi tự trong thơ tống biệt bằng
chữ Hán thế kỵ XVIII – XIX”, Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc, số 9, Tr 68 – 78.
152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I.
Tài liệu tiếng Việt
1 Đào Duy Anh (2004), Hán Việt từ điển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 2
Lƣơng An (1998), “Qua tập thơ Lƣơng Sơn thử tìm hiểu tƣ tƣởng yêu nƣớc của
Miên Thẩm”, in trong cuốn Vũ Tiến Quỳnh (tuyển chọn), Ngô Gia Văn Phái, Nguyễn Gia Thiều, Lý Văn Phức, Nguyễn Miên Thẩm, Ngô Thì Nhậm, Nxb Văn
nghệ thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội.
3 Aristote (2007), Nghệ thuật thơ ca, Nhiều ngƣời dịch, Nxb Lao động, Hà Nội.
4
Bùi Thị Kim Ánh (2011), Thơ Tống biệt thế kỵ X – XIV và thế kỵ XV – XVII từ góc
nhìn so sánh, Luận văn thạc sỷ Đại học sƣ phạm Hà Nội.
5
Lại Nguyên Ân (biên soạn) (2003), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia
6
Hà Nội, Hà Nội. Ba trăm bài thơ Đƣờng (2008), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
7
Trần Lê Bảo (2011), Giải mã văn học từ mã văn hóa, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
8 Hoa Bằng (2006), “Cao Bá Quát với cuộc khởi nghĩa chống triều Nguyễn (1854 -
1856)” in trong Cao Bá Quát - về tác gia và tác phẩm (Nguyễn Hữu Sơn, Đặng Thị
Hảo tuyển chọn, giới thiệu), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
9 Danh nhân văn hóa Bùi Huy Bích (1998), Nxb Trung tâm Unesco thông tin tƣ liệu
lịch sử và văn hóa Việt Nam, Hà Nội.
10 Đào Phƣơng Bình, Phạm Thiều (1993), Thơ đi sứ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
11 Nguyễn Huệ Chi (chủ biên) (1977), Thơ văn Lý Trần, tập 1, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
12 Nguyễn Huệ Chi (chủ biên) (1978), Thơ văn Lý Trần, tập 3, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
13 Nguyễn Huệ Chi (chủ biên) (1989), Thơ văn Lý Trần, tập 2 (Quyển thƣợng), Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
14 Nguyễn Huệ Chi (2006), “Khí phách Cao Bá Quát”, in trong Cao Bá Quát - về tác gia và tác phẩm (Nguyễn Hữu Sơn, Đặng Thị Hảo tuyển chọn, giới thiệu), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
15 Nguyễn Huệ Chi (2006), “Tiếp cận nghệ thuật đối với hai chủ đề độc đáo trong thơ
Cao Bá Quát”, in trong Cao Bá Quát - về tác gia và tác phẩm (Nguyễn Hữu Sơn, Đặng Thị Hảo tuyển chọn, giới thiệu), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
16 Vu Tại Chiếu (2006), “Thơ bang giao chữ Hán - Việt trong sự giao lƣu văn hóa
Việt Nam và Trung Quốc trên lịch sử trung đại”, Tạp chí văn học số 12.
153
17 Trƣơng Chính (2006), “Cao Bá Quát, những khoảng đời và thơ” in trong Cao Bá
Quát - về tác gia và tác phẩm (Nguyễn Hữu Sơn, Đặng Thị Hảo tuyển chọn, giới
thiệu), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
18 Ngô Văn Chƣơng (1973), Những khuynh hƣớng tình cảm, đạo lý, xã hội trong thi
ca Tùng Thiện Vƣơng, Sài Gòn quốc vụ khanh đặc trách văn hóa. 19 Thiều Chửu (2004), Hán - Việt tự điển, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
20 Đặng Trần Côn (2015), Chinh phụ ngâm, Nxb Văn học, Hà Nội.
21 Cao Hữu Công (2000), Nghệ thuật ngôn ngữ thơ Đƣờng, Nxb Văn học, Hà Nội.
22 Nguyễn Hữu Cƣơng (2002), Mai hồ thi thảo, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 23 Xuân Diệu (1966), Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, Nxb Văn học, Hà Nội.
24 Xuân Diệu (2006), “Đọc thơ Cao Bá Quát”, in trong Cao Bá Quát - về tác gia và tác
phẩm (Nguyễn Hữu Sơn, Đặng Thị Hảo tuyển chọn, giới thiệu), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
25 Phạm Nguyễn Du (2001), Đoạn trƣờng lục, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
26 Nguyễn Du về tác gia và tác phẩm (2002), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
27 Nguyễn Du toàn tập, tập 2 (2015), Nxb Văn học - Trung tâm nghiên cứu quốc
học, Hà Nội.
28 Nguyễn Du (2019), Truyện Kiều, Nxb Nghệ An, Nghệ An.
29 Phạm Thận Duật toàn tập (2000), Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
30 Thùy Dƣơng (2013), “Nhan đề tác phẩm văn chƣơng – một khía cạnh sáng tạo thú
vị”, Truy cập ngày 23/1/2020 từ http://toquoc.vn/nhan-de-tac-pham-van-chuong-
mot-khia-canh-sang-tao-thu-vi-99119232.htm.
31 Biện Minh Điền (2015), Loại hình văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học Vinh
32 Đình Nguyên Hoàng Giáp Ngƣ Phong Nguyễn Quang Bích (2013) (Đinh Xuân Lâm
chủ biên), Nxb Văn học, Hà Nội.
33 Cao Huy Đỉnh (1976), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội.
34 Trịnh Bá Đĩnh (2017), Từ kí hiệu đến biểu tƣợng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
35 Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhơn Tĩnh, Lê Quang Định (2006), Gia Định tam gia, Nxb
Tổng hợp Đồng Nai, Đồng Nai.
36 Hoàng Giáp Nguyễn Tƣ Giản cuộc đời và thơ văn (2001) (Nhiều tác giả), Nxb
Trung tâm ngôn ngữ văn hóa Đông Tây, Hà Nội.
37 Ninh Viết Giao (2002), Hát phƣờng vải, Nxb Văn hóa thông tin, Trung tâm văn
hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.
38 Thạch Thiết Hà (2016), “Luật hồi tỳ của nhà nƣớc phong kiến Việt Nam”, Truy
cập ngày 20/8/2019 từ http://ubkttw.vn/van-hoa-van-nghe/.
154
39 Dƣơng Quảng Hàm (1968), Việt Nam văn học sử yếu (tái bản), Trung tâm học liệu
– Bộ giáo dục xuất bản, Hà Nội.
40 Lê Bá Hán (chủ biên) (1998), Tinh hoa thơ mới, thẩm bình và suy ngẫm, Nxb
Giáo dục, Hà Nội
41 Nguyễn Hành, Minh quyên thi tập (2017), Nxb Nghệ An.
42 Nguyễn Thị Bích Hải (1995), Thi pháp thơ Đƣờng, Nxb Thuận Hóa, Huế.
43 G.W.F. Hegel (1999), Mĩ học, Nxb Văn học.
44 Phan Thị Thu Hiền (chủ biên) (2017), Giáo trình văn học Hàn Quốc, Nxb Đại học
Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.
45 Phan Thị Thu Hiền (2017), Dạo bƣớc vƣờn văn Hàn Quốc - Nxb Tổng hợp Thành
phố Hồ Chí Minh.
46 Phan Thị Thu Hiền (2017), Văn học cổ điển Hàn Quốc, tiến trình và bản sắc, Nxb
Khoa học xã hội.
47 Phan Thị Thu Hiền (2018), Nghiên cứu nhóm văn bản Mân hành của Lý Văn Phức
(1785 – 1849), Luận án tiến sĩ Hán Nôm, Đại học KHXH&NV.
48 Đỗ Đức Hiểu (chủ biên) (2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Văn học, Hà Nội.
49 Trịnh Thị Hoa (2015), Thơ tống biệt đời Đƣờng, Luận án tiến sĩ Đại học sƣ phạm Hà Nội.
50 Nguyễn Thị Hòa (2016), Nghiên cứu thơ đi sứ của Đoàn Nguyễn Thục và Đoàn
Nguyễn Tuấn, Luận án tiến sĩ Đại học sƣ phạm Hà Nội.
51 Phạm Đình Hổ (1998), Phạm Đình Hổ - Tuyển tập thơ văn, Nxb Khoa học xã hội-
Trung tâm KHXH và NV Quốc gia - Viện nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội.
52 Trần Hƣng, “Thời vua Minh Mạng, lãnh thổ Việt Nam rộng gấp 1,7 lần hiện nay”,
Truy cập ngày 31/6/2018 từ https://trithucvn.net/van-hoa/thoi-nha-nguyen-ky-19-
lanh-tho-viet-nam-rong-lon-gap-17-lan-hien-nay.html
53
Trần Đình Hƣợu (1984), “Mấy ý kiến bàn về nghiên cứu Nho giáo”, Tạp chí
nghiên cứu nghệ thuật, số 2.
54 Trần Đình Hƣợu (1995), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, Nxb Văn
hóa thông tin, Hà Nội.
55 Trần Đình Hƣợu (2007), Các bài giảng về tƣ tƣởng phƣơng Đông, Nxb Đại học
quốc gia, Hà Nội.
56 Bửu Kế (1999), Từ điển Hán - Việt từ nguyên, Nxb Thuận Hóa, Huế.
57 Vũ Phạm Khải (1991), Đông Dƣơng thi văn tuyển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
155
58 Vũ Khiêu (2006), “Cao Bá Quát, tinh thần phản kháng vẫn còn sáng soi”, in trong
Cao Bá Quát - về tác gia và tác phẩm (Nguyễn Hữu Sơn, Đặng Thị Hảo tuyển
chọn, giới thiệu), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
59 Từ Khôi (2017), “Phạm Phú Thứ lặng lẽ canh tân”, Truy cập ngày 12/12/2019 từ
http://daidoanket.vn.
60 Nguyễn Khuyến tác phẩm, (1984), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
61 Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật (chủ biên) (2001), Kho tàng ca dao ngƣời
Việt, tập 1, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
62 Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật (chủ biên) (2001), Kho tàng ca dao ngƣời
Việt, tập 2, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
63 Phạm Ngọc Lan (2017), “Nguyễn Án - ẩn giả và danh sĩ Thăng Long trong biến
động “bể dâu” cuối thế kỵ XVIII - đầu thế kỵ XIX”, in trong Thơ văn Nguyễn Án,
Phạm Ngọc Lan, Phạm Văn Ánh biên soạn, Nxb Đại học sƣ phạm, Hà Nội.
64 Đặng Thanh Lê (1979), Truyện Kiều và thể loại Truyện nôm, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
65 Trần Hoa Lê (2011), “Hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong thơ Nôm Đƣờng luật giai
đoạn nửa cuối thế kỵ XIX”, Tạp chí nghiên cứu văn học, số 7.
66 Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam (tập 3) (1960), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
67 Mai Quốc Liên (2004), “Cao Bá Quát - một thiên tài kì vĩ của văn học Việt Nam” in trong
Cao Bá Quát toàn tập, tập 1, Nxb Văn học - Trung tâm nghiên cứu Quốc học Hà Nội.
68 Ngô Thế Long (2005), Những mẩu chuyện bang giao trong lịch sử Việt Nam, tập 2,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
69 Ngô Thế Long, Nguyễn Kim Hƣng dịch (2012), Đại việt sử ký tục biên, Nxb Hồng
Bàng, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây.
70 Vũ Văn Long (2018), Thơ văn Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh trong văn
học vãn Trần, Luận án tiến sĩ Ngữ Văn, Đại học sƣ phạm Hà Nội.
71 Nguyễn Lộc (1985), “Vấn đề phân kì trong lịch sử văn học dân tộc và quy luật vận
động của văn học dân tộc”, Tạp chí nghiên cứu văn học, số 3.
72 Nguyễn Lộc (2001), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỵ XVIII - hết thế kỵ XIX, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
73 Nguyễn Lộc (2006), “Cao Bá Quát - cuộc đời và văn thơ”, in trong Cao Bá Quát - về tác gia và tác phẩm (Nguyễn Hữu Sơn, Đặng Thị Hảo tuyển chọn, giới thiệu), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
74 Phƣơng Lựu (chủ biên) (2003), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
75 Chí Đình Nguyễn Văn Lý (2015), Tổng tập thơ văn - tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
156
76 Chí Đình Nguyễn Văn Lý (2015), Tổng tập thơ văn - tập 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
77 Nguyễn Văn Minh (1999), Từ điển văn liệu, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
78 Hà Văn Minh, Vũ Anh Tuấn (2018), “Thơ ca Nguyễn Bảo, Văn bản và tác phẩm”, từ
Trƣờng Đại học sƣ phạm Hà Nội,
truy cập ngày 13/04/2018
http://nguvan.hnue.edu.vn/Nghiencuu/NguvanHanNom/tabid/101/newstab/3077/D efault.aspx.
79 Ngô Thì Nhậm toàn tập (2003) (tập 1), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
80 Ngô Thì Nhậm toàn tập (2003) (tập 2), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
81 Ngô Thì Nhậm toàn tập (2003) (tập 3), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 82 Trần Thị Nhung (2011), Chính sách an ninh quốc phòng của triều Nguyễn đối với
vùng biên giới phía Bắc 1802 - 1858, Luận văn thạc sĩ Lịch Sử, ĐHKHXH NV,
ĐH Quốc Gia Hà Nội, tr 82.
83 Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (1971), Thơ ca Việt Nam, hình thức và thể loại,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
84 Bùi Thị Đào Nguyên, “Lƣợc sử con đƣờng cái quan”. Truy cập ngày 15/3/2020, từ
http://www.vncgarden.com/dhia-ly---dhia-danh-thu-vien/-tong
hop/luocsuconduongcaiquan
85 Phan Ngọc (2003), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Nxb
Thanh niên, Hà Nội.
86 Nguyễn Huy Oánh - Thạc đình di cảo, Lại văn Hùng (chủ biên) (2014), Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
87 Lã Xuân Oai (2005), Côn Đảo thi tập, Nxb Lao Động, Hà Nội.
88 Vũ Tông Phan - cuộc đời và thơ văn (1995), Nxb Văn học, Hà Nội. 89 1. Hoàng Phê (chủ biên) (2006), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng. 90 Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử (1997), Về thi pháp thơ Đƣờng, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
91 Nguyễn Khắc Phi (2006), Tuyển tập Nguyễn Khắc Phi, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
92
I.A. Propp (2004), Tuyển tập V.I.A. Propp, Nhiều ngƣời dịch, Nxb Văn hóa dân tộc, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội.
93 Cao Bá Quát toàn tập, tập 1, (2004), Nxb Văn học, Hà Nội - Trung tâm nghiên cứu Quốc học.
94 Cao Bá Quát toàn tập, tập 2, (2012), Nxb Văn học, Hà Nội - Trung tâm nghiên cứu Quốc học. 95 Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Khâm định Việt sử thông giám cƣơng mục (tập
2), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
96 Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục tập 4, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
97 Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục tập 7, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
157
98 B.L.Riptin (1974), “Mấy vấn đề nghiên cứu những nền văn học trung cổ của
phƣơng Đông theo phƣơng pháp loại hình” (bản dịch), Tạp chí Văn học, số (2).
99 Nguyễn Ngọc San, Đinh Văn Thiện (1998), Từ điển điển cố văn học trong nhà
trƣờng, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
100 Trần Lê Sáng (2006), “Thơ Nguyễn Văn Siêu”, Tạp chí Hán - Nôm (5), tr 3 – 9. 101 Nguyễn Hữu Sơn (2005), “Cao Bá Quát và những suy tƣởng trong thơ”, Tạp chí
nghiên cứu văn học (2).
102 Nguyễn Hữu Sơn (2002), Niên biểu Nguyễn Du, in trong sách Nguyễn Du về tác
gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
103 2. Trần Đình Sử (1998), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục, Hà Nội. 104 Nguyễn Thanh Tâm (2015), Loại hình thơ mới Việt Nam (1932 - 1945), Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội.
105 Ngô Thị Thanh Tâm (2015), “Thử bàn về giấc mộng trong thơ chữ Hán Nguyễn
Du”, Trƣờng Đại học sƣ phạm Hà Nội, truy cập ngày 24/07/2019 từ
[http://nguvan.hnue.edu.vn/Nghiencuu/Ngonngu/tabid/100/newstab/472/Default.aspx].
106 Bùi Duy Tân (1991), Nguyễn Bảo, nhà thơ, danh nhân văn hóa, Nxb Văn hóa, Sở
Văn hóa Thông tin Thái Bình.
107 Lê Văn Tấn (2013), Tác giả nhà nho ẩn dật và văn học trung đại Việt Nam, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
108 Lê Văn Tấn (2013), "Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng - còn
nỗi niềm gì sau cuộc tiễn đƣa", Kỵ yếu Ngữ học trẻ 2013, Hội Ngôn ngữ học Việt
Nam, Tr.796-798; in lại trong "Hành trình nghiên cứu Ngữ văn", Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội, 2013, Tr.367-372.
109 Trần Thị Băng Thanh, Phạm Tú Châu (1974), “Vài nét về thơ bang giao, đi sứ đời
Trần trong giai đoạn giao thiệp với nhà Nguyên”, Tạp chí nghiên cứu văn học (6).
110 Trần Thị Băng Thanh, Lại Văn Hùng (đồng chủ trì) (2010), Tuyển tập Ngô Gia
văn phái (tập 1), Nxb Hà Nội, Hà Nội.
111 Trần Thị Băng Thanh, Lại Văn Hùng (đồng chủ trì) (2010), Tuyển tập Ngô Gia
văn phái (tập 2), Nxb Hà Nội, Hà Nội.
112 Trần Thị Băng Thanh (2015), “Nguyễn Văn Lý - kẻ sĩ, nhà văn hóa đất Thăng Long”, in trong Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Trần Thị Băng Thanh (2015) chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
113 Hoài Thanh, Hoài Chân(2015), Thi nhân Việt Nam, (xuất bản lần đầu năm 1942),
Nxb Văn học, Hà Nội.
158
114 Vũ Thanh (2017), “Nguyễn Quang Bích – nhà thơ lớn, ngƣời anh hùng của núi
rừng Tây Bắc qua Ngƣ phong thi văn tập”, Tạp chí Hán Nôm, số 5.
115 Đinh Hồng Thái (2014), Nghiên cứu biểu tƣợng, một số hƣớng tiếp cận lý thuyết,
Nxb Thế giới.
116 Chƣơng Thâu (2005), “Giới thiệu Di cảo PhanThanh Giản “Lƣơng Khê thi văn
thảo”, in trong Thơ văn Phan Thanh Giản, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
117 Trần Thị The (2018), Thơ bang giao Việt Nam thế kỵ X - XIV, Luận án Tiến sĩ Ngữ
văn, Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội.
118 Trần Ngọc Thêm (2015), “Từ “ngồi” đến “đi” hay từ “ổn định” đến “biến động” trong hệ giá trị văn hoá Việt Nam” in trong Kỵ yếu hội thảo khoa học “Việt Nam học: Những
phƣơng diện văn hóa truyền thống”, Nxb Khoa học xã hội, Tr 1183 -1190, Hà Nội.
119 Lê Thí (2017), “Phạm Phú Thứ nhà trí thức hàng đầu”, truy cập ngày 23/6/2019 từ
http://baoquangnam.vn/dat-va-nguoi-xu-quang.
120 Thơ Trƣơng Đăng Quế (Trƣơng Quảng Khê tiên sinh tập) (2007), Lê Sơn
Phƣơng Ngọc biên dịch, Nxb Phƣơng Đông.
121 Thơ văn Nguyễn Án - Phạm Ngọc Lan, Phạm Văn Ánh (biên soạn) (2017), Nxb Đại học Sƣ phạm.
122 Thơ văn Nguyễn Cao (1992), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
123 Thơ văn Nguyễn Quang Bích, Kiều Hữu Hỵ (biên soạn) (1973), Nxb Văn học, Hà Nội.
124 Tuyển tập thơ chữ Hán Nguyễn Đề, Nguyễn Thị Phƣợng (chủ biên) (1995), Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
125 Thơ văn Tự Đức (1996), Nxb Thuận Hóa, Huế.
126 Thơ Hồ Xuân Hƣơng (2006), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
127 Thơ văn Trần Thiện Chánh (1995) (Cao Tự Thanh dịch và giới thiệu), Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
128 Thơ văn Nguyễn Phi Khanh, Bùi Văn Nguyên, Đào Phƣơng Bình (1981), Nxb Văn học.
129 Thơ văn Phan Thanh Giản, Phan Thị Minh Lễ, Chƣơng Thâu (biên soạn) (2005),
Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
130 Thơ văn Phan Huy Ích (1978), (tập 1), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 131 Thơ văn Phan Huy Ích (1978), (tập 2), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
132 Thơ văn Phan Huy Ích (1978), (tập 3), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 133 Thơ Bùi Dƣơng Lịch (1996), Thƣ viện Hà Tĩnh, Hà Tĩnh. 134 Thơ văn Phạm Văn Nghị (1979), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
135 Thơ văn Nguyễn Xuân Ôn (1977), Nxb Văn học, Hà Nội.
136 Thơ Tùng Thiện Vƣơng - Miên Thẩm (1994), NxbThuận Hóa, Huế.
159
137 Thơ Tùng Thiện Vƣơng (1991), Ngô Văn Phú tuyển chọn, sƣu tầm, Nxb Văn học. 138 Thơ văn Nguyễn Công Trứ (1983), NXb Văn học, Hà Nội. 139 Thơ văn Đặng Huy Trứ, Nhóm Trà Lĩnh (1990), Nxb thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh. 140 Thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn - Hải ông thi tập (1982) , Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 141 Thơ văn Tú Xƣơng (2002), Nxb Đồng Nai, Đồng Nai. 142 Nguyễn Hữu Thì (1961), Biệt li qua thơ ca, Nxb Nam Chi tùng thƣ, Sài Gòn. 143 Lã Nhâm Thìn (2009), Phân tích tác phẩm văn học trung đại Việt Nam từ góc nhìn
thể loại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
144 Lã Nhâm Thìn (2013), “Tiếp cận và dạy - học văn học trung đại Việt Nam ở trƣờng phổ thông”, in trong Kỉ yếu hội thảo khoa học quốc gia về dạy học Ngữ văn ở trƣờng phổ thông Việt Nam, Nxb Đại học sƣ phạm.
145 Lã Nhâm Thìn, Vũ Thanh (chủ biên) (2016), Giáo trình văn học trung đại Việt
Nam, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
146 Trần Nho Thìn (2008), Văn học trung đại Việt Nam dƣới góc nhìn văn hóa, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
147 Trần Nho Thìn (2012), Văn học Việt Nam từ thế kỵ X đến hết thế kỵ XIX, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 148 Ca Văn Thỉnh (1984), Nguyễn Thông, con ngƣời và tác phẩm, Nxb Thành phố
Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.
149 Đỗ Thị Thu Thủy (2015), Thơ đi sứ Việt Nam từ cuối triều Lê đến đầu triều Nguyễn (1740 - 1820), Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội,
150 Đỗ Lai Thúy (2018), “Tản Đà, con cá và cánh diều”, truy cập ngày 30/11/2019 từ http://nguvan.hnue.edu.vn/Nghiencuu/VanhocVietNamhiendai/tabid/103/newstab/ 3325/Default.aspx.
151 Nguyễn Tài Thƣ (2006), “Cuộc đời và bƣớc đƣờng phát triển tƣ tƣởng của Cao Bá Quát”, in trong Cao Bá Quát - về tác gia và tác phẩm (Nguyễn Hữu Sơn, Đặng Thị Hảo tuyển chọn, giới thiệu), Nxb Giáo dục, 2006.
152 Phạm Phú Thứ toàn tập (2014), Nxb Đà Nẵng. 153 Phan Cẩm Thƣợng (2011) Giao thông của ngƣời Việt Nam xƣa: Đƣờng đi và ngƣời đi. Truy cập ngày 12/4/2018 từ https://thethaovanhoa.vn/van-hoa/giao- thong-cua-nguoi-viet-nam-xua-duong-di-va-nguoi-di-n20111225060417358.htm?
154 Tiễn dặn ngƣời yêu (1996), Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 155 Nguyễn Thị Tính (2014), Thơ chữ Hán Cao Bá Quát, những điểm mới về nội dung và nghệ thuật, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội.
156 Tổng tập văn học Nôm Việt Nam (2008), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 157 Nguyễn Trãi (2013), Ức Trai thi tập, Nxb Văn hóa văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ
Chí Minh.
158 Nguyễn Nam Trân (2011), Tổng quan lịch sử văn học Nhật Bản, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
160
159 Tuyển tập thơ văn Phƣơng Đình - Nguyễn Văn Siêu (tập 3) (2010), Nxb Hà Nội.
160 Tuyển tập thơ văn Phƣơng Đình - Nguyễn Văn Siêu (tập 4) (2010), Nxb Hà Nội.
161 Tạ Đức Tú (2012), “Tìm hiểu đƣờng thi dƣới góc độ mã văn hóa”, Tạp chí Khoa
học, Trƣờng Đại học Cần Thơ, Tập 22b: tr 155 – tr 162.
162 Nguyễn Thanh Tùng (2007), “Một tƣ liệu độc đáo về quan hệ ngoại giao Việt Nam
- Nhật Bản giữa thế kỵ XVIII”, Tạp chí Hán Nôm; Số 6 (85).
163 Từ điển biểu tƣợng văn hóa thế giới (1997), Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
164 Trƣơng Tửu (1956), Truyện Kiều và thời đại Nguyễn Du, Nxb Xây dựng, Hà Nội
165 Phạm Phú Viết, Phạm Ngô Minh (2014), “Trúc Đƣờng Phạm Phú Thứ và hai bộ
Giá viên”, in trong Phạm Phú Thứ toàn tập, Nxb Đà Nẵng.
166 Lê Trí Viễn (chủ biên) (1993), Tổng tập VHVN. T17, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
167 Lê Trí Viễn (2001), Đặc trƣng văn học trung đại Việt Nam, Nxb Văn nghệ thành
phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.
168 Nguyễn Khắc Viện (1998), Bàn về đạo Nho, Nxb Trẻ, Hà Nội.
169 Trần Ngọc Vƣơng (1999), Nhà nho tài tử và văn học Việt Nam, Nxb Đại học Quốc
Gia Hà Nội, Hà Nội.
II.
Tài liệu tiếng Anh
170 Hui Cui (2016) Intercultural comparison between Chinese and English poetry and aesthetic characteristics. 4th International Education, Economics, Social Science, Arts, Sports and Management Engineering Conference (IEESASM 2016), pp 252-255.
171 De Kichung Kim (1996) An Introduction to Classical Korean Literature: From
Hyangga to P'ansori (New Studies in Asian Culture). Routledge 1st Edition, pp 50
172 Michelle Mi-Hsi Yeh (2000) The Chinese Poem: The Visible and the Invisible in
Chinese Poetry. Manoa, Volume 12, Number 1, 2000, pp 139-146. III. Tài liệu tiếng Trung Quốc
173 辞海 (1999), 上海辞书出版社 174 辞源 (1983), 商务印书馆 175 徐中舒(1992)汉语大字典.湖北辞书出版社、四川辞书出版社, 176 高春燕 (2016), 唐诗类型的文化阐释(精), 出版社:九州 177 左英英(2011), 中晚唐送别诗研究,硕士论文,辽宁大学 178 陈先涛(2007),魏晋南北朝送别诗研究,硕士论文,安徽师范大学 179 王婷婷(2017),苏辙送别诗研究,硕士论文,中国矿业大学
161
180 王昕(2014), 越南阮前送别詩研究,硕士论文,西南交通大 181 罗煦(2012), 杜甫离别诗研究,硕士论文,西南大学 182 叶卉(2015), 大历十才子送别诗初探,硕士论文,湖北师范学院 183 王丽娇(2014), 建构主义视角下初中语文的送别诗阅读教学,硕士论文,渤海大学 184 黄晓瑜 (2018): 杜甫大历送别诗与大历诗人送别诗之意象比较, 教育现代化 185 张兴茂(2012),梅尧臣送别诗研究,硕士论,广西大学 186 旭日 (2015),南朝初唐送别诗流变论,硕士论文,山东大学 187 葛月(2014),中学语文送别诗教学研究 ,硕士论文,重庆师范大学 188 刘思危(2011),李白送别诗中的概念隐喻和转喻研究,硕士论文,湖南师范大学 189 周明亮(2006), 柳与唐代送别诗,硕士论文,东北师范大学 190 曹小丰(2014), 唐前送别诗流变研究,西南大学 191 伍爱凤(2005), 中日古代送别诗比较研究,硕士论文,对外经济贸易大学 192 刘文娟(2012), 岑参送别诗初探,硕士论文,陕西师范大 193 张怡(2008), 李白送别诗的艺术特色研究,硕士论文,西南大学 194 崔柳青 (2011): 魏晋南北朝送别诗研究, 文学硕士学位论文, 河北大学 195 孙笑仙(2013),明代朝鲜朝使臣送别诗歌研究,硕士论文,鲁东大学 196 孔祥俊 (2010),唐长安送别诗与灞柳文化,硕士论文,西北大学 197 唐艺文(2016),菅原道真送别诗研究,硕士论文,青岛大学 198 吕媛(2016),唐代赴岭南送别诗研究,硕士论文,福建师范大学 199 孙鑫蓉 (2019),“论宋代理学者送别诗的审美特征”, 内江师范学院学报 200 常莹; 徐加新 (2019), “浅析中朝送别诗”, 福建茶叶 201 谭庆华; 丁晓玲 (2019),“ 李白送别诗之非惜别情感解析”,中学语文教学参考 202 王怡宁 (2019), “论唐代送别诗中的“水”意象”, 戏剧之家 203 王晶晶 (2019), “唐代送别诗的审美表现”,遵义师范学院学报
PL1
PHỤ LỤC 1: DANH MỤC CÁC NGỮ LIỆU KHẢO SÁT
1 Lê Trí Viễn (chủ biên) (1993), Tổng tập VHVN. T17, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
2
Lại văn Hùng (chủ biên) (2014), Nguyễn Huy Oánh - Thạc đình di cảo, Nxb KHXH, Hà Nội.
3
Trần Thị Băng Thanh, Lại Văn Hùng (đồng chủ trì) (2010), Tuyển tập Ngô Gia văn phái (tập 1), Nxb Hà Nội, Hà Nội.
4 Ngô Thì Nhậm toàn tập (tập 1) (2003), - Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 5 Ngô Thì Nhậm toàn tập (tập 2) (2003), - Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 6 Ngô Thì Nhậm toàn tập (tập 3) (2003), - Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
7 8 Thơ văn Phan Huy Ích (1978) (tập 1), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Thơ văn Phan Huy Ích (1978) (tập 2), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Thơ văn Phan Huy Ích (1978) (tập 3), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
9 10 Trung tâm nghiên cứu quốc học, Nguyễn Du toàn tập (tập 2) (2015), Nxb Văn
học, Hà Nội.
11 Nguyễn Thị Phƣợng (chủ biên), (1995), Tuyển tập thơ chữ Hán Nguyễn Đề, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
12 Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhơn Tĩnh, Lê Quang Định - Gia Định Tam Gia (2006), Nxb
Đồng Nai.
13 Phạm Đình Hổ - Tuyển tập thơ văn (1998), Nxb Khoa học xã hội- Trung tâm
KHXH và NV Quốc gia - Viện nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội.
14 Thơ văn Nguyễn Án (2017), Nxb Đại học sƣ phạm, Hà Nội.
15 Minh quyên thi tập (2017), Nxb Nghệ An, Nghệ An. 16 Trần Thị Băng Thanh, Lại Văn Hùng (đồng chủ trì) (2010), Tuyển tập Ngô Gia văn
phái (tập 2), Nxb Hà Nội, Hà Nội.
17 Bản dịch Mân hành thi thoại tập, Luận án tiến sĩ ngữ văn của Phan Thị Thu Hiền,
ĐHKHXH&NV, Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
18 Thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn (1982) - Hải ông thi tập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
19 Thơ Trƣơng Đăng Quế (Trƣơng Quảng Khê tiên sinh tập) (2007), Nxb Phƣơng
Đông, Hà Nội.
20 Chí Đình Nguyễn Văn Lý - Tổng tập thơ văn, tập 1 (2015), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 21 Chí Đình Nguyễn Văn Lý - Tổng tập thơ văn, tập 2 (2015), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
22 Phạm Thị Minh Lễ, Chƣơng Thâu (2005), Thơ văn Phan Thanh Giản, Nxb Hội nhà
văn, Hà Nội.
23 Tuyển tập thơ văn Phƣơng Đình - Nguyễn Văn Siêu (tập 3) (2010), Nxb Hà Nội. 24 Tuyển tập thơ văn Phƣơng Đình - Nguyễn Văn Siêu (tập 4) (2010), Nxb Hà Nội.
25 Vũ Tông Phan - cuộc đời và thơ văn (1995), Nxb Văn học, Hà Nội. 26 Thơ văn Phạm Văn Nghị (1979), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
PL2
27 Vũ Phạm Khải (1991), Đông Dƣơng thi văn tuyển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 28 Cao Bá Quát toàn tập, tập 1, (2004), NXB Văn học.
29 Cao Bá Quát toàn tập, tập 2, (2012), NXB Văn học. 30 Nhóm Trà Lĩnh (1990), Thơ văn Đặng Huy Trứ, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.
31 Thơ Tùng Thiện Vƣơng - Miên Thẩm (1994), NxbThuận Hóa, Huế. 32 Thơ Tùng Thiện Vƣơng (1991), Ngô Văn Phú tuyển chọn, sƣu tầm, Nxb Văn học, Hà Nội.
33 Phạm Phú Thứ toàn tập (2014), Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng. 34 Thơ văn Trần Thiện Chánh (1995) (Cao Tự Thanh dịch và giới thiệu), Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội. 35 Hoàng Giáp Nguyễn Tƣ Giản cuộc đời và thơ văn (2001) (Nhiều tác giả), Nxb Trung
tâm ngôn ngữ văn hóa Đông Tây, Hà Nội.
36 Thơ văn Nguyễn Xuân Ôn (1977), NxbVăn học, Hà Nội.
37 Phạm Thận Duật toàn tập (2000), Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 38 Ca Văn Thỉnh (1984), Nguyễn Thông, con ngƣời và tác phẩm, Nxb Thành phố Hồ
Chí Minh, Hồ Chí Minh.
39 Thơ văn Nguyễn Quang Bích (1973), Nxb Văn học, Hà Nội.
40 Đình Nguyên Hoàng Giáp Ngƣ Phong Nguyễn Quang Bích (2013) (nhiều tác giả), Nxb
Văn học, Hà Nội.
41 Nguyễn Văn Huyền (1984), Nguyễn Khuyến tác phẩm, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 42 Lã Xuân Oai - Côn Đảo thi tập (2005), Nxb Lao Động, Hà Nội.
PL3
PHỤ LỤC 2 BẢNG THỐNG KÊ SỐ LƢỢNG BÀI THƠ TỐNG BIỆT VIỆT NAM
THẾ KỶ XVIII - XIX (Sắp xếp theo thứ tự năm sinh của tác giả - Những bài thơ cụ thể có trong phần Phụ lục 6)
Tác giả
Tác phẩm khảo sát
ST T
Tỷ lệ (%)
SL bài thơ tống biệt
SL bài thơ khảo sát 112
8 7,14
1 Nguyễn Huy Oánh (1713 - 1789)
61
2 3,27
2 Ngô Thì Sĩ (1726 –
1780)
455
25 5,5
3 Ngô Thì Nhậm (1746 -
1803)
329
8 2,43
4
Phan Huy Ích (1751 - 1822)
250
6
2,4
5 Nguyễn Du
(1756 - 1820)
143
11 7,69
6 Nguyễn Đề
(1761 - 1805)
158
2 1,26
Lại văn Hùng (chủ biên) (2014), Nguyễn Huy Oánh - Thạc Đình di cảo, Nxb KHXH. Trần Thị Băng Thanh, Lại Văn Hùng (đồng chủ trì) (2010), Tuyển tập Ngô Gia văn phái (tập 1), Nxb Hà Nội, Hà Nội. Ngô Thì Nhậm toàn tập (2003) (tập 1), - Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Ngô Thì Nhậm toàn tập (2003) (tập 2), - Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội Ngô Thì Nhậm toàn tập (2003) (tập 3), - Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội Thơ văn Phan Huy Ích (1978) (tập 1), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội Thơ văn Phan Huy Ích (1978) (tập 2), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội Thơ văn Phan Huy Ích (1978) (tập 3), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội Trung tâm nghiên cứu quốc học, Nguyễn Du toàn tập (tập 2) (2015), Nxb Văn học. Nguyễn Thị Phƣợng (chủ biên), (1995), Tuyển tập thơ chữ Hán Nguyễn Đề, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Gia Định Tam Gia (2006), Nxb Đồng
7
Trịnh Hoài Đức (1765 -
1825)
Nai.
PL4
8
Phạm Đình Hổ (1768 -
Phạm Đình Hổ (1998), - Tuyển tập thơ
87
9 10,3
1839)
văn - Nxb Khoa học xã hội- Trung tâm KHXH và NV Quốc gia - Viện nghiên
cứu Hán Nôm.
9 Nguyễn Án
Thơ văn Nguyễn Án (2017), Nxb Đại
49
6 12,2
(1770 - 1815)
học sƣ phạm.
10 Nguyễn Hành
Minh quyên thi tập (2017), Nxb Nghệ
208
10 4,8
(1771 - 1824)
An
11 Ngô Thì Lữ
Trần Thị Băng Thanh, Lại Văn Hùng
33
3 9,09
(1773 – 1821)
(đồng chủ trì) (2010), Tuyển tập Ngô
Gia văn phái (tập 2), Nxb Hà Nội, Hà
Nội.
12 Lý Văn Phức (1785 –
Bản dịch Mân hành thi thoại tập,
106
2 1,89
1849)
Luận án tiến sĩ ngữ văn của Phan Thị
Thu Hiền, ĐHKHXH&NV, Đại học
quốc gia Hà Nội.
13 Đoàn Nguyễn Tuấn
Thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn (1982) -
241
4 1,65
(cuối thế kỉ 18- đầu
Hải ông thi tập, Nxb Khoa học xã hội,
thế kỉ 19)
Hà Nội.
14 Trƣơng Đăng Quế
Thơ Trƣơng Đăng Quế (Trƣơng
224
20 8,92
(1793 – 1865)
Quảng Khê tiên sinh tập) (2007), Nxb
Phƣơng Đông.
15 Nguyễn Văn Lý
925 110 11,1
(1795 - 1868)
Chí Đình Nguyễn Văn Lý - Tổng tập thơ văn, tập 1 (2015), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Chí Đình Nguyễn Văn Lý - Tổng tập thơ văn, tập 2 (2015), Nxb Khoa học xã hội, Hà
16 Phan Thanh Giản (1796
402
8 1,99
Phạm Thị Minh Lễ, Chƣơng Thâu (2005), Thơ văn Phan Thanh Giản, Nxb
- 1867)
Hội nhà văn, Hà Nội.
17 Nguyễn Văn Siêu (1799
1077 30 2,78
- 1872)
Tuyển tập thơ văn Phƣơng Đình - Nguyễn Văn Siêu (tập 3) (2010), Nxb Hà Nội.
Tuyển tập thơ văn Phƣơng Đình - Nguyễn
Văn Siêu (tập 4) (2010), Nxb Hà Nội.
Nội.
PL5
18 Vũ Tông Phan (1800 -
Vũ Tông Phan - cuộc đời và thơ văn
40
3
7,5
1851)
(1995), Nxb Văn học, Hà Nội.
19 Phạm Văn Nghị (1805 -
Thơ văn Phạm Văn Nghị (1979), Nxb
81
2 2,46
1881)
Khoa học xã hội, Hà Nội.
20 Vũ Phạm Khải (1807 -
Vũ Phạm Khải (1991), Đông Dƣơng thi
69
17 24,6
1872)
văn tuyển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
21 Cao Bá Quát
Cao Bá Quát toàn tập, tập 1, (2004),
1212 67 5,52
(1809 - 1855)
NXB Văn học
Cao Bá Quát toàn tập, tập 2, (2012),
NXB Văn học
22 Đặng Huy Trứ (1815 -
Nhóm Trà Lĩnh (1990), Thơ văn Đặng
278
5 1,81
1893)
Huy Trứ, Nxb thành phố Hồ Chí Minh.
23
Tùng Thiện Vƣơng
Thơ Tùng Thiện Vƣơng - Miên Thẩm
104
10 9,61
(1819 - 1870)
(1994), NxbThuận Hóa
Thơ Tùng Thiện Vƣơng (1991), Ngô Văn
Phú tuyển chọn, sƣu tầm, Nxb Văn học.
24 Phạm Phú Thứ (1821 -
Phạm Phú Thứ toàn tập (2014), Nxb Đà
823
99 12,02
1882)
Nẵng
25 Trần Thiện Chánh
76
11 14,4
(1822 – 1874)
26 Nguyễn Tƣ Giản
Thơ văn Trần Thiện Chánh (1995), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội Hoàng Giáp Nguyễn Tƣ Giản cuộc
29
3 10,3
(1823 – 1890)
đời và thơ văn (2001) (Nhiều tác giả),
Nxb Trung tâm ngôn ngữ văn hóa
Đông Tây, Hà Nội.
27 Nguyễn Xuân Ôn (1825
103
4 3,88
- 1889)
Thơ văn Nguyễn Xuân Ôn (1977), Nxb Văn học , Hà Nội.
28 Phạm Thận Duật (1825
12
2 16,6
- 1885)
Phạm Thận Duật toàn tập (2000), Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội
29 Nguyễn Thông (1827 -
65
11 16,9
1884)
Ca Văn Thỉnh (1984), Nguyễn Thông, con ngƣời và tác phẩm, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.
97
7
7,2
30 Nguyễn Quang Bích (1832 - 1889)
Thơ văn Nguyễn Quang Bích (1973), Nxb Văn học, Hà Nội
PL6
Đình Nguyên Hoàng Giáp Ngƣ Phong
Nguyễn Quang Bích (2013) (nhiều tác giả), Nxb Văn học, Hà Nội.
31 Nguyễn Khuyến
Nguyễn Văn Huyền (1984), Nguyễn
267
3 1,12
(1835 - 1909)
Khuyến tác phẩm, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
32 Lã Xuân Oai
Lã Xuân Oai - Côn Đảo thi tập (2005),
73
4 5,47
(1838 - 1891)
Nxb Lao Động
33 Đào Tấn
Tổng tập văn học Việt Nam (tập 17)
34
3 8,82
(1845 - 1907)
(1993), NXb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Tổng
8223 515 6,1
PL7
PHỤ LỤC 3 SỐ LƢỢNG CHÚ TRONG CÁC BÀI THƠ TỐNG BIỆT VIỆT NAM
THẾ KỶ XVIII – XIX
(Thống kê theo tác giả)
Tổng số chú
Số bài có một chú 4 Số bài có hai chú 0 Số bài có ba chú 0 Số bài có bốn chú 0 Số bài có bảy chú 0 Tổng số bài có chú 4 4 Tác giả Ngô Thì Nhậm
0 0 0 0 1 1 Phan Huy Ích 1
0 0 0 0 1 1 Nguyễn Đề 1
1 0 0 0 2 1 Trịnh Hoài Đức 0
0 0 0 0 2 2 Phạm Đình Hổ 2
1 0 0 0 3 2 Nguyễn Án 1
0 0 0 0 2 2 Nguyễn Hành 2
Nguyễn Văn Lý 35 13 48 61 0 0 0
0 0 0 0 3 3 Phan Thanh Giản 3
0 0 0 0 1 1 Nguyễn Văn Siêu 1
0 0 0 0 5 5 Cao Bá Quát 5
1 0 0 0 3 2 Miên Thẩm 1
0 0 0 0 2 2 Đặng Huy Trứ 2
7 1 Phạm Phú Thứ 25 19 11 63 131
0 0 0 0 3 3 Nguyễn Thông 3
1 0 0 0 6 5 Nguyễn Quang Bích 4
0 0 0 0 2 2 Lã Xuân Oai 2
7 1 88 35 11 147 232 Tổng số
PL8
PHỤ LỤC 4 BẢNG THỐNG KÊ CÁC TÁC PHẨM CÓ THI TỰ
STT TÁC PHẨM TÁC GIẢ
Tiễn hình bộ hữu thị lang cừ Châu Hầu thụ Quảng Nam hiệp Ngô Thì Nhậm 1
trấn chi mệnh ((tịnh ngữ)
Tống binh bộ tả phụng nghị nghi thành hầu phụng sứ (tịnh dẫn) 2
Lý Văn Phức Chu hành tống vạn niên Trần Khải (tịnh dẫn) 3
Tiễn Kim Động Trần Ngộ Hiên quy dƣỡng (tính tự) Nguyễn Văn Lý 4
Tiễn cố nhân Bình Định học chính Trƣơng Giản Trai đắc Cao Bá Quát 5
giả hồi hƣơng (tính tự)
Tiễn Hồng Lô Phạm Đài phụng sứ Nhƣ Thanh (tính tự) 6
Tống hƣơng niên cử nhân Trần Cung Phủ chi Sơn Tây hậu Phạm Phú Thứ 7
bổ (tính tự)
Tống đồng huyện cử nhân Lê Trọng vãng Bình Định huấn 8
đạo (hữu tự).
Tống Bùi Niết Đài Đông Đôi (húy Ái) điều bổ Lạng Sơn 9
(hữu tự).
Bộ vận tống Nguyễn học chính Lý An Nam hành (tịnh dẫn). 10
Tống lễ bộ Đỗ Tùng Đƣờng đại tôn bá hồi hƣu bộ lƣu biệt 11
nguyên vận (tính tự).
12 Tống từ tế ty phó sứ Tôn Thất Hữu Thƣờng phó Nam Kỳ
kinh lƣợc sứ Trƣng Mạc (hữu tự).
PL9
PHỤ LỤC 5 HỆ THỐNG ĐIỂN CỐ, THI VĂN LIỆU HÁN HỌC TRONG THƠ TỐNG BIỆT VIỆT NAM THẾ KỶ XVIII - XIX
Tác phẩm
Điển cố Diêm mai chu tập (Kinh thƣ)
Tác giả Nguyễn Huy Oánh
TỐNG CHIÊU BÌNH HUYỆN CHÁNH ĐƢỜNG TRIỆU PHÓ KỴ TỐNG QUẾ BÌNH HUYỆN CHÁNH ĐƢỜNG NGÔ CHÍ QUẢN TỐNG NGÔ CHÂU GIÁO THỤ
THƢỢNG TRÌNH TỐNG KHÂM SAI LANG TRUNG LƢƠNG CÁCH
Xa tải đấu lƣơng (Tam quốc chí) Tƣ văn (Luận ngữ), Rau cần Phán Thủy (Kinh Thi), Liêm Khê, Minh Đạo, Nhòm tƣờng (khuy tƣờng) (Luận ngữ), Múa rìu qua mắt thợ (điển Ban môn thất lộng cân) Tiệm hồng quỳ (Kinh Dịch), Bàn ca (Kinh thi), Vũ nghi (Kinh dịch), Dƣ quang (điển về Khuông Hành) Hi song (văn Đào Tiềm), Lạc xã (Tấn thƣ), Hàn đồng Ngọ Kiều
TỐNG NGÔ ĐÌNH OÁNH TRÍ SĨ THI (THỨ VẬN) TỐNG PHẠM ĐỈNH CHUNG TRÍ SĨ THI (THỨ VẬN) TỐNG TRẦN LỆ TRÍ SĨ THI (THỨ VẬN)
Nam kim (Kinh thi), Trú cẩm (Hán sử), Cúc kính (Thơ Đào Tiềm) Huân trì (Kinh thi) Ngô Thì Sĩ
Hồ thi, Vân Đài
Cẩm đƣờng (Hán sử), Ngô Thì Nhậm
Hàn tửu Phạm chu
Ngu huyền Chu sắt, ông Thạch Động
TỐNG XÁ ĐỆ PHÓ NAM CHÂN HUYỆN NHẬM TỐNG NGUYỄN HIỆU THẢO XUẤT ĐỐC LẠNG SƠN (HỴ THIÊN OANH) PHỤNG NGHĨ TRẤN THỦ TIỄN ĐỐC ĐỒNG TỐNG HỮU NGUYỄN HIẾU ĐỨC (THẠCH ĐỘNG) BỒI GIÁ HẠNH VẠN NIÊN CUNG Y VẬN (NHỊ THỦ) Kỳ nhất TỐNG HỮU NGUYỄN HIẾU ĐỨC (THẠCH ĐỘNG) BỒI GIÁ HẠNH VẠN NIÊN CUNG Y VẬN (NHỊ THỦ) Kỳ nhị
PL10
TỐNG HỮU BẮC SỨ (NHỊ THỦ) TỐNG KHẾ HỮU HÀNH BIÊN (NHỊ THỦ)
Chu tuân (thơ Hoàng hoa) Cừu đái (Tấn thƣ), Trí nhân (Luận ngữ), Tông tử duy thành (Kinh thi), Trúc thƣ Trú cẩm (Hán sử)
Cửu tự (Kinh thi), Đƣờng, Ngu, Phả, Mục, Đăng tiên (điển về Ban Thanh Cảnh) Thiên niên (Tấn thƣ), Dinh tế liễu, Phó đỉnh chính kim (Phó Duyệt) Chƣớng dữ ti (Tấn ngữ)
Trúc tin (sách Dậu dƣơng tạp trở) Chim bằng, Nho giả do lai (điển về Lục Cửu Linh) Thiệu Bá, Cao Dao
ĐẠI HOÃN QUẬN CÔNG TIỄN CỔN QUẬN CÔNG TRÍ SĨ CHI TÁC TỐNG HỮU NINH CHUYẾT SƠN HIỆP ĐỒNG HUY QUẬN CÔNG XUẤT DƢƠNG THẢO THỦY PHỈ (kì nhất). TỐNG HỮU NINH CHUYẾT SƠN HIỆP ĐỒNG HUY QUẬN CÔNG XUẤT DƢƠNG THẢO THỦY PHỈ (kì nhị). TỐNG HỮU NINH CHUYẾT SƠN HIỆP ĐỒNG HUY QUẬN CÔNG XUẤT DƢƠNG THẢO THỦY PHỈ (kì tam). TIỄN Ỵ LA DƢƠNG HIẾN SỨ TUYÊN CHỈ PHÚ XUÂN THÀNH THƢ TIỄN THỊ LANG ĐIỂN NGỌC HẦU PHỤNG SỨ TỐNG HÌNH BỘ HỮU THỊ LANG CỬ CHÂU HẦU THỤ QUẢNG NAM HIỆP TRẤN CHI MỆNH TỐNG LIÊU HỮU TUÂN PHAN NHẬP CẬN CHI TÁC
Quan nhân niệm niệm nhất ban chân (Nhạc Dƣơng lâu ký), Tự ngã hoành lƣơng thiên lý nguyệt (thơ Đỗ Phủ), Gậy Lê, Ba luống cúc (thơ Đào Tiềm) Cam đƣờng (Kinh thi)
Mai tín
TIỄN HÌNH BỘ TẢ THỊ LANG TUY LỘC HẦU HỒI TRIỀU TẶNG NGUYỄN DƢƠNG XUYÊN TRƢƠNG NGÔ XUYÊN
Long Phi tại thiên (Kinh dịch) TIỄN ĐÃI CHIẾU VŨ HẦU TUÂN
PHIÊN NHẬP CẬN
Phan Huy Ích
Nguyệt ốc nghi nhan lữ mộng tinh (thơ Lý Bạch), Bá liễu, Dƣơng quan (Thơ Vƣơng Duy)
Bánh xe cánh cung (Trang Tử) TIỄN NIÊN QUYẾN THỤY NHAM PHAN HẦU NHẬP CẬN HỌA ĐÃI CHIẾU VŨ HẦU NGUYÊN VẬN GIÁP NGỌ QUỶ XUÂN HƢƠNG THI SẮC CHỈ PHÂN TÔNG HÀ TRUNG HUẤN ĐẠO NGUYỄN KHUÊ PHÓ GIÁO SỞ ỨNG VỤ, NGÃ DIỆC ĐÍNH KỲ TỰU NAM TY DĨ THI TÁC BIỆT
PL11
MẬU TUẤT THU TIÊN XÁ ĐỆ NHÃ HIÊN PHÓ ĐỘNG HẢI ĐỒNG TÌNH THỊ
Cánh bằng (Trang Tử), Ban đƣờng (Lão Lai), Huân trì (Kinh thi) Thác bàn (Hán sử), Phúc tốt (Kinh thi)
Sao ngƣu, sao đẩu (Kinh sử)
QUÝ MÃO THU, GIA TÔN PHỤNG MỆNH ĐỐC TRẦN CAO BẰNG THƢỢNG QUAN NHẬT, BÁI TIỄN KÍ HOÀI HỌA TIỄN THANH PHONG NGÔ HÀN LÂM SỨ HỒI HỌA TIỄN HÌNH THỊ THANH PHÁI LÊ HẦU PHÓ HÕA NGHĨA NHẬM
Đƣờng Thục (thơ Lý Bạch), Duy cẩm hạc (điển về Triệu Biện) Cây cam đƣờng (Kinh thi)
Cánh bằng (Trang Tử) Nguyễn Đề
Mao Nghĩa
THIỀU CHÂU GIANG THỨ, PHỤNG TIỄN QUẢNG ĐÔNG TRƢƠNG NIẾT ĐÀI HỒI TRỊ TỐNG TỐ NHƢ ĐỆ TỰ PHÚ XUÂN KINH BẮC HOÀN (tứ thủ) TỐNG TÀO XÁ GIẢI NGUYÊN BẮC HOÀN TIỄN THỊ TRUNG ĐẠI HỌC SĨ NGÔ THAI CÔNG BẮC HOÀN
Địch Nhân Kiệt, núi Thái Sao Đầu Lý Ƣng, Trần Phồn, Giả Nghị TẶNG BIỆT NGHỆ AN TRẤN HỘ TẢ
Trịnh Hoài Đức
Mạc vị loạn bang hiềm tái váng (Khổng Tử) Bá Kiều (bá liễu, chiết liễu)
Cao Sơn (đàn của Bá Nhạ)
Phạm Đình Hổ
Mộng Giang Nam
Họ cung họ Hoàng
Giang Nam
Cánh bẳng
Nguyễn Án
Giặt dải mũ (Ngƣ phủ), Sông Nghi, đền Vu (Luận ngữ) PHỤNG NGHỊ DỤ LỘC HẦU TỐNG LƢƠNG SÁN TRIỀU QUY QUẢNG ĐÔNG TỐNG NGÔ NHỮ SƠN CHI QUẢNG ĐÔNG TỐNG HƢƠNG SƠN CẤP SỰ QUẢN LÝ NGỰ THIÊN HY NGÔN HUYNH LAI PHỎNG TỐNG BIỆT CHI TÁC TỐNG BẢN PHỦ TÂN DOÃN ĐẶNG TRẦN QUÂN CHI NHẬM TỐNG LIÊN CỪ MAI CÔNG PHÓ VỊ HOÀNG TIỄN MÔN NHÂN NGUYỄN XUÂN PHƢỢNG LÊ TÔNG QUANG, TRƢƠNG MÃN, TRƢƠNG ĐỨC HOẰNG PHÓ KINH HỘI THI TỐNG PHAN HOÀNH HẢI ĐIỆP SƠN XỨ QUÁN
PL12
Tôn trở bình sinh học (Tân tự)
Nguyễn Hành
TIỄN HỮU NHÂN TÒNG QUÂN NAM CHINH NGHĨ TIỄN MỖ QUAN PHỤNG BẮC SỨ (kì nhị)
PHỤNG TIỄN CỬU THỊ NHƢ HÀNH CÔNG BẮC SỨ (HẠ THỌ LỄ)
TỐNG ĐƢƠNG TRUNG HẦU Ngô Thì Lữ
ĐẠI QUỲNH CÔI TIỄN CHIÊU VIỄN TƢỚNG QUÂN CHÁNH SỨ Đoàn Nguyễn Tuấn
Ngô tử (Tả truyện), trƣng sĩ (Văn tuyển), trí thân (Luận ngữ), tê tê (Kinh thi), tri tân (Luận ngữ) Bàn đào, Nƣớc ta lại lấy chim sẻ trắng để cống nạp lần nữa (Hậu Hán thƣ), ngọc bạch (Tả truyện), quan quang hội (Kinh Dịch) Dƣơng quan ((Thơ Vƣơng Duy) Đài vàng, phong vân (Kinh Dịch), lời khoán sắt, Nhân trình (Kinh Thi), huân trì (Kinh Thi) Mắt xanh (tích về Nguyễn Tịch), Ma Cật, Tạ An Động Đình (Sử ký)
Trƣơng Đăng Quế Nguyễn Văn Lý
TẶNG SƠN HƢNG TUYÊN TỔNG ĐỐC NGỤY THIỆN PHỦ TỐNG NHƢ YÊN BỐI THÂN NGUYỄN CHIẾU LÊ QUANG TỐNG NIÊN HUYNH BỘ HỘ VIÊN NGOẠI LANG PHẠM QUÂN GIÁNG BỐ ĐỨC THỌ PHỦ GIÁO THỤ VŨ TỐN HIẾN CẤP SỰ TRUNG BỔ VI HẢI DƢƠNG ĐỐC HỌC, THƢ TIỄN
Chỉ cần một cành để làm tổ, chẳng cần nhiều (Trang Tử), nhà Tuyên thất, Giả Nghị, Phƣợng minh (Tống thƣ), cổ đạo cầm tâm Họ Tạ, họ Phó, Quai Nhai
Khúc Bạch Tuyết
TỐNG HƢNG HÓA BỐ CHÁNH NGỤY THIỆN PHỦ CHI TRỊ TỐNG TRẦN QUÂN DĨNH THỪA VÂN BẰNG THUYỀN VÃNG TÂN GIA BA CÔNG VỤ, THỨ QUẢNG NAM TUẦN PHỦ NGỤY CÔNG THIỆN PHỦ NGUYÊN VẬN TIỄN TRƢƠNG HỌC CHÍNH HỌA LƢU GIẢN NGUYÊN VẬN
Bạch vân vi (Cổ thi), Trọng Tuyên, Trang Tử, Bạch các (thơ Giả Đào) Nghiêu, Thuấn, Mẫn, Tăng
BINH BỘ VIÊN NGOẠI LANG, ĐÔNG ĐÔI BÙI QUÂN KHUẤT QUY DƢỠNG, ĐẮC THỈNH, THƢ TIỄN
PL13
Sà Hán, Tô công
Gác lê , Đình vân (thơ Đào Tiềm)
TIỄN KIM ĐỘNG TRẦN NGỘ HIÊN QUY DƢỠNG TÍNH TỰ CỬU NHẬT HÀN VŨ, TIỄN KHẾ NHỊ VŨ NINH PHỦ CHI NAM ĐỊNH TRƢỞNG KHẢO QUAN TỐNG HÀN LÂM BIÊN TU NGUYỄN TỬ TỈNH THÂN TỐNG ĐỒNG KHẾ YÊN THÁI TIẾN SĨ NGUYỄN ƢỚC PHU, BỊ THÔI, TẨM KHẤT HOÀN HƢƠNG TỐNG TÒNG TỬ MẬU TÙNG TIẾN PHỦ CHI NGA SƠN HUẤN ĐẠO
Xu đình (Luận ngữ), Lão Lai, Huyền Huy Xu đình (Luận ngữ), Tựa cửa, hái lan, Tín Lăng Quân, Hoàn Ôn Nhờ một cành nơi rừng xuân (Trang Tử), Trƣờng An, Hàn dƣ tất xuân hòa (Bài tụng Bình Tây Thục của Lƣu Cơ) Luy Lũ, Khơi dậy mạnh mẽ văn chƣơng của ta cũng là mối duyên cực đẹp (Cổ văn tuyển)
Yên Kinh, đái lệ (Sử ký), Linh Thọ (Tập vận), Hán đình ơn ngộ Hán tiết, Tán hoạch đắc quân (thơ Đỗ Phủ)
Phân Mao
Thổ Phƣợng nhân nhƣ ngọc (Tây kinh tạp ký) Chu Nam lƣu trệ, Thiếu Du
Dƣơng Chu
Trƣơng tử, Du hiên tinh hiểu (Sách Hậu Hán Thƣ)
HOAN CHÂU NIẾT SỨ KIM ĐÔI PHẠM THUẬT PHỦ LAI KINH TIẾN LỄ HỘI TRỊ, THƢ KIÊM TRÌNH ĐỒNG NIÊN PHAN PHÙ XUYÊN, ĐỖ THẬN HIỆN, VŨ TIẾT HIỆN, PHẠM ÔN KỲ, TRẦN THÀNH TRAI, NGUYỄN ỨC TRAI, KIÊM THỊ BINH BỘ THỊ LANG TIỂU PHẠM MẬU THÂN XUÂN SƠ, PHỤNG TỐNG LỄ BỘ THAM TRI HẢI PHÁI BÙI HỮU TRÖC SUNG NHƢ YÊN CHÍNH SỨ PHỤNG TỐNG LỄ BỘ THỊ LANG VƢƠNG TẾ TRAI SUNG NHƢ YÊN GIÁP SỨ PHỤNG TỐNG QUANG LỘC TỰ KHANH NGUYỄN ĐỊNH PHỦ SUNG NHƢ YÊN ẤT SỨ TỐNG TAM NÔNG DOÃN PHÙ LƢU NGUYỄN TỬ CAO BẰNG BỐ CHÍNH PHẠM AN TRAI ĐẮC THỈNH, QUY TỈNH TIÊN DOANH, THỨ VẬN PHAN TỐNG NGUYỄN ỨC TRAI TUẦN PHỦ HÀ TIÊN KHỞI MÃ, THƢ TẶNG PHỤNG TỐNG NHƢ YÊN GIÁP SỨ HỒNG LÔ TỰ KHANH MAI TRINH THÚC
PL14
PHAN SÀI PHONG DĨ KIM HẠ HỒI TRIỀU, THƢ THỬ VI TIỄN PHỤNG TỐNG HÀ NỘI CHỦ THÍ NGUYỄN ỨC TRAI HỒI TRIỀU, DỤNG ỨC TRAI TIỀN VẬN
Sứ tiết thùy tri hệ thấn gia (thơ đời Thanh), Ngân Hà Tô tử ngô kim bất ký thùy (thơ Tô Đông Pha), Ngựa ký già (kí lão) (Cổ ngữ), Chim ri (Cổ (thơ ngữ), Dƣơng Quan Vƣơng Duy) Tƣ Mã, Xƣơng Lê
TUYÊN QUANG NIẾT SỨ BÙI HỮU TRÚC NỘI CHUYỂN QUỐC SỬ QUÁN TOẢN TU, THƢ TIỄN TIỀN KIẾN THỤY THÁI THÚ BẢO TRIỆN TRẦN QUÂN TƢƠNG PHỎNG, CẶP HOÀN THƢ TIỄN
TIỄN BẢN QUẬN LƢU GIÁO THỤ QUY HƢU HỌA LƢU GIẢN NGUYÊN VẬN
Xỏ lẫn guốc ra đón nhau (Truyện Vƣơng Sán), Tƣớc vị ngƣời giết thịt dê (Phần Nhƣợng Vƣơng trong sách Trang Tử), Công danh nhƣ việc đánh rơi cái ấm (Thơ Tô Đông Pha) Quan chức đâu làm mãi, chỉ có dịp phù hợp là nghỉ (lấy ý trong văn thời Thanh) Trịnh Giải
TỐNG TRƢỚC TÁC LANG HOÀNG THỈ VĂN PHÓ KHUYẾT SUNG BIỆN NỘI CÁC NGUYỄN QUÂN VÂN LỘC ( TƢ GIẢN) XU TRIỀU, THƢ TIỄN
Trời cao lòng dạo chơi cùng mặt trăng, mặt trời (Thơ Du Tử), Đồ Nam cửu vạn dung mao cách (Trang Tử), Ngựa ký, ngựa lƣu Mục Mã, Gác Kỳ Lân,
Đánh xe cho ông Lý (Lý Ƣng truyện) Đƣờng Giới, Tử Do
Bá Lăng kiều
Bắc lục
Thành Bá
TIỄN CAO BẰNG NIẾT SỬ NGUYỄN QUÂN TIẾN LỤC CHI LỊ TỐNG ĐỐC LÂM CÔNG CHẤT HIÊN LAI KINH ĐIỀU DỤNG, PHỤNG TIỄN HÀ NỘI NIẾT SỰ PHẠM QUÂN NHẬP THAM BIỆN NỘI CÁC TIỄN CHỦ KHẢO PHẠM CÔNG HỮU NGHI HỒI TRIỀU PHỤNG TIỄN ĐỊNH AN CHẾ ĐÀI NGUYÊN PHƢƠNG HIÊN SUNG HẢI AN KINH LƢỢC ĐẠI THẦN Y HÀ NIẾT NGUYÊN VẬN TIỄN TIÊN HƢNG THÁI THÖ NGUYỄN NGHI
PL15
Bùi Độ
BINH BỘ THƢỢNG THƢ KHÂM SAI TUYÊN ÚY HẢI AN QUÂN THỨ TRẦN CÔNG TƢƠNG PHỎNG, CẬP HOÀN THƢ TIỄN TỐNG TÂN TIẾN SĨ NGUYỄN THỔ QUY DƢỠNG
Sự khổ tâm về cây quế tiên đã đƣợc đền bù bằng việc ghi tên vào sổ sách (ý từ Đƣờng Thi) Đỗ Phủ
Cao tì (da hổ) (Kinh Dịch), Gác lê Từng thấy ở chốn cửa vàng có chim phƣợng bay vào (lấy ý Đƣờng Thi)
Đề chữ ở cầu (Tích Tƣ Mã Tƣơng Nhƣ), Trƣng Quân: Chi Trƣng Quân Doãn Trí Gốc cây cam đƣờng (điển Thiệu Công Thích)
Rau thuần (Tấn thƣ) Tuyết trung
Cơ trời từ đó đã hội tụ thâm sâu ở chính trung rồi (ý Trang Tử) Lan xú (Kinh Dịch), Dƣơng xuân Giang nam
TỐNG BẢN HUYỆN DOÃN NGUYỄN KHÁNH HẢI THĂNG THÁI THÖ CHI HÀNH TIỄN HÀ NỘI ĐỐC HỌC DƢƠNG NHẬN PHONG ĐỒNG BẢN TỈNH QUAN THÂN HẠ TỐNG ĐINH MÙI HỘI KHOA PHÓ BẢNG THỊNH HÀO TRƢƠNG TỬ Ý NINH GIA ĐỒNG CHÂU BINH BỘ CHỦ SỰ THĂNG BỔ TỪ SƠN THÁI THÖ PHƢƠNG UYÊN ĐÌNH TIỄN HÀN KÝ TIỄN SƠN HƢNG TUYÊN TỔNG ĐỐC NGỤY HẠC SƠN NHẬP VI HỘ BỘ THƢỢNG THƢ TIỄN THƢỜNG TÍN TRẦN THÁI THÚ HỒI QUÁN TỈNH THÂN TỐNG THUẬN AN GIÁO THỤ NGUYỄN TỐNG HƢƠNG NIÊN YÊN THÁI PHÙNG TUẤN PHỦ QUY HƢU LỄ BỘ LANG TRUNG NGÔ DƢƠNG ĐÌNH SUNG HÀ NỘI GIÁM KHẢO, Y LƢU VẬN THƢ TIỄN TỐNG XUÂN QUAN VŨ THÁI Y HOÀN HƢƠNG TỐNG NHẬN ĐỆ CỬ NHÂN GIẢN PHU CHI BẮC NINH HẬU BỔ
ĐỒNG SỰ LÊ PHIÊN ĐÀI DỤNG TÂN ĐIỀU BỒ NAM ĐỊNH BỐ CHÁNH, PHAN TIỄN HÀNH LÝ
Hãy ngắm lại hoa cúc ở phía Nam, đối diện với hoa mà khẽ ngâm nga (thơ Đỗ Phủ) Hoa cúc vàng, rƣợu trong, đã gày guộc quá nửa mùa thu (Thơ Chu Hy), lan ngôn (thơ cổ)
PL16
CHẾ DÀI ĐẶNG TƢỚNG CÔNG ĐIỀU CẢI ĐỊNH AN TỔNG ĐỐC BÁI TIỄN
TIỄN TIÊN ĐIỀN TIẾN SĨ NGUYỄN
Quai Nhai, Quân vƣơng tự mình đẩy xe (Sử ký), cam đƣờng bóng tỏa (Thiệu Công Thích), điển Long Môn Ngự Lão Lai (Mặc áo hoa múa trên nhà) Trọng Tuyên
Nam Nguyễn
Phan Thanh Giản
Áo ban (Lão Lai)
Nằm mà trị vẫn lo việc quan, việc dân của trẫm (truyện Hấp Am)
THƢ TẶNG ĐỒNG QUẬN TRI PHỦ THĂNG QUẢNG NGÃI HỌC CHÍNH NGUYỄN THAI NGHỊ PHỦ LAI KINH DẪN KIẾN HÀNH THỨ TỐNG TRƢƠNG LƢỢNG TRAI BẢO HỢP CHI NHẬM HOÀI ĐỨC TRI PHỦ TỐNG NGÔ DƢƠNG ĐÌNH PHỤNG VÃNG GIÁM KHẢO HÀ NỘI TRƢỜNG TỐNG LẠI BỘ THỊ LANG HOÀNG KIỆN TRAI – QUÝNH CHI NHẬM GIA ĐỊNH BỐ CHÁNH TỐNG HỘ PHỦ NGUYH THAI THIỆN PHỦ PHỤC CHI HƢNG Nguyễn Văn Siêu
Phủ Nam còn bao ngƣời mong ngày gặp lại (thơ Lý Thƣơng Ẩn), Kiều thiên (Kinh Thi) Đông Pha, Thúc Độ
Ông già Trƣơng Khiên
Hàn Xƣơng Lê
TỐNG THIỆN PHỦ NGỤY THAI QUY HƢNG TỐNG NHƢ YÊN CHÍNH SỨ TRƢỜNG QUÝNH XUYÊN TRẦN ĐỐC HỌC TỰ QUẢNG NGHĨA CẢI HÀ TĨNH QUÁ KINH NGỤ LƢU SỔ NHẬT TỐNG CHI TỐNG CÁC TRƢỜNG NGUYỄN THAI TÂN THUYÊN HÀ NỘI BỘ CHÍNH SỨ
Ngôi nhà ấm (Ôn thất điện), chiết liễu, Cây tang, cây tử (Kinh thi) Khói nƣớc lay động tình nhớ bạn (thơ Đỗ Phủ) Mao Nghĩa, Lão Lai
Lão Lai
TỐNG LÊ PHÚC XUYÊN CHI NAM ĐỊNH ỨNG CỬ NAM ĐỊNH NGUYỄN NIẾT ĐÀI XUÂN PHONG SỚ THỈNH HỒI GIA ĐỊNH TỈNH THÂN TRÍ THƢ TỪ BIỆT NHÂN (KÝ TẶNG) NAM ĐỊNH NGUYỄN NIẾT ĐÀI XUÂN PHONG SỚ THỈNH HỒI GIA ĐỊNH TỈNH THÂN TRÍ THƢ TỪ BIỆT NHÂN (KÝ TẶNG)
PL17
Lão Lai
Vƣợt lên chín tầng mây chỉ trong một hơi thở (Trang Tử) Bài hát bi thƣơng của nƣớc Yên nƣớc Triệu xƣa còn để lại niềm cảm khái (Hán Thƣ) Cầu mã tri giao (Luận ngữ) Vũ Tông Phan
Trƣơng Khiên Vũ Phạm Khải
TỐNG BẢN TỈNH NIẾT ĐÀI THĂNG BÌNH BỘ BIỆN LÝ ĐẶNG LƢƠNG HIÊN TỐNG BÌNH CHUẨN ĐẶNG QUÂN HOÀNG TRUNG PHÙ HẢI NHƢ ĐÔNG TỐNG NHƢ YÊN GIÁP PHÓ SỨ NGUYỄN VÂN LÂM TIỄN THUẬN AN TRI PHỦ NGUYỄN TUÂN PHỦ CHI KINH TIỄN TRẦN TÖ DĨNH PHỤC NHƢ TÂY SỨ TỈNH NIẾT TRẦN VĂN VI HỒI KINH TIỄN BIỆT
Một lần cất cánh bay liền chín vạn dặm (Trang Tử), Bia ông già lánh đời ở núi Thúy Xƣơng Lê, Thiếu Lăng
HƢNG YÊN ĐỐC HỌC NGUYỄN VĂN LÝ TUÂN TRIỆU LAI KINH, LÂM BIỆT TÁC Ông già vƣờn Tây, Nam Ngạc TẶNG ĐỒNG CHÂU CHƢỞNG ẤN
Ông già Trƣơng
Cuốn chiếu da hổ
Nhạc Đại Vũ, thơ Hoàn (Kinh thi)
Tam Động
Hòe vàng, quế đỏ (Văn cổ Trung Hoa) Phê ngƣu đao (Luận ngữ), Hô canh (Tả truyện) Tử Mỹ, Hƣu Văn Ông đào, Trƣờng canh
NGUYỄN THỊ, BẠT TUYÊN QUANG ÁN SÁT TỐNG ĐỒNG QUẬN BÌNH THUẬN ĐỐC HỌC LA ĐỨC ĐIỂN HỒI KHA TIỄN NGHĨA TRAI TIÊN SINH VÃNG QUẢNG NAM TIỄU TÂY NGUYÊN GIA ĐỊNH TUẦN PHỦ ĐỖ QUANG TỰ NAM QUY PHỤC BỊ TRƢNG LAI KINH, KHUẤT PHỎNG LÂM BIỆT THỨ NGUYÊN VẬN TIỄN NGUYÊN KINH DOÃN NGUYỄN VĂN TƢỜNG CHI THÀNH HÓA KHÂM PHÁI CHÚ THỐ CAM LỘ, TẨU BÚT THỨ VẬN TIỄN TAM ĐĂNG PHÓ BẢNG PHẠM VĂN GIÁNG TIỄN TAM NGUYÊN TRẦN HY TĂNG CHI THĂNG BÌNH BIÊT PHẠM ĐÔN NHÂN LANG TRUNG Cao Bá Quát HIỂU BIỆT, PHỤC HỌA PHƢƠNG ĐỈNH THỨ VẬN
PL18
Liêu diêu (Trang Tử) Đốt đốt (điển về Ân Hạo), Ban Kinh Nguyên Long, Sách dƣới cầu (điển về Trƣơng Lƣơng) Toại y sơ (thơ Lý Bạch)
Thích hạt (điển về Lã Mông Chính), mũi lá mộc (Lƣơng Thƣ)
Chiết liễu (Tam phụ hoàng đồ)
Bộ binh (điển về Nguyễn Tịch) Hành lộ nan (thơ Lý Bạch)
Lôi phanh điện tạ (điển về Ngô Vũ Lăng) Bộ binh (điển về Nguyễn Tịch)
KÝ NGUYỄN CỐ HỮU HỒI TỊCH PHÙ LIỆT NỮ ĐÌNH TỐNG ĐỖ MIỄN CHI NGỰ SỬ TẶNG THỔ KHỐI ĐỖ VỆ ÚY XUẤT THANH HÓA TỐNG NGUYỄN MÃ TRAI NIÊN ÔNG ĐẮC GIẢ BẮC HỒI TỐNG NGUYỄN TRÚC KHÊ XUẤT LỲ THƢỜNG TÍN KIÊM TRÍ LÊ HY VĨNH LÃO KHẾ TỐNG SƠN TÂY HỌC CHÍNH NGUYỄN ĐÀI CHI LỲ TRÀ GIANG THU NGUYỆT CA TRẤN AN LỆNH TỬ CHI NHIỆM ĐẶC LAI TƢƠNG PHỎNG, KỲ HỮU SỞ TẶNG, THƢ DĨ DỮ CHI ĐỖ LANG TRUNG LÂM HỐI TIỂU CHƢỚC THOẠI BIỆT KÍ BÌNH LỤC DOÃN NGUYỄN CỬ NHÂN TẨU BÚT TẶNG NGUYỄN GIẢN PHU
Hƣu hƣu (Kinh thi), Liễu chi thu (thơ Vƣơng Duy) Đƣờng Bá Hổ, Lũng đầu (Tên 1 khúc hát thời Hán), Uyên Minh, Tƣ Mã Hoàng hoa (Kinh thi)
Đỗ Công Bộ, Động Đình (Sử ký) Chiết liễu, Ban kinh, Dƣơng quan đệ tứ thanh Chiết liễu (Lũng đầu chi) Giang Nam Mao Toại
Triều tôn (Kinh thi)
Huy thủ tri kim thị TIỄN CỐ NHÂN BÌNH ĐỊNH HỌC CHÍNH TRƢƠNG GIẢN TRAI ĐẮC GIẢ HỒI HƢƠNG TIỄN ĐÔNG DƢ NGUYỄN CÁC LÃO PHỤNG SỨ NHƢ THANH (Kỳ nhất) TIỄN ĐÔNG DƢ NGUYỄN CÁC LÃO PHỤNG SỨ NHƢ THANH (Kỳ nhị) TIỄN ĐÔNG DƢ NGUYỄN CÁC LÃO PHỤNG SỨ NHƢ THANH (Kỳ tam) TIỄN HỒNG LÔ PHẠM ĐÀI PHỤNG SỨ NHƢ THANH (tính tự) TIỄN SỨ BỘ HÀNH NHÂN Kì nhất TIỄN SỨ BỘ HÀNH NHÂN Kì nhị TIỄN THANH HÓA TỘC NHÂN kì tam TIỄN VŨ KHỐ NGUYỄN TƢ VỤ ĐẮC
PL19
GIÁ HỒI HƢƠNG Tây trù dĩ báo xuân (thơ Đào Tiềm) Kì nhất Núi Nƣa (Truyền kỳ mạn lục) TIỄN VŨ KHỐ NGUYỄN TƢ VỤ ĐẮC
Bảo đao (điển về Quý Trát)
Thơ Trắc hỗ (Kinh thi)
Ƣng Khanh
Cô thần (sách Mạnh Tử)
Dƣơng Hùng
GIÁ HỒI HƢƠNG Kì nhị TÔN THẤT MINH TRỌNG SÁCH HỮU SỞ TẶNG LÂM BIỆT TẨU BÚT PHỤNG KÍ TỐNG YÊN THÁI NGUYỄN HIẾN PHÓ CÔNG XA TỐNG BÌNH VỌNG TỈNH NGUYÊN LÊ THÖC SƢỚNG TỐNG ĐỖ GIÁM HỒ PHÁI VÃNG TÂN GIA BA HIỆU THỤC TỐNG ĐỖ LANG TRUNG LỊ NIẾT HOAN TỈNH TỐNG LÊ DŨNG HÕA BỊ MỆNH HỒI KINH
Ê tang (Tả truyện), Hoài Thái, Tấn Công, Tào Thứ, Lý Chi, Lỗ Trọng Liên, Mao Toại. Bùi Trung Lập, Lỗ Trọng Liên
Vạn lý thừa phong, Bè sao Tạ Đông Sơn
Du nhuận (Trang Tử)
Sừng lân
TỐNG LÊ DŨNG HÕA TÕNG KINH LƢỢC CÔNG CHI LẠNG SƠN TỐNG TRƢƠNG NGUYỄN NHỊ THIẾU KHANH PHÁI VÃNG VIỆT ĐÔNG TỐNG NGUYỄN TUẦN PHỦ HỒI KINH kỳ tứ TỐNG NGHIÊU PHONG NGUYỄN TỂ CHI LỊ. TỐNG TÔN THẤT THÚC LỆ XUẤT THỦ NGHĨA HƢNG TỐNG THỔ KHỐ NGUYỄN KINH LỊCH BẮC HỒI
Hoàng lƣơng (tiểu thuyết Chẩm trung ký của Lý Bí thời Đƣờng) Lục Tuấn Nghi
Đặng Huy Trứ
Hạc minh, hạ phong (Kinh Thi), Trung kính man mạch (Luận ngữ), mai công Bổng lộc ít ỏi bắt đầu đủ ăn (Điển Mao Nữ) Phạm Phú Thứ
VĂN GIANG HUYỆN THỪA VŨ DUY HÀN DI LỊ TIỀN HẢI TỨC TỊCH TẨU BÚT TỐNG ĐẶNG THIỆN ĐÌNH XUẤT THỦ AN BÌNH TỐNG ĐỒNG HUYỆN CỬ NHÂN NGUYỄN PHU HIÊN CHI GIA ĐỊNH HẬU BỔ
PL20
Cam đƣờng
Thần hôn, lòng nhớ cha mẹ (Kinh Thi), Sân Lý (Luận ngữ) Vị Thành, Tô Tứ
Tử quy (Điển về vua nƣớc Thục).
TẬP ĐƢỜNG TIỄN TUY HÒA HUYỆN DOÃN ĐỖ THỨ KHANH PHÓ LỲ TỐNG TRẦN TÙNG ĐÌNH CHI LẠNG SƠN TÌNH THÂN TỐNG GIA HUYNH CỬ NHÂN BÁ THÔNG THỊ NHU THỨ BÌNH ĐỊNH TỐNG XUÂN KHÚC TỐNG NGUYỄN QUẢNG THÖC (TƢỜNG PHỐ) NAM QUY TỐNG NỘI CÁC LÊ BIÊN TU KHIÊM CHI VĨNH TRỊ TRI HUYỆN
Việc giáo hóa phong tục đang đợi tiếng đàn (Điển về Bật Tử Tiện thời Xuân Thu) Phùng Đƣờng, Sơ Quảng, Thiên tẩu hội (tích Thiên tẩu yến) Chiết liễu
Văn Đồng, thơ Dƣơng quan
Muôn dặm đọc Hoàng Hoa, Họ Bì thảo văn từ
TỐNG BINH BỘ ĐẶNG LANG TRUNG HY THẾ QUY LÃO TỐNG BÌNH ĐỊNH HOÀNG PHÓ BẢNG CHI NAM ĐỊNH NGHĨA HƢNG PHÂN PHỦ BỘ CHUYẾT VIÊN CÔNG TỐNG BẮC NINH ÁN SÁT DIỆU THÚC NGUYÊN VẬN TÁI KÝ DIỆU THÚC TIỄN ĐỒNG NIÊN ẤT PHÓ SỨ THỊ ĐỘC VÕ TRẠCH KHANH (TUẤN) NHƢ THANH TỐNG HY THƢỜNG HOÀN SƠN
Biết rõ rồi giá gạo khi là khách ở Kinh Đô (Điển về Bạch Cƣ Dị xin yết kiến Huống), Chia thịt ngon (Điển về Khổng Tử), Phạt đàn, Sào Phủ, điếu can, Tô Tử Lão Lai
Ông quan thẹm gì năm đấu gạo quèn (Điển về Đào Tiềm)
Hồ Châu
Triệu Đƣờng
Con ngựa ký già ra chuồng TỐNG BINH KHOA ĐẶNG CHƢỞNG ẨN MINH TRÂN BẮC HÀNH NHÂN TIỆN TỈNH THÂN CHÚC THỌ ĐỖ LỮ TÙNG NAM QUY TỈNH THÂN THẢ HIẾN THỌ TỬU TÁC TRƢỜNG CÚ TIỄN CHI TỐNG CƠ MẬT VIỆN CHỦ SỰ LÊ CHI BÌNH THUẬN ĐỐC HỌC TỐNG TỪ TẾ TY PHÓ SỨ TÔN THẤT HỮU THƢỜNG PHÓ NAM KỲ KINH LƢỢC SỨ TRƢNG MẠC TỐNG NỘI CÁC THỪA CHỈ NGUYỄN
PL21
chạy ngàn dặm, Ban Sinh
Ngày báo đáp
Lƣu Sinh, Để trống trên xe
Tri Chƣơng, kẻ buông câu, kẻ làm nghề giết mổ, khúc Ly câu Hàn Tín, Vũ Mục
NGỌC NHỮ (DANH ĐỨC THÀNH) VÃNG NAM KỲ THỪA BIỆN TỐNG ĐỒNG HUYỆN CỬ NHÂN LÊ TRỌNG VÃNG BÌNH ĐỊNH HUẤN ĐẠO TỐNG NỘI CÁC TRẦN BIÊN TU (DANH CÔNG BÌNH) VÃNG BIÊN HÒA LONG THÀNH TRI HUYỆN TỐNG BÁI DƢƠNG NGUYÊN TIẾN SĨ NGÔ TRỌNG PHU QUY LY TỐNG HỒNG LÔ TỰ KHANH ĐỖ LA PHONG VÃNG NAM KỲ CHIÊU THẢO TỐNG BIỆT BÀN PHẠM TRI PHỦ PHÓ LỲ TỐNG THỊ GIẢNG HỌC SĨ HOÀNG TRĨNH TRAI QUY TỈNH
Thiện Tín, Đỗ Thƣ Khiến cho tấc đất có báo đáp nắng xuân (Đƣờng Thi), cổ lai hy, cỏ thơm tỏa hƣơng, lão lai, cha mẹ đã dạy con không nhầm lẫn (Luận ngữ), mùa đông lo ủ ấm, sáng sớm dâng điềm lành (Kinh lễ), tự răn mình những ngày báo đến (nam cai) (Kinh Thi) Áo cừu, ngựa béo (Luận ngữ) Ban sinh
Ông La
Xuân phong đắc ý, Tiểu Tần quân Vƣơng hội
Yên đài, Quý Tự, Thân Tƣ, Đỗ Khang
Tô, Khuất Nguyên
Ngƣu suyển
Hàn Tín, Bạch Khởi, Tiết Đào, Âu Dƣơng Tu Phƣơng chu, Quân thiều
TỐNG GIÁP PHÓ SỨ VĂN (KỲ NHỊ) TỐNG BANG BIỆN THÀNH HÓA HUYỆN VỤ NGUYỄN THAI TỐNG TÂN KHOA TIẾN SĨ VINH HỒI KỲ NHẤT: TỐNG ĐÌNH NGUYÊN VŨ NHƢ HOÀNG GIÁP II. TỐNG DƢƠNG TIẾN SĨ HỰU TỐNG TUÂN THÚC VỊ ĐỒNG BỘ NGHĨ VIỄN DI THIÊN TỐNG LIÊN HỒ LÊ THÚC TUNG CHÍNH SỨ KIÊM GIẢN NGUYỄN PHÓ SỨ TỐNG HOÀI ĐỨC NGUYỄN THÁI THÚ CHI LỲ TỐNG ĐỒNG BỘ ĐỖ THỨ KHANH QUY LÝ TÌNH TẢO BỘ LƢU GIẢN NGUYÊN VẬN TỐNG TRỰC HỌC SĨ VŨ THÁI SỬ HỒI NINH BÌNH THƢƠNG BIỆN PHÒNG PHỦ TỐNG PHAN TÔN BÁ TRÍ SĨ BỘ QUY HƢU CẢM TÁC NGUYỆN VẬN
PL22
Hòa thị bích, Ngƣời nhà quê ôm mớ rau cần Đinh Nhĩ
Trục xú
Trƣơng Bác Vọng
Bành Trạch, Phàn Xuyên, Bạch tuyết chi bạch Tam nhân
Tái ông thất mã
Thức vi, phạt đàn
Kinh thi
Hoàng hoa, nam chi,
Vƣơng Hy Hàn Dũ Hoàng hoa, nguyên thấp Tử Tuấn
Vua Đƣờng, Nghiêu, Hứa Do, Sào Phủ, Thuần ngƣ
Tang tử (Kinh Thi)
Trần Thiện Chánh
TỐNG NGUYỄN CHÍNH THÚC CHI NINH GIANG TRI PHỦ TỐNG NGUYỄN CHUYẾT AM HÀ NỘI THU THÍ PHÓ CHỦ KHẢO PHÓNG CA TỐNG HY PHẦN HỒI QUẢNG NGHĨA LỲ TỐNG CÔNG BỘ THỊ LANG NGUYỄN NHỤ PHU SỨ YÊN BẠCH CÚC CA TỐNG GIÁP SỨ PHẠM HỐI THÚC TỐNG NHƢ THANH SỨ BỘ BÀI 1 TỐNG NGUYỄN BIÊN TU DIỆU THÚC QUÝNH TRÍ SĨ TỐNG ĐÔNG TỈNH NGUYỄN ĐỨC HỌC CHÍNH THỈNH GIÁ QUY LÝ TỐNG KIÊM THẢO BÙI PHÁC NGHĨA HƢNG TRI PHỦ KÝ YÊN SỨ CHÍNH HÀNH GIỚI BÙI THỊ LANG THIỀU THỨ TỐNG PHAN NHẬN AM CHI QUẢNG YÊN TỐNG HOÀNG TIẾN SĨ VINH QUY TỐNG NỘI CÁC NGUYỄN THỊ LANG NHƢ YÊN CHÁNH SỨ TIỄN BỘ HỘ THAM TRI BÙI VÃN QUẢNG NAM TUẦN PHỦ TỐNG LỄ BỘ ĐỖ TÙNG ĐƢỜNG ĐẠI TÔN BÁ HỒI HƢU BỘ LƢU BIỆT NGUYỆN VẬN TỐNG BANG BIỆN TRƢƠNG THANH VÂN NAM HỒI TỐNG HỮU NHÂN VÃNG TUYÊN
TỐNG THỊ LANG NGUYỄN NHỤ PHU BẮC SỨ TỐNG YÊN LÃNG LƢƠNG ĐỒNG PHỦ QUY BỆNH
Huyền hoàng ngã câu (Kinh thi) Bất ly vu chính (Luận ngữ) Nguyên thấp (Kinh thi), Yên Triệu Dĩ tài xuân thự đào thiên thụ (tích Hà Dƣơng biến chủng đào hoa – Tấn Thƣ), Tứ giao đa lũy (Kinh lễ)
PL23
Ban Siêu, Bào Đinh du nhẫn (Nam Hoa kinh) Tả Xa Thân Bao Tự, Lạn Tƣơng Nhƣ
Nguyễn Tƣ Giản Nguyễn Xuân Ôn
TỐNG TRẦN THỌ BÀNH PHÓ KIM ANH HUYỆN TIỄN SƠN TÂY BỐ CHÁNH VŨ LAI KINH TỐNG TỈ BỘ NGUYỄN HY PHẦN CÁO QUI KHÁNH HÒA TIỄN LÊ TRUNG LƢỢNG THĂNG THỤ BÌNH THUẬN ÁN SÁT CHI LỲ
TIỄN KHÁNH HÒA ÁN SÁT SỨ PHẠM VĂN BÍNH PHÓ LỲ CHI THỨ
Nguyên Hiệu, Khấu Tuân, gõ mái chèo, U, kế, Đêm Tuyết nhà vua xuống ngồi nơi nệm gấm (điển về Tống Thái Tổ) Ngọc kinh (Kinh Thi), Khổn ký (Sử ký), Đêm tuyết nhà vua xuống ngồi nơi nệm gấm (điển về Tống Thái Tổ), Tân đình, Tô Địch Tỏa thƣợc (Tống sử)
Bạch tuyết, chiết liễu
Phạm Thận Duật
Nguyễn Thông
NGHĨ TIỄN BIỆT LÝ NGUYỄN TÁN TU CHI BẮC NINH BỐ CHÁNH PHỤNG TIỄN NGUYỆT THỰ ĐỐC ĐẠI NHÂN THƢỢNG KINH CHI HÀNH TIỄN TAM NÔNG DOÃN CHI GIA Dấu chân chim hồng in trên BÌNH tuyết, bồi phong (sách Trang Tử) TỐNG NHÂN CHI GIA ĐỊNH Bạch xã TỐNG NỘI TỬ NGÔ VŨ KHANH NAM QUI Rau rút cá vƣợc (Trƣơng Hàn) Ngũ lợi (điển về Ngụy Giáng) TỐNG TRÖC ĐƢỜNG PHẠM CÔNG HỘ
BỘ KIẾN TIẾT HẢI AN – KIÊM THƢƠNG CHÁNH ĐẠI THẦN TỐNG NGUYỄN THIỆN QUAN TRÌ TIẾT GIA ĐỊNH KIÊM LÃNH SỰ
Nguyễn Quang Bích
Nguyễn Khuyến
Trù hải thiên (sách Hồ Tôn Hiền), Nghoảnh đầu về miền Nam bâng khuâng nhìn mây lồng cây rợp (thơ Đỗ Phủ) Ngọa hổ, nguyên long, Khổng Nhan, Thuần dao Nghĩa quán đƣơng còn gối giáo nằm đợi (điển về Lƣu Côn) Ly câu, thạc quả (Kinh Dịch), chỉ phát (thành ngữ Hán) Đệm xanh (Tấn Thƣ), Giấc mộng hóa bƣớm (chuyện Trang Tử) Huyền Án tiên sinh
TIỄN CHU THIẾT NHAI TIỄN NGƢỜI VỀ TIỄN NINH BÌNH NGUYỄN TÁN TƢƠNG HỒI NAM TIỄN MÔN ĐỆ NGHĨA ĐỊNH SỨ QUÂN LÊ NHƢ BẠCH, NHÂN KÝ KINH THÀNH CHƢ MÔN ĐỆ I TIỄN MÔN ĐỆ NGHĨA ĐỊNH SỨ QUÂN LÊ NHƢ BẠCH, NHÂN KÝ KINH THÀNH CHƢ MÔN ĐỆ II
PL24
PHỤ LỤC 6 CÁC TÁC PHẨM THƠ TỐNG BIỆT VIỆT NAM THẾ KỈ XVIII-XIX. (Thống kê theo tác giả, sắp xếp theo năm sinh tác giả)
I. THƠ TỐNG BIỆT NGUYỄN HUY OÁNH (Thơ tống biệt Nguyễn Huy Oánh khảo sát trong cuốn: Lại văn Hùng (chủ biên) (2014),
Nguyễn Huy Oánh - Thạc đình di cảo, Nxb KHXH).
1. TỐNG QUẾ BÌNH HUYỆN CHÁNH ĐƢỜNG NGÔ CHÍ QUẢN/ TIỄN QUAN CHÁNH ĐƢỜNG HUYỆN QUẾ BÌNH NGÔ CHÍ QUẢN
Thiên Bắc thiên Nam giới hạn phân Sách danh đồng thị Mậu Thìn xuân Tây Âu địa tích công tài cẩm Bắc khuyết thiên dao ngã phụng trân Ngã thị đấu lƣơng xa tải bối Công thành tâm quảng thể bàn nhân Tƣơng bồi ứng tại quy diêu nhật Chƣớc nhƣợng châm hòa, điệt chủ tân. Trời Bắc, trời Nam đã chia ranh giới rõ rành,/ (Nhƣng tôi cùng ngài) đều đỗ Tiến sĩ vào mùa xuân năm Mậu Thìn/ Đất Tây Âu chật hẹp, ngài ra tay sửa trị/ Cửa Bắc trời xa, tôi vâng sứ mệnh vẻ vang/ Tôi là hạng mà trong nƣớc có không ít/ Ngài thực ra ngƣời tấm lòng rộng mở, tâm hồn thƣ thái hơn ngƣời/ Bồi tiếp nhau có lẽ nên để đến ngày quay xe trở về/ (lúc ấy) chủ khách thay nhau rót mời, thù tạc thân thiết.
(Nguyễn Huy Oánh - Thạc đình di cảo – tr126)
2. TỐNG NGÔ CHÂU GIÁO THỤ/ TIỄN TẶNG GIÁO THỤ NGÔ CHÂU
Nộn chử anh kì sớ cát nhân, Viêm cƣơng thiên vị thuộc tƣ văn Từ phong thôi xán Nam Sơn diệm Hóa vũ triêm nhu Phán Thủy cần Mi tễ Liêm Khê Vân Lĩnh nguyệt Tọa ôn Minh Đạo Quế Giang xuân Phồn vi hữu hạnh khuy tƣờng nhẫn Bất giác Ban môn thất lộng cân Bến mới sửa sang đẹp đẽ đón ngƣời khách quý đến neo đậu/ Nơi biên cƣơng nóng nực cũng đƣợc trời cho thuộc vào tƣ văn/ Ngọn bút văn chƣơng lấp lánh ánh lửa lò Nam Sơn/ Trận mƣa giáo hóa tƣới tắm rau cần Phán Thủy/ Mắt sáng nhờ trăng trên đỉnh Vân Lĩnh của Liêm Khê/ Chỗ ngồi ấm áp bởi mùa xuân trên sông Quế Giang của Minh Đạo/ Loài cỏ dại may mắn đƣợc nhòm tƣờng chiêm ngƣỡng trong gang tấc/ Bất giác thất thố, múa rìu qua mắt thợ.
(Nguyễn Huy Oánh - Thạc đình di cảo – tr130)
3. TỐNG CHIÊU BÌNH HUYỆN CHÁNH ĐƢỜNG TRIỆU PHÓ KỶ/ TIỄN QUAN CHÁNH ĐƢỜNG HUYỆN CHIÊU BÌNH TRIỆU PHÓ KỴ
Địa tích chiêu đàm thử cực biên, Thánh triều nhân vị tá danh hiền Thiềm yêu nguyệt sắc lai thƣ án Phong đệ hoa hƣơng đáo tửu diên Thủy hợp song giang kham dục nhật Sơn bài ngũ chỉ khả kình thiên Diêm mai chu tập ngô nho vật Đƣơng tác điều canh dữ tế xuyên Đất hẹp, đầm loang loáng nƣớc, đây là nơi tận cùng biên cƣơng/ Thánh triều nhân đó phải mƣợn sức kẻ bề tôi tài giỏi/ Bậc thềm đón ánh trăng vào trên án sách/ Gió đƣa hƣơng hoa tới bên chiếu rƣợu/ Nƣớc hai con sông hòa vào nhau, đủ cho mặt trời tắm/ Núi xòe nhƣ năm ngón tay (nhƣ cột) có thể đỡ vòm trời xanh/ Mơ muối, chèo thuyền là vật quen thuộc của nhà Nho ta/ Đáng dùng để nêm vị canh và đƣa ngƣời vƣợt qua sông
(Nguyễn Huy Oánh - Thạc đình di cảo – tr134)
PL25
4. THƢỢNG TRÌNH TỐNG KHÂM SAI LANG TRUNG LƢƠNG CÁCH/ LÊN ĐƢỜNG, TIỄN QUAN KHÂM SAI LANG TRUNG LƢƠNG CÁCH
Vân trình vạn lý tiệm hồng quỳ Thử thị ngô Nho đắc lộ thì Tằng hƣớng Bàn ca khai chính đạo Mỗi tƣơng nhân nghĩa tắc tha kì Sĩ chiêm cảnh hạnh tuần xu bộ Nhân trữ sa đê tác vũ nghi Tạc dạ Đức Tinh Nam Đẩu cận Thiên giao viễn giới ấp dƣ quang. Đƣờng mây, vạn dặm, sếu bay trên trời cao Đây là lúc đạo Nho ta có lối đi thuận lợi Từng hƣớng vào khúc Bàn ca để mở chính đạo Lại thƣờng đem nhân nghĩa để bít những lối đi khác Kẻ sĩ chiêm ngƣỡng đức hạnh lớn (của ngài) mà sấn bƣớc noi theo Ngƣời ngƣời đứng trên đê cát (lấy ngài) làm lá cờ gƣơng mẫu Đêm qua đƣợc gần với sao Đức Tình, sao Nam Đẩu Ấy là trời khiến cho nơi xa xôi đƣợc hƣởng ánh sáng thừa.
(Nguyễn Huy Oánh - Thạc đình di cảo – tr162)
5. TIỄN NHẬT BẢN SỨ HỒI TRÌNH/ TIỄN SỨ GIẢ NHẬT BẢN VỀ NƢỚC
Hủ cƣơng hƣ lọ các thiên nha (nhai) Đa sĩ hân phùng đại mễ gia Nhật tống phù nê ninh hoạt kế Thủ châm tiên tô cộng kim la Kiệt nô dƣơng mại tây tôn bộ Thái lạc minh đông a tƣớng toa Hoa cái lực ca phi cảm nghĩ Mạn tƣơng phấn địa ngụ tình đa Giữa ngày nhiều mây mỗi bên (đi về) một góc trời Chờ đợi đã nhiều, nay hân hạnh gặp đƣợc quan gia Mặt trời tiễn thuyền đi, nên tính toán linh hoạt Tay rót chén trà, cùng nhau hàn huyên Hôm qua còn đi chơi bộ trên núi, Đêm nay đã (nhƣ) thoi an tọa trên dòng nƣớc (Ngài) tuổi trẻ tài cao, tôi đâu dám nối gót Mạn phép đem bút ra gửi gắm tình cảm dạt dào.
(Nguyễn Huy Oánh - Thạc đình di cảo – tr168)
6. TỐNG NGÔ ĐÌNH OÁNH TRÍ SĨ THI (THỨ VẬN)/ HỌA VẦN BÀI THƠ TIỄN NGÔ ĐÌNH OÁNH VỀ TRÍ SĨ
Thiên sinh anh kiệt tán hoàng hồng Tam thập dƣ niên kiến tố trung Địch thế hoằng sƣ chi Hạ lực Bật thời mậu triển bổ thiên công Lợi danh đam các Hi song ngoại Nhân trí tiêu dao Lạc xã trung Vũ lộ tài bồi thiên ý hậu Xuân lai chi diệp mậu Hàn đồng Trời sinh bậc tuấn kiệt để giúp rập nhà vua Ba chục năm qua đã tỏ rõ tấm lòng trung trinh Gây dựng thời thế, làm nổi bật lên sức giữ gìn nhà Hạ Giúp đời, tỏ rõ công lao vá trời Áng lợi danh đem để bên ngoài cửa sổ đời Hi Hoàng Đức nhân trí tiêu dao trong đền xã Lạc dƣơng Mƣa móc vun trồng là do ý trời hậu hĩnh Xuân đến, cây ngô đồng nhà họ Hàn cành lá sum suê.
(Nguyễn Huy Oánh - Thạc đình di cảo – tr171)
7. TỐNG PHẠM ĐỈNH CHUNG TRÍ SĨ THI (THỨ VẬN)/ (HỌA VẦN) BÀI THƠ TIỄN PHẠM ĐÌNH CHUNG VỀ TRÍ SĨ
Tuấn kiệt phùng thời lƣợng đế công Tằng ƣ tiễn lí kiến tính trung Tùy phu doãn đạt tam triều liệt Thân quát bô hoàn tứ tự công Bậc tuấn kiệt gặp thời lập nên công trạng giúp vua/ Tấm lòng trung trinh (của ông, tôi) đã từng đƣợc chứng kiến/ Theo sự ngay thẳng mà (đạt đƣợc) công danh lớn trải ba triều/ Vƣơn mình ôm ấp sự khuất khúc mà hoàn thành công trạng cả bốn
PL26
Giáp hội sênh xa vinh thắng tịch Ngọ Kiều sơn thủy dƣỡng hòa chung Chỉ kim thiên tử ƣu kì cựu Hạnh thả cung luân diệu Hán đông
mùa/ Trên tiệc vui với tiếng sênh ca của đào kép, vinh quang nào kể xiết/ Cảnh non nƣớc ở trang trại Ngọ Kiều nuôi dƣỡng tính ôn hòa, ngay thẳng/ Đến nay, thiên tử vẫn còn ƣu ái đến bậc kì cựu/ Đức hạnh còn (nhƣ) vầng trăng khuyết chiếu sáng rỡ phía đông Ngân Hán.
(Nguyễn Huy Oánh - Thạc đình di cảo – tr175)
8. TỐNG TRẦN LỆ TRÍ SĨ THI (THỨ VẬN)/ (HỌA VẦN) BÀI THƠ TIỄN TRẦN LỆ VỀ TRÍ SĨ
Tằng lí công danh nhiệt náo trƣờng Cần lao ƣởng chƣởng mấn thành sƣơng Bão cầm Hán quận hoa thiều tú Trâm bút Đƣờng cung đại biểu chƣơng Giá trọng Nam kim quang Nhạc Độc Đƣờng khai Trú Cẩm huy gia hƣơng Phùng kim tứ hải thanh di nhật Cúc kính Hi song tuế nguyệt trƣờng Từng lăn lộn chốn công danh náo nhiệt/ Chăm chỉ, nhọc nhằn cho đến lúc hai hàng tóc mai trắng nhƣ sƣơng/ Ôm đàn nơi quận nhà Hán, xe hoa năm màu lấp lánh/ Cài bút chốn cung Đƣờng, tấm gƣơng rực rỡ/ Vàng Phƣơng Nam bán giá cao, nổi tiếng cả đất nƣớc/ Xây nhà Trú Cẩm, vẻ vang chốn quê nhà/ Gặp thời buổi bốn biển thanh bình này/ (Thì cứ) nằm khểnh bên song cửa đời Hi Hoàng bên đƣờng cúc, mặc ngày tháng dài.
(Nguyễn Huy Oánh - Thạc đình di cảo – tr177).
II. THƠ TỐNG BIỆT NGÔ THÌ SĨ
(Thơ tống biệt Ngô Thì Sĩ khảo sát trong cuốn: Trần Thị Băng Thanh, Lại Văn Hùng (đồng chủ trì) (2010), Tuyển tập Ngô Gia văn phái (tập 1), Nxb Hà Nội, Hà Nội).
1. TỐNG XÁ ĐỆ PHÓ NAM CHÂN HUYỆN NHẬM/TIỄN EM TRAI ĐI NHẬM CHỨC TRI HUYỆN NAM CHÂN
Thanh vân vạn lý chính tiền trình Tạm bả ngƣu đao thí nhất thành Trí viễn bản lai quân tráng chí Thiện tƣ hoàn thị ngã đa tình Tự duy huynh đệ nhƣ ngô bối Hoặc giả phu thê tại túc sinh Ký thủ tiên thân đồng hiển mộng Huân trì tòng thử bội hòa thanh Con đƣờng thanh vân vạn dặm còn đang ở phía trƣớc Hãy tạm đem con dao mổ trâu thửa sức ở một thành nhỏ “Vỗ yên dân nơi xa” vốn là chí hƣớng của em Nhớ nhung lo lắng lại là bản tính đa tình của anh Tự nghĩ anh em mà thân thiết nhƣ chúng mình Có lẽ kiếp trƣớc từng là vợ chồng thì phải Nhớ rằng cha mẹ xƣa từng cùng hiển mộng Từ đấy tình anh em càng hòa hơp hơn
(Tuyển tập Ngô Gia văn phái (tập 1)– tr 231)
2. TỐNG NGUYỄN HIỆU THẢO XUẤT ĐỐC LẠNG SƠN (HỶ THIÊN OANH)/
TIỄN ÔNG HIỆU THẢO HỌ NGUYỄN ĐI ĐỐC TRẤN LẠNG SƠN (ĐIỆU HỴ THIÊN OANH)
Cửu trùng long chỉ, Chỉ dụ của nhà vua nơi cửu trùng ban xuống,
Mệnh sứ quân xuất đốc Lệnh cho sứ quân ra giữ chức Đốc trấn,
Lạng Sơn trọng địa Ở dài đất trọng yếu Lạng Sơn.
Quốc gia phiên ly Đó là nơi phên dậu của quốc gia,
PL27
Triều đình xích tử Dân chúng là con đỏ của triều đình,
Điều kiện tổng quan xử trí Điều kiện là phải xử lý mọi việc nơi quan ải.
Thiều thiều Mẫu Sơn thiên nhận Xa xa Mẫu Sơn cao ngàn nhận,
Mạc mạc Đoàn Thành vạn lý Dằng dặc Đoàn Thành muôn dặm
Đáo thử xứ, Đến nơi này,
Tƣởng luyến khuyết hoài hƣơng, Lòng nhớ cung khuyết, nhớ quê hƣơng,
Thập phần tình trí. Mƣời phần da diết.
Tình trí hà tu đạo! Da diết, đâu cần phải nói !
Tự cổ nam nhi, Tự nghìn xƣa, kẻ nam nhi,
Yếu nhất phƣơng hồ thỉ Chí một phƣơng hồ thỉ
Mạc phủ thƣợng công, Mạc phủ dâng công
Thần kinh báo chính, Nơi kinh đô báo chính tích
Tảo vãn hựu lai triều bệ. Sớm hay muộn sẽ lại về triều đình
Đoản đình nhƣ thử tạm biệt, Cuộc tạm chia tay nơi đoản đình hôm nay
Hề dụng nhàn ngôn tƣơng ủy. Sao phải rƣờm lời an ủi nhau
Thả hành hỹ! Hãy lên đƣờng!
Tu Vân Đài sự nghiệp, Cần lập nên công nghiệp để lƣu tên nơi Vân Đài
Phƣơng tƣơng đắc ý. Nhƣ thế mới là đắc ý.
(Tuyển tập Ngô Gia văn phái (tập 1)– tr 298)
III. THƠ TỐNG BIỆT NGÔ THÌ NHẬM
(Thơ tống biệt Ngô Thì Nhậm khảo sát trong 3 cuốn : Ngô Thì Nhậm toàn tập (2003) (tập 1), (tập 2), (tập 3),- Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội).
1. PHỤNG NGHĨ TRẤN THỦ TIỄN ĐỐC ĐỒNG/ VÂNG LỜI VIẾT GIÚP QUAN TRẤN
THỦ TIỄN QUAN ĐỐC ĐỒNG
Nhất gia nhất lộ hội đô ty Cùng một nhà, đi cùng một đƣờng, họp nhau ở đô ty
Vạn lại hồng chiêm phúc lực kỳ Muôn đội ơn dầy, phúc lực diệu kỳ
Lƣỡng trấn quận thành vi phụ tử Quận thành hai trân, cha con cùng coi giữ
Tứ phƣơng hiệu lệnh thị nam nhi Hiệu lệnh (ban ra) bốn phƣơng, ấy chí nam nhi
Hoạn trình vân úc thành phong nhã Đƣờng làm quan mây rợp, trở nên bậc phong nhã
Sơn quán trần thanh thuộc chỉ huy Quán núi sạch bụi, do tài ngƣời chỉ huy
Thƣợng hữu cẩm đƣờng trùng khánh nhật Nơi nhà gấm, sẽ có ngày lại mở tiệc mừng thọ
Cổn ban giao ánh lạc kỳ my Áo cổn xen áo màu lấp lánh, niềm vui hiện khóe mắt cha già.
(Ngô Thì Nhậm toàn tập (tập 1)– tr 51)
PL28
2. TỐNG HỮU NGUYỄN HIẾU ĐỨC (THẠCH ĐỘNG) BỒI GIÁ HẠNH VẠN NIÊN CUNG Y VẬN (NHỊ THỦ)/ TIỄN BẠN NGUYỄN HIẾU ĐỨC (THẠCH ĐỘNG) THEO XA GIÁ NHÀ VUA ĐẾN CUNG VẠN NIÊN,Y THEO VẬN (HAI BÀI)
Kỳ nhất/ Bài 1
Thần chức đƣơng nhiên tiết dĩ xu Tận trung ái xứ khuyết nhƣ hồ Huống phùng thu nhật kim ba hảo Đắc cận thiên hƣơng bảo triện phù Hàn tửu Phạm chu hà vị thú Ngu huyền Chu sắt tối nghi đồ Cánh nan đắc thị công vô nhũng Phẩm thắng bình giai tại đế đô
Chức phận bầy tôi, đƣơng nhiên phải đi theo xa giá Lòng tận trung tận ái, coi cửa khuyết, cũng nhƣ ở chốn giang hồ Huống chi gặp ngày thu, ánh trăng nhƣ sóng vàng êm ả Đƣợc gần đỉnh hƣơng trời, khói hình chữ triện báu bay lên Rƣợu Hàn thuyên Phạm, sao thể chạy theo Đàn Thuấn nhạc Chu, rất nên lo liệu Càng khó đạt đƣợc là sao cho việc công không nhũng nhiễu Để thƣởng thức thắng cảnh và bình phẩm văn hay tại đế đô. (Ngô Thì Nhậm toàn tập (tập 1)– tr59)
3. Kỳ nhị/ Bài 2
Ngô Vƣơng kim hạnh Thái Hồ cung Cung tại hồ quang thu cảnh trung Thánh thế vô ba trƣờng phán hoán Trị triều chi nhật thậm thung dung Canh ca hỉ khởi ngọc giai hội Phẩm tảo thanh bình Thạch Động công Hữu hữu đắc quân quần cộng khánh Nguyện giai nghi phƣợng hiến tam tung Vua ta hôm nay tới thăm cung Thái Hồ Cung ở trong quang cảnh hồ mùa thu Đời thánh minh không nổi sóng, luôn luôn phẳng lặng Buổi triều đình thịnh trị , rất mực thung dung Khơi dậy niềm vui nối vần thơ ở hội thềm ngọc Ông Thạch Động ca tụng cảnh thanh bình Có bạn gặp đƣợc cảnh vua tôi cùng hƣởng phúc Nguyện làm chim phƣợng đẹp dâng ba tiếng tung hô.
(Ngô Thì Nhậm toàn tập (tập 1)– tr 61)
4. TIỄN CỰU HIẾN BẮC/ TIỄN CỰU HIẾN SÁT SỨ KINH BẮC
Niên lai ác thủ tiếm tƣơng thân Cảnh phục khâm kỳ quýnh xuất luân Trung tráng nhƣ công thành bạch nhật Tiễn dƣơng chi xứ thị thanh vân Nhị Càu sơn trĩ danh giai trọng Tam Đức giang trừng chí dĩ thân Thử thƣớng Ngọc Kinh đa hảo hội Nghiêu thông quảng vận chúc nhƣ thần Mấy năm nay, lạm nắm tay nhau tình thân kết bạn Khâm phục ông sáng suốt, hoài bão hơn hẳn ngƣời thƣờng Lòng trung hăng hái nhƣ ông, thực nhƣ ban ngày sáng tỏ Nơi ông đặt chân tới là chốn mây xanh Tiếng tăm nổi, sánh ngang núi Nhị Cầu sừng sững Chí đã thỏa, nhƣ nƣớc sông Tam Đức lắng trong Nay tới Ngọc Kinh gặp nhiều dịp tốt Vì có vua hiền trí sáng suốt soi xét nhƣ thần.
(Ngô Thì Nhậm toàn tập (tập 1)– tr63)
5. TỐNG CAO BẰNG ĐỐC ĐỒNG/ TIỄN QUAN ĐỐC ĐỒNG CAO BẰNG
Viên lâm thú chiếm lợi danh trƣờng Thích hứng du nhiên tự điểm trang Tiên các thí cầu triền nhật vựng Thú vui vƣờn rừng hơn hẳn nơi danh lợi Theo hứng dạt dào, tự nó điểm trang Gác tiên thi tung cầu vây quanh vầng nhật
PL29
Cẩm thành phô ngọc ánh hoa đƣờng Thiền cơ tỉnh hát nghi chung lãng Nhạc khúc truyền ca đối nguyệt soang Liên nhiễm bích ty pha lục liễu Viên lâm thú chiếm lợi danh trƣờng. Thành gấm phô vẻ ngọc, dọi ánh ao trong Tiếng chuông vang là tiếng hát thức tỉnh cơ thiền Trƣớc vành trăng, truyền khúc ca điệu nhạc Sen nhuốm tơ biếc, liễu rủ xanh trên dốc Thú vui vƣờn rừng hơn hẳn nơi danh lợi.
(Ngô Thì Nhậm toàn tập (tập 1)– tr64)
6. TỐNG HỮU BẮC SỨ (NHỊ THỦ)/ TIỄN BẠN ĐI SỨ PHƢƠNG BẮC
Kỳ nhất/ Bài 1 Hoàng hoa thịnh tuyển phú “Chu tuân” Nãi quyến tinh thiều thuộc cựu nhân Ngọc bạch kiền tƣơng Bồ Bản bắc Yên ba bão duyệt Động Đình xuân Ứng thù chính diệu kinh quyền chƣớc Tiếp tế chuyên nghi lễ độ tuần Mĩ cổ thử hoài lƣu giản chú Quy biền tái tích sủng quang tân Tuyển lựa tốt ngƣời đi sứ, ngâm câu Chu tuân Lại thấy xe tinh thiều thuộc về ngƣời bạn cũ Kính đem lụa ngọc tới phía bắc Bồ Bản Thỏa thích xem khói sóng mùa xuân ở Động Đình Ứng đáp thù tạc, phải khéo cân nhắc kinh quyền Giao dịch tiếp xúc, chỉ nên tuân theo lễ độ Tấm lòng siêng năng ấy, sẽ đƣợc lƣu tâm cất nhắc Xe sứ trở về, ân sủng mới sẽ ban.
(Ngô Thì Nhậm toàn tập (tập 1)– tr66)
7. Kỳ nhị/ Bài 2 Miến hoài lân hiếu triển gia nghi Đặc giản từ thần ủng tiết huy Vạn lý quan hà khinh lữ huống Lƣỡng kỳ sƣơng tuyết phất chinh y Tƣ tuân thức tạ quan phƣơng tục Chuyên đối toàn bằng trọng quốc uy Chuẩn nghĩ công hoàn ƣng hậu quyến Tang hồ bất phụ thử khâm kỳ Nghĩ tới tình giao hiếu lân bang, mở nghi thức đẹp Riêng chọn ngƣời bề tôi giỏi từ chƣơng, mang cở tiết Quan hà muôn dặm, coi nhẹ cảnh lữ thứ Sƣơng tuyết hai kỳ, phất trên áo kẻ đi xa Nhờ hỏi han mà xem biết phong tục từng phƣơng Dựa vào tài đối đáp mà tăng thêm uy nƣớc Xong việc công, nhất định đƣợc hậu thƣởng Thật chẳng phụ ƣớc nguyện chí hồ thỉ tang bồng.
(Ngô Thì Nhậm toàn tập (tập 1)– tr68)
8. TỐNG KHẾ HỮU HÀNH BIÊN (NHỊ THỦ)/ TIỄN BẠN THÂN LÊN BIÊN GIỚI Kỳ nhất Nguyên hậu luân tài thuộc thế thần Gia đình giảng quán cụ kinh luân Mao dƣ tác khốn hồn nhàn sự Cừu đái an biên đáo để nhân Bàn thác đa vi hiền giả địa Trí nhân thƣờng hộ hữu quan thân Thử phiên thố trí bằng khai hạp Tông tử duy thành thi bất vân
Thiên tử kén tài trong hàng bầy tôi dòng dõi Vì tự gia đình giảng tập, nên đủ tải kinh luân Dựng cờ trấn giữ cõi ngoài, thảy là việc nhàn hạ Nhận áo đai vỗ yên biên tái, lại đến với ngƣời này Nơi khó khăn phần nhiều là đất của bậc hiền tài Nƣớc trí non nhân thƣờng giúp ngƣời thân mang trọng trách Lần sắp đặt này, dựa vào tài khéo léo của ông Kinh thi há chẳng nói: Con dòng là bức thành hay sao?
(Ngô Thì Nhậm toàn tập (tập 1)– tr95)
PL30
9. Kỳ nhị/ Bài 2
Ác thủ nhung thiều duyệt nguyệt dƣ Tình ƣ tƣơng chiếu phỉ bào nhƣ Anh hùng bất tác lộc mê bạn Chỉ cức nguyên phi loan phƣợng cƣ Vũ trụ trì khu thần sở chức Giang sơn phẩm vựng lộc chi dƣ Sự quân nhật chính trƣờng tƣơng hội Thặng hỉ bình an hữu trúc thƣ Nắm tay nhau bên xe nhà binh đã hơn một tháng Đã tỏ lòng nhau, chẳng còn là phôi thai nữa Ngƣời anh hùng không làm bạn với hƣơu nai Chốn gai góc vốn chẳng phải nơi chim loan phƣợng ở Ruổi rong trong vũ trụ là chức phận của kẻ làm tôi Để vịnh cảnh non sông, là sự dôi ra của phần bổng lộc Dịp vua tôi gặp gỡ dài ngày, chính là lúc thờ vua Rất mừng có trúc thƣ báo tin bình an.
(Ngô Thì Nhậm toàn tập (tập 1)– tr97)
10. ĐẠI HOÃN QUẬN CÔNG TIỄN CỔN QUẬN CÔNG TRÍ SĨ CHI TÁC/ VIẾT THAY HOÃN QUẬN CÔNG TIỄN CỔN QUẬN CÔNG VỀ HƢU
Thác kiện truy tùy tứ kỵ trung Giang sơn hoành sáo lẫm hùng phong Khoan nghiêm tiết độ nguyên thần phạm Văn vũ tài du cổ tƣớng phong Trung giản thần lƣu ƣng sủng mệnh Vinh khai trú cẩm bí hoa tông Đầu giao thƣợng hữu đồng cam nhật Quyền kính doanh tiền trữ lệnh công
Bao tên trên lƣng ngựa, bốn mƣơi năm đeo đuổi/ Chỉ ngang ngọn dáo sắc nhọn trƣớc non sông, oai hùng lẫm liệt/ Nghiêm túc, khoan dung, chừng mực, quả là khuôn mẫu bậc đại thần/ Văn tài, võ giỏi, mƣu hay, đúng là phong độ một vị tƣớng đời xƣa/ Lòng trung giản dị ở cung vua, nhận đƣợc sự sủng ái/ Vinh hiển mở ra nơi trú cẩm, rạng rỡ nếp nhà/ Tình bạn keo sơn, còn có ngày cùng chia bùi xẻ ngọt/ Việc quyền biến cứng cỏi trƣớc quân doanh vẫn chờ ông.
(Ngô Thì Nhậm toàn tập (tập 1)– tr109)
11. TỐNG HỮU NINH CHUYẾT SƠN HIỆP ĐỒNG HUY QUẬN CÔNG XUẤT DƢƠNG THẢO THỦY PHỈ (TAM THỦ)/ TIỄN BẠN NINH CHUYẾT SƠN HIỆP ĐỒNG VỚI HUY QUẬN CÔNG RA KHƠI DẸP CƢỚP BIỂN (BA BÀI)
Kỳ nhất/ Bài 1
Yêu kiều oanh mộc xuân trƣờng hảo Y ốc kê trù dạ dục canh Nan học tác nhân mâu cửu tự Chỉ kỳ đắc hữu úy tam sinh Đƣờng Ngu hậu hạnh tao phùng tảo Phả Mục công nguyên hiệu lệnh minh Chu tháp bất phƣơng du tuấn hội Đăng tiên cảm diểu cẩm y hành
Chim oanh yêu kiều trên cây, thì xuân còn đẹp mãi Tiếng gà eo óc, đêm sắp sang canh Khó học tác thành ngƣời, sánh ngang với chín chữ Chỉ mong có bạn hiền để an ủi kiếp ba sinh Bác may sớm gặp gỡ vua Đƣờng, vua Ngu Hiệu lệnh vốn sáng suốt nhƣ ông Phả, ông Mục Dẫu trên sạp thuyền cũng không cản cuộc chơi ngƣời anh tuấn Dám mong bác đƣợc lên tiên, mặc áo gấm trở về.
(Ngô Thì Nhậm toàn tập (tập 1)– tr117)
PL31
12. Kỳ nhị/ Bài 2
Kinh luân tế ngộ thiên niên tái Văn vũ huân du nhất nguyệt tam Tế liễu anh phong đề phủ ỵ Cao miêu âm vũ mãn đông nam Thu hào bất nhập đồ thƣ khíp Hải cụ hà kinh tín nghĩa phàm Phỏ đỉnh chính kim điều tễ hội Vấn công dƣợc vật kỵ tân cam
Cơ hội kinh luân ngàn năm mới gặp đƣợc Mƣu lƣợc lập công văn võ, một tháng ba lần báo tin về Gió lành bên hàng liễu quyện chặt võ phục Mƣa dầm khiến lúa mạ mầu mỡ khắp miền đông nam Hòm đồ thƣ, một mảy lông mùa thu không lọt Buồm tín nghĩa, bão biển có sợ gì đâu Nay đúng là dịp điều chế cái vạc Phó Duyệt Xin hỏi, dƣợc phẩm của ông có bao nhiêu vị ngọt vị cay? (Ngô Thì Nhậm toàn tập (tập 1)– tr119)
13. Kỳ tam/ Bài 3
Cửu trùng ôn chỉ triệu Tam ti Thân cận Thiên nhan Bạch Ngọc trì Sách lệ nhân thần kim nhật sự Cần lao ngô hữu lƣỡng niên tƣ Thử hành dĩ biệt bàn ƣ nhuệ Tân chính phƣơng nghiêm chƣớng dữ ti Phấn tấn hảo phùng giao thái hội Tri công hữu hỉ báo công tri Ý chỉ ôn hòa nơi Cửu trùng vời tới Tam ti Đích thân triều cận Thiên nhan, trƣớc thềm Bạch Ngọc Việc hôm nay, phận sự làm tôi phải gắng sức Hai năm nay, bạn ta phải vất vả gian lao Chuyến đi này đã rõ giữa sự lớn lao với sắc bén Chính sự mới đƣơng nghiêm bên chƣớng buông mành Gặp đƣợc dịp tốt gắng cùng nhau vui vẻ Biết ông có tin mừng, nên báo cho ông hay
(Ngô Thì Nhậm toàn tập (tập 1)– tr121)
14. TIỄN Ỷ LA DƢƠNG HIẾN SỨ TUYÊN CHỈ PHÚ XUÂN THÀNH/ TIỄN QUAN HIẾN SỨ HỌ DƢƠNG Ở Ỵ LA TỚI THÀNH PHÚ XUÂN TUYÊN CHỈ
Quân hầu vạn lý bổng ty luân Vị bả xuân dƣơng phiến Phú Xuân Cầm kiếm hữu hƣơng nùng tƣớng mạc Quan hà xuất sắc hiện vƣơng nhân Tang bồng chí khái hà ngôn viễn Giao tất tình hoài huống thị lân Tảo tảo câu đƣơng truyền trúc tín Ngũ vân lâu hạ cận phong thần. Ôm bƣng chiếu chỉ vƣợt xa vạn dặm Để đem nắng xuân, quạt cho thành Phú Xuân Thơm nồng tƣớng mạc, bởi gƣơm đàn hƣơng tỏa Nhìn thấy ngƣời nhà vua, non sông lộ vẻ tƣơi Kể gì xa xôi, chí tang bồng hồ thỉ Huống lại là lân bang, sẵn mối tình keo sơn Mong xong việc sớm truyền về tin trúc Dƣới lầu năm sắc mây, triều cận nhà vua.
(Ngô Thì Nhậm toàn tập (tập 1) - tr140)
15. THƢ TIỄN THỊ LANG ĐIỂN NGỌC HẦU PHỤNG SỨ/ VIẾT TIỄN QUAN THỊ LANG ĐIỂN NGỌC HẦU VÂNG MỆNH ĐI SỨ
Thánh triều giảng tín trọng giao tân Chu đạo hoàng hoa giản các thần Phƣợng chiếu phùng tòng viêm hải nhật Bằng linh phi khƣớc Nhiệt Hà vân Thánh triều giữ chữ tín, trọng việc giao hảo với lân bang Nên chọn bầy tôi trong nội các, ruổi rong trên đƣờng đi sứ Bƣng chiếu phƣợng từ nơi mặt trời vùng Viêm Hải Liệng cánh chim bằng bay tới đám mây Nhiệt Hà Vùng Trung Nguyên từ xƣa, vẫn là đất xe, thuyền tấp nập
PL32
Tấm thân nhà nho, việc trong vũ trụ vốn phải lo toan Chẳng bao lâu sẽ về chầu cửa khuyết để dâng công trạng Chiếm đƣợc hoa mai, khiến áo cẩm bào đẹp vẻ xuân.
Trung Nguyên tự cổ chu xa địa Nho giả do lai vũ trụ thân Chỉ nhật đàm công triều đế khuyết Mai hoa chiếm thủ cẩm bào xuân (Ngô Thì Nhậm toàn tập (tập 2)- tr121)
16. TẶNG ĐỒNG NGHỊ ƢNG DƢƠNG HẦU TÁI VÃNG BẮC THÀNH/ TẶNG QUAN ĐÔNG NGHỊ ƢNG DƢƠNG HẦU LẠI RA BẮC THÀNH
Hữu ƣớc triều thiên kiến đắc thiên Trùng tƣờng đan phƣợng lỳ Chu Diên Lƣơng phùng thánh chính phù kim nhật Nhân tá hiển ƣng thuộc lão niên Ly bệ trắc minh kỳ báo chính Long thành vọng trị khánh lai tuyên Tiễn công tảo vãn giai công lạc Thái học môn lâu thƣởng chiểu liên.
Ƣớc mong đƣợc chầu thiên tử, nay đã thấy thiên tử Chim phƣợng đỏ lại bay đi làm việc ở Chu Diên Tôi hiền gặp vua thánh, thật hợp với công việc hôm nay Nhân giả giúp hiền quân, phải là ngƣời thuộc tuổi già Hẹn ngày báo chính sự đẹp lên bệ ly đƣợc rõ Mừng khi tới tuyên đức hóa cho thành rồng đƣợc trị bình Tiễn ông, sớm tối đều mong ông đƣợc yên vui Để thƣởng sen trong ao bên lầu Thái Học.
(Ngô Thì Nhậm toàn tập (tập 2) - tr332)
17. TỐNG ĐOÀN TỐNG LÝ HIẾN KIỀU HỒI NINH MINH/ TIỄN QUAN ĐOẢN TỐNG LÝ HIẾN KIỀU VỀ NINH MINH
Ngân xà ổn phiếm xuất Ninh Minh Đẩu diệu hoàng hoàng chiếu sứ tinh Phong phạm Thái Kiều thiên nhận trĩ Khâm hoài Giang Hán bách xuyên thanh Hội tƣơng phủ tảo đồ mai các Trực bả huyền ca thí liễu thành Quan hải bất kham đề thƣợc thủy Nguyện tƣơng thù thốn nhập thi hành
Bè bạc bình yên ra khỏi Ninh Minh Sao Đẩu rực rỡ soi cờ sứ giả Phong thái cao ngàn nhận sừng sững nhƣ Thái Sơn, Kiều Nhạc Lòng dạ thấu trăm dòng trong vắt tựa sông Hán, sông Giang Trên gác mai, văn chƣơng vẽ nên bức họa Tại thành liễu, thử dạo lại khúc đàn ca Thấy bể mà chẳng thể cầm gáo múc nƣớc Nguyện đem chút đỉnh gửi vào túi thơ ca
(Ngô Thì Nhậm toàn tập (tập 2) - tr63)
18. TỐNG HÌNH BỘ HỮU THỊ LANG CỪ CHÂU HẦU THỤ QUẢNG NAM HIỆP TRẤN CHI MỆNH (TỊNH NGỮ)/ TIỄN HÌNH BỘ HỮU THỊ LANG CỪ CHÂU HẦU NHẬM CHỨC HIỆP TRẤN QUẢNG NAM (KÈM LỜI DẪN)
Minh thời đắc lộ khoái hồng mao Liễu khổn phân phù thuộc dự mao Thánh đức bao hàm doanh hải khoát Thần châu khống chế ải vân cao Thừa ân hoạch tá lƣơng hàn Thiệu Báo hiệu nghi sƣ thục vấn Cao Thời sáng sủa, thuận nẻo, chim hồng nhẹ cánh Chia ấn hổ nơi doanh liễu, thuộc đấng tài ba Đức Thánh thƣợng bao trùm cả vùng biển rộng Đất thần châu khống chế miền cửa ải mây cao Thừa ơn đƣợc giúp rập việc bút mực nhƣ Thiệu Bá Báo đáp nên học cách hỏi kỷ tựa Cao Dao
PL33
Chỉ xích uy nhan hằng úy cẩn Thanh hoa thập giới tử kim bao. Luôn kính sợ nhƣ gần Thiên nhan trong gang tấc Ngƣời thanh cao đoạt áo gấm dễ biết bao.
(Ngô Thì Nhậm toàn tập (tập 3) - tr271)
19. TỐNG BINH BỘ TẢ PHỤNG NGHỊ NGHI THÀNH HẦU PHỤNG SỨ/ TIỄN BINH BỘ TẢ PHỤNG NGHỊ NGHI THÀNH HẦU ĐI SỨ (KÈM LỜI DẪN)
Tài phi thƣờng sự nghiệp phi thƣờng Lƣỡng độ hoàng hoa toát cổ lƣơng Thân cận Phú Xuân tiên đắc quyến Danh trí Trung Hạ cửu văn hƣơng Giản tri ngũ thập bát niên đế Huy xích vạn tam thiên lý cƣơng Tình tiết hồi triều bình hiệp bốc Hoàng phi ấn khoán cánh tăng quang. Tài phi thƣờng, sự nghiệp cũng phi thƣờng Hai lần đi sứ, vƣợt cả ngƣời hiền khi trƣớc Gần gũi Phú Xuân, sớm đƣợc vua yêu Danh lừng Trung Hạ, thơm lâu nức tiếng Lƣợc biết vua này năm mƣơi tám năm ở ngôi Phen này vùng vẫy một vạn ba ngàn dặm Cờ sứ trở về triều, điềm lành hợp quẻ bói Thêm rực rỡ khoán thƣ nơi gác vàng.
(Ngô Thì Nhậm toàn tập (tập 3) - tr288)
20. TỐNG LIÊU HỮU TUÂN PHAN NHẬP CẬN CHI TÁC/ LÀM TIỄN BẠN ĐỒNG LIÊU ĐẾN PHIÊN VÀO CHẦU VUA
Nhật thăng cộng khánh vãn niên phùng Canh điệt thần lao tứ cận trung Thiên tải minh lƣơng trùng khế hợp Nhất đƣờng thƣợng hạ cánh tinh thông Vĩnh trinh chính lợi khôn hành mã Hiền đức phƣơng nghi tiệm tiến hồng Tƣơng đắc tự đa tƣơng chiếu xứ Kim thu nguyệt dữ khứ thu đồng Mặt trời lên, cùng chúc mừng, tuổi già gặp gỡ Bầy tôi lần lƣợt vào triều cận nhà vua Vua sáng tôi hiền ngàn năm lại đƣợc hòa hợp Trên dƣới một nhà càng thấu hiểu lẫn nhau Nhƣ quẻ Khôn ngựa phi đúng lúc, điềm lành có lợi Tựa quẻ Tiệm, chim hồng bay, đƣơng hợp đức ngƣời hiền Cùng tự thấy bọn ta tâm đầu ý hợp Trăng thu năm nay giống nhƣ trăng thu năm trƣớc.
(Ngô Thì Nhậm toàn tập (tập 3) - tr290)
21. TIỄN PHỤNG NGHỊ NGHI THÀNH HẦU BẮC SỨ HỒI TRIỀU HỌA NGUYÊN VẬN/ HỌA NGUYÊN VẬN BÀI TIỄN PHỤNG NGHỊ NGHI THÀNH HẦU ĐI SỨ TRỞ VỀ
Chu nguyên lƣỡng độ túc quan phong Kiệt xuất hoàng hoa quân cái trung Lƣơng hữu hùng văn kính Hán Đẩu Đại quân thọ trƣợng trác Ngƣ Hồng Ba điểm xuân hải trung phàm ổn Vân tễ Hoành Sơn trực đạo thông Tiếu ngã lão lai thi tứ sáp Đáo hoài quân xứ mạc hình dung Hai phen đi sứ thấy đủ nền phong hóa Là bậc kiệt xuất trong hàng mũ lọng sứ thần Có áng hùng văn kinh hoàng Đẩu, Hán Gậy thọ của ông hơn hẳn Ngƣ, Hồng Biển xuân sóng lặng, vững buồm trung tín Hoành Sơn mây tạnh, thẳng đƣờng ruổi giong Nực cƣời ta già rồi, tứ thơ cằn cỗi Đến việc nhớ ông mà chẳng thể hình dung.
(Ngô Thì Nhậm toàn tập (tập 3) – tr306)
PL34
22. TIỄN ĐÃI CHIẾU NINH HẦU QUY HƢƠNG/ TIỄN QUAN ĐÃI CHIẾU NINH HẦU VỀ HƢU
Ngụy khuyết giang hồ cộng đế thần Quan nhân niệm niệm nhất ban chân Phồn tính bất cải hàn mang sắc Tích tuyết ƣng kiên thúy bách thân Tƣ ngã hoành lƣơng thiên lý nguyệt Đa công tiên lộ nhất lê xuân Quy lai Bành Trạch tổn tam kính Hảo trƣớc minh hà đẳng cố nhân Dù ở cửa khuyết hay chốn giang hồ, vẫn là bầy tôi Lòng luôn lo lắng việc vua, việc dân Sao bầy không đổi đƣợc màu cỏ mang lạnh Tuyết đọng càng cứng thân cây bách xanh Tựa sà nhà tôi có trăng ngàn dặm Mừng ông đi trƣớc chống gậy lê xuân Bành Trạch trở về vui ba luống cúc Hãy hứng lấy móc trong, đợi bạn xƣa
(Ngô Thì Nhậm toàn tập (tập 3) - tr321)
23. TIỄN HÌNH BỘ TẢ THỊ LANG TUY LỘC HẦU HỒI TRIỀU/ TIỄN QUAN HÌNH BỘ TẢ THỊ LANG TUY LỘC HẦU TRỞ VỀ TRIỀU
Xuân phục tiêu dao cáp mộ xuân Mã đề đắc ý cập thời thân Quang sinh lĩnh kiệu lam yên tễ Hƣơng úc đồ thƣ hàn mặc tân Đƣờng ấm chính thanh phu hữu tố Lan phƣơng tình nghị miện di ân Thử hồi tuyên thất vu lòng quyến Dự thái thiên cù tƣớng cát nhân Tiêu dao buổi cuối xuân, mặc bộ xuân phục Vó ngựa đắc ý cất bƣớc kịp thời Non cao tỏa sáng, khói lam tạnh Bút mới mực mới, thơm nức đồ thƣ Lên tiếng dƣới bóng cam đƣờng, vốn có uy tín Tình bạn thơm nức hoa lan, nhìn nhau ân cần Lần này trở về nhà Tuyên thất đƣợc vua yêu mến Đƣờng trời hanh thông giúp đỡ ngƣời lành.
(Ngô Thì Nhậm toàn tập (tập 3) - tr322)
24. TẶNG NGUYỄN DƢƠNG XUYÊN TRƢƠNG NGÔ XUYÊN
Ân cần tƣơng tống tam bôi tửu Khiển quyển nan vi vạn lý tình Thụy thế lân hoàng ƣng bảo trọng Tảo truyền mai tín báo Long thành. Ân cần tiễn nhau ba chén rƣợu Quyến luyến khó dứt, mối tình vạn dặm Đời đẹp, lân phƣợng nên bảo trọng Sớm báo tin mai về thành Thăng Long.
(Ngô Thì Nhậm toàn tập (tập 3)– tr335)
25. TIỄN ĐÃI CHIẾU VŨ HẦU TUÂN PHIÊN NHẬP CẬN/ TIỄN QUAN ĐÃI CHIẾU VŨ HẦU ĐẾN LƢỢT VÀO CHẦU
(Y LƢU GIẢN NGUYÊN VẬN)/ (DỰA THEO NGUYÊN VẬN BÀI THƠ LƢU TẶNG)
Đồng thị Đoan Minh liệt phẩm nan Quốc ân ƣu giả vãng nhƣng hoàn Long phi tại thƣợng nghi thừa đức Báo khiếu phƣơng trƣờng khởi ẩn ban Tâm tự hƣ châu đào diệc ổn Thân nhƣ huyền hạc tuyết vƣu nhàn Ân cần tƣơng tặng thanh vân lộ Tố lý ƣng vi đệ nhất quan. Cùng chầu điện Đoan Minh, phẩm tƣớc cao Ơn nƣớc hậu đãi, đi rồi lại về Rồng đã bay lên, đức ban ra hợp Báo đƣơng gầm tiếng, há dấu vằn đi Lòng nhƣ thuyền rỗng, gặp sóng vẫn vững lái Thân tựa hạc đen, gặp tuyết lại càng nhàn Trên đƣờng mây xanh, ân cần tiễn tặng Vốn bổn phận mình là cửa ải đầu tiên.
(Ngô Thì Nhậm toàn tập (tập 3)– tr355)
PL35
26. TIỄN NIÊN QUYẾN THỤY NHAM PHAN HẦU NHẬP CẬN HỌA ĐÃI CHIẾU VŨ HẦU NGUYÊN VẬN/ TIỄN NGƢỜI ANH EM ĐỖ CÙNG KHOA LÀ THỤY NHAM PHAN HẦU VÀO CHẦU CẬN HỌA NGUYÊN VẬN BÀI THƠ CỦA ĐÃI CHIẾU VŨ HẦU
Tằng ký Mậu Thân liên cận bí Tƣơng tiên Nhật Lệ phiếm an lƣu Luân đàn dữ hóa tƣ tâm chiếu Quan cái liên niên thử đạo do Tuế nguyệt sâm tầm đồng dĩ lão Giang sơn nghinh tống hỵ phi sầu Công danh khả dữ nhàn giai đắc Hảo cập phi thời cộng vũ âu. Từng nhớ năm Mậu Thân cùng gióng xe vào chầu Sẽ đến Nhật Lệ trƣớc, tắm mình trong dòng nƣớc mắt Dù bánh xe hay cánh cung, lòng này phó mặc cho tạo hóa Dẫu ô hay lọng, nhiều năm nay vẫn từ con đƣờng đó mà ra Tháng năm lần lữa, tuổi trẻ nay đã già cả Non sông đƣa đón, chỉ những mừng vui không thấy buồn Công danh hay nhàn tản đều đạt đƣợc Gặp đời sáng sủa cùng nhau múa ca.
(Ngô Thì Nhậm toàn tập (tập 3)– tr356)
IV. THƠ TỐNG BIỆT PHAN HUY ÍCH
(Thơ tống biệt Phan Huy Ích khảo sát trong 3 cuốn Thơ văn Phan Huy Ích (1978) (tập 1), (tập
2), (tập 3), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội).
1. GIÁP NGỌ QUỸ XUÂN HƢƠNG THI SẮC CHỈ PHÂN TÔNG HÀ TRUNG HUẤN ĐẠO NGUYỄN KHUÊ PHÓ GIÁO SỞ ỨNG VỤ, NGÃ DIỆC ĐÍNH KỲ TỰU NAM TY DĨ THI TÁC BIỆT/ KHOA THI HƢƠNG CUỐI XUÂN NĂM GIÁP NGỌ (1774) CÓ SẮC CHỈ CỬ BẠN NGUYÊN CỦA TÔI LÀ HUẤN ĐẠO PHÚ HÀ TRUNG TỚI GIÁO SỞ LÀM VIỆC, TÔI CŨNG ĐÖNG HẠN ẤY ĐẾN TY TRẦN SƠN NAM BÈN LÀM THƠ TẶNG BIỆT
Chinh trang quân tảo phỏng trƣờng đình Ky tứ dƣ tƣơng phó tiểu thinh Đề lý oanh hoa thùy quản lĩnh Thiên nhau cầm kiếm các phiêu linh Vân cù trƣớc cƣớc trần anh bạn Nguyệt ốc nghi nhan lữ mộng tinh Bá liễu hồi hồi phân duệ viễn Dƣơng quan từ khúc bát kham thinh Anh mang hành lý sớm thăm chốn trƣờng đình/ Tôi sẽ xa nhà đi nhận một chức nhỏ/ Oanh hoa ở quê vua biết ai trông giữ/ Gƣơm đàn nơi chân trời, ai cũng lênh đênh/ Bị giải mũ bụi trói buộc phải bƣớc chân vào đƣờng mây/ Khi giấc mộng lữ khách tỉnh dậy, trông trăng trên mái nhà từng thấy mặt/ Nhìn cây liễu ở cầu Bá, bồi hồi dứt áo đi xa/ Khúc hát Dƣơng quan, nghe không chịu nổi.
(Thơ văn Phan Huy Ích (tập 1) - tr 53)
2. MẬU TUẤT THU TIÊN XÁ ĐỆ NHÃ HIÊN PHÓ ĐỘNG HẢI ĐỒNG TÌNH THỊ/ MÙA THU NĂM MẬU TUẤT (1778) TIỄN EM LÀ NHÃ HIÊN (PHAN HUY ÔN) ĐẾN ĐỒN ĐỘNG HẢI THĂM PHỤ THÂN
Ô khiếu chinh tiên xuất Ái châu Phiêu phiêu bằng cách khí hoành thu Thần hồn đại ngã ban đƣờng hí Sơn thủy bằng quân bút niếp thu Khách thứ huân trì nhu hậu hội Nhân sinh hổ thì tráng tƣ du Roi ngựa rời Châu Ái vào vùng biên giới châu Ô Phấp phới cánh bằng khí mạnh đầy trời thu Sớm tối thay ta làm vui ở nhà ban Núi sông mặc em thu vào trong hộp bút Nơi đất khách, thổi ống huân ống trì xin đợi dịp sau Trong cuộc sống, chí tang bồng hồ thỉ thêm mạnh chuyến đi
PL36
Khi trở về hãy kể lại niềm vui ở chốn đình vi
Quy lai thuyết đắc đình vi lạc Lệ Hải trừng chiêm đẩu diệu phù
Trên biển Lệ Hải lặng sóng, ngắm sao Bắc Đẩu lấp lánh (Thơ văn Phan Huy Ích (tập 1) - tr 83)
3. QUÝ MÃO THU, GIA TÔN PHỤNG MỆNH ĐỐC TRẦN CAO BẰNG THƢỢNG QUAN NHẬT, BÁI TIỄN KÍ HOÀI/ MÙA THU NĂM QUÝ MÃO (1783) THÂN PHỤ TÔI PHỤNG MỆNH RA LÀM ĐỐC TRẤN Ở CAO BẰNG, NGÀY ĐI NHẬM CHỨC TÔI TIỄN CHÂN LÀM BÀI THƠ GHI NHỚ
Tiêu dao thọ giả vãn hoài khoan Thiểu đệ nhung huy khách lộ nan Khiển soái hạnh phong viên khốn lộc Tƣ thân thiên trọng hộ đình hoan Phƣơng nhu tuế nguyệt đầu trâm phất Cánh hƣớng sơn khê lý thác bàn Bình cách tự thiên di cát khánh Ngô ông nghĩa mệnh bản lai an Chén rƣợu thọ tiêu dao, cảnh già trong lòng khoan khoái Ngọn cờ quân trên đƣờng đất khách gian nan Đƣợc làm soái, may dồi dào lộc nƣớc nơi viên khốn Lòng nhớ cha mẹ, riêng coi trọng niềm vui ở gia đình Đƣơng mong ít năm tháng sẽ từ bỏ trâm phất Nay lại tới núi khe giải quyết việc khó khăn Giữ đạo thƣờng, hiểu đạo trời thì đƣợc ban phúc tốt Phụ thân ta giữ nghĩa theo mệnh nên xƣa nay đƣợc yên ổn.
(Thơ văn Phan Huy Ích (tập 1) - tr 106) 4. HỌA TIỄN THANH PHONG NGÔ HÀN LÂM SỨ HỒI/ HỌA TIỄN QUAN HÀN LÂM HỌ NGÔ HIỆU THANH PHONG ĐI SỨ VỀ Tiên sà dao phiếm đẩu ngƣu quang Văn sĩ trùng phùng, vận hội xƣơng Quan bội bát phiên bồi ngự ác Vân hà vạn lý trữ ngâm trang Hoàn công đa tiễn qui thiều ổn Lăn ngã do tàm khách lộ mang Trân trọng kẻ tâu hoan ngộ xứ Giang sơn điệt tiếp sứ tinh lang Bè tiên đi trong ánh sáng sao Ngƣu, sao Đẩu xa tít Văn sĩ gặp lại nhau trong vận hội hƣng thịnh Đai mũ tám phen hầu trƣớng ngự Mây ráng muôn dặm chứa bầu thơ Xong việc công, đáng khen xe sứ ra về yên ổn Lƣời nhƣ ta, còn thẹn bận rộn nơi đất khách Trên lầu ca nhạc là chốn gặp gỡ, vui vẻ trân trọng Núi sông lần lƣợt đón tiếp ngôi sao sứ thần.
(Thơ văn Phan Huy Ích (tập 2) - Tr 21) 5. HỌA TIỄN HÌNH THỊ THANH PHÁI LÊ HẦU PHÓ HÕA NGHĨA NHẬM/ ĐƢA TIỄN QUAN THỊ LANG BỘ HÌNH LÀ THANH PHÁI HẦU HỌ LÊ ĐI NHẬM CHỨC Ở HÕA NGHĨA Ba năm ở tòa cơ mật, đƣợc ơn mƣa móc dồi dào/ Cánh Xa sánh tam niên hạ ốc đàm bằng cƣỡi gió bay lên, lại tính chuyện xuống phƣơng Phù dao kiện cách cánh đồ nam Nam/ Ánh trăng trải mặt bể Đà Nẵng, làm lặng sóng Nguyệt dung Đà hải thanh đối lãng cồn/ Mây cuốn đỉnh Ngự Bình, khi núi sớm tan hết/ Địa tại khâm hầu biên nhậm trọng Nơi ấy với kinh đô nhƣ vạt áo, nhƣ cổ họng, việc coi Nhân vi bảo chƣớng tuấn tài kham giữ biên cƣơng rất nặng nề/ Ngƣời làm thành lũy để Thiếu thiếu Thục đạo duy cẩm hạc bảo vệ phải tài giỏi mới kham nổi/ Trên đƣờng Thục Yêu đắc phƣơng huy bất cổ tàm xa vời vợi, chỉ làm bạn với chim hạc, cây đàn/ Giữ đƣợc tiếng thơm để khỏi thẹn với ngƣời xƣa.
(Thơ văn Phan Huy Ích (tập 2) - tr95)
PL37
6. TIỄN BINH BỘ TẢ PHỤNG NGHỊ NGHI THÀNH NGUYÊN HẦU PHÓ QUY NHƠN THÀNH/ TIỄN ÔNG TẢ PHỤNG NGHỊ BỘ BINH NGHI THÀNH HẦU HỌ NGUYỄN ĐẾN THÀNH QUY NHƠN
Ngã Hoan hảo giang sơn Chung bầm đa kỳ trác Thể đức diệu tiên hƣơng Nhân thụy xuất lân nhạc Tiền phá bão tài khi Diệu linh kiền đầu giác Cơ thức tảo duyệt thục Khí thức du hoành bác Tùng tiết nại nghiêm ngƣng Ngọc chất kinh ma trác Bản lĩnh tự trung tín Động tức thƣờng lỗi lạc Chúc lý cập hào mang Lập đàm sinh phong ngạc Biến giao thế gian nhân Hệ thuộc vi tâm lạc Nhàn thị thiên hạ sự Vận dụng tại chƣởng ác Tạo hóa dữ kỳ phẩm Giáng nhậm lƣơng bất thác Tao tề thánh minh thì Tuân tƣ giá hoa lạc Vọng học vu thần cố Chu tuyền thanh tỏa các Tam niên cầm kiếm du Ngâm chƣớc bất cải lạc Trƣợng phu phó công danh Bình chí hà đoan xác Hạo điểu hải chí nam Hy đại tân khai thác Quy Nhơn thang mộc địa Khu hoản ý khôi thạc Dân dung sơ phù tập Quân thanh phƣơng trấn bạc Triều đình trọng hành biên Sông núi tốt đẹp của châu Hoan ta Chung đúc nên lắm bậc kỳ tài Đạo đức trên đời làm rạng rỡ quê tiên Điểm lành sinh ra kỳ lân loan phƣợng Là những ngƣời tiến thủ, tài ba khí phách Từ trẻ đã tỏ ra xuất sắc Cơ trí ở đời từng trải sớm Đức độ kiến thức ngày càng rộng lớn Khí tiết nhƣ thông, chịu đựng sƣơng buốt Phẩm chất nhƣ ngọc, bao phen mài rũa Bản lĩnh có từ lòng trung tín Hành động, cử chỉ đều lỗi lạc Hiểu nghĩa lý đến kẽ tóc chân tơ Thoáng câu chuyện tỏ ra ngƣời sắc bén Làm bạn với khắp thế gian Gắn bó nhƣ tình ruột thịt Nhìn rõ mọi việc thiên hạ Nắm vững để vận dụng Tạo hóa ban phẩm chất kỳ lạ Giao cho trách nhiệm thật xứng đáng Gặp gỡ buổi thánh minh Đi thăm hỏi, gióng xe ngựa quí Học thức nổi tiếng, vua cũng nể vì Miệt mài nơi thanh tỏa Ba năm cây đàn thanh kiếm, đi khắp đó đây Khi chén rƣợu, lúc câu thơ, vẫn thƣờng vui vẻ Đấng trƣợng phu trên đƣờng công danh Giữ chí sao mà đoan trang, đúng mực Phía nam miền biển mênh mang Đất mới khai thác của triều thịnh Quy Nhơn là ấp thang mộc Cũng nơi then chốt cần bậc anh tài. Dân vừa đƣợc vỗ về yên ổn Uy thanh quân đội đang lừng lẫy Khi triều đình cần ngƣời ra trấn giữ bờ cõi
PL38
Khái khẳng tựu nhung mạc Tráng tâm tễ yên lam Thanh khiếu đái cầm hạc Thi Nại đào hung dũng Cù Mông vân lạc mạc Huyền hồ thù sơ chí Ma nhai lặc giai tác Khải ca tấu kỳ huân Chung đỉnh đàm tân ác Bả bôi tống chinh huy Cƣ giả diệc tâm tạc
Thi khẳng khái đến nơi hổ trƣớng cầm quân Lòng hùng mạnh khiến mây khói khí độc tan hết Tiếng thanh cao tỏ rõ ở cây đàn con hạc Cửa bể Thi Nại sóng cuồn cuộn Đỉnh núi Cù Mông mây man mác Chí bốn phƣơng nay đƣợc thỏa nguyền Mài vách núi khắc câu thơ đẹp Khúc khải ca, công lớn tấu lên Miếng chung đỉnh, ơn trên thấm xuống Nâng chén rƣợu tiễn lá cờ lên đƣờng Kẻ ở lại lòng tự thấy thẹn (Thơ văn Phan Huy Ích (tập 2) - tr98)
7. TRÙNG DƢƠNG NHẬT ĐỒ NGỘ HẢI PHÁI ĐOÀN KHÊ TỰ BẮC HỒI, TUÂN TRI GIA TÍN TIỂU CHƢỚC TÁC BIỆT NGẪU ĐẮC/ NGÀY TRÙNG DƢƠNG GIỮA ĐƢỜNG GẶP ÔNG HẢI PHÁI HỌ ĐOÀN TỪ BẮC VÀO, HỎI THĂM BIẾT TIN NHÀ, LÀM TIỆC NHỎ CHIA TAY, NGẪU NHIÊN LÀM THƠ
Chinh tử đa du nhật địch trƣờng Nhân gia kim cúc giới Trùng dƣơng Tam thì ky hoạn ngu tuyền bái Thiên lý lai thƣ báo lộng chƣơng Giai tiết số bôi tài dinh đính Cồ giao bán diện các thông mang Ân cần ngữ tống triểu thiên khách Sảnh viện phong lƣu thi diệt thƣờng. Cƣỡi ngựa đi đƣờng xa, lòng khách những man mác Tết Trùng Dƣơng đến, mọi nhà đã nở cúc vàng Ba mùa làm quan xa, nay mừng đƣợc trở về Nghìn dặm thƣ gửi đến, báo tin đẻ con trai Vài chén rƣợu ngày tết vừa mới chếnh choáng Bạn cũ gặp mặt chốc lát, đã vội chia tay Mấy lời ân cần tiễn đƣa ngƣời khách vào chầu vua Ở nơi sảnh viện sẽ luôn đƣợc nếm mùi phong lƣu
(Thơ văn Phan Huy Ích (tập 2) - tr 128)
8. THIỀU CHÂU GIANG THỨ, PHỤNG TIỄN QUẢNG ĐÔNG TRƢƠNG NIẾT ĐÀI HỒI TRỊ/ ĐẬU THUYỀN TRÊN SÔNG PHỦ THIỀU CHÂU LÀM THƠ TIỄN QUAN ÁN SÁT HỌ TRƢƠNG TỈNH QUẢNG ĐÔNG VỀ TRỊ SỞ
Thị dịch trùng tam khác phụng tâm Phong Xuyên đông hạ tụng đƣờng âm Nhu hoài cửu ngƣỡng thiên vƣơng trạch Khoản ngộ phƣơng tri địa chủ tâm Triệu thủy ba trừng lan trạo nhĩ Thiều sơn phong động tú y lâm Phân kỳ kiểu phán thai triển lãng Tảo hữu hồng thiên báo hảo âm Mang ngọc báu đến nơi, hai ba lần phiên dịch/ Ở Phong Xuyên tới phía đông, nghe ca tụng bóng cây cam đƣờng/ Đã lâu ngóng trông ơn trạch thiên vƣơng đối xử ân cần/ Mới biết lòng tốt của ngƣời chủ địa phƣơng tiếp đãi tử tế/ Sông Triệu lặng sóng, mái chèo lan lƣớt gần/ Núi Thiều lộng gió, bóng áo gấm đi tới/ Lúc chia tay kiễng nhìn chòm sao thai rực sáng/ Mong sớm có chim hồng báo tin mừng.
(Thơ văn Phan Huy Ích (tập 3) - tr 86)
PL39
V. THƠ TỐNG BIỆT NGUYỄN DU
(Thơ tống biệt Nguyễn Du khảo sát trong cuốn: Trung tâm nghiên cứu quốc học, Nguyễn Du toàn tập (tập 2) (2015), Nxb Văn học).
1. TỐNG NGUYỄN SĨ HỮU NAM QUY/ TIỄN BẠN NGUYỄN SĨ HỮU VỀ NAM
Nam Sơn hữu điểu hàm tinh hoa Núi Nam có con chim ngậm tinh hoa/ Bay đi bay lại
Phi khứ phi lai khinh võng la Hồng Lĩnh hữu nhân lai tố chủ xem thƣờng lƣới giăng/ Núi Hồng có ngƣời về làm chủ/ Ta bạc đầu không chốn tựa nƣơng không về
Bạch đầu vô lại bất hoàn gia Sinh bình văn thái tàn lung phƣợng đƣợc nhà/ Văn chƣơng (tôi) lúc bình sinh nhƣ chim phƣợng trong lồng nát/ Công danh (bạn) trong cuộc
Phù thế công danh tẩu hác xà Quy khứ cố hƣơng hảo phong nguyệt đời nổi trôi, nhƣ rắn bò vào hang/ Bạn về quê cũ trăng trong gió mát/ Trong giấc ngủ trƣa bên cửa sổ,
Ngọ song vô mộng đáo thiên nha (nhai) không còn mộng đến chân trời.
(Nguyễn Du toàn tập (tập 2) - tr 65)
2. BIỆT NGUYỄN ĐẠI LANG (TAM THỦ)/ TỪ BIỆT NGUYỄN ĐẠI LANG
Kì nhất/ Bài 1
Ngã thả phù giang khứ Tống quân quy cố khâu Tôi sắp vƣợt qua sông Tiễn anh về gò cũ
Càn khôn dƣ thảo ốc Phong vũ túc cô châu (chu) Giữa trời đất còn một lều tranh Trong gió mƣa đỗ con thuyền đơn côi
Thu dạ ngƣ long chập Thâm sơn mi lộc du Hƣu kỳ bất thậm viễn Đêm thu cá rồng ẩn nấp Núi sâu hƣơu nai dạo chơi Ngày vui không quá xa
Tƣơng kiến tại trung châu Gặp lại nhau tại trung châu
(Nguyễn Du toàn tập (tập 2) - tr 130)
3. Kì nhị/ Bài 2
Tống quân qui cố khâu Tiễn anh về gò cũ
Ngã diệc phù giang hán Thiên lí bất tƣơng văn Tôi sắp vƣợt qua sông Giang sông Hán Ngàn dặm không đƣợc tin nhau
Nhất tâm vị thƣờng gián Dạ hắc sài hổ kiêu Một lòng chƣa hề ngăn cách Sói và hổ càn rỡ trong đêm tối đen
Nguyệt minh bồng nhạn tán Lƣỡng địa các tƣơng vƣơng Chim hồng chim nhạn bay tan tác dƣới trăng sáng Đôi nơi đều mong ngóng nhau
Phù vân ƣng bất đoạn Mây nổi đừng nên gián đoạn.
(Nguyễn Du toàn tập (tập 2) - tr 131)
PL40
4. Kì tam/ Bài 3
Quân qui ngã diệc khứ Các tại loạn ly trung Sinh tử giao tình tại Tồn vong khổ tiết đồng Sai môn khai dạ nguyệt Tàn lạp tẩu thu phong Thiên lý bất tƣơng kiến Phù vân mê thái không. Anh về tôi cũng đi Đều trong cảnh loạn ly Giữa cái sống, cái chết liền kề, tình bạn vẫn nguyên vẹn Phục hồi cái đã mất, khí tiết chịu khổ ải, tôi và bác nhƣ nhau Cửa sài đón trăng đêm Nón rách đi trong gió thu Ngàn dặm không thấy nhau Mây nổi bồng bềnh lạc lối giữa khoảng không cao rộng.
(Nguyễn Du toàn tập (tập 2) - tr 134)
5. TỐNG NHÂN/ TIỄN NGƢỜI ĐI
Hƣơng Cần quan đạo liễu thanh thanh Giang bắc giang nam vô hạn tình Thƣợng uyển oanh kiều đa đố sắc Cố hƣơng thuần lão thƣợng kham canh Triều đình hữu đạo thành quân hiếu Trúc thạch đa tàm phụ nhĩ minh Trù tƣớng thân tiêu cô đối ảnh Mãn sàng trên vũ bất kham thinh
Trên đƣờng cái quan Hƣơng Cần, liễu xanh xanh/ Kẻ đi về phía Bắc sông, ngƣời ở lại phía nam sông, tình vô hạn/ Những con oanh đẹp trong vƣờn thƣợng uyển ghét nhau vì sắc đẹp/ Rau thuần già nơi quê cũ vẫn còn nấu canh đƣợc/ Triều đình có đạo khiến anh tròn đƣợc đạo hiếu/ Rất thẹn cùng trúc đá vì lỗi phụ lời thề với nó/ Trong đêm khuya cô tịch buồn rầu một mình đối bóng/ Nghe mƣa dầm đầy giƣờng không sao chịu nổi. (Nguyễn Du toàn tập (tập 2) - tr 273)
6. TỐNG NGÔ NHỮ SƠN CÔNG XUẤT TRẤN NGHỆ AN/ TIỄN ÔNG NGÔ NHỮ SƠN RA TRẤN THỦ NGHỆ AN
Cẩm La giang thƣợng khấu chinh an Bái hội phi nan tích biệt nan Bát đại kỳ văn hoa lƣỡng quốc Nhất xa cao vũ nhuận toàn Hoan Nhân tòng đạm bạc tƣ vi chính Thiên vị kiềm lê bất phóng nhàn Bắc vọng Hồng sơn khai đức diệu Thiên nhai cử tửu khánh hƣơng quan
Trên cửa sông Cẩm La tôi gò yên ngựa của ngƣời đi xa lại,/ Gặp nhau không khó nhƣng khó là luyến tiếc khi chia biệt nhau/ Văn của ông hay nhƣ văn của tám nhà văn lớn đời Đƣờng Tống, làm đẹp cho cả hai nƣớc/ Mƣa móc theo xe của ông thấm nhuẩn Hoan Châu/ Tánh tình ông đạm bạc, ông sẽ đem nó vào chính sự/ Trời vì dân nên chƣa cho ông hƣởng nhàn/ Trông về Hồng Lĩnh ở phía Bắc thấy ngôi sao đức mọc lên/ Ở nơi chân trời tôi nâng chén rƣợu mừng cho quê hƣơng tôi.
(Nguyễn Du toàn tập (tập 2) - tr330)
VI. THƠ TỐNG BIỆT NGUYỄN ĐỀ
(Thơ tống biệt Nguyễn Đề khảo sát trong cuốn: Tuyển tập thơ chữ Hán Nguyễn Đề - Nguyễn
Thị Phƣợng chủ biên - NXB KHXH - HN 1995).
PL41
1. THU NGUYỆT TỐNG NHÂN BẮC HOÀN/ THÁNG THU TIỄN NGƢỜI VỀ BẮC
Y u bả duệ hƣớng trƣờng đình Vô hạn tha hƣơng cố quốc tình Quy lộ hoàng hoa tùy xứ hữu Lữ song thu nguyệt vị thùy minh Xuân giang thủy khoát ba sầu lệ Hoàng lĩnh vân thâm trở tống trình Kinh để nhƣợc phùng thân quyến vấn Nhất ngôn phiền báo ngã bình ninh Bịn rịn cầm vạt áo hƣớng về trƣờng đình Mối tình đất khách quê nhà thật là vô hạn Đƣờng trở về, hoa vàng chỗ nào cũng có Cửa sổ nhà trọ trăng sáng vì ai Nƣớc sông xuân mênh mang, trào sóng lệ sầu Mây Đèo Ngang dầy dặc, cản trở đƣờng tiễn đi Ở Kinh đô nếu gặp ngƣời thân nhắn hỏi Phiền báo một lời: tôi vẫn bình an.
(Tuyển tập thơ chữ Hán Nguyễn Đề - tr 124)
2. TỐNG TỐ NHƢ ĐỆ TỰ PHÚ XUÂN KINH BẮC HOÀN (NGŨ THỦ)/ TIỄN EM TỐ NHƢ TỪ KINH ĐÔ PHÖ XUÂN VỀ BẮC
Ân cần thiên lý tống quân hồi Lãnh đạm trƣờng đình tửu nhất bôi Ngƣ đảo kim thiên hồng độc khứ Phƣợng thành hà nhật, Ích trùng lai Bán xoang sầu trạng miêu nan tận Vạn hộc tƣ trần tảo bất khai Tối thị lữ nhân, hƣơng niệm trọng Thanh phong minh nguyệt cộng bồi hồi
Ân cần vạn dặm tiễn em về Uống một chén rƣợu ở trƣờng đình lạnh lẽo Hôm nay một mình chim hồng bay tới hòn Ngƣ Ngày nào thuyền ích lại quay về thành Phƣợng Nửa lòng buồn bã miêu tả khó hết Vạn dấu bụi trần phảy quét không quang Nhất là lữ khách thêm nặng tình nhớ quê hƣơng Cùng ngắm cảnh trăng thanh gió mát mà thêm bồi hồi. (Tuyển tập thơ chữ Hán Nguyễn Đề - tr 129)
3. nhị thủ
Ân cần thiên lý tống quân hành Nhạn tự phân phi hạt ký tình Cùng cảnh khởi năng trƣờng tụ hợp Sứ trƣờng bất phạ viễn phiêu linh Sơn phong hải nguyệt thiên ban hảo Khách tụ quy hàng nhất dạng thanh Hiểu mộ Ích đầu ngu mục xứ Khả vô hồi vọng Phú Xuân thành. Ân cần vạn dặm tiễn em đi Anh em phân tán sao nói nổi nỗi lòng Cảnh khốn cùng nào có thể tụ hợp mãi đƣợc Nghề đi sứ không sợ phiêu dạt xa xôi. Gió đầu núi, trăng mặt biển, ngàn sự tốt đẹp Tay áo khách, thuyền trở về, một dạng trong xanh Chốn vui mắt là đầu thuyền sớm tối Há lại không trông ngóng về kinh thành Phú Xuân.
(Tuyển tập thơ chữ Hán Nguyễn Đề - tr 131)
4. Tam thủ
Ân cần thiên lý tống quân hoàn Ân cần vạn dặm tiễn em trở về
Hữu niệm gia tình bả quyết gian Mục chú biên phàm xuyên hải kiệu Tình bạn tình nhà (thể hiện) trong lúc cầm vạt áo Mắt dõi buồm giơi nhìn xuyên núi biển
Hồn tùy điệp chẩm nhiễu hƣơng quan Liễu kiều tự ngã sầu tân biệt Cúc kính hà nhân mịch cựu nhàn Hồn theo gối bƣớm lƣợn quanh quê hƣơng Bên cầu liễu, tự ta buồn nỗi biệt li mới Trên lối cúc, ngƣời nào quen ngắm cảnh nhàn xƣa
PL42
Mạc nhạ thử hành lao bạt thiệp Ngâm ông song nhãn tiễn giang san Không ngạc nhiên chuyến đi này lặn lội vất vả Đôi mắt nhà thơ thƣởng thức bao cảnh đẹp của núi sông.
(Tuyển tập thơ chữ Hán Nguyễn Đề - tr 132)
5. Tứ thủ
Ân cần thiên lý tống quân quy Chấn thủ hà kham tự hợp ly Ân cần vạn dặm tiễn em về Cầm tay sao nói nổi nỗi lòng hợp ly
Nam hải phong cao bằng dực kiện Bắc sơn vân viễn điểu tình si Cánh bằng tráng kiện vƣợt trận gió cao ngoài biển Nam Lòng chim ngây ngất nhìn đám mây xa trên núi Bắc
Tha hƣơng tố biệt nan chung ngữ Phù thế vi hoan vị bốc kỳ Từ biệt nơi đất khách khó nói hết lời Cuộc vui ở cõi đời chƣa chọn đƣợc ngày
Dự toán hồi lai chân lạc thú Nghinh môn trĩ tử tiếu hy hy Dự tính khi trở về thật là vui thú Lũ trẻ đón trƣớc cửa tiếng cƣời ríu rít.
(Tuyển tập thơ chữ Hán Nguyễn Đề - tr 134)
6. Ngũ thủ
Ân cần thiên lý tống quân tuyền Ân cần vạn dặm tiễn em về
Bắc thụ nam vân phục các thiên Quỳnh Hải yên hà ngâm nhãn khoát Lại mỗi ngƣời mỗi phƣơng trời nhƣ cây bắc mây nam Khói sƣơng ở Quỳnh Hải, mở rộng tầm mắt nhà thơ
Xuân kỳ chu quế hoạn tình khiên Nhàn sầu mạch mạch phong lâm tọa Châu quế chốn kinh thành vƣơng vấn lòng ngƣời làm quan Nỗi buồn nhàn hạ dằng dặc, gió thổi tới chỗ ngồi
Quy tứ phiêu phiêu nguyệt mãn thuyền Hoa ấp thử hồi ƣng đắc hứng Ý muốn trở về phơi phới, trăng sáng soi đầy thuyền Đến ấp Hoa lần này thu đƣợc nhiều hứng thú
Bôi tàn túy đảo khúc lô tiền. Rƣợu tàn, say lảo đảo ở trƣớc lò ủ men.
(Tuyển tập thơ chữ Hán Nguyễn Đề - tr 135)
7. TIỄN NINH THÂN NGUYỄN HUẤN ĐẠO BẮC HOÀN/ TIỄN ÔNG HUẤN ĐẠO HỌ NGUYỄN TRỞ VỀ BẮC THĂM MẸ
Ân cần tôn tửu chƣớc trƣờng đình Nam Bắc phân huề vạn lý trình Ân cần tôn tửu chƣớc trƣờng đình Chia tay kẻ Bắc ngƣời Nam vạn dặm đƣờng dài
Lữ thứ chính sầu hoan hội thiểu Hƣơng tâm quán cố biệt ly khinh Nơi quán trọ rất buồn vì ít khi hội họp vui vẻ Tình quê hƣơng nào dám xem nhẹ nỗi biệt ly
Yên ba lộ thƣợng lao tƣơng niệm Quế ngọc trƣờng trung cánh tự linh Trên đƣờng khói sóng vất vả cùng nhớ tới nhau Trong chốn châu quế càng thƣơng cho mình
Tƣởng thị quý lai chân khả úy Thất tuần lão mẫu ỵ lƣ tình Tƣởng tƣợng rằng trở về đƣợc lúc này thật là niềm an ủi Mẹ già 70 tuổi, đang tựa cửa chờ mong.
(Tuyển tập thơ chữ Hán Nguyễn Đề - tr 137)
PL43
8. TỐNG TÀO XÁ GIẢI NGUYÊN BẮC HOÀN/ TIỄN ÔNG GIẢI NGUYÊN TÀO XÁ VỀ BẮC
Thiên tế huân phong táp táp phi Bằng du Nam hải dĩ thời quy Giải giao thế lộ cam nhu túc An khẳng danh trƣờng độc phất y Tây tịch hữu thƣ truyền trĩ tử Bắc đƣờng vô hịch úy từ vi Dƣ nhàn túng mục giang sơn cựu Trƣợng lũ huề hồ chƣớc vãn huy Gió mát từ chân trời bay diễu quanh Chim bằng chơi biển Nam đã đến lúc quay về Nếu đã cam nhúng chân vào con đƣờng thế tục Thì sao chịu một mình phảy áo trên đƣờng danh lợi Trên chiếu hiên Tây còn có sách dạy con trẻ Trƣớc thềm phía Bắc lại không có hịch an ủi mẹ già Buổi dƣ nhàn buông mắt ngắm non sông cũ Chống gậy đi dép cầm bầu rƣợu rót lúc hoàng hôn
(Tuyển tập thơ chữ Hán Nguyễn Đề - tr 138)
9. TIỄN THỊ TRUNG ĐẠI HỌC SĨ NGÔ THAI CÔNG PHỤNG SỨ/ TIỄN ÔNG THỊ TRUNG ĐẠI HỌC SĨ NGÔ THAI CÔNG PHỤNG MỆNH ĐI SỨ
Thiếu niên thiên tử kiến hoàng cực Nhất phẩm huân thần ủng sứ tinh Văn tự cửu hành tiên đế quyến Ứng thủ tằng quán viễn nhân tình Miễn năng ấn sách hoàn tân mệnh Tu hứa giang san thức đại danh Thập bát tải sơ văn hữu mộng Đăng cao hành viễn thị tiền trình
Thiên tử nhỏ tuổi lên ngôi vua Huân thần nhất phẩm mang cờ đi sứ Văn chƣơng thi thố từ lâu đã đƣợc tiên đế chọn Thù tạc từng quen với tình ngƣời ở xa Miễn sao có ấn tín và sách phong hoàn thành sứ mệnh mới Nên khiến non sông biết đến danh tiếng lớn lao Mƣơi tám năm xƣa nghe có mộng Lên cao đi xa là con đƣờng phía trƣớc.
(Tuyển tập thơ chữ Hán Nguyễn Đề - tr 144)
10. TIỄN THỊ TRUNG ĐẠI HỌC SĨ NGÔ THAI CÔNG BẮC HOÀN/ TIỄN THỊ TRUNG ĐẠI HỌC SĨ NGÔ THAI CÔNG VỀ BẮC
Kinh xuân quý tác Địch môn đào Tâm túy phƣơng kim ẩm đức dao Phiếm bạt khởi tri hành giám triết Mật bồi vƣu kiến Đẩu sơn cao Vị nhân chủng thực phi cầu báo Hứa quốc trì khu bất đạn lao Phỉ thị bình sinh trung tín đốc An năng xuất nhập thử ba đào Trải bao xuân thẹn đƣợc làm cây đào trƣớc nhà ông Địch/ Lòng đang say vì uống rƣợu đức/ Đề bạt rộng rãi , không biết đƣợc ông sáng suốt nhƣ chiếc cân mảnh gƣơng/ Đƣợc tiếp gần càng thấy ông cao nhƣ núi Thái, sao Đẩu/ Vì ngƣời giúp đỡ chẳng cần báo ơn/ Vì nƣớc rong ruổi không sợ mệt sức/ Chẳng phải là lúc bình sinh đã giầu lòng trung tín/ Thì sao có thể ra vào cuộc sóng gió này.
(Tuyển tập thơ chữ Hán Nguyễn Đề - tr 146)
11. TẶNG BIỆT NGHỆ AN TRẤN HỘ TẢ PHỤNG NGHỊ DỤ LỘC HẦU/ THƠ TẶNG BIỆT ÔNG DỤ LỘC HẦU CHỨC HỘ BỘ TẢ PHỤNG NGHI Ở TRẤN NGHỆ AN
Bắc vãng nam quy tịnh nhật hành Nhất bôi tƣơng tiễn các phân trình Lý chu Trần tháp tam niên nghị Ngƣời ra Bắc, ngƣời vào Nam cùng đi một ngày Tiễn nhau một chén rồi lại mỗi ngƣời một ngả Thuyền họ Lý, giƣờng họ Trần tình nghĩa đã ba năm
PL44
Vị thụ giang vân vạn lí tình Thân hốt triều đoan dƣơng kiến trọng Y quan hội thƣợng diệc thao vinh Thử hồi tiện điện mông tiền tịch Phiền bị Hoan Châu chửng tệ manh Cây vị Bắc, mây giang đông, chạnh tình vạn dặm Đai hốt vào triều, tất nhiên đƣợc trọng đãi Mũ áo gặp hội cũng dự vinh quang Lần này ở tiện điện, nhờ ơn đƣợc tới trƣớc chiếu. Phiền cho ông cứu dân nghèo ở Châu Hoan
(Tuyển tập thơ chữ Hán Nguyễn Đề - tr 179)
VII. THƠ TỐNG BIỆT TRỊNH HOÀI ĐỨC
(Thơ tống biệt Trịnh Hoài Đức khảo sát trong cuốn: Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhơn Tĩnh, Lê Quang Định (2006), Gia Định tam gia, Nxb tổng hợp Đồng Nai, Đồng Nai).
1. TỐNG NGÔ NHỮ SƠN CHI QUẢNG ĐÔNG/ TIỄN NGÔ NHỮ SƠN ĐI QUẢNG ĐÔNG
Tiếc nỗi ly biệt rót rƣợu chuốc nhau/ Không làm nổi bài thơ tiễn đƣa ở cầu Bá/ Nhà nghèo, mẹ ốm, tôi nhiều nỗi lo/ Nƣớc loạn, quê lìa, bạn đi xa/ Thôn Long Tịch lần lữa, chim én bay (thôn tác giả ở)/ Cửa Hổ môn ngủ nghê, lòng tựa mây chiều (cửa bể ở Quảng Đông)/ Không biết ngày nào mới có hội mừng thái bình/ Lệ chứa, tiếng tơ đàn buồn động xƣa, nay.
(Gia Định tam gia - tr 90)
Tích biệt tƣơng thù tửu mạn châm Bá Kiều thi cú bất thành ngâm Gia bần, mẫu bệnh, ngô đa lự Quốc loạn, hƣơng ly, nhữ viễn lâm Long Tịch ta đà phi yến vũ Hổ môn ngộ mị mộ vân tâm Thái bình khách hội tri hà nhật Lệ tích bi ti động cổ câm
2. TỐNG LƢƠNG SÁN TRIỀU QUY QUẢNG ĐÔNG/ TIỄN LƢƠNG SÁN TRIỀU VỀ QUẢNG ĐÔNG
Vừa mới họp mặt uống rƣợu mừng vui, bỗng lại nhắp chén biệt ly/ Biết là dấu chân ngƣời chơi xa luyến quê cũ/ Ngƣời về thành Quảng Châu thuyền một lá/ Tình vấn vít Bến Nghé liễu nghìn hàng/ Núi Bút La tiễn dặm mây xa/ Khe Cẩm Thạch lƣu bóng trăng vằng vặc/ Đừng hiềm vì nƣớc loạn không sang nữa/ Nay lại có vua sáng lòng thuận theo.
Tài hoan hội tửu thúc ly trƣờng Tri thị du tung luyến cố hƣơng Nhân phản Dƣơng thành chu chất diệp Tình khiên Ngƣu Chử liễu thiên hàng Bút La sơn tống vân trình viễn Cẩm Thạch khê lƣu nguyệt ảnh trƣờng Mạc vị loạn bang hiềm tái vãng Nhu hoài kim phục ứng minh vƣơng. (Gia Định tam gia - tr 134)
VIII. THƠ TỐNG BIỆT PHẠM ĐÌNH HỔ
(Thơ tống biệt Phạm Đình Hổ khảo sát trong cuốn : Phạm Đình Hổ (1998), Phạm Đình Hổ -
Tuyển tập thơ văn, Nxb Khoa học xã hội- Trung tâm KHXH và NV Quốc gia - Viện nghiên cứu Hán Nôm).
1. TỐNG HOÀNG HY NAM QUY/ ĐƢA HOÀNG HY VỀ NAM
Thu phong thái vô lại Chi tử hựu vu chinh Trù trù thành Nam ngẫu Gió thu thật trớ trêu Để bác lại lên đƣờng Dùng dằng mãi bên phía Nam thành
PL45
Tình trọng nan vi hành Tƣơng tri diệc vân cửu Trần lộ không doanh doanh Hiêu trần ô ngã y Hà nhƣ lâm hác tình Ác thủ dữ tử kỳ Yên ba cộng thử sinh
Nặng tình khó mà đi đƣợc Bạn tƣơng tri với nhau kể cũng đã lâu. Đƣờng trần luống bụi bặm Bụi bám bẩn áo ta Sao bằng tình rừng suối Cầm tay hẹn với bác Cùng chung cảnh khói sóng trong cuộc đời này. (Phạm Đình Hổ - Tuyển tập thơ văn - tr 311)
2. TỐNG HƢƠNG SƠN CẤP SỰ QUẢN LÝ NGỰ THIÊN/ TIỄN QUAN CẤP SỰ QUẢN LÝ BẾN NGỰ TỈNH THỪA THIÊN LÀ NGƢỜI HƢƠNG SƠN
Hoa thành phân trúc suy quân mẫn Nghệ phố ma châm tiếu ngã si Bách lý phiên tuyên tân quản lí Bát niên tôn trở lão tƣ nghi Chiếm hào đƣơng ngã lâm hành tặng Trắc nhĩ văn quân báo chính thời Trù tƣớng Long thành phân quyết hậu Cao sơn cựu khúc thiến thùy tri ? Chia trúc ở kinh thành tôn anh mẫn tiệp Mài kim ở nhà quê đáng cƣời tôi ngu si Trăm dặm ngoài cõi khen quan quản lý mới Tám năm thờ cúng già dặn lễ nghi Cầm bút, tôi đang viết tặng anh lúc lâm hành Nghiêng tai, nghe anh báo giờ đi đã đến Bồi hồi ở Long Thành sau lúc chia tay Khúc hát Cao Sơn ai là ngƣời biết nhỉ ?
(Phạm Đình Hổ - Tuyển tập thơ văn - tr 316)
3. THANH NGỌC HUYNH LAI PHỎNG TỐNG BIỆT CHI TÁC/ ANH THANH NGỌC LẠI THĂM LÀM THƠ KHI TIỄN BIỆT
Ác thủ dữ quân biệt Du du tâm tự thƣơng Lục niên các hồ hải Vân thụ không thƣơng thƣơng Cầm tay anh từ biệt Lòng man mác tự thấy thƣơng mình Sáu năm trời đều ở nơi hồ hải Tình bạn bè mãi xanh xanh
(Phạm Đình Hổ - Tuyển tập thơ văn - tr 319)
4. HY NGÔN HUYNH LAI PHỎNG TỐNG BIỆT CHI TÁC/ ANH HY NGÔN ĐẾN THĂM, LÀM KHI TIỄN BIỆT
Tống tử kinh trung khứ Du du tứ bất kham Bất tri tƣơng phỏng hậu Tằng phủ mộng Giang Nam Đƣa bác từ Kinh đi Nghĩ miên man khôn cầm Không biết sau chuyến viếng thăm này Bác thƣờng có giấc mộng Giang Nam không ?
(Phạm Đình Hổ - Tuyển tập thơ văn - tr 324)
5. PHAN HOÀNH HẢI TỰU QUÁN ĐIỆP SƠN LỘ GIAN TƢƠNG PHỎNG TỐNG BIỆT CHI TÁC/ PHAN HOÀNG HẢI MỞ TRƢỜNG HỌC Ở LỘ ĐIỆP SƠN, ĐẾN THĂM LÀM KHI TIỄN BIỆT
Cửu hỹ bất kiến tử Du tai lao ngã ti Lâu rồi không gặp bác Dài thay, nỗi nhớ của tôi
PL46
Thiên nhai đồng lạc thác Mộng quán các y vi Lƣơng thủy lâm hoa kinh Tô giang nhiễu trức phi Dao lân nhất luân nguyệt Tâm sự chỉ tâm tri Cùng mòn mỏi nơi chân trời Đều dạy trẻ nhƣ nhau Con đƣờng hoa chạy sát dòng Lƣơng Thủy Rặng tre tƣơi ôm vòng theo sông Tô Từ nơi xa thƣơng nhau qua một vầng trăng Tâm sự của mình chỉ lòng mình biết
(Phạm Đình Hổ - Tuyển tập thơ văn - tr 325)
6. TỐNG MÔN NHÂN LÊ SƢ DO QUY TỈNH/ TIỄN HỌC TRÕ LÀ LÊ SƢ DO VỀ THĂM QUÊ
Tam thập nhất niên lƣu lạc giả Vị năng thành kỵ huống thành nhân Hồi đầu tứ hải thân do khách Khuất chỉ tam đông tuế hựu xuân Lũng thƣợng hàn mai đƣơng nhĩ tặng Thiên biên minh nguyệt tự dƣ lân Kinh trung bằng ngữ tƣơng tri đạo Trúc ổ ngƣ cơ thú vị bần Ba mƣơi mốt năm là kẻ lƣu lạc Chƣa thể thành đạt cho mình huống chi thành đạt cho ngƣời Ngoái đầu nhìn lại, vẫn làm thân khách nơi bốn biển Bấm đốt tay đã ba năm mà năm lại đã sang xuân Cành mai lạnh ngoài bãi nên tặng cho anh Mảnh trăng bên trời tự thƣơng cho ta Nhắn với bè bạn tƣơng tri ở trong kinh Ngồi câu cá trên hòn đá dƣới khóm trúc là cái thú nghèo.
(Phạm Đình Hổ - Tuyển tập thơ văn - tr 328)
7. TỐNG BẢN PHỦ TÂN DOÃN ĐẶNG TRẦN QUÂN CHI NHẬM/ ĐƢA QUAN HUYỆN MỚI LÀ ĐẶNG TRẦN ĐI NHẬM CHỨC Ở BẢN PHỦ
Hy triều trọng dân mục Tịch môn đăng tuấn lang Quân tử hàm tân mệnh Quân phù thiết Hồng Giang Hồng Giang thủy đa toan Hồng Giang điền đa hoang Hồng Giang dân tuy cùng Hồng Giang phong tự lạng Quýnh quýnh phúc tinh huy Huệ nhiên lâm Hồng Giang Hồng Giang ức hà hạnh Phúc kiến Cung dữ Hoàng. Triều đại tốt đẹp coi trọng ngƣời chăn dân Mở cửa nâng đỡ ngƣời tài giỏi Bậc quân tử nhận mệnh mới Đƣợc phân về coi xét cõi Hồng Giang Hồng Giang nƣớc nhiều chất chua Hồng Giang, ruộng nhiều nơi hoang phế Hồng Giang, dân tuy cùng quẫn Nhƣng Hồng Giang, phong tục vốn lành Sao Phúc tinh sáng rạng rỡ Đem ân huệ nhƣ vậy đến Hồng Giang Hồng Giang sao thật may mắn Lại thấy quan họ Cung họ Hoàng.
(Phạm Đình Hổ - Tuyển tập thơ văn - tr 333)
8. TỐNG LIÊN CỪ MAI CÔNG PHÓ VỊ HOÀNG/ TIỄN ÔNG HỌ MAI NGƢỜI LIÊN CÙ ĐI VỊ HOÀNG
Hạ nhật huề cùng xuất cố đô Giang nam Nam hạ tứ du du Sơ mai hƣơng đậu Hoàng giang vũ Dã mạch tình thâm Vịnh phố thu Ngày hè chống gậy trúc ra khỏi cố đô Miên man trong ý nghĩ về miền Nam Giang Nam Hƣơng hoa mai mới nở đọng lại dƣới mƣa sông Hoàng Vẻ quang tạnh nơi đồng lúa làm đậm thêm màu thu ở phố Vịnh
PL47
Vọng nhập tiền sơn khan võng thụ Hứng tùy thƣơng hải phiếm hƣ chu Lâm kì ƣớc lƣợc quy lai nhật Mãn tụ thanh phong phản Kiếm hồ Trông vào núi xƣa ngắm hàng cây xa xa Cảm hứng theo con thuyền hƣ ảo lênh đênh trên biển biếc Lúc chia tay, ƣớc hẹn ngày về Trở lại bên Hồ Gƣơm hứng gió mát đầy tay áo.
(Phạm Đình Hổ - Tuyển tập thơ văn - tr 347)
9. TIỄN MÔN NHÂN NGUYỄN XUÂN PHƢỢNG LÊ TÔNG QUANG, TRƢƠNG MÃN, TRƢƠNG ĐỨC HOẰNG PHÓ KINH HỘI THI/ TIỄN HỌC TRÒ LÀ NGUYỄN XUÂN PHƢỢNG, LÊ TÔNG QUANG, TRƢƠNG MÃN, TRƢƠNG ĐỨC HOẰNG VÀO KINH THI HỘI
Thái nhƣ xuân lai dĩ vựng chinh Quan quang hữu hội giản vƣơng đình Côn minh sấn lãng tam thiên cận Bằng cách đoàn phong cửu vạn khinh Phát nhƣợc doãn phù thiên hƣớng trị Khởi dƣ chinh hỉ đạo chi hành Thập niên ma toái tƣơng hà sự Miễn hiệu quyên trần đáp thánh minh Rễ tốt xuân về bứng cả vừng Có dịp lên kinh tới sân vua Cá Côn vƣợt sóng ba ngàn dặm vẫn gần Cánh Bằng đè gió chín vạn dặm coi nhẹ Các anh ra đi đúng ý trời muốn cho đời trị Nào phải tôi đang vui đâu mà do đạo đã đƣợc thi hành Đem mƣời năm tôi luyện ra dùng vào việc gì Gắng đƣa tấm thân giọt nƣớc hạt bụi báo đáp vua sáng.
(Phạm Đình Hổ - Tuyển tập thơ văn - tr 381)
IX. THƠ TỐNG BIỆT NGUYỄN ÁN
(Thơ tống biệt Nguyễn Án khảo sát trong cuốn: Thơ văn Nguyễn Án - Phạm Ngọc Lan, Phạm
Văn Ánh (biên soạn) (2017), Nxb Đại học sƣ phạm).
1. TỐNG PHAN HOÀNH HẢI ĐIỆP SƠN XỨ QUÁN/ TIỄN PHAN HOÀNH HẢI TẠI KHÁCH QUÁN XỨ ĐIỆP SƠN
Hoành Hải tài danh kinh quốc văn Khƣớc huề thi cảo phó duy tân Cầm tôn cựu ƣớc na kham phụ Dịch lộ chinh bào thả tạm phân Anh trạc hiểu lâm Lƣơng thủy khúc Song nhàn tình dẫn Điệp sơn vân Bất tri thử địa Nhi Vu lạc, Tằng ức nhân đồ hữu cố nhân
Hoành Hải là bậc tài danh nổi tiếng khắp Kinh đô Lại đem thi cảo đi làm cuộc đổi mới Chén rƣợu, cây đàn ƣớc cũ đâu nỡ phụ Nơi trạm dịch, khoác áo bào đi xa, hãy tạm chia tay Buổi sớm, xuống dòng sông Lƣơng giặt dải mũ Bên song thảnh thơi, trời trong tạnh dẫn đƣa vầng mây non Điệp Không biết đất này có niềm vui sông Nghi, đền Vu hay chăng Từng nhớ còn có bạn cũ ở ngoài cổng thành.
(Thơ văn Nguyễn Án – tr 42)
2. TIỄN KIỀU NIÊN ĐÔNG QUY CỐ VIÊN/ TIỄN KIỀU NIÊN VỀ VƢỜN CŨ Ở PHÍA ĐÔNG
Tống tử giang đông khứ Giang thành thập nguyệt sơ Lâm kì đa khiển quyển Huy thủ phục trù trừ Tùng cúc quy lai dị Tiễn bác ra đi từ bờ đông sông Thành bên sông bƣớc vào đầu tháng Mƣời. Lên đƣờng nhiều bịn rịn Vẫy tay lại ngập ngừng Tùng cúc khi về đã khác xƣa
PL48
Cầm tôn biệt hậu sơ Cố giao trƣờng dẫn lĩnh Mạc khiển oán li cƣ Đàn, chén sau khi từ biệt ít gặp Bạn cũ nghển cổ trông theo mãi Đừng để phải oán vì sống trong cảnh cách biệt.
(Thơ văn Nguyễn Án – tr 65)
3. ĐỒ TRUNG BIỆT TRẦN VẤN CHI/ TRÊN ĐƢỜNG, TỪ BIỆT TRẤN VẤN CHI
Dữ tử tƣơng tri cửu Vô thành tòng thiếu niên Thế đồ đa khảm kha Lâm lộ cộng thê nhiên Quen biết bác vốn đã từ lâu Không thành đạt nên theo bọn trẻ tuổi Đƣờng đời nhiều trắc trở Lên đƣờng, cùng bùi ngùi.
(Thơ văn Nguyễn Án – tr 81)
4. TIỄN HỮU NHÂN HỒI PHÚ XUÂN KINH/ TIỄN NGƢỜI BẠN TRỞ VỀ KINH ĐÔ PHÖ XUÂN
Đế tử triều thiên nhập Từ thần hỗ trƣợng du Điêu an hoành lạc nhật Chinh bái phất thanh thu Vân hải triêu thừa chƣớng Sa kì dạ phiếm chu Biên trần do vị tĩnh Đầu bút thủ phong hầu Con của hoàng đế vào chầu nhà trời Kẻ văn thần đi theo hộ giá Yên ngựa trạm trổ vắt ngang vầng mặt trời đang lặn Cờ xí đi xa phơ phất trong trời thu trong trẻo Sớm đạp mù chƣớng trên bể mây Khuya giong thuyền qua vụng cát Bụi nơi biên cƣơng chƣa lặng Ném bút, đi lấy tƣớc phong hầu.
(Thơ văn Nguyễn Án – tr 81)
5. TIỄN HỮU NHÂN TÒNG QUÂN NAM CHINH/ TIỄN NGƢỜI BẠN TÒNG QUÂN CHINH CHIẾN PHƢƠNG NAM
Lƣơng viên từ phú khách Trâm bút hỗ nhung huy Tôn trở bình sinh học Tang bồng thiếu tráng thì Thu phong xuy kiếm kiệp Lạc nhật chiếu chinh y Tinh bái liên vân quyển Lâu hang khóa hải phi Tọa khán biên kiểu tĩnh Hành xƣớng khải ca quy Chinh kị lăng thần phát Trƣờng đình lục tửu chi Khách từ phú ở vƣờn Lƣơng Mang trâm bút theo tƣớng chinh chiến Sở học bình sinh là ngồi trên tiệc rƣợu Mang chí tang bồng khi tuổi tráng niên Gió thu thổi gƣơm kiếm Mặt trời tà chiếu áo chiến chinh Tinh kì cuốn liền mây Lâu thuyền lƣớt bay qua bể Ngồi nhìn biên cƣơng yên định Vừa đi vừa hát khúc khải hoàn trở về Ngựa chiến xuất phát vào buổi sáng sớm Chén rƣợu tiễn đƣa ở trƣờng đình xanh.
(Thơ văn Nguyễn Án – tr 93)
PL49
6. TIỄN TRẦN MỘNG HẠC TÂN TRỪ TIÊN HƢNG TRI PHỦ CHI NHẬM/ TIỄN TRẦN MỘNG HẠC MỚI ĐƢỢC BỔ DỤNG ĐI NHẬM CHỨC TRI PHỦ TIÊN HƢNG
Yểu điệu Thai xuất tú Hồi hoàn Đức thủy thanh Núi Thiên Thai lộ vẻ đẹp mềm mại Sông Thiên Đức trong trẻo chảy quanh co
Cơ cầu miên thế trạch Từ tảo bá phƣơng hinh Cơ cầu nối dài phúc trạch gia đình Văn chƣơng nức tiếng thơm khắp nơi
Thƣ hoạc kiêm song tuyệt Văn chƣơng chiến lƣỡng kinh Thƣ pháp và hội họa cả hai đều tuyệt giỏi Văn chƣơng lẫy lừng cả hai kinh
Tùy châu chung chiếu diệu Kinh ngọc khởi trầm minh Ngọc châu của Tùy hầu rốt cục lại rạng sáng Viên ngọc của đất Kinh há phải chìm trong u tối
Nhật nguyệt khai huyền vũ Vân lôi chúc thánh minh Mặt trời mặt trăng khai mở nơi tối tăm Sấm mây báo hiệu xuất hiện bậc thánh minh
Bằng phong đoàn tử tái Kình lăng bạt thƣơng minh Chim bằng đập cánh nơi biên ải bụi bay Sóng kình tung vọt ngoài biển biếc
Tƣ Mã đề kiều chí Chung quân kiến tiết hành Tƣ Mã Tƣơng Nhƣ tỏ chí ghi vào bên cầu Chung Quân dựng cờ tiết trong quân mà đi
Cận thao nhung trƣớng họa Sậu giả quận phù vinh Gần đây đƣợc nhận bức họa trong trƣớng quân Chợt có đƣợc sự vẻ vang của vị quan nắm quyền trong quận
Phát nhật dĩ thù chúng Sơ bình ứng kí danh Thao đao thí nhất cát Xe lên đƣờng đã khác với mọi ngƣời Cần ghi tên vào tấm bình phong thƣa Rút dao thử cắt một lần
Xuất cốc tối tiên minh Khứ nhật kim tiền tống Bay ra khỏi hang, là con chim cất tiếng hót trƣớc tiên Hôm qua mang tiền vàng đƣa tiễn
Lai thì trúc mã ngênh Vị hoàng sƣơng quất thục Lúc trở lại sẽ dùng ngựa tre để đón Ngả vàng, quất đã chín rồi
Tế vũ thổ hà sanh (sinh) Biệt lộ lâm thái thức Mƣa nhỏ thì giống rƣơi đất sinh sôi Xe chuyển bánh từ biệt lên đƣờng
Li diên thuộc Phƣợng thành Ngự bôi đa khiển quyển Tiệc đƣa tiễn ở thành Phƣợng Nâng chén nhiều lƣu luyến
Chấp thủ cánh bình doanh Ẩm giác Tham tuyền sảng Cầm tay lại sợ hãi. Biết uống nƣớc suối Tham thoải mái
Bần nghi hoạn thác khinh Hƣng triều tƣ trị lí Dẫu nghèo nhƣng túi quan vẫn nhẹ tênh Làm triều đình hƣng thịnh, cần nghĩ đến phép cai trị
Miễn hĩ đáp thăng bình. Gắng lên, để đáp lại thời thăng bình.
(Thơ văn Nguyễn Án – tr 138)
PL50
X. THƠ TỐNG BIỆT NGUYỄN HÀNH
(Thơ tống biệt Nguyễn Hành khảo sát trong cuốn: Nguyễn Hành, Minh quyên thi tập (2017), Nxb Nghệ An).
1. NGHĨ TIỄN MỖ QUAN PHỤNG BẮC SỨ/ PHỎNG LÀM THƠ TIỄN ÔNG QUAN VÂNG MỆNH ĐI SỨ PHƢƠNG BẮC
Kỳ nhất/ Bài 1
Quốc thể do lai trọng Văn từ thuộc sứ thần Miễn sƣ bình nhật học Vô thiểm ngã châu nhân Điển tịch trì tâm cựu Giang sơn phát hứng tân Tráng du kham bất hủ Kim ngã vọng hành trần Quốc thể xƣa nay là quan trọng Tôi có lời văn chúc cho sứ thần Gắng vận dụng những gì học đƣợc hằng ngày Để không làm nhục ngƣời nƣớc ta Sách vở kinh điển vận hành theo sở học từ xƣa cũ Nhờ đó non sông mới đƣợc phát dƣơng phồn thịnh Ý chí mạnh mẽ của kẻ đi xa có thể trƣờng tồn (bất hủ) Nay, ta trông ngóng bƣớc đƣờng gió bụi (của ông)
(Minh quyên thi tập - tr 122)
2. Kỳ nhị/ Bài 2
Ngài xuất thân là bậc trƣng sĩ (ẩn cƣ) Văn chƣơng có thể dốc hết sức mình Là vị quan Học chính ở ty Quảng Nam Vâng mệnh làm sứ thần ở Yên Kinh Mắt thấy đến Trung Nguyên (Trung Quốc) rộng lớn Thơ xem nƣớc ta mới mẻ Chộn rộn ôi ông lão của ta Nhân đó ông đã thông hiểu đƣờng đi sứ của mình
(Minh quyên thi tập - tr 123)
Ngô tử khởi trƣng sĩ Văn chƣơng năng trí thân Quảng Nam ty Học chánh Yên Bắc phụng bồi thần Nhân đáo trung nguyên khoát Thi khán ngã quốc tân Tê tê ngô lão hĩ Nhân tử dĩ tri tân
3. Kỳ tam/ Bài 3
Nhất cùng dữ nhất đạt Thống dƣỡng bất tƣơng quan Trực dĩ giao du cố Kiêm chi li biệt gian Chu niên kinh băng tuyết Viễn đạo lịch giang san Cảm vọng đề bào tặng Ngôn hoàn sứ tiết hoàn Một (ngƣời) ách tắc (cùng đƣờng) và một ngƣời thông suốt Đau ngứa chẳng hợp nhau Rõ ràng duyên cớ giao du (giữa ta và ông) Đã gồm thời gian chia ly cách biệt Suốt một năm ông trải qua băng tuyết Đƣờng xa tái trải vì non sông đất nƣớc Dám ngóng xa, đề tặng ông bài thơ lên áo viễn bào Lời thơ xong thì việc đi sứ cũng xong.
(Minh quyên thi tập - tr 125)
PL51
4. PHỤNG TIỄN CỬU THỊ NHƢ HÀNH CÔNG BẮC SỨ (HẠ THỌ LỄ)/ KÍNH TIỄN CẬU HỌ LÀ ÔNG NHƢ HÀNH ĐI SỨ PHƢƠNG BẮC (LỄ CHÚC THỌ CÀN LONG).
Thƣợng quốc bàn đào hoa chính khai Ngô bang bạch trĩ hiến trùng khôi Thân đăng ngọc bạch quần phƣơng hội Thủ triển văn chƣơng vạn lý tài Thịnh tiễn tức kim lâm Nhĩ thủy Hùng tâm tảo dĩ phó Yên đài Vi sinh dự hữu quan quang hội Thúc thị lai hoàn cữu thị lai.
Bông hoa đào tiên (mừng thọ) chính lúc này nở ở nƣớc ngƣời Nƣớc ta lại lấy chim sẻ trắng để cống nạp lần nữa Thân (cậu) đƣợc dự vào đoàn ngƣời đi sứ Tài năng văn chƣơng ở vạn dặm lại có dịp thi triển Buổi tiễn đƣa nay rộn rịp đến bến Nhĩ thủy (sông Hồng) Mạnh lòng sớm đến đƣợc Yên Kinh Kẻ hèn này đƣợc dự hội đi sứ Chú ta đi sứ đã về, thì cậu ta lại đi sứ đến Yên Kinh.
(Minh quyên thi tập - tr 344)
5. TIỄN ĐỒNG XUÂN PHƢỜNG MỖ NHÂN TÒNG VÃNG BẮC SỨ (Y ĐIỆT VI THÔNG NGÔN)/ TIỄN MỘT NGƢỜI Ở PHƢỜNG ĐỒNG XUÂN THEO CHUYẾN ĐI SỨ PHƢƠNG BẮC (CHÁU ẤY LÀ THÔNG NGÔN TRONG ĐOÀN)
Bất tài ngã phụ Thi tam bách Hào hứng quân khinh lộ bát thiên Vạn quốc củng cầu đƣơng thịnh hội Nhất môn thúc điệt hữu kỳ duyên Hoa trình phát nhẫn nhƣ kim nhật Xuân phố hàm bôi thị cách niên Tòng thử tƣơng tƣ ƣng Bắc vọng Tửu tinh thời bạng sứ tinh biên. Ta vì bất tài nên phụ việc học ba trăm thiên của Kinh Thi Lòng hào hứng, cháu xem nhẹ tám ngàn dặm đƣờng Vạn nƣớc trên địa cầu đang ở thời hƣng thịnh Chú cháu trong một nhà (đi sứ) thực là duyên kỳ lạ Đƣờng sứ sang Trung Hoa bắt đầu từ hôm nay Chứa chén rƣợu mừng xuân vào năm sau Gửi nỗi nhớ nhung theo cùng phƣơng Bắc xa xôi Chòm Tửu tinh ở bên cạnh chòm Sứ tinh.
(Minh quyên thi tập - tr 347)
6. HẢI DƢƠNG HIỆP TRẤN HÀ TÔN THAI NHẬP QUAN NHI LAI TIỆN ĐỌA TỈNH HƢƠNG ĐÁO THÀNH HỰU HUỆ CỐ LÂM ĐƢƠNG HỒI TRẤN KÍNH TIỄN DĨ THI/ QUAN HIỆP TRẤN HẢI DƢƠNG LÀ NGÀI (HỌ) HÀ TÔN VÀO ĐÂY XEM XÉT, LÖC VỀ TIỆN ĐƢỜNG DÒ HỎI CHUYỆN TỪ LÀNG CHO ĐẾN THÀNH (THĂNG LONG), LẠI TÌNH CẢM CHIẾU CÓ MÀ VÀO (THĂM NHÀ TÔI), LÖC NGÀI VỀ TRẤN, TÔI LẤY BÀI THƠ KÍNH TIỄN
Vọng nhật chiêm vân đạo lộ trƣờng Vƣơng thần kiển kiển tự khang trang Dĩ tƣơng phu tấu thần sơ chính Hoàn bả tƣ hoài triển cố hƣơng Tu mấn thử hồi khan nhuận trạch Bình bồng hữu hạnh phủ huy quang Hải Dƣơng ƣng kiến công lai hỵ Công dĩ hà lai úy Hải Dƣơng.
Đƣợc ngắm trời xem mây (thân gần thiên tử) trên đƣờng dài/ Bề tôi chịu mọi gian khó vì vua, vì nƣớc, tự thấy thoải mái/ Lấy (điều xem xét) dâng tấu lên vua rằng thần ngƣời mới vào chính lệnh/ Trở lại thì nắm giữ nỗi nhớ mong mà thăm quê xƣa/ Kẻ râu tóc (già cả) này về xem ân trạch (triều đình) thấm nhuần/ Phận bèo trôi (phù du) may mắn đƣợc yên ủi bằng cuộc đời tƣơi sáng/ Hải Dƣơng nên đƣợc thấy ngài vui hòa đến đó/ Ngài lấy điều gì mà đến úy lạo (động viên, yên ủi) đƣợc Hải Dƣơng.
(Minh quyên thi tập - tr 436)
PL52
7. TIỄN VÂN CANH PHẠM GIA LÂM CỐNG SĨ PHÓ PHÖ XUÂN KINH HỘI THI/ TIỄN ÔNG CỐNG SĨ PHẠM GIA LÂM Ở LÀNG VẤN CẠNH ĐẾN KINH ĐÔ DỰ KÌ THI HỘI
Kỳ nhất/ Bài 1
Ức tích Cảnh Hƣng Kỵ Hợi khoa Nam Hà Cống sĩ giai lai thí Nhi kim tứ thập hữu tứ niên Vãng phục chi gian hà tất dị Nhớ đến năm xƣa, vào khoa Kỵ Hợi đời Cảnh Hƣng Cống sĩ ở Nam Hà cùng đến đây (Thăng Long) thi cử Mà đến nay, qua bốn mƣơi bốn năm Lại trở về với không khí thi cử này, nào có khác gì
(Minh quyên thi tập - tr 481)
8. Kỳ nhị/ Bài 2
Thiên khai cảnh vận thuộc viêm ly Vũ công dĩ định văn tế chi Xuân kinh thí trƣờng nãi kim thủy Sở vị thiên tải nhi nhất thì Trời mở vận hội xán lạn (đất nƣớc thái hòa), thuộc quẻ Ly (hỏa)/ Võ công để yên định giang sơn, văn học để cứu giúp (đời sống)/ Trƣờng thi ở Kinh đô Phú Xuân bây giờ mới mở ra/ Gọi là cơ hội ngàn năm có một
(Minh quyên thi tập - tr 481)
9. Kỳ tam/ Bài 3
Hân hân phụng ngữ lai ứng cử Hành hỹ, thỉnh quân thính ngã ngữ Ngô nhân khoa đệ khởi đồ vinh Hành đạo tế thì tu tự hứa Mừng rỡ kính nói: đến Kinh đô ứng thi/ Khi đi, xin ông nghe lời nói của tôi/ Ngƣời nƣớc ta dùng khoa cử để mà vinh hiển đƣờng học vấn/ Nên việc thực hiện đạo lý cứu đời thì nên tự giữ gìn, vun bồi.
(Minh quyên thi tập - tr 481)
10. Kỳ tứ/ Bài 4
Tri quân văn học hữu kỳ tài Hảo vị thƣợng sinh trứ y lai Tảo vãn đại đình đƣơng đối sách Kỳ tƣơng hữu bổ thử thời tai. Nghe ông là bậc kỳ tài văn học Sống tốt vì muôn dân, ý tình thật tƣơi sáng Sớm tối nếu bàn luận kế sách (quốc sách) ở triều đình Hãy cùng bổ khuyết kế sách (cứu giúp dân) ngày nay.
(Minh quyên thi tập - tr 482)
XI. THƠ TỐNG BIỆT NGÔ THÌ LỮ
(Thơ tống biệt Ngô Thì Lữ khảo sát trong cuốn: Trần Thị Băng Thanh, Lại Văn Hùng (đồng chủ trì) (2010), Tuyển tập Ngô Gia văn phái (tập 2), Nxb Hà Nội, Hà Nội).
1. TỐNG BIỆT/TIỄN BIỆT
Phùng quân bi đình tiền Tống quân Nhuệ kiều dịch Hội tự vị tiếp tuần Phục tác đông tây khách Quy khứ phong trần lão Ƣu sầu mao mấn dịch Ngã diệc lộ đồ nhân Gặp bác trƣớc đình bia Tiễn bác tại dịch trạm bên cầu sông Nhuệ Gặp nhau, hàn huyên chƣa đầy một tuần Rồi lại làm khách tha hƣơng kẻ đông, ngƣời tây Trở về thì gió bụi đã khiến trở nên già Nỗi sầu lo làm mái tóc thay màu Ta cũng là ngƣời rong ruổi trên đƣờng
PL53
Thùy nhận sơn khê tích Phù sinh lữ cố hƣơng Sở cƣ huống u tịch Thủy thƣợng bình an chi Lung trung điểu tự thích Nguyện ngôn chấp tử khƣ Thứ dĩ vĩnh kim tịch Ai nhận ra dấn vết nơi núi khe Cuộc đời nổi nênh làm lữ khách ngay trên quê cũ Hơn nữa, nơi ta ở lại là chốn u tịch Cánh bèo đã yên phận trên mặt nƣớc Chim kia cũng tự thích nghi với cuộc sống trong lồng Tôi muốn cầm tay áo bác Mong sao kéo dài mãi đêm nay
(Tuyển tập Ngô Gia văn phái (tập 2) – tr 486)
2. HỰU TỐNG Y QUAN ĐĂNG TRÌNH/LẠI TIỄN VỊ QUAN ẤY LÊN ĐƢỜNG
Chi từ phƣợng khuyết phát Long thành Tập tập thời huân hộ sứ tinh Chỉ xích thiên nhan khâm thái chiếu Cửu thiên địa diện sấn hoa trình Tằng tranh chính bảng ƣng cao tuyển Trực hứa Trung châu thức đại danh Mai tấn tảo toàn tƣ độ bí Thai sơn hoa thạch tối phân minh Từ biệt cửa phƣợng, xuất phát từ thành Thăng Long, Gió ấm áp phơ phất hộ vệ cờ sứ. Chỉ cách thiên nhan (vua) trong gang tấc, nhận chiếu chỉ, Dấn bƣớc trên con đƣờng đi sứ dƣới trời đất rộng lớn. Từng trang chính bảng, xứng đáng đƣợc tuyển chức cao, Lại khiến cho ngƣởi ở Trung châu biết đƣợc đại danh Tin xuân sớm về, hãy hỏi ngƣời cầm cƣơng ngựa, Hoa, đá trên núi Thiên Thai rực rỡ ràng.
(Tuyển tập Ngô Gia văn phái (tập 2) - tr 497)
3. TỐNG ĐƢƠNG TRUNG HẦU/TIỄN DƢƠNG TRUNG HẦU
Xƣ lịch vô tài quý thử sinh Hoạch bồi chi vũ bội tri vinh Chu toàn hứa cửu liên đồng bệnh Li tụ nhƣ kim cảm dị tình Phiếu miểu minh hồng vân cộng viễn, Bồi hồi khách xá nguyệt cô minh Bất kham sậu xƣớng Dƣơng quan khúc, Triều lạc giang thôn tửu thƣợng tinh
Ta nhƣ cây xƣ, cây lịch vô dụng, hổ thẹn cho kiếp này Đƣợc bồi tiếp bạn chi lan thực bội phần vinh hạnh Lâu nay sống quẩn quanh thấy thƣơng ngƣời đồng bệnh Sự chia ly đoàn tụ nhƣ ngày nay, cảm thấy tình ngƣời khác lạ. Mờ mịt cánh chim hồng theo mây cùng bay về phƣơng xa, Thẩn thơ nơi quán trọ, trăng sáng lẻ loi Chẳng đành vội hát khúc Dƣơng quan Thôn bên sông nƣớc thủy triều đã rút mà ta vẫn chƣa say. (Tuyển tập Ngô Gia văn phái (tập 2) – tr 505)
XII. THƠ TỐNG BIỆT LÝ VĂN PHỨC (1785 – 1849)
(Thơ tống biệt Lý Văn Phức khảo sát trong cuốn: Bản dịch Mân hành thi thoại tập, Luận án tiến sĩ ngữ văn của Phan Thị Thu Hiền, ĐHKHXH&NV, Đại học quốc gia Hà Nội).
1. CHU HÀNH TỐNG NẠN VIÊN TRẦN KHẢI (tịnh dẫn)/THUYỀN TIỄN QUAN VIÊN TRẦN KHẢI BỊ NẠN
Hanh đồ sơ tự thành quân xuất Thất lộ phiên tòng vọng quốc du Quân tử hữu cùng ƣng đại thụ Hoàng ân nhất thị thẩn Nho lƣu Tiền đồ hanh thông ban đầu đều do tự mình mà nên Lạc đƣờng, đi theo trên chuyến đi mong trở về nƣớc Ngƣời quân tử khi khốn khó nhận đƣợc lớn Ân vua ban khắp. huống hồ đối với ngƣời thuộc dòng Nho
PL54
Bố phàm phong quải tình thiên nguyệt Ly cúc hoa nghênh cựu kính thu Tằng ký Mân trung đa thắng tích Khả năng chỉ điểm khoát song mâu Buồm vải gió treo trăng trời tạnh Khóm cúc ngày chia biệt đón mùa thu trên lối cũ Từng nhớ đất Mân nhiều thắng tích Có thể trỏ điểm (cho tôi để) mở rộng hai con mắt (đƣợc chăng?).
(Bản dịch Mân hành thi thoại tập - tr 187)
2. TẶNG BIỆT HỨA THIẾU NGẠC TƢ MÃ/TẶNG BIỆT HỨA THIẾU NGẠC TƢ MÃ
Khách tứ cao môn quan học trị Quán ngân thanh thự diệc minh cầm Đông hồi noãn nhật xuân nhƣ diện Nguyệt ấn trừng giang thủy tự tâm Bôi tửu bất kham ngâm biệt khúc Viên hoan do giác tập trần khâm Quy phàm vô dạng thời quan hải Tống ngã tình ƣ thiên xích thâm Xe ngựa khách đến chốn cao môn xem xét nhà học Buộc bạc vào chốn công sở thanh cao cũng giống nhƣ gảy đàn Mùa đông níu kéo ngày ấm áp, mùa xuân nhƣ trƣớc mắt Trăng in trên dòng sông tĩnh lặng, mặt nnƣớc tựa tấm lòng (Cầm) chén rƣợu chẳng nỡ ngâm lên khúc ca ly biệt Chốn hoa viên còn biết bụi bặm vƣơng vất trong tà áo Khi cánh buồm trở về bình an mới ngắm nhìn biển Tiễn đƣa tình cảm của tôi đến tận nghhìn thƣớc sâu.
(Bản dịch Mân hành thi thoại tập - tr 263)
XIII. THƠ TỐNG BIỆT ĐOÀN NGUYỄN TUẤN
(Thơ tống biệt Đoàn Nguyễn Tuấn khảo sát trong cuốn: Thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn (1982) - Hải ông thi tập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội).
1. KỈ MÙI TRỌNG HẠ Y NGUYÊN VẬN TIỄN NGỰ QUAN NAM HOÀN/ THÁNG NĂM NĂM KỈ MÙI ) 1799 THEO NGUYÊN VẦN TIỄN QUAN NGỰ VỀ NAM
Kỳ nhất/ Bài 1
Dao dao chinh phái quá trùng san Hoàng lộ nguyên lai tích nhật nan Ngã hậu tằng kinh tam tuế mặc Ngô thôn cùng thiết bách niên nhàn Bích lâm bút nghiễn qua tòng nhật Mã thiệp yên ba khứ tựu gian Tích Viện tri giao bằng ký ngữ Cố viên si mã cách thu hoàn Vời vợi cờ đi vƣợt bao núi non Đƣờng vua vốn xƣa lắm nỗi gian nan Vua ta đã từng ba năm lặng lẽ qua đây Thân tôi những muốn trăm tuổi an nhàn Những ngày qua lại, lũy in nghiên bút Trong chốn đi về, ngựa vƣợt sóng mây Nhờ nhắn bạn thân tại nơi Viện cũ Thu sau, ngựa dại sẽ về vƣờn xƣa
(Thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn - Tr 147)
2. Kỳ nhị/ Bài2
Mạn vẫn trần khuyên dịch tính chân? Niên niên cô phụ cố viên xuân Cuồng phong xuy mộng lâm ngụy bộ Mộ cảnh khu cầu phạt bệnh thân Thái đƣợc kế trì hƣ Đạo quả Vòng trần sau cứ sai khiến chân tính Hằng năm đành phụ xuân ở vƣờn xƣa Gió điên cuồng thổi giấc mộng đến bƣớc nguy nan Cảnh chiều tối xua nỗi buồn hành hạ thân ốm Hái thuốc kế đã muộn, khiến quả Đạo thành suông
PL55
Đại canh mƣu chuyết quí Nho thân Quy lai nhất trạo tầm tam kính Tằng phủ yên hoa nhận chủ nhân? Thay cày mƣu còn vụng, để đai Nho thêm thẹn Một chèo trở về tìm ba luống cúc Hoa khói còn nhận ra chủ cũ không?
(Thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn - Tr 149)
3. TIỄN VŨ THỊ LANG BẮC SỨ/ TIỄN QUAN THỊ LANG HỌ VŨ SANG SỨ TRUNG QUỐC
Hựu phỏng anh du ngũ quốc thành Quan hà biến nhận Vũ gia tinh Tầm thƣờng lữ phỉ xu đình học Trịnh trọng ly bôi bả duệ tình Đế sở tinh thần du lĩnh cận Thần châu phong vật nhập thu minh Long châu nhƣợc khởi lân bang vấn Thi khái đô kham vạn lý hành Lại đƣợc ngao du thăm thành năm nƣớc Khắp cả non sông quen cờ họ Vũ Rƣơng khách bình thƣờng, học lời bố dạy Chén đƣa trang trọng tình bạn vấn vƣơng Tòa sao vua Ngự qua núi sẽ gần Cảnh vật Thần châu, thu sang thêm tỏ Ngựa rồng nếu đƣợc nƣớc láng giếng hỏi tới Thì vẻ thơ cũng kham nổi muôn dặm đƣờng trƣờng.
(Thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn - Tr 151)
4. ĐẠI QUỲNH CÔI TIỄN CHIÊU VIỄN TƢỚNG QUÂN CHÁNH SỨ/ SOẠN THAY HUYỆN QUỲNH CÔI TIỄN QUAN CHIÊU VIỄN TƢỚNG QUÂN SUNG CHỨC CHÁNH SỨ
Kim đài thử độ lảo xu Yên Thập tải phong vân kết hảo duyên Lân các dĩ minh tân thiết khoán Nhân trình trùng sách cựu nhung yên Cẩm nang quát tận tam hà thach Ngọc tiết xung khai vạn lĩnh yên Thao thiết phân vinh tuyền chẩn nhật Huân trì vận lý bái vu diên. Dịp này sớm đƣợc trẩy sang đài vàng nƣớc Yên/ Mƣời năm hội ngộ gió mây, kết cuộc nhân duyên tốt đẹp/ Trong gác Kỳ Lân đã khắc lời khoán sắt mới/ Trên đƣờng ngựa nhân lại dong cỗ nhung yên cũ/ Chiếc túi gấm thu cả cảnh đẹp của đá vùng tam hà/ Phù tiết ngọc mở toang làn khói trên muôn đồi núi/ Ngày xe sứ trở về, may cũng chia phần vinh dự/ Trong cuộc huân trì, hòa nhịp, sẽ đƣợc lạy mừng trong bữa tiệc.
(Thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn - Tr 173)
XIV. THƠ TỐNG BIỆT TRƢƠNG ĐĂNG QUẾ
(Thơ tống biệt Trƣơng Đăng Quế khảo sát trong cuốn: Thơ Trƣơng Đăng Quế (Trƣơng Quảng Khê tiên sinh tập) (2007), Lê Sơn Phƣơng Ngọc biên dịch, Nxb Phƣơng Đông).
1. QUÁ CỐ NHÂN LÂM BIỆT ĐỀ TẶNG/TẶNG CỐ NHÂN KHI TỪ BIỆT
Năm ngoái ta tạm biệt Buồn biết mấy bạn ơi ! Năm nay ta gặp lại Mừng nói chẳng thành lời Gió lùa ngoài song cửa Đừng vội đi gió ơi !
(Thơ Trƣơng Đăng Quế - tr 37)
Khứ niên dĩ quân biệt Sầu trung sinh vạn tự Kim niên canh phùng quân Đáo đắc vô nhất ngữ Hộ ngoại thanh phong lai Tri trù độc duyên trữ
PL56
2. TỐNG HỮU NHÂN CHI BẮC THÀNH ĐÍNH DĨ KINH ĐÔ TƢƠNG HỘI/TIỄN BẠN Ở BẮC THÀNH, HẸN NHAU GẶP LẠI TẠI KINH ĐÔ
Ƣớc hữu đồng chu khứ Nhi quân kim lục hành Trình đồ thùy dữ bạn Bạt thiệp thả cô chinh Tƣ dữ sơn vân hợp Sầu tùy hải nguyệt sinh Kinh thành tƣơng bội xứ Câu thị khách trung tình
Hẹn nhau cùng đi thuyền Nay bác theo đƣờng bộ Hành trình thiếu bầu bạn Lênh đênh tôi một mình Thƣơng mây treo đỉnh núi Biển buồn khi trăng lên Hẹn bác kinh thành đấy Ra bác cũng mình ên (Thơ Trƣơng Đăng Quế - tr 39)
3. TỐNG LÝ QUÂN LÂN CHÍ HIỆP LÝ QUẢNG NGHĨA/TIỄN ÔNG LÝ LÂN CHI VỀ LÀM HIỆP LÝ QUẢNG NGÃI
Trông vời quê cũ dạ bồi hồi Mũ lọng dập diều xem cũng tƣơi Cai trị giỏi giang, tài hợp cảnh Bình an vô sự, gởi anh tôi Dân phong thuần hậu xƣa nay vậy Ngay thẳng đừng lo tệ đãi bôi ở Bộ đã lâu rành chính sự Nay ông về tỉnh quá hay rồi!
Cố hƣơng hồi vọng bất thăng tình Tạo cái dao lâm dự hữu vinh Cán biện hữu tài truyền hạp cảnh Bình sanh ngô dạng ký ngô huynh Hoàn thuần tự thị dân phong tại Lý chánh hà ƣu lại tệ sanh Tùng bộ kỵ chu ám chánh vụ Tri quân đáo xứ trƣớc năng thanh (Thơ Trƣơng Đăng Quế - tr 88)
4. TỐNG BÙI GIẢI NGUYÊN VĂN LÝ TỂ MỘ ĐỨC/TIỄN ÔNG GIẢI NGUYÊN BÙI VĂN LÝ VỀ NHẬM CHỨC TRI HUYỆN MỘ ĐỨC
Chững chạc đƣờng mây thuận mọi bề Bốn mƣơi tham chính vừng tay nghề Tranh khôi đoạt giáp, nghìn ngƣời thắng Lãnh chức làm quan, trăm dặm nghe Mẹ yếu, ông còn lo phụng dƣỡng Nhà tôi, huyện ấy cũng nằm kề Tiễn ông về đó, nôn nao lắm Bao nỗi u hoài thƣơng nhớ quê.
Bình bộ thanh vân ổn thƣợng thiên Khán quan tứ thập kỵ sĩ cƣơng niên Tranh khôi đoạt giáp thiên nhân tuấn Thọ chính lâm dân bách lý quyền Lão mẫu cao đƣờng do đãi dƣỡng Ngô gia thuộc huyện thử tƣơng liên Tống quan thứ khứ hoàn tăng cảm Tang tử quan tình bội trƣớng nhiên (tình cảm quê hƣơng) (Thơ Trƣơng Đăng Quế - tr 91)
5. TỐNG NGOẠI SINH BÙI HỮU NGHỊ HOÀN HƢƠNG/TIỄN CHÁU BÙI HỮU NGHỊ VỀ QUÊ (CHÁU GỌI BẰNG CẬU)
Thu phong tạc dạ lãnh xâm y Trù trƣớng lâm kỳ tống nhữ quy Thiên lý khách hoài thƣơng độc tự Gió thu lạnh lẽo suốt đêm qua Buồn bã nay đƣa cháu lại nhà Ngàn dặm xa quê, thân phận cậu
PL57
Bách niên nhân sự thán đa vi Cố viên tân trủng mai ngô muội Lữ quán tàn đăng mãn đế kỳ Ký tạ thân tình hƣu động vấn Thƣơng tâm vô ngữ đối tà huy Trăm năm cuộc sống, kiếp ngƣời ta Vƣờn xƣa mộ mới, em cô độc Quán trọ kinh kỳ, anh xót xa Chớ nói năng chi khi tiễn biệt Đau lòng đứng lặng giữa chiều xa.
(Thơ Trƣơng Đăng Quế - tr 93)
6. TỐNG CỐ NHÂN HOÀN LÝ/TIỄN CỐ NHÂN VỀ QUÊ
Thu tứ bức sầu khách Hàm tình tống tử quy Khả lân tƣơng tống xứ Giang thụ viễn y y Thiên hải khan nhƣ tiếp Phàm tƣờng vọng dĩ vi Vô nhân sanh vũ hàn Nhiễu hƣớng cố viên phi Vào thu cảnh buồn thật ! Nén lòng đƣa tiễn đây Nơi nầy dễ thƣơng quá Bên sông cây mọc đầy Biển tiếp trời trải rộng Cánh buồm nhƣ nhỏ đi Ƣớc gì mọc đôi cánh Bay về quê tức thì
(Thơ Trƣơng Đăng Quế - tr 105)
7. TỐNG NGHỆ AN THAM HIỆP HOÀNG QUÂN VĂN TÖ/TIỄN HOÀNG VĂN TÖ ĐI NHẬN CHỨC THAM HIỆP Ở NGHỆ AN
Chớ cho khí khái kém Hà Đông Chức phó cần ngƣời cứng tợ ông Ngay thẳng ngày nay xem vẫn hiếm Hoan châu nổi tiếng xứ chơi ngông Hoàn Phù chƣa hết bao dƣ đảng Bột Hải làm sao gấp lập công Đủ thấy tiền đồ gay cấn đấy Chúc ông công tác đƣợc hanh thông
Hƣu tƣơng sứ khí thiểu Hà Đông Cụ phó cƣơng trƣờng huýnh bất đồng Kim thế kỵ nhân sanh dã trực Hoan châu tự cổ trấn di hùng Hoàn phù thƣợng vị tiêu dƣ tập Bột hải tri phi cấp cận công Thả khán tiên đồ tam phục nhật Bằng quân nhất lộ phiến huân phong (Thơ Trƣơng Đăng Quế - tr 130)
8. TIỄN TRẤN TÂY KINH LƢỢC SỨ LÊ VĂN ĐỨC/TIỄN LÊ VĂN ĐỨC ĐI KINH LƢỢC TRẤN TÂY THÀNH
Vân trung súy mộ tích uy dƣơng Chân Lạp điền công phục thế thƣờng Phẩm vọng xƣớc ƣu cƣ Các bộ Công danh đa bán thuộc cƣơng trƣờng Bách niên man tục ngung tân hóa Nhất lộ tiên nguyên nhận cố hƣơng Nam Bắc kỵ hồi thân lịch biến Đồng văn thanh giáo bí hà phƣơng Công lao lừng lẫy đất Vân Trung Chân Lạp an dân việc cũng thƣờng Phẩm vọng xứng vai đầu Nội các Công danh phần lớn việc biên cƣơng Suốt đời phát triển bao phong tục Bền dạ hằng trông một cố hƣơng Nam Bắc đi về không biết mỏi Đem thanh giáo tới tận muôn phƣơng.
(Thơ Trƣơng Đăng Quế - tr150)
PL58
9. TỐNG TRẦN BÁ LƢỢNG CHI TÂN BÌNH/TIỄN TRẦN BÁ LƢỢNG ĐI TÂN BÌNH
Giai thắng Nam trung phủ Tân Bình chúng sở suy Sĩ phong đa thƣợng khí Ngô tử tố danh thi Tài tảo phùng kim nhật Xa đồ dị tích thì Bất lao tam điệp xƣớng Đáo xứ hữu tƣơng tri Nam Trung đâu tuyệt nhất Tân Bình ai cũng khen Sĩ phong đầy hào khí Con em tài thơ văn Nay may gặp ngày đẹp Cảnh tƣợng khác xƣa nhiều Chẳng phải tốn công kiếm Đến đấy có bạn hiền.
(Thơ Trƣơng Đăng Quế - tr154)
10. TẶNG THỰ CÔNG BỘ THƢỢNG THƢ BÙI ĐOÀN TRÍ SĨ/TẶNG QUAN THƢỢNG THƢ BỘ CÔNG BÙI ĐOÀN VỀ HƢU
Thế đồ hội dĩ bão nan tân Tam truất hà kiêm khuất phục thân Thao túng nhất sanh năng dụng chuyết Lịch dƣơng trấp tải thiện cƣ bần Thân tùy cựu bệnh giai qui lão Hoạn đái hoàn danh liễu túc nhân Dục học vụ năng thâm khởi tiện Hành tàng vị khả luận tƣ nhân Đƣờng đời từng gánh lắm gian nan Phải chịu ba lần giáng chức quan Lên xuống cả đời, đành sống nhún Nổi trôi suốt kiếp, chịu cƣ bần Mình mang bệnh nặng nên hƣu trí Chức phận lo tròn nhẹ tấm thân Muốn bƣớc theo ông chƣa thể đƣợc ở, về đâu phải chuyện dễ bàn.
(Thơ Trƣơng Đăng Quế - tr294)
11. TẶNG SƠN HƢNG TUYÊN TỔNG ĐỐC NGỤY THIỆN PHỦ/TẶNG NGỤY THIỆN PHỦ TỔNG ĐỐC SƠN HƢNG TUYÊN
Đấu xảo tranh kỳ thuộc đẳng nhàn Phùng quân thanh nhãn biệt tƣơng khan Thi tài tuyển vĩnh truy Ma Cật Thể độ ôn hòa cận Tạ An Trùng khổn trách thành tam quận ký Bao chƣơng phi hạ ngũ vân đoan Luận giao cộng tế thăng bình hội Bất thị tầm thƣờng văn tự quan Khoe tốt, tranh hay chuyện thế gian Biết nhau tôi bác mắt đều xanh Ý thơ sâu lắng nhƣ Ma Cật Phong độ ôn hòa giống Tạ An Tin tƣởng vua giao ba tỉnh ấy Điềm lành trời báo ngũ vân đoan Cùng nhau góp sức xây cơ nghiệp Chẳng phải loanh quanh thơ với văn.
(Thơ Trƣơng Đăng Quế - tr 298)
12. PHỤNG TỐNG PHÕNG SƢ NGUYỄN THẬN TRAI TIÊN SINH XUẤT TRẤN QUẢNG NAM/TIỄN CHÂN THẦY NGUYỄN THẬN TRAI ĐI TRẤN NHẬM QUẢNG NAM
Tòa chủ môn sinh cửu kiến chi Du tràng xuất trấn chánh kham ti Phù dung kết thái lâm giai phát Dƣơng liễu thành âm giáp đạo thùy Vẫn nhớ xƣa thầy chủ khảo thi Ngày nay ra trấn có xa chi Phù dung nở trắng tƣơi cung điện Dƣơng liễu xòa che mát lối đi
PL59
Niệm tại tề dân phƣơng cấp cấp Tâm hoài nguy khuyết cố trì trì Hành trần vọng nhập vân quan lộ Cảm kích trƣờng ngâm mộc hữu chi Nặng nỗi việc dân nên nóng ruột Luyến lƣu kinh khuyết hóa trù trì Hải Vân, đèo lớn thiên nhiên đẹp Cảm xúc ngâm bài “Mộc hữu chi”
(Thơ Trƣơng Đăng Quế - tr 302)
13. TỐNG NGUYỄN TÌNH PHONG THAM HIỆP NINH BÌNH/TIỄN ÔNG NGUYỄN TÌNH PHONG ĐI NHẬM CHỨC THAM HIỆP NINH BÌNH
Đạo bình lƣu tán sơ chiêu phục Hà quyết cơ hoang hựu tiến lai Cửu bệ phƣơng thâm cần tuất niệm Nhất phƣơng chánh tịch phũ tuy tài Kiên ty vãng sự hà tu vấn Cao huyết tàn manh thực khả ai Trân trọng tặng quân há xa nhật Miễn tƣơng thù chánh nhị thiên tai Vừa xong đảng giặc dân khôi phục Đê vỡ càng gây khổ mấy lần Cửu bệ nhìn xa, luôn tƣởng đến Một vùng cai quản, giỏi an dân Những gì đã cũ không nên nhắc Công tác chăm lo lại rất cần Trân trọng chúc ông khi đến đó Mọi bề thuận lợi việc canh tân.
(Thơ Trƣơng Đăng Quế - tr 306)
14. TIỄN NHƢ THANH CHÁNH SỨ HOÀNG VĂN ĐẢN/TIỄN HOÀNG VĂN ĐẢN ĐI SỨ NHÀ THANH
Nhị nguyệt mai quan động hiểu già Yên Đài trƣợng tiết giá diêu xa Khuyết đình tế tế sâm vƣơng hội Nguyên thấp hoàng hoàng ủng sử hoa Vạn lý quan quang ƣng hữ phận Tứ phƣơng chuyên đối thị đƣơng gia Ngã triêu lập quốc trùng kim thủy Văn vật ý quan bản túc khoa Hai tháng nằm chờ chốn ải quan Yên Đài nghi vệ mới thênh thang Sân chầu rộn rịp vua quan tiễn Cảnh vật nôn nao đón sứ thần Ngàn dặm cố công thân khảo sát Một mình gắng sức, trí cân phân Nƣớc ta tử thuở riêng bờ cõi Văn vật y quan hoàn chỉnh dần
(Thơ Trƣơng Đăng Quế - tr308)
15. TIỄN NHƢ THANH GIÁP SỨ TRƢƠNG BẢO CHI/TIỄN ÔNG TRƢƠNG BẢO CHI ĐI SỨ NHÀ THANH
Tao nhã Trƣơng quân chánh diệu niên Hoa trình cừu mã khứ phiên phiên Phong thanh sứ thác thi tam bách Nhật áng diêu xa lộ cửu thiên Nhân vật phồn đô thƣ khoái nhãn Sơn xuyên danh thắng trƣớc ngâm tiên Tùng lai ngã quốc xƣng văn hiến Nông Nại tằng kinh chúng khẩu truyền Nho nhã nhƣ ông đang sức xuân Sứ trình cừu mã cứ phăng phăng Thơ Đƣờng sành sỏi ba trăm tựa Mƣa nắng xông pha đủ chín ngàn Nhân vật đông vầy xem mãn nhãn Núi sông danh thắng, vịnh thả giàn Nƣớc ta tử thuở xƣng văn hiến Nông Nại từng lƣu tiếng thế gian
(Thơ Trƣơng Đăng Quế - tr 310)
PL60
16. TỖNG DOÃN VĂN XUÂN THAM HIỆP CAO BẰNG/TIỄN ÔNG ĐAONF VĂN XUÂN NHẬM CHỨC TAM HIỆP CAO BẰNG
Bình sinh nào biết nịnh xu gì Tƣ cách nhƣ ông đáng phát huy Thái học tám năm cùng giảng dạy Biên cƣơng một cõi chỉ ông đi Vờn trông đất bắc nhiều danh thắng Than thở trời nam vắng cố tri Ruổi ngựa thành cao khi ngoảnh lại Nhớ ông, ông nhớ, nhơ thƣơng chi?
Binh sinh bất giải tác du từ Nhã độ nhƣ quân tố sở suy Giảng tịch bát chu tằng cộng sự Dƣơng quan Tam điệp ám thƣơng ly Dao khan bắc khứ đa tân thú Tự thán nam lai thiểu cố tri Mục mã thành cao hồi thủ vọng Quân ƣng ức ngã ức quân thì (Thơ Trƣơng Đăng Quế - tr 312)
17. TỬU HÀM TỐNG BIỆT/CHUỐC CHÉN TIỄN BẠN
Thuở làm việc cùng ông Riêng ta hiểu ông nhất Nay tiễn ông lên đƣờng Tặng ông khúc đàn cầm Đàn khúc ca Thƣơng ly Tiếng đàn nghe sầu bi Bạn tƣơng tri ngày ấy Quý tấm lòng tƣơng tri
(Thơ Trƣơng Đăng Quế - tr 344) Tích dĩ quân đồng sự Tri quân ngã độc thâm Kim đƣơng tống quân hành Vị khởi đàn minh cầm Đàn thành thƣơng lý ca Gian dĩ kích liệt âm Cổ chi tƣơng tri nhân Quá kỳ tƣơng tri tâm
18. TỐNG KINH BẮC CỬ NHÂN VŨ QUYỀN CHI HUYỆN VỊ, KIÊM THỊ HÀN LÂM NGUYỄN BIÊN TU BÁ ĐĨNH ĐỒNG NIÊN/TIỄN CỬ NHÂN VŨ QUYỀN XỨ KIH BẮC
Kinh Bắc, nhiều nhân kiệt Nhà bác lắm tuấn anh Trong cự tộc đƣơng đại Hơn nửa chiếm khoa danh Lữ để, ta sơ ngộ Ly đình, tôi tiễn hành Chuyển lời thăm Bá Đỉnh Tiền đồ đƣợc thông hanh
Kinh Bắc đa tài địa Quân gia sản tuấn anh Đƣơng thời suy cự tộc Thái bán thị khoa danh Lữ để sơ tƣơng ngộ Ly đình hựu tống hành Nhân chi báo Bá Đỉnh Câu khả ái tiền trình (Thơ Trƣơng Đăng Quế - tr 358)
19. TỐNG NGUYỄN TÌNH PHONG KIỂM SỰ CHI BẮC THÀNH/TIỄN ÔNG KIỂM SỰ NGUYỄN TÌNH PHONG ĐI BẮC THÀNH
Văn chƣơng phùng thạnh thế Tri ngộ mộc ân ba Các vọng thành sơ chí Văn chƣơng khí mạnh thế Tri ngộ gội sóng trào Chép sơ mọi mong ƣớc
PL61
Tƣơng vọng tình biệt ca Nhân sinh tri kỵ thiểu Tuế mộ sử tình đa Quân khan thao thao giả Kỳ nhƣ cổ đạo hà? Gì hơn thú nghêu ngao Đời mấy ai tri kỵ Năm hết lòng nao nao Bác xem, ngƣời đông vậy Giống đạo xƣa đâu nào
(Thơ Trƣơng Đăng Quế - tr 360)
20. TIỄN THƢƠNG SƠN CÔNG QUY BIỆT NGHIỆP/TIỄN THƢƠNG SƠN CÔNG
Bách hạnh cƣ quan Cung đình hóa sở tiên Đầu văn dinh biệt nghiệp Tựu dƣỡng úy cao niên Đạo học chiêm kỳ úc Ca thi tiếp võng xuyên Hữu hoài ƣng bất mị Trƣờng tung Hiếu kinh thiên Đức hạnh bá quan biết Cung đình lại ƣu tiên Ủy thác dinh biệt nghiệp An dƣỡng lúc cao niên Đạo học nhƣ nƣớc chảy Thi ca tiếp thánh hiền Nhớ nhiều nhƣng chẳng mộng Xƣng tụng Hiếu kinh thiên.
(Thơ Trƣơng Đăng Quế - tr 408)
XV. THƠ TỐNG BIỆT CHÍ ĐÌNH NGUYỄN VĂN LÝ
(Thơ tống biệt Chí Đình Nguyễn Văn Lý khảo sát trong 2 cuốn: Chí Đình Nguyễn Văn Lý (2015), Tổng tập thơ văn, tập 1, tập 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội).
1. TỐNG NHƢ YÊN BỒI THẦN NGUYỄN CHIẾU LÊ QUANG/ TIỄN VỊ BỒI THẦN ĐOÀN SỨ SANG YÊN KINH NGUYỄN CHIẾU LÊ QUANG
Tích lịch sơ thu vũ lộ đàm Phƣợng Hoàng trì bạn tống chinh tham Nam nhi vi sứ vinh kim tích Vũ trụ kỳ quan hợp Bắc Nam Lãng Bạc yên hoa xuân dục bán Động Đình vân thủy nguyệt cƣ tam Cố gia hàn mặc lƣu đề quá Tứ mẫu giang sơn khứ khứ am
Sấm sét vừa dứt mƣa móc đã thấm nhuần Bên ao Phƣợng Hoàng tiễn đƣa ngƣời lên ngựa Kẻ nam nhi đi sứ, từ xƣa đến nay là vẻ vang Những kỳ quan vũ trụ cả ở Nam và Bắc, sẽ đƣợc xem khắp Khói hoa trên hồ Lãng Bạc, mùa xuân đã qua gần nửa Mây nƣớc trên hồ Động Đình, đã vào tháng ba rồi Những nơi các bậc đại bút đã đề vịnh qua Xe tứ mã đi mãi đã quen cả núi sông (Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1 – tr 148).
2. PHỤNG BỐ THUẬN AN THÁI THÚ DỮ NIÊN HUYNH CAM LỘ TRI PHỦ PHẠM NGHĨA KHÊ ĐỒNG NHẬT CHI TRỊ QUẢNG TRỊ DẠ TÚC TỰ BIỆT/ VÂNG MỆNH BỔ CHỨC THÁI THÚ THUẬN AN, CÙNG BẠN ĐỒNG NIÊN LÀ TRI PHỦ PHẠM NGHĨA KHÊ, CÙNG NGÀY ĐẾN NHIỆM SỞ, ĐÊM NGHỈ LẠI Ở QUẢNG TRỊ, TỪ BIỆT
Phân thủ Hãn giang dạ nguyệt thiên Bồi hồi kỳ lộ ức ngô niên Hoàng đƣờng cận tiếp Trƣờng An nhật Chia tay bên sông Hãn một đêm trăng Bồi hồi trƣớc ngả đƣờng rẽ, nhớ bạn đồng niên Dinh tri phủ đƣợc gần mặt trời Trƣờng An
PL62
Chích mã dao lâm Bắc tái yên Hành chỉ khởi tri đồng nhất bảng Tao phùng ƣng hữu phó kim duyên Bất tri tƣơng dữ khu xa khứ Dã đáo sơn biên đáo hải biên Một mình một ngựa sẽ đến ải Bắc xa xôi mây khói Ra làm quan hay nghỉ, há biết lại cùng một bảng Sự gặp gỡ đành phó mặc cho cái duyên ngày nay Chẳng biết rằng ngƣời cùng ruổi xa ra đi Lại ngƣời đến chân núi, ngƣời đến ven biển. (Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1 – tr 158)
3. LỄ BỘ LANG TRUNG DƢƠNG ĐÌNH NGÔ TRỌNG PHU BÃI QUY, XUÂN NHẬT PHÚ BIỆT/ LANG TRUNG BỘ LỄ DƢƠNG ĐÌNH NGÔ TRỌNG PHU BÃI NHIỆM VỀ QUÊ, NGÀY XUÂN TIỄN BIỆT
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1 – tr 194)
Hƣơng Giang xuân sắc nhất chi mai Biệt khứ quan hà tửu bán phôi Thƣợng uyển hoa minh oanh ngữ hoạt Hành Dƣơng xuân đáo nhạn phi hồi Cúc tùng cựu kính nhƣ tƣơng ƣớc Đào lý phƣơng viên bất yếm khai Lập thế văn chƣơng tòng tĩnh đắc Thiên sinh tƣơng hữu dụng ngô tài Sắc xuân ở Hƣơng Giang, một nhành mai nở Ngƣời đi xa cách quan hà, lƣng chén rƣợu nhạt tiễn đƣa Vƣờn Thƣợng uyển hoa tƣơi, chim oanh hót líu lo Núi Hành Dƣơng xuân đến, chim nhạn bay về Cúc tùng luống cũ nhƣ từng hẹn Đào lý vƣờn thơm nở rỡ ràng Lập thân trên đời bằng văn chƣơng, theo cảnh tĩnh thì đƣợc Trời sinh ta ắt sẽ có chỗ dùng cái tài của ta.
4. CAO CHU THẦN BẤT NHẬP HỘI THI QUY, THƢ TỐNG/ CAO CHU THẦN KHÔNG DỰ THI HỘI TRỞ VỀ, LÀM THƠ TIỄN
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1 – tr 220)
Nhân sinh hành chỉ tống tùy duyên Hối cát nan khuy Dịch lí huyền Khả thị ba đào hoàn thiệp thế Khởi vô văn tự sạ hồi thiên Hoành Sơn minh nguyệt không thiên lí Quế Lĩnh thanh phong đãi thiếu niên Hốt mạn tƣơng phùng kinh tống biệt Đông Hoa kiều bạn thủy quyên quyên. Sự hành chỉ của ngƣời đời thảy đều tùy duyên Rằng xấu, rằng tốt, Dịch lí rất huyền vi Có thể vì lăn lộn trong sóng gió mà thành ngƣời hiểu đời Há lại không đủ chữ nghĩa để vãn hồi cơ trời Hoành Sơn trăng sáng, ngàn dặm mênh mang Quế Lĩnh gió mát đợi ngƣời trẻ tuổi Đƣợc gặp nhau thoáng chốc nên kinh sợ khi tiễn biệt Bên cầu Đông Hoa, nƣớc róc rách.
5. TỐNG ĐỖ KÍNH HỒ CHI VIỆT ĐÔNG/ TIỄN ĐỐ KÌNH HỒ ĐI VIỆT ĐÔNG
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1 – tr 229)
Mới vừa đi về hƣớng Tây lại đã đi về hƣớng Đông Trời đất (mênh mông) có đáng kể gì đối với ngƣời chƣa già Ơn vua tái tạo, nồng đậm mƣa móc Một cánh buồm trời sai khiến, bể lặng sóng yên Thả bè, khách trên biển mang danh hờ là sứ giả Mang theo rƣợu, ông làm thơ cất vang lời ca Nếu nhƣ Lân Chi đi chuyến này có thể thuận lợi Thì kiến thức về cái lý sự đầy vơi của tạo vật sẽ thu đƣợc nhiều.
Tài tòng Tây khứ hựu Đông qua Vũ trụ kỳ nhƣ vị lão hà Tái tạo quân ân thâm vũ lộ Nhất phàm thiên khiển định phong ba Thừa sà hải khách hƣ vi sứ Tái tửu ngâm ông lãng tác ca Khả thị Lân Chi năng lợi thiệp Hƣ hoành vật lý thức lai đa.
PL63
6. TỐNG KHẾ NGHỊ ĐÔNG BÌNH HOÀNG HƢ TRAI LẠC CHỨC QUY ĐIỀN, DO CHU HÀNH HỒI GIA/ TIỄN BẠN THÂN HOÀNG HƢ TRAI NGƢỜI ĐÔNG BÌNH BỊ CÁCH CHỨC VỀ RUỘNG VƢỜN, ĐI THUYỀN VỀ QUÊ
Hƣ chu giang thƣợng phỏng xuân quy Nhất phiến phù vân thính sở chi Con thuyền trống không trên sông thả cho gió xuân đƣa về/ Một chòm mây nổi mặc cho tự đến nơi định đến/
Thiên tải thị phi không ký tửu Bách niên hình dịch mạn bằng thi Ngàn năm việc đúng sai luống gửi vào chén rƣợu/ Cả đời bƣơn chải hãy nhờ vào thơ/ Giang sơn dậy sóng
Giang sơn mạnh lãng liên đồng tích Nghiễn tịch hàn huyên trọng cố tri thƣơng ngƣời đồng bệnh/ Một chiếc bút nghiên hàn huyên trọng bậc cố tri/ Còn nhƣ bình sinh ít để lại dấu
Thƣợng hữu sinh bình hi túc tích Phƣợng Hoàng thiên nhận bạc thiên phi tích/ Chim phƣợng hoàng trên cao ngàn nhận bay sát tầng trời. (Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1 – tr239)
7. TỐNG NIÊN HUYNH BỘ HỘ VIÊN NGOẠI LANG PHẠM QUÂN GIÁNG BỔ ĐỨC THỌ PHỦ GIÁO THỤ/ TIỄN BÁC PHẠM, BẠN ĐỒNG KHOA NGUYÊN GIỮ CHỨC VIÊN NGOẠI LANG BỘ HỘ BỊ GIÁNG BỔ GIÁO THỤ PHỦ ĐỨC THỌ.
Nhất chi thê xứ vị cầu đa Nhân sự sâm si khả nhƣợc hà Chỉ cần một cành để làm tổ, chẳng cần nhiều Việc đời thay đổi, chẳng nhất định, biết làm thế nào
Thả hi vi quan năng giáo tử Dĩ biền tác khách cửu từ gia Hãy mừng vì làm quan mà còn có thể đƣợc dạy con Đã vui vì không còn làm khách đã lâu phải xa nhà
Cách vân nguyệt chiếu trùng quan lộ Bán chƣớc xuân phi nhất phiến hoa Xuyên qua mây, trăng chiếu trên con đƣờng xa xôi Nửa cuộc rƣợu, mùa xuân đã bay đi một cánh hoa
Tuyên thất hội tu tiền tịch vấn Giả Sinh ƣng bất ngọa Trƣờng Sa
Rồi sẽ lại có dịp đƣợc vua hỏi han nơi nhà Tuyên thất Giả Sinh ắt không nằm mãi ở Tràng Sa. (Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1 – tr 241)
8. VŨ TỐN HIÊN CẤP SỰ TRUNG BỔ VI HẢI DƢƠNG ĐỐC HỌC, THƢ TIỄN/ CẤP SỰ
TRUNG VŨ TỐN HIÊN ĐƢỢC BỔ LÀM ĐỐC HỌC HẢI DƢƠNG, VIẾT TIỄN
Phƣợng minh âm tại tử vân tiêu Chim phƣợng hót, âm thanh vang tận trời cao/ Lại đội mũ
Khƣớc đới sƣ quan thoát tạo điêu Tùng cúc giải liên thanh mộng viễn ngƣời thày mà cởi mũ lông điêu đen/ Hiểu đƣợc niềm yêu thích giấc mộng tùng cúc trong trẻo xa xôi/ Đau đáu nỗi
Tang du huyền niệm mẫu niên diêu Vi vân đạm Hán thu vô tích niềm nhớ quê nơi có mẹ đã cao tuổi/ Những đám mây mỏng bàng bạc, mùa thu không để lại dấu vết/ Đàn nhạn
Tân nhạn hoành sƣơng nguyệt tự yêu Cổ đạo cầm tâm thùy hội xứ mới bay về giăng ngang trong sƣơng, trăng sáng mời gọi/ Phong thái nho nhã mà đảm lƣợc theo đạo xƣa, mấy ai
Hải thiên yên ngoại bích thiều thiều hiểu đƣợc/ Khói mây ngoài trời biển, màu xanh miên man. (Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1 – tr243)
PL64
9. TỐNG NGUYỄN TỬ HỰU MIỄN TỘI NINH GIA/ TIỄN NGUYỄN HỮU ĐƢỢC MIỄN TỘI, CHO VỀ NHÀ
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1 – tr247)
Bất vị tha hƣơng quỵ Nhƣng hoàn cố lí thân Hựu ân đồng tạo hóa Lão nhãn thức phong trần Địch nhĩ vong cơ sự Lê nhiên hoạch cổ nhân Phong sƣơng giang thƣợng biệt Hậu hội thị hà nhân. Không thể gọi là con ma tha hƣơng Thân vẫn trở về nơi làng quê cũ Ơn bao dung lớn ngang bằng tạo hóa Đôi mắt lão luyện cảnh phong trần Xa xôi, quên mọi việc Việc ruộng vƣờn, chắc chắn theo đƣợc cổ nhân Từ biệt nhau trên sông trong gió sƣơng, Lần gặp nhau sau biết có nhân duyên nào?
10. TỐNG AN LẠC HUẤN ĐẠO VŨ THAI/ TIỄN QUAN HUẤN ĐẠO YÊN LẠC HỌ VŨ
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1 – tr260)
Xuất thế hà nhƣ thiệp thế cao Nhất quan thanh thái tuyệt ba đào Nhàn vân vô ý đông tây vãng Khách lộ tƣơng khan nhất lƣỡng tao Thập nguyệt hàn hoa tân liễu lộ Bán thiên lãnh vũ trƣớng giang cao Ký ngôn học chính bình an xứ Mộng nhập tƣơng tầm kỉ độ lao Lánh đời sao cao bằng trải đời Một vị quan thanh liêm, hanh thông, dứt hết mọi sóng gió Mây nhàn vô ý bay hết phía đông lại sang phía tây Đƣờng khách cùng nhìn xem đã một vài lần gặp gỡ Tháng Mƣời hoa lạnh nở làm mới mẻ đƣờng xe đi Nửa trời mƣa lạnh nƣớc duềnh lên bãi sông Gửi lời chúc bình an đến nơi quan Học chính Mấy phen vất vả tìm nhau trong giấc mộng.
11. TỐNG HƢNG HÓA BỐ CHÁNH NGỤY THIỆN PHỦ CHI TRỊ/ TIỄN BỐ CHÁNH HƢNG HÓA NGỤY THIỆN PHỦ ĐẾN TRỊ SỞ
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1 – tr264)
Cùng nói Thiên Hƣng cảnh vật đẹp Cờ tiết lại đến quét sạch hết mây mù Nét phong lƣu ở vùng Giang Tả suy tôn họ Tạ, họ Phó Ở mặt Tây Thục thì thuộc về Quai Nhai Nửa chén trăng sáng liền hai sở quan Một ngựa trong gió thoảng hƣơng sen phóng ra sáu phố Bắc đình, con đƣờng này nhiều lần đi về Kẻ khách đau ốm sao kham đƣợc khi gửi nỗi niềm chia biệt.
Cộng thuyết Thiên Hƣng cảnh vật giai Trùng lâm tinh tiết tịnh vân mai Giang Tả phong lƣu suy Tạ Phó Thục Tây phƣơng diện thuộc Quai Nhai (Nham) Bán tôn minh nguyệt liên song thự Thất mã liên phong xuất lục nhai Bắc đình thử lộ tần lai khứ Bệnh khách na kham kí biệt hoài
12. PHÓ BẢNG PHƢƠNG ĐÌNH NGUYỄN TỬ HỘI THI HÂU NINH GIA, THƢ TỐNG/ VIẾT TIỄN PHÓ BẢNG NGUYỄN PHƢƠNG ĐÌNH SAU KHI THI HỘI VỀ THĂM NHÀ
Ngũ nguyệt giang thành hiểu Nam phong dƣơng liễu đê Phù vân thiên lí mộng Minh nguyệt tiểu hiên tê (tây) Buổi sáng tháng Năm nơi tòa thành bên sông Gió Nam thổi trên bờ dƣơng liễu Mây trôi bồng bềnh trong giấc mộng ngàn dặm Trăng sáng soi nơi phía tây hiên nhỏ
PL65
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1 – tr 267)
Kì lộ phân lai khứ Xuân hoa chuế phẩm đề Văn chƣơng ƣng lập thế Tạo hóa ngẫu phi tề. Nơi đƣờng rẽ dập dìu ngƣời qua lại Hoa xuân lạm phẩm đề Văn chƣơng nên để lập thế Tạo hóa ngẫu nhiên phú cho mọi ngƣời không đồng đều.
13. ĐÔNG KHANH BÙI MÃO HIÊN TRÍ CHÍNH PHỤNG TIỄN/ ĐÔNG KHANH BÙI MÃO HIÊN VỀ HƢU, KÍNH TIỄN
Miếu đƣờng nhàn hạ bất ngôn binh Thủy hữu quy chƣơng đối thánh minh Vũ lộ khƣớc yêu tùng kính vãn Phong ba bất tác nguyệt trì thanh Tự gia lão khứ duy mƣu đạo Dữ thế thân tiên vị tốn danh Đình bắc sơ khai toàn cẩm lộ Nhất giang xuân sắc liễu đề oanh Triều đình đƣợc thanh nhàn, không phải bàn tới việc binh đao/ Mới dâng sớ xin về nghỉ lên thánh thƣợng/ Đƣợc ơn mƣa móc nên đƣờng tùng mời gọi muộn màng/ Sóng gió không nổi lên nên ao in bóng trăng trong lặng/ Đối với mình, khi tuổi già đến thì chỉ chăm lo về đạo/ Cùng với đời, thân mình thực hành trƣớc thì tên tuổi cũng không bị hạ thấp/ Phía bắc ngôi đình mới mở con đƣờng áo gấm trở về/ Một dòng sông tràn đầy sắc xuân và oanh hót trên rặng liễu. (Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1 – tr 276)
14. TẶNG KHẾ NGHỊ BẢO KHÊ NGUYỄN ƢỚC PHU TRẤN TÂY TÒNG QUÂN/ TẶNG BẠN THÂN BẢO KHÊ NGUYỄN ƢỚC PHU THEO VIỆC QUÂN Ở TRẤN TÂY
Phong ba vãng sự mạc vân vân Hồ hải khâm hoài kỵ tự quân Thiên nhập Tây thành tân kiếm khí Thu hồi Bắc kiểu bão sơn vân Kinh hoa thả chí kinh nhƣ tạc Tôn tửu tƣơng phùng tích tạm phân Lâm lí căn cơ tòng lập thái Hàn giang phong vũ nhạn tiền văn Chuyện sóng gió trƣớc kia, thôi đừng nói vân vi làm gì Mang hoài bão hồ biển, mấy ai đƣợc nhƣ bác Trời ở thành Tây, bốc lên khí kiếm mới Mùa thu trở về biên giới phía Bắc, núi mây bời bời Kinh đô khi đến, bàng hoàng vì chẳng khác gì năm trƣớc Một chén rƣợu gặp gỡ, tiếc phải tạm xa nhau Đặt chân đến thì nền móng từ đó mà lập nên sự thịnh vƣợng Gió mƣa trên sông lạnh nghe tiếng nhạn bay về trƣớc (Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1 – tr322)
15. KÍ TIỄN LỄ BỘ THƢỢNG THƢ PHAN CÔNG TRÍ SĨ/ GỬI TIỄN THƢỢNG THƢ BỘ LỄ PHAN CÔNG VỀ NGHỈ HƢU
Hạ thƣợng dung đài trấp tải gian Hồi chiêm Bắc Đẩu tuấn tê phan Đế ân trù tích đa ƣu lão Thiên hậu công danh bất cận nhàn Nhất phiến thiền tâm y Phật tích Trùng lai bạch phát đối thanh san (sơn) Tiên trần dao tiện đô môn ngoại Mai hiểu giang nam tảo nhạn hoàn Xuống, lên bộ Lễ trong hai chục năm/ Ngoảnh trông Bắc Đẩu, đƣờng vin trèo lên cao vun vút/ Ơn vua khi trƣớc nhiều ƣu ái cho bậc lão thành/ Trời ban công danh rất hậu, nào tiếc sẻn chút nhàn/ Một tấm lòng thiền nƣơng náu nơi Phật Tích/ Trở về tóc bạc đối diện với non xanh/ Là cõi tiên hay cõi trần tục, ham thích cảnh ngoài kinh đô/ Hoa mai buổi sớm ở phía nam sông, nhạn sớm trở về. (Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1 – tr 360)
PL66
16. BIÊN HÕA ĐỐC HỌC DƢƠNG HIỆP PHỦ (BÁ CUNG) CHI QUAN, THƢ TIỄN, Y NGÔ DƢƠNG ĐÌNH NGUYÊN VẬN/ THEO NGUYÊN VẦN THƠ CỦA NGÔ DƢƠNG ĐÌNH, VIẾT TIỄN ĐỐC HỌC BIÊN HÕA DƢƠNG HIỆP PHỦ (BÁ CUNG) ĐẾN LỲ SỞ
Man man khách lộ liễu đê âm Thiên lý nam vân nhất phiến tâm Đƣờng khách xa xôi liễu trên đê rủ bóng/ Nghìn dặm mây trời nam, riêng một tấm lòng/ Ven biển gặp xuân,
Hải bạng phùng xuân tôn tửu mộ Thiên biên quá lĩnh mã đề thâm chén rƣợu (tiễn đƣa) lúc chiều tà/ Bên trời, qua núi, gót ngựa mất hút/ Văn chƣơng, phải nên hòa cùng phong
Văn chƣơng ƣng cộng giang sơn khí Nhân vật đồng khan hàn mặc lâm khí của giang sơn/ Nhân vật, hãy cùng xem trong rừng bút mực/ Cuộc đời nổi nênh, chợt giật mình khi tóc mai
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1 – tr 366)
Phù thế sạ kinh sƣơng mấn cải Quan hà cựu biệt đáo nhƣ câm (kim). đổi màu/ Chia tay lần trƣớc, quan hà xa cách đến tận hôm nay.
17. TỐNG TRẦN QUÂN TÖ DĨNH THỪA VÂN BẰNG THUYỀN VÃNG TÂN GIA BA CÔNG VỤ, THỨ QUẢNG NAM TUẦN PHỦ NGỤY CÔNG THIỆN PHỦ NGUYÊN VẬN/ HỌA NGUYÊN VẦN QUAN TUẦN PHỦ QUẢNG NAM NGỤY THIỆN PHỦ, TIỄN BÁC TRẦN TÖ DĨNH ĐI THUYỀN VÂN BẰNG ĐẾN TÂN GIA BA CÔNG VỤ
Khởi vị li bôi xuất hải cƣơng Khách sà kỉ độ phiếm trùng dƣơng Há gọi đây là chén chia tay ông ra khỏi bờ biển/ Bè khách đã mấy lần rong ruổi nơi trùng dƣơng/ Ở nơi quan
Quan san ƣng trọng đình vi luyến Hồ hải hoàn tăng bút chử hƣơng san càng thêm nặng tình cảm đối với cha mẹ/ Thân nơi hải hồ bút thơ thêm đƣợm hƣơng/ Cánh buồm lẻ loi
Thiên ngoại cô phàm nhân khứ quốc Xuân thâm viễn tái nhạn tùy dƣơng ngoài trời thẳm, ngƣời rời xa đất nƣớc/ Xuân về nơi ải xa, cánh nhạn bay theo ánh mặt trời/ Nhà ai ca khúc
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1 – tr 431)
Thùy gia Bạch tuyết năng tƣơng tống Lƣu thủy cao sơn ý cộng trƣờng. Bạch Tuyết để cùng đƣa tiễn/ Nƣớc chảy, núi cao, tình ý càng miên man.
18. TIỄN TRƢƠNG HỌC CHÍNH HỌA LƢU GIẢN NGUYÊN VẬN/ TIỄN TRƢƠNG HỌC CHÍNH HỌA NGUYÊN VẦN THƠ LƢU GIẢN
Tuyết Liêm minh nguyệt bạch vân vi Túc thƣợng khâu viên bất khẳng vi Trăng sáng ở sông Tuyết, sông Liêm, mây trắng mờ mờ/ Vốn chuộng gò, vƣờn nên không thể làm trái/ Bao ông
Đa thiểu Trọng Tuyên lâu thƣợng phú Thiển thâm Trang tẩu mộng trung ky Trọng Tuyên lên lầu làm phú/ Nông hay sâu, đó là mấu chốt trong giấc mộng của ông Trang/ Mùa thu mới, rau
Tân thu thuần thái kiêm phong hoạt Cựu kính hoàng hoa đái tiếu quy thuần lại thêm gió thổi mƣợt mà/ Hoa cúc luống cũ mang theo nụ cƣời mà về/ Cùng thƣơng bởi nơi Bạch
Bạch các khổ ngâm lân cộng dữ Bàn Thành thùy phục hận khinh li
các khổ vì ngâm thơ/ Ở Bàn Thành ai lại hận cuộc chia li nhẹ nhàng. (Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1 – tr476)
PL67
19. THU TỐNG NỮ TỬ HOÀN GIA NGẪU THÀNH/ NGÀY THU TIỄN CON GÁI VỀ QUÊ, BẤT CHỢT THÀNH THƠ
Phù vân tùy Bắc khứ Sƣơng nhạn chính Nam phi Tống nhĩ Bàn Thành ngoại Ám nhiên hữu sở ti Tự ngã chi thử địa Liêu bằng hoặc thƣơng chi Thế sự ngẫu nhiên nhĩ Hà tu học nữ nhi Bất tằng thất nhật lệ Nhi kim cánh hà kì Ngô lại vị hữu nhĩ Ngô tỵ nhĩ tƣơng tùy Ngữ ngôn vô sở trạch Hi tiếu tự nhiên thi Duy tri phụ tử tụ Bất thức phong trần bi Nhất triêu thiên lý cách Tƣơng tƣ tại tƣơng li Nhĩ quy thành đắc sở Ngô tại tƣơng hà vi? Mây nổi tùy ý bay về Bắc Chim thu nhạn đúng mùa bay về Nam Tiễn con đến mé ngoài thành Đồ Bàn Trong lòng âm thầm nỗi nhớ thƣơng Từ khi cha đến nơi này Bạn bè đồng liêu có ngƣời tỏ ra thƣơng cảm Nhƣng mọi việc trên đời đều ngẫu nhiên Cần gì học thói yếu đuối của bọn con gái Từ trƣớc, cha chƣa từng một lần rơi nƣớc mắt Thế mà hôm nay cha sao vậy? Cha đến đây thì chƣa có con Bây giờ cha đi đâu thì con đã đi theo Nói năng còn chƣa biết lựa lời Cƣời nói, cứ tự nhiên mà thành thơ Chỉ biết có việc cha con sum họp Chẳng biết đến nỗi đau trên đƣờng đời gió bụi Một sớm rồi cách xa nhau ngàn dặm Nhớ nhau trong hoàn cảnh cách xa nhau Con về thật thích hợp cho con Nhƣng cha ở lại biết làm thế nào cho khuây khỏa đây! (Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1 – tr 497)
20. BINH BỘ VIÊN NGOẠI LANG ĐÔNG ĐÔI BÙI QUÂN KHẤT QUY DƢỠNG, ĐẮC THỈNH, THƢ TIỄN/ VIÊN NGOẠI LANG BỘ BINH LÀ BÙI QUÂN Ở ĐÔNG ĐÔI XIN VỀ CHĂM SÓC CHA MẸ, ĐƢỢC CHẤP THUẬN, VIẾT THƠ TIỄN
Vị tiên lang hôm nay cởi bỏ trâm triều đình/ Đọc xong lời trần tình, không kìm đƣợc cảm xúc/ Bậc thánh nhân nhƣ Nghiêu, Thuấn không dạy điều gì khác/ Bậc con hiếu nhƣ Mẫn, Tăng cũng có lòng nào khác đâu/ Tháng năm ở thành bên sông, nghe tiếng địch ở phía xa/ Du chơi nơi kinh đô, lần này từ biệt đàn cầm/ Cần biết niềm vui lên nhà trên ở nơi xa/ Nhiều lần hƣớng về hoa mai, rót chung rƣợu thọ (Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1 – tr 591) Tiên lang thử nhật giải triều trâm Đọc bãi trần tình tứ bất câm Nghiêu thuấn thánh nhân vô dị giáo Mẫn Tăng hiếu tử diệc hà tâm Giang thành ngũ nguyệt dao văn địch Kinh Lạc hoàng du thử biệt cầm Yếu thức thƣợng đƣờng gia khánh viễn Mai hoa tần hƣớng thọ bôi châm.
21.TIỄN KIM ĐỘNG TRẦN NGỘ HIÊN QUY DƢỠNG TÍNH TỰ/ THƠ TIỄN TRẦN NGỘ HIÊN Ở KIM ĐỘNG VỀ NUÔI MẸ CÙNG LỜI DẪN
Ký hình thiên địa thục nguy an Bát thập cao đƣờng đắc dƣỡng nan Sở dĩ cổ nhân trọng nhất nhật Gửi hình hài trong trời đất, biết đâu là nguy, đâu là an/ Đƣợc nuôi dƣỡng thân mẫu tám mƣơi tuổi là chuyện khó/ Vì thế cổ nhân quý trọng từng ngày/ Tiễn bác mà cảm thấy
PL68
Tống quân quy lộ khinh phi hàn Hà niên thiên sứ tần sà Hán Bát nguyệt Tô công kỵ độ than Trần mộng cửu lai nhƣng thị lữ Xích Đằng minh nguyệt tại kim khan trên đƣờng về nhƣ chắp cánh bay/ Những năm nào bác nhiều lần cƣỡi bè đi sứ/ Tháng Tám, Tô công mấy lần vƣợt qua thác lớn/ Trong cõi trần hƣ huyễn, lâu nay vẫn làm khách xa nhà/ Đến ngày nay đƣợc ngắm trăng sáng ở châu Xích Đằng. (Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1 – tr 609)
22. CỬU NHẬT HÀN VŨ, TIỄN KHẾ NHỊ VŨ NINH PHỦ CHI NAM ĐỊNH TRƢỞNG KHẢO QUAN/ NGÀY MỒNG CHÍN MƢA LẠNH, TIỄN BẠN TÂM GIAO VŨ NINH PHỦ ĐI CHẤM THI Ở TRƢỜNG NAM ĐỊNH
Một tài năng lão luyện làm việc tuyển lựa văn chƣơng ở bắc sông Vị/ Lầu trạm dịch, trong khói sƣơng liễu vƣơn cành vắn, cành dài/ Đƣờng về mƣa qua tiết Trùng dƣơng/ Ngƣời đi, mùa thu lại về nơi cố quốc/ Gác lê đêm về từng tìm đƣợc câu thơ/ Giậu cúc sƣơng muộn, một mình chuốc chén/ Trong lúc tạm chia tay, sớm tối nhớ nhung/ Một đám mây ngừng bay, lại nửa phần ngờ vực. (Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1 – tr 612) Vị bắc hành văn nhất lão tài Dịch lâu yên liễu đoản trƣờng thôi Lộ quy vũ hƣớng Trùng dƣơng quá Nhân khứ thu phùng cố quốc lai Lê các dạ xâm tằng kiến cú Cúc li sƣơng vãn độc phù bôi Tạm trung phân thủ tƣ thần tịch Nhất phiến đình vân hựu bán sai
23. TỐNG HÀN LÂM BIÊN TU NGUYỄN TỬ TỈNH THÂN/ TIỄN HÀN LÂM BIÊN TU NGUYỄN TỬ VỀ THĂM MẸ
Nhất niên vân các mộng đồng quy Thu lão Trùng dƣơng cúc bán hi Phong vũ mãn thành nhân bắc khứ Lộ sƣơng liên tái nhạn nam phi Xu đình cựu học trƣng ngâm đại Bái khánh cao đƣờng sách thải y Tài tử động nhân kinh Lạc hạ Tống tƣơng từ phú tận Huyền Huy Một năm nơi vân các, mơ cùng đƣợc về Thu rạc Trùng dƣơng, hoa cúc đã thƣa đi một nửa Mƣa gió đầy thành, ngƣời về phƣơng Bắc Móc sƣơng khắp ải, nhạn bay về phía Nam Sở học cũ trong gia đình tỏ rõ ở túi thơ Lâu mới về thăm cha mẹ, tìm chiếc áo nhiều màu Những bậc tài tử làm ngƣời khác chấn động ở chốn kinh thành Từ phú đƣa tiễn, đều là các bậc tài danh nhƣ Huyền Huy (Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1 – tr 614)
24. TỐNG ĐỒNG KHẾ YÊN THÁI TIẾN SĨ NGUYỄN ƢỚC PHU, BỊ THÔI, TẦM KHẤT HOÀN HƢƠNG/ TIỄN BẠN TÂM GIAO LÀ TIẾN SĨ NGUYỄN ƢỚC PHU NGƢỜI YÊN THÁI BỊ THÔI CÁO, ÍT LÂU SAU XIN VỀ QUÊ
Phù vân khứ bất tức Đê liễu hà man man Tƣơng thân tam thập niên Tụ thủ thúc đồng hoan Nhất điếu minh không trung Tào mai khai viễn san Vấn quân hà sở cứ Mẫu nãi lạc hoài an Mây nổi bay đi không nghỉ Liễu ven đê sao mƣớt xanh Ba chục năm bè bạn Họp mặt, cùng vui trong chốc lát Một tiếng chim kêu giữa tầng không Hoa mai sớm nở trên núi xa Hỏi bác vì cớ gì mà xin về Vì mong mẹ vui và bình an
PL69
Thân khinh nan ngữ báo Đẩu thất thiên địa khoan Nhất ngộ khởi phục tái Quả tai cổ sở nan Xu đình thi lễ tại Ỵ lƣ hoài thái lan Luận kinh tri đạo phú Nhân sƣ kham kháng nhan Đáo xứ thị công nghiệp Khởi tất Tín dữ Hoàn Tây hồ yên thủy thâm Thiên quang vân ảnh gian Vãn ngã thái cô tức Lao nhân kinh thử hàn Tấm thân nhẹ tênh, khó nói đến việc báo đáp Nhà nhỏ, mà trời đất thì rộng Một lầm, há lại lầm nữa? Quả nhiên đó là điều từ xƣa đã coi là khó Qua sân, nếp thi lễ còn đó Tựa cửa, nhớ ngƣời hái lan Luận bàn kinh sách, biết đạo rất phong phú Ngƣời làm thầy thì vẻ mặt nghiêm trang, đoan chính Chốn chốn đều là nơi lập công danh, sự nghiệp Há cứ phải nhƣ Tín Lăng Quân và Hoàn ôn Tây hồ khói nƣớc sâu Nơi in ánh trời, bóng mây Muộn rồi ta hãy nên nghỉ ngơi Ngƣời vất vả rất sợ cơn nóng lạnh. (Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1 – tr 616)
25. TỐNG TÒNG TỬ MẬU TÙNG TIẾN PHỦ CHI NGA SƠN HUẤN ĐẠO/ TIỄN CHÁU LÀ TIẾN PHỦ, TÊN TỰ LÀ MẬU TÙNG ĐI LÀM HUẤN ĐẠO Ở NGA SƠN
Quan hà cảm nhất biệt Tôn tửu lâm mai hoa Quan hà xa xôi, cảm động vì một lần từ biệt Nâng chén rƣợu trƣớc tiết hoa mai
Phù vân sạ tụ thủ Hàn thử phƣơng kinh đa Gặp gỡ bất chợt nhƣ mây nổi Nóng lạnh đƣơng nhiều kinh sợ
Cộng đạo quan cái trọng Thùy năng ngọa yên hà? Lão tài bất hoạch dĩ Cùng nói công danh là điều rất phải coi trọng Ai có thể (thảnh thơi) nằm ở chốn ráng khói? Tài năng suy lão cũng chƣa đƣợc nghỉ
Tƣơng khan bạch thủ bà Xuân lâm thác nhất chi Cùng trông mái đầu bạc Nhờ một cành nơi rừng xuân
Thƣ sử túc sinh nha Đế hƣơng tại chi xích Sách sử đủ làm kế sinh nhai Kinh đô gần trong gang tấc
Ngô thổ phục phi xa Thi tình thƣợng khảng khái Đất quê ta cũng chẳng xa Tình thơ vẫn khảng khái
Viễn ý đƣơng nhƣ hà? Ức ngã đồng nhất nguyên Còn ý xa xăm thì sao Nhớ rằng ta cùng nguồn cội
Y quan bách niên gia Phò Hình công dĩ hậu Gia đình trăm năm mũ áo Từ cụ Phó làm bộ Hình về sau
Tam thế thất đăng khoa Thiếu niên tối dĩnh dị Đầu giác chân túc khoa Văn chƣơng bất tận thị Ba đời, bẩy ngƣời đỗ đạt Tuổi thiếu niên, thông minh cực dị thƣờng Những biểu hiện về tài năng đủ để khoe Nhƣng không thể hoàn toàn dựa vào văn chƣơng đƣợc
PL70
Trƣờng ốc lũ tha đà Lai vãng Trƣờng An thục Trƣờng ốc nhiều phen lần lữa Qua lại đã quen đất Trƣờng An
Hồ hải vị tiêu ma Sở hỉ hựu tại thử Chí hồ hải chửa tiêu tan Niềm vui lại ở chỗ này
Sở kỳ ninh tại tha Tân hứng ngộ thịnh điển Điều kì vọng lẽ nào lại ở chỗ khác Hào hứng của khách là gặp thời điển lễ đƣợc coi trọng
Lân phƣợng hoành sƣu la Đào hoa bức đông phong Rộng tìm lân cùng phƣợng Hoa đào đã gần lúc gió đông thổi
Hàn dƣ tất xuân hòa
Rét xong ắt gặp khí xuân hài hòa. (Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1 – tr 620)
26. HOAN CHÂU NIẾT SỨ KIM ĐÔI PHẠM THUẬT PHỦ LAI KINH TIỄN LỄ HỒI TRỊ, THƢ TIỄN KIÊM TRÌNH ĐỒNG NIÊN PHAN PHÙ XUYÊN, ĐỖ THẬN HIÊN, VŨ TIẾT HIÊN, PHẠM ÔN KỲ, TRẦN THÀNH TRAI, NGUYỄN ỨC TRAI, KIÊM THỊ BINH BỘ THỊ LANG TIỂU PHẠM/ PHẠM THUẬT PHỦ, NGƢỜI KIM ĐÔI, HIẾN SÁT SỨ CHÂU HOAN VÀO KINH TIẾN LỄ TRỞ VỀ, VIẾT THƢ TIỄN CÙNG TRÌNH CÁC BẠN ĐỒNG
NIÊN PHAN PHÙ XUYÊN, ĐỖ THẬN HIÊN, VŨ TIẾT HIÊN, PHẠM ÔN KỲ, TRẦN THÀNH TRAI, NGUYỄN ỨC TRAI, CÙNG ĐƢA CHO THỊ LANG BỘ BINH TIỂU PHẠM.
Nhất đăng thất tải thoại đồng niên Ngạn liễu giang mai thứ đệ truyền Bảy năm chung một ngọn đèn, nói chuyện bạn đồng niên/ Liễu bên bờ, mai bên sông theo thứ tự mà nối nhau
Giáng khuyết chiêm vân tân nhật nguyệt Cổ Hoan hồi mã cựu sơn xuyên tƣơi tốt/ Nơi cung khuyết ngắm trông mây, ngày tháng mới/ Châu Hoan xƣa quay ngựa về, vẫn núi sông xƣa/
Ba Ma lai xứ nghi Hàn tử Luy Lũ thành danh thức Sĩ tiên Xuất xứ của hai chữ Ba Ma nghi là ở sách của Hàn Phi Tử/ Nơi thành mang tên Luy Lũ đƣợc biết Sĩ Vƣơng
Thân thế trầm thăng thi vị vấn Ngô văn kinh khởi tối kỳ duyên
tiên/ Thân thế thăng trầm, chƣa bói Kinh Dịch/ Khơi dậy mạnh mẽ văn chƣơng của ta cũng là mối duyên cực đẹp. (Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1 – tr 625)
27. TỐNG LÊ BẢO XUYÊN BỆNH QUY/ TIỄN LÊ BẢO XUYÊN BỊ ỐM VỀ QUÊ
Vân tòng giang bắc khứ Sƣơng đái hải tây hoàn Mây từ bắc sông bay đi Sƣơng theo phía tây biển trở về
Niệm viễn thân năng đãi Lao sinh bệnh khƣớc nhàn Suy nghĩ xa xôi thì có thể lo đƣợc cho ngƣời thân Cuộc sống vất vả, đau ốm lại đƣợc nhàn
Thu phong thuần lai hoạt Tôn tửu mẩn hoa ban Trong gió thu, rau rút, rau cải tốt mƣợt Trƣớc chén rƣợu, tóc mai bạc lốm đốm
Nhị thủy liên Tô chử Phong ba bất đảo gian
Sông Nhị liền bên sông Tô Là nơi sóng gió không đến. (Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn – tr 632)
PL71
28. MẬU THÂN XUÂN SƠ, PHỤNG TỐNG LỄ BỘ THAM TRI HẢI PHÁI BÙI HỮU TRÖC SUNG NHƢ YÊN CHÍNH SỨ/ ĐẦU MÙA XUÂN NĂM MẬU THÂN (1848) VÂNG LỆNH TIỄN THAM TRI BỘ LỄ, HẢI PHÁI BÙI HỮU TRÖC, ĐƢỢC SUNG LÀM CHÁNH SỨ SANG YÊN KINH
Xuân vân xuất tái, nhạn nam quy Vạn lí thần tâm phát dục hi Quốc vĩnh sơn hà thân đái lệ Thiên cao nhật nguyệt tiếp quang huy Đô môn xuất mã sƣơng hàm tiết Mai dịch xu triều tuyết điểm y Linh thọ gia danh phù tích chiếu Hán đình ân ngộ cánh thùy hi
Mây xuân bay ra ngoài biên ải, chim bạn bay về phƣơng Nam/ Tấm lòng của kẻ bề tôi đi xa muôn dặm, mái tóc chớm lƣa thƣa/ Tỏ rõ lời thề dải áo, đá mài, non sông đất nƣớc bền vững mãi/ Đƣợc tiếp cận ánh sáng của mặt trời, mặt trăng trên trời cao/ Cƣỡi ngựa ra khỏi cổng kinh đô, sƣơng đọng trên cờ tiết/ Từ trạm Mai dịch, khi vào triều tuyết bám trên y phục/ Tên đẹp Linh Thọ, phù hợp với chiếu vua ban tặng/ Ơn tri ngộ nhƣ triều đình nhà Hán ai có thể theo kịp
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1 – tr 634)
29. PHỤNG TỐNG LỄ BỘ THỊ LANG VƢƠNG TẾ TRAI SINH NHƢ YÊN GIÁP SỨ/ VÂNG TIỄN THỊ LANG BỘ LỄ LÀ VƢƠNG TẾ TRAI ĐƢỢC SUNG PHÓ SỨ GIÁP BỘ SANG YÊN KINH
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1 – tr 636)
Lòng thiền nhƣ gƣơng sáng, tóc mai trắng nhƣ sƣơng/ Cờ tiết nhà Hán lại rong ruổi ra khỏi bờ cõi/ Buồm thông đến Tây Sở, ngàn sông xa xôi/ Trời vào Bắc Yên, muôn núi xanh ngắt/ Trẻ con ở châu ta bắt đầu hát về Phật/ Vị quan Tham tri bộ Lễ vốn họ Vƣơng/ Đƣợc ngài làm phụ tá vạch định kế sách, điển lễ của đất nƣớc thêm trọng/ Quay ngựa trở về Long Biên, cƣời với hƣơng hoa mai.
Thiền tâm nhƣ kính, mấn nhƣ sƣơng Hán tiết trì khu hựu xuất cƣơng Tây Sở phàm thông thiên thủy viễn Bắc Yên thiên nhập vạn sơn thƣơng Ngô châu đồng tử sơ ca Phật Lễ bộ Than tri bàn tính Vƣơng Tán hoạch đắc quân bang điển trọng Long Biên hồi mã tiếu mai hƣơng
30. PHỤNG TỐNG QUANG LỘC TỰ KHANH NGUYỄN ĐỊNH PHÙ SUNG NHƢ YÊN ẤT SỨ/ VÂNG TIỄN QUANG LỘC TỰ KHANH NGUYỄN ĐỊNH PHỦ HÖY LÀ DU ĐƢỢC SUNG LÀM PHÓ SỨ SANG YÊN KINH
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1 – tr 638)
Phân Mão dĩ tự biệt sơn hà Hàm mệnh tƣơng tƣơng thử tải xa Thế bản tƣớng môn kim xuất sứ Quan vi sử thị cận thành gia Thiên xuân nhật nguyệt Yên Đài hiểu Vân lộ xuyên nguyên Sở quốc xa Chí thặng cửu lai trƣờng tải bút Nhất tƣơng hoài bão đối Trung hoa Núi Phân Mao, đã tự chia thành giang sơn khác Mang mệnh lệnh nhà vua, sẽ cùng lên xe chuyến này Gia thế vốn là khanh tƣớng, nay đi sứ Làm quan viết sử, gần đây đã thành “Sử gia” Buổi sớm ở Yên Đài, tháng ngày vào tiết trời xuân Con đƣờng mây phủ qua sông, qua đồng bằng nƣớc Sở tít xa Từ lâu nay vẫn thƣờng mang bút mực ghi chép sách vở Đƣợc một lần đem hoài bão đối diện với Trung Hoa.
PL72
31. TỐNG TAM NÔNG DOÃN PHÙ LƢU NGUYỄN TỬ/ TIỄN HUYỆN DOÃN TAM NÔNG LÀ NGUYỄN TỬ NGƢỜI Ở PHÙ LƢU
Thổ phƣợng nhân nhƣ ngọc Lâu loan địa tự câm (kim) Nhả ra chim phƣợng, ngƣời nhƣ ngọc Nay dựng lầu loan ở đất này
Dƣỡng tài duy đế chú Vi tể đắc thân tâm Nuôi dƣỡng tài năng, đó là riêng do hoàng đế hun đúc nên Làm quan Huyện tể, thỏa lòng cha mẹ
Vân hiểu sơn tây lộ Hoa thôi dịch bắc châm Mây buổi sớm trên con đƣờng phía tây núi Hoa thúc giục rót rƣợu phía Bắc trạm dịch
Phần hƣơng phùng hệ mã Viễn vấn hữu tri âm
Đƣợc buộc ngựa ở chốn quê hƣơng Hỏi chốn xa có bạn tri âm. (Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1 – tr 645)
32. CAO BẰNG BỐ CHÍNH PHẠM AN TRAI ĐẮC THỈNH, QUY TỈNH TIÊN DOANH THỨ VẬN PHAN TỐNG/ BỐ CHÁNH CAO BẰNG PHẠM AN TRAI XIN VỀ THĂM PHẦN MỘ TỔ TIÊN, ĐƢỢC PHÉP, HỌA THƠ ĐƢA TIỄN
Chu Nam lƣu trệ cảm hoa niên Nhất tụng quân thi bội ảm nhiên Mắc kẹt ở Chu Nam, cảm khái vì tuổi tác đã cao Vừa đọc thơ ông bội phần buồn bã
Phƣơng bá hiên thƣờng dung bội sủng Quan gia nhật nguyệt tƣởng cao huyền Giang nam tôn tửu huân phong lí Tƣớc lộc nhƣ quan phƣơng bá, đƣợc hƣởng nhiều ân sủng Tháng ngày của nhà quan, những tƣởng đến nhật nguyệt trên cao
Vị bắc hƣơng tình bạch phát biên Khoản mã trạch xa chân thƣợng sách Chén rƣợu ở nam sông Giang trong làn gió nam hòa ấm Tình yêu ở phía bắc sông Vị bên mái tóc bạc
Thế gian thùy đắc Thiếu Du truyền
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1 – tr 656)
Cƣỡi xe nhỏ, ruổi ngựa thong thả, đó thực là thƣợng sách Trên thế gian ai đƣợc truyền tụng nhƣ Thiếu Du.
33. NGUYỄN ỨC TRAI TUẦN PHỦ HÀ TIÊN KHỞI MÃ, THƢ TẶNG/ TẶNG NGUYỄN ỨC TRAI ĐI NHẬM CHỨC TUẦN PHỦ HÀ TIÊN
Dƣơng Chu kỳ lộ đắc ngô tiên Bác đã tìm đƣợc trƣớc tôi con đƣờng rẽ của Dƣơng Chu
Phủ tiết nam lai hựu trọng biên Tuyên thất triệu quân kim đế vị rồi/ Mang cờ tiết đến phía nam, lại là nơi biên viễn quan trọng/ Nơi nhà Tuyên thất, vua triệu bác tới, bảo/ Thay
Quan nhai phƣơng diện cánh thùy chuyên Văn chƣơng các lão mai tƣơng tống mặt triều đình, chốn biên cƣơng xa, ai là ngƣời có thể đảm đƣơng/ Hoa mai đƣa tiễn bậc cao niên nơi quán các,
Sơn hải viêm khƣ lộ kỵ thiên Đáo thử tân đề tăng thập vịnh có tài văn chƣơng/ Chốn phƣơng nam nơi non bể đƣờng xa mấy ngàn dặm/ Đến nơi ấy hãy tăng thêm thơ Vịnh
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1 – tr 658)
Khả năng tùy nhạn ký Long Biên mƣời cảnh đẹp/ Có thể theo cánh nhạn gửi đến Thăng Long.
PL73
34. CỰU THUỘC THÔNG PHÁN TRƢƠNG HỮU QUỲNH HỘ THÚY XÁ QUỐC SỬ THƢỢNG KINH, PHỎNG NGỤ SỞ CẬP HOÀN, THƢ DỮ CHI/ THUỘC CẤP CŨ LÀ THÔNG PHÁN TRƢƠNG HỮU QUỲNH HỘ TỐNG SỨ GIẢ NƢỚC THỦY XÁ LÊN KINH, ĐẾN THĂM TÔI TẠI CHỖ Ở, ĐẾN KHI VỀ, VIẾT THƠ ĐƢA TẶNG
Thùy tri thế khứ hựu tƣơng tầm Phận nghĩa minh sƣơng nhất phiến tâm Bần bạc quân gia tần sách mễ Tống tƣơng liên phẩm trị thiên câm (kim) Hồng nê hồi thủ chân tiền mộng Bạch phát tƣơng phùng thả nhất châm Kim nhật chỉ nam tùy viễn sứ Cù Mông thiên ngoại bích vân thâm Ai hay tình thế đã khác, lại vẫn đến tìm nhau/ Một tấm lòng tình nghĩa, cao khiết nhƣ sƣơng sớm/ Nhà anh nghèo khó, nhiều lần phải kiếm gạo/ Lại đem tặng tôi thuốc tiên đáng giá ngàn vàng/ Vết móng chim hồng in trên tuyết, ngoảnh đầu trông lại thực chỉ là giấc mộng trƣớc đây/ Tóc bạc gặp nhau, hãy rót chén rƣợu/ Hôm nay quay xe về nam, miền xa xôi/ Cù Mông ngoài trời xa, nơi hút sâu trong làn mây xanh biếc. (Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1 – tr 664)
35. THỨ PHƢƠNG ĐÌNH LƢU GIẢN NGUYÊN VẬN PHỤNG TIỄN/ HỌA NGUYÊN VẦN THƠ PHƢƠNG ĐÌNH LƢU LẠI, ĐƢA TIỄN
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1 – tr 680)
Vi sứ chân kỳ sự Thùy nhƣ quân xuất môn Sơn xuyên nhân cộng viễn Hồ hải khí nhƣng tồn Mã hệ hoa biên thự Tôn yêu vũ lí hiên Xuân phong kinh nhập mộng Thân sự tự điền viên Làm sứ giả thật là việc đặc biệt Ai ra đi giống nhƣ bác Núi sông và ngƣời cùng xa Nhƣng khí khái hồ biển vẫn còn Buộc ngựa ở ngôi nhà bên hoa Rót chén rƣợu mời dƣới hiên mƣa rơi Kinh sợ gió xuân đi vào giấc mộng Việc của thân này tự chọn ở chốn ruộng vƣờn.
36. PHỤNG TỐNG NHƢ YÊN GIÁP SỨ HỒNG LÔ TỰ KHANH MAI TRINH THÚC/ VÂNG TIỄN CHÁNH SỨ SANG YÊN ĐÀI LÀ HỒNG LÔ TỰ KHANH MAI TRINH THÚC
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1 – tr682)
Cờ tiết sứ giả qua Long Biên trong làn gió xuân/ Ông vì tình cảm lúc chia tay nên nói về nỗi niềm xa cách từ năm trƣớc/ Quan vốn là vị tân khách lớn/ Ngƣời từng đến đất Việt, giờ lại đi Yên Kinh/ Ông Mai làm phú khiến ngƣời đời kinh ngạc/ Trƣơng tử cƣỡi bè đến thẳng trời/ Muôn dặm khói mây, khí hồ biển/ Sao sớm bên xe sứ, ghi nhớ cảnh núi sông.
Xuân phong sứ tiết quá Long Biên Nhƣợc vị li tình thoại cách niên Quan bản đại tân hoàn đại khách Nhân tằng nhƣ Việt hựu nhƣ Yên Mai gia tác phú kham kinh thế Trƣơng tử thừa sà trực đáo thiên Vạn lí vân yên hồ hải khí Du hiên tinh hiểu ký sơn xuyên
37. HỌA KÍ ĐỒNG NIÊN BÌNH ĐỊNH HỘ ĐỐC NGUYỄN ỨC TRAI/ HỌA THƠ GỬI BẠN ĐỒNG KHOA LÀ HỘ ĐỐC BÌNH ĐỊNH NGUYỄN ỨC TRAI
Lâm kỳ không quý tặng tƣơng li Biệt khứ quan sơn khƣớc dữ thùy Lên đƣờng luống hổ thẹn, tặng hoa “sẽ chia tay” Từ biệt đi vào chốn quan san, biết sẽ cùng ai?
PL74
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1 – tr 700)
Long Đỗ cúc thâm nhân ngọa bệnh Hải môn thiên viễn nhạn lai trì Lăng hoa chiếu kính duy lân sấu Mai ý phùng xuân lƣỡng phóng chi Chỉ xích phần hƣơng văn kiến tiết Giác Am bích thƣợng hữu đề thi Long Đỗ cúc cuối mùa, ngƣời đổ bệnh Cửa bể trời xa nhạn chậm về Soi trong gƣơng hoa sen, chỉ thƣơng vóc dáng gầy guộc Ý của hoa mai gặp xuân hai lần đâm cành Quê hƣơng trong gang tấc, đƣợc nghe việc giữ gìn phẩm tiết Trên vách nhà Giác Am có thơ đề.
38. DỤNG CÖC ĐƢỜNG NGUYÊN VẬN, TỐNG QUẢNG BÌNH HƢU TẨU NGUYỄN THUẬN CHI HOÀN HƢƠNG/ DÙNG NGUYÊN VẦN THƠ CỦA CÖC ĐƢỜNG, TIỄN ÔNG LÃO NGHỈ HƢU LÀ NGUYỄN THUẬN CHI Ở BÌNH ĐỊNH VỀ QUÊ
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1 – tr 711)
Quyện điểu Nam sơn hạ Phù vân túng sở chi Long Biên kim quả khách Lô thủy thử lai thu Hồ hải thùy kỳ khí Viên lâm nhƣợc túc kỳ Nhất thanh sƣơng lí nhạn Minh nguyệt cộng tƣơng ti (tƣ). Chim mỏi đậu xuống núi Nam Mây nổi vùn vụt bay đi Nay là khách qua Long Biên Sông Lô lần này có thơ đến Hồ biển, ai có khí chất kì lạ Chốn vƣờn rừng nhƣ đã có hẹn trƣớc Một tiếng nhạn trong sƣơng Dƣới trăng sáng, chung một nỗi nhớ nhau.
39. PHAN SẢI PHONG DĨ KIM HẠ HỒI TRIỀU, THƢ THỬ VI TIỄN/ MÙA HÈ NĂM NAY PHAN SÀI PHONG VỀ TRIỀU VIẾT BÀI THƠ NÀY
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1 – tr 713)
Tƣơng ức tƣơng phùng Nhị thủy nha Nhất tôn tƣơng tiếp tức quan hà Cố hƣơng kỵ tự hàm xuân tửu Sứ tiết thùy tri hệ thấn gia? Lục mãn hà phong phiêu ý cẩm Hoàng thôi mai vũ tống chinh xa Nghi đài ký thế ti luân mĩ Tiêu Hán cao phi uất quốc hoa Nhớ rằng mới gặp nhau bên dòng sông Nhị/ Tiếp nhau xong một chén, đã thành quan hà xa cách/ Nơi quê hƣơng xƣa bản thân tôi đã tự say rƣợu xuân/ Cờ tiết sứ giả, ai hay lại có quan hệ thân gia/ Màu xanh bát ngát, gió đƣợm hƣơng sen thổi phất phơ áo gấm/ Mƣa thúc giục màu vàng của hoa mai tiễn xe đi xa/ Đài lễ nghi, mấy đời đƣợc chiếu vua khen tặng/ Bay trên cao sông Ngân Hà, làm rạng rỡ cho đất nƣớc.
40. PHỤNG TỐNG HÀ NỘI CHỦ THÍ NGUYỄN ỨC TRAI HỒI TRIỀU, DỤNG ỨC TRAI TIỄN VẬN/ VÂNG TIỄN CHỦ KHẢO TRƢỜNG THI HÀ NỘI NGUYỄN ỨC TRAI VỀ TRIỀU, DÙNG NGUYÊN VẦN THƠ TRƢỚC CỦA ỨC TRAI
Tƣơng phùng tƣơng vấn, khổ tƣơng li Tô tử ngô kim bất ký thùy Dã lão cận tằng phân tịch khứ Sơn đƣờng duy hữu ủng thƣ trì Thế đồ ký lão thƣơng thiên lí Thân sự liêu sào mạn nhất chi Gặp nhau, thăm hỏi nhau, khổ vì phải chia tay nhau./ Nhƣ Tô tử, tôi nay không nhớ mình là ai nữa/ Ông lão thôn quê gần đây từng ra đi sau bữa tiệc chia tay/ Nhà nơi núi non, duy thƣ từ mang đến chậm/ Ngựa ký già bi thƣơng vì ngàn dặm đƣờng đời/ Việc của bản thân mình, nhƣ chim ri chỉ mong lạm có một cành/ Mấy đóa
PL75
Sổ điểm mai hoa sô đạo viễn Dƣơng Quan sầu xƣớng tống hành thi hoa mai hộ tống trên đƣờng xa/ Buồn hát thơ Dƣơng Quan để tiễn đƣa.
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1, – tr 715)
41. TUYÊN QUANG NIẾT SỨ BÙI HỮU TRÚC NỘI CHUYỂN QUỐC SỬ QUÁN TOẢN TU, THƢ TIỄN/ NIẾT SỨ TUYÊN QUANG BŨI HỮU TRÖC ĐƢỢC CHUYỂN VỀ TRIỀU LÀM TOẢN TU Ở QUỐC SỬ QUÁN, VIẾT THƠ TIỄN
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1, – tr 722)
Sứ xa tài tống hựu đăng triều Ngũ nguyệt mai hoa hƣởng Vị kiều Tƣ Mã cố ƣng trƣờng thị sứ Xƣơng Lê sơ dĩ tín ƣ triều Hồng phi nam tái thôi hàn nguyệt Hạc phóng Tây Hồ động bích tiêu Nhị thủy thuyền đầu tôn tửu lí Quan hà duy biệt tức hồn tiêu Vừa tiễn xe sứ, lại tiễn vào triều/ Hoa mai tháng Năm vọng tiếng nơi cầu sông Vị/ Tƣ Mã xƣa chấp nhận mãi làm ngƣời viết sử/ Xƣơng Lê ban đầu đã tin sẽ ở Triều Châu/ Chim hồng bay về ải nam, thúc giục vầng trăng lạnh/ Chim hạc liệng ra Tây Hồ, lay động bầu trời xanh biếc/ Đầu thuyền trên sông Nhị, lúc đối diện với chén rƣợu/ Trong chốn quan hà, chỉ khi chia biệt là buồn đến phiêu tán cả hồn./
42. TIỀN KIẾN THỤY THÁI THÚ BẢO TRIỆN TRẦN QUÂN TƢƠNG PHỎNG, CẶP HOÀN THƢ TIỄN/ TRI PHỦ KIẾN THỤY TRƢỚC ĐÂY LÀ TRẦN QUÂN Ở BẢO TRIỆN ĐẾN THĂM, ĐẾN KHI VỀ VIẾT TẶNG
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1, – tr 727)
Lại ruổi ngựa còm đến nhà tôi/ Xỏ lẫn guốc ra đón nhau, lại bàn luận những việc quan trọng/ Bảng thi mùa thu đến nay còn mái tóc bạc/ Gió xuân lại tiếp đón một bầu rƣợu trong/ Tƣớc vị ngƣời giết thịt dê của tôi vẫn vẹn nguyên/ Công danh nhƣ việc đánh rơi cái ấm đất, cƣời chẳng nói/ Liễu ven đê vô tình, lƣu lại chẳng đƣợc/ Bóng mây bên sông đi vào cảnh hoàng hôn.
Hựu khu luy mã đáp ngô môn Đảo lí tƣơng phùng thả yểu luân Thu bảng chí kim tồn bạch phát Xuân phong trùng tiếp nhất thanh tôn Đồ dƣơng tƣớc vị hoàn nhiên ngã Trụy tắng công danh tiểu bất ngôn Đê liễu vô tình lƣu bất trú Cách giang vân ảnh nhập hoàng hôn
43. TÂM KHẾ TÂN XUYÊN DĨ THÁI PHIÊN THĂNG BỔ HÀ TIÊN BỐ CHÍNH, HỘ LÍ TUẦN PHỦ, ĐẠO KINH HÀ THÀNH, THƢ TIỄN/ BẠN TÂM GIAO LÀ TÂN XUYÊN TỪ BỐ CHÁNH SỨ THÁI NGUYÊN THĂNG BỔ BỐ CHÁNH, HỘ LÍ TUẦN PHỦ HÀ TIÊN, TRÊN ĐƢỜNG QUA HÀ NỘI, VIẾT TẶNG
Bích chàng nam chỉ vạn sơn trì Biệt thoại thông mang Nhị thủy mi Tri kỵ hữu thùy tƣ hải nội Hoài nhân hà xứ tƣởng thiên nhi (nhai) Quan hà tân sủng thanh phiên trọng Nhung mã thần lao bạch phát trì Nhất phiến xích tâm nan đắc tự Biên man tuy viễn khởi vô tri Xe căng vải xanh hƣớng về phía nam, ruổi rong qua muôn núi/ Nói lời chia biệt vội vàng bên bờ sông Nhị/ Ngẫm trong bốn bể, có ai là ngƣời tri kỵ/ Nhớ ngƣời ở chốn nào, nghĩ đã ở tận nơi chân trời/ Nơi quan hà, tuy mới đƣợc sủng ái, song nhiệm vụ nơi phiên trấn rất trọng/ Việc quân sự, kẻ bề tôi khó nhọc, mái tóc bạc từ lâu/ Một tấm lòng sắt son khó ai đƣợc nhƣ thế/ Ngƣời man tuy ở vùng biên viễn há lại không hay biết. (Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1, – tr 733)
PL76
44. TIỄN BẢN QUẬN LƢU GIÁO THỤ QUY HƢU HỌA LƢU GIẢN NGUYÊN VẬN/ TIỄN GIÁO THỤ HỌ LƢU Ở BẢN QUẬN VỀ NGHỈ HƢU, HỌA NGUYÊN VẦN THƠ LƢU LẠI
Giáo thụ tiên sinh thử khứ quan Giang vân tƣơng tống, điếu phi hoàn Giáo thụ tiên sinh lần này nghỉ việc quan Mây trên sông cùng đƣa tiễn, chim bay về
Ngũ tam đồng tử tùy luy mã Nhất phiến xuân phong phá túy nhan Dăm ba đứa trẻ nhỏ chạy theo con ngựa còm Một cơn gió xuân làm tƣơi lại vẻ mặt rƣợu say
Sĩ hoạn hà thƣờng duy thích chỉ Viên lâm đáo để tối trƣờng nhàn Quan chức đâu làm mãi, chỉ có dịp phù hợp là nghỉ Chốn vƣờn rừng rốt cục là nơi thanh nhàn lâu dài nhất
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1, – tr 750)
Thử hƣơng hoàn hữu Đông Dƣơng tại Dã hứng hà nhƣ đắc ý gian Về quê chuyến này đã có Đông Dƣơng ở đó Hứng quê đâu bằng chỗ đƣợc theo ý mình.
45. HÀ NINH TỔNG ĐỐC, KINH LƢỢC SỬ NGUYỄN CÔNG QUY TRIỀU, DỤNG SƠN ĐỐC NGUYỄN ỨC TRAI NGUYÊN VẬN PHỤNG TIỄN/ TỔNG ĐỐC HÀ NỘI - NINH
BÌNH, KINH LƢỢC SỬ NGUYÊN CÔNG VỀ TRIỀU, DÙNG NGUYÊN VẦN THƠ CỦA ĐỐC SỨ SƠN TÂY NGUYỄN ỨC TRAI ĐƢA TIỄN
Cuồng lỗ đầu qua giáp Nguyên nhung quyển bái tinh Bọn giặc cuồng bạo đã buông qua, cởi giáp (khuất phục) Bậc nguyên nhung đã cho cuốn cờ
Điền gian ngu bổn cúc Tái thƣợng mãn công danh Nơi ruộng nƣơng vui với việc cày cuốc và đƣợc nuôi dƣỡng Trên biên tái đầy những ngƣời đạt đƣợc công danh
Mƣu quốc kinh suy mấn Triều thiên lịch tố tình Mƣu toan việc nƣớc, giật mình thấy tóc mai suy bạc Chầu thiên tử giãi tỏ mọi tình thực
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1, – tr 755)
Công quy vô cửu xử Nho quán hữu ca thanh Ông về cũng chẳng bao lâu Nơi nhà học có tiếng ca hát.
46. TỐNG TRƢỚC TÁC LANG HOÀNG THỈ VĂN PHÓ KHUYẾT/ TIỄN TRƢỚC TÁC
LANG HOÀNG THI VĂN ĐẾN CỬA KHUYẾT
Hiếu trung kim lƣỡng đắc Nay hiếu trung vẹn đƣợc cả hai
Trịnh Giải độc hà nhân? Tải ký nhu tài thiết Riêng Trịnh Giải là ngƣời thế nào? Việc ghi chép rất cần ngƣời tài
Từ hoa trác cú tân Thất lƣ sơ bất viễn Thơ từ, chuốt gọt những câu mới Nhà cửa trƣớc đây cũng không xa nhà tôi
Văn tự cận tƣơng thân Mã thú Hoàng Mai dịch Vì chữ nghĩa nên gần đây thân thiết nhau Phía đầu ngựa là trạm dịch Hoàng Mai
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1, – tr 758)
Long Biên nhị nguyệt xuân Mùa xuân tháng Hai ở Long Biên.
PL77
47. THU KHANH SÀI PHONG, ĐÔNG KHANH MI XUYÊN MÔNG ÂN GIẢ HOÀN HƢƠNG, CẬP HỒI TRIỀU TƢƠNG PHỎNG DƢ THÍCH KHỨ SƠN BÌNH THỤ QUÁN, THƢ TIỄN/ THU KHANH SÀI PHONG, ĐÔNG KHANH MI XUYÊN ĐƢỢC ĐỘI ƠN CHO VỀ QUÊ NGHỈ NGƠI, ĐẾN KHI VỀ TRIỀU QUAN THĂM, ĐÖNG LÖC TÔI VỪA ĐI SƠN BÌNH DẠY HỌC, BÈN VIẾT THƢ TIỄN
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1, – tr 799)
Sứ tiết tam niên chí Quân ân nhất nguyệt hoàn Cố tri thùy bất hỉ Viễn mộng các tƣơng quan Ca khúc hồng lâu dạ Xuân bôi tử lí gian Quy triều tề khởi mã Ẩn kỵ độc tầm san Cờ tiết sứ giả ba năm đến nơi Ơn vua cho về một tháng Bạn cố tri ai chẳng mừng Mộng xa xôi mỗi ngƣời đều nghĩ đến nhau Khúc hát ban đêm ở lầu hồng Chén xuân nơi quê hƣơng Hai bác về triều cùng lên ngựa Kẻ ngồi lặng ẩn trên ghế, một mình tìm lên núi.
48. SUNG BIỆN NỘI CÁC NGUYỄN QUÂN VÂN LỘC (TƢ GIẢN) XU TRIỀU, THƢ TIỄN/ BÁC NGUYỄN VÂN LỘC (TƢ GIẢN) SUNG CHỨC BIỆN LÝ TRONG NỘI CÁC, VÀO TRIỀU, VIẾT TIỄN
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1, – tr 821)
Nam vân sƣơng nhạn kiến hành chu Liệu tận Long Biên thất nguyệt thu Khách cửu phần du thành trú cẩm Thiên cao nhật nguyệt khƣớc tâm du Đồ Nam cửu vạn dung mao cách Ký Bắc tam thiên thất ký lƣu Lang miếu giang hồ phi lƣỡng sự Hảo tƣơng dân ẩn đối thần lƣu. Con thuyền đi theo mây phƣơng Nam và nhạn mùa thu/ Nƣớc lụt rút hết, Long Biên vào tiết thu tháng Bảy/ Ở đất khách lâu, đã thành đạt, mặc áo gấm về làng/ Trời cao, lòng dạo chơi cùng mặt trăng mặt trời/ Tính chuyện vƣợt chín vạn dặm bay về Nam, phải có cánh chim khỏe/ Ngóng trông về Bắc, ba nghìn dặm lại mất ngựa ký ngựa lƣu/ Nơi lang miếu và chốn sông hồ, chẳng phải là hai việc/ Hãy tỏ rõ chức trách quan triều trƣớc những ẩn khuất của ngƣời dân.
49. TIỄN CAO BẰNG NIẾT SỨ NGUYỄN QUÂN TIẾN LỤC CHI LỊ/ TIỄN ÁN SÁT CAO BẰNG NGUYỄN TIẾN LỤC TỚI NƠI LÀM VIỆC
Mục Mã vân thâm vạn lĩnh bình Bắc lân quan tái sự phi khinh Uyên hồng đắc lộ nghi vân hán Bàn thố nhu tài xuất thành minh Tức kiến đơn xa khu viễn đạo Khƣớc văn tân nhạn độ giang thành Quân gia thế cập thừa ân trạch Hảo hƣớng lân đồ trƣớc tính danh
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1, – tr 825)
Trạm Mục Mã mây dầy, muôn núi bằng phẳng/ Việc nơi quan ải với nƣớc láng giềng phía Bắc chẳng thể coi nhẹ/ Chim uyên, chim hồng có đƣợc đƣờng bay ƣng ý là ở trên trời cao/ Công việc đan xen phức tạp cần ngƣời có tài, đƣợc chọn ra từ bậc vua thánh sáng suốt/ Vừa thấy xe một mình ruổi rong trên đƣờng xa/ Đã nghe tin chim nhạn mới vƣợt qua Giang thành/ Gia đình ông đời đời đƣợc chịu ơn vua/ Hãy nghĩ tới việc ghi tên tuổi vào tranh vẽ các công thần trên gác Kỳ Lân.
PL78
50. TIỄN LẠNG SƠN TUẦN PHỦ PHAN QUÂN NHẬP VI HỘ BỘ THAM TRI/ TIỄN TUẦN PHỦ LẠNG SƠN LÀ ÔNG PHAN VÀO TRIỀU LÀM THAM TRI BỘ HỘ
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1, – tr 833)
Bàn thố hà nan đáo lập công Nam Quan tiết việt thú lâu không Miếu đƣờng khả thị tƣ hiền thiết Phụ lão phƣơng văn chúc phật đồng Thế lộ trùng phùng duy bạch phát Viễn tình tƣơng tống hựu thu phong Tam Thanh yên nguyệt lao trì mộng Hàn thử hồi đầu thập tải trung Nơi công việc khó khăn, phức tạp, lập công có khó gì Ở Nam Quan thiếu ngƣời nghiêm trị, canh phòng trễ nải Triều đình đúng là tha thiết nghĩ đến ngƣời tài giỏi Các bậc phụ lão vừa nghe tin đã khấn ông nhƣ khấn Phật Đƣờng đời trùng phùng chỉ khi đầu đã bạc Tình xa xôi đƣa tiễn nhau lại đúng lúc gió thu Vất vả ruổi rong trong mộng theo khói trăng Tam Thanh Ngoảnh đầu nhớ lại, nóng lạnh đắp đổi đã mƣời năm.
51. TỐNG ĐỐC LÂM CÔNG CHẤT HIÊN LAI KINH ĐIỀU DỤNG, PHỤNGTIỄN/ TỐNG ĐỐC LÂM CHẤT HIÊN VỀ KINH ĐỂ NHẬN CHỨC KHÁC, VÂNG TIỄN ĐƢA
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1, – tr 835)
Đã sang năm mới, bãi sông Nhị gió bấc lạnh giá/ Một ngựa về triều, ý liễu miên man/ Vâng lệnh vua, dấu chim hồng còn để lại bên ngoài hai cánh cửa khổn/ Chống đỡ trời, thân quan hệ đến năm thức mây/ Nhà vua nhớ tới ngƣời cũ có đức, thật là cuộc “tri ngộ” ƣu ái/ Bề tôi từ trong lòng son luôn bền bỉ với chức quan/ Cớ gì lại may mắn đƣợc dịp đánh xe cho ông Lý/ Nơi đƣờng rẽ khó đƣợc thỏa lòng nhƣ ngày trƣớc.
Tuế canh Nhị chử sóc phong hàn Sất mã quy triều liễu ý man Ủng tiết trảo lƣu song khổn ngoại Kình thiên thân hệ ngũ vân đoan Đế tƣ cựu đức chân ƣu ngộ Thần tự đan tâm tổng nại quan Hà sự viên lâm phùng ngự Lý Lộ kỳ trù nẵng thích hoài nan
52. HÀ NỘI PHIÊN SÚ TÔN THẤT NHẬP VI HÌNH BỘ THỊ LANG, THƢ TIỄN/ QUAN BỐ CHÁNH HÀ NỘI LÀ TÔN THẤT VỀ TRIỀU LÀM THỊ LANG BỘ HÌNH, GỬI THƢ TIỄN
Xa thanh phƣơng bá báo đăng triều Nhị nguyệt yên hoa phỏng Bá Kiều Nhất lộ thƣơng lê tƣ bất nhiễu Ngũ vân cung khuyết mộng phi diêu Ngọc nhân tại tọa chiêm quan miện Cao vũ sơ tình trƣởng thử miêu Thánh thế tƣờng hình quan nhƣợc thiết Xuân phong nhất vị vấn đồng liêu
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1, – tr 852)
Tiếng xe vị phƣơng bá báo tin ông về triều/ Trong khói hoa tháng hai tới thăm Bá Kiều/ Suốt đƣờng đi, niềm suy nghĩ về dân chúng không rối loạn/ Giấc mộng đƣợc tới cung khuyết trong mây ngũ sắc không còn xa nữa/ Ngƣời ngọc có mặt (tại nơi đón tiếp) ngẩng nhìn mũ miện/ Mƣa màu mỡ vừa mới tạnh, mạ lúa mọc tốt tƣơi/ Đời thánh, nếu có đặt chức quan là để hình phạt đƣợc nhân ái/ Gió xuân cũng hỏi các đồng liêu giúp cho.
53. HÀ NỘI NIẾT SỨ PHẠM QUÂN NHẬP THAM BIỆN NỘI CÁC/ ÁN SÁT HÀ NỘI LÀ ÔNG PHẠM VỀ KINH LÀM THAM BIỆN NỘI CÁC
Hà sự Long Biên tống bất hƣu Sứ tinh thứ đệ nhập hoàng châu Trực danh hải nội văn Đƣờng Giới Phiến ngữ nhân tình phục Tử Do Can cớ gì mà Long Biên tiễn mãi không dứt Ngôi sao sứ lần lƣợt về kinh Tiếng thẳng thắn trong nƣớc nổi danh nhƣ Đƣờng Giới Một lời nói cũng thấy tình ngƣời đáng phục nhƣ Tử Do
PL79
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1, – tr 856)
Các hạ ti luân văn khí tĩnh Thiên cao nhật nguyệt tráng tâm du Khƣớc lân bạch phát phùng thanh nhãn Nhất phiến nam vân xuất dịch đầu Chiếu thƣ triệu dƣới các, hơi văn điềm tĩnh Mặt trời mặt trăng trên trời cao, tráng tâm rong ruổi Chỉ thƣơng tóc trắng mới gặp đƣợc mắt xanh Một mảnh mây phƣơng nam từ dịch trạm bay lên.
54. TIỄN CHỦ KHẢO PHẠM CÔNG HỮU NGHI HỒI TRIỀU/ TIỄN CHỦ KHẢO LÀ ÔNG PHẠM HỮU NGHI VỀ TRIỀU
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1, – tr 874)
Thí viện hành văn bãi Quan cƣ chử mính yêu Biệt đa duy vấn cựu Quý chí vị thƣờng kiêu Chí thặng chân nan sự Suy bì bất khả chiêu Minh sô kim tựu đạo Mai hiểu Bá Lăng kiều. Đã chấm văn xong ở trƣờng thi Đun nƣớc mời trà ở sảnh quan Xa nhau lâu ngày, chỉ hỏi han về chuyện cũ Sang tột bậc mà chƣa từng kiêu Ghi chép lịch sử châu, huyện thật là việc khó Suy yếu, mệt mỏi thì không thể vời Ngƣời coi xe đánh tiếng, nay đến lúc lên đƣờng Hoa mai bên cầu Bá Lăng buổi sáng.
55. PHỤNG TIỄN ĐỊNH AN CHẾ ĐÀI NGUYỄN PHƢƠNG HIÊN SUNG HẢI AN KINH LƢỢC ĐẠI THẦN/ VÂNG TIỄN TỔNG ĐỐC ĐỊNH AN LÀ NGUYỄN PHƢƠNG HIÊN ĐƢỢC SUNG CHỨC HẢI AN KINH LƢỢC ĐẠI THẦN
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1, – tr 923)
Phi đan lũy sớ toại đông vãng Phụng chiếu Hoàng giang xuất bái tinh Chƣ đạo quan quân quy tiết chế Nhất xuân kình ngạc nhiếp phong thanh Lập công khốn ngoại duy lƣơng tƣớng Hứa quốc thần tâm xuất thế khanh Khán thủ lân đổ huân nghiệp trọng Nguy nhiên Bác Lục bất thƣ danh Giãi tấm lòng son nhiều lần dâng sớ, bèn đƣợc về miền đông/ Vâng theo chiếu vua ban, cờ quạt ra đi từ Hoàng Giang/ Quan quân các đạo quy về tay tiết chế/ Cả một năm kinh ngạc nghe tiếng gió đã sợ/ Lập công ở ngoài cõi duy bậc tƣớng giỏi/ Bề tôi có lòng vì nƣớc xuất thân từ nhà quan nhiều đời/ Hãy xem công nghiệp lớn lao đƣợc vẽ chân dung treo ở gác Kỳ Lân/ Vậy mà cao chót vót nhƣ Bác Lục lại chẳng đƣợc ghi tên.
56. Y HÀ NIẾT NGUYÊN VẬN TIỄN TIÊN HƢNG THÁI THÖ NGUYỄN NGHI/ THEO NGUYÊN VẬN CỦA ÁN SÁT HÀ NỘI TIỄN THÁI THÖ TIÊN HƢNG LÀ NGUYỄN NGHI
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1, – tr 959)
Hà xứ sƣơng chung hƣờng quả đình Tài văn ngũ mã xuất giao quynh Vị Giang cức viện tƣ vãn sự Tiên Động cầm đƣờng kiến phúc tình Lai vãng thu thanh phùng tảo nhạn Khứ lƣu giang liễu hệ ly đình Cận thành Bá thủy đa lƣu lạc Kỵ cá tùng hòe vũ hậu thanh Tiếng chuông từ nơi nào vang qua sân Mới nghe thấy tiếng xe thái thú ra ngoại ô xa xa Nhớ lại việc văn ở trƣờng thi Vị Giang Thấy đƣợc ngôi sao phúc ở huyện đƣờng Tiên Động Tiếng thu qua lại gặp chim nhạn bay sớm Liễu bên sông phất phơ vƣơng vấn ngôi đình tiễn đƣa Nƣớc sông Bá ở gần thành nhiều lƣu lạc Mấy cây tùng, cây hòe xanh tốt sau mƣa.
PL80
57. TỐNG ĐỒNG NIÊN NGUYỄN GIA ĐỊNH TUẦN PHỦ ĐỖ QUÂN THẬN HIÊN/ TIỄN BẠN ĐỖ CÙNG BẢNG, NGUYÊN TUẦN PHỦ GIA ĐỊNH LÀ ĐỖ THẬN HIÊN
Trần tình nhị biểu quýnh thùy phan Thán tức anh phong cổ sở nan Hai tờ biểu trần tình khác biệt, khó có ai theo đƣợc Thở than cho khí khái dũng cảm, ấy là việc khó từ xƣa
Lƣơng vị nghĩa dân thâm thể lệ Bất kham tân tiết tác thi san Chính là vì ngƣời dân nghĩa khí mà rơi nƣớc mắt Không nỡ dựng cờ tiết mới chiếm suông chức vị
Hoàng Giang phụng mẫu quy tùng đệ Mai Dịch phùng nhân tống thủ hàn Trở về ngôi nhà trồng thông ở Hoàng Giang để nuôi mẹ Gặp ngƣời ở Mai Dịch đƣa cho lá thƣ chính tay viết
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1, – tr 965)
Thiên thƣợng chiếu thƣ tần đốc xúc Cúc li an đắc thƣợng bàn hoàn Chiếu của nhà vua nhiều lần đốc thúc Sao còn đƣợc nấn ná bên giậu cúc.
58. BINH BỘ THƢỢNG THƢ KHÂM SAI TUYÊN ÖY HẢI AN QUÂN THỨ TRẦN CÔNG TƢƠNG PHỎNG, CẬP HOÀN THƢ TIỄN/ THƢỢNG THƢ BỘ BINH LĨNH CHỨC KHÂM SAI TUYÊN ÚY QUÂN THỨ HẢI AN LÀ ÔNG HỌ TRẦN ĐẾN THĂM, KHI VỀ CÓ
THƢ TIỄN
Hoài Tây tuyên úy sự Sự việc tuyên úy ở Hoài Tây
Bùi Độ thử hà nhân? Diệt tặc vu trù sách Triều thiên bị vấn tuân Bùi Độ là ngƣời thế nào? Trăn trở vạch kế sách diệt giặc Chuẩn bị sẵn khi vào chầu vua hỏi đến
Long Biên sơ hệ mã Cƣu trƣợng nhƣợc nghênh tân Ông vừa buộc ngựa ở Long Biên Tôi chống chiếc gậy cƣu nhƣ đón khách quý
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1, – tr 1011)
Hồi ức Kinh đƣờng tửu Trùng phùng cúc hựu tân Nhớ lại chén rƣợu ở Kinh đƣờng Nay trùng phùng lại vào mùa cúc mới.
59. ĐÀO CÔNG PHỤNG PHÁI TUẦN TUYÊN CHI HÀNH, THƢ TIỄN/ ÔNG ĐÀO VÂNG LỆNH PHÁI ĐI TUẦN HÀNH, THƢ TIỄN
Tƣớng công huân nghiệp trọng sơn hà Công lao, sự nghiệp của Tƣớng công để cả ở non sông/ Vì
Tự thị hoàng vƣơng ỵ trọng đa Cƣơng lý hiền lao truyền thụ thạch thế nhà vua càng tin cậy, nhờ dựa/ Giỏi giang, vất vả trị lý cƣơng vực đƣợc ghi vào bia đá/ Hỏi han, bàn bạc, mƣu
Tƣ tƣu cao vũ cánh tùy xa Quá kiều Nha đạo quan lƣu thủy lành đến theo xe quan/ Trung quân mang cờ tiết mao cán trang sức ngà voi qua cầu, xem nƣớc chảy/ Tâm tính vui
Duyệt tính đồ thƣ hội chi qua Thiệu Bá tuần hành đƣơng nhật sự vẻ, thoải mái, sách vở sẽ ngăn cản đƣợc can qua/ Việc Bá Thiệu đi tuần ngày ấy/ Để lại niềm yêu mến, thơ Cam
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 1, – tr 1031)
Cam đƣờng di ải bá tƣ ca đƣờng vang lên lời nhớ nhung.
PL81
60. THÙ NGUYÊN VẬN TỐNG HÀ NINH ĐẠO NGỰ SỬ HOÀNG TƢ PHU BỆNH CÁO QUY HƢU/ HỌA NGUYÊN VẦN TIỄN NGỰ SỬ ĐẠO HÀ NINH HOÀNG TƢ PHU CÁO BỆNH XIN VỀ HƢU
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – tr 7)
Khô tràng sách kỵ liên Khiển quyển ức tề niên Ứng thế phi vô trạng Hoài hƣơng dã tự hiền Phù vân Tản Lĩnh hạ Quy mã tịch dƣơng thiên Tôn tửu ƣng vô sự Thu phong cúc kính biên. Lòng khô héo muốn tìm mấy vần thơ Tình quyến luyến nhớ bạn cùng đỗ khoa thi Hƣơng Nhập thế, chẳng phải là không có công trạng Nhớ quê cũng tự cho là hiền Mây bay dƣới đỉnh non Tản Ngựa về trong trời chiều Trƣớc chén rƣợu hẳn là không có việc gì Gió thu thoảng bên luống cúc.
61. TỐNG ĐỖ KÍNH HỒ CHI GIANG LƢU BA/ TIỄN ĐỖ KÍNH HỒ ĐI GIANG LƢU BA
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – tr 11)
Thùy lão tu mi bán tuyết sƣơng Hải trình bạt thiệp đáo Tây Dƣơng Lôi đình chí giáo trƣng thành vật Thiên địa sinh cơ tự nhất dƣơng Đà Nẵng sà phù vân diếu diếu Côn Luân phàm ảnh nguyệt mang mang Hƣơng Giang biệt tửu thâm hàn dạ Sổ điểm mai hoa động cách tƣờng Đã tuổi tác râu tóc quá nửa nhuốm màu tuyết sƣơng/ Cuộc hành trình trên bể, xông pha đến tận Tây Dƣơng/ Giáo huấn nghiêm khắc cốt để đào tạo ngƣời thành đạt/ Cơ trời đất sinh ra từ chỗ này một hào dƣơng/ Thuyền sứ ra đi từ Đà Nẵng mây mờ mịt/ Bóng cánh buồm qua Côn Lôn, trăng mênh mang/ Chén rƣợu tiễn đƣa trên sông Hƣơng, đêm sâu giá lạnh/ Vài bông mai nở lay động cách tƣờng.
62. CỬU NHẬT TỐNG NGUYỄN NIẾT QUY ĐIỀN/ NGÀY MỒNG CHÍN, TIỄN ÁN SÁT HỌ NGUYỄN VỀ ĐIỀN VIÊN
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – tr 39)
Tiêu tiêu phong vũ sấu hoàng hoa Tôn tửu trùng dƣơng biệt hứng xa Lão bệnh cố ƣng quy khứ hảo Thành toàn huống thị quốc ân đa Quân thiều mộng nhập cao thu viễn Tùng cúc ngâm quy bạch nhật tà Cổ mạo cổ tâm đa khí mộ Mang mang hồng ảnh quá bình sa. Mƣa gió xạc xào khiến cho cúc vàng gày guộc Chén rƣợu trùng dƣơng gợi nhiều cảm hứng khi chia biệt Già ốm, cố nhiên về nghỉ là tốt Huống chi đƣợc thành đạt vẹn toàn, là nhờ ơn nƣớc rất nhiều Giấc mộng Quân thiều đi vào cảnh thu cao vời Ngâm thơ tùng trúc mà về, ánh tà dƣơng đã xế chiều Rất mực hâm mộ vẻ mặt ngƣời xƣa, tấm lòng ngƣời xƣa Bóng chim hồng mờ mờ bay qua bãi cát bằng phẳng.
63. TỐNG TÂN TIẾN SĨ NGUYỄN THỔ QUY DƢỠNG/ TIỄN TÂN KHOA TIẾN SĨ NGUYỄN THỔ XIN VỀ PHỤNG DƢỠNG CHA MẸ
Độc năng thiện dƣỡng hựu hoàn hƣơng Vũ trụ nhƣ quân vị dị đƣơng Riêng ông là ngƣời giỏi phụng dƣỡng cha mẹ nên lại trở về quê/ Trong trời đất này ngƣời nhƣ ông chƣa dễ ai
Bạch phát từ vi niên dĩ hỉ Thanh vân tiền lộ nhật phƣơng trƣờng sánh đƣợc/ Cha mẹ tóc bạc, cứ xem tuổi mà mừng/ Con đƣờng công danh ở phía trƣớc ngày tháng còn dài/ Sự
PL82
Khổ tâm tiên quế thù đăng tịch Hƣớng dũ mai hoa nại hiến thƣơng khổ tâm về cây quế tiên đã đƣợc đền bù bằng việc ghi tên vào sổ sách/ Hoa mai hƣớng vào cửa sổ hãy xin dâng
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – tr48)
Nhất nhật tam công thành tự trọng Bút sơn tùng sắc mãn thƣơng thƣơng. chén/ Một ngày nào đó làm đến Tam công, cần tự giữ gìn/ Núi Bút sắc tùng xanh khắp nơi.
64. PHAN THỊ LANG MAI XUYÊN KHÂM MỆNH THƢ TIỄN/ THỊ LANG PHAN MAI
XUYÊN VÂNG MỆNH, LÀM THƠ TIỄN
Tinh tiết hựu Nam khứ Cờ sứ lại đi về Nam
Tòng công kỵ tuế hồi Hộ đăng thiên phủ sách Theo việc công mấy năm mới trở về Họ tộc đã đƣợc đăng tên vào sách triều đình
Bút thuộc địa quan tài Giao dã thiên thăng mạch Bút mực thì thuộc về chức trách quan trong Hộ bộ Cánh đồng lúa phía ngoài thành có hàng nghìn khoảnh
Giang thành ngũ nguyệt mai Thử châu tƣơng hỵ vị Thành bên sông có hoa mai tháng Năm Ngƣời châu này mừng bảo nhau
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – tr 58)
Minh phƣợng cánh trùng lai Chim phƣợng hót mừng lại đến thành lần này nữa.
65. TIỄN ĐỒNG NIÊN THỦY TÀO LANG ĐỖ HUY PHỦ SUNG GIA ĐỊNH TRƢỜNG GIÁM KHẢO/ TIỄN BẠN ĐỒNG KHOA LÀ THỦY TÀO LANG ĐỖ HUY PHỦ ĐƢỢC SUNG
CHỨC GIÁM KHẢO TRƢỜNG THI GIA ĐỊNH
Ngô lƣu đa bỉnh bút Bọn ta phần nhiều làm nhiệm vụ cầm bút
Thử địa thủy hƣu binh Cộng thức hành văn trọng Đất này mới bắt đầu nghỉ binh đao Cùng biết rằng phải coi trọng việc thẩm định văn chƣơng
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – tr 72)
Nhi quân niên tối khinh Thế mà anh tuổi lại còn rất trẻ.
66. TRẦN GIÁO THỤ CHI CHỨC THƢ TIỄN/ TIỄN TRẦN GIÁO THỤ ĐI NHẬM CHỨC
Phong ba cập ngạn nhiệt tình khoan Vƣợt sóng gió đến bờ, ý tình nồng nàn đã đƣợc dịu lại/
Tự thị hà phong bất dị phan Hoàng cúc mộng quy tam kính hiểu Từ đấy phong cách cao xa không dễ vin tới/ Giấc mộng trở về với ba luống hoa vàng chập chờn lúc buổi sáng/
Bạch đầu nhân đới nhất danh hoàn Phù vân bất tận thanh sơn ngoại Ngƣời đầu bạc mang một cái tên trở về/ Mây trắng mênh mang tận phía ngoài rặng non xanh/ Mảnh trăng
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – tr 81)
Phiến nguyệt thƣờng minh Đông hải gian Bệnh ngã vị ƣng trƣờng luyến sủng Tây Hồ tảo vãn thí ngƣ can thƣờng sáng giữa vùng biển Đông/ Tôi yếu ốm không nên quyến luyến lâu ơn sủng bề trên/ Sớm hay muộn cũng sẽ về buông cần câu ở Tây Hồ.
PL83
67. ƢỚC PHU TỰ TRẤN TÂY LỘ HOÀN TƢƠNG QUÁ GIA ĐỊNH YÊU QUY LỊ SỞ LƢU TÖC, CẬP HOÀN THƢ TIỄN/ ƢỚC PHU TỰ TRẤN TÂY VỀ, ĐƢỜNG QUA GIA ĐỊNH MỜI VỀ TRỊ SỞ NGHỈ QUA ĐÊM, LÖC VỀ VIẾT THƠ TIỄN
Khởi tri kỳ lộ tự di duyên Ác thủ tƣơng phùng hựu nhất niên Há lại biết đƣờng rẽ mà giống nhƣ phải cầu cạnh Cầm tay nhau, lại một năm rồi mới đƣợc gặp lại
Kỵ nhật vân sơn đồng khách lộ Kinh tiêu phong vũ thoại đăng tiền Mấy ngày cùng là khách trên đƣờng mây núi Qua đêm mƣa gió, nói chuyện trƣớc đèn
Giang mai tiết lậu càn khôn ý Sƣơng nhạn quy hồi quan tái biên Cây mai bên sông tiết lộ ý của đất trời Nhạn trong sƣơng trở về bên quan tái
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – tr130)
Danh giáo thử trung khan tự lạc Tây hồ yên nguyệt nhất hồ thiên. Cùng xem và vui trong vòng danh giáo này Tây Hồ, một bầu trời khói và trăng.
68. TỈNH HẠT PHAN GIÁO THỤ THĂNG BÌNH ĐỊNH HỌC CHÍNH, CHI HÀNH THƢ TẶNG/ GIÁO THỤ HỌ PHAN TRONG TỈNH ĐƢỢC THĂNG LÀM QUAN HỌC CHÍNH BÌNH
ĐỊNH, LÊN ĐƢỜNG ĐI NHẬN CHỨC, VIẾT TẶNG
Tam nguyệt sơn thành liễu bán hoàng Tháng ba ở tòa thành bên sông, liễu một nửa ngả màu
Điểu thanh hoa ý các phân mang Xuân Đài nhất khứ nhân nhƣng viễn vàng/ Tiếng chim hót, ý của hoa, thây đều bối rối/ Một phen rời Xuân Đài, ngƣời vẫn xa xôi/ Gặp nhau trên
Khách lộ tƣơng phùng thảo tính phƣơng Thiệp thế lão niên đa luyện lịch đƣờng khách, cỏ cùng đƣa hƣơng/ Tuổi già trải đời, qua nhiều kinh lịch/ Khuôn mặt nghiêm trang của bậc thầy,
Kháng nhan sƣ phạm tảo minh dƣơng Khả năng đáo xứ tồn công nghiệp sớm đƣợc tỏ rõ/ Đến nơi đâu thì công lao sự nghiệp gây dựng ở nơi đó/ Cớ sao cứ phải khƣ khƣ tình cảm quyến
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, tr133)
Hà dụng khu khu luyến cố hƣơng luyến quê hƣơng
69. NIÊN NGHỊ PHAN THỊ LANG ĐIỀU BỔ BÌNH ĐỊNH BỐ CHÍNH, THƢ TẶNG/ BẠN
ĐỒNG KHOA LÀ THỊ LANG HỌ PHAN ĐƢỢC ĐIỀU BỔ LÀM BỐ CHÁNH BÌNH ĐỊNH, VIẾT THƠ TẶNG
Hồng Đức thiên biên thạch kiệt trần Nam lai thiên lí cánh tƣơng lân Bia đá thời Hồng Đức ven trời đã cũ/ Đi nhậm chức xa ngàn dặm về phƣơng Nam, lại càng thƣơng nhau/ Vừa
Cƣơng phùng thu nhạn kham lai vãng Bất biện Cù sơn thục chú tân gặp chim nhạn mùa thu có thể bay qua bay lại/ Chẳng phân biệt nổi ở Cù Mông này ai là chủ, ai là khách/
Mục Mã kỵ tằng thông viễn vấn Thăng Long cận thử trú hành luân Thành Mục Mã mấy lần từng hỏi tin tức từ phƣơng xa/ Lần này đƣợc dừng xe ở đất Thăng Long/ Nhớ lại bài
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – tr 153)
Hồi tƣ Thu giải năng kỳ hứng Hoàng cúc tôn trung bất yếm tần Thu giải của bác, cảm hứng thực tân kỳ/ Hoa cúc vàng trong chén rƣợu, chẳng ngại nâng chén nhiều lần.
PL84
70. ĐÔNG CHÍ BÔI THỨ THƢ TIỄN ĐỊNH TƢỜNG NIẾT SỨ CAO HI PHÙNG/ TIẾT ĐÔNG CHÍ NÂNG CHÉN LÀM THƠ TIỄN ÁN SÁT SỨ ĐỊNH TƢỜNG CAO HI PHÙNG
Giản thƣ tùy đạo cấp nhƣ phi Tôn tửu bồi hồi dĩ bất chi Mệnh lệnh truyền xuống gấp nhƣ bay trên đƣờng/ Cầm chén thẫn thờ, nhƣ không sao chịu nổi/ Nửa đêm nơi Giang thành,
Bán dạ Giang thành thôi hiểu lậu Nhất song mai ý phóng tân hi giọt đồng hồ thúc giục trời trở sáng/ Bên song cửa, cây mai nở những bông hoa mới/ Nơi bến xa tận bên trời, chim hồng
Thiên biên viễn phố quy hồng khứ Lĩnh thƣợng cô vân chích mã trì bay trở về/ Trên núi chùm mây lẻ loi, một chú ngựa sải bƣớc/ Đến ngày nào mới đƣợc cầm tay cùng bàn luận văn
chƣơng/ Con ngƣời có chí khí, vẫn là điều mong đợi ở nhau. (Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – tr 159) Hà nhật luận văn trùng ác thủ Nhân sinh chí khí thƣợng tƣơng kỳ
71. AN GIANG ĐỐC HỌC NGUYỄN ĐỐC HIÊN NIÊN LỤC THẬP CỬU TUẾ THƢỢNG KINH DẪN KIẾN, LỘ PHỎNG VU PHÖ YÊN, THƢ TIỄN/ ĐỐC HỌC AN GIANG LÀ NGUYỄN ĐỐC HIÊN SÁU MƢƠI CHÍN TUỔI LÊN KINH DIỆN KIẾN, TRÊN ĐƢỜNG ĐI
QUA PHÖ YÊN THĂM, LÀM THƠ TIỄN
Thử tâm mỗi dữ cổ nhân kỳ Lòng này thƣờng hẹn cùng ngƣời xƣa/ Nơi biên tái xa xôi,
Tuyệt tái hành luân phóng hiểm di Ngƣu Chử thu phùng hoàn tích biệt bánh xe bon chạy, mặc đƣờng gập ghềnh hay bằng phẳng/ Chốn Bến Nghé gặp nhau mùa thu, còn buồn vì li biệt/ Nay
Xuân đài kim quá trọng li tƣ Hi hƣơng bạch phát chiêm thiên cận qua Xuân Đài, nỗi niềm lúc chia tay thật quyến luyến/ Vui vì đƣợc đem mái tóc bạc về triều cận vua/ Lại mang nỗi
Cánh hữu hƣơng tâm xứng lão quy Lạc xứ yếu khan tùng cúc tĩnh niềm nhớ quê hƣơng, tuổi già đáng đƣợc trở về/ Nơi đất vui, cần đƣợc thấy tùng cúc yên tĩnh/ Men theo đƣờng mà
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – tr 164)
Duyên đồ ƣng dĩ đáo thiên nhi (nhai) đi, đã tới chân trời.
72. TỐNG BẢN HUYỆN DOÃN NGUYỄN KHÁNH HẢI THĂNG THÁI THÖ CHI HÀNH/ TIỄN HUYỆN DOÃN BẢN HUYỆN HỌ NGUYỄN, NGƢỜI XÃ DIÊN KHÁNH, HUYỆN HẢI
LĂNG LÊN ĐƢỜNG ĐI NHẬN CHỨC TRI PHỦ
Lai xa nhân hỉ, khứ nhân ti (tƣ) Xe ông đến mọi ngƣời vui mừng, ông đi mọi ngƣời nhớ tiếc
Thánh đại tuần lƣơng khởi tích thùy Bách lí quả phi hiền giả lộ Đời thánh, đối với bậc quan giỏi, há có tiếc điều gì? Trăm dặm, quả nhiên không phải con đƣờng của ngƣời hiền
Trùng phùng đắc thử Đỗ trung thi Hà phong lục mãn hồ biên khởi Gặp lại nhƣ thế này, trong thơ Đỗ Phủ có ghi Gió mùa sen, màu xanh lá dâng đầy bên hồ
Mai vũ hoàng thôi dịch lí trì Ngô thổ viên phan ƣng lạc dịch Mƣa mai, màu vàng thúc giục ngƣời trong trạm dịch lên đƣờng Ngƣời quê ta muốn cùng nhau níu xe ông lại
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – tr 193)
Đô môn khứ mã khẳng trì trì Ngựa qua cổng kinh đô, xin hãy chậm bƣớc.
PL85
73. TIỄN HÀ NỘI ĐỐC HỌC DƢƠNG NHẠN PHONG/ TIỄN HÀ NỘI ĐỐC HỌC DƢƠNG NHẠN PHONG
Long Biên cổ thị đế vƣơng đô Đề học lai quân túc tráng du Long Biên xƣa là kinh đô của bậc đế vƣơng Quan Đốc học tới đây đủ là cuộc tráng du
Thƣ quyển nhàn phu Nùng Lĩnh hiểu Cao tì tọa ủng Nhĩ Hà lƣu Thảnh thơi mở sách vào buổi sớm nơi núi Nùng Chiếu giảng học ngồi cạnh dòng sông Nhị
Hành văn cức viện sơ hồi mã Tác phú xuân phong tích hệ chu Vừa chấm văn ở trƣờng thi, mới quay ngựa về Làm phú trong gió xuân, trƣớc từng buộc con thuyền
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – tr 217)
Lê các cửu lai trƣợng thị sử Thả tƣơng công nghiệp đáo ngô châu Gác lê, từ lâu đến nay đã làm quan chép sử Hãy đem công danh sự nghiệp đến quê tôi.
74. TỐNG BẢN TỈNH QUAN THÂN HẠ TỐNG ĐINH MÙI HỘI KHOA PHÓ BẢNG THỊNH HÀO TRƢƠNG TỬ Ý NINH GIA/ CÙNG CÁC QUAN CHỨC TRONG TỈNH CHÚC
MỪNG VÀ ĐƢA TIỄN PHÓ BẢNG TRONG KỲ THI HỘI NĂM ĐINH MÙI (1847) LÀ BÁC TRƢƠNG Ý Ở THỊNH HÀO VỀ NHÀ
Hồng hồng bạch bạch lí đào khê Tổng thuộc đông quân nhất phẩm đề Đào mận bên lối đi hồng hồng trắng trắng Thảy đều thuộc chúa xuân phẩm bình
Xuân bảng cộng truyền Hà Nội bắc Văn tinh trùng lãng Thịnh Hào tê (tây) Bảng thi mùa xuân cùng truyền (ngƣời đỗ) ở phía Bắc Hà Nội
Nhật biên quan cái chiêm tân nhãn Tôn lí hƣơng quan tống mã đề Hội kiến kim môn phi phƣợng nhập Bậc văn tinh lại tỏa sáng ở phía tây Thịnh Hào Bên mặt trời, mũ áo trông mới mẻ Trong chén rƣợu, tiễn vó ngựa trở về quê hƣơng
Tiền trình ƣng thị chí vân thê.
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – tr218)
Từng thấy ở chốn cửa vàng có chim phƣợng bay vào Con đƣờng phía trƣớc nên nhớ là có thang mây.
75. ĐỒNG CHÂU BINH BỘ CHỦ SỰ THĂNG BỔ TỪ SƠN THÁI THÖ PHƢƠNG UYÊN ĐÌNH TIỄN HÀN/ TIỄN CHỦ SỰ BỘ BINH NGƢỜI CÙNG CHÂU ĐƢỢC THĂNG BỔ TRI PHỦ TỪ SƠN LÀ PHƢƠNG UYÊN ĐÌNH LÊN ĐƢỜNG
Tƣ Mã bôn trần lục tải lai Đề kiều khí sắc vị thùy khai? Tƣ Mã bôn tẩu trong cõi bụi bặm đã sáu năm nay Đề chữ ở cầu, khí sắc vì ai mà khai mở
Bắc Giang thiên địa chân thần tú Đông Ngạn lƣ diêm tẫn tuấn tài Trời đất Bắc Giang thật đẹp, đến thần kỳ Làng quê Đông Ngàn thảy là bậc anh tài
Mai vũ nghinh xa phƣơng cộng sái Huân phong trì mã nhật tƣơng thôi Mƣa mai đón xe, mùi thơm rảy khắp cùng mƣa Gió nam nhuần ấm, ruổi ngựa, tháng ngày thúc giục
Thử hƣơng tự hữu Trƣng Quân tại Phục thức nhƣ kim dĩ mạc sai
Miền quê này vốn có Trƣng Quân ở đó Nhƣ nay ngồi xe đi (nhậm chức) đã không còn gì phải ngờ. (Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – tr 220)
PL86
76. HÀ NỘI NGUYÊN PHIÊN ĐÀI XU CẬN, THƢ TIỄN/ BỐ CHÁNH SỨ HÀ NỘI HỌ NGUYỄN VÀO TRIỀU KIẾN VIẾT THƠ TIỄN ĐƢA
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – tr 244)
Giang thành xa mã khứ triều thiên Hoa trƣởng Nùng sơn, Lãng Bạc liên Nhất lộ thừa phong khu đại thử, Thần tâm chiêm khuyết đối tam niên Bức lai tiêu Hán tinh thần hiểu Thanh nhập Bồng Lai nhật nguyệt huyền Lộ hạ cố nhân nhƣ hữu vấn Sấu ngô đa bệnh tự điền viên. Ngựa xe ở tòa thành bên sông đi chầu thiên tử Hoa nở ở núi Nùng, sen mọc ở Lãng Bạc Đƣờng trạm dịch, cƣời làn gió xua đuổi cơn nóng nực Tấm lòng kẻ bề tôi trông về nơi cửa khuyết đã ba năm Đến gần sông Nhân, tinh tú rực sáng Trong trẻo nhƣ vào chốn Bồng Lai, nhật nguyệt treo cao Trên đƣờng đi, nếu bạn cũ có hỏi Xin nói tôi gầy yếu, lắm bệnh đang ở chốn ruộng vƣờn.
77. LỄ THỊ PHẠM MI SƠN NHƢ YÊN CỐNG, THƢ TIỄN/ THỊ LANG BỘ LỄ LÀ PHẠM MI SƠN ĐI CỐNG SANG YÊN KINH, VIẾT TẶNG
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – tr 292)
Vó ngựa sớm xuân ruổi qua cửa quan ải đã mở/ Tiếng địch thổi ở Trung Nguyên vào tháng Năm hoa mai nở/ Cùng nắm dây cƣơng, non sông gặp bậc sứ giả đã mấy thế hệ/ Bạn bè cũ là các bậc anh tuấn đầy ở Yên Đài/ Bốn năm vẫn lại làm cuộc hội tụ của các bậc hiền quý/ Đƣờng dài vạn dặm vẫn chƣa thấm gì/ Long Đỗ vào lúc hoa cúc nở đầy, riêng mình đang ốm/ Một phen đƣa tiễn, một phen bồi hồi.
Mã đề xuân tảo đạp quan khai Địch xƣớng Trung Nguyên ngũ nguyệt mai Tịnh bí giang san phùng thế sứ Cựu giao anh tuấn mãn Yên Đài Tứ niên nhƣng tác y thƣờng hội Vạn lí hoàn khinh vũ trụ lai Long Đỗ cúc thâm duy ngọa bệnh Nhất phiên tƣơng tống nhất bồi hồi.
78. HÀ NỘI ĐỐC HỌC THĂNG TƢ NGHIỆP TRANG LIỆT PHAN HỮU PHỦ CHI HÀNH/ ĐÔC HỌC HÀ NỘI ĐƢỢC THĂNG LÀM TƢ NGHIỆPLÀ PHAN HỮU PHỦ Ở TRANG LIỆT LÊN ĐƢỜNG NHẬN CHỨC
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – tr 294)
Tống chiên đƣờng thƣợng báo tiên sinh Nhị nguyệt xuân phong biệt Nhị thành Hà Nội chƣ nho lƣu bất đăc Thành Quân đệ tử hỉ tƣơng nghênh Giới mi hựu thử ngu hƣơng lí Phục chính kim khan thuộc lão thành Độc thị vãng lai văn tự xứ Nhất tôn biệt tửu tích đồng khuynh. Trên giảng đƣờng, tin (đƣợc thăng chức) báo đến thầy Tháng Hai gió xuân, từ biệt thành Nhị Hà Các nhà nho Hà Nội, không lƣu giữ đƣợc ngài Học trò trƣờng Giám mừng vì đƣợc đón tiếp Mừng thọ, lần này lại đƣợc vui với xóm làng Làm chính sự, nay trông cậy bậc lão thành Riêng là ngƣời qua lại nơi chữ nghĩa Một chén tiễn biệt, vì tiếc nhớ nên cùng uống cạn.
79. KÝ TIỄN SƠN HƢNG TUYÊN TÔNG ĐỐC NGỤY HẠC NHẬP VI HỘ BỘ THƢỢNG THƢ/ GỬI TIỄN TÔNG ĐỐC SƠN TÂY, HƢNG HÓA , TUYÊN QUANG LÀ NGỤY HẠC SƠN VÀO KINH LÀM THƢỢNG THƢ BỘ HỘ
Tây biên trạch nhạn thú điêu trầm Nhập tá Tƣ đồ hoạch tố tâm Biên giới phía tây, nơi chim nhạn làm tổ, đồn lính tiếng kẻng cầm canh trầm trầm/ Vào làm chức Tƣ đồ, đạt
PL87
Nguyên súy văn chƣơng truyền nghệ phố Đại nhân trung chính tại đƣờng âm Bức lai tiêu Hán tinh thần hiểu Chúc tận hoàn dƣ xích tịch thâm Nhị nguyệt hà đinh bôi trở tiếp An tri hồng hộc lệ thiên âm
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – tr 299)
đƣợc sở nguyện/ Nguyên súy văn chƣơng còn truyền ở vƣờn văn/ Bậc đại nhân trung chính còn dấu tích dƣới gốc cây cam đƣờng/ Đến gần khoảng sông Ngân sao vào buổi sớm/ Ngọn đuốc tàn, văn từ quân sự trong cõi chất đầy/ Nâng chén tiễn đƣa ở đình bên sông vào tháng Hai/ Nào hay tiếng chim hồng hộc bay sát tận trời.
80. NGUYÊN HÀN LÂM BIÊN SUNG THÂN CÔNG PHÚ GIẢNG TẬP YÊN THÁI NGUYÊN ĐÀI VĨ LAI KINH, LÂM HÀNH THƢ TẶNG/ NGUYÊN HÀN LÂM BIÊN TU, SUNG CHỨC THÂN CÔNG PHỦ GIẢNG TẬP LÀ NGUYỄN VĨ, NGƢỜI YÊN THÁI VÀO KINH, LÖC LÊN ĐƢỜNG VIẾT TẶNG
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – 411)
Ngân hoàng phƣơng dục đức Lệ trạch cửu nhu hiền Huấn đạo phi quân sự Hàn lâm mịch túc duyên Giản thƣ tùy viễn đạo Sƣơng lộ bức tàn niên Tựu cận sơ phi dị Nhi kim lộ bất nhiên Sông Ngân đƣơng nuôi dƣỡng đức độ Ân trạch tốt đẹp từ lâu dành cho ngƣời hiền tài Chức Huấn đạo không phải việc của ông Làm trong Hàn lâm viện là tìm mối túc duyên Mệnh vua đem theo trên con đƣờng xa Sƣơng móc thôi thúc lúc năm sắp hết Đƣợc gần cận vua từ đầu không phải là dễ Mà con đƣờng ngày nay cũng không phải đƣơng nhiên
81. TIỄN THƢỜNG TÍN TRẦN THÁI THÚ HỒI QUÁN TỈNH THÂN/ TIỄN THÁI THÚ THƢỜNG TÍN HỌ TRẦN VỀ QUÊ THĂM MẸ
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – tr 412)
Đình vi niệm trọng tức thƣ đầu Thùy bả cầm tâm thoại thiếu lƣu Ngũ mã phƣơng văn huyên bộ nội Phiến phàm thúc dĩ xuất giang đầu Phong thanh nguyệt bạch nhƣ hành lí Kính cúc hƣơng thuần đáng trú du Gia khánh thƣợng đƣờng tiên hữu hỉ Phan viên kỵ xứ nhật nhƣ thu. Rất nhớ cha mẹ, liền viết thƣ dâng lên/ Ai dùng tiếng đàn biểu lộ tâm tình, lƣu lại chuyện trò trong chốc lát/ Đang nghe tiếng năm ngựa huyên náo trong bộ/ Cánh buồm thoắt đã ra đầu sông/ Gió mát trăng thanh nhƣ hành lý mang theo/ Luống cúc, rau thuần ở quê hƣơng, đáng phải trở về giữa ban ngày/ Bƣớc lên nhà chúc mừng cha mẹ, trƣớc hết có niềm vui/ Mấy chốn vin xe, trông ngóng thấy ngày dài tựa năm.
82. TIỄN THỌ XƢƠNG DOÃN PHAN KỶ CHI THĂNG LẠNG BÌNH NGỰ SỬ (NHỊ THỦ)/ TIỄN HUYỆN DOÃN HUYỆN THỌ XƢƠNG LÀ PHAN KỲ CHI ĐƢỢC THĂNG CHỨC NGỰ SỬ LẠNG SƠN -CAO BẰNG
Kỳ nhất/ Bài 1
Phu ngôn đan bệ trắc hoàng đƣờng Ngự sử kim văn bái sủng chƣơng Trị hạ phan viên tƣ phụ mẫu Có lời tâu lên bệ rồng, ông đƣợc bƣớc lên nhà vàng/ Quan Ngự sử nay nghe nói bái lĩnh chiếu dụ/ Nơi đang làm quan, dân chúng vin níu xe, nhớ nhung nhƣ nhớ cha
PL88
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – tr 431)
Triều đoan phi giản túc phong sƣơng Giang thành ngũ nguyệt mai nghinh tống Dịch lộ trùng quan đình đoản trƣờng Nho nhã phong lƣu chân khả ái Đào hoa kỵ độ phát hà dƣơng. mẹ/ Chiếu lệnh vua phong chức quan đầu triều uy nghiêm truyền gấp/ Tháng năm nơi thành bên sông, hoa mai đƣa đón/ Đƣờng trạm dịch, quan ải trùng trùng, hết đoản đình lại trƣờng đình/ Là bậc nho nhã phong lƣu, thật đáng mến/ Hoa đào mấy độ nở bên phía bắc sông.
83. Kỳ nhị/ Bài 2
Hồng nê đáo xứ cánh kham truyền Phan lệnh đào hoa bá thập niên Đệ nhất cứu hoang tân xã giải Kỵ đa đề cú mộ hƣơng hiền Phong sƣơng ngự sử nhu tài cứu Phụ lão Đông đô chúc Phật kiền Khiển quyển phƣơng tình mai thập nguyệt Mã đề trực chỉ ngũ vân biên
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – tr 431)
Nơi nào chim hồng in dấu trên bùn tuyết, càng nên truyền tụng/ Lệnh doãn họ Phan trồng hoa đào chốn này đã trải mƣời năm/ Là bậc nhất trong việc cứu dân lúc mất mùa, làm mới thêm dinh sở các xã/ Bao lần đề câu thơ, hâm mộ bậc hiền lƣơng trong hƣơng thôn/ Từ lâu đã cần có bậc Ngự sử nghiêm minh/ Phụ lão ở Đông đô kính cẩn chúc tụng nhƣ đức Phật/ Tình cảm quyến luyến, hoa mai tháng Mƣời/ Vó ngựa ruổi thẳng tới bên mây ngũ sắc.
84.TỐNG THUẬN AN GIÁO THỤ NGUYỄN/ TIỄN ÔNG HỌ NGUYỄN, GIÁO THỤ THUẬN AN
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – tr467)
Tằng ức Giang Thành ác thủ câu Tƣơng tƣ hốt mạn tống ly câu Y thƣ tĩnh đắc năng thông dịch Hoạn nghiệp nhàn lai bất thất nho Vân ngoại tƣơng quan thiên lý mục Tuyết trung độc đổi sổ hình tu Thử trung danh giáo khan dƣ lạc Thiên Đức giang hoa Trúc Bạch hồ Từng nhớ cùng nắm tay nhau ở Giang Thành Nhớ nhau, bỗng lại ngâm nga khúc Ly câu tiễn ngƣời ra đi Sách thuốc đọc trong yên tĩnh thì hiểu đƣợc luật biến dịch Nghiệp quan nhàn, cũng không để mất đạo nho Nhớ nhau trông vời mây ngoài ngàn dặm Trong nhà học một mình với mấy sợi râu Trong nơi danh giáo này xem ra có nhiều niềm vui Sông Thiên Đức hoa nở, và hồ Trúc Bạch.
85.TỐNG HƢƠNG NIÊN YÊN THÁI PHÙNG TUẤN PHỦ QUY HƢU/ TIỄN BẠN CÙNG ĐỖ THI HƢƠNG PHÙNG TUẤN NGƢỜI YÊN THÁI VỀ HƢU
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – tr 473)
Thiên cơ tự thị hội trung thâm Âu lộ tƣơng thân hoạch tố tâm Tàn lạp giang sơn thiên địa túc Bán sinh tu phát tuyết sƣơng xâm Yên thanh tùng thụ lƣu thê hạc Hàn nhập mai hoa oán biệt cầm Khả thị Tây Hồ yên thủy khoát Chỉ ƣng tòng thử định thăng trầm Cơ trời từ đó đã hội tụ thâm sâu ở chính trung rồi Lấy chim âu cò vạc làm bạn, đã đƣợc tấm lòng trong sạch Cuối tháng chạp sông núi đất trời lạnh lẽo Nửa đời râu tóc đã nhuốm màu tuyết sƣơng Sƣơng trong trên cây tùng còn giữ chim hạc đậu lại Rét đến bên hoa mai, đàn khúc ly biệt oán sầu Đẹp thay khói sóng Tây Hồ mênh mang Từ nay có thể đã yên chuyện thăng trầm.
PL89
86. LỄ BỘ LANG TRUNG NGÔ DƢƠNG ĐÌNH SUNG HÀ NỘI GIÁM KHẢO, Y LƢU VẬN THƢ TIỄN/ LỄ BỘ LANG TRUNGNGÔ DƢƠNG ĐÌNH SUNG CHỨC GIÁM KHẢO HÀ NỘI, THEO NGUYÊN VẦN BÀI LƢU BIỆT, VIẾT THƠ TIỄN
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – tr 475)
Hoành Sơn lai bí liễu âm âm Biệt khứ vô đa hận chuyển thâm Kỵ độ nguyệt minh trùng ác thủ Bán thu lan xú cách đồng tâm Xứng hành thịnh tuyển tài lƣơng xuất Cẩu mã đƣơng niên cố lý tầm Khiển quyển phƣơng tình độc bất dĩ Dƣơng xuân nhất khúc xƣớng cao âm Ruổi ngựa qua Hoành Sơn, liễu tốt rợp bóng Xa nhau không lâu mà nỗi buồn hận dần sâu lắng Mấy lần dƣới ánh trăng sáng cầm tay nhau Nửa mùa thu phải xa cách bạn đồng tâm thân thiết Chấm thi chuẩn mực, khoa thi chọn đƣợc nhiều ngƣời tài Mặc áo cầu cƣỡi ngựa, ngay năm ấy tìm về cố hƣơng Riêng tình quyến luyến đậm đà không thể dứt Một khúc Dƣơng xuân cất giọng ngân cao.
87. TỐNG KHẾ NGHỊ ĐIỆN PHỦ CAO ĐÀI HỒI - (ĐÀI, PHÖ THỊ NHÂN)/ TIỄN BẠN TRI GIA LÀ CAO ĐIỆN PHỦ TRỞ VỀ (BÁC CAO NGƢỜI Ở PHÚ THỊ)
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – tr481)
Quân bệnh, ngã diệc bệnh Quân quy, ngã diệc quy Mẫu tồn năng thị dƣỡng Vƣu chuế vị tri y Hải thƣợng nguyệt tần ky khách chiếu Hoành Sơn vân trục mộng hồn phi Bách niên tạm tụ hà kham thử Dịch dịch phù danh thị hoặc phi Bác ốm, tôi cũng ốm Bác về, tôi cũng về Mẹ còn thì có thể hầu hạ, phụng dƣỡng Là cái bƣớu thừa thì chẳng biết dựa vào ai Trên bể trăng nhiều lần soi kẻ lữ khách bị ràng buộc Hoành Sơn mây bay theo giấc mộng Trăm năm chỉ là tạm hội tụ, ai chịu nổi điều này Vất vả vì chút danh hão là phải hay là sai.
88. TỐNG XUÂN QUAN VŨ THÁI Y HOÀN HƢƠNG/ TIỄN XUÂN QUAN THÁI Y HỌ VŨ VỀ QUÊ
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – tr483)
Mai hoa nhất lƣỡng sáp Giang Nam Phong vũ li tình tổng bất kham Bán thế phong trần nhƣng thị mộng Tháng lai lƣ thất quả hà tham Điểu quy lâm ngoại vân không viễn Nhạn quá giang biên ảnh bán hàm Tài hạnh tri quân tùy địa cúc Sai cao nhân xứ duyệt tân cam Đã một vài lần cài hoa mai ở Giang Nam Gió mƣa và tình cảm lúc li biệt, thảy đều không chịu nổi Nửa đời gió bụi vẫn chỉ là giấc mộng Nếu đƣợc về ngôi nhà ở quê thì có gì là tham đâu Chim về ngoài rừng, mây trên khoảng không xa xôi Nhạn qua bên sông, nửa bóng in mặt nƣớc Trồng cây hạnh, biết bác ở mọi chốn nào cũng coi là đủ Khác bậc cao nhân là đã từng nếm trải đủ đắng ngọt.
89. TỐNG NHÂN ĐỆ CỬ NHÂN GIẢN PHU CHI BẮC NINH HẬU BỐ/ TIỄN EM NGOẠI LÀ CỬ NHÂN GIẢN PHU ĐẾN BẮC NINH CHỜ BỔ NHIỆM
Bắc Giang giang thƣợng mãn đƣờng âm Hoạn triệt tƣơng phùng hựu đáo câm (kim) Phan cái khả năng lƣu cựu vật Ngôi nhà trên sông ở Bắc Giang bóng râm mát mẻ/ Gặp nhau nơi quan trƣờng, cho đến nay/ Phƣớn lọng có thể lƣu lại là vật cũ/ Lƣơng đấu thƣng nên coi là
PL90
Đẩu thăng ƣng thị đãi sơ tâm Tha hƣơng phong vũ do ngô cố Cách tuế quan hà đáng hảo âm Tam Đức thảo hoa nhƣ dục vấn Trùng khan nam cúc đối vi ngâm đạt đƣợc ƣớc nguyện ban đầu/ Mƣa gió nơi tha hƣơng mà ta vẫn là ta xƣa/ Quan hà qua một năm, đây đáng coi là tin tốt lành/ Ví nhƣ có muốn hỏi han cỏ hoa ở Tam Đức/ Hãy ngắm lại hoa cúc ở phía Nam, đối diện với hoa mà khẽ ngâm nga. (Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – tr 490)
90. TỐNG QUỲNH LƢU VŨ NAM MINH HỒI TRỊ/ TIỄN QUỲNH LƢU VŨ NAM MINH VỀ TRỊ SỞ
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – tr492)
Xuân lai thiên địa chính bình phân Hốt mạn tƣơng phùng thử tống quân Thiên lí mã đề đình bắc lộ Bán sơn hồng ảnh tái tiền vân Cao tình cửu hĩ hƣ Nguyên Lễ Quan xá tiêu nhiên nhƣợc Quảng văn Tiếu hƣớng Hà Dƣơng đào kỵ thụ Tính danh lƣu hứa nhật biên quan. Xuân về trời đất đang hài hòa Chợt đƣợc gặp gỡ, giờ lại tiễn bác Vó ngựa ngàn dặm, theo con đƣờng phía bắc đình Bóng chim hồng lƣng chừng núi, mây trƣớc biên tái Tình cảm cao quý từ lâu, cổng Nguyên Lễ trống không Sở quan tiêu điều tựa nhƣ đình Quảng Văn Cƣời hƣớng về Hà Dƣơng nơi có mấy gốc đào Họ tên lƣu lại bên ánh mặt trời nơi cửa quan vùng biên.
91. TIỄN ĐỒNG NIÊN BINH BIỆN PHẠM NGHĨA KHÊ SUNG GIA ĐỊNH TRƢỜNG CHỦ THẢO/ TIỄN BẠN ĐỒNG KHOA BINH BIỆN PHẠM NGHĨA KHÊ SUNG CHỨC TRỤ THẢO TRƢỜNG THI GIA ĐỊNH
Tử thủy đăng khoa tử chủ khảo Thập niên đầu giác cánh khôi kỳ Hoàng vƣơng man thọ lai kim độ Thánh chủ khai cơ thử nhất thì Thiên lí thu hồng hồi trách tái Trùng lai xuân yến cách hoa li Bệnh trung thiên ức giang đình liễu Thế thƣợng man man tổng lộ kỳ.
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – tr 503)
Từ ban đầu anh đăng khoa, đến nay anh làm Chủ khảo Mƣời năm qua bậc thanh niên ngày càng thông minh giỏi giang Đến nay, cơ đồ nhà vua đƣợc lâu dài Nơi đây, một thời thánh chúa mở đầu cơ nghiệp Chim hồng mùa thu bay ngàn dặm về nơi biên tái hẻo lánh Chim én mùa xuân lại đến cách bên kia giậu hoa Trong lúc mang bệnh càng nhớ cành liễu chia tay nơi giang đình Trên con đƣờng đời dài dặc tất cả đều là đƣờng rẽ.
92. CHỦ SỰ HOÀNG HƢ TRAI TÙY HUYNH BẮC SỨ, THƢ TỐNG/ THƢ TIỄN CHỦ SỰ HOÀNG HƢ TRAI THEO ANH ĐI BẮC SỨ QUỐC
Nhất khứ phiên vi vạn lý nhân Bán tôn hàn vũ tạm tƣơng thân Phong sƣơng viễn đạo tùy tinh tiết Vũ trụ ngô nho nhận túc nhân Vân lí nhạn hồng liên tái ảnh Mai sao thiên địa phát giang xuân Một lần đi, đã thành ngƣời trên đƣờng ngàn dặm Nửa chén rƣợu trong mƣa lạnh tạm đƣợc thân gần Trên đƣờng xa, gió sƣơng theo ngọn cờ sứ Trong vũ trụ, nhà nho ta nhận ra nhân duyên xƣa Trong mây, chim nhạn, chim hồng xen bóng nhau trên biên tái Trên ngọn cây mai, vũ trụ mở ra một trời sông xuân
PL91
Nhân tài yếu khả cung thì dụng Hải nội tƣơng tri thuộc tị lân Nhân tài cốt nhất là cung ứng cho việc sử dụng đúng lúc Những ngƣời quen biết trong cõi đất trời đều là láng giếng.
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – tr 533)
93. ĐỒNG SỰ LÊ PHIÊN ĐÀI DỤNG TÂN ĐIỂU BỒ NAM ĐỊNH BỐ CHÁNH, PHAN TIỄN HÀNH LÝ/ ĐỒNG SỰ LÀ QUAN ĐẦU TỈNH LÊ DỤNG TÂN ĐƢỢC DIỂU BỒ LÀM BỒ CHÁNH NAM ĐỊNH, LƢU LUYẾN TIỄN
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – tr 533)
Vị Thành phƣơng diện xứng danh châu Sứ tiết lai quân túc tráng du Hoạn tích giang sơn ƣng hữu đãi Li tình phong vũ bất kham lƣu Xuân Đài phƣơng thảo trùng phùng lộ Hoàng cúc thanh tôn bán sấu thu Lĩnh hải phù vân thiên tự khách Lan ngôn cận ức ngọc nhân thù. Đại diện triều đình trị nhậm đất Vị Thành danh tiếng thật xứng đáng/ Ông mang cờ tiết đến nơi ấy cũng đủ coi là cuộc du ngoạn lớn/ Lƣu lại dấu vết chính tích tốt, núi sông tất có điều kỳ vọng/ Tình ly biệt quyến luyến, gió mƣa cũng không thể lƣu giữ đƣợc/ Nơi Đài Xuân cỏ tốt tƣơi là con đƣờng gặp lại/ Hoa cúc vàng, rƣợu trong, đã gày guộc quá nửa mùa thu/ Nơi núi biển, mây bay, riêng tự thấy mình là khách/ Lời bạn bè thanh nhã, càng nhớ sự thù đáp của ngƣời ngọc mới đây.
94.KHÁNH HÒATHỰ NIẾT THĂNG BỐ BÌNH ĐỊNH ÁN SÁT, PHÚ YÊN QUAN XÁ THƢ TIỄN/ TẠI QUÁN XÁ PHÚ YÊN, VIẾT TIỄN TẶNG QUYỀN ÁN SÁT KHÁNH HÒA ĐƢỢC THĂNG BỔ LÀM ÁN SÁT BÌNH ĐỊNH
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – tr 536)
Nam lai bái chiếu dữ quân đồng Phƣơng thảo xuân giang liễu nhứ phong Hoàng cúc lƣỡng khai sƣơng lĩnh ngoại Sứ thiều đối ẩm vũ thành trung Đông tây hoạn triệt tân đài hiến Nam bắc lân cƣơng cựu quán ông Tháo mệnh huống khan phƣơng tiện xứ Tha hƣơng viễn khách vấn chinh hồng. Vâng chiếu đi phƣơng Nam tôi cũng giống nhƣ bác/ Cỏ thơm bên sông xuân, bông liễu bay trƣớc gió/ Hoa cúc vàng đã hai lần nở trong sƣơng miền lĩnh ngoại/ Xe sứ cùng đối ẩm trong tòa thành đầy mƣa giăng/ Vết xe quan đi về phía đông, phía tây, làm chức quan mới/ Vùng lân cận phía nam hay bắc thì vẫn là ông bạn quen cũ/ Hoàn thành sứ mệnh phƣơng chi còn phải xem nơi đến có thuận tiện hay không?/ Kẻ viễn khách tha hƣơng hỏi cánh chim hồng bay xa.
95. TIỄN ĐỒNG SỰ PHIÊN ĐÀI LÊ LAI KINH CUNG HẬU THÁNH TỔ NHÂN HOÀNG ĐẾ ĐẠI TƢỜNG LỄ HỘI BAN CHIÊM BÁI CHI HÀNH/ TIỄN ĐỒNG SỰ BỐ CHÁNH HỌ LÊ VÂNG CHỈ VỀ KINH CHỜ DUNG VÀO BAN CHIÊM BÁI TRONG LỄ DẠI TƢỜNG CỦA THÁNH TỔ NHÂN HOÀNG ĐẾ
Hội ban thiên lí phúng luân âm Đình khuyết chiêm vân viễn ngoại tâm Khả thị cƣ hành vô quý sắc Chỉ ƣng khoảnh tạm oán li cầm Hành văn xuân bảng tùy phân thủ Bả duệ Ngƣu Giang hựu biệt châm Từ ngàn dặm vâng dụ chỉ sung vào Hội ban/ Ngẩng trông mây trên sân triều đình vốn là lòng của kẻ bề tôi nơi xa/ Đúng là đi hay ở, bác không có điều gì phải thẹn/ Chỉ là một chút buồn rầu trong tiếng đàn biệt li/ Cân nhắc văn chƣơng cho bảng Xuân, tùy việc mà chia nhau làm/ Nắm vạt áo nơi Bến Nghé đã lại rót rƣợu tiễn biệt/ Từng đã có
PL92
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – tr538)
Thần tịch Xuân Đài tằng kỵ nhật Đồng dần cổ ý chính tƣơng tầm. những ngày sớm tối gần gũi nhau nơi Xuân Đài/ Cùng làm quan với nhau theo ý xƣa chính là có duyên mà tìm nhau.
96. CHẾ ĐÀI ĐẶNG TƢỚNG CÔNG ĐIỀU CẢI ĐỊNH AN TỔNG ĐỐC BÁI TIỄN/ CHẾ ĐÀI TƢỚNG CÔNG HỌ ĐẶNG ĐƢỢC ĐIỀU ĐI LÀM TÔNG ĐỐC ĐỊNH AN, KÍNH TIỄN
Lần này lại đem đất Thục hiểm yếu giao phó cho Quai Nhai/ Quân vƣơng thân đẩy xe tiễn, tỏ lòng trọng ngƣời tài/ Trên trời sao sứ chuyển về phía Bắc Phía Bắc sông Vị sắc cỏ đƣợc tiếp khí xuân mà hồi sinh/ Mây nƣơng cung cấm, cây tỏa hƣơng thơm/ Ngựa buộc nơi quê nhà, trăng chiếu trên cây mai/ Nơi hiểm yếu này vẫn biết cây cam đƣờng bóng tỏa xa rợp/ Chỉ hận xa cách không đƣợc lên cửa rồng theo hầu ngài Lý. (Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – tr539) Thục Xuyên hựu thử phó Quai Nhai Thôi cốc quân vƣơng đắc trọng tài Thiên thƣợng sứ tinh tòng bắc chuyển Vị dƣơng thảo sắc tiếp xuân hồi Vân y đan cấm hƣơng sinh thụ Mã hệ phần hƣơng nguyệt chiếu mai Hải lĩnh nãi tri đƣờng ấm viễn Long môn hận cách Lý quân bồi
97. ĐỒNG SỰ PHIÊN ĐÀI LÊ HÀN PHỦ CẢI BỔ HÀ TIÊN, BÔI THỨ HỌA LƢU VẬN DI TIỄN/ HỌA THƠ ĐỒNG SỰ LÀ BỐ CHÁNH LÊ HÀN PHỦ TRONG TIỆC TIỄN ÔNG CHUYỂN ĐI LÀM VIỆC Ở HÀ TIÊN
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – tr541)
Kỳ lộ tƣơng phùng sĩ thập niên Mã đề sơ trú thúc oanh thiên Kỵ hà phƣơng thảo kinh xuân sắc Nhất khứ thanh sơn cộng viễn thiên Sứ tiết vinh lai dao tái ngoại Cao tình huyền ký bạch vân biên Lập công chính khán vô bàn thác Vạn lý thừa phong hảo trƣớc tiên. Gặp nhau ở nẻo phân kỳ đã mƣời năm rồi Vó ngựa vừa dừng, chợt chim oanh chốc đã rời cành Cỏ thơm kia đã trải qua bao lần sắc xuân Một phen ra đi với non xanh trời thẳm Cờ tiết sứ giả đem vinh dự tới miền biên tái xa xôi Tình cảm cao khiết gửi bên làn mây trắng Lập đƣợc công chính nhờ ở chỗ không coi việc gì là khó Cƣỡi gió đi muôn dặm, hãy vung roi.
98. THƢ TẶNG ĐỒNG QUẬN TRI PHỦ THĂNG QUẢNG NGÃI HỌC CHÍNH NGUYỄN THAI NGHỊ PHỦ LAI KINH DẪN KIẾN HÀNH THỨ/ Ở TRẠM NGHỈ VIẾT TẶNG TRI PHỦ NGƢỜI CÙNG QUẬN LÀ NGUYỄN NGHỊ PHỦ THĂNG ĐỐC HỌC QUẢNG NGÃI VÀO KINH DẪN TIẾN
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – 583)
Tề niên sƣơng phát hựu ngô châu Li mã hân quân dĩ hƣớng đầu Biên tái dao vân tần ủy nhận Quan hà tôn tửu huống phùng thu Kháng nhan sơn đầu nghi niên túc Khế thủ Bồng Doanh thức miện lƣu Thứ thứ tƣơng tri nhƣ viễn vấn Trọng Tuyên phủ tựu chính đăng lâu Cùng tuổi, tóc đã bạc, lại ngƣời cùng quận/ Gióng ngựa đi xa, mừng bác đã lên hàng đầu/ Mây biên tái xa, nhiều lần nhờ cánh nhạn đƣa thƣ an ủi/ Chén rƣợu nơi quan hà xa xôi, huống lại gặp cảnh thu (càng buồn)/ Bậc thày nhƣ Thái Sơn Bắc đẩu nghiêm trang, đúng là ngƣời lão luyện/ Rập đầu nơi Bồng Doanh biết rõ chức tƣớc vua ban/ Lần đi này, bạn bè ở xa nhƣ có hỏi thăm/ Thì bác nói hộ, Trọng Tuyên nổi tiếng về phủ chính là ở bài Lên lầu
PL93
99. TẶNG ĐỊNH TƢỜNG ÁN SÁT SỨ NGUYỄN CƢ SĨ CHI CHỨC/ TẶNG ÁN SÁT SỨ ĐỊNH TƢỜNG NGUYỄN CƢ SĨ ĐI NHẬM CHỨC
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, tr 592)
Trong đời quý nhất là bạn tƣơng tri/ Huống lại trong cảnh nhìn nhau không nỡ dời xa/ Nơi đất khách, gió thu giữ lại tình quyến luyến/ Mƣợn rƣợu ngƣời để ra vẻ nam nhi/ Công hầu, tìm trở lại nguồn gốc, chính là không phải ngẫu nhiên/ Thƣơng xót ngƣời xƣa và nay, riêng có ai/ Buổi sáng, trên đƣờng núi mây vạn dặm/ Tiếng nhạn kêu, bóng hoa cúc, ta sẽ cùng thƣởng thức với ai.
Nhân sinh tối quý thị tƣơng tri Huống thị tƣơng khan bất nhẫn ly Nghịch lữ thu phong tồn khoản khúc Tả nhân tôn tửu thác tu mi Công hầu phục thủy đoan vô ngẫu Kim cổ năng liên độc hữu thùy Bình đán vân sơn thiên lí lộ Nhạn thanh cúc ảnh ngã kiêm thùy
100. TẶNG AN TĨNH ĐẠO NGỰ SỬ NGUYỄN CÔNG XUẤT BÌNH THUẬN/ TẶNG NGỰ SỬ ĐẠO AN TĨNH NGUYỄN CÔNG ĐI BÌNH THUẬN.
(Cửu nguyệt nhị thập tứ dạ)/ (Đêm 24 tháng chín)
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – tr 593)
Nam vân thông mã lộ du du Khách lí Bàn Thành thử dạ lƣu Nhƣợc hữu li tình tằng cộng tháp Bất tri tôn tửu hựu phùng thu Vũ trung mai liễu truyền xuân ý Sƣơng ngoại vân sơn mãn dịch lâu Trân trọng phiến ngôn tƣơng tặng xứ Tự tha hô mã dữ hô ngƣu. Dƣới mây phƣơng Nam, ngựa màu xám nhạt đang trên đƣờng dài dằng dặc/ Nơi đất khách Bàn Thành, đêm nay nghỉ lại/ Nếu lúc li biệt lòng nhiều quyến luyến, là chính vì từng đã thân thiết/ Chẳng ngờ trƣớc chén rƣợu lại gặp tiết thu/ Trong mƣa, mai và liễu truyền ý xuân/ Ngoài sƣơng, mây và núi giăng đầy lầu trạm dịch/ Hãy trân trọng mảnh lời tặng nhau nơi chia tay/ Mặc cho ngƣời đời gọi là ngựa hay là trâu.
101. CỬU NHẬT BIỆT HỮU NHÂN/ NGÀY MỒNG CHÍN CHIA TAY BẠN
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – tr 710)
Tiết trời đẹp, giữ bác mà bác chẳng ở/ Mùa thu ở Đế thành, tết Trùng dƣơng thƣờng mƣa gió/ Núi biếc, cây lá đỏ những sóng đối nhau/ Nƣớc chảy mây bay đều tự do/ Trên bầu trời cao phía bắc sông, nhìn đàn nhạn bay qua/ Ngoài biển nam sóng mêng mang, thèm đƣợc nhƣ đàn hải âu bay vút/ Nơi đất khách đeo cây thù du để làm gì/ Hãy dốc cạn bình trà để xua tan mối sầu ly biệt.
Giai tiết lƣu quân quân bất lƣu Trùng dƣơng phong vũ đế thành thu Bích sơn hồng thụ không tƣơng đối Lƣu thủy nhàn vân các tự do Giang Bắc thiên cao khan quá nhạn Hải Nam lãng khoát tiển phi âu Dị hƣơng để dụng thù du bội Thặng bá trà âu tán biệt sầu
102. TỐNG HỮU/ TIỄN BẠN
Bắc vãng trƣờng ngâm hữu sở tƣ Cố nhân sơ chỉ cố hƣơng quy Luận giao mỗi ức tâm đàm xứ Luyến biệt hoàn kinh tuế vãn thì Mộng lý quan sơn kê xƣớng hiểu Khách trung yên vũ nhạn lai hi Ngâm nga bài thơ dài về bắc, có nỗi nhớ nhung Bạn cũ vừa mới trỏ thẳng đƣờng về quê hƣơng cũ Bàn về bạn bè thƣờng nhớ tới những chuyện tâm huyết Quyến luyến lúc chia tay còn kinh sợ khi năm sắp qua Trong giấc mộng quan hà có tiếng gà gáy sáng Ở nơi đất khách mƣa gió nhạn ít bay về
PL94
Long thành cựu thức nhƣ tƣơng vấn Chuyết hoạn bình an độc chuyết thi
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – tr 715)
Những bạn cũ ở Long Thành nếu có hỏi Hãy nói rằng ông quan vụng về vẫn bình yên và chỉ vụng làm thơ.
103. TIỄN TIÊN ĐIỀN TIẾN SĨ NGUYỄN/ TIỄN TIẾN SĨ HỌ NGUYỄN Ở TIÊN ĐIỀN
Quy phỏng Dƣơng Đình nhất bả tôn Xuân ba xuân thảo kỵ tiêu hồn Về thăm nhà cha mẹ, nơi Dƣơng đình, cầm một chén rƣợu Sóng xuân, cỏ xuân mấy lần làm tiêu tán hồn phách
Thi thƣ vị dẫn do gia trạch Sơn hải nan thù thị quốc ân Thi thƣ chƣa mất, phúc nhà hãy còn Ơn nƣớc nhƣ núi cao biển rộng, khó bề đền đáp
Hoàng điều thanh trung nhƣ tích biệt Bích đào hoa hạ dục vô ngôn Trong tiếng chim oanh nhƣ nuối tiếc vì chia tay Dƣới hoa bích đào dƣờng không muốn nói
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – tr 770)
Cao đƣờng ban vũ tâm thiên ủy Danh giáo tƣơng khan lạc sự tồn Mặc áo hoa múa trên nhà, lòng riêng muốn an ủi cha mẹ Nhìn vào nền danh giáo của gia đình, chuyện vui vẫn còn.
104. TIỄN HỮU NHÂN CHI AN NHÂN PHỦ TÂN NHẬM/ TIỄN BẠN ĐI NHẬM CHỨC
MỚI Ở PHỦ AN NHÂN
Tằng văn tiếu ngữ Yên Đài cảnh Từng đƣợc biết tới cảnh nói cƣời ở Yên Đài/ Còn nhớ đã
Do ký truy bồi thúy các xuân Vãng sự hồi đầu kinh lão đại đƣợc theo hầu chơi xuân ở tòa lầu sâu hút/ Ngoái đầu nhìn lại việc đã qua, giật mình vì đã già dặn/ Quang cảnh phong nhã
Vận thiều xứng nhãn bổ phong trần Hỉ quân tùng thử chiêm tân ốc tƣơi đẹp, thỏa mắt nhìn, bổ khuyết cho cảnh gió bụi/ Vui mừng từ đây bác đƣợc thấm ơn mƣa móc mới/ Còn tôi là
Chuyết ngã đa tình ức cố nhân Báo chính huyền tri tình bạch tối ngƣời vụng về nặng lòng nhớ cố nhân/ Rất mong đƣợc nghe chính tích tốt nơi bác hàng năm đƣợc báo lên triều đình/ Ở
Kinh hoa dĩ nại thập niên bần.
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – tr 823)
chốn kinh đô tôi đã chẳng buồn vì cảnh mƣời năm nghèo túng.
105. TRÙNG TIỄN Y HỮU/ LẠI TIỄN NGƢỜI BẠN THẦY THUỐC
Y đạo tòng lai quan vận khí Cố gia nhƣ tử ái văn chƣơng Đạo thầy thuốc xƣa nay liên quan đến khí vận Con nhà dòng dõi, nhƣ ông là ngƣời yêu văn chƣơng
Thùy giao cửu khách thành quy khách Không hữu ngâm nang tống dƣợc nang Ai khiến cho khách tha hƣơng lâu thành khách trở về Chỉ có túi thơ, đƣa tiễn túi thuốc
Thiên lý vân sơn thôi viễn mộng Nhất âm mai liễu thuộc sơ dƣơng Non mây ngàn dặm thôi thúc giấc mộng xa xôi Mai thuộc nhất âm, liễu thuộc sơ dƣơng
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – tr 824)
Đông Hoa kiểu ngoại vô tƣơng thức Bệnh khởi thê thê thảo hựu phƣơng. Bên ngoài cầu Đông Hoa không ai quen biết Ốm dậy thấy lạnh lạnh, nhƣng lại có cỏ thơm.
PL95
106. DƢƠNG ĐÌNH KÝ HÀNH, DĨ THI TIỄN, LÂM BIỆT PHỤC DĨ TIỂU LUẬT KÝ HOÀI/ DƢƠNG ĐÌNH ĐÃ ĐI, LÀM THƠ TIỄN, LÚC SẮP TỪ BIỆT LẠI GHI NỖI LÒNG BẰNG BÀI TIỂU LUẬT
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – tr 881)
Chung tình duy ngã bối Tạm biệt diệc yêm lƣu Vũ quá sơ thu cúc Sƣơng dƣ các phất cừu Vô tâm vân độ lĩnh Hữu ƣớc nguyệt đăng lâu Nhƣợc quá kiều đầu lộ Hƣơng Giang dĩ tống thâu (thu) Tình bạn chung thủy chính là bọn chúng ta Lúc chia tay cứ nấn ná chẳng muốn rời nhau Mƣa đã qua rồi, hoa cúc bắt đầu nở Sƣơng xuống phất qua áo cầu của hai ta Mây cứ vô tâm bay qua đỉnh núi Trăng nhƣ hẹn trƣớc đã lên lầu rồi Nếu bạn qua con đƣờng đầu cầu Thì Hƣơng Giang bắt đầu tiễn thu.
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – tr 919)
107.TỐNG HỮU NHÂN ĐỖ CHI GIANG LƢU BA/ TIỄN BẠN HỌ ĐỖ ĐI GIANG LƢU BA Khách đi biển lênh đênh trên bè, nếu nhƣ đã có điều ấy/ Hải khách phù sà nhƣợc hữu trƣng Từ Côn Luân đi về phía tây, đó là Ba Lăng/ Thƣơng ông Côn Luân tây khứ thị Ba Lăng gặp hoạn nạn, tình cảm càng nồng hậu/ Nhớ lại mấy lần Cảm quân hoạn nạn tình thiên hậu tôi gặp sóng gió trên đƣờng/ Cƣời chỉ cây đinh hƣơng, Ký ngã phong ba lộ kỵ tằng hình nhƣ nỗi buồn tiêu tan hết/ Tình cảm nghiêng về Tiểu chỉ đinh hƣơng sầu dục yết những giọt sƣơng long lanh, thì hứng lại tăng/ Giang sơn Tình khuynh ngọc lộ hứng hoàn tăng đến nơi nào cũng đem lại cái nhìn mới mẻ/ Bài thơ nhƣ Giang sơn đáo xứ khai tân nhãn lƣu lại lần đi thứ hai này của ông. Ngâm nhƣợc do lƣu đệ nhị thằng (thăng)
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – tr 957)
Thừa hứng tiết Trùng Dƣơng, lúc này nâng chén/ Say không làm đƣợc thơ để tiễn khách về/ Rong ruổi ngàn dặm trên nẻo đƣờng trần đẹp nhƣ tiên cảnh/ Khắp thành mƣa thu, lên đài ngóng cố hƣơng/ Phía bắc sông nƣớc lụt đã rút hết, nhớ đến những con cá tƣơi ngon/ Phía nam bến sƣơng buông thấy nhạn đã bay về/ Năm đã muộn mà hoa cúc vẫn chƣa nở/ Tiết tiểu xuân còn lƣu lại để chờ đàn sáo tới.
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – tr 892) 108. TIỄN NGỤY BỐ CHÍNH CHI SƠN TÂY/ TIỄN QUAN BỐ CHÁNH HỌ NGỤY ĐI SƠN TÂY Nửa giƣờng phảng phất gió thoảng hƣơng sen, cùng nhau Liên phong bản tháp cộng trù mâu quyến luyến/ Nằm ngồi trên lầu cao trăm thƣớc trong hƣơng Tọa ngọa liên phong bách xích lâu sen gió thoảng/ Cửa khóa màu xanh, chợt vinh dự đƣợc ơn Thanh tỏa sạ vinh tân vũ lộ mƣa móc mới/ Hiên nhà màu đỏ, tin rằng từng là nơi phong Chu hiên tằng tín cựu phong lƣu lƣu xƣa/ Lan đẹp, cúc thơm, tình vô hạn/ Đàn sáo rộn ràng, Tú lan phƣơng cúc tình vô hạn cảm hứng tuôn trào/ Tây Lĩnh có ai đó hát ca yểu điệu/ Rừng Cấp quản phồn ty hứng vị hƣu hoa nở dƣới trời thu trong xanh đẹp xiết bao. Tây lĩnh hữu thùy ca điệu yểu Lâm hoa khai xứ nại thanh thu. 109. TỐNG BIỆT HỮU HOÀI/ HOÀI CẢM LÚC TIỄN BIỆT Trùng dƣơng dƣ hứng thử hàm bôi Túy bất thành ngâm tống khách hồi Thiên lý tiên trần trì dịch lộ Mãn thành thu vũ vọng hƣơng đài Bắc giang lao tận tƣ ngƣ mỹ Nam phố sƣơng tiền cảm nhạn lai Thƣợng hữu hoàng hoa trì vị phóng Tiểu xuân lƣu đãi quản huyền lai.
PL96
110. BÙI CÔNG TRÍ SỰ, THƢ TIỄN/ BÙI CÔNG VỀ HƢU, VIẾT TIỄN
(Chí Đình Nguyễn Văn Lý, Tổng tập thơ văn, tập 2, – tr 989)
Miếu đƣờng nhàn hạ bất ngôn binh Tam kính quy lai khẩn thánh minh Vũ lộ tùng thiên bồ tứ nhuận Ba đào ký ngạn nguyệt trì thanh Tự gia lão khứ hoàn mƣu đạo Dữ thế thân tiên vị tốn danh Đình trạm sơ khai toàn cẩm lộ Nhất giang xuân sắc liễu đề oanh Nơi miếu đƣờng nhàn hạ chẳng nói tới chuyện binh đao/ Cầu xin vua thánh cho đƣợc trở về tƣới vun ba luống cúc/ Ơn mƣa móc thiên tử ƣu đãi, ban cỗ xe tứ mã bánh bọc cỏ bồ đi rất êm/ Sóng lớn đã đổ tới bờ, đầm trăng trong sáng/ Tự biết đã già, nhƣng vẫn suy nghĩ về Đạo/ Lui về trƣớc thiên hạ nhƣng danh tiếng chẳng kém ai/ Từ đình trạm, bắt đầu con đƣờng trở về rực rỡ gấm hoa/ Một dòng sông xuân, chim oanh ríu rít trên cành liễu.
XVI. THƠ TỐNG BIỆT PHAN THANH GIẢN
(Thơ tống biệt Phan Thanh Giản khảo sát trong cuốn: Phạm Thị Minh Lễ, Chƣơng Thâu (2005), Thơ văn Phan Thanh Giản, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội). 1. TỨC SỰ/ TỨC SỰ
Tống khách sơn tiền vũ Biệt nhân giang thƣợng phong Quy lai tọa minh nguyệt Vô ngữ đối thƣ đồng Tiễn đƣa khách trong cơn mƣa trƣớc núi Chia tay ngƣời (bạn) trong gió thổi trên sông Trở về nhà ngồi tắm ánh trăng sáng Im lặng không nói đối mặt với thƣ đồng.
(Thơ văn Phan Thanh Giản – tr114)
2. LONG HỒ BIỆN NGUYỄN NGUYÊN/ TỪ LONG HỒ, TỪ GIÃI NGUYỄN NGUYÊN
Kinh kỳ bán niên tằng cộng tháp Giang can phân thủ các thiên biên Khuyến quân tu tích kim triêu biệt Đáo đắc tƣơng phùng hựu cách niên
Nửa năm cùng chung giƣờng chiếu ở Kinh đô Trên bờ sông, chia tay nhau mỗi ngƣời một phƣơng trời Khuyên cậu (anh) hãy ghi nhớ trân trọng buổi sáng chia tay này Chúng mình sẽ gặp mặt nhau, cách một năm nữa thôi (Thơ văn Phan Thanh Giản – tr92)
3. TỐNG TRƢƠNG LƢỢNG TRAI HẢO HỢP CHI NHẬM HOÀI ĐỨC TRI PHỦ/ TIỄN ĐƢA TRƢƠNG LƢỢNG TRAI (TRƢƠNG HẢO HỢP) LÊN ĐƢỜNG NHẬM CHỨC TRI PHỦ HOÀI ĐỨC
Thập nhị nhân trung đệ nhất nhân Tác thành vƣu ý khởi vô nhân Tham biên bằng bỉ thê phƣợng trạc Thí quận hoàn giao dã trí thuần Tam tải thanh huyền nam toán liễu Nhất ky hồng xu Bắc bƣu trần Khách trung cƣơng hữu dung sơ giả Yêu đắc xuân phong tọa nhất tuần Xuân phong cáp tập họa đƣờng tây Toạ lý thuần giao điểm túy nê Thanh nhãn kỵ tòng Nam Nguyễn cố Mƣơi hai ngƣời đậu, bạn đứng tên thứ nhất/ Ý tác thành sâu xa, không phải không có nhân duyên/ Giữ chức Tham hiệp ở biên thùy đã từng cất nhắc đƣợc ngƣời tài giỏi/ Trong thi cử ở Quận đã sắp đặt khiển bầy chim trĩ đồng nội thuần phục/ Ba năm qua bị treo chức trên danh nghĩa nằm ở vƣờn liễu phƣơng nam/ Một chuyến lên ngựa băng bụi hồng đến trạm phƣơng bắc/ Trong hàng khách khứa, lại có kẻ còn giản dị sơ sài/ Muốn có một dịp cùng ngồi uống chén rƣợu trƣớc gió xuân/ Trƣớc gió xuân, vua tập hợp đƣợc bạn ở phía Tây Họa đƣờng/ Trong cuộc họp mặt, rƣợu ngon uống đến say mềm/ Mấy
PL97
Tố quần phiên hạnh Thất Lang đề Tam canh song tĩnh đồng lƣu nguyệt Ngũ dạ đăng hàn bả thính kê Mạc quái thi trƣờng xao bất đắc Hà Kiều minh phát thị phân huề
lần đƣợc lọt vào mắt xanh Ngài Nam Nguyễn ngó tới/ May mắn, từ thân phận ngƣời hàn sĩ trở thành một ngƣời có tên trong số bảy ngƣời hiền/ Suốt ba canh trƣớc cửa song yên lặng ngồi mãi với ánh trăng (tới thăm nhà)/ Đến canh năm trƣớc ngọn đèn se lạnh, sợ nghe tiếng gà gáy/ Chớ lấy lại câu thơ còn bí vận/ Sáng sớm nay, đã phải chia tay ở Hà Kiều rồi.
(Thơ văn Phan Thanh Giản – tr158)
4. TỐNG NGÔ DƢƠNG ĐÌNH PHỤNG VÃNG GIÁM KHẢO HÀ NỘI TRƢỜNG/ TIỄN ĐƢA NGÔ DƢƠNG ĐÌNH VÂNG LỆNH ĐI CHẤM THI TRƢỜNG THI HÀ NỘI Bắc quận anh tài mậu Hoàng ân tƣởng dục thâm Minh dƣơng tứ phƣơng mục Tinh bạch thập niên tâm Lộ nhiễu hoàng hoa phát Tƣờng vi lạc diệp âm Công hoàn xu đƣờng nhật Ban y hƣởng bội âm Đất Bắc anh tài thịnh Ơn vua thấm sâu vào công dƣỡng dục Mắt nhìn khắp bốn phƣơng sáng rõ Tấm lòng tinh bạch mƣời năm đèn sách Đƣờng đi vòng, nhƣng có hoa vàng nở Tƣờng vây kín, lá rụng râm mát Ngày ông hoàn thành công việc trở về nhà Áo ban rực rỡ vang tiếng ngọc đeo.
(Thơ văn Phan Thanh Giản – tr566)
5. TỐNG LẠI BỘ THỊ LANG HOÀNG KIỆN TRAI – QUÝNH CHI NHẬM GIA ĐỊNH BỐ CHÁNH/ TIỄN THỊ LANG BỘ LẠI HOÀNG KIỆN TRAI QUÝNH CHI ĐI LÀM BỐ CHÁNH TỈNH GIA ĐỊNH Nhị thập niên lai tố trọng thần Văn chƣơng đức nghiệp tiễn đồng luân Đại tài hợp dụng thƣ bàn thác Ngọa trị nhƣng phiến trấn lại dân Nhi nữ hữu xan hà cố lự Thánh tình vô sự bất chu chuân Xu bồi đại tác tầm thƣờng cảm Nguyên vị Nam Kỳ hỉ đắc nhân Vị ức Nam trung nhƣ đạo phì Quang thiên hóa nhật nhậm du hi Thùy dƣơng cực phố xuân phàm lạc Phƣơng thảo tình thôn văn địch xuy Thán tức tự lòng khai hấn họa Kỳ (chi) kim do vị khởi sang di Lƣ diêm dẫn lĩnh bằng hà nhuận Quốc kế dân tình triệt để ty (tƣ)
Hai mƣơi năm nay, vốn là một bậc trọng thần/ Về sự nghiệp văn chƣơng ít có ngƣời sánh vai/ Tài năng lớn đƣợc dùng phù hợp vào việc gỡ những khó khăn/ Nằm mà trị vẫn lo việc quan, việc dân của trẫm/ Đàn bà trẻ con có đủ ăn hàng ngày còn lo gì nữa/ Tình cảm nhà vua không việc gì mà không chăm sóc chu tất/ Thay mặt kẻ hầu hạ, xin bày tỏ cảm tƣởng tầm thƣờng/ Bởi lẽ mừng cho đất Nam Kỳ đƣợc gặp ngƣời tốt (đến cai trị)/ Vì nhớ đất trong Nam trung gạo trắng nƣớc trong/ Những tháng ngày yên vui với sự giáo hóa dƣới bầu trời xanh, thì thả sức vui chơi/ Cánh buồm xuân ghé bến xa rặng dƣơng liễu/ Tiếng sáo chiều thổi từ bãi cỏ thơm trong thôn hửng nắng/ Đáng tiếc là từ họa gây hấn trƣớc đây/ Cho đến nay cũng chƣa nổi lên những cảnh dân điêu linh/ Xóm làng dân chúng ngóng trông ơn bề trên/ (Vậy) phải triệt để lo nghĩ đến tình hình dân chúng và kế sách của nƣớc nhà.
(Thơ văn Phan Thanh Giản – tr576)
PL98
6. TỐNG LỄ BỘ THƢỢNG THƢ PHỤNG SUNG HOÀNG TỬ SƢ BẢO NGUYỄN CÔNG ĐẮC THỈNH QUY LÝ/ TIỄN QUAN THƢỢNG THƢ BỘ LỄ SUNG CHỨC DẠY HOÀNG TỬ, NGÀI NGUYỄN CÔNG ĐƢỢC XIN VỀ QUÊ QUÁN
Mạn đạo Đông môn diễm tống hành Tiên sinh tiến thoái thậm phân minh Cửu trùng trịnh trọng cầu nho thạc Tứ Quảng đào huân thuộc lão thành Tự thị suy đồi yêu đế giám Khởi tƣơng chỉ túc bác thời danh Dã đƣờng trƣợng lũ nhàn kham vị Căng thức kỳ nhƣ ngã hậu sinh
Bàn luận mãi về cuộc tiễn đƣa đẹp ở cửa Đông/ Bƣớc tới lui chốn quan trƣờng của tiên sinh rất là sáng sủa, đàng hoàng/ Cửu trùng trịnh trọng ra công tìm những ngƣời giỏi nhất trong làng nho/ Bốn xứ Quảng đƣợc sự đào tạo rèn đúc, xứng đáng đặt vào bậc lão thành/ Tự cho mình đã suy yếu (nên) xin cầu vua soi xét (cho về)/ Há phải đem cái biết dừng, biết đủ của mình để kiếm sự nổi tiếng trên đời/ Gót hài dấu gậy ở Lục Dã Đƣờng và thong dong nếm các thú vui/ Nhƣ là nêu một khuôn phép cho lớp ngƣời sau chúng tôi.
(Thơ văn Phan Thanh Giản – tr584)
7. TỐNG NGUYỄN CƢ SĨ CHI NHẬM KIM SƠN/ TIỄN ĐƢA NGUYỄN CƢ SĨ ĐI NHẬM CHỨC Ở KIM SƠN
Tích nhật nam châu điều khiển tôn Di phong dƣ vận uyển nhiên tồn Ngọc đƣờng kim mã hồng triêm cửu Mặc thụ đồng chƣơng trạm ác phồn Ấp lý bản tòng tân kiến tịch Địa phƣơng sơ hệ tức doanh đồn Chi tƣ thí thử bì nan nhiệm Trung hiếu gia thanh tại bất huyên
Là cháu của quan điều khiển ngũ doanh tƣớng sĩ ngày xƣa/ Tác phong, lời nói thật giống nếp ngƣời xƣa để lại/ Vẻ cao quý ngọc đƣờng kim mã đã in sâu lâu ngày/ Dấu cũ quyền cao chức trọng đƣợc ban thƣởng vẫn còn đậm khắp/ Làng xóm (nay) đã bắt nguồn từ công khai khẩn xây dựng mới (ngày ấy)/ Địa phƣơng (hiện tại) có quan hệ đầu tiên với doanh đồn ngày trƣớc/ Nay dốc lòng (hết mình) thử sức chịu đựng mệt mỏi với công việc khó khăn/ Tiếng con nhà trung hiếu cốt ở chỗ không thổi phồng (không huyên truyền).
(Thơ văn Phan Thanh Giản – tr586)
8. TỐNG CAO HỮU DỰC CHI NHẬM TRẤN TÂY THỊ LANG/ TIỄN ĐƢA CAO HỮU DỰC ĐI NHẬN CHỨC THỊ LANG Ở TRẤN TÂY
Phụng mệnh từ Đan khuyết Dƣơng huy khống viễn hoang Kiếm hoa diệu Nam đẩu Hồ ảnh trục Thiên lang Tiền, Hậu giang nguyên khoát Đông, Tây hải tấn trƣờng Bằng quân áp nguy tịch Vạn lý tác kim thang Vâng mệnh rời cửa khuyết ra đi Phất cao ngọn cờ khống chế miền đất hoang vu phƣơng xa Ánh gƣơm sáng lòa đến sao Nam đẩu Bóng cung xua đuổi bầy lang sói nhà trời Sông Tiền sông Hậu có nguồn nƣớc dài rộng Cửa bể ra vào phía biển đông và phía tây mở đƣờng dài mãi Nhờ ông kiềm chế bới kẻ ở ngôi vị cao Tạo nên thành trì vững chắc nơi muôn dặm xa.
(Thơ văn Phan Thanh Giản – tr595)
PL99
XVII. THƠ TỐNG BIỆT PHƢƠNG ĐÌNH - NGUYỄN VĂN SIÊU
(Thơ tống biệt Nguyễn Văn Siêu khảo sát trong hai cuốn: Tuyển tập thơ văn Phƣơng Đình - Nguyễn Văn Siêu (tập 3), (tập 4) (2010), Nxb Hà Nội).
1.TỐNG HÌNH BỘ LANG MỘNG PHỤ NGUYỄN THAI CHAI QUẢNG NAM ÁN SÁT/ TIỄN THỊ LANG BỘ HÌNH HỌ NGUYỄN Ở MÔNG PHỤ ĐI LÀM ÁN SÁT Ở QUẢNG NAM
Phong vũ đảo kinh tài nhị nhật Ly quần tam tải cộng bồi hồi Tới kinh thành trong khi mƣa gió mới đƣợc hai hôm/ Xa bạn bè đã ba năm tâm trạng bồi hồi/ Bạn cũ còn đƣợc
Cố nhân kỵ tại xuân tƣơng lão Trọc tửu vô đa tủy bất lai mấy ngƣời xuân này chắc cũng sắp già rồi/ Rƣợu đục không nhiều đâu có say đƣợc nữa/ Vƣờn thu mây trắng
Thu viện bạch vân lƣu thự sắc Hƣơng giang minh nguyệt tịnh phi ai vƣơng ánh nắng sớm/ Dòng sông Hƣơng trăng sáng không bợn bụi trần/ Đình Nam lại trở thành con đƣờng
(Tuyển tập thơ văn Phƣơng Đình - Nguyễn Văn Siêu (tập 3) – tr 254)
Nam đình hựu tác tƣơng tƣ lộ Thiên nhập Vân Quan nhất bích hồi tƣơng tƣ/ Vào đến Hải Vân quan trời chỉ nhƣ một dài biếc quanh co.
2. TỐNG HỘ PHỦ NGỤY THAI THIỆN PHỦ PHỤC CHI HƢNG/ TIỄN QUAN HỘ LÝ
TUẦN PHỦ NGỤY THIỆN PHỦ PHỤC CHỨC ĐI HƢNG HÓA
Thùy liệu Gia Hƣng hựu thử hành Ai biết đƣợc lại có cuộc hành trình đến Gia Hƣng này
Tƣơng tri đồng tích sậu phân trình Tây Hồ cửu khoáng phù bôi thú Nam thự do đa tiễn chúc tình Bạn bè ai cũng luyến tiếc trƣớc cuộc chia ly vội vã Tây Hồ đã lâu không có cuộc rƣợu vui Phủ Nam còn bao ngƣời mong ngày gặp lại
Hứng tiếp Thao Đà song phái viễn Tâm lao Bình Trản ngũ vân tình Hứng thú theo hai dòng chảy Thao, Đà tít tắp Lòng luyến nhớ năm sắc mây Ngọc Trản, Ngự Bình
Sơ phi khởi giác cao phi quyện Không hƣớng kiều thiên học hữu thanh
Mới cất cánh bay há biết bay cao thì mỏi mệt Luống những hƣớng thẳng trời cao học theo tiếng bạn bè. (Tuyển tập thơ văn Phƣơng Đình - Nguyễn Văn Siêu (tập 3) – tr 278)
3. TỐNG THIỆN PHỦ NGỤY THAI QUY HƢNG/ TIỄN NGỤY THIỆN PHỦ VỀ HƢNG HÓA
Thập tải tƣơng phùng mạn chí câm Lƣỡng hồi kinh đế ủy liên khâm Từ lần gặp gỡ nhau tới hôm nay đã đƣợc mƣời năm Hai lần tới kinh đô yên ủi với mối kết giao này
Đông pha khách khí hà thƣờng tận Thúc Độ uông ba bản tự khâm Sự khách khí của Đông Pha sao có thể hết Kiến thức của Thúc Độ vốn đã thâm sâu
Sất mã quan sơn nhân hựu khứ Hải thiên phong nguyệt mộng tƣơng tầm Một thớt ngựa ngƣời lại ra đi tới miền quan ải Trời biển gió trăng muốn tìm lại trong giấc mơ
(Tuyển tập thơ văn Phƣơng Đình - Nguyễn Văn Siêu (tập 3) – tr 398)
Tinh thiều quá trụ Tô giang thủy Khả tích u cƣ cận nhƣợc lâm Xe sứ đi qua dừng lại bên dòng sông Tô Đáng tiếc nơi ở tĩnh lặng giống nhƣ rừng cây kia.
PL100
4.TỐNG VĨNH THUẬN NGUYỄN ƢỚC PHU TRẤN TÂY TÒNG QUÂN/ TIỄN NGUYỄN ƢỚC PHU Ở VĨNH THUẬN TÒNG QUÂN TRẤN TÂY
Ƣu hoạn thâm niên thiếu Trì khu bốc lão thành Quân ân vi tái tạo Thân hỉ hữu kim hành Nam chuyến thiên sơn tận Tây lai vạn hác khuynh Tƣơng tƣ nhung mã lộ Nhất nhật tạm phùng nghênh
Lo lắng vất vả nhiều từ khi còn nhỏ tuổi Rong ruổi tận lực đoán đƣợc tuổi già sẽ thành công Ơn vua đã tái tạo cho ta cuộc sống này Cha mẹ vui mừng vì có cuộc đi hôm nay Tới phía nam nơi các ngọn núi đều tận cùng Tới phía tây nơi mọi dòng suối đều khô cạn Cùng tƣởng nhớ đến con đƣờng chinh chiến Một ngày này thôi tạm gặp gỡ nhau. (Tuyển tập thơ văn Phƣơng Đình - Nguyễn Văn Siêu (tập 3) – tr 441)
5. TỐNG LỄ BỘ THƢỢNG THƢ KHUÊ NHẠC PHAN TIÊN SINH HOÀN HƢƠNG/ TIỄN QUAN THƢỢNG THƢ BỘ LỄ PHAN KHUÊ NHẠC VỀ QUÊ
Trạch ký Sài nham hƣ bán gian Hoạn du tích tự vân du hoàn Tâm không cổ Phật trần cơ tĩnh Lực tận thu phong lão hạc nhàn Nhất nhật giam thƣ hoài viễn đạo Hà thời thái cúc phỏng tƣ san Lai tòng Viên Tản thanh thiên nhận Sấu cốt lăng tằng quýnh mạc phan
Nhà làm tạm bên vách núi Sài Sơn có đƣợc nửa gian Gót chân trên đƣờng công danh nhƣ áng mây trở về Hƣ tâm nhƣ vị cổ Phật nên mọi cơ trần đều tĩnh lặng Sức tận nhƣ gió cuối thu, hƣởng sự nhàn của tuổi già Ngày gửi bức thƣ đi mong nhớ nơi xa ấy Biết khi nào để đến thăm chốn núi non Lại đến Tản Viên cao xanh nghìn nhận Già cả xƣơng gầy chẳng thể với lên chỗ cao chót vót ấy đƣợc. (Tuyển tập thơ văn Phƣơng Đình - Nguyễn Văn Siêu (tập 3) – tr 449)
6. ẤP HỮU THẬN TƢ TRẦN THAI CHI QUẢNG NGHĨA HỌC CHÍNH, TƢƠNG PHÙNG Ƣ KINH NGỤ TƢƠNG SỞ TÁC THI THẢO, MẠNH DUYỆT ÁI KỲ NHÃ, BÌNH THẢ HỶ HỮU THỊ HÀNH PHÖ DĨ TỐNG CHI/ BẠN CÙNG ẤP THẬN TƢ TRẦN THAI ĐI NHẬM CHỨC HỌC CHÍNH QUẢNG NGÃI, GẶP NHAU Ở NHÀ TRỌ KINH SƢ, ĐƢA CHO TẬP THI THẢO BẢO ĐỌC, YÊU SỰ TAO NHÃ, BÌNH DỊ, LẠI MỪNG CÓ CUỘC ĐI NÀY, NÊN CÓ BÀI THƠ ĐƢA TIỄN
Cố hƣơng tứ ngã hà thời hoàn Xuất lộ phƣơng chi hành lộ gian Lƣu trệ ký phùng Hƣơng Thủy dịch Mộng tƣ trùng cách Hải Vân quan Nam Lai phong vũ thu đa trở Lão trí đồ thƣ hoạn dục nhàn Vị hí tân thi đa thú vị Hàn lƣu thúy thảo cộng di nhan
Quê cũ khi nào tôi và bác trở về Ra khỏi cửa mới biết đƣờng đi gian nan Ở lâu mấy lần gặp nhau ở dịch quán sông Hƣơng Mong gặp trong mộng nhƣng cách trở bởi Hải Vân quan Từ phƣơng Nam đến mƣa gió, mùa thu nhiều trở ngại Già đến, chức trách, sách vở, muốn đƣợc nhàn rỗi Mừng đƣợc thơ mới của ngài có nhiều thú vị Dòng nƣớc lạnh, cỏ xanh biếc làm cho thoải mái. (Tuyển tập thơ văn Phƣơng Đình - Nguyễn Văn Siêu (tập 3) – tr 606)
PL101
7. NGUYÊN ĐỊNH NIẾT TRẦN PHÚC THIÊN QUẢNG NAM, TƢƠNG PHÙNG Ƣ KINH NGỤ Y VŨ NINH PHỦ NGUYÊN VẬN TỐNG CHI/ NGUYÊN ÁN ÁT SỨ NAM ĐỊNH TRẦN PHÁC BỊ GIÁNG CHỨC VỀ QUẢNG NAM, GẶP Ở KINH SƢ, LÀM THƠ TIỄN THEO NGUYÊN VẬN PHỦ VŨ NINH
Nam nghĩa chủ nhân thâm hiếu khách Tiên xuân hữu thử thiên nhân lai Kinh trung bạch phát tƣơng vi tống Hải ngoại thanh phong mãn tọa hồi Khả thụ hữu duyên viên bút nhật Hà Sầu chung khuất phụ xa tài Băng Sơn diệc tự Ngũ Hành thắng Tích nhật hà nhân đồng thử bôi Chủ nhân Nam Nghĩa rất hiếu khách Từ mùa xuân, biết việc di chuyển nên đến thăm Trong kinh đầu đã bạc, cùng đƣa tiễn nhau Ngoài biển gió mát thổi tràn đầy nơi ngồi chơi Đúng là có duyên giúp đỡ nhau trong việc văn bút Lo gì cuối cùng đã phụ một tài năng Băng Sơn cũng đẹp nhƣ Ngũ Hành Sơn Ngày trƣớc ai cũng đã cùng ông nâng chén rƣợu gặp gỡ này. (Tuyển tập thơ văn Phƣơng Đình - Nguyễn Văn Siêu (tập 3) – tr 609)
8. TỐNG NHƢ YÊN CHÍNH SỨ TRƢƠNG QUÝNH XUYÊN/ TIỄN CHÁNH SỨ TRƢƠNG QUÝNH XUYÊN ĐI YÊN KINH
Nhạn quy nhân khứ Bắc, Nam thiên Thu mãn Kinh hồ, tuyết mãn Yên Thi học thƣợng kham chuyên đối nhật Phù tra bất thị lão Trƣơng Khiên Nhạn về, ngƣời đi trời Nam, Bắc Thu đầy Kinh hồ, tuyết phủ đầy vùng Yên Chuộng việc học, làm thơ để qua ngày Cƣỡi bè chẳng phải chỉ ông già Trƣơng Khiên. (Tuyển tập thơ văn Phƣơng Đình - Nguyễn Văn Siêu (tập 3) – tr 633)
9. TỐNG TAM ĐĂNG PHẠM THỊ ĐỘC GIA HUYNH NAM ĐỊNH/ TIỄN ÔNG ANH CỦA THỊ ĐỘC PHẠM TAM ĐĂNG VỀ NAM ĐỊNH
Tọa phùng ngũ thập ngô Nam lão Vấn thị Tam Đăng Phạm tử huynh Tôn tửu ân cần thù bá thị Giai chƣơng thiêm thiết họa thời anh Giang sơn lịch lãm song tiều cƣớc Phong vũ lƣu liên nhất nhạn thanh Hoàng lĩnh chính khan hồi thú vọng Đồng phƣơng nhân sỹ mãn Chu kinh. Gặp gỡ ông bạn già năm mƣơi tuổi ngƣời thành Nam Hỏi ra là anh của ông Phạm ở Tam Đăng Chén rƣợu ân cần mời ông bác Vần thơ hay trộm đem họa với ngƣời tài Đôi chân của kẻ tiều phu đi khắp sông núi Một tiếng nhạn kêu trong mƣa gió liên miên Trƣớc dải Hoành Sơn đúng lúc ngoái đầu nhìn Nhân sĩ cùng một phƣơng đầy rẫy ở kinh đô nhà Chu (Tuyển tập thơ văn Phƣơng Đình - Nguyễn Văn Siêu (tập 3) – tr 642)
10. TRẦN ĐỐC HỌC TỰ QUẢNG NGHĨA CẢI HÀ TĨNH QUÁ KINH NGỤ LƢU SỔ NHẬT TỐNG CHI/ TIỄN ĐỐC HỌC HỌ TRẦN TỪ QUÀNG NGÃI ĐỔI RA HÀ TĨNH TRỌ VÀI NGÀY Ở KINH
Vãn niên suy bệnh tƣ lƣơng hữu Nghịch lữ phùng quân bất khẳng lƣu Nam, Bắc chuyển đa lai khứ lộ Quan hà thùy định chỉ cƣ mƣu Tâm không Trà Khúc sơ viên nguyệt Cuối đời hay bệnh nhớ bạn tốt Gặp ông nơi nhà trọ mà không thể giữ lại Từ Nam ra Bắc có nhiều đƣờng đi về Dặm trƣờng ai đã sắp đặt nơi dừng lại Lòng hƣ không khi trăng Trà Khúc vừa mới tròn
PL102
Vọng tễ Hồng Sơn sạ báo thu Hà sự Xƣơng Lê Khuyến học giải Phù sinh ty lão khởi ngô ƣu Ngóng tạnh ở núi Hồng trời đã báo thu Việc gì mà Hàn Xƣơng Lê viết bài Khuyến học giải. Cuộc đời trôi nổi của lão già thấp hèn này há đáng lo ngại sao. (Tuyển tập thơ văn Phƣơng Đình - Nguyễn Văn Siêu (tập 3) – tr 645)
11. KÝ TỐNG PHẠM TƢ NGHIỆP CÁO GIẢ HOÀN HƢƠNG/ GỬI TIỄN QUAN TƢ NGHIỆP HỌ PHẠM CÁO TỪ VỀ QUÊ
Tật bệnh dƣ vị thậm Quy lai quân tối nghi Vấn âm cam cứu khoáng Cân lực hạnh tƣơng tri Khiếp tứ xuân phong mãn Quan hà thử khí suy Trung thu thử dạ nguyệt Ƣng cập túy đông luy Đau ốm tôi mới nhiều Trở về, ông rất nên Thăm hỏi đành thƣa thớt Gân sức may là đều biết Hòm xiểng gió xuân đầy Đƣờng xá khí nóng giảm Đêm trăng trung thu này Nên uống say bên dậu đông. (Tuyển tập thơ văn Phƣơng Đình - Nguyễn Văn Siêu (tập 3) – tr 648)
12. TỐNG NỘI CÁC THỊ ĐỘC MAI THÁM HOA CHI NAM ĐỊNH TRƢỜNG PHÂN KHẢO/ TIỄN THỊ ĐỘC NỘI CÁC THÁM HOA HỌ MAI ĐI HỘI ĐỒNG THI NAM ĐỊNH
Chu y tịch thƣợng tọa tƣơng phân Trƣờng ốc văn chƣơng tổng nhƣợng quân Bí các thi thƣ thƣờng mãn phúc Thị thần từ phú chính lăng vân Giang Nam kim quất thu sơ thục Hải bắc hàng đào dạ bất văn Lão ngã cấm viên tần thƣợng trực Hoài nhân lƣơng nguyệt bạch phân phân. Áo đỏ ngồi trên tiệc có sự phân chia Văn chƣơng nơi trƣờng ốc đều phải nhƣờng ông Thi thƣ nơi bí các thƣờng chứa đầy bụng Từ phú của kẻ thị thần chính đã vƣợt trên mây Quất vàng vùng Giang Nam vừa chín Sóng lạnh biển Bắc đêm đến không nghe tiếng Ta đã già vì hầu bề trên ở nơi vƣờn cấm Nhớ ngƣời, trăng sáng dạ ngời ngời. (Tuyển tập thơ văn Phƣơng Đình - Nguyễn Văn Siêu (tập 3) – tr 701)
13. TỐNG CÁC TRƢỜNG NGUYỄN THAI TÂN THUYÊN HÀ NỘI BỘ CHÍNH SỨ/ TIỄN ÔNG TRƢỞNG TÒA NỘI CÁC HỌ NGUYỄN MỚI ĐƢỢC CHUYỂN VỀ HÀ NỘI LÀM BỐ CHÍNH SỨ
Bắc thành chƣ quận thử hầu khâm Hàn các danh lƣu thế sở khâm Thiên ngữ tái tam Ôn thất mệnh Quân môn chỉ xích cận thần tâm Đông phong chính hữu quan mai hứng Nam Phố nan vi chiết liễu ngâm Cố thị thùy thanh tƣ tự hỉ Hà nhƣ tang tử cộng xuân âm Bắc thành là chốn yết hầu của các quận Danh lƣu gác Hàn lâm ngƣời đời kính trọng Lời Trên đôi ba lần trao mệnh từ ngôi nhà ấm trong cung Cửa vua gang tấc tấm lòng kẻ bày tôi gần gặn Gió đông thổi đang có hứng đƣợc thăm hoa mai Nam Phố khó mà làm đƣợc bài thơ bẻ liễu Lòng riêng vui khi nghĩ lại đƣợc lƣu tên trong sử sách Nhƣng sao bằng cùng cây tang, cây tử hƣởng nắng xuân. (Tuyển tập thơ văn Phƣơng Đình - Nguyễn Văn Siêu (tập 3) – tr 710)
PL103
14. SỬ QUÁN BIÊN TU DƢƠNG THAI GIA NHI BẮC HOÀN BÁI TỪ, TẶNG SỔ VẬN/ CON ÔNG HỌ DƢƠNG LÀM SỬ QUÁN BIÊN TU ĐẾN TỪ BIỆT RA BẮC, CÓ THƠ NÀY TẶNG
Từ hành bái phụ chấp Quy mạnh phụng nghiêm quân Đồng tử ngô hà tặng Tam lang nhữ hữu văn Hãn thanh kỳ bạch thủ Từ phú thái thanh vân Đan quế Dƣơng gia thụ Y hi ức viễn phƣơng
Từ biệt lên đƣờng bái lậy Về quê theo mệnh của cha Là con cháu ta tặng gì đây Cháu Ba có bài văn này Tuổi xanh hẹn đầu bạc Từ phú gửi đƣờng mây Đan quế nhà họ Dƣơng Phảng phất gợi hƣơng xa (Tuyển tập thơ văn Phƣơng Đình - Nguyễn Văn Siêu (tập 3) – tr 732)
15. TỐNG LÊ PHÖC XUYÊN CHI NAM ĐỊNH ỨNG CỬ/ TIỄN LÊ PHÖC XUYÊN ĐI NAM ĐỊNH ĐI THI
Huề thú xuân phong sinh hữu nhai Ám liên ngu ngạn các thành gia Hạnh tri tráng kiện do kim nhật Vong khƣớc thê trì kỉ tuế hoa Yên thủy dao tình giang thƣợng thụ Phong vân cử túc nguyệt biên tra Phiền quân tảo nhận chân thu sắc Tài đáo Nam sơn cúc tự hoa.
Nắm tay nhau, gió xuân sinh ra có giới hạn Ngầm xót thấy kẻ thô độn, quê mùa đều thành các nhà May biết ngày nay còn khỏe mạnh Quên mất nghỉ ngơi đã mấy mùa Khói nƣớc lay động tình nhớ bạn Gió mây cất bƣớc lên bè bên trăng Phiền anh sớm nhận ra sắc thu thật Mới đến núi Nam, cúc tự trổ hoa. (Tuyển tập thơ văn Phƣơng Đình - Nguyễn Văn Siêu (tập 4) – tr 119)
16. NAM ĐỊNH NGUYỄN NIẾT ĐÀI XUÂN PHONG SỚ THỈNH HỒI GIA ĐỊNH TỈNH THÂN TRÍ THƢ TỪ BIỆT NHÂN (KÝ TẶNG)/ ÔNG ÁN SÁT TỈNH NAM ĐỊNH NGUYỄN XUÂN PHONG LÀM SỚ XIN VỀ GIA ĐỊNH THĂM CHA MẸ GỬI THƢ TỪ BIỆT NHÂN ĐÓ LÀM THƠ GỬI TẶNG
Gia hữu từ thân mại cổ hi Quan cƣ phƣơng diện luyến đình vi Cửu xƣơng bái sớ vi thành động Nhất nhật thừa hoan viễn biệt qui Hứng mị cảm vi Mao Nghĩa hịch Thái bình hỉ toại Lão Lai y Thử hành thả đắc chiêm thiên cận Bất giác hoài nhân dục phấn phi
Trong nhà còn cha mẹ đã đến tuổi xƣa nay hiếm/ Đƣơng làm quan vẫn nhớ cảnh cha dạy bảo lúc nhỏ/ Chín cửa bái trình, xin đƣợc chứng minh tấm lòng xúc động chân thành/ Muốn từ biệt về nơi quê nhà xa xôi để đƣợc một ngày theo cha mẹ vui/ Lúc thức lúc ngủ đâu dám trái với hịch Mao Nghĩa/ Khi thanh bình mừng thỏa tấm lòng hiếu của Lão Lai/ Lần đi này vui vì đƣợc ngắm trời gần/ Chợt nhớ cha mẹ, muốn nhƣ cánh chim bay ngay về (Tuyển tập thơ văn Phƣơng Đình - Nguyễn Văn Siêu (tập 4) – tr 379)
PL104
17. DƢƠNG ĐÌNH NGÔ NGÔ TRỌNG TỬ ỨNG TRIỆU LAI KINH, DƢ DIỆC HỮU QUÁN CHỨC CHI MỆNH NHÂN SỰ TRIỆT LƢU ĐỊNH TỈNH TƢƠNG NGỘ PHÚ THỬ TỐNG HÀNH/ DƢƠNG ĐÌNH NGÔ THẾ VINH (1802 - 1856) VÂNG MỆNH VUA VÀO KINH. TÔI CŨNG ĐANG CÓ PHẬN SỰ Ở NƠI QUAN THỰ. NHÂN CÔNG VIỆC ĐÃ XONG, LƢU LẠI Ở TỈNH NAM ĐỊNH, GẶP NHAU LÀM BÀI THƠ NÀY TIỄN ĐƢA
(Tuyển tập thơ văn Phƣơng Đình - Nguyễn Văn Siêu (tập 4) – tr 398)
Cựu học kim do kí Văn danh lão độc tôn Cứu hƣ tiền tịch triệu Chỉ vị mẫu thân tồn Hƣơng giang hồi Ngự túc Bình lĩnh đối Xƣơng môn Cô thần chiêm luyến thiết Tiên thử tống hành hiên. Bác cựu học bây giờ còn đƣợc mấy ngƣời? Riêng bậc văn chƣơng già nổi tiếng đƣợc suy tôn Đã lâu không vào chầu trƣớc chiếu cửa khuyết Chỉ vì còn mẹ già Nƣớc Hƣơng Giang chảy vòng núi Ngự Bình Lĩnh đối diện với cửa Xƣơng Bề tôi cô đơn ngƣớc nhìn thƣơng mến Trƣớc tiên là chuyến tiễn chân lên xe này.
18. HÀ NỘI PHIÊN ĐÀI TÔN THẤT QUÝ DANH LƢU CHUYỂN HÌNH BỘ THỊ LANG LÂM HÀNH PHÚ TẶNG/ QUAN BỐ CHÍNH HÀ NỘI HỌ TÔNG THẤT, QUÝ DANH LÀ LƢU CHUYỂN LÀM THỊ LANG BỘ HÌNH, TRƢỚC LÖC LÊN ĐƢỜNG TÔI LÀM BÀI THƠ TẶNG
Khả vô văn tự ủy lâm kỳ Ôn hậu cƣ tâm hiểm tức di Nhị nguyệt xuân cao tiền lộ vũ Dƣ triêm hoàn phó thử miêu tri
(Tuyển tập thơ văn Phƣơng Đình - Nguyễn Văn Siêu (tập 4) – tr 469)
Không có văn hay để an ủi lúc chia tay Tấm lòng ôn hậu thì chỗ nguy hiểm cũng thành bằng phẳng Tháng hai, cơn mƣa ở con đƣờng phía trƣớc là mầu mỡ mùa xuân Ơn nhuần thấm ấy phó cho lúa tốt biết.
19. LÃNH THỌ XƢƠNG, VĨNH THUẬN ĐỒNG TRI PHAN QUÂN HUY KHIÊM THĂNG NGỰ SỬ TỐNG CHI/ TIỄN ÔNG ĐỒNG TRI HUYỆN THỌ XƢƠNG VĨNH THUẬN LÀ PHAN HUY KHIÊM THĂNG CHỨC NGỰ SỬ
Lƣỡng huyện hoàn thành cổ đại đô Trung gian yên hỏa bán tần vu Khả kham tiệm dực yêm thê cức Tòng thử minh triêu úy tập ngô Khứ lộ quan sơn đƣơng vãn mộ Hoài nhân suy bệnh độc giang hồ Nghĩ đồng phụ lão tƣơng phàn tống Thiếu vọng tiên trần tác dọa phu Hai huyện quanh thành là đại đô xƣa/ Giữa chừng khói lửa, đến nay quá nửa đã trở thành hoang vu/ Dần dần biến thành nơi chim chóc ở lâu trong đám gai góc/ Từ nay tiếng chim kêu buổi sáng nhƣ niềm an ủi đậu cây ngô đồng/ Buồn lúc trên đƣờng xa xôi gặp buổi chiều tà/ Nhớ ngƣời ốm đau phải một mình nơi tam giang ngũ hồ/ Nghĩ cùng phụ lão vin nhau đƣa tiễn/ Nhƣ tuổi trẻ nhìn thấy tiên trên trần, mà mình trở thành kẻ lƣời biếng. (Tuyển tập thơ văn Phƣơng Đình - Nguyễn Văn Siêu (tập 4) – tr 487)
20. TỐNG NGUYỄN QUÂN TƢ GIẢN ỨNG THÔI NHẬP BỘ/ TIỄN ÔNG NGUYỄN TƢ GIẢN THEO MỆNH VÀO BỘ
Giải cấu tiền duyên mộng dã chân Xuân sơn nhƣ tiếu khách sầu tân Duyên phận tiền định gặp gỡ tƣởng là giấc mộng lại hóa ra thật/ Ngọn núi mùa xuân nhƣ cƣời với ngƣời khách mang nỗi
PL105
Tinh tinh bạch phát Tô giang bạn Cửu tác nhàn nhân thiếu tiễn nhân
buồn mới này/ Mái tóc trắng toát đang ở bên bờ sông Tô Lịch/ Đã lâu làm ngƣời sống nhàn hạ ít phải tiễn đƣa ngƣời khác. (Tuyển tập thơ văn Phƣơng Đình - Nguyễn Văn Siêu (tập 4) – tr 562)
21. TỐNG LẠNG BÌNH KINH LƢỢC NINH THÁI VŨ CHẾ ĐÀI HÀNH BIÊN/ TIỄN ÔNG CHẾ ĐÀI HỌ VŨ LÀM KINH LƢỢC NINH THÁI ĐI XEM XÉT VÙNG BIÊN CƢƠNG TỈNH LẠNG SƠN, CAO BẰNG
Mục tiền cô tức tiện di ƣu Phục mãng thăng lăng ngụ vị hƣu Không thủ biên thần nan tốt ứng Công tâm Nho súy hữu lƣơng trù Cƣu phong diệc vũ tòng thiên hạ Mục mã lâm thành chỉ nhật thu Bạt thiệp thử lai duy nhất tống Dao chiêm quan tái nguyệt đƣơng thu
Dễ dãi để cầu đƣợc việc trƣớc mắt tất để lại mối lo/ Vất vả xuyên rừng trèo núi, chƣa lúc nào đƣợc nghỉ/ Làm ông tƣớng tay không ở nơi biên cảnh khó có thể ứng phó đến cùng mọi việc/ Làm vị Nho tƣớng đánh vào lòng ngƣời hẳn phải có trù tính hay/ Ở nơi cƣơng giới hoang vắng biết giễu võ dƣơng oai theo thiên hạ/ Cƣỡi ngựa đánh thành có thể định ngày chiếm đƣợc/ Cuộc xông pha này duy chỉ một mình đi tiễn/ Nhìn về nơi biên tái xa xăm thấy mặt trăng đƣơng vào mùa thu. (Tuyển tập thơ văn Phƣơng Đình - Nguyễn Văn Siêu (tập 4) – tr 594)
22. SƠN PHIÊN ĐIỀU LẠI BỘ HỮU THỊ LANG QUÁ MÔN LƢU GIẢN Y VẬN TỐNG CHI/ QUAN BỐ CHÍNH TỈNH MIỀN NÖI ĐƢỢC ĐIỀU VỀ TRIỀU LÀM HỮU THỊ LANG BỘ LẠI, QUA NHÀ ĐỀ THƠ LƢU TẶNG THEO VẦN HỌA TIỄN ÔNG
(Tuyển tập thơ văn Phƣơng Đình - Nguyễn Văn Siêu (tập 4) – tr 610)
Văn hữu thiên quan mệnh Hành đƣơng xuân mộ hồi Sơn thành chiêm giải lãm Tô thủy đãi ngự bôi Tống khách thi đa dự Lƣu nhân dịch cấp thôi Tức tuy nhàn phế cửu Quân quốc cảm vong hoài. Đƣợc biết có lệnh của quan bộ Lại đến Cuộc hành trình nhằm vào ngày cuối mùa xuân Nơi thành núi đã cởi dây buộc thuyền Bến nƣớc sông Tô đang chờ chén rƣợu của vua ban Thơ tiễn đƣa khách có nhiều bài ca tụng Lƣu giữ ngƣời ở lại nhƣng ngựa trạm lại giục gấp lên đƣờng Gần đây tuy nhàn bỏ bê mọi sự Nhƣng việc vua, việc nƣớc không hề dám trễ nải.
23. U CA QUÁN TỐNG LẠNG THÀNH BANG BIỆN THỌ XƢƠNG DOÃN PHẠM TỬ XUÂN TRẠCH/ TẠI CA QUÁN TIỄN ÔNG LỆNH DOÃN THỌ XƢƠNG PHẠM XUÂN TRẠCH ĐỔI ĐI LÀM BANG BIỆN THÀNH LẠNG SƠN
Thức ca thả vũ ngã hà tri Giải cấu khán nhân tại lộ kỳ Tự thử phong trần lao nhạn tái Hà nhƣ xuân sắc lão nga mi Đê ngang kim cổ tài phi dị Phủ ngƣỡng càn không bệnh độc tùy Kim dạ nghĩ đồng quân tận túy Cách thức ca và múa tôi có biết gì đâu Nhƣng cuộc gặp gỡ ở lối rẽ trên đƣờng Từ nay gió bụi sẽ làm nhọc mệt chim nhạn biên tái chuyển thƣ Biết làm thế nào với xuân sắc mày ngài già đi Ngƣời tài năng ngang ngửa xƣa nay chẳng dễ có Cúi ngẩng trông trời đất bệnh tật là cái riêng theo Đêm nay cùng ông say túy lúy
PL106
Tiêu tiêu hàn vũ cách đăng xuy Tiếng gió mƣa lạnh lẽo thổi bên ngoài kia cách ngọn đèn. (Tuyển tập thơ văn Phƣơng Đình - Nguyễn Văn Siêu (tập 4) – tr 613)
24. TỐNG PHẠM TỬ XUÂN TRẠCH QUY NGHỆ AN/ TIỄN ÔNG PHẠM XUÂN TRẠCH VỀ NGHỆ AN
Dữ tứ tuy tân tri U dƣ nhƣợc túc kỳ Hữu ngôn ngôn bất tận Dục ẩm ẩm hà vi Cơ cận niên niên bức Binh qua xứ xứ bì Vi quan bôn tẩu ngoại Thán thức thậm ngô suy.
Với ông tuy tôi mới đƣợc biết Nhƣng với tôi nhƣ đã hẹn trƣớc từ lâu Có lời nói, nhƣng nói không hết ý Muốn uống nhƣng uống mà làm gì Nạn đói kém cứ liên miên bức bách năm này sang năm khác Việc loạn lạc đánh nhau làm cho nơi nơi mỏi mệt Ngƣời làm quan nhỏ bị điều đi nơi này nơi kia ở biên ngoại Than thở mãi thật là tôi đã suy lão rồi. (Tuyển tập thơ văn Phƣơng Đình - Nguyễn Văn Siêu (tập 4) – tr 616)
25. TẶNG NGUYÊN HỒNG LÔ NGUYỄN QUÂN VĂN VĨ LÃNH CAO BẰNG ÁN SÁT/ TẶNG ÔNG NGUYỄN VĂN VĨ NGUYÊN CHỨC HỒNG LÔ ĐI LÃNH CHỨC ÁN SÁT TỈNH CAO BẰNG
Dĩ tằng bất tử tặc trung lai Bất tử can qua hựu kỵ hồi Cừu địch vi vong do thị sỉ Tráng tâm tuy khổ bất thành khôi Tuyệt biên hữu mệnh lƣu bàn thác Uy nguyện hà thời toại thảo lai Phạm ngã toán lai đồng trú ngã Duy thiên duy đế cộng liên tài Đã từng không chết trong chốn giặc giã mà về Không chết vì nạn binh đao đã mấy lần rồi Kẻ thù chƣa bị diệt hết thì còn xấu hổ Tấm lòng hùng tráng tuy khổ chẳng thể thành tro than đƣợc Mệnh vua giao cho lƣu giữ biên cƣơng xa nhiều khó khăn Mong ƣớc khi nào uy vũ diệt hết đƣợc bọn giặc cỏ dại Bắt ta vào khuôn phép nghĩ lại cũng là đào tạo ta Chỉ có trời, có vua là cùng quí yêu những tài năng của đất nƣớc. (Tuyển tập thơ văn Phƣơng Đình - Nguyễn Văn Siêu (tập 4) – tr 620)
26. TỐNG BẢN TỈNH NIẾT ĐÀI THĂNG BÌNH BỘ BIỆN LÝ ĐẶNG LƢƠNG HIÊN/ TIỄN ÔNG ĐẶNG LƢƠNG HIÊN LÀM NIẾT ĐÀI Ở BẢN TỈNH THĂNG CHỨC BIỆN LÝ BINH BỘ
Cƣ tiếp Bồng Lai bất lão xuân Cai lan khí sắc nhật thiêm tân Triều thiên tranh đạo minh kha khách Bái mẫu kiêm vị vũ thái nhân Thùy bạn khán sơn văn tự ẩm Độc lân Tô thủy cúc tùng thân Chỉ kim tiền lộ dƣ phong lạo Nguyện tất dân gian khấu tử thần
Ở tiếp với chốn Bồng Lai thì tuổi xuân không già đƣợc Tinh thần và sắc thái lan nơi thềm mỗi ngày một mới Về chầu vua, ngƣời ta tranh nhau khen là khách đeo ngọc quý Vào lạy mẹ, lại là ngƣời mặc áo hoa múa trƣớc sân Ai sẽ là bạn văn chƣơng uống rƣợu trên núi Khán Sơn Riêng thƣơng mình chỉ có tùng cúc nơi bờ sông Tô là thân thiết Chỉ có phía trƣớc con đƣờng hôm nay còn gió mƣa lầy lội Mong ông đem hết nỗi khổ của dân mà cúi đầu tâu trƣớc nhà vua. (Tuyển tập thơ văn Phƣơng Đình - Nguyễn Văn Siêu (tập 4) – tr 622)
PL107
27. HÀ NINH ĐỐC HOÀNG CÔNG THU ĐIỀU HỘ BỘ THƢỢNG THƢ PHỤNG TỐNG (QUÝ HỢI NIÊN BỔ DI)/ VÂNG TIỄN QUAN TỔNG ĐỐC HÀ NINH LÀ HOÀNG CÔNG THU ĐƢỢC ĐIỀU LÊN LÀM THƢỢNG THƢ BỘ HỘ (NĂM QUÝ HỢI - 1863 BỔ SUNG)
Lô Nhĩ tài quan tẩy giáp y Tƣ đồ hữu mệnh tỉ công qui Bình nguyên nhất cảnh công phi thiểu Trƣờng xã đƣơng niên nguyện dĩ vi Hộ chính tối quan dân mệnh mạch Lƣơng thần thâm chúc quốc cơ vi Kỵ hồi tĩnh viện tuần tƣ ý Tích mạc năng vô niệm Bắc kỳ.
(Tuyển tập thơ văn Phƣơng Đình - Nguyễn Văn Siêu (tập 4) – tr 649)
Đƣợc biết ông mới gột rửa áo giáp ở nơi sông Lô, sông Nhĩ/ Bây giờ lại đƣợc lệnh về triều làm Thƣợng thƣ Bộ Hộ/ Chịu trách nhiệm một vùng ở đồng bằng, công lao chẳng phải ít/ Ƣớc nguyện ở Trƣờng Xã năm ấy đã phải xa lìa/ Chính sách của Bộ Hộ rất quan thiết với sinh mệnh của dân/ Bậc bề tôi giỏi phải sáng suốt dự đoán đƣợc những việc quan hệ đến quốc gia khi mới hé lộ/ Khi nào đƣợc về tĩnh viện để tâu trình về các kế sách/ Thì xin nhớ tới vùng đất Bắc khốn khổ đã lâu này.
28. TỐNG HÀ PHAN LÊ QUÂN HỮU THANH QUYỀN BIỆN NINH BÌNH TỈNH HỘ PHỦ/ TIỄN ÔNG HÀ PHAN LÊ HỮU THANH ĐI NHẬN CHỨC QUYỀN HỘ PHỦ TỈNH NINH BÌNH
Sơn tiếp Ninh Bình vạn điệp thanh Hoài nhân ƣng thƣớng Khán Sơn đình Túng nhiên vô dữ hoàn ca vũ Thả cộng đƣơng diên tự túy tinh Thử khí huân nhân do vĩnh hạ Đào thanh bức nhĩ cánh thƣơng minh Tây Hồ khuất chỉ trùng lai nhật Thế lộ phù vân tổng vị đình
Núi liền núi ở Ninh Bình trùng điệp mầu xanh Nhớ ngƣời nên lại lên đình Khán Sơn Dẫu rằng không đƣợc lại cùng vui ca múa Thì hôm nay trên tiệc hãy thả sức tỉnh say Khí nắng nhƣ hun ngƣời là do ngày hè dài Tiếng sóng ấp bên tai sẽ ở nơi biển khơi Ở chốn Tây Hồ này bấm đốt ngón tay tính ngày gặp lại Nhƣng nhƣ mây nổi trên đƣờng đời, tất cả đều chƣa thể dừng đƣợc. (Tuyển tập thơ văn Phƣơng Đình - Nguyễn Văn Siêu (tập 4) – tr 673)
29. TỐNG BÌNH CHUẨN ĐẶNG QUÂN HOÀNG TRUNG PHÙ HẢI NHƢ ĐÔNG/ TIỄN BÌNH CHUẨN ĐẶNG HOÀNG TRUNG VƢỢT BIỂN ĐI VỀ PHÍA ĐÔNG
(Tuyển tập thơ văn Phƣơng Đình - Nguyễn Văn Siêu (tập 4) – tr 676)
Công sự đƣơng hành mại Thiên thời định khứ lƣu Phù dao khinh nhất tức Thiên địa khoát song mâu Danh lợi phi ngô ý Sơn hà hữu ẩn ƣu Hà đƣơng tất dị vực Qui dĩ đạt thần lƣu. Ông đang phải đảm nhiệm việc công trong chuyến đi xa này Đi hay dừng lại là do thời vận quyết định Vƣợt lên chín tầng mây chỉ trong một hơi thở Trời đất rộng bao la trƣớc đôi mắt tinh tƣờng Danh lợi chẳng phải là điều mong muốn của mình Non sông luôn là nỗi lo tiềm ẩn trong lòng Làm sao xong đƣợc công việc nơi xa lạ Trở về triều tâu lên nhà vua.
PL108
30. TỐNG NHƢ YÊN GIÁP PHÓ SỨ NGUYỄN VÂN LÂM/ TIỄN PHÓ SỨ THỨ NHẤT NGUYỄN VÂN LÂM ĐI SỨ YÊN KINH
Bức trắc danh đồ cửu phế ngâm Sứ quân văn giá trọng Nam câm (kim) Túng quan thƣợng quốc thƣ song nhãn Tham chất quần thƣ hiệp túc tâm Yên Triệu bi ca dƣ khảng khái Hành Tƣơng thu khí cộng đăng lâm Quan Nam khứ khả vô nhung mãng Tái Bắc hồi khan nhạn hảo âm
Chật vật trên con đƣờng công danh từ lâu đã bỏ bễ cả thơ phú/ Giá trị văn chƣơng của vị quan đi sứ xem trọng nhƣ vàng ở phía Nam/ Thả sức xem xét phong giang thƣợng quốc, tầm mắt đƣợc rộng mở/ Tra khảo sách vở cổ hợp với mong muốn từ lâu/ Bài hát bi thƣơng của nƣớc Yên nƣớc Triệu xƣa còn để lại niềm cảm khái/ Khí thu ở sông Tƣơng vắt ngang cùng đƣợc thƣởng thức khi lên cao nhìn xuống/ Từ cửa ải Nam Quan trở đi mừng không có giặc giã/ Nơi biên tái phía Bắc nhìn lại có tin nhạn tốt lành. (Tuyển tập thơ văn Phƣơng Đình - Nguyễn Văn Siêu (tập 4) – tr 776)
XVIII. THƠ TỐNG BIỆT VŨ TÔNG PHAN
(Thơ tống biệt Vũ Tông Phan khảo sát trong cuốn: Vũ Tông Phan - cuộc đời và thơ văn (1995), Nxb Văn học, Hà Nội).
1. THỨ PHƢƠNG ĐÌNH VẬN TỐNG LÊ HY VĨNH CHI SƠN TÂY HỌC QUÁN/ HỌA VẦN PHƢƠNG ĐÌNH TIỄN LÊ HY VĨNH ĐI TRƢỜNG HỌC Ở SƠN TÂY
Vị tả ly quần tứ Hồ vi phục tống nhân Cùng thông đô tự hý U tịch tối nghi bần Giang thành tƣơng hội địa Tây bắc nhất ban xuân Dƣơng liễu biên ngâm độc Phong lai thị ngã lân. Chƣa kịp bày tỏ nỗi lòng lìa đàn Làm sao đã lại đành phải tiễn ngƣời ra đi Dẫu cùng tận hay thông đạt thì đều nhƣ trò đùa cả Sự u tịch lại rất thích hợp với thanh bần Thành bên sông là đất hội ngộ Miền Tây Bắc là nơi đón xuân Khi anh ngâm vịnh ở Dƣơng Liễu Hễ thấy gió hiu hiu tức là tôi đã ở cạnh anh.
(Vũ Tông Phan - cuộc đời và thơ văn – tr 145)
2. TIỄN THUẬN AN TRI PHỦ NGUYỄN TUÂN PHỦ CHI KINH/ TIỄN TRI PHỦ THUẬN AN NGUYỄN TUÂN PHỦ VỀ KINH
Khứ niên tƣơng biệt Đức Giang đầu Thùy liệu kim tiêu Nhĩ thủy lâu Hội ngộ tha thần ƣng vị bốc Cƣ hành thử lý thuộc du du Na kham tống khách phùng xuân tận Khả thị hoài nhân hứa mộng lƣu Cầu mã chi giao nhƣ kiến vấn Đông Hoa khách mộng vị tằng hƣu Năm ngoái mới chia tay nhau trên bến Đức Giang/ Ai ngờ đêm nay lại tiễn nhau tại lầu bên sông Nhị Hà/ Cuộc gặp lại ngày sau hẳn chƣa biết trƣớc đƣợc/ Thế cho nên kẻ ở ngƣời đi đều cảm thấy bến sông này bao la man mác/ Làm sao phải chịu nổi cảnh tiễn bạn giữa ngày cuối xuân này/ Nhƣng thôi nhớ nhau hẹn gặp lại trong mơ vậy/ Nếu nhƣ anh có đƣợc bè bạn tâm giao hỏi thăm/ Thì hãy thƣa giùm khách vẫn chƣa nguôi giấc mộng Đông Hoa đâu.
(Vũ Tông Phan - cuộc đời và thơ văn – tr 152)
PL109
3. TỐNG PHÓ BẢNG NGUYỄN PHƢƠNG ĐÌNH CHI KINH HẬU BỔ/ TIỄN PHÓ BẢNG NGUYỄN PHƢƠNG ĐÌNH VỀ KINH ĐÔ CHỜ BỔ DỤNG
Tƣơng tƣơng hồi thủ tức Đào Nguyên Nhất thập niên dƣ thủy xuất môn Tự ngã bất tài hƣu cánh chuế Nhƣ quân cƣờng sĩ khởi tu ngôn Văn chƣơng tự tín tiền trình viễn Phẩm hạnh tƣơng khan bình nhật luân Thử biệt cƣ hành tâm chiếu xứ Tô giang thu nguyệt Kiếm hồ tôn. Cùng dắt nhau quay lại chốn Đào Nguyên Hơn chục năm rồi anh mới xuất môn Bất tài nhƣ tôi, nghỉ hƣu càng vô dụng Quan giỏi nhƣ anh, còn phải nói gì nữa Tin rằng tiền đồ văn chƣơng của anh lớn lắm Phẩm hạnh của anh chúng tôi vẫn ngợi ca hàng ngày Xa nhau lần này kẻ ở ngƣời đi soi lòng mình Mà nhớ mãi trăng thu Tô Lịch, chén rƣợu Hồ Gƣơm.
(Vũ Tông Phan - cuộc đời và thơ văn – tr 173)
XIX. THƠ TỐNG BIỆT PHẠM VĂN NGHỊ
(Thơ tống biệt Phạm Văn Nghị khảo sát trong cuốn : Thơ văn Phạm Văn Nghị (1979), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội).
1. TIỄN QUẢNG NAM CỐ NHÂN, NGUYÊN ÁN SÁT ĐẮC CỮU, VÃNG THÁI NGUYÊN/ TẶNG BẠN CŨ QUẢNG NAM, NGUYÊN LÀ ÁN SÁT CỐ LỖI, PHẢI ĐI THÁI NGUYÊN
Bạn cũ lúc này là do trời xui nên, biết làm thế nào đƣợc? / Biết bao trắc trở, khi ở cực bắc, lúc đến cùng nam/ Đến bể có làm thơ thì cũng là phận mệnh/ Gặp thu, cứ uống rƣợu, chớ nên bi ca/ Chí khí cƣờng tráng, chẳng vì gió sƣơng mà biến đổi/ Ơn khoan hồng, rồi biết mƣa móc còn nhiều/ Đƣờng về nếu có thể đến thăm tôi lần nữa/ Quà tặng bác, chỉ có hoa cúc vàng ở vƣờn cũ thôi.
Chú thích: Phan Văn Xƣởng, ngƣời Quảng Nam, đỗ cử nhân , đã làm án sát Quảng Nam, mắc lỗi bị cách chức và đƣa đi Thái Nguyên. Trên đƣờng đi ông này có ghé thăm Phạm Văn Nghị, do đó có bài thơ này. Sau đấy, Phan Văn Xƣởng tham gia đoàn nghĩa dũng của Phạm Văn Nghị, chỉ huy đội tiền quân, đi Đà Nẵng dánh giặc Pháp. Cố nhân kim nhật nại thiên hà Cựu bắc cùng nam đại khảm kha Đáo hải hữu thi hoàn phận mệnh Phùng thu cƣỡng tửu mạc bi ca Tráng hoài bất vị phong sƣơng biến Khoan điển nhƣng tri vũ lộ đa Quy lộ khả năng trùng kiến phỏng Tặng quân lão phố độc hoàng hoa (Thơ văn Phạm Văn Nghị - tr 101)
2. TIỄN THIÊN TRƢỜNG THÁI THÚ NGUYỄN TRỌNG HỢP LAI KINH/ TIỄN THÁI THÖ THIÊN TRƢỜNG NGUYỄN TRỌNG HỢP VÀO KINH
Quân kim thƣớng đế kinh Khiển quyển tống quân hành Huy bút, ngôn nan cánh Hàm bôi lệ dị khuynh Sơn do phục mãnh thú Hải dĩ động trƣờng kình Đa cố nhƣ kim nhật Phùng ƣu tiếu ngã sinh Nay bác vào đế kinh Tiễn bác lên đƣờng, lòng quyến luyến Cầm bút, khó viết hết lời Nhắp chén rƣợu, lệ lại rƣng rƣng Núi vẫn còn thú dữ nấp Bể đã sôi động vì cá kình Ngày nay, lắm chuyện nhiễu nhƣơng quá Đáng cƣời cho ta sống vào lúc trăm việc phải lo
PL110
Hiểm đi đãn duy mệnh Đại tiểu đồng nhất tình Hanh vị gia nhi ngữ Thiên hành, hƣ tất doanh. Nguy hay yên là do mệnh cả Dù lớn hay nhỏ cũng một tình nhƣ thế Xin nhờ nói với con tôi: “Đạo trời xoay chuyển vơi rồi lại đầy”.
(Thơ văn Phạm Văn Nghị - tr 141)
XX. THƠ TỐNG BIỆT VŨ PHẠM KHẢI
(Thơ tống biệt Vũ Phạm Khải khảo sát trong cuốn: Vũ Phạm Khải (1991), Đông Dƣơng thi văn tuyển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội)
1. TIỄN TRÍ SỰ KINH DOÃN NGUYỄN CÔNG TRỨ/ TIỄN KINH DOÃN NGUYỄN CÔNG TRỨ VỀ TRÍ SĨ
Phong sƣơng thất cổn tứ triều di Mã cách sơ tâm lão bất tùy Tử sĩ tán dƣ trần tích kiếm Ca nhi khiển hậu tuyết xâm tì Thiên cao ngọc khuyết đông vân cận Nhật mộ đô môn xích độc trì Hàm kết đan trung ƣng vĩnh thỉ Thái bình thân thế thử ân ti (tƣ).
Sƣơng gió trải bốn triều, bảy chục tuổi còn sót lại/ Cái chí da ngựa bọc thây lúc ban đầu, nay tuổi già không theo đƣợc/ Hồn kẻ tử sĩ tan đi rồi, bụi còn két lại trên kiếm/ Sau khi tiêu khiển với con hát, tuyết trắng chờm râu/ Nơi cửa khuyết nhƣ trời cao, mà vẫn gần cận áng mây hồng/ Chốn cổng thành buổi chiều tà, thơ thẩn cƣỡi con bò đỏ/ Ơn kết cỏ ngậm vành, tấm lòng son mong báo đền trọn vẹn/ Thân thế nay đƣợc thảnh thơi, đó là ơn riêng của nhà vua.
(Đông Dƣơng thi văn tuyển – tr 107)
2. TIỄN TRẦN TÖ DĨNH PHỤC NHƢ TÂY SỨ/ TIỄN TRẦN TÖ DĨNH LẠI ĐI SỨ TÂY
Quân dữ ba thần hữu túc duyên Điều điều Quế Hải hựu tân niên Hoàng châu oanh chuyển tam xuân sắc Bạch phát nhân khai vạn lý thuyền Mã đậu sơ tằng thông Vạn Lịch Tinh sà cổ vị đáo Trƣơng Khiên Ẩn ƣu tối hữu nan ngôn xứ Nhất khúc bằng quân vị khấu huyền
Ông vốn có túc duyên với thần sóng Năm mới, lại qua vùng Quế Hải xa xăm Nơi hoàng thành, chim oanh hót mừng ba xuân tƣơi sắc Ngƣời tóc bạc khởi hành con thuyền muôn dặm Mã não, hồi đầu Vạn Lịch đã có thông thƣơng Bè sứ, thời cổ Trƣơng Khiên chƣa từng đến Có điều lo lắng kín đáo rất khó ngỏ Xin giãi bày một khúc, nhờ ông gõ vào mạn thuyền mà hát. (Đông Dƣơng thi văn tuyển – tr 109)
3. TIỄN NHƢ YÊN ẤT PHÓ SỨ NGUYỄN VĂN SIÊU/ TIỄN ÔNG PHÓ SỨ THỨ HAI NGUYỄN VĂN SIÊU ĐI SỨ THANH
Sở thủy Ngô sơn lộ bát thiên Hoàng ba sứ tiết nhƣợng quân tiên Phong ba chuyển nhỡ sinh tiền tịch Mạnh lăng hồi đầu ngộ thiếu niên Sự nghiệp tƣơng khan nhân cộng lão Sông Sở, non Ngô đƣờng dài tám nghìn dặm Mệnh vua đi sứ, xin trƣớc nhƣờng ông Chớp mắt, sóng gió nổi lên trƣớc chiếu Ngoảnh đầu, gặp những lời thô thiển của kẻ thiếu niên Sự nghiệp ƣ, nhìn nhau chúng ta đều già cả
PL111
Căng toàn ƣng giác đế nhƣ thiên Yên đài nhƣợc thuyết tân Thừa chỉ Tọa hữu sơ đề tuyệt tửu thiên Ơn chu toàn, mới hay lƣợng đức vua nhƣ trời Trên tiệc, nếu có ai nhắc đến viên Thừa chỉ mới Ngồi bên, xin phác đề một thiên chừa rƣợu.
(Đông Dƣơng thi văn tuyển – tr 112)
4. KINH HỒI TỐNG THƢỢNG PHÚC LÊ DUY TRUNG PHÓ HỘI THI/ TỪ KINH TRỞ VỀ, TIỄN LÊ DUY TRUNG Ở HUYỆN THƢỢNG PHÖC ĐI THI HỘI
Vân Sơn cách tuế nhạn sơ hồi Hốt mạn tƣơng phùng hựu biệt bôi Môn ngoại đào hoa y cựu tiếu Nguyệt trung quế tử cập xuân khai Am trình mã trục hồng trần khứ Quán diện hoa liên bạch phát lai Đệ nhất quỳnh chi chung khả hứa Cao danh tự cổ thuộc cao tài Đã cách một năm nhạn mới về với mây núi Vừa tình cờ gặp nhau, lại đã cất chén chia tay Ngoài cửa, hoa đào vẫn nhƣ cũ cƣời với gió đông Trong trăng, quế đã nở kịp mùa xuân Thuộc đƣờng, ngựa lại ruổi bụi trần mà đi Quen mặt, hoa thƣơng cho đầu bạc lại tới Cành quỳnh thứ nhất rốt cuộc vẫn còn hứa hẹn Trƣớc nay, danh cao vẫn thuộc ngƣời có tài cao.
(Đông Dƣơng thi văn tuyển – tr 115)
5. TỐNG HÀ NỘI ÁN SÁT/ ĐƢA ÔNG ÁN SÁT HÀ NỘI
Bán phong gia kết bạch vân cƣ Tự tiếu nhàn tình dữ tục sơ Ác thủ kim triêu song lão khế Đàm tâm tạc dạ thập niên dƣ Lâm ly bút hạ đa phong vũ Lạo đảo tôn tiền bán thái sơ Chuyết ngã chuyển giao tâm diệc chuyết Thúy phong Vân động khán hà nhƣ Trên lƣng chừng núi, nhà ở quyện với mây trắng Tự cƣời, lòng ƣa nhàn thƣa thớt với cõi tục Sớm nay cùng nắm tay nhau, hai ngƣời bạn già Đêm qua bàn chuyện tâm đắc mƣời năm sách vở Dƣới ngọn bút lâm ly nhiều nỗi mƣa gió Trƣớc chén rƣợu ngất ngƣởng, nửa mâm lá rau dƣa Con ngƣời tôi vốn vụng, tâm tính lại càng vụng Động Vân, núi Thúy coi tôi nhƣ thế nào?
(Đông Dƣơng thi văn tuyển – tr 126)
6. HOÀNG GIÁP PHẠM VĂN NGHỊ TRƢNG KHỞI KINH HÀNH TỰU PHỎNG, THƢ BIỆT/ THƠ TỪ BIỆT HOÀNG GIÁP PHẠM VĂN NGHỊ ĐƢỢC TRIỆU VỀ KINH, GHÉ THĂM
Vạn lý duyên phong vị khẳng hƣu Yên ba bất sử ngọa Thƣơng Châu Hoài hiền đế ý tần lai phƣợng Luyến khuyết thần tâm sạ khứ âu Thƣ kiếm bạch đầu khan cố ngã Giang sơn thanh nhãn nhận trùng du Các mai hữu mộng tùy quân khứ Hạc thụ y y tuế kỵ chu Bƣớc chân muôn dặm theo gió vẫn chƣa chịu nghỉ/ Khói sóng không để cho ông nằm cõi Thƣơng Châu/ Ý vua trông mong bậc hiền, nhiều lần có chiếu phƣợng vời/ Lòng bầy tôi lƣu luyến cửa khuyết, nên chim âu chợt đi/ Chí theo đuổi sự nghiệp gƣơm và sách, đến đầu bạc xem ra vẫn là ta xƣa/ Non sông với con mắt xanh nhận ra cuộc đi lần tiếp này/ Giấc mộng cây mai nên Quán Các theo bƣớc chân ông đi/ Còn con hạc đậu trên cây vẫn nhƣ thế, mấy độ lần hồi theo năm tháng.
(Đông Dƣơng thi văn tuyển – tr 138)
PL112
7. TỈNH NIẾT TRẦN VĂN VI HỒI KINH TIỄN BIỆT/ TẠM BIỆT ÁN SÁT TRONG TỈNH LÀ TRẦN VĂN VI VỀ KINH
Thiên địa hữu đại bằng Nhất cử cửu vạn lý Cựu văn Mông Trang ngôn Kim kiến bất nhƣ thị Gia tại hải minh nam Thiên Trì hoặc kỳ địa Tây bắc Càn Nhai phong Thảo mộc tích niên thúy Cầm điểu kỵ thiên vạn Phi lai phục phi khứ Xích thốn kiêu vũ hàn Ni nam đắc sở chỉ Khởi bất nguyện vi bằng Cái lực bất tòng nhĩ Bất nhiên thiên giáng thù Sở cƣ địa diệc dị Lạc thổ nan thƣờng tình Tri mệnh diệc quân tử Ta bỉ yến tƣớc quần Du tai hồng hộc chí Tạc độc quyện điểu thi Nhƣợc hội du nhân ý Độn tẩu Thúy Sơn bi Phiêu phiêu nhất cao trí Tạm biệt đƣơng trùng phùng Sinh ca mạc loạn nhĩ Trời đất có chim đại bàng Một lần cất cánh bay liền chín vạn dặm Xƣa đã nghe Mông Trang nói thế Nay thấy thì không còn nhƣ vậy nữa Nhà tôi ở bờ biển Nam Đó là nơi đất Thiên Trì Phía tây bắc có ngọn núi Càn Nhai Cây cỏ xanh tƣơi suốt năm Chim chóc kể mấy nghìn vạn Bay tới rồi lại bay đi Lông cánh chỉ gang tấc mà cũng tự hào Líu ríu kêu hót vì đƣợc chỗ dừng nghỉ Phải đâu chúng chẳng muốn làm chim đại bàng Chỉ vì sức không thể nhƣ thế đƣợc Trời chẳng phải tự nhiên mà tạo nên mỗi vật một khác Đến nơi ở mỗi loài cũng khác nhau Đất yên vui cũng khó thƣờng tình mà có đƣợc Biết mệnh trời cũng chỉ có ngƣời quân tử Thƣơng hại cho bầy én sẻ kia Vời vợi thay, chí con chim hồng hộc Đêm đọc đến thơ “Con chim mỏi” Dƣờng nhƣ nắm bắt đƣợc ý ngƣời du tử Bia ông già lánh đời ở núi Thúy Vẫn phơi phới trên cao vời Tạm biệt, hẳn sẽ còn gặp lại Đừng để tiếng sênh ca làm rối lỗ tai.
(Đông Dƣơng thi văn tuyển – tr 141)
8. HƢNG YÊN ĐỐC HỌC NGUYỄN VĂN LÝ TUÂN TRIỆU LAI KINH, LÂM BIỆT TÁC/ TỪ BIỆT ĐỐC HỌC HƢNG YÊN NGUYỄN VĂN LÝ ĐƢỢC TRIỆU VỀ KINH
Nam Minh viết Thiên Trì Sơn hữu chuyết cƣ giả Bội sơn diện ƣ hải Tiêu sơ sổ gian giá Bạch vân thƣờng dữ cƣ Mao thứ bất đề ngõa Trung quải nhất hồ sàng Tự vị sơn tiều xá Biển Nam có nơi gọi là Thiên Trì Núi có kẻ vụng về ở Tựa lƣng vào núi, ngoảnh mặt ra biển Trong mấy gian nhà tiêu sơ Mây trắng thƣờng ở chung Mái lợp tranh, chẳng có ngói Bên trong treo một cái giƣờng Tự gọi là nhà ông tiều trên núi
PL113
Khứ đông thiên thậm hàn Thƣờng vỉ xã ông hạ Kim nhật thử nghỉ phong Hựu vị thử ông ngọa Chẩm cổ Xƣơng Lê thi Xuy lƣơng Thiếu Lăng dạ Lâm ly khái dĩ khảng Sơn cầm điệt xƣớng họa Nhất bôi phục nhất bôi Minh triêu tức khởi mã Vãng sự các hồi đầu Tam Điệp kỵ trùng quá Hành dã nhƣợc sử chi Hà thƣờng thị dụng xả Khổng thánh lão ƣ hành Vô khả vô bất khả Nguyệt dữ thử sơn minh Trƣờng đắc tự kim hạ Mùa đông vừa rồi trời rét quá Thƣờng xuống làm ông già làng Bây giờ trời nắng và gió Ta lại làm ông tiều nằm đó Tựa lên vế đọc thơ Xƣơng Lê Thổi cơm về đêm nhƣ ông Thiếu Lăng Lâm ly và khảng khái Chim núi cùng xƣớng họa theo Một chén rƣợu mời rồi lại chén nữa Đến mai, ông lên ngựa sớm Mọi việc, thảy đều ngoảnh đầu không để ý Núi Tam Điệp mấy lần đã qua Đã đi, cầm bằng đƣợc sử dụng Còn dùng hay bỏ có phải là thƣờng đâu Đức Khổng Tử trọn đời ƣa hành động Mà cũng còn băn khoăn nên hay không nên Phần tôi xin thề cùng ngọn núi Xin đƣợc cứ mãi mãi nhƣ mùa hè này.
(Đông Dƣơng thi văn tuyển – tr 149)
9. TỐNG TIỄN SĨ NGUYỄN VĂN SAN, NGÔ VĂN ĐỘ CHI HẬU BỔ/ ĐƢA TIẾN SĨ NGUYỄN VĂN SAN, NGÔ VĂN ĐỘ ĐI ĐỢI BỔ
Tự ngã lai xứ thử Hàn song số gian ốc Đinh dƣ xích bán địa Dạ phô minh nguyệt túc Ngã dục cầu thanh phong Chu vi tài dĩ trúc Hựu ái ẩn quân tử Hoàng bạch sổ bồn cúc Hiêu hiêu tri bất tri Phân ngoại đẳng vinh nhục Tiễn sĩ lƣỡng cao khoa Giang bàn diệc hải lục Bất bỉ vị dƣ phƣơng Dị thú nãi đồng dục Hữu cầm liên tháp đàn Hữu thi cách tƣờng độc Đăng trản cộng cân cần Cƣ chƣ biến hàn úc Xích điệp hạ thiên quan Từ khi tôi về ở đây Mấy gian nhà cửa sổ lạnh lẽo Ngoài sân ra còn thƣớc rƣỡi đất Đêm đêm ánh trăng sáng phơi Tôi muốn cầu gió mát Chung quanh trồng toàn trúc Lại thích cách ngƣời quân tử ở ẩn Trồng mấy chậu cúc trắng vàng Kệ ai hơn hớn biết hay không biết Mọi sự vinh nhục đều gác ra ngoài Hai bậc tiến sĩ đỗ cao Đi theo đƣờng sông, đƣờng biển, lại cả đƣờng bộ đến thăm tôi Chẳng chê mà lại còn khen tôi Lại cũng muốn hƣởng cái thú lạ Đƣa đàn ra ngồi liền giƣờng gảy Đem thơ ra cách tƣờng đọc nghe Cũng ân cần chuốc chén bên đèn Nơi ở lạnh hóa thành ấm áp Tờ điệp đỏ đƣa xuống bậc thiên quan
PL114
Trƣờng đình giá ly lục Khách xá hoàn chủ nhânọ Y nhiên cựu ba mộc Trúc dĩ không ngô tâm Cúc dĩ thƣởng ngô mục Vật tình đa tƣơng xứng Tùy thủ nhi tùy túc Ngựa ly đã ruổi trên trƣờng đình Nhà khách đã trở về chủ nhân Cây hoa cũ vẫn y nguyên nhƣ thế Trúc làm lòng ta thanh thản Cúc cho mắt ta thƣởng ngoạn Cảnh vật với tình ngƣời rất tƣơng xứng Tùy ý ta thiếu thì tiếp nhận mà đủ thì thôi.
(Đông Dƣơng thi văn tuyển – tr 152)
10. TẶNG ĐỒNG CHÂU CHƢỞNG ẤN NGUYỄN THỊ, BẠT TUYÊN QUANG ÁN SÁT/ THƠ TẶNG CHƢỞNG ẤN HỌ NGUYỄN, NGƢỜI CÙNG QUÊ, ĐƢỢC ĐỀ BẠT ÁN SÁT TUYÊN QUANG
Hàn nhạn kinh thu thử địa nghiêm Ô đài đế khởi thập niên yêm Chính duy bất nhiễu Miêu năng hóa Dân cố tƣơng an mã cộng chiêm Tích biệt thi tòng xuân thự nhập Tƣ gia tửu vị Thúy lâu thiêm Phần Sƣ nhƣợc vấn Tây viên lão Nhất bộ Nam Ngao (Ngạc) nhật độc tiềm Mới mùa thu, nhạn tránh rét đã kinh sợ, đất ấy thật khắc nghiệt/ Ông đã lƣu ở đài Ngự sử do vua lập mƣời năm/ Chính sự cốt không nhiễu dân, thì rợ Miêu có thể cải hóa/ Dân ở đây sống chung yên ổn, ngựa cùng ngắm nhìn nhau/ Chia tay, thơ mùa xuân vào nơi công nha/ Nhớ nhà, rƣợu vì núi Thúy mà thêm chén/ Ông Phần Sƣ có hỏi ông già ở vƣờn Tây/ Hàng ngày ông ta vẫn đọc giấu một bộ Nam - Ngạc.
(Đông Dƣơng thi văn tuyển – tr 167)
11. TỐNG ĐỒNG QUẬN BÌNH THUẬN ĐỐC HỌC LA ĐỨC ĐIỂN HỒI KHA/ ĐƢA BẠN CÙNG QUÊ LÀ LA ĐỨC ĐIỂN LÀM ĐỐC HỌC BÌNH THUẬN VỀ NHÀ DƢỠNG BỆNH
Sinh ngô đồng địa tứ đồng canh Lao lạc niên lai bán tử sinh Lão khứ liên quân khinh quyện dực Tăng đa chuyết ngã ngộ phù danh Hƣơng hoài Điệp lĩnh trùng vân hiểu Nhạc ý tam giang ngũ lạo bình Bằng vấn ngƣ ky Trƣơng độn tẩu Ngu sơn thiên cổ một nhân tranh Sinh ở quê ta có bốn ngƣời cùng tuổi/Trải bao gian lao năm qua chỉ còn sống một nửa/Những thƣơng ông tuổi già đến rồi vẫn khinh thƣờng cánh mỏi/Còn tôi vụng về bị lắm ganh ghét vì sai lầm vƣớng bả phù danh/Nghĩ đến quê, rặng núi Điệp tầng tầng mây phủ buổi sáng/Có ý vui vì bao lụt lội sông nƣớc đã lui/Xin nhờ hỏi thăm hòn đá câu của ông già Trƣơng lánh đời/Còn núi Ngu Sơn kia nghìn năm chẳng có ai tranh.
(Đông Dƣơng thi văn tuyển – tr 171)
12. TIỄN NGHĨA TRAI TIÊN SINH VÃNG QUẢNG NAM TIỄU TÂY/ TIỄN ÔNG NGHĨA TRAI ĐI QUẢNG NAM ĐÁNH TÂY
Triệt khởi cao tỳ khởi chấn y Quân ngô mƣu súy, sĩ ngô si (sƣ) Cán tiêu bất nhẫn ƣu quân phụ Quan kỹ hà kham loạn Hạ, Di Trực Bắc tƣơng khan thanh giá trọng Cuốn chiếu da hổ, rũ áo đứng dậy Đã làm thầy kẻ sĩ, lại làm bậc mƣu sĩ trong quân Ông đâu nỡ để vua cha phải lo lắng ngày đêm Là ngƣời đội mũ, đi giày, há chịu cho bọn mọi rợ làm loạn Ở Bắc, thanh danh ông đƣợc mọi ngƣời trọng vọng
PL115
Chinh Tây ninh hứa vũ thƣ trì Minh danh định hữu Trà, Vân tại. Khởi chỉ danh đề Thái học bi. Việc đánh Tây đâu chịu đề tờ thƣ lông gà bị chậm Ghi tạc công lao ông, nhất định còn non Trà, đeo Mây đó Há chỉ có đề tên ở bia nhà Thái học đâu.
(Đông Dƣơng thi văn tuyển – tr 173)
13. NGUYÊN GIA ĐỊNH TUẦN PHỦ ĐỖ QUANG TỰ NAM QUY PHỤC BỊ TRƢNG LAI KINH, KHUẤT PHỎNG LÂM BIỆT THỨ NGUYÊN VẬN/ NGUYÊN TUẦN PHỦ GIA ĐỊNH ĐỖ QUANG TỪ NAM KỲ TRỞ VỀ QUÊ LẠI ĐƢỢC TRIỆU VÀO KINH, ĐẾN THĂM TÔI, LÀM THƠ TỪ BIỆT THEO NGUYÊN VẬN
Đắc lộ nhƣ công thoái diệc nan Chinh xa phong vũ bức đông hàn Tam phƣơng vị giải nhung thần giáp Nhất nhật ninh vong chiến sĩ xan Bạch phát từ thân mâu ám lệ Thanh sơn phỏng cựu thủ lƣu hàn Thiên chƣơng nhƣợc luận bình Nhung sách Đại Vũ thi ƣng tục tấu Hoàn. Gặp bƣớc nhƣ ông mà lui về nghỉ cũng khó Xe đi trong cảnh đông giá gió mƣa Khắp ba miền, áo giáp bậc nhung thần chƣa cởi Mỗi lần ăn, quên sao đƣợc bữa cơm các chiến sĩ Tóc bạc từ biệt mẹ, rƣng rƣng nƣớc mắt Chốn non xanh thăm bạn, tay để lại thơ Nhà vua nếu có bàn kế sách chống giặc Thì nhạc Đại Vũ tấu lên rồi đọc tiếp thơ Hoàn.
(Đông Dƣơng thi văn tuyển – tr 174)
14. TIỄN NGUYÊN KINH DOÃN NGUYỄN VĂN TƢỜNG CHI THÀNH HÓA KHÂM PHÁI CHÚ THỐ CAM LỘ, TẨU BÚT THỨ VẬN/ TIỄN NGUYÊN KINH DOÃN NGUYỄN VĂN TƢỚNG ĐƢỢC PHÁI ĐI THÀNH HÓA, ĐÓNG Ở CAM LỘ, HỌA THƠ THEO NGUYÊN VẬN
Tạc văn ly bôi tịch vị ban Vân thu vũ quyển điểu phi hoàn Dụ nhiên tọa ức Cửu Long sự Hốt nhƣợc đồng du Tam Động gian Hán đoạn Khƣơng Hồ tây bảo Thục Chu phiên Kinh Lạc bắc khai san Biên phòng quốc kế nhƣ kim nhật Thần phận lao lao cảm ái gian Đêm qua nâng chén chia tay, tiệc còn chƣa dứt/Thì mây cuốn mƣa tan, chim vội bay về/Ngồi nhớ chuyện Cửu Long mà ngùi ngùi khôn xiết/Bỗng nhƣ cùng đi chơi cõi Tam Động mà mọi lẽ hiểu thông/Nhà Hán bảo vệ đất Thục ở phía tây, phải dứt đƣợc rợ Khƣơng Hồ/Nhà Chu phải mở núi ở phƣơng Bắc mới có phên giậu Lạc Kinh/Việc phòng giữ biên giới đã trở thành quốc sách nhƣ bây giờ/Thì thân phận bầy tôi vất vả đâu dám thƣ nhàn.
(Đông Dƣơng thi văn tuyển – tr 180)
15. TIỄN TAM ĐĂNG PHÓ BẢNG PHẠM VĂN GIÁNG/ TIỄN PHÓ BẢNG TAM ĐĂNG PHẠM ĐĂNG GIẢNG
Dƣợc mã tiên sinh kim dĩ lão Đa bệnh nhƣ dƣ diệc lạo đảo Quân phụ tiêu cán tàm vô năng Thiên hải cao thâm hạt vân báo Hòe hoàng hỉ tử thu chiến giai Quế đan hựu thị xuân hoa hảo Tiên sinh ruổi ngựa nay đã già Lắm bệnh nhƣ ta cũng nghiêng ngả Vua cha bận rộn, thẹn mình không tài năng Ơn cao sâu nhƣ trời biển, lấy gì để báo đáp Hoa hòe vàng, mừng anh thi Hƣơng tốt đẹp Quế đỏ, lại đến mùa hoa xuân thắm tƣơi
PL116
Tiền trình viễn đại nhật do đa Lao tửu, bán tôn bán dĩ đảo Bƣớc đƣờng phía trƣớc xa và rộng, ngày càng nhiều hƣớng Nâng chén rƣợu nửa mừng anh, nửa cầu chúc cho anh.
(Đông Dƣơng thi văn tuyển – tr 188)
16. TIỄN NGUYÊN NAM ĐỊNH ĐỐC HỌC DOÃN KHUÊ HỒI LỲ/ TIỄN NGUYÊN ĐỐC HỌC NAM ĐỊNH LÀ DOÃN KHUÊ TRỞ VỀ LỲ SỞ
Cức căng hà nhật chiến cô quân Nhất bệnh phan nhiên ngọa Quảng Văn Thƣ kiếm hữu hoài ƣng đáo lão Giang hồ tuy viễn diệc ƣu quân Ân vinh Bắc khuyết trù tam cận Thanh giá Nam châu trƣởng thập phần Trắc tịch ngô hoàng thâm ý ngoại Bình Nhung hữu sách hải vô phân
Gƣơm giáo mới ngày nào chiến đấu bằng một đạo cô quân/ Vừa đau bệnh đƣợc quay về với chức giáo quan/ Cái chí tay gƣơm tay sách còn ôm mang cho đến tuổi già/ Tuy xa xôi ở chốn sông hồ nhƣng vẫn lo nỗi lo vua/ Nơi Bắc khuyết, đƣợc ơn vẻ vang ba lần chầu cận/ Cõi Nam châu, danh tiếng thêm vang vọng bội phần/ Ngồi lệch bên chiếu để tỏ lòng quý trọng sâu xa của vua/ Mong có kế sách dẹp giặc để vùng bờ biển đƣợc yên ổn. (Đông Dƣơng thi văn tuyển – tr 190)
17. TIỄN TAM NGUYÊN TRẦN HY TĂNG CHI THĂNG BÌNH/ TIỄN ÔNG TAM NGUYÊN TRẦN HY TĂNG ĐI THĂNG BÌNH
Long môn dƣợc hậu ngũ vân đằng Sơ phệ ngƣu đao hựu đắc thăng Dân khổ canh hô trì hoạt Phật Sĩ cao giáp đệ vấn Hy Tăng Kỳ văn sơn hải đa kinh nhỡn Trung giáo gia đình cửu phục ƣng Độc thị nhã hoài chân ái ngã Tam xuân lê quán nhất hàn đăng Sau khi vƣợt cửa rồng, bay vút lên vòm mây năm sắc/ Lúc đầu làm quan không xứng tài, sau mới đƣợc thăng/ Dân khổ phải đi ăn vay, sao mà đức Phật sống xuất hiện chậm/ Kẻ sĩ đỗ cao mà hy vọng đƣợc nhƣ vƣơng Tăng lại muộn/ Những áng thơ văn kỳ lạ về non biển đã nhiều lần qua mắt/ Dạy dỗ đạo trung, trong gia đình từ lâu đã phục sẵn chim ƣng/ Duy có ông là bậc tao nhã, thực lòng yêu mến ta/ Suốt ba xuân, một ngọn đèn lạnh ở quán lê
(Đông Dƣơng thi văn tuyển – tr 192)
XXI. THƠ TỐNG BIỆT CAO BÁ QUÁT
(Thơ tống biệt Cao Bá Quát khảo sát trong 2 cuốn: Cao Bá Quát toàn tập, tập 1, (2004), NXB Văn học, Cao Bá Quát toàn tập, tập 2, (2012), NXB Văn học).
1. BIỆT PHẠM ĐÔN NHÂN LANG TRUNG/ TỪ BIỆT PHẠM ĐÔN NHÂN LANG TRUNG
Dĩ tứ niên lai bất tƣơng kiến Kiến thời liên ngã cánh liên quân Mang mang than thế tri hà liễu Hạo hạo kiền khôn tích tạm phân. Vạn lí ức qui sầu Tử Mĩ, Nhất quan đa bệnh sấu Hƣu Văn, Minh thần khƣớc vọng giang kiều lộ, Nam lĩnh vân liên Bắc lĩnh vân. Đã bốn năm nay không gặp nhau,/ Gặp nhau, ta thƣơng ta lại thƣơng cả bạn./ Thân thế mịt mờ, biết bao giờ cùng?/ Trời đất man mác, ngậm ngùi lúc tạm chia tay./ Đƣờng muôn dặm cũng chỉ mong về, Tử Mỷ buồn bã,/ Một chức quan lại thêm nhiều bệnh, Hƣu Văn gầy gò./ Sáng mai lại ngóng trông về phía đƣờng cách sông, cách cầu/ Sẽ thấy mây núi nam nối liền với mây núi bắc.
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 1 – tr 149)
PL117
2. GIANG THƢỢNG TÌNH VÂN TẬP VŨ VÂN/ MÂY TẠNH LẨN VÀO MÂY MƢA TRÊN SÔNG
Tống khách lai giang thƣợng, Ly tình vạn lí vân. Tình quang khai đạm đạm, Vũ ý nhƣỡng nhân uân Hữu nguyện vi lâm thiết, Vô tâm phách nhứ phân. Bạch chung la nhất sắc, Bích nhƣợng thủy tam phân. Vụ kiết thiên tằng hộc, Hà thƣ bán bức văn. Hắc phong xuy dĩ định, Hồng nhật áo tƣơng huân. Lƣỡng ngạn phù lam tiếp, Trƣờng thiên thấp ái huân. Lục ba cƣơng tiễn biệt, Tao thủ trƣớng ly quần. Tiễn đƣa khách trên sông, Tình biệt ly nhƣ mây muôn dặm, Bầu trời lặng lẽ toát lên ánh sáng tạnh, Ý mƣa ấp ủ nguyên khí của đất trời. Muốn làm mƣa dầm dề ngay, Vô tâm xua tan xơ bông bay tới tấp. Trọn một màu lụa trắng, Màu xanh (thua) nhƣờng (màu) nƣớc ba phần, Sƣơng mù kết thành lụa nghìn tầng, Ráng trời trải ra nửa bức thêu hoa văn, Gió đen thổi đã ngớt, Mặt trời đỏ sắp ngả bóng. Hai bên bờ hơi núi nối liền nhau, Bầu trời ẩm thấp dồn nén khí mát. Sóng biếc vừa tiễn biệt, Gãi đầu buồn lìa bạn bè.
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 1 – tr 456)
3. HIỂU BIỆT, PHỤC HỌA PHƢƠNG ĐỈNH THỨ VẬN/ TỪ BIỆT NHAU BUỔI SÁNG, LẠI HỌA VẦN PHƢƠNG ĐÌNH
Thả xuống hoàng kê thôi hiểu ca, Thỉnh quân tiễn thủ thanh trà chƣớc, Tối quang sơ ái xuân minh minh, Dự tỉnh tiệm giải khách dục tác, Đào xã phong lƣu các tự hào, Tu dẫn kim bôi khuynh cẩm thác. Trƣờng Canh khƣ hậu thùy phục luân? Hắc dạ trầm trầm hàn tác tác. Độc dắc tầm quân nhập túy hƣơng, Ngâm mai thi hƣng mãn đông các. Xuân lai hoa thu thái tự kiêu, Thanh nguyệt đỉnh đỉnh chiêu ly lạc. Thi cảnh thi tình chính vị lan, Cốt lão khi thanh thần ám mạc. Chỉ khủng cao ngâm hạo mạc thu, Phong khởi đải xuy hoa lực bạc. Thả đãi trùng lai hứng hựu sinh, Dữ quân thƣởng tận viên trung lạc. Gà vàng còn hát bài giục sáng, Xin mời bác rót, dùng hết ấm trà nóng. Trời im, ngày xuân sáng lắm cũng mới mờ mờ, Chút tỉnh táo còn lại đã hết dần, khách muốn làm lại. Ai cũng tự hào sự vƣợt trội trong hội ông đào, Phải nâng chén vàng dốc túi gấm. Trƣờng Canh đi rồi, ai là ngƣời (ôm trăng) chết đuối nữa? Đêm đen trầm trầm rét căm căm, Cách duy nhất để tìm ông là vào làng say, Hứng thơ vịnh mai đầy gác đông. Xuân đến là lúc cỏ cây hoa lá kiêu hãnh nhất, Trăng thanh lồng lộng chiếu hàng giậu, Cảnh thơ tình thơ quả chƣa tàn phai, Cốt cách già dặn, khi chất trong trẻo, tinh thần mờ tối. Chỉ e giọng ngâm cao không thu lại đƣợc, Sức hoa yêu ớt gió nổi mạnh thổi rơi. Hãy đợi lần sau thi hứng lại nảy sinh, Hƣởng trọn niềm vui điền viên với ông.
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 1 – tr 477)
PL118
4. KÝ NGUYỄN CỐ HỮU HỒI TỊCH/ TIỄN ÔNG BẠN HỌ NGUYỄN VỀ LÀNG
Mặc Trì túc tích cộng đề giao, Thác lộng thƣơng minh thập trƣợng đào. Kỳ ký tự quân nan phục lịch, Liêu diêu tiếu ngã vị an sào. Hoạn đồ tối thị tiên tinh thiểu, Thế lộ thành tri bất trƣớc cao. Dục tá đại quan tiêu lữ muộn, Khƣớc tu tuyền thạch hƣớng nhân
Bác Mạc Trì là chỗ kết bạn đã lâu/Vô tình đã làm nổi đƣợc đợt sóng cao mƣời trƣợng ở ngoài bể khơi/Tài bác nghe nhƣ ngựa kỳ ngựa ký, khó mà nằm yên trong tàu đƣợc/Cƣời cho tôi phận nhỏ nhƣ chim ri, chim chích mà vẫn chƣa yên tố/Đƣờng làm quan (nhƣ giấc mơ) ít ai tỉnh sớm/Cuộc đời (nhƣ ván cờ) ngƣời không đặt nƣớc mới là cao/Muốn mƣợn cả vũ trụ để làm khuây mối sầu lữ thứ/Nhƣng lại sợ dòng suối mỏm đá chế giễu cho.
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 1 – tr 547)
5. PHÙ LIỆT NỮ ĐÌNH TỐNG ĐỖ MIỄN CHI NGỰ SỬ/ TIỄN NGỰ SỬ ĐỖ MIỄN CHI Ở LỮ ĐÌNH BẾN PHÙ LIỆT
Dạ bất thành miên thôi chẩm khởi, Đốt đốt thùy vi thiên hạ sĩ ? Nguyệt hạ trầm ngâm tọa đáo minh, Dục biệt hàm tình lệ nhƣ thủy. Hồi tƣ bả tửu luận tâm địa, Bát cửu tinh sƣơng nhất đàn chỉ. Giang đầu kiểu thủ vọng kinh hoa, Khởi giác khuyết các chân vạn lý, Tỉnh lƣ nhất đới kim nhƣ thử. Tƣơng phùng thủ thứ thoại tân toan, Qui khứ ƣng tri hữu phong sự. Phù liệt tân đầu thủy cấp lƣu, Ban Kinh vô ná miện ly chu. Quan san tiền lộ hƣu trù trƣớng, Ký thủ tây song tiễn chúc thu.
Đêm không ngủ đƣợc đẩy gối dậy Chậc chậc, ai là kẻ sĩ trong thiên hạ? Ngồi trầm ngâm đến sáng dƣới trăng Muốn biệt ly ngậm ngùi lệ nhƣ nƣớc Nhớ lúc nâng chén rƣợu luận bàn chuyện tâm địa Tám chín năm nhƣ một cái búng tay Đầu sông ngoái lại nhìn kinh đô hoa lệ Biết chăng cung đình lầu gác đúng vạn dặm? Tế giang chốn cũ anh đã từng qua Một dải xóm giếng nay nhƣ thế Gặp nhau kể chuyện chua cay trƣớc sau Khi anh trở về chắc sẽ biết có việc phong chức Đầu bến Phù Liệt nƣớc chảy xiết Ban Kinh không thể nhìn thuyền biệt ly Quan san phía trƣớc thôi chớ buồn Nhớ lấy lúc cắt tim đèn vào mùa thu ở cửa sổ phía tây.
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 1 – tr 660)
6. TẢO PHÁT LIÊU CẢNG/ LÊN ĐƢỜNG ĐI SỚM Ở LIÊU CẢNG
Liêu sơn hiểu sắc mãn quy chu Tƣơng tống ly nhân đáo Hạ Châu Cánh tác Liêu sơn nam vọng ngoại Chƣớng vân đa xứ thị giang lƣu.
Sắc vẻ ban mai của núi Liêu, chất đầy thuyền ra về Tiễn khách ly biệt đến sứ Hạ Châu Càng làm núi Liêu trông ra ngoài về phía nam Nơi nhiều mây chƣớng là dòng sông. (Cao Bá Quát toàn tập, tập 1 – tr 741)
PL119
7. TẶNG THỔ KHỐI ĐỖ VỆ ÚY XUẤT THANH HÓA/ TẶNG ÔNG VỆ ÚY HỌ ĐỖ NGƢỜI LÀNG THỔ KHỐI RA LÀM VIỆC Ở THANH HÓA
Sáng sớm chải đầu rồi ngồi xõa tóc/ Gọi lấy giấy để viết thơ tiễn bác đi/ Bỗng nhiên ngửa mặt lên trời cƣời vang/ Hơi nhả lên lƣng chừng không, bốc thành mây khói/ Bác thử tính xem:/ Những trang anh hào của đất ta,những bậc tuấn kiệt của nƣớc ta/ Bác hãy nói xem đời này đƣợc bao nhiêu ngƣời?/ Hãy quẳng ngọn mâu Thanh và trƣợng tám của bác đi/ Và xem ngọn bút lông gà ba đồng tiền của tôi đây/ Bác há chẳng thấy?/ Xƣa nay bao kẻ xƣơng đồng da sắt / Mái đầu đang nhƣ tơ xanh bỗng thành tuyết trắng/ Bụi xe vó ngựa đã cùn tới/ Rút hết ruột gan cuối cùng chỉ còn lại có máu/ Khí phách hồ hải của nguyên long cố giữ chửa dời/ Mƣời năm trời vẫn chìm lặng ở chốn am mây nhà cỏ/ Sinh nhằm thời thanh bình biết có làm nên trò gì/ Lau mắt chờ xem cuốn “sách dƣới cầu” của bác.
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 1 – tr 756)
Thanh thần sơ đầu tọa tán phát Hoán chỉ tài thi tống biệt quân Hốt nhiên đại tiếu diện ngƣỡng thiên Bán thiên khí thổ yên vân phát Ngô châu chi hào, bang chi kiệt Kim thế kỵ nhân, quân thả quyết Trịch nhĩ trƣợng bát Thanh xà mâu Khán ngã tam tiền kê mao bút Quân bất biến Cổ lai kỳ cá cân đồng cốt thiết Đầu thƣợng thanh ty thúc nhƣ tuyết Xa trần mã túc lão tiêu ma Trừu đáo can trƣờng không thị huyết Hồ hải Nguyên Long cố bất trừ Thập niên do chệ thảo vân cƣ Sinh phùng thanh thế tri hà dụng Khải nhãn khan quân di hạ thƣ.
8. TỊCH THƢỢNG NHÂN ĐẠI PHAN HÀNH PHỦ/ TRONG BỮA TIỆC NHÂN THAY PHAN HÀNH PHỦ
Tƣơng phùng bất tích đảo phƣơng tôn Tƣơng tống minh chiêu các đoạn hồn Tội ngã dĩ vi đồng điệu khách Biệt quân do khất tạm thời ngôn Tam Giang triều mãn sinh xuân chƣớng Song khuyết vân thâm cách viễn thôn Bả duệ ân cần cánh hồi thủ Tƣởng ƣng; trƣờng luyến cựu sào ngân
Gặp nhau không tiếc dốc cạn hũ rƣợu thơm/Sáng mai tiễn biệt nhau, cả bọn đều tan nát tâm hồn/Ta tự kết tội mình là làm ngƣời khách đồng điệu/Xa cách ngài còn xin nói, chỉ là thời gian không lâu dài/Nƣớc triều phá Tam Giang tràn đầy gây nên ách tắc trong mùa xuân/Mây ùn đặc trên hai cửa khuyết làm cách biệt với xóm làng xa/Nắm tay nhau ân cần tỉ tê rồi ngoái cổ nhìn lại/Tƣởng nên nhớ mãi cái dấu vết nơi “cựu sào”. (Cao Bá Quát toàn tập, tập 1 – tr 908)
9. TỐNG HỮU NHÂN XUẤT TÁI/ TIỄN BẠN RA ẢI
Hàn vân nhƣơng tuyết thiên sơn mộ Lãm bí lƣu quân, quân bất trú Tiền đồ thử khứ lộ đa kỳ Thất mã cô hành hƣớng hà xứ? Mây lạnh ủ tuyết nghìn núi triều Nắm cƣơng giữ bạn lại, bạn không dừng Chuyến đi này đƣờng phía trƣớc có nhiều lối rẽ Đi một mình một ngựa nhắm nơi nào?
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 1 – tr 922)
PL120
10. TỐNG NỘI HUYNH ĐỖ LÝ AN HUẤN ĐẠO GIẢ MÃN HỒI KINH/ TIỄN ANH VỢ LÀ HUẤN ĐẠO ĐỖ LÝ AN HẾT HẠN NGHỈ TRỞ VỀ KINH
Trúc Bạch hồ biên mãn kính xuân Cúc hoa sơ tạ tiểu đào tân Nhƣ hà khƣớc thƣớng hoàng mai đạo Bán vị cao đƣờng hữu lão than Thiên lý gia hƣơng yem nhật nguyệt Vạn trùng sơn hải duyệt phong trần Tòng lai tống khách tình vô hạn Huống phục tƣơng vi khách lý nhân ?
Bên hồ Trúc Bạch đƣờng đầy xuân Hoa cúc mới tàn, đào non đã hé nở Làm sao lại lên đƣờng mai vàng đƣợc Nửa phần vì trên nhà còn có cha mẹ già Tình quê nghìn dặm ngập chìm ngày tháng Muôn trùng núi biển trải bao gió bụi Từ xƣa đến nay đi tiễn khách thƣờng xúc động vô hạn Huống chi anh lại sắp làm ngƣời nơi đất khách?
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 1 – tr 923)
11. TỐNG NGUYỄN MÃ TRAI NIÊN ÔNG ĐẮC GIẢ BẮC HỒI/ TIỄN ÔNG NGYỄN MÃ TRAI VỪA ĐƢỢC PHÉP NGHỈ NĂM VỀ BẮC
Đốc sơ Kiều bắc tống tƣơng qui Giang liễu hàng biên yến yến phi Phong vũ thế đồ vô đoạn triệt Lôi đình thiên nộ hữu hồi ky Nhất thiên lý ngoại quan san viễn Thập bát thu lai cố cựu hy Thánh chính tức kim đa khởi đễ Tri quân vị phú toại sơ y. Tiễn ngƣời sắp về ở phía bắc cầu Đốc Sơ Hàng liễu bên sông từng đàn chim én bay liệng Đƣờng đời qua mƣa gió bánh xe không hề bị đứt quãng Trời thịnh nộ nổi cơn sấm sét vẫn có cơ hội trở về Ngoài ngàn dặm non sông xa cách Mƣời tám năm qua những ngƣời cố hựu đã hiếm hoi Việc chính sự của thánh chúa đến nay có lắm điều dễ chịu Biết ngài chƣa đọc câu thơ có mấy chữ “toại sơ y”.
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 1 – tr 925)
12. TỐNG NGUYỄN TRÚC KHÊ XUẤT LỲ THƢỜNG TÍN KIÊM TRÍ LÊ HY VĨNH LÃO KHẾ/ TIỄN NGUYỄN TRÚC KHÊ RA NHẬN CHỨC TẠI PHỦ THƢỜNG TÍN, ĐỒNG THỜI GỬI CHO ÔNG BẠN GIÀ LÀ LÊ HY VĨNH
Cố nhân phân thủ Hà thành lộ/ Thiên lý đăng xa nhãn nhƣ cố / Bệnh trung vô tửu tống quân hành/ Vọng đoạn giang đình thụ sắc mộ / Thủy quân thích hạt tòng bạ thƣ/ Tiền vi Thạch An, hậu Phù Cừ/ Thạch An giai sơn dữ sơn lạc/ Phù Cừ giai thủy giữ thủy cƣ/ Nhân chi dục an các kỳ tính/ Ngã dĩ vật nhiễu hành hữu dƣ/ Lƣỡng bang sự dị chính nhƣợc nhất / Ngọa nhi trị chi hà dụ nhƣ?/ Tức kim bị mệnh lai tƣ địa / Giản yếu hề cƣ thị quân ký/ Cố nhân chia tay trên đƣờng Hà thành,/ Nghìn dặm lên xe, mắt trông nhƣ cũ/ Tôi đang ốm, không có rƣợu tiễn bạn lên đƣờng/ Trông nơi giang đình xa tít sắc cây sẫm tối/ Kể từ lúc bạn cởi áo vải theo việc văn thƣ/ Trƣớc làm ở huyện Thạch An, sau ở huyện Phù Cừ/ Thạch An rặt núi thì vui với núi/ Phù Cừ rặt sông thì ở với sông/ Ai cũng muốn yên thì đó là bản tính của mọi ngƣời/ Ta không nhiễu bàn, là mọi việc xong xuôi cả/ Hai huyện công việc khác nhau, nhƣng chính sách nhƣ một/ Chỉ nằm mà cai trị, vẫn đâu ra đấy/ Ngày nay, phụ mệnh đến đất này/ Là “giản” hay “yếu”, bạn đã biết rõ/ Trƣớc ngƣời ta cho đây là đất văn vật có tiếng/ Nhƣng nay chủ trƣơng về thuế khóa thì lại có khác/ Sông ngòi và đồng ruộng giáp liền ba tỉnh/ Thợ
PL121
thuyền trăm nghề ở lẫn với lính, với dân/ Những nhà khoa họa, một nửa là dòng dõi thanh bạch, / Những kẻ hào trƣởng trong làng xóm, phần nhiều là ngƣời làm việc cũ/ Trong thì phải lo đám sai dịch mọt già, ngoài thì lo đám quan lại tham nhũng/ Trên thì sợ phép lệnh nhà vua, dƣới thì sợ dƣ luận/ Bọn chúng ta có bác Phan làm Tri huyện đã có tiếng tốt để lại/ Việc ở Ứng Hòa ngày trƣớc cũng chƣa xa gì/ Còn bạn là ngƣời đã thành thạo, sáng suốt không phải nói nữa/ Ba điều trâm quy của quan trƣờng đã đƣợc dán lên chỗ ngồi/ “Bồi đắp” hay là “bòn rút” , bạn đã thấu sốt dằng nào phải/ Làm “chim diều chim cắt” hay làm “chim loan chim phƣợng”, bạn đã nắm chắc đằng nào khó hơn/ Tôi nay viết bài tặng bạn để đƣa bạn lên đƣờng/ Nhân tiện tôi muốn nói thêm điều này nữa:/ Phủ đó, từ xƣa đã có tiếng là nhiều danh nhân/ Tiều Ẩn và Ức Trai là hai nhân vật tuyệt vời/ Tài trai sống ở đời đã không làm đƣợc việc phơi gan bẻ gãy chấn song, giữ vững cƣơng thƣờng/ Lại ngồi nhìn bọn lang sói nghênh ngang/ Đến lúc tuổi già thì mặc áo gấm ban ngày về bôi nhọ quê hƣơng/ Cũng không làm nổi việc mài mực ở mũi lá mộc, truyền hịch định bốn phƣơng/ Chỉ cúi đầu luồn mái nhà thấp, nhụt cả khí phách/ Đến lúc già thì hối đầu vào vợ con mà chết/ Giả sử hạng ngƣời ấy xuống suối vàng có gặp hai cụ/ Thì cũng mặt dày, trống ngực đánh, thần sắc rũ rƣợi ra mà thôi!/ Ngồi nghĩ đến chuyện ấy mà dạ những bùi ngùi/ Than ôi! Tôi già rồi, còn trông mong gì nữa?/ Bạn về đấy xin hãy đến thăm làng Nhị Khê và làng Cung Hoàng/ Bƣớc lên nhà thờ của hai cụ/ Vì tôi mà lại xuống hai lạy, dâng lên chén rƣợu/ Và cũng báo cho bạn cũ tôi là Lê Hy Vĩnh biết/ Rằng tôi còn khỏe, không chết, chỉ mắc chứng điên mà thôi.
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 1 – tr927)
Văn nhã danh hƣơng cổ hữu vân / Tài phú sở mệnh kim tắc dị/ Tam tỉnh tiếp liên giang dã gian / Bách công thác xử binh dân lý/ Y quan chi tộc bán thanh lƣu/ Tình ấp chi hào đa cố lỳ/ Nội ngu đố dịch, ngoại tham quan / Thƣợng úy vƣơng chƣơng, hạ thanh nghị/ Ngô tào Phan doãn hữu di âm / Tạc nhật Ứng Hòa do cận sự/ Tử chân luyện đạt cánh hà ngôn/ Sĩ hoạn tam quy yết tọa gian/ Bảo chƣớng, kiển ty tòng thức triệt/ Ƣng chiên, loan phƣợng định thùy nan?/ Bả bút tặng quân thỉnh quân biệt/ Ức ngã nhân chi hoàn hữu thuyết:/ Thử bang cổ vị phú danh nhân / Tiều Ẩn, Ức Trai đĩnh song tuyệt/ Trƣợng phu sinh bất năng phi can chiết hạm vị thế phù cƣơng thƣờng / Tọa thi đƣơng đạo kiêu sài lang / Bạch đầu trú cẩm ô cố hƣơng!/ Phục bất năng thuẫn tị ma mặc, phi hịch định tứ phƣơng/ Đê đầu ải ốc khí bất xƣơng / Mộ niên tử trẩm nhi nữ bàng/ Túng nhiên địa hạ quy lai kiến nhị tẩu/ Diện hậu, tâm quý, thần thảm thƣơng!/ Tọa niệm thử sự thành khái khang/ Y ngô lão hỹ hà sở vƣơng (vọng) ?/ Quân lai, thỉnh phỏng Nhị Khê dữ Cung Hoàng / Đăng nhị tẩu chi từ đƣờng/ Vị ngã tái bái khuynh tiêu tƣơng/ Thả báo cố nhân Lê Hy Vĩnh / Đạo ngã hảo tại, bất tử duy mệnh cuồng!
13. TỐNG NHÂN QUY TỨ KỲ/ TIỄN NGƢỜI VỀ TỨ KỲ
Tiêu liêu thu ý viễn Tống tử diệc thê nhiên Địch diện tùy thƣơng tức? Luận tâm các tự liên Ý thu tiêu điều lặng lẽ còn ở xa Tiễn ông lòng cũng cảm thấy buồn Bàn đến chuyện lòng ai cũng xót xa Hoa vàng gầy nhƣ tôi
PL122
Trăng sáng theo ngƣời ta tròn vạnh Bèn làm nƣớc sông Nông Trôi về miền nào ở phía đông?
Hoàng hoa nhƣ ngã sấu Tố nguyệt hƣớng nhân viên Tiện tác Nông giang thủy Đông quy hà xứ biên ? (Cao Bá Quát toàn tập, tập 1 – tr 937)
14. TỐNG SƠN TÂY HỌC CHÍNH NGUYỄN ĐÀI CHI LỲ/ TIỄN QUAN HỌC CHÍNH SƠN TÂY NGUYỄN ĐÀI ĐI NHẬN CHỨC
Nhập thế nan ngô bối Vi quan yếu học thần Giáo nhân tòng tự ích Mƣu đạo thứ vong bần Bách lý gia tƣơng cận Tam giang thục vị thuần Cấm thành thôi thặng liễu Tảo báo thử giang xuân Chúng ta vào đời thật khó khăn Làm quan mà lại phải làm chức Học quan Dạy ngƣời cũng tự làm cho mình có ích Lo liệu cho đạo để quên nghèo Quê hƣơng cũng gần gũi Phong tục vùng Tam giang vẫn nói là thuần phác Cấm thành giục bẻ liễu Sớm báo tin xuân ở ngã ba sông này.
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 1 – tr 939)
Trăng sông Trà!/ Đêm nay vì ai mà trong trẻo/ Muôn dặm quan sơn một màu trắng xóa/ Chỗ nào là chỗ không vƣớng vít tình ngƣời biệt ly?/ Cất chén thử mời trăng/ Trăng đi vào trong chén/ Ngậm chén toan uống thì trăng lại biến mất/ Chỉ còn có bóng ngƣời dọc ngang/ Ngừng chén và đặt xuống/ Thì lại thấy vành trăng sáng le lói hiện ra/ Hỏi trăng vì sao cứ quyến luyến không nỡ bỏ?/ Ta chỉ là anh bộ binh gặp bƣớc đƣờng cùng trong bọn Trúc Lâm/ Tối nay, gặp tiết thu trên ngọn sông/ Muốn nghiêng bầu rƣợu đầy để nói cho trăng trong biết/ Bạn cũ của ta ở cửa Đà Nẵng là bác Tồn Chân/ Đến sáng mai sẽ thúc ngựa đi cửa bể Cần Giờ/ Đêm trƣớc, gió vàng đã từ cửa nhà trời thổi xuống/ Móc trắng sƣơng trong đã bắt đầu lạnh buốt đến xƣơng/ Ở đời, muốn gặp gỡ nhau luôn không đƣợc/ Có rƣợu đây, hãy uống với trăng sông Trà/ Trăng sông Trà./ Nhƣ tấm gƣơng dầm dƣới dòng nƣớc bạc/ Là ngƣời trƣợng phu đã chống gƣơm thì đi thẳng/ Chẳng bắt chƣớc nhƣ đàn bà, con trẻ bịn rịn trong lúc phân kỳ!
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 1 – tr942)
15. TRÀ GIANG THU NGUYỆT CA/ BÀI CA TRĂNG THU SÔNG TRÀ Trà giang nguyệt Kim dạ vị thùy thanh? Quan sơn vạn lý hạo nhất sắc, Hà xứ bất hệ ly nhân tình? Cử bôi thí yêu nguyệt, Nguyệt nhập bôi trung hành. Hàm bôi dục yết cánh phi khứ Chỉ hữu nhân ảnh tƣơng tung hoành Đình bôi thả phục trí Hựu kiến cô quang sinh Vấn quân hà sự luyến luyến bất nhẫn xả Ngã thị Trúc lâm cùng đồ chi Bộ binh Giang đầu thử tịch phùng thu tiết Tửu mãn tu khuynh vị quân thuyết Đà môn cựu lữ Tồn Chân ông Cần hải minh tiên hiểu tƣơng biệt Tạc dạ kim phong há thiên khuyết Bạch lộ, thanh sƣơng sảo xâm cốt Nhân sinh hội ngộ an khả thƣờng Hữu tửu thả ẩm Trà giang nguyệt Trà giang nguyệt! Nhƣ kính há ngân lƣu Trƣợng phu án kiếm khứ tiện khứ Kỳ lộ vô vi nhi nữ sầu
PL123
16. TRẤN AN LỆNH TỬ CHI NHIỆM ĐẶC LAI TƢƠNG PHỎNG, KỲ HỮU SỞ TẶNG, THƢ DĨ DỮ CHI/ BÁC LÊ LÀM HUYỆN LỆNH TRẤN AN, KHI ĐI NHẬM CHỨC CÓ ĐẾN THĂM VÀ ĐÕI THƠ, TA VIẾT TẶNG BÀI NÀY
Phế cƣ tích thời nhật Niệm biệt thƣờng quả hoan Bất vị hiền hữu sinh Yết lai tƣơng truy phan Vấn quân phục hà chi Thủ lộ xuất Trấn An Tuế mộ hữu trình kỳ Thả khứ bất đắc nhàn Tạm yết thoại cựu du Cựu du đa khổ nhan Dục thuyết bất nhẫn tận Sử ngã tồi tâm can Kim quân hội viễn thích Vị ngã tạ cố sơn Cố sơn tại chỉ xích Cô vân hà thời hoàn Huy thủ tống quân khứ Nhật mộ Hƣơng thủy hàn Nhất tiếu vọng sơn đầu Trƣờng ca Hành lộ nan Bị bỏ ở nhà đã khá lâu rồi Nghĩ nỗi ly biệt chả mấy lúc vui Không ngờ ngƣời bạn hiền Vẫn đi lại vƣơng vít với nhau Hỏi bác bây giờ lại đi đâu Bác rằng: lên đƣờng đi Trấn An Năm sắp hết rồi hành trình có hạn Phải đi ngay không thong thả đƣợc Tạm nán lại nói chuyện về các bạn cũ Các bạn cũ có nhiều ngƣời đang nhăn nhó Muốn nói mà không nỡ nói hết Làm cho ta gan ruột rối bời Nay nhân bác tiện đƣờng đi xa Phiền bác vì tôi xin lỗi với quê hƣơng Quê hƣơng chỉ cách gang tấc Chòm mây lẻ loi này biết bao giờ về Vẫy tay tiễn bác lên đƣờng Ngày về chiều, nƣớc sông Hƣơng lạnh ngắt Cƣời xòa một tiếng nhìn lên đỉnh núi Hát vang lên khúc Hành lộ nan.
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 1 – tr 946)
17. TRUNG THU DẠ ĐỒNG BẢO XUYÊN ÔNG THỐNG ẨM VI BIỆT/ ĐÊM TRUNG THU CÙNG ÔNG BẢO XUYÊN UỐNG SAY TỪ BIỆT
Hậu hội tri hà xứ Tha hƣơng ký thắng du Huống kham lai nhật biệt Thùy văn thử ông lƣu Thân thế do song nhãn Quan sơn thả nhất thu Ƣng liên giang thƣợng nguyệt Dạ dạ bản kiều đầu Cuộc hội ngộ sau biết ở nơi nào Quê ngƣời nhớ cuộc chơi sảng khoái Huống chịu ngày mai từ biệt Ai kéo ông này ở lại Đời ta nhƣ đôi mắt Quan san tựa một mùa thu Đáng thƣơng cho ánh trăng rọi trên sông Đêm đêm nơi đầu cầu ván.
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 1 – tr 965)
18. TỰ SƠN TỐNG NGỌC TIÊN QUY TỈNH/ TỪ NÚI TIỄN NGỌC TIÊN VỀ THĂM MẸ
Tam bộ hồi dầu sơn sắc hƣơng Nhƣ quân biệt ý bất thăng mang Khả chi tƣ tử tình vô hạn Ba bƣớc quay đầu nhìn lại sắc núi xanh Chia tay nhƣ ông có ý vội vàng khôn xiết Khá biết lòng nhớ con là vô hạn
PL124
Đản tố thành nhân lạc ý vong Hƣớng mộ hành vân ƣng đáo tụng Tiên thu phiến nguyệt dục huyền lƣơng Dã đình huề thủ lƣu liên xứ Nghĩ họa sơn tùng hiến bắc đƣờng Chỉ vì hoàn thành điều nhân phải quên ý ham vui Cứ đến chiều là mây tất bay về núi Những thu trƣớc trăng vẫn muốn treo (mãi) ở giƣờng Lúc nắm tay nhau nấn ná chỗ dã đình Định vẽ cây tùng trên núi dâng mẹ (bạn).
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 1 – tr 1013)
19. BẢO XUYÊN LÂM HÀNH TẨU BÖT DĨ TẶNG/ ÔNG BẢO XUYÊN SẮP LÊN ĐƢỜNG, VIẾT NHANH GỬI TẶNG
Dạ vũ sơ thu báo dục tình Cố hƣơng nhân tác cố hƣơng hành Tƣởng ƣng nhất phiến Hƣơng giang nguyệt Trƣờng bạng quan san đáo xứ minh
Mƣa đêm vừa dứt, báo trời sắp tạnh Ngƣời cố hƣơng làm bài “hành” tặng ngƣời cố hƣơng Tôi nghĩ mảnh trăng Hƣơng giang này Dù quan san xa lắc, trăng vẫn bên anh tới đâu cũng tỏa sáng.
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr 36)
20. BIỆT NGUYỄN VĨNH TRAI TINH TRÍ PHƢƠNG ĐÌNH/ TỪ BIỆT NGUYỄN VĨNH TRAI VÀ GỬI PHƢƠNG ĐÌNH
Phong sƣơng vị hóa thử tu my Thập tải tƣơng phùng chuyển cánh bi Ngã mỗi bất ngôn ƣng lãn hĩ Quân duy tu tửu thả thiêu chi Cựu du lịch lịch tâm đồng cảm Hậu hội mang mang thủ trọng trì Tiếu đảo Phƣơng Đình đại hoang tính Biệt thời để sự khƣớc vô thi Gió sƣơng chƣa hóa cái kiếp mày râu này Xui chí gặp bạn mƣời năm, phút đã xa nhau thực là đau đớn Tôi mỗi lần không nói là lƣời biếng Bác chỉ cần rƣợu thì cứ nấu rƣợu Những lần chơi cũ, rành rành có lòng đồng cảm cùng nhau Những hội ngộ sau này còn đang mịt mù, cầm tay trân trọng Nực cƣời cho Phƣơng Đình có tính chểnh mảng Giây phút chia li đã cận kề, sao lại không có thơ ?
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr 56)
20. ĐỖ LANG TRUNG LÂM HỐI TIỂU CHƢỚC THOẠI BIỆT/
Sấm rền chớp lóe mở ra rồi/ Màu sắc trên không trung buổi sớm sáng rõ nhƣ đã ra quét sạch bụi dồn chứa/ Mây khói bắc khuyết sẽ yên định nơi nào ?/ Phong cảnh Nam Châu sẽ trở lại/ Bạn giao du cũ (nhiều) khó đếm (hết) rồi cũng chia tay/ Gặp nhau ở đất lạ hãy cạn chén/ Sẽ có dịp gặp nhau lần sau, ông đừng hỏi (làm gì)/ Lòng son vẫn giữ, chƣa thành tro.
Lôi phanh điện tạ hảo tu khai Hiểu sắc không minh tảo tích ai Bắc khuyết vân yên định hà xứ ? Nam châu phong vật thử trùng lai Cựu du nan sổ hoàn phân thủ Di địa tƣơng phùng thả tận bôi Hậu hội hữu kỳ quân mạc vấn đan tâm khán thủ vị thành hôi (Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr 468)
21. ĐÔN NHÂN PHỤC LƢU NHẤT TÚC TRUNG DẠ THOẠI BIỆT/ ĐÔN NHÂN LẠI LƢU NGỦ MỘT BỮA NỬA ĐÊM NÓI LỜI CHIA TAY
Đạm mính cô đăng thử dạ tình Minh triêu tức thị biệt quân hành Trà thanh đạm, đèn cô quạnh, tình bạn giữa đêm này/ Qua ngày mai thì đã xa bạn mà đi rồi/ Những khách râu mày từng
PL125
Quán lai my mấn danh tần ngộ Kinh định văn chƣơng khí dục bình Nhất độ thu phong sơ yến tử Tam trùng sơn thế hựu Long Thành Dao lân cựu ẩn Tây hồ thƣợng Độc hứa u nhân phỏng túc minh trải đƣờng đời, thƣờng hay vì danh mà lẫm lỡ/ Qua một cơn kinh, định thần văn chƣơng lại tự thấy hào khí muốn bình ngay/ Gặp lúc một độ gió thu, đầu mùa chim én/ Ba trùng thế núi thì đến Long Thành/ Xa ngóng mà thƣơng khách ẩn dật xƣa trên vùng hồ Tây/ Chỉ riêng cho kẻ u nhàn đến tìm hẹn cũ.
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr 489)
22. ĐỒNG THƢỢNG ẨN CỬ NHÂN DẠ THOẠI NHÂN TỐNG CHI BIỆT/ ĐÊM TRÕ CHUYỆN VỚI CỬ NHÂN THƢỢNG ẤN NHÂN CÓ LỜI TIỄN BIỆT ÔNG
Hà nhật trùng phùng khả hữu kỳ Tức kim huề thủ cộng thƣơng ly Tha hƣơng tựu ngã nan vi thuyết Cách tuế lân quân chi tự tri Khổ bệnh lãn châm khƣ hận tửu Tiêu hồn hoàn phú biệt nhân thi Thử nhân vị tử do tƣơng hứa Ƣng ký thâm canh nhuyễn ngữ thì Ngày nào gặp lại nhau có thể hẹn đƣợc chứ Cầm tay nhau lúc này mà đau cho cảnh biệt ly Nơi tha hƣơng anh đến với tôi khó nói gì Năm trƣớc thƣơng anh quá chỉ có tôi biết Bệnh nặng nên uể oải chuốc rƣợu để xua đuổi nỗi hận Lòng rầu rĩ vẫn làm thơ tiễn biệt anh Bởi thân này chƣa chết nên còn hứa hẹn nhau Hãy nhớ những lời tha thiết lúc canh khuya.
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr 524)
23. HIỂU XUẤT BẮC ĐÌNH BIỆT TƢƠNG TỐNG CHƢ CỐ NHÂN/ SÁNG SỚM RA BẮC ĐÌNH TIỄN CÁC BẠN CŨ
Hồi thủ đô môn ý nhƣợc hà Sổ hàng giang liễu chính bà sa Bất tu phan chiết sinh ly hận Tàn chiếu tây phong hận cánh đa Ngoái nhìn lại cửa kinh đô ý tứ thế nào Mấy rặng liễu bên sông đang đu đƣa Chẳng nên bẻ nó mà sinh ra mối hận biệt li Gió tây nổi lúc chiều tàn mối hận càng nhiều thêm.
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr 609)
24. HỐI NHẬT BẮC QUY, DỤNG KHỨ NIÊN TRỪ DẠ VẬN TẨU BIỆT TRẦN, PHẠM CHƢ HỮU/ NGÀY 30 RA BẮC, DÙNG VẦN ĐÊM 30 NĂM NGOÁI CHIA TAY VỚI CÁC BẠN TRẦN, PHẠM
Tuổi thiếu niên không chịu ngu si, ngoan ngạch/ Ngồi tiếc thời giờ nhàn rỗi đã qua biết rằng kế sách đã chậm/ Đƣờng đã quen chuyển thêm lòng khách hận/ Năm hết còn làm thơ tiễn biệt ngƣời đi/ Quay đầu về thôn xóm chìm trong mây khói dƣờng nhƣ không có xuân/ Thuyền trên sông về chiều càng đi nhanh, thêm nát lòng/ Đêm nay có lẽ nhớ nhau da diết không/ Chiếc bình trơ trọi cắm mấy cành hoa nhỏ.
Thiếu niên bất khẳng tiện ngoan si Tọa tích dƣ nhàn kế dĩ trì Lộ thục chuyển tăng vi khách hận Tuế cùng do phú biệt nhân thi Yên thôn hồi thủ xuân vô ná Giang đĩnh tiêu hồn vãn cánh di Liệu tƣởng kim tiêu tối tƣơng ức Cô bình tử bán tiểu hoa chi (Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr 697)
PL126
25. KÍ BÌNH LỤC DOÃN NGUYỄN CỬ NHÂN/ GỬI ÔNG CỬ NHÂN HỌ NGUYỄN TRI HUYỆN BÌNH LỤC
Thoại biệt đăng cô chiếu, Tài thƣ tửu bán tinh. Trà giang đồng phiến nguyệt, Cần Hải kỉ chu tinh. Túc tích dƣ cầm kiếm, Tri giao các ngạnh bình. Quân khan bộ binh nhãn, Thập tải hƣớng thùy thanh
Nói lời từ biệt khi ngọn đèn đơn côi chiếu sáng, Viết thƣ lúc rƣợu còn nửa say nửa tỉnh. Cùng thƣởng thức một vành trăng sông Trà, Cửa Cần Hải đã qua mấy mƣơi năm. Gƣơm đàn xƣa còn đó, Cuộc tri giao đều giống cánh bèo. Anh em cuộc đời với con mắt ngƣời lính bộ, Mƣời năm đã nhìn ai bằng Cùng thƣởng thức một vành trăng sông Trà, đôi mắt xanh?
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr 770)
26. KÝ TIỄN HOAN NIẾT NGUYỄN NHÂN TRAI PHÓ LỊ/ QUAN ÁN SÁT CHÂU HOAN NGUYỄN NHÂN TRAI RA ĐI NHẬM CHỨC, GỬI TIỄN Kỳ nhất/ Bài 1 Bắc khứ Hoành Sơn quy lộ phân Kinh vân diêu tiếp cố hƣơng vân Biệt lai bất trƣớc Tô giang mộng Do hƣớng Hoành Sơn vọng sứ quân Đi về Bắc nhắm hƣớng Hoành Sơn, đƣờng chia đôi ngã. Mây kinh thành xa xôi liền với mây cố hƣơng. Từ khi xa nhau chẳng còn mộng về sông Tô Lịch nữa. Chỉ còn hƣớng về Hoành Sơn mong ngóng sứ quân.
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr 804)
27. Kỳ nhị/ Bài 2 Bồi phong tiệm dục đáo thanh minh Tảo tín xƣơng thân dĩ đức minh Kiến thuyết thử bang phú danh tích Trữ khan quy khiếp thị đồ kinh
Nhờ sức gió muốn bay tới trời xanh/ Sớm tin tƣởng ông lấy đạo đức khắc ghi lòng làm rực rỡ bản thân/ Nghe nói đất nƣớc này nhiều ngƣời có dấu tích nổi tiếng/ Hãy chờ xem khi họ về, hòm tráp họ có tranh và sách hay không?
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr 805)
28. LÂM BIỆT TẨU BÚT TẶNG ĐẠI LÝ NGUYỄN VIÊN NGOẠI/ LÚC CHIA TAY VIẾT NHANH TẶNG ÔNG VIÊN NGOẠI ĐẠI LÍ HỌ NGUYỄN
Biệt thời bất tiếp quân nhan sắc Biệt hậu tam thu bội tƣơng ức Bất tri biệt dị hội thƣờng nan Hà sự thƣợng sơ mạn tƣơng thức Hán gia linh ngữ chính không hƣ Binh pháp nhân do niệm giản thƣ Liệu đắc hoài nhân vô hạn ý Bất ngôn giang thƣợng liễu chi sơ Lúc chia tay chẳng kịp nhìn nét mặt anh Ba năm sau càng thêm nhớ nhau Dẫu biết biệt li thì dễ, hội hợp nhau thƣờng khó Cớ gì mà buổi đầu chúng ta lại biết nhau Đời Hán nhà tù thực sự trống vắng Ngƣời nắm pháp luật còn nghĩ đến việc sách vở thu tịch Nếu biết đƣợc nhớ nhau, ý tứ sẽ vô hạn Chẳng nói, liễu trên sông đã thƣa thớt rồi.
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr831)
PL127
29. LONG TRÂN HỐT LAI KIẾM TÂM DĨ BIỆT CÁC NHÂN KÍ TẠC DẠ SỞ MỘNG THƢ DĨ TỐNG BIỆT/ LONG TRÂN CHỢT ĐẾN TÌM ĐỂ CÁO BIỆT NHÂN NHỚ GIẤC MỘNG ĐÊM TRƢỚC BÈN VIẾT ĐỂ ĐƢA TIỄN
Tạc tiêu hốt hốt kiến Long Trân Kim nhật tƣơng phùng mộng thị chân Tụ thủ hà kỳ chung cánh khứ Bồi hồi do thị mộng trung nhân Đêm qua bất ngờ mơ thấy Long Trân Hôm nay gặp nhau mơ là thực Sum họp bao nhiêu rốt cuộc lại xa Bồi hồi còn ngỡ nhƣ là trong mơ.
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr 862)
30. TẶNG VỊ THÀNH KHẮC TRAI TÍNH TRÌNH GIAO THỦY LIỆT CHỨC/ TẶNG KHẮC TRAI Ở THÀNH VỊ CÙNG GỬI CÁC VIÊN CHỨC Ở GIAO THỦY
Dị địa yêu ba tống khách cầu, Giải ngao do đới tửu hƣơng sầu. Quy tâm tự tín song bồng mấn, Viễn mục do tồn nhất diệp chu. Hải quốc vãn vân sinh tích chƣớng, Hoành giang lƣơng vũ động tân thu. Ký ngôn tƣơng tặng liên hoa đội, Bất nhiễm trinh tâm vị cá lƣu. Đất lạ đƣa tiễn khách mặc áo cầu đi trong khói sông, Cua với ba ba còn mang nỗi buồn làng rƣợu. Lòng muốn về tự hẹn khi mái tóc pha sƣơng, Nhìn xa tầm mắt hãy còn lá thuyền nhỏ. Mây chiều dồn lắng xuống nƣớc biển sinh khí độc, Mƣa nhỏ giăng ngang sông (báo hiệu) đã chớm thu. Gửi lời tặng cùng đội hoa sen, Không nhuốm (bùn) giữ lòng trinh cho mình.
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr 1224)
31. TẨU BÚT TẶNG NGUYỄN GIẢN PHU/ VIẾT NHANH TẶNG NGUYỄN GIẢN PHU
Giản phu kinh dữ ngã huynh lƣu, Hải quốc yên ba bất trạo đầu. Thí dữ gia tình câu thác thác, Tĩnh luân tâm sự cánh hƣu hƣu. Trì khu cộng kí quan sơn viễn, Phủ ngƣỡng sinh tăng thuế nguyệt lƣu. Bả duệ chỉ ƣng thả nhất tiếu, Biệt kiều không vọng liễu chi thu. Hôm nay Giản Phu ở lại cùng anh tôi, Không ngoảnh đầu lại, vùng biển khói sóng. Ƣớm hỏi thăm nhau cảnh nhà, đều là rối rắm, Bình tĩnh xét tâm sự, lại thấy lòng vui với đạo. Cùng nhớ lúc ruổi rong chốn quan sơn xa tít, Giận năm tháng trôi cứ phải cúi ngửa mãi. Cầm tay áo, chỉ nên cƣời, Nơi cầu tiễn biệt, luống trông nhành liễu thu.
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr 1230)
32. TIỄN CỐ NHÂN BÌNH ĐỊNH HỌC CHÍNH TRƢƠNG GIẢN TRAI ĐẮC GIẢ HỒI HƢƠNG/ TIỄN BẠN CŨ LÀ QUAN HỌC CHÍNH TỈNH BÌNH ĐỊNH TRƢƠNG GIẢN TRAI ĐƢỢC NGHỈ PHÉP VỀ QUÊ
Sạ kiến phiên thành tích Tƣơng khan hốt cánh nghi. Sổ bôi Điện giang tửu, Nhị thủ Chí Đình thi. Thế sự thùy năng liệu, Ngô tri chỉ tự tri. Mới gặp đã thành quen biết cũ, Nhìn nhau bỗng càng ngờ. Uống mấy chén rƣợu trên sông Điện Bàn, Đọc cho tôi nghe hai bài thơ của Chí Đình. Việc đời ai mà lƣờng đƣợc, Tôi biết chỉ để tự biết.
PL128
Bàn hoàn cảm lƣơng hữu, Dao lạc tích u kì. Vị thoại Long thành lữ, Trƣờng phùng Đức thủy my. Tối liên tƣ mã bệnh, Kiêm ái Trƣờng Khang si. Tâm khúc đăng đồng chiếu, Giao tình thạch bất di. Sứ quân do hữu tháo, Quý tử khả vô nghi. Luyến cựu không hồi thủ, Lao sinh uổng sô mi. Cố nhân hoàn thử biệt, Thiên khách dục hà chi? Thảo thảo ban kinh sứ, Hàng hàng tặng sách thì. Thập niên năng kiện sĩ, Ác thủ mạc thƣơng trì. Cứ loanh quanh thƣơng cảm ngƣời bạn tốt, Lại rung động tiếc cho kì ở ẩn u tối. Cùng nhau trò chuyện với các bạn ở thành Thăng Long, Gặp nhau nhiều lần ở bờ sông Đức Giang. Rất thƣơng cho bệnh Tƣ Mã, Lại yêu sự dại của Trƣờng Khang. Tấm lòng khuất khúc thì có đèn soi tỏ, Mối giao tình đá chẳng lay. Sứ quân còn tiết tháo, Con chim ƣng cuối mùa có thể không có khuôn phép sao? Quyến luyến quê cũ mà chỉ quay đầu suông thôi, Uổng công chau mày trƣớc cuộc sống vất vả. Bạn cũ lại chia tay rồi, Ngƣời khách hay dời đổi này muốn đi đâu? Mong cho chỗ gai góc đến qua loa, Theo thời cuộc hàng hàng tặng kế sách. Làm quan mƣời năm năng động không mệt mỏi, Tay nắm tay đừng để chậm cuộc trở về!
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr 1345)
33. TIỄN ĐÔNG DƢ NGUYỄN CÁC LÃO PHỤNG SỨ NHƢ THANH (tam thủ)/ TIỄN CÁC LÃO HỌ NGUYỄN Ở ĐÔNG DƢ VÂNG MỆNH ĐI SỨ NHÀ THANH Tây dịch ngô đồng nhất viện tà, Thảo đài thanh thiết nguyệt lâm nga. Liên phiên kim mã tùy vân lộ, Thiều đệ ngân lƣu thƣợng khách tra. Thử khứ y thƣờng quan thắng hội, Cổ lai từ mệnh thuộc Hoàng hoa. Tụng thi tam bách ngo nhân sự, Khán thủ phong lƣu thế sứ gia. Những cây ngô đồng ngả bóng xế trong khuôn viên Tây dịch,/ Trăng soi đến nha sở, Thảo đài trong thanh nhã./ Ngựa vàng luôn bay theo đƣờng mây,/ Trên dòng sông Ngân xa xôi (có ngƣời) lên bè sang đất khách./ Chuyến đi này nhằm xem cuộc hội lớn về áo xiêm,/ Xƣa nay những sứ mệnh về văn từ dều là của giới Hoàng hoa./ Đọc ba trăm thiên Kinh thi là việc của bọn ta,/ Hãy nhìn nhận rằng sứ giả là phong lƣu trên đời.
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr 1350)
34. Kì nhị/ Bài 2 Phiêu phiêu thế thƣợng Ngọc đƣờng tiên, Phi hƣớng yên đô xích ngũ thiên. Tọa bả văn chƣơng tự gia cƣớc, Khứ luân phong nguyệt nhất trùng duyên. Giang san cựu lộ bát thiên lý, Cừu mã môn phong thập ngũ niên. Bảng vấn đăng lâu Đỗ Công bộ, Dữ thùy ngâm thƣởng Động Đình biên.
Tiên ông chốn Ngọc đƣờng lâng lâng trên trời, Bay đến Yên Đô trong vòng trời xích ngũ. Nhân đem văn chƣơng làm vốn từ nhà, Có bàn chuyện gió trăng cũng là một duyên cớ nữa. Tám nghìn dặm sông núi đƣờng cũ, Mƣời lăm năm phong cách con nhà quý tộc. Dựa vào thơ Đỗ Phủ mà hỏi lối lên lầu, Cùng ai ngân nga thƣởng ngoạn bên hồ Động Đình. (Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr 1352)
PL129
35. Kì tam/ Bài 3
Thƣợng quốc quan quang tráng thử hành, Lai khan trí tiết Nhĩ giang thành. Thiên trùng nhật dịch chu tƣu khách, Bát tải thân nhân tạm tự tình. Văn đạo sứ quân năng triết liễu Vị ƣng hà nhật cánh Ban Kinh? Bích ngô đƣờng thƣợng xuân phong nhuyễn, Tọa xƣớng Dƣơng quan đệ tứ thanh.
Chuyến tham quan thƣợng quốc lần này thật là hoành tráng,/ Đến nơi xem trú tiết ở thành sông Nhĩ./ Nghìn lần đổi ngựa trạm chọn lọc cho khách đƣờng xa,/ Tám năm thông gia nên tạm trò chuyện./ Nghe nói sứ quân có thể bẻ liễu,/ Chƣa hẳn là ngày nào lại sắm vai Ban Kinh?/ Gió xuân mềm mại thổi qua cây bích ngô ở nhà trên,/ Ngồi hát câu “Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu” trong khúc Dƣơng quan.
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr 1354)
36. TIỄN HỒNG LÔ PHẠM ĐÀI PHỤNG SỨ NHƢ THANH (tính tự)/ TIỄN HỒNG LÔ PHẠM ĐÀI PHỤNG MỆNH ĐI SỨ THANH (Kèm lời tựa)
Cƣớc để thiên trùng lộ, Hung hung vạn quyển thƣ. Tích nhân nhật dĩ viễn, Ngô tử cánh hà nhƣ. Cựu sự bang giao trọng, Tân hàm chủ quyến dƣ. Quan san nhất bôi tửu, Chiết liễu hƣớng chinh xa. Bƣớc chân đƣờng nghìn trùng, Trong bụng vạn cuốn sách. Ngƣời xƣa ngày đã xa, Bọn ta nay thế nào? Việc cũ bang giao trọng, Thƣ mới chúa tin dùng. Quan san rƣợu một chén, Bẻ liễu lên xe đi.
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr 1357)
37. TIỄN HƢƠNG NGÃI NGUYỄN CỬ NHÂN BẮC HÀNH, NHÂN GIẢN QUẢNG BÌNH BỐ CHÍNH NGUYỄN NIÊN ÔNG/ TIỄN CỬ NHÂN HỌ NGUYỄN NGƢỜI LÀNG HƢƠNG NGÃI VỀ BẮC, NHÂN THỂ GỬI THƢ CHO ÔNG NGUYỄN TUỔI CAO BỐ CHÍNH TỈNH QUẢNG BÌNH
Phùng nhân tận đạo vi quan khứ, Đáo xứ nhƣng văn tống khách quy. Tuế nguyệt kinh tâm mộ niên bách, Quan san hồi thủ cựu du phi. Giang kiều lạo lạch sƣơng sơ kính, Hải quốc thi cao nhạn chính hy. Hậu lộc cố nhân phiền vấn tấn, Biệt lai khổ ức lũng đầu chi.
Những ngƣời định gặp đƣợc biết họ đã đi làm quan hết,/ Song đến nơi nào cũng đƣợc nghe những cuộc tống tiễn khách làm quan trở về làng!/ Cuối năm đến gấp, lòng kinh sợ cho năm tháng trôi nhanh,/ Quay đầu nhìn lại quan sơn không phải nơi đến chơi trƣớc kia./ Cầu trên sông lênh láng nƣớc, sƣơng bắt đầu rơi đậm,/ Thu cao xanh, vùng biển chim nhạn thƣa thớt bay./ Bổng lộc hậu hĩnh của bạn cũ hỏi thêm phiền,/ Từ lúc chia tay buồn nhớ cành liễu ở đầu lũng.
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr 1360)
PL130
38. TIỄN PHÙ KHÊ NGUYỄN TỈNH NGUYÊN HẠ ĐỆ BẮC QUY/ TIỄN NGUYỄN TỈNH NGUYÊN Ở PHÙ KHÊ THI HỎNG VỀ BẮC
Cánh thuyết gia cƣ lạc, Hồi đầu tự mộng trung. Cố nhân vi thử biệt, Cao chẩm dữ thùy đồng? Vãng sự liên thùy sí, Dƣ sinh khái chuyển bồng. Nhân báo kí hƣơng khúc, Huy lệ hƣớng nam phong. Lại phải nói rằng ở nhà vui (hơn), Quay đầu (nhìn quá khứ) nhƣ trong mơ. Bạn cũ chia tay (lần) này, Gối cao chung với ai? (Nghĩ) chuyện đã qua thƣơng kẻ rũ cánh, Sống thừa thƣơng xót cho kiếp cỏ bồng xoay chuyển. Nhân tiện gửi tin báo với làng quê (tôi), Vẩy lệ theo gió Nam.
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr 1362)
39. TIỄN SỨ BỘ HÀNH NHÂN (Nhị thủ)/ TIỄN NGƢỜI ĐI TRONG SỨ BỘ
Kì nhất/ Bài 1
(Lần trƣớc) mây chiều (giăng) sông Hƣơng lúc sắp chia tay, (lần này) tiễn khách ở sông Tô lại gặp ông. Nhớ nhau chớ viết chữ Giang Nam, Lúc mai liễu đến lại một lần xuân.
Hƣơng thủy lâm ly nhật mộ vân, Tô giang tống khách hựu phùng quân. Tƣơng tƣ mạc tả Giang Nam tự, Mai liễu lai thì cánh nhất xuân. (Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr 1364)
40. Kì nhị/ Bài 2
Khứ thì mạc thính giá cô đề, Quy lộ tu tầm lão mã tê. Vị vấn yêu gian khả nhƣ đẩu, Mao khanh thoát dĩ bất tằng kê. Lúc đi không nghe tiếng chim giá cô, Đƣờng về phải tìm tiếng hí của ngựa già. Xin hỏi nếu chỗ eo có thể to nhƣ cái đấu, [Nên] chƣa từng kê cứu cái mũi dùi lòi ra của Mao Toại.
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr 1365)
41. TIỄN THANH HÓA TỘC NHÂN (Tam thủ)/ TIỄN NGƢỜI TRONG HỌ Ở THANH HÓA (Ba bài)
Kì nhất/ Bài 1
Tƣ nhân nãy đắc kiến, Ƣ ngã diệc Cao Dƣơng. Thế hệ phân chi viễn, Môn phong dịch diệp trƣờng. Bách niên câu quá khách, Nhất dạ hựu tha hƣơng. Tƣơng đối do ghi mộng, Quy tâm hữu để mang. Ngƣời này mới đƣợc gặp, Cũng đồng họ Cao Dƣơng với mình. Thế hệ chia ra chi phái đã lâu đời, Mà con cháu noi theo nề nếp nhà vẫn còn mãi. Trong khoảng trăm năm, ai cũng khách qua đƣờng cả, Huống nữa một đêm lại ở nơi quê ngƣời. Nhìn nhau giáp mặt còn ngờ chiêm bao, Nóng lòng về quê hƣơng, không khỏi bồn chồn.
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr 1367)
PL131
42. Kì nhị/ Bài 2
Tam Điệp quan nam vạn lý trình, Vi ca Tam Điệp tặng quân hành. Chỉ ƣng nhất phiến Quỳnh Sơn nguyệt, Trƣờng chiếu Tô giang tống biệt tình. Đƣờng dài muôn dặm, khách đi về phía nam cửa ải Tam Điệp,/ Nên mình cũng làm ba bài (nhƣ ải Tam Điệp) để tặng bạn đi./ Chỉ mong mảnh trăng ở núi Quỳnh Sơn,/ Mãi soi tình tống biệt trên sông Tô Lịch này.
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr 1369)
43. Kì tam/ Bài 3
Đề đính lai kì tại bất ngôn, Đối quân chi vũ tự xuân ôn. Nhị giang đã hữu triều tôn thế, Quy đáo Nam Minh tiện nhất nguyên. Uớc hẹn ngày lại gặp mà không nói ra, Nhìn dung nhan của bạn giống nhƣ vẻ ôn hòa mùa xuân. Sông Nhị cũng có cái thế triều tôn, Nên khi chảy về biển Nam thì chỉ một nguồn thôi.
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr 1370)
44. TIỄN VŨ KHỐ NGUYỄN TƢ VỤ ĐẮC GIÁ HỒI HƢƠNG/ TIỄN VIÊN TƢ VỤ VŨ KHỐ HỌ NGUYỄN ĐƢỢC NGHỈ VỀ QUÊ
Kì nhất/ Bài 1
Nhất tôn trƣờng chí tửu, Thiên lý độc quy nhân. Bạc hoạn khu gia kế, Tàn niên cảm chủ nhân. Yếm lao sơ tự chuyết, Sủy phận bất từ bần. Huy thủ tri kim thị, Tây trù dĩ báo xuân. Một chén rƣợu tiết đông chí, Nghìn dặm ngƣời về một mình. Quan bạc bẽo chạy theo việc nhà, Năm tàn cảm khích lòng nhân của chủ. Chán nhọc mới tìm chỗ vụng, Suy nghĩ từ thân phận chẳng từ cảnh nghèo túng. Phẩy tay biết nay đúng, Ruộng phía tây đã báo tin xuân.
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr 1371)
45. Kì nhị/ Bài 2
Cửu phiến na sơn khúc, Hƣơng khê hà xứ biên. Tử chi ngô hữu vịnh, Bằng kí lão tiều tiên. Tang hải vô cùng sự, Yên hà vị liễu duyên. Tống quân nhất trƣờng khiếu, Bả duệ ý mang nhiên. Núi Nƣa chin dãy gấp khúc, Hƣơng Khê ở bên nào? Ta có thơ vịnh nấm linh chi, Nhờ gửi ông tiên đốn củi (ở núi Nƣa). Biển dâu là chuyện vô cùng, Duyên cùng mây khói chƣa trả xong. Tiễn bác đi bằng một tiếng kêu dài, Nắm tay áo mà lòng bâng khuâng vô hạn.
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr 1373)
46. TIỂU CHƢỚC DŨ ĐỖ LANG TRUNG THOẠI BIỆT/ BỮA RƢỢU NHỎ NÓI LỜI CHIA TAY ÔNG LANG TRUNG HỌ ĐỖ
Lôi phanh điện xạ hảo tu khai, Hiểu sắc không minh tảo tích ai. Bắc khuyết vân yên định hà xứ,
PL132
Nam châu phong vật thử trùng lai. Cựu du nan xác hoàn phân thủ, Di địa tƣơng phùng thả tận bôi. Hậu hội hữu kì quân mạc vấn, Đan tâm khan thủ vị thành hôi.
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr 1376) 47. TÔN THẤT MINH TRỌNG SÁCH HỮU SỞ TẶNG LÂM BIỆT TẨU BÚT PHỤNG KÍ/ TÔN THẤT MINH TRỌNG ĐỜI TẶNG THƠ LÖC SẮP TỪ BIỆT VIẾT NHANH KÍNH TẶNG Địa thất liên hoa mạc, Thiên gia quỳnh thụ chi. Tƣơng phùng thâm ấp tửu, Thủ thứ cộng luân thi. Nhất nặc hữa thùy khả, Lƣỡng tâm năng tự chi. Bảo đao ngô dục tặng, Đế đính đĩa quy kì.
Nhà quan có màu hoa sen, Nhà vua cây quỳnh cành dao. Gặp nhau rót đầy rƣợu, Lần lƣợt cùng bàn thơ. Một tiếng ừ đã hứa với ai là đƣợc, Đôi lòng có thể tự biết nhau. Ta muốn tặng gƣơm báu, Hẹn chắc chắn đợi lúc về.
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr 1388)
48. TỐNG YÊN THÁI NGUYỄN HIẾN PHÓ CÔNG XA/ ĐƢA NGUYỄN HIẾN Ở YÊN THÁI ĐI THI HỘI Thôn cƣ tiệm bất thông nhân sự, Hốt mạn văn quân bị trƣng khởi. Sĩ Long tiếu tật phất tự câm, Phá nhung nhất thanh cơ (kỵ) lạc thủy. Dịch sĩ tình tri dục dƣỡng nan, Tuế mộ sấn danh liêu phục nhĩ. Phủng hịch kiêu biên nam thệ ba, Thiên lý du du tống du tử, Quân bất kiến, Cúc Đƣờng Ngoại sử Hoàng Sơn khách, Tam thập niên lai lão từ bá. Bang giang hữu đạo nại bần hà? Lộc vị đãi thân đầu dĩ bạch, Trƣờng đoạn không ngâm Trắc hỗ thi, Tâm hôi thả lý quy điền sách. Vạn sự thâu nhân các đạo ngƣu, Thặng xúc khan quân hƣớng nam mạch. Thi chúc bào nhân các tự an, Ngô thƣ chung nghĩ phó danh san. Cựu du lạc lạc thùy tƣơng thích, Thiên vạn bằng quân tạ Tốn Ban. Ở thôn xóm, dần dần chả rõ việc ngƣời, Chợt bỗng nghe anh bị trƣng khởi. Sĩ Long cƣời ngất không thể ngăn cản đƣợc, Phá giặc một tiếng mấy lần rơi xuống nƣớc. Làm quan bị đổi, biết rằng tình cảm giữ gìn thật khó, Năm tàn vời vợi đƣợc nhắc tên nhƣ vậy. Bên cầu bƣng hịch đi theo sóng về nam, Ngàn dặm lòng dài, đƣa tiễn ngƣời du tử. Anh chẳng thấy: Khách Hoàng sơn Cúc Đƣờng Ngoại sử, Ba chục năm nay lão từ bá. Nƣớc nhà có đạo lại ngại nghèo sao? Lộ chƣa kịp vui hƣởng đầu cha mẹ đã bạc, Đứt ruột ngâm hoài thơ Trắc hỗ, Lòng tro mãi tính chuyện quay về chốn ruộng vƣờn. Muôn việc thua ngƣời gác gọi trâu, Vội gấp xem anh hƣớng về nam. Xin chúc bác luôn bình an mạnh khỏe, Thƣ tôi nghĩ chỉ gửi cho danh san. Những chuyến đi chơi đã qua không nên tiếc làm gì, Muôn ý ngâm thành lời cảm tạ Tốn Ban.
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr 1391)
PL133
49. TỐNG BÌNH VỌNG TỈNH NGUYÊN LÊ THÖC SƢỚNG/ TIỄN ÔNG LÊ THÚC SƢỚNG NGƢỜI BÌNH VỌNG ĐỖ ĐẦU TỈNH
tống Ƣng Quan san rành rọt còn thông thuộc cả đƣờng đi, Quan lại nhìn thấy gió bụi càng cảm thấy tiếc rẻ cuộc viễn hành. Hôm nay thử chép lại mấy hàng chữ, Ngoài cầu Đốc Sơ xin tiễn biệt Ƣng Khanh.
Quan san lịch lịch thƣợng am trình, Hồi thủ phong ai thích viễn hành. Kim nhật thí thƣ sổ hàng tự, Đốc Sơ kiều ngoại Khanh. (Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr 1394)
50. TỐNG ĐỖ GIÁM HỒ PHÁI VÃNG TÂN GIA BA HIỆU THỤC/ TIỄN ĐỖ GIÁM HỒ ĐƢỢC PHÁI SANG TÂN GIA BA LẬP CÔNG CHUỘC TỘI
Đại đức chân nhƣ hải, Cô thần hữu đái thiên. Ba đào phi úy lộ, Khuyển mã đắc dƣ niên. Lặc quốc trùng minh ngoại, Phiên đài tịch chiếu biên. Tráng du do lịch lịch, Cao nhãn vấn sơn xuyên. Đức lớn thật nhƣ biển, Bề tôi độc lập đƣợc đội trời. Sóng dữ không phải là con đƣờng đáng sợ, Thân chó ngựa đƣợc sống thừa. Nƣớc Lặc ở ngoài bao lớp biển, Phiên đài nắng chiều soi một bên. Cuộc viễn du hoành tráng còn rõ mồn một, Ngƣớc mắt hỏi núi sông.
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr 1396)
51. TỐNG ĐỖ LANG TRUNG LỊ NIẾT HOAN TỈNH/ TIỄN LANG TRUNG HỌ ĐỖ NHẬM CHỨC ÁN SÁT TỈNH HOAN
Trải gian nan, lo nghĩ làm già giặn khí tiết bề tôi, Vua ban ơn cho ông lúc tuổi về chiều. Nhận việc là nghĩ đến pháp lệnh quốc gia, Lên xe là hỏi đến đất đai phong tục. Nhiều sĩ phu trông mong ở ông, Có (tính cách) nhƣ Dƣơng Hùng.
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr 1398)
Chất hậu khan thì luận, Tri du đắc thử ông. Gian ngu thần tiết lão, Trì mộ chủ ân công. Chấp giản tƣ bang hiến, Đăng xa vấn thổ phong. Sĩ phu đa kí thử, Ƣng hữu tự Dƣơng Hùng.
52. TỐNG HÀ THÀNH HỌC SỨ PHAN/ TIÊN HỌC SỨ HỌ PHAN ĐI HÀ THÀNH
Long Đỗ cố thành vi liệt tỉnh, Văn chƣơng nhân vật kim do thịnh. Chu sơ Tƣ đạc tuyển danh lƣu, Tiền bối danh huy trƣờng bính bính. Tuế mộ Hƣơng kiều thử tống quân, Cố hƣơng tiêu tức đãi quân văn. Tô giang cựu lữ đa tƣơng kiến, Độc lãng thùy ta lão quảng văn. Trong hàng tỉnh Long Đỗ là thời xƣa, Nhân vật văn chƣơng nay còn thịnh. Đầu nhà Chu chọn quan Tƣ đạc trong hàng danh tiếng, Danh tiếng tiền bối sáng chói lâu dài. Cuối năm tiễn đƣa ông chỗ cầu Hƣơng ấy, Tin tức quê nhà đợi ông báo cho nghe. Nhiều bạn cũ ở sông Tô gặp nhau luôn, Ai thở than cho kẻ già giặn văn chƣơng (chịu) cô đơn lạnh lẽo?
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr 1400)
PL134
53. TỐNG LÊ DŨNG HÕA BỊ MỆNH HỒI KINH/ TIỄN LÊ DŨNG HÕA ĐƢỢC LỆNH VỀ KINH
Vị đại nguyên nhung ra dẹp giặc cho yên bờ cõi,/ Nhƣ gió quét sạch sáu cửa cải, không còn có chiến lũy nữa./ Dƣới chƣớng ai đƣợc ghi công bậc nhất?/ Anh hào trên hồ hải có ông Lê,/ Bấm đốt ngón tay, nƣớc nhà từ khi đƣợc trị an tới giờ, kể đã 50 năm./ Ngờ đâu bây giờ các thành đều có khói lửa./ Ông thấy chăng, núi Mẫn Sơn cao tiếp giáp châu Lộc Bình,/ Sát khí mờ mịt chính là chỗ chiến trƣờng mới đây./ Vì nỗi các quan chức ở biên cƣơng đánh dẹp không đúng cách,/ Chỉ ngồi ngó quân đội nhọc nhằn, binh lƣơng hao phí,/ Khi ông đến, liền định kế hoạch là trƣớc hết phải làm sao cho dân đƣợc yên nghỉ./ Thứ đến là rút hết lính thú về, phòng thủ nghiêm nhặt,/ Bảo rằng giặc là do ở dân mà ví dân nhƣ nƣớc./ Nếu chận lại thì nƣớc có thể lên đến núi, nêu nƣớc đƣợc thuận trổ ra thì nó sẽ lặng yên,/ Khiến cho quân giạc tàn bạo nhƣ cá sấu cá kình cũng đều gió êm sóng lặng,/ Đến phía đông hiểu dụ, ai làm đƣợc việc ấy?/ Con ngƣời ở xứ Ế Tang phải chăng nên đƣợc việc gì,/ Một lời vâng trƣớc đã bỏ rơi ngừoi tri kỉ./ Kìa 90 khe quanh co, 70 gò cao./ Buồm thuyền ba thƣớc bạn với đồ hành lý đi đƣờng,/ Đến nay đồng nội thẳng bay kể ngàn dặm,/ Một vầng trăng sáng chiếu quan san./ Vệ binh ở Hoài Thái, theo hầu Tấn công,/ Công danh của bậc nho tƣớng đầy sử xanh./ Ông không thấy Tào Thử, Lý Chí,/ Ban ngày im thin thít sống mà nhƣ chết./ Lại chẳng thấy Lỗ Trọng Liên,/ Chỉ một mũi tên bắn vào Liêu thành thì thành công rất dễ dàng./ Kẻ trƣợng phu ở đời cốt giữ lấy ý khí,/ Còn ra vào luồn cúi là điều ta lấy làm xấu hổ./ Nhƣ ông Lê hiên ngang cũng đủ tự hào,/ Những việc rắc rối gian nan đều đang đợi ông đặt tay vào./ Trƣớc là kẻ sĩ dƣới cửa Thiếu sƣ công,/ Nhƣ tôi tính vốn sơ cuồng, nay đã già rồi./ Xem nhẹ thân già mà nặng lòng báo quốc,/ Ở Giang thành xăn tay, thẹn nhìn thấy ông./ Bụi đƣờng nơi Trạm Mai xa nghìn dặm,/ Bay vào đám mây ngũ sắc cao cao nhƣ cửa khuyết./ Hãy nói với tân khách của Bình Nguyên Quân rằng,/ Mao Toại trổ mũi nhọn trong đãy mà không nhờ ai cả.
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr 1403) Đại nguyên nhung xuất thanh biên bỉ, Phong tảo lục quan vô chiến lũy. Duy hạ thùy thƣ đệ nhất công, Hồ hải chi hào đắc Lê tử. Khuất chỉ thừa bình ngũ thập niên, Khởi liệu đoàn thành phong hỏa khỉ. Công Mẫu sơn cao tiếp Lộc Châu, Sát khí man man tâm chiến địa. Cƣơng thần phủ tiễn động quai nghi, Tọa sử lao sƣ mi hƣớng phí. Công lai toán định tiên tức dân, Thứ triệt thú binh nghiêm thủ bị. Vị đạo giả dân dân tự thủy, Kích khả tại sơn đạo tƣ chỉ. Tiện giao kình ngạc khởi điềm lan, Hoãn hiếp nhi đông thùy biện thử. Ế Tang chi phu thành hà sự, Nhất nặc thƣợng tiền phan tri kỉ. Cửu thập hồi khê thất thập cƣơng, Tam xích phong phàm bạn hành lý. Tức kim tƣờng dã di thiên lý, Nhất sắc quan san minh nguyệt lý. Hoài Thái vệ binh thị Tấn công, Nho tƣớng công danh mãi thanh sử. Quân bất kiến Tào Thừ, Lý Chí, Bạch nhật yêm yêm sanh thị tử. Hựu bất kiến Lỗ Trọng Liên, . Nhất tiễn Liêu thành thật nhàn sự. Trƣợng phu lập thế thủ ý khí, Ải ốc đê nhan ngô sở sỉ. Lê tử phiên phiên dã tự hung, Bàn thác phƣơng khan đãi quân thí. Tiên Thiếu sƣ công môn hạ sĩ, Nhƣ ngã sơ cuồng kim lão hĩ. Thân khinh báo quốc nại vô tƣ, Trạo tý Giang thành tu kiến nhĩ. Thiên trùng Mai Dịch ủng chinh trần, Kim khuyết cao cao nhập ngũ vân. Vị báo bình nguyên chúng tân khách, Mao khanh thoát dĩnh vị nhân nhân.
PL135
54. TỐNG LÊ DŨNG HÕA TÕNG KINH LƢỢC CÔNG CHI LẠNG SƠN/ TIỄN LÊ DŨNG HÕA THEO QUAN KINH LƢỢC ĐI LẠNG SƠN
Hồ hải mang mang độc đái thiên, Lãng phao tâm sự quá lƣu niên. Công danh dĩ thuộc Bùi Trung Lập, Khí tiết thùy cao Lỗ Trọng Liên. Cổ giác thu lai thanh lục ải, Tinh mao triêu chỉ động tam biên. Bình sinh kiến nhĩ trùng nhiên nặc, Tặng sách tƣơng khan nhất xán nhiên. Một mình đội trời đi khắp nơi hồ hải, Đã quá nhiều năm hao dốc tâm sức. Công danh đã thuộc về Bùi Trung Lập, Khí tiết ai cao bằng Lỗ Trọng Liên. Thu về chiêng trống vang vang giữa yên sáu ải, Buổi sớm ruổi cờ mao náo động cả ba phía biên thùy. Bình sinh thấy ông luôn luôn vâng lệnh trên, Tặng kế sách cùng xem thật rõ ràng.
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr 1409)
55. TỐNG TRƢƠNG NGUYỄN NHỊ THIẾU KHANH PHÁI VÃNG VIỆT ĐÔNG/ TIỄN HAI VỊ QUAN THIẾU KHANH HỌ TRƢƠNG, HỌ NGUYỄN ĐƢỢC PHÁI ĐI VIỆT ĐÔNG
Phiêu phiêu hồ ải thập niên du, Vạn lý thừa phong nguyệt vị thù. Kim vọng tinh tra đáo Ngƣu Nữ, Giao nhân trƣờng ức cổ Dƣơng Châu. Mƣời năm trôi nổi chốn biển hồ, Chí nguyện cƣỡi gió muôn dặm vẫn chƣa thỏa. Nay trông bè sao đến vùng đất sao Ngƣu sao Nữ, Khiến ngƣời ta nhớ mãi Dƣơng Châu xƣa.
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr 1411)
56. TỐNG NGUYỄN KHOÁI CHÂU ĐỒNG TRI PHỦ NGUYỄN HỒI KINH, TỊCH THƢỢNG THỨ LÊ TRÁC PHONG VẬN, ĐỒNG PHƢƠNG ĐÌNH (Nhị thủ)/ TIỄN NGUYỄN KHOÁI CHÂU ĐỒNG TRI PHỦ HỌ NGUYỄN VỀ KINH, TRONG TIỆC HỌA THƠ LÊ TRÁC PHONG CÙNG VỚI PHƢƠNG ĐÌNH
Kì nhất/ Bài 1
Cô tửu thành nam dịch, Phùng nhân Nhị Thủy dƣơng. Tƣơng khan câu mạnh lãng, Nhất biệt hựu thông man. Tàn nguyệt kê thanh yết, Thu phong khách lộ trƣờng. Tri công do khảng khái, Tâm sự cận lai thƣờng. Mua rƣợu ở trạm phía nam thành, Gặp ngƣời ở phía bắc sông Nhị Thủy. Ngó nhau đều phiêu linh, Mà khi xa nhau lại vội vã. Vừa lúc trăng tàn tiếng gà thôi gáy, Với cảnh gió thu đƣờng khách vẫn còn dài. Biết ông khí phách còn khẳng khái, Gần đây tâm sự cũng đã rõ nhau rồi.
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr1412)
57. Kì nhị/ Bài 2
Tƣơng tống thu giang thu nguyệt thanh, Đê mê nguyệt ý các giang thành. Nhất bôi thiên địa kim tiêu biệt, Cô kiếm phong xa vạn lý hành. Tiền lộ hồi khan vân vật dị, Đƣa tiễn nhau bên sông lúc trời thu, có mảnh trăng thu soi sáng,/ Ý trăng man mác gác bóng trên thành bên sông./ Đêm hôm nay biệt nhau, chén rƣợu tỏ cùng trời đất,/ Từ đây muôn dặm gió cát, bạn đi với một thanh kiếm./ Ở con đƣờng phía trƣớc ngoảnh nhìn lại khói
PL136
Tráng du man kí mã đề khinh. Thiếu niên tâm sự chi hà tự, Khƣớc thính tây gia tử đệ thanh.
mây, cảnh vật đều khác./ Cuộc tráng du của bạn, tha hồ ghi chép, vó câu nhẹ nhàng./ Tâm sự của trang thiếu niên biết nhƣ thế nào,/ Lại nghe nhƣ tiếng học của con em ở nhà thầy học.
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr 1414)
58. TỐNG NGUYỄN TUẦN PHỦ HỒI KINH/ TIỄN NGUYỄN TUẦN PHỦ VỀ KINH ĐÔ
Kì nhất/ Bài 1
Phân thủ hà đê thƣợng, Sa đà bán tải dƣ. Hựu phùng kim nhật biệt, Thùy tƣởng cố nhân sơ. Lạc nhật quan sơn đạo, Nam phong tùng cúc lƣ. Dữ quân đa cảm khái, Du hoạn ý hà nhƣ. Chia tay trên đê, Lần lữa quá nửa năm. Nay gặp, lại tiễn biệt, Ai nghĩ tình bạn phôi pha. Tối ngày còn ở trên đƣờng xa, (Lại khi) ở nhà có gió nam tùng cúc. Cùng bạn ta đều nhiều cảm khái, Nghĩ về con đƣờng du hoạn thế nào đây!
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr1416)
59. Kì nhị/ Bài 2
Xuân phong quy dục tận, Viễn khách diệc đê hồi. Hận biệt hoa kinh mộng, Sầu thần lệ tiễn bôi. Khê sơn liên Bạch Sắc, Phong vũ hạ Hoàng Mai. Thiều đệ cô chinh ý, Tƣơng tƣ nhật kỉ hồi. Gió xuân chừng muốn hết, Lòng khách xa càng bồi hồi. Giấc mộng hoa kinh hãi lúc chia tay, Lệ sầu rơi vào chén. Đƣờng khe liền với núi Bạch Sắc, Mƣa gió xuống vùng Hoàng Mai. Lòng ngƣời đi xa một mình, Nhớ nhau một ngày mấy lần.
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr1418)
60. Kỳ tam/ Bài 3
Hạo hạo xuân giang khúc, Uy di quá biệt đình. Đào hoa lƣu vạn lý, Bằng dực đáo nam minh. Tễ kính khai minh viễn, Cao vân bổng ngọc bình. Si trì song điểu khứ, Tòng thử lệ thanh minh. Dòng sông xuân man mác, Loanh quanh qua chỗ biệt đình. Hoa đào trôi đi vạn dặm, Cánh chim bằng tới bể nam. Trời quang đầy ánh sáng, Mây cao kín giăng thành. Đôi chim xơ xác bay đi, Từ đây lệ nhƣ mƣa đổ đầy trời.
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr1419)
PL137
61. Kì tứ/ Bài 4 Vũ trụ song mâu khoát, Giang sơn chích mã hoàn. kim hoa phi lục mấn, thế lộ nhập trùng quan. Bàn thác nhu thần kiệt, Trì khu chỉ nhật gian. Nhƣợc phùng tƣơng vấn tấn, Mạc thuyết Tạ Đông San. Đất trời nhìn bát ngát, Sông núi ngựa lẻ quay về. Hoa kinh thành bay mái tóc, Đƣờng đời đi vào nhiều quan ải. Việc khó cầu ngƣời giỏi, Một ngày xe ruổi xa. Nếu gặp lại hỏi thăm nhau, Đừng nói chuyện Đông Sơn nữa!
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr1421)
62. TỐNG NGHIÊU PHONG NGUYỄN TỂ CHI LỊ/ TIỄN QUAN TỂ NGHIÊU PHONG HỌ NGUYỄN ĐẾN NHIỆM SỞ Hữu túc bất đáo đông hải sơn, Hữu nhãn bất quan đông hải thủy. Nhi nữ phân phân tiếu ngã tào, Thục lộ an xa chính nhàn sự. Quân kim phủng hịch xuất Nghiêu Phong, Hải tống sơn nghênh kỵ vạn trùng. Bình sinh điệt nham phụ kì khí, Khả sử lỗi khối hoàng hung trung. Thử bang phong thổ quân ƣng thức, Tận thủy cùng sơn hành bất ƣớc. Trƣợng phu tế ngộ an khả thƣờng, Du nhận phƣơng khan thí bàn thác. Thế lộ thực thực úy lộ đa, Tri quân hảo khứ tịnh phong ba. Bất nhiên triêu Quế sơn đối tửu, Phủ chƣởng tọa thinh Giang Nam ca Có chân không đến núi biển đông, Có mắt không ngắm nƣớc biển đông. Đàn bà cƣời mãi bọn chúng ta, Rằng chỉ đƣờng quen, xe êm là việc chúng ta am tƣờng. Nay ông mang hịch ra cõi Nghiêu Phong, Biển đƣa núi đón mấy muôn trùng. Bình sinh phóng khoáng, ông chí khí khác thƣờng, Há để cho nỗi bất bình ngang dọc trong lòng? Phong thổ vùng ấy ông nên biết, Nên đi khắp núi sông, đừng nên ràng buộc. Cuộc tế ngộ của bậc trƣợng phu đâu có thể tầm thƣờng, Xem nhƣ đƣa lƣỡi dao thử vào thứ gỗ xoắn. Đƣờng đời mà cứ trong sạch thì lắm nẻo sợ hãi, Biết ông khéo đi chuyến này làm yên sóng gió. Không thể cứ ngắm non Quế, trƣớc chén rƣợu, Vỗ tay ngồi nghe khúc hát Giang Nam.
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr1423) 63. TỐNG TÔN THẤT THÚC LỆ XUẤT THỦ NGHĨA HƢNG/ TIỄN TÔN THẤT THÚC LỆ ĐI TRẤN NHẬM NGHĨA HƢNG Hán gia bách quận nhƣ kỳ cục, Đế vị lƣơng dân tuyển sô mục. Thiên tào lân xuất hiền thân thần, Thiên lý lai tuyên oản phù trúc. Danh bang Nam tế hải chi tân, Biến dã hòa ma lạc tứ dân. Thử khứ kiến quân năng vật nhiẽu, Tảo chi lân giác thị chân chân. Trăm quận nhà Hán nhƣ cuộc cờ, Vua vì dân lành chọn ngƣời ra (cai quản) chăn dắt. Thiên tào lựa ra bề tôi giỏi lại thân cận, Nghìn dặm đến truyền liên lạc theo tín hiệu. Ven biển cõi Nam của nƣớc nổi danh, Khắp (các) cánh đồng (đầy) lúa và gai, bốn hạng dân vui vẻ. Lần này đi thấy ngài có thể không (bị) quấy nhiễu, Biết trƣớc sừng lân thật là hăng.
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr1428)
PL138
64. TỐNG THỔ KHỐI NGUYỄN KINH LỊCH BẮC HỒI/ TIỄN THỔ KHỐ NGUYỄN KINH LỊCH VỀ BẮC
Hƣơng sơn vọng vọng tống quân viễn, Khiếp lý Nội kinh thƣ nhất quyển. Nhập thế can trƣờng bất khả y, Giang cao hồi thủ kim chi miễn. Đặng Hoa quán ngoại dã hoa hƣơng, Đoan Quận kiều biên khách lộ trƣờng. Thí vấn cổ thần đàm mộng sự, Bách niên lai vãng kỵ hoàng lƣơng. Trông về cảnh núi quê làng, đƣờng xa đƣa bạn,/ Trong tráp có một quyển sách Nội Kinh./ Ý chí ruột gan của kẻ nhập thế không thể trị lành đƣợc,/ Đứng đầu sông ngoảnh lại, bạn đã thấy mình tự do ra khỏi vòng nhập thế rồi./ Hoa thơm đồng nội, ngoài quán Đặng Hoa,/ Đƣờng dài khách du bên cầu Đoan Quận./ Thử hỏi thần xƣa nói chuyện mộng,/ Trăm năm qua lại, kể đã mấy giấc hoàng lƣơng rồi.
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr1430)
65. TRÙNG DƢƠNG NHẬT ĐẮC CÙ TIÊN CÔNG KHÁCH LAI, TÚY TRUNG PHÚ TIỄN/ NGÀY TRÙNG DƢƠNG CÓ KHÁCH LÀ ÔNG CÙ TIÊN ĐẾN CHƠI, TRONG LÖC SAY LÀM THƠ TIỄN
Bất dụng đăng cao giả, Đăng cao giảo khách tâm. Giang hồ lƣu trệ cửu, Hƣơng quốc vọng quy thâm. Bả duệ đàm tha tịch, Huy bôi phú tử câm. Cộng khan thử giai tiết, Thùy thị cựu tri âm. Không cần phải lên cao, Lên cao làm rối loạn lòng khách. Chốn giang hồ giữ chân đã lâu, Mong nhớ quê hƣơng muốn về lắm rồi! Nắm tay áo nói chuyện khác, Huơ chén rƣợu làm thơ đề vạt áo ông. Cùng nhìn tiết Trùng Dƣơng đẹp lúc này, Ai ngƣời tri âm cũ?
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr1462)
66. VĂN GIANG HUYỆN THỪA VŨ DUY HÀN DI LỊ TIỀN HẢI TỨC TỊCH TẨU BÚT/ TRI HUYỆN VĂN GIANG VŨ DUY HÀN ĐỔI ĐI NHẬM CHỨC HUYỆN TIỀN HẢI, VIẾT NHANH TRÊN CHIẾU RƢỢU
Tạm kiến phiên vi biệt, Trùng phùng khả hữu kì. Yên ba lƣu khách vãn, Phong nguyệt tống nhân trì. Hoa hạ Phan Hoài huyện, Tôn tiền Lục Tuấn Nghi. Kì ƣng nhất bả duệ, Hồ hải mạn tƣơng tri. Mới gặp đã chia tay, Trùng phùng hẹn có ngày. Khói sóng lƣu khách muộn, Trăng gió tiễn ngƣời chầy. Dƣới hoa, tri huyện Phan Hoài cũ, Trƣớc chén, nay là Lục Tuấn Nghi. Cầm tay nhau tạm biệt, Hồ hải nhiều tƣơng tri.
(Cao Bá Quát toàn tập, tập 2 – tr1534)
XXII. THƠ TỐNG BIỆT ĐẶNG HUY TRỨ
(Thơ tống biệt Đặng Huy Trứ khảo sát trong cuốn: Nhóm Trà Lĩnh (1990), Thơ văn Đặng Huy Trứ, Nxb thành phố Hồ Chí Minh).
PL139
1. TỐNG ĐỒNG HOAN LÊ PHỤNG TÁ HỒI LÝ/ TIỄN BẠN ĐỒNG LIÊU LÊ PHỤNG TÁ VỀ QUÊ
Biết nhau đƣợc mấy ngày? Xa nhau, ngày đã đến Biết nhau, bỗng xa nhau. Niềm vui khi biết, nỗi buồn khi xa, giục giã nhau hoài! Biết nhau đã hẳn vui, xa nhau lòng ắt nhớ Sao không phải xa nhau, để khỏi phụ mối tình đã quen nhau.
(Thơ văn Đặng Huy Trứ - tr 139)
Tƣơng tri nhật vô kỵ Tƣơng biệt nhật dĩ lai Tƣơng tri hốt tƣơng biệt Tri, biệt lƣỡng tƣơng thôi Tƣơng tri cố vi lạc Tƣơng biệt hữu sở tƣ Nhƣ hà bất tƣơng biệt Bất phụ thử tƣơng tri.
2. TỐNG ĐẶNG THIỆN ĐÌNH XUẤT THỦ AN BÌNH/ TIỄN ĐẶNG THIỆN ĐÌNH RA TRẤN THỦ ĐẤT YÊN BÌNH
Tuyên Quang yếu địa thị An Bình Đế giản tuần lƣơng hữu thử hành Ly xƣớng Lƣơng giang xuân thủy lục Hạc minh Quân lĩnh hạ phong thanh Thả tƣơng trung kính hành man mạch Vô luận huyền ca dụng Vũ thành Ngô hữu cánh cầu vô võng dƣợc Mai công ngũ chƣớng thị trƣờng sinh. Yên Bình là nơi hiểm yếu của Tuyên Quang./ Vua đã kén chọn ngƣời bầy tôi giỏi nên mới có cuộc đi này./ Bên dòng sông Lƣơng hát khúc ly ca giữa lúc nƣớc mùa xuân xanh biếc./ Ngọn Quân lĩnh hạc kêu khi gió mùa hè mát mẻ./ Hãy đem đức “trung kính” thi hành nơi man mạch, kể gì tới việc dùng đàn ca ở Vũ thành./ Chúc bác tìm đúng phƣơng thuốc để chữa năm chứng bệnh mà Mai công đã nói/ Đó là phƣơng thuốc trƣờng sinh.
(Thơ văn Đặng Huy Trứ - tr 205)
3. TỐNG HÀN LÂM TÔN THẤT THUYẾT TÒNG QUÂN BẮC NINH/ TIỄN HÀN LÂM TÔN THẤT THUYẾT THEO QUÂN ĐỘI RA BẮC NINH
Ngọc đƣờng thi tuyển thảo sơ thành Tráng chí xung quan hữu thị hành Tây yết hận tiêu Hƣơng thủy bạch Bắc chinh chí tại Đức giang thanh Chu thân hàn bính khan kim nhật Nam tử tang bồng hệ thử sinh Nam sảnh nhất triêu vãn tiệp báo Bách đài tảo dĩ ký quân danh
Ở viện Hàn Lâm bản thảo “thi tuyển” của vua vừa mới tạm sắp xếp lại xong. Mang chí lớn, lòng căm giận xung lên làm dựng cả mũ nên phải ra đi. Tây đến yết kiến, mối hận tan đi làm trắng dòng nƣớc sông Hƣơng. Ra Bắc đánh dẹp, chí đặt ở việc làm trong dòng Đức giang. Là phên giậu của nhà vua, hãy xem ở ngày nay. Chí tang bồng của nam nhi là ở cuộc đời này. Một buổi mai nào, sảnh đƣờng nghe tin thắng trận, tòa ngự sử sớm ghi tên anh.
(Thơ văn Đặng Huy Trứ - tr 246)
4. TỐNG TRẦN CUNG TRỌNG, NGUYỄN CỰ XUYÊN HỒI QUỐC/ TIỄN TRẦN CUNG TRỌNG NGUYỄN CỰ XUYÊN VỀ NƢỚC
Nhƣ Đông đế mệnh thác khâm thằng Lịch duyệt giang sơn trí lự tăng Tiện điển thử hồi nhƣ cố vấn Sang Quảng Đông các vị đã làm theo mệnh vua Đi đây đó càng tăng thêm mƣu trí Khi về đứng trƣớc điện nếu vua có hỏi
PL140
Mạc ta mãn khẩu tán Dƣơng năng Xin chớ có tán dƣơng phƣơng Tây tài giỏi.
(Thơ văn Đặng Huy Trứ - tr485)
5. TỐNG ĐIỀU HỘ THUẬN TIỆP THUYỀN QUAN BINH THÁI Y VIỆN NGUYỄN CHÁNH CỬU PHẨM Y SINH NGÔ VĂN THIỀU HỒI QUỐC/ TIỄN Y SINH THÁI Y VIỆN, CHÁNH CỬU PHẨM, SĂN SÓC SỨC KHỎE CHO QUAN, BINH TRÊN TÀU THUẬN TIỆP VỀ NƢỚC
Thử thân cơ dữ quỵ tƣơng tùy Hà hạnh y lai tự đế kỳ Tiên bản hậu tiêu quyền hoãn cấp Phân kỳ hợp chính thẩm cơ nghi Nhƣ kim tiên khách quy sà nhật Chính thị tƣớng quân giải giáp kỳ Áp đảo Châu Giang chƣ quốc thủ Cộng truyền Nam Việt hữu lƣơng y Thân này cơ hồ đã đi theo ma quỵ, may thay có thầy thuốc từ đế đô đến. Chữa gốc trƣớc, chữa ngọn sau, lúc nhanh lúc chậm rất quyền biến, “phân kỳ hợp chính” nhƣ điều binh khiển tƣớng biết tùy cơ./ Nay là ngày vị tiên khách đáp thuyền về cũng chính là lúc vị tƣớng quân đã khải hoàn và có thể cởi giáp/ Áp đảo cả các vị quốc thủ ở Châu Giang, ngƣời ngƣời truyền tụng là Nam Việt có lƣơng y giỏi.
(Thơ văn Đặng Huy Trứ - tr 486)
XXIII. THƠ TỐNG BIỆT TÙNG THIỆN VƢƠNG (Khảo sát thơ tống biệt Tùng Thiện Vƣơng trong hai cuốn : Thơ Tùng Thiện Vƣơng - Miên Thẩm (1994), NxbThuận Hóa và Thơ Tùng Thiện Vƣơng (1991), Ngô Văn Phú tuyển chọn, sƣu tầm, Nxb Văn học) 1. TỐNG BIỆT/ ĐƢA TIỄN - Phú đắc Quan sơn nguyệt Quan sơn thu dạ nguyệt minh thì Ảnh nhập ly diên động khách bi Minh nhật ngũ canh tàn mộng giác Bình phân lƣỡng địa chiếu tƣơng ty (tƣ) Nơi đèo ải, đêm thu, lúc trăng sáng Bóng soi vào tiệc tiễn đƣa, động lòng khách buồn rầu Ngày mai, giấc mộng năm canh tàn tỉnh thức Chia đều hai mảnh đất, rọi nỗi nhớ mong nhau.
(Thơ Tùng Thiện Vƣơng - Miên Thẩm – tr 28)
2. TỐNG KHÁCH VÃNG HÀ NỘI/ TIỄN KHÁCH ĐI HÀ NỘI
Tống quan bằng ký ngữ Nhất vấn Bắc lâm thiền Hoàn kiếm hồ trung nguyệt Niên lai kỵ hứa viên. Tiễn ông, nhớ lời gửi Hỏi thăm các nhà sƣ phƣơng Bắc Mặt trăng trên hồ Hoàn Kiếm Mấy năm lại đây tròn đƣợc bao nhiêu?
(Thơ Tùng Thiện Vƣơng - Miên Thẩm – tr 44)
3. TỐNG KHÁCH/ TIỄN KHÁCH
Đồi ngạn sơ mai sấu trúc Không giang tàn vũ khinh yên Tịch tịch bán đỉnh tà chiếu Phiêu phiêu nhất trạo quy thuyền Bờ lỡ, mai thƣa, trúc gầy Sông vắng, mƣa tàn, khói nhẹ Nửa bãi lặng lẽ ánh chiều soi Thuyền trở về (nhà) một mái chèo nhẹ lƣớt.
(Thơ Tùng Thiện Vƣơng - Miên Thẩm – tr52)
PL141
4. TỐNG LƢƠNG TỨ CHI QUẢNG NAM/ TIỄN LƢƠNG TỨ ĐI VÀO QUẢNG NAM
Quảng Nam kim chiến địa Ốc trạch tích niên phi Trà sơn lũ hiệp vi Cẩm Thủy thâm di thị Hồ trì khô cốt lập Nha trác đoạn trƣờng phi Tân khổ đông cao tử Thùy liên loạn hậu quy Quảng Nam nay đang là chiến địa Ruộng tối đầm sâu chẳng còn nhƣ năm xƣa Sông Cẩm Lệ đã dời chợ đi xa Núi Trà Sơn bao lần vây kín Chồn đứng ngậm xƣơng khô Quạ bay tha khúc ruột Cay đắng thay những ngƣời con của ruộng nƣớc phía đông Ai thƣơng kẻ về sau cơn ly loạn?
(Thơ Tùng Thiện Vƣơng - Miên Thẩm – tr 96)
5. TỐNG HÌNH BỘ PHẠM BẠCH HIÊN THỊ LANG SUNG TÁN TƢƠNG GIA ĐỊNH QUÂN VỤ/ TIỄN ÔNG THỊ LANG BỘ HÌNH PHẠM BẠCH HIÊN VÀO SUNG CHỨC TÁN TƢƠNG QUÂN VỤ TỈNH GIA ĐỊNH
Lôi vũ tẩy sàm sanh Thu quan xuất điển binh Chƣ hầu thừa vũ hịch Lục truyện phát sơn thành Cần hải yêu phần quyển Mai khâu tặc lũy binh Cao Dao tu để tích Mạc phụ tán tƣơng danh. Mƣa giông rửa sạch luồng sao chổi Quan Bộ Hình ra cầm giữ việc quân Các chỉ huy dƣới quyền vâng lời hịch khẩn cấp Sáu binh phù phát đi phép phòng giữ núi non Khí yêu trên biển Cần Giờ cuốn sạch Lũy giặc ở Gò Mai san bằng Nên lập một công tích lớn nhƣ Cao Dao Chớ để phụ với chức danh tán tƣơng.
(Thơ Tùng Thiện Vƣơng - Miên Thẩm – tr 109)
6. TỐNG KHÁCH CHI QUẢNG NAM KIÊM KÝ PHẠM KẾ CHI/ TIỄN KHÁCH ĐI QUẢNG NGHĨA, ĐỒNG GỞI PHẠM KẾ CHI
Bình Sơn nam vọng lộ trùng trùng Tống biệt hoàn bằng vấn khách tung Bách nhị thập dƣ sơn sắc tú Khan vân kim tịch tại hà phong Trông về Nam, con đƣờng vào Bình Sơn xa lắc, trập trùng Tiễn biệt lại nhờ hỏi thăm tung tích ông khách Hơn một trăm hai mƣơi ngọn núi màu sắc đẹp đẽ Đêm nay (ông ta) trông mây ở ngọn nào?
(Thơ Tùng Thiện Vƣơng - Miên Thẩm – tr 110)
7. NGUYỆT DẠ CHIÊU TỪ MẪN TẬP HƢƠNG GIANG CHÂU THỨ TỐNG HY PHẦN NAM HOÀN THIÊN TÁNG TIÊN MỘ - NHỊ THỦ (HẠN ĐỒNG DỤNG QUY TỰ LAI TỰ)/ ĐÊM TRĂNG, MỜI TỬ MẪN CÙNG ĐI THUYỀN TRÊN SÔNG HƢƠNG, TIỄN ÔNG HY PHẦN VỀ NAM DỜI MỘ TIÊN THẾ - HAI BÀI, HẠN ĐỊNH CÙNG DÙNG HAI CHỮ QUY (VỀ) VÀ LAI (LẠI)
Đồng phố yêu phần mãn Hƣơng tâm khởi dị tài Ngƣu miên bi thổ trƣớc Lộc tẩu cụ tùng tài Vùng Đông phố khí yêu đầy Lòng quê há dễ vơi giảm (Đƣợc) đất táng, thƣơng xót nhân dân Họa chiến tranh, sợ mầm thông còn non yếu
PL142
Lăng khách hà thƣờng định Âm thƣ hạnh tảo lai Tự liên cƣ hộ hạn Tƣơng cố bội trƣờng hồi Khách đã từng trải sao thƣờng nằm yên chốn Thƣ báo tin mong sớm gởi ra Thƣơng mình chỉ ngồi trong thanh chắn cửa Ngoảnh nhìn lại nhau, ruột càng quặn đau.
(Thơ Tùng Thiện Vƣơng - Miên Thẩm – tr 158)
8. TỐNG NHÂN TỎNG QUÂN/TIỄN NGƢỜI ĐI TÕNG QUÂN
Ly đình xuy liễu dã yên hòa Cổn cổn hàn giang khởi bạch ba Sa mạc chinh trần khan nhật viễn Sơn thành trƣờng dạ thính viên đa Cố nhân cao xƣớng Dƣơng quan khúc Tráng sĩ nhƣ văn Dịch thủy ca Bất hữu đại danh thùy vũ trụ Không linh tuế nguyệt dạ ta đà Liễu cằn dặm tiễn, khói đồng pha Sông lạnh ào trôi, sóng bạc nhòa Chiến địa bụi xô nhòe bóng nhật Ái quan vƣợn hú rợn canh tà Dƣơng quan, bạn cũ rền câu hát Dịch thủy, ngƣời đi vẳng khúc ca Chẳng đƣợc tiếng thơm trong vũ trụ Phí không ngày tháng mỏi mòn a
(Thơ Tùng Thiện Vƣơng – tr 50)
9. TỐNG NGUYỄN MỖ TÒNG QUÂN/TIỄN NGƢỜI HỌ NGUYỄN NHẬP NGŨ
Hà cổ cao tinh động Nha chƣơng triệt dạ hành Cửu trùng nghiêm thụ việt Thất tuy đại trƣng binh Chiếu khải Kỳ Lân thụ Chiếm phong hổ báo kình Phù vân thâm tái sắc Sóc xuy lãnh biên thanh Phạt cổ giang trào dõng Phân đồn lãnh thụ binh Man phƣơng vô lễ nghĩa Liệt miếu hữu thần minh Báo quốc tu kim nhật Truyền gia đắc đại danh Vân đài đồ tƣợng tại Cao nghĩa đãi quân minh Sao trời rung nhịp trống Hịch nổi suốt đêm trƣờng Chín trùng trao lƣỡi việt Cả nƣớc rộn lên đƣờng Gác Lân chờ chiến tích Gƣơm báu rợn sài lang Mây mờ che ải núi Gió bắc gào biên cƣơng Trống dựng, sóng sông dậy Đồn giăng khắp núi rừng Giặc cuồng trái đạo nghĩa Thần minh theo giúp cùng Nợ nƣớc nay đền đáp Tiếng nhà, mãi lẫy lừng Đài mây hình để lại Nghĩa lớn thêm sáng bừng
(Thơ Tùng Thiện Vƣơng - tr 53)
10. TỐNG NHÂN QUY BÌNH ĐỊNH/TIỄN NGƢỜI VỀ BÌNH ĐỊNH
Đông Nam Bình Định trấn Trảm tuyệt viên nan phan Tuấn lĩnh hùng tam phố Thành cao khống bách man Đông Nam tỉnh Bình Định Xa thẳm khó với tay Cửa biển núi hùng chắn Rợ xa, thành hiểm xây
PL143
Tạc lai văn khấu chí Thử nhật tống quân hoàn Nỗ lực an nguy lƣợc Điêu cung đài nhĩ loan Giặc pha, nghe bữa nọ Tiễn bác về hôm nay Cung quí chờ tay lẩy An nguy, mƣu lƣợc bầy
((Thơ Tùng Thiện Vƣơng - tr 58)
XXIV. THƠ TỐNG BIỆT PHẠM PHÚ THỨ (Thơ tống biệt Phạm Phú Thứ khảo sát trong cuốn: Phạm Phú Thứ toàn tập (2014), Nxb Đà Nẵng). 1. TÁI BỘ VẬN TỐNG HỮU NHÂN CHI HẢI DƢƠNG/ LẠI THEO VẦN TRƢỚC LÀM THƠ TIỄN BẠN ĐI HẢI DƢƠNG Tửu bôi thi cú nhƣợc vi thì Ngẫu đáo danh lam tiện tiểu lƣu Dị địa yên hoa do tác khách Tạc lai phong nguyệt ký đồng chu (Thiên tại tự minh) Thụ hồi sơn sắc thiên trùng bích Khê hợp giang thanh cửu khúc lƣu Phong tín mộ triều ƣng hữu ƣớc Tống quân Đông hạ Lục giang đầu Câu thơ chén rƣợu ta tạm mời nhau đã Ngẫu nhiên đến chốn danh lam tiện thể lƣu lại một chút Đất lạ khói hoa vẫn còn làm khách Ngày mai lại cùng thuyền làm bạn với gió trăng Cây xanh sắc núi, nghìn trùng vách đá Suối đổ về sông chín khúc reo Gió tới triều lên nhƣ đã hẹn Tiễn anh xuống phía đông ở bến Lục Đầu.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 307)
2. THỨ LƢU BIỆT NGUYÊN VẬN TỐNG HỮU LIÊN THƢỢNG KINH/ THƠ LƢU BIỆT, NGUYÊN VẦN, TIỄN HỮU LIÊN VỀ KINH
Chiều muộn, một mình nhàn nhã ngồi bên cửa sổ chẳng nói câu nào/ Tỉnh ngủ còn ngờ vực mộng hồn bƣớm/ Thời giờ eo hẹp chỉ muốn xong việc là nghỉ/ Sau đó rong chơi thì khỏi phải luận bàn/ Năm ấy ở lạc xã bàn thơ của bạn bè/ Mấy độ nơi thành núi nâng rƣợu nhạt mời/ Chia tay tại cây cầu trên sông rồi quay về ghi lại/ Hƣớng về ngƣời học trẻ vẽ một ngấn lông mày
Văn song nhàn ỵ độc vô ngôn Thụy giác do nghi mộng điệp hồn Cục xúc chỉ ƣng tùy sự bãi Tiêu dao phục đắc thử tâm lôn Đƣơng niên lạc xã đàm thi lữ Kỵ độ sơn thành bạc tửu tôn Phân thủ hà lƣơng hoàn ký ngữ Hƣớng nhân nộn học họa my ngôn (Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 317)
3. TỐNG VĂN NGU THƢỢNG KINH/ TIỄN VĂN NGU LÊN KINH
Nan đắc văn thần bất ái tiền Chí kim thử ý đãn không truyền Ngã sƣ Vũ Mục chi ngôn hĩ Nhân đạo Văn Ngu sở thù nhiên Hỵ uẩn vô tâm tùy phận định Thăng trầm ký mộng tiên nhân liên Trƣợng phu tự hữu công danh hội Huống cập cao đƣờng vị lão niên Khó đƣợc văn thần nào không thích tiền Đến nay ý đó vẫn còn truyền suông Thầy ta Vũ Mục nói điều đó Văn Ngu hiếu đạo nắm đƣợc liền Mừng giận không để trong lòng tùy phận định Đã mơ mộng thăng trầm thì ít ngƣời thƣơng xót Trƣợng phu tự có hội công danh Huống gặp cao đƣờng chƣa lão niên.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 318)
PL144
4. TỐNG TRẦN NIẾT ĐÀI HỒI KINH/ TIỄN QUAN ÁN SÁT HỌ TRẦN VỀ KINH Ngoại trí bất cập mƣu Hành khả đối vu nhân Ngôn đạt giả an mệnh Nhiên nhi quân tử cải quá Năng khai nhật nguyệt chi minh An tri tạo vật thành tài Bất tại lôi đình chi giáo Công cái đại kỳ sở thụ Dĩ vô hĩ uẩn chi thiên Nhân giai tích kỳ bất lƣu Quần tụng bình phản chi mỹ Ly diên nhạn ảnh Tiền lộ ly ca Liêm trấn nguyệt nhi thu lƣơng Ngoại đài vân nhi nhật mộ Dĩ bốc thiên giao Vũ Ninh đề sứ tiết Tứ hải lẫm uy nhân Vấn tục hình xứng duẫn Duy công lễ tự nhàn Thu trừng Tam Đức thủy Sƣơng trùng Bát Hoàn sơn Lục ý phong tiền liễu Giao nhân bất nhẫn phan
Sự việc đều có xuất xứ từ ý đồ Kẻ ngoài cuộc có trí khôn nhƣng không biết đƣợc sự mƣu tính Ra làm việc thì mới có thể biết cách đối xử với ngƣời Lời nói thấu đạt thì yên với mệnh Ngƣời quân tử sửa lỗi Mới khai thông sáng suốt nhƣ vầng nhật nguyệt Sao biết tạo vật hun đúc thành tài Không cốt ở cái dạy nhƣ sấm sét Ông trội hẳn, ở những điều lớn lao mà mình nhận lấy Đã không vì cái nhìn thiên lệch mà buồn hay vui Mọi ngƣời đều tiếc ông không ở lại Mọi ngƣời đều ca tụng bình luận, mong quay lại thời kỳ tốt đẹp của ông Bóng nhạn xa chiếu tiệc Trƣớc đƣờng ngựa ô ca Góc trấn trăng thu lạnh Ngoài sở quan mây đang về chiều Đã biết trƣớc lời dạy của thiên đế Cầm cờ tiết đến Vũ Ninh Bốn năm giữ, săc mặt oai nghiêm Hỏi hình phạt này có công bằng hay không Chỉ có ngài am tƣờng việc lễ Mùa thu sông Tam Đức trong veo Sƣơng tỏa trên núi Bát Hoàn Trƣớc gió liễu vẫn xanh Khiến ngƣời không nỡ vin cành.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 341)
5. TỐNG NGUYỄN HOÀNG GIÁP THƢỢNG KINH/ TIỄN HOÀNG GIÁP HỌ NGUYỄN LÊN KINH Đƣợc thƣ suy tôn là cao thủ Đề nhạn thôi cao thủ Chàng Tiên xƣa đã nổi tiếng Tiên lang cựu hữu danh Gặp đêm thu nhớ mãi Tƣơng phùng thu dạ vĩnh Trăng sáng trên thành Lạng Giang Nguyệt mãn Lạng Giang thành Nâng chén nói chuyện ngƣời xƣa Bôi tửu đàm cổ nhân Sƣơng ngọc làm tỏa sáng rƣợu Lục Linh Châu lộ huy lục linh Khí mát thổi phía nam nhà làm sảng khoái Sảng khí bạc khâm vũ Cơn gió mùa thu ban sự mát mẻ Kim phong tƣơng dữ thanh Giang hồ không kể xiết Giang hồ bất khả khể Anh sắp về chầu kinh đô Quân tƣơng triêu ngọc kinh Giúp tôi cảm ơn những ngƣời thân quen Vị ngã tạ thân trí Thế nào là tình viễn khách. Hà nhƣ viễn khách tình
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 350)
PL145
6. ĐẶNG GIẢI NGUYÊN (DANH HUY TRỨ) ĐỒNG NGUYỄN HOÀNG GIÁP (DANH VĂN HIỂN) KIẾN PHỎNG NGUYỄN VÂN DỮ QUÂN TUY VỊ BÁN DIỆN NHIÊN DĨ THANH KHÍ CỐ ĐẶC TƢƠNG TÌNH NHĨ SỔ NHẬT NGỌA BỆNH THẬM VÔ LIÊU TRỌNG CẢM TƢ NGÔN Ƣ NHỊ NHÂN CHI HỒI CHU DÃ THÚ THỬ VI BIỆT/ ĐẶNG GIẢI NGUYÊN CÙNG NGUYỄN HOÀNG GIÁP ĐẾN THĂM. NGUYỄN NÓI: TÔI VÀ ANH TUY CHƢA GẶP MẶT NHƢNG VÌ CÙNG THANH KHÍ NÊN ĐẾN THĂM NHAU VẬY. VÀO NGÀY NGỌA BỆNH RẤT BUỒN BÃ, CẢM ĐỘNG TRƢỚC LỜI NÓI ẤY, LÚC THUYỀN HAI NGƢỜI TRỞ VỀ, LIỀN LÀM BÀI THƠ NÀY ĐỂ TỪ BIỆT
Tịch mịch giang thôn ngọa bệnh thân Cô đăng hình ảnh độc tƣơng thân Hàn thanh huống phục phong kiêm vũ Cùng lộ năng lệnh khách úy nhan Tự tích vinh khô trần ngoại tƣởng Chi kim thanh khí ngữ trung chân Tƣơng phùng hựu thị tƣơng tƣ xứ Vân tế tiên chu quát nhãn tần Giang thôn vắng vẻ, thân thì nằm trên giƣờng bệnh/ Dƣới ánh đèn cô độc, hình ảnh con ngƣời cũng hiện lên cô độc/ Huống chi lại gặp rét, gió và mƣa/ Cảnh cùng đƣờng khiến cho ngƣời sợ cả khách đến/ Từ lâu, cái khổ cái vinh tƣởng nhƣ giấc mộng ngoài cõi trần/ Nay kính nghe lời thanh khí trung thực, đúng đắn/ Gặp nhau đây lại là cùng chỗ suy nghĩ/ Mây giăng trên thuyền tiên, mở to mắt mà nhìn theo mãi.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 371)
7. HÕA ĐA HUYỆN TRẦN MINH PHỦ PHÓ LỲ UỐNG PHỎNG THƢ TIỄN/ TRẦN ĐĂNG TIẾN ĐI NHẬM CHỨC TRI HUYỆN HÕA ĐA GHÉ THĂM, NHÂN ĐÓ LÀM BÀI THƠ TIỄN U cƣ tận nhật độc bằng lan Trú mã hàm bôi cƣỡng tự khoan Cao vũ Xuân tòng hoa huyện vọng Cẩm y thái mị kính đƣờng khan Tể dan ngã tích Trần quân lão Giao hữu thùy liên Phạm thúc hàn Thiên lý nhƣợc vi thông ức mộng Nông giang sa động nguyệt đoàn đoàn Một mình đứng dựa vào lan can, suốt ngày ở nơi u tịch. Ngựa dừng, uống một chút rƣợu lòng thấy khoan khoái Mƣa xuân màu mỡ, ngắm nhìn khắp huyện nở hoa Áo gấm tƣơi đẹp, mẹ già soi gƣơng Giúp dân, tôi tiếc anh Trần đã cao tuổi Bè bạn ai thƣơng tiếc cho chú Phạm nghèo Ngàn dặm nhớ nhau cảm thông trong giấc mộng Trên động cát sông Nông, trăng tròn vành vạnh.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 374) 8. TỐNG HƢƠNG NIÊN CỬ NHÂN TRẦN CUNG PHỦ CHI SƠN TÂY HẬU BỔ/ TIỄN BẠN ĐỒNG KHOA THI HƢƠNG LÀ CỬ NHÂN TRẦN CUNG PHỦ ĐI LÀM HẬU BỔ Ở SƠN TÂY Lô giang Tản Lĩnh sấn tiền trình Khách lý na kham tống khách tình Dịch lộ lục vu triêu vũ tịnh Thiên nhai hồng thụ vãn vân bình Tiền nhân bi kiệt thiên thu giám Quan để sơn hà phiến nguyệt minh Bách lý huyền ƣng văn báo tối Tảo huề thƣ kiếm nhập thần kinh Sông Lô núi Tản giục lên đƣờng Tiễn khách nơi đất khách, tình khôn xiết Đƣờng trạm cỏ xanh, mƣa buổi sáng đã tạnh Chân trời cây đỏ, mây chiều đứng yên Bia đá ngƣời đời trƣớc là tấm gƣơng ngàn thu Non sông, công thự, vầng trăng sáng Nên làm cho trăm làng nghe tiếng là giỏi Sớm mang sách kiếm vào kinh đô
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 527)
PL146
9. TỐNG ĐỒNG TỈNH CỬ NHÂN PHAN KHẮC TUÂN CHI GIA ĐỊNH HẬU BỔ/ ĐƢA NGƢỜI CÙNG TỈNH LÀ CỬ NHÂN PHAN KHẮC TUÂN ĐI LÀM HẬU BỔ Ở GIA ĐỊNH
Khách trung tống khách nan vi biệt Nam vọng Nam đình động viễn ti (tƣ) Thiên điệp vân quan tam động dịch Sổ bình kỳ cuộc nhất nang thi Nhạn tha thu sắc lai Ngƣu chủ Nguyệt tả ly tƣ hƣớng Phƣợng trì Khởi hữu vi quan yêm ký túc Thiên cù vạn lý chính thanh di Đƣa khách nơi đất khách, khó rời nhau Nhìn Nam đình ở phía nam, xúc động nghĩ xa Đƣờng trạm ngàn đợt ải, mây thông ba động Mấy ván cuộc cờ một túi thơ Chim nhạn kéo màu thu đến Bến Nghé Trăng tả ý ly biệt hƣớng về hồ Phƣợng Há dễ lấy chức quan nhỏ mà ghìm chân ngựa ký Đƣờng mây vạn dặm rất yên vui.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 529)
10. TỐNG ĐỒNG HUYỆN CỬ NHÂN NGUYỄN PHU HIÊN CHI GIA ĐỊNH HẬU BỔ/ TIỄN NGƢỜI CÙNG HUYỆN LÀ CỬ NHÂN NGUYỄN PHU HIÊN ĐI LÀM HẬU BỔ Ở GIA ĐỊNH
Chỉ điểm quan hà nhập tiểu xuân Nam trƣờng đình thƣợng trọng thuân tuần Lan song cộng thoại tam thu vũ Mai lĩnh cô phi nhất phiến vân Mao thị đẩu thăng sơ đãi dƣỡng Vũ thành lễ nhạc trữ lâm dân Lữ hoài ký hƣớng Bà sơn nhạn Độ nguyệt hoàn lai ủy niệm quần Bấm ngón tay biết non sông vào tiết Tiểu xuân/ Trên trƣờng đình phía nam, nặng lòng bịn rịn/ Trong mƣa ba thu cùng nhau trò chuyện bên cửa sổ có trồng lan/ Một đám mây bay lẻ loi trên đỉnh núi có rừng mai/ Bổng lộc ít ỏi bắt đầu đủ ăn/ Lễ nhạc chứa ở Vũ thành đến với dân/ Gửi niềm nhớ nhung nơi lữ thứ cho chim nhạn ở núi Bà/ Nƣơng ánh trăng mà trở lại để thỏa lòng nhớ bầy.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 530)
11. TẬP ĐƢỜNG TIỄN HOÀI NHƠN TRI PHỦ VÕ THỤ ÍCH PHÓ LỲ/ TẬP CÖ THƠ ĐƢỜNG ĐỂ TIỄN VÕ THỤ ÍCH ĐI NHẬM CHỨC TRI PHỦ HOÀI NHƠN
Chiếu vua phong kín thơm mùi đất tía/ Không khí trong sáng buổi sớm mát vạn dặm/ Tiếng kiếm đeo bên lƣng nhịp theo bƣớc chân trên thềm ngọc/ Cờ tinh đi qua, núi cũ sáng lên/ Dừng xe, ngồi ngắm, thật yêu thích rừng cây phong trong buổi chiều muộn/ Đến ngày bọn trẻ cƣỡi ngựa trúc đón/ Đời vua thánh hiện nay nhiều mƣa móc/ Ở Lƣỡng Xuyên rừng cây hải đƣờng tiếp với đồng nội.
Thiên đài phong chiếu tử nên hinh (Hồ Tú)/ Sảng khí triêu lại vạn lý thinh (Tiền Khởi)/ Kiếm bội thanh tùy ngọc tri bộ (Triệu Hỗ)/ Kỳ tinh dao quá cố sơn minh (Giả Chí đạo quá cố hƣơng tịnh cập chi)/ Đình xa tọa ái phong lâm vãn (Đỗ Mục)/ Đáo nhật phƣơng thừa trúc mã nghinh/ (Lạc Thiên)/ Thánh đại tức kim đa vũ lộ (Cao Thích)/ Lƣỡng xuyên đƣờng thụ tiếp giao quynh (Lƣu Vũ Tích) (Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 540)
12. TẬP ĐƢỜNG TIỄN TUY HÒA HUYỆN DOÃN ĐỖ THỨ KHANH PHÓ LỲ/ TẬP CÚ THƠ ĐƢỜNG TIỄN ĐỖ THỨ KHANH ĐI NHẬM CHỨC QUAN HUYỆN Ở TUY HÒA
Bạch Vân hồng thụ cộng du du Lộ hạ Nam cung tinh Hán thu Mây trắng cây hồng đều xa xăm Sƣơng xuống ở cung phía Nam, dải Ngân hà sang thu
PL147
Tam thự lý thanh không kiến lễ Nhất xa cam vũ biệt hoàng chu (châu) Uyên hồng đắc lộ tranh tiên chứ Sơn thủy dƣơng đồ nhập thắng du Tri hữu dịch viên cao bộ tại Cam đƣờng hoa noãn Phƣợng trì đu (đầu) Tiếng giày ở Tam Tòa đã thông hiểu nghi lễ Một xe đẫm mƣa ngọt từ biệt kinh đô Chim uyên chim hồng có đƣờng, tranh nhau bay trƣớc Núi sông dọc đƣờng đƣợc thu vào chuyến đi đẹp Biết có ngƣời thi đậu còn ở ngôi nhà bên tƣờng Hoa cây cam đƣờng tỏa hơi ấm ở đầu hồ Phƣợng.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 546)
13. TỐNG BIỆT/ TỐNG BIỆT
Hƣ chu túng dật trạo Giáp trung nạp di huân Dƣợc thạch hữu thời nhàn Niệm lai tồn cố nhân Văn quân đƣơng tiên mại Thúc trang ký hữu nhật Đẩu tựu tụ thử lân Vân giá Thử khá sức Trƣợng phu chí tứ hải Đế giả thận dụng tài Cập thời đƣơng miễn (mại) lệ Cố lữ chính bồi hồi Quân kỳ ái thái tố Thịnh niên nan trùng lai Chiếc thuyền không, buông xuôi mái chèo Trong móm núi bay ra mùi cỏ thơm Lời thẳng có lúc làm bớt lỗi lầm Nghĩ đến lúc chỉ còn lại ngƣời bạn cũ Nghe ông đang đi xa trƣớc tôi Lên đƣờng đã định ngày Kẻ hàng xóm này dâng đấu rƣợu Xe mây, Thứ cũng chuẩn bị Trƣợng phu, chí ở bốn biển Ngƣời làm vua coi trọng việc dùng nhân tài Gặp thời nên gắng sức Ngoảnh lại nhìn bạn lòng cứ bồi hồi Ông vốn yêu sự trong trắng Tuổi trai tráng khó trở lại.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 550)
14. TỐNG TRẦN TÙNG ĐÌNH CHI LẠNG SƠN TÌNH THÂN/ TIỄN TRẦN ĐÌNH TÙNG ĐI LẠNG SƠN THĂM CHA MẸ
Phong nguyệt tam thu dạ Thần hôn vạn lý tâm Cố du tình khởi cực Minh phát thử hoài thâm Mã túc giang sơn thắng Lý đình cao vũ âm Thất Khê mai tín tảo Bạch tuyết trữ dao ngâm Gió trăng canh ba đêm mùa thu Lòng thần hôn dù ở nơi muôn dặm Tình bạn cũ giao du há dứt đƣợc Lòng nhớ cha mẹ lại sâu xa Chân ngựa đi qua cảnh đẹp sông núi Sân Lý mƣa dày che trùm Mai ở Thất Khê nở sớm Đứng chờ bài ngâm về tuyết trắng
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 564)
15. TỐNG GIA HUYNH CỬ NHÂN BÁ THÔNG THỊ NHU THỨ BÌNH ĐỊNH/ TIỄN ANH LÀ CỬ NHÂN BÁ THÔNG THỊ ĐƢỢC BỔ DỤNG VÀO BÌNH ĐỊNH
Vân quan lai lộ cánh nam hành Hƣơng chử ly ca xƣớng Vị thành Đƣờng về qua Hải Vân, lại đi tiếp vào phía nam Trên bến sông Hƣơng, khúc ly ca hát bài Vị thành
PL148
Thu bảng thập niên tồn cựu học Xuân phong tam nguyệt ổn tiến trình Quý hầy hỵ phụng liên chi hội Tô Tứ trùng vi cố hạng tình Thử địa thiên thu nhân vật tối Đào Ngô công liệt thị phong thanh Đậu khoa Hƣơng đã mƣời năm, vốn học cũ vẫn còn Gió xuân tháng Ba, con đƣờng trƣớc mặt đã ổn Quý hầu mừng vâng dự hội liên chi Tô Tứ trở lại đây đáp tình ngõ cũ Từ ngàn năm đất này đã có những nhân vật vƣợt trội Công nghiệp của Đào, Ngô còn nổi tiếng tăm
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 582)
16. TỐNG XUÂN KHÚC TỐNG NGUYỄN QUẢNG THÖC (TƢỜNG PHỐ) NAM QUY/ KHÚC NGÂM TỐNG XUÂN ĐỂ TIỄN NGUYỄN QUẢNG PHÖC TƢỜNG PHỐ VỀ NAM
Phƣợng thành nhất vũ thiên sơn lục Đào hoa thủy trƣớng Hƣơng Giang khúc Tử quy thanh lý lạc hồng đa Oán nhập đông phong tùy mã túc Khứ niêm tống xuân hoàn ngộ quân Kim niên tống quân kiêm tống xuân Hoa sự thông thông bất khẳng trú Tùy quân nam quá Cẩm Giang tân Ngô lƣ cựu tại Ba Giang chỉ Thƣơng mãng dao liên Cẩm Giang thủy Sơ y hà tự cán thƣơng lãng Ứng sử giang âu tiếu du tỉ (tử) Cao ca khoản khúc tích ly thƣơng Nhẫm nhiễm bích thảo phong tế quang Thái thái dƣ phân dục đặc tặng Vô sử đạo bàng di tuế phƣơng Qua một cơn mƣa, núi non đất Phƣợng thành xanh biếc/ Hoa đua nở, nƣớc dâng, sông Hƣơng uốn khúc/ Trong tiếng chim Tử quy nhiều giọt hồng rơi/ Niềm oán hận hòa vào gió Đông cuốn theo vó ngựa/ Năm ngoái tiễn xuân rồi lại gặp ông/ Năm nay tiễn ông lẫn tiễn xuân/ Mùa xuân vội vàng không chịu ở lại/ Theo ông đi Nam qua bến Cẩm Giang/ Ngôi nhà tranh của tôi trƣớc ở cồn sông Ba/ Xanh bát ngát liền với nƣớc Cầm Giang/ Sao lại giặt áo bạch đinh trong sóng xanh/ Khiến chim âu trên sông cƣời du tử / Ca lớn một khúc chân thành, nâng chén rƣợu biệt ly trong luyến tiếc/ Thấm thoát mà cỏ biếc đã ngời lên trong gió/ Muốn đem hƣơng cỏ ngọt ngào tặng ông/ Không muốn để hƣơng thơm của nó hằng năm bỏ lại ở ven đƣờng
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 583)
17. TỐNG NỘI CÁC LÊ BIÊN TU KHIÊM CHI VĨNH TRỊ TRI HUYỆN/ TIỄN NỘI CÁC BIÊN TU LÊ KHIÊM ĐI NHẬM CHỨC TRI HUYỆN VĨNH TRỊ
Văn đạo Bân Giang lộ Trƣờng châu dũng bích tầm Trạch tâm nghi giám thủy Hóa tục đãi minh cầm Địa trƣớc gia hƣơng cận Thiên ân vũ lộ thâm Hƣớng lai điều tễ nghị Tuyên đạo cập nhƣ câm (kim) Nghe nói đƣờng Bân Giang Cồn dài nổi lên bãi xanh Lòng yên định nên soi nƣớc Việc giáo hóa phong tục đang đợi tiếng đàn Quen đất quê nhà gần Ơn trời mƣa móc sâu dày Sắp tới, bàn về việc cứu giúp Tuyên đạo cho đến dân thời nay
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 585)
PL149
18. TỐNG BINH BỘ ĐẶNG LANG TRUNG HY THẾ QUY LÃO/ TIỄN THỊ LANG BỘ BÌNH LÀ ĐẶNG HY THẾ VỀ QUÊ NGHỈ HƢU
Tùng cúc nhƣ kim hữu chủ nhân Cố hƣơng quy khứ cập phƣơng thần Nay tùng cúc đã có ông chủ Trở về quê cũ kịp mùa xuân
Phùng Đƣờng hà dụng yêm lang thự Sơ Quảng nguyên lai thị học thần Phùng Đƣờng ở mãi chốn quan nha để làm gì Sơ Quảng trƣớc sau vẫn là kẻ bề tôi dạy học
Cửu bệ trữ thừa Thiên tẩu hội Thất tuần nhàn đắc bách niên thân Chín bệ đang chờ đón cuộc hội họp của ngàn bô lão Bảy chục, đƣợc nhàn tấm thân trăm năm
Ký sơn Ngạc chử ngô châu thắng Trƣờng ức thanh phong mãn giác cân Ký Sơn, Ngạc Chừ là cảnh đẹp ở châu ta Nhớ hoài chiếc khăn chéo lộng gió mát
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 586)
19. TỐNG BÌNH ĐỊNH HOÀNG PHÓ BẢNG CHI NAM ĐỊNH NGHĨA HƢNG PHÂN PHỦ/ TIỄN PHÓ BẢNG HOÀNG VĂN HỌC Ở BÌNH ĐỊNH ĐI PHÂN PHỦ NGHĨA HƢNG
TỈNH NAM ĐỊNH
Ác thủ luận văn địa Cầm tay bàn luận thế cục những vùng đất
Đông kiều ký duyệt tinh Sơ thu phong vũ dạ Bao lần tìm xem sao ở cầu Đông Đêm gió mƣa lúc đầu thu
Ngũ mã đoản trƣờng đình Liễu chiết Hƣơng giang lục Tiễn quan Thái thú ở đoản đình, trƣờng đình Bẻ liễu Hƣơng Giang biếc
Lan hoài Vị chử thanh Trữ ƣng khan chính tích Nhớ lan xanh bãi sông Vị Nên chờ xem thành tích cai trị
Tráp tối thƣợng Phong đình Để cất nhắc ngƣời giỏi lên Phong đình
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 588)
20. TỐNG TÔN NHÂN PHỦ NGUYỄN LANG TRUNG DIỆU THÚC CHI BẮC NINH TỈNH ÁN SÁT SỨ/ TIỄN TÔN NHÂN PHỦ LANG TRUNG NGUYỄN DIỆU THÖC ĐI LÀM
ÁN SÁT SỨ TỈNH BẮC NINH
Thăng Long thành bắc Nhị Hà my Ở phía bắc thành Thăng Long, bên bờ Nhị Hà
Nhân vật giang sơn hựu thử kỳ Địa thế tự bàn Tam Đức viễn Những nhân vật tài danh của đất nƣớc lại ở địa giới này Địa thế khoanh vùng từ Tam Đức xa
Dân phong do tƣởng ngũ triều di Tức kim nùng hóa phùng minh thánh Dân phong còn nhớ những điều năm triều lƣu lại Nay gặp vua thánh, phong hóa thêm đậm đà
Tỏng cổ khâm hình tụng hữu ty Khách huống cựu lân Xƣơng thủy nguyệt Theo xƣa, việc hình sự có ty phán xử Trăng Xƣơng Giang thƣơng khách cũ tới thăm
Thu lai do vị chiếu hà ty (tƣ) Thu đến còn vì ta mà soi nỗi nhớ về nơi xa xôi.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 593)
PL150
21. BỘ CHUYẾT VIÊN CÔNG TỐNG BẮC NINH ÁN SÁT DIỆU THÚC NGUYÊN VẬN TÁI KÝ DIỆU THÚC/ THEO NGUYÊN VẦN BÀI CỦA CHUYẾN VIÊN CÔNG TIỄN DIỆU THÖC ĐI LÀM ÁN SÁT TỈNH BẮC NINH, TRAO LẠI CHO DIỆU THÚC
Đình bắc chinh xa kịch chuyển bồng Tinh mao phong quyển hiểu yên trung Thiên lân phƣợng khuyết phiên đài trọng Thu mãn Loa thành tẩu trạch không Đan bệ hiến châm tu Đức Dụ Thanh sơn sàm trúc tiếu Văn Đồng Hoài nhân hựu điệp Dƣơng quan vận Ỵ cúc đề giam nguyệt ánh lung Phía bắc đình, cỗ xe đi xa chuyển nhanh nhƣ cỏ bồng. Gió cuốn cờ tinh mao trong khói sớm Trời thƣơng chức Phiên đài nặng nề ở kinh đô Mùa thu về khắp trên thành Cổ Loa, hồ đầm trống trải Việc dâng lời châm nơi cửa son, nên nhƣ Đức Dụ Tính ham trúc ở núi xanh, đáng cƣời cho Văn Đồng Nhớ ai lại gieo vần thơ Dƣơng quan Tựa khóm cúc, đề phong thƣ dƣới bóng trăng
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 600)
22. TỐNG LAN HIÊN CHI THÁI NGUYÊN TỈNH PHÚ BÌNH PHỦ GIÁO THỤ/ TIỄN LAN HIÊN ĐI LÀM GIÁO THỤ Ở PHỦ PHÚ BÌNH TỈNH THÁI NGUYÊN
Nhất niệm tê tê ủy bắc chinh Lão thiên đoan đích tất nhân tình Thân tồn thả hỵ quan thƣờng cận Cảnh tích do khan đạo tất hành Địa bắc thiên nam xuân nhạn ý Lĩnh mai giang nguyệt dạ cầm thanh Kinh trai thiện trạng năng sự cổ Yếu sử ngô châu hữu Phú Bình Chăm chăm ấp ủ một ý nghĩ đi về bắc/ Trời già cũng thấu rõ hết lòng ngƣời/ Cha mẹ còn, mừng đƣợc làm quan mà ở gần/ Cõi đất hẹp, có thể thấy đạo ắt đƣợc thực hành/ Đất Bắc trời Nam, ý nghĩ nhƣ chim nhạn mùa xuân/ Mai núi, trăng sông, tiếng đàn đêm/ Nhà giảng kinh sách trong hiện trạng tốt, có thể dạy noi theo ngƣời xƣa/ Mong cho châu ta có tiếng tốt ở Phú Bình.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 601)
23. TIỄN ĐỒNG NIÊN ẤT PHÓ SỨ THỊ ĐỘC VÕ TRẠCH KHANH (TUẤN) NHƢ THANH/ TIỄN BẠN ĐỒNG KHOA LÀ VÕ TRẠCH KHANH TÊN LÀ TUẤN HÀM THỊ ĐỘC, LÀM ẤT PHÓ SỨ SANG NHÀ THANH
Ngô bảng đồng niên nghị Yên Đài hữu sứ xa Tam xuân tu quốc sứ Vạn lý tụng hoàng hoa Chiêm đối Bi vi mệnh Uy nghĩ Quản bái gia Tinh diệu đàm thắng sự Diễm sổ Phƣợng thành hoa Tình nghĩa đồng khoa của bảng ta Yên Đài có xe sứ Ba xuân biên chép quốc sử Muôn dặm đọc hoàng hoa Ứng đối nhƣ họ Bì thảo văn từ Uy nghi nhƣ họ Quản lạy mừng Xe sứ bàn chuyện hay Hoa ở Phƣợng thành nhiều sắc đẹp.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 602)
24. TỐNG HY THƢỜNG HOÀN SƠN/ TIỄN HY THƢỜNG VỀ NÚI
1. Vân đình khƣớc dữ giám hồ khoan Bất phụ u nhân nhất khúc nhàn 1. Mây trên đỉnh cùng với gƣơng mặt hồ rộng/ Không phụ kẻ ở ẩn gặp phải khúc quanh/ Trong tay áo có bài thơ
PL151
vịnh cây cỏ mùa xuân ở Hƣơng Sơn/ Biến rõ rồi giá gạo khi là khách ở kinh đô/ 2. Trƣớc mắt là văn vật đất đế vƣơng/ Kẻ sĩ có kế sách mƣu trí há can tâm chỉ đứng nhìn chia thịt ngon/ Tất cả cũng bởi thời thịnh trị, ngƣời ta hay khuyến khích theo tục lệ / Tiếng hát trong trẻo bài Phạt đàn vang lên ở bờ sông/ 3. Đánh trống, nói chuyện biên cƣơng, tất cả đều lộn xộn/ Gối trên đá, nghỉ dƣới ráng, đã lâu không nghe nói đến/ Chƣa bàn đến chuyện lƣu thi tập lại lâu dài về sau/ Hứa theo phong thái thanh cao ở một sợi dây câu của Tứ Lăng và học cách sống ẩn dật của Sào phủ/ 4. Lâm quân mang mƣời quyển trở lại ngôi nhà trên núi/ Tô Tử từ quan còn có sách/ Ông lão này chắp hai tay rồi bỏ đi/ Nguyện không mắc chứng bệnh cuồng ngông của ngƣời đời/ 5. Bƣớc chậm, vừa đi vừa ngâm thơ, chƣa quên đƣờng/ Mây và cây cối trên núi phía bắc nhận ra ngƣời leo trèo/ Học thơ ta rất yêu Nghiêu phu tử/ Chƣa phẩm đề tuyết nguyệt phong hoa.
Tụ lý Hƣơng Sơn xuân thảo vịnh Giải am mễ giá khách Trƣờng An 2. Nhãn tiền văn vật đế vƣơng châu Sách sĩ na cam thị nhục tâu (tu) Tống vị minh thời năng lệ tục Phạt đàn giang trắc hữu thanh âu 3. Đề phong qua cổ tổng phân phân Chẩm thạch tê hà cữu bất văn Vi luận trƣờng lƣu thi quyển xứ Điếu can ƣng hứa học Sào quân 4. Lâm quân thập trục phản sơn lƣ Tô tử từ quan thƣợng hữu thƣ Thử lão chỉ xoa song thủ khứ thế nhân nguyên bất bệnh cuồng sơ 5. Hoãn bộ hành ngâm lộ vị mê Bắc sơn vân thụ nhận phàn tê Học thi tối ái Nghiêu phu tử Tuyết nguyệt phong hoa vị phẩm đề (Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 608)
25. TỐNG BINH KHOA ĐẶNG CHƢỞNG ẨN MINH TRÂN BẮC HÀNH NHÂN TIỆN TỈNH THÂN CHÚC THỌ/ TIỄN BINH KHOA CHƢỞNG ẤN ĐẶNG MINH TRÂN ĐI BẮC NHÂN TIỆN THĂM VÀ CHÖC THỌ CHA MẸ
Ái nhật viễn trừng Hƣơng thùy bích Thọ tinh song chiếu nguyệt đàm ôn Niên tri dĩ hỵ trƣng gia khánh Tình đắc nhân công tức quốc ân Bách viện sƣơng bào đƣơng thái vũ Hòe đình giới tửu mỳ xuân huyên Giang vân thiên lý huyền tây vọng Do ức đăng đài nhất khất ngôn Mặt trời soi xuống nƣớc sông Hƣơng trong lặng xanh biếc Sao Thọ chiếu vào cha mẹ, trăng đầm êm dịu Biết năm nay đi, nhân mừng việc vui của gia đình Đạt đƣợc tình cảm đó, do ông đƣợc ơn nƣớc Ở viện cây bách, áo bào pha sƣơng, nên múa cho đẹp Sân cây hòe, chén rƣợu nghĩa làm đẹp lòng cha mẹ Nhìn về phía tây xa ngàn dặm, mây lơ lửng trên sông Còn nhớ khi lên đài xin một lời nói.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 611)
26. ĐỖ LỮ TÙNG NAM QUY TỈNH THÂN THẢ HIẾN THỌ TỬU TÁC TRƢỜNG CÚ TIỄN CHI/ ĐỖ LỮ TÙNG VỀ THĂM MẸ VÀ DÂNG RƢỢU THỌ, TA LÀM BÀI TRƢỜNG CÖ ĐỂ TIỄN
Thánh triều hiếu trị long tiền cổ Quân tử ngu thân thâm nhụ mộ Trắc Dĩ tƣ luyến hành dịch ngâm Tuần cai lạc tụng vong thi bổ Triều vua thánh dùng đạo hiếu mà cai trị làm hƣng thịnh nề nếp Nhà thâm nho ái mộ ngƣời quân tử làm vui lòng cha mẹ Khi làm việc, thƣơng nhớ mà ngâm thơ Trắc Dĩ Lúc đi dạo, vui đọc, quên làm thơ
PL152
Nay ông xin đƣợc về thăm mẹ Gia đình rất vui vẻ bày tỏ đạo trời Ngƣời xƣa không lấy chức Tam công mà đổi Thì một viên nhàn quan thẹn gì năm đấu gạo quèn Đầu thu biển thuận, gió táp mạnh Trăng sáng, sóng trong, một cánh buồm đi Hành trình đi An Dƣơng không xa nghìn dặm Thuyền nhẹ, trong thời gian ngắn sẽ đến tỉnh ông Chu Sơn có nhà, sông có cá Rót rƣợu, cắt nem, đem mâm rau lên Tiếng còi sáo hòa nhau trong trẻo, cỏ chi cây ngọc rợp bóng Hoa cỏ huyên nơi nhà phía Bắc tƣơi đẹp hơn cả mùa xuân Dâng chén, múa lụa để chúc mẹ Hẹn đến năm đầy trăm tuổi, kèm thêm ngũ phúc Làm con thì lo đạo hiếu, làm bề tôi thì lo đạo cung kính Kính giữ nếp nhà để an ủi mẹ Mƣời năm không làm gì để lại nối lo cá ƣớp Đƣợc biết tấm lòng này của ông nay đƣợc đáp lại Núi cao không mòn, vực không cạn Nền nếp buồng khuê của nhà thanh bạch ngàn năm thu nhƣ thế.
Quân kim đắc thỉnh quy tỉnh thân Đình vi chí lạc tự thiên luân Cổ nhân bất dĩ Tam công hoán Bạc hoạn hà tàm ngũ đấu bần Sơ thu thuận hải thanh tiêu kính Nguyệt hiểu ba trừng nhất phàm chính An Dƣơng bất viễn thiên lý trình Khinh chu siếp thời để quân tỉnh Chu sơn hữu lƣ giang hữu ngƣ Sái lễ thiết khoái đăng bàn sơ Huân trì thanh vận âm chi ngọc Đƣờng bắc huyên hoa xuân bất nhƣ Phùng thƣơng vĩ thái vị thân chúc Bách tuế kỳ niên kiêm ngũ phúc Vi tử tƣ hiếu thần tƣ cung Kính thủ gia quy úy từ húc Thập tải vô vi di trá ƣu Tri quân thử tâm kim hoạch thù Cao Sơn bất khiên uyên bất hạc Thanh môn khổn lý nghỉ thiên thu (Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 615)
27. TỐNG CƠ MẬT VIỆN CHỦ SỰ LÊ CHI BÌNH THUẬN ĐỐC HỌC/ TIỄN CHỦ SỰ CƠ MẬT VIỆN HỌ LÊ ĐI LÀM ĐỐC HỌC Ở BÌNH THUẬN
Văn vận nhật xƣơng minh Sƣ mô trọng trách thành Hiền quan thân giảng tích Xuân bảng cựu khoa danh Dự! Gia sơn lữ nhạn tình Nguyệt trừng tam động hiểu Thu mãn cửu diên tình Đãi hóa tƣ thời vũ Luân tài tác quốc trinh Hồ Châu căng thức tại Thiên cổ hữu gia thanh Vận hội bên văn ngày một hƣng thịnh, sáng sủa Gƣơng mẫu làm thầy, trách nhiệm nặng nề, đã có thành quả Giới hiền sĩ gần gũi với chiếu giảng Có tên trên bảng Xuân các khoa cũ Thật vinh dự Nhớ quê nhà nhƣ con nhạn bay xa tổ Trăng thanh, ba động sáng Thu tàn, chín châu tạnh Chờ giáo hóa nhƣ mong cơn mƣa đúng lúc Kén chọn nhân tài làm cội gốc cho nƣớc Khuôn mẫu Hồ Châu còn đó Nghìn thuở đƣợc tiếng tốt.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 618)
PL153
28. TỐNG TỪ TẾ TY PHÓ SỨ TÔN THẤT HỮU THƢỜNG PHÓ NAM KỲ KINH LƢỢC SỨ TRƢNG MẠC/ TIỄN TỪ TẾ PHÓ SỨ TY LÀ TÔN THẤT HỮU THƢỜNG ĐI NHẬM CHỨC DƢỚI TRƢỚNG CỦA QUAN KINH LƢỢC SỨ NAM KỲ
Lục tỉnh đề phong thiên phủ cố Thất niên điều tế chủ ân thâm Lễ thần đặc thị ƣu dân niệm Cầu sĩ chung tri báo quốc tâm Nhạc tá dƣ đề trần duyên quý Nam hành nhân ái Triệu đƣờng âm Ban tôn tráng chí thùy vô tiễn Đầu bút công huân chiếu cổ câm (kim)
Việc phong chức đi lục tỉnh, triều đình định Bảy năm điều hành cứu vớt, ơn vua thấm sâu Giữ lễ với bề tôi đó là do suy nghĩ lo cho dân Tìm kẻ sĩ, chung quy cũng vì tấm lòng báo quốc Giong ruổi giúp núi Nhạc, ấy là vinh dự bậc phụ tá Đi Nam, đƣợc ngƣời yêu mến bóng Triệu Đƣờng Đƣợc ban danh vọng, đƣợc nung đúc chí lớn, ai mà chẳng muốn Ném bút công huân soi cổ kim.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 621)
29. TỐNG NỘI CÁC THỪA CHỈ NGUYỄN NGỌC NHỮ (DANH ĐỨC THÀNH) VÃNG NAM KỲ THỪA BIỆN/ TIỄN QUAN THỬA CHỈ NỘI CÁC NGUYỄN NGỌC NHỮ TÊN LÀ TẤT THÀNH ĐI LÀM THỪA BIỆN Ở NAM KỲ
Minh bằng để bích tiêu Lịch ký tẩu thiên lý Tráng tai cổ liệt sĩ Mộ niên tâm vị dĩ Tiễn quân túc tích mộ Ban Sinh Khẳng hƣớng thƣ tào lão bút canh Cự khấu Tiền Giang chân vãng sự Chí kim nhân thuyết Nguyễn Tân Thành Sổ kỳ thiệt tại chí ích phấn Lại sự nhƣ mao ƣng thủ mẫn Ngọc đƣợng dạ nguyệt châu hải phong Thoát lƣợc khâm kỳ tẩy phàm cận Cơ tằng cộng sự nhã tri quân Lý kịch xứng tài túc tâm vấn Trung thƣ tào vụ ký năng quan Hà hoang khả hành huống trung tín Tức kim mạc tá trọng tƣ mƣu Phan duyện biệt giá đề Kinh châu Trƣợng phu từ gia hợp báo quốc Thẩn hiệp trƣờng sách tầm cựu du Huấn phƣơng thị đồn điều sứ Địch hà tru lai bố kinh vĩ Con ó biển chạm trời xanh Con ngựa ký già ra chuồng chạy ngàn dặm Mạnh mẽ thay liệt sĩ của ngày xƣa Tuổi già, chí chƣa mất Điều ham muốn ngày trƣớc của ông là bắt chƣớc Ban Sinh Quyết vào viện sách cày bằng ngọn bút đến già Chống giặc ở Tiền Giang là sự thật đã qua rồi Đến nay ngƣời ta còn nói chuyện ông Nguyễn ở Tân Thành Mấy cái lƣỡi lạ còn thì chí càng nên cố gắng Việc quan nhiều nhƣ lông, tay nên siêng năng Nhà ngọc, đêm trăng, gió qua rèm châu Phóng thích hoài bão, tẩy rửa chức vụ nhỏ nhoi Từng làm việc chung đã đƣợc biết ông Xứng tài xử lý việc khẩn cấp, đủ cho khi mình tự hỏi mình Đã có thể làm quan đảm đƣơng các Tào vụ trong Nội các Đi đến cõi xa hoang vắng càng trung thành, đáng tin cậy Ngày nay, việc giúp đỡ nơi màn trƣớng, trọng là bàn mƣu kế Chức biệt giá giúp quan Duyện họ Phan hƣớng về Kinh châu Kẻ trƣợng phu từ giã gia đình là để chung sức báo quốc Ví bằng có kế sách lâu dài, tìm chỗ giao du cũ Dạy quan coi việc đất đai đồn điền Xóa tệ hà khắc, trừ cỏ dại, ban bố trật tự Ngƣời cầm cờ tiết ở Nam Kỳ biết trọng kẻ sĩ
PL154
Mong thấy ông thành công, tâu lên phong bệ.
Nam Kỳ sứ tiết thiện lễ sĩ Yêu khan thành công tấu phong bệ (Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 625)
30. TỐNG ĐỒNG HUYỆN CỬ NHÂN LÊ TRỌNG VÃNG BÌNH ĐỊNH HUẤN ĐẠO/ TIỄN CỬ NHÂN NGƢỜI CÙNG HUYỆN LÀ LÊ TRỌNG ĐI LÀM HUẤN ĐẠO Ở BÌNH ĐỊNH
Lĩnh mai hoa sấn lữ trang thanh Hƣơng chử ly ca tích vũ tình Tảo viện tam xuân đăng thí lục Bàn thành nhất huyện hữu thƣ thanh Cao đƣờng thả hỵ thân thƣờng kiện Bão học ƣng tƣ chí tất hành Chỉ điểm Phƣợng thành đào lý hội Yếu khan lục cách cửu tiêu minh Hoa mai trên núi làm nổi bật sự thanh khiết trên hành trang của ngƣời lữ thứ./ Trên bến sông Hƣơng ngâm khúc ly ca, mƣa rào đã tạnh/ Viện Văn cứ ba năm lại có sổ ghi tên ngƣời thi/ Thành Bàn một huyện nổi tiếng về học hành/ Mừng là cha mẹ thƣờng đƣợc mạnh khỏe/ Học đƣợc đầy đủ, ắt thực hành đƣợc cái chí của mình/ Chỉ Phƣợng thành, hẹn ngày báo đáp/ Mong đƣợc thấy bay hót trên chín tầng mây.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 628)
31. TỐNG NỘI CÁC TRẦN BIÊN TU (DANH CÔNG BÌNH) VÃNG BIÊN HÒA LONG THÀNH TRI HUYỆN/ TIỄN NỘI CÁC BIÊN TU TRẦN CÔNG BÌNH ĐI LÀM TRI HUYỆN LONG THÀNH TỈNH BIÊN HÒA
Hán gia tuần lại chính nhu tài Tể ấp nhân tòng Bí Các lai Bất sử Lƣu Sinh yêm hộ hạn Yếu khan Tử Tiện hữu cầm đài Thành danh sử mạc hƣ đề giá Sơn thủy xuân thành tảo phú mai Điều tế tức kim đa huệ chính Lâm kỳ trịnh trọng thuộc hành bai (bôi) Nhà Hán đang cần những tuần lại có tài Ngƣời nhận chức ấp tề đến từ Bí Các Chớ khiến Lƣu Sinh chìm đắm trong giới hạn cửa nhà mình Cần Tử Tiện có đài để đánh đàn xem Tên họ ngƣời nổi tiếng còn để trống trên xe của Sứ mạc Trên núi sông đất Phú Xuân, ngƣời ta sớm làm thơ vịnh mai Việc điều tế ngày nay có nhiều chính sách ân huệ Trịnh trọng chia tay, rót tiếp chén rƣợu tiễn hành.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 631)
32. TỐNG BÙI NIẾT ĐÀI ĐÔNG ĐÔI (HÖY ÁI) ĐIỀU BỔ LẠNG SƠN/ TIỄN QUAN ÁN SÁT HỌ BÙI NGƢỜI LÀNG ĐÔNG ĐÔI ĐƢỢC ĐIỀU LÊN LẠNG SƠN
Cự hƣớng ly bôi trạc liễu chi Phiến ngôn do tƣởng kiến khâm kỳ Tam thiên điểu hiến tồn khâm tuất Thập nhị biên trù thụ giản tri Tiên đổng vân khai thừa khánh lộ Trà giang nguyệt mãn khứ tƣ bi Bắc môn tỏa thƣợc khan thành toán Khƣớc địch hoàn ƣng triết chúy si Nâng chén rƣợu ly biệt rửa những cành liễu Mong trông thấy vạt áo là còn nhớ đƣợc vài lời Ba ngàn điền lệ, vẫn còn tỏ lòng thƣơng xót Biết mƣời hai điều trú tính ở biên cƣơng, nên nhận chỉ vua Mây ở động Tiên mở ra, vâng theo con đƣờng ơn phƣớc Trăng sông Trà tràn đầy đi vào nỗi nhớ Cửa Bắc khóa chặt, hãy xem thành tựu của ông Đánh lùi kẻ địch quay về, hãy bẻ gãy đòn roi.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 642)
PL155
33. TỐNG KIÊM HẠT TÚ TÀI NGUYỄN HỮU QUANG NỘI CÁC ĐÃI CHIẾU/ TIỄN TÚ TÀI NGUYỄN HỮU QUANG TRONG HẠT TA KIÊM ĐI LÀM ĐÃI CHIẾU Ở NỘI CÁC
Đông các quan mai hứng chính hàm Nam chi xuân tín thƣợng chinh tham Hoạn du yếu khán nhân gian thế Nan đắc giao tình thị Trúc Nham Hứng lên cũng say vì quả mận phía đông nhà quan ở Nội các Mùa xuân trên đƣờng đi xa nhận đƣợc thƣ càng thêm nhớ nhà Làm quan ở xa cốt yếu phải xem nhân tình thế thái Khó đƣợc giao tình của Trúc Nham
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 646)
34. BỔN GIANG QUÂN THỨ TỐNG BÌNH ĐỊNH TRẦN THAI HỒI QUÁN/ QUÂN ĐÓNG Ở SÔNG THU BỒN TIỄN ÔNG TRẦN NGƢỜI BÌNH ĐỊNH VỀ QUÊ
Đối diện nhƣ kim thị Hồi đầu các tạc phi Na tri tuyên lực địa Cự nhĩ tống quân quy Tây tái thiên sơn hiểm Thu phong nhất nhạn vi Thi Thƣ đôn cựu nghiệp Tiện thị hạp quân sƣ Hôm nay gặp nhau là đúng Nhớ lại, việc cũ là sai Đâu biết nơi nào chuộc tội Đã nhanh chóng tiễn bạn trở về Ngàn núi hiểm ở miền tây biên giới Gió thu, con chim nhạn lẻ bầy Hãy dốc lòng theo nghiệp cũ Thi, Thƣ Mới đền đáp đƣợc vua và thầy.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 668)
35. BỘ VẬN TỐNG NGUYỄN HỌC CHÍNH LÝ AN NAM HÀNH/ THEO VẦN TIỄN QUAN HỌC CHÍNH NGUYỄN LÝ AN VỀ NAM
Biệt xứ phùng quân trọng giải huề Tống quân không nhĩ vọng luân đề Sơn xuyên lịch thiệp thành tân kiến Giao dã thanh bình cảm cựu tê Bái quốc môn đa Trọng Cung lực Yên sơn thạch tá Mạnh Kiên đề Ly diên dự tác hàm bôi ƣớc Thu mãn Trà Giang nguyệt vị đê Ở nơi xa xứ gặp anh, lúc rời tay nhau thật nặng nề Chỉ tiễn suông anh đi, cứ nhón chân trông theo bánh xe quay Núi sông từng trải, nên mới gặp nhau Nhớ lúc nƣơng náu nơi đồng quê thanh bình Ở đát bái, nhiều cổng nên cần sức của Trọng Cung Mƣợn đá Yên Sơn để ghi tên Mạnh Kiên Dƣ bữa rƣợu biệt ly, nâng chén mà hẹn ƣớc Sắc thu tràn đầy sông Trà, trăng đang lên cao.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 679)
36. TỐNG BÁI DƢƠNG NGUYÊN TIẾN SĨ NGÔ TRỌNG PHU QUY LY/ TIỄN DƢƠNG NGUYÊN TIẾN SĨ NGÔ TRỌNG PHU VỀ HƢU
Chu tiếp tù Đông Lạc Tri Chƣơng khất Giám hồ Đƣơng thời lƣợng cao tiết Sự diệc thiên tải câu Nhƣ hà Nga My lão Thƣợng thƣ lạo khu khu Chí sỹ đạo nghĩa tồn Nhà Chu biến đổi từ khi xa Đông Lạc Ông Tri Chƣơng không còn soi ngắm mặt nƣớc hồ Đây là lúc đánh giá con ngƣời Muôn thuở đều có việc (đánh giá) này Làm ông lão ở núi Nga My Hay bo bo khó nhọc trên giấy tờ sách vở Đạo ngƣời chí sĩ chúng ta còn đó
PL156
Ngô tâm lƣơng bất vu Đại tai mại tiền quỹ Ngã hoàng ƣu sỹ phu Sƣu dật đắc Hải Tiều Vị nam khởi Trọng Phu Cửu kiền hạ thanh vấn Tứ khố la thƣ du Thị tri thủ thánh huấn Bất dĩ hà yểm du Thiên tử lƣợng kỳ chí Doanh phẫu huệ hữu phu Giáp bảng phục thông tịch Châu đề vi lộ tu Thu phong tứ quy lý Khẳng sử không tƣ lƣ Hồi ức trấp dƣ tải Dƣỡng thân kiêm thụ đồ Bân bân minh bội giả Nhất nhất lệ liêm ngung Hƣu đình nghi bệnh khách Ƣ quân lƣơng bất cô Kế Bắc hữu tuấn sản Yên Triệu hữu điếu đồ Sơn Nam cổ yên ký Thiện giá nghi tức cô Vị tuyên Đƣờng Ngu đức Tứ môn phƣơng thản đồ Hành hỹ tiến nhất trƣờng Dữ quân ca ly câu Sóc phƣơng thu tấn thâm Hoàng hoa cấp tƣ tƣu Thảo dã hữu đại nghĩa Thốn tâm tại ngô Nho Lƣơng trù khởi cơ nịch Thân vô di lão tô Cái lƣơng thiện của chúng ta không dối trá Lớn thay vết khuôn phép của ngƣời xƣa Vua ta lòng lo nghĩ đến sĩ phu Hỏi tìm rộng rãi mà có đƣợc Hài Tiều Biết phía nam sông Vị có Trọng Phu Cửu trùng ban lời thử hỏi Biết ông nhƣ bốn kho sách phong phú Biết ông giữ lời Thánh dạy Không chủ ý mà ngọc lành chịu vết Vua rộng lòng vì chí khí ông Ban ơn huệ tràn đầy tin cậy Trên bảng giáp (tên Tiến sĩ) phục lại chiếu ngồi Chữ son vua phê “hãy đợi” Gió thu mát đƣờng quê Lòng hết sạch lo nghĩ Nhớ lại hơn hai mƣơi năm qua Nuôi song thân dạy học trò Ngƣời đeo chất ngọc trọn vẹn Gƣơng khuyến đức ngay thẳng ở một góc trời Dáng con ngƣời nghỉ hƣu mà lòng u uất Lòng lành ông quả không cô đơn Vùng Kế Bắc sinh tuấn mã Nƣớc Yên nƣớc Triệu (đều) có kẻ buông câu, kẻ làm nghề giết mổ Nhƣ vùng phía nam núi nƣớc Yên đang chờ Đƣợc giá mua tức khắc Rao giảng đức của Đƣờng Ngu Bốn phƣơng từ bốn ngả kéo đến Ông đi dâng chén rƣợu Hát tiễn khúc Ly Câu Phía Bắc nạn lụt mùa thu đang tràn ngập Vua hỏi chọn ngƣời chịu mệnh sai phái Làng quê có việc nghĩa lớn Ấy là tấc lòng của ngƣời Nho chúng ta Lo trù tính cho hay xua đi sự đắm chìm Thận trọng không để sót ngƣời già nào.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 684)
PL157
37. TỐNG ĐỔNG LÝ THANH TRA HÌNH BỘ NGUYỄN LANG TRUNG PHÓ LẠNG SƠN NIẾT SỨ/ TIỄN LANG TRUNG BỘ HÌNH, ĐỔNG LÝ THANH TRA HỌ NGUYỄN ĐI LÀM ÁN SÁT SỨ Ở LẠNG SƠN
Tân ân tức dữ cố hƣơng vinh Đức thủy huân phong kính Lạng thành Trƣờng hạ vân yên do ngũ nhật Thất châu nhân vật hễ song tinh Quan môn nguyệt tịnh nhàn quy mã Tiên động sơn thâm hảo thính oanh Chiếu liễu Vệ kiều hoàn hữu tặng Đa niên tỉ bộ thức Văn Bình Ơn mới thêm vinh chốn cố hƣơng Lúc gió Nam qua sông Đức Thủy đi lên Lạng thành Khói mây mùa hạ dài, vẫn còn tháng năm Nhân vật của bảy châu đợi hai lần khen tặng Quan ải trăng treo chân ngựa chậm Động tiên núi thẳm nghe rõ tiếng chim oanh hót Bẻ liễu bên cầu Bố Vệ để đƣa tặng Nhiều năm cùng sánh ở Bộ, biết rõ Văn Bình.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 690)
38. TỐNG HỒNG LÔ TỰ KHANH ĐỖ LA PHONG VÃNG NAM KỲ CHIÊU THẢO/ TIỄN HỒNG LÔ TỰ KHANH ĐỖ LA PHONG ĐI NAM KỲ CHIÊU MỘ ĐÁNH PHÁP
Nam cố vu thần lự Tây chinh kỵ nhật hƣu Lƣỡng giang phƣơng đãi viện Quần sách thục phân ƣu Nhàn đạo Hoài âm kế Phi lai Vũ Mục trù Nhân tri hoài nghĩa phẫn Quân độc thỉ lƣơng du Lục san Y Pha lũy Hà phần Phú Lãng chu Sách huân khan ẩm chí Mao thổ trọng thừa hƣu Việc phƣơng Nam khiến nhà vua lo lắng Đánh Pháp bao ngày đã phải dừng Hai sông (Tiền, Hậu) đang chờ viện Mƣu kế nào để giải mối lo Đừng nói suông mƣu kế của Hàn Tín Phải làm ngay trù tính của Vũ Mục Ngƣời phẫn uất vì nhớ nghĩa Riêng anh hiến mƣu kế tốt Lũy Ý Pha Nho tìm phƣơng chia cắt Thuyền Phú Lãng nghĩ cách đốt chìm Sẽ có ngày uống rƣợu mừng công lao Bấy giờ dân gian mới đƣợc nghỉ ngơi.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 700)
39. TỐNG ĐIỆN BÀN PHẠM TRI PHỦ PHÓ LỲ/ TIỄN ÔNG PHẠM, TRI PHỦ ĐIỆN BÀN ĐẾN LỲ SỞ
Hành sơn tú nhƣ họa Điện thủy thanh khả cúc Thạch Am danh hoạn từ Tuế thời triển thi chúc Hƣớng lai ngũ mã trần Y y tƣởng phƣơng trục Kiêm chi sổ nẫm nhàn Bì sang vị hoàn phục Sĩ khống hiệp kỳ sách Núi Ngũ Hành đẹp nhƣ tranh vẽ Nƣớc sông Vĩnh Điện trong muốn vốc tay uống Đền thờ vị danh thần Thạch Am Suốt năm, ngƣời đến khấn vái Hƣớng đến các quan Phủ Lòng con ngƣời vẫn quyến luyến vết tích thơm ngƣời xƣa để lại Huống chi liên tiếp mấy năm nay Vết thƣơng lở lói vẫn chƣa liền lại nhƣ trƣớc Kẻ sĩ thì mang kế sách trống rỗng
PL158
Nông bất thiệm vu cốc Phòng Dƣơng thả bị tuế Lý thử diệc duy cốc Đạo dƣơng dữ tuy tập Sở vọng duy lƣơng mục Phạm quân trị quận tài Truyền văn uyển tại túc Nhất thê khuất loan phƣợng Lập đƣơng triển ký túc Vĩnh Tƣờng hữu gia thanh Khẳng huệ ngã Diên Phƣớc Đỗ mẫu năng kế Thiệu Khởi y Thạch Am độc Nhà nông không đủ lúa Trọn năm phải lo phòng giữ giặc Tây Cách giải quyết đi vào ngõ cụt Dẫn dắt, cổ vũ và vỗ yên Tất cả trông vào ngƣời chăn dân tài giỏi Ông Phạm có tài của ngƣời sửa trị Nghe lời ngƣời đã kính cẩn đồn xa Ngồi tại chỗ thì bậc có tài chịu khuất phục Còn đứng dậy thì nhƣ ngựa tài cất vó Tiếng tăm từ Vĩnh Tƣờng tăng thêm Huyện Diên Phƣớc ta nay chắc là đƣợc phƣớc Mẹ Đỗ có thể kế tục đƣợc cha Thiệu Tài ba kia đâu chỉ có một Thạch Am.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 702)
40. TỐNG THỊ GIẢNG HỌC SĨ HOÀNG TĨNH TRAI QUY TỈNH/ TIỄN THỊ GIẢNG HỌC SĨ HOÀNG TĨNH TRAI VỀ THĂM QUÊ
Sông Hƣơng ƣu ái một ngày lắng trong sáng rỡ/ Núi Ngự Bình gửi hƣơng hoa mai bay xa/ Bác Mai Hiên việc gì phải quyến luyến/ Tính trời cao nhất là nhớ mẹ cha/ Tạm cởi cái ách đời mà nói trở về Đông/ Thể hiện kẻ làm tôi, ơn đức vua thật là lồng lộng/ Khiến cho tấc đất có báo đáp nắng xuân/ Bức thƣ nhƣ chim loan trang sức đẹp đẽ, bức hoành phi mới ở cửa/ Các vật quý của cung cấm thơm ngát tốt tƣơi/ Vua ban cho làm phúc nhà thêm dồi dào/ Dòng nhà Nho của bác nay nổi tiếng ở kinh kỳ/ Hai cụ ở nhà trên đều dƣ thọ “cổ lai hy”/ Dƣới bóng mát trƣớc sân, trên thềm, cỏ thơm tỏa hƣơng/ Làm quan trong sạch, thân thể tráng kiện, là điều con ngƣời mong ƣớc/ Áo gấm làm nhƣ áo Lão Lai/ Cuộc vui này mới quyết rằng cha mẹ đã dạy con không nhầm lẫn/ Rồi mùa đông lo ủ ấm, sáng sớm ta dâng lời điềm lành/ An ủi bác tự răn mình những ngày báo đền/ Nƣớc đầm Hà Trung ấm, Cầu Đông rực nắng/ Nhìn theo mái chèo khua, hai con chim nghịch đang bay/ Mây tụ trên đầu giăng huy hiệu báu.
Hƣơng Giang ái nhật trừng thanh huy Bình sơn mai hoa hƣơng chính phi Mai Hiên hà sự tâm y y Thiên luân chí tính tƣ đình vi Tạm giải trần ƣởng ngôn đông quy Thể thần thánh đức chân nguy nguy Lập sử thốn thảo thù xuân huy Loan thƣ huyến diệu tân môn phi Thƣợng phƣơng trân phẩm nhân quỳnh uy Hoàng tích chi phúc vi gia phì Quân gia Nho thƣ văn đế kỳ Cao đƣờng xuân huyên dƣ cổ hy Đình giai chi ngọc ấm phƣơng phi Quan thanh thân kiện nhân sở hy Trú cẩm phụng tác Lão Lai y Thừa hoan khẳng sử ý tử vi Đông ôn tảo kiến trình gia ky Ủy quân tuần cai tha nhật kỳ Hà Trung thủy hoán Đông kiều hy Lập khán lai trạo song nghịch phi Nhất tả đình vân trƣơng bảo huy (Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 708)
PL159
41. TỐNG NHƢ THANH SỨ BỘ/ ĐƢA TIỄN SỨ BỘ ĐI THANH
Kỳ nhất: TỐNG CHÁNH SỨ HOÀNG THIỆN TRƢỜNG/ TIỄN CHÁNH SỨ HOÀNG THIỆN TRƢỜNG
Chính thanh tuyên xuất mục Thi cú tại Canh ca Vi sứ cầu chuyên đối Tiễn quân nghi thử khoa Quan hà vong viễn đạo Phong tuyết phát tân nga Dự tác quy lai hỵ Xuân thành vũ lộ đa Có tiếng tăm về cai trị nên đƣợc ban chỉ làm quan lớn Cũng có thơ trong tập Bích Ung canh ca Đi sứ thì tìm ngƣời đối đáp đƣợc Khen ông thích hợp với khoa này Hãy quên nỗi đƣờng xa cách trở Trong cảnh gió tuyết sẽ làm đƣợc những bài thơ mới Khi trở về chắc sẽ mừng rỡ Hƣởng đƣợc mƣa móc ở Kinh thành.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 712)
42. TỐNG GIÁP PHÓ SỨ VĂN (Kỳ nhị)/ TIỄN GIÁP PHÓ SỨ VĂN
Chiết xung do tác sứ Chiêm đối trọng thông kinh Kim nhật y thƣờng hội Tích nhân cửu mã vinh Khu xa khi sóc tuyết Đề dịch nhận hoa trình Nhất phiến Yên thành nguyệt Thu lai nam nhạn thanh Biết chế ngự địch mới làm sứ giả Hiểu dâu kinh điển mới đối đáp đƣợc Nay gặp hội áo mão Là do ngày trƣớc đã vẻ vang áo cừu, ngựa béo Giong ruổi xe coi thƣờng tuyết phƣơng Bắc Đề ở trạm dịch nhận ra đƣờng đi sứ Một vầng trăng ở Yên Kinh Thu đến có tiếng kêu của chim Nhạn bay về.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 713)
43. Kỳ tam: TỐNG ẤT PHÓ SỨ NGUYỄN HÒA KHANH/ TIỄN ẤT PHÓ SỨ NGUYỄN HÒA KHANH
Tinh thiều xuất sứ cổ kim vinh Cánh hữu hà tâm tị viễn hành Nguyên thấp tân ngâm nghi nhiễu đạo Văn chƣơng cựu thức đắc Hòa Khanh Xuân qua Sở trạch tuyết sơ tễ Nguyệt thƣợng Yên đài thi chính minh Khƣơng Tể Thanh phong can tải hậu Khán quân sƣu dật bổ hoa trình Đƣợc ngồi xe đi sứ xƣa nay là vẻ vang/ Lại có lòng nào mà tránh chuyến đi xa này/ Cần đi đƣờng vòng qua các cánh đồng thấp để làm bài thơ mới/ Bạn cũ văn chƣơng nhớ tới Hòa Khanh/ Đến mùa xuân qua đầm Sở tuyết vừa tạnh/ Dƣới trăng leo lên đài Yên Kinh, mùa thu sáng tỏ/ Tiếng tốt của quan Tể tƣớng Khƣơng Công Phụ còn đến ngàn năm sau/ Hãy xem ông tìm đƣợc chuyện hay góp vào hành trình đi sứ.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 714)
44. TỐNG PHAN TU SOẠN CHI THANH HÓA ĐỐC HỌC/ TIỄN TU SOẠN HỌ PHAN ĐI LÀM ĐỐC HỌC
Tƣờng khâm mô phạm chính nhu tài Danh túc thiên tòng ngọc thự lai Thang ấp hành văn nghi địa cận Đang cần ngƣời tài làm mô phạm nơi trƣờng học Tiếng tăm giỏi là từ trong Hàn lâm viện đƣa ra Làm quan dạy học ở Thanh Hóa, lại gần quê
PL160
Châu sơn giới tửu cập xuân khai Huy phân đƣờng ngạc tan môn khánh Hƣơng nhạ chi lan cựu thủ tài Hàn Uyển đƣơng niên ân bạt mộ Vị ƣng đồ phú Bắc sơn lai Tiệc rƣợu ở Châu sơn mở ra kịp mùa xuân Huy hoàng cho cả anh em, vui mừng cổng mới Ngào ngạt hoa chi hoa lan vốn đã trồng từ xƣa Ở Hàn lâm viện năm ấy đƣợc đề bạt muộn Chƣa muốn làm bài phú cỏ lai ở núi Bắc.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 715)
45. TỐNG TÂY BẮC QUÂN THỨ TÁN LÝ PHAN THUẤN CỬ / TIỄN PHAN THUẤN CỬ ĐI THAM TÁN QUÂN THỨ TÂY BẮC
Đức Giang ca vũ Xƣơng Giang phiếm Hồi thủ phong quan thập lục niên Hà sự nhĩ thu thanh dạ nguyệt Lệnh nhân ý kiếm bạch vân thiên Tặc tình hiểm dị đa thành kiến Nhung khổn trù mƣu phú độc hiền Vân tửu quá hà ƣng thống ẩm Tích du khƣớc tiễn Tổ Sinh tiên Xem ca múa trên Đức Giang, dạo thuyền trên Xƣơng Giang/ Ngoảnh lại đã mƣời sáu năm rồi/ Hà cớ gì mà trăng đêm thu rất trong/ Khiến ngƣời tựa kiếm ngắm trời mây trắng/ Tình hình giặc khó dễ thế nào phần nhiều đã rõ/ Việc trù liệu cơ mƣu của nhà tƣớng riêng anh đã đƣợc giao phó/ Qua sông cần phải uống rƣợu Vạn Vân/ Cuộc đi chơi ngày trƣớc trót đã hâm mộ ngón roi của Tổ Sinh rồi.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 718)
46. TỐNG ĐẶNG NHÃ SĨ VINH QUY/ TIỄN ĐẶNG NHÃ SĨ VINH QUY
Kinh sát luân khôi tân Nhã sĩ Tây Thanh trâm bút cựu tiên lang Kinh luân dị nhật danh tƣ phó Mộng mị đƣơng niên chí quả thƣờng Liêm trấn kính huyền thu nguyệt lãng Nam cung mai phóng tiểu xuân hƣơng Ân cần cửu bệ cầu hiền ý Kim khánh thanh huy ngự tứ chƣơng Kinh đô xét một vòng đứng đầu là nhã sĩ mới Ông là chàng Tiên thuở nào cài bút bên tai ở thƣ trai Tây Thanh Tài kinh luân ngày ấy chỉ nghĩ đến danh vị là phó Giấc mộng lúc ngủ say nay đƣợc báo đền Soi trƣớc kính đức ngay thẳng nhƣ ánh trăng thu Cung viện trời Nam hoa mai tiết tháng Mƣời tỏa hƣơng Trên chín bệ ân cần, chính là ý cầu hiền Vua ban tặng thơ và kim khánh rỡ ràng.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 726)
47. TỐNG BANG BIỆN THÀNH HÓA HUYỆN VỤ NGUYỄN THAI/ TIỄN BANG BIỆN THÀNH HÓA HUYỆN VỤ HỌ NGUYỄN
Từ quan năng dụng thế Đái ấn khƣớc quy sơn Thiên hóa chiêu tuần tƣợng Truyền thƣ khóa thục Man Cửu châu điền khả phú Tam động nguyệt nhƣng đoàn Hán đức nhƣ kim viễn Ban Sinh tảo nhập quan Lìa quan rồi lại đƣợc đời dùng Lại đeo ấn về núi Vận chuyển hàng hóa lại kêu gọi voi thuần Đem sách dạy cho ngƣời Man học Ruộng ở chín châu có thể thu thuế Trăng trên ba động lại tròn Đức độ của ngƣời Hán nay đã xa Ban Sinh lại sớm vào cửa ải.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 728)
PL161
48. TỐNG TỬ MẪN CHI HÀM THUẬN PHÚ KIÊM GIẢN PHAN ĐIỀN NÔNG TỬ ĐAN/ TIỄN TỬ MẪN ĐI LÀM TRI PHỦ HÀM THUẬN VÀ GỬI CHO QUAN ĐIỂN NÔNG PHAN TỬ ĐAN
Viêm phong nhất tịch khởi Nhiệt hái phục băng đào Tam lão bất thời lý Chu nhân hà thái lao Dao chiêm tỉ dực điểu Đông Tây an cố sào Cô hồng nguyệt hạ tƣờng Thanh ảnh hà tiêu tao Hô quần bất phẫn xí Sƣơng lộ thanh ngao ngao Hồi niệm phong ba tế An đắc thù lỗ cao Trung lƣu chấp đà giả Thành nguyện thẩm sở thao Thiên khách tam phan thƣợng Đăng lâu phú thu lao Tinh châu phi cố hƣơng Trƣớng nhiên cách lâm cao Tráng tâm toái ngọc hồ Trung tình minh bội đao Kích tiếp ngang hữu tu Hà quảng trực dung đao Thời gian chí sĩ phẫn Ngã bối phi bồng hao Một đêm gió mạnh dấy lên Biển nóng lại tuôn sóng cả Những ngƣời già cũng không lý giải đƣợc thời tiết Ngƣời trong thuyền nhọc mệt làm sao Xa ngắm chim liền cánh Khắp nơi yên tổ cũ Con chim hồng lẻ loi bay lƣợn dƣới trăng Bóng dáng sao lại tiêu tao Gọi bầy không ra sức sải cánh Tiếng kêu quang quác trong sƣơng đêm Nhớ lại cõi sóng gió Làm sao vững chèo và gàu Ngƣời cầm lái giữa dòng Chân thành muốn xét tài cầm giữ của mình Khách rời chuyến trên tam phan Lên lầu làm thơ uống rƣợu Tinh châu không phải là cố hƣơng Chợt buồn vì xa cách rừng suối Lòng hào tráng nhƣ bình ngọc vỡ Tấm tình trung trực khắc vào đao đeo Cần phải quẫy mái chèo lên Sông rộng có thể chứa thuyền Thời khó khăn, chí sĩ cố gắng Chúng ta đâu dám là ngƣời ẩn dật.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 741)
49. TỐNG NGUYỄN BIỆN LÝ TUÂN THÖC ĐI THANH HÓA HƢƠNG THÍ PHÓ CHỦ KHẢO/ TIỄN BIỆN LÝ NGUYỄN TUÂN THÖC ĐI THANH HÓA LÀM PHÓ CHỦ KHẢO THI HƢƠNG
Cách tƣờng văn mạt mã Y chẩm khƣớc lân huyền Bắc đình kim nhất lộ Cực mục thiết dân thiên Phong lạo tam thu tận Mai khai thập nguuyệt tiên Hành văn Bàng Lĩnh hạ Tá trợ đãi quy tiên Cách tƣờng nghe tiếng ngựa ăn cỏ Nƣơng vào gối, thƣơng ta hoa mắt Nay từ bắc trƣờng đình ra đi Trong tầm mắt, ngƣời dân lo cái ăn Bão lụt vào tháng Chín đã hết Mai đã nở sớm vào tháng Mƣời Chấm văn ở dƣới núi Bàng Mƣợn đũa đợi tiếng roi ngựa trở về.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 746)
PL162
50. TỐNG NGỤY PHIÊN THẢN CHI HỒI NGHỆ AN LỲ/ ĐƢA BỐ CHÍNH NGỤY THẢN CHI TRỞ VỀ TRẤN LỲ Ở NGHỆ AN
Lịch quốc nhãn trung tam thế giới Phù chu hải thƣợng bán kiền khôn Tức kim nhật sự vô Phán sứ Thị tích du nhân hữu Ngụy phiên Hán quận cổ quăng kiêm tứ triệu Ngô thành hoa thảo cựu thừa ân Thử hồi lƣợng phỉ ta hành dịch Trịnh trọng lâm kỳ tá tửu tôn Trải qua các nƣớc, trong mắt quan sát của mình có ba thế giới/ Đi tàu thuyền trên biển đã đƣợc phân nửa vòng trời đất rồi/ Trong việc hôm nay thì không còn Phan Thanh Giản nữa/ Khi trƣớc ngƣời đi Tây có ông Bố chính Ngụy Thản Chi/ Ông là bề tôi phụ tá của nƣớc Nam và đƣợc triệu vời đến/ Hoa cỏ thành Ngô đƣợc ân huệ nhƣ xƣa/ Quay về là để xem xét tình hình giặc phỉ, than ôi! lại phải đi làm việc quan/ Trịnh trọng dùng chén rƣợu đƣa tiễn lúc chia tay nhau.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 824)
51. TỐNG TÂN KHOA TIẾN SĨ VINH HỒI/ TIẾN TÂN KHOA TIẾN SĨ VINH QUY
KỲ NHẤT: TỐNG ĐÌNH NGUYÊN VŨ NHỰ HOÀNG GIÁP/ BÀI 1: TIỄN ĐÌNH NGUYÊN HOÀNG GIÁP VŨ NHỰ
Nam cung đồng luận tú Ngô tử độc suy nhiên Học thực anh hoa mậu Văn thành cốt cán kiên Vi ngôn truyền xạ sách Phƣơng ý diệu quy tiên Tƣơng vọng khởi đồ thử La quân tƣ tích hiền Nơi Nam cung cùng bàn luận về thí sinh ƣu tú Chỉ có một mình con của ta là sút kém Học thực tức là đào tạo những ngƣời tài hoa có đức hạnh Ông là ngƣời cốt cách vững vàng trong thành trì văn học Đã dùng lời tinh vi giải đáp bài sách vấn Ý thơm làm rực rỡ cái roi ngựa dùng để vinh quy Trông nhau há chi bấy nhiêu đó thôi Ông La nhớ đến những bậc hiền tài xƣa.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 836)
52. II. TỐNG DƢƠNG TIẾN SĨ/ TIỄN TIẾN SĨ HỌ DƢƠNG
Dƣơng liễu y y tử mạch xuân Lục bào nhất sắc diệu hồng trần Cửu cù ky mã khan hoa sứ Tối hữu xuân phong đắc ý nhân Khắc gia dụng dự cổ hà nhân Tài mẫn nhƣ quân bất cửu bần Đăng hạ Hán thƣ bôi tửu nhật Đỗ lang hà khiếm Tiểu Tần quân Cây dƣơng liễu dịu dàng tha thƣớt trên đƣờng màu tía Áo bào màu lục rực rỡ chói lọi trong bụi hồng Cƣỡi ngựa xem hoa ở con đƣờng thông chín ngả Ông là ngƣời có đƣợc cái xuân phong đắc ý Ngƣời nào nối nghiệp nhà để giữ đƣợc danh dự ngày xƣa Có tài thông minh nhƣ ông thì nghèo khó không lâu đâu Hằng ngày dƣới đèn có sách Hán thƣ và chén rƣợu Đỗ Phủ sao lại kém hơn Tiểu Tần quân.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 837)
53. III. TỐNG NGUYỄN TIẾN SĨ/ TIỄN TIẾN SĨ NGUYỄN VŨ
Công hầu ƣng phục thủy Tài tử xuất danh gia Trụ giám ký hữu nhân Thang ấp vi tăng hoa Công hầu phải trở lại từ đầu Bậc tài tử sản sinh từ gia đình danh tiếng Con cháu làm giám sinh đã có ngƣời rồi Đất Thang ấp đƣợc tăng phần vinh hoa
PL163
Tích dữ Tiều Am du Chí Đƣờng diệc đồng khoa Văn chƣơng hợp khí tiết Nhị giả quân bất ma Nguyễn lang kim vinh toàn Quang diệu đƣơng nhƣ hà Nhất bôi kiêm ức cựu Cao xƣớng hựu ly ca Thuở trƣớc cùng ông Tiều Am giao du Ông Chí Đƣờng cũng đồng một khoa Văn chƣơng hợp khí tiết Hai vị đều chẳng mòn Ông họ Nguyễn nay trở về vinh hiển Quang vinh rạng rỡ nhƣ thế nào Một chén rƣợu cùng nhớ lại xƣa Hát to lên đáp lại bằng bài hát cáo biệt.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 839)
54. TỐNG NGUYỄN PHÓ SỨ TUÂN THÚC CHI YÊN/ ĐƢA PHÓ SỨ NGUYỄN TUÂN THÖC ĐI YÊN KINH
Mỹ tú kim du Thúc Phó xa trì Giả quân Thập niên tu quốc tín Vạn lý tụng thi nhân Thủy nguyệt Kinh Nam dạ Hàn hƣơng Kế bắc xuân Chƣ phiên lƣơng địch hội Tƣ thái khởi từ tần Nay anh Tuân Thúc, ngƣời ƣu tú tài giỏi đã đi Anh họ Giá phó xa rong xe chạy Đã mƣời năm trau dồi quốc tín Là ngƣời đọc thơ ở xa muôn dặm Giữa trăng nƣớc trong đêm ở Kinh Nam Mùa xuân ở phía bắc huyện Kế có hƣơng hoa mai Các vị ở phiên trấn hội họp gặp mặt nhau Đã thăm hỏi và chọn lựa thì há lại từ chối mãi.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 846)
55. TỐNG QUẢNGYÊN NGUYỄN ÁN SÁT PHÓ LỲ/ ĐƢA QUAN ÁN SÁT QUẢNG YÊN HỌ NGUYỄN ĐỄN LỲ SỞ
Ô phủ khai Ninh hải Hùng biện khống Đại Thanh Dân thuần hy án độc Địa hiểm trƣợng can thành Bất sử thƣơng thông thị Hà do quốc túc binh Quân hầu tƣ kế thủ Tác quận khán dinh doanh Ty Án sát mở ở Ninh Hải Hùng cứ ở biên giới để khống chế nƣớc Đại Thanh Nhân dân thuần hậu rất ít hồ sơ về vụ án Đất hiểm trở thành binh khí dựa vào mà giữ thành Nếu không cho buôn bán thông đến các chợ búa Thì do đâu nƣớc nhà đủ quân binh Các vị coi giữ việc tính toán Cần ra quận để xem kinh doanh ra thế nào.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 847)
56. TỐNG BẮC BỘ NGUYỄN BIỆN LÝ HY PHẦN PHẢN KHÁNH HÒA/ ĐƢA BIỆN LÝ NGUYỄN HY PHẦN Ở BẮC BỘ TRỞ VỀ KHÁNH HÒA
Kinh khuyết trùng lai tuế thập xuân Bán sinh thƣ kiếm lão biên trần Nguyên Long hồ hải do hài khí A Sĩ văn chƣơng vị thiểu nhân Thu động viễn hoài ly hiểu xƣớng Trở lại một lần nữa cung khuyết của vua ở kinh đô thì đã mƣời xuân rồi/ Nửa đời theo Nho học với thƣ kiếm đã già giặn với gió bụi ở biên cƣơng/ Nguyên Long vẫy vùng nơi hồ hải vẫn còn hào khí/ A Sĩ còn theo thú văn chƣơng thì chƣa thiếu ngƣời/ Mùa thu động đến lòng khách ở xa
PL164
Nguyệt hàm sơ ảnh nhạn nam tân Tam phong khả ái nan trƣờng vãng Hƣơng quốc tình đa tỉnh thử thân
thì buổi sáng hát lên bài cáo biệt/ Trăng đã ngậm bóng thƣa, chim nhạn bay về nam làm khách ở đấy/ Ba ngọn núi mình khó đến đấy lâu đƣợc/ Có nhiều tâm tình đối với quê hƣơng hãy xét lại bản thân.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 848)
57. HỢP TỐNG TUÂN THÚC HY PHẦN/ TIỄN ĐƢA CHUNG HAI VỊ TUÂN THÚC VÀ HY PHẦN
Kính vũ kinh thu chí Hàm bôi tổ khách hành Nam thi khan Bắc Tống Nhân ngạn các thời danh Độ lĩnh tu hƣơng mộng Phi diêu lỳ quốc minh Vân mê huyền yến lộ Sƣơng thấp lữ hồng thanh Chi tử cánh vân viễn Hoài nhân không phục tình Hoàng hoa ƣng hữu ƣớc Chiết liễu lập giang thành Nghe mƣa rơi kinh hãi biết mùa thu đến Hớp chén rƣợu đƣa tiễn khách đi Thơ ở Nam xem Bắc Tống Kẻ sĩ tài hoa đều nổi danh một thời Đi qua ngọn núi phải nhờ giấc mộng về quê hƣơng Ruổi xe quan đến thề ƣớc việc giao hảo với nƣớc bạn Mây che làm lạc lối chim én bay Sƣơng mù làm rè tiếng kêu của đôi chim hồng Các ông từng trải việc đi xa Nhớ ngƣời chỉ đáp lại tình nghĩa suông mà thôi Phải có lời ƣớc hẹn về ẩn dật với hoa cúc vàng Bẻ cành liễu đứng bên thành ven sông mà đƣa tiễn nhau.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 849)
58. TÁI BỘ TIỀN VẬN TỐNG ẤT PHÓ SỨ HOÀNG GIAI CHI/ LẠI HỌA THEO VẦN BÀI THƠ TRƢỚC ĐƢA TIỄN ÔNG PHÓ SỨ THỨ HAI LÀ HOÀNG GIAI CHI
Nhiễu đạo vô phiền nghị khách niên Hoàng hoa nhất lộ nhã tài thiên Bái gia diễm dữ thừa diêu sứ Ấm chí tƣơng kỳ cách tuế thiên Kỳ sĩ giai nhân Yên địa mã Động Đình Hán Khẩu nguyệt thu thuyền Độc thƣ hoài cổ nam nhi sự Mạc yếm hành bôi tận thức diên
Đi đƣờng quanh co mà không có bàn nghị phiền phức gì năm qua/ Con đƣờng Hoàng hoa thanh nhã làm nên bài thơ đẹp/ Sứ giả đi xe vái tạ khi đƣợc ban điều đẹp đẽ/ Khi thành công thì uống rƣợu nơi miếu đƣờng và hẹn cách năm gặp nhau/ Cƣỡi ngựa ở đất Yên đều là hạng kỳ sĩ giai nhân cả/ Còn ở hồ Động Đình và Hán Khẩu chỉ có con thuyền dƣới trăng thu/ Đọc sách nhớ lại việc xƣa là việc của nam nhi/ Chớ chán nâng chén rƣợu để dùng hết bữa tiệc.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 851)
59. HỰU TỐNG TUÂN THÚC VỊ ĐỒNG BỘ NGHĨ/ LÀM THAY CHO CẢ BỘ, TIỄN ĐƢA TUÂN THÚC
Thập tải Yên đô vạn lý trình Biên phân tảo tịnh sứ diêu khinh Hoàng hoa chính lộ trừng thiên tiết Phó giới thanh tài xuất địa khanh Ngọc bạch uy nghi vƣơng hội mỹ Mƣời năm mới đi đến Yên đô với đƣờng dài muôn dặm/ Yên khí ở biên cƣơng đã bị quét sạch, xe của sứ giả chạy đi nhẹ nhàng / Con đƣờng chính đi sứ trong sáng vì có sao Thiên tiết tỏ rạng/ Viên phó sứ có tài cao vốn xuất phát từ bộ Hộ/ Ngọc lụa uy nghi Vƣơng hội đẹp/ Núi sông đƣợc vẽ
PL165
Sơn xuyên đồ vịnh thế gia thanh Phụng từ chi giác nhƣ kim trọng Thôi xãn thần chƣơng bổ Lộc minh
tranh đƣợc đề vịnh làm nên danh tiếng bậc thế gia/ Vâng theo lời căn dặn thì cảm thấy nhƣ hôm nay thật là quan trọng/ Văn chƣơng vua trong sáng bù vào thơ Lộc minh việc đãi yến bầy tôi.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 852)
60. VIỄN DU THIÊN TỐNG LIÊN HỒ LÊ THÚC TUNG CHÍNH SỨ KIÊM GIẢN NGUYỄN PHÓ SỨ/ BÀI VIỄN DU ĐƢA TIỄN CHÁNH SỨ LIÊN HỒ LÊ THÚC TUNG VÀ GỬI CHO PHÓ SỨ NGUYỄN TUÂN THÚC
Hƣơng Giang bạch lộ hoành tố thu Thiên không thủy viễn ngân hà lƣu Vạn hộc tân lƣơng tẩy tàn thự Du quan Bắc vọng khai song mâu Cao lâu tống biệt đƣơng thử tích Truyền bôi thính ngã ca viễn du Ngã Nam kiến quốc thùy vô cực Thế dữ Đại Thanh bang hảo tu Kỳ dƣ hoàn hải kháo sơn tuyệt vực chi địa Hoài chi kết chi quan viễn mƣu Khuất chỉ Yên đài thập dƣ nẫm Hoa trình vạn lý ủy phi du Chu lễ Hán nghi bất tại hối Kim nhân ngân khí phi sở cầu Phụng từ năng dĩ quốc trọng Thái phong vấn tục nhàn tƣ tu Ngô sơn Sở thủy nhƣ kim nhật Quý Tử Thân Tƣ phƣơng tích lƣu Yên ca Triệu vũ lạc hà cực Hoặc hữu kích trúc đồ cẩu thù Nham nham Thái Sơn Lỗ quốc viễn Sứ quân tâm bái trƣờng du du Giang hà nhật hạ đạo nhật táng Trƣờng Thành đông tiệm diên hải đầu Dƣơng phiên khuân chí thuật ích tứ Xứ thử hà đạo thiên do do Sứ quân thị hành phỉ lộ họa Hội đƣơng túng ý lăng cửu châu Tiền nhân ngũ đức khởi hƣ luận Vũ trụ chi đại phi nhất tƣu Ngã tích thừa phù đông nhập hải Dƣơng thành Tiên quán tham kỳ sƣu Hƣơng Giang sƣơng trắng xóa phủ ngang trong tiết thu/ Trời trống không, Ngân hà nƣớc chảy xa tít/ Muôn hộc khí mát lạnh đầu thu rửa khí nóng còn sót lại/ Mở hai mắt ra mà trông về phía Bắc Du quan/ Tống biệt nhau ở ngôi lầu cao trong đêm nay/ Chuyền chén rƣợu cho nhau uống mà nghe tôi hát bài Viễn du/ Nƣớc Nam ta dựng nƣớc truyền đến vô cùng/ Đời đời cùng nƣớc Đại Thanh giao hảo với nhau/ Những đất xa xôi quanh biển hay dựa núi còn lại/ Đất ở vùng ấy phải nhớ hợp lại vì quan hệ đến mƣu kế lâu dài/ Gập ngón tay lại mà tính ở Yên Đài hơn mƣời năm qua/ Đƣờng đi Trung Hoa muôn dặm chiếc xe chạy nhanh nhƣ bay/ Nghi lễ của nhà Chu nhà Hán không phải tiền của đáng quý/ Ngƣời bằng vàng và đồ dùng bằng bạc không phải là vật để tìm kiếm/ Vâng theo lời dạy lo lấy việc nƣớc làm trọng/ Hỏi hau chọn lấy phong tục và tìm hỏi việc chính trị / Núi Ngô sông Sở nhƣ hôm nay/ Dấu tích thơm tho của Quý Tử và Thân Tƣ còn lƣu lại/ Bài bát nƣớc Yên, điệu múa nƣớc Triệu thì sao mà vui thích đƣợc/ Có ngƣời đánh đàn Trúc hoặc làm thịt chó/ Sừng sững cao vút núi Thái Sơn nƣớc Lỗ xa xôi/ Lòng của ngƣời đi sứ rũ rƣợi âu sầu mãi/ Nƣớc sông ngòi ngày ngày chảy xuống, đạo lý ngày càng tiêu tán/ Nƣớc muối ngoài biển tràn vào phía đông Trƣờng Thành/ Ngƣời ngoại quốc đến từng đoàn với kỷ thuật càng tài giỏi/ Đạo của bọn chúng ở đây nhƣ thế nào mà chúng nghiêng về tự đắc/ Chuyến đi này của sứ giả chẳng vẽ lộ trình/ Thì nên theo ý vƣợt qua chín châu/ Năm đức của tiền nhân há là lời bình luận trống không/ Cái lớn lao của vũ trụ không phải là một góc xó nào/ Xƣa tôi thả bè đi về phƣơng Đông vƣợt biển cả/ Tham lam sƣu tầm điều kỳ lạ ở chỗ Tiên quan
PL166
Triệu Vũ nhất ngung khâu hác tiểu Đế toại tắc sứ phóng quan tam đại châu Phù diêu trực thƣợng cửu vạn lý Nam quá Xích hải Tây tuyết khâu Du đô lịch quốc khởi bách sổ Triêu phát tịch chí ngự khí dĩ vãng cùng luân chu Xích đạo chí quân tằng hạ mã Huyền tƣơng tẩy nhiệt khoan phiền ƣu Nhật nguyệt trắc chiếu địa dũ cao Nhân vật kỳ tịch vạn tƣợng u Bình lâu trùng ốc Đỗ Khang tửu Thiên hàn túy mạo Hƣơng Sơn cổn Sơn kinh Thủy kinh bất cập tải Nhất châu các nhƣợc tƣ phúc trù Nam kỳ băng nhau nghi sóc cực Mang mang ngân hải huyền lâm cầu Hứng lai thủ phất san hô chí Chiêu bằng tiếu thƣợng lăng vân cầu Phủ chúc hỏa sơn bắc lƣu thủy Tiên khu hà mã trì sƣ ngƣu Kỳ lân lai sam thanh bàn bàn Đại điểu chấn vũ phong liêu liêu Trắc thân đông vọng Côn Lôn khƣ Bất kiến ngũ tằng thập nhị lâu Huyền phố Dao trì điểu hà xứ Đống vân hồi tuyết sinh viễn sầu Bà La pháp môn cửu duy diệt Cố nhĩ gia đặc lực mạch đồ sự tranh chù thu Chí kim ma sa kình bối biên Kinh phiêu băng đào chỉ thƣợng phù Hải thƣợng kỳ quan cầm cựu mộng Bất cảm khinh hƣớng thôn ẩu trù Sứ quân phả xứng thiên hạ kỳ Thông kinh đạt biến hoài tráng du Phú chúng nhân suy hữu kỳ tối Xuất cƣơng chuyên đối nghi kiêm ƣu Tiên chinh triêu tịch tận thời ngạn Huống khả tƣơng tế tƣ đồng chu Dƣơng thành/ Gò, khe nhỏ là một góc giang sơn của Triệu Vũ Đế/ Vũ Đế bèn xuống sắc cho sứ giả đi xem xét ba đại châu/ Gió cuốn muôn dặm thẳng lên chín tầng mây/ Qua phía nam là Xích hải, phía tây gò tuyết/ Trải qua các kinh đô và các nƣớc há chỉ con số hàng trăm/ Sáng đi chiều đến, đi xe cƣỡi gió mà đến khắp cùng/ Vua ở vùng xích đạo đã từng xuống ngựa/ Lấy nƣớc tƣơng màu đen rửa khí nóng cho vơi bớt nỗi phiền ƣu/ Mặt trăng mặt trời soi ngang thì đất càng cao/ Nhân vật thì kỳ dị, muôn hình tƣợng thì tối tăm/ Lầu mái bằng, nhà nhiều tầng và rƣợu ngon Đỗ Khang/ Trời lạnh uống say mặc áo lông Hƣơng Sơn/ Sách Sơn kinh và Thủy kinh đều không chép đến/ Một châu đều nhƣ có bức màn phủ đậy riêng/ Phƣơng Nam với bờ băng nghĩ là vùng Bắc cực/ Biển trởi mênh mang nhƣ treo ngọc quý/ Hứng thú đến thì tay cầm sành san hô/ Vẫy gọi bằng hữu, tƣơi cƣời lên chiếc khinh khí cầu vƣợt từng mây/ Cúi xuống xem núi lửa và dòng nƣớc chảy về phƣơng Bắc/ Lấy roi quất con hà mã đang cƣỡi, sƣ tử và trâu chạy nhƣ bay/ Kỳ lân đến, nghe rộn rã nhƣ tiếng xe ba ngựa chạy/ Con chim to vỗ cánh, gió vù vù/ Nghiêng mình trông về phía đông gò núi Côn Lôn/ Không thấy mƣời hai ngôi lầu năm tầng/ Huyền phố Dao trì mênh mông ở chốn nào/ Mây lạnh tuyết về sinh mối sầu viễn xứ/ Bà La pháp môn từ lâu đã suy diệt mất rồi/ Trông thấy ông đang đi bộ qua ruộng lúa mạch, mọi ngƣời đua nhau cƣời cợt/ Đến nay họ sờ mó lƣng cá kình mà biên chép/ Gió to sóng dữ nổi lên trên mặt giấy/ Những kỳ quan trên biển thì tìm lại trong giấc mộng xƣa/ Không dám khinh suất toan tính với mụ nhà quê/ Sứ giả khá đáng là bậc kỳ tài trong thiên hạ/ Thông cả kinh sử, đạt cả quyền biến ôm giữ mƣu kế lớn lao/ Ban bố chính trị đƣợc ngƣời ta tôn trọng ngƣời ở kinh kỳ hơn hết/ Đi sứ đến lân bang đọc Kinh Thi bày tỏ ý của mình rất ƣu việt/ Ngƣời đi sứ xa xôi sớm tối lo phận sự của kẻ hào kiệt đƣơng thời/ Huống chi có thể giúp nhau cho xong công việc để cùng chung thuyền trở về/ Tham dự mà nghe, nhìn thấy thực chất hợp lẽ chính kỳ/ Săn lấy bọn chúng để cung ứng cho ngày đại lễ đi săn mùa xuân /
PL167
Khƣ khƣ giữ cái cũ thì lấp cửa, san bằng đƣờng nhỏ trong hốc núi/ Hãy làm rộng đƣờng của vua, mau đặt nhà trạm truyền thƣ tín/ Tiếng kêu của chim nhạn mới đến và của ve trong bụi cây râm mát/ Hãy uống nƣớc cho mát lòng, chuẩn bị xa giá tứ mã có ngựa tơ đen/ Ngày tháng trôi qua nhớ tới chuyến đi công tác xa xôi/ Hát lên khúc viễn du ở vệ đƣờng.
Tham văn chất kiến hợp kỳ chính Lạp thủ tha nhật cung đại sƣu Câu khƣ ngại môn bạt khê kính Bác ngã hoàng đạo tốc trí bƣu Sổ thanh tân nhạn lƣơng thụ thiền Thực băng chỉnh giá ly tứ câu Nhật cƣ nguyệt chƣ niệm hành dịch Trƣờng ca nhất khúc văn đạo chu (Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 854)
61. TỐNG HOÀNG THAM TÁN TRỌNG TÚ VÃNG THÁI NGUYÊN THẢO THANH PHỈ/ ĐƢA THAM TÁN HOÀNG TRỌNG TÖ ĐI THÁI NGUYÊN ĐÁNH PHỈ THANH
Biên viễn cùng nhi đạo Thanh nhân tức ngã nhân Vƣơng sƣ nghiêm thù ác Vũ đức tại an dân Trƣợng việt tham nhung khốn Điều quân thị kế thần Yếu khán trần viễn tái Thùy cảm hác đê lân Hán nguyệt loan cung kính Thu phong chiến mã thần Kỳ giang tam đạo hợp Tẩy giáp cập mai xuân Vùng biên giới xa xôi cùng tận bị cƣớp phá Ngƣời nhà Thanh liền với ngƣời nƣớc ta Quân của vua rất nghiêm khắc đối với tên giặc cầm đầu Cái đức của việc võ bị là an dân Cầm binh khí tham dự ở quân môn Điều động quân đội là kẻ mƣu thần Biên ải xa xôi đầy bụi trần cần xem xét Ai dám làm láng giềng nơi hang hốc thấp Giƣơng cung mạnh dƣới trăng nƣớc Hán Trong gió thu ngựa chiến đã thuần Sông Kỳ ba đạo quân hợp lại Rửa sạch giáp binh để đón mùa xuân đầy hoa mai nở.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 863)
62. TỐNG HOÀI ĐỨC NGUYỄN THÁI THÚ CHI LỲ/ ĐƢA THÁI THÖ HOÀI ĐỨC HỌ NGUYỄN ĐẾN NƠI TRẤN LỲ
Biệt hậu Tây Hồ tự Mai hoa duyệt thập xuân Nguyễn lang kim tác Thú Dịch sứ cập phƣơng thần Bàn ấp tài đào cựu Nùng sơn đắc nguyệt tân Phong lƣu nhân chính hạ Phủ tự tín cung thân Khóa lại thừa ân ác Duy quân phụng chức tuần Hán gia ân khuyết chính Ngu bệ thiết ƣu dân Tái Khuất ngƣu đao thí Kỳ Tô nhạn bảo quân Sau khi từ biệt nhau ở chùa Tây Hồ Hoa mai đã trải qua mƣời năm Anh Nguyễn nay làm chức Thái thú Dịch trạm đƣa đi lúc mùa xuân đầy hoa thơm Bàn ấp xƣa trồng cây đào Nùng sơn có trăng mới Đƣợc phong lƣu nhân lúc nhàn việc chính trị Chữ phủ dụ thì tin ở bản thân mình làm Việc quan lại đƣợc ơn vua nồng đƣợm Ông giữ chức theo pháp luật Nhà Hán (chỉ triều ta) nhiều chính sách không tốt Triều Ngu Thuấn tha thiết lo cho dân Lại thử dùng tài lớn của Khuất Nguyên Kỳ vọng Tô nhạn đều đƣợc quý báu nhƣ nhau
PL168
Hùng châu hoàn báo tối Hà thiểm bách đài nhân. Một châu hùng cƣờng báo tin về sớm nhất Thì sao còn thẹn với các quan ở đài Ngự sử.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 899)
63. TỐNG ĐỒNG BỘ ĐỖ THỨ KHANH QUY LÝ TÌNH TẢO BỘ LƢU GIẢN NGUYÊN VẬN/ TIỄN QUAN CÙNG BỘ ĐỖ THỨ KHANH VỀ QUÊ VIẾNG THĂM CHA MẸ VÀ TẢO MỘ, HỌA THEO NGUYÊN VẦN BÀI THƠ LƢU GIẢN
Đăng lâm trì tặng tá thanh phong Xuân thủy xuân sơn biệt tự trung Minh phát cựu hoài hân cảm tập Trí thân vi nguyện ái ƣu đồng Hùng quan chiêu hải hoa tranh phóng Bút lĩnh phê vân nhạn tảo thông Văn đạo Nam trung báo ngƣu suyển Tƣ nông ƣng vị vấn dân cùng Mƣợn gió mát cầm tờ đến tặng Nƣớc mùa xuân, núi mùa xuân, hằng nhớ trong tình ly biệt Ngày mai lên đƣờng, nỗi nhớ cũ, vui buồn xen lẫn Tiến thân, có ý nguyện nhỏ là cùng chia xẻ ái ƣu Ải hùng tráng chiếu ra biển, trăm hoa đua nhau nở Ngọn núi Bút chấm mây, tin nhạn sớm thông Nghe nói trong Nam nóng nực lắm, trâu phải thở hổn hển Vậy quan Tƣ nông phải hỏi nỗi cùng khổ của dân.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 917)
64. TỐNG TRẦN TÁN TƢƠNG TỬ MẪN BẮC PHẠT KIÊM HOÀI BẮC SỨ NGUYỄN TUÂN THÚC/ ĐƢA TÁN TƢƠNG TRẦN TỬ MẪN ĐI ĐÁNH GIẶC Ở BẮC KỲ VÀ NHỚ NGUYỄN TUÂN THÖC ĐANG ĐI SỨ TRUNG QUỐC
Cái nóng phiền phức vẫy gọi mùa hạ đi qua/ Gió mát gọi mùa thu đến sớm/ Nhớ tình ý ngƣời đƣa khách đến/ Hằng năm họp nhau ở đầu sông/ Năm qua ở quán bên sông tới đem hoa cúc / Ban đêm cùng với Trừng Giang đƣa tiễn Vân Lộc/ Năm nay dƣới ánh trăng ở Giang Thụ Sào/ Lại hát khúc đi xa của Trừng Giang/ Ngƣời xƣa nói: Làm sứ, làm tƣớng là khó/ Nay đem Tử Mẫn đi gặp Tuân Thúc/ Co ngón tay mà tính thì biết là xe của sứ giả ở biên ải trở về/ Binh mã đi đánh giặc ở Bắc Kỳ đang chạy mãi không nghỉ/ Say rƣợu nằm ở chiến trƣờng xem ngƣời bên cạnh cƣời/ Mau đến con đƣờng vinh hoa với hàng vạn bài thơ.
Phiền thử huy tồ hạ Lƣơng phong chiêu tảo thu Hoài nhân tống khách ý Niên niên tính lại bộ giang đầu Khứ niên giang quán lai ban cúc Dạ cộng Trừng Giang tống Vân Lộc Kim niên nguyệt hạ Giang Thụ Sào Cánh xƣớng Trừng Giang viễn hành khúc Cổ xƣng vi sứ vi tƣớng nan Kim tƣơng Tử Mẫn khán Tuân Thúc Khuất chỉ du hiên tái thƣợng quy Bắc chinh nhung mã chính phi phi Sa trƣờng túy khán bàng nhân tiếu Khoái để hoa trình vạn thủ thi (Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 927)
65. TỐNG TRỰC HỌC SĨ VŨ THÁI SỬ HỒI NINH BÌNH THƢƠNG BIỆN PHÒNG PHỦ (133416)/ĐƢA TRỰC HỌC SĨ VŨ THÁI SỨ TRỞ VỀ NINH BÌNH THƢƠNG LƢỢNG THU XẾP VIỆC PHÒNG BỊ VÀ VỖ YÊN NHÂN DÂN
Tối trọng thƣơng phòng, trọng phủ ma Giáp kỳ thử địa khống quan hà Trấp niên nghệ quán thù thƣ cửu Quan trọng nhất là lo liệu việc phòng bị và trọng việc vỗ về dân Vùng đất kế cận ấy khống chế cả quan ải và sông ngòi
PL169
Lƣỡng độ phần hƣơng trƣợng tiết qua Sự nghiệp thục ngôn Hàn Bạch thiểu Văn chƣơng cố thị Tiết Âu đa Tráng đồ cựu nhĩ hùng biên sách Tính nhập thu đăng tý dạ ca
Hai mƣơi năm lo sử sách ở Sử quán đã lâu Hai lần cầm cờ tiết trở về quê hƣơng Sự nghiệp ai bảo Hàn Tín và Bạch Khởi là ít Về văn chƣơng thì Tiết Đào và Âu Dƣơng Tu là nhiều Hùng dũng là kế sách giữ biên cƣơng có mƣu đồ từ lâu Hợp nhau dƣới ánh đèn mùa thu hát Tỵ dạ ca (lời ca rất buồn khổ).
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 929)
66. TỐNG PHAN TÔN BÁ TRÍ SĨ BỘ QUY HƢU CẢM TÁC NGUYÊN VẬN/ ĐƢA BÁC PHAN VỀ HƢU HỌA THEO NGUYÊN VẦN BÀI QUY HƢU CẢM TÁC
Sài sơn vân nguyệt cựu tùng âm Trú trƣợng du nhiên đắc thất lâm Tuế tự dĩ ƣng thành giả khứ Phƣơng chu thùy cộng tựu kỳ thâm Nam cung đào lý nhiêu xuân tại Bắc khuyết quân thiều nghiễm nhật lâm Thục thị dẫn nhàn năng tế mỹ Kỵ ân biệt hữu cổ hy ngâm Ở núi Thầy với mây trắng dƣới bóng mát của cây tùng xƣa/ Chống gậy đi xa nhớ lại cái lẽ đắc thất/ Theo thứ tự bốn mùa xoay chuyển, mùa nào xong rồi thì đi qua/ Dùng phƣơng hay chu ai cùng ta đi qua nơi nƣớc sâu/ Ở Nam cung hoa đào hoa lý rất dồi dào lúc đang xuân/ Ở cung khuyết phía bắc nhạc quân, thiều hằng ngày đều có/ Ai là ngƣời sống an nhàn mà thừa kế sự nghiệp của tổ tiên/ Ghi ơn của vua thì đã có lời ngâm cổ hy.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 980)
67. TỐNG NGUYỄN CHÍNH THÚC CHI NINH GIANG TRI PHỦ/ ĐƢA NGUYỄN CHÍNH THÚC DUY TỰ ĐI LÀM TRI PHỦ Ở NINH GIANG
Ninh thành ngũ mã sấn Nam huân Bả tửu trƣờng đình hựu tống quân Định giá vị đăng Hòa thị bích Liên tài đồ bảo dã nhân cần Nhị thiên lý ngoại hoàn châu bộ Lục thập niên tiền tỉnh thế phân Chí sĩ ly hoài đa khẳng khái Hùng đồ do họa Cửu chân vân Theo gió Nồm, ngũ mã đến thành Ninh Giang/ Đem rƣợu lại đƣa tiễn anh ở trƣờng đình/ Đã định giá mà chƣa vào hạng ngọc bích của Biên Hòa/ Thƣơng cho tài năng vẫn còn ô suông mớ rau cần nhƣ ngƣời nhà quê/ Đi ra ngoài hai ngàn dặm, rồi quay về châu bộ/ Việc đời từ 60 năm trƣớc, nay tỉnh ra thì thấy rối bời/ Lòng ly biệt của chí sĩ nhiều cảm khái/ Còn muốn vẽ xong bức đồ hùng tráng vùng Cửu châu xa xôi.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 982)
68. TỐNG NGUYỄN CHUYẾT AM HÀ NỘI THU THÍ PHÓ CHỦ KHẢO/ ĐƢA NGUYỄN CHUYẾT AM PHÓ CHỦ KHẢO KỲ THI HƢƠNG Ở HÀ NỘI
Phong sƣơng liễu dịch nhập Trùng dƣơng Đình Nhĩ hà biên cúc chính hoàng Hàn dạ tặng quân minh mục pháp Sổ bồn huề khứ tá trà hƣơng Vào tiết Trùng dƣơng nhà dịch trạm cây liễu đầy sƣơng gió/ Bên đê sông Nhĩ, hoa cúc đang nở vàng/ Đêm lạnh tặng ông phép làm sáng mắt/ Mấy bồn hoa cúc mang đi giúp thêm cho mùi hƣơng của trà.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 995)
PL170
69. PHÓNG CA TỐNG HY PHẦN HỒI QUẢNG NGHĨA LỲ/ HÁT TO ĐƢA ÔNG HY PHẦN TRỞ VỀ TỈNH LỲ QUẢNG NGÃI
Tử tiêu nhất khúc tấu vân ngao Khổng hạc tham loan lãng uyển cao Lâu dạ tứ canh thu đạp nguyệt Trì tây thiên tuế bích bạt đào Hầu môn mạn hữu sinh lan tiễn Hải ngạn thùy liên trục xú lao Văn đạo sơn trung giai uẩn thục Khả năng huề khoái cự công ngao Một hồi thanh la tấu lên vang động tầng mây Cƣỡi hạc cƣỡi loan lên chốn vƣờn đào tiên cao xa Canh tƣ ban đêm dạo chơi trên lầu đạp ánh trăng thu Ngàn năm ở ao nƣớc phía tây vin cành bích đào Nơi cửa công hầu hoa lan, tràn lan sống Nơi góc bể ai thƣơng ngƣời khổ sở vì trục xú Nghe nói trong núi có rƣợu dã ủ chín rất ngon Mình có thể đem gói và ba ba to ở biển đến nhậu chơi.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 995)
70. TỐNG CÔNG BỘ THỊ LANG NGUYỄN NHỤ PHU SỨ YÊN/ TIỄN QUAN THỊ LANG BỘ CÔNG NGUYỄN NHỤ PHU ĐI SỨ YÊN KINH
Vạn điệp hoang vân già bắc tái Đô Bàng cô trĩ viêm thiên ngoại Nghiêm Quan nhạn tín thập niên tiền Tam nẫm nhƣ kim tẩu tinh bái Yên sơn Sở thủy trở thả trƣờng Tứ lạc tƣơng thuộc dƣơng kỳ quang Mộc hoa quỳnh cửu trùng đầu báo Ngã dĩ lễ nhạc hoa y thƣờng Chi kim sóc tuyết thê phong lý Quý Môn quan ngoại do dĩ luy Phụng từ thâm chú xuất cƣờng nhân Yếu khan quảng Thái Thiên Sơn thỉ Thê trì Giang Thụ tiếu bàn san Hựu bả mai chi tống tuế hàn Thiên Hán phù tra Trƣơng Bác Vọng Quy lai ƣng chỉ nguyệt đoàn đoàn Nguồn tầng mây che phủ quan ải phía Bắc/ Ngọn Đô Bàng đứng trơ trọi ở phía ngoài cõi phƣơng Nam./ Mƣời năm trƣớc có tin nhạn đƣa về qua cửa Nghiêm Quan/ Đã ba năm nhƣ hôm nay cờ xí đã lƣớt qua/ Núi Yên sông Sở bị cách trở lâu dài/ Bốn con ngựa trắng bờm đen buộc vào phơi mình trong nắng/ Mộc qua quỳnh cửu cùng báo đáp/ Ta đã dùng lễ nhạc để mặc quần áo đẹp đẽ/ Nay gió lạnh tuyết rơi ở ngoài phƣơng Bắc/ Ngoài cửa Quỵ Môn còn những lũy sót lại/ Phụng mệnh rồi từ biệt nhau bằng những lời sâu xa mà ra biên cƣơng/ Cần nhìn rộng ra những gƣơng gieo mình ở núi Thái Sơn và chỉ để ở mũi tên ngoài Thiên Sơn/ Dạo chơi chầm chậm ở Giang Thụ Sào rồi cƣời nghiêng ngả/ Lại lấy cành mai đƣa sự lạnh rét trong năm đi/ Trƣơng Bác Vọng cƣỡi bè vƣợt Ngân Hán/ Quay trở về ƣng đƣợc chỉ vào vầng trăng đang độ tròn.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 1006)
71. BẠCH CÚC CA TỐNG GIÁP SỨ PHẠM HỐI THÚC/ KHÚC HÁT BẠCH CÖC ĐƢA TIỄN QUAN GIÁP SỨ PHẠM HỒI THÚC
Cố nhân ái cúc trung tình chung Lâm hành di ngã bạch linh lung Tảo mai song tiền ám hƣơng độc Khiết lai sƣơng kiệt bạn huyền đông Nguyệt hạ hàn thủy trán tố hiệt Ly biên hạc xƣởng dao thanh phong Xan anh khả dĩ y đồi dung Bạn cũ yêu hoa cúc với lòng thành chung tụ/ Lúc ra đi tặng cho ta hoa bạch cúc lung linh/ Hoa mai nở sớm ở trƣớc cửa sổ một mình tỏa mùi thơm thanh tân/ Sƣơng nhiều qua lại kết hợp với khí lạnh mùa đông của miền Bắc/ Dƣới ánh trăng vũng nƣớc lạnh nhƣ bức lụa trắng có vân rách rã/ Bên giậu lông chim hạc dao động theo làn gió mát/ Ăn hoa rụng có thể trị đƣợc dung mạo suy yếu/
PL171
Ngã cửu dục tầm Bành Trạch du Giai hứng liên tử Phàn Xuyên đồng Yên hành vạn lý tùng thử thủy Thái phong quan vật tƣơng yên trung Bạch tuyết chi bạch khán thùy công Đã lâu ta muốn dạo chơi để tìm Bành Trạch/ Lúc có hứng thú mình cũng làm thơ thƣơng dân nhƣ ông Phàn Xuyên/ Đi sang nƣớc Yên muôn dặm bắt đầu từ đây/ Chọn nhân vật xem phong thái thì sẽ thấy đƣợc đáy lòng họ/ Bạch tuyết chi bạch xem ai khéo.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 1008)
72. THUỘC BỘ NGUYỄN LANG TRUNG PHÓ HÀ TĨNH QUẢN ĐẠO CAO LY TIÊN TỐNG CHI/ NGUYỄN BA LANG TRUNG THUỘC BỘ, ĐI NHẬM CHỨC QUẢN ĐẠO HÀ TĨNH, VIẾT THƠ TRÊN GIẤY CAO LY ĐỂ TIỄN
Vân Lâm di nga Tam Hàn chi Yên tuyết huề quy vạn lý trình Lãm vât bất câm động thi hứng Tri quân khởi đại độc thƣ sinh Hoành sơn vũ lạo hành khan tận Nhƣợng hải phong ba cận dĩ bình Binh thực nhất phƣơng hảo kinh tế Bách phiên na yếm tả hƣu thinh Vân Lâm đã tặng ta thứ giấy Tam Hàn Cao Ly/ Từ vùng tuyết phủ nƣớc Yên đƣờng xa muôn dặm đem về/ Cầm lấy vật không thể tự chế, động niềm thi hứng/ Biết ông là bậc đại nhân thích đọc thơ/ Mƣa lũ ở Hoành Sơn mình đi xem hết/ Sóng gió ở Nhƣơng Hải gần đây đã yên/ Lƣơng thực của binh sĩ ở một phƣơng phải khéo về kinh tế mà lo liệu/ Một trăm tờ giấy nào chán chép những tin tức tốt lành.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 1014)
73. TỐNG ĐINH CHƢỞNG ẤN PHÓ THANH HÓA ÁN SÁT/ ĐƢA QUAN CHƢỞNG ẤN ĐINH VĂN BÂN ĐI NHẬM CHỨC ÁN SÁT THANH HÓA
Kim Sơn thiên hạ thẳng Địch tại Hạc thành tây Chuyết bệnh tằng thao thiết Vân yên ức phẩm đề Đáo lai xuân hữu cƣớc Mạc yếm tửu trùng huề Án tục quan phong ý Khán quân trọng lễ tề Kim Sơn là thắng cảnh trong thiên hạ Xa xôi ở phía tây Hạc thành Vụng về và bệnh hoạn mình không đánh mà lại đƣợc Mây khói khiến mình nhớ đến việc bình phẩm xƣa Đến đây thì mùa xuân còn cảnh sắc Chớ chán rƣợu lại đem theo Với ý xét tục lệ, xem phong thái Thấy ông trọng lễ đầy đủ.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 1015)
74. TỐNG ĐỖ BIỆN LÝ HOÀN QUẢNG NGÃI LÃNH TĨNH MAN TIỄU PHỦ SỨ BỘ TRẦN HỌC SĨ VỌNG NGHI NGUYÊN VẬN/ TIỄN QUAN BIỆN LÝ HỌ ĐỖ ĐI QUẢNG NGÃI LÃNH CHỨC TĨNH MẠN TIỄU PHỦ SỨ, LÀM THEO NGUYÊN VẦN CỦA QUAN HỌC SĨ TRẦN VỌNG NGHI
Trƣờng ca bất tận cố nhân tình Tạp tải bi hoan đội lý hành Hứa quốc vị thƣờng ƣu lão chí Hoàn sơn dung dị tấu công thành Chinh Tây lũy tại sao yên viễn Tình cố nhân là bài ca bất tận/ Buồn vui ba mƣơi năm từng trải với nhau/ Vì nƣớc chƣa từng lo già lão/ Thật dung dị, khi từ núi quay về tâu việc thành công/ Chinh chiến ở lũy phía Tây thấy làn khói xa của bọn hèn mọn/ Trấn giữ phía Bắc thấy trăng sáng chiếu đền cao ở bãi cát
PL172
bồi/ Vui vì đƣợc thay ngƣời nhƣng tình sâu nặng lƣu luyến rời không nỡ/ Cửa Ngô đứng ngóng hƣớng về ai.
Trần Bắc từ cao chử nguyệt minh Vi hỉ thế nhân thâm tích biệt Ngô môn chiêm trữ hƣớng thùy khinh (Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 1039)
75. TỐNG TRẦN VỌNG NGHI HỌC SĨ NHƢ ĐÔNG/ TIỄN HỌC SĨ TRẦN VỌNG NGHI ĐI QUẢNG ĐÔNG
Quan tiên nhà ngọc làm bài phú Đông hành/ Nhớ ngày xƣa tiễn ngƣời đi xa dằng dặc/ Hai chục năm qua trăng thu vẫn còn sáng/ Ba ngàn dặm đƣờng thủy, mây biển bình lặng/ Châu Giang hỏi bạn mình thuở ban đầu làm khách/ Mùi hƣơng trên đỉnh núi cao hòa vào mây, lâu rồi nghỉ việc binh/ Xét ý nên ghi tấm lòng hoài cổ với ba thành/ Hán Cung Từ khúc sẽ nhận ra âm thanh mới.
Ngọc đƣờng tiên lại phú Đông hành Ức tích du nhiên tống viễn tình Nhị thập niên quang thu nguyệt tại Tam thiên thủy lộ hải vân bình Châu giang phỏng hữu sơ vi khách Hƣơng kiệu hòa nhung cửu yển binh Tỉnh ký tam thành hoài cố ý Hán cung từ khúc nhận tân thinh (Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 1051)
76. GIANG THỤ SÀO VÃN TẬP TỊCH BÃI CA DĨ TỐNG KHÁCH/ HỌP NHAU Ở GIANG THỤ SÀO, TIỆC XONG VỀ, LÀM BÀI CA TIỄN KHÁCH
Sau khóm tre, phòng đọc sách ở Giang Thụ in xuống làn nƣớc biếc/ Ở bờ sông, xe ngựa kiệt sức để leo lên đây/ Phô trƣơng vẻ đẹp, sử Hán đã làm giật mình ngƣời nghe/ Sách phong thủy của Quách Phác đã thu hút lòng hiếu cổ/ Soi gƣơng ở đài cao, chim thƣớc múa/ Đánh cờ trong rèm lặng, mây nƣớc Sở xuống dần/ Tiếng bạn chài ca nho nhỏ, nối tiếp khúc Ly ca/ Nhìn hoa đèn, biết sẽ có tin tốt.
Trúc lý thƣ Sào phủ bích tầm Giang can xa mã khuất đăng lâm Trƣơng hoa sử Hán kinh nhân nhĩ Quách Phác đồ kinh cấp cổ tâm Chiếu kính đài cao tiên thƣớc vũ Đàm kỳ liêm tịnh Sở vân trầm Ngƣ ca tế tục ly ca khúc Hoa ảnh đăng tiền trữ hảo âm (Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 1062)
77. TỐNG NGUYỄN THỊ LANG HỮU TRANG NHƢ ĐÔNG/ TIỄN QUAN THỊ LANG NGUYỄN HỮU TRANG ĐI QUẢNG ĐÔNG
Mục tống quân hành ngô dục Đông An năng uất uất trƣớng Tây phong Thừa cơ ngự khí cuồng lan thƣợng Đắc thú quan thiên tích thủy trung Trà Öc sơn hồi Diên Chủy hiểm Linh dƣơng phàm chi Hổ Môn thông Tráng du hảo bạn mai nham khách Kinh bối thanh hàm tải nguyệt đồng Đƣa mắt tiễn ông tôi cũng muốn đi Quảng Đông Sao có thể uất kết buồn bã do gió Tây gây ra Hãy lừa dịp mà chống lại cơn sóng cả cuồng loạn Mới đƣợc thú xem thiên tích thủy trung Trà Úc núi chạy vòng Diên Chùy (mỏ diều) hiểm Mƣa trên biển giúp cho thuyền đi thông suốt đến Hổ Môn Chuyến đi này hãy làm bạn với hoa mai trên núi đá Trên lƣng con cá voi, hãy ngâm vang cùng chờ ánh trăng.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 1069)
78. TỐNG NHƢ THANH SỨ BỘ/ TIỄN SỨ BỘ ĐI THANH
Bài 1
Hiên xa tài quá Hải Vân loan Thúc tác nam viên bắc triệt quan Xe nhỏ vừa qua vịnh Hải Vân Càng xe đang ở phía nam chợt gấp ngƣợc quay vòng về phía bắc
PL173
Vạn lý bất đồng thiên lý cận Tam nhân đắc thử nhất nhân nam Y thƣờng lễ nhạc nhiêu phong độ Lam thủy Hồng sơn tiếp vũ hàn Văn đạo sứ quân nhàn kiếm thuật Tỉ lai biên sự tá hào đoan Vạn lý bất đồng gần thiên lý Tam nhân chọn đƣợc một ngƣời này Lễ nhạc áo xiêm phong độ đủ cả Núi Hồng sông Lam tiếp đƣợc lông cánh Sứ quân nghe nói rành kiếm thuật Ví nhƣ đến biên giới thì hãy mƣợn đầu ngọn bút.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 1075)
79. Bài 2
Nhất đạo thừa tuyên lại Hà đa xuất sứ tài Tây phù tra thả nghĩ Bắc thƣợng tiết tùy khai Giáp ất ƣu khoa tuyển Trinh thành trƣợng vãng hồi Xuân phong ƣng tái ƣớc Ba liễu độ giang lai Làm quan một đạo thừa tuyên Sao mà lắm ngƣời đi sứ tài thế Bè nổi ở phía Tây, thuyền tạm làm Thẳng hƣớng Bắc, cờ tiết mở Trong khoa thi đƣợc tuyển hạng ƣu bảng Giáp Ất Thành thật giữ lòng trung trinh của bậc trƣợng phu lúc trở về Lại hẹn ƣớc với gió xuân Hoa liễu lại qua sông trở về.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 1075)
80. Bài 3
Ngũ niên thông tín sứ Tam giới phủ hoàng hoa Độ Lĩnh xuân phƣơng tễ Từ Yên tuyết thủy hoa Quan tâm kê sƣ tiết Lâm uế ẩn biên già Thụ mệnh hoàn kim nhật Nhân khan giá Phó xa Năm năm thông việc đi sứ Ba lần làm phú về chuyện đi sứ Mấy độ xuân tạnh ráo về trên núi Lĩnh Nam Từ biệt Yên Kinh, tuyết bắt đầu rơi Cửa quan sâu, tƣớng lƣu lại để xem xét Bên rừng mồm ẩn trong kèn lá cuốn Nay ngày đi nhận mệnh Mọi ngƣời xem giá trị của Phó sứ đây.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 1076)
81. TỐNG NGUYỄN BIÊN TU DIỆU THÖC QUÝNH TRÍ SĨ/ TIỄN BIÊN TU DIỆU THÚC NGUYỄN QUÝNH VỀ TRÍ SĨ
Nam tận Hà Âm bắc tái đầu Diệc tằng kinh để lịch danh châu Tuyết nen tẫn hào lƣu hồng tích Trần lộ hà dung thất mã ƣu Biệt tửu ba đào ca ký ngạn Lao nhân chu tiếp thƣợng trung lƣu Đức lân thặng hữu Tu Trai lão Kỳ trƣợng thanh du úy khuyến thù Phía Nam thì tận huyện Hà Âm, phía Bắc là đầu biên ải/ Đã từng ở dinh phủ quan to tại kinh đô và từng nổi tiếng ở các châu/ Dấu vết đẹp của chim hồng đã đƣợc lƣu giữ ở trong bùn, tuyết/ Đƣờng trần há sao phải lo chuyện Tái ông thất mã/ Giữa sông nâng chén rƣợu ly biệt, lời ca đã đến bờ/ Nhọc ngƣời chèo chống, vẫn ở giữa dòng/ Hàng xóm đức độ vẫn còn ông lão Tu Trai/ Ghế và gậy đi chơi thanh khiết, an ủi khuyên nâng chén.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 1079)
PL174
82. TỐNG VŨ TẾ TỬU HOÀNG TRUNG ĐẮC GIẢ QUY LÝ/ TIỄN QUAN TẾ TỬU VŨ HOÀNG TRUNG ĐƢỢC NGHỈ VỀ QUÊ
Nhị thập niên tiền Việt Hải du Trùng phùng kinh quốc ký tinh chu Tính tình đạm ái nhân nhƣ cúc Phong vật hồi khan tuế cập thu Nhất hác nhàn tầm Dƣơng Tử lý Ngũ hồ nghỉ tựu Phạm quân chu Tƣơng liên hà vật kham tƣơng tống Minh nguyệt tƣơng tƣ Nhĩ thủy đầu
Hai mƣơi năm trƣớc cuộc du chơi ở Việt Hải Trùng phùng ở kinh quốc đã mấy vòng sao rồi Tính tình đạm bạc yêu ngƣời nhƣ yêu hoa cúc Phong vật ngoảnh lại nhìn đã thấy vào tiết thu Có chút nhàn đi tìm góc làng Dƣơng Tử Con thuyền ông Phạm Lãi dạo ở Ngũ hồ chơi Thƣơng nhau đâu biết lấy món gì mà tiễn biệt Chợt nhớ lúc trăng sáng ở đầu sông Nhị. (Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 1086)
83. TỐNG LẠI BỘ DƢƠNG LANG TRUNG QUẢNG NAM ÁN SÁT/ TIỄN LANG TRUNG BỘ LẠI DƢƠNG KHUÊ ĐI LÃNH CHỨC ÁN SÁT QUẢNG NAM
Tả phụ trùng môn hiểm Danh châu địa chí hùng Vùng Tả trực cửa hiểm trập trùng Châu nổi tiếng này là đất chí hùng
Giang sơn căng tuấn bạt Dân vật tích phồn phong Thƣơng tiếc cho giang sơn hùng vĩ bị chiếm đóng Dân vật nơi đây ngày xƣa thịnh
Án tục quan vi chính Khâm hình quý chiết trung Chiếu theo phong tục liên quan đến chính trị Hình pháp quý ở chỗ chiết trung
Ô đài kinh học tại Đan ỵ ngoại thần chung Phấn thự tân hàm mệnh Nơi dinh quan Án sát, kinh học vẫn còn Ở ngoài bầy tôi luôn giữ tấm lòng đỏ nhƣ son Nơi công thự, vừa mới nhận mệnh vua
Du hiên mậu sƣởng phong Tảo khan điêu sái khởi Xe đi nơi tốt đẹp, rƣợu nếp thơm trong gió Sớm ra xem thấy những ngƣời tàn tạ vì bệnh đã vƣơn dậy
Hành (sơn) Điện (giang) mục xuân dung Sông Điện núi Hàn tƣơi đẹp vẻ mùa xuân.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 1087)
84. TỐNG BẢN TỈNH TRẦN PHỦ VIỆN PHÓ LỲ/ TIỄN QUAN TUẦN PHỦ HỌ TRẦN TỈNH TA ĐẾN LỲ SỞ
Hạp quân kinh thời hạn Cận truyền thƣơng dã lâm Toàn quận đang trải qua thời kỳ nắng hạn Gần đây thấy truyền rằng đƣợc cơn mƣa đầy đồng
Tam xuân quần vật lạc Nhất lộ phúc tinh lâm Ba xuân vạn vật ở quận đều vui Một đƣờng phúc tinh tới
Phiên hàn tƣ hình thắng Hoài nhu quảng đức âm Quan phiên hàn đã lo nghĩ về hình thắng Tấm lòng hoài nhu đã mở rộng tiếng đức độ
Lý phiền tƣ tịnh trấn Dục Thúy tục thanh ngâm Tài cai trị nơi phiền kịch đã giúp cho ngài cai trị yên tĩnh Tiếng ca ngợi khen ở Dục Thúy sẽ đƣợc tiếp nối.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 1091)
PL175
85. TỐNG ĐÔNG TỈNH NGUYỄN ĐỨC HỌC CHÍNH THỈNH GIÁ QUY LÝ/ ĐƢA QUAN HỌC CHÍNH TỈNH HẢI DƢƠNG NGUYỄN ĐỨC HỌC XIN NGHỈ VỀ LÀNG
Viễn khách hạp ngôn quy Quân hồ phú thức vi Hoành kinh đàm cựu nghiệp Chấn đạc toại sơ y Huống dĩ châu lữ vọng Cửu vi đồng quan y Lãnh quan sai túc lạc Lão kế vị toàn phi Thái dƣợc niệm đa bệnh Phạt đàn lƣơng úy ky Thúc hồi Hàm chử trạo Cam xuyết hiệp sơn vi Khởi bất hoài phân duệ Kỳ nhƣ tảo kiến ky Hải ngung canh tuế thƣợc Thƣơng lộ tức nhung ky Tân quán tiềm chiên viễn Sơn từ thái phụng phi Sĩ tƣ danh tiết mỹ Dân ký đạo ngƣ phì Thích quán đình sâm cữu Đàm phong khái nhật hy Tống quân hốt nam vọng Giang Thụ ức sài phi Khách ở xa cùng nói trở về Ông sao lại trần bày thơ Thức vi Cầm sách nói sự nghiệp xƣa Đánh chuông lên mà dạy học cũng thỏa thích lúc áo vải Huống chi trông về châu về làng Từ lâu đã đƣợc con trẻ và ngƣời lớn dựa vào Quan chức thanh nhàn cũng đủ vui Kế về già thì chƣa phải là hoàn toàn sai trái Hái thuốc nhớ mình nhiều bệnh Đọc thơ Phạt đàn thì thật sợ bị chê trách Chợt chèo trở về Hàm Chử Cam lòng nhặt lấy rau vi trên núi Há không nhớ lúc chia tay nhau Nhƣ sớm thấy đƣợc cơ vi Ở nơi góc biển sắp bƣớc sang năm mới Mở đƣờng buôn bán thì dứt việc chiến tranh Nơi quán xá ở bến sông, cá chiên lặn đi xa Chỗ đền thờ trên núi chim phụng rực rỡ màu sắc bay đi Kẻ sĩ nghĩ đến danh dự tiết tháo mình đƣợc đẹp đẽ Nhân dân thì mong đƣợc gạo ngon và cá béo Đến quán xá dừng xe ngựa lại lâu Phong thái đàm luận hiếm khi phấn khích Tiễn ông chợt trông về Nam Nhớ lại tấm cửa bằng gai ở Giang Thụ Sào.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 1111)
86. TỐNG KIÊM THẢO BÙI PHÁC NGHĨA HƢNG TRI PHỦ/ TIỄN QUAN KIỂM THẢO BÙI PHÁC TRI PHỦ NGHĨA HƢNG
Hải bang cầu mạc tá Vị ngã trợ tiền trù Nhu viễn chân trƣờng sách An dân khởi hậu mƣu Phan quân ký đông vãng Bùi tử diệc nam du Chính bản thi trung đạt Danh phi tính ngoại cầu Hàm Giang liên phiếm hạ Vị chử nguyệt hoành thu Nơi cõi biển tìm ngƣời phụ tá Giúp ta lo việc trù tính trƣớc Nhu viễn thật là chính sách hay An dân há là mƣu kế sau Ông họ Phan đã đi về vùng phía đông Ông họ Bùi cũng đi về vùng phía nam Chính trị vốn thành đạt theo nhƣ trong Kinh Thi Danh tiếng không phải cầu ở ngoài tính tình Hàm Giang hoa sen nổi về mùa hè Bãi sông Vị trăng mọc ngang vào mùa thu
PL176
Bôi tửu lƣơng phong ý Bằng nhân tả uất du Ý tình trong chén rƣợu gió mát Ngƣời nhờ đó mà tuôn nỗi sầu uất trong lòng.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 1114)
87. KHÂM PHÁI VŨ THỊ LANG ĐỂ TỈNH TIẾT NHẬT ĐỒNG THÀNH NHÃ TẬP THOẠI CỰU TƢƠNG HÀNH THƢ CHUYẾT LUẬT PHỤNG TIỄN/ QUAN THỊ LANG HỌ VŨ ĐƢỢC KHÂM PHÁI ĐẾN TỈNH. NGÀY TẾT, CÁC BẠN CÙNG THÀNH GẶP GỠ NÓI CHUYỆN CŨ, LÖC SẮP ĐI, TÔI LÀM BÀI THƠ LUẬT VỤNG KÍNH TIỄN
Thập niên kinh quốc bản tào khanh Hải tỉnh phiên nhiên phú viễn hành Quý vị dị hƣơng minh dị chính Hỵ thâm đồng bộ tập đồng thành Hòa trung ký hữu tân văn mỹ Đối khách thiên đa cựu vũ tình Tiền lộ khả kham đƣơng chiết liễu Hàm thành lạo tận lạp mai thanh Mƣời năm làm quan Bản tào ở kinh đô/ Tỉnh ven biển chợt có sự thay đổi, nên đƣợc cho đi xa/ Thẹn mình chƣa đến địa phƣơng lạ mà đã bày tỏ chủ trƣơng chính/ Mừng các bạn làm chung một Bộ nay tụ tập cùng thành phố/ Hòa nhã giúp đỡ nhau thì có thể nghe đƣợc những điều tốt đẹp/ Đối với khách, không ngờ tình bạn cũ lại nhiều/ Đoạn đƣờng trƣớc mắt gian khổ, đáng cho mình bẻ cành liễu tiễn nhau/ Ở Hàm Thành mƣa lụt đã dứt, hoa mai tháng Chạp rất thanh nhã.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 1115) 88. TỐNG NGUYỄN ÁN SÁT GIÁNG ĐIỀU HỒI KINH/ ĐƢA QUAN ÁN SÁT HỌ NGUYỄN BỊ GIÁNG CHỨC ĐIỀU VỀ KINH Tạc dạ văn quân hốt tả thiên Thử tình tƣơng lƣợng cánh tƣơng liên Gia lâm ba phát đào thành huyện Hàm Chử lƣu thanh nguyệt mãn xuyên Án tục nhân ca liêm trấn bạc Thủ quan tụ tín trái đài thiên Bồ thƣơng bất tật lâm kỳ ý Niểu niểu hà ƣơng sứ viện tiền Đêm qua nghe tin anh bỗng bị giáng chức Tình này thì cùng lƣợng thứ, lại cùng thƣơng xót nhau Ở Gia Lâm hoa nở tốt tƣơi thành cả một huyện đào Ở Hàm Chử, nƣớc chảy trong veo, ánh trăng đầy cả sông Theo tục lệ, ngƣời ta ca ngợi ngôi nhà lá của quan Án sát sứ Quan trấn thủ tin mình chắc mắc nợ chồng chất với trời Chén rƣợu xƣơng bồ không tỏ hết lòng mình lúc chia tay nhau Ngào ngạt hƣơng sen đƣa trƣớc viện Án sát sứ.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 1130) 89. TIỄN THƢƠNG CHÍNH CHÍNH QUẢN LÝ PHAN THÚC THANH/ TIỄN QUAN QUẢN LÝ THƢƠNG CHÍNH PHAN THÖC THANH Tam niên đông quận khuất tùng du Phân cục chung năng hiệp tá trù Lãng bạc phong phàm kim bắc địa Tuyết sơn Hồng Hải cựu Tây phù Dƣơng tình nhật thục ƣu dƣơng vụ Quốc khóa niên tăng thị quốc mƣu Lƣơng nguyệt tống quân cộng tâm chiếu Hoàng ân gia học tại vi du
Ba năm ở đông quận chịu khuất chí để cùng đi với nhau/ Phân cục cuối cùng có thể mƣu tính đƣợc việc giúp đỡ mƣợn nhờ/ Lƣớt sóng căng buồm nay ông đến đất Bắc/ Tuyết sơn, Hồng Hải ông đã trông thấy trong cuộc đi Tây xƣa/ Ông ngày thêm hiểu tình hình ngƣời Tây và làm tốt việc quan hệ với họ/ Thuế khóa quốc gia hằng năm tăng thêm là mƣu kế của nƣớc nhà/ Dƣới trăng thanh tiễn ông, lòng cùng hiểu mặc dù không nói ra/ Ơn vua và học nghiệp của gia đình là kế sách phải noi theo. (Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 1131)
PL177
90. TỐNG NGHĨA HƢNG TRI PHỦ LÊ BẮC THỨ TÁN TƢƠNG/ TIỄN QUAN TRI PHỦ NGHĨA HƢNG LÊ THANH THẬN ĐI LÀM TÁN TƢƠNG Ở QUÂN THỨ BẮC NINH
Phong hỏa hà lai cổ Lạng thành Quỵ Môn quan ngoại hựu nghiêm doanh Thái châu nghịch phỉ phƣơng cầu thủ Khâm động cuồng phu cảm trở binh Súy mạc cận truyền tam tiệp chí Quân tƣ công trữ nhất tâm thành Thê phong sóc tuyết lân phu hƣớng Hề chỉ thƣơng manh khánh đãng bình
Lừa cáo cấp sao lại đến ngôi thành xƣa Lạng Sơn/ Ngoài Quỵ Môn, quan lại có quân doanh nghiêm ngặt/ Ở châu Thái Nguyên, giặc cƣớp vừa xin hàng phục vỗ yên/ Ở Khâm Động, bọn điên cuồng dám đâu ngăn trở việc binh/ Trong trƣớng của quan Súy gần đây tin truyền ba lần thắng trận/ Công lao chất chứa, một lòng lo thành mƣu lƣợc quân cơ/ Gió lạnh và tuyết rơi đất Bắc, càng thƣơng xót cho dân phu tải lƣơng/ Đâu chỉ có dân buôn bán mới mừng việc dẹp yên quân giặc.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 1138)
91. KÝ YÊN SỨ CHÍNH HÀNH GIỚI BÙI THỊ LANG THIỀU THỨ/ GỬI QUAN THỊ LANG CHÁNH SỨ HỌ BÙI LÖC LÊN XE ĐI SỨ YÊN KINH
Vạn lý tu từ cận giới tân Hoàng hoa chính thuộc tụng thi nhân Cố hƣơng khâu hác thu sơ nguyệt Thƣợng quốc y thƣờng tuyết hậu xuân Cử vũ khƣớc tùng thƣơng lộ tẩu Thái phong minh hƣớng lộ bàng tuân Hàm giang bệnh khách nam chi tứ Thái cúc trì quân Giang Thụ tân
Ngàn dặm sửa sang lời nói trong lần đi chầu thiên tử mới này/ Chính là lúc ngƣời đang ngâm thơ Hoàng Hoa/ Cố hƣơng, nơi gò rãnh trăng thu mới mọc chiếu/ Xiêm y ở thƣợng quốc sau mùa tuyết rơi đã chuyển sang mùa xuân/ Cả thiên hạ xô theo con đƣờng buôn bán mà chạy/ Chọn lấy phong tục tốt thì hỏi ngƣời ở bên đƣờng/ Ở Hàm Giang khách bệnh nghĩ Nam chi mà nhớ quê hƣơng/ Bẻ hoa cúc mà chờ ông ở bờ Giang Thụ Sào.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 1154)
92. TỐNG NGUYỄN TỬ CAO TRUNG THỪA HỒI KINH SUNG NHƢ TÂY CHÍNH SỨ/ ĐƢA QUAN TRUNG THỪA NGUYỄN TỬ CAO VỀ KINH SUNG CHỨC CHÁNH SỨ ĐI TÂY
Tứ trực nhân tài giáo trạch tiên Quốc gia mệnh sứ hợp thân kiên Đông giao tam tài tƣ phân chính Tây hải trùng lai phú độc hiền Hàm Chử vô ba hoàn ái nhật Bình Sơn hữu lộ hảo triều thiên Cƣờng Tề cửu dĩ phu lân nghị Quy ngã tƣơng ƣng cập Vận điền. Nhân tài ở vùng tứ trực đƣợc giáo hóa và ân trạch trƣớc nhất Nƣớc nhà sai đi sứ rất hợp với bản thân ngƣời gánh vác đƣợc Vùng ngoài phía đông ba lần chở của đƣợc chia Trở lại biển Tây tỏ ra một mình là ngƣời hiền Hàm Chử không có sóng, mừng ngày đƣợc quay về Bình Sơn có lối đi chầu vua rất tốt Nƣớc Tề hùng cƣờng từ lâu đã thích hợp với tình hữu nghị lân bang Sẽ quay về ta những vùng đất ấp Vận điền.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 1156)
PL178
93. TỐNG PHIÊN SỨ VŨ NGUYÊN NHỊ HỒI KINH CHÚC HỒ/ TIỄN QUAN BỐ CHÍNH VŨ NGUYÊN NHỊ VỀ KINH CHÚC THỌ VUA
Hàm Giang nguyệt chú thanh thu kính Hƣơng Giang lâu các thiên thu khánh Dao tùng Nam đẩu vọng kinh hoa Vạn lý thu quang sơn hải tịnh Đông phiên sứ giả kim khâm điểm Tố bão kinh luân tế minh thịnh Trƣờng an diện cận thiên từ tiền Bình phong khởi đãn tri danh tính Xƣơng môn đình thực vạn phƣơng trân Cống phỉ viễn thầm đồng chúc thánh Doanh hoàn đại cục đáo nhƣ kim Ngũ thập niên lai cần thánh tâm Trung hòa công hiệu thiên tịnh thọ Hề đặc sơn hải ca sùng thâm Hoàng hoa khuất chỉ quy lai nhật Hỵ tụng cửu kiền tuyên đức âm Trăng ở Hàm Giang đã đúc thành tấm gƣơng trong mùa thu/ Lầu gác trên sông Hƣơng ngàn năm vẫn có lễ mừng/ Từ xa theo Nam Đẩu trông về kinh đô/ Thấy ánh trăng thu muôn dặm, núi và biển yên lặng/ Sứ giả là quan Bố chính tỉnh Đông nay đƣợc chọn/ Hoài bão bấy lâu về chính trị gặp thời trong sáng/ Ở Trƣờng An đƣợc yết kiến trƣớc mặt thiên từ/ Chỗ bình phong thiên tử ngồi há chỉ biết tên họ mà thôi/ Chỗ cổng làng nơi sân nhà, muôn phƣơng thật là rất quý/ Lễ vật dâng cống bày tỏ lòng thành của vùng xa chúc thọ thiên tử/ Đại cuộc trên thế giới hôm nay đến/ Năm mƣơi năm nay nhƣ lòng vua lo lắng/ Việc trị chính hòa bình hiệu nghiệm thì trƣờng thọ cùng trời/ Sao núi và biển thì đƣợc ca ngợi là cao và sâu/ Co ngón tay mà tính, hoa cúc vàng nở là ngày trở lại/ Mừng vui ca tụng cửu trùng và tuyên dƣơng lời nhân đức của vua.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 1158)
94. TỐNG PHAN NHẬN AM CHI QUẢNG YÊN/ ĐƢA PHAN NHẬN AM ĐI QUẢNG YÊN
Sơ y khăng cự phú kỳ kỳ Hải đảo di lê cấp phủ tuy Địa chủ lâu thuyền di hổ trƣớng Thiên phƣơng nghi vũ tá hồng quỳ Vấn độ chính tƣ Trần quốc tƣớng Dẫn thƣơng thời vịnh Tấn Vƣơng Hy Đông lai mã thủ tri hà nhật Khai biến liên hoa giá ngã kỵ Lúc chƣa làm quan đã vội vã giao cho cầu cúng Ở hải đảo lƣu dân còn sót lại phải gấp đƣợc vỗ yên Quan chủ quản dọn màn trƣớng chỉ huy xuống thuyền Nghi vệ nhắm phƣơng trời mƣợn đƣờng chim hồng Hỏi đƣờng lối thì nhớ đến Tƣớng quốc nhà Trần Lúc nâng chén thì vịnh Vƣơng Hy Chi đời Tấn Từ phía đông đến biết ngày nào ta đƣợc quyền lèo lái Hoa sen nở rộ khắp nơi, cƣỡi con tuấn mã của ta đi mà xem.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 1183)
95. TỐNG HOÀNG TIẾN SĨ VINH QUY/ TIỄN HOÀNG TIẾN SĨ VINH QUY
Bát phàm tam đức chung giai khí Trinh Hải Đồ Sơn trợ đại quan Cầu tuấn hốt kinh tam sách đãi Đề danh kiêm hỉ thập niên khan Chí đăng Đồng cổ do lƣu Việt Tọa hữu Thanh Liên vị quý Hàn Tặng tử vinh hồi hoàn ký ngữ Khách hoài cửu dĩ chất Hàm An Bát phàm và tam đức đã chung đúc thành cái khí đẹp Trinh Hải, Đồ Sơn cho cái nhìn lớn lao Triều đình cầu ngƣời tuấn kiệt, bỗng kinh hãi vì ba lần bắt đối sách Đƣợc đề tên ngƣời thi đỗ thì mừng, nhƣng phải mƣời năm sau Tập Tinh chí đăng bài phú Trống đồng, còn lƣu ở vùng đất Việt Ngồi mà có thơ Lý Bạch, chƣa hổ thẹn với Hàn Dũ Tặng ông vinh quy trở về, còn có lời nhắn gửi tâm tình Lòng khách từ lâu đã hỏi đến Hàm An rồi.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 1224)
PL179
96. TỐNG NỘI CÁC NGUYỄN THỊ LANG NHƢ YÊN CHÁNH SỨ/ TIỄN QUAN THỊ LANG Ở NỘI CÁC HỌ NGUYỄN ĐI SỨ NƢỚC YÊN
Thiên tiết thu lai dạ dạ minh Hoàng hoa diệu tuyển tử vi thanh Ca thi nguyên thấp vinh tân nhã Báo quốc văn chƣơng trọng thử hành Sóc tái trù nhung trƣu định cục Tây châu trí sứ siêm giao tình Tuyết diêu nguyệt phóng huề dƣ hứng Thiên thủ ngâm thành tục thử chinh
Tiết trời khi mùa thu đến, đêm đêm đều trong sáng/ Chọn hoàng hoa thật tuyệt diệu, hoa tử vi thanh khiết/ Hát câu thơ Nguyên thấp để thấy vẻ tốt tƣơi đẹp đẽ mới mẻ này/ Dùng văn chƣơng báo đền quốc gia thì phải tôn trọng chuyến đi sứ này/ Ở biên ải phía Bắc trù tính việc binh, phải bàn bạc để định yên cục diện/ Tây châu đặt sứ giả để xem xét tình hình giao hảo giữa hai nƣớc/ Xe sứ đi trên tuyết, thuyền lƣớt dƣới trăng có mang theo hứng thú dồi dào/ Ngàn bài thơ ngâm xong thì tiếp tục chuyến đi lên phía Bắc.
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 1228)
97. TIỄN BỘ HỘ THAM TRI BÙI VÃN QUẢNG NAM TUẦN PHỦ/ TIỄN QUAN THAM TRI BỘ HỘ HỌ BÙI ĐO LÀM TUẦN PHỦ QUẢNG NAM
Vạn nhận hùng quan khống tả kỳ Xuân phong hoa liễu hộ xiêm duy Trà minh hải nội vô song hiểm Hành lĩnh nam lai đệ nhất kỳ Khởi tất thắng du phƣơng vĩ nghiệp Tảo bồi nguyên khí khởi cùng luy Thử châu bất phục triều đình lự Ngâm đáo Phùng Quân hữu sở tƣ
Hùng quan cao muôn nhận khống chế vùng phía tả của kinh đô/ Hoa và liễu trong gió xuân đã hộ vệ cho bức màn xe/ Trong biển thì biển Sơn Trà là nguy hiểm nhất/ Núi Ngũ Hành Sơn từ phía nam đấy là một kỳ quan hạng nhất/ Há ắt rằng cuộc dạo chơi thắng cảnh có phƣơng hại đến cơ nghiệp vĩ đại/ Hãy sớm bồi bổ nguyên khí để đứng lên khỏi sự khốn cùng gầy yếu / Châu này không còn là nỗi lo ngại của triều đình nữa/ Ngâm đến thơ của Phùng Nguyên Quân thì có điều nhớ nhung
(Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 1238)
98. TỐNG LỄ BỘ ĐỖ TÙNG ĐƢỜNG ĐẠI TÔN BÁ HỒI HƢU BỘ LƢU BIỆT NGUYÊN VẬN/ TIỄN ĐẠI TÔN BÁ ĐỖ TÙNG ĐƢỜNG, THƢỢNG THƢ BỘ LỄ VỀ HƢU RỒI HỌA THEO NGUYÊN VẦN BÀI LƢU BIỆT
Thấm thoát thời gian nhƣ xa cách nhau lâu/ Cùng nhìn nhau, khi tỉnh thấy mình ở trong giấc chiêm bao/ Ba thu sớm dậy gió thu khiến mình nhớ đến thuần ngƣ/ Tính theo tuổi quy hạc thì mình đã hơn sáu mƣơi tuổi/ Từ khi mình trở về đƣợc ơn vua cho tạm nghỉ/ Mến mộ ông đƣợc nhàn hạ an dƣỡng thì bù đắp đƣợc lòng chân thành/ Vua Đƣờng vua Nghiêu vốn đã cho Hứa Do và Sào Phủ đƣợc nhàn dật/ Hành Sơn và Ẩn Sơn thà dạy chuộng cƣời ngƣời.
Nhẫm nhiễm quang âm tự cách trần/ Tƣơng khan tỉnh khƣớc mộng trung thân/ Thuần ngƣ phong khởi tam thu tảo/ Quy hạc trù đa lục kỵ xuân/ Tự ngã qui lai ân tạm giả/ Tiễn công nhàn dƣỡng vị di chân/ Đƣờng hoàng bổn hứa Sào Do dật/ Hành (sơn) Ẩn (sơn) ninh giao thƣợng tiếu nhân (Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 1338)
PL180
99. GIANG THỤ SÀO TIỂU TẬP TÁI TÁC TRƢỜNG CA TIỄN HÀ ĐÌNH/ HỌP MẶT Ở GIANG THỤ SÀO LẠI LÀM BÀI TRƢỜNG CA ĐỂ TIỄN HÀ ĐÌNH
Bên Giang Thụ Sào có tiếng nhạn bay về Nam/ Quanh Giang Thụ Sào sắc thu rạng rỡ, trăng trên sông sáng tỏ/ Dòng nƣớc trong lặng nhƣ ngậm lấy bóng lau sậy/ Nhƣợc bằng vì hoa mà lộ trình mở ra cảnh trí đẹp/ Đi lại đƣờng xa, kính từ biệt ngƣời/ Chở đồ quý báu, chỉnh đốn xe ngựa làm chậm buổi sáng sớm đẹp/ Không phải đi tìm hoa mà là đi hỏi bạn cũ/ Dắt bạn lên nhà ngọc ở ven sông/ Buộc ngƣời phải đóng cửa để tránh cái nóng cho khách/ Đẩy hết sức nóng tàn ra xa mƣời do tuần/ Nhà nghèo mở rộng cửa, việc này không phải ngẫu nhiên/ Nhƣ mở ống bễ thợ rèn cho ánh sáng đẹp của mùa xuân tràn vào/ Nhớ lại từ biệt cửa kinh thành đã hơn sáu năm/ Một khi bị bệnh trở lại thì mái tóc đã chuyển thành hai màu/ Lộ trình từ đông sang tây tám chín ngàn dặm/ Ngồi trên lƣng cá kình mà biên chép cho hết những ngày ở ngoài/ Lại theo ra biển Đông làm bài phú Ly cƣ (xa quê)/ Thu cảnh đẹp, ngâm vịnh hoa thơm mà vẫn nghĩ đến kỳ hẹn gặp/ Vị Xuyên quá tham, mà trong lòng chứa ngàn mẫu trúc/ Đứng một mình chỗ xa rộng mênh mông mà hát lên lời khảng khái/ Chiếc xe đẹp của mỷ nhân đã ở đầu đám mây đầy màu sắc/ Dƣới chuỗi ngọc bội của ngƣời con gái có dáng đẹp phát ra tiếng kêu/ Xe chạy trên cao, gió linh thiêng chở trăng sáng/ Chén rƣợu bên đƣờng đã rót, cƣỡi ngựa rung chuông đi vòng quanh/ Ta cũng cƣỡi con ngựa ô vào chầu kinh ngọc/ Nếu không thì cũng cƣỡi hạc về Huyền đô/ Từ đây một tý bụi trần đều trừ hết/ Tay nâng sáo ngọc đứng chờ ở giữa tầng mây.
Giang Thụ Sào biên nam nhạn thanh Hoàn Sà thu lãng giang nguyệt minh Trƣờng lƣu đích đích hàm lô ảnh Nhƣợc vi bà trình tịch giai cảnh Khiết lai viễn đạo phụng từ nhân Tải sâm chỉnh già trì lƣơng thần Bất thị tầm phƣơng thị phỏng cựu Ngọc đƣờng huề hữu giang chi tân Ky nhân bế hộ tỳ nhiệt khách Tống tận tàn thử thập do tuần Sài môn đại khai sự phi ngẫu Nhƣ khải thác thƣợc lai thiều xuân Ức biệt đô môn lục dƣ tải Nhất bệnh quy lai song mấn cải Đông tây bát cửu vạn lý trình Kình bối tàn biên tẫn trừ ngoại Khƣớc tòng Đông hải phú Ly cƣ Lãm tú ngâm phƣơng trƣớng kỳ hội Vị Xuyên sàm trúc hung thiên mẫu Độc lập thƣơng mang ca khảng khái Mỹ nhân hƣơng xa thái vân đoan Hạ nữ thiền viên minh bội hoàn Cao giá linh phong tải minh nguyệt Cù tôn ký chƣớc hồi tham loan Ngã diệc thừa ly triều ngọc kinh Bất nhiên khống hạc huyền đô hành Tòng thử mao trần tận lệ khứ Thủ huề ngọc địch vân gian trữ (Phạm Phú Thứ toàn tập – tr 1251)
XXV. THƠ TỐNG BIỆT TRẦN THIỆN CHÁNH
(Thơ tống biệt Trần Thiện Chánh khảo sát trong cuốn: Thơ văn Trần Thiện Chánh (1995) (Cao Tự Thanh dịch và giới thiệu), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội).
1. TỐNG BANG BIỆN TRƢƠNG THANH VÂN NAM HỒI/ĐƢA ÔNG BANG BIỆN TRƢƠNG THANH VÂN VỀ NAM
I. Nhất kiếm hồng trần lão vị quy Tàn hồn ám trục mộ vân phi Bất tri thử biệt thị hà tịch I. Một thanh gƣơm lấm đầy bụi đỏ, già vẫn chƣa về Mảnh hồn tàn lén đuổi theo mây chiều bay Chẳng biết lần biệt ly này thuộc về đêm nào
PL181
Gió thu nửa đêm đến gỏ vào tấm cửa tre II. Cửa ải chƣa vào, lại quay giáo trở ra Buồn nghe một khúc hát trỗi chốn ly đình Muôn dặm nhờ ông chuyển lời hỏi thăm “Dâu thị Giang Nam gần đây ra sao?”
Bán dạ thu phong lai khấu phi II. Quan môn vị nhập hựu hồi qua Sầu thính ly đình nhất khúc ca Vạn lý bằng quân phỏng tiêu tức Giang Nam tang tử cận nhƣ hà ? (Thơ văn Trần Thiện Chánh – tr 118)
2. TỐNG HỮU NHÂN VÃNG TUYÊN/ĐƢA NGƢỜI BẠN ĐI TUYÊN QUANG
I. Chinh đồ hiểm hý Nhân phạn mã ky (cơ) Ngƣỡng thiên bi ca Thế khấp triêm y Kinh đàm chấn lâm Lâm vô tĩnh chi Chúng điểu hữu thác Cô vân vô y Ta ngã hữu sinh Thệ tƣơng an chi? II. Lan tôn phân phƣơng Thu vũ tụy chi Chƣớng tái phong sƣơng Khách tử lý chi Tuy tắc lý chi Nhan nhƣ túy chi Du du cao sơn Huyền hoàng ngã câu Thao thao trọc hà Trầm phù kỳ chu Ta ngã hữu sinh Thệ tƣơng an cầu ? III. Hủy mộc tùng sinh Trinh nguy dị tính Tuế hàn tùng bách Bất ly vu chính An thƣởng xử thuận Lập đức chi bính Dữ vật vô tranh I. Đƣờng đi hiểm trở Ngƣời mệt, ngựa đói Ngửa mặt lên trời buồn bã hát Nƣớc mắt ƣớt đẫm áo Gió dữ làm chấn động cả rừng Trong rừng không cành cây nào yên Bầy chim còn có chỗ gởi thân Đám mây lẻ loi không nơi nƣơng tựa Than ôi đời bạn ta Định về đâu mà đi xa ? II. Lan, cỏ thƣơm ngát tốt tƣơi Mƣa thu làm héo rã ải xa mờ gió sƣơng khách vẫn đạp lên mà đi tuy rằng đạp lên mà đi Nhƣng vẻ mặt bơ phờ Núi cao vòi vọi Ngựa ta mệt mỏi Dòng đục cuồn cuộn Thuyền kia chìm nổi Than ôi đời bạn ta Định cầu gì mà đi xa ? II. Cây cối có nhiều loài Loài thẳng, loài cong khác nhau Song tùng bách lúc trời đông Không hề đổi thay khí tiết Yên với cảnh thƣờng mà xử sự cho hợp Đó là đầu mối của việc lập đức Không tranh giành gì với ngoại vật
PL182
Lạc thiên tri mệnh Quy tai quy tai Kỳ mại duy vĩnh Vui với đạo trời mà biết phận mình Về đi thôi, về đi thôi Đƣờng đi của ngƣời ấy còn xa!
(Thơ văn Trần Thiện Chánh – tr130)
3. TỐNG LƢU TÁN TƢƠNG VÃNG THÁI NGUYÊN QUÂN THỨ/ĐƢA ÔNG TÁN TƢƠNG HỌ LƢU ĐI QUÂN THỨ THÁI NGUYÊN
Thái Nguyên kim nhật hựu trì khu Đồng hổ dao phân nhất bán phù Yêu nguyệt dạ khai tân biệt tịch Phi vân triêu vấn cựu chinh đồ Cô thành lam khởi thanh sơn ám Cực tái hàn xâm bạch thảo khô Chu thị Ngân nhai hồ thố quật Niên lai huân quán sách toàn vô Hôm nay lại ruổi rong đến Thái Nguyên Mảnh hồ phù bằng đồng xa chia một nửa Đêm khuya mời trăng, mở tiệc chia tay mới Sáng sớm gạt mây, hỏi đƣờng tiến quân xƣa Khói núi tỏa trên thành côi che khuất non xanh Hơi lạnh lấn vào ải thẳm làm khô cỏ trắng Cáo thỏ làm hang khắp cả vùng chợ Chu, phố Ngân Mà kế sách hun đốt trong năm tới vẫn không có gì.
(Thơ văn Trần Thiện Chánh – tr 134)
4. TỐNG THỊ LANG NGUYỄN NHỤ PHU BẮC SỨ/ĐƢA THỊ LANG NGUYỄN NHỤ PHU ĐI SỨ TRUNG QUỐC
Tinh diêu triều hạ vạn trùng san Nguyên thấp tƣ tu bất tạm nhàn Họa dự xuân trì hƣơng mãn dịch Tuyết mao dạ ủng nguyệt lâm quan Hán Đƣờng chinh phạt lƣu bi kệ Yên Triệu âu ca lạc bội hoàn Tƣơng mệnh tùng lai kim chấp mệnh Khởi ƣng không khứ hựu không hoàn Xe sứ giả từ triều qua muôn dãy núi Lo lắng chuyện gò cao trũng thấp không chút rảnh rang Xe thơm xuân giong mùi hƣơng khắp trạm Cờ mao trắng đêm đội trăng tới cửa quan Chuyện đánh dẹp của Hán Đƣờng bia đá còn lƣu Tiếng tụng ca nơi Yên Triệu nhƣ vòng ngọc khua Là ngƣời truyền mệnh nay lại kiêm cả việc chấp mệnh Há chịu đi không rồi lại về không.
(Thơ văn Trần Thiện Chánh – tr 135)
5. TỐNG YÊN LÃNG LƢƠNG ĐỒNG PHỦ QUY BỆNH/ĐƢA ÔNG HỌ LƢƠNG ĐỒNG TRI PHỦ YÊN LÃNG VỀ NGHỈ BỆNH
Phù thế mang mang nhất tán kỳ Hoạn tình phong nguyệt cựu tƣơng tri Dĩ tài xuân thự đào thiên thụ Biệt mộng tây viên cúc bán ly Bệnh bất lân nhân công thái cấp Danh nan dung tục khử hiềm trì Tứ giao kim nhật phùng đa lũy Khƣớc khủng sài môn yểm vị nghi Việc đời khó nghĩ nhƣ một cuộc cờ tan tác Nỗi niềm lúc làm quan có gió trăng là bạn cũ Đã trồng ngàn gốc đào nơi lỳ sở mùa xuân Riêng mơ cửa giậu cúc chốn vƣờn tây Bệnh tật chẳng thƣơng ngƣời, lấn tới quá gấp Tiếng tăm khó đƣợc dung ở đời, bỏ đi hiềm đã muộn Bốn phía ngày nay đang gặp lúc nhiều thành lũy Lại e cửa tre đóng kín chƣa hẳn là đúng
(Thơ văn Trần Thiện Chánh – tr 139)
PL183
6. TỐNG TRẦN THỌ BÀNH PHÓ KIM ANH HUYỆN/ĐƢA TRẦN THỌ BÀNH ĐI NHẬN CHỨC TRI HUYỆN KIM ANH
Thiên trùy bách luyện tác Thuần Câu Huy hạ tƣơng khan bán bạch đầu Tƣớng lƣợc tàm phi Ban Định Viễn Nhung trù hạnh tá Khích Tham mƣu Lâm hồi nhật tán hoàng kim sắc Giang nhập thiên khai bích ngọc lƣu Tự hữu Bào Đinh du nhẫn tại Bất phƣờng ứng thủ giải kim ngƣu Ngàn lần đập trăm lần nung làm thành lƣỡi gƣơm Thuần Câu/Nhìn những ngƣời dƣới trƣớng, một nửa đã bạc đầu/Về mƣu lƣợc làm tƣớng thẹn không phải là Ban Định Viễn/Trù tính việc quân may nhờ đƣợc Tham mƣu họ Khích/Vòng quanh rừng, mặt trời tan tác ánh hoàng kim/Rơi vào sông, bầu trời tuôn dòng ngọc biếc/Vốn có lƣỡi dao sắc của Bào Đinh/Tiện tay mổ trâu vàng cũng chẳng hại gì.
(Thơ văn Trần Thiện Chánh – tr 160)
7. TỐNG TUYÊN THỨ NGUYỄN THAM TÁN CHUYỂN VÃNG LẠNG BẮC/ĐƢA ÔNG HỌ NGUYỄN, THAM TÁN QUÊN THỨ TUYÊN QUANG CHUYỂN ĐI QUÂN THỨ LẠNG BẮC
Dao đới yên lam vạn lý hồi Tráng tâm thái bán trƣớc hàn khôi Tƣơng phùng thính vũ tần nghi mộng Tích biệt lâm lƣu sổ dẫn bôi Tái ngoại viện sƣ phi quá kế Triều trung mƣu súy hựu nan tài Quang Lang hiểm khẩu chinh thâu lộ Hảo bạt Long Tuyền nhất trảm khai Mang khói mây trở lại vạn dặm xa xôi Tấm lòng mạnh mẽ quá nửa đã thành tro nguội Gặp nhau nghe mƣa cứ ngờ là trong mộng Chia tay lúc đi mấy lần đƣa chén rƣợu Ngoài ải đƣa quân cứu viện không phải là kế sách sai lầm Trong triều tìm tƣớng lại khó có ngƣời tài Trên đƣờng đi gặp cửa Quang Lang hiểm trở Hãy tuốt gƣơm Long Tuyền chém một nhát mở toang
(Thơ văn Trần Thiện Chánh – tr 161)
8. TIỄN SƠN TÂY BỐ CHÁNH VŨ LAI KINH/TIỄN ÔNG HỌ VŨ, BỐ CHÁNH SƠN TÂY VỀ KINH
(Thời trị ngũ nguyệt) Lô Tản giang sơn lạc mộ hà Chinh trần nam vọng cách thiên nha (nhai) Tam niên quan tái sầu lƣu khách Bán dạ thần tiên mộng đáo gia Mai vũ hƣơng phù cô điếm nguyệt Liên phong ảnh động vãn hồ hoa Quy lai điều đối lâm nhung sách Mạn đạo tri binh chúc Tả Xa (lúc ấy đang tháng 5) Ráng chiều rụng xuống, trên núi Tản sông Lô Nhìn về hƣớng nam, bụi đƣờng cách nẻo chân trời Ba năm buồn làm khách nơi quan ải Nửa đêm về nhà trong giấc mộng thần tiên Mƣa mai rơi, trăng bên quán vắng thơm ngát Gió sen thoảng, hoa trên hồ chiều lay bóng Trở về tâu đối kế sách binh nhung Cứ nói rằng đã gởi việc cầm quân cho Tả Xa.
(Thơ văn Trần Thiện Chánh – tr 175)
9. TỐNG SƠN TÂY THƢƠNG BIỆN TÔN THẤT HỒI KINH NGỤ HỘ TANG/ĐƢA ÔNG HỌ TÔN THẤT THƢƠNG BIỆN SƠN TÂY VỀ KINH HỘ TANG
Tƣơng tống Tây châu lộ Thƣơng tâm thị mộ hoa Đƣa nhau trên đƣờng Sơn Tây Lòng đau thƣơng nhƣ hoa xế chiều
PL184
Thiếu cô tần tác khách Đa nạn hựu hoàn gia Thành quách mê thu thủy Giang sơn lạc vãn hà Triều thiên lao mộng tƣởng Thùy tá thƣợng thiên tra Tuổi nhỏ mồ côi từng làm khách Nhiều hoạn nạn lại về nhà Bóng thu loáng mờ thành quách Ráng chiều rơi trên non sông Mỏi mòn trong giấc mộng về chầu vua Ai cho mƣợn chiếc bè lên trời.
(Thơ văn Trần Thiện Chánh – tr 179)
10. TỐNG HỮU NHÂN VÃNG LẠNG/ĐƢA NGƢỜI BẠN ĐI LẠNG SƠN
Bất hƣớng Lạng thành khứ An tri sơn lộ thâm Hàn sinh sơ thụ sắc Lam tích loạn phong âm Man động vân thành bích Giao từ thạch tác lâm Thiên niên đồng trụ cổ Ƣng hóa nhập Nam câm (kim) Không đi về phía thành Lạng Sơn Làm sao biết đƣợc đƣờng núi cô tịch Hơi lạnh sinh điểm màu cho cây thƣa Khí núi tụ che mờ núi non ngổn ngang Mây ở làng Mán dựng thành vách Đá bên đền thuồng luồng lởm chởm nhƣ rừng Cột đồng từ ngàn năm cũ Đã hóa ra vàng nƣớc Nam
(Thơ văn Trần Thiện Chánh – tr 180)
11. TIỄN HÀ NINH TỔNG ĐỐC TRẦN ĐÌNH TÖC/TIỄN ÔNG TRẦN ĐÌNH TÖC TỔNG ĐỐC HÀ NINH
Từ phong tín giáp lão đăng đàn Nhất trụ kinh thiên vạn tƣợng an Đàm tiếu thu hồi thành quách dị Công danh minh nhập đỉnh chung nan Ba đào mộng tỉnh cô bồng thấp Phong vũ sầu xâm đoản mãn hàn Dục hạ ly trƣơng lâm Nhĩ thủy Cô chu dĩ quá vạn trùng san Lời là giáo nhọn, tín là giáp bền, già đời làm tƣớng Một cột chống trời, vạn vật yên ổn Cƣời nói thu hồi đƣợc thành quách còn dễ dàng Công danh khắc vào chuông vạc mới khó khăn Giấc mộng ba đào tỉnh dậy, mui thuyền con ƣớt đẫm Nỗi sầu mƣa gió xâm vào, mái tóc cằn lạnh tê Chén biệt ly toan hạ xuống dòng Nhĩ Hà Chiếc thuyền lẻ loi đã vƣợt qua muôn trùng núi.
(Thơ văn Trần Thiện Chánh – tr241)
XXVI. THƠ TỐNG BIỆT NGUYỄN TƢ GIẢN
(Thơ tống biệt Nguyễn Tƣ Giản khảo sát trong cuốn: Hoàng Giáp Nguyễn Tƣ Giản cuộc đời và thơ văn (2001) (Nhiều tác giả), Nxb Trung tâm ngôn ngữ văn hóa Đông Tây, Hà Nội).
1. TỐNG TỈ BỘ NGUYỄN HY PHẦN CÁO QUI KHÁNH HÕA/TIỄN ÔNG TỈ BỘ NGUYỄN HY PHẦN CÁO LUI VỀ KHÁNH HÕA
(bài này tiễn Nguyễn Thông, Nam Kỳ thất thủ, đem gia đình chuyển về Khánh Hòa)
Thƣ kiếm qui triều mấn vị ban Bệnh trung hƣơng tỉnh vạn trùng san Tâm đồng Thân Tử y tƣờng khốc Gƣơm sách về triều tóc vẫn xanh Ốm đau, quê tận vạn trùng san Lòng nhƣ Thân Tử men tƣờng khóc
PL185
(Hoàng Giáp Nguyễn Tƣ Giản cuộc đời và thơ văn – tr 285)
Thân tự Tƣơng Nhƣ phụng bích hoàn Đại Lĩnh văn viên cô nguyệt hạ Nha Trang xạ hổ loạn vân gian Khả kham cực mục nam phi nhạn Chính thị Hoàng hoa bắc xuất quan Thân tựa Tƣơng Nhƣ giữ ngọc toàn Nghe vƣợn đêm trăng ngoài Đại Lĩnh Săn hùm mây ám đất Nha Trang Cánh nhạn về nam xa ngút mắt Lúc đoàn sứ Bắc đã qua quan
2. TỐNG HỒ NAM ĐÔ TY ĐIỀN MINH SƠN TỰ HẢI TRÙ HOÀN TRƢỜNG SA THỨ NGUYÊN VẬN/TIỄN VIÊN ĐÔ TY HỒ NAM LÀ ĐIỀN MINH SƠN, TỰ HẢI TRÙ VỀ TRƢỜNG SA, HỌA THEO NGUYÊN VẦN
(Hoàng Giáp Nguyễn Tƣ Giản cuộc đời và thơ văn – tr 285)
Tƣớng quân ấp khách dạ đăng chu Đồng thính giang thanh hạm ngoại lƣu Vạn lý quan hà sơ thức diện Nhất đăng phong vũ các ngƣng mâu Ngẫu đàm cổ tích lâu phi hạc Khỉ hữu hàn quang kiếm xạ ngƣu Ba lý bất kham lao kích tiết Hán Dƣơng hồi thủ vĩnh thiên du Tƣớng quân chào khách, lên thuyền Cùng nghe sóng nƣớc xuôi miền xa xăm Quan hà muôn dặm vừa quen Ánh đèn mƣa gió cùng nhìn mê say Lầu xƣa tán chuyện hạc bay Gƣơm xua ánh lạnh phóng đấy sao Ngƣu Xin dừng gõ nhịp vì tôi Hán Dƣơng ngoảnh lại chân trời mênh mang.
3. TỐNG TRIỀU TIÊN SỨ THẦN KIM HỮU UYÊN ĐẲNG QUI QUỐC TỊNH GIẢN/
TIẾN SỨ THẦN TRIỀU TIÊN LÀ CÁC ÔNG KIM HỮU UYÊN VỀ NƢỚC KÈM BỨC THƢ
(Hoàng Giáp Nguyễn Tƣ Giản cuộc đời và thơ văn – tr 285)
Khuynh cái Yên Đài lạc vị chung Nê hồng khứ ảnh dĩ thông thông Quy tâm Áp lục hoa khai ngoại Thanh mộng Long Trì liễu sắc tân Vạn lý quan san nan tống khách Tứ châu nhân vật kỵ đồng phong Biệt quân cánh ức Cù nhiêm truyện Tây hải nhƣ kim tiệm hƣớng đông Nghiêng lọng Yên Đài vui chửa xong Bóng hồng vội vã đã vời trông Lòng về Ấp Lục hoa đang rộ Mộng tỉnh Long Trì liễu vẫn xanh Muôn dặm quan san khôn tiến khách Văn nhân bốn biển cũng đồng phong Xa ông, nhớ truyện chàng râu xoắn Biển Tây nay đã hƣớng về đông.
XXVII. THƠ TỐNG BIỆT NGUYỄN XUÂN ÔN
(Thơ tống biệt Nguyễn Xuân Ôn khảo sát trong cuốn: Thơ văn Nguyễn Xuân Ôn (1977), NxbVăn học, Hà Nội).
1. TIỄN LÊ TRUNG LƢỢNG THĂNG THỤ BÌNH THUẬN ÁN SÁT CHI LỲ
Phiên khổn phong chƣơng đạt ngũ văn Đại bang hữu mệnh giản năng thần Linh châu ná đắc tƣ Nguyên Hiệu Dĩnh quận do tƣ tá Khấu quân Trì tiết kiến tinh lâm thử địa Tờ sớ ở chốn biên thành dâng lên nhà vua Nƣớc lớn có mệnh lệnh, chọn ông quan có tài năng Đất Linh - châu sao đƣợc đƣa cho Nguyên Hiệu Quận Dĩnh - xuyên còn lo mƣợn tài Khấu Tuân Cầm gậy tiết, dựng ngọn cờ, tới cõi đất ấy
PL186
Chẩm qua kích tiếp nhƣợng hà nhân Tru tri U, Kế trung nguyên vật. Tuyệt dạ quân vƣơng hạ cẩm nhân Gối cây giáo, gõ mái chèo, có nhƣờng ai đâu Phải biết rằng châu U, châu Kế là đất trung nguyên Đêm tuyết nhà vua xuống ngồi nơi nệm gấm.
(Thơ văn Nguyễn Xuân Ôn – tr 112)
2. TIỄN KHÁNH HÒA ÁN SÁT SỨ PHẠM VĂN BÍNH PHÓ LỲ CHI THỨ/ TIỄN ÔNG ÁN SÁT TỈNH KHÁNH HÒA LÀ PHẠM VĂN BÍNH ĐI NHẬM CHỨC
Nam lộ kinh mao xuất ngọc kinh Nhất phƣơng khổn ký thuộc phiên doanh Quân vƣơng nhân tuyết trù phƣơng lƣợc Thứ sử bình phong sở tính danh Lâu lỗ tinh chiên lân cố địa Giang sơn phong cảnh đối Tân - đình Tang hồ bồng thỉ nam nhi sự Khả hữu tiên tiên nhƣợng Tổ sinh Cờ tinh mao từ ngọc kinh đi vào phƣơng Nam Quyền quân sự một phƣơng thuộc về chốn biên thành Nhà vua đêm tuyết ngồi nệm, trù tính phƣơng lƣợc Các ông thứ sử, trên bình phong đã viết sẵn họ tên Liền cùng đất cũ là nơi chòi gác hôi tanh Phong cảnh non sông, nhƣ lúc đối với Tân đình Cung đâu tên bổng là việc của kẻ nam nhi Có đâu nhƣờng chàng Tổ Địch phất ngọn roi trƣớc.
(Thơ văn Nguyễn Xuân Ôn – tr 113)
3. NGHĨ TIỄN BIỆT LÝ NGUYỄN TÁN TU CHI BẮC NINH BỐ CHÁNH/ LÀM ĐỀ TIỄN QUAN BIỆN LÝ NGUYỄN TÁN TU ĐI NHẬM CHỨC BỐ CHÁNH BẮC NINH
Về phía tây thì sứ thần đƣa vàng lụa đi hết nơi/ Về phía bắc thì khói lửa đang náo động thành trì nhà vua/ Ngƣời tƣớng thần đêm tuyết ngồi nệm trù tính mƣu chƣớc/ Chức thứ sử đã ghi sẵn họ tên trên bình phong/ Công việc giữ gìn đất nƣớc đâu có phải bòn rút của dân nhƣ rút tơ kén mà bù đắp đƣợc/ Áo xiêm đã ngang hàng với lũ mai vẩy/ Giữ gìn cửa Bắc biết ông là ngƣời có thể làm đƣợc/ Muôn dặm lặng yên, trông ở chuyến đi này.
(Thơ văn Nguyễn Xuân Ôn – tr 144) Tây dịch ty kim cùng sứ lộ Bắc biên phong hỏa náo vƣơng thành Tƣớng thần nhân tuyết trù phƣơng lƣợc Thứ sử bình phong sớ tính danh Bảo chƣớng khả tƣơng ty kiển bổ Y thƣờng hoàn dữ giới lân bình Bắc môn tỏa thƣợc tri quân khả Vạn lý di tƣơng tại thử hành
4. TIỄN TUẦN PHỦ HỒ ĐĂNG PHONG CHI BÌNH - PHÚ TỔNG ĐỐC/ TIỄN ÔNG TUẦN PHỦ HỒ ĐĂNG PHONG ĐI NHẬM CHỨC TỔNG ĐỐC LIÊN TỈNH BÌNH ĐỊNH - PHÚ YÊN
Cần hải, Mai sơn cấu vị thanh Tam Phan tòng thử kiến bang bình Quân vƣơng nhân tuyết trù phƣơng lƣợc Thứ sử bình phong sớ tính danh Biên vị vô tài lang độc trọng Giai thăng hữu hạnh mã đề khinh Tân châu khâm đái liên Nam khổn Khống chế đƣơng vi vạn lý thành Biển Cần, non Mai bụi bặm chƣa đƣợc sạch Ba đất Phan từ nay trở thành bức bình phong của nƣớc Nhà vua đêm tuyết ngồi nệm trù tính mƣu chƣớc Các ông thứ sử trên bình phong đã ghi sẵn họ tên Cai quản cõi ven chƣa có ngƣời tài, nạn sói beo trầm trọng May mắn đƣợc ông thăng chức, vó ngựa nhẹ nhàng Châu này liền với cõi Nam nhƣ thân áo, nhƣ cái đai Phải sao nhƣ bức thành muôn dặm để bảo vệ đất nƣớc.
(Thơ văn Nguyễn Xuân Ôn – tr 146)
PL187
XXVIII. THƠ TỐNG BIỆT PHẠM THẬN DUẬT
(Thơ tống biệt Phạm Thận Duật khảo sát trong cuốn Phạm Thận Duật toàn tập (2000), Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội).
1. PHỤNG TIỄN NGUYÊN THỰ ĐỐC ĐẠI NHÂN THƢỢNG KINH CHI HÀNH/ TIỄN QUAN NGUYÊN QUYỀN TỔNG ĐỐC LÊN ĐƢỜNG VỀ KINH
Bạch phát trù biên thất tải kim Cửu thiên quân mộng lão thần tâm Tản Nùng khứ hậu dƣ nê trảo Hoan Ái quy trình trị tiệp âm Thu bán hoàng hoa yêu chƣớc thiển Kinh trung Bạch Tuyết họa ca thâm Khả kham Tây Bắc phân ƣu nhật Hựu thị Hồ Sơn chiết liễu ngâm. Tóc bạc lo việc biên cƣơng đã bảy năm nay Lòng vị lão thần vẫn mơ mộng chín bậc nhạc trời Non Tản, núi Nùng, ngƣời đi rồi dấu tích vẫn còn lƣu Châu Hoan, châu Ái, trên đƣờng về sẽ có tin thắng Giữa mùa thu xin mời chút rƣợu hoàng hoa Chốn kinh đô, ngƣời sẽ nghe hòa ca nồng nã khúc Bạch Tuyết Đã có thể chi lo trong những ngày ở Tây Bắc Nay lại cùng ngâm hoa, bẻ cành liễu chia tay ở Hồ Sơn.
(Phạm Thận Duật toàn tập – tr 434)
2. TIỄN TAM NÔNG DOÃN CHI GIA BÌNH/ TIỄN TRI HUYỆN TAM NÔNG ĐI GIA BÌNH
Ngƣu đao tạm thí kiến tân hình Ôn thất sơ thao tấn tích vinh Nê tuyết nhân khan hồng trảo ấn Bồi phong thiên tá phƣợng hàn khinh Xuân liên hằng khảo đào thiên thụ Thủy hợp đà thƣơng nguyệt nhất hoằng Trúc xã thi thƣơng yêu bất đắc Vân song hữu mộng đáo Gia Bình
Tạm lấy dao mổ trâu để thử, lại gặp đƣợc bát đựng canh mới/ Ngôi nhà đẹp, buổi đầu chịu ơn niềm vinh hiển đƣợc ban/ Ngƣời ta còn nhìn thấy dấu chân chim hồng in trên bùn tuyết/ Trời nhƣ mƣợn đôi cánh nhẹ chim phƣợng để tăng thêm gió/ Ngày xuân nối tiếp nhau giữ mãi lấy hàng ngàn cây đào trồng/ Nƣớc hợp lại bởi những nhánh sông sắc biếc hàng loạt ánh trăng tỏa rộng/ Lúc bạn thơ họp mặt, muốn mời nhau chén rƣợu mà không đƣợc/ Đành tìm nhau trong giấc mộng khi ở phòng sách để đến Gia Bình.
(Phạm Thận Duật toàn tập – tr 436)
XXIX. THƠ TỐNG BIỆT NGUYỄN THÔNG
(Thơ tống biệt Nguyễn Thông khảo sát trong cuốn: Ca Văn Thỉnh (1984), Nguyễn Thông, con ngƣời và tác phẩm, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh).
1. TỐNG NHÂN CHI GIA ĐỊNH/ ĐƢA NGƢỜI ĐI GIA ĐỊNH
Bạc hoạn thành danh vãn Tần niên vị nghĩ qui Văn quân hạ Đông - phố Thử địa cận sài phi Bạch xã hàn giao tại Thanh vân quá khách hy Quan chức thì nhỏ, thành danh cũng muộn Đã mấy năm nay chƣa nghĩ đến sự về thăm nhà Nay nghe anh đi vào Đông - phố Đó cũng gần nhà quê tôi Bạn nghèo ở Bạch xã hãy còn đó Khách sang qua lại thăm cũng ít
PL188
Ân cần tấn tiêu tức Tuế yến ủy khê vi... Nhờ anh hỏi thăm tin tức ra sao? Đƣợc yên ủi lúc cuối năm mà tôi còn ở xa cách chƣa về đƣợc.
(Nguyễn Thông, con ngƣời và tác phẩm – tr 123)
2. LONG GIANG TỐNG HỒ TRÁC TÚ TÀI/ TRÊN LONG GIANG ĐƢA ÔNG TÖ TÀI HỒ TRÁC
Tàn vũ ám giang quan Ly bôi thảng khách nhan Tƣơng phùng binh hỏa tế Thoại biệt thủy vân gian Mệnh kiển công danh bạc Thân bần khứ trú nan Kinh hoa đa vãn tiến Niệm nhĩ mấn mao ban Chốn giang quan sau trận mƣa chiều tối Chúng ta uống rƣợu chia tay, vẻ mặt buồn bã Nghĩ lại gặp nhau trong cơn bình hỏa Từ biệt nhau ở chỗ nƣớc mây xa cách Công danh chật vật vì số phận hẩm hiu Lại vì nhà nghèo khó tính chuyện bỏ đi hay ở lại Ở kinh hoa còn nhiều ngƣời hậu tiến Thƣờng nghĩ đến anh nay đã bạc tóc rồi.
(Nguyễn Thông, con ngƣời và tác phẩm – tr 141)
3. TỐNG ĐỊNH TƢỜNG NIẾT SỬ HOÀNG DƢỠNG ĐỘN QUY KIÊN GIANG BIỆT NGHIỆP/ TIỄN ÔNG ÁN SÁT ĐỊNH TƢỜNG LÀ HOÀNG DƢỠNG ĐỘN VỀ NHÀ RIÊNG Ở KIÊN GIANG
Hoàng phủ phi anh tảo Phiêu linh trực chí câm (kim). Sinh hoàn vạn tử địa Bần luyến cửu thu lâm Đa nạn thân tiên lão Hƣ hoài vật bất xâm Bách thiên qui hải kiểu Điều trƣớng đãi tri âm Ông Hoàng trỗi tài sớm Lênh đênh mãi đến nay Từ chốn muôn phần chết sống sót trở về Nhớ rừng cuối mùa thu, ƣớc ao trở lại Gặp nhiều tai nạn nên chóng già Cầm lòng ngay thẳng nên ngoại vật không bận bịu đến Ôm trăm bài thơ đem về góc bể Bâng khuâng đợi bạn tri âm thƣởng thức.
(Nguyễn Thông, con ngƣời và tác phẩm – tr 143)
4. AN GIANG TỐNG TRẦN TỬ MẪN, PHÖ YÊN QUAN ĐẠO/ Ở AN GIANG ĐƢA ÔNG TRẦN TỬ MẪN ĐỔI ĐI QUẢN ĐẠO PHÚ YÊN
Ngũ nguyệt hàn thành lý Hàm thê tống viễn du Hữu gia giai tác khách Đa bệnh độc di chu Đại lãnh bàn vân sạn Cù sơn đẩu hải tƣu Đăng lâm phù lữ nhạn Vị phụ sổ hàng thu. Tiết tháng năm, trong cái thành hiu quạnh Ngậm ngùi đƣa khách đi xa Chúng ta có nhà nhƣng đều làm khách xa nhà Ông vì nhiều bệnh nên đƣợc đổi đi chỗ khác Đƣờng đi qua núi Đại - lãnh nhƣ đƣờng sạn đạo rất hiểm trở Đƣờng đi qua đèo Cù Mông ở góc bể xa xôi Mỗi khi đi chơi sơn thủy có gặp chim nhạn ở nơi lữ thứ bay về Xin nhắn gửi cho tôi một đôi lời.
(Nguyễn Thông, con ngƣời và tác phẩm – tr 144)
PL189
5. TỐNG ĐỒNG QUẬN TRÀ QUÝ BÌNH PHÓ TĨNH - GIA TRI PHỦ/ ĐƢA BẠN ĐỒNG CHÂU LÀ TRÀ QUÝ BÌNH ĐI NHẬN CHỨC TRI PHỦ TĨNH GIA (THUỘC TỈNH THANH HÓA)
Cố quốc diểu nam cực Quan đồ trực bắc hành Án đồ tầm huyện vũ Khán nguyệt độ tằng thành Phụ hải lao trù thƣớng Trung châu sác điệu binh Tùng lai an tĩnh lại Khốn bức bất yêu danh. Quê ở xa tít trong nam Thẳng đƣờng quan đi ra ngoài Bắc Mở bản đồ tìm nơi huyện lỳ Trông trăng lần đến tằng thành Ở duyên hải nhọc về sự trù tính lƣơng thƣớng Ở trung châu thƣờng gọi lính Xƣa nay làm một quan lại yên tĩnh Thƣờng thật thà chẳng cầu danh.
(Nguyễn Thông, con ngƣời và tác phẩm – tr 171)
6. TỐNG NỘI TỬ NGÔ VŨ KHANH NAM QUI/ ĐƢA BÀ VỢ LÀ NGÔ VŨ KHANH VỀ TRONG NAM
I Mộng hồi la trƣớng, lệ châu san Lãn hoán kinh thoa liễm thúy hoàn Phạ kiến đào hoa xuân lãng khoát Nhị thiên minh nguyệt nhất chu hoàn II Âm phù thƣ đố kiếm ngân ân Mã giác nan kỳ lữ mấn ban Tạc dạ thuần lô giang thƣợng mộng Tiên tùy hoàn bội đáo gia san.
I Giấc mơ về nơi la trƣớng, thấy bà rơi hạt châu/ Ra chiều lƣời biếng không thay cái kinh thoa cài trên mái tóc xanh/ Ngại ngùng cho cánh hoa đào trên sóng xuân lai láng/ Mảnh trăng sáng chia đôi, một chiếc thuyền lênh đênh trở về. II Sách âm phù đã mọt, gƣơm đã rỉ hoen/ Khó hẹn đến khi ngựa mọc sừng, ở mãi đất khách khóm tóc mai đã pha bạc/ Đêm qua nằm mơ về trên sông hƣởng cái thú canh rau cần chả cá vƣợc/ Giấc mơ ấy đã theo vòng xuyến bà về quê nhà trƣớc.
(Nguyễn Thông, con ngƣời và tác phẩm – tr 191)
7. TỐNG TRÖC ĐƢỜNG PHẠM CÔNG HỘ BỘ KIẾN TIẾT HẢI AN - KIÊM THƢƠNG CHÁNH ĐẠI THẦN/ ĐƢA ÔNG PHẠM TRÖC ĐƢỜNG THƢỢNG THƢ BỘ HỘ RA TỔNG ĐỐC HẢI AN KIÊM CHỨC THƢƠNG CHÁNH ĐẠI THẦN
Đông tỉnh y thƣờng hội Tây minh hỗ thị thuyền Nhân kiêm tân thế giới Địa tiếp cổ Long biên Tạm truyết trung xu bính Phân tƣ chế khổn quyền Tùng lai thu ngũ lợi Di sách ỵ tiền hiền. Tỉnh đông mở hội y thƣờng Để thƣơng thuyết về việc thuyền buôn của Pháp Ngƣời dự hội gồm có ngƣời thuộc thế giới mới Nơi hội thƣơng tiếp thành Long Biên xƣa Ông tạm nghỉ chức quan trọng trong triều Ra giữ quyền thƣơng thuyết ở ngoài quận Từ xƣa việc hòa nhung nói là thu đƣợc năm điều lợi Cái kế sách đó nhờ bậc tiền hiền nhân vạch ra để lại đến nay.
(Nguyễn Thông, con ngƣời và tác phẩm – tr 203)
PL190
8. TỐNG NGUYỄN THIỆN QUAN TRÌ TIẾT GIA ĐỊNH KIÊM LÃNH SỰ/ ĐƢA ÔNG NGUYỄN THIỆN QUANG VÂNG MỆNH VUA SAI VÀO GIA ĐỊNH KIÊM CHỨC LÃNH SỰ
Tu di hạ thùy bao tứ hoang Đại lãng hoành tiệt đông tây dƣơng Núi Tu di tỏa ra bao bọc bốn cõi/ Làm đại lãng chắn ngang đông dƣơng và tây dƣơng/ Từ Vũ cống lại đây
Vũ cống dĩ hoàn tứ thiên tải Sơn xuyên phong vật di chức phƣơng đã bốn ngàn năm/ Núi sông, phong vật ở ty chức phƣơng còn sót lại/ Khí vận gần mở mang, ngƣời giỏi
Khí vận tƣơng khai dị nhân xuất Tƣợng tâm độc tháo huyền minh tàng sinh ra/ Có tài khôn khéo, hiểu lẽ huyền minh/ Xem đƣợc sao, đo đƣợc nƣớc, sai khiến đƣợc sấm chớp/
Chiêm tinh, trắc thủy, dịch lôi hỏa Thê sơn, hàng hải y thiên quang Trèo lên núi, vƣợt qua bể, dựa vào ánh sáng mặt trời/ Năm ngoái nƣớc Pháp đến xin thông thƣơng/ Vua
Khứ niên (1874) Pháp lan cầu hỗ thị Chiếu thƣ đặc chuẩn thân hòa nghị xuống chiếu cho lập hòa nghị/ Thúy xuyên tƣ mã trƣớc là bậc tri phủ giỏi/ Tháng Tám phụng sứ mạng,
Thúy xuyên, tƣ mã cựu lƣơng thú Bát nguyệt tinh sà hạ nam kỵ trèo thuyền vào trong Nam/ Các cố lão thấy ông đều vui mừng nhƣ đƣợc mƣa mùa xuân/ Các ngƣời thổ
Di lão quần hân cao vũ xuân Chƣ phiên tận bẩm thiên vƣơng sứ dân kính ông là bực thiên sứ của nhà vua/ Tƣởng lại năm trƣớc, tôi làm việc văn thƣ trong dinh Định
Ức tích tái bút định quân doành Dữ quân liên tháp ngọa đàm binh quân/ Cùng ông liền giƣờng nằm bàn việc quân/ Ngồi ung dung, bên tôn trở, đuổi đƣợc toán kỳ binh
Thung dung tôn trở khƣớc lỗ ky Khuynh đảo ý khí tầm thi minh Phong trần thốc hốt vạn sự cải của giặc/ Ý khí khâm phục nhân kết bạn làm thơ/ Cơn gió bụi phút chốc làm cho muôn việc thay đổi/ Chúng ta đều xiêu giạt xa quê nhà đã mấy năm/ Cũng
Cố thổ phiêu linh kim kỵ tải Ky sầu Dữu Tín ai Giang nam nhƣ Dữu Tín ôm mối sầu nằm mãi ở Giang nam/ Nhƣ Thiếu lăng nằm già rũ ở miền Giang hải/ Biết
Thùy lão Thiếu lăng ngọa Giang hải Na tri thử địa trục chinh hồng đâu chỗ đất này, chim hồng xa bay, gặp nhau ngơ ngác nhƣ trong giấc mơ/ Thùng đựng nƣớc nhà chùa
Sạ phùng hốt nhạ nhƣ mộng trung Tiêu trai xuân ủng dạ trữ nguyệt đêm trữ bóng trăng/ Ngựa muốn về ở nơi trọ, sáng kêu gió bắc/ Không biết gặp nhau lần sau ở chỗ nào/
Khách xá ban mã thần tê phong Huyền tri hậu hội tại hà xứ Vậy nên ngồi buồn, đầu râu tóc bạc, đều hầu thành ông già cả rồi/ Bây giờ đây triều đình đƣơng có việc
Tọa thảng mấn phát toàn thành ông Nhƣ kim đƣơng trữ ân nam cố lo về miền Nam/ Chức Tƣ nông ngửng trông nóc nhà lo việc tài chính/ Việc buôn với nƣớc ngoài thuộc về
Tƣ nông ngƣỡng ốc ƣu tài phú Trùng dƣơng thƣơng chính thuộc tân nha một chức quan mới/ Tôi bực vì không có thiên trù hải để tặng ông/ Ngảnh đầu về miền Nam bâng khuâng
nhìn mây lồng cây rợp.
Sam quốc hòa thƣ tồn chƣởng cố Tặng quân khổ phạp trù hải thiên (Nguyễn Thông, con ngƣời và tác phẩm – tr 213)
Kiểu thủ thiên nam trƣớng vân thụ
PL191
9. TỐNG THUẬN PHỦ LÊ CÔNG ĐÌNH TUẤN TẢ THIÊN HÀ NỘI BỐ CHÁNH SỨ/ ĐƢA ÔNG LÊ ĐÌNH TUẤN TUẦN PHỦ TỈNH BÌNH THUẬN GIÁNG LÀM BỐ CHÍNH TỈNH HÀ NỘI
Thiên mạt bi phong khởi tái hàn Tần xuyên thụ sắc phốc chinh an Dĩ tƣơng cao luận tồn danh nghĩa Khẳng đạn ti phi tích vũ hàn Bạch hải phàm tƣờng tân thế giới Chu diên thành quách cựu Tràng An Thừa tuyên diệc hệ trù biên trách Trừ khƣớc hòa thân kiến tích nan Cuối trời, gió lạnh, làm cho nơi quan tái trở rét/ Đi qua đất Chiêm thành sắc cây bám vào yên ngựa/ Ông đã đem lời bàn cao xa giữ đƣợc danh nghĩa/ Không nể bay thấp mà tiếc lông cánh mình/ Những cột buồm đi lại nơi cửa bể Bạch Đằng đã thành thế giới mới/ Thành quách Chu Diên còn là Tràng An cũ nƣớc ta/ Ông làm thừa tuyên cũng vẫn có cái chức trách lo việc biên phòng/ Trừ việc hòa thân ra thì khó lập nên thành tích.
(Nguyễn Thông, con ngƣời và tác phẩm – tr 216)
10. TỐNG BÙI LANG CHI GIA ĐỊNH (KỶ MÃO)/ ĐƢA ÔNG BÙI TỊCH ĐI GIA ĐỊNH
Hoàn nam nhất lộ tiếp Viêm cƣơng Kim khánh văn tê chiếu thặng hoàng Ngã dục hoán quân quan chức tiểu Mỗi nhân công cán đắc hoàn hƣơng
Một con đƣờng phía Nam nƣớc Hoàn vƣơng, tiếp với bờ cõi Nam Bộ/ Đem đồ khánh vàng và sừng tê ngu sáng rực giọi vào ngựa thăng hoàng/ Tôi cũng muốn đổi cho ông cái chức quan nhỏ ấy/ Để mỗi khi nhận việc công đƣợc về thăm quê hƣơng
(Nguyễn Thông, con ngƣời và tác phẩm – tr 224)
11. TỐNG TRƢƠNG GIA HỘI NAM QUY/ ĐƢA ÔNG TRƢƠNG GIA HỘI VỀ NAM
Ty địa cánh an vãng Nguy đồ kim độc quy Đồng ngâm Phan Thiết nguyệt Điễn tận niếp trung y Sơn dịch xuân phong yết Giang phàm vân thọ vi Nhân hà hữu mao võ Vân ngoại tá cao phi Ở đất lánh giặc nay đi đâu? Đƣờng hiểm nghèo nay về một mình Cùng ngâm vịnh trăng Phan Thiết Cầm cố hết áo trong rƣơng Sáo núi nghẹn tiếng trong gió xuân Cánh buồm trên sông, giữa những cây chiềm hôm mờ nhỏ Ngƣời làm gì có cánh, lông Để mà mƣợn hầu bay cao ngoài tầng mây.
(Nguyễn Thông, con ngƣời và tác phẩm – tr 232)
XXX. THƠ TỐNG BIỆT NGUYỄN QUANG BÍCH
(Thơ tống biệt Nguyễn Quang Bích khảo sát trong hai cuốn: Thơ văn Nguyễn Quang Bích (1973), Nxb Văn học, Hà Nội và Đình Nguyên Hoàng Giáp Ngƣ Phong Nguyễn Quang Bích (2013) (nhiều tác giả), Nxb Văn học, Hà Nội).
1. TIỄN CHU THIẾT NHAI/ TIỄN ÔNG CHU THIẾT NHAI
Thần châu lỗi lạc thục thanh chung Đạp phá giang sơn sổ vạn trùng Bất nhẫn thâm lâm trƣờng Ngọa Hổ Khả năng hồ hải kiến Nguyên Long Khí trong lành đất Thần châu chung đúc nên ngƣời lỗi lạc Đã xông pha qua mấy vạn trùng sông núi Không nỡ để con hổ mạnh nằm mãi trong rừng sâu Sẽ đƣợc thấy rồng lớn vẫy vùng nơi biển cả
PL192
Khổng, Nhan đạo mạch ƣng vô cực Bĩ thái cơ giam hoặc ngẫu phùng Vị thị thiên tâm hà khí Việt Thuần dao kỵ độ ẩm cao thung Đạo mạch Khổng, Nhan hẳn không bao giờ cùng cực Cơ bĩ thái huyền diệu, hoặc có lúc ngẫu nhiên mà gặp Lòng trời chƣa phải đã bỏ hẳn nƣớc Việt Chén rƣợu tri âm đã bao lần uống vào lúc hoàng hôn.
(Thơ văn Nguyễn Quang Bích – tr 126)
2. TỐNG QUI NHÂN, CẢM TÁC/ TIỄN NGƢỜI VỀ, CẢM TÁC
Ly gia kỵ tải bội tƣ thân Khiển quyển qui lai tự tống nhân Vị hữu quyên ai năng báo quốc Khả kham bôn thoán cận toàn thân Thê lƣơng xuân dạ trùng thanh náo Nê nính hành tung điểu đạo trần Kết ốc cận dung tam ngũ bộc Nhất sàng thê tức dữ sơn lân Lìa nhà mấy năm càng thêm nhớ ngƣời thân Khi tiễn ngƣời về, tình quyến luyến không nỡ rời Ơn nƣớc báo đền chƣa đƣợc mảy may Sao đành lẩn lút để bảo toàn riêng lấy thân mình? Đêm xuân lạnh, tiếng dế kêu rền rĩ Dấu chân kẻ chinh phu lầy bùn mà lối chim bay mờ bặt Dựng căn nhà, chỉ vừa ở đƣợc dăm ba ngƣời tùy tùng Một giƣờng nằm nghỉ, liền kề với non xanh.
(Thơ văn Nguyễn Quang Bích – tr 139)
3. TỐNG QUI NHÂN/ TIỄN NGƢỜI VỀ
Tịch mịch sơn đầu chƣớng hựu yên Mƣu sinh vô kế nhật nhƣ niên Quyên ai vị bảo gia hà hữu Sƣơng tuyết phùng nhân lộ bất tiền Thân thế dĩ cam tùy hóa chuyển Nghĩa sƣ do thị chẩm qua miên Qui nhân dao tống sầu thiêm bội Độc lập tà dƣơng thính đỗ quyên. Trên đỉnh núi vắng ngắt, chỉ có khói và hơi lam chƣớng Không có cách mƣu sinh nên ngày dài nhƣ năm Nợ nƣớc chƣa báo đền mảy may, nói gì đến nhà Gặp ngƣời trong sƣơng tuyết, đƣờng không sao đi đƣợc Thân thế đã đành theo con Tạo chuyển vần Nghĩa quán đƣơng còn gối giáo nằm đợi Xa tiễn ngƣời về, mối sầu tăng gấp bội Đứng một mình trong ánh chiều nghe chim cuốc kêu.
(Thơ văn Nguyễn Quang Bích – tr 157)
4. TIỄN NINH BÌNH NGUYỄN TÁN TƢƠNG HỒI NAM/ TIỄN ÔNG TÁN TƢƠNG HỌ NGUYỄN TỈNH NINH BÌNH VỀ NAM
I Kỵ tải lâm trung cộng tự sơ Ly câu tạm xƣớng độc thê nhƣ Bằng quân nhất lộ đa văn kiến Vị cập khuynh đàm tảo ký thƣ II Bôn bá niên lai bất hạ cƣ Gia thanh hòe cức vũ cao dƣ Nhƣ kim ý khí tƣơng kỳ xứ Quỵ ác hoàn tu tận lực trừ III I Mấy năm nay ở trong rừng cùng nhau rau cháo/ Tạm xƣớng khúc ly ca, khiến lòng ta riêng buồn/ Trên đƣờng chắc ông nghe nhiều thấy rộng/ Chƣa đƣợc lại cùng trò chuyện, ông nên sớm biên thƣ cho tôi II Mấy năm qua chạy vạy, chẳng đƣợc rảnh/ Tiếng tăm tổ phụ ở nơi khóm cức, rặng hòe, ơn mƣa móc có thừa/ Ngày nay ý khí ƣớc hẹn nhau ở chỗ:/ Cần đem hết sức mình diệt loài quỵ ác III
PL193
Nguyên nhung tín chỉ lƣợng phi hƣ Thạc quả do tồn hệ đắc dƣ Thử khứ Nam - Ninh đa nghĩa sĩ Phạm công thao lƣợc cửu thành thƣ IV Hanh trân đáo để hữu thừa trừ Chỉ phát nhân nhân hận vị thƣ Nhƣợc ngộ đồng tâm thoại bôi tửu Ngã Nam thiên định Lạc - Hồng sơ Tấm giấy của Nguyên nhung, tin chắc không thể giả mạo đƣợc/ Ngƣời tựa quả lớn còn đó, khiến mọi ngƣời trông cậy/ Chuyến đi này, Nam - ninh là nơi có nhiều nghĩa sĩ/ Phép dùng binh của Phạm công từ lâu đã thành sách IV Thời vận thuận tiện hay gian truân xét cho cùng đều có sự đắp đổi/ Tóc dựng lên, ngƣời ngƣời đều chƣa nguôi hận thù/ Nếu gặp bạn đồng tâm nhắp chén chuyện trò/ Cũng nên nhắc nhở nhau rằng đất nƣớc Việt nam sách trời đã định từ thuở Hồng - Lạc.
(Thơ văn Nguyễn Quang Bích – tr 184)
5. NGƢ PHONG HỌA THI HỌA THIẾT NHAI LƢU GIẢN NGUYÊN VẬN/HỌA NGUYÊN VẬN BÀI LƢU TẶNG CỦA ÔNG THIẾT NHAI
Quốc loạn dân sẩu bất tận ai Bĩ chung ƣng hữu thái hoàn lai Cao nhân tƣớng lƣợc dung thùy thủ Khải trị thiên tâm mặc giáng tài Phong kiếm chính khan xung Đẩu diệm Bằng dao phiên tác tỉ nam bồi Qui tinh “ẩm chí” vô đa viễn Kỵ Đức đài liên Ngƣỡng Đức đài
(Đình Nguyên Hoàng Giáp Ngƣ Phong Nguyễn Quang Bích – tr 188)
Nƣớc loạn dân sầu khôn kể siết Cơn bĩ cực qua đi, tuần thái lai ắt đến Bậc cao nhân hùng lƣợc hơn ngƣời nên phải ra tay Lòng trời muốn mở đời thịnh trị, tự nhiên sinh ra ngƣời tài giỏi Thanh kiếm Phong Thành, khí sáng đƣơng xông lên sao Đẩu Chim Bằng sẽ vùng dậy cất cánh bay về cõi Nam Sứ thần trở về và tiệc rƣợu mừng công không còn xa mấy Đài Kỵ Đức liền kề bên đài Ngƣỡng Đức.
6. TIỄN NGUYỄN TÁN TƢƠNG KHÊ ÔNG NHƢ VÂN NAM KHẤT SƢ/TIỄN NGÀI TÁN TƢƠNG HỌ NGUYỄN HIỆU LÀ KHÊ ÔNG ĐI VÂN NAM XIN VIỆN BINH
I Bất nhục toàn tƣ quốc sĩ tài Khả liên tiền độ miệt trần ai Dao dao tử các trùng tiêu ngoại Trƣờng đoạn linh nhân nhật kỵ hồi II Trƣờng đoạn linh nhân nhật kỵ hồi Xa vân vọng vọng tái vân khai Gian tân vạn trạng nhƣ kim nhật Nhất phó bình bi “cộng tửu bôi”
I Không để nhục đến mệnh vua, trông cậy ở tài ba ngƣời quốc sĩ Đáng thƣơng, độ trƣớc ông từng coi thƣờng gió bụi Xa xa trông về nơi gác tía ở ngoài chín tầng mây Khiến ngƣời ngày mấy lần ruột đau nhƣ cắt II Khiến ngƣời ngày mấy lần ruột đau nhƣ cắt Trông vời bánh xe quay, vén mây biên ải Gian nan tận khổ nhƣ ngày nay thật thiên hình vạn trạng Mặc cho nghiêng ngửa hay bằng phẳng, hãy cùng nhau uống một chén rƣợu. (Đình Nguyên Hoàng Giáp Ngƣ Phong Nguyễn Quang Bích – tr 199)
7.TIỄN NGUYỄN TỐN HOÀNG/TIỄN ÔNG NGUYỄN TỐN HOÀNG Đã ở bên nhau lâu, lúc chia tay khó rời Cửu xử nan vi biệt
PL194
Trung tình nhƣợc hữu tƣ Nhất kê lâm dạ xƣớng Phong vũ lậu thanh trì Phải xa nhau, lòng đầy thƣơng nhớ (Thêm) một tiếng gà rừng gáy trong núi Lại tiếng mƣa gió ủ ê. (Đình Nguyên Hoàng Giáp Ngƣ Phong Nguyễn Quang Bích – tr 267)
XXXI. THƠ TỐNG BIỆT NGUYỄN KHUYẾN
(Thơ tống biệt Nguyễn Khuyến khảo sát trong cuốn: Nguyễn Khuyến tác phẩm, (1984), Nguyễn Văn Huyền (biên soạn), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội).
1. TẶNG HÀNH NHÂN NGUYỄN ĐÀI/ TẶNG BÁC NGUYỄN ĐI SỨ
Quân gia tài trụ ngã gia biên Nhất khứ xâm tầm hựu nhất niên Lão bệnh cũng giao ƣng tích biệt Loạn ly hàn sĩ tối kham liên Cựu tình lịch sổ thanh xuân ngoại Trọc tửu tƣơng khuynh lục trúc tiền Trù tƣớng minh triêu thiên lý lộ Vỳ vân, Đằng nguyệt các du nhiên Nhà bác mới đến ở cạnh nhà tôi Ra đi dần dà đã lại một năm Bạn nghèo, tuổi già yếu, buồn cho lúc ly biệt Hàn sĩ buổi loạn ly, thực là đáng thƣơng Tình bạn cũ trải mấy độ thanh xuân ngày trƣớc Chén rƣợu nhạt cùng nâng mời bên rặng tre xanh Buồn nỗi sáng mai bác đã lên đƣờng ngàn dặm Mây sông Vỳ, trăng sông Đằng vời vợi cách xa.
(Nguyễn Khuyến tác phẩm – tr 399)
2. TIỄN MÔN ĐỆ NGHĨA ĐỊNH SỨ QUÂN LÊ NHƢ BẠCH, NHÂN KÝ KINH THÀNH CHƢ MÔN ĐỆ I/ TIỄN HỌC TRÒ LÀ NGHĨA ĐỊNH SỨ QUÂN LÊ NHƢ BẠCH, NHÂN TIỆN GỬI CHO CÁC HỌC TRÒ Ở KINH THÀNH 1
Biệt tử đô môn kim thất niên Quy lai ngã diệc quyển thanh chiên Mộng trung thân thế cơ vi điệp Loạn hậu văn chƣơng bất trị tiền Phong vũ tu đồ năng đáo thử Sơn hà vãng sự nhất thê nhiên Minh triêu hựu thị giang kiều lộ Bại nhứ tàn vân thất nguyệt thiên Từ biệt anh ở cửa kinh thành đến nay đã bày năm rồi Trở về nhà, ta cũng cuốn tấm nệm xanh từ đấy Nghĩ thân thế hầu nhƣ một giấc mộng hóa bƣớm Mà văn chƣơng sau buổi loạn lạc, rẻ rúng không đáng tiền Đƣờng dài mƣa gió, anh đã không quản ngại mà đến đây Nhìn lại những việc đã qua, trên núi sông, lòng càng đau xót Sáng mai, anh lại lên đƣờng, qua sông qua cầu Giữa tiết trời tháng bảy, mây tàn, bông bay xơ xác.
(Nguyễn Khuyến tác phẩm – tr 401)
3. TIỄN MÔN ĐỆ NGHĨA ĐỊNH SỨ QUÂN LÊ NHƢ BẠCH, NHÂN KÝ KINH THÀNH CHƢ MÔN ĐỆ II/ TIỄN HỌC TRÕ LÀ NGHĨA ĐỊNH SỨ QUÂN LÊ NHƢ BẠCH, NHÂN TIỆN GỬI CHO CÁC HỌC TRÒ Ở KINH THÀNH 2
Nhất biệt đô môn tuế thất chu Phùng quân cánh ức cựu tòng du Dao dao quan tái kim hà tịch Lạc lạc phong trần các nhất châu Bút nghiễn trầm tƣ ƣng hữu lệ Sơn hà cử mục bất thăng thu Từ khi biệt nhau ở cửa đô thành, chốc đã bảy năm Nay gặp anh ở đây lại nhớ đến các ngƣời theo học cũ Quan ải xa xăm, ngờ đâu nay lại gặp Gió bụi bời bời, mỗi ngƣời một ngả Ngẫm đến bút nghiên đáng tràn nƣớc mắt Ngƣớc nhìn sông núi, khôn xiết buồn đau
PL195
Quân quy ký ngữ tƣơng tri giả Huyền Án tiên sinh dĩ bạc đầu Anh về, lão gửi lời nói cho mọi ngƣời quen thuộc biết Rằng: Huyền Án tiên sinh nay đã bạc đầu rồi.
((Nguyễn Khuyến tác phẩm – tr 402)
XXXII. THƠ TỐNG BIỆT LÃ XUÂN OAI
(Thơ tống biệt Lã Xuân Oai khảo sát trong cuốn: Lã Xuân Oai - Côn Đảo thi tập (2005), Nxb Lao Động)
1. TIỄN HÀNH THIỆN TÚ TÀI HỒI/ TIỄN ÔNG TÚ HÀNH THIỆN VỀ
Phiên nhiên nhất khởi bệnh suy thân Tế nhận thời cơ khởi cửu truân Nam phóng truyền văn tha thất nguyệt Bắc vi tƣơng tống ngã tam nhân Phù vân xuất tụ phi vô định Ngọc quế lăng sƣơng lão cánh tân Ký ngữ ngô châu cựu tri thức Vãng vô bất phục lý du quân.
Thân tàn vùng dậy lại vui tƣơi Nhận rõ thời cơ thoát nạn rồi Tháng bảy miền Nam về một bạn Ngày nay đất Bắc mãn ba ngƣời Mây qua đỉnh núi bay bay tít Quế đƣợm hơi sƣơng nức nức mùi Nhắn hỏi anh em quen biết cũ Tuần hoàn đâu chẳng có cơ trời. (Côn Đảo thi tập – tr64)
2. TIỄN TĨNH ÔNG CHI CÔN ĐẢO/ TIỄN MỘT ÔNG QUÊ Ở HÀ TĨNH ĐI CÔN ĐẢO
(Thị ông Hà Tĩnh nhân hữu chí chi sĩ, sinh bình lịch duyệt, đa ngẫu vi tha trở, ngã thử hồi Phiên thành ngộ tiễn). Bất tác phong tiền lệ Thƣờng tiên thiên hạ ƣu Thƣơng mang hà thế giới Nhậm nhiễm kỵ xuân thu Dị thành túc cơ biến Tân văn tâm dữ mƣu Vân long ƣng dĩ định Côn hải thả ngao du
(Ông này là ngƣời Hà Tĩnh, là kẻ sĩ có chí, bình sinh từng trải nhiều, bị tây bắt đi đày. Lúc đó ta còn ở Nam Vang, tiễn ông đi Côn Đảo). Mắt không rơi lệ gió Lòng lo việc trƣớc đời Mông mênh trong cái biển ngƣời Tháng ngày thấm thoát mấy mƣơi thu tròn Chuyện mới tai nghe khắp Nơi xa gót bƣớc mòn Rồng mây hẹn với nƣớc non Tạm ra Côn Đảo để còn ngao du. (Côn Đảo thi tập – tr124)
3. TIỄN BẾN TRE TỔNG TRƢỞNG/ TIỄN TỔNG TRƢỞNG BẾN TRE
(Mãn tứ niên hạn hồi, kỳ nhân diệc hữu hào khái) Sổ tải khuê vi nhất nhật hoàn Vãng lai tình thoại duyệt hƣơng quan Ƣu tiêu Côn hải ba đào ngoại Lạc toại Cần giang trúc thủy gian Vũ tụ phong sinh vân thụ sắc Hoan bôi nguyệt túy cúc hoa nhan (Ông này hết hạn bốn năm đƣợc về, là ngƣời hào sảng khí khái). Mấy năm dồn lại một ngày về Thăm hỏi tƣng bừng rộn thú quê Côn Đảo sầu xƣa tan sóng gió Cần giang hứng cũ thích mây tre Gió bay tà áo hoa thêm sắc Rƣợu nức mùi hƣơng nguyệt dãi hè
PL196
Mang mang huyền giám chân phi viễn Đa thiểu bình nhân trƣởng tự nhàn
Lồng lộng trời xanh không cách mấy Nỗi niềm kể lại dễ ai nghe. (Côn Đảo thi tập – tr128)
4. ĐẠI GIÁP SƠN ÔNG TIỄN XẠ SƠN ÔNG CAI TỔNG/ THAY ÔNG GIÁP SƠN TIỄN ÔNG CAI TỔNG XẠ SƠN
Kỵ tải thiên nhai nhất nhật hoàn Vãng lai tình thoại duyệt hƣơng quan Ba đào biệt hận tiêu Côn hải Phong nguyệt phƣơng tình túy Xạ sơn Nghĩa lộ định tri tùy xứ đạt Hóa nhi ƣng bất cấn nhân nhàn Ân cần lạc vị ngô châu đạo Lục phục nguyên cơ tự chuyển hoàn,
Bao năm xa cách đến kỳ về Thăm hỏi dân làng rất hả hê Côn Đảo đập tan làn sóng hận Xạ Sơn say đắm thú trăng quê Bƣớc theo đƣờng nghĩa mau mau tiến Nhắm thấy cơ trời đúng đúng ghê Bảo với bạn bè trong đất biết Tuần hoàn lẽ ấy chớ nên chê. (Côn Đảo thi tập – tr155)
XXXIII. THƠ TỐNG BIỆT ĐÀO TẤN
(Thơ tống biệt Đào Tấn khảo sát trong cuốn: Lê Trí Viễn (chủ biên) (1993), Tổng tập VHVN. T17, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội).
1. TỐNG HỮU NAM QUI/ ĐƢA BẠN VỀ NAM
Hƣơng Giang giang thƣợng tống quân hành Gia Định trùng qui cẩm tú thành Nhất thốn giang sơn nhất thốn huyết Vệ bang, thù thổ, chí nan canh
Trên sông Hƣơng đƣa bạn lên đƣờng Một lần nữa trở về thành Gia Định gấm vóc Một tấc núi sông, một tấc máu Giữ nƣớc, giữ đất, chí khó đổi thay. (Tổng tập VHVN. T17 – tr 779)
2. TỐNG NGUYỄN TƢỚNG QUÂN TRI PHƢƠNG NAM CHINH/ TIỄN TƢỚNG QUÂN NGUYỄN TRI PHƢƠNG VÀO NAM ĐÁNH GIẶC Trƣơng kiếm Nam chinh diệt Lăng Sa Anh hùng báo quốc bất tƣ gia Vọng quân mã đáo thành công nhật Bắc phán kinh thành xƣớng khởi ca
Ông chống gƣơm vào Nam diệt giặc Pháp/ Là bậc anh hùng báo đền ơn nƣớc, không nghĩ đến nhà/ Mong ông đến ngày ngựa tới là thành công/ Khi trở về đất Bắc,đến kinh thành, sẽ hát bài chiến thắng. (Tổng tập VHVN. T17 – tr 780)
3. TỐNG HOÀNG CÔNG QUANG VIỄN BẮC HÀNH/ TIỄN ÔNG HOÀNG QUANG VIỄN RA BẮC Thánh thƣợng điều quân trấn trọng thành Thăng Long thiên tài sử lƣu danh Chúc quân tận lực ƣ nhung mạc Bất sử Lang Sa dục đắc hoành
Vua điều ông ra trấn thành trọng yếu Thăng Long từ nghìn năm tên để lại trong sử sách Chúc ông hết sức lo về quân sự Đừng để sự thèm khát của giặc Pháp đƣợc rộng càn (Tổng tập VHVN. T17 – tr 787)