HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
LÊ MINH ĐỨC
THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ QUYÒN, NGHÜA Vô CñA
LUËT S¦ TRONG HO¹T §éNG Tè TôNG H×NH Sù
ë VIÖT NAM HIÖN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Hà Nội - 2020
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
LÊ MINH ĐỨC
THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ QUYÒN, NGHÜA Vô CñA
LUËT S¦ TRONG HO¹T §éNG Tè TôNG H×NH Sù
ë VIÖT NAM HIÖN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số : 9380106
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Tường Duy Kiên
Hà Nội - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án này là công trình nghiên cứu khoa học độc lập
của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn
gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả
Lê Minh Đức
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU.... 6
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ...... 6
1.2. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU ......................................................................................... 33
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .......................................................................................... 37
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN,
NGHĨA VỤ CỦA LUẬT SƯ TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ Ở
VIỆT NAM .................................................................................................................. 38
2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
QUYỀN, NGHĨA VỤ CỦA LUẬT SƯ TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM ............................................................................................ 38
2.2. NỘI DUNG PHÁP LUẬT VÀ HÌNH THỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
QUYỀN, NGHĨA VỤ CỦA LUẬT SƯ TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM ............................................................................................ 53
2.3. CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
QUYỀN, NGHĨA VỤ CỦA LUẬT SƯ TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ ...................................................................................................................... 71
2.4. MỘT SỐ GIÁ TRỊ THAM KHẢO THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN,
NGHĨA VỤ CỦA LUẬT SƯ TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
TRÊN THẾ GIỚI ĐỐI VỚI VIỆT NAM .................................................................. 77
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .......................................................................................... 81
Chương 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ QUYỀN, NGHĨA VỤ CỦA LUẬT SƯ TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ
TỤNG HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM ........................................................................... 82
3.1. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN, NGHĨA VỤ CỦA LUẬT SƯ
TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM ............................... 82
3.2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN, NGHĨA VỤ CỦA
LUẬT SƯ TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM ........... 97
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ........................................................................................ 121
Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
QUYỀN, NGHĨA VỤ CỦA LUẬT SƯ TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .................................................................. 122
4.1. QUAN ĐIỂM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN, NGHĨA VỤ CỦA
LUẬT SƯ TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY ............................................................................................................................ 122
4.2. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN, NGHĨA VỤ
CỦA LUẬT SƯ TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY ................................................................................................................. 125
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4 ........................................................................................ 147
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN .................................................................................................................. 150
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 151
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS : Bộ luật hình sự
BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự
CCTP : Cải cách tư pháp
ĐLS : Đoàn luật sư
HĐTTHS : Hoạt động tố tụng hình sự
LLS : Luật Luật sư
TAND : Tòa án nhân dân
TTHS : Tố tụng hình sự
VBQPPL : Văn bản quy phạm pháp luật
VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1. Số vụ án hình sự có luật sư tham gia trong các năm từ 101
2010 – 2019
Bảng 3.2. Tổng số luật sư Việt Nam qua các năm từ 2010 - 2019 104
Bảng 3.3. Tình hình xử lý kỷ luật luật sư qua các năm 113
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 3.1: Kết quả phỏng vấn về nội dung đánh giá mối quan hệ 97
giữa luật sư với chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố
tụng trong vụ án hình sự
Biểu đồ 3.2: Số vụ án hình sự đưa ra xét xử, số vụ án hình sự có luật 115
sư tham gia giai đoạn 2017 – 2019
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Luật sư một nghề cao quý được xã hội tôn trọng và tin tưởng. Với hơn
70 năm hình thành, xây dựng và phát triển, luật sư Việt Nam trong hoạt động
tố tụng hình sự (HĐTTHS) có vai trò quan trọng, góp phần bảo đảm công lý
được thực thi hiệu quả, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ
quan, tổ chức, giảm thiểu án oan, sai; xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững
mạnh, an ninh chính trị, an toàn xã hội được bảo đảm, tăng cường.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là “nhà nước của
Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân quản lí mọi mặt của đời sống xã hội
bằng pháp luật” [86]. Vì vậy, mọi chủ thể tham gia vào quan hệ tố tụng hình
sự (TTHS) đều phải chấp hành pháp luật TTHS trong toàn bộ quá trình giải
quyết vụ án. Luật sư tham gia TTHS với tư cách người bào chữa cho người bị
buộc tội, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại, đương sự, tuân
theo pháp luật thông qua việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình trong
HĐTTHS. Sau khi Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) 2015 được ban hành
và có hiệu lực thi hành đã góp phần nâng cao vị thế của luật sư trong
HĐTTHS thông qua việc kế thừa có bổ sung các quy định tiến bộ tương thích
với các nền tư pháp tiên tiến nước ngoài về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong
HĐTTHS. Tuy nhiên, các quyền, nghĩa vụ này vẫn chưa được bảo đảm đầy
đủ do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, các chủ thể khi thực hiện
còn khó khăn, không thống nhất, ảnh hưởng đến việc tìm ra sự thật khách
quan của vụ án và thực thi công lý. Thực trạng cần được đánh giá một cách
khách quan, toàn diện, kết hợp với việc nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề lý
luận để đưa ra phương hướng, giải pháp thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa
vụ của luật sư trong HĐTTHS.
Trong thời gian qua, ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu về
2
hoạt động của luật sư nói chung, trong đó có đề cập đến các quyền, nghĩa vụ
của luật sư. Tuy nhiên, các công trình này còn chưa cập nhật các quy định
mới của pháp luật (Hiến pháp 2013, BLTTHS 2015; Luật Luật sư 2006 sửa
đổi bổ sung 2012, các văn bản pháp luật khác có liên quan) và mới chỉ đề cập
ở một vài khía cạnh của đề tài, chưa nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện vấn đề
thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS. Từ lý luận
và thực tiễn nêu trên đã đặt ra một yêu cầu bức thiết, mang tính thời sự đối
với việc thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS.
Vì vậy, nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài: “Thực hiện pháp luật về quyền,
nghĩa vụ của luật sư trong hoạt động tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện
nay” làm đề tài luận án tiến sĩ.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật về
quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS; từ thực trạng pháp luật và thực
hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS. Luận án đề
xuất các quan điểm và giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa
vụ của luật sư trong HĐTTHS ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận án cần thực hiện một số nhiệm
vụ chính sau:
- Nghiên cứu, đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề
tài luận án;
- Phân tích khái niệm, đặc điểm, vai trò của thực hiện pháp luật về
quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS; nội dung pháp luật và hình thức
thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS và yếu tố
tác động đến thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong
HĐTTHS;
3
- Khái quát quá trình hình thành và phát triển pháp luật về quyền, nghĩa
vụ của luật sư trong HĐTTHS ở Việt Nam; Phân tích, đánh giá thực trạng
pháp luật và thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong
HĐTTHS ở Việt Nam;
- Nêu quan điểm và giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về quyền,
nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề cơ sở lý luận, pháp
luật có liên quan và thực tiễn thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật
sư trong HĐTTHS ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Luận án tập trung nghiên cứu thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ
của luật sư trong HĐTTHS dưới góc độ lý luận chung về nhà nước và pháp
luật; nghiên cứu hoạt động thực hiện quyền, nghĩa vụ của luật sư với tư cách
người bào chữa cho người bị buộc tội, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho bị hại, đương sự trong HĐTTHS (không bao gồm tư cách người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố)
và mối quan hệ với cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong phạm vi toàn
quốc. Thời gian nghiên cứu được giới hạn từ năm 2006 (thời điểm Luật Luật
sư được ban hành) đến nay.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Luận án được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng quan điểm của học thuyết
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cải
cách tư pháp (CCTP) trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
(XHCN), quan hệ giữa Nhà nước pháp quyền XHCN, CCTP với thực hiện pháp
luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS ở nước ta hiện nay.
4
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng nhiều phương nghiên cứu cụ thể như sau:
- Phương pháp lịch sử, phân tích, quy nạp sử dụng chủ yếu ở chương 2,
nêu lên các cơ sở lý luận của các vấn đề đặt ra, qua đó khái quát hóa thành
những luận điểm làm nền tảng lý thuyết xuyên suốt nội dung của vụ án;
- Phương pháp lịch sử, phân tích, thống kê, tổng hợp được thực hiện
trong chương 3 về đánh giá thực trạng pháp luật và thực trạng thực hiện pháp
luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS;
- Phương pháp phỏng vấn chuyên sâu được thực hiện với tiêu chí lựa
chọn các chuyên gia luật sư có thâm niên, uy tín trong lĩnh vực tố tụng hình
sự, ở 03 khu vực của cả nước (Bắc, Trung, Nam) để phỏng vấn trực tiếp một
số nội dung chính yếu liên quan đến đề tài luận án. Trong quá trình thực hiện,
ngoài dữ liệu từ những luật sư được phỏng vấn, còn có các thông tin và dữ
liệu mới nảy sinh có giá trị đối với đề tài. Kết quả của phương pháp này được
sử dụng chủ yếu tại Chương 3 của luận án.
- Phương pháp phân tích, chứng minh được sử dụng tại chương 4 nhằm
đưa ra quan điểm và giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa
vụ của luật sư trong HĐTTHS ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN thời kỳ hội nhập.
5. Những đóng góp mới của luận án
Luận án là công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu, có hệ thống và
tương đối toàn diện về thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư
trong HĐTTHS ở Việt Nam, kết quả nghiên cứu có những điểm mới như sau:
- Luận án phân tích, làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm và vai trò của
thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS;
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về
quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS qua đó làm sáng tỏ ưu điểm, tồn
tại và nguyên nhân của ưu điểm, tồn tại đó khi luật sư thực hiện quyền, nghĩa
5
vụ trong giải quyết vụ án hình sự hiện nay;
- Với nhiều cách tiếp cận khác nhau, luận án đưa ra kiến nghị, đề xuất
góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS, Luật Luật sư (LLS) và
các VBQPPL liên quan đồng thời đưa ra các nhóm giải pháp đảm bảo thực
hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS ở Việt Nam
hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Về lý luận, kết quả của luận án góp phần vào hoàn thiện lý luận về
thực hiện pháp luật nói chung, thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật
sư trong HĐTTHS nói riêng; đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp đảm
bảo thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS đáp
ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
- Về thực tiễn, luận án có thể làm tài liệu hữu ích với giới luật sư, tài
liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập trong các cơ sở đào
tạo luật và các cơ sở đào tạo chức danh tư pháp.
7. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án
được chia làm 4 chương, 10 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Luật sư tham gia vào HĐTTHS với tư cách người bào chữa, người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng. Trên thế giới, mỗi quốc gia có
những đặc tính pháp luật riêng, ứng với đó là mô hình TTHS phù hợp. Dù ở
mô hình TTHS nào thì sự tham gia của luật sư thông qua quyền, nghĩa vụ của
mình đều góp phần bảo đảm quyền con người, làm rõ sự thật khách quan của
vụ án, bảo đảm công lý được thực thi. Vì vậy, trong luận án “Thực hiện pháp
luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong hoạt động tố tụng hình sự”, tác giả
sẽ nghiên cứu vấn đề này đã được đề cập ra sao, nghiên cứu như thế nào ở
nước ngoài và trong nước, những vấn đề cần đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu
trong điều kiện ở Việt Nam hiện nay.
1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Diễn đàn nghiên cứu khoa học quốc tế đã có các công trình nghiên cứu,
bài báo, tham luận của các tác giả nước ngoài đề cập đến một hoặc một vài
khía cạnh về thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong
HĐTTHS, như:
-“Các nguyên tắc cơ bản về vai trò của luật sư” (Basic principles on the
role of lawyers) [60] được thông qua bởi Đại hội Liên Hợp Quốc lần thứ VIII
về phòng chống tội phạm và đối xử với người phạm tội, Havana, Cuba năm
1990: các nguyên tắc cơ bản về vai trò của luật sư được xây dựng để hỗ trợ
các quốc gia thành viên trong nhiệm vụ thúc đẩy và đảm bảo vai trò đúng đắn
của luật sư, cần được Chính phủ tôn trọng và tính đến trong khuôn khổ luật
pháp quốc gia của họ. Khi thực hành các nguyên tắc này cần được các luật sư
cũng như những người khác chú ý, chẳng hạn như thẩm phán, công tố viên,
7
thành viên của cơ quan hành pháp và lập pháp, và công chúng nói chung.
Những nguyên tắc này cũng sẽ được áp dụng, khi thích hợp, cho những người
thực hiện các chức năng của luật sư mà không có tư cách chính thức của luật
sư. Các nguyên tắc cơ bản về vai trò của luật sư bao gồm: Tất cả mọi người
có quyền kêu gọi sự giúp đỡ của luật sư về sự lựa chọn của họ để bảo vệ và
thiết lập quyền của họ và bảo vệ họ trong tất cả các giai đoạn TTHS; Chính
phủ sẽ đảm bảo rằng các quy trình hiệu quả và cơ chế đáp ứng để tiếp cận
hiệu quả và bình đẳng với luật sư được cung cấp cho tất cả mọi người trong
lãnh thổ của họ và thuộc thẩm quyền của họ, không phân biệt đối xử bằng bất
kỳ hình thức nào, như phân biệt đối xử dựa trên chủng tộc, màu da, nguồn gốc
dân tộc, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính trị hoặc ý kiến khác, nguồn gốc
quốc gia hoặc xã hội, tài sản, sinh, kinh tế hoặc địa vị khác; Chính phủ đảm
bảo cung cấp đủ kinh phí và các nguồn lực khác cho các dịch vụ pháp lý cho
người nghèo và, khi cần thiết, cho những người thiệt thòi khác. Hiệp hội luật
sư chuyên nghiệp sẽ hợp tác trong việc tổ chức và cung cấp dịch vụ, cơ sở vật
chất và các nguồn lực khác; Chính phủ và hiệp hội nghề nghiệp của luật sư sẽ
thúc đẩy các chương trình thông báo cho công chúng về các quyền và nghĩa
vụ của họ theo luật pháp và vai trò quan trọng của luật sư trong việc bảo vệ
các quyền tự do cơ bản của họ. Các nguyên tắc này đặc biệt chú ý đến việc hỗ
trợ người yếu thế trong xã hội để cho phép họ khẳng định quyền lợi của mình
và ở bất kỳ đâu. Những nội dung trên là tài liệu tham khảo hữu ích với đề tài
luận án.
- Bài viết “ Sự phát triển của luật hình sự Hoa Kỳ” (Evolution of US
Criminal Law) [46] của James B.Jacobs đề cập đến việc bảo vệ quyền con
người trong suốt quá trình tố tụng trong đó có quyền bào chữa, quyền có
người bào chữa. Tác giả lấy Hiến pháp Hoa Kỳ làm cơ sở xây dựng thủ tục
TTHS và trong giới hạn của Luật hình sự Hoa Kỳ với các nguyên tắc suy
đoán vô tội; quyền xuất trình chứng cứ, quyền không bị buộc phải đưa ra
8
chứng cứ tự buộc tội mình, các cơ quan có thẩm quyền phải chứng minh họ
có tội; quyền được xét xử công bằng và công khai; quyền được xét xử nhanh
chóng. Quyền có luật sư và quyền bào chữa nhằm bảo đảm tất cả bị can, bị
cáo đều có luật sư bào chữa, trường hợp người bị tình nghị phạm tội không có
tiền thuê luật sư thì Tòa án có thể sẽ chỉ định luật sư bảo vệ quyền lợi hợp
pháp cho họ. Luật sư cũng có quyền khai thác các nhân chứng của họ nhằm
thẩm tra về những nhân chứng của phía bên kia để kiểm tra chéo (Cross-
Examination). Bài viết này là tài liệu tham khảo hữu ích với đề tài luận án.
- Sách “Hướng tới một tố tụng hình sự quốc tế” (Toward an
international criminal procedure) [12] của tác giả Christoph J.M. Saffeling
viết về cách phát triển một trật tự TTHS quốc tế với nội dung so sánh, phân
tích những quy định bảo đảm các chuẩn mực quốc tế về quyền con người của
người bị tình nghi phạm tội và quyền được bào chữa của họ. Vì vậy, sách
cũng chú trọng đề cập đến việc tạo hành lang pháp lý nhằm bảo đảm việc xét
xử được công bằng, các điều kiện cần thiết để luật sư giúp người bị tình nghi
phạm tội thực hiện quyền được bào chữa như nguyên tắc về nghĩa vụ chứng
minh lỗi của bị cáo, việc kiểm tra chéo nhân chứng (Cross- Examination), giả
định vô tội, chế định thương lượng nhận tội trong tố tụng hình sự (chỉ trong
một số trường hợp đáp ứng điều kiện và quy định của pháp luật).
- Báo cáo “Nghiên cứu điều tra về vấn đề có liên quan đến luật sư
trong hoạt động tố tụng hình sự” của tác giả Ninh Hồng, Tôn Lợi [43]. Bài
viết đưa ra một số kiến nghị bổ sung vào "Báo cáo nghiên cứu điều tra về vấn
đề có liên quan đến luật sư trong hoạt động tố tụng hình sự" của Bộ tư pháp
Trung Quốc nhằm thúc đẩy công tác bảo đảm quyền lợi hành nghề của luật
sư, cải thiện môi trường hành nghề của luật sư Trung Quốc. Bài viết cho rằng
muốn cải thiện triệt để môi trường hành nghề của luật sư, giải quyết các vấn
đề còn tồn tại trong hoạt động tố tụng hình sự của luật sư, một mặt luật sư
phải nâng cao tố chất bản thân, đồng thời với việc tăng cường ý thức phòng
9
chống rủi ro nghề nghiệp, đẩy mạnh việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp và kỷ
luật hành nghề; mặt khác tích cựu tiến hành phối hợp với các cơ quan tư pháp
có liên quan nhằm bảo vệ quyền lợi của luật sư hơn nữa. Tài liệu này có ý
nghĩa tham khảo liên quan đến thực tiễn và giải pháp của luận án.
- Báo cáo “Quyền con người trong hệ thống tư pháp hình sư” (The
human rights in criminal justice systems) tại Cuộc họp thông tin Châu Á -
Châu Âu của Param Cumarawamy và Manfred Nowak [72] Hệ thống tư pháp
hình sự trong một xã hội dân chủ, tuân thủ luật pháp, phải cân bằng cẩn thận
các lợi ích khác nhau và đôi khi mâu thuẫn. Luật nhân quyền quốc tế thừa
nhận sự cần thiết phải cân bằng quyền lực Nhà nước và quyền tự do cá nhân,
đưa ra các đảm bảo tối thiểu mà các quốc gia phải tuân thủ trong suốt quá
trình tư pháp hình sự của mình. Báo cáo lưu ý rằng trong khi hình phạt về thể
xác đã bị đặt ra ngoài vòng pháp luật nhân quyền quốc tế và có một xu hướng
toàn cầu đang gia tăng đối với việc bãi bỏ án tử hình, các yếu tố đóng góp cho
sự phát triển tiến bộ của nhân quyền, vẫn còn là một vấn đề tranh luận đối với
các quốc gia rằng muốn duy trì các hình thức trừng phạt này như là một phần
của hệ thống tư pháp hình sự trong nước họ. Tuy nhiên, các vấn đề mà cả
những nước châu Á và châu Âu phải đối mặt cho thấy rất nhiều điểm tương
đồng. Hội thảo đã đề cập đến một loạt các vấn đề nhân quyền liên quan đến
tất cả các giai đoạn của quá trình tư pháp hình sự, nhấn mạnh nhận thức còn
sót lại rằng một cuộc xung đột tồn tại giữa lợi ích của an ninh và bảo vệ nạn
nhân và quyền của bị cáo; tầm quan trọng của sự tôn trọng các chuẩn mực
quốc tế; và những khó khăn và sự phức tạp đáng kể vốn có trong việc đảm
bảo hoạt động hiệu quả của bất kỳ hệ thống pháp lý nào. Xu hướng về Quyền
con người được bảo đảm trong tư pháp hình sự của các nước là một khía cạnh
tham khảo cần thiết với đề tài.
- Cuốn sách “Tài liệu về quyền con người của Brownlie” (Brownlie’s
document on human rights) [45] của tác giả Ian Brownlie, đây là cuốn sách
10
tổng hợp bao quát các nội dung, nguyên tắc về quyền con người; hình thức
thể hiện cụ thể, rõ ràng có đề dẫn, chú thích; nội dung về những văn kiện
được Liên Hợp Quốc và các bên liên quan thông qua mang tính pháp lý quốc
tế và có ý nghĩa quan trọng về quyền con người, bởi những tổ chức trong khu
vực và những người am hiểu về luật pháp là tài liệu tham khảo hữu ích về
quyền con người đối với luận án.
- Cuốn sách “Nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp
Trung Quốc, Indonesia, Nhật Bản, Hàn Quốc và Nga” [61] do Liên hợp quốc
thực hiện năm 2010 đã làm rõ cơ cấu tổ chức cơ quan tư pháp hình sự, quy
định về quyền bào chữa, tạo điều kiện để luật sư tham gia bào chữa của 5
quốc gia chọn lọc. Trong đó, luật sư được phép sử dụng nhiều phương pháp
đặc biệt để thu thập chứng cứ, có thể đề nghị ĐLS địa phương yêu cầu cơ
quan, tổ chức cung cấp tài liệu, việc hỏi cung không được ghi hình, ghi tiếng
khi chưa có sự hiện diện của luật sư ... Những nghiên cứu về mô hình tố tụng
nói trên có những nội dung liên quan đến hoạt động bào chữa của người bào
chữa, trong đó có luật sư. Vì vậy, việc tham khảo các tài liệu trên giúp cho
việc nghiên cứu của tác giả có những hiểu biết cần thiết về các mô hình tố
tụng, trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật, phù hợp với
mô hình tố tụng kết hợp mà CCTP ở Việt Nam đang hướng tới.
- “Báo cáo Quyền bào chữa trong pháp luật hình sự và thực tiễn tại Việt
Nam” do Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) thực hiện năm
2010 [13] đã nghiên cứu và so sánh pháp luật Việt Nam với pháp luật các
quốc gia (Trung Quốc, Đức, Nhật Bản, Australia) về quyền bào chữa - một
trong những chuẩn mực bắt buộc của việc xét xử công bằng, được pháp luật
quốc tế công nhận và bảo vệ; chỉ ra các điểm tích cực về tiếp cận quyền bào
chữa có thể vận dụng vào Việt Nam, đồng thời đánh giá tổng quan những tồn
tại trong việc tiếp cận, thực hiện quyền bào chữa trong giai đoạn điều tra, xét
xử vụ án hình sự ở nước ta. Từ đó, đưa ra một số đề xuất phù hợp để hoàn thiện
11
pháp luật, đồng thời bảo đảm, phát huy hiệu quả thực hiện quyền bào chữa trong
TTHS tại Việt Nam. Tài liệu này được xây dựng để phục vụ cho việc đóng góp
hoàn thiện dự thảo BLTTHS 2015, tuy nhiên vẫn có giá trị tham khảo đối với
luận án ở khía cạnh nghiên cứu về thực hiện quyền của luật sư bào chữa trong
TTHS tương quan so sánh với pháp luật một số nước về vấn đề này.
- Cuốn sách Luật của Black: Một luật sư hình sự tiết lộ những chiến lược
bảo vệ trong Bốn vụ án tiêu biểu (Black's Law: A Criminal Lawyer Reveals
His Defense Strategies in Four Cliffhanger Cases Paperback) [91] của Roy
Black - một trong những luật sư bào chữa hình sự cứng rắn và sắc sảo nhất
nước Mỹ. Dù bảo vệ một người nổi tiếng giàu có hay một tử tù nghèo khổ,
Black luôn cố gắng mọi cách để khách hàng của mình được xét xử công bằng.
Cuốn sách viết về hậu trường của bốn vụ án khó khăn và nguy hiểm để tiết lộ
các chiến lược pháp lý, chiến thuật “vô căn cứ” và tâm lý phòng xử án mà tác
giả đã sử dụng để đảm bảo khách hàng của mình nhận được mọi sự bảo vệ
theo luật. Các vụ án minh họa các cuộc đấu tranh sinh tử xảy ra thường ngày
tại các tòa án hình sự của Hoa Kỳ. Trong vụ án "Alvarez", tác giả đã thuyết
phục bồi thẩm đoàn gác lại việc công khai xét xử vụ án nhạy cảm liên quan
đến một cuộc bạo loạn chủng tộc và áp lực của xã hội đối với việc ban hành
bản án để bảo vệ một sĩ quan cảnh sát Tây Ban Nha trẻ tuổi thoát án tù vì giết
một thanh niên da đen Hoodlum trong khi làm nhiệm vụ. Trong vụ án "Hiệp
sĩ", Black phải đấu tranh với các vấn đề về giai cấp và chủng tộc khi anh ta
phải trải qua cuộc đấu tranh pháp lý kéo dài bốn năm để thuyết phục các thẩm
phán tòa phúc thẩm liên bang lật lại án tử hình đối với một kẻ giết người điên
rồ, tàn bạo vì sự tắc trách của các luật sư bào chữa trước đó. Trong vụ án
"Hicks", Black phải chứng minh sự vô tội của một khách hàng bằng cách
thuyết phục bồi thẩm đoàn rằng cảnh sát đã tiến hành một cuộc điều tra giết
người cẩu thả vi phạm tố tụng nghiêm trọng. Và trong vụ án "De La Mata,"
thời điểm mà nhà nước và xã hội đã trao cho các công tố viên, thẩm phán
12
nhiều quyền lực hơn để đưa những người tình nghi tội phạm vào nhà tù, các
luật sư bào chữa được coi là đứng về phía kẻ xấu. Nhưng Roy Black tin rằng
khi luật sư bỏ qua các quyền của bị cáo, cũng là làm giảm quyền của chính
mình. Trong hệ thống pháp lý có tính đối nghịch, người duy nhất đứng giữa bị
cáo và nhà tù hay án tử hình - là luật sư bào chữa hình sự. Tác giả cho thấy
các nguyên tắc của luật pháp, tiêu biểu là kiểm tra chéo (Cross- Examination),
bằng chứng cũng như quyền yêu cầu lựa chọn bồi thẩm đoàn và sử dụng khéo
léo các nhân chứng trong vụ án - có thể tạo thế cân bằng với thẩm quyền ưu
việt của công tố viên tiểu bang và liên bang. Cuốn sách đã chỉ ra vai trò quan
trọng của luật sư bào chữa hình sự khi bảo vệ các quyền cơ bản của con người
trong một phiên tòa công bằng, một tài liệu có giá trị tham khảo cao cả về mặt
lý luận và thực tiễn pháp lý liên quan đến đề tài luận án.
- Bài viết “Vai trò của luật sư bào chữa: không chỉ là một người biện hộ”
(The role of the defense attorney: not just an advocate) của tác giả Roberta
K.flowers [90] phân tích các yêu cầu đối với luật sư trong tình huống khách
hàng có kế hoạch thực hiện khai man. Qua đó, chỉ ra vai trò của luật sư không
chỉ thể hiện ở nghĩa vụ người biện hộ cho khách hàng mà phải bảo đảm các
nghĩa vụ đối với tòa án và công chúng. Vì vậy, để thực hiện chức năng bào
chữa có hiệu quả, phải đảm bảo vai trò 3 bên: vai trò của luật sư bào chữa, vai
trò của tòa án và vai trò của bên công tố. Bài viết có tính mới và gợi mở hơn
về chức năng xã hội của luật sư khi tham gia tố tụng hình sự với tư cách
người bào chữa, một tài liệu tham khảo hữu ích đối với luận án.
- Bài viết “chức năng bào chữa” (“Defense function”) của Đoàn luật sư
Hoa Kỳ [31] đã nêu lên các tiêu chuẩn chung của người bào chữa và các chức
năng của luật sư bào chữa. Theo đó, Luật sư bào chữa là một thành phần thiết
yếu của hệ thống tố tụng hình sự, bảo vệ công lý và lẽ phải. Một tòa án thành
lập đúng quy định để xét xử một vụ án hình sự phải được xem như là một
thực thể ba bên bao gồm các thẩm phán, công tố viên và luật sư bào chữa cho
13
bị cáo. Các tiêu chuẩn cũng như chức năng của luật sư bào chữa đó là: Luật
sư bào chữa phải có lòng can đảm, sự tận tâm để tham gia giải quyết vụ án
một cách hiệu quả và chất lượng, thể hiện bằng việc hành động tuân theo các
quy định của pháp luật. Đồng thời, khi gặp các bất cập liên quan đến chính
sách hình sự và quy định của pháp luật, người bào chữa phải đề xuất ý kiến,
tìm cách cải cách và cải thiện hành chính tư pháp hình sự. Người bào chữa
không có nhiệm vụ phải thực hiện bất kỳ chỉ thị nào của bị cáo mà không
đúng với quy định của pháp luật hoặc vi phạm pháp luật. Người bào chữa
không được xuyên tạc hoặc bóp méo sự thật, cung cấp các chứng cứ, tài liệu
sai sự thật cho Tòa án… Người bào chữa phải được hướng dẫn và tuân theo
các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, những điều được làm và không được
làm khi hành nghề luật sư.
- Cuốn sách chuyên khảo “Những mô hình TTHS điển hình trên thế
giới” do Tô Văn Hòa chủ biên [39] đã giới thiệu các báo cáo nghiên cứu của
các nhà khoa học có uy tín quốc tế về mô hình TTHS điển hình của bảy quốc
gia trên thế giới là: Hoa Kỳ, Italia, Pháp, Nga, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn
Quốc. Các kết quả nghiên cứu được thực hiện công phu, nghiêm túc, có ý
nghĩa tham khảo rộng rãi, sâu sắc và có giá trị đặc biệt góp phần vào quá trình
xây dựng và hoàn thiện Đề án “Mô hình TTHS Việt Nam” theo yêu cầu của
cải cách tư pháp. Có thể khái quát một số mô hình tố tụng về đặc điểm luật
TTHS và vai trò, địa vị pháp lý của luật sư, như sau:
Mô hình TTHS Nhật Bản do GS. Byung-Sun Cho báo cáo nghiên cứu đã
thể hiện khái quát mô hình TTHS Nhật Bản thông qua việc giới thiệu hệ thống
tư pháp với hệ thống tòa án gồm: tòa án giản lược (cấp thấp nhất), tòa án quận
(thẩm quyền chung trong giải quyết mọi vụ án), tòa án gia đình (thẩm quyền xét
xử về quan hệ gia đình và trẻ vị thành niên), tòa án cấp cao và tòa án tối cao; xác
định hệ thống TTHS Nhật Bản là hệ thống lai với mô hình tố tụng tranh tụng là
chủ yếu và BLTTHS năm 1948 vẫn giữ được các đặc tính của pháp luật lục địa,
14
chủ yếu là pháp luật Anh - Mỹ đã được đưa vào đáng kể; tác giả cũng phân tích
về các giai đoạn TTHS gồm: điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án; phần địa vị
tố tụng, quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia TTHS cũng nêu nên địa vị pháp
lý của luật sư bào chữa khi có cả các quyền đại diện và quyền hạn cá nhân với tư
cách là người bảo vệ bị cáo hoặc người bị tình nghi phạm tội, trong đó với tư
cách đại diện có quyền hạn rất toàn diện để thực hiện mọi hành vi tố tụng của bị
cáo hoặc người bị tình nghi phạm tội. Sau khi bị truy tố, bị cáo được tự do gặp
luật sư của mình để chuẩn bị các lý lẽ bào chữa,…;
Về mô hình TTHS của Trung Quốc do GS. Liling Yue nghiên cứu đã
khái quát về TTHS của Trung Quốc; các chủ thể tố tụng và các giai đoạn của
quá trình TTHS; chứng cứ hình sự và xu hướng cải cách luật TTHS Trung
Quốc. Trong đó, TTHS được chia thành hai giai đoạn chính: giai đoạn trước
xét xử (bao gồm lập hồ sơ vụ án, điều tra và truy tố) và giai đoạn xét xử (bao
gồm xét xử sơ thẩm, kháng cáo nếu có hoặc các thủ tục tố tụng đặc biệt khác).
Vai trò của luật sư bào chữa bị hạn chế trong giai đoạn điều tra, đến khi có
quyết định truy tố và nghi phạm chính thức thuê luật sư thì được thể hiện rõ
hơn với quyền hạn như có thể tra cứu, trích dẫn và sao chép tài liệu, văn bản
tố tụng; phỏng vấn, liên lạc với nghi phạm bị tạm giữ; … nhưng quan trọng
và thể hiện toàn diện nhất trong giai đoạn xét xử với quyền hạn của người bào
chữa và quyền tương tự của bị cáo.
- Cuốn sách “ So sánh các hệ thống Tư pháp Hình sự” (Comparative
Criminal Justice Systems) [74] của tác giả Philip L. Reichel (Hoa Kỳ) tái bản lần
thứ 6, 2012 viết về các mô hình TTHS. Trong cuốn sách này, tác giả đã phân
tích đặc điểm và so sánh các truyền thống pháp luật khác nhau trên thế giới.
Cuốn sách cũng phân tích làm rõ và so sánh các loại mô hình TTHS, đặc biệt là
mô hình TTHS kiểm soát tội phạm và mô hình TTHS công bằng. Những nghiên
cứu cho thấy rằng mặc dù cùng chung mục đích là tìm ra sự thật, phát hiện và xử
lý tội phạm nhưng mỗi truyền thống pháp luật lại sử dụng mô hình TTHS khác
15
nhau và đặt vấn đề là cách thức nào được xem là tốt nhất để tìm ra sự thật. Sự
khác nhau giữa các mô hình TTHS tất yếu dẫn đến sự khác nhau, trong đó có sự
khác nhau về địa vị pháp lý của các chủ thể và cách thức vận hành các chức năng
TTHS, luật sư bào chữa là một trong những chủ thể đó.
- Cuốn sách “ Hệ thống pháp luật và luật pháp của Liên Bang Nga” (Law
and legal system of the Russian Federation) của William Burnham [129] được
viết để giới thiệu cho sinh viên luật, luật sư về các đặc điểm chính của luật
pháp và các tổ chức pháp lý của nước Nga ngày nay. Cuốn sách với 14 chương
bao gồm hầu hết các lĩnh vực quan trọng của pháp luật Nga, trong đó có các
vấn đề về thủ tục tố tụng hình sự (chương XI), luật sư (phần D chương IV), các
quyền cá nhân trong đó nổi bật quyền được bảo vệ tư pháp và đối xử bình đẳng
(mục D chương VI). Cuốn sách đã nghiên cứu, phân tích về quyền của luật sư
bào chữa trong giải quyết vụ án hình sự, cụ thể tập trung vào các vấn đề: Liệt
kê các văn bản pháp luật của các nước cộng hòa thuộc liên bang quy định về
quyền của luật sư bào chữa; đưa ra tỷ lệ phần trăm các vụ án hình sự có sự
tham gia của luật sư bào chữa từ giai đoạn xét xử; chủ thể nào được đại diện
cho bị can, bị cáo trong các vụ án hình sự…. Nổi bật nên một số quyền của luật
sư như: chỉ cần sự thừa nhận của Đoàn luật sư nơi mà luật sư tham gia và có
một lệnh từ tổ chức luật sư ủy quyền cho luật sư đại diện nhận bào chữa cho
khách hàng; trong giai đoạn điều tra, luật sư bào chữa được quyền có mặt khi
người bị tình nghi hoặc bị can đưa ra lời khai trước điều tra viên (thậm chí
trước cả giai đoạn đó trong một số trường hợp); quyền thu thập chứng cứ của
luật sư bào chữa như hoạt động điều tra độc lập (điểm mới đáng ghi nhận tại
Điều 83 BLTTHS Liên bang Nga năm 2001); luật sư có quyền tham gia bào
chữa từ thời điểm khách hàng bị bắt trên thực tế; trong giai đoạn xét xử, nếu
luật sư bào chữa theo chỉ định không xuất hiện tại phiên tòa thì việc xét xử vụ
án phải được hoãn sang thời điểm khác. Bị cáo có thời hạn 05 ngày để lựa chọn
người bào chữa mới và nếu người bào chữa mới không thể có mặt thì tòa án chỉ
16
định người bào chữa khác. Cuốn sách này là một tài liệu nghiên cứu tham khảo
hữu ích liên quan đến luật sư trong HĐTTHS với tư cách là người bào chữa.
- Bài “Sự thật về việc trở thành một luật sư bào chữa hình sự” (The
Truth About Being a Criminal Defense Attorney) [23] của Dylan Thomson
von Brendel phỏng vấn hai luật sư bào chữa hình sự có tiếng của Hoa Kỳ là
Robert Foley và Dana Kinsella về lý do lựa chọn nghề, những nguy hiểm,
nhìn nhận của xã hội cũng như thách thức khi làm luật sư bào chữa hình sự,
hai người cũng chia sẻ những trải nghiệm trong hoạt động hành nghề. Cuộc
phỏng vấn chân thật và sâu sắc về quan điểm, nhìn nhận của người trong nghề
khi trở thành một luật sư bào chữa hình sự trong xã hội Hoa Kỳ, khi ai đó
phải đối mặt với một hành vi phạm tội hình sự thì toàn bộ sức nặng của hệ
thống tư pháp và nhà nước cùng việc truy tố đang giáng xuống người đó, khi
ấy có luật sư bào chữa; luật sư là một phần quan trọng của hệ thống kiểm tra
và cân bằng trong thực hiện pháp luật, làm cho mọi thứ hoạt động hiệu quả và
hợp pháp, bởi vì nhìn vào thẩm quyền và quyền lực mà cơ quan thực thi pháp
luật có, cần có cơ chế để kiềm chế sức mạnh đó, kiểm tra lại công việc của họ,
đảm bảo rằng họ tuân theo đúng các quy tắc pháp luật, đồng thời bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của người bị buộc tội. Tài liệu tham khảo hữu ích với việc
thực hiện phỏng vấn chuyên sâu phục vụ cho đề tài.
- Cuốn sách “Cẩm nang luật hình sự - Biết quyền của bạn, tồn tại hệ
thống” (The criminal law handbook - Know your right, Survive theo System)
[73] của tác giả Paul Bergman và Sara J. Berman được thiết kế dưới dạng câu
hỏi, câu trả lời dễ hiểu và các ví dụ minh họa để giải thích hệ thống tư pháp
hình sự, trong và ngoài phòng xử án, giúp người đọc có những kiến thức cơ
bản về luật, thủ tục tố tụng hình sự của Hoa Kỳ. Cuốn sách gồm 27 chương,
trong đó nội dung về luật sư (bao gồm cả luật sư công, luật sư tư), quyền bào
chữa, thủ tục bào chữa, chất vấn tại tòa… tập trung tại các chương 7 (luật sư
bào chữa hình sự), chương 8 (tìm hiểu mối quan hệ giữa luật sư và khách
17
hàng trong vụ án hình sự, chương 11 (xây dựng chiến lược bào chữa), chương
14 (trao đổi thông tin với công tố), chương 15 (điều tra các sự kiện), chương
16 (điều trần sơ bộ), chương 17 (quyền cơ bản của bào chữa), chương 18 (quy
tắc chứng cứ cơ bản trong các phiên tòa hình sự) đã giải thích quyền có luật
sư, sự khác biệt giữa luật sư công và luật sư tư, sự giữ bí mật của luật sư với
khách hàng, diễn giải, minh họa các thủ tục tố tụng có sự tham gia của luật sư
trong quá trình bào chữa cho khách hàng, đồng thời cũng chỉ ra điểm khác
biệt giữa luật Liên bang với luật của các bang về các nội dung liên quan đến
vấn đề này.
- Trong cuốn La bàn đạo đức của luật sư Hoa Kỳ: Sự thật, Công lý,
Quyền lực và Lòng tham (The Moral Compass of the American Lawyer:
Truth, Justice, Power, and Greed) [89], Richard Zitrin và Carol M. Langford
cố gắng giải thích đạo đức pháp lý cho những người không phải là luật sư.
Trong khi họ cung cấp một sự bảo vệ mạnh mẽ của hệ thống công lý Mỹ, họ
cũng lưu ý những thảm họa đạo đức gây ra bởi sự thái quá của quá trình đối
nghịch. Các luật sư không được trả tiền để bảo vệ "Sự thật, Công lý và Con
đường Mỹ", các tác giả lưu ý; họ được trả tiền để bảo vệ khách hàng của họ,
và nghĩa vụ của sự vận động nhiệt tình đôi khi thúc đẩy các luật sư làm việc
bên lề của sự chính trực. Một số luật sư đứng trên đường lối đạo đức, hoặc bỏ
qua lại với sự trừng phạt; những người khác lặn dài qua rìa và không bao giờ
quay trở lại. Khách hàng muốn thuê luật sư thành công, tất nhiên, và luật sư
thành công thường là những người sẵn sàng bỏ qua ranh giới của trách nhiệm
nghề nghiệp. Đạo đức của nghề nghiệp dường như được xác định bởi bất cứ
điều gì khó khăn nhất có thể thoát khỏi. Các luật sư chân chính sẽ đi đến tận
cùng của sự thật và sẵn sàng chịu đựng những mũi dùi của dư luận khi bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng. Một tổng quan sâu rộng về những
tình huống khó xử về đạo đức phải đối mặt với mọi luật sư của nghề luật mỗi
ngày - cho dù họ là luật sư bào chữa hình sự, luật sư tư, luật sư nội bộ công ty.
18
Các tác giả cũng đưa ra một đánh giá thẳng thắn về những thiếu sót của toàn
bộ hệ thống tư pháp Hoa Kỳ, từ các trường luật đến phòng xử án, và những gì
có thể được thực hiện để khắc phục tình hình. Một tài liệu tham khảo hay về
khía cạnh đề cao đạo đực hành nghề luật sư đối với luận án.
- Báo cáo “Quyền trong thực tế: tiếp cận với luật sư và quyền tố tụng
trong tố tụng hình sự và lệnh bắt giữ ở châu Âu” (Rights in practice: access to
a lawyer and procedural rights in criminal and European arrest warrant
proceedings) của Cơ quan Liên minh châu Âu về các quyền cơ bản (FRA)
[33] xem xét cách thức áp dụng trong thực tế các quyền tố tụng hình sự quan
trọng (bao gồm quyền tiếp cận luật sư), dựa trên các cuộc phỏng vấn với hơn
250 người là thẩm phán, công tố viên, cảnh sát, luật sư, nhân viên của các cơ
quan giám sát các nhà tù, cũng như các bị cáo của 08 quốc gia thành viên EU.
Báo cáo tập trung phân tích về quyền tiếp cận luật sư; bị cáo bị tước quyền tự
do đặc biệt phải đối mặt với những khó khăn thực tế trong việc tiếp cận trực
tiếp với luật sư. Cảnh sát đôi khi ngăn cản các bị cáo tiếp xúc với luật sư từ
đầu, tước đi cơ hội của luật sư để đặt câu hỏi có thể giúp bị cáo chuẩn bị bào
chữa hiệu quả. Các bị cáo không phải lúc nào cũng được phép nói chuyện
riêng với luật sư của họ trước khi thẩm vấn lần đầu, thay vào đó là cuộc trao
đổi ngắn diễn ra trong các hành lang công cộng với sự có mặt của cảnh sát.
Báo cáo cũng chỉ ra rằng đối với các vụ án xuyên biên giới, xuyên quốc gia
thì vấn đề rào cản ngôn ngữ là nguyên nhân khó khăn trong việc tiếp cận luật
sư. Liên quan đến việc cung cấp cho các bị cáo thông tin về quyền của họ để
tiếp cận luật sư, cũng như việc tiếp cận hiệu quả với luật sư trong thực tế, báo
cáo phát hiện sự tôn trọng và hiệu quả khác nhau giữa các quốc gia thành viên
thực thi và các quốc gia thành viên ban hành. Các cơ quan thực thi thường
không cảm thấy có thẩm quyền bình luận về các quyền ở các quốc gia
khác, vì vậy không thông báo cho những người bị bắt theo EAW (đảm bảo
bắt giữ Châu Âu) về quyền liên hệ và chỉ định luật sư tại nước thành viên,
19
không hỗ trợ đầy đủ cho các bị cáo trong việc chỉ định luật sư ở đó. Tài
liệu có giá trị tham khảo hữu ích đối với đề tài luận án ở khía cạnh thực
tiễn về thực hiện quyền tiếp cận luật sư trong hội nhập với các nền tư
pháp TTHS Châu Âu.
Từ những tài liệu nghiên cứu tham khảo trên, tác giả nhận thấy mặc dù
mô hình TTHS ở mỗi nước có sự khác nhau nhưng pháp luật TTHS đều có
quy định về việc bảo đảm quyền con người, quyền được bào chữa của người
bị tình nghi phạm tội hay người bị buộc tôi; luật sư bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp cho họ bằng các hoạt động chung cơ bản của các nền tư pháp hình sự
trên thế giới. Các công trình nghiên cứu đã đề cập, phân tích một số vấn đề lý
luận và thực tiễn về luật sư trong TTHS (chủ yếu với tư cách là người bào
chữa) trong bảo đảm quyền con người, quyền lợi hợp pháp của người bị buộc
tội/người tình nghị phạm tội.
Nhìn chung, những nghiên cứu trên đã cung cấp cho tác giả một khối lượng
kiến thức nền tảng về quyền con người, quyền có luật sư bào chữa, một số nguyên
tắc bảo đảm vai trò của luật sư trong TTHS một số quốc gia và của quốc tế. Tham
khảo các tài liệu trên giúp cho việc nghiên cứu của tác giả có thêm những kiến
thức về các mô hình TTHS và địa vị pháp lý của luật sư trong các mô hình tố tụng đó.
Trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật TTHS, nâng cao vị
thế của luật sư thông qua việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong mô hình TTHS kết hợp
thẩm vấn - tranh tụng theo yêu cầu CCTP mà Việt Nam đang hướng đến.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
- Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến pháp luật về quyền,
nghĩa vụ của luật sư trong hoạt động tố tụng hình sự
+ Đề tài Bộ Tư pháp “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện
pháp luật về tổ chức luật sư và hành nghề luật sư trong điều kiện ở Việt Nam
hiện nay”, chủ nhiệm đề tài Nguyễn Văn Thảo – Viện khoa học Pháp lý, Bộ
Tư pháp [94] là công trình nghiên cứu lớn có liên quan đến luật sư và tổ chức
20
hành nghề luật sư. Đề tài nghiên cứu của Viện Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp
đã tiếp cận các hoạt động tư pháp của luật sư khi hành nghề ở nhiều lĩnh vực,
trong đó có hoạt động tham gia tố tụng hình sự, đưa ra quan điểm và các giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hành nghề luật sư, hoạt động của luật sư
tại Việt Nam. Tuy nhiên, do đề tài thực hiện và hoàn thành ở thời điểm
BLTTHS 2003 mới có hiệu lưc hơn 01 năm, phạm vi nghiên cứu rộng nên
vấn đề liên quan đến thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong
HĐTTHS chưa được nghiên cứu, cập nhật đầy đủ, chuyên sâu và kịp thời.
+ Đề tài cấp Bộ Tư pháp “Phương pháp đào tạo các chức danh tư pháp
đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” do PGS. TS Phan Hữu Thư là chủ nhiệm
đề tài [96] đã chỉ ra được cơ sở khoa học và thực tiễn của sự cần thiết phải
hoàn thiện phương pháp đào tạo các chức danh tư pháp trong đó có luật sư;
xác định phương pháp đào tạo mới trên cơ sở quan điểm lấy người học làm
trung tâm nhằm tạo sự chủ động cho người học và người dạy trong việc nhanh
chóng chiếm lĩnh tri thức nghề nghiệp; phân tích thực trạng áp dụng các
phương pháp đào tạo trong hoạt động đào tạo các chức danh tư pháp, qua đó
đề xuất những biện pháp cụ thể để khắc phục những hạn chế đó. Đề tại phân
tích đặc thù trong đào tạo luật sư qua đó xây dựng phương pháp đào tạo tích
cực phù hợp trong đó nhấn mạnh việc tham gia các buổi đóng vai, diễn án là
nhằm rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp, hiểu hơn về vai trò, chức năng của các
chủ thể khác trong phiên tòa. Đề xuất “đào tạo thực tế” thay cho “thực tập”
phải được tăng lên, phù hợp với mục đích, yêu cầu của giai đoạn đào tạo này
với sự phân bổ quỹ thời gian hợp lý cho việc đào tạo tại toà án, viện kiểm sát
và các văn phòng, công ty luật. Đề tài có giá trị thực tiễn cao liên quan đến
khía cạnh nâng cao chất lượng, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của nguồn
luật sư.
+ Sách “Vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự” của Nguyễn Văn
Tuân [106] trình bày một các có hệ thống về vị trí, quyền và nghĩa vụ của
21
Luật sư cũng như chức năng của Luật sư trong TTHS, những đóng góp thiết
thực của luật sư vào việc làm sáng tỏ sự thật của vụ án, hỗ trợ cho tòa án
trong việc ra những bản án hình sự bảo đảm được các yêu cầu của công tác
xét xử. Cuốn sách là tài liệu tham khảo, bổ ích cho những người làm công tác
bào chữa trong việc sử dụng quyền do pháp luật quy định để tự bảo vệ các lợi
ích hợp pháp của mình. Tác giả cũng là chủ biên cuốn sách “Luật sư và vấn
đề đạo đức nghề nghiệp” [108] trình bày về thực trạng vấn đề đạo đức của
luật sư và yêu cầu nâng cao năng lực, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp luật sư,
các quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp của luật sư và các văn bản pháp luật
về tổ chức và hoạt động luật sư tính đến năm 2004. Cuốn sách chuyên khảo
phân tích về vấn đề đạo đức nghề nghiệp đối với luật sư, một định hướng
chính trong việc xây dựng, ban hành bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề
nghiệp của luật sư Việt Nam năm 2011, một tài liệu hữu ích liên quan đến đề
tài luận án nghiên cứu. Hay bài “Về sự tham gia của luật sư trong tố tụng
hình sự” [107] của Nguyễn Văn Tuân nêu ra một trong những quyền quan
trọng nhất của bị can, bị cáo là quyền được có người bào chữa. Luật sư là một
trong những diện người bào chữa cho bị can, bị cáo. Bài viết nêu các quyền
của luật sư với tư cách người bào chữa, bao gồm quyền tham gia tố tụng hình
sự, giai đoạn tố tụng mà luật sư tham gia và quan điểm của tác giả.
+ Sách “Kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự và chỉ dẫn áp dụng
pháp luật tố tụng hình sự - dành cho thẩm phán, thẩm tra viên, hội thẩm, kiểm
tra viên, luật sư, các học viên tư pháp” [21] Nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự là
một hoạt động thường xuyên và quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự của cơ quan, người tiến hành tố tụng và luật sư. Sách chỉ ra mối liên
hệ giữa chất lượng nghiên cứu hồ sơ của luật sư có ảnh hưởng nhất định đến
hiệu quả giải quyết vụ án hình sự. Theo đó, nếu luật sư nghiên cứu hồ sơ
nghiêm túc, chặt chẽ và khoa học thì sẽ nâng cao được chất lượng giải quyết
vụ án, ngược lại làm qua loa sơ sài thì chất lượng giải quyết vụ án không cao,
22
có thể dẫn đến làm gia tăng tỷ lệ án bị hủy, sửa hoặc nghiêm trọng hơn là làm
oan, sai người vô tội. Chất lượng nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự phụ thuộc
vào kỹ năng phương pháp nghiên cứu hồ sơ của mỗi luật sư, nếu nghiên cứu
hồ sơ tốt và phương pháp nghiên cứu chuyên sâu, khoa học thì chất lượng
nghiên cứu sẽ cao. Việc nâng cao chất lượng nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự
có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án hình
sự, một yêu cầu không thể thiếu trong hoạt động tố tụng hình sự. Vì vậy, cuốn
sách nhấn mạnh rằng những người tiến hành tố tụng và luật sư cần nâng cao
kỹ năng nghiên cứu hồ sơ góp phần tìm ra sự thật vụ án hình sự.
+ Cuốn Sổ Tay Luật Sư [59] do Liên ĐLS Việt Nam và Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia sự thật thực hiện giới thiệu và phân tích chuyên sâu về luật
sư, hành nghề luật sư và các kỹ năng hành nghề cần có của luật sư trong từng
lĩnh vực cụ thể, bao gồm: Tập 1 - Luật sư và hành nghề luật sư; Tập 2 - Kỹ
năng hành nghề luật sư trong tố tụng hình sự, hành chính, dân sự: giới thiệu
những kỹ năng hành nghề của Luật sư tham gia tranh tụng các loại vụ án hình
sự, hành chính, dân sự và kỹ năng của Luật sư khi tham gia tố tụng trọng tài,
trong đó ở Chương 2. Kỹ năng cơ bản của luật sư khi tham gia tố tụng hình sự
đã tập trung làm rõ hơn những kỹ năng cụ thể của Luật sư trong các giai đoạn
TTHS khác nhau, bắt đầu từ khi Luật sư nhận được yêu cầu từ phía khách
hàng cho đến khi Luật sư tham gia tại phiên tòa. Có thể nói cuốn Sổ tay Luật
sư tập 2 đã giới thiệu khá chi tiết các kỹ năng của luật sư khi tham gia TTHS
từ việc tiếp xúc khách hàng, thủ tục đăng ký bào chữa, bảo vệ quyền lợi; tham
gia hoạt động điều tra; các kỹ năng trao đổi công việc, phối hợp thực hiện
trong quan hệ với viện kiểm sát, tòa án; nghiên cứu hồ sơ vụ án; xây dựng đề
cương xét hỏi; chuẩn bị luận cứ bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho khách hàng; nhận thức và kỹ năng tranh tụng tại phiên tòa; Tập 3: Kỹ
năng hành nghề luật sư tư vấn trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, thương mại.
Cuốn Sổ tay Luật sư đặc biệt là tập 2 phần 1 và phần 2 có giá trị tham khảo
23
hữu ích đối với phần cơ sở lý luận và phần thực trạng của luận án tác giả đang
nghiên cứu.
+ “Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật về luật sư ở Việt Nam
hiện nay” của tác giả Phan Trung Hoài [40]. Tác giả đã đưa ra những vấn đề
có tính khái quát chung về nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt
động luật sư thông qua việc làm rõ các quan hệ xã hội phát sinh trong quá
trình hoạt động của luật sư; khái niệm, vị trí, vai trò của luật sư, nghề luật sư
và pháp luật về luật sư trong đời sống xã hội; trong hoạt động nghề nghiệp và
trong hệ thống pháp luật tư pháp của Việt Nam, luận án tập trung phân tích về
mặt lý luận nhu cầu khách quan của việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với
luật sư thông qua các khái niệm khoa học về luật sư, nghề luật sư và pháp luật
về luật sư, phân tích thực trạng pháp luật và thi hành pháp luật; đánh giá được
nhu cầu về hoàn thiện pháp luật về luật sư, trên cơ sở đó đề xuất phương
hướng cơ bản để hoàn thiện pháp luật về luật sư. Tuy nhiên, thời điểm thực
hiện luận án sử dụng BLTTHS năm 2003 để phân tích, đánh giá thực trạng từ
đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về luật sư, nên đến nay khi
BLTTHS năm 2015 đã có hiệu lực thì không còn nhiều giá trị và tính thời sự
nữa. Nhưng việc phân tích, khái niệm, bản chất, vai trò của nghề luật sư và
luật sư ở Việt Nam trong luận án này vẫn là giá trị tham khảo hữu ích để củng
cố và làm rõ thêm về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS ở Việt Nam
hiện nay.
+ “Chế định các biện pháp ngăn chặn theo luật tố tụng hình sự Việt
Nam” [75] của Nguyễn Trọng Phúc đã đưa ra khái niệm về biện pháp ngăn
chặn, các tiêu chí, căn cứ phân loại, phân biệt các biện pháp ngăn chặn và ý
nghĩa của chúng, phân tích nguyên tắc áp dụng, thay thế, hủy bỏ các biện
pháp ngăn chặn, hệ thống hóa lịch sử ra đời và phát triển của các biện pháp
ngăn chặn trong pháp luật TTHS từ thời kỳ phong kiến cho đến năm 2010, từ
đó rút ra những giá trị tiến bộ, nhân đạo để kế thừa. Luận án đánh giá các biện
24
pháp ngăn chặn theo 4 tiêu chí: đối tượng áp dụng, căn cứ áp dụng, người có
thẩm quyền áp dụng, thủ tục thực hiện cũng như bồi thường thiệt hại cho
người bị oan do người có thẩm quyền gây ra, chỉ ra những tồn tại và nguyên
nhân. Khái quát các nghiên cứu pháp luật thực định và thực tiễn áp dụng, thay
thế, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn, bồi thường thiệt hại, phục hồi danh dự,
quyền lợi cho người bị oan. Qua đó, nêu quan điểm và phương hướng hoàn
thiện các biện pháp ngăn chặn nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng trong công
cuộc phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm ở Việt Nam.
+ “Nguyên tắc tranh tụng trong TTHS Việt Nam - những vấn đề lý luận
và thực tiễn” [36] của Nguyễn Văn Hiển đã nêu quan điểm tranh tụng là
nguyên tắc cơ bản trong TTHS và khả năng áp dụng nguyên tắc này trong các
mô hình TTHS khác nhau. Phân tích, đánh giá về mặt lịch sử và thực tiễn thể
hiện nguyên tắc tranh tụng trong xây dựng và áp dụng pháp luật TTHS Việt
Nam, tham khảo kinh nghiệm của các nước về áp dụng nguyên tắc tranh tụng
trong các mô hình TTHS cụ thể, rút ra kinh nghiệm cho xây dựng và áp dụng
nguyên tắc tranh tụng trong điều kiện Việt Nam. Từ đó xác định yêu cầu cơ
bản và những điều kiện cần thiết phục vụ cho việc đề xuất các định hướng,
giải pháp thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong TTHS trên phương diện lý
luận, pháp lý, thực tiễn. Hệ thống pháp luật theo truyền thống pháp luật nước
XHCN và có ảnh hưởng của truyền thống pháp luật các nước châu Âu lục địa
nên mô hình tố tụng xét hỏi có tiếp thu những yếu tố tích cực của mô hình tố
tụng tranh tụng. Luận án nghiên cứu tranh tụng với tính chất là một nguyên
tắc cơ bản trong TTHS và đặt chúng trong mô hình TTHS cụ thể của Việt
Nam thời điểm BLTTHS năm 2003 đang có hiệu lực. Đây là một tài liệu tham
khảo có ích với phần lý luận và quan điểm, giải pháp của luận án .
+ “Các chức năng trong tố tụng hình sự ở Việt Nam, những vấn đề lý
luận và thực tiễn” của Nguyễn Mạnh Hùng [44] đưa ra một số lý luận về
chức năng của TTHS; thực trạng các vấn đề đặt ra đối với các chức năng
25
TTHS, qua đó đưa ra các quan điểm, giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật
về chức năng của TTHS đáp ứng yêu cầu về CCTP và xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN ở nước ta. Tác giả đã phân tích làm rõ về cơ sở lý luận, ý
nghĩa nội hàm, phạm vi của từng chức năng trong TTHS, xác định được 3
chức năng cơ bản của TTHS là chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử, mỗi
chức năng có nhiều chủ thể tham gia, mỗi chủ thể có tư cách khác nhau trong
TTHS. Trong luận án, tác giả nêu ra chức năng bào chữa hiện diện trong 3
giai đoạn tố tụng (điều tra, truy tố và xét xử), là trao cho người bị buộc tội cơ
hội được bảo vệ quyền lợi chính đáng, hỗ trợ họ tự vệ trước các cáo buộc của
bên buộc tội, từ đó phản ánh khách quan nguyên tắc công bằng giữa các bên.
Luận án đã đổi mới quan điểm về nhận thức mô hình TTHS ở Việt Nam
không còn nguyên nghĩa là mô hình thẩm vấn mà đã có sự kết hợp hài hòa
của 02 mô hình tố tụng: thẩm vấn và tranh tụng. Tác giả cũng đưa ra được
một số nguyên tắc và một số giải pháp đổi mới chức năng tố tụng trong mô
hình TTHS ở Việt Nam. Luận án mới chỉ dừng lại trong việc đánh giá chức
năng từng mô hình tố tụng, các chủ thể thực hiện chức năng ấy trong việc bảo
vệ quyền con người, quyền công dân mà không đề cập đến quyền, nghĩa vụ
của Luật sư trong TTHS.
+ “Cơ sở lý luận và thực tiễn của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng
hình sự Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Thị Hiền [37]. Tác giả đã đưa ra cơ
sở lý luận, cơ sở thực tiễn và hệ thống giải pháp nhằm xây dựng nguyên tắc
tranh tụng trong TTHS Việt Nam và thực trạng, quan điểm giải pháp xây
dựng nguyên tắc tranh tụng trong TTHS ở Việt Nam hiện nay. Luận án chỉ
tập trung vào nguyên tắc tranh tụng dưới góc độ nghiên cứu lịch sử Nhà nước
và pháp luật; đóng góp trong vấn đề xác lập khái niệm nguyên tắc tranh tụng
trong TTHS với những đặc điểm, nội dung, vai trò, ý nghĩa cũng như mối
quan hệ của nguyên tắc này với một số nguyên tắc khác của luật TTHS; chỉ ra
những bất cập, nguyên nhân trong quy định và thực tiễn áp dụng về tranh tụng
26
của pháp luật TTHS. Mối quan hệ giữa nguyên tắc tranh tụng với các nguyên
tắc khác trong TTHS Việt Nam: không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án
kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật (Nguyên tắc này đã được sửa đổi,
bổ sung trong luật TTHS 2015: không ai bị coi là có tội cho đến khi được
chứng minh theo thủ tục luật định và có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu
lực pháp luật).
+ Bài “Vai trò của Luật sư bào chữa trong tố tụng hình sự theo mô
hình tranh tụng ở một số nước” của Nguyễn Ngọc Khánh [48] đề cập đến một
số vấn đề mang tính chất chung nhất về vai trò của luật sư bào chữa trong tố
tụng hình sự theo mô hình TTHS tranh tụng- một mô hình TTHS đang được
áp dụng ở nhiều nước trên thế giới. Đồng thời, tác giả đưa ra những bài học
kinh nghiệm giúp các nhà làm luật tham khảo trong quá trình xây dựng và
hoàn thiện pháp luật về tố tụng hình sự ở Việt Nam.
+ Bài Vai trò của Luật sư trong hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ
Luật Tố tụng hình sự năm 2015 [76] của Bùi Thị Chinh Phương nêu ra Bộ
luật TTHS 2015 đã có nhiều quy định tiến bộ nhằm nâng cao vị thế, vài trò và
quyền của luật sư; vai trò của luật sư trong hoạt động tố tụng hình sự góp
phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo đồng thời giúp cho
việc giải quyết vụ án khách quan, đúng pháp luật. Bài viết cũng nêu ra một số
yêu cầu đối với luật sư để bảo đảm tranh tụng hiệu quả và bảo đảm quyền, lợi
ích hợp pháp của thân chủ. Bài viết này là một tài liệu tham khảo liên quan
đến đề tài ở khía cạnh góp phần bảo đảm quyền của luật sư trong tranh tụng
tại phiên tòa hình sự.
+ Bài Quyền gặp, làm việc của luật sư với người bị tạm giữ, tạm giam
trong giai đoạn điều tra [41]của tác giả Phan Trung Hoài nêu ra những khó
khăn thực tế khi thực hiện quyền gặp, làm việc của luật sư với người bị tạm
giữ, tạm giam trong giai đoạn điều tra mặc dù quyền này đã được Hiến pháp
2013, Bộ luật TTHS 2015, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam 2015, Thông tư
27
liên tịch số 01/2018/TTLT ngày 23-1-2018 của Bộ Công an - Bộ Quốc phòng
- TAND tối cao - Viện KSND tối cao quy định cụ thể, rõ ràng. Nhiều cơ
quan, cá nhân có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong giai đoạn điều tra vẫn
nhận thức và yêu cầu luật sư thực hiện quyền này với người bị tạm giữ, tạm
giam phải được sự chấp thuận của cơ quan điều tra hoặc theo kế hoạch hỏi
cung của điều tra viên; hay trong các buổi làm việc, hỏi cung, thường các luật
sư không được đặt câu hỏi, hoặc nội dung hỏi cũng bị kiểm soát,… mặc dù
không có bất cứ từ ngữ nào quy định về việc luật sư gặp khách hàng trong
giai đoạn điều tra bắt buộc phải có mặt điều tra viên hoặc phải được sự chấp
thuận trước của cơ quan điều tra. Qua đó, tác giả đề xuất cơ quan có thẩm
quyền sớm ban hành VBQPPL để kịp thời hướng dẫn, quán triệt cơ quan,
người tiến hành tố tụng trong bảo đảm quyền gặp riêng của luật sư với người
bị tạm giữ, tạm giam. Đây cũng là một phân tích thực tế hữu ích liên quan đến
đề tài nghiên cứu nhằm bảo đảm dân chủ hóa hoạt động tố tụng, tôn trọng sự
thật khách quan và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, công
dân trong các vụ án hình sự.
- Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến thực hiện pháp luật
về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong hoạt động tố tụng hình sự
+ Đề tài cấp Bộ Tư pháp “Dịch vụ pháp lý ở Việt Nam: Thực trạng, nhu
cầu và định hướng phát triển” do TS. Nguyễn Văn Tuân chủ nhiệm đề tài
[109] đã chỉ ra sự cấp thiết phải nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện về
thực trạng nhu cầu hoạt động dịch vụ pháp lý ở Việt Nam với đội ngũ luật sư
là lực lượng nòng cốt trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Đề tài đã
nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về dịch vụ pháp lý; nghiên cứu
đánh giá thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về dịch vụ pháp lý ở Việt
Nam, bên cạnh nghiên cứu kinh nghiệm pháp luật và thực tiễn của các nước
về dịch vụ pháp lý mà chủ yếu do các tổ chức hành nghề luật sư và luật sư
thực hiện bao gồm cả dịch vụ tư vấn và tham gia tố tụng để rút ra bài học kinh
28
nghiệm ở nước ta. Mục tiêu hướng đến bảo đảm các quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân, tổ chức trong xã hội, góp phần tiến tới xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân thông qua xây dựng mô hình
dịch vụ pháp lý phù hợp đáp ứng được nhu cầu thực tiễn. Kết quả nghiên cứu
của đề tài là cơ sở để bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp
luật có liên quan trong đó có LLS 2006. Đề tài này có giá trị tham khảo rất
hữu ích đối với luận án ở khía cạnh chức năng xã hội quan trọng của luật sư
Việt Nam thông qua các hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý bao gồm hoạt
động tham gia tố tụng trong thời kỳ hội nhập sâu rộng.
+ Cuốn sách “Thực hiện và áp dụng pháp luật ở Việt Nam” [30] của
Nguyễn Minh Đoan chuyên khảo về thực hiện và áp dụng pháp luật, gồm 05
chương, trong đó: Chương 1- Thực hiện pháp luật bàn về khái niệm, mục
đích, ý nghĩa của việc thực hiện pháp luật, các hình thức thực hiện pháp luật.
Đưa ra quan điểm về thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích nhằm hiện
thực hóa các quy định của pháp luật, làm cho chúng đi vào cuộc sống, trở
thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật (trang 15);
được tiến hành thông qua các hình thức: tuân thủ pháp luật, thi hành pháp
luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật (trang 15-18). Chương 2 Áp dụng
pháp luật. Chương 3 Quy trình thực hiện và áp dụng pháp luật thì quy trình
thực hiện pháp luật gồm hai giai đoạn: chuẩn bị đưa văn bản hay quy định
pháp luật vào thực tiễn và tổ chức thực hiện các quy định pháp luật trên thực
tế. Chương 4 - Những bảo đảm thực hiện pháp luật, tác giả dành chương này
để phân tích một số yếu tố và điều kiện cơ bản bảo đảm, gồm: Chất lượng của
hệ thống pháp luật thực định; trình độ ý thức pháp luật trong xã hội và các
điều kiện và môi trường thực hiện pháp luật (trang 49-75). Chương 5- Hiệu
quả thực hiện pháp luật ở Việt Nam luận bàn về các tiêu chí đánh giá hiệu quả
thực hiện pháp luật, thực trạng hiệu quả thực hiện pháp luật ở Việt Nam và
một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật ở Việt Nam hiện nay
29
(trang 119-161). Cuốn sách là tài liệu tham khảo hữu ích trong phần cơ sở lý
luận về thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS ở
Việt Nam.
+ PGS. TS. Nguyễn Văn Mạnh (chủ biên), “Thực hiện pháp luật - những
vấn đề lý luận và thực tiễn” [67]. Trong công trình này các tác giả đã phân
tích các vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật (khái niệm, chủ thể, nội dung,
hình thức, các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật), những vấn đề đặt ra trong
thực tiễn thực hiện pháp luật ở Việt Nam. Đây là những vấn đề lý luận cơ bản
về thực hiện pháp luật có giá trị tham khảo khi nghiên cứu cơ sở lý luận của
việc thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ luật sư trong HĐTTHS.
+ Vấn đề thực hiện pháp luật cũng được đề cập và phân tích tương đối
sâu dưới góc độ xã hội học pháp luật có cuốn sách: Xã hội học pháp luật [70]
của TS. Ngọ Văn Nhân (Tái bản lần thứ nhất, có chỉnh sửa, bổ sung), Nxb.
Hồng Đức, Hà Nội, 2012 (408 trang). Cuốn sách dành 02 chương phân tích
vấn đề thực hiện pháp luật và áp dụng pháp luật dưới góc độ xã hội học pháp
luật (Chương VII- Các khía cạnh xã hội của hoạt động thực hiện pháp luật và
Chương VIII- Các khía cạnh xã hội của hoạt động áp dụng pháp luật). Tại
hai chương này, tác giả trình bày khái quát về hoạt động thực hiện pháp luật
và áp dụng pháp luật; phân tích nội dung nghiên cứu các khía cạnh xã hội của
hoạt động thực hiện pháp luật như: sự phù hợp giữa các quy tắc của chuẩn
mực pháp luật với lợi ích của chủ thể thực hiện pháp luật; cơ chế thực hiện
pháp luật; các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động thực hiện pháp luật. Tác giả
phân tích nội dung nghiên cứu các khía cạnh xã hội của hoạt động áp dụng
pháp luật về mối quan hệ giữa chính trị và áp dụng pháp luật; mối quan hệ
giữa chuẩn mực pháp luật và quyết định áp dụng pháp luật; vai trò của các
nhân tố chủ quan và khách quan trong hoạt động áp dụng pháp luật; vấn đề
hậu áp dụng pháp luật. Cuốn sách cũng dành nhiều trang viết để phân tích,
luận giải những biện pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động thực hiện pháp
30
luật. Cuốn sách có giá trị tham khảo đối với việc khảo sát thực tiễn phục vụ
việc viết luận án ở những vấn đề có liên quan.
+ Tài liệu “Khảo sát Luật sư chỉ định theo pháp luật tố tụng hình sự và
thực tiễn tại Việt Nam” do Văn phòng luật sư NHQuang & Cộng sự thực hiện
trong khuôn khổ của Dự án “Tăng cường Năng lực Hội Luật Gia Việt Nam”
do UNDP tài trợ [121] đã nghiên cứu về quyền bào chữa và người bào chữa
chỉ định tại Việt Nam theo Công ước về Quyền dân sự và Chính trị (ICCPR)
trong các vụ án mà theo quy định của pháp luật đòi hỏi phải có người bào
chữa thông qua khảo sát thực tế tại các Đoàn luật sư ở Việt Nam. Đây là một
tài liệu góp ý trong việc xây dựng dự thảo Bộ luật TTHS 2015. Qua đó, đã
làm rõ “quyền được xét xử công bằng”,“quyền bào chữa” theo ICCPR, có liên
quan trực tiếp đến luật sư và việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của luật sư, đặc
biệt là luật sư bào chữa chỉ định, vì vậy là tài liệu tham khảo hữu ích đối với
đề tài luận án.
+ “Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong TTHS” của
Hoàng Thị Sơn [93] phân tích vai trò của người bào chữa trong TTHS, tập
trung vào sự tham gia tố tụng của luật sư với tư cách người bào chữa là chính,
không đi sâu phân tích đối với bào chữa viên nhân dân và người đại diện. Luận
án cơ bản đã giải quyết có tính hệ thống các vấn đề về thực hiện quyền bào chữa
của bị can, bị cáo trong TTHS, đưa ra được các khái niệm quyền bào chữa, cơ sở
để quy định quyền bào chữa, phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện quyền bào
chữa ở nước ta và đưa ra các kiến nghị của tác giả về hoàn thiện pháp luật và
giải pháp khác nâng cao hiệu quả thực hiện quyền bào chữa.
+ Đề tài “Hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự” [120] của Ngô Thị Ngọc Vân đưa ra khái niệm Hoạt
động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là các
công việc, thao tác nghề nghiệp do luật sư tiến hành trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự trên cơ sở quy định của pháp luật và quy tắc đạo đức luật
31
sư nhằm chống lại việc buộc tội, xác định sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự cho người bị buộc tội, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của
họ, góp phần xác định sự thật vụ án. Hoạt động bào chữa của Luật sư trong
xét xử sơ thẩm góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả xét xử vụ án hình sư
nhưng vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế trong thực tiễn. Nguyên nhân tồn tại đó
do bất cập trong quy định của pháp luật cũng như nhận thức và tổ chức thực
hiện hoạt động bào chữa trên thực tế. Tác giả nhận định trong quá trình cải
cách tư pháp cần củng cố, tăng cường tổ chức và hoạt động của Luật sư và
phải đặt trong tổng thể cải cách tư pháp, trên cơ sở quán triệt quan điểm của
Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam.
+ Đề tài “Bào chữa chỉ định theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
cho người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” [38]
của Trương Minh Hiếu cơ bản trình bày được các vấn đề lý luận về bản chất
pháp lý, xác định được giới hạn và cách thức điều chỉnh của pháp luật TTHS
đối với chủ thể đặc biệt này và luật sư trong vai trò người bào chữa chỉ định
chiếm đa số; một quy định có tính nhân đạo của Nhà nước và góp phần vào
việc nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng. Người viết đã
đưa ra một số giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện quyền bào chữa tốt hơn của
người dưới 18 tuổi phạm tội.
+ “Thực hiện pháp luật và cơ chế thực hiện pháp luật” [115] của Đào Trí
Úc luận bàn về bản chất việc thực hiện pháp luật là sự chuyển hóa các yêu cầu
chung được xác định trong các nguyên tắc và quy phạm pháp luật vào trong
các hành vi cụ thể của các chủ thể. Thực hiện pháp luật là hướng đến kết quả
tích cực của quá trình điều chỉnh pháp luật, mà điều chỉnh pháp luật cần bảo
đảm hai yêu cầu: thực hiện hành vi hợp pháp hoặc không thực hiện hành vi
trái pháp luật. Ngoài ra, quá trình và kết quả của việc thực hiện pháp luật
chính là thước đo hiệu quả điều chỉnh pháp luật. Với những yếu tố thuộc về
nội dung và hình thức của quá trình thực hiện pháp luật cũng như các yếu tố
32
mang tính tác nhân của quá trình đó, tác giả đã thể hiện được vị trí và tầm
quan trọng của thực hiện pháp luật trong hệ thống pháp lý. Cụ thể, thực hiện
pháp luật là một phạm vi độc lập (các hình thức thực hiện) gắn với hoạt động
của các chủ thể tương ứng, theo đó là những nguyên tắc, những phạm vi thẩm
quyền nội dung phương pháp và trình tự, thủ tục thực hiện pháp luật tương
ứng và thích hợp; thực hiện pháp luật là tổng thể những hoạt động và hành vi
hết sức đa dạng ở những cấp độ khác nhau, từ hành vi của cá nhân công dân
trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ chủ thể pháp lý của mình, việc
thực hiện các điều kiện tổ chức và hoạt động của pháp nhân, hay thực hiện
các thẩm quyền và trách nhiệm của cơ quan công quyền… cho đến hoạt động
lập pháp của Quốc hội. Tác giả nhận định thực hiện pháp luật dù hiểu theo
nghĩa là một quá trình hay theo nghĩa là kết quả của quá trình đó thì đều đóng
vai trò quan trọng đối với việc hình thành ý thức pháp luật và văn hóa pháp
luật. Như vậy, ý thức pháp luật, văn hóa pháp luật với tính cách là những tác
nhân thúc đẩy hiệu quả thực hiện pháp luật cũng chịu sự tác động mà chính
quá trình và kết quả của việc thực hiện pháp luật tạo ra.
Theo tác giả thì sử dụng pháp luật thông qua việc sử dụng các thẩm
quyền luật định cũng không thể là một sự tùy tiện mà ngược lại cần phải được
cân nhắc kỹ lưỡng, thận trọng. Hoạt động áp dụng pháp luật cũng góp phần
bổ sung pháp luật, làm phong phú các nguồn sáng kiến pháp luật, gắn bó chặt
chẽ với nhu cầu giải thích pháp luật, có tiềm năng đối với việc bổ sung sửa
đổi pháp luật hoặc ban hành pháp luật mới. Ngoài ra, tác giả cũng đưa ra vấn
đề cơ chế thực hiện pháp luật và những điều kiện bảo đảm hiệu quả thực hiện
pháp luật. Trong đó, thực hiện pháp luật là hành vi và hoạt động của con
người, dù họ là cá nhân, công dân hay cán bộ, công chức của cơ quan công
quyền. Đối tượng của việc thực hiện pháp luật là con người. Nhận thức về
pháp luật, mức độ chia sẻ những giá trị và đòi hỏi của các quy định pháp luật
cần được thực hiện cũng là tiền đề quan trọng và có mối liên hệ mật thiết với
33
thực hiện pháp luật. Có thể thấy rằng, bài viết đã có những đóng góp nhất
định về lý luận thực hiện pháp luật và cơ chế thực hiện pháp luật ở Việt Nam.
Bên cạnh những công trình khoa học nêu trên thì cũng có những bài viết
có liên quan đến thực hiện pháp luật có thể kể đến như: GS. TSKH Đào Trí
Úc, Xã hội học thực hiện pháp luật - những khía cạnh nhận thức cơ bản,
[114] Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 02/2005, Hà Nội; TS. Tạ Thị Minh
Lý, Bàn về tổ chức thực hiện pháp luật, [66], Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp,
số 2+3/2011, Hà Nội; PGS.TS Phan Trung Lý, Bảo đảm thi hành pháp luật ở
địa phương - khó khăn, thuận lợi và giải pháp [65], Tạp chí Tổ chức Nhà
nước, số tháng 4/2009, Hà Nội; TS. Nguyễn Sĩ Dũng và ThS. Hoàng Minh
Hiếu, Việc tổ chức thực hiện pháp luật trong bối cảnh xây dựng Nhà nước
pháp quyền ở nước ta, [20], Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 13/2010, Hà
Nội. Nhóm các bài viết này đã nêu khái quát về hoạt động thực hiện pháp luật
trong từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể như trong bối cảnh xây dựng nhà nước
pháp quyền hay tại địa phương; luận bàn về cách tổ chức thực hiện cũng như
các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật theo các hình thức cụ thể.
Những công trình trên đây cũng gợi mở cho tác giả những nội dung lý
luận về thực hiện pháp luật, thực hiện pháp luật trong điều kiện xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN ở nước ta để vận dụng vào nghiên cứu đề tài “Thực
hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong hoạt động tố tụng hình sự
ở Việt Nam hiện nay”.
1.2. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.2.1. Kết quả tình hình nghiên cứu
Thứ nhất, pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư và thực hiện pháp
luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS có vai trò quan trọng
trong bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc
tội (chủ yếu), bị hại, đương sự - người yếu thế trong vụ án hình sự, góp phần
34
cho công lý được thực thi hiệu quả, thực chất. Các công trình, tài liệu nghiên
cứu trên là nền tảng giúp tác giả tiếp cận sát, thực tế và toàn diện hơn dưới
nhiều góc nhìn khác nhau trong thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của
luật sư trong HĐTTHS ở Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS
chủ yếu được tiếp cận dưới góc độ luật sư là người bào chữa trong TTHS.
Thứ ba, ở nước ngoài phần lớn các công trình nghiên cứu được công bố
mới chỉ phân tích, bình luận các quy định của pháp luật về bảo đảm quyền
được bào chữa của người bị buộc tội; vị trí tố tụng của luật sư thông qua đánh
giá các công việc, hoạt động nghề nghiệp trên thực tế. Đối với pháp luật
TTHS của một số nước thì việc nghiên cứu chỉ có tính chất tham khảo, so
sánh là chính; ít đưa ra các hệ thống giải pháp, kiến nghị nhằm bảo đảm thực
hiện các quyền và nghĩa vụ của luật sư. Ở trong nước các công trình, tài liệu
nghiên cứu cũng chỉ chủ yếu phân tích, bình luận về người bào chữa nói
chung, địa vị pháp lý của luật sư với tư cách người bào chữa trong khi luật sư
còn tham gia TTHS với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
bị hại, đương sự; thời điểm thực hiện nghiên cứu của các công trình này
chủ yếu là khi BLTTHS năm 2003 đang có hiệu lực vì thế không còn mang
nhiều tính “thời sự”, tính mới phù hợp và khả thi; các kiến nghị, giải pháp
đưa ra chủ yếu là hoàn thiện pháp luật TTHS về người bào chữa, về luật sư
với tư cách người bào chữa mà chưa nghiên cứu toàn diện về luật sư -
người biện hộ với cả tư cách người bào chữa và người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp trong TTHS chịu sự điều chỉnh của hai luật chuyên ngành
TTHS và luật sư.
Vì vậy, cách tiếp cận nghiên cứu thực hiện pháp luật về luật sư với tư cách
người bào chữa và người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp thông qua thực hiện
quyền, nghĩa vụ trong HĐTTHS là một cách tiếp cận mới, toàn diện, mang tính
cấp thiết khi BLTTHS năm 2015 có hiệu lực thi hành từ năm 2018 và LLS năm
35
2006 sửa đổi, bổ sung năm 2012 đã có hiệu lực hơn 12 năm qua ở Việt Nam.
1.2.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án
Tổng quan tình hình nghiên cứu ở nước ngoài và trong nước nêu trên,
cùng hoạt động CCTP xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, đặt ra nhiệm
vụ cấp thiết để bảo đảm cơ chế thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của
luật sư trong HĐTTHS đáp ứng những yêu cầu mới ở Việt Nam hiện nay. Vì
vậy, luận án cần tiếp tục nghiên cứu những vấn đề sau:
- Về lý luận, luận án cần tiếp tục nghiên cứu, làm rõ hơn các vấn đề lý
luận về khái niệm, đặc điểm, vai trò thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ
của luật sư trong HĐTTHS; Nội dung và đặc trưng về các hình thức thực hiện
pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS; các yếu tố tác động
đến thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS;
- Về thực tiễn, luận án cần làm rõ thực trạng pháp luật về quyền, nghĩa
vụ của luật sư trong HĐTTHS: ưu điểm, tồn tại và nguyên nhân của những ưu
điểm, tồn tại; những bài học kinh nghiệm trong việc thực hiện pháp luật về
quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS ở Việt Nam hiện nay.
- Về giải pháp, nghiên cứu đưa ra các quan điểm và giải pháp bảo đảm
thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS ở Việt
Nam hiện nay.
1.2.3. Giả thuyết và câu hỏi nghiên cứu
- Giả thuyết nghiên cứu:
Thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS có vai
trò quan trọng trong bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của
cá nhân, cơ quan, tổ chức, góp phần bảo đảm công lý. Thực hiện pháp luật về
quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS ở Việt Nam hiện nay còn nhiều hạn
chế, bất cập do các nguyên nhân khách quan và chủ quan. Vì vậy cần hoàn thiện
các quy định pháp luật về TTHS và luật sư; nâng cao nhận thức, trách nhiệm và
trình độ của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng và các chủ thể có liên
36
quan; tăng cường chất lượng bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, nâng
cao đạo đức nghề nghiệp của luật sư để bảo đảm thực hiện pháp luật về quyền,
nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS ở Việt Nam hiện nay.
- Luận án hướng tới trả lời các câu hỏi nghiên cứu sau:
Thế nào là quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS và thực hiện
pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS? Nội dung, hình
thức và chủ thể của thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong
HĐTTHS? Vai trò và các yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật về quyền,
nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS?
Thực trạng thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong
HĐTTHS ở Việt Nam? (Những ưu điểm, tồn tại và nguyên nhân)
Những quan điểm và giải pháp gì để bảo đảm thực hiện pháp luật về
quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS ở Việt Nam hiện nay?
37
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Tổng quan nghiên cứu cho thấy đã có nhiều công trình khoa học được
công bố ở cả trong và ngoài nước đề cập quyền, nghĩa vụ của luật sư trong
HĐTTHS nhưng có giới hạn về phạm vi cũng như cấp độ nghiên cứu nên các
vấn đề liên quan đến thực hiện quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS
mới chỉ được đề cập ở một số khía cạnh, chưa được nghiên cứu chuyên sâu và
toàn diện. Thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS
chủ yếu được tiếp cận dưới góc độ người bào chữa. Phần lớn các công trình
nghiên cứu nước ngoài được công bố mới chỉ phân tích, bình luận quy định
pháp luật về bảo đảm quyền được bào chữa của người bị buộc tội; vị trí tố
tụng của luật sư thông qua đánh giá các công việc, hoạt động nghề nghiệp trên
thực tế. Các công trình, tài liệu nghiên cứu trong nước cũng chỉ chủ yếu phân
tích, bình luận về người bào chữa nói chung, địa vị pháp lý của luật sư với tư
cách người bào chữa; thời điểm thực hiện nghiên cứu chủ yếu là khi
BLTTHS năm 2003 đang có hiệu lực nên còn mang nhiều tính “thời sự”,
tính mới phù hợp và khả thi; các kiến nghị, giải pháp đưa ra chủ yếu là
hoàn thiện pháp luật TTHS về người bào chữa, chưa nghiên cứu toàn diện
về thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư ở cả tư cách người
bào chữa và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong TTHS.
Dựa trên đánh giá kết quả cơ bản của các công trình nghiên cứu trên làm
cơ sở cho việc tiếp tục phát triển theo hướng nghiên cứu của luận án, tác giả
chỉ ra những vấn đề mà luận án cần tiếp tục nghiên cứu, làm sâu sắc hơn; đưa
ra giả thuyết nghiên cứu và những câu hỏi đặt ra sẽ được giải đáp trong các
chương sau với mong muốn luận án thực sự là một công trình nghiên cứu có
tính toàn diện, tính mới với đề tài “Thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ
của luật sư trong hoạt động tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay”.
38
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ QUYỀN, NGHĨA VỤ CỦA LUẬT SƯ TRONG HOẠT ĐỘNG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM
2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
QUYỀN, NGHĨA VỤ CỦA LUẬT SƯ TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ Ở
VIỆT NAM
2.1.1. Các khái niệm cơ bản
Khi xây dựng khái niệm thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của
luật sư trong HĐTTHS cần làm rõ thế nào là quyền, nghĩa vụ của luật sư;
quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS; pháp luật về quyền, nghĩa vụ của
luật sư trong HĐTTHS và thực hiện pháp luật.
2.1.1.1. Khái niệm quyền và nghĩa vụ của luật sư trong hoạt động tố
tụng hình sự
Trong Nhà nước pháp quyền XHCN, mọi hoạt động của đời sống xã
hội phải tuân thủ, chấp hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật. Việt Nam
đang trong giai đoạn đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, việc
bảo đảm Hiến pháp, pháp luật được thực hiện hiệu quả, người dân chấp hành
đúng, đầy đủ và nghiêm chỉnh là yếu tố quyết định sự thành công. Pháp luật
được thực hiện hiệu quả chủ yếu thông qua việc quyền, nghĩa vụ của các chủ
thể trong quan hệ pháp luật được bảo đảm. Luật sư trong HĐTTHS, quyền và
nghĩa vụ của họ được thực hiện đầy đủ chính là bảo đảm cho chức năng biện
hộ được phát huy tối đa, góp phần cho HĐTTHS được thực hiện hiệu quả,
đúng pháp luật và công lý được thực thi. Vậy, quyền và nghĩa vụ luật sư trong
HĐTTHS là gì? Trong khoa học pháp lý và các nhà nghiên cứu đã đưa ra
nhiều nhận định khác nhau về quyền, nghĩa vụ của chủ thể trong quan hệ pháp
luật. Nhưng tựu chung lại ở một số nhận định sau:
39
Quyền là điều mà pháp luật hoặc xã hội công nhận cho được hưởng,
được làm, được đòi hỏi [112].
Quyền: khả năng thực hiện ý chí của mình được pháp luật, xã hội hoặc
lẽ phải chấp nhận [113]
Quyền là khái niệm khoa học pháp lý dùng để chỉ những điều mà pháp
luật công nhận và đảm bảo thực hiện đối với cá nhân, tổ chức để theo đó cá
nhân được hưởng, được làm, được đòi hỏi mà không ai được ngăn cản, hạn
chế [98]
Quyền là những việc mà một người được làm mà không bị ai ngăn cản,
hạn chế. Phân loại quyền gồm có: 1. Quyền đương nhiên như quyền làm
người, quyền được sống, quyền được tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc. 2.
Quyền do luật pháp cho phép làm hoặc luật pháp không cấm làm (quyền pháp
lý). 3. Quyền do điều lệ của tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức quần chúng
cho phép hội viên được làm. 4. Quyền do người khác ủy quyền, vv... [125,
tr.395].
Quyền là thế lực có thể định đoạt được việc này, việc khác: quyền công
dân, quyền chính trị, quyền đầu phiếu [127].
Dù có những luận điểm và cách tiếp cận khác nhau nhưng tác giả nhận
thấy có một số điểm chung thống nhất giữa các quan điểm trên như sau: Quyền
là những điều về hành vi của chủ thể trong đời sống xã hội được pháp luật công
nhận và bảo đảm thực hiện; Chủ thể có quyền thể hiện ý chí của mình qua việc
thực hiện hay không thực hiện các quyền đó; Quyền gồm nhiều loại như: Quyền
con người, quyền công dân; quyền pháp lý; quyền theo điều lệ, nội quy của các
tổ chức, cơ quan cho phép hội viên, người lao động được làm.
Từ phân tích trên, tác giả đưa ra khái niệm về Quyền như sau:
Quyền là hành vi của chủ thể được pháp luật công nhận và bảo đảm
thực hiện trong xã hội. Chủ thể quyền thể hiện ý chí của mình thông qua việc
thực hiện hay không thực hiện quyền đó. Quyền gồm nhiều loại như: Quyền
40
đương nhiên (quyền con người, quyền công dân); quyền pháp lý và quyền
theo quy định của cơ quan, tổ chức với thành viên, người lao động.
Liên quan đến khái niệm về Nghĩa vụ thì trong lĩnh vực pháp luật và
đời sống cũng có nhiều quan điểm khác nhau nhưng chủ yếu là các quan
điểm sau:
Nghĩa vụ là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi
chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền
hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc hoặc không được thực hiện công việc
nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là
bên có quyền) [97]
Nghĩa vụ: là việc bắt buộc phải làm đối với xã hội, đối với người khác
mà pháp luật hay đạo đức quy định [111]
Nghĩa vụ: Những hành vi mà một người phải thực hiện vì lợi ích của
người khác. Có ba loại nghĩa vụ: a) Nghĩa vụ theo phong tục: nghĩa vụ do
phong tục, tập quán của địa phương quy định. b) Nghĩa vụ về đạo đức, nhân
văn: con phải có hiếu với cha mẹ, vợ chồng phải sống chung thủy với nhau,
vv. c) Nghĩa vụ pháp lí: những nghĩa vụ đã được pháp luật quy định, nghĩa vụ
của công dân do hiến pháp và các luật quy định. Vi phạm nghĩa vụ pháp lí thì
tùy theo mức độ mà có thể bị xử lí theo kỉ luật hành chính hoặc theo các chế
tài hình sự: phạt tù, tử hình, vv… hoặc theo các chế tài dân sự: phạt tiền, buộc
bồi thường thiệt hại, vv… [125, tr.320]
Những quan điểm trên khác nhau về góc độ nhìn nhận, đánh giá nhưng
có một số điểm chung sau: Nghĩa vụ là hành vi của chủ thể bắt buộc phải thực
hiện hoặc không thực hiện trong quan hệ xã hội được pháp luật xây dựng, ban
hành; ý chí của chủ thể nghĩa vụ bị áp đặt bằng việc tuân thủ hoặc chấp hành
các nghĩa vụ đó; Nghĩa vụ có nhiều loại, theo lĩnh vực đời sống xã hội thì có:
Nghĩa vụ theo phong tục, nghĩa vụ về đạo đức, nhân văn, Nghĩa vụ pháp lí;
theo hình thức thực hiện: Nghĩa vụ tuân thủ, nghĩa vụ thi hành.
41
Qua phân tích trên, tác giả đưa ra khái niệm về Nghĩa vụ như sau:
Nghĩa vụ là hành vi của chủ thể bắt buộc phải thực hiện hoặc không
thực hiện trong quan hệ xã hội được pháp luật quy định, ban hành (bảo đảm
thực hiện bằng các chế tài). Áp đặt ý chí của chủ thể nghĩa vụ thông qua việc
tuân thủ hoặc thi hành các nghĩa vụ đó. Nghĩa vụ có nhiều loại, theo lĩnh vực
đời sống xã hội thì có: Nghĩa vụ theo phong tục, nghĩa vụ về đạo đức, nhân
văn, Nghĩa vụ pháp lí; theo hình thức thực hiện: Nghĩa vụ tuân thủ, nghĩa vụ
thi hành.
Về khái niệm luật sư, theo quy định của LLS: Luật sư là người có đủ
tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật này, thực hiện dịch vụ
pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là
khách hàng) [84, Điều 2].
Tiêu chuẩn luật sư: là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc,
tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử
nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề
luật sư, có sức khỏe bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể trở thành luật sư
[84, Điều 10].
Điều kiện hành nghề luật sư: là người có đủ tiêu chuẩn quy định tại
Điều 10 của Luật này muốn được hành nghề luật sư phải có Chứng chỉ hành
nghề luật sư và gia nhập một ĐLS [84, Điều 11]
Luật sư: 1. Thành viên của một ĐLS, làm nghề giúp đỡ về mặt pháp lí
cho cá nhân hoặc tổ chức theo hợp đồng hoặc theo chỉ định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền trong một số trường hợp. Luật sư tham gia tố tụng để bào
chữa cho bị can, để bênh vực bị cáo, các đương sự, thay mặt cho người bị hại
trước các tòa án, và có thể làm một số dịch vụ pháp lí khác theo quy định của
pháp luật. Công dân Việt Nam có phẩm chất đạo đức và đủ các điều kiện về
kiến thức pháp lí theo quy định của pháp luật, được một ĐLS kết nạp có thể
trở thành luật sư sau một thời gian tập sự. 2. Danh hiệu chỉ người đã làm nghề
42
luật sư nhưng đã nghỉ việc. 3. Pháp lệnh mới về luật sư đang được soạn thảo
và có một số điều khoản mới so với pháp lệnh hiện hành [125, tr.294];
Các nhận định trên đều cho thấy rằng luật sư trước tiên phải là công
dân Việt Nam; có đầy đủ văn bằng, chứng chỉ và điều kiện hành nghề luật sư
theo quy định của pháp luật; nhằm giúp đỡ về mặt pháp lý cho cơ quan, tổ
chức, cá nhân có nhu cầu. Vì vậy, tác giả đưa ra khái niệm sau:
Luật sư là công dân Việt Nam có đủ tiêu chuẩn, có chứng chỉ hành
nghề luật sư, trở thành thành viên của một Đoàn luật sư theo quy định của
pháp luật, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của khách hàng nhằm bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Từ khái niệm về quyền, nghĩa vụ và luật sư nêu ở trên tác giả đưa ra
khái niệm về quyền, nghĩa vụ của luật sư như sau:
Quyền, nghĩa vụ của luật sư là những hành vi của luật sư được làm
hoặc bắt buộc phải làm hay không được làm trong quan hệ xã hội theo quy
định của pháp luật nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng.
TTHS là trình tự (quá trình) tiến hành giải quyết vụ án hình sự theo quy
định của pháp luật. HĐTTHS bao gồm toàn bộ hoạt động của cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng (cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án và cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra), người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng (người tiến hành tố tụng và người được giao thực hiện
một số hoạt động điều tra), người tham gia tố tụng (bị can, bị cáo, người bào
chữa...), của cá nhân, cơ quan nhà nước khác và tổ chức xã hội góp phần vào
việc giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật TTHS. Các HĐTTHS tương
ứng với các giai đoạn TTHS gồm: hoạt động khởi tố, hoạt động điều tra, hoạt
động truy tố, hoạt động xét xử và hoạt động thi hành án. Luật sư tham gia
TTHS trong các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử.
Luật sư tham gia HĐTTHS với tư cách người bào chữa cho người bị
buộc tội (người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo); người bảo vệ quyền
43
và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự (nói gọn là: người bào chữa, người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp). Vì vậy, quyền, nghĩa vụ của luật sư trong
HĐTTHS thể hiện chủ yếu ở vai trò người bào chữa, người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp nhằm bảo đảm tốt nhất quyền lợi chính đáng của khách hàng,
góp phần tìm ra sự thật khách quan của vụ án, công lý được thực thi triệt để.
Từ phân tích trên, tác giả đưa ra khái niệm về quyền, nghĩa vụ của luật
sư trong HĐTTHS như sau:
Quyền, nghĩa vụ của luật sư trong hoạt động tố tụng hình sự là
những hành vi mà luật sư được làm hoặc bắt buộc phải làm hay không được
làm trong quá trình giải quyết vụ hình sự theo quy định của pháp luật để bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, bị hại, đương sự, góp
phần tìm ra sự thật khách quan của vụ án.
2.1.1.2. Khái niệm pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong
hoạt động tố tụng hình sự
- Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung, do nhà nước ban hành
và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của nhà nước, là công cụ điều chỉnh các
quan hệ xã hội vì sự tồn tại và phát triển của cả xã hội, đồng thời vì lợi ích,
mục đích của giai cấp thống trị [105, tr.35];
Pháp luật theo nghĩa rộng: là những quy định do các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền đặt ra để hướng dẫn cách xử sự bắt buộc mọi người, mọi tập
thể, tổ chức và là căn cứ để xử lý những xử sự không đúng với các quy định
ấy. Những quy định của pháp luật có thể là xử sự được làm (một quyền) xử sự
bắt buộc phải làm (nghĩa vụ) xử sự không được làm (điều cấm), xử sự được
lựa chọn, được thỏa thuận với nhau. Nghĩa hẹp: là những quy phạm do Quốc
hội ban hành theo hình thức hiến pháp, luật (đạo luật, bộ luật), nghị quyết và
do Ủy ban thường vụ quốc hội ban hành dưới hình thức pháp lệnh, nghị
quyết. Những quy định của các cơ quan khác gọi là pháp quy [125, tr.364];
Những nhận định về pháp luật kể trên đều có những điểm chung sau:
44
do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành; nhằm điều chỉnh, hướng dẫn
mọi người xử sự trong quan hệ xã hội phát sinh; bảo đảm quyền lợi chính
đáng cho các chủ thể tham gia.
Như vậy, tác giả đưa ra khái niệm pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật
sư trong HĐTTHS như sau:
Pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong hoạt động tố tụng
hình sự là tổng thể các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành, điều chỉnh các
quan hệ phát sinh giữa luật sư và các chủ thể pháp luật trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự khi tiến hành bào chữa (cho người bị buộc tội) hoặc bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp (cho bị hại, đương sự).
2.1.1.2. Khái niệm thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư
trong hoạt động tố tụng hình sự
Thực hiện pháp luật là hành vi của chủ thể (hành động hoặc không
hành động) được tiến hành phù hợp với quy định, với yêu cầu của pháp luật,
tức là không trái, không vượt quá khuôn khổ mà pháp luật đã quy định. Thực
hiện pháp luật có thể là một xử sự có tính chủ động, được tiến hành bằng một
thao tác nhất định nhưng đó cũng có thể là một xử sự có tính thụ động, tức là
không tiến hành vượt xử sự bị pháp luật cấm.
Có bốn hình thức thực hiện pháp luật: Tuân thủ pháp luật; Thi hành
pháp luật; Sử dụng pháp luật và Áp dụng pháp luật.
Thực hiện pháp luật là hành vi thực tế, hợp pháp, có mục đích của các
chủ thể pháp luật nhằm hiện thực hóa các quy định của pháp luật, làm cho
chúng đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các
chủ thể pháp luật [105, tr.394]. Có 04 hình thức thực hiện pháp luật, bao gồm:
tuân thủ pháp luật, thi hành (chấp hành) pháp luật, sử dụng pháp luật và áp
dụng pháp luật.
Thực hiện pháp luật là hành vi (hành động hoặc không hành động)
hợp pháp của chủ thể có năng lực hành vi pháp luật. [42, tr.12 - 16]
45
Các nhận định trên tuy có sự khác nhau, song tựu chung lại có những
đặc trưng sau: Thực hiện pháp luật là hành vi pháp luật (hành động hoặc
không hành động) hợp pháp; Thực hiện pháp luật là hành vi thực tế của chủ
thể và Thực hiện pháp luật là hiện thực hóa các quy định pháp luật thông qua
xử sự của các chủ thể. Thực hiện pháp luật thông qua các hình thức: tuân thủ,
chấp hành, sử dụng và áp dụng.
Từ phân tích trên tác giả đưa ra khái niệm về thực hiện pháp luật về
quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS như sau:
Thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong hoạt động
tố tụng hình sự là hành vi thực tế hợp pháp của luật sư và các chủ thể nhằm
hiện thực hóa các quy định của pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư với
tư cách người bào chữa cho người bị buộc tội hoặc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho bị hại, đương sự trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
2.1.2. Đặc điểm thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư
trong hoạt động tố tụng hình sự ở Việt Nam
2.1.2.1. Thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong
hoạt động tố tụng hình sự là hành vi thực tế hợp pháp nhằm hiện thực hóa
các quy tắc xử sự giữa luật sư và các chủ thể khi giải quyết vụ án hình sự
Pháp luật về quyền, nghĩa vụ luật sư trong TTHS được đặt ra để điều
chỉnh hành vi của luật sư và chủ thể liên quan nên việc thực hiện pháp luật
phải thể hiện ở hành vi thực tế của luật sư và chủ thể liên quan. Hành vi về
quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS là toàn bộ những phản ứng, cách
cư xử biểu hiện ra ngoài của luật sư trong một mối quan hệ TTHS cụ thể.
Hành vi hợp pháp của luật sư tham gia TTHS là những hành vi mang tính
pháp lý phù hợp với các quy định của pháp luật luật sư và pháp luật TTHS,
nghĩa là hành vi làm đúng theo những gì mà pháp luật quy định. Vì vậy, luật
sư thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ phải bằng hành vi hợp pháp, có thể
là hành vi hành động hoặc không hành động nhưng phải làm đúng, làm đủ,
46
không trái với những quy định pháp luật có liên quan.
Thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong TTHS là kết
quả của hoạt động đưa các quy định pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư
có hiệu lực thi hành vào thực tiễn HĐTTHS, nghĩa là các quy phạm pháp luật
được luật sư và các chủ thể khác thực hiện một cách hợp pháp trong thực tế
giải quyết vụ án hình sự. Như vậy, các quy định về quyền, nghĩa vụ của luật
sư trong TTHS từ văn bản pháp luật liên quan được hiện thực hóa trong đời
sống thông qua hành vi hợp pháp của các chủ thể.
2.1.2.2. Thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong
hoạt động tố tụng hình sự là đồng thời thực hiện quyền, nghĩa vụ của luật
sư và thực hiện quyền, nghĩa vụ của người bào chữa, người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp
Luật sư khi tham gia HĐTTHS với tư cách là người bào chữa cho
người bị buộc tội hay người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại,
đương sự đặc biệt và ưu việt hơn so với người khác bào chữa, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp. Luật sư thực hiện đồng thời hai tư cách pháp
lý là luật sư và người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
trong vụ án hình sự. Có nghĩa, trong quan hệ TTHS, luật sư chịu sự điều
chỉnh của pháp luật về luật sư và pháp luật TTHS với tư cách là người bào
chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Quyền, nghĩa vụ của luật
sư trong HĐTTHS cũng được bảo đảm thực hiện theo quy định pháp luật
về luật sư và TTHS. Cụ thể Luật sư bào chữa, luật sư bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình khi tham gia HĐTTHS
theo quy định LLS tại Điều 21 về quyền, nghĩa vụ của luật sư, Điều 27
hoạt động tham gia tố tụng của luật sư; BLTTHS 2015 theo Điều 73 về
quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, khoản 3, 4 Điều 84 về quyền,
nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại, đương sự
và các quy định pháp luật có liên quan khác.
47
2.1.2.3. Thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong
hoạt động tố tụng hình sự phải theo trình tự, thủ tục tố tụng hình sự
Trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự được thực hiện theo quy định
pháp luật TTHS. Luật sư tham gia TTHS thì phải thực hiện các hành vi hợp
pháp về quyền, nghĩa vụ của mình theo trình tự, thủ tục TTHS, nghĩa là trong
bất kỳ giai đoạn nào của TTHS, luật sư với tư cách là người bào chữa, người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cũng phải bảo đảm thực hiện đúng trình tự,
thủ tục tố tụng của giai đoạn đó. Ví dụ: trong giai đoạn khởi tố hình sự, để trở
thành người bào chữa sau khi được người bị buộc tội, người đại diện hoặc
người thân thích của họ lựa chọn, luật sư phải đăng ký bào chữa với cơ quan
có thẩm quyền và có văn bản thông báo người bào chữa của cơ quan có thẩm
quyền; Trong giai đoạn điều tra, khi luật sư bào chữa tham gia hỏi cung bị
can, nếu luật sư muốn hỏi bị can thì phải có ý kiến đề nghị và được điều tra
viên đồng ý mới được hỏi v.v…
2.1.2.4. Thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong
hoạt động tố tụng hình sự thể hiện ý chí của nhà nước pháp quyền XHCN
nhưng vẫn đề cao tính độc lập và tự chịu trách nhiệm của luật sư
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam công nhận và bảo đảm quyền,
nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS, nêu cao tinh thần, ý thức trách nhiệm
của chính luật sư và các chủ thể liên quan “góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền con người, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giáo dục mọi người ý thức tuân theo
pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm” [88, Điều 2]. Pháp luật
về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS là công cụ để Nhà nước công
nhận, bảo đảm và quản lý hoạt động hành nghề của luật sư khi tham gia
TTHS. Về mặt lý luận, pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong
HĐTTHS được xây dựng dưới góc độ quy định cách xử sự giữa luật sư với
người bị buộc tội, bị hại, đương sự, cơ quan tiến hành tố tụng và chủ thể khác
48
trong vụ án hình sự. Các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đại diện
cho ý chí của Nhà nước khi thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư
trong HĐTTHS phải đồng thời tự thực hiện pháp luật và tổ chức cho các chủ
thể khác thực hiện pháp luật, thông qua việc ra quyết định, yêu cầu hoặc
thông báo cho luật sư, cơ quan, tổ chức, cá nhân biết và thực hiện các quyết
định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật có liên
quan đến luật sư. Cơ quan có thẩm quyền có thể áp dụng biện pháp xử phạt vi
phạm hành chính, thậm chí biện pháp hình sự để xử lý đối với hành vi vi
phạm của luật sư và các chủ thể có liên quan.
Tuy nhiên, luật sư trong hành nghề phải chủ động, nhạy bén, bản lĩnh,
không chịu sự tác động từ bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào mà chỉ tuân
theo pháp luật và quy tắc đạo đức, ứng xử nghề nghiệp. Với tư cách người
biện hộ, luật sư thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình cũng gắn liền với việc
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho khách hàng. Luật sư đồng thời chịu trách
nhiệm cá nhân trước khách hàng và chịu hình thức xử lý theo quy định của
pháp luật nếu vi phạm.
Vì vậy, thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong
HĐTTHS thể hiện ý chí của nhà nước nhưng cũng đề cao tính độc lập và tự
chịu trách nhiệm của luật sư.
2.1.2.5. Thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong
hoạt động tố tụng hình sự thể hiện sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan tiến
hành tố tụng với luật sư và các chủ thể khác trong quá trình giải quyết vụ
án hình sự
Bản chất của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là “Nhà nước pháp
quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”, các quyền con
người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm theo
Hiến pháp và pháp luật; “Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi
ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm”; “nguyên tắc tranh tụng trong xét
49
xử được bảo đảm” [86, Điều 103, Điều 14]. Bên cạnh đó, các Nghị quyết của
Đảng như Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 02/1/2002 về một
số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 49-
NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược CCTP đến năm 2020
nêu rõ phải hoàn thiện thể chế hình sự, thủ tục tư pháp và các thiết chế bổ trợ
tư pháp mà trung tâm là tòa án và khâu đột phá là tăng cường tranh tụng dân
chủ; hoàn thiện cơ chế đảm bảo để luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại tòa,
đồng thời xác định rõ chế độ, trách nhiệm đối với luật sư. Gần đây nhất là
trong văn kiện Đại hội Đảng XII xác định phải nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động của luật sư.
Thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS
phải theo đường lối, chủ trương nêu trên của Đảng và Nhà nước, là trách
nhiệm của tất cả các chủ thể có liên quan trong quá trình giải quyết vụ án hình
sự. Vì vậy, đặt ra yêu cầu về sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan tiến hành tố
tụng với luật sư và các chủ thể khác trong việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của
luật sư trong HĐTTHS.
2.1.3. Vai trò thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư
trong hoạt động tố tụng hình sự
2.1.3.1. Thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong
hoạt động tố tụng hình sự góp phần bảo đảm quyền con người, quyền và lợi
ích hợp pháp của người bị buộc tội, bị hại, đương sự
Pháp luật thể hiện ý chí của nhà nước, là công cụ điều chỉnh các quan
hệ xã hội vì sự tồn tại và phát triển của cả xã hội, đồng thời vì lợi ích, mục
đích của giai cấp thống trị. Nhà nước ban hành pháp luật để thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của mình. Hiến pháp năm 2013 đã quy định: “Nhà nước bảo
đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ
và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự
50
do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Pháp luật về quyền, nghĩa
vụ của luật sư trong HĐTTHS cũng không nằm ngoài mục đích trên. Hoạt
động tố tụng hình sự có nhiệm vụ bảo đảm phát hiện chính xác và xử lý công
minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không
để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giáo dục mọi
người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm
[88]. Luật sư tham gia vào HĐTTHS với tư cách người bào chữa, người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp nhằm góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan
của vụ án, những tình tiết xác định người bị buộc tội vô tội, những tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo; giúp bị hại, đương sự về
pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Vì vậy, thực hiện
pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS góp phần bảo đảm
quyền con người, quyền lợi hợp pháp của người bị buộc tội, bị hại, đương sự.
2.1.3.2. Thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong
hoạt động tố tụng hình sự góp phần bảo vệ công lý, hoàn thiện pháp luật và
xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Thông qua hoạt động nghề nghiệp của luật sư góp phần bảo vệ công lý,
các quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ
quan, tổ chức, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam XHCN, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh [84, Điều 3]. Luật sư là chuyên
gia pháp lý, hành nghề trong môi trường pháp luật nên các kỹ năng hành nghề,
năng lực chuyên môn được phát huy, nâng cao. Khi tham gia TTHS, luật sư tiếp
xúc, làm việc với nhiều chủ thể khác nhau nên có góc nhìn đa chiều, toàn diện
trong giải quyết vụ án, góp phần tìm ra sự thật khách quan và những bất cập của
pháp luật TTHS. Chính vì vậy, luật sư hành nghề thông qua việc thực hiện quyền,
nghĩa vụ của mình cũng là một kênh phản biện hiệu quả, góp ý kiến thiết thực,
51
chính xác và nhanh nhất trong hoàn thiện pháp luật TTHS.
Luật sư có vai trò quan trọng trong bảo vệ quyền con người, quyền cơ
bản của công dân, bảo đảm quyền lợi hợp pháp của cá nhân, tổ chức, góp
phần bảo đảm công lý, tăng cường pháp chế XHCN. Vì vậy, luật sư thực hiện
quyền, nghĩa vụ trong HĐTTHS góp phần xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật hình sự nói riêng, hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung.
2.1.3.3. Thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong hoạt
động tố tụng hình sự góp phần tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
Luật sư là người hiểu biết pháp luật, thông qua việc hành nghề, luật sư
góp phần tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho cộng đồng xã hội.
Đối với khách hàng, luật sư trước hết phải giúp họ hiểu được quyền, nghĩa vụ,
lợi ích hợp pháp của mình để có sự phối hợp tốt trong quá trình giải quyết vụ
án. Thông thường, khách hàng là người có nhận thức pháp luật hạn chế nên
không hiểu rõ những câu hỏi của hội đồng xét xử, của kiểm sát viên hay của
luật sư phía đối lập, dẫn đến có thể câu trả lời đôi khi gây bất lợi cho chính
bản thân. Trong trường hợp này, luật sư giống như một chuyên gia pháp lý có
nghĩa vụ giải thích pháp luật cho khách hàng hiểu, đặc biệt, đối với khách
hàng là bị cáo phải giúp hiểu được rằng họ có quyền “trình bày lời khai, trình
bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc
phải nhận mình có tội”.
Đối với cơ quan, người tiến hành tố tụng có thể chưa hiểu sâu hoặc còn
băn khoăn trong việc áp dụng quy định pháp luật nào đó liên quan đến vụ án
thì những luật sư có kiến thức pháp lý vững vàng, chuyên môn cao có thể đưa
ra ý kiến giúp cho việc hiểu, áp dụng quy định pháp luật vào quá trình giải quyết
vụ án được đúng đắn. Vai trò này thể hiện rõ nhất ở giai đoạn xét xử, đặc biệt
trong hoạt động tranh tụng tại phiên tòa. Thông qua việc kết hợp kỹ năng tranh
tụng, kinh nghiệm hành nghề, các chứng cứ, tài liệu thu thập hợp pháp cũng như
sự am hiểu pháp lý khi tham gia hỏi, tranh luận dân chủ nhằm thuyết phục các bên
52
tại phiên tòa nhìn nhận đúng nội dung vụ án, áp dụng đúng quy định pháp luật,
bảo đảm quá trình xét xử vụ án diễn ra đúng quy định, bản án đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật. Bằng hoạt động nghiệp vụ thông qua thực hiện quyền, nghĩa
vụ của mình, luật sư góp phần tuyên truyền, phổ biến pháp luật đến những người
có mặt tại phiên tòa, đặc biệt là khách hàng.
2.1.3.4. Thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong hoạt
động tố tụng hình sự góp phần giám sát xã hội đối với hoạt động tư pháp
Để đảm bảo HĐTTHS thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục luật định,
hạn chế những vi phạm, sai sót cũng như lạm quyền trong việc thực thi pháp
luật, Nhà nước đã thiết lập nhiều cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm
sát…, trong đó giám sát xã hội là một loại giám sát đặc thù, được thực hiện
bởi các chủ thể mang tính “xã hội” (Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức,
pháp nhân và công dân) nhằm theo dõi, quan sát, xem xét, đánh giá hoạt động
tố tụng hình sự của cơ quan, người có thẩm quyền.
Khi tham gia HĐTTHS, luật sư phải sử dụng mọi biện pháp do pháp luật
quy định để làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, các tình tiết có lợi cho
người bi buộc tội, bị hại, đương sự thông qua việc thực hiện quyền, nghĩa vụ
của luật sư, trong đó gồm cả việc giám sát các hành vi, thủ tục tố tụng hình sự
của cơ quan, người tiến hành tố tụng nhằm bảo đảm đúng quy định pháp luật
trong giải quyết vụ án hình sự. Do đó, người tiến hành tố tụng sẽ phải nghiên
cứu, cẩn trọng và có trách nhiệm hơn khi tiến hành các hoạt động tố tụng của
mình theo các trình tự TTHS được quy định một cách chặt chẽ. Chính vì vậy,
luật sư khi tham gia TTHS là một kênh giám sát xã hội hiệu quả đối với hoạt
động tư pháp hình sự, góp phần hạn chế oan, sai, nâng cao chất lượng hoạt
động của cơ quan tư pháp, tăng cường pháp chế XHCN, khẳng định, nâng cao
bản chất Nhân dân của Nhà nước ta.
53
2.1.3.5. Thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong
hoạt động tố tụng hình sự góp phần nâng cao kỹ năng, đạo đức và ứng xử
nghề nghiệp của luật sư và nhận thức, năng lực của cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng
Quá trình hình thành và phát triển của nghề luật sư ở Việt Nam đã có
giai đoạn gián đoạn do hoàn cảnh lịch sử của đất nước. Trong điều kiện hiện
nay, vai trò của luật sư ngày càng được đề cao, đặt ra yêu cầu về nâng cao
năng lực, kỹ năng hành nghề, đạo đức ứng xử nghề nghiệp của luật sư cũng
như vai trò quản lý nhà nước đối với hoạt động luật sư. Thực hiện pháp luật
về quyền, nghĩa vụ của luật sư là sự hiện thực hóa các quy định pháp luật vào
thực tiễn, giúp cho Đảng, Nhà nước có cơ sở thực tiễn để thực hiện mục tiêu
theo yêu cầu CCTP, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Bảo đảm hiệu
quả thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS góp
phần rèn luyện năng lực, trau dồi kỹ năng cho chính bản thân luật sư trong
hành nghề; đồng thời nâng cao nhận thức của người tiến hành tố tụng cũng
như năng lực quản lý của cơ quan có thẩm quyền đối với hoạt động luật sư.
2.2. NỘI DUNG PHÁP LUẬT VÀ HÌNH THỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ QUYỀN, NGHĨA VỤ CỦA LUẬT SƯ TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH
SỰ Ở VIỆT NAM
2.2.1. Nội dung pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong hoạt
động tố tụng hình sự
2.2.1.1. Nội dung chủ yếu của pháp luật về quyền của luật sư trong
hoạt động tố tụng hình sự
- Nhóm quyền về hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ,
tài liệu, đồ vật và giám định, định giá tài sản (điểm h, i, k khoản 1 Điều 73;
điểm a, b, c khhoản 3 Điều 84 BLTTHS 2015)
Chứng cứ có vai trò quan trọng, chứng minh sự có tội hoặc vô tội của
người bị buộc tội và những tình tiết của vụ án. Pháp luật TTHS không quy
54
định về chủ thể được quyền đưa ra chứng cứ. Vì vậy, người tiến hành tố tụng,
người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân đều có thể đưa ra chứng cứ,
tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ án theo trình tự, thủ tục luật định. Bản thân
người bị buộc tội, bị hại, đương sự thường là những người không am hiểu về
pháp luật TTHS, khó có khả năng thu thập để tự đưa ra hoặc đánh giá về
chứng cứ, tài liệu đồ vật có liên quan nhằm giảm tội, gỡ tội hoặc chứng minh
các tình tiết của vụ án. Với chức năng bảo vệ công lý, bảo vệ tối đa quyền và
lợi ích hợp pháp cho khách hàng, luật sư vận dụng kiến thức pháp lý, kỹ năng
hành nghề để đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật; trên cơ sở các chứng cứ, tài
liệu, đồ vật liên quan đến tình tiết vụ án, luật sư được kiểm tra, đánh giá, trình
bày ý kiến và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh
giá. Đây là quy định mới về quyền của luật sư so với BLTTHS năm 2003,
được cụ thể hóa tại các điều Điều 108, từ Điều 312 đến Điều 316 và Điều 322
BLTTHS 2015.
Ngoài ra, luật sư còn có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng giám định, định giá tài sản. Quyền này giữ vai trò quan trọng đối
với những vụ án mà việc định giá tài sản là một trong các căn cứ xác định tội
danh, khung hình phạt theo quy định của pháp luật hoặc giải quyết đồng thời
các vấn đề dân sự liên quan trong vụ án hình sự.
Đối với luật sư bào chữa, ngoài các quyền trên, còn được thu thập hoặc
đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ. Luật sư
có thể thu thập chứng cứ thông qua việc gặp, hỏi người mà mình bào chữa, bị
hại, người làm chứng, những người khác biết về vụ án để nắm bắt thông tin về
những vấn đề liên quan đến vụ án hoặc đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân
cung cấp thông tin, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa. Đây là một
trong những hoạt động quan trọng trong quá trình bào chữa bởi chứng cứ mà
luật sư thu thập nhằm chứng minh, “gỡ tội”, giảm nhẹ tội và phản biện lại với
chứng cứ, luận điểm buộc tội của cơ quan tiến hành tố tụng. Ngoài việc tự
55
mình thu thập chứng cứ, luật sư bào chữa có thể đề nghị cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ. Quyền này của luật sư bào chữa là
bảo đảm nguyên tắc cơ bản trong tố tụng về “xác định sự thật của vụ án”
(Điều 15 BLTTHS 2015), thống nhất với nội dung quy định về trường hợp
luật sư bào chữa không thể thu thập được chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan
đến việc bào chữa thì có thể đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
thu thập (khoản 3 Điều 81 BLTTHS 2015).
- Nhóm quyền về sự có mặt và được thông báo trước về thời gian,
địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và hoạt động điều tra khác (điểm b, c, d
khoản 1 Điều 73; điểm d khoản 3 Điều 84 BLTTHS 2015)
Một trong những biện pháp quan trọng để thu thập chứng cứ là hỏi
cung, lấy lời khai; đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói của người bị buộc
tội và những người có liên quan. Tùy thuộc vào vai trò là người bào chữa hay
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, luật sư sẽ được tham gia vào các
hoạt động trên ở mức độ, phạm vi khác nhau.
Nếu như luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp được có mặt khi cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng lấy lời khai, đối chất, nhận dạng, nhận
biết giọng nói của người mà mình bảo vệ (Điểm d Khoản 3 Điều 84 BLTTHS)
thì luật sư bào chữa được có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận
biết giọng nói và hoạt động điều tra khác; có mặt khi lấy lời khai, hỏi cung
người bị buộc tội, nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung
đồng ý thì được hỏi người bị buộc tội sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của
người có thẩm quyền kết thúc (Điểm c, d Khoản 1 điều 73 BLTTHS); được cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời
khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác theo
quy định của Bộ luật này (điểm d khoản 1 Điều 73 BLTTHS). Quy định mới
này nhằm đảm bảo quyền con người, quyền công dân theo tinh thần Hiến
pháp đồng thời hạn chế sự lạm quyền từ phía cơ quan tố tụng, tạm giữ, tạm
56
giam người không đúng quy định pháp luật và giúp cho luật sư được tiếp xúc
với vụ án ngay từ đầu, sẽ thuận lợi hơn trong việc thu thập chứng cứ gỡ tội và
những tình tiết giảm nhẹ phục vụ bào chữa cho người bị buộc tội ở giai đoạn
sau của quá trình TTHS. BLTTHS 2015 đã có sự thống nhất, phù hợp giữa
quy định về quyền của luật sư bào chữa tại điểm b, c khoản 1 Điều 73 với quy
định tại Điều 79 về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải báo trước
một thời gian hợp lý cho luật sư bào chữa về thời gian, địa điểm tiến hành
hoạt động tố tụng mà họ có quyền tham gia.
- Quyền gặp, hỏi người bị buộc tội (điểm a khoản 1 Điều 73, Điều 80
BLTTHS 2015)
Để thực hiện bào chữa cho người bị buộc tội, luật sư bào chữa thông
qua quyền gặp, hỏi người bị buộc tội nhằm gặp gỡ, tiếp xúc, hỏi người mà
mình bào chữa để thu thập thông tin, góp phần tìm ra làm sáng tỏ những tình
tiết xác định người bị buộc tội vô tội, những tình tiết có lợi, giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
Ngoài BLTTHS, quyền này của luật sư bào chữa cũng được ghi nhận tại
Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam 2015, cụ thể: "Người bào chữa được gặp người
bị tạm giữ, người bị tạm giam để thực hiện bào chữa theo quy định của BLTTHS
và Luật này tại buồng làm việc của cơ sở giam giữ hoặc nơi người bị tạm giữ, tạm
giam đang khám bệnh, chữa bệnh; phải xuất trình giấy tờ tùy thân, giấy tờ về việc
bào chữa" (Khoản 3 Ðiều 22 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam 2015). Luật sư bào
chữa khi thực hiện quyền được gặp, hỏi người bị buộc tội đang bị tạm giam thì
“phải xuất trình văn bản thông báo người bào chữa, Thẻ luật sư”(Điều 80
BLTTHS). Trường hợp cần phải giám sát cuộc gặp của luật sư bào chữa với người
bị buộc tội đang bị tạm giam thì Thủ trưởng, người có thẩm quyền của cơ quan
đang thụ lý vụ án phối hợp với cơ sở giam giữ tổ chức giám sát (Ðiều 10 Thông tư
liên tịch số 01/2018/TTLT ngày 23-1-2018 của Bộ Công an - Bộ Quốc phòng -
TAND tối cao - Viện KSND tối cao). Tại phiên tòa, bị cáo đang bị tạm giam chỉ
57
được tiếp xúc với luật sư bào chữa (khoản 4 Điều 256 BLTTHS).
- Nhóm quyền về hoạt động tiếp cận tài liệu trong hồ sơ vụ án và
xem biên bản hoạt động tố tụng, quyết định tố tụng có liên quan
Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, tiếp cận các tài liệu liên quan có vai trò
quan trọng, giúp luật sư nắm được nội dung sự việc, tình tiết vụ án, để đưa ra
căn cứ pháp lý, lập luận, tháo gỡ những điểm chưa rõ ràng, góc khất của vấn
đề, tìm ra những điểm mấu chốt của vụ án có lợi cho người bị buộc tội, bị hại
và đương sự, nhằm bảo vệ tối đa quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
Luật sư được đọc, ghi chép, sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án
sau khi kết thúc điều tra (Điều 82 BLTTHS). Quyền này bảo đảm cho việc tiếp
cận các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án của luật sư sau khi hoạt động điều
tra kết thúc, góp phần làm căn cứ trong quá trình thực hiện bào chữa cho
người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại, đương sự.
Đối với quyền xem biên bản về hoạt động tố tụng, quyết định tố tụng
(điểm đ khoản 1 Điều 73, điểm đ khoản 3 Điều 84): Luật sư bào chữa được
xem các biên bản về hoạt động tố tụng mà mình tham gia như: biên bản hỏi
cung bị can, biên bản lấy lời khai người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can... và các
quyết định tố tụng liên quan đến người bị buộc tội như: quyết định truy tố, quyết
định áp dụng biện pháp khẩn cấp… Còn với luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp, quyền này chỉ giới hạn ở việc được xem biên bản phiên tòa. Quy định này
xuất phát từ sự khác nhau ở mức độ, phạm vi tham gia tố tụng của luật sư bào
chữa với luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp như đã phân tích ở các nội
dung trên. Thực hiện quyền về xem biên bản hoạt động tố tụng, quyết định tố
tụng liên quan đến khách hàng là hành vi hợp pháp nhằm bảo đảm tính công
khai, minh bạch trong hoạt tiến hành TTHS, tăng phạm vi giám sát xã hội của
luật sư đối với các hoạt động của cơ quan, người tiến hành tố tụng.
Những tài liệu có trong hồ sơ vụ án, biên bản hoạt động tố tụng và
quyết định tố tụng thể hiện hiệu quả hoạt động tố tụng của cơ quan điều tra,
58
viện kiểm sát, tòa án. Vì vậy, luật sư có thể đánh giá được hoạt động tố tụng
của các cơ quan trên đã tiến hành đúng quy định chưa, chặt chẽ, đầy đủ chưa.
Từ đó, luật sư đưa ra các đề nghị với cơ quan tiến hành tố tụng nhằm bảo đảm
cho việc giải quyết vụ án được khách quan, đúng sự thật cũng như bảo vệ
quyền lợi của khách hàng.
- Quyền tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa
Hoạt động hỏi, tranh luận của luật sư tại phiên tòa thể hiện kinh
nghiệm, kỹ năng và trình độ chuyên môn của luật sư trong việc bào chữa, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng. Quyền này dựa trên nguyên tắc
“tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”(điều 26 BLTTHS) và được làm rõ
hơn từ Điều 307 đến Điều 322 BLTTHS quy định liên quan đến hoạt động
tranh tụng của luật sư bào chữa.
Quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án, luật sư đã dự liệu những câu hỏi
trọng tâm, hỏi ai, như thế nào, tiến hành tranh luận ra sao, đồng thời phải
“phản ứng nhanh” với những tình huống phát sinh tại phiên tòa, những tình
tiết mới, kịp thời phân tích, đánh giá để đưa ra câu hỏi, tranh luận hợp lý, bảo
vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng. Khách hàng dù là bị
cáo hay bị hại, đương sự thì khi tham gia phiên tòa thường có tâm lý hồi hộp,
mất bình tĩnh trước các cơ quan, người tiến hành tố tụng. Trường hợp kiểm
sát viên, hội đồng xét xử, luật sư phía đối lập có những câu hỏi phiến diện,
thiếu khách quan, mang tính áp đặt, tạo áp lực cho khách hàng thì luật sư cần
phải có ý kiến để giúp cho khách hàng bình tĩnh, giữ ổn định tâm lý, đặc biệt
với khách hàng là người chưa thành niên hoặc người có bệnh lý cần tránh sự
xúc động quá mức…
- Nhóm quyền về đề nghị tiến hành hoạt động tố tụng; triệu tập,
thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng
và thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế (điểm e, g
khoản 1 Điều 73; điểm g khoản 3 Điều 84 BLTTHS 2015)
59
Trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, trường hợp xét thấy cần thiết, luật
sư có thể đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám
định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật nhằm bảo
đảm sự vô tư của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố
tụng (Điều 21 Bộ luật TTHS 2015), góp phần giải quyết vụ án được khách
quan, đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội,
bị hại, đương sự.
Ngoài ra, trong quá trình giải quyết vụ án, luật sư còn có thể đề nghị
tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định; triệu tập người tham gia tố tụng,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng (Điểm g khoản 1 Điều 73 BLTTHS) là
một quyền mới và quan trọng của luật sư bào chữa so với BLTTHS năm
2003. Khi có căn cứ xác định cơ quan, người tiến hành tố tụng vi phạm hoạt
tố tụng, luật sư bào chữa được đề nghị họ thực hiện theo đúng quy định pháp
luật. Trường hợp cần có người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng liên quan để làm sáng tỏ những vấn đề khúc mắc của vụ án
thì luật sư bào chữa cũng được đề nghị người có thầm quyền triệu tập người
tham gia tố tụng, người tiến hành tố tụng đó. Tùy từng giai đoạn tố tụng và
mức độ cần thiết, luật sư bào chữa có quyền đề nghị cơ quan tố tụng thay đổi,
hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế để đảm bảo quyền con
người, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội.
- Nhóm quyền về khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng hay kháng
cáo bản án, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng liên quan
đến đến quyền lợi, nghĩa vụ của người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm
về tâm thần hoặc thể chất (điểm n, o khoản 1 Điều 73, điểm e, h khoản 3
Điều 84)
Việt Nam là thành viên của nhiều công ước quốc tế về quyền con
người, trong đó có Công ước về quyền trẻ em, Công ước về quyền của người
khuyết tật, Tuyên bố về quyền của người khuyết tật về tâm thần, quyền được
60
xét xử công bằng (the right to a fair trial) và Các nguyên tắc cơ bản về vai trò
của luật sư (Basic principles on the role of lawyers). Vì vậy, nhóm quyền này
trong TTHS cũng thể hiện cam kết của nhà nước ta trong bảo đảm thực hiện
các công ước, quyền và nguyên tắc trên. Việc khiếu nại quyết định, hành vi tố
tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; kháng cáo bản án,
quyết định của tòa án thực chất thuộc quyền của người bị buộc tội, bị hại,
đương sự. Tuy nhiên, đối với những trường hợp người dưới 18 tuổi, người có
nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất, tức là những người năng lực hành vi bị
hạn chế thì luật sư của họ được thực hiện việc khiếu nại, kháng cáo nếu thấy
có dấu hiệu vi phạm tố tụng trong quyết định, hành vi của cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của
khách hàng.
- Quyền đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng cho phép người tập sự
hành nghề luật sư được đi cùng luật sư hướng dẫn trong vụ án hình sự
(khoản 3 Điều 14 LLS). Đây là một quyền riêng có của luật sư và “luật sư
tương lai”, với tư cách là người hướng dẫn của người tập sự hành nghề luật sư
nếu được sự đồng ý của khách hàng, cơ quan tiến hành tố tụng thì người tập
sự có quyền được đi cùng luật sư trong vụ viêc đó để học hỏi các kinh nghiệm
thực tế trong hành nghề luật sư, hỗ trợ, thực hiện các công việc theo sự chỉ
định của luật sư hướng dẫn.
Ngoài ra, luật sư bào chữa còn được bảo đảm sự bình đẳng với người thực
hành quyền công tố tại phiên tòa hình sự. Quy định mới góp phần tạo sự bình
đẳng giữa bên công tố (kiểm sát viên) và Bên bào chữa (luật sư bào chữa) thông
qua việc “Phòng xử án phải được bố trí thể hiện sự trang nghiêm, an toàn, bảo
đảm sự bình đẳng giữa người thực hành quyền công tố và luật sư, người bào
chữa khác.” (khoản 1 Điều 257 BLTTHS 2015); được cụ thể hóa tại Điều 3,
Điều 4 Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC ngày 28/7/2017 của Tòa án nhân dân
tối cao quy định về phòng xử án [101].
61
Có thể thấy, BLTTHS 2015, LLS và các văn bản pháp luật liên quan đã
quy định khá chi tiết, cụ thể về quyền của luật sư bào chữa, luật sư bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp theo hướng mở rộng hơn so với các BLTTHS trước
đây, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho luật sư trong quá trình tham gia tố tụng.
Các quy định mới về quyền của luật sư đã nâng cao vị thế của người luật sư
nói riêng và người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp nói
chung, tạo bước chuyển lớn trong cải cách tư pháp.
2.2.1.2. Nội dung chủ yếu của pháp luật về nghĩa vụ của luật sư
trong hoạt động tố tụng hình sự
Chức năng xã hội của luật sư khi hành nghề là góp phần bảo vệ công
lý, các quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân, cơ quan, tổ chức, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam XHCN, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Vì vậy, bên
cạnh các quyền mà luật sư được làm, pháp luật đã quy định về nghĩa vụ của
luật sư trong HĐTTHS để bảo đảm được chức năng trên.
- Nhóm nghĩa vụ về sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định
góp phần làm sáng tỏ những tình tiết liên quan đến khách hàng; sự thật
khách quan của vụ án và giúp họ về mặt pháp lý (điểm a, b khoản 2 Điều
73; điểm a,b khoản 4 Điều 84 BLTTHS 2015)
Xác định sự thật khách quan của vụ án là một trong những nguyên tắc
cơ bản của TTHS được quy định tại Điều 15 BLTTHS 2015. Trách nhiệm này
trước hết thuộc về phía cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Bên cạnh đó, những người tham gia tố tụng cũng không loại trừ trách nhiệm
này. Luật sư bằng kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm, kỹ năng hành nghề
được thực hiện các quyền cụ thể để bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp, đồng thời có nghĩa vụ sử dụng các biện pháp do pháp luật quy định để
góp phần làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Luật sư bào chữa phải tận dụng mọi biện pháp nghiệp vụ, chuyên môn
62
hợp pháp như thu thập tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ án; tham gia hỏi và
tranh luận tại phiên tòa; sao, chép các tài liệu và nghiên cứu hồ sơ vụ án; gặp
gỡ, hỏi người bị bắt, người bị tạm giam, bị can, bị cáo; ... để tìm ra sự thật của
vụ án, các tình tiết giảm nhẹ có lợi cho người bị buộc tội. Đây là điểm mới
trong BLTTHS 2015 khi gắn vai trò của người bào chữa, người bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp thông qua việc phát huy các “hoạt động nghiệp vụ”, kinh
nghiệm hành nghề, sự am hiểu pháp lý của họ hỗ trợ cùng với cơ quan, người
tiến hành tố tụng nhanh chóng tìm ra sự thật khách quan của vụ án, làm sáng
tỏ những tình tiết xác định người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội
hay xác định những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo.
Hiệu quả thực hiện nghĩa vụ này tùy thuộc nhiều vào trình độ, năng lực của
mỗi người bào chữa, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp bên cạnh việc phối
hợp, tạo điều kiện và nhận thức từ phía cơ quan, người tiến hành tố tụng trong
quá trình tìm ra sự thật của vụ án hình sự.
- Nghĩa vụ giúp người mà mình bào chữa, bảo vệ quyền lợi về mặt
pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ
Luật sư là người am hiểu pháp luật, có kỹ năng hành nghề, nên khi
tham gia TTHS sẽ là chỗ dựa vững chắc cả về pháp lý và tinh thần cho khách
hàng của mình, nhất là người bị buộc tội qua đó bảo đảm được tối đa quyền
và lợi ích hợp pháp cho họ. Nghĩa vụ này là một trong những nguyên tắc hành
nghề luật sư được “Sử dụng các biện pháp hợp pháp để bảo vệ tốt nhất quyền,
lợi ích hợp pháp của khách hàng” (khoản 4 Điều 5 LLS), là Quy tắc 3 về bảo
vệ tốt nhất lợi ích của khách hàng trong bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề
nghiệp luật sư Việt Nam;
Mục đích hành nghề của luật sư khi tham gia TTHS là bảo đảm xác định sự
thật khách quan của vụ án qua đó bảo đảm tối đa lợi thế hợp pháp của người bị buộc
tội, quyền, lợi ích của bị hại và đương sự. Tuy nhiên, việc tạo lợi thế cho khách hàng
của mình phải đúng pháp luật, tức là luật sư phải sử dụng linh hoạt, đúng, trúng,
63
chính xác các quy phạm pháp luật theo các hình thức thực hiện pháp luật.
Đối với luật sư bào chữa, ngoài các nghĩa vụ trên, pháp luật TTHS còn
quy định thêm một số nghĩa vụ sau:
- Nghĩa vụ không được từ chối bào chữa cho người bị buộc tội mà
mình đã đảm nhận bào chữa nếu không vì lý do bất khả kháng hoặc không
phải do trở ngại khách quan (điểm c khoản 2 Điều 73 BLTTHS 2015)
Nội dung nghĩa vụ này cũng được thể hiện trong mục 8.3. Quy tắc 8 và
Quy tắc 9 trong bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam.
Luật sư bào chữa với những nguyên tắc hành nghề, các chuẩn mực về đạo đức và
ứng xử nghề nghiệp và quy định của pháp luật thì không được thực hiện hành vi
này, trừ trường hợp bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan. Quy định này nêu
cao trách nhiệm và đạo đức hành nghề của luật sư đối với khách hàng của mình.
- Nghĩa vụ tôn trọng sự thật; không được mua chuộc, cưỡng ép
hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật
(điểm d khoản 2 Điều 73 BLTTHS 2015)
Luật sư phải tôn trọng sự thật là một trong những nguyên tắc hành nghề
về “độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan” (khoản 3 Điều 5 LLS
2006, sửa đổi bổ sung một số điều 2012), cũng là Quy tắc 2 trong bộ quy tắc đạo
đức nghề nghiệp luật sư. Quy định này thể hiện bản chất nghề nghiệp luật sư, là
điều kiện để tạo lập niềm tin với khách hàng, với cơ quan nhà nước và với cộng
đồng xã hội. Khi hoạt động nghề nghiệp, luật sư phải độc lập trong tư duy, suy
nghĩ và hành động trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật, không bị chi phối bởi bất
cứ một áp lực hoặc lợi ích vật chất và tinh thần nào để làm trái pháp luật và đạo
đức nghề nghiệp.
Nghĩa vụ không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác
khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật thể hiện ở hành vi bị nghiêm cấm
của luật sư: “Cố ý cung cấp hoặc hướng dẫn khách hàng cung cấp tài liệu, vật
chứng giả, sai sự thật; xúi giục người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, đương sự khai
64
sai sự thật hoặc xúi giục khách hàng khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện trái pháp luật”
(điểm b khoản 1 Điều 9 LLS năm 2006 đã sửa đổi, bổ sung năm 2012). Đây
cũng là hành vi vi phạm Quy tắc ứng xử và đạo đức hành nghề luật sư khi đi
ngược với nghĩa vụ, trách nhiệm bảo vệ công lý và nhà nước pháp quyền (quy
tắc 1); quy tắc 2; về những việc luật sư không được làm trong quan hệ với khách
hàng: “Chủ động xúi giục, kích động khách hàng kiện tụng hoặc thực hiện
những hành vi khác trái pháp luật” (Quy tắc 14); về những việc luật sư không
được làm trong quan hệ với các cơ quan tiến hành tố tụng (Quy tắc 24). Vì vậy,
nếu vi phạm nghĩa vụ này sẽ phải chịu các hình thức xử lý theo các chế tài đã
được luật hóa, nhưng cao hơn cả là uy tín, danh dự của luật sư không còn, làm
mất niềm tin của khách hàng, xã hội đối với luật sư và hành nghề luật sư.
- Nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án; theo yêu cầu của Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát (điểm đ khoản 2 Điều 73 BLTTHS).
Theo tinh thần CCTP nhằm tăng cường trách nhiệm, nâng cao tính
chuyên nghiệp của luật sư với cơ quan, người tiến hành tố tụng trong
HĐTTHS, BLTTHS 2015 ngoài quy định luật sư - người bào chữa thực
hiện nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án, còn bổ sung quy định
về trường hợp phải có mặt theo yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát (BLTTHS 2003 chưa quy định nghĩa vụ này). Luật Luật sư cũng quy
định một số nghĩa vụ có liên quan như: “Nghiêm chỉnh chấp hành nội quy
và các quy định có liên quan trong quan hệ với các cơ quan tiến hành tố
tụng; có thái độ hợp tác, tôn trọng người tiến hành tố tụng mà luật sư tiếp
xúc khi hành nghề; Tham gia tố tụng đầy đủ, kịp thời trong các vụ án do cơ
quan tiến hành tố tụng yêu cầu.” (điểm b, c khoản 2 điều 21 LLS).
- Nhóm nghĩa vụ về không được tiết lộ bí mật điều tra, thông tin vụ
án; không được sử dụng tài liệu, thông tin đó vào mục đích xâm phạm lợi
ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức, cá nhân (điểm e, g khoản 2 Điều 73 BLTTHS 2015)
65
Các nghĩa vụ về bảo mật thông tin nói trên chính là sự dự liệu của nhà
làm luật để ngăn chặn hành vi có thể xảy ra của người bào chữa nói chung,
luật sư bào chữa nói riêng trong quá trình tham gia tố tụng. Trong đó, luật sư
“không được tiết lộ thông tin về vụ án, về người bị buộc tội mà mình biết khi
bào chữa, trừ trường hợp người này đồng ý bằng văn bản và không được sử
dụng thông tin đó vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công
cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân” (Điểm g
khoản 2 Điều 73 BLTTHS 2015) là nghĩa vụ mới bổ sung so với BLTTHS
2003 và được quy định chi tiết tại Điều 5 về Bí mật thông tin trong LLS; Quy
tắc 12 về giữ bí mật thông tin trong bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề
nghiệp luật sư Việt Nam.
Vì vậy, Luật sư bào chữa không được phép tiết lộ hay sử dụng vào mục
đích sai trái vi phạm pháp luật và Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật
sư Việt Nam. Luật sư vi phạm nghĩa vụ trên tùy từng trường hợp cụ thể mà bị
truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội cố ý hay vô ý làm lộ bí mật Nhà nước
hay chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy, ... tài liệu bí mật Nhà nước theo Điều
337, 338, 361, 362, 404- 407 BLHS 2015.
- Nghĩa vụ của luật sư theo quy định của pháp luật về luật sư
Luật sư khi tham gia HĐTTHS sẽ thực hiện đồng thời hai tư cách vừa
là luật sư, vừa là người bào chữa hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp. Do vậy, ngoài các nghĩa vụ cụ thể của người bào chữa, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp thì luật sư phải thực hiện nghĩa vụ của luật sư theo
quy định pháp luật về luật sư, như: Tuân theo các nguyên tắc hành nghề luật
sư; Nghiêm chỉnh chấp hành nội quy và các quy định có liên quan trong quan
hệ với các cơ quan tiến hành tố tụng; có thái độ hợp tác, tôn trọng người tiến
hành tố tụng mà luật sư tiếp xúc khi hành nghề; Tham gia tố tụng đầy đủ, kịp
thời trong các vụ án do cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu (Điều 21 LLS 2006
sửa đổi bổ sung một số điều 2012). Ngoài ra, luật sư khi tham gia TTHS cũng
66
bị nghiêm cấm thực hiện các hành vi theo quy định tại Điều 9 LLS.
Luật sư vi phạm các nghĩa vụ trên thì tùy tính chất, mức độ sẽ bị xem
xét xử lý trách nhiệm hình sự hoặc trách nhiệm hành chính theo quy định
pháp luật và bị xem xét xử lý kỷ luật theo quy định của LĐLSVN.
2.2.2. Hình thức thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư
trong hoạt động tố tụng hình sự
Thực hiện pháp luật chính là giai đoạn quan trọng của quá trình đưa
pháp luật vào đời sống xã hội, nghĩa là hiện thực hóa các quy phạm pháp luật
thành quy tắc ứng xử chung trong từng lĩnh vực cuộc sống. Thực hiện pháp
luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS là thực hiện pháp luật
trong lĩnh vực TTHS về quyền, nghĩa vụ của luật sư - chủ thể tham gia tố tụng
đặc biệt với tư cách là người bào chữa cho người bị buộc tội hay người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại, đương sự. Luật sư trong HĐTTHS bằng
các hành vi hợp pháp thông qua các quy định pháp luật về quyền, nghĩa vụ
của mình (luật sư và người bào chữa hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp) xử sự hợp lý, hiệu quả với các chủ thể có liên quan nhằm thực
hiện chức năng đặc biệt của luật sư là bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho
khách hàng, góp phần tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Trong khoa
học pháp lý, thực hiện pháp luật được xác định thông qua các hình thức
sau: tuân thủ pháp luật, thi hành (chấp hành) pháp luật, sử dụng pháp luật
và áp dụng pháp luật.
Từ phương diện lý luận chung, thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ
của luật sư trong HĐTTHS có những hình thức sau:
2.2.2.1. Tuân thủ pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong hoạt
động tố tụng hình sự
Tuân thủ pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS là
hình thức thực hiện pháp luật, trong đó luật sư và các chủ thể pháp luật kiềm
chế, không tiến hành những hoạt động mà pháp luật về luật sư, pháp luật về
67
người bào chữa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong TTHS cấm. Pháp luật
về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS có nhiều quy định cấm được
thực hiện thông qua hình thức này. Những hành vi bị nghiêm cấm được luật
hóa tại BLTTHS, LLS và các văn bản pháp luật liên quan như: Cản trở hoạt
động của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện nhiệm
vụ(khoản 6 Điều 5 BLTTHS 2015); can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán,
Hội thẩm (Điều 23 BLTTHS 2015) và các hành vi bị nghiêm cấm được quy
định tại Điều 9 LLS 2006, sửa đổi bổ sung 2012.
Việc quy định các hành vi bị nghiêm cấm nói trên nhằm bảo đảm cho
pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS được thực hiện một
cách đầy đủ, nghiêm túc; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Nếu chủ thể nào thực hiện các hành vi bị
nghiêm cấm, nghĩa là không tuân thủ pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư
trong HĐTTHS thì sẽ bị xử lý theo luật định.
2.2.2.2. Thi hành pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong hoạt
động tố tụng hình sự
Thi hành pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS là
hình thức thực hiện pháp luật bằng hành động chấp hành, trong đó luật sư
thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý của luật sư, người bào chữa, người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp; các chủ thể pháp luật khác thực hiện nghĩa
vụ, trách nhiệm pháp lý của mình trong quan hệ pháp luật với luật sư bào
chữa, luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Các quy định pháp luật bắt
buộc (quy định nghĩa vụ các chủ thể phải tiến hành những hành vi nhất định)
được thực hiện ở hình thức này.
Luật sư phải chấp hành cả các quy định về nguyên tắc hành nghề luật
sư, nghĩa vụ của luật sư; đồng thời chấp hành quy định về nghĩa vụ của người
bào chữa hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong TTHS. Việc
chấp hành các quy định này nhằm quán triệt và phát huy tối đa tính hiệu lực,
68
hiệu quả việc thực hiện pháp luật về TTHS, pháp luật về luật sư cũng như
pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS.
Đơn cử nghĩa vụ Tuân theo các nguyên tắc hành nghề luật sư (điểm a
khoản 2 điều 21 LLS), luật sư khi tham gia TTHS phải: Tuân thủ Hiến pháp
và pháp luật; Tuân theo Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt
Nam; Độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan; Sử dụng các biện
pháp hợp pháp để bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng và
Chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động nghề nghiệp luật sư. Nguyên
tắc “Tuân theo Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam” là
nghĩa vụ đặc trưng của luật sư phải tuân theo khi tham gia TTHS, nghĩa là
ngoài chấp hành đúng quy định pháp luật còn bảo đảm chuẩn mực về đạo
đức, ứng xử nghề nghiệp luật sư trong quan hệ với khách hàng, luật sư đồng
nghiệp và cơ quan, người tiến hành tố tụng (đôi khi luật sư tham gia TTHS
tuy không bị xử lý theo quy định của pháp luật nhưng có thể bị xử lý theo
Quy tắc đạo đức ứng xử nghề nghiệp luật sư).
Hình thức thi hành pháp luật còn được thực hiện đối với các điều luật
quy định về trách nhiệm của các chủ thể (cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng khác...) trong việc bảo đảm quyền
bào chữa cho người bị buộc tội, quyền được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người bị hại, đương sự. Ví dụ như: Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện
cho luật sư bào chữa thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và tranh tụng
dân chủ, bình đẳng trước Tòa án (Điều 26 BLTTHS 2015); Chủ toạ phiên tòa
không được hạn chế thời gian tranh luận, phải tạo điều kiện cho kiểm sát viên,
luật sư, người tham gia tố tụng khác tranh luận, trình bày hết ý kiến (khoản 3
Điều 322BLTTHS); “Cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan nhà nước khác và
tổ chức, cá nhân có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư thực hiện
quyền và nghĩa vụ của luật sư khi hành nghề, không được cản trở hoạt động
hành nghề của luật sư.” (khoản 5 Điều 27 LLS); …
69
2.2.2.3. Sử dụng pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong hoạt
động tố tụng hình sự
Sử dụng pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS là
hình thức thực hiện pháp luật trong đó luật sư thực hiện quyền, tự do pháp lý
của luật sư, người bào chữa hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp; chủ
thể pháp luật khác thực hiện quyền, tự do pháp lý của mình trong quan hệ
pháp luật với luật sư bào chữa, luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Các
quy định pháp luật về quyền và tự do pháp lý của luật sư và các chủ thể trong
hoạt động bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp được thực hiện ở hình
thức này.
Chủ thể chính của hình thức sử dụng pháp luật là luật sư, ngoài ra,
người bào chữa khác, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp khác và người
tham gia tố tụng khác cũng thực hiện pháp luật bằng hình thức này trong quan
hệ pháp luật với luật sư, ví dụ: Trong thu thập chứng cứ, luật sư có “quyền
gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác
biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án;
đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên
quan đến việc bào chữa.” (khoản 2 Điều 88 BLTTHS 2015), nếu không thể
thu thập được thì có thể đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu
thập (khoản 3 Điều 81BLTTHS 2015); Cơ quan tiến hành tố tụng có thể tiến
hành thu thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan theo đề nghị của luật sư.
Luật sư có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định,
người định giá tài sản, người phiên dịch....; cơ quan tiến hành tố tụng có thể
quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng theo đề
nghị của luật sư hoặc không thay đổi những người này... Đương nhiên, vì
quyền và tự do pháp lý là những hành vi mà pháp luật cho phép chủ thể thực
hiện nên luật sư và các chủ thể pháp luật có thể thực hiện hoặc không thực
hiện các quyền tự do đó theo ý chí của mình.
70
2.2.2.4. Áp dụng pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong hoạt
động tố tụng hình sự
Áp dụng pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS là
hình thức thực hiện pháp luật trong đó chủ thể có thẩm quyền tiến hành TTHS
nhân danh nhà nước bằng việc ra quyết định, yêu cầu hoặc thông báo cho luật
sư biết và thực hiện các quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc
chấm dứt những quan hệ pháp luật có liên quan đến việc bào chữa, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Luật sư khi tham gia TTHS nếu có sự thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa
vụ hoặc chưa thực hiện đúng theo quy định của pháp luật thì cơ quan, người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng căn cứ vào quy định pháp luật và tính chất,
mức độ vi phạm có thể đưa ra yêu cầu, thông báo hoặc quyết định phù hợp.
Nghĩa là, với hình thức áp dụng pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư
trong HĐTTHS thì chủ thể thực hiện pháp luật (cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng) đưa ra các yêu cầu, thông báo hoặc quyết định; luật
sư sử dụng hoặc tuân thủ hay thi hành các yêu cầu, thông báo hoặc quyết định đó.
Ví dụ: Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể hủy bỏ việc đăng ký bào
chữa và thông báo cho luật sư với tư cách người bào chữa khi luật sư là người đã
tiến hành tố tụng vụ án hình sự đó; Hội đồng xét xử có thể yêu cầu luật sư vi phạm
nội quy phiên tòa ra khỏi phòng xử án, luật sư phải chấp hành...
Như vậy, pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS
được thực hiện thông qua cả bốn hình thức. Căn cứ vào chủ thể thực hiện và
tính chất của các quy phạm pháp luật thì luật sư thực hiện quyền, nghĩa vụ
trong HĐTTHS thông qua 03 hình thức (tuân thủ, thi hành và sử dụng pháp
luật); còn hình thức áp dụng pháp luật chỉ được thực hiện bởi cơ quan, người
có thẩm quyền. Đây cũng là một sự khác biệt của luật sư so với các chủ thể
khác trong HĐTTHS.
Thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS
71
thông qua các hình thức thực hiện pháp luật góp phần bảo vệ công lý, quyền
con người, quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng, phát triển kinh tế - xã hội,
xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, xã hội dân chủ, công bằng,
văn minh.
2.3. CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN,
NGHĨA VỤ CỦA LUẬT SƯ TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
2.3.1. Chính trị, kinh tế, xã hội
Đảng và Nhà nước ta luôn chủ trương xây dựng và duy trì một nền tư
pháp vững mạnh nhằm xây dựng và bảo vệ Nhà nước Việt Nam pháp quyền
XHCN. Chủ trương về cải cách tư pháp đã được đề ra trong các văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc của Đảng (lần thứ IX, X, XI, XII). Hiện nay, công tác
cải cách tư pháp cũng rất được chú trọng với mục tiêu đổi mới, kiện toàn tổ
chức bộ máy, chức năng nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp và các cơ quan,
tổ chức bổ trợ tư pháp. Trong quá trình đó, xây dựng và phát triển đội ngũ
luật sư là một trong những nhiệm vụ chiến lược của cải cách tư pháp, xác
định "Đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính
trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn" [26] đáp ứng sự phát triển kinh tế, xã
hội của đất nước trong giai đoạn mới. An ninh chính trị, điều kiện kinh tế,
văn hóa - xã hội là những yếu tố cơ bản tác động trực tiếp kết quả thực hiện
nhiệm vụ chiến lược này, bao gồm thực hiện pháp luật nói chung và thực
hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS nói riêng. Chỉ
khi an ninh chính trị ổn định thì hệ thống pháp luật trong Nhà nước pháp
quyền XHCN nước ta mới ngày càng được chú trọng hoàn thiện hơn. Kinh
tế phát triển, đời sống vật chất bảo đảm thì việc tuân thủ pháp luật mới được
đề cao, thực hiện tốt. Điều kiện văn hóa xã hội, giáo dục có vai trò quan
trọng trong nâng cao trình độ dân trí, đặc biệt là văn hóa và tư duy pháp lý
cũng như khả năng thực hiện pháp luật. Những dấu hiệu “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong xã hội cũng là những nguy cơ tiềm ẩn tác động đến luật
72
sư - những người góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ nền tảng giá trị đạo đức
xã hội.
Ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường tác động trực tiếp đến các chuẩn
mực xã hội, giá trị đạo đức truyền thống. Khi người dân có tri thức pháp luật
cần thiết, họ sẽ có hành vi tích cực, sử dụng pháp luật vào việc làm hợp pháp,
phù hợp với đạo đức xã hội tạo điều kiện cho các quan hệ pháp luật nói chung
cũng như quan hệ pháp luật tố tụng hình sự góp phần bảo đảm thực hiện
quyền, nghĩa vụ của luật sư. Bên cạnh đó, ý thức pháp luật của người dân có
vai trò quan trọng - phản biện xã hội đối với việc thực hiện các quy định pháp
luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư khi tham gia TTHS. Ngược lại, nhận thức
của người dân về pháp luật nói chung, pháp luật tố tụng hình sự nói riêng chưa
cao, về vai trò quan trọng của luật sư trong bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho khách hàng chưa đầy đủ, đúng đắn sẽ kìm hãm, không phát huy tốt hiệu
quả thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong các vụ án hình sự.
Chính trị không ổn định, an ninh trật tự không bảo đảm làm gia tăng tội phạm,
độ tuổi phạm tội ngày càng trẻ hóa, mức độ pham tội ngày càng nghiêm trọng
sẽ tạo ra áp lực lớn đối với hệ thống pháp luật tư pháp, đặc biệt là cơ quan tiến
hành tố tụng và luật sư trong bảo đảm pháp chế XHCN.
2.3.2. Hệ thống pháp luật
BLTTHS 2015 có hiệu lực thi hành từ 01/01/2018 đã khắc phục
nhiều tồn tại, hạn chế quy định của BLTTHS 2003 và bổ sung nhiều quy
định mới tiến bộ đáp ứng được yêu cầu cấp thiết về an ninh, trật tự xã hội
hiện nay. Đặc biệt trong BLTTHS 2015 đã có nhiều giả định, quy định và
chế tài mới tạo điều kiện thuận lợi và nâng cao vị thế luật sư - người bào
chữa hoặc người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong giải quyết vụ án hình
sự, như: bổ sung khái niệm người bào chữa; bổ sung người bị bắt thuộc đối
tượng được bảo đảm quyền bào chữa; bổ sung diện những người không
được bào chữa; bổ sung các quyền, nghĩa vụ của người bào chữa; bổ sung
73
các quy định liên quan về lựa chọn người bào chữa; chỉ định người bào
chữa; thay đổi và từ chối người bào chữa; thủ tục đăng ký bào chữa; trách
nhiệm thông báo cho người bào chữa; thu thập, giao chứng cứ, tài liệu, đồ
vật liên quan đến bào chữa; đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ
án và người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, kiến nghị
khởi tố. Về thủ tục đăng ký bào chữa tại Điều 78 BLTTHS 2015 đã rút
ngắn 2/3 thời gian khi làm thủ tục đăng ký bào chữa, thay vì trong thời hạn
03 ngày như trước đây thì quy định hiện nay chỉ còn thời hạn 24 giờ, chỉ
phải đăng ký 01 lần cho các giai đoạn tố tụng. Thông báo người bào chữa
có giá trị sử dụng trong suốt quá trình tham gia tố tụng từ khi khởi tố đến
khi truy tố, xét xử vụ án..; vị trí ngồi của luật sư đã ngang bằng với phía cơ
quan viện kiểm sảt bảo đảm tính đối trọng giữa bên biện hộ và bên công tố
(Thông tư 01/2017/TT-TANDTC quy định về phòng xử án), … Tuy nhiên,
BLTTHS 2015 vẫn còn những quy định bất cập, chưa rõ ràng như: chưa có
hướng dẫn cụ thể quy trình người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp thu thập chứng cứ, tài liệu như thế nào là hợp pháp; việc tiếp
nhận và kiểm tra, đánh giá chứng cứ thì lại do cơ quan, người tiến hành tố
tụng quyết định. Chứng cứ, tài liệu do luật sư thu thập và cung cấp thường
bị tòa án bác bỏ, không chấp nhận (mặc dù trong đó có chứng cứ quan
trọng, có thể làm rõ sự thật của vụ án) vì những lý do liên quan đến tính
hợp pháp của tài liệu, chứng cứ đó (khoản 2, 4 Điều 88 BLTTHS). Người
làm chứng theo quy định tại Điều 66 BLTTHS 2015 chưa đầy đủ, toàn
diện. Đây là những vấn đề mà nhà làm luật chưa dự liệu hết và cần phải
nhanh chóng làm rõ …
Chất lượng văn bản pháp luật hình sự được hoàn thiện, đồng bộ, khả thi
là cơ sở để bảo đảm cho việc thực hiện pháp luật đạt hiệu quả cao trong thực
tế đời sống. Nếu chất lượng của pháp luật thấp, tính khả thi kém thì việc thực
hiện pháp luật hình sự nói chung và pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư
74
trong hoạt động tố tụng sẽ gặp nhiều khó khăn, thậm chí có những quy định
pháp luật không thể thực hiện trên thực tế.
2.3.3. Nhận thức, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người
tham gia tố tụng
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, hội thẩm, kiểm sát viên, điều tra viên…
là người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong vụ án hình sự, cũng là người
mà luật sư bào chữa cho người bị buộc tội hay bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho bị hại, đương sự phải tiếp xúc thường xuyên, nếu họ có quan điểm
không đúng, thiếu khách quan, thái độ chưa chuẩn mực với luật sư trong quá
trình giải quyết vụ án thì có thể gây ra nhiều hệ quả nghiêm trọng, làm ảnh
hưởng trực tiếp đến việc tìm ra sự thật khách quan của vụ án; xét xử không
thấu đáo; uy tín, danh dự của người “cầm cân nảy mực” bị suy giảm; công lý
không được bảo đảm;… Khi một bộ phận cán bộ, công chức thuộc cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng vẫn còn quan niệm việc hiện diện của luật sư là
sự “cản trở”, “soi mói” các hoạt động tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng
dẫn đến thiếu thiện chí, ác cảm, thiếu tôn trọng khi làm việc, tiếp xúc với luật
sư. Thì đây là một trong những khó khăn chính làm ảnh hưởng đến hiệu quả
thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS.
Trình độ, năng lực chuyên môn của người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng ảnh hưởng đến hiệu quả việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của luật sư. Thật
vậy, quan điểm, thái độ tích cực kết hợp với trình độ, năng lực vững, đáp ứng
được yêu cầu chức năng, nhiệm vụ của người tiến hành TTHS sẽ tạo ra môi
trường HĐTTHS chuyên nghiệp, hiệu quả,công bằng và thượng tôn pháp luật;
là động lực phát huy năng lực, trình độ của luật sư về mọi thông qua thực hiện
quyền, nghĩa vụ của người bào chữa hay người bảo vệ trong vụ án hình sự,
góp phần bảo đảm công lý được thực thi triệt để. Ngược lại nếu cán bộ, công
chức của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng không nắm rõ chức năng,
nhiệm vụ và quyền hạn của mình, kiến thức chuyên môn không vững có thể
75
khiến họ hiểu chưa đầy đủ, đúng nội dung quy phạm pháp luật, dẫn đến áp
dụng sai trong quá trình giải quyết vụ án; gây cản trở, khó khăn và hạn chế
việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của luật sư khi tham gia tố tụng hình sư.
Quan điểm, nhìn nhận của người tham gia tố tụng đối với luật sư cũng ảnh
hưởng tới hiệu quả thực hiện quyền, nghĩa vụ của người biện hộ. Hoạt động
hành nghề luật sư trong TTHS là tổng hợp các mối quan hệ có liên quan, trong
đó có chủ thể tham gia tố tụng như người bị buộc tội, bị hại, đương sự, người
làm chứng, người giám định,... góp phần giúp luật sư có thể vận dụng tối đa kiến
thức chuyên môn, kỹ năng hành nghề trong việc tìm ra sự thật khách quan của
vụ án hình sự. Nếu người tham gia tố tụng tôn trọng, thiện chí và hợp tác với luật
sư sẽ tạo điều kiện cho luật sư có thể thu thập được những tài liệu, chứng cứ
quan trọng; tiếp cận, xem xét được đầy đủ các khía cạnh của vụ án; có thêm căn
cứ hợp pháp biện hộ bảo vệ quyền, lợi chính đáng cho người bị buộc tội hay bị
hại, đương sự. Ngược lại, người tham gia tố tụng có quan điểm, nhìn nhận không
đúng về địa vị pháp lý của luật sư trong TTHS sẽ làm tăng thêm những khó
khăn, thử thách trên con đường đi tìm công lý cho người mà họ biện hộ, thậm
chí có thể làm thay đổi, sai lệch sự thật khách quan của vụ án.
2.3.4. Nhận thức và năng lực thực hiện quyền, nghĩa vụ của luật sư
trong hoạt động tố tụng hình sự
Ngoài những yếu tố khách quan thì luật sư chỉ thực hiện tốt chức năng
bào chữa cho người bị buộc tội hay bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị
hại, đương sự khi chính họ phát huy hiệu quả quyền và tuân thủ hay thi hành
nghĩa vụ hợp lý, đúng pháp luật trong HĐTTHS. Luật sư nhận thức về quyền,
nghĩa vụ của mình như thế nào và năng lực thực hiện quyền, nghĩa vụ đó ra
sao sẽ ảnh hưởng trực tiếp và tỷ lệ thuận đến chất lượng biện hộ, mức độ bảo
đảm quyền con người, sự thật khách quan của vụ án. Nếu luật sư nhận thức
đầy đủ, toàn diện và khả năng vận dụng linh hoạt, hợp lý, đúng, trúng các
quyền, nghĩa vụ của mình thông qua kiến thức pháp lý, chuyên môn nghiệp
76
vụ, kỹ năng hành nghề, văn hóa ứng pháp đình tạo ra lợi thế khi tham gia tố
tụng là yếu tố chính bảo đảm tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của người được
bào chữa hay bảo vệ, hạn chế oan, sai; góp phần bảo đảm xử đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật trong các vụ án hình sự. Ngược lại, nhận thức chưa
đầy đủ, toàn diện về quyền, nghĩa vụ của luật sư, năng lực chuyên môn, kỹ
năng hành nghề hạn chế là rào cản ngăn họ đi đến tận cùng của công lý, sự
thật khách quan của vụ án không được làm sáng tỏ; quyền và lợi ích hợp pháp
của người bị buộc tội hay bị hại, đương sự không được bảo đảm; địa vị pháp
lý của luật sư trong HĐTTHS bị phai nhòa, không đáp ứng được kỳ vọng, sự
tin tưởng của xã hội.
2.3.5. Yếu tố khác
Ngoài các yêu tố cơ bản tác động đến thực hiện pháp luật về quyền,
nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS nêu trên thì hoạt động tuyên truyền, phổ
biến giáo dục pháp luật; văn hóa pháp đình; vị trí địa lý… cũng ảnh hưởng tới
kết quả thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư nói chung và quyền,
nghĩa vụ của luật sư trong TTHS nói riêng. Công tác tuyên truyền, phổ biến
giáo dục pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong TTHS được thực hiện
tốt sẽ góp phần nâng cao nhận thức pháp luật của người dân, từ đó nâng cao
hiệu quả thực hiện pháp luật về luật sư; tạo được môi trường văn hóa pháp đình
góp phần thúc đẩy tính chuyên nghiệp trong tố tụng, ứng xử, nói năng lịch sự,
hòa nhã và tôn trọng nhau giữa các chủ thể trong vụ án hình sự qua đó góp
phần nhanh chóng tìm ra sự thật khách quan của vụ án, bảo đảm xét xử kịp
thời, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; vị trí địa lý cũng có ảnh hưởng nhất
định đến hiệu quả thực hiện quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS, ở
vùng sâu, vùng xa việc tiếp cận, nhận thức của người dân về pháp luật nói
chung, đặc biệt quy định pháp luật về luật sư trong HĐTTHS nói riêng còn
thấp, điều kiện vật chất, cơ sở hạ tầng còn hạn chế. Vì vậy, luật sư thực hiện
quyền, nghĩa vụ trong HĐTTHS có những khó khăn nhất định.
77
2.4. MỘT SỐ GIÁ TRỊ THAM KHẢO THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
QUYỀN, NGHĨA VỤ CỦA LUẬT SƯ TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
TRÊN THẾ GIỚI ĐỐI VỚI VIỆT NAM
Nhận thức được tầm quan trọng về địa vị pháp lý của luật sư trong hoạt
động tố tụng, các quốc gia đã ban hành các quy định pháp luật và thực hiện
pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong hoạt động TTHS. Tiêu biểu
một số nước có nền tư pháp tiến bộ và phát triển như: Hoa Kỳ, Nga, Đức, Ý,
Anh thì việc quy định và thực hiện pháp luật về vấn đề này có một số giá trị
tham khảo hữu ích đối với Việt Nam.
2.4.1. Về việc luật sư bào chữa vắng mặt trong hoạt động tố tụng
hình sự
Để bảo đảm luật sư bào chữa thực hiện trách nhiệm của mình cũng như
bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, Bộ luật TTHS Liên Bang
Nga 2001 (Điều 50, 251) [22] đã điều chỉnh trường hợp luật sư bào chữa
không xuất hiện trong thời hạn 05 ngày thì cơ quan có thẩm quyền sẽ đề
nghị nghi phạm, bị cáo mời luật sư khác bào chữa, hoặc trên cơ sở một bản
kiến nghị của bị cáo, sẽ có biện pháp cho sự tham dự của một luật sư khác
để bào chữa; nếu nghi phạm, bị cáo từ chối mời luật sư khác thì cơ quan có
thẩm quyền sẽ có biện pháp để yêu cầu luật sư bào chữa có mặt. Quy định
này hướng đến nghĩa vụ của luật sư bào chữa phải có mặt trong các hoạt
động tố tụng theo quy định, nếu không thì sẽ bị người bị buộc tội thay đổi
luật sư khác bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền sẽ có biện pháp để luật
sư bào chữa phải thực hiện nghĩa vụ có mặt tại các hoạt động tố tụng trong
thời hạn quy định. Ở Việt Nam pháp luật TTHS hiện hành chưa điều chỉnh
cụ thể vấn đề này, thực tiễn vẫn có nhiều trường hợp luật sư bào chữa không
thực hiện đầy đủ việc tham gia hoạt động tố tụng, vì vậy có thể tham khảo
quy định trên của pháp luật TTHS Liên Bang Nga để vận dụng phù hợp vào
pháp luật nước ta.
78
2.4.2. Về việc chỉ định luật sư bào chữa
Cũng theo quy định của BLTTHS 2001 Liên Bang Nga (Điều 50)
[22], nếu trong vòng 24 giờ kể từ thời điểm giam giữ nghi phạm hoặc
đưa nghi phạm hoặc bị cáo vào tù, luật sư bào chữa được mời không thể
đến, điều tra viên hoặc công tố viên sẽ thực hiện chỉ định luật sư bào
chữa. Nếu nghi phạm hoặc bị cáo từ chối luật sư được chỉ định để bào
chữa, các hoạt động điều tra với sự tham gia của nghi phạm hoặc của bị
cáo có thể được thực hiện mà không có sự tham gia của luật sư bào chữa,
ngoại trừ các trường hợp quy định về sự tham gia bắt buộc của luật sư.
Như vậy có thể thấy pháp luật TTHS Liên Bang Nga có phạm vi chỉ định
luật sư bào chữa rộng hơn so với pháp luật TTHS Việt Nam (Điều 76
BLTTHS 2015 đã quy định cụ thể các trường hợp được chỉ định luật sư
bào chữa) để đảm bảo tối đa quyền bào chữa của người bị buộc tội cũng
như nâng cao trách nhiệm, nghĩa vụ của luật sư biện hộ.
Bên cạnh đó, tại Điều 140 BLTTHS Đức [14] quy định người bị
buộc tội có thể yêu cầu tòa án chỉ định một luật sư cho mình. Người bị buộc
tội sẽ không đương nhiên được chỉ định luật sư bào chữa trong mọi trường
hợp, nên người bị buộc tội cần phải làm đơn yêu cầu đến công tố viên xem
xét, sau đó công tố viên sẽ chuyển đơn này đến thẩm phán phụ trách vụ án để
quyết định xem người bị buộc tội có cần thiết phải chỉ định luật sư bào chữa
hay không [127]. Trong trường hợp được chỉ định luật sư bào chữa, họ
được gọi là người bào chữa công chúng (Pflichtverteidiger). Luật sư
công chúng được cung cấp bởi Nhà nước nhưng không có nghĩa là miễn
phí. Chỉ có bào chữa bắt buộc thì chi phí cho luật sư mới do nhà nước
chi trả, nhưng nếu bị can, bị cáo bị kết luận phạm tội thì họ phải trả chi
phí này.
Như vậy có thể thấy pháp luật TTHS Liên Bang Nga và Đức đều có
điểm chung là người bị buộc tội nếu không tự tìm được luật sư bào chữa
79
thì có thể đề nghị cơ quan có thẩm quyền chỉ định luật sư bào chữa. Vì
vậy phạm vi chỉ định luật sư bào chữa rộng, trong đó bao gồm cả trường
hợp bào chữa bắt buộc và bào chữa không bắt buộc. Pháp luật TTHS
Việt Nam hiện nay mới chỉ quy định về chỉ định người bào chữa dưới
góc độ bào chữa bắt buộc, có thể tham khảo thêm các quy định trên của
pháp luật TTHS Liên Bang Nga, Đức để bảo đảm hơn nữa quyền bào
chữa của người bị buộc tội cũng như việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của
luật sư bào chữa.
2.4.3. Kiểm tra chéo (Cross-Examination)
Kiểm tra chéo là việc đặt các câu hỏi đối với nhân chứng đối địch bị nghi
vấn có khả năng bất tín về tính hiện thực hoặc tính đáng tin cậy trong lời
khai tại một phiên tòa.
Kiểm tra chéo được thực hiện bởi luật sư hoặc cá nhân thực hiện kiểm
tra trực tiếp, làm rõ lời khai của nhân chứng được cung cấp trong quá trình
kiểm tra chéo bao gồm mọi vấn đề được nêu ra trong quá trình kiểm tra chéo
nhưng không được thảo luận trong khi kiểm tra trực tiếp.
Chế định Kiểm tra chéo được quy định trong pháp luật TTHS ở nhiều
nước, tiểu biểu trong TTHS Hoa Kỳ thì hoạt động kiểm tra chéo được nhiều
luật sư sử dụng như là một lợi thế trong việc bảo đảm quyền lợi hợp pháp của
khách hàng, nhất là tại các phiên tòa tiểu bang đều cho phép luật sư kiểm tra
chéo một nhân chứng về các vấn đề không được nêu ra trong thời gian xét hỏi
trực tiếp. Hay như ở Ý tại khoản 4 Điều 111 Hiến pháp năm 1947 của Ý [77]
(được cụ thể hóa tại BLTTHS) quy định rằng tội phạm không thể được chứng
minh bằng những lời khai của bên buộc tội khi bị cáo hoặc luật sư của họ
chưa kiểm tra chéo đối với người này. Những trường hợp ngoại lệ của nguyên
tắc này là việc sử dụng những lời khai ngoài phiên toà khi bị can đồng ý, khi
có hành vi trái luật của nhân chứng đã được chứng minh hoặc có được chứng
cứ tại phỉên tòa là điều không thể thực hiện được.
80
Tương tự, các tòa án ở Anh, Nam Phi, Úc và Canada cho phép một
người kiểm tra chéo vượt quá phạm vi kiểm tra trực tiếp. Chế định này tạo ra
vai trò tích cực hơn cho luật sư bào chữa tại phiên toà bởi vì họ phải chịu
trách nhiệm trình bày chứng cứ và tiến hành việc kiểm tra trực tiếp và kiểm
tra chéo nhân chứng. Thêm vào đó, luật sư bào chữa có quyền năng điều tra
lớn hơn và chuyên nghiệp hơn khi lập hồ sơ bào chữa. Ở Việt Nam thì một
phần của hình thức kiểm tra chéo được quy định tại Điều 311 BLTTHS 2015
còn hạn chế, mang tính hình thức, hiệu quả không cao nên cần tiếp thu có
chọn lọc và phát huy hợp lý chế tài này tại các phiên tòa ở nước ta, vừa đặt ra
yêu cầu nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn của cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng và luật sư, chất lượng tranh tụng dân chủ tại phiên tòa thực
chất, toàn diện hơn bên cạnh đó bảo đảm quyền lợi hợp pháp của bị cáo, bị
hại và đương sự, góp phần bảo đảm công lý được thực thi.
81
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Chương này đã sử dụng các lý thuyết khoa học pháp lý, các quan điểm
nghiên cứu có liên quan để xây dựng các khái niệm liên quan, phân tích đặc
điểm thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS. Đề
tài về thực hiện pháp luật nên khái niệm, đặc điểm của thực hiện pháp luật về
quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS thể hiện những đặc thù của luật
sư tham gia TTHS trên nền tảng chung của thực hiện pháp luật. Luận án đã
nêu ra những nội dung điều chỉnh pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư
trong HĐTTHS; đồng thời nghiên cứu và phân tích các hình thức thực hiện
pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS (tuân thủ pháp luật,
thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật) trên nền tảng lý
luận nhà nước và pháp luật về thực hiện pháp luật.
Chương 2 cũng đã phân tích vai trò của thực hiện pháp luật về quyền,
nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS là nhằm bảo đảm quyền con người, bảo
vệ quyền lợi hợp pháp của cá nhân, tổ chức qua đó khẳng định địa vị pháp lý
của luật sư, công lý được thực thi, đáp ứng yêu cầu CCTP góp phần xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Vai trò này là cơ sở, yêu cầu đối với
Nhà nước để xây dựng pháp luật có nội dung điều chỉnh phù hợp với bản chất
và cơ chế thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS.
Nhà nước cần chú trọng đến những yếu tố tác động về chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội, nhận thức, năng lực của các chủ thể để tận dụng thế mạnh, khắc
phục khó khăn nhằm phát huy vai trò của thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa
vụ của luật sư trong HĐTTTHS trong thực tiễn đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Bên cạnh đó, chương 2 đã tham
khảo kinh nghiệm thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư của một
số nước có nền tư pháp tiến bộ và phát triển để đưa ra một số giá trị tham
khảo hữu ích đối với Việt Nam.
82
Chương 3
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
QUYỀN, NGHĨA VỤ CỦA LUẬT SƯ TRONG HOẠT ĐỘNG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM
3.1. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN, NGHĨA VỤ CỦA LUẬT SƯ
TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM
3.1.1. Quá trình hình thành và phát triển pháp luật về quyền, nghĩa
vụ của luật sư trong hoạt động tố tụng hình sự
Trong xã hội Việt Nam thời kỳ phong kiến, những người hiểu biết luật lệ,
giúp người dân cách thức thưa kiện bị xem là “xui nguyên giục bị”. Tuy nhiên,
thực tế vẫn có những người “văn hay chữ tốt” có thể tư vấn đơn từ, kêu oan,
khiếu kiện giúp người dân, họ hàng. Do nhu cầu xã hội, dần hình thành những
người làm công việc “thầy cãi” một cách thường xuyên và công khai hơn.
Năm 1911, trong thời kì thực dân Pháp đô hộ nước ta, Toàn quyền Pháp
ký Sắc lệnh ngày 30-1-1911 thành lập 02 danh biểu (Luật sư Đoàn) ở Hà Nội
và Sài Gòn gồm luật sư Pháp và người Việt quốc tịch Pháp nhằm biện hộ
trước Tòa án Pháp cho người Pháp. Chỉ khi Sắc lệnh ngày 25-5-1930 được
sửa đổi, bổ sung bởi Sắc lệnh ngày 21-7-1931, nhà cầm quyền Pháp mới cho
người Việt Nam (người Đông Dương) không phải công dân Pháp được làm
luật sư.
Sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa ra đời. Bộ máy tư pháp được tổ chức lại với nhiều văn bản,
sắc lệnh được ban hành, trong đó quyền bào chữa của bị can, bị cáo đã được
ghi nhận tại Điều 5 Sắc lệnh số 33C ngày 13/9/1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh
ký, thiết lập các Toà án quân sự quy định: “Bị cáo có thể tự bào chữa hay nhờ
một người khác bênh vực cho”. Ngay thời điểm này, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã ký Sắc lệnh số 46/SL ngày 10/10/1945 tổ chức đoàn thể luật sư - thời khắc
83
lịch sử về nghề luật sư và luật sư chính thức được công nhận hợp pháp (Ngày
truyền thống luật sư Việt Nam) để duy trì tổ chức luật sư cũ với một số điểm
sửa đổi cho thích hợp với tình hình mới. Ngoài ra, bằng Sắc lệnh số 217/SL
ngày 22/1/1946 cho phép các thẩm phán đệ nhị cấp (tỉnh và khu) có bằng luật
khoa cử nhân được bổ nhiệm sau 19/8/1945, đã thực hành chức vụ tư pháp tối
thiểu 03 năm có thể ra làm luật sư mà không phải tập sự tại một văn phòng
luật sư.
Quyền bào chữa của bị cáo là nguyên tắc dân chủ quan trọng trong tố
tụng được thừa nhận tại Điều 67 Hiến pháp 1946: “Người bị cáo được quyền
tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư”. Thời gian này, số lượng luật sư ít và
đang trong giai đoạn kháng chiến nên một bộ phận luật sư đã tham gia cách
mạng, còn một bộ luật sư thì chuyển công tác, làm việc ở lĩnh vực khác. Vì
vậy, giai đoạn này hầu hết các văn phòng luật sư đều ngừng hoạt động. Số
lượng luật sư còn hành nghề ít và để bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị
cáo thì Sắc lệnh số 69/SL ngày 18/6/1949, Sắc lệnh số 144/SL ngày
22/12/1949 (sửa đổi Sắc lệnh số 69/SL) được ban hành, cho phép nguyên cáo,
bị cáo và bị can có thể nhờ một công dân (phải được ông Chánh án thừa nhận)
không phải là luật sư bênh vực cho mình. Nghị định số 01/NĐ-VY của Bộ tư
pháp ban hành ngày 12/01/1950 quy định điều kiện và phụ cấp của bào chữa
viên nhân dân nhằm cụ thể hóa Sắc lệnh 69. Trong thời gian từ 1949 đến 1987
chế định bào chữa viên nhân dân được phát huy trong tố tụng hình sự.
Hiến pháp năm 1959 tại Điều 101 tiếp tục khẳng định “Quyền bào chữa
của người bị cáo được bảo đảm”. Năm 1963, Văn phòng luật sư thí điểm được
thành lập lấy tên Văn phòng luật sư Hà Nội, thời điểm này nghề luật sư dần
được xã hội chú ý nhiều hơn. Năm 1974, Tòa án nhân dân tối cao chuyển giao
Văn phòng luật sư sang Ủy ban Pháp chế của Chính phủ (thành lập năm
1972) theo chức năng quy định tại Nghị định 190/CP ngày 9/10/1972.
Hiến pháp năm 1980 tiếp tục thừa nhận và bảo đảm quyền bào chữa của
84
bị can, bị cáo và “Tổ chức luật sư được thành lập để giúp bị cáo và các đương
sự khác về mặt pháp lý” (Điều 133) làm cơ sở pháp lý cho việc xây dựng một
văn bản pháp luật về tổ chức luật sư ở Việt Nam. Ngày 17/3/1981, Bộ Chính
trị đã quyết định thành lập lại Bộ Tư pháp thực hiện nhiệm vụ của Ủy ban
Pháp chế và một phần nhiệm vụ của Tòa án nhân dân tối cao. Nghị định số
143-HĐBT ngày 22/11/1981 của Hội đồng Bộ trưởng quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp, trong đó có nhiệm vụ quản lý hoạt
động hành chính tư pháp trong đó có hoạt động luật sư. Thông tư số
691/QLTPK do Bộ Tư pháp ban hành ngày 31/10/1983 về công tác bào chữa,
trong đó quy định cụ thể tiêu chuẩn, điều kiện làm bào chữa viên, làm cơ sở
để một số tỉnh, thành phố thành lập Đoàn bào chữa viên nhân dân và tồn tại
cho đến khi ban hành Pháp lệnh Tổ chức luật sư năm 1987.
Năm 1982, Việt Nam gia nhập Công ước về Quyền chính trị và Dân sự
(ICCPR) thể hiện sự cam kết với quốc tế trong việc bảo đảm quyền con người
(nhiệm vụ quan trọng của luật sư trong HĐTTHS).
Ngày 18/12/1987, Pháp lệnh Tổ chức luật sư do Hội đồng Nhà nước
(nay là Uỷ ban Thường vụ Quốc hội) ban hành nhằm cụ thể hóa quy định của
Hiến pháp năm 1980 về chế định luật sư, tạo cơ sở hình thành và phát triển
đội ngũ luật sư ở Việt Nam. Tính đến thời điểm này, đây là văn bản pháp luật
tương đối hoàn chỉnh quy định về tổ chức và hoạt động luật sư ở nước ta.
Nhằm triển khai và hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Tổ chức luật sư, Hội đồng
Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 15/HĐBT ngày 21/2/1989 về Quy chế
Đoàn luật sư, Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 313/TT/LS ngày 15/4/1989
hướng dẫn thực hiện Quy chế này. Trong giai đoạn mở cửa hội nhập, quan hệ
về pháp luật, tư pháp giữa nước ta với các nước ngày càng phát triển do đó
luật sư nước ngoài được phép hành nghề tại Việt Nam. Các văn kiện của
Đảng và Nhà nước ta thời kì này đều có những quan điểm về đổi mới tổ chức,
hoạt động bổ trợ tư pháp nói chung và luật sư nói riêng khi thực hiện cải cách
85
tư pháp - một bộ phận quan trọng gắn liền với nhiệm vụ xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Ngày 28/6/1988, Bộ luật TTHS được Quốc hội thông qua là bộ luật tố
tụng hình sự đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cụ thể
hóa nguyên tắc hiến định về quyền bào chữa, luật sư thực hiện trợ giúp pháp
lý, nhiệm vụ cải cách tư pháp và phát triển pháp luật tố tụng hình sự nước ta
từ năm 1945 đến nay. Bộ luật TTHS năm 1988 đã được sửa đổi, bổ sung một
số điều 03 lần vào năm 1990, 1992 và 2000. Bộ luật TTHS 1988 ngoài quy
định trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự
nhằm xử lí công minh, kịp thời tội phạm và người phạm tội, thì có quy định
luật sư thuộc diện người bào chữa (người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo
và bào chữa viên nhân dân) tại Điều 36. Tuy nhiên, Bộ luật này còn nhiều
thiếu sót, chưa rõ ràng, gồm nội dung quyền và nghĩa vụ của người bào chữa;
Thủ tục lựa chọn và thay đổi người bào chữa tại Điều 37 gộp cả thủ tục cử
người bào chữa (bào chữa chỉ định) trong trường hợp bị can, bị cáo hoặc
người đại diện hợp pháp từ chối mà “bị can, bị cáo về tội theo khung hình
phạt có mức cao nhất là tử hình” hoặc “bị can, bị cáo là người chưa thành
niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần”; người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp cho bị hại, đương sự cũng chưa được quy định trong
BLTTHS này.
Nghị quyết số 03-NQ/HNTW ngày 18/6/1997 Hội nghị lần thứ ba Ban
chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (Khóa VIII) đã nêu rõ: “Đổi
mới quản lý nhà nước đối với các hoạt động luật sư... phù hợp với chủ trương
xã hội hóa, kết hợp quản lý nhà nước với vai trò tự quản của các tổ chức nghề
nghiệp. Đào tạo và phát triển đội ngũ luật sư có phẩm chất đạo đức, có trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ, phát huy vai trò của họ trong tư vấn pháp luật và
trong tố tụng” [3].
Pháp lệnh Luật sư số 37/2001/PL-UBTVQH10 được Uỷ ban Thường vụ
86
Quốc hội khóa X thông qua ngày 25/7/2001 là bước tiến quan trọng trong quá
trình xây dựng và hoàn thiện thể chế luật sư ở Việt Nam trên con đường hội
nhập với thông lệ quốc tế. Pháp lệnh Luật sư năm 2001 đã nâng cao vị thế của
luật sư trong xã hội, đưa luật sư Việt Nam lên ngang tầm luật sư các nước
trong khu vực và thế giới.
Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 02/1/2002 về “một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” xác định công tác tư
pháp cần chuyển biến mạnh mẽ, thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam với nhiều nhiệm vụ trọng tâm trong đó có việc
bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư; trong xét xử, việc phán quyết của toà
án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem
xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào
chữa, … để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục
và trong thời hạn quy định; các cơ quan tư pháp co trách nhiệm tạo điều kiện
để luật sư tham gia vào quá trình tố tụng, tham gia hỏi cung bị can, nghiên
cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên toà … [24]
Trong công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước trên tất cả các lĩnh vực,
với tinh thần các nghị quyết của Đảng về đẩy mạnh chuyển biến trong công
tác tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2003 được Quốc hội khoá XI tại kì họp thứ tư thông qua ngày
26/11/2003, có hiệu lực từ ngày 01/7/2004. Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy
định về người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự có nhiều điểm
mới, sửa đổi, bổ sung nhằm bảo đảm việc xét xử dân chủ, khách quan, công
bằng so với BTTHS 1988, cụ thể: đã quy định về thủ tục cấp giấy chứng nhận
bào chữa và chỉ định người bào chữa cụ thể hơn tại Điều 56, Điều 57, quy
định đầy đủ hơn về quyền, nghĩa vụ của luật sư (người bào chữa) tại Điều 58
so với BLTTHS 1988, như: quyền đề nghị cơ quan điều tra báo trước về thời
gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can; thu thập tài
87
liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa; đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu
cầu; gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam; đọc, ghi chép
và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau
khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật;... Bộ luật TTHS 2003 có
quy định mới về người bảo vệ quyền lợi của đương sự (gồm bị hại, nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án
hình sự) và quyền, nghĩa vụ tại Điều 59.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về cải cách
tư pháp đã xác định mục tiêu đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy, chức năng
nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp và các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp.
Trong đó, xây dựng và phát triển đội ngũ luật sư được coi là một trong những
nhiệm vụ chiến lược của cải cách tư pháp, với yêu cầu "Đào tạo, phát triển đội
ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ
chuyên môn" đáp ứng sự phát triển của đất nước trong giai đoạn mới.
Luật Luật sư số 65/2006/QH11 được Quốc hội thông qua ngày
29/6/2006 nhằm thay thế Pháp lệnh luật sư năm 2001 đã không còn phù hợp
trong thời kỳ hội nhập quốc tế của nước ta. Luật Luật sư được ban hành đã
góp phần nâng cao vị thế của luật sư, tạo cơ sở pháp lý đẩy nhanh quá trình
xây dựng đội ngũ luật sư, nghề luật sư mang tính chuyên nghiệp, ngang tầm
với nghề luật sư ở các nước tiên tiến trên thế giới. Luật Luật sư 2006 được
sửa đổi, bổ sung năm 2012 nhằm tương thích với những văn bản pháp luật có
liên quan trong đó có BLTTHS, BLHS. Luật Luật sư 2006, được sửa đổi bổ
sung một số điều 2012 đã quy định quyền, nghĩa vụ của luật sư trong hành
nghề tại Điều 9 và Điều 21, bên cạnh đó Điều 27 đã quy định cụ thể quyền,
nghĩa vụ của luật sư khi tham gia hoạt động tố tụng. Ngoài ra, quyền, nghĩa
vụ của Luật sư còn được quy định tại Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp
Luật sư Việt Nam, Nghị định số 123/2013/NĐ - CP ngày 14 tháng 10 năm
2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành LLS
88
và các văn bản có liên quan khác.
Chỉ thị số 33-CT/TW ngày 30/3/2009 của Ban Bí thư về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của luật sư có thể coi là văn
bản chỉ đạo toàn diện, đầy đủ nhất tới tổ chức và hoạt động nghề nghiệp của
luật sư; tạo sự thống nhất trong nhận thức của cán bộ, đảng viên, cơ quan, tổ
chức, nhân dân về vị trí, vai trò của luật sư; xác định rõ trách nhiệm xây dựng
và phát triển nghề luật sư ở Việt Nam nhằm góp phần vào việc bảo vệ công
lý, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong
quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, đẩy mạnh cải cách tư pháp
và hội nhập kinh tế quốc tế.
Hơn 20 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992, Việt Nam đã có nhiều thay
đổi khi mở cửa hội nhập và quốc tế cũng có những biến đổi to lớn, sâu sắc và
phức tạp. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và các văn kiện khác của Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định mục tiêu, định hướng phát
triển toàn diện, bền vững đất nước trong giai đoạn cách mạng mới nhằm xây
dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân
chủ, văn minh [26]. Đáp ứng yêu cầu đó Hiến pháp năm 2013 đã được Quốc
hội thông qua ngày 28/11/2013 với nhiều quy định tôn trọng và bảo vệ quyền
con người, quyền công dân; bảo đảm tranh tụng trong xét xử; đặc biệt đề cập,
ghi nhận về vai trò quan trọng của luật sư trong hoạt động tố tụng nói chung,
HĐTTHS nói riêng thông qua quy định về bảo đảm quyền bào chữa của
người bị buộc tội (người bị bắt, bị tạm giữ, bị tạm giam, bị can, bị cáo), bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự. Hiến pháp năm 2013 tại
Khoản 4 Điều 31 quy định “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào
chữa”; Khoản 7 Điều 103 Hiến pháp quy định “Quyền bào chữa của bị can,
89
bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm”…
Sau 12 năm thi hành, BLTTHS 2003 đã tạo cơ sở pháp lí cho các cơ
quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc giải quyết vụ án
hình sự, góp phần hạn chế oan, sai. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng, những
quy định của BLTTHS 2003 cũng bộc lộ những vướng mắc, bất cập. Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2015 được ra đời và có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 với
mục tiêu xây dựng BLTTHS khoa học, tiến bộ, có tính khả thi cao, là công cụ
pháp lí sắc bén để đấu tranh hữu hiệu với mọi loại tội phạm, trong đó các quy
định về quyền, nghĩa vụ của luật sư - người bào chữa của người bị buộc tội,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự được quy định
cụ thể, đầy đủ và toàn diện hơn cả so với các BLTTHS trước đó, như: thủ tục
đăng ký bào chữa; bổ sung thêm người bị bắt, người bị tạm giữ vào diện
người được bào chữa và gọi chung là người bị buộc tội; có mặt khi lấy lời
khai người bị bắt; luật sư được quyền hỏi người bị buộc tội sau khi người có
thẩm quyền lấy lời khai, hỏi cung kết thúc; phải có mặt theo yêu cầu của cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát; không được tiết lộ thông tin mà mình biết được
khi tham gia các HĐTTHS liên quan trong vụ án; …
Với quá trình lịch sử hình thành và phát triển nghề luật sư ở nước ta có
thể thấy sự ghi nhận và quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước thông qua
đường lối, tinh thần của các Nghị quyết, Chỉ thị, chính sách trong Hiến pháp,
BLTTHS, LLS, các văn bản pháp luật có liên quan qua từng thời kỳ đối với
luật sư Việt Nam theo yêu cầu cải cách tư pháp trong xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam. Nhất là khi LLS, Hiến pháp 2013 và BLTTHS
2015 được thông qua và có hiệu lực trong những năm gần đây đã khẳng định
vai trò của luật sư và bảm đảm thực hiện quyền, nghĩa vụ của luật sư trong
bảo vệ quyền con người, bảo vệ công lý, tăng cường pháp chế XHCN; bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong mọi lĩnh vực đời sống
xã hội nói chung và trong HĐTTHS nói riêng.
90
3.1.2. Ưu điểm và nguyên nhân
Pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư là căn cứ pháp lý cho hoạt
động của luật sư khi tham gia TTHS, liên quan trực tiếp đến việc bảm đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng. BLTTHS năm 2015 với nhiều quy
định tiến bộ tương thích với nhiều công ước quốc tế, pháp luật TTHS thế giới
về quyền con người trong đó có quyền được bào chữa, được bảo vệ quyền lợi
hợp pháp và những nguyên tắc cơ bản về vai trò của luật sư do Liên hiệp quốc
thông qua nhằm bảo đảm và phát huy vai trò của luật sư khi thực hiện quyền,
nghĩa vụ trong HĐTTHS.
- Quy định pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong
HĐTTHS tăng cả về số lượng và chất lượng
Nếu so với văn bản pháp luật đầu tiên do nhà nước ta ban hành liên
quan đến luật sư là Sắc lệnh số 46/SL về việc tổ chức các ĐLS do chủ tịch Hồ
Chí Minh ký ngày 10/10/1945 với 07 Điều, chừng 01 trang giấy quy định sơ
khai về cơ cấu tổ chức của ĐLS, điều kiện để được liệt danh vào bảng luật sư
tại Toà Thượng thẩm và thẩm quyền của luật sư khi tham gia bào chữa tại các
tòa cấp tỉnh. Thì đến thời điểm hiện tại, hệ thống văn bản pháp luật liên quan
đến luật sư nói chung và quyền, nghĩa vụ của luật sư nói riêng đã lên đến
hàng chục văn bản bao gồm các Công ước quốc tế mà Việt Nam là thành
viên, các nguyên tắc cơ bản về vai trò của luật sư, Hiến pháp, Luật, Thông tư
liên quan; hiệu lực pháp lý ngày càng cao, điển hình trong Hiến pháp 2013 lần
đầu tiên quyền của luật sư về bào chữa, bảo vệ quyền lợi hợp pháp được hiến
định, bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, quyền bảo vệ lợi ích
hợp pháp của đương sự; BLTTHS năm 2015 quy định đầy đủ và chi tiết hơn
về quyền, nghĩa vụ của luật sư với tư cách là người bào chữa, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp; LLS đã cụ thể hóa về điều kiện hành nghề và
quyền, nghĩa vụ của luật sư khi cung cấp dịch vụ pháp lý, khi tham gia hoạt
động tố tụng và các văn bản pháp luật có liên quan về luật sư trong TTHS
91
như: Bộ luật Hình sự; Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự 2015; Luật Thi
hành tạm giữ, tạm giam 2015; …. Chính vì vậy, lĩnh vực pháp luật về quyền,
nghĩa vụ của luật sư ngày càng được hoàn thiện hơn.
Bên cạnh đó, quy trình xây dựng, ban hành các VBQPPL nói chung và
các văn bản liên quan đến luật sư nói riêng ngày càng được chú trọng theo
hướng hội nhập pháp luật quốc tế phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp trong
xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt nam nhằm tăng quyền, gắn trách
nhiệm với nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS bảo đảm thực hiện chức năng
biện hộ. BLTTHS năm 2015 quy định về quyền của luật sư đầy đủ, toàn diện
hơn so với BLTTHS 2003 như: có mặt khi lấy lời khai, hỏi cung khách hàng,
được hỏi người bị buộc tội sau khi người có thẩm quyền kết thúc việc lấy lời
khai, hỏi cung; được gặp riêng người bị buộc tội; thu thập và xuất trình tài
liệu, đồ vật, chứng cứ; đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu
thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản;... Đồng
thời, pháp luật TTHS cũng tăng cường trách nhiệm của luật sư thông qua
việc bổ sung nghĩa vụ của người bào chữa như: luật sư phải có mặt theo
theo yêu cầu của cơ quan điều tra, viện kiểm sát (trong trường hợp chỉ định
luật sư bào chữa); không được tiết lộ thông tin mà luật sư biết khi tham gia
các HĐTTHS liên quan đến vụ án và khách hàng; … Pháp luật TTHS đã
điều chỉnh, bổ sung nhiều quy định mới tiến bộ, qua đó địa vị pháp lý của luật
sư trong HĐTTHS được khẳng định, đặc biệt là trong hoạt động tranh tụng.
- Hội nhập pháp luật quốc tế và bảo đảm quyền con người, nguyên
tắc tranh tụng dân chủ thông qua quy định pháp luật về quyền, nghĩa vụ
của luật sư trong hoạt động tố tụng hình sự
Về nguyên tắc mỗi một VBQPPL được xây dựng, ban hành đều chứa
đựng những đặc trưng cơ bản của nhà nước, bảo vệ lợi ích, mục đích của giai
cấp thống trị. Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước của Nhân
dân, do Nhân dân, vì Nhân dân nên những VBQPPL liên quan TTHS được
92
xây dựng, ban hành đều nhằm bảo đảm quyền lợi chính đáng của người dân -
quyền con người, quyền công dân. Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam 2013 đã dành 01 chương (Chương II) quy định quyền con người, quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân - điều mà các bản Hiến pháp chưa làm được.
Bên cạnh đó Việt Nam còn là thành viên của nhiều công ước, điều ước quốc
tế trong đó có cam kết về bảo đảm quyền con người trong xã hội nói chung
trong TTHS nói riêng, như: Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính
trị; về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa; Công ước chống tra tấn và các
hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con
người; Công ước về quyền trẻ em; Công ước về quyền của người khuyết tật;
Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự ASEAN (ký giữa các nước: Bru-nây,
In-đônê-xi-a, Lào, Ma-lai-xia, Xinh-ga-po, Philíp-pin, Việt Nam); những
nguyên tắc cơ bản về vai trò của luật sư; .... Vì vậy, Bộ luật TTHS 2015 đã
tiếp thu, cụ thể hóa thành những nguyên tắc cơ bản trong TTHS, như: tôn
trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân
(Điều 8); Bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật (Điều 9); suy đoán vô tội
(Điều 13); bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của bị hại, đương sự (Điều 16); tranh tụng trong xét xử được bảo
đảm (Điều 26); .... và quy định về quyền, nghĩa vụ của luật sư khi tham gia
TTHS. Qua đó, những quy định pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong
HĐTTHS cũng góp phần cụ thể hóa cam kết của Việt Nam đối với các thành
viên tham gia công ước, điều ước quốc tế và thế giới về quyền con người, tranh
tụng dân chủ.
- Bảo đảm và tăng cường vị thế luật sư trong tranh tụng dân chủ
tại phiên tòa
Có thể khẳng định rằng, chức năng biện hộ thông qua quyền, nghĩa vụ
của luật sư được thể hiện rõ nét nhất thông qua việc tranh tụng tại phiên tòa.
Xuất phát từ quyền của bị cáo được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử,
93
quyền tham gia phiên tòa, quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ; quyền
đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu
cầu, quyền trình bày ý kiến tại tòa, quyền nói lời sau cùng và quyền kháng
cáo đã đặt ra yêu cầu về vai trò, vị trí của luật sư tại tòa. Điều này nhằm bảo
đảm tính công khai, dân chủ, công bằng, không lệ thuộc vào ý chí chủ quan
của người tiến hành tố tụng, không còn định kiến như quan niệm “án tại hồ
sơ” theo kiểu mọi kết luận đều dựa trên hồ sơ của cơ quan điều tra, hoạt động
xét xử đã chuyển dần từ “thẩm vấn” sang “tranh tụng”. Việc xác định sự thật
của vụ án thông qua tranh tụng trong xét xử được bảo đảm, thể hiện trong
HĐTTHS khi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và luật sư đều có quyền
bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ (chuyển biến tích
cực từ “trọng chứng hơn trọng cung”), đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách
quan của vụ án; Tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển
đến Tòa án để xét xử phải đầy đủ và hợp pháp.
BLTTHS năm 2015 quy định thẩm quyền của luật sư tại phiên tòa được
nâng cao, vị thế luật sư - bên biện hộ đã cân bằng hơn so với kiểm sát viên -
bên công tố, chủ tọa phiên tòa có trách nhiệm tạo điều kiện cho kiểm sát viên
và luật sư bào chữa, luật sư bảo vệ cùng người tham gia tố tụng khác thực hiện
đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình được tranh tụng dân chủ, bình đẳng; Hội
đồng xét xử phải lắng nghe, ghi nhận đầy đủ ý kiến tranh luận và các tài liệu
chứng cứ được thu thập hợp pháp của luật sư bào chữa, luật sư bảo vệ với kiểm
sát viên và người tham gia tranh luận khác tại phiên tòa để đánh giá khách
quan, toàn diện sự thật của vụ án và “Bản án, quyết định của Tòa án phải căn
cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa”
(Điều 26) đây là điểm mới so với BLTTHS năm 2003.
3.1.3. Tồn tại và nguyên nhân
- Một số quy định pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư chưa
hợp lý, nội dung còn chung chung, hình thức, gây khó khăn cho luật sư
94
và chủ thể liên quan khi thực hiện.
BLTTHS năm 2015 được ban hành có nhiều điểm mới tích cực đáng
ghi nhận nhưng bên cạnh đó vẫn còn những bất cập, như: luật sư bào chữa có
quyền thu thập tài liệu, chứng cứ liên quan đến việc bào chữa nhưng việc tiếp
nhận, kiểm tra và đánh giá tài liệu, chứng cứ thì lại do cơ quan điều tra, viện
kiểm sát quyết định (khoản 4 điều 88 BLTTHS) - bên có chức năng đối lập
với luật sư, vì vậy dễ dẫn đến những đánh giá, kết luận không khách quan, sai
lệch về chứng cứ, tài liệu do luật sư thu thập hoặc trong xét xử thẩm phán chủ
tọa phiên tòa chưa thực sự “trọng chứng hơn trọng cung”; Thông tin, lời khai
của người làm chứng là một nguồn chứng cứ quan trọng luật sư cần thu thập
trong hoạt động bào chữa hoặc bảo vệ quyền lợi nên phải đảm bảo lời khai đó
khách quan, đúng sự thật. Những người không được làm chứng theo quy định
tại Điều 66 BLTTHS năm 2015 chỉ gồm: người bào chữa của người bị buộc
tội và người do nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà không có khả năng
nhận thức được những tình tiết liên quan nguồn tin về tội phạm, về vụ án hoặc
không có khả năng khai báo là chưa đầy đủ, toàn diện vì có trường hợp người
thân thích của bị cáo biết được được những tình tiết về chính bị cáo đó liên
quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án. Vậy trường hợp này cơ quan tiến
hành tố tụng có triệu tập họ hay không? Nếu bị triệu tập liệu họ có được từ
chối khai báo hoặc im lặng không? Có phải chịu trách nhiệm hình sự không?
Do luật sư bào chữa hay luật sư bảo vệ chịu sự điều chỉnh của cả
BLTTHS và LLS kèm Quy tắc dạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt
Nam nên nội dung quy định về nghĩa vụ của luật sư bào chữa hay luật sư bảo
vệ có phạm vi phải thực hiện là rộng, bên cạnh đó có quy định nghĩa vụ của
luật sư bào chữa còn mâu thuẫn, chưa thống nhất với quy định của luật có liên
quan, như: điểm g khoản 2 Điều 73 BLTTHS 2015 quy định “Không được
tiết lộ thông tin về vụ án, về người bị buộc tội mà mình biết khi bào chữa, trừ
trường hợp người này đồng ý bằng văn bản và không được sử dụng thông tin
95
đó vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và
lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.” Trong khi khoản 3 Điều 19
BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định “Người không tố giác
là người bào chữa không phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại
khoản 1 Điều này, trừ trường hợp không tố giác các tội quy định tại Chương
XIII của Bộ luật này hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do chính
người mà mình bào chữa đang chuẩn bị, đang thực hiện hoặc đã thực hiện mà
người bào chữa biết rõ khi thực hiện việc bào chữa”. Qua so sánh nội dung của
hai quy định này nhận thấy sự mâu thuẫn khi BLTTHS năm 2015 quy định hành
vi không được “tiết lộ thông tin” của người bị buộc tội, còn BLHS năm 2015 thì
ngược lại đưa lên thành hành vi bắt buộc phải “tố giác” người bị buộc tội trong
trường hợp theo quy định của pháp luật. Điều này thực sự làm khó luật sư bào
chữa không biết phải thực hiện theo quy định nào và nếu phải tố giác chính thân
chủ của mình thì lại vi phạm nghiêm trọng LLS, các chuẩn mực về đạo đức trong
Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam. Đơn cử một số quy
định bất cập của BLTTHS năm 2015 trên đây đã thấy rằng những quy định này
còn mâu thuẫn và chưa dự liệu hết, cơ quan có thẩm quyền cần phải nhanh chóng
ban hành các văn bản pháp luật hướng dẫn, làm rõ …
Ngoài ra, để bảo đảm luật sư thực hiện tốt chức năng bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp cho bị hại, đương sự, cần xem xét quy định thêm một số hoạt
động mà luật sư được thực hiện trong quá trình bảo vệ quyền lợi cho khách
hàng trong vụ án hình sự.
- Hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến
quyền, nghĩa vụ của luật sư trong hoạt động tố tụng hình sự chưa đáp
ứng được yêu cầu khách quan, khoa học và thực tiễn
Hoạt động xây dựng pháp luật TTHS dù có những bước cải thiện nhất
định trong những năm gần đây, nhưng chất lượng hoạt động xây dựng pháp
luật vẫn chưa đáp ứng yêu cầu, tính dự liệu và khả thi của VBQPPL còn chưa
96
được bảo đảm, nhiều quy định chưa dựa trên các cơ sở thực tiễn vững chắc.
Nguyên nhân của tình trạng này chủ yếu là do:
Trong hoạt động xây dựng VBQPPL TTHS, cơ quan chủ trì soạn thảo
và các cơ quan tham gia đóng góp ý kiến chủ yếu là các cơ quan tiến hành tố
tụng như cơ quan điều tra, viện kiểm sát nhân dân, tòa án nhân dân; chưa có
nhiều sự phản biện, góp ý kiến của những tổ chức, cá nhân là đối tượng chịu
sự điều chỉnh trong đó có ý kiến đóng góp của đội ngũ luật sư được ghi nhận và
chuyển hóa vào trong điều luật. Vì vậy, các quy phạm pháp luật liên quan về
quyền, nghĩa vụ của luật sư trong hoạt động tố tụng thường thể hiện góc nhìn một
chiều, có thiên hướng tạo thuận lợi cho phía các cơ quan tiến hành tố tụng; ngoài
ra, một bộ phận cán bộ cơ quan tiến hành tố tụng chưa nhìn nhận đầy đủ, đúng
đắn về vai trò của luật sư trong hoạt động tố tụng, thậm chí cho rằng luật sư
tham gia tố tụng là sự cản trở quá trình giải quyết vụ án;
Những người làm công tác xây dựng văn bản pháp luật đòi hỏi phải
là người có chuyên môn, hiểu biết chuyên sâu và kinh nghiệm thực tiễn
trong lĩnh vực mà họ tham gia xây dựng. Nhưng vẫn còn tình trạng người
làm công tác xây dựng VBQPPL nói chung và VBQPPL liên quan về
quyền, nghĩa vụ của luật sư trong hoạt động tố tụng nói riêng còn thiếu
kinh nghiệm và năng lực chuyên môn còn hạn chế, mang nặng tính lý
thuyết, chưa hiểu biết đúng đắn, đầy đủ về vai trò của luật sư và hành nghề
luật sư trong HĐTTHS;
Cơ chế làm luật, sửa đổi bổ sung văn bản pháp luật còn nhiều bất hợp
lý, chất lượng, năng lực xây dựng pháp luật của các cơ quan nhà nước chưa
cao, trước hết là năng lực lập pháp của Quốc hội vẫn còn chưa chuyên trách,
chưa đáp ứng được nhu cầu điều chỉnh pháp luật bắt nguồn từ “luật Mẹ” là
Hiến pháp để các luật phải tuân theo nền tảng “hợp Hiến”, bởi vậy vẫn còn
hiện tượng luật không có liên kết dọc với Hiến pháp nên “vi Hiến”, luật
không có liên kết ngang với nhau nên chồng chéo, mâu thuẫn hoặc có khoảng
97
trống nhiều văn bản luật sai, sót, quy phạm pháp luật phải hủy bỏ liên quan
đến quyền và nghĩa vụ của luật sư, nhất là trong điều kiện xây dựng nhà nước
pháp quyền, xây dựng nền kinh tế thị trường và chủ động hội nhập quốc tế -
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
3.2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN, NGHĨA VỤ
CỦA LUẬT SƯ TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM
Thực trạng thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong
HĐTTHS được đánh giá trên cơ sở tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh
thông tin, số liệu liên quan từ nhiều nguồn (LĐLSVN, Ủy ban Tư pháp Quốc
hội khóa XIV; Tòa án nhân dân tối cao; Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; …)
kết hợp với kết quả thực hiện phỏng vấn chuyên sâu đối với các luật sư uy tín
trong lĩnh vực TTHS ở cả 03 miền Bắc, Trung, Nam.
3.2.1. Ưu điểm của thực trạng thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa
vụ của luật sư trong hoạt động tố tụng hình sự ở Việt Nam
3.2.1.1. Ưu điểm trong mối quan hệ với chủ thể có thẩm quyền tiến
hành tố tụng
Sự phối hợp trong thực hiện quyền, nghĩa vụ của luật sư trong quá trình
Không trả lời 6,7 %
Chưa cải thiện 6,7 %
Có cải thiện 86,6 %
Chưa cải thiện
Có cải thiện
Không trả lời
giải quyết vụ án hình sự ngày càng chuyên nghiệp, hiệu quả.
Biểu đồ 3.1: Kết quả phỏng vấn về nội dung đánh giá mối quan hệ giữa
luật sư với chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong vụ án hình sự
Nguồn: Phỏng vấn chuyên sâu của tác giả luận án [32]
98
Theo tổng hợp kết quả phỏng vấn chuyên sâu liên quan đến đề tài luận
án của nghiên cứu sinh thực hiện đối với nhiều luật sư có uy tín, kinh nghiệm
trong lĩnh vực tham gia TTHS cho thấy 86,6% chuyên gia được hỏi ghi nhận
có sự cải thiện trong mối quan hệ giữa luật sư với cơ quan, người tiến hành tố
tụng (Biểu đồ 3.1). Số liệu này thể hiện được sự cải thiện, thay đổi theo
hướng tích cực trong mối quan hệ phối hợp công tác, tôn trọng nhau giữa hai
bên khi giải quyết vụ án hình sự ngày càng hiệu quả, dân chủ và bình đẳng.
Với nhóm quyền về tiếp cận, gặp, hỏi, có mặt khi lấy lời khai, hoạt
động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và các hoạt động điều tra khác
của luật sư thực hiện thời gian qua (đặc biệt khi BLTTHS 2015 có hiệu lực)
đa phần được thuận lợi hơn. Luật sư tiến hành gặp gỡ, tham gia lấy lời khai
của người bị tạm giữ, bị can. Công việc này có ý nghĩa rất quan trọng trong
việc bảo đảm tính khách quan của việc điều tra, hạn chế được các vi phạm
pháp luật có thể xảy ra như: ép cung, mớm cung, bức cung, làm sai lệch hồ sơ
vụ án…Ngoài ra, việc luật sư bào chữa tham gia vào các hoạt động điều tra
khác như khám nghiệm hiện trường, thực nghiệm điều tra, xem xét dấu vết
thân thể… cũng là một hoạt động cần thiết và có ý nghĩa; thông qua các hoạt
động này, luật sư có thể phát hiện được những tình tiết mới của vụ án hoặc các
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, các tình tiết có ý nghĩa minh oan
cho bị can trong trường hợp bị can vô tội, làm hạn chế tình trạng oan sai ngay từ
giai đoạn điều tra trong TTHS. Đơn cử việc đăng ký bào chữa đã thuận lợi hơn,
yêu cầu giấy tờ đã rút gọn, thời gian xử lý giải quyết còn trong 24 giờ (giảm 2/3
thời gian), có hiệu lực trong toàn bộ quá trình tố tụng hình sự so với thủ tục đề
nghị cấp giấy chứng nhận bào chữa ở BLTTHS 2003.
Đa phần các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện khá tốt
theo quy định pháp luật về trách nhiệm thông báo thời gian, địa điểm lấy lời
khai, hỏi cung hay tiến hành các hoạt động điều tra đối với luật sư, góp phần
bảo đảm cho hoạt động bào chữa đạt hiệu quả hơn.
99
Luật sư thực hiện nhóm quyền về thu thập tài liệu chứng cứ; đọc, sao
chụp, ghi chép tài liệu trong hồ sơ vụ án cũng đã có sự ủng hộ từ phía cơ quan
cảnh sát điều tra, cơ quan điều tra của Viện kiểm sát. Luật sư đã được chủ
động và độc lập hơn trong việc thu thập tài liệu chứng cứ liên quan đến vụ án;
hoạt động tiếp cận tài liệu hồ sơ vụ án dễ dàng, thuận lợi hơn theo quy định
pháp luật và nội quy của cơ quan tiến hành tố tụng.
Ví dụ: Trong vụ án Đ L T bị xét xử về tội Cố ý làm trái quy định của
Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 165, Bộ luật
Hình sự 1999) và bồi thường hơn 630 tỷ đồng gồm: 600 tỷ đồng trong vụ Tập
đoàn P Việt Nam (PVN) góp vốn vào Ngân hàng O (O Bank) và 30 tỷ đồng
trong vụ xây dựng Nhà máy nhiệt điện TB 2 thu hút sự quan tâm của dư luận
xã hội, trong phần luận tội thì do Tòa án cho phép mở rộng phạm vi để tranh
tụng, cho nên thời gian không bị giới hạn. Việc tranh luận và đối đáp giữa
kiểm sát viên với luật sư đã tạo điều kiện thực quyền, không gian và thời gian
phù hợp cho việc tranh tụng. Nhìn chung kiểm sát viên đã chủ động tranh
luận, đối đáp với luật sư rất nghiêm túc, cởi mở và “công bằng”, đối đáp từng
vấn đề hoặc từng nhóm vấn đề với luật sư để làm sáng tỏ bản chất, sự thật của
vụ án tại phiên tòa xét xử vụ án này [32].
Theo yêu cầu cải cách tư pháp trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam, Đảng và Nhà nước ta dành sự quan tâm đặc biệt với luật sư trong lĩnh
vực TTHS góp phần bảo đảm cho hoạt động tranh tụng dân chủ, xét xử công
bằng, thượng tôn pháp luật, bảo vệ công lý. Việc triển khai sắp xếp vi trí ngồi
của luật sư ngang bằng với đại diện viện kiểm sát trong phiên tòa xét xử thời
gian gần đây là dấu mốc quan trọng về sự dân chủ, công bằng từ quy định
pháp luật đến thực tế tại phiên tòa giữa luật sư - bên biện hộ với kiểm sát viên
- bên công tố, cặp đối trọng không thể thiếu trong mô hình xét xử dân chủ,
tranh tụng được bảo đảm tại phiên tòa.
Nhóm quyền của luật sư tại Tòa (đề nghị triệu tập người làm chứng,
100
người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; tham gia
hỏi, tranh luận tại phiên tòa; xem biên bản phiên tòa;…) đã được sự tôn trọng
của cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó có tòa án. Nhiều trường hợp, các đề nghị
của luật sư tại tòa đã được chấp thuận. Tại phiên tòa việc tranh luận giữa luật sư
với bên công tố - đại diện viện kiểm sát ngày càng nhiều và đi vào thực chất,
hiệu quả, có tính pháp lý cao nhằm tìm ra sự thật khách quan của vụ án đồng thời
bảo vệ quyền lợi hợp pháp của khách hàng. Trong tranh tụng, nhiều vụ án mà lý
lẽ, lập luận của luật sư đưa ra đã được hội đồng xét xử đồng ý để làm cơ sở giảm
nhẹ tội, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho khách hàng.
Ví dụ, trong vụ án “Buôn lậu, nhận hối lộ” với giá trị hơn 1.100 tỷ đồng
xảy ra tại Công ty Tân Trường Sanh và ở Cục Hải quan Cần Thơ, luật sư T là
người bào chữa cho bị cáo H. Đây là vụ án có số bị cáo, luật sư đông hàng
trăm người, xét xử kéo dài cả tháng. Ban đầu, Viện kiểm sát giữ quyền công
tố đề nghị Tòa tuyên “tử hình” đối với bị cáo H, nhưng qua quá trình bào
chữa, tranh luận với những lý lẽ thuyết phục, có căn cứ pháp lý của luật sư T
thì chính Viện kiểm sát đã đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị giảm
án của luật sư, cuối cùng bị cáo không bị tuyên án tử hình [32].
Trách nhiệm, nghĩa vụ của luật sư tham gia bào chữa chỉ định theo yêu
cầu cơ quan tiến hành tố tụng về cơ bản được thực hiện đầy đủ, hiệu quả.
Năm 2019, tất cả luật sư được cơ quan tiến hành tố tụng đề nghị tham gia bào
chữa trong vụ án hình sự đều có mặt tham gia phiên tòa [58], thể hiện sự tôn
trọng và trách nhiệm với cơ quan tiến hành tố tụng, với ĐLS và tổ chức hành
nghề luật sư. Trong nhiều vụ án, luật sư bào chữa chỉ định đã thể hiện được
năng lực chuyên môn, kỹ năng tranh tụng nhằm đảm bảo quyền lợi cho người
bị buộc tội. Ví dụ, luật sư L - Giám đốc Công ty Luật X tham gia vụ án chỉ
định để bào chữa cho 02 bị cáo đang là sinh viên bị Toà án nhân dân tỉnh HN
đưa ra xét xử về tội Giết người, cướp tài sản. Tại phiên tòa sơ thẩm, luật sư
không đồng tình với quan điểm buộc tội và xét xử của các cơ quan tiến hành
101
tố tụng tỉnh HN. Vụ án đã được kháng cáo và xét xử phúc thẩm tại tòa án
nhân dân cấp cao, luật sư nêu quan điểm việc buộc tội các bị cáo về tội giết
người là không đúng với bản chất của vụ án cũng như không đảm bảo các yếu
tố cấu thành tội giết người, sau khi nghe quan điểm, lập luận của luật sư thì
Tòa cấp phúc thẩm đã ghi nhận các ý kiến của luật sư và tuyên giảm cho mỗi
bị cáo 07 năm 6 tháng tù [32].
Chất lượng hoạt động công tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng
trong những năm gần đây đã được nâng cao. Về công tác xét xử các vụ án
hình sự, năm 2019 cơ quan Tòa án đã giải quyết, xét xử được 77.456 vụ với
126.512 bị cáo, đạt tỷ lệ 88,3% về số vụ và 86,4% về số bị cáo (so với năm
2018, giải quyết tăng 10.434 vụ với 15.975 bị cáo) [104]. Trách nhiệm công tố
của Kiểm sát viên tại các phiên tòa được tăng cường, qua đó giảm 64 bị cáo bị
truy tố thiếu căn cứ, sai tội danh, sai khung hình phạt. Công tác kháng nghị
của VKSND được tăng cường hơn. VKSND cùng cấp với Tòa án sơ thẩm ban
hành 506 kháng nghị phúc thẩm, tăng 8,6% so với năm 2018 [126].
3.2.1.2. Ưu điểm trong mối quan hệ với các chủ thể khác
- Trong mối quan hệ với khách hàng:
Thời gian qua ghi nhận sự tích cực của luật sư trong tham gia bào chữa,
bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho khách hàng trong vụ án hình sự.
Bảng 3.1: Số vụ án hình sự có luật sư tham gia
VAHS có luật
VAHS luật sư tham gia
Tỷ lệ VAHS luật sư
Nội dung
sư tham gia
theo hợp đồng với khách
tham gia theo hợp đồng
(vụ án)
hàng (vụ án)
với khách hàng (%)
Năm
14.727
7.608
52
2010
17.507
9.740
56
2011
14.375
5.947
41
2012
trong các năm từ 2010 - 2019
2013
16.305
7.607
47
2014
9.715
3.733
38
2015
11.960
5.310
44
2016
13.078
6.884
53
2017
18.700
12.795
68
2018
12.450
5.055
41
2019
12.728
7.251
57
102
Nguồn: Báo cáo tình hình tổ chức và hoạt động của LĐLSVN năm
2010-2019 [49; 50; 51; 52; 53; 54; 55; 56; 57; 58]
Số lượng luật sư tham gia tố tụng hình sự trung bình trong 10 năm qua
(từ 2010 - 2019) là hơn 10.000 vụ mỗi năm gồm cả án chỉ định và theo hợp
đồng cung cấp dịch vụ pháp lý (Bảng 3.1). Có thể thấy tỷ lệ vụ án hình sự mà
luật sư tham gia theo hợp đồng dịch vụ pháp lý với khách hàng năm 2019
tăng hơn so với hầu hết các năm trước, thể hiện sự tích cực từ cả phía khách
hàng và luật sư trong việc bào chữa, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp trong vụ
án hình sự.
Dù với tư cách là người bào chữa hay luật sư bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp, luật sư đều là “bác sĩ pháp lý” cho người bị buộc tội, bị hại hay
đương sự. Những người mà trong hoàn cảnh vướng vào vòng lao lý cần
một người có đủ khả năng, trình độ và sự tin cậy để bào chữa hay bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Với quyền, nghĩa vụ của mình, luật sư có
trách nhiệm giải thích cho họ về những quyền được pháp luật bảo đảm,
chuẩn bị tâm lý để từ đó giúp người “bị tình nghi phạm tội”, bị hại hay
đương sự bình tĩnh, sáng suốt trong quá trình khai báo, cung cấp chứng
cứ, trung thực, khách quan, toàn diện, đúng quy định của pháp luật; xem
xét toàn bộ nội dung vụ án kết hợp nghiệp vụ chuyên môn, kỹ năng hành
nghề luật sư để biện hộ đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho họ; góp phần
103
làm sáng tỏ nội dung của vụ án, giúp người tiến hành tố tụng nhìn nhận
vấn đề một cách khách quan, chính xác và thấu đáo; giảm thiểu tối đa các
oan, sai, sót.
Ví dụ, trong vụ án cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh
tế gây hậu quả nghiêm trọng (thiệt hại 9.000 tỷ) xảy ra tại Ngân hàng B. Luật
sư H - Trưởng Văn phòng luật sư HH tham gia bào chữa cho bị cáo P.C.D ở
hai cấp xét xử. Đây là một vụ án lớn về số lượng bị cáo, người có quyền và
nghĩa vụ liên quan, quy mô phạm tội, thiệt hại vụ án, số lượng luật sư tham
gia bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, lớn cả về những bất cập của
quy định pháp luật và cách thức quản lý của nhà nước. Xuyên suốt quá trình
tham gia bào chữa cho bị cáo P.C.D, không chỉ bản thân luật sư H mà các luật
sư đồng nghiệp, các cơ quan tiến hành tố tụng đã vận dụng toàn bộ kỹ năng,
kiến thức chuyên môn để nghiên cứu, thu thập, đánh giá chứng cứ, tranh luận
tại phiên tòa nhằm bảo vệ tốt nhất quyền lợi hợp pháp của khách hàng, quyền
lợi cho các bên liên quan, giải quyết triệt để vụ án và tránh oan, sai đối với
người vô tội [69].
- Trong mối quan hệ với tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức hành
nghề và luật sư đồng nghiệp:
+ Hoạt động luật sư chịu sự quản lý kết hợp giữa quản lý nhà nước
với chế độ tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, tổ chức
hành nghề luật sư và đảm bảo theo các quy định của LLS, Điều lệ LĐLS
Việt Nam và Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam. Tổ
chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư trong phạm vi cả nước là Liên đoàn
Luật sư Việt Nam (LĐLSVN); ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là
Đoàn luật sư (ĐLS). Liên đoàn luật sư Việt Nam và các ĐLS được tổ chức
và hoạt động theo LLS và Điều lệ LĐLSVN. Chức năng, nhiệm vụ của tổ
chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư là “đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của luật sư, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ luật sư, giám sát
104
việc tuân theo pháp luật, Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư
Việt Nam, thực hiện quản lý hành nghề luật sư theo quy định của LLS”
(Điều 61, Điều 65 Điều LLS). Tổ chức hành nghề luật sư bao gồm: văn
phòng luật sư và công ty luật (Công ty Luật trách nhiệm hữu hạn một thành
viên, Công ty Luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên và Công ty
Luật hợp danh).
Đồng hành cùng sự phát triển của đất nước, đội ngũ luật sư Việt Nam
ngày càng phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội và người dân trong
việc tiếp cận pháp lý cũng như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trong
lĩnh vực pháp luật hình sự. Sự phát triển của đội ngũ luật sư Việt Nam được
được thể hiện cụ thể như sau:
Bảng 3.2: Tổng số luật sư Việt Nam qua các năm từ 2010 - 2019
Đơn vị tính: người
Nội dung Tăng so với Luật sư Năm năm trước liền kề
2010 5.821 319
2011 6.723 902
2012 7.476 753
2013 8.281 805
2014 9.064 983
2015 9.915 851
2016 10.914 999
2017 11.942 1.028
2018 12.821 879
2019 13.859 1.038
Nguồn: Báo cáo tình hình tổ chức và hoạt động của LĐLSVN năm
2010-2019 [49; 50; 51; 52; 53; 54; 55; 56; 57; 58]
105
Qua số liệu bảng trên có thể thấy số lượng luật sư tăng lên qua từng
năm, nếu năm 2010 cả nước mới có 5.821 luật sư thì đến năm 2019 đã tăng
lên 13.859 (gấp gần 2,5 lần so với năm 2010) minh chứng cho sự phát triển
của nghề luật sư trong xã hội ngày càng được khẳng định, nhu cầu tiếp cận và
sử dụng các dịch vụ pháp lý từ luật sư của người dân ngày càng tăng, đồng
nghĩa với sự góp phần bảo đảm an ninh, trật tự xã hội, chính trị ổn định và
tăng cường pháp chế XHCN.
Đi đôi với sự phát triển về lượng là sự tăng về chất của đội ngũ luật sư
Việt Nam ngày càng mạnh mẽ với mặt bằng chung từ cử nhân luật trở lên, số
lượng luật sư có hàm GS. PGS, trình độ tiến sĩ, thạc sĩ luật ngày càng tăng do
tự bản thân luật sư có nhu cầu nâng cao trình độ chuyên môn thông qua đào
tạo, nghiên cứu chuyên sâu, xác định nghiêm túc phát triển và sống bằng
nghề; Có thể nói nghề luật sư có nhiều đặc thù và yêu cầu cao hơn các nghề
khác trong xã hội vì hoạt động hành nghề luật sư phải thông qua vốn kiến
thức chuyên sâu về các lĩnh vực pháp luật, kinh nghiệm và vốn sống của luật
sư, mối quan hệ xã hội và đạo đức nghề để cung cấp dịch vụ pháp lý tốt hơn
cho khách hàng.
Số lượng ĐLS: Hiện nay, toàn quốc có 63 ĐLS, trong đó ĐLS thành
phố Hồ Chí Minh và ĐLS thành phố Hà Nội có số luật sư thành viên đông
nhất nhất (TPHCM có 5.192; TP Hà Nội có 3.956), có 8 ĐLS số lượng luật sư
từ 100 đến 300 (Đồng Nai, Cần Thơ, Đà Nẵng, Hải Phòng, Bà Rịa - Vũng
Tàu, Bình Dương, Nghệ An, Lâm Đồng); có 53 ĐLS có số lượng luật sư dưới
100. Cả nước có trên 4.000 tổ chức hành nghề luật sư [58]. Qua số liệu này có
thể thấy hiện nay mọi tỉnh thành trên cả nước đều có ĐLS chịu trách nhiệm
thực hiện quản lý các tổ chức hành nghề luật sư và đại diện, bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của luật sư, giám sát việc tuân theo pháp luật, Quy tắc đạo đức
và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam tại địa phương. Hoạt động luật sư
trong thời gian qua đã đáp ứng được phần nào nhu cầu ngày càng tăng về sử
106
dụng dịch vụ pháp lý của cá nhân, tổ chức, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của bị can, bị cáo và các đương sự khác; đồng thời, tạo lập môi
trường pháp lý thuận lợi và tin cậy cho các hoạt động đầu tư, kinh doanh,
thương mại trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn và Bộ quy tắc ứng xử
đạo đức, hành nghề luật sư đối với các “chuyên gia pháp luật” ngày càng được
chú trọng dưới sự quan tâm, giám sát của cơ quan đại diện nhà nước chịu trách
nhiệm quản lý đội ngũ luật sư toàn quốc của Bộ Tư pháp, đối với từng địa phương
là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh là Sở Tư pháp, Liên ĐLS Việt Nam và từng ĐLS của
mỗi địa phương đã phối hợp chặt chẽ trong hoạt động này.
+ Thời gian qua, đội ngũ luật sư trong quan hệ đạo đức, ứng xử giữa
các luật sư thành viên nói chung, giữa các đồng nghiệp luật sư trong cùng vụ
án hình sự nói riêng đã có nhiều chuyển biến tích cực. Thông qua các tổ chức
đoàn luật sư, Liên đoàn luật sư cùng bộ quy tắc đạo đức và ứng xử trong hành
nghề, đã hình thành nên “văn hóa luật sư” trong hoạt động hành nghề, nâng
cao tính chuyên nghiệp, trách nhiệm đối với đồng nghiệp. Nhìn chung, các
luật sư cùng tham gia một vụ án hình sự có thể tranh luận gay gắt trước Tòa
nhưng không vì thế mà xúc phạm nhau, ngay cả khi bào chữa, bảo vệ cho
những người có quyền lợi đối lập nhau thì cũng luôn giữ thái độ tôn trọng
nhau, có văn hóa trong ứng xử và chỉ tập trung vào chứng cứ, làm rõ sự thật
khách quan giúp tòa án ra phán quyết đúng pháp luật.
Ví dụ, vụ án hai giám đốc doanh nghiệp của huyện BL, tỉnh HN bị điều
tra truy tố và xét xử về tội “lừa đảo” theo Khoản 4 Điều 174 BLHS năm 2015
sửa đổi bổ sung 2017, luật sư C và luật sư A là người bào chữa cho hai giám
đốc của 02 công ty. Với hành vi vay tiền trên 1 tỷ đồng để đầu tư vào dự án
xây dựng khách sạn nhà nghỉ tại trung tâm huyện BL. Vay xong không trả
được đúng hạn. bị người cho vay khởi kiện đề nghị xử lý hình sự. Đây là vụ
án có nhiều tình tiết rất phức tạp vì có liên quan đến việc định tội danh, các
107
đương sự là người có chức vụ trong doanh nghiệp nên được xã hội quan tâm.
Khi tiếp xúc hồ sơ vụ án, luật sư nhận thấy tài liệu, hồ sơ điều tra có nhiều
vấn đề cần xem xét lại do có dấu hiệu không khách quan, trung thực; Kết luận
điều tra mang tính chủ quan phiến diện suy diễn có nhiều khả năng dẫn đến
oan, sai. Luật sư C và A đã nghiên cứu kỹ hồ sơ, phát hiện các căn cứ xác
định tội danh không đảm bảo đầy đủ theo quy định pháp luật, như: Động cơ
mục đích của tội phạm không có ý thức chiếm đoạt tài sản trước khi xảy ra vụ
việc; Sự việc vay tiền với mục đích đầu tư vào dự án là có thật; Nguồn tiền
vay đã được chuyển vào đơn vị bán tài sản (tuy nhiên các công ty này sử dụng
tiền bán tài sản chưa chấp hành đúng quy định của luật kế toán là không vào
sổ sách theo dõi, quyết toán ngay mà dùng tiền gửi tiết kiệm mang tên cá
nhân lấy lãi cho công ty). Đây là một hình thức kinh doanh làm lợi cho công
ty cổ phần. Cơ quan tố tụng xác định là bị can có hành vi gian dối khi lấy biên
bản thanh lý tài sản không hợp pháp (giả tạo) làm nhà đầu tư tin dự án là có
thật nhằm chiếm đoạt tai sản để cáo buộc bị can phạm tội. Hai luật sư xác
định rằng căn cứ buộc tội không được làm sáng tỏ theo quy định của pháp luật
nên đã có sự trao đổi, thảo luận về bản luận cứ bào chữa, trong tranh luận các
luật sư đã đưa ra các lập luận chặt chẽ, thuyết phục nhằm bào chữa cho các bị
cáo dựa trên các yếu tố cấu thành tội phạm đó là: các bị cáo không có bàn bạc
liên quan trực tiếp đến sự việc; bị cáo vay tiền để làm dự án là có thật, không
có mục đích chiếm đoạt tài sản trước khi thực hiện vay tiền; đến hạn trả chưa
thanh toán được theo đúng hẹn là sự kiện bất khả kháng và đương sự đã chủ
động tìm cách khắc phục nhưng không được đáp ứng giải quyết. Trải qua hai
cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm, một lần hủy án trả lại hồ sơ để điều tra truy
tố xét xử lại với mức án tuyên sơ thẩm lần 1 dành cho 2 bị cáo là 17 năm tù và
12 năm tù, đến phúc thẩm lần 2 tuyên: 5 năm tù và 3 năm tù cho hưởng án
treo [32].
108
- Trong mối quan hệ với người tham gia tố tụng khác có liên quan:
Luật sư với các chủ thể tham gia tố tụng khác về cơ bản là quan hệ bình
đẳng, tôn trọng nhau, trung thực, khách quan và thượng tôn pháp luật. Mối
quan hệ này tập trung chủ yếu trong giai đoạn xét xử ở phần hỏi, tranh luận
tại phiên tòa. Luật sư trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ vụ án, kết quả thu thập tài
liệu, chứng cứ và các hoạt động nghiệp vụ khác, tìm ra những điểm mấu chốt
hoặc những vấn đề còn khúc mắc, chưa được làm rõ, những tình tiết có lợi
cho khách hàng, xây dựng nội dung và kế hoạch nhóm các câu hỏi với từng
người tham gia tố tụng cần hỏi, dự liệu các tình huống để chuẩn bị sẵn
phương án xử lý. Thực tế, nhiều trường hợp hoạt động của luật sư hỏi, tranh
luận với những người tham gia tố tụng khác mà không có quyền lợi liên quan
đến vụ án (như: người giám định, người làm chứng, người định giá tài sản)
đạt được kết quả do có sự phối hợp, tôn trọng … góp phần làm rõ tình tiết vụ
án, bảo vệ quyền lợi chính đáng cho khách hàng.
3.2.2. Tồn tại của thực trạng thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa
vụ của luật sư trong hoạt động tố tụng hình sự ở Việt Nam
Bên cạnh những mặt tích cực vẫn còn một số hạn chế, bất cập trong quá
trình thực hiện pháp luật. Thực tế cho thấy, việc thực hiện pháp luật về quyền,
nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS còn những khó khăn sau:
3.2.2.1. Tồn tại trong mối quan hệ với chủ thể có thẩm quyền tiến
hành tố tụng
- Một số Điều tra viên, Kiểm sát viên không hợp tác với luật sư, như:
Cơ quan điều tra thông báo bị can từ chối luật sư nhưng thực tế bị can không
từ chối luật sư; hiện nay, luật sư còn gặp trở ngại trong thực hiện quyền gặp,
hỏi, có mặt khi lấy lời khai, hỏi cung của người bị buộc tội bởi sự cản trở từ
phía cơ quan tiến hành tố tụng. Mặc dù việc gặp gỡ bị can là hoạt động cần
thiết và được luật hóa, tuy nhiên nhiều trường hợp khi luật sư muốn tiếp cận
bị can thì thường không thực hiện được do cơ quan điều tra đưa ra lý do là
109
“điều tra viên đang bận công tác khác” hoặc “án phức tạp nên chưa gặp được
bị can”… có trường hợp, người tiến hành tố tụng thay đổi thời gian thậm chí
cả địa điểm hỏi lấy lời khai, hỏi cung; thời điểm để luật sư bào chữa hỏi bị
can nhiều khi gần giờ nghỉ hay giờ ăn của bị cáo nên thời gian ngắn và hiệu
quả không cao. Bên cạnh đó, việc cơ quan tiến hành tố tụng báo trước cho
luật sư bào chữa về thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động tố tụng mà họ có
quyền tham gia cũng chưa có hình thức thực hiện thống nhất, thực tế có một
số luật sư nhận được văn bản thông báo thì buổi lấy cung đã được “hoàn
tất”, thậm chí có buổi hỏi cung Điều tra viên không báo luật sư. Trường hợp
vắng người bào chữa thì hoạt động lấy cung vẫn thực hiện nên có ảnh hưởng
nhất định đến tâm lý của người bị hỏi cung, nhằm gây sức ép cho bị can phải
khai báo theo “mong muốn” của Điều tra viên. Nhiều trường hợp luật sư
chậm nhận được thông báo đăng ký bào chữa/bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp mặc dù luật đã quy định khá chi tiết về thời hạn giải quyết thủ tục đăng
ký bào chữa tại khoản 4 Điều 78 BLTTHS 2015. Việc thông báo này thường
bị quá hạn với nhiều lý do khác nhau từ phía cơ quan tiến hành tố tụng, góp
phần làm khó luật sư.
Ví dụ, tháng 02/2013, bị can B - người bị Công an huyện NT khởi tố,
bắt tạm giam về hành vi chống người thi hành công vụ đã nhờ Luật sư T
(Đoàn Luật sư tỉnh NĐ) tham gia vụ án từ giai đoạn điều tra. Để có giấy
chứng nhận người bào chữa, luật sư T đã nộp hồ sơ, sau đó tìm nhiều cách
liên hệ với điều tra viên lấy kết quả nhưng bất thành. Hơn một tháng sau, Cơ
quan CSĐT Công an huyện NT thông báo là bị can B từ chối luật sư. Trao đổi
với luật sư, gia đình bị can B đều rất bất ngờ về ý kiến từ chối luật sư này.
Luật sư T và gia đình bị can đều nghi ngờ việc từ chối đó nhưng không thể
tiếp xúc bị can để hỏi cho rõ ngọn ngành. Theo yêu cầu của gia đình bị can,
luật sư T đã gửi văn bản đề nghị cơ quan điều tra bố trí buổi gặp trực tiếp giữa
bị can, đại diện gia đình và luật sư theo hướng dẫn tại Điều 10 Thông tư
110
70/2011/TT-BCA ngày 10/10/2011 của Bộ Công an để giải thích rõ về quyền
được bào chữa và trực tiếp nghe nguyện vọng của bị can B. Tuy nhiên, đề
nghị này đã bị Cơ quan điều tra từ chối [32].
- Mối quan hệ giữa luật sư với cơ quan tiến hành tố tụng được quy
định khá đầy đủ chi tiết nên về cơ bản luật sư hoạt động thuận lợi. Tuy nhiên
một vài luật sư khi tham gia tố tụng có một số ứng xử căng thẳng với HĐXX
nên bị mời ra ngoài gây ảnh hưởng đến hình ảnh luật sư cũng như làm giảm
hiệu quả bào chữa, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho khách hàng. Ví dụ, vụ án
xử T.H.K lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (chiếm đoạt gần 1 tỉ đồng
tiền thừa kế của thân chủ) tại Tòa án nhân dân tỉnh BT; vụ Tòa án nhân dân
NT xét xử luật sư T.V.H về tội “Trốn thuế” khi mua căn nhà trong hẻm đường
Tuệ Tĩnh, Nha Trang đều có luật sư bị HĐXX mời ra khỏi phòng xử án do “vi
phạm nội quy phiên tòa” [4].
- Mặt khác, vẫn còn hiện tượng luật sư móc nối, quan hệ với người tiến
hành tố tụng để làm trái quy định của pháp luật trong việc giải quyết vụ án
theo hướng có lợi cho khách hàng của mình. Đây là biểu hiện của những luật
sư đã đặt yếu tố vật chất lên trên đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm xã hội.
Điển hình là vụ “thuốc giả” của Công ty cổ phần VN Pharma, luật sư D. K. S
đã bị xử lý hình sự về hành vi nhận tiền “chạy án” hơn 10 tỷ đồng cho các bị
cáo trong vụ án [64].
- Hiện nay, luật sư có vị trí ngồi ngang bằng với kiểm sát viên tại phiên
tòa nhưng ý kiến của luật sư phần nhiều vẫn chưa có ý nghĩa ràng buộc đối
với Hội đồng xét xử. Vì vậy, có trường hợp Hội đồng xét xử bỏ qua ý kiến
của luật sư mà chỉ quan tâm đến ý kiến của Viện kiểm sát vì “tuyên không
theo quan điểm của viện kiểm sát thì có khả năng bị kháng nghị”, sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến uy tín và quyền lợi của thẩm phán chủ tọa phiên tòa khi bị
hủy, sửa án [32]. Ngược lại ý kiến của luật sư thì chưa được quan tâm đúng
mức. Thực tế này vẫn diễn ra đâu đó tại phiên tòa, ảnh hưởng trực tiếp đến uy
111
tín, hiệu quả hoạt động hành nghề luật sư ở nước ta.
- Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử chưa được bảo đảm vì hoạt động
tham gia tranh tụng của luật sư trong phần xét hỏi và tranh luận vẫn còn bị
hạn chế: luật sư trong khi hỏi, tranh luận thường bị chủ tọa phiên tòa ngắt lời,
dừng chuyển sang nội dung khác, ảnh hưởng đến tâm lý và chất lượng tranh
luận của người biện hộ. Quá trình tranh tụng chưa thật sự cởi mở, một số
trường hợp giữa luật sư và kiểm sát viên không thể thẳng thắn tranh luận đến
cùng các quan điểm. Tại một số phiên tòa, kiểm sát viên thường chỉ đọc bản
bản cáo trạng, đưa ra luận tội và không chủ động, tích cực tham gia tranh luận
với luật sư, nếu có thì thường mang tính hình thức. Trường hợp khác, hoạt
động tranh tụng giữa bên biện hộ với bên công tố tại phiên tòa diễn ra sôi nổi,
luật sư đưa ra được lý lẽ, lập luận sắc bén, có ý nghĩa đối với việc định tội,
định khung hình phạt đối với bị cáo nhưng hội đồng xét xử chủ yếu căn cứ
vào nội dung hồ sơ vụ án và bản cáo trạng để xét xử mà chưa thực sự coi
trọng nội dung, diễn biến tranh luận thực tế tại phiên tòa dẫn đến việc thực
hiện tranh tụng dân chủ vẫn mang nặng tính hình thức. Chất lượng tham gia
xét xử của Hội thẩm nhân dân còn hạn chế.
- Việc thu thập chứng cứ của luật sư vẫn gặp phải nhiều khó khăn có
thể kể đến:
Luật sư bào chữa khi thu thập được tài liệu chứng cứ thì phải kịp thời
giao cho cơ quan tiến hành tố tụng (Điều 88 BLTTHS). Việc kiểm tra, đánh
giá xem đó có phải là chứng cứ hay không và việc quyết định có sử dụng hay
không lại phụ thuộc hoàn toàn vào cơ quan tiến hành tố tụng. Một bên gỡ tội
thực hiện thu thập các chứng cứ gỡ tội, khi thu thập được lại phải kịp thời
giao nộp cho bên buộc tội (cơ quan tiến hành tố tụng - Viện kiểm sát); dẫn
đến sự thiếu khách quan, một số trường hợp khi giao nộp những chứng cứ
quan trọng thường bị vô hiệu hóa làm sai lệch dẫn đến không còn giá trị
chứng minh, một số luật sư không tiến hành giao nộp ngay mà chỉ đợi đến khi
112
phiên tòa được mở, thậm chí đến phần tranh luận mới xuất trình, gây khó
khăn trong quá trình xem xét đánh giá chứng cứ của Tòa án.
Hoạt động thu thập chứng cứ bằng việc đề nghị cơ quan, tổ chức, cá
nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa: rất
hiếm trường hợp luật sư đề nghị các cơ quan, tổ chức, cá nhân đặc biệt là cơ
quan, tổ chức của Nhà nước cung cấp được tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên
quan đến việc bào chữa, bảo vệ quyền lợi cho khách hàng. Khi không nhận
được sự hợp tác từ cơ quan, tổ chức, cá nhân này thì luật sư lại phải quay sang
“đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng” thu thập. Như vậy, hoạt
động thu thập chứng cứ của luật sư vẫn trở lại bằng việc đề nghị cơ quan tiến
hành tố tụng tiến hành thu thập; việc xem xét có tiền hành theo đề nghị của
luật sư hay không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của chủ thể tiến hành tố tụng
trong việc đánh giá xem luật sư đã sử dụng mọi biện pháp cần thiết nhưng
không thể thu thập được chứng cứ hay chưa.
- Việc áp dụng quy định về chỉ định người bào chữa của các cơ quan
tiến hành tố tụng còn hạn chế, đôi khi cơ quan tiến hành tố tụng vẫn gây nhiều
khó dễ và không hợp tác với luật sư được chỉ định, chỉ làm qua loa, cho đủ
thủ tục… dẫn đến việc luật sư tham gia án chỉ định không có vị thế và mất đi
tính nhân đạo, nhân văn của quy định về chỉ định người bào chữa.
- Một số luật sư thường thỏa hiệp với cơ quan điều tra, dễ dãi bỏ qua các
vi phạm trong tố tụng của cơ quan điều tra mà không đấu tranh, bảo vệ lẽ phải.
Bên cạnh đó, công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử các vụ án
hình sự của VKSND vẫn còn những hạn chế, cụ thể: “Còn 06 trường hợp
VKSND truy tố oan dẫn đến TAND cấp sơ thẩm tuyên không phạm tội . Còn 88
trường hợp truy tố thiếu căn cứ, sai tội danh, sai khung hình phạt dẫn đến TAND
sơ thẩm phải xét xử về khoản khác trong cùng điều luật hoặc tội danh khác bằng
hoặc nhẹ hơn tội danh VKSND đã truy tố. Chất lượng tranh tụng của một số Kiểm
sát viên tại phiên tòa còn chưa đáp ứng yêu cầu, chưa chủ động tranh luận, đối
113
đáp, đi đến cùng các ý kiến người bào chữa nên chưa thuyết phục. Một số kháng
nghị thiếu căn cứ, sau đó VKSND cấp trên phải rút kháng nghị (VKSND cấp trên
rút 57 kháng nghị của VKSND cấp dưới).” [119]
Công tác xét xử các vụ án hình sự của ngành Tòa án còn một số hạn
chế: vẫn còn 107 trường hợp phải hủy án và 275 trường hợp phải sửa án do
nguyên nhân chủ quan . Việc cho các bị cáo hưởng án treo không đúng pháp
luật vẫn còn 81 trường hợp (chiếm 0,4%). Còn một số trường hợp TAND
không áp dụng hình phạt bổ sung trong trường hợp luật quy định bắt buộc
phải áp dụng. Một số TAND còn vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử, thời hạn
hoãn phiên tòa, nghị án; vi phạm thời hạn gửi bản án, quyết định cho VKSND
và người tham gia tố tụng. VKSND đã ban hành 766 kiến nghị đối với TAND
yêu cầu khắc phục các vi phạm trong công tác xét xử vụ án hình sự; vẫn còn
một số trường hợp trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung nhưng VKSND không
chấp nhận. [119]
- Vẫn có trường hợp luật sư có những hành vi vi phạm pháp luật, đạo
đức hành nghề đối với khách hàng, cơ quan tiến hành tố tụng, luật sư đồng
nghiệp; dẫn đến bị xử lý kỷ luật, thậm chí phải chịu trách nhiệm hình sự.
Bảng 3.3: Tình hình xử lý kỷ luật luật sư qua các năm
Đơn vị tính: luật sư
Nội dung Khiển trách Cảnh cáo
Năm Tạm đình chỉ tư cách thành viên Đoàn luật sư Xóa tên khỏi danh sách Đoàn luật sư (bị xử lý hình sự)
0 0 0 17 2016
07 04 07 01 2017
02 01 01 18 2018
09 05 08 36 Tổng số
Nguồn: Báo cáo tình hình tổ chức và hoạt động của LĐLSVN năm 2016-2018
[56; 57; 58]
114
Qua số liệu bảng 3.3, có thể thấy tổng số luật sư bị xử lý hình sự
trong 03 năm từ 2016 đến 2018 là 36 người, trong đó riêng năm 2018 đã là 18
người, chiếm 50%, thể hiện một số luật sư chưa có ý thức tuân thủ pháp
luật,vi phạm đạo đức hành nghề, tôn trọng cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng, luật sư đồng nghiệp, khách hàng.
Thời gian qua, số vụ án hình sự luật sư tham gia rất hạn chế, do số
lượng luật sư còn ít so với số vụ án hình sự bị khởi tố, điều tra hàng năm. Từ
năm 2010 đến 2019 trong xét xử sơ thẩm hình sự, tổng số vụ 603.849 có luật
sư tham gia 92.355; phúc thẩm 138.840 vụ có luật sư tham gia 31.304, xét xử
giám đốc thẩm và tái thẩm 1.661 vụ có luật sư tham gia 142 [49; 50; 51; 52; 53;
54; 55; 56; 57; 58]
3.2.2.2. Tồn tại trong mối quan hệ với chủ thể khác
- Trong mối quan hệ với khách hàng:
Vẫn còn trường hợp luật sư và khách hàng bất đồng trong việc thực
hiện bào chữa, bảo vệ quyền lợi hợp pháp (như bất đồng về thanh toán thù lao
luật sư, quan hệ cá nhân giữa luật sư với khách hàng; hứa hẹn kết quả với
khách hàng; kết quả hoạt động của luật sư chưa đáp ứng được yêu cầu, mong
muốn của khách hàng…); luật sư thể hiện thái độ, phát ngôn, xử sự chưa đúng
chuẩn mực, thiếu tôn trọng khách hàng; tình trạng tranh chấp, khiếu kiện giữa
khách hàng và luật sư vẫn diễn ra, như trong 10 năm (2009 - 2018) Liên đoàn
Luật sư Việt Nam đã nhận được 1.342 đơn thư có nội dung liên quan đến luật
sư, người tập sự hành nghề luật sư với phần lớn liên quan đến khiếu nại, tố
cáo luật sư vi phạm đạo đức, ứng xử nghề nghiệp, tranh chấp về thù lao giữa
luật sư với khách hàng [28].
- Thời gian qua, số lượng người sử dụng quyền nhờ luật sư bào chữa
trong vụ án hình sự còn hạn chế. Nhiều trường hợp người bị buộc tội không
biết, hoặc không được cơ quan, người tiến hành tố tụng phổ biến đầy đủ và
tạo điều kiện thực hiện quyền đó, có trường hợp xuất hiện sự bất thường từ
115
100,000
80,000
77,456
72,854
60,000
67,022
40,000
20,000
18,700
12,450
12,728
0
Năm 2017
Năm 2018
Năm 2019
Số VAHS có luật sư tham gia
Tổng số VAHS
chối luật sư bào chữa do tác động của phía cơ quan điều tra.
Biểu đồ 3.2: Số vụ án hình sự đưa ra xét xử, số vụ án hình sự có luật sư
tham gia giai đoạn 2017 - 2019
Nguồn: Báo cáo tình hình tổ chức và hoạt động của LĐLSVN và Báo
cáo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về công tác của các tòa án năm
2017-2019 [56; 57; 58; 102;103; 104]
- Có thể thấy tỷ lệ luật sư tham gia vụ án hình sự qua 03 năm gần đây
(2017 - 2019) có sự thay đổi (Biểu 3.1). Năm 2019, tỷ lệ vụ án hình sự có luật
sư tham gia chiếm 16,4% thấp hơn so với năm 2017 và 2018. Qua đó có thể
thấy, số lượng vụ án hình sự có luật sư tham gia chưa nhiều. Chất lượng hoạt
động bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng nhìn chung
chưa cao, đặc biệt hoạt động bào chữa chỉ định theo đề nghị của cơ quan tiến
hành tố tụng vẫn còn hạn chế, một số luật sư bào chữa chỉ định có thái độ
không tích cực, sao chụp tài liệu, nghiên cứu hồ sơ vụ án không đầy đủ, hoạt
động bào chữa tại phiên tòa mang tính hình thức, như có lệ, đưa ra ý kiến tại
phiên tòa một cách chung chung nên hiệu quả bào chữa không cao, quyền lợi
hợp pháp của khách hàng chưa được bảo đảm.
- Trong mối quan hệ với tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức nghề
nghiệp, luật sư đồng nghiệp:
+ Vẫn có trường hợp luật sư trong quá trình tham gia tố tụng có lời lẽ,
hành vi, trang phục chưa đúng quy định, đúng mực, gây phản cảm, chưa có
116
“văn hóa pháp đình”. Một số luật sư sử dụng mạng xã hội (face book) để phát
biểu ý kiến cá nhân, có lời lẽ nhằm công kích, xúc phạm, phê phán cơ quan tố
tụng, đồng nghiệp hoặc tranh luận, đưa thông tin, tài liệu, hình ảnh không có
kiểm chứng lên mạng gây bất bình dư luận xã hội. Thậm chí một số luật sư bị
cơ quan tiến hành tố tụng đề nghị Đoàn luật sư xem xét, xử lý kỷ luật về hành
vi vi phạm khi tham gia tố tụng.
+ Một số luật sư có quan hệ, tiếp xúc với cơ quan tiến hành tố tụng
để thu hút khách hàng, cạnh tranh không lành mạnh với luật sư khác để
nhận vụ án.
+ Hoạt động quản lý, điều hành của LĐLSVN, Ban chủ nhiệm ĐLS địa
phương với hoạt động hành nghề luật sư chưa thật sự hiệu quả; một số ĐLS
chưa quan tâm đúng mức đến công tác giáo dục chính trị tư tưởng, bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho luật sư; công tác giám sát,
quản lý người tập sự hành nghề luật sư còn mang tính hình thức; một số ĐLS
phối hợp chưa tốt với cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương trong việc quản
lý hành nghề luật sư; ĐLS ở một số địa phương chưa thực hiện tốt chức năng
đại diện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của luật sư, xử lý, giải quyết tranh
chấp, khiếu nại, tố cáo liên quan đến luật sư còn chậm, hiệu quả thấp. Nhìn
chung vẫn còn tình trạng luật sư thành viên vi phạm tố tụng, vi phạm quy tắc
đạo đức ứng xử với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, khách hàng và
luật sư với sư đồng nghiệp. Thực trạng vi phạm của luật sư bị xử lý kỷ luật
khiển trách (năm 2017 là 07 luật sư; năm 2018 là 02 luật sư); cảnh cáo (năm
2017 là 04 luật sư; năm 2018 là 01 luật sư); xóa tên khỏi danh sách của ĐLS
(năm 2012 là 29 luật sư, năm 2015 là 06 luật sư, năm 2016 là 73 luật sư, năm
2017 là 06 luật sư; năm 2018 là 338 luật sư) [49; 50; 51; 52; 53; 54; 55; 56;
57; 58].
+ Việc đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ luật sư của LĐLSVN, ĐLS chưa
đáp ứng được yêu cầu về quy mô, chất lượng của đội ngũ luật sư Việt Nam
117
trong quá trình hội nhập; ý thức rèn luyện của một bộ phận luật sư chưa cao,
thiếu thực chất, học như lấy lệ. Việc bồi dưỡng nghiệp vụ luật sư (bao gồm
quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp) do LĐLSVN, ĐLS tổ chức có tăng
lên nhưng tỷ lệ còn thấp, nếu năm 2016 luật sư tham gia bồi dưỡng nghiệp
vụ, chuyên môn là 5.960 luật sư trên tổng số 10.914 luật sư (chiếm 54,6%)
thì năm 2018 đã có 6.869 luật sư tham gia trên 12.821 luật sư (chiếm 54%)
[55; 57].
- Trong mối quan hệ với người tham gia tố tụng khác:
Vẫn còn trường hợp người tham gia tố tụng khác có thái độ thiếu tôn
trọng luật sư, nhất là đối với luật sư bảo vệ cho khách hàng có quyền lợi đối
lập với họ. Đôi khi, các chủ thể (giám định viên, điều tra viên tham dự phiên
tòa…) từ chối các câu hỏi của luật sư, khiến luật sư khó chứng minh luận
điểm của mình và kết quả tranh tụng bị hạn chế.
3.2.3. Nguyên nhân của ưu điểm và tồn tại
3.2.3.1. Nguyên nhân của ưu điểm
* Nguyên nhân khách quan
- Chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về quyền,
nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS ngày càng được chú trọng, hoàn thiện.
Theo tinh thần các Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày
02/1/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới,
Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020, Chỉ thị số 33-CT/TW của Ban Bí thư ngày 30/3/2009 về
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của luật sư,
Văn kiện Đại hội Đảng XII đặt ra yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động luật sư, bảo đảm tranh tụng dân chủ. Pháp luật Việt Nam đã có hệ thống
quy định tương đối đầy đủ, chi tiết về quyền, nghĩa vụ của luật sư nói chung
và trong HĐTTHS nói riêng phù hợp với các chủ trương, chính sách nêu trên
của Đảng đồng thời tiếp thu được những giá trị tích cực, nhân văn của pháp
118
luật quốc tế liên quan đến vấn đề quyền con người, quyền bào chữa, nguyên
tắc tranh tụng… bảo đảm thực hiện cam kết của Việt Nam khi tham gia các
Công ước quốc tế liên quan. Hiến pháp, Bộ luật TTHS, Luật Luật sư và các
quy định pháp luật có liên quan tạo hành lang pháp lý cơ bản để luật sư thực
hiện quyền, nghĩa vụ trong HĐTTHS.
- Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, nhận thức, trách nhiệm của cơ quan,
người tiến hành tố tụng về hoạt động của luật sư nhìn chung đã thay đổi theo
chiều hướng tích cực.
- Ý thức, hiểu biết pháp luật của người dân về luật sư nói chung và
quyền, nghĩa vụ của luật sư trong vụ án hình sự nói riêng từng bước được
nâng lên.
- Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về quyền, nghĩa
vụ của luật sư được đẩy mạnh, gắn liền với công tác đấu tranh phòng, chống
tội phạm, quyền con người, quyền công dân... thông qua nhiều hình thức đa
dạng, gần gũi, sinh động như: xét xử lưu động; trợ giúp pháp lý; chương trình
phỏng vấn ý kiến luật sư trên truyền hình; thông tin về các vụ án lớn được dư
luận xã hội quan tâm....
* Nguyên nhân chủ quan
- Năng lực, trình độ chuyên môn, kỹ năng hành nghề, đạo đức ứng xử
nghề nghiệp của đa số luật sư ngày càng được nâng cao.
- Liên đoàn Luật sư Việt Nam, các Đoàn luật sư đã có nhiều cố gắng,
phối hợp hiệu quả với cơ quan nhà nước trong việc quản lý luật sư và hành
nghề luật sư; tăng cường công tác bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ luật sư;
giám sát việc tuân theo pháp luật, quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp.
3.2.3.2. Nguyên nhân của tồn tại
* Nguyên nhân khách quan
- Một số quy định pháp luật chưa rõ ràng, mâu thuẫn. Nhìn chung,
119
BLTTHS đã tiến bộ hơn so với trước đây. Đã nêu ra được những điểm khó
khăn mà luật sư còn đang vướng phải trong thực tiễn để từ đó đưa ra những
hướng giải quyết phù hợp. Tuy vậy, cũng nhiều điều khoản chỉ dừng ở mặt
hình thức, khó áp dụng trong thực tiễn do không có sự chỉ dẫn rõ ràng từ cơ
quan có thẩm quyền, điều này dẫn đến cách hiểu của mỗi người áp dụng sẽ
khác nhau. Hệ quả của việc này sẽ làm quá trình tố tụng bị kéo dài thời gian,
khách hàng phải chịu đựng sự việc đó.
- Một bộ phận người tiến hành tố tụng còn hạn chế về trình độ, năng
lực chuyên môn, chưa có nhận thức đúng đắn về quyền, nghĩa vụ của luật sư
trong HĐTTHS. Như trường hợp Tòa án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều
tra bổ sung không có căn cứ, không được viện kiểm sát chấp nhận chiếm
9,3% [109]…. Bên cạnh đó, vẫn còn người tiến hành tố tụng nhận thức sai về
luật sư tham gia tố tụng chỉ nhằm mục đích có lợi nhất cho khách hàng, gây
cản trở cho hoạt động tố tụng; đánh đồng luật sư với “chạy án”;… ảnh hưởng
tiêu cực đến hiệu quả thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong
HĐTTHS.
- Số lượng người dân biết, tiếp cận và sử dụng dịch vụ pháp lý của luật sư
trong TTHS còn hạn chế, tỉ lệ luật sư so với mật độ dân số nước ta còn thấp
(16.500 người/01 luật sư) so với các nước trong khu vực và trên thế giới [99].
- Chưa có chế tài cụ thể và tương xứng đối với các chủ thể khi vi phạm
quy định pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật trong HĐTTHS, nhất là cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và luật sư.
- Hoạt động quản lý nhà nước kết hợp với chế độ tự quản giữa các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền với Liên đoàn Luật sư Việt Nam, các Đoàn luật
sư địa phương chưa phối hợp, thực hiện tốt.
* Nguyên nhân chủ quan:
- Một bộ phận luật sư chưa đáp ứng yêu cầu về năng lực chuyên môn,
120
đạo đức hành nghề khi thực hiện quyền, nghĩa vụ trong HĐTTHS.
- Số lượng và chất lượng luật sư giữa các vùng, miền, tỉnh thành của
Việt Nam phân bố không đồng đều, tập trung chủ yếu vào 02 thành phố (Hồ
Chí Minh và Hà Nội). Tính chất, mức độ, số lượng vụ án hình sự ở các địa
phương cũng có nhiều khác biệt.
121
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Luận án đã khái quát quá trình hình thành và phát triển pháp luật về
luật sư, về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS ở Việt Nam; phân tích,
đánh giá ưu điểm, tồn tại và nguyên nhân của ưu điểm, tồn tại của pháp luật
về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS.
Luận án đã đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ
của luật sư trong HĐTTHS trên cơ sở tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh
thông tin, số liệu liên quan từ nhiều nguồn kết hợp với kết quả thực hiện
phỏng vấn chuyên sâu đối với các luật sư uy tín trong lĩnh vực TTHS. Thực
hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS ở nước ta được
luận án phân tích theo các mối quan hệ giữa luật sư với các chủ thể tiến hành
tố tụng và các chủ thể khác (khách hàng, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức
hành nghề, luật sư đồng nghiệp và những người tham gia tố tụng khác có liên
quan) kết hợp với các hình thức thực hiện pháp luật tương ứng. Qua phân tích
thực trạng, bám sát mục tiêu nghiên cứu, tác giả đã đưa ra những đánh giá
mang tính lý luận và thực tiễn về ưu điểm, tồn tại; nguyên nhân của ưu điểm,
tồn tại trong thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong
HĐTTHS ở Việt Nam hiện nay; làm cơ sở để đưa ra các quan điểm và đề xuất
giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong
HĐTTHS ở Việt Nam góp phần bảo đảm quyền con người, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, đáp ứng yêu cầu CCTP trong xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thời kỳ hội nhập quốc tế.
122
Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN, NGHĨA VỤ CỦA LUẬT SƯ
TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. QUAN ĐIỂM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN, NGHĨA VỤ CỦA
LUẬT SƯ TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1.1. Thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong
hoạt động tố tụng hình sự phải theo yêu cầu cải cách tư pháp trong xây
dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thời kỳ hội nhập
Trong giai đoạn hiện nay, yêu cầu CCTP đặt ra mục tiêu xây dựng nền
tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng
bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc; trọng tâm là hoạt động
xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao. Để đạt được mục tiêu đó
cần thực hiện nhiều nhiệm vụ trọng tâm, một trong số đó là “Hoàn thiện cơ
chế bảo đảm để luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa” [25] kết
hợp với việc “Nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên toà,
bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư”, “việc phán quyết của toà án phải căn
cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ,
toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa” [24].
Có thể thấy, luật sư giữ một vai trò quan trọng trong CCTP xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam, được thể hiện chủ yếu trong HĐTTHS
với tư cách là người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp thông
qua hành vi thực hiện quyền, nghĩa vụ theo luật định, góp phần bảo vệ công
lý, quyền con người, quyền lợi hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức -
những yếu tố đặc trưng của nền tư pháp XHCN Việt Nam.
Nền tư pháp nước ta thời kỳ hội nhập quốc tế đã đạt được nhiều thành
tựu quan trọng khi kế thừa các giá trị pháp lý truyền thống tốt đẹp, tiếp thu có
123
chọn lọc những giá trị chung tiến bộ của tư pháp quốc tế. Việt Nam là thành
viên nhiều công ước, điều ước quốc tế về bảo đảm quyền con người, quyền
được xét xử theo một thủ tục tố tụng công bằng, bình đẳng; bảo đảm quyền
bào chữa của người bị tình nghi phạm tội, hỗ trợ tư pháp hình sự song
phương, đa phương, đặc biệt là bảo đảm những nguyên tắc cơ bản về vai trò
của luật sư (được thông qua bởi Đại hội đồng Liên hiệp quốc)... đây vừa là cơ
hội và thách thức của nền tư pháp XHCN trong tình hình tội phạm có xu
hướng gia tăng, ngày càng nghiêm trọng, tinh vi, có tổ chức, hoạt động xuyên
quốc gia ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh, chính trị, xã hội trong nước, khu
vực và trên thế giới... Trước tình hình này, để HĐTTHS phát hiện chính xác,
xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, đồng thời bảo đảm quyền con
người, quyền được bào chữa, quyền được xét xử công bằng theo các cam kết
quốc tế thì không thể thiếu luật sư - người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi
hợp pháp của người thế yếu trong TTHS. Vì vậy, Đảng, nhà nước ta cần chủ
trương và quyết tâm cao hơn trong tạo cơ chế bảo đảm để luật sư thực hiện
tốt quyền, nghĩa vụ trong HĐTTHS đáp ứng yêu cầu CCTP thời kỳ hội nhập -
một nhân tố quan trọng góp phần vào việc giữ gìn an ninh, trật tự và ổn định
xã hội, bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, quyền và lợi ích hợp
pháp của bị hại, đương sự, góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ pháp chế XHCN
thời kỳ mới - thời kỳ hội nhập.
4.1.2. Thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong
hoạt động tố tụng hình sự cần được nhận thức là trách nhiệm của cơ
quan, tổ chức, cá nhân liên quan
Luật sư với chức năng xã hội sâu sắc khi tham gia TTHS góp phần bảo
vệ công lý, quyền con người, quyền lợi hợp pháp của khách hàng, bảo đảm
giải quyết vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Trong vụ án hình sự,
luật sư với tư cách người bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp còn thực
hiện chức năng giám sát xã hội đối với HĐTTHS - kênh phản biện tích cực
124
khách quan của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và những chủ
thể tham gia tố tụng khác. Vì vậy, luật sư giúp cho các chủ thể thận trọng,
trách nhiệm hơn trong từng hành vi, quyết định của mình khi tiến hành hay
tham gia TTHS. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thời kỳ hội nhập rất
chú trọng và đảm bảo quyền, nghĩa vụ của luật sư được thực hiện hiệu quả,
thực chất, công bằng trong HĐTTHS thông qua hoàn thiện cơ chế bảo đảm để
luật sư thực hiện tốt chức năng biện hộ và “Các cơ quan tư pháp có trách
nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia vào quá trình tố tụng” [25]. Tinh thần
này được thể hiện qua nhiều Nghị quyết của Đảng, nội dung Hiến pháp 2013,
cụ thể hóa thành các quy định của BLTTHS 2015, LLS tạo cơ sở pháp lý cho
luât sự và chủ thể liên quan thực hiện.
Trên thực tế, nhiều chủ thể tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng khác
có nhận thức chưa đúng, thiếu trách nhiệm trong thực hiện pháp luật về luật
sư trong HĐTTHS. Một yếu tố quyết định mức độ hiệu quả của việc đưa các
quy định pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư vào thực tiễn giải quyết vụ
án hình sự, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng TTHS, công lý không được
bảo đảm. Vì vậy, các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan trong HĐTTHS cần
nâng cao nhận thức thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư là trách
nhiệm của mỗi người trong quan hệ TTHS.
4.1.3. Thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong
hoạt động tố tụng hình sự phải gắn liền với nguyên tắc tranh tụng trong
xét xử được bảo đảm
Việt Nam đang trong quá trình xây dựng nền tư pháp công bằng, dân
chủ, văn minh, đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế thì việc bảo đảm quyền con
người thông qua tranh tụng dân chủ trong hoạt động tố tụng hình sự rất được
quan tâm. Với tinh thần ấy, “tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” là một
nội dung quan trọng đã được ghi nhận trong các Nghị quyết của Đảng (Nghị
quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
125
02/6/2005 của Bộ Chính trị), được hiến định tại Hiến pháp 2013 và cụ thể hóa
thành một số nguyên tắc cơ bản của TTHS. Nguyên tắc tranh tụng trong xét
xử được bảo đảm đặt ra yêu cầu cần phải tăng cường khả năng tranh luận
công bằng, khách quan, đến cùng giữa các chủ thể tiến hành và tham gia tố
tụng nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án, bảo đảm cho việc xét xử
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Hoạt động tranh tụng hiện hữu trong
các giai đoạn tố tụng, nhưng rõ nét nhất trong giai đoạn xét xử mà trọng tâm
là phần tranh luận giữa luật sư - bên biện hộ và kiểm sát viên - bên công tố tại
phiên tòa. Vì vây, trong quá trình tranh tụng tại tòa, luật sư cần kết hợp các kỹ
năng tranh tụng, kinh nghiệm hành nghề, các chứng cứ, tài liệu thu thập hợp
pháp cũng như sự am hiểu pháp lý khi tham gia hỏi, tranh luận dân chủ nhằm
thuyết phục các bên tại phiên tòa nhìn nhận sự việc đúng sự thật khách quan
của vụ án đồng thời có lợi nhất cho khách hàng, bảo đảm quá trình xét xử
diễn ra đúng pháp luật. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho luật sư thực
hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ và tranh tụng dân chủ, bình đẳng; kết quả tranh
tụng tại phiên tòa là một trong những căn cứ quan trọng để Tòa ra bản án,
quyết định. Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm hay không sẽ ảnh hưởng
lớn đến hiệu quả thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong
HĐTTHS. Nói cách khác, thực hiện quyền, nghĩa vụ của luật sư trong
HĐTTHS phải bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử.
4.2. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN, NGHĨA VỤ CỦA
LUẬT SƯ TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.2.1. Nhóm giải pháp về hoàn thiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ
của luật sư trong hoạt động tố tụng hình sự và chế tài đối với hành vi vi
phạm
4.2.1.1. Hoàn thiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong
hoạt động tố tụng hình sự
Các VBQPPL có liên quan đến quyền, nghĩa vụ của luật sư hiện nay
126
chưa đồng bộ, nhiều quy phạm pháp luật chậm được rà soát, điều chỉnh lại
cho thống nhất với Hiến pháp 2013 và BLTTHS 2015. Hoạt động hướng dẫn,
giải thích còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu của xã hội, nhiều quy phạm pháp
luật khi thực hiện có nhiều cách hiểu khác nhau, quy định chung chung dẫn
đến thực hiện lúng túng, không nhất quán, mang tính chất liệt kê, bỏ lửng …
- Hoàn thiện quy định về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong Luật
Luật sư
LLS được ban hành năm 2006 có hiệu lực từ 01/01/2007 là sự kế thừa
có chọn lọc từ Pháp lệnh Luật sư năm 2001, đáp ứng kịp thời với thời kỳ hội
nhập quốc tế nhằm tạo ra hành lang pháp lý cho giới luật sư trong hoạt động
hành nghề luật sư tại Việt Nam. Luật Luật Sư đã thi hành được hơn 13 năm
với một lần sửa đổi, bổ sung năm 2012, cùng nhiều văn bản hướng dẫn còn
hiệu lực như: Thông tư 17/2011/TT-BTP ngày 14/10/2011 của Bộ Tư pháp về
hướng dẫn quy định của Luật sư, Nghị định hướng dẫn LLS về tổ chức xã hội
- nghề nghiệp của luật sư; Nghị định số 123/2013/NĐ-CP ngày 14 tháng 10
năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành
LLS; Nghị định 137/2018/NĐ-CP ngày 08/10/2018 của Chính phủ về Sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 123/2013/NĐ-CP; Nghị định số
110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia
đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã; Thông tư số
19/2013/TT-BTP ngày 28/11/2013 của Bộ Tư pháp hướng dẫn tập sự hành
nghề luật sư; …, đặc biệt là Hiến pháp 2013 và BLTTHS 2015 có hiệu lực
thời gian gần đây. Do biến chuyển thời gian cũng như yêu cầu của hội nhập
quốc tế về một số nguyên tắc, nội dung liên quan đến quyền con người, những
nguyên tắc cơ bản về vai trò của luật sư, Hiến pháp 2013, BLTTHS 2015,
BLHS 2015 và các văn bản mới có hiệu lực tác động trực tiếp đến LLS. Vì
vậy, LLS xuất hiện nhiều bất cập, chưa theo kịp với các quy định pháp luật
127
của nhiều VBPL liên quan.
+ Quy định về thủ tục bào chữa của luật sư
Mặc dù BLTTHS 2015 đã có hiệu lực thi hành, tại khoản 3 Điều 509
quy định cụ thể về “bãi bỏ quy định về việc cấp giấy chứng nhận người bào
chữa tại khoản 3 và khoản 4 Điều 27 của LLS số 65/2006/QH11 đã được
sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 20/2012/QH13” bằng thủ tục
đăng ký bào chữa nhưng đến nay chưa có văn bản dưới luật nào hướng dẫn
thực hiện quy định này trong LLS dẫn đến có nhiều cách hiểu khác nhau,
như: cách hiểu thứ nhất là bãi bỏ luôn khoản 3 và khoản 4 Điều 27 LLS
[84]; cách hiểu thứ hai là chỉ bãi bỏ phần nội dung quy định liên quan đến
việc cấp giấy chứng nhận bào chữa tại khoản 3 và khoản 4 Điều 27; cách
hiểu thứ ba là chỉ bãi bỏ nội dung quy định liên quan đến việc cấp giấy
chứng nhận bào chữa đồng thời bổ sung quy định về thủ tục đăng ký bào
chữa. Tác giả đồng tình với cách hiểu thứ ba vì đây là cách hiểu toàn diện
và đúng nhất về việc thực hiện quy định tại khoản 3 Điều 509 BLTTHS
2015, đồng thời cũng cần điều chỉnh nội dung quy định khoản 2 Điều 27
LLS như sau: sửa đổi, bổ sung nội dung “Trong thời hạn ba ngày làm việc,
kể từ khi luật sư xuất trình Thẻ luật sư và giấy yêu cầu luật sư của khách
hàng, cơ quan tiến hành tố tụng cấp Giấy chứng nhận về việc tham gia tố
tụng của luật sư, trường hợp từ chối phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ
lý do” thành “Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi luật sư xuất trình Thẻ luật sư
kèm theo bản sao có chứng thực và giấy yêu cầu luật sư của khách hàng,
cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền phải Thông báo về việc đăng ký
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp và vào sổ đăng ký bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp, trường hợp từ chối phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý
do”. Việc sửa đổi này là cần thiết để thống nhất nội dung giữa các quy định
trong LLS, BLTTHS 2015 và Điều 9 Thông tư 46/2019/TT-BCA do Bộ
trưởng Bộ Công an ban hành ngày 10/10/2019 có hiệu lực từ 02/12/2019.
128
Tại quy định khoản 3, khoản 4 Điều 27 LLS ngoài nội dung về đăng
ký bào chữa còn có nội dung liên quan đến trường hợp người tập sự hành
nghề đi cùng luật sư hướng dẫn và từ chối người bào chữa, vì vậy để làm rõ
nội dung quy định của khoản 3 và khoản 4 Điều 27 căn cứ theo BLTTHS
năm 2015, tác giả đưa ra nội dung sửa đổi, bổ sung như sau:
“3. Khi tham gia tố tụng hình sự với tư cách là người bào chữa, luật sư
được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng gửi văn bản thông báo người bào
chữa.Văn bản thông báo người bào chữa có giá trị sử dụng trong suốt quá
trình tham gia tố tụng, trừ các trường hợp người bị buộc tội, người đại diện
hoặc người thân thích của người bị buộc tội từ chối hoặc đề nghị thay đổi luật
sư hoặc luật sư không được tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật.
Khi đăng ký bào chữa, luật sư xuất trình các giấy tờ sau đây:
a) Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực;
b) Giấy yêu cầu luật sư của người bị buộc tội hoặc của người đại diện,
người thân thích của người bị buộc tội. Trường hợp chỉ định, văn bản cử luật
sư của tổ chức hành nghề luật sư nơi luật sư đó hành nghề hoặc văn bản phân
công của Đoàn luật sư đối với luật sư hành nghề với tư cách cá nhân;.
Trong trường hợp người tập sự hành nghề luật sư đi cùng với luật sư
hướng dẫn trong vụ án hình sự theo quy định tại khoản 3 Điều 14 của Luật
này thì khi đăng ký bào chữa, luật sư hướng dẫn gửi kèm theo Giấy chứng
nhận người tập sự hành nghề luật sư và giấy tờ xác nhận có sự đồng ý của
khách hàng đến cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để đề nghị người tập
sự được đi cùng luật sư hướng dẫn.
Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận đủ giấy tờ hợp lệ, cơ quan tiến
hành tố tụng gửi văn bản thông báo người bào chữa cho luật sư, trong đó cho
phép người tập sự hành nghề luật sư tham gia vụ việc (nếu có); trong trường
hợp từ chối phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do. Người bị từ chối có
quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật tố tụng.
129
Khi cần liên hệ với cá nhân, cơ quan, tổ chức để thực hiện quyền, nghĩa
vụ và các hoạt động có liên quan đến việc bào chữa trong vụ án hình sự, luật
sư xuất trình Thẻ luật sư và văn bản thông báo người bào chữa của luật sư.
4. Luật sư chỉ bị từ chối việc đăng ký bào chữa khi thuộc một trong các
trường hợp:
a) Luật sư đã tiến hành tố tụng vụ án đó; người thân thích của người đã
hoặc đang tiến hành tố tụng vụ án đó;
b) Luật sư tham gia vụ án đó với tư cách là người làm chứng, người
giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật;
c) Người bị buộc tội thuộc trường hợp chỉ định người bào chữa từ chối
luật sư.”
+ Cập nhật thuật ngữ pháp lý mới
LLS 2006 sửa đổi, bổ sung 2012 có nhiều thuật ngữ pháp lý không còn
phù hợp với một số quy định mới trong BLTTHS 2015, cụ thể: thuật ngữ “cơ
quan tiến hành tố tụng”, “người tiến hành tố tụng” trong nội dung quy định
của LLS được hiểu tương đương với thuật ngữ “Cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng”, “người có thẩm quyền tiến hành tố tụng” trong BLTTHS 2015.
Sự khác biệt này không đơn thuần là khác nhau về câu chữ mà chính là khái
niệm của các thuật ngữ pháp lý này là có sự khác nhau rõ rệt về phạm vi và số
lượng, thẩm quyền của các chủ thể trong TTHS.
Trong BLTTHS 2015, đã mở rộng diện người tiến hành tố tụng (Điều
38, Điều 43, Điều 48) và bổ sung thêm cơ quan, người được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra, cụ thể: “Cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng gồm cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra.” (điểm a khoản 1 Điều 4); “Người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng gồm người tiến hành tố tụng và người được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra”(điểm b khoản 1 Điều 4).
“Cơ quan tiến hành tố tụng gồm: Cơ quan điều tra;Viện kiểm sát và Tòa án.
130
Người tiến hành tố tụng gồm: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan
điều tra, Điều tra viên, Cán bộ điều tra;Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện
kiểm sát, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án,
Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên” (Điều 34 BLTTHS
2015).
Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra gồm:
Các cơ quan của Bộ đội biên phòng; Các cơ quan của Hải quan; Các cơ quan
của Kiểm lâm; Các cơ quan của lực lượng Cảnh sát biển; Các cơ quan của
Kiểm ngư; Các cơ quan của Công an nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra; Các cơ quan khác trong Quân đội nhân dân được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra [88, Điều 35].
Người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra được
quy định tại khoản 2 Điều 35 BLTTHS 2015.
Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và
người được giao tiến hành một số hoạt động điều tra được quy định cụ thể từ
Điều 36 đến Điều 48 BLTTHS 2015.
Trong khi LLS tại Điều 9 về các hành vi bị nghiêm cấm, Điều 21 về
quyền, nghĩa vụ của luật sư hiện tại đang dùng cụm từ “cơ quan tiến hành tố
tụng”, “người tiến hành tố tụng” nhưng nội dung là “cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng”; “người có thẩm quyền tiến hành tố tụng” .Vì vậy, tác giả
nhận thấy cần nhanh chóng có văn bản pháp luật hướng dẫn về thay đổi các
cụm từ “cơ quan tiến hành tố tụng” thành “cơ quan có thẩm quyền tiến hành
tố tụng”; “người tiến hành tố tụng” thành “người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng” trong các Điều 9, Điều 21 LLS nhằm đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ
và chính xác giữa các VBQPPL có liên quan đến luật sư từ đó tăng tính khả
thi, hiệu lực, hiệu quả của LLS, BLTTHS năm 2015 và các văn bản pháp luật
liên quan.
Bổ sung thuật ngữ pháp lý “người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
131
của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố” nhằm tương thích với quy
định của BLTTHS 2015 về mở rộng diện người tham gia TTHS, đồng thời
bảo đảm quyền được bào chữa bởi luật sư và người khác bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp đối với chủ thể này. Vì vậy, tác giả đề nghị nên có văn bản pháp
luật bổ sung, cập nhật thuật ngữ này trong các quy định của LLS có liên quan
đến diện khách hàng mà luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý trong HĐTTHS.
- Hoàn thiện quy định về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2015
Bộ luật TTHS 2015 dù mới có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 đã xuất
hiện nhiều lỗi kỹ thuật, quy định bất cập, mâu thuẫn gây khó khăn cho các
chủ thể liên quan khi thực hiện. Vì vậy, trong phạm vi tiểu mục này tác giả
xin đưa ra một số đề nghị khắc phục thực trạng này, cụ thể:
- Về việc đăng ký để luật sư được tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố.
Trong các bài khoa học của tác giả đã nêu, phân tích tồn tại về chưa
quy định thủ tục đăng ký bảo vệ quyền và nghĩa vụ hợp pháp của bị hại,
đượng sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố và đưa ra giải pháp
khắc phục tình trạng này. Đến ngày 10/10/2019, Bộ Công an đã ban hành
Thông tư 46/2019/TT-BCA quy định về trách nhiệm của lực lượng Công an
nhân dân trong việc thực hiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
liên quan đến bảo đảm quyền bào chữa của người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc theo quyết
định truy nã, người bị tạm giữ, bị can; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, có hiệu lực
02/12/2019.
- Về quyền thu thập chứng cứ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của bị hại, đương sự
Hiện nay, BLTTHS 2015 mới quy định quyền đưa ra chứng cứ, tài
132
liệu, đồ vật, yêu cầu (điểm a khoản 3 Điều 84) mà chưa đề cập quyền thu thập
chứng cứ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự,
trong khi người bào chữa đã có quyền này (quy định cụ thể tại điểm h khoản 1
Điều 73). Bộ luật TTHS 2015 không quy định “chủ thể” sử dụng chứng cứ
trong khái niệm về chứng cứ tại Điều 86 (điểm mới tiến bộ trong TTHS) tạo
điều kiện cho những người tham gia tố tụng, đặc biệt là người bào chữa,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp có thể thực hiện hoạt động thu thập,
đưa ra chứng minh, giải quyết vụ án đúng pháp luật, tránh oan, sai, bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của khách hàng. Quyền thu thập chứng cứ có vai trò quan
trọng đối với người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp khi tham gia TTHS vì
tăng tính chủ động, hiệu quả hơn trong hoạt động bảo vệ quyền lợi chính đáng
của khách hàng, phù hợp với nghĩa vụ quy định tại khoản 4 Điều 83; có thể hỗ
trợ cho hoạt động thu thập chứng cứ buộc tội của cơ quan tiến hành tố tụng,
góp phần tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Bên cạnh đó, BLTTDS 2015
cũng có quy định tại khoản 2 Điều 24 về “người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự có quyền thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ”; tại khoản
2 Điều 76 về quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự, quy định “Thu thập và cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án”.
Với những phân tích trên, tác giả đề nghị cần có VBQPPL hướng dẫn
bổ sung thêm quyền thu thập chứng cứ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của bị hại, đương sự trong BLTTHS 2015 - cũng là một quyền quan
trọng không thể thiếu của luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong vụ
án hình sư.
+ Về quy định Người làm chứng
Lời khai của người làm chứng là một trong những nguồn chứng cứ
quan trọng đối với hoạt động thu thập chứng cứ của luật sư. Vì vậy cần
phải bảo đảm lời khai của người làm chứng phải trung thực, khách quan và
chính xác thì nguồn chứng cứ đó mới hợp pháp và có giá trị đối với luật sư
133
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Theo quy định về người làm chứng tại BLTTHS 2015 hiện nay:
Người làm chứng “là người biết được những tình tiết liên quan đến
nguồn tin về tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành
tố tụng triệu tập đến làm chứng” (khoản 1 Điều 66); có nghĩa vụ “trình bày
trung thực những tình tiết mà mình biết liên quan đến nguồn tin về tội
phạm, về vụ án và lý do biết được những tình tiết đó” (điểm b khoản 4
Điều 66). Trong khi đó, diện người không được làm chứng chỉ là: “Người
bào chữa của người bị buộc tội; Người do nhược điểm về tâm thần hoặc thể
chất mà không có khả năng nhận thức được những tình tiết liên quan nguồn
tin về tội phạm, về vụ án hoặc không có khả năng khai báo đúng đắn”
(khoản 2 Điều 66). Vì vậy đặt ra trường hợp “người thân thích của người bị
buộc tội” biết được được những tình tiết về chính người bị buộc tội đó liên
quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án thì cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng có triệu tập họ hay không? Nếu bị triệu tập liệu họ có được từ
chối khai báo hoặc im lặng không? Có phải chịu trách nhiệm hình sự
không?... Theo văn hóa đạo đức người Việt Nam thì việc người thân thích
làm chứng chống lại chính người máu mủ ruột thịt, họ hàng của mình là
hành vi không phù hợp. Kể cả trường hợp bắt buộc phải làm chứng thì việc
hợp tác của những người này sẽ khó khăn, nội dung lời khai mâu thuẫn,
không trung thực, thiếu khách quan,… dẫn đến mục đích, vai trò của người
làm chứng trong HĐTTHS không đạt hiệu quả, thậm chí có thể làm sai lệch
sự thật của vụ án. Vì vậy, theo tác giả nên sửa đổi quy định về người làm
chứng theo hướng có sự miễn trừ trách nhiệm đối với diện người làm
chứng là “Người thân thích của người bị buộc tội” cho tương thích với quy
định miễn trừ trách nhiệm đối với hành vi không tố giác tội phạm tại khoản
2 Điều 19 BLHS 2015 sửa đổi bổ sung 2017.
+ Giao nộp tài liệu, chứng cứ của luật sư cho cơ quan có thẩm
134
quyền tiến hành tố tụng
Quyền thu thập chứng cứ, tài liệu của luật sư bào chữa theo khoản 2,
khoản 3 Điều 81 BLTTHS 2015 quy định “…khi thu thập được chứng cứ,
tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa, người bào chữa phải kịp thời
giao cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để đưa vào hồ sơ vụ án”
và “Trường hợp không thể thu thập được chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên
quan đến việc bào chữa thì luật sư có thể đề nghị cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng thu thập” là chưa hợp lý, khó khả thi. Mục đích hoạt động
thu thập tài liệu, chứng cứ của luật sư bào chữa là bảo đảm quyền, lợi ích
hợp pháp cho người bị buộc tội. Quá trình thu thập được những tài liệu,
chứng cứ này là đầy gian nan vất vả, thử thách đối với luật sư. Sau khi thu
thập được tài liệu, chứng cứ quan trọng liên quan đến vụ án, luật sư “phải
kịp thời giao” cho cơ quan tiến hành tố tụng cũng gây nhiều bất lợi cho luật
sư vì mất đi yếu tố bất ngờ, tính lợi thế trong hoạt động biện hộ của luật sư,
ảnh hưởng tới lợi ích của khách hàng.
Trường hợp luật sư bào chữa khi không thể thu thập được chứng cứ,
tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án thì có thể nhờ cơ quan điều tra, viện
kiểm sát thu thập là quy định chưa hợp lý, nặng tính hình thức. Thực tế
hiếm khi luật sư thực hiện “quyền” này, vì “có thể” nhờ cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng thu thập nhưng không biết họ có hợp tác, thiện chí
không? phải chờ đợi bao lâu; sẽ thu thập những tài liệu, chứng cứ có liên
quan đến yêu cầu của luật sư không, … với sự bị động này nên thời gian
qua, quyền này ít được luật sư sử dụng, hiệu quả thấp.
Qua phân tích trên, tác giả thấy thay vì quy định “phải kịp thời” nên
điều chỉnh thành “có trách nhiệm giao” tài liệu chứng cứ mà luật sư thu
thập được cho cơ quan có thẩm quyền là hài hòa, hợp lý và không mang
tính áp đặt của cơ quan tố tụng đối với luật sư - người bào chữa, nêu cao
trách nhiệm phối hợp của các bên cả luật sư và cơ quan tố tụng trong hoạt
135
động thu thập tài liệu chứng cứ nhằm làm sáng tỏ vụ án. Đối với quy định
luật sư nhờ cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập tài liệu chứng
cứ nên sửa đổi, bổ sung như sau: “Trường hợp không thể thu thập được
chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa thì luật sư có thể đề
nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng cùng phối hợp thu thập” sẽ
vẫn đảm bảo tính chủ động của luật sư mà vẫn có thể nâng cao hiệu quả
của hoạt động thu thập tài liệu chứng cứ của hai bên, đồng thời tăng cường
tính hợp pháp của tài liệu, chứng cứ mà luật sư thu thập được.
+ Quyền có mặt khi lấy lời khai, hỏi cung người bị buộc tội
Quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi
cung bị can và sau khi người có thẩm quyền kết thúc lấy lời khai, hỏi cung
thì luật sư bào chữa được quyền hỏi người bị buộc tội. Trên thực tế việc luật
sư tham gia các hoạt động hỏi cung gặp không ít khó khăn. Nhiều trường
hợp, người tiến hành tố tụng thay đổi thời gian thậm chí cả địa điểm hỏi lấy
lời khai, hỏi cung, … Vì vậy, cơ quan có thẩm quyền cần sớm có văn bản
pháp luật hướng dẫn chi tiết, làm rõ quy trình, thủ tục, thời điểm thực hiện
và trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng đối với việc bảo đảm quyền
quan trọng này của luật sư bào chữa.
- Về vấn đề luật sư bào chữa vắng mặt tại phiên tòa
Theo Điều 291 BLTTHS 2015 quy định trường hợp người bào chữa
vắng mặt lần thứ nhất vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì
Tòa án phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt
người bào chữa. Nếu người bào chữa vắng mặt không vì lý do bất khả kháng
hoặc không do trở ngại khách quan hoặc được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà
vẫn vắng mặt thì Tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử.
Mặt khác, theo quy định tại Điều 77 BLTTHS 2015 thì người bị buộc tội
có quyền thay đổi người bào chữa trong quá trình tham gia tố tụng hình sự, vì
vậy đặt ra trường hợp tại phiên tòa luật sư bào chữa vắng mặt, người bị buộc
136
tội thay đổi luật sư bào chữa thì lần triệu tập sau, luật sư bào chữa mới vắng
mặt vì lý do chính đáng thì có được coi là người bào chữa vắng mặt lần 1 hay
không? Và quy định triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Tòa vẫn
mở phiên tòa xét xử liệu đã phù hợp khi không hỏi ý kiến của bị cáo hoặc luật
sư có lý do chính đáng và chưa gửi bản luận cứ bào chữa?? Theo quan điểm
của tác giả nên tăng thêm số lần người bào chữa vắng mặt hợp lệ làm căn cứ
hoãn phiên tòa là 02 lần, khi vắng đến lần thứ 3 thì bắt buộc phải gửi bản luận
cứ bào chữa để tòa tiến hành xét xử vắng mặt nếu không sẽ bị hủy tư cách bào
chữa, bảo vệ và có hình thức xử phạt hoặc đánh giá uy tín của luật sư đó. Khi
đó, vừa bảo đảm tốt hơn quyền được bào chữa của người bị buộc tội, nâng
cao trách nhiệm và thêm chế tài đối với luật sư - người bào chữa trong vụ án
hình sự.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả nhận thấy một số cụm từ
thuật ngữ pháp lý trong BLTTHS 2015 chưa quy định cụ thể, rõ ràng, gây khó
cho chủ thể khi thực hiện, như: thế nào là “kịp thời” và thời hạn là bao lâu?
Trường hợp không “kịp thời” thì có bị xử lý không? Có thì xử phạt như thế
nào? (khoản 1 Điều 5, Điều 8, Điều 20, khoản 2 Điều 81, Điều 105, Điều 107,
khoản 3 Điều 208); thế nào là “có dấu hiệu bỏ trốn”? (khoản 2 Điều 119,
khoản 1 Điều 124, khoản 2 Điều 418) và thế nào là “có dấu hiệu tiếp tục
phạm tội”? (khoản 2 Điều 119); Thế nào là “người bị bệnh nặng”? ( khoản 4
Điều 119, khoản 6 Điều 127); …Vì vậy, để thống nhất trong thực tiễn áp
dụng và đảm bảo quyền lợi của các chủ thể TTHS, bảo đảm quyền con người,
quyền công dân theo tinh thần các Nghị quyết của Đảng, quy định của Hiến
pháp 2013, tác giả đề nghị cơ quan có thẩm quyền Tòa án nhân dân tối cao,
Bộ Công an cần sớm ban hành hướng dẫn về một số quy định trên.
Trong thời kỳ hội nhập quốc tế, nước ta đã tiếp nhận có chọn lọc những
yếu tố hợp lý, tiến bộ, tích cực của mô hình tố tụng tranh tụng tạo nên mô
hình tố tụng kết hợp (thẩm vấn - tranh tụng) phù hợp với nhà nước pháp
137
quyền XHCN Việt Nam. Tuy nhiên, thời gian tới Nhà nước ta cũng cần phải
đánh giá, tổng kết mô hình tố tụng này để ngày càng hoàn thiện hơn, bảo đảm
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của cá nhân, cơ
quan, tổ chức bảo đảm thực hiện quyền, nghĩa vụ của luật sư ngày càng tốt
hơn trong HĐTTHS.
Trước tình trạng này đề nghị cơ quan tư pháp Trung ương và các bộ
ngành có liên quan thuộc diện rà soát lại nội dụng các quy phạm pháp luật
trong các văn bản pháp luật nói chung và LLS, BLTTHS 2015 nói riêng bằng
các hoạt động xin ý kiến của các chuyên gia pháp lý, đặc biệt là giới luật sư
(một trong những chủ thể được điều chỉnh) góp ý sửa đổi, bổ sung hay ban
hành mới các văn bản pháp luật cho đúng, trúng, hợp lý, thống nhất; cần sớm
đưa việc sửa đổi, bổ sung LLS vào Nghị quyết Chương trình xây dựng luật
của Quốc hội trong thời gian tới; tiếp tục xây dựng, ban hành các văn bản
dưới luật hướng dẫn thực hiện BLTTHS năm 2015 để bảo đảm quyền, nghĩa
vụ hợp pháp của luật sư, tạo điều kiện để luật sư phối hợp với các cơ quan
tiến hành tố tụng trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ
chức, cá nhân, góp phần bảo vệ công lý và bảo vệ pháp chế XHCN…
4.2.1.2. Tăng cường chế tài xử lý hành vi vi phạm quy định về quyền,
nghĩa vụ của luật sư trong hoạt động tố tụng hình sự
- Bộ luật TTHS 2015 đã bổ sung nguyên tắc mới đó là nguyên tắc tranh
tụng trong xét xử được bảo đảm (Điều 26), theo đó Tòa án đóng vai trò là cơ
quan xét xử có trách nhiệm tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào
chữa, những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ
của mình và tranh tụng dân chủ, bình đẳng trước Tòa án. Quy định là vậy
nhưng trên thực tế, rất nhiều trường hợp Kiểm sát viên không đối đáp lại quan
điểm của luật sư. Lý do Kiểm sát viên không tham gia đối đáp là do BLTTHS
năm 2015 mới chỉ quy định đối đáp là trách nhiệm, là quyền năng của Kiểm
sát viên, nhưng lại không quy định đó là nghĩa vụ. Do đó không có chế tài nào
138
cho việc vi phạm nghĩa vụ đó. Trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa, Kiểm
sát viên không đối đáp mà chỉ bảo lưu ý kiến thì đương nhiên việc tranh tụng
sẽ dừng lại ở đó. Vì vậy, cần thiết phải quy định đối đáp là trách nhiệm bắt
buộc của Kiểm sát viên (đối đáp, tranh tụng đến cùng) để nâng cao chất lượng
tranh tụng tại phiên tòa. Đối với các chủ thể tiến hành tố tụng khác cần nâng
cao thành trách nhiệm bắt buộc trong bảo đảm thực hiện quyền, nghĩa vụ của
luật sư, các chủ thể tham gia tố tụng phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình
đối với quyền, nghĩa vụ của luật sư và có chế tài xử lý nghiêm, tương xứng
với mức độ vi phạm.
- Bên cạnh đó, các quy định hiện hành đã đặt ra nghĩa vụ pháp lý tương
đối cụ thể đối với luật sư khi tham gia HĐTTHS. Tuy nhiên thực tiễn thực
hiện vẫn còn hạn chế nhất định do chế tài vẫn “lỏng lẻo”, vì vậy cần phải bổ
sung, cụ thể hóa các chế tài đối với luật sư khi vi phạm nghĩa vụ trong
HĐTTHS.
4.2.2. Nhóm giải pháp về nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cơ
quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc thực hiện quyền, nghĩa
vụ của luật sư trong hoạt động tố tụng hình sự
4.2.2.1. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng
Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải nhận thức bảo
đảm thực hiện đầy đủ quy định về quyền, nghĩa vụ của luật sư khi tham gia
HĐTTHS chính là góp phần bảo đảm sự khách quan, công bằng, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân,cơ quan, tổ chức; là một kênh giám sát
xã hội hữu hiệu đối với các hoạt động của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng ở khía cạnh tích cực góp phần cho các HĐTTHS đảm bảo đúng pháp
luật, hạn chế oan, sai. Nhận thức, trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng ảnh hướng đến hiệu quả hoạt động bào chữa, bảo vệ
quyền và lợi ích cho khách hàng của luật sư, vì vậy, cần phải nâng cao nhận
139
thức, trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng về việc
thực hiện quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS, cụ thể:
- Tăng cường bồi dưỡng thẩm phán, kiểm sát viên, cảnh sát điều tra và
người có thẩm quyền tố tụng khác về chuyên môn, nghiệp vụ, chuyên sâu,
chuyên nghiệp. Có thể đào tạo lại khi có thẩm phán, kiểm sát viên, cảnh sát
điều tra chưa đáp ứng yêu cầu về nghiệp vụ.
- Phổ biến, quán triệt sâu rộng các quy định có liên quan để hiểu đúng
và thống nhất khi thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong
HĐTTHS. Ví dụ, các đơn vị nghiệp vụ điều tra cần quán triệt, nhận thức
thống nhất về vị trí và vai trò của việc thực hiện quyền bào chữa trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự, từ đó bảo đảm các điều kiện thuận lợi để luật sư
thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình theo đúng quy định của BLTTHS và
các quy định pháp luật khác có liên quan. Thông tư số 46 quy định trách
nhiệm của lực lượng Công an nhân dân trong việc thực hiện các quy định của
BLTTHS 2015 liên quan đến bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự được ban hành, đây là
một cơ sở pháp lý quan trọng giúp luật sư thực hiện quyền và nghĩa vụ của
mình khi tham gia bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
- Cần nhìn nhận tích cực hơn về hoạt động luật sư, xem luật sư là
thành tố không thể thiếu trong hoạt động tố tụng; sự hiện diện của luật sư cần
được xem là mang tới hiệu quả tích cực cho hoạt động pháp luật.
- Thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật tố tụng, trong đó
có quy định trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm
cho luật sư được hoạt động nghề nghiệp một cách bình thường và thuận lợi.
- Cần có thái độ tôn trọng khi luật sư tham gia tố tụng, ghi nhận đầy
đủ những đóng góp của luật sư trong việc giải quyết các vụ án, vụ kiện…
Thực hiện đồng bộ nhóm giải pháp này góp phần hoàn thiện cơ chế
bảo đảm để luật sư tham gia tố tụng hình sự đầy đủ, công bằng, dân chủ theo
140
yêu cầu CCTP, đúng tinh thần các Nghị quyết của Đảng về thực hiện pháp
luật về quyền, nghĩa của luật sư trong HĐTTHS.
4.2.2.2. Nâng cao nhận thức xã hội về vai trò luật sư - người bào
chữa hay bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong TTHS
Thông qua các hình thức tuyên truyền, phố biến, giáo dục pháp luật về
hình sự kết hợp lồng, ghép các nội dung liên quan về chức năng, vai trò của
luật sư. Thực hiện theo đúng chủ trương của Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị trong việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật kết hợp bằng nhiều hình thức phong phú, sinh động
như trợ giúp pháp lý cho các đối tượng theo quy định, các chương trình phát
thanh, truyền hình về phổ biến giải đáp pháp luật, các chuyên mục hỏi đáp
pháp luật trong các tờ báo, tạp chí chuyên ngành, phổ thông có lượng người
tiếp cận lớn, hay thông qua các phiên toà xét xử lưu động các vụ án lớn, thu
hút dự luận xã hội bằng những phán quyết công minh để tuyên truyền, nâng
cao ý thức pháp luật cho cán bộ, công chức và nhân dân.
- Tăng cường chất lượng công tác trợ giúp pháp lý của luật sư, đặc biệt
là đối với các khu vực vùng sâu, vùng xa nơi nhận thức pháp luật của người
dân còn nhiều hạn chế.
- Chú trọng hiệu quả, chất lượng chuyên môn, kỹ năng tranh tụng, hình
ảnh chuyên nghiệp của luật sư trong các phiên tòa xét xử lưu động, những vụ
án lớn thu hút sự dư luận xã hội.
- Tăng cường số lượng, nâng cao chất lượng hoạt động giải đáp, tư vấn
pháp lý, tuyên truyền pháp luật trên các phương tiện thông tin đại chúng. Phát
huy hơn nữa, việc các luật sư tham gia vào việc tư vấn pháp lý miễn phí cho
người dân tại Trụ sở Tiếp công dân Trung ương với những kết quả khả quan
thời gian qua. Trang thông tin điện tử của LĐLSVN, các ĐLS cần được nâng
cao cả về nội dung, hình thức các thông tin, bài đăng liên quan đến hoạt động
của tổ chức luật sư. Tạp chí luật sư Việt Nam và trang Tạp chí luật sư Việt
141
Nam online cần thông tin đầy đủ, kịp thời những sự kiện, chuyên đề chuyên
sâu trong công tác xây dựng pháp luật, phổ biến, tuyên truyền pháp luật, cũng
như các nổi tiếng có luật sư tham gia; …
Qua đó, người dân hiểu được vai trò quan trọng của luật sư trong việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính họ, việc người dân tin tưởng tìm
đến luật sư - chuyên gia pháp lý nhiều hơn để bảo vệ quyền lợi chính đáng
của mình là góp phần bảo đảm các nguyên tắc hiến định về quyền con người
được thực thi triệt để trong đời sống xã hội, chất lượng tranh tụng tại các giai
đoạn TTHS vì thế cũng được nâng cao.
4.2.3. Nhóm giải pháp về nâng cao phẩm chất chính trị, trình độ
chuyên môn, kỹ năng, đạo đức nghề nghiệp của luật sư khi tham gia hoạt
động tố tụng hình sự
4.2.3.1. Đẩy mạnh giáo dục chính trị, tư tưởng, học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
Chú trọng thực hiện có hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng,
đạo đức nghề nghiệp, đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh, vận dụng hợp lý trong bồi dưỡng, thực hiện Quy tắc Đạo đức
và Ứng xử nghề nghiệp luật sư; tiếp tục triển khai việc quán triệt và thực hiện
các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, lần thứ XII; Nghị quyết
Trung ương 4 khoá XI, khóa XII về đảm bảo đội ngũ luật sư Việt Nam có
phẩm chất chính trị vững vàng, lập trường kiên định trước các thủ đoạn chính
trị, diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch trong nước và ở nước ngoài,
lợi dụng sức ảnh hưởng của luật sư để tuyên truyền, xuyên tạc, chống phá
Đảng và Nhà nước.
4.2.3.2. Tăng cường công tác dào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp
vụ, đạo đức ứng xử nghề nghiệp luật sư
Nâng cao hiệu quả hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, kiến
thức pháp luật, kỹ năng hành nghề, đạo đức và ứng xử nghề nghiệp. Chú
142
trọng công tác hướng dẫn bồi dưỡng, giám sát tập sự hành nghề luật sư, quản
lý chặt chẽ chất lượng tập sự hành nghề nhằm tăng cường chất lượng đầu vào
của đội ngũ luật sư; đào tạo kỹ năng quản trị, điều hành tổ chức hành nghề
luật sư.
Có chính sách nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề luật sư chất
lượng cao của Học viện Tư pháp, bồi dưỡng nghiệp vụ luật sư của Liên
đoàn Luật sư Việt Nam, các ĐLS đáp ứng yêu cầu CCTP , thu hút nguồn
nhân lực tham gia hoạt động hành nghề luật sư, chú trọng những đối tượng
được đào tạo cử nhân luật, đào tạo nghề luật sư hoặc đã được công nhận là
luật sư ở nước ngoài.
Chú trọng đầu vào của luật sư, nâng cao tiêu chuẩn luật sư, “lấy tư
tưởng chính trị, tính giai cấp được thể chế trong Hiến pháp, pháp luật là gốc
của nghề luật sư” [28].
Tự bản thân người luật sư cũng cần phải thường xuyên nghiên cứu, trau
dồi, cập nhật kịp thời về kiến thức pháp lý, thực hiện nghiêm việc tham gia
bồi dưỡng, nghiệp vụ về luật sư; trao đổi kinh nghiệm, kỹ năng về hành nghề,
tranh tụng, “văn hóa tụng đình”; không ngừng rèn luyện để nâng cao trình độ
về mọi mặt, am hiểu pháp luật, có tâm sáng, lý sắc, kinh nghiệm và lối sống
tốt, trách nhiệm với nghề cao, đáp ứng yêu cầu của TTHS mẫu tiêu biểu. Đề
cao đạo đức và ứng xử hành nghề và phải nhận thức đầy đủ trách nhiệm, chức
năng xã hội của nghề luật sư, vị trí, vai trò của mình trong HĐTTHS nhằm
góp phần bảo vệ công lý; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người bị buộc
tội, bị hại, đương sự; giúp giải quyết vụ án khách quan, đúng pháp luật.
Hiện tại các chức danh tư pháp như thẩm phán, kiểm sát viên, cảnh sát
điều tra đều đã được thành lập các trường đào tạo chuyên ngành (Học viện An
ninh nhân dân, Đại học Cảnh sát nhân dân, Học viện Tòa án, Trường Đại học
Kiểm sát Hà Nội). Đối với luật sư - một chức danh tư pháp độc lập giữ chức
năng biện hộ - nhân tố không thể thiếu trong nền tư pháp công bằng, dân chủ,
143
văn minh lại không có trường đào tạo chuyên sâu và liên thông cho riêng
mình dù đã có hơn 70 năm lịch sử hình thành và phát triển. Thực tế, theo tinh
thần các nghị quyết của Đảng, Nhà nước về CCTP trong xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam luôn quan tâm và tạo cơ chế bảo đảm cho luật
sư nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức ứng xử, trình độ chuyên môn, cụ thể
hóa bằng Chiến lược phát triển nghề luật sư 2011 được thủ tướng chính phủ
phê duyệt thì một trong các giải pháp là thành lập cơ sở đào tạo nghề luật sư
của LĐLSVN, LLS sửa đổi, bổ sung 2012 cũng quy định trách nhiệm của
Liên đoàn trong đào tạo nghề luật sư, thành lập cơ sở đào tạo nghề luật sư.
Thực hiện đường lối chủ trương trên, năm 2016 LĐLSVN đã trình Bộ Tư
pháp về Đề án thành lập Trường đào tạo Luật sư Việt Nam nhưng đến nay
chưa được phê duyệt vì thiếu một số điều kiện. Vì vậy, LĐLSVN cần khẩn
trương, tích cực tháo gỡ khó khăn và tăng cường phối hợp, thúc đẩy sự quan
tâm hỗ trợ từ Bộ Tư pháp để sớm được phê duyệt, thành lập Đề án này, góp
phần nâng cao chất lượng đội ngũ luật sư nói chung, luật sư trong HĐTTHS
nói riêng.
4.2.4. Nhóm giải pháp về nâng cao hiệu quả quản lý, giám sát đối
với hoạt động của luật sư khi tham gia tố tụng hình sự
4.2.4.1. Tăng cường phối hợp giữa Đoàn luật sư với các cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc quản lý, giám sát việc tuân thủ
pháp luật, quy tắc đạo đức ứng xử nghề nghiệp của luật sư khi tham gia tố
tụng hình sự
- Vấn đề chỉ định bào chữa: Luật sư chỉ thực hiện hoạt động bào chữa
chỉ định khi bị cáo thuộc diện phải yêu cầu người bào chữa (Điều 76
BLTTHS 2015), cơ quan tiến hành tố tụng đề nghị tổ chức xã hội nghề nghiệp
luật sư (ĐLS), ĐLS phân công tổ chức hành nghề cử luật sư thuộc tổ chức
tham gia. Hiện nay, quy trình thực hiện mới dừng ở mức thực hiện đúng thủ
tục, trình tự tố tụng chưa thật sự phát huy tinh thần của luật nhằm tăng cường
144
phối hợp trong giải quyết vụ án giữa cơ quan tiến hành tố tụng với các tổ chức
luật sư từ LĐLSVN, ĐLS và tổ chức hành nghề luật sư; giữa các cơ quan,
người tiến hành tố tụng, tổ chức luật sư với luật sư. Vì vậy, cần đẩy mạnh hơn
nữa sự phối hợp quản lý, giám sát hoạt động luật sư giữa các bên, bảo đảm
hoạt động bào chữa chỉ định của luật sư đạt hiệu quả cao, tranh tụng tại phiên
tòa đi vào thực chất, có chất lượng tốt.
- Liên đoàn Luật sư Việt Nam, các ĐLS chú trọng giải quyết khiếu nại,
tố cáo của khách hàng đối với luật sư khi tham gia TTHS; các đề nghị của cơ
quan điều tra đối với luật sư trong hoạt động hành nghề, đặc biệt khi tham gia
các vụ án hình sự; tổ chức hành nghề luật sư cũng cần quan tâm, giám sát các
luật sư thành viên trong hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý cũng như đạo
đức ứng xử khi hành nghề. Qua đó, nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý,
giám sát của các tổ chức luật sư đối với hoạt động của luật sư khi tham
gia TTHS.
4.2.4.2. Nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra của cơ quan
quản lý nhà nước đối với hoạt động tham gia tố tụng hình sự của luật sư
Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối
với hoạt động luật sư, chú trọng vào các vấn đề về nội dung hợp đồng dịch vụ
pháp lý, việc thực hiện hợp đồng, thanh toán thù lao nhằm hạn chế các sai
phạm của luật sư khi cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng, cũng như trái
với quy tắc đạo đức, ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam; kịp thời xử lý vi
phạm theo quy định. Qua đó, phát hiện sơ hở, bất cập của pháp luật, thực
trạng thực hiện pháp luật để kiến nghị hoàn thiện, góp phần bảo đảm hiệu quả
việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS.
4.2.5. Nhóm các giải pháp khác
- Nhanh chóng lắp đặt trang thiết bị đầy đủ của hệ thống ghi âm, ghi
hình có âm thanh tại các phòng lấy lời khai, hỏi cung bị can, khẩn trương
hoàn thiện tổ chức bộ máy và bố trí cán bộ thực hiện theo theo yêu cầu triển
145
khai thi hành BLTTHS 2015, các nghị quyết của Quốc hội, văn bản chỉ đạo
của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư liên tịch số 03/2018/TTLT-BCA-
VKSNDTC-TANDTC-BQP ngày 01/02/2018 hướng dẫn về trình tự, thủ tục
thực hiện ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh; sử dụng, bảo quản, lưu trữ kết
quả ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử.
Mới đây, Quyết định 1172/QĐ-TTg ngày 11/09/2019 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Đề án về cơ sở vật chất, bộ máy, cán bộ và lộ trình cụ thể thực
hiện việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi cung bị can theo quy
định của BLTTHS 2015 có lộ trình cụ thể Hoàn thành Đề án tổng thể và triển
khai đầu tư đảm bảo các điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật, tổ chức bộ máy
và bố trí cán bộ thực hiện việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi
cung bị can trong năm 2019; kể từ ngày 01/01/2020 thực hiện thống nhất ghi
âm, ghi hình có âm thanh việc hỏi cung bị can trên phạm vi toàn quốc. Nhưng
đến nay đề án vẫn chưa được triển khai trong phạm vi toàn quốc do Bộ Công
an đã xin lùi thời gian thực hiện. Việc triển khai thực hiện đề án này góp phần
quan trọng trong bảo đảm quyền con người, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của
người bị buộc tội, một phương thức hỗ trợ hiệu quả với sự có mặt luật sư tại
các buổi hỏi cung để hạn chế hiện tượng tiêu cực, bức cung, mớm cung, nhục
hình, ... trong HĐTTHS, đáp ứng yêu cầu Công ước chống tra tấn mà Việt
Nam là thành viên. Vì vậy, việc khẩn trương triển khai hoạt động ghi âm, ghi
hình có âm thanh trong hỏi cung bị can là một yêu cầu chính đáng, cấp bách
nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động tranh tụng dân chủ, hạn chế tiêu cực
trong TTHS, bảo đảm quyền lợi chính đáng của người bị tình nghi phạm tội
theo yêu cầu CCTP thời kỳ hội nhập ở nước ta hiện nay.
- Xây dựng văn hóa pháp đình XHCN, thẩm phán, kiểm sát viên, cảnh
sát điều tra, luật sư đều có “Bộ quy tắc ứng xử” khi tham gia tố tụng phải tuân
theo quy tắc đó, không có hành vi làm phương hại đến thanh danh, uy tín của
nhau, tuân thủ nội dung và trình tự xét xử tại phiên tòa, biết lắng nghe, tiếp
146
thu và xử lý thông tin một cách khách quan, khoa học đúng pháp luật để các
vụ án hình sự được giải quyết nhanh, gọn đúng pháp luật. Phát triển hình thức
xét xử rút gọn, nhân rộng việc thương lượng, hòa giải tiền tố tụng hoặc trước
tòa, áp dụng thí điểm việc thương lượng trong án hình sự ở Việt Nam, mọi vi
phạm tại phiên tòa đều được xử lý (không loại trừ thẩm phán, kiểm sát viên,
hay luật sư).
Thực hiện đồng bộ các giải pháp trên thì hoạt động thực hiện quyền,
nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS mới phát huy hiệu quả cao; quyền và lợi
ích hợp pháp của khách hàng được bảo đảm; chất lượng tranh tụng được nâng
cao, thực chất và dân chủ; góp phần bảo đảm công lý được thực thi, đáp ứng
yêu cầu CCTP trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thời kỳ hội nhập
quốc tế.
147
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4
Thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS
thời gian qua được thể hiện khái quát ở chương 3 đã góp phần bảo đảm quyền
con người, quyền lợi chính đáng của cá nhân, cơ quan, tổ chức; công lý được
thực thi; năng lực hiệu quả hoạt động của luật sư và cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành TTHS được tăng cường. Dù vậy, yêu cầu nâng cao hiệu quả,
hiệu lực của thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong
HĐTTHS là yêu cầu tất yếu trong xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam
XHCN nên cần bám sát các quan điểm: phải theo yêu cầu cải cách tư pháp
trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thời kỳ hội nhập; cần
được nhận thức là trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan; phải
gắn liền với nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm.
Từ những quan điểm nêu trên, luận án đưa ra các nhóm giải nhằm bảo
đảm thực hiện quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS ở Việt Nam hiện
nay: Nhóm giải pháp về hoàn thiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư
trong hoạt động tố tụng hình sự và chế tài đối với hành vi vi phạm; Nhóm giải
pháp về nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có
liên quan trong việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của luật sư trong hoạt động
tố tụng hình sự; Nhóm giải pháp về nâng cao phẩm chất chính trị, trình độ
chuyên môn, kỹ năng, đạo đức nghề nghiệp của luật sư khi tham gia hoạt
động tố tụng hình sự; Nhóm giải pháp về nâng cao hiệu quả quản lý, giám sát
đối với hoạt động của luật sư khi tham gia tố tụng hình sự và Nhóm các giải
pháp khác.
148
KẾT LUẬN
Thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS là
yêu cầu thiết yếu trong nền tư pháp công bằng, dân chủ, văn minh theo tinh
thần các Nghị quyết của Đảng, Nhà nước ta về CCTP và hoàn thiện thể chế
bảo đảm cho luật sư hoạt động hiệu quả trong TTHS góp phần bảo đảm quyền
con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
1. Nhằm góp phần tìm ra sự thật khách quan của vụ án hình sự, công lý
được thực thi hiệu quả đồng thời bảo đảm quyền con người, bảo vệ tốt nhất
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức là yêu cầu rất quan
trọng của việc thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong
HĐTTHS một cách triệt để, toàn diện và đồng bộ giữa luật sư và cơ quan, tổ
chức, cá nhân có liên quan.
2. Trên cơ sở lý luận nhà nước và pháp luật, khoa học pháp lý có liên
quan cùng phân tích, đánh giá đưa ra khái niệm Thực hiện pháp luật về quyền,
nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS là hành vi thực tế hợp pháp của luật sư
và các chủ thể nhằm hiện thực hóa các quy định của pháp luật về quyền, nghĩa
vụ của luật sư với tư cách người bào chữa cho người bị buộc tội hoặc người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại, đương sự trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự. Qua đó, luận giải được 05 đặc điểm và 05 vai trò của
thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS.
Luật sư là người tham gia TTHS với tư cách người bào chữa, người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Vì vậy, luật sư thực hiện pháp luật về quyền,
nghĩa vụ trong HĐTTHS thông qua 03 hình thức (tuân thủ, thi hành và sử
dụng); cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể thực hiện
pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS theo hình thức áp
dụng pháp luật. Hiệu quả của thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật
sư trong HĐTTHS chịu sự tác động của một số yếu tố cơ bản về: chính trị,
149
kinh tế, xã hội; hệ thống pháp luật hình sự; quan điểm, thái độ của người tiến
hành tố tụng và người tham gia tố tụng; nhận thức và năng lực thực hiện
quyền, nghĩa vụ của luật sư và các yếu tố khác.
3. Thực trạng pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luận sư trong HĐTTHS
đã khái quát hóa quá trình hình thành và phát triển pháp luật về quyền, nghĩa
vụ của luật sư trong HĐTTHS; phân tích ưu điểm, tồn tại và nguyên nhân của
ưu điểm, tồn tại. Qua đó, làm cơ sở luận giải nguyên nhân thực trạng thực
hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS với những ưu
điểm, tồn tại được phân tích chi tiết theo các mối quan hệ với chủ thể liên quan,
hình thức thực hiện pháp luật cùng dẫn chứng số liệu, bảng biểu và các ví dụ
minh họa về các vụ án thực tế, sinh động. Vì vậy, luận án đã góp phần làm rõ,
cụ thể và đầy đủ hơn về thực trạng thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của
luật sư trong HĐTTHS ở Việt Nam hiện nay.
4. Yêu cầu nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ
của luật sư trong HĐTTHS là tất yếu trong xây dựng nhà nước pháp quyền
Việt Nam XHCN nên thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư
trong HĐTTHS cần bám sát các quan điểm: phải theo yêu cầu cải cách tư
pháp trong xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thời
kỳ hội nhập; cần được nhận thức là trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân
liên quan và phải gắn liền với nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo
đảm. Một số nhóm giải pháp bảo đảm tăng cường thực hiện pháp luật về
quyền, nghĩ vụ của luật sư trong hoạt động tố tụng như sau: Hoàn thiện pháp
luật và chế tài đối với hành vi vi phạm về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong
HĐTTHS; Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có
liên quan trong việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của luật sư trong HĐTTHS;
nâng cao phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn, kỹ năng, đạo đức nghề
nghiệp của luật sư khi tham gia HĐTTHS; Nâng cao hiệu quả quản lý, giám
sát đối với hoạt động của luật sư khi tham gia tố tụng hình sự.
150
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Lê Minh Đức (2019), “Quyền, nghĩa vụ của luật sư trong tố tụng hình
sự - một số bất cập và đề xuất”, Tạp chí Quản lý Nhà nước, (286), tr.
55-58.
2. Lê Minh Đức (2019), “Phát huy vai trò của luật sư trong giai đoạn xét
xử vụ án hình sự”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 17 (393), tr. 53-
57.
3. Lê Minh Đức (2019), “Bảo đảm quyền và nghĩa vụ của “luật sư bào
chữa” trong hoạt động tố tụng hình sự”, Tạp chí Pháp lý, số đầu tháng
10, tr. 27-31.
4. Lê Minh Đức (2019), “Đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư
trong tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Giáo dục Lý luận,
(297), tr. 43-50.
151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Bí thư (2009), Chỉ thị số 33-CT/TW, Tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với tổ chức và hoạt động của Luật sư, Hà Nội.
2. Ban Bí thư TW Đảng (2019), Báo cáo của Ban chỉ đạo cấp Trung ương
tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị 33, tr.5, Hà Nội.
3. Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Nghị
quyết số 03-NQ/HNTW phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục
xây dựng Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch,
vững mạnh, Hà Nội.
4. Bắc Bình (2019), Luật sư lãnh án 12 năm tù vì chiếm đoạt tiền của thân
chủ, tại trang https://thanhnien.vn/thoi-su/luat-su-lanh-an-12-nam-tu-vi-
chiem-doat-tien-cua-than-chu-1152952.html, [truy cập ngày
28/11/2019].
5. Bộ Công an (2011), Thông tư 70/2011/TT-BCA hướng dẫn quy định
của Bộ Luật tố tụng hình sự liên quan đến việc bảo đảm quyền bào
chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, Hà Nội.
6. Bộ trưởng Bộ Công an - Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao -
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (2018),
Thông tư liên tịch 03/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP
hướng dẫn về trình tự, thủ tục thực hiện ghi âm hoặc ghi hình có âm
thanh; sử dụng, bảo quản, lưu trữ kết quả ghi âm hoặc ghi hình có âm
thanh trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, Hà Nội.
7. Bộ Tư pháp (1989), Thông tư 313-TT/LS Hướng dẫn thi hành Quy chế
ĐLS, Điểm 4 Mục II, Hà Nội.
8. Bộ Tư pháp (2012), Báo cáo số 46/BC-BTP ngày 06/3/2012 về tổng kết
5 năm thi hành LLS, Hà Nội.
9. Chính phủ (2001), Nghị định số 94/2001/NĐ-CP Quy định chi tiết thi
152
hành Pháp lệnh Luật sư, Điều 1, Hà Nội.
10. Chính phủ (2011), Quyết định số 1072/2011/QĐ-TTg ngày 05/7/2011
của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược phát triển nghề luật sư
đến năm 2020, Hà Nội.
11. Chính phủ (2013), Nghị định 123/2013/NĐ-CP Quy định chi tiết một
số điều và biện pháp thi hành Luật Luật sư, Hà Nội.
12. Christoph Saffeling (2003), Toward an international criminal
procedure, Oxford University Press, 1st edit.
13. Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) và Liên đoàn Luật sư
Việt Nam (VBF) (2011), “Báo cáo Nghiên cứu Quyền bào chữa trong
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam - UNDP Việt Nam 2010”, TP Hồ
Chí Minh.
14. Cộng hòa Liên bang Đức (1987), Bộ luật Tố tụng hình sự, Đức.
15. Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1946), Hiến pháp, Hà Nội.
16. Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1959), Hiến pháp, Hà Nội.
17. Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1980), Hiến pháp, Hà Nội.
18. Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Hiến pháp, Hà Nội.
19. Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Viêt Nam (2013), Hiến pháp, Hà Nội.
20. Nguyễn Sĩ Dũng và ThS. Hoàng Minh Hiếu (2010), Việc tổ chức thực
hiện pháp luật trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước
ta, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 13, trang 11-14, Hà Nội.
21. Nguyễn Ngọc Duy (2013), “Kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự
và chỉ dẫn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự - dành cho thẩm phán,
thẩm tra viên, hội thẩm, kiểm tra viên, luật sư, các học viên tư pháp”,
Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
22. Duma Quốc gia Liên Bang Nga (2001), Bộ luật Tố tụng Hình sự,
Nga
23. Dylan Thomson von Brendel (2017), The Truth About Being a
153
Criminal Defense Attorney, Hoa Kỳ.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư
pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày
24/5/2005 của Bộ Chính trị về vhiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020,
Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2019), Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện
Chỉ thị của Ban Bí thư TW Đảng của Ban chỉ đạo cấp Trung ương tổng
kết 10 năm 2009-2019 thực hiện Chỉ thị 33, Hà Nội.
29. Đảng đoàn Liên đoàn Luật sư Việt Nam (2019), Báo cáo tổng kết 10
năm thực hiện Chỉ thị số 33 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của luật sư,
Hà Nội.
30. Nguyễn Minh Đoan(2010), Thực hiện và áp dụng pháp luật ở Việt
Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Đoàn luật sư Hoa Kỳ, Defense function, tại trang
https://www.americanbar.org /americanJusticesection archive, Hoa Kỳ,
[truy cập ngày 12/3/2019].
32. Lê Minh Đức (2019), Phỏng vấn chuyên sâu liên quan đến đề tài luận
án, Việt Nam.
33. European Union Agency for Fundamental Rights (2019), Rights in
154
practice: access to a lawyer and procedural rights in criminal and
European arrest warrant proceedings, Áo.
34. H.Giang (2012), Thu thập chứng cứ gỡ tội: Có luật cũng… chưa làm
được!, tại trang http://moj.gov.vn, [truy cập ngày 04/4/2012].
35. Trương Thị Hồng Hà (2009), Vai trò của luật sư trong hoạt động tranh
tụng, Nxb Chính trị - hành chính, Hà Nội.
36. Nguyễn Văn Hiển (2011), Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự
Việt Nam-Những vấn đề lý luận và thực tiễn, luận án tiến sĩ, Trường
Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
37. Nguyễn Thị Hiền (2012), Cơ sở lý luận và thực tiễn của nguyên tắc
tranh tụng trong tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ,
Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
38. Trương Minh Hiếu (2018), Bào chữa chỉ định theo pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam cho người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn thành
phố Hồ Chí Minh, luận văn thạc sĩ, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt
Nam, Hà Nội.
39. Tô Văn Hòa (2012), Những mô hình Tố tụng hình sự điển hình trên thế
giới, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội sản phẩm của chương trình đối tác tư
pháp giữa Bộ Tư pháp Nước CHXNCN Việt Nam với Liên minh Châu
Âu.
40. Phan Trung Hoài (2003), Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật
về luật sư ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
41. Phan Trung Hoài (2019), Quyền gặp, làm việc của luật sư với người bị
tạm giữ, tạm giam trong giai đoạn điều tra, tại trang
https://coquandieutravkstc.gov.vn/quyen-gap-lam-viec-cua-luat-su-voi-
nguoi-bi-tam-giu-tam-giam-trong-giai-doan-dieu-tra/, [truy cập ngày
12/10/2019].
155
42. Nguyễn Thị Hồi chủ biên (2009), Áp dụng pháp luật ở Việt Nam hiện
nay - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Tư pháp, Hà Nội.
43. Ninh Hồng, Tôn Lợi (2003), đăng trên Tạp chí tư pháp Trung quốc số
3/2003.
44. Nguyễn Mạnh Hùng (2012), Các chức năng trong Tố tụng hình sự ở
Việt Nam, những vấn đề lý luận và thực tiễn, luận án tiến sĩ, Học viện
Khoa học xã hội, Hà Nội.
45. Ian Brownlie (2010), Brownlie’s document on human rights, OUP
Oxford, 6th edit, Anh.
46. JamesB. Jacobs, Warren.E.Burger, (2001), Quá trình phát triển luật
hình sự ở Hoa Kỳ, tạp chí điện tử của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ, Hoa Kỳ.
47. Jay Norton, (2015), The Art of War for the Criminal Defense Attorney,
Hoa Kỳ, Nhà xuất bản Word Assn Pub.
48. Nguyễn Ngọc Khánh, (2004), Vai trò của Luật sư bào chữa trong tố
tụng hình sự theo mô hình tranh tụng ở một số nước, Hà Nội, tạp chí
Kiểm sát- số 3/2004, tr. 50-55
49. Liên đoàn luật sư Việt Nam (2010), Báo cáo tình hình tổ chức và hoạt
động năm 2010, Hà Nội.
50. Liên đoàn luật sư Việt Nam (2011), Báo cáo tình hình tổ chức và hoạt
động năm 2011, Hà Nội.
51. Liên đoàn luật sư Việt Nam (2012), Báo cáo tình hình tổ chức và hoạt
động năm 2012, Hà Nội.
52. Liên đoàn luật sư Việt Nam (2013), Báo cáo tình hình tổ chức và hoạt
động năm 2013, Hà Nội.
53. Liên đoàn luật sư Việt Nam (2014), Báo cáo tình hình tổ chức và hoạt
động năm 2014, Hà Nội.
54. Liên đoàn luật sư Việt Nam (2015), Báo cáo tình hình tổ chức và hoạt
động năm 2015, Hà Nội.
156
55. Liên đoàn luật sư Việt Nam (2016), Báo cáo tình hình tổ chức và hoạt
động năm 2016, Hà Nội.
56. Liên đoàn luật sư Việt Nam (2017), Báo cáo tình hình tổ chức và hoạt
động năm 2017, Hà Nội
57. Liên đoàn luật sư Việt Nam (2018), Báo cáo tình hình tổ chức và hoạt
động năm 2018, Hà Nội.
58. Liên đoàn luật sư Việt Nam (2019), Báo cáo tình hình tổ chức và hoạt
động năm 2019, Hà Nội.
59. Liên đoàn Luật sư Việt Nam và tổ chức JICA pháp luật thực hiện
(2017), Sổ Tay Luật Sư, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.
60. Liên Hợp Quốc (1990), Basic principles on the role of lawyers, Đại
hội đồng lần thứ VIII của Liên Hợp Quốc về phòng chống tội phạm và
đối xử với người phạm tội, tại Havana - Cu Ba ngày 27/8 đến 7/9/1990,
tại trang
https://www.unodc.org/pdf/criminal_justice/UN_Basic_Principles_on_t
he_Role_of_Lawyers.pdf, [truy cập ngày 20/6/2018].
61. Liên hợp quốc, (2010), Nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của hệ
thống tư pháp Trung Quốc, Indonesia, Nhật Bản, Hành Quốc và Nga,
Hoa Kỳ.
62. Liên hợp quốc, (1989), International Covenant on Civil and Political
Rights, Hoa Kỳ.
63. Hà Linh (2019), Luật sư “chạy án” vụ VN Pharma giá 10 tỷ đồng
được giảm án, tại trang https://tinnhanhchungkhoan.vn/phap-dinh/luat-
su-chay-an-vu-vn-pharma-gia-10-ty-dong-duoc-giam-an-271177.html,
[truy cập ngày 03/7/2019].
64. Tâm Lụa (2019), Vụ buôn thuốc giả tại VN Pharma: 10 tỉ 'hoa hồng'
chạy án, tại trang https://tuoitre.vn/vu-buon-thuoc-gia-tai-vn-pharma-
10-ti-hoa-hong-chay-an-20190704185604977.htm, [truy cập ngày
157
12/7/2019].
65. Phan Trung Lý (2009), Bảo đảm thi hành pháp luật ở địa phương -
khó khăn, thuận lợi và giải pháp, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số tháng
4, trang 12-17 Hà Nội;
66. Tạ Thị Minh Lý (2011), Bàn về tổ chức thực hiện pháp luật, Tạp chí
Nghiên cứu Lập pháp, số 2+3, trang 15-18, Hà Nội;
67. Nguyễn Văn Mạnh (2010), Thực hiện pháp luật - những vấn đề lý luận
và thực tiễn, Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
68. Nhẫn Nam (2017), Tòa đề nghị xem xét luật sư vì ‘vu khống tòa’, tại
trang https://plo.vn/phap-luat/toa-de-nghi-xem-xet-luat-su-vi-vu-
khong-toa-730279.html, [truy cập ngày 15/3/2018].
69. Hoàng Nhan (2016), Đại án Phạm Công Danh: Lo ngại về các rủi ro
không thể dự đoán, tại trang https://cafef.vn/dai-an-pham-cong-danh-
lo-ngai-ve-cac-rui-ro-khong-the-du-doan-20161223114632216.chn,
[truy cập ngày 20/12/2018].
70. Ngọ Văn Nhân (2012), Xã hội học pháp luật (Tái bản lần thứ nhất, có
chỉnh sửa, bổ sung), Nxb. Hồng Đức, Hà Nội.
71. Nữ hoàng Anh, Vương quốc Anh (1996), Luật Điều tra và Tố tụng
hình sự, Anh
72. Param Cumarawamy & Manfred Nowak (2009), the human rights in
criminal justice systems, Cuộc họp thông tin Châu Á Châu Âu lần thứ
9, Pháp.
73. Paul Bergman và Sara J. Berman, 2018, The criminal law handbook -
Know your right, Survive theo System, Nhà xuất bản Nolo, Hoa Kỳ.
74. Philip L.Reichel (2012), Comparative Criminal Justice Systems, tái
bản lần thứ 6, 2012, Colorado, New Hampshire (bản dịch tiếng Việt -
Viện nghiên cứu Khoa học Pháp lý), Việt Nam.
75. Nguyễn Trọng Phúc (2010), Chế định các biện pháp ngăn chặn theo
158
luật TTHS Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Khoa Luật - Đại học Quốc gia,
Hà Nội.
76. Bùi Thị Chinh Phương (2016), Vai trò của Luật sư trong hoạt động tố
tụng theo quy định của Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015, tạp chí Dân
chủ và pháp luật, Số 289, tr.13-16.
77. Quốc hội Cộng hòa Ý (1947), Hiến pháp, Ý
78. Quốc hội (1988), Bộ luật Tố tụng hình sự, Hà Nội.
79. Quốc hội (1999), Bộ luật Hình sự, Hà Nội.
80. Quốc hội (2002), Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Hà Nội.
81. Quốc hội (2003), Bộ luật Tố tụng hình sự, Hà Nội.
82. Quốc hội (2006), Luật Luật sư, Hà Nội.
83. Quốc hội (2009), Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.
84. Quốc hội (2012), Luật Luật sư (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.
85. Quốc hội (2012), Nghị quyết số 37/2012/QH13 ngày 23/11/2012 về
công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của
Viện kiểm sát nhân dân, của Tòa án nhân dân và công tác thi hành án
năm 2013, Hà Nội.
86. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.
87. Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự, Hà Nội.
88. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng hình sự, Hà Nội.
89. Richard A. Zitrin , Carol M. Langford (2011), “The Moral Compass
of the American Lawyer: Truth, Justice, Power, and Greed”, Nxb
Ballantine Books, Hoa Kỳ
90. Roberta K.flowers (2010), The role of the defense attorney: not just an
advocate, Tạp chí Luật Hình sự Tiểu bang Ohio, tập 7, tr.647
91. Roy Black (2000), Black's Law: A Criminal Lawyer Reveals His
Defense Strategies in Four Cliffhanger Cases Paperback, Nxb Simon
& Schuster, Hoa Kỳ
159
92. S. Shavell (2017), Specific versus general Economic Enfercement of
Law, tại trang
http://papers.ssrn.com/5013/paper.cfmabstractact_id=851689, Shavell,
Đại học Havard, [truy cập ngày 10/3/2018].
93. Hoàng Thị Sơn (2003), Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo
trong tố tụng hình sự, Luận án tiến sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội.
94. Nguyễn Văn Thảo (2005), “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn
thiện pháp luật về tổ chức luật sư và hành nghề luật sư trong điều kiện
ở Việt Nam hiện nay”, Đề tài Bộ Tư pháp, Hà Nội
95. Thủ tướng Chính phủ ban hành (2019), Quyết định 1172/QĐ-TTg phê
duyệt Đề án về cơ sở vật chất, bộ máy, cán bộ và lộ trình cụ thể thực
hiện việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi cung bị can theo
quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hà Nội
96. Phan Hữu Thư (2009), “Phương pháp đào tạo các chức danh tư pháp
đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, Học viện Tư pháp, Bộ Tư pháp, Hà
Nội
97. Thư viện pháp luật (2018), thuật ngữ Nghĩa vụ , tại trang
https://thuvienphapluat.vn/tnpl/2854/Nghia-vu?tab=0)_ nguồn: Bộ luật
dân sự 2015, [truy cập ngày 20/3/2018].
98. Thư viện pháp luật (2018), thuật ngữ Quyền, tại trang
https://thuvienphapluat.vn/tnpl/976/Quyen?tab=0, [truy cập ngày
18/3/2018].
99. Lê Đức Tiết (2019), Nghề luật sư - Nghề cao quý nhưng nhiều khó
khăn, thử thách, tạp chí luật sư Việt Nam, số tháng 10, Hà Nội
100. Tòa án nhân dân Tối cao (2012), Báo cáo số 20/BC-TA ngày
15/8/2012, Hà Nội.
101. Tòa án nhân dân tối cao (2017), Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC
ngày 28/ 7/ 2017 quy định về phòng xử án, Hà Nội.
160
102. Tòa án nhân dân tối cao (2017), Báo cáo của Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao về công tác của các Tòa án năm 2017, Hà Nội.
103. Tòa án nhân dân tối cao (2018), Báo cáo của Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao về công tác của các Tòa án năm 2018, Hà Nội.
104. Tòa án nhân dân tối cao (2019), Báo cáo của Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao về công tác của các Tòa án năm 2019, Hà Nội.
105. Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Giáo trình Lý luận Nhà nước và
pháp luật (tái bản lần thứ 1 có sửa chữa, bổ sung), Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
106. Nguyễn Văn Tuân (2001), Vai trò của Luật sư trong tố tụng hình sự,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
107. Nguyễn Văn Tuân (2002), Về sự tham gia của luật sư trong tố tụng
hình sự, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Số 8/2002, tr.13-15.
108. Nguyễn Văn Tuân (2004), Luật sư và vấn đề đạo đức nghề nghiệp,
Hà Nội, Nxb. Chính trị quốc gia, 347tr.
109. Nguyễn Văn Tuân (2005), “Dịch vụ pháp lý ở Việt Nam: Thực trạng,
nhu cầu và định hướng phát triển”, Bộ Tư pháp, Hà Nội
110. Thanh Tùng (2013), Làm khó luật sư - Bài 1: “Hành” từ khâu cấp
giấy chứng nhận, tại trang https://plo.vn/plo/lam-kho-luat-su-bai-1-
hanh-tu-khau-cap-giay-chung-nhan-334789.html, [truy cập ngày
15/8/2018].
111. Từ điển Soha (2018), thuật ngữ Nghĩa vụ, tại trang
https://tratu.soha.vn/dict/vn_vn/Ngh%C4%A9a_v%E1%BB%A5,
[truy cập ngày 20/3/2018].
112. Từ điển Soha (2018), thuật ngữ Quyền, tại trang
https://tratu.soha.vn/dict/vn_vn/Quy%E1%BB%81n, [truy cập ngày
15/3/2018].
113. Từ điển Wikipedia (2018), thuật ngữ Quyền, tại trang
161
https://vi.wikipedia.org/wiki/Quy%E1%BB%81n, [truy cập ngày
15/3/2018].
114. Đào Trí Úc (2005), Xã hội học thực hiện pháp luật - những khia cạnh
nhận thức cơ bản, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 02, trang 27-31,
Hà Nội.
115. Đào Trí Úc (2011), Thực hiện pháp luật và cơ chế thực hiện pháp
luật, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 7, trang 19-24, Hà Nội.
116. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2001), Pháp lệnh Luật sư, Hà Nội.
117. Ủy ban Tư pháp Quốc hội (2017), Báo cáo của UBTP Quốc hội khóa
14 về Thẩm tra các báo cáo của Chính phủ về công tác phòng ngừa,
chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác thi hành án; báo cáo
công tác của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao năm 2017, Hà Nội.
118. Ủy ban Tư pháp Quốc hội (2018), Báo cáo của UBTP Quốc hội khóa
14 về Thẩm tra các báo cáo của Chính phủ về công tác phòng ngừa,
chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác thi hành án; báo cáo
công tác của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao năm 2018, Hà Nội.
119. Ủy ban Tư pháp Quốc hội (2019), Báo cáo của UBTP Quốc hội khóa
14 về Thẩm tra các báo cáo của Chính phủ về công tác phòng ngừa,
chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác thi hành án; báo cáo
công tác của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao năm 2019, Hà Nội.
120. Ngô Thị Ngọc Vân (2016), Hoạt động bào chữa của luật sư trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Luận án tiến sĩ luật, Trường
Đại học Luật Hà Nội,
121. Văn phòng luật sư NHQuang & Cộng sự (2010), “Khảo sát Luật sư
chỉ định theo pháp luật tố tụng hình sự và thực tiễn tại Việt Nam”,
162
Việt Nam.
122. Văn phòng Quốc hội (2015), văn bản hợp nhất số 03/VBHN-VPQH
về hợp nhất LLS, Hà Nội.
123. Viện Khoa học kiểm sát (2002), Bộ luật tố tụng Cộng hòa Pháp, (Tài
liệu dịch tham khảo), Hà Nội.
124. Viện Khoa học kiểm sát (2002), Bộ luật Tố tụng hình sự Liên bang
Nga, (Tài liệu dịch tham khảo), Hà Nội.
125. Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển bách
khoa và Nxb Tư pháp, Hà Nội.
126. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2019), Báo cáo công tác của Viện
trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao năm 2019, Hà Nội.
127. Viện Ngôn ngữ học (2000),Từ điển Tiếng Việt, NXB Thanh Niên, Hà
Nội.
128. Trịnh Tiến Việt - Trần Thị Hồng Lê (2016), "Luật sư bào chữa trong
phiên tòa sơ thẩm hình sự: Một số vấn đề lý luận, thực tiễn và những
kiến nghị", Dân chủ và pháp luật, (Số chuyên đề Tổ chức và hoạt
động của Luật sư), tr. 117-131.
129. William Burnham (2015), “Law and legal system of the Russian
Federation”, Liên Bang Nga.
130. Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1998), Đại Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn
hóa thông tin, Hà Nội.
MẪU PHIẾU PHỎNG VẤN CHUYÊN SÂU
Người phỏng vấn: LÊ MINH ĐỨC – NCS K32 LUẬT HV CTQG HCM
Người được phỏng vấn: ………………………………………………………..
Chức vụ, đơn vị công tác: ……………………………………………………..
Phỏng vấn này trong khuôn khổ luận án “Thực hiện pháp luật về quyền,
nghĩa vụ của luật sư trong hoạt động tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay”
Lời đầu tiên xin cảm ơn ông/bà đã bớt chút thời gian cho cuộc phỏng vấn, những chia sẻ của ông/bà là nguồn thông tin rất hữu ích đối với đề tài nghiên cứu của tôi.
Câu 1. Ông/Bà có thể chia sẻ lý do lựa chọn nghề luật sư và ấn tượng về vụ án hình sự nào nhất khi tham gia bào chữa/bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp? vì sao?
……………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………………………………
Câu 2.Theo Ông/Bà quy định pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư khi
tham gia tố tụng hình sự (TTHS) hiện nay như thế nào? (ưu điểm và hạn chế)
……………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………
Câu 3. Ông/Bà đánh giá thế nào về quyền, nghĩa vụ của luật sư so với người
bào chữa/người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp khác trong vụ án hình sự?
……………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………
Câu 4. Khi thực hiện quyền, nghĩa vụ của luật sư trong hoạt động TTHS
Ông/Bà gặp những khó khăn gì? Đâu là rào cản lớn nhất và tại sao?
……………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
Câu 5. Ông/Bà đánh giá như thế nào về mối quan hệ giữa luật sư với chủ thể tiến hành tố tụng; luật sư đồng nghiệp và chủ thể tham gia tố tụng khác trong hoạt động TTHS hiện nay?
……………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………
Câu 6. Theo Ông/Bà các hình thức thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư được vận dụng như thế nào trong mối quan hệ với các chủ thể có liên quan khi tham gia TTHS?
……………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
Câu 7. Theo Ông/Bà để bảo đảm thực hiện quyền, nghĩa vụ của luật sư
trong hoạt động TTHS thì cần những giải pháp gì?
……………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
Trân trọng cám ơn những chia sẻ quý báu của Ông/Bà dành cho cuộc phỏng
vấn này!
Hà Nội, ngày tháng năm 20…
Người phỏng vấn
Người được phỏng vấn
(Ký, ghi rõ họ tên)
(Ký, ghi rõ họ tên)
TỔNG HỢP PHỎNG VẤN CHUYÊN SÂU
Người phỏng vấn: LÊ MINH ĐỨC NCS K32 LUẬT HVCTQG HCM
Người được phỏng vấn:
Chức vụ, đơn vị công tác:
Phỏng vấn này trong khuôn khổ luận án “Thực hiện pháp luật về quyền,
nghĩa vụ của luật sư trong hoạt động tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay”
Lời đầu tiên xin cảm ơn ông/bà đã bớt chút thời gian cho cuộc phỏng vấn,
những chia sẻ của ông/bà là nguồn thông tin rất hữu ích đối với đề tài nghiên cứu
của tôi.
Câu 1. Ông/Bà có thể chia sẻ lý do lựa chọn nghề luật sư và ấn tượng về
vụ án hình sự nào nhất khi tham gia bào chữa/bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp? vì sao?
* Lý do chọn nghề:
- Nghề đẹp - cao quý, sâu rộng về chuyên môn nghiệp vụ, góp phần bảo vệ
công lý, xây dựng nhà nước pháp quyền;
- Nghề tự do, hoạt động tương đối độc lập, chịu trách nhiệm cá nhân qua đó
phát huy sở trường và khả năng sáng tạo của luật sư;
- Có vị trí, vai trò quan trọng trong một xã hội dân chủ, công bằng và phát
triển; gắn liền với sự phát triển của hệ thống pháp luật, đất nước;
- Sự mạo hiểm và nắm bắt thời cơ, làn gió mới “luật sư”; từ cái duyên, cái tâm
với nghề mà còn do nhu cầu của xã hội;
* Vụ án hình sự ấn tượng:
Có nhiều vụ án hình sự mà các chuyên gia đã nêu ra nhưng nhìn chung đều là
những vụ án lớn – nổi tiếng, khung hình phạt cao (chung thân, tử hình), tình tiết ly
kỳ, nhiều uẩn khúc và đa phần là với tư cách người bào chữa là chính, với việc vận
dụng toàn bộ các kỹ năng, kiến thức chuyên môn để nghiên cứu, thu thập, đánh giá
chứng cứ của người được phỏng vấn cùng các luật sư đồng nghiệp và sự phối hợp
với cơ quan tiến hành tố tụng nhằm bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của
khách hàng thì kết quả đều được giảm án hay được tòa tuyên vô tội, có thể kể ra
một số vụ án sau:
Vụ án giết người xảy ra năm 2000 tại TP. HCM mà nạn nhân là Ngũ Lương và
bị cáo là Den Chai Nuntipanich – doanh nhân Thái Lan đầu tư vào Việt Nam; Vụ án
“Cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng
xảy ra tại ngân hàng thương mại CP XD Việt Nam (VNCB)”, luật sư tham gia với
tư cách bào chữa cho bị cáo Phạm Công Danh – một vụ án lớn về số lượng bị cáo,
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, về quy mô phạm tội, về thiệt hại và cả số
lượng luật sư tham gia bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp và lớn cả về
những bất cập của quy định pháp luật và cách thức quản lý của nhà nước; Vụ án xét
xử Nguyễn Đức Kiên và các đồng phạm năm 2011– vụ án phức tạp với nhiều tội
danh, việc đánh giá chứng cứ, áp dụng pháp luật chưa được thống nhất và tốn nhiều
giấy mực của báo chí thời điểm đó; vụ án “Buôn lậu, nhận hối lộ” với giá trị hơn
1.100 tỷ đồng xảy ra tại công ty TNHH TM Tân Trường Sanh với số bị cáo, luật sư
đông hàng trăm người; …
Câu 2.Theo Ông/Bà quy định pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư
khi tham gia tố tụng hình sự (TTHS) hiện nay như thế nào? (ưu điểm và hạn
chế)
Các chuyên gia/ luật sư được phỏng vấn đều đánh giá Bộ luật TTHS 2015 có
nhiều điểm mới tiến bộ, phù hợp với sự phát triển của xã hội so với Bộ luật TTHS
2003, gồm cả các quy định về quyền, nghĩa vụ của luật sư với tư cách là người bào
chữa hay người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng được bổ sung
nhiều hơn tạo điều kiện cho luật sư có thể thực hiện tốt hơn khả năng của mình như:
thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng, lựa chọn người bào chữa, chỉ định
người bào chữa, thủ tục đăng ký bào chữa, hay quy định nghĩa vụ không được tiết lộ
thông tin về vụ án, về người bị buộc tội mà mình biết khi bào chữa, trừ trường hợp
người này đồng ý bằng văn bản và không được sử dụng thông tin đó vào mục đích
xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của
cơ quan, tổ chức, cá nhân;…
Tuy nhiên, quy định pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư khi tham gia tố
tụng hình sự còn một số hạn chế, vì giữa lý luận và thực tiễn vẫn còn khoảng cách
lớn nên luật sư chưa thực hiện đầy đủ các quyền của mình; thủ tục đăng ký bào
chữa theo Điều 78 Bộ luật TTHS 2015 vẫn còn rào cản đối với luật sư; vẫn còn mâu
thuẫn, chưa rõ ràng liên quan đến việc tố giác tội phạm của luật sư đối với người mà
mình bào chữa; …
Câu 3. Ông/Bà đánh giá thế nào về quyền, nghĩa vụ của luật sư so với
người bào chữa/người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp khác trong vụ án hình
sự?
Có ưu thế vượt trội, chuyên nghiệp, phạm vi hoạt động rộng và hiệu quả hơn
so với chủ thể bào chữa/ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp khác (người đại diện của
người bị buộc tội, trợ giúp viên pháp lý, bào chữa viên nhân dân).
Cũng giống như BLTTHS 2003, BLTTHS 2015 dường như cũng không có sự
phân biệt về quyền hạn và nghĩa vụ giữa luật sư , trợ giúp viên pháp lý, bào chữa
viên nhân dân, người đại diện của người bị buộc tội, bị hại, đương sự. Tuy nhiên,
trên thực tế triển khai công tác tham gia hỗ trợ tư pháp của người bào chữa trong
các vụ án hình sự, luật sư luôn được đánh giá cao hơn trong việc khai thác triệt để
các quyền và nghĩa vụ của người bào chữa hay người bảo vệ được quy định so với
diện người bào chữa/ người bảo vệ khác. Lý do, bởi luật sư là người phải đáp ứng
các điều kiện theo quy định của pháp luật, qua đào tạo, có chứng chỉ hành nghề luật
sư; là một nghề cung cấp dịch vụ pháp lý có trả phí từ người sử dụng dịch vụ, có cơ
quan, tổ chức xã hội nghề nghiệp trực tiếp quản lý và Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử
nghề nghiệp riêng trong quá trình hoạt động.
Câu 4. Khi thực hiện quyền, nghĩa vụ của luật sư trong hoạt động TTHS
Ông/Bà gặp những khó khăn gì? Đâu là rào cản lớn nhất và tại sao?
- Việc thông báo đăng ký người bào chữa đối với luật sư chưa đúng thời hạn
quy định theo luật (trong vòng 24 giờ); thường không được thông báo kịp thời về
ngày giờ địa điểm tham dự hỏi cung hoặc thậm chí không được thông báo; còn bị
rào cản trong tiếp cận thông tin, hồ sơ, người bị buộc tội từ phía cơ quan, người tiến
hành tố tụng và do quy định pháp luật chưa cụ thể, rõ ràng dẫn đến cách hiểu khác
nhau; chưa có quy định thống nhất khi luật sư gặp bị can, bị cáo trong trại tạm giam
thì được gặp riêng hay gặp với sự có mặt của giám thị trại giam; việc thu thập
chứng cứ độc lập của luật sư vẫn gặp phải vô vàn khó khăn;
- Thời gian tranh luận thường bị hạn chế; ý kiến tranh tụng của luật sư vẫn
chưa được cơ quan, người tiến hành tố tụng coi trọng đúng mức mặc dù luật sư có
chỗ ngồi ngang bằng, là đối trọng với đại diện viện kiểm sát (bên công tố);
- Thiếu chế tài đủ mạnh để buộc cơ quan tiến hành tố tụng phải thực hiện bảo
đảm quyền, nghĩa vụ của luật sư nói riêng, của người bào chữa hay người bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của khách hàng nói chung;
- Nhận thức, thái độ của một số cơ quan, người tiến hành tố tụng không đúng
về luật sư; một số ít luật sư cũng chưa nắm rõ, đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình khi
tham gia tố tụng hình sự;
* Rào cản lớn nhất:
- Hành lang pháp lý quy định chưa rõ ràng, trách nhiệm pháp lý của người tiến
hành tố tụng chưa được quy định củ thể nên hoạt động của luật sư tham gia tố tụng
còn nhiều vướng mắc;
- Thủ tục đăng ký bào chữa hay thủ tục đăng ký bảo vệ cho người có quyền lợi
hợp pháp chưa cụ thể, thống nhất vì quy định pháp luật về nội dung này còn chung
chung, tạo điều kiện cho người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây khó khăn cho
luật sư khi làm thủ tục này;
Câu 5. Ông/Bà đánh giá như thế nào về mối quan hệ giữa luật sư với chủ
thể tiến hành tố tụng; luật sư đồng nghiệp và chủ thể tham gia tố tụng khác
trong hoạt động TTHS hiện nay?
* Với chủ thể tiến hành tố tụng
Đang chuyển biến tích cực hơn, có sự tôn trọng lẫn nhau, ngày càng chuyên
nghiệp và dần hình thành văn hóa pháp đình, góp phần bảo đảm công lý được thực
thi hiệu quả hơn. Tuy nhiên, việc nhận thức chưa đầy đủ dẫn đến các quy định của
pháp luật tố tụng hình sự chưa được thực hiện nghiêm chỉnh và mối quan hệ làm
việc có những trở ngại đáng tiếc.
* Với luật sư đồng nghiệp
Là mối quan hệ con người với con người được nâng lên thành nghĩa vụ và ứng
xử, đạo đức giữa các luật sư đồng ngiệp với nhau (các luật sư trong cùng tổ chức
hành nghề, các luật sư của các tổ chức hành nghề), giữa luật sư với tổ chức xã hội
nghề nghiệp luật sư, giữa luật sư với người đang tập sự hành nghề luật sư khi tham
gia tố tụng hình sự (có thể bào chữa/ bào vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cùng
một khách hàng hay cho các khách hàng có quyền lợi đối lập nhau) nhìn chung có
tinh thần đoàn kết, gắn bó, bảo vệ danh dự, uy tín của giới luật sư. Những vướng
mắc trong quan hệ giữa luật sư với đồng nghiệp trong thực tế thường về tinh thần,
thái độ ứng xử trong quá trình hành nghề, phức tạp nhất là xung đột về quan điểm
xem xét và đánh giá vụ việc; cá biệt có trường hợp thay vì tranh luận các vấn đề liên
quan đến vụ án lại công kích, nói xấu nhau…
* Với chủ thể tham gia tố tụng khác
Nhìn chung là mối quan hệ phối hợp, bình đẳng trên nguyên tắc tôn trọng sự
thật khách quan và thượng tôn pháp luật nhưng pháp luật TTHS chưa có quy đinh
cụ thể, rõ ràng cũng như chế tài khi các chủ thể tham gia tố tụng có hành vi cản trở
nên còn hình thức, chưa thực hiện hiệu quả; do nhận thức của cá nhân từng chủ thể,
thường không hợp tác khi luật sư đặt câu hỏi làm rõ các vấn đề, nhiều khi còn được
Hội đồng xét xử định hướng, cho phép từ chối trả lời câu hỏi của luật sư, thái độ
không chuẩn mực, thiếu tôn trọng luật sư;
Câu 6. Theo Ông/Bà các hình thức thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ
của luật sư được vận dụng như thế nào trong mối quan hệ với các chủ thể có
liên quan khi tham gia TTHS?
Các hình thức thực hiện pháp luật là: tuân thủ, thi hành (chấp hành), sử dụng
và áp dụng pháp luật. Thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong hoạt
động TTHS cũng có đầy đủ 04 hình thức này, được quy định đầy đủ trong BL
TTHS 2015, Luật Luật sư, BLHS 2015 và các văn bản pháp luật có liên quan. Việc
vận dụng các hình thức này trong mối quan hệ giữa luật sư và các chủ thể liên quan
khi tham gia tố tụng hình sự còn chưa được thưc hiện nghiệm chỉnh, nặng hình
thức, còn khó khăn và chưa hiệu quả cao, ví dụ: luật sư có thể sử dụng quyền gửi
văn bản đề nghị các cơ quan, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu, chứng cứ phục
vụ nhiệm vụ bào chữa/ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng nhưng ít
khi được họ đáp ứng nếu yêu cầu ấy không phải là nhu cầu của cơ quan, cá nhân đó;
Hiệu quả trong vận dụng các hình thức thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ
của luật sư phụ thuộc vào kỹ năng, trình độ của mỗi luật sư, chủ thể có liên quan,
quy định cụ thể của pháp luật và trên cơ sở nguyên tắc của pháp luật;
Nhìn chung Bộ luật TTHS 2015 đã tiến bộ hơn nhiều so với BLTTHS 2003 vì
đã nêu ra được những điểm khó khăn mà luật sư còn đang vướng phải trong thực
tiễn, từ đó đưa ra những hướng giải quyết phù hợp. Tuy vậy, cũng còn nhiều điều
khoản chỉ dừng ở mặt hình thức, thực tế rất khó áp dụng do không có sự chỉ dẫn rõ
ràng từ cơ quan có thẩm quyền, điều này dẫn đến cách hiểu và thực hiện của các
chủ thể sẽ khác nhau. Hệ quả sẽ làm quá trình tố tụng bị kéo dài thời gian, khách
hàng là người phải chịu đựng sự việc này.
Câu 7. Theo Ông/Bà để bảo đảm thực hiện quyền, nghĩa vụ của luật sư
trong hoạt động TTHS thì cần những giải pháp gì?
- Hoàn thiện hơn nữa Bộ luật TTHS 2015, BLHS 2015, Luật Luật sư và ban
hành các văn bản hướng dẫn cụ thể, rõ ràng, đầy đủ và thống nhất về quyền, nghĩa
vụ của luật sư trong hoạt động TTHS với sự chủ động làm việc, đối thoại trực tiếp
và phối hợp giữa Liên đoạn Luật sư Việt Nam và các cơ quan tố tụng và công bằng,
hài hòa và tiến bộ với quyền lợi quốc gia; tôn trọng quy định về quyền, nghĩa vụ của
luật sư, tôn trọng sự thật khách quan của vụ án; vận động cả hệ thống chính trị, tổ
chức đoàn thể cùng vào cuộc khi có bất cứ một chủ thể nào không tuân thủ, đứng
trên hoặc xem thường pháp luật khi thực hiện Bộ luật TTHS;
- Nâng cao nhận thức, hiểu đúng và thống nhất khi thực hiện pháp luật về
quyền, nghĩa vụ của luật sư trong hoạt động TTHS của các chủ thể có liên quan;
- Quy định cụ thể về chế tài khi có vi phạm đối với luật sư và các chủ thể khác
trong quan hệ tố tụng hình sự;
- Tuyên truyền về thượng tôn pháp luật về TTHS, về quyền, nghĩa vụ của luật
sư trong hoạt động TTHS;
- Luật sư cần phải hiểu, nắm chắc và biết vận dụng thực hiện quyền, nghĩa vụ
của mình khi tham gia tố tụng hình sự; nâng cao nghĩa vụ trong thực hiện đạo đức
và ứng xử nghề nghiệp luật sư;
- Xây dựng kế hoạch nâng cáo số lượng và chất lượng đội ngũ luật sư; thường
xuyên tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm để trao đổi rút kinh nghiệm giữa các Đoàn
luật sư tỉnh, thành phố.